ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
VŨ THẢO VÂN
TRUYỆN KỂ DÂN GIAN PHẠM NGŨ LÃO Ở
HƯNG YÊN TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
VŨ THẢO VÂN
TRUYỆN KỂ DÂN GIAN PHẠM NGŨ LÃO Ở
HƯNG YÊN TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Huy Bỉnh
Thái Nguyên - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Huy Bỉnh – Cán bộ Viện Văn học, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích dẫn tài
liệu của luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2017
Tác giả
ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Huy Bỉnh – người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, khoa Văn – Xã hội và
phòng Đào tạo, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cám ơn Ban Giám hiệu trường THPT Chuyên Hưng Yên đã quan tâm
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và thực hiện công trình nghiên cứu này.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017
Tác giả
iii
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
2.1. Phạm Ngũ Lão được ghi chép trong thư tịch lịch sử và văn hóa ................... 2
2.2. Các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão .............................................. 7
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu ..................................................................... 10
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 10
3.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 10
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 11
4.1. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 11
4.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 11
5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 12
PHẦN II: NỘI DUNG ....................................................................................... 13
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN,TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
............................................................................................................................. 13
1.1.Cơ sở lí luận .................................................................................................. 13
1.1.1. Khái niệm “Truyện kể dân gian” .............................................................. 13
1.1.2. Khái niệm “Truyền thuyết dân gian” ........................................................ 13
1.1.3. Khái niệm “Truyện Nôm” ......................................................................... 15
1.1.4. Vấn đề thể loại ........................................................................................... 17
1.2. Tổng quan đề tài nghiên cứu ........................................................................ 19
1.2.1. Khái lược về vùng đất Hưng Yên và làng Phù Ủng ................................. 19
1.2.2. Vài nét về Phạm Ngũ Lão ......................................................................... 23
1.2.3. Mối liên hệ giữa truyền thuyết Phạm Ngũ Lão với truyện Nôm khuyết
danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão ....................................................................... 29
CHƯƠNG II:TRUYỀN THUYẾT PHẠM NGŨ LÃO Ở HƯNG YÊN ...... 32
2.1. Đặc điểm nội dung truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ........................................ 32
iv
2.1.1. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh thời đại hào khí Đông A ........... 33
2.1.2. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ngợi ca vị tướng bình dân......................... 40
2.1.3. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh tư tưởng thân dân, trọng dụng
nhân tài của vương triều Trần ............................................................................. 46
2. 2. Đặc điểm nghệ thuật truyền thuyết Phạm Ngũ Lão .................................... 52
2.2.1. Nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo ............................................................... 52
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật ................................................ 59
CHƯƠNG III: TRUYỆN NÔM KHUYẾT DANH TƯỚNG QUÂN PHẠM65
NGŨ LÃO ........................................................................................................... 65
3.1. Đặc điểm nội dung truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão ..................... 65
3.1.1. Tác phẩm tái hiện cuộc đời, sự nghiệp của tướng quân Phạm Ngũ Lão .. 65
3.1.2. Tác phẩm ca ngợi thiên tài quân sự Phạm Ngũ Lão ............................... 73
3.1.3. Tinh thần yêu nước trong truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão ........ 81
3. 2. Đặc điểm nghệ thuật của truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão ............ 85
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................ 85
3.2.2. Sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình ............................................................ 89
PHẦN III: KẾT LUẬN .................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 100
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện kể dân gian lưu giữ ký ức lịch sử, văn hóa cộng đồng, thể hiện đời
sống tinh thần nhân dân lao động. Truyện kể dân gian mang dấu ấn văn hóa vùng
miền. Vì vậy, mỗi vùng miền với dân cư và môi trường sinh hoạt khác nhau sẽ hình
thành những mảng truyện kể dân gian không giống nhau. Trong truyện kể dân gian,
ta có thể tìm thấy các thành tố văn hóa như phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo, lời ăn tiếng nói, khát vọng của cộng đồng... tất cả hòa hợp trong loại hình
nghệ thuật do nhân dân sáng tạo. Truyện kể dân gian còn là tấm gương phản ánh
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân qua từng bước đi lịch sử, trong đó dấu ấn
lịch sử mang màu sắc thời đại chống ngoại xâm và chân dung những anh hùng dân
tộc được khắc họa khá rõ nét.
Truyện kể dân gian về tướng quân Phạm Ngũ Lão lưu truyền ở Hưng Yên
gồm hai thể loại là truyền thuyết và truyện Nôm khuyết danh. Ở hai thể loại này,
hình tượng nhân vật Phạm Ngũ Lão vốn là danh tướng của triều Trần - người đã
có công trong sự nghiệp đuổi giặc Nguyên -Mông giữ yên bờ cõi Đại Việt được
hiện lên với tài chỉ huy của một dũng tướng. Ông cùng đội quân nhà Trần lập
nhiều những chiến công hiển hách.
Trong lịch sử dân tộc, Phạm Ngũ Lão không thuộc về dòng dõi hoàng thân
quốc thích. Ông là một người xuất thân thuộc tầng lớp bình dân nhưng là người
dũng lược, có tài cầm quân đã xây dựng lên đội quân "phụ tử chi binh" mỗi lần ra
trận là đánh thắng kẻ thù. Ông được triều đình nhà Trần vị nể, tướng sĩ và nhân
dân kính trọng. Tên tuổi Phạm Ngũ Lão chẳng những được các sử gia phong kiến
chép trong chính sử mà được dân gian lưu truyền trong dã sử. Cuộc đời, sự nghiệp
của Phạm Ngũ Lão trở thành huyền thoại trong dân gian vùng đất Hưng Yênbằng
sự ngưỡng mộ, tôn vinh của nhân dân.
2
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân vùng đất Hưng Yên, Phạm
Ngũ Lão được ngưỡng mộ là người anh hùng xả thân vì sơn hà, xã tắc, ông trở
thành vị thần hộ mệnh của nhiều cộng đồng làng xã. Hiện nay, ở đền Phù Ủng
thuộc xã Phù Ủng - nơi ông sinh ra và đình Đỗ Xuyên,xã Hoàng Hoa Thám, huyện
Ân Thi vẫn còn đền và đình thờ, hàng năm tổ chức lễ hội với nghi thức trang trọng
để tôn vinh ông.
Vì nhiều lí do khác nhau, các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão trước
đây thường đề cập nhiều tới tài năng quân sự, mối quan hệ ảnh hưởng của ông đối
với quan quân nhà Trần, hoặc nhắc đến những bài thơ rừng rực hào khí Đông A.
Cho đến nay, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu truyện kể dân gian
Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên một cách hệ thống, toàn diện tương xứng thân thế,
sự nghiệp và tầm vóc của ông trong lịch sử.Xuất phát từ những lí do trên, chúng
tôi lựa chọn thực hiện đề tài Truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên tiếp
cận từ góc độ thể loại nhằm làm rõ đặc điểm nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa
truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão trong đời sống văn hóa cộng đồng cư dân Hưng
Yên.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Phạm Ngũ Lão được ghi chép trong thư tịch lịch sử và văn hóa
Từ một chàng trai nghèo Phù Ủng, mồ côi cha nhưng với ý chí, nghị lực,
Phạm Ngũ Lão đã trở thành Điện súy thượng tướng quân (chức võ quan, hàm
tướng cao nhất của quân đội Đại Việt trông coi cấm quân của triều đình). Do đó,
những ghi chép thành văn đầu tiên về thân thế, sự nghiệp Phạm Ngũ Lão chủ yếu
được ghi dấu ấn ở khía cạnh lịch sử (chính sử) trong các bộ sử cổ như: Đại Việt
sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên thế kỉ XV, Trần triều đại sử kí, Đại Việt sử kí tiền
biên - Ngô Thì Sĩ thế kỉ XVII- XIX, Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy
Chú (1821), Việt sử yếu – Hoàng Cao Khải(1914), Khâm định Việt sử thông giám
cương mục – Quốc sử quán triều Nguyễn(1859).
3
Các cuốn sách trên đều ghi chép về công trạng của Phạm Ngũ Lão bên
cạnh những sự kiện của các triều triều Trần và các nhân vật lịch sử khác thời đó.
Đặc biệt, tác giả của sách Đại Việt sử kí toàn thư , Lịch triều hiến chương loại chí
và Đại Việt sử kí tiền biên có cái nhìn khách quan về công lao của ông cùng quân
dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần 2, lần 3, dẹp giặc
Ai Lao, Chiêm Thành và dẹp nội loạn…(vào thế kỷ XIII – XIV) cùng những sắc
phong và ân điển của triều Trần dành cho ông sau những công lao, sự nghiệp hiển
hách đó. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có chép: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng
quân ngũ nhưng rất thích đọc sách ngâm thơ, là người phóng khoáng, có chí lớn,
thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ bị . Nhưng quân ông chỉ huy,
thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng ”[38, tr162]. Ở một chỗ khác, sử gia Ngô
Sĩ Liên viết: “ Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Đại Vương
thì học vấn tỏ ra ở bài Hịch tướng sĩ, Phạm điện súy thì học vấn biểu hiện ở câu
thơ. Không chỉ có chuyên về nghè võ thế mà dụng binh lại tinh diệu, hễ đánh là
thắng đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không ai vượt nổi các ông ” [38,
tr 162]. Trong Lịch triều hiến chương loại chí , Phan Huy Chú đã viết về ông:
“Phạm Ngũ Lão có tài múa giáo làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn
danh dự, tiếng tăm rõ rệt. Tóm lại, đều không hổ là bậc nguyên thần” [11, tr 374].
Sách Khâm định Việt sử Thông cương giám mục có chép “Ngũ Lão theo Quốc
Tuấn đi đánh giặc Nguyên có công lớn nên có lệnh bổ dụng ”[ tr 240].
Trước đây, sự tích về vị danh tướng thời Trần xuất thân từ làng Phù Ủng
từng được chép lại trong Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính và Tang
thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Sử Nam chí dị của Trần
Gia Du. Các tác phẩm đều kể về giai thoại ông ngồi đan sọt mải suy nghĩ việc
nước nên bị quân lính của Hưng Đạo đại vương đâm giáo vào đùi mà không hay,
ông được nhà vua cho cai quản vệ sĩ nhưng họ không phục nên xin phép về nhà
ba tháng để luyện tập rồi quay trở lại kinh đô xin thi đấu, ông dùng cọc tre vót
nhọn đâm vào chân voi khi đánh giặc Ai Lao...Sau này, theo công bố của các nhà
4
sưu tầm văn hóa dân gian, số lượng truyện dân gian kể về Phạm Ngũ Lão khá
phong phú. Trong Truyện cổ dân gian Hưng Yên (do nhà nghiên cứu Vũ Tiến Kỳ
đã sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn giới thiệu) có 6 bản kể gồm Ông Phạm Ngũ
Lão, Truyện Phạm Ngũ Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão, Con đẻ con nuôi,
Điện súy Phạm công hiển ứng, Đầu thai đẻ con tiến sĩ thuộc nhóm truyền thuyết
Phạm Ngũ Lão.
Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Tập 5 - phần tuyển chọn Truyền
thuyết dân gian người Việt đã tập hợp 4 truyền thuyết về tướng quân Phạm Ngũ
Lão ghi lại cuộc đời, sự nghiệp, phẩm chất cao đẹp của ông và mối tình giữa ông
với quận chúa Anh Nguyên như Con đẻ con nuôi, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ
Lão, Truyện Phạm Ngũ Lão, Phạm Ngũ Lão.
Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Ngà khi thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ
tại khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội đã sưu tầm được một số bản truyền
thuyết về Phạm Ngũ Lão như: Phạm Ngũ Lão luyện tập, Phạm Ngũ Lão bắn đứt
dải cờ, Anh Nguyên quận chúa, Mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão, Đánh giặc Phạm Nhan,
Truy kích Thoát Hoan, Thủy Tinh phu nhân.
Như vậy, ở thể loại truyền thuyết, chúng tôi khảo sát và thống kê được 15
bản kể về danh tướng Phạm Ngũ Lão hiện được sưu tầm và công bố trong các
công trình khác nhau. Tuy số bản kể không nhiều nhưng với một vị tướng xuất
thân từ tầng lớp bình dân thì số lượng như đã nêu ở trên là tương đối phong phú.
Nếu ta so sánh ông với những nhân vật anh hùng nông dân ở thời Trần xuất thân
từ tầng lớp bình dân như Dã Tượng, Yết Kiêu, Nguyễn Địa Nô… hay các vị tướng
quân xuất thân từ quý tộc như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản thì 15 bản kể
không phải là ít. Trong lần điền dã tại làng Phù Ủng, xã Phù Ủng huyện Ân Thi,
Hưng Yên (ngày 3 tháng 9 năm 2016), chúng tôi được nghe ông Vũ Đình Viên
68 tuổi sống tại xóm Bờ Đê làng Phù Ủng kể cho nghe một số truyền thuyết về
Điện súy Phạm Ngũ Lão như Sự tích ông Phạm Ngũ Lão, Đầu thai đẻ con tiến sĩ,
5
Con đẻ con nuôi, Chữa bệnh cứu người… với tất cả sự hứng khởi và tự hào. Theo
ông và một số cụ cao niên trong làng, các cụ trong Ban quản lí di tích đền Phù
Ủng, tất cả các truyền thuyết nói trên có từ rất lâu. Bất cứ ai ở làng Phù Ủng đều
biết và có thể kể các câu chuyện trên về người trai làng đan sọt đánh giặc lập công,
sau trở thành vị tướng có công với nước. Điều đó chứng tỏ xung quanh con người
có thật nơi đây, dân gian đã đan dệt bao nhiêu câu chuyện bởi cuộc đời vị danh
tướng, người con quê hương ấy đẹp như huyền thoại.
Nhìn từ phương diện phân chia tiểu loại cho thấy, truyền thuyết về nhân vật
Phạm Ngũ Lão là truyền thuyết lịch sử. Ông từ một người nông dân bình thường,
chân lấm tay bùn như bao người khác đã bước vào lịch sử quân sự, lịch sử văn
học, văn hoá nước nhà một cách tự nhiên. Ông không chỉ được tôn vinh qua
những ghi chép trong chính sử mà còn được dân gian ca ngợi qua những câu
chuyện đậm tính chất folklore.
Bên cạnh các bản kể truyền thuyết, năm 2011, nhóm tác giả Trần Tuấn
Doanh, Hoàng Văn Trị, Vũ Tiến Kỳ, Đào Quang Lâm công bố tác phẩm Tướng
quân Phạm Ngũ Lão - truyện thơ khuyết danh - Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
thẩm định, trao giải. Truyện gồm 2074 dòng thơ, trong đó có 2062 dòng lục bát
kể lại cuộc đời, sự nghiệp của tướng quân Phạm Ngũ Lão, dũng tướng triều Trần
có công đánh giặc Mông - Nguyên.
Truyện thơ Tướng quân Phạm Ngũ Lão xuất hiện muộn hơn truyền thuyết.
Nếu truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão mới được sưu tầm, ghi chép từ thế kỷ XX
do nhóm các nhà sưu tầm nghiên cứu dân gian là Trần Tuấn Doanh, Hoàng Văn
Trị, Vũ Tiến Kỳ, Đào Quang Lâm công bố năm 2008, in thành sách năm 2011.
Các nhà sưu tầm cho biết: Tiền thân của tác phẩm vốn là những đoạn thơ lẻ được
các cụ già đọc kể cho con cháu nghe về tướng quân Phạm Ngũ Lão. Cụ Trần Tuấn
Doanh (1923 - 2007) quê thôn Tạ Hạ, xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên đã sưu tầm, chép tay các đoạn thơ lẻ về Phạm Ngũ Lão qua lời kể của
6
các nhà giáo, các cụ cao niên. Sau đó, tài liệu này được chuyển giao cho cụ Hoàng
Văn Trị (? - 1998) quê ở thôn Thanh Sầm xã Đồng Thanh, huyện Kim Động,
Hưng Yên sưu tầm tiếp. Cụ Trị vừa sưu tầm, vừa ghép các đoạn thơ lẻ lại như một
khung câu chuyện bằng thơ kể về cuộc đời Tướng quân Phạm Ngũ Lão. Tuy
nhiên, bản kể của cụ Trị mới được 1000 câu chưa hoàn chỉnh. Dựa vào kết quả
những gì cụ Doanh, cụ Trị sưu tầm, ghi chép, năm học 1978 - 1979, ông Vũ Tiến
Kỳ cùng một số giáo sinh lớp Văn - Sử - Trường Trung cấp Sư phạm 10 + 3 Hưng
Yên trong đợt thực tập, thực tế tại Phù Cừ và Kim Động đã sưu tầm được một số
đoạn kể quan trọng về tướng quân Phạm Ngũ Lão. Năm 2006 - 2007, ông Vũ Tiến
Kỳ và ông Đào Quang Lâm - hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Hưng Yên cùng
thực hiện đề tài Sưu tầm văn học dân gian tỉnh Hưng Yên đã tiếp tục sưu tầm bổ
sung tư liệu, thẩm định những ghi chép của người đi trước, cộng với với kết quả
do mình thu được, sắp xếp lại thành một bản kể hơn 2.074 dòng thơ. Công trình
này có mặt trong đề tài khoa học Sưu tầm văn học dân gian tỉnh Hưng Yên do
Viện Khoa học phát triển nhân lực kinh tế và văn hóa phối hợp với Hội Văn học
- Nghệ thuật Hưng Yên thực hiện năm 2008. Năm 2010, ông Vũ Tiến Kỳ bỏ công
hiệu đính, bổ sung chú thích thành bản kể tác phẩm Tướng quân Phạm Ngũ Lão
truyện thơ khuyết danh. Tác phẩm được Văn phòng Dự án công bố phổ biến tài
sản văn hoá văn nghệ dân gian Việt Nam xuất bản, Nhà xuất bản Lao Động ấn
hành năm 2011 có bổ sung lời giới thiệu do Vũ Tiến Kỳ chấp bút và phần phụ lục
gồm hai bài thơ của Phạm Ngũ Lão và một số bản kể về tướng quân Phạm Ngũ
Lão.
Không chỉ được ghi chép trong chính sử, thân thế, sự nghiệp của Phạm Ngũ
Lão còn được ghi chép trong những tài liệu khác: bia ký, thần tích, sắc phong,
hoành phi, thơ, văn tế, câu đối… ở đền Phù Ủng – nơi thờ ông. Ở đây, hiện còn
lưu giữ 18 đạo sắc phong từ thời Trần đến thời Nguyễn.). Các đạo sắc phong có
từ thời Trần (Nhân Tông, Anh Tông, Hiến Tông), đời Lê và đạo sắc phong cuối
cùng đời Tự Đức năm thứ 33, ngày 24 tháng 11.
7
Trong Ngọc phả đền Phù Ủng - Vũ Huy Thịnh đã ghi chép tỉ mỉ về truyền
thuyết, công lao, sự nghiệp, phẩm chất, sắc phong, thơ, văn tế, câu đối… về vị
tướng người làng Phù Ủng Phạm Ngũ Lão, trong đó có cả việc sau khi hóa, ngài
đầu thai vào nhà họ Nhữ (thái phó Nhữ Công ở Hoạch Trạch - Hải Dương).
Người đời sau đã cảm kích về công đức của Phạm Ngũ Lão mà làm thơ ca
ngợi ngài. Tiêu biểu có Phạm Quý Thích (sống cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX)
- người cùng huyện với ngài có bài thơ đề ở đền, trong đó có câu: “Tam triều sự
nghiệp dư biên tại/ Vạn cổ giang sơn nhất sáo hoành”. Câu thơ có nghĩa là: (Sự
nghiệp ba triều trong sử sách còn chép/ Non sông muôn thủa một ngọn giáo cầm
ngang). Lễ hội đền Phù Ủng - Ân Thi – Hưng Yên tổ chức ngày 11 tháng Giêng
hàng năm – tương truyền ngày Phạm Ngũ Lão xuất quân đánh giặc cứu nước, với
quy mô khá lớn.
Có thể nói, do điều kiện lịch sử, xã hội… nên việc tìm hiểu về Phạm Ngũ
Lão mới chỉ ở mức ghi chép, bình luận (về công lao, sự nghiệp, phẩm chất, tính
cách…của ông) mà chưa có sự khảo cứu hệ thống, chi tiết nhưng đây cũng là cơ sở
khoa học quý giá để chúng ta tìm hiểu đầy đủ hơn về nhân vật này.
2.2. Các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão
Năm 1995, Nguyễn Hùng Xướng - sinh viên trường Đại học tổng hợp Hà
Nội đã làm khóa luận tốt nghiệp với đề tài Lễ hội Phù Ủng và người anh hùng
Phạm Ngũ Lão. Tác giả miêu tả lễ hội Phù Ủng gắn với việc thờ người anh hùng
Phạm Ngũ Lão có công với dân làng, đất nước.
Năm 1999, tác giả Đỗ Đức Hùng trong cuốn sách Danh tướng Việt Nam
tập 1 đã tập hợp tư liệu về những vị tướng tài ba, những nhà chỉ huy quân sự xuất
sắc trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Theo tác giả, nếu Hưng Đạo đại vương được
ghi nhận là trụ cột triều Trần, có công lớn nhất trong cuộc kháng chiến
chốngNguyên - Mông thì dưới trướng của ngài có Phạm Ngũ Lão - một tướng
lĩnh tài ba, giỏi cầm quyền, hay chữ nghĩa.
8
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh trong Võ tướng Việt Nam (xuất bản năm
2002), sau khi điểm lại những sự kiện về chiến công của Phạm Ngũ Lão đã hết
lời khen ngợi ông trị quân có kỷ luật, đối đãi với tướng sĩ như người nhà, cùng
với quân lính đồng cam cộng khổ…
Năm 2002, tác giả Nguyễn Việt Hùng (Đại học Sư phạm Hà Nội) báo cáo
đề tài khoa học : Bước đầu tìm hiểu truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão. Ở đây, tác
giả đã chỉ ra sự ảnh hưởng của xã hội, gia đình, làng quê trong việchình thành nên
cốt cách, phẩm chất tinh thần, nghị lực con người Phạm Ngũ Lão.
Năm 2004, tác giả Vũ Thanh Sơn trong sách Những vị thần được thờ ở Hà
Nội đã cung cấp thêm tư liệu trùng với ghi chép tại Ngọc phả đền Phù Ủng về
chuyện Phạm Ngũ Lão có công bắt sống Phạm Nhan. Theo tài liệu, trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên - Mông lần 3 (1287), Nguyễn Bá Linh (Phạm Nhan)
dẫn đường cho giặc tiến vào nước ta, Phạm Ngũ Lão đã điều tra và đem quân bao
vây đàn tràng của tên pháp sư Phạm Nhan (Nguyễn Bá Linh), bắt sống y, đem
chém… Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã trừng trị kẻ chuyên dùng tà thuật mê hoặc lòng
người, làm tay sai cho giặc. Chiến công của ông đem lại niềm tin, sức mạnh, có
tác dụng khích lệ quân dân Đại Việt ra sức lập công đánh thắng những trận quyết
chiến chiến lược (trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng, trận Lạng Giang..) giành
thắng lợi vẻ vang.
Năm 2007, Nguyễn Thị Tố Uyên thực hiện đề tài Lý lịch di tích đền Phù
Ủng. Tác giả tìm hiểu lai lịch của di tích Phù Ủng và bước đầu đề cập đến quan
hệ giữa sự tích kể về Phạm Ngũ Lão và di tích này.
Năm 2008, nhà nghiên cứu Vũ Tiến Kỳ công bố Truyện cổ dân gian Hưng
Yên. Tác phẩm tập hợp 205 bản kể trong đó có 125 bản kể thuộc thể loại truyền
thuyết, số còn lại thuộc thể loại truyền thuyết, cổ tích, giai thoại, truyện cười,
trong đó có bốn bản kể về tướng quân Phạm Ngũ Lão.
9
Năm 2008, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Ân Thi phối hợp với Viện
Khoa học phát triển nhân lực kinh tế và văn hóa tổ chức Hội thảo khoa học về
Tướng quân Phạm Ngũ Lão và lễ hội đền Phù Ủng. Mười ba bản báo cáo khoa
học về lịch sử, văn hóa, văn học… liên quan đến danh tướng Phạm Ngũ Lão và
di tích đền Phù Ủng được trình bày tại hội thảo. Các báo cáo đã khẳng định công
lao, sự nghiệp, tài năng, phẩm chất… con người thật của “ Điện suý thượng tướng
quân ” Phạm Ngũ Lão và vị thế, tầm vóc cụm di tích đền Phù Ủng trong đời sống
văn hóa hiện nay. Trong đó, một số bài viết có giá trị khoa học cao, như "Phạm
Ngũ Lão với vương triều Trần” của GS Lê Văn Lan, “Hành trạng và sự nghiệp
của danh tướng Phạm Ngũ Lão" của PGS.TS Nguyễn Minh Tường, " Phạm Ngũ
Lão - một minh chứng sinh động của tư tưởng và nghệ thuật quân sự nhân dân
thời Trần" của TS. Nguyễn Đức Hạnh, "Phạm Ngũ Lão trong sự nghiệp bảo vệ
miền biên giới quốc gia Đại Việt thời Trần"của TS. Nguyễn Đức Nhuệ, " Hình
tượng Phạm Ngũ Lão qua truyền thuyết dân gian ” của Th s. Vũ Tiến Kỳ… Các
tác giả đánh giá tài năng quân sự, tầm vóc, phẩm chất của vị tướng tài; khẳng định
vẻ đẹp của hình tượng tướng quân Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết dân gian.
Một số báo cáo trình bày mối quan hệ giữa " ài tướng Phạm Ngũ Lão, di tích, lễ
hội và sự tưởng niệm" của tác giả Phạm Lan Oanh, bàn về giải pháp "Quản lý, tổ
chức lễ hội đền Phù Ủng trong giai đoạn hiện nay " của Hoàng Mạnh Thắng, kết
hợp với nâng cấp khẳng định "vị trí giá trị từng di sản quần thể di tích đền Phù
Ủng trong bối cảnh du lịch tả ngạn sông Hồng" của Tăng Bá Hoành. Các ý kiến
tham luận được in trong tập Kỷ yếu Hội thảo khoa học - Tướng quân Phạm Ngũ
Lão và lễ hội đền Phù Ủng[44].
Năm 2008, Nguyễn Thị Ngà - học viên cao học Đại học Sư phạm Hà Nội
đãnghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ: Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão và lễ hội Phù Ủng
ở Ân Thi Hưng Yên. Luận văn chỉ ra mối liên hệ giữa truyền thuyết và lễ hội Phù
Ủng, trong đó tác giả công bố 15 bản kể về Phạm Ngũ Lão.
10
Năm 2014 trên tạp chí Nguồn sáng dân gian số 1, tác giả Vũ Tiến Kỳ công
bố bài nghiên cứu Hình tượng Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết dân gian. Từ
nội dung các bản kể truyền truyết, tác giả phân tích, dựng lại chân dung tướng
quân Phạm Ngũ Lão với vẻ đẹp tâm hồn theo góc nhìn dân gian và đạo đức truyền
thống của văn hoá trung đại.
Tóm lại, tướng quân Phạm Ngũ Lão đã được ghi chép trong các thư tịch
chính sử và trong các di tích thờ cúng, ngoài ra còn được lưu truyền trong dã sử.
Các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác
nhau như lịch sử, dân tộc học, khảo cổ học, văn hoá, tôn giáo, văn học. Ở lĩnh vực
văn học dân gian, bên cạnh những truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão đã được đề
cập đến thì hầu như chưa có ai để tâm tìm hiểu truyện Nôm kể về ông mặc dù đã
có bản kể được sưu tầm. Tuy những bản kể dân gian về Phạm Ngũ Lão ít nhiều
chỗ này chỗ khác đã đề cập đến song các nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc
tìm hiểu vấn đề liên hệ giữa truyền thuyết và lễ hội hoặc giá trị nội dung phản ảnh
qua những bản kể truyền thuyết về nhân vật lịch sử chứ chưa có công trình tìm
hiểu chuyên sâu các bản kể dân gian về Phạm Ngũ Lão ở góc độ thể loại. Chính
điều đó đã thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài Truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão
ở Hưng Yên tiếp cận từ góc độ thể loại nhằm tiếp tục khám phá về thân thế, cuộc
đời, sự nghiệp, đánh giá vai trò của Phạm Ngũ Lão trong lịch sử nhấn mạnh những
vẻ đẹp của ông về tài năng và đức độ.
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống truyện kể dân gian về Phạm
Ngũ Lão lưu truyền ở vùng đất Hưng Yên. Trong đó, bao gồm thể loại truyền
thuyết dân gian và truyện Nôm khuyết danh.
3.2. Mục đích nghiên cứu
11
Đề tài Truyện kể dân gian về Phạm Ngũ Lão ở vùng đất Hưng Yên tiếp cận
dưới góc độ thể loại tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Phân chia truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên thành các tiểu
loại theo chí thể loại.
Tìm hiểu đặc trưng nội dung, nghệ thuật thể loại truyện kể dân gian Phạm
Ngũ Lão ở Hưng Yên.
Tìm hiểu con người, sự nghiệp Phạm Ngũ Lão dưới góc nhìn văn học
dân gian.
Đề tài làm rõ sự sáng tạo nghệ thuật của tập thể tác giả bình dân trong quá
trình sáng tạo, lưu truyền bản kể và qua đây tiếp tục bồi dưỡng truyền thống yêu
nước của quê hương, dân tộc cho thế hệ trẻ, bồi dưỡng lòng tự hào về mảnh đất,
con người Hưng Yên, tiếp tục phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp trong sự
nghiệp xây dựng quê hương, đất nước.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Hệ thống các tác phẩm dân gian kể về Phạm Ngũ Lão đã được lưu truyền
ở Hưng Yên bao đời nay, một bộ phận được cố định trong thư tịch, một bộ phận
còn lưu truyền nơi cửa miệng dân gian. Vì thế, cứ liệu được chúng tôi tìm hiểu,
nghiên cứu một mặt căn cứ vào các thư tịch, một mặt căn cứ theo lời kể của người
dân Hưng Yên. Đề tài bao quát toàn bộ truyện kể dân gian về Phạm Ngũ Lão gồm
truyền thuyết và truyện Nôm khuyết danh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài Truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão ở vùng
đất Hưng Yên tiếp cận từ góc độ thể loại, chúng tôi phối hợp vận dụng các phương
pháp nghiên cứu sauđể giải quyết yêu cầu đặt ra:
12
- Phương pháp điều tra điền dã: Chúng tôi tiến hành sưu tầm các truyện kể
dân gian Phạm Ngũ Lão lưu truyền trong dân gian.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Chúng tôi tiến hành phân tích các
truyện kể dân gian Phạm Lão trên phương diện nội dung, nghệ thuậtdựa trên cơ
sở đặc trưng thể loạiđể từ đó tổng hợp và đưa ra nhận định.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Chúng tôi tiến hành phân loại
truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão theo các thể loạivà tiểu loại.
- Phương pháp so sánh: Chúng tôi tiến hành đối chiếu, so sánh các thể loại
truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão, như: so sánh giữa truyền thuyết với truyện thơ,
so sánh truyền thuyết Phạm Ngũ Lão với truyền thuyết người Việt ở các thời kì
khác nhau, so sánh giữa truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trong quá trình thực hiện đề tài này,
chúng tôi sử dụng các phương pháp của nhiều ngành liên quan như lịch sử, địa lí,
văn hóa, tôn giáo...
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung luận văn gồm những vấn đề
chính như sau:
Chương I: Cơ sở lí luận và tổng quan .
Chương II: Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên .
Chương II: Truyện Nôm khuyết danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão ở
Hưng Yên.
13
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN
1.1.Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm “Truyện kể dân gian”
Truyện kể dân gian là một khái niệm có ý nghĩa khái quát bao gồm các câu
chuyện kể do nhân dân sáng tác, lưu truyền qua các thời đại. Truyện kể dân gian
bao gồm nhiều thể loại: Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ
ngôn, truyện cười, truyện trạng, truyện Nôm khuyết danh... Dựa theo nội hàm khái
niệm các thể loại văn học dân gian lưu truyền ở Hưng Yên, chúng tôi thấy truyện
kể dân gian về Phạm Ngũ Lão là một bộ phận của hàng trăm bản kể dân gian viết
về nhân vật lịch sử gốc người Hưng Yên được lưu truyền phổ biến trong đời sống
văn hóa dân gian. Nhìn từ góc độ thể loại, truyện kể về Phạm Ngũ Lão gồm có hai
thể loại cơ bản: truyền thuyết và truyện Nôm khuyết danh.
1.1.2. Khái niệm “Truyền thuyết dân gian”
Ở Việt Nam, năm 1957 nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi đã đưa ra định
nghĩa thể loại truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là những truyện lịch sử, và
truyện lịch sử chỉ có thể có khi con người đã có ý thức về lịch sử của mình” [10,
tr 81]. Như vậy, theo Nguyễn Đổng Chi, truyền thuyết là những bản kể thuộc đề
tài lịch sử, trong đó người kể có ý thức về lịch sử dân tộc mình. Nhưng ý thức đến
đâu, tác giả chưa bàn bạc cụ thể.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài phát biểu nhân ngày giỗ tổ Hùng
Vương đã nhận xét về truyền thuyết như sau: “Những truyền thuyết dân gian
thường có một cái lõi là sự thực lịch sử mà nhân dân phản ánh qua nhiều thế hệ
đã lí tưởng hóa gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng,
chắp đôi cánh dân gian làm nên những tác phẩm mà đời đời con người ưa thích”
[24]. Cho rằng truyền thuyết có lõi lịch sử được phủ bởi lớp vỏ hoang đường, ý
14
kiếnthủ tướng Phạm Văn Đồng đã mở đầu cho một xu hướng của nhiều nhà nghiên
cứu như Cao Huy Đỉnh, Đỗ Bình Trị, Nguyễn Đổng Chi…
Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi khi biên soạn Từ
điển thuật ngữ văn học đã khẳng định: “Truyền thuyết là một thể loại truyện dân
gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có
ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kì, một bộ tộc, một dân tộc, một quốc gia
hay một địa phương” [ 26, tr 249]. Như vậy, ở định nghĩa, các tác giả đã phát triển
quan điểm của Nguyễn Đổng Chi nhưng bổ sung cụ thể thêm về khu vực, tầm vóc
phản ánh và cung cấp khái niệm với nội hàm đươc mở rộng hơn.
Trong sách Văn học dân gian người Việt, góc nhìn thể loại, nhà nghiên cứu
Kiều Thu Hoạch đưa ra định nghĩa về truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là
một thể tài chuyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian. Nội dung
cốt truyện kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các
phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ
biến là khoa trương phóng đại, đồng thời nó sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kì
như cổ tích, thần thoại. Nó khác cổ tích thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã
hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong trí tưởng
tượng và bằng tưởng tượng ”[30, tr19]. Ở định nghĩa này, nhà nghiên cứu Kiều
Thu Hoạch nhấn mạnh tới đặc điểm phản ánh lịch sử của truyền thuyết dân gian.
Ông viết: " Dân gian bao giờ cũng có loại lịch sử truyền miệng, bia miệng của
riêng mình. Thứ lịch sử này thì các nhà sử học khó mà giải thích nổi. Song nó lại
tồn tại hơn thứ lịch sử chính thống - nó chính là truyền thuyết dân gian" [30,
tr100]. Dù hiểu theo cách nào thì truyền thuyết vẫn là một loại truyện kể lịch sử
thuộc loại hình tự sự dân gian.
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu trong công trình Một vài vấn đề về
văn học dân gian thì truyền thuyết là sự thay thế, hóa thân cho sử thi, là mắt xích
quan trọng nối liền giữa thần thoại Việt với các thể loại truyện cổ dân gian khác.
15
Nếu thần thoại hướng tới thế giới tự nhiên, cổ tích hướng tới cuộc sống bình
thường và những xung đột trong xã hội phân chia giai cấp thì đối tượng được kể
lại trong truyền thuyết là lịch sử. Truyền thuyết thường kể về những việc có thực,
nhân vật lịch sử, những sự kiện lịch sử liên quan đến vận mệnh cộng đồng trong
quá khứ. Đây là phần lõi lịch sử của truyền thuyết. Dựa vào phân kì lịch sử dân
tộc, Hoàng Tiến Tựu phân truyền thuyết thành các bộ phận: Truyền thuyết về họ
Hồng Bàng và thời kì Văn Lang; Truyền thuyết về thời kì Âu Lạc và Bắc thuộc;
Truyền thuyết thời kì phong kiến tự chủ; Truyền thuyết thời kì Pháp thuộc[55].
Dựa vào nội dung phản ánh, đặc điểm nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời của
truyền thuyết, nhà nghiên cứu Lê Chí Quế trong tác phẩm Văn học dângian Việt
Nam [46, tr 62]chia truyền thuyết thành ba loại: Truyền thuyết anh hùng; Truyền
thuyết lịch sử; Truyền thuyết về các danh nhân văn hóa. Nhà nghiên cứu Kiều
Thu Hoạch chia truyền thuyết người Việt thành ba loại lớn: Truyền thuyết nhân
vật;Truyền thuyết địa danh; Truyền thuyết phong - vật. Dựa vào cách phân chia
của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xác định truyền thuyết Phạm Ngũ Lão thuộc
loại truyền thuyết lịch sử, phản ánh công cuộc chống ngoại xâm xuất hiện thời
phong kiến tự chủ, thuộc vương triều nhà Trần.
1.1.3. Khái niệm “Truyện Nôm”
Theo tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học, truyện Nôm là “thể loại tự sự
bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỉ
XVIII, đầu thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi
là truyện Nôm”[26, tr 253]. Theo cắt nghĩa trên của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi thì truyện Nôm thuộc thể loại tự sự, kể chuyện bằng thơ và
dùng chữ Nôm làm phương tiện sáng tác.
Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận định: “Truyện Nôm là loại hình tự
sự bằng thơ dùng ngôn ngữ văn tự dân tộc - chữ Nôm để sáng tác ”. Đồng thời,
ông khẳng định “các tác phẩm truyện thơ trong văn học trung đại đều viết bằng
16
chữ Nôm. Vì vậy, truyện thơ được gọi là truyện Nôm” [52, tr 237].Theo cách cắt
nghĩa trên thì truyện Nôm là khái niệm thuộc loại hình tự sự dân gian dùng chữ
Nôm và thể văn vần làm phương tiện sáng tác, phổ biến hoặc diễn xướng. Đây là
tên gọi khác của thể loại truyện thơ.
Theo nghiên cứu của Kiều Thu Hoạch trong công trìnhTruyện Nôm, lịch sử
hình thành và bản chất thể loại, thì truyện Nôm “là một thể loại sinh thành và
phát triển từ cội nguồn văn học dân gian” [34, tr 174]. Các nhà nghiên cứu Đinh
Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong Văn học dân gian tập I, cho rằngsự nở rộ truyện
Nôm trong khoảng thế kỉ XVI trở đi, đặc biệt từ thế kỉ XVIII bởi sự trỗi dậy của
tư tưởng dân chủ tiến bộ trong bối cảnh xã hội phong kiến khủng hoảng, suy tàn.
Sự phát triển mạnh mẽ của văn học chữ Nôm và truyền thống văn hóa dân gian là
nguyên nhân hình thành và phát triển của thể loại này. Nhiều nhà nghiên cứu về
truyện Nôm như Dương Quảng Hàm, Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn,
Cao Huy Đỉnh, Lã Nhâm Thìn, Trần Nho Thìn… đã căn cứ vào sự thể hiện nội
dung và nghệ thuật của thể loại để chia truyện Nôm thành hai nhóm: Truyện Nôm
bình dân và truyện Nôm bác học.
Như vậy, truyện Nôm là truyện kể bằng văn vần nên đặc trưng nổi bật nhất
của truyện Nôm là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Theo nhà
nghiên cứu Lã Nhâm Thìn, yếu tố tự sự thể hiện ở chỗ: truyện Nôm phản ánh cuộc
sống xã hội thông qua việc trình bày, miêu tả, trần thuật gần như hoàn chỉnh vận
mệnh, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với một hệ thống biến cố, sự kiện,
chi tiết theo trình tự lớp lang hợp lý. Yếu tố trữ tình của truyện Nôm thể hiện qua
phương thức biểu đạt cảm xúc, trạng thái tình cảm bằng thơ. Qua lời thơ, tác giả
trực tiếp bộc lộ cảm xúc, tham gia sắp xếp các sự kiện, hóa thân vào nhân vật để
phản ánh phẩm chất tinh thần của đối tượng phản ánh.
Giữa truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học có sự khác nhau. Trong
khi truyện Nôm bác học ghi tên người sáng tác, địa chỉ cốt truyện thì truyện Nôm
17
bình dân là sáng tạo của tập thể bình dân nên không rõ tên người sáng tác…Về nội
dung, truyện Nôm bình dân thể hiện quan điểm đạo đức, nguyện vọng, ước mơ của
người bình dân là đề cao tình nghĩa trong quan hệ giữa người với người, khẳng định
công lí là cao cả, chính nghĩa thắng gian tà, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”. Trong
truyện Nôm bình dân, từ ngôn ngữ đến cách kể chuyện đều rất giản dị, ít có sự trau
chuốt về ngôn từ, nghệ thuật. Khác với truyện Nôm bình dân, truyện Nôm bác học
là sáng tác của các nho sĩ, ít nhiều có trình độ học vấn, biết sáng tạo nghệ thuật văn
chương. Nếu truyện Nôm bình dân đề cao tình nghĩa, ngợi ca chính nghĩa thì truyện
Nôm bác học thiên về khẳng định lễ giáo phong kiến, đề cao tình yêu tự do, ca ngợi
khát vọng giải phóng tình cảm hoặc đề cập tới những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh
xã hội sâu sắc. Truyện Nôm bác học thể hiện tài năng nghệ thuật của chủ thể sáng
tạo qua khả năng lựa chọn ngôn từ, nghệ thuật kể chuyện độc đáo, nghệ thuật miêu
tả nội tâm tinh tế, nghệ thuật khắc họa hình tượng. Có thể kể đến một số tác phẩm
tiêu biểu được nhiều người biết đến như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân
trang của Phạm Thái, Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự.
Trên cơ sở khảo sát tư liệu và tiếp xúc văn bản,chúng tôi nhất trí với 4 tiêu
chí mà nhà nghiên cứu Vũ Tiến Kỳ đưa ra để khẳng định Tướng quân Phạm Ngũ
Lão là truyện thơ Nôm khuyết danh hay loại truyện Nôm bình dân. Bốn căn cứ
gồm: Thứ nhất là đội ngũ sáng tác Tướng quân Phạm Ngũ Lão là những trí thức
bình dân địa phương. Thứ hai là phương thức bảo tồn, phổ biến Tướng quân Phạm
Ngũ Lão là phương thức dân gian. Thứ ba là cứ liệu miêu tả trong tác phẩm Tướng
quân Phạm Ngũ Lão là tư liệu lấy từ chính sử và truyền thuyết dân gian. Thứ tư
là giọng điệu ngôn ngữ nghệ thuật của Tướng quân Phạm Ngũ Lão là giọng điệu
của thi pháp truyện thơ dân gian sau thế kỷ XVIII. Từ việc xác định tác phẩm dựa
trên các tiêu chí như vậy, chúng tôi khẳng định Tướng quân Phạm Ngũ Lão -
truyện thơ khuyết danh là tác phẩm văn học dân gian đích thực.
1.1.4. Vấn đề thể loại
18
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học là“dạng thức của tác
phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát
triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau và cách thức tổ chức tác phẩm,
về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của
mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống đó” [26, tr 202].
Trong văn học, thể loại có vai trò quan trọng góp phần làm đẹp giá trị nội
dung . Bởi vậy, nhà nghiên cứu văn học người Nga M. Bakhtin đã nhận định rằng:
“Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, người
ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những
nhân vật chính nơi đây trước hết là thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là các
nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba ” [43, tr 28]. Có thể nói, thể loại được coi là "
nhân vật chính " trong tiến trình văn học.
Văn học dân gian là những sáng tác tập thể của người bình dân, được lưu
truyền trong dân gian qua nhiều thế kỉ. Vì thế, các nhà folklore học xác định lịch
sử phát triển của văn học dân gian bằng dấu ấn sự phát triển của thể loại. Đó là
dòng chảy xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc được khởi đầu với thể loại
thần thoại, sau đó là một loạt các thể loại khác như truyền thuyết, cổ tích, truyện
cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao, hò,vè, truyện thơ, sân khấu dân
gian. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử là một thể loại ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu
của người bình dân trên cả hai khía cạnh sang tác và thưởng thức. Các thể loại kể
trên một mặt vừa ảnh hưởng lẫn nhau để tạo nên tính liên tục trong tiến trình văn
học, mặt khác vừa hình thành những đặc trưng riêng. Vì thế, muốn tìm hiểu giá
trị tác phẩm văn học dân gian, chúng ta phải xuất phát từ phong cách thể loại. Hơn
nữa, hướng tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm văn học dân gian từ góc độ thể loại
cũng là một trong những hướng nghiên cứu khoa học được nhiều chuyên gia
folklore lựa chọn. Những vấn đề thuộc nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn học
dân gian đều không nằm ngoài thể loại.
19
1.2. Tổng quan về vùng đất Hưng Yên và nhân vật lịch sử Phạm Ngũ Lão
1.2.1. Khái lược về vùng đất Hưng Yên và làng Phù Ủng
Về lịch sử - địa lí, Hưng Yên là vùng đất nằm ở tả ngạn sông Hồng có diện
tích tự nhiên 926,09 km2 đứng thứ 58 so với cả nước, đứng thứ 12 trong số 14 tỉnh
châu thổ Bắc Bộ. Dân số Hưng Yên gần 1,2 triệu người, có161 xãphường, thị trấn,
chia thành 10 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố và 9 huyện.
Theo ý kiến của các học giả tại Hội thảo khoa học về Hưng Yên vào tháng
3 năm 1993, Hưng Yên là vùng đất có từ vài ngàn năm trước. Thời Hùng Vương,
đất Văn Giang, Long Biên vốn là địa bàn cư trú của bộ lạc Câu Lậu, bộ lạc chọn
con trâu làm vật tổ, dân gian gọi là bộ lạc Trâu. Sự trùng khớp tên bộ lạc với di
vật khảo cổ là trống đồng tìm thấy ở Động Xá, huyện Kim Động. Trong trường
kỳ lịch sử, Hưng Yên có nhiều tên gọi khác nhau. Vùng đất Hưng Yên xưa vốn
thuộc bộ Dương Tuyền thời Hùng Vương, là đất huyện Chu Diên thời Bắc thuộc,
phủ Thái Bình thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, là đất lộ Khoái, Đằng châu thời Lý, lộ
Long Hưng thời Trần, phủ Kiến Xương thời thuộc Minh, đất Nam đạo thời Lê sơ.
Năm Bính Tuất (1466), niên hiệu Quang Thuận thứ 7, Lê Thánh Tông (1460 -
1497) chia Đại Việt thành 12 thừa tuyên, Hưng Yên thuộc thừa tuyên Thiên
Trường. Năm Kỷ Sửu (1469), niên hiệu Quang Thuận thứ 10, đổi thừa tuyên
Thiên Trường thành trấn Sơn Nam, bao gồm 11 phủ, 42 huyện, Hưng Yên thuộc
phủ Khoái Châu. Năm Tân Dậu (1741), niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai, Lê Hiển
Tông (1498 - 1504) chia Sơn Nam thành hai lộ: Sơn Nam Thượng và Sơn Nam
Hạ, vùng đất Hưng Yên thuộc lộ Sơn Nam Thượng.
Tỉnh Hưng Yên chính thức được thành lập năm Tân Mão (1831), niên hiệu
Minh Mệnh thứ 12 gồm hai phủ, tám huyện: Phủ Khoái Châu có 4 huyện: Đông
Yên, Kim Động, Ân Thi, Phù Cừ của trấn Sơn Nam Thượng và phủ Tiên Hưng có
4 huyện Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà, Tiên Lữ của trấn Nam Định. Triều đình
lấy một phần Sơn Nam Thượng gồm phủ Khoái Châu và ba huyện thuộc phủ Tiên
20
Hưng thành lập tỉnh Hưng Yên. Phủ Khoái Châu quản lĩnh năm huyện là Đông An,
Kim Động, Tiên Lữ, Phù Dung, Thiên Thi. Phủ Tiên Hưng quản lĩnh ba huyện
Hưng Nhân, Thần Khê, Duyên Hà.
Dưới thời thuộc Pháp, ngày 25 - 2 - 1890, Toàn quyền Đông Dương Pikê
(Piquet) ra nghị định thành lập đạo Bãi Sậy gồm bốn huyện: Yên Mỹ, Mỹ Hào,
Văn Lâm, Cẩm Lương, cắt huyện Thần Khê phủ Tiên Hưng nhập vào phủ Kiến
Xương. Năm 1891, toàn quyền Biđô (Bideau) ký tiếp sắc lệnh bãi bỏ đạo Bãi Sậy,
nhập các huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm và một số tổng của huyện Cẩm
Lương vào tỉnh Hưng Yên. Khi thành lập tỉnh Thái Bình (ngày 28 - 11 - 1894),
toàn quyền Rôdiê (Rodier) ra sắc lệnh cắt hai huyện Hưng Nhân, Duyên Hà của
Hưng Yên về Thái Bình, chuyển trả huyện Tiên Lữ từ phủ Tiên Hưng về phủ
Khoái Châu.
Như vậy, Hưng Yên ngày nay được cấu thành từ ba vùng đất ( trấn Sơn
Nam Thượng ở phía Nam, trấn Hải Dương phía đông bắc, trấn Kinh Bắc ở phía
Tây Bắc. Nói tới miền đất này không ai không biết nơi đây có thương cảng Phố
Hiến nổi tiếng một thời – “Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến”. Trong lịch sử,
quê hương tướng quân Phạm Ngũ Lão nằm ở vị trí trung tâm vùng đất cổ phù sa
sông Hồng, có địa giới phía Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Đông giáp tỉnh Hải
Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây Nam giáp thủ đô Hà Nội và tỉnh
Hà Nam. Hưng Yên là một tỉnh không biển, không núi, không rừng nhưng mảnh
đất này không những đã góp phần quan trọng xây dựng nền văn minh lúa nước
sông Hồng suốt chiều dài lịch sử mà còn là nơi hội tụ, giao lưu, tiếp biến văn hoá
tứ trấn tràn qua, tụ lại (Thăng Long - Hà Nội, Kinh Bắc, Hải Đông, Sơn Nam Hạ).
Vì thế, Hưng Yên là vùng đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hiến lâu đời.
Ở góc độ văn hóa, Hưng Yên có đặc thù riêng của cư dân nông nghiệp.
Truyền thống văn hóa đó được tạo nên từ phẩm chất đặc thù của con người nơi đây.
Truyền thống nổi trội của người Hưng Yên trước hết là truyền thống yêu nước,
21
đánh giặc bảo vệ giang sơn xã tắc. Lớp lớp người Hưng Yên ra trận đánh giặc cứu
nước để lại tiếng thơm được lịch sử và dân gian ghi nhận. Phạm Ngũ Lão – chàng
trai nghèo làng Phù Ủng có công lớn trong công cuộc bảo vệ giang sơn Đại Việt
thời Trần là sự tiếp nối của truyền thống nói trên.Bên cạnh truyền thống đánh giặc
là truyền thống trị thủycủa người Hưng Yên trong trường kỳ lịch sử đã để lại cho
hậu thế những bài học quí. Hưng Yên là miền đất có truyền thống hiếu học, khoa
bảng lâu đời. Đã biết bao người con của mảnh đất này đã nêu cao ý chí học hành,
vượt khó vươn lên, đỗ đạt cao, cống hiến cho quê hương, đất nước. Nhiều người đã
trở thành lương thần, danh tướng làm rạng danh cho quê hương như Lưỡng quốc
trạng nguyên Tống Trân, Kinh sư đại doãn Nguyễn Trung Ngạn, Thượng thư Lê
Như Hổ, Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác…Noi theo gương sáng của cha ông,
sau này rất nhiều người Hưng Yên đã gắng học thành tài. Đó là các nhà khoa học
nổi tiếng như kĩ sư Nguyễn Công Tiễu từng gây tiếng vang trên hội nghi khoa học
Thái Bình Dương về với công trình nghiên cứu về bèo hoa dâu, là nhà khảo cổ học
tiến sĩ Phạm Huy Thông, là Liệt sĩ - GS Dương Quảng Hàm, GS Dương Trọng Bái,
GS Nguyễn Lân…
Ở Hưng Yên hiện có 1210 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 151 di tích
được Nhà nước cấp bằng công nhận như đền Đa Hòa, đền Phù Ủng, đền Tống
Trân, Văn miếu Xích Đằng... Rất nhiều lễ hội được tổ chức trang trọng thể hiện
thái độ tôn vinh của nhân dân Hưng Yên đối với các nhân thần có công mở đất,
dạy nghề, dẹp giặc và hiển đạt như lễ hội đền Phù Ủng, lễ hội Chử Đồng Tử ở Đa
Hòa, lễ hội đền Tống Trân…
Bên cạnh văn học viết, văn học dân gian Hưng Yên khá phong phú với
nhiều thể loại. Chi hội văn nghệ dân gian Hưng Yên sưu tầm được 182 bản kể
thuộc các tiểu loại truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, giai thoại văn học, 23 bài
vè, 2 truyện thơ, hơn 600 đơn vị ca dao, trên 400 đơn vị tục ngữ, câu đố, 7 tích
chèo cổ. Con số trên cho thấy văn học dân gian Hưng Yên đủ thể loại, đa dạng về
22
thể tài. Văn chương truyền miệng góp phần hình thành một lớp nho sĩ người địa
phương giầu tinh thần dân tộc, xứng đáng làm lực lượng nòng cốt cho việc sáng
tạo văn học viết, là cái nôi nuôi dưỡng văn hóa phát triển.
Hưng Yên là quê hương của nhiều loại hình diễn xướng dân gian như hát
chèo, trống quân, ca trù... Mỗi loại hình nghệ thuật tuy hình thức diễn xướng khác
nhau nhưng có chung giá trị là hoàn thành chức năng giải trí, chức năng bồi dưỡng
tinh thần, đạo đức, năng khiếu sáng tạo văn hoá cho con người.
Văn hóa là do con người tạo ra. Làm nên truyền thống văn hóa đặc thù của
vùng đất Hưng Yên là những phẩm chất của con người nơi đây qua bao thế hệ.
Đó là tinh thần hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước và cần cù trong lao động….
Con người Phạm Ngũ Lão và những truyện kể dân gian về ông được sinh ra và
được nuôi dưỡng trong chiếc nôi văn hóa nói trên.
Về ngôi làng Phù Ủng - nơi sinh thành và nuôi dưỡng PhạmNgũ Lão trước
đâythuộc tổng Huệ Lai, huyện Đường Hào. Tên Đường Hào có từ thời nhà Đường
đô hộ nước ta. Theo Đường Hào phong vật tổng ca thì hai bên huyện tiếp giáp
với Sơn Nam và Kinh Bắc. Huyện chia làm 9 tổng, 80 xã. Sách Đại Nam nhất
thống chí chép: “Phù Ủng thời Trần là một xã của huyện Đường Hào, Lộ Hồng.
Sang thời Nguyễn, Phù Ủng thuộc tổng Huệ Lai, phủ Bình Giang, trấn Sơn
Nam”,là một làng có truyền thống lịch sử lâu đời. Sau cách mạng tháng 8 - 1945,
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bỏ hai đơn vị hành chính là tổng và
phủ, thành lập chính quyền bốn cấp dưới chính phủ trung ương gồm tỉnh, huyện,
xã, thôn. Xã Phù Ủng thuộc huyện Ân Thi tuy được thành lập từ sau cách mạng
tháng 8 - 1945 nhưng nhiều lần sát nhập, đổi thay đến năm 1979 xã có 8 thôn: La
Mát, Huệ Lai, Kim Lũ, Phù Ủng, Hồng Lương, Đông Mái, Phương La, Sa Lung.
Thần hoàng làng Phù Ủng là người giúp vua Hùng thứ 18 đánh giặc được
phong thần. Làng Phù Ủng là làng quê thanh bình như bao làng quê khác ở Hưng
23
Yên. Người dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng. Lúc nông nhàn mọi
người có nghề đan nan tre, vặn thừng, đan chổi. Cần cù lao động, kiên cường
chống giặc ngoại xâm là hai phẩm chất nổi bật của người dân Phù Ủng. Truyền
thống quê hương đã nuôi dưỡng lòng yêu nước yêu nước, tinh thần, ý chí, nghị
lực, phẩm chất của một danh tướng tài ba như Phạm Ngũ Lão.
Để tỏ lòng tôn kính đối với người con tài ba, đức độ của quê hương nhân
dân Phù Ủng đã lập đền thờ ông trên nền nhà cũ. Nơi đây có một cụm di tích
(được Nhà nước xếp hạng theo Quyết định số 1288 VH/QĐ ngày 16/11/1988)
gồm hai khu: khu chính ( tính từ ngoài cổng vào) gồm đền thờ Phạm Ngũ Lão(
Phù Ủng trạch từ) được kiến trúc theo lối cổ với 5 gian tiền tế và tòa hậu cung.
Trong ban thờ chính có đặt tượng của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Cùng thờ trong
đền có tượng của quận chúa Anh Nguyên – vợ ngài. Bên phải đền (về phía đông)
là đền thờ Nhũ mẫu(mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão). Bên trái đền (về phía tây) là lăng
Tiên công thờ thân phụ của ngài. Phía trước lăng 100m là văn từ có 4 tấm bia đá
khắc tên các vị đại khoa người làng Phù Ủng đỗ đạt từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Cách khu chính không xa (phía trong làng) là đền thờ công chúa Tĩnh Huệ. Trong
cụm di tích này còn có lăng Vũ Hồng Lượng - người làm quan thời Hậu Lê từng
có công tu sửa đền Phạm Ngũ Lão.
1.2.2. Vài nét về Phạm Ngũ Lão
Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) sinh ra, lớn lên tại làng Phù Ủng, huyện
Đường Hào, phủ Thượng Hồng, lộ Hải Đông nay làng Phù Ủng, xã Phù Ủng,
huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, trong gia đình nông dân nghèo, sớm mồ côi cha,
vừa phải lao động vất vả kiếm sống, vừa rèn luyện tài năng văn lẫn võ. Tương
truyền, thủa thiếu thời, ông là người tuấn tú, thông minh, đối đáp trôi chảy, tính
tình khẳng khái.
Hơn sáu mươi năm phò vua giúp nước, cuộc đời Phạm Ngũ Lão gắn liền
với giai đoạn lịch sử oanh liệt - giai đoạn đầu của vương triều Trần. Sau khi nhà
24
Lý suy vi, qua sự dàn xếp khéo léo của Trần Thủ Độ, mùa đông năm Ất Dậu
(1225), niên hiệu Kiến Trung thứ nhất, Trần Cảnh lên ngôi, triều Trần được thiết
lập. Là triều đại hùng mạnh nhất của nước Đại Việt, vương triều Trần đã viết lên
những trang sử vẻ vang trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam. Vừa
xây dựng cơ nghiệp, vua tôi nhà Trần vừa đoàn kết muôn dân trong triều ngoài
nội để củng cố chính quyền từ xã, tổng đến trung ương, vừa xây dựng lực lượng
quân sự hùng mạnh đủ sức dẹp nội loạn và đập tan thế lực xâm lăng mạnh nhất
thế giới lúc bây giờ là đế chế Nguyên - Mông. Ba lần quân Nguyên - Mông sang
đánh nước ta, cả ba lần chúng đều thất bại. Trong thế kỉ XIII, vó ngựa xâm lăng
của chúng đã làm đổ biết bao thành trì của nhiều quốc gia từ Á sang Âu. Cuối
năm Đinh Tỵ (1257), Hốt Tất Liệt sai Ngột Lương Hợp Thai sau khi chiếm xong
nước Đại Lý đem 10 vạn quân kéo vào nước ta. Nhân dân Đại Việt thực hiện kế
vườn không nhà trống khiến giặc vào được Thăng Long nhưng thiếu lương thực.
Sau trận phản kích của ta ở Đông Bộ Đầu, chúng phải rút khỏi Thăng Long.
Cuối năm Giáp Thân (1284), Thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân và nhiều
tướng giỏi sang đánh Đại Việt. Lần này có thêm 10 vạn quân do Toa Đô chỉ huy
từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An hòng bắt sống vua quan nhà Trần. Sau hội nghị
Bình Than và lần tập trận ở Đông Bộ Đầu (8-1284), nhất là toàn quân nghe Hịch
tướng sĩ, quân dân Đại Việt ai cũng muốn lập công, trong đó có chàng trai Phù
Ủng. Cuối xuân, đầu hè năm Ất Dậu (1285) quân đội Đại Việt mở nhiều đợt phản
công đánh địch ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương. Quân ta đại thắng, giết chết
Toa Đô, Thoát Hoan phải thu tàn quân chạy về nước. Trận này Phạm Ngũ Lão lập
công được phong hàm Hạ phẩm phụng ngự.
Năm Đinh Hợi (1287), Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan mang
50 vạn quân ở các tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam và điều quân
thuộc các châu ngoài biển như châu Nhai, châu Quỳnh Đam... vào xâm lược Đại
Việt lần thứ ba. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tiếp tục áp dụng chiến thuật
25
du kích “lấy đoản chế trường” đánh địch ở cửa Linh Kinh (24-11-1287), ở eo biển
Đa Mỗ (Móng Cái), bắt sống làm đắm 300 thuyền địch ở cửa biển Đại Bàng (8-
1-1288), đốt cháy đoàn thuyền vận lương của Trương Văn Hổ (11-1-1288), bắt
sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp làm đắm 400 chiến thuyền địch trên sông
Bạch Đằng (3-1288). Trong chiến dịch truy kích quân Nguyên tháo chạy, Phạm
Ngũ Lão lập công ở ải Nội Bàng, chém chết Trương Quán. A Bát Xích, Trương
Ngọc bị tên độc của quân ta bắn chết. Thoát Hoan phải chui ống đồng mới thoát
châu Tự Minh. Dưới triều Trần, ngoài quân Nguyên - Mông nhiều lần quân
Chiêm Thành, quân Ai Lao sang cướp phá Đại Việt, tướng quân Phạm Ngũ Lão
đều được nhà vua cử mang quân đi chặn giặc.
Điểm lại những nét lớn trong lịch sử chống ngoại xâm ta càng thấy sự vĩ
đại những chiến công của cha ông lập được. Sự nghiệp bảo vệ quốc gia Đại Việt
ở thời Trần đòi hỏi những con người có lòng yêu nước cháy bỏng, tinh thần sẵn
sàng xả thân vì vương triều và xã tắc. Thời đại rực lửa đó đã sản sinh ra những
người con anh hùng như Phạm Ngũ Lão và chính thời đại đã hun đúc nên phẩm
chất cao quý để ông đủ năng lực gánh vác trọng trách lớn lao mà vương triều Trần
và muôn dân trao cho.
Không giống như nhiều đấng nam nhi xưa thường chọn cách lập thân bằng
con đường khoa cử, Phạm Ngũ Lão có chí riêng của mình. Lúc ông lớn lên, không
khí của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai đã diễn ra sôi
sục. Nuôi sẵn ý chí đánh giặc, ông may mắn được Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn phát hiện tài năng, tiến cử với triều đìnhvà được triều đình trọng dụng. Gặp
thời cơ thuận lợi, được hít thở không khí thời đại "sát Thát" anh hùng, chàng trai
Phạm Ngũ Lão có cơ may được thi thố tài năng, lập chiến công trên trận chiến.
Như “cá gặp nước”, ông đã trổ hết tài năng, sức lực trong công cuộc chinh phạt
kẻ thù xâm lược. Ông đã có đóng góp không nhỏ công sức của mình để cùng quân
26
sĩ và nhân dân làm nên chiến công vang dội trong lịch sử chống giặc ngoại xâm
của dân tộc.
Sau khi được Trần Quốc Tuấn tiếp nhận, rèn cặp và tiến cử, Phạm Ngũ Lão
được bổ dụng quản lĩnh quân Thánh dực. Tháng 9 năm 1284, ông được Trần Quốc
Tuấn giao trọng trách đem quân đội bảo vệ vùng biên giới Đông - Bắc. Điều này
nói lên sự tin tưởng tuyệt đối của Trần Quốc Tuấn và các vị vua Trần đối vị tướng
trẻ không phải người hoàng tộc. Năm 1285, ông giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và lần thứ ba, ông tham
gia các trận đánh như Chương Dương, Tây Kết (1285), Vạn Kiếp, Bạch Đằng và
ải Nội Bàng (1288). Trong cuộc lui binh về Vạn Kiếp, ông làm tướng tiên phong
trong đội quân của Trần Quang Khải (1240 - 1294) đối đầu với Toa Đô - một viên
tướng lão luyện của quân Nguyên -Mông . Trong trận Chương Dương, Phạm Ngũ
Lão đã cùng các tráng sĩ cảm tử đi trên những chiến thuyền nhỏ xông vào cận chiến
lên những chiến thuyền lớn của giặc trong làn tên bắn như mưa. Vì tận mắt thấy
tinh thần quyết chiến của quân nhà Trần nên sau thất bại ở trận Chương Dương,
Thoát Hoan buộc phải bỏ kinh thành Thăng Long. Trong cuộc kháng chiến lần thứ
3, Phạm Ngũ Lão đem quân phục kích địch ở cánh rừng bên ải Nội Bàng. Đòn đánh
hiểm của vị tướng tài khiến giặc bị bất ngờ, phải vội vã tháo chạy.
Sau này, khi tuổi đã cao Phạm Ngũ Lão vẫn được Trần Anh Tông (1293 -
1314) và Trần Minh Tông (1314 - 1329) tin tưởng cử đi đánh quân Chiêm Thành,
Ai Lao khi chúng xâm lấn bờ cõi Đại Việt. Năm Giáp Ngọ (1294), ông lập công
đánh tan quân Ai Lao được ban Kim phù. Năm Đinh Dậu (1297), "quân Ai Lao
xâm phạm Chàng Long, Phạm Ngũ Lão đánh bại chúng, lấy lại đất cũ" vua ban
Vân phù. Năm Mậu Tuất (1298), "đánh Ai Lao, tướng Ai Lao chết tại trận. Phạm
Ngũ Lão được phong Hữu kim ngô vệ đại tướng quân". Năm Tân Sửu (1301),
quân "Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, gặp quân giặc ở
Mường Mai giao chiến, bất được rất nhiều. Phong Ngũ Lão làm Thân vệ đại tướng
27
quân ban cho quy phù quy phù". "Năm Nhâm Dần (1302) vua Trần Anh Tông sai
Phạm Ngũ Lão đánh dẹp một "tên nghịch thần là Biếm làm loạn. Biếm bị giết ".
Ngũ Lão được phong làm Điện súy được ban hổ phù. Năm Mậu Ngọ (1318) "Huệ
Vũ đại vương Quốc Chẩn đi đánh Chiêm Thành, Tộc tướng nhà Lý là Hiếu Túc
hầu Lý Tất Kiến chết tại trận. Quản Thiên võ quân Phạm Ngũ Lão tung quân đánh
phía sau giặc. Quân giặc thua chạy bắt được rất nhiều. Phong Ngũ Lão tước Quan
nội hầu, ban cho phi ngư phù" [ 38, tr 158]. Có thể nói, cuộc đời Phạm Ngũ Lão
gắn liền với chiến công vang dội trong những trận chiến chống giặc ngoại xâm,
bảo vệ sự bình yên xã tắc. Vị tướng tài này hễ ra quân là đánh đánh thắng. Những
kỳ tích do ông lập được góp phần làm rạng rỡ hào khí Đông A.
Tuy xuất thân tầng lớp bình dân nhưng Phạm Ngũ Lão được các sử gia
phong kiến tôn vinh là một danh tướng triều Trần. Trong mục Tướng có tiếng và
tài giỏi thuộc phần Nhân vật chí trong Lịch triều hiến chương loại chí, sử gia Phan
Huy Chú đã viết về 4 vị tướng triều Trần gồm: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật,
Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư. Là một người bình dân, nhờ tài năng quân sự và
phẩm hạnh của một lương tướng thương yêu quân sĩ như con, Phạm Ngũ Lão đã
tập hợp dưới trướng mình rất nhiều sĩ tốt. Họ cùng ông làm thành đội quân phụ tử
chi binh, đồng cam cộng khổ, lấy xã tắc làm trọng, cống hiến hết mình cho vương
triều Trần. Vì thế, Phan Huy Chú đặt Phạm Ngũ Lão ngang hàng với các tướng
tài trong hoàng tộc. Sử gia họ Phan đã hết lời khen ngợi ông: “ Phạm Ngũ Lão có
tài múa giáo làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn danh dự, tiếng tăm rõ
rệt. Tóm lại không hổ là bậc nguyên thần ”[12, tr 374]. Sự đóng góp to lớn của
ông trong công cuộc giữ nước thời Trần, tinh thần xả thân vì sự hưng thịnh của
vương triều, sự yên bình của dân chúng là mục tiêu hành xử ( tu, tề, trị, bình) của
tướng quân họ Phạm. Nói gọn lại, đó là tấm lòng trung quân ái quốc ngời sáng
của Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão.
28
Phạm Ngũ Lão không chỉ là một vị tướng - nhà quân sự tài ba, ông còn là
nhà thơ. Ông sáng tác không nhiều nhưng đó là những bài thơ có giá trị nghệ thuật
cao, phản ánh khí thế thời đại. Tiêu biểu là hai bài thơ: Thuật hoài và Vãn thượng
tướng Quốc công Hưng Đạo đại vương. Tài năng trí tuệ của Phạm Ngũ Lão được
sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư khi bàn về các danh tướng nhà
Trần đã không ngần ngại so sánh: "Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như
Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài Hịch tướng sĩ,Phạm điện suý thì học vấn
biểu hiện ở câu thơ. Không chỉ có chuyên về nghề võ thế mà dùng binh tinh diệu,
hế đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt
nổi các ông"[38 , tr 162 ].
Quý mến tài năng, đức độ của Phạm Ngũ Lão, Tiết công tiết chế Trần Quốc
Tuấn đối đãi như môn khách và gả con gái nuôi là quận chúa Anh Nguyên cho
ông. Dân gian truyền tụng câu chuyện: Anh Nguyên quận chúa chính là con đẻ
của Trần Quốc Tuấn. Theo lệ, nhà Trần không cho con gái, con trai lấy người họ
khác. Vì thế, Trần Hưng Đạo mới giáng Anh Nguyên quận chúa từ con đẻ xuống
con nuôi để gả cho vị tướng trẻ mà mình yêu mến.Ôngđược Hưng Đạo Vương
tiến cử, vua Trần tin dùng, nhiều lần ban thưởng cho mỗi khi lập công. Khi Phạm
Ngũ Lão qua đời (ngày 1 tháng 11 năm Canh Thân - 1320), vua ra lệnh nghỉ chầu
5 ngày để tỏ lòng tưởng nhớ. Đó là một ân điển đặc biệt triều Trần dành cho ông
mà đương thời, ngay cả những người hoàng tộc không mấy ai có được.
Tóm lại, Phạm Ngũ Lão được giang sơn xã tắc từ vua quan đến nho sĩ,
nhân dân biết đến, nhớ ơn, thương tiếc . Cuộc đời, sự nghiệp Phạm Ngũ Lão - một
anh hùng dân tộc sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.Có thể tổng quan về ông
như sau: Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng
thành danh trong một triều đại quân chủ. Ông lập nhiều công tích với nước được
hưởng phúc cuối đời. Phạm Ngũ Lão là một hình tượng đẹp được nhân dân
ngưỡng mộ, tôn vinh. Ông là hình mẫu lý tưởng về một anh hùng dân tộc, xuất
29
thân từ bình dân nhưng có uy danh lớn được nhiều thế hệ người Việt ước mơ,
phấn đấu, noi theo. Chân dung ông bình dị giống như triệu triệu con người Đại
Việt bình thường khác mà vĩ đại vô cùng. Cuối cùng sẽ là thiếu sót, sai lầm về
phương luận nếu chúng ta nghiên cứu Phạm Ngũ Lão mà chỉ dựa vào ghi chép
chính sử (theo góc nhìn của những sử gia thời quân chủ) mà không tìm hiểu ông
qua truyền thuyết dân gian, truyện thơ dân gian, văn hoá dân gian - người đã từ
dân gian đi ra, đánh giặc cứu nước rồi hóa thánh, cuối cùng trở về trong lòng nhân
dân.
1.2.3. Mối liên hệ giữa truyền thuyết Phạm Ngũ Lão với truyện Nôm khuyết
danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão
Trong sinh hoạt văn hoá tinh thần, nhu cầu giải trí của con người luôn được
coi trọng. Quy luật sáng tạo văn hoá, văn học đáp ứng nhu cầu đó luôn đòi hỏi
chủ thể phải tìm chất liệu, nguồn cảm hứng để sáng tác. Khi có nhu cầu trình diễn
(diễn xướng), người nghệ sĩ bình dân phải tìm được ý hay, lời đẹp mà biểu đạt,
khắc sâu theo dụng ý nghệ thuật của mình. Họ lục tìm trong vốn văn hoá sẵn có
xem nội dung, ý tưởng, giá trị nào đặc sắc, phù hợp với đề tài, chủ đề do mình dự
định, sau đó chọn tìm ý tưởng nghệ thuật độc đáo nào phù hợp với nội dung đã
chọn mà huy động, sắp xếp đem ra diễn xướng (kể nếu là truyện, ca nếu là thơ)
trước đám đông hoặc cho chính mình thưởng thức. Như vậy, người nghệ sĩ dân
gian khi sáng tạo văn vần trong tác phẩm truyện thơ phải lấy cốt truyện có sẵn trong
truyền thuyết mà họ thâu nhận được làm nội dung, chọn ngôn từ có vần điệu phù
hợp để kể lại. Cốt truyện, tình tiết của bản kể truyền thuyết là cơ sở ban đầu để
người nghệ sĩ dân gian sáng tạo nên truyện thơ. Nói cách khác, truyền thuyết đóng
vai trò làm nền để nghệ nhân dân gian sáng tác nên truyện thơ
Ngược lại, trong quá trình lưu truyền qua lại trong không gian và thời gian
có thể làm cho truyền thuyết được truyện thơ dân gian nâng đỡ trên đôi cánh vần
điệu của mình nên nó thấm sâu, vang vọng hơn, bay xa hơn. Nhờ truyện thơ dân
30
gian mà nhân vật trong truyền thuyết được sự bổ sung chi tiết, có sức sống lâu bền
nhờ sáng tạo của vần điệu mà nó trở nên sinh động, in đậm trong tâm thức dân
gian, có sức sống thực, sinh động hơn so với chi tiết trong bản kể truyền thuyết.
Và ngược lại, truyện thơ được trau chuốt hơn về ngôn từ hoặc nó có thể bổ sung,
thu gọn, thay đổi lời kể, thay đổi bố cục. Thậm chí trong từng năm tháng, từng
vùng miền, từng địa phương, từng cụm dân cư mà bản kể truyện thơ Nôm sẽ khác
nhau (dị bản). Bản kể Tướng quân Phạm Ngũ Lão- truyện thơ khuyết danh mới
được ghi lại từ những năm 40 - 70 của thế kỷ XX, công bố năm 2010 (thế kỷ XXI)
là quá muộn nếu tính từ năm Kỷ Tỵ (1329) - năm Lý Tế Xuyên biên soạn, viết lời
tựa tác phẩm sưu tầm văn học dân gian đầu tiên của nước nhà - tác phẩm Việt điện
u linh.
Đối chiếu giữa các bản kể truyền thuyết và các đoạn bản ca truyện thơ Nôm
về Phạm Ngũ Lão, chúng tôi khẳng định: Hai loại hình truyền thuyết và truyện
thơ cùng kể về Phạm Ngũ Lão có sự liên hệ qua lại mật thiết bởi một số lí do.
Trước hết, đối tượng phản ánh trong hai thể loại (truyền thuyết, truyện thơ Nôm)
cùng là nhân vật lịch sử - danh tướng triều Trần là Phạm Ngũ Lão - một người
con ưu tú đất Hưng Yên. Hai là, người kể, người ca về tài tướng họ Phạm không
ai khác chính là những người dân quê, nơi ông sinh ra, lớn lên, là con cháu các
tướng sĩ cùng ông xông pha trận mạc, là thế hệ con cháu họ Phạm, làng ông, quê
ông từ đời này đến đời khác, thân thiết, gần gũi, ruột rà. Họ kế tiếp nhau phụng
thờ, tôn vinh ông. Ba là, truyền thuyết và truyện thơ đều là loại hình tự sự dân
gian lấy nghệ thuật ngôn từ đều là ứng diễn từ câu chuyện được tiếp nhận hoặc cá
nhân sáng tạo. Mặc dù diễn ngôn trong kể chuyện truyền thuyết khác diễn ngôn
trong truyện thơ Nôm có khác nhau về mức độ và hoàn cảnh song nghệ thuật diễn
xướng của truyền thuyết và truyện Nôm đều đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá
(về nhận thức lịch sử, về nghi lễ tín ngưỡng hoặc giải trí) của người dân quê.
31
Cũng cần nói thêm, khi thực hiện đề tài chúng tôi thấy một nghịch lý: Thời
kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt, nhiều truyền thuyết về Ngô Vương (939 - 944),
Đinh Tiên Hoàng (970 - 979), về Lê Hoàn (980 - 1005), Lý Thái Tổ (1010 - 1028),
về Lê Phụng Hiểu (thế kỷ XI), về Trần Hưng Đạo (1228 - 1300), về Lê Lợi (1428
- 1433) và các danh tướng khác đã được sưu tầm, giới thiệu rộng rãi. Trong khi
ấy, truyền thuyết về tướng quân Phạm Ngũ Lão ít được các nhà folklore học và
các nhà quản lý văn hoá địa phương quan tâm nên việc tìm hiểu mối quan hệ giữa
truyện thơ và truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão gặp khó khăn.
Về không gian lưu truyền, nhân dân ba tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Hải Dương
đều biết đến danh tướng Phạm Ngũ Lão qua truyền thuyết và truyện thơ dân gian
nói về ông. Đó là chưa kể tới tầm ảnh hưởng của 28 nơi thờ Phạm Ngũ Lão tại
đền miếu tỉnh Hưng Yên và những di tích thờ (hoặc phối thờ) Phạm Ngũ Lão tại
Hà Nam, Hải Dương... ở châu thổ sông Hồng. Ở Hưng Yên, Hải Dương, những
nơi thờ đức thánh Trần tức Trần Hưng Đạo thì đều có ban phối thờ (tượng) tướng
quân Phạm Ngũ Lão. Để nhớ lại thuở xa xưa tướng quân cùng quân sĩ rèn luyện
sức khoẻ, nhiều lễ hội thờ hoặc không thờ Điện suý Thượng tướng quân, ngoài
tục rước nước, rước kiệu cho đến nay vẫn chức trò chơi vật cù, như: Hội Phủ
Điềm, Tất Viên (Tiên Lữ), Quang Xá (Phù Cừ), hội đền Phù Ủng, đình Ngọc
Nhuế, Đào Xá, Đỗ Xuyên (Ân Thi), hội đình Yên Khê, đình làng Hạ, làng Trung
(Khoái Châu)...
* Tiểu kết:
Tóm lại, lịch sử - xã hội thời Trần đã tạo nên những người Việt lớn trong
hoàng tộc như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Bình
Trọng, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư... và những người xuất thân chốn bình
dân như Lê Phụ Trần, Nguyễn Địa Nô, Yết Kiêu, Dã Tượng, trong đó có Điện suý
Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão là người con của mảnh đất Hưng Yên. Nhân
tố không gian, thời đại được văn hoá quê hương tiếp nhận trở thành truyền thống
32
tốt đẹp. Truyền thống đó góp phần hình thành nên nhân cách, tài năng một tài
tướng họ Phạm - người cầm ngang ngọn giáo, tung hoành nơi trận mạc, hết lòng
bảo vệ quê hương đất nước. Làm xong nhiệm vụ, ông đường hoàng bước vào thần
điện làng xã, có mặt trong truyền thuyết, truyện thơ dân gian, tạo thành một vùng
văn hoá phổ rộng ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam.
Truyền thuyết Phạm Ngũ Lãovà truyện Nôm khuyết danh Tướng quân
Phạm Ngũ Lão là những tác phẩm văn học dân gian lưu truyền ở Hưng Yên được
nghiên cứu trên cơ sở lí luận cụ thể : khái niệm thể loại và sự phân chia tiểu loại
theo tiêu chí của các nhà nghiên cứu .Tuy ra đời trong thời điểm khác nhau song
giữa hai thể loại này vẫn có mối liên hệ nhất định và làm nên truyện kể dân gian
Phạm Ngũ Lăo .
Chương 1
TRUYỀN THUYẾT PHẠM NGŨ LÃO Ở HƯNG YÊN
2.1. Đặc điểm nội dung truyền thuyết Phạm Ngũ Lão
Truyền thuyết nói chung và truyền thuyết Phạm Ngũ Lão nói riêng đều
được sáng tạo trên cơ sở nhân vật và sự kiện lịch sử cụ thể. Sự kiện lịch sử ấy đã
được dân gian kiểm nghiệm, trở thành điểm tựa cho hư cấu nghệ thuật. Điện suý
Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão trở thành nguyên mẫu được người bình dân
33
nhào nặn thành hình tượng nghệ thuật theo tưởng tượng của họ. Qua loại sử bất
thành văn này, chúng ta tìm thấy dấu ấn lịch sử qua nội dung phản ánh của 15
truyền thuyết kể về Phạm Ngũ Lão. Đó là những sự kiện lịch sử trong hai lần
kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông vào các năm 1285, 1288 và những lần
ông chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ Quốc.
2.1.1. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh hào khí Đông A
Hào khí Đông A là khí thế đánh giặc của quân dân đời Trần bảo vệ quốc
gia quân chủ Đại Việt. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Trần (1226 -
1400) là một triều đại anh hùng - một triều đại coi trọng sự đoàn kết, thống nhất
giữa vua - tôi, tướng sĩ, rộng hơn là đoàn kết giữa giai cấp quý tộc phong kiến với
nhân dân lao động. Nhờ vậy, kinh tế, văn hoá, giáo dục, tôn giáo đều phát triển…
Ba lần quânNguyên - Mông (1258, 1285, 1288) sang xâm lược nước ta thì cả ba
lần chúng đều thất bại thảm hại. Vó ngựa của đội quân Mông Thát phải dừng bước
khi tiến vào Đại Việt. Quân dân nhà Trần dùng kế vườn không nhà trống, lấy đoản
chế trường để đập tan âm mưu đánh nhanh thắng nhanh làm bá chủ thế giới của
Thành Cát Tư Hãn. Ba lần chiến thắng quânNguyên- Mông là thắng lợi của sự
đoàn kết vua tôi, tướng sĩ và sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Khí thế đánh giặc lúc đó hừng hực trở thành ngọn lửa thiêu đốt hơn năm
mươi vạn quân Nguyên - Mông sau mỗi lần chúng vào giầy xéo giang sơn xã tắc.
Tinh thần đánh giặc bảo vệ Đại Việt thể hiện trong không khí chuẩn bị vũ khí,
lương thực của quân đội và dân binh làng xã, trong lời tâu của Thái sư Trần Thủ
Độ với vua Trần Thái Tông (1225 - 1258): “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ
hạ đừng lo gì khác” [38, tr 39],trong tiếng hô “ đánh ” của các bô lão tại thềm điện
Diên Hồng khi vua hỏi kế đánh giặc, trong hai chữ " Sát Thát " khắc trên tay tướng
sĩ, trong lời hiệu triệu Hịch tướng sĩ, trong câu trả lời đầy khẳng khái của Trần
Quốc Tuấn trước nhà vua: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin chém đầu tôi đi đã rồi sau
34
sẽ hàng”, trong hành động bóp nát quả cam của Trần Quốc Toản khi không được
dự bàn việc nước.
Phạm Ngũ Lão lớn lên đúng vào lúc nhân dân cả nước đang chuẩn bị cho
cuộc chiến đấu chống Nguyên - Mông lần thứ hai. Tinh thần thời đại đã được ông
tiếp nhận, biến thành ý chí, nghị lực quyết tâm đánh giặc của chàng trai làng Phù
Ủng. Muốn được đánh giặc, ông tìm cách gặp Trần Quốc Tuấn. Từ sự kiện này
nên người dân Hưng Yên đã hình tượng hoá, xây dựng thành công một số truyền
truyết thể hiện ý chí đánh giặc cứu nước người trai quê hương. Đó là các bản kể:
Ông Phạm Ngũ Lão, Truyện về ông Phạm Ngũ Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ
Lão, Bắn đứt dải cờ.
Truyện Bắn đứt dải cờkể về việc Phạm Ngũ Lão đi ngang qua bãi tập thấy
gia thần của Hưng Đạo Vương đang tập cung tên ông bèn xin bắn thử . Được
Nguyễn Địa Nô đồng ý, chàng trai họ Phạm “nâng cây cung, bằng một động tác
nhẹ nhàng và điêu luyện. Ông giương cung hướng mũi tên vào mục tiêu cắm sẵn
phía trước”. Hành động của chàng trai trẻ khiến vị gia thần của Trần Quốc Tuấn
ngạc nhiên bởi sức khỏe và tài năng phi thường. Theo Nguyễn Địa Nô “loại cung
này người thường không nâng nổi” nhưng Phạm Ngũ Lão lại có thể “nâng cây cung
bằng một động tác nhẹ nhàng”, chứng tỏ ông có sức khỏe hơn người. Sự ngạc nhiên
của Nguyễn Địa Nô được đẩy cao hơn khi Phạm Ngũ Lão tự tin khẳng định mình
có thể “ bắn đứt dải cờ đang bay”. Khi “mũi tên xé gió lao đi, dải cờ đứt đôi”[44]
là lúc Nguyễn Địa Nô nhận thấy người xin bắn thử là một kì tài bèn đưa vào ra mắt
chủ tướng. Mục đích của việc xin thử tài bắn cung của Phạm Ngũ Lão cốt để ông
được gặp Hưng Đạo đại vương. Đáng tiếc thay, lần đó ông chẳng những không gặp
được mà còn bị khép tội bắn vào cờ của triều đình.
Gặp Trần Quốc Tuấn và được Đức ông thu nạp với Phạm Ngũ Lão luôn là
niềm khao khát cháy bỏng. Cuộc gặp gỡ này được phản ánh trong các babản kể
Ông Phạm Ngũ Lão, Truyện về ông Phạm Ngũ Lão, Con đẻ con nuôi. Biết Hưng
35
Đạo đại vương kéo quân từ Vạn Kiếp về kinh nên Ngũ Lão “ngồi xếp bằng tròn
bên vệ đường cái quan chẻ tre đan sọt. Mặc cho quân tiên phong thét bắt đứng
dậy, ông cứ xếp bằng tròn mà đan, hình như không nghe thấy gì . Thấy vậy, quân
lính lấy giáo đâm vào đùi, ngọn giáo mắc vào đấy không rút ra được nhưng ông
vẫn cứ ngồi yên”[41, tr 482].Câu chuyện Phạm Ngũ Lão gặp Trần Quốc Tuấn
trên đường về kinh, tình tiết được kể đều tập trung thể hiện phẩm chất của chàng
trai trẻ làng Phủ Ủng. Cái dũng của Ngũ Lão thể hiện qua chi tiết ngọn giáo đâm
vào đùi. Ý chí đánh giặc trong ông lớn đến mức quên cả nỗi đau thể xác khiến
toán tiền binh thấy lạ và Hưng Đạo Vương ngạc nhiên. Tuy nhiên , bên cạnh việc
tô đậm lòng dũng cảm, ba bản kể trên còn làm nổi bật trí tuệ của người trai làng
Phù Ủng. Việc thể hiện cái trí của nhân vật thì ba bản kể có bề sâu khác nhau.
Bản thứ nhất, kể theo lối tóm lược, thuật lại việc Phạm Ngũ Lão "nghĩ mấy câu
trong binh thư nên không nghe thấy gì cả. Vương bèn dừng võng lại, thử hỏi binh
cơ mưu lược, thì ông ứng đối trôi chảy. Bản kể thứ hai, tác giả dân gian khắc sâu
thêm tài năng trí tuệ của Phạm Ngũ Lão: "Hưng Đạo Vương lấy làm lạ, hỏi đến
sự học hành, thì hỏi đâu nói đấy, nói về kinh, truyện thao lược không sót chỗ nào,
ứng đối nhanh như nước chảy”[ 41, tr 485]. Bản thứ ba, tầm vóc trí tuệ của chàng
thanh niên yêu nước được miêu thuật toàn diện hơn, sâu sắc hơn: "Đại vương hỏi
chàng về binh thư, binh pháp, hỏi đâu chàng biết đấy, trả lời sâu sắc và rành rẽ.
Hỏi về binh sách, chàng trả lời làu thông". Và cuối cùng bản kể bổ sung thêm chi
tiết mới: "Từ hôm ấy, chàng được giữ lại trong phủ đệ làm môn khách”[41, tr
489]. Con đường sáng tạo của nghệ thuật truyền thuyết không chỉ là tư duy sáng
tạo mà còn là tấm lòng của người bình dân khi họ kể về người con của quê hương
mình. Câu chuyện kể về việc Phạm Ngũ Lão gặp với Trần Hưng Đạo khi ông ngồi
đan sọt để giáo đâm vào đùi mà vẫn mải suy nghĩ việc nước được kể trong ba
truyền thuyết nói trên thực chất đã được người bình dân Hưng Yên phủ lên đó
một lớp sương huyền thoại. Người nghe nhận thấy việc trở thành một gia thần của
Trần Quốc Tuấn, thành tráng sĩ triều Trần ở Phạm Ngũ Lão có phần khác thường
36
so với những trai tráng khác. Trong khi trai tráng làng xã nô nức tòng quân thì
ông chọn cách tiếp cận vị thánh tướng của triều đình bởi một lẽ “chim khôn chọn
cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ”. Theo truyền ngôn của người xưa, cuộc
gặp gỡ đó tưởng như vô tình, ngẫu nhiên nhưng với Phạm Ngũ Lão lại rất hữu ý.
Do nhà ông gần đường cái quan nên chắc hẳn ông dễ dàng biết cuộc trảy quân của
Hưng Đạo vương từ Vạn Kiếp về Thăng Long. Để gặp được Đức ông, nhiều ngày
Phạm Ngũ Lão thường ngồi xếp bằng vót nan ở bên đường. Trong dáng vẻ lao
động cần mẫn ấy ít ai ngờ ông đang ấp ủ một ý chí chọn thời cơ được đi đánh
giặc, được gặp vị tổng chỉ huy ba quân của vương triều Trần. Điều lạ lùng là ở
chỗ khi lính hô dẹp đường ông vẫn ngồi im không cựa quậy. Họ lấy giáo đâm vào
đùi, Phạm Ngũ Lão vẫn cứ ngồi yên như cũ” khiến Trần Hưng Đạo lấy làm lạ mà
hỏi: “Nhà thầy kia ở đâu, sao ta đi qua đây mà cứ ngồi chững chàng làm vậy? ”.
Chàng trai đan sọt trả lời: “Tôi đang mải nghĩ một việc nên không để ý đến”.
Chính sức chịu đựng khác thường và câu trả lời của Ngũ Lão khiến Hưng Đạo
vương có ấn tượng mạnh với ông. Sau đó, cuộc đối đáp giữa một người thường
dân và vị Tổng chỉ huy quân đội trôi chảy càng khiến ngài tin rằng, đây là người
tài ở chốn dân gian. Việc tự tiến thân của Phạm Ngũ Lão đã gặp may bởi ông đã
có cuộc ra mắt đầy ấn tượng với người có cương vị quan trọng để đạt nguyện vọng
mong được triều đình thu nạp để được đi đánh giặc.
Sự kiện gặp Hưng Đạo vương đã mở ra cho Phạm Ngũ Lão một con đường
mới. Tuy nhiên, hành tiến trên con đường đó, ông gặp không ít thử thách. Nhà
vua xung ông vào quản vệ sĩ nhưng quân cấm vệ toàn những dũng tướng tài năng
đã không phục Phạm Ngũ Lão lại còn thách đấu. Để chứng tỏ khả năng bản thân,
ông xin vua cho về ba tháng thu xếp việc nhà nhưng thực ra là để luyện tập võ
nghệ rồi mới vào kinh so tài cao thấp. Truyện Ông Phạm Ngũ Lão kể về ý chí và
sự khổluyện của Phạm Ngũ Lão: “Những kẻ vệ sĩ thấy ông là hàn vi mới hiển đạt
thì lấy làm khinh thường, liền cùng ông đấu võ. Ông cáo về nhà nghỉ vài tháng,
cứ ngày ngày ra cái gò cao ở làng bên cạnh tập nhẩy, nhẩy đến nỗi sạt cả một góc
37
gò. Hết hạn nghỉ rồi, ông vào triều đấu với các vệ sĩ. Bọn vệ sĩ năm sáu người
quần lại đấu với ông. Ông tay đấm, chân đá, nhẹ nhàng như bay. Chúng đều bị
thương cả, mới bó tay xin chịu thua” [41, tr 482, 483]. Từ chi tiết cốt lõi ấy, bản
kể Truyện về ông Phạm Ngũ Lão phát triển đôi nét về tài nghệ, sức mạnh của một
võ tướng sức địch muôn người: “Vua thấy người có sức khỏe, lại học thứ, cho vào
làm Quản vệ sĩ. Các vệ sĩ không chịu, xin đấu sức với Ngũ Lão. Ngũ Lão xin vâng
nhưng xin vua cho về nhà ba tháng để thu xếp việc nhà, rồi sẽ xin đấu sức và nhận
chức nhân thể. Vua cho về, Ngũ Lão ra ngoài đồng, tìm chỗ gò cao mà tập nhảy,
cứ cách mười trượng chạy để nhảy tót qua gò. Tập luyện thành rồi vào kinh đấu
sức. Khi đấu quyền với các vệ sĩ thì không ai địch nổi, rồi Ngũ Lão thách cả các
vệ sĩ cùng ra đấu. Các vệ sĩ xúm xít chung quanh hàng trăm người. Ngũ Lão tay
đấm chân đá, nhẩy nhót như bay, chạm phải ai không chết cũng què cẳng. Các vệ
sĩ không tài gì đánh lại được, bấy giờ mới chịu phục” 41, tr 486,487]. Vẫn phản
ánh tinh thần luyện tập bền bỉ, nhẫn nại đó nhưng trong truyện Phạm Ngũ Lão
luyện tập tác giả dân gian kể chi tiết hơn: “Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khuya,
trên bãi cỏ ven làng không mấy lúc vắng mặt Phạm Ngũ Lão. Từ môn cưỡi ngựa
bắn cung đến côn, quyền, roi, kiếm; Phạm Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện.
Chỉ còn môn cắp giáo nhảy qua tường hào, Phạm Ngũ Lão luyện mãi vẫn chưa
thấy vừa lòng. Mấy hôm sau, được các bạn trong làng giúp sức, Phạm Ngũ Lão
đắp một cái gò đất ở ven làng để tập nhảy. Riêng việc đắp gò cũng là dịp để Phạm
Ngũ Lão tập mang nặng. Cứ ba sọt đất đầy ăm ắp, Phạm Ngũ Lão nhấc bổng lên
vai bước thoăn thoắt từ thùng đấu lên đỉnh gò, trong lúc các bạn khác, người khỏe
nhất, chỉ mang được hai sọt. Vài ngày sau, một gò đất lớn đã nổi lên lù lù ở ven
làng. Ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm, Phạm Ngũ Lão đã có mặt ở chân gò, từ từ
chạy lên đỉnh rồi lại nhảy xuống, hoặc chống sào, nhảy qua gò. Sau mấy ngày
luyện tập, Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Nhưng không thể
dừng lại ở đây được, Phạm Ngũ Lão quyết vượt xa hơn nữa. Phạm Ngũ Lão mặc
quần dài, cho đất vào ống quần, buộc túm lại để tập nhảy. Trong mấy ngày đầu,
38
đôi chân của Phạm Ngũ Lão như bị cắm chặt xuống đất. Thật khó khăn mới nhấc
bổng được. Mồ hôi ướt đầm, chân tay rã rời… nhưng dần dần Phạm Ngũ Lão đã
nhảy qua gò một cách dễ dàng. Bức tường thành sừng sững trong sân trường Giảng
Võ không có gì đáng sợ với Phạm Ngũ Lão nữa” [44].Câu chuyện trên cho thấy
tinh thần rèn luyện kiên trì, liên tục của Phạm công. Ông luyện tập từ sáng sớm
đến đêm khuya, từ ngày này sang ngày khác ròng rã suốt mấy tháng trời không
nghỉ. Ông không chỉ rèn luyện các môn “cưỡi ngựa bắn cung” , “côn, quyền, roi,
kiếm” đến “ thành thạo, điêu luyện” mà còn rèn “môn cắp giáo nhảy qua tường
hào” khi thấy mình “luyện mãi vẫn chưa vừa lòng”. Để thực hiện được môn võ
này ông ngày ngày đắp gò cao để tập nhảy. Việc đắp gò thật vất vả nhưng không
làm Phạm Ngũ Lão nản lòng nhụt chí. Nhờ sự kiên trì, bền bỉ cuối cùng Phạm
công đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Như vậy, để có sức địch muôn người của
chàng trai Phù Ủng là quá trình luyện tập kỳ công, liên tục, bền bỉ . Nhờ đó, ông
không chỉ có sức khỏe dẻo dai, mà còn có khả năng phi thường không ai sánh nổi.
Đó là cuộc rèn luyện có ích, có chủ đích rõ ràng, rất bài bản của một võ tướng
mong được sớm ra trận. Cuộc thi đấu giữa Phạm Ngũ Lão với các võ sĩ trong Cấm
vệ quân là cuộc thi tài không chỉlàm họ nể phục mà khiến nhà vua thêm phần tin
tưởng . Quân cấm vệ từ chỗ khinh thường, thách thức đến chỗ xin chịu thua vì
không địch nổi Phạm Ngũ Lão. Vua Trần thấy ông là người kiêu dũng, cho theo
Hưng Đạo vương đi đánh giặc Mông Cổ. Có thể nói, ý chí được ra trận giết giặc
với lòng yêu nước thiết tha đã thôi thúc Phạm Ngũ Lão quyết tâm luyện rèn võ
nghệ để chuẩn bị xông pha trận mạc.
Hào khí Đông A trong các bản kể truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão không
chỉ thể hiện qua ý chí, khát vọng đánh giặc của chàng trai làng Phù Ủng mà còn
được thể hiện qua bài thơ Thuật hoài của ông. Đây là một tác phẩm văn học đã
được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn cấp Trung học phổ thông
nhưng trong truyền thuyết Phạm Ngũ Lão lại là một chi tiết được kể ở Truyện ông
Phạm Ngũ Lão và Anh Nguyên quận chúa. Trong bản kể Truyện ông Phạm Ngũ
39
Lão, người bình dân tưởng tượng : “Ngũ Lão tính hay ngâm thơ, thường ngâm
một bài rằng:
“Ngọn giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân tì hổ át sao Ngưu.
Công danh nếu để còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” [41, tr 485]
Bài thơ được người xưa nhắc đến trong bản kể như minh chứng cho tính
“hay ngâm thơ” của chàng trai làng Phù Ủng. Bài thơ Ngũ Lão thường ngâm vừa
tái hiện hùng khí của dân tộc Đại Việt xông lên giết giặc với sức mạnh như hổ báo,
vừa thổ lộ hùng tâm tráng chí của đấng nam nhi thời loạn. Hiện lên trong bài thơ là
một tráng sĩ đời Trần. Người trai ấy dù đã tham gia vào công cuộc bảo vệ đất nước
“trải mấy thâu” nhưng vẫn thấy mình “vương nợ” công danh và thấy thẹn khi “nghe
chuyện Vũ hầu”. Đằng sau mối thẹn và món nợ ấy là chí lớn và khát khao cống
hiến của một con người cho vua, cho nước.
Trong truyện Anh Nguyên quận chúa, bài thơ Thuật hoài lại xuất hiện trong
lời ngâm của quận chúa Anh Nguyên giữa đêm thanh vắng. Tiếng ngâm trong
trẻo của con gái nuôi khiến Đại Vương “chú ý lắng nghe”. Đức ông rất đỗi ngạc
nhiên về lời thơ trong trẻo, lưu loát, khí phách. Qua cuộc trò chuyện với con, ngài
mới biết tác giả bài thơ là Phạm Ngũ Lão. Hưng Đạo Vương đã gật đầu và khen
ngợi: “Ngoài Phạm Ngũ Lão ra, khó có ai làm được bài thơ lập chí như vậy” [44].
Đây là lí do đặc biệt khiến Đại vương hài lòng về việc tiến cử người con trai có
tài văn võ này với triều đình và khiến quận chúa Anh Nguyên lúng túng, e lệ khi
nghe cha khen ngợi nhắc đến tên Phạm Ngũ Lão. Như vậy, bài thơ Thuật hoài là
nơi gửi gắm ý chí, khát vọng của tướng quân Phạm Ngũ Lão, phản ánh khí thế
sục sôi của thời đại nhà Trần đánh giặc giữa nước. Ở đó, hình ảnh tác giả của bài
thơ lồng vào hình ảnh của dân tộc khiến từng câu, từng chữ đều mang âm hưởng
của hào khí Đông A.
40
Điểm qua một số bản kể truyền thuyết nói trên, chúng ta nhận thấy hào khí
Đông A đã hun đúc ý chí, tinh thần của mỗi con người thời Trần để họ trở thành
con người mang tinh thần thời đại. Phạm Ngũ Lão là một minh chứng cụ thể. Ông
từ một chàng trai nông dân nghèo, quanh năm chân lấm tay bùn, hết việc đồng lại
ngồi đan sọt mưu sinh nhưng nhờ hào khí thời đại mà trở thành người anh hùng có
lòng yêu nước thiết tha, biết rèn luyện bản thân để trở thành một người biết đem trí
tuệ, sức lực, tài năng ra phò vua giúp nước. Nếu như tư duy thần thoại Việt dựng
lên chân dung những người khổng lồ đại diện cho thế lực thần linh tuyệt đối thì
kiểu tư duy truyền thuyết thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập cũng để lại
cho đời sau những bức chân dung gần gũi như thế. Hình tượng Phạm Ngũ Lão vừa
là kết quả của tư duy lịch sử cụ thể, vừa mang tầm vóc của trí tưởng tượng và tinh
thần ngợi ca.
2.1.2. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ngợi ca vị tướng bình dân
Trong cuộc ba chiến tranh vệ quốc của nhà Trần, bên cạnh những vị tướng
tài là người trong hoàng tộc Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,
Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng,... còn có không ít tướng lĩnh vốn là con em
bình dân như Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Nô, Phạm Ngũ Lão. Họ tham gia
và lập nhiều chiến công được chính sử và truyền thuyết dân gian ghi nhận.
Hiện lên trong cái nhìn của người bình dân, ngay khi còn trẻ, Phạm Ngũ
Lão đã là người khẳng khái, giàu tự trọng. Các bản kể Truyện về ông Phạm Ngũ
Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão cùng kể về sự việc Bùi Công Tiến nhân
đỗ tiến sĩ đã mở tiệc khao dân làng Phù Ủng nhưng chàng trai trẻ Phạm Ngũ Lão
kiên quyết không đến ăn khao. Trước lời mẹ giục, Phạm công đã thưa với mẹ:
“Thưa mẹ, con chưa làm nên gì để mẹ vui lòng, mà con đi mừng người ta thì con
lấy làm nhục lắm”[41, tr 484]. Sau ông Bùi Công Tiến gọi Phạm Ngũ Lão đến
trách rằng: “Sao ngươi còn bé mà khinh bạc thế?”, Phạm công đã khẳng khái trả
lời: “Lão ô bách tuế bất như phượng hoàng sơ sinh”, (nghĩa là: Con quạ trăm tuổi
41
không bằng con phượng hoàng mới sinh)[41, tr 487]. Những chi tiết trên đã nói
lên chí khí của một con người. Qua lời thưa với mẹ, ta thấy Phạm Ngũ Lão muốn
mình không thua kém người khác, muốn làm nên chuyện lớn, phải “có danh gì
với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Bị Bùi Công Tiến trách tội khinh bạc, ông
mượn chữ nghĩa trong điển lệ để đối đáp lại người vừa đỗ đại khoa. Qua lời nói
đầy khẳng khái đó, Phạm Ngũ Lão không chỉ thể hiện vốn học vấn của mình mà
còn thể hiện thái độ tự tin, ý chí vươn lên của bản thân. Ông muốn bằng người,
hơn người nhưng không đi theo con đường lập thân bằng lối cử nghiệp như Bùi
Công Tiến. Qua câu chuyện trên, dân gian muốn ngầm dự báo về chí khí của
chàng trai sau này là vị tài tướng nhà Trần.
Qua một số bản kể truyền thuyết, tác giả dân gian còn khắc họa Phạm Ngũ
Lão là một con người hiếu nghĩa, nhân hậu. Mở đầu truyện Nói về sự tích ông
Phạm Ngũ Lão, người dân quê đã giới thiệu về ông: “Đời vua Nhân Tông, ở làng
Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương có một người tên là Phạm Ngũ Lão tính
khí khái và có hiếu với cha mẹ ”[41, tr 487]. Khí khái và hiếu thuận là hai nét
nổi bật ở nhân vật này. Là con, Ngũ Lão chỉ muốn “làm nên gì để mẹ mừng lòng”.
Truyện Mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão kể rằng: Trước khi trấn giữ vùng ải Bắc, ông được
lệnh về thăm quê nhà, mang theo quà của quận chúa Anh Nguyên gửi biếu mẹ
già. Thấy con về, người mẹ lại nén thở dài đầy lo lắng. Bà sợ Ngũ Lão ngã lòng
do thương mẹ nên toan dùng giải yếm buộc cổ tự tử. Hoảng hốt vì điều đó, người
con hiếu thảo đã “van xin mẹ hãy yên lòng”[44] rồi trở lại Thăng Long lúc trời
chưa sáng. Như vậy, người mẹ không muốn vì mình mà con trễ nải việc nước còn
Phạm Ngũ Lão vì hiếu thuận mà không dám trái ý mẹ già. Ông sẵn sàng đảm
đương việc nước để mẹ yên lòng. Trong góc nhìn của dân gian, với cha mẹ, Phạm
Ngũ lão rất mực hiếu thảo còn với người dân ông dốc lòng giúp đỡ. Truyện Chữa
bệnh cứu người[41, tr 490]đã tô đậm phẩm chất nhân ái nơi tướng quân họ Phạm.
Vì thương gia đình phú ông ở Cẩm Giàng có một con trai bị bệnh lên đậu, gần
42
chết nên ngài đã hiển linh thành cụ già và nhận lời sẽ chữa bệnh cho. Nhờ đó,
đứa trẻ thoát chết, gia đình phú ông sống trong niềm vui, hạnh phúc.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam trải qua bao cuộc chiến tranh
giữ nước. Dưới thời phong kiến, nhiều lần đội quân xâm lược phương Bắc phải
nhục nhã lui quân khi chúng sang xâm lăng Đại Việt. Riêng ở thời Trần, ba lần
đại quân Nguyên – Mông kéo sang là ba lần chúng thất bại thảm hại. Một trong
những yếu tố làm nên chiến thắng dội vang của quân dân Đại Việt là cách đánh
mưu trí, bất ngờ, khiến kẻ thù không kịp trở tay. Người Việt vốn nổi tiếng ở nghệ
thuật chiến tranh nhân dân, bằng cách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Đại
quân Nguyên - Mông cậy quân đông, có sức cơ động nên thường tổ chức những
trận tấn công chớp nhoáng với quy mô lớn, đánh nhanh thắng nhanh. Trong khi
đó, quân dân Đại Việt lại tìm cách không đối đầu trực tiếp, dùng "đoản binh chế
trường trận", tìm mọi cách làm suy giảm sức mạnh địch quân bằng thế trận chiến
tranh nhân dân rộng khắp. Nhà Trần đã từng rút khỏi Thăng Long để lại vườn
không nhà trống khiến giặc chiếm được thành như vào chỗ không người, sau đó
phải bỏ chạy. Có thể nói, linh hoạt trong đối phó với kẻ thù, chọn cách đánh giặc
phù hợp với thực tế chiến trận, chọn tướng tài sử dụng là kế sách đánh giặc được
tổng kết bởi vị thánh tướng đời Trần: “ Đại khái kẻ kia cậy có trường trận, ta có
đoản binh: lấy đoản binh chế trường trận đó thói thường của binh pháp. Quân địch
ầm ầm tràn đến như lửa, như gió, thế ấy dễ trị. Nếu chúng dùng chướng tằm ăn
lá dâu, không cần mau thắng, không cướp bóc lương dân thì ta phải lựa dùng
lương tướng, xem tình hình mà liệu quyền biến như đánh cờ vậy” [38, tr 108].
Nhờ sự soi sáng của tư tưởng quân sự nói trên, triều đình đã lãnh đạo nhân dân ba
lần kháng chiến thắng lợi và lập chiến công hiển hách.
Qua một số bản kể truyền thuyết, người bình dân đã hết lời ca ngợi tài đánh
giặc của Phạm Ngũ Lão. Ông là vị tướng có tài xuất quỷ nhập thần từng làm cho
kẻ thù bao phen khiếp đảm, góp phần tạo nên thắng lợi lẫy lừng của quân dân Đại
43
Việt và là minh chứng sinh động cho nghệ thuật chiến tranh nhân dân thời đó. Đại
Việt sử kí toàn thư nhiều lần nhắc đến Phạm Ngũ Lão: “Ngũ Lão xuất thân trong
hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích
ngâm thơ, tựa như không để ý đến chuyện võ bị. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là
một đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng ”[38, tr 161- 162]. Ở một chỗ khác bộ sử này
đã chép công tích của vị tướng người bình dân nhưng là tướng bất bại khi đánh dẹp
Ai Lao, Chiêm Thành, kể cả nội phản. Năm Giáp Ngọ (1294), “Tháng 8, Thượng
hoàng đích thân đi đánh Ai Lao, bắt được nhiều người và súc vật không kể xiết.
Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (không rõ tên) làm quân tiên phong, bị
quân Ai Lao bao vây, Phạm Ngũ Lão dẫn quân ập tới, giải vây, rồi tung quân
nghênh chiến, đánh bại quân Ai Lao. Ban kim phù cho Ngũ Lão” [38,tr 108].
Những sự kiện lịch sử trên đã làm nền cho người bình dân hư cấu một số truyền
thuyết kể về cách đánh bất ngờ, táo bạo, sáng tạo của ông như các bản kể Truy kích
Thoát Hoan, Truyện ông Phạm Ngũ Lão, Sự tích ông Phạm Ngũ Lão. Truyện Truy
kích Thoát Hoan kể về lần phục kích của Phạm Ngũ Lão ở ải Nội Bàng. Sau thất
bại ở Chương Dương, biết không thể giữ được Thăng Long, Thoát Hoan - thái tử
nhà Nguyên định rút quân về. Qua viên tướng thân cận, hắn biết có tướng quân
Phạm Ngũ Lão mai phục trên đường phía Tây ải Chi Lăng nên đã cho bộ tướng
của mình là Tích Đô Nhi đối đầu với ông còn y chọn phía Đông để rút lui an toàn.
Không ngờ, Phạm Ngũ Lão đã chia quân ra các nơi hiểm yếu phục binh chờ giặc.
Khi rút đến Nội Bàng, theo lệnh chủ tướng họ Phạm, quân Trần bắn tên độc từ các
lùm cây và xông ra giáp chiến. Tác giả dân gian kể lại sự kiện này bằng giọng điệu
đầy tự hào: “Quân Thoát Hoan từ từ rút, khi cánh quân cuối cùng lọt vào đất Nội
Bàng, thì một tiếng pháo lệnh vang lên. Hàng loạt mũi tên tẩm thuốc độc bắn ra từ
các lùm cây; quân lính gươm giáo xông lên. Ngọn cờ đại mang chữ "Phạm" phấp
phới bay trên cửa ải. Quân địch hốt hoảng, một số bị chết, tướng lĩnh và quân sĩ
nhiều tên bị thương, số còn lại thục thân thoát qua cửa ải. Thoát Hoan phải trà trộn
vào đám tàn quân trốn về đến Tư Minh, từ đó bỏ ý định xâm lược Đại Việt”. Trong
44
câu chuyện không dài, cốt truyện súc tích, người kể khắc họa thành công chân
dung của vị hổ tướng Phạm Ngũ Lão. Hình tượng Phạm Ngũ Lão là sự đối lập với
viên Trấn Nam vương Thoát Hoan. Nếu Thoát Hoan đê hèn, bạc nhược bao nhiêu
thì Phạm Ngũ Lão dũng lược bấy nhiêu. Với lối tập kích bất ngờ, bố trí quân mai
phục tài tình, đội quân Đại Việt do ông chỉ huy đã giáng một đòn chí mạng khiến
quânNguyên- Mông tan tác. Bản kể trở thành một bài ca ngợi ca nghệ thuật phục
kích của vị tướng nông dân. Vì khiếp đảm trước các đánh xuất quỷ nhập thần của
đội quân do Phạm Ngũ Lão chỉ huy nên quân Nguyên - Mông mỗi khi được cử đi
chinh phạt phương Nam, trông thấy cờ súy của ông đều sợ hãi: "Lính già từng trải
mùi chinh chiến. Nghe nói Nam chinh ủ mặt mày”.
Lần theo những dòng chính sử, chúng ta thấy Phạm Ngũ Lão 3 lần dẹp quân
Ai Lao từ phía Tây. Đó là các lần: Tháng 8, năm Giáp Ngọ (1294), tháng 2, năm
Đinh Dậu (1297), tháng 3, năm Tân Sửu (1301). Ông 2 lần đánh quân Chiêm
Thành từ phía Nam (vào tháng 5 năm Nhâm Tý 1312 và tháng 8 năm Mậu Ngọ)
lấn đất Đại Việt. Trong các trận đánh này, ông đều lập công bởi cách đánh táo
bạo, bất ngờ: dùng chiến thuật tập kích thành công.TruyệnNói vềsự tích ông Phạm
Ngũ Lão kể lại: “Khi đi chăn voi, người ấy lập mẹo may một chiếc áo đỏ, một lá
cờ đỏ, rồi giấu vào một chỗ. Lúc đem voi đi chăn thời mặc áo với cầm cờ, dạy voi
phải trông theo hiệu. Hễ thấy lá cờ phất xuống, thời đều nằm phục cắm ngà xuống
đất, chổng đít lên trời. Lá cờ phất lên thời đều đứng dậy cả. Người ấy ở đấy hai
năm, dạy những con voi đều thuộc phép cả"[41, tr 487]. Tháng 3, năm Tân Sửu
(1301), quân Ai Lao xâm phạm Đại Việt lần thứ ba, sang cướp vùng Lai Châu,
Sơn La, Hoà Bình (thời Trần gọi là vùng Đà Giang). Sự kiện ấy, chính sử viết
chưa đến 4 dòng: "Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, gặp
giặc ở Mường Mai giao chiến, bắt được rất nhiều " [38, tr 129]. Thế nhưng bản
kể truyền thuyết lại tường thuật chi tiết, tỉ mỉ về cách dùng binh của Phạm Ngũ
Lão: "Chúa nước Ai Lao thấy báo, kéo quân với rất nhiều voi ra bày trận. Đến lúc
giáp trận, Phạm Ngũ Lão mới mặc áo đỏ, cầm cờ đỏ phất xuống thời bao nhiêu
45
con voi trông thấy, đều nằm phục cắm ngà xuống đất, chổng đít lên, lúc ấy mới
sai quân vào bắt được chúa nước Ai Lao. Từ đấy, nước Ai Lao mới chịu hàng
phục và triều cống nước An Nam"[41, tr 488]. Qua chi tiết trên ta thấy tài chỉ huy
và cách đánh của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Ông dùng lá cờ đỏ làm hiệu: “ lá cờ
phất xuống, voi đều nằm phục, cắm ngà xuống đất… Lá cờ phất lên thời voi đứng
dậy cả”. Nhờ thế, quân ta mới bắt được chúa Ai Lao. Mẹo đánh giặc có một không
hai của tướng quân Phạm Ngũ Lão không chỉ ở cách dạy voi rồi vận dụng trong
đánh trả đội hình tượng binh giặc mà còn thể hiện ở việc ông dùng dùng cọc tre
vạt nhọn đâm vào chân voi khiến quân Ai Lao thua chạy. Truyệnông Phạm Ngũ
Lão kể: “Ai Lao đem hơn một vạn voi sang cướp đất Thanh, Nghệ. Vua sai Ngũ
Lão cầm quân đi đánh. Ngũ Lão sai dân chặt tre đực cứ dài độ một trượng, chồng
chất vào các vệ đường. Khi Ngũ Lão kéo quân vào đánh, giặc thúc voi sấn lên.
Ngũ Lão chỉ chân tay không sấn vào gặp đống cọc tre nào thì vớ cọc ở đống tre
ấy, đập vào chân voi. Voi bị đau gầm rống lên chạy về, giầy xéo cả quân Ai Lao.
Ngũ Lão mới thúc quân đánh tràn sang. Quân Ai Lao tan vỡ phải trốn về đêm
”.[41, tr 486]. Điều thú vị là trong lần đối đầu với đại quân hơn một vạn người có
voi chiến mở đường, trong khi ấy tướng quân người Phù Ủng chân tay không vẫn
vào cận chiến. Giặc thúc voi tiến lên, ông lấy cọc “ đập vào chân voi ” khiến “ voi
bị đau gầm rống lên chạy về, giầy xéo cả quân Ai Lao”.Lối đánh sáng tạo nêu trên
không có trong binh pháp, không được sử gia nhắc đến trong chính sử nhưng cho
ta sự liên tưởng đến cách đánh dùng cọc nhọn đâm thủng thuyền giặc của Ngô
Vương Quyền (11 – 938), của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (3 - 1288) ở
sông Bạch Đằng. Câu chuyện dân gian kể cũng gợi cho người nghe nhớ đến
những huyền thoại về Yết Kiêu - một gia tướng của Hưng Đạo Vương. Ông từng
lặn xuống biển, dùng sắt nhọn đục thủng thuyền giặc. Khi bị chúng bắt, Yết Kiêu
đã lừa chúng “ nhảy xuống nước trốn thoát ”.
Tóm lại, qua các truyền thuyết, người bình dân dường như không giấu nổi
niềm tự hào, ngưỡng mộ khi kể về vị tướng bình dân. Đó là con người hội tụ nhiều
46
phẩm chất đẹp đẽ, khẳng khái, tự trọng, hiếu thảo với đấng sinh thành, giầu lòng
thương yêu nhân dân và rất tài năng, sáng tạo khi cầm quân đánh giặc. Ông xứng
đáng được tôn vinh nơi điện thờ và được lưu truyền qua các câu chuyện kể.
2.1.3. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh tư tưởng thân dân, trọng dụng
nhân tài của vương triều Trần
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc chiến tranh vệ quốc. Ở bất cứ
thời đại nào, dân tộc ta cũng ngoan cường chống trả các thế lực ngoại xâm để giữ
yên bờ cõi. Kiên cường chiến đấu chống giặc bảo vệ giang sơn xã tắc là truyền
thống ngời sáng trong phẩm chất mỗi thế hệ người Việt Nam. Lịch sử cho thấy,
dù kẻ thù đến từ đâu, hung bạo như thế nào, cuối cũng cũng bị nhân dân ta đánh
bại. Làm nên chiến thắng đó là do chúng ta đã biết phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân. Sở dĩ nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên- Mông là nhờ
tinh thần vua tôi đồng lòng, quân sĩ gắng sức: Đoàn kết tôn thất, giữa tôn thất với
ngoại thuộc, trong bộ máy chỉ huy cuộc chiến tranh, đoàn kết nội bộ nhân dân
làng xã. Nhờ sự đoàn kết vua - tôi, trên - dưới, trong triều - ngoài nội nên sức
mạnh Đại Việt được nhân lên.
Chính sách thân dân, trọng dụng nhân tài là tư tưởng lớn của vương triều
Trần. Tư tưởng đó nảy sinh trong Phật hoàng Trần Nhân Tông rất sớm. Tư tưởng
thân dân được ông rút tỉa trong kinh Hoa Nghiêm, nâng lên thành thuật trị nước.
Theo ông, việc trị nước không nên bắt đầu bằng sự cai trị của nhà cầm quyền mà
là sự khai mở trí tuệ, khai thông đạo lí, đánh thức phẩm hạnh, đạo đức căn bản
của con người. Đánh giá tư tưởng thân dân của Trần Nhân Tông, sử gia Ngô Sĩ
Liên viết: “Cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng, làm vẻ vang đời trước, thực là
vua hiền của đời Trần ” [13]. Vì thân dân, trọng dân nên khi vận mệnh dân tộc
ngàn cân treo sợi tóc cả thượng hoàng Trần Thánh Tông (1258 - 1278) và vua
Trần Nhân Tông (1279 - 1293) đều tham khảo ý kiến các bô lão. "Thượng hoàng
triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng ban yến và hỏi kế đánh giặc.
47
Các phụ lão đều nói " đánh ", muôn người cùng hô một tiếng" [ 38, tr 73]. Đây là
cuộc trưng cầu dân ý vĩ đại nhất, minh chứng tinh thần đoàn kết giữa tầng lớp quý
tộc với nhân dân. Tư tưởng thân dân thể hiện rõ nhất qua hình ảnh vị thánh tướng
triều đình - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Khi kẻ thù lăm le xâm chiếm nước
ta, ông đã viết Hịch tướng sĩ kêu gọi binh sĩ đứng lên đánh giặc. Theo ông, họ
chống giặc đâu phải để bảo vệ cho chủ tướng mà bảo vệ quyền sống của chính
mình. Giữ gìn giang sơn Đại Việt lúc này là bảo vệ những gì quý giá nhất thiêng
liêng nhất mà cha ông để lại. Khi lợi ích của vương triều với lợi ích của nhân dân
là một thì nhân dân sẽ tự giác đứng lên, đồng cam cộng khổ bảo vệ quyền lợi ấy
“Các ngươi ở lâu dưới trướng nắm giữ binh quyền không có áo mặc thì ta cho áo,
không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng tước, lộc ít thì ta cấp lương...
lúc ra quân thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười”. Khi ông
ốm nặng, sắp mất, vua Anh Tông (1293 - 1314) đến thăm và có ý vấn kế giữ nước,
ông đã tâu: “ phải nới lỏng sức dân để làm các chước rễ sâu gốc vững. Đó là
phương sách giữ nước hay hơn cả ”.
Với tư tưởng thân dân nói trên nên khi các cuộc kháng chiến chống Nguyên
- Mông bùng nổ, triều đình sẵn sàng trọng dụng những người tài xuất thân từ tầng
lớp bình dân. Ngay trong bộ máy lãnh đạo cuộc kháng chiến bên cạnh những
tướng là người của hoàng tộc còn có đóng góp không nhỏ của họ. Nhận xét về tư
tương thân dân của vương triều Trần, nhà bác học thế kỷ XVIII là Lê Quý Đôn có
nhận xét: “Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ
độ cho nên nhân vật trong một thời có khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng
vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không hổ với trời, dưới
không thẹn với đất”. Với chính sách cởi mở, trọng dụng nhân tài nói trên thì người
trai làng Phù Ủng, một người chưa từng đỗ đạt mới được triều đình thu nạp. Sách
Khâm định Việt sử thông giám cương mục soạn năm 1290 có chép triều Trần :
“Bổ dụng Phạm Ngũ Lão quản lĩnh quân Thánh Dực. Ngũ Lão là gia thần Quốc
Tuấn. Quốc Tuấn nhận thấy Ngũ Lão tài năng có độ hơn người, gả con gái nuôi
48
cho. Nhân đó tiến cử lên triều đình. Ngũ Lão theo Quốc Tuấn đi đánh giặc Nguyên
có công nên có lệnh bổ dụng này”. Chính sách thân dân không chỉ phát huy sức
mạnh nhân dân trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm mà còn là cơ hội để những
người tài dũng xuất thân từ bình dân được trọng dụng, có dịp thi thố tài năng. Việc
Phạm Ngũ Lão được Hưng Đạo Đại Vương thu nhận và giữ làm môn khách, sau
đó tiến cử lên vua, được cầm quân đánh giặc, được làm con rể của Quốc công tiết
chế … đã minh chứng tư tưởng thân dân của vương triều Trần. Tư tưởng ấy được
dân gian kể lại bằng những truyền thuyết, như Con đẻ con nuôi, Quận chúa Anh
Nguyên, Phạm Ngũ Lão và Minh Hiến Vương.
Truyện Con đẻ con nuôi, Quận chúa Anh Nguyên kể về mối tình giữa quận
chúa Anh Nguyên và tướng quân Phạm Ngũ Lão. Trong Quận chúa Anh Nguyên,
tác giả dân gian không chỉ rung động về tình cảm thầm kín của con gái Hưng Đạo
Vương mà thể hiện thái độ quý mến đặc biệt của Đức ông (tức Trần Quốc Tuấn)
đối với môn khách Phạm Ngũ Lão. Tình cảm đẹp giữa hai người bắt đầu bài thơ
của chàng trai họ Phạm mà quận chúa ngâm trong đêm khuya thanh vắng. Lời bài
thơ khiến “vương rất đỗi ngạc nhiên về lời thơ trong trẻo, lưu loát, khí phách”.
Ông “đi về thư phòng con gái và hỏi: Ta vừa nghe con ngâm bài thơ lạ. Thơ của
ai vậy?”. Khi biết tác giả bài thơ, “Hưng Đạo Vương gật đầu. Một niềm vui thầm
kín thoáng hiện trên khuôn mặt của vị Quốc công. Vương lại càng hài lòng thấy
mình không nhầm khi tiến cử người con trai có tài văn võ này. Từ lâu, vương đã
có ý chọn Phạm Ngũ Lão làm con rể”[44]. Những trạng thái cảm xúc của Hưng
Đạo Vương được người kể chuyện diễn ngôn thật chi tiết: từ ngạc nhiên trước bài
thơ thể hiện khí phách lớn đến tâm trạng vừa vui mừng, vừa hài lòng khi mình đã
đúng khi tiến cử Ngũ Lão lên đức vua và ý định chọn Ngũ Lão làm con rể cũng
không nhầm. Thái độ của vị chủ tướng cũng là cái nhìn sắc sảo của tác giả dân
gian khâm phục nhân cách Trần Quốc Tuấn về phương châm xử thế, một cách
đánh giá, sử dụng người của một Quốc công tiết chế - quý tộc bậc cao của vương
triều. Đó là quan điểm “dụng nhân như dụng mộc”. Phương châm xử thế đó thể
49
hiện nét đẹp văn hoá của triều Trần - một triều đại luôn gần dân, dựa vào dân, biết
sử dụng sức mạnh của nhân dân. Nếu không có thái độ yêu mến, trọng dụng, yêu
thương nhân dân chắc hẳn ông không có những tình cảm cởi mở, đẹp đẽ nói trên.
Cũng giống như cha mình, quận chúa Anh Nguyên “ lúng túng, e lệ khi nghe cha
khen ngợi và nhắc đến tên Phạm Ngũ Lão”. Thái độ đó phần nào thể hiện những
rung động thầm kín trong tâm hồn người con gái xuất thân hoàng tộc. Ở nơi hoàng
cung nhưng Anh Nguyên đã biết đến tài năng, đức độ của chàng trai nghèo mà
nàng đem lòng cảm mến. Đó là tình cảm kín đáo vượt lên quy định khắt khe của
triều đình. Tuy nhiên, mối tình giữa người con gái lá ngọc cành vàng và chàng
trai làng bình dân có thành vợ chồng hay không phải nhờ vào quyết định sáng suốt
của Hưng Đạo Vương. Truyện Con đẻ con nuôi kể lại quyết định đó của Vương.
Qua trò chuyện, ngài biết con gái mình đã “ yêu người tướng quân trẻ ấy ” nên đã
giáng Anh Nguyên từ “con đẻ xuống con nuôi”[41, tr 490] để tác hợp cho đôi trẻ
nên vợ nên chồng. Sử sách cho chúng ta biết nhà Trần khác các triều đại khác ở
quy định cấm con trai, con gái của hoàng tộc kết hôn với người ngoài dòng họ.
Hầu hết các cuộc hôn nhân đều gắn với quan hệ cận huyết thống. Nhưng trong
lịch sử có hai vị đại quan của triều đình đã làm trái với luật lệ đó bằng việc gả con
gái cho những chàng trai không phải là người họ Trần. Đó là Quốc công tiết chế
Hưng Đạo Vương trước đó và Tư đồ Trần Nguyên Đán về sau. Ở đây, một mặt
Hưng Đạo Vương vì quý mến Phạm Ngũ Lão, mặt khác vì tôn trọng tình cảm cá
nhân của con gái mà vun vén hạnh phúc cho con nên ngài đã giáng con đẻ xuống
làm con nuôi. Quyết định đó vừa không trái với lệ của vương triều, vừa đáp ứng
mong ước của quận chúa, vừa thể thiện thái độ gắn bó với nhân dân của một vị
đại quan. Trần Quốc Tuấn vừa giúp con gái lấy được người mình yêu đồng thời
thu nạp thêm cho triều đình một người tài đức. Mối quan hệ giữa Hưng Đạo
Vương với chàng tướng trẻ Phạm Ngũ Lão đã nâng lên cấp độ cao hơn: từ tình
chủ - tướng đổi thành tình phụ - tử. Truyền thuyết dân gian đã bổ sung cho chính
sử cũ về mối lương duyên của đôi trai tài - gái sắc và gián tiếp cho đời sau biết tư
50
tưởng thân dân của Hưng Đạo Vương. Ông hòa hợp với nhân dân, đến với dân
bằng những quyết định thông minh. Những việc làm của Hưng Đạo vương thể
hiện tư tưởng lớn, một nhân cách đẹp, biểu hiện sinh động tinh thần đoàn kết giữa
tầng lớp quý tộc với tầng lớp bình dân ở thời đại nhà Trần.
Nếu các truyền thuyết Con đẻ con nuôi, quận chúa Anh Nguyên kể về duyên
tình giữa Phạm Ngũ Lão với con gái Trần Quốc Tuấn thì truyền thuyết Phạm Ngũ
Lão và Minh Hiến Vương kể về quan hệ gắn bó thân tình giữa hoàng tử Minh Hiến
với ông. Nếu quan hệ giữa chàng trai làng Phù Ủng với quận chúa Anh Nguyên
xuất phát từ những rung động tình cảm giữa trai và gái thì quan hệ giữa Ngũ Lão
với con trai út của Trần Thái Tông (1225 - 1258) xuất phát từ tình nghĩa giữa con
người với con người không lệ thuộc vào địa vị, đẳng cấp và luật vua phép nước.
Minh Hiến Vương "ở trong doanh trại biện bác mê hoặc lòng quân. Vua giận đuổi
ra khỏi dinh, lệnh cho quân lính không được thu nhận. Minh Hiến bèn cùng vài
mươi gia đồng ngủ ở ngoài nội. Phạm Ngũ Lão nghe tin ấy vội mời vào ở trong
quân"[44]. Cách ứng xử của Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến Vương trước hết là vì
con người. Ông vì mạng sống của Minh Hiến Vương mà quên việc mình làm trái
thánh chỉ, vi phạm quân lệnh. Ngũ Lão nói: "Thánh thượng vừa quở trách ân chúa
và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt được thì chúng nói là bắt được hoàng tử, chữ
biết đâu là bị vua quở trách! Ngũ Lão thà chịu tội trái lệnh, chứ không nỡ làm lợi
cho giặc"[ 38, tr 148]. Các sử gia thời Lê Sơ đã dựa vào bản kể dân gian để đưa
vào chính sử hay từ chính sử được dân gian hoá mà Nguyễn Thị Ngà sưu tầm
được? Dù sao, sự việc này cho thấy cách ứng xử hợp tình, hợp lí của Phạm Ngũ
Lão. Ông đã đặt lợi ích vương triều lên trên lợi ích bản thân. Ông sẵn sàng chịu
tội khi quân (tội chết) mà cưu mang, bảo vệ Minh Hiến Vương - một vị tướng
cầm quân ra trận chứ không để hoàng tử rơi vào tay giặc. Ông cũng sẵn sàng chịu
trách phạt để giữ mối hòa khí trong tôn thất. Hoàng tử Minh Hiến- một vị vương
trong hoàng tộc lại rất thích mỗi lần tới thăm Ngũ Lão trong tình cảm thân mật:
“Minh Hiến với Ngũ Lão tình nghĩa thì rất sâu nặng nhưng lễ ý thì sơ sài. Minh
51
Hiến đến nhà Ngũ Lão, thường ngồi cùng với nhau một chiếu, khi về lại đem biếu
bạc vàng, cần gì, Ngũ Lão cũng không hề tiếc nuối dè xẻn, cho nên, Minh Hiến
thích chơi với ông”[ 44] . Mối thân tình giữa một người là thứ dân với một người
tước vương dòng dõi hoàng tộc đâu phải vì lòng tham vàng bạc như lời bàn cay
độc của sử thần Ngô Sĩ Liên: "một người thì cậy của mà giữ lễ tiết sơ sài, một
người thì ham của mà quên hết cả phận trên dưới"[38, tr 148]. Quan hệ giữa Phạm
Ngũ Lão với Minh Hiến Vương ở đây, trước hết là quan hệ giữa con người với
con người. Hai người tìm thấy điểm tương đồng mà kết giao thân tình kiểu “đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mà bỏ qua lễ tiết quan dân xa cách. Quan
hệ này quả hiếm thấy trong các triều đại phong kiến. Đây là minh chứng cụ thể về
sự gắn kết giữa vương Trần và nhân dân để tạo nên sức mạnh đoàn kết của cả dân
tộc.
Như vậy, truyền thuyết Phạm Ngũ Lão cung cấp cho đời sau một bài học
về tư tưởng thân dân đời Trần. Tư tưởng đó thể hiện trong các mối quan hệ giữa
Phạm Ngũ Lão với Hưng Đạo Đại Vương, Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến vương,
giữa chàng tướng trẻ Ngũ Lão với quận chúa Anh Nguyên. Các bản kể cung cấp
cho chúng ta bài học về vẻ đẹp của tầng lớp bình dân. Từ một chàng trai cày cuốc,
đan sọt nhưng biết phấn đấu, rèn luyện trở thành người có tài, có đức, thành con
của Quốc công tiết chế, thành bạn tri kỉ của Hoàng tử Minh Hiến, thành chồng
của quận chúa, là thành viên hoàng tộc. Có được những vinh quang ấy là nhờ
những phẩm chất đẹp của chính bản thân nhân vật truyền thuyết. Cũng cần nói
thêm một điều là nhờ tư tưởng trọng dân, thân dân của vương triều Trần mà người
xưa muốn nhờ dân gian nói hộ.
Nội dung truyền thuyết kể về Phạm Ngũ Lão đã làm tròn sứ mệnh của mình.
Người đọc, người nghe được đắm mình trong không khí hào hùng của thời đại
chống giặc giữ nước, được chiêm ngưỡng bức chân dung tướng quân Phạm Ngũ
Lão. Ông vốn là người con quê hương xứ Nhãn, hiện lên qua câu chuyện dân
52
gian với phẩm chất cao đẹp đấng nam nhi yêu nước. Ở ông hội tụ ngũ đức: nhân,
lễ, nghĩa, trí, tín của người con đất Việt, một bề tôi trung thành, một người bạn
thủy chung và một người chồng tình nghĩa.
2. 2. Đặc điểm nghệ thuật truyền thuyết Phạm Ngũ Lão
2.2.1. Nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo
Xưa nay, văn chương muốn hấp dẫn phải được chắp đôi cánh của cái kỳ ảo,
cái lạ “Vô truyền bất kì, vô kì bất truyền”. Do đó, cái kỳ ảo hay xuất hiện trong
hư cấu nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây cho rằng yếu tố kì
ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được
biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo, không có thật.
Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Tác giả Hoàng
Phê trong Từ điển Tiếng Việt quan niệm: “Kì ảo là kì lạ, tựa như không có thật
mà chỉ có trong tưởng tượng ” .
Nhà nghiên cứu văn học Bùi Thế Truyền khẳng định “ Yếu tố kì ảo thành
một dòng chảy liên tục trong dòng chung của lịch sử văn học nhân loại ”[54 ].
Dòng chảy đó được khơi nguồn từ văn học dân gian, băng mình qua văn học trung
đại đến văn học hiện đại. Sử dụng các yếu tố kì ảo trong tổ chức cốt truyện vốn
là đặc trưng nghệ thuật của mọi thể loại tự sự dân gian. Trong thần thoại, yếu tố
kì ảo vừa là phương tiện, vừa là mục đích của hư cấu nghệ thuật nhằm củng cố
niềm tin các vị thần đang tồn tại là có thật. Trong truyền thuyết, kỳ ảo là yếu tố
bắt buộc phải có để giúp người kể bộc lộ quan niệm ý thức lịch sử của cộng đồng.
Với cổ tích, yếu tố kì ảo không chỉ tạo nên tính li lì, hấp dẫn cho câu chuyện mà
còn thể hiện ước mơ của người bình dân… Tùy theo chức năng từng thể loại, chi
tiết kì ảo xuất hiện nhiều hay ít, đậm đặc hay pha loãng để thu hút người nghe.
Loại chi tiết kỳ ảo góp phần thúc đẩy sự phát triển cốt truyện, là cầu nối các khúc
đoạn và thể hiện nhận thức của người sáng tạo, là chìa khoá lí giải quan niệm của
người xưa về một vấn đề nào đó.
53
Trong tiến trình của văn học dân gian “truyền thuyết là sự thay thế, hóa
thân của sử thi, là mắt xích nối liền giữa thần thoại Việt với các loại truyện dân
gian khác để bảo đảm tính liên tục ” [55, tr 39] liền mạch trong sáng tạo nghệ
thuật ngôn từ dân gian. Người xưa sáng tạo ra truyền thuyết để dựng lại không
khí lịch sử theo cách của riêng mình. Truyền thuyết lịch sử nói chung, truyền
thuyết về Phạm Ngũ Lão nói riêng được kể để tôn vinh các nhân vật lịch sử. Vì
vậy, khi kể lại cái lõi lịch sử trong đó, nhân dân đã kì diệu hóa các nhân vật, sự
kiện lịch sử bằng phương pháp tư duy thần thoại. Những chi tiết kì ảo tạo nên
đường viền hào quang bao quanh nhân vật chính, khiến con người lịch sử trở nên
kì vĩ như một vị thánh trong tâm thức dân gian.
Tuy là tấm gương phản chiếu lịch sử nhưng truyền thuyết lại là thứ lịch sử
được nhân dân kể lại theo cách riêng. Ở truyền thuyết Phạm Ngũ Lão cũng vậy.
Mỗi sự kiện, mỗi hành vi gắn với ông đều được người dân Hưng Yên nhận thức,
lí giải theo cách của riêng mình. Vì vậy, giữa sự thật và tình tiết trong truyện, giữa
nguyên mẫu và nhân vật có thể có đôi nét khác nhau. Qua các chi tiết kì ảo, người
dân thể hiện thái độ, tình cảm, nhận thức, quan niệm của mình về vị danh tướng
người đất Nhãn. Lúc sinh thời, ông đánh giặc cứu nước giữ yên bờ cõi, khi mất
ông hiển linh làm thần giúp đỡ dân lành, trừng trị kẻ ác, kẻ xấu. Điều này thể hiện
rất rõ trong các truyện Chữa bệnh cứu người, Đầu thai kiếp khác, Trừng trị kẻ
báng bổ thần linh.
Bản kể Chữa bệnh cứu người có đoạn: “Có một nhà giàu ở Cẩm Giàng chỉ
một con trai bị lên đậu, gần chết, chợt thấy một bậc cao niên nói rằng: Ta sẽ chữa
cho. Liền sai lấy một cái nong đựng đầy bùn ao, đặt đứa trẻ nằm sấp lên trên, một
lát sau giở ra xem thì thấy nốt đậu thoát ra rất tốt. Phú ông vui mừng nói: - Ông
lão từ đâu tới? - Tôi là người làng Phù Ủng, ngôi nhà ngói dài thẳng hướng Bắc
là nhà tôi. Rồi từ biệt ra đi. Sau đó, phú ông hỏi thăm để đến tạ lễ. Khi đến bản từ
thì bất giác kinh hoàng mới biết đó là nơi đại vương thần hóa”[44]. Ở đây, ta thấy
54
rất rõ yếu tố kì ảo trong câu chuyện kể về tướng quân Phạm Ngũ Lão hiển linh.
Ngài hóa thân thành cụ già đi chữa bệnh cho con trai phú ông ở Cẩm Giàng. Cách
chữa bệnh của Phạm công thật đơn giản mà hiệu quả “ lấy nong đựng đầy bùn ao,
đặt đứa trẻ nằm sấp lên trên, một lát sau giở ra xem thì thấy nốt đậu thoát ra rất
tốt ”. Khi phú ông tìm đến ngôi nhà ngói như lời cụ già thì mới biết đó là đền Phù
Ủng. Tác giả dân gian sử dụng chi tiết kỳ ảo nhằm ca ngợi đức độ, lòng thương
yêu nhân dân của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Khi sống, ông đánh giặc cứu nước,
cứu dân; khi chết, linh hồn ông vẫn hiển linh về giúp đỡ nhân dân trong vùng.
Phạm Ngũ Lão không bao giờ chết. Ông từ cõi trần thế lên cõi thiêng mà thôi.
Niềm tin của dân gian đối với Phạm Ngũ Lão không bao giờ vơi cạn.
Với người gặp lúc khó khăn ông hiển linh tế độ nhưng với kẻ lộng quyền cậy
thế hống hách với dân, Phạm tướng quân ra tay trừng trị. Truyện Trừng trị kẻ báng
bổ thần linh kể về sự việc này như sau: “Tương truyền cũng tại ngôi đền thờ tướng
công, một lần có viên học sĩ tên là Cát Văn Tụy, người Hải Dương đi qua bản từ.
Trời tháng sáu oi bức , ông ta cho dừng kiệu đòi trả chiếu nghỉ tại đền. Viên lí
trưởng bẩm: Thưa ngài, chỉ còn một chiếc chiếu trải thờ Đại vương. Cát công giận,
sai đánh lí trưởng vài chục roi, rồi lên kiệu trở về sinh từ. Lạ thay, trên đường về tự
nhiên cờ trống im lìm, binh lính, kẻ hầu người hạ như đần độn ngây ngô, chẳng nói
chẳng rằng. Về đến nhà, người trong phủ thấy thế mới biết rõ lí do, thân đến bản từ
cầu đảo xin tướng công xá tội. Từ đấy, người hầu, kẻ hạ mới trở lại bình thường.
Riêng Cát quân vài năm sau bị bệnh mà chết”[44]. Do cậy thế, lộng quyền, coi
thường đạo lí nên viên học sĩ Cát Văn Tụy bị Phạm Ngũ Lão âm phù làm cho đần
độn, ngây ngô, sau đó bị bệnh mà chết. Câu chuyện không chỉ ca ngợi sự cương
trực của vị danh tướng mà còn toát lên quan niệm của dân gian “gieo nhân nào gặt
quả ấy”.
Phạm Ngũ Lão không chỉ là một võ tướng tài ba mà còn là người giỏi giang
trong đường văn nghiệp. Câu chuyện Đầu thai đẻ con tiến sĩ kể về việc ông hóa
55
thành “ngôi sao Thái Bạch từ trên trời rơi xuống” đầu thai làm con quan thái phó
Nhữ Đình Hiến ở xã Hoành Trạch, huyện Đường An. Cậu bé Nhữ Đình Toản
sinh ra đã “ khôi ngô tuấn tú ”, lớn lên lại “ văn võ toàn tài ” từng đỗ tiến sĩ đời
Lê Ý Tông (1735 - 1740), làm quan tới chức tham tụng, thượng thư. Thượng thư
Nhữ Đình Toản (1703 - 1774) có mọc một cái nhọt trên vai chữa mãi không khỏi.
Trong thời gian đó, người làng Phù Ủng không yên “người ốm, vật chết ” nên dân
làng cầu đảo khắp nơi. Khi biết mái đền dột, nước mưa nhỏ như “ giọt mồ hôi
điểm trên vai tượng ”, dân xã đã “ sửa lại mái đền, tắm rửa vai tượng ”,“ từ đấy,
dân trong xã yên ổn, cái nhọt trên vai quan thượng thư cũng khỏi ”[44] .So với
nhiều truyện khác, đây là bản kể có nhiều chi tiết kì ảo hơn trong số các truyền
thuyết về Phạm Ngũ Lão. Câu chuyện khiến người nghe nửa tin, nửa ngờ bởi bên
cạnh yếu tố xác thực ( thời gian, không gian) là những chi tiết kì ảo được lồng vào
câu chuyện. Yếu tố kì ảo đã tạo nên vầng hào quang tỏa sáng chân dung nhân vật
chính. Đó là con người xuất thân từ chốn bình dân nhưng nhờ rèn luyện trở nên
giỏi giang thành đạt, khi hoá thành thần thiêng hiển linh giúp đỡ dân lành. Con
người ấy, với dân gian không bao giờ chết.
Nói như vậy, không phải yếu tố kì ảo trong truyền thuyết kể về Phạm Ngũ
Lão chiếm vai trò chỉ đạo, chi phối nghệ thuật truyền thuyết kể về ông. So với
truyền thuyết thời kì Văn Lang – Âu Lạc, thời kì Bắc thuộc thì ở đây yếu tố kì ảo
trong một số bản kể cứ nhạt dần. Các nhà nghiên cứu văn học dân gian đều thống
nhất: lịch sử là đối tượng phản ánh của truyền thuyết. Khi chưa có chính sử thì
trong truyện có sử. Người xưa tái tạo lịch sử để ngợi ca nhân vật anh hùng đồng
thời gửi gắm khát vọng và nhu cầu đời sống tâm linh. Do đó, yếu tố kì ảo có mặt
trong truyền thuyết là tất yếu. Ở truyền thuyết Phạm Ngũ Lão có yếu tốkì ảo nhưng
ít hơn so với truyện thuyết về các nhân vật lịch sử khác. Chúng tôi đã tiến hành
khảo sát một số bản kể sau:
56
Thời kì Chi tiết kì ảo Mức độ Tên tác phẩm
Thánh Gióng Văn Lang
Xuất hiện nhiều
An
Âu Lạc
Xuất hiện nhiều
Truyện Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
Xuất hiện ít Truyện Chu Văn An Phong kiến tự chủ
Xuất hiện ít Sự tích Trần Hưng Đạo Phong kiến tự chủ
Giẫm chân vào vết chân khổng lồ mà mang thai 12 tháng, sinh ra cậu bé ba năm không biết nói cười. Nghe tiếng sứ giả cầu hiền lại lên tiếng xin đi đánh giặc. Sức ăn kỳ lạ: bảy nong cơm, ba nong cà rồi vươn vai thành người khổng lồ. Ngựa sắt biết phun ra lửa. Đánh giặc xong, Thánh Gióng một người một ngựa bay lên trời. Thành xây xong lại đổ. Lập đàn cầu đảo bách thần có cụ già từ phương Đông tới, Rùa vàng biết nói tiếng người thông tỏ trời đất âm dương quỷ thần. Móng vuốt Rùa vàng làm lẫy nỏ. Rùa vàng hét lớn, biết rẽ nước đưa vua xuống thủy cung. Máu Mị Châu trai sò ăn phải biến thành ngọc. Học trò là thủy thần xin học. Thủy thần giúp hạ giới làm mưa. Khi bị thượng đế phạt có hai thân thuồng luồng cụt đầu Thân mẫu nằm mộng thấy có đám may ngũ sắc sau đó có thai, mang thai mười tháng mới sinh, ngày sinh có có đám mây đỏ từ trên trời bay vào nhà, diệt trừ yêu khí , rắn vàng 10 trượng bò vào
57
Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão Phong kiến tự chủ Xuất hiện rất ít
trong cung sau đó ngài bị bệnh rồi mất Khi hóa có vệt ánh sáng xanh từ người vút lên không trung bay về hướng Đông. Cụ già xuất hiện chữa bệnh cho con phú ông. Phạm công trừng phạt Cát Văn Tụy, đầu thai đẻ con tiến sĩ.
Qua bảng khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy số lượng chi tiết kì ảo trong
truyền thuyết Phạm Ngũ Lão xuất hiện ít (có 4 chi tiết trong 15 bản kể). Đó là các
chi tiết: Phạm công đầu thai kiếp khác đỗ tiến sĩ; chữa bệnh cứu người; trừng trị
kẻ hống hách; khi chết có vệt ánh sáng xanh từ người ông bay về hướng Đông. So
với một số truyền thuyết người Việt thời phong kiến tự chủ, ở truyền thuyết Phạm
Ngũ Lão yếu tố kì ảo xuất hiện ít mà nhường chỗ cho sự kiện vốn có trong sự thật
lịch sử. Các câu chuyện kể về ông dù có đủ các mô típ thường gặp trong truyền
thuyết lịch sử như: mô típ chiến công phi thường, mô típ vinh phong, mô típ hiển
linh, âm phù… nhưng hầu như vắng bóng mô típ hoang đường về sự sinh nở thần
kì, trưởng thành kì diệu hay sự hóa thân kì ảo. Ba mô típ này thường phổ biến
trong truyền thuyết anh hùng thời kì Văn Lang - Âu Lạc. Mặt khác, các chi tiết kì
ảo chỉ xuất hiện trong các bản kể khi tác giả dân gian lưu truyền về Phạm Ngũ
Lão sau khi ông đã hóa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thuyết Phạm Ngũ Lão
với các truyện truyền thuyết khác. Ở truyền thuyết Phạm Ngũ Lão nói riêng và
truyền thuyết thời phong kiến nói chung kiểu mô típ nói trên đã được thay thế
bằng việc kể về sự kiện lịch sử (trừ truyện Đầu thai đẻ con tiến sĩ).
Để có cái nhìn toàn cảnh về việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong truyện kể dân
gian Phạm Ngũ Lão, chúng tôi có sự liên hệ, so sánh sự khác biệt giữa truyện
Nôm khuyết danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão và truyền thuyết Phạm Ngũ Lão:
58
Yếu tố kỳ ảo trong Tướng quân Yếu tố kỳ ảo trong truyền thuyết Phạm Ngũ Lão - truyện thơ khuyết Phạm Ngũ Lão danh
- Phạm Ngũ Lão khi chết thấy có vệt
sáng xanh từ người ông bay về hướng
Đông.
- Phạm Ngũ Lão hiển linh chữa bệnh - Phạm Nhan dùng tà thuật để
cho con trai phú ông ở Cẩm Giàng. chống lại quân ta.
- Phạm Ngũ Lão hiển linh trừng trị
viên học sĩ Cát Văn Tuỵ.
- Phạm Ngũ Lão đầu thai vào nhà họ
Nhữ, đỗ tiến sĩ.
- Phạm Ngũ Lão từ làng Hoành Trạch
trở về làm thần tại làng Phù Ủng.
So với truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, yếu tốkì ảo trong truyện Nôm Tướng
quân Phạm Ngũ Lão xuất hiện với tần suất ít hơn. Nó chỉ dừng lại ở việc kể lại
hiện tượng tà thuật, phù thuỷ trong đạo Giáo thần tiên. Vì thế, trong truyền thuyết,
hình tượng Phạm Ngũ Lão hiện ra một cách ly kỳ còn trong truyện Nôm hình
tượng này xuất hiện một cách sinh động như chính con người thực của ông ở ngoài
đời.
Sở dĩ các chi tiết kì ảo ít xuất hiện trong truyện kể về Phạm Ngũ Lão không
phải vì người xưa sức tưởng tượng kém mà chính họ đang tự giải mã. Hơn nữa,
bản thân cuộc đời tướng quân đã là huyền thoại. Đây là con người có thật của lịch
sử chống giặc ngoại xâm nên truyền thuyết kể về ông vừa làm nhiệm vụ tái hiện
chân dung một người con quê hương, vừa tái tạo hình ảnh người anh hùng để bổ
sung “những sự thật lịch sử bị che lấp”. Điều đó làm cho truyện kể về danh tướng
đời Trần trở nên chân thật khiến ta có cảm giác Phạm Ngũ Lão như từ cuộc đời
bước vào câu chuyện kể của người bình dân.
Nhìn chung, trong truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, yếu tố kì ảo tạo nên sức
hấp dẫn cho người nghe. Điều quan trọng hơn, qua yếu tố nghệ thuật đó, nhân dân
59
Hưng Yên gửi gắm vào đó niềm tin: Phạm Ngũ Lão bất tử, luôn đồng hành với
con người nơi đây trong suốt bao thế kỉ. Trong tâm thức của họ, ông là người
“sinh vi tướng, tử vi thần ”. Yếu tố kì ảo góp phần bất tử hóa nhân vật. Đúng như
nhà nghiên cứuNguyễn Khắc Xương khẳng định: “Nghệ thuật bất tử hóa đó khiến
nhân vật vẫn là nhân vật lịch sử nhưng lung linh màu sắc thần thoại và ngưng
động trong đó niềm ngưỡng mộ của nhân dân” [Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại,
truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục - Tạp chí Văn học số tháng 6 -
1973, tr 58].
Như vậy, yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng của người nghệ sĩ.
Nó nằm ngoài tư duy lí tính của con người, ít khi bắt gặp trong thực tế. Tuy nhiên,
yếu tố kì ảo có liên hệ khá mật thiết với đời sống, cùng với các yếu tố nghệ thuật
khác nó góp phần xây dựng cốt truyện, thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm và bộc
lộ năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
Nhân vật là linh hồn của tác phẩm tự sự, có vai trò thể hiện tư tưởng chủ đề
tác phẩm và làm nên sự hấp dẫn cho mỗi câu chuyện. Trong truyền thuyết lịch sử,
nhân vật thường được khắc họa từ nguyên mẫu ngoài đời. Hình tượng tướng quân
Phạm Ngũ Lão là một nhân vật trong số đó.
Theo các nhà nghiên cứu, hình tượng nhân vật trong truyền thuyết lịch sử
thời Văn Lang - Âu Lạc thường được khắc họa dựa theo trật tự tuyến tính (mở
đầu, diễn biến, kết thúc) của cốt truyện: Lai lịch (bao gồm sinh đẻ thần kì và hình
dáng dị thường) =>Tài đức =>Sự nghiệp oanh liệt = >Chết thần kì =>Hiển linh,
âm phù = > Được nhận sắc phong. Trong truyền thuyết lịch sử thời phong kiến
tự chủ, nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm được khắc họa theo mô hình:
Xuất thân (sinh ra trong gia đình nghèo, có tướng mạo khác người, lớn lên tài ba
đức độ, có chí lớn) = >Sự nghiệp (đánh giặc lập công) =>Kết thúc (được ban tước
hiệu, khi chết được tôn thờ). Hình tượng nhân vật Phạm Ngũ Lão trong truyền
thuyết cũng được xây dựng theo mô hình kết cấu của loại truyền thuyết anh hùng
chống ngoại xâm thời phong kiến tự chủ:
60
- Phạm Ngũ Lão sinh ra trong gia đình nông dân
nghèo
- Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ở với bà mẹ nuôi Xuất thân
- Diện mạo tuấn tú khôi ngô, có sức khỏe hơn người
- Có chí lớn.
- Tham gia chống giặc Nguyên - Nguyên Sự nghiệp - Đánh dẹp giặc Ai Lao, Chiêm Thành
- Quản lĩnh quân Thánh Dực, Điện súy thượng tướng
quân, quan nội hầu,
- Vua ban ngũ phù, Kết thúc
- Khi chết vua ban ân điển: nghỉ chầu 5 ngày,
- Được phong Thượng đẳng phúc thần.
Tìm hiểu truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, chúng tôi nhận thấy các khía cạnh
nói trên trong mô hình xây dựng nhân vật Phạm Ngũ Lão của tác giả dân gian
trùng khớp với kết cấu cốt truyện các bản kể. Ở phần mở đầu các câu chuyện kể,
người xưa thường giới thiệu ông khá cụ thể:ôngcó lí lịch, gốc gác rõ ràng (Phạm
Ngũ Lão là học trò), có quê quán (làng Phù Ủng), sống trong thời đại (nhà Trần).
Đây là cách giới thiệu nhân vật mang đặc trưng của truyền thuyết. Ngay ở phần
này, con người Phạm Ngũ Lão hiện lên với nhiều nét tôn vinhnhư : “có sức khỏe
lạ thường muôn người khôn địch ”, “ mặt mũi khôi ngô”, “đủ cả văn võ tài lược”,
xuất thân trong gia đình nghèo nhưng “vẫn theo nghề học nho” [Truyện về ông
Phạm Ngũ Lão] và “tính khí khái, có hiếu với cha mẹ” [ Nói về sự tích ông Phạm
Ngũ Lão]. Với một vài nét phác họa, người bình dân đã gây ấn tượng cho người
nghe về nhân vật được kể. Tuy nhiên , hình tượng Phạm Ngũ Lão khá đậm nét
trong phần kể về sự nghiệp lẫy lừng của ông. Có tới 9 trong 15 kể về sự nghiệp
đánh giặc Nguyên – Mông (Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão,Truyện về ông
Phạm Ngũ Lão, Thủy tinh phu nhân,Truy kích Thoát Hoan, Con đẻ con nuôi),
61
đánh dẹp giặc Ai Lao(Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão,Truyện về ông Phạm Ngũ
Lão, Thủy tinh phu nhân), dẹp Chiêm Thành (Thủy tinh phu nhân). Trong các câu
chuyện này, người bình dân chủ yếu kể về tài đánh giặc của vị tướng quân tài
năng: dùng cọc tre nện vào chân voi để đẩy lùi đội hình tượng binh của giặc, dùng
áo màu đỏ làm mẹo để vô hiệu hóa sức mạnh của bầy voi mà bắt chúa Ai Lao,
dùng kế phục kích bất ngờ để tiêu diệt tàn quân của Thoát Hoan…Ở đây, người
kể đã dựa vào một số sự kiện lịch sử quan trọng để kể về nhân vật. Một số bản kể
phá vỡ trật tự cốt truyện thông thường của truyền thuyết mà bắt đầu bằng việc
nhắc đến hiện tượng sau đó rồi dùng sự kiện để lí giải sự tích [Con đẻ con nuôi].
Một số truyện lại xâu chuỗi các sự kiện trong cuộc đời Phạm Ngũ Lão rất gần với
ghi chép trong chính sử (Ông Phạm Ngũ Lão, Truyện về ông Phạm Ngũ Lão, Nói
về ông Phạm Ngũ Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão). Có tới 6 bản kể trong
đó chỉ xoay quanh một sự kiện riêng lẻ (Phạm Ngũ Lão lyện tập, Phạm Ngũ Lão
bắn đứt dải cờ, Truy kích Thoát Hoan, Mẹ nuôi Phạm ngũ Lão, Anh Nguyên quận
chúa, Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến Vương). Nhờ những truyền thuyết này mà
người đọc, người nghe hiểu đầy đủ hơn về phẩm chất đạo đức, thiên tài quân sự
của tướng quân Phạm Ngũ Lão.Qua sự kiện được kể, người xưa đã tái hiện sự
nghiệp lẫy lừng của danh tướng làng Phù Ủng. Hiện lên trong từng câu chuyện
kể, Phạm Ngũ Lão là một con người mưu trí, dũng cảm lập công lớn mỗi khi ra
trận. Ở phần cuối mỗi truyện truyền thuyết, tác giả dân gian nhắc đến sự ban
thưởng của triều đình đối với Phạm Ngũ Lão. Truyện về ông Phạm Ngũ Lão có
kể: “ Vì những công lao ấy, được đổi lên làm Điện tiền thượng tướng quân. Đến
khi mất, được phong làm Thượng đẳng phúc thần. Người làng Phù Ủng lập miếu
thờ ngay tại nhà Ngũ Lão”. Tương tự, truyện Nói về sự tích ông Phạm Ngũ
Lãokhép lại bằng việc nhắc đến những vinh phong của nhà vua với tướng quân
làng Phù Ủng: “ Sau ông ấy mất, vua phong cho làm “ Minh giác thái vương ”
nghĩa là “ Vua lớn sáng biết , cho làng ông ấy tiền bạc để lập đền thờ, trải nhiều
đời vẫn còn anh linh ”[ 41, tr 488]. Có thể nói, những chức tước được giao, những
62
sắc phong của triều đình,việc lập nơi thờ tự đời đời hương khói thể hiện thái độ
vinh phong của triều Trần và nhân dân đối với người anh hùng được sinh ra từ
quê hương Phù Ủng. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão đã phác họa thành công tầm
vóc của một vị tướng quân bình thường mà vĩ đại qua hình dung của tác giả dân
gian. Tầm vóc ấy rõ nét dần, hoàn thiện dần qua một loạt những bản kể.
Mặt khác, khi xây dựng hình tượng Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết,
những hư cấu nghệ thuật của người xưa chủ yếu dựa vào cốt lõi lịch sử. Là một
người nông dân trở thành vị tướng tài, Phạm Ngũ Lão được sử sách lưu danh bởi
tài năng và công lao đối với vương triều Trần. Từ con người lịch sử, ông bước
vào truyền thuyết dân gian rất tự nhiên. Thế nhưng, Phạm Ngũ Lão trong truyền
thuyết không phải kết quả sự tái hiện của một nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực
mà là nhân vật được tái tạo bằng nghệ thuật của tác giả dân gian. Họ nhào nặn
nhân vật của mình theo trí tưởng tượng mà ta quen gọi là hư cấu nghệ thuật. Quá
trình sáng tạo của nhiều người lại không diễn ra trong thời gian cụ thể mà ở nhiều
nơi, thời khắc khác nhau, bị chi phối bởi tư duy thần thoại còn sót lại. Vì thế, chân
dung nhân vật trong truyền thuyết thường mang tính khái quát hơn là tính chân
thực - cụ thể.Hình ảnh Phạm Ngũ Lão trong 15 bản truyền thuyết có điểm gần
giống ông được ghi trong chính sử song vẫn có nét khác biệt. Các sử gia chủ yếu
nhắc đến ông khi ông đã trưởng thành, lập công trong trong hai cuộc kháng chiến
chống Nguyên - Mông và những lần bảo vệ biên cương Đại Việt. Hình tượng
nhân vật Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết được kể theo diễn biến cuộc đời: từ
lúc nhỏ, từ thời trẻ, lúc còn hàn vi đến lúc cuối đời. Nếu chính sử thiên về đề cao
tài năng, chiến công, thiên tài quân sự của ông thì hình tượng Phạm Ngũ Lão trong
truyền thuyết lại thể hiện từ nhiều góc độ: một vị tướng tài giỏi, một người có tâm
hồn nghệ sĩ, một người con gắn bó với quê hương, giàu tình nghĩa. Nhiều bản kể
tô đậm vẻ đẹp đức độ của con người toát lên trong một tướng quân dũng cảm,
giầu lòng nhân ái, trong các quan hệ với bạn bè, với quê hương, với vương triều.
Nếu chính sử đề cao vai trò cá nhân Phạm Ngũ Lão thì tác giả bình dân lại coi
63
ông là kết tinh của sức mạnh nhân dân (Phạm Ngũ Lão luyện tập). Nếu lịch sử có
ghi việc Phạm Ngũ Lão sau khi chết được vua ban ân điển, phong Thượng đẳng
phúc thần thì truyền thuyết dân gian kể về sự hiển linh, âm phù của ông sau khi
hóa. Điều đó chứng tỏ giữa cốt lõi lịch sử với nhân vật trong truyền thuyết vẫn có
một khoảng cách dành cho “ hư cấu tưởng tượng được tung hoành” [25, tr 69].
Tuy dựa vào những lịch sử song người bình dân đặt Phạm Ngũ Lão trong bầu
không khí huyền thoại nên đã thật khéo đan cài trong những câu chuyện kể những
chi tiết kì ảo kể về sự hiển linh, âm phù sau khi ông hóa . Những hư cấu đó giúp
tác giả dân gian đề cao tướng quân Phạm Ngũ Lão, bày tỏ lòng tôn kính đối với
ông đồng thời khiến hình tượng nhân vật trở nên hấp dẫn lạ thường.
Nhìn chung, khixây dựng nhân vật Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết, hư
cấu nghệ thuật của các tác giả dân gian đã dựa vào kết cấu của các bản kể, dựa
vào cốt lõi lịch sử. Điều đó vừa thể hiện đặc trưng của thể loại vừa khiến hình
tượng Phạm Ngũ Lão giàu ý nghĩa thẩm mĩ. Nhờ vậy, hình ảnh của ông cứ mãi
lung linh và bất tử trong tâm thức dân gian.
* Tiểu kết:
Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão đã làm sống lại thời đại hào khí Đông A. Đó
là những “bài ca” mà người bình dân ca ngợi phẩm chất, tài năng của vị tướng tài
đời Trần vốn xuất thân là nông dân. Từ truyền thuyết, ta nhận thấy tư tưởng thân
dân, trọng dụng nhân tài của triều Trần trong công cuộc chống ngoại xâm. Có thể
nói, chính hào khí thời đại đã hun đúc nên những phấm chất đẹp đẽ ở Phạm Ngũ
Lão. Ngược lại do có chí, có tài và tấm lòng yêu nước, do đóng góp lớn lao trong
sự nghiệp đánh giặc Nguyên – Mông, giặc Ai Lao, Chiêm Thành ông đã cùng quân
dân nhà Trần viết lên những trang sử rừng rực hào khí Đông A.
Khi kể về danh tướng Phạm Ngũ Lão, tác giả dân gian thể hiện ý thức lịch
sử của mình là đề cao vai trò của người anh hùng xuất thân từ bình dân, nhấn mạnh
mối quan hệ không thể tách rời giữa nhân dân với chiến thắng của nhà Trần trong
64
các lần kháng chiến chống Nguyên - Mông. Chính nhân dân là người tham gia, là
chỗ dựa tin cậy để vương triều đánh đuổi kẻ thù. Mọi chiến công hiển hách của
vương triều ấy có được có lẽ là nhờ người đan sọt làng Phù Ủng, người quản tượng
như Dã Tượng, người bề tôi trung thành như Yết Kiêu…và triệu triệu những người
“không ai nhớ mặt đặt tên” khác đóng góp.
Tất cả các truyền thuyết Phạm Ngũ Lãođều tập trung khắc họa chân dung
người anh hùng vốn là người con ưu tú của quê hương Hưng Yên. Người bình
dân đã dựa vào nguyên mẫu Phạm Ngũ Lão trong lịch sử để nhào nặn nên hình
tượng nhân vật theo cách của riêng mình. Do việc sử dụng yếu tốkì ảo hợp lí, yếu
tố lịch sử đậm đặc, do khắc họa nhân vật dựa theo sự kiện được kể trong mỗi câu
chuyện nên từ con người của lịch sử bước vào truyền thuyết, Phạm Ngũ Lão đã
trở thành hình tượng nghệ thuật giầu sắc thái thẩm mĩ. Ông không chỉ là đối tượng
người bình dân tôn vinh mà còn là nơi gửi gắm bao niềm tin, khát vọng của họ.
Từ một con người có thật, ông đã trở thành vị thần linh bất tử trong tâm thức nhân
dân.
65
Chương 2
TRUYỆN NÔM KHUYẾT DANH TƯỚNG QUÂN PHẠM NGŨ LÃO
3.1. Đặc điểm nội dung truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão
Tìm hiểu giá trị nội dung truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão là khẳng
đinh giá trị của tác phẩm kể về thân thế, sự nghiệp của vị tướng quân trẻ có công
bảo vệ Đại Việt. Những chiến công ông lập trong cuộc đời binh nghiệp của mình
vừa là đạo lý của người trai thời loạn đền ơn vua, cứu nước, giúp dân, thể hiện
phẩm chất, truyền thống yêu nước của Người Hưng Yên.
3.1.1. Tác phẩm tái hiện cuộc đời, sự nghiệp của tướng quân Phạm Ngũ Lão
Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, truyện Nôm là một loại hình truyện
kể dân gian tồn tại trong lời kể của người bình dân, về sau được khắc in bằng chữ
Nôm - gọi là truyện thơ Nôm. Truyện thơ Nôm khắc in thì tính chất kể chuyện
của nó vẫn là một đặc điểm quan trọng. Trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc khẳng định: “Truyện
Nôm bình dân được sáng tác để kể là chính chứ không phải để xem hay để đọc”
[Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX , Nxb Đại học trung
học chuyên nghiệp, HN, tr 283]. Giống một số truyện Nôm khuyết danh khác kể
về cậu bé mồ côi, Tướng quân Phạm Ngũ Lão dựng lại cuộc đời chàng trai họ
Phạm. Phạm Ngũ Lão cũng mồ côi cha từ nhỏ nhưng ông không phải là con người
của trí tưởng tượng dân gian một cách đơn thuần. Ông là con người hiện thực, tuy
có trải qua gian khó, chưa đến mức hành khất kiếm ăn nhưng nhờ ý chí, nghị lực
mà vươn lên trở thành người có ích cho đời. Cuộc đời ông được kể qua ba chặng
như sau: Tuổi thơ khốn khó; Thời trai trẻ lẫy lừng; Tuổi già hưởng phúc.
Tương tự như bản kể truyền thuyết, truyện về tuổi thơ của tướng quân Phạm
Ngũ Lão được giới thiệu khá cụ thể. Ông là người con của quê hương Phù Ủng :
Làng Phù Ủng thuộc xứ Đông,
66
Đường Hào là huyện, Thượng Hồng là châu.
Đất thiêng chung đúc từ lâu,
Sinh bao nhân kiệt, trước sau nối dòng.
[câu 11 – 14, 44,tr 25]
Khi giới thiệu về tuổi thơ của các nhân vật chính trong truyện Nôm khuyết
danh, tác giả dân gian hay sử dụng một số mô típ: gia cảnh éo le, nhà nghèo, mồ
côi, kiếm sống bằng nghề ăn xin độ nhật. Giống chàng Tống Trân (Tống Trân -
Cúc Hoa) đã từng chịu long đong từ nhỏ, chàng Phạm Tải (Phạm Tải - Ngọc Hoa),
chàng Phạm Công (Phạm Công - Cúc Hoa) mồ côi cha phải dắt mẹ đi ăn mày,
Ngũ Lão cũng là chàng trai mồ côi :
Mồ côi từ thủa thiếu niên
Con thơ mẹ góa truân chuyên tháng ngày.
Gặp thời sông lở cát bay,
Liền năm hoang loạn, đồng dày cỏ meo.
Chạy ăn từng bữa sớm chiều,
Ấm no thỉnh thoảng, đói nghèo thường xuyên.
Bà con hàng xóm láng giềng,
Đôi khi bát gạo quan tiền giúp cho.
Tuy mang danh tiếng học trò,
Ruộng đồng cũng phải chăm lo mọi bề.
Bện thừng đan lát làm thuê
Nhà bên đường cái ngoảnh về hướng tây.
Mở ngôi hàng nước dưới cây,
Lần hồi đắp đổi qua ngày gian truân.
[câu 25 – 38,44,tr26,27]
67
Mồ côi từ thủa thiếu niên là một nỗi khổ đầu tiên của tướng quân Phạm
Ngũ Lão. Điều này không ghi trong chính sử và cũng không được kể trong truyền
thuyết. Người bình dân đưa chi tiết này vào truyện thơ có lẽ nhấn mạnh đến sự
thiệt thòi của Điện súy Đông A ngay từ thủa ấu thơ. Ông thiếu tình cảm của cha
từ nhỏ, lại lớn lên trong cảnh "Con thơ mẹ góa truân chuyên tháng ngày". Tuổi
thơ của ông là những tháng ngày cơ cực vì phải "chạy ăn từng bữa" và chịu “đói
nghèo thường xuyên”. Phạm Ngũ Lão được mẹ tần tảo sớm hôm nuôi nấng. Mẹ
con ông sống trong tình yêu thương, bao bọc của bà con xóm giềng. Tuy là học
trò nghèo nhưng Ngũ Lão không có cái may như những đứa trẻ khác là tập trung
đèn sách. Ngược lại, ngày ngày ông phải làm đủ mọi việc để kiếm sống như đan
lát, bện thừng, làm thuê, cầy cấy giống bao người dân quê ở làng Phù Ủng. Không
chỉ lam lũ kiếm sống, Phạm Ngũ Lão còn chịu thêm nỗi đau mất mẹ. Ông được
dưỡng mẫu dậy nuôi nên người. Bà đã đùm bọc, cưu mang để ông "Ngày đêm
kinh sử dùi mài, /Nổi danh thi bá đáng tài vĩ nhân" chờ ngày "Tang bồng mong
thoả chí trai, / Góp phần cứu nước giúp đời một phen". Qua lời thơ, chúng ta nhận
thấy trong một chàng trai sống nơi "bùn đất quê mùa" nhưng lại có phẩm chất của
con người mang chí lớn. Tô đậm nỗi vất vả, cơ cực thời niên thiếu của Phạm Ngũ
Lão phải chăng đâylà dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian.
Về thời trai trẻ lẫy lừng, sau 52 dòng mở đầu tác phẩm Tướng quân Phạm
Ngũ Lão, người nghệ sĩ dân gian đã sử dụng 1976 dòng thơ để tái hiện lại chặng
đời quan trọng của tướng quân họ Phạm. Qua lời kể, dù sống cảnh đói nghèo
nhưng chàng trai Phù Ủng luôn ấp ủ khát vọng lập công "Góp phần cứu nước giúp
đời một phen". Chí nam nhi và khí phách anh hùng của chàng trai họ Phạm không
được chính sử ghi lại, còntrong truyền thuyết tuy có kể việc Ngũ Lão từ chối
không dự đám khao người làng đỗ đại khoa nhưng chưa đủ dung lượng làm nổi
bật chí hướng muốn lập công bằng con đường đánh giặc cứu nước của ông. Khác
với truyền thuyết, ở truyện Nôm, hình ảnh Phạm Ngũ Lão hiện lên là con người
68
toàn năng: tài - trí đủ đầy, văn - võ song toàn. Hình tượng Phạm ngũ Lão mang
nét đẹp của đấng nam nhi của chủ nghĩa anh hùng thời phong kiến:
Ngày đêm kinh sử dùi mài,
Nổi danh thi bá, đáng tài vĩ nhân.
Văn chương võ nghệ uyên thâm,
Tuổi xuân thấm thoắt đã gần đôi mươi.
Tang bồng mong thoả chí trai,
Góp phần cứu nước giúp đời một phen.
[câu 43 – 48,44, tr 27]
Khi giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta, Phạm Ngũ Lão đã tìm cách
đầu quân đánh giặc. Đầu quân bằng cách nào mới phát huy được khả năng của
mình là cách chàng vẫn hằng nung. Giống chi tiết kể trong truyền thuyết, chàng
trai làng Phù Ủng đã chọn cách tìm gặp Hưng Đạo Đại Vương :
Bỗng nghe tin báo truyền ra,
Trần Hưng Đạo sắp trẩy qua đường này.
Mừng thầm cờ sắp đến tay,
Tài này hẳn có dịp này hiến thân.
[câu 125 – 128,44, tr 31]
Để gặp được Đức ông, mặc cho tiếng loa dẹp đường, mặc cho "quân tiền
đạo thét la", Phạm Ngũ Lão cứ ngồi bệt bên đường đan sọt. Bị lính của Hưng Đạo
Vương đâm giáo vào đùi nhưng Phạm sinh “vẫn ngồi trơ trơ ”. Sự việc lạ lùng
trên khiến " tiền đạo sững sờ ", vội tâu trình lên chủ tướng. Nghe lời tâu, Đại
vương hết sức ngạc nhiên, " thân hành lại hỏi căn nguyên gót đầu". Bấy giờ Phạm
Ngũ Lão mới lên tiếng:
Tôi, Phạm ngũ Lão là tên,
Quê làng Phù Ủng nhà bên đường này.
69
Mải lo việc lớn mai đây,
Chẳng hay vương giá bữa nay qua đường.
Thực tình chẳng dám khinh thường,
Cúi xin lượng bể mở đường khoan dung.
[Câu 155 -160,44, tr32]
Điều lạ ở chàng trai đan sọt là tuy ngồi đan nhưng mải lo việc lớn. Theo lời
tâu của chàng việc lớn ở đây là việc nước. Chỉ có việc nước mới khiến Phạm Ngũ
Lão quên cả nỗi đau thể xác. Hưng Đạo Vương nghe nói lạ lùng “Đem điều học
vấn thử lòng xem sao". Qua cuộc vấn đáp giữa hai người, Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đã kinh ngạc nhận ra: “Anh hùng mới biết anh hùng là đây”. Phạm
Ngũ Lão được vị Quốc công tiết chế cho theo xe giá ruổi mây lên đường về kinh
và sau đó tiến cử lên thượng hoàng Thánh Tông. Nhà vua giao cho Phạm Ngũ Lão
quản “mấy đoàn cấm binh” nhưng binh sĩ trong đội quân cấm vệ không phục. Họ
muôn thử tài Ngũ Lão nên đã hẹn ông thách đấu. Ngũ Lão đồng ý nhưng ông xin
vua cho ba tháng về quê để thu xếp việc nhà nhưng thực chất là luyện tập võ nghệ:
"Ngày ngày ra cánh đồng ngoài,/ Võ công khuya sớm, hôm mai tập rèn./ Sức thần
phi bộ như tên,/ Gò cao đều đã đạp nên đất bằng" (câu 205 -208). Hết ba tháng,
ông trở lại kinh thành xin đấu sức với các võ sĩ :
Ra uy quyền cước hoà hai,
Miếng trong đả hổ, thế ngoài phục long.
Một mình tả đột hữu xông,
Khác nào cơn lốc quét vùng lá khô.
Uy danh nức tiếng quân cơ,
Nghìn người giao đấu đều thua sức thần.
[câu 213 – 218,44, tr 34, 35]
Từ đó, triều đình biết ông là bậc kì tài, cho ông tham gia đánh giặc, lập công.
70
Một sự kiện khác trong cuộc đời Phạm Ngũ Lão được các tác giả dân gian
kể trong truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão là ông được Hưng Đạo Vương
gả con gái của mình tên Anh Nguyên quận chúa:
Thấy ngươi có chí có tài,
Tin yêu ta mới liệu bài định duyên.
Nhà còn quận chúa Anh Nguyên,
Cho cùng khanh được phỉ nguyền thất gia.
Kíp về đón rước mẹ già,
Sớm hôm sum họp một nhà dâu con.
[câu 1385 – 1390,44, tr 86, 87]
Sự kiện trên được chép trong chính sử, được kể trong truyền thuyết Quận
chúa Anh Nguyên, truyện Con đẻ con nuôi. Trong truyện NômTướng quân Phạm
Ngũ Lão, tác giả bình dân đã dùng 395 dòng thơ kể lại chi tiết về mối tình giữa vị
tướng trẻ với tiểu thư lá ngọc cành vàng. Ngày xưa, trong xã hội phong kiến hầu
hết các cuộc hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt. Với Phạm Ngũ Lão và Anh Nguyên
lại khác. Trước khi Hưng Đạo Vương quyết định hôn sự của hai người thì tình
yêu giữa họ đã chớm nở. Ở điểm này, truyện thơ có sự khác biệt so với truyền
thuyết. Nếu truyền thuyết kể lại mối tình nảy nở từ phía quận chúa Anh Nguyên
khi nàng nhận ra tài năng, khí phách của Phạm Ngũ Lão qua bài thơ Thuật hoài
thì trong truyện thơ, tình cảm đó đến từ hai phía. Sau những ngày cầm quân đánh
giặc, trên đường trở về Thăng Long trong tâm hồn Phạm Ngũ Lão thật nhiều
vương vấn :
Biết ai lầu tía gác son,
Bấy nay cách mặt liệu còn nhớ quên?
Ba sinh ví phải là duyên,
Bõ công ước vụng ngày đêm nhớ thầm.
71
[Câu 1027 – 1030,44, tr 70]
Về phía Anh Nguyên, qua lời thân phụ, qua xem gia nhân thi tài, nàng biết
chàng họ Phạm là bậc tài danh. Từ đó, trong lòng người con gái ấy có sợi tơ lòng
gỡ mãi chẳng xong. Nàng đã mắc bệnh tương tư:
Vì ai mà phải đèo bòng,
Vì ai tháng đợi ngày mong đêm chờ.
Người xa nhưng bóng chẳng mờ.
Đêm đêm luống những vật vờ chiêm bao.
Sớm hôm thơ thẩn ra vào,
Ngày sáu khắc, chẳng khắc nào thảnh thơi.
Ai làm cho sợi nhớ thoi,
Cho thuyền xa bến để người nhớ nhau,
Cho tằm ăn rỗi chờ dâu,
Để trầu cánh phượng nhớ cau liên phòng.
Nhớ ai, ai nhớ, nhớ nhung,
Bâng khuâng tấc dạ, tấc lòng biếng khuây.
Khi tuyết rụng lúc sương bay,
Dễ phai nhan sắc dễ gầy hình dung.
[câu 1079 – 1092,44, tr 72, 73]
Trong bữa tiệc đoàn viên, Phạm Ngũ Lão gặp Anh Nguyên. Cả hai "Tình
trong như đã mặt ngoài còn e”. Sau buổi tiệc, chính Phạm Ngũ Lão cũng sống
trong nỗi bồn chồn, nhớ mong khắc khoải. Chàng vừa ngóng đợi, vừa lo lắng. Vì
sự cách biệt địa vị, vì tục lệ gia phong, liệu hai người có thể đến được với nhau ?
Thế rồi, nỗi lo chuyển thànhniềm vui mừng khi Hưng Đạo Vương cho gọi Ngũ
Lão sang hỏi xa gần. Biết chàng "chưa có ai giúp cùng" nên ngài đã quyết định
tác hợp cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.
72
Như vậy, để tái hiện thời trai trẻ của vị danh tướng, tác giả dân gian đã chọn
lựa những chi tiết tiêu biểu như cuộc gặp gỡ người trai họ Phạm với Hưng Đạo
Vương và cuộc hôn nhân với quận chúa Anh Nguyên. Nhờ gặp được Hưng Đạo
Vương ông mới có cơ may được triều đình thu nạp, trọng dụng, để thực hiện khát
vọng lập công danh, được kết hôn với quân chúa Anh Nguyên. Một loạt những
chuỗi liên kết đều do cái duyên của sự gặp gỡ lịch sử có một không hai giữa ông
với Hưng Đạo Vương mang lại. Từ đó, mối quan hệ giữa vị tướng bình dân Phạm
Ngũ Lão với vương triều Trần càng thêm sâu sắc.
Phần nói về tuổi già hưởng phúc của Phạm Ngũ Lão đã được tác giả kể lại
trong đoạn thơ từ câu 1995 đến câu 2065. Nhờ lập công trong sự nghiệp đánh
giặc ngoại xâm, đánh dẹp nghịch thần để giữ yên bờ cõi nên ông được nhà vua
Anh Tông thăng chức Điện súy, vua Minh Tông thăng tước Nội hầu, ban thưởng
Hổ phù, Kim Phù. Phạm Ngũ Lão từ giã cõi trần khi ông 66 tuổi. Sự kiện này từng
được chính sử ghi cụ thể, được kể trong truyền thuyết. Tuy nhiên, truyện Nôm
không kể về sự hiển linh của Điện súy Thượng tướng quân sau khi chết. Những
chi tiết như: "Sau khi ông hóa có một vệt sáng xanh từ người ông vút lên không
trung rồi bay về hướng Đông biến mất", chuyện ông "đầu thai đẻ con tiến sĩ", "
việc ông trừng trị viên học sĩ Cát Văn Tụy… không được các bản kể nâng niu
mỗi khi diễn xướng. Truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão chỉ tập trung kể về
sự kiện ông chết và thái độ của triều đình, của dân làng trước sự ra đi của ông.
Dân gian nhắc đến mất mát này trong sự dồn nén cảm xúc qua bốn dòng lục bát:
Cuối năm Đại Khánh, Canh Tân,
Trọng đông là tháng tiểu xuân ngày lành.
Sáu mươi sáu tuổi hoàn danh,
Giã Tân Lang với tư dinh lánh trần.
[câu 2031 – 2034, 44,tr116]
73
Những gì người bình dân kể bằng thơ đúng với ghi chép của các sử gia.
Như vậy, tướng quân Phạm Ngũ Lão mất vào mùa đông năm Canh Thân (1320),
niên hiệu Đại Khánh, triều Trần Minh Tông (1314 - 1329) tại phủ Tân Lang hưởng
dương 66 tuổi. Sự ra đi của Phạm Điện suý khiến "Vua thương xót bội phần,/
Miễn chầu năm buổi đặc ân dị thường". Không chỉ vậy, triều đình truy phong
Chiêu cảm đại vương và sắc phong Thượng đẳng phúc thần, ban mỹ tự Đông A
Điện súy. Ông được thờ tự ngang với các vương hầu khác. Đó là sự ghi công xứng
đáng đối với Phạm Ngũ Lão trước những đóng góp to lớn của ông đối với vương
triều, với xã tắc Đại Việt. Dân làng Phù Ủng tưởng nhớ với người anh hùng -
người con quê hương bằng việc "Chọn nơi cố trạch lập ra tân từ" để ông được
sống với làng, và người dân có dịp bày tỏ lòng thương tiếc, ngưỡng mộ vị danh
tướng quê mình.
Như vậy, với 2074 câu thơ chủ yếu là lục bát, truyện Nôm Tướng quân
Phạm Ngũ Lão đã dựng lại cuộc đời vị danh tướng thời Trần. Cuộc đời ấy được
khởi đầu với bao thiệt thòi, gian khó, đi qua những năm tháng binh đao oanh liệt
và kết thúc trong sự vinh phong của vương triều và nhân dân dành cho ông. Đó là
huyền thoại về người anh hùng làng Phù Ủng được tác giả dân gian kể lại trong
sự ngưỡng mộ, tự hào.
3.1.2. Tác phẩm ca ngợi thiên tài quân sự Phạm Ngũ Lão
Trong Đại Việt sử kí toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên gọi Phạm Ngũ Lão là
"bậc danh tướng của một thời", là người "văn võ toàn tài " bởi ông hễ đánh là
thắng. Tài năng quân sự, chiến công ông lập không chỉ được ghi trong cổ sử mà
còn được kể trong truyền thuyết, truyện Nôm khuyết danh. Tuy nhiên, khi ca ngợi
chiến công của Phạm Ngũ Lão trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên -Mông,
trong ba lần đánh đuổi Ai Lao và Chiêm Thành thì truyền thuyết kể không cụ thể
74
bằng truyện thơ, trừ bản kể Truy kích Thoát Hoan. Trong bản kể Nói về sự tích
ông Phạm Ngũ Lão, tác giả dân gian chỉ nhắc đến việc ông đi đánh giặc Ô Mã
Nhi, đánh giặc Ai Lao được Hưng Đạo Vương gả con gái nuôi, được giao chỉ huy
quân Thánh dực. Bản kể Truyện Phạm Ngũ Lão có đoạn: "Vua thấy người kiêu
dũng phong tước, cho theo Hưng Đạo Vương. Có nhiều chiến công chống Nguyên
- Mông, Chiêm Thành, Ai Lao, được phong Điện tiền nguyên súy". Truyện Phạm
Ngũ Lão kể ngắn gọn hơn: "Phạm Ngũ Lão đi tòng quân đánh giặc Nguyên, có
công, thăng lên coi quân cấm vệ". Truyện Con đẻ con nuôi kể cụ thể hơn: "Trong
cuộc kháng chiến Nguyên - Mông lần 2, chàng được giao trọng trách chuẩn bị và
chỉ huy mũi chủ công cho trận Vạn Kiếp, trận đánh lớn nhất". Sau trận này, Ngũ
Lão được Đại Vương gả con gái nuôi. Khi tái hiện cuộc đời, sự nghiệp Phạm Ngũ
Lão, truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão một mặt dựa vào tư liệu lịch sử, vào
những chi tiết kể lại trong truyền thuyết, mặt khác bổ sung những khuyết thiếu
của truyền thuyết bằng việc cách tổng thuật chi tiết những trận đánh mà đội quân
do Phạm Ngũ Lão chỉ huy từng tham chiến với dụng ý tô đậm tài năng chỉ huy và
ngợi ca chiến công của vị tướng quân khả kính.
Hầu như, Tướng quân Phạm Ngũ Lão dành nhiều đoạn kể với chức năng
tổng thuật chi tiết những trận chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chông giặc
Nguyên - Mông có vị tướng trẻ họ Phạm tham gia. Trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên – Mônglần thứ hai (1285), đề phòng giặc mượn đường Chiêm Thành
đánh Đại Việt, Phạm Ngũ Lão xung phong "Sẵn sàng đội ngũ điểm binh,/ Năm
ngàn quân sĩ tốc hành thẳng dong./ Mở đường núi, bắc cầu sông,/ Mấy ngày đêm
đã tới vùng Nghệ An " (câu 671 - 674) cùng Thượng tướng Trần Quang Khải cản
quân Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra. Khi được điều lên cản địch từ phương Bắc
xuống, Phạm Ngũ Lão đánh "Trận đầu Kỳ Cấp giao công/ Thắng quân Phàn Tiếp
nêu gương anh hùng", sau đó phục kích Thoát Hoan ở ải Chi Lăng:
Ngũ Lão binh phục bên đèo,
75
Đánh cho quân địch hồn xiêu chạy dài.
Chiến công này trận thứ hai,
Chữ son sử sách sáng ngời còn ghi.
[câu 687 – 690,44, tr 55, 56]
Trong trận này, hai tướng Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần làm nhiệm vụ cản
giặc nhưng thua trận, bị giặc truy đuổi "Phạm sinh tiếp viện chặn đường,/ Đánh
cho quân giặc kinh hoàng một phen./ Trở về hai tướng bình yên,/ Chiến công này
lại tiếp liền là ba" (câu 695 - 698). Trong hai lần kháng chiến, Phạm Ngũ Lão
được xem như mãnh hổ xông xáo giữa đại ngàn chiến trận. Lúc ông vâng lệnh
Đại Vương xuất binh chi viện "giúp Trần Quang Khải giữ thành Nghệ An", khi
cùng Quang Khải hội quân tập kích chiến lược ở Chương Dương, Tây Kết buộc
Thoát Hoan phải bỏ Thăng Long tháo chạy, lúc lại ra Nội Bàng chờ địch đến.
Hành quân bộ, giáo gươm, lương thực phải mang vác nặng chưa nói thời tiết nắng
mưa thất thường nhưng đội cấm quân do ông chỉ huy vẫn có mặt kịp thời và hoàn
thành nhiệm vụ tác chiến một các xuất sắc. Thành tích chiến đấu đó thuộc về
tướng sĩ nhưng phải kể tới tài chỉ huy của viên chủ tướng. Đoạn thơ giầu chất sử
thi dưới đây miêu tả nghệ thuật chỉ huy trận đánh do Thượng tướng Trần Quang
Khải và Phạm Ngũ Lão phối hợp tác chiến đánh quân Toa Đô ở Chương Dương,
Tây Kết:
Tướng Trần Quang Khải đề binh,
Phạm sinh tuỳ tướng đồng hành giáp công.
Thuỷ quân vượt bể vào sông,
Thuyền ba trăm chiếc thuận dòng Phú Lương.
Kéo vào phá trấn Chương Dương,
Cờ tiên phong chữ "Phạm" trương rõ ràng.
Lưng đeo bảo kiếm hiên ngang,
76
Tay cầm cờ lệnh đường hoàng xông pha.
Cung tên giặc bắn như mưa,
Phất cờ tên nỏ như hoa rụng rời.
Gươm đưa loang loáng sáng ngời.
Quân ta sấm dậy người người xung phong.
Thuyền như tên lướt giữa dòng,
Chèo khua rộn sóng, trống rung dậy trời.
Giặc thua quân tướng rã rời,
Bỏ thuyền lên bộ tìm nơi ẩn mình.
[câu 747 – 762,44, tr 58]
Đoạn thơ như bản hùng ca chiến trận về hình ảnh một dũng sĩ - một vị tướng
dũng lược - một thiên thần xông pha trong tiếng "chèo khua rộn sóng, trống rung
dậy trời", với khí thế "quân ta sấm dậy người người xung phong".Trong trận Tây
Kết, quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật cùng quân của Thượng tướng Trần
Quang Khải và Cấm vệ quân của viên tướng họ Phạm đã dùng chiến thuật vừa
mai phục đánh tiêu hao, vừa phối hợp quân thuỷ với quân bộ hợp vây trận địa
chiến làm nhiệm vụ bẻ gẫy cánh quân chủ lực của quânNguyên - Mông. Trận
quyết chiến chiến lược này, quân Trần chém chết Toa Đô, khiến Ô Mã Nhi cùng
đường tháo chạy:
Quân Nguyên thuỷ bộ đều thua,
Thuỷ nhoi lên bộ, bộ lùa xuống sông.
Ba doanh trại đốt trụi không,
Nát tan đại sự tiêu vong cơ đồ.
Quân ta mượn gió bẻ cờ,
Mã nhi vội dẫn Toa Đô chạy dài.
Bỗng nghe trống giục liên hồi,
77
Phục binh Ngũ Lão đồng thời kéo ra.
Đôi bên đánh giáp lá cà,
Mã Nhi liều chết thoát ra khỏi tròng.
Toa Dô dù có anh hùng,
Thân cô lại bị mấy vòng bủa vây.
Trận tiền một mũi tên bay,
Ngày thua Tây Kết là ngày mạng vong.
[câu 847 – 860, 44, tr 62, 63]
Truyện thơ kể với giọng thơ đầy hứng khởi mỗi lần nhắc đến vị tài tướng
họ Phạm lập công. Được "Tin Toa Đô đã bỏ thây,/ Mã Nhi xa chạy cao bay cũng
chuồn", quân ta thừa thắng xông lên truy kích địch. Quân Nguyên có Lý Quán,
Lý Hằng, A Bát Xích; bên ta các tướng Dã Tượng, Cao Mang, "Yết Kiêu cùng với
tướng quân Đại Hành" tập trung đánh địch ở Vạn Kiếp khiến "Thoát Hoan xiết
nỗi kinh hoàng,/ Men sông dò dẫm tìm đường chạy xuôi". Thừa thắng "Quân ta
đánh rát một hồi,/ Giặc Nguyên tổng số quân mười còn năm" (câu 933 - 936).
Thái tử Thoát Hoan phải chui ống đồng được các tướng như Phàm Tiếp, A Bát
Xích hộ tống về tới Tư Minh thoát chết.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288),
Trấn Nam Vương Thoát Hoan "Lại chia thuỷ bộ hai bên,/ Quân ba chục vạn chiến
thuyền năm trăm, /Quyết lòng lại đánh nước Nam,/ Sai Trương Văn Hổ tài ngầm
lương sang" tiến đánh chiếm Đại Việt lần nữa. Lần này, Thoát Hoan dẫn theo
Nguyễn Bá Linh - một người có tài phù thủy, biết tàng hình, đồng thời y cũng là
người biết kinh sử và “nổi tiếng văn chương" làm Việt gian dẫn đường. Bá Linh
bên ngoài là "Nhớ mùi cố quốc giang san,/ Đề huề phụ tử, bầu đoàn hồi hương"
nhưng bản chất là muốn lập công với Thoát Hoan để mong vinh thân phì gia sau
nay. Trận mở màn, hắn dùng tà thuật, hô phong hoán vũ, đem âm binh tấn công
quân Việt: "Bỗng đâu gió nổi ào áo/ Cát bay mù mịt ai nào thấy ai./ Lại nghe
78
tiếng hú rợn người,/ Âm binh thần tướng ngút trời kéo ra./ Làm cho nát đám quân
ta,/ Ngọn cờ siêu đổ, can qua rã rời" (câu 1595 - 1600). Nhưng “ vỏ quýt dày đã
có móng tay nhọn”, Hưng Đạo Vương cử Yết Kiêu, Ngũ Lão bày trận, dùng uế
vật làm vũ khí đánh địch:
Phục binh trống hiệu vang rền,
Trên cao uế vật tưới liền như mưa.
Gió yêu phút lặng như tờ,
Cát bay, sỏi bốc khắc giờ tan không.
Âm binh thần tướng chất chồng,
Cỏ gà, giấy vụn lung tung rối bời.
Thuật yêu đã bị phá rồi,
Quân Nguyên hoảng hốt rút lui chạy hoài.
Ta liền truy sát chẳng rời,
Khiến cho quân địch tơi bời tử thương.
[câu 1639 – 1648,44, tr 97,98]
Cuối cùng Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu dùng kế đà đao, nhử địch vào trong
bắt sống Bá Linh. Bá Linh bị bắt, thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh
Dư cho quân đánh chìm hoặc bắt sống, còn "Thoát Hoan khi được hay tin,/ Nỗi
lo, nỗi sợ, nỗi phiền ngổn ngang" nên quyết định:
Bảo toàn lực lượng là hơn,
Ba mươi sáu chữ chước nào đầu tiên?
Chia quân thuỷ bộ hai bên,
Thuỷ trình dẫn đạo binh thuyền cùng đi.
[câu 1777 – 1780,44, tr 103]
Hưng Đạo Vương biết Thoát Hoan mất lương thực sẽ rút quân về nước.
Ông cho "Bộ binh phục nẻo Nội Bàng,/ Ngũ Lão, Chế Nghĩa đảm đương tiến
hành,/ Còn như diệt đạo thuỷ binh,/ Mật sai Nguyễn Khoái lập thành cơ mưu./-
Cọc ngầm đóng đáy sông sâu" (câu 1787 - 1790) chờ giặc. Đúng như kế hoạch
79
tác chiến đã định: "Giao phong trên dưới nửa giờ,/ Thuyền ta quay mũi từ từ rút
lui" khiến cho "Quân Nguyên như hổ rượt mồi,/ Chiến thuyền rẽ sóng không rời
đuổi theo" (câu 1815 - 1818) và rơi vào trận địa có cọc ngầm chờ sẵn. Đúng lúc
“ngọn triều đang rút lòng sông nông sờ " thì "Quân ta quay lại bất ngờ,/ Đôi bên
nổi trống phất cờ giao phong". Kết cục cuộc chiến đấu đã làm cho quân Nguyên
đại bại:
Thuyền xô phải cọc chất chồng lên nhau.
Xác thù vùi đáy sông sâu,
Bạch Đằng phút chốc đỏ ngầu máu tươi.
Mã Nhi khôn thoát lưới trời,
Đỗ Hành bị bắt giữa nơi trận tiền.
Riêng còn Phàn Tiếp xông lên,
Tướng quân Nguyễn Khoái bắt liền mang đi.
Bao nhiêu tướng tá hộ tuỳ,
Cùng quân chiến bại kể chi muôn nghìn.
Hơn năm trăm chiếc chiến thuyền,
Binh lương, quân khí chất lèn bến sông.
Bạch Đằng muôn lớp sóng tung,
Trước sau để tiếng anh hùng hai phen
[câu 1830 – 1842,44, tr 105, 106]
Được tin đội quân thủy bị tiêu diệt, Thoát Hoan "lòng càng rầu rĩ dạ thêm
rối bời" mới hối thúc quân bộ rút lui. Đại vương Trần Quốc Tuấn cử Phạm Ngũ
Lão, Nguyễn Chế Nghĩa chờ sẵn từ trước ở Nội Bàng. "Một bên Ngũ Lão chặn
ngang, / Một bên Chế Nghĩa hai đàng xông ra./ Đôi bên đánh giáp lá cà,/ Kẻ
mong thoát nạm người chờ lập công./ Thây như núi, máu đầy sông,/ Mây tuôn sắc
80
thảm, khói lồng màu tang./ Quân ta càng đánh càng ham,/ Thoát Hoan vượt khỏi
Nội Bàng thoát thân" (câu 1851 - 1858).
Bên cạnh những chiến công vang dội trong sự nghiệp đuổi giặc Nguyên -
Mông , Phạm Ngũ Lão còn lập công lao trong những lần vua Trần tin tưởng cử đi
đánh quân Ai Lao, Chiêm Thành xâm phạm bờ cõi Đại Việt. Sinh thời, ông từng
ba lần cầm quân đi đánh giặc Ai Lao. Tác giả truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ
Lão đã sử dụng tới 71 dòng thơ (từ câu 1929 đến 2000) kể về sự nghiệp bình
Chiêm, dẹp Lào của ông. Giống như một số bản kể truyền thuyết, tác giả dân gian
đã chọn những chi tiết tiêu biểu miêu tả tài năng chỉ huy và tài năng võ nghệ của
ông trong những lần lập công lẫy lừng. Trước đội quân dùng voi làm vũ khí tấn
công, Phạm Ngũ Lão có cách đánh riêng của mình. Ông lấy cọc tre nện vào móng
voi, khiến voi quay đầu chạy trở lại, lính Ai Lao không kịp trở tay, phải bỏ chạy.
Thế trận địch bày sẵn bị đảo lộn. Quân ta chọn đúng thời cơ xông lên diệt địch,
thu vũ khí, quân trang quân dụng. Cách đánh thông minh thể hiện tầm nhìn biết
địch biết mình, trăm trận trăm thắng. Vũ khí gốc tre có tác dụng lớn, vừa dễ kiếm
lại hạn chế tối đa sức công phá của vũ khí đối phương (voi), vừa tiết kiệm sức
quân mà vẫn đảm bảo thắng lợi:
Giao binh trông ngọn cờ đào,
Mỗi người một đoạn nện vào móng voi.
Bị đau voi rống từng hồi,
Cuối cùng chúng phải quắp đuôi chạy dài.
Tù binh chiến phẩm thu hồi,
Quân ta toàn thắng vang lời khải ca.
[câu 1937 – 1942,44,tr 111]
Chọn những chi tiết nói trên, người kể chuyện hết lời ca ngợi tài đánh giặc
mưu trí, dũng cảm của vị tướng xuất thân bình dân, tô đậm chất anh hùng ca của
truyện Nôm.
81
So với truyền thuyết, truyện Nôm khuyết danh tái hiện khá đầy đủ những
đóng góp của Phạm Ngũ Lão vào chiến công chung trong sự nghiệp bảo vệ giang
sơn Đại Việt. Chiến thắng Chương Dương, Tây Kết, Nội Bàng và những lần bảo
vệ miền biên viễn phía Tây, phía Nam Tổ Quốc đã khẳng định tài năng quân sự
của một vị tướng bình dân họ Phạm. Ông biết lấy tư tưởng thân dân, vì dân làm
tư tưởng chỉ đạo tác chiến, biết kết tinh những tinh hoa bản sắc văn hoá Việt
(thương yêu con người, nhiều cái nhỏ góp thành cái lớn, quí hồ tinh bất quý hồ
đa), biết học cách nghĩ, cách làm của dân gian, của các bậc minh quân, minh tướng
để vận dụng trong chỉ huy quan hệ tướng - sĩ, trong tác chiến ở từng trận đánh cụ
thể. Khi tham gia những chiến dịch lớn, Phạm Ngũ Lão có công tham góp với các
tướng quân khác bằng cách đánh của mình. Khi ra trận, ông chiến đấu đến quên
mình, làm tròn nhiệm vụ được giao. Có thể nói, tướng quân Phạm Ngũ Lão là vị
tướng từ dân gian mà trưởng thành, biết kết hợp kinh nghiệm dân gian với cách
điều quân, dụng quân trong binh pháp người xưa để lại theo nguyên tắc: đánh nhỏ
thắng lớn, công thủ toàn diện, dùng đoản chế trường... Ông cùng các tài tướng
khác trong hoàng tộc và quân sĩ con em của nhân dân làm nên khí thế bách chiến
bách thắng của quân dân Đại Việt. Vì thế, tướng quân Ngũ Lão được vinh thưởng
Kim phù (Giáp Ngọ - 1294), Vân phù (Đinh Dậu - 1297), Quy phù (Tân Sửu -
1301), Hổ phù (Nhâm Dần - 1302), Ngư phù (Mậu Ngọ - 1318) và thăng chức Hữu
kim ngô, Điện súy Thượng tướng quân. Ông là người "Hiếu trung vẹn cả đôi bề"
nên được vua Trần "Di phong hậu thế hội hè viếng thăm, - Sắc ban Thượng đẳng
phúc thần - Lịch triều hưởng tự ngang tầm đế vương" (câu 2053 - 2056). Bút pháp
tráng ca, những lời trữ tình ngoại đề, cách mở đầu, kết thúc bản ca và giọng điệu
người hát kể cho chúng ta nhận thức một cách đầy đủ về tình cảm nhân dân dành
cho vị tướng quân khả kính.
3.1.3. Tinh thần yêu nước trong truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão
82
Truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão kể về cuộc đời, sự nghiệp của vị
tướng xuất thân bình dân hết lòng vì đấng quân vương, vì xã tắc là một câu chuyện
về tinh thần yêu nước của một con người sinh ra và lớn lên trên vùng đất Hưng
Yên . Khái niệm yêu nước là một phạm trù rộng, mang tính thời đại, tính lịch sử
cụ thể, gắn với không gian, thời gian cụ thể. Tìm hiểu tinh thần yêu nước của
Phạm Ngũ Lão trong truyện thơ viết về làng quê Đại Việt thế kỷ XIII, chúng ta
không thể tách rời nó với hệ tư tưởng quân chủ, với quan niệm yêu nước thời
phong kiến, với lịch sử chống ngoại xâm của người Việt. Rộng hơn là đặt nội
dung yêu nước truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão trong hệ đề tài bao trùm
của văn học, nghệ thuật Việt Nam thời trung đại, trong đó có văn học dân gian.
Khi tái hiện cuộc đời, sự nghiệp đầu quân đánh giặc của vị tướng "hễ ra
quân là đánh thắng", chúng tôi đã làm một việc nghiên cứu, tổng thuật những
chiến công (hành động) Phạm Ngũ Lão lập được trong quá trình phò vua giúp
nước để ông từ một người dân bình thường, không qua kỳ thi tạo sĩ mà trở thành
Điện suý Thượng tướng quân, được dân gian vinh danh rước vào thần điện làng
xã, được ngợi ca trong truyện thơ dài 2.0 74 câu, được kể trong nhiều bản truyện
dân gian. Nội dung, chủ đề chính của mỗi bản kể về ông đều có chủ đề kể về lòng
yêu nước. Lòng yêu nước của tướng quân Phạm Ngũ Lão là biểu hiện cụ thể, sinh
động về tình yêu làng quê, về lòng căm thù giặc, ý chí tinh thần chiến đấu dũng
cảm, sẵn sàng hy sinh bảo vệ giang sơn xã tắc. Hệ giá trị nêu trên luôn là thước
đo về lòng yêu nước của người anh hùng này. Song mỗi thời đại, mỗi thời điểm
bản kể ra đời, nấc thang giá trị đo lòng trung quân ái quốc của mỗi người có sự
khác nhau. Đất nước có vua sáng sẽ có tôi hiền và ngược lại. Mối quan hệ vua -
tôi tốt đẹp, luôn gắn bó với nhau, có trong nhau, hoà với nhau sẽ trở thành thứ
tình cảm nội sinh mạnh mẽ có sức mạnh chi phối, quyết định hành động của cá
nhân mỗi người mà quan hệ giữa Phạm Ngũ Lão với ba vua Trần là một điển hình.
83
Tinh thần yêu nước trong truyện thơ Tướng quân Phạm Ngũ Lão biểu hiện
rất phong phú. Trước hết, đó là lòng căm thù giặc sục sôi của cả dân tộc được diễn
tả qua tâm trạng của Trần Quốc Tuấn khi ông nghe tin giặc chuẩn bị kéo sang xâm
lược Đại Việt :
Đại vương nghe nói bầm gan,
Mắng rằng: “Giặc Thát ngông càn đã quen.
Sá gì một lũ Hồ Nguyên,
Gươm này quyết hẳn một phen tiễu bình.
[câu 381 – 384,44, tr 42]
Đoạn thơ gợi cho người nghe nhớ đến lời Hịch tướng sĩ: “Ta thường tới
bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa chỉ căm tức rằng
chưa xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho thân ta phơi ngoài nội cỏ
nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng nguyện xin làm”.[38, tr 123]. Tinh thần
yêu nước thể hiện qua ý chí đánh giặc của quân dân thời Trần. Vì vậy, trong ba
lần đương đầu với quânNguyên – Mông quân ta đã buộc kẻ thù phải lui chạy. Sau
khi sai Trung đại phu Trần Khiêm Phủ sang Kinh Hồ (Trung Hoa) “Yêu cầu
Nguyên chúa hoãn binh” nhưng “Nguyên triều một mực làm cao,/ Quyết sai Thái
tử tiến vào ải quan”, nhà vua mở hội nghị Diên Hồng xin ý kiến nhân dân nên hòa
hay nên đánh:
Chiến thì để lụy cho dân,
Hòa thì để nhục muôn phần mai sau.
[câu 413 – 414,44, tr43]
Trước lời tha thiết của nhà vua, các bô lão đồng thanh hô vang :
Chúng tôi tuổi tác tuy già,
Nhưng lòng yêu nước vẫn là trẻ trung.
Ơn nhờ cảnh thổ non sông,
84
Ngọn rau tấc đất cũng trong mưa nhuần.
Nước nhà gặp lúc đa truân,
Há rằng trách nhiệm riêng phần một ai.
Động viên con cháu mọi người,
Cùng xin góp sức gom tài một phen.
Kết liền một khối vững bền,
Đánh cho tan lũ giặc Nguyên tham tàn.
Nói chi đến sự cầu hòa,
Cái gương nội thuộc xưa mà ai quên.
Xin thề quyết chiến một phen,
Cùng đem máu đỏ báo đền trời xanh.
[câu 420 – 432,44, tr 44]
Sự kiện trên từng đượcchép trong chính sử: “Thượng hoàng triệu phụ lão
trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão
đều nói đến “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng”
không được kể trong truyền thuyết nhưng truyện Nôm khuyết danh Tướng quân
Phạm Ngũ Lão đã khai thác nhằm tái hiện tinh thần quyết tâm chống giặc của
quân dân Đại Việt. Ý chí sắt đá đó lí giải vì sao Phạm Ngũ Lão khi bị giáo đâm
vào đùi mà không thấy đau. Bởi vì, ông đang mải mê nghĩ về việc nước.
Tinh thần yêu nước còn được thể hiện qua niềm tự hào về khí thế đánh giặc
của quân dân đời Trần. Những trận đánh đi vào lịch sử được người xưa nhắc bằng
những ngôn từ giầu xúc cảm về niềm tự hào của quân đội nước nhỏ nhưng đánh
thắng một đội quân hùng mạnh của một đế chế lớn. Tin thắng trận của quân Trần,
tin tướng giặc bị giết, bị bắt như những đốm sáng lấp lánh, thấp thoáng trong suốt
2062 dòng thơ làm người nghe, người đọc hân hoan mừng vui, bởi sức ấm nóng
của tinh thần yêu nước trong bản kế lan sang họ. Đâm đặc hơn cả là đoạn thơ từ
85
câu 711 đến câu 1010 đã tái hiện chân thật không khí chiến trận lúc bấy giờ. Ngôn
ngữ người kể chuyện là ngôn ngữ sử thi, giầu chất anh hùng ca:
Gươm đưa loang loáng sáng ngời,
Quân ta sấm dậy người người xung phong.
Thuyền như tên lướt giữa dòng,
Chèo khua rộn sóng trống rung dậy trời.
[câu 757 – 760, 44, tr58, 59]
Những vần thơ lột tả khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân ta Sở dĩ có
được khí thế hào hùng đó là do vua tôi nhà Trần xây dựng thành quân đội quân
phụ tử chi binh, "vua tôi đồng lòng, trên dưới gắng sức". Họ đánh giặc bằng sức
mạnh của lòng yêu nước, của tinh thần đoàn kết, dũng cảm đến quên mình mà
Phạm Ngũ Lão là một chiến tướng tiêu biểu. Bút pháp tráng ca, cảm hứng anh
hùng, tạo nên giọng thơ hào sảng có sức lan toả trong tâm hồn bao thế hệ người
Việt vùng châu thổ sông Hồng từ thế kỷ XIII đến hôm nay. Tướng quân Phạm
Ngũ Lão là bài ca ca ngợi người anh hùng "cắp ngang ngọn giáo" chiến đấu vì
quê hương, đất nước, ca ngợi hào khí Đông A, ca ngợi tinh thần yêu nước của
quân dân Đại Việt. Bài ca đó luôn vang vọng đến mai sau.
3.2. Đặc điểm nghệ thuật của truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Trong cuốn Truyện Nôm lịch sử hình thành và bản chất thể loại, nhà nghiên
cứu Kiều Thu Hoạch đã nhận định: “Truyện Nôm là một thể loại sinh thành và
phát triển từ cội nguồn văn hóa dân gian”. [34, tr 174]. Việc phân chia truyện Nôm
thành hai loại truyện Nôm bác học, truyện Nôm bình dân cũng chỉ mang tính chất
tương đối, tạm thời khi các nhà nghiên cứu dựa vào chủ thể sáng tạo, phẩm chất
nghệ thuật của văn bản. Tìm hiểu một số truyện Nôm bình dân cho thấy có nhiều
tác phẩm mà cốt truyện được hình thành từ cổ tích. Cao Huy Đỉnh cũng khẳng
định: “Về cơ bản truyện Nôm là truyện cổ tích không hơn không kém được diễn
86
tả bằng thơ 6/8 mà thôi”.[ 23, tr 139]. Theo nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn, truyện
Tống Trân - Cúc Hoa được sáng tác dựa trên câu chuyện dân gian về Trạng Gàu.
Tác giả dân gian chỉ sửa đổi, thêm vào một ít chi tiết để làm nổi thêm ý nghĩa của
tác phẩm. Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, truyện thơ Mộng Hiền truyện
sáng tác trên khuôn hình truyện cổ tích Anh chàng họ Đào, truyện Chàng Chuối
cải biên từ truyện cổ tích cùng tên và lắp ghép với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy
Tinh…
Đối chiếu với đặc điểm nghệ thuật của không ít truyện Nôm khuyết danh
chúng tôi nhận thấy cốt truyện Tướng quân Phạm Ngũ Lão có điểm riêng biệt.
Trong khi nhiều truyện Nôm có cốt truyện cải biên từ cổ tích thì tác phẩm khai
thác tư liệu về cuộc đời danh tướng Phạm Ngũ Lão - người anh hùng có thật trong
lịch sử. Nếu như truyện Nôm khuyết danh khác sử dụng cốt truyện cổ tích làm
cơ sở diễn ngôn nên có mô thức kết cấu ba đoạn: gặp gỡ - tai biến - đoàn tụthì
truyện Tướng quân Phạm Ngũ Lão cốt truyện nương theo cuộc đời nhân vật lịch
sử qua ba giai đoạn: lúc nhỏ - lúc trưởng thành - lúc cuối đời. Các biến cố trong
cốt truyện đều tương ứng với dấu mốc quan trọng trong cuộc đời chàng trai họ
Phạm: Ngũ Lão gặp Trần Quốc Tuấn, được ông đón nhận, tiến cử, được giao chỉ
huy quân cấm vệ. Một số tình tiết như: Lính cấm vệ không phục tài nên Phạm
Ngũ Lão xin về quê để luyện tập. Sau đó, ông đã thắng trong cuộc thi võ khiến
quan quân khâm phục. Ngũ Lão tham gia đánh giặc Nguyên- Mông , đuổi quân
Ai Lao, Chiêm Thành bảo vệ biên giới lập công lớn, được Trần Hưng Đạo gả con
gái nuôi là quận chúa Anh Nguyên. Khi Hưng Đạo Vương qua đời, ông làm thơ
điếu cha vợ. Ông mất tại phủ đệ Vườn Cau, hưởng thọ 66 tuổi, được vua Trần
Minh Tông (1314 - 1329) nghỉ chầu 5 ngày để tưởng nhớ, được phong Thượng
đẳng phúc thần. Tất cả các sự kiện trên đã được ghi trong chính sử hoặc một số
sự kiện được kể trong truyền thuyết. Ở đây, tác giả dân gian kể lại cuộc đời tướng
quân họ Phạm với dụng ý thông tin hơn là dụng ý nghệ thuật. Ở Tướng quân Phạm
Ngũ Lão, cốt truyện tuy có tính chất diễn ca nhưng lại khá hấp dẫn bởi các tác giả
87
chỉ lựa chọn chi tiết chính (gặp Hưng Đạo Vương, tham gia chiến trận, được Đức
ông gả con gái nuôi). Đây là điểm riêng biệt mà các truyện Nôm bình dân khác
không có.
Là một thể loại văn học dân gian tuy ra đời muộn hơn so với thần thoại,
truyền thuyết nhưng trong truyện Nôm bình dân xuất hiện nhiều chi tiết kì ảo.
Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, để đi tới kết cục có hậu, hướng người
nghe về sự viên mãn, tròn đầy, tốt đẹp trong tương lai, các tác giả truyện Nôm
dân gian thường sử dụng yếu tố kì ảo làm biện pháp nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện.
Yếu tố này góp phần thúc đẩy cốt truyện phát triển, qua đó gợi mở người nghe
đồng sáng tạo, để họ cùng mong đợi và ước mơ về việc người tốt không bao giờ
thất bại trước thế lực tàn ác, xấu xa, cái ác sẽ bị trừng trị, chính nghĩa sẽ thắng
gian tà... Đồng tình với quan điểm trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc khẳng định:
“Trong cốt truyện của truyện Nôm bình dân, nhà thơ thường sử dụng rất nhiều
yếu tố ngẫu nhiên, phi thường, nhiều yếu tố có tính chất thần linh” [Văn học Việt
Nam nửa cuối thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX, tr 301]. Theo cách hiểu trên, sử
dụng yếu tố kì ảo trở thành đặc trưng quan trọng của hư cấu nghệ thuật trong sáng
tác dân gian, nhất là thể loại truyện Nôm. Tuy nhiên, tìm hiểu truyện Nôm Tướng
quân Phạm Ngũ Lão, chúng tôi thấy chi tiết kỳ ảo hầu như vắng bóng. Nếu có chỉ
là chi tiết tác giả mượn từ truyện truyền thuyết kể về việc Phạm Nhan (Nguyễn
Bá Linh) dùng tà thuật làm "gió nổi ào ào, - Cát bay mù mịt ai nào thấy ai. - Lại
nghe tiếng hú rợn người, - Âm binh thần tướng ngút trời kéo ra" (câu 1595 -
1598). Đây là điểm khác biệt giữa truyện thơ Tướng quân Phạm Ngũ Lão với một
số truyện Nôm bình dân khác, giữa tác phẩm này so với truyền thuyết Phạm Ngũ
Lão mặc dù cùng là truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão.
Các truyện Nôm bình dân khác thường mở đầu theo lối hồi tưởng về chuyện
xưa, tích cũ sau đó giới thiệu lai lịch nhân vật nhưng Tướng quân Phạm Ngũ Lão
88
người kể chuyện hướng người nghe tới nhân vật được kể bằng cái nhìn từ góc độ
lịch sử :
Xem trong lịch sử nước nhà,
Mỗi khi vua sáng thường ra tôi hiền.
Người đời chưa dễ ai quên,
Nhân tài cứu nước mấy phen quật cường.
Đời thường có việc phi thường,
Người phi thường để đảm đương việc đời.
Bể dâu dù có biến dời,
Tấm gương trung hiếu vẫn ngời sáng thêm.
Non sông muôn thủa vững bền,
Mới hay thời thế tạo nên anh hùng.
[câu 1 – 10,44, tr 25]
Truyện Nôm bình dân thường kết thúc có hậu bằng cách dựng lại cuộc đoàn
viên của các nhân vật chính sau nhiều thử thách thì Tướng quân Phạm Ngũ Lão
khép lại bằng việc kể về sự ra đi vĩnh viễn của một con người được triều đình và
nhân dân kính trọng bằng lời tổng kết :
Muôn đời còn mãi ngát hương,
Người trai đan sọt bên đường thủa xưa.
Từ trong bùn đất quê mùa,
Đã từng làm gió làm mưa một thời.
[câu 2057 – 2060,44, tr117]
Tóm lại, ở cốt truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão có những điểm
chung và một số nét khác biệt so với nhiều truyện Nôm bình dân khác. Điều đó
thể hiện sự tiến triển của nghệ thuật truyện Nôm bình dân, thể hiện tài năng sáng
89
tạo trong lối kể của người bình dân xứ Nhãn, góp phần làm cho tính chân thực
của câu chuyện đậm nét hơn và gây ấn tượng sâu sắc với người thưởng thức.Từ
cách kể trong Tướng quân Phạm Ngũ Lão, người nghe cảm nhận được các tác giả
bình dân bắt đầu nhận thức được giá trị chân thực của đời sống và biết sử dụng nó
để tô đậm, làm đẹp chân dung nhân vật.
3.2.2. Sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình
Đặc điểm nổi bật của truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lãolà sự kết hợp
giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Yếu tố tự sự thể hiện bằng nghệ thuật trình bày,
miêu tả trực tiếp sự vật, hiện tượng, nhân vật bằng ngôn ngữ để dựng lại hoàn
cảnh không gian, thời gian, diễn biến sự việc, kể lại cuộc đời, sự nghiệp nhân vật
bằng một cốt truyện theo trình tự tuyến tính với hệ thống sự kiện và biến cố hợp
lí.Yếu tố trữ tình thể hiện qua cách thức miêu tả tâm trạng, nhất là sử dụng ngôn
ngữ biểu đạt tâm trạng, xúc cảm nghệ thuật. Lời kể giúp tác giả hóa thân vào nhân
vật, từ đó tâm trạng, tình cảm nhân vật được người dẫn chuyện trình bày một cách
tự nhiên như nó tồn tại. Qua ngôn ngữ, người bình dân bộc lộ cảm xúc của chính
mình hoặc thông qua tiếng nói, tâm trạng nhân vật. Thơ là nghệ thuật ngôn ngữ
có vần điệu mà vần điệu giầu nhạc tính nên chất trữ tình trong nghệ thuật biểu đạt
sẽ sâu sắc hơn.
Đặc biệt, sự kết hợp nói trên trong Tướng quân Phạm Ngũ Lãochủ yếuđược
tác giả dân gian sử dụng kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố ngôn ngữ tự sự và ngôn
ngữ trữ tình một cách nhuần nhuyễn. Nếu như ngôn ngữ tự sự trong văn học viết
nói chung thường sử dụng ba hình thái biểu đạt: Ngôn ngữ gián tiếp (lời tác giả),
ngôn ngữ trực tiếp (lời nhân vật), ngôn ngữ nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng thể
hiện cảm xúc suy tư, giọng điệu nhân vật hoặc sử dụng cách đan xen giữa lời tác
giả và lời nhân vật), thì truyện Nôm dân gian thường sử dụng ngôn ngữ gián tiếp
- ngôn ngữ của số đông tác giả bình dân.
90
Khi bàn về ngôn ngữ tự sự truyện Nôm dân gian, nhà nghiên cứu Kiều Thu
Hoạch cho rằng: “Truyện Nôm bình dân về cơ bản là sáng tác folklore chứ không
phải là sáng tác văn học theo quy phạm điển nhã. Do vậy, truyện Nôm bình dân
chủ yếu kể chuyện bằng ngôn ngữ nói hơn là ngôn ngữ viết, càng không không
phải bằng thứ ngôn ngữ thẩm mĩ văn chương”. [34, tr 223]. Theo tinh thần trên,
ngôn ngữ tự sự (kể chuyện) trong Tướng quân Phạm Ngũ Lão là thứ ngôn ngữ
giản dị, đậm chất khẩu ngữ đúng như tác giả dân gian tự nhận:“Nôm na ghi lại
đôi lời. Nhớ trang sử cũ nhớ người quê hương”. Trong đó, ta thường gặp cách
diễn đạt chêm xen: “Những là lạ nước, lạ non bồi hồi” (câu 1070), những từ ngữ
vốn là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người lao động: “Nhắc đi nhắc lại một lời”
(câu 1059), “Ra vào một mẹ một con” (câu 1069), “Sớm hôm thơ thẩn ra vào, -
Ngày sáu khắc, chẳng khắc nào thảnh thơi” (câu 1083 - 1084).
Bởi vì điểm nhìn trần thuật của người kể là từ bên ngoài nên ngôn ngữ tự
sự của truyện Nôm bình dân thường đơn thanh. Thế nhưng, ở truyện Tướng quân
Phạm Ngũ Lão lại khác: có chỗ đơn thanh; có chỗ đa thanh, đa điệu do tác giả biết
sử dụng linh hoạt kiểu ngôn ngữ tự sự nói trên. Ngôn ngữ gián tiếp đóng vai trò
quan trọng vì nó đảm nhiệm chức năng dẫn dắt để câu chuyện liền mạch. Ngôn
ngữ trực tiếp thường thể hiện qua đối thoại giữa các nhân vật: Đối thoại giữa Hưng
Đạo Vương với Phạm Ngũ Lão, giữa Phạm Ngũ Lão với mẹ, giữa Anh Nguyên
với phu nhân… Rất nhiều đoạn thơ sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp mà ở đó người
kể thay nhân vật nói hộ nỗi niềm thầm kín. Đoạn thơ từ câu 1309 đến câu 1390 là
trích đoạn tiêu biểu về cách diễn ngôn nói trên. Người kể diễn tả tâm trạng phức
tạp thay nhân vật. Sau bữa tiệc đoàn viên của gia đình Hưng Đạo Vương, Ngũ
Lão đêm ngày mơ tưởng đến quận chúa. Ông trò chuyện với Chiêu Văn vương
mà tâm trí như đểở nơi khác. Vì thế, Ngũ Lão đứng ngồi chờ trông phấp phỏng.
Có lúc ông thầm trách người con gái vô tình:
Một mình ngồi đứng chẳng xong,
91
Bước đi ngần ngại mắt trông ủ sầu.
Giờ đây rốn bể cửa hầu,
Trách ai ai nỡ để nhau lạnh lùng.
Thuyền quyên tưởng nhớ anh hùng,
Anh hùng dạ cũng như lòng thuyền quyên.
Ví mà duyên chẳng bén duyên,
Can chi để não gieo phiền cho nhau.
[câu 1315 - 1322,44, tr 83]
Lời trách tuy vô lý nhưng rất có lý bởi đó là tâm trạng của người đang yêu.
Vì yêu vụng nhớ thầm nên Phạm Ngũ Lão đánh liều đến gặp mẫu thân quận chúa
dù trời còn sớm. Nhìn ai đó bên rèm, vị tướng quân trẻ tưởng là quận chúa:
Vườn hồng lần bước dạo quanh,
Hương đưa đón khách tiếng oanh chào người.
Lầu son thấp hoáng cửa ngoài,
Bên rèm thấy có bóng người thướt tha.
Rõ ràng ngọc đúc tuyết pha,
Tưởng chừng như thể tiên nga giáng trần.
Những toan rảo bước tới gần,
Rèm Tương thoắt đã khuất dần thấy đâu.
[câu 1327 – 1334,44, tr 84]
Nhờ ngôn ngữ nửa trực tiếp, tác giả bình dân đã diễn tả chân thật những
điều tế vi của tâm tư sâu kín ấy. Nếu như trong chiến trận, Ngũ Lão xông pha
dũng mãnh khiến quân giặc khiếp vía kinh hồn bao nhiêu thì trong tình cảm riêng
tư, ông lại lúng túng, rụt rè bấy nhiêu. Trạng thái cảm xúc trên cho thấy Phạm
Ngũ Lão cũng có đời sống nội tâm như bao người khác, cũng khát khao tình yêu,
92
cũng nhớ nhung người mình thương nhớ. Bằng ngôn ngữ kể chuyện, Tướng quân
Phạm Ngũ Lão đã giúp người đọc hiểu thêm về thế giới tâm hồn của vị tướng trẻ
làng Phù Ủng.
Yếu tố trữ tình của bản kể bộc lộ rõ nhất qua ngôn ngữ nghệ thuật trong
những đoạn tả cảnh ngụ tình, qua lời trữ tình ngoại đề và nhạc điệu thơ lục bát.
Không gian cảnh sắc được miêu tả là để nói cái tình của nhân vật hoặc của người
dẫn chuyện. Để diễn tả tình cảm nhân vật, truyện NômTướng quân Phạm Ngũ
Lão thường chọn cảnh trí ở hai không gian cụ thể: Thiên nhiên bình dị nơi làng
xã và cảnh trí chốn kinh thành. Song tả cảnh là phương tiện, tả tình là mục đích.
Dù bức tranh nơi thôn dã hay chốn kinh thành phồn hoa đều đảm nhận nhiệm vụ:
thể hiện ngoại cảnh và khắc họa tâm cảnh. Đoạn thơ từ câu số 1023 đến câu 1026
dưới đây tiêu biểu cho bút pháp trên. Cảnh quê trong mắt vị tướng trẻ Phù Ủng
khi ông từ chiến trường trở về Thăng Long thật nên thơ:
Đường chiều ngắm cảnh đồng quê,
Liễu phô mầu biếc hoa khoe sắc hồng.
Lời ca thôn nữ mặn nồng,
Nhặt khoan tiếng sáo mục đồng véo von.
[ câu 1023 - 1026, 44,tr 74, 75]
Không gian rực rỡ sắc màu: sắc xanh cành liễu, sắc đỏ của hoa. Tiếng hát
thôn nữ, tiếng sáo mục đồng lúc chiều tà khơi gợi nỗi nhớ quê bởi đó là những
âm thanh quen thuộc trong không gian thanh bình. Tác giả dân gian phác thảo bức
tranh qua nét vẽ mộc mạc, ước lệ nhưng gần gũi, nên thơ. Đằng sau không gian
đó có cả nỗi niềm xôn xao vị tướng trẻ mong được gặp Anh Nguyên quận chúa.
Bên cạnh thủ pháp sử dụng ngôn ngữ miêu tả trực tiếp tình cảm, tâm trạng
nhân vật, truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão dành những câu thơ trữ tình
ngoại đề đem cảm xúc riêng đến với người nghe chuyện. Cảm xúc của tác giả
bình dân thể hiện rõ nhất trong những câu thơ luận bình về chiến công, ở phần mở
93
đầu, kết thúc câu chuyện. Giới thiệu chủ đề câu chuyện, người kể sử dụng uyển
ngữ, dùng lối nói từ xa đến gần khá tinh tế. Dựng lại câu chuyện huyền thoại "đời
thường có việc phi thường, - người phi thường để đảm đương việc đời", tác giả
bình dân chọn nhân vật xuất thân bình dân trở thành danh tướng, gặp thời thế "tạo
nên anh hùng ". Ông là con người bình thường, giản dị như bao người dân quê
khác nhưng phi thường, kì vĩ. Lời thơ kết thành những định đề như chân lí cuộc
sống (vua sáng tôi hiền, thời thế tạo nên anh hùng). Ngôn ngữ có tính triết luận
đó vừa làm nhiệm vụ đề dẫn tạo tâm thế trước khi nghe chuyện, vừa thể hiện thái
độ ngợi ca của dân gian đối với tấm gương trung liệt Phạm Ngũ Lão. Cuối cùng,
tác giả dân gian kết thúc câu chuyện huyền thoại về ông bằng những lời ca ngợi
giản dị. Phạm Ngũ Lão lung linh ngát hương bao nhiêu, bây giờ nền nã, thân thuộc
bấy nhiêu. Ông giống như đóa sen ngát hương đến muôn đời:
Muôn đời còn mãi ngát hương,
Người trai đan sọt bên đường thủa xưa.
Từ trong bùn đất quê mùa,
Đã từng làm gió làm mưa một thời.
[câu 2057 – 2060,44, tr 117]
Đó là bức chân dung mang tầm vóc sử thi.
Thơ lục bát là thể loại do dân gian sáng tạo, vừa có có khả năng kể những
câu chuyện dài, ngắn khác nhau, vừa có năng lực diễn tả tâm lí phức tạp. Vì thế,
truyện thơ bình dân đều chọn thơ lục bát làm phương tiện diễn ngôn. Truyện kể
bằng thơ tuy không tả hay kể tỉ mỉ như văn xuôi song ngôn ngữ tự sự trong thơ đã
đem đến cho lời kể âm hưởng trữ tình mà văn xuôi khó có được. Trong truyện
NômTướng quân Phạm Ngũ Lão, âm hưởng trữ tình đó được tạo nên từ cảm hứng
anh hùng ca về tầm vóc nhân vật, về âm vang thời Đông A và có cả nhạc điệu thơ
lục bát trợ giúp. Những đoạn thơ tả trận chiến giữa quân Đại Việt với quânNguyên
94
- Mông, trong đó có đóng góp của Phạm Ngũ Lão đều thấm đẫm cảm hứng anh
hùng ca. Đoạn thơ (từ câu 1805 đến câu 1842) kể về trận đánh Bạch Đằng của
Hưng Đạo Vương là đoạn như thế. Trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán
Siêu mượn lời bô lão thuật lại trận đánh ác liệt của quân dân nhà Trần:
Đương khi ấy
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân
Chiến lũy Bắc Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Nếu những câu biền văn giầu hình ảnh tượng trưng miêu tảkhông khí quyết
liệt của chiến thắng Bạch Đằng lịch sử được Học sĩ hàn lâm viện Trương Hán
Siêu (? - 1254) tái hiện trong bài phú làm sống dậy khí thế một thời của dân tộc,
khẳng định bản lĩnh, vai trò con người trước thử thách gian nguy thì Tướng quân
Phạm Ngũ Lão với lợi thế riêng của thơ lục bát đã bám sát thực tế lịch sử kể lại
khá cụ thể diễn biến trận đánh. Lợi dụng nước thủy triều lên, quân ta dưới sự chỉ
huy của Nguyễn Khoái chặn đường rút lui của giặc. Sau nửa giờ giao chiến, quân
Trần rút lui nhử địch vào trận địa cọc nhọn chờ sẵn. Quân Nguyên như "hổ rượt
mồi" đuổi theo đúng lúc "Ngọn triều đang rút lòng sông nông sờ" thì quân Trần
phản công:
Quân ta quay lại bất ngờ,
Đôi bên nổi trống phất cờ giao phong.
Xa xa về mạn cuối sông,
Thuyền Đại vương lại một dòng kéo lên.
Một rừng gươm giáo cung tên,
95
Vây tròn lấy đám quân Nguyên giữa dòng.
Tới lui đôi ngả khó lòng,
Thuyền xô phải cọc chất chồng lên nhau.
Xác thù vùi đáy sông sâu,
Bạch Đằng phút chốc đỏ ngầu máu tươi.
[câu 1823 – 1832,44, tr 105, 106]
Biện pháp sử dụng ngôn ngữ phóng đại vốn được tác giả dân gian sử dụng khi
miêu tả những trận đối đầu địch - ta đã phát huy hiệu quả khi diễn tả sự thất bại thảm
hại của quân thù và tô đậm chiến thắng lẫy lừng của quân ta. Đoạn thơ trên là bản
anh hùng ca ngợi ca chiến thắng Bạch Đằng - một trận đánh dội vang nhất trong lịch
sử trung đại Việt Nam. Có thể nói, với cảm hứng anh hùng ca, truyện thơ Nôm Tướng
quân Phạm Ngũ Lão đã thực hiện sứ mệnh của nó là tôn vinh nhân vật lịch sử Phạm
Ngũ Lão nói riêng, tôn vinh tầm vóc vĩ đại cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên -
Mông của nhà Trần nói chung.
Chất trữ tình của bản kể không chỉ được bộc lộ qua cảm hứng anh hùng mà
còn được làm nên từ nhạc điệu thơ lục bát. Nhạc điệu thơ lục bát được thể hiện
qua cách gieo vần, ngắt nhịp đến lựa chọn từ ngữ và phối hợp thanh điệu. Tìm
hiểu Tướng quân Phạm Ngũ Lão , chúng tôi thấy lời thơ sử dụng luân phiên vần
lưng và vần chân tạo sự gắn kết giữa các dòng thơ. Nhịp thơ được ngắt chủ yếu là
nhịp chẵn. Rất nhiều vế tiểu đối trong dòng bát tạo nên sự cân xứng nhịp nhàng
trong mỗi dòng thơ:
Hồn theo cánh bướm / mình gầy xác ve (câu 1100);
Dứt đường cơm cháo, / ngại bề thuốc thang ( câu 1102);
Hoa thua sắc thắm, / nguyệt mờ kém thanh ( câu 1048).
Song, bản kể cũng có câu thơ phá vỡ nhịp ngắt thông thường trong câu lục
với nhịp lẻ: Càng nghĩ ngợi,/ càng ngổn ngang nhằm tạo sự cân đối cho lời kể.Với
96
lời thơ giàu nhạc điệu, truyện Tướng quân Phạm Ngũ Lão rất dễ thuộc, dễ nhớ,
dễ diễn xướng, tác dụng lưu truyền nhanh hơn. Tác phẩm có thể sử dụng làm câu
chuyện người già kể cho con cháu, làm lời mẹ ru con, lời hát trống quân, hát xẩm
và vận dụng trong các loại hình ca hát dân gian khác.
* Tiểu kết
Với 2074 câu thơ, Tướng quân Phạm Ngũ Lão đã tái hiện cuộc đời và ca
ngợi thiên tài quân sự của tướng quân Phạm Ngũ Lão thể hiện tinh thần yêu nước
của con người Đại Việt. Cùng với truyền thuyết, nó cung cấp cho người nghe
(xưa), người đọc (nay) những thông tin khá toàn diện về cuộc đời, sự nghiệp vị
tài tướng Phạm Ngũ Lão, làm sống lại không khí lịch sử thời đại nhà Trần đồng
thời gửi gắm tâm tư, thái độ của người dân Hưng Yên đối với người con ưu tú của
quê mình nói riêng và sự nghiệp đánh giặc giữ nước nói chung. Đó là những trang
sử được kể lại bằng thơ để người bình dân được sống trọn vẹn với niềm tự hào,
tôn vinh truyền thống vẻ vang của ông cha.
Cốt truyệnTướng quân Phạm Ngũ Lão được xây dựng thành hệ thống lớp
lang, chặt chẽ, bố cục hợp lý mà điểm tựa của nó là những sự kiện trong chính sử
và dư âm truyền thuyết. Chiều sâu tâm lý nhân vật chính tuy chưa được đào sâu
như văn học hiện đại nhưng so với truyền thuyết, với truyện thơ Nôm bình dân
thế kỷ XVIII thì Tướng quân Phạm Ngũ Lão đã có sự tiến bộ vượt trội. Đặc biệt,
tác phẩm có sự kết hợp chặt chẽ giữa tự sự và trữ tình do người bình dân đã phát
huy thế mạnh của thể thơ lục bát. Lối kể chuyện của bản kể khá nhuần nhuyễn bởi
các tác giả dân gian biết sử dụng sự kiện ghi trong chính sử kết hợp đan xen với
chi tiết trong truyền thuyết dân gian, biết phối hợp giữa kể và tả, giữa tự sự và trữ
tình bằng một thứ ngôn ngữ biểu cảm. Dấu ấn mà các nhà nho địa phương để lại
là vốn từ Hán - Việt được sử dụng chuẩn xác, nhuần nhuyễn. Nhuần nhuyễn đến
mức ngày nay người không có vốn Hán học cũng hiểu lối diễn ngôn trong bản kể
cách chúng ta một hoặc hai thế kỷ. Với những đặc trưng thể loại nói trên Tướng
97
quân Phạm Ngũ Lão xứng đáng là một tác phẩm truyện Nôm đặc sắc ở vùng Hưng
Yên.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Trên đây là sự khảo sát, tìm hiểu của chúng tôi về truyện kể dân gian Phạm
Ngũ Lão ở Hưng Yên. Chúng tôi đã trình bày cơ sở lí luận và tổng quan về đề tài
nghiên cứu, trình bày đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyện kể dân gian Phạm
Ngũ Lão. Dựa trên những cơ sở lí luận và kết luận của những nhà nghiên cứu đi
trước chúng tôi đã phân chia truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão lưu truyền ở vùng
đất Hưng Yên thành hai tiểu loại gồm truyền thuyết và truyện thơ Nôm. Qua thực
tế nghiên cứu truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, chúng tôi nhận thấy ở Hưng Yên hiện
nay có 15 bản kể đã được các nhà nghiên cứu sưu tầm. Khi kể về tướng quân Phạm
Ngũ Lão, tác giả dân gian đã phản ánh lịch sử qua việc khắc họa chân dung người
anh hùng làng Phù Ủng đánh giặc lập công, tái hiện thời đại hào khí Đông A rực
lửa, thể hiện tư tưởng thân dân, trọng dụng nhân tài của vương triều Trần trong sự
nghiệp vệ quốc. Đồng thời truyền thuyết Phạm Ngũ Lão đã bộc lộ ý thức lịch sử
của người bình dân là tôn vinh, ngưỡng mộ người anh hùng đánh giặc xuất thân từ
98
nông dân, lí giải mối quan hệ mật thiết giữa chiến thắng vĩ đại của vương triều Trần
với đóng góp của nhân dân. Qua cái nhìn của tác giả dân gian, chính ý chí quyết
tâm và tài đánh giặc của chàng trai làng Phù Ủng đã góp phần làm nên thắng lợi to
lớn ấy. Về đặc điểm nghệ thuật, chúng tôi đã chỉ ra đặc trưng quan trọng của truyền
thuyết Phạm Ngũ Lão ở hai khía cạnh: đó là nghệ thuật sử dụng yếu tố hoang đường
kì ảo một cách hợp lí và nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật lịch sử dựa trên
cốt lõi lịch sử để làm nổi bật sự sáng tạo của người bình dân.
Tìm hiểu truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão từ góc độ thể loại chúng
tôi bước đầu đã làm rõ những đặc điểm nội dung và đặc điểm nghệ thuật của tá
phẩm này. Về nội dung, chúng tôi thấy tác phẩm đã tái hiện cuộc đời người anh
hùng làng Phù Ủng, đã ca ngợi thiên tài quân sự của Phạm Ngũ Lão và thể hiện
tinh thần yêu nước của quân dân nhà Trần. Về nghệ thuật, luận văn đã nêu đặc
điểm nổi bật của bản kể ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện hợp lí và sự kết hợp
chặt chẽ giữa yếu tố tự sự với yếu tố trữ tình. Bên cạnh làm rõ đặc trưng của thể
loại, luận văn còn chỉ ra sự liên hệ giữa truyền thuyết và truyện Nôm kể về Phạm
Ngũ Lão qua điểm giống và khác nhau, chỉ rõ sự sáng tạo của tác giả dân gian khi
so sánh Tướng quân Phạm Ngũ Lão với một số truyện Nôm bình dân khác.
2. Mặc dù truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão được kể theo phương thức tự
sự dân gian, nhưng truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão và 15 bản kể truyền
thuyết có dung lượng và cách thức diễn xướng khác nhau. Nếu truyền thuyết kể
về nhân vật lịch sử bằng ngôn từ như nói chuyện hàng ngày, nhiều trường hợp
câu chuyện bị ngắt quãng, không liền mạch thì truyện Nôm kể bằng ngôn từ có
vần điệu dưới dạng bằng thơ lục bát dài, liền mạch, hoàn chỉnh hơn. Hai loại diễn
xướng trên cùng hướng tới mục tiêu: khắc họa chân dung một danh tướng nổi
tiếng là Phạm Ngũ Lão theo nhận thức, tình cảm của dân gian. Truyện Nôm dân
gian khẳng định vị trí của Phạm Ngũ Lão trong lịch sử, trong lòng dân đầy đủ hơn
truyền thuyết. Ngôn ngữ bản kể truyện thơ ít nhiều có dấu ấn nghệ thuật sáng tạo
ban đầu lại được bổ sung của người kể sau nên tính nghệ thuật trong ngôn từ của
99
nó tinh lọc hơn ngôn ngữ truyền thuyết. Do đó, truyện kể bằng văn vần sẽ mang
tính toàn diện, có sức lan toả mạnh mẽ, sự hòa nhập rộng khắp vào dòng chảy văn
hóa, văn học dân tộc.
3. Trong ghi chép của chính sử, Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần
có nhiều công trạng to lớn. Trong dã sử, ông được người bình dân lưu truyền qua
các câu chuyện kể. Ông là người tiêu biểu về đức hiếu - trung, về tài - dũng - trí
của người trai thời loạn. Từ con người có thật sinh ra ở làng Phù Ủng, ông đã
được tác giả dân gian khắc họa thành hình tượng đẹp trong truyện Nôm và truyền
thuyết để đáp ứng nhu cầu tinh thần của hậu thế. Do đó, Phạm Ngũ Lão hiện lên
vừa chân thật, gần gũi, vừa thiêng liêng, kì ảo. Để rồi từ mỗi câu chuyện kể, ông
đến với nhân dân dân và sống mãi trong tâm thức của họ.
4. Việc tìm hiểu truyện kể dân gian về Phạm Ngũ Lão từ góc nhìn thể loại,
thực chất là tiếp nối công trình nghiên cứu của những người đi trước nhằm làm rõ
hơn về vẻ đẹp tinh thần của người anh hùng quê Hưng Yên - tướng quân Phạm
Ngũ Lão trên phương diện thể loại văn học dân gian. Ở bất cứ thời đại nào cũng
vậy, cuộc sống con người luôn cần hai điểm tựa là vật chất và tinh thần. Nếu sự
phát triển kinh tế hiện nay tạo nên đời sống vật chất đủ đầy thì việc phát huy các
giá trị văn hóa tinh thần trở nên cần thiết. Biển học là vô bờ nhưng những điều
thu được trong chuyên luận này luôn là bài học bổ ích về sức mạnh tinh thần dân
tộc để người hậu thế tiếp nối, phát huy truyền thống cha ông và giữ gìn bản sắc
văn hóa địa phương, vững tin trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng quê hương
Hưng Yên trở nên giầu đẹp.
5. Từ góc độ của người nghiên cứu là một giáo viên đang trực tiếp đứng
lớp, tôi thấy công trình nghiên cứu thật hữu ích. Trước hết, nhờ công trình này tôi
nắm được nguồn tư liệu bổ ích để làm tài liệu giảng dạy nhất là khi giảng dạy bài
thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và giảng dạy chương trình văn học dân gian
địa phương. Theo đó, tôi muốn đem đến cho học trò không chỉ những hiểu biết về
tướng quân Phạm Ngũ Lão trong góc nhìn của dân gian mà còn khơi dậy nơi các
100
em thái độ tự hào tôn kính đối với bậc tiền nhân.Thứ hai, thông qua công trình
nghiên cứu tôi hi vọng cung cấp thêm tư liệu cho các nhà quản lí văn hóa địa
phương để họ hiểu và có cái nhìn đầy đủ hơn về thân thế, sự nghiệp và tầm vóc
quan trọng của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Từ đó, các nhà quản lí sẽ có ý thức
tôn tạo, bảo tồn những giá trị văn hóa liên quan đến nhân vật lịch sử đồng thời
làm tốt hơn công tác giáo dục truyền thống. Luận văn này dù sao mới chỉ là kết
quả bước đầu của một người tập nghiên cứu khoa học nên còn nhiều hạn chế.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo, từ
đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh (1956): Cổ sử Viê ̣t Nam. Tạp san Đại học Sư phạm, HN. 2. Đào Duy Anh (1964): Đất nướ c Viê ̣t Nam qua cá c đờ i. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
3. Trần Thi ̣ An (2001): “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết
dân gian người Việt”, In trong sách Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Phan Kế Bính (2005): Việt Nam phong tục. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nô ̣i. 5. Phan Kế Bính ((200), Nam Hải dị nhân, Nxb Trẻ, Tp HCM.
6. Nguyễn Huy Bỉnh (2015),Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa xứ
Bắc,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái (1966),Đại Nam quốc sử diễn ca (Đinh Xuân
Lâm, Chu Thiên phiên âm, hiệu đính, chú thích và giới thiệu, Nxb Văn học,
Hà Nô ̣i.
101
8. Nguyễn Ngọc Côn (1968), “Người anh hùng nông dân trong một số truyện
cổ tích lịch sử”,Tạp chí Văn học, số 12.
9. Đoàn Văn Chúc (1997),Văn hoá học. Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nô ̣i. 10. Nguyễn Đổng Chi (1957),Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam,Nxb Văn Sử
Địa, Hà Nội.
11. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I: Dư địa chí,
nhân vật chí. Nxb Sử học, Hà Nô ̣i.
12. Phan Huy Chú(2007),Lịch triều hiến chương loại chí, tập I , NXB Giáo
dục, HN.
13. Dương Trọng Dật ( 2012), Thân dân – tư tưởng rực rỡ đời Trần, Báo Đại
đoàn kết, Số ra ngày 27/ 9/2009.
14. Chu Xuân Diên (2006),Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp luận
và nghiên cứu thể loại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.
15. Chu Xuân Diên (1989),Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học,Trường
Đại học Tổng hợp thành phố HCM.
16. Trần Tuấn Doanh, Hoàng Văn Trị, Vũ Tiến Kỳ, Đào Quang Lâm (sưu tầm
2011), Tướng quân Phạm Ngũ Lão, Nxb Lao động, 2011.
17. Nguyễn Tấn Đắc (2001): Truyện kể dân gian đọc bằ ng type và motif,Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.
18. Cao Huy Đỉnh(1998),Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
(1998), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nô ̣i.
19. Cao Huy Đỉnh (1974),Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Khoa ho ̣c xã hô ̣i, Hà Nô ̣i.
20. Cao Huy Đỉnh tuyển tập tác phẩm (2004),Nxb Lao động – Trung tâm ngôn
ngữ Đông Tây, Hà Nô ̣i.
21. Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Nghiêm Vạn (1969), Phương
pháp sưu tầm văn học dân gian ở nông thôn, Vụ Văn hoá quần chúng xuất
bản.
102
22. Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1976), Nxb
Khoa học xã hội, HN.
23. Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương - Báo Nhân Dân số ra
ngày 29-9-1969.
24. Nguyễn Thị Bích Hà(2015), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Đại học Sư phạm, HN .
25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Ph(1992), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, HN.
26. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá(1992), Từ
điển văn học, Nxb Thế giới, HN
27. Nguyễn Duy Hinh (1996),Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam,Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nô ̣i.
28. Kiều Thu Hoạch (1983),“Những đặc điểm tư tưởng của truyền thuyết
chống ngoại xâm”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3,4.
29. Kiều Thu Hoạch (2006),Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.
30. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004): Tổng tập văn học dân gian người Việt,
tập 4(Truyền thuyết), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.
31. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt,
tập 5(Truyền thuyết), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.
32. Kiều Thu Hoạch(2014), Truyện Nôm bình dân, Quyển 3, Nxb Khoa học
xã hội, HN.
33. Kiều Thu Hoạch(2011),, Truyện Nôm lịch sử hình thành và bản chất thể
loại, Nxb Văn hóa - Thông tin, HN.
34. Nguyễn Văn Hoài, Thi pháp truyện thơ Nôm tài tử giai nhân và một số tiểu
loại truyện Nôm khác nhìn từ góc độ nhân vật, cốt truyện, Tạp chí Nghiên
cứu văn học số 4 (518) tháng 4 năm 2015, Viện văn học - Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam.
103
35. Phạm Đình Hổ(2011),, Vũ trung tùy bút, Nxb Văn học, HN.
36. Đỗ Đức Hùng(2000), Danh tướng Việt Nam, Nxb Thanh niên, HN.
37. Lê Văn Hưu và các sử thần (2000), Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Văn hóa
- Thông tin, HN.
38. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên(2000), Văn học dân gian, Tập I, Nxb
Đại học và trung học chuyên nghiệp, HN.
39. Hoàng Cao Khải, (2007): Việt sử yếu. Nxb Nghệ An.
40. Vũ Ngọc Khánh(2007), Võ tướng Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, HN.
41. Vũ Tiến Kỳ ( Sưu tầm 2008), Truyện cổ dân gian Hưng Yên, Nxb Văn
hóa – Thông tin , Hà Nội
42. M.Bakhtin(1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn
Du xuất bản, Hà Nội.
43. Nguyễn Thị Ngà( 2008), Truyền thuyết và lễ hội Phạm Ngũ Lão ở Phù
Ủng – Ân Thi – Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ, Thư viện trường Đại học sư
phạm Hà Nội
44. Nhiều tác giả(2008), Tướng quân Phạm Ngũ Lão và lễ hội đền Phù Ủng,
Nxb Văn hóa - Thông tin.
45. Lê Trường Phát (2000),Thi pháp văn học dân gian,Nxb Giáo dục, Hà Nô ̣i. 46. Lê Chí Quế (chủ biên, 1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học và
Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nô ̣i.
47. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990),Lĩnh Nam chích quái. Nxb Văn học, Hà Nô ̣i. 48. Sở Văn hóa - Thông tin Hải Dương (2000), Truyện dân gian Hải Dương.
49. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam,Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nô ̣i.
50. Bùi Quang Thanh (1981), “Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh
hùng”,Tạp chí Văn học, số 3.
51. Bùi Quang Thanh (1982), “Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng
Việt”,Tạp chí Văn học, số 2.
104
52. Lã Nhâm Thìn(2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ
góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.
53. Bùi Thế Truyền( 2014), Dòng chảy kì ảo trong tiến trình văn học, Tạp chí
Văn nghệ quân đội số ra ngày 20 tháng 11 năm 2014.
54. Tạ Chí Đại Trường (2006),Thần người và đất Việt, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
55. Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Hữu Sơn, Phan Thị Đào, Võ Quang Trọng (sưu
tầm và giới thiệu 2009), Một vài vấn đề về văn học dân gian, Nxb Văn hóa
dân tộc, HN.
56. Tuyển tập V.Ia.Propp (2003), Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật.
57. UBND huyện Phù Cừ(2002), Tống Trân - Cúc Hoa, Sở Văn hoá - Thông
tin Hưng Yên ấn hành.
58. Tầm Vu (1967), “Tư tưởng chủ yếu của người Việt thời cổ qua những truyện
đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết”,Tạp chí Văn học, số 3.
59. Vũ Ngo ̣c Phan(2009), Tá c phẩm được giả i thưởng Hồ Chí Minh,Nxb
Khoa ho ̣c xã hô ̣i, Hà Nô ̣i.
60. Lý Tế Xuyên(1992), Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch, Nxb Cửu Long.
105
PHỤ LỤC
TRUYỀN THUYẾT PHẠM NGŨ LÃO
1. PHẠM NGŨ LÃO
“Ông Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, lúc còn hàn
vi thường ngồi xếp bằng tròn ở bên đường cái quan, chẻ tre đan sọt. Chợt khi ấy,
Hưng Đạo Vương kéo quân từ Vạn Kiếp về kinh. Quân tiên phong thét ông đứng
dậy, ông cứ ngồi xếp bằng tròn mà đan, hình như không nghe thấy gì. Quân lính
lấy giáo đâm vào đùi, ngọn giáo mắc vào đấy không rút ra được, nhưng ông vẫn
cứ ngồi yên. Khi võng Hưng Đạo Vương đến , Vương mới hỏi:
- Đùi nhà ngươi bị đâm như thế, sao không biết đau mà lại cứ ngồi đấy?
Ông thưa rằng:
- Tôi đương nghĩ mấy câu trong “Binh thư”, nên không nghe thấy gì cả.
Vương bèn dừng võng lại, thử hỏi binh cơ mưu lược, thì ông ứng đối trôi
chảy. Vương lấy làm lạ, cho nên xe đưa về, rồi gả con gái nuôi cho. Sau, Phạm
Ngũ Lão đi tòng quân đánh giặc Nguyên, có công, thăng lên coi quân cấm vệ.
Những kẻ vệ sĩ thấy ông là kẻ hàn vi mới hiển đạt thì lấy làm khinh, liền xin cùng
ông đấu võ. Ông cáo về nhà nghỉ vài tháng, cứ ngày ngày ra cái gò cao ở làng bên
cạnh tập nhảy, nhảy đến nỗi sạt cả góc gò. Hết hạn nghỉ rồi, ông vào triều, đấu
với các vệ sĩ. Bọn vệ sĩ 5, 6 người quần lại đấu với ông. Ông tay đấm chân đá,
nhẹ nhàng như bay. Chúng đều bị thương cả, mới xin bó tay chịu thua. Về sau,
nước Ai Lao (Lào) vào ăn cướp, đem voi bày trận xông vào, không ai chống được.
Ông được lệnh đem quân đi đánh. Ông sai chặt gốc tre vạt nhọn, dài độ vài thước,
chất cả bên đường, rồi vẫy cho quan quân lui lại, một mình xông vào đánh nhau
với giặc. Giặc thả voi ra đuổi. ông cứ xông vào lấy những đoạn tre ở bên đường
đâm vào móng chân voi. Voi đau phải lui. Trận giặc đại loạn. Quan quân xông
vào đánh vỡ tan. Ấy đều là những dật sử của ông mà không thấy chép ở trong sử.
Nay đền thờ ông ở phía Tây làng Phù Ủng, trông xuống sông. Có hai bà
công chúa được phối hưởng. Một bà là con gái nuôi Hưng Đạo Vương lấy ông
106
khi trước; một bà là con gái ông, hiệu là Tĩnh Phi, triều nhà Trần. Người đời truyền
rằng đền thờ ông làm ngay trên nền nhà cũ của ông, nguyên ngoảnh về hướng tây,
trông xuống ao, ở giữa ao có cái kim ấn nổi trên mặt nước, độ ngoài nửa dặm thì
có cái giáo dài làm hộ vệ. Sông Phù Ủng là hổ thuỷ nghịch triều,các nhà phong
thuỷ đều khen là nơi dương trạch tốt.
Đời Lê, khi mới dẹp yên giặc Cao Bằng, trong làng Phù Ủng có một quan
văn thần tên là Võ Vinh Tiến, tuổi còn trẻ đã làm nên khoa hoạn, cầm trọng binh
đốc trấn ở Cao Bằng. Những người kỳ lão ở trong làng đều ghen ghét, việc gì
cũng đè nén không cho dự. Mỗi khi làng vào đám, có lệ ăn uống thì mọi người
đều thoái thác, không muốn ngồi cùng chiếu với Võ Công. Võ Công sai đem một
trăm lạng bạc và trâu, gạo tạ lỗi. Chúng khước đi không nhận, bắt phải thân về tận
nơi. Võ Công dắt trâu, đem bạc về, luồn lọt cho được thoả lòng. Được ít lâu, cái
hiềm khích cũ đã quên dần, ông mới bàn với dân xoay miếu thần về hướng bắc,
xong đâu đấy, lập đàn chiêu hồi, rồi nhảy xuống sông mà thề rằng:
- Làng này đã coi khinh khoa hoạn thì về sau không nên có nữa.
Từ khi Võ Công mất, học trò trong làng không có mấy người đỗ đạt được
nữa. Làng mới hối hận về chỗ xử tệ với ông quá. Khoảng năm Bính Ngọ, Đinh
Mùi (1726-1727) lại xoay miếu thần về hướng tây như cũ, nhưng trong làng bị
dịch tai hại, dân không được yên, đành lại phải để về hướng bắc.
Ôi! thói chất phác đời cổ đã tàn dần, phong tục càng ngày càng kiêu bạc.
Có kẻ đi chu du rách nát cả áo khi trở về nhà, vợ với chị dâu cũng khinh. Có kẻ
gánh củi vừa đi vừa học mà bị làng xóm chê cười. Đến khi đã đeo tướng ấn sáu
nước, cưỡi xe quan Thái Thú nghênh ngang thì những kẻ khinh bạc giễu cợt khi
xưa mới lại đón rước kính trọng. Xem như bài “Chú Cẩm đường ký” của Âu
Dương đã nói, thì người đời xưa đã có cách xử về việc ấy; việc gì phải thề nguyền
nhỏ mọn để chia lỗi với kẻ hẹp hòi ấy!
[Theo Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ, 31, tr82-84].
2. TRUYỆN PHẠM NGŨ LÃO
107
Phạm Ngũ Lão là người học trò ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh
Hải Dương (bây giờ thuộc huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên), có sức khoẻ lạ thường,
muôn người không địch nổi.
Phạm Ngũ Lão mặt mũi khôi ngô, đủ cả văn võ tài lược. Nhà vốn chỉ có
nghề làm ruộng, đến Phạm Ngũ Lão mới theo nghề học nho. Mới 20 tuổi đã có
tính khảng khái. Trong làng có người tên là Bùi Công Tiến (đỗ Tiến sĩ ăn mừng)
cả làng kéo đến mừng rỡ, chỉ Ngũ Lão không thèm đến.
Bà mẹ Ngũ Lão bèn bảo rằng:
- Con làm thế nào bằng người ta thì làm. Nay người ta ăn mừng, cả làng
mừng cả, sao con không đến.
Phạm Ngũ Lão thưa rằng:
- Thưa mẹ, con chưa làm nên gì để vui lòng mẹ, mà con đi mừng người ta,
thì con lấy làm nhục lắm.Ta đừng đến nữa mẹ ạ!
Ba ngày liên tiếp, túp lều của mẹ con Phạm Ngũ Lão vẫn hàng ngày hai lần
toả khói.
Ngũ Lão tính hay ngâm thơ, thường ngâm một bài rằng:
“Ngọn giáo non sông chỉ mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”
Nhà ở cạnh đường cái, một hôm Ngũ Lão ngồi vệ đường vót tre đan sọt,
Trần Hưng Đạo từ trại Văn An vào kinh. Đội tiền vệ dẹp đường do Trần Quốc
Tảng đi trước, thấy ngáng đường, bèn lấy giáo đâm vào đùi. Ngũ Lão vấn ngồi
điềm nhiên như không. Hưng Đạo Vương đến, thấy lạ, bèn hỏi binh thư thấy ứng
đối trôi chảy. Vương sai quân lính lấy thuốc rịt vào vết đâm, rồi cho ngồi xe đem
về kinh, dâng lên vua Thánh Tôn.
Vua thấy người có sức khoẻ, lại có học thức, cho vào làm quản vệ sĩ. Các
vệ sĩ không chịu xin đấu sức. Ngũ Lão xin vâng, xin về nhà thu xếp ba tháng rồi
108
sẽ xin đấu sức và nhận chức luôn thể. Vua cho về. Ngũ Lão về nhà ra ngoài đồng,
tìm chỗ gò cao mà tập nhảy, cứ cách mười trượng chạy đến nhảy vót qua gò. Tập
luyện thành rồi, vào kinh đấu sức. Khi đấu quyền với các vệ sĩ thì không ai địch
nổi, rồi Ngũ Lão thách cả các vệ sĩ cùng ra đấu. Một mình địch nổi hàng trăm
hàng nghìn người. Thời ấy, có Yết Kiêu không phục lại xin cùng đấu nhưng cũng
bị thua Ngũ Lão. Các vệ sĩ phục. Vua thấy người kiêu dũng phong tước, cho theo
Hưng Đạo Vương. Có nhiều chến công chống Mông Nguyên, Chiêm Thành, Ai
Lao. Được phong Điện tiền nguyên suý. Khi mất, nhân dân lập đền thờ.
Ngũ Lão nguyên là bộ tướng của Hưng Đạo Vương, cho nên các đền thờ
Hưng Đạo Vương, cũng có thờ Ngũ Lão nữa.
Tục lại truyền khi Ngũ Lão hàn vi, xin với mẹ đi tìm kế lập công danh, ở
trong nước chưa có dịp mới sang ở chăn voi cho vua Ai Lao. Ngũ Lão cầm một
lá cờ đỏ dạy voi, hễ phất cờ thì voi phải quỳ xuống hết. Đến khi nghe tin giặc
Mông Nguyên sang xâm lược, theo Hưng Đạo Vương lập nhiều chiến công. Sau
này, nhờ cách chăn voi xưa mà phá được quân Ai Lao.
[Theo Nam Hải dị nhân - Phan Kế Bính; 31, tr 138 – 140].
3. NÓI VỀ SỰ TÍCH ÔNG PHẠM NGŨ LÃO.
Đời vua Nhân Tông nhà Trần, ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hải
Dương, có một người học trò nghèo, tính khí khái và có hiếu với cha mẹ. Nhân
làng có ông Bùi Công Tiến đỗ Tiến sĩ khao làng ba ngày, nhưng Ngũ Lão không
đến. Ông Bùi Công Tiến bèn gọi đến, trách rằng:
- “Sao ngươi còn bé mà khinh bạc thế?”
Người ấy nói rằng:
- Chữ rằng: “Lão ông bách tuế, bất như phượng hoàng sơ sinh” (nghĩa là:
con quạ trăm tuổi, không bằng con phượng hoàng mới sinh).
Rồi về nói với mẹ:
- Thưa mẹ ở nhà, để con đi tìm kế lập công danh.
109
Từ đó, người ấy mới sang ở với chúa nước Ai Lao, đi chăn đàn voi. Khi đi
chăn voi, người ấy lập mẹo may một chiếc áo đỏ, rồi giấu một chỗ. Lúc đem voi
đi chăn, thời mặc áo với cầm cờ, dạy những con voi phải trông theo hiệu. Hễ thấy
lá cờ phất xuống, thời đều nằm phục cắm ngà, chổng đít lên. Lá cờ phất lên, thời
đều đứng dậy.
Người ấy ở đó hai năm, dạy những con voi đều thuộc phép cả.
Chợt nghe thấy tin có giặc Ô Mã Nhi sang cướp nước Nam, Phạm Ngũ Lão
mới trốn về, đi theo ông Hưng Đạo Vương, lập nhiều chiến công, đánh dẹp nhiều
nơi, được Vương thương yêu và gả con gái nuôi, mới xin vua phong chức cho làm
quan Thánh dực quân.
Đến khi cùng vua đi đánh Ai Lao, ông bèn cầm cờ đỏ, mặc áo đỏ, phất cờ
voi đều răm rắp làm theo, quì phục, nhờ vậy bắt được chúa Ai Lao. Từ đấy, nước
Ai Lao mới chịu hàng phục triều cống nước An Nam.
Sau ông mất, vua phong cho làm “Minh giác thái vương” nghĩa là: vua lớn
sáng biết. Cho làng ông ấy tiền bạc để lập đền thờ, trải nhiều đời vẫn còn anh linh.
[Sử Nam chí dị - Trần Gia Du sưu tầm, biên soạn].
Bản khác: Phạm Ngũ Lão.
Ngày 20 -8 năm Canh Tý thứ 8, Trần Hưng Đạo đại vương mất. Vương
cùng với Trần Thời Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ
Thường, Nguyễn Thế Trực xuất thân từ môn khách, lấy văn chương chính sự nổi
danh ở đời.
Vương có khóc Hưng Đạo Vương một bài thơ:
“ Trường lạc chung thanh hướng nhất truỳ
Thu phong tan tác bất thăng bi
Cửu trùng minh giám kim dĩ hỹ
Vạn lý trường thành thục hoại chi
Vũ ám trường giang không lệ huyết
Vân đê phức đạo toả sầu mi
110
Ngưỡng quan khuê tảo từ phi dật
Ngư thuỷ tình thâm kiến vịnh thi”.
Dịch thơ:
“ Trường lạc chiêng ngân một tiếng rung
Gió thu tan tác xiết bao buồn
Cửu trùng gương sáng còn đâu nữa
Vạn Lý trường thành há đổ luôn
Mưa thâm Trường Giang tuôn lệ huyết
Mây sà đường lớn đẫm mi buồn
Ngẩng trông văn đẹp lời hay tuyệt
Cá nước tình sâu mãi mãi còn”.
4. CON ĐẺ CON NUÔI
Trong đền Kiếp Bạc ở hậu cung phía bên phải là tượng Anh Nguyên quận
chúa, vợ của tướng quân Phạm Ngũ Lão, con gái nuôi của Trần Hưng Đạo. Truyền
thuyết kể: Nàng là con gái của Đại Vương, được cha yêu quý nhất nhưng phải
giáng xuống làm con nuôi. Câu chuyện bắt đầu từ chàng trai làng Phù Ủng.
Trong một lần hành quân qua đất Phù Ủng, tiền quân của Hưng Đạo Vương
gặp một chàng trai ngồi đan sọt. Tiếng trống thúc, tiếng quân reo mà chàng không
biết, vẫn ngồi mải mê đan sọt ở giữa đường. Quân lính đến nơi đuổi, nhưng vẫn
ngồi làm việc. Một người lính lấy giáo đâm vào đùi mà chàng không hay. Người
lính quát mắng, chàng mới ngẩng lên nói: Đang mải suy nghĩ nên không biết.
Người lính bảo: giáo đâm vào đùi sao không rút ra; thì chàng đáp: Ai đâm vào thì
người ấy rút. Toán tiền binh thấy lạ vội chạy lại bẩm với Đại vương. Đại vương
Trần Quốc Tuấn lên đến nơi, nhìn tướng mạo của chàng trai đan sọt thấy khôi ngô
điềm tĩnh, Đại Vương hỏi:
- Sao thấy đại quân đi lại mà không tránh đường?
Phạm Ngũ Lão vái chào và thưa:
- Kẻ bầy tôi này vì mải suy nghĩ nên mắc tội.
111
Thấy sự lạ Đại Vương truyền rút giáo dịt thuốc và cho quân lùi ra hết. Khi
còn hai người, Đại Vương gặng hỏi:
- Chàng suy nghĩ điều gì?
Phạm Ngũ Lão thưa:
- Giặc Mông Nguyên lại lăm le đánh nước ta, tôi suy nghĩ việc nước.
Đại Vương vẻ vui mừng. Ông truyền cho chàng nhập vào đoàn quân.
Về tới Kiếp Bạc, Đại Vương hỏi chàng về binh thư, binh pháp; hỏi đâu
chàng biết đấy, trả lời sâu sắc, rành rẽ. Hỏi về kinh sách chàng trả lời làu thông.
Từ hôm ấy, chàng được giữ lại trong phủ đệ làm môn khách.
Trong một khoa thi chàng đỗ cao được phong tướng, chỉ huy đội Cấm Vệ.
Trong cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 2, chàng được giao trọng trách
chuẩn bị và chỉ huy mũi chủ công cho trận Vạn Kiếp, trận đánh lớn nhất (tập kích
cắt cầu phao trên đường rút của địch).
Chàng được Hưng Đạo Vương tin tưởng và yêu mến. Đã từ lâu, Đại
Vương muốn gả con yêu Anh Nguyên Quận chúa của mình cho chàng. Nhưng
hiềm một nỗi, nhà Trần chỉ được gả con trong dòng tộc không được lấy người
khác họ. Ý nghĩ ấy làm cho ông băn khoăn mãi.
Tới một hôm, ông gọi Quận chúa lên hỏi về chuyện riêng tư của con. Qua
chuyện trò ông biết chắc con gái mình đã yêu tướng quân trẻ ấy rồi. Ông nói:
- Quyền ban quốc tính (đổi sang họ Trần cho Phạm Ngũ Lão) là quyền của
Đức vua. Cha chỉ có quyền giáng con từ con đẻ xuống làm con nuôi, con có thuận
ý không?
Quận chúa nhìn cha đầy vẻ biết ơn rồi cúi đầu im lặng.
Mấy ngày sau lễ cưới của Phạm Ngũ Lão và Quận chúa được tiến hành.
Dân gian có câu: “Con đẻ là con nuôi, con nuôi là con đẻ” từ đấy.
[Truyền thuyết dân gian Hải Dương ]
5. PHẠM NGŨ LÃO VỚI MINH HIẾN VƯƠNG.
112
Tháng 5 năm Nhâm Tí (1312) vua Trần Anh Tông cất quân đi đánh Chiêm
Thành. Cùng đi có tướng quân Phạm Ngũ Lão và Minh Hiến Vương (huý là Uất,
con út của vua Trần Thái Tông). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ quyển 6 tờ
28b) có ghi lại một mẩu chuyện về mối quan hệ giữa Phạm Ngũ Lão với Minh
Hiến Vương trong chuyến nam chinh này:
“Ngày vua đóng ở Câu Chiêm, Minh Hiến Vương ở trong doanh trại bàn tán,
làm mê hoặc lòng quân lính. Vua giận đuổi ra khỏi dinh lại còn lệnh cho các dinh
không được thu nhận. Minh Hiến Vương bèn cùng vài chục gia đồng ra ngủ ở ngoài
đồng nội. Phạm Ngũ Lão nghe tin ấy, vội mời vào trong quân và nói với mọi người
rằng: Thánh thượng vừa qưở trách ân chúa và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt được
thì chúng rêu rao là bắt được hoàng tử, chứ có biết đâu là (hoàng tử) bị Vua qưở
trách (và đuổi đi). Ngũ Lão này thà chịu tội trái mệnh chứ không nỡ làm lợi cho
giặc. Vua nghe biết cũng không nỡ trách ông.
Minh Hiến với Ngũ Lão, tình nghĩa thì rất sâu nhưng lễ ý thì sơ sài. Minh
Hiến đến nhà Ngũ Lão, thường cùng ngồi với nhau một chiếu, khi về, (Ngũ Lão)
lại đem biếu vàng bạc, (Minh Hiến ) cần gì, Ngũ Lão cũng không hề tiếc nuối dè
xẻn, cho nên, Minh Hiến thích chơi với ông.
Vua có lần trách Ngũ Lão rằng, Minh Hiến là hoàng tử, sao nhà ngươi lại
khinh suất thế. Sau, Minh Hiến lại đến nhà, Ngũ Lão vẫn cùng ngồi như xưa, chỉ
nói rằng: ân chúa chớ đến nhà tôi nữa, kẻo Thánh thượng lại trách tôi. Nhưng
Minh Hiến vẫn lui tới thường xuyên mà Ngũ Lão cũng không đổi nết cũ. Ấy là vì
một người thì cậy của ,mà giữ lễ tiết sơ sài, một người thì ham của mà quên mất
cả phận trên dưới.
Lời bàn: Cứu Minh Hiến Vương ở Câu Chiêm, Phạm Ngũ Lão đã bộc lộ
một tầm nhìn có lẽ còn sâu sắc hơn cả vua Trần. Nhưng, mối thâm giao giữa Phạm
Ngũ Lão với Minh Hiến Vương tốt xấu ra sao, thiết nghĩ, lời bàn của sử cũ xác
đáng lắm rồi. Hoá ra giữ lễ với khách xa lạ vậy mà dễ, giữ lễ với người thân cận
113
lại khó vô cùng. Đấy là thói thường,nhưng đấy cũng là điều đáng suy nghĩ lắm
thay!
[Việt sử giai thoại - Nguyễn Khắc Thuần; 71 giai thoại thời Trần. NXB Giáo dục].
6. PHẠM NGŨ LÃO LUYỆN TẬP
Từ hôm có tin triều đình mở khoa thi võ để chọn người cầm quân cấm vệ
được truyền đi trong quân sĩ, sân trường Giảng Võ ngày đêm rầm rập bóng người
luyện tập. Riêng Phạm Ngũ Lão lại đến gặp Hưng Đạo Vương xin phép được về
quê để sửa soạn dự thi võ của triều đình. Biết Phạm Ngũ Lão là người tài trí hơn
người, Hưng Đạo Vương liền cấp cho tiền gạo và ngựa về quê và hẹn ngày trở lại
dự thi. Từ ngày Phạm Ngũ Lão cưỡi ngựa về, làng Phù Ủng bừng lên một niềm
kiêu hãnh. Dân làng rủ nhau đem tiền gạo giúp Phạm Ngũ Lão ăn để tập. Ai nấy
cho con em nô nức theo bước Phạm Ngũ Lão rèn luyện để phò vua giúp nước.
Sáng sớm tinh mơ cho đến khuya, trên bãi cỏ ven làng không mấy lúc vắng
mặt Phạm Ngũ Lão. Từ môn cưỡi ngựa bắn cung đến côn, quyền, roi, kiếm; Phạm
Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện. Chỉ còn môn cắp giáo nhảy qua tường hào,
Phạm Ngũ Lão luyện mãi vẫn chưa vừa lòng. Mấy hôm sau, được các bạn trẻ giúp
sức, Phạm Ngũ Lão đắp một cái gò đất ở ven làng để tập nhảy. Riêng việc đắp gò
cũng là dịp để Phạm Ngũ Lão tập mang nặng. Cứ ba sọt đất đầy ăm ắp, Phạm Ngũ
Lão nhấc bổng lên vai bước thoăn thoắt từ thùng đấu lên đỉnh gò, trong lúc các bạn
khác, người khoẻ nhất, chỉ mang được hai sọt. Vài ngày sau, một gò đất lớn đã nổi
lên lù lù ở ven làng. Ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm, Phạm Ngũ Lão đã có mặt ở
chân gò, từ từ chạy lên đỉnh rồi lại nhảy xuống, hoặc chống sào, nhảy qua gò. Sau
mấy ngày luyện tập, Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Nhưng
không thể dừng lại ở đây được, Phạm Ngũ Lão quyết vượt xa hơn nữa. Phạm Ngũ
Lão mặc quần dài, rồi cho đất vào ống quần, buộc túm lại để tập nhảy. Trong mấy
ngày đầu, đôi chân của Phạm Ngũ Lão như bị cắm chặt xuống đất. Thật khó khăn
mới nhấc bổng được đôi chân. Mồ hôi ướt đầm, chân tay rã rời… Nhưng dần dần
114
Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Bức tường thành sừng sững trong
sân trường Giảng Võ không có gì đáng sợ với Phạm Ngũ Lão nữa.
Và ngày thi đã tới. Dân làng bảo nhau đem xôi, rượu, thịt đến tiễn chân
chàng lên đường. Ngũ Lão từ biệt mẹ già và dân làng, rồi hăm hở lên đường trẩy
kinh dự thi.
Ngày nay, ở đầu làng Phù Ủng vẫn còn nhiều mô đất nổi lên, tương truyền
là nơi ngày xưa Ngũ Lão tập luyện: mô Đai, mô Thần đồng, mô Đồng hến, Mô
Đa đầu….[44]
7. PHẠM NGŨ LÃO BẮN ĐỨT DẢI CỜ.
Một lần, gia thần của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô đang tập bắn ở
sân trường Giảng Võ thì Phạm Ngũ Lão đi ngang qua. (Ngũ Lão lúc này lên kinh
đô đi làm gửi tiền về nuôi mẹ). Thấy vậy, chàng bèn xin Nguyễn Địa Lô cho mình
bắn thử. Địa Lô nghĩ rằng: loại cung này người thường không nâng nổi, nhưng nể
tình, cứ đưa cho Ngũ Lão thử. Chàng trai trẻ nâng cây cung, bằng một động tác
nhẹ nhàng và điêu luyện, Phạm Ngũ Lão giương cung, hướng mũi tên vào mục
tiêu cắm sẵn phía trước. Nguyễn Địa Lô hết sức ngạc nhiên. Trong khi đó, Phạm
Ngũ Lão lại quay mũi tên về hướng ngọn cờ đại đương bay phấp phới trên đỉnh
cột và nói:
- Không bắn mục tiêu cắm sẵn, tôi bắn dải cờ đang bay.
Vừa dứt lời, Phạm Ngũ Lão buông dây cung. Mũi tên rẽ gió vun vút lao đi.
Dải cờ đứt đôi. Địa Lô thấy chàng trai có tài bèn đưa vào ra mắt chủ tướng. Nhưng
nhiều người ghen ghét buộc tội dám bắn vào cờ của triều đình. Thấy chàng trẻ
tuổi nên họ tha tội cho và đuổi về bản quán. [44]
8. ANH NGUYÊN QUẬN CHÚA
Cả nước quyết tâm diệt giặc. Duy chỉ còn đội quân cấm vệ chưa tìm được
người tài năng để giao phó. Hưng Đạo Vương đi đi lại lại dọc hành lang, đứng
nhìn về phía cửa Đoan môn. Từ lâu, Đại Vương đã chú ý đến Phạm Ngũ Lão,
115
người trai nghèo làng Phù Ủng, có tài chí hơn người, song không thuộc dòng dõi
lệnh tộc.
Trong cái lặng lẽ của một đêm kinh thành, tiếng ngâm thơ của quận chúa
Anh Nguyên, con gái nuôi của Vương, từ phòng bên đưa lại nghe rõ ràng. Đại
Vương chú ý lắng nghe. Tiếng ngâm thơ trong trẻo trong thư phòng:
“Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Nghe hết bài thơ, vương rất đỗi ngạc nhiên về lời thơ trong trẻo, lưu loát,
khí phách như vậy. Bèn nhẩm lại hai câu cuối: ‘Nam nhi vị liễu công danh trái –
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.
Hưng Đạo Vương đi về phía thư phòng con. Anh Nguyên quận chúa vội
rời án thư, cúi đầu cung kính:
- Thưa vương phụ, đêm đã khuya, vương phụ còn chưa đi nghỉ.?
Đại Vương hỏi:
- Ta vừa nghe con ngâm bài thơ lạ. Thơ của ai vậy?
Anh Nguyên quận chúa, nhìn cha dè dặt:
- Thưa vương phụ, con nghe đâu bài thơ này của một người dưới quyền của
vương phụ tên là Phạm Ngũ Lão.
Hưng Đạo Vương gật đầu. Một niềm vui thầm kín thoáng hiện trên khuôn
mặt của vị Quốc công. Vương lại càng hài lòng thấy mình không nhầm khi tiến
cử người con trai có tài văn võ này. Từ lâu, vương đã có ý chọn Phạm Ngũ Lão
làm con rể. Lúc này nghĩ đến tương lai hạnh phúc của con gái yêu, vương thấy
vui vui. Nhưng nước nhà hữu sự, mọi việc riêng tư xếp lại. Hưng Đạo Vương nói
với con:
- Ngoài Phạm Ngũ Lão ra, khó có ai làm được bài thơ lập chí như vậy.
116
Anh Nguyên quận chúa lúng túng, e lệ khi nghe cha khen ngợi và nhắc đến
tên Phạm Ngũ Lão.[44]
9. MẸ NUÔI PHẠM NGŨ LÃO.
Rồi một hôm, sau buổi tập luyện, Hưng Đạo Vương truyền cho Phạm Ngũ
Lão được lệnh về quê thăm nhà và trở lại kinh thành để điều quân đi trấn giữ vùng
ải Bắc.
Trời về chiều, người nữ tỳ của Anh Nguyên quận chúa đem lại cho chàng
một phong thư và một gói nhỏ. Ngũ Lão mở ra xem. Quận chúa gửi lụa về biếu
mẹ già.
Phạm Ngũ Lão vội vã phi ngựa về quê. Sẩm tối đến nhà. Một người nho
nhỏ đang nằm trên chiếc chõng, vội và đứng dậy, cầm đèn soi. Phạm Ngũ Lão
mừng rỡ, reo lên:
- Mẹ! Mẹ!
Bà mẹ mững rỡ, luống cuống, song vẫn hỏi:
- Sao lại về hở con?
- Thưa mẹ, con về thăm mẹ.
Bà mẹ nén thở dài. Phạm Ngũ Lão thấy mẹ lo lắng, bèn hỏi:
- Nhà có chuyện gì, mẹ?
Xóm làng vẫn bình an. Song vận nước đang nguy; hay con lo lắng vì mẹ
già yếu mà ngã lòng. Nếu vậy, thà mẹ chết đi, để con khỏi lỡ việc quân cơ.
Nói xong, bà mẹ toan dùng giải yếm để buộc cổ tự tử.
Thấy vậy, Phạm Ngũ Lão hoảng hốt vô cùng. Chàng van xin mẹ hãy yên
lòng, trao cho mẹ gói quà. Rồi ngay đêm hôm đó, Ngũ Lão từ giã mẹ để có mặt ở
Thăng Long từ lúc trời chưa sáng.[44]
10. ĐÁNH GIẶC PHẠM NHAN
Năm Nhân Tôn niên hiệu Thiệu Bảo Giáp thân thứ 6 (1284), nhà Nguyên
sai thái tử Trấn Nam Vương Thoát Hoan, Bình Chương Ô Mã Nhi… lãnh binh 50
117
vạn quân giả đò mượn đường đánh Chiêm Thành, chia làm các đạo vào cứơp phá.
Rồi lại cử Nguyên soái Toa Đô đem 50 vạn binh từ Vân Nam cướp đường thẳng
tới Châu Ô Lý (đất Chiêm Thành) cướp bóc ở quanh châu Hoan (Nghệ An), châu
Ái (Thanh Hoá), tiến quân đóng ở Tây Kết, Hưng Đạo Vương lấy tư cách Quốc
công thống lĩnh quân cả nước, chọn tướng hiệu. Có vị tướng tài thì cắt đặt thống
lĩnh cơ binh. Phàm xuất quân thì cảnh tả có Hưng Nhượng vương Quốc Tảng,
cánh hữu là Phạm vương.
Khi đó quân giặc thế mạnh uy bức nhị đế (Nhân Tôn, Thánh Tôn), lướt
thuyền chạy về đông may gặp Hưng Đạo Vương, Hưng Vũ Vương cùng nối tiếp
nhau đến nghênh giá. Một lát chợt nghe trên sông cất cao lời tấu:
- Thần đi chặn hậu đường giặc, chém được đầu hai tướng giặc, dám xin
dâng báo công thắng trận. (Đế) nhìn ra thấy vương còn đương trên mình ngựa,
cầm ngang giáo dài treo đầu 2 tướng giặc. Lại tâu rằng: “Quân giặc lại tiến đuổi,
may được Hưng Nhượng Vương cùng với thần xông tới giết quá nửa quân số,
xin quân phụ đừng sợ”. Nhị đế khen ngợi mãi không thôi.
Ô Mã Nhi mỗi lần tiếp chiến với vương đều không địch nổi rồi lại bị các
đạo quân tiến đánh, quân giặc tan vỡ. Thoát Hoan theo Lô Giang chạy trốn. Nhị
đế chạy đuổi đến Đại Mang rồi đánh bại giặc ở Tây Kết, chém Toa Đô lấy thủ
cấp. Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền lẻ chạy thoát ra biển. Xa giá trở về kinh
đô.
Năm Đinh Hợi, niên hiệu Trùng Hưng thứ 3 (1287), quân Nguyên sai bọn
Bình Chương Ô Mã Nhi lại đem 50 vạn quân xâm lược phương Nam cùng với
Trấn Nam Vương Tiết chế có Nguyễn Bá Linh, cha là người Bắc quốc (Tàu), mẹ
là người Đông Triều Nguyễn Thị Nông nằm mộng thấy cùng với giao long giao
hợp sinh ra Linh, mặt non răng trắng, lồi lên tròng mắt màu vàng. Mã Nhi lại đến
đánh, Bá Linh nguyện làm tiên phong (cho giặc), tay cầm linh côn, xông vào
đánh như hổ dữ. Hưng Đạo Vương cho rằng hắn uy mãnh có tà thuật liền sai
vương vào trận. Vương mắng lớn: Mày là loài giặc chó má, đáng chém nhiều
118
lần. Bá Linh rất giận, chuyển côn đánh vương. Vương mải đánh đến tối không
phân thắng bại. Hưng Nhượng Vương đến trợ chiến. Ô Mã Nhi cũng phi ngựa
xông vào. Quân của vương bèn lui. Sau nhờ Hưng Đạo Vương dùng thần kiếm
cầm giữ được Bá Linh. Linh đã chịu bị bắt giữ. Vương ra lệnh giết đi. Mấy lần
giết không chết. Hưng Đạo Vương liền xuất thần kiếm, tinh kiếm toả ra, đầu Linh
rơi xuống đất. Linh lúc sắp bị hành hình hỏi rằng: trao cho tôi chức gì, món ăn
gì? Hưng Đạo vương giận nói: Cho ăn huyết hôi của sản phụ. Sau khi Linh chết,
hoá thành hồn Phạm Nhan. Mỗi khi sản phụ bị hoạn nạn cầu đảo ở đền, vương
liền đánh bắt hắn hàng phục và đuổi đi. [44]
11. TRUY KÍCH THOÁT HOAN
Lần thứ ba trên đất nước Đại Việt anh hùng, vó ngựa viễn chinh của giặc
Mông Cổ bị quật gẫy.
Thoát Hoan lo lắng, về đội quân của hắn liên tiếp bị thất bại, cùng với khí
hậu nóng bức, ẩm thấp, lương hết , quân mệt; định rút quân về.
Thoát Hoan hỏi viên bộ tướng:
- Trên đường ta rút, liệu có gặp trở ngại gì không?
Viên tướng thân cận trả lời:
- Tâu đại vương, tiền quân của Hữu thừa A-bat-xích báo về: trên đường
phía tây ải Chi Lăng, có quân mai phục của Phạm Ngũ lão.
Thoát Hoan nghe đến tên Phạm Ngũ Lão, hắn chột dạ, nhớ đến trận giao
chiến ở Chương Dương và lần thất bại trước (phải chui vào ống đồng mới thoát
chết). Hắn vội ra lệnh:
Giao cho Tích-đô-nhi dẫn một cánh quân rút theo đường phía tây, còn ta
dẫn đạo quân theo đường phía đông qua Nội Bàng hẹn cùng gặp ở Tư Minh.
Hắn muốn đẩy cho bộ tướng đương đầu với viên tướng họ Phạm, còn hắn
rút an toàn. Nhưng đã nhầm. Suốt dọc đường từ ải Nội Bàng đến ải Nữ Nhi, quân
ta đã mai phục nhưng nơi hiềm yếu để chờ giặc.
119
Phạm Ngũ Lão cùng quân lính huấn luyện, lúc rảnh rỗi thì dạy họ hát trống
quân. Nay ngài thông báo tình hình và chia quân ra các nơi hiểm yếu phục chờ
giặc.
Quân Thoát Hoan từ từ rút, khi cánh quân cuối cùng lọt vào đất Nội Bàng,
thì một tiếng pháo lệnh vang lên. Hàng loạt mũi tên tẩm thuốc độc được bắn ra từ
các lùm cây; quân lính gươm giáo xông lên. Ngọn cờ đại, mang chữ “ Phạm” phấp
phới tung bay trên cửa ải. Thoát Hoan hốt hoảng, quân bị tiêu diệt, tướng bị
thương; quân lính tan tác, đại bại.
Thoát Hoan phải trà trộn vào đám tàn quân tan tác, tơi tả trốn về nước, từ
bỏ ý định xâm lược Đại Việt.
Đây là lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng, đoàn quân viễn chinh của giặc
Mông Cổ bị đánh khỏi đất Đại Việt. [44]
12. CHỮA BỆNH CỨU NGƯỜI
Có nhà giàu ở Cẩm Giàng chỉ có một con trai bị bệnh lên đậu, gần chết,
chợt thấy một bậc cao niên nói rằng: “Ta sẽ chữa cho”. Liền sai lấy một cái nong
đựng đầy bùn ao, đặt đứa trẻ nằm sấp lên trên, một lát sau giở ra xem thì thấy
nốt đậu thoát ra rất tốt. Phú ông vui mừng nói: Ông từ đâu tới? – Tôi là người
Phù Ủng, ngôi nhà ngói dài ở thẳng hướng Bắc là nhà tôi. Rồi từ biệt ra đi. Sau
đó phú ông hỏi thăm để đến tạ lễ. Khi đến bản từ thì bất giác kinh hoàng mới
biết đó là nơi đại vương thần hoá…
Hàng năm cứ lấy ngày 5-5 đem tất cả gia tộc đến chiêm bái. Con cháu phú
ông đến nay có tới vài trăm xuất đinh.[44]
13. TRỪNG TRỊ KẺ BÁNG BỔ THẦN LINH
Có viên học chính Hải Dương họ Cát tên Văn Tuỵ. Một ngày nóng bức
qua bản từ đòi trải chiếu ngồi nhiều lần. Lý trưởng nói rằng: Chỉ còn chiếc chiếu
trải thờ ngài. Cát quân giận, đánh lý trưởng vài chục roi rồi lên đường về Bình
Giang, im lìm như người ngây. Phủ thủ hỏi biết rõ lí do, thân đến bản từ cầu đảo
thay. Nhưng cuối cùng Cát quân cũng bị bệnh mà chết. [44]
120
14. ĐẦU THAI KIẾP KHÁC
Xét gia phả họ Nhữ kể về Thái phó Nhữ Công mộng thấy sao Thái Bạch
rơi vào lòng, nuốt lấy. Mẹ là Lâm thị đêm đi qua miếu Phù Ủng nghe có tiếng
nói: Đợi ta với. Trở về nhà mang thai, 12 tháng lâm bồn. Thái phó đêm đang xem
sách nghe gõ cửa ba tiếng, có tiếng nói rằng: Nguyện làm con tướng công. Hỏi:
Bao nhiêu năm? Ba lần nói: 70 năm. Bèn mở cửa, thấy có bóng đen lọt vào, một
lát thì sinh ra ông, đặt tên là Đình Toản, văn võ gồm tài. Đỗ tiến sĩ hội nguyên
năm Vĩnh Trị triều Lê, làm quan đến Trụ quốc thượng tướng quân, ông khi làm
Tham tụng ở trên vai phát sinh một cái nhọt, trải qua một năm không bớt. Khi
đó, ngươì và vật đất Phù Ủng cũng không được yên ổn, mưu tính cầu đảo thần.
Ông từ giữ đền, chợt ứng tiếng rằng: thần đã là quốc công làng Hoạch Trạch rồi.
Người trong xã đến tâu lại với công. Công nói: Đền thần bị dột mái, giọt nước
mưa phạm phải tượng thần. Người trong làng trở lại đền xem kỹ vai tượng thì
quả là có 2 giọt mồ hôi điểm trên vai tượng tròn như gương. Liền lập tức lợp sửa
lại mái, tắm rửa vai tượng , dân xã và công bệnh tật đều giảm bớt.
Ngày công trở về làm thần ở làng Phù Ủng, hốt nhiên có ánh lửa sáng vọt
lên nghe như có tiếng rầm rĩ. Đêm đó gió mưa nổi lên từ Hoạch Trạch đến Phù
Ủng suốt dọc đường lúa tẻ, lúa nếp đều rạp hết, cây cối gãy đổ, mọi người đều
biết là công lại hiển thần (thần trở về Phù Ủng). Đến nay đền miếu vút cao, uy
linh hiển hách, cầu mưa đảo hạn giúp nước an dân nhất nhất đều linh ứng nghìn
năm như một. Trải qua các triều được sắc phong Thượng đẳng thần. Hoàng triều
năm Minh Mạng thứ 4 (1824) được ban sắc cho thần được tòng tự (thờ theo) ở
miếu thờ các vị đế vương của triều đại để được khắp thiên hạ ngưỡng vọng uy
linh. [44]
15. THUỶ TINH PHU NHÂN
Thần tích đình Châu (Thanh Liêm – Hà Nam) kể lại như sau:
121
Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.
Ông là người có chí lớn luôn suy nghĩ về đất nước. Trong một lần Trần Hưng Đạo,
từ Vạn An về kinh, quân lính đi trước dẹp đường, ông mải suy nghĩ đến nỗi giáo
đâm vào đùi mà không hay biết. Thấy chuyện lạ, Trần Hưng Đạo đến gần hỏi
chuyện. Biết ông có chí khí lại tinh thông văn võ, Trần Hưng Đạo sung ông vào
quân đội, tiến cử ông và còn gả con gái nuôi cho ông.
Phạm Ngũ Lão là một tướng tài của nhà Trần, ông có công lớn trong hai
cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên, có sáng kiến dùng gậy đâm vào chân voi,
phá tan đại binh của quân Ai Lao, rất có công trong các trận đánh Chiêm Thành.
Một lần trên đường đi đánh Chiêm Thành, khi hành quân qua sông Hát trên đất
Kiện Khê, ông đã đem lòng yêu thương một cô gái trẻ, con nhà thuyền chài hàng
ngày giúp cha mẹ thả lưới buông câu, là cô gái đẹp lại có trí thông minh hơn người
nên được Ngũ Lão cưới làm vợ. Người vợ trẻ quen sông nước này đã giúp ông rất
nhiều trong việc quân và được ông hết lòng yêu quý.
Khi Phạm Ngũ Lão mất, ông được hưởng ân điển quốc tang, bãi chầu 5 ngày,
những nơi thờ ông được xây dựng rất uy nghiêm, to lớn. Đến thời vua Minh Mệnh
năm thứ 6 (1823), ông còn được phụng thờ vào các đền thờ của vua Trần như Hưng
Đạo Vương. Tại thôn Châu, thị trấn Kiện Khê (Thanh Liêm - Hà Nam) có một ngôi
đình thờ ông rất lớn, bên cạnh đó, lại có đền nhỏ sát chân núi thờ ông cùng với
Thuỷ Tinh phu nhân (Vua Bà), người vợ đất Kiện Khê của ông.
Ngày nay, đình chùa Châu còn thờ năm vị: (Đức Cao Sơn, Phạm Ngũ Lão,
Thuỷ Tinh phu nhân, Bạch Hoa công chúa và Thành hoàng bản Cảnh), nổi tiếng
linh thiêng. Có đôi câu đối do vua Trần Dụ Tông thăm và đề ở đền:
“Tự tích tương truyền long ngư nguy nhiên song miếu trĩ
Chí kim vĩnh lại hồng ân phổ cập vạn gia xuân”
Dịch nghĩa: Xưa có vua về thăm có hai ngôi đền to đẹp, mãi đến nay nhờ
ân đức mà mọi nhà được no ấm vui tươi.
và có bức câu đối nơi thờ vợ ngài (Vua Bà):
122
“Phù Ủng tiên sinh văn võ tướng
Giang hà địa xuất thánh tiên nhân”
Dịch nghĩa: Quan võ sinh ở đất Phù Ủng ,người vợ là tiên thánh ở nơi sông
nước này. [44]