ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

VŨ THẢO VÂN

TRUYỆN KỂ DÂN GIAN PHẠM NGŨ LÃO Ở

HƯNG YÊN TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

VŨ THẢO VÂN

TRUYỆN KỂ DÂN GIAN PHẠM NGŨ LÃO Ở

HƯNG YÊN TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Huy Bỉnh

Thái Nguyên - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự

hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Huy Bỉnh – Cán bộ Viện Văn học, Viện

Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích dẫn tài

liệu của luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2017

Tác giả

ii

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Huy Bỉnh – người đã tận

tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn.

Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, khoa Văn – Xã hội và

phòng Đào tạo, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện

thuận lợi cho em trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Tôi xin cám ơn Ban Giám hiệu trường THPT Chuyên Hưng Yên đã quan tâm

và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong

quá trình học tập và thực hiện công trình nghiên cứu này.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017

Tác giả

iii

MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1.Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2

2.1. Phạm Ngũ Lão được ghi chép trong thư tịch lịch sử và văn hóa ................... 2

2.2. Các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão .............................................. 7

3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu ..................................................................... 10

3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 10

3.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 10

4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 11

4.1. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 11

4.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 11

5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 12

PHẦN II: NỘI DUNG ....................................................................................... 13

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN,TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

............................................................................................................................. 13

1.1.Cơ sở lí luận .................................................................................................. 13

1.1.1. Khái niệm “Truyện kể dân gian” .............................................................. 13

1.1.2. Khái niệm “Truyền thuyết dân gian” ........................................................ 13

1.1.3. Khái niệm “Truyện Nôm” ......................................................................... 15

1.1.4. Vấn đề thể loại ........................................................................................... 17

1.2. Tổng quan đề tài nghiên cứu ........................................................................ 19

1.2.1. Khái lược về vùng đất Hưng Yên và làng Phù Ủng ................................. 19

1.2.2. Vài nét về Phạm Ngũ Lão ......................................................................... 23

1.2.3. Mối liên hệ giữa truyền thuyết Phạm Ngũ Lão với truyện Nôm khuyết

danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão ....................................................................... 29

CHƯƠNG II:TRUYỀN THUYẾT PHẠM NGŨ LÃO Ở HƯNG YÊN ...... 32

2.1. Đặc điểm nội dung truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ........................................ 32

iv

2.1.1. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh thời đại hào khí Đông A ........... 33

2.1.2. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ngợi ca vị tướng bình dân......................... 40

2.1.3. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh tư tưởng thân dân, trọng dụng

nhân tài của vương triều Trần ............................................................................. 46

2. 2. Đặc điểm nghệ thuật truyền thuyết Phạm Ngũ Lão .................................... 52

2.2.1. Nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo ............................................................... 52

2.2.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật ................................................ 59

CHƯƠNG III: TRUYỆN NÔM KHUYẾT DANH TƯỚNG QUÂN PHẠM65

NGŨ LÃO ........................................................................................................... 65

3.1. Đặc điểm nội dung truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão ..................... 65

3.1.1. Tác phẩm tái hiện cuộc đời, sự nghiệp của tướng quân Phạm Ngũ Lão .. 65

3.1.2. Tác phẩm ca ngợi thiên tài quân sự Phạm Ngũ Lão ............................... 73

3.1.3. Tinh thần yêu nước trong truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão ........ 81

3. 2. Đặc điểm nghệ thuật của truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão ............ 85

3.2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................ 85

3.2.2. Sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình ............................................................ 89

PHẦN III: KẾT LUẬN .................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 100

1

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Truyện kể dân gian lưu giữ ký ức lịch sử, văn hóa cộng đồng, thể hiện đời

sống tinh thần nhân dân lao động. Truyện kể dân gian mang dấu ấn văn hóa vùng

miền. Vì vậy, mỗi vùng miền với dân cư và môi trường sinh hoạt khác nhau sẽ hình

thành những mảng truyện kể dân gian không giống nhau. Trong truyện kể dân gian,

ta có thể tìm thấy các thành tố văn hóa như phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn

giáo, lời ăn tiếng nói, khát vọng của cộng đồng... tất cả hòa hợp trong loại hình

nghệ thuật do nhân dân sáng tạo. Truyện kể dân gian còn là tấm gương phản ánh

đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân qua từng bước đi lịch sử, trong đó dấu ấn

lịch sử mang màu sắc thời đại chống ngoại xâm và chân dung những anh hùng dân

tộc được khắc họa khá rõ nét.

Truyện kể dân gian về tướng quân Phạm Ngũ Lão lưu truyền ở Hưng Yên

gồm hai thể loại là truyền thuyết và truyện Nôm khuyết danh. Ở hai thể loại này,

hình tượng nhân vật Phạm Ngũ Lão vốn là danh tướng của triều Trần - người đã

có công trong sự nghiệp đuổi giặc Nguyên -Mông giữ yên bờ cõi Đại Việt được

hiện lên với tài chỉ huy của một dũng tướng. Ông cùng đội quân nhà Trần lập

nhiều những chiến công hiển hách.

Trong lịch sử dân tộc, Phạm Ngũ Lão không thuộc về dòng dõi hoàng thân

quốc thích. Ông là một người xuất thân thuộc tầng lớp bình dân nhưng là người

dũng lược, có tài cầm quân đã xây dựng lên đội quân "phụ tử chi binh" mỗi lần ra

trận là đánh thắng kẻ thù. Ông được triều đình nhà Trần vị nể, tướng sĩ và nhân

dân kính trọng. Tên tuổi Phạm Ngũ Lão chẳng những được các sử gia phong kiến

chép trong chính sử mà được dân gian lưu truyền trong dã sử. Cuộc đời, sự nghiệp

của Phạm Ngũ Lão trở thành huyền thoại trong dân gian vùng đất Hưng Yênbằng

sự ngưỡng mộ, tôn vinh của nhân dân.

2

Trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân vùng đất Hưng Yên, Phạm

Ngũ Lão được ngưỡng mộ là người anh hùng xả thân vì sơn hà, xã tắc, ông trở

thành vị thần hộ mệnh của nhiều cộng đồng làng xã. Hiện nay, ở đền Phù Ủng

thuộc xã Phù Ủng - nơi ông sinh ra và đình Đỗ Xuyên,xã Hoàng Hoa Thám, huyện

Ân Thi vẫn còn đền và đình thờ, hàng năm tổ chức lễ hội với nghi thức trang trọng

để tôn vinh ông.

Vì nhiều lí do khác nhau, các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão trước

đây thường đề cập nhiều tới tài năng quân sự, mối quan hệ ảnh hưởng của ông đối

với quan quân nhà Trần, hoặc nhắc đến những bài thơ rừng rực hào khí Đông A.

Cho đến nay, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu truyện kể dân gian

Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên một cách hệ thống, toàn diện tương xứng thân thế,

sự nghiệp và tầm vóc của ông trong lịch sử.Xuất phát từ những lí do trên, chúng

tôi lựa chọn thực hiện đề tài Truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên tiếp

cận từ góc độ thể loại nhằm làm rõ đặc điểm nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa

truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão trong đời sống văn hóa cộng đồng cư dân Hưng

Yên.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Phạm Ngũ Lão được ghi chép trong thư tịch lịch sử và văn hóa

Từ một chàng trai nghèo Phù Ủng, mồ côi cha nhưng với ý chí, nghị lực,

Phạm Ngũ Lão đã trở thành Điện súy thượng tướng quân (chức võ quan, hàm

tướng cao nhất của quân đội Đại Việt trông coi cấm quân của triều đình). Do đó,

những ghi chép thành văn đầu tiên về thân thế, sự nghiệp Phạm Ngũ Lão chủ yếu

được ghi dấu ấn ở khía cạnh lịch sử (chính sử) trong các bộ sử cổ như: Đại Việt

sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên thế kỉ XV, Trần triều đại sử kí, Đại Việt sử kí tiền

biên - Ngô Thì Sĩ thế kỉ XVII- XIX, Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy

Chú (1821), Việt sử yếu – Hoàng Cao Khải(1914), Khâm định Việt sử thông giám

cương mục – Quốc sử quán triều Nguyễn(1859).

3

Các cuốn sách trên đều ghi chép về công trạng của Phạm Ngũ Lão bên

cạnh những sự kiện của các triều triều Trần và các nhân vật lịch sử khác thời đó.

Đặc biệt, tác giả của sách Đại Việt sử kí toàn thư , Lịch triều hiến chương loại chí

và Đại Việt sử kí tiền biên có cái nhìn khách quan về công lao của ông cùng quân

dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần 2, lần 3, dẹp giặc

Ai Lao, Chiêm Thành và dẹp nội loạn…(vào thế kỷ XIII – XIV) cùng những sắc

phong và ân điển của triều Trần dành cho ông sau những công lao, sự nghiệp hiển

hách đó. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có chép: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng

quân ngũ nhưng rất thích đọc sách ngâm thơ, là người phóng khoáng, có chí lớn,

thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ bị . Nhưng quân ông chỉ huy,

thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng ”[38, tr162]. Ở một chỗ khác, sử gia Ngô

Sĩ Liên viết: “ Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Đại Vương

thì học vấn tỏ ra ở bài Hịch tướng sĩ, Phạm điện súy thì học vấn biểu hiện ở câu

thơ. Không chỉ có chuyên về nghè võ thế mà dụng binh lại tinh diệu, hễ đánh là

thắng đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không ai vượt nổi các ông ” [38,

tr 162]. Trong Lịch triều hiến chương loại chí , Phan Huy Chú đã viết về ông:

“Phạm Ngũ Lão có tài múa giáo làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn

danh dự, tiếng tăm rõ rệt. Tóm lại, đều không hổ là bậc nguyên thần” [11, tr 374].

Sách Khâm định Việt sử Thông cương giám mục có chép “Ngũ Lão theo Quốc

Tuấn đi đánh giặc Nguyên có công lớn nên có lệnh bổ dụng ”[ tr 240].

Trước đây, sự tích về vị danh tướng thời Trần xuất thân từ làng Phù Ủng

từng được chép lại trong Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính và Tang

thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Sử Nam chí dị của Trần

Gia Du. Các tác phẩm đều kể về giai thoại ông ngồi đan sọt mải suy nghĩ việc

nước nên bị quân lính của Hưng Đạo đại vương đâm giáo vào đùi mà không hay,

ông được nhà vua cho cai quản vệ sĩ nhưng họ không phục nên xin phép về nhà

ba tháng để luyện tập rồi quay trở lại kinh đô xin thi đấu, ông dùng cọc tre vót

nhọn đâm vào chân voi khi đánh giặc Ai Lao...Sau này, theo công bố của các nhà

4

sưu tầm văn hóa dân gian, số lượng truyện dân gian kể về Phạm Ngũ Lão khá

phong phú. Trong Truyện cổ dân gian Hưng Yên (do nhà nghiên cứu Vũ Tiến Kỳ

đã sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn giới thiệu) có 6 bản kể gồm Ông Phạm Ngũ

Lão, Truyện Phạm Ngũ Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão, Con đẻ con nuôi,

Điện súy Phạm công hiển ứng, Đầu thai đẻ con tiến sĩ thuộc nhóm truyền thuyết

Phạm Ngũ Lão.

Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Tập 5 - phần tuyển chọn Truyền

thuyết dân gian người Việt đã tập hợp 4 truyền thuyết về tướng quân Phạm Ngũ

Lão ghi lại cuộc đời, sự nghiệp, phẩm chất cao đẹp của ông và mối tình giữa ông

với quận chúa Anh Nguyên như Con đẻ con nuôi, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ

Lão, Truyện Phạm Ngũ Lão, Phạm Ngũ Lão.

Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Ngà khi thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ

tại khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội đã sưu tầm được một số bản truyền

thuyết về Phạm Ngũ Lão như: Phạm Ngũ Lão luyện tập, Phạm Ngũ Lão bắn đứt

dải cờ, Anh Nguyên quận chúa, Mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão, Đánh giặc Phạm Nhan,

Truy kích Thoát Hoan, Thủy Tinh phu nhân.

Như vậy, ở thể loại truyền thuyết, chúng tôi khảo sát và thống kê được 15

bản kể về danh tướng Phạm Ngũ Lão hiện được sưu tầm và công bố trong các

công trình khác nhau. Tuy số bản kể không nhiều nhưng với một vị tướng xuất

thân từ tầng lớp bình dân thì số lượng như đã nêu ở trên là tương đối phong phú.

Nếu ta so sánh ông với những nhân vật anh hùng nông dân ở thời Trần xuất thân

từ tầng lớp bình dân như Dã Tượng, Yết Kiêu, Nguyễn Địa Nô… hay các vị tướng

quân xuất thân từ quý tộc như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản thì 15 bản kể

không phải là ít. Trong lần điền dã tại làng Phù Ủng, xã Phù Ủng huyện Ân Thi,

Hưng Yên (ngày 3 tháng 9 năm 2016), chúng tôi được nghe ông Vũ Đình Viên

68 tuổi sống tại xóm Bờ Đê làng Phù Ủng kể cho nghe một số truyền thuyết về

Điện súy Phạm Ngũ Lão như Sự tích ông Phạm Ngũ Lão, Đầu thai đẻ con tiến sĩ,

5

Con đẻ con nuôi, Chữa bệnh cứu người… với tất cả sự hứng khởi và tự hào. Theo

ông và một số cụ cao niên trong làng, các cụ trong Ban quản lí di tích đền Phù

Ủng, tất cả các truyền thuyết nói trên có từ rất lâu. Bất cứ ai ở làng Phù Ủng đều

biết và có thể kể các câu chuyện trên về người trai làng đan sọt đánh giặc lập công,

sau trở thành vị tướng có công với nước. Điều đó chứng tỏ xung quanh con người

có thật nơi đây, dân gian đã đan dệt bao nhiêu câu chuyện bởi cuộc đời vị danh

tướng, người con quê hương ấy đẹp như huyền thoại.

Nhìn từ phương diện phân chia tiểu loại cho thấy, truyền thuyết về nhân vật

Phạm Ngũ Lão là truyền thuyết lịch sử. Ông từ một người nông dân bình thường,

chân lấm tay bùn như bao người khác đã bước vào lịch sử quân sự, lịch sử văn

học, văn hoá nước nhà một cách tự nhiên. Ông không chỉ được tôn vinh qua

những ghi chép trong chính sử mà còn được dân gian ca ngợi qua những câu

chuyện đậm tính chất folklore.

Bên cạnh các bản kể truyền thuyết, năm 2011, nhóm tác giả Trần Tuấn

Doanh, Hoàng Văn Trị, Vũ Tiến Kỳ, Đào Quang Lâm công bố tác phẩm Tướng

quân Phạm Ngũ Lão - truyện thơ khuyết danh - Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam

thẩm định, trao giải. Truyện gồm 2074 dòng thơ, trong đó có 2062 dòng lục bát

kể lại cuộc đời, sự nghiệp của tướng quân Phạm Ngũ Lão, dũng tướng triều Trần

có công đánh giặc Mông - Nguyên.

Truyện thơ Tướng quân Phạm Ngũ Lão xuất hiện muộn hơn truyền thuyết.

Nếu truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão mới được sưu tầm, ghi chép từ thế kỷ XX

do nhóm các nhà sưu tầm nghiên cứu dân gian là Trần Tuấn Doanh, Hoàng Văn

Trị, Vũ Tiến Kỳ, Đào Quang Lâm công bố năm 2008, in thành sách năm 2011.

Các nhà sưu tầm cho biết: Tiền thân của tác phẩm vốn là những đoạn thơ lẻ được

các cụ già đọc kể cho con cháu nghe về tướng quân Phạm Ngũ Lão. Cụ Trần Tuấn

Doanh (1923 - 2007) quê thôn Tạ Hạ, xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh

Hưng Yên đã sưu tầm, chép tay các đoạn thơ lẻ về Phạm Ngũ Lão qua lời kể của

6

các nhà giáo, các cụ cao niên. Sau đó, tài liệu này được chuyển giao cho cụ Hoàng

Văn Trị (? - 1998) quê ở thôn Thanh Sầm xã Đồng Thanh, huyện Kim Động,

Hưng Yên sưu tầm tiếp. Cụ Trị vừa sưu tầm, vừa ghép các đoạn thơ lẻ lại như một

khung câu chuyện bằng thơ kể về cuộc đời Tướng quân Phạm Ngũ Lão. Tuy

nhiên, bản kể của cụ Trị mới được 1000 câu chưa hoàn chỉnh. Dựa vào kết quả

những gì cụ Doanh, cụ Trị sưu tầm, ghi chép, năm học 1978 - 1979, ông Vũ Tiến

Kỳ cùng một số giáo sinh lớp Văn - Sử - Trường Trung cấp Sư phạm 10 + 3 Hưng

Yên trong đợt thực tập, thực tế tại Phù Cừ và Kim Động đã sưu tầm được một số

đoạn kể quan trọng về tướng quân Phạm Ngũ Lão. Năm 2006 - 2007, ông Vũ Tiến

Kỳ và ông Đào Quang Lâm - hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Hưng Yên cùng

thực hiện đề tài Sưu tầm văn học dân gian tỉnh Hưng Yên đã tiếp tục sưu tầm bổ

sung tư liệu, thẩm định những ghi chép của người đi trước, cộng với với kết quả

do mình thu được, sắp xếp lại thành một bản kể hơn 2.074 dòng thơ. Công trình

này có mặt trong đề tài khoa học Sưu tầm văn học dân gian tỉnh Hưng Yên do

Viện Khoa học phát triển nhân lực kinh tế và văn hóa phối hợp với Hội Văn học

- Nghệ thuật Hưng Yên thực hiện năm 2008. Năm 2010, ông Vũ Tiến Kỳ bỏ công

hiệu đính, bổ sung chú thích thành bản kể tác phẩm Tướng quân Phạm Ngũ Lão

truyện thơ khuyết danh. Tác phẩm được Văn phòng Dự án công bố phổ biến tài

sản văn hoá văn nghệ dân gian Việt Nam xuất bản, Nhà xuất bản Lao Động ấn

hành năm 2011 có bổ sung lời giới thiệu do Vũ Tiến Kỳ chấp bút và phần phụ lục

gồm hai bài thơ của Phạm Ngũ Lão và một số bản kể về tướng quân Phạm Ngũ

Lão.

Không chỉ được ghi chép trong chính sử, thân thế, sự nghiệp của Phạm Ngũ

Lão còn được ghi chép trong những tài liệu khác: bia ký, thần tích, sắc phong,

hoành phi, thơ, văn tế, câu đối… ở đền Phù Ủng – nơi thờ ông. Ở đây, hiện còn

lưu giữ 18 đạo sắc phong từ thời Trần đến thời Nguyễn.). Các đạo sắc phong có

từ thời Trần (Nhân Tông, Anh Tông, Hiến Tông), đời Lê và đạo sắc phong cuối

cùng đời Tự Đức năm thứ 33, ngày 24 tháng 11.

7

Trong Ngọc phả đền Phù Ủng - Vũ Huy Thịnh đã ghi chép tỉ mỉ về truyền

thuyết, công lao, sự nghiệp, phẩm chất, sắc phong, thơ, văn tế, câu đối… về vị

tướng người làng Phù Ủng Phạm Ngũ Lão, trong đó có cả việc sau khi hóa, ngài

đầu thai vào nhà họ Nhữ (thái phó Nhữ Công ở Hoạch Trạch - Hải Dương).

Người đời sau đã cảm kích về công đức của Phạm Ngũ Lão mà làm thơ ca

ngợi ngài. Tiêu biểu có Phạm Quý Thích (sống cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX)

- người cùng huyện với ngài có bài thơ đề ở đền, trong đó có câu: “Tam triều sự

nghiệp dư biên tại/ Vạn cổ giang sơn nhất sáo hoành”. Câu thơ có nghĩa là: (Sự

nghiệp ba triều trong sử sách còn chép/ Non sông muôn thủa một ngọn giáo cầm

ngang). Lễ hội đền Phù Ủng - Ân Thi – Hưng Yên tổ chức ngày 11 tháng Giêng

hàng năm – tương truyền ngày Phạm Ngũ Lão xuất quân đánh giặc cứu nước, với

quy mô khá lớn.

Có thể nói, do điều kiện lịch sử, xã hội… nên việc tìm hiểu về Phạm Ngũ

Lão mới chỉ ở mức ghi chép, bình luận (về công lao, sự nghiệp, phẩm chất, tính

cách…của ông) mà chưa có sự khảo cứu hệ thống, chi tiết nhưng đây cũng là cơ sở

khoa học quý giá để chúng ta tìm hiểu đầy đủ hơn về nhân vật này.

2.2. Các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão

Năm 1995, Nguyễn Hùng Xướng - sinh viên trường Đại học tổng hợp Hà

Nội đã làm khóa luận tốt nghiệp với đề tài Lễ hội Phù Ủng và người anh hùng

Phạm Ngũ Lão. Tác giả miêu tả lễ hội Phù Ủng gắn với việc thờ người anh hùng

Phạm Ngũ Lão có công với dân làng, đất nước.

Năm 1999, tác giả Đỗ Đức Hùng trong cuốn sách Danh tướng Việt Nam

tập 1 đã tập hợp tư liệu về những vị tướng tài ba, những nhà chỉ huy quân sự xuất

sắc trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Theo tác giả, nếu Hưng Đạo đại vương được

ghi nhận là trụ cột triều Trần, có công lớn nhất trong cuộc kháng chiến

chốngNguyên - Mông thì dưới trướng của ngài có Phạm Ngũ Lão - một tướng

lĩnh tài ba, giỏi cầm quyền, hay chữ nghĩa.

8

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh trong Võ tướng Việt Nam (xuất bản năm

2002), sau khi điểm lại những sự kiện về chiến công của Phạm Ngũ Lão đã hết

lời khen ngợi ông trị quân có kỷ luật, đối đãi với tướng sĩ như người nhà, cùng

với quân lính đồng cam cộng khổ…

Năm 2002, tác giả Nguyễn Việt Hùng (Đại học Sư phạm Hà Nội) báo cáo

đề tài khoa học : Bước đầu tìm hiểu truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão. Ở đây, tác

giả đã chỉ ra sự ảnh hưởng của xã hội, gia đình, làng quê trong việchình thành nên

cốt cách, phẩm chất tinh thần, nghị lực con người Phạm Ngũ Lão.

Năm 2004, tác giả Vũ Thanh Sơn trong sách Những vị thần được thờ ở Hà

Nội đã cung cấp thêm tư liệu trùng với ghi chép tại Ngọc phả đền Phù Ủng về

chuyện Phạm Ngũ Lão có công bắt sống Phạm Nhan. Theo tài liệu, trong cuộc

kháng chiến chống Nguyên - Mông lần 3 (1287), Nguyễn Bá Linh (Phạm Nhan)

dẫn đường cho giặc tiến vào nước ta, Phạm Ngũ Lão đã điều tra và đem quân bao

vây đàn tràng của tên pháp sư Phạm Nhan (Nguyễn Bá Linh), bắt sống y, đem

chém… Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã trừng trị kẻ chuyên dùng tà thuật mê hoặc lòng

người, làm tay sai cho giặc. Chiến công của ông đem lại niềm tin, sức mạnh, có

tác dụng khích lệ quân dân Đại Việt ra sức lập công đánh thắng những trận quyết

chiến chiến lược (trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng, trận Lạng Giang..) giành

thắng lợi vẻ vang.

Năm 2007, Nguyễn Thị Tố Uyên thực hiện đề tài Lý lịch di tích đền Phù

Ủng. Tác giả tìm hiểu lai lịch của di tích Phù Ủng và bước đầu đề cập đến quan

hệ giữa sự tích kể về Phạm Ngũ Lão và di tích này.

Năm 2008, nhà nghiên cứu Vũ Tiến Kỳ công bố Truyện cổ dân gian Hưng

Yên. Tác phẩm tập hợp 205 bản kể trong đó có 125 bản kể thuộc thể loại truyền

thuyết, số còn lại thuộc thể loại truyền thuyết, cổ tích, giai thoại, truyện cười,

trong đó có bốn bản kể về tướng quân Phạm Ngũ Lão.

9

Năm 2008, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Ân Thi phối hợp với Viện

Khoa học phát triển nhân lực kinh tế và văn hóa tổ chức Hội thảo khoa học về

Tướng quân Phạm Ngũ Lão và lễ hội đền Phù Ủng. Mười ba bản báo cáo khoa

học về lịch sử, văn hóa, văn học… liên quan đến danh tướng Phạm Ngũ Lão và

di tích đền Phù Ủng được trình bày tại hội thảo. Các báo cáo đã khẳng định công

lao, sự nghiệp, tài năng, phẩm chất… con người thật của “ Điện suý thượng tướng

quân ” Phạm Ngũ Lão và vị thế, tầm vóc cụm di tích đền Phù Ủng trong đời sống

văn hóa hiện nay. Trong đó, một số bài viết có giá trị khoa học cao, như "Phạm

Ngũ Lão với vương triều Trần” của GS Lê Văn Lan, “Hành trạng và sự nghiệp

của danh tướng Phạm Ngũ Lão" của PGS.TS Nguyễn Minh Tường, " Phạm Ngũ

Lão - một minh chứng sinh động của tư tưởng và nghệ thuật quân sự nhân dân

thời Trần" của TS. Nguyễn Đức Hạnh, "Phạm Ngũ Lão trong sự nghiệp bảo vệ

miền biên giới quốc gia Đại Việt thời Trần"của TS. Nguyễn Đức Nhuệ, " Hình

tượng Phạm Ngũ Lão qua truyền thuyết dân gian ” của Th s. Vũ Tiến Kỳ… Các

tác giả đánh giá tài năng quân sự, tầm vóc, phẩm chất của vị tướng tài; khẳng định

vẻ đẹp của hình tượng tướng quân Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết dân gian.

Một số báo cáo trình bày mối quan hệ giữa " ài tướng Phạm Ngũ Lão, di tích, lễ

hội và sự tưởng niệm" của tác giả Phạm Lan Oanh, bàn về giải pháp "Quản lý, tổ

chức lễ hội đền Phù Ủng trong giai đoạn hiện nay " của Hoàng Mạnh Thắng, kết

hợp với nâng cấp khẳng định "vị trí giá trị từng di sản quần thể di tích đền Phù

Ủng trong bối cảnh du lịch tả ngạn sông Hồng" của Tăng Bá Hoành. Các ý kiến

tham luận được in trong tập Kỷ yếu Hội thảo khoa học - Tướng quân Phạm Ngũ

Lão và lễ hội đền Phù Ủng[44].

Năm 2008, Nguyễn Thị Ngà - học viên cao học Đại học Sư phạm Hà Nội

đãnghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ: Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão và lễ hội Phù Ủng

ở Ân Thi Hưng Yên. Luận văn chỉ ra mối liên hệ giữa truyền thuyết và lễ hội Phù

Ủng, trong đó tác giả công bố 15 bản kể về Phạm Ngũ Lão.

10

Năm 2014 trên tạp chí Nguồn sáng dân gian số 1, tác giả Vũ Tiến Kỳ công

bố bài nghiên cứu Hình tượng Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết dân gian. Từ

nội dung các bản kể truyền truyết, tác giả phân tích, dựng lại chân dung tướng

quân Phạm Ngũ Lão với vẻ đẹp tâm hồn theo góc nhìn dân gian và đạo đức truyền

thống của văn hoá trung đại.

Tóm lại, tướng quân Phạm Ngũ Lão đã được ghi chép trong các thư tịch

chính sử và trong các di tích thờ cúng, ngoài ra còn được lưu truyền trong dã sử.

Các công trình nghiên cứu về Phạm Ngũ Lão xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác

nhau như lịch sử, dân tộc học, khảo cổ học, văn hoá, tôn giáo, văn học. Ở lĩnh vực

văn học dân gian, bên cạnh những truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão đã được đề

cập đến thì hầu như chưa có ai để tâm tìm hiểu truyện Nôm kể về ông mặc dù đã

có bản kể được sưu tầm. Tuy những bản kể dân gian về Phạm Ngũ Lão ít nhiều

chỗ này chỗ khác đã đề cập đến song các nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc

tìm hiểu vấn đề liên hệ giữa truyền thuyết và lễ hội hoặc giá trị nội dung phản ảnh

qua những bản kể truyền thuyết về nhân vật lịch sử chứ chưa có công trình tìm

hiểu chuyên sâu các bản kể dân gian về Phạm Ngũ Lão ở góc độ thể loại. Chính

điều đó đã thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài Truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão

ở Hưng Yên tiếp cận từ góc độ thể loại nhằm tiếp tục khám phá về thân thế, cuộc

đời, sự nghiệp, đánh giá vai trò của Phạm Ngũ Lão trong lịch sử nhấn mạnh những

vẻ đẹp của ông về tài năng và đức độ.

3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống truyện kể dân gian về Phạm

Ngũ Lão lưu truyền ở vùng đất Hưng Yên. Trong đó, bao gồm thể loại truyền

thuyết dân gian và truyện Nôm khuyết danh.

3.2. Mục đích nghiên cứu

11

Đề tài Truyện kể dân gian về Phạm Ngũ Lão ở vùng đất Hưng Yên tiếp cận

dưới góc độ thể loại tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

Phân chia truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên thành các tiểu

loại theo chí thể loại.

Tìm hiểu đặc trưng nội dung, nghệ thuật thể loại truyện kể dân gian Phạm

Ngũ Lão ở Hưng Yên.

Tìm hiểu con người, sự nghiệp Phạm Ngũ Lão dưới góc nhìn văn học

dân gian.

Đề tài làm rõ sự sáng tạo nghệ thuật của tập thể tác giả bình dân trong quá

trình sáng tạo, lưu truyền bản kể và qua đây tiếp tục bồi dưỡng truyền thống yêu

nước của quê hương, dân tộc cho thế hệ trẻ, bồi dưỡng lòng tự hào về mảnh đất,

con người Hưng Yên, tiếp tục phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp trong sự

nghiệp xây dựng quê hương, đất nước.

4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phạm vi nghiên cứu

Hệ thống các tác phẩm dân gian kể về Phạm Ngũ Lão đã được lưu truyền

ở Hưng Yên bao đời nay, một bộ phận được cố định trong thư tịch, một bộ phận

còn lưu truyền nơi cửa miệng dân gian. Vì thế, cứ liệu được chúng tôi tìm hiểu,

nghiên cứu một mặt căn cứ vào các thư tịch, một mặt căn cứ theo lời kể của người

dân Hưng Yên. Đề tài bao quát toàn bộ truyện kể dân gian về Phạm Ngũ Lão gồm

truyền thuyết và truyện Nôm khuyết danh.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài Truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão ở vùng

đất Hưng Yên tiếp cận từ góc độ thể loại, chúng tôi phối hợp vận dụng các phương

pháp nghiên cứu sauđể giải quyết yêu cầu đặt ra:

12

- Phương pháp điều tra điền dã: Chúng tôi tiến hành sưu tầm các truyện kể

dân gian Phạm Ngũ Lão lưu truyền trong dân gian.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Chúng tôi tiến hành phân tích các

truyện kể dân gian Phạm Lão trên phương diện nội dung, nghệ thuậtdựa trên cơ

sở đặc trưng thể loạiđể từ đó tổng hợp và đưa ra nhận định.

- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Chúng tôi tiến hành phân loại

truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão theo các thể loạivà tiểu loại.

- Phương pháp so sánh: Chúng tôi tiến hành đối chiếu, so sánh các thể loại

truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão, như: so sánh giữa truyền thuyết với truyện thơ,

so sánh truyền thuyết Phạm Ngũ Lão với truyền thuyết người Việt ở các thời kì

khác nhau, so sánh giữa truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trong quá trình thực hiện đề tài này,

chúng tôi sử dụng các phương pháp của nhiều ngành liên quan như lịch sử, địa lí,

văn hóa, tôn giáo...

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung luận văn gồm những vấn đề

chính như sau:

Chương I: Cơ sở lí luận và tổng quan .

Chương II: Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên .

Chương II: Truyện Nôm khuyết danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão ở

Hưng Yên.

13

PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN

1.1.Cơ sở lí luận

1.1.1. Khái niệm “Truyện kể dân gian”

Truyện kể dân gian là một khái niệm có ý nghĩa khái quát bao gồm các câu

chuyện kể do nhân dân sáng tác, lưu truyền qua các thời đại. Truyện kể dân gian

bao gồm nhiều thể loại: Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ

ngôn, truyện cười, truyện trạng, truyện Nôm khuyết danh... Dựa theo nội hàm khái

niệm các thể loại văn học dân gian lưu truyền ở Hưng Yên, chúng tôi thấy truyện

kể dân gian về Phạm Ngũ Lão là một bộ phận của hàng trăm bản kể dân gian viết

về nhân vật lịch sử gốc người Hưng Yên được lưu truyền phổ biến trong đời sống

văn hóa dân gian. Nhìn từ góc độ thể loại, truyện kể về Phạm Ngũ Lão gồm có hai

thể loại cơ bản: truyền thuyết và truyện Nôm khuyết danh.

1.1.2. Khái niệm “Truyền thuyết dân gian”

Ở Việt Nam, năm 1957 nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi đã đưa ra định

nghĩa thể loại truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là những truyện lịch sử, và

truyện lịch sử chỉ có thể có khi con người đã có ý thức về lịch sử của mình” [10,

tr 81]. Như vậy, theo Nguyễn Đổng Chi, truyền thuyết là những bản kể thuộc đề

tài lịch sử, trong đó người kể có ý thức về lịch sử dân tộc mình. Nhưng ý thức đến

đâu, tác giả chưa bàn bạc cụ thể.

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài phát biểu nhân ngày giỗ tổ Hùng

Vương đã nhận xét về truyền thuyết như sau: “Những truyền thuyết dân gian

thường có một cái lõi là sự thực lịch sử mà nhân dân phản ánh qua nhiều thế hệ

đã lí tưởng hóa gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng,

chắp đôi cánh dân gian làm nên những tác phẩm mà đời đời con người ưa thích”

[24]. Cho rằng truyền thuyết có lõi lịch sử được phủ bởi lớp vỏ hoang đường, ý

14

kiếnthủ tướng Phạm Văn Đồng đã mở đầu cho một xu hướng của nhiều nhà nghiên

cứu như Cao Huy Đỉnh, Đỗ Bình Trị, Nguyễn Đổng Chi…

Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi khi biên soạn Từ

điển thuật ngữ văn học đã khẳng định: “Truyền thuyết là một thể loại truyện dân

gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có

ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kì, một bộ tộc, một dân tộc, một quốc gia

hay một địa phương” [ 26, tr 249]. Như vậy, ở định nghĩa, các tác giả đã phát triển

quan điểm của Nguyễn Đổng Chi nhưng bổ sung cụ thể thêm về khu vực, tầm vóc

phản ánh và cung cấp khái niệm với nội hàm đươc mở rộng hơn.

Trong sách Văn học dân gian người Việt, góc nhìn thể loại, nhà nghiên cứu

Kiều Thu Hoạch đưa ra định nghĩa về truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là

một thể tài chuyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian. Nội dung

cốt truyện kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các

phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ

biến là khoa trương phóng đại, đồng thời nó sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kì

như cổ tích, thần thoại. Nó khác cổ tích thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã

hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong trí tưởng

tượng và bằng tưởng tượng ”[30, tr19]. Ở định nghĩa này, nhà nghiên cứu Kiều

Thu Hoạch nhấn mạnh tới đặc điểm phản ánh lịch sử của truyền thuyết dân gian.

Ông viết: " Dân gian bao giờ cũng có loại lịch sử truyền miệng, bia miệng của

riêng mình. Thứ lịch sử này thì các nhà sử học khó mà giải thích nổi. Song nó lại

tồn tại hơn thứ lịch sử chính thống - nó chính là truyền thuyết dân gian" [30,

tr100]. Dù hiểu theo cách nào thì truyền thuyết vẫn là một loại truyện kể lịch sử

thuộc loại hình tự sự dân gian.

Theo nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu trong công trình Một vài vấn đề về

văn học dân gian thì truyền thuyết là sự thay thế, hóa thân cho sử thi, là mắt xích

quan trọng nối liền giữa thần thoại Việt với các thể loại truyện cổ dân gian khác.

15

Nếu thần thoại hướng tới thế giới tự nhiên, cổ tích hướng tới cuộc sống bình

thường và những xung đột trong xã hội phân chia giai cấp thì đối tượng được kể

lại trong truyền thuyết là lịch sử. Truyền thuyết thường kể về những việc có thực,

nhân vật lịch sử, những sự kiện lịch sử liên quan đến vận mệnh cộng đồng trong

quá khứ. Đây là phần lõi lịch sử của truyền thuyết. Dựa vào phân kì lịch sử dân

tộc, Hoàng Tiến Tựu phân truyền thuyết thành các bộ phận: Truyền thuyết về họ

Hồng Bàng và thời kì Văn Lang; Truyền thuyết về thời kì Âu Lạc và Bắc thuộc;

Truyền thuyết thời kì phong kiến tự chủ; Truyền thuyết thời kì Pháp thuộc[55].

Dựa vào nội dung phản ánh, đặc điểm nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời của

truyền thuyết, nhà nghiên cứu Lê Chí Quế trong tác phẩm Văn học dângian Việt

Nam [46, tr 62]chia truyền thuyết thành ba loại: Truyền thuyết anh hùng; Truyền

thuyết lịch sử; Truyền thuyết về các danh nhân văn hóa. Nhà nghiên cứu Kiều

Thu Hoạch chia truyền thuyết người Việt thành ba loại lớn: Truyền thuyết nhân

vật;Truyền thuyết địa danh; Truyền thuyết phong - vật. Dựa vào cách phân chia

của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xác định truyền thuyết Phạm Ngũ Lão thuộc

loại truyền thuyết lịch sử, phản ánh công cuộc chống ngoại xâm xuất hiện thời

phong kiến tự chủ, thuộc vương triều nhà Trần.

1.1.3. Khái niệm “Truyện Nôm”

Theo tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học, truyện Nôm là “thể loại tự sự

bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỉ

XVIII, đầu thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi

là truyện Nôm”[26, tr 253]. Theo cắt nghĩa trên của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi thì truyện Nôm thuộc thể loại tự sự, kể chuyện bằng thơ và

dùng chữ Nôm làm phương tiện sáng tác.

Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận định: “Truyện Nôm là loại hình tự

sự bằng thơ dùng ngôn ngữ văn tự dân tộc - chữ Nôm để sáng tác ”. Đồng thời,

ông khẳng định “các tác phẩm truyện thơ trong văn học trung đại đều viết bằng

16

chữ Nôm. Vì vậy, truyện thơ được gọi là truyện Nôm” [52, tr 237].Theo cách cắt

nghĩa trên thì truyện Nôm là khái niệm thuộc loại hình tự sự dân gian dùng chữ

Nôm và thể văn vần làm phương tiện sáng tác, phổ biến hoặc diễn xướng. Đây là

tên gọi khác của thể loại truyện thơ.

Theo nghiên cứu của Kiều Thu Hoạch trong công trìnhTruyện Nôm, lịch sử

hình thành và bản chất thể loại, thì truyện Nôm “là một thể loại sinh thành và

phát triển từ cội nguồn văn học dân gian” [34, tr 174]. Các nhà nghiên cứu Đinh

Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong Văn học dân gian tập I, cho rằngsự nở rộ truyện

Nôm trong khoảng thế kỉ XVI trở đi, đặc biệt từ thế kỉ XVIII bởi sự trỗi dậy của

tư tưởng dân chủ tiến bộ trong bối cảnh xã hội phong kiến khủng hoảng, suy tàn.

Sự phát triển mạnh mẽ của văn học chữ Nôm và truyền thống văn hóa dân gian là

nguyên nhân hình thành và phát triển của thể loại này. Nhiều nhà nghiên cứu về

truyện Nôm như Dương Quảng Hàm, Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn,

Cao Huy Đỉnh, Lã Nhâm Thìn, Trần Nho Thìn… đã căn cứ vào sự thể hiện nội

dung và nghệ thuật của thể loại để chia truyện Nôm thành hai nhóm: Truyện Nôm

bình dân và truyện Nôm bác học.

Như vậy, truyện Nôm là truyện kể bằng văn vần nên đặc trưng nổi bật nhất

của truyện Nôm là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Theo nhà

nghiên cứu Lã Nhâm Thìn, yếu tố tự sự thể hiện ở chỗ: truyện Nôm phản ánh cuộc

sống xã hội thông qua việc trình bày, miêu tả, trần thuật gần như hoàn chỉnh vận

mệnh, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với một hệ thống biến cố, sự kiện,

chi tiết theo trình tự lớp lang hợp lý. Yếu tố trữ tình của truyện Nôm thể hiện qua

phương thức biểu đạt cảm xúc, trạng thái tình cảm bằng thơ. Qua lời thơ, tác giả

trực tiếp bộc lộ cảm xúc, tham gia sắp xếp các sự kiện, hóa thân vào nhân vật để

phản ánh phẩm chất tinh thần của đối tượng phản ánh.

Giữa truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học có sự khác nhau. Trong

khi truyện Nôm bác học ghi tên người sáng tác, địa chỉ cốt truyện thì truyện Nôm

17

bình dân là sáng tạo của tập thể bình dân nên không rõ tên người sáng tác…Về nội

dung, truyện Nôm bình dân thể hiện quan điểm đạo đức, nguyện vọng, ước mơ của

người bình dân là đề cao tình nghĩa trong quan hệ giữa người với người, khẳng định

công lí là cao cả, chính nghĩa thắng gian tà, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”. Trong

truyện Nôm bình dân, từ ngôn ngữ đến cách kể chuyện đều rất giản dị, ít có sự trau

chuốt về ngôn từ, nghệ thuật. Khác với truyện Nôm bình dân, truyện Nôm bác học

là sáng tác của các nho sĩ, ít nhiều có trình độ học vấn, biết sáng tạo nghệ thuật văn

chương. Nếu truyện Nôm bình dân đề cao tình nghĩa, ngợi ca chính nghĩa thì truyện

Nôm bác học thiên về khẳng định lễ giáo phong kiến, đề cao tình yêu tự do, ca ngợi

khát vọng giải phóng tình cảm hoặc đề cập tới những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh

xã hội sâu sắc. Truyện Nôm bác học thể hiện tài năng nghệ thuật của chủ thể sáng

tạo qua khả năng lựa chọn ngôn từ, nghệ thuật kể chuyện độc đáo, nghệ thuật miêu

tả nội tâm tinh tế, nghệ thuật khắc họa hình tượng. Có thể kể đến một số tác phẩm

tiêu biểu được nhiều người biết đến như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân

trang của Phạm Thái, Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự.

Trên cơ sở khảo sát tư liệu và tiếp xúc văn bản,chúng tôi nhất trí với 4 tiêu

chí mà nhà nghiên cứu Vũ Tiến Kỳ đưa ra để khẳng định Tướng quân Phạm Ngũ

Lão là truyện thơ Nôm khuyết danh hay loại truyện Nôm bình dân. Bốn căn cứ

gồm: Thứ nhất là đội ngũ sáng tác Tướng quân Phạm Ngũ Lão là những trí thức

bình dân địa phương. Thứ hai là phương thức bảo tồn, phổ biến Tướng quân Phạm

Ngũ Lão là phương thức dân gian. Thứ ba là cứ liệu miêu tả trong tác phẩm Tướng

quân Phạm Ngũ Lão là tư liệu lấy từ chính sử và truyền thuyết dân gian. Thứ tư

là giọng điệu ngôn ngữ nghệ thuật của Tướng quân Phạm Ngũ Lão là giọng điệu

của thi pháp truyện thơ dân gian sau thế kỷ XVIII. Từ việc xác định tác phẩm dựa

trên các tiêu chí như vậy, chúng tôi khẳng định Tướng quân Phạm Ngũ Lão -

truyện thơ khuyết danh là tác phẩm văn học dân gian đích thực.

1.1.4. Vấn đề thể loại

18

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học là“dạng thức của tác

phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát

triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau và cách thức tổ chức tác phẩm,

về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của

mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống đó” [26, tr 202].

Trong văn học, thể loại có vai trò quan trọng góp phần làm đẹp giá trị nội

dung . Bởi vậy, nhà nghiên cứu văn học người Nga M. Bakhtin đã nhận định rằng:

“Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, người

ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những

nhân vật chính nơi đây trước hết là thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là các

nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba ” [43, tr 28]. Có thể nói, thể loại được coi là "

nhân vật chính " trong tiến trình văn học.

Văn học dân gian là những sáng tác tập thể của người bình dân, được lưu

truyền trong dân gian qua nhiều thế kỉ. Vì thế, các nhà folklore học xác định lịch

sử phát triển của văn học dân gian bằng dấu ấn sự phát triển của thể loại. Đó là

dòng chảy xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc được khởi đầu với thể loại

thần thoại, sau đó là một loạt các thể loại khác như truyền thuyết, cổ tích, truyện

cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao, hò,vè, truyện thơ, sân khấu dân

gian. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử là một thể loại ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu

của người bình dân trên cả hai khía cạnh sang tác và thưởng thức. Các thể loại kể

trên một mặt vừa ảnh hưởng lẫn nhau để tạo nên tính liên tục trong tiến trình văn

học, mặt khác vừa hình thành những đặc trưng riêng. Vì thế, muốn tìm hiểu giá

trị tác phẩm văn học dân gian, chúng ta phải xuất phát từ phong cách thể loại. Hơn

nữa, hướng tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm văn học dân gian từ góc độ thể loại

cũng là một trong những hướng nghiên cứu khoa học được nhiều chuyên gia

folklore lựa chọn. Những vấn đề thuộc nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn học

dân gian đều không nằm ngoài thể loại.

19

1.2. Tổng quan về vùng đất Hưng Yên và nhân vật lịch sử Phạm Ngũ Lão

1.2.1. Khái lược về vùng đất Hưng Yên và làng Phù Ủng

Về lịch sử - địa lí, Hưng Yên là vùng đất nằm ở tả ngạn sông Hồng có diện

tích tự nhiên 926,09 km2 đứng thứ 58 so với cả nước, đứng thứ 12 trong số 14 tỉnh

châu thổ Bắc Bộ. Dân số Hưng Yên gần 1,2 triệu người, có161 xãphường, thị trấn,

chia thành 10 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố và 9 huyện.

Theo ý kiến của các học giả tại Hội thảo khoa học về Hưng Yên vào tháng

3 năm 1993, Hưng Yên là vùng đất có từ vài ngàn năm trước. Thời Hùng Vương,

đất Văn Giang, Long Biên vốn là địa bàn cư trú của bộ lạc Câu Lậu, bộ lạc chọn

con trâu làm vật tổ, dân gian gọi là bộ lạc Trâu. Sự trùng khớp tên bộ lạc với di

vật khảo cổ là trống đồng tìm thấy ở Động Xá, huyện Kim Động. Trong trường

kỳ lịch sử, Hưng Yên có nhiều tên gọi khác nhau. Vùng đất Hưng Yên xưa vốn

thuộc bộ Dương Tuyền thời Hùng Vương, là đất huyện Chu Diên thời Bắc thuộc,

phủ Thái Bình thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, là đất lộ Khoái, Đằng châu thời Lý, lộ

Long Hưng thời Trần, phủ Kiến Xương thời thuộc Minh, đất Nam đạo thời Lê sơ.

Năm Bính Tuất (1466), niên hiệu Quang Thuận thứ 7, Lê Thánh Tông (1460 -

1497) chia Đại Việt thành 12 thừa tuyên, Hưng Yên thuộc thừa tuyên Thiên

Trường. Năm Kỷ Sửu (1469), niên hiệu Quang Thuận thứ 10, đổi thừa tuyên

Thiên Trường thành trấn Sơn Nam, bao gồm 11 phủ, 42 huyện, Hưng Yên thuộc

phủ Khoái Châu. Năm Tân Dậu (1741), niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai, Lê Hiển

Tông (1498 - 1504) chia Sơn Nam thành hai lộ: Sơn Nam Thượng và Sơn Nam

Hạ, vùng đất Hưng Yên thuộc lộ Sơn Nam Thượng.

Tỉnh Hưng Yên chính thức được thành lập năm Tân Mão (1831), niên hiệu

Minh Mệnh thứ 12 gồm hai phủ, tám huyện: Phủ Khoái Châu có 4 huyện: Đông

Yên, Kim Động, Ân Thi, Phù Cừ của trấn Sơn Nam Thượng và phủ Tiên Hưng có

4 huyện Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà, Tiên Lữ của trấn Nam Định. Triều đình

lấy một phần Sơn Nam Thượng gồm phủ Khoái Châu và ba huyện thuộc phủ Tiên

20

Hưng thành lập tỉnh Hưng Yên. Phủ Khoái Châu quản lĩnh năm huyện là Đông An,

Kim Động, Tiên Lữ, Phù Dung, Thiên Thi. Phủ Tiên Hưng quản lĩnh ba huyện

Hưng Nhân, Thần Khê, Duyên Hà.

Dưới thời thuộc Pháp, ngày 25 - 2 - 1890, Toàn quyền Đông Dương Pikê

(Piquet) ra nghị định thành lập đạo Bãi Sậy gồm bốn huyện: Yên Mỹ, Mỹ Hào,

Văn Lâm, Cẩm Lương, cắt huyện Thần Khê phủ Tiên Hưng nhập vào phủ Kiến

Xương. Năm 1891, toàn quyền Biđô (Bideau) ký tiếp sắc lệnh bãi bỏ đạo Bãi Sậy,

nhập các huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm và một số tổng của huyện Cẩm

Lương vào tỉnh Hưng Yên. Khi thành lập tỉnh Thái Bình (ngày 28 - 11 - 1894),

toàn quyền Rôdiê (Rodier) ra sắc lệnh cắt hai huyện Hưng Nhân, Duyên Hà của

Hưng Yên về Thái Bình, chuyển trả huyện Tiên Lữ từ phủ Tiên Hưng về phủ

Khoái Châu.

Như vậy, Hưng Yên ngày nay được cấu thành từ ba vùng đất ( trấn Sơn

Nam Thượng ở phía Nam, trấn Hải Dương phía đông bắc, trấn Kinh Bắc ở phía

Tây Bắc. Nói tới miền đất này không ai không biết nơi đây có thương cảng Phố

Hiến nổi tiếng một thời – “Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến”. Trong lịch sử,

quê hương tướng quân Phạm Ngũ Lão nằm ở vị trí trung tâm vùng đất cổ phù sa

sông Hồng, có địa giới phía Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Đông giáp tỉnh Hải

Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây Nam giáp thủ đô Hà Nội và tỉnh

Hà Nam. Hưng Yên là một tỉnh không biển, không núi, không rừng nhưng mảnh

đất này không những đã góp phần quan trọng xây dựng nền văn minh lúa nước

sông Hồng suốt chiều dài lịch sử mà còn là nơi hội tụ, giao lưu, tiếp biến văn hoá

tứ trấn tràn qua, tụ lại (Thăng Long - Hà Nội, Kinh Bắc, Hải Đông, Sơn Nam Hạ).

Vì thế, Hưng Yên là vùng đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hiến lâu đời.

Ở góc độ văn hóa, Hưng Yên có đặc thù riêng của cư dân nông nghiệp.

Truyền thống văn hóa đó được tạo nên từ phẩm chất đặc thù của con người nơi đây.

Truyền thống nổi trội của người Hưng Yên trước hết là truyền thống yêu nước,

21

đánh giặc bảo vệ giang sơn xã tắc. Lớp lớp người Hưng Yên ra trận đánh giặc cứu

nước để lại tiếng thơm được lịch sử và dân gian ghi nhận. Phạm Ngũ Lão – chàng

trai nghèo làng Phù Ủng có công lớn trong công cuộc bảo vệ giang sơn Đại Việt

thời Trần là sự tiếp nối của truyền thống nói trên.Bên cạnh truyền thống đánh giặc

là truyền thống trị thủycủa người Hưng Yên trong trường kỳ lịch sử đã để lại cho

hậu thế những bài học quí. Hưng Yên là miền đất có truyền thống hiếu học, khoa

bảng lâu đời. Đã biết bao người con của mảnh đất này đã nêu cao ý chí học hành,

vượt khó vươn lên, đỗ đạt cao, cống hiến cho quê hương, đất nước. Nhiều người đã

trở thành lương thần, danh tướng làm rạng danh cho quê hương như Lưỡng quốc

trạng nguyên Tống Trân, Kinh sư đại doãn Nguyễn Trung Ngạn, Thượng thư Lê

Như Hổ, Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác…Noi theo gương sáng của cha ông,

sau này rất nhiều người Hưng Yên đã gắng học thành tài. Đó là các nhà khoa học

nổi tiếng như kĩ sư Nguyễn Công Tiễu từng gây tiếng vang trên hội nghi khoa học

Thái Bình Dương về với công trình nghiên cứu về bèo hoa dâu, là nhà khảo cổ học

tiến sĩ Phạm Huy Thông, là Liệt sĩ - GS Dương Quảng Hàm, GS Dương Trọng Bái,

GS Nguyễn Lân…

Ở Hưng Yên hiện có 1210 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 151 di tích

được Nhà nước cấp bằng công nhận như đền Đa Hòa, đền Phù Ủng, đền Tống

Trân, Văn miếu Xích Đằng... Rất nhiều lễ hội được tổ chức trang trọng thể hiện

thái độ tôn vinh của nhân dân Hưng Yên đối với các nhân thần có công mở đất,

dạy nghề, dẹp giặc và hiển đạt như lễ hội đền Phù Ủng, lễ hội Chử Đồng Tử ở Đa

Hòa, lễ hội đền Tống Trân…

Bên cạnh văn học viết, văn học dân gian Hưng Yên khá phong phú với

nhiều thể loại. Chi hội văn nghệ dân gian Hưng Yên sưu tầm được 182 bản kể

thuộc các tiểu loại truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, giai thoại văn học, 23 bài

vè, 2 truyện thơ, hơn 600 đơn vị ca dao, trên 400 đơn vị tục ngữ, câu đố, 7 tích

chèo cổ. Con số trên cho thấy văn học dân gian Hưng Yên đủ thể loại, đa dạng về

22

thể tài. Văn chương truyền miệng góp phần hình thành một lớp nho sĩ người địa

phương giầu tinh thần dân tộc, xứng đáng làm lực lượng nòng cốt cho việc sáng

tạo văn học viết, là cái nôi nuôi dưỡng văn hóa phát triển.

Hưng Yên là quê hương của nhiều loại hình diễn xướng dân gian như hát

chèo, trống quân, ca trù... Mỗi loại hình nghệ thuật tuy hình thức diễn xướng khác

nhau nhưng có chung giá trị là hoàn thành chức năng giải trí, chức năng bồi dưỡng

tinh thần, đạo đức, năng khiếu sáng tạo văn hoá cho con người.

Văn hóa là do con người tạo ra. Làm nên truyền thống văn hóa đặc thù của

vùng đất Hưng Yên là những phẩm chất của con người nơi đây qua bao thế hệ.

Đó là tinh thần hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước và cần cù trong lao động….

Con người Phạm Ngũ Lão và những truyện kể dân gian về ông được sinh ra và

được nuôi dưỡng trong chiếc nôi văn hóa nói trên.

Về ngôi làng Phù Ủng - nơi sinh thành và nuôi dưỡng PhạmNgũ Lão trước

đâythuộc tổng Huệ Lai, huyện Đường Hào. Tên Đường Hào có từ thời nhà Đường

đô hộ nước ta. Theo Đường Hào phong vật tổng ca thì hai bên huyện tiếp giáp

với Sơn Nam và Kinh Bắc. Huyện chia làm 9 tổng, 80 xã. Sách Đại Nam nhất

thống chí chép: “Phù Ủng thời Trần là một xã của huyện Đường Hào, Lộ Hồng.

Sang thời Nguyễn, Phù Ủng thuộc tổng Huệ Lai, phủ Bình Giang, trấn Sơn

Nam”,là một làng có truyền thống lịch sử lâu đời. Sau cách mạng tháng 8 - 1945,

Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bỏ hai đơn vị hành chính là tổng và

phủ, thành lập chính quyền bốn cấp dưới chính phủ trung ương gồm tỉnh, huyện,

xã, thôn. Xã Phù Ủng thuộc huyện Ân Thi tuy được thành lập từ sau cách mạng

tháng 8 - 1945 nhưng nhiều lần sát nhập, đổi thay đến năm 1979 xã có 8 thôn: La

Mát, Huệ Lai, Kim Lũ, Phù Ủng, Hồng Lương, Đông Mái, Phương La, Sa Lung.

Thần hoàng làng Phù Ủng là người giúp vua Hùng thứ 18 đánh giặc được

phong thần. Làng Phù Ủng là làng quê thanh bình như bao làng quê khác ở Hưng

23

Yên. Người dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng. Lúc nông nhàn mọi

người có nghề đan nan tre, vặn thừng, đan chổi. Cần cù lao động, kiên cường

chống giặc ngoại xâm là hai phẩm chất nổi bật của người dân Phù Ủng. Truyền

thống quê hương đã nuôi dưỡng lòng yêu nước yêu nước, tinh thần, ý chí, nghị

lực, phẩm chất của một danh tướng tài ba như Phạm Ngũ Lão.

Để tỏ lòng tôn kính đối với người con tài ba, đức độ của quê hương nhân

dân Phù Ủng đã lập đền thờ ông trên nền nhà cũ. Nơi đây có một cụm di tích

(được Nhà nước xếp hạng theo Quyết định số 1288 VH/QĐ ngày 16/11/1988)

gồm hai khu: khu chính ( tính từ ngoài cổng vào) gồm đền thờ Phạm Ngũ Lão(

Phù Ủng trạch từ) được kiến trúc theo lối cổ với 5 gian tiền tế và tòa hậu cung.

Trong ban thờ chính có đặt tượng của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Cùng thờ trong

đền có tượng của quận chúa Anh Nguyên – vợ ngài. Bên phải đền (về phía đông)

là đền thờ Nhũ mẫu(mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão). Bên trái đền (về phía tây) là lăng

Tiên công thờ thân phụ của ngài. Phía trước lăng 100m là văn từ có 4 tấm bia đá

khắc tên các vị đại khoa người làng Phù Ủng đỗ đạt từ thời Lê đến thời Nguyễn.

Cách khu chính không xa (phía trong làng) là đền thờ công chúa Tĩnh Huệ. Trong

cụm di tích này còn có lăng Vũ Hồng Lượng - người làm quan thời Hậu Lê từng

có công tu sửa đền Phạm Ngũ Lão.

1.2.2. Vài nét về Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) sinh ra, lớn lên tại làng Phù Ủng, huyện

Đường Hào, phủ Thượng Hồng, lộ Hải Đông nay làng Phù Ủng, xã Phù Ủng,

huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, trong gia đình nông dân nghèo, sớm mồ côi cha,

vừa phải lao động vất vả kiếm sống, vừa rèn luyện tài năng văn lẫn võ. Tương

truyền, thủa thiếu thời, ông là người tuấn tú, thông minh, đối đáp trôi chảy, tính

tình khẳng khái.

Hơn sáu mươi năm phò vua giúp nước, cuộc đời Phạm Ngũ Lão gắn liền

với giai đoạn lịch sử oanh liệt - giai đoạn đầu của vương triều Trần. Sau khi nhà

24

Lý suy vi, qua sự dàn xếp khéo léo của Trần Thủ Độ, mùa đông năm Ất Dậu

(1225), niên hiệu Kiến Trung thứ nhất, Trần Cảnh lên ngôi, triều Trần được thiết

lập. Là triều đại hùng mạnh nhất của nước Đại Việt, vương triều Trần đã viết lên

những trang sử vẻ vang trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam. Vừa

xây dựng cơ nghiệp, vua tôi nhà Trần vừa đoàn kết muôn dân trong triều ngoài

nội để củng cố chính quyền từ xã, tổng đến trung ương, vừa xây dựng lực lượng

quân sự hùng mạnh đủ sức dẹp nội loạn và đập tan thế lực xâm lăng mạnh nhất

thế giới lúc bây giờ là đế chế Nguyên - Mông. Ba lần quân Nguyên - Mông sang

đánh nước ta, cả ba lần chúng đều thất bại. Trong thế kỉ XIII, vó ngựa xâm lăng

của chúng đã làm đổ biết bao thành trì của nhiều quốc gia từ Á sang Âu. Cuối

năm Đinh Tỵ (1257), Hốt Tất Liệt sai Ngột Lương Hợp Thai sau khi chiếm xong

nước Đại Lý đem 10 vạn quân kéo vào nước ta. Nhân dân Đại Việt thực hiện kế

vườn không nhà trống khiến giặc vào được Thăng Long nhưng thiếu lương thực.

Sau trận phản kích của ta ở Đông Bộ Đầu, chúng phải rút khỏi Thăng Long.

Cuối năm Giáp Thân (1284), Thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân và nhiều

tướng giỏi sang đánh Đại Việt. Lần này có thêm 10 vạn quân do Toa Đô chỉ huy

từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An hòng bắt sống vua quan nhà Trần. Sau hội nghị

Bình Than và lần tập trận ở Đông Bộ Đầu (8-1284), nhất là toàn quân nghe Hịch

tướng sĩ, quân dân Đại Việt ai cũng muốn lập công, trong đó có chàng trai Phù

Ủng. Cuối xuân, đầu hè năm Ất Dậu (1285) quân đội Đại Việt mở nhiều đợt phản

công đánh địch ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương. Quân ta đại thắng, giết chết

Toa Đô, Thoát Hoan phải thu tàn quân chạy về nước. Trận này Phạm Ngũ Lão lập

công được phong hàm Hạ phẩm phụng ngự.

Năm Đinh Hợi (1287), Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan mang

50 vạn quân ở các tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam và điều quân

thuộc các châu ngoài biển như châu Nhai, châu Quỳnh Đam... vào xâm lược Đại

Việt lần thứ ba. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tiếp tục áp dụng chiến thuật

25

du kích “lấy đoản chế trường” đánh địch ở cửa Linh Kinh (24-11-1287), ở eo biển

Đa Mỗ (Móng Cái), bắt sống làm đắm 300 thuyền địch ở cửa biển Đại Bàng (8-

1-1288), đốt cháy đoàn thuyền vận lương của Trương Văn Hổ (11-1-1288), bắt

sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp làm đắm 400 chiến thuyền địch trên sông

Bạch Đằng (3-1288). Trong chiến dịch truy kích quân Nguyên tháo chạy, Phạm

Ngũ Lão lập công ở ải Nội Bàng, chém chết Trương Quán. A Bát Xích, Trương

Ngọc bị tên độc của quân ta bắn chết. Thoát Hoan phải chui ống đồng mới thoát

châu Tự Minh. Dưới triều Trần, ngoài quân Nguyên - Mông nhiều lần quân

Chiêm Thành, quân Ai Lao sang cướp phá Đại Việt, tướng quân Phạm Ngũ Lão

đều được nhà vua cử mang quân đi chặn giặc.

Điểm lại những nét lớn trong lịch sử chống ngoại xâm ta càng thấy sự vĩ

đại những chiến công của cha ông lập được. Sự nghiệp bảo vệ quốc gia Đại Việt

ở thời Trần đòi hỏi những con người có lòng yêu nước cháy bỏng, tinh thần sẵn

sàng xả thân vì vương triều và xã tắc. Thời đại rực lửa đó đã sản sinh ra những

người con anh hùng như Phạm Ngũ Lão và chính thời đại đã hun đúc nên phẩm

chất cao quý để ông đủ năng lực gánh vác trọng trách lớn lao mà vương triều Trần

và muôn dân trao cho.

Không giống như nhiều đấng nam nhi xưa thường chọn cách lập thân bằng

con đường khoa cử, Phạm Ngũ Lão có chí riêng của mình. Lúc ông lớn lên, không

khí của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai đã diễn ra sôi

sục. Nuôi sẵn ý chí đánh giặc, ông may mắn được Hưng Đạo Vương Trần Quốc

Tuấn phát hiện tài năng, tiến cử với triều đìnhvà được triều đình trọng dụng. Gặp

thời cơ thuận lợi, được hít thở không khí thời đại "sát Thát" anh hùng, chàng trai

Phạm Ngũ Lão có cơ may được thi thố tài năng, lập chiến công trên trận chiến.

Như “cá gặp nước”, ông đã trổ hết tài năng, sức lực trong công cuộc chinh phạt

kẻ thù xâm lược. Ông đã có đóng góp không nhỏ công sức của mình để cùng quân

26

sĩ và nhân dân làm nên chiến công vang dội trong lịch sử chống giặc ngoại xâm

của dân tộc.

Sau khi được Trần Quốc Tuấn tiếp nhận, rèn cặp và tiến cử, Phạm Ngũ Lão

được bổ dụng quản lĩnh quân Thánh dực. Tháng 9 năm 1284, ông được Trần Quốc

Tuấn giao trọng trách đem quân đội bảo vệ vùng biên giới Đông - Bắc. Điều này

nói lên sự tin tưởng tuyệt đối của Trần Quốc Tuấn và các vị vua Trần đối vị tướng

trẻ không phải người hoàng tộc. Năm 1285, ông giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và lần thứ ba, ông tham

gia các trận đánh như Chương Dương, Tây Kết (1285), Vạn Kiếp, Bạch Đằng và

ải Nội Bàng (1288). Trong cuộc lui binh về Vạn Kiếp, ông làm tướng tiên phong

trong đội quân của Trần Quang Khải (1240 - 1294) đối đầu với Toa Đô - một viên

tướng lão luyện của quân Nguyên -Mông . Trong trận Chương Dương, Phạm Ngũ

Lão đã cùng các tráng sĩ cảm tử đi trên những chiến thuyền nhỏ xông vào cận chiến

lên những chiến thuyền lớn của giặc trong làn tên bắn như mưa. Vì tận mắt thấy

tinh thần quyết chiến của quân nhà Trần nên sau thất bại ở trận Chương Dương,

Thoát Hoan buộc phải bỏ kinh thành Thăng Long. Trong cuộc kháng chiến lần thứ

3, Phạm Ngũ Lão đem quân phục kích địch ở cánh rừng bên ải Nội Bàng. Đòn đánh

hiểm của vị tướng tài khiến giặc bị bất ngờ, phải vội vã tháo chạy.

Sau này, khi tuổi đã cao Phạm Ngũ Lão vẫn được Trần Anh Tông (1293 -

1314) và Trần Minh Tông (1314 - 1329) tin tưởng cử đi đánh quân Chiêm Thành,

Ai Lao khi chúng xâm lấn bờ cõi Đại Việt. Năm Giáp Ngọ (1294), ông lập công

đánh tan quân Ai Lao được ban Kim phù. Năm Đinh Dậu (1297), "quân Ai Lao

xâm phạm Chàng Long, Phạm Ngũ Lão đánh bại chúng, lấy lại đất cũ" vua ban

Vân phù. Năm Mậu Tuất (1298), "đánh Ai Lao, tướng Ai Lao chết tại trận. Phạm

Ngũ Lão được phong Hữu kim ngô vệ đại tướng quân". Năm Tân Sửu (1301),

quân "Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, gặp quân giặc ở

Mường Mai giao chiến, bất được rất nhiều. Phong Ngũ Lão làm Thân vệ đại tướng

27

quân ban cho quy phù quy phù". "Năm Nhâm Dần (1302) vua Trần Anh Tông sai

Phạm Ngũ Lão đánh dẹp một "tên nghịch thần là Biếm làm loạn. Biếm bị giết ".

Ngũ Lão được phong làm Điện súy được ban hổ phù. Năm Mậu Ngọ (1318) "Huệ

Vũ đại vương Quốc Chẩn đi đánh Chiêm Thành, Tộc tướng nhà Lý là Hiếu Túc

hầu Lý Tất Kiến chết tại trận. Quản Thiên võ quân Phạm Ngũ Lão tung quân đánh

phía sau giặc. Quân giặc thua chạy bắt được rất nhiều. Phong Ngũ Lão tước Quan

nội hầu, ban cho phi ngư phù" [ 38, tr 158]. Có thể nói, cuộc đời Phạm Ngũ Lão

gắn liền với chiến công vang dội trong những trận chiến chống giặc ngoại xâm,

bảo vệ sự bình yên xã tắc. Vị tướng tài này hễ ra quân là đánh đánh thắng. Những

kỳ tích do ông lập được góp phần làm rạng rỡ hào khí Đông A.

Tuy xuất thân tầng lớp bình dân nhưng Phạm Ngũ Lão được các sử gia

phong kiến tôn vinh là một danh tướng triều Trần. Trong mục Tướng có tiếng và

tài giỏi thuộc phần Nhân vật chí trong Lịch triều hiến chương loại chí, sử gia Phan

Huy Chú đã viết về 4 vị tướng triều Trần gồm: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật,

Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư. Là một người bình dân, nhờ tài năng quân sự và

phẩm hạnh của một lương tướng thương yêu quân sĩ như con, Phạm Ngũ Lão đã

tập hợp dưới trướng mình rất nhiều sĩ tốt. Họ cùng ông làm thành đội quân phụ tử

chi binh, đồng cam cộng khổ, lấy xã tắc làm trọng, cống hiến hết mình cho vương

triều Trần. Vì thế, Phan Huy Chú đặt Phạm Ngũ Lão ngang hàng với các tướng

tài trong hoàng tộc. Sử gia họ Phan đã hết lời khen ngợi ông: “ Phạm Ngũ Lão có

tài múa giáo làm thơ, lập nhiều công to, trước sau giữ trọn danh dự, tiếng tăm rõ

rệt. Tóm lại không hổ là bậc nguyên thần ”[12, tr 374]. Sự đóng góp to lớn của

ông trong công cuộc giữ nước thời Trần, tinh thần xả thân vì sự hưng thịnh của

vương triều, sự yên bình của dân chúng là mục tiêu hành xử ( tu, tề, trị, bình) của

tướng quân họ Phạm. Nói gọn lại, đó là tấm lòng trung quân ái quốc ngời sáng

của Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão.

28

Phạm Ngũ Lão không chỉ là một vị tướng - nhà quân sự tài ba, ông còn là

nhà thơ. Ông sáng tác không nhiều nhưng đó là những bài thơ có giá trị nghệ thuật

cao, phản ánh khí thế thời đại. Tiêu biểu là hai bài thơ: Thuật hoài và Vãn thượng

tướng Quốc công Hưng Đạo đại vương. Tài năng trí tuệ của Phạm Ngũ Lão được

sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư khi bàn về các danh tướng nhà

Trần đã không ngần ngại so sánh: "Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như

Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài Hịch tướng sĩ,Phạm điện suý thì học vấn

biểu hiện ở câu thơ. Không chỉ có chuyên về nghề võ thế mà dùng binh tinh diệu,

hế đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt

nổi các ông"[38 , tr 162 ].

Quý mến tài năng, đức độ của Phạm Ngũ Lão, Tiết công tiết chế Trần Quốc

Tuấn đối đãi như môn khách và gả con gái nuôi là quận chúa Anh Nguyên cho

ông. Dân gian truyền tụng câu chuyện: Anh Nguyên quận chúa chính là con đẻ

của Trần Quốc Tuấn. Theo lệ, nhà Trần không cho con gái, con trai lấy người họ

khác. Vì thế, Trần Hưng Đạo mới giáng Anh Nguyên quận chúa từ con đẻ xuống

con nuôi để gả cho vị tướng trẻ mà mình yêu mến.Ôngđược Hưng Đạo Vương

tiến cử, vua Trần tin dùng, nhiều lần ban thưởng cho mỗi khi lập công. Khi Phạm

Ngũ Lão qua đời (ngày 1 tháng 11 năm Canh Thân - 1320), vua ra lệnh nghỉ chầu

5 ngày để tỏ lòng tưởng nhớ. Đó là một ân điển đặc biệt triều Trần dành cho ông

mà đương thời, ngay cả những người hoàng tộc không mấy ai có được.

Tóm lại, Phạm Ngũ Lão được giang sơn xã tắc từ vua quan đến nho sĩ,

nhân dân biết đến, nhớ ơn, thương tiếc . Cuộc đời, sự nghiệp Phạm Ngũ Lão - một

anh hùng dân tộc sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.Có thể tổng quan về ông

như sau: Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng

thành danh trong một triều đại quân chủ. Ông lập nhiều công tích với nước được

hưởng phúc cuối đời. Phạm Ngũ Lão là một hình tượng đẹp được nhân dân

ngưỡng mộ, tôn vinh. Ông là hình mẫu lý tưởng về một anh hùng dân tộc, xuất

29

thân từ bình dân nhưng có uy danh lớn được nhiều thế hệ người Việt ước mơ,

phấn đấu, noi theo. Chân dung ông bình dị giống như triệu triệu con người Đại

Việt bình thường khác mà vĩ đại vô cùng. Cuối cùng sẽ là thiếu sót, sai lầm về

phương luận nếu chúng ta nghiên cứu Phạm Ngũ Lão mà chỉ dựa vào ghi chép

chính sử (theo góc nhìn của những sử gia thời quân chủ) mà không tìm hiểu ông

qua truyền thuyết dân gian, truyện thơ dân gian, văn hoá dân gian - người đã từ

dân gian đi ra, đánh giặc cứu nước rồi hóa thánh, cuối cùng trở về trong lòng nhân

dân.

1.2.3. Mối liên hệ giữa truyền thuyết Phạm Ngũ Lão với truyện Nôm khuyết

danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão

Trong sinh hoạt văn hoá tinh thần, nhu cầu giải trí của con người luôn được

coi trọng. Quy luật sáng tạo văn hoá, văn học đáp ứng nhu cầu đó luôn đòi hỏi

chủ thể phải tìm chất liệu, nguồn cảm hứng để sáng tác. Khi có nhu cầu trình diễn

(diễn xướng), người nghệ sĩ bình dân phải tìm được ý hay, lời đẹp mà biểu đạt,

khắc sâu theo dụng ý nghệ thuật của mình. Họ lục tìm trong vốn văn hoá sẵn có

xem nội dung, ý tưởng, giá trị nào đặc sắc, phù hợp với đề tài, chủ đề do mình dự

định, sau đó chọn tìm ý tưởng nghệ thuật độc đáo nào phù hợp với nội dung đã

chọn mà huy động, sắp xếp đem ra diễn xướng (kể nếu là truyện, ca nếu là thơ)

trước đám đông hoặc cho chính mình thưởng thức. Như vậy, người nghệ sĩ dân

gian khi sáng tạo văn vần trong tác phẩm truyện thơ phải lấy cốt truyện có sẵn trong

truyền thuyết mà họ thâu nhận được làm nội dung, chọn ngôn từ có vần điệu phù

hợp để kể lại. Cốt truyện, tình tiết của bản kể truyền thuyết là cơ sở ban đầu để

người nghệ sĩ dân gian sáng tạo nên truyện thơ. Nói cách khác, truyền thuyết đóng

vai trò làm nền để nghệ nhân dân gian sáng tác nên truyện thơ

Ngược lại, trong quá trình lưu truyền qua lại trong không gian và thời gian

có thể làm cho truyền thuyết được truyện thơ dân gian nâng đỡ trên đôi cánh vần

điệu của mình nên nó thấm sâu, vang vọng hơn, bay xa hơn. Nhờ truyện thơ dân

30

gian mà nhân vật trong truyền thuyết được sự bổ sung chi tiết, có sức sống lâu bền

nhờ sáng tạo của vần điệu mà nó trở nên sinh động, in đậm trong tâm thức dân

gian, có sức sống thực, sinh động hơn so với chi tiết trong bản kể truyền thuyết.

Và ngược lại, truyện thơ được trau chuốt hơn về ngôn từ hoặc nó có thể bổ sung,

thu gọn, thay đổi lời kể, thay đổi bố cục. Thậm chí trong từng năm tháng, từng

vùng miền, từng địa phương, từng cụm dân cư mà bản kể truyện thơ Nôm sẽ khác

nhau (dị bản). Bản kể Tướng quân Phạm Ngũ Lão- truyện thơ khuyết danh mới

được ghi lại từ những năm 40 - 70 của thế kỷ XX, công bố năm 2010 (thế kỷ XXI)

là quá muộn nếu tính từ năm Kỷ Tỵ (1329) - năm Lý Tế Xuyên biên soạn, viết lời

tựa tác phẩm sưu tầm văn học dân gian đầu tiên của nước nhà - tác phẩm Việt điện

u linh.

Đối chiếu giữa các bản kể truyền thuyết và các đoạn bản ca truyện thơ Nôm

về Phạm Ngũ Lão, chúng tôi khẳng định: Hai loại hình truyền thuyết và truyện

thơ cùng kể về Phạm Ngũ Lão có sự liên hệ qua lại mật thiết bởi một số lí do.

Trước hết, đối tượng phản ánh trong hai thể loại (truyền thuyết, truyện thơ Nôm)

cùng là nhân vật lịch sử - danh tướng triều Trần là Phạm Ngũ Lão - một người

con ưu tú đất Hưng Yên. Hai là, người kể, người ca về tài tướng họ Phạm không

ai khác chính là những người dân quê, nơi ông sinh ra, lớn lên, là con cháu các

tướng sĩ cùng ông xông pha trận mạc, là thế hệ con cháu họ Phạm, làng ông, quê

ông từ đời này đến đời khác, thân thiết, gần gũi, ruột rà. Họ kế tiếp nhau phụng

thờ, tôn vinh ông. Ba là, truyền thuyết và truyện thơ đều là loại hình tự sự dân

gian lấy nghệ thuật ngôn từ đều là ứng diễn từ câu chuyện được tiếp nhận hoặc cá

nhân sáng tạo. Mặc dù diễn ngôn trong kể chuyện truyền thuyết khác diễn ngôn

trong truyện thơ Nôm có khác nhau về mức độ và hoàn cảnh song nghệ thuật diễn

xướng của truyền thuyết và truyện Nôm đều đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá

(về nhận thức lịch sử, về nghi lễ tín ngưỡng hoặc giải trí) của người dân quê.

31

Cũng cần nói thêm, khi thực hiện đề tài chúng tôi thấy một nghịch lý: Thời

kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt, nhiều truyền thuyết về Ngô Vương (939 - 944),

Đinh Tiên Hoàng (970 - 979), về Lê Hoàn (980 - 1005), Lý Thái Tổ (1010 - 1028),

về Lê Phụng Hiểu (thế kỷ XI), về Trần Hưng Đạo (1228 - 1300), về Lê Lợi (1428

- 1433) và các danh tướng khác đã được sưu tầm, giới thiệu rộng rãi. Trong khi

ấy, truyền thuyết về tướng quân Phạm Ngũ Lão ít được các nhà folklore học và

các nhà quản lý văn hoá địa phương quan tâm nên việc tìm hiểu mối quan hệ giữa

truyện thơ và truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão gặp khó khăn.

Về không gian lưu truyền, nhân dân ba tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Hải Dương

đều biết đến danh tướng Phạm Ngũ Lão qua truyền thuyết và truyện thơ dân gian

nói về ông. Đó là chưa kể tới tầm ảnh hưởng của 28 nơi thờ Phạm Ngũ Lão tại

đền miếu tỉnh Hưng Yên và những di tích thờ (hoặc phối thờ) Phạm Ngũ Lão tại

Hà Nam, Hải Dương... ở châu thổ sông Hồng. Ở Hưng Yên, Hải Dương, những

nơi thờ đức thánh Trần tức Trần Hưng Đạo thì đều có ban phối thờ (tượng) tướng

quân Phạm Ngũ Lão. Để nhớ lại thuở xa xưa tướng quân cùng quân sĩ rèn luyện

sức khoẻ, nhiều lễ hội thờ hoặc không thờ Điện suý Thượng tướng quân, ngoài

tục rước nước, rước kiệu cho đến nay vẫn chức trò chơi vật cù, như: Hội Phủ

Điềm, Tất Viên (Tiên Lữ), Quang Xá (Phù Cừ), hội đền Phù Ủng, đình Ngọc

Nhuế, Đào Xá, Đỗ Xuyên (Ân Thi), hội đình Yên Khê, đình làng Hạ, làng Trung

(Khoái Châu)...

* Tiểu kết:

Tóm lại, lịch sử - xã hội thời Trần đã tạo nên những người Việt lớn trong

hoàng tộc như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Bình

Trọng, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư... và những người xuất thân chốn bình

dân như Lê Phụ Trần, Nguyễn Địa Nô, Yết Kiêu, Dã Tượng, trong đó có Điện suý

Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão là người con của mảnh đất Hưng Yên. Nhân

tố không gian, thời đại được văn hoá quê hương tiếp nhận trở thành truyền thống

32

tốt đẹp. Truyền thống đó góp phần hình thành nên nhân cách, tài năng một tài

tướng họ Phạm - người cầm ngang ngọn giáo, tung hoành nơi trận mạc, hết lòng

bảo vệ quê hương đất nước. Làm xong nhiệm vụ, ông đường hoàng bước vào thần

điện làng xã, có mặt trong truyền thuyết, truyện thơ dân gian, tạo thành một vùng

văn hoá phổ rộng ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam.

Truyền thuyết Phạm Ngũ Lãovà truyện Nôm khuyết danh Tướng quân

Phạm Ngũ Lão là những tác phẩm văn học dân gian lưu truyền ở Hưng Yên được

nghiên cứu trên cơ sở lí luận cụ thể : khái niệm thể loại và sự phân chia tiểu loại

theo tiêu chí của các nhà nghiên cứu .Tuy ra đời trong thời điểm khác nhau song

giữa hai thể loại này vẫn có mối liên hệ nhất định và làm nên truyện kể dân gian

Phạm Ngũ Lăo .

Chương 1

TRUYỀN THUYẾT PHẠM NGŨ LÃO Ở HƯNG YÊN

2.1. Đặc điểm nội dung truyền thuyết Phạm Ngũ Lão

Truyền thuyết nói chung và truyền thuyết Phạm Ngũ Lão nói riêng đều

được sáng tạo trên cơ sở nhân vật và sự kiện lịch sử cụ thể. Sự kiện lịch sử ấy đã

được dân gian kiểm nghiệm, trở thành điểm tựa cho hư cấu nghệ thuật. Điện suý

Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão trở thành nguyên mẫu được người bình dân

33

nhào nặn thành hình tượng nghệ thuật theo tưởng tượng của họ. Qua loại sử bất

thành văn này, chúng ta tìm thấy dấu ấn lịch sử qua nội dung phản ánh của 15

truyền thuyết kể về Phạm Ngũ Lão. Đó là những sự kiện lịch sử trong hai lần

kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông vào các năm 1285, 1288 và những lần

ông chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ Quốc.

2.1.1. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh hào khí Đông A

Hào khí Đông A là khí thế đánh giặc của quân dân đời Trần bảo vệ quốc

gia quân chủ Đại Việt. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Trần (1226 -

1400) là một triều đại anh hùng - một triều đại coi trọng sự đoàn kết, thống nhất

giữa vua - tôi, tướng sĩ, rộng hơn là đoàn kết giữa giai cấp quý tộc phong kiến với

nhân dân lao động. Nhờ vậy, kinh tế, văn hoá, giáo dục, tôn giáo đều phát triển…

Ba lần quânNguyên - Mông (1258, 1285, 1288) sang xâm lược nước ta thì cả ba

lần chúng đều thất bại thảm hại. Vó ngựa của đội quân Mông Thát phải dừng bước

khi tiến vào Đại Việt. Quân dân nhà Trần dùng kế vườn không nhà trống, lấy đoản

chế trường để đập tan âm mưu đánh nhanh thắng nhanh làm bá chủ thế giới của

Thành Cát Tư Hãn. Ba lần chiến thắng quânNguyên- Mông là thắng lợi của sự

đoàn kết vua tôi, tướng sĩ và sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.

Khí thế đánh giặc lúc đó hừng hực trở thành ngọn lửa thiêu đốt hơn năm

mươi vạn quân Nguyên - Mông sau mỗi lần chúng vào giầy xéo giang sơn xã tắc.

Tinh thần đánh giặc bảo vệ Đại Việt thể hiện trong không khí chuẩn bị vũ khí,

lương thực của quân đội và dân binh làng xã, trong lời tâu của Thái sư Trần Thủ

Độ với vua Trần Thái Tông (1225 - 1258): “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ

hạ đừng lo gì khác” [38, tr 39],trong tiếng hô “ đánh ” của các bô lão tại thềm điện

Diên Hồng khi vua hỏi kế đánh giặc, trong hai chữ " Sát Thát " khắc trên tay tướng

sĩ, trong lời hiệu triệu Hịch tướng sĩ, trong câu trả lời đầy khẳng khái của Trần

Quốc Tuấn trước nhà vua: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin chém đầu tôi đi đã rồi sau

34

sẽ hàng”, trong hành động bóp nát quả cam của Trần Quốc Toản khi không được

dự bàn việc nước.

Phạm Ngũ Lão lớn lên đúng vào lúc nhân dân cả nước đang chuẩn bị cho

cuộc chiến đấu chống Nguyên - Mông lần thứ hai. Tinh thần thời đại đã được ông

tiếp nhận, biến thành ý chí, nghị lực quyết tâm đánh giặc của chàng trai làng Phù

Ủng. Muốn được đánh giặc, ông tìm cách gặp Trần Quốc Tuấn. Từ sự kiện này

nên người dân Hưng Yên đã hình tượng hoá, xây dựng thành công một số truyền

truyết thể hiện ý chí đánh giặc cứu nước người trai quê hương. Đó là các bản kể:

Ông Phạm Ngũ Lão, Truyện về ông Phạm Ngũ Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ

Lão, Bắn đứt dải cờ.

Truyện Bắn đứt dải cờkể về việc Phạm Ngũ Lão đi ngang qua bãi tập thấy

gia thần của Hưng Đạo Vương đang tập cung tên ông bèn xin bắn thử . Được

Nguyễn Địa Nô đồng ý, chàng trai họ Phạm “nâng cây cung, bằng một động tác

nhẹ nhàng và điêu luyện. Ông giương cung hướng mũi tên vào mục tiêu cắm sẵn

phía trước”. Hành động của chàng trai trẻ khiến vị gia thần của Trần Quốc Tuấn

ngạc nhiên bởi sức khỏe và tài năng phi thường. Theo Nguyễn Địa Nô “loại cung

này người thường không nâng nổi” nhưng Phạm Ngũ Lão lại có thể “nâng cây cung

bằng một động tác nhẹ nhàng”, chứng tỏ ông có sức khỏe hơn người. Sự ngạc nhiên

của Nguyễn Địa Nô được đẩy cao hơn khi Phạm Ngũ Lão tự tin khẳng định mình

có thể “ bắn đứt dải cờ đang bay”. Khi “mũi tên xé gió lao đi, dải cờ đứt đôi”[44]

là lúc Nguyễn Địa Nô nhận thấy người xin bắn thử là một kì tài bèn đưa vào ra mắt

chủ tướng. Mục đích của việc xin thử tài bắn cung của Phạm Ngũ Lão cốt để ông

được gặp Hưng Đạo đại vương. Đáng tiếc thay, lần đó ông chẳng những không gặp

được mà còn bị khép tội bắn vào cờ của triều đình.

Gặp Trần Quốc Tuấn và được Đức ông thu nạp với Phạm Ngũ Lão luôn là

niềm khao khát cháy bỏng. Cuộc gặp gỡ này được phản ánh trong các babản kể

Ông Phạm Ngũ Lão, Truyện về ông Phạm Ngũ Lão, Con đẻ con nuôi. Biết Hưng

35

Đạo đại vương kéo quân từ Vạn Kiếp về kinh nên Ngũ Lão “ngồi xếp bằng tròn

bên vệ đường cái quan chẻ tre đan sọt. Mặc cho quân tiên phong thét bắt đứng

dậy, ông cứ xếp bằng tròn mà đan, hình như không nghe thấy gì . Thấy vậy, quân

lính lấy giáo đâm vào đùi, ngọn giáo mắc vào đấy không rút ra được nhưng ông

vẫn cứ ngồi yên”[41, tr 482].Câu chuyện Phạm Ngũ Lão gặp Trần Quốc Tuấn

trên đường về kinh, tình tiết được kể đều tập trung thể hiện phẩm chất của chàng

trai trẻ làng Phủ Ủng. Cái dũng của Ngũ Lão thể hiện qua chi tiết ngọn giáo đâm

vào đùi. Ý chí đánh giặc trong ông lớn đến mức quên cả nỗi đau thể xác khiến

toán tiền binh thấy lạ và Hưng Đạo Vương ngạc nhiên. Tuy nhiên , bên cạnh việc

tô đậm lòng dũng cảm, ba bản kể trên còn làm nổi bật trí tuệ của người trai làng

Phù Ủng. Việc thể hiện cái trí của nhân vật thì ba bản kể có bề sâu khác nhau.

Bản thứ nhất, kể theo lối tóm lược, thuật lại việc Phạm Ngũ Lão "nghĩ mấy câu

trong binh thư nên không nghe thấy gì cả. Vương bèn dừng võng lại, thử hỏi binh

cơ mưu lược, thì ông ứng đối trôi chảy. Bản kể thứ hai, tác giả dân gian khắc sâu

thêm tài năng trí tuệ của Phạm Ngũ Lão: "Hưng Đạo Vương lấy làm lạ, hỏi đến

sự học hành, thì hỏi đâu nói đấy, nói về kinh, truyện thao lược không sót chỗ nào,

ứng đối nhanh như nước chảy”[ 41, tr 485]. Bản thứ ba, tầm vóc trí tuệ của chàng

thanh niên yêu nước được miêu thuật toàn diện hơn, sâu sắc hơn: "Đại vương hỏi

chàng về binh thư, binh pháp, hỏi đâu chàng biết đấy, trả lời sâu sắc và rành rẽ.

Hỏi về binh sách, chàng trả lời làu thông". Và cuối cùng bản kể bổ sung thêm chi

tiết mới: "Từ hôm ấy, chàng được giữ lại trong phủ đệ làm môn khách”[41, tr

489]. Con đường sáng tạo của nghệ thuật truyền thuyết không chỉ là tư duy sáng

tạo mà còn là tấm lòng của người bình dân khi họ kể về người con của quê hương

mình. Câu chuyện kể về việc Phạm Ngũ Lão gặp với Trần Hưng Đạo khi ông ngồi

đan sọt để giáo đâm vào đùi mà vẫn mải suy nghĩ việc nước được kể trong ba

truyền thuyết nói trên thực chất đã được người bình dân Hưng Yên phủ lên đó

một lớp sương huyền thoại. Người nghe nhận thấy việc trở thành một gia thần của

Trần Quốc Tuấn, thành tráng sĩ triều Trần ở Phạm Ngũ Lão có phần khác thường

36

so với những trai tráng khác. Trong khi trai tráng làng xã nô nức tòng quân thì

ông chọn cách tiếp cận vị thánh tướng của triều đình bởi một lẽ “chim khôn chọn

cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ”. Theo truyền ngôn của người xưa, cuộc

gặp gỡ đó tưởng như vô tình, ngẫu nhiên nhưng với Phạm Ngũ Lão lại rất hữu ý.

Do nhà ông gần đường cái quan nên chắc hẳn ông dễ dàng biết cuộc trảy quân của

Hưng Đạo vương từ Vạn Kiếp về Thăng Long. Để gặp được Đức ông, nhiều ngày

Phạm Ngũ Lão thường ngồi xếp bằng vót nan ở bên đường. Trong dáng vẻ lao

động cần mẫn ấy ít ai ngờ ông đang ấp ủ một ý chí chọn thời cơ được đi đánh

giặc, được gặp vị tổng chỉ huy ba quân của vương triều Trần. Điều lạ lùng là ở

chỗ khi lính hô dẹp đường ông vẫn ngồi im không cựa quậy. Họ lấy giáo đâm vào

đùi, Phạm Ngũ Lão vẫn cứ ngồi yên như cũ” khiến Trần Hưng Đạo lấy làm lạ mà

hỏi: “Nhà thầy kia ở đâu, sao ta đi qua đây mà cứ ngồi chững chàng làm vậy? ”.

Chàng trai đan sọt trả lời: “Tôi đang mải nghĩ một việc nên không để ý đến”.

Chính sức chịu đựng khác thường và câu trả lời của Ngũ Lão khiến Hưng Đạo

vương có ấn tượng mạnh với ông. Sau đó, cuộc đối đáp giữa một người thường

dân và vị Tổng chỉ huy quân đội trôi chảy càng khiến ngài tin rằng, đây là người

tài ở chốn dân gian. Việc tự tiến thân của Phạm Ngũ Lão đã gặp may bởi ông đã

có cuộc ra mắt đầy ấn tượng với người có cương vị quan trọng để đạt nguyện vọng

mong được triều đình thu nạp để được đi đánh giặc.

Sự kiện gặp Hưng Đạo vương đã mở ra cho Phạm Ngũ Lão một con đường

mới. Tuy nhiên, hành tiến trên con đường đó, ông gặp không ít thử thách. Nhà

vua xung ông vào quản vệ sĩ nhưng quân cấm vệ toàn những dũng tướng tài năng

đã không phục Phạm Ngũ Lão lại còn thách đấu. Để chứng tỏ khả năng bản thân,

ông xin vua cho về ba tháng thu xếp việc nhà nhưng thực ra là để luyện tập võ

nghệ rồi mới vào kinh so tài cao thấp. Truyện Ông Phạm Ngũ Lão kể về ý chí và

sự khổluyện của Phạm Ngũ Lão: “Những kẻ vệ sĩ thấy ông là hàn vi mới hiển đạt

thì lấy làm khinh thường, liền cùng ông đấu võ. Ông cáo về nhà nghỉ vài tháng,

cứ ngày ngày ra cái gò cao ở làng bên cạnh tập nhẩy, nhẩy đến nỗi sạt cả một góc

37

gò. Hết hạn nghỉ rồi, ông vào triều đấu với các vệ sĩ. Bọn vệ sĩ năm sáu người

quần lại đấu với ông. Ông tay đấm, chân đá, nhẹ nhàng như bay. Chúng đều bị

thương cả, mới bó tay xin chịu thua” [41, tr 482, 483]. Từ chi tiết cốt lõi ấy, bản

kể Truyện về ông Phạm Ngũ Lão phát triển đôi nét về tài nghệ, sức mạnh của một

võ tướng sức địch muôn người: “Vua thấy người có sức khỏe, lại học thứ, cho vào

làm Quản vệ sĩ. Các vệ sĩ không chịu, xin đấu sức với Ngũ Lão. Ngũ Lão xin vâng

nhưng xin vua cho về nhà ba tháng để thu xếp việc nhà, rồi sẽ xin đấu sức và nhận

chức nhân thể. Vua cho về, Ngũ Lão ra ngoài đồng, tìm chỗ gò cao mà tập nhảy,

cứ cách mười trượng chạy để nhảy tót qua gò. Tập luyện thành rồi vào kinh đấu

sức. Khi đấu quyền với các vệ sĩ thì không ai địch nổi, rồi Ngũ Lão thách cả các

vệ sĩ cùng ra đấu. Các vệ sĩ xúm xít chung quanh hàng trăm người. Ngũ Lão tay

đấm chân đá, nhẩy nhót như bay, chạm phải ai không chết cũng què cẳng. Các vệ

sĩ không tài gì đánh lại được, bấy giờ mới chịu phục” 41, tr 486,487]. Vẫn phản

ánh tinh thần luyện tập bền bỉ, nhẫn nại đó nhưng trong truyện Phạm Ngũ Lão

luyện tập tác giả dân gian kể chi tiết hơn: “Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khuya,

trên bãi cỏ ven làng không mấy lúc vắng mặt Phạm Ngũ Lão. Từ môn cưỡi ngựa

bắn cung đến côn, quyền, roi, kiếm; Phạm Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện.

Chỉ còn môn cắp giáo nhảy qua tường hào, Phạm Ngũ Lão luyện mãi vẫn chưa

thấy vừa lòng. Mấy hôm sau, được các bạn trong làng giúp sức, Phạm Ngũ Lão

đắp một cái gò đất ở ven làng để tập nhảy. Riêng việc đắp gò cũng là dịp để Phạm

Ngũ Lão tập mang nặng. Cứ ba sọt đất đầy ăm ắp, Phạm Ngũ Lão nhấc bổng lên

vai bước thoăn thoắt từ thùng đấu lên đỉnh gò, trong lúc các bạn khác, người khỏe

nhất, chỉ mang được hai sọt. Vài ngày sau, một gò đất lớn đã nổi lên lù lù ở ven

làng. Ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm, Phạm Ngũ Lão đã có mặt ở chân gò, từ từ

chạy lên đỉnh rồi lại nhảy xuống, hoặc chống sào, nhảy qua gò. Sau mấy ngày

luyện tập, Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Nhưng không thể

dừng lại ở đây được, Phạm Ngũ Lão quyết vượt xa hơn nữa. Phạm Ngũ Lão mặc

quần dài, cho đất vào ống quần, buộc túm lại để tập nhảy. Trong mấy ngày đầu,

38

đôi chân của Phạm Ngũ Lão như bị cắm chặt xuống đất. Thật khó khăn mới nhấc

bổng được. Mồ hôi ướt đầm, chân tay rã rời… nhưng dần dần Phạm Ngũ Lão đã

nhảy qua gò một cách dễ dàng. Bức tường thành sừng sững trong sân trường Giảng

Võ không có gì đáng sợ với Phạm Ngũ Lão nữa” [44].Câu chuyện trên cho thấy

tinh thần rèn luyện kiên trì, liên tục của Phạm công. Ông luyện tập từ sáng sớm

đến đêm khuya, từ ngày này sang ngày khác ròng rã suốt mấy tháng trời không

nghỉ. Ông không chỉ rèn luyện các môn “cưỡi ngựa bắn cung” , “côn, quyền, roi,

kiếm” đến “ thành thạo, điêu luyện” mà còn rèn “môn cắp giáo nhảy qua tường

hào” khi thấy mình “luyện mãi vẫn chưa vừa lòng”. Để thực hiện được môn võ

này ông ngày ngày đắp gò cao để tập nhảy. Việc đắp gò thật vất vả nhưng không

làm Phạm Ngũ Lão nản lòng nhụt chí. Nhờ sự kiên trì, bền bỉ cuối cùng Phạm

công đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Như vậy, để có sức địch muôn người của

chàng trai Phù Ủng là quá trình luyện tập kỳ công, liên tục, bền bỉ . Nhờ đó, ông

không chỉ có sức khỏe dẻo dai, mà còn có khả năng phi thường không ai sánh nổi.

Đó là cuộc rèn luyện có ích, có chủ đích rõ ràng, rất bài bản của một võ tướng

mong được sớm ra trận. Cuộc thi đấu giữa Phạm Ngũ Lão với các võ sĩ trong Cấm

vệ quân là cuộc thi tài không chỉlàm họ nể phục mà khiến nhà vua thêm phần tin

tưởng . Quân cấm vệ từ chỗ khinh thường, thách thức đến chỗ xin chịu thua vì

không địch nổi Phạm Ngũ Lão. Vua Trần thấy ông là người kiêu dũng, cho theo

Hưng Đạo vương đi đánh giặc Mông Cổ. Có thể nói, ý chí được ra trận giết giặc

với lòng yêu nước thiết tha đã thôi thúc Phạm Ngũ Lão quyết tâm luyện rèn võ

nghệ để chuẩn bị xông pha trận mạc.

Hào khí Đông A trong các bản kể truyền thuyết về Phạm Ngũ Lão không

chỉ thể hiện qua ý chí, khát vọng đánh giặc của chàng trai làng Phù Ủng mà còn

được thể hiện qua bài thơ Thuật hoài của ông. Đây là một tác phẩm văn học đã

được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn cấp Trung học phổ thông

nhưng trong truyền thuyết Phạm Ngũ Lão lại là một chi tiết được kể ở Truyện ông

Phạm Ngũ Lão và Anh Nguyên quận chúa. Trong bản kể Truyện ông Phạm Ngũ

39

Lão, người bình dân tưởng tượng : “Ngũ Lão tính hay ngâm thơ, thường ngâm

một bài rằng:

“Ngọn giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân tì hổ át sao Ngưu.

Công danh nếu để còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” [41, tr 485]

Bài thơ được người xưa nhắc đến trong bản kể như minh chứng cho tính

“hay ngâm thơ” của chàng trai làng Phù Ủng. Bài thơ Ngũ Lão thường ngâm vừa

tái hiện hùng khí của dân tộc Đại Việt xông lên giết giặc với sức mạnh như hổ báo,

vừa thổ lộ hùng tâm tráng chí của đấng nam nhi thời loạn. Hiện lên trong bài thơ là

một tráng sĩ đời Trần. Người trai ấy dù đã tham gia vào công cuộc bảo vệ đất nước

“trải mấy thâu” nhưng vẫn thấy mình “vương nợ” công danh và thấy thẹn khi “nghe

chuyện Vũ hầu”. Đằng sau mối thẹn và món nợ ấy là chí lớn và khát khao cống

hiến của một con người cho vua, cho nước.

Trong truyện Anh Nguyên quận chúa, bài thơ Thuật hoài lại xuất hiện trong

lời ngâm của quận chúa Anh Nguyên giữa đêm thanh vắng. Tiếng ngâm trong

trẻo của con gái nuôi khiến Đại Vương “chú ý lắng nghe”. Đức ông rất đỗi ngạc

nhiên về lời thơ trong trẻo, lưu loát, khí phách. Qua cuộc trò chuyện với con, ngài

mới biết tác giả bài thơ là Phạm Ngũ Lão. Hưng Đạo Vương đã gật đầu và khen

ngợi: “Ngoài Phạm Ngũ Lão ra, khó có ai làm được bài thơ lập chí như vậy” [44].

Đây là lí do đặc biệt khiến Đại vương hài lòng về việc tiến cử người con trai có

tài văn võ này với triều đình và khiến quận chúa Anh Nguyên lúng túng, e lệ khi

nghe cha khen ngợi nhắc đến tên Phạm Ngũ Lão. Như vậy, bài thơ Thuật hoài là

nơi gửi gắm ý chí, khát vọng của tướng quân Phạm Ngũ Lão, phản ánh khí thế

sục sôi của thời đại nhà Trần đánh giặc giữa nước. Ở đó, hình ảnh tác giả của bài

thơ lồng vào hình ảnh của dân tộc khiến từng câu, từng chữ đều mang âm hưởng

của hào khí Đông A.

40

Điểm qua một số bản kể truyền thuyết nói trên, chúng ta nhận thấy hào khí

Đông A đã hun đúc ý chí, tinh thần của mỗi con người thời Trần để họ trở thành

con người mang tinh thần thời đại. Phạm Ngũ Lão là một minh chứng cụ thể. Ông

từ một chàng trai nông dân nghèo, quanh năm chân lấm tay bùn, hết việc đồng lại

ngồi đan sọt mưu sinh nhưng nhờ hào khí thời đại mà trở thành người anh hùng có

lòng yêu nước thiết tha, biết rèn luyện bản thân để trở thành một người biết đem trí

tuệ, sức lực, tài năng ra phò vua giúp nước. Nếu như tư duy thần thoại Việt dựng

lên chân dung những người khổng lồ đại diện cho thế lực thần linh tuyệt đối thì

kiểu tư duy truyền thuyết thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập cũng để lại

cho đời sau những bức chân dung gần gũi như thế. Hình tượng Phạm Ngũ Lão vừa

là kết quả của tư duy lịch sử cụ thể, vừa mang tầm vóc của trí tưởng tượng và tinh

thần ngợi ca.

2.1.2. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão ngợi ca vị tướng bình dân

Trong cuộc ba chiến tranh vệ quốc của nhà Trần, bên cạnh những vị tướng

tài là người trong hoàng tộc Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,

Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng,... còn có không ít tướng lĩnh vốn là con em

bình dân như Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Nô, Phạm Ngũ Lão. Họ tham gia

và lập nhiều chiến công được chính sử và truyền thuyết dân gian ghi nhận.

Hiện lên trong cái nhìn của người bình dân, ngay khi còn trẻ, Phạm Ngũ

Lão đã là người khẳng khái, giàu tự trọng. Các bản kể Truyện về ông Phạm Ngũ

Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão cùng kể về sự việc Bùi Công Tiến nhân

đỗ tiến sĩ đã mở tiệc khao dân làng Phù Ủng nhưng chàng trai trẻ Phạm Ngũ Lão

kiên quyết không đến ăn khao. Trước lời mẹ giục, Phạm công đã thưa với mẹ:

“Thưa mẹ, con chưa làm nên gì để mẹ vui lòng, mà con đi mừng người ta thì con

lấy làm nhục lắm”[41, tr 484]. Sau ông Bùi Công Tiến gọi Phạm Ngũ Lão đến

trách rằng: “Sao ngươi còn bé mà khinh bạc thế?”, Phạm công đã khẳng khái trả

lời: “Lão ô bách tuế bất như phượng hoàng sơ sinh”, (nghĩa là: Con quạ trăm tuổi

41

không bằng con phượng hoàng mới sinh)[41, tr 487]. Những chi tiết trên đã nói

lên chí khí của một con người. Qua lời thưa với mẹ, ta thấy Phạm Ngũ Lão muốn

mình không thua kém người khác, muốn làm nên chuyện lớn, phải “có danh gì

với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Bị Bùi Công Tiến trách tội khinh bạc, ông

mượn chữ nghĩa trong điển lệ để đối đáp lại người vừa đỗ đại khoa. Qua lời nói

đầy khẳng khái đó, Phạm Ngũ Lão không chỉ thể hiện vốn học vấn của mình mà

còn thể hiện thái độ tự tin, ý chí vươn lên của bản thân. Ông muốn bằng người,

hơn người nhưng không đi theo con đường lập thân bằng lối cử nghiệp như Bùi

Công Tiến. Qua câu chuyện trên, dân gian muốn ngầm dự báo về chí khí của

chàng trai sau này là vị tài tướng nhà Trần.

Qua một số bản kể truyền thuyết, tác giả dân gian còn khắc họa Phạm Ngũ

Lão là một con người hiếu nghĩa, nhân hậu. Mở đầu truyện Nói về sự tích ông

Phạm Ngũ Lão, người dân quê đã giới thiệu về ông: “Đời vua Nhân Tông, ở làng

Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương có một người tên là Phạm Ngũ Lão tính

khí khái và có hiếu với cha mẹ ”[41, tr 487]. Khí khái và hiếu thuận là hai nét

nổi bật ở nhân vật này. Là con, Ngũ Lão chỉ muốn “làm nên gì để mẹ mừng lòng”.

Truyện Mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão kể rằng: Trước khi trấn giữ vùng ải Bắc, ông được

lệnh về thăm quê nhà, mang theo quà của quận chúa Anh Nguyên gửi biếu mẹ

già. Thấy con về, người mẹ lại nén thở dài đầy lo lắng. Bà sợ Ngũ Lão ngã lòng

do thương mẹ nên toan dùng giải yếm buộc cổ tự tử. Hoảng hốt vì điều đó, người

con hiếu thảo đã “van xin mẹ hãy yên lòng”[44] rồi trở lại Thăng Long lúc trời

chưa sáng. Như vậy, người mẹ không muốn vì mình mà con trễ nải việc nước còn

Phạm Ngũ Lão vì hiếu thuận mà không dám trái ý mẹ già. Ông sẵn sàng đảm

đương việc nước để mẹ yên lòng. Trong góc nhìn của dân gian, với cha mẹ, Phạm

Ngũ lão rất mực hiếu thảo còn với người dân ông dốc lòng giúp đỡ. Truyện Chữa

bệnh cứu người[41, tr 490]đã tô đậm phẩm chất nhân ái nơi tướng quân họ Phạm.

Vì thương gia đình phú ông ở Cẩm Giàng có một con trai bị bệnh lên đậu, gần

42

chết nên ngài đã hiển linh thành cụ già và nhận lời sẽ chữa bệnh cho. Nhờ đó,

đứa trẻ thoát chết, gia đình phú ông sống trong niềm vui, hạnh phúc.

Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam trải qua bao cuộc chiến tranh

giữ nước. Dưới thời phong kiến, nhiều lần đội quân xâm lược phương Bắc phải

nhục nhã lui quân khi chúng sang xâm lăng Đại Việt. Riêng ở thời Trần, ba lần

đại quân Nguyên – Mông kéo sang là ba lần chúng thất bại thảm hại. Một trong

những yếu tố làm nên chiến thắng dội vang của quân dân Đại Việt là cách đánh

mưu trí, bất ngờ, khiến kẻ thù không kịp trở tay. Người Việt vốn nổi tiếng ở nghệ

thuật chiến tranh nhân dân, bằng cách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Đại

quân Nguyên - Mông cậy quân đông, có sức cơ động nên thường tổ chức những

trận tấn công chớp nhoáng với quy mô lớn, đánh nhanh thắng nhanh. Trong khi

đó, quân dân Đại Việt lại tìm cách không đối đầu trực tiếp, dùng "đoản binh chế

trường trận", tìm mọi cách làm suy giảm sức mạnh địch quân bằng thế trận chiến

tranh nhân dân rộng khắp. Nhà Trần đã từng rút khỏi Thăng Long để lại vườn

không nhà trống khiến giặc chiếm được thành như vào chỗ không người, sau đó

phải bỏ chạy. Có thể nói, linh hoạt trong đối phó với kẻ thù, chọn cách đánh giặc

phù hợp với thực tế chiến trận, chọn tướng tài sử dụng là kế sách đánh giặc được

tổng kết bởi vị thánh tướng đời Trần: “ Đại khái kẻ kia cậy có trường trận, ta có

đoản binh: lấy đoản binh chế trường trận đó thói thường của binh pháp. Quân địch

ầm ầm tràn đến như lửa, như gió, thế ấy dễ trị. Nếu chúng dùng chướng tằm ăn

lá dâu, không cần mau thắng, không cướp bóc lương dân thì ta phải lựa dùng

lương tướng, xem tình hình mà liệu quyền biến như đánh cờ vậy” [38, tr 108].

Nhờ sự soi sáng của tư tưởng quân sự nói trên, triều đình đã lãnh đạo nhân dân ba

lần kháng chiến thắng lợi và lập chiến công hiển hách.

Qua một số bản kể truyền thuyết, người bình dân đã hết lời ca ngợi tài đánh

giặc của Phạm Ngũ Lão. Ông là vị tướng có tài xuất quỷ nhập thần từng làm cho

kẻ thù bao phen khiếp đảm, góp phần tạo nên thắng lợi lẫy lừng của quân dân Đại

43

Việt và là minh chứng sinh động cho nghệ thuật chiến tranh nhân dân thời đó. Đại

Việt sử kí toàn thư nhiều lần nhắc đến Phạm Ngũ Lão: “Ngũ Lão xuất thân trong

hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích

ngâm thơ, tựa như không để ý đến chuyện võ bị. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là

một đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng ”[38, tr 161- 162]. Ở một chỗ khác bộ sử này

đã chép công tích của vị tướng người bình dân nhưng là tướng bất bại khi đánh dẹp

Ai Lao, Chiêm Thành, kể cả nội phản. Năm Giáp Ngọ (1294), “Tháng 8, Thượng

hoàng đích thân đi đánh Ai Lao, bắt được nhiều người và súc vật không kể xiết.

Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (không rõ tên) làm quân tiên phong, bị

quân Ai Lao bao vây, Phạm Ngũ Lão dẫn quân ập tới, giải vây, rồi tung quân

nghênh chiến, đánh bại quân Ai Lao. Ban kim phù cho Ngũ Lão” [38,tr 108].

Những sự kiện lịch sử trên đã làm nền cho người bình dân hư cấu một số truyền

thuyết kể về cách đánh bất ngờ, táo bạo, sáng tạo của ông như các bản kể Truy kích

Thoát Hoan, Truyện ông Phạm Ngũ Lão, Sự tích ông Phạm Ngũ Lão. Truyện Truy

kích Thoát Hoan kể về lần phục kích của Phạm Ngũ Lão ở ải Nội Bàng. Sau thất

bại ở Chương Dương, biết không thể giữ được Thăng Long, Thoát Hoan - thái tử

nhà Nguyên định rút quân về. Qua viên tướng thân cận, hắn biết có tướng quân

Phạm Ngũ Lão mai phục trên đường phía Tây ải Chi Lăng nên đã cho bộ tướng

của mình là Tích Đô Nhi đối đầu với ông còn y chọn phía Đông để rút lui an toàn.

Không ngờ, Phạm Ngũ Lão đã chia quân ra các nơi hiểm yếu phục binh chờ giặc.

Khi rút đến Nội Bàng, theo lệnh chủ tướng họ Phạm, quân Trần bắn tên độc từ các

lùm cây và xông ra giáp chiến. Tác giả dân gian kể lại sự kiện này bằng giọng điệu

đầy tự hào: “Quân Thoát Hoan từ từ rút, khi cánh quân cuối cùng lọt vào đất Nội

Bàng, thì một tiếng pháo lệnh vang lên. Hàng loạt mũi tên tẩm thuốc độc bắn ra từ

các lùm cây; quân lính gươm giáo xông lên. Ngọn cờ đại mang chữ "Phạm" phấp

phới bay trên cửa ải. Quân địch hốt hoảng, một số bị chết, tướng lĩnh và quân sĩ

nhiều tên bị thương, số còn lại thục thân thoát qua cửa ải. Thoát Hoan phải trà trộn

vào đám tàn quân trốn về đến Tư Minh, từ đó bỏ ý định xâm lược Đại Việt”. Trong

44

câu chuyện không dài, cốt truyện súc tích, người kể khắc họa thành công chân

dung của vị hổ tướng Phạm Ngũ Lão. Hình tượng Phạm Ngũ Lão là sự đối lập với

viên Trấn Nam vương Thoát Hoan. Nếu Thoát Hoan đê hèn, bạc nhược bao nhiêu

thì Phạm Ngũ Lão dũng lược bấy nhiêu. Với lối tập kích bất ngờ, bố trí quân mai

phục tài tình, đội quân Đại Việt do ông chỉ huy đã giáng một đòn chí mạng khiến

quânNguyên- Mông tan tác. Bản kể trở thành một bài ca ngợi ca nghệ thuật phục

kích của vị tướng nông dân. Vì khiếp đảm trước các đánh xuất quỷ nhập thần của

đội quân do Phạm Ngũ Lão chỉ huy nên quân Nguyên - Mông mỗi khi được cử đi

chinh phạt phương Nam, trông thấy cờ súy của ông đều sợ hãi: "Lính già từng trải

mùi chinh chiến. Nghe nói Nam chinh ủ mặt mày”.

Lần theo những dòng chính sử, chúng ta thấy Phạm Ngũ Lão 3 lần dẹp quân

Ai Lao từ phía Tây. Đó là các lần: Tháng 8, năm Giáp Ngọ (1294), tháng 2, năm

Đinh Dậu (1297), tháng 3, năm Tân Sửu (1301). Ông 2 lần đánh quân Chiêm

Thành từ phía Nam (vào tháng 5 năm Nhâm Tý 1312 và tháng 8 năm Mậu Ngọ)

lấn đất Đại Việt. Trong các trận đánh này, ông đều lập công bởi cách đánh táo

bạo, bất ngờ: dùng chiến thuật tập kích thành công.TruyệnNói vềsự tích ông Phạm

Ngũ Lão kể lại: “Khi đi chăn voi, người ấy lập mẹo may một chiếc áo đỏ, một lá

cờ đỏ, rồi giấu vào một chỗ. Lúc đem voi đi chăn thời mặc áo với cầm cờ, dạy voi

phải trông theo hiệu. Hễ thấy lá cờ phất xuống, thời đều nằm phục cắm ngà xuống

đất, chổng đít lên trời. Lá cờ phất lên thời đều đứng dậy cả. Người ấy ở đấy hai

năm, dạy những con voi đều thuộc phép cả"[41, tr 487]. Tháng 3, năm Tân Sửu

(1301), quân Ai Lao xâm phạm Đại Việt lần thứ ba, sang cướp vùng Lai Châu,

Sơn La, Hoà Bình (thời Trần gọi là vùng Đà Giang). Sự kiện ấy, chính sử viết

chưa đến 4 dòng: "Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, gặp

giặc ở Mường Mai giao chiến, bắt được rất nhiều " [38, tr 129]. Thế nhưng bản

kể truyền thuyết lại tường thuật chi tiết, tỉ mỉ về cách dùng binh của Phạm Ngũ

Lão: "Chúa nước Ai Lao thấy báo, kéo quân với rất nhiều voi ra bày trận. Đến lúc

giáp trận, Phạm Ngũ Lão mới mặc áo đỏ, cầm cờ đỏ phất xuống thời bao nhiêu

45

con voi trông thấy, đều nằm phục cắm ngà xuống đất, chổng đít lên, lúc ấy mới

sai quân vào bắt được chúa nước Ai Lao. Từ đấy, nước Ai Lao mới chịu hàng

phục và triều cống nước An Nam"[41, tr 488]. Qua chi tiết trên ta thấy tài chỉ huy

và cách đánh của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Ông dùng lá cờ đỏ làm hiệu: “ lá cờ

phất xuống, voi đều nằm phục, cắm ngà xuống đất… Lá cờ phất lên thời voi đứng

dậy cả”. Nhờ thế, quân ta mới bắt được chúa Ai Lao. Mẹo đánh giặc có một không

hai của tướng quân Phạm Ngũ Lão không chỉ ở cách dạy voi rồi vận dụng trong

đánh trả đội hình tượng binh giặc mà còn thể hiện ở việc ông dùng dùng cọc tre

vạt nhọn đâm vào chân voi khiến quân Ai Lao thua chạy. Truyệnông Phạm Ngũ

Lão kể: “Ai Lao đem hơn một vạn voi sang cướp đất Thanh, Nghệ. Vua sai Ngũ

Lão cầm quân đi đánh. Ngũ Lão sai dân chặt tre đực cứ dài độ một trượng, chồng

chất vào các vệ đường. Khi Ngũ Lão kéo quân vào đánh, giặc thúc voi sấn lên.

Ngũ Lão chỉ chân tay không sấn vào gặp đống cọc tre nào thì vớ cọc ở đống tre

ấy, đập vào chân voi. Voi bị đau gầm rống lên chạy về, giầy xéo cả quân Ai Lao.

Ngũ Lão mới thúc quân đánh tràn sang. Quân Ai Lao tan vỡ phải trốn về đêm

”.[41, tr 486]. Điều thú vị là trong lần đối đầu với đại quân hơn một vạn người có

voi chiến mở đường, trong khi ấy tướng quân người Phù Ủng chân tay không vẫn

vào cận chiến. Giặc thúc voi tiến lên, ông lấy cọc “ đập vào chân voi ” khiến “ voi

bị đau gầm rống lên chạy về, giầy xéo cả quân Ai Lao”.Lối đánh sáng tạo nêu trên

không có trong binh pháp, không được sử gia nhắc đến trong chính sử nhưng cho

ta sự liên tưởng đến cách đánh dùng cọc nhọn đâm thủng thuyền giặc của Ngô

Vương Quyền (11 – 938), của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (3 - 1288) ở

sông Bạch Đằng. Câu chuyện dân gian kể cũng gợi cho người nghe nhớ đến

những huyền thoại về Yết Kiêu - một gia tướng của Hưng Đạo Vương. Ông từng

lặn xuống biển, dùng sắt nhọn đục thủng thuyền giặc. Khi bị chúng bắt, Yết Kiêu

đã lừa chúng “ nhảy xuống nước trốn thoát ”.

Tóm lại, qua các truyền thuyết, người bình dân dường như không giấu nổi

niềm tự hào, ngưỡng mộ khi kể về vị tướng bình dân. Đó là con người hội tụ nhiều

46

phẩm chất đẹp đẽ, khẳng khái, tự trọng, hiếu thảo với đấng sinh thành, giầu lòng

thương yêu nhân dân và rất tài năng, sáng tạo khi cầm quân đánh giặc. Ông xứng

đáng được tôn vinh nơi điện thờ và được lưu truyền qua các câu chuyện kể.

2.1.3. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão phản ánh tư tưởng thân dân, trọng dụng

nhân tài của vương triều Trần

Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc chiến tranh vệ quốc. Ở bất cứ

thời đại nào, dân tộc ta cũng ngoan cường chống trả các thế lực ngoại xâm để giữ

yên bờ cõi. Kiên cường chiến đấu chống giặc bảo vệ giang sơn xã tắc là truyền

thống ngời sáng trong phẩm chất mỗi thế hệ người Việt Nam. Lịch sử cho thấy,

dù kẻ thù đến từ đâu, hung bạo như thế nào, cuối cũng cũng bị nhân dân ta đánh

bại. Làm nên chiến thắng đó là do chúng ta đã biết phát huy sức mạnh của khối

đại đoàn kết toàn dân. Sở dĩ nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên- Mông là nhờ

tinh thần vua tôi đồng lòng, quân sĩ gắng sức: Đoàn kết tôn thất, giữa tôn thất với

ngoại thuộc, trong bộ máy chỉ huy cuộc chiến tranh, đoàn kết nội bộ nhân dân

làng xã. Nhờ sự đoàn kết vua - tôi, trên - dưới, trong triều - ngoài nội nên sức

mạnh Đại Việt được nhân lên.

Chính sách thân dân, trọng dụng nhân tài là tư tưởng lớn của vương triều

Trần. Tư tưởng đó nảy sinh trong Phật hoàng Trần Nhân Tông rất sớm. Tư tưởng

thân dân được ông rút tỉa trong kinh Hoa Nghiêm, nâng lên thành thuật trị nước.

Theo ông, việc trị nước không nên bắt đầu bằng sự cai trị của nhà cầm quyền mà

là sự khai mở trí tuệ, khai thông đạo lí, đánh thức phẩm hạnh, đạo đức căn bản

của con người. Đánh giá tư tưởng thân dân của Trần Nhân Tông, sử gia Ngô Sĩ

Liên viết: “Cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng, làm vẻ vang đời trước, thực là

vua hiền của đời Trần ” [13]. Vì thân dân, trọng dân nên khi vận mệnh dân tộc

ngàn cân treo sợi tóc cả thượng hoàng Trần Thánh Tông (1258 - 1278) và vua

Trần Nhân Tông (1279 - 1293) đều tham khảo ý kiến các bô lão. "Thượng hoàng

triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng ban yến và hỏi kế đánh giặc.

47

Các phụ lão đều nói " đánh ", muôn người cùng hô một tiếng" [ 38, tr 73]. Đây là

cuộc trưng cầu dân ý vĩ đại nhất, minh chứng tinh thần đoàn kết giữa tầng lớp quý

tộc với nhân dân. Tư tưởng thân dân thể hiện rõ nhất qua hình ảnh vị thánh tướng

triều đình - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Khi kẻ thù lăm le xâm chiếm nước

ta, ông đã viết Hịch tướng sĩ kêu gọi binh sĩ đứng lên đánh giặc. Theo ông, họ

chống giặc đâu phải để bảo vệ cho chủ tướng mà bảo vệ quyền sống của chính

mình. Giữ gìn giang sơn Đại Việt lúc này là bảo vệ những gì quý giá nhất thiêng

liêng nhất mà cha ông để lại. Khi lợi ích của vương triều với lợi ích của nhân dân

là một thì nhân dân sẽ tự giác đứng lên, đồng cam cộng khổ bảo vệ quyền lợi ấy

“Các ngươi ở lâu dưới trướng nắm giữ binh quyền không có áo mặc thì ta cho áo,

không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng tước, lộc ít thì ta cấp lương...

lúc ra quân thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười”. Khi ông

ốm nặng, sắp mất, vua Anh Tông (1293 - 1314) đến thăm và có ý vấn kế giữ nước,

ông đã tâu: “ phải nới lỏng sức dân để làm các chước rễ sâu gốc vững. Đó là

phương sách giữ nước hay hơn cả ”.

Với tư tưởng thân dân nói trên nên khi các cuộc kháng chiến chống Nguyên

- Mông bùng nổ, triều đình sẵn sàng trọng dụng những người tài xuất thân từ tầng

lớp bình dân. Ngay trong bộ máy lãnh đạo cuộc kháng chiến bên cạnh những

tướng là người của hoàng tộc còn có đóng góp không nhỏ của họ. Nhận xét về tư

tương thân dân của vương triều Trần, nhà bác học thế kỷ XVIII là Lê Quý Đôn có

nhận xét: “Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ

độ cho nên nhân vật trong một thời có khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng

vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không hổ với trời, dưới

không thẹn với đất”. Với chính sách cởi mở, trọng dụng nhân tài nói trên thì người

trai làng Phù Ủng, một người chưa từng đỗ đạt mới được triều đình thu nạp. Sách

Khâm định Việt sử thông giám cương mục soạn năm 1290 có chép triều Trần :

“Bổ dụng Phạm Ngũ Lão quản lĩnh quân Thánh Dực. Ngũ Lão là gia thần Quốc

Tuấn. Quốc Tuấn nhận thấy Ngũ Lão tài năng có độ hơn người, gả con gái nuôi

48

cho. Nhân đó tiến cử lên triều đình. Ngũ Lão theo Quốc Tuấn đi đánh giặc Nguyên

có công nên có lệnh bổ dụng này”. Chính sách thân dân không chỉ phát huy sức

mạnh nhân dân trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm mà còn là cơ hội để những

người tài dũng xuất thân từ bình dân được trọng dụng, có dịp thi thố tài năng. Việc

Phạm Ngũ Lão được Hưng Đạo Đại Vương thu nhận và giữ làm môn khách, sau

đó tiến cử lên vua, được cầm quân đánh giặc, được làm con rể của Quốc công tiết

chế … đã minh chứng tư tưởng thân dân của vương triều Trần. Tư tưởng ấy được

dân gian kể lại bằng những truyền thuyết, như Con đẻ con nuôi, Quận chúa Anh

Nguyên, Phạm Ngũ Lão và Minh Hiến Vương.

Truyện Con đẻ con nuôi, Quận chúa Anh Nguyên kể về mối tình giữa quận

chúa Anh Nguyên và tướng quân Phạm Ngũ Lão. Trong Quận chúa Anh Nguyên,

tác giả dân gian không chỉ rung động về tình cảm thầm kín của con gái Hưng Đạo

Vương mà thể hiện thái độ quý mến đặc biệt của Đức ông (tức Trần Quốc Tuấn)

đối với môn khách Phạm Ngũ Lão. Tình cảm đẹp giữa hai người bắt đầu bài thơ

của chàng trai họ Phạm mà quận chúa ngâm trong đêm khuya thanh vắng. Lời bài

thơ khiến “vương rất đỗi ngạc nhiên về lời thơ trong trẻo, lưu loát, khí phách”.

Ông “đi về thư phòng con gái và hỏi: Ta vừa nghe con ngâm bài thơ lạ. Thơ của

ai vậy?”. Khi biết tác giả bài thơ, “Hưng Đạo Vương gật đầu. Một niềm vui thầm

kín thoáng hiện trên khuôn mặt của vị Quốc công. Vương lại càng hài lòng thấy

mình không nhầm khi tiến cử người con trai có tài văn võ này. Từ lâu, vương đã

có ý chọn Phạm Ngũ Lão làm con rể”[44]. Những trạng thái cảm xúc của Hưng

Đạo Vương được người kể chuyện diễn ngôn thật chi tiết: từ ngạc nhiên trước bài

thơ thể hiện khí phách lớn đến tâm trạng vừa vui mừng, vừa hài lòng khi mình đã

đúng khi tiến cử Ngũ Lão lên đức vua và ý định chọn Ngũ Lão làm con rể cũng

không nhầm. Thái độ của vị chủ tướng cũng là cái nhìn sắc sảo của tác giả dân

gian khâm phục nhân cách Trần Quốc Tuấn về phương châm xử thế, một cách

đánh giá, sử dụng người của một Quốc công tiết chế - quý tộc bậc cao của vương

triều. Đó là quan điểm “dụng nhân như dụng mộc”. Phương châm xử thế đó thể

49

hiện nét đẹp văn hoá của triều Trần - một triều đại luôn gần dân, dựa vào dân, biết

sử dụng sức mạnh của nhân dân. Nếu không có thái độ yêu mến, trọng dụng, yêu

thương nhân dân chắc hẳn ông không có những tình cảm cởi mở, đẹp đẽ nói trên.

Cũng giống như cha mình, quận chúa Anh Nguyên “ lúng túng, e lệ khi nghe cha

khen ngợi và nhắc đến tên Phạm Ngũ Lão”. Thái độ đó phần nào thể hiện những

rung động thầm kín trong tâm hồn người con gái xuất thân hoàng tộc. Ở nơi hoàng

cung nhưng Anh Nguyên đã biết đến tài năng, đức độ của chàng trai nghèo mà

nàng đem lòng cảm mến. Đó là tình cảm kín đáo vượt lên quy định khắt khe của

triều đình. Tuy nhiên, mối tình giữa người con gái lá ngọc cành vàng và chàng

trai làng bình dân có thành vợ chồng hay không phải nhờ vào quyết định sáng suốt

của Hưng Đạo Vương. Truyện Con đẻ con nuôi kể lại quyết định đó của Vương.

Qua trò chuyện, ngài biết con gái mình đã “ yêu người tướng quân trẻ ấy ” nên đã

giáng Anh Nguyên từ “con đẻ xuống con nuôi”[41, tr 490] để tác hợp cho đôi trẻ

nên vợ nên chồng. Sử sách cho chúng ta biết nhà Trần khác các triều đại khác ở

quy định cấm con trai, con gái của hoàng tộc kết hôn với người ngoài dòng họ.

Hầu hết các cuộc hôn nhân đều gắn với quan hệ cận huyết thống. Nhưng trong

lịch sử có hai vị đại quan của triều đình đã làm trái với luật lệ đó bằng việc gả con

gái cho những chàng trai không phải là người họ Trần. Đó là Quốc công tiết chế

Hưng Đạo Vương trước đó và Tư đồ Trần Nguyên Đán về sau. Ở đây, một mặt

Hưng Đạo Vương vì quý mến Phạm Ngũ Lão, mặt khác vì tôn trọng tình cảm cá

nhân của con gái mà vun vén hạnh phúc cho con nên ngài đã giáng con đẻ xuống

làm con nuôi. Quyết định đó vừa không trái với lệ của vương triều, vừa đáp ứng

mong ước của quận chúa, vừa thể thiện thái độ gắn bó với nhân dân của một vị

đại quan. Trần Quốc Tuấn vừa giúp con gái lấy được người mình yêu đồng thời

thu nạp thêm cho triều đình một người tài đức. Mối quan hệ giữa Hưng Đạo

Vương với chàng tướng trẻ Phạm Ngũ Lão đã nâng lên cấp độ cao hơn: từ tình

chủ - tướng đổi thành tình phụ - tử. Truyền thuyết dân gian đã bổ sung cho chính

sử cũ về mối lương duyên của đôi trai tài - gái sắc và gián tiếp cho đời sau biết tư

50

tưởng thân dân của Hưng Đạo Vương. Ông hòa hợp với nhân dân, đến với dân

bằng những quyết định thông minh. Những việc làm của Hưng Đạo vương thể

hiện tư tưởng lớn, một nhân cách đẹp, biểu hiện sinh động tinh thần đoàn kết giữa

tầng lớp quý tộc với tầng lớp bình dân ở thời đại nhà Trần.

Nếu các truyền thuyết Con đẻ con nuôi, quận chúa Anh Nguyên kể về duyên

tình giữa Phạm Ngũ Lão với con gái Trần Quốc Tuấn thì truyền thuyết Phạm Ngũ

Lão và Minh Hiến Vương kể về quan hệ gắn bó thân tình giữa hoàng tử Minh Hiến

với ông. Nếu quan hệ giữa chàng trai làng Phù Ủng với quận chúa Anh Nguyên

xuất phát từ những rung động tình cảm giữa trai và gái thì quan hệ giữa Ngũ Lão

với con trai út của Trần Thái Tông (1225 - 1258) xuất phát từ tình nghĩa giữa con

người với con người không lệ thuộc vào địa vị, đẳng cấp và luật vua phép nước.

Minh Hiến Vương "ở trong doanh trại biện bác mê hoặc lòng quân. Vua giận đuổi

ra khỏi dinh, lệnh cho quân lính không được thu nhận. Minh Hiến bèn cùng vài

mươi gia đồng ngủ ở ngoài nội. Phạm Ngũ Lão nghe tin ấy vội mời vào ở trong

quân"[44]. Cách ứng xử của Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến Vương trước hết là vì

con người. Ông vì mạng sống của Minh Hiến Vương mà quên việc mình làm trái

thánh chỉ, vi phạm quân lệnh. Ngũ Lão nói: "Thánh thượng vừa quở trách ân chúa

và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt được thì chúng nói là bắt được hoàng tử, chữ

biết đâu là bị vua quở trách! Ngũ Lão thà chịu tội trái lệnh, chứ không nỡ làm lợi

cho giặc"[ 38, tr 148]. Các sử gia thời Lê Sơ đã dựa vào bản kể dân gian để đưa

vào chính sử hay từ chính sử được dân gian hoá mà Nguyễn Thị Ngà sưu tầm

được? Dù sao, sự việc này cho thấy cách ứng xử hợp tình, hợp lí của Phạm Ngũ

Lão. Ông đã đặt lợi ích vương triều lên trên lợi ích bản thân. Ông sẵn sàng chịu

tội khi quân (tội chết) mà cưu mang, bảo vệ Minh Hiến Vương - một vị tướng

cầm quân ra trận chứ không để hoàng tử rơi vào tay giặc. Ông cũng sẵn sàng chịu

trách phạt để giữ mối hòa khí trong tôn thất. Hoàng tử Minh Hiến- một vị vương

trong hoàng tộc lại rất thích mỗi lần tới thăm Ngũ Lão trong tình cảm thân mật:

“Minh Hiến với Ngũ Lão tình nghĩa thì rất sâu nặng nhưng lễ ý thì sơ sài. Minh

51

Hiến đến nhà Ngũ Lão, thường ngồi cùng với nhau một chiếu, khi về lại đem biếu

bạc vàng, cần gì, Ngũ Lão cũng không hề tiếc nuối dè xẻn, cho nên, Minh Hiến

thích chơi với ông”[ 44] . Mối thân tình giữa một người là thứ dân với một người

tước vương dòng dõi hoàng tộc đâu phải vì lòng tham vàng bạc như lời bàn cay

độc của sử thần Ngô Sĩ Liên: "một người thì cậy của mà giữ lễ tiết sơ sài, một

người thì ham của mà quên hết cả phận trên dưới"[38, tr 148]. Quan hệ giữa Phạm

Ngũ Lão với Minh Hiến Vương ở đây, trước hết là quan hệ giữa con người với

con người. Hai người tìm thấy điểm tương đồng mà kết giao thân tình kiểu “đồng

thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mà bỏ qua lễ tiết quan dân xa cách. Quan

hệ này quả hiếm thấy trong các triều đại phong kiến. Đây là minh chứng cụ thể về

sự gắn kết giữa vương Trần và nhân dân để tạo nên sức mạnh đoàn kết của cả dân

tộc.

Như vậy, truyền thuyết Phạm Ngũ Lão cung cấp cho đời sau một bài học

về tư tưởng thân dân đời Trần. Tư tưởng đó thể hiện trong các mối quan hệ giữa

Phạm Ngũ Lão với Hưng Đạo Đại Vương, Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến vương,

giữa chàng tướng trẻ Ngũ Lão với quận chúa Anh Nguyên. Các bản kể cung cấp

cho chúng ta bài học về vẻ đẹp của tầng lớp bình dân. Từ một chàng trai cày cuốc,

đan sọt nhưng biết phấn đấu, rèn luyện trở thành người có tài, có đức, thành con

của Quốc công tiết chế, thành bạn tri kỉ của Hoàng tử Minh Hiến, thành chồng

của quận chúa, là thành viên hoàng tộc. Có được những vinh quang ấy là nhờ

những phẩm chất đẹp của chính bản thân nhân vật truyền thuyết. Cũng cần nói

thêm một điều là nhờ tư tưởng trọng dân, thân dân của vương triều Trần mà người

xưa muốn nhờ dân gian nói hộ.

Nội dung truyền thuyết kể về Phạm Ngũ Lão đã làm tròn sứ mệnh của mình.

Người đọc, người nghe được đắm mình trong không khí hào hùng của thời đại

chống giặc giữ nước, được chiêm ngưỡng bức chân dung tướng quân Phạm Ngũ

Lão. Ông vốn là người con quê hương xứ Nhãn, hiện lên qua câu chuyện dân

52

gian với phẩm chất cao đẹp đấng nam nhi yêu nước. Ở ông hội tụ ngũ đức: nhân,

lễ, nghĩa, trí, tín của người con đất Việt, một bề tôi trung thành, một người bạn

thủy chung và một người chồng tình nghĩa.

2. 2. Đặc điểm nghệ thuật truyền thuyết Phạm Ngũ Lão

2.2.1. Nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo

Xưa nay, văn chương muốn hấp dẫn phải được chắp đôi cánh của cái kỳ ảo,

cái lạ “Vô truyền bất kì, vô kì bất truyền”. Do đó, cái kỳ ảo hay xuất hiện trong

hư cấu nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây cho rằng yếu tố kì

ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được

biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo, không có thật.

Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Tác giả Hoàng

Phê trong Từ điển Tiếng Việt quan niệm: “Kì ảo là kì lạ, tựa như không có thật

mà chỉ có trong tưởng tượng ” .

Nhà nghiên cứu văn học Bùi Thế Truyền khẳng định “ Yếu tố kì ảo thành

một dòng chảy liên tục trong dòng chung của lịch sử văn học nhân loại ”[54 ].

Dòng chảy đó được khơi nguồn từ văn học dân gian, băng mình qua văn học trung

đại đến văn học hiện đại. Sử dụng các yếu tố kì ảo trong tổ chức cốt truyện vốn

là đặc trưng nghệ thuật của mọi thể loại tự sự dân gian. Trong thần thoại, yếu tố

kì ảo vừa là phương tiện, vừa là mục đích của hư cấu nghệ thuật nhằm củng cố

niềm tin các vị thần đang tồn tại là có thật. Trong truyền thuyết, kỳ ảo là yếu tố

bắt buộc phải có để giúp người kể bộc lộ quan niệm ý thức lịch sử của cộng đồng.

Với cổ tích, yếu tố kì ảo không chỉ tạo nên tính li lì, hấp dẫn cho câu chuyện mà

còn thể hiện ước mơ của người bình dân… Tùy theo chức năng từng thể loại, chi

tiết kì ảo xuất hiện nhiều hay ít, đậm đặc hay pha loãng để thu hút người nghe.

Loại chi tiết kỳ ảo góp phần thúc đẩy sự phát triển cốt truyện, là cầu nối các khúc

đoạn và thể hiện nhận thức của người sáng tạo, là chìa khoá lí giải quan niệm của

người xưa về một vấn đề nào đó.

53

Trong tiến trình của văn học dân gian “truyền thuyết là sự thay thế, hóa

thân của sử thi, là mắt xích nối liền giữa thần thoại Việt với các loại truyện dân

gian khác để bảo đảm tính liên tục ” [55, tr 39] liền mạch trong sáng tạo nghệ

thuật ngôn từ dân gian. Người xưa sáng tạo ra truyền thuyết để dựng lại không

khí lịch sử theo cách của riêng mình. Truyền thuyết lịch sử nói chung, truyền

thuyết về Phạm Ngũ Lão nói riêng được kể để tôn vinh các nhân vật lịch sử. Vì

vậy, khi kể lại cái lõi lịch sử trong đó, nhân dân đã kì diệu hóa các nhân vật, sự

kiện lịch sử bằng phương pháp tư duy thần thoại. Những chi tiết kì ảo tạo nên

đường viền hào quang bao quanh nhân vật chính, khiến con người lịch sử trở nên

kì vĩ như một vị thánh trong tâm thức dân gian.

Tuy là tấm gương phản chiếu lịch sử nhưng truyền thuyết lại là thứ lịch sử

được nhân dân kể lại theo cách riêng. Ở truyền thuyết Phạm Ngũ Lão cũng vậy.

Mỗi sự kiện, mỗi hành vi gắn với ông đều được người dân Hưng Yên nhận thức,

lí giải theo cách của riêng mình. Vì vậy, giữa sự thật và tình tiết trong truyện, giữa

nguyên mẫu và nhân vật có thể có đôi nét khác nhau. Qua các chi tiết kì ảo, người

dân thể hiện thái độ, tình cảm, nhận thức, quan niệm của mình về vị danh tướng

người đất Nhãn. Lúc sinh thời, ông đánh giặc cứu nước giữ yên bờ cõi, khi mất

ông hiển linh làm thần giúp đỡ dân lành, trừng trị kẻ ác, kẻ xấu. Điều này thể hiện

rất rõ trong các truyện Chữa bệnh cứu người, Đầu thai kiếp khác, Trừng trị kẻ

báng bổ thần linh.

Bản kể Chữa bệnh cứu người có đoạn: “Có một nhà giàu ở Cẩm Giàng chỉ

một con trai bị lên đậu, gần chết, chợt thấy một bậc cao niên nói rằng: Ta sẽ chữa

cho. Liền sai lấy một cái nong đựng đầy bùn ao, đặt đứa trẻ nằm sấp lên trên, một

lát sau giở ra xem thì thấy nốt đậu thoát ra rất tốt. Phú ông vui mừng nói: - Ông

lão từ đâu tới? - Tôi là người làng Phù Ủng, ngôi nhà ngói dài thẳng hướng Bắc

là nhà tôi. Rồi từ biệt ra đi. Sau đó, phú ông hỏi thăm để đến tạ lễ. Khi đến bản từ

thì bất giác kinh hoàng mới biết đó là nơi đại vương thần hóa”[44]. Ở đây, ta thấy

54

rất rõ yếu tố kì ảo trong câu chuyện kể về tướng quân Phạm Ngũ Lão hiển linh.

Ngài hóa thân thành cụ già đi chữa bệnh cho con trai phú ông ở Cẩm Giàng. Cách

chữa bệnh của Phạm công thật đơn giản mà hiệu quả “ lấy nong đựng đầy bùn ao,

đặt đứa trẻ nằm sấp lên trên, một lát sau giở ra xem thì thấy nốt đậu thoát ra rất

tốt ”. Khi phú ông tìm đến ngôi nhà ngói như lời cụ già thì mới biết đó là đền Phù

Ủng. Tác giả dân gian sử dụng chi tiết kỳ ảo nhằm ca ngợi đức độ, lòng thương

yêu nhân dân của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Khi sống, ông đánh giặc cứu nước,

cứu dân; khi chết, linh hồn ông vẫn hiển linh về giúp đỡ nhân dân trong vùng.

Phạm Ngũ Lão không bao giờ chết. Ông từ cõi trần thế lên cõi thiêng mà thôi.

Niềm tin của dân gian đối với Phạm Ngũ Lão không bao giờ vơi cạn.

Với người gặp lúc khó khăn ông hiển linh tế độ nhưng với kẻ lộng quyền cậy

thế hống hách với dân, Phạm tướng quân ra tay trừng trị. Truyện Trừng trị kẻ báng

bổ thần linh kể về sự việc này như sau: “Tương truyền cũng tại ngôi đền thờ tướng

công, một lần có viên học sĩ tên là Cát Văn Tụy, người Hải Dương đi qua bản từ.

Trời tháng sáu oi bức , ông ta cho dừng kiệu đòi trả chiếu nghỉ tại đền. Viên lí

trưởng bẩm: Thưa ngài, chỉ còn một chiếc chiếu trải thờ Đại vương. Cát công giận,

sai đánh lí trưởng vài chục roi, rồi lên kiệu trở về sinh từ. Lạ thay, trên đường về tự

nhiên cờ trống im lìm, binh lính, kẻ hầu người hạ như đần độn ngây ngô, chẳng nói

chẳng rằng. Về đến nhà, người trong phủ thấy thế mới biết rõ lí do, thân đến bản từ

cầu đảo xin tướng công xá tội. Từ đấy, người hầu, kẻ hạ mới trở lại bình thường.

Riêng Cát quân vài năm sau bị bệnh mà chết”[44]. Do cậy thế, lộng quyền, coi

thường đạo lí nên viên học sĩ Cát Văn Tụy bị Phạm Ngũ Lão âm phù làm cho đần

độn, ngây ngô, sau đó bị bệnh mà chết. Câu chuyện không chỉ ca ngợi sự cương

trực của vị danh tướng mà còn toát lên quan niệm của dân gian “gieo nhân nào gặt

quả ấy”.

Phạm Ngũ Lão không chỉ là một võ tướng tài ba mà còn là người giỏi giang

trong đường văn nghiệp. Câu chuyện Đầu thai đẻ con tiến sĩ kể về việc ông hóa

55

thành “ngôi sao Thái Bạch từ trên trời rơi xuống” đầu thai làm con quan thái phó

Nhữ Đình Hiến ở xã Hoành Trạch, huyện Đường An. Cậu bé Nhữ Đình Toản

sinh ra đã “ khôi ngô tuấn tú ”, lớn lên lại “ văn võ toàn tài ” từng đỗ tiến sĩ đời

Lê Ý Tông (1735 - 1740), làm quan tới chức tham tụng, thượng thư. Thượng thư

Nhữ Đình Toản (1703 - 1774) có mọc một cái nhọt trên vai chữa mãi không khỏi.

Trong thời gian đó, người làng Phù Ủng không yên “người ốm, vật chết ” nên dân

làng cầu đảo khắp nơi. Khi biết mái đền dột, nước mưa nhỏ như “ giọt mồ hôi

điểm trên vai tượng ”, dân xã đã “ sửa lại mái đền, tắm rửa vai tượng ”,“ từ đấy,

dân trong xã yên ổn, cái nhọt trên vai quan thượng thư cũng khỏi ”[44] .So với

nhiều truyện khác, đây là bản kể có nhiều chi tiết kì ảo hơn trong số các truyền

thuyết về Phạm Ngũ Lão. Câu chuyện khiến người nghe nửa tin, nửa ngờ bởi bên

cạnh yếu tố xác thực ( thời gian, không gian) là những chi tiết kì ảo được lồng vào

câu chuyện. Yếu tố kì ảo đã tạo nên vầng hào quang tỏa sáng chân dung nhân vật

chính. Đó là con người xuất thân từ chốn bình dân nhưng nhờ rèn luyện trở nên

giỏi giang thành đạt, khi hoá thành thần thiêng hiển linh giúp đỡ dân lành. Con

người ấy, với dân gian không bao giờ chết.

Nói như vậy, không phải yếu tố kì ảo trong truyền thuyết kể về Phạm Ngũ

Lão chiếm vai trò chỉ đạo, chi phối nghệ thuật truyền thuyết kể về ông. So với

truyền thuyết thời kì Văn Lang – Âu Lạc, thời kì Bắc thuộc thì ở đây yếu tố kì ảo

trong một số bản kể cứ nhạt dần. Các nhà nghiên cứu văn học dân gian đều thống

nhất: lịch sử là đối tượng phản ánh của truyền thuyết. Khi chưa có chính sử thì

trong truyện có sử. Người xưa tái tạo lịch sử để ngợi ca nhân vật anh hùng đồng

thời gửi gắm khát vọng và nhu cầu đời sống tâm linh. Do đó, yếu tố kì ảo có mặt

trong truyền thuyết là tất yếu. Ở truyền thuyết Phạm Ngũ Lão có yếu tốkì ảo nhưng

ít hơn so với truyện thuyết về các nhân vật lịch sử khác. Chúng tôi đã tiến hành

khảo sát một số bản kể sau:

56

Thời kì Chi tiết kì ảo Mức độ Tên tác phẩm

Thánh Gióng Văn Lang

Xuất hiện nhiều

An

Âu Lạc

Xuất hiện nhiều

Truyện Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy

Xuất hiện ít Truyện Chu Văn An Phong kiến tự chủ

Xuất hiện ít Sự tích Trần Hưng Đạo Phong kiến tự chủ

Giẫm chân vào vết chân khổng lồ mà mang thai 12 tháng, sinh ra cậu bé ba năm không biết nói cười. Nghe tiếng sứ giả cầu hiền lại lên tiếng xin đi đánh giặc. Sức ăn kỳ lạ: bảy nong cơm, ba nong cà rồi vươn vai thành người khổng lồ. Ngựa sắt biết phun ra lửa. Đánh giặc xong, Thánh Gióng một người một ngựa bay lên trời. Thành xây xong lại đổ. Lập đàn cầu đảo bách thần có cụ già từ phương Đông tới, Rùa vàng biết nói tiếng người thông tỏ trời đất âm dương quỷ thần. Móng vuốt Rùa vàng làm lẫy nỏ. Rùa vàng hét lớn, biết rẽ nước đưa vua xuống thủy cung. Máu Mị Châu trai sò ăn phải biến thành ngọc. Học trò là thủy thần xin học. Thủy thần giúp hạ giới làm mưa. Khi bị thượng đế phạt có hai thân thuồng luồng cụt đầu Thân mẫu nằm mộng thấy có đám may ngũ sắc sau đó có thai, mang thai mười tháng mới sinh, ngày sinh có có đám mây đỏ từ trên trời bay vào nhà, diệt trừ yêu khí , rắn vàng 10 trượng bò vào

57

Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão Phong kiến tự chủ Xuất hiện rất ít

trong cung sau đó ngài bị bệnh rồi mất Khi hóa có vệt ánh sáng xanh từ người vút lên không trung bay về hướng Đông. Cụ già xuất hiện chữa bệnh cho con phú ông. Phạm công trừng phạt Cát Văn Tụy, đầu thai đẻ con tiến sĩ.

Qua bảng khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy số lượng chi tiết kì ảo trong

truyền thuyết Phạm Ngũ Lão xuất hiện ít (có 4 chi tiết trong 15 bản kể). Đó là các

chi tiết: Phạm công đầu thai kiếp khác đỗ tiến sĩ; chữa bệnh cứu người; trừng trị

kẻ hống hách; khi chết có vệt ánh sáng xanh từ người ông bay về hướng Đông. So

với một số truyền thuyết người Việt thời phong kiến tự chủ, ở truyền thuyết Phạm

Ngũ Lão yếu tố kì ảo xuất hiện ít mà nhường chỗ cho sự kiện vốn có trong sự thật

lịch sử. Các câu chuyện kể về ông dù có đủ các mô típ thường gặp trong truyền

thuyết lịch sử như: mô típ chiến công phi thường, mô típ vinh phong, mô típ hiển

linh, âm phù… nhưng hầu như vắng bóng mô típ hoang đường về sự sinh nở thần

kì, trưởng thành kì diệu hay sự hóa thân kì ảo. Ba mô típ này thường phổ biến

trong truyền thuyết anh hùng thời kì Văn Lang - Âu Lạc. Mặt khác, các chi tiết kì

ảo chỉ xuất hiện trong các bản kể khi tác giả dân gian lưu truyền về Phạm Ngũ

Lão sau khi ông đã hóa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thuyết Phạm Ngũ Lão

với các truyện truyền thuyết khác. Ở truyền thuyết Phạm Ngũ Lão nói riêng và

truyền thuyết thời phong kiến nói chung kiểu mô típ nói trên đã được thay thế

bằng việc kể về sự kiện lịch sử (trừ truyện Đầu thai đẻ con tiến sĩ).

Để có cái nhìn toàn cảnh về việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong truyện kể dân

gian Phạm Ngũ Lão, chúng tôi có sự liên hệ, so sánh sự khác biệt giữa truyện

Nôm khuyết danh Tướng quân Phạm Ngũ Lão và truyền thuyết Phạm Ngũ Lão:

58

Yếu tố kỳ ảo trong Tướng quân Yếu tố kỳ ảo trong truyền thuyết Phạm Ngũ Lão - truyện thơ khuyết Phạm Ngũ Lão danh

- Phạm Ngũ Lão khi chết thấy có vệt

sáng xanh từ người ông bay về hướng

Đông.

- Phạm Ngũ Lão hiển linh chữa bệnh - Phạm Nhan dùng tà thuật để

cho con trai phú ông ở Cẩm Giàng. chống lại quân ta.

- Phạm Ngũ Lão hiển linh trừng trị

viên học sĩ Cát Văn Tuỵ.

- Phạm Ngũ Lão đầu thai vào nhà họ

Nhữ, đỗ tiến sĩ.

- Phạm Ngũ Lão từ làng Hoành Trạch

trở về làm thần tại làng Phù Ủng.

So với truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, yếu tốkì ảo trong truyện Nôm Tướng

quân Phạm Ngũ Lão xuất hiện với tần suất ít hơn. Nó chỉ dừng lại ở việc kể lại

hiện tượng tà thuật, phù thuỷ trong đạo Giáo thần tiên. Vì thế, trong truyền thuyết,

hình tượng Phạm Ngũ Lão hiện ra một cách ly kỳ còn trong truyện Nôm hình

tượng này xuất hiện một cách sinh động như chính con người thực của ông ở ngoài

đời.

Sở dĩ các chi tiết kì ảo ít xuất hiện trong truyện kể về Phạm Ngũ Lão không

phải vì người xưa sức tưởng tượng kém mà chính họ đang tự giải mã. Hơn nữa,

bản thân cuộc đời tướng quân đã là huyền thoại. Đây là con người có thật của lịch

sử chống giặc ngoại xâm nên truyền thuyết kể về ông vừa làm nhiệm vụ tái hiện

chân dung một người con quê hương, vừa tái tạo hình ảnh người anh hùng để bổ

sung “những sự thật lịch sử bị che lấp”. Điều đó làm cho truyện kể về danh tướng

đời Trần trở nên chân thật khiến ta có cảm giác Phạm Ngũ Lão như từ cuộc đời

bước vào câu chuyện kể của người bình dân.

Nhìn chung, trong truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, yếu tố kì ảo tạo nên sức

hấp dẫn cho người nghe. Điều quan trọng hơn, qua yếu tố nghệ thuật đó, nhân dân

59

Hưng Yên gửi gắm vào đó niềm tin: Phạm Ngũ Lão bất tử, luôn đồng hành với

con người nơi đây trong suốt bao thế kỉ. Trong tâm thức của họ, ông là người

“sinh vi tướng, tử vi thần ”. Yếu tố kì ảo góp phần bất tử hóa nhân vật. Đúng như

nhà nghiên cứuNguyễn Khắc Xương khẳng định: “Nghệ thuật bất tử hóa đó khiến

nhân vật vẫn là nhân vật lịch sử nhưng lung linh màu sắc thần thoại và ngưng

động trong đó niềm ngưỡng mộ của nhân dân” [Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại,

truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục - Tạp chí Văn học số tháng 6 -

1973, tr 58].

Như vậy, yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng của người nghệ sĩ.

Nó nằm ngoài tư duy lí tính của con người, ít khi bắt gặp trong thực tế. Tuy nhiên,

yếu tố kì ảo có liên hệ khá mật thiết với đời sống, cùng với các yếu tố nghệ thuật

khác nó góp phần xây dựng cốt truyện, thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm và bộc

lộ năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.

2.2.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật

Nhân vật là linh hồn của tác phẩm tự sự, có vai trò thể hiện tư tưởng chủ đề

tác phẩm và làm nên sự hấp dẫn cho mỗi câu chuyện. Trong truyền thuyết lịch sử,

nhân vật thường được khắc họa từ nguyên mẫu ngoài đời. Hình tượng tướng quân

Phạm Ngũ Lão là một nhân vật trong số đó.

Theo các nhà nghiên cứu, hình tượng nhân vật trong truyền thuyết lịch sử

thời Văn Lang - Âu Lạc thường được khắc họa dựa theo trật tự tuyến tính (mở

đầu, diễn biến, kết thúc) của cốt truyện: Lai lịch (bao gồm sinh đẻ thần kì và hình

dáng dị thường) =>Tài đức =>Sự nghiệp oanh liệt = >Chết thần kì =>Hiển linh,

âm phù = > Được nhận sắc phong. Trong truyền thuyết lịch sử thời phong kiến

tự chủ, nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm được khắc họa theo mô hình:

Xuất thân (sinh ra trong gia đình nghèo, có tướng mạo khác người, lớn lên tài ba

đức độ, có chí lớn) = >Sự nghiệp (đánh giặc lập công) =>Kết thúc (được ban tước

hiệu, khi chết được tôn thờ). Hình tượng nhân vật Phạm Ngũ Lão trong truyền

thuyết cũng được xây dựng theo mô hình kết cấu của loại truyền thuyết anh hùng

chống ngoại xâm thời phong kiến tự chủ:

60

- Phạm Ngũ Lão sinh ra trong gia đình nông dân

nghèo

- Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ở với bà mẹ nuôi Xuất thân

- Diện mạo tuấn tú khôi ngô, có sức khỏe hơn người

- Có chí lớn.

- Tham gia chống giặc Nguyên - Nguyên Sự nghiệp - Đánh dẹp giặc Ai Lao, Chiêm Thành

- Quản lĩnh quân Thánh Dực, Điện súy thượng tướng

quân, quan nội hầu,

- Vua ban ngũ phù, Kết thúc

- Khi chết vua ban ân điển: nghỉ chầu 5 ngày,

- Được phong Thượng đẳng phúc thần.

Tìm hiểu truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, chúng tôi nhận thấy các khía cạnh

nói trên trong mô hình xây dựng nhân vật Phạm Ngũ Lão của tác giả dân gian

trùng khớp với kết cấu cốt truyện các bản kể. Ở phần mở đầu các câu chuyện kể,

người xưa thường giới thiệu ông khá cụ thể:ôngcó lí lịch, gốc gác rõ ràng (Phạm

Ngũ Lão là học trò), có quê quán (làng Phù Ủng), sống trong thời đại (nhà Trần).

Đây là cách giới thiệu nhân vật mang đặc trưng của truyền thuyết. Ngay ở phần

này, con người Phạm Ngũ Lão hiện lên với nhiều nét tôn vinhnhư : “có sức khỏe

lạ thường muôn người khôn địch ”, “ mặt mũi khôi ngô”, “đủ cả văn võ tài lược”,

xuất thân trong gia đình nghèo nhưng “vẫn theo nghề học nho” [Truyện về ông

Phạm Ngũ Lão] và “tính khí khái, có hiếu với cha mẹ” [ Nói về sự tích ông Phạm

Ngũ Lão]. Với một vài nét phác họa, người bình dân đã gây ấn tượng cho người

nghe về nhân vật được kể. Tuy nhiên , hình tượng Phạm Ngũ Lão khá đậm nét

trong phần kể về sự nghiệp lẫy lừng của ông. Có tới 9 trong 15 kể về sự nghiệp

đánh giặc Nguyên – Mông (Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão,Truyện về ông

Phạm Ngũ Lão, Thủy tinh phu nhân,Truy kích Thoát Hoan, Con đẻ con nuôi),

61

đánh dẹp giặc Ai Lao(Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão,Truyện về ông Phạm Ngũ

Lão, Thủy tinh phu nhân), dẹp Chiêm Thành (Thủy tinh phu nhân). Trong các câu

chuyện này, người bình dân chủ yếu kể về tài đánh giặc của vị tướng quân tài

năng: dùng cọc tre nện vào chân voi để đẩy lùi đội hình tượng binh của giặc, dùng

áo màu đỏ làm mẹo để vô hiệu hóa sức mạnh của bầy voi mà bắt chúa Ai Lao,

dùng kế phục kích bất ngờ để tiêu diệt tàn quân của Thoát Hoan…Ở đây, người

kể đã dựa vào một số sự kiện lịch sử quan trọng để kể về nhân vật. Một số bản kể

phá vỡ trật tự cốt truyện thông thường của truyền thuyết mà bắt đầu bằng việc

nhắc đến hiện tượng sau đó rồi dùng sự kiện để lí giải sự tích [Con đẻ con nuôi].

Một số truyện lại xâu chuỗi các sự kiện trong cuộc đời Phạm Ngũ Lão rất gần với

ghi chép trong chính sử (Ông Phạm Ngũ Lão, Truyện về ông Phạm Ngũ Lão, Nói

về ông Phạm Ngũ Lão, Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão). Có tới 6 bản kể trong

đó chỉ xoay quanh một sự kiện riêng lẻ (Phạm Ngũ Lão lyện tập, Phạm Ngũ Lão

bắn đứt dải cờ, Truy kích Thoát Hoan, Mẹ nuôi Phạm ngũ Lão, Anh Nguyên quận

chúa, Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến Vương). Nhờ những truyền thuyết này mà

người đọc, người nghe hiểu đầy đủ hơn về phẩm chất đạo đức, thiên tài quân sự

của tướng quân Phạm Ngũ Lão.Qua sự kiện được kể, người xưa đã tái hiện sự

nghiệp lẫy lừng của danh tướng làng Phù Ủng. Hiện lên trong từng câu chuyện

kể, Phạm Ngũ Lão là một con người mưu trí, dũng cảm lập công lớn mỗi khi ra

trận. Ở phần cuối mỗi truyện truyền thuyết, tác giả dân gian nhắc đến sự ban

thưởng của triều đình đối với Phạm Ngũ Lão. Truyện về ông Phạm Ngũ Lão có

kể: “ Vì những công lao ấy, được đổi lên làm Điện tiền thượng tướng quân. Đến

khi mất, được phong làm Thượng đẳng phúc thần. Người làng Phù Ủng lập miếu

thờ ngay tại nhà Ngũ Lão”. Tương tự, truyện Nói về sự tích ông Phạm Ngũ

Lãokhép lại bằng việc nhắc đến những vinh phong của nhà vua với tướng quân

làng Phù Ủng: “ Sau ông ấy mất, vua phong cho làm “ Minh giác thái vương ”

nghĩa là “ Vua lớn sáng biết , cho làng ông ấy tiền bạc để lập đền thờ, trải nhiều

đời vẫn còn anh linh ”[ 41, tr 488]. Có thể nói, những chức tước được giao, những

62

sắc phong của triều đình,việc lập nơi thờ tự đời đời hương khói thể hiện thái độ

vinh phong của triều Trần và nhân dân đối với người anh hùng được sinh ra từ

quê hương Phù Ủng. Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão đã phác họa thành công tầm

vóc của một vị tướng quân bình thường mà vĩ đại qua hình dung của tác giả dân

gian. Tầm vóc ấy rõ nét dần, hoàn thiện dần qua một loạt những bản kể.

Mặt khác, khi xây dựng hình tượng Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết,

những hư cấu nghệ thuật của người xưa chủ yếu dựa vào cốt lõi lịch sử. Là một

người nông dân trở thành vị tướng tài, Phạm Ngũ Lão được sử sách lưu danh bởi

tài năng và công lao đối với vương triều Trần. Từ con người lịch sử, ông bước

vào truyền thuyết dân gian rất tự nhiên. Thế nhưng, Phạm Ngũ Lão trong truyền

thuyết không phải kết quả sự tái hiện của một nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực

mà là nhân vật được tái tạo bằng nghệ thuật của tác giả dân gian. Họ nhào nặn

nhân vật của mình theo trí tưởng tượng mà ta quen gọi là hư cấu nghệ thuật. Quá

trình sáng tạo của nhiều người lại không diễn ra trong thời gian cụ thể mà ở nhiều

nơi, thời khắc khác nhau, bị chi phối bởi tư duy thần thoại còn sót lại. Vì thế, chân

dung nhân vật trong truyền thuyết thường mang tính khái quát hơn là tính chân

thực - cụ thể.Hình ảnh Phạm Ngũ Lão trong 15 bản truyền thuyết có điểm gần

giống ông được ghi trong chính sử song vẫn có nét khác biệt. Các sử gia chủ yếu

nhắc đến ông khi ông đã trưởng thành, lập công trong trong hai cuộc kháng chiến

chống Nguyên - Mông và những lần bảo vệ biên cương Đại Việt. Hình tượng

nhân vật Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết được kể theo diễn biến cuộc đời: từ

lúc nhỏ, từ thời trẻ, lúc còn hàn vi đến lúc cuối đời. Nếu chính sử thiên về đề cao

tài năng, chiến công, thiên tài quân sự của ông thì hình tượng Phạm Ngũ Lão trong

truyền thuyết lại thể hiện từ nhiều góc độ: một vị tướng tài giỏi, một người có tâm

hồn nghệ sĩ, một người con gắn bó với quê hương, giàu tình nghĩa. Nhiều bản kể

tô đậm vẻ đẹp đức độ của con người toát lên trong một tướng quân dũng cảm,

giầu lòng nhân ái, trong các quan hệ với bạn bè, với quê hương, với vương triều.

Nếu chính sử đề cao vai trò cá nhân Phạm Ngũ Lão thì tác giả bình dân lại coi

63

ông là kết tinh của sức mạnh nhân dân (Phạm Ngũ Lão luyện tập). Nếu lịch sử có

ghi việc Phạm Ngũ Lão sau khi chết được vua ban ân điển, phong Thượng đẳng

phúc thần thì truyền thuyết dân gian kể về sự hiển linh, âm phù của ông sau khi

hóa. Điều đó chứng tỏ giữa cốt lõi lịch sử với nhân vật trong truyền thuyết vẫn có

một khoảng cách dành cho “ hư cấu tưởng tượng được tung hoành” [25, tr 69].

Tuy dựa vào những lịch sử song người bình dân đặt Phạm Ngũ Lão trong bầu

không khí huyền thoại nên đã thật khéo đan cài trong những câu chuyện kể những

chi tiết kì ảo kể về sự hiển linh, âm phù sau khi ông hóa . Những hư cấu đó giúp

tác giả dân gian đề cao tướng quân Phạm Ngũ Lão, bày tỏ lòng tôn kính đối với

ông đồng thời khiến hình tượng nhân vật trở nên hấp dẫn lạ thường.

Nhìn chung, khixây dựng nhân vật Phạm Ngũ Lão trong truyền thuyết, hư

cấu nghệ thuật của các tác giả dân gian đã dựa vào kết cấu của các bản kể, dựa

vào cốt lõi lịch sử. Điều đó vừa thể hiện đặc trưng của thể loại vừa khiến hình

tượng Phạm Ngũ Lão giàu ý nghĩa thẩm mĩ. Nhờ vậy, hình ảnh của ông cứ mãi

lung linh và bất tử trong tâm thức dân gian.

* Tiểu kết:

Truyền thuyết Phạm Ngũ Lão đã làm sống lại thời đại hào khí Đông A. Đó

là những “bài ca” mà người bình dân ca ngợi phẩm chất, tài năng của vị tướng tài

đời Trần vốn xuất thân là nông dân. Từ truyền thuyết, ta nhận thấy tư tưởng thân

dân, trọng dụng nhân tài của triều Trần trong công cuộc chống ngoại xâm. Có thể

nói, chính hào khí thời đại đã hun đúc nên những phấm chất đẹp đẽ ở Phạm Ngũ

Lão. Ngược lại do có chí, có tài và tấm lòng yêu nước, do đóng góp lớn lao trong

sự nghiệp đánh giặc Nguyên – Mông, giặc Ai Lao, Chiêm Thành ông đã cùng quân

dân nhà Trần viết lên những trang sử rừng rực hào khí Đông A.

Khi kể về danh tướng Phạm Ngũ Lão, tác giả dân gian thể hiện ý thức lịch

sử của mình là đề cao vai trò của người anh hùng xuất thân từ bình dân, nhấn mạnh

mối quan hệ không thể tách rời giữa nhân dân với chiến thắng của nhà Trần trong

64

các lần kháng chiến chống Nguyên - Mông. Chính nhân dân là người tham gia, là

chỗ dựa tin cậy để vương triều đánh đuổi kẻ thù. Mọi chiến công hiển hách của

vương triều ấy có được có lẽ là nhờ người đan sọt làng Phù Ủng, người quản tượng

như Dã Tượng, người bề tôi trung thành như Yết Kiêu…và triệu triệu những người

“không ai nhớ mặt đặt tên” khác đóng góp.

Tất cả các truyền thuyết Phạm Ngũ Lãođều tập trung khắc họa chân dung

người anh hùng vốn là người con ưu tú của quê hương Hưng Yên. Người bình

dân đã dựa vào nguyên mẫu Phạm Ngũ Lão trong lịch sử để nhào nặn nên hình

tượng nhân vật theo cách của riêng mình. Do việc sử dụng yếu tốkì ảo hợp lí, yếu

tố lịch sử đậm đặc, do khắc họa nhân vật dựa theo sự kiện được kể trong mỗi câu

chuyện nên từ con người của lịch sử bước vào truyền thuyết, Phạm Ngũ Lão đã

trở thành hình tượng nghệ thuật giầu sắc thái thẩm mĩ. Ông không chỉ là đối tượng

người bình dân tôn vinh mà còn là nơi gửi gắm bao niềm tin, khát vọng của họ.

Từ một con người có thật, ông đã trở thành vị thần linh bất tử trong tâm thức nhân

dân.

65

Chương 2

TRUYỆN NÔM KHUYẾT DANH TƯỚNG QUÂN PHẠM NGŨ LÃO

3.1. Đặc điểm nội dung truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão

Tìm hiểu giá trị nội dung truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão là khẳng

đinh giá trị của tác phẩm kể về thân thế, sự nghiệp của vị tướng quân trẻ có công

bảo vệ Đại Việt. Những chiến công ông lập trong cuộc đời binh nghiệp của mình

vừa là đạo lý của người trai thời loạn đền ơn vua, cứu nước, giúp dân, thể hiện

phẩm chất, truyền thống yêu nước của Người Hưng Yên.

3.1.1. Tác phẩm tái hiện cuộc đời, sự nghiệp của tướng quân Phạm Ngũ Lão

Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, truyện Nôm là một loại hình truyện

kể dân gian tồn tại trong lời kể của người bình dân, về sau được khắc in bằng chữ

Nôm - gọi là truyện thơ Nôm. Truyện thơ Nôm khắc in thì tính chất kể chuyện

của nó vẫn là một đặc điểm quan trọng. Trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối

thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc khẳng định: “Truyện

Nôm bình dân được sáng tác để kể là chính chứ không phải để xem hay để đọc”

[Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX , Nxb Đại học trung

học chuyên nghiệp, HN, tr 283]. Giống một số truyện Nôm khuyết danh khác kể

về cậu bé mồ côi, Tướng quân Phạm Ngũ Lão dựng lại cuộc đời chàng trai họ

Phạm. Phạm Ngũ Lão cũng mồ côi cha từ nhỏ nhưng ông không phải là con người

của trí tưởng tượng dân gian một cách đơn thuần. Ông là con người hiện thực, tuy

có trải qua gian khó, chưa đến mức hành khất kiếm ăn nhưng nhờ ý chí, nghị lực

mà vươn lên trở thành người có ích cho đời. Cuộc đời ông được kể qua ba chặng

như sau: Tuổi thơ khốn khó; Thời trai trẻ lẫy lừng; Tuổi già hưởng phúc.

Tương tự như bản kể truyền thuyết, truyện về tuổi thơ của tướng quân Phạm

Ngũ Lão được giới thiệu khá cụ thể. Ông là người con của quê hương Phù Ủng :

Làng Phù Ủng thuộc xứ Đông,

66

Đường Hào là huyện, Thượng Hồng là châu.

Đất thiêng chung đúc từ lâu,

Sinh bao nhân kiệt, trước sau nối dòng.

[câu 11 – 14, 44,tr 25]

Khi giới thiệu về tuổi thơ của các nhân vật chính trong truyện Nôm khuyết

danh, tác giả dân gian hay sử dụng một số mô típ: gia cảnh éo le, nhà nghèo, mồ

côi, kiếm sống bằng nghề ăn xin độ nhật. Giống chàng Tống Trân (Tống Trân -

Cúc Hoa) đã từng chịu long đong từ nhỏ, chàng Phạm Tải (Phạm Tải - Ngọc Hoa),

chàng Phạm Công (Phạm Công - Cúc Hoa) mồ côi cha phải dắt mẹ đi ăn mày,

Ngũ Lão cũng là chàng trai mồ côi :

Mồ côi từ thủa thiếu niên

Con thơ mẹ góa truân chuyên tháng ngày.

Gặp thời sông lở cát bay,

Liền năm hoang loạn, đồng dày cỏ meo.

Chạy ăn từng bữa sớm chiều,

Ấm no thỉnh thoảng, đói nghèo thường xuyên.

Bà con hàng xóm láng giềng,

Đôi khi bát gạo quan tiền giúp cho.

Tuy mang danh tiếng học trò,

Ruộng đồng cũng phải chăm lo mọi bề.

Bện thừng đan lát làm thuê

Nhà bên đường cái ngoảnh về hướng tây.

Mở ngôi hàng nước dưới cây,

Lần hồi đắp đổi qua ngày gian truân.

[câu 25 – 38,44,tr26,27]

67

Mồ côi từ thủa thiếu niên là một nỗi khổ đầu tiên của tướng quân Phạm

Ngũ Lão. Điều này không ghi trong chính sử và cũng không được kể trong truyền

thuyết. Người bình dân đưa chi tiết này vào truyện thơ có lẽ nhấn mạnh đến sự

thiệt thòi của Điện súy Đông A ngay từ thủa ấu thơ. Ông thiếu tình cảm của cha

từ nhỏ, lại lớn lên trong cảnh "Con thơ mẹ góa truân chuyên tháng ngày". Tuổi

thơ của ông là những tháng ngày cơ cực vì phải "chạy ăn từng bữa" và chịu “đói

nghèo thường xuyên”. Phạm Ngũ Lão được mẹ tần tảo sớm hôm nuôi nấng. Mẹ

con ông sống trong tình yêu thương, bao bọc của bà con xóm giềng. Tuy là học

trò nghèo nhưng Ngũ Lão không có cái may như những đứa trẻ khác là tập trung

đèn sách. Ngược lại, ngày ngày ông phải làm đủ mọi việc để kiếm sống như đan

lát, bện thừng, làm thuê, cầy cấy giống bao người dân quê ở làng Phù Ủng. Không

chỉ lam lũ kiếm sống, Phạm Ngũ Lão còn chịu thêm nỗi đau mất mẹ. Ông được

dưỡng mẫu dậy nuôi nên người. Bà đã đùm bọc, cưu mang để ông "Ngày đêm

kinh sử dùi mài, /Nổi danh thi bá đáng tài vĩ nhân" chờ ngày "Tang bồng mong

thoả chí trai, / Góp phần cứu nước giúp đời một phen". Qua lời thơ, chúng ta nhận

thấy trong một chàng trai sống nơi "bùn đất quê mùa" nhưng lại có phẩm chất của

con người mang chí lớn. Tô đậm nỗi vất vả, cơ cực thời niên thiếu của Phạm Ngũ

Lão phải chăng đâylà dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian.

Về thời trai trẻ lẫy lừng, sau 52 dòng mở đầu tác phẩm Tướng quân Phạm

Ngũ Lão, người nghệ sĩ dân gian đã sử dụng 1976 dòng thơ để tái hiện lại chặng

đời quan trọng của tướng quân họ Phạm. Qua lời kể, dù sống cảnh đói nghèo

nhưng chàng trai Phù Ủng luôn ấp ủ khát vọng lập công "Góp phần cứu nước giúp

đời một phen". Chí nam nhi và khí phách anh hùng của chàng trai họ Phạm không

được chính sử ghi lại, còntrong truyền thuyết tuy có kể việc Ngũ Lão từ chối

không dự đám khao người làng đỗ đại khoa nhưng chưa đủ dung lượng làm nổi

bật chí hướng muốn lập công bằng con đường đánh giặc cứu nước của ông. Khác

với truyền thuyết, ở truyện Nôm, hình ảnh Phạm Ngũ Lão hiện lên là con người

68

toàn năng: tài - trí đủ đầy, văn - võ song toàn. Hình tượng Phạm ngũ Lão mang

nét đẹp của đấng nam nhi của chủ nghĩa anh hùng thời phong kiến:

Ngày đêm kinh sử dùi mài,

Nổi danh thi bá, đáng tài vĩ nhân.

Văn chương võ nghệ uyên thâm,

Tuổi xuân thấm thoắt đã gần đôi mươi.

Tang bồng mong thoả chí trai,

Góp phần cứu nước giúp đời một phen.

[câu 43 – 48,44, tr 27]

Khi giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta, Phạm Ngũ Lão đã tìm cách

đầu quân đánh giặc. Đầu quân bằng cách nào mới phát huy được khả năng của

mình là cách chàng vẫn hằng nung. Giống chi tiết kể trong truyền thuyết, chàng

trai làng Phù Ủng đã chọn cách tìm gặp Hưng Đạo Đại Vương :

Bỗng nghe tin báo truyền ra,

Trần Hưng Đạo sắp trẩy qua đường này.

Mừng thầm cờ sắp đến tay,

Tài này hẳn có dịp này hiến thân.

[câu 125 – 128,44, tr 31]

Để gặp được Đức ông, mặc cho tiếng loa dẹp đường, mặc cho "quân tiền

đạo thét la", Phạm Ngũ Lão cứ ngồi bệt bên đường đan sọt. Bị lính của Hưng Đạo

Vương đâm giáo vào đùi nhưng Phạm sinh “vẫn ngồi trơ trơ ”. Sự việc lạ lùng

trên khiến " tiền đạo sững sờ ", vội tâu trình lên chủ tướng. Nghe lời tâu, Đại

vương hết sức ngạc nhiên, " thân hành lại hỏi căn nguyên gót đầu". Bấy giờ Phạm

Ngũ Lão mới lên tiếng:

Tôi, Phạm ngũ Lão là tên,

Quê làng Phù Ủng nhà bên đường này.

69

Mải lo việc lớn mai đây,

Chẳng hay vương giá bữa nay qua đường.

Thực tình chẳng dám khinh thường,

Cúi xin lượng bể mở đường khoan dung.

[Câu 155 -160,44, tr32]

Điều lạ ở chàng trai đan sọt là tuy ngồi đan nhưng mải lo việc lớn. Theo lời

tâu của chàng việc lớn ở đây là việc nước. Chỉ có việc nước mới khiến Phạm Ngũ

Lão quên cả nỗi đau thể xác. Hưng Đạo Vương nghe nói lạ lùng “Đem điều học

vấn thử lòng xem sao". Qua cuộc vấn đáp giữa hai người, Hưng Đạo Vương Trần

Quốc Tuấn đã kinh ngạc nhận ra: “Anh hùng mới biết anh hùng là đây”. Phạm

Ngũ Lão được vị Quốc công tiết chế cho theo xe giá ruổi mây lên đường về kinh

và sau đó tiến cử lên thượng hoàng Thánh Tông. Nhà vua giao cho Phạm Ngũ Lão

quản “mấy đoàn cấm binh” nhưng binh sĩ trong đội quân cấm vệ không phục. Họ

muôn thử tài Ngũ Lão nên đã hẹn ông thách đấu. Ngũ Lão đồng ý nhưng ông xin

vua cho ba tháng về quê để thu xếp việc nhà nhưng thực chất là luyện tập võ nghệ:

"Ngày ngày ra cánh đồng ngoài,/ Võ công khuya sớm, hôm mai tập rèn./ Sức thần

phi bộ như tên,/ Gò cao đều đã đạp nên đất bằng" (câu 205 -208). Hết ba tháng,

ông trở lại kinh thành xin đấu sức với các võ sĩ :

Ra uy quyền cước hoà hai,

Miếng trong đả hổ, thế ngoài phục long.

Một mình tả đột hữu xông,

Khác nào cơn lốc quét vùng lá khô.

Uy danh nức tiếng quân cơ,

Nghìn người giao đấu đều thua sức thần.

[câu 213 – 218,44, tr 34, 35]

Từ đó, triều đình biết ông là bậc kì tài, cho ông tham gia đánh giặc, lập công.

70

Một sự kiện khác trong cuộc đời Phạm Ngũ Lão được các tác giả dân gian

kể trong truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão là ông được Hưng Đạo Vương

gả con gái của mình tên Anh Nguyên quận chúa:

Thấy ngươi có chí có tài,

Tin yêu ta mới liệu bài định duyên.

Nhà còn quận chúa Anh Nguyên,

Cho cùng khanh được phỉ nguyền thất gia.

Kíp về đón rước mẹ già,

Sớm hôm sum họp một nhà dâu con.

[câu 1385 – 1390,44, tr 86, 87]

Sự kiện trên được chép trong chính sử, được kể trong truyền thuyết Quận

chúa Anh Nguyên, truyện Con đẻ con nuôi. Trong truyện NômTướng quân Phạm

Ngũ Lão, tác giả bình dân đã dùng 395 dòng thơ kể lại chi tiết về mối tình giữa vị

tướng trẻ với tiểu thư lá ngọc cành vàng. Ngày xưa, trong xã hội phong kiến hầu

hết các cuộc hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt. Với Phạm Ngũ Lão và Anh Nguyên

lại khác. Trước khi Hưng Đạo Vương quyết định hôn sự của hai người thì tình

yêu giữa họ đã chớm nở. Ở điểm này, truyện thơ có sự khác biệt so với truyền

thuyết. Nếu truyền thuyết kể lại mối tình nảy nở từ phía quận chúa Anh Nguyên

khi nàng nhận ra tài năng, khí phách của Phạm Ngũ Lão qua bài thơ Thuật hoài

thì trong truyện thơ, tình cảm đó đến từ hai phía. Sau những ngày cầm quân đánh

giặc, trên đường trở về Thăng Long trong tâm hồn Phạm Ngũ Lão thật nhiều

vương vấn :

Biết ai lầu tía gác son,

Bấy nay cách mặt liệu còn nhớ quên?

Ba sinh ví phải là duyên,

Bõ công ước vụng ngày đêm nhớ thầm.

71

[Câu 1027 – 1030,44, tr 70]

Về phía Anh Nguyên, qua lời thân phụ, qua xem gia nhân thi tài, nàng biết

chàng họ Phạm là bậc tài danh. Từ đó, trong lòng người con gái ấy có sợi tơ lòng

gỡ mãi chẳng xong. Nàng đã mắc bệnh tương tư:

Vì ai mà phải đèo bòng,

Vì ai tháng đợi ngày mong đêm chờ.

Người xa nhưng bóng chẳng mờ.

Đêm đêm luống những vật vờ chiêm bao.

Sớm hôm thơ thẩn ra vào,

Ngày sáu khắc, chẳng khắc nào thảnh thơi.

Ai làm cho sợi nhớ thoi,

Cho thuyền xa bến để người nhớ nhau,

Cho tằm ăn rỗi chờ dâu,

Để trầu cánh phượng nhớ cau liên phòng.

Nhớ ai, ai nhớ, nhớ nhung,

Bâng khuâng tấc dạ, tấc lòng biếng khuây.

Khi tuyết rụng lúc sương bay,

Dễ phai nhan sắc dễ gầy hình dung.

[câu 1079 – 1092,44, tr 72, 73]

Trong bữa tiệc đoàn viên, Phạm Ngũ Lão gặp Anh Nguyên. Cả hai "Tình

trong như đã mặt ngoài còn e”. Sau buổi tiệc, chính Phạm Ngũ Lão cũng sống

trong nỗi bồn chồn, nhớ mong khắc khoải. Chàng vừa ngóng đợi, vừa lo lắng. Vì

sự cách biệt địa vị, vì tục lệ gia phong, liệu hai người có thể đến được với nhau ?

Thế rồi, nỗi lo chuyển thànhniềm vui mừng khi Hưng Đạo Vương cho gọi Ngũ

Lão sang hỏi xa gần. Biết chàng "chưa có ai giúp cùng" nên ngài đã quyết định

tác hợp cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.

72

Như vậy, để tái hiện thời trai trẻ của vị danh tướng, tác giả dân gian đã chọn

lựa những chi tiết tiêu biểu như cuộc gặp gỡ người trai họ Phạm với Hưng Đạo

Vương và cuộc hôn nhân với quận chúa Anh Nguyên. Nhờ gặp được Hưng Đạo

Vương ông mới có cơ may được triều đình thu nạp, trọng dụng, để thực hiện khát

vọng lập công danh, được kết hôn với quân chúa Anh Nguyên. Một loạt những

chuỗi liên kết đều do cái duyên của sự gặp gỡ lịch sử có một không hai giữa ông

với Hưng Đạo Vương mang lại. Từ đó, mối quan hệ giữa vị tướng bình dân Phạm

Ngũ Lão với vương triều Trần càng thêm sâu sắc.

Phần nói về tuổi già hưởng phúc của Phạm Ngũ Lão đã được tác giả kể lại

trong đoạn thơ từ câu 1995 đến câu 2065. Nhờ lập công trong sự nghiệp đánh

giặc ngoại xâm, đánh dẹp nghịch thần để giữ yên bờ cõi nên ông được nhà vua

Anh Tông thăng chức Điện súy, vua Minh Tông thăng tước Nội hầu, ban thưởng

Hổ phù, Kim Phù. Phạm Ngũ Lão từ giã cõi trần khi ông 66 tuổi. Sự kiện này từng

được chính sử ghi cụ thể, được kể trong truyền thuyết. Tuy nhiên, truyện Nôm

không kể về sự hiển linh của Điện súy Thượng tướng quân sau khi chết. Những

chi tiết như: "Sau khi ông hóa có một vệt sáng xanh từ người ông vút lên không

trung rồi bay về hướng Đông biến mất", chuyện ông "đầu thai đẻ con tiến sĩ", "

việc ông trừng trị viên học sĩ Cát Văn Tụy… không được các bản kể nâng niu

mỗi khi diễn xướng. Truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão chỉ tập trung kể về

sự kiện ông chết và thái độ của triều đình, của dân làng trước sự ra đi của ông.

Dân gian nhắc đến mất mát này trong sự dồn nén cảm xúc qua bốn dòng lục bát:

Cuối năm Đại Khánh, Canh Tân,

Trọng đông là tháng tiểu xuân ngày lành.

Sáu mươi sáu tuổi hoàn danh,

Giã Tân Lang với tư dinh lánh trần.

[câu 2031 – 2034, 44,tr116]

73

Những gì người bình dân kể bằng thơ đúng với ghi chép của các sử gia.

Như vậy, tướng quân Phạm Ngũ Lão mất vào mùa đông năm Canh Thân (1320),

niên hiệu Đại Khánh, triều Trần Minh Tông (1314 - 1329) tại phủ Tân Lang hưởng

dương 66 tuổi. Sự ra đi của Phạm Điện suý khiến "Vua thương xót bội phần,/

Miễn chầu năm buổi đặc ân dị thường". Không chỉ vậy, triều đình truy phong

Chiêu cảm đại vương và sắc phong Thượng đẳng phúc thần, ban mỹ tự Đông A

Điện súy. Ông được thờ tự ngang với các vương hầu khác. Đó là sự ghi công xứng

đáng đối với Phạm Ngũ Lão trước những đóng góp to lớn của ông đối với vương

triều, với xã tắc Đại Việt. Dân làng Phù Ủng tưởng nhớ với người anh hùng -

người con quê hương bằng việc "Chọn nơi cố trạch lập ra tân từ" để ông được

sống với làng, và người dân có dịp bày tỏ lòng thương tiếc, ngưỡng mộ vị danh

tướng quê mình.

Như vậy, với 2074 câu thơ chủ yếu là lục bát, truyện Nôm Tướng quân

Phạm Ngũ Lão đã dựng lại cuộc đời vị danh tướng thời Trần. Cuộc đời ấy được

khởi đầu với bao thiệt thòi, gian khó, đi qua những năm tháng binh đao oanh liệt

và kết thúc trong sự vinh phong của vương triều và nhân dân dành cho ông. Đó là

huyền thoại về người anh hùng làng Phù Ủng được tác giả dân gian kể lại trong

sự ngưỡng mộ, tự hào.

3.1.2. Tác phẩm ca ngợi thiên tài quân sự Phạm Ngũ Lão

Trong Đại Việt sử kí toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên gọi Phạm Ngũ Lão là

"bậc danh tướng của một thời", là người "văn võ toàn tài " bởi ông hễ đánh là

thắng. Tài năng quân sự, chiến công ông lập không chỉ được ghi trong cổ sử mà

còn được kể trong truyền thuyết, truyện Nôm khuyết danh. Tuy nhiên, khi ca ngợi

chiến công của Phạm Ngũ Lão trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên -Mông,

trong ba lần đánh đuổi Ai Lao và Chiêm Thành thì truyền thuyết kể không cụ thể

74

bằng truyện thơ, trừ bản kể Truy kích Thoát Hoan. Trong bản kể Nói về sự tích

ông Phạm Ngũ Lão, tác giả dân gian chỉ nhắc đến việc ông đi đánh giặc Ô Mã

Nhi, đánh giặc Ai Lao được Hưng Đạo Vương gả con gái nuôi, được giao chỉ huy

quân Thánh dực. Bản kể Truyện Phạm Ngũ Lão có đoạn: "Vua thấy người kiêu

dũng phong tước, cho theo Hưng Đạo Vương. Có nhiều chiến công chống Nguyên

- Mông, Chiêm Thành, Ai Lao, được phong Điện tiền nguyên súy". Truyện Phạm

Ngũ Lão kể ngắn gọn hơn: "Phạm Ngũ Lão đi tòng quân đánh giặc Nguyên, có

công, thăng lên coi quân cấm vệ". Truyện Con đẻ con nuôi kể cụ thể hơn: "Trong

cuộc kháng chiến Nguyên - Mông lần 2, chàng được giao trọng trách chuẩn bị và

chỉ huy mũi chủ công cho trận Vạn Kiếp, trận đánh lớn nhất". Sau trận này, Ngũ

Lão được Đại Vương gả con gái nuôi. Khi tái hiện cuộc đời, sự nghiệp Phạm Ngũ

Lão, truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão một mặt dựa vào tư liệu lịch sử, vào

những chi tiết kể lại trong truyền thuyết, mặt khác bổ sung những khuyết thiếu

của truyền thuyết bằng việc cách tổng thuật chi tiết những trận đánh mà đội quân

do Phạm Ngũ Lão chỉ huy từng tham chiến với dụng ý tô đậm tài năng chỉ huy và

ngợi ca chiến công của vị tướng quân khả kính.

Hầu như, Tướng quân Phạm Ngũ Lão dành nhiều đoạn kể với chức năng

tổng thuật chi tiết những trận chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chông giặc

Nguyên - Mông có vị tướng trẻ họ Phạm tham gia. Trong cuộc kháng chiến chống

Nguyên – Mônglần thứ hai (1285), đề phòng giặc mượn đường Chiêm Thành

đánh Đại Việt, Phạm Ngũ Lão xung phong "Sẵn sàng đội ngũ điểm binh,/ Năm

ngàn quân sĩ tốc hành thẳng dong./ Mở đường núi, bắc cầu sông,/ Mấy ngày đêm

đã tới vùng Nghệ An " (câu 671 - 674) cùng Thượng tướng Trần Quang Khải cản

quân Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra. Khi được điều lên cản địch từ phương Bắc

xuống, Phạm Ngũ Lão đánh "Trận đầu Kỳ Cấp giao công/ Thắng quân Phàn Tiếp

nêu gương anh hùng", sau đó phục kích Thoát Hoan ở ải Chi Lăng:

Ngũ Lão binh phục bên đèo,

75

Đánh cho quân địch hồn xiêu chạy dài.

Chiến công này trận thứ hai,

Chữ son sử sách sáng ngời còn ghi.

[câu 687 – 690,44, tr 55, 56]

Trong trận này, hai tướng Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần làm nhiệm vụ cản

giặc nhưng thua trận, bị giặc truy đuổi "Phạm sinh tiếp viện chặn đường,/ Đánh

cho quân giặc kinh hoàng một phen./ Trở về hai tướng bình yên,/ Chiến công này

lại tiếp liền là ba" (câu 695 - 698). Trong hai lần kháng chiến, Phạm Ngũ Lão

được xem như mãnh hổ xông xáo giữa đại ngàn chiến trận. Lúc ông vâng lệnh

Đại Vương xuất binh chi viện "giúp Trần Quang Khải giữ thành Nghệ An", khi

cùng Quang Khải hội quân tập kích chiến lược ở Chương Dương, Tây Kết buộc

Thoát Hoan phải bỏ Thăng Long tháo chạy, lúc lại ra Nội Bàng chờ địch đến.

Hành quân bộ, giáo gươm, lương thực phải mang vác nặng chưa nói thời tiết nắng

mưa thất thường nhưng đội cấm quân do ông chỉ huy vẫn có mặt kịp thời và hoàn

thành nhiệm vụ tác chiến một các xuất sắc. Thành tích chiến đấu đó thuộc về

tướng sĩ nhưng phải kể tới tài chỉ huy của viên chủ tướng. Đoạn thơ giầu chất sử

thi dưới đây miêu tả nghệ thuật chỉ huy trận đánh do Thượng tướng Trần Quang

Khải và Phạm Ngũ Lão phối hợp tác chiến đánh quân Toa Đô ở Chương Dương,

Tây Kết:

Tướng Trần Quang Khải đề binh,

Phạm sinh tuỳ tướng đồng hành giáp công.

Thuỷ quân vượt bể vào sông,

Thuyền ba trăm chiếc thuận dòng Phú Lương.

Kéo vào phá trấn Chương Dương,

Cờ tiên phong chữ "Phạm" trương rõ ràng.

Lưng đeo bảo kiếm hiên ngang,

76

Tay cầm cờ lệnh đường hoàng xông pha.

Cung tên giặc bắn như mưa,

Phất cờ tên nỏ như hoa rụng rời.

Gươm đưa loang loáng sáng ngời.

Quân ta sấm dậy người người xung phong.

Thuyền như tên lướt giữa dòng,

Chèo khua rộn sóng, trống rung dậy trời.

Giặc thua quân tướng rã rời,

Bỏ thuyền lên bộ tìm nơi ẩn mình.

[câu 747 – 762,44, tr 58]

Đoạn thơ như bản hùng ca chiến trận về hình ảnh một dũng sĩ - một vị tướng

dũng lược - một thiên thần xông pha trong tiếng "chèo khua rộn sóng, trống rung

dậy trời", với khí thế "quân ta sấm dậy người người xung phong".Trong trận Tây

Kết, quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật cùng quân của Thượng tướng Trần

Quang Khải và Cấm vệ quân của viên tướng họ Phạm đã dùng chiến thuật vừa

mai phục đánh tiêu hao, vừa phối hợp quân thuỷ với quân bộ hợp vây trận địa

chiến làm nhiệm vụ bẻ gẫy cánh quân chủ lực của quânNguyên - Mông. Trận

quyết chiến chiến lược này, quân Trần chém chết Toa Đô, khiến Ô Mã Nhi cùng

đường tháo chạy:

Quân Nguyên thuỷ bộ đều thua,

Thuỷ nhoi lên bộ, bộ lùa xuống sông.

Ba doanh trại đốt trụi không,

Nát tan đại sự tiêu vong cơ đồ.

Quân ta mượn gió bẻ cờ,

Mã nhi vội dẫn Toa Đô chạy dài.

Bỗng nghe trống giục liên hồi,

77

Phục binh Ngũ Lão đồng thời kéo ra.

Đôi bên đánh giáp lá cà,

Mã Nhi liều chết thoát ra khỏi tròng.

Toa Dô dù có anh hùng,

Thân cô lại bị mấy vòng bủa vây.

Trận tiền một mũi tên bay,

Ngày thua Tây Kết là ngày mạng vong.

[câu 847 – 860, 44, tr 62, 63]

Truyện thơ kể với giọng thơ đầy hứng khởi mỗi lần nhắc đến vị tài tướng

họ Phạm lập công. Được "Tin Toa Đô đã bỏ thây,/ Mã Nhi xa chạy cao bay cũng

chuồn", quân ta thừa thắng xông lên truy kích địch. Quân Nguyên có Lý Quán,

Lý Hằng, A Bát Xích; bên ta các tướng Dã Tượng, Cao Mang, "Yết Kiêu cùng với

tướng quân Đại Hành" tập trung đánh địch ở Vạn Kiếp khiến "Thoát Hoan xiết

nỗi kinh hoàng,/ Men sông dò dẫm tìm đường chạy xuôi". Thừa thắng "Quân ta

đánh rát một hồi,/ Giặc Nguyên tổng số quân mười còn năm" (câu 933 - 936).

Thái tử Thoát Hoan phải chui ống đồng được các tướng như Phàm Tiếp, A Bát

Xích hộ tống về tới Tư Minh thoát chết.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288),

Trấn Nam Vương Thoát Hoan "Lại chia thuỷ bộ hai bên,/ Quân ba chục vạn chiến

thuyền năm trăm, /Quyết lòng lại đánh nước Nam,/ Sai Trương Văn Hổ tài ngầm

lương sang" tiến đánh chiếm Đại Việt lần nữa. Lần này, Thoát Hoan dẫn theo

Nguyễn Bá Linh - một người có tài phù thủy, biết tàng hình, đồng thời y cũng là

người biết kinh sử và “nổi tiếng văn chương" làm Việt gian dẫn đường. Bá Linh

bên ngoài là "Nhớ mùi cố quốc giang san,/ Đề huề phụ tử, bầu đoàn hồi hương"

nhưng bản chất là muốn lập công với Thoát Hoan để mong vinh thân phì gia sau

nay. Trận mở màn, hắn dùng tà thuật, hô phong hoán vũ, đem âm binh tấn công

quân Việt: "Bỗng đâu gió nổi ào áo/ Cát bay mù mịt ai nào thấy ai./ Lại nghe

78

tiếng hú rợn người,/ Âm binh thần tướng ngút trời kéo ra./ Làm cho nát đám quân

ta,/ Ngọn cờ siêu đổ, can qua rã rời" (câu 1595 - 1600). Nhưng “ vỏ quýt dày đã

có móng tay nhọn”, Hưng Đạo Vương cử Yết Kiêu, Ngũ Lão bày trận, dùng uế

vật làm vũ khí đánh địch:

Phục binh trống hiệu vang rền,

Trên cao uế vật tưới liền như mưa.

Gió yêu phút lặng như tờ,

Cát bay, sỏi bốc khắc giờ tan không.

Âm binh thần tướng chất chồng,

Cỏ gà, giấy vụn lung tung rối bời.

Thuật yêu đã bị phá rồi,

Quân Nguyên hoảng hốt rút lui chạy hoài.

Ta liền truy sát chẳng rời,

Khiến cho quân địch tơi bời tử thương.

[câu 1639 – 1648,44, tr 97,98]

Cuối cùng Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu dùng kế đà đao, nhử địch vào trong

bắt sống Bá Linh. Bá Linh bị bắt, thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh

Dư cho quân đánh chìm hoặc bắt sống, còn "Thoát Hoan khi được hay tin,/ Nỗi

lo, nỗi sợ, nỗi phiền ngổn ngang" nên quyết định:

Bảo toàn lực lượng là hơn,

Ba mươi sáu chữ chước nào đầu tiên?

Chia quân thuỷ bộ hai bên,

Thuỷ trình dẫn đạo binh thuyền cùng đi.

[câu 1777 – 1780,44, tr 103]

Hưng Đạo Vương biết Thoát Hoan mất lương thực sẽ rút quân về nước.

Ông cho "Bộ binh phục nẻo Nội Bàng,/ Ngũ Lão, Chế Nghĩa đảm đương tiến

hành,/ Còn như diệt đạo thuỷ binh,/ Mật sai Nguyễn Khoái lập thành cơ mưu./-

Cọc ngầm đóng đáy sông sâu" (câu 1787 - 1790) chờ giặc. Đúng như kế hoạch

79

tác chiến đã định: "Giao phong trên dưới nửa giờ,/ Thuyền ta quay mũi từ từ rút

lui" khiến cho "Quân Nguyên như hổ rượt mồi,/ Chiến thuyền rẽ sóng không rời

đuổi theo" (câu 1815 - 1818) và rơi vào trận địa có cọc ngầm chờ sẵn. Đúng lúc

“ngọn triều đang rút lòng sông nông sờ " thì "Quân ta quay lại bất ngờ,/ Đôi bên

nổi trống phất cờ giao phong". Kết cục cuộc chiến đấu đã làm cho quân Nguyên

đại bại:

Thuyền xô phải cọc chất chồng lên nhau.

Xác thù vùi đáy sông sâu,

Bạch Đằng phút chốc đỏ ngầu máu tươi.

Mã Nhi khôn thoát lưới trời,

Đỗ Hành bị bắt giữa nơi trận tiền.

Riêng còn Phàn Tiếp xông lên,

Tướng quân Nguyễn Khoái bắt liền mang đi.

Bao nhiêu tướng tá hộ tuỳ,

Cùng quân chiến bại kể chi muôn nghìn.

Hơn năm trăm chiếc chiến thuyền,

Binh lương, quân khí chất lèn bến sông.

Bạch Đằng muôn lớp sóng tung,

Trước sau để tiếng anh hùng hai phen

[câu 1830 – 1842,44, tr 105, 106]

Được tin đội quân thủy bị tiêu diệt, Thoát Hoan "lòng càng rầu rĩ dạ thêm

rối bời" mới hối thúc quân bộ rút lui. Đại vương Trần Quốc Tuấn cử Phạm Ngũ

Lão, Nguyễn Chế Nghĩa chờ sẵn từ trước ở Nội Bàng. "Một bên Ngũ Lão chặn

ngang, / Một bên Chế Nghĩa hai đàng xông ra./ Đôi bên đánh giáp lá cà,/ Kẻ

mong thoát nạm người chờ lập công./ Thây như núi, máu đầy sông,/ Mây tuôn sắc

80

thảm, khói lồng màu tang./ Quân ta càng đánh càng ham,/ Thoát Hoan vượt khỏi

Nội Bàng thoát thân" (câu 1851 - 1858).

Bên cạnh những chiến công vang dội trong sự nghiệp đuổi giặc Nguyên -

Mông , Phạm Ngũ Lão còn lập công lao trong những lần vua Trần tin tưởng cử đi

đánh quân Ai Lao, Chiêm Thành xâm phạm bờ cõi Đại Việt. Sinh thời, ông từng

ba lần cầm quân đi đánh giặc Ai Lao. Tác giả truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ

Lão đã sử dụng tới 71 dòng thơ (từ câu 1929 đến 2000) kể về sự nghiệp bình

Chiêm, dẹp Lào của ông. Giống như một số bản kể truyền thuyết, tác giả dân gian

đã chọn những chi tiết tiêu biểu miêu tả tài năng chỉ huy và tài năng võ nghệ của

ông trong những lần lập công lẫy lừng. Trước đội quân dùng voi làm vũ khí tấn

công, Phạm Ngũ Lão có cách đánh riêng của mình. Ông lấy cọc tre nện vào móng

voi, khiến voi quay đầu chạy trở lại, lính Ai Lao không kịp trở tay, phải bỏ chạy.

Thế trận địch bày sẵn bị đảo lộn. Quân ta chọn đúng thời cơ xông lên diệt địch,

thu vũ khí, quân trang quân dụng. Cách đánh thông minh thể hiện tầm nhìn biết

địch biết mình, trăm trận trăm thắng. Vũ khí gốc tre có tác dụng lớn, vừa dễ kiếm

lại hạn chế tối đa sức công phá của vũ khí đối phương (voi), vừa tiết kiệm sức

quân mà vẫn đảm bảo thắng lợi:

Giao binh trông ngọn cờ đào,

Mỗi người một đoạn nện vào móng voi.

Bị đau voi rống từng hồi,

Cuối cùng chúng phải quắp đuôi chạy dài.

Tù binh chiến phẩm thu hồi,

Quân ta toàn thắng vang lời khải ca.

[câu 1937 – 1942,44,tr 111]

Chọn những chi tiết nói trên, người kể chuyện hết lời ca ngợi tài đánh giặc

mưu trí, dũng cảm của vị tướng xuất thân bình dân, tô đậm chất anh hùng ca của

truyện Nôm.

81

So với truyền thuyết, truyện Nôm khuyết danh tái hiện khá đầy đủ những

đóng góp của Phạm Ngũ Lão vào chiến công chung trong sự nghiệp bảo vệ giang

sơn Đại Việt. Chiến thắng Chương Dương, Tây Kết, Nội Bàng và những lần bảo

vệ miền biên viễn phía Tây, phía Nam Tổ Quốc đã khẳng định tài năng quân sự

của một vị tướng bình dân họ Phạm. Ông biết lấy tư tưởng thân dân, vì dân làm

tư tưởng chỉ đạo tác chiến, biết kết tinh những tinh hoa bản sắc văn hoá Việt

(thương yêu con người, nhiều cái nhỏ góp thành cái lớn, quí hồ tinh bất quý hồ

đa), biết học cách nghĩ, cách làm của dân gian, của các bậc minh quân, minh tướng

để vận dụng trong chỉ huy quan hệ tướng - sĩ, trong tác chiến ở từng trận đánh cụ

thể. Khi tham gia những chiến dịch lớn, Phạm Ngũ Lão có công tham góp với các

tướng quân khác bằng cách đánh của mình. Khi ra trận, ông chiến đấu đến quên

mình, làm tròn nhiệm vụ được giao. Có thể nói, tướng quân Phạm Ngũ Lão là vị

tướng từ dân gian mà trưởng thành, biết kết hợp kinh nghiệm dân gian với cách

điều quân, dụng quân trong binh pháp người xưa để lại theo nguyên tắc: đánh nhỏ

thắng lớn, công thủ toàn diện, dùng đoản chế trường... Ông cùng các tài tướng

khác trong hoàng tộc và quân sĩ con em của nhân dân làm nên khí thế bách chiến

bách thắng của quân dân Đại Việt. Vì thế, tướng quân Ngũ Lão được vinh thưởng

Kim phù (Giáp Ngọ - 1294), Vân phù (Đinh Dậu - 1297), Quy phù (Tân Sửu -

1301), Hổ phù (Nhâm Dần - 1302), Ngư phù (Mậu Ngọ - 1318) và thăng chức Hữu

kim ngô, Điện súy Thượng tướng quân. Ông là người "Hiếu trung vẹn cả đôi bề"

nên được vua Trần "Di phong hậu thế hội hè viếng thăm, - Sắc ban Thượng đẳng

phúc thần - Lịch triều hưởng tự ngang tầm đế vương" (câu 2053 - 2056). Bút pháp

tráng ca, những lời trữ tình ngoại đề, cách mở đầu, kết thúc bản ca và giọng điệu

người hát kể cho chúng ta nhận thức một cách đầy đủ về tình cảm nhân dân dành

cho vị tướng quân khả kính.

3.1.3. Tinh thần yêu nước trong truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão

82

Truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão kể về cuộc đời, sự nghiệp của vị

tướng xuất thân bình dân hết lòng vì đấng quân vương, vì xã tắc là một câu chuyện

về tinh thần yêu nước của một con người sinh ra và lớn lên trên vùng đất Hưng

Yên . Khái niệm yêu nước là một phạm trù rộng, mang tính thời đại, tính lịch sử

cụ thể, gắn với không gian, thời gian cụ thể. Tìm hiểu tinh thần yêu nước của

Phạm Ngũ Lão trong truyện thơ viết về làng quê Đại Việt thế kỷ XIII, chúng ta

không thể tách rời nó với hệ tư tưởng quân chủ, với quan niệm yêu nước thời

phong kiến, với lịch sử chống ngoại xâm của người Việt. Rộng hơn là đặt nội

dung yêu nước truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão trong hệ đề tài bao trùm

của văn học, nghệ thuật Việt Nam thời trung đại, trong đó có văn học dân gian.

Khi tái hiện cuộc đời, sự nghiệp đầu quân đánh giặc của vị tướng "hễ ra

quân là đánh thắng", chúng tôi đã làm một việc nghiên cứu, tổng thuật những

chiến công (hành động) Phạm Ngũ Lão lập được trong quá trình phò vua giúp

nước để ông từ một người dân bình thường, không qua kỳ thi tạo sĩ mà trở thành

Điện suý Thượng tướng quân, được dân gian vinh danh rước vào thần điện làng

xã, được ngợi ca trong truyện thơ dài 2.0 74 câu, được kể trong nhiều bản truyện

dân gian. Nội dung, chủ đề chính của mỗi bản kể về ông đều có chủ đề kể về lòng

yêu nước. Lòng yêu nước của tướng quân Phạm Ngũ Lão là biểu hiện cụ thể, sinh

động về tình yêu làng quê, về lòng căm thù giặc, ý chí tinh thần chiến đấu dũng

cảm, sẵn sàng hy sinh bảo vệ giang sơn xã tắc. Hệ giá trị nêu trên luôn là thước

đo về lòng yêu nước của người anh hùng này. Song mỗi thời đại, mỗi thời điểm

bản kể ra đời, nấc thang giá trị đo lòng trung quân ái quốc của mỗi người có sự

khác nhau. Đất nước có vua sáng sẽ có tôi hiền và ngược lại. Mối quan hệ vua -

tôi tốt đẹp, luôn gắn bó với nhau, có trong nhau, hoà với nhau sẽ trở thành thứ

tình cảm nội sinh mạnh mẽ có sức mạnh chi phối, quyết định hành động của cá

nhân mỗi người mà quan hệ giữa Phạm Ngũ Lão với ba vua Trần là một điển hình.

83

Tinh thần yêu nước trong truyện thơ Tướng quân Phạm Ngũ Lão biểu hiện

rất phong phú. Trước hết, đó là lòng căm thù giặc sục sôi của cả dân tộc được diễn

tả qua tâm trạng của Trần Quốc Tuấn khi ông nghe tin giặc chuẩn bị kéo sang xâm

lược Đại Việt :

Đại vương nghe nói bầm gan,

Mắng rằng: “Giặc Thát ngông càn đã quen.

Sá gì một lũ Hồ Nguyên,

Gươm này quyết hẳn một phen tiễu bình.

[câu 381 – 384,44, tr 42]

Đoạn thơ gợi cho người nghe nhớ đến lời Hịch tướng sĩ: “Ta thường tới

bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa chỉ căm tức rằng

chưa xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho thân ta phơi ngoài nội cỏ

nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng nguyện xin làm”.[38, tr 123]. Tinh thần

yêu nước thể hiện qua ý chí đánh giặc của quân dân thời Trần. Vì vậy, trong ba

lần đương đầu với quânNguyên – Mông quân ta đã buộc kẻ thù phải lui chạy. Sau

khi sai Trung đại phu Trần Khiêm Phủ sang Kinh Hồ (Trung Hoa) “Yêu cầu

Nguyên chúa hoãn binh” nhưng “Nguyên triều một mực làm cao,/ Quyết sai Thái

tử tiến vào ải quan”, nhà vua mở hội nghị Diên Hồng xin ý kiến nhân dân nên hòa

hay nên đánh:

Chiến thì để lụy cho dân,

Hòa thì để nhục muôn phần mai sau.

[câu 413 – 414,44, tr43]

Trước lời tha thiết của nhà vua, các bô lão đồng thanh hô vang :

Chúng tôi tuổi tác tuy già,

Nhưng lòng yêu nước vẫn là trẻ trung.

Ơn nhờ cảnh thổ non sông,

84

Ngọn rau tấc đất cũng trong mưa nhuần.

Nước nhà gặp lúc đa truân,

Há rằng trách nhiệm riêng phần một ai.

Động viên con cháu mọi người,

Cùng xin góp sức gom tài một phen.

Kết liền một khối vững bền,

Đánh cho tan lũ giặc Nguyên tham tàn.

Nói chi đến sự cầu hòa,

Cái gương nội thuộc xưa mà ai quên.

Xin thề quyết chiến một phen,

Cùng đem máu đỏ báo đền trời xanh.

[câu 420 – 432,44, tr 44]

Sự kiện trên từng đượcchép trong chính sử: “Thượng hoàng triệu phụ lão

trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão

đều nói đến “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng”

không được kể trong truyền thuyết nhưng truyện Nôm khuyết danh Tướng quân

Phạm Ngũ Lão đã khai thác nhằm tái hiện tinh thần quyết tâm chống giặc của

quân dân Đại Việt. Ý chí sắt đá đó lí giải vì sao Phạm Ngũ Lão khi bị giáo đâm

vào đùi mà không thấy đau. Bởi vì, ông đang mải mê nghĩ về việc nước.

Tinh thần yêu nước còn được thể hiện qua niềm tự hào về khí thế đánh giặc

của quân dân đời Trần. Những trận đánh đi vào lịch sử được người xưa nhắc bằng

những ngôn từ giầu xúc cảm về niềm tự hào của quân đội nước nhỏ nhưng đánh

thắng một đội quân hùng mạnh của một đế chế lớn. Tin thắng trận của quân Trần,

tin tướng giặc bị giết, bị bắt như những đốm sáng lấp lánh, thấp thoáng trong suốt

2062 dòng thơ làm người nghe, người đọc hân hoan mừng vui, bởi sức ấm nóng

của tinh thần yêu nước trong bản kế lan sang họ. Đâm đặc hơn cả là đoạn thơ từ

85

câu 711 đến câu 1010 đã tái hiện chân thật không khí chiến trận lúc bấy giờ. Ngôn

ngữ người kể chuyện là ngôn ngữ sử thi, giầu chất anh hùng ca:

Gươm đưa loang loáng sáng ngời,

Quân ta sấm dậy người người xung phong.

Thuyền như tên lướt giữa dòng,

Chèo khua rộn sóng trống rung dậy trời.

[câu 757 – 760, 44, tr58, 59]

Những vần thơ lột tả khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân ta Sở dĩ có

được khí thế hào hùng đó là do vua tôi nhà Trần xây dựng thành quân đội quân

phụ tử chi binh, "vua tôi đồng lòng, trên dưới gắng sức". Họ đánh giặc bằng sức

mạnh của lòng yêu nước, của tinh thần đoàn kết, dũng cảm đến quên mình mà

Phạm Ngũ Lão là một chiến tướng tiêu biểu. Bút pháp tráng ca, cảm hứng anh

hùng, tạo nên giọng thơ hào sảng có sức lan toả trong tâm hồn bao thế hệ người

Việt vùng châu thổ sông Hồng từ thế kỷ XIII đến hôm nay. Tướng quân Phạm

Ngũ Lão là bài ca ca ngợi người anh hùng "cắp ngang ngọn giáo" chiến đấu vì

quê hương, đất nước, ca ngợi hào khí Đông A, ca ngợi tinh thần yêu nước của

quân dân Đại Việt. Bài ca đó luôn vang vọng đến mai sau.

3.2. Đặc điểm nghệ thuật của truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão

3.2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

Trong cuốn Truyện Nôm lịch sử hình thành và bản chất thể loại, nhà nghiên

cứu Kiều Thu Hoạch đã nhận định: “Truyện Nôm là một thể loại sinh thành và

phát triển từ cội nguồn văn hóa dân gian”. [34, tr 174]. Việc phân chia truyện Nôm

thành hai loại truyện Nôm bác học, truyện Nôm bình dân cũng chỉ mang tính chất

tương đối, tạm thời khi các nhà nghiên cứu dựa vào chủ thể sáng tạo, phẩm chất

nghệ thuật của văn bản. Tìm hiểu một số truyện Nôm bình dân cho thấy có nhiều

tác phẩm mà cốt truyện được hình thành từ cổ tích. Cao Huy Đỉnh cũng khẳng

định: “Về cơ bản truyện Nôm là truyện cổ tích không hơn không kém được diễn

86

tả bằng thơ 6/8 mà thôi”.[ 23, tr 139]. Theo nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn, truyện

Tống Trân - Cúc Hoa được sáng tác dựa trên câu chuyện dân gian về Trạng Gàu.

Tác giả dân gian chỉ sửa đổi, thêm vào một ít chi tiết để làm nổi thêm ý nghĩa của

tác phẩm. Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, truyện thơ Mộng Hiền truyện

sáng tác trên khuôn hình truyện cổ tích Anh chàng họ Đào, truyện Chàng Chuối

cải biên từ truyện cổ tích cùng tên và lắp ghép với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy

Tinh…

Đối chiếu với đặc điểm nghệ thuật của không ít truyện Nôm khuyết danh

chúng tôi nhận thấy cốt truyện Tướng quân Phạm Ngũ Lão có điểm riêng biệt.

Trong khi nhiều truyện Nôm có cốt truyện cải biên từ cổ tích thì tác phẩm khai

thác tư liệu về cuộc đời danh tướng Phạm Ngũ Lão - người anh hùng có thật trong

lịch sử. Nếu như truyện Nôm khuyết danh khác sử dụng cốt truyện cổ tích làm

cơ sở diễn ngôn nên có mô thức kết cấu ba đoạn: gặp gỡ - tai biến - đoàn tụthì

truyện Tướng quân Phạm Ngũ Lão cốt truyện nương theo cuộc đời nhân vật lịch

sử qua ba giai đoạn: lúc nhỏ - lúc trưởng thành - lúc cuối đời. Các biến cố trong

cốt truyện đều tương ứng với dấu mốc quan trọng trong cuộc đời chàng trai họ

Phạm: Ngũ Lão gặp Trần Quốc Tuấn, được ông đón nhận, tiến cử, được giao chỉ

huy quân cấm vệ. Một số tình tiết như: Lính cấm vệ không phục tài nên Phạm

Ngũ Lão xin về quê để luyện tập. Sau đó, ông đã thắng trong cuộc thi võ khiến

quan quân khâm phục. Ngũ Lão tham gia đánh giặc Nguyên- Mông , đuổi quân

Ai Lao, Chiêm Thành bảo vệ biên giới lập công lớn, được Trần Hưng Đạo gả con

gái nuôi là quận chúa Anh Nguyên. Khi Hưng Đạo Vương qua đời, ông làm thơ

điếu cha vợ. Ông mất tại phủ đệ Vườn Cau, hưởng thọ 66 tuổi, được vua Trần

Minh Tông (1314 - 1329) nghỉ chầu 5 ngày để tưởng nhớ, được phong Thượng

đẳng phúc thần. Tất cả các sự kiện trên đã được ghi trong chính sử hoặc một số

sự kiện được kể trong truyền thuyết. Ở đây, tác giả dân gian kể lại cuộc đời tướng

quân họ Phạm với dụng ý thông tin hơn là dụng ý nghệ thuật. Ở Tướng quân Phạm

Ngũ Lão, cốt truyện tuy có tính chất diễn ca nhưng lại khá hấp dẫn bởi các tác giả

87

chỉ lựa chọn chi tiết chính (gặp Hưng Đạo Vương, tham gia chiến trận, được Đức

ông gả con gái nuôi). Đây là điểm riêng biệt mà các truyện Nôm bình dân khác

không có.

Là một thể loại văn học dân gian tuy ra đời muộn hơn so với thần thoại,

truyền thuyết nhưng trong truyện Nôm bình dân xuất hiện nhiều chi tiết kì ảo.

Theo nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, để đi tới kết cục có hậu, hướng người

nghe về sự viên mãn, tròn đầy, tốt đẹp trong tương lai, các tác giả truyện Nôm

dân gian thường sử dụng yếu tố kì ảo làm biện pháp nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện.

Yếu tố này góp phần thúc đẩy cốt truyện phát triển, qua đó gợi mở người nghe

đồng sáng tạo, để họ cùng mong đợi và ước mơ về việc người tốt không bao giờ

thất bại trước thế lực tàn ác, xấu xa, cái ác sẽ bị trừng trị, chính nghĩa sẽ thắng

gian tà... Đồng tình với quan điểm trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc khẳng định:

“Trong cốt truyện của truyện Nôm bình dân, nhà thơ thường sử dụng rất nhiều

yếu tố ngẫu nhiên, phi thường, nhiều yếu tố có tính chất thần linh” [Văn học Việt

Nam nửa cuối thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX, tr 301]. Theo cách hiểu trên, sử

dụng yếu tố kì ảo trở thành đặc trưng quan trọng của hư cấu nghệ thuật trong sáng

tác dân gian, nhất là thể loại truyện Nôm. Tuy nhiên, tìm hiểu truyện Nôm Tướng

quân Phạm Ngũ Lão, chúng tôi thấy chi tiết kỳ ảo hầu như vắng bóng. Nếu có chỉ

là chi tiết tác giả mượn từ truyện truyền thuyết kể về việc Phạm Nhan (Nguyễn

Bá Linh) dùng tà thuật làm "gió nổi ào ào, - Cát bay mù mịt ai nào thấy ai. - Lại

nghe tiếng hú rợn người, - Âm binh thần tướng ngút trời kéo ra" (câu 1595 -

1598). Đây là điểm khác biệt giữa truyện thơ Tướng quân Phạm Ngũ Lão với một

số truyện Nôm bình dân khác, giữa tác phẩm này so với truyền thuyết Phạm Ngũ

Lão mặc dù cùng là truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão.

Các truyện Nôm bình dân khác thường mở đầu theo lối hồi tưởng về chuyện

xưa, tích cũ sau đó giới thiệu lai lịch nhân vật nhưng Tướng quân Phạm Ngũ Lão

88

người kể chuyện hướng người nghe tới nhân vật được kể bằng cái nhìn từ góc độ

lịch sử :

Xem trong lịch sử nước nhà,

Mỗi khi vua sáng thường ra tôi hiền.

Người đời chưa dễ ai quên,

Nhân tài cứu nước mấy phen quật cường.

Đời thường có việc phi thường,

Người phi thường để đảm đương việc đời.

Bể dâu dù có biến dời,

Tấm gương trung hiếu vẫn ngời sáng thêm.

Non sông muôn thủa vững bền,

Mới hay thời thế tạo nên anh hùng.

[câu 1 – 10,44, tr 25]

Truyện Nôm bình dân thường kết thúc có hậu bằng cách dựng lại cuộc đoàn

viên của các nhân vật chính sau nhiều thử thách thì Tướng quân Phạm Ngũ Lão

khép lại bằng việc kể về sự ra đi vĩnh viễn của một con người được triều đình và

nhân dân kính trọng bằng lời tổng kết :

Muôn đời còn mãi ngát hương,

Người trai đan sọt bên đường thủa xưa.

Từ trong bùn đất quê mùa,

Đã từng làm gió làm mưa một thời.

[câu 2057 – 2060,44, tr117]

Tóm lại, ở cốt truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão có những điểm

chung và một số nét khác biệt so với nhiều truyện Nôm bình dân khác. Điều đó

thể hiện sự tiến triển của nghệ thuật truyện Nôm bình dân, thể hiện tài năng sáng

89

tạo trong lối kể của người bình dân xứ Nhãn, góp phần làm cho tính chân thực

của câu chuyện đậm nét hơn và gây ấn tượng sâu sắc với người thưởng thức.Từ

cách kể trong Tướng quân Phạm Ngũ Lão, người nghe cảm nhận được các tác giả

bình dân bắt đầu nhận thức được giá trị chân thực của đời sống và biết sử dụng nó

để tô đậm, làm đẹp chân dung nhân vật.

3.2.2. Sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình

Đặc điểm nổi bật của truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lãolà sự kết hợp

giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Yếu tố tự sự thể hiện bằng nghệ thuật trình bày,

miêu tả trực tiếp sự vật, hiện tượng, nhân vật bằng ngôn ngữ để dựng lại hoàn

cảnh không gian, thời gian, diễn biến sự việc, kể lại cuộc đời, sự nghiệp nhân vật

bằng một cốt truyện theo trình tự tuyến tính với hệ thống sự kiện và biến cố hợp

lí.Yếu tố trữ tình thể hiện qua cách thức miêu tả tâm trạng, nhất là sử dụng ngôn

ngữ biểu đạt tâm trạng, xúc cảm nghệ thuật. Lời kể giúp tác giả hóa thân vào nhân

vật, từ đó tâm trạng, tình cảm nhân vật được người dẫn chuyện trình bày một cách

tự nhiên như nó tồn tại. Qua ngôn ngữ, người bình dân bộc lộ cảm xúc của chính

mình hoặc thông qua tiếng nói, tâm trạng nhân vật. Thơ là nghệ thuật ngôn ngữ

có vần điệu mà vần điệu giầu nhạc tính nên chất trữ tình trong nghệ thuật biểu đạt

sẽ sâu sắc hơn.

Đặc biệt, sự kết hợp nói trên trong Tướng quân Phạm Ngũ Lãochủ yếuđược

tác giả dân gian sử dụng kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố ngôn ngữ tự sự và ngôn

ngữ trữ tình một cách nhuần nhuyễn. Nếu như ngôn ngữ tự sự trong văn học viết

nói chung thường sử dụng ba hình thái biểu đạt: Ngôn ngữ gián tiếp (lời tác giả),

ngôn ngữ trực tiếp (lời nhân vật), ngôn ngữ nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng thể

hiện cảm xúc suy tư, giọng điệu nhân vật hoặc sử dụng cách đan xen giữa lời tác

giả và lời nhân vật), thì truyện Nôm dân gian thường sử dụng ngôn ngữ gián tiếp

- ngôn ngữ của số đông tác giả bình dân.

90

Khi bàn về ngôn ngữ tự sự truyện Nôm dân gian, nhà nghiên cứu Kiều Thu

Hoạch cho rằng: “Truyện Nôm bình dân về cơ bản là sáng tác folklore chứ không

phải là sáng tác văn học theo quy phạm điển nhã. Do vậy, truyện Nôm bình dân

chủ yếu kể chuyện bằng ngôn ngữ nói hơn là ngôn ngữ viết, càng không không

phải bằng thứ ngôn ngữ thẩm mĩ văn chương”. [34, tr 223]. Theo tinh thần trên,

ngôn ngữ tự sự (kể chuyện) trong Tướng quân Phạm Ngũ Lão là thứ ngôn ngữ

giản dị, đậm chất khẩu ngữ đúng như tác giả dân gian tự nhận:“Nôm na ghi lại

đôi lời. Nhớ trang sử cũ nhớ người quê hương”. Trong đó, ta thường gặp cách

diễn đạt chêm xen: “Những là lạ nước, lạ non bồi hồi” (câu 1070), những từ ngữ

vốn là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người lao động: “Nhắc đi nhắc lại một lời”

(câu 1059), “Ra vào một mẹ một con” (câu 1069), “Sớm hôm thơ thẩn ra vào, -

Ngày sáu khắc, chẳng khắc nào thảnh thơi” (câu 1083 - 1084).

Bởi vì điểm nhìn trần thuật của người kể là từ bên ngoài nên ngôn ngữ tự

sự của truyện Nôm bình dân thường đơn thanh. Thế nhưng, ở truyện Tướng quân

Phạm Ngũ Lão lại khác: có chỗ đơn thanh; có chỗ đa thanh, đa điệu do tác giả biết

sử dụng linh hoạt kiểu ngôn ngữ tự sự nói trên. Ngôn ngữ gián tiếp đóng vai trò

quan trọng vì nó đảm nhiệm chức năng dẫn dắt để câu chuyện liền mạch. Ngôn

ngữ trực tiếp thường thể hiện qua đối thoại giữa các nhân vật: Đối thoại giữa Hưng

Đạo Vương với Phạm Ngũ Lão, giữa Phạm Ngũ Lão với mẹ, giữa Anh Nguyên

với phu nhân… Rất nhiều đoạn thơ sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp mà ở đó người

kể thay nhân vật nói hộ nỗi niềm thầm kín. Đoạn thơ từ câu 1309 đến câu 1390 là

trích đoạn tiêu biểu về cách diễn ngôn nói trên. Người kể diễn tả tâm trạng phức

tạp thay nhân vật. Sau bữa tiệc đoàn viên của gia đình Hưng Đạo Vương, Ngũ

Lão đêm ngày mơ tưởng đến quận chúa. Ông trò chuyện với Chiêu Văn vương

mà tâm trí như đểở nơi khác. Vì thế, Ngũ Lão đứng ngồi chờ trông phấp phỏng.

Có lúc ông thầm trách người con gái vô tình:

Một mình ngồi đứng chẳng xong,

91

Bước đi ngần ngại mắt trông ủ sầu.

Giờ đây rốn bể cửa hầu,

Trách ai ai nỡ để nhau lạnh lùng.

Thuyền quyên tưởng nhớ anh hùng,

Anh hùng dạ cũng như lòng thuyền quyên.

Ví mà duyên chẳng bén duyên,

Can chi để não gieo phiền cho nhau.

[câu 1315 - 1322,44, tr 83]

Lời trách tuy vô lý nhưng rất có lý bởi đó là tâm trạng của người đang yêu.

Vì yêu vụng nhớ thầm nên Phạm Ngũ Lão đánh liều đến gặp mẫu thân quận chúa

dù trời còn sớm. Nhìn ai đó bên rèm, vị tướng quân trẻ tưởng là quận chúa:

Vườn hồng lần bước dạo quanh,

Hương đưa đón khách tiếng oanh chào người.

Lầu son thấp hoáng cửa ngoài,

Bên rèm thấy có bóng người thướt tha.

Rõ ràng ngọc đúc tuyết pha,

Tưởng chừng như thể tiên nga giáng trần.

Những toan rảo bước tới gần,

Rèm Tương thoắt đã khuất dần thấy đâu.

[câu 1327 – 1334,44, tr 84]

Nhờ ngôn ngữ nửa trực tiếp, tác giả bình dân đã diễn tả chân thật những

điều tế vi của tâm tư sâu kín ấy. Nếu như trong chiến trận, Ngũ Lão xông pha

dũng mãnh khiến quân giặc khiếp vía kinh hồn bao nhiêu thì trong tình cảm riêng

tư, ông lại lúng túng, rụt rè bấy nhiêu. Trạng thái cảm xúc trên cho thấy Phạm

Ngũ Lão cũng có đời sống nội tâm như bao người khác, cũng khát khao tình yêu,

92

cũng nhớ nhung người mình thương nhớ. Bằng ngôn ngữ kể chuyện, Tướng quân

Phạm Ngũ Lão đã giúp người đọc hiểu thêm về thế giới tâm hồn của vị tướng trẻ

làng Phù Ủng.

Yếu tố trữ tình của bản kể bộc lộ rõ nhất qua ngôn ngữ nghệ thuật trong

những đoạn tả cảnh ngụ tình, qua lời trữ tình ngoại đề và nhạc điệu thơ lục bát.

Không gian cảnh sắc được miêu tả là để nói cái tình của nhân vật hoặc của người

dẫn chuyện. Để diễn tả tình cảm nhân vật, truyện NômTướng quân Phạm Ngũ

Lão thường chọn cảnh trí ở hai không gian cụ thể: Thiên nhiên bình dị nơi làng

xã và cảnh trí chốn kinh thành. Song tả cảnh là phương tiện, tả tình là mục đích.

Dù bức tranh nơi thôn dã hay chốn kinh thành phồn hoa đều đảm nhận nhiệm vụ:

thể hiện ngoại cảnh và khắc họa tâm cảnh. Đoạn thơ từ câu số 1023 đến câu 1026

dưới đây tiêu biểu cho bút pháp trên. Cảnh quê trong mắt vị tướng trẻ Phù Ủng

khi ông từ chiến trường trở về Thăng Long thật nên thơ:

Đường chiều ngắm cảnh đồng quê,

Liễu phô mầu biếc hoa khoe sắc hồng.

Lời ca thôn nữ mặn nồng,

Nhặt khoan tiếng sáo mục đồng véo von.

[ câu 1023 - 1026, 44,tr 74, 75]

Không gian rực rỡ sắc màu: sắc xanh cành liễu, sắc đỏ của hoa. Tiếng hát

thôn nữ, tiếng sáo mục đồng lúc chiều tà khơi gợi nỗi nhớ quê bởi đó là những

âm thanh quen thuộc trong không gian thanh bình. Tác giả dân gian phác thảo bức

tranh qua nét vẽ mộc mạc, ước lệ nhưng gần gũi, nên thơ. Đằng sau không gian

đó có cả nỗi niềm xôn xao vị tướng trẻ mong được gặp Anh Nguyên quận chúa.

Bên cạnh thủ pháp sử dụng ngôn ngữ miêu tả trực tiếp tình cảm, tâm trạng

nhân vật, truyện NômTướng quân Phạm Ngũ Lão dành những câu thơ trữ tình

ngoại đề đem cảm xúc riêng đến với người nghe chuyện. Cảm xúc của tác giả

bình dân thể hiện rõ nhất trong những câu thơ luận bình về chiến công, ở phần mở

93

đầu, kết thúc câu chuyện. Giới thiệu chủ đề câu chuyện, người kể sử dụng uyển

ngữ, dùng lối nói từ xa đến gần khá tinh tế. Dựng lại câu chuyện huyền thoại "đời

thường có việc phi thường, - người phi thường để đảm đương việc đời", tác giả

bình dân chọn nhân vật xuất thân bình dân trở thành danh tướng, gặp thời thế "tạo

nên anh hùng ". Ông là con người bình thường, giản dị như bao người dân quê

khác nhưng phi thường, kì vĩ. Lời thơ kết thành những định đề như chân lí cuộc

sống (vua sáng tôi hiền, thời thế tạo nên anh hùng). Ngôn ngữ có tính triết luận

đó vừa làm nhiệm vụ đề dẫn tạo tâm thế trước khi nghe chuyện, vừa thể hiện thái

độ ngợi ca của dân gian đối với tấm gương trung liệt Phạm Ngũ Lão. Cuối cùng,

tác giả dân gian kết thúc câu chuyện huyền thoại về ông bằng những lời ca ngợi

giản dị. Phạm Ngũ Lão lung linh ngát hương bao nhiêu, bây giờ nền nã, thân thuộc

bấy nhiêu. Ông giống như đóa sen ngát hương đến muôn đời:

Muôn đời còn mãi ngát hương,

Người trai đan sọt bên đường thủa xưa.

Từ trong bùn đất quê mùa,

Đã từng làm gió làm mưa một thời.

[câu 2057 – 2060,44, tr 117]

Đó là bức chân dung mang tầm vóc sử thi.

Thơ lục bát là thể loại do dân gian sáng tạo, vừa có có khả năng kể những

câu chuyện dài, ngắn khác nhau, vừa có năng lực diễn tả tâm lí phức tạp. Vì thế,

truyện thơ bình dân đều chọn thơ lục bát làm phương tiện diễn ngôn. Truyện kể

bằng thơ tuy không tả hay kể tỉ mỉ như văn xuôi song ngôn ngữ tự sự trong thơ đã

đem đến cho lời kể âm hưởng trữ tình mà văn xuôi khó có được. Trong truyện

NômTướng quân Phạm Ngũ Lão, âm hưởng trữ tình đó được tạo nên từ cảm hứng

anh hùng ca về tầm vóc nhân vật, về âm vang thời Đông A và có cả nhạc điệu thơ

lục bát trợ giúp. Những đoạn thơ tả trận chiến giữa quân Đại Việt với quânNguyên

94

- Mông, trong đó có đóng góp của Phạm Ngũ Lão đều thấm đẫm cảm hứng anh

hùng ca. Đoạn thơ (từ câu 1805 đến câu 1842) kể về trận đánh Bạch Đằng của

Hưng Đạo Vương là đoạn như thế. Trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán

Siêu mượn lời bô lão thuật lại trận đánh ác liệt của quân dân nhà Trần:

Đương khi ấy

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân

Chiến lũy Bắc Nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Nếu những câu biền văn giầu hình ảnh tượng trưng miêu tảkhông khí quyết

liệt của chiến thắng Bạch Đằng lịch sử được Học sĩ hàn lâm viện Trương Hán

Siêu (? - 1254) tái hiện trong bài phú làm sống dậy khí thế một thời của dân tộc,

khẳng định bản lĩnh, vai trò con người trước thử thách gian nguy thì Tướng quân

Phạm Ngũ Lão với lợi thế riêng của thơ lục bát đã bám sát thực tế lịch sử kể lại

khá cụ thể diễn biến trận đánh. Lợi dụng nước thủy triều lên, quân ta dưới sự chỉ

huy của Nguyễn Khoái chặn đường rút lui của giặc. Sau nửa giờ giao chiến, quân

Trần rút lui nhử địch vào trận địa cọc nhọn chờ sẵn. Quân Nguyên như "hổ rượt

mồi" đuổi theo đúng lúc "Ngọn triều đang rút lòng sông nông sờ" thì quân Trần

phản công:

Quân ta quay lại bất ngờ,

Đôi bên nổi trống phất cờ giao phong.

Xa xa về mạn cuối sông,

Thuyền Đại vương lại một dòng kéo lên.

Một rừng gươm giáo cung tên,

95

Vây tròn lấy đám quân Nguyên giữa dòng.

Tới lui đôi ngả khó lòng,

Thuyền xô phải cọc chất chồng lên nhau.

Xác thù vùi đáy sông sâu,

Bạch Đằng phút chốc đỏ ngầu máu tươi.

[câu 1823 – 1832,44, tr 105, 106]

Biện pháp sử dụng ngôn ngữ phóng đại vốn được tác giả dân gian sử dụng khi

miêu tả những trận đối đầu địch - ta đã phát huy hiệu quả khi diễn tả sự thất bại thảm

hại của quân thù và tô đậm chiến thắng lẫy lừng của quân ta. Đoạn thơ trên là bản

anh hùng ca ngợi ca chiến thắng Bạch Đằng - một trận đánh dội vang nhất trong lịch

sử trung đại Việt Nam. Có thể nói, với cảm hứng anh hùng ca, truyện thơ Nôm Tướng

quân Phạm Ngũ Lão đã thực hiện sứ mệnh của nó là tôn vinh nhân vật lịch sử Phạm

Ngũ Lão nói riêng, tôn vinh tầm vóc vĩ đại cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên -

Mông của nhà Trần nói chung.

Chất trữ tình của bản kể không chỉ được bộc lộ qua cảm hứng anh hùng mà

còn được làm nên từ nhạc điệu thơ lục bát. Nhạc điệu thơ lục bát được thể hiện

qua cách gieo vần, ngắt nhịp đến lựa chọn từ ngữ và phối hợp thanh điệu. Tìm

hiểu Tướng quân Phạm Ngũ Lão , chúng tôi thấy lời thơ sử dụng luân phiên vần

lưng và vần chân tạo sự gắn kết giữa các dòng thơ. Nhịp thơ được ngắt chủ yếu là

nhịp chẵn. Rất nhiều vế tiểu đối trong dòng bát tạo nên sự cân xứng nhịp nhàng

trong mỗi dòng thơ:

Hồn theo cánh bướm / mình gầy xác ve (câu 1100);

Dứt đường cơm cháo, / ngại bề thuốc thang ( câu 1102);

Hoa thua sắc thắm, / nguyệt mờ kém thanh ( câu 1048).

Song, bản kể cũng có câu thơ phá vỡ nhịp ngắt thông thường trong câu lục

với nhịp lẻ: Càng nghĩ ngợi,/ càng ngổn ngang nhằm tạo sự cân đối cho lời kể.Với

96

lời thơ giàu nhạc điệu, truyện Tướng quân Phạm Ngũ Lão rất dễ thuộc, dễ nhớ,

dễ diễn xướng, tác dụng lưu truyền nhanh hơn. Tác phẩm có thể sử dụng làm câu

chuyện người già kể cho con cháu, làm lời mẹ ru con, lời hát trống quân, hát xẩm

và vận dụng trong các loại hình ca hát dân gian khác.

* Tiểu kết

Với 2074 câu thơ, Tướng quân Phạm Ngũ Lão đã tái hiện cuộc đời và ca

ngợi thiên tài quân sự của tướng quân Phạm Ngũ Lão thể hiện tinh thần yêu nước

của con người Đại Việt. Cùng với truyền thuyết, nó cung cấp cho người nghe

(xưa), người đọc (nay) những thông tin khá toàn diện về cuộc đời, sự nghiệp vị

tài tướng Phạm Ngũ Lão, làm sống lại không khí lịch sử thời đại nhà Trần đồng

thời gửi gắm tâm tư, thái độ của người dân Hưng Yên đối với người con ưu tú của

quê mình nói riêng và sự nghiệp đánh giặc giữ nước nói chung. Đó là những trang

sử được kể lại bằng thơ để người bình dân được sống trọn vẹn với niềm tự hào,

tôn vinh truyền thống vẻ vang của ông cha.

Cốt truyệnTướng quân Phạm Ngũ Lão được xây dựng thành hệ thống lớp

lang, chặt chẽ, bố cục hợp lý mà điểm tựa của nó là những sự kiện trong chính sử

và dư âm truyền thuyết. Chiều sâu tâm lý nhân vật chính tuy chưa được đào sâu

như văn học hiện đại nhưng so với truyền thuyết, với truyện thơ Nôm bình dân

thế kỷ XVIII thì Tướng quân Phạm Ngũ Lão đã có sự tiến bộ vượt trội. Đặc biệt,

tác phẩm có sự kết hợp chặt chẽ giữa tự sự và trữ tình do người bình dân đã phát

huy thế mạnh của thể thơ lục bát. Lối kể chuyện của bản kể khá nhuần nhuyễn bởi

các tác giả dân gian biết sử dụng sự kiện ghi trong chính sử kết hợp đan xen với

chi tiết trong truyền thuyết dân gian, biết phối hợp giữa kể và tả, giữa tự sự và trữ

tình bằng một thứ ngôn ngữ biểu cảm. Dấu ấn mà các nhà nho địa phương để lại

là vốn từ Hán - Việt được sử dụng chuẩn xác, nhuần nhuyễn. Nhuần nhuyễn đến

mức ngày nay người không có vốn Hán học cũng hiểu lối diễn ngôn trong bản kể

cách chúng ta một hoặc hai thế kỷ. Với những đặc trưng thể loại nói trên Tướng

97

quân Phạm Ngũ Lão xứng đáng là một tác phẩm truyện Nôm đặc sắc ở vùng Hưng

Yên.

PHẦN III: KẾT LUẬN

1. Trên đây là sự khảo sát, tìm hiểu của chúng tôi về truyện kể dân gian Phạm

Ngũ Lão ở Hưng Yên. Chúng tôi đã trình bày cơ sở lí luận và tổng quan về đề tài

nghiên cứu, trình bày đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyện kể dân gian Phạm

Ngũ Lão. Dựa trên những cơ sở lí luận và kết luận của những nhà nghiên cứu đi

trước chúng tôi đã phân chia truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão lưu truyền ở vùng

đất Hưng Yên thành hai tiểu loại gồm truyền thuyết và truyện thơ Nôm. Qua thực

tế nghiên cứu truyền thuyết Phạm Ngũ Lão, chúng tôi nhận thấy ở Hưng Yên hiện

nay có 15 bản kể đã được các nhà nghiên cứu sưu tầm. Khi kể về tướng quân Phạm

Ngũ Lão, tác giả dân gian đã phản ánh lịch sử qua việc khắc họa chân dung người

anh hùng làng Phù Ủng đánh giặc lập công, tái hiện thời đại hào khí Đông A rực

lửa, thể hiện tư tưởng thân dân, trọng dụng nhân tài của vương triều Trần trong sự

nghiệp vệ quốc. Đồng thời truyền thuyết Phạm Ngũ Lão đã bộc lộ ý thức lịch sử

của người bình dân là tôn vinh, ngưỡng mộ người anh hùng đánh giặc xuất thân từ

98

nông dân, lí giải mối quan hệ mật thiết giữa chiến thắng vĩ đại của vương triều Trần

với đóng góp của nhân dân. Qua cái nhìn của tác giả dân gian, chính ý chí quyết

tâm và tài đánh giặc của chàng trai làng Phù Ủng đã góp phần làm nên thắng lợi to

lớn ấy. Về đặc điểm nghệ thuật, chúng tôi đã chỉ ra đặc trưng quan trọng của truyền

thuyết Phạm Ngũ Lão ở hai khía cạnh: đó là nghệ thuật sử dụng yếu tố hoang đường

kì ảo một cách hợp lí và nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật lịch sử dựa trên

cốt lõi lịch sử để làm nổi bật sự sáng tạo của người bình dân.

Tìm hiểu truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão từ góc độ thể loại chúng

tôi bước đầu đã làm rõ những đặc điểm nội dung và đặc điểm nghệ thuật của tá

phẩm này. Về nội dung, chúng tôi thấy tác phẩm đã tái hiện cuộc đời người anh

hùng làng Phù Ủng, đã ca ngợi thiên tài quân sự của Phạm Ngũ Lão và thể hiện

tinh thần yêu nước của quân dân nhà Trần. Về nghệ thuật, luận văn đã nêu đặc

điểm nổi bật của bản kể ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện hợp lí và sự kết hợp

chặt chẽ giữa yếu tố tự sự với yếu tố trữ tình. Bên cạnh làm rõ đặc trưng của thể

loại, luận văn còn chỉ ra sự liên hệ giữa truyền thuyết và truyện Nôm kể về Phạm

Ngũ Lão qua điểm giống và khác nhau, chỉ rõ sự sáng tạo của tác giả dân gian khi

so sánh Tướng quân Phạm Ngũ Lão với một số truyện Nôm bình dân khác.

2. Mặc dù truyện kể dân gian Phạm Ngũ Lão được kể theo phương thức tự

sự dân gian, nhưng truyện Nôm Tướng quân Phạm Ngũ Lão và 15 bản kể truyền

thuyết có dung lượng và cách thức diễn xướng khác nhau. Nếu truyền thuyết kể

về nhân vật lịch sử bằng ngôn từ như nói chuyện hàng ngày, nhiều trường hợp

câu chuyện bị ngắt quãng, không liền mạch thì truyện Nôm kể bằng ngôn từ có

vần điệu dưới dạng bằng thơ lục bát dài, liền mạch, hoàn chỉnh hơn. Hai loại diễn

xướng trên cùng hướng tới mục tiêu: khắc họa chân dung một danh tướng nổi

tiếng là Phạm Ngũ Lão theo nhận thức, tình cảm của dân gian. Truyện Nôm dân

gian khẳng định vị trí của Phạm Ngũ Lão trong lịch sử, trong lòng dân đầy đủ hơn

truyền thuyết. Ngôn ngữ bản kể truyện thơ ít nhiều có dấu ấn nghệ thuật sáng tạo

ban đầu lại được bổ sung của người kể sau nên tính nghệ thuật trong ngôn từ của

99

nó tinh lọc hơn ngôn ngữ truyền thuyết. Do đó, truyện kể bằng văn vần sẽ mang

tính toàn diện, có sức lan toả mạnh mẽ, sự hòa nhập rộng khắp vào dòng chảy văn

hóa, văn học dân tộc.

3. Trong ghi chép của chính sử, Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần

có nhiều công trạng to lớn. Trong dã sử, ông được người bình dân lưu truyền qua

các câu chuyện kể. Ông là người tiêu biểu về đức hiếu - trung, về tài - dũng - trí

của người trai thời loạn. Từ con người có thật sinh ra ở làng Phù Ủng, ông đã

được tác giả dân gian khắc họa thành hình tượng đẹp trong truyện Nôm và truyền

thuyết để đáp ứng nhu cầu tinh thần của hậu thế. Do đó, Phạm Ngũ Lão hiện lên

vừa chân thật, gần gũi, vừa thiêng liêng, kì ảo. Để rồi từ mỗi câu chuyện kể, ông

đến với nhân dân dân và sống mãi trong tâm thức của họ.

4. Việc tìm hiểu truyện kể dân gian về Phạm Ngũ Lão từ góc nhìn thể loại,

thực chất là tiếp nối công trình nghiên cứu của những người đi trước nhằm làm rõ

hơn về vẻ đẹp tinh thần của người anh hùng quê Hưng Yên - tướng quân Phạm

Ngũ Lão trên phương diện thể loại văn học dân gian. Ở bất cứ thời đại nào cũng

vậy, cuộc sống con người luôn cần hai điểm tựa là vật chất và tinh thần. Nếu sự

phát triển kinh tế hiện nay tạo nên đời sống vật chất đủ đầy thì việc phát huy các

giá trị văn hóa tinh thần trở nên cần thiết. Biển học là vô bờ nhưng những điều

thu được trong chuyên luận này luôn là bài học bổ ích về sức mạnh tinh thần dân

tộc để người hậu thế tiếp nối, phát huy truyền thống cha ông và giữ gìn bản sắc

văn hóa địa phương, vững tin trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng quê hương

Hưng Yên trở nên giầu đẹp.

5. Từ góc độ của người nghiên cứu là một giáo viên đang trực tiếp đứng

lớp, tôi thấy công trình nghiên cứu thật hữu ích. Trước hết, nhờ công trình này tôi

nắm được nguồn tư liệu bổ ích để làm tài liệu giảng dạy nhất là khi giảng dạy bài

thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và giảng dạy chương trình văn học dân gian

địa phương. Theo đó, tôi muốn đem đến cho học trò không chỉ những hiểu biết về

tướng quân Phạm Ngũ Lão trong góc nhìn của dân gian mà còn khơi dậy nơi các

100

em thái độ tự hào tôn kính đối với bậc tiền nhân.Thứ hai, thông qua công trình

nghiên cứu tôi hi vọng cung cấp thêm tư liệu cho các nhà quản lí văn hóa địa

phương để họ hiểu và có cái nhìn đầy đủ hơn về thân thế, sự nghiệp và tầm vóc

quan trọng của tướng quân Phạm Ngũ Lão. Từ đó, các nhà quản lí sẽ có ý thức

tôn tạo, bảo tồn những giá trị văn hóa liên quan đến nhân vật lịch sử đồng thời

làm tốt hơn công tác giáo dục truyền thống. Luận văn này dù sao mới chỉ là kết

quả bước đầu của một người tập nghiên cứu khoa học nên còn nhiều hạn chế.

Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo, từ

đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đào Duy Anh (1956): Cổ sử Viê ̣t Nam. Tạp san Đại học Sư phạm, HN. 2. Đào Duy Anh (1964): Đất nướ c Viê ̣t Nam qua cá c đờ i. Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

3. Trần Thi ̣ An (2001): “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết

dân gian người Việt”, In trong sách Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Phan Kế Bính (2005): Việt Nam phong tục. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nô ̣i. 5. Phan Kế Bính ((200), Nam Hải dị nhân, Nxb Trẻ, Tp HCM.

6. Nguyễn Huy Bỉnh (2015),Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa xứ

Bắc,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái (1966),Đại Nam quốc sử diễn ca (Đinh Xuân

Lâm, Chu Thiên phiên âm, hiệu đính, chú thích và giới thiệu, Nxb Văn học,

Hà Nô ̣i.

101

8. Nguyễn Ngọc Côn (1968), “Người anh hùng nông dân trong một số truyện

cổ tích lịch sử”,Tạp chí Văn học, số 12.

9. Đoàn Văn Chúc (1997),Văn hoá học. Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nô ̣i. 10. Nguyễn Đổng Chi (1957),Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam,Nxb Văn Sử

Địa, Hà Nội.

11. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I: Dư địa chí,

nhân vật chí. Nxb Sử học, Hà Nô ̣i.

12. Phan Huy Chú(2007),Lịch triều hiến chương loại chí, tập I , NXB Giáo

dục, HN.

13. Dương Trọng Dật ( 2012), Thân dân – tư tưởng rực rỡ đời Trần, Báo Đại

đoàn kết, Số ra ngày 27/ 9/2009.

14. Chu Xuân Diên (2006),Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp luận

và nghiên cứu thể loại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.

15. Chu Xuân Diên (1989),Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học,Trường

Đại học Tổng hợp thành phố HCM.

16. Trần Tuấn Doanh, Hoàng Văn Trị, Vũ Tiến Kỳ, Đào Quang Lâm (sưu tầm

2011), Tướng quân Phạm Ngũ Lão, Nxb Lao động, 2011.

17. Nguyễn Tấn Đắc (2001): Truyện kể dân gian đọc bằ ng type và motif,Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.

18. Cao Huy Đỉnh(1998),Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh

(1998), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nô ̣i.

19. Cao Huy Đỉnh (1974),Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Khoa ho ̣c xã hô ̣i, Hà Nô ̣i.

20. Cao Huy Đỉnh tuyển tập tác phẩm (2004),Nxb Lao động – Trung tâm ngôn

ngữ Đông Tây, Hà Nô ̣i.

21. Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Nghiêm Vạn (1969), Phương

pháp sưu tầm văn học dân gian ở nông thôn, Vụ Văn hoá quần chúng xuất

bản.

102

22. Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1976), Nxb

Khoa học xã hội, HN.

23. Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương - Báo Nhân Dân số ra

ngày 29-9-1969.

24. Nguyễn Thị Bích Hà(2015), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Đại học Sư phạm, HN .

25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Ph(1992), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Giáo dục, HN.

26. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá(1992), Từ

điển văn học, Nxb Thế giới, HN

27. Nguyễn Duy Hinh (1996),Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam,Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nô ̣i.

28. Kiều Thu Hoạch (1983),“Những đặc điểm tư tưởng của truyền thuyết

chống ngoại xâm”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3,4.

29. Kiều Thu Hoạch (2006),Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại.

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.

30. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004): Tổng tập văn học dân gian người Việt,

tập 4(Truyền thuyết), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.

31. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt,

tập 5(Truyền thuyết), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nô ̣i.

32. Kiều Thu Hoạch(2014), Truyện Nôm bình dân, Quyển 3, Nxb Khoa học

xã hội, HN.

33. Kiều Thu Hoạch(2011),, Truyện Nôm lịch sử hình thành và bản chất thể

loại, Nxb Văn hóa - Thông tin, HN.

34. Nguyễn Văn Hoài, Thi pháp truyện thơ Nôm tài tử giai nhân và một số tiểu

loại truyện Nôm khác nhìn từ góc độ nhân vật, cốt truyện, Tạp chí Nghiên

cứu văn học số 4 (518) tháng 4 năm 2015, Viện văn học - Viện hàn lâm

khoa học xã hội Việt Nam.

103

35. Phạm Đình Hổ(2011),, Vũ trung tùy bút, Nxb Văn học, HN.

36. Đỗ Đức Hùng(2000), Danh tướng Việt Nam, Nxb Thanh niên, HN.

37. Lê Văn Hưu và các sử thần (2000), Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Văn hóa

- Thông tin, HN.

38. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên(2000), Văn học dân gian, Tập I, Nxb

Đại học và trung học chuyên nghiệp, HN.

39. Hoàng Cao Khải, (2007): Việt sử yếu. Nxb Nghệ An.

40. Vũ Ngọc Khánh(2007), Võ tướng Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, HN.

41. Vũ Tiến Kỳ ( Sưu tầm 2008), Truyện cổ dân gian Hưng Yên, Nxb Văn

hóa – Thông tin , Hà Nội

42. M.Bakhtin(1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn

Du xuất bản, Hà Nội.

43. Nguyễn Thị Ngà( 2008), Truyền thuyết và lễ hội Phạm Ngũ Lão ở Phù

Ủng – Ân Thi – Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ, Thư viện trường Đại học sư

phạm Hà Nội

44. Nhiều tác giả(2008), Tướng quân Phạm Ngũ Lão và lễ hội đền Phù Ủng,

Nxb Văn hóa - Thông tin.

45. Lê Trường Phát (2000),Thi pháp văn học dân gian,Nxb Giáo dục, Hà Nô ̣i. 46. Lê Chí Quế (chủ biên, 1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học và

Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nô ̣i.

47. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990),Lĩnh Nam chích quái. Nxb Văn học, Hà Nô ̣i. 48. Sở Văn hóa - Thông tin Hải Dương (2000), Truyện dân gian Hải Dương.

49. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam,Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nô ̣i.

50. Bùi Quang Thanh (1981), “Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh

hùng”,Tạp chí Văn học, số 3.

51. Bùi Quang Thanh (1982), “Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng

Việt”,Tạp chí Văn học, số 2.

104

52. Lã Nhâm Thìn(2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ

góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.

53. Bùi Thế Truyền( 2014), Dòng chảy kì ảo trong tiến trình văn học, Tạp chí

Văn nghệ quân đội số ra ngày 20 tháng 11 năm 2014.

54. Tạ Chí Đại Trường (2006),Thần người và đất Việt, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

55. Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Hữu Sơn, Phan Thị Đào, Võ Quang Trọng (sưu

tầm và giới thiệu 2009), Một vài vấn đề về văn học dân gian, Nxb Văn hóa

dân tộc, HN.

56. Tuyển tập V.Ia.Propp (2003), Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ

thuật.

57. UBND huyện Phù Cừ(2002), Tống Trân - Cúc Hoa, Sở Văn hoá - Thông

tin Hưng Yên ấn hành.

58. Tầm Vu (1967), “Tư tưởng chủ yếu của người Việt thời cổ qua những truyện

đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết”,Tạp chí Văn học, số 3.

59. Vũ Ngo ̣c Phan(2009), Tá c phẩm được giả i thưởng Hồ Chí Minh,Nxb

Khoa ho ̣c xã hô ̣i, Hà Nô ̣i.

60. Lý Tế Xuyên(1992), Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch, Nxb Cửu Long.

105

PHỤ LỤC

TRUYỀN THUYẾT PHẠM NGŨ LÃO

1. PHẠM NGŨ LÃO

“Ông Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, lúc còn hàn

vi thường ngồi xếp bằng tròn ở bên đường cái quan, chẻ tre đan sọt. Chợt khi ấy,

Hưng Đạo Vương kéo quân từ Vạn Kiếp về kinh. Quân tiên phong thét ông đứng

dậy, ông cứ ngồi xếp bằng tròn mà đan, hình như không nghe thấy gì. Quân lính

lấy giáo đâm vào đùi, ngọn giáo mắc vào đấy không rút ra được, nhưng ông vẫn

cứ ngồi yên. Khi võng Hưng Đạo Vương đến , Vương mới hỏi:

- Đùi nhà ngươi bị đâm như thế, sao không biết đau mà lại cứ ngồi đấy?

Ông thưa rằng:

- Tôi đương nghĩ mấy câu trong “Binh thư”, nên không nghe thấy gì cả.

Vương bèn dừng võng lại, thử hỏi binh cơ mưu lược, thì ông ứng đối trôi

chảy. Vương lấy làm lạ, cho nên xe đưa về, rồi gả con gái nuôi cho. Sau, Phạm

Ngũ Lão đi tòng quân đánh giặc Nguyên, có công, thăng lên coi quân cấm vệ.

Những kẻ vệ sĩ thấy ông là kẻ hàn vi mới hiển đạt thì lấy làm khinh, liền xin cùng

ông đấu võ. Ông cáo về nhà nghỉ vài tháng, cứ ngày ngày ra cái gò cao ở làng bên

cạnh tập nhảy, nhảy đến nỗi sạt cả góc gò. Hết hạn nghỉ rồi, ông vào triều, đấu

với các vệ sĩ. Bọn vệ sĩ 5, 6 người quần lại đấu với ông. Ông tay đấm chân đá,

nhẹ nhàng như bay. Chúng đều bị thương cả, mới xin bó tay chịu thua. Về sau,

nước Ai Lao (Lào) vào ăn cướp, đem voi bày trận xông vào, không ai chống được.

Ông được lệnh đem quân đi đánh. Ông sai chặt gốc tre vạt nhọn, dài độ vài thước,

chất cả bên đường, rồi vẫy cho quan quân lui lại, một mình xông vào đánh nhau

với giặc. Giặc thả voi ra đuổi. ông cứ xông vào lấy những đoạn tre ở bên đường

đâm vào móng chân voi. Voi đau phải lui. Trận giặc đại loạn. Quan quân xông

vào đánh vỡ tan. Ấy đều là những dật sử của ông mà không thấy chép ở trong sử.

Nay đền thờ ông ở phía Tây làng Phù Ủng, trông xuống sông. Có hai bà

công chúa được phối hưởng. Một bà là con gái nuôi Hưng Đạo Vương lấy ông

106

khi trước; một bà là con gái ông, hiệu là Tĩnh Phi, triều nhà Trần. Người đời truyền

rằng đền thờ ông làm ngay trên nền nhà cũ của ông, nguyên ngoảnh về hướng tây,

trông xuống ao, ở giữa ao có cái kim ấn nổi trên mặt nước, độ ngoài nửa dặm thì

có cái giáo dài làm hộ vệ. Sông Phù Ủng là hổ thuỷ nghịch triều,các nhà phong

thuỷ đều khen là nơi dương trạch tốt.

Đời Lê, khi mới dẹp yên giặc Cao Bằng, trong làng Phù Ủng có một quan

văn thần tên là Võ Vinh Tiến, tuổi còn trẻ đã làm nên khoa hoạn, cầm trọng binh

đốc trấn ở Cao Bằng. Những người kỳ lão ở trong làng đều ghen ghét, việc gì

cũng đè nén không cho dự. Mỗi khi làng vào đám, có lệ ăn uống thì mọi người

đều thoái thác, không muốn ngồi cùng chiếu với Võ Công. Võ Công sai đem một

trăm lạng bạc và trâu, gạo tạ lỗi. Chúng khước đi không nhận, bắt phải thân về tận

nơi. Võ Công dắt trâu, đem bạc về, luồn lọt cho được thoả lòng. Được ít lâu, cái

hiềm khích cũ đã quên dần, ông mới bàn với dân xoay miếu thần về hướng bắc,

xong đâu đấy, lập đàn chiêu hồi, rồi nhảy xuống sông mà thề rằng:

- Làng này đã coi khinh khoa hoạn thì về sau không nên có nữa.

Từ khi Võ Công mất, học trò trong làng không có mấy người đỗ đạt được

nữa. Làng mới hối hận về chỗ xử tệ với ông quá. Khoảng năm Bính Ngọ, Đinh

Mùi (1726-1727) lại xoay miếu thần về hướng tây như cũ, nhưng trong làng bị

dịch tai hại, dân không được yên, đành lại phải để về hướng bắc.

Ôi! thói chất phác đời cổ đã tàn dần, phong tục càng ngày càng kiêu bạc.

Có kẻ đi chu du rách nát cả áo khi trở về nhà, vợ với chị dâu cũng khinh. Có kẻ

gánh củi vừa đi vừa học mà bị làng xóm chê cười. Đến khi đã đeo tướng ấn sáu

nước, cưỡi xe quan Thái Thú nghênh ngang thì những kẻ khinh bạc giễu cợt khi

xưa mới lại đón rước kính trọng. Xem như bài “Chú Cẩm đường ký” của Âu

Dương đã nói, thì người đời xưa đã có cách xử về việc ấy; việc gì phải thề nguyền

nhỏ mọn để chia lỗi với kẻ hẹp hòi ấy!

[Theo Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ, 31, tr82-84].

2. TRUYỆN PHẠM NGŨ LÃO

107

Phạm Ngũ Lão là người học trò ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh

Hải Dương (bây giờ thuộc huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên), có sức khoẻ lạ thường,

muôn người không địch nổi.

Phạm Ngũ Lão mặt mũi khôi ngô, đủ cả văn võ tài lược. Nhà vốn chỉ có

nghề làm ruộng, đến Phạm Ngũ Lão mới theo nghề học nho. Mới 20 tuổi đã có

tính khảng khái. Trong làng có người tên là Bùi Công Tiến (đỗ Tiến sĩ ăn mừng)

cả làng kéo đến mừng rỡ, chỉ Ngũ Lão không thèm đến.

Bà mẹ Ngũ Lão bèn bảo rằng:

- Con làm thế nào bằng người ta thì làm. Nay người ta ăn mừng, cả làng

mừng cả, sao con không đến.

Phạm Ngũ Lão thưa rằng:

- Thưa mẹ, con chưa làm nên gì để vui lòng mẹ, mà con đi mừng người ta,

thì con lấy làm nhục lắm.Ta đừng đến nữa mẹ ạ!

Ba ngày liên tiếp, túp lều của mẹ con Phạm Ngũ Lão vẫn hàng ngày hai lần

toả khói.

Ngũ Lão tính hay ngâm thơ, thường ngâm một bài rằng:

“Ngọn giáo non sông chỉ mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”

Nhà ở cạnh đường cái, một hôm Ngũ Lão ngồi vệ đường vót tre đan sọt,

Trần Hưng Đạo từ trại Văn An vào kinh. Đội tiền vệ dẹp đường do Trần Quốc

Tảng đi trước, thấy ngáng đường, bèn lấy giáo đâm vào đùi. Ngũ Lão vấn ngồi

điềm nhiên như không. Hưng Đạo Vương đến, thấy lạ, bèn hỏi binh thư thấy ứng

đối trôi chảy. Vương sai quân lính lấy thuốc rịt vào vết đâm, rồi cho ngồi xe đem

về kinh, dâng lên vua Thánh Tôn.

Vua thấy người có sức khoẻ, lại có học thức, cho vào làm quản vệ sĩ. Các

vệ sĩ không chịu xin đấu sức. Ngũ Lão xin vâng, xin về nhà thu xếp ba tháng rồi

108

sẽ xin đấu sức và nhận chức luôn thể. Vua cho về. Ngũ Lão về nhà ra ngoài đồng,

tìm chỗ gò cao mà tập nhảy, cứ cách mười trượng chạy đến nhảy vót qua gò. Tập

luyện thành rồi, vào kinh đấu sức. Khi đấu quyền với các vệ sĩ thì không ai địch

nổi, rồi Ngũ Lão thách cả các vệ sĩ cùng ra đấu. Một mình địch nổi hàng trăm

hàng nghìn người. Thời ấy, có Yết Kiêu không phục lại xin cùng đấu nhưng cũng

bị thua Ngũ Lão. Các vệ sĩ phục. Vua thấy người kiêu dũng phong tước, cho theo

Hưng Đạo Vương. Có nhiều chến công chống Mông Nguyên, Chiêm Thành, Ai

Lao. Được phong Điện tiền nguyên suý. Khi mất, nhân dân lập đền thờ.

Ngũ Lão nguyên là bộ tướng của Hưng Đạo Vương, cho nên các đền thờ

Hưng Đạo Vương, cũng có thờ Ngũ Lão nữa.

Tục lại truyền khi Ngũ Lão hàn vi, xin với mẹ đi tìm kế lập công danh, ở

trong nước chưa có dịp mới sang ở chăn voi cho vua Ai Lao. Ngũ Lão cầm một

lá cờ đỏ dạy voi, hễ phất cờ thì voi phải quỳ xuống hết. Đến khi nghe tin giặc

Mông Nguyên sang xâm lược, theo Hưng Đạo Vương lập nhiều chiến công. Sau

này, nhờ cách chăn voi xưa mà phá được quân Ai Lao.

[Theo Nam Hải dị nhân - Phan Kế Bính; 31, tr 138 – 140].

3. NÓI VỀ SỰ TÍCH ÔNG PHẠM NGŨ LÃO.

Đời vua Nhân Tông nhà Trần, ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hải

Dương, có một người học trò nghèo, tính khí khái và có hiếu với cha mẹ. Nhân

làng có ông Bùi Công Tiến đỗ Tiến sĩ khao làng ba ngày, nhưng Ngũ Lão không

đến. Ông Bùi Công Tiến bèn gọi đến, trách rằng:

- “Sao ngươi còn bé mà khinh bạc thế?”

Người ấy nói rằng:

- Chữ rằng: “Lão ông bách tuế, bất như phượng hoàng sơ sinh” (nghĩa là:

con quạ trăm tuổi, không bằng con phượng hoàng mới sinh).

Rồi về nói với mẹ:

- Thưa mẹ ở nhà, để con đi tìm kế lập công danh.

109

Từ đó, người ấy mới sang ở với chúa nước Ai Lao, đi chăn đàn voi. Khi đi

chăn voi, người ấy lập mẹo may một chiếc áo đỏ, rồi giấu một chỗ. Lúc đem voi

đi chăn, thời mặc áo với cầm cờ, dạy những con voi phải trông theo hiệu. Hễ thấy

lá cờ phất xuống, thời đều nằm phục cắm ngà, chổng đít lên. Lá cờ phất lên, thời

đều đứng dậy.

Người ấy ở đó hai năm, dạy những con voi đều thuộc phép cả.

Chợt nghe thấy tin có giặc Ô Mã Nhi sang cướp nước Nam, Phạm Ngũ Lão

mới trốn về, đi theo ông Hưng Đạo Vương, lập nhiều chiến công, đánh dẹp nhiều

nơi, được Vương thương yêu và gả con gái nuôi, mới xin vua phong chức cho làm

quan Thánh dực quân.

Đến khi cùng vua đi đánh Ai Lao, ông bèn cầm cờ đỏ, mặc áo đỏ, phất cờ

voi đều răm rắp làm theo, quì phục, nhờ vậy bắt được chúa Ai Lao. Từ đấy, nước

Ai Lao mới chịu hàng phục triều cống nước An Nam.

Sau ông mất, vua phong cho làm “Minh giác thái vương” nghĩa là: vua lớn

sáng biết. Cho làng ông ấy tiền bạc để lập đền thờ, trải nhiều đời vẫn còn anh linh.

[Sử Nam chí dị - Trần Gia Du sưu tầm, biên soạn].

Bản khác: Phạm Ngũ Lão.

Ngày 20 -8 năm Canh Tý thứ 8, Trần Hưng Đạo đại vương mất. Vương

cùng với Trần Thời Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ

Thường, Nguyễn Thế Trực xuất thân từ môn khách, lấy văn chương chính sự nổi

danh ở đời.

Vương có khóc Hưng Đạo Vương một bài thơ:

“ Trường lạc chung thanh hướng nhất truỳ

Thu phong tan tác bất thăng bi

Cửu trùng minh giám kim dĩ hỹ

Vạn lý trường thành thục hoại chi

Vũ ám trường giang không lệ huyết

Vân đê phức đạo toả sầu mi

110

Ngưỡng quan khuê tảo từ phi dật

Ngư thuỷ tình thâm kiến vịnh thi”.

Dịch thơ:

“ Trường lạc chiêng ngân một tiếng rung

Gió thu tan tác xiết bao buồn

Cửu trùng gương sáng còn đâu nữa

Vạn Lý trường thành há đổ luôn

Mưa thâm Trường Giang tuôn lệ huyết

Mây sà đường lớn đẫm mi buồn

Ngẩng trông văn đẹp lời hay tuyệt

Cá nước tình sâu mãi mãi còn”.

4. CON ĐẺ CON NUÔI

Trong đền Kiếp Bạc ở hậu cung phía bên phải là tượng Anh Nguyên quận

chúa, vợ của tướng quân Phạm Ngũ Lão, con gái nuôi của Trần Hưng Đạo. Truyền

thuyết kể: Nàng là con gái của Đại Vương, được cha yêu quý nhất nhưng phải

giáng xuống làm con nuôi. Câu chuyện bắt đầu từ chàng trai làng Phù Ủng.

Trong một lần hành quân qua đất Phù Ủng, tiền quân của Hưng Đạo Vương

gặp một chàng trai ngồi đan sọt. Tiếng trống thúc, tiếng quân reo mà chàng không

biết, vẫn ngồi mải mê đan sọt ở giữa đường. Quân lính đến nơi đuổi, nhưng vẫn

ngồi làm việc. Một người lính lấy giáo đâm vào đùi mà chàng không hay. Người

lính quát mắng, chàng mới ngẩng lên nói: Đang mải suy nghĩ nên không biết.

Người lính bảo: giáo đâm vào đùi sao không rút ra; thì chàng đáp: Ai đâm vào thì

người ấy rút. Toán tiền binh thấy lạ vội chạy lại bẩm với Đại vương. Đại vương

Trần Quốc Tuấn lên đến nơi, nhìn tướng mạo của chàng trai đan sọt thấy khôi ngô

điềm tĩnh, Đại Vương hỏi:

- Sao thấy đại quân đi lại mà không tránh đường?

Phạm Ngũ Lão vái chào và thưa:

- Kẻ bầy tôi này vì mải suy nghĩ nên mắc tội.

111

Thấy sự lạ Đại Vương truyền rút giáo dịt thuốc và cho quân lùi ra hết. Khi

còn hai người, Đại Vương gặng hỏi:

- Chàng suy nghĩ điều gì?

Phạm Ngũ Lão thưa:

- Giặc Mông Nguyên lại lăm le đánh nước ta, tôi suy nghĩ việc nước.

Đại Vương vẻ vui mừng. Ông truyền cho chàng nhập vào đoàn quân.

Về tới Kiếp Bạc, Đại Vương hỏi chàng về binh thư, binh pháp; hỏi đâu

chàng biết đấy, trả lời sâu sắc, rành rẽ. Hỏi về kinh sách chàng trả lời làu thông.

Từ hôm ấy, chàng được giữ lại trong phủ đệ làm môn khách.

Trong một khoa thi chàng đỗ cao được phong tướng, chỉ huy đội Cấm Vệ.

Trong cuộc kháng chiến Mông Nguyên lần 2, chàng được giao trọng trách

chuẩn bị và chỉ huy mũi chủ công cho trận Vạn Kiếp, trận đánh lớn nhất (tập kích

cắt cầu phao trên đường rút của địch).

Chàng được Hưng Đạo Vương tin tưởng và yêu mến. Đã từ lâu, Đại

Vương muốn gả con yêu Anh Nguyên Quận chúa của mình cho chàng. Nhưng

hiềm một nỗi, nhà Trần chỉ được gả con trong dòng tộc không được lấy người

khác họ. Ý nghĩ ấy làm cho ông băn khoăn mãi.

Tới một hôm, ông gọi Quận chúa lên hỏi về chuyện riêng tư của con. Qua

chuyện trò ông biết chắc con gái mình đã yêu tướng quân trẻ ấy rồi. Ông nói:

- Quyền ban quốc tính (đổi sang họ Trần cho Phạm Ngũ Lão) là quyền của

Đức vua. Cha chỉ có quyền giáng con từ con đẻ xuống làm con nuôi, con có thuận

ý không?

Quận chúa nhìn cha đầy vẻ biết ơn rồi cúi đầu im lặng.

Mấy ngày sau lễ cưới của Phạm Ngũ Lão và Quận chúa được tiến hành.

Dân gian có câu: “Con đẻ là con nuôi, con nuôi là con đẻ” từ đấy.

[Truyền thuyết dân gian Hải Dương ]

5. PHẠM NGŨ LÃO VỚI MINH HIẾN VƯƠNG.

112

Tháng 5 năm Nhâm Tí (1312) vua Trần Anh Tông cất quân đi đánh Chiêm

Thành. Cùng đi có tướng quân Phạm Ngũ Lão và Minh Hiến Vương (huý là Uất,

con út của vua Trần Thái Tông). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ quyển 6 tờ

28b) có ghi lại một mẩu chuyện về mối quan hệ giữa Phạm Ngũ Lão với Minh

Hiến Vương trong chuyến nam chinh này:

“Ngày vua đóng ở Câu Chiêm, Minh Hiến Vương ở trong doanh trại bàn tán,

làm mê hoặc lòng quân lính. Vua giận đuổi ra khỏi dinh lại còn lệnh cho các dinh

không được thu nhận. Minh Hiến Vương bèn cùng vài chục gia đồng ra ngủ ở ngoài

đồng nội. Phạm Ngũ Lão nghe tin ấy, vội mời vào trong quân và nói với mọi người

rằng: Thánh thượng vừa qưở trách ân chúa và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt được

thì chúng rêu rao là bắt được hoàng tử, chứ có biết đâu là (hoàng tử) bị Vua qưở

trách (và đuổi đi). Ngũ Lão này thà chịu tội trái mệnh chứ không nỡ làm lợi cho

giặc. Vua nghe biết cũng không nỡ trách ông.

Minh Hiến với Ngũ Lão, tình nghĩa thì rất sâu nhưng lễ ý thì sơ sài. Minh

Hiến đến nhà Ngũ Lão, thường cùng ngồi với nhau một chiếu, khi về, (Ngũ Lão)

lại đem biếu vàng bạc, (Minh Hiến ) cần gì, Ngũ Lão cũng không hề tiếc nuối dè

xẻn, cho nên, Minh Hiến thích chơi với ông.

Vua có lần trách Ngũ Lão rằng, Minh Hiến là hoàng tử, sao nhà ngươi lại

khinh suất thế. Sau, Minh Hiến lại đến nhà, Ngũ Lão vẫn cùng ngồi như xưa, chỉ

nói rằng: ân chúa chớ đến nhà tôi nữa, kẻo Thánh thượng lại trách tôi. Nhưng

Minh Hiến vẫn lui tới thường xuyên mà Ngũ Lão cũng không đổi nết cũ. Ấy là vì

một người thì cậy của ,mà giữ lễ tiết sơ sài, một người thì ham của mà quên mất

cả phận trên dưới.

Lời bàn: Cứu Minh Hiến Vương ở Câu Chiêm, Phạm Ngũ Lão đã bộc lộ

một tầm nhìn có lẽ còn sâu sắc hơn cả vua Trần. Nhưng, mối thâm giao giữa Phạm

Ngũ Lão với Minh Hiến Vương tốt xấu ra sao, thiết nghĩ, lời bàn của sử cũ xác

đáng lắm rồi. Hoá ra giữ lễ với khách xa lạ vậy mà dễ, giữ lễ với người thân cận

113

lại khó vô cùng. Đấy là thói thường,nhưng đấy cũng là điều đáng suy nghĩ lắm

thay!

[Việt sử giai thoại - Nguyễn Khắc Thuần; 71 giai thoại thời Trần. NXB Giáo dục].

6. PHẠM NGŨ LÃO LUYỆN TẬP

Từ hôm có tin triều đình mở khoa thi võ để chọn người cầm quân cấm vệ

được truyền đi trong quân sĩ, sân trường Giảng Võ ngày đêm rầm rập bóng người

luyện tập. Riêng Phạm Ngũ Lão lại đến gặp Hưng Đạo Vương xin phép được về

quê để sửa soạn dự thi võ của triều đình. Biết Phạm Ngũ Lão là người tài trí hơn

người, Hưng Đạo Vương liền cấp cho tiền gạo và ngựa về quê và hẹn ngày trở lại

dự thi. Từ ngày Phạm Ngũ Lão cưỡi ngựa về, làng Phù Ủng bừng lên một niềm

kiêu hãnh. Dân làng rủ nhau đem tiền gạo giúp Phạm Ngũ Lão ăn để tập. Ai nấy

cho con em nô nức theo bước Phạm Ngũ Lão rèn luyện để phò vua giúp nước.

Sáng sớm tinh mơ cho đến khuya, trên bãi cỏ ven làng không mấy lúc vắng

mặt Phạm Ngũ Lão. Từ môn cưỡi ngựa bắn cung đến côn, quyền, roi, kiếm; Phạm

Ngũ Lão đều thành thạo điêu luyện. Chỉ còn môn cắp giáo nhảy qua tường hào,

Phạm Ngũ Lão luyện mãi vẫn chưa vừa lòng. Mấy hôm sau, được các bạn trẻ giúp

sức, Phạm Ngũ Lão đắp một cái gò đất ở ven làng để tập nhảy. Riêng việc đắp gò

cũng là dịp để Phạm Ngũ Lão tập mang nặng. Cứ ba sọt đất đầy ăm ắp, Phạm Ngũ

Lão nhấc bổng lên vai bước thoăn thoắt từ thùng đấu lên đỉnh gò, trong lúc các bạn

khác, người khoẻ nhất, chỉ mang được hai sọt. Vài ngày sau, một gò đất lớn đã nổi

lên lù lù ở ven làng. Ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm, Phạm Ngũ Lão đã có mặt ở

chân gò, từ từ chạy lên đỉnh rồi lại nhảy xuống, hoặc chống sào, nhảy qua gò. Sau

mấy ngày luyện tập, Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Nhưng

không thể dừng lại ở đây được, Phạm Ngũ Lão quyết vượt xa hơn nữa. Phạm Ngũ

Lão mặc quần dài, rồi cho đất vào ống quần, buộc túm lại để tập nhảy. Trong mấy

ngày đầu, đôi chân của Phạm Ngũ Lão như bị cắm chặt xuống đất. Thật khó khăn

mới nhấc bổng được đôi chân. Mồ hôi ướt đầm, chân tay rã rời… Nhưng dần dần

114

Phạm Ngũ Lão đã nhảy qua gò một cách dễ dàng. Bức tường thành sừng sững trong

sân trường Giảng Võ không có gì đáng sợ với Phạm Ngũ Lão nữa.

Và ngày thi đã tới. Dân làng bảo nhau đem xôi, rượu, thịt đến tiễn chân

chàng lên đường. Ngũ Lão từ biệt mẹ già và dân làng, rồi hăm hở lên đường trẩy

kinh dự thi.

Ngày nay, ở đầu làng Phù Ủng vẫn còn nhiều mô đất nổi lên, tương truyền

là nơi ngày xưa Ngũ Lão tập luyện: mô Đai, mô Thần đồng, mô Đồng hến, Mô

Đa đầu….[44]

7. PHẠM NGŨ LÃO BẮN ĐỨT DẢI CỜ.

Một lần, gia thần của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô đang tập bắn ở

sân trường Giảng Võ thì Phạm Ngũ Lão đi ngang qua. (Ngũ Lão lúc này lên kinh

đô đi làm gửi tiền về nuôi mẹ). Thấy vậy, chàng bèn xin Nguyễn Địa Lô cho mình

bắn thử. Địa Lô nghĩ rằng: loại cung này người thường không nâng nổi, nhưng nể

tình, cứ đưa cho Ngũ Lão thử. Chàng trai trẻ nâng cây cung, bằng một động tác

nhẹ nhàng và điêu luyện, Phạm Ngũ Lão giương cung, hướng mũi tên vào mục

tiêu cắm sẵn phía trước. Nguyễn Địa Lô hết sức ngạc nhiên. Trong khi đó, Phạm

Ngũ Lão lại quay mũi tên về hướng ngọn cờ đại đương bay phấp phới trên đỉnh

cột và nói:

- Không bắn mục tiêu cắm sẵn, tôi bắn dải cờ đang bay.

Vừa dứt lời, Phạm Ngũ Lão buông dây cung. Mũi tên rẽ gió vun vút lao đi.

Dải cờ đứt đôi. Địa Lô thấy chàng trai có tài bèn đưa vào ra mắt chủ tướng. Nhưng

nhiều người ghen ghét buộc tội dám bắn vào cờ của triều đình. Thấy chàng trẻ

tuổi nên họ tha tội cho và đuổi về bản quán. [44]

8. ANH NGUYÊN QUẬN CHÚA

Cả nước quyết tâm diệt giặc. Duy chỉ còn đội quân cấm vệ chưa tìm được

người tài năng để giao phó. Hưng Đạo Vương đi đi lại lại dọc hành lang, đứng

nhìn về phía cửa Đoan môn. Từ lâu, Đại Vương đã chú ý đến Phạm Ngũ Lão,

115

người trai nghèo làng Phù Ủng, có tài chí hơn người, song không thuộc dòng dõi

lệnh tộc.

Trong cái lặng lẽ của một đêm kinh thành, tiếng ngâm thơ của quận chúa

Anh Nguyên, con gái nuôi của Vương, từ phòng bên đưa lại nghe rõ ràng. Đại

Vương chú ý lắng nghe. Tiếng ngâm thơ trong trẻo trong thư phòng:

“Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Nghe hết bài thơ, vương rất đỗi ngạc nhiên về lời thơ trong trẻo, lưu loát,

khí phách như vậy. Bèn nhẩm lại hai câu cuối: ‘Nam nhi vị liễu công danh trái –

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.

Hưng Đạo Vương đi về phía thư phòng con. Anh Nguyên quận chúa vội

rời án thư, cúi đầu cung kính:

- Thưa vương phụ, đêm đã khuya, vương phụ còn chưa đi nghỉ.?

Đại Vương hỏi:

- Ta vừa nghe con ngâm bài thơ lạ. Thơ của ai vậy?

Anh Nguyên quận chúa, nhìn cha dè dặt:

- Thưa vương phụ, con nghe đâu bài thơ này của một người dưới quyền của

vương phụ tên là Phạm Ngũ Lão.

Hưng Đạo Vương gật đầu. Một niềm vui thầm kín thoáng hiện trên khuôn

mặt của vị Quốc công. Vương lại càng hài lòng thấy mình không nhầm khi tiến

cử người con trai có tài văn võ này. Từ lâu, vương đã có ý chọn Phạm Ngũ Lão

làm con rể. Lúc này nghĩ đến tương lai hạnh phúc của con gái yêu, vương thấy

vui vui. Nhưng nước nhà hữu sự, mọi việc riêng tư xếp lại. Hưng Đạo Vương nói

với con:

- Ngoài Phạm Ngũ Lão ra, khó có ai làm được bài thơ lập chí như vậy.

116

Anh Nguyên quận chúa lúng túng, e lệ khi nghe cha khen ngợi và nhắc đến

tên Phạm Ngũ Lão.[44]

9. MẸ NUÔI PHẠM NGŨ LÃO.

Rồi một hôm, sau buổi tập luyện, Hưng Đạo Vương truyền cho Phạm Ngũ

Lão được lệnh về quê thăm nhà và trở lại kinh thành để điều quân đi trấn giữ vùng

ải Bắc.

Trời về chiều, người nữ tỳ của Anh Nguyên quận chúa đem lại cho chàng

một phong thư và một gói nhỏ. Ngũ Lão mở ra xem. Quận chúa gửi lụa về biếu

mẹ già.

Phạm Ngũ Lão vội vã phi ngựa về quê. Sẩm tối đến nhà. Một người nho

nhỏ đang nằm trên chiếc chõng, vội và đứng dậy, cầm đèn soi. Phạm Ngũ Lão

mừng rỡ, reo lên:

- Mẹ! Mẹ!

Bà mẹ mững rỡ, luống cuống, song vẫn hỏi:

- Sao lại về hở con?

- Thưa mẹ, con về thăm mẹ.

Bà mẹ nén thở dài. Phạm Ngũ Lão thấy mẹ lo lắng, bèn hỏi:

- Nhà có chuyện gì, mẹ?

Xóm làng vẫn bình an. Song vận nước đang nguy; hay con lo lắng vì mẹ

già yếu mà ngã lòng. Nếu vậy, thà mẹ chết đi, để con khỏi lỡ việc quân cơ.

Nói xong, bà mẹ toan dùng giải yếm để buộc cổ tự tử.

Thấy vậy, Phạm Ngũ Lão hoảng hốt vô cùng. Chàng van xin mẹ hãy yên

lòng, trao cho mẹ gói quà. Rồi ngay đêm hôm đó, Ngũ Lão từ giã mẹ để có mặt ở

Thăng Long từ lúc trời chưa sáng.[44]

10. ĐÁNH GIẶC PHẠM NHAN

Năm Nhân Tôn niên hiệu Thiệu Bảo Giáp thân thứ 6 (1284), nhà Nguyên

sai thái tử Trấn Nam Vương Thoát Hoan, Bình Chương Ô Mã Nhi… lãnh binh 50

117

vạn quân giả đò mượn đường đánh Chiêm Thành, chia làm các đạo vào cứơp phá.

Rồi lại cử Nguyên soái Toa Đô đem 50 vạn binh từ Vân Nam cướp đường thẳng

tới Châu Ô Lý (đất Chiêm Thành) cướp bóc ở quanh châu Hoan (Nghệ An), châu

Ái (Thanh Hoá), tiến quân đóng ở Tây Kết, Hưng Đạo Vương lấy tư cách Quốc

công thống lĩnh quân cả nước, chọn tướng hiệu. Có vị tướng tài thì cắt đặt thống

lĩnh cơ binh. Phàm xuất quân thì cảnh tả có Hưng Nhượng vương Quốc Tảng,

cánh hữu là Phạm vương.

Khi đó quân giặc thế mạnh uy bức nhị đế (Nhân Tôn, Thánh Tôn), lướt

thuyền chạy về đông may gặp Hưng Đạo Vương, Hưng Vũ Vương cùng nối tiếp

nhau đến nghênh giá. Một lát chợt nghe trên sông cất cao lời tấu:

- Thần đi chặn hậu đường giặc, chém được đầu hai tướng giặc, dám xin

dâng báo công thắng trận. (Đế) nhìn ra thấy vương còn đương trên mình ngựa,

cầm ngang giáo dài treo đầu 2 tướng giặc. Lại tâu rằng: “Quân giặc lại tiến đuổi,

may được Hưng Nhượng Vương cùng với thần xông tới giết quá nửa quân số,

xin quân phụ đừng sợ”. Nhị đế khen ngợi mãi không thôi.

Ô Mã Nhi mỗi lần tiếp chiến với vương đều không địch nổi rồi lại bị các

đạo quân tiến đánh, quân giặc tan vỡ. Thoát Hoan theo Lô Giang chạy trốn. Nhị

đế chạy đuổi đến Đại Mang rồi đánh bại giặc ở Tây Kết, chém Toa Đô lấy thủ

cấp. Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền lẻ chạy thoát ra biển. Xa giá trở về kinh

đô.

Năm Đinh Hợi, niên hiệu Trùng Hưng thứ 3 (1287), quân Nguyên sai bọn

Bình Chương Ô Mã Nhi lại đem 50 vạn quân xâm lược phương Nam cùng với

Trấn Nam Vương Tiết chế có Nguyễn Bá Linh, cha là người Bắc quốc (Tàu), mẹ

là người Đông Triều Nguyễn Thị Nông nằm mộng thấy cùng với giao long giao

hợp sinh ra Linh, mặt non răng trắng, lồi lên tròng mắt màu vàng. Mã Nhi lại đến

đánh, Bá Linh nguyện làm tiên phong (cho giặc), tay cầm linh côn, xông vào

đánh như hổ dữ. Hưng Đạo Vương cho rằng hắn uy mãnh có tà thuật liền sai

vương vào trận. Vương mắng lớn: Mày là loài giặc chó má, đáng chém nhiều

118

lần. Bá Linh rất giận, chuyển côn đánh vương. Vương mải đánh đến tối không

phân thắng bại. Hưng Nhượng Vương đến trợ chiến. Ô Mã Nhi cũng phi ngựa

xông vào. Quân của vương bèn lui. Sau nhờ Hưng Đạo Vương dùng thần kiếm

cầm giữ được Bá Linh. Linh đã chịu bị bắt giữ. Vương ra lệnh giết đi. Mấy lần

giết không chết. Hưng Đạo Vương liền xuất thần kiếm, tinh kiếm toả ra, đầu Linh

rơi xuống đất. Linh lúc sắp bị hành hình hỏi rằng: trao cho tôi chức gì, món ăn

gì? Hưng Đạo vương giận nói: Cho ăn huyết hôi của sản phụ. Sau khi Linh chết,

hoá thành hồn Phạm Nhan. Mỗi khi sản phụ bị hoạn nạn cầu đảo ở đền, vương

liền đánh bắt hắn hàng phục và đuổi đi. [44]

11. TRUY KÍCH THOÁT HOAN

Lần thứ ba trên đất nước Đại Việt anh hùng, vó ngựa viễn chinh của giặc

Mông Cổ bị quật gẫy.

Thoát Hoan lo lắng, về đội quân của hắn liên tiếp bị thất bại, cùng với khí

hậu nóng bức, ẩm thấp, lương hết , quân mệt; định rút quân về.

Thoát Hoan hỏi viên bộ tướng:

- Trên đường ta rút, liệu có gặp trở ngại gì không?

Viên tướng thân cận trả lời:

- Tâu đại vương, tiền quân của Hữu thừa A-bat-xích báo về: trên đường

phía tây ải Chi Lăng, có quân mai phục của Phạm Ngũ lão.

Thoát Hoan nghe đến tên Phạm Ngũ Lão, hắn chột dạ, nhớ đến trận giao

chiến ở Chương Dương và lần thất bại trước (phải chui vào ống đồng mới thoát

chết). Hắn vội ra lệnh:

Giao cho Tích-đô-nhi dẫn một cánh quân rút theo đường phía tây, còn ta

dẫn đạo quân theo đường phía đông qua Nội Bàng hẹn cùng gặp ở Tư Minh.

Hắn muốn đẩy cho bộ tướng đương đầu với viên tướng họ Phạm, còn hắn

rút an toàn. Nhưng đã nhầm. Suốt dọc đường từ ải Nội Bàng đến ải Nữ Nhi, quân

ta đã mai phục nhưng nơi hiềm yếu để chờ giặc.

119

Phạm Ngũ Lão cùng quân lính huấn luyện, lúc rảnh rỗi thì dạy họ hát trống

quân. Nay ngài thông báo tình hình và chia quân ra các nơi hiểm yếu phục chờ

giặc.

Quân Thoát Hoan từ từ rút, khi cánh quân cuối cùng lọt vào đất Nội Bàng,

thì một tiếng pháo lệnh vang lên. Hàng loạt mũi tên tẩm thuốc độc được bắn ra từ

các lùm cây; quân lính gươm giáo xông lên. Ngọn cờ đại, mang chữ “ Phạm” phấp

phới tung bay trên cửa ải. Thoát Hoan hốt hoảng, quân bị tiêu diệt, tướng bị

thương; quân lính tan tác, đại bại.

Thoát Hoan phải trà trộn vào đám tàn quân tan tác, tơi tả trốn về nước, từ

bỏ ý định xâm lược Đại Việt.

Đây là lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng, đoàn quân viễn chinh của giặc

Mông Cổ bị đánh khỏi đất Đại Việt. [44]

12. CHỮA BỆNH CỨU NGƯỜI

Có nhà giàu ở Cẩm Giàng chỉ có một con trai bị bệnh lên đậu, gần chết,

chợt thấy một bậc cao niên nói rằng: “Ta sẽ chữa cho”. Liền sai lấy một cái nong

đựng đầy bùn ao, đặt đứa trẻ nằm sấp lên trên, một lát sau giở ra xem thì thấy

nốt đậu thoát ra rất tốt. Phú ông vui mừng nói: Ông từ đâu tới? – Tôi là người

Phù Ủng, ngôi nhà ngói dài ở thẳng hướng Bắc là nhà tôi. Rồi từ biệt ra đi. Sau

đó phú ông hỏi thăm để đến tạ lễ. Khi đến bản từ thì bất giác kinh hoàng mới

biết đó là nơi đại vương thần hoá…

Hàng năm cứ lấy ngày 5-5 đem tất cả gia tộc đến chiêm bái. Con cháu phú

ông đến nay có tới vài trăm xuất đinh.[44]

13. TRỪNG TRỊ KẺ BÁNG BỔ THẦN LINH

Có viên học chính Hải Dương họ Cát tên Văn Tuỵ. Một ngày nóng bức

qua bản từ đòi trải chiếu ngồi nhiều lần. Lý trưởng nói rằng: Chỉ còn chiếc chiếu

trải thờ ngài. Cát quân giận, đánh lý trưởng vài chục roi rồi lên đường về Bình

Giang, im lìm như người ngây. Phủ thủ hỏi biết rõ lí do, thân đến bản từ cầu đảo

thay. Nhưng cuối cùng Cát quân cũng bị bệnh mà chết. [44]

120

14. ĐẦU THAI KIẾP KHÁC

Xét gia phả họ Nhữ kể về Thái phó Nhữ Công mộng thấy sao Thái Bạch

rơi vào lòng, nuốt lấy. Mẹ là Lâm thị đêm đi qua miếu Phù Ủng nghe có tiếng

nói: Đợi ta với. Trở về nhà mang thai, 12 tháng lâm bồn. Thái phó đêm đang xem

sách nghe gõ cửa ba tiếng, có tiếng nói rằng: Nguyện làm con tướng công. Hỏi:

Bao nhiêu năm? Ba lần nói: 70 năm. Bèn mở cửa, thấy có bóng đen lọt vào, một

lát thì sinh ra ông, đặt tên là Đình Toản, văn võ gồm tài. Đỗ tiến sĩ hội nguyên

năm Vĩnh Trị triều Lê, làm quan đến Trụ quốc thượng tướng quân, ông khi làm

Tham tụng ở trên vai phát sinh một cái nhọt, trải qua một năm không bớt. Khi

đó, ngươì và vật đất Phù Ủng cũng không được yên ổn, mưu tính cầu đảo thần.

Ông từ giữ đền, chợt ứng tiếng rằng: thần đã là quốc công làng Hoạch Trạch rồi.

Người trong xã đến tâu lại với công. Công nói: Đền thần bị dột mái, giọt nước

mưa phạm phải tượng thần. Người trong làng trở lại đền xem kỹ vai tượng thì

quả là có 2 giọt mồ hôi điểm trên vai tượng tròn như gương. Liền lập tức lợp sửa

lại mái, tắm rửa vai tượng , dân xã và công bệnh tật đều giảm bớt.

Ngày công trở về làm thần ở làng Phù Ủng, hốt nhiên có ánh lửa sáng vọt

lên nghe như có tiếng rầm rĩ. Đêm đó gió mưa nổi lên từ Hoạch Trạch đến Phù

Ủng suốt dọc đường lúa tẻ, lúa nếp đều rạp hết, cây cối gãy đổ, mọi người đều

biết là công lại hiển thần (thần trở về Phù Ủng). Đến nay đền miếu vút cao, uy

linh hiển hách, cầu mưa đảo hạn giúp nước an dân nhất nhất đều linh ứng nghìn

năm như một. Trải qua các triều được sắc phong Thượng đẳng thần. Hoàng triều

năm Minh Mạng thứ 4 (1824) được ban sắc cho thần được tòng tự (thờ theo) ở

miếu thờ các vị đế vương của triều đại để được khắp thiên hạ ngưỡng vọng uy

linh. [44]

15. THUỶ TINH PHU NHÂN

Thần tích đình Châu (Thanh Liêm – Hà Nam) kể lại như sau:

121

Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

Ông là người có chí lớn luôn suy nghĩ về đất nước. Trong một lần Trần Hưng Đạo,

từ Vạn An về kinh, quân lính đi trước dẹp đường, ông mải suy nghĩ đến nỗi giáo

đâm vào đùi mà không hay biết. Thấy chuyện lạ, Trần Hưng Đạo đến gần hỏi

chuyện. Biết ông có chí khí lại tinh thông văn võ, Trần Hưng Đạo sung ông vào

quân đội, tiến cử ông và còn gả con gái nuôi cho ông.

Phạm Ngũ Lão là một tướng tài của nhà Trần, ông có công lớn trong hai

cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên, có sáng kiến dùng gậy đâm vào chân voi,

phá tan đại binh của quân Ai Lao, rất có công trong các trận đánh Chiêm Thành.

Một lần trên đường đi đánh Chiêm Thành, khi hành quân qua sông Hát trên đất

Kiện Khê, ông đã đem lòng yêu thương một cô gái trẻ, con nhà thuyền chài hàng

ngày giúp cha mẹ thả lưới buông câu, là cô gái đẹp lại có trí thông minh hơn người

nên được Ngũ Lão cưới làm vợ. Người vợ trẻ quen sông nước này đã giúp ông rất

nhiều trong việc quân và được ông hết lòng yêu quý.

Khi Phạm Ngũ Lão mất, ông được hưởng ân điển quốc tang, bãi chầu 5 ngày,

những nơi thờ ông được xây dựng rất uy nghiêm, to lớn. Đến thời vua Minh Mệnh

năm thứ 6 (1823), ông còn được phụng thờ vào các đền thờ của vua Trần như Hưng

Đạo Vương. Tại thôn Châu, thị trấn Kiện Khê (Thanh Liêm - Hà Nam) có một ngôi

đình thờ ông rất lớn, bên cạnh đó, lại có đền nhỏ sát chân núi thờ ông cùng với

Thuỷ Tinh phu nhân (Vua Bà), người vợ đất Kiện Khê của ông.

Ngày nay, đình chùa Châu còn thờ năm vị: (Đức Cao Sơn, Phạm Ngũ Lão,

Thuỷ Tinh phu nhân, Bạch Hoa công chúa và Thành hoàng bản Cảnh), nổi tiếng

linh thiêng. Có đôi câu đối do vua Trần Dụ Tông thăm và đề ở đền:

“Tự tích tương truyền long ngư nguy nhiên song miếu trĩ

Chí kim vĩnh lại hồng ân phổ cập vạn gia xuân”

Dịch nghĩa: Xưa có vua về thăm có hai ngôi đền to đẹp, mãi đến nay nhờ

ân đức mà mọi nhà được no ấm vui tươi.

và có bức câu đối nơi thờ vợ ngài (Vua Bà):

122

“Phù Ủng tiên sinh văn võ tướng

Giang hà địa xuất thánh tiên nhân”

Dịch nghĩa: Quan võ sinh ở đất Phù Ủng ,người vợ là tiên thánh ở nơi sông

nước này. [44]