1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA VĂN HỌC

======== *** ========

LƯƠNG THỊ HUYỀN THƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM

THẾ KỈ XVIII - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC ***0O0***

LƯƠNG THỊ HUYỀN THƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

Chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thanh

HÀ NỘI - 2009

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy

giáo, cô giáo trong khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, các cán bộ và giảng viên viện Văn học đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi

trong thời gian học tập và nghiên cứu những năm vừa qua.

Đặc biệt, tôi trân trọng bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Thanh,

người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.

Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ủng hộ và giúp đỡ tôi

trong thời gian qua.

Hà Nội, tháng 10 năm 2009

Lương Thị Huyền Thương

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 6

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................. 17

CHƯƠNG 1. TRONG DÒNG CHẢY TRUYỀN KÌ ........................................................... 18

1.1.

Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì trong Văn học Việt Nam

và thế giới ................................................................................................................................. 18

1.1.1. Một số thuật ngữ .................................................................................................. 18

1.1.1.1. Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo ............................................................................... 18

1.1.1.2. Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan ................................................... 19

1.1.2. Một chặng đường truyền kì ................................................................................. 22

1.1.2.1. Thành tựu truyền kì thế giới ................................................................................. 22

1.1.2.2. Bảy thế kỉ truyền kì Việt Nam .............................................................................. 26

1.2. Truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: Vài nét về hoàn cảnh xã hội, lịch sử,

văn hóa, văn học ...................................................................................................................... 28

1.2.1.

Bối cảnh chính trị xã hội, văn học ...................................................................... 28

1.2.2. Thời kì nở rộ của thể loại truyền kì .......................................................................... 30

CHƯƠNG 2. NHỮNG XU HƯỚNG MỚI TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH ................ 33

2.1. Sự chuyển hướng trong tư tưởng ................................................................................... 33

2.1.1. Trung thành với lí tưởng Nho gia ............................................................................. 33

2.1.2. Day dứt vì cõi lòng hoài Lê ........................................................................................ 39

2.1.3. Dựa dẫm vào tư tưởng Lão Trang ............................................................................ 42

2.2. Đề tài gắn với đời sống thế sự ......................................................................................... 47

2.2.1. Đậm chất kí sự ........................................................................................................... 47

2.2.2. Nghiêng về khảo cứu ................................................................................................. 51

2.3. Xu hướng viết về người thật, việc thật ........................................................................... 55

2.3.1. Những nhân vật lịch sử ............................................................................................. 55

2.3.2. Những con người, sự vật xung quanh ...................................................................... 59

2.3.3. Những nhân vật bình phàm ...................................................................................... 62

2.4. Con người và số phận con người .................................................................................... 65

2.4.1. Quan niệm rộng mở về con người ............................................................................ 66

2.4.1.1. Con người với những phẩm chất tốt đẹp ............................................................. 66

2.4.1.2. Quan niệm mới về hạnh phúc .............................................................................. 68

2.4.1.3. Quan niệm về chữ “trinh” ................................................................................... 71

2.4.2. Phản ánh số phận con người .................................................................................... 73

2.4.2.1. Con người bất hạnh ............................................................................................. 74

a) Tài tử giai nhân ........................................................................................................ 74

b) Thường dân bất hạnh ............................................................................................... 76

2.4.2.2. Số phận người phụ nữ .......................................................................................... 78

a) Người phụ nữ trong “Truyền kì tân phả” ................................................................ 79

b) Người phụ nữ trong “Lan Trì kiến văn lục” ............................................................ 82

CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ........................ 87

3.1. Chuyển đổi giữa “kì - thực” ............................................................................................ 87

3.2. “Thực” trong nghệ thuật tự sự ....................................................................................... 90

3.2.1. Vị trí của người trần thuật ........................................................................................ 91

3.2.2. Góc độ của điểm nhìn trần thuật .............................................................................. 91

3.2.2.1. Cảm giác đến từ Tiêu đề ...................................................................................... 92

3.2.2.2. Nổi bật “thực” qua thủ pháp ............................................................................... 94

3.2.3. Tính không thuần nhất về thể loại ............................................................................ 96

3.3. Tinh giản trong văn phong .............................................................................................. 98

3.3.1. Câu văn gọn ............................................................................................................... 98

3.3.2. Lời bình giảm ........................................................................................................... 101

3.3.3. Dung lượng nhỏ ....................................................................................................... 103

3.3.4. Kết cấu chuẩn .......................................................................................................... 108

Tổng kết (phần nội dung) ..................................................................................................... 111

LỜI KẾT ................................................................................................................................ 114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 119

PHỤ LỤC ............................................................................................................................... 124

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Từ điển Văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Giáo

dục, Hà Nội, 1999) cho biết: Truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng

chữ Hán trong văn học trung đại. Tên gọi của thể loại vốn có nguồn gốc từ văn học cổ và trung đại Trung Hoa 1. Đây là một thể loại văn học nhiều thành tựu của

văn học Đông Á, một đối tượng nghiêm túc và hấp dẫn đối với các nhà nghiên

cứu Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Pháp… Trong khi đó, ở

Việt Nam, không giống như các thể loại khác (thơ, truyện thơ nôm, truyện ngắn,

tiểu thuyết…), trong một thời gian dài, truyện truyền kì còn chưa được nhìn nhận

dưới góc độ thể loại mà mới chỉ được các nhà nghiên cứu chú ý ở cấp độ tác

phẩm, mà sức hút mạnh nhất dường như cũng chỉ mới tập trung vào Truyền kì mạn lục 2 của Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI). Và thể loại truyền kì vẫn chưa có một

chỗ đứng thỏa đáng trong lịch sử văn học. Hiện tại, nó mới chỉ được đưa vào

giảng dạy chính thức ở bậc phổ thông và dừng lại ở cấp độ tác phẩm. Đó đúng là

một thiệt thòi cho truyện truyền kì, một bộ phận văn học quan trọng – một sắc

màu kì lạ trong diện mạo muôn màu của văn học Việt Nam.

Giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX (đặc biệt là từ nửa sau thế kỉ

XVIII trở đi), được phong trào cách tân và nhân văn nâng đỡ, văn học viết bằng

chữ Hán và chữ Nôm, văn học viết bác học, văn học viết bình dân đều phát triển

chưa từng có và trở thành giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học nước nhà,

với rất nhiều thể loại (thơ Đường luật, thơ lục bát, phú, ngâm khúc, truyện thơ,

hát nói, truyện và kí văn xuôi chữ Hán…). Cảm hứng nhân đạo và cảm hứng yêu

1 Vấn đề lịch sử thể loại và tên gọi của truyện truyền kì chúng tôi sẽ trình bày kĩ hơn trong chương 1. 2 Để thể hiện rõ đâu là tập truyện gồm có nhiều truyện và đâu chỉ là một truyện trong tập (hoặc một tác phẩm), chúng tôi trình bày tên tập truyện với dạng chữ đậm, thẳng, còn tên truyện với dạng chữ đậm, nghiêng.

nước vẫn bao trùm và không hoàn toàn tách biệt trong dòng chảy xuyên suốt

mấy nghìn năm của lịch sử văn học dân tộc. Nhưng những nội dung của chủ

nghĩa nhân đạo đã được biểu hiện tập trung nhất trong giai đoạn thế kỉ XVIII –

nửa đầu thế kỉ XIX, và nuôi dưỡng những tác phẩm văn học trong lòng nó để

văn học giai đoạn này trở thành giai đoạn rực rỡ nhất của lịch sử văn học dân

tộc. Trong giai đoạn phát triển rực rỡ nhất ấy, người ta nhắc nhiều tới ngâm khúc

(Chinh phụ ngâm khúc – Nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch

của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều), hát nói (với

một Cao Bá Quát khát vọng cao cả và nhân cách cứng cỏi của mẫu người “tài tử

đa cùng”, và một Nguyễn Công Trứ nhiệt tình hăm hở trong “chí làm trai” và

bản lĩnh sống giữa cuộc đời mà cuối cùng bị vỡ mộng đến chán chường), tới tác

phẩm hoành tráng về sự thống nhất của nhà Lê (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô

gia văn phái). Người ta cũng đã ca ngợi nhiều một đại thi hào dân tộc Nguyễn

Du với kiệt tác đỉnh cao – áng thiên cổ kì văn Truyện Kiều và rất nhiều tác phẩm

khác; một nữ sĩ – “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương mà cuộc đời và thơ văn

đã đi vào huyền thoại; một cái Tôi lãng mạn, một mầm mống của văn xuôi tiếng

Việt bước đầu đã xuất hiện trong thơ văn Phạm Thái; một Bà huyện Thanh Quan

vỏn vẹn sáu bài thơ mà như sáu bông hoa, trang nhã một phong thái riêng cao

quí...

Giữa những lời tụng ca và ghi nhận ấy, những tác gia và tác phẩm truyền

kì giai đoạn này nằm im ắng, khiêm nhường, không xuất hiện trong những cuốn

sách giáo khoa mẫu mực của học đường. Đối với thế hệ học sinh măng non của

đất nước, như thể bước phát triển của thể loại này ở Thánh tông di thảo (tương

truyền là của vua Lê Thánh Tông, 1442 - 1497) và Truyền kì mạn lục (Nguyễn

Dữ) của thế kỉ XV, XVI đã không có người kế vị? Trong khi thực tế, nó vẫn phát

triển, thậm chí với một tốc độ chóng mặt cả về số lượng tác gia và tác phẩm. Hay

là những truyện truyền kì trong giai đoạn này kém về chất lượng? Cũng không

phải! Bởi vì đã có sự xuất hiện của những tác gia, tác phẩm xuất sắc, như một

Đoàn Thị Điểm chín muồi và đầy nữ quyền trong Truyền kì tân phả; một Vũ

Trinh kiên định, sâu sắc với Lan Trì kiến văn lục; một Phạm Đình Hổ thông

thái, uyên bác qua Vũ Trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (viết chung với

Nguyễn Án)… Thậm chí, chúng tôi biết đã có nhiều bạn sinh viên cùng chuyên

ngành với mình khẳng định một cách chắc chắn trong luận văn rằng: “Ở giai

đoạn suy tàn của truyện truyền kì, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm ra đời

trong những năm đầu thế kỉ XVIII được xem là tác phẩm tiêu biểu. Đặt tên cho

tập sách của mình là Tục truyền kì, Đoàn Thị Điểm muốn qua đó tiếp tục công

trình của Nguyễn Dữ. Sau Truyền kì tân phả, một số tác giả tuy vẫn sử dụng

yếu tố kì ảo trong sáng tác của mình, tuy nhiên sự biến ảo phong phú đã không

bằng Truyền kì mạn lục và lại quay về tuân thủ sự thật lịch sử cứng nhắc. Sang

thế kỉ XVIII, trước sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, nhất là sự hưng thịnh của

chữ Nôm, truyện truyền kì chữ Hán bắt đầu suy thoái dần, thay vào đó là thể loại

mới, đó là truyện thơ Nôm” [Phạm Thu Trang]. Đó chính là lí do khiến chúng tôi

quan tâm và muốn góp phần khẳng định vị thế cho truyện truyền kì giai đoạn

này.

Cũng giống như số phận của truyện truyền kì Việt Nam nói chung, truyện

truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX từ lâu đã được các nhà khoa học

quan tâm nghiên cứu nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ tác phẩm, hoặc giới thiệu

chung. Luận văn của chúng tôi bước đầu muốn đi sâu nghiên cứu một cách tổng

quát, cụ thể hơn những vấn đề nội dung cũng như nghệ thuật của truyện truyền

kì giai đoạn này và từ đó chỉ ra những cách tân đổi mới của thể loại.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Khi nhận đề tài này, chúng tôi đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc khảo

sát lịch sử vấn đề, bởi đây là đề tài rộng, mà các nghiên cứu trước đây hầu như là

các bài viết nhỏ, lẻ trên các báo, tạp chí, hoặc vấn đề chỉ được nhắc tới với một

vị thế khá khiêm tốn, là một thành phần nhỏ trong một chỉnh thể tác phẩm

nghiên cứu đồ sộ nào đó.

Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, truyện kì ảo thời trung đại (khái

niệm dùng để chỉ chung các loại truyện như u linh, chích quái, truyền kì, chí dị)

với rất nhiều tác phẩm, những tập truyện nổi tiếng như Việt điện u linh tập lục

(Lí Tế Xuyên), Lĩnh Nam chích quái lục (Trần Thế Pháp), Thánh Tông di

thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì Tân Phả

(Đoàn Thị Điểm), Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Lan Trì kiến văn lục (Vũ

Trinh), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)… còn chưa được tập hợp và nghiên

cứu chung theo góc độ thể loại. Trong một vài bộ phận lịch sử văn học hoặc một

vài bài báo, người ta gộp loại truyện này vào bộ phận văn xuôi hoặc tách ra

nghiên cứu một vài tác phẩm tiêu biểu.

Sách giáo khoa nhà trường phổ thông từ đã đưa một vài truyện trong

Truyền kì mạn lục (trước là Người con gái Nam Xương, Chuyện cái chùa

hoang ở Đông Triều, còn sách cải cách hiện nay là Chuyện chức Phán sự ở đền

Tản Viên…) vào chương trình chính thống, giảng dạy trong nhà trường hoặc cho

học sinh đọc thêm, nhưng với tư cách một tác phẩm xuất sắc, một áng “thiên cổ

kì bút”, và được coi là một cái mốc quan trọng của thể loại truyện văn xuôi bằng

chữ Hán của văn học Việt Nam, chứ không gắn với sự phát triển chung của thể

loại.

Việc nghiên cứu truyền kì với tư cách là một thể loại gần đây đã được ý

thức song mới chỉ tiến hành ở bước đầu hoặc chưa hoàn chỉnh. Bước đầu, ở cấp

độ thể loại, nó mới được giới thiệu với tư cách một chuyên đề cho học viên cao

học và nghiên cứu sinh ở một số cơ sở đào tạo sau đại học.

Một điều lạ là trong cuốn 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân biên

soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 6/1999) không thấy có sự xuất hiện

của thuật ngữ truyền kì. Còn trong cuốn Từ điển Văn học Việt Nam – Từ nguồn

gốc đến hết thế kỉ XIX cũng do Lại Nguyên Ân biên soạn và xuất hiện cùng thời

điểm (nhưng do NXB Giáo dục ấn hành) thì truyền kì đã được nhắc tới với tư

cách là “Một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán ở văn học trung đại… với

đặc điểm là luôn luôn có môtip kì quái, hoang đường lồng trong một cốt truyện

sinh hoạt thế sự hoặc đời tư, thường là truyện tình” [6, 634].

Một điều mừng lớn cho những nhà nghiên cứu và những sinh viên quan

tâm đến truyền kì, là lần đầu tiên đã có một bộ sách tổng hợp về truyền kì trên

phương diện một hiện tượng văn học, đó là Truyện truyền kì Việt Nam của

NXB Giáo dục, phát hành năm 1999, và đối tượng nghiên cứu của luận văn

(truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX) có một

chút ở cuối quyển một và phần nhiều trong quyển hai (tập III – tập IV). Đây rõ

ràng là một minh chứng cho sự chú tâm vào thể loại này của giới nghiên cứu. Có

điều, trong đó, các nhà nghiên cứu mới làm công việc biên soạn, dịch và tập hợp

các tác phẩm lại cạnh nhau; trong đó có đưa ra tên và tác phẩm của những tác giả

riêng biệt, cũng như khái quát một vài nét về cuộc đời cũng như nội dung tư

tưởng tác phẩm của họ, chứ chưa đưa ra bức tranh toàn cảnh về thể loại, cũng

như so sánh để chỉ ra những nét tương đồng và cao hơn nữa là tính qui luật chi

phối trong nội dung, nghệ thuật của các tác giả, tác phẩm giai đoạn này.

Như phần trên chúng tôi đã đưa ra, từ trước tới nay, truyện truyền kì thế kỉ

XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX thường được nghiên cứu chung trong dòng chảy của

thể truyền kì hoặc nghiên cứu riêng về một vài tác giả, tác phẩm xuất sắc của nó

(như Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục, Phạm Đình Hổ với Vũ Trung tùy bút,

Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đồng tác giả Tang thương ngẫu lục, Trương

Quốc Dụng viết Thoái thực kí văn…). Hầu hết các tác giả đều chưa có ý khái

quát hóa và cụ thể hóa đặc điểm của giai đoạn này. Một số nhà nghiên cứu có tên

tuổi trong lĩnh vực này như PGS.TS Nguyễn Đăng Na, PGS.TS Trần Thị Băng

Thanh, PGS.TS Vũ Thanh…

PGS.TS Nguyễn Đăng Na trong nhiều bài nghiên cứu của mình đã nói tới

truyền kì dù ở hình thức hay tên gọi khác (Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung

đại, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997; Tự sự lịch sử trong văn học trung đại

Việt Nam những đặc điểm bước đi khởi đầu, Tạp chí Văn học, số 12/1999; Tiểu

thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại, in trong cuốn “Văn học Việt Nam thế

kỉ X – XIX”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007…).

PGS. TS Vũ Thanh có thể nói là một người đã dành khá nhiều tâm huyết

cho thể loại này. Các bài viết của ông đăng trên các sách báo, tạp chí đã đi vào

nhiều vấn đề của truyền kì, từ vấn đề chung về thể loại (Thể loại truyện kì ảo

Việt Nam trung đại – Quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm, Văn học

Việt Nam thế kỉ X – XIX, Trần Ngọc Vương chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội,

2007), về một giai đoạn (Truyện truyền kì Việt Nam thế kỉ XIX, Dư ba của truyện

truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại, in trong công trình “Những

vấn đề lí luận và lịch sử văn học”, NXB Khoa học xã Hội, Hà Nội, 2001), về một

đặc điểm thể loại (Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì

Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 6/1994), đến tác giả (các bài tham luận, bài viết

về Hoàng đế Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh… in trong nhiều công trình

khác nhau), rồi cả phân tích cụ thể tác phẩm riêng lẻ (Việt Nam kì phùng sự lục

và Ngọc thân huyễn hóa). Những bài viết này của ông đã gợi mở rất nhiều cho

việc nghiên cứu truyền kì.

Cũng cùng nhóm đề tài này, Bùi Thị Thiên Thai (Luận văn Thạc sĩ Khoa

học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2001) đã

đề cập đến vấn đề khá mới mẻ Truyện kì ảo hiện đại – Dư ba của truyện truyền

kì truyền thống.

Năm 2002, Phạm Thị Ngọc Lan trong khi nghiên cứu về Kí văn xuôi chữ

Hán thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX (Luận án Tiến sĩ văn học, Hà Nội,

2002) đã tạm xếp những tác phẩm kí của giai đoạn này thành bốn nhóm đề tài

chính, trong đó có một nhóm là kí về chuyện kì “ghi chép những chuyện đồn,

chuyện kì lạ, những giai thoại, truyền thuyết lưu truyền trong dân gian”

[ngọclan-81].

Còn khá nhiều những bài viết, bài nghiên cứu, luận văn viết về những tác

phẩm riêng lẻ, hoặc viết về một đặc điểm (chẳng hạn như hình ảnh người phụ

nữ, yếu tố kì ảo… trong truyện truyền kì) mà chúng tôi không thể dẫn ra hết

được. Yếu tố kì ảo trong văn học gần đây cũng được một số nhà nghiên cứu

trong nước quan tâm như PGS.TS Nguyễn Văn Dân, Th.S Lê Nguyên Long…

trong đó có cả các bài nghiên cứu đưa ra những thuật ngữ, những định danh một

cách khoa học, rõ ràng, và cả những bản dịch tư liệu của nước ngoài. Như vậy có

thể thấy, ở thời hiện đại, sự kì ảo trong văn học Việt Nam đã tiếp cận gần hơn

với văn học thế giới. Đồng thời, sự quan tâm của giới nghiên cứu dành cho thể

loại truyền kì đã đến từ nhiều góc độ.

3. Phạm vi nghiên cứu

- Khi nghiên cứu văn bản tác phẩm, chúng tôi chủ yếu dựa vào hai tập

sách Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam của Viện Nghiên cứu Hán Nôm,

NXB Thế giới, 1997 và Truyện truyền kì Việt Nam (quyển hai, tập 3+4) do

Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1999. Trong đó, những khảo sát vẫn

dựa trên cuốn Truyện truyền kì Việt Nam, bởi những truyện trong cuốn này đã

được tuyển chọn cho đúng với tính chất truyền kì, còn cuốn kia chỉ mang tính

chất tham khảo, bởi có nhiều truyện không cùng thể loại được đề cập trong luận

văn này.

- Do khuôn khổ của luận văn, và đặc biệt là sự hạn chế trong việc thu thập

tài liệu, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tác phẩm của những tác giả tiêu biểu

trong thời kì này, cụ thể đó là các tác giả Đoàn Thị Điểm với Truyền kì Tân

Phả, Vũ Phương Đề với Công dư tiệp kí, Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục,

Phạm Quý Thích với Tân truyền kì lục, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án với

Tang thương ngẫu lục, Phạm Đình Hổ với một vài truyện trong Vũ trung tùy

bút, Trương Quốc Dụng với Thoái thực kí văn. Họ là những tác giả lớn (cả về

số lượng và chất lượng) nên có ảnh hưởng và chi phối văn học truyền kì giai

đoạn này. Còn những tác phẩm Khuyết danh (chưa rõ tên tác giả như Sơn cư tạp

thuật, Việt Nam kì phùng sự lục…), cũng như những tác phẩm không khẳng

định được thời gian sáng tác (Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập, Tân

đính Lĩnh Nam chích quái…) hay không chắc chắn về tác giả (Bích Châu du

tiên mạn kí) thì chúng tôi không tính vào kết quả khảo sát chính xác mà chỉ dẫn

ra mang tính chất tham khảo.

Cụ thể, sẽ khảo sát tác giả và số lượng tác phẩm như trong bảng sau đây:

STT

Tập truyện

Tác giả

Ghi chú

SL truyện khảo sát

Đoàn Thị Điểm

3

1

Truyền kì tân phả

Sách gồm 6 truyện, 3 truyện còn lại không chắc của tác giả

22

Công dư tiệp kí

Vũ Phương Đề

2

39

Vũ Trinh

3

Lan Trì kiến văn lục

Sách gồm 45 truyện và 4 bài tựa

Phạm Quí Thích

1

4

Tân truyền kì lục

Sách gồm 1 bài tựa và 3 truyện

15

5

Tang thương

Phạm Đình Hổ và

Sách gồm 2 bài tựa, 1 lời đề

ngẫu lục

Nguyễn Án

hậu và 90 truyện

6

Vũ trung tùy bút

Phạm Đình Hổ

3

Sách gồm 1 lời tự thuật và 89 truyện

7

3

Thoái thực kí văn

Trương Quốc Dụng

Sách gồm 8 quyển và 1 lời dẫn

Tổng

7 tập sách

8 tác giả

86 truyện

- Chúng tôi có so sánh, đối chiếu với một vài tác giả và tác phẩm tiêu biểu

của giai đoạn trước (Lê Thánh Tông – Thánh Tông di thảo, Nguyễn Dữ -

Truyền kì mạn lục…)

- Đồng thời chúng tôi cũng có sự liên hệ với một vài tác phẩm, tác giả của

giai đoạn truyền kì hiện đại, hay còn được gọi là truyện kì ảo (Ba hồi kinh dị,

Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu – Thế Lữ, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya

- Tchia, Cõi âm nơi quán cây dương – Bình Nguyên Lộc…), và văn học kì ảo

nước ngoài (Hoffmann với Rượu ngon của quỉ, Edgar Poe – Con mèo đen, Cù

Hựu – Tiễn đăng tân thoại, Bồ Tùng Linh – Liêu trai chí dị…).

4. Phương pháp nghiên cứu

Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào phân tích từng

tác phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm của giai đoạn văn học truyền kì này. Luận

văn chủ yếu tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên

cứu vừa truyền thống vừa hiện đại để từ đó lí giải, xác lập luận điểm, luận cứ và

rút ra những kết luận cần thiết. Các phương pháp được sử dụng đồng thời gồm:

- Phương pháp tổng hợp nhằm có cái nhìn khái quát

- Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích nhằm có cơ sở và cái nhìn cụ

thể

- Phương pháp liên ngành: soi chiếu văn học với văn hóa, lịch sử, xã hội

để có cái nhìn chính xác hơn

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

- Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu khảo sát và nghiên cứu truyện

truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, đóng góp một

cái nhìn toàn cảnh hơn về truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn này.

- Chúng tôi cũng hi vọng bản luận văn này sẽ đưa ra được những luận

điểm, luận cứ mới mẻ trong một đề tài đã quá quen thuộc từ xưa tới nay, đồng

thời cũng có những cách lí giải riêng hợp lí cho luận điểm, luận cứ đó.

- Luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định giá trị và sức sống của một

số tác phẩm tiêu biểu trong văn học nước nhà.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Lời kết, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần

nội dung chính của luận văn chia làm ba chương:

Chương 1: Trong dòng chảy truyền kì: Nêu những nét khái quát về văn

học truyền kì của Việt Nam và thế giới; bối cảnh lịch sử và văn hóa, văn học

Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX

Chương 2: Những xu hướng mới trong nội dung phản ánh

Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện

Do thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn nên luận văn này không thể

giải quyết trọn vẹn và thấu đáo những vấn đề đặt ra cũng như đề cập đến. Chúng

tôi hi vọng sẽ có nhiều hơn nữa những bài viết, những công trình nghiên cứu của

các tác giả để tiếp tục tìm hiểu sâu hơn và có những nhận định mới về một giai

đoạn, một thể loại văn học Việt Nam.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. TRONG DÒNG CHẢY TRUYỀN

1.1. Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì

trong Văn học Việt Nam và thế giới

1.1.1. Một số thuật ngữ

Thuật ngữ là từ hay cụm từ cố định được dùng trong các chuyên ngành để

biểu thị chính xác các khái niệm và các đối tượng thuộc chuyên ngành. Do yêu

cầu chính xác, thuật ngữ thường được chú trọng trước tiên đến mối quan hệ một

– nối – một, giữa hình thức (vỏ ngữ âm) và nội dung (ý nghĩa chuyên ngành)

(theo Bách khoa toàn thư). Trong nghiên cứu khoa học, điều đầu tiên phải định

danh chính xác tên gọi của đối tượng nghiên cứu.

Nói đến truyền kì là nói đến một loại hình văn xuôi nghệ thuật đã có từ

thời văn học cổ mà trong đó chứa đựng yếu tố kì. Nhưng không phải ngay từ

những ngày đầu xuất hiện, bản thân thể loại đã được định danh cụ thể và chính

xác như bây giờ. Trong phần này chúng tôi chủ yếu nêu lên một số thuật ngữ -

gần giống hoặc thường bị nhầm lẫn với truyền kì - nhằm đưa ra những lí giải và

phân biệt chúng – theo quan điểm của mình.

1.1.1.1. Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo

Khi nghiên cứu các loại từ điển về thuật ngữ truyền kì, chúng tôi đồng tình

với một số ý kiến nghiên cứu trước đây, rằng: yếu tố không thể thiếu của truyền

kì mà hầu hết các nhà làm từ điển đều quan tâm, đó là yếu tố kì (lạ). Trung Hoa

văn hóa đại từ hải cho rằng: “Vì tình tiết có nhiều kì lạ, thần dị mà có tên ấy”.

Từ điển văn học năm 1984 do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Từ điển văn

học (từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX) của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1999,

mục Truyền kì đều chú ý trước hết đến những “môtip kì quái, hoang đường” [13,

447 và 6, 635].

Nhưng trên thế giới đến nay vẫn chưa dễ gì có một quan niệm thống nhất

về yếu tố kì ảo và văn học kì ảo.

Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở chỗ, kì ảo

(fantastic) nghĩa là phải đề cập đến cái không thể xảy ra (impossible), cái siêu

nhiên (supernatural). Tuy nhiên, không phải cứ đề cập đến cái siêu nhiên, cái

không thể xảy ra thì là kì ảo. Cần phải phân biệt kì ảo và cái tưởng tượng hư

huyễn thuần túy (fantasy), cái huyền diệu (marvellous)… [25, 1].

Kì ảo có mầm mống xa xưa từ trong văn học dân gian với những truyện cổ

tích, truyền thuyết (đã thoát ra khỏi tư duy thần thoại). Nhưng phải đến cuối thế

kỉ XVIII, cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa duy lí (rationalism), xã hội mới có

đủ điều kiện để tạo ra một lớp nhà văn có ý thức rõ ràng trong việc tạo ra một

hình thái ý thức thẩm mĩ mới là cái kì ảo, và đi cùng với nó là một loại hình văn

học mới: văn học kì ảo.

1.1.1.2. Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan

Với xác định như thế, có thể coi truyền kì (fantasy) khác với kì ảo

(fantastic). Riêng thuật ngữ truyền kì cũng đã trải qua một chặng đường dài trong ngót một nghìn năm phát triển của thể loại 3.

Trong các hình thức văn xuôi tự sự của Việt Nam thời trung cổ, cái tên

truyền kì không phải ngay từ đầu đã có. Khoảng cuối thời kì Bắc thuộc và đầu

thời đại tự chủ, những tên sách có liên quan xa gần đến truyện kì ảo còn lưu dấu

3 Khi chúng tôi viết phần này, đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của PGS.TS. Vũ Thanh, bởi đây là phần nhỏ nhưng đòi hỏi phải có sẵn vốn kiến thức sâu và sự khảo sát tương đối rộng

được đến ngày nay như Sử kí (Đỗ Thiện), Báo cực truyện, Giao Châu kí (Triệu

Công), Giao Chỉ kí (Tăng Công)…4 đều không một tên sách nào xuất hiện thuật

ngữ đó.

Bước sang giai đoạn Lí – Trần, hai cuốn sách đậm đặc yếu tố kì ảo là Việt

điện u linh tập lục (Lí Tế Xuyên) và Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (Trần

Thế Pháp) cũng chưa thấy có truyện nào dùng chữ truyền kì để đặt tên, mà dùng

đến hai thuật ngữ khác là u linh và chích quái, có vẻ còn giàu màu sắc huyền ảo

hơn.

Cuối đời Trần và Hồ, ngoài cuốn Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên

Trừng, còn vài ba cuốn truyện có chứa yếu tố kì khác như Tăng Đạo thần

thông, Minh Không thần dị…

Phải đến khoảng cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI lần đầu tiên văn học

Việt Nam được nghe tới thuật ngữ truyền kì trong tập thơ Việt giám vịnh sử thi

tập, trong khi tổng kết sự nghiệp trước tác của nhà văn hóa Vũ Quỳnh, sử gia

kiêm thi gia Đặng Minh Khiêm đã viết:

Việt giám nhất thiên châm khả pháp

Hưu ngôn Chích quái hựu Truyền kì

(Một tập Việt giám thật đáng để làm khuôn phép

Khỏi cần bàn đến Chích quái với lại Truyền kì)

Theo học giả Nguyễn Huy Khánh thì “chữ Truyền kì có ý mỉa mai, biếm

nhã chứ không như nghĩa chúng ta hiểu ngày nay”, và chính Lỗ Tấn cũng khẳng

định: “Hai chữ Truyền kì bấy giờ thực ra là ngụ ý chê cười chứ không phải như

chúng ta hiểu danh từ Truyền kì ngày nay”.

Chữ Truyền kì ngày nay, theo sách Thuyết văn giải tự giải thích: “Truyền

4 Đều được dẫn trong Việt điện u linh tập lục

là chuyển đi” (Truyền giả đệ dã) chức năng ngữ pháp là động từ, còn “kì nghĩa là

lạ” (kì giả dị), trong quá trình sử dụng, chữ này mang nét nghĩa khác là “ít thấy”,

“biến hóa khó lường”. Như vậy hai chữ Truyền và Kì ghép lại thành một tổ hợp

từ theo kết cấu động tân. Nghĩa của nó là Truyền đi sự lạ.

Tuy nhiên, phải bước hẳn sang mấy thập niên đầu thế kỉ XVI, với Truyền

kì mạn lục của Nguyễn Dữ, lần đầu tiên thuật ngữ truyền kì xuất hiện trong một

tác phẩm của Việt Nam mà nội dung và hình thức của nó đã đáp ứng yêu cầu thể

loại, và từ đó ghi dấu trong văn chương với tư cách một thể loại được định danh

rõ ràng. Trào lưu sáng tác truyện truyền kì từ đây cũng rầm rộ hơn, cho đến tận

giữa thế kỉ XIX và còn lưu dấu trong văn học đương đại ngày nay. Và thuật ngữ

truyền kì cũng được nhiều tác giả sử dụng ngay ở tiêu đề tác phẩm của mình, như

một cách định danh và khẳng định rõ ràng cách thức viết truyện của tác giả bằng

cách sử dụng nguyên vẹn: Truyền kì tân phả (cũng gọi là Tục truyền kì, của

Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Quí Thích), Ngoại truyền kì lục, Bổ

truyền kì (chưa rõ tác giả và thời điểm xuất hiện)… Hoặc chỉ lấy chữ kì của đặc

trưng kiểu truyện đưa vào tên tác phẩm: Bích Câu kì ngộ, Long hổ đấu kì (trong

Truyền kì tân phả), Kì mộng (trong Lan Trì kiến văn lục), Kì sự (trong Vũ

trung tùy bút), Trưng kì (trong Thoái thực kí văn)…

Như vậy, để chỉ loại truyện có yếu tố kì ảo, có hai cụm từ đã hiện diện

xuyên suốt từ khi nảy sinh tới quá trình phát triển đạt đến đỉnh cao của thể loại:

“linh – chí – quái” (chiếm lĩnh trước thế kỉ XV), “truyền kì – kì” (từ thế kỉ XV

đến giữa thế kỉ XIX). Trong lịch sử tên gọi của thể loại truyện truyền kì, sau này

sẽ còn một số cụm từ khác nữa (ví dụ như từ dị mà chúng tôi đề cập tới trong

phần 3.2.2.1 của luận văn, xuất hiện trong văn học kì ảo từ cuối thế kỉ XIX).

Với quá trình phát triển như thế, với những giai đoạn mà tên gọi của thể

loại được định danh rất rõ ràng như thế, hoàn toàn không có gì băn khoăn khi

dùng thuật ngữ truyền kì đối với truyện kì ảo trong giai đoạn nghiên cứu của luận

văn, nghĩa là cách gọi truyện truyền kì Việt Nam là hoàn toàn chính xác khi áp

dụng cho các tác phẩm có yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế

kỉ XV đến giữa thế kỉ XIX, trong đó tất nhiên có bao gồm các truyện kì ảo Việt

Nam trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX – giới hạn nghiên cứu

của luận văn.

1.1.2. Một chặng đường truyền kì

Mục đích của chúng ta là nghiên cứu truyện truyền kì Việt Nam thế kỉ

XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, nhưng không thể chỉ đóng khung việc xem xét nó

trong phạm vi một giai đoạn văn học cụ thể của Việt Nam. Để không có cái nhìn

phiến diện, trước hết, luận văn tìm hiểu về truyền kì Trung Hoa – dấu ấn ảnh

hưởng mạnh và rõ rệt nhất tới truyền kì Việt Nam, và truyền kì ở các nước

phương Tây xa xôi – nơi có rất nhiều thành tựu – như một đối tượng để so sánh.

1.1.2.1. Thành tựu truyền kì thế giới

Vốn dĩ, truyện truyền kì trong văn học thế giới chẳng phải là khái niệm xa

lạ, nó đã bắt nguồn từ khá sớm, tiêu biểu và đạt được nhiều thành tựu ở đất nước

Trung Hoa, và các nước phương Tây.

a) Truyền kì ở phương Tây xa xôi:

Ở Phương Tây, xứ sở công nghiệp phát triển sớm, tư duy hiện đại đi liền

với chủ nghĩa duy lí dường như đã đánh bại tư duy huyền thoại ra khỏi đời sống

vật chất cũng như đời sống tinh thần. Vậy mà có một thực tế là trong khi truyện

kì ảo – đáng lẽ phải phù hợp với nền văn hóa phương Đông huyền bí – thì ở lứa

tuổi khai sinh của nó đã rất khó khăn để được chấp nhận tồn tại và phát triển ở

Việt Nam. Trong khi đó, ở xứ sở văn minh phương Tây, truyện kì ảo đã không

còn là một hiện tượng hiếm hoi, mới lạ. Như một minh chứng cho sức sống của

yếu tố kì ảo, truyện truyền kì đã tồn tại và phát triển mạnh, dù ở bất cứ đâu và

trong hoàn cảnh nào.

Khi tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học trung đại và cận đại

Đông Tây, chúng tôi thấy đã có ý kiến cho rằng truyện kì ảo phương Tây ít nhất

cũng có thể phân loại thành ba dòng không thể đánh đồng với nhau về đặc trưng

nghệ thuật. Một là Dòng truyện cổ thần kì (hay truyện tiên, bao gồm từ các thần

thoại, truyền thuyết, cổ tích thời Hi Lạp, La Mã cổ đại tới các tập truyện dân gian

kì ảo của các nước Trung Á như Ấn Độ, Ả Rập). Đây là dòng truyện bảo lưu

phần tưởng tượng ngây thơ, chất phác trong suốt một thời kì dài của nhân loại;

Hai là Những truyện thơ và văn xuôi cổ điển trong đó có nhiều môtip thần kì (với

những tác phẩm tiêu biểu như Odyssee của Homere, Thần khúc của A.Dante…).

Dòng truyện này là nơi dung chứa hỗn hợp các kiểu thức sáng tác và tái hiện

thần kì, tuy vẫn chưa thoát li hẳn mạch cảm hứng nhân bản của dòng truyện cổ

thần kì, nhưng cũng đã báo hiệu một sự rạn nứt của những môtip kì ảo truyền

thống; Ba là Những tập truyện ma quái xuất hiện vào đầu thế kỉ XIX (của nhà

văn Đức Hoffmann, nhà văn Mĩ Edga Poe…). Nhà văn Đức lãng mạn nổi tiếng

Hoffmann (1776 – 1822) là người đã thực hiện lí tưởng của nhà triết học Fichtơ

trong thi ca. Thế giới nội tâm mà ông sáng tạo là thực tại duy nhất đối với ông:

“Chỉ tinh thần có khả năng nắm bắt được cái gì xảy ra trong thời gian và không

gian”. Ông sáng tạo một thế giới tưởng tượng, kể lại những gì ông nhìn thấy

bằng con mắt tinh thần. Hoffmann là người muốn thoát li thế giới trần gian, đến

mức, khi hấp hối, cầm bút trong tay, ông báo tin cho bạn bè là mình đã lành

bệnh. Ông đã viết những chuyện huyễn hoặc như: Những bức tranh huyễn

tượng theo cách của Calôt (1814), Bức tranh đêm (1817), Anh em Xêrapiông

(1821)… Đây là một dòng truyện hiện đại, phần lớn là truyện ngắn, thường cách

điệu hóa sự đe dọa của lực lượng siêu tự nhiên đối với con người, nhằm mục

đích đưa ra một lời cảnh báo tích cực.

Ba dòng này có những đặc trưng và tiến trình vận động riêng, nhưng vẫn

có những kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau, song hành phát triển cùng nhau.

b) Truyền kì của Trung Hoa rộng lớn:

Truyền kì là một thể loại văn học cổ vốn vẫn được xem là thành tựu to lớn

của tiểu thuyết cổ Trung Hoa. Ngay từ thời Tiên Tần, từ tiểu thuyết đã được nhắc

đến nhưng chưa được dùng để khái quát cả một thể loại văn học. Thực ra ở

Trung Quốc, truyền kì đã bắt đầu xuất hiện từ thời Ngụy, Tấn, Lục triều (từ thế

kỉ III đến thế kỉ VI), với tiểu thuyết chí quái và chí nhân, tiểu thuyết Trung Quốc

chính thức ra đời nhưng bấy giờ vẫn chưa được coi là thể tài chính thống. Trong

công trình lí luận lớn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp có đề cập đến hai mươi thể

tài văn học nhưng không hề có tiểu thuyết.

Đến đời Đường, nhà văn và tác phẩm nhiều thêm, người ta đã coi tiểu

thuyết truyền kì là sản phẩm của triều đại nhà Đường, với sự phồn thịnh chưa

từng có: “Tác phẩm nhiều, tác gia danh tiếng cũng nhiều, hết thảy các thiên

truyện ưu tú nhất hầu như đều sản sinh vào giai đoạn này”. Bùi Hàng đời Đường

đã viết rất nhiều truyện hiệp khách có màu sắc thần bí như Côn Lôn nô, Nhiếp

ẩn nương… được xã hội chào đón. Nhà nghiên cứu văn học Ngô Điều Công cho

rằng: "Truyền kì vốn là tên riêng của tập tiểu thuyết của Bùi Hàng đời Đường.

Về sau, người ta gọi chung tiểu thuyết đời Đường là truyền kì". Tiểu thuyết

truyền kì đời Đường đã đánh dấu một bước quan trọng trên con đường phát triển

của tiểu thuyết Trung Quốc. Lúc đầu, trong truyền kì vẫn còn một số ít truyện

chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái thời Lục Triều (Cổ kính kí, Bạch Viên

truyện, Du tiên quật). Dần dần hơi thở cuộc sống hiện thực đã áp đảo "không khí

ma quỉ", rồi chuyển sang với chuyện tình yêu giữa tài tử giai nhân (Liễu nghị

truyện, Lí Oa truyện, Oanh Oanh truyện). Thời kì cuối, điểm nổi bật là có nhiều

truyện nói về hào sĩ hiệp khách. Đây cũng là thời kì phồn vinh của tiểu thuyết

truyền kì, có nhiều tác giả với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong lịch sử phát triển

tiểu thuyết Trung Quốc, vì thế, giai đoạn này đánh dấu một bước chuyển biến

lớn, từ thô sơ đến tinh vi, hoàn mĩ, có vị trí nhất định trong văn học sử.

Nội dung truyện truyền kì Trung Quốc thường đề cập đến những chuyện

lạ lùng, hoang đường, kì quái, nhưng mục đích là phản ánh thế giới trần tục của

con người, quan hệ gia đình, cha con, vợ chồng, anh em, quan hệ tình ái, số phận

người tài sắc... trước những biến động của xã hội phong kiến. Trong quan niệm

của giai cấp thống trị phong kiến, thể loại này luôn mang tư tưởng "nổi loạn" qua

việc phản ánh tính hữu biến của cuộc đời, vĩnh viễn của trật tự phong kiến. Nó

thường mang tư tưởng dân chủ và nhân đạo. Lỗ Tấn – nhà văn hiện thực hàng

đầu Trung Quốc đã nhận xét: Về nội dung thì truyện truyền kì khó phân biệt với

truyện chí quái đời Lục triều, song về nghệ thuật kể chuyện thì đã mới hẳn. Lời

kể uyển chuyển, lời văn hoa mĩ. Truyện chí quái thì chủ yếu là ghi chép (chí),

xếp theo điều mục, còn truyện truyền kì thì học theo bút pháp sử truyện. Do đó,

nhan đề thường có chữ "truyện". Cái gọi là truyền kì chủ yếu là truyền cái kì

trong tình yêu nam nữ, và cái kì trong thế giới thần linh ma quỉ.

Hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển, truyện truyền kì đã để lại những

thành tựu rực rỡ trong kho tàng văn học Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến các

nước phương Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần

phải nhấn mạnh trong quá trình ảnh hưởng này đó chính là tham vọng đồng hoá

các dân tộc láng giềng của Trung Quốc. Xưng mình là "Hoa Hạ", người Trung

Hoa thời xưa đã tự khoác cho mình một sứ mệnh “khai hoá văn minh cho các

dân tộc man di", vì thế, từ thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh không

đời nào người Hoa không mở chiến dịch bành trướng các dân tộc lân cận với ý

đồ đồng hoá nền giáo dục, văn học, tư tưởng... theo “kiểu Tàu”. Tuy nhiên, với

tính cách, bản lĩnh và sự linh lợi của một dân tộc nhỏ, Hàn Quốc, Việt Nam,

Nhật Bản đã tiếp biến văn hoá Trung Hoa để làm giàu có hơn vốn văn hoá của

dân tộc mình.

Những truyện tiêu biểu và có ảnh hưởng nhất của truyền kì cổ Trung Quốc

tới truyền kì Việt Nam như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Chẩm trung kí và

Nhậm thị truyện của Thẩm Kí Tế, Oanh Oanh truyện của Nguyên Chẩn,

Trường hận ca truyện và Đông Thành lão phu truyện của Trần Hồng… Cuối

thời Đường, truyền kì bị tha hóa. Nhưng đến đời Minh Thanh, văn học Trung

Quốc lại chứng kiến một bước khởi sắc của tiểu thuyết truyền kì với một đỉnh

cao chưa từng thấy: bộ sách Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.

1.1.2.2. Bảy thế kỉ truyền kì Việt Nam

Trên cơ sở của mối quan hệ giao lưu văn hoá, văn học, luôn tiếp thu tinh

hoa, văn học Việt Nam ngay từ những bước đi đầu tiên đã nhanh chóng “nhập

dòng” với quĩ đạo của văn hóa Đông Á mà Trung Quốc là nền văn hóa kiến tạo

vùng. Các tác giả văn học trung đại Việt Nam đã nhanh chóng chịu ảnh hưởng

và học tập phong cách viết truyện truyền kì của Trung Quốc. Nhưng với truyền

thống riêng và bản sắc văn hoá đậm đà vốn có của dân tộc, những tác phẩm văn

học truyền kì Việt Nam vẫn mang đậm dấu ấn của tâm hồn người Việt Nam, là

tiền đề không nhỏ cho sự phát triển rực rỡ của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau

này.

Thời Lí, Trần, Việt Nam đã có các dạng truyện u linh, chích quái, thần dị,

truyền kì, thư dị, dị lục… (Việt điện u linh tập lục, Thiền uyển tập anh, Lĩnh

Nam chích quái liệt truyện, Tam tổ thực lục, Thánh đăng ngữ lục…) những

dạng truyện kì ảo nối tiếp nhau trong tiến trình lịch sử. Tác phẩm được coi là mở

đầu cho truyện kì ảo Việt Nam là Việt điện u linh tập lục của Lí Tế Xuyên,

được ông soạn và viết lời tựa vào năm Khai Hựu thứ nhất đời Trần Huệ Tông

(1329), tập hợp nhiều sự tích có sẵn, gồm hai mươi bảy truyện được chia thành

ba phần: lịch đại đế vương, lịch đại phụ thần và hào khí anh linh. Tác phẩm thể

hiện niềm tin, niềm tự hào vào lí tưởng tốt đẹp của cha ông ta thời xưa.

Vậy mà thời kì đầu, truyền kì bị phê phán và xếp vào hàng mê tín đị đoan,

cần bài trừ. Trong 47 điều giáo hóa mà chúa Trịnh sai Phạm Công Trứ soạn vào

năm 1663, đến 1760 Nhữ Đình Toản đem diễn Nôm, có đoạn:

Kì như Thích, Đạo phi kinh

Lời tà mối lạ tập tành truyện ngoa

Cùng là truyện cũ nôm na

Hết thơ tập ấy lại ca khúc này

Tiếng dâm dễ khiến người say

Chớ cho in bán, hại nay thói thuần…

Chính quyền phong kiến Việt Nam bảo thủ và lạc hậu lúc bấy giờ đã xếp

truyền kì, truyện Nôm vào diện văn hóa phải bài trừ cùng với Thích, Đạo “dị

đoan” (những chuyện huyền hoặc vô căn cứ, khác với Nho giáo), mặc dù hai thể

loại này đang rất phát triển và tiềm năng còn rất lớn. Nhưng cuối cùng, sức cuốn

hút, hấp dẫn của hai thể loại ấy vẫn lôi kéo độc giả và tác giả. Nhất là khi đỉnh

cao Truyền kì mạn lục xuất hiện.

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ ra đời vào những năm đầu thế kỉ XVI

trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Với những nội dung giàu ý nghĩa xã

hội và nghệ thuật đặc sắc, người đương thời đã tôn vinh Truyền kì mạn lục

bằng những mĩ từ xứng đáng như tập "thiên cổ kỳ bút" (Vũ Khâm Lân), "áng văn

của bậc đại gia" (Phan Huy Chú) trong kho tàng văn học trung đại nước nhà.

Áng văn ấy đã mang lại vị thế mới cho truyền kì, và góp phần vào sự phát triển

của văn xuôi dân tộc.

Từ giữa thế kỉ XV cho đến những năm đầu thế kỉ XIX là một thời kì dài

với nhiều phong ba bão táp, nhưng truyền kì vẫn đạt tới sự cực thịnh, phong phú

về nội dung, độc đáo về nghệ thuật và đặc biệt cực kì phát triển về số lượng.

Trong quá trình nghiên cứu thể loại truyền kì, PGS. TS Vũ Thanh đã tạm phân

loại truyền kì thành ba dòng truyện chủ yếu: Dòng truyện truyền kì cổ điển

(Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả - hay Tục truyền kì);

Dòng truyện kí truyền kì (Công dư tiệp kí, Lan Trì kiến văn lục, Thoái thực kí

văn…); Dòng truyện truyền kì cải biên (Thiên nam vân lục liệt truyện, Tân đính

Lĩnh Nam chích quái…). Theo đó, thì đối tượng nghiên cứu của luận văn hầu hết

thuộc dòng truyện kí truyền kì, điều này sẽ được khẳng định chắc chắn hơn trong

chương 2 của luận văn này.

1.2. Truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: Vài nét về

hoàn cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa, văn học

1.2.1. Bối cảnh chính trị xã hội, văn học

Đây là giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và bùng nổ dữ dội của những mâu

thuẫn chất chứa từ lâu trong lòng xã hội phong kiến Việt Nam, chế độ chuyên

chế bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và không có lối thoát. Nền kinh

tế suy sụp một cách toàn diện, nông nghiệp đình đốn, công thương nghiệp và

công nghiệp đều bị đình trệ, đời sống nhân dân đói kém. Về chính trị, bộ máy

chính quyền phong kiến giai đoạn này vừa chuyên chế lại vừa sâu mọt. Hậu quả

của việc nội bộ giai cấp phong kiến vốn đã mâu thuẫn gay gắt từ thế kỉ XVI, hết

chiến tranh Lê – Mạc rồi lại đến Trịnh – Nguyễn. Nhà Mạc tiếm ngôi vua Lê,

nhưng nhà Hậu Lê vẫn tồn tại song song với nhà Mạc từ năm 1533 đến 1592.

Với danh nghĩa phò Lê, chúa Trịnh đã đánh đổ nhà Mạc, nhưng trên thực tế, vua

Lê chỉ ngồi làm vì, bao nhiêu quyền lực nằm trong tay chúa. Đây là thời kì bộ

máy nhà nước vô cùng rắc rối, Đàng Ngoài thì chúa Trịnh lộng quyền, Đàng

Trong thì triều Tây Sơn bại dưới tay Nguyễn Ánh. Nhưng thực tế thì chế độ

phong kiến cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều đã rơi vào khủng hoảng trầm

trọng và sụp đổ.

Không chỉ thế, mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp thống trị cũng rõ rệt.

Trịnh – Nguyễn song song tồn tại từ năm 1558 đến năm 1789 gây ra biết bao

nghịch cảnh cho quần chúng, bao loạn li, chết chóc. Với tình hình ấy, sự bùng nổ

của phong trào khởi nghĩa nông dân là điều không thể tránh khỏi. Những cuộc

đấu tranh liên tục và quyết liệt góp phần làm tan rã sự thống nhất trong nội bộ

chính quyền phong kiến và đẩy những mâu thuẫn xã hội lên cao hơn. Đến giai

đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, phong trào nông dân khởi nghĩa mạnh

như vũ bão, tiêu biểu hơn cả là cuộc nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn trong

khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đã quét sạch thù trong giặc ngoài, thống

nhất đất nước nhưng cuối cùng thất bại. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn được

thiết lập với một thể chế nặng nề hơn trước. Sau đó, đất nước ta trong cơn khủng

hoảng đã rơi vào họa xâm lăng của thực dân Pháp.

Phát triển trong điều kiện như thế, văn học giai đoạn này mang đặc trưng

cơ bản có tính lịch sử là sự khám phá và khẳng định những giá trị chân chính của

con người. Nền văn học giai đoạn này có rất nhiều thành tựu, văn học viết bác

học, Văn học viết bình dân đều phát triển chưa từng có và trở thành giai đoạn rực

rỡ nhất trong lịch sử văn học nước nhà. Văn học viết bằng chữ Hán vẫn tiếp tục

phát triển trên nền tảng chắc chắn của những thế kỉ trước; đồng thời các tác giả

đã tìm tới thứ chữ dân tộc nhiều hơn, vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc,

vừa dễ dàng hơn trong việc đi sâu phản ánh những ngóc ngách tâm tư tình cảm

sâu kín nhất của con người, do đó văn học chữ Nôm phát triển mạnh. Ngoài lịch

sử, thiên nhiên cùng những vấn đề vĩ mô của đất nước, thì vấn đề con người,

cuộc sống của con người được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Cùng sự thay đổi

trong chủ đề, đề tài đó, ngôn ngữ và các thể loại văn học cũ như truyền kì, ngâm

khúc… đều có những bước tiến vượt bậc, nhiều thể loại mới, hấp dẫn người sáng

tác văn chương đã ra đời và ngày càng phát triển (trong đó nổi bật phải kể đến

truyện Nôm – một trong những thể loại đạt đến đỉnh cao của văn học Việt Nam,

hát nói và tuồng – đều có những thành tựu riêng). Các thể loại văn học này đã

tạo nên diện mạo đa sắc cho văn học Việt Nam. Mỗi thể loại đều có thể chọn ra

vài ba tác phẩm tiêu biểu của nó, và vài ba tác phẩm ấy có thể tạo thành một âm

sắc, một diện mạo đặc trưng góp phần vào diện mạo chung của văn học dân tộc.

Trong đó, thể loại truyền kì chính là một bộ mặt khác lạ nhất.

1.2.2. Thời kì nở rộ của thể loại truyền kì

Sau đỉnh cao Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, thể loại truyền

kì đã có một bước chững lại, thời gian sau đó – tức là từ giữa thế kỉ XVI đến hết

thế kỉ XVII – truyền kì vắng bóng trên văn đàn. Dường như không có nhà văn

nào đi theo con đường mà Nguyễn Dữ đã đi nữa, dường như việc sử dụng yếu tố

kì ảo như một công cụ nghệ thuật chính trong tác phẩm đã không được các tác

giả cũng như độc giả lúc bấy giờ đón nhận. Điều này dễ hiểu và có thể giải thích

được! Bởi sự chững lại sau mỗi đỉnh cao dường như là một qui luật tất yếu của

văn học, mà Truyền kì mạn lục chính là một đỉnh cao khó vượt, một cái tháp mà

mọi nhà văn trung đại chỉ biết nhìn và chiêm ngưỡng, tự lượng sức mình chỉ trèo

lên được từng tầng chứ chưa thể leo lên đỉnh tháp, huống hồ phá nó đi và xây

ngọn tháp cao hơn? Và có lẽ cũng bởi lòng tự tôn của các tác giả trung đại –

phần nhiều là nhà nho – quá lớn, nên cách ứng xử tốt nhất của họ lúc đó là “tạm

lánh” địa hạt đã có sự tồn tại của “ngôi vua”. Một lí do nữa dẫn đến sự vắng

bóng của truyền kì giai đoạn này cũng bởi quan niệm coi truyền kì là thể loại mê

tín dị đoan, cần bài trừ của người đứng đầu thể chế lúc bấy giờ (như trong phần

1.1.2.2 chúng tôi đã nêu). Nhưng chủ yếu vẫn là do phong trào thực học, hướng

đến thực tiễn. Bắt đầu từ thời kì này, các nhà nho bắt đầu lấy cuộc sống thực làm

lăng kính soi chiếu vào tác phẩm và là thước đo đánh giá giá trị của tác phẩm.

Chính vì thế, các tác giả và độc giả đã phải tránh việc sáng tác, sưu tầm, lưu giữ

và tận hưởng những câu chuyện mang màu sắc kì ảo ấy.

Như thể sự tạm vắng ấy là một bước chuẩn bị cho cú bùng nổ ở giai đoạn

sau. Bao dồn nén, bao khát khao, ấp ủ chờ dịp được bung ra và kết thành từng

chùm hoa rực rỡ trên bầu trời văn hóa nghệ thuật trung đại đang xám một màu

ảm đạm. Bước vào thế kỉ XVIII, cùng với những biến chuyển tột bậc của nền

kinh tế chính trị, kéo theo những biến chuyển bên trong cá tính mỗi con người,

văn học được mùa bộc lộ những tâm tư. Thể loại truyền kì cũng đã đạt tới sự

thăng hoa nhờ một số lượng lớn tác giả, tác phẩm mà các giai đoạn trước chưa hề

có được. Các tác phẩm xuất hiện liên tục, phong phú và đa dạng, có tập truyện

như Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Tân truyền kì lục, Sơn cư tạp

thuật…, một số truyện trong Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút… có cả

những truyện đơn lẻ như Bích Châu du tiên mạn kí, Việt Nam kì phùng sự lục,

Ngọc thân huyễn hóa và hàng chục tập “tăng bổ”, “tục bổ”, cải biên hai cuốn

sách cổ Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh. Cùng với đó là sự đăng đàn

đĩnh đạc, đầy tự tin của các tác giả - nhà nho trung đại (Vũ Phương Đề, Vũ

Trinh, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nguyễn Huy Hổ, Gia Cát thị, Phạm Quí

Thích…), và một số lượng khá lớn các tác giả khuyết danh nhưng các tác phẩm

của họ vẫn còn lưu giữ được nhiều và nguyên giá trị cho đến tận ngày nay.

Cùng với số lượng phong phú, truyền kì giai đoạn này cũng không thuần

nhất về tính chất và có thêm những đặc điểm mới so với đỉnh cao thế kỉ XV-

XVII (những đặc điểm này chúng tôi sẽ nêu và phân tích cụ thể trong chương 2,

chương tiếp theo của luận văn).

* Tiểu kết (chương 1)

Trong chương 1, chúng tôi đã đưa ra và kiểm điểm quá trình phát triển

cũng như những thuật ngữ có liên quan với truyền kì, đó có thể là những thuật

ngữ tương đương hay những thuật ngữ có yếu tố phụ thuộc và bao hàm. Theo đó,

văn học kì ảo là cách gọi chung nhất khi người ta chưa xác định được cụ thể và

chưa dám định cho thể loại một cái tên riêng chuyên biệt. Còn cái kì chỉ là một

tính chất, một đặc điểm của thể loại truyền kì, đây sẽ là cơ sở cho việc tìm hiểu

những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện của truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu

thế kỉ XIX, mà đặc điểm quan trọng nhất chính là sự chuyển đổi trong mối quan hệ kì – thực 5. Chương 1 cũng đã phân tích và đi đến kết luận về cách dùng thuật

ngữ truyền kì (chứ không dùng các thuật ngữ tương đồng khác như linh – chí –

quái, kì, dị…) để làm tên gọi chung cho các tác phẩm cùng dòng văn học kì ảo

trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX là hoàn toàn thích hợp.

Truyền kì Việt Nam và cả truyền kì thế giới (mà tiêu biểu nhất là thành

tựu truyền kì ở các nước phương Tây và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền kì

Trung Hoa) đã trải qua ngót một ngàn năm tồn tại và phát triển. Khoảng thời

gian chưa phải là dài trong tiến trình dân tộc, nhưng lại là quá đủ để thử thách

giá trị và sức sống của một bản thể. Trong khoảng thời gian ấy, chưa bao giờ

truyền kì Việt Nam sung mãn và tỏa sáng trí tuệ tập thể như giai đoạn thế kỉ

XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, giai đoạn với những khủng hoảng sâu sắc và

nghiêm trọng nhất cả về thể chế chính trị lẫn nền kinh tế đất nước, ấy vậy mà

văn hóa, văn học nói chung và truyện truyền kì nói riêng lại khởi sắc với một sự

5 Xin xem cụ thể trong chương 3 của Luận văn

phong phú loại thể và những đỉnh cao hiếm có.

CHƯƠNG 2. NHỮNG XU HƯỚNG MỚI

TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH

2.1. Sự chuyển hướng trong tư tưởng

Tư tưởng là một bộ phận quan trọng của văn học. Tư tưởng trong văn học

có thể là tư tưởng tôn giáo, tư tưởng triết học, tư tưởng đạo đức, tư tưởng mĩ học,

nguồn gốc của nó có thể là từ tôn giáo, từ triết học, từ đạo đức học, từ mĩ học,

nhưng cũng có thể là đóng góp của chính bản thân văn học. Tư tưởng là quan

điểm cơ bản mà nhà văn muốn biểu đạt thông qua hình tượng của tác phẩm. Tác

phẩm có chất lượng cao hay thấp, giá trị lớn hay nhỏ, tác động mạnh hay yếu,

ảnh hưởng tốt hay xấu chủ yếu là do ở chủ đề. Các yếu tố khác như ngôn ngữ,

biện pháp… tuy đều rất quan trọng nhưng chúng chỉ phục vụ cho chủ đề và tư

tưởng chứ không phải là thước đo chủ yếu để xác định tác phẩm hay hay dở.

Tư tưởng là một hiện tượng phức tạp, cho nên khi nghiên cứu tư tưởng

trong văn học, chúng ta luôn phải chú ý đến tình trạng mâu thuẫn của nó. Tình

trạng này đặc biệt dễ xảy ra đối với các nhà văn ở những giai đoạn lịch sử xã hội

có nhiều biến động như giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX này.

Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng, các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ hai yếu

tố cần đặc biệt quan tâm, đó là “lí thuyết màu xám” và “cây đời xanh tươi” [thầy

dân, 170], ở đây có thể hiểu, chính là lí thuyết của đạo Nho và tâm trạng của tác

giả (hoài Lê, tư tưởng giải thoát của Lão Trang).

2.1.1. Trung thành với lí tưởng Nho gia

Tư tưởng từ bi bác ái của đạo Phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho

rất gắn với truyền thống yêu nước thương nòi của nhân dân Việt Nam. Đạo Phật

(trong phần tích cực của nó) đã làm giàu thêm tình thương giữa con người với

nhau và có lúc còn đưa đến những tư thế nhân sinh khỏe khoắn, lành mạnh. Đối

với học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho thì người Việt đã vừa tiếp thu, vừa cải

biến theo hướng dân tộc hóa, nhân dân hóa, ứng với mỗi thời kì biến thiên khác

nhau của lịch sử dân tộc thì Nho giáo lại có một sự thịnh suy riêng.

Sự kiện Lê trung hưng (chỉ giai đoạn nhà Lê tiếp tục lên ngôi chống nhau

với nhà Mạc, bắt đầu từ Lê Trang Tông, ở ngôi 1533 – 1548) cắm một mốc quan

trọng trong lịch sử tư tưởng Nho giáo, dẫn đến sự thay đổi to lớn của nội dung

quan niệm văn học và từ đây đã dẫn đến sự thay đổi căn bản trong nội dung và

hệ thống văn học các thế kỉ tiếp theo.

Cuối thế kỉ XVI – đầu thế kỉ XVII, triều Lê được khôi phục, kỉ cương Nho

giáo được vãn hồi. Kể từ đây, tư tưởng Nho giáo lại đè nặng lên đầu óc người

cầm bút, tâm lí sùng cổ lại trở thành cái xiềng xích. Các tác gia lịch sử một lần

nữa lại phải quay về con đường phục cổ, chiêm bái Việt điện u linh tập và Lĩnh

Nam chích quái lục. Dấu ấn hưng thịnh của đạo Phật thời nhà Trần chỉ còn le

lói trong Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, với tư tưởng “món nợ oan gia và

cái thuyết báo ứng của nhà Phật không phải là hư truyền” (Nhận ra mẹ đẻ).

Kiếp sau của sư bật sô là vua Minh sứ Bắc quốc, một vị quan Nam triều không

làm theo lời dặn của vua Minh mà “huyền cơ báo ứng họa phúc của nhà Phật sẽ

thấy ngay ở bản thân khanh và con cháu của khanh nữa”, để lại mối hận cho

những đời sau. Sư chăn trâu Linh Thông do Phật đầu thai xuống trần giúp dân,

khi về trời rồi vẫn giúp nhân dân chống nạn giặc Ngô. Ta bắt gặp những thuật

ngữ nhà Phật trong hai truyện này: “bật sô” (một loài cỏ thơm ở núi Tuyết Sơn,

Kinh Phật dùng hai chữ này để gọi người xuất gia), “Nước tám đức” (theo quan

niệm nhà Phật, nước ở trong ao cõi Cực Lạc và ở vùng biển núi Tu Di, Thất Kim

Sơn có tám đức: trong sạch, mát mẻ, ngon ngọt, mềm mại, mượt mà, điều hòa,

trừ được đói khát, phá bỏ được các căn chướng), “nghiệp chướng”… Dấu tích

của đạo Phật hoàn toàn lu mờ và biến mất trong tất cả các tập truyện truyền kì

khác. Ta chỉ thấy xuất hiện thật đậm nét tư tưởng Nho gia, lí tưởng cửa Khổng

sân Trình hoàn toàn phù hợp và được tôn vinh trong thời đại này.

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức. Nền thịnh trị của thời

Nghiêu – Thuấn được các nhà nho Việt Nam xem như một mô hình xã hội lí

tưởng. Để xây dựng xã hội lí tưởng đó, cần có một bộ máy cai trị với những ông

vua, vị quan sáng suốt, yêu thương dân, có trách nhiệm đối với dân. Đạo Nho

được hình dung rất đúng là đạo nội thánh ngoại vương, tu kỉ trị nhân (tu thân

theo mẫu thánh nhân để cai trị thiên hạ). Thánh nhân quân tử là mẫu hình nhân

vật lí tưởng của Nho gia, bao gồm từ các bậc vua chúa, thánh nhân, anh hùng,

đến cả Nho gia, Thiền sư, và những nhân vật nổi danh, tài đức lỗi lạc hoặc có nét

phi phàm xuất chúng. Cụ thể là các nhân vật lịch sử thuộc các loại “thế gia”,

“danh thần”, “danh nho”, “tiết nghĩa”… (những bậc tôi trung, con hiếu, kẻ sĩ

nghĩa hiệp, đàn bà trinh liệt…), kể cả các truyện “thần quái”, “âm phần dương

trạch” cũng xa gần gắn với loại truyện thánh nhân quân tử.

Qua việc khảo sát cụ thể hai mươi hai truyện trong Công dư tiệp kí của

Vũ Phương Đề, chúng ta có thể thấy tập truyện này phản ánh rất rõ phạm vi nhân

vật được nhà nho quan tâm.

Bảng phân loại loại nhân vật trong Công dư tiệp kí

- Kiếp sau của sư Bật Sô

- Thượng thư Lương Hữu Khánh

- Tìm đất đền ơn - Thủ khoa mặt

- Ác báo - Bố già lặn

- Giao long ngủ nhờ

- Sư chăn trâu linh thông

- Nhận ra mẹ đẻ - Tiến sĩ ăn khỏe

đẹp - Dóng ngựa thi

xuống vực tìm con gái

- Ông Hổ - Chuột đậy

- Nguyễn Giám sinh là vua đất Bắc

- Thám hoa được giáng xuống Phù

thơ - Họ Trương cao

mặt, biết điềm lành dữ

- Chôn xương bụng ngựa

Khê - Thần miếu Kim

cờ

- Dùng nhan sắc, nhà

Tung

Thế gia Danh thần Danh nho Tiết nghĩa Thần quái

Trần lấy thiên hạ

- hoa Thám Nguyễn Đăng Cảo

5 truyện

6 truyện

4 truyện

2 truyện

3 truyện

(22,73%)

(27,27%)

(18,19%)

(9,09%)

(13,64%)

Trong 22 truyện của Công dư tiệp kí, chỉ còn Nghề mọn nên quan và Kẻ

trộm lừa thần thánh là không có yếu tố chủ đạo về những bậc thánh nhân quân

tử, nhưng Nghề mọn nên quan cũng là truyện thuộc kiểu “âm phần dương

trạch”, từ đó có thể thấy được mối quan tâm và loại nhân vật hàng đầu trong tác

phẩm của các tác giả truyền kì giai đoạn này, nó thể hiện phần nào tư tưởng của

người theo đức Khổng.

Gắn với những nhân vật thuộc loại thánh nhân quân tử ấy cũng sẽ phải là

những không gian rộng lớn, vĩ mô, mang tầm vóc vũ trụ. Thông thường, các

nhân vật sẽ hoạt động trên phạm vi không gian một vùng, một quốc gia hoặc liên

quốc gia. Quan Quận công họ Điền trong Thần miếu Kim Tung – Công dư tiệp

kí vâng mệnh triều đình đi đắp chỗ đê vỡ, đánh nhau với thủy thần, ấy là ông đã

thực hiện nhiệm vụ đánh dẹp cuộc nổi loạn trong vùng. Còn rất nhiều những

viên quan, những danh thần khác thì đều làm công việc của một quan lại bình

thường phải làm, nghĩa là trấn thủ một vùng nào đó, đóng vai trò cha mẹ của dân

ở vùng đó, đảm nhận công việc triều chính liên quan đến quốc kế dân sinh, là

cầu nối giữa triều đình và người dân cùng đinh, ấy là họ đã đại diện cho quốc

gia. Một dạng thức không gian đặc biệt nhất, thể hiện được nhiều nhất phẩm chất

của một bậc chính nhân, đó chính là không gian liên quốc gia (đi sứ các nước),

như ông Tiến sĩ ăn khỏe – Công dư tiệp kí đi sứ đất Bắc. Rất hiếm gặp loại

không gian vi mô như con đường, mảnh vườn, bến đò, mái nhà vốn gắn liền với

cuộc sống riêng tư nhiều hơn là hoạt động chính trị xã hội. Như thế, cái nhìn

không gian cũng mang đậm nét quan niệm Nho gia về “thiên hạ”, về “tam tài”

thiên – địa – nhân, những danh thần, danh nho, tiết phụ… phải là những con

người của trời đất, thiên hạ cũng phải được cai quản bởi những đấng bậc kì tài

này.

Những hoạt động xã hội truyền thống của nhân vật theo lí tưởng Nho gia

từ xưa đến nay là thi cử, đỗ đạt, làm quan. Theo khảo sát của chúng tôi, ngoài

sáu truyện nói về việc thi cử, thì những truyện nói về việc làm quan chiếm số

lượng rất nhiều, ví dụ như: Thượng thư Lương Hữu Khánh, Thám hoa được

giáng xuống Phù Khê, Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo… (trong Công dư tiệp

kí); Quan Thượng họ Đỗ, Chuyện quan Quận ở Liên Hồ… (trong Lan Trì

kiến văn lục); Ông Nguyễn Duy Thì, Ông Nguyễn Văn Giai, Tướng quân

Đoàn Thượng… (trong Tang thương ngẫu lục)… Số liệu thống kê số khoa thi,

số tiến sĩ của từng triều đại Việt Nam từ năm 1075 đến năm 1919 tuy có khác

nhau theo từng tài liệu chúng tôi tìm được [35, 15 và 30, 22], nhưng có một điều

thống nhất chung, đó là số khoa thi và số tiến sĩ của triều Lê luôn nhiều nhất so với các triều Lí, Trần, Hồ, Mạc, Nguyễn 6. Điều đó không chỉ thể hiện chính

sách chiêu hiền đãi sĩ, trọng dụng quan tước của nhà Lê mà còn phần nào thể

hiện và lí giải được được sự phát triển của lí tưởng trung quân và khát vọng thi

đỗ, làm quan trong triều Lê của giới nho sĩ.

Theo quan niệm Nho gia, một trong những dấu hiệu bộc lộ tài năng thiên

phú, khiến cho nhân vật ấy khác thường là tài thơ văn, tài năng văn chương

dường như đi liền với nhân cách “Văn chương nết đất, thông minh tính trời”.

Hơn nữa, qua thơ văn xưa có thể đánh giá được phẩm chất, năng lực hoạt động

chính trị - xã hội của nhân vật. Do vậy có rất nhiều truyện nhắc đến tài năng này,

như sáng tác thơ văn, xuất khẩu thành thơ, ứng đối nhanh nhẹn… của các nhân

vật. Chàng họ Đào trong Con chó nhà nghèo có nghĩa (Tân truyền kì lục –

Phạm Quí Thích) được miêu tả “Đặc biệt có tài văn thơ, qua những nơi danh

lam, cổ miếu, quán tránh rét, đài hóng mát, chỗ nào có thể ngâm vịnh được, 6 Xin xem một vài số liệu thống kê cụ thể trong Phụ lục 1

chàng đều có phẩm đề. Lời văn tinh luyện, ngụ ý sâu xa, người bấy giờ khen là

bậc chủ soái trong làng thơ văn”. Thơ văn không chỉ là công cụ để thể hiện khát

vọng, hoài bão chính trị, chí khí của nhân vật mà còn là phương tiện giúp cho

nhân vật đỗ đạt, tham gia vào việc triều chính. Vũ Phương Đề còn dành toàn bộ

một truyện để miêu tả về cuộc thi thơ giữa hai vị quan tương lai của triều đình

(Dóng ngựa thi thơ). Qua thơ có thể biết được tài năng của kẻ sĩ, cũng như chí

hướng và bản lĩnh của họ.

Nguyễn Khắc Viện khi Bàn về đạo Nho đã chỉ ra con đường trở thành “kẻ

sĩ hiện đại” của các nhà nho. Quan điểm của ông làm ngời lên một con người

đạo lí với nhiều nét mới, khác với những nhà nho lạc hậu của thời đại trước

[nkv-bvdn]. Có hai loại Nho giáo: Nho giáo của các tri thức nho sĩ thời kì lãng

mạn với niềm tin không tưởng vào vai trò xây dựng thế giới của nó và có Nho

giáo của thời kì tỉnh mộng, thất vọng đối với vai trò của nó. Trong thế kỉ XVIII,

sự khủng hoảng trên qui mô toàn quốc – cả ở Bắc Hà – của chế độ phong kiến đã

cho chúng ta thấy trạng huống thê thảm của Nho giáo với tư cách là hệ ý thức

chính thống của chủ nghĩa phong kiến. Đọc lại Hoàng Lê nhất thống chí ta sẽ

thấy tương đối rõ ràng mọi sự. Khủng hoảng xã hội, nông dân khởi nghĩa liên

miên và ở khắp các phía. Đó là tiền đề cho sự xuất hiện một hiện tượng Hồ Xuân

Hương trong thi ca, một Truyện Kiều của Nguyễn Du – tập đại thành của văn

chương cổ điển nước ta thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, song cũng lại phản ánh

trong nó sự rạn nứt của những quy phạm, chuẩn mực (nôm), văn học Nho giáo

để bước đầu tiếp cận với sự sáng tạo hiện thực chủ nghĩa. Nhưng, sang thế kỉ

XIX, với sự độc tôn Nho giáo, cũng là độc tôn vai trò hoàng đế thì trong văn

chương, thi ca, văn hóa cũng chứng kiến một cảnh tượng quay lại Nho giáo như

vậy. Nho giáo trong thời kì đầu thế kỉ XIX đã góp phần củng cố ách thống trị của

vương triều Nguyễn, đóng vai trò “gông cùm” chính trị, tư tưởng cho triều đình,

ngăn chặn sự chống đối của Nhân dân.

Nhưng dù ở thời đại nào, thì một trong những biểu hiện lí tưởng nhất của

Nho gia chính là tấm lòng trung quân của kẻ sĩ. Tấm lòng ấy không chỉ hiện diện

trong lúc hưng thịnh của vương triều, mà khi vương triều thất thế, vẫn để lại

trong lòng những cựu thần bao nỗi luyến lưu, bao day dứt vì nỗi lòng hoài Lê.

2.1.2. Day dứt vì cõi lòng hoài Lê

Thời kì này, bên cạnh những giáo lí quen thuộc của đạo Nho, thì ta còn

thấy rất rõ tư tưởng hoài Lê. Tất nhiên, đặc điểm này do hoàn cảnh lịch sử quy

định, khi mà triều đại nhà Lê đã đi vào dĩ vãng, để lại niềm tiếc thương, hoài

niệm cho bao tâm hồn nhạy cảm.

Khi viết truyện về quá khứ, người cầm bút có thuận lợi đáng kể, ví như:

các sự kiện lịch sử đã ở vào thế ổn định, trắng – đen, phải – trái rõ ràng; các nhân

vật lịch sử về cơ bản đã được hoặc thừa nhận hoặc phê phán, hoặc đã chết, do

vậy người cầm bút không phải chịu quá nhiều sức ép từ phía dư luận. Nhưng

phản ánh trực tiếp hiện thực đương thời, viết về những sự kiện đang vận động thì

khác. Bởi vì khi đó, lịch sử đang diễn tiến, các xu thế xã hội đang đan xen nhau,

cái nhất thời và cái bản chất dễ lẫn lộn. Người cầm bút không chỉ là nhân chứng

lịch sử, mà còn vừa là tác giả, vừa là nhân vật ngay chính trong tác phẩm của

mình. Cái thiên kiến cá nhân rất dễ chi phối quan điểm của tác giả, nếu như nhãn

quanh lịch sử tinh nhạy và dự cảm không đủ mạnh để nhìn ra chân lí và xu thế

tất yếu, kết cục của xã hội.

Vũ Phương Đề biên soạn và đề tựa sách Công dư tiệp kí vào năm Cảnh

Hưng thứ mười sáu đời vua Lê Hiển Tông (1755), vì thế ông có cái ưu thế của

người phản ánh trực tiếp hiện thực, đặc biệt là ngợi ca chế độ chính trị đương

thời. Truyện của ông hầu hết viết về các nhân vật lịch sử thời đó. Dùng nhan

sắc, nhà Trần lấy thiên hạ cuối cùng lại là sự suy vong của nhà Trần: “Có lẽ

nhà Trần trị vì được bấy nhiêu năm cũng là do ở mệnh trời, chứ sức người làm

thế nào được”, cũng gián tiếp thể hiện sự ủng hộ của mệnh trời đối với nhà Lê –

triều đại vua sáng tôi hiền sau thời hưng thịnh của nhà Trần. Nguyễn Giám sinh

làm vua đất Bắc thì lại là một lời ca ngợi vị vua Lê đương thời, đúng chân mệnh

thiên tử, khiến cho Nguyễn Giám sinh vốn được Thượng đế sai xuống trần gian

làm đế vương đã phải bỏ đi vì: “vị nhân chủ hiện nay phúc trạch đang thịnh, một

nước không nên có hai vua, nên tôi lại phải trở về Thiên đình để giáng sinh

xuống nước khác”. Dóng ngựa thi thơ có nói về chi tiết “họ Mạc mất, triều ta

trung hưng”, thể hiện rất rõ cái tự tôn, tự hào của triều thần nhà Lê, khi nhà Lê

tiếp tục lên ngôi chống nhau với nhà Mạc (bắt đầu từ Lê Trang Tông, ở ngôi

1533 – 1548).

Đến Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh, cõi lòng Hoài Lê đã bắt đầu bộc

lộ rất rõ. Điều này cũng dễ hiểu, bởi ông xuất thân từ một gia đình có nền nếp thi

thư. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, ông nội Vũ Trinh đỗ tiến sĩ đời Lê,

làm quan đến Thượng thư bộ Binh; cha ông cũng đỗ Hương tiến, làm đến chức

Tham nghị. Bản thân Vũ Trinh mười bảy tuổi đã đỗ Hương tiến, được tập ấm

chức Tri phủ Quốc Oai trên dưới mười năm khi tuổi còn rất trẻ (Giấc mộng lạ kể

một khoa thi “thời bản triều ta” với đề bài là “Thiên hạ đại đồng” (khắp thiên hạ

đều thái bình thịnh trị như nhau)). Sách xưa chép Vũ Trinh đã có công can vua

Lê Chiêu Thống giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Bắc Hà tạm tránh được sự tổn thất của

một cuộc thanh toán nội bộ lớn; lại có lần cùng cha đón vua Lê về nhà, phò vua

chạy nạn, dốc hết gia sản để lo việc quân; rồi một mình đem rượu thịt khao quân

Tôn Sĩ Nghị, trả lời trôi chảy mọi việc. Từ đó có thể thấy Vũ Trinh không chỉ là

người có bản lĩnh và tài tổ chức, đáng quí trọng hơn nữa là sự hết lòng với nhà

Lê, vì thế sau này đã được Chiêu Thống tín nhiệm, giao cho giữ chức Tham tri

chính sự. Vũ Trinh là người theo Nho học, đạo lí trung quân được ông thấm

nhuần từ nhỏ, gia đình ông lại chịu ơn sâu nặng của vua Lê nên giữ tình cảm

chung thủy với nhà Lê. Dù xảy ra mọi biến cố, Chiêu Thống trong quan niệm

của ông vẫn là vị vua “chính mệnh”. Nguyện vọng của ông vẫn là bảo vệ nhà Lê,

tên hiệu Duy Chu (giữ gìn nhà Chu) của ông biểu hiện tư tưởng đó. Khi nhà Tây

Sơn lên nắm quyền, ông lẩn trốn về vùng thôn dã, giữ ý nguyện “trung thần bất

sự nhị quân”, không chịu ra làm đình thần của vương triều mới (Bà phu nhân

Lan Quận công nói về một người học trò tài giỏi nhưng mệnh trời không cho

làm quan nhà Mạc, mãi đến đời Lê Trung hưng mới đỗ, đem tài ra giúp nước

giúp dân). Trong Lan Trì kiến văn lục còn có truyện Gấu, hổ chọi nhau dường

như bao hàm ngụ ý nhà Lê và nhà Mạc phân tranh, để rồi cuối cùng nhà Nguyễn

lại đắc lợi.

Bên cạnh những bài ca hùng tráng, mạnh mẽ, biểu hiện khát khao cống

hiến của các nho sĩ thì cũng có những giọng điệu u hoài, buồn bã, thực ra cũng

không thể xem nó là mặt yếu đuối trong tâm hồn tác giả, phản ánh những khía

cạnh tiêu cực, ủy mị. Trong tiếng hát ai oán này thực sự dồn nén lại những đau

khổ mất mát của con người. Trong tiếng hát sâu xa ấy cũng gợi nên bao luyến

tiếc, mong ước về quyền sống tự do, về vương triều cũ. Nội dung ấy có tác dụng

gợi nhớ và kích thích tình cảm dân tộc và những tình cảm nhân ái của con người.

Dĩ nhiên, chất u buồn ở đây không có gì là giống với sự ủy mị, chán chường như

trong các bài thơ của Chế Lan Viên nhớ một nước non Chàm đã mất… Điều này

thể hiện tính chất dân chủ, có quyền biểu đạt những tình cảm riêng tư trong sáng

tác thời trung đại.

Trong Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án) có truyện

Ông Nguyễn Văn Giai, trung thần nhà Lê mà về sau vì miếng ăn không giữ

được mình, nói rõ lên sự thành bại của triều thần gắn với sự hưng thịnh của

vương triều. Truyện Thánh Tông Hoàng đế (Trong Tổng tập tiểu thuyết chữ

Hán Việt Nam còn có thêm các truyện về Hiển Tông Hoàng đế, Thần Tông

Hoàng đế) lại là lời hoài cổ ca ngợi vị vua thứ năm nhà Lê, người đã minh oan

cho Nguyễn Trãi, và được coi là bậc vua sáng triều Lê.

Tính hoài Lê đậm đặc và cũng rõ nét nhất trong Tân truyền kì lục của

Phạm Quý Thích, có lẽ được viết sau khi nhà Lê đã mất. Sách đầy đủ gồm một

bài tựa và ba truyện, nặng tính chất ngụ ngôn, nói về những con vật có tính nết

khác lạ, ngụ ý tâm sự hoài Lê. Con chó nhà nghèo có nghĩa là truyện tiêu biểu

nhất, mượn ngụ ngôn để biểu đạt lí tưởng chính trị theo tư tưởng Nho gia của tác

giả: “Mũ Chu, bệ Tống chắp nối cương thường, khoa Hán bảng Đường vẫn hằng

nuôi chí. Lại vui đạo thánh hiền, chăm đọc Thi, Thư, đâu có rỗi đi cày; nối lời

thầy Mạnh, dốc lòng nghĩa nhân, hà tất bàn chuyện lợi… Lấy trung để thờ vua,

dùng tín để đãi bạn; hiếu thảo với cha mẹ, hòa mục với tông tộc”. Đoạn văn

miêu tả lại lời con chó đối đáp với phú ông thật khiến cho người ta kinh ngạc,

không chỉ vì cảm sự trung thành của loài vật mà còn khâm phục sự học uyên bác

của nhà Nho: “Vật tuy khác người nhưng cũng có thiên chân, năm tính có sẵn,

bốn mối đều đủ. Vì vậy, voi của Minh Hoàng không chịu lạy Lộc Sơn, vượn của

Đức Tông nổi giận đánh Chu Tỉ, ngựa Xích Thố của Vân Trường đâu cam chịu

ràng buộc ở Kiến Nghiệp, Ô Truy của Tây Sở không thích chăn nuôi ở Giang

Đông”.

Không những vẻ hưng thịnh bị sút kém đi, mà thậm chí Nhà Lê đã không

còn đủ sức tồn tại nữa, những nguyên thần cũ trong lòng không khỏi nuối tiếc.

Tâm tình ái quốc ưu dân thể hiện trong văn học ngày một nặng nề thống thiết.

Nhưng họ phải tìm được lối thoát cho nỗi lòng đang bị đè nặng ấy. Các nhà thơ

Mới sau này khi chán thế sự đã lánh mình vào cõi mơ hoặc trốn trong những

“tinh cầu giá lạnh”, còn các văn sĩ thời trung đại, họ vô tình đã dựa dẫm vào tư

tưởng giải thoát trong giấc mộng của Lão Trang.

2.1.3. Dựa dẫm vào tư tưởng Lão Trang

Đồng thời với sự xuất hiện đậm nét của lí tưởng Nho gia và tâm trạng hoài

Lê là tư tưởng giải thoát của Lão Trang và các môtip thể hiện thầm kín ước vọng

giải thoát cũng xuất hiện rất nhiều, kiến giải cho những băn khoăn day dứt,

những dằn vặt của giới văn sĩ trước những biến động trùng trùng của đất nước.

Tích xưa Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, hớn hở như bướm vậy, tự

thấy thích quá đến nỗi không còn biết Chu là ai nữa, khi tỉnh dậy chỉ thấy có

Chu. Không biết Chu chiêm bao hóa bướm hay bướm hóa Chu nữa? Nhưng

mộng hay không mộng, người biến thành hoa bướm hay hoa bướm hóa hình

người, điều ấy tùy vào suy nghĩ của mỗi cá nhân. Như thế, cũng có nghĩa rằng,

việc thành hay không thành của một đời người có quan trọng lắm không là tùy

vào quan niệm mỗi người, mỗi kiểu giác ngộ khác nhau.

Sắc màu hư ảo do môtip “giấc mơ” tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người

đọc đi vào những chuyện tình lãng mạn, đồng thời cũng luôn gửi gắm một triết lí

nhân sinh.

Văn học Trung Hoa đồ sộ vốn ngập tràn điển cố về giấc mộng Nam Kha

(giấc hòa, chỉ công danh phú quí là hư ảo, đời người ngắn ngủi như giấc mộng),

giấc mơ hồ điệp (Trang Chu mơ thấy mình hóa bướm), giấc mộng hoàng lương

(tức giấc mộng chưa chín nồi kê vàng, chỉ việc tốt đẹp trôi qua nhanh như giấc

ngủ mê), giấc mai (mộng được uống rượu với người đẹp), giấc mộng Cao

Đường (hay đỉnh Giáp, non Thần, Vu Sơn, Vu Giáp… đều để chỉ giấc mộng

thấy thần nữ, tiên nữ hoặc chỉ cuộc mây mưa của trai gái)… Thậm chí, kể những

câu chuyện diễn ra trong mộng cũng là thủ pháp thường dùng của nhà viết kịch

nổi tiếng đời Minh là Thang Hiển Tổ (1550-1616). Ông có bốn vở kịch nổi tiếng:

Mẫu đơn đình (còn gọi là Hoàn hồn kí), Hàm đan kí, Nam kha kí, Tử thoa kí

(gọi chung là Lâm Xuyên tứ mộng) đều bắt đầu viết từ giấc mộng, trong đó

Mẫu đơn đình với những tình tiết li kì về cô gái Đỗ Lệ Nương vì theo đuổi tình

yêu và hạnh phúc với anh học trò Liễu Mộng Mai mà chết đi sống lại được

người đời yêu thích nhất, chính bản thân tác giả cũng tự nói: “Một đời có bốn

giấc mộng, đắc ý nhất là giấc mộng Mẫu đơn”. Tác giả đem câu chuyện chết rồi

sống lại, một chuyện không thể xảy ra trên thực tế thông qua trí tưởng tượng

lãng mạn bay bổng, lại được thực hiện trong giấc mộng và trong cõi u minh siêu

thực, gây nên một hiệu quả nghệ thuật đặc biệt [15, 103].

Lịch sử văn học Việt Nam cũng đã có khá nhiều tác phẩm ghi chép từ các

giấc mộng, như Hoa quốc kì duyên (Duyên lạ nước Hoa: Chu sinh nhà nghèo,

nằm mộng thấy mình lạc vào nước Hoa, và kết duyên cùng công chúa); hay một

số truyện trong Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ) trong hai mươi truyện thì có ba

truyện nhân vật chính nằm mơ và giấc mơ là nguyên cớ chủ yếu tạo ra câu chuyện 7. Rồi sau này. Gần gũi nhất có lẽ phải kể đến tác giả thuộc cùng thời kì

này, Nguyễn Huy Hổ chỉ với một thiên Mai Đình mộng kí và một Bích Châu du

tiên mạn kí mà các nhà nghiên cứu còn đang “ngờ là của Nguyễn Huy Hổ”. đã

vận dụng các ý tưởng về giấc mơ và “tìm đến tư tưởng Lão – Trang như một

biện pháp tinh thần hữu hiệu”, làm nơi ẩn lánh và giải tỏa những băn khoăn thời

cuộc của mình.

Trong truyền kì giai đoạn này, rất nhiều chuyện được kể lại sau khi tác giả

hoặc nhân vật tỉnh giấc mơ (theo thống kê của chúng tôi là 15 lần/86 truyện).

Trong mỗi giấc mơ, có người được gặp người thân đã chết của mình, có người

được gặp thánh thần trò chuyện, có người được cảnh báo về tương lai… Nói

chung, mộng mơ là cái cớ rất thích hợp để người ta tha hồ hư cấu, tưởng tượng

và truyền đạt suy nghĩ của mình: “Giấc mơ là biểu tượng của cuộc phiêu lưu cá

thể, được cất sâu trong tâm khảm, đến nỗi nó vượt ra khỏi vòng cương tỏa của

người sáng tạo ra nó. Giấc mơ hiện ra với chúng ta như là biểu hiện bí mật và

trơ trẽn nhất của chính chúng ta” [8, 164-170]. Người nguyên thủy rất khó xử

với các giấc mơ, những hiện tượng kì quái ngày thường nhìn không thấy, thậm

chí không thể tưởng tượng ra, nhưng khi nằm mơ thì lại nhìn thấy; rõ ràng là

7 Đó là các truyện Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa.

người đã chết nhưng khi nằm mơ lại thấy họ hiện về. Người nguyên thủy cho

rằng đó là do các linh hồn sống nhờ vào cơ thể đang hoạt động. Họ không biết

giải thích hiện tượng giấc mơ một cách khoa học, lại càng không thể giải thích

các hiện tượng tự nhiên. Họ quen dùng quan điểm thần linh để giải thích tất cả,

cho rằng non nước, cỏ cây, mặt trăng, mặt trời, gió mưa, sấm chớp đều có linh

hồn, toàn thế giới đều có linh hồn [15, 317].

Bên cạnh quan niệm chính thống (Nho giáo), các nhà văn thời kì này tìm

đến những bình diện nghệ thuật mới giàu cảm xúc hơn, đề cao chữ “tình” hơn

chữ “chí”. Có hiện tượng nhiều nhà thơ thế kỉ XVIII – XIX tâm đắc với câu nói

của Vương Nhung đời Tấn chép trong sách Thể thuyết tân ngữ: “Thanh nhân

vong tình, tối hạ bất cập tình, tình chi sở chung chính tại ngã bối” (Bậc thánh

quên tình, kẻ hạ ngu không đạt đến tình, nơi chung đúc của tình chính là bọn

chúng ta). Theo PGS.TS. Trần Nho Thìn, đời Tấn cũng là thời kì xuất hiện chủ

trương thi duyên tình nổi tiếng của Lục Cơ, chủ trương thoát ra khỏi quan niệm

thi ngôn chí của Nho gia [47, 76]. Nhưng chủ trương đề cao “tình” còn có một ý

nghĩa văn học sử khác. “Thánh nhân vong tình”, theo Phùng Hữu Lan, là câu nói

diễn đạt tư tưởng của Trang Tử. Bậc thánh nhân do nhận thức được “lí” (tức quy

luật tất yếu) nên không để cho tình cảm ủy mị chi phối. Cái gì xảy ra mà có tính

quy luật là không thể tránh khỏi (ví dụ như cái chết) thì không nên đau buồn, dằn

vặt, bởi vì thực ra có khi đó lại là một sự giải thoát.

Ngoài môtip giấc mơ xuất hiện nhiều nhất (15 lần/86 truyện), sự giải thoát còn được thể hiện qua rất nhiều môtip dân gian khác 8. Với quan niệm tạo thêm

cái kì cho nhân vật ngay từ khi chưa ra đời, các tác giả đã xây dựng những môtip

Thụ thai kì lạ, trong đó phần lớn những bà mẹ có mang trong những hoàn cảnh

thật đặc biệt, ví dụ như: “Mẹ ông nằm mơ thấy Phật giáng hạ, bèn thụ thai rồi

sinh ra ông” – Sư chăn trâu linh thông; hay truyền thuyết về người cha rái cá 8 Xin xem bảng thống kê sự xuất hiện của các môtip trong phần Phụ lục 2

của Đinh Bộ Lĩnh: “Một hôm bà đang tắm, bỗng một con rái cá lớn nhoài đến

ôm lấy bà rồi hãm hiếp. Bà trở về liền thụ thai, đến ngày tháng sinh ra chàng” –

Chôn xương bụng ngựa… Các nhân vật truyền kì nhiều khi cũng do thần tiên

trên trời đầu thai, giáng hạ, giải thoát kiếp nạn này bằng cách đầu thai vào kiếp

khác, nên ngày “mãn nguyệt khai hoa” của các bà mẹ cũng kì lạ. Môtip sự ra đời

kì lạ đánh dấu sự xuất hiện của nhân vật truyền kì: Cái đêm phu nhân Thái Công

sinh hạ con gái “có hương lạ thơm nức ở trong nhà, điềm lành soi vào cửa sổ”

bởi đó chính là Đệ nhị Tiên chủ Quỳnh Nương giáng sinh – Truyện nữ thần ở

Vân Cát; hay họ Nguyễn được Thượng đế phái xuống trần để làm đế vương cai

trị thiên hạ: “Lúc mới sinh ra có ánh sáng đỏ đầy nhà. Người nhà ngỡ là cháy,

đến khi định thần nhìn kĩ, thì chẳng thấy gì nữa” – Nguyễn Giám sinh làm vua

đất Bắc; trong loại môtip này cũng có trường hợp đặc biệt: “Nghe dưới mộ có

tiếng trẻ khóc mới đào lên thì thấy một đứa bé trai, rốn còn chưa rụng, nằm sấp

trên bụng mẹ, quằn quại khóc” – Sinh đẻ kì lạ…). Sự giải thoát còn thể hiện khá

rõ ràng trong những cái chết kì lạ (hóa đá, hóa cây, thành thần…) của các nhân

vật chính: Ba nhân vật nữ chính trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm

đều có cái chết anh hùng, họ đều hóa thành thần thánh linh thiêng, cứu giúp dân

lành và diệt trừ những người có tội; đây là biểu tượng cho những sự giải thoát

cao cả và hữu ích nhất: “Chùa dựng xong, ông làm một cái khám gỗ rồi ngồi vào

trong… Các tăng ni tuân theo lời dặn, đợi đến ngoài trăm ngày mới dám mở ra

xem, thì chẳng thấy gì cả, chỉ thấy mùi thơm ngào ngạt, bay khắp xa gần” – Sư

chăn trâu linh thông; “Dù trôi nổi mấy nghìn dặm, nhan sắc vẫn như người

sống, dù trong sóng to dập dồi, mấy người vẫn không rời nhau ra” – Thần cửa

Cần Hải… Trong hệ thống các môtip thì môtip diệt yêu quái cũng được nhiều

tác giả truyền kì quan tâm: “Lặn suốt một hơi thì hết nước lên cạn, thấy một cái

hang hình thế rộng rãi, bên trong có vô số giao long. Con nào cũng thoát ra khỏi

vỏ mà nằm, hệt như người đang ngủ. Ông vung gươm giết sạch” – Bố già lặn

xuống vực tìm con gái; “Chừng nửa đêm nghe lòng sông sôi sùng sục… Mờ

sáng hôm sau, ba con giải đều chết, con trước con sau kế tiếp nhau nổi trên mặt

sông” – Con giải…).

Sử dụng các môtip dân gian là một cách đi trên con đường sáng tạo của

truyền kì truyền thống, cách thức này cũng được các tác giả kì ảo hiện đại lưu

tâm và tiếp nối: “Phần lớn những cốt truyện đều xuất phát từ những truyền

thuyết và truyện kể dân gian, trong đó yếu tố thần kì là một đặc trưng quan

trọng… Thần hổ và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya là những câu chuyện

khá li kì, hấp dẫn, có nguồn gốc từ các truyện ma hổ, ma rắn, ma xó, ma cụt đầu,

kết hợp với những truyền thuyết về Quan ôn bắt lính, chuột tha lá phủ mặt;

Ngậm ngải tìm trầm xuất phát từ Cây ngải trăm ngày (Bách nhật ngải); Vàng

và máu, Một đêm trăng, Con châu chấu tre, Ma xuống thang gác thu gom

trong chúng những chuyện thần giữ của, khách để của, châu chấu ma, ma thắt cổ,

ma nhà hoang…”.

Tư tưởng có thể được thể hiện ở nhiều hình thức đề tài khác nhau. Cho

nên nghiên cứu tư tưởng phải gắn với nghiên cứu đề tài, việc khái quát hóa các

đề tài sẽ giúp ta thấy được tư tưởng văn học có ý nghĩa rộng lớn hơn.

2.2. Đề tài gắn với đời sống thế sự

Truyền kì đời Đường tuy có thể chia ra các loại miêu tả thần quái, tình

yêu, lịch sử, hiệp khách, nhưng nói chung tác phẩm lấy đề tài từ đời sống thực tế

vẫn nhiều hơn. Tác giả thông qua những tình tiết li kì và các nhân vật đủ loại thể

hiện niềm bất mãn và nụ cười châm chọc đối với các hiện tượng xấu xa trong xã

hội. Đồng thời họ cũng gửi gắm lí tưởng và ước mơ về cuộc sống tốt đẹp.

2.2.1. Đậm chất kí sự

Bản trường ca một vạn bốn nghìn dòng Thần khúc của Đantơ (1265-

1321) – nhà thơ cuối cùng của trung thế kỉ, đồng thời là nhà thơ đầu tiên của thời

đại mới – đã miêu tả một cuộc dạo chơi qua ba giới (địa ngục, luyện ngục và

thiên đàng) nhưng những điều mắt thấy tai nghe đều bắt nguồn từ hiện thực, có ý

nghĩa hiện thực sâu sắc, đặc biệt là phần địa ngục đã phản ánh sắc nét một giai

đoạn lịch sử của đất nước Italia, đề cập hàng loạt vấn đề chính trị xã hội to lớn,

tìm tòi con đường giải thoát cho dân tộc Italia. Nhà thơ sử dụng hình thức văn

học truyền kì thời trung đại, tự kể chuyện mình trên con đường đời bị lạc vào

một khu rừng tối đen không tìm thấy lối ra, hiểm nguy rình rập, được cứu và

được đi thăm thú. Toàn bộ tình tiết của trường ca tỏa ra ánh sáng tư tưởng chống

thần quyền phong kiến, thể hiện tiến trình của loài người từ đam mê lầm lạc trải

qua khổ đau thử thách đạt đến cõi chân thiện mĩ.

Truyền kì Việt Nam cũng có một quá trình phản ánh hiện thực như vậy.

Điều đó tạo nên một trong những đặc điểm nổi bật và cũng là có giá trị lớn trong

thời kì này: giá trị hiện thực của các tác phẩm. Đề tài trong giai đoạn này đi sát

đời sống thế sự hơn, mang đậm chất kí. Dù đề cập đến một hay một vài khía

cạnh của đời sống xã hội đương thời thì các tác giả cũng đều dùng thủ pháp trực

tiếp mô tả, tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ và thống nhất về một thời kì nhiều

biến động của lịch sử Việt Nam. Những bức tranh hiện thực có rất nhiều trong

sáng tác của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Vũ Trinh… đã cho thấy sự phá vỡ các

nguyên tắc thẩm mĩ truyền thống của văn học nhà nho vốn coi trọng “văn dĩ tải

đạo” hơn là mô tả một cảnh thực, đồng thời cũng làm mới cho thể loại truyền kì

vốn trước thiên về tưởng tượng hoặc ít ra là chú ý quan sát và mô tả lại những

yếu tố kì lạ trong cuộc sống.

Các tác giả ghi chép lại những chuyện có yếu tố kì lạ, những điều tưởng

chừng vụn vặt song lại có nguồn gốc sâu xa từ những vấn đề nóng hổi trong cuộc

sống. Dốc Lôi Thủ (Lan Trì kiến văn lục) chính là sự phản ánh tình trạng trộm

cướp lan tràn trong xã hội sau năm Canh Thân – Tân Dậu (1740 – 1741) khiến

cho bao người dân phải vào sổ chết bất đắc kì tử: “giặc cướp nổi lên như ong, lại

thêm mất mùa dịch bệnh, người chết đầy đường… Hải Dương, Kinh Bắc nặng

nhất, vùng Tây Nam, Thanh Hóa nhẹ hơn”. Tượng Già lam ở ngôi chùa ngoài

đồng (Tang thương ngẫu lục) ghi lại một việc lạ xảy ra, cho thấy tình trạng

dâm ô bừa bãi trong xã hội lúc bấy giờ. Truyện rất ngắn, chỉ khoảng 135 chữ mà

mô tả được sự thô bỉ của vị thần hộ pháp “cao hơn một trượng, mặt đỏ như

gấc… lôi người đàn bà vào trong chùa” và cái hệ quả của hành động ấy “người

đàn bà… mê mệt như say, pho tượng Già lam thì sắc mặt thốt nhiên biến đổi”.

Nhiều truyện có sức mạnh phê phán sâu sắc một số vấn đề đã trở thành

nhức nhối trong xã hội lúc bấy giờ như chiến tranh, loạn lạc, nạn bắt phu, bắt

lính, tình trạng đói khát, chuyện học hành thi cử… Yếu tố kì trong tác phẩm giúp

cho không gian tác phẩm được mở rộng và chân tướng của hiện thực được phơi

bày rõ ràng. Người nông phu ở Như Kinh (Tang thương ngẫu lục) miêu tả nạn

binh đao đã gây nên thảm cảnh chết chóc cho bao nhiêu người lính và cảnh đói

khát trong xã hội. Người nông phu ở An Mô thì lại nói về tình trạng bắt phu, bắt

lính liên miên khiến người dân luôn phải sống trong âu lo, đến nỗi “bác cũng lấy

sự được thoát khỏi bể khổ làm mừng, bèn nói với người làng cho ăn uống no say

để chết”, đến lúc cái chết không phải là điều khiến người ta kinh sợ nhất nữa, thì

đủ thấy sự tệ hại trong cuộc sống của người dân. Những sự việc được kể như là

một sự thực đã phơi bày trần trụi, tác giả chỉ thấy ngẫu nhiên và làm công việc

mô tả lại một cách chân thực nhất mà thôi. Không gian của những câu chuyện

xảy ra giữa cõi người, tác giả đứng trên điểm nhìn thực để quan sát, ghi chép và

mô tả, do đó tính thực dường như lớn hơn màu sắc kì ảo.

Nhiều tác phẩm đi sâu vào sự đối lập gay gắt giữa đời sống xa hoa của giai

cấp thống trị và cảnh đói nghèo cùng khổ của người dân, nhưng qua đó cũng

thấy được sức phản kháng của họ đối với những lực lượng phản động: “Một đứa

ăn trộm chỉ dùng một chút trí không mà cũng lừa dối được thần linh, thì sự diệu

dụng của người xưa, có chỗ cơ xảo đến quỉ thần cũng khó lường, hẳn không phải

là vu khoát vậy” (Kẻ trộm lừa thần thánh – Công dư tiệp kí).

Sự băng hoại đạo đức hiện diện ở mọi tầng lớp, từ kẻ cố cùng trong xã hội

như những tên ăn trộm, đến những vị quan của triều đình, và cả thần thánh vốn

là những đấng bậc linh thiêng được tôn trọng nhất. Qua đó, có thể thấy được sự

suy thoái của thể chế chính trị lúc bấy giờ, thể chế dưới sự cầm quyền của triều

đại có thể coi là “chuyên chế và phản động nhất” trong lịch sử Việt Nam [26,

182]. Nguồn gốc xuất thân của các quan thật đa dạng, không còn cao quí và đơn

thuần như là người được “thiên mệnh” nữa. Một nhà thơ trào phúng đầu thế kỉ

XX đã viết về những quan lớn như thế này:

Lính hầu thuở nọ tay đeo tráp

Cụ lớn ngày nay ngực gắn sao

Trong Tên ăn trộm – Lan Trì kiến văn lục, có hai người ăn trộm giỏi gặp

nhau, thi thố tài ăn trộm, sau đó rủ nhau bỏ nghề, góp sức vào đạo quân của triều

đình. Về sau, một người trở thành Tham tướng ở Sơn Tây, một người được bổ

làm Suất đội trong phủ Đô đốc.

Tuy nhiên, bên cạnh những mảng màu tối đen thì thế sự giai đoạn này vẫn

có nhiều chỗ sáng, đó là những khung cảnh thiên nhiên quen thuộc và gần gũi

xuất hiện rất nhiều trong những bài kí của Phạm Đình Hổ, mảng chuyện về

những con vật giàu đạo nghĩa, ngụ ý răn dạy loài người (14 truyện/86 truyện) rất

nhiều ở Lan Trì kiến văn lục. Đặc biệt là những điểm sáng lung linh hiện diện

trong những câu chuyện kể về các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc (chiếm

25/86 truyện). Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo (Công dư tiệp kí) rất mực thông

minh, “Lúc trẻ tuổi đã có kì tài, nhưng tính tình phóng đãng, không chịu câu

thúc và thích là những điều tai quái”, làm bài Giải chư hầu hoặc (Giải thích sự

nhầm lẫn về quan niệm “chư hầu”) khiến cho vua nhà Thanh phải bãi bỏ lệnh bắt

dân ta cạo đầu gióc tóc, lại tự tay viết tặng sứ Thanh bộ sách Đại học đẹp như

khắc bản, rồi lại đối đáp đâu ra đấy, khiến sứ Thanh rất khen phục. Trạng nguyên

Nguyễn Đăng Đạo (Ông Trạng họ Nguyễn – Lan Trì kiến văn lục) thông minh

đĩnh ngộ từ bé, lớn lên cá tính cũng mạnh mẽ hơn người, khi chưa đi thi đã tự

xưng là “Tể tướng giữa trần ai”, chỉ làm một bài thơ mà khiến cho Phạm công

khen ngợi: “Nghìn vàng không mua được chàng rể giỏi như người này đâu”,

được Ngô hầu tha cho tội làm ô danh tiểu thư, không những thế còn chu cấp tiền

ăn học đến ngày thi đỗ. Ông Nguyễn Duy Thì (Tang thương ngẫu lục) là “quan

Tể tướng có tiếng đời Trung hưng, giữ mình ngay thẳng và khéo xoay đổi được ý

của vua chúa”, gỡ được tội cho nhiều người dân, can ngăn chúa khỏi vòng sắc

tình nhục dục…

Đó là những phần tốt đẹp, tươi sáng của cuộc sống đã được ghi lại trong

tác phẩm một cách chân thực nhất. Giữa thời buổi mà nhân phẩm bị xem thường,

trộm cắp nổi bật, các giá trị đạo đức bị suy thoái theo thời cuộc, thì những tính

cách trung hậu tốt đẹp như thế của những vị quan đầu triều thật đáng quí và đáng

được ngợi ca.

Cảm hứng hiện thực – lịch sử đã chi phối sâu sắc ngòi bút của các nhà

văn, mang lại cho những ghi chép của họ tính hiện thực rất cao, khác với đặc

tính tượng trưng, ước lệ, nhiều điển cố, điển tích trong văn học trung đại. Ở đây,

xuất hiện những cái nhìn cụ thể, trực diện và hiệu quả ngay lập tức.

2.2.2. Nghiêng về khảo cứu

Ở giai đoạn trước, tiêu biểu là trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ,

đạo lí Nho giáo về quan hệ vua tôi, thầy trò, vợ chồng, cha con, bè bạn… được

đề cập khá nhiều và rõ nét, thậm chí tác giả luôn đi sâu mô tả diễn biến tâm lí

của nhân vật trong những mối quan hệ này (Người con gái Nam Xương,

Chuyện nghiệp oan của Đào thị…). Bởi ai cũng biết, một đặc trưng cơ bản của

Nho giáo là sự nhìn nhận con người trong các mối quan hệ luân thường. Với Nho

giáo, không có con người cá nhân tồn tại như một cá thể độc lập mà tồn tại trong

những quan hệ luân thường đã được định sẵn: vua – tôi, cha – con, anh – em,

chồng – vợ… Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã viết: “Con người theo cách

hình dung của Nho giáo, kể cả trong xã hội lí tưởng của họ, sống theo trật tự

đẳng cấp. Cái định giá con người là tước vị. Cuộc sống cộng đồng, xã hội hay

nhà nước cũng giống như ở gia đình, mỗi người hoặc là cha, con, là anh em,

hoặc là vợ, chồng, hoặc là vua tôi, tức là có một chức năng luân thường”.

Nhưng đọc hết các tập truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII –

nửa đầu thế kỉ XIX, ta sẽ có cảm tưởng như đang nghiên cứu những cuốn khảo

cứu ấn tượng, những cuốn sách văn mang đậm tính học thuật, ghi chép sự thật

một cách khách quan, bởi nội dung chủ yếu là chuyện về các kì thi ở Việt Nam

trước đây; chuyện tìm đất đặt mộ, làm nhà; hay kiểu chuyện mô tả sơ lược về

những danh nhân lịch sử, những vị quan… Cũng ít gặp những truyện thuần túy

về ma quái như trong bộ sách truyền kì kinh điển Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng

Linh.

Rất nhiều tác phẩm bàn luận về mạch đất, hình sông, thế núi. Bởi quan

niệm “Các nhân vật đều là tinh anh của non sông đúc lại” (Phạm Đình Hổ - Vũ

trung tùy bút) với một niềm tự hào “Địa thế nước ta, toàn thể cũng giống nước

Trung Quốc, chỉ có nhỏ hơn thôi”. Chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ được số

phận mình, sự giàu sang, công danh phú quí của mình nếu bố trí được chỗ ở,

thậm chí cả mồ mả tổ tiên ở nơi thích hợp, tích hợp được khí thiêng, khí lành của

trời đất. Chôn xương bụng ngựa và Nghề mọn nên quan trong Công dư tiệp kí

là hai truyện chứng minh được cho lí thuyết ấy. Con người có thể làm chủ được

vận mệnh của mình, mang lại công danh phú quí không chỉ cho mình mà cho cả

con cháu muôn đời sau nếu biết dùng đến “âm phần dương trạch”. Cả Đinh Tiên

Hoàng và chàng Trâu Canh đều nên nghiệp từ sau khi chọn đúng mạch đất để

mồ mả tổ tiên (Đinh Bộ Lĩnh đặt gói xương bố vào đúng cái huyệt ở thế đất hình

con ngựa dưới đầm nước) hoặc bố trí chỗ ở cho mình (chàng Trâu Canh nhà

nghèo dựng gian nhà tranh dưới hòn Cóc Tía): “Từ đó, Đinh trăm trận trăm

thắng, được gọi là Vạn thắng vương. Chàng dẹp được mười hai sứ quân, thống

nhất dư đồ, làm Đinh Tiên Hoàng”, Trâu Canh chữa được cây thần, chữa được

bệnh cho nhà vua, “được ban thưởng không biết bao nhiêu, lại được vua sủng ái

hơn hết mọi người”. Nhưng sự nghiệp của họ cũng tan tành do phạm phải một lỗi

lầm nhỏ trong khi dùng phép “âm phần dương trạch” ấy: Đinh Tiên Hoàng “chỉ

mới ở ngôi mười hai năm thì bị nội nhân là Đỗ Thích ám sát, cả con là Đinh

Liễn cũng bị giết. Vì bị người khách dùng kế đánh lừa, đặt gươm vào đầu ngựa

cho nên mang vạ”, còn Trâu Canh từ khi được ân sủng thì “quên bẵng lời dặn

của khách, không dời nhà đi nơi khác nên bị mang vạ” con bị giết, gia đình bị

đuổi khỏi cung, của cải bị tịch thu, lại trở về nghèo hèn như xưa. Thế mới biết,

sức mạnh của hình sông thế núi lớn đến dường nào. Không chỉ thời xưa, mà cho

đến ngày nay và có lẽ mãi về sau này nữa, việc tìm đất để đặt mồ mả, chọn

hướng nhà để ở sẽ mãi là mối quan tâm đặc biệt của loài người.

Thi cử là môtip được khai thác nhiều trong văn học thời kì này với cả thi

văn và thi võ, cả những mặt tiêu cực và tích cực của nó, đã được hư cấu, giai

thoại nhiều hơn.

Không phải chỉ trong thời hiện đại mới có, mà tình trạng thi hộ, tráo quyển

đã trở thành một vấn nạn trong xã hội thời xưa, đến mức rất nhiều nho sinh có tài

mà chịu hai tiếng “khiếm điểm” (hoặc “khiếm diện”, nghĩa là vắng mặt trong kì

thi, vì thi hộ người khác nên không thi được cho mình) đã không được tiếp tục

thi ở kì sau. Mãi đến khi Chiêu tổ Trịnh Căn (ở ngôi chúa 1682-1709) xóa bỏ

lệnh ấy, triều đình mới không bỏ sót bao hiền tài mà gặp hoàn cảnh khó khăn,

phải chấp nhận “khiếm điểm”. Thượng thư Vũ Công Đạo (Thủ khoa mặt đẹp –

Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề) chính là một người dính vào cái nghiệp ấy.

Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh có tới năm truyện chủ yếu viết về

việc thi cử. Điều đặc biệt là trong những truyện của ông, những ngôi vị đầu bảng

đều do thiên triều (nhà trời) đã quyết định từ trước: Mới đầu xuân, chưa tới kì thi

Hội mà cổng trời đã treo bảng đề tên người đỗ, Bà đồng đọc được đúng y như

kết quả của kì thi sau đó; Quan Thượng họ Đỗ thời còn trẻ đã được con ma cây

đa báo cho mức đỗ và tuổi tác, con ma đó cũng vì tiết lộ cơ trời mà bị trị tội.

Những vị tân quan ấy đều phải nhờ tới sự trợ giúp của lực lượng siêu nhiên:

Vương Dụng Tân thi đỗ nhờ được người bạn cũ báo mộng cho đề (Điềm báo

trước); Chàng Cử nhân trẻ tuổi trong Tháp báo ân làm bài văn có nhiều sai sót,

nhưng được sự trợ giúp của hồn người đã chết nên đạt được danh vị. Bài phú

“Thiên hạ đại đồng” của Thủ khoa Lê Tân không sai một chữ nào so với bài văn

hai vị thần miếu đã dự thảo trước trong Giấc mộng lạ.

Những truyện ấy phản ánh tế nhị những vấn đề tiêu cực lố lăng trong khoa

cử thời xưa, như quan trường không công minh, thí sinh gian dối…, nên có tác

dụng về mặt nghiên cứu lịch sử hơn là đóng vai trò của một tác phẩm văn

chương.

Ngay trong cả những tác phẩm được coi là giàu tính chất văn chương và

trữ tình nhất cũng có thể thấy nhiều truyện tác giả đã thiên về sự khảo cứu nhiều

lĩnh vực học thuật và đời sống. Trong nhiều tác phẩm, đang miêu tả cảnh vật

hoặc ghi chép một sự việc nào đó, tác giả lại quay sang “khảo cứu” lai lịch của

cảnh vật ấy, có thể là một địa danh, cũng có thể đơn thuần chỉ là một địa điểm

mà tác giả đã có nhã hứng tìm hiểu về nó, như lai lịch một ngôi chùa, lịch sử một

vùng đất, sự tích một nhân vật nào đó, hoặc hồi tưởng về quá khứ, hoặc liên hệ

với hiện tại mà cảm thán về sự hưng vong biến diệt, nhân tình thế thái. Do vậy,

các câu chuyện thường đầy ngẫu hứng và mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.

Lối viết này đôi khi làm cho mạch văn bị đứt đoạn, khiến truyện mang dáng vẻ

của một thể loại “đứng giữa nghị luận có tính chất nghiên cứu và truyện ngắn”,

song điều đó cũng mang lại cho tác phẩm những đặc sắc riêng: vừa có tính xác

thực lịch sử khoa học, vừa giàu chất văn chương trữ tình. Đằng sau những câu

chuyện được các nhà văn ghi lại là cả một sự tích lũy sâu rộng về học vấn và

những kiến thức phong phú về thực tiễn, chất trí tuệ vì thế trở thành điểm sáng

thẩm mĩ của truyền kì giai đoạn này.

Tính chất khảo cứu nặng hơn hẳn cảm hứng sáng tạo, nhiều truyện truyền

thuyết dã sử, nội dung chủ yếu về phong tục tập quán, bình luận văn chương đạo

đức, thể chế, khoa cử và việc tìm đất đặt mộ, làm nhà là những vấn đề vĩ mô mà

các tác giả thời kì này quan tâm.

2.3. Xu hướng viết về người thật, việc thật

PGS.TS. Vũ Thanh đã tổng kết rằng: Trước Thánh Tông và Nguyễn Dữ,

các tác giả truyện kì ảo hầu như chỉ viết về hành trạng của các nhân vật quan

trọng: như các anh hùng dân tộc, các nhân vật thần thoại, vua chúa, các bậc tu

hành hiển thánh… mà cuộc đời gắn liền với những sự kiện lớn lao của lịch sử.

Đến Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, hiện thực không chỉ đóng

khung trong những bối cảnh trọng đại, chỉ liên quan đến các bậc vua chúa và đại

sự quốc gia, mà còn gắn với cả những sự kiện và con người bình thường, thậm

chí cả những người thuộc tầng lớp dưới của xã hội: như gái điếm, một kẻ ăn

mày, thuyền chài, rồi những con người và những địa phương vô danh… Những

cái bình thường đó không làm giảm giá trị của truyện, ngược lại điều đó đánh

dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của tư duy mĩ học và khẳng định một

loại hình mới của sự khái quát hóa nghệ thuật.

2.3.1. Những nhân vật lịch sử

Lấy cốt truyện từ chính sử, nội dung là các sự kiện đã có trong các sách

chép sử, nhân vật là nhân vật có thực của lịch sử… đây là một bút pháp phổ biến

trong văn học viết thời trung đại. Truyện truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ

XIX không nằm ngoài tiền lệ đó. Có đến 25 truyện/86 truyện chúng tôi khảo sát

thì nhân vật chính là những nhân vật có thật trong lịch sử, những nho sinh hay

chữ, những vị quan tài năng, những anh hùng dân tộc…

Bảng thống kê nhân vật lịch sử

STT

Tên truyện

Nhân vật lịch sử

Tổng số

Công dư tiệp kí

1.

Tìm đất đền ơn

Thượng thư Nguyễn Văn Huy (1486 - ?)

2.

Thủ khoa mặt đẹp

Vũ Công Đạo (1629 – 1714)

3.

Thượng thư Lương Hữu Khánh

Thượng thư Lương Hữu Khánh

4.

Nhận ra mẹ đẻ

Trạng nguyên Giáp Hải (1507 – 1586)

10 truyện

5.

Dóng ngựa thi thơ

Phạm Trấn (1523 - ?), Đỗ Uông (1523 – 1600)

6.

Tiến sĩ ăn khỏe

Lê Như Hổ

7.

Quách Giai (1660 - ?)

Thám hoa được giáng xuống Phù Khê

8.

Chôn xương bụng ngựa

Đinh Tiên Hoàng (924 – 979)

9.

Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo

Nguyễn Đăng Cảo (1619 - ?)

Lan Trì kiến văn lục

10.

Thần cửa Cần Hải

Thái hậu Dương Vân Nga

11.

Nguyễn Quỳnh

Nguyễn Quỳnh (1677 – 1748)

12.

Phạm Viên

Phạm Viên

7 truyện

13.

(1555 –

Bà phu nhân Lan Quận công

Nguyễn Thực 1637)

14.

Quan Thượng họ Đỗ

Đỗ Uông

15.

Ông Nguyễn Trật

Nguyễn Trật (1573 - ?)

16.

Ông Trạng họ Nguyễn

Nguyễn Đăng Đạo (1652 - ?)

Tang thương ngẫu lục

17.

Ông Nguyễn Duy Thì

Nguyễn Duy Thì (1572 – 1652)

18.

Ông Nguyễn Văn Giai

Nguyễn Văn Giai (1554 – 1628)

5 truyện

19.

Ông Nguyễn Trọng Thường Nguyễn Trọng Thường

(1681 – 1735)

20.

Ông Lê Trãi

Nguyễn Trãi (1380 – 1442)

21.

Thánh Tông Hoàng đế

Lê Thánh Tông (1442 – 1497)

Vũ trung tùy bút

22.

Cá voi

Nguyễn Tông Trình (1723 - ?)

2 truyện

23.

Thần hồ Động Đình

Hoàng Bình Chính (1736 – 1785)

Thoái thực kí văn

24.

Thách thức với thần

Tô Hiến Thành (? – 1179)

2 truyện

25.

Ông tiên Đông Thành

Phạm Viên

24 nhân vật

25 truyện

Tổng số

Người ta nói rằng lịch sử có thể thổi tung từng số phận như gió khô cuốn

những chiếc lá vàng. Trước những sự kiện lớn lao và vũ bão của lịch sử, mỗi cá

nhân con người quả thật quá nhỏ bé, quá mong manh, thậm chí đến mức người

đời sau không thể nhớ ra họ hoặc biết đến sự tồn tại của họ. Các tác giả truyền kì

đã làm công việc của những nhà chép sử chân chính, nhưng chỉ chép về một lĩnh

vực đặc biệt, đó là chân dung danh nhân và những câu chuyện xung quanh cuộc

đời họ. Có thể đó là những câu chuyện thật trong chính sử, cũng có thể là những

câu chuyện chẳng bao giờ kiểm chứng được, nhưng có thể khẳng định chắc chắn

một điều: Đó đều là những nhân vật có thật trong lịch sử, sống và phục vụ trong

một triều vua cụ thể, với các phẩm hàm cụ thể, đặc biệt phần lớn họ đều mang

thân phận là những vị quan đầu triều, có những người mà dân Việt Nam ai cũng

biết, như Thái úy Tô Hiến Thành, quan Hành khiển Nguyễn Trãi, Trạng

Quỳnh… và cả những nhân vật đứng đầu đất nước như Thái hậu Dương Vân

Nga, Hoàng đế Lê Thánh Tông.

Có thể thấy rất rõ sự phát triển của xu hướng này qua so sánh các tác giả

trong từng giai đoạn. Giai đoạn đầu, Đoàn Thị Điểm viết Truyền kì tân phả rất

giống sử: thời gian, không gian rõ ràng, sự kiện có thật (Đền thiêng ở cửa bể

diễn ra dưới triều vua Trần Duệ Tông, có sự kiện vua đem mấy chục vạn quân đi

đánh Chiêm Thành; Người liệt nữ ở An Ấp thời vua Lê Dụ Tông, ở làng An Ấp,

Nghệ An – nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, chồng chết năm Ất Mùi

(1715); Nữ thần ở Vân Cát sống thời vua Lê Anh Tông, làng Vân Cát thuộc

huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định ngày nay, gắn với Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong

truyền thuyết dân gian). Hơn nữa, cốt truyện triển khai được đầy đủ quá trình

sinh hạ, sống và thác thiêng của nhân vật, đều có nguyên nhân, diễn biến và kết

quả, thậm chí cả ý nghĩa lịch sử, giống như tiến trình của một trận đánh hay một

sự kiện của lịch sử, mà tác giả là người mô tả lại đầy đủ, chính xác và tuần tự,

diễn tả được rõ cả hào khí anh hùng vĩ đại của nhân vật.

Các tác giả giai đoạn sau này đã chú ý đến tính sáng tạo và văn chương

hơn, mà sáng tạo đầu tiên chính là sự phá cách ở kết cấu và cốt truyện, sự rút gọn của các chi tiết 9 và sự bình dị hóa nhân vật, kéo nhân vật lịch sử trở lại gần hơn

thực tại với những tình tiết quen thuộc của cuộc sống thường ngày. Đó chính là

khi những con người, sự vật xung quanh tác giả và đặc biệt là những nhân vật

bình phàm xuất hiện.

2.3.2. Những con người, sự vật xung quanh

Nhà văn chân chính thời kì nào cũng giống nhau, đều mang trong mình

dòng máu nghĩa hiệp và nguồn cảm hứng sục sôi về “những điều trông thấy”, vì

vậy họ không thể bỏ qua những sự việc diễn ra xung quanh mình.

Các nhà văn truyền kì đã bỏ công ghi chép những truyện kì lạ trong dân

gian mà họ tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể từ những nguồn đáng tin cậy.

Đó là những câu chuyện về những nhân vật hiếu hạnh tiết nghĩa, nhân vật có sức

khỏe hơn người, về loài vật, thầy tướng số… - những con người, sự vật, sự việc

có thực trong cuộc sống, gần gũi xung quanh chúng ta hàng ngày, mà vẫn có

nhiều đặc điểm phi thường, kì lạ.

Trong Công dư tiệp kí, Vũ Phương Đề ghi chép hai câu chuyện về những

nhân vật có thật của lịch sử, nhưng điều kì lạ ở họ chính là sức khỏe và sức ăn

hơn người. Đó là câu chuyện về ông Tiến sĩ ăn khỏe Lê Như Hổ, người xã Tiên

Chân, huyện Tiên Lữ, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu

(1541), làm quan triều Mạc đến chức Thượng thư, hàm Thiếu bảo, tước Tuấn

quận công, về trí sĩ. Ông được miêu tả với sức khỏe phi thường, trong nháy mắt

có thể phát cỏ mấy mẫu ruộng, có thể ăn một bữa cơm dành cho ba mươi người,

có thể ăn một mâm cỗ cao mười tám tầng mà người Trung Quốc muốn dùng để

9 Xin xem phân tích kĩ trong phần 3.3 của luận văn: Tinh giản trong văn phong

thử ông. Hay câu chuyện về Thượng thư Lương Hữu Khánh dòng dõi danh gia,

ăn rất khỏe, mỗi bữa ăn gấp mấy người thường, có lần ông ứng khẩu ngay một

bài thơ Đường rồi ăn ngay một lúc hết cả sáu bảy chục phẩm trên thuyền khiến

mọi người kinh ngạc; Rồi lại có lần một mình ông với một con dao lớn phát một

chốc năm mẫu ruộng sạch quang, ngủ một giấc ngáy vang như sấm, ăn liền một

lúc hết cả gánh cơm mười người ăn.

Trong xã hội trung cổ (và vẫn còn tồn tại đến ngày này ở những vùng lạc

hậu), những nhân vật bà đồng, bà cốt, thầy mo, thầy cúng, thầy tướng số… rất

được chúng dân tín nhiệm. Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh ghi lại hai câu

chuyện về loại nhân vật này. Bà đồng thể hiện rất rõ quan điểm của tác giả:

“Đàn ông đàn bà ít hiểu biết phần nhiều mê hoặc quỉ thần, bà đồng thầy cúng

theo đó mà lừa dối thêm. Các cách xem đường công danh, thăm hồn người

chết… hầu hết đều sai lầm, không hợp lẽ… Người có chút hiểu biết không ai nói

đến. Riêng có chuyện này là lạ…”. Các tác giả trung đại rất coi trọng học thuật,

coi trọng phép phong thủy, nhưng có vẻ xem thường việc bói toán, đoán mặt,

xem tướng. Họ cho rằng: “Đoán số, xem tướng mặt là loại thấp nhất trong

phương thuật, phần lớn họ dựa theo ý người xem mà nói nịnh để lấy tiền bạc đồ

vật của những kẻ dại ngốc mà thôi, ngày sau sự việc đúng hay không đúng ai

còn tìm thấy tướng mà hỏi lại. Tuy vậy trong bọn họ cũng có người giỏi” (Thầy

xem tướng). Nhưng sự việc chung nào cũng có cái riêng khác biệt của nó. Chúng

ta để ý câu cuối của mỗi đoạn trên sẽ thấy sự lung lay trong quan điểm của các

tác giả trước một vấn đề họ chưa thể lí giải được, đó là sự đoán đúng, đoán trúng

không thể chối cãi của bà đồng, thầy tướng về việc thi cử, người đỗ đạt, người

nên danh, mà tác giả là người trực tiếp chứng kiến hoặc người đó có quan hệ mật

thiết với tác giả. Sự xuất hiện của loại nhân vật bà đồng, thầy tướng hay hiện

diện của việc xem tướng trên những trang viết vốn đầy giáo lí đạo Nho thể hiện

sự phát triển tất yếu và sự in bóng của đời sống xã hội trong tác phẩm văn học.

Chung qui, việc xem bói, đoán tướng là sự việc bình thường và khá phổ biến

trong xã hội, dù bản thân tác giả có tin hoặc có muốn nó tồn tại hay không thì nó

vẫn là một phần không thể thiếu của “thế sự”. Với vai trò của người cầm bút, đặc

biệt là vai trò của người ghi chép lại lịch sử, viết về những người thật, việc thật

thì các tác giả đương nhiên không thể bỏ qua bất kì sự việc gì trong cuộc sống,

dù đó là việc họ “đáng nghi” nhất, thì họ càng cần phải ghi chép lại một cách

trung thực nhất để con cháu đời sau nghiên cứu và có khả năng lí giải.

Đề tài về những con vật cũng rất được các tác giả quan tâm, có nhiều

chuyện mà loài vật chứ không phải con người xuất hiện với vai trò nhân vật

chính, truyền tải tư tưởng, tình cảm của tác giả. Hình ảnh loài vật hiện lên cũng

rất sinh động và đáng yêu, có những con vật quen thuộc như hổ, khỉ, rắn, cá…

đến những con vật chỉ có trong truyền thuyết, thần thoại, trong tưởng tượng của

người dân như con giao long, con giải… Tính cách của những con vật cũng phân

loại rất rõ ràng: Từ những con vật ác như một bầy giao long chuyên hại người

(Bố già lặn xuống vực tìm con gái – Công dư tiệp kí); đàn khỉ bắt và cưỡng

bức cô gái làm vợ, sinh con với khỉ chúa (Chuyện khỉ), một bầy giải quấy phá và

bắt người qua sông (Con giải – Lan Trì kiến văn lục); đến câu chuyện về

những con vật có lòng nhân như bà giao long báo trước họa lụt và nơi tránh nạn

cho con người (Giao long ngủ nhờ - Công dư tiệp kí), con cá lớn cứu người bị

nạn trên biển (Cá thần – Lan Trì kiến văn lục)… Đặc biệt, mảng đề tài về con

hổ - vị chúa tể rừng xanh vốn bị coi là loài dã thú, là “ông ba mươi” ghê gớm

hay được dùng để dọa trẻ con, xuất hiện khá nhiều với nội dung mới mẻ và nhân

hậu: đều là những con hổ tốt, không làm hại người, biết trả ơn người, thậm chí

còn hành hiệp trượng nghĩa và cứu nhân độ thế: Ông Hổ, Chuột đậy mặt, biết

điềm lành dữ (Công dư tiệp kí), Hai truyện hổ có nghĩa, Con hổ nghĩa hiệp,

Hổ có lòng nhân (Lan Trì kiến văn lục). Có cả những truyện con vật còn lên

tiếng răn dạy cho con người (Con chó nhà nghèo có nghĩa – Tân truyền kì

lục). Rồi trong những chuyện 3 kiếp của con người, cũng có những kiếp con

người phải sống trong lốt vật: gà, lợn (Nhớ được ba kiếp – Lan Trì kiến văn

lục), con nghé (Biết chuyện kiếp trước – Thoái thực kí văn). Cho nên, sự thân

quen, gần gũi và mối quan hệ giữa những con người, loài vật xung quanh đã

được kiến tạo từ trong văn chương ngày xưa.

Con người của cuộc đời thực đã bước được một chân vào thế giới văn

chương, vốn trước chỉ thuộc về những cái Ta chung lớn lao cao cả, những điều

vĩ mô, những sự kiện quan trọng của đất nước, hay cùng lắm là sự xuất hiện của

con người trong cái lốt của những bậc thánh nhân quân tử. Giờ đây đã có nhiều

tác phẩm viết về những con người và những sự việc diễn ra xung quanh, cùng

thời với tác giả.

Trước thế kỉ XVIII, cảm hứng chủ đạo của văn học là khẳng định nền độc

lập, khẳng định nhà nước phong kiến, còn thế kỉ XVIII – XIX chủ nghĩa nhân

đạo nổi bật với cảm hứng ca ngợi con người cá nhân trần thế, đó là những con

người danh tiếng có thật trong lịch sử, là những con người của cuộc sống bình

thường quanh tác giả, và thậm chí là những nhân vật quan niệm phong kiến xưa

coi là thuộc tầng lớp dưới, đó chính là những nhân vật bình phàm.

2.3.3. Những nhân vật bình phàm

Đây là thuật ngữ mà PGS.TS Trần Nho Thìn sử dụng trong khi phân loại

nhân vật truyện ngắn trung đại Việt Nam. Ngoài những nhân vật thuộc tầng lớp

trung gian hoặc tầng lớp trên, sự xuất hiện của những người bình dân trong

truyện truyền kì, đặc biệt những người phụ nữ bình dân là một bước tiến mới,

khác quan điểm và cách viết truyền thống của các nhà nho.

Có nhân vật làm những nghề rất bình thường trong xã hội, như anh chàng

chèo đò (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) hay cha

con người đánh cá (Bố già lặn xuống vực tìm con gái – Công dư tiệp kí – Vũ

Phương Đề). Bố già lặn xuống vực tìm con gái là câu chuyện về hai cha con

người đánh cá được trở thành đại thần của làng. Khi cô con gái bị giao long bắt

mất, người cha đau khổ đã dũng cảm lặn xuống hồ giết sạch bầy giao long và

cõng được xác con lên bờ, từ đó dân chúng không còn bị giao long làm hại nữa.

Cả hai cha con đều được phong làm đại thần của bản xã, được lập đền và miếu

thờ, trở thành nơi phân xử rất linh ứng các vụ tranh chấp của làng.

Nhân vật làm nghề mạt hạng – ăn trộm cũng được đưa vào truyện với một

tư thế rất hiên ngang. Vũ Phương Đề có Kẻ trộm lừa thần thánh (Công dư tiệp

kí), đề cao mưu trí của tên trộm mà nghi ngờ cái tài của thánh thần. Phạm Đình

Hổ và Nguyễn Án kể lại câu chuyện về Anh kẻ trộm làng Lâm Hộ (Tang

thương ngẫu lục), vốn thuộc đám người bị khinh bỉ trong xã hội, đã cứu giúp

bạn đồng nghiệp trong khi nguy cấp mà chẳng tiếc mình, xứng với hành động

của những bậc liệt sĩ đời xưa, cũng là một việc đáng ca ngợi.

Vũ Trinh còn đưa cô đào hát vào trang truyện của mình như một nhân vật

đáng được người đời ngưỡng mộ nhất (Cô đào họ Nguyễn). Cô làm cái nghề hạ

đẳng trong xã hội, bị giới nho sĩ khinh bỉ, nhưng cô lại có tấm lòng nghĩa hiệp và

trung trinh, đã có công chăm sóc và động viên Vũ Khâm Lân thưở còn hàn sĩ,

nhưng kiên quyết không cho chàng dính vào chuyện trăng hoa. Đến khi Lân

được làm quan to, ông không trái được mệnh cha phải lấy con nhà thế tộc làm

vợ, nàng không trách móc mà lặng lẽ ra đi. Sau này có gặp lại, nàng cũng không

chịu nhận lễ hậu của ông. Trong Tháp báo ân có cô gái hủi đã vượt qua mặc

cảm bản thân, đem lòng thương yêu và trao mình cho chàng học trò bị lỡ độ

đường. Cũng vì mặc cảm bệnh tật của bản thân mà nàng ốm đau dằn vặt đến

chết, nhưng khi chết đi rồi vẫn một lòng giúp chàng đạt ước nguyện công danh,

đã hiện về khẩn cầu quan Chủ khảo chấm đỗ cho chàng. Vị quan cảm cái tình

của cô gái nên gượng lấy đỗ. Còn chàng tân khoa sửa lễ con rể ra mắt bố cô gái,

và phong hàm cho nàng theo đúng tước quan của mình, đồng thời xây tháp báo

ân để tỏ lòng biết ơn người vợ hiền ấy.

Trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh còn có cả nhân vật trẻ em, đó là

cậu bé ba, bốn tuổi có nước da “đen như sơn” trong Con lai rắn; là em bé vừa lọt

lòng mẹ đã biết nói và rất đau khổ vì Biết được kiếp trước của mình và vẫn luôn

nhớ về nó; là một em bé bị người cha bạc đãi vứt vào rừng, may được Con hổ

nghĩa hiệp mang trở về cho bà ngoại; là em bé sinh ra dưới mồ và được người

mẹ đã chết ngày ngày đội mồ lên mua bánh về mớm cho ăn (Sinh đẻ kì lạ). Tuy

chỉ với số lượng bốn tác phẩm, nhưng loại truyện này lại có vai trò vô cùng quan

trọng, bởi đây là lần đầu tiên nhân vật trẻ em xuất hiện trong truyền kì trung đại

Việt Nam, thể hiện tấm lòng nhân hậu và sự ưu ái của nhà văn dành cho trẻ thơ.

Quan tâm nhiều đến việc xảy ra giữa cõi người, các tác giả đã vẽ lại được

rất nhiều bức chân dung giữa cuộc đời thường, tốt đẹp và đáng ngợi ca. Nhưng

không chỉ thế, còn có cả hình ảnh của những con người phầm trần đã bắt đầu bị

tha hóa, những con người mà cái ác hiện diện đến mức phi nhân tính, không

bằng cả loài cầm thú: Hoàng Mỗ (Con hổ nghĩa hiệp – Lan Trì kiến văn lục) vì

mưu đồ hạnh phúc riêng, để được người đàn bà chấp nhận lấy mình đã đang tâm

lừa mang đứa con ruột vào rừng sâu cho hổ ăn thịt chết, nhưng cuối cùng chính

hổ lại mang đứa bé về nhà. Lại có kẻ vì con gà chọi đáng giá mà đang tâm “một

tay vác cuốc, một tay túm tóc mẹ lôi ra bãi tha ma ở ngoài đầu làng. Rồi vừa ép

mẹ ngồi xuống một bên, anh ta vừa dùng cuốc quật đất lên để chôn mẹ” (Ác báo

– Công dư tiệp kí). Rồi lại có kẻ vì ghen tuông mù quáng mà đang tâm giết

người vợ đang còn ở tuổi thanh xuân (Sống lại – Lan Trì kiến văn lục).

Hình ảnh con người bị tha hóa về nhân cách cùng với những hành động rất

nhẫn tâm được mô tả lại khá nhiều trong các trang viết, chứng tỏ thời kì này,

cùng với những biến chuyển trong xã hội, con người đã bị ảnh hưởng, lây nhiễm

nhiều thói hư tật xấu. Điều đó cũng thể hiện quan điểm khách quan và cái nhìn

đa chiều của các tác giả trong khi viết về những con người thực. Không còn

những con người khô khan cứng nhắc của giáo điều, những con người chuẩn

mực và tốt đẹp của đạo lí nữa, mà ở đây, con người hiện lên với những thứ tình

cảm đơn thuần nhất, với cả những nét phàm tục, xấu xa nhất nhưng mang đậm

bản tính người, những tính toán và tâm tư của con người thực trong xã hội.

Đông đảo các loại người của nhân gian đã được đưa vào trang viết, tạo

nên một gương mặt theo đúng nghĩa “thập loại chúng sinh”. Ở điểm này, các tác

giả truyền kì đã có sự gặp gỡ với đại thi hào Nguyễn Du, về quan điểm hiện thực

tiến bộ và tấm lòng xót thương đến cả những nhân vật “dưới đáy” xã hội. Tuy

tần số xuất hiện của loại nhân vật bình phàm vẫn còn thấp hơn khá nhiều so với

các nhân vật thánh nhân quân tử, nhưng vẫn đủ để khẳng định một xu hướng viết

mới trong văn học cuối thời trung đại.

2.4. Con người và số phận con người

Nội dung bao trùm văn học giai đoạn này là cảm hứng nhân đạo chống

phong kiến. Thương yêu con người, khẳng định quyền sống của con người, xác

lập giá trị cao đẹp của nhân phẩm, ca ngợi những nỗi niềm hạnh phúc trong cuộc

sống, gắn bó với người bằng những mối nhân tình đầm ấm và trong sáng… bấy

nhiêu nội dung phong phú của chủ nghĩa nhân đạo đều có thể thấy trong văn học

nước ta. Macxim Gorki đã từng phát biểu: “Con người, cái tên mới vang dội làm

sao!”. Niềm tự hào về con người như thế có thể thấy rất rõ ở nhiều tác giả Việt

Nam và được biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú qua vô vàn hình tượng

văn học đa diện và đa dạng.

Càng về cuối giai đoạn thì vấn đề số phận con người được nêu lên một

cách gay gắt. Vấn đề số phận cá nhân ít nhiều cũng được đặt ra mà không cực

đoan, không sa vào chủ nghĩa vị kỉ. Con người là chủ nhân của đời sống xã hội.

Trong các hình thái đẹp và sự vật đẹp thì con người là đẹp nhất. Vẻ đẹp của con

người bao gồm hai bộ phận: cái đẹp bên trong và cái đẹp bên ngoài, mà quan

trọng nhất chính là vẻ đẹp bên trong – vẻ đẹp của các phẩm chất tinh thần, của

tâm hồn và tình cảm.

2.4.1. Quan niệm rộng mở về con người

Đã có một cái nhìn và quan niệm thật rộng mở về con người trong các tác

phẩm truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Qua những phần đã

phân tích ở trên, chúng ta bắt gặp hình ảnh của cả những con người thánh nhân

và những con người trần thế, cả những người tốt và những người cực xấu. Đối

tượng phản ánh của các nhà văn đã rộng và bao quát hơn, đa chiều hơn, nội dung

phản ánh gần hơn với sứ mệnh “Nghệ thuật vị nhân sinh” của văn chương mà

sau bao tranh luận cuối cùng đã có thể kết luận được.

Trong quan niệm rộng mở và mới mẻ về con người bao gồm từ những

nguyên tắc đạo lí làm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ

giữa con người với nhau, đến những khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống của

con người trong đó có quyền sống cá nhân. Nó cũng là tấm lòng thiết tha vun

đắp những giá trị nhân đạo ngày một tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, là tấm lòng

cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ, đặc biệt là với trẻ em, phụ nữ, với

những người lương thiện mà bị hãm hại, những người hồng nhan mà bạc mệnh,

những người tài tử mà lận đận đa cùng…

2.4.1.1. Con người với những phẩm chất tốt đẹp

Không ai phủ nhận rằng trên thực tế, luôn tồn tại một sự đối lập giữa hai

loại người mang trong mình những phẩm chất đối lập nhau như tốt và xấu, thiện

và ác, thông minh và ngu dốt. Nhưng như vậy hoàn toàn không có nghĩa là giữa

hai loại người ấy tồn tại một ranh giới tuyệt đối. Bởi vì một người được coi là tốt

đẹp thì cũng đâu chắc tất cả mọi điều thuộc về con người anh ta đều hoàn thiện,

và trái lại, một kẻ bị coi là xấu xa thì đâu phải bất cứ cái gì thuộc về hắn cũng

xấu xa đáng ghét. Như K. Marx đã nói thì con người sống là thực hiện mình

trong một loạt các mối quan hệ xã hội: “Con người là tổng hòa của những mối

quan hệ xã hội”. Trong các mối quan hệ ấy, những phẩm chất thuộc về bẩm sinh

của con người được tập trung, cấu tạo lại và phải biến đổi. Vì thế mới tạo ra

được những tính cách mới, những tính cách con người luôn vận động, biến đổi

theo quy luật của mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh.

Nét chủ đạo dễ nhận thấy trong các tác phẩm giai đoạn này là đề cao

những phẩm chất của con người: lòng nhân hậu, tình mẫu tử, tình yêu chung

thủy, niềm khát khao và ước vọng về hạnh phúc…

Trong Sinh đẻ kì lạ (Lan Trì kiến văn lục), Vũ Trinh làm người đọc vừa

kinh sợ vừa cảm động trước tình cha mẹ và cảnh ngộ trớ trêu của một gia đình

nghèo. Người mẹ đã chết khi mang thai được bảy, tám tháng, ấy vậy mà một đứa

bé lại được sinh ra dưới mồ, người mẹ ngày ngày phải lên trần mua bánh khảo về

mớm cho con. Người bố nghe kể, đến đào mộ vợ ôm con về, nhưng hàng xóm ai

cũng sợ đứa bé do người chết sinh ra nên không dám đến gần, nói chi đến việc

cho bú nhờ. Người cha chịu cảnh gà trống nuôi con và ngày ngày cho đứa bé sơ

sinh ăn bằng cách mớm cơm, mớm cháo đến khi nó lớn.

Tình yêu chung thủy được các tác giả chú ý đề cập, đặc biệt là Vũ Trinh.

Trong bản giao hưởng nhiều sắc màu của Lan Trì kiến văn lục, đã nhiều lần

những bài tình ca ngọt ngào vang lên. Có bài ca ca ngợi thứ ái tình sau một đêm

gặp tưởng dễ phôi phai mà lại sâu nặng nghĩa tình giữa chàng nho sinh và cô gái

hủi trong Tháp báo ân, giữa cô gái và chàng trai nghèo trong Sống lại. Có bài ca

biểu dương tấm lòng đồng cam cộng khổ của vợ chồng cô ba trong Bà phu nhân

Lan Quận công; hay khúc hát bi thương đầy cảm động về tình yêu của người

chồng đối với vợ trong Con giải…

Vũ Phương Đề còn thông qua Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ (Công

dư tiệp kí) bộc lộ ý kiến chân thành của mình về thuyết thiện – ác ở đời: “… có

thể từ đó mà suy ra điều thiện ác, và người đời nghe chuyện không thể không

gắng gỏi làm điều thiện vậy”. Dĩ nhiên không phải tất cả những phẩm chất tốt

đẹp – những đức tính thuộc thiện của con người đều được thể hiện và ngợi ca

trong những truyện truyền kì này, nhưng những gì các tác giả đề cập đã bộc lộ rõ

sự quan tâm thực sự của họ đối với con người, bởi đó đều là những tính cách gần

gũi nhất, những phẩm chất bình dị nhất mà lại tỏa sáng nhân cách của chữ Người

theo đúng nghĩa.

2.4.1.2. Quan niệm mới về hạnh phúc

Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Trẻ, TpHCM, 1998) định nghĩa:

Hạnh phúc là một danh từ chỉ sự “gặp được nhiều sung sướng, toại nguyện” [16,

182]. Điều toại nguyện trong cuộc đời mỗi con người lại mỗi khác, có những

niềm hạnh phúc lớn lao nhưng cũng có những điều lại vô cùng giản dị. Trong

văn chương trung đại quen thuộc, hạnh phúc của nhân vật, của mỗi cá nhân

thường hòa trong niềm vui chung của đất nước, hòa với cái Ta rộng lớn, đó là

thứ hạnh phúc của những bậc vĩ nhân dành cả cuộc đời cho đất nước, hạnh phúc

khi đất nước hòa bình, dân chúng ấm no. Trong truyện truyền kì, chúng ta bắt

gặp những cung bậc rất phong phú mà rộng mở vô cùng của cung đàn hạnh

phúc.

Vẫn thấy rất nhiều trong những trang văn kì ảo hình bóng của thứ hạnh

phúc cuộc đời quen thuộc, đó là niềm vui khi được vinh danh trên bảng vàng,

được thỏa ước nguyện của chí làm trai sau bao năm đèn sách. Nốt nhạc hạnh

phúc này xuất phát từ quan niệm trung thành với Nho học, tiến thân bằng con

đường học vấn và phục vụ triều đình, gắn với đề tài thi cử vốn được đề cập rất

nhiều trong văn chương.

Nhưng ngược lại, cũng có những niềm hạnh phúc vượt ra ngoài lẽ “xuất,

xử, hành” của nhà Nho, vượt ra khỏi những khuôn khổ, lễ nghi, giáo điều của

triều đình phong kiến, ấy là niềm hạnh phúc mới mẻ mà Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm cũng đã được trải nghiệm trong thời gian lui về ở ẩn, “tàng” giữa

chốn thiên nhiên. Lúc này, hạnh phúc nghĩa là được tự do tự tại làm những điều

mình muốn, đi đây đi đó, phiêu bồng thỏa chí. Phạm Viên là một nhân vật trở đi

trở lại trong nhiều truyện và rất tiêu biểu cho quan niệm này (như truyện Phạm

Viên trong Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh, Thành Đạo Tử, Ông Nguyễn

Hoàn, Ông Nguyễn Trọng Thường - Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ,

Nguyễn Án, Ông tiên Đông Thành trong Thoái thực kí văn của Trương Quốc

Dụng, Ông sư tiên núi Nưa – Sơn cư tạp thuật – Khuyết danh, và sau này

trong Chân nhân Phạm Viên – Nam thiên trân dị tập – Khuyết danh…). Cha

là Tiến sĩ triều đình, bản thân Phạm Viên cũng có nhiều cơ hội để nối nghiệp

cha, nhưng ông đã bỏ ý định tiến thân bằng con đường khoa hoạn, nghiền ngẫm

tinh thông các sách phương thuật, sau đắc đạo thành tiên, đi khắp nơi dạy học và

bốc thuốc chữa bệnh cứu người, thoắt ẩn thoắt hiện, đi mây về gió không ai biết

tung tích. Người có nhã ý muốn tìm gặp ông quả là không gặp được, chỉ có hữu

duyên thì gặp mà thôi.

Hạnh phúc cũng không còn chỉ là điều đạt được do ta hoạch định và phấn

đấu trong một thời gian dài nữa, mà có thứ hạnh phúc bất ngờ, hạnh phúc ngắn

ngủi nhưng thực sự để lại ấn tượng sâu sắc. Đó là phút giây hạnh phúc của người

đàn bà góa và ông khách qua đường, để rồi sau lúc đó người đàn ông chết, họ

không bao giờ được gặp nhau nữa, nhưng dư âm để lại chính là người con trai tài

năng nổi bật Trạng nguyên Giáp Hải (Nhận ra mẹ đẻ - Công dư tiệp kí – Vũ

Phương Đề). Đó là giây phút hạnh phúc ngất ngây của cô gái hủi và chàng thư

sinh trên đường ứng thí, cũng chỉ có đêm đó họ được gần nhau, sau đó cô gái qua

đời thành hồn ma giúp chàng thi đỗ, chàng trai trở thành viên quan triều đình,

nhưng chàng vẫn lấy nghĩa vợ chồng đối đãi để trả cái tình và cái ơn cô (Tháp

báo ân – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh).

Hạnh phúc gia đình tưởng giản dị mà vô cùng khó xây đắp, điều cốt yếu

do sự chung thủy của con người, đặc biệt chung thủy với thứ hạnh phúc từ những

ngày còn hàn vi, như chàng trai trong Tháp báo ân, hay ông quan Vũ Công Đạo

trong Thủ khoa mặt đẹp (Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề) tuy sống trong vinh

hoa phú quí vẫn không mua nàng hầu, chỉ có mỗi một phu nhân xe tơ kết tóc từ

thưở hàn vi và lời tâm niệm “Ta dầu không theo kịp cổ nhân nhưng cũng chưa

hề phạm điều răn về hiếu sắc”.

Prômêtê từ thời cổ xưa đã được loài người sùng kính, nhà văn Hi Lạp cổ

đại là Etsinlơ đã viết vở bi kịch Prômêtê bị xiềng ca ngợi sức mạnh của tinh thần

đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của con người, vì con người… Các Mác trong

luận văn tiến sĩ đặc biệt ngợi ca Prômêtê, một hình ảnh của đau thương nhưng vô

cùng cao đẹp, là vị thánh và là người tử vì đạo cao thượng nhất trong lịch sử.

Prômêtê trở thành hóa thân của người kiên trì chính nghĩa, hiến thân cho lí

tưởng, phản kháng bạo ngược. Vị anh hùng đánh cắp lửa Prômêtê là người căm

thù bạo ngược, chủ trì chính nghĩa, muốn mưu lợi cho loài người, tuy bị trừng

phạt tàn khốc, nhưng ông vẫn kiên trì lí tưởng của mình: tìm cách để dành phần

thịt bò cho loài người, đánh cắp lửa thánh trên núi Ôlempơ đem giấu vào một

ống sậy rồi mang đến cho loài người.

Các nhà văn thời kì này đã biết đấu tranh cho sự tự do biểu hiện của con

người, chia sẻ và đi sâu vào việc phản ánh những tình cảm riêng tư của con

người, chứ không chỉ là những sự kiện trọng đại, những vấn đề chính luận,

những triết lí khô khan. Chính nhờ sự xuất hiện của những yếu tố rất cá nhân đó

mà vị thế của con người cá nhân trong văn học được nâng lên, đồng thời con

người cũng xuất hiện “người” hơn. Và để chúng ta hiểu được rằng, hạnh phúc

thực sự của một dân tộc, một đất nước xuất phát từ hạnh phúc (dù nhỏ bé) của

mỗi người dân, làm cho mỗi người dân được hạnh phúc.

2.4.1.3. Quan niệm về chữ “trinh”

Các câu chuyện về thánh nhân xưa thường né tránh vấn đề sắc dục, và coi

việc chống lại được sức cám dỗ của sắc dục là một biểu hiện cao nhất của thánh

nhân quân tử, vì vậy con người được xây dựng thường không giống những con

người phàm trần với những phẩm chất rất đời thường, đó là những con người

luôn luôn phải gồng mình, gượng ép mình trong một khuôn khổ, phải chống lại

bản năng tự nhiên của mình. Thậm chí, trong Truyền kì mạn lục, ở cuối một số

truyện, lời bình của Nguyễn Dữ mang nặng tính chất giáo huấn, phê phán lối

sống buông thả theo bản năng, như buông thả trong tình ái hoan lạc, không gắn

kết với mục đích hôn nhân.

Các tác giả xưa tránh né vấn đề sắc dục theo bản năng, kiên quyết bảo vệ

“chữ trinh đáng giá nghìn vàng” của người phụ nữ. Vì thế, trong tác phẩm của

họ, đa số những người phụ nữ dùng nhan sắc để nói chuyện với thiên hạ thì đều

phải núp trong hình bóng của những yêu ma, chứ người phụ nữ bình thường

trong xã hội không thể làm việc ấy, nghĩa là để tình cảm lộ liễu hoặc có sự đụng

chạm xác thịt với đàn ông không phải là chồng mình. Nếu tác giả để cho họ gặp

phải hoàn cảnh bị cưỡng bức thì cũng phải tạo cho họ sự xấu hổ đến mức tự tử

hoặc bị dằn vặt đến chết.

Vậy mà trong những tập truyền kì giai đoạn này ta bắt gặp những câu

chuyện thật mạnh mẽ, bạo gan. Trong Nhận ra mẹ đẻ - Công dư tiệp kí, Vũ

Phương Đề đã xây dựng một hoàn cảnh lí tưởng (đêm mưa to gió lớn, trời lạnh,

lại chỉ có manh chiếu đắp chung) để người đàn bà góa và người đàn ông lỡ độ

đường không chiến thắng được “sắc dục”. Mẹ của Trạng nguyên Giáp Hải ăn

nằm với một người qua đường ngẫu nhiên mà sinh ra ông, thực ra đó là một

trong muôn vàn câu chuyện đời có thực. Nhưng thời bấy giờ, đó là một điều cấm

kị, chính sự xuất hiện của yếu tố cấm kị này làm cho những câu chuyện vốn

ngắn ngủi, nghèo nàn chi tiết thêm phần sinh động. Trong Tháp báo ân – Lan

Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng để cho hai nhân vật lí tưởng của ông (nho sinh

và thiếu nữ) giao hoan ngay khi vừa gặp nhau.

Nhưng không giống như các yêu nữ trong truyền kì xưa, các nhân vật nữ

này không tìm vui trong thú ái ân, họ coi trọng chữ trinh, biết giữ gìn trinh tiết

của mình, nhưng đồng thời họ cũng coi trọng những giờ phút hiến dâng tất cả ấy.

Bởi với họ đó là những giây phút hạnh phúc nhất, có khi còn là duy nhất trong

cuộc đời: người đàn ông trong Nhận ra mẹ đẻ bị hàn thấp ngộ phòng qua đời

ngay sau đó, còn cô gái trong Tháp báo ân cũng sầu muộn mà chết.

Các tác giả truyền kì cũng đã mạnh tay nhiều lần để danh dự và trinh tiết

của người phụ nữ bị xâm hại. Mẹ của Đinh Tiên Hoàng bị rái cá bức có thai sinh

ra ông (Chôn xương bụng ngựa – Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề). Người

phụ nữ bị rắn, khỉ cưỡng bức và sinh con với chúng (Con lai rắn, Chuyện khỉ -

Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh). Sự trong sạch của những người phụ nữ

không chỉ do loài vật làm vấy bẩn, mà thậm chí cả đến pho tượng Phật cũng có

hành động bức hại tương tự (được phản ánh trong Tượng Già lam ở ngôi chùa

ngoài đồng – Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án). Có thể

nói, các tác giả đã có cái nhìn khá thẳng thắn và mạnh bạo trong chuyện này, họ

vừa ca ngợi vẻ đẹp và sức hấp dẫn của người phụ nữ, vừa phơi bày hiện tượng

gặp rất nhiều trong cuộc sống mà lại là địa hạt tế nhị khiến văn chương truyền

thống phải tránh xa, đồng thời bày tỏ sự thông cảm, niềm thương yêu đối với

những người phụ nữ.

Đặc biệt, hình ảnh những cô đào xuất hiện trong Cô đào họ Nguyễn và

Con giải (Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) thể hiện quan điểm tiến bộ và cách

mạng sâu sắc của nhà văn – nhà nho truyền thống trong cách nhìn con người và

cuộc đời. Hạng người vẫn bị thiên hạ khinh bỉ, cho là làm cái nghề đánh mất tiết

sạch giá trong của người phụ nữ, cũng có quyền được hạnh phúc, có gia đình và

người chồng hết lòng yêu thương, có quyền được trả thù khi bị bức hại (Con

giải). Thậm chí, Vũ Trinh còn thẳng thắn ca ngợi cô đào họ Nguyễn – một cô gái

dưới đáy xã hội: “Đó là người đàn bà có tâm hào khí, khó tìm thấy trong giới

quần thoa”. Đưa vào văn chương hình ảnh một cô đào hát đầy nghĩa khí, trọng

học vấn và thanh sạch – những tính cách tưởng chỉ thấy ở những người đàn bà

thân phận cao sang – tác giả đã thành công trong việc thanh minh cho những

người con gái bị xã hội đưa đẩy ấy.

Bấy nhiêu chi tiết thôi cũng đủ để khẳng định các tác giả thời kì này vừa

thoáng vừa tiến bộ hơn trong quan niệm về ái tình nhục dục và về khái niệm

trinh tiết của người phụ nữ. Quan tâm đến thân phận con người với những cái

nhìn đầy rộng mở và tiến bộ như thế, lẽ dĩ nhiên các nhà văn truyền kì không thể

bỏ qua việc phản ánh kĩ lưỡng số phận con người, đặc biệt là những con người

bất hạnh.

2.4.2. Phản ánh số phận con người

Văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX hướng về

khẳng định con người cá nhân. Văn học giai đoạn này đã có bước chuyển biến

đặc biệt với nhiều đổi mới, trong đó một thành tựu quan trọng nhất chính là xây

dựng được các nhân vật cụ thể. Cuộc sống xã hội không còn chỉ được miêu tả

với những xóm làng, những tập thể, cộng đồng hay con người vô danh mà các

tác giả văn học đã lấy con người làm xuất phát điểm để suy nghĩ về các vấn đề

của cuộc sống, xã hội nói chung. Thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, cùng với

văn học dân tộc, truyện truyền kì cũng bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn

văn học chuyển biến từ những mối quan tâm đặc biệt đến đạo đức, luân lí sang

việc chú ý nhiều hơn đến cuộc sống con người, đặc biệt là những con người bất

hạnh và người phụ nữ.

2.4.2.1. Con người bất hạnh

Đây là một chủ đề mới và quan trọng của truyện ngắn truyền kì giai đoạn

này. Những con người bất hạnh rất dễ nhận được sự đồng cảm trong cuộc đời

thường, nhưng trong những trang văn giai đoạn trước, các tác giả trung đại e dè

trước việc phản ánh hình ảnh họ. Phải đến thế kỉ XVIII, cùng với sự xuất hiện

đậm đặc của chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương, thì số phận những con người

bất hạnh mới được nói đến, và bắt đầu từ đây, trở thành một đề tài được nhiều

nhà văn quan tâm.

Xét trong mạch chảy ấy, thì thấy rõ các tác giả truyền kì có một vai trò

không nhỏ trong việc phản ánh và bênh vực những con người bất hạnh, mà trong

quan niệm của họ, đó là những tài tử giai nhân có tài có sắc đi kèm có họa, hoặc

những con người nhỏ bé, bình thường trong xã hội.

a) Tài tử giai nhân

Mĩ nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

(Người đẹp từ xưa đã như những vị tướng tài

Không dám hẹn với nhân gian đến lúc bạc đầu)

Không biết từ bao giờ người ta đã khoác lên số phận tài tử giai nhân

những câu như là định mệnh ấy. Đã là giai nhân thì ắt hẳn “Hồng nhan bạc

mệnh”, “Hồng nhan đa truân”, đã là tài tử thì phải chịu cảnh “Quân tử đa cùng”.

Và sau này, dù trong thời hiện đại người ta vẫn còn rất tâm đắc với lí thuyết ấy.

Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng: “Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã

định thế trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào khác được”.

Chàng thư sinh họ Đào trong Con chó nhà giàu có nghĩa (Tân truyền kì

lục – Phạm Quí Thích) là một điển hình tiêu biểu cho phận “đa cùng” của người

tài tử. Chàng “thật xứng bậc vĩ nhân đất Bắc”, được người bấy giờ khen là “bậc

chủ soái trong làng thơ văn”, nhưng gặp lúc thời thế loạn lạc, nước nhà thay

ngôi đổi chủ, lại mùa màng thất bát liên miên, mấy năm liền đói kém, chàng

chán ngán buông chí giang hồ, không màng sản nghiệp, dạo bước khắp nơi rồi

xin làm anh giáo cho một nhà giàu, bị đối xử bạc bẽo nhưng vẫn lấy việc dạy học

trò và việc làm thơ làm vui thú. Còn lận đận trong thi cử thì đến như ông Nguyễn

Thực (Bà phu nhân Lan Quận công – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) có tài

nhưng nhà nghèo phải đi làm thuê mướn cho người, rồi vận xui thi mấy lần

không đỗ, ngoài ba chục tuổi vẫn là ông Cử nghèo. Hai vợ chồng bị họ hàng

khinh ghẻ, đi đâu cũng lủi thủi, đến nỗi “bọn trẻ con trong xóm và đám đàn bà

nuôi tằm cũng lạnh nhạt”, “kẻ ăn người làm cũng chế giễu”, ước mơ có tên trên

bảng vàng cũng nguội dần.

Tuy nhiên, điều các nhà văn quan tâm nhiều hơn vẫn là những người có tài

có sắc nhưng bạc mệnh như mẫu hình các nhân vật nữ xuất hiện trong sáng tác

của Nguyễn Du, Phạm Thái. Từ cổ chí kim đã có bao nhiêu câu chuyện truyền

về sức mạnh của giai nhân: Giai nhân chẳng cần võ tinh văn thạo cũng nắm được

binh quyền, chẳng cần súng gươm cũng có thể giết được tướng tài quân mạnh.

Nhưng cũng có những truyền thuyết bất hủ về sự bạc mệnh của giai nhân: Giai

nhân không phải là những vị tướng yểu mạng trên sa trường, nhưng họ vẫn phải

vận vào mình cái thuyết yểu mạng ấy, vì nhiều lí do, vì những sóng gió xung

quanh cuộc đời họ.

Trong Chuyện quan Quận ở Liên Hồ (Lan Trì kiến văn lục), Vũ Trinh

cảm phục cô con gái nhà quan “thông minh sáng dạ, bài học qua mắt đã thuộc,

thật là tài sắc vẹn toàn”, nàng xinh đẹp, tài năng, hiền thục, lại con nhà gia thế,

là một hình mẫu thiếu nữ lí tưởng, ai cũng nghĩ nhà nào phúc đức lắm mới có thể

lấy được nàng. Vậy mà hai mươi năm sau gặp lại, số phận đã đẩy nàng phải làm

vợ hai, rồi trở thành bà góa mất chồng mất con một thân lưu lạc…

Cùng chung một kiếp truân chuyên ấy, nhưng ả đào lại là một loại nhân

vật văn hóa đặc biệt, bắt đầu xuất hiện dày đặc trong văn học thế kỉ XVIII – đầu

thế kỉ XX, cùng với sự bùng nổ hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại

với cùng số phận: sắc tài mà bạc mệnh. Họ có những mối quan hệ khá nhạy cảm

với giới văn nhân tài tử, nhưng sống giữa những biến chuyển kinh hoàng của

thời đại, những mối quan hệ nhạy cảm ấy không mang lại cho họ gì hơn là sự dở

dang, bất hạnh. Cô đào trong Con giải kết thúc cuộc đời bằng cái chết thảm

trong bụng con vật ác, Cô đào họ Nguyễn xinh đẹp, trọng tài trọng nghĩa mà

sống cả đời ô nhục và khổ vì tình duyên, cũng bởi thân phận kĩ nữ của mình

(Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh).

Thơ hiện đại ngày nay cũng nói nhiều về những điều bạc mệnh ấy:

Người đẹp vẫn thường hay chết yểu

Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai

Phải chăng khi viết về chủ đề những người tài mà bạc mệnh, các tác giả

muốn gửi gắm nỗi niềm riêng vào trong sáng tác của mình – những con người tài

cao chí cả mà không gặp thời, tiêu biểu như Vũ Trinh. Cả đời ông tận tâm phò

vua với ước mong giúp nước, nhưng tiếc thay Lê Chiêu Thống lại không phải là

một vị vua sáng như ông hằng mơ ước, để trong các sáng tác của mình, ông mãi

day dứt về một triều đại vua sáng tôi hiền nhân dân hạnh phúc.

b) Thường dân bất hạnh

Hạnh phúc cũng như khổ đau không phân biệt kẻ giàu người nghèo, không

phân biệt sang hèn, người xinh kẻ xấu, mỗi người đều có thể gặp bất hạnh của

riêng mình.

Trong xã hội còn lạc hậu thời phong kiến, chúng ta bắt gặp rất nhiều hoàn

cảnh bất hạnh và những số phận đáng được cảm thương. Rất nhiều người nông

dân bị cuốn vào vòng xoáy vũ bão của lịch sử: họ bị bắt đi lính (Người nông

phu ở An Mô – Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án); bị họa

chết oan và đói khát do nạn binh đao (Dốc lôi thủ - Lan Trì kiến văn lục – Vũ

Trinh, Người nông phu ở Như Kinh – Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ

và Nguyễn Án…). Rồi lại có người em khốn khổ, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ,

bị người anh tham lam bủn xỉn, chị dâu tàn ác hung bạo chiếm hết tài sản rồi bắt

ra ở riêng. Anh đi làm mướn, kiếm củi cũng chỉ đủ sống qua ngày, không có tiền

mà cưới vợ (Ông tiên ăn mày – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh).

Hình ảnh những người mẹ, người vợ bất hạnh cứ ám ảnh mãi tâm trí người

đọc. Vũ Phương Đề miêu tả sự bất hạnh của hai người phụ nữ trong một gia đình

do người chồng, người con độc ác gây ra. Người vợ lỡ tay làm chết con gà yêu

của chồng, sợ hãi sinh ra ốm. Mẹ chồng thương quá mới nhận tội thay, ai ngờ

thằng con bất hiếu “một tay vác cuốc, một tay túm tóc mẹ lôi ra bãi tha ma ở đầu

làng”, bắt mẹ ngồi xuống rồi định quật đất lên chôn mẹ (Ác báo – Công dư tiệp

kí). Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục cũng tỏ ra đồng cảm với hoàn cảnh bất

hạnh ấy của những người vợ, người mẹ: cô gái xinh dẹp, ngoan hiền không lấy

được người mình yêu do chàng trai nghèo khó, cô bị bố mẹ ép gả cho nhà giàu,

rồi bị ông chồng vũ phu thất học đánh chết do sự ghen tuông vô cớ (Sống lại);

Người mẹ nghèo sinh con sau khi đã chết, không có sữa, không có tiền nên ngày

ngày phải hiện lên mua bánh khảo bên đường về mớm cho con (Sinh đẻ kì lạ).

Ám ảnh nhất là hình ảnh những đứa trẻ bất hạnh. Trong Sinh đẻ kì lạ là

đứa trẻ từ bé tới lớn chưa một lần được uống dòng sữa mẹ. Em sinh ra dưới mồ,

được người mẹ ma ngày ngày mớm bánh khảo cho ăn, sau này người bố đón về

nuôi thì cũng không ai dám tới gần cho em bú vì sợ âm khí, nhà lại nghèo không

có tiền mua sữa, hàng ngày người bố phải mớm cớm, mớm cháo cho em. Trong

Con hổ nghĩa hiệp (Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) lại là đứa bé tội nghiệp bị

người cha độc ác ném vào rừng cho hổ ăn thịt. Vì lão muốn lấy vợ hai nên đã

bạc đãi vứt bỏ em, may được hổ nhân từ đưa em về trong vòng tay chăm sóc của

bà ngoại già yếu.

Yêu thương con người, quan tâm đến hạnh phúc và những nỗi niềm rất

riêng tư của mỗi con người – từ những người xinh đẹp, giàu có, đến những người

nghèo bất hạnh – là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo và phong

trào thực học trong văn học giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Trong

văn học các giai đoạn trước, con người xuất hiện thông qua hình ảnh nhân vật

chính thường dựa vào lí tưởng của đạo Phật, Nho để đạt tới mục tiêu trở thành

người chính nhân quân tử, vì thế người đàn ông chiếm vị trí chủ đạo trong đời

sống văn học, là nhân vật chính. Sang thế kỉ XVIII, nhân vật chính trong văn học

lại là người phụ nữ, có những tác giả là đàn ông viết về phụ nữ và cả những

người phụ nữ tự viết về giới mình – giới bất hạnh nhất, phải chăng là thế?

2.4.2.2. Số phận người phụ nữ

Từ xưa đến nay, hình ảnh người phụ nữ với tất cả vẻ đẹp, nhân cách, tâm

lí… luôn là đề tài dành được sự ưu ái đặc biệt của các nhà văn, và họ xứng đáng

được hưởng sự ưu ái ấy. Trong Văn học Trung Quốc, Dương gia phủ diễn

nghĩa xuất hiện đời Minh đã miêu tả các nữ tướng họ Dương rất sinh động, sáng

tạo rất nhiều hình tượng anh hùng nữ giới mà tiêu biểu là Mộc Quế Anh, có ý

nghĩa mở đường cho lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc. Đến nửa cuối đời Thanh,

xuất hiện Kính hoa duyên là một bộ tiểu thuyết trường thiên nổi tiếng, tác phẩm

cuối đời của Lí Nhữ Chân. Nửa phần đầu của bộ sách miêu tả những truyện lạ kì

mà hai cha con Đường Ngạo và Đường Tiểu Sơn lần lượt du lịch hơn bốn mươi

nước biết được. Đoạn miêu tả về nước phụ nữ, nhiệt tình ngợi ca phụ nữ thông

minh tài trí, bày tỏ sự phê bình đối với việc trọng nam khinh nữ thể hiện một tinh

thần dân chủ.

Nhưng dường như trong văn chương Việt Nam thời trung đại, viết về nữ

giới còn là một đề tài khá nhạy cảm, chính bởi thân phận bé nhỏ và khuất lấp của

nữ giới trong xã hội còn bất bình đẳng thời bấy giờ. Nhà văn lớn Nguyễn Du đã

khái quát về số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến bằng những

câu thơ bất hủ trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Đau đớn thay phận đàn bà

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu

Cùng với thời gian, đã có nhiều kiểu chân dung phụ nữ khác nhau xuất

hiện trong văn chương, anh hùng liệt nữ như trong những trang viết bác học của

Đoàn Thị Điểm, nhân hậu giản dị trong những câu chuyện Vũ Trinh kể lại…

a) Người phụ nữ trong “Truyền kì tân phả”

Cùng với Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm đã góp

thêm vẻ kiên cường và tài năng cho giới nữ. Sinh thời, bà nổi tiếng về tài thơ

văn, ứng đối, hiện vẫn còn truyền tụng nhiều giai thoại. Khi bà mất, trong bài

văn tế, Nguyễn Kiều đã so tài thơ ca của bà ngang với Tô tiểu muội, Ban Chiêu

ở Trung Quốc.

Truyền kì tân phả còn gọi là Tục truyền kì, là tác phẩm chữ Hán của

Đoàn Thị Điểm. Vấn đề văn bản của Truyền kì tân phả hết sức phức tạp, đến

nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Tư liệu hiện còn tại Viện Nghiên cứu Hán

Nôm có bản mang tên Tục truyền kì, có bản mang tên Truyền kì tân phả. Các

bản chép số lượng các truyện không hoàn toàn tương đồng nhưng nội dung các

truyện sai khác không lớn. Trong Tang thương ngẫu lục (Nguyễn công Kiều á

phu nhân – Vợ thứ của ông Nguyễn Kiều), Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đã

viết rằng: “Bà (Đoàn Thị Điểm) có làm ra tập Tục truyền kì, trong có 3 truyện

Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An Ấp liệt nữ còn lưu hành ở đời”. Nhưng

Phan Huy Chú – tác giả bộ Lịch triều hiến chương loại chí – lại cho biết Tục

truyền kì của Đoàn Thị Điểm có 6 truyện, gồm: 1. Bích Câu kì ngộ, 2. Hải khẩu

linh từ, 3. Vân Cát thần nữ, 4. Hoành Sơn tiên cục, 5. An Ấp liệt nữ, 6. Nghĩa

khuyển nhất miêu. Cũng theo họ Phan sách này đã thất truyền. Theo gia phả họ

Đoàn, sách gồm sáu truyện: Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An Ấp liệt nữ,

Bích Câu kì ngộ, Yến Anh đối thoại, Long Hổ đấu kì nhưng chỉ có ba truyện đầu

là của Đoàn Thị Điểm, còn ba truyện sau là của người khác (như trường hợp

Bích Câu kì ngộ thì có nhiều ý kiến khác nhau: Hoàng Xuân Hãn trong sách

Chinh phụ ngâm bị khảo cho là của Đặng Trần Côn; Trần Văn Giáp trong Bích

Câu kì ngộ khảo thích lại cho là của một tác giả khuyết danh…). Do vấn đề văn

bản quá phức tạp, nhất thời khó có thể minh xác được nên ở đây chúng tôi tạm

theo Phạm Đình Hổ và gia phả gia đình bà, nghĩa là luận văn sẽ chỉ khảo sát tạm

thời ba truyện Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ và An Ấp liệt nữ.

Những truyện ấy chứa đựng những yếu tố thần kì theo kiểu Truyền kì đời

Đường, nhưng chép những chuyện lạ ở Việt Nam. Hải khẩu linh từ (Truyện

đền thiêng ở cửa bể) là chuyện về nữ thần Chế Thống, tức Nguyễn Thị Bích

Châu, cung phi của Trần Duệ Tông (thế kỉ XIV) đã hi sinh thân mình để nhà vua

được an toàn đưa chiến thuyền vào đánh quân Chiêm. Vân Cát thần nữ (Truyện

nữ thần ở Vân Cát) là chuyện về bà chúa Liễu Hạnh, một nhân vật huyền thoại có

nhiều quyền năng siêu phàm, một trong bốn vị "anh hùng văn hoá" tứ bất tử của

Việt Nam, cùng với Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử. An Ấp liệt nữ

(Truyện người liệt nữ ở An Ấp) là chuyện vợ bé ông Đinh Nho Hoàn tuẫn tiết

theo chồng. Những chuyện của Đoàn Thị Điểm xây dựng từ những nhân vật có

thật trong lịch sử hoặc theo truyền thuyết dân gian, đều có ý thức đề cao người

phụ nữ, thể hiện rõ lí tưởng theo đạo Mẫu.

Những người phụ nữ trong Truyền kì tân phả đều là những liệt nữ, các vị

thánh mẫu hiển linh được thờ cúng trong dân gian. Họ có nhiều đặc điểm chung:

lúc còn sống đều xinh đẹp, thông minh hết mực, hiểu biết, giỏi tài văn thơ ứng

đối, khi chết thì kì lạ, hiển linh giúp đời.

Nàng Bích Châu (Truyện đền thiêng ở cửa bể) “tính tình đứng đắn, tư

dung xinh đẹp, thông hiểu âm luật Lê Viên, theo đôi văn từ Nghệ Phố”, nhiều lần

đối họa và khuyên can nhà vua, khiến vua hết lòng yêu quí và khâm phục:

“Không ngờ một nữ nhi lại thông tuệ đến thế! Thật là một Từ Phi ở trong cung

của trẫm vậy”. Người liệt nữ ở An Ấp “nghi dung thanh nhã, cử chỉ đoan trang,

thêu thùa khâu vá rất khéo, lại giỏi văn thơ”, thường cùng chồng xướng họa,

được ông vừa yêu vừa kính trọng: “Lời thơ tao nhã, ngụ ý sâu xa, đời xưa khen

Khương Hậu và Từ Phi cũng chưa là tột bực vậy”. Truyện nữ thần ở Vân Cát

kể về cuộc đời mấy kiếp tái sinh luân hồi của tiên nữ Giáng Tiên xinh như hoa

như ngọc, thông thạo văn thơ, thổi tiêu gẩy đàn rất mê hoặc lòng người, sánh

cùng các tài nữ thời xưa.

Xinh đẹp và giỏi giang nhường ấy, nhưng các nàng không bằng lòng với

cuộc sống êm êm, nhạt nhòa vô nghĩa mà đều tự chọn cho mình một con đường

sống ngắn ngủi nhưng đầy vinh quang.

Nàng Bích Châu khuyên can vua không được, đã dũng cảm hi sinh thân

mình để cứu vua và cả đoàn thuyền thoát khỏi thủy họa, giúp vua đánh thắng

giặc Chiêm. Sau này nàng hiển linh và được sắc phong thần, lập đền thờ phụng

quanh năm (Truyện đền thiêng ở cửa bể). Người liệt nữ ở An Ấp tuẫn tiết theo

chồng, được triều đình cho lập đền thờ, nhân dân cầu đảo đều linh ứng. Nàng

còn hiển linh đàm đạo trôi chảy với nho sinh họ Hà về lẽ sống và bảo vệ được

danh tiết cho chồng. Nữ thần ở Vân Cát – Tiên chúa hết hạn đi đày phải về trời

nhưng vẫn lưu luyến dương gian, nhiều lần trở lại thăm chồng và cha mẹ, đề thơ

xướng họa ở nhiều nơi nàng đi qua và đem lại phúc đức cho con người, cảnh vật:

“Tiên chúa thường hiển linh, người lành được phúc, kẻ ác bị tai vạ”, cây cối

xanh tươi, nước chảy quanh năm… Nhân dân và triều đình lập đền thờ, sắc

phong cho là “Mã Hoàng Công Chúa”, lại giúp vua đánh giặc nên được gia tặng

“Chế Thắng Hòa diệu Đại Vương” hưởng sự thờ phụng ngàn năm.

Thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Đoàn Thị Điểm rất anh hùng, cao

cả, gợi lên trong lòng người đọc cảm giác kính trọng, nể phục và choáng ngợp.

Ngược lại, thế giới phụ nữ trong tác phẩm của Vũ Trinh lại bình dị, đáng yêu

đáng mến, có cả xót thương.

b) Người phụ nữ trong “Lan Trì kiến văn lục”

Lan Trì kiến văn lục là tập ghi chép những điều "tai nghe mắt thấy" bằng

chữ Hán của Vũ Trinh (thế kỉ XVIII), gồm 45 truyện tản mạn, viết sơ sài, không

chủ ý "làm văn chương". Lan Trì kiến văn lục có phần trùng tên với sách của

Lê Quý Đôn là Kiến văn tiểu lục, nhưng Lê Quý Đôn thiên về kiến thức, còn

Vũ Trinh thiên về những truyện li kì quái dị. Ngoài ra nó còn có nhiều điểm

giống Vũ trung tuỳ bút (của Phạm Đình Hổ) và Tang thương ngẫu lục (của

Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án) xuất hiện về sau.

Khảo sát các loại nhân vật (thần tiên, ma quỉ, nam giới, phụ nữ, trẻ em, loài vật) trong 39 truyện 10, ta thấy nhân vật phụ nữ xuất hiện với tần suất tương

đối lớn.

Có vẻ như Vũ Trinh đã dành sự ưu ái khá lớn cho phụ nữ, bởi không có

người phụ nữ nào được miêu tả xấu xa tàn ác trong tác phẩm của ông, xấu nhất

10 Xem chi tiết trong bảng phụ lục 3: Khảo sát loại nhân vật trong Lan Trì kiến văn lục

chỉ có yêu ma cây đa hay dọa nạt người yếu bóng vía (Yêu quái trên cây), trong

khi các nhân vật nam có kẻ cờ bạc, rượu chè (người anh phá gia bại sản trong

Chuyện quan Quận ở Liên Hồ), có kẻ vũ phu (người chồng đánh chết vợ trong

Sống lại), có kẻ tham lam (người anh trong Ông tiên ăn mày), có người dốt

(Ông Nguyễn Trật)…

Khác với các tác giả truyền kì giai đoạn trước, nếu như người phụ nữ

trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chủ yếu thuộc tầng lớp trung lưu hoặc

ma quỉ thì người phụ nữ trong sáng tác của Vũ Trinh lại khá đa dạng: có người

giàu (tiểu thư con quan trong Chuyện quan Quận ở Liên Hồ, con gái phú ông

trong Chuyện tình ở Thanh Trì, hay Bà phu nhân Lan Quận công…), có

người phong lưu (cô đào hát trong Cô đào họ Nguyễn, Con giải), có người

nghèo (người mẹ trong Sinh đẻ kì lạ, người vợ trong Sống lại…). Người phụ nữ

bình dân nghèo đã thực sự xuất hiện trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh,

và dưới ngòi bút của ông, những con người nhỏ bé, bình dị, bất hạnh ấy lại sáng

ngời phẩm chất tốt đẹp hơn ai hết, những phẩm chất đáng trân trọng của tình

mẫu tử thiết tha, sự thủy chung son sắt và giữ gìn tiết hạnh đoan trang.

Nhìn một cách khái quát thì nhân vật nữ trong Lan Trì kiến văn lục có

nhiều ưu điểm. Họ là những cô gái xinh xắn, ưa nhìn, có con mắt tinh đời, thông

minh mà hiền thục và cũng hết sức mạnh mẽ, chủ động trong việc tìm kiếm hạnh

phúc. Đặc biệt trong tình yêu, họ là những người chung tình, có lòng tự trọng và

giàu đức vị tha [41, 68]. Trước khi trở thành Bà phu nhân Lan Quận công, cô

ba con quan Thượng thư về hưu đã nhận lời theo chồng từ những ngày chàng

còn nghèo cầu bơ cầu bất và lận đận mấy lần không thi đỗ, nhưng nàng vẫn

không oán trách nửa lời, mà “bỏ hết đồ xa hoa, mặc quần áo vải, tự xách nước,

chồng học, vợ dệt, nửa đêm vẫn chưa đi ngủ”. Sau bao vất vả, cuối cùng chồng

nàng cũng thành danh, công lao và niềm tin của nàng được đền đáp, con cháu

cũng vinh hiển tới tận bây giờ. Con gái phú ông trong Chuyện tình ở Thanh Trì,

cảm tiếng hát và vẻ tuấn tú của anh chèo đò, mới tặng chiếc khăn và giục cho

người đến làm mai mối, biết chàng nghèo còn ngầm đưa tiền cho để làm lễ cưới.

Nhưng cha nàng không đồng ý, buông lời xúc phạm khiến chàng trai tức giận bỏ

đi, quyết chí làm giàu. Cô gái ở nhà héo hon vì buồn rầu, mang bệnh mà chết,

trong bụng còn kết một vật lửa đốt không cháy, búa đập không vỡ, có hình anh

lái đò tựa mạn chèo hát. Khi anh lái đò có nhiều tiền, trở về quê hỏi cưới mới

biết chuyện, nước mắt chàng rơi xuống làm tan chảy cục đá – vật minh chứng

cho tình yêu và sự mạnh mẽ của cô gái.

Có rất nhiều mẩu chuyện ca ngợi những người phụ nữ dù bị cuộc sống xô

đẩy vẫn giữ được phẩm hạnh tốt đẹp của chính mình. Họ là những người giàu

lòng hi sinh và tấm lòng nhân ái. Cô tiểu thư đài các xinh đẹp, nết na, nhưng vì

có người anh hư hỏng, nên phải chịu cảnh làm lẽ người cai lính già, chẳng được

bao lâu thì trở thành gái góa, không tiền, không người thân. Nhưng nàng không

làm mình vấy bẩn mà may thuê vá mướn kiếm ăn và hi vọng có ngày tìm được

về quê hương nhìn mộ phần của cha (Chuyện quan Quận ở Liên Hồ). Cô gái

trong Sống lại không lấy được người mình yêu, bị cha mẹ ép gả cho nhà giàu,

nhưng vẫn tròn đạo làm vợ và giữ được tình cảm trong sáng với người yêu xưa.

Chính nhờ sự thanh sạch và đáng yêu của nàng mà quan xử kiện đã trả nàng về

với anh nho sinh nghèo, đồng thời phạt anh chồng giàu có mà vũ phu.

Trong một loạt loại hình nhân vật nữ, cuối cùng sự lựa chọn của Vũ Trinh

cũng có lúc dừng lại nơi hình tượng người ca nhi, kĩ nữ, ả đào – loại nhân vật bị

xã hội Nho giáo truyền thống coi rẻ nhất. Cô đào họ Nguyễn “tuổi chừng mười

bảy, mười tám, rất đẹp, giọng hát cực hay, mỗi khi ra sân cất giọng lên là người

nghe đều điên đảo, không thể tự kìm mình được, khăn vấn đầu và tiền bạc ném

ra thưởng để đầy một bàn”. Giữa chốn đông người, nàng nhận ra “anh hùng lưu

lạc” Vũ Khâm Lân thưở chưa có tên trong bảng vàng và thường xuyên giúp đỡ,

chăm sóc ông chẳng khác nào vợ chồng, nhưng tuyệt nhiên cự tuyệt chuyện chăn

gối. Khi ông đỗ đạt, cha ông bắt lấy con nhà thế tộc, nàng kĩ nữ biết chuyện bỏ

đi. Trải qua mấy năm, khi có dịp gặp lại, ông đem tiền bạc ra tặng nhưng nàng

kiên quyết chối từ. Với những phẩm chất đáng trân trọng như thế, một nàng kĩ

nữ vẫn có quyền được hưởng hạnh phúc gia đình, được có một người chồng yêu

thương mình hết mực (như tình yêu của vợ chồng đào hát trong Con giải).

Người đọc có một ấn tượng tốt đẹp về thế giới nhân vật nữ xuất hiện trong

sáng tác của Vũ Trinh bởi vẻ đẹp thuần phác về ngoại hình và tính cách. Họ

không xinh đẹp kiêu sa và nổi bật, không có tài năng vượt trội, nhưng họ để lại

cho người đọc một cảm giác dễ chịu, đáng yêu. Trong Truyền kì mạn lục,

Nguyễn Dữ đã không có được hình tượng người phụ nữ hạnh phúc. Trái với cái

nhìn khắt khe ấy, người phụ nữ trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh đã tìm

được hạnh phúc của mình (Sống lại, Con giải, Bà phu nhân Lan Quận công…)

* Tiểu kết (chương 2)

Trong chương 2 cũng là một chương quan trọng nhất của luận văn: Những

xu hướng mới trong nội dung phản ánh, chúng tôi đã nêu lên một vài xu

hướng mới trong nội dung phản ánh của truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế

kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Sự chuyển hướng trong tư tưởng (ngoài việc

trung thành với lí tưởng Nho gia, các nhà văn còn bị ám ảnh bởi cõi lòng hoài Lê

và tư tưởng giải thoát của Lão – Trang) cùng với những thay đổi trong đề tài

(gắn với đời sống thế sự) không những đã kéo truyền kì giai đoạn này hòa cùng

dòng chảy của chủ nghĩa nhân đạo thời đại mà còn tịnh tiến nó tới gần hơn với

chủ nghĩa hiện thực trong văn học hiện đại. Xu hướng viết về người thật (những

nhân vật lịch sử, những con người xung quanh), vật thật và những sự việc có thật

khiến những trang văn vốn dĩ nặng tính chất kì ảo lại nghiêng về khảo cứu, học

thuật. Không còn nặng tính hoang đường kì ảo, nhiều ma lắm quái, không nặng

màu sắc giáo điều như truyền kì truyền thống, truyền kì giai đoạn này “người”

hơn, nhẹ nhàng và chia sẻ hơn. Đặc biệt là mảng viết về con người, những con

người thánh nhân quân tử, những con người của lịch sử hoặc những con người

bình phàm có số phận bất hạnh. Cũng xuất hiện những quan niệm và loại hình

nhân vật mới (như quan niệm về hạnh phúc, về chữ “trinh”, nhân vật trẻ con, ả

đào…).

Tất cả những nội dung ấy được nâng đỡ một cách phù hợp bằng đôi cánh

của nghệ thuật biểu hiện, mà chúng tôi sẽ trình bày tiếp trong chương 3: Những

đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện.

CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

3.1. Chuyển đổi giữa “kì - thực”

Cái kì vốn là một phạm trù của mĩ học Trung Hoa cổ đại, là đặc thù tư duy

của một giai đoạn lịch sử. Trong phần 1.1.1.1, khi xác định Yếu tố kì ảo và Văn

học kì ảo, chúng tôi cũng đã khẳng định rằng: yếu tố không thể thiếu của truyền

kì mà hầu hết các nhà làm từ điển đều quan tâm, đó là yếu tố “kì” (lạ). Trung

Hoa văn hóa đại từ hải cho rằng tên gọi của thể loại bắt nguồn từ yếu tố ấy. Từ

điển văn học năm 1984 do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Từ điển văn học

(từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX) của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1999, mục

Truyền kì đều chú ý trước hết đến yếu tố “kì”.

Tất nhiên, “kì” xuất hiện trong các tác phẩm truyền kì với mực độ đậm

nhạt khác nhau: có khi nó chỉ là một vài chi tiết, một vài sự việc kì lạ trong cuộc

sống được ghi lại nguyên dạng (Tiến sĩ ăn khỏe, Chôn xương bụng ngựa –

Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề), ghi chép về những con người có hình dạng

kì quặc, xấu xí, không bình thường (Con lai rắn, Người khổng lồ - Lan Trì

kiến văn lục – Vũ Trinh). Ngoài ra còn thể hiện ở những hiện tượng kì lạ trong

tự nhiên (Giao long ngủ nhờ - Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề) Thực ra

những chuyện kì lạ như vậy thời kì nào và xã hội nào cũng có, nhưng ở thời ngày

xưa người ta chưa thể lí giải bản chất sự việc một cách khoa học, nên chỉ biết ghi

chép lại để “truyền nghi” đến mai sau.

Tuy nhiên cũng có những cái “kì” nằm trong cốt truyện và có những dụng

ý tương đối rõ ràng, giúp câu chuyện phát triển song toàn bộ mạch truyện vẫn ổn

định và nhất thống, vẫn gần với hiện thực. Đó phần nhiều là những câu chuyện

về các danh sĩ, ở đó có sự kết hợp giữa những chi tiết “người thật việc thật” và

những huyền thoại được viền nét xung quanh họ. Những truyện này thường liên

quan nhiều với những huyền thoại, truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian

qua nhiều vùng dân cư, do đó cũng xảy ra trường hợp nhân vật lặp đi lặp lại,

xuất hiện trong nhiều tác phẩm của cùng hoặc nhiều tác giả khác nhau… Nhóm

truyện về cư sĩ Phạm Viên hay các câu chuyện về các vị hoàng đế (trong Tang

thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án) tiêu biểu cho loại truyện này.

Trong các tác phẩm ấy, cái “kì” – đặc điểm chủ yếu của truyền kì đã được thể

hiện khá sinh động trong hệ thống môtip phong phú (như chúng tôi đã nêu ở

phần 2.1.3: môtip giấc mơ, thụ thai kì lạ, sinh đẻ kì lạ, chết kì lạ…), trong cốt

truyện một chiều tương đối đơn giản, rành mạch tạo nên tính mĩ cảm đậm nét,

khắc sâu ấn tượng và giúp độc giả dễ nhớ, nhớ lâu.

Bên cạnh yếu tố “kì”, điều làm truyện truyền kì giai đoạn này trở nên đặc

sắc và khác so với truyền kì giai đoạn trước và những truyện kì ảo của nước

ngoài chính là bởi yếu tố “thực”. Hay đó chính là xu hướng thực hóa trong văn

học đã bắt đầu từ cuối thế kỉ XVII, được phát triển mạnh vào thế kỉ XVIII, XIX,

và thực sự chín muồi với tên tuổi nổi bật của Vũ Trinh. Đây là một chi tiết quan

trọng, tạo nên bộ mặt mới của truyền kì, chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai trong

những phần tiếp theo.

Đến giai đoạn này, mối quan hệ giữa yếu tố “kì” và “thực” hoàn toàn thay

đổi. Cái “thực” trở thành mục đích của sáng tác. Cái “kì” ở đây không phải do

tác giả tưởng tượng, hư cấu, tự xây dựng nên mà là kết quả của sự ghi chép, nó

nghiêng về cái lạ. Vũ Phương Đề và Vũ Trinh đã ghi chép về những hiện tượng

kì lạ trong cuộc sống: những ông quan ăn khỏe và có sức khỏe hơn người

(Thượng thư Lương Hữu Khánh, Tiến sĩ ăn khỏe – Công dư tiệp kí), những

tên kẻ trộm phát sinh ngày càng nhiều trong xã hội, len lỏi vào mọi tầng lớp xã

hội, tạo nên nhiều hiện tượng lạ (kẻ trộm làm quan – Tên ăn trộm – Lan Trì

kiến văn lục, kẻ trộm lừa được cả thần thánh – Kẻ trộm lừa thần thánh – Công

dư tiệp kí)… Lấy yếu tố “kì” làm phương tiện truyền tải, nhưng mục đích của

các tác giả vẫn là phản ánh cái “thực”, những hiện tượng có thật trong cuộc sống

thời đó.

Tuy nhiên, những tác phẩm thành công vẫn là những truyện kết hợp thành

công giữa cái “kì” và cái “thực”, trong đó, cái “kì” và cái “thực” là hai mặt của

một vấn đề, không xung khắc mà ngược lại bổ sung cho nhau để cùng hoàn thiện

và hấp dẫn hơn. Tây du kí (tác giả Ngô Thừa Ân đời Minh) xuất hiện như một

bộ tiểu thuyết thần thoại rực rỡ chói mắt, được sáng tác trên cơ sở sự kết hợp của

hai yếu tố “kì” và “thực”. Dựa vào câu chuyện có thật về nhà sư Huyền Trang

đời Đường Thái Tông không sợ gian khó nguy hiểm một mình đi Thiên Trúc

(nay là Ấn Độ) lấy kinh, Ngô Thừa Ân đã tham khảo thêm truyền thuyết dân

gian và hí khúc, thoại bản rồi gia công sáng tạo thành. Thông qua hình thức kì

ảo, mượn hình ảnh thế giới trên trời và các loài yêu quái mà khắc họa nên một số

đặc điểm của xã hội hiện thực, Tây du kí đã có giọng điệu chế giễu trào lộng,

vận dụng bút pháp lãng mạn khiến cho tiểu thuyết tràn đầy không khí kì ảo, thể

hiện một sức tưởng tượng nghệ thuật hiếm có. Việc sáng tạo ra nhân vật Tôn

Ngộ Không lí tưởng hóa như thế là hiện tượng chưa từng có trong lịch sử văn

học Trung Quốc. Nhiều nhân vật khác vừa có tính thần kì vừa có tính hiện thực

mạnh mẽ, lại có thuộc tính tự nhiên của động vật, là mẫu mực thành công trong

việc sáng tạo hình tượng đối với đời sau. Các nhà kì ảo hiện đại bị tư duy duy lí

phương Tây cùng những thành tựu trước mắt của nền công nghiệp hiện đại chi

phối, đã có thời kì tin tưởng rằng có thể quét sạch mọi tàn dư của thứ văn

chương tưởng tượng, hư cấu khi xưa, nghĩa là chọn một chỗ đứng trên mảnh đất

hiện thực và tự chặt đi đôi cánh thần kì của mình. Nhưng dù sao thì họ - những

Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Cung Khanh, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Huy Thiệp…

cũng đã phải một lần nữa quay lại con đường xưa. Và sự thành công của họ,

cũng như thành công của người xưa chính là ở chỗ đã kết hợp được một cách

nhuần nhuyễn hai yếu tố Thực - Ảo với nhau, đạt đến độ như Phùng Kí Tài từng

ca ngợi:

Bảo giả toàn là giả

Bảo thật thật cả thôi

Đọc đến khi hứng thú

Thật giả chẳng đôi hồi

(Gót sen ba tấc)

Trong một số truyện của Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng đã thể hiện

thành công phương pháp sáng tác đó. Lấy xuất phát điểm là những nhân vật có

thật trong lịch sử, như Trạng Quỳnh (danh sĩ nổi tiếng hay chữ, đã gắn với nhiều

giai thoại dân gian trào phúng, trong đó có tình yêu với Đoàn Thị Điểm), Phạm

Viên, Đỗ Uông, Nguyễn Trật, Nguyễn Đăng Đạo… tác giả đã gắn họ với những

chuyện lạ thường: đàm đạo thơ văn với thần tiên, được thần tiên giúp thi đỗ, nói

chuyện với ma…

Nhưng cho dù có sự kết hợp, cho dù bản chất của truyền kì vốn dĩ gắn liền

với chữ “kì”, thì sự phát triển đặc biệt của truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII

– nửa đầu thế kỉ XIX đã kéo yếu tố “thực” lên vị trí trung tâm hơn, với một vai

trò quan trọng hơn, trở thành một đặc điểm đặc biệt và khác biệt của truyền kì

giai đoạn này so với truyền kì dân tộc các giai đoạn trước và sau này cũng như

truyền kì thế giới.

3.2. “Thực” trong nghệ thuật tự sự

GS Trần Đình Sử đã lưu ý nhiều đến tinh thần thực lục, nguyên tắc chép

sử, lập hồ sơ nhân vật của các tác phẩm thời kì này. Trong đó, đặc biệt chú ý đến

nghệ thuật trần thuật.

3.2.1. Vị trí của người trần thuật

“Lời trần thuật của tác giả được phân làm hai: Lời trần thuật miêu tả câu

chuyện và lời bàn (bình) với hai tư cách khác nhau. Một người làm người kể

chuyện khách quan “biết hết”, “biết trước” và một người bình luận về mặt đạo

đức hoặc nghệ thuật có quan điểm xác định” – (Trần Đình Sử). Đây chính là

điểm làm cho các truyện truyền kì giống nhau và đều cho thấy ảnh hưởng của

bút pháp viết sử và sử bình vào văn học.

Mở đầu và kết thúc nhiều truyện thường có một câu hoặc một cụm từ, đại

loại “chuyện này do… kể lại”. Đây là một thủ pháp nhằm tạo ra tính tin cậy cho

sự việc được kể, đồng thời cũng thể hiện phương pháp sáng tác của tác giả chỉ là

ghi chép lại, ý định của tác giả là giữ nguyên vẹn những tình huống được truyền

đạt. Tác giả do vậy mà đã đóng thành công vai trò “người kể chuyện”. Đây là

một đặc điểm tương đối mới trong truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa

đầu thế kỉ XIX, tạo nên một giọng điệu trần thuật khách quan, bình dị, khác với

giọng điệu tự sự, hào hoa, truyền cảm trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì

mạn lục ngày xưa.

Người kể chuyện thường mượn một cái tên có thật để kể: “Lúc bấy giờ,

chú dượng ta là Trần Đương làm tướng cai quản ở đồn, xử vụ án này” (Cá thần

– Lan Trì kiến văn lục); “Bấy giờ ta làm quan huyện Quốc Oai được nghe quan

Huấn đạo huyện Lâm Thao là Nguyễn Quyền kể lại chuyện ấy. Ông lại nói: “Đã

từng thấy đứa bé con của rắn khi nó được ba bốn tuổi” (Con lai rắn – Lan Trì

kiến văn lục).

Người trần thuật thường là người trực tiếp tham gia – một nhân vật trong

câu chuyện, hoặc được chứng kiến tận mắt câu chuyện, hoặc trực tiếp được nghe

người trong cuộc kể lại. Chính vị trí này dẫn tới đặc điểm thứ hai.

3.2.2. Góc độ của điểm nhìn trần thuật

Không bị lệ thuộc và thiên về những yếu tố kì ảo, các nhà văn thời kì này

nhìn cuộc sống dưới góc độ của yếu tố thực. Với cái nhìn đó, họ tạo một ấn

tượng chân thật cho người đọc ngày từ tiêu đề tác phẩm cho đến những thủ pháp

được sử dụng trong khi triển khai cốt truyện, như cách kể, cách mô phỏng chính

sử…

3.2.2.1. Cảm giác đến từ Tiêu đề

Quan điểm viết về “tân” truyền kì, “sở văn”, “sở kiến”, “tân đính”… nổi

lên chiếm ưu thế và trở thành xu hướng của cả một thời đại bắt đầu từ Đoàn Thị

Điểm với Truyền kì tân phả, qua Vũ Phương Đề với Công dư tiệp kí đến Vũ

Trinh với Lan Trì kiến văn lục. Đó chính là những ghi chép rất ngắn, hàm súc,

những điều “sở kiến, sở văn” một cách khách quan. Tinh thần thực lục được thể

hiện ở ngay tên tác phẩm. Các chữ “kí”, “lục” xuất hiện với tần số khá lớn trong

các tiêu đề.

Bên cạnh các chữ “dị”, “quái”, “kì” thì hầu hết các tác phẩm có yếu tố hư

ảo có thể sử dụng chữ “kí” và “lục” như một dấu hiệu nhận biết thể loại. Có lẽ vì

thế, khác với văn chương hiện đại ngày nay (chữ “kí” thể hiện tính chính luận,

giàu tính tư liệu chính xác, là một thể loại được ưa chuộng của báo chí) thì hầu

hết các tác phẩm có chữ “kí” xuất hiện ở cuối đầu đề tác phẩm trong văn học cổ

điển Trung Quốc dường như đều thể hiện có sự hư cấu cố ý (như Thạch đầu kí –

hay Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, Tây du kí của Ngô Thừa Ân…). Còn

trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, chữ “kí” được các

tác giả sử dụng đi kèm với một hoặc một vài chữ khác lại mang ý nghĩa đặc biệt:

trong Công dư tiệp kí (公 餘 捷 記: “tiệp” nghĩa là nhanh, “kí” là ghi nhớ,

ghi chép -> “tiệp kí” là ghi nhanh), Thoái thực kí văn (退食記聞: “kí” là ghi,

“văn” là nghe -> “kí văn” là ghi lại những điều nghe thấy). Chữ “lục” cũng

chiếm đa số với Lan Trì kiến văn lục (蘭池見聞錄: “kiến” là nhìn thấy, “văn”

là nghe được, “lục” là ghi chép, thâu tóm lại -> “kiến văn lục”: ghi chép lại

những điều mắt thấy tai nghe), Tân truyền kì lục (新傳奇錄), Tang thương

ngẫu lục (桑滄偶錄: “ngẫu” là vô tình, “lục” là ghi chép -> “ngẫu lục”: ghi chép một cách ngẫu nhiên) 11.

Nhưng nếu các chữ “dị”, “quái”, “kì” rõ ràng đã mang yếu tố hư cấu tưởng

tượng, thần kì cho bản thân tiêu đề thì hai chữ “kí” và “lục” lại gây cảm giác vụ

thực – có vẻ có thật (chữ dùng của GS. Trần Đình Hượu), vì cả hai đều có ý

nghĩa là ghi chép lại. Xu hướng tôn trọng thực tế, lấy thực tế làm hệ qui chiếu

vốn cũng thường được các nhà nho khuyến khích. Trong hai chữ đó, tính vụ thực

ở chữ “lục” dường như còn mạnh hơn, vì nó đều gắn với một tích nào đó.

Không nói gì đến những chữ trong những tiêu đề còn lại như “phả” (nghĩa là bảng ghi chép có hệ thống) trong Truyền kì tân phả (傳奇新譜), hay “tùy bút” (ghi chép ngắn) trong Vũ trung tùy bút (雨中隨筆) thì tính thực lại càng rõ hơn.

Ta cũng có thể nói thêm về những tác phẩm khác cùng thể loại trong thời kì này, như những tác phẩm khuyết danh, chưa xác định được tên tác giả: Sơn cư tạp thuật (山居雜述: “tạp” là lộn xộn, lung tung, “thuật” là kể lại -> “tạp thuật” là kể lại một cách lung tung), Bích Châu du tiên mạn kí (碧珠遊仙漫記: “mạn” là tự do, tản mạn, “kí” là ghi chép -> “mạn kí” là ghi chép tản mạn), Việt Nam kì phùng sự lục (越南奇逢事錄)…

Khác “linh – chí – quái” ở thời trước và “dị” ở sau này, như đã nêu trong

phần 1.1.1.2 của luận văn này.

Ta thấy, trong giai đoạn này chữ “kì” không được sử dụng như một yếu tố

nhấn mạnh trong các tiêu đề. Hết giai đoạn này, tức là vào nửa sau thế kỉ XIX,

yếu tố “kì” trong các tên gọi của thể loại truyện này dần biến mất đi, thay vào đó

11 Xin xem thêm trong bảng phụ lục 4: Khảo sát các chữ cuối tiêu đề

là một số khái niệm tương đương nhưng tất nhiên có sắc thái khác nhau. Chữ

“dị” (khác, kì lạ, kinh hãi, kì quái, lạ lùng) xuất hiện trong nhiều tiêu đề lớn: Hát

Đông thư dị (Nguyễn Thượng Hiền), Thính văn dị lục, Nam quốc dị nhân sự

tích lục, Nam thiên trân dị tập (đều khuyết danh)…

3.2.2.2. Nổi bật “thực” qua thủ pháp

Người chứng kiến, mượn lời người khác, khảo cứu sách vở, mồ mả… đều

là những thủ pháp nghệ thuật làm nổi bật giá trị thực trong tác phẩm. Mà trước

tiên, có thể thấy rõ nhất sự xuất hiện và phổ biến của kiểu sao phỏng, tục biên

(nhiều tác phẩm viết lại những truyện truyền kì giai đoạn trước), và nhiều tác

phẩm thể hiện có tra cứu, tìm tòi trong thư tịch, sách vở xưa, hoặc điều tra từ

thực tế.

Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập và Tân đính Lĩnh Nam chích

quái là hai tác phẩm còn chưa khẳng định được cụ thể tác giả và thời gian sáng

tác. Nhưng dựa vào tên sách, lời dẫn, có thể khẳng định những tác phẩm này

xuất hiện sau và đều dựa trên cơ sở của những tác phẩm truyền kì truyền thống

đầu tiên (như Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái –

được cho là của Trần Thế Pháp) mà viết lại, có gia công, thêm thắt. Ở các truyện

kì ảo hiện đại, khó có thể tìm ra kiểu sao chép, mô phỏng như vậy, chỉ thấy sự

xuất hiện của những yếu tố kì ảo đã có nguồn gốc từ truyền kì: Báo oán hình

dung Thần hổ là một cụ già râu tóc bạc phơ, nắm trong tay sổ sinh mệnh con

người (gặp trong Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ của Vũ Phương Đề); Thần

hổ, Ai hát giữa rừng khuya của Tchya lại có chi tiết về những con ma nữ, đã

xuất hiện rất nhiều trong truyền kì truyền thống. Rõ ràng nghệ thuật mô phỏng

của kì ảo hiện đại đã tiến bộ hơn rất nhiều so với truyền kì. Nhưng sự mô phỏng,

sao chép lại các tác phẩm cũ lại là một cách minh chứng giúp tác giả khẳng định

tính chân thực của nội dung truyền tải.

Những tên đất, tên người có thật, thời gian xảy ra câu chuyện cũng rất cụ

thể, và ở một thời điểm không quá xa xôi, những nhân chứng và dấu vết còn lại,

đã gây được độ tin cậy nhất định đối với người đọc. Như vậy, dường như tác giả

ngầm thông báo rằng người đọc có thể tin vào những gì mà tác giả ghi chép

được. Đây chính là nét riêng độc đáo trong bút pháp của truyền kì giai đoạn này.

Bút pháp sử truyện được sử dụng nhiều để tăng cường tính thực cho tác

phẩm. Trước đây, tác phẩm Thiền uyển tập anh (chưa khẳng định rõ tác giả) ra

đời vào khoảng giữa thế kỉ XIV kể về tiểu sử các nhà sư sắp xếp theo thế hệ đã

rất tôn trọng nguyên tắc chép sử, bằng cách xây dựng nhân vật, cấu trúc thường

theo môtip: sinh hạ, tu tập và qui tịch, tất cả đều mang màu sắc huyền thoại. Tuy

nhiên, tác phẩm này còn thiên nặng về ghi chép tiểu sử, giá trị văn học chưa cao.

Tính chất phả kí cũng rất đậm trong các truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII –

nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt trong Truyền kì tân phả, Công dư tiệp kí. Có

truyện dường như hòa mình vào cả dòng truyện kể dân gian, truyền thuyết và sử

sách, do vậy nhiều lúc khiến người đọc có cảm giác như đang được nghe kể lịch

sử. Việc ghi chép truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lúc này có tác dụng và ý

nghĩa giống như việc bổ sung dữ liệu cho kho sử của nước nhà, kéo văn học

quay gần trở lại với thời kì “văn - sử - triết bất phân” ngày trước. Tác giả hầu

như giữ nguyên dạng sự việc, nhân vật và thậm chí cả các tình tiết, khiến tác

phẩm như một hình hài mà cái cốt được lấy y nguyên từ thực tế. Tất nhiên chúng

cũng được trải qua quá trình tái tạo nên lời văn thanh nhã hơn, ngắn gọn hơn mà

ý nghĩa lại được nâng cao hơn.

Lĩnh Nam chích quái ra đời khoảng thế kỉ XIV-XV chép lại chuyện về

thời kì lịch sử xa xưa của dân tộc với những phong tục, tập quán lâu đời. So với

các tác phẩm cùng loại ra đời trước đó, Lĩnh Nam chích quái phong phú hơn về

nội dung thể loại. Tác phẩm đánh dấu bước ngoặt của truyện truyện kì cũng như

của văn xuôi, với xu hướng tách dần văn học ra khỏi sử học, đặt tiền đề cho các

tác phẩm truyền kì về sau. Đến Lan Trì kiến văn lục, chất sử đã mờ nhạt hơn.

Xu hướng lịch sử hóa các truyện dã sử rõ hơn xu hướng truyền kì hóa, kéo

truyền kì về gần cuộc sống thực. Theo GS Nguyễn Đăng Na, xu hướng lịch sử

“sưu tầm, ghi chép về nhân kiệt địa linh đất Việt, bao gồm các nhân vật lịch sử

(người, thần) và các sự kiện lịch sử”, các truyện dân gian thường được lịch sử

hóa để tỏ ra nó có thật.

3.2.3. Tính không thuần nhất về thể loại

Đặc điểm truyện truyền kì Trung Quốc là trong một tác phẩm có thể chứa

đựng nhiều thể. Vì vậy, một tác giả truyền kì phải là một người có tài viết sử, tài

làm thơ, và tài nghị luận. Đó chính là những lí do có sức hút rất lớn của thể

truyện truyền kì của Trung Quốc đối với Nho sĩ một số nước Đông Á, Đông

Nam Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam thời đó.

Truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX nhiều

phong ba cũng có đặc điểm tương tự như vậy. Chính vì có sự chuyển đổi trong

phong cách sáng tác: vừa học hỏi những tác phẩm truyền kì đỉnh cao, vừa giữ

nguyên bản chất của truyền kì sơ khai, vừa gần và là bước đệm của văn học kì ảo

hiện đại, nên vô tình nó đã qui tụ trong lòng sự pha tạp của rất nhiều thể loại:

như ghi chép, tùy bút, hồi kí, truyện, sách bách khoa, sách danh nhân, lịch sử,

sách phong thủy v.v… Nhưng hiện tượng phổ biến nhất vẫn là hay dùng tên gọi

riêng cho mỗi cuốn sách, mỗi tập truyện (chí, lục, phả, bút, tùy bút, kí, kì, kí sự,

thuyết…): Truyền kì tân phả, Vũ trung tùy bút, Công dư tiệp kí, Tân truyền

kì lục...

Các truyện trong mỗi tập (tuy cùng là truyện truyền kì) nhưng cũng có sự

không đồng nhất: Phần lớn là truyện kí có tính chất kì về các danh nhân, nhân

vật lịch sử, sự kiện và địa điểm lịch sử… nên tương đối ngắn gọn, cụ thể; ngoài

ra cũng có truyện dài như tiểu thuyết (Con chó nhà giàu có nghĩa…), có truyện

như truyện lịch sử (trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm), có nhiều

truyện lại mang hơi hướng của truyện ngụ ngôn (Con hổ nghĩa hiệp, Gấu hổ

chọi nhau…), có truyện kết cấu như truyện Nôm (Bích Châu du tiên mạn kí)…

Trong một cuốn sách thường xuất hiện những tác phẩm hoàn toàn không

giống nhau về đặc trưng thể loại. Chính chất kí sự nổi bật đã tạo nên tính không

thuần nhất về thể loại trong các tập truyện đó. Trong Công dư tiệp kí của Vũ

Phương Đề, phần nhiều là những bài kí, ghi chép về phong cảnh đất nước, con

người, bên cạnh đó là nhiều bài mang tính chất nghiên cứu phong thủy địa lí,

những bài tuyên truyền triết lí đạo Phật và truyện ngụ ngôn.

Ta thấy dấu vết của nhiều bài thơ trữ tình vẫn còn trong các tập truyện, thể hiện qua những câu đối, câu văn biền ngẫu hay một vài bài thơ ngắn 12. Đặc biệt,

trong tùy bút của Phạm Đình Hổ đậm đặc sự xen kẽ giữa các câu văn xuôi giàu

chất trữ tình với những đoạn nghị luận có tính chất nghiên cứu.

Tuy nhiên, bên cạnh sự không nhất quán về thể loại của từng truyện trong

một tập hoặc giữa các tập truyện với nhau, ta cũng thấy khá rõ dấu hiệu của sự

hình thành thể loại, điển hình như thể tùy bút. Phạm Đình Hổ viết tùy bút lưu giữ

nhiều bản sắc dân dã, phong cảnh và phong tục đất nước;Đoàn Thị Điểm

nghiêng về chép phả; Vũ Phương Đề thiên về kí; Vũ Trinh dành ưu ái cho tầng

lớp bình dân của cuộc sống thôn dã thân quen; trong khi Phạm Đình Hổ và

Nguyễn Án thích ghi lại những chuyện ở chốn kinh thành dâu bể… Qua mỗi cái

tên, phần nào thấy được phong cách chủ đạo của tác giả, đồng thời có thể thấy sự

tỏ ra khiêm nhường vốn có ở các nhà văn trung đại (chỉ tự nhận tác phẩm của

mình là những bài ghi chép lại chuyện đời hiện tại hoặc chuyện cũ trong các sách

12 Xin xem thêm trong phần tiếp theo, mục 3.3.3. Dung lượng nhỏ

trước đây, những bài ấy được ghi nhanh, lộn xộn, chưa không có chủ tâm sắp

xếp nhiều), nhưng đồng thời cũng khéo léo khoe được cái tài của các tác giả (ấy

là tôi còn chưa dụng công…).

Tất cả những sự chuyển đổi, những mối quan hệ này được thể hiện bằng

một lối văn đơn giản nhưng hiệu quả.

3.3. Tinh giản trong văn phong

Tinh giản, mạch lạc là một đặc điểm nổi bật của nghệ thuật truyện truyền

kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, nó ngược hẳn với cấu trúc tầng

tầng lớp lang của kì ảo hiện đại, cũng ngắn hơn hẳn so với truyền kì thời gian

trước đó. Các tác giả truyền kì giai đoạn này đã sử dụng một văn phong khúc

chiết, mạch lạc trong một kết cấu chặt chẽ.

3.3.1. Câu văn gọn

Đặc điểm nổi bật của truyền kì giai đoạn này là cách viết giản dị, ít dùng

câu văn biền ngẫu, hầu hết không dùng điển cố, không hoa mĩ cầu kì và đậm chất

văn xuôi. Điều này dường như đi ngược lại với phong cách bác học, cố ý gây

“khổ độc” cho độc giả như ở những thế kỉ trước. Trong quá trình nghiên cứu văn

bản tác phẩm, chúng tôi đã chú tâm tìm và dự định làm một bảng thống kê về

những điển cố, điển tích. Nhưng ngoài sự mong muốn của chúng tôi, trong 83

truyện chúng tôi khảo sát thì chỉ có duy nhất bốn lần điển xuất hiện, mà đều là

những điển rất quen thuộc: “lời thề của vua nước Nhật Nguyệt” (nguyên chú:

điển này lấy từ vị tăng tên là Tượng trong Minh kỉ - Kiếp sau của sư Bật Sô);

“vợ Thôi Thao mất trộm lốt” (Thôi Thao đi đến quán Hiếu Nghĩa, thấy một

người đàn bà gối đầu vào bộ da hổ mà ngủ. Thôi Thao kéo lấy da hổ vứt xuống

giếng. Người đàn bà chợt tỉnh dậy, mất da không biến được nữa, bèn cùng Thao

kết vợ chồng. Sau ba năm dò biết da hổ ở dưới giếng, nàng vớt lên, khoác vào,

hóa làm con hổ, gầm thét mà đi mất – Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ); “Vũ

Môn” (lấy điển từ Tam Tần kí: ở bến Vũ Môn, khi sóng hoa đào nổi lên thì cá

chép thi vượt để hóa rồng – Con chó nhà nghèo có nghĩa); “Lưu, Nguyễn vào

Thiên Thai” (Lưu Thần và Nguyễn Triệu người đời Hán, vào núi Thiên Thai hái

thuốc, lạc vào động tiên, cùng tiên nữ kết duyên chồng vợ. Được nửa năm hai

người nhớ nhà đòi về, tiên nữ mở tiệc tiễn, đưa đến cửa động. Lưu, Nguyễn về

đến nhà thì người quen thuộc không còn ai, đã qua bảy đời, muốn trở lại nơi cũ

nhưng không tìm thấy lối xưa nữa – Ông Nguyễn Hoàn). Chắc chắn không phải

vì các tác gia này không đủ sự tinh thông kim cổ, không đủ sự uyên bác để sử

dụng điển theo cách quen thuộc từ xưa, mà đây có thể coi là hiện tượng mới lạ

của văn học trung đại, mang dụng ý nghệ thuật của người viết.

Thường trong câu văn có câu dài câu ngắn, câu ngắn như chiếc dao găm,

câu dài như ngọn giáo. Dao găm hay ngọn giáo mỗi loại đều có thế mạnh riêng,

nếu biết cách sử dụng thì loại nào cũng hay cả. Ưu điểm của câu ngắn là ngắn

gọn, mạnh mẽ, rõ ràng, kể chuyện thì dứt khoát, giảng giải thì dễ hiểu. Nó đặc

biệt thích hợp để biểu đạt những tình cảm căng thẳng hào hứng kích động. Nói

chung, câu ngắn được dùng vào trong các cuộc đối thoại hàng ngày, trong diễn

thuyết thảo luận, trong kịch bản, trong lời thoại của tiểu thuyết.

Một đoạn đối thoại trong Tháp báo ân (Lan Trì kiến văn lục – Vũ

Trinh):

“Lễ xong chào xin đi, ông giữ chàng lại hỏi:

- Phu nhân quý danh là gì?

Chàng đáp:

- Thưa, tôi chưa có vợ.

Lại hỏi:

- Hay là ông đã góa vợ?

Chàng vẫn trả lời:

- Tôi chưa có vợ.”

Nghệ thuật làm đẹp ngôn ngữ (nghệ thuật tu từ) ngoài dùng từ chính xác,

dùng từ đắt, khéo chọn từ gần nghĩa, thay đổi vị trí của thành phần câu… còn đòi

hỏi lời văn ngắn gọn, quý mực như vàng, cố tránh nói khoác, nói suông để đạt

đến lời gọn, ý đủ.

Nhà văn đời Bắc Tống là Âu Dương Tu một hôm cùng bạn ra ngoài du

ngoạn nhìn thấy một con ngựa đang bị kích động lao nhanh giẫm chết một con

chó. Âu Dương Tu đề nghị kể chuyện ấy lại, người đồng sự nói như thế này: “Có

một con chó nằm giữa đường, một con ngựa giật mình giẫm chết nó”. Âu Dương

Tu cảm thấy anh ta nói dài dòng, bảo chỉ cần nói: “Ngựa kinh hoàng giẫm chết

một con chó giữa đường” thế là đủ.

Nhà viết kịch Tào Ngu trong vở kịch Nhật xuất vốn miêu tả mợ Tám Cố

như thế này: “Mặc một chiếc áo dài hoa, viền vàng rực rỡ màu sắc tươi mới chói

mắt, chiếc áo bó sát lấy thân bà”. Về sau ông bỏ đi chữ “rực rỡ”, bởi vì mấy chữ

“tươi mới chói mắt” cũng đã bao hàm ý đó rồi.

Trong khi đó, câu văn dài với ưu điểm đầy đủ, chặt chẽ, ôn tồn, trang

trọng, tế nhị, uyển chuyển, thích hợp để thuyết minh lí lẽ, trình bày lí do, để tự

sự, tả cảnh, thường được sử dụng trong văn chính luận, văn miêu tả hoặc trữ tình

của tiểu thuyết thì ít xuất hiện hơn, do đó chất trữ tình trong một số tác phẩm bị

giảm sút.

Một đoạn văn tả cảnh trong Tiên ngoài hải đảo (Lan Trì kiến văn lục –

Vũ Trinh): “Một hôm, thuyền của họ bị gió thổi dạt đến một hòn đảo, trên núi

cây cỏ tốt tươi, dưới núi đất bằng phẳng, rộng đến mấy chục mẫu, cỏ mảnh mượt

như đệm. Một con hươu từ bụi rậm chạy ra, mọi người cùng nhau cầm sào gậy,

vạch dây leo mà đuổi theo”. Bình thường với những đoạn tả cảnh thì trong văn

xuôi cổ, lối văn biền ngẫu và những câu văn dài rất được ưa chuộng, nhưng câu

văn ở đây lại ngắn gọn, dấu chấm, phẩy được sử dụng rất nhiều.

Từ kiểu kết cấu vận văn xen biền văn nặng nề trong Truyền kì tân phả

đến việc bỏ kết cấu vận văn xen biền văn, câu văn ngắn gọn, súc tích trong Lan

trì kiến văn lục.

Câu văn không chỉ gọn gàng hơn mà cả những lời mở đầu và lời bình cuối

(như trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ) cũng được giản bớt.

3.3.2. Lời bình giảm

Tác phẩm nghệ thuật nói chung (bao gồm văn xuôi, thơ, truyện, tranh ảnh

và cả bài hát) coi trọng lời bình, vì đó là nơi tóm gọn quan điểm của chính tác

giả (nếu tác giả viết lời bình), hoặc thể hiện sự đánh giá của dư luận, độc giả và

giới nghiên cứu (nếu người khác viết lời bình). Rất nhiều lời bình đã nâng được

giá trị thực chất của tác phẩm. Trong cuốn sách Chân dung và Đối thoại, Trần

Đăng Khoa đã kể câu chuyện thú vị về câu thơ mừng chiến thắng Điện Biên của

nhà thơ Tố Hữu:

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

Ông hoàng của thơ tình và tuổi trẻ Xuân Diệu đã bình rằng: Chỉ trong một

câu thơ lục bát 6-8 hoàn chỉnh, tác giả đã đưa vào được sáu sắc màu tươi sáng

(xanh, hồng, lam, trắng, cam, vàng), kết thành một vòng hoa đẹp rực rỡ để chúc

mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc, đồng thời tưởng nhớ những người anh hùng

đã hi sinh cho chiến thắng ấy. Tố Hữu cho hay, dù trong thơ ông thường có rất

nhiều màu sắc và hương thơm, nhưng ông không hề và không thể nghĩ ra một

câu thơ đầy sắc màu một cách tự nhiên như vậy, chỉ là vô tình, nhưng người đọc

đã phát hiện ra, và vẻ đẹp của câu thơ vì thế được nâng lên đáng kể. Thế mới biết

lời bình và người bình quan trọng như thế nào đối với số phận của một tác phẩm

nghệ thuật.

Trong hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục, chỉ có một truyện không

thấy có lời bình (là Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa). Như vậy, trong phương

thức sáng tác của nhà nho giai đoạn trước thì lời bình cuối mỗi truyện không thể

thiếu và góp phần quan trọng thể hiện quan điểm, tư tưởng của tác giả. Thế

nhưng, đọc các truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – thế kỉ XIX ta lại thấy

lời bàn trong các truyện giảm và ít được chú trọng đặc biệt như trước. Rất nhiều

truyện không có lời bàn, nếu có thì đó cũng là những lời bàn mở và kiệm lời,

hoặc ẩn một cách kín đáo (như Cọp làm lí trưởng, Nguyễn Tả Ao…).

Bảng thống kê lời bình trong mỗi tập truyện

Tập truyện

Lời bình

Lời bình

Không có

STT

Trực tiếp

ẩn

lời bình

1

Truyền kì tân phả

0

0

3

2

Công dư tiệp kí

0

8

14

3

Lan Trì kiến văn lục

2

0

37

4

Tân truyền kì lục

0

1

0

5

Tang thương ngẫu lục

0

3

12

6

Vũ Trung tùy bút

0

1

2

7

Thoái thực kí văn

0

0

3

Tổng

2 truyện

13 truyện

71 truyện

86 truyện

số

(2,33%)

(15,12%)

(82,56%)

Trong tám mươi sáu truyện khảo sát, chỉ có hai truyện trong Lan Trì kiến

văn lục của Vũ Trinh là Thần cửa Cần Hải và Ông Trạng họ Nguyễn là tác giả

trực tiếp tự tin đề lời bình ở cuối mỗi truyện: “Lan Trì Ngư Giả bàn rằng” (Lan

Trì Ngư Giả là biệt hiệu của tác giả Vũ Trinh). Điều này cho thấy sự tự tin, dấu

ấn của “thị tài” trong văn học cổ có xuất hiện trong con người Vũ Trinh.

Nhưng tám mươi tư truyện còn lại, chỉ có mười ba truyện tác giả viết một

vài lời sau khi đã kết thúc truyện, đó là các truyện: Tìm đất đền ơn; Thủ khoa

mặt đẹp; Ác báo; Kẻ trộm lừa thần thánh; Nguyễn Giám sinh làm vua đất Bắc;

Dùng nhan sắc, nhà Trần lấy thiên hạ; Nghề mọn nên quan; Chuột đậy mặt, biết

điềm lành dữ (Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề); Con chó nhà nghèo có nghĩa

(Tân truyền kì lục – Phạm Quý Thích); Ông Nguyễn Văn Giai; Anh kẻ trộm

làng Lâm Hộ; Ông Lê Trãi (Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ, Nguyễn

Án); Thác oan (Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ).

Các lời viết ấy đa số đều bắt đầu bằng chữ “Xét…, Ôi, Than ôi” và dùng

dấu cảm thán (!) ở cuối đoạn để biểu đạt thái độ, cảm xúc của người viết.

Chiếm số lượng nhiều nhất 71/83 truyện (tương đương 82,56%) là các

truyện kết thúc ở chi tiết cuối cùng của truyện, chứ không có bất cứ lời bàn hoặc

ý kiến nào khác của tác giả. Điều này thể hiện quan điểm sáng tạo mới, các tác

giả muốn truyền tải sự chân thực, muốn mình là người kể chuyện khách quan.

Chính vì hai yếu tố trên: sự giản lược trong câu văn và lời bình đã góp

phần khiến cho các truyện truyền kì giai đoạn này đều có dung lượng tương đối

nhỏ so với giai đoạn trước.

3.3.3. Dung lượng nhỏ

Nhà văn Lỗ Tấn khi giới thiệu kinh nghiệm viết văn của mình đã nói: “Sau

khi viết xong ít nhất đọc lại hai lần, nhất thiết phải bỏ đi những chữ, câu, đoạn

vô thưởng vô phạt mà không luyến tiếc gì”. Nhiều nhà văn cũng đã bày tỏ thái độ

đòi gạch bỏ những đoạn văn thừa mà không tiếc. Ngược lại với hình thức này, kì

ảo hiện đại đã có sự mở rộng hết cỡ về dung lượng, sức chứa, hầu hết các tác

phẩm đều dài gấp nhiều lần so với truyền thống, trong đó có một sự kiện chính,

đồng thời cũng mở ra rất nhiều sự kiện có tính chất ngoại biên. Kéo theo đó, kết

cấu lớp lang tự nhiên, tuân theo qui luật logic nhân quả và được tổ chức một

cách gọn gàng tinh giản của truyền kì truyền thống bị phá vỡ. Thần hổ của

Tchya, Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ, Cõi âm nơi quán cây dương của Bình

Nguyên Lộc là những truyện tiêu biểu.

Đặc điểm dễ nhận thấy là đại bộ phận những truyện thời kì thế kỉ XVIII –

nửa đầu thế kỉ XIX (đặc biệt trong Lan Trì kiến văn lục…) đều là những truyện

ngắn, dung lượng nhỏ hơn truyền kì giai đoạn trước – chưa kể trong sự so sánh

với kì ảo hiện đại (Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm là một trường hợp

đặc biệt, bởi bà là lớp tác giả đầu tiên của giai đoạn nên phong cách viết của bà

còn tương đối chịu nhiều ảnh hưởng của truyền kì truyền thống). Theo sự thống kê của chúng tôi, gần như tất cả các truyện đều chỉ khoảng 500 – 600 chữ 13,

truyện được xếp vào loại dài rất hiếm hoi, dài nhất có thể kể đến Con chó nhà

nghèo có nghĩa (Tân truyền kì lục – Phạm Quý Thích) cũng chỉ khoảng 2000

chữ. Có nhiều truyện dưới 300 chữ như Sinh đẻ kì lạ, Cá thần, Thần Chiêu

Trưng, Người khổng lồ, Thần giữ của, Đánh nhau với quỉ (Lan Trì kiến văn

lục – Vũ Trinh), Anh kẻ trộm làng Lâm Hộ (Tang thương ngẫu lục – Phạm

Đình Hổ và Nguyễn Án). Đặc biệt, ngắn nhất là truyện Tượng Già lam ở ngôi

chùa ngoài đồng (Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án) chỉ

13 Chúng tôi dựa vào bản đã dịch, nên không thống kê chính xác tuyệt đối mà chỉ ước về dung lượng

có khoảng 135 chữ.

Với lời văn điêu luyện, hình thức ngắn gọn, các tác giả lại diễn đạt được

một nội dung lớn. Thử lấy truyện Con lai rắn (Lan Trì kiến văn lục – Vũ

Trinh) làm ví dụ: nội dung truyện kể về người vợ bị rắn bức bách, sinh ra đứa

con lai rắn. Toàn truyện chỉ có khoảng 320 chữ mà miêu tả được khá cụ thể hai

lần người vợ bị cưỡng bức, quan hệ vợ chồng bị ảnh hưởng và cả đứa bé trai da

đen như sơn. Câu chuyện có thứ, có lớp, không những giới thiệu được hoàn cảnh

người vợ có thai mà còn phân tích được cả trạng thái tâm lí của hai vợ chồng: sự

thẹn thùng của người vợ và sự kinh sợ của người chồng.

Hay truyện Đánh nhau với quỉ chỉ khoảng 225 chữ mà miêu tả được sự

việc diễn ra trong năm hôm, từ đêm người nông dân đặt đó bắt cá, đến mấy hôm

sau liền đều thấy đó rỗng. Rồi miêu tả tỉ mỉ cái đêm anh đi rình và đánh nhau với

quỉ, rồi cả hiện trường sáng hôm sau.

Thành công của những thiên truyện ngắn này gắn liền với tài khéo chọn

lọc các tình tiết, khéo làm nổi bật chủ đề của tác giả. Dưới ngòi bút của tác giả,

ta ít thấy các đoạn văn đi lạc chủ đề. Có khi một câu thơ, một bài thơ hay một

đôi câu đối cũng đều mang ý nghĩa.

Câu thơ trong Thác oan (Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ):

Nhân mạc dư tri uổng đoạn trường

Thử oan tu tố dữ Vân Trường

(Đứt ruột oan này ai tỏ tường

Tố oan xin hãy đến Vân Trường)

Bài thơ trong Thần hồ Động Đình (Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ):

Hoàng hoa lưỡng độ phú tư tuân,

Uyên đức kì niên cánh kỉ nhân.

Công tiễn bang giao nhàn ngọc bạch,

Chứng tri tiên cốt lịch phong trần.

Sinh sô lệ sái đồng chu khách,

Tái bút danh quy tuẫn quốc thần.

Trù trướng thái hồ thu nguyệt sắc,

Dạ lai do chiếu ốc lương tần.

(Mấy độ hoàng hoa xứ nước người,

Tuổi cao đức tốt ấy kìa ai?

Bang giao những tưởng ngọc ngà đẹp,

Tiên cốt nào hay gió bụi phơi.

Giọt lệ đồng châu đưa một lễ,

Tấm thân tuẫn quốc tiếng muôn đời.

Trăng thu mơ tưởng trên hồ nọ,

Thấp thoáng đầu nhà bóng lẩn soi)

Bài thơ tài hoa trong Dóng ngựa thi thơ mà Đỗ Uông phải tâm phục khẩu

phục Phạm Trấn: câu nào cũng có tên hai loài chim, duy câu cuối không dùng

tên chim mà dùng hai động từ chỉ động tác suồng sã, có ý ngầm trêu cô bán

hàng.

Quai vạc đôi bên cánh phượng phong

Giở giang bán chác tựa đồ công

Xanh le mở khép nem hồng mới

Bạc ác phô phang rượu vịt nồng

Miệng uốn lưỡi oanh chào chủ khách

Trầu tiêm môi sẻ thết quan công

Yến anh đón rước vừa ban tối

Ông mó bà, bà lại gác ông

Câu đối trong Bà phu nhân Lan Quận công (Lan Trì kiến văn lục – Vũ

Trinh):

Thập bát hùng năng đảm thổ

Cửu ngũ long phi tại thiên

(Trai mười tám biết gánh đất

Rồng chín lăm bay lên trời)

Kết hợp với đặc điểm truyện ngắn, khi tả nhân vật, tác giả không tả tỉ mỉ

mọi mặt, mà theo lối vẽ rồng chấm mắt, nắm lấy những chi tiết có tính chất đặc

trưng mà khắc họa. Ví dụ như tả nhân vật bà phu nhân là một người vợ hiền, con

thảo, tác giả chỉ tập trung ngòi bút vào hai chi tiết, một là lời cô thưa với cha khi

cha sai ra nhìn cận học trò thuở hàn vi: “Phận làm gái đâu dám tự kén chồng.

Cha thấy được là được, há cần phải nhìn ngó người con trai?”.

Và hành động của cô khi đi lấy chồng: “Cô út lạy xin vâng. Về nhà chồng,

cô bỏ hết đồ xa hoa, mặc quần áo vải, tự xách nước, chồng học, vợ dệt, đến nửa

đêm vẫn chưa đi ngủ” còn các chi tiết khác thì lược đi. Do đó, ấn tượng mà nhân

vật điển hình để lại cho ta không những không yếu đi, mà trái lại, càng rõ ràng,

sâu sắc hơn.

Không phải ngẫu nhiên mà gần đây, thể loại truyện cực ngắn (mà dường

như được yêu thích bắt đầu từ những tập truyện cực ngắn của Trung Quốc) ngày

càng thịnh hành ở Việt Nam, đến nỗi người ta đã tổ chức những cuộc thi viết

truyện cực ngắn chỉ với 100 hay 150 chữ. Như trên đã nói, dung lượng nhỏ

không hề gây khó khăn trong việc xây dựng ấn tượng về nhân vật, làm giảm quá

trình chuyển tải ý tưởng, càng không hề ảnh hưởng đến kết cấu chuẩn mực của

tác phẩm.

3.3.4. Kết cấu chuẩn

Hai chữ kết cấu vốn dùng để chỉ giàn dáo mà người thợ xây dựng nên để

làm nhà, về sau được dùng để chỉ tổ chức kết cấu bên trong của tác phẩm và

cũng được gọi là bố cục. Nó bao gồm thứ tự viết cái gì trước viết cái gì sau, mở

đầu thế nào kết thúc ra sao, tác phẩm chia làm mấy lớp mấy đoạn, chỗ nào cần

chi tiết, chỗ nào cần lướt qua, chuyển mạch, nối kết như thế nào… Đó là sự tổ

chức và sắp xếp một cách cân đối, hợp lí chất liệu đời sống, khiến nó trở thành

một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh thống nhất, làm nổi bật lên tính cách nhân

vật và chủ đề tác phẩm.

Kết cấu tác phẩm được bố trí một cách tinh vi là điều kiện quan trọng của

việc sáng tạo tác phẩm, cũng là một mục tiêu mà nhà văn ra sức theo đuổi. Về

mặt tổ chức, kết cấu tác phẩm văn học đòi hỏi phải chặt chẽ, tự nhiên, hoàn

chỉnh và thống nhất. Vừa phải chặt chẽ tinh tế không để lộ dấu vết mâu thuẫn,

vừa phải mạch lạc êm xuôi, phù hợp với lôgic của bản thân đời sống. Về việc tổ

chức nội dung tác phẩm đòi hỏi phải đầu cuối nhất quán, cân đối đầy đặn, lại còn

phải thống nhất hài hòa. Cả tác phẩm là một chỉnh thể.

Ở truyền kì giai đoạn này, kết cấu trong nhiều truyện là kết cấu mở. Tuy

vậy, bố cục ba phần bao giờ cũng rõ ràng, dễ nhận thấy và dễ phân định.

Trong kết cấu ba phần đó, theo PGS.TS. Trần Nho Thìn, phần sự kiện tình

tiết đương nhiên là quan trọng nhất. Không ít trường hợp, phần giới thiệu chung

(exposition) và lời kết (epilogue) ẩn kín sau các sự kiện và tình tiết, nhưng nếu

thiếu sự kiện và tình tiết thì không thể có truyện. Ông cũng đã phân tích lời bình

luận nhân vật Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo trong Lan Trì kiến văn lục để

hiểu hiện tượng tỉnh lược hai phần đầu và cuối (hoặc một trong hai phần này) là

hai phần vốn không thiếu trong một truyện điển hình. Mở đầu truyện, Vũ Trinh

đã đi ngay vào một sự kiện tiêu biểu nhất có khả năng làm rõ nét phi thường của

nhân vật, và đây cũng là một nét phi thường khá bất ngờ đối với cách đọc thông

thường: Chàng thư sinh Nguyễn Đăng Đạo táo bạo dám trèo tường vào ngủ

chung với con gái quan Tể tướng, liều lĩnh đặt cô tiểu thư cành vàng lá ngọc và

vị quan đầu triều vào thế phải lựa chọn mình, nhưng đồng thời cũng dũng cảm

dám đương đầu với cái chết nếu tể tướng không chấp nhận. Nhưng chính nhờ ý

kiến: “Có chuyện khác thường ắt có tài khác thường” mà chàng trai Nguyễn

Đăng Đạo có dịp trổ tài, được quan cấp tiền ăn học, gả con gái, đi thi đỗ Trạng

nguyên, vẻ vang tột bậc. Như vậy, câu chuyện được kể từ cách thể hiện, từ hành

động chứng minh phẩm chất khác thường chứ không cần lời giới thiệu trước.

Kết cấu là yếu tố quan trọng của hình thức phát triển văn học. Nguyên tắc

sắp xếp kết cấu trước hết phải phục tùng yêu cầu biểu hiện tư tưởng chủ đề.

Nhiệm vụ của kết cấu tác phẩm là thể hiện đầy đủ tư tưởng chủ đề, cũng tức là

dựa vào yêu cầu của tư tưởng chủ đề mà tiến hành tổ chức và cắt tỉa thích đáng

đối với chất liệu đời sống.

* Tiểu kết (chương 3)

Trong chương 3, chúng tôi đã trình bày về Những đổi mới trong nghệ

thuật biểu hiện của những tác phẩm truyền kì trong giai đoạn thế kỉ XVIII –

nửa đầu thế kỉ XIX. Truyện truyền kì thời kì này có nhiều đặc điểm khác với các

giai đoạn trước, mà tiêu biểu là sự chuyển đổi giữa hai yếu tố “kì” và “thực”.

Yếu tố “kì” không còn đóng vai trò chủ chốt nữa mà cái “thực” – một đặc trưng

quan trọng trong nghệ thuật tự sự - đã lên ngôi, trở thành yếu tố chi phối điểm

nhìn của tác giả, kéo nội dung phản ánh của truyện truyền kì đến gần với hơi thở

cuộc sống hơn, và cũng đưa nghệ thuật kể chuyện của truyền kì đến với nghệ

thuật trần thuật, tự sự của nền văn học hiện đại. Hơn nữa, văn phong cũng có

nhiều thay đổi với câu văn ngắn gọn hơn, lời bình ít đi (thậm chí không có),

dung lượng tác phẩm nhỏ, nhưng vẫn trong một kết cấu chuẩn.

Tổng kết (phần nội dung)

Nửa sau thế kỉ XIX, Việt Nam ở vào giai đoạn bản lề trong tiến trình lịch

sử của mình. Trước đó, nước ta là một vương quốc theo đạo Khổng, nhưng vẫn

tồn tại xen kẽ sự xuất hiện và cai trị thay nhau của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo),

điều đó đã khiến đời sống tinh thần của nhân dân phức tạp hơn một chút (dẫn

đến hậu quả là mãi cho đến tận bây giờ, bài toán tôn giáo vẫn là một vấn đề

chính trị quan trọng và vô cùng phức tạp đối với Chính phủ Việt Nam). Yếu tố

tinh thần đó, cùng với yếu tố về kinh tế, và đặc biệt là cuộc đổ bộ của thực dân

Pháp vào Việt Nam, đất nước cùng nhân dân bước vào thời kì mới, cuộc đấu

tranh mới. Văn học vì lẽ đó đi càng xa những xu hướng đã tồn tại trong lịch sử.

Trong phần nội dung, chúng tôi đã khái quát và đi sâu phân tích những đặc

điểm của truyền kì thế kỉ XVIII-XIX, những nét biến đổi trong nội dung, tư

tưởng và nghệ thuật thể hiện so với giai đoạn trước. Chúng tôi đặc biệt nhấn

mạnh tới yếu tố “kì” và mối quan hệ kì - thực, mối quan hệ phản ánh rõ nét nhất

sự thay đổi, chuyển hướng này.

Nhưng cũng phải thấy một điều, không phải không có lí do khi mỗi lần

nhắc đến truyện truyền kì Việt Nam người ta luôn nói đến giai đoạn thế kỉ XV,

XVI như một niềm tự hào và sự mẫu mực. Bởi truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ

XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã có sự cách tân so với truyền kì truyền thống, một

số đặc điểm bản chất của truyền kì truyền thống đã bị thay đổi. Có người chấp

nhận được việc này, những cũng có những người khó tính đã tìm ra rất nhiều

nhược điểm của nó, để phủ nhận những câu chuyện truyền kì ấy.

Yếu tố “thực” được nâng lên làm trung tâm đã đưa truyền kì giai đoạn này

sang một bến bờ mới, nhưng đồng thời cũng làm gẫy đôi cánh thần kì vốn là cứu

cánh của nghệ thuật, đó chính là sức sáng tạo, sự tưởng tượng phong phú của

người viết. Các tác phẩm truyền kì này hầu hết đều đơn thuần mô tả, kể lại về

con người, sự việc có thật (hoặc có chi tiết thật) của đời sống, thiếu sự hư cấu đủ

cần thiết khiến câu chuyện kể bị nhạt đi và thiếu sức hấp dẫn độc giả. Có lẽ độc

giả của những câu chuyện này chỉ là những nhà nghiên cứu, những người quan

tâm tìm hiểu lịch sử Việt Nam mà thôi, chứ người ta không thể tìm thấy sự giải

trí đơn thuần ở những tác phẩm này.

Những câu chuyện về con người, sự việc có thật này lại được gắn với

những yếu tố thần kì, nhưng quá nhiều câu chuyện sẽ khiến người đọc lâm vào

một ma trận của sự mê tín, có cảm giác rằng những ma quỉ, thần tiên, báo ứng,

thần linh… là có thật trong cuộc sống. Thà rằng cứ để cho người ta biết rằng đây

là một câu chuyện bịa 100%, một câu chuyện với cốt truyện hư cấu, nhân vật

tưởng tượng, như câu chuyện về người cát, ma cà rồng hay bọn cướp biển của kì

ảo thế giới, thì người ta còn an tâm. Nhưng đây bị đứng bấp bênh giữa hai bờ,

nửa tin nửa ngờ vực, và cứ mãi ám ảnh với ý nghĩ: đây là sự thật sao? Thì khó

chịu lắm thay! Và đó cũng là cái cớ để bọn gian thần thời xưa lợi dụng vu oan

giá họa cho các bậc trung thần. Lê Văn Thịnh là một trường hợp điển hình cho

kiểu truyện người hóa ma, ma biến thành người: ông bị vu là hổ thành tinh, âm

mưu hại vua, không thể thanh minh được, để đến nỗi cuối cùng bị họa thảm sát.

Hay vụ án oan dậy trời Lệ Chi Viên của gia tộc danh thần Nguyễn Trãi, cũng gắn

với truyền kì về đôi vợ chồng rắn (gia nhân Nguyễn Trãi giết rắn chồng, máu rắn

nhỏ xuống trang sách ông đang đọc, đúng vào chữ Đại – đời, thế hệ - và thấm

đến ba trang; sau này rắn vợ cắn chết vua khiến vợ chồng Nguyễn Trãi, Nguyễn

Thị Lộ và ba đời bị vạ, hay có truyền kì rằng chính Nguyễn Thị Lộ là rắn cái

biến hình về trả thù cho chồng…). Rồi người đọc còn đó nhiều sự nghi ngờ: bao

nhiêu danh thần, quan giỏi, nho sĩ tài đã được ghi tên trong sử sách, chẳng lẽ

toàn do thần linh giúp mới được như vậy hay sao? Thật thật giả giả cứ lẫn lộn,

ranh giới giữa cuộc đời thực và thế giới kì ảo trở nên mong manh hơn, kéo theo

nhiều điều bất lợi. Như huyền thoại về những siêu nhân hay người sói… mãi là

những điều huyền hoặc mà người đời trước để lại cho người đời nay, người đời

nay tiếp tục truyền lại cho người đời sau, thành câu chuyện truyền nghi của

muôn đời.

Thêm nữa, những câu văn biền ngẫu vốn rất du dương, đi vào lòng người

đọc và tương đối dễ thuộc, đã trở thành quen thuộc trong văn chương cổ bác học,

phù hợp với đời sống Nho học của đất nước ta thời đó thì cũng không còn được

gặp lại, các truyện vì thế kém đi phần sang trọng, tinh tế. Cốt truyện một chiều,

đơn tuyến, đơn giản đi kèm với dung lượng nhỏ khó mà diễn tả được nhiều tình

tiết, khó mà tạo ra được nhiều nút thắt, chứ chưa nói đến việc gỡ nút thắt đó.

Nghệ thuật phản ánh những khát vọng, ước mơ, những xúc cảm của trạng

thái tinh thần và khả năng tưởng tượng. Nó đứng cao hơn, thậm chí, có lúc vượt

ra khỏi mối quan hệ với cuộc đời, thoát ra khỏi không gian địa lí cụ thể và bình

thường để vươn tới những xúc cảm vũ trụ, phản ánh những sự việc cao hơn thực

tại đời thường. Trí tưởng tượng và khả năng dự báo nhạy cảm chính là cứu cánh

cho văn chương, là ngọn gió đưa cánh diều nghệ thuật bay tới những chân trời

mới lạ hơn, thoát khỏi lực hút vô hình mà mạnh mẽ của mặt đất. Tất nhiên, mặt

đất vẫ là nguồn gốc sinh thành và nuôi dưỡng cho sự tồn tại một cách ổn định,

chắc chắn của cánh diều. Và thường thì những nền văn học lớn mới có đủ khả

năng nối dài cho sợi dây diều bay cao xa hơn mà không bị đứt. Truyền kì Việt

Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã thực hiện xuất sắc chức năng phản

ánh hiện thực, mà chưa thể hiện được những dự báo cho tương lai. Đó là một vài

hạn chế của truyện truyền kì giai đoạn này.

LỜI KẾT

Có thể nói truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ

XIX đã đi hết chặng đường của nó, từ giờ phút thăng hoa tới quá trình tha hóa và

tiếp biến sang một xu hướng khác. Điều này được lí giải một phần do hoàn cảnh

lịch sử xã hội và văn học chung giai đoạn này có quá nhiều biến động, chia làm

ba giai đoạn: giai đoạn đầu thế kỉ XVIII, cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX,

và giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Văn học là sự phản ánh xã hội, nhất là trong giai

đoạn xã hội phức tạp thì những thể loại giàu tính biểu cảm và mang chút mộng

mơ, hư ảo sẽ là phương tiện hàng đầu được các nhà văn lựa chọn trong quá trình

sáng tác.

Trong dòng phát triển của lịch sử truyền kì Việt Nam, truyện truyền kì thế

kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt là về số

lượng tác giả, tác phẩm và nguồn tư liệu mà các tác phẩm để lại cho đời sau.

Chúng tôi đã trình bày những hiểu biết của mình về truyền kì thế kỉ XVIII – nửa

đầu thế kỉ XIX cũng như lịch sử nghiên cứu vấn đề này. Trong phần cuối của

luận văn, chúng tôi xin được tóm tắt lại một số điểm và những công việc còn tiếp

tục phải làm.

1. Chương một đã trình bày khá kĩ về tình hình xã hội và phát triển

của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, trong đó có truyện

truyền kì. Những thành tựu văn học rực rỡ nhất của văn học Việt Nam lại thuộc

về thời kì khủng hoảng trầm trọng nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Tìm

hiểu sự không tương xứng này, bên cạnh những nguyên nhân mang tính đặc thù

của xã hội Việt Nam giai đoạn đó, chúng ta còn nhận ra cái nguyên nhân cơ bản

có tính phổ biến đối với văn học nhiều nước, đó chính là sự tác động của thời đại

“bể dâu”, thời đại của những cuộc đấu tranh giai cấp. Đồng thời chúng tôi cũng

nêu lên những nét khái quát nhất về truyền kì giai đoạn này. Trong khoảng hơn

một thế kỉ, dòng văn này đã phản ánh một thời kì xã hội Việt Nam chuyển từ chỗ

tạm thời ổn định sang biến động dữ dội, những phong ba của lịch sử đó đã tác

động đến cuộc đời, tư tưởng và sáng tác của các tác giả. Truyền kì giai đoạn này

với những đặc điểm nổi bật đã chứng tỏ nó không hề thua kém các giai đoạn

trước, đặc biệt vượt trội hơn ở mức độ đồng đều về chất lượng và phong phú về

số lượng của thể loại.

2. Chương hai đã phân tích rất kĩ những xu hướng mới trong nội

dung phản ánh của truyện truyền kì giai đoạn này. Về tư tưởng, như Mác đã nói:

“Tôi có quyền bộc lộ diện mạo tinh thần của tôi” [17, 90], trong sáng tác văn

học, các tác giả được quyền bộc lộ bản thân mình, đó là tính tất yếu của phong

cách. Các tác giả giai đoạn này vẫn đi theo giáo lí của với đạo Nho, một lòng

trung thành với triều vua cũ, tư tưởng của họ căn bản vẫn là hoài Lê. Nhưng bên

cạnh đó, họ còn tìm đến tư tưởng Lão – Trang để làm một cuộc giải tỏa cho nỗi

sầu về một thực trạng đã không thể cứu vớt được nữa.

Các sáng tác giai đoạn này đậm chất kí sự, đề tài gắn liền với cuộc sống,

chủ yếu viết về người thật, việc thật (những nhân vật, sự kiện có thật trong lịch

sử, những nhân vật, sự vật đang tồn tại giữa đời thường), chính vì thế nó nghiêng

về học thuật, khảo cứu, gần với các sách nghiên cứu và sách lịch sử hơn. Các tác

giả đặc biệt quan tâm phản ánh số phận con người, đây là một đặc điểm gắn liền

với trào lưu chung của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam, bắt đầu nở

rộ từ thế kỉ XVIII. Trong đó, quan niệm về hạnh phúc, về chữ “trinh”, phản ánh

định mệnh bất hạnh của những kiếp tài tử giai nhân và cả cuộc đời khổ đau của

những con người bình thường… là những vấn đề được chúng tôi lưu tâm nhất.

3. Chương ba và cũng là chương cuối cùng của luận văn, chúng tôi

đi vào khảo sát những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện của truyện truyền kì

giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Yếu tố “kì” và “thực” – hai yếu tố

quan trọng của một tác phẩm nghệ thuật, một trong những căn cứ để phân định

loại thể tác phẩm – trong thời kì này đã có sự chuyển hóa, khiến truyền kì giai

đoạn này nghiêng về gần cuộc sống hơn. Tính chất “kì” của văn học truyền kì

truyền thống bị giảm đi, thay vào đó, yếu tố “thực” được áp dụng triệt để: thực từ

vị trí và điểm nhìn của người trần thuật, từ tiêu đề tác phẩm đến các thủ pháp

nghệ thuật của bút pháp tự sự được vận dụng. Chính vì vậy mà trong thể truyền

kì giai đoạn này có sự pha tạp của một vài thể loại văn học khác: như kí, tùy bút,

truyện lịch sử, sách nghiên cứu… Đi liền với đó là một thứ văn phong mới, tinh

giản, không cầu kì, nhưng lại vô cùng hiệu quả trong việc truyền tải thông tin.

4. Truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX tất

nhiên còn rất nhiều thiếu sót: như lời văn khô cứng, thô mộc, khác với sự uyển

chuyển, bác học trong văn học trung đại; nó đứng bơ vơ giữa hai bờ thực - ảo:

tính li kì kém các tác phẩm trước đó, trong khi tính thực lại không bằng các sáng

tác sau này; nó mang tính chất “phản ánh” chứ không có sự “dự báo”, điều này

ghi nhận tâm lí chính thống của giới nho sĩ một cách hồn nhiên (coi ngôi vua duy

nhất thuộc về họ Lê là “chân lí”), không tự thấy sự lạc hậu về nhãn quan chính

trị trước một cục diện mới đã xuất hiện ở chính trường Việt Nam từ thời Lê

Trung hưng (vua chỉ còn là ngôi danh dự, quyền điều hành chính trị thuộc một

lực lượng khác: chúa Trịnh, chúa Nguyễn).

5. Nói chung, chúng tôi đánh giá cao những đóng góp của các tác giả

và tác phẩm tiêu biểu trong thời kì này, như Truyền kì tân phả của Đoàn Thị

Điểm, Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh,

Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án… Những tác phẩm ấy

đã để lại nhiều giá trị cho sau này, cả về bản chất thể loại lẫn các lĩnh vực khác

như nghiên cứu văn học, nghiên cứu lịch sử, địa lí, phong thủy…

Truyện truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX xứng đáng có vị trí

cao hơn trong đánh giá của giới độc giả ngày nay bởi các đóng góp quí báu của

nó cho văn học Việt Nam. Những tác phẩm văn học cổ điển của dân tộc “vẫn

còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mĩ, và trên một vài

phương diện nào đó được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt

chước được” [17, 102].

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tác phẩm

1. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), Truyện truyền kì Việt Nam, Quyển hai (tập III

– IV), NXB Giáo dục, 1999

2. Ngô Tự Lập (sưu tầm và giới thiệu), Truyện kì ảo thế giới (tập 2), NXB

Văn học, 1999

3. Trần Nghĩa (chủ biên), Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (tập 1 và

2), NXB Thế giới, HN, 1997

4. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Nguyễn Dữ (Đinh Gia Khánh – Nguyễn Ngọc San

dịch), Lĩnh Nam chích quái, Truyền kì mạn lục, NXB Kim Đồng, HN,

2006

5. Lê Hữu Trác (Phan Võ dịch), Thượng kinh kí sự - Kể chuyện lên kinh,

NXB Văn học, HN, 1971

II. Tài liệu từ điển

6. Lại Nguyên Ân (biên soạn), Từ điển Văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến

hết thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, HN, 1999

7. Lại Nguyên Ân (biên soạn), 150 Thuật ngữ Văn học, NXB ĐH Quốc gia,

HN, 1999

8. Jean Chevalier, A. Gheebrant (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch), Từ điển biểu

tượng văn hóa thế giới: Huyền thoại, Chiêm mộng, Phong tục, Cử chỉ,

Dạng thể, Các hình, Màu sắc, Con số, NXB Đà Nẵng, 1997

9. Khổng Đức – Long Cương, Từ điển Hoa – Việt thông dụng, NXB Thanh

niên, TpHCM, 1999

10. Lê Khả Kế và cộng sự, Từ điển Việt – Anh, NXB Thành phố Hồ Chí

Minh, TpHCM, 1996

11. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Điển cố Văn học, NXB KHXH, HN, 1997

12. Nguyễn Tương Lai, Từ điển Phật học, NXB KHXH, HN, 1999

13. Nhiều tác giả, Từ điển văn học, NXB Khoa học Xã hội, HN, 1984

14. Phan Thiều (chủ biên), Sổ tay từ ngữ Tiếng Việt tiểu học, NXB ĐH Quốc

gia Hà Nội, 1999

15. Trần Đình Sử - Ông Văn Tùng (dịch), Bách khoa toàn thư tuổi trẻ: Văn

học và Nghệ thuật (Phần 1 và 2), NXB Phụ nữ, HN, 2002

16. Nguyễn Viết Xô, Tiếng Việt thông dụng, NXB Trẻ, Tp HCM, 1998

III. Sách lí luận và giáo khoa

17. C.Mác và Ph.Ăngen, Về văn học và nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1958

18. Nguyễn Đình Chú – Nguyễn Lộc (chủ biên), Văn học 10 (tập 1, phần

VHVN), NXB Giáo dục, HN, 2003

19. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Văn hóa, HN,

1999

20. Nguyễn Văn Dân, Lí luận Văn học so sánh, NXB ĐH Quốc gia HN, 2003

21. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB KHXH,

HN, 2004

22. Hà Minh Đức (chủ biên), Lí luận Văn học, NXB Giáo dục, HN, 1995

23. Kiều Thu Hoạch (chủ biên), Tổng tập Văn học dân gian người Việt (Tập

5: Truyền thuyết dân gian người Việt), NXB KHXH, HN, 2004

24. V.I. Lênin, Bàn về văn hóa, văn học, NXB Văn học, HN, 1977

25. V.I. Lênin, Về văn học và nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1957

26. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam – Nửa cuối thế kỉ XIII - nửa đầu thế kỉ

XIX (tập 1 và 2), NXB ĐH&THCN, HN, 1978

27. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Bài tập Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo

dục, HN, 2008

28. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo dục,

HN, 2008

29. Lu. M lotman (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy

dịch, Trần Ngọc Vương hiệu đính), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB

ĐH Quốc gia, HN, 2004

30. Phạm An Miên – Phạm Lê Huân, Để học tốt Tiếng Việt 5, tập 1, NXB

Giáo dục

31. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 2), NXB Giáo dục, HN,

2001

32. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, HN, 2002

33. Lê Chí Quế, Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, NXB ĐH Quốc

gia, HN, 2001

34. Bùi Duy Tân (chủ biên), Tư liệu văn 10 (phần VHVN), NXB Giáo dục,

HN, 1997

35. Tiếng Việt 5, tập 1, NXB Giáo dục

IV. Sách nghiên cứu văn học

36. Đặng Việt Bích, Tìm hiểu văn hóa dân tộc (sách Nhà nước đặt hàng),

NXB Văn hóa Thông tin, HN, 2006

37. Phan Đại Doãn (chủ biêng), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, NXB

Chính trị Quốc gia, HN, 1999

38. Đỗ Thị Hiên, Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và

Nguyễn Minh Châu, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐH

KHXH&NV, HN, 2007

39. Đinh Gia Khánh, Tổng luận về bộ Tổng tập văn học Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội, H, 1980

40. Kimseona, Nhân vật phụ nữ trong thể truyền kì qua hai tác phẩm Truyền

kì mạn lục và Truyền kì tân phả, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, ĐH

KHXH&NV, HN, 1995

41. Hoàng Thị Thu Phương, Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh và sự cách tân

thể loại, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, 2008

42. Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2001

43. Trần Đình Sử (chủ biên), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử,

Khoa Ngữ văn, NXB ĐH Sư phạm, Phúc Yên, 2004.

44. Phạm Xuân Thạch, Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong

tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, Luận

án Tiến sĩ Văn học, Trường Đh KHXH&NV, HN, 2008

45. Trần Khánh Thành (tuyển chọn), Hà Minh Đức tuyển tập (tập 1), NXB

Giáo dục, HN, 2004

46. Phạm Văn Thắm, Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì

Việt Nam (thế kỉ XVI – XIX), Luận văn Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện

nghiên cứu Hán Nôm, HN, 1996

47. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB

Giáo dục, HN, 2008

48. Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo Nho

49. Trần Ngọc Vương, Nhà nho tài tử và Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục,

HN, 1992

50. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam – Dòng riêng giữa nguồn chung,

NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 1999

51. Trần Ngọc Vương (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX – Những

vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, HN, 2007

V. Bài viết trên báo, tạp chí

52. Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên

cứu văn học, Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, HN

53. Phạm Quang Long, Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong Văn học

Việt Nam, ĐH Quốc gia Hà Nội

54. Nguyễn Kim Sơn (dịch và sưu tầm), Mĩ học tiểu thuyết, HN, 2004

55. Nguyễn Kim Sơn, Những chuyển biến của văn học thế kỉ XVIII – đầu thế

kỉ XIX nhìn từ góc độ sự tác động của Nho học tới văn học, Tạp chí Văn

học, Số 8, 1998

56. Vũ Thanh, Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam

hiện đại, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học (Hà Minh Đức chủ

biên), NXB KHXH, HN, 2001

57. Vũ Thanh, Thánh Tông di thảo – Bước đột khởi trong tiến trình phát triển

của thể lại truyện ngắn Việt Nam trung cổ, Hoàng đế Lê Thánh Tông –

Nhà chính trị tài năng, Nhà văn hóa lỗi lạc, Nhà thơ lớn, NXB KHXH,

HN, 1998

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

Bảng thống kê số khoa thi, số tiến sĩ và số trạng nguyên của từng triều đại nước ta (Từ năm 1075 đến năm 1919)

Theo Sách Tiếng Việt 5:

Triều đại Lý Trần Hồ Lê Mạc Nguyễn Tổng cộng Số khoa thi 6 14 2 104 21 38 185 Số tiến sĩ 11 51 12 1780 484 558 2896 Số trạng nguyên 0 9 0 27 10 0 46

Theo Để học tốt Tiếng Việt 5:

Triều đại Lý Trần Hồ Lê Mạc Nguyễn Tổng cộng Số khoa thi 6 14 2 101 22 40 185 Số tiến sĩ 27 238 200 978 485 588 2516 Số trạng nguyên 4 12 1 7 13 0 37

* Ghi chú: Triều Nguyễn chỉ không dùng danh xưng Trạng nguyên chứ không

phải không có người đáng tài đỗ Trạng nguyên. Người đỗ đầu thi Đình, triều

Nguyễn không gọi Trạng nguyên mà gọi là Đệ nhất giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp).

Phụ lục 2:

Bảng thống kê sự xuất hiện của các môtip

Môtip

Giấc mơ

Ra đời kì lạ Chết kì lạ

Thụ thai kì lạ

Diệt yêu quái

Tập truyện

0

0

Truyền kì tân phả

1 lần: Nữ thần ở Vân Cát

Công dư tiệp kí

1 lần: Bố già lặn xuống vực tìm con gái

6 lần: Đền thiêng ở cửa bể, Người liệt nữ ở An Ấp, Nữ thần ở Vân Cát 3 lần: Tìm đất đền ơn, Thủ khoa mặt đẹp, Kiếp sau của sư Bật Sô

3 lần: Nhận ra mẹ đẻ, Sư chăn trâu linh thông, Chôn xương bụng ngựa

Lan Trì kiến văn lục

1 lần: Con lai rắn

3 lần: Đền thiêng ở cửa bể, Người liệt nữ ở An Ấp, Nữ thần ở Vân Cát 4 lần: Nhận ra mẹ đẻ, Ác báo, Sư chăn trâu linh thông, Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ 1 lần: Thần cửa Cần Hải

3 lần: Chuyện khỉ, Con giải, Đánh nhau với quỉ

2 lần: Thám hoa được giáng xuống Phù Khê, Nguyễn Giám sinh làm vua đất Bắc 3 lần: Hai truyện hổ có nghĩa, Sinh đẻ kì lạ, Biết chuyện kiếp trước

4 lần: Thần cửa Cần Hải, Điềm báo trước, Tháp Báo Ân, Giấc mộng lạ 0

0

0

0

0

0

0

0

Tân truyền kì lục Tang thương ngẫu lục

1 lần: Nội đạo tràng

Vũ trung tùy bút

0

0

0

0

Thoái thực kí văn

1 lần: Ông Nguyễn Trọng Thường 1 lần: Thần hồ Động Đình 0

0

0

0

1 lần: Biết truyện kiếp trước 7 lần

Tổng cộng

15 lần

4 lần

8 lần

5 lần

Phụ lục 3:

Khảo sát loại nhân vật trong Lan Trì kiến văn lục

Loại nhân vật

Nam

STT

Tên truyện

giới/Thần

Phụ nữ

Trẻ con

Loài vật

tiên/Ma quỉ

1. Dốc Lôi Thủ

x

2. Thần cửa Cần Hải

x

x

x

3. Con lai rắn

x

4. Tiên ngoài hải đảo

x

5. Nguyễn Quỳnh

x

6. Phạm Viên

x

7. Ông tiên ăn mày

x

8. Hai truyện hổ có

x

nghĩa

9. Sinh đẻ kỳ lạ

x

x

10. Sống lại

x

11. Tên ăn trộm

x

12. Cô đào họ Nguyễn

x

13. Chuyện tình ở

x

Thanh Trì

14. Cá thần

x

15. Chuyện khỉ

x

x

16. Con hổ nghĩa hiệp

x

17. Bà đồng

x

18. Bà phu nhân Lan

x

x

Quận công

19. Quan Thượng họ

x

x

Đỗ

20. Điềm báo trước

x

21. Nhớ được 3 kiếp

x

x

22. Chuyện quan Quận

x

ở Liên Hồ

23. Hổ có lòng nhân

x

24. Ông Nguyễn Trật

x

25. Tháp Báo Ân

x

x

26. Ông Trạng họ

x

x

Nguyễn

27. Giấc mộng lạ

x

28. Gấu, hổ chọi nhau

x

29. Rắn thần

x

30. Thầy xem tướng

x

31. Thầy Chiêu Trưng

x

32. Động Hải Sơn

x

33. Biết chuyện kiếp

x

x

trước

34. Người khổng lồ

x

35. Con giải

x

x

x

36. Thần giữ của

x

37. Nguyễn Danh

x

Dược

38. Yêu quái trên cây

x

x

39. Đánh nhau với quỷ

x

TS

39 truyện

24 truyện

15 truyện

3 truyện

11 truyện

Phụ lục 4:

Bảng khảo sát các chữ cuối tiêu đề

STT

Tên tác phẩm

Ghi chú

1.

Truyền kì tân phả 傳奇新譜

Ý nghĩa tên tác phẩm Phả mới truyền đi những việc kì lạ

2. Công dư tiệp kí 公 餘 捷 記

3.

Lan Trì kiến văn lục 蘭池見聞錄

Bản ghi những điều Lan Trì mắt thấy tai nghe

4.

Ý nghĩa chữ cuối (Bảng có hệ thống) (nhớ, ghi, bản ghi chép 190, tiệp nghĩa là nhanh 219) (kiến là nhìn, văn là nghe?, ghi chép, thu nhận 280)

Bản ghi chép những việc kì lạ mới

5.

Đây là cách hiểu chúng tôi, vì chúng tôi không có trong tay những tài liệu dịch đã được công nhận về những tiêu đề này, có lẽ các dịch giả không có ý định dịch tiêu đề lớn của tác phẩm

Tân truyền kì lục 新傳奇錄 Tang thương ngẫu lục 桑滄偶錄

Ghi chép ngẫu nhiên những chuyện dâu bể

Ghi chép ngắn trong mưa

(ngẫu là tình cờ, ngẫu nhiên 319) (những ghi chép ngắn 428)

7.

6. Vũ trung tùy bút 雨中隨筆 Thoái thực kí văn 退食記聞

(văn là nghe 467 ->

Ngoài ra, còn một số tác phẩm không xác định được tên tác giả và chưa khẳng định chắc thời điểm sáng tác, có trong tuyển tập này:

- Sơn cư tạp thuật 山居雜述 (thuật là kể lại, tạp là lộn xộn lung tung): Ở trong núi

kể lung tung

- Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập 新訂校評越甸幽靈集 (bình là bình

luận, đánh giá, nhận xét)

- Tân đính Lĩnh Nam chích quái 新 訂嶺南摭怪 (đính là cải chính) - Bích Châu du tiên mạn kí 碧珠遊仙漫記 (mạn: tràn ra, tự do, tản mạn) - Việt Nam kì phùng sự lục 越南奇逢事錄