1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
======== *** ========
LƯƠNG THỊ HUYỀN THƯƠNG
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM
THẾ KỈ XVIII - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC ***0O0***
LƯƠNG THỊ HUYỀN THƯƠNG
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thanh
HÀ NỘI - 2009
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy
giáo, cô giáo trong khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, các cán bộ và giảng viên viện Văn học đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập và nghiên cứu những năm vừa qua.
Đặc biệt, tôi trân trọng bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Thanh,
người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ủng hộ và giúp đỡ tôi
trong thời gian qua.
Hà Nội, tháng 10 năm 2009
Lương Thị Huyền Thương
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 1. TRONG DÒNG CHẢY TRUYỀN KÌ ........................................................... 18
1.1.
Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì trong Văn học Việt Nam
và thế giới ................................................................................................................................. 18
1.1.1. Một số thuật ngữ .................................................................................................. 18
1.1.1.1. Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo ............................................................................... 18
1.1.1.2. Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan ................................................... 19
1.1.2. Một chặng đường truyền kì ................................................................................. 22
1.1.2.1. Thành tựu truyền kì thế giới ................................................................................. 22
1.1.2.2. Bảy thế kỉ truyền kì Việt Nam .............................................................................. 26
1.2. Truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: Vài nét về hoàn cảnh xã hội, lịch sử,
văn hóa, văn học ...................................................................................................................... 28
1.2.1.
Bối cảnh chính trị xã hội, văn học ...................................................................... 28
1.2.2. Thời kì nở rộ của thể loại truyền kì .......................................................................... 30
CHƯƠNG 2. NHỮNG XU HƯỚNG MỚI TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH ................ 33
2.1. Sự chuyển hướng trong tư tưởng ................................................................................... 33
2.1.1. Trung thành với lí tưởng Nho gia ............................................................................. 33
2.1.2. Day dứt vì cõi lòng hoài Lê ........................................................................................ 39
2.1.3. Dựa dẫm vào tư tưởng Lão Trang ............................................................................ 42
2.2. Đề tài gắn với đời sống thế sự ......................................................................................... 47
2.2.1. Đậm chất kí sự ........................................................................................................... 47
2.2.2. Nghiêng về khảo cứu ................................................................................................. 51
2.3. Xu hướng viết về người thật, việc thật ........................................................................... 55
2.3.1. Những nhân vật lịch sử ............................................................................................. 55
2.3.2. Những con người, sự vật xung quanh ...................................................................... 59
2.3.3. Những nhân vật bình phàm ...................................................................................... 62
2.4. Con người và số phận con người .................................................................................... 65
2.4.1. Quan niệm rộng mở về con người ............................................................................ 66
2.4.1.1. Con người với những phẩm chất tốt đẹp ............................................................. 66
2.4.1.2. Quan niệm mới về hạnh phúc .............................................................................. 68
2.4.1.3. Quan niệm về chữ “trinh” ................................................................................... 71
2.4.2. Phản ánh số phận con người .................................................................................... 73
2.4.2.1. Con người bất hạnh ............................................................................................. 74
a) Tài tử giai nhân ........................................................................................................ 74
b) Thường dân bất hạnh ............................................................................................... 76
2.4.2.2. Số phận người phụ nữ .......................................................................................... 78
a) Người phụ nữ trong “Truyền kì tân phả” ................................................................ 79
b) Người phụ nữ trong “Lan Trì kiến văn lục” ............................................................ 82
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ........................ 87
3.1. Chuyển đổi giữa “kì - thực” ............................................................................................ 87
3.2. “Thực” trong nghệ thuật tự sự ....................................................................................... 90
3.2.1. Vị trí của người trần thuật ........................................................................................ 91
3.2.2. Góc độ của điểm nhìn trần thuật .............................................................................. 91
3.2.2.1. Cảm giác đến từ Tiêu đề ...................................................................................... 92
3.2.2.2. Nổi bật “thực” qua thủ pháp ............................................................................... 94
3.2.3. Tính không thuần nhất về thể loại ............................................................................ 96
3.3. Tinh giản trong văn phong .............................................................................................. 98
3.3.1. Câu văn gọn ............................................................................................................... 98
3.3.2. Lời bình giảm ........................................................................................................... 101
3.3.3. Dung lượng nhỏ ....................................................................................................... 103
3.3.4. Kết cấu chuẩn .......................................................................................................... 108
Tổng kết (phần nội dung) ..................................................................................................... 111
LỜI KẾT ................................................................................................................................ 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 119
PHỤ LỤC ............................................................................................................................... 124
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ điển Văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1999) cho biết: Truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng
chữ Hán trong văn học trung đại. Tên gọi của thể loại vốn có nguồn gốc từ văn học cổ và trung đại Trung Hoa 1. Đây là một thể loại văn học nhiều thành tựu của
văn học Đông Á, một đối tượng nghiêm túc và hấp dẫn đối với các nhà nghiên
cứu Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Pháp… Trong khi đó, ở
Việt Nam, không giống như các thể loại khác (thơ, truyện thơ nôm, truyện ngắn,
tiểu thuyết…), trong một thời gian dài, truyện truyền kì còn chưa được nhìn nhận
dưới góc độ thể loại mà mới chỉ được các nhà nghiên cứu chú ý ở cấp độ tác
phẩm, mà sức hút mạnh nhất dường như cũng chỉ mới tập trung vào Truyền kì mạn lục 2 của Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI). Và thể loại truyền kì vẫn chưa có một
chỗ đứng thỏa đáng trong lịch sử văn học. Hiện tại, nó mới chỉ được đưa vào
giảng dạy chính thức ở bậc phổ thông và dừng lại ở cấp độ tác phẩm. Đó đúng là
một thiệt thòi cho truyện truyền kì, một bộ phận văn học quan trọng – một sắc
màu kì lạ trong diện mạo muôn màu của văn học Việt Nam.
Giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX (đặc biệt là từ nửa sau thế kỉ
XVIII trở đi), được phong trào cách tân và nhân văn nâng đỡ, văn học viết bằng
chữ Hán và chữ Nôm, văn học viết bác học, văn học viết bình dân đều phát triển
chưa từng có và trở thành giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học nước nhà,
với rất nhiều thể loại (thơ Đường luật, thơ lục bát, phú, ngâm khúc, truyện thơ,
hát nói, truyện và kí văn xuôi chữ Hán…). Cảm hứng nhân đạo và cảm hứng yêu
1 Vấn đề lịch sử thể loại và tên gọi của truyện truyền kì chúng tôi sẽ trình bày kĩ hơn trong chương 1. 2 Để thể hiện rõ đâu là tập truyện gồm có nhiều truyện và đâu chỉ là một truyện trong tập (hoặc một tác phẩm), chúng tôi trình bày tên tập truyện với dạng chữ đậm, thẳng, còn tên truyện với dạng chữ đậm, nghiêng.
nước vẫn bao trùm và không hoàn toàn tách biệt trong dòng chảy xuyên suốt
mấy nghìn năm của lịch sử văn học dân tộc. Nhưng những nội dung của chủ
nghĩa nhân đạo đã được biểu hiện tập trung nhất trong giai đoạn thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX, và nuôi dưỡng những tác phẩm văn học trong lòng nó để
văn học giai đoạn này trở thành giai đoạn rực rỡ nhất của lịch sử văn học dân
tộc. Trong giai đoạn phát triển rực rỡ nhất ấy, người ta nhắc nhiều tới ngâm khúc
(Chinh phụ ngâm khúc – Nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch
của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều), hát nói (với
một Cao Bá Quát khát vọng cao cả và nhân cách cứng cỏi của mẫu người “tài tử
đa cùng”, và một Nguyễn Công Trứ nhiệt tình hăm hở trong “chí làm trai” và
bản lĩnh sống giữa cuộc đời mà cuối cùng bị vỡ mộng đến chán chường), tới tác
phẩm hoành tráng về sự thống nhất của nhà Lê (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô
gia văn phái). Người ta cũng đã ca ngợi nhiều một đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du với kiệt tác đỉnh cao – áng thiên cổ kì văn Truyện Kiều và rất nhiều tác phẩm
khác; một nữ sĩ – “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương mà cuộc đời và thơ văn
đã đi vào huyền thoại; một cái Tôi lãng mạn, một mầm mống của văn xuôi tiếng
Việt bước đầu đã xuất hiện trong thơ văn Phạm Thái; một Bà huyện Thanh Quan
vỏn vẹn sáu bài thơ mà như sáu bông hoa, trang nhã một phong thái riêng cao
quí...
Giữa những lời tụng ca và ghi nhận ấy, những tác gia và tác phẩm truyền
kì giai đoạn này nằm im ắng, khiêm nhường, không xuất hiện trong những cuốn
sách giáo khoa mẫu mực của học đường. Đối với thế hệ học sinh măng non của
đất nước, như thể bước phát triển của thể loại này ở Thánh tông di thảo (tương
truyền là của vua Lê Thánh Tông, 1442 - 1497) và Truyền kì mạn lục (Nguyễn
Dữ) của thế kỉ XV, XVI đã không có người kế vị? Trong khi thực tế, nó vẫn phát
triển, thậm chí với một tốc độ chóng mặt cả về số lượng tác gia và tác phẩm. Hay
là những truyện truyền kì trong giai đoạn này kém về chất lượng? Cũng không
phải! Bởi vì đã có sự xuất hiện của những tác gia, tác phẩm xuất sắc, như một
Đoàn Thị Điểm chín muồi và đầy nữ quyền trong Truyền kì tân phả; một Vũ
Trinh kiên định, sâu sắc với Lan Trì kiến văn lục; một Phạm Đình Hổ thông
thái, uyên bác qua Vũ Trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (viết chung với
Nguyễn Án)… Thậm chí, chúng tôi biết đã có nhiều bạn sinh viên cùng chuyên
ngành với mình khẳng định một cách chắc chắn trong luận văn rằng: “Ở giai
đoạn suy tàn của truyện truyền kì, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm ra đời
trong những năm đầu thế kỉ XVIII được xem là tác phẩm tiêu biểu. Đặt tên cho
tập sách của mình là Tục truyền kì, Đoàn Thị Điểm muốn qua đó tiếp tục công
trình của Nguyễn Dữ. Sau Truyền kì tân phả, một số tác giả tuy vẫn sử dụng
yếu tố kì ảo trong sáng tác của mình, tuy nhiên sự biến ảo phong phú đã không
bằng Truyền kì mạn lục và lại quay về tuân thủ sự thật lịch sử cứng nhắc. Sang
thế kỉ XVIII, trước sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, nhất là sự hưng thịnh của
chữ Nôm, truyện truyền kì chữ Hán bắt đầu suy thoái dần, thay vào đó là thể loại
mới, đó là truyện thơ Nôm” [Phạm Thu Trang]. Đó chính là lí do khiến chúng tôi
quan tâm và muốn góp phần khẳng định vị thế cho truyện truyền kì giai đoạn
này.
Cũng giống như số phận của truyện truyền kì Việt Nam nói chung, truyện
truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX từ lâu đã được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ tác phẩm, hoặc giới thiệu
chung. Luận văn của chúng tôi bước đầu muốn đi sâu nghiên cứu một cách tổng
quát, cụ thể hơn những vấn đề nội dung cũng như nghệ thuật của truyện truyền
kì giai đoạn này và từ đó chỉ ra những cách tân đổi mới của thể loại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi nhận đề tài này, chúng tôi đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc khảo
sát lịch sử vấn đề, bởi đây là đề tài rộng, mà các nghiên cứu trước đây hầu như là
các bài viết nhỏ, lẻ trên các báo, tạp chí, hoặc vấn đề chỉ được nhắc tới với một
vị thế khá khiêm tốn, là một thành phần nhỏ trong một chỉnh thể tác phẩm
nghiên cứu đồ sộ nào đó.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, truyện kì ảo thời trung đại (khái
niệm dùng để chỉ chung các loại truyện như u linh, chích quái, truyền kì, chí dị)
với rất nhiều tác phẩm, những tập truyện nổi tiếng như Việt điện u linh tập lục
(Lí Tế Xuyên), Lĩnh Nam chích quái lục (Trần Thế Pháp), Thánh Tông di
thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì Tân Phả
(Đoàn Thị Điểm), Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Lan Trì kiến văn lục (Vũ
Trinh), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)… còn chưa được tập hợp và nghiên
cứu chung theo góc độ thể loại. Trong một vài bộ phận lịch sử văn học hoặc một
vài bài báo, người ta gộp loại truyện này vào bộ phận văn xuôi hoặc tách ra
nghiên cứu một vài tác phẩm tiêu biểu.
Sách giáo khoa nhà trường phổ thông từ đã đưa một vài truyện trong
Truyền kì mạn lục (trước là Người con gái Nam Xương, Chuyện cái chùa
hoang ở Đông Triều, còn sách cải cách hiện nay là Chuyện chức Phán sự ở đền
Tản Viên…) vào chương trình chính thống, giảng dạy trong nhà trường hoặc cho
học sinh đọc thêm, nhưng với tư cách một tác phẩm xuất sắc, một áng “thiên cổ
kì bút”, và được coi là một cái mốc quan trọng của thể loại truyện văn xuôi bằng
chữ Hán của văn học Việt Nam, chứ không gắn với sự phát triển chung của thể
loại.
Việc nghiên cứu truyền kì với tư cách là một thể loại gần đây đã được ý
thức song mới chỉ tiến hành ở bước đầu hoặc chưa hoàn chỉnh. Bước đầu, ở cấp
độ thể loại, nó mới được giới thiệu với tư cách một chuyên đề cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh ở một số cơ sở đào tạo sau đại học.
Một điều lạ là trong cuốn 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân biên
soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 6/1999) không thấy có sự xuất hiện
của thuật ngữ truyền kì. Còn trong cuốn Từ điển Văn học Việt Nam – Từ nguồn
gốc đến hết thế kỉ XIX cũng do Lại Nguyên Ân biên soạn và xuất hiện cùng thời
điểm (nhưng do NXB Giáo dục ấn hành) thì truyền kì đã được nhắc tới với tư
cách là “Một thể loại văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán ở văn học trung đại… với
đặc điểm là luôn luôn có môtip kì quái, hoang đường lồng trong một cốt truyện
sinh hoạt thế sự hoặc đời tư, thường là truyện tình” [6, 634].
Một điều mừng lớn cho những nhà nghiên cứu và những sinh viên quan
tâm đến truyền kì, là lần đầu tiên đã có một bộ sách tổng hợp về truyền kì trên
phương diện một hiện tượng văn học, đó là Truyện truyền kì Việt Nam của
NXB Giáo dục, phát hành năm 1999, và đối tượng nghiên cứu của luận văn
(truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX) có một
chút ở cuối quyển một và phần nhiều trong quyển hai (tập III – tập IV). Đây rõ
ràng là một minh chứng cho sự chú tâm vào thể loại này của giới nghiên cứu. Có
điều, trong đó, các nhà nghiên cứu mới làm công việc biên soạn, dịch và tập hợp
các tác phẩm lại cạnh nhau; trong đó có đưa ra tên và tác phẩm của những tác giả
riêng biệt, cũng như khái quát một vài nét về cuộc đời cũng như nội dung tư
tưởng tác phẩm của họ, chứ chưa đưa ra bức tranh toàn cảnh về thể loại, cũng
như so sánh để chỉ ra những nét tương đồng và cao hơn nữa là tính qui luật chi
phối trong nội dung, nghệ thuật của các tác giả, tác phẩm giai đoạn này.
Như phần trên chúng tôi đã đưa ra, từ trước tới nay, truyện truyền kì thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX thường được nghiên cứu chung trong dòng chảy của
thể truyền kì hoặc nghiên cứu riêng về một vài tác giả, tác phẩm xuất sắc của nó
(như Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục, Phạm Đình Hổ với Vũ Trung tùy bút,
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đồng tác giả Tang thương ngẫu lục, Trương
Quốc Dụng viết Thoái thực kí văn…). Hầu hết các tác giả đều chưa có ý khái
quát hóa và cụ thể hóa đặc điểm của giai đoạn này. Một số nhà nghiên cứu có tên
tuổi trong lĩnh vực này như PGS.TS Nguyễn Đăng Na, PGS.TS Trần Thị Băng
Thanh, PGS.TS Vũ Thanh…
PGS.TS Nguyễn Đăng Na trong nhiều bài nghiên cứu của mình đã nói tới
truyền kì dù ở hình thức hay tên gọi khác (Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997; Tự sự lịch sử trong văn học trung đại
Việt Nam những đặc điểm bước đi khởi đầu, Tạp chí Văn học, số 12/1999; Tiểu
thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại, in trong cuốn “Văn học Việt Nam thế
kỉ X – XIX”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007…).
PGS. TS Vũ Thanh có thể nói là một người đã dành khá nhiều tâm huyết
cho thể loại này. Các bài viết của ông đăng trên các sách báo, tạp chí đã đi vào
nhiều vấn đề của truyền kì, từ vấn đề chung về thể loại (Thể loại truyện kì ảo
Việt Nam trung đại – Quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm, Văn học
Việt Nam thế kỉ X – XIX, Trần Ngọc Vương chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội,
2007), về một giai đoạn (Truyện truyền kì Việt Nam thế kỉ XIX, Dư ba của truyện
truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại, in trong công trình “Những
vấn đề lí luận và lịch sử văn học”, NXB Khoa học xã Hội, Hà Nội, 2001), về một
đặc điểm thể loại (Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì
Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 6/1994), đến tác giả (các bài tham luận, bài viết
về Hoàng đế Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh… in trong nhiều công trình
khác nhau), rồi cả phân tích cụ thể tác phẩm riêng lẻ (Việt Nam kì phùng sự lục
và Ngọc thân huyễn hóa). Những bài viết này của ông đã gợi mở rất nhiều cho
việc nghiên cứu truyền kì.
Cũng cùng nhóm đề tài này, Bùi Thị Thiên Thai (Luận văn Thạc sĩ Khoa
học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2001) đã
đề cập đến vấn đề khá mới mẻ Truyện kì ảo hiện đại – Dư ba của truyện truyền
kì truyền thống.
Năm 2002, Phạm Thị Ngọc Lan trong khi nghiên cứu về Kí văn xuôi chữ
Hán thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX (Luận án Tiến sĩ văn học, Hà Nội,
2002) đã tạm xếp những tác phẩm kí của giai đoạn này thành bốn nhóm đề tài
chính, trong đó có một nhóm là kí về chuyện kì “ghi chép những chuyện đồn,
chuyện kì lạ, những giai thoại, truyền thuyết lưu truyền trong dân gian”
[ngọclan-81].
Còn khá nhiều những bài viết, bài nghiên cứu, luận văn viết về những tác
phẩm riêng lẻ, hoặc viết về một đặc điểm (chẳng hạn như hình ảnh người phụ
nữ, yếu tố kì ảo… trong truyện truyền kì) mà chúng tôi không thể dẫn ra hết
được. Yếu tố kì ảo trong văn học gần đây cũng được một số nhà nghiên cứu
trong nước quan tâm như PGS.TS Nguyễn Văn Dân, Th.S Lê Nguyên Long…
trong đó có cả các bài nghiên cứu đưa ra những thuật ngữ, những định danh một
cách khoa học, rõ ràng, và cả những bản dịch tư liệu của nước ngoài. Như vậy có
thể thấy, ở thời hiện đại, sự kì ảo trong văn học Việt Nam đã tiếp cận gần hơn
với văn học thế giới. Đồng thời, sự quan tâm của giới nghiên cứu dành cho thể
loại truyền kì đã đến từ nhiều góc độ.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Khi nghiên cứu văn bản tác phẩm, chúng tôi chủ yếu dựa vào hai tập
sách Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam của Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
NXB Thế giới, 1997 và Truyện truyền kì Việt Nam (quyển hai, tập 3+4) do
Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1999. Trong đó, những khảo sát vẫn
dựa trên cuốn Truyện truyền kì Việt Nam, bởi những truyện trong cuốn này đã
được tuyển chọn cho đúng với tính chất truyền kì, còn cuốn kia chỉ mang tính
chất tham khảo, bởi có nhiều truyện không cùng thể loại được đề cập trong luận
văn này.
- Do khuôn khổ của luận văn, và đặc biệt là sự hạn chế trong việc thu thập
tài liệu, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tác phẩm của những tác giả tiêu biểu
trong thời kì này, cụ thể đó là các tác giả Đoàn Thị Điểm với Truyền kì Tân
Phả, Vũ Phương Đề với Công dư tiệp kí, Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục,
Phạm Quý Thích với Tân truyền kì lục, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án với
Tang thương ngẫu lục, Phạm Đình Hổ với một vài truyện trong Vũ trung tùy
bút, Trương Quốc Dụng với Thoái thực kí văn. Họ là những tác giả lớn (cả về
số lượng và chất lượng) nên có ảnh hưởng và chi phối văn học truyền kì giai
đoạn này. Còn những tác phẩm Khuyết danh (chưa rõ tên tác giả như Sơn cư tạp
thuật, Việt Nam kì phùng sự lục…), cũng như những tác phẩm không khẳng
định được thời gian sáng tác (Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập, Tân
đính Lĩnh Nam chích quái…) hay không chắc chắn về tác giả (Bích Châu du
tiên mạn kí) thì chúng tôi không tính vào kết quả khảo sát chính xác mà chỉ dẫn
ra mang tính chất tham khảo.
Cụ thể, sẽ khảo sát tác giả và số lượng tác phẩm như trong bảng sau đây:
STT
Tập truyện
Tác giả
Ghi chú
SL truyện khảo sát
Đoàn Thị Điểm
3
1
Truyền kì tân phả
Sách gồm 6 truyện, 3 truyện còn lại không chắc của tác giả
22
Công dư tiệp kí
Vũ Phương Đề
2
39
Vũ Trinh
3
Lan Trì kiến văn lục
Sách gồm 45 truyện và 4 bài tựa
Phạm Quí Thích
1
4
Tân truyền kì lục
Sách gồm 1 bài tựa và 3 truyện
15
5
Tang thương
Phạm Đình Hổ và
Sách gồm 2 bài tựa, 1 lời đề
ngẫu lục
Nguyễn Án
hậu và 90 truyện
6
Vũ trung tùy bút
Phạm Đình Hổ
3
Sách gồm 1 lời tự thuật và 89 truyện
7
3
Thoái thực kí văn
Trương Quốc Dụng
Sách gồm 8 quyển và 1 lời dẫn
Tổng
7 tập sách
8 tác giả
86 truyện
- Chúng tôi có so sánh, đối chiếu với một vài tác giả và tác phẩm tiêu biểu
của giai đoạn trước (Lê Thánh Tông – Thánh Tông di thảo, Nguyễn Dữ -
Truyền kì mạn lục…)
- Đồng thời chúng tôi cũng có sự liên hệ với một vài tác phẩm, tác giả của
giai đoạn truyền kì hiện đại, hay còn được gọi là truyện kì ảo (Ba hồi kinh dị,
Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu – Thế Lữ, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya
- Tchia, Cõi âm nơi quán cây dương – Bình Nguyên Lộc…), và văn học kì ảo
nước ngoài (Hoffmann với Rượu ngon của quỉ, Edgar Poe – Con mèo đen, Cù
Hựu – Tiễn đăng tân thoại, Bồ Tùng Linh – Liêu trai chí dị…).
4. Phương pháp nghiên cứu
Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào phân tích từng
tác phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm của giai đoạn văn học truyền kì này. Luận
văn chủ yếu tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu vừa truyền thống vừa hiện đại để từ đó lí giải, xác lập luận điểm, luận cứ và
rút ra những kết luận cần thiết. Các phương pháp được sử dụng đồng thời gồm:
- Phương pháp tổng hợp nhằm có cái nhìn khái quát
- Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích nhằm có cơ sở và cái nhìn cụ
thể
- Phương pháp liên ngành: soi chiếu văn học với văn hóa, lịch sử, xã hội
để có cái nhìn chính xác hơn
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu khảo sát và nghiên cứu truyện
truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, đóng góp một
cái nhìn toàn cảnh hơn về truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn này.
- Chúng tôi cũng hi vọng bản luận văn này sẽ đưa ra được những luận
điểm, luận cứ mới mẻ trong một đề tài đã quá quen thuộc từ xưa tới nay, đồng
thời cũng có những cách lí giải riêng hợp lí cho luận điểm, luận cứ đó.
- Luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định giá trị và sức sống của một
số tác phẩm tiêu biểu trong văn học nước nhà.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Lời kết, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần
nội dung chính của luận văn chia làm ba chương:
Chương 1: Trong dòng chảy truyền kì: Nêu những nét khái quát về văn
học truyền kì của Việt Nam và thế giới; bối cảnh lịch sử và văn hóa, văn học
Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX
Chương 2: Những xu hướng mới trong nội dung phản ánh
Chương 3: Những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện
Do thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn nên luận văn này không thể
giải quyết trọn vẹn và thấu đáo những vấn đề đặt ra cũng như đề cập đến. Chúng
tôi hi vọng sẽ có nhiều hơn nữa những bài viết, những công trình nghiên cứu của
các tác giả để tiếp tục tìm hiểu sâu hơn và có những nhận định mới về một giai
đoạn, một thể loại văn học Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TRONG DÒNG CHẢY TRUYỀN
KÌ
1.1. Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì
trong Văn học Việt Nam và thế giới
1.1.1. Một số thuật ngữ
Thuật ngữ là từ hay cụm từ cố định được dùng trong các chuyên ngành để
biểu thị chính xác các khái niệm và các đối tượng thuộc chuyên ngành. Do yêu
cầu chính xác, thuật ngữ thường được chú trọng trước tiên đến mối quan hệ một
– nối – một, giữa hình thức (vỏ ngữ âm) và nội dung (ý nghĩa chuyên ngành)
(theo Bách khoa toàn thư). Trong nghiên cứu khoa học, điều đầu tiên phải định
danh chính xác tên gọi của đối tượng nghiên cứu.
Nói đến truyền kì là nói đến một loại hình văn xuôi nghệ thuật đã có từ
thời văn học cổ mà trong đó chứa đựng yếu tố kì. Nhưng không phải ngay từ
những ngày đầu xuất hiện, bản thân thể loại đã được định danh cụ thể và chính
xác như bây giờ. Trong phần này chúng tôi chủ yếu nêu lên một số thuật ngữ -
gần giống hoặc thường bị nhầm lẫn với truyền kì - nhằm đưa ra những lí giải và
phân biệt chúng – theo quan điểm của mình.
1.1.1.1. Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo
Khi nghiên cứu các loại từ điển về thuật ngữ truyền kì, chúng tôi đồng tình
với một số ý kiến nghiên cứu trước đây, rằng: yếu tố không thể thiếu của truyền
kì mà hầu hết các nhà làm từ điển đều quan tâm, đó là yếu tố kì (lạ). Trung Hoa
văn hóa đại từ hải cho rằng: “Vì tình tiết có nhiều kì lạ, thần dị mà có tên ấy”.
Từ điển văn học năm 1984 do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Từ điển văn
học (từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX) của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1999,
mục Truyền kì đều chú ý trước hết đến những “môtip kì quái, hoang đường” [13,
447 và 6, 635].
Nhưng trên thế giới đến nay vẫn chưa dễ gì có một quan niệm thống nhất
về yếu tố kì ảo và văn học kì ảo.
Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở chỗ, kì ảo
(fantastic) nghĩa là phải đề cập đến cái không thể xảy ra (impossible), cái siêu
nhiên (supernatural). Tuy nhiên, không phải cứ đề cập đến cái siêu nhiên, cái
không thể xảy ra thì là kì ảo. Cần phải phân biệt kì ảo và cái tưởng tượng hư
huyễn thuần túy (fantasy), cái huyền diệu (marvellous)… [25, 1].
Kì ảo có mầm mống xa xưa từ trong văn học dân gian với những truyện cổ
tích, truyền thuyết (đã thoát ra khỏi tư duy thần thoại). Nhưng phải đến cuối thế
kỉ XVIII, cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa duy lí (rationalism), xã hội mới có
đủ điều kiện để tạo ra một lớp nhà văn có ý thức rõ ràng trong việc tạo ra một
hình thái ý thức thẩm mĩ mới là cái kì ảo, và đi cùng với nó là một loại hình văn
học mới: văn học kì ảo.
1.1.1.2. Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan
Với xác định như thế, có thể coi truyền kì (fantasy) khác với kì ảo
(fantastic). Riêng thuật ngữ truyền kì cũng đã trải qua một chặng đường dài trong ngót một nghìn năm phát triển của thể loại 3.
Trong các hình thức văn xuôi tự sự của Việt Nam thời trung cổ, cái tên
truyền kì không phải ngay từ đầu đã có. Khoảng cuối thời kì Bắc thuộc và đầu
thời đại tự chủ, những tên sách có liên quan xa gần đến truyện kì ảo còn lưu dấu
3 Khi chúng tôi viết phần này, đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của PGS.TS. Vũ Thanh, bởi đây là phần nhỏ nhưng đòi hỏi phải có sẵn vốn kiến thức sâu và sự khảo sát tương đối rộng
được đến ngày nay như Sử kí (Đỗ Thiện), Báo cực truyện, Giao Châu kí (Triệu
Công), Giao Chỉ kí (Tăng Công)…4 đều không một tên sách nào xuất hiện thuật
ngữ đó.
Bước sang giai đoạn Lí – Trần, hai cuốn sách đậm đặc yếu tố kì ảo là Việt
điện u linh tập lục (Lí Tế Xuyên) và Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (Trần
Thế Pháp) cũng chưa thấy có truyện nào dùng chữ truyền kì để đặt tên, mà dùng
đến hai thuật ngữ khác là u linh và chích quái, có vẻ còn giàu màu sắc huyền ảo
hơn.
Cuối đời Trần và Hồ, ngoài cuốn Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên
Trừng, còn vài ba cuốn truyện có chứa yếu tố kì khác như Tăng Đạo thần
thông, Minh Không thần dị…
Phải đến khoảng cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI lần đầu tiên văn học
Việt Nam được nghe tới thuật ngữ truyền kì trong tập thơ Việt giám vịnh sử thi
tập, trong khi tổng kết sự nghiệp trước tác của nhà văn hóa Vũ Quỳnh, sử gia
kiêm thi gia Đặng Minh Khiêm đã viết:
Việt giám nhất thiên châm khả pháp
Hưu ngôn Chích quái hựu Truyền kì
(Một tập Việt giám thật đáng để làm khuôn phép
Khỏi cần bàn đến Chích quái với lại Truyền kì)
Theo học giả Nguyễn Huy Khánh thì “chữ Truyền kì có ý mỉa mai, biếm
nhã chứ không như nghĩa chúng ta hiểu ngày nay”, và chính Lỗ Tấn cũng khẳng
định: “Hai chữ Truyền kì bấy giờ thực ra là ngụ ý chê cười chứ không phải như
chúng ta hiểu danh từ Truyền kì ngày nay”.
Chữ Truyền kì ngày nay, theo sách Thuyết văn giải tự giải thích: “Truyền
4 Đều được dẫn trong Việt điện u linh tập lục
là chuyển đi” (Truyền giả đệ dã) chức năng ngữ pháp là động từ, còn “kì nghĩa là
lạ” (kì giả dị), trong quá trình sử dụng, chữ này mang nét nghĩa khác là “ít thấy”,
“biến hóa khó lường”. Như vậy hai chữ Truyền và Kì ghép lại thành một tổ hợp
từ theo kết cấu động tân. Nghĩa của nó là Truyền đi sự lạ.
Tuy nhiên, phải bước hẳn sang mấy thập niên đầu thế kỉ XVI, với Truyền
kì mạn lục của Nguyễn Dữ, lần đầu tiên thuật ngữ truyền kì xuất hiện trong một
tác phẩm của Việt Nam mà nội dung và hình thức của nó đã đáp ứng yêu cầu thể
loại, và từ đó ghi dấu trong văn chương với tư cách một thể loại được định danh
rõ ràng. Trào lưu sáng tác truyện truyền kì từ đây cũng rầm rộ hơn, cho đến tận
giữa thế kỉ XIX và còn lưu dấu trong văn học đương đại ngày nay. Và thuật ngữ
truyền kì cũng được nhiều tác giả sử dụng ngay ở tiêu đề tác phẩm của mình, như
một cách định danh và khẳng định rõ ràng cách thức viết truyện của tác giả bằng
cách sử dụng nguyên vẹn: Truyền kì tân phả (cũng gọi là Tục truyền kì, của
Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Quí Thích), Ngoại truyền kì lục, Bổ
truyền kì (chưa rõ tác giả và thời điểm xuất hiện)… Hoặc chỉ lấy chữ kì của đặc
trưng kiểu truyện đưa vào tên tác phẩm: Bích Câu kì ngộ, Long hổ đấu kì (trong
Truyền kì tân phả), Kì mộng (trong Lan Trì kiến văn lục), Kì sự (trong Vũ
trung tùy bút), Trưng kì (trong Thoái thực kí văn)…
Như vậy, để chỉ loại truyện có yếu tố kì ảo, có hai cụm từ đã hiện diện
xuyên suốt từ khi nảy sinh tới quá trình phát triển đạt đến đỉnh cao của thể loại:
“linh – chí – quái” (chiếm lĩnh trước thế kỉ XV), “truyền kì – kì” (từ thế kỉ XV
đến giữa thế kỉ XIX). Trong lịch sử tên gọi của thể loại truyện truyền kì, sau này
sẽ còn một số cụm từ khác nữa (ví dụ như từ dị mà chúng tôi đề cập tới trong
phần 3.2.2.1 của luận văn, xuất hiện trong văn học kì ảo từ cuối thế kỉ XIX).
Với quá trình phát triển như thế, với những giai đoạn mà tên gọi của thể
loại được định danh rất rõ ràng như thế, hoàn toàn không có gì băn khoăn khi
dùng thuật ngữ truyền kì đối với truyện kì ảo trong giai đoạn nghiên cứu của luận
văn, nghĩa là cách gọi truyện truyền kì Việt Nam là hoàn toàn chính xác khi áp
dụng cho các tác phẩm có yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế
kỉ XV đến giữa thế kỉ XIX, trong đó tất nhiên có bao gồm các truyện kì ảo Việt
Nam trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX – giới hạn nghiên cứu
của luận văn.
1.1.2. Một chặng đường truyền kì
Mục đích của chúng ta là nghiên cứu truyện truyền kì Việt Nam thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, nhưng không thể chỉ đóng khung việc xem xét nó
trong phạm vi một giai đoạn văn học cụ thể của Việt Nam. Để không có cái nhìn
phiến diện, trước hết, luận văn tìm hiểu về truyền kì Trung Hoa – dấu ấn ảnh
hưởng mạnh và rõ rệt nhất tới truyền kì Việt Nam, và truyền kì ở các nước
phương Tây xa xôi – nơi có rất nhiều thành tựu – như một đối tượng để so sánh.
1.1.2.1. Thành tựu truyền kì thế giới
Vốn dĩ, truyện truyền kì trong văn học thế giới chẳng phải là khái niệm xa
lạ, nó đã bắt nguồn từ khá sớm, tiêu biểu và đạt được nhiều thành tựu ở đất nước
Trung Hoa, và các nước phương Tây.
a) Truyền kì ở phương Tây xa xôi:
Ở Phương Tây, xứ sở công nghiệp phát triển sớm, tư duy hiện đại đi liền
với chủ nghĩa duy lí dường như đã đánh bại tư duy huyền thoại ra khỏi đời sống
vật chất cũng như đời sống tinh thần. Vậy mà có một thực tế là trong khi truyện
kì ảo – đáng lẽ phải phù hợp với nền văn hóa phương Đông huyền bí – thì ở lứa
tuổi khai sinh của nó đã rất khó khăn để được chấp nhận tồn tại và phát triển ở
Việt Nam. Trong khi đó, ở xứ sở văn minh phương Tây, truyện kì ảo đã không
còn là một hiện tượng hiếm hoi, mới lạ. Như một minh chứng cho sức sống của
yếu tố kì ảo, truyện truyền kì đã tồn tại và phát triển mạnh, dù ở bất cứ đâu và
trong hoàn cảnh nào.
Khi tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học trung đại và cận đại
Đông Tây, chúng tôi thấy đã có ý kiến cho rằng truyện kì ảo phương Tây ít nhất
cũng có thể phân loại thành ba dòng không thể đánh đồng với nhau về đặc trưng
nghệ thuật. Một là Dòng truyện cổ thần kì (hay truyện tiên, bao gồm từ các thần
thoại, truyền thuyết, cổ tích thời Hi Lạp, La Mã cổ đại tới các tập truyện dân gian
kì ảo của các nước Trung Á như Ấn Độ, Ả Rập). Đây là dòng truyện bảo lưu
phần tưởng tượng ngây thơ, chất phác trong suốt một thời kì dài của nhân loại;
Hai là Những truyện thơ và văn xuôi cổ điển trong đó có nhiều môtip thần kì (với
những tác phẩm tiêu biểu như Odyssee của Homere, Thần khúc của A.Dante…).
Dòng truyện này là nơi dung chứa hỗn hợp các kiểu thức sáng tác và tái hiện
thần kì, tuy vẫn chưa thoát li hẳn mạch cảm hứng nhân bản của dòng truyện cổ
thần kì, nhưng cũng đã báo hiệu một sự rạn nứt của những môtip kì ảo truyền
thống; Ba là Những tập truyện ma quái xuất hiện vào đầu thế kỉ XIX (của nhà
văn Đức Hoffmann, nhà văn Mĩ Edga Poe…). Nhà văn Đức lãng mạn nổi tiếng
Hoffmann (1776 – 1822) là người đã thực hiện lí tưởng của nhà triết học Fichtơ
trong thi ca. Thế giới nội tâm mà ông sáng tạo là thực tại duy nhất đối với ông:
“Chỉ tinh thần có khả năng nắm bắt được cái gì xảy ra trong thời gian và không
gian”. Ông sáng tạo một thế giới tưởng tượng, kể lại những gì ông nhìn thấy
bằng con mắt tinh thần. Hoffmann là người muốn thoát li thế giới trần gian, đến
mức, khi hấp hối, cầm bút trong tay, ông báo tin cho bạn bè là mình đã lành
bệnh. Ông đã viết những chuyện huyễn hoặc như: Những bức tranh huyễn
tượng theo cách của Calôt (1814), Bức tranh đêm (1817), Anh em Xêrapiông
(1821)… Đây là một dòng truyện hiện đại, phần lớn là truyện ngắn, thường cách
điệu hóa sự đe dọa của lực lượng siêu tự nhiên đối với con người, nhằm mục
đích đưa ra một lời cảnh báo tích cực.
Ba dòng này có những đặc trưng và tiến trình vận động riêng, nhưng vẫn
có những kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau, song hành phát triển cùng nhau.
b) Truyền kì của Trung Hoa rộng lớn:
Truyền kì là một thể loại văn học cổ vốn vẫn được xem là thành tựu to lớn
của tiểu thuyết cổ Trung Hoa. Ngay từ thời Tiên Tần, từ tiểu thuyết đã được nhắc
đến nhưng chưa được dùng để khái quát cả một thể loại văn học. Thực ra ở
Trung Quốc, truyền kì đã bắt đầu xuất hiện từ thời Ngụy, Tấn, Lục triều (từ thế
kỉ III đến thế kỉ VI), với tiểu thuyết chí quái và chí nhân, tiểu thuyết Trung Quốc
chính thức ra đời nhưng bấy giờ vẫn chưa được coi là thể tài chính thống. Trong
công trình lí luận lớn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp có đề cập đến hai mươi thể
tài văn học nhưng không hề có tiểu thuyết.
Đến đời Đường, nhà văn và tác phẩm nhiều thêm, người ta đã coi tiểu
thuyết truyền kì là sản phẩm của triều đại nhà Đường, với sự phồn thịnh chưa
từng có: “Tác phẩm nhiều, tác gia danh tiếng cũng nhiều, hết thảy các thiên
truyện ưu tú nhất hầu như đều sản sinh vào giai đoạn này”. Bùi Hàng đời Đường
đã viết rất nhiều truyện hiệp khách có màu sắc thần bí như Côn Lôn nô, Nhiếp
ẩn nương… được xã hội chào đón. Nhà nghiên cứu văn học Ngô Điều Công cho
rằng: "Truyền kì vốn là tên riêng của tập tiểu thuyết của Bùi Hàng đời Đường.
Về sau, người ta gọi chung tiểu thuyết đời Đường là truyền kì". Tiểu thuyết
truyền kì đời Đường đã đánh dấu một bước quan trọng trên con đường phát triển
của tiểu thuyết Trung Quốc. Lúc đầu, trong truyền kì vẫn còn một số ít truyện
chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái thời Lục Triều (Cổ kính kí, Bạch Viên
truyện, Du tiên quật). Dần dần hơi thở cuộc sống hiện thực đã áp đảo "không khí
ma quỉ", rồi chuyển sang với chuyện tình yêu giữa tài tử giai nhân (Liễu nghị
truyện, Lí Oa truyện, Oanh Oanh truyện). Thời kì cuối, điểm nổi bật là có nhiều
truyện nói về hào sĩ hiệp khách. Đây cũng là thời kì phồn vinh của tiểu thuyết
truyền kì, có nhiều tác giả với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong lịch sử phát triển
tiểu thuyết Trung Quốc, vì thế, giai đoạn này đánh dấu một bước chuyển biến
lớn, từ thô sơ đến tinh vi, hoàn mĩ, có vị trí nhất định trong văn học sử.
Nội dung truyện truyền kì Trung Quốc thường đề cập đến những chuyện
lạ lùng, hoang đường, kì quái, nhưng mục đích là phản ánh thế giới trần tục của
con người, quan hệ gia đình, cha con, vợ chồng, anh em, quan hệ tình ái, số phận
người tài sắc... trước những biến động của xã hội phong kiến. Trong quan niệm
của giai cấp thống trị phong kiến, thể loại này luôn mang tư tưởng "nổi loạn" qua
việc phản ánh tính hữu biến của cuộc đời, vĩnh viễn của trật tự phong kiến. Nó
thường mang tư tưởng dân chủ và nhân đạo. Lỗ Tấn – nhà văn hiện thực hàng
đầu Trung Quốc đã nhận xét: Về nội dung thì truyện truyền kì khó phân biệt với
truyện chí quái đời Lục triều, song về nghệ thuật kể chuyện thì đã mới hẳn. Lời
kể uyển chuyển, lời văn hoa mĩ. Truyện chí quái thì chủ yếu là ghi chép (chí),
xếp theo điều mục, còn truyện truyền kì thì học theo bút pháp sử truyện. Do đó,
nhan đề thường có chữ "truyện". Cái gọi là truyền kì chủ yếu là truyền cái kì
trong tình yêu nam nữ, và cái kì trong thế giới thần linh ma quỉ.
Hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển, truyện truyền kì đã để lại những
thành tựu rực rỡ trong kho tàng văn học Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến các
nước phương Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần
phải nhấn mạnh trong quá trình ảnh hưởng này đó chính là tham vọng đồng hoá
các dân tộc láng giềng của Trung Quốc. Xưng mình là "Hoa Hạ", người Trung
Hoa thời xưa đã tự khoác cho mình một sứ mệnh “khai hoá văn minh cho các
dân tộc man di", vì thế, từ thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh không
đời nào người Hoa không mở chiến dịch bành trướng các dân tộc lân cận với ý
đồ đồng hoá nền giáo dục, văn học, tư tưởng... theo “kiểu Tàu”. Tuy nhiên, với
tính cách, bản lĩnh và sự linh lợi của một dân tộc nhỏ, Hàn Quốc, Việt Nam,
Nhật Bản đã tiếp biến văn hoá Trung Hoa để làm giàu có hơn vốn văn hoá của
dân tộc mình.
Những truyện tiêu biểu và có ảnh hưởng nhất của truyền kì cổ Trung Quốc
tới truyền kì Việt Nam như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Chẩm trung kí và
Nhậm thị truyện của Thẩm Kí Tế, Oanh Oanh truyện của Nguyên Chẩn,
Trường hận ca truyện và Đông Thành lão phu truyện của Trần Hồng… Cuối
thời Đường, truyền kì bị tha hóa. Nhưng đến đời Minh Thanh, văn học Trung
Quốc lại chứng kiến một bước khởi sắc của tiểu thuyết truyền kì với một đỉnh
cao chưa từng thấy: bộ sách Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
1.1.2.2. Bảy thế kỉ truyền kì Việt Nam
Trên cơ sở của mối quan hệ giao lưu văn hoá, văn học, luôn tiếp thu tinh
hoa, văn học Việt Nam ngay từ những bước đi đầu tiên đã nhanh chóng “nhập
dòng” với quĩ đạo của văn hóa Đông Á mà Trung Quốc là nền văn hóa kiến tạo
vùng. Các tác giả văn học trung đại Việt Nam đã nhanh chóng chịu ảnh hưởng
và học tập phong cách viết truyện truyền kì của Trung Quốc. Nhưng với truyền
thống riêng và bản sắc văn hoá đậm đà vốn có của dân tộc, những tác phẩm văn
học truyền kì Việt Nam vẫn mang đậm dấu ấn của tâm hồn người Việt Nam, là
tiền đề không nhỏ cho sự phát triển rực rỡ của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau
này.
Thời Lí, Trần, Việt Nam đã có các dạng truyện u linh, chích quái, thần dị,
truyền kì, thư dị, dị lục… (Việt điện u linh tập lục, Thiền uyển tập anh, Lĩnh
Nam chích quái liệt truyện, Tam tổ thực lục, Thánh đăng ngữ lục…) những
dạng truyện kì ảo nối tiếp nhau trong tiến trình lịch sử. Tác phẩm được coi là mở
đầu cho truyện kì ảo Việt Nam là Việt điện u linh tập lục của Lí Tế Xuyên,
được ông soạn và viết lời tựa vào năm Khai Hựu thứ nhất đời Trần Huệ Tông
(1329), tập hợp nhiều sự tích có sẵn, gồm hai mươi bảy truyện được chia thành
ba phần: lịch đại đế vương, lịch đại phụ thần và hào khí anh linh. Tác phẩm thể
hiện niềm tin, niềm tự hào vào lí tưởng tốt đẹp của cha ông ta thời xưa.
Vậy mà thời kì đầu, truyền kì bị phê phán và xếp vào hàng mê tín đị đoan,
cần bài trừ. Trong 47 điều giáo hóa mà chúa Trịnh sai Phạm Công Trứ soạn vào
năm 1663, đến 1760 Nhữ Đình Toản đem diễn Nôm, có đoạn:
Kì như Thích, Đạo phi kinh
Lời tà mối lạ tập tành truyện ngoa
Cùng là truyện cũ nôm na
Hết thơ tập ấy lại ca khúc này
Tiếng dâm dễ khiến người say
Chớ cho in bán, hại nay thói thuần…
Chính quyền phong kiến Việt Nam bảo thủ và lạc hậu lúc bấy giờ đã xếp
truyền kì, truyện Nôm vào diện văn hóa phải bài trừ cùng với Thích, Đạo “dị
đoan” (những chuyện huyền hoặc vô căn cứ, khác với Nho giáo), mặc dù hai thể
loại này đang rất phát triển và tiềm năng còn rất lớn. Nhưng cuối cùng, sức cuốn
hút, hấp dẫn của hai thể loại ấy vẫn lôi kéo độc giả và tác giả. Nhất là khi đỉnh
cao Truyền kì mạn lục xuất hiện.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ ra đời vào những năm đầu thế kỉ XVI
trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Với những nội dung giàu ý nghĩa xã
hội và nghệ thuật đặc sắc, người đương thời đã tôn vinh Truyền kì mạn lục
bằng những mĩ từ xứng đáng như tập "thiên cổ kỳ bút" (Vũ Khâm Lân), "áng văn
của bậc đại gia" (Phan Huy Chú) trong kho tàng văn học trung đại nước nhà.
Áng văn ấy đã mang lại vị thế mới cho truyền kì, và góp phần vào sự phát triển
của văn xuôi dân tộc.
Từ giữa thế kỉ XV cho đến những năm đầu thế kỉ XIX là một thời kì dài
với nhiều phong ba bão táp, nhưng truyền kì vẫn đạt tới sự cực thịnh, phong phú
về nội dung, độc đáo về nghệ thuật và đặc biệt cực kì phát triển về số lượng.
Trong quá trình nghiên cứu thể loại truyền kì, PGS. TS Vũ Thanh đã tạm phân
loại truyền kì thành ba dòng truyện chủ yếu: Dòng truyện truyền kì cổ điển
(Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả - hay Tục truyền kì);
Dòng truyện kí truyền kì (Công dư tiệp kí, Lan Trì kiến văn lục, Thoái thực kí
văn…); Dòng truyện truyền kì cải biên (Thiên nam vân lục liệt truyện, Tân đính
Lĩnh Nam chích quái…). Theo đó, thì đối tượng nghiên cứu của luận văn hầu hết
thuộc dòng truyện kí truyền kì, điều này sẽ được khẳng định chắc chắn hơn trong
chương 2 của luận văn này.
1.2. Truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: Vài nét về
hoàn cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa, văn học
1.2.1. Bối cảnh chính trị xã hội, văn học
Đây là giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và bùng nổ dữ dội của những mâu
thuẫn chất chứa từ lâu trong lòng xã hội phong kiến Việt Nam, chế độ chuyên
chế bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và không có lối thoát. Nền kinh
tế suy sụp một cách toàn diện, nông nghiệp đình đốn, công thương nghiệp và
công nghiệp đều bị đình trệ, đời sống nhân dân đói kém. Về chính trị, bộ máy
chính quyền phong kiến giai đoạn này vừa chuyên chế lại vừa sâu mọt. Hậu quả
của việc nội bộ giai cấp phong kiến vốn đã mâu thuẫn gay gắt từ thế kỉ XVI, hết
chiến tranh Lê – Mạc rồi lại đến Trịnh – Nguyễn. Nhà Mạc tiếm ngôi vua Lê,
nhưng nhà Hậu Lê vẫn tồn tại song song với nhà Mạc từ năm 1533 đến 1592.
Với danh nghĩa phò Lê, chúa Trịnh đã đánh đổ nhà Mạc, nhưng trên thực tế, vua
Lê chỉ ngồi làm vì, bao nhiêu quyền lực nằm trong tay chúa. Đây là thời kì bộ
máy nhà nước vô cùng rắc rối, Đàng Ngoài thì chúa Trịnh lộng quyền, Đàng
Trong thì triều Tây Sơn bại dưới tay Nguyễn Ánh. Nhưng thực tế thì chế độ
phong kiến cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều đã rơi vào khủng hoảng trầm
trọng và sụp đổ.
Không chỉ thế, mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp thống trị cũng rõ rệt.
Trịnh – Nguyễn song song tồn tại từ năm 1558 đến năm 1789 gây ra biết bao
nghịch cảnh cho quần chúng, bao loạn li, chết chóc. Với tình hình ấy, sự bùng nổ
của phong trào khởi nghĩa nông dân là điều không thể tránh khỏi. Những cuộc
đấu tranh liên tục và quyết liệt góp phần làm tan rã sự thống nhất trong nội bộ
chính quyền phong kiến và đẩy những mâu thuẫn xã hội lên cao hơn. Đến giai
đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, phong trào nông dân khởi nghĩa mạnh
như vũ bão, tiêu biểu hơn cả là cuộc nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn trong
khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đã quét sạch thù trong giặc ngoài, thống
nhất đất nước nhưng cuối cùng thất bại. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn được
thiết lập với một thể chế nặng nề hơn trước. Sau đó, đất nước ta trong cơn khủng
hoảng đã rơi vào họa xâm lăng của thực dân Pháp.
Phát triển trong điều kiện như thế, văn học giai đoạn này mang đặc trưng
cơ bản có tính lịch sử là sự khám phá và khẳng định những giá trị chân chính của
con người. Nền văn học giai đoạn này có rất nhiều thành tựu, văn học viết bác
học, Văn học viết bình dân đều phát triển chưa từng có và trở thành giai đoạn rực
rỡ nhất trong lịch sử văn học nước nhà. Văn học viết bằng chữ Hán vẫn tiếp tục
phát triển trên nền tảng chắc chắn của những thế kỉ trước; đồng thời các tác giả
đã tìm tới thứ chữ dân tộc nhiều hơn, vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
vừa dễ dàng hơn trong việc đi sâu phản ánh những ngóc ngách tâm tư tình cảm
sâu kín nhất của con người, do đó văn học chữ Nôm phát triển mạnh. Ngoài lịch
sử, thiên nhiên cùng những vấn đề vĩ mô của đất nước, thì vấn đề con người,
cuộc sống của con người được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Cùng sự thay đổi
trong chủ đề, đề tài đó, ngôn ngữ và các thể loại văn học cũ như truyền kì, ngâm
khúc… đều có những bước tiến vượt bậc, nhiều thể loại mới, hấp dẫn người sáng
tác văn chương đã ra đời và ngày càng phát triển (trong đó nổi bật phải kể đến
truyện Nôm – một trong những thể loại đạt đến đỉnh cao của văn học Việt Nam,
hát nói và tuồng – đều có những thành tựu riêng). Các thể loại văn học này đã
tạo nên diện mạo đa sắc cho văn học Việt Nam. Mỗi thể loại đều có thể chọn ra
vài ba tác phẩm tiêu biểu của nó, và vài ba tác phẩm ấy có thể tạo thành một âm
sắc, một diện mạo đặc trưng góp phần vào diện mạo chung của văn học dân tộc.
Trong đó, thể loại truyền kì chính là một bộ mặt khác lạ nhất.
1.2.2. Thời kì nở rộ của thể loại truyền kì
Sau đỉnh cao Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, thể loại truyền
kì đã có một bước chững lại, thời gian sau đó – tức là từ giữa thế kỉ XVI đến hết
thế kỉ XVII – truyền kì vắng bóng trên văn đàn. Dường như không có nhà văn
nào đi theo con đường mà Nguyễn Dữ đã đi nữa, dường như việc sử dụng yếu tố
kì ảo như một công cụ nghệ thuật chính trong tác phẩm đã không được các tác
giả cũng như độc giả lúc bấy giờ đón nhận. Điều này dễ hiểu và có thể giải thích
được! Bởi sự chững lại sau mỗi đỉnh cao dường như là một qui luật tất yếu của
văn học, mà Truyền kì mạn lục chính là một đỉnh cao khó vượt, một cái tháp mà
mọi nhà văn trung đại chỉ biết nhìn và chiêm ngưỡng, tự lượng sức mình chỉ trèo
lên được từng tầng chứ chưa thể leo lên đỉnh tháp, huống hồ phá nó đi và xây
ngọn tháp cao hơn? Và có lẽ cũng bởi lòng tự tôn của các tác giả trung đại –
phần nhiều là nhà nho – quá lớn, nên cách ứng xử tốt nhất của họ lúc đó là “tạm
lánh” địa hạt đã có sự tồn tại của “ngôi vua”. Một lí do nữa dẫn đến sự vắng
bóng của truyền kì giai đoạn này cũng bởi quan niệm coi truyền kì là thể loại mê
tín dị đoan, cần bài trừ của người đứng đầu thể chế lúc bấy giờ (như trong phần
1.1.2.2 chúng tôi đã nêu). Nhưng chủ yếu vẫn là do phong trào thực học, hướng
đến thực tiễn. Bắt đầu từ thời kì này, các nhà nho bắt đầu lấy cuộc sống thực làm
lăng kính soi chiếu vào tác phẩm và là thước đo đánh giá giá trị của tác phẩm.
Chính vì thế, các tác giả và độc giả đã phải tránh việc sáng tác, sưu tầm, lưu giữ
và tận hưởng những câu chuyện mang màu sắc kì ảo ấy.
Như thể sự tạm vắng ấy là một bước chuẩn bị cho cú bùng nổ ở giai đoạn
sau. Bao dồn nén, bao khát khao, ấp ủ chờ dịp được bung ra và kết thành từng
chùm hoa rực rỡ trên bầu trời văn hóa nghệ thuật trung đại đang xám một màu
ảm đạm. Bước vào thế kỉ XVIII, cùng với những biến chuyển tột bậc của nền
kinh tế chính trị, kéo theo những biến chuyển bên trong cá tính mỗi con người,
văn học được mùa bộc lộ những tâm tư. Thể loại truyền kì cũng đã đạt tới sự
thăng hoa nhờ một số lượng lớn tác giả, tác phẩm mà các giai đoạn trước chưa hề
có được. Các tác phẩm xuất hiện liên tục, phong phú và đa dạng, có tập truyện
như Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Tân truyền kì lục, Sơn cư tạp
thuật…, một số truyện trong Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút… có cả
những truyện đơn lẻ như Bích Châu du tiên mạn kí, Việt Nam kì phùng sự lục,
Ngọc thân huyễn hóa và hàng chục tập “tăng bổ”, “tục bổ”, cải biên hai cuốn
sách cổ Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh. Cùng với đó là sự đăng đàn
đĩnh đạc, đầy tự tin của các tác giả - nhà nho trung đại (Vũ Phương Đề, Vũ
Trinh, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nguyễn Huy Hổ, Gia Cát thị, Phạm Quí
Thích…), và một số lượng khá lớn các tác giả khuyết danh nhưng các tác phẩm
của họ vẫn còn lưu giữ được nhiều và nguyên giá trị cho đến tận ngày nay.
Cùng với số lượng phong phú, truyền kì giai đoạn này cũng không thuần
nhất về tính chất và có thêm những đặc điểm mới so với đỉnh cao thế kỉ XV-
XVII (những đặc điểm này chúng tôi sẽ nêu và phân tích cụ thể trong chương 2,
chương tiếp theo của luận văn).
* Tiểu kết (chương 1)
Trong chương 1, chúng tôi đã đưa ra và kiểm điểm quá trình phát triển
cũng như những thuật ngữ có liên quan với truyền kì, đó có thể là những thuật
ngữ tương đương hay những thuật ngữ có yếu tố phụ thuộc và bao hàm. Theo đó,
văn học kì ảo là cách gọi chung nhất khi người ta chưa xác định được cụ thể và
chưa dám định cho thể loại một cái tên riêng chuyên biệt. Còn cái kì chỉ là một
tính chất, một đặc điểm của thể loại truyền kì, đây sẽ là cơ sở cho việc tìm hiểu
những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện của truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu
thế kỉ XIX, mà đặc điểm quan trọng nhất chính là sự chuyển đổi trong mối quan hệ kì – thực 5. Chương 1 cũng đã phân tích và đi đến kết luận về cách dùng thuật
ngữ truyền kì (chứ không dùng các thuật ngữ tương đồng khác như linh – chí –
quái, kì, dị…) để làm tên gọi chung cho các tác phẩm cùng dòng văn học kì ảo
trong giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX là hoàn toàn thích hợp.
Truyền kì Việt Nam và cả truyền kì thế giới (mà tiêu biểu nhất là thành
tựu truyền kì ở các nước phương Tây và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền kì
Trung Hoa) đã trải qua ngót một ngàn năm tồn tại và phát triển. Khoảng thời
gian chưa phải là dài trong tiến trình dân tộc, nhưng lại là quá đủ để thử thách
giá trị và sức sống của một bản thể. Trong khoảng thời gian ấy, chưa bao giờ
truyền kì Việt Nam sung mãn và tỏa sáng trí tuệ tập thể như giai đoạn thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, giai đoạn với những khủng hoảng sâu sắc và
nghiêm trọng nhất cả về thể chế chính trị lẫn nền kinh tế đất nước, ấy vậy mà
văn hóa, văn học nói chung và truyện truyền kì nói riêng lại khởi sắc với một sự
5 Xin xem cụ thể trong chương 3 của Luận văn
phong phú loại thể và những đỉnh cao hiếm có.
CHƯƠNG 2. NHỮNG XU HƯỚNG MỚI
TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH
2.1. Sự chuyển hướng trong tư tưởng
Tư tưởng là một bộ phận quan trọng của văn học. Tư tưởng trong văn học
có thể là tư tưởng tôn giáo, tư tưởng triết học, tư tưởng đạo đức, tư tưởng mĩ học,
nguồn gốc của nó có thể là từ tôn giáo, từ triết học, từ đạo đức học, từ mĩ học,
nhưng cũng có thể là đóng góp của chính bản thân văn học. Tư tưởng là quan
điểm cơ bản mà nhà văn muốn biểu đạt thông qua hình tượng của tác phẩm. Tác
phẩm có chất lượng cao hay thấp, giá trị lớn hay nhỏ, tác động mạnh hay yếu,
ảnh hưởng tốt hay xấu chủ yếu là do ở chủ đề. Các yếu tố khác như ngôn ngữ,
biện pháp… tuy đều rất quan trọng nhưng chúng chỉ phục vụ cho chủ đề và tư
tưởng chứ không phải là thước đo chủ yếu để xác định tác phẩm hay hay dở.
Tư tưởng là một hiện tượng phức tạp, cho nên khi nghiên cứu tư tưởng
trong văn học, chúng ta luôn phải chú ý đến tình trạng mâu thuẫn của nó. Tình
trạng này đặc biệt dễ xảy ra đối với các nhà văn ở những giai đoạn lịch sử xã hội
có nhiều biến động như giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX này.
Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng, các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ hai yếu
tố cần đặc biệt quan tâm, đó là “lí thuyết màu xám” và “cây đời xanh tươi” [thầy
dân, 170], ở đây có thể hiểu, chính là lí thuyết của đạo Nho và tâm trạng của tác
giả (hoài Lê, tư tưởng giải thoát của Lão Trang).
2.1.1. Trung thành với lí tưởng Nho gia
Tư tưởng từ bi bác ái của đạo Phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho
rất gắn với truyền thống yêu nước thương nòi của nhân dân Việt Nam. Đạo Phật
(trong phần tích cực của nó) đã làm giàu thêm tình thương giữa con người với
nhau và có lúc còn đưa đến những tư thế nhân sinh khỏe khoắn, lành mạnh. Đối
với học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho thì người Việt đã vừa tiếp thu, vừa cải
biến theo hướng dân tộc hóa, nhân dân hóa, ứng với mỗi thời kì biến thiên khác
nhau của lịch sử dân tộc thì Nho giáo lại có một sự thịnh suy riêng.
Sự kiện Lê trung hưng (chỉ giai đoạn nhà Lê tiếp tục lên ngôi chống nhau
với nhà Mạc, bắt đầu từ Lê Trang Tông, ở ngôi 1533 – 1548) cắm một mốc quan
trọng trong lịch sử tư tưởng Nho giáo, dẫn đến sự thay đổi to lớn của nội dung
quan niệm văn học và từ đây đã dẫn đến sự thay đổi căn bản trong nội dung và
hệ thống văn học các thế kỉ tiếp theo.
Cuối thế kỉ XVI – đầu thế kỉ XVII, triều Lê được khôi phục, kỉ cương Nho
giáo được vãn hồi. Kể từ đây, tư tưởng Nho giáo lại đè nặng lên đầu óc người
cầm bút, tâm lí sùng cổ lại trở thành cái xiềng xích. Các tác gia lịch sử một lần
nữa lại phải quay về con đường phục cổ, chiêm bái Việt điện u linh tập và Lĩnh
Nam chích quái lục. Dấu ấn hưng thịnh của đạo Phật thời nhà Trần chỉ còn le
lói trong Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, với tư tưởng “món nợ oan gia và
cái thuyết báo ứng của nhà Phật không phải là hư truyền” (Nhận ra mẹ đẻ).
Kiếp sau của sư bật sô là vua Minh sứ Bắc quốc, một vị quan Nam triều không
làm theo lời dặn của vua Minh mà “huyền cơ báo ứng họa phúc của nhà Phật sẽ
thấy ngay ở bản thân khanh và con cháu của khanh nữa”, để lại mối hận cho
những đời sau. Sư chăn trâu Linh Thông do Phật đầu thai xuống trần giúp dân,
khi về trời rồi vẫn giúp nhân dân chống nạn giặc Ngô. Ta bắt gặp những thuật
ngữ nhà Phật trong hai truyện này: “bật sô” (một loài cỏ thơm ở núi Tuyết Sơn,
Kinh Phật dùng hai chữ này để gọi người xuất gia), “Nước tám đức” (theo quan
niệm nhà Phật, nước ở trong ao cõi Cực Lạc và ở vùng biển núi Tu Di, Thất Kim
Sơn có tám đức: trong sạch, mát mẻ, ngon ngọt, mềm mại, mượt mà, điều hòa,
trừ được đói khát, phá bỏ được các căn chướng), “nghiệp chướng”… Dấu tích
của đạo Phật hoàn toàn lu mờ và biến mất trong tất cả các tập truyện truyền kì
khác. Ta chỉ thấy xuất hiện thật đậm nét tư tưởng Nho gia, lí tưởng cửa Khổng
sân Trình hoàn toàn phù hợp và được tôn vinh trong thời đại này.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức. Nền thịnh trị của thời
Nghiêu – Thuấn được các nhà nho Việt Nam xem như một mô hình xã hội lí
tưởng. Để xây dựng xã hội lí tưởng đó, cần có một bộ máy cai trị với những ông
vua, vị quan sáng suốt, yêu thương dân, có trách nhiệm đối với dân. Đạo Nho
được hình dung rất đúng là đạo nội thánh ngoại vương, tu kỉ trị nhân (tu thân
theo mẫu thánh nhân để cai trị thiên hạ). Thánh nhân quân tử là mẫu hình nhân
vật lí tưởng của Nho gia, bao gồm từ các bậc vua chúa, thánh nhân, anh hùng,
đến cả Nho gia, Thiền sư, và những nhân vật nổi danh, tài đức lỗi lạc hoặc có nét
phi phàm xuất chúng. Cụ thể là các nhân vật lịch sử thuộc các loại “thế gia”,
“danh thần”, “danh nho”, “tiết nghĩa”… (những bậc tôi trung, con hiếu, kẻ sĩ
nghĩa hiệp, đàn bà trinh liệt…), kể cả các truyện “thần quái”, “âm phần dương
trạch” cũng xa gần gắn với loại truyện thánh nhân quân tử.
Qua việc khảo sát cụ thể hai mươi hai truyện trong Công dư tiệp kí của
Vũ Phương Đề, chúng ta có thể thấy tập truyện này phản ánh rất rõ phạm vi nhân
vật được nhà nho quan tâm.
Bảng phân loại loại nhân vật trong Công dư tiệp kí
- Kiếp sau của sư Bật Sô
- Thượng thư Lương Hữu Khánh
- Tìm đất đền ơn - Thủ khoa mặt
- Ác báo - Bố già lặn
- Giao long ngủ nhờ
- Sư chăn trâu linh thông
- Nhận ra mẹ đẻ - Tiến sĩ ăn khỏe
đẹp - Dóng ngựa thi
xuống vực tìm con gái
- Ông Hổ - Chuột đậy
- Nguyễn Giám sinh là vua đất Bắc
- Thám hoa được giáng xuống Phù
thơ - Họ Trương cao
mặt, biết điềm lành dữ
- Chôn xương bụng ngựa
Khê - Thần miếu Kim
cờ
- Dùng nhan sắc, nhà
Tung
Thế gia Danh thần Danh nho Tiết nghĩa Thần quái
Trần lấy thiên hạ
- hoa Thám Nguyễn Đăng Cảo
5 truyện
6 truyện
4 truyện
2 truyện
3 truyện
(22,73%)
(27,27%)
(18,19%)
(9,09%)
(13,64%)
Trong 22 truyện của Công dư tiệp kí, chỉ còn Nghề mọn nên quan và Kẻ
trộm lừa thần thánh là không có yếu tố chủ đạo về những bậc thánh nhân quân
tử, nhưng Nghề mọn nên quan cũng là truyện thuộc kiểu “âm phần dương
trạch”, từ đó có thể thấy được mối quan tâm và loại nhân vật hàng đầu trong tác
phẩm của các tác giả truyền kì giai đoạn này, nó thể hiện phần nào tư tưởng của
người theo đức Khổng.
Gắn với những nhân vật thuộc loại thánh nhân quân tử ấy cũng sẽ phải là
những không gian rộng lớn, vĩ mô, mang tầm vóc vũ trụ. Thông thường, các
nhân vật sẽ hoạt động trên phạm vi không gian một vùng, một quốc gia hoặc liên
quốc gia. Quan Quận công họ Điền trong Thần miếu Kim Tung – Công dư tiệp
kí vâng mệnh triều đình đi đắp chỗ đê vỡ, đánh nhau với thủy thần, ấy là ông đã
thực hiện nhiệm vụ đánh dẹp cuộc nổi loạn trong vùng. Còn rất nhiều những
viên quan, những danh thần khác thì đều làm công việc của một quan lại bình
thường phải làm, nghĩa là trấn thủ một vùng nào đó, đóng vai trò cha mẹ của dân
ở vùng đó, đảm nhận công việc triều chính liên quan đến quốc kế dân sinh, là
cầu nối giữa triều đình và người dân cùng đinh, ấy là họ đã đại diện cho quốc
gia. Một dạng thức không gian đặc biệt nhất, thể hiện được nhiều nhất phẩm chất
của một bậc chính nhân, đó chính là không gian liên quốc gia (đi sứ các nước),
như ông Tiến sĩ ăn khỏe – Công dư tiệp kí đi sứ đất Bắc. Rất hiếm gặp loại
không gian vi mô như con đường, mảnh vườn, bến đò, mái nhà vốn gắn liền với
cuộc sống riêng tư nhiều hơn là hoạt động chính trị xã hội. Như thế, cái nhìn
không gian cũng mang đậm nét quan niệm Nho gia về “thiên hạ”, về “tam tài”
thiên – địa – nhân, những danh thần, danh nho, tiết phụ… phải là những con
người của trời đất, thiên hạ cũng phải được cai quản bởi những đấng bậc kì tài
này.
Những hoạt động xã hội truyền thống của nhân vật theo lí tưởng Nho gia
từ xưa đến nay là thi cử, đỗ đạt, làm quan. Theo khảo sát của chúng tôi, ngoài
sáu truyện nói về việc thi cử, thì những truyện nói về việc làm quan chiếm số
lượng rất nhiều, ví dụ như: Thượng thư Lương Hữu Khánh, Thám hoa được
giáng xuống Phù Khê, Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo… (trong Công dư tiệp
kí); Quan Thượng họ Đỗ, Chuyện quan Quận ở Liên Hồ… (trong Lan Trì
kiến văn lục); Ông Nguyễn Duy Thì, Ông Nguyễn Văn Giai, Tướng quân
Đoàn Thượng… (trong Tang thương ngẫu lục)… Số liệu thống kê số khoa thi,
số tiến sĩ của từng triều đại Việt Nam từ năm 1075 đến năm 1919 tuy có khác
nhau theo từng tài liệu chúng tôi tìm được [35, 15 và 30, 22], nhưng có một điều
thống nhất chung, đó là số khoa thi và số tiến sĩ của triều Lê luôn nhiều nhất so với các triều Lí, Trần, Hồ, Mạc, Nguyễn 6. Điều đó không chỉ thể hiện chính
sách chiêu hiền đãi sĩ, trọng dụng quan tước của nhà Lê mà còn phần nào thể
hiện và lí giải được được sự phát triển của lí tưởng trung quân và khát vọng thi
đỗ, làm quan trong triều Lê của giới nho sĩ.
Theo quan niệm Nho gia, một trong những dấu hiệu bộc lộ tài năng thiên
phú, khiến cho nhân vật ấy khác thường là tài thơ văn, tài năng văn chương
dường như đi liền với nhân cách “Văn chương nết đất, thông minh tính trời”.
Hơn nữa, qua thơ văn xưa có thể đánh giá được phẩm chất, năng lực hoạt động
chính trị - xã hội của nhân vật. Do vậy có rất nhiều truyện nhắc đến tài năng này,
như sáng tác thơ văn, xuất khẩu thành thơ, ứng đối nhanh nhẹn… của các nhân
vật. Chàng họ Đào trong Con chó nhà nghèo có nghĩa (Tân truyền kì lục –
Phạm Quí Thích) được miêu tả “Đặc biệt có tài văn thơ, qua những nơi danh
lam, cổ miếu, quán tránh rét, đài hóng mát, chỗ nào có thể ngâm vịnh được, 6 Xin xem một vài số liệu thống kê cụ thể trong Phụ lục 1
chàng đều có phẩm đề. Lời văn tinh luyện, ngụ ý sâu xa, người bấy giờ khen là
bậc chủ soái trong làng thơ văn”. Thơ văn không chỉ là công cụ để thể hiện khát
vọng, hoài bão chính trị, chí khí của nhân vật mà còn là phương tiện giúp cho
nhân vật đỗ đạt, tham gia vào việc triều chính. Vũ Phương Đề còn dành toàn bộ
một truyện để miêu tả về cuộc thi thơ giữa hai vị quan tương lai của triều đình
(Dóng ngựa thi thơ). Qua thơ có thể biết được tài năng của kẻ sĩ, cũng như chí
hướng và bản lĩnh của họ.
Nguyễn Khắc Viện khi Bàn về đạo Nho đã chỉ ra con đường trở thành “kẻ
sĩ hiện đại” của các nhà nho. Quan điểm của ông làm ngời lên một con người
đạo lí với nhiều nét mới, khác với những nhà nho lạc hậu của thời đại trước
[nkv-bvdn]. Có hai loại Nho giáo: Nho giáo của các tri thức nho sĩ thời kì lãng
mạn với niềm tin không tưởng vào vai trò xây dựng thế giới của nó và có Nho
giáo của thời kì tỉnh mộng, thất vọng đối với vai trò của nó. Trong thế kỉ XVIII,
sự khủng hoảng trên qui mô toàn quốc – cả ở Bắc Hà – của chế độ phong kiến đã
cho chúng ta thấy trạng huống thê thảm của Nho giáo với tư cách là hệ ý thức
chính thống của chủ nghĩa phong kiến. Đọc lại Hoàng Lê nhất thống chí ta sẽ
thấy tương đối rõ ràng mọi sự. Khủng hoảng xã hội, nông dân khởi nghĩa liên
miên và ở khắp các phía. Đó là tiền đề cho sự xuất hiện một hiện tượng Hồ Xuân
Hương trong thi ca, một Truyện Kiều của Nguyễn Du – tập đại thành của văn
chương cổ điển nước ta thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, song cũng lại phản ánh
trong nó sự rạn nứt của những quy phạm, chuẩn mực (nôm), văn học Nho giáo
để bước đầu tiếp cận với sự sáng tạo hiện thực chủ nghĩa. Nhưng, sang thế kỉ
XIX, với sự độc tôn Nho giáo, cũng là độc tôn vai trò hoàng đế thì trong văn
chương, thi ca, văn hóa cũng chứng kiến một cảnh tượng quay lại Nho giáo như
vậy. Nho giáo trong thời kì đầu thế kỉ XIX đã góp phần củng cố ách thống trị của
vương triều Nguyễn, đóng vai trò “gông cùm” chính trị, tư tưởng cho triều đình,
ngăn chặn sự chống đối của Nhân dân.
Nhưng dù ở thời đại nào, thì một trong những biểu hiện lí tưởng nhất của
Nho gia chính là tấm lòng trung quân của kẻ sĩ. Tấm lòng ấy không chỉ hiện diện
trong lúc hưng thịnh của vương triều, mà khi vương triều thất thế, vẫn để lại
trong lòng những cựu thần bao nỗi luyến lưu, bao day dứt vì nỗi lòng hoài Lê.
2.1.2. Day dứt vì cõi lòng hoài Lê
Thời kì này, bên cạnh những giáo lí quen thuộc của đạo Nho, thì ta còn
thấy rất rõ tư tưởng hoài Lê. Tất nhiên, đặc điểm này do hoàn cảnh lịch sử quy
định, khi mà triều đại nhà Lê đã đi vào dĩ vãng, để lại niềm tiếc thương, hoài
niệm cho bao tâm hồn nhạy cảm.
Khi viết truyện về quá khứ, người cầm bút có thuận lợi đáng kể, ví như:
các sự kiện lịch sử đã ở vào thế ổn định, trắng – đen, phải – trái rõ ràng; các nhân
vật lịch sử về cơ bản đã được hoặc thừa nhận hoặc phê phán, hoặc đã chết, do
vậy người cầm bút không phải chịu quá nhiều sức ép từ phía dư luận. Nhưng
phản ánh trực tiếp hiện thực đương thời, viết về những sự kiện đang vận động thì
khác. Bởi vì khi đó, lịch sử đang diễn tiến, các xu thế xã hội đang đan xen nhau,
cái nhất thời và cái bản chất dễ lẫn lộn. Người cầm bút không chỉ là nhân chứng
lịch sử, mà còn vừa là tác giả, vừa là nhân vật ngay chính trong tác phẩm của
mình. Cái thiên kiến cá nhân rất dễ chi phối quan điểm của tác giả, nếu như nhãn
quanh lịch sử tinh nhạy và dự cảm không đủ mạnh để nhìn ra chân lí và xu thế
tất yếu, kết cục của xã hội.
Vũ Phương Đề biên soạn và đề tựa sách Công dư tiệp kí vào năm Cảnh
Hưng thứ mười sáu đời vua Lê Hiển Tông (1755), vì thế ông có cái ưu thế của
người phản ánh trực tiếp hiện thực, đặc biệt là ngợi ca chế độ chính trị đương
thời. Truyện của ông hầu hết viết về các nhân vật lịch sử thời đó. Dùng nhan
sắc, nhà Trần lấy thiên hạ cuối cùng lại là sự suy vong của nhà Trần: “Có lẽ
nhà Trần trị vì được bấy nhiêu năm cũng là do ở mệnh trời, chứ sức người làm
thế nào được”, cũng gián tiếp thể hiện sự ủng hộ của mệnh trời đối với nhà Lê –
triều đại vua sáng tôi hiền sau thời hưng thịnh của nhà Trần. Nguyễn Giám sinh
làm vua đất Bắc thì lại là một lời ca ngợi vị vua Lê đương thời, đúng chân mệnh
thiên tử, khiến cho Nguyễn Giám sinh vốn được Thượng đế sai xuống trần gian
làm đế vương đã phải bỏ đi vì: “vị nhân chủ hiện nay phúc trạch đang thịnh, một
nước không nên có hai vua, nên tôi lại phải trở về Thiên đình để giáng sinh
xuống nước khác”. Dóng ngựa thi thơ có nói về chi tiết “họ Mạc mất, triều ta
trung hưng”, thể hiện rất rõ cái tự tôn, tự hào của triều thần nhà Lê, khi nhà Lê
tiếp tục lên ngôi chống nhau với nhà Mạc (bắt đầu từ Lê Trang Tông, ở ngôi
1533 – 1548).
Đến Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh, cõi lòng Hoài Lê đã bắt đầu bộc
lộ rất rõ. Điều này cũng dễ hiểu, bởi ông xuất thân từ một gia đình có nền nếp thi
thư. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, ông nội Vũ Trinh đỗ tiến sĩ đời Lê,
làm quan đến Thượng thư bộ Binh; cha ông cũng đỗ Hương tiến, làm đến chức
Tham nghị. Bản thân Vũ Trinh mười bảy tuổi đã đỗ Hương tiến, được tập ấm
chức Tri phủ Quốc Oai trên dưới mười năm khi tuổi còn rất trẻ (Giấc mộng lạ kể
một khoa thi “thời bản triều ta” với đề bài là “Thiên hạ đại đồng” (khắp thiên hạ
đều thái bình thịnh trị như nhau)). Sách xưa chép Vũ Trinh đã có công can vua
Lê Chiêu Thống giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Bắc Hà tạm tránh được sự tổn thất của
một cuộc thanh toán nội bộ lớn; lại có lần cùng cha đón vua Lê về nhà, phò vua
chạy nạn, dốc hết gia sản để lo việc quân; rồi một mình đem rượu thịt khao quân
Tôn Sĩ Nghị, trả lời trôi chảy mọi việc. Từ đó có thể thấy Vũ Trinh không chỉ là
người có bản lĩnh và tài tổ chức, đáng quí trọng hơn nữa là sự hết lòng với nhà
Lê, vì thế sau này đã được Chiêu Thống tín nhiệm, giao cho giữ chức Tham tri
chính sự. Vũ Trinh là người theo Nho học, đạo lí trung quân được ông thấm
nhuần từ nhỏ, gia đình ông lại chịu ơn sâu nặng của vua Lê nên giữ tình cảm
chung thủy với nhà Lê. Dù xảy ra mọi biến cố, Chiêu Thống trong quan niệm
của ông vẫn là vị vua “chính mệnh”. Nguyện vọng của ông vẫn là bảo vệ nhà Lê,
tên hiệu Duy Chu (giữ gìn nhà Chu) của ông biểu hiện tư tưởng đó. Khi nhà Tây
Sơn lên nắm quyền, ông lẩn trốn về vùng thôn dã, giữ ý nguyện “trung thần bất
sự nhị quân”, không chịu ra làm đình thần của vương triều mới (Bà phu nhân
Lan Quận công nói về một người học trò tài giỏi nhưng mệnh trời không cho
làm quan nhà Mạc, mãi đến đời Lê Trung hưng mới đỗ, đem tài ra giúp nước
giúp dân). Trong Lan Trì kiến văn lục còn có truyện Gấu, hổ chọi nhau dường
như bao hàm ngụ ý nhà Lê và nhà Mạc phân tranh, để rồi cuối cùng nhà Nguyễn
lại đắc lợi.
Bên cạnh những bài ca hùng tráng, mạnh mẽ, biểu hiện khát khao cống
hiến của các nho sĩ thì cũng có những giọng điệu u hoài, buồn bã, thực ra cũng
không thể xem nó là mặt yếu đuối trong tâm hồn tác giả, phản ánh những khía
cạnh tiêu cực, ủy mị. Trong tiếng hát ai oán này thực sự dồn nén lại những đau
khổ mất mát của con người. Trong tiếng hát sâu xa ấy cũng gợi nên bao luyến
tiếc, mong ước về quyền sống tự do, về vương triều cũ. Nội dung ấy có tác dụng
gợi nhớ và kích thích tình cảm dân tộc và những tình cảm nhân ái của con người.
Dĩ nhiên, chất u buồn ở đây không có gì là giống với sự ủy mị, chán chường như
trong các bài thơ của Chế Lan Viên nhớ một nước non Chàm đã mất… Điều này
thể hiện tính chất dân chủ, có quyền biểu đạt những tình cảm riêng tư trong sáng
tác thời trung đại.
Trong Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án) có truyện
Ông Nguyễn Văn Giai, trung thần nhà Lê mà về sau vì miếng ăn không giữ
được mình, nói rõ lên sự thành bại của triều thần gắn với sự hưng thịnh của
vương triều. Truyện Thánh Tông Hoàng đế (Trong Tổng tập tiểu thuyết chữ
Hán Việt Nam còn có thêm các truyện về Hiển Tông Hoàng đế, Thần Tông
Hoàng đế) lại là lời hoài cổ ca ngợi vị vua thứ năm nhà Lê, người đã minh oan
cho Nguyễn Trãi, và được coi là bậc vua sáng triều Lê.
Tính hoài Lê đậm đặc và cũng rõ nét nhất trong Tân truyền kì lục của
Phạm Quý Thích, có lẽ được viết sau khi nhà Lê đã mất. Sách đầy đủ gồm một
bài tựa và ba truyện, nặng tính chất ngụ ngôn, nói về những con vật có tính nết
khác lạ, ngụ ý tâm sự hoài Lê. Con chó nhà nghèo có nghĩa là truyện tiêu biểu
nhất, mượn ngụ ngôn để biểu đạt lí tưởng chính trị theo tư tưởng Nho gia của tác
giả: “Mũ Chu, bệ Tống chắp nối cương thường, khoa Hán bảng Đường vẫn hằng
nuôi chí. Lại vui đạo thánh hiền, chăm đọc Thi, Thư, đâu có rỗi đi cày; nối lời
thầy Mạnh, dốc lòng nghĩa nhân, hà tất bàn chuyện lợi… Lấy trung để thờ vua,
dùng tín để đãi bạn; hiếu thảo với cha mẹ, hòa mục với tông tộc”. Đoạn văn
miêu tả lại lời con chó đối đáp với phú ông thật khiến cho người ta kinh ngạc,
không chỉ vì cảm sự trung thành của loài vật mà còn khâm phục sự học uyên bác
của nhà Nho: “Vật tuy khác người nhưng cũng có thiên chân, năm tính có sẵn,
bốn mối đều đủ. Vì vậy, voi của Minh Hoàng không chịu lạy Lộc Sơn, vượn của
Đức Tông nổi giận đánh Chu Tỉ, ngựa Xích Thố của Vân Trường đâu cam chịu
ràng buộc ở Kiến Nghiệp, Ô Truy của Tây Sở không thích chăn nuôi ở Giang
Đông”.
Không những vẻ hưng thịnh bị sút kém đi, mà thậm chí Nhà Lê đã không
còn đủ sức tồn tại nữa, những nguyên thần cũ trong lòng không khỏi nuối tiếc.
Tâm tình ái quốc ưu dân thể hiện trong văn học ngày một nặng nề thống thiết.
Nhưng họ phải tìm được lối thoát cho nỗi lòng đang bị đè nặng ấy. Các nhà thơ
Mới sau này khi chán thế sự đã lánh mình vào cõi mơ hoặc trốn trong những
“tinh cầu giá lạnh”, còn các văn sĩ thời trung đại, họ vô tình đã dựa dẫm vào tư
tưởng giải thoát trong giấc mộng của Lão Trang.
2.1.3. Dựa dẫm vào tư tưởng Lão Trang
Đồng thời với sự xuất hiện đậm nét của lí tưởng Nho gia và tâm trạng hoài
Lê là tư tưởng giải thoát của Lão Trang và các môtip thể hiện thầm kín ước vọng
giải thoát cũng xuất hiện rất nhiều, kiến giải cho những băn khoăn day dứt,
những dằn vặt của giới văn sĩ trước những biến động trùng trùng của đất nước.
Tích xưa Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, hớn hở như bướm vậy, tự
thấy thích quá đến nỗi không còn biết Chu là ai nữa, khi tỉnh dậy chỉ thấy có
Chu. Không biết Chu chiêm bao hóa bướm hay bướm hóa Chu nữa? Nhưng
mộng hay không mộng, người biến thành hoa bướm hay hoa bướm hóa hình
người, điều ấy tùy vào suy nghĩ của mỗi cá nhân. Như thế, cũng có nghĩa rằng,
việc thành hay không thành của một đời người có quan trọng lắm không là tùy
vào quan niệm mỗi người, mỗi kiểu giác ngộ khác nhau.
Sắc màu hư ảo do môtip “giấc mơ” tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người
đọc đi vào những chuyện tình lãng mạn, đồng thời cũng luôn gửi gắm một triết lí
nhân sinh.
Văn học Trung Hoa đồ sộ vốn ngập tràn điển cố về giấc mộng Nam Kha
(giấc hòa, chỉ công danh phú quí là hư ảo, đời người ngắn ngủi như giấc mộng),
giấc mơ hồ điệp (Trang Chu mơ thấy mình hóa bướm), giấc mộng hoàng lương
(tức giấc mộng chưa chín nồi kê vàng, chỉ việc tốt đẹp trôi qua nhanh như giấc
ngủ mê), giấc mai (mộng được uống rượu với người đẹp), giấc mộng Cao
Đường (hay đỉnh Giáp, non Thần, Vu Sơn, Vu Giáp… đều để chỉ giấc mộng
thấy thần nữ, tiên nữ hoặc chỉ cuộc mây mưa của trai gái)… Thậm chí, kể những
câu chuyện diễn ra trong mộng cũng là thủ pháp thường dùng của nhà viết kịch
nổi tiếng đời Minh là Thang Hiển Tổ (1550-1616). Ông có bốn vở kịch nổi tiếng:
Mẫu đơn đình (còn gọi là Hoàn hồn kí), Hàm đan kí, Nam kha kí, Tử thoa kí
(gọi chung là Lâm Xuyên tứ mộng) đều bắt đầu viết từ giấc mộng, trong đó
Mẫu đơn đình với những tình tiết li kì về cô gái Đỗ Lệ Nương vì theo đuổi tình
yêu và hạnh phúc với anh học trò Liễu Mộng Mai mà chết đi sống lại được
người đời yêu thích nhất, chính bản thân tác giả cũng tự nói: “Một đời có bốn
giấc mộng, đắc ý nhất là giấc mộng Mẫu đơn”. Tác giả đem câu chuyện chết rồi
sống lại, một chuyện không thể xảy ra trên thực tế thông qua trí tưởng tượng
lãng mạn bay bổng, lại được thực hiện trong giấc mộng và trong cõi u minh siêu
thực, gây nên một hiệu quả nghệ thuật đặc biệt [15, 103].
Lịch sử văn học Việt Nam cũng đã có khá nhiều tác phẩm ghi chép từ các
giấc mộng, như Hoa quốc kì duyên (Duyên lạ nước Hoa: Chu sinh nhà nghèo,
nằm mộng thấy mình lạc vào nước Hoa, và kết duyên cùng công chúa); hay một
số truyện trong Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ) trong hai mươi truyện thì có ba
truyện nhân vật chính nằm mơ và giấc mơ là nguyên cớ chủ yếu tạo ra câu chuyện 7. Rồi sau này. Gần gũi nhất có lẽ phải kể đến tác giả thuộc cùng thời kì
này, Nguyễn Huy Hổ chỉ với một thiên Mai Đình mộng kí và một Bích Châu du
tiên mạn kí mà các nhà nghiên cứu còn đang “ngờ là của Nguyễn Huy Hổ”. đã
vận dụng các ý tưởng về giấc mơ và “tìm đến tư tưởng Lão – Trang như một
biện pháp tinh thần hữu hiệu”, làm nơi ẩn lánh và giải tỏa những băn khoăn thời
cuộc của mình.
Trong truyền kì giai đoạn này, rất nhiều chuyện được kể lại sau khi tác giả
hoặc nhân vật tỉnh giấc mơ (theo thống kê của chúng tôi là 15 lần/86 truyện).
Trong mỗi giấc mơ, có người được gặp người thân đã chết của mình, có người
được gặp thánh thần trò chuyện, có người được cảnh báo về tương lai… Nói
chung, mộng mơ là cái cớ rất thích hợp để người ta tha hồ hư cấu, tưởng tượng
và truyền đạt suy nghĩ của mình: “Giấc mơ là biểu tượng của cuộc phiêu lưu cá
thể, được cất sâu trong tâm khảm, đến nỗi nó vượt ra khỏi vòng cương tỏa của
người sáng tạo ra nó. Giấc mơ hiện ra với chúng ta như là biểu hiện bí mật và
trơ trẽn nhất của chính chúng ta” [8, 164-170]. Người nguyên thủy rất khó xử
với các giấc mơ, những hiện tượng kì quái ngày thường nhìn không thấy, thậm
chí không thể tưởng tượng ra, nhưng khi nằm mơ thì lại nhìn thấy; rõ ràng là
7 Đó là các truyện Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa.
người đã chết nhưng khi nằm mơ lại thấy họ hiện về. Người nguyên thủy cho
rằng đó là do các linh hồn sống nhờ vào cơ thể đang hoạt động. Họ không biết
giải thích hiện tượng giấc mơ một cách khoa học, lại càng không thể giải thích
các hiện tượng tự nhiên. Họ quen dùng quan điểm thần linh để giải thích tất cả,
cho rằng non nước, cỏ cây, mặt trăng, mặt trời, gió mưa, sấm chớp đều có linh
hồn, toàn thế giới đều có linh hồn [15, 317].
Bên cạnh quan niệm chính thống (Nho giáo), các nhà văn thời kì này tìm
đến những bình diện nghệ thuật mới giàu cảm xúc hơn, đề cao chữ “tình” hơn
chữ “chí”. Có hiện tượng nhiều nhà thơ thế kỉ XVIII – XIX tâm đắc với câu nói
của Vương Nhung đời Tấn chép trong sách Thể thuyết tân ngữ: “Thanh nhân
vong tình, tối hạ bất cập tình, tình chi sở chung chính tại ngã bối” (Bậc thánh
quên tình, kẻ hạ ngu không đạt đến tình, nơi chung đúc của tình chính là bọn
chúng ta). Theo PGS.TS. Trần Nho Thìn, đời Tấn cũng là thời kì xuất hiện chủ
trương thi duyên tình nổi tiếng của Lục Cơ, chủ trương thoát ra khỏi quan niệm
thi ngôn chí của Nho gia [47, 76]. Nhưng chủ trương đề cao “tình” còn có một ý
nghĩa văn học sử khác. “Thánh nhân vong tình”, theo Phùng Hữu Lan, là câu nói
diễn đạt tư tưởng của Trang Tử. Bậc thánh nhân do nhận thức được “lí” (tức quy
luật tất yếu) nên không để cho tình cảm ủy mị chi phối. Cái gì xảy ra mà có tính
quy luật là không thể tránh khỏi (ví dụ như cái chết) thì không nên đau buồn, dằn
vặt, bởi vì thực ra có khi đó lại là một sự giải thoát.
Ngoài môtip giấc mơ xuất hiện nhiều nhất (15 lần/86 truyện), sự giải thoát còn được thể hiện qua rất nhiều môtip dân gian khác 8. Với quan niệm tạo thêm
cái kì cho nhân vật ngay từ khi chưa ra đời, các tác giả đã xây dựng những môtip
Thụ thai kì lạ, trong đó phần lớn những bà mẹ có mang trong những hoàn cảnh
thật đặc biệt, ví dụ như: “Mẹ ông nằm mơ thấy Phật giáng hạ, bèn thụ thai rồi
sinh ra ông” – Sư chăn trâu linh thông; hay truyền thuyết về người cha rái cá 8 Xin xem bảng thống kê sự xuất hiện của các môtip trong phần Phụ lục 2
của Đinh Bộ Lĩnh: “Một hôm bà đang tắm, bỗng một con rái cá lớn nhoài đến
ôm lấy bà rồi hãm hiếp. Bà trở về liền thụ thai, đến ngày tháng sinh ra chàng” –
Chôn xương bụng ngựa… Các nhân vật truyền kì nhiều khi cũng do thần tiên
trên trời đầu thai, giáng hạ, giải thoát kiếp nạn này bằng cách đầu thai vào kiếp
khác, nên ngày “mãn nguyệt khai hoa” của các bà mẹ cũng kì lạ. Môtip sự ra đời
kì lạ đánh dấu sự xuất hiện của nhân vật truyền kì: Cái đêm phu nhân Thái Công
sinh hạ con gái “có hương lạ thơm nức ở trong nhà, điềm lành soi vào cửa sổ”
bởi đó chính là Đệ nhị Tiên chủ Quỳnh Nương giáng sinh – Truyện nữ thần ở
Vân Cát; hay họ Nguyễn được Thượng đế phái xuống trần để làm đế vương cai
trị thiên hạ: “Lúc mới sinh ra có ánh sáng đỏ đầy nhà. Người nhà ngỡ là cháy,
đến khi định thần nhìn kĩ, thì chẳng thấy gì nữa” – Nguyễn Giám sinh làm vua
đất Bắc; trong loại môtip này cũng có trường hợp đặc biệt: “Nghe dưới mộ có
tiếng trẻ khóc mới đào lên thì thấy một đứa bé trai, rốn còn chưa rụng, nằm sấp
trên bụng mẹ, quằn quại khóc” – Sinh đẻ kì lạ…). Sự giải thoát còn thể hiện khá
rõ ràng trong những cái chết kì lạ (hóa đá, hóa cây, thành thần…) của các nhân
vật chính: Ba nhân vật nữ chính trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm
đều có cái chết anh hùng, họ đều hóa thành thần thánh linh thiêng, cứu giúp dân
lành và diệt trừ những người có tội; đây là biểu tượng cho những sự giải thoát
cao cả và hữu ích nhất: “Chùa dựng xong, ông làm một cái khám gỗ rồi ngồi vào
trong… Các tăng ni tuân theo lời dặn, đợi đến ngoài trăm ngày mới dám mở ra
xem, thì chẳng thấy gì cả, chỉ thấy mùi thơm ngào ngạt, bay khắp xa gần” – Sư
chăn trâu linh thông; “Dù trôi nổi mấy nghìn dặm, nhan sắc vẫn như người
sống, dù trong sóng to dập dồi, mấy người vẫn không rời nhau ra” – Thần cửa
Cần Hải… Trong hệ thống các môtip thì môtip diệt yêu quái cũng được nhiều
tác giả truyền kì quan tâm: “Lặn suốt một hơi thì hết nước lên cạn, thấy một cái
hang hình thế rộng rãi, bên trong có vô số giao long. Con nào cũng thoát ra khỏi
vỏ mà nằm, hệt như người đang ngủ. Ông vung gươm giết sạch” – Bố già lặn
xuống vực tìm con gái; “Chừng nửa đêm nghe lòng sông sôi sùng sục… Mờ
sáng hôm sau, ba con giải đều chết, con trước con sau kế tiếp nhau nổi trên mặt
sông” – Con giải…).
Sử dụng các môtip dân gian là một cách đi trên con đường sáng tạo của
truyền kì truyền thống, cách thức này cũng được các tác giả kì ảo hiện đại lưu
tâm và tiếp nối: “Phần lớn những cốt truyện đều xuất phát từ những truyền
thuyết và truyện kể dân gian, trong đó yếu tố thần kì là một đặc trưng quan
trọng… Thần hổ và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya là những câu chuyện
khá li kì, hấp dẫn, có nguồn gốc từ các truyện ma hổ, ma rắn, ma xó, ma cụt đầu,
kết hợp với những truyền thuyết về Quan ôn bắt lính, chuột tha lá phủ mặt;
Ngậm ngải tìm trầm xuất phát từ Cây ngải trăm ngày (Bách nhật ngải); Vàng
và máu, Một đêm trăng, Con châu chấu tre, Ma xuống thang gác thu gom
trong chúng những chuyện thần giữ của, khách để của, châu chấu ma, ma thắt cổ,
ma nhà hoang…”.
Tư tưởng có thể được thể hiện ở nhiều hình thức đề tài khác nhau. Cho
nên nghiên cứu tư tưởng phải gắn với nghiên cứu đề tài, việc khái quát hóa các
đề tài sẽ giúp ta thấy được tư tưởng văn học có ý nghĩa rộng lớn hơn.
2.2. Đề tài gắn với đời sống thế sự
Truyền kì đời Đường tuy có thể chia ra các loại miêu tả thần quái, tình
yêu, lịch sử, hiệp khách, nhưng nói chung tác phẩm lấy đề tài từ đời sống thực tế
vẫn nhiều hơn. Tác giả thông qua những tình tiết li kì và các nhân vật đủ loại thể
hiện niềm bất mãn và nụ cười châm chọc đối với các hiện tượng xấu xa trong xã
hội. Đồng thời họ cũng gửi gắm lí tưởng và ước mơ về cuộc sống tốt đẹp.
2.2.1. Đậm chất kí sự
Bản trường ca một vạn bốn nghìn dòng Thần khúc của Đantơ (1265-
1321) – nhà thơ cuối cùng của trung thế kỉ, đồng thời là nhà thơ đầu tiên của thời
đại mới – đã miêu tả một cuộc dạo chơi qua ba giới (địa ngục, luyện ngục và
thiên đàng) nhưng những điều mắt thấy tai nghe đều bắt nguồn từ hiện thực, có ý
nghĩa hiện thực sâu sắc, đặc biệt là phần địa ngục đã phản ánh sắc nét một giai
đoạn lịch sử của đất nước Italia, đề cập hàng loạt vấn đề chính trị xã hội to lớn,
tìm tòi con đường giải thoát cho dân tộc Italia. Nhà thơ sử dụng hình thức văn
học truyền kì thời trung đại, tự kể chuyện mình trên con đường đời bị lạc vào
một khu rừng tối đen không tìm thấy lối ra, hiểm nguy rình rập, được cứu và
được đi thăm thú. Toàn bộ tình tiết của trường ca tỏa ra ánh sáng tư tưởng chống
thần quyền phong kiến, thể hiện tiến trình của loài người từ đam mê lầm lạc trải
qua khổ đau thử thách đạt đến cõi chân thiện mĩ.
Truyền kì Việt Nam cũng có một quá trình phản ánh hiện thực như vậy.
Điều đó tạo nên một trong những đặc điểm nổi bật và cũng là có giá trị lớn trong
thời kì này: giá trị hiện thực của các tác phẩm. Đề tài trong giai đoạn này đi sát
đời sống thế sự hơn, mang đậm chất kí. Dù đề cập đến một hay một vài khía
cạnh của đời sống xã hội đương thời thì các tác giả cũng đều dùng thủ pháp trực
tiếp mô tả, tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ và thống nhất về một thời kì nhiều
biến động của lịch sử Việt Nam. Những bức tranh hiện thực có rất nhiều trong
sáng tác của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Vũ Trinh… đã cho thấy sự phá vỡ các
nguyên tắc thẩm mĩ truyền thống của văn học nhà nho vốn coi trọng “văn dĩ tải
đạo” hơn là mô tả một cảnh thực, đồng thời cũng làm mới cho thể loại truyền kì
vốn trước thiên về tưởng tượng hoặc ít ra là chú ý quan sát và mô tả lại những
yếu tố kì lạ trong cuộc sống.
Các tác giả ghi chép lại những chuyện có yếu tố kì lạ, những điều tưởng
chừng vụn vặt song lại có nguồn gốc sâu xa từ những vấn đề nóng hổi trong cuộc
sống. Dốc Lôi Thủ (Lan Trì kiến văn lục) chính là sự phản ánh tình trạng trộm
cướp lan tràn trong xã hội sau năm Canh Thân – Tân Dậu (1740 – 1741) khiến
cho bao người dân phải vào sổ chết bất đắc kì tử: “giặc cướp nổi lên như ong, lại
thêm mất mùa dịch bệnh, người chết đầy đường… Hải Dương, Kinh Bắc nặng
nhất, vùng Tây Nam, Thanh Hóa nhẹ hơn”. Tượng Già lam ở ngôi chùa ngoài
đồng (Tang thương ngẫu lục) ghi lại một việc lạ xảy ra, cho thấy tình trạng
dâm ô bừa bãi trong xã hội lúc bấy giờ. Truyện rất ngắn, chỉ khoảng 135 chữ mà
mô tả được sự thô bỉ của vị thần hộ pháp “cao hơn một trượng, mặt đỏ như
gấc… lôi người đàn bà vào trong chùa” và cái hệ quả của hành động ấy “người
đàn bà… mê mệt như say, pho tượng Già lam thì sắc mặt thốt nhiên biến đổi”.
Nhiều truyện có sức mạnh phê phán sâu sắc một số vấn đề đã trở thành
nhức nhối trong xã hội lúc bấy giờ như chiến tranh, loạn lạc, nạn bắt phu, bắt
lính, tình trạng đói khát, chuyện học hành thi cử… Yếu tố kì trong tác phẩm giúp
cho không gian tác phẩm được mở rộng và chân tướng của hiện thực được phơi
bày rõ ràng. Người nông phu ở Như Kinh (Tang thương ngẫu lục) miêu tả nạn
binh đao đã gây nên thảm cảnh chết chóc cho bao nhiêu người lính và cảnh đói
khát trong xã hội. Người nông phu ở An Mô thì lại nói về tình trạng bắt phu, bắt
lính liên miên khiến người dân luôn phải sống trong âu lo, đến nỗi “bác cũng lấy
sự được thoát khỏi bể khổ làm mừng, bèn nói với người làng cho ăn uống no say
để chết”, đến lúc cái chết không phải là điều khiến người ta kinh sợ nhất nữa, thì
đủ thấy sự tệ hại trong cuộc sống của người dân. Những sự việc được kể như là
một sự thực đã phơi bày trần trụi, tác giả chỉ thấy ngẫu nhiên và làm công việc
mô tả lại một cách chân thực nhất mà thôi. Không gian của những câu chuyện
xảy ra giữa cõi người, tác giả đứng trên điểm nhìn thực để quan sát, ghi chép và
mô tả, do đó tính thực dường như lớn hơn màu sắc kì ảo.
Nhiều tác phẩm đi sâu vào sự đối lập gay gắt giữa đời sống xa hoa của giai
cấp thống trị và cảnh đói nghèo cùng khổ của người dân, nhưng qua đó cũng
thấy được sức phản kháng của họ đối với những lực lượng phản động: “Một đứa
ăn trộm chỉ dùng một chút trí không mà cũng lừa dối được thần linh, thì sự diệu
dụng của người xưa, có chỗ cơ xảo đến quỉ thần cũng khó lường, hẳn không phải
là vu khoát vậy” (Kẻ trộm lừa thần thánh – Công dư tiệp kí).
Sự băng hoại đạo đức hiện diện ở mọi tầng lớp, từ kẻ cố cùng trong xã hội
như những tên ăn trộm, đến những vị quan của triều đình, và cả thần thánh vốn
là những đấng bậc linh thiêng được tôn trọng nhất. Qua đó, có thể thấy được sự
suy thoái của thể chế chính trị lúc bấy giờ, thể chế dưới sự cầm quyền của triều
đại có thể coi là “chuyên chế và phản động nhất” trong lịch sử Việt Nam [26,
182]. Nguồn gốc xuất thân của các quan thật đa dạng, không còn cao quí và đơn
thuần như là người được “thiên mệnh” nữa. Một nhà thơ trào phúng đầu thế kỉ
XX đã viết về những quan lớn như thế này:
Lính hầu thuở nọ tay đeo tráp
Cụ lớn ngày nay ngực gắn sao
Trong Tên ăn trộm – Lan Trì kiến văn lục, có hai người ăn trộm giỏi gặp
nhau, thi thố tài ăn trộm, sau đó rủ nhau bỏ nghề, góp sức vào đạo quân của triều
đình. Về sau, một người trở thành Tham tướng ở Sơn Tây, một người được bổ
làm Suất đội trong phủ Đô đốc.
Tuy nhiên, bên cạnh những mảng màu tối đen thì thế sự giai đoạn này vẫn
có nhiều chỗ sáng, đó là những khung cảnh thiên nhiên quen thuộc và gần gũi
xuất hiện rất nhiều trong những bài kí của Phạm Đình Hổ, mảng chuyện về
những con vật giàu đạo nghĩa, ngụ ý răn dạy loài người (14 truyện/86 truyện) rất
nhiều ở Lan Trì kiến văn lục. Đặc biệt là những điểm sáng lung linh hiện diện
trong những câu chuyện kể về các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc (chiếm
25/86 truyện). Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo (Công dư tiệp kí) rất mực thông
minh, “Lúc trẻ tuổi đã có kì tài, nhưng tính tình phóng đãng, không chịu câu
thúc và thích là những điều tai quái”, làm bài Giải chư hầu hoặc (Giải thích sự
nhầm lẫn về quan niệm “chư hầu”) khiến cho vua nhà Thanh phải bãi bỏ lệnh bắt
dân ta cạo đầu gióc tóc, lại tự tay viết tặng sứ Thanh bộ sách Đại học đẹp như
khắc bản, rồi lại đối đáp đâu ra đấy, khiến sứ Thanh rất khen phục. Trạng nguyên
Nguyễn Đăng Đạo (Ông Trạng họ Nguyễn – Lan Trì kiến văn lục) thông minh
đĩnh ngộ từ bé, lớn lên cá tính cũng mạnh mẽ hơn người, khi chưa đi thi đã tự
xưng là “Tể tướng giữa trần ai”, chỉ làm một bài thơ mà khiến cho Phạm công
khen ngợi: “Nghìn vàng không mua được chàng rể giỏi như người này đâu”,
được Ngô hầu tha cho tội làm ô danh tiểu thư, không những thế còn chu cấp tiền
ăn học đến ngày thi đỗ. Ông Nguyễn Duy Thì (Tang thương ngẫu lục) là “quan
Tể tướng có tiếng đời Trung hưng, giữ mình ngay thẳng và khéo xoay đổi được ý
của vua chúa”, gỡ được tội cho nhiều người dân, can ngăn chúa khỏi vòng sắc
tình nhục dục…
Đó là những phần tốt đẹp, tươi sáng của cuộc sống đã được ghi lại trong
tác phẩm một cách chân thực nhất. Giữa thời buổi mà nhân phẩm bị xem thường,
trộm cắp nổi bật, các giá trị đạo đức bị suy thoái theo thời cuộc, thì những tính
cách trung hậu tốt đẹp như thế của những vị quan đầu triều thật đáng quí và đáng
được ngợi ca.
Cảm hứng hiện thực – lịch sử đã chi phối sâu sắc ngòi bút của các nhà
văn, mang lại cho những ghi chép của họ tính hiện thực rất cao, khác với đặc
tính tượng trưng, ước lệ, nhiều điển cố, điển tích trong văn học trung đại. Ở đây,
xuất hiện những cái nhìn cụ thể, trực diện và hiệu quả ngay lập tức.
2.2.2. Nghiêng về khảo cứu
Ở giai đoạn trước, tiêu biểu là trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ,
đạo lí Nho giáo về quan hệ vua tôi, thầy trò, vợ chồng, cha con, bè bạn… được
đề cập khá nhiều và rõ nét, thậm chí tác giả luôn đi sâu mô tả diễn biến tâm lí
của nhân vật trong những mối quan hệ này (Người con gái Nam Xương,
Chuyện nghiệp oan của Đào thị…). Bởi ai cũng biết, một đặc trưng cơ bản của
Nho giáo là sự nhìn nhận con người trong các mối quan hệ luân thường. Với Nho
giáo, không có con người cá nhân tồn tại như một cá thể độc lập mà tồn tại trong
những quan hệ luân thường đã được định sẵn: vua – tôi, cha – con, anh – em,
chồng – vợ… Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã viết: “Con người theo cách
hình dung của Nho giáo, kể cả trong xã hội lí tưởng của họ, sống theo trật tự
đẳng cấp. Cái định giá con người là tước vị. Cuộc sống cộng đồng, xã hội hay
nhà nước cũng giống như ở gia đình, mỗi người hoặc là cha, con, là anh em,
hoặc là vợ, chồng, hoặc là vua tôi, tức là có một chức năng luân thường”.
Nhưng đọc hết các tập truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX, ta sẽ có cảm tưởng như đang nghiên cứu những cuốn khảo
cứu ấn tượng, những cuốn sách văn mang đậm tính học thuật, ghi chép sự thật
một cách khách quan, bởi nội dung chủ yếu là chuyện về các kì thi ở Việt Nam
trước đây; chuyện tìm đất đặt mộ, làm nhà; hay kiểu chuyện mô tả sơ lược về
những danh nhân lịch sử, những vị quan… Cũng ít gặp những truyện thuần túy
về ma quái như trong bộ sách truyền kì kinh điển Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng
Linh.
Rất nhiều tác phẩm bàn luận về mạch đất, hình sông, thế núi. Bởi quan
niệm “Các nhân vật đều là tinh anh của non sông đúc lại” (Phạm Đình Hổ - Vũ
trung tùy bút) với một niềm tự hào “Địa thế nước ta, toàn thể cũng giống nước
Trung Quốc, chỉ có nhỏ hơn thôi”. Chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ được số
phận mình, sự giàu sang, công danh phú quí của mình nếu bố trí được chỗ ở,
thậm chí cả mồ mả tổ tiên ở nơi thích hợp, tích hợp được khí thiêng, khí lành của
trời đất. Chôn xương bụng ngựa và Nghề mọn nên quan trong Công dư tiệp kí
là hai truyện chứng minh được cho lí thuyết ấy. Con người có thể làm chủ được
vận mệnh của mình, mang lại công danh phú quí không chỉ cho mình mà cho cả
con cháu muôn đời sau nếu biết dùng đến “âm phần dương trạch”. Cả Đinh Tiên
Hoàng và chàng Trâu Canh đều nên nghiệp từ sau khi chọn đúng mạch đất để
mồ mả tổ tiên (Đinh Bộ Lĩnh đặt gói xương bố vào đúng cái huyệt ở thế đất hình
con ngựa dưới đầm nước) hoặc bố trí chỗ ở cho mình (chàng Trâu Canh nhà
nghèo dựng gian nhà tranh dưới hòn Cóc Tía): “Từ đó, Đinh trăm trận trăm
thắng, được gọi là Vạn thắng vương. Chàng dẹp được mười hai sứ quân, thống
nhất dư đồ, làm Đinh Tiên Hoàng”, Trâu Canh chữa được cây thần, chữa được
bệnh cho nhà vua, “được ban thưởng không biết bao nhiêu, lại được vua sủng ái
hơn hết mọi người”. Nhưng sự nghiệp của họ cũng tan tành do phạm phải một lỗi
lầm nhỏ trong khi dùng phép “âm phần dương trạch” ấy: Đinh Tiên Hoàng “chỉ
mới ở ngôi mười hai năm thì bị nội nhân là Đỗ Thích ám sát, cả con là Đinh
Liễn cũng bị giết. Vì bị người khách dùng kế đánh lừa, đặt gươm vào đầu ngựa
cho nên mang vạ”, còn Trâu Canh từ khi được ân sủng thì “quên bẵng lời dặn
của khách, không dời nhà đi nơi khác nên bị mang vạ” con bị giết, gia đình bị
đuổi khỏi cung, của cải bị tịch thu, lại trở về nghèo hèn như xưa. Thế mới biết,
sức mạnh của hình sông thế núi lớn đến dường nào. Không chỉ thời xưa, mà cho
đến ngày nay và có lẽ mãi về sau này nữa, việc tìm đất để đặt mồ mả, chọn
hướng nhà để ở sẽ mãi là mối quan tâm đặc biệt của loài người.
Thi cử là môtip được khai thác nhiều trong văn học thời kì này với cả thi
văn và thi võ, cả những mặt tiêu cực và tích cực của nó, đã được hư cấu, giai
thoại nhiều hơn.
Không phải chỉ trong thời hiện đại mới có, mà tình trạng thi hộ, tráo quyển
đã trở thành một vấn nạn trong xã hội thời xưa, đến mức rất nhiều nho sinh có tài
mà chịu hai tiếng “khiếm điểm” (hoặc “khiếm diện”, nghĩa là vắng mặt trong kì
thi, vì thi hộ người khác nên không thi được cho mình) đã không được tiếp tục
thi ở kì sau. Mãi đến khi Chiêu tổ Trịnh Căn (ở ngôi chúa 1682-1709) xóa bỏ
lệnh ấy, triều đình mới không bỏ sót bao hiền tài mà gặp hoàn cảnh khó khăn,
phải chấp nhận “khiếm điểm”. Thượng thư Vũ Công Đạo (Thủ khoa mặt đẹp –
Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề) chính là một người dính vào cái nghiệp ấy.
Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh có tới năm truyện chủ yếu viết về
việc thi cử. Điều đặc biệt là trong những truyện của ông, những ngôi vị đầu bảng
đều do thiên triều (nhà trời) đã quyết định từ trước: Mới đầu xuân, chưa tới kì thi
Hội mà cổng trời đã treo bảng đề tên người đỗ, Bà đồng đọc được đúng y như
kết quả của kì thi sau đó; Quan Thượng họ Đỗ thời còn trẻ đã được con ma cây
đa báo cho mức đỗ và tuổi tác, con ma đó cũng vì tiết lộ cơ trời mà bị trị tội.
Những vị tân quan ấy đều phải nhờ tới sự trợ giúp của lực lượng siêu nhiên:
Vương Dụng Tân thi đỗ nhờ được người bạn cũ báo mộng cho đề (Điềm báo
trước); Chàng Cử nhân trẻ tuổi trong Tháp báo ân làm bài văn có nhiều sai sót,
nhưng được sự trợ giúp của hồn người đã chết nên đạt được danh vị. Bài phú
“Thiên hạ đại đồng” của Thủ khoa Lê Tân không sai một chữ nào so với bài văn
hai vị thần miếu đã dự thảo trước trong Giấc mộng lạ.
Những truyện ấy phản ánh tế nhị những vấn đề tiêu cực lố lăng trong khoa
cử thời xưa, như quan trường không công minh, thí sinh gian dối…, nên có tác
dụng về mặt nghiên cứu lịch sử hơn là đóng vai trò của một tác phẩm văn
chương.
Ngay trong cả những tác phẩm được coi là giàu tính chất văn chương và
trữ tình nhất cũng có thể thấy nhiều truyện tác giả đã thiên về sự khảo cứu nhiều
lĩnh vực học thuật và đời sống. Trong nhiều tác phẩm, đang miêu tả cảnh vật
hoặc ghi chép một sự việc nào đó, tác giả lại quay sang “khảo cứu” lai lịch của
cảnh vật ấy, có thể là một địa danh, cũng có thể đơn thuần chỉ là một địa điểm
mà tác giả đã có nhã hứng tìm hiểu về nó, như lai lịch một ngôi chùa, lịch sử một
vùng đất, sự tích một nhân vật nào đó, hoặc hồi tưởng về quá khứ, hoặc liên hệ
với hiện tại mà cảm thán về sự hưng vong biến diệt, nhân tình thế thái. Do vậy,
các câu chuyện thường đầy ngẫu hứng và mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.
Lối viết này đôi khi làm cho mạch văn bị đứt đoạn, khiến truyện mang dáng vẻ
của một thể loại “đứng giữa nghị luận có tính chất nghiên cứu và truyện ngắn”,
song điều đó cũng mang lại cho tác phẩm những đặc sắc riêng: vừa có tính xác
thực lịch sử khoa học, vừa giàu chất văn chương trữ tình. Đằng sau những câu
chuyện được các nhà văn ghi lại là cả một sự tích lũy sâu rộng về học vấn và
những kiến thức phong phú về thực tiễn, chất trí tuệ vì thế trở thành điểm sáng
thẩm mĩ của truyền kì giai đoạn này.
Tính chất khảo cứu nặng hơn hẳn cảm hứng sáng tạo, nhiều truyện truyền
thuyết dã sử, nội dung chủ yếu về phong tục tập quán, bình luận văn chương đạo
đức, thể chế, khoa cử và việc tìm đất đặt mộ, làm nhà là những vấn đề vĩ mô mà
các tác giả thời kì này quan tâm.
2.3. Xu hướng viết về người thật, việc thật
PGS.TS. Vũ Thanh đã tổng kết rằng: Trước Thánh Tông và Nguyễn Dữ,
các tác giả truyện kì ảo hầu như chỉ viết về hành trạng của các nhân vật quan
trọng: như các anh hùng dân tộc, các nhân vật thần thoại, vua chúa, các bậc tu
hành hiển thánh… mà cuộc đời gắn liền với những sự kiện lớn lao của lịch sử.
Đến Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, hiện thực không chỉ đóng
khung trong những bối cảnh trọng đại, chỉ liên quan đến các bậc vua chúa và đại
sự quốc gia, mà còn gắn với cả những sự kiện và con người bình thường, thậm
chí cả những người thuộc tầng lớp dưới của xã hội: như gái điếm, một kẻ ăn
mày, thuyền chài, rồi những con người và những địa phương vô danh… Những
cái bình thường đó không làm giảm giá trị của truyện, ngược lại điều đó đánh
dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của tư duy mĩ học và khẳng định một
loại hình mới của sự khái quát hóa nghệ thuật.
2.3.1. Những nhân vật lịch sử
Lấy cốt truyện từ chính sử, nội dung là các sự kiện đã có trong các sách
chép sử, nhân vật là nhân vật có thực của lịch sử… đây là một bút pháp phổ biến
trong văn học viết thời trung đại. Truyện truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ
XIX không nằm ngoài tiền lệ đó. Có đến 25 truyện/86 truyện chúng tôi khảo sát
thì nhân vật chính là những nhân vật có thật trong lịch sử, những nho sinh hay
chữ, những vị quan tài năng, những anh hùng dân tộc…
Bảng thống kê nhân vật lịch sử
STT
Tên truyện
Nhân vật lịch sử
Tổng số
Công dư tiệp kí
1.
Tìm đất đền ơn
Thượng thư Nguyễn Văn Huy (1486 - ?)
2.
Thủ khoa mặt đẹp
Vũ Công Đạo (1629 – 1714)
3.
Thượng thư Lương Hữu Khánh
Thượng thư Lương Hữu Khánh
4.
Nhận ra mẹ đẻ
Trạng nguyên Giáp Hải (1507 – 1586)
10 truyện
5.
Dóng ngựa thi thơ
Phạm Trấn (1523 - ?), Đỗ Uông (1523 – 1600)
6.
Tiến sĩ ăn khỏe
Lê Như Hổ
7.
Quách Giai (1660 - ?)
Thám hoa được giáng xuống Phù Khê
8.
Chôn xương bụng ngựa
Đinh Tiên Hoàng (924 – 979)
9.
Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo
Nguyễn Đăng Cảo (1619 - ?)
Lan Trì kiến văn lục
10.
Thần cửa Cần Hải
Thái hậu Dương Vân Nga
11.
Nguyễn Quỳnh
Nguyễn Quỳnh (1677 – 1748)
12.
Phạm Viên
Phạm Viên
7 truyện
13.
(1555 –
Bà phu nhân Lan Quận công
Nguyễn Thực 1637)
14.
Quan Thượng họ Đỗ
Đỗ Uông
15.
Ông Nguyễn Trật
Nguyễn Trật (1573 - ?)
16.
Ông Trạng họ Nguyễn
Nguyễn Đăng Đạo (1652 - ?)
Tang thương ngẫu lục
17.
Ông Nguyễn Duy Thì
Nguyễn Duy Thì (1572 – 1652)
18.
Ông Nguyễn Văn Giai
Nguyễn Văn Giai (1554 – 1628)
5 truyện
19.
Ông Nguyễn Trọng Thường Nguyễn Trọng Thường
(1681 – 1735)
20.
Ông Lê Trãi
Nguyễn Trãi (1380 – 1442)
21.
Thánh Tông Hoàng đế
Lê Thánh Tông (1442 – 1497)
Vũ trung tùy bút
22.
Cá voi
Nguyễn Tông Trình (1723 - ?)
2 truyện
23.
Thần hồ Động Đình
Hoàng Bình Chính (1736 – 1785)
Thoái thực kí văn
24.
Thách thức với thần
Tô Hiến Thành (? – 1179)
2 truyện
25.
Ông tiên Đông Thành
Phạm Viên
24 nhân vật
25 truyện
Tổng số
Người ta nói rằng lịch sử có thể thổi tung từng số phận như gió khô cuốn
những chiếc lá vàng. Trước những sự kiện lớn lao và vũ bão của lịch sử, mỗi cá
nhân con người quả thật quá nhỏ bé, quá mong manh, thậm chí đến mức người
đời sau không thể nhớ ra họ hoặc biết đến sự tồn tại của họ. Các tác giả truyền kì
đã làm công việc của những nhà chép sử chân chính, nhưng chỉ chép về một lĩnh
vực đặc biệt, đó là chân dung danh nhân và những câu chuyện xung quanh cuộc
đời họ. Có thể đó là những câu chuyện thật trong chính sử, cũng có thể là những
câu chuyện chẳng bao giờ kiểm chứng được, nhưng có thể khẳng định chắc chắn
một điều: Đó đều là những nhân vật có thật trong lịch sử, sống và phục vụ trong
một triều vua cụ thể, với các phẩm hàm cụ thể, đặc biệt phần lớn họ đều mang
thân phận là những vị quan đầu triều, có những người mà dân Việt Nam ai cũng
biết, như Thái úy Tô Hiến Thành, quan Hành khiển Nguyễn Trãi, Trạng
Quỳnh… và cả những nhân vật đứng đầu đất nước như Thái hậu Dương Vân
Nga, Hoàng đế Lê Thánh Tông.
Có thể thấy rất rõ sự phát triển của xu hướng này qua so sánh các tác giả
trong từng giai đoạn. Giai đoạn đầu, Đoàn Thị Điểm viết Truyền kì tân phả rất
giống sử: thời gian, không gian rõ ràng, sự kiện có thật (Đền thiêng ở cửa bể
diễn ra dưới triều vua Trần Duệ Tông, có sự kiện vua đem mấy chục vạn quân đi
đánh Chiêm Thành; Người liệt nữ ở An Ấp thời vua Lê Dụ Tông, ở làng An Ấp,
Nghệ An – nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, chồng chết năm Ất Mùi
(1715); Nữ thần ở Vân Cát sống thời vua Lê Anh Tông, làng Vân Cát thuộc
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định ngày nay, gắn với Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong
truyền thuyết dân gian). Hơn nữa, cốt truyện triển khai được đầy đủ quá trình
sinh hạ, sống và thác thiêng của nhân vật, đều có nguyên nhân, diễn biến và kết
quả, thậm chí cả ý nghĩa lịch sử, giống như tiến trình của một trận đánh hay một
sự kiện của lịch sử, mà tác giả là người mô tả lại đầy đủ, chính xác và tuần tự,
diễn tả được rõ cả hào khí anh hùng vĩ đại của nhân vật.
Các tác giả giai đoạn sau này đã chú ý đến tính sáng tạo và văn chương
hơn, mà sáng tạo đầu tiên chính là sự phá cách ở kết cấu và cốt truyện, sự rút gọn của các chi tiết 9 và sự bình dị hóa nhân vật, kéo nhân vật lịch sử trở lại gần hơn
thực tại với những tình tiết quen thuộc của cuộc sống thường ngày. Đó chính là
khi những con người, sự vật xung quanh tác giả và đặc biệt là những nhân vật
bình phàm xuất hiện.
2.3.2. Những con người, sự vật xung quanh
Nhà văn chân chính thời kì nào cũng giống nhau, đều mang trong mình
dòng máu nghĩa hiệp và nguồn cảm hứng sục sôi về “những điều trông thấy”, vì
vậy họ không thể bỏ qua những sự việc diễn ra xung quanh mình.
Các nhà văn truyền kì đã bỏ công ghi chép những truyện kì lạ trong dân
gian mà họ tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể từ những nguồn đáng tin cậy.
Đó là những câu chuyện về những nhân vật hiếu hạnh tiết nghĩa, nhân vật có sức
khỏe hơn người, về loài vật, thầy tướng số… - những con người, sự vật, sự việc
có thực trong cuộc sống, gần gũi xung quanh chúng ta hàng ngày, mà vẫn có
nhiều đặc điểm phi thường, kì lạ.
Trong Công dư tiệp kí, Vũ Phương Đề ghi chép hai câu chuyện về những
nhân vật có thật của lịch sử, nhưng điều kì lạ ở họ chính là sức khỏe và sức ăn
hơn người. Đó là câu chuyện về ông Tiến sĩ ăn khỏe Lê Như Hổ, người xã Tiên
Chân, huyện Tiên Lữ, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu
(1541), làm quan triều Mạc đến chức Thượng thư, hàm Thiếu bảo, tước Tuấn
quận công, về trí sĩ. Ông được miêu tả với sức khỏe phi thường, trong nháy mắt
có thể phát cỏ mấy mẫu ruộng, có thể ăn một bữa cơm dành cho ba mươi người,
có thể ăn một mâm cỗ cao mười tám tầng mà người Trung Quốc muốn dùng để
9 Xin xem phân tích kĩ trong phần 3.3 của luận văn: Tinh giản trong văn phong
thử ông. Hay câu chuyện về Thượng thư Lương Hữu Khánh dòng dõi danh gia,
ăn rất khỏe, mỗi bữa ăn gấp mấy người thường, có lần ông ứng khẩu ngay một
bài thơ Đường rồi ăn ngay một lúc hết cả sáu bảy chục phẩm trên thuyền khiến
mọi người kinh ngạc; Rồi lại có lần một mình ông với một con dao lớn phát một
chốc năm mẫu ruộng sạch quang, ngủ một giấc ngáy vang như sấm, ăn liền một
lúc hết cả gánh cơm mười người ăn.
Trong xã hội trung cổ (và vẫn còn tồn tại đến ngày này ở những vùng lạc
hậu), những nhân vật bà đồng, bà cốt, thầy mo, thầy cúng, thầy tướng số… rất
được chúng dân tín nhiệm. Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh ghi lại hai câu
chuyện về loại nhân vật này. Bà đồng thể hiện rất rõ quan điểm của tác giả:
“Đàn ông đàn bà ít hiểu biết phần nhiều mê hoặc quỉ thần, bà đồng thầy cúng
theo đó mà lừa dối thêm. Các cách xem đường công danh, thăm hồn người
chết… hầu hết đều sai lầm, không hợp lẽ… Người có chút hiểu biết không ai nói
đến. Riêng có chuyện này là lạ…”. Các tác giả trung đại rất coi trọng học thuật,
coi trọng phép phong thủy, nhưng có vẻ xem thường việc bói toán, đoán mặt,
xem tướng. Họ cho rằng: “Đoán số, xem tướng mặt là loại thấp nhất trong
phương thuật, phần lớn họ dựa theo ý người xem mà nói nịnh để lấy tiền bạc đồ
vật của những kẻ dại ngốc mà thôi, ngày sau sự việc đúng hay không đúng ai
còn tìm thấy tướng mà hỏi lại. Tuy vậy trong bọn họ cũng có người giỏi” (Thầy
xem tướng). Nhưng sự việc chung nào cũng có cái riêng khác biệt của nó. Chúng
ta để ý câu cuối của mỗi đoạn trên sẽ thấy sự lung lay trong quan điểm của các
tác giả trước một vấn đề họ chưa thể lí giải được, đó là sự đoán đúng, đoán trúng
không thể chối cãi của bà đồng, thầy tướng về việc thi cử, người đỗ đạt, người
nên danh, mà tác giả là người trực tiếp chứng kiến hoặc người đó có quan hệ mật
thiết với tác giả. Sự xuất hiện của loại nhân vật bà đồng, thầy tướng hay hiện
diện của việc xem tướng trên những trang viết vốn đầy giáo lí đạo Nho thể hiện
sự phát triển tất yếu và sự in bóng của đời sống xã hội trong tác phẩm văn học.
Chung qui, việc xem bói, đoán tướng là sự việc bình thường và khá phổ biến
trong xã hội, dù bản thân tác giả có tin hoặc có muốn nó tồn tại hay không thì nó
vẫn là một phần không thể thiếu của “thế sự”. Với vai trò của người cầm bút, đặc
biệt là vai trò của người ghi chép lại lịch sử, viết về những người thật, việc thật
thì các tác giả đương nhiên không thể bỏ qua bất kì sự việc gì trong cuộc sống,
dù đó là việc họ “đáng nghi” nhất, thì họ càng cần phải ghi chép lại một cách
trung thực nhất để con cháu đời sau nghiên cứu và có khả năng lí giải.
Đề tài về những con vật cũng rất được các tác giả quan tâm, có nhiều
chuyện mà loài vật chứ không phải con người xuất hiện với vai trò nhân vật
chính, truyền tải tư tưởng, tình cảm của tác giả. Hình ảnh loài vật hiện lên cũng
rất sinh động và đáng yêu, có những con vật quen thuộc như hổ, khỉ, rắn, cá…
đến những con vật chỉ có trong truyền thuyết, thần thoại, trong tưởng tượng của
người dân như con giao long, con giải… Tính cách của những con vật cũng phân
loại rất rõ ràng: Từ những con vật ác như một bầy giao long chuyên hại người
(Bố già lặn xuống vực tìm con gái – Công dư tiệp kí); đàn khỉ bắt và cưỡng
bức cô gái làm vợ, sinh con với khỉ chúa (Chuyện khỉ), một bầy giải quấy phá và
bắt người qua sông (Con giải – Lan Trì kiến văn lục); đến câu chuyện về
những con vật có lòng nhân như bà giao long báo trước họa lụt và nơi tránh nạn
cho con người (Giao long ngủ nhờ - Công dư tiệp kí), con cá lớn cứu người bị
nạn trên biển (Cá thần – Lan Trì kiến văn lục)… Đặc biệt, mảng đề tài về con
hổ - vị chúa tể rừng xanh vốn bị coi là loài dã thú, là “ông ba mươi” ghê gớm
hay được dùng để dọa trẻ con, xuất hiện khá nhiều với nội dung mới mẻ và nhân
hậu: đều là những con hổ tốt, không làm hại người, biết trả ơn người, thậm chí
còn hành hiệp trượng nghĩa và cứu nhân độ thế: Ông Hổ, Chuột đậy mặt, biết
điềm lành dữ (Công dư tiệp kí), Hai truyện hổ có nghĩa, Con hổ nghĩa hiệp,
Hổ có lòng nhân (Lan Trì kiến văn lục). Có cả những truyện con vật còn lên
tiếng răn dạy cho con người (Con chó nhà nghèo có nghĩa – Tân truyền kì
lục). Rồi trong những chuyện 3 kiếp của con người, cũng có những kiếp con
người phải sống trong lốt vật: gà, lợn (Nhớ được ba kiếp – Lan Trì kiến văn
lục), con nghé (Biết chuyện kiếp trước – Thoái thực kí văn). Cho nên, sự thân
quen, gần gũi và mối quan hệ giữa những con người, loài vật xung quanh đã
được kiến tạo từ trong văn chương ngày xưa.
Con người của cuộc đời thực đã bước được một chân vào thế giới văn
chương, vốn trước chỉ thuộc về những cái Ta chung lớn lao cao cả, những điều
vĩ mô, những sự kiện quan trọng của đất nước, hay cùng lắm là sự xuất hiện của
con người trong cái lốt của những bậc thánh nhân quân tử. Giờ đây đã có nhiều
tác phẩm viết về những con người và những sự việc diễn ra xung quanh, cùng
thời với tác giả.
Trước thế kỉ XVIII, cảm hứng chủ đạo của văn học là khẳng định nền độc
lập, khẳng định nhà nước phong kiến, còn thế kỉ XVIII – XIX chủ nghĩa nhân
đạo nổi bật với cảm hứng ca ngợi con người cá nhân trần thế, đó là những con
người danh tiếng có thật trong lịch sử, là những con người của cuộc sống bình
thường quanh tác giả, và thậm chí là những nhân vật quan niệm phong kiến xưa
coi là thuộc tầng lớp dưới, đó chính là những nhân vật bình phàm.
2.3.3. Những nhân vật bình phàm
Đây là thuật ngữ mà PGS.TS Trần Nho Thìn sử dụng trong khi phân loại
nhân vật truyện ngắn trung đại Việt Nam. Ngoài những nhân vật thuộc tầng lớp
trung gian hoặc tầng lớp trên, sự xuất hiện của những người bình dân trong
truyện truyền kì, đặc biệt những người phụ nữ bình dân là một bước tiến mới,
khác quan điểm và cách viết truyền thống của các nhà nho.
Có nhân vật làm những nghề rất bình thường trong xã hội, như anh chàng
chèo đò (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) hay cha
con người đánh cá (Bố già lặn xuống vực tìm con gái – Công dư tiệp kí – Vũ
Phương Đề). Bố già lặn xuống vực tìm con gái là câu chuyện về hai cha con
người đánh cá được trở thành đại thần của làng. Khi cô con gái bị giao long bắt
mất, người cha đau khổ đã dũng cảm lặn xuống hồ giết sạch bầy giao long và
cõng được xác con lên bờ, từ đó dân chúng không còn bị giao long làm hại nữa.
Cả hai cha con đều được phong làm đại thần của bản xã, được lập đền và miếu
thờ, trở thành nơi phân xử rất linh ứng các vụ tranh chấp của làng.
Nhân vật làm nghề mạt hạng – ăn trộm cũng được đưa vào truyện với một
tư thế rất hiên ngang. Vũ Phương Đề có Kẻ trộm lừa thần thánh (Công dư tiệp
kí), đề cao mưu trí của tên trộm mà nghi ngờ cái tài của thánh thần. Phạm Đình
Hổ và Nguyễn Án kể lại câu chuyện về Anh kẻ trộm làng Lâm Hộ (Tang
thương ngẫu lục), vốn thuộc đám người bị khinh bỉ trong xã hội, đã cứu giúp
bạn đồng nghiệp trong khi nguy cấp mà chẳng tiếc mình, xứng với hành động
của những bậc liệt sĩ đời xưa, cũng là một việc đáng ca ngợi.
Vũ Trinh còn đưa cô đào hát vào trang truyện của mình như một nhân vật
đáng được người đời ngưỡng mộ nhất (Cô đào họ Nguyễn). Cô làm cái nghề hạ
đẳng trong xã hội, bị giới nho sĩ khinh bỉ, nhưng cô lại có tấm lòng nghĩa hiệp và
trung trinh, đã có công chăm sóc và động viên Vũ Khâm Lân thưở còn hàn sĩ,
nhưng kiên quyết không cho chàng dính vào chuyện trăng hoa. Đến khi Lân
được làm quan to, ông không trái được mệnh cha phải lấy con nhà thế tộc làm
vợ, nàng không trách móc mà lặng lẽ ra đi. Sau này có gặp lại, nàng cũng không
chịu nhận lễ hậu của ông. Trong Tháp báo ân có cô gái hủi đã vượt qua mặc
cảm bản thân, đem lòng thương yêu và trao mình cho chàng học trò bị lỡ độ
đường. Cũng vì mặc cảm bệnh tật của bản thân mà nàng ốm đau dằn vặt đến
chết, nhưng khi chết đi rồi vẫn một lòng giúp chàng đạt ước nguyện công danh,
đã hiện về khẩn cầu quan Chủ khảo chấm đỗ cho chàng. Vị quan cảm cái tình
của cô gái nên gượng lấy đỗ. Còn chàng tân khoa sửa lễ con rể ra mắt bố cô gái,
và phong hàm cho nàng theo đúng tước quan của mình, đồng thời xây tháp báo
ân để tỏ lòng biết ơn người vợ hiền ấy.
Trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh còn có cả nhân vật trẻ em, đó là
cậu bé ba, bốn tuổi có nước da “đen như sơn” trong Con lai rắn; là em bé vừa lọt
lòng mẹ đã biết nói và rất đau khổ vì Biết được kiếp trước của mình và vẫn luôn
nhớ về nó; là một em bé bị người cha bạc đãi vứt vào rừng, may được Con hổ
nghĩa hiệp mang trở về cho bà ngoại; là em bé sinh ra dưới mồ và được người
mẹ đã chết ngày ngày đội mồ lên mua bánh về mớm cho ăn (Sinh đẻ kì lạ). Tuy
chỉ với số lượng bốn tác phẩm, nhưng loại truyện này lại có vai trò vô cùng quan
trọng, bởi đây là lần đầu tiên nhân vật trẻ em xuất hiện trong truyền kì trung đại
Việt Nam, thể hiện tấm lòng nhân hậu và sự ưu ái của nhà văn dành cho trẻ thơ.
Quan tâm nhiều đến việc xảy ra giữa cõi người, các tác giả đã vẽ lại được
rất nhiều bức chân dung giữa cuộc đời thường, tốt đẹp và đáng ngợi ca. Nhưng
không chỉ thế, còn có cả hình ảnh của những con người phầm trần đã bắt đầu bị
tha hóa, những con người mà cái ác hiện diện đến mức phi nhân tính, không
bằng cả loài cầm thú: Hoàng Mỗ (Con hổ nghĩa hiệp – Lan Trì kiến văn lục) vì
mưu đồ hạnh phúc riêng, để được người đàn bà chấp nhận lấy mình đã đang tâm
lừa mang đứa con ruột vào rừng sâu cho hổ ăn thịt chết, nhưng cuối cùng chính
hổ lại mang đứa bé về nhà. Lại có kẻ vì con gà chọi đáng giá mà đang tâm “một
tay vác cuốc, một tay túm tóc mẹ lôi ra bãi tha ma ở ngoài đầu làng. Rồi vừa ép
mẹ ngồi xuống một bên, anh ta vừa dùng cuốc quật đất lên để chôn mẹ” (Ác báo
– Công dư tiệp kí). Rồi lại có kẻ vì ghen tuông mù quáng mà đang tâm giết
người vợ đang còn ở tuổi thanh xuân (Sống lại – Lan Trì kiến văn lục).
Hình ảnh con người bị tha hóa về nhân cách cùng với những hành động rất
nhẫn tâm được mô tả lại khá nhiều trong các trang viết, chứng tỏ thời kì này,
cùng với những biến chuyển trong xã hội, con người đã bị ảnh hưởng, lây nhiễm
nhiều thói hư tật xấu. Điều đó cũng thể hiện quan điểm khách quan và cái nhìn
đa chiều của các tác giả trong khi viết về những con người thực. Không còn
những con người khô khan cứng nhắc của giáo điều, những con người chuẩn
mực và tốt đẹp của đạo lí nữa, mà ở đây, con người hiện lên với những thứ tình
cảm đơn thuần nhất, với cả những nét phàm tục, xấu xa nhất nhưng mang đậm
bản tính người, những tính toán và tâm tư của con người thực trong xã hội.
Đông đảo các loại người của nhân gian đã được đưa vào trang viết, tạo
nên một gương mặt theo đúng nghĩa “thập loại chúng sinh”. Ở điểm này, các tác
giả truyền kì đã có sự gặp gỡ với đại thi hào Nguyễn Du, về quan điểm hiện thực
tiến bộ và tấm lòng xót thương đến cả những nhân vật “dưới đáy” xã hội. Tuy
tần số xuất hiện của loại nhân vật bình phàm vẫn còn thấp hơn khá nhiều so với
các nhân vật thánh nhân quân tử, nhưng vẫn đủ để khẳng định một xu hướng viết
mới trong văn học cuối thời trung đại.
2.4. Con người và số phận con người
Nội dung bao trùm văn học giai đoạn này là cảm hứng nhân đạo chống
phong kiến. Thương yêu con người, khẳng định quyền sống của con người, xác
lập giá trị cao đẹp của nhân phẩm, ca ngợi những nỗi niềm hạnh phúc trong cuộc
sống, gắn bó với người bằng những mối nhân tình đầm ấm và trong sáng… bấy
nhiêu nội dung phong phú của chủ nghĩa nhân đạo đều có thể thấy trong văn học
nước ta. Macxim Gorki đã từng phát biểu: “Con người, cái tên mới vang dội làm
sao!”. Niềm tự hào về con người như thế có thể thấy rất rõ ở nhiều tác giả Việt
Nam và được biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú qua vô vàn hình tượng
văn học đa diện và đa dạng.
Càng về cuối giai đoạn thì vấn đề số phận con người được nêu lên một
cách gay gắt. Vấn đề số phận cá nhân ít nhiều cũng được đặt ra mà không cực
đoan, không sa vào chủ nghĩa vị kỉ. Con người là chủ nhân của đời sống xã hội.
Trong các hình thái đẹp và sự vật đẹp thì con người là đẹp nhất. Vẻ đẹp của con
người bao gồm hai bộ phận: cái đẹp bên trong và cái đẹp bên ngoài, mà quan
trọng nhất chính là vẻ đẹp bên trong – vẻ đẹp của các phẩm chất tinh thần, của
tâm hồn và tình cảm.
2.4.1. Quan niệm rộng mở về con người
Đã có một cái nhìn và quan niệm thật rộng mở về con người trong các tác
phẩm truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Qua những phần đã
phân tích ở trên, chúng ta bắt gặp hình ảnh của cả những con người thánh nhân
và những con người trần thế, cả những người tốt và những người cực xấu. Đối
tượng phản ánh của các nhà văn đã rộng và bao quát hơn, đa chiều hơn, nội dung
phản ánh gần hơn với sứ mệnh “Nghệ thuật vị nhân sinh” của văn chương mà
sau bao tranh luận cuối cùng đã có thể kết luận được.
Trong quan niệm rộng mở và mới mẻ về con người bao gồm từ những
nguyên tắc đạo lí làm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ
giữa con người với nhau, đến những khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống của
con người trong đó có quyền sống cá nhân. Nó cũng là tấm lòng thiết tha vun
đắp những giá trị nhân đạo ngày một tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, là tấm lòng
cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ, đặc biệt là với trẻ em, phụ nữ, với
những người lương thiện mà bị hãm hại, những người hồng nhan mà bạc mệnh,
những người tài tử mà lận đận đa cùng…
2.4.1.1. Con người với những phẩm chất tốt đẹp
Không ai phủ nhận rằng trên thực tế, luôn tồn tại một sự đối lập giữa hai
loại người mang trong mình những phẩm chất đối lập nhau như tốt và xấu, thiện
và ác, thông minh và ngu dốt. Nhưng như vậy hoàn toàn không có nghĩa là giữa
hai loại người ấy tồn tại một ranh giới tuyệt đối. Bởi vì một người được coi là tốt
đẹp thì cũng đâu chắc tất cả mọi điều thuộc về con người anh ta đều hoàn thiện,
và trái lại, một kẻ bị coi là xấu xa thì đâu phải bất cứ cái gì thuộc về hắn cũng
xấu xa đáng ghét. Như K. Marx đã nói thì con người sống là thực hiện mình
trong một loạt các mối quan hệ xã hội: “Con người là tổng hòa của những mối
quan hệ xã hội”. Trong các mối quan hệ ấy, những phẩm chất thuộc về bẩm sinh
của con người được tập trung, cấu tạo lại và phải biến đổi. Vì thế mới tạo ra
được những tính cách mới, những tính cách con người luôn vận động, biến đổi
theo quy luật của mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh.
Nét chủ đạo dễ nhận thấy trong các tác phẩm giai đoạn này là đề cao
những phẩm chất của con người: lòng nhân hậu, tình mẫu tử, tình yêu chung
thủy, niềm khát khao và ước vọng về hạnh phúc…
Trong Sinh đẻ kì lạ (Lan Trì kiến văn lục), Vũ Trinh làm người đọc vừa
kinh sợ vừa cảm động trước tình cha mẹ và cảnh ngộ trớ trêu của một gia đình
nghèo. Người mẹ đã chết khi mang thai được bảy, tám tháng, ấy vậy mà một đứa
bé lại được sinh ra dưới mồ, người mẹ ngày ngày phải lên trần mua bánh khảo về
mớm cho con. Người bố nghe kể, đến đào mộ vợ ôm con về, nhưng hàng xóm ai
cũng sợ đứa bé do người chết sinh ra nên không dám đến gần, nói chi đến việc
cho bú nhờ. Người cha chịu cảnh gà trống nuôi con và ngày ngày cho đứa bé sơ
sinh ăn bằng cách mớm cơm, mớm cháo đến khi nó lớn.
Tình yêu chung thủy được các tác giả chú ý đề cập, đặc biệt là Vũ Trinh.
Trong bản giao hưởng nhiều sắc màu của Lan Trì kiến văn lục, đã nhiều lần
những bài tình ca ngọt ngào vang lên. Có bài ca ca ngợi thứ ái tình sau một đêm
gặp tưởng dễ phôi phai mà lại sâu nặng nghĩa tình giữa chàng nho sinh và cô gái
hủi trong Tháp báo ân, giữa cô gái và chàng trai nghèo trong Sống lại. Có bài ca
biểu dương tấm lòng đồng cam cộng khổ của vợ chồng cô ba trong Bà phu nhân
Lan Quận công; hay khúc hát bi thương đầy cảm động về tình yêu của người
chồng đối với vợ trong Con giải…
Vũ Phương Đề còn thông qua Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ (Công
dư tiệp kí) bộc lộ ý kiến chân thành của mình về thuyết thiện – ác ở đời: “… có
thể từ đó mà suy ra điều thiện ác, và người đời nghe chuyện không thể không
gắng gỏi làm điều thiện vậy”. Dĩ nhiên không phải tất cả những phẩm chất tốt
đẹp – những đức tính thuộc thiện của con người đều được thể hiện và ngợi ca
trong những truyện truyền kì này, nhưng những gì các tác giả đề cập đã bộc lộ rõ
sự quan tâm thực sự của họ đối với con người, bởi đó đều là những tính cách gần
gũi nhất, những phẩm chất bình dị nhất mà lại tỏa sáng nhân cách của chữ Người
theo đúng nghĩa.
2.4.1.2. Quan niệm mới về hạnh phúc
Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Trẻ, TpHCM, 1998) định nghĩa:
Hạnh phúc là một danh từ chỉ sự “gặp được nhiều sung sướng, toại nguyện” [16,
182]. Điều toại nguyện trong cuộc đời mỗi con người lại mỗi khác, có những
niềm hạnh phúc lớn lao nhưng cũng có những điều lại vô cùng giản dị. Trong
văn chương trung đại quen thuộc, hạnh phúc của nhân vật, của mỗi cá nhân
thường hòa trong niềm vui chung của đất nước, hòa với cái Ta rộng lớn, đó là
thứ hạnh phúc của những bậc vĩ nhân dành cả cuộc đời cho đất nước, hạnh phúc
khi đất nước hòa bình, dân chúng ấm no. Trong truyện truyền kì, chúng ta bắt
gặp những cung bậc rất phong phú mà rộng mở vô cùng của cung đàn hạnh
phúc.
Vẫn thấy rất nhiều trong những trang văn kì ảo hình bóng của thứ hạnh
phúc cuộc đời quen thuộc, đó là niềm vui khi được vinh danh trên bảng vàng,
được thỏa ước nguyện của chí làm trai sau bao năm đèn sách. Nốt nhạc hạnh
phúc này xuất phát từ quan niệm trung thành với Nho học, tiến thân bằng con
đường học vấn và phục vụ triều đình, gắn với đề tài thi cử vốn được đề cập rất
nhiều trong văn chương.
Nhưng ngược lại, cũng có những niềm hạnh phúc vượt ra ngoài lẽ “xuất,
xử, hành” của nhà Nho, vượt ra khỏi những khuôn khổ, lễ nghi, giáo điều của
triều đình phong kiến, ấy là niềm hạnh phúc mới mẻ mà Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng đã được trải nghiệm trong thời gian lui về ở ẩn, “tàng” giữa
chốn thiên nhiên. Lúc này, hạnh phúc nghĩa là được tự do tự tại làm những điều
mình muốn, đi đây đi đó, phiêu bồng thỏa chí. Phạm Viên là một nhân vật trở đi
trở lại trong nhiều truyện và rất tiêu biểu cho quan niệm này (như truyện Phạm
Viên trong Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh, Thành Đạo Tử, Ông Nguyễn
Hoàn, Ông Nguyễn Trọng Thường - Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ,
Nguyễn Án, Ông tiên Đông Thành trong Thoái thực kí văn của Trương Quốc
Dụng, Ông sư tiên núi Nưa – Sơn cư tạp thuật – Khuyết danh, và sau này
trong Chân nhân Phạm Viên – Nam thiên trân dị tập – Khuyết danh…). Cha
là Tiến sĩ triều đình, bản thân Phạm Viên cũng có nhiều cơ hội để nối nghiệp
cha, nhưng ông đã bỏ ý định tiến thân bằng con đường khoa hoạn, nghiền ngẫm
tinh thông các sách phương thuật, sau đắc đạo thành tiên, đi khắp nơi dạy học và
bốc thuốc chữa bệnh cứu người, thoắt ẩn thoắt hiện, đi mây về gió không ai biết
tung tích. Người có nhã ý muốn tìm gặp ông quả là không gặp được, chỉ có hữu
duyên thì gặp mà thôi.
Hạnh phúc cũng không còn chỉ là điều đạt được do ta hoạch định và phấn
đấu trong một thời gian dài nữa, mà có thứ hạnh phúc bất ngờ, hạnh phúc ngắn
ngủi nhưng thực sự để lại ấn tượng sâu sắc. Đó là phút giây hạnh phúc của người
đàn bà góa và ông khách qua đường, để rồi sau lúc đó người đàn ông chết, họ
không bao giờ được gặp nhau nữa, nhưng dư âm để lại chính là người con trai tài
năng nổi bật Trạng nguyên Giáp Hải (Nhận ra mẹ đẻ - Công dư tiệp kí – Vũ
Phương Đề). Đó là giây phút hạnh phúc ngất ngây của cô gái hủi và chàng thư
sinh trên đường ứng thí, cũng chỉ có đêm đó họ được gần nhau, sau đó cô gái qua
đời thành hồn ma giúp chàng thi đỗ, chàng trai trở thành viên quan triều đình,
nhưng chàng vẫn lấy nghĩa vợ chồng đối đãi để trả cái tình và cái ơn cô (Tháp
báo ân – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh).
Hạnh phúc gia đình tưởng giản dị mà vô cùng khó xây đắp, điều cốt yếu
do sự chung thủy của con người, đặc biệt chung thủy với thứ hạnh phúc từ những
ngày còn hàn vi, như chàng trai trong Tháp báo ân, hay ông quan Vũ Công Đạo
trong Thủ khoa mặt đẹp (Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề) tuy sống trong vinh
hoa phú quí vẫn không mua nàng hầu, chỉ có mỗi một phu nhân xe tơ kết tóc từ
thưở hàn vi và lời tâm niệm “Ta dầu không theo kịp cổ nhân nhưng cũng chưa
hề phạm điều răn về hiếu sắc”.
Prômêtê từ thời cổ xưa đã được loài người sùng kính, nhà văn Hi Lạp cổ
đại là Etsinlơ đã viết vở bi kịch Prômêtê bị xiềng ca ngợi sức mạnh của tinh thần
đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của con người, vì con người… Các Mác trong
luận văn tiến sĩ đặc biệt ngợi ca Prômêtê, một hình ảnh của đau thương nhưng vô
cùng cao đẹp, là vị thánh và là người tử vì đạo cao thượng nhất trong lịch sử.
Prômêtê trở thành hóa thân của người kiên trì chính nghĩa, hiến thân cho lí
tưởng, phản kháng bạo ngược. Vị anh hùng đánh cắp lửa Prômêtê là người căm
thù bạo ngược, chủ trì chính nghĩa, muốn mưu lợi cho loài người, tuy bị trừng
phạt tàn khốc, nhưng ông vẫn kiên trì lí tưởng của mình: tìm cách để dành phần
thịt bò cho loài người, đánh cắp lửa thánh trên núi Ôlempơ đem giấu vào một
ống sậy rồi mang đến cho loài người.
Các nhà văn thời kì này đã biết đấu tranh cho sự tự do biểu hiện của con
người, chia sẻ và đi sâu vào việc phản ánh những tình cảm riêng tư của con
người, chứ không chỉ là những sự kiện trọng đại, những vấn đề chính luận,
những triết lí khô khan. Chính nhờ sự xuất hiện của những yếu tố rất cá nhân đó
mà vị thế của con người cá nhân trong văn học được nâng lên, đồng thời con
người cũng xuất hiện “người” hơn. Và để chúng ta hiểu được rằng, hạnh phúc
thực sự của một dân tộc, một đất nước xuất phát từ hạnh phúc (dù nhỏ bé) của
mỗi người dân, làm cho mỗi người dân được hạnh phúc.
2.4.1.3. Quan niệm về chữ “trinh”
Các câu chuyện về thánh nhân xưa thường né tránh vấn đề sắc dục, và coi
việc chống lại được sức cám dỗ của sắc dục là một biểu hiện cao nhất của thánh
nhân quân tử, vì vậy con người được xây dựng thường không giống những con
người phàm trần với những phẩm chất rất đời thường, đó là những con người
luôn luôn phải gồng mình, gượng ép mình trong một khuôn khổ, phải chống lại
bản năng tự nhiên của mình. Thậm chí, trong Truyền kì mạn lục, ở cuối một số
truyện, lời bình của Nguyễn Dữ mang nặng tính chất giáo huấn, phê phán lối
sống buông thả theo bản năng, như buông thả trong tình ái hoan lạc, không gắn
kết với mục đích hôn nhân.
Các tác giả xưa tránh né vấn đề sắc dục theo bản năng, kiên quyết bảo vệ
“chữ trinh đáng giá nghìn vàng” của người phụ nữ. Vì thế, trong tác phẩm của
họ, đa số những người phụ nữ dùng nhan sắc để nói chuyện với thiên hạ thì đều
phải núp trong hình bóng của những yêu ma, chứ người phụ nữ bình thường
trong xã hội không thể làm việc ấy, nghĩa là để tình cảm lộ liễu hoặc có sự đụng
chạm xác thịt với đàn ông không phải là chồng mình. Nếu tác giả để cho họ gặp
phải hoàn cảnh bị cưỡng bức thì cũng phải tạo cho họ sự xấu hổ đến mức tự tử
hoặc bị dằn vặt đến chết.
Vậy mà trong những tập truyền kì giai đoạn này ta bắt gặp những câu
chuyện thật mạnh mẽ, bạo gan. Trong Nhận ra mẹ đẻ - Công dư tiệp kí, Vũ
Phương Đề đã xây dựng một hoàn cảnh lí tưởng (đêm mưa to gió lớn, trời lạnh,
lại chỉ có manh chiếu đắp chung) để người đàn bà góa và người đàn ông lỡ độ
đường không chiến thắng được “sắc dục”. Mẹ của Trạng nguyên Giáp Hải ăn
nằm với một người qua đường ngẫu nhiên mà sinh ra ông, thực ra đó là một
trong muôn vàn câu chuyện đời có thực. Nhưng thời bấy giờ, đó là một điều cấm
kị, chính sự xuất hiện của yếu tố cấm kị này làm cho những câu chuyện vốn
ngắn ngủi, nghèo nàn chi tiết thêm phần sinh động. Trong Tháp báo ân – Lan
Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng để cho hai nhân vật lí tưởng của ông (nho sinh
và thiếu nữ) giao hoan ngay khi vừa gặp nhau.
Nhưng không giống như các yêu nữ trong truyền kì xưa, các nhân vật nữ
này không tìm vui trong thú ái ân, họ coi trọng chữ trinh, biết giữ gìn trinh tiết
của mình, nhưng đồng thời họ cũng coi trọng những giờ phút hiến dâng tất cả ấy.
Bởi với họ đó là những giây phút hạnh phúc nhất, có khi còn là duy nhất trong
cuộc đời: người đàn ông trong Nhận ra mẹ đẻ bị hàn thấp ngộ phòng qua đời
ngay sau đó, còn cô gái trong Tháp báo ân cũng sầu muộn mà chết.
Các tác giả truyền kì cũng đã mạnh tay nhiều lần để danh dự và trinh tiết
của người phụ nữ bị xâm hại. Mẹ của Đinh Tiên Hoàng bị rái cá bức có thai sinh
ra ông (Chôn xương bụng ngựa – Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề). Người
phụ nữ bị rắn, khỉ cưỡng bức và sinh con với chúng (Con lai rắn, Chuyện khỉ -
Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh). Sự trong sạch của những người phụ nữ
không chỉ do loài vật làm vấy bẩn, mà thậm chí cả đến pho tượng Phật cũng có
hành động bức hại tương tự (được phản ánh trong Tượng Già lam ở ngôi chùa
ngoài đồng – Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án). Có thể
nói, các tác giả đã có cái nhìn khá thẳng thắn và mạnh bạo trong chuyện này, họ
vừa ca ngợi vẻ đẹp và sức hấp dẫn của người phụ nữ, vừa phơi bày hiện tượng
gặp rất nhiều trong cuộc sống mà lại là địa hạt tế nhị khiến văn chương truyền
thống phải tránh xa, đồng thời bày tỏ sự thông cảm, niềm thương yêu đối với
những người phụ nữ.
Đặc biệt, hình ảnh những cô đào xuất hiện trong Cô đào họ Nguyễn và
Con giải (Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) thể hiện quan điểm tiến bộ và cách
mạng sâu sắc của nhà văn – nhà nho truyền thống trong cách nhìn con người và
cuộc đời. Hạng người vẫn bị thiên hạ khinh bỉ, cho là làm cái nghề đánh mất tiết
sạch giá trong của người phụ nữ, cũng có quyền được hạnh phúc, có gia đình và
người chồng hết lòng yêu thương, có quyền được trả thù khi bị bức hại (Con
giải). Thậm chí, Vũ Trinh còn thẳng thắn ca ngợi cô đào họ Nguyễn – một cô gái
dưới đáy xã hội: “Đó là người đàn bà có tâm hào khí, khó tìm thấy trong giới
quần thoa”. Đưa vào văn chương hình ảnh một cô đào hát đầy nghĩa khí, trọng
học vấn và thanh sạch – những tính cách tưởng chỉ thấy ở những người đàn bà
thân phận cao sang – tác giả đã thành công trong việc thanh minh cho những
người con gái bị xã hội đưa đẩy ấy.
Bấy nhiêu chi tiết thôi cũng đủ để khẳng định các tác giả thời kì này vừa
thoáng vừa tiến bộ hơn trong quan niệm về ái tình nhục dục và về khái niệm
trinh tiết của người phụ nữ. Quan tâm đến thân phận con người với những cái
nhìn đầy rộng mở và tiến bộ như thế, lẽ dĩ nhiên các nhà văn truyền kì không thể
bỏ qua việc phản ánh kĩ lưỡng số phận con người, đặc biệt là những con người
bất hạnh.
2.4.2. Phản ánh số phận con người
Văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX hướng về
khẳng định con người cá nhân. Văn học giai đoạn này đã có bước chuyển biến
đặc biệt với nhiều đổi mới, trong đó một thành tựu quan trọng nhất chính là xây
dựng được các nhân vật cụ thể. Cuộc sống xã hội không còn chỉ được miêu tả
với những xóm làng, những tập thể, cộng đồng hay con người vô danh mà các
tác giả văn học đã lấy con người làm xuất phát điểm để suy nghĩ về các vấn đề
của cuộc sống, xã hội nói chung. Thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, cùng với
văn học dân tộc, truyện truyền kì cũng bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn
văn học chuyển biến từ những mối quan tâm đặc biệt đến đạo đức, luân lí sang
việc chú ý nhiều hơn đến cuộc sống con người, đặc biệt là những con người bất
hạnh và người phụ nữ.
2.4.2.1. Con người bất hạnh
Đây là một chủ đề mới và quan trọng của truyện ngắn truyền kì giai đoạn
này. Những con người bất hạnh rất dễ nhận được sự đồng cảm trong cuộc đời
thường, nhưng trong những trang văn giai đoạn trước, các tác giả trung đại e dè
trước việc phản ánh hình ảnh họ. Phải đến thế kỉ XVIII, cùng với sự xuất hiện
đậm đặc của chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương, thì số phận những con người
bất hạnh mới được nói đến, và bắt đầu từ đây, trở thành một đề tài được nhiều
nhà văn quan tâm.
Xét trong mạch chảy ấy, thì thấy rõ các tác giả truyền kì có một vai trò
không nhỏ trong việc phản ánh và bênh vực những con người bất hạnh, mà trong
quan niệm của họ, đó là những tài tử giai nhân có tài có sắc đi kèm có họa, hoặc
những con người nhỏ bé, bình thường trong xã hội.
a) Tài tử giai nhân
Mĩ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
(Người đẹp từ xưa đã như những vị tướng tài
Không dám hẹn với nhân gian đến lúc bạc đầu)
Không biết từ bao giờ người ta đã khoác lên số phận tài tử giai nhân
những câu như là định mệnh ấy. Đã là giai nhân thì ắt hẳn “Hồng nhan bạc
mệnh”, “Hồng nhan đa truân”, đã là tài tử thì phải chịu cảnh “Quân tử đa cùng”.
Và sau này, dù trong thời hiện đại người ta vẫn còn rất tâm đắc với lí thuyết ấy.
Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng: “Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã
định thế trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào khác được”.
Chàng thư sinh họ Đào trong Con chó nhà giàu có nghĩa (Tân truyền kì
lục – Phạm Quí Thích) là một điển hình tiêu biểu cho phận “đa cùng” của người
tài tử. Chàng “thật xứng bậc vĩ nhân đất Bắc”, được người bấy giờ khen là “bậc
chủ soái trong làng thơ văn”, nhưng gặp lúc thời thế loạn lạc, nước nhà thay
ngôi đổi chủ, lại mùa màng thất bát liên miên, mấy năm liền đói kém, chàng
chán ngán buông chí giang hồ, không màng sản nghiệp, dạo bước khắp nơi rồi
xin làm anh giáo cho một nhà giàu, bị đối xử bạc bẽo nhưng vẫn lấy việc dạy học
trò và việc làm thơ làm vui thú. Còn lận đận trong thi cử thì đến như ông Nguyễn
Thực (Bà phu nhân Lan Quận công – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) có tài
nhưng nhà nghèo phải đi làm thuê mướn cho người, rồi vận xui thi mấy lần
không đỗ, ngoài ba chục tuổi vẫn là ông Cử nghèo. Hai vợ chồng bị họ hàng
khinh ghẻ, đi đâu cũng lủi thủi, đến nỗi “bọn trẻ con trong xóm và đám đàn bà
nuôi tằm cũng lạnh nhạt”, “kẻ ăn người làm cũng chế giễu”, ước mơ có tên trên
bảng vàng cũng nguội dần.
Tuy nhiên, điều các nhà văn quan tâm nhiều hơn vẫn là những người có tài
có sắc nhưng bạc mệnh như mẫu hình các nhân vật nữ xuất hiện trong sáng tác
của Nguyễn Du, Phạm Thái. Từ cổ chí kim đã có bao nhiêu câu chuyện truyền
về sức mạnh của giai nhân: Giai nhân chẳng cần võ tinh văn thạo cũng nắm được
binh quyền, chẳng cần súng gươm cũng có thể giết được tướng tài quân mạnh.
Nhưng cũng có những truyền thuyết bất hủ về sự bạc mệnh của giai nhân: Giai
nhân không phải là những vị tướng yểu mạng trên sa trường, nhưng họ vẫn phải
vận vào mình cái thuyết yểu mạng ấy, vì nhiều lí do, vì những sóng gió xung
quanh cuộc đời họ.
Trong Chuyện quan Quận ở Liên Hồ (Lan Trì kiến văn lục), Vũ Trinh
cảm phục cô con gái nhà quan “thông minh sáng dạ, bài học qua mắt đã thuộc,
thật là tài sắc vẹn toàn”, nàng xinh đẹp, tài năng, hiền thục, lại con nhà gia thế,
là một hình mẫu thiếu nữ lí tưởng, ai cũng nghĩ nhà nào phúc đức lắm mới có thể
lấy được nàng. Vậy mà hai mươi năm sau gặp lại, số phận đã đẩy nàng phải làm
vợ hai, rồi trở thành bà góa mất chồng mất con một thân lưu lạc…
Cùng chung một kiếp truân chuyên ấy, nhưng ả đào lại là một loại nhân
vật văn hóa đặc biệt, bắt đầu xuất hiện dày đặc trong văn học thế kỉ XVIII – đầu
thế kỉ XX, cùng với sự bùng nổ hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại
với cùng số phận: sắc tài mà bạc mệnh. Họ có những mối quan hệ khá nhạy cảm
với giới văn nhân tài tử, nhưng sống giữa những biến chuyển kinh hoàng của
thời đại, những mối quan hệ nhạy cảm ấy không mang lại cho họ gì hơn là sự dở
dang, bất hạnh. Cô đào trong Con giải kết thúc cuộc đời bằng cái chết thảm
trong bụng con vật ác, Cô đào họ Nguyễn xinh đẹp, trọng tài trọng nghĩa mà
sống cả đời ô nhục và khổ vì tình duyên, cũng bởi thân phận kĩ nữ của mình
(Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh).
Thơ hiện đại ngày nay cũng nói nhiều về những điều bạc mệnh ấy:
Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai
Phải chăng khi viết về chủ đề những người tài mà bạc mệnh, các tác giả
muốn gửi gắm nỗi niềm riêng vào trong sáng tác của mình – những con người tài
cao chí cả mà không gặp thời, tiêu biểu như Vũ Trinh. Cả đời ông tận tâm phò
vua với ước mong giúp nước, nhưng tiếc thay Lê Chiêu Thống lại không phải là
một vị vua sáng như ông hằng mơ ước, để trong các sáng tác của mình, ông mãi
day dứt về một triều đại vua sáng tôi hiền nhân dân hạnh phúc.
b) Thường dân bất hạnh
Hạnh phúc cũng như khổ đau không phân biệt kẻ giàu người nghèo, không
phân biệt sang hèn, người xinh kẻ xấu, mỗi người đều có thể gặp bất hạnh của
riêng mình.
Trong xã hội còn lạc hậu thời phong kiến, chúng ta bắt gặp rất nhiều hoàn
cảnh bất hạnh và những số phận đáng được cảm thương. Rất nhiều người nông
dân bị cuốn vào vòng xoáy vũ bão của lịch sử: họ bị bắt đi lính (Người nông
phu ở An Mô – Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án); bị họa
chết oan và đói khát do nạn binh đao (Dốc lôi thủ - Lan Trì kiến văn lục – Vũ
Trinh, Người nông phu ở Như Kinh – Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ
và Nguyễn Án…). Rồi lại có người em khốn khổ, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ,
bị người anh tham lam bủn xỉn, chị dâu tàn ác hung bạo chiếm hết tài sản rồi bắt
ra ở riêng. Anh đi làm mướn, kiếm củi cũng chỉ đủ sống qua ngày, không có tiền
mà cưới vợ (Ông tiên ăn mày – Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh).
Hình ảnh những người mẹ, người vợ bất hạnh cứ ám ảnh mãi tâm trí người
đọc. Vũ Phương Đề miêu tả sự bất hạnh của hai người phụ nữ trong một gia đình
do người chồng, người con độc ác gây ra. Người vợ lỡ tay làm chết con gà yêu
của chồng, sợ hãi sinh ra ốm. Mẹ chồng thương quá mới nhận tội thay, ai ngờ
thằng con bất hiếu “một tay vác cuốc, một tay túm tóc mẹ lôi ra bãi tha ma ở đầu
làng”, bắt mẹ ngồi xuống rồi định quật đất lên chôn mẹ (Ác báo – Công dư tiệp
kí). Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục cũng tỏ ra đồng cảm với hoàn cảnh bất
hạnh ấy của những người vợ, người mẹ: cô gái xinh dẹp, ngoan hiền không lấy
được người mình yêu do chàng trai nghèo khó, cô bị bố mẹ ép gả cho nhà giàu,
rồi bị ông chồng vũ phu thất học đánh chết do sự ghen tuông vô cớ (Sống lại);
Người mẹ nghèo sinh con sau khi đã chết, không có sữa, không có tiền nên ngày
ngày phải hiện lên mua bánh khảo bên đường về mớm cho con (Sinh đẻ kì lạ).
Ám ảnh nhất là hình ảnh những đứa trẻ bất hạnh. Trong Sinh đẻ kì lạ là
đứa trẻ từ bé tới lớn chưa một lần được uống dòng sữa mẹ. Em sinh ra dưới mồ,
được người mẹ ma ngày ngày mớm bánh khảo cho ăn, sau này người bố đón về
nuôi thì cũng không ai dám tới gần cho em bú vì sợ âm khí, nhà lại nghèo không
có tiền mua sữa, hàng ngày người bố phải mớm cớm, mớm cháo cho em. Trong
Con hổ nghĩa hiệp (Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh) lại là đứa bé tội nghiệp bị
người cha độc ác ném vào rừng cho hổ ăn thịt. Vì lão muốn lấy vợ hai nên đã
bạc đãi vứt bỏ em, may được hổ nhân từ đưa em về trong vòng tay chăm sóc của
bà ngoại già yếu.
Yêu thương con người, quan tâm đến hạnh phúc và những nỗi niềm rất
riêng tư của mỗi con người – từ những người xinh đẹp, giàu có, đến những người
nghèo bất hạnh – là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo và phong
trào thực học trong văn học giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Trong
văn học các giai đoạn trước, con người xuất hiện thông qua hình ảnh nhân vật
chính thường dựa vào lí tưởng của đạo Phật, Nho để đạt tới mục tiêu trở thành
người chính nhân quân tử, vì thế người đàn ông chiếm vị trí chủ đạo trong đời
sống văn học, là nhân vật chính. Sang thế kỉ XVIII, nhân vật chính trong văn học
lại là người phụ nữ, có những tác giả là đàn ông viết về phụ nữ và cả những
người phụ nữ tự viết về giới mình – giới bất hạnh nhất, phải chăng là thế?
2.4.2.2. Số phận người phụ nữ
Từ xưa đến nay, hình ảnh người phụ nữ với tất cả vẻ đẹp, nhân cách, tâm
lí… luôn là đề tài dành được sự ưu ái đặc biệt của các nhà văn, và họ xứng đáng
được hưởng sự ưu ái ấy. Trong Văn học Trung Quốc, Dương gia phủ diễn
nghĩa xuất hiện đời Minh đã miêu tả các nữ tướng họ Dương rất sinh động, sáng
tạo rất nhiều hình tượng anh hùng nữ giới mà tiêu biểu là Mộc Quế Anh, có ý
nghĩa mở đường cho lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc. Đến nửa cuối đời Thanh,
xuất hiện Kính hoa duyên là một bộ tiểu thuyết trường thiên nổi tiếng, tác phẩm
cuối đời của Lí Nhữ Chân. Nửa phần đầu của bộ sách miêu tả những truyện lạ kì
mà hai cha con Đường Ngạo và Đường Tiểu Sơn lần lượt du lịch hơn bốn mươi
nước biết được. Đoạn miêu tả về nước phụ nữ, nhiệt tình ngợi ca phụ nữ thông
minh tài trí, bày tỏ sự phê bình đối với việc trọng nam khinh nữ thể hiện một tinh
thần dân chủ.
Nhưng dường như trong văn chương Việt Nam thời trung đại, viết về nữ
giới còn là một đề tài khá nhạy cảm, chính bởi thân phận bé nhỏ và khuất lấp của
nữ giới trong xã hội còn bất bình đẳng thời bấy giờ. Nhà văn lớn Nguyễn Du đã
khái quát về số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến bằng những
câu thơ bất hủ trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Và
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu
Cùng với thời gian, đã có nhiều kiểu chân dung phụ nữ khác nhau xuất
hiện trong văn chương, anh hùng liệt nữ như trong những trang viết bác học của
Đoàn Thị Điểm, nhân hậu giản dị trong những câu chuyện Vũ Trinh kể lại…
a) Người phụ nữ trong “Truyền kì tân phả”
Cùng với Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm đã góp
thêm vẻ kiên cường và tài năng cho giới nữ. Sinh thời, bà nổi tiếng về tài thơ
văn, ứng đối, hiện vẫn còn truyền tụng nhiều giai thoại. Khi bà mất, trong bài
văn tế, Nguyễn Kiều đã so tài thơ ca của bà ngang với Tô tiểu muội, Ban Chiêu
ở Trung Quốc.
Truyền kì tân phả còn gọi là Tục truyền kì, là tác phẩm chữ Hán của
Đoàn Thị Điểm. Vấn đề văn bản của Truyền kì tân phả hết sức phức tạp, đến
nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Tư liệu hiện còn tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm có bản mang tên Tục truyền kì, có bản mang tên Truyền kì tân phả. Các
bản chép số lượng các truyện không hoàn toàn tương đồng nhưng nội dung các
truyện sai khác không lớn. Trong Tang thương ngẫu lục (Nguyễn công Kiều á
phu nhân – Vợ thứ của ông Nguyễn Kiều), Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đã
viết rằng: “Bà (Đoàn Thị Điểm) có làm ra tập Tục truyền kì, trong có 3 truyện
Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An Ấp liệt nữ còn lưu hành ở đời”. Nhưng
Phan Huy Chú – tác giả bộ Lịch triều hiến chương loại chí – lại cho biết Tục
truyền kì của Đoàn Thị Điểm có 6 truyện, gồm: 1. Bích Câu kì ngộ, 2. Hải khẩu
linh từ, 3. Vân Cát thần nữ, 4. Hoành Sơn tiên cục, 5. An Ấp liệt nữ, 6. Nghĩa
khuyển nhất miêu. Cũng theo họ Phan sách này đã thất truyền. Theo gia phả họ
Đoàn, sách gồm sáu truyện: Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An Ấp liệt nữ,
Bích Câu kì ngộ, Yến Anh đối thoại, Long Hổ đấu kì nhưng chỉ có ba truyện đầu
là của Đoàn Thị Điểm, còn ba truyện sau là của người khác (như trường hợp
Bích Câu kì ngộ thì có nhiều ý kiến khác nhau: Hoàng Xuân Hãn trong sách
Chinh phụ ngâm bị khảo cho là của Đặng Trần Côn; Trần Văn Giáp trong Bích
Câu kì ngộ khảo thích lại cho là của một tác giả khuyết danh…). Do vấn đề văn
bản quá phức tạp, nhất thời khó có thể minh xác được nên ở đây chúng tôi tạm
theo Phạm Đình Hổ và gia phả gia đình bà, nghĩa là luận văn sẽ chỉ khảo sát tạm
thời ba truyện Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ và An Ấp liệt nữ.
Những truyện ấy chứa đựng những yếu tố thần kì theo kiểu Truyền kì đời
Đường, nhưng chép những chuyện lạ ở Việt Nam. Hải khẩu linh từ (Truyện
đền thiêng ở cửa bể) là chuyện về nữ thần Chế Thống, tức Nguyễn Thị Bích
Châu, cung phi của Trần Duệ Tông (thế kỉ XIV) đã hi sinh thân mình để nhà vua
được an toàn đưa chiến thuyền vào đánh quân Chiêm. Vân Cát thần nữ (Truyện
nữ thần ở Vân Cát) là chuyện về bà chúa Liễu Hạnh, một nhân vật huyền thoại có
nhiều quyền năng siêu phàm, một trong bốn vị "anh hùng văn hoá" tứ bất tử của
Việt Nam, cùng với Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử. An Ấp liệt nữ
(Truyện người liệt nữ ở An Ấp) là chuyện vợ bé ông Đinh Nho Hoàn tuẫn tiết
theo chồng. Những chuyện của Đoàn Thị Điểm xây dựng từ những nhân vật có
thật trong lịch sử hoặc theo truyền thuyết dân gian, đều có ý thức đề cao người
phụ nữ, thể hiện rõ lí tưởng theo đạo Mẫu.
Những người phụ nữ trong Truyền kì tân phả đều là những liệt nữ, các vị
thánh mẫu hiển linh được thờ cúng trong dân gian. Họ có nhiều đặc điểm chung:
lúc còn sống đều xinh đẹp, thông minh hết mực, hiểu biết, giỏi tài văn thơ ứng
đối, khi chết thì kì lạ, hiển linh giúp đời.
Nàng Bích Châu (Truyện đền thiêng ở cửa bể) “tính tình đứng đắn, tư
dung xinh đẹp, thông hiểu âm luật Lê Viên, theo đôi văn từ Nghệ Phố”, nhiều lần
đối họa và khuyên can nhà vua, khiến vua hết lòng yêu quí và khâm phục:
“Không ngờ một nữ nhi lại thông tuệ đến thế! Thật là một Từ Phi ở trong cung
của trẫm vậy”. Người liệt nữ ở An Ấp “nghi dung thanh nhã, cử chỉ đoan trang,
thêu thùa khâu vá rất khéo, lại giỏi văn thơ”, thường cùng chồng xướng họa,
được ông vừa yêu vừa kính trọng: “Lời thơ tao nhã, ngụ ý sâu xa, đời xưa khen
Khương Hậu và Từ Phi cũng chưa là tột bực vậy”. Truyện nữ thần ở Vân Cát
kể về cuộc đời mấy kiếp tái sinh luân hồi của tiên nữ Giáng Tiên xinh như hoa
như ngọc, thông thạo văn thơ, thổi tiêu gẩy đàn rất mê hoặc lòng người, sánh
cùng các tài nữ thời xưa.
Xinh đẹp và giỏi giang nhường ấy, nhưng các nàng không bằng lòng với
cuộc sống êm êm, nhạt nhòa vô nghĩa mà đều tự chọn cho mình một con đường
sống ngắn ngủi nhưng đầy vinh quang.
Nàng Bích Châu khuyên can vua không được, đã dũng cảm hi sinh thân
mình để cứu vua và cả đoàn thuyền thoát khỏi thủy họa, giúp vua đánh thắng
giặc Chiêm. Sau này nàng hiển linh và được sắc phong thần, lập đền thờ phụng
quanh năm (Truyện đền thiêng ở cửa bể). Người liệt nữ ở An Ấp tuẫn tiết theo
chồng, được triều đình cho lập đền thờ, nhân dân cầu đảo đều linh ứng. Nàng
còn hiển linh đàm đạo trôi chảy với nho sinh họ Hà về lẽ sống và bảo vệ được
danh tiết cho chồng. Nữ thần ở Vân Cát – Tiên chúa hết hạn đi đày phải về trời
nhưng vẫn lưu luyến dương gian, nhiều lần trở lại thăm chồng và cha mẹ, đề thơ
xướng họa ở nhiều nơi nàng đi qua và đem lại phúc đức cho con người, cảnh vật:
“Tiên chúa thường hiển linh, người lành được phúc, kẻ ác bị tai vạ”, cây cối
xanh tươi, nước chảy quanh năm… Nhân dân và triều đình lập đền thờ, sắc
phong cho là “Mã Hoàng Công Chúa”, lại giúp vua đánh giặc nên được gia tặng
“Chế Thắng Hòa diệu Đại Vương” hưởng sự thờ phụng ngàn năm.
Thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Đoàn Thị Điểm rất anh hùng, cao
cả, gợi lên trong lòng người đọc cảm giác kính trọng, nể phục và choáng ngợp.
Ngược lại, thế giới phụ nữ trong tác phẩm của Vũ Trinh lại bình dị, đáng yêu
đáng mến, có cả xót thương.
b) Người phụ nữ trong “Lan Trì kiến văn lục”
Lan Trì kiến văn lục là tập ghi chép những điều "tai nghe mắt thấy" bằng
chữ Hán của Vũ Trinh (thế kỉ XVIII), gồm 45 truyện tản mạn, viết sơ sài, không
chủ ý "làm văn chương". Lan Trì kiến văn lục có phần trùng tên với sách của
Lê Quý Đôn là Kiến văn tiểu lục, nhưng Lê Quý Đôn thiên về kiến thức, còn
Vũ Trinh thiên về những truyện li kì quái dị. Ngoài ra nó còn có nhiều điểm
giống Vũ trung tuỳ bút (của Phạm Đình Hổ) và Tang thương ngẫu lục (của
Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án) xuất hiện về sau.
Khảo sát các loại nhân vật (thần tiên, ma quỉ, nam giới, phụ nữ, trẻ em, loài vật) trong 39 truyện 10, ta thấy nhân vật phụ nữ xuất hiện với tần suất tương
đối lớn.
Có vẻ như Vũ Trinh đã dành sự ưu ái khá lớn cho phụ nữ, bởi không có
người phụ nữ nào được miêu tả xấu xa tàn ác trong tác phẩm của ông, xấu nhất
10 Xem chi tiết trong bảng phụ lục 3: Khảo sát loại nhân vật trong Lan Trì kiến văn lục
chỉ có yêu ma cây đa hay dọa nạt người yếu bóng vía (Yêu quái trên cây), trong
khi các nhân vật nam có kẻ cờ bạc, rượu chè (người anh phá gia bại sản trong
Chuyện quan Quận ở Liên Hồ), có kẻ vũ phu (người chồng đánh chết vợ trong
Sống lại), có kẻ tham lam (người anh trong Ông tiên ăn mày), có người dốt
(Ông Nguyễn Trật)…
Khác với các tác giả truyền kì giai đoạn trước, nếu như người phụ nữ
trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chủ yếu thuộc tầng lớp trung lưu hoặc
ma quỉ thì người phụ nữ trong sáng tác của Vũ Trinh lại khá đa dạng: có người
giàu (tiểu thư con quan trong Chuyện quan Quận ở Liên Hồ, con gái phú ông
trong Chuyện tình ở Thanh Trì, hay Bà phu nhân Lan Quận công…), có
người phong lưu (cô đào hát trong Cô đào họ Nguyễn, Con giải), có người
nghèo (người mẹ trong Sinh đẻ kì lạ, người vợ trong Sống lại…). Người phụ nữ
bình dân nghèo đã thực sự xuất hiện trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh,
và dưới ngòi bút của ông, những con người nhỏ bé, bình dị, bất hạnh ấy lại sáng
ngời phẩm chất tốt đẹp hơn ai hết, những phẩm chất đáng trân trọng của tình
mẫu tử thiết tha, sự thủy chung son sắt và giữ gìn tiết hạnh đoan trang.
Nhìn một cách khái quát thì nhân vật nữ trong Lan Trì kiến văn lục có
nhiều ưu điểm. Họ là những cô gái xinh xắn, ưa nhìn, có con mắt tinh đời, thông
minh mà hiền thục và cũng hết sức mạnh mẽ, chủ động trong việc tìm kiếm hạnh
phúc. Đặc biệt trong tình yêu, họ là những người chung tình, có lòng tự trọng và
giàu đức vị tha [41, 68]. Trước khi trở thành Bà phu nhân Lan Quận công, cô
ba con quan Thượng thư về hưu đã nhận lời theo chồng từ những ngày chàng
còn nghèo cầu bơ cầu bất và lận đận mấy lần không thi đỗ, nhưng nàng vẫn
không oán trách nửa lời, mà “bỏ hết đồ xa hoa, mặc quần áo vải, tự xách nước,
chồng học, vợ dệt, nửa đêm vẫn chưa đi ngủ”. Sau bao vất vả, cuối cùng chồng
nàng cũng thành danh, công lao và niềm tin của nàng được đền đáp, con cháu
cũng vinh hiển tới tận bây giờ. Con gái phú ông trong Chuyện tình ở Thanh Trì,
cảm tiếng hát và vẻ tuấn tú của anh chèo đò, mới tặng chiếc khăn và giục cho
người đến làm mai mối, biết chàng nghèo còn ngầm đưa tiền cho để làm lễ cưới.
Nhưng cha nàng không đồng ý, buông lời xúc phạm khiến chàng trai tức giận bỏ
đi, quyết chí làm giàu. Cô gái ở nhà héo hon vì buồn rầu, mang bệnh mà chết,
trong bụng còn kết một vật lửa đốt không cháy, búa đập không vỡ, có hình anh
lái đò tựa mạn chèo hát. Khi anh lái đò có nhiều tiền, trở về quê hỏi cưới mới
biết chuyện, nước mắt chàng rơi xuống làm tan chảy cục đá – vật minh chứng
cho tình yêu và sự mạnh mẽ của cô gái.
Có rất nhiều mẩu chuyện ca ngợi những người phụ nữ dù bị cuộc sống xô
đẩy vẫn giữ được phẩm hạnh tốt đẹp của chính mình. Họ là những người giàu
lòng hi sinh và tấm lòng nhân ái. Cô tiểu thư đài các xinh đẹp, nết na, nhưng vì
có người anh hư hỏng, nên phải chịu cảnh làm lẽ người cai lính già, chẳng được
bao lâu thì trở thành gái góa, không tiền, không người thân. Nhưng nàng không
làm mình vấy bẩn mà may thuê vá mướn kiếm ăn và hi vọng có ngày tìm được
về quê hương nhìn mộ phần của cha (Chuyện quan Quận ở Liên Hồ). Cô gái
trong Sống lại không lấy được người mình yêu, bị cha mẹ ép gả cho nhà giàu,
nhưng vẫn tròn đạo làm vợ và giữ được tình cảm trong sáng với người yêu xưa.
Chính nhờ sự thanh sạch và đáng yêu của nàng mà quan xử kiện đã trả nàng về
với anh nho sinh nghèo, đồng thời phạt anh chồng giàu có mà vũ phu.
Trong một loạt loại hình nhân vật nữ, cuối cùng sự lựa chọn của Vũ Trinh
cũng có lúc dừng lại nơi hình tượng người ca nhi, kĩ nữ, ả đào – loại nhân vật bị
xã hội Nho giáo truyền thống coi rẻ nhất. Cô đào họ Nguyễn “tuổi chừng mười
bảy, mười tám, rất đẹp, giọng hát cực hay, mỗi khi ra sân cất giọng lên là người
nghe đều điên đảo, không thể tự kìm mình được, khăn vấn đầu và tiền bạc ném
ra thưởng để đầy một bàn”. Giữa chốn đông người, nàng nhận ra “anh hùng lưu
lạc” Vũ Khâm Lân thưở chưa có tên trong bảng vàng và thường xuyên giúp đỡ,
chăm sóc ông chẳng khác nào vợ chồng, nhưng tuyệt nhiên cự tuyệt chuyện chăn
gối. Khi ông đỗ đạt, cha ông bắt lấy con nhà thế tộc, nàng kĩ nữ biết chuyện bỏ
đi. Trải qua mấy năm, khi có dịp gặp lại, ông đem tiền bạc ra tặng nhưng nàng
kiên quyết chối từ. Với những phẩm chất đáng trân trọng như thế, một nàng kĩ
nữ vẫn có quyền được hưởng hạnh phúc gia đình, được có một người chồng yêu
thương mình hết mực (như tình yêu của vợ chồng đào hát trong Con giải).
Người đọc có một ấn tượng tốt đẹp về thế giới nhân vật nữ xuất hiện trong
sáng tác của Vũ Trinh bởi vẻ đẹp thuần phác về ngoại hình và tính cách. Họ
không xinh đẹp kiêu sa và nổi bật, không có tài năng vượt trội, nhưng họ để lại
cho người đọc một cảm giác dễ chịu, đáng yêu. Trong Truyền kì mạn lục,
Nguyễn Dữ đã không có được hình tượng người phụ nữ hạnh phúc. Trái với cái
nhìn khắt khe ấy, người phụ nữ trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh đã tìm
được hạnh phúc của mình (Sống lại, Con giải, Bà phu nhân Lan Quận công…)
* Tiểu kết (chương 2)
Trong chương 2 cũng là một chương quan trọng nhất của luận văn: Những
xu hướng mới trong nội dung phản ánh, chúng tôi đã nêu lên một vài xu
hướng mới trong nội dung phản ánh của truyện truyền kì Việt Nam giai đoạn thế
kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Sự chuyển hướng trong tư tưởng (ngoài việc
trung thành với lí tưởng Nho gia, các nhà văn còn bị ám ảnh bởi cõi lòng hoài Lê
và tư tưởng giải thoát của Lão – Trang) cùng với những thay đổi trong đề tài
(gắn với đời sống thế sự) không những đã kéo truyền kì giai đoạn này hòa cùng
dòng chảy của chủ nghĩa nhân đạo thời đại mà còn tịnh tiến nó tới gần hơn với
chủ nghĩa hiện thực trong văn học hiện đại. Xu hướng viết về người thật (những
nhân vật lịch sử, những con người xung quanh), vật thật và những sự việc có thật
khiến những trang văn vốn dĩ nặng tính chất kì ảo lại nghiêng về khảo cứu, học
thuật. Không còn nặng tính hoang đường kì ảo, nhiều ma lắm quái, không nặng
màu sắc giáo điều như truyền kì truyền thống, truyền kì giai đoạn này “người”
hơn, nhẹ nhàng và chia sẻ hơn. Đặc biệt là mảng viết về con người, những con
người thánh nhân quân tử, những con người của lịch sử hoặc những con người
bình phàm có số phận bất hạnh. Cũng xuất hiện những quan niệm và loại hình
nhân vật mới (như quan niệm về hạnh phúc, về chữ “trinh”, nhân vật trẻ con, ả
đào…).
Tất cả những nội dung ấy được nâng đỡ một cách phù hợp bằng đôi cánh
của nghệ thuật biểu hiện, mà chúng tôi sẽ trình bày tiếp trong chương 3: Những
đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện.
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
3.1. Chuyển đổi giữa “kì - thực”
Cái kì vốn là một phạm trù của mĩ học Trung Hoa cổ đại, là đặc thù tư duy
của một giai đoạn lịch sử. Trong phần 1.1.1.1, khi xác định Yếu tố kì ảo và Văn
học kì ảo, chúng tôi cũng đã khẳng định rằng: yếu tố không thể thiếu của truyền
kì mà hầu hết các nhà làm từ điển đều quan tâm, đó là yếu tố “kì” (lạ). Trung
Hoa văn hóa đại từ hải cho rằng tên gọi của thể loại bắt nguồn từ yếu tố ấy. Từ
điển văn học năm 1984 do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Từ điển văn học
(từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX) của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1999, mục
Truyền kì đều chú ý trước hết đến yếu tố “kì”.
Tất nhiên, “kì” xuất hiện trong các tác phẩm truyền kì với mực độ đậm
nhạt khác nhau: có khi nó chỉ là một vài chi tiết, một vài sự việc kì lạ trong cuộc
sống được ghi lại nguyên dạng (Tiến sĩ ăn khỏe, Chôn xương bụng ngựa –
Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề), ghi chép về những con người có hình dạng
kì quặc, xấu xí, không bình thường (Con lai rắn, Người khổng lồ - Lan Trì
kiến văn lục – Vũ Trinh). Ngoài ra còn thể hiện ở những hiện tượng kì lạ trong
tự nhiên (Giao long ngủ nhờ - Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề) Thực ra
những chuyện kì lạ như vậy thời kì nào và xã hội nào cũng có, nhưng ở thời ngày
xưa người ta chưa thể lí giải bản chất sự việc một cách khoa học, nên chỉ biết ghi
chép lại để “truyền nghi” đến mai sau.
Tuy nhiên cũng có những cái “kì” nằm trong cốt truyện và có những dụng
ý tương đối rõ ràng, giúp câu chuyện phát triển song toàn bộ mạch truyện vẫn ổn
định và nhất thống, vẫn gần với hiện thực. Đó phần nhiều là những câu chuyện
về các danh sĩ, ở đó có sự kết hợp giữa những chi tiết “người thật việc thật” và
những huyền thoại được viền nét xung quanh họ. Những truyện này thường liên
quan nhiều với những huyền thoại, truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian
qua nhiều vùng dân cư, do đó cũng xảy ra trường hợp nhân vật lặp đi lặp lại,
xuất hiện trong nhiều tác phẩm của cùng hoặc nhiều tác giả khác nhau… Nhóm
truyện về cư sĩ Phạm Viên hay các câu chuyện về các vị hoàng đế (trong Tang
thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án) tiêu biểu cho loại truyện này.
Trong các tác phẩm ấy, cái “kì” – đặc điểm chủ yếu của truyền kì đã được thể
hiện khá sinh động trong hệ thống môtip phong phú (như chúng tôi đã nêu ở
phần 2.1.3: môtip giấc mơ, thụ thai kì lạ, sinh đẻ kì lạ, chết kì lạ…), trong cốt
truyện một chiều tương đối đơn giản, rành mạch tạo nên tính mĩ cảm đậm nét,
khắc sâu ấn tượng và giúp độc giả dễ nhớ, nhớ lâu.
Bên cạnh yếu tố “kì”, điều làm truyện truyền kì giai đoạn này trở nên đặc
sắc và khác so với truyền kì giai đoạn trước và những truyện kì ảo của nước
ngoài chính là bởi yếu tố “thực”. Hay đó chính là xu hướng thực hóa trong văn
học đã bắt đầu từ cuối thế kỉ XVII, được phát triển mạnh vào thế kỉ XVIII, XIX,
và thực sự chín muồi với tên tuổi nổi bật của Vũ Trinh. Đây là một chi tiết quan
trọng, tạo nên bộ mặt mới của truyền kì, chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai trong
những phần tiếp theo.
Đến giai đoạn này, mối quan hệ giữa yếu tố “kì” và “thực” hoàn toàn thay
đổi. Cái “thực” trở thành mục đích của sáng tác. Cái “kì” ở đây không phải do
tác giả tưởng tượng, hư cấu, tự xây dựng nên mà là kết quả của sự ghi chép, nó
nghiêng về cái lạ. Vũ Phương Đề và Vũ Trinh đã ghi chép về những hiện tượng
kì lạ trong cuộc sống: những ông quan ăn khỏe và có sức khỏe hơn người
(Thượng thư Lương Hữu Khánh, Tiến sĩ ăn khỏe – Công dư tiệp kí), những
tên kẻ trộm phát sinh ngày càng nhiều trong xã hội, len lỏi vào mọi tầng lớp xã
hội, tạo nên nhiều hiện tượng lạ (kẻ trộm làm quan – Tên ăn trộm – Lan Trì
kiến văn lục, kẻ trộm lừa được cả thần thánh – Kẻ trộm lừa thần thánh – Công
dư tiệp kí)… Lấy yếu tố “kì” làm phương tiện truyền tải, nhưng mục đích của
các tác giả vẫn là phản ánh cái “thực”, những hiện tượng có thật trong cuộc sống
thời đó.
Tuy nhiên, những tác phẩm thành công vẫn là những truyện kết hợp thành
công giữa cái “kì” và cái “thực”, trong đó, cái “kì” và cái “thực” là hai mặt của
một vấn đề, không xung khắc mà ngược lại bổ sung cho nhau để cùng hoàn thiện
và hấp dẫn hơn. Tây du kí (tác giả Ngô Thừa Ân đời Minh) xuất hiện như một
bộ tiểu thuyết thần thoại rực rỡ chói mắt, được sáng tác trên cơ sở sự kết hợp của
hai yếu tố “kì” và “thực”. Dựa vào câu chuyện có thật về nhà sư Huyền Trang
đời Đường Thái Tông không sợ gian khó nguy hiểm một mình đi Thiên Trúc
(nay là Ấn Độ) lấy kinh, Ngô Thừa Ân đã tham khảo thêm truyền thuyết dân
gian và hí khúc, thoại bản rồi gia công sáng tạo thành. Thông qua hình thức kì
ảo, mượn hình ảnh thế giới trên trời và các loài yêu quái mà khắc họa nên một số
đặc điểm của xã hội hiện thực, Tây du kí đã có giọng điệu chế giễu trào lộng,
vận dụng bút pháp lãng mạn khiến cho tiểu thuyết tràn đầy không khí kì ảo, thể
hiện một sức tưởng tượng nghệ thuật hiếm có. Việc sáng tạo ra nhân vật Tôn
Ngộ Không lí tưởng hóa như thế là hiện tượng chưa từng có trong lịch sử văn
học Trung Quốc. Nhiều nhân vật khác vừa có tính thần kì vừa có tính hiện thực
mạnh mẽ, lại có thuộc tính tự nhiên của động vật, là mẫu mực thành công trong
việc sáng tạo hình tượng đối với đời sau. Các nhà kì ảo hiện đại bị tư duy duy lí
phương Tây cùng những thành tựu trước mắt của nền công nghiệp hiện đại chi
phối, đã có thời kì tin tưởng rằng có thể quét sạch mọi tàn dư của thứ văn
chương tưởng tượng, hư cấu khi xưa, nghĩa là chọn một chỗ đứng trên mảnh đất
hiện thực và tự chặt đi đôi cánh thần kì của mình. Nhưng dù sao thì họ - những
Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Cung Khanh, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Huy Thiệp…
cũng đã phải một lần nữa quay lại con đường xưa. Và sự thành công của họ,
cũng như thành công của người xưa chính là ở chỗ đã kết hợp được một cách
nhuần nhuyễn hai yếu tố Thực - Ảo với nhau, đạt đến độ như Phùng Kí Tài từng
ca ngợi:
Bảo giả toàn là giả
Bảo thật thật cả thôi
Đọc đến khi hứng thú
Thật giả chẳng đôi hồi
(Gót sen ba tấc)
Trong một số truyện của Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng đã thể hiện
thành công phương pháp sáng tác đó. Lấy xuất phát điểm là những nhân vật có
thật trong lịch sử, như Trạng Quỳnh (danh sĩ nổi tiếng hay chữ, đã gắn với nhiều
giai thoại dân gian trào phúng, trong đó có tình yêu với Đoàn Thị Điểm), Phạm
Viên, Đỗ Uông, Nguyễn Trật, Nguyễn Đăng Đạo… tác giả đã gắn họ với những
chuyện lạ thường: đàm đạo thơ văn với thần tiên, được thần tiên giúp thi đỗ, nói
chuyện với ma…
Nhưng cho dù có sự kết hợp, cho dù bản chất của truyền kì vốn dĩ gắn liền
với chữ “kì”, thì sự phát triển đặc biệt của truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII
– nửa đầu thế kỉ XIX đã kéo yếu tố “thực” lên vị trí trung tâm hơn, với một vai
trò quan trọng hơn, trở thành một đặc điểm đặc biệt và khác biệt của truyền kì
giai đoạn này so với truyền kì dân tộc các giai đoạn trước và sau này cũng như
truyền kì thế giới.
3.2. “Thực” trong nghệ thuật tự sự
GS Trần Đình Sử đã lưu ý nhiều đến tinh thần thực lục, nguyên tắc chép
sử, lập hồ sơ nhân vật của các tác phẩm thời kì này. Trong đó, đặc biệt chú ý đến
nghệ thuật trần thuật.
3.2.1. Vị trí của người trần thuật
“Lời trần thuật của tác giả được phân làm hai: Lời trần thuật miêu tả câu
chuyện và lời bàn (bình) với hai tư cách khác nhau. Một người làm người kể
chuyện khách quan “biết hết”, “biết trước” và một người bình luận về mặt đạo
đức hoặc nghệ thuật có quan điểm xác định” – (Trần Đình Sử). Đây chính là
điểm làm cho các truyện truyền kì giống nhau và đều cho thấy ảnh hưởng của
bút pháp viết sử và sử bình vào văn học.
Mở đầu và kết thúc nhiều truyện thường có một câu hoặc một cụm từ, đại
loại “chuyện này do… kể lại”. Đây là một thủ pháp nhằm tạo ra tính tin cậy cho
sự việc được kể, đồng thời cũng thể hiện phương pháp sáng tác của tác giả chỉ là
ghi chép lại, ý định của tác giả là giữ nguyên vẹn những tình huống được truyền
đạt. Tác giả do vậy mà đã đóng thành công vai trò “người kể chuyện”. Đây là
một đặc điểm tương đối mới trong truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa
đầu thế kỉ XIX, tạo nên một giọng điệu trần thuật khách quan, bình dị, khác với
giọng điệu tự sự, hào hoa, truyền cảm trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì
mạn lục ngày xưa.
Người kể chuyện thường mượn một cái tên có thật để kể: “Lúc bấy giờ,
chú dượng ta là Trần Đương làm tướng cai quản ở đồn, xử vụ án này” (Cá thần
– Lan Trì kiến văn lục); “Bấy giờ ta làm quan huyện Quốc Oai được nghe quan
Huấn đạo huyện Lâm Thao là Nguyễn Quyền kể lại chuyện ấy. Ông lại nói: “Đã
từng thấy đứa bé con của rắn khi nó được ba bốn tuổi” (Con lai rắn – Lan Trì
kiến văn lục).
Người trần thuật thường là người trực tiếp tham gia – một nhân vật trong
câu chuyện, hoặc được chứng kiến tận mắt câu chuyện, hoặc trực tiếp được nghe
người trong cuộc kể lại. Chính vị trí này dẫn tới đặc điểm thứ hai.
3.2.2. Góc độ của điểm nhìn trần thuật
Không bị lệ thuộc và thiên về những yếu tố kì ảo, các nhà văn thời kì này
nhìn cuộc sống dưới góc độ của yếu tố thực. Với cái nhìn đó, họ tạo một ấn
tượng chân thật cho người đọc ngày từ tiêu đề tác phẩm cho đến những thủ pháp
được sử dụng trong khi triển khai cốt truyện, như cách kể, cách mô phỏng chính
sử…
3.2.2.1. Cảm giác đến từ Tiêu đề
Quan điểm viết về “tân” truyền kì, “sở văn”, “sở kiến”, “tân đính”… nổi
lên chiếm ưu thế và trở thành xu hướng của cả một thời đại bắt đầu từ Đoàn Thị
Điểm với Truyền kì tân phả, qua Vũ Phương Đề với Công dư tiệp kí đến Vũ
Trinh với Lan Trì kiến văn lục. Đó chính là những ghi chép rất ngắn, hàm súc,
những điều “sở kiến, sở văn” một cách khách quan. Tinh thần thực lục được thể
hiện ở ngay tên tác phẩm. Các chữ “kí”, “lục” xuất hiện với tần số khá lớn trong
các tiêu đề.
Bên cạnh các chữ “dị”, “quái”, “kì” thì hầu hết các tác phẩm có yếu tố hư
ảo có thể sử dụng chữ “kí” và “lục” như một dấu hiệu nhận biết thể loại. Có lẽ vì
thế, khác với văn chương hiện đại ngày nay (chữ “kí” thể hiện tính chính luận,
giàu tính tư liệu chính xác, là một thể loại được ưa chuộng của báo chí) thì hầu
hết các tác phẩm có chữ “kí” xuất hiện ở cuối đầu đề tác phẩm trong văn học cổ
điển Trung Quốc dường như đều thể hiện có sự hư cấu cố ý (như Thạch đầu kí –
hay Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, Tây du kí của Ngô Thừa Ân…). Còn
trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, chữ “kí” được các
tác giả sử dụng đi kèm với một hoặc một vài chữ khác lại mang ý nghĩa đặc biệt:
trong Công dư tiệp kí (公 餘 捷 記: “tiệp” nghĩa là nhanh, “kí” là ghi nhớ,
ghi chép -> “tiệp kí” là ghi nhanh), Thoái thực kí văn (退食記聞: “kí” là ghi,
“văn” là nghe -> “kí văn” là ghi lại những điều nghe thấy). Chữ “lục” cũng
chiếm đa số với Lan Trì kiến văn lục (蘭池見聞錄: “kiến” là nhìn thấy, “văn”
là nghe được, “lục” là ghi chép, thâu tóm lại -> “kiến văn lục”: ghi chép lại
những điều mắt thấy tai nghe), Tân truyền kì lục (新傳奇錄), Tang thương
ngẫu lục (桑滄偶錄: “ngẫu” là vô tình, “lục” là ghi chép -> “ngẫu lục”: ghi chép một cách ngẫu nhiên) 11.
Nhưng nếu các chữ “dị”, “quái”, “kì” rõ ràng đã mang yếu tố hư cấu tưởng
tượng, thần kì cho bản thân tiêu đề thì hai chữ “kí” và “lục” lại gây cảm giác vụ
thực – có vẻ có thật (chữ dùng của GS. Trần Đình Hượu), vì cả hai đều có ý
nghĩa là ghi chép lại. Xu hướng tôn trọng thực tế, lấy thực tế làm hệ qui chiếu
vốn cũng thường được các nhà nho khuyến khích. Trong hai chữ đó, tính vụ thực
ở chữ “lục” dường như còn mạnh hơn, vì nó đều gắn với một tích nào đó.
Không nói gì đến những chữ trong những tiêu đề còn lại như “phả” (nghĩa là bảng ghi chép có hệ thống) trong Truyền kì tân phả (傳奇新譜), hay “tùy bút” (ghi chép ngắn) trong Vũ trung tùy bút (雨中隨筆) thì tính thực lại càng rõ hơn.
Ta cũng có thể nói thêm về những tác phẩm khác cùng thể loại trong thời kì này, như những tác phẩm khuyết danh, chưa xác định được tên tác giả: Sơn cư tạp thuật (山居雜述: “tạp” là lộn xộn, lung tung, “thuật” là kể lại -> “tạp thuật” là kể lại một cách lung tung), Bích Châu du tiên mạn kí (碧珠遊仙漫記: “mạn” là tự do, tản mạn, “kí” là ghi chép -> “mạn kí” là ghi chép tản mạn), Việt Nam kì phùng sự lục (越南奇逢事錄)…
Khác “linh – chí – quái” ở thời trước và “dị” ở sau này, như đã nêu trong
phần 1.1.1.2 của luận văn này.
Ta thấy, trong giai đoạn này chữ “kì” không được sử dụng như một yếu tố
nhấn mạnh trong các tiêu đề. Hết giai đoạn này, tức là vào nửa sau thế kỉ XIX,
yếu tố “kì” trong các tên gọi của thể loại truyện này dần biến mất đi, thay vào đó
11 Xin xem thêm trong bảng phụ lục 4: Khảo sát các chữ cuối tiêu đề
là một số khái niệm tương đương nhưng tất nhiên có sắc thái khác nhau. Chữ
“dị” (khác, kì lạ, kinh hãi, kì quái, lạ lùng) xuất hiện trong nhiều tiêu đề lớn: Hát
Đông thư dị (Nguyễn Thượng Hiền), Thính văn dị lục, Nam quốc dị nhân sự
tích lục, Nam thiên trân dị tập (đều khuyết danh)…
3.2.2.2. Nổi bật “thực” qua thủ pháp
Người chứng kiến, mượn lời người khác, khảo cứu sách vở, mồ mả… đều
là những thủ pháp nghệ thuật làm nổi bật giá trị thực trong tác phẩm. Mà trước
tiên, có thể thấy rõ nhất sự xuất hiện và phổ biến của kiểu sao phỏng, tục biên
(nhiều tác phẩm viết lại những truyện truyền kì giai đoạn trước), và nhiều tác
phẩm thể hiện có tra cứu, tìm tòi trong thư tịch, sách vở xưa, hoặc điều tra từ
thực tế.
Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập và Tân đính Lĩnh Nam chích
quái là hai tác phẩm còn chưa khẳng định được cụ thể tác giả và thời gian sáng
tác. Nhưng dựa vào tên sách, lời dẫn, có thể khẳng định những tác phẩm này
xuất hiện sau và đều dựa trên cơ sở của những tác phẩm truyền kì truyền thống
đầu tiên (như Việt điện u linh tập của Lí Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái –
được cho là của Trần Thế Pháp) mà viết lại, có gia công, thêm thắt. Ở các truyện
kì ảo hiện đại, khó có thể tìm ra kiểu sao chép, mô phỏng như vậy, chỉ thấy sự
xuất hiện của những yếu tố kì ảo đã có nguồn gốc từ truyền kì: Báo oán hình
dung Thần hổ là một cụ già râu tóc bạc phơ, nắm trong tay sổ sinh mệnh con
người (gặp trong Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ của Vũ Phương Đề); Thần
hổ, Ai hát giữa rừng khuya của Tchya lại có chi tiết về những con ma nữ, đã
xuất hiện rất nhiều trong truyền kì truyền thống. Rõ ràng nghệ thuật mô phỏng
của kì ảo hiện đại đã tiến bộ hơn rất nhiều so với truyền kì. Nhưng sự mô phỏng,
sao chép lại các tác phẩm cũ lại là một cách minh chứng giúp tác giả khẳng định
tính chân thực của nội dung truyền tải.
Những tên đất, tên người có thật, thời gian xảy ra câu chuyện cũng rất cụ
thể, và ở một thời điểm không quá xa xôi, những nhân chứng và dấu vết còn lại,
đã gây được độ tin cậy nhất định đối với người đọc. Như vậy, dường như tác giả
ngầm thông báo rằng người đọc có thể tin vào những gì mà tác giả ghi chép
được. Đây chính là nét riêng độc đáo trong bút pháp của truyền kì giai đoạn này.
Bút pháp sử truyện được sử dụng nhiều để tăng cường tính thực cho tác
phẩm. Trước đây, tác phẩm Thiền uyển tập anh (chưa khẳng định rõ tác giả) ra
đời vào khoảng giữa thế kỉ XIV kể về tiểu sử các nhà sư sắp xếp theo thế hệ đã
rất tôn trọng nguyên tắc chép sử, bằng cách xây dựng nhân vật, cấu trúc thường
theo môtip: sinh hạ, tu tập và qui tịch, tất cả đều mang màu sắc huyền thoại. Tuy
nhiên, tác phẩm này còn thiên nặng về ghi chép tiểu sử, giá trị văn học chưa cao.
Tính chất phả kí cũng rất đậm trong các truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt trong Truyền kì tân phả, Công dư tiệp kí. Có
truyện dường như hòa mình vào cả dòng truyện kể dân gian, truyền thuyết và sử
sách, do vậy nhiều lúc khiến người đọc có cảm giác như đang được nghe kể lịch
sử. Việc ghi chép truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lúc này có tác dụng và ý
nghĩa giống như việc bổ sung dữ liệu cho kho sử của nước nhà, kéo văn học
quay gần trở lại với thời kì “văn - sử - triết bất phân” ngày trước. Tác giả hầu
như giữ nguyên dạng sự việc, nhân vật và thậm chí cả các tình tiết, khiến tác
phẩm như một hình hài mà cái cốt được lấy y nguyên từ thực tế. Tất nhiên chúng
cũng được trải qua quá trình tái tạo nên lời văn thanh nhã hơn, ngắn gọn hơn mà
ý nghĩa lại được nâng cao hơn.
Lĩnh Nam chích quái ra đời khoảng thế kỉ XIV-XV chép lại chuyện về
thời kì lịch sử xa xưa của dân tộc với những phong tục, tập quán lâu đời. So với
các tác phẩm cùng loại ra đời trước đó, Lĩnh Nam chích quái phong phú hơn về
nội dung thể loại. Tác phẩm đánh dấu bước ngoặt của truyện truyện kì cũng như
của văn xuôi, với xu hướng tách dần văn học ra khỏi sử học, đặt tiền đề cho các
tác phẩm truyền kì về sau. Đến Lan Trì kiến văn lục, chất sử đã mờ nhạt hơn.
Xu hướng lịch sử hóa các truyện dã sử rõ hơn xu hướng truyền kì hóa, kéo
truyền kì về gần cuộc sống thực. Theo GS Nguyễn Đăng Na, xu hướng lịch sử
“sưu tầm, ghi chép về nhân kiệt địa linh đất Việt, bao gồm các nhân vật lịch sử
(người, thần) và các sự kiện lịch sử”, các truyện dân gian thường được lịch sử
hóa để tỏ ra nó có thật.
3.2.3. Tính không thuần nhất về thể loại
Đặc điểm truyện truyền kì Trung Quốc là trong một tác phẩm có thể chứa
đựng nhiều thể. Vì vậy, một tác giả truyền kì phải là một người có tài viết sử, tài
làm thơ, và tài nghị luận. Đó chính là những lí do có sức hút rất lớn của thể
truyện truyền kì của Trung Quốc đối với Nho sĩ một số nước Đông Á, Đông
Nam Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam thời đó.
Truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX nhiều
phong ba cũng có đặc điểm tương tự như vậy. Chính vì có sự chuyển đổi trong
phong cách sáng tác: vừa học hỏi những tác phẩm truyền kì đỉnh cao, vừa giữ
nguyên bản chất của truyền kì sơ khai, vừa gần và là bước đệm của văn học kì ảo
hiện đại, nên vô tình nó đã qui tụ trong lòng sự pha tạp của rất nhiều thể loại:
như ghi chép, tùy bút, hồi kí, truyện, sách bách khoa, sách danh nhân, lịch sử,
sách phong thủy v.v… Nhưng hiện tượng phổ biến nhất vẫn là hay dùng tên gọi
riêng cho mỗi cuốn sách, mỗi tập truyện (chí, lục, phả, bút, tùy bút, kí, kì, kí sự,
thuyết…): Truyền kì tân phả, Vũ trung tùy bút, Công dư tiệp kí, Tân truyền
kì lục...
Các truyện trong mỗi tập (tuy cùng là truyện truyền kì) nhưng cũng có sự
không đồng nhất: Phần lớn là truyện kí có tính chất kì về các danh nhân, nhân
vật lịch sử, sự kiện và địa điểm lịch sử… nên tương đối ngắn gọn, cụ thể; ngoài
ra cũng có truyện dài như tiểu thuyết (Con chó nhà giàu có nghĩa…), có truyện
như truyện lịch sử (trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm), có nhiều
truyện lại mang hơi hướng của truyện ngụ ngôn (Con hổ nghĩa hiệp, Gấu hổ
chọi nhau…), có truyện kết cấu như truyện Nôm (Bích Châu du tiên mạn kí)…
Trong một cuốn sách thường xuất hiện những tác phẩm hoàn toàn không
giống nhau về đặc trưng thể loại. Chính chất kí sự nổi bật đã tạo nên tính không
thuần nhất về thể loại trong các tập truyện đó. Trong Công dư tiệp kí của Vũ
Phương Đề, phần nhiều là những bài kí, ghi chép về phong cảnh đất nước, con
người, bên cạnh đó là nhiều bài mang tính chất nghiên cứu phong thủy địa lí,
những bài tuyên truyền triết lí đạo Phật và truyện ngụ ngôn.
Ta thấy dấu vết của nhiều bài thơ trữ tình vẫn còn trong các tập truyện, thể hiện qua những câu đối, câu văn biền ngẫu hay một vài bài thơ ngắn 12. Đặc biệt,
trong tùy bút của Phạm Đình Hổ đậm đặc sự xen kẽ giữa các câu văn xuôi giàu
chất trữ tình với những đoạn nghị luận có tính chất nghiên cứu.
Tuy nhiên, bên cạnh sự không nhất quán về thể loại của từng truyện trong
một tập hoặc giữa các tập truyện với nhau, ta cũng thấy khá rõ dấu hiệu của sự
hình thành thể loại, điển hình như thể tùy bút. Phạm Đình Hổ viết tùy bút lưu giữ
nhiều bản sắc dân dã, phong cảnh và phong tục đất nước;Đoàn Thị Điểm
nghiêng về chép phả; Vũ Phương Đề thiên về kí; Vũ Trinh dành ưu ái cho tầng
lớp bình dân của cuộc sống thôn dã thân quen; trong khi Phạm Đình Hổ và
Nguyễn Án thích ghi lại những chuyện ở chốn kinh thành dâu bể… Qua mỗi cái
tên, phần nào thấy được phong cách chủ đạo của tác giả, đồng thời có thể thấy sự
tỏ ra khiêm nhường vốn có ở các nhà văn trung đại (chỉ tự nhận tác phẩm của
mình là những bài ghi chép lại chuyện đời hiện tại hoặc chuyện cũ trong các sách
12 Xin xem thêm trong phần tiếp theo, mục 3.3.3. Dung lượng nhỏ
trước đây, những bài ấy được ghi nhanh, lộn xộn, chưa không có chủ tâm sắp
xếp nhiều), nhưng đồng thời cũng khéo léo khoe được cái tài của các tác giả (ấy
là tôi còn chưa dụng công…).
Tất cả những sự chuyển đổi, những mối quan hệ này được thể hiện bằng
một lối văn đơn giản nhưng hiệu quả.
3.3. Tinh giản trong văn phong
Tinh giản, mạch lạc là một đặc điểm nổi bật của nghệ thuật truyện truyền
kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, nó ngược hẳn với cấu trúc tầng
tầng lớp lang của kì ảo hiện đại, cũng ngắn hơn hẳn so với truyền kì thời gian
trước đó. Các tác giả truyền kì giai đoạn này đã sử dụng một văn phong khúc
chiết, mạch lạc trong một kết cấu chặt chẽ.
3.3.1. Câu văn gọn
Đặc điểm nổi bật của truyền kì giai đoạn này là cách viết giản dị, ít dùng
câu văn biền ngẫu, hầu hết không dùng điển cố, không hoa mĩ cầu kì và đậm chất
văn xuôi. Điều này dường như đi ngược lại với phong cách bác học, cố ý gây
“khổ độc” cho độc giả như ở những thế kỉ trước. Trong quá trình nghiên cứu văn
bản tác phẩm, chúng tôi đã chú tâm tìm và dự định làm một bảng thống kê về
những điển cố, điển tích. Nhưng ngoài sự mong muốn của chúng tôi, trong 83
truyện chúng tôi khảo sát thì chỉ có duy nhất bốn lần điển xuất hiện, mà đều là
những điển rất quen thuộc: “lời thề của vua nước Nhật Nguyệt” (nguyên chú:
điển này lấy từ vị tăng tên là Tượng trong Minh kỉ - Kiếp sau của sư Bật Sô);
“vợ Thôi Thao mất trộm lốt” (Thôi Thao đi đến quán Hiếu Nghĩa, thấy một
người đàn bà gối đầu vào bộ da hổ mà ngủ. Thôi Thao kéo lấy da hổ vứt xuống
giếng. Người đàn bà chợt tỉnh dậy, mất da không biến được nữa, bèn cùng Thao
kết vợ chồng. Sau ba năm dò biết da hổ ở dưới giếng, nàng vớt lên, khoác vào,
hóa làm con hổ, gầm thét mà đi mất – Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ); “Vũ
Môn” (lấy điển từ Tam Tần kí: ở bến Vũ Môn, khi sóng hoa đào nổi lên thì cá
chép thi vượt để hóa rồng – Con chó nhà nghèo có nghĩa); “Lưu, Nguyễn vào
Thiên Thai” (Lưu Thần và Nguyễn Triệu người đời Hán, vào núi Thiên Thai hái
thuốc, lạc vào động tiên, cùng tiên nữ kết duyên chồng vợ. Được nửa năm hai
người nhớ nhà đòi về, tiên nữ mở tiệc tiễn, đưa đến cửa động. Lưu, Nguyễn về
đến nhà thì người quen thuộc không còn ai, đã qua bảy đời, muốn trở lại nơi cũ
nhưng không tìm thấy lối xưa nữa – Ông Nguyễn Hoàn). Chắc chắn không phải
vì các tác gia này không đủ sự tinh thông kim cổ, không đủ sự uyên bác để sử
dụng điển theo cách quen thuộc từ xưa, mà đây có thể coi là hiện tượng mới lạ
của văn học trung đại, mang dụng ý nghệ thuật của người viết.
Thường trong câu văn có câu dài câu ngắn, câu ngắn như chiếc dao găm,
câu dài như ngọn giáo. Dao găm hay ngọn giáo mỗi loại đều có thế mạnh riêng,
nếu biết cách sử dụng thì loại nào cũng hay cả. Ưu điểm của câu ngắn là ngắn
gọn, mạnh mẽ, rõ ràng, kể chuyện thì dứt khoát, giảng giải thì dễ hiểu. Nó đặc
biệt thích hợp để biểu đạt những tình cảm căng thẳng hào hứng kích động. Nói
chung, câu ngắn được dùng vào trong các cuộc đối thoại hàng ngày, trong diễn
thuyết thảo luận, trong kịch bản, trong lời thoại của tiểu thuyết.
Một đoạn đối thoại trong Tháp báo ân (Lan Trì kiến văn lục – Vũ
Trinh):
“Lễ xong chào xin đi, ông giữ chàng lại hỏi:
- Phu nhân quý danh là gì?
Chàng đáp:
- Thưa, tôi chưa có vợ.
Lại hỏi:
- Hay là ông đã góa vợ?
Chàng vẫn trả lời:
- Tôi chưa có vợ.”
Nghệ thuật làm đẹp ngôn ngữ (nghệ thuật tu từ) ngoài dùng từ chính xác,
dùng từ đắt, khéo chọn từ gần nghĩa, thay đổi vị trí của thành phần câu… còn đòi
hỏi lời văn ngắn gọn, quý mực như vàng, cố tránh nói khoác, nói suông để đạt
đến lời gọn, ý đủ.
Nhà văn đời Bắc Tống là Âu Dương Tu một hôm cùng bạn ra ngoài du
ngoạn nhìn thấy một con ngựa đang bị kích động lao nhanh giẫm chết một con
chó. Âu Dương Tu đề nghị kể chuyện ấy lại, người đồng sự nói như thế này: “Có
một con chó nằm giữa đường, một con ngựa giật mình giẫm chết nó”. Âu Dương
Tu cảm thấy anh ta nói dài dòng, bảo chỉ cần nói: “Ngựa kinh hoàng giẫm chết
một con chó giữa đường” thế là đủ.
Nhà viết kịch Tào Ngu trong vở kịch Nhật xuất vốn miêu tả mợ Tám Cố
như thế này: “Mặc một chiếc áo dài hoa, viền vàng rực rỡ màu sắc tươi mới chói
mắt, chiếc áo bó sát lấy thân bà”. Về sau ông bỏ đi chữ “rực rỡ”, bởi vì mấy chữ
“tươi mới chói mắt” cũng đã bao hàm ý đó rồi.
Trong khi đó, câu văn dài với ưu điểm đầy đủ, chặt chẽ, ôn tồn, trang
trọng, tế nhị, uyển chuyển, thích hợp để thuyết minh lí lẽ, trình bày lí do, để tự
sự, tả cảnh, thường được sử dụng trong văn chính luận, văn miêu tả hoặc trữ tình
của tiểu thuyết thì ít xuất hiện hơn, do đó chất trữ tình trong một số tác phẩm bị
giảm sút.
Một đoạn văn tả cảnh trong Tiên ngoài hải đảo (Lan Trì kiến văn lục –
Vũ Trinh): “Một hôm, thuyền của họ bị gió thổi dạt đến một hòn đảo, trên núi
cây cỏ tốt tươi, dưới núi đất bằng phẳng, rộng đến mấy chục mẫu, cỏ mảnh mượt
như đệm. Một con hươu từ bụi rậm chạy ra, mọi người cùng nhau cầm sào gậy,
vạch dây leo mà đuổi theo”. Bình thường với những đoạn tả cảnh thì trong văn
xuôi cổ, lối văn biền ngẫu và những câu văn dài rất được ưa chuộng, nhưng câu
văn ở đây lại ngắn gọn, dấu chấm, phẩy được sử dụng rất nhiều.
Từ kiểu kết cấu vận văn xen biền văn nặng nề trong Truyền kì tân phả
đến việc bỏ kết cấu vận văn xen biền văn, câu văn ngắn gọn, súc tích trong Lan
trì kiến văn lục.
Câu văn không chỉ gọn gàng hơn mà cả những lời mở đầu và lời bình cuối
(như trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ) cũng được giản bớt.
3.3.2. Lời bình giảm
Tác phẩm nghệ thuật nói chung (bao gồm văn xuôi, thơ, truyện, tranh ảnh
và cả bài hát) coi trọng lời bình, vì đó là nơi tóm gọn quan điểm của chính tác
giả (nếu tác giả viết lời bình), hoặc thể hiện sự đánh giá của dư luận, độc giả và
giới nghiên cứu (nếu người khác viết lời bình). Rất nhiều lời bình đã nâng được
giá trị thực chất của tác phẩm. Trong cuốn sách Chân dung và Đối thoại, Trần
Đăng Khoa đã kể câu chuyện thú vị về câu thơ mừng chiến thắng Điện Biên của
nhà thơ Tố Hữu:
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng
Ông hoàng của thơ tình và tuổi trẻ Xuân Diệu đã bình rằng: Chỉ trong một
câu thơ lục bát 6-8 hoàn chỉnh, tác giả đã đưa vào được sáu sắc màu tươi sáng
(xanh, hồng, lam, trắng, cam, vàng), kết thành một vòng hoa đẹp rực rỡ để chúc
mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc, đồng thời tưởng nhớ những người anh hùng
đã hi sinh cho chiến thắng ấy. Tố Hữu cho hay, dù trong thơ ông thường có rất
nhiều màu sắc và hương thơm, nhưng ông không hề và không thể nghĩ ra một
câu thơ đầy sắc màu một cách tự nhiên như vậy, chỉ là vô tình, nhưng người đọc
đã phát hiện ra, và vẻ đẹp của câu thơ vì thế được nâng lên đáng kể. Thế mới biết
lời bình và người bình quan trọng như thế nào đối với số phận của một tác phẩm
nghệ thuật.
Trong hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục, chỉ có một truyện không
thấy có lời bình (là Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa). Như vậy, trong phương
thức sáng tác của nhà nho giai đoạn trước thì lời bình cuối mỗi truyện không thể
thiếu và góp phần quan trọng thể hiện quan điểm, tư tưởng của tác giả. Thế
nhưng, đọc các truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – thế kỉ XIX ta lại thấy
lời bàn trong các truyện giảm và ít được chú trọng đặc biệt như trước. Rất nhiều
truyện không có lời bàn, nếu có thì đó cũng là những lời bàn mở và kiệm lời,
hoặc ẩn một cách kín đáo (như Cọp làm lí trưởng, Nguyễn Tả Ao…).
Bảng thống kê lời bình trong mỗi tập truyện
Tập truyện
Lời bình
Lời bình
Không có
STT
Trực tiếp
ẩn
lời bình
1
Truyền kì tân phả
0
0
3
2
Công dư tiệp kí
0
8
14
3
Lan Trì kiến văn lục
2
0
37
4
Tân truyền kì lục
0
1
0
5
Tang thương ngẫu lục
0
3
12
6
Vũ Trung tùy bút
0
1
2
7
Thoái thực kí văn
0
0
3
Tổng
2 truyện
13 truyện
71 truyện
86 truyện
số
(2,33%)
(15,12%)
(82,56%)
Trong tám mươi sáu truyện khảo sát, chỉ có hai truyện trong Lan Trì kiến
văn lục của Vũ Trinh là Thần cửa Cần Hải và Ông Trạng họ Nguyễn là tác giả
trực tiếp tự tin đề lời bình ở cuối mỗi truyện: “Lan Trì Ngư Giả bàn rằng” (Lan
Trì Ngư Giả là biệt hiệu của tác giả Vũ Trinh). Điều này cho thấy sự tự tin, dấu
ấn của “thị tài” trong văn học cổ có xuất hiện trong con người Vũ Trinh.
Nhưng tám mươi tư truyện còn lại, chỉ có mười ba truyện tác giả viết một
vài lời sau khi đã kết thúc truyện, đó là các truyện: Tìm đất đền ơn; Thủ khoa
mặt đẹp; Ác báo; Kẻ trộm lừa thần thánh; Nguyễn Giám sinh làm vua đất Bắc;
Dùng nhan sắc, nhà Trần lấy thiên hạ; Nghề mọn nên quan; Chuột đậy mặt, biết
điềm lành dữ (Công dư tiệp kí – Vũ Phương Đề); Con chó nhà nghèo có nghĩa
(Tân truyền kì lục – Phạm Quý Thích); Ông Nguyễn Văn Giai; Anh kẻ trộm
làng Lâm Hộ; Ông Lê Trãi (Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ, Nguyễn
Án); Thác oan (Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ).
Các lời viết ấy đa số đều bắt đầu bằng chữ “Xét…, Ôi, Than ôi” và dùng
dấu cảm thán (!) ở cuối đoạn để biểu đạt thái độ, cảm xúc của người viết.
Chiếm số lượng nhiều nhất 71/83 truyện (tương đương 82,56%) là các
truyện kết thúc ở chi tiết cuối cùng của truyện, chứ không có bất cứ lời bàn hoặc
ý kiến nào khác của tác giả. Điều này thể hiện quan điểm sáng tạo mới, các tác
giả muốn truyền tải sự chân thực, muốn mình là người kể chuyện khách quan.
Chính vì hai yếu tố trên: sự giản lược trong câu văn và lời bình đã góp
phần khiến cho các truyện truyền kì giai đoạn này đều có dung lượng tương đối
nhỏ so với giai đoạn trước.
3.3.3. Dung lượng nhỏ
Nhà văn Lỗ Tấn khi giới thiệu kinh nghiệm viết văn của mình đã nói: “Sau
khi viết xong ít nhất đọc lại hai lần, nhất thiết phải bỏ đi những chữ, câu, đoạn
vô thưởng vô phạt mà không luyến tiếc gì”. Nhiều nhà văn cũng đã bày tỏ thái độ
đòi gạch bỏ những đoạn văn thừa mà không tiếc. Ngược lại với hình thức này, kì
ảo hiện đại đã có sự mở rộng hết cỡ về dung lượng, sức chứa, hầu hết các tác
phẩm đều dài gấp nhiều lần so với truyền thống, trong đó có một sự kiện chính,
đồng thời cũng mở ra rất nhiều sự kiện có tính chất ngoại biên. Kéo theo đó, kết
cấu lớp lang tự nhiên, tuân theo qui luật logic nhân quả và được tổ chức một
cách gọn gàng tinh giản của truyền kì truyền thống bị phá vỡ. Thần hổ của
Tchya, Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ, Cõi âm nơi quán cây dương của Bình
Nguyên Lộc là những truyện tiêu biểu.
Đặc điểm dễ nhận thấy là đại bộ phận những truyện thời kì thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX (đặc biệt trong Lan Trì kiến văn lục…) đều là những truyện
ngắn, dung lượng nhỏ hơn truyền kì giai đoạn trước – chưa kể trong sự so sánh
với kì ảo hiện đại (Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm là một trường hợp
đặc biệt, bởi bà là lớp tác giả đầu tiên của giai đoạn nên phong cách viết của bà
còn tương đối chịu nhiều ảnh hưởng của truyền kì truyền thống). Theo sự thống kê của chúng tôi, gần như tất cả các truyện đều chỉ khoảng 500 – 600 chữ 13,
truyện được xếp vào loại dài rất hiếm hoi, dài nhất có thể kể đến Con chó nhà
nghèo có nghĩa (Tân truyền kì lục – Phạm Quý Thích) cũng chỉ khoảng 2000
chữ. Có nhiều truyện dưới 300 chữ như Sinh đẻ kì lạ, Cá thần, Thần Chiêu
Trưng, Người khổng lồ, Thần giữ của, Đánh nhau với quỉ (Lan Trì kiến văn
lục – Vũ Trinh), Anh kẻ trộm làng Lâm Hộ (Tang thương ngẫu lục – Phạm
Đình Hổ và Nguyễn Án). Đặc biệt, ngắn nhất là truyện Tượng Già lam ở ngôi
chùa ngoài đồng (Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án) chỉ
13 Chúng tôi dựa vào bản đã dịch, nên không thống kê chính xác tuyệt đối mà chỉ ước về dung lượng
có khoảng 135 chữ.
Với lời văn điêu luyện, hình thức ngắn gọn, các tác giả lại diễn đạt được
một nội dung lớn. Thử lấy truyện Con lai rắn (Lan Trì kiến văn lục – Vũ
Trinh) làm ví dụ: nội dung truyện kể về người vợ bị rắn bức bách, sinh ra đứa
con lai rắn. Toàn truyện chỉ có khoảng 320 chữ mà miêu tả được khá cụ thể hai
lần người vợ bị cưỡng bức, quan hệ vợ chồng bị ảnh hưởng và cả đứa bé trai da
đen như sơn. Câu chuyện có thứ, có lớp, không những giới thiệu được hoàn cảnh
người vợ có thai mà còn phân tích được cả trạng thái tâm lí của hai vợ chồng: sự
thẹn thùng của người vợ và sự kinh sợ của người chồng.
Hay truyện Đánh nhau với quỉ chỉ khoảng 225 chữ mà miêu tả được sự
việc diễn ra trong năm hôm, từ đêm người nông dân đặt đó bắt cá, đến mấy hôm
sau liền đều thấy đó rỗng. Rồi miêu tả tỉ mỉ cái đêm anh đi rình và đánh nhau với
quỉ, rồi cả hiện trường sáng hôm sau.
Thành công của những thiên truyện ngắn này gắn liền với tài khéo chọn
lọc các tình tiết, khéo làm nổi bật chủ đề của tác giả. Dưới ngòi bút của tác giả,
ta ít thấy các đoạn văn đi lạc chủ đề. Có khi một câu thơ, một bài thơ hay một
đôi câu đối cũng đều mang ý nghĩa.
Câu thơ trong Thác oan (Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ):
Nhân mạc dư tri uổng đoạn trường
Thử oan tu tố dữ Vân Trường
(Đứt ruột oan này ai tỏ tường
Tố oan xin hãy đến Vân Trường)
Bài thơ trong Thần hồ Động Đình (Vũ Trung tùy bút – Phạm Đình Hổ):
Hoàng hoa lưỡng độ phú tư tuân,
Uyên đức kì niên cánh kỉ nhân.
Công tiễn bang giao nhàn ngọc bạch,
Chứng tri tiên cốt lịch phong trần.
Sinh sô lệ sái đồng chu khách,
Tái bút danh quy tuẫn quốc thần.
Trù trướng thái hồ thu nguyệt sắc,
Dạ lai do chiếu ốc lương tần.
(Mấy độ hoàng hoa xứ nước người,
Tuổi cao đức tốt ấy kìa ai?
Bang giao những tưởng ngọc ngà đẹp,
Tiên cốt nào hay gió bụi phơi.
Giọt lệ đồng châu đưa một lễ,
Tấm thân tuẫn quốc tiếng muôn đời.
Trăng thu mơ tưởng trên hồ nọ,
Thấp thoáng đầu nhà bóng lẩn soi)
Bài thơ tài hoa trong Dóng ngựa thi thơ mà Đỗ Uông phải tâm phục khẩu
phục Phạm Trấn: câu nào cũng có tên hai loài chim, duy câu cuối không dùng
tên chim mà dùng hai động từ chỉ động tác suồng sã, có ý ngầm trêu cô bán
hàng.
Quai vạc đôi bên cánh phượng phong
Giở giang bán chác tựa đồ công
Xanh le mở khép nem hồng mới
Bạc ác phô phang rượu vịt nồng
Miệng uốn lưỡi oanh chào chủ khách
Trầu tiêm môi sẻ thết quan công
Yến anh đón rước vừa ban tối
Ông mó bà, bà lại gác ông
Câu đối trong Bà phu nhân Lan Quận công (Lan Trì kiến văn lục – Vũ
Trinh):
Thập bát hùng năng đảm thổ
Cửu ngũ long phi tại thiên
(Trai mười tám biết gánh đất
Rồng chín lăm bay lên trời)
Kết hợp với đặc điểm truyện ngắn, khi tả nhân vật, tác giả không tả tỉ mỉ
mọi mặt, mà theo lối vẽ rồng chấm mắt, nắm lấy những chi tiết có tính chất đặc
trưng mà khắc họa. Ví dụ như tả nhân vật bà phu nhân là một người vợ hiền, con
thảo, tác giả chỉ tập trung ngòi bút vào hai chi tiết, một là lời cô thưa với cha khi
cha sai ra nhìn cận học trò thuở hàn vi: “Phận làm gái đâu dám tự kén chồng.
Cha thấy được là được, há cần phải nhìn ngó người con trai?”.
Và hành động của cô khi đi lấy chồng: “Cô út lạy xin vâng. Về nhà chồng,
cô bỏ hết đồ xa hoa, mặc quần áo vải, tự xách nước, chồng học, vợ dệt, đến nửa
đêm vẫn chưa đi ngủ” còn các chi tiết khác thì lược đi. Do đó, ấn tượng mà nhân
vật điển hình để lại cho ta không những không yếu đi, mà trái lại, càng rõ ràng,
sâu sắc hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà gần đây, thể loại truyện cực ngắn (mà dường
như được yêu thích bắt đầu từ những tập truyện cực ngắn của Trung Quốc) ngày
càng thịnh hành ở Việt Nam, đến nỗi người ta đã tổ chức những cuộc thi viết
truyện cực ngắn chỉ với 100 hay 150 chữ. Như trên đã nói, dung lượng nhỏ
không hề gây khó khăn trong việc xây dựng ấn tượng về nhân vật, làm giảm quá
trình chuyển tải ý tưởng, càng không hề ảnh hưởng đến kết cấu chuẩn mực của
tác phẩm.
3.3.4. Kết cấu chuẩn
Hai chữ kết cấu vốn dùng để chỉ giàn dáo mà người thợ xây dựng nên để
làm nhà, về sau được dùng để chỉ tổ chức kết cấu bên trong của tác phẩm và
cũng được gọi là bố cục. Nó bao gồm thứ tự viết cái gì trước viết cái gì sau, mở
đầu thế nào kết thúc ra sao, tác phẩm chia làm mấy lớp mấy đoạn, chỗ nào cần
chi tiết, chỗ nào cần lướt qua, chuyển mạch, nối kết như thế nào… Đó là sự tổ
chức và sắp xếp một cách cân đối, hợp lí chất liệu đời sống, khiến nó trở thành
một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh thống nhất, làm nổi bật lên tính cách nhân
vật và chủ đề tác phẩm.
Kết cấu tác phẩm được bố trí một cách tinh vi là điều kiện quan trọng của
việc sáng tạo tác phẩm, cũng là một mục tiêu mà nhà văn ra sức theo đuổi. Về
mặt tổ chức, kết cấu tác phẩm văn học đòi hỏi phải chặt chẽ, tự nhiên, hoàn
chỉnh và thống nhất. Vừa phải chặt chẽ tinh tế không để lộ dấu vết mâu thuẫn,
vừa phải mạch lạc êm xuôi, phù hợp với lôgic của bản thân đời sống. Về việc tổ
chức nội dung tác phẩm đòi hỏi phải đầu cuối nhất quán, cân đối đầy đặn, lại còn
phải thống nhất hài hòa. Cả tác phẩm là một chỉnh thể.
Ở truyền kì giai đoạn này, kết cấu trong nhiều truyện là kết cấu mở. Tuy
vậy, bố cục ba phần bao giờ cũng rõ ràng, dễ nhận thấy và dễ phân định.
Trong kết cấu ba phần đó, theo PGS.TS. Trần Nho Thìn, phần sự kiện tình
tiết đương nhiên là quan trọng nhất. Không ít trường hợp, phần giới thiệu chung
(exposition) và lời kết (epilogue) ẩn kín sau các sự kiện và tình tiết, nhưng nếu
thiếu sự kiện và tình tiết thì không thể có truyện. Ông cũng đã phân tích lời bình
luận nhân vật Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo trong Lan Trì kiến văn lục để
hiểu hiện tượng tỉnh lược hai phần đầu và cuối (hoặc một trong hai phần này) là
hai phần vốn không thiếu trong một truyện điển hình. Mở đầu truyện, Vũ Trinh
đã đi ngay vào một sự kiện tiêu biểu nhất có khả năng làm rõ nét phi thường của
nhân vật, và đây cũng là một nét phi thường khá bất ngờ đối với cách đọc thông
thường: Chàng thư sinh Nguyễn Đăng Đạo táo bạo dám trèo tường vào ngủ
chung với con gái quan Tể tướng, liều lĩnh đặt cô tiểu thư cành vàng lá ngọc và
vị quan đầu triều vào thế phải lựa chọn mình, nhưng đồng thời cũng dũng cảm
dám đương đầu với cái chết nếu tể tướng không chấp nhận. Nhưng chính nhờ ý
kiến: “Có chuyện khác thường ắt có tài khác thường” mà chàng trai Nguyễn
Đăng Đạo có dịp trổ tài, được quan cấp tiền ăn học, gả con gái, đi thi đỗ Trạng
nguyên, vẻ vang tột bậc. Như vậy, câu chuyện được kể từ cách thể hiện, từ hành
động chứng minh phẩm chất khác thường chứ không cần lời giới thiệu trước.
Kết cấu là yếu tố quan trọng của hình thức phát triển văn học. Nguyên tắc
sắp xếp kết cấu trước hết phải phục tùng yêu cầu biểu hiện tư tưởng chủ đề.
Nhiệm vụ của kết cấu tác phẩm là thể hiện đầy đủ tư tưởng chủ đề, cũng tức là
dựa vào yêu cầu của tư tưởng chủ đề mà tiến hành tổ chức và cắt tỉa thích đáng
đối với chất liệu đời sống.
* Tiểu kết (chương 3)
Trong chương 3, chúng tôi đã trình bày về Những đổi mới trong nghệ
thuật biểu hiện của những tác phẩm truyền kì trong giai đoạn thế kỉ XVIII –
nửa đầu thế kỉ XIX. Truyện truyền kì thời kì này có nhiều đặc điểm khác với các
giai đoạn trước, mà tiêu biểu là sự chuyển đổi giữa hai yếu tố “kì” và “thực”.
Yếu tố “kì” không còn đóng vai trò chủ chốt nữa mà cái “thực” – một đặc trưng
quan trọng trong nghệ thuật tự sự - đã lên ngôi, trở thành yếu tố chi phối điểm
nhìn của tác giả, kéo nội dung phản ánh của truyện truyền kì đến gần với hơi thở
cuộc sống hơn, và cũng đưa nghệ thuật kể chuyện của truyền kì đến với nghệ
thuật trần thuật, tự sự của nền văn học hiện đại. Hơn nữa, văn phong cũng có
nhiều thay đổi với câu văn ngắn gọn hơn, lời bình ít đi (thậm chí không có),
dung lượng tác phẩm nhỏ, nhưng vẫn trong một kết cấu chuẩn.
Tổng kết (phần nội dung)
Nửa sau thế kỉ XIX, Việt Nam ở vào giai đoạn bản lề trong tiến trình lịch
sử của mình. Trước đó, nước ta là một vương quốc theo đạo Khổng, nhưng vẫn
tồn tại xen kẽ sự xuất hiện và cai trị thay nhau của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo),
điều đó đã khiến đời sống tinh thần của nhân dân phức tạp hơn một chút (dẫn
đến hậu quả là mãi cho đến tận bây giờ, bài toán tôn giáo vẫn là một vấn đề
chính trị quan trọng và vô cùng phức tạp đối với Chính phủ Việt Nam). Yếu tố
tinh thần đó, cùng với yếu tố về kinh tế, và đặc biệt là cuộc đổ bộ của thực dân
Pháp vào Việt Nam, đất nước cùng nhân dân bước vào thời kì mới, cuộc đấu
tranh mới. Văn học vì lẽ đó đi càng xa những xu hướng đã tồn tại trong lịch sử.
Trong phần nội dung, chúng tôi đã khái quát và đi sâu phân tích những đặc
điểm của truyền kì thế kỉ XVIII-XIX, những nét biến đổi trong nội dung, tư
tưởng và nghệ thuật thể hiện so với giai đoạn trước. Chúng tôi đặc biệt nhấn
mạnh tới yếu tố “kì” và mối quan hệ kì - thực, mối quan hệ phản ánh rõ nét nhất
sự thay đổi, chuyển hướng này.
Nhưng cũng phải thấy một điều, không phải không có lí do khi mỗi lần
nhắc đến truyện truyền kì Việt Nam người ta luôn nói đến giai đoạn thế kỉ XV,
XVI như một niềm tự hào và sự mẫu mực. Bởi truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ
XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã có sự cách tân so với truyền kì truyền thống, một
số đặc điểm bản chất của truyền kì truyền thống đã bị thay đổi. Có người chấp
nhận được việc này, những cũng có những người khó tính đã tìm ra rất nhiều
nhược điểm của nó, để phủ nhận những câu chuyện truyền kì ấy.
Yếu tố “thực” được nâng lên làm trung tâm đã đưa truyền kì giai đoạn này
sang một bến bờ mới, nhưng đồng thời cũng làm gẫy đôi cánh thần kì vốn là cứu
cánh của nghệ thuật, đó chính là sức sáng tạo, sự tưởng tượng phong phú của
người viết. Các tác phẩm truyền kì này hầu hết đều đơn thuần mô tả, kể lại về
con người, sự việc có thật (hoặc có chi tiết thật) của đời sống, thiếu sự hư cấu đủ
cần thiết khiến câu chuyện kể bị nhạt đi và thiếu sức hấp dẫn độc giả. Có lẽ độc
giả của những câu chuyện này chỉ là những nhà nghiên cứu, những người quan
tâm tìm hiểu lịch sử Việt Nam mà thôi, chứ người ta không thể tìm thấy sự giải
trí đơn thuần ở những tác phẩm này.
Những câu chuyện về con người, sự việc có thật này lại được gắn với
những yếu tố thần kì, nhưng quá nhiều câu chuyện sẽ khiến người đọc lâm vào
một ma trận của sự mê tín, có cảm giác rằng những ma quỉ, thần tiên, báo ứng,
thần linh… là có thật trong cuộc sống. Thà rằng cứ để cho người ta biết rằng đây
là một câu chuyện bịa 100%, một câu chuyện với cốt truyện hư cấu, nhân vật
tưởng tượng, như câu chuyện về người cát, ma cà rồng hay bọn cướp biển của kì
ảo thế giới, thì người ta còn an tâm. Nhưng đây bị đứng bấp bênh giữa hai bờ,
nửa tin nửa ngờ vực, và cứ mãi ám ảnh với ý nghĩ: đây là sự thật sao? Thì khó
chịu lắm thay! Và đó cũng là cái cớ để bọn gian thần thời xưa lợi dụng vu oan
giá họa cho các bậc trung thần. Lê Văn Thịnh là một trường hợp điển hình cho
kiểu truyện người hóa ma, ma biến thành người: ông bị vu là hổ thành tinh, âm
mưu hại vua, không thể thanh minh được, để đến nỗi cuối cùng bị họa thảm sát.
Hay vụ án oan dậy trời Lệ Chi Viên của gia tộc danh thần Nguyễn Trãi, cũng gắn
với truyền kì về đôi vợ chồng rắn (gia nhân Nguyễn Trãi giết rắn chồng, máu rắn
nhỏ xuống trang sách ông đang đọc, đúng vào chữ Đại – đời, thế hệ - và thấm
đến ba trang; sau này rắn vợ cắn chết vua khiến vợ chồng Nguyễn Trãi, Nguyễn
Thị Lộ và ba đời bị vạ, hay có truyền kì rằng chính Nguyễn Thị Lộ là rắn cái
biến hình về trả thù cho chồng…). Rồi người đọc còn đó nhiều sự nghi ngờ: bao
nhiêu danh thần, quan giỏi, nho sĩ tài đã được ghi tên trong sử sách, chẳng lẽ
toàn do thần linh giúp mới được như vậy hay sao? Thật thật giả giả cứ lẫn lộn,
ranh giới giữa cuộc đời thực và thế giới kì ảo trở nên mong manh hơn, kéo theo
nhiều điều bất lợi. Như huyền thoại về những siêu nhân hay người sói… mãi là
những điều huyền hoặc mà người đời trước để lại cho người đời nay, người đời
nay tiếp tục truyền lại cho người đời sau, thành câu chuyện truyền nghi của
muôn đời.
Thêm nữa, những câu văn biền ngẫu vốn rất du dương, đi vào lòng người
đọc và tương đối dễ thuộc, đã trở thành quen thuộc trong văn chương cổ bác học,
phù hợp với đời sống Nho học của đất nước ta thời đó thì cũng không còn được
gặp lại, các truyện vì thế kém đi phần sang trọng, tinh tế. Cốt truyện một chiều,
đơn tuyến, đơn giản đi kèm với dung lượng nhỏ khó mà diễn tả được nhiều tình
tiết, khó mà tạo ra được nhiều nút thắt, chứ chưa nói đến việc gỡ nút thắt đó.
Nghệ thuật phản ánh những khát vọng, ước mơ, những xúc cảm của trạng
thái tinh thần và khả năng tưởng tượng. Nó đứng cao hơn, thậm chí, có lúc vượt
ra khỏi mối quan hệ với cuộc đời, thoát ra khỏi không gian địa lí cụ thể và bình
thường để vươn tới những xúc cảm vũ trụ, phản ánh những sự việc cao hơn thực
tại đời thường. Trí tưởng tượng và khả năng dự báo nhạy cảm chính là cứu cánh
cho văn chương, là ngọn gió đưa cánh diều nghệ thuật bay tới những chân trời
mới lạ hơn, thoát khỏi lực hút vô hình mà mạnh mẽ của mặt đất. Tất nhiên, mặt
đất vẫ là nguồn gốc sinh thành và nuôi dưỡng cho sự tồn tại một cách ổn định,
chắc chắn của cánh diều. Và thường thì những nền văn học lớn mới có đủ khả
năng nối dài cho sợi dây diều bay cao xa hơn mà không bị đứt. Truyền kì Việt
Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã thực hiện xuất sắc chức năng phản
ánh hiện thực, mà chưa thể hiện được những dự báo cho tương lai. Đó là một vài
hạn chế của truyện truyền kì giai đoạn này.
LỜI KẾT
Có thể nói truyền kì Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ
XIX đã đi hết chặng đường của nó, từ giờ phút thăng hoa tới quá trình tha hóa và
tiếp biến sang một xu hướng khác. Điều này được lí giải một phần do hoàn cảnh
lịch sử xã hội và văn học chung giai đoạn này có quá nhiều biến động, chia làm
ba giai đoạn: giai đoạn đầu thế kỉ XVIII, cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX,
và giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Văn học là sự phản ánh xã hội, nhất là trong giai
đoạn xã hội phức tạp thì những thể loại giàu tính biểu cảm và mang chút mộng
mơ, hư ảo sẽ là phương tiện hàng đầu được các nhà văn lựa chọn trong quá trình
sáng tác.
Trong dòng phát triển của lịch sử truyền kì Việt Nam, truyện truyền kì thế
kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt là về số
lượng tác giả, tác phẩm và nguồn tư liệu mà các tác phẩm để lại cho đời sau.
Chúng tôi đã trình bày những hiểu biết của mình về truyền kì thế kỉ XVIII – nửa
đầu thế kỉ XIX cũng như lịch sử nghiên cứu vấn đề này. Trong phần cuối của
luận văn, chúng tôi xin được tóm tắt lại một số điểm và những công việc còn tiếp
tục phải làm.
1. Chương một đã trình bày khá kĩ về tình hình xã hội và phát triển
của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, trong đó có truyện
truyền kì. Những thành tựu văn học rực rỡ nhất của văn học Việt Nam lại thuộc
về thời kì khủng hoảng trầm trọng nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Tìm
hiểu sự không tương xứng này, bên cạnh những nguyên nhân mang tính đặc thù
của xã hội Việt Nam giai đoạn đó, chúng ta còn nhận ra cái nguyên nhân cơ bản
có tính phổ biến đối với văn học nhiều nước, đó chính là sự tác động của thời đại
“bể dâu”, thời đại của những cuộc đấu tranh giai cấp. Đồng thời chúng tôi cũng
nêu lên những nét khái quát nhất về truyền kì giai đoạn này. Trong khoảng hơn
một thế kỉ, dòng văn này đã phản ánh một thời kì xã hội Việt Nam chuyển từ chỗ
tạm thời ổn định sang biến động dữ dội, những phong ba của lịch sử đó đã tác
động đến cuộc đời, tư tưởng và sáng tác của các tác giả. Truyền kì giai đoạn này
với những đặc điểm nổi bật đã chứng tỏ nó không hề thua kém các giai đoạn
trước, đặc biệt vượt trội hơn ở mức độ đồng đều về chất lượng và phong phú về
số lượng của thể loại.
2. Chương hai đã phân tích rất kĩ những xu hướng mới trong nội
dung phản ánh của truyện truyền kì giai đoạn này. Về tư tưởng, như Mác đã nói:
“Tôi có quyền bộc lộ diện mạo tinh thần của tôi” [17, 90], trong sáng tác văn
học, các tác giả được quyền bộc lộ bản thân mình, đó là tính tất yếu của phong
cách. Các tác giả giai đoạn này vẫn đi theo giáo lí của với đạo Nho, một lòng
trung thành với triều vua cũ, tư tưởng của họ căn bản vẫn là hoài Lê. Nhưng bên
cạnh đó, họ còn tìm đến tư tưởng Lão – Trang để làm một cuộc giải tỏa cho nỗi
sầu về một thực trạng đã không thể cứu vớt được nữa.
Các sáng tác giai đoạn này đậm chất kí sự, đề tài gắn liền với cuộc sống,
chủ yếu viết về người thật, việc thật (những nhân vật, sự kiện có thật trong lịch
sử, những nhân vật, sự vật đang tồn tại giữa đời thường), chính vì thế nó nghiêng
về học thuật, khảo cứu, gần với các sách nghiên cứu và sách lịch sử hơn. Các tác
giả đặc biệt quan tâm phản ánh số phận con người, đây là một đặc điểm gắn liền
với trào lưu chung của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam, bắt đầu nở
rộ từ thế kỉ XVIII. Trong đó, quan niệm về hạnh phúc, về chữ “trinh”, phản ánh
định mệnh bất hạnh của những kiếp tài tử giai nhân và cả cuộc đời khổ đau của
những con người bình thường… là những vấn đề được chúng tôi lưu tâm nhất.
3. Chương ba và cũng là chương cuối cùng của luận văn, chúng tôi
đi vào khảo sát những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện của truyện truyền kì
giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Yếu tố “kì” và “thực” – hai yếu tố
quan trọng của một tác phẩm nghệ thuật, một trong những căn cứ để phân định
loại thể tác phẩm – trong thời kì này đã có sự chuyển hóa, khiến truyền kì giai
đoạn này nghiêng về gần cuộc sống hơn. Tính chất “kì” của văn học truyền kì
truyền thống bị giảm đi, thay vào đó, yếu tố “thực” được áp dụng triệt để: thực từ
vị trí và điểm nhìn của người trần thuật, từ tiêu đề tác phẩm đến các thủ pháp
nghệ thuật của bút pháp tự sự được vận dụng. Chính vì vậy mà trong thể truyền
kì giai đoạn này có sự pha tạp của một vài thể loại văn học khác: như kí, tùy bút,
truyện lịch sử, sách nghiên cứu… Đi liền với đó là một thứ văn phong mới, tinh
giản, không cầu kì, nhưng lại vô cùng hiệu quả trong việc truyền tải thông tin.
4. Truyện truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX tất
nhiên còn rất nhiều thiếu sót: như lời văn khô cứng, thô mộc, khác với sự uyển
chuyển, bác học trong văn học trung đại; nó đứng bơ vơ giữa hai bờ thực - ảo:
tính li kì kém các tác phẩm trước đó, trong khi tính thực lại không bằng các sáng
tác sau này; nó mang tính chất “phản ánh” chứ không có sự “dự báo”, điều này
ghi nhận tâm lí chính thống của giới nho sĩ một cách hồn nhiên (coi ngôi vua duy
nhất thuộc về họ Lê là “chân lí”), không tự thấy sự lạc hậu về nhãn quan chính
trị trước một cục diện mới đã xuất hiện ở chính trường Việt Nam từ thời Lê
Trung hưng (vua chỉ còn là ngôi danh dự, quyền điều hành chính trị thuộc một
lực lượng khác: chúa Trịnh, chúa Nguyễn).
5. Nói chung, chúng tôi đánh giá cao những đóng góp của các tác giả
và tác phẩm tiêu biểu trong thời kì này, như Truyền kì tân phả của Đoàn Thị
Điểm, Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh,
Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án… Những tác phẩm ấy
đã để lại nhiều giá trị cho sau này, cả về bản chất thể loại lẫn các lĩnh vực khác
như nghiên cứu văn học, nghiên cứu lịch sử, địa lí, phong thủy…
Truyện truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX xứng đáng có vị trí
cao hơn trong đánh giá của giới độc giả ngày nay bởi các đóng góp quí báu của
nó cho văn học Việt Nam. Những tác phẩm văn học cổ điển của dân tộc “vẫn
còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mĩ, và trên một vài
phương diện nào đó được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt
chước được” [17, 102].
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tác phẩm
1. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), Truyện truyền kì Việt Nam, Quyển hai (tập III
– IV), NXB Giáo dục, 1999
2. Ngô Tự Lập (sưu tầm và giới thiệu), Truyện kì ảo thế giới (tập 2), NXB
Văn học, 1999
3. Trần Nghĩa (chủ biên), Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (tập 1 và
2), NXB Thế giới, HN, 1997
4. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Nguyễn Dữ (Đinh Gia Khánh – Nguyễn Ngọc San
dịch), Lĩnh Nam chích quái, Truyền kì mạn lục, NXB Kim Đồng, HN,
2006
5. Lê Hữu Trác (Phan Võ dịch), Thượng kinh kí sự - Kể chuyện lên kinh,
NXB Văn học, HN, 1971
II. Tài liệu từ điển
6. Lại Nguyên Ân (biên soạn), Từ điển Văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến
hết thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, HN, 1999
7. Lại Nguyên Ân (biên soạn), 150 Thuật ngữ Văn học, NXB ĐH Quốc gia,
HN, 1999
8. Jean Chevalier, A. Gheebrant (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch), Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới: Huyền thoại, Chiêm mộng, Phong tục, Cử chỉ,
Dạng thể, Các hình, Màu sắc, Con số, NXB Đà Nẵng, 1997
9. Khổng Đức – Long Cương, Từ điển Hoa – Việt thông dụng, NXB Thanh
niên, TpHCM, 1999
10. Lê Khả Kế và cộng sự, Từ điển Việt – Anh, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, TpHCM, 1996
11. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Điển cố Văn học, NXB KHXH, HN, 1997
12. Nguyễn Tương Lai, Từ điển Phật học, NXB KHXH, HN, 1999
13. Nhiều tác giả, Từ điển văn học, NXB Khoa học Xã hội, HN, 1984
14. Phan Thiều (chủ biên), Sổ tay từ ngữ Tiếng Việt tiểu học, NXB ĐH Quốc
gia Hà Nội, 1999
15. Trần Đình Sử - Ông Văn Tùng (dịch), Bách khoa toàn thư tuổi trẻ: Văn
học và Nghệ thuật (Phần 1 và 2), NXB Phụ nữ, HN, 2002
16. Nguyễn Viết Xô, Tiếng Việt thông dụng, NXB Trẻ, Tp HCM, 1998
III. Sách lí luận và giáo khoa
17. C.Mác và Ph.Ăngen, Về văn học và nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1958
18. Nguyễn Đình Chú – Nguyễn Lộc (chủ biên), Văn học 10 (tập 1, phần
VHVN), NXB Giáo dục, HN, 2003
19. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Văn hóa, HN,
1999
20. Nguyễn Văn Dân, Lí luận Văn học so sánh, NXB ĐH Quốc gia HN, 2003
21. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB KHXH,
HN, 2004
22. Hà Minh Đức (chủ biên), Lí luận Văn học, NXB Giáo dục, HN, 1995
23. Kiều Thu Hoạch (chủ biên), Tổng tập Văn học dân gian người Việt (Tập
5: Truyền thuyết dân gian người Việt), NXB KHXH, HN, 2004
24. V.I. Lênin, Bàn về văn hóa, văn học, NXB Văn học, HN, 1977
25. V.I. Lênin, Về văn học và nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1957
26. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam – Nửa cuối thế kỉ XIII - nửa đầu thế kỉ
XIX (tập 1 và 2), NXB ĐH&THCN, HN, 1978
27. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Bài tập Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo
dục, HN, 2008
28. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ văn 10, tập 1, NXB Giáo dục,
HN, 2008
29. Lu. M lotman (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy
dịch, Trần Ngọc Vương hiệu đính), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB
ĐH Quốc gia, HN, 2004
30. Phạm An Miên – Phạm Lê Huân, Để học tốt Tiếng Việt 5, tập 1, NXB
Giáo dục
31. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 2), NXB Giáo dục, HN,
2001
32. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, HN, 2002
33. Lê Chí Quế, Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, NXB ĐH Quốc
gia, HN, 2001
34. Bùi Duy Tân (chủ biên), Tư liệu văn 10 (phần VHVN), NXB Giáo dục,
HN, 1997
35. Tiếng Việt 5, tập 1, NXB Giáo dục
IV. Sách nghiên cứu văn học
36. Đặng Việt Bích, Tìm hiểu văn hóa dân tộc (sách Nhà nước đặt hàng),
NXB Văn hóa Thông tin, HN, 2006
37. Phan Đại Doãn (chủ biêng), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia, HN, 1999
38. Đỗ Thị Hiên, Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải và
Nguyễn Minh Châu, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐH
KHXH&NV, HN, 2007
39. Đinh Gia Khánh, Tổng luận về bộ Tổng tập văn học Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, H, 1980
40. Kimseona, Nhân vật phụ nữ trong thể truyền kì qua hai tác phẩm Truyền
kì mạn lục và Truyền kì tân phả, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, ĐH
KHXH&NV, HN, 1995
41. Hoàng Thị Thu Phương, Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh và sự cách tân
thể loại, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, 2008
42. Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2001
43. Trần Đình Sử (chủ biên), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử,
Khoa Ngữ văn, NXB ĐH Sư phạm, Phúc Yên, 2004.
44. Phạm Xuân Thạch, Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong
tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, Luận
án Tiến sĩ Văn học, Trường Đh KHXH&NV, HN, 2008
45. Trần Khánh Thành (tuyển chọn), Hà Minh Đức tuyển tập (tập 1), NXB
Giáo dục, HN, 2004
46. Phạm Văn Thắm, Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì
Việt Nam (thế kỉ XVI – XIX), Luận văn Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện
nghiên cứu Hán Nôm, HN, 1996
47. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB
Giáo dục, HN, 2008
48. Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo Nho
49. Trần Ngọc Vương, Nhà nho tài tử và Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục,
HN, 1992
50. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam – Dòng riêng giữa nguồn chung,
NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 1999
51. Trần Ngọc Vương (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX – Những
vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, HN, 2007
V. Bài viết trên báo, tạp chí
52. Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên
cứu văn học, Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, HN
53. Phạm Quang Long, Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong Văn học
Việt Nam, ĐH Quốc gia Hà Nội
54. Nguyễn Kim Sơn (dịch và sưu tầm), Mĩ học tiểu thuyết, HN, 2004
55. Nguyễn Kim Sơn, Những chuyển biến của văn học thế kỉ XVIII – đầu thế
kỉ XIX nhìn từ góc độ sự tác động của Nho học tới văn học, Tạp chí Văn
học, Số 8, 1998
56. Vũ Thanh, Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam
hiện đại, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học (Hà Minh Đức chủ
biên), NXB KHXH, HN, 2001
57. Vũ Thanh, Thánh Tông di thảo – Bước đột khởi trong tiến trình phát triển
của thể lại truyện ngắn Việt Nam trung cổ, Hoàng đế Lê Thánh Tông –
Nhà chính trị tài năng, Nhà văn hóa lỗi lạc, Nhà thơ lớn, NXB KHXH,
HN, 1998
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
Bảng thống kê số khoa thi, số tiến sĩ và số trạng nguyên của từng triều đại nước ta (Từ năm 1075 đến năm 1919)
Theo Sách Tiếng Việt 5:
Triều đại Lý Trần Hồ Lê Mạc Nguyễn Tổng cộng Số khoa thi 6 14 2 104 21 38 185 Số tiến sĩ 11 51 12 1780 484 558 2896 Số trạng nguyên 0 9 0 27 10 0 46
Theo Để học tốt Tiếng Việt 5:
Triều đại Lý Trần Hồ Lê Mạc Nguyễn Tổng cộng Số khoa thi 6 14 2 101 22 40 185 Số tiến sĩ 27 238 200 978 485 588 2516 Số trạng nguyên 4 12 1 7 13 0 37
* Ghi chú: Triều Nguyễn chỉ không dùng danh xưng Trạng nguyên chứ không
phải không có người đáng tài đỗ Trạng nguyên. Người đỗ đầu thi Đình, triều
Nguyễn không gọi Trạng nguyên mà gọi là Đệ nhất giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp).
Phụ lục 2:
Bảng thống kê sự xuất hiện của các môtip
Môtip
Giấc mơ
Ra đời kì lạ Chết kì lạ
Thụ thai kì lạ
Diệt yêu quái
Tập truyện
0
0
Truyền kì tân phả
1 lần: Nữ thần ở Vân Cát
Công dư tiệp kí
1 lần: Bố già lặn xuống vực tìm con gái
6 lần: Đền thiêng ở cửa bể, Người liệt nữ ở An Ấp, Nữ thần ở Vân Cát 3 lần: Tìm đất đền ơn, Thủ khoa mặt đẹp, Kiếp sau của sư Bật Sô
3 lần: Nhận ra mẹ đẻ, Sư chăn trâu linh thông, Chôn xương bụng ngựa
Lan Trì kiến văn lục
1 lần: Con lai rắn
3 lần: Đền thiêng ở cửa bể, Người liệt nữ ở An Ấp, Nữ thần ở Vân Cát 4 lần: Nhận ra mẹ đẻ, Ác báo, Sư chăn trâu linh thông, Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ 1 lần: Thần cửa Cần Hải
3 lần: Chuyện khỉ, Con giải, Đánh nhau với quỉ
2 lần: Thám hoa được giáng xuống Phù Khê, Nguyễn Giám sinh làm vua đất Bắc 3 lần: Hai truyện hổ có nghĩa, Sinh đẻ kì lạ, Biết chuyện kiếp trước
4 lần: Thần cửa Cần Hải, Điềm báo trước, Tháp Báo Ân, Giấc mộng lạ 0
0
0
0
0
0
0
0
Tân truyền kì lục Tang thương ngẫu lục
1 lần: Nội đạo tràng
Vũ trung tùy bút
0
0
0
0
Thoái thực kí văn
1 lần: Ông Nguyễn Trọng Thường 1 lần: Thần hồ Động Đình 0
0
0
0
1 lần: Biết truyện kiếp trước 7 lần
Tổng cộng
15 lần
4 lần
8 lần
5 lần
Phụ lục 3:
Khảo sát loại nhân vật trong Lan Trì kiến văn lục
Loại nhân vật
Nam
STT
Tên truyện
giới/Thần
Phụ nữ
Trẻ con
Loài vật
tiên/Ma quỉ
1. Dốc Lôi Thủ
x
2. Thần cửa Cần Hải
x
x
x
3. Con lai rắn
x
4. Tiên ngoài hải đảo
x
5. Nguyễn Quỳnh
x
6. Phạm Viên
x
7. Ông tiên ăn mày
x
8. Hai truyện hổ có
x
nghĩa
9. Sinh đẻ kỳ lạ
x
x
10. Sống lại
x
11. Tên ăn trộm
x
12. Cô đào họ Nguyễn
x
13. Chuyện tình ở
x
Thanh Trì
14. Cá thần
x
15. Chuyện khỉ
x
x
16. Con hổ nghĩa hiệp
x
17. Bà đồng
x
18. Bà phu nhân Lan
x
x
Quận công
19. Quan Thượng họ
x
x
Đỗ
20. Điềm báo trước
x
21. Nhớ được 3 kiếp
x
x
22. Chuyện quan Quận
x
ở Liên Hồ
23. Hổ có lòng nhân
x
24. Ông Nguyễn Trật
x
25. Tháp Báo Ân
x
x
26. Ông Trạng họ
x
x
Nguyễn
27. Giấc mộng lạ
x
28. Gấu, hổ chọi nhau
x
29. Rắn thần
x
30. Thầy xem tướng
x
31. Thầy Chiêu Trưng
x
32. Động Hải Sơn
x
33. Biết chuyện kiếp
x
x
trước
34. Người khổng lồ
x
35. Con giải
x
x
x
36. Thần giữ của
x
37. Nguyễn Danh
x
Dược
38. Yêu quái trên cây
x
x
39. Đánh nhau với quỷ
x
TS
39 truyện
24 truyện
15 truyện
3 truyện
11 truyện
Phụ lục 4:
Bảng khảo sát các chữ cuối tiêu đề
STT
Tên tác phẩm
Ghi chú
1.
Truyền kì tân phả 傳奇新譜
Ý nghĩa tên tác phẩm Phả mới truyền đi những việc kì lạ
2. Công dư tiệp kí 公 餘 捷 記
3.
Lan Trì kiến văn lục 蘭池見聞錄
Bản ghi những điều Lan Trì mắt thấy tai nghe
4.
Ý nghĩa chữ cuối (Bảng có hệ thống) (nhớ, ghi, bản ghi chép 190, tiệp nghĩa là nhanh 219) (kiến là nhìn, văn là nghe?, ghi chép, thu nhận 280)
Bản ghi chép những việc kì lạ mới
5.
Đây là cách hiểu chúng tôi, vì chúng tôi không có trong tay những tài liệu dịch đã được công nhận về những tiêu đề này, có lẽ các dịch giả không có ý định dịch tiêu đề lớn của tác phẩm
Tân truyền kì lục 新傳奇錄 Tang thương ngẫu lục 桑滄偶錄
Ghi chép ngẫu nhiên những chuyện dâu bể
Ghi chép ngắn trong mưa
(ngẫu là tình cờ, ngẫu nhiên 319) (những ghi chép ngắn 428)
7.
6. Vũ trung tùy bút 雨中隨筆 Thoái thực kí văn 退食記聞
(văn là nghe 467 ->
Ngoài ra, còn một số tác phẩm không xác định được tên tác giả và chưa khẳng định chắc thời điểm sáng tác, có trong tuyển tập này:
- Sơn cư tạp thuật 山居雜述 (thuật là kể lại, tạp là lộn xộn lung tung): Ở trong núi
kể lung tung
- Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập 新訂校評越甸幽靈集 (bình là bình
luận, đánh giá, nhận xét)
- Tân đính Lĩnh Nam chích quái 新 訂嶺南摭怪 (đính là cải chính) - Bích Châu du tiên mạn kí 碧珠遊仙漫記 (mạn: tràn ra, tự do, tản mạn) - Việt Nam kì phùng sự lục 越南奇逢事錄