ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––
NÔNG THỊ GIANG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
NHÌN TỪ SỰ TIẾP NHẬN CỦA NGƯỜI ĐỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––
NÔNG THỊ GIANG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
NHÌN TỪ SỰ TIẾP NHẬN CỦA NGƯỜI ĐỌC
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Đăng Dung
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận văn
i
Nông Thị Giang
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ
Khoa học Ngữ Văn với đề tài: Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp
nhận của người đọc
Để thực hiện luận văn, ngoài sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ của Nhà trường, của các thầy cô giáo, của bạn bè đồng
nghiệp và gia đình.
Tôi xin được bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trương
Đăng Dung - người thầy đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo để tôi thực hiện thành công
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, các thầy cô khoa
Ngữ văn trong trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và tập thể lớp Cao học k24 Bắc Kạn đã
động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
ii
NÔNG THỊ GIANG
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 8
7. Bố cục của luận văn .................................................................................................. 9
Chương 1: PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
NHÌN TỪ LÍ THUYẾT TIẾP NHẬN ..................................................................... 10
1.1. Từ văn bản đến tác phẩm văn học ....................................................................... 10
1.1.1. Bản chất của ngôn ngữ ...................................................................................... 10
1.1.2. Bản chất của văn bản văn học trong quan hệ với người đọc ............................ 19
1.2. Đọc là sự cụ thể hóa văn bản ............................................................................... 24
1.2.1. Vai trò tầm đón đợi của chủ thể tiếp nhận ........................................................ 24
1.2.2. Sự thỏa thuận giữa văn bản và người đọc ......................................................... 26
Chương 2: QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
HUY THIỆP .................................................................................................. 28
2.1. Sự xuất hiện sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp trong thời kì văn học đổi mới. .... 28
2.1.1. Đặc điểm văn học thời kì đổi mới .................................................................... 28
2.1.2. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ...................................................................... 33
2.2. Các xu hướng tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp ......................................... 46
2.2.1. Xu hướng tán thành ủng hộ .............................................................................. 47
iii
2.2.2. Xu hướng lên án chê bai ................................................................................... 58
Chương 3: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG GIỚI HẠN TRONG VIỆC
TIẾP NHẬN TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP ...................................... 70
3.1. Giới hạn của cộng đồng diễn giải ........................................................................ 70
3.1.1. Chuẩn thẩm mĩ truyền thống ............................................................................ 72
3.1.2. Chuẩn thẩm mĩ mới .......................................................................................... 75
3.2. Giới hạn của chủ thể tiếp nhận ............................................................................ 76
3.2.1. Cách nhìn mới về thực tại ................................................................................. 76
3.2.2. Những thủ pháp nghệ thuật mới ....................................................................... 81
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 94
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí thuyết tiếp nhận đã được các nhà lí luận nghiên cứu nhiều vào những
năm đầu thế kỉ XX. Trong đó vấn đề nhà văn, văn bản, người đọc trở thành mối quan
tâm cơ bản của lí thuyết tiếp nhận. Nếu lý luận văn học tiền hiện đại đề cao vai trò
của nhà văn, xem nhà văn là một bến bờ quan trọng để hiểu tác phẩm thì tư duy lý
luận văn học hiện đại và hậu hiện đại lại rất coi trọng vai trò chủ thể tiếp nhận xem
người đọc là đồng sáng tạo với nhà văn. Theo đó tác phẩm văn học có phương thức
tồn tại thông qua người đọc. Như vậy khi nhà văn viết xong một văn bản in thành
sách, đó mới chỉ là điều kiện tiên quyết. Để trở thành tác phẩm phải có hành động đọc
của chủ thể tiếp nhận. Nghĩa là với lớp lớp câu chữ phi vật thể ẩn chứa nhiều nghĩa
khác nhau luôn biến động và không thể khoanh vùng, văn bản văn học như là mê
cung của sự tạo nghĩa không ngừng thông qua người đọc. Đây là vấn đề quan trọng
khi chúng ta nhìn nhận giá trị của một tác phẩm văn học. Nó cho thấy từ văn bản đến
tác phẩm văn học là một quá trình tạo nghĩa không ngừng. Và việc đọc một văn bản
văn học luôn luôn mở ra những khả năng và giới hạn của sự tiếp nhận văn học. Do đó
không thể có một ý kiến nào của người đọc là duy nhất đúng. Khi nghiên cứu một
hiện tượng tiếp nhận văn học nào đó, chúng ta sẽ nhận ra những nguyên nhân giới
hạn của cộng đồng diễn giải đã chi phối như thế nào đến hoạt động tiếp nhận của mỗi
thành viên cộng đồng ấy. Đây cũng là lí do chúng tôi vận dụng tri thức lí thuyết tiếp
nhận để nghiên cứu sự phản hồi của người đọc về một hiện tượng văn học phức tạp
của thời kì đổi mới. Đó là hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp với những truyện ngắn độc
đáo của ông.
1.2. Từ sau 75, văn học Việt Nam thực sự chuyển biến sâu sắc và toàn diện -
văn học bước vào thời kì đổi mới sôi nổi, mạnh mẽ mở ra nhiều thành tựu và triển
vọng. Văn học nhìn thẳng vào sự thật, những vấn đề đạo đức thế sự được các nhà văn
đặc biệt quan tâm. Vì thế mà người đọc được đón nhận nhiều tác phẩm văn học mang
hơi hướng hoàn toàn mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức. Văn học đổi mới xuất hiện
nhiều tài năng với những tên tuổi Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Các cây bút đó đã góp phần
1
làm thay đổi diện mạo văn học, tạo được sức hấp dẫn cho văn xuôi Việt Nam.
Trong số đó, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nổi lên trở thành một hiện tượng lạ
của văn học thời kì này. Các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra hiệu ứng
tiếp nhận khác nhau cho người đọc và làm xôn xao cả làng bút văn. Bởi lẽ khi tiếp
nhận tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, giới phê bình nghiên cứu và độc giả chú ý
nhiều tới quan niệm và cách thể hiện rất riêng của nhà văn. Và có lẽ từ thời của Vũ
Trọng Phụng đến nay, Nguyễn Huy Thiệp trở thành người lập kỉ lục có nhiều bài viết
bàn cãi nhất về sáng tác của mình. Qua tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy người đọc đã dùng những hệ qui
chiếu khác nhau để tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Có ý kiến chỉ đánh giá
qua một vài truyện ngắn đơn lẻ hoặc một vài phương diện nghệ thuật truyện ngắn của
nhà văn. Có ý kiến chỉ nhìn nhận "hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp" ở phương diện
giới thiệu nhà văn - tác phẩm. Có thể thấy xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau nên
các ý kiến của bạn đọc đánh giá về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng khác
nhau: người khen hết lời, người chê tột bậc. Bởi vậy, chọn đề tài "Truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp nhận của người đọc", chúng tôi muốn dựa trên
cơ sở những lí thuyết tiếp nhận để soi sáng hiện tượng tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp.
Từ đó góp phần nhận thức về bản chất của tác phẩm văn học và để hiểu hơn nguyên
nhân thăng trầm của những giá trị văn học trong qua trình lịch sử.
1.3. Mặt khác là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy chúng tôi nhận thức
được về tầm quan trọng của vấn đề chủ thể tiếp nhận. Đó chính là đối tượng học sinh
mà chúng tôi hướng tới. Với việc thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ có cơ hội học
tập,bổ sung và làm đầy đặn thêm kiến thức. Đồng thời chúng tôi được vận dụng
những tri thức lí thuyết tiếp nhận vào việc đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng
vào việc diễn giải văn bản văn học trong nhà trường giúp học sinh nhận thức đúng
hơn bản chất của các giá trị văn học. Đó là những lí do để chúng tôi lựa chọn đề tài
“Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp nhận của người đọc".
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết tiếp nhận
Thế kỉ XX là thế kỉ của những thành tựu mang tính chất bước ngoặt của tư duy
lí thuyết văn học hiện đại. Trên thế giới, Lí luận văn học ngày càng được giảng dạy
như một môn độc lập có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Ngày càng có
nhiều công trình lí luận văn học nghiên cứu những vấn đề có tính phổ quát trên cơ sở
2
tiếp cận những quy luật văn chương. Lý thuyết Tiếp nhận văn học hình thành ở
những năm 60 của thế kỉ XX với trung tâm là Đại học Konstanz ở CHLB Đức. Vấn
đề người đọc trong lí thuyết tiếp nhận gắn liền với tên tuổi của hai nhà nghiên cứu
người Đức Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser. Các công trình lý luận của hai ông
và những người kế tục đường hướng này đã tạo lập một trường phái mới trong nghiên
cứu văn học: trường phái Konstanz (Đức). Sự đóng góp của hai ông và những người
kế tục làm cho “… từ ngữ Konstanz đã trở thành một thuật ngữ, một khái niệm trong
thế giới hàn lâm học viện nói chung, trở thành một trường phái khoa học, lý luận văn
học nổi tiếng”. Các bài giảng của Hans Rober Jauss sau này được chỉnh sửa và viết
thành cuốn chuyên luận "Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn
học" và được nhà nghiên cứu PGS.TS Trương Đăng Dung giới thiệu và dịch ra tiếng
Việt, in trong cuốn "Tác phẩm văn học như là quá trình", NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội 2004. Theo nhà nghiên cứu: tác phẩm văn học không phải là một sản phẩm cố
định mà là một quá trình thông qua người đọc. Khi nhà văn viết xong văn bản in
thành sách thì số phận văn bản tùy thuộc vào người đọc. Như vậy lần đầu tiên ta thấy
lí luận văn học quan tâm tới người đọc - chủ thể tiếp nhận có vai trò quan trọng đối
với sự tồn tại của tác phẩm văn chương. Ông cho rằng có văn bản nhưng chưa thành
tác phẩm. Để có tác phẩm cần hành động đọc, hành động cụ thể hóa văn bản của chủ
thể tiếp nhận.Còn giáo sư người Ý: Um berto Eco có công trình "Tác phẩm mở" nói
về phẩm chất văn bản văn học: đó là văn bản văn học có tính chất mở. Vì vậy tiếp
nhận văn học cần một người đọc lí tưởng để tiếp nhận và điều chỉnh. Về sau, từ
phương diện tiếp cận tác phẩm văn học, Derrida cũng cho rằng "Văn bản văn học
không khép kín, nghĩa của nó không bị trói buộc, bằng sự giúp đỡ của tác giả hay là
sự liên quan với hiện thực, văn bản văn học luôn mở, nó cần được bổ sung và tạo khả
năng bổ sung" [16, tr.7]. Sau này nhà lí luận Paul de Man cho rằng "đọc đúng văn
bản là đọc sai văn bản". Điều này cho phép người đọc thả sức tưởng tượng khi đến
với tác phẩm văn học bởi mỗi người đọc có những tầm đón đợi khác nhau. Như vậy
mĩ học tiếp nhận đã cho thấy ý nghĩa của văn bản ngày càng phong phú đa dạng
chính là nhờ người đọc.
Chung với xu hướng đó, ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến lý
thuyết này và bắt đầu đề xuất hướng tiếp cận văn học từ khoảng những năm 70 của
thế kỉ XX với sự đóng góp của GS.TS Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Phan Anh. Tiếp đó
đến nay, các nhà nghiên cứu đã ý thức được tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận,
3
đã nắm bắt được những vấn đề cốt lõi. Khi nghiên cứu về tiếp nhận văn học, nhiều
tác giả đã đánh giá về vai trò của chủ thể tiếp nhận. Huỳnh Phan Anh trong tiểu luận
phê bình " Đi tìm tác phẩm văn chương" đã viết " Người đọc không chỉ là kẻ thưởng
ngoạn, không chỉ làm công việc ngợi ca, người đọc còn là kẻ sáng tạo vô danh...".
Vấn đề tiếp nhận văn học cũng được quan tâm nhiều hơn ở thập niên 90, tác giả
Nguyễn Thanh Hùng với bài viết "Trao đổi thêm về tiếp nhận văn học" [1.31]
Nguyễn Lai với Tiếp nhận văn học - một số vấn đề thời sự [1.34]. Hai bài viết đã đặt
ra vấn đề tiếp nhận như một cơ chế tâm lí diễn ra trong người đọc. Đến năm 1991
trong cuốn "Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận” [6], Nguyễn Văn Dân đã đưa ra bàn
về vấn đề chủ thể tiếp nhận theo quan điểm của H.R Jauss. Năm 1993, Đỗ Đức Hiểu
cũng bàn đến việc đọc của chủ thể tiếp nhận "Đọc trước hết là phát hiện trong văn
bản và từ văn bản một thế giới khác, những con người khác. Người đọc sống trong
thế giới tưởng tượng của mình những kỉ niệm kí ức khát vọng riêng" [30]. Riêng nhà
nghiên cứu GS. TS Trần Đình Sử đã có nhiều công trình nghiên cứu về lí thuyết tiếp
nhận. Trong chuyên đề "Văn bản văn học và đọc hiểu văn học", GS. TS Trần Đình
Sử đã lí giải "Ý nghĩa của văn bản không nằm ngoài sự đọc của người đọc do đó để
hiểu quá trình sinh nghĩa của văn bản cần phải nghiên cứu thực chất của hoạt động
đọc văn". Cũng theo ông thì nhận thức chung về sự đọc: đọc là giải thích, giải mã,
đọc là khai thông nối liền giữa người đọc và tác giả, đọc là viết lại, đọc là kiến tạo,
trò chơi, là giải cấu trúc, đọc là phát hiện ra giá trị, là đối thoại giao lưu với văn bản
và đọc còn là đọc nhầm...Như vậy đọc là hành trình đi tìm nghĩa.... Và còn có rất
nhiều công trình nghiên cứu khác của các giáo sư khác như Phương Lựu, Nguyễn
Văn Hạnh, Hà Minh Đức. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng người có thành tích nhất
trong việc giới thiệu lý thuyết tiếp nhận phải là PGS.TS Trương Đăng Dung.Là người
được đào tạo chính quy ở nước ngoài về, lại là người tâm huyết với lí luận PGS.TS
Trương Đăng Dung đã nghiên cứu rất khoa học và hệ thống về lí thuyết tiếp nhận.
Trong "Tác phẩm văn học nhìn từ lí thuyết tiếp nhận", với góc độ tiếp cận từ mỹ học
và triết học, ông đã chỉ ra tác phẩm văn học là văn bản. Bởi vậy cần phải có sự đọc
của chủ thể tiếp nhận thì văn bản mới thành tác phẩm. Người đọc bằng kinh nghiệm
sống và kinh nghiệm thẩm mỹ của mình sẽ tự lấp đầy những khoảng trống và khoảng
trắng....để xây dựng cho mình một tác phẩm văn học đích thực. Nhưng người đọc còn
bị lệ thuộc vào những quy ước văn hóa chung của cộng đồng diễn giải. Và như vậy,
đọc là quá trình tạo nghĩa. Ở tạp chí văn học số 11/1995, trong bài viết "Từ văn bản
4
đến tác phẩm văn học và giá trị thẩm mỹ", ông chỉ ra "cùng một tác phẩm mà có
nhiều sự đọc khác nhau, ông gọi là đó là sự cụ thể hóa...Thông qua sự cụ thể hóa
(đọc) mà những chỗ trống trong tác phẩm được bù lấp, bộ xương được đắp thêm da
thịt. Tính chất của sự cụ thể hóa này phụ thuộc vào trình độ người đọc và bản thân
tác phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hóa lý
tưởng. Sự cụ thể hóa này ở mỗi người mỗi vẻ không ai giống ai". [11]. Trong một
công trình nghiên cứu, PGS.TS Trương Đăng Dung đã viết: Tác phẩm văn học không
chỉ là hình thức ngôn ngữ đặc trưng mà còn là hình thức đọc đặc trưng. Trên cơ sở
đó chúng ta có thể nhìn nhận tác phẩm như là quá trình, quá trình tạo nghĩa mang
tính chất quan hệ của văn bản văn học" [11]. Đó là một quá trình tiếp nhận với nhiều
yếu tố phức tạp cho thấy tác phẩm văn học không tĩnh mà động, không phải sản phẩm
cố định mà là quá trình. Đây là yếu tố quan trọng trong khi nghiên cứu tác phẩm văn
học. Tất cả các công trình nghiên cứu của các thầy giáo đầu ngành trên đây về lý
thuyết tiếp nhận rất đáng trân trọng và sẽ là những định hướng quan trọng giúp chúng
tôi nghiên cứu triển khai và hoàn thiện đề tài của mình.
2.2. Về tình hình nghiên cứu Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện giữa lúc văn đàn đang sôi nổi của văn học thời kì
đổi mới sau 75. Và ngay lập tức Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành hiện tượng lạ độc
đáo, sáng tác của ông đã gây nên "cơn sốt" trong dư luận "văn đàn đổi mới đã khởi
sắc, bỗng khởi sắc hẳn, đã náo động, càng thêm náo động, bởi những cuộc tranh
luận, cả tranh cãi, quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp" [41, tr.5-6]. Trong cuốn
"Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", tác giả Phạm Xuân Nguyên đã tập hợp và biên soạn
những bài viết về Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả cuốn sách đã phân chia các viết thành
hai luồng chính phản đối và đồng tình. Có thể giải thích điều này từ rất nhiều góc độ
khác nhau những phải khẳng định chắc chắn rằng người đọc có vai trò quan trọng
trong tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Trong lịch nghiên cứu về sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp, còn có nhiều công trình, có nhiều bài viết với các góc độ khác
nhau. Bởi " Nguyễn Huy Thiệp là ông thầy phù thủy chữ nghĩa. Chỉ với 24 chữ cái và
6 dấu thanh điệu, ông đã làm mê hoặc người đọc, tạo nên bao nhiêu sóng gió trong
làng văn bút. Người đọc vẫn đang mải mê “đi tìm” Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn biết
cách nối thế giới cần lao với tiên cảnh, biết cách phù phép cho mỗi con chữ, mỗi câu
văn, mỗi thiên truyện tầng tầng lớp lớp ý nghĩa và mở cho người đọc muôn nẻo cách
5
đọc khác nhau… ". (PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn).
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ xin điểm lại một vài ý kiến xung quanh
vấn đề về sự phản hồi của người đọc qua tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.Trước
tiên về các ý kiến phê phán,ta thấy khi "Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp trình làng,
Chu Huy, Bùi Bình Thi...cũng có nhiều ý kiến ví như "Nguyễn Huy Thiệp hay viết về cái
xấu. Mà thường cái xấu hấp dẫn hơn viết cái tốt. Ở Tướng về hưu mà nhiều người khen,
tôi có cảm giác có sự phủ nhận cuộc kháng chiến chống Mỹ" [41, tr.453]. Trong bài Các vị
tướng nói về phim Tướng về hưu của nhà báo Lê Hà "tác giả đã bôi nhọ cuộc đời chiến
đấu của một cán bộ quân đội..." [41] Nguyễn Thúy Ái (Viết như thế cũng là một cách bắn
súng lục vào quá khứ), Đỗ Văn Khang phân tích các truyện viết về sinh hoạt của Nguyễn
Huy Thiệp cho rằng "Văn của Nguyễn Huy Thiệp ngày càng mất bản chất nhân văn..."
"ngày càng thô lỗ cục cằn và bộc lộ trình độ văn hóa rất yếu kém" [41]. Mai Ngữ trong bài
phê bình “Cái Tâm và cái tài” của người viết đã phê phán cái tâm của Nguyễn Huy Thiệp.
Đặc biệt khi bộ ba truyện ngắn giả lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm Tiết ra đời, Tạ Ngọc
Liễn - nhà nghiên cứu lịch sử đã đề nghị "chúng ta cần phải nhắc nhở anh...cần kiểm tra
lại vốn tri thức văn hóa, vốn hiểu biết lịch sử..." [41]...
Tuy vậy có thể khẳng định bên cạnh những lời chê thì không hiếm những bài
viết biểu dương khen ngợi sáng tác của Huy Thiệp. Đó là ý kiến khen từ Đặng Anh
Đào trong "Khi ông tướng về hưu xuất hiện", Trần Đạo - một nhà nghiên cứu sống ở
Pháp cho rằng "Văn Tướng về hưu không chỉ hay ở hình thức...Hay ở nội dung hành
văn. Tức là bản thân lối viết trực tiếp xúc động lòng người" [41, tr.42] Và có thể nhận
thấy bộ ba truyện "giả lịch sử " của Nguyễn Huy Thiệp đã nhận được nhiều lời khen
ngợi từ các nhà nghiên cứu văn học như các tác giả Lại Nguyên Ân, Văn Tâm, Thùy
Sương đều ca ngợi cho răng: Vàng lửa đã góp phần biến độc giả thành bạn đọc
trưởng thành. "Sự thực Nguyễn Huy Thiệp không xuyên tạc lịch sử mà đề cập một
hằng số lịch sử" [41, tr.297] (Văn Tâm). Rồi nhà phê bình Văn Giá có bài Bàn thêm
về truyện ngắn“Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu và phê bình văn
học Nguyễn Đăng Điệp có Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp...Trong bài báo
Về một lối cảm thụ và phê bình "bắt vít" (Văn nghệ số 36-37, ngày 3/9/1988), hai tác
giả Nguyễn Hữu Sơn và Trịnh Bá Đĩnh ca ngợi giá trị " phản tỉnh " giúp chúng ta
nhìn thẳng thực trạng đói nghèo trì trệ của dân tộc từ Vàng lửa...Bên cạnh đó ta còn
thấy những bài viết bày tỏ sự khâm phục và ngưỡng mộ đối với tài năng viết truyện
ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp như các bài viết của: Hoàng Ngọc Hiến (Tôi
6
không chúc bạn“thuận buồm xuôi gió”), Văn Tâm (“Đọc” Nguyễn Huy Thiệp), Diệp
Minh Tuyền (Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng mới), Thái Hòa (Có nghệ thuật ba-rốc
trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hay không), Trần Duy Thanh (Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp), Nguyễn Đăng Mạnh (Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, vài cảm
nghĩ) Nguyễn Thanh Sơn (Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp), Đỗ Đức Hiểu (Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp), Vương Trí Nhàn (Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp)... Nhìn
chung, các bài viết đều đi từ những đặc điểm sáng tạo nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp và xuất phát từ cái Tâm của nhà phê bình.
Xuất phát từ quan điểm thi pháp học, GS Đỗ Đức Hiểu trong quá trình "Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp" [30, tr.472] đã nhận thấy một số tác phẩm văn học thế kỷ XX rất
khó đọc, khó hiểu, trong đó có truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Vì thế, "người đọc
không còn thụ động thưởng thức tác phẩm văn học, mà trở thành người đọc tích cực:
đọc là một cuộc phiêu lưu giữa văn bản ngôn từ... người đọc phải từ bỏ lối đọc truyền
thống và phải rèn luyện cách đọc tích cực, tức là phải khám phá, phải cùng nhà văn
sáng tạo"[30, tr.477].
Có thể thấy, các ý kiến trên đã đề cập đến yếu tố văn bản và cách đọc. Từ đó
đem đến cho người tiếp nhận những kết quả khác nhau khi cùng tiếp cận một tác
phẩm văn học. Tuy nhiên họ chưa trực tiếp đi vào bản chất của sự đọc nhìn từ lí
thuyết tiếp nhận .Qua việc điểm lại một số công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không những thu hút được sự quan tâm của rất nhiều
tầng lớp bạn đọc từ các nhà nghiên cứu lí tưởng đến bạn đọc văn mà còn là đề tài hấp
dẫn cho nhiều luận văn. Tuy vây nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều nhưng
nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự phản hồi của người đọc thì vẫn
còn ít. Và để góp phần khẳng định vai trò của người đọc trong lịch sử tiếp nhận sáng
tác Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài "Truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp nhận của người đọc ".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về "Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp nhận của
người đọc" chúng tôi giới thiệu Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng mới và lạ, gây
nhiều tranh cãi. Đồng thời khảo sát các xu hướng tiếp nhận của các nhà nghiên cứu ,
phê bình về sáng tác của tác giả này và lí giải nguyên nhân gây tranh cãi. Từ đó giúp
bạn đọc thấy được vai trò của người đọc và có cái nhìn khách quan khoa học về giá
7
trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn khảo sát một số truyện ngắn tiêu biểu và các ý kiến đánh giá của các
nhà nghiên cứu, phê bình cùng với ý kiến bạn đọc về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Từ đó giúp bạn đọc thấy 2 xu hướng chính tiếp nhận truyện ngắn của nhà văn. Qua
sự phản hồi của người đọc khi tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi
góp phần soi sáng vấn đề phương thức tồn tại của tác phẩm văn học trong quan hệ với
người đọc, một vấn đề lí thuyết có ý nghĩa khoa học.
Với đề tài này chúng tôi muốn góp phần khẳng định những đóng góp quan
trọng của Nguyễn Huy Thiệp cho quá trình đổi mới Văn học Việt Nam
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào lí thuyết tiếp nhận văn học trong sự
vận động của tư duy lí luận văn học. Trên cơ sở đó , chúng tôi đi vào nghiên cứu văn học
sau 75; đặc điểm của sáng tác Nguyễn Huy Thiệp và đặc biệt đi tìm hiểu các bài nghiên
cứu, sự phản hồi của bạn đọc qua lịch sử tiếp nhận truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi tập trung tiếp cận các truyện ngắn trong:
- "Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp", NXB Hội nhà văn, tái bản 2005
- "Những ngọn gió Hua Tát", Nguyễn Huy Thiệp, tuyển tập truyện ngắn và
kịch, NXB Trẻ, 2017
- Và một số bài viết phê bình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
chủ yếu trong cuốn " Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp" (Phạm Xuân Nguyên)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài "Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp
nhận của người đọc, chúng tôi vận dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp hệ thống
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp khảo sát thống kê
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu "Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp
nhận của người đọc" nhằm khẳng định nhận thức mới về phương thức tồn tại của
tác phẩm văn học thông qua mối quan hệ với người đọc. Từ đó để thấy rằng muốn
8
phát triển một nền văn học không chỉ quan tâm yếu tố sáng tạo mà còn phải chú ý đến
yếu tố tiếp nhận. Và trong hoạt động tiếp nhận người đọc đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành các giá trị thẩm mĩ. Bởi tác phẩm văn học không phải là sản
phẩm cố định trên mà là quá trình tạo nghĩa không ngừng thông qua người đọc.
Luận văn cũng là dịp để chúng tôi khẳng định những đóng góp của Nguyễn Huy
Thiệp trong quá trình đổi mới văn học nước nhà. Sáng tác của nhà văn có tác động quan
trọng đối với tư duy lí luận văn học về góc độ tác phẩm văn học.
7. Bố cục của luận văn
Gồm phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
9
của luận văn được trình bày trong ba chương.
Chương 1
PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
NHÌN TỪ LÍ THUYẾT TIẾP NHẬN
Tiếp nhận là hoạt động nắm bắt thông tin trong quá trình giao tiếp. Tiếp nhận
văn học là sự chủ động của người đọc trong việc lựa chọn thông tin, sáng tạo ý nghĩa
của tác phẩm. Nhờ người đọc mà ý nghĩa tác phẩm không ngừng biến động, phong
phú thêm trong tiến trình lịch sử. Trong đời sống văn học, tác giả làm ra tác phẩm có
ý nghĩa khởi đầu. Nhưng nói đến câu chuyện tiếp nhận là nói đến vai trò trung tâm
của người đọc. Lý thuyết tiếp nhận tập trung vào người đọc. Các nghĩa của văn bản
luôn được các kiểu người đọc làm mới, làm phong phú, khác biệt
1.1. Từ văn bản đến tác phẩm văn học
1.1.1. Bản chất của ngôn ngữ
Trong lí luận văn học, trước đây người ta chỉ đề cao vai trò của tác giả, hoặc tác
phẩm, vai trò của người đọc bị coi nhẹ như là một hoạt động thụ động, không tích
cực. Vì thế trong quan điểm truyền thống, tác phẩm được đồng nhất với tư tưởng nhà
văn. Từ đó mà việc đọc tác phẩm trước đây gắn bó mật thiết với những ý tưởng của
người sáng tác. Vào nửa sau thế kỉ XX, nền Mĩ học tiếp nhận hình thành và khẳng
định ý nghĩa của tác phẩm được sản sinh qua sự tương tác giữa văn bản với người
đọc. Và tư duy lí luận văn học hậu hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc
trưng bản thể của văn bản văn học trong mối quan hệ với các yếu tố khác và trong
mối quan hệ với người tiếp nhận. Có thể thấy rằng thế kỉ XX đã chứng kiến nhiều
phát hiện mới trong tư duy lí luận văn học. Một trong những phát kiến đó là đề xuất
vai trò của người đọc. Theo các nhà lí luận hậu hiện đại thì:tác phẩm không thể có ý
nghĩa cố định, mà phụ thuộc vào sự giao thoa diễn biến giữa các điểm nhìn trong lịch
sử. Trên cơ sở đó, Mĩ học tiếp nhận đã chuyển giao vị trí trung tâm từ văn bản sang
người đọc và lịch sử văn học, do đó không phải là lịch sử của tác giả với những tác
phẩm, mà là lịch sử tiếp nhận của người đọc. Vai trò của người đọc không chỉ là một
khâu tất yếu tiếp theo, mà còn là một phương diện hữu cơ trong suốt quá trình sáng
tạo nghệ thuật. Có nghĩa là không phải sau khi đã xuất hiện văn bản của tác phẩm, mà
ngay trong quá trình sáng tác của nhà văn, từ khâu cấu tứ, viết, sửa chữa, nhà văn đều
đối thoại với bạn đọc trong tưởng tượng. Trong tâm tưởng nhà văn, chủ ý hay vô tình
10
đều tồn tại một mô hình tiếp nhận và sáng tác của họ ít nhiều đều xuất phát từ mô
hình này. Đến khi tác phẩm hoàn thành, người nghệ sĩ cũng không thể quyết định
được toàn bộ số phận của tác phẩm vì “Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số
phận cho tác phẩm là độc giả” (M. Gorki).
Và như vậy, sự thay đổi của văn học đã làm thay đổi các nguyên tắc quy định
cách nhìn nhận, đánh giá của các nhà lí luận về văn học. Từ đây, để có được những
nhận thức mới về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, li luận văn học hiện đại
đã khám phá những yếu tố đặc thù của văn bản văn học mà trước hết là ngôn ngữ, cái
chất liệu làm nên văn bản văn học. Đối với văn bản văn học, những khám phá về bản
chất ngôn ngữ đầu thế kỉ XX đã cho thấy, tùy theo cách nhìn nhận về bản chất ngôn
ngữ mà tư duy lí luận văn học hiện đại có cách tiếp cận văn bản văn học tương ứng
với bản chất ngôn ngữ Vậy ngôn ngữ là gì? Là công cụ hay có khả năng khác?
Tìm đọc các tài liệu, chúng tôi nhận thấy chuyên gia về lí thuyết tiếp nhận
Trương Đăng Dung đã dày công nghiên cứu và dịch thuật các công trình nghiên cứu
về bản chất ngôn ngữ. Theo Trương Đăng Dung thì bàn về vấn đề này không thể
không nhắc đến Fedinand Saussure (1857-1913) với sự ra đời của lí thuyết ngôn ngữ
học hiện đại. Theo F d Saussure thì ngôn ngữ là tập hợp các kí hiệu tạo nên một hệ
thống gồm hai mặt đó là cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Trong đó cái biểu đạt gồm
khái niệm, hình thức để truyền tải nội dung (cái được biểu đạt). Hai mặt cái biểu đạt
và cái được biểu đạt không thể thiếu nhau như hai mặt của một tờ giấy. Quan hệ giữa
chúng là quan hệ quy ước võ đoán dựa trên cảm nhận chủ quan của con người chứ
không tồn tại trong bản thân sự vật. Ngoài ra trong công trình nghiên cứu của mình
Fedinand Saussure còn có một số luận điểm khác được nhiều nhà nghiên cứu vận
dụng như: nghĩa của từ ngữ mang tính chất quan hệ và chính ngôn ngữ cấu tạo nên
những khái niệm giúp con người cảm nhận về thế giới hiện thực. Vì thế ngôn ngữ
mới là nhận tố căn bản cấu tạo hiện thực chứ không phải đóng vai trò ghi nhận hiện
thực một cách thụ động như quan niệm truyền thống. Từ đây chúng ta ý thức được
ngôn ngữ không chỉ là "công cụ của tư duy", là cầu nối trung gian giữa con người và
hiện thực mà còn có khả năng "kiến tạo thế giới". Cũng bắt đầu từ đây, trung tâm chú
ý của văn học chính là cấu trúc ngôn ngữ.Những thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại
cùng với các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học như cấu trúc luận, kí hiệu học
đã mang lại cho khoa học văn học những phương thức mới trong quá trình khám phá
bản chất tác phẩm văn học muốn tiếp cận với bản chất của tác phẩm văn học, người ta
11
phải xuất phát từ bản chất của cái chất liệu làm nên tác phẩm văn học, để từ đó hiểu
được phương thức tồn tại của tác phẩm văn học cũng như những biến thể của sự diễn
giải và tiếp nhận tác phẩm văn học. Ngay đầu thế kỉ XX, với nhận thức mới về ngôn
ngữ, người ta vừa biết mở ra cái ý nghĩa của từng thông điệp như là thông điệp. Từ
đây đối với lí luận văn học hiện đại, văn bản văn học là hệ thống kí hiệu, là trung tâm
tạo nghĩa. Từ đó khoa học văn học hiện đại đã tách tác phẩm văn học ra khỏi tác giả
và loại bỏ những gì liên quan đến mối quan hệ nhân quả trong quan niệm của tư duy
lí luận văn học tiền hiện đại. Chỉ còn tác phẩm văn học như là hình thức ngôn ngữ
đặc trưng, là hiện tượng ngôn ngữ. Nghiên cứu tác phẩm văn học giờ đây không phải
chỉ theo lối suy diễn, thông qua các hiện tượng ngoài văn học mà xem nhẹ các đặc
trưng nghệ thuật của tác phẩm. Có thể nói ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ thời
hiện đại cũng đã xác lập những quan điểm nghiên cứu văn học. Nhiều tên tuổi cũng
như nhiều trường phái Lí luận văn học dựa vào tính ngôn ngữ để đề cao tính kí hiệu,
phủ nhận tính phản ánh, khẳng định không gian ngôn ngữ và quyền tự trị ngữ nghĩa
của văn bản văn học. Khi nghiên cứu vấn đề này, mỗi tác giả, mỗi trường phái lại có
những cách lí giải riêng của mình.
Edmund Husserl, người sáng lập triết học hiện tượng học, chỉ nhìn thấy vai trò
thứ yếu của ngôn ngữ trong hoạt động nắm bắt một hiện tượng nhất định nào đó của
con người. Theo ông, hoạt động nắm bắt một hiện tượng nào đó đều được thực hiện
độc lập với ngôn ngữ. Ngôn ngữ chỉ là hoạt động thứ hai, nó đặt tên cho cái mà bằng
cách nào đó chủ thể đã tri giác được từ trước. Hussell cho rằng ngôn ngữ là công cụ
là vỏ bọc nhằm kiến tạo truyền tải thông điệp đã được kiến tạo từ trước trong ý thức
chủ quan của người phát ngôn. Ngôn ngữ có khả năng phản bội lại người phát ngôn.
Nghĩa của tác phẩm văn học, do đó chỉ là cái mà tác giả có chủ định từ đầu, nó thuộc
về ý thức chủ quan hơn là thuộc về ngôn ngữ. Chính vì vậy theo quan điểm này,
nghĩa của một tác phẩm văn học chỉ có một lần, nó đồng nhất với khách thể ý
thức"mà trong khi viết nhà văn có ý hướng tới. Và do đó, có thể có nhiều sự diễn giải
một văn bản văn học, nhưng tất cả đều phải nằm trong hệ thống mà nghĩa chủ ý của
tác giả quy định. Tức tác phẩm chỉ có một nghĩa mà thôi. Tiếp đó, học trò của Hussell
là M. Heidegger - nhà triết học khi nghiên cứu về ngôn ngữ trong "Trên đường đến
với ngôn ngữ" được nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung dịch ra Tiếng Việt đã phát
hiện: Ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể. Theo ông, ngôn ngữ không chỉ là công cụ
giao tiếp thuần túy mà ngôn ngữ có khả năng cao hơn thế nữa là tạo lập đời sống
12
riêng độc lập với chủ ý của người phát ngôn. Nếu thầy ông là Husserl chỉ xem ngôn
ngữ là công cụ thứ yếu dùng để thể hiện các ý tưởng đã có sẵn, thì Heidegger xem
ngôn ngữ là nơi mà đời sống con người diễn ra, là cái đầu tiên tạo thế giới. Heidegger
cho rằng ngôn ngữ là sự kiện có đẳng cấp cao nhất của sự tồn tại của con người, ông
không xem ngôn ngữ chỉ là sự thể hiện của một chủ thể. Khác với Husserl, Heidegger
không nghi ngờ tổ chức nghĩa của một ngôn ngữ mang tính xã hội. Khi ông cho rằng
lời nói không chỉ hoàn toàn là các kí hiệu, lời nói có hai mặt: hướng tới một người
nào đó và đặt điều kiện cho người đó phải nỗ lực hướng về sự hiểu, chính ông đã gợi
những ý tưởng quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề nghĩa và sự tạo nghĩa của văn
bản thông qua người đọc. Do quan niệm như vậy về ngôn ngữ Heidegger cho rằng sự
diễn giải văn chương không tùy thuộc vào tính năng động của người đọc: tác phẩm
văn học là cái mà người đọc để cho nó xẩy ra nhờ văn bản. Người đọc đứng trước văn
bản văn học như là trước cái mê cung của thế giới ngôn từ đầy bí ẩn. Heidegger gọi
triết học của mình là “sự minh giải Hữu thể”. Chính vì vậy, người ta gọi hình thức
triết học của Heidegger là “hiện tượng học giải thích” để phân biệt với “hiện tượng
học siêu nghiệm” của Huserl. Cũng trong công trình dịch của Trương Đăng Dung
“Trên đường đến với ngôn ngữ” viết năm 1959, với sự đổi mới ngôn ngữ triết học,
Theo ông thì Heidegger đã nêu lên một số vấn đề quan trọng là “sự hòa trộn giữa tồn
tại và ngôn ngữ trong nhau”. Quan điểm này được một nhà tường giải triết học lớn
người Đức tên là Hans Georg Gadamer tiếp tục phát triển trong công trình nghệ thuật
nổi tiếng “Chân lí và phương pháp”. H.G.Gadamer đã có bước đi quan trọng trong việc
tạo ra khái niệm ngôn ngữ tường giải học và trong việc phê phán những quan điểm của
các lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Trong công trình triết học - nghệ thuật “Chân lí và
phương pháp” (1964) Gadamar đã dành trọn cả phần III có tựa đề “Bước ngoặt bản thể
của tường giải học” để nghiên cứu về ngôn ngữ với các tiểu mục:
1. Ngôn ngữ như là vùng kinh nghiệm tường giải học
2. Sự hình thành khái niệm ngôn ngữ trong lịch sử tư duy châu Âu
3. Ngôn ngữ như là chân trời bản thể tường giải học
H.G.Gadamer đã bác bỏ quan niệm công cụ về ngôn ngữ, ông viết: “Người diễn
giải không sử dụng lời nói và các khái niệm như người thợ thủ công sử dụng các công
cụ của mình”. Theo Gadamer, lời nói không phải là sản phẩm của hình thức tâm tính
nào đó, nó không phải là những sở hữu của năng lực nhận thức, lời nói là những cái
bên ngoài, là tiên nghiệm. Gadamer cho rằng không phải con người tìm ra, tạo ra lời
13
nói mà là lời nói tìm thấy chúng ta. Ngôn ngữ không phải là công cụ mà là một hiện
tượng, một quá trình vừa liên quan đến quá khứ vừa đi trước vào tương lai. Gadamer
cũng nhấn mạnh rằng ngôn ngữ không phải là công cụ để chúng ta thể hiện một cái gì
đó mà là nơi để chúng ta tồn tại. Mọi yếu tố kí hiệu và sử dụng kí hiệu đều được nhìn
nhận trong tinh thần đó. Nhờ lời nói chúng ta mới chuyển dịch được vào thế giới, vào
các tình huống của tồn tại. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thế giới của mình. Con
người ta sống trong thế giới ngôn ngữ, ngôn ngữ và con người có sự tương tác lẫn
nhau. Mối quan hệ giữa thế giới và ngôn ngữ là tương hỗ, thế giới là thế giới nhờ
ngôn ngữ, còn ngôn ngữ là ngôn ngữ nhờ thế giới thể hiện trong nó. Điều này không
có nghĩa là ngôn ngữ thể hiện thế giới mà là ngôn ngữ tồn tại thông qua thế giới và
thế giới tồn tại trong tính chất ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo ra một thế giới quyền lực: ta
phụ thuộc vào nó. Ngôn ngữ gần như là một thế giới, ngôn ngữ tạo ra tình huống để cho
người phát ngôn vấp ngã vào đấy. Nói một cách khái quát, thế giới là cái tương đồng của
ngôn ngữ và ngôn ngữ là cái tương đồng của thế giới. Ngôn ngữ và thế giới là những
hiện tượng tiên nghiệm, vượt lên cá nhân, trong quá trình hiểu một cái gì đó thì chúng ta
mới đến được với chúng, sự tồn tại của chúng ta mới hiện hữu trong chúng.
Nghiên cứu về bản chất ngôn ngữ không thể không nói tới trường phái hình
thức Nga với các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ của các nhà ngôn ngữ học
trẻ tuổi thời đó. Theo nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung: trường phái hình thức Nga
ra đời trong những năm đầu thế kỉ XX, được coi là trường phái mở đầu cho tiến trình
hiện đại hóa Lí luận văn học. Sự xuất hiện của trường phái này như một sự phủ định
đối với chủ nghĩa chủ quan trong mĩ học truyền thống và cũng chính là hệ quả tất yếu
của tư duy lí luận thế kỉ XX trước những đổi mới của thời đại. Trong các công trình
nghiên cứu về ngôn ngữ thơ, các nhà ngôn ngữ học đã có những nỗ lực lớn trong việc
khám phá bản chất của chất liệu văn học, từ đó có cái nhìn đúng về bản chất của tác
phẩm văn học và sự tiến triển của văn học. Như là cấu trúc ngôn từ động, văn bản là
tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ có đời sống riêng, với năng lượng ngữ nghĩa riêng, độc
lập với tác giải của nó. Những công trình nghiên cứu của Jakubinxky và Shklovski đã
cho thấy rằng “có sự tồn tại một sự thực hành ngôn ngữ mà chức năng thông báo trực
tiếp lùi ra phía sau, nói cách khác, trong thơ việc sử dụng các từ mang nghĩa không có
vai trò quyết định”. Trong các công trình nghiên cứu của các nhà hình thức Nga, bên
cạnh việc phân tích chi tiết sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi,
ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời sống là mối quan tâm của họ đến sự phát triển của văn
14
học hay sự vận động của các hình thức văn học. Từ đây đối với các nhà hình thức
Nga, đối tượng của khoa học văn học không phải là văn học mà là tính văn học. Theo
các nhà lí thuyết Nga, nghiên cứu về bản chất ngôn ngữ thì không thể nói vê sự khác
biệt giữa hình thức và nội dung Đối với họ, hình thức không phải là cái nồi để đổ
nước (nội dung) vào. Vì vậy đọc bài thơ hay không thể tách biệt giữa nội dung và
nghệ thuật. Đặc trưng nghệ thuật không thể hiện qua những yếu tố nằm trong tác
phẩm mà qua việc sử dụng một cách đặc trưng các yếu tố đó. Như vậy, khái niệm
hình thức có được ý nghĩa mới mà không cần đến khái niệm nội dung bên cạnh.
Trong công trình “Lí thuyết về phương pháp hình thức”, Eikhenbaum đã có những
đánh giá công bằng và tự tin của một người trong cuộc về chặng đường 10 năm của
chủ nghĩa hình thức Nga. Ông đồng ý với Shklovxki rằng: “không nên lấy lí do văn
học là sự diễn tả xã hội mà lẫn lộn lịch sử văn học và lịch sử nói chung. Đó là hai thứ
khác nhau”. Chủ nghĩa hình thức Nga đánh giá cao lí luận vì coi đó là một giả thuyết
để làm việc và nhờ nó mà người ta hiểu được những sự kiện văn học, bởi “trên thực
tế, các nhà lí luận của chủ nghĩa hình thức Nga cũng đã có những đóng góp quan
trọng trong việc khám phá những quy luật nội tại trong tác phẩm văn học như là trong
cấu trúc ngôn từ động”[18]. Trong quan niệm của các nhà hình thức Nga, đối tượng
của khoa học văn học không phải là văn học mà là “tính văn học”. Bắt đầu bằng
những nỗ lực của trường phái này trong việc nghiên cứu chất liệu văn học, tính văn
học, lí luận văn học hiện đại thực sự quan tâm đến văn bản văn học như là trung tâm
tạo nghĩa. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa văn bản văn học như là đối tượng của
phân tích cấu trúc và như là đối tượng của phân tích lịch sử. Lí luận văn học hiện đại
đã hướng đến việc lí giải phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, tính chủ ý và
không chủ ý cũng như tính chất mở của văn bản nghệ thuật trong quan hệ với người
đọc. Như là cấu trúc ngôn từ động, văn bản văn học là tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ
có đời sống riêng, với năng lượng ngữ nghĩa riêng, độc lập với tác giả của nó. Cũng
theo các nhà hình thức Nga thì ngôn ngữ là một thực thể có quyền lực, một thứ diễn
ngôn có khả năng thâu tóm một thứ tri thức. Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ được lạ
hóa tạo ra sự khác lạ về cách nói, khác lạ về hình ảnh sử dụng. Vì lẽ đó mà ngôn ngữ
văn chương có khả năng tự động hóa.
Liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội, theo Trương Đăng Dung
chúng ta cần thiết phải nhắc đến các nhà khoa học xuất hiện ở chặng cuối của trường
phái hình thức Nga và chủ nghĩa Marx, đó là các tên tuổi như: M.Bakhtin,
15
P.Medvegyev và V.Volosinov. Bakhtin và các đồng nghiệp của ông đã nghiên cứu
ngôn ngữ trong các tình huống xã hội và nhận thấy rằng “lời nói” luôn có tính đối
thoại. Theo ông: “Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của cuộc sống con người.
Sống tức là tham gia đối thoại: hỏi, nghe, trả lời, đồng ý….con người ra đi khi đã nói
lời của mình, nhưng bản thân lời nói ấy còn lại mãi mãi trong cuộc đối thoại không
bao giờ kết thúc” [21]. Theo Bakhtin, việc phổ cập tính hội thoại và phiếm thoại làm
nên sự thống nhất của ngôn ngữ chứ không phải là lời nói cá thể hay các yếu tố sáng
tạo của câu. Như vậy, thông điệp của lời nói còn phụ thuộc vào người đối thoại chứ
không chỉ phụ thuộc vào người phát ngôn. Quan điểm này của Bakhtin về tính đối
thoại nội tại của lời nói không chỉ soi sáng những đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết
mà còn giúp chúng ta có cái nhìn khoa học hơn về tác phẩm văn học nói chung.
Tinh thần khoa học của trường phái hình thức Nga vẫn được các nhà khoa học
tiếp tục phát huy. Đặc biệt có thể nhắc tới ở đây là trường phái Phê bình mới và Chủ
nghĩa cấu trúc. Derrida đã cho thấy những vấn đề cần xem xét lại trong quan niệm
ngôn ngữ học hiện đại và chủ nghĩa cấu trúc. Cũng theo nhà nghiên cứu Trương
Đăng Dung: ngay ở phần đầu của tác phẩm Văn học phạm, Derrida đã nói về sự giảm
giá của từ, về sự lạm phát của kí hiệu ngôn ngữ. Derrida cho rằng ở nới sâu lắng của
ngôn ngữ có một trò chơi liên tục di chuyển, trong khuôn khổ của sự di chuyển này
các kí hiệu được tạo thành những hệ thống khác biệt, không ổn định rồi lại có những
khác biệt mới xuất hiện, được tổ chức và sau đó tan rã. Ông nhấn mạnh rằng những
khác biệt của ngôn ngữ là vô tận và không ổn định. Derrida cũng cho rằng ý thức của
người phát ngôn (tác giả) không hề có ưu thế vượt trội lên nghĩa của ngôn từ. Tác giả
chỉ phát hiện được nghĩa của ngôn từ qua việc viết ra nó, hầu như nhà văn đối diện
với những cái biểu đạt độc lập với anh ta. Cái biểu đạt tự nó nói nhiều hơn, kí hiệu
được viết ra không phải là cái gửi đi mà chỉ là cái nhà văn nhận được. Nhà văn không
nói ra điều gì bằng kí hiệu, mà chính việc sử dụng các kí hiệu tạo điều kiện để nhà
văn có được sự đối thoại. Derrida cho rằng những cái biểu đạt vĩ đại hơn rất nhiều so
với những cái được biểu đạt, bởi vì hệ thống những cái biểu đạt phân chia cái thế giới
đang có quanh ta, và rất nhiều điều sở dĩ không có đối với ta là vì chúng ta không có
đủ cái biểu đạt để nói về chúng. Xuất phát từ quan điểm này, Derrida đã xem văn bản
văn học là không khép kín, nghĩa của nó không tùy thuộc vào tác giả hay mối quan hệ
với hiện thực. Việc đọc hết một văn bản văn học cũng tạo nghĩa như là việc viết ra
nó, thậm chí tất cả sự viết thực ra cũng là đọc văn bản. Đến đây chúng ta thấy
16
Derrida đã nâng vấn đề đọc lên tầm vấn đề triết học. Với công trình Văn học
phạm, Derrida đã chỉ ra văn học là sự sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, là biến thể của
ngôn ngữ thường nhật.Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ tự do, nó cho phép mọi đặc
điểm ngôn ngữ xuất hiện. Không thể xác định ngôn ngữ văn học bằng cách đối
chứng nó với những đặc điểm của ngôn ngữ phi văn học. Derrida còn đặc biệt
nhấn mạnh: Văn bản văn học vượt lên mọi định nghĩa về nó, tác phẩm văn học
không phải là hình thức ngôn ngữ đặc trưng mà là hình thức đọc đặc trưng.
Giống như sự tiếp nối, phát triển của chủ nghĩa hình thức Nga, trường phái Phê
bình mới ra đời vào những năm 20 ở Anh và từng được xem là phương thức nghiên
cứu tác phẩm văn học cơ bản ở Mĩ vào những năm 30-40. Với những tên tuổi nổi
tiếng qua các thế hệ của Phê bình mới như: Irot Armstrong, Richard, Thomas Sterns
Eliot,John Crowe Ransom, Rene’Wellek…. Trường phái này cũng từ việc phê phán
các phương pháp phê bình truyền thống đặt ra những vấn đề mới trong nghiên cứu
văn học liên quan đến văn bản và giải thích văn bản. Họ cho rằng tác phẩm văn học
như một khách thể ý thức độc lập, văn bản là đối tượng duy nhất của văn học. Văn
bản chính là một cấu trúc ý nghĩa. Văn bản được xem là một thực thể ngôn từ đầy bí
ẩn, do vậy mục đích của phê bình là khám phá ý nghĩa của văn bản, là tìm ra các ẩn ý
của ngôn từ đằng sau các mối quan hệ, các cấu trúc chứ không phải bản thân cấu trúc.
Vì vậy phương pháp chủ yếu của Phê bình mới là “giải thích văn bản”. Nghĩa của tác
phẩm có trong chính cấu trúc nội tại của ngôn từ, trong các yếu tố thuộc về hình thức
tác phẩm, không phụ thuộc vào tác giả. Như vậy, trong quan niệm của họ các yếu tố
như hiện thực, tác giả và cả vai trò của người đọc đều không được đặt ra ở đây.
Những quan điểm về tính tự trị của tác phẩm văn học vẫn tiếp tục được triển khai ở
một phương diện khác của văn bản, đó là phương diện cấu trúc.
Những quan điểm trên của trường phái Phê bình mới được thể hiện rõ hơn qua
chủ nghĩa Cấu trúc. Thực chất chủ nghĩa Cấu trúc có mầm mống từ quan niệm ngôn
ngữ học cấu trúc của Fedinand de Saussure, bắt đầu hình thành từ chủ nghĩa hình
thức Nga những năm đầu thế kỉ XX nhưng phải đến giữa thế kỉ mới đạt được sự hoàn
thiện như một hệ thống lí thuyết với các tên tuổi nổi tiếng như: Claude Levi-strauss
và Roland Barthes thuộc trường phái cấu trúc kí hiệu Pháp, Roman Jakobson (1896 -
1982) thuộc trường phái cấu trúc kí hiệu Mĩ, Jan Murarovxki - đại diện lớn nhất của
trường phái cấu trúc Praha, Iu.M.Lotman (1922 - 1993) thuộc trường phái cấu trúc kí
hiệu Liên Xô. Nếu chủ nghĩa hình thức đặt trọng tâm ở chất liệu ngôn ngữ, ở thủ
17
pháp, kĩ thuật, thì chủ nghĩa cấu trúc đi vào khám phá kết cấu chiều sâu của văn bản.
Chủ nghĩa cấu trúc bỏ qua những mối liên hệ bề mặt có thể cảm nhận được của thế
giới để tìm ra sự chi phối nằm sâu trong cấu trúc trừu tượng, trong mối liên hệ giữa
các yếu tố hình thức ổn định, ẩn kín, mà theo họ đó mới là bản chất thật sự của đối
tượng. Họ quan tâm đến các phương diện tổ chức, cấu trúc, quan hệ của ngôn ngữ
trong văn bản. Những phạm trù cơ bản mà chủ nghĩa cấu trúc đưa ra là tổ chức, cấu
trúc, hệ thống. Quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc chỉ dừng lại ở cấu trúc và những
mối quan hệ nội tại trong văn bản, tác phẩm vẫn chỉ là một hệ thống câu chữ, người
đọc lí giải tác phẩm dựa trên sự ràng buộc bởi quy luật nội tại của các câu chữ ấy.
Mặc dù vậy, nhìn một cách khách quan có thể thấy chủ nghĩa Cấu trúc vào giai đoạn
cực thịnh đã dần tiến đến những quan điểm mới của lí luận hậu hiện đại trong mối
quan hệ với người tiếp nhận.
Trong giai đoạn phát triển nhất, Roland Bartes và những người đồng quan điểm
đã đồng nhất tác phẩm với cấu trúc hình thức của văn bản, khép kín văn bản trong
mối quan hệ của kí hiệu ngôn ngữ, giữa “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt”.
R.Bartes cho rằng thực thể của văn học là ở hình thức, không ở nội dung hay chức
năng. Việc phát hiện ra “độ không của lối viết” của ông được xem là tuyên ngôn
trong nghiên cứu văn học. Cũng từ quan điểm này, R.Jakobson cho rằng: “văn học
không phải là cái gì khác, mà chính là ngôn ngữ được tổ chức một cách đặc biệt”.
G.Genette (một nhà cấu trúc luận người Pháp) cũng đưa ra vấn đề thời gian văn học
được coi là một thông điệp không có mã đã kéo dài quá lâu, nay đã đến lúc chúng ta
coi văn học là một cái mã không có thông điệp. Đi từ bản chất thực sự của tác phẩm
văn học có thể thấy quan điểm này có phần mang tính chất cực đoan.
Tính chất cực đoan của chủ nghĩa cấu trúc sẽ được điều chỉnh bởi các nhà hậu
cấu trúc. Ở giai đoạn cuối, sau những năm 80, quan điểm hậu cấu trúc (hay giải cấu
trúc) đã đối lập với chính điểm xuất phát ban đầu của nó. Mặc dù có những điểm cực
đoan nhưng các nhà nghiên cứu của chủ nghĩa cấu trúc đã có những đóng góp quan
trọng trong việc làm thay đổi một thói quen có từ trong nền tảng tư duy lí luận văn
học đã trở nên lỗi thời, đưa lại một cách nhìn mới cho nghiên cứu văn học. Tuy vậy
những khám phá về bản chất ngôn ngữ sẽ còn mang lại nhiều ý nghĩa to lớn hơn nữa
khi nó được đặt trong mối quan hệ giữa văn bản và sự xác lập đời sống cụ thể thông
18
qua người đọc.
1.1.2. Bản chất của văn bản văn học trong quan hệ với người đọc
Lí luận truyền thống coi trọng quá trình khám phá ý đồ sáng tạo của tác giả. Tác
phẩm trong quan điểm truyền thống được đồng nhất với thế giới tư tưởng của nhà
văn, bị hệ tư tưởng của nhà văn chi phối hoàn toàn. Việc đọc tác phẩm trong quan
niệm truyền thống, vì thế gắn bó mật thiết với những ý tưởng của tác giả. Ý nghĩa của
tác phẩm bị chi phối bởi tác giả dựa trên những ấn tượng, phán đoán chủ quan của
người đọc. Nhưng sang thế kỷ XX, nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học ra đời.
Những thành tựu của các lĩnh vực khoa học xã hội như: Ngôn ngữ học, Cấu trúc
luận,Hiện tượng luận, Ký hiệu học, Lý thuyết thông tin, Tường giải học, Tâm lí
học…là cơ sở cho những kiến giải mới của nhiều trường phái lý luận ở thời kỳ hiện
đại xuất hiện. Rõ ràng, thế kỷ XX đã đánh dấu một bước chuyển biến mới của lý luận
văn học.Đối với văn bản văn học, những khám phá về bản chất ngôn ngữ đầu thế kỷ
XX, cho thấy, tuỳ theo cách nhìn nhận về bản chất ngôn ngữ mà tư duy lí luận văn
học hiện đại có cách tiếp cận văn bản văn học tương ứng với bản chất ngôn ngữ. Bởi
vì, ngôn ngữ trong văn học không đơn giản là cái vỏ của tư duy mà nó chính là tư
duy, là yếu tố có khả năng sinh tạo tư tưởng. Triết học ngôn ngữ cũng thừa nhận:
Ngôn ngữ không chỉ chuyển tải ý nghĩa của người phát ngôn mà chúng có thể tạo nên
một thế giới độc lập. Với triết học ngôn ngữ đầu thế kỷ XX, bản chất của văn bản văn
học được xem xét đặt ra như một phát hiện lại dưới một thứ ánh sáng mới có khả
năng soi sáng yếu tố bản thể của tác phẩm văn học...
Nghiên cứu về bản chất của văn bản văn học trong quan hệ với người đọc,
chúng tôi xin được nêu lại những vấn đề cơ bản từ những bài nghiên cứu của chuyên
gia lí thuyết tiếp nhận Trương Đăng Dung. Theo nhà nghiên cứu: Từ năm 1936,
Mukaropxki (người đại diện của trường phái cấu trúc Praha) đã mở rộng tầm quan
tâm của khoa học văn học và triển khai các quan điểm của mình. Trong bài Nghệ
thuật như là thực tế kí hiệu và bài Chức năng thẩm mĩ, chuẩn mực và giá trị như là
những thực tế xã hội ông đã vận dụng những thành tựu nghiên cứu kí hiệu ngôn
ngữ.... Theo Mukaropxki đặc trưng quan trọng nhất của văn học đó là tính chất kí
hiệu.Vì văn bản văn học làm từ chất liệu ngôn ngữ nên mang tính kí hiệu.Điều đó có
thể hiểu là tác phẩm văn học là kí hiệu bởi nó tồn tại trong thế giới cảm xúc của chính
nó, đồng thời nó cũng vượt ra khỏi những giới hạn để tồn tại trong ý thức chung. Việc
tiếp cận tác phẩm văn học không nên chỉ hạn chế trong việc phân tích các trạng thái
19
tâm hồn tạo ra sự tồn tại của nó, nghĩa là không thể đồng nhất tác phẩm văn học với
trạng thái tâm hồn của người sáng tác. Nêu lên cấu trúc và tính chất kí hiệu tự trị của
tác phẩm, tác giả muốn chứng minh rằng có thể hiểu được tác phẩm như là bộ phận
của các hệ thống và các mối liên hệ.Tác phẩm văn học bản thân nó vừa là hệ thống lại
vừa là bộ phận của các hệ thống xã hội khác. Những hiện tượng nghệ thuật chỉ có thể
lí giải được trong mối quan hệ giữa các hiện tượng thẩm mĩ nằm ngoài nghệ thuật,
nghĩa là trong mối quan hệ giữa chức năng thẩm mĩ với những chức năng khác. Đây
là một bước tiến trong quan niệm của Mukaropxki. Và cũng bởi văn học có tính kí
hiệu như vậy nên đến với văn học phải giải mã, khi bạn đọc đến với văn bản văn học
thì bạn đọc phải khám phá, giải mã kí hiệu.
Liên quan đến nghĩa của tác phẩm cần nói đến vai trò của nhà kí hiệu học người
Ý Umberto Eco. Từ những năm sáu mươi, ông đã có vai trò xuất sắc trong việc
nghiên cứu về tính chất mở của tác phẩm, về sự dở dang và không thể kết thúc của sự
đọc. Sau đó Umberto Eco lưu ý thêm rằng sự tạo nghĩa không giới hạn của văn bản
không có nghĩa là không có gì ràng buộc đối với sự giải nghĩa. Tính chất vô cùng của
văn bản không có nghĩa là mọi hoạt động của người lí giải nó đều có hiệu lực. Và
không nên hiểu tính chất mở của văn bản văn học là vô cùng vô tận. Để tránh nguy cơ
lí giải sai hoặc lí giải quá đáng văn bản, cần phân biệt ý đồ văn bản như là cái gì đó
nằm trong mối quan hệ tương hỗ với ý đồ tác giả và ý đồ người lí giải. Tác phẩm văn
học được Umberto Eco so sánh với lá thư bỏ vào cái chai nút kín. Sau khi tác giả thả
cái chai xuống nước thì anh ta hiểu rằng từ phút đó sự lí giải thông điệp của anh ta
không còn phụ thuộc vào ý đồ của chính mình nữa, cũng không phụ thuộc vào ý đồ
của một người nhận nào đó. Văn bản từ đây như là khả năng mời gọi đối với một
cộng đồng rất đông người đọc. Cái cộng đồng mà không chỉ bị các nguyên tắc ngữ
pháp của một thứ ngôn ngữ đã cho mà còn thông qua ngôn ngữ đó là nền văn hóa
cùng với các qui ước khác đã có được sự chiếm lĩnh các văn bản trước đó, chi phối.
Và như vậy, sự đọc không có gì khác hơn là một sự dàn xếp đặc biệt giữa trang bị của
thế giới người đọc và trang bị của văn bản. Và chính nhờ tính chất mở này mà buổi
sáng đọc một câu thơ khác với buổi chiều khi đọc. Như vậy tùy thuộc vào tâm trạng
mà người đọc cảm nhận văn bản cũng khác nhau.Do đó tiếp nhận văn học cần có một
người đọc lí tưởng để tiếp nhận và điều chỉnh.
* Tính không chính xác của các tình huống. Khi nhà văn viết ra một cuốn tiểu
thuyết thì mỗi người đọc nhân vật tình huống vẫn khác nhau. Mỗi người đọc trang bị
20
cho mình tầm đón đợi khác nhau như tri thức, thị hiếu cuộc sống khác nhau. Mỗi
người sẽ có cụ thể hóa khác nhau. Bản chất của kí hiệu ngôn ngữ tạo ra khả năng bổ
nghĩa...Nhà lí luận Paul deMan cho rằng đọc đúng văn bản là đọc sai văn bản. Nhờ
tính chất này các tình huống tình tiết trong văn bản luôn không chính xác (Hình ảnh
kích hoạt vào bạn không giống như người khác) Điều này cho phép người đọc thả sức
tưởng tượng.
* Tính dễ thay đổi chuẩn mực thẩm mĩ
Mỗi một chủ thể tiếp nhận đều là thành viên của cộng đồng văn hóa xã hội nào
đó, chuẩn thẩm mĩ cộng đồng có ý nghĩa tác động tích cực tiêu cực đến chuẩn thẩm
mĩ của người tiếp nhận.
Theo Le Bon trong cuốn Tâm lí học đám đông" phân tích: trong đám đông có
những tình cảm quan niệm thị hiếu chuẩn lây nhau. Chuẩn thẩm mĩ cộng đồng là cái
ta quen dùng để đo giá trị và chủ thể tiếp nhận luôn bị chi phối bởi điều đó. Vì vậy
tiếp nhận văn học cần phải biết vượt lên những chuẩn mực thẩm mĩ cộng đồng, vượt
lên giới hạn của cộng đồng.
* Sự khác biệt giữa nghĩa và ý nghĩa của văn bản. Khi phân tích văn bản cần
phân biệt nghĩa là nội dung cốt truyện còn ý nghĩa là cái mà người đọc sau khi đọc
văn bản tự mình nhận ra rút ra thông điệp. Và phần rút ra ý nghĩa văn bản là phần
quan trọng.
Chúng ta không thể không thừa nhận, bước đột phá đầu tiên và quan trọng nhất,
mở đầu cho cuộc cách mạng về lý luận văn học thế kỷ XX là việc “phát hiện” ra văn
bản. Phát hiện này đã đưa văn bản văn học vào trung tâm của sự chú ý và theo đó, là
sự hoán đổi ngôi vị của các yếu tố trong hệ thống văn học. Thay vì vị trí trung tâm
thuộc về tác giả như trước đó, nay đến lượt văn bản lên ngôi, vai trò chủ thể của tác
phẩm văn học dịch chuyển từ tác giả sang văn bản. Với việc lên ngôi của văn bản,
người ta coi tác phẩm văn học là một khách thể thuần tuý tồn tại khép kín, độc lập, tự
trị trong văn bản. Văn bản văn học - đó là một cấu trúc, một tập hợp ngôn ngữ với
những câu chữ,thủ pháp, những mối liên hệ theo cấu trúc nội tại của tác phẩm. Thông
qua cấu trúc ngôn ngữ ấy ý nghĩa được tạo thành. Văn bản văn học, do đó, là một
trung tâm tạo nghĩa. Lúc đó, nghĩa của văn bản là ổn định, nó nằm ngay trong những
thông điệp có trong văn bản, được tạo ta từ trong cấu trúc ngôn ngữ, trong sự tương
tác giữa các yếu tố hình thức của tác phẩm. Đương nhiên,nghĩa của văn bản không
phụ thuộc vào yếu tố hiện thực, không phụ thuộc vào tư tưởng, ý đồ, chủ ý của nhà
21
văn. Một hệ quả tất yếu là người ta đã đồng nhất tác phẩm với văn bản. Trước khi
phát hiện ra người đọc, người ta tưởng rằng cái được tác giả viết ra là tác phẩm. Dựa
trên tinh thần của Mỹ học tiếp nhận, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung viết cuốn Từ
văn bản đến tác phẩm văn học [11] đã nêu lên cái hành trình đi từ văn bản đến tác
phẩm văn học và các vấn đề đặt ra sau đó. Nhà kí hiệu học Xô viết Iu. M. Lotman
nói: “Định nghĩa được văn bản là một việc khó. Trước hết cần loại bỏ quan niệm
đồng nhất văn bản với toàn bộ tác phẩm”.
Trong cuốn Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Trương Đăng Dung chỉ ra: Văn
bản là sản phẩm cuối cùng của sự sáng tạo nghệ thuật khi nhà văn đặt dấu chấm hết
và in thành sách. Vì lẽ đó mà Rolend Bartter viết cuốn "Cái chết của tác tác giả" có
cho rằng: Khi văn bản xuất bản thành sách thì lúc ấy tác giả chết từ nay sản phẩm văn
bản tùy thuộc vào người đọc. Khi nhà văn kết thúc tác phẩm, ấy là lúc cuộc sống của
tác phẩm mới thực sự bắt đầu.
Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách
Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai
(Nhân vật - Nguyễn Đức Mậu)
Có thể nhận thấy có văn bản nhưng chưa thành tác phẩm. Để có tác phẩm cần
hoạt động đọc hoạt động cụ thể hóa văn bản... văn bản có khả năng tạo nghĩa, tác
phẩm là sự cụ thể hóa văn bản trong người đọc (văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi
người đọc xuất hiện... Như vậy, cuối thế kỷ XX tư duy lí luận văn học đã có những
khám phá quan trọng về bản chất, đặc trưng và phương thức tồn tại của tác phẩm.
Việc tiếp cận văn học từ tác giả, từ cấu trúc nội tại của văn bản dần dần bộc lộ những
nhược điểm của nó. Nhiều vấn đề của tác phẩm văn học sẽ không giải thích được nếu
chỉ dựa vào hai nhân tố tác giả và văn bản. Tác phẩm văn học trong cách hiểu mới
hơn không còn là một hiện tượng ngôn ngữ thuần tuý, là cái văn bản cố định trong
sáng tác của nhà văn như một thế giới khép kín nữa mà là một thế giới mở hướng về
người tiếp nhận. Tác phẩm văn học là quá trình đồng hành cùng thế giới người đọc
sinh động. Vấn đề trung tâm của tác phẩm lúc này không còn là văn bản mà chính là
người đọc. Những phát hiện mới mẻ của lý luận về tác phẩm văn học có ý nghĩa khai
mở một đường hướng mới để khám phá bản chất tác phẩm văn học: nghiên cứu tác
phẩm trong mối quan hệ với người đọc, với hoạt động tiếp nhận. Từ mối quan hệ bộ
ba Văn bản - Độc giả - Tác phẩm làm nảy sinh một số vấn đề về lí luận cần được giải
quyết. Đó là một văn bản có thể có nhiều tác phẩm. Bởi vì, khi đọc, văn bản được cụ
22
thể hoá khác với điều mà tác phẩm chỉ ra, nó làm phong phú hoặc phương hại đến giá
trị của tác phẩm.Nghĩa là đứng trước văn bản, mỗi người sẽ có một sự cụ thể hoá
văn bản khác nhau. Lí do là, một, ở văn bản ngoài phần chủ ý, tức ý đồ của tác
giả trước và trong khi sáng tác, còn có một phần không chủ ý, nằm ngoài ý muốn
của tác giả, đó là cái vô thức. Chính phần không chủ ý này tạo ra một khoảng
trống để người đọc được tham dự vào tác phẩm, trở thành kẻ đồng sáng tạo với
tác giả. Hai là sự giải mã một văn bản rất tuỳ thuộc vào vốn văn hoá và kinh
nghiệm sống, đặc biệt kinh nghiệm thẩm mỹ của người đọc. Đọc là một đối sánh
kinh nghiệm giữa độc giả và tác giả. Cả hai lí do trên đều liên quan đến người
đọc, mà theo lí thuyết tiếp nhận, người đọc đến với tác phẩm thường có một “tầm
đón đợi” nào đó. Vấn đề này sẽ được đề cập ở phần sau.
Từ những lí giải trên đây, chúng tôi thấy rằng, không có một tác phẩm duy nhất
trong bạn đọc. Mỗi tác phẩm triển khai một hay nhiều nghĩa của văn bản, nó là “cái
nhìn” của người đọc. Từ thời đại này qua thời đại khác, từ người này qua người khác,
những con mắt khác nhau sẽ nới rộng không gian thẩm mỹ của tác phẩm. Tác phẩm
mở ra vô tận những cái nhìn. Bởi vậy, có người nói không ngoa rằng lịch sử văn học
là lịch sử của những cách đọc.
Tóm lại, văn bản văn học, sản phẩm cuối cùng của sự sáng tạo nghệ thuật tưởng
như đã được hoàn thành khi nhà văn đặt dấu chấm hết và Nhà xuất bản in thành sách,
nhưng thực ra đó mới chỉ là bước đầu tiên quan trọng để nó trở thành tác phẩm văn
học. "Với lớp câu chữ phi vật thể ẩn chứa nhiều nghĩa khác nhau, luôn biến động và
không thể khoanh vùng, tác phẩm văn học có phương thức tồn tại riêng thông qua
người đọc. Một sáng tác văn học được gọi là tác phẩm văn học nếu nó có giá trị văn
học. Những giá trị văn học (nếu có) chỉ hình thành trong quá trình đọc và sau khi đọc
mà thôi" [11, tr.24]. Dựa trên những thành tựu của tư duy lí luận văn học hậu hiện đại
có thể khẳng định rằng: tác phẩm văn học không đồng nhất với văn bản, với chính nó,
mà là một sản phẩm mang tính quan hệ, nó chỉ được xác lập một đời sống cụ thể nhờ
mối quan hệ đối với người đọc. Tác phẩm văn học chính là sự cụ thể hoá văn bản
trong người đọc. Nếu trước đây, tư duy lí luận văn học hiện đại lấy văn bản làm trung
tâm thì từ nay, tư duy lí luận văn học hậu hiện đại lại xem tác phẩm văn học như là
hình thức đọc đặc trưng. Với hướng tiếp cận này, chúng ta nhìn nhận tác phẩm như là
quá trình. Quá trình văn học cho thấy, văn học không chỉ là con số cộng của các tác
phẩm viết ngày một gia tăng về mặt số lượng mà còn là sự thay đổi lịch sử chất lượng
23
thẩm mĩ liên quan đến số phận của tác phẩm. Mà số phận tác phẩm chỉ phụ thuộc vào
người đọc mà thôi. Như vậy, "Lần đầu tiên, sau một thời gian dài chỉ chú ý đến tác
giả, văn bản, người ta đã quan tâm đến người đọc, nghiên cứu vai trò của người đọc
đối với sự tồn tại của tác phẩm văn học. Lần đầu tiên, văn bản văn học được xem như
là lời mời gọi bạn đọc "cụ thể hoá" những cảnh tượng được "mô thức hoá" trong nó.
Với mĩ học tiếp nhận, có thể nói hành trình của một tác phẩm văn học chỉ thực sự bắt
đầu khi người ta đọc nó. Đó là cuộc hành trình cho thấy không thể quan niệm một
cách đơn giản truyền thống văn học như là lịch sử truyền thống của những giá trị văn
học được sắp xếp ổn thoả và nhất trí theo những tiêu chí bất biến nào đó"[14, tr.176].
1.2. Đọc là sự cụ thể hóa văn bản
1.2.1. Vai trò tầm đón đợi của chủ thể tiếp nhận
Trước một hiện tượng văn học mới ra đời, tại sao lại có thể đem lại những sự
hiểu,sự cắt nghĩa khác nhau? Người khen kẻ chê? Điều gì đã chi phối những cách cắt
nghĩa phong phú đa dạng và sự tiếp nhận khác biệt như vậy. Có rất nhiều yếu tố đã
tác động đến sự tiếp nhận văn học nhưng trong lí luận văn học hiện đại, các nhà lí
luận đã đưa ra khái niệm tầm đón đợi để giải thích điều này. Tầm đón đợi "là một
trong những khái niệm trung tâm của mĩ học tiếp nhận được hiểu là" đồng bộ các ý
niệm thẩm mĩ, xã hội chính trị, tâm lí...quy định quan hệ của tác giả và của tác phẩm
với xã hội (và với những dạng công chúng độc giả khác nhau) cũng như quan hệ của
độc giả với tác phẩm. Như vậy nó quy định cả tính chất sự tác động của tác phẩm đến
xã hội lẫn việc xã hội tiếp nhận tác phẩm [51, tr.124]. Có thể hiểu rằng mỗi một
người đọc, trước thời điểm sẵn sàng đọc tác phẩm, họ đã có sẵn một tầm đón. Với tư
cách là chủ thể tiếp nhận, người đọc vốn có một tầm đón nhận được hình thành từ
thực tiễn cuộc sống, từ sự giáo dục văn hóa, từ thái độ chính trị, khuynh hướng tình
cảm, hứng thú thẩm mĩ... Nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính cũng tác động tới tầm đón
nhận của người đọc. Lưu Hiệp đã từng nhận xét trong Văn tâm điêu long: “Những
người khảng khái thấy thanh âm hùng tráng thì liền vỗ tay. Những người hàm súc
thấy những lời chặt chẽ tinh mật thì khoái trá. Những người trí tuệ nông cạn thấy câu
văn đẹp thì đã sướng mê. Những người thích cái mới lạ đối với những việc kì quặc thì
nghe sốt sắng”. Đó chính là một hệ quy chiếu thuộc về kinh nghiệm văn học của
người tiếp nhận, là tầm hiểu biết về văn học, là nhu cầu, trình độ thưởng thức kết tinh
từ kinh nghiệm sống, hứng thú, quan điểm và lý tưởng thẩm mĩ của người đọc. Tầm
đón đợi được biểu hiện cụ thể ở ba phương diện: sự hứng thú và đòi hỏi đối với hình
24
thức, thi pháp tác phẩm gắn liền với những hình thức thể loại đã biết; năng lực văn
học gắn với môi trường lịch sử văn học cụ thể;sự đối lập của tưởng tượng và thực tại,
của các chức năng thực tế và chức năng nghệ thuật của ngôn ngữ. Mĩ học tiếp nhận
khẳng định tầm quan trọng của tầm đón đợi trong việc quyết định số phận của tác
phẩm văn học, của sáng tác mỗi thời. Trong công trình Lịch sử văn học như là sự
khiêu khích đối với khoa học văn học của Hans Robert Jauss do nhà nghiên cứu
Trương Đăng Dung dịch ra Tiếng Việt in trong cuốn Tác phẩm văn học như một quá
trình có nhấn mạnh: Một tác phẩm khi xuất hiện hoặc là đáp ứng những đón đợi của
công chúng (như thị hiếu, lí tưởng thẩm mĩ, các chuẩn mực giá trị) hoặc ngược lại,
nó đòi hỏi sự thay đổi tầm đón đợi lúc tiếp nhận, các khoảng cách giữa tác phẩm vừa
xuất hiện và tầm đón đợi của công chúng càng nhỏ thì tác phẩm văn học càng đạt tới
trình độ văn học " gây hứng thú thưởng thức"[27]. Có thể thấy trong quan niệm về
tầm đón đợi người ta đề cao vai trò chủ động của người đọc - chủ thể tiếp nhận khi
đối diện với văn bản. Người đọc không phải là tờ giấy trắng mà người đọc đã có sẵn
một tri thức văn hóa nên đón đợi với tư thế chủ động. Mỗi người có tầm đón đợi khác
nhau tùy theo trình độ, thị hiếu, văn hóa,...Vì vậy tiếp nhận văn học của mỗi người
không ai giống ai. Mỗi người tiếp nhận văn bản theo nhiều cách khác nhau. Văn bản
không đến tất cả người đọc bằng một gương mặt duy nhất mà mỗi người đọc sẽ tự
mình làm cho văn bản theo ý của mình. Khi nhà văn viết xong thì số phận văn bản
tùy thuộc vào người đọc.
Như vậy có thể hiểu "tầm đón đợi" chính là một hệ quy chiếu thuộc về kinh
nghiệm văn học của người tiếp nhận,là tầm hiểu biết về văn học, là nhu cầu, thị hiếu,
trình độ thưởng thức kết tinh từ kinh nghiệm sống, hứng thú, quan điểm và lí tưởng
thẩm mỹ của người đọc có sẵn trước khi đọc tác phẩm. “Tầm đón đợi” của người đọc
giúp họ phân biệt tác phẩm mới hay cũ, quen thuộc hay xa lạ. Đây là một trong những
thuật ngữ cơ bản của mỹ học tiếp nhận. Từ thuật ngữ này làm nảy sinh hai kiểu người
đọc: Thứ nhất là người đọc tầm thường (Trương Đăng Dung gọi là người đọc ngây
thơ), gồm những người đọc có trình độ thấp, không chuyên. Thứ hai, là người đọc
đặc biệt (Trương Đăng Dung gọi là người đọc lí tưởng), có sự tiếp nhận khác với
người đọc tầm thường ở tính chất nghề nghiệp và trình độ chuyên sâu, họ bao gồm
nhà văn và nhà phê bình. Và vì thế “tầm đón đợi” của hai kiểu người này là khác
nhau. Đối với kiểu người thứ nhất nếu tác phẩm thấp hơn tầm đón đợi của họ thì họ
sẽ thích đọc vì dễ hiểu. Nếu tác phẩm cao hơn tầm đón đợi của người họ thì họ sẽ
25
chán chường, mệt mỏi, lúng túng do không hiểu tác phẩm viết về vấn đề gì. Và do đó,
đúng như Trương Đăng Dung đã nói: "Đối với một bạn đọc ngây thơ thì không tồn tại
một văn bản văn học và tác phẩm văn học riêng. Trong ý thức của họ, tác phẩm văn
học là một khách thể. Đối với họ, từ một câu, chữ đến một cuốn sách in đều rõ ràng,
không có điều gì ẩn kín cần phải suy nghĩ. Tác phẩm phản ánh cuộc sống thì nó phải như
cuộc sống. Người đọc ngây thơ luôn đối chiếu, so sánh cái hiện thực khách quan với cái
hiện thực có trong tác phẩm để thẩm định điều họ quan niệm đúng sai" [11, tr.30].
Ngược lại, đối với kiểu người thứ hai, nếu tác phẩm thấp hơn tầm đón đợi của họ thì
họ sẽ không thích đọc vì quá tẻ nhạt và tầm thường. Nếu tác phẩm cao hơn tầm đón
đợi của họ sẽ buộc họ phải suy nghĩ, trăn trở để phân loại, tìm ra giá trị đích thực của
tác phẩm văn chương và nâng cao thêm tầm đón đợi của mình. Như thế cũng có
nghĩa, tầm đón đợi không phải bất biến. Việc đọc tác phẩm mới và khó có tác dụng
nâng cao tầm đón đợi của người đọc. Đến lượt mình, tầm đón đợi mới đòi hỏi văn
học phải không ngừng sáng tạo đổi mới. Như vậy, tiếp nhận văn học không chỉ giúp
khám phá nhiều mặt nội dung và nghệ thuật tiềm tàng trong tác phẩm mà còn góp
phần nâng cao trình độ của người đọc, kích thích văn học văn học sáng tạo cái mới.
Người ít đọc sẽ có tầm đón đợi nghèo nàn, sẽ tự mình tụt hậu so với tiến trình chung
của văn học dân tộc và nhân loại.
Ở đây cũng cần phân biệt 2 thuật ngữ tầm đón đợi truyền thống và tầm đón đợi
mới. Tầm đón đợi truyền thống chính là khả năng tiếp nhận của người đọc hay có thể
hiểu là năng lực của người tiếp nhận đã có sẵn, là hệ quy chiếu thuộc về kinh nghiệm
văn học của những người đọc bị ảnh hưởng chi phối của tư tưởng kinh điển và tôn
giáo, những chuẩn mực thẩm mĩ truyền thống đến thế giới quan, nhân sinh quan của
người đọc. Còn tầm đón đợi mới ở đây được hiểu là năng lực những phẩm chất mới
của người đọc trước những cách tân nghệ thuật mới mẻ. Đó là tác động của người đọc
ở tư thế chủ động đến sự phá vỡ những quy tắc chuẩn mực thẩm mĩ truyền thống. Sự
xuất hiện của tầm đón đợi mới của một công chúng văn học mới thường diễn ra khi
có những bước ngoặt lịch sử hoặc sự tiếp xúc của một nền văn hóa khác.
1.2.2. Sự thỏa thuận giữa văn bản và người đọc
Những đại diện của trường phái chú giải đều cho sự hiểu văn bản, hay sự viết lại
văn bản luôn luôn phụ thuộc vào trình độ, lợi ích và hệ thống giá trị của một cộng
đồng nhất định. Người đọc lí giải tác phẩm phù hợp với hệ thống chuẩn mực mà theo
thời gian cộng đồng đã quen dùng để đo các giá trị Điều này cho thấy tại sao cùng nói
26
về một văn bản nhưng các thành viên của cộng đồng khác nhau, hoặc cùng một người
đọc mà với tư cách là thành viên của một cộng đồng khác, thì có sự trả lời khác nhau.
Số phận thăng trầm của những tác phẩm lớn như Truyện Kiều của Nguyễn Du, các
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và các nhà văn nổi tiếng thế giới đã chứng minh điều
đó. Những câu trả lời của người đọc luôn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố có từ phía
cộng đồng mà cuối cùng sự trang bị, tư chất và bản lĩnh của người đọc sẽ quyết định.
Nói một cách khái quát theo chú giải học, sự tiếp nhận có nghĩa là quá trình thỏa
thuận giữa văn chương và sự tái sáng tạo bản sắc riêng của người đọc. Giữa người
đọc và văn bản luôn có sự thỏa thuận. Người đọc đến với văn bản biết rõ đó là sản
phẩm của hư cấu, bịa đặt nhưng người đọc vẫn coi như hiện thực để đọc, nghiền
ngẫm và sống với nó, tiếp nhận văn bản, thậm chí có người đắm mình trong đó, buồn
vui cùng nó. Đó là một văn bản có thể có nhiều tác phẩm. Bởi vì, khi đọc, văn bản
được cụ thể hoá khác với điều mà tác phẩm chỉ ra, nó làm phong phú hoặc phương
hại đến giá trị của tác phẩm. Chẳng hạn khi đọc truyện lịch sử Nguyễn Huy Thiệp,
mỗi người có cách đọc khác nhau và qua mỗi lần đọc mới người đọc lại chú ý đến lần
đọc trước. Có người đọc một lần thấy ngay được ý nghĩa của tác phẩm, có người đọc
đi đọc lại tác phẩm mới nhận ra giá trị của nó, có người đọc đến ba lần vẫn không
thấy được giá trị của tác phẩm. Vì thế mới có người khen, kẻ chê. Người khen cho
rằng nhà văn hư cấu nghệ thuật đầy sáng tạo, kẻ chê lại cho rằng nhà văn xuyên tạc
lịch sử, bôi nhọ anh hùng dân tộc... Nghĩa là đứng trước văn bản, mỗi người sẽ có
một sự cụ thể hoá văn bản khác nhau. Lí do là, một, ở văn bản ngoài phần chủ ý, tức
ý đồ của tác giả trước và trong khi sáng tác, còn có một phần không chủ ý, nằm ngoài
ý muốn của tác giả, đó là cái vô thức. Chính phần không chủ ý này tạo ra một khoảng
trống để người đọc được tham dự vào tác phẩm, trở thành kẻ đồng sáng tạo với tác
giả. Hai, sự giải mã một văn bản rất tuỳ thuộc vào vốn văn hoá và kinh nghiệm sống,
đặc biệt kinh nghiệm thẩm mỹ của người đọc. Đọc là một đối sánh kinh nghiệm giữa
độc giả và tác giả.
Dựa trên những thành tựu của tư duy lí luận văn học thế kỷ XX trên đây, chúng
tôi sẽ cố gắng soi vào để xem xét quá trình tiếp nhận của công chúng về truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, đi sâu tìm hiểu vấn đề chủ thể tiếp nhận, để lí giải vì sao truyện
ngắn của ông có nhiều biến thể tiếp nhận đến thế. Từ đó mở ra những nhận thức mới
về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học. Đồng thời thấy được những đóng góp
27
của Nguyễn Huy Thiệp trong quá trình đổi mới văn học nước nhà.
Chương 2
QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
2.1. Sự xuất hiện sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp trong thời kì văn học đổi mới.
2.1.1. Đặc điểm văn học thời kì đổi mới
Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc với chiến thắng 30/4/1975 đã mở ra một
trang sử mới của dân tộc. Nước nhà hoàn toàn độc lập, thống nhất nhưng vẫn gặp
phải nhiều khó khăn thử thách ở tất cả mọi mặt. Từ năm 1986, cả nước bước vào
công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Văn học cũng “trở mình” để phù
hợp với đòi hỏi của thời đại. Đổi mới văn học là phù hợp với quy luật khách quan và
nguyện vọng của văn nghệ sĩ.
Có thể nhận thấy văn học Việt Nam từ sau 1975 đã tồn tại và phát triển trong
những điều kiện lịch sử và xã hội khác biệt rõ rệt với thời kì chiến tranh. Cùng với
những khó khăn chồng chất của thời hậu chiến và những chuyển biến về mặt xã
hội,văn hóa tư tưởng, xã hội và con người Việt Nam phải tự hình thành từng bước các
tiêu chí giá trị mới. Bởi nay hòa bình trở lại con người trở về với cuộc sống bình
thường, trở về với đời thường phồn tạp, muôn vẻ lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài...
Các giá trị xã hội, đạo đức... trước đây bền vững là thế nay nhiều điều đã không còn
thích hợp. Trong khi đó các giá trị chuẩn mực mới thì chưa thực sự hình thành. Công
cuộc đổi mới văn học được diễn ra sổi nổi và mạnh mẽ thể hiện trước tiên ở sự vận
động theo hướng dân chủ hóa của văn học. Bước vào thời kì đổi mới, văn học được
nhận thức rõ hơn trong bản chất văn hóa và tính nhân văn của nó. Văn học "... thể
hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mĩ có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm
hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức
trong xã hội..."(Nghị quyết 05, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (Khóa VI).
Xu hướng dân chủ từ sau 1975, đặc biệt 1986 tạo nên cho văn học kiểu nhà văn
mới. Họ sáng tạo nhân danh kinh nghiệm cá nhân với ý thức cá tính cao độ. Viết tác
phẩm, tác giả không đứng cao hơn độc giả để phán truyền mà đối thoại với người
đọc, chia sẻ và kiếm tìm những cách cắt nghĩa mới để sinh thể nghệ thuật của mình
luôn sống. Với nguyên tắc “tôn trọng sự thật”, văn học thời kì này xem sự thật như
linh hồn của nghệ thuật chân chính, hướng đến phanh phui các mặt trái của xã hội,
của lòng người. Điều nổi bật văn học thời kì này đã đi sâu vào số phận của mỗi cá
28
nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê, phản ánh sâu sắc những tổn thất cả về vật chất lẫn
tinh thần mà con người phải chịu dù chiến tranh đã đi qua. Từ sau 1975, văn học đã
có sự đổi mới sâu sắc trong quan niệm phản ánh hiện thực. Ta có thể thấy điều này
trong sự đổi mới về đề tài, nội dung, chủ đề của các tác phẩm. Sau chiến tranh, cuộc
sống hòa bình bắt đầu với bao vấn đề mới mẻ nhưng cũng đầy bức xúc thời hậu
chiến. Điều này đã mở ra một hướng đi mới cho văn học. Phạm vi hiện thực được mở
ra toàn diện hơn và cũng chân thực hơn. Những mảng đề tài phong phú từ hiện thực
chính trị tới cuộc sống đời tư, từ sinh mệnh lớn lao của cả cộng đồng tới số phận từng
cá nhân cùng bao vấn đề bề bộn, phức tạp của đời thường đã đem lại cho văn học thời
hậu chiến một gương mặt mới mẻ, chân thực, đậm chất nhân văn và thật sự gần gũi
với con người. Giờ đây, sự nhận thức về con người cá nhân, về mối quan hệ giữa
người với người trong cộng đồng trở thành tâm điểm của sự chú ý, đó cũng là điểm
nhìn mới cho sự nhận thức hiện thực trong văn học. Đặc biệt hơn nữa với sự xuất
hiện của một loạt cây bút trẻ đã làm thay đổi hẳn diện mạo của văn xuôi nước nhà.
Các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh… đã mang
lại cho văn xuôi những sắc thái mới mẻ. Đọc những cây bút này có người chê người
trách, có người khen người phản kháng, có tranh luận bàn cãi, có thảo luận thống
nhất, nhưng có điều không thể phủ nhận là những đổi mới mà họ đem lại cho văn
xuôi giai đoạn này. Thời gian này có những tác phẩm nổi bật như: Cha và con
(Nguyễn Khải), Ngôi nhà trên cát (Dương Thu Hương), Mảnh đất lắm người nhiều
ma (Nguyễn Khắc Trường),… Nguyễn Minh Châu cũng hướng ngòi bút của mình về
cuộc sống hàng ngày, về số phận cá nhân trong cộng đồng. Sau 1985, số phận con
người, những trăn trở đời tư được Nguyễn Minh Châu khám phá rõ nét hơn. Có thể
thấy các nhà văn không chỉ dừng lại ở phản ánh mà còn nghiền ngẫm hiện thực.Trước
đây, hoàn cảnh chiến tranh không cho phép họ khám phá tận cùng sự phức tạp, bề
bộn, ngổn ngang của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của thời đại, do nhu cầu tự thân
của hoạt động sáng tạo, hiện thực đời sống đi vào văn chương vẹn nguyên sự đa chiều
của nó, được soi sáng, cày xới cả những phần khuất lấp, mờ tối.
Cùng với những biến đổi trong quan niệm văn học, quan niệm về nhà văn thì
mối quan hệ giữa văn học và công chúng, nhà văn và độc giả cũng có những thay đổi
theo hướng dân chủ. Cụ thể nhà văn không còn là người phát ngôn cho ý thức cộng
đồng mà chủ yếu giữ vai trò là người đối thoại, đưa ra những nhận xét đề nghị với
người đọc để cùng tìm kiếm suy nghĩ có thể tranh luận. Vì thế người đọc ngày nay
29
không thể là một độc giả thụ động. Mối quan hệ nhà văn- bạn đọc đã trở nên bình
đẳng và dân chủ hơn, người đọc được tôn trọng nhưng cũng vì thế mà cũng phải tự
nâng mình lên và thay đổi chính mình để trở thành chủ thể tiếp nhận sáng tạo. Vấn đề
về mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống cũng là một vấn đề quan trọng trong văn
học Đổi mới. Nhà văn không thể nhìn cuộc đời bằng con mắt hời hợt, phiến diện, một
chiều. Không thể chỉ ca tụng cái đẹp đẽ nhìn thấy bên ngoài mà làm ngơ hoặc bỏ qua
những chai sần của cuộc sống. Có những vấn đề nhìn bên ngoài tưởng xấu xí nhưng
bên trong lại rất đẹp. Và có những điều vẻ ngoài đẹp lung linh huyền ảo nhưng đằng
sau nó lại không hề như vậy.
Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học đổi mới phải kể đến đó là sự
thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần nhân bản...Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã
mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm đổi thay về quan niệm con người.
Con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối
cùng của văn học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn
đề xã hội. Văn học sau 1975 hướng đến khám phá và tạo dựng con người thế sự- đời
tư, con người cá nhân với những phức tạp và bí ẩn của nó. Điều dễ nhận ra là trong
phần lớn các tác phẩm văn học thời kì đổi mới, con người không còn là nhất phiến mà
là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân, trong con người đan cài chen lẫn, giao tranh
bóng tối và ánh sáng, rồng phượng và rắn rết, thiên thần và quỷ sứ...Vì lẽ đó mà văn
xuôi thời kì này ít có những nhân vật đẹp đẽ, hoàn hảo hơn. Nói đúng hơn nó bị lấn
át, bị lộ diện bởi những nhân vật đời thường, phàm tục, có tốt có xấu, có hay có dở,
có đúng có sai, có cao thượng nhưng cũng có những tủn mủn, nhỏ nhen, thấp hèn.
Chẳng hạn, đó là kiểu nửa người nửa quỷ trong Không có vua, Chảy đi sông ơi, Giọt
máu của Nguyễn Huy Thiệp.Trong Đất xóm chùa của Đoàn Lê; đó là những con
người thèm khát danh vọng và quyền lực, sẵn sàng chà đạp lên đạo lí trong Bến
không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường; đó là những con người tầm thường, tẻ nhạt, tham lam, xấu tính, không ý thức
được về nghĩa lí của kiếp người trong Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng của Nguyễn
Minh Châu, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài; đó cũng là những con người méo mó, lệch
lạc nhân tính, trái tim xơ cứng, vô cảm, lạnh lùng vì những quan điểm giáo điều hay
những niềm tin mù quáng trong Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng,
Mùa trái cóc ở miền Nam của Nguyễn Minh Châu, Con người bị biến dạng bởi sức
hút của đồng tiền, bởi dục vọng sôi sục, bởi đớn hèn khiếp sợ quyền lực, con người
30
sẵn sàng chà đạp lên nhau. Quan niệm “con người đời thường”, “con người phàm
tục”, “không hoàn hảo” giống như một sự đối thoại đối lập với quá khứ, đồng thời
cũng giống như hệ giá trị mới để đánh giá con người: hệ giá trị nhân bản. Lịch sử văn
học là lịch sử của những quan niệm khác nhau về con người. Văn học chiến tranh đã
tạo dựng thành công kiểu con người sử thi, biểu trưng cho cộng đồng. Cuộc kháng
chiến đã đem lại cho con người vẻ đẹp lí tưởng mà nói như A.Niculin, nhân vật được
"tắm rửa sạch sẽ và bao bọc trong bầu không khí vô trùng" ( nhân vật của Nguyễn
Minh Châu). Nhân vật luôn trùng khít với địa vị xã hội của mình và luôn ở trạng thái
đơn trị, nhất phiến.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, cô đơn là một trong những chủ
đề kiêng kị, bị đa số các nhà văn né tránh. Bởi khi tồn tại với tư cách con người tập
thể, nhân vật sẽ được bủa vây xung quanh là bạn bè, đồng đội, dân tộc, đất nước… họ
không có không gian để quan tâm đến đời sống riêng tư của mình và do đó, không
cảm thấy cô đơn. Nhưng văn học sau 1975, với sự xuất hiện của con người cá thể, sự
bừng tỉnh của ý thức cá nhân, con người thường xuyên đối diện với chính mình.
Thêm vào đó, bước vào thời kỳ mở cửa, nhiều giá trị đạo đức, xã hội bị đảo lộn so
với thời chiến. Con người dễ bị ngợp, dễ cảm thấy cô đơn trong cái môi trường sống
nhộn nhạo của chính mình. Cô đơn là trạng thái biểu hiện nỗi đau sâu sắc nhất, là tột
cùng của sự bơ vơ, trống trải, cô đơn cũng chính là một dạng bi kịch nhân sinh. Sự cô
đơn của con người được khai thác ở những khía cạnh như: Con người cô đơn vì lạc
thời; Cô đơn như một trạng thái tâm lý của con người thời hiện đại. Bên cạnh đó
không bằng lòng với cách tái hiện hiện thực bằng những con người bình thường, các
tác giả văn học hậu hiện đại còn tìm cách “lạ hóa” nhân vật bằng cách tạo ra kiểu
nhân vật giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử. Với lối viết mô phỏng các tích
truyện có sẵn trong dân gian, nhà văn tìm cách kết nối không khí hiện đại và hiện
thực cuộc sống vào tác phẩm. Ngoài ra việc các nhân vật dị biệt xuất hiện ngày càng
nhiều trong văn học thời kỳ Đổi mới cho thấy: Nhà văn đã nhìn cuộc sống trong tính
toàn vẹn, quan tâm đến nhiều loại nhân vật khác nhau chứ không bằng lòng với
những nhân vật quá sạch sẽ; Thông qua loại nhân vật này, nhà văn muốn biểu đạt
quan niệm riêng của họ về một thế giới chưa hoàn thiện…Ở thời kì này, các nhà văn
cũng chú ý đến sự chi phối mạnh mẽ của đồng tiền đối với những giá trị đạo đức,
những mối quan hệ với gia đình và xã hội. Đồng tiền vốn có sức mạnh vạn năng nay
trong thời kì nền kinh tế thị trường nó càng có cơ hội để bộc lộ sức mạnh của mình,
31
nó tác động sâu sắc đến tất cả mọi lĩnh vực, tất cả các mối quan hệ, kể cả những mối
quan hệ truyền thống và thiêng liêng là tình cha con, tình vợ chồng và cả tình yêu…
Đồng tiền làm băng hoại những giá trị đạo đức vốn đã trở thành truyền thống hết sức
tốt đẹp và đáng tự hào của dân tộc, nó làm con người trở nên tha hóa, thậm chí là mất
nhân tính. Ta có thể thấy rõ điều này qua các tác phẩm: Tướng về hưu (Nguyễn Huy
Thiệp), Mùa trái cóc ở miền Nam (Nguyễn Minh Châu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma
Văn Kháng)… Như vậy xu hướng dân chủ hóa và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã đưa
tới sự phát triển phong phú sôi nổi đa dạng phức tạp hướng tới tính hiện đại của văn học
sau 1975. Sự đa dạng và phong phú được thể hiện trên nhiều bình diện của văn học; đa
dạng về đề tài, phong phú về thể loại nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật đa dạng về
phong cách và khuynh hướng thẩm mĩ. Nhưng sự phong phú đa dạng cũng đi liền với
tính phức tạp và không ổn định. Trong xu hướng hội nhập, sự giao lưu với đời sống văn
hóa và văn học thế giới, văn học đã ngày càng gia tăng tính hiện đại.
Cuối cùng nói về văn học sau 75 phải nói đến những đổi mới về thể loại và thủ
pháp biểu hiện. Sự đổi mới sâu sắc nhất của văn học sau 1975 ở phương diện trần
thuật chính là đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật. Hiệu quả của việc trần thuật từ nhiều
điểm nhìn đã tạo nên hệ thống các giá trị khác nhau về con người và hiện tượng.
Thực ra, việc di chuyển điểm nhìn từ tác giả đến người kể chuyện và nhân vật đã có
trong văn xuôi Nam Cao và Nguyên Hồng song hiệu quả là nhằm tái hiện thế giới nội
tâm. Với văn học thời đổi mới, mục đích sâu xa là nhằm soi chiếu hiện thực từ nhiều
chiều, nhiều góc độ. Giọng điệu trần thuật cũng xuất phát từ yêu cầu chiến tranh, văn
học là phương tiện cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Bởi thế, giọng điệu chủ đạo của
văn học thời kì này nhất quán ở sắc thái ngợi ca, trang nghiêm và đầy lạc quan. Trong
khi đó, văn học sau 1975 đã chuyển từ đơn sang đa giọng. Nhu cầu khẳng định cá
tính, nhận thức và khám phá tận cùng các đối tượng nghệ thuật đã làm nảy sinh các
giọng điệu: hoài nghi, chất vấn, chiêm nghiệm, triết lí, giễu nhại. Chính chất liệu
ngôn ngữ đời thường thô nhám, giàu màu sắc khẩu ngữ ùa vào trang văn làm nên sự
đa giọng điệu này.
Có thể nói rằng, quá trình đổi mới của văn học sau 1975 diễn ra khá toàn diện
và sâu sắc từ nhà văn đến công chúng, từ bản chất văn học đến tư cách nghệ sĩ, từ tư
tưởng đến thi pháp. Nhận diện những đổi mới ấy dưới góc độ thi pháp sẽ giúp giáo
32
viên dễ dàng hơn trong việc tiếp cận những văn bản mới trong chương trình
2.1.2. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc, nửa sau thập kỉ 80 của
thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của một hiện tượng văn học lạ,
độc đáo và gây nhiều tranh cãi: HIỆN TƯỢNG NGUYỄN HUY THIỆP. Ông được
nhận xét là một bông hoa nở muộn trên văn đàn văn học Việt Nam. Những truyện
ngắn đầu tiên của ông xuất hiện trên báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam năm
1986. Không lâu sau đó các tác phẩm của ông được bàn luận sôi nổi trong làng văn cả
trong lẫn ngoài nước. Có nhiều nhận xét trái chiều về văn phong của Nguyễn Huy
Thiệp, người chê, kẻ khen ngợi nhưng cho tới nay cái tên Nguyễn Huy Thiệp vẫn gây
ấn tượng trong lòng độc giả bởi những truyện ngắn đặc sắc và ấn tượng. Những sáng
tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn, đã mang đến một làn gió mới cho đời
sống văn chương đương đại. Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện và mang theo trong sáng
tác của ông những hiện thực đa dạng và phong phú. Chúng ta biết hiện thực trong văn
học là vấn đề quan trọng nhưng không nhất thiết phải là mục đích phản ánh của nhà
văn, “nó chỉ là phương tiện để nhà văn trình bày tư tưởng, cách nhìn, sự chiêm
nghiệm của riêng mình"[10, tr.205]. Tính hiện thực của tác phẩm không phải là sự
chân thực so với đời sống mà là sự chân thực của tâm trạng, cảm xúc, niềm tin cá
nhân. Hiện thực trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp không phải là hiện thực một
chiều, nó là sự đa dạng, phức tạp, nó có trong mọi ngõ ngách của cuộc sống, có trong
tất cả chúng ta, “Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những bê tha nhếch nhác trong
cuộc sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [41, tr.10]. Đây là điều không
phải người cầm bút nào cũng dám viết lên. Nguyễn Huy Thiệp đã trăn trở và dám
viết. Có thể thấy, hiện thực trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp hết sức đa dạng và
phong phú. Có những hiện thực được Nguyễn Huy Thiệp miêu tả một cách trần trụi
để người đọc thấy hết được cái xấu xa, hèn kém của con người. Người ta nhìn thấy
trong cuộc sống giờ đây còn có những con người giả dối, độc ác, đểu cáng, nhẫn tâm,
ích kỉ, xấu xa, vụ lợi, thực dụng. Nếu ở giai đoạn văn học trước cuộc sống được hiện
lên trong văn học thường là cái đẹp, cái cao cả đáng ngợi ca thì đến Nguyễn Huy
Thiệp cuộc sống là một cõi hoang sơ, hỗn tạp, xô bồ, gay gắt, là sự ganh đua, giẫm
đạp, gay gắt theo kiểu “đất không có vua và biển không có thủy thần” (chữ dùng của
Nguyễn Huy Thiệp).
Đọc “Những ngọn gió Hua Tát”ta bắt gặp một hiện thực như trong một thế giới
33
cổ tích ít nhiều hồn nhiên, thánh thiện. Tuy nhiên, cổ tích của Nguyễn Huy Thiệp là
một thứ cổ tích “xát muối” vào cuộc đời và con người. Không có thế giới của những
con người “ở hiền gặp lành”, không có sự hỗ trợ tích cực của Bụt, Tiên hay Thần
thánh. Ở đó, chỉ có những con người với nhau, những nỗi đau khổ và bất hạnh, những
góc khuất của đời và của người…Những ngọn gió Hua Tát nhà văn đã xoáy sâu vào
cuộc đời, thói đời với những khuất lấp nhỏ mọn mà người đời hay né tránh: chuyện
ăn cắp chiến công, sự vô tâm khắt khe của người đời...
Chẳng hạn như “Trái tim hổ” là câu chuyện buồn về hành trình săn tìm con hổ
có trái tim khác thường, có thể chữa bệnh cho Pùa - cô gái xinh đẹp mà bất hạnh của
bản Hua Tát. Người đọc sẽ dễ dàng nhận ra chất cổ tích ngay từ những câu chữ đầu
tiên, khi tác giả giới thiệu về Pùa và Khó. Pùa xinh đẹp bao nhiêu, Khó “xấu trai”
bấy nhiêu kiểu nhân vật như Trương Chi. Kiểu kết cấu này không quá xa lạ với cổ
tích. Cho đến hành trình đi săn lùng con hổ của trai bản Hua Tát, cuối cùng chỉ còn
lại mình Khó và con hổ săn nhau từng giờ, đấy là cổ tích, một thứ cổ tích hồn nhiên,
trong suốt, rất quen thuộc trong kí ức tuổi thơ của người đọc. Thế nhưng, đó chỉ là
cái nền, là khúc dạo đầu cho những gì tác giả muốn nói. Chàng Khó giết được con
hổ, dân bản vui mừng vô hạn, “kinh hoàng xôn xao như rừng gặp bão”. Nhưng,“đã
có kẻ nào đánh cắp trái tim con hổ”! Người đã bỏ công săn tìm con hổ là Khó, người
giết được hổ cũng là Khó. Song, người có được trái tim hổ thì không phải Khó! Tại
sao tất cả trai bản Hua Tát “lặng im, cúi gằm mặt xuống”? Tại sao họ lại thấy “hổ
thẹn, căm giận, chua xót”? Tại sao không ai trong bản muốn nhắc lại huyền thoại về
trái tim hổ, trái lại, người ta muốn “quên nó đi như quên bao điều cay đắng xảy ra
trên thế gian này”? Đó quả là một điều cay đắng, cay đắng không chỉ với dân bản
Hua Tát mà với cả chúng ta, thời đại chúng ta, bởi lẽ, trong cộng đồng người chúng
ta có những kẻ “biết cách” sống bằng chiến công của người khác như thế. Đó là điều
đáng buồn, đáng xấu hổ. Cho nên, “Trái tim hổ” không còn là chuyện của cổ tích mà
đã trở thành chuyện của đời, chuyện của người - chuyện về những kẻ đánh cắp chiến
công của đồng loại một cách đúng lúc và hết sức bí mật, không để lại dấu vết.
Còn “Nàng Bua” kể về cuộc đời một người phụ nữ “đặc biệt” của bản Hua Tát.
Nàng Bua sống giữa bản như thách thức, như trêu ngươi dư luận và những ánh nhìn
đầy định kiến của con người. Nàng sống một mình với chín đứa con của nàng và
“không ai biết bố chúng là ai. Ngay với Bua, nàng cũng không biết đích xác bố của
từng đứa một”. Có thể nói, đây là câu chuyện có ít yếu tố cổ tích nhất trong số 10
34
truyện ngắn “Những ngọn gió Hua Tát”. Chi tiết dịp may đổi đời dành cho nhân vật
cổ tích có lẽ là chi tiết hiếm hoi thể hiện chất cổ tích trong truyện: mẹ con nàng Bua
đào được hũ vàng và trở thành người giàu có nhất bản nhất mường. Thế nhưng, Bua
không hưởng hạnh phúc được lâu dài như nhân vật cổ tích truyền thống. “Nàng đã
chết khi trở dạ đẻ giữa đống mền chăn ấm áp”. Điều này rất “phi cổ tích”, càng
không đúng theo logic thông thường. Nhưng nó đúng với logic của đời: Trong khó
khăn, gian khổ, con người ta luôn cố mà sống, mạnh mẽ lên mà sống. Nhưng khi có
được êm ấm, bình yên, người ta lại “không đủ sức” để “hưởng thụ”! Bua chết, “cả
cộng đồng Hua Tát đi đưa”. Bởi lẽ, lúc bấy giờ người ta đã “tha thứ cho nàng” vì
nàng đã dám sống vượt lên trên mọi định kiến và dư luận. Và, “nàng cũng tha thứ
cho họ”, tha thứ cho sự vô tình, vô tâm, khắt khe đến tàn nhẫn của họ đối với nàng.
Như vậy, đã có những điều không đẹp như cổ tích được phơi bày trước mắt
người đọc. Câu chuyện nào trong “Những ngọn gió Hua Tát” cũng có đoạn kết
nhưng nỗi đau thời đại thì còn “bỏ ngỏ”. Tác giả không giải thích nhiều, nhân vật
cũng rất kiệm lời, nhưng tất cả chúng ta đều biết, đều cảm nhận được những dư vị
xót xa, đắng ngắt sau những số phận, những cuộc đời ở bản Hua Tát. Đó chính là
hiện thực của đời!
“Sói trả thù” kể về câu chuyện của gia đình thợ săn họ Hoàng. Ngoài cái
“không khí cổ tích” toát ra từ không gian núi rừng và cuộc đi săn, đây gần như là câu
chuyện của những triết lý về “nhân quả” của cuộc đời. Chuyến đi săn và những
“chiến lợi phẩm” mang về vốn không quá xa lạ với kiểu tư duy cổ tích. Thế nhưng,
câu chuyện của đời lại bắt đầu ở phía sau cổ tích. Sói con lớn lên “sống lầm lũi và
rất biết điều” cho đến khi nó nhìn thấy vết máu đỏ từ trong miệng thằng San. Con sói
say máu, lao vào cắn chết thằng bé như cắn một miếng mồi ngon. Bất ngờ hơn là ông
Nhân đã chặt đứt dây xích, thả con sói vào rừng… Câu chuyện kết thúc trong nỗi đau
không lời của người chứng kiến lẫn người trong cuộc. Luật nhân quả đã báo ứng
ngay trước mắt: Ông Nhân giết chết con sói mẹ, còn con sói con thì giết chết đứa con
duy nhất của ông. Có lẽ, bản thân ông Nhân đã nhìn ra được điều này nên mới chém
sợi dây xích, thả sói con về rừng những mong kết thúc mọi nhân duyên, oán thù.
“Chiếc tù và bị bỏ quên” gợi nhắc về quãng thời gian quá khứ của bản Hua Tát,
khi có nạn sâu hại hoành hành. Sau này, ở bản Hua Tát, cứ vào sáng sáng lại có một
hồi tù và vang dội cất lên.“Tiếng tù và cổ xưa nhắc nhở mọi người nhớ đến tổ tiên,
35
báo hiệu cuộc sống bình yên không có sâu hại”. Câu chuyện kết thúc kèm theo thông
điệp của tác giả: Ngay khi đang được sống bình yên, đừng quên những mất mát, khổ
đau trong quá khứ, bởi nếu không có quá khứ sẽ không có hiện tại và cả tương lai.
“Sạ” là câu chuyện về hành trình đi tìm hạnh phúc của nhân vật chính. Khát
vọng của Sạ là khát vọng quen thuộc của nhân vật cổ tích. Những chuyến hành trình
mải miết của anh đến những vùng đất lạ, nhìn trên bề mặt tác phẩm, đó Sạ là con
người của cổ tích. Tuy nhiên, tâm tình của anh lại là tâm tình của con người ở thời
đại chúng ta. Cả một đời Sạ sống như “một con thú lạ” giữa mọi người, sống trong
bứt rứt đau khổ bởi “nỗi cô đơn khủng khiếp giày xé trái tim chàng” và “niềm ham
sống và những khát vọng mãnh liệt bứt chàng ra khỏi mọi nếp thường”. Khát vọng
ấy khiến Sạ phải giong ruổi trên nhiều chặng đường để tìm kiếm cho mình “sự tích
phi thường”. Thế nhưng, đến cuối đời, trở về bản Hua Tát, Sạ lại nghiệm ra: “Quãng
đời bình thường cuối cùng ta sống ở bản Hua Tát như mọi người đời, mới thực chính
là sự tích phi thường mà ta lập được!”. Điều mà Sạ nhận ra cũng chính là điều mà
tác giả muốn nói với người đọc: Cái phi thường nhất luôn nằm ngay trong những cái
bình thường nhất, ngay trước mắt ta, dưới chân ta. Tuy nhiên, để “nhận chân” được
điều này, đôi khi người ta phải đánh đổi cả một đời người! [40].
Triết lý mà Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm vào mỗi câu chuyện trong “Những
ngọn gió Hua Tát” là những điều rất đời, rất người và không quá xa lạ với thời đại
chúng ta. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta lại “cố ý” làm ngơ trước nó hay không đủ can
đảm để nhìn thẳng vào nó. Cái hay và cũng là thành công của tác giả chính là ông đã
dũng cảm lên tiếng nói về những điều “không của riêng ai” trong cuộc đời này. Con
người của cổ tích hay con người của thời hiện đại đều như nhau ở những góc khuất
tâm tư như thế.
Người đọc còn nhận thấy Nguyễn Huy Thiệp cũng hay viết về đề tài đi săn. Tuy
nhiên nhà văn không đơn thuần chỉ kể chuyện đi săn mà thông qua đó còn gửi gắm
những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh rất phổ quát. Đó là một cuộc đấu tranh giữa cái
thiện với cái ác, giữa con người và thế giới tự nhiên. Và “Muối của rừng” là một
truyện như thế. Truyện ngắn của Huy Thiệp kể về một cuộc đi săn vào một ngày
xuân rất đẹp của ông Diểu. Đó là vào một buổi sớm xuân: “Cây cối đều nhú lộc non.
Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm”. Khung cảnh
thanh bình ấy lại chính là dịp để nhân vật ông Diểu “bắt đầu cuộc đi săn”. Nhân vật
đi vào rừng ông nhìn thiên nhiên cũng như cách ông đánh giá về cuộc đời. Trước
36
hết,ở góc độ sinh thái đó là mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Ông Diểu,
với khẩu súng hai nòng rất đẹp của mình đã vô tình làm tổn hại đến thiên nhiên. Với
vốn tri thức phong phú của ông về thế giới tự nhiên và thế giới ngoài xã hội, ông
Diểu đã áp đặt những suy nghĩ của mình lên tự nhiên Ông tự gán những suy nghĩ cay
đắng về con người cho loài vật: “Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng!
Vị gia trưởng cộc cằn” hay “bởi giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm. Từng cung bậc
của tâm trạng của ông Diểu có sự thay đổi. Bắt đầu từ lúc tiếp cận đàn khỉ “không
buồn, không vui, không lo lắng cũng không tính toán” đến “mỉm cười và chăm chú
nhìn”. Rồi và cuối cùng là “niềm vui nhen lên từ khi ở nhà ra đi trong ông vơi đi một
nữa”. Con khỉ đực hiện lên trong ông như một con người xấu xí và đê tiện. Ông
quyết định bắn hạ con khỉ đực với “một tiếng súng dữ dội”. Ông Diểu làm điều ác và
tại thời điểm đó ông vẫn hài lòng với kết quả dù có chút “run lên” như “người vừa
mới làm xong việc nặng”.”. Ông nhìn thấy hành động hy sinh của con khỉ cái là “giả
dối”, “ngu ngốc”. Nhưng khi nhìn đôi mắt con khỉ đực, người đàn ông ấy bổng dấy
lên một niềm “thương hại” và “mủi lòng”. Từ đó nhiều sự việc liên tiếp xảy ra với
ông Diểu, khiến ông Diễu thay đổi nhận thức của mình về thế giới tự nhiên và với
chính mình. Hành động “tránh nhìn vào đôi mắt” con vật như là một điềm báo hiệu
về xung đột bắt đầu nảy sinh trong quá trình chinh phục và chiếm đoạt của con
người. Để từ cái điềm báo ấy, ông Diểu chuyển tâm trạng sang trạng thái hoảng loạn,
bối rối. Ông tìm cách “hái lá đắp cho con khỉ” hay loay hoay “cởi chiếc quần lót” –
mảnh giáp cuối cùng trên cơ thể để băng bó cho nó. Trải qua một hành trình vất vả,
chứng kiến và suy nghiệm nhiều thứ, đặc biệt là hình ảnh con khỉ con rơi xuống vực
sâu thăm thẳm và con khỉ cái cứ kiên trì lẽo đẽo theo ông đi xuyên rừng, người đàn
ông ấy chợt cảm thấy “cay cay sống mũi” và thức nhận “một nỗi buồn tê tái đến tận
đáy lòng”. Những tâm trạng và hành động của ông Diểu cho thấy một sự giằng xé
nội tâm giữa tham vọng và tình thương, giữa khả năng của một ông già và sức mạnh
của thiên nhiên, giữa phần “con” và phần “người” cũng chính là cái ác và tính thiện
trong nhân vật.. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh hoa tử huyền và ông Diểu ra về trong
làn mưa xuân, một hình ảnh tuyệt đẹp. Câu chuyện thực sự đã “thanh lọc” tâm hồn
con người, gợi cho con người những suy nghĩ, những trăn trở về cuộc sống bề bộn
hiện nay.Con người ra đi với ý định huỷ hoại thiên nhiên, hủy hoại cuộc sống, khi trở
về lại trong tâm thế hòa vào lòng thiên nhiên, vào lòng cuộc sống: “Mưa xuân dịu
dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một
37
lát sau, bóng ông đã nhòa vào màn mưa.”Giữa con người với thiên nhiên không còn
khoảng cách, con người trở về với bản thể của mình. Ông Diểu trở lại hình hài ban
đầu của con người tưởng như chưa từng phạm tội và trong sạch trước cuộc đời.
Theo một cách hiểu khác, “Muối của rừng” còn đem đến cho ta một suy nghĩ về tình
người, tình cảm trong đời sống. Con khỉ cái hành động rất giống loài người, Con khỉ
cái cũng có lúc hoảng sợ “Đôi mắt nó đầy kinh hoàng. Nó vứt phịch con khỉ đực
xuống đất, chạy biến đi”, song chính tình người, tình yêu với con khỉ đực đã lôi kéo
nó trở lại. Cả ông Diểu cũng thế. Khi ông lột mảnh giáp cuối cùng trên người để băng
bó cho con khỉ đột, cũng chính là lúc tình người trong ông và trong lòng chính chúng
ta trỗi dậy. Ta thấy hình ảnh ấy thật đẹp vì chính trong tim ta tình người đã được khơi
dậy và lan tỏa.
Còn ở trong truyện Tướng về hưu nhà văn đi sâu khám phá nhiều cá nhân khác
nhau. Một vị tướng luôn thấy lạc lõng, cô đơn ngay giữa gia đình mình,bởi xung
quanh ông toàn những người thực dụng, tranh giành, dối trá…Cô con dâu tên Thuỷ-
một bác sĩ nhưng là điển hình cho mẫu người thực dụng,đầy toan tính cũng đầy lý trí,
tỉnh táo, sòng phẳng, lạnh lùng đến tàn nhẫn. Ông Bổng cũng là một nhân vật thực
dụng nhưng đó là sự thực dụng hồn nhiên, xô bồ của người ít học (ông Bổng hỏi:
“Ván mấy phân”? Tôi bảo: “Bốn phân”. Ông Bổng bảo “Mất mẹ bộ xa lông. Ai lại
đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”[40, tr.23]; rồi
ông giục đô tuỳ “các bố ơi, đi đi còn về nhắm” [40, tr.24]. Vẫn biết mọi lời lẽ đó đều
xuất phát từ một người ít học nhưng sao ta vẫn thấy trĩu lòng, buồn tê tái. Trong
truyện Không có vua, nói đúng hơn là “không có tình yêu” (Đỗ Đức Hiểu), Nguyễn
Huy Thiệp đã “hổ lốn” vào trong gia đình ấy rất nhiều những cá tính đặc biệt. Một
ông bố chồng goá vợ, ở vậy nuôi con khôn lớn, ấy thế mà lại bắc ghế nhòm trộm con
dâu tắm. Anh em cắt tóc cho nhau thanh toán sòng phẳng như người dưng, mai mối
cho nhau cũng phải ghi giấy biên nhận trả công cẩn thận. Em chồng (tên Đoài) thì lúc
nào cũng nhăm nhe tán tỉnh chị dâu, thậm chí còn gạ gẫm chị dâu "Tối nay tôi vào
buồng Sinh nhé". Đáng buồn hơn, trong cái gia đình ấy, khi mà bố ốm nặng, con cái
họp gia đình: “Ai đồng ý bố chết giơ tay” để lấy “biểu quyết”. Thật đau đớn, đau vì
sự băng hoại đạo đức, nhân cách trong một gia đình hiện đại. Ngòi bút của nhà văn:
“Bật lên những trang viết như cứa vào trái tim người đọc, cứa đến rớm máu và bật
máu ra. Những con người trần trụi tới mức thú tính. Đây là một đám sinh vật biết ăn
nói, đi lại suy nghĩ đối xử như con người” [41, tr.424]. Còn ở Huyền thoại phố phường,
38
nhân vật Hạnh vì muốn lấy lòng tin của gia đình bà Thiều - một gia đình giàu mà y
dám “xắn tay áo rồi đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy bùn, lõng bõng nước bẩn,
thậm chí có cả cục phân người” [40, tr.236], để tìm chiếc nhẫn cho mẹ con bà Thiều,
vì tiền mà y sẵn sàng cướp chiếc vé số có cùng sêri nhưng đã “được một bảo trợ vô
hình” ở chùa ở tại nhà người quen. Nhà văn đã vạch ra sự tha hoá, biến chất của con
người trong một xã hội đầy biến động và phức tạp. Nguyễn Huy Thiệp phanh phui
những cái xấu, cái ác không phải để hả hê, mà để xót xa day dứt, để mong rằng cuộc
sống sẽ có sự đổi thay…Nhìn thẳng vào sự thật, Nguyễn Huy Thiệp vạch trần tâm lý
thực dụng, vụ lợi một cách trắng trợn của con người.. Đặc biệt hơn cả, sự trục lợi tỉnh
táo đến mức kinh tởm ở nhân vật Thủy trong “Tướng về hưu”: “Vợ tôi làm việc ở
bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hằng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho
vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn… Cha tôi dắt tôi xuống bếp,
chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc…Vợ
tôi đi vào nói với ông Cơ: Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?”[40]
Banzắc từng nói “Khi túi tiền phình ra thì trái tim bị teo lại”. Chính tâm lý vụ lợi,
thực dụng đã khiến con người đánh mất lương tri. Viết về kiểu người này, Nguyễn
Huy Thiệp đã “lột truồng con người ra và phơi bày toàn bộ sự đớn hèn của nó”.
Bên cạnh hiện thực rất đời như đã nói ở trên, văn Nguyễn Huy Thiệp cũng có
những hiện thực rất đẹp, rất lãng mạn. Đó là hiện thực về huyền thoại con trâu đen kì
diệu trong Chảy đi sông ơi. Tuổi thơ của nhân vật “tôi” trong truyện gắn liền với
huyền thoại đó. Cậu từng mơ ước được gặp con trâu đen và được hưởng điều kì diệu
là hớp bọt dãi của nó “sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá”
[40, tr.6]. Hình ảnh con trâu đen là biểu tượng cho vẻ đẹp, sự thanh cao, điều huyền
diệu tuyệt vời của cuộc sống. “Con gái thủy thần” lại đưa người đọc về với thế giới
vừa quen vừa lạ, vừa hư vừa thực, vừa gần gũi vừa xa xôi của cuộc đời.“Trước mặt
tôi, dòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng (…). Tôi
cứ đi… Phía trước mặt tôi còn biết bao điều bất ngờ chờ đợi. Nàng là ai? Con gái
thủy thần? Nàng ở đâu? Con gái thủy thần?”. Không ai biết con gái thủy thần ở đâu
giữa biển cả bao la, giữa mênh mông cõi người. Chương không biết, người đọc không
biết và có lẽ bản thân tác giả cũng không biết! Huyền thoại Mẹ Cả trong tác phẩm
được tác giả “dàn dựng” hết sức công phu để cuối cùng, cả Chương, cả người đọc đều
ngỡ ngàng khi “vỡ lẽ” ra “sự thật” bên trong ngôi mộ của Mẹ Cả: một khúc gỗ mục
chẳng hình thù gì! Huyền thoại về Mẹ Cả đã được “giải thiêng” ngay từ truyện thứ
39
nhất! Nhưng cái gì đã khiến Chương phải cất công tìm kiếm con gái thủy thần? Chắc
chắn không đơn giản là những ám ảnh về Mẹ Cả. Bởi lẽ, ngay ở đoạn kết của câu
chuyện thứ nhất, bản thân Chương đã khẳng định: “Ngoài biển không có thủy thần”.
Song, đồng thời, anh cũng rất quyết tâm: “Ngày mai tôi đi ra biển”. Thoạt nhìn,
chúng ta sẽ thấy có gì như là mâu thuẫn trong nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, chính
ngay nơi điều “có vẻ như là mâu thuẫn” ấy, chúng ta sẽ “ngộ” ra rất nhiều điều thú vị.
Mẹ Cả trong trường hợp này chỉ mang ý nghĩa là một biểu tượng. Mẹ Cả không hoàn
toàn là hình ảnh gợi nhắc về cổ mẫu Nước trong văn học dân gian xa xưa. Mẹ Cả -
con gái thủy thần, trong tâm thức Chương luôn gắn liền với biển. Biển của nhiên
nhiên tạo hóa từ thuở hồng hoang xa thẳm và biển của khát vọng hạnh phúc. Ra đến
biển cũng tức là Chương hoàn thành khát vọng của cả đời mình. Đây mới là lý do
thực sự thôi thúc nhân vật dấn bước và dấn thân không ngừng. Không viết về những
huyền thoại, nhưng trong Những bài học nông thôn người đọc vẫn thấy hiện lên một
hiện thực trong trẻo nên thơ về một chàng trai mới lớn người thành phố về nghỉ hè tại
một vùng quê đã học được nhiều điều ở đó. Ngoài ra, cũng có những hiện thực được
nhà văn phản ánh một cách huyền ảo, mang mầu sắc lịch sử, cổ tích trong bộ ba
truyện “giả lịch sử” và chùm truyện “giả cổ tích”… Tất cả các cách phản ánh đó
chung quy cũng nhằm để nói đến cái hiện thực ta đang sống, cái hiện thực nhà văn dự
cảm được ở nhiều chiều, nhiều khía cạnh. Hiện thực trong tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp đòi hỏi người đọc phải thay đổi kinh nghiệm một chiều về hiện thực, nó nhằm
chủ yếu khơi gợi suy ngẫm và kích thích tưởng tượng, đối thoại nhiều hơn là để
người ta tin nó có tồn tại. Như vậy, hiện thực ở trong tác phẩm theo quan niệm của
nhà văn rất phong phú và đa dạng. Nhà văn đã tách được ngòi bút của mình ra khỏi
cách viết nặng về biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, những con người
thuộc về khối cộng đồng, nhân dân ta, dân tộc ta, xã hội ta…hay nói gọn lại là cách
nhìn sử thi.
Bên cạnh việc đổi mới về hiện thực, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng có
sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Chúng ta biết con người xuất hiện
trong giai đoạn văn học trước chủ yếu là con người cộng đồng, con người giai cấp,
con người dân tộc. Những con người đơn giản, dễ hiểu được xây dựng theo những
công thức nhất định. Nhưng từ sau năm 1975, yêu cầu đổi mới văn học đòi hỏi nhà
văn phải nhìn con người trong những mối quan hệ đời thường đa đoan và phức tạp,
khám phá con người ở khía cạnh đời tư bằng cặp mắt nhiều chiều và bằng cách viết
40
đa thanh.Trước hết người đọc nhận thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khai thác
nhiều về kiểu người cô độc, lạc lõng giữa mênh mông cõi người để phản ánh một sự
thật rằng khi kinh tế thị trường, văn minh công nghiệp mở ra, lối sống thực dụng như
một cơn gió lốc tràn vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Con người trở nên bơ vơ,
lạc loài vì không thể thích ứng được với nó.Ông Thuần - vị tướng về hưu trong kiệt
tác cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Ông từng là một người lính, một vị chỉ huy mẫu
mực, một tấm gương sáng trong mắt mọi người: “Ở trong gia đình, cha tôi bao giờ
cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của
cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng”. Rèn luyện trong quân đội, ông có một
lối sống trong sạch, ngay thẳng, không vụ lợi. Thế nhưng khi giã từ con đường binh
nghiệp để trở về cuộc sống đời thường, ông phải đối mặt với bao nhiêu bộn bề, ngang
trái. Ông không hòa hợp được với cái lạnh lùng của lối sống thực dụng. Cuộc sống
không còn chỗ cho ông, ông trở thành người thừa, xa lạ với chính những người thân
trong gia đình. Một khối cô đơn khổng lồ đè nặng lên tâm hồn vị tướng của một thời
lửa đạn. Ông khóc khi chứng kiến các rau thai nhi trong nồi cám “Khốn nạn, tao
không cần sự giàu có này”. Ông luống cuống khổ sở trong một đám cưới ngoại ô lố
lăng và dung tục. Ông ngán ngẩm trước việc đứa con dâu ngoại tình. Ông nhận ra
một sự thật cay đắng rằng “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục… tâm càng lớn càng
nhục”. Sự cô đơn, lạc lõng của ông Thuần xuất phát từ sự mâu thuẫn của lý tưởng
cao đẹp một thời và sự thật trần trụi của một thời khác. Một người như ông, từng
được đặt trong “bầu không khí vô trùng” của thời trước chắc chắn không đủ sức đề
kháng để đối chọi với sự thật của thời này.Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có cái cô
đơn của những con người mải mê đi tìm điều thiện, đi tìm cái cao đẹp của cuộc đời.
Điều thiện ở đâu? Cái đẹp ở phương nào? Sao mong manh xa vời vậy? Thế
giới “không có vua” và “biển không có thủy thần”. Con người lại chìm vào bi kịch
cô đơn. Chương trong “ Con gái thủy thần”suốt đời bị ám ảnh bởi huyền thoại về mẹ
Cả - kiểu nhân vật thường cứu nhân độ thế như Đức Mẹ trong Thiên Chúa giáo hay
Phật Bà Quan Âm trong Phật giáo. Nhưng trên hành trình đi ra biển, anh chỉ
thấy “những ngộ nhận giới tính và thói đạo đức giả giết chết vẻ diễm lệ trên các
khuôn mặt thiếu nữ” để rồi nhận ra rằng thiên thần chỉ là trò phịa, thượng đế đã chết
ở trần gian. Nhân vật chính trong “Chảy đi sông ơi” ngây thơ đi tìm huyền thoại về
con trâu đen nhưng chỉ chứng kiến được sự lạnh lùng và tàn nhẫn. Con đường đến với
cái đẹp quá gian nan. Con người mãi đi để rồi mãi mãi bơ vơ, lạc lõng: Nhân vật
41
trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp không thể chia ra một cách rạch ròi “địch”-
“ta”, “xấu” -“tốt” được. Bên trong mỗi con người nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại
hai mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện - ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng - tăm tối, hạnh
phúc - khổ đau… Con người có lúc là thiên thần song cũng có lúc là quỷ dữ. Ai dám
bảo một người lương thiện không có lúc suy nghĩ đê tiện? Ai dám bảo một người độc
ác lại không có lúc lấp lánh trong tâm hồn ánh sáng của thiên lương. Nguyễn Huy
Thiệp tỏ ra là người rất thành công trong việc xây dựng con người lưỡng diện. Ông
len lỏi vào những nẻo sâu kín nhất trong nội tâm nhân vật, nhìn thấy những biểu hiện
dù nhỏ nhất lóe lên trong tâm hồn họ Nói nhân vật Tri huyện Thặng trong Chút
thoáng Xuân Hương là xấu, đúng, bởi hắn khét tiếng đục khoét dân lành; bảo hắn
không xấu cũng chẳng sai vì hắn có lòng hào hiệp, biết cách làm việc đâu ra đấy, lại
biết trân trọng một nhân cách như Hồ Xuân Hương. Trong tác phẩm " Không có vua",
Nguyễn Huy Thiệp xây dựng ở đó có những con người bạc ác, đểu cáng. Lão Kiền
trong “Không có vua” đốn mạt đến chứng nào khi rình xem con dâu tắm, nhưng khi
lão đánh bài ngửa “Tao chẳng cần. Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì con buồi” thì ta
hoàn toàn có thể thông cảm và thấy lão đáng thương hơn đáng ghét. Lão Kiền cũng
thật tội nghiệp bởi phải vất vả cảnh gà trống nuôi con, lão đã ở vậy không đi bước
nữa để nuôi đàn con trong đó có đứa tật nguyền. Cũng như vậy, Khiêm con của lão
Kiền vừa là một kẻ trộm cắp cục cằn, thô lỗ vừa là người có tình có nghĩa với những
người trong gia đình như đứa em tật nguyền tên Tốn, chị Sinh, với bố đẻ, đặc biệt
Khiêm biết lo liệu việc giỗ mẹ, ngày lễ Tết.. Nhân vật Thuỷ trong Tướng về hưu cũng
thật khó đánh giá, phân loại nhân vật này chính xác, thoả đáng. Bởi trong mối quan
hệ với mọi người trong gia đình, Thuỷ là một người vợ, người mẹ đảm đang, lo liệu
việc nuôi dạy con cái và quản lý kinh tế gia đình một cách thông thạo. Thuỷ còn là
nàng dâu biết lo toan tính toán mọi việc chu toàn. Khi ông Thuấn về hưu, Thuỷ đã cắt
đặt mọi chuyện trong gia đình sao cho vừa lòng ông, biết tôn trọng tôn ti trật tự (“Cha
là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy”), Thuỷ luôn biết điều, biết người,
dám chấp nhận việc họ hàng làm phiền mà không nói gì (Kim Chi ôm con đến ở
nhờ). Về mặt này, không thể bảo Thuỷ là người xấu được. Mặt khác tính thực dụng ở
nhân vật này vượt quá giới hạn bình thường làm gợn lên một cảm giác rờn rợn, như
việc nuôi chó làm giàu bằng những phôi thai lấy về từ bệnh viện, rồi việc cắt đặt tính
toán đâu vào đó số cỗ đám ma của bà mẹ chồng với một sự hào hứng, phấn khởi. Về
mặt này Thủy lại không thể chấp nhận được. Nhân vật Bường trong Những người thợ
42
xẻ cũng vậy, từ chi tiết Bường lập một toán xẻ để kéo anh em lên rừng kiếm ăn đến
chi tiết nhận xẻ gỗ ở nông trường, giúp gia đình nhà anh Chỉnh, những tâm sự với
Ngọc thì Bường lại hiện lên là một người đàn anh sống có tình có nghĩa, đáng ca
ngợi… còn trong mối quan hệ với ông Thiết lại là kiểu đối xử lừa miếng, giả miếng.
Với Quy, Bường giở trò đểu cáng…
Việc chứa đựng những tính cách, phẩm chất đối lập nhau trong một nhân vật
khiến cho nhân vật trở nên phức tạp, khó hiểu hơn, rất khó đánh giá, phân loại.
Nhưng đó mới đích thực là con người với đầy đủ sự đa dạng và phức tạp chứ không
phải chỉ một chiều “xấu” hoặc “tốt” như con người trong cách nhìn “sử thi”. Qua
nhiều truyện ngắn của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã khắc họa những nhân vật đa diện,
đa trị, lưỡng phân,"trong con người đan cài xen lẫn, giao tranh bóng tối và ánh sáng,
rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ, cao cả và tầm thường"[35, tr.55]. Rõ
ràng nhà văn không phải chỉ nhìn thấy ở con người toàn những ti tiện, hèn nhát, đểu
cáng mà con người dưới ngòi bút của ông cũng là những tâm hồn biết run rẩy, biết
rung cảm trước cuộc đời. Cuộc tranh chấp thầm lặng mà thường xuyên ấy chính là
bản chất đời sống tâm hồn, là vẻ đẹp nhân tính.
Với cái nhìn yêu thương nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Huy Thiệp còn phát hiện ra
ở con người với bao nét đẹp. Điều đó thể hiện ở những trang văn khi ông viết về các
nhân vật nữ và người kém may mắn. Nguyễn Huy Thiệp dành cho những người
không may này một sự cảm thông vô hạn. Có lẽ riêng ở khía cạnh này cũng đủ đưa
Huy Thiệp trở thành một nhà văn nhân đạo lớn. Khai thác các "nhân vật xấu xí", Huy
Thiệp giống Nam Cao đã nhìn thấy ở họ vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách con người.
Cô Lài trong “Tướng về hưu” dù gàn dở, ngờ nghệch nhưng tình cảm đối với mọi
người, hành động trong cuộc sống lại hết sức trong sáng và chân thực. Trong thế
giới “Không có vua” của gia đình lão Kiền, giữa lúc mọi giá trị bị lật nhào, mọi tôn ti
sụp đổ, người ta nhìn thấy ở bé Tốn - đứa trẻ thiểu năng một tâm hồn thánh thiện. Chỉ
có Tốn là đối xử với Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến...Còn viết về người phụ nữ dường
như trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp dành tình cảm đặc biệt nhất. Nhà
văn yêu thương và trân trọng người phụ nữ và ca ngợi những vẻ đẹp cao quý ở họ Đó
là chị Thắm với đôi mắt sâu thẳm trong Chảy đi sông ơi, chị đã sống bên bãi Nổi
nhiều năm, sống giữa những kẻ ghê gớm, nhẫn tâm vẫn vẹn nguyên một tâm hồn
thánh thiện Chị Thắm cứu không biết bao nhiêu người chết đuối, khi nghe chú bé
trách bọn đánh cá đêm độc ác, chị nói với em: “Đừng trách họ thế… Có ai thương họ
43
đâu”. Ở chị Thắm là tấm lòng bao dung sẵn sàng mở ra thông cảm với mọi người, kể
cả kẻ ác. Đó là chị Sinh trong Không có vua, chị là người phụ nữ duy nhất trong một
gia đình toàn đàn ông, từng khốn đốn, cực nhục vì lũ đàn ông đồi bại, tưởng chị phải
căm thù, oán hận nhưng chị bao dung, vị tha. Cái tên của chị đã ẩn chứa vấn đề:
“sống”…tiếp tục sống để tốt hơn trong một cuộc sống mà chị đã thốt lên: “Khổ chứ.
Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”[40, tr.58]. Đó còn là bé
Thu trong Tâm hồn mẹ, tuy còn nhỏ, đã tiềm ẩn bản năng “mẫu tính”. Ẩn sau trong
hình hài con trẻ là “tâm hồn mẹ”, là nhu cầu che trở, cưu mang, chăm sóc cho người
khác, luôn sẵn lòng ban phát tình yêu thương. Đó còn là Mẹ cả (Con gái thuỷ
thần), cô gái về bến Tầm Xuân (Chút thoáng Xuân Hương), cô Lài (Tướng về
hưu), là nàng Sinh, nàng Bua (Những ngọn gió Hua Tát), chị Thục (Những người
thợ xẻ) v.v… Tất cả hiện thực về họ đều khiến chúng ta phải kính trọng nể phục.
Nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã đúng khi nhận xét: Trong tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có "những nhân vật nữ là những con người ưu tú,
nhiều người đáng gọi là liệt nữ” [41, tr.15].
Có thể nói, những tấm lòng cao thượng, những nhân cách cao đẹp trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp mở ra niềm tin mãnh liệt rằng cuộc đời dẫu còn nhiều đắng
cay ngang trái nhưng có thể cải tạo được. Con đường mà chúng ta đi trong tương lai
chắc chắn sẽ là con đường sáng. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn để cho một nhân
vật của mình nói rằng: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung
thực đến đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng là người” (Những người
thợ xẻ). Nhìn thẳng vào sự thật, viết về tất cả những ngổn ngang bề bộn của cuộc
sống nhà văn đã khám con người ở các khía cạnh xấu - tốt, cao thượng và thấp hèn...
Điều đáng quý ở Nguyễn Huy Thiệp là dù phát hiện trong cuộc sống hôm nay con
người dù lắm người nhiều ma thì ông vẫn đặt niềm tin vào con người... ông tin rằng
sẽ có đủ sức mạnh cần thiết để đương đầu với bóng tối đang ngự trị trên thế giới, cải
tạo và làm trong sáng cuộc sống con người” [44]. Người đọc còn nhận thấy quan
niệm con người luôn luôn không hoàn hảo, không tồn tại như những thánh nhân được
nhà văn thể hiện rõ trong truyện "giả lịch sử", "giả cổ tích". Nguyễn Huy Thiệp "đời
thường hoá" lịch sử và cổ tích, kéo lịch sử và cổ tích hào vào cuộc sống thế tục, các
nhân vật lịch sử không giống như hình ảnh của họ trong chính sử, cũng không giống
như trong kinh nghiệm quen thuộc của chúng ta. Trước đây, người ta không thể nào
hình dung một Quang Trung lúc tức giận cũng văng tục; một Nguyễn Du không hề
44
hào hoa, "mặt nhàu nát", sống "xo xúi và túng kiết"; một Trương Chi người những
bài ca tuyệt diệu về tình yêu chỉ giao tiếp với đời bằng duy nhất một từ "cứt"; một Đề
Thám khóc như người yếu đuối nhất, "người nhu nhược nhất đời", "khóc như chưa
từng là một anh hùng, một người khởi nghĩa"... như trong truyện của Nguyễn Huy
Thiệp. Dưới ngòi bút của nhà văn, các nhân vật trên đều được trút khỏi bộ cánh xã
hội, trở về đời thường với những đam mê, dục vọng thường tình, với những nỗi day
dứt về số phận và những tình cảm yêu ghét, cáu giận rất người. Nguyễn Huy Thiệp đã
viết về nhân vật lịch sử với tinh thần như vậy, không xúc phạm hay bôi xấu, ông chỉ
"đời thường hoá" họ. Viết về con người với tất cả mặt tốt mặt xấu, không phải để nhà
văn lên án, phê phán, mà để mọi người hiểu rõ hơn về sự tha hoá, về nhân tình thế
thái. Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, con người là một thực thể vô cùng phức tạp
“đời sống con người hết sức đa dạng” (Nguyễn Huy Thiệp). Nhưng đâu phải nhà văn
chỉ toàn là chỉ trích, bới móc bằng một thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm. Người đọc
có thể cảm nhận độ sắc lạnh của ngòi bút, sự sắc sảo của ngôn ngữ đến mức tàn
nhẫn…Nhưng thực sự mà nói “nói về cái sự đốn mạt, hèn kém của con người, câu
văn của Nguyễn Huy Thiệp thường man mác cảm giác tê tái. Đằng sau cảm giác này
là là nỗi đau nhân tình. Một nỗi đau âm thầm, lặng lẽ nhưng sâu sắc” [41, tr.14].
Những người không hiểu mục đích phản ánh của Nguyễn Huy Thiệp đã cho rằng nhà
văn có “Tài” mà thiếu “Tâm”. Có lẽ họ không nhận thấy, văn Nguyễn Huy Thiệp đã
“đổi mới” còn họ thì vẫn giữ nguyên kiểu đọc cũ, kiểu đọc sử thi để nhìn hiện thực
trong tác phẩm của ông. Những đổi mới quan niệm phản ánh hiện thực, quan niệm về
con người trong sáng tác, vô hình chung đã gây nên nhiều biến thể tiếp nhận khác
nhau đối với truyện ngắn của nhà văn này.
Nhìn lại truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ta thấy, nhà văn thực sự tạo ra bước
ngoặt của văn xuôi sau 1975. Trong tác phẩm của mình, nhà văn đã có sự tìm tòi
khám phá những mảng tối - sáng của hiện thực đời sống, với những mảnh đời nham
nhở, nhếch nhác của thời hiện đại. Nguyễn Huy Thiệp đã vượt qua cách nhìn “sử thi”
để đi vào con người cá nhân, ông không phụ thuộc vào quan điểm phản ánh hiện thực
bằng con đường minh họa, mà đề cao bản chất văn chương. Chính những quan niệm
mới mẻ đó, đã giúp Nguyễn Huy Thiệp tránh lối nhìn mâu thuẫn xã hội một cách đơn
giản, phiến diện. Theo đó, nếu truyện viết theo tư duy cũ làm tất cả bạn đọc cảm nhận
giống nhau (theo ý đồ của tác giả) thì mỗi tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp khi xuất
hiện đã gây tranh cãi, làm xôn xao dư luận. Nguyễn Huy Thiệp đã làm vỡ đi, khác đi
45
tầm đón đợi của người đọc hay nói cách khác nhà văn đã làm thay đổi tầm đón đợi
của bạn đọc bởi cách viết khác và lạ của mình.Dường như người nghệ sĩ Huy Thiệp
đang chờ đợi những người đọc tri kỉ hiểu mình. Do đó người đọc đến với truyện ngắn
của Huy Thiệp cũng cần phải thay đổi tầm đón đợi của chính mình. Công việc đó phụ
thuộc vào từng cá nhân người đọc. Có lẽ vì vậy mà những cuộc tranh luận về truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp chắc sẽ còn kéo dài. Điều đó thực sự đã có tác dụng “hâm
nóng” bầu không khí phê bình văn học vốn tẻ nhạt, nhàm chán bấy lâu.
Tóm lại, Nguyễn Huy Thiệp trở thành một “hiện tượng” chính là ông đã mang
một làn gió mới cho đời sống văn học, có ý nghĩa như một động lực góp phần thúc
đẩy sự phát triển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Những ý kiến khen, chê
khác nhau về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải là hạn chế, đó là biểu hiện
của một không khí dân chủ trong sáng tác, phê bình, tiếp nhận văn học.
2.2. Các xu hướng tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp
Ở thế kỷ XX, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một hiện tượng của sáng
tạo văn học và đồng thời cũng là hiện tượng của những cuộc trao đổi, tranh luận
quyết liệt giữa những người đọc, người phê bình và trong chính giới sáng tác. Bạn
đọc đều biết Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện vào thời điểm nhạy cảm của văn học - thời
kỳ “đổi mới”. Trong khi các nhà văn, các nhà phê bình và bạn đọc đang dè dặt từng
bước thì Nguyễn Huy Thiệp đã trình làng những tác phẩm của mình ở nhiều mảng
khác nhau với nội dung phong phú, nhiều lớp nghĩa sâu sắc, đầy bí ẩn. Chính thức
xuất hiện với lần đầu đăng báo chùm truyện “Những chuyện kể bất tận của thung
lũng Hua Tát” (sau này đổi thành Những ngọn gió Hua Tát). Sau đó sáu tháng, cũng
trên báo Văn nghệ số ra ngày 20/6/1987, ông cho đăng truyện “Tướng về hưu” đã gây
xôn xao dư luận, khen cũng lắm mà chê cũng nhiều. Cùng năm này, “Huyền thoại
phố phường” (Văn nghệ số 11) được trình làng. Liên tiếp sau đó truyện của ông được
đăng như: “Muối của rừng”, “Con gái thuỷ thần”, “Chút thoáng Xuân Hương”…
Giới phê bình vẫn đang tranh luận về truyện “Tướng về hưu” lại phải tiếp tục bàn bạc
tranh luận về các truyện ngắn của ông. Cụ thể, ngay sau khi tập truyện ngắn Tướng về
hưu in được một năm đã xuất hiện tập sách Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư
luận, trong đó có tuyển những bài phê bình, trao đổi tiêu biểu về Nguyễn Huy Thiệp.
Hơn mười năm sau, tập sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp do Phạm Xuân Nguyên thực
hiện kịp thời tập hợp được hầu hết những tiểu luận nghiên cứu, phê bình, trao đổi,
tranh luận, đánh giá về tác phẩm, tác giả, về chủ đề tư tưởng, hình thức nghệ thuật, thi
46
pháp và không ít bài mang tính chất điểm lại lịch sử tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp,
những ý kiến ngổn ngang liên quan đến sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Qua công
trình tập hợp này có thể xác định được chân dung của từng người đọc, dấu ấn của
từng quan điểm, từng phong cách phê bình và có thể phân loại thành những cách đọc,
những nhóm độc giả và những kiểu loại thị hiếu khác biệt nhau. Những bài viết trong
Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp có thể coi đây là câu chuyện "Người đương thời Nguyễn
Huy Thiệp bàn về Nguyễn Huy Thiệp", khi mà nhận thức trong xã hội và văn giới
còn đầy tính trực cảm, mỗi người đều phải bày tỏ rõ ràng chính kiến, quan niệm, chưa
có độ lùi thời gian để tổng kết, kết luận… “Chỉ mình anh cũng đủ tạo nên một đời
sống văn học sôi động kéo dài cả mấy năm trời và còn nóng bỏng đến tận hôm nay”
[41, tr.517]. Nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến như dự cảm được những
sóng gió Nguyễn Huy Thiệp sẽ gặp phải trên đường đi của mình đã viết bài “Tôi
không chúc bạn thuận buồm xuôi gió” [41, tr.9] và mong nhà văn sẽ “được thử thách
trong giông tố của công luận” [41, tr.20] để tin hơn vào bản thân và con đường đi mà
nhà văn đã lựa chọn. Đó là một sự tri ân của Hoàng Ngọc Hiến đối với sự nghiệp văn
chương của Nguyễn Huy Thiệp.Các ý kiến xung quanh truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp xuất phát từ những hướng tiếp cận khác nhau mà phân thành hai hướng chính:
phản đối và ủng hộ. Đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,“Sự đối lập giữa các ý
kiến phải nói là gay gắt,cực đoan nhất so với tất cả các cuộc tranh luận khác trong
văn nghệ kể từ 1975 trở đi” [41, tr.517]. Tuy nhiên, dù phản đối hay ủng hộ thì họ
đều giống nhau một điểm là cùng thừa nhận tài năng viết truyện độc đáo của nhà văn.
2.2.1. Xu hướng tán thành ủng hộ
Đọc các sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, rất nhiều bạn đọc dành nhiều lời ngợi
khen, ý kiến đồng tình, bênh vực nhà văn. Phần đa độc giả đều thừa nhận những giá
trị nghệ thuật trong các tác phẩm. Các ý kiến khen đặc biệt xoáy sâu vào những nét
độc đáo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và đã đưa ra những khám phá rất có ý
nghĩa. Họ đều thừa nhận Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng văn chương, là một hiện
tượng đáng mừng cho văn học nước nhà trong thời kỳ đổi mới. Ở khía cạnh này,
chúng tôi cũng chỉ xin điểm lại những ý kiến tiêu biểu đã ủng hộ tán thành nhà văn.
Nguyễn Huy Thiệp thu hút và có sự phân lập khá rõ rệt công chúng tiếp nhận.
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “…nét hấp dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp. Một thứ
ngôn ngữ táo tợn đôi khi như là đột nhiên lột truồng những ý nghĩ, những thèm khát
mà con người ta vẫn thường có nhưng cứ phải che che đậy đậy” (Đi tìm Nguyễn Huy
47
Thiệp, 41 tr 459), Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “truyện của Nguyễn Huy Thiệp có ý
nghĩa cảnh tỉnh sâu xa”,“Tôi thấy Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với một giọng điệu
mới, một bút pháp sắc gọn, trẻ trung, rất thích” (Hồ Phương) Phạm Xuân Nguyên
cũng khẳng định: “Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” - đó là thành quả của đổi mới”.
Diệp Minh Tuyền thì cho rằng "Phải đợi đến hôm nay, khi Nguyễn Huy Thiệp xuất
hiện, mặc dù với tất cả sự thận trọng đến mức e dè cố hữu, người ta vẫn không thể
không khen rằng anh đã mang đến cho văn xuôi Việt Nam một cuộc cách tân". (Trích
trong "Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng mới ").
Những ý kiến ngợi khen của giới phê bình và bạn đọc được thể hiện trước hết
ở tập truyện "Những ngọn gió Hua Tát" của Nguyễn Huy Thiệp. Tập truyện trình
làng với tít phụ "Mười câu chuyện về cuộc sống của một bản nhỏ". Lần đầu tiên
chúng được đăng trên tờ Văn Nghệ của Hội nhà văn Việt Nam 1987, sau đó được in
vào các tuyển truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cùng với các truyện ngắn khác của
nhà văn. Nhà nghiên cứu văn học Nga T.N. PHILIMINOVA trong bài "Những ngọn
gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các truyền thuyết văn học" có nhận
xét: "Chúng ta gặp tất cả yếu tố huyền thoại, truyện cổ trong nhóm truyện đề cập
những truyền thuyết của một bản làng miền núi. "Những các truyền thuyết của
Nguyễn Huy Thiệp là truyền thuyết văn học; một mặt chúng giữ được những đặc
điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng có xử lý văn học rõ
ràng của tác giả" [41] và nhà phê bình văn học Nga đã kết luận "Kể các truyền
thuyết, Nguyễn Huy Thiệp "hiện đại hóa" chúng, nhờ phép phân tích đặc trưng của
con người hiện đại và rất nhiều thủ pháp khác nhau, anh đã nêu bật những vấn đề
vĩnh cửu về cái thiện và cái ác, về số phận...đang dằn vặt con người hiện đại". Trên
tạp chí Tia sáng, Mai Anh Tuấn có bài "Hua Tát và Nguyễn Huy Thiệp" có ca ngợi
"Những ngọn gió Hua Tát khởi sinh và đồng thời làm cho hành trạng văn chương
Nguyễn Huy Thiệp trở nên khác biệt. Bằng cách mượn dáng dấp các chuyện cổ (“nếu
khách là người công minh chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện
cổ”), Nguyễn Huy Thiệp đã không ngừng buộc người đọc phải hiểu đúng, hiểu lại
miền núi và tộc người. Chính xác hơn, ông tạo ra một sự hoán định vị trí: chính miền
núi/tộc người sẽ giúp điều chỉnh và thanh lọc tâm hồn, nhận thức của con người đồng
bằng/miền xuôi. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục duy trì định kiến tộc người, không có sự
cộng cảm tận đáy mà chỉ phán xét sai lạc về miền núi/vùng cao thì cái gọi là văn
minh thành thị hiện đại sẽ bị trả giá, thua cuộc, bị thiên nhiên trừng phạt. Khi nhà
48
văn đặt Hua Tát trong không gian chuyện cổ, với các tích huyền thoại và hồn linh
bám chặt thời gian sống/sinh hoạt thế tục, hẳn ông đã nhìn thấy ở đó sự sâu dày, đặc
sắc và tựu thành của trí tuệ, tính cách tộc người. Và cách ông chuyển tải quan sát đó,
theo tôi, rất mực giản dị và trong trẻo, hệt như phẩm tính của rừng núi bản chiềng.
Sau hơn ba mươi năm trường văn trận bút, Nguyễn Huy Thiệp dường như đang độ
mình trở về đúng nơi bắt đầu, trọng sự chất phác, mộc mạc, không đa sự, phân tích
chi li. Nhà phê bình Trương Chính viết về Nguyễn Huy Thiệp đã có nhận xét:
"Truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn thật. Đã không đọc thì thôi, đọc thì phải đọc
hết, không muốn bỏ đoạn nào. Đọc một lần, đọc hai lần, vẫn còn sợ sót chi tiết nào
đó, lơ đãng mà nhảy qua. Người ta nói: Văn hay là thứ văn chịu sự đọc lại. Thế thì
văn Nguyễn Huy Thiệp đạt tiêu chuẩn ấy rồi!" Vì lẽ đó mà khi đọc Những ngọn gió
Hua Tát, nhà phê bình Trương Chính đã kể lại:Cuộc đời dun dủi đưa Nguyễn Huy
Thiệp đến một bản nhỏ người Thái đen. "Dân ở đó kể cho anh nghe một số chuyện
cổ; anh đem kể lại với chúng ta, như những người sưu tầm văn học dân gian kể
chuyện cổ Chàm, Tây Nguyên, Tây Bắc. Có khác là anh không sa đà vào chi tiết,
không để chi tiết che lấp ý nghĩa của chuyện. Anh tỉa bớt cành lá rườm rà, để lại cái
lõi.". Và "Viết lại, không thêm tình tiết mới, nhân vật mới, biến cố mới, chỉ lựa chọn,
tước bỏ, tô đậm, làm mờ nhạt, nâng cao những cái có sẵn, làm nổi bật những tư tưởng
phù hợp với thời nay, “vắt lấy ý nghĩa từ sự kiện” (Gorki) sẽ được như Nguyễn Huy
Thiệp với Những ngọn gió Hua Tát. Rõ ràng, anh không “làm văn chương” mà đạt được
hiệu quả của văn chương."
Cũng giống như Những ngọn gió Hua Tát nhận được nhiều đánh giá ngợi
khen của công chúng, Muối của rừng đã được đông đảo bạn đọc đón nhận đồng
tình. Tác giả Trần Thúy Bình trong bài viết trao đổi, tranh luận "Thiên lương
trong Muối của rừng Nguyễn Huy Thiệp đã nhiệt tình ngợi ca Huy Thiệp "Với kỹ
năng viết bậc thầy, qua “Muối của rừng”, tác giả đã khơi dậy trong lòng người
đọc lòng trắc ẩn và tính nhân văn sâu sắc. Đọc xong “Muối của rừng” người ta
mới thấy động vật cũng còn biết yêu thương nhau huống chi là con người. Nó
cũng có cuộc sống gia đình với vợ, chồng, con cái… " và tác giả đi tới kết luận:
"Vẫn giọng kể “thản nhiên trung hoà”, vẫn những câu văn ngắn hàm súc, ngắn
gọn nhưng người đọc vẫn cảm thấy tình yêu cuộc đời, niềm tin vào thiên lương
bừng sáng. Để khi gấp truyện lại, tự nhiên thấy lòng thơi thới, thấy sống đẹp đâu
49
có xa vời''.[Đăng ngày 23/4/2004,Báo An Ninh Thủ đô].
Với cái nhìn tinh tế sắc bén,trong bài viết: 'Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Tôi
là một người sống ảo” ", tác giả Nguyễn Thị Minh Thái có viết
"Muối của rừng” là một truyện ngắn rất hay, đã “kết tủa” tinh chất Nguyễn
Huy Thiệp, hệt như muối đọng hạt trắng muốt từ nước biển lênh loang phơi chín dưới
nắng mặt trời. Trí tưởng tưởng đặc biệt kiểu Nguyễn Huy Thiệp đã đẩy nhân vật của
mình: một ông lão cô độc, chớm già vào rừng.
Ông đi săn với nỗi muộn phiền cùng bao hệ lụy trần thế ám ảnh. Ra khỏi rừng,
được chính cuộc đi săn “tẩy rửa”, ông buông bỏ hết, cả áo quần, cả con khỉ đực đã
vất vả săn được, chỉ mang theo “tấm thân rày đã nhẹ nhàng”, với độc trọi cảm giác
“phóng sinh” trong trẻo, lâng lâng đốn ngộ.
Trí tưởng tượng huy hoàng của Nguyễn Huy Thiệp đã đẩy cảm giác này của
nhân vật chính cất cánh lên tới bến “ngời sáng”, như kết thúc “ngời sáng” của bài
thơ trữ tình hay.
Cuối truyện, “Muối của rừng” đọng lại chói ngời trong những đóa hoa tử
huyền nở nhiều không kể xiết. “Ông Diểu dừng lại sững sờ. Người nào gặp hoa tử
huyền sẽ gặp may mắn. Hoa này màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫn
gọi hoa này là muối của rừng. Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước
thanh bình, mùa màng phong túc”.[đăng ngày 09/09/2007, báo An ninh thủ
đô].Còn nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn hoàn toàn có lý khi nhận xét: “Muối
của rừng” chính là bài ca trữ tình ca ngợi cho sức mạnh kỳ diệu đó của thiên
lương".Nhà văn trẻ Trần Nhã Thụy cho rằng Muối của rừng vượt cả Tướng về
hưu. Và sau này do yêu thích Muối của rừng, có một "nhà thơ" nữ thậm chí đã
lấy bút danh cho mình là Hoa Tử Huyền.
Có thể thấy các truyện ngắn nói trên của Huy Thiệp nhận được nhiều ý kiến
ủng hộ từ công chúng văn học song phải đến Tướng về hưu mới có khả năng công
phá như một trái bom nghệ thuật, Tướng về hưu là tác phẩm văn học mang tầm tư
tưởng thời đại. Đây là chuyện khá hiếm trong làng văn kể từ sau năm 1945, bởi trong
mấy chục năm trước đó, trên văn đàn, công chúng chỉ được đọc những tác phẩm làng
nhàng, vụn vặt, mà vắng bóng sự khám phá có tầm cỡ nhân loại. Tướng về hưu xuất
hiện bằng một cách viết lạ. Lạ ở đây không phải cách dùng từ cũng không phải cách
đặt câu mà ở chính những đối thoại xem chừng "cộc lốc" nhưng rất "đời". Đúng như
Đặng Anh Đào đã nói: "Lối viết của Tướng về hưu mới là ở chỗ đó chứ không phải ở
50
sự du nhập một số kỹ thuật". Đặng Anh Đào đã đúng đã đứng trên lập trường người
đọc - phân tích mổ sẻ bằng những hiểu biết riêng khái quát và lôgíc trong những phát
hiện giữa những điểm hay và thực tế từ nghệ thuật văn chương đương đại. Một số
đánh giá truyện như một cái “mốc” đóng vào nền văn học Việt Nam, là sự khai phá,
tìm tòi, phát hiện những cái mới, mạnh dạn phản ánh hiện thực với thủ pháp nghệ
thuật độc đáo, hấp dẫn. Có thể nói cả lúc vừa ra mắt lẫn hôm nay, truyện ngắn này
đều được xem như sản phẩm của một tài năng độc đáo. Với xu hướng ngợi ca nhiệt
tình ủng hộ, nhà báo Nguyễn Mạnh Đẩu đã kể về diễn biến của quá trình đọc truyện
và xem phim Tướng về hưu của mình trong bài viết “Đôi điều cảm nhận sau khi đọc
truyện và xem phim Tướng về hưu”[41, tr.27]. Lúc đầu, ông cho rằng dù không sành
văn chương, nghệ thuật điện ảnh nhưng khi đọc tướng về hưu cả truyện và phim đều
phải xem lại, bởi vì chung quy lại cả phim và truyện đều là “sự phủ định, giễu cợt
những gì đã qua; bôi đen, bóp méo hiện tại; và bế tắc không hé mở lối ra nào cả. Hơn
thế, ở đó còn có ý bêu riếu, đạp vùi cái tốt, gieo rắc lối sống thực dụng” [41, tr.28].
Cả thái độ của người viết nữa cũng cần phải xem lại, bởi vì “mọi vấn đề đều được
phơi bày mà chỗ đứng và thái độ của tác giả không rõ ràng”[41, tr.30], đó là một thái
độ lạnh lùng, dửng dưng, khiến độc giả không biết điều gì đáng lên án, điều gì đáng
ngợi ca. Thế rồi ông bình tâm lại, nói đúng hơn là ông đọc lại tác phẩm theo cách đọc
mới và nhận ra cái hay cái độc đáo và đánh giá đúng giá trị của tác phẩm. Nguyễn
Mạnh Đẩu đã suy nghĩ sâu sắc hơn, lại cảm nhận theo chiều hướng khác cũng có đôi
điều suy tư trăn trở. Ông tự nhận thấy, cách đọc tác phẩm Tướng về hưu trước đó của
ông là cách đọc cũ, theo lối truyền thống. Ông cũng nhận ra, Tướng về hưu là sản
phẩm của văn học thời kỳ đổi mới, nên cần phải đọc nó theo cách mới. Với cách đọc
mới, nhà báo thấy, nhân vật trong tác phẩm hiện ra rất đời rất thực đa dạng, và phức
tạp. Hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là hiện thực “cay độc mà lạnh tanh làm
hầu hết chúng ta nhức nhối, chua xót” [41, tr.32]. Khác với cách cảm nhận trước đó,
lần này ông thấy những hiện tượng tiêu cực xã hội trong tác phẩm phản ánh là rất đỗi
chân thực. Bởi vì nhà văn vạch trần để chấp nhận một thực tế và loại trừ nó chứ
không phải “bôi đen, bóp méo” [41, tr.33] mà nhiều bạn đọc vẫn lầm tưởng. Cuối
cùng ông đánh giá truyện và phim Tướng về hưu đã “mạnh dạn vạch trần một mặt
hiện thực, nhằm rung chuông báo động về sự tha hoá, “xuống cấp” trong một bộ phận
xã hội” [41, tr.35]. Vì thế "Tác phẩm Tướng về hưu làm Nguyễn Mạnh Đẩu có sự
thay đổi ý kiến đánh giá khiến chúng tôi nhớ đến quan điểm của nhà nghiên cứu mỹ
51
học thuộc Trường phái Konstanz - Đức là Wolfgang Iser. Theo Iser, tác phẩm văn
học có ảnh hưởng nhất là tác phẩm khơi dậy được cái ý thức phê bình mới mẻ trong
người đọc, liên quan đến các mã và tầm đón đợi riêng của anh ta. Tác phẩm hỏi về
những hình dung sâu kín và biến đổi những hình dung mà người đọc dùng để tiếp cận
nó. Tác phẩm văn học có giá trị thường xúc phạm cách nhìn và chuẩn mực đánh giá
cũ của người đọc, hướng người đọc tiếp cận những mã mới của sự hiểu. Và người đọc
tự do “cụ thể hoá tác phẩm” theo nhiều cách khác nhau. Không có một sự giải thích văn
bản duy nhất đúng, có thể khai thác hết tiềm năng ngữ nghĩa của văn bản. Từ đây, có thể
thấy việc tiếp nhận tác phẩm văn chương không phải là bất biến, ở mỗi một thời điểm
đọc khác nhau, trước sự tác động của tác phẩm, người đọc sẽ thấy được ý nghĩa mới của
nó so với lần đọc trước, và do đó ý nghĩa của tác phẩm mãi mãi chỉ là quá trình. Đây là
một trong những lí do khiến cho truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có những biến thể
tiếp nhận khác nhau."[28, tr53]
Trên báo Đoàn kết số 400, (3/1/1988) (hiện đã được Phạm Xuân Nguyên biên
soạn vào cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp), Trần Đạo có bài viết “Tướng về hưu,
một tác phẩm có tính nghệ thuật”[41, tr.41].Theo Trần Đạo thì ông đã đọc tướng về
hưu ba lần mà vẫn có cảm giác khó chịu nhưng lại bị hấp dẫn. Với ông tác phẩm như
có ma lực cuốn hút vẫn phải đọc một hơi tới cùng... và nhà phê bình nhận thấy qua ba
lần đọc khác nhau lần nào đọc ông cũng thấy truyện "vừa hấp dẫn, vừa khó chịu...Rồi
cứ băn khoăn, không sao ngủ được"[41, tr.41-42]. Ông khen “giá trị của truyện ngắn
này ở lối hành văn. Viết làm sao khiến người đọc vừa bị lôi cuốn, vừa áy náy, khó
chịu, không sao quên được mình trong câu chuyện, dòng văn, đó là đặc điểm trong
lối hành văn của Tướng về hưu”[41, tr.42]. Đồng thời, ông khẳng định Tướng về hưu
không chỉ hay ở hình thức mà còn hay ở nội dung, nhưng không phải ở nội dung cốt
truyện, nội dung tư tưởng mà “hay ở nội dung hành văn” [41, tr.42]. Đó là một lối
viết mới, một cách sử dụng ngôn ngữ mới, một cách phản ánh hiện thực trên tinh thần
hư cấu…Cuối bài viết, ông chốt lại “Tướng về hưu quả là một tác phẩm có tính chất
nghệ thuật”[41, tr.51]. Với giọng văn sắc sảo, hóm hỉnh, nhà nghiên cứu văn học
Đặng Anh Đào (Đại học Sư phạm Hà Nội) đã nhiệt tình ngợi ca Tướng về hưu. Bài
phê bình “Khi ông “Tướng về hưu” xuất hiện” [41, tr.21] của bà được dư luận quan
tâm coi là “đặc sắc, là một sự bất ngờ thú vị trong mối quan hệ giữa sáng tác và
phê bình” [41, tr.520], đó là “một sự đổi mới về phê bình văn học ở Việt nam”
[41, tr.520]. Giáo sư Đặng Anh Đào đánh giá rất cao hình thức mới lạ của Tướng về
52
hưu, một thứ văn học không phải để đáp ứng thói quen thưởng thức văn chương theo
lối đọc “thánh thư” mà là văn học cổ vũ cho tinh thần dân chủ hóa văn học. Lối viết
của Tướng về hưu mới lạ không phải ở sự du nhập một số kĩ thuật mới, mà là "một lối
kể rất cổ điển, đầu trước đuôi sau, những câu văn đơn sơ, dễ hiểu, ai đọc cũng
được...". Và cái nhìn dân chủ hóa của người kể chuyện ở đây chính là chỗ; "tin rằng
mình không phải mách nước cho ai, lên lớp cho ai, thậm chí ở nhiều chỗ, đứng thấp
hơn nhận vật và bạn đọc". Với sự nhạy cảm lý luận và trình độ thẩm văn tinh tế, bà
đã giúp người đọc nhận ra tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là “những chuyện nhỏ
nhặt, không phải là phổ biến, nhiều khi rất độc đáo” [41, tr.24] nhưng “đều là những
tín hiệu thức tỉnh sự chú ý của người đọc. Chúng nhấp nháy như báo hiệu một cái gì
đó” [41, tr.24].
Cũng cần phải nói đến ý kiến của chuyên gia văn học phương Tây - Phùng Văn
Tửu đăng trên báo văn nghệ (12/9/1987) có bài phê bình Tướng về hưu. Theo Phùng
Văn Tửu ấn tượng đậm nét mà truyện ngắn gây ra cho ông "một câu chuyện thôi thúc
chúng ta cùng suy nghĩ". Đánh giá cái mới về nội dung tác phẩm, ông viết" chủ đề cô
đơn là một hơi gió lạ trong văn học của ta nên chắc sẽ không tránh khỏi những ý kiến
đánh giá mâu thuẫn "Tướng về hưu thôi thúc chúng ta cùng nghĩ để tìm ra lời giải
đáp, mỗi người cảm thấy tự vượt lên bản thân mình để sống, gắn bó với nhau hơn,
đấy chính là cái xu thế cần phải có mà tác phẩm phần nào đạt được" [41]. Tiếp nữa
là ý kiến của Nguyễn Hòa trên số báo Văn nghệ (5/9/1987) cũng tỏ ra sắc sảo nhận
xét rằng Tướng về hưu là "Tiếng chuông báo động sự xuống cấp trong biểu hiện cụ
thể của một số chuẩn mực xã hội. Ông cho đây là truyện ngắn hay với lối viết khách
quan rất có hiệu quả thẩm mỹ tác giả miêu tả mà không đưa ra một lời bình luận,
một cách giải quyết nào, người đọc trong khả năng của mình tự suy ngẫm, tự đánh
giá, tự rút ra kết luận cần thiết" [41]. Ca ngợi về tài năng của Nguyễn Huy Thiệp
không chỉ dư luận trong nước biết đến mà cả ở nước ngoài nhiều người cũng trầm trồ
khen ngợi. Theo thống kê của Nguyễn Hải Hà và Nguyễn Thị Bình thì tại Canađa
(Báo đất Việt), tại Pháp (Báo Đoàn Kết) đều đăng Tướng về hưu và các bài phê bình
của Việt kiều. Xin trích ra đây hai ý kiến mà hai bà đã thu thập được. Thứ nhất, trên
tạp chí Đoàn Kết (số 398, 1/1988), Văn Ngọc đăng bài “Cái mới của truyện ngắn
Tướng về hưu". Xuyên qua lớp vỏ ngôn từ, bằng một sự cảm nhận riêng, ông đã nắm
bắt được các giá trị của tác phẩm. Ông cũng đánh giá cao bản lĩnh ngòi bút Nguyễn
Huy Thiệp, rằng Nguyễn Huy Thiệp là người lạc quan và Tướng về hưu là một xu
53
hướng lạc quan. Tiếp đó ông chỉ ra sự độc đáo của truyện ngắn này còn ở sự cô đọng
tối đa của ngôn ngữ. Ông tâm sự: đã lâu rồi đến Tướng về hưu ông mới “tìm thấy thấy
lại cái ma lực của chữ, của tiếng nói” [41]. Có thể thấy rằng, dư luận sôi nổi xung
quanh Tướng về hưu là do sức hấp dẫn, sức mới lạ độc đáo, có khả năng vang rất xa
của truyện ngắn này. Ý kiến khen chê có chỗ khác nhau nhưng khen vẫn là chính.
Nhận xét về truyện ngắn Tướng về hưu, bà Nguyễn Hải Hà và Nguyễn Thị Bình trong bài
viết "Xung quanh truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp" [41, tr.519] nhấn mạnh: “Các bài viết
có nhiều điểm gặp gỡ giúp cho sự định giá tác phẩm thuận lợi hơn, đó là:
- Tướng về hưu có lối viết khác lạ so với văn học ta mấy chục năm lại đây. Văn
Nguyễn Huy Thiệp đầy ma lực, chỉ riêng mạch văn, lời văn, nhịp điệu cũng đủ khả
năng gợi được không khí của một tâm lý xã hội khủng hoảng.
- Truyện cô đúc tới mức có dung lượng một tiểu thuyết mà vẫn không phải là
một “tiểu thuyết rút gọn”.
- Thực trạng xã hội thể hiện qua thái độ lạnh lùng, nghiệt ngã như một liều
thuốc đắng thức tỉnh con người.
- Tính dân chủ cao, khác lối viết đơn nghĩa truyền thống. Chiều sâu tư tưởng “ở
đằng sau, ở bên trên nhân vật của anh” [41, tr.523-524]. Quả thực Tướng về hưu đã
làm xôn xao dư luận nhưng lại chưa gây tranh luận mạnh như các tác phẩm sau này.
Với bộ ba truyện ngắn “lịch sử giả” ra đời năm 1988, Huy Thiệp đã thực sự gây sóng
gió trong đời sống văn học. Trong bài "Nguyễn Huy Thiệp - thời điểm của câu hỏi,
thời điểm của con người" có nhà nghiên cứu đã tâm sự sau khi đọc Tướng về hưu lại
được đọc Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết..., bản thân ông đã đọc đi đọc lại và băn
khoăn khó chịu? Tác giả muốn nói gì ?. Nhà nghiên cứu băn khoăn trước những
luồng dư luận? tại sao có người cho văn Nguyễn Huy Thiệp không tục tĩu nhưng tàn
nhẫn chăng? Tại sao có người cho văn Nguyễn Huy Thiệp bôi nhọ vĩ nhân của dân
tộc chăng?. Nhà nghiên cứu đã phân tích lí giải về văn Nguyễn Huy Thiệp. Ông hiểu
được cái Tài và cái Tâm của người cầm bút Nguyễn Huy Thiệp và đã bày tỏ cảm xúc
"Tôi yêu văn Nguyễn Huy Thiệp. Tôn trọng tự do của người đọc, tin tưởng ở nhân
cách người đọc - và trên cơ sở đó đòi hỏi người đọc lấy trách nhiệm với đời tự mình
đánh giá quá khứ và hiện tại, gánh lên vai cả lịch sử..." Và ông đi tới kết luận văn
Nguyễn Huy Thiệp '' Văn như thế là nhân văn, ngòi bút như thế gọi là nhân đạo".
Còn theo GS.Đặng Anh Đào thi bộ ba truyện Vàng lửa, Kiếm sắc và Phẩm tiết được
gọi là “lịch sử giả”, theo đánh giá của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nguyễn
54
Đăng Điệp là bởi hai lẽ:
a-Nguyễn Huy Thiệp đang sáng tác chứ không định viết lịch sử, không thuyết
giáo những bài học luân lý; các yếu tố lịch sử xuất hiện trong tác phẩm chỉ là một
phần của một cấu trúc hoàn chỉnh;
b- Dựng lên một lịch sử giả cũng có nghĩa là đi theo tiếng gọi của trò chơi.
Đây là một hình thức lạ hoá nhằm tổ chức một thế giới nghệ thuật in đậm dấu ấn chủ
thể sáng tạo mà những cây bút non tay không bao giờ vươn tới được. Thế nhưng,
nhiều người vẫn không hiểu điều đó, nên có phản ứng rất mãnh liệt. Sau bài viết “Về
truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp”[41, tr.169], của nhà sử học Tạ Ngọc
Liễn, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân đã đối thoại lại bằng bài “Đọc văn phải
khác đọc sử” [41, tr.179], như một sự nhắc nhở Tạ Ngọc Liễn về một cách đọc tác
phẩm văn chương. Ông khẳng định tác phẩm chỉ là sự hư cấu, nhà văn chỉ mượn lịch
sử để chuyển tải tư tưởng của mình. “Và bạn đọc trưởng thành sẽ không lầm lẫn tác
phẩm văn học viết về lịch sử với các công trình sử học đích thực” [41, tr.186]. Ông đã
dẫn ra tính hư cấu của Vàng lửa ở chỗ, nhân vật kể chuyện trong tác phẩm đều là loại
“người kể chuyện không đáng tin cậy” và thiên truyện sẽ nảy sinh một thứ “lực thẩm
mỹ” đặc biệt: “đó là sự xác tín hoàn toàn có ý thức của người đọc”[41, tr.184]. Nhờ
đó người đọc có thể tham gia đối thoại với nhân vật và nhà văn, chứ không hề tin
ngay vào những gì mà người kể chuyện nêu ra.Trương Hồng Quang và Nguyễn Xuân
Mai trong bài viết “Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp “triết học lịch sử” hay là “văn
xuôi nghệ thuật”?” đã tìm về bản chất cội nguồn của thứ “triết học lịch sử” để phân
biệt giữa văn và sử cho thật chính xác. Cả hai cùng khẳng định các sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp là “văn xuôi nghệ thuật”. Đánh giá về Vàng lửa nhà nghiên cứu
xã hội học Thuỳ Sương có bài “Về một cách hiểu truyện ngắn Vàng lửa” [41, tr.195]
Bà nêu ra “cách đọc, hiểu Vàng lửa” [41, tr.195] và khẳng định tác phẩm không phải
“một truyện kí danh nhân lịch sử” như Tạ Ngọc Liễn xác định, vì đã là lịch sử thì
không thể lập lờ với ba đoạn kết như vậy. Thuỳ Sương còn cho rằng, “Vàng lửa là
một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp, trong đó tác giả mượn lịch sử, nhân đó đặt
ra những vấn đề có tầm khái quát lớn lao, mang tính “triết lý lịch sử” [41, tr.195]. Việc
quy kết nhân vật Phăng là nhân vật nói hộ tư tưởng Nguyễn Huy Thiệp của Tạ Ngọc
Liễn, theo bà là do “Tạ Ngọc Liễn không biết cách đọc một truyện ngắn với lối viết
độc đáo, mới mẻ như Vàng Lửa nên đã hiểu sai ý nghĩa của nó”[41, tr.199]. Cuộc
tranh luận về Vàng lửa vẫn tiếp tục với bài “Bàn thêm về truyện ngắn Vàng lửa của
55
Nguyễn Huy Thiệp” [41, tr.205] của Văn Giá. Ông cho rằng, Vàng lửa là loại truyện
“lịch sử - thế sự [41, tr.205] chứ không phải truyện “kí danh nhân lịch sử”. Văn Giá
thấy cái kết thúc mở của tác phẩm đã “hối thúc người đọc suy nghĩ, tự tìm ra lối kết
thúc theo cách riêng của mình, không cho phép họ biếng lười ăn sẵn” [41, tr.206]. Từ
đó anh khái quát “truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tầng ý nghĩa được nén lại
trong sự trình bày kiệm lời” [41, tr.206]. Theo anh đó là “mạch ngầm của những ý
tưởng”[41, tr.206], đó là “những giả định - biểu hiện của những sự nghiền ngẫm
chưa xong - mà tác giả có ý đồ tung ra trước bạn đọc” [41, tr.206]. Phát hiện của
anh về tác phẩm thật có giá trị. Diệp Minh Tuyền trong bài “Nguyễn Huy Thiệp,
một tài năng mới” đã khẳng định Nguyễn Huy Thiệp “dù mô tả ai, ở thời đại nào
cũng chỉ quan tâm đến chính số phận của họ” [41, tr.398]. Ông xem yếu tố lịch
sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chỉ là cái cớ. Ông khen Vàng lửa: “Bất
ngờ hoàn toàn trước lối vào truyện, dẫn truyện thiên biến vạn hoá, bịa như thật,
thật như bịa và lối kết cục “lật ngửa ván bài” với ba đoạn kết khác nhau mà
cách nào cũng có lý” [41, tr.400].
Cùng với truyện ngắn Vàng lửa, truyện ngắn Phẩm tiết cũng gây nhiều tranh
cãi mà xem ra còn gay gắt hơn. Lúc đầu đa số là các ý kiến phê phán Phẩm tiết vì họ
có cùng một cách đọc, một lối tiếp nhận cũ. Về sau số người có ý kiến tranh luận lại
và ủng hộ tác giả Phẩm tiết đông dần. Các ý kiến khen cũng muôn hình muôn vẻ.
Người khen ở chi tiết này, người khen ở chi tiết khác mà chi tiết nào cũng đáng ngợi
ca thật. Nhà văn Nguyễn Diệp (Nha Trang) viết bài “Đọc Phẩm tiết của Nguyễn Huy
Thiệp” như một sự đối thoại với những người nhân danh sử học phê phán tác phẩm
ấy. Theo bà, truyện ngắn Phẩm tiết gây ồn ào như vậy, khách quan mà xét là một điều
vui, sau khi phân tích, nhà văn chốt lại" Phẩm tiết báo hiệu một sự tìm tòi sáng tác
trong giai đoạn đổi mới văn nghệ hiện nay" [41] qua toàn truyện Phẩm tiết, Nguyễn
Huy Thiệp đã tỏ ra có bản lĩnh đi theo một con đường sáng tác của mình. Và càng
đọc kỹ Phẩm tiết chúng ta càng yêu mến, kính trọng Quang Trung, một sự yêu mến,
kính trọng thành thật giữa người và người anh hùng dân tộc" [41] Nhà phê bình văn
học Đặng Anh Đào trong bài viết đậm chất lí luận và một lối thẩm văn sắc sảo "Thị
hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận” [44, tr.202] đã thực sự
thuyết phục bạn đọc tin, hiểu và yêu những truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Huy
Thiệp. Về bộ ba truyện "lịch sử" này, bà phát biểu: “tôi không hề có ấn tượng gì về
việc “xúc phạm” Quang Trung, có lẽ một phần vì quan niệm người anh hùng cũng có
56
thể mê gái và biết trả thù, trông thấy lễ vật cũng “trầm trồ thán phục” (vua mà lại!),
nhưng điều chủ yếu là vì ấn tượng mạnh nhất đối với tôi không phải là Quang Trung,
Gia Long hay Nguyễn Ánh mà là những vấn đề hiện tại, cái mà Vương Trí Nhàn gọi
là “sự định hướng”, Văn Tâm gọi là “hằng số lịch sử” [44, tr.203]. Vẫn trong bài viết
này, bà có cái nhìn khái quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là “Một lối viết
bề ngoài giản dị trong sáng, có thể nói là trong suốt, nhưng bên trong lại phức tạp,
nhiều tầng lớp, nó giữ được độ căng giữa truyện và người đọc” [44, tr.205]. Quả
thực ý kiến của Đặng Anh Đào bao giờ cũng đầy sự khám phá thú vị và sắc sảo. Bên
cạnh các bài viết ca ngợi về từng truyện ngắn, chúng ta cũng bắt gặp nhiều bài viết có
đánh giá chung về bộ ba truyện giả lịch sử của Huy Thiệp. Cụ thể là nhà nghiên cứu,
phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp khẳng định, Nguyễn Huy Thiệp là kẻ dám tạo
nên một sân chơi mới và dẫn người đọc bước vào một thế giới quen ít lạ nhiều. Thế
giới ấy được xây dựng bởi tiếng gọi của trò chơi. Nghĩa là “ông hình dung lịch sử
theo cách của riêng mình chứ không nhìn lịch sử theo kiểu biên niên, ông cũng không
đi theo lối mòn tô hồng khi nói về vĩ nhân và bôi đen khi nói về những nhân vật “có
vấn đề”[8]. Nghĩa là “Nguyễn Huy Thiệp không thật sự "tâm phục khẩu phục" trước
những giá trị mà cộng đồng vẫn thường thừa nhận như một lẽ tất nhiên” [8]. Ngay cả
những vĩ nhân cũng được hình dung qua khoảng cách thẩm mỹ mà tiểu thuyết hiện
đại vẫn quen dùng: quan hệ suồng sã phi sử thi. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp còn
lí giải thêm “những cuộc tranh cãi quyết liệt xung quanh các tác phẩm Nguyễn Huy
Thiệp, nếu có cũng là truyện thường tình. Đơn giản mô hình nghệ thuật do Nguyễn
Huy Thiệp xác lập khác xa với những mô hình quen thuộc đã từng có trước đây” [8].
Ý kiến của nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp thật sắc sảo và tinh tế, nó giúp người đọc
hiểu hơn về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng và những tác phẩm viết trong
thời kỳ đổi mới nói chung. Còn nhà nghiên cứu văn học Trần Thị Mai Nhị đánh giá
truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp rất khách quan và xác đáng. Bà khẳng định “sự
bôi xấu” những vĩ nhân đó không phải để phạm thượng lếu láo, mà chỉ muốn “bình
dân hoá” vĩ nhân để họ trở thành người bình thường trong đại chúng. Gỡ bỏ vòng hào
quang của những thánh thần để giải bỏ huyền thoại về họ. Thế tục hoá họ để họ cùng
ăn ở vui vầy với đại chúng”[41, tr.513]. Đó cũng chính là dụng ý sáng tác của nhà
văn. Nhà nghiên cứu Văn Tâm cũng viết bài “Đọc Nguyễn Huy Thiệp” như một sự
đồng tình với ý kiến của Lại Nguyên Ân, ông nói về truyện ngắn “lịch sử giả” của
Nguyễn Huy Thiệp và chứng minh đầy tính uyên bác rằng Nguyễn Huy Thiệp không
57
mắc tội danh “bôi nhọ lịch sử” vì anh không có ý viết về lịch sử, ông không “xuyên
tạc lịch sử” (như Tạ Ngọc Liễn lầm tưởng). Để bạn đọc có thể hiểu đúng Nguyễn
Huy Thiệp cùng những sáng tác về lịch sử của ông, nhà Nghiên cứu văn học Vương
Anh Tuấn (Viện Văn học) đã viết bài “Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy
Thiệp”[41, tr.327]. Ông khẳng định, người ta vẫn gọi Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết
là bộ ba truyện lịch sử vì trong truyện đều có những chi tiết liên quan đến lịch sử.
Nhưng nhà nghiên cứu này nhấn mạnh rằng, Nguyễn Huy Thiệp chỉ mượn lịch
sử để hư cấu vì “hư cấu là sản phẩm trí tưởng tượng sáng tạo của riêng tác giả”
[41, tr.331] và đặc biệt là lối “hư cấu cường điệu, anh cho người đọc thấy một quan
niệm thế giới có tính chất triết lý lịch sử” [41, tr.329]. Mặt khác, những chi tiết viết
về lịch sử ấy chỉ là “kiểu nói bổ sung, đào sâu thêm vào mặt sau của quá khứ, mong
muốn nó trở thành bài học lịch sử bổ ích cho đời sống hôm nay”[41, tr.330]. Và "Để
đánh giá đầy đủ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp "xin được mượn lời của Ngọc Oanh
trong bài " Khởi sắc hay là sự chuyển mình của văn học" (Văn nghệ, số 3/12/1988) đã
có ý kiến rằng Nguyễn Huy Thiệp" quả là mới mẻ, lạ lẫm, thật lạnh lùng những khi
anh phơi bày, lột tả sự sa đọa của nhân cách, hành vi ngôn ngữ của nhân vật. Song
càng đọc kĩ, càng thấy nỗi đau niềm thương cảm của anh về thân phận những con
người bị ruồng bỏ, xô đẩy đến tận đáy xã hội ". Ngọc Oanh phát hiện ra văn chương
của Nguyễn Huy Thiệp đã "ngập trong bùn, rồi sục tung nó lên" để ''thoát thành
bướm và hoa", làm được điều đó là quả rất khó vậy mà nhà văn đã dũng cảm làm
được. Cho nên "để đánh giá đầy đủ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp phải hiểu anh
hơn, và không nên tiếp cận anh từ lối tư duy sáo mòn, cứng nhắc"[41, tr.430].
2.2.2. Xu hướng lên án chê bai
Có thể thấy, Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện như một tài năng ngày càng có
nhiều sự bàn cãi. Phần trên chúng tôi đã điểm qua về những lời khen ngợi đánh giá
cao về truyện ngắn Huy Thiệp. Song cũng phải nhận thấy bên cạnh lời khen là các ý
kiến phản đối truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải ít, và chủ yếu tập trung vào
truyện Tướng về hưu và bộ ba truyện ngắn “lịch sử giả” (Đặng Anh Đào): Vàng lửa,
Kiếm sắc, Phẩm tiết. Ngoài ra còn một số truyện khác của Nguyễn Huy Thiệp cũng bị
lên án do phản ánh hiện thực quá “tàn nhẫn” [41, tr.410]. Từ đó, họ cho rằng nhà văn
thiếu một cái Tâm khi sáng tác. Đó là các ý kiến của những nhà phê bình như Chu
Huy, Lê Hà, Tạ Ngọc Liễn, Đỗ Văn Khang, Nguyễn Thúy Ái, Vũ Phan Nguyên,
58
Nguyễn Thanh, Bùi Hiển, Trung Phương, Hồng Diệu, Mai Ngữ, … Tuy nhiên, trong
luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung đưa ra những ý kiến tiêu biểu lên án chê bai các
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Truyện ngắn Tướng về hưu ngay sau khi xuất hiện (1987) đã gây xôn xao dư
luận, các ý kiến phản đối cho rằng chủ đề tư tưởng và giá trị nhân văn hạn chế, thậm
chí là có hại, là bôi nhọ quá khứ v.v… Ý kiến đầu tiên chê truyện ngắn Tướng về hưu
là của Chu Huy in trên báo Văn nghệ (5/9/1987). Tuy nhiên, Chu Huy cũng không
phản đối một cách hoàn toàn. Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có cả ý kiến phê phán cho
rằng văn Nguyễn Huy Thiệp “bạo ngược”, rằng truyện Tướng về hưu, có sự phủ nhận
cuộc kháng chiến chống Mỹ, rằng “không có viên tướng sống vô ích đến thế, bi kịch
gia đình đâu đến nỗi ấy” [48]). Tất cả mới chỉ là sự đánh giá bề ngoài, hoặc có thể họ
mới chỉ đọc một lần đã thấy khó chịu không muốn đọc lại nên chưa thấy hết được giá
trị tư tưởng của tác phẩm xuyên. Truyện Tướng về hưu sau đó đã được dựng thành
phim, công chúng có phần đông hơn và phản ứng cũng mãnh liệt hơn. Nhân dịp phim
được chiếu, nhà báo Lê Hà (Báo Quân Đội Nhân Dân) đã lấy phiếu thăm dò ý kiến
đánh giá của các vị tướng sau khi xem phim Tướng về hưu. Đa phần các ý kiến đều
chê, thậm chí có những ý kiến phản ứng khá mạnh, khá quyết liệt, như: “thật là thảm
hại, thật là xấu hổ, thật là đau lòng”, “không nên cho chiếu, có hại”, “đây là một bi
kịch, sử dụng quá nhiều nghịch cảnh và kết cục là bế tắc” [41, tr.37], v.v… Rồi có
những người phản ứng bằng những bài viết dài đến vài ba trang. Nhà báo Lê Hà đã
trích ra một số ý kiến của các vị tướng nói về tác phẩm và phim "...Ông tướng quá xa
thực tế, quá xa cuộc sống và cứng nhắc trong cuộc đời. Để làm gì? Nếu không phải
để xuyên tạc, nói xấu quân đội thì cũng là bức tranh sai lệch về quân đội. Chẳng lẽ
quân đội không có gì hay ho hơn để nói "và cho rằng " Tác giả đã bôi nhọ cuộc đời
chiến đấu của một cán bộ quân đội, lý ra rất đáng ca ngợi. Vậy ai có thể tuyên truyền
cho nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc ngày nay. Ai dám chắc rằng trong tương lai gần dân tộc
ta không bị chiến tranh đe dọa?" [41, tr38]. Như vậy các ý kiến từ các vị tướng đánh
giá về bộ phim đều không đồng tình, họ cho rằng tác giả đã hư cấu đến mức để người
trong cuộc không thể chấp nhận được thì có ích gì?... Chức năng giáo dục thật là thấp
nếu không nói là phản tác dụng giáo dục…
Khi phản đối truyện và phim Tướng về hưu, hầu hết các ý kiến có cách làm
khá giống nhau: đối chiếu các hình tượng trong tác phẩm của nhà văn với sự thực
cuộc sống rút ra kết luận những hình tượng của Nguyễn Huy Thiệp là một sự xuyên
59
tạc, làm méo mó những hình ảnh có thực. Từ đó họ suy ra tác giả thiếu một cái tâm
trong sáng của người cầm bút. Có người, do quen một cách hiểu cũ về lý luận "điển
hình", nên thấy nhân vật nào đó không giống với "cái phổ biến của một tầng lớp, một
giai cấp, một thời đại, một xứ sở" [41, tr.25] bèn lên án nhà văn xuyên tạc sự thật. Dù
sự phản đối nhẹ nhàng hay gay gắt với Nguyễn Huy Thiệp thì cách sáng tạo của nhà
văn ở truyện Tướng về hưu cũng đã trở thành thời sự văn học nóng bỏng những năm
80. Việc nhà báo Lê Hà tập hợp các ý kiến của các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp nói
về Tướng về hưu, Vô hình chung, mối quan hệ giữa văn và sử trở thành “tiêu chí” để
đánh giá ngòi bút, lập trường tư tưởng, cái tài và cái tâm của nhà văn. Có thể thấy, dư
luận phản đối xung quanh Tướng về hưu cũng một phần do sức hấp dẫn, sự mới lạ
độc đáo của truyện ngắn này. Bởi vì, viết được một truyện ngắn để người ta đọc
xong, gấp sách lại vẫn trăn trở, bất an, phải ngồi dậy cầm bút đối thoại với tác giả là
một thành công của nhà văn rồi, dù đó là ý kiến chê chăng nữa. Điều đó cho thấy nhà
văn có lối viết rất dân chủ, đối thoại với người đọc và buộc người đọc phải lên tiếng.
Nguyễn Huy Thiệp đã đánh mạnh vào thói quen tiếp nhận thụ động của bạn đọc, nhà
văn “khiêu khích bạn đọc và ông cũng mong người đọc “gây sự” lại với mình.
Trong khi độc giả còn đang tranh luận về Tướng về hưu thì nhà văn lại tiếp tục
cho ra đời ba truyện ngắn “lịch sử giả”. Và Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết (1988)
thực sự đã gây sóng gió trong đời sống văn học dân tộc. Nếu với Tướng về hưu các ý
kiến xung quanh cũng chỉ là những lời khen, chê của nhà phê bình khi tiếp nhận tác
phẩm văn chương thì đến với bộ ba truyện “lịch sử giả”, các ý kiến không còn là
tranh luận nữa mà chuyển sang tranh cãi đầy gay gắt.. Cả ba truyện Kiếm sắc, Vàng
lửa, Phẩm tiết đều mượn lịch sử ở thời kỳ Gia Long với các nhân vật lịch sử (Nguyễn
Ánh, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm…), cũng như các nhân vật hư cấu
“được khoác cho cái áo lịch sử” [41, tr.524] (Phăng, cố đạo Tây, Đặng Phú Lân, Vinh
Hoa, Ngô Khải…). Nguyên nhân gây tranh cãi lúc đầu chỉ là mối quan hệ giữa “văn”
và “sử”, lẽ ra chỉ cần xác định xem nhà văn “sáng tác văn chương” hay “viết lại lịch
sử” rồi từ đó bàn đến chất lượng của ngòi bút này, nhưng do vấn đề “thị hiếu và cách
đọc”, do sự đồng nhất sử với văn, văn với sử, tranh luận đã bùng lên thành hai phe:
người đồng tình, kẻ phản đối. Từ chỗ tranh luận về tác phẩm họ đưa nhau tới chỗ đối
chọi quan điểm, chỉ chích, chế giễu nhau. Tạ Ngọc Liễn, nhà sử học đã mở màn
cho cuộc tranh luận này bằng bài viết “Về truyện ngắn Vàng lửa” [41, tr.169].
Theo Tạ Ngọc Liễn ở góc độ nội dung tư tưởng, quan điểm xã hội và cách nhìn nhận
60
các giá trị lịch sử mà Nguyễn Huy Thiệp muốn phát biểu qua tác phẩm của mình thì
Vàng lửa "là một truyện chứa đựng không ít sai lầm, lệch lạc,buộc chúng ta phải
nhắc nhở anh cần định hướng lại một cách chín chắn hơn khi ngồi trước trang giấy,
đặc biệt cần kiểm tra lại vốn tri thức văn hóa, vốn hiểu biết lịch sử trong hành trang
anh đang có nếu như anh vẫn tiếp tục đi vào các đề tài lịch sử'' [41, tr170]. Vì sao Tạ
Ngọc Liễn lại phản đối Vàng lửa như vậy? Nguyên nhân do không nhận thấy Vàng
lửa là một “sáng tác văn chương” nên ông coi nó là “một truyện kí danh nhân, lịch
sử”[41, tr.170], Tạ Ngọc Liễn cho rằng Nguyễn Huy Thiệp muốn đánh giá lại lịch sử
nhưng lại “có một trình độ học vấn chưa đầy đủ” [41, tr.172], cần phải “định hướng
lại một cách chín chắn hơn khi ngồi trước trang giấy, đặc biệt cần kiểm tra lại vốn tri
thức văn hoá, vốn hiểu biết lịch sử" [41, tr.170]. Ông cứ khăng khăng rằng, nhân vật
Phăng chính là người phát ngôn cho tư tưởng tác giả mà quên mất điều hệ trọng là “tư
tưởng tác giả phải toát lên từ toàn bộ thế giới nghệ thuật của anh ta” [41, tr.525],
thành ra ông hoài công đi tìm những chứng cớ lịch sử để phản bác lại Phăng và rốt
cuộc rơi vào thói quy chụp về chính trị rất tai hại: “Tôi sẽ không nói tới cái mà người
đọc sẽ hiều lầm là, ở đây Vàng lửa muốn ca ngợi Pháp có công khai hoá văn minh
cho đất nước Việt Nam” [41, tr.176]. Cũng trong bài viết này, Tạ Ngọc Liễn đã căn
cứ vào hình tượng nhân vật Gia Long có thật trong lịch sử là nhân vật phản diện, vì
ông ta dựa vào Pháp đánh đổ triều Tây Sơn, là người “cõng rắn cắn gà nhà” thì không
thể là một “khối nguyên liệu vô giá”, là “quốc bảo” [40, tr.151] như Nguyễn Huy
Thiệp phản ánh. Tạ Ngọc Liễn còn cho rằng, dân tộc Việt nam không thể là “cộng
đồng mặc cảm” [40, tr.152], văn hoá Việt Nam càng không thể là đứa con do nền văn
minh Trung Hoa “cưỡng hiếp” [40, tr.151] đẻ ra như Nguyễn Huy Thiệp viết. Ông
“không nghĩ tác giả luận điểm này là người mắc bệnh tâm thần nhưng đó không
phải là sự suy tưởng của một đầu óc lành mạnh, khoẻ khoắn”[41, tr.173]. Chê
bai, mạt sát, đồng nghiệp như thế phải chăng Tạ Ngọc Liễn quên mất rằng Nguyễn
Huy Thiệp từng là thầy giáo dạy sử ? Sau khi có những bài phản bác của Thuỳ
Sương, Văn Giá, Lại Nguyên Ân, Tạ Ngọc Liễn viết tiếp bài “Về mối quan hệ giữa sử
và văn” [41, tr.465] tỏ ra dè dặt hơn lần trước. Từ góc độ sử học ông nêu ra 3 ý kiến "
Sử khác văn như thế nào ?" "Quyền hư cấu của nhà văn tới đâu khi viết về lịch sử ?" "Như
thế nào là nhận thức lại lịch sử và đổi mới lĩnh vực sử học ?" Ông đưa ra cái đích của
nhà sử học là bảo vệ "hình ảnh lịch sử chân thực"...Có cảm giác Tạ Ngọc Liễn "vẫn
không nhận ra đúng được bản chất đích thực của văn học như một thứ nghệ thuật
61
của ngôn từ, mang hình thức ngôn ngữ đặc trưng, ông vẫn bị “bịt mắt” bởi sự “cao
tay” của nhà văn” [41, tr.526]. Thế là, hàng loạt các bài viết xuất hiện với tinh thần
đối thoại cùng nhà sử học này, phản đối cũng có, ủng hộ cũng có. Nhưng ý kiến phản
đối vẫn nhiều hơn. Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân trong bài viết " Đọc văn
phải khác với đọc sử" đã nhắc Tạ Ngọc Liễn về cách đọc tác phẩm văn chương “bạn
Liễn đã nêu ra một cách đọc không phù hợp với tác phẩm văn xuôi nghệ thuật”
[41, tr.180]. Nhà báo Đỗ Trung Lai hoàn toàn đồng ý với tác giả Lại Nguyên Ân
trong bài viết " Sử văn, văn - sử và thái độ người phê bình". Còn Thuỳ Sương cho
rằng Tạ Ngọc Liễn hoàn toàn sai khi cho rằng Vàng lửa là loại “truyện kí danh nhân
lịch sử” nên không hiểu Nguyễn Huy Thiệp chỉ “mượn lịch sử nhân đó đặt ra vấn đề
có tầm khái quát lớn lao mang tính “triết lý lịch sử” không dễ gì nắm bắt, chứ không
phải đánh giá lại Gia Long, Nguyễn Du và đặc điểm dân tộc” [41, tr.95]. Và theo bà
“Phăng là sự cảnh tỉnh cho một cách nhìn về lịch sử” [41, tr.198-199], từ đó bà chỉ ra
những hạn chế trong lối tư duy của Tạ Ngọc Liễn, rằng “Tạ Ngọc Liễn không biết
cách đọc một truyện ngắn với lối viết độc đáo, mới mẻ như Vàng lửa nên đã hiểu sai
ý nghĩa của nó”[41, tr.199].Cách cảm nhận của Tạ Ngọc Liễn được Trần Duy Thanh
nhận xét rằng: “Không phải không có người đã quen tự bắt vít mình trong một lối
cảm thụ quen thuộc, ngỡ ngàng trước lối chơi bài ngửa về ba đoạn kết của Vàng lửa”
[41, tr.90]. Thậm chí lối cảm thụ của nhà sử học này còn khiến một tiến sĩ mỹ học
người Australia phải lên tiếng, rằng Tạ Ngọc Liễn còn có “tính chất cảm tính của nhà
phê bình quen những mô típ cũ” [41, tr.110]. Văn Tâm cũng có ý đồng tình với Lại
Nguyên Ân: “Không thể đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (những sáng tạo thẩm
mỹ) bằng đôi mắt sử ký giáo khoa thư như nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã làm”
[41, tr.287]. Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn và Trịnh Bá Đĩnh có ý kiến gần
giống với Thuỳ Sương. Họ phê phán Tạ Ngọc Liễn đã không nhận thức được rằng,
với Gia Long hay Nguyễn Du, Nguyễn Huy Thiệp không đề cao hay hạ thấp mà chỉ
là đánh giá lại cho đúng cả hai mặt tiến bộ và phản động, rằng Nguyễn Huy Thiệp đã
“phản tỉnh, đã châm chích, đã gián tiếp thúc giục bạn đọc phải có thái độ qua lời
Phăng về đời sống nghèo khó và nhưng trì trệ của dân tộc. Đó cũng là ý nghĩa thời
sự của đề tài quá khứ” [41, tr.326].
Tuy không cùng xuất phát điểm nhưng tiến sĩ mỹ học Đỗ Văn Khang cũng ủng
hộ cho rằng Tạ Ngọc Liễn là ''bạn đọc chân thành'' thẳng thắn và phủ nhận Vàng lửa
rất kiên quyết. Thoạt đầu nghe nhan đề bài phê bình của Đỗ Văn Khang “Có một
62
cách đọc Vàng lửa” [41, tr.188], chúng tôi ngỡ tưởng, ông đã tìm ra được cách đọc
tốt nhất để có thể hiểu đúng Vàng lửa với tư cách là tác phẩm văn chương. Nhưng
đọc xong, chúng tôi thấy, không phải như vậy. Ông đưa ra một cách đọc Vàng lửa rất
nhiều tính sách vở. Từ “nguyên lý hệ thống” với bốn lớp thành tố cơ bản đọc để hiểu
tác phẩm và ông chê Vàng lửa "Nguyễn Huy Thiệp chưa đạt đến một chủ đích văn
chương qua hàng loạt vấn đề anh tung ra là ở chỗ các triết lý của anh chỉ là dựa trên
một phép duy nhất: phép nói ngược”[41, tr.192]. Đỗ Văn Khang còn khen Tạ Ngọc
Liễn quả là sắc sảo khi cho rằng nhân vật Phăng là nhân vật do Nguyễn Huy Thiệp
dựng ra “để nói hộ mình về mọi chuyện”. Nhưng đi xa hơn Đỗ Văn Khang có những
quy kết vượt ra ngoài văn bản. Ông cho rằng phát ngôn nào của Phăng cũng thuộc về
Nguyễn Huy Thiệp. Đỗ Văn Khang “mạnh tay” quy kết: “Với phép nói ngược kiểu
trên, liệu chúng tôi có dám bảo nhân vật Phăng là sự cảnh tỉnh cho cách nhìn một
chiều về lịch sử không?...Có lẽ giản đơn ở đây là: một kẻ vô đạo đức thì không bao
giờ có thể rao giảng đạo lý cho người khác được ” [41, tr.194]. Đỗ Văn Khang đang
khoe bạn đọc mình “có một cách đọc Vàng lửa” mà hoá ra vẫn chẳng có cách đọc nào
mới so với Tạ Ngọc Liễn. Điều đó cho thấy tư duy đọc truyền thống của người đọc
thật khó để thay đổi. .
Cuộc tranh luận về Vàng lửa bùng lên được chừng hai tháng và còn đang sôi
nổi, lại nổ ra những ý kiến xung quanh truyện ngắn Phẩm tiết mà mức độ trái ngược
nhau giữa các ý kiến xem ra còn gay gắt hơn. Mở màn cho cuộc tranh luận về Phẩm
tiết là Nguyễn Thuý Ái với bài “Viết như thế, cũng là một cách bắn súng lục vào quá
khứ” [41, tr.203]. Nguyễn Huy Thiệp khi viết Phẩm tiết có ý trình bày hai vị hoàng
đế Quang Trung và Gia Long ở khía cạnh đời thường và sử dụng cô gái đẹp Vinh
Hoa như một liều thuốc thử. Nhưng Nguyễn Thuý Ái không hiểu điều đó, cho rằng có
điều gì đó không lành mạnh. Nguyễn Thúy Ái đã có một lối cảm nhận và hiểu từ
những chi tiết ngôn ngữ miêu tả trong truyện chiếu ứng chuyện thực ở đời sống bên
ngoài. Cụ thể ông căn cứ vào một số chi tiết theo ông là kinh sợ thô tục như “việc làm
của Quang Trung, ngôn ngữ của Gia Long, mùi vị của Vinh Hoa” [41, tr.203] đã kết
án Nguyễn Huy Thiệp: “Không được soi lại lịch sử bằng tấm gương dị dạng như
vậy", và "tha thiết mong mỏi nhà văn đừng làm hại thẩm mỹ lành mạnh của người
đọc - nhất là sự tôn kính đối với quá khứ của dân tộc, bằng một truyện như vậy" [41,
tr.203]. Phải chăng Nguyễn Thuý Ái là “người đọc truyền thống” nên không thể cảm
nhận hết bề sâu đa nghĩa của những tín hiệu nghệ thuật trong Phẩm tiết ? Cũng một
63
điểm xuất phát rằng Nguyễn Huy Thiệp “hạ bệ thần tượng”, “bắn súng lục vào quá
khứ”, Đỗ Đức Dục khẳng định: nếu Nguyễn Huy Thiệp định qua tác phẩm để
“thách thức niềm tự hào dân tộc thì đó là điều không tốt, thậm chí là dại dột”
[41, tr.457]. Gay gắt hơn, nhà nghiên cứu Bùi Bình Thi nói Phẩm tiết “là thứ văn bôi
nhọ lịch sử”[41, tr.454] là “có khuynh hướng phủ định và nhiều khi muốn lật ngược
vấn đề một cách vô lối với nhân vật lịch sử” [41, tr.450]. Với giọng chì chiết, Nguyễn
Thanh đã lên án truyện ngắn Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp:“Tôi rùng mình không
ngờ phẩm giá nhân cách của vua Quang Trung bị người trong đám con cháu đời sau
dìm xuống tận đáy của sự tồi tàn” [47]. Ông cũng cho thế là “bạc ác” là “tuỳ tiện”.
Nhà văn quân đội Mai Ngữ lại đặt ra cho cuộc tranh luận một điểm xuất phát mới, đó
là vấn đề "Cái tâm và cái tài của người viết" [41]. Mặc dù công nhận cái tài của Huy
Thiệp song ông cho rằng Huy Thiệp ác tâm, ông đã chỉ ra minh chứng là Phẩm tiết
"con đẻ" của tâm lý chán chường, muốn phá bỏ của con người hiện nay và xu hướng
văn học gần đây muốn đi thẳng vào những gì chủ yếu của đời sống. Ông còn khẳng
định như đinh đóng cột rằng, truyện của Nguyễn Huy Thiệp có tính chất "thô lỗ", có
tác hại như "chén thuốc độc". Hình như nhận xét của Mai Ngữ có phần cảm tính và
thiếu chính xác.
Với bài viết “Ba lần đọc truyện ngắn Phẩm tiết” [41,tr250], Vũ Phan Nguyên
có vẻ là người thận trọng khiến người đọc nghĩ rằng tác giả đã có thời gian nghiền
ngẫm kĩ về tác phẩm của Huy Thiệp. Bằng chứng là sau mỗi lần đọc ông lại khoác
cho ý nghĩa của tác phẩm một cái nhìn mới. Ấn tượng sau lần đọc thứ nhất “Văn
chương vụ án, ái tình cao cấp. Phẩm tiết có đủ mọi tình tiết cho loại truyện vụ án"
[41, tr.250]. Nhưng tác giả tự nhủ lẽ nào lại thế? Và lần hai, ông đọc “thật tỉnh táo
chứ không say đắm như lần đầu” [41, tr.252], thì thấy “Phẩm tiết là phát đại bác bắn
vào quá khứ"[41, tr.252], “đã tàn phá ở mức độ ghê gớm hình ảnh oai hùng của vị
anh hùng lịch sử trong tâm trí người đọc” [41, tr.252], bởi theo ông vua Quang
Trung không thể là người thích vật phẩm hối lộ, không thể “trầm trồ thán phục”
[40, tr.160], trước “đủ đồ ngọc ngà châu báu, sơn hào hải vị” [40, tr.160], không thể
háo sắc, không thể có những câu chửi mắng thô tục với kẻ thần dân, không thể mê tín
v.v… nghĩa là không thể cư xử như một kẻ bình thường được. Cảm nhận của Vũ
Phan Nguyên, khiến người đọc phải băn khoăn, trước sự quy chụp của ông đối với
văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng chính bài viết của Lại Nguyên Ân "Đọc văn
phải khác đọc sử" buộc ông phải xem lại cách đọc của mình. Lần đọc thứ ba, những
64
tưởng mọi cảm nhận sẽ khác, nhưng không nó cũng chỉ củng cố thêm cho ông niềm
tin ở lần đọc thứ hai: “Ôi, nếu tôi tin Nguyễn Huy Thiệp với những lời văn của anh thì
hoá ra vua chúa cũng dung tục như mọi người bình thường khác”[41, tr.254]. Vũ
Phan Nguyên vẫn khẳng định chắc nịch: “Nhà văn không có quyền dùng anh hùng
dân tộc cho những thông điệp hiện đại của mình” [41, tr.254] ông ví việc
Nguyễn Huy Thiệp miêu tả Quang Trung ở đây như là việc “phá hoại các di tích
lịch sử”[41, tr.253]. Qua ba lần đọc nhưng Vũ Phan Nguyên vẫn chưa biết “chủ đề
của tác phẩm”[41, tr.255] Phẩm tiết là gì? nên không thể tiếp tục đọc nữa. Có lẽ nào
“tầm đón đợi” của ông thấp hơn so với tác phẩm? Thế mới hay tiếp nhận văn học, rất
cần những “tầm đón đợi” mới từ người đọc, buộc người đọc phải thay đổi chuẩn thẩm
mỹ và thường xuyên nâng cao “tầm đón đợi” của mình.
Hai nữ nghiên cứu Nguyễn Hải Hà và Nguyễn Thị Bình trong một bài viết
khá khách quan và toàn diện về các ý kiến khen chê "Xung quanh hiện tượng
Nguyễn Huy Thiệp"[41, tr.519] dù là nhẹ nhàng, cũng cho rằng Phẩm tiết "còn có
chỗ thô tục và cả cách nhìn lịch sử mà tác giả đưa ra có phần táo tợn quá. Anh đã
công bố một thái độ tự do đối với lịch sử" [41, tr.543 - 544]. Tiến sĩ Đỗ Văn Khang là
người đã từng chê văn Huy Thiệp ngày càng sa sút khi đọc Vàng lửa thì nay lần nữa
đọc Phẩm Tiết cũng tỏ thái độ phê phán kịch liệt. Ông dựa vào một tư tưởng mà
người dẫn chuyện trong Phẩm tiết nêu ra là “phải là người mơ mộng và nghiêm khắc
mới hiểu rằng biết hoặc không biết đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính chất lịch
sử và hạn chế” [40, tr.158], làm đầu nút để bắt đầu việc “tháo dỡ” tác phẩm. Từ đó
ông thấy Nguyễn Huy Thiệp chỉ giành sự “mơ mộng” cho Vinh Hoa, còn cái nhìn
“nghiêm khắc” giành cho Quang Trung. Rồi ông cho rằng nhân cách Quang Trung
trong lịch sử đáng ngợi ca bao nhiêu thì nhân cách Quang Trung trong Phẩm tiết bị
Nguyễn Huy Thiệp hạ thấp bấy nhiêu, và ông quy dần về “tâm thế” của người viết
truyện, “từ một Vinh Hoa để đánh đồng Quang Trung và Nguyễn Ánh” [41, tr.241],
ông còn vạch ra “thâm ý” của Nguyễn Huy Thiệp qua chi tiết “Vinh Hoa lấy ngón tay
út của mình đặt lên mí mắt nhà vua” [40, tr.163], là thái độ “khinh”, “mó vào bẩn
tay” [41, tr.241]. Từ những suy diễn chủ quan về các chi tiết nói về nhân vật Đỗ Văn
Khang đi đến kết luận Nguyễn Huy Thiệp “đã hạ bệ một thần tượng của lịch sử dân
tộc, một lịch sử phải viết bằng máu và mồ hôi” [41, tr.241]. Đó là một cái nhìn phiến
diện, lệch lạc cần phải chấn chỉnh lại. Như để khẳng định những gì mình đã nhận
định về văn chương Nguyễn Huy Thiệp, tiếp sau bài phê bình về truyện ngắn Phẩm
65
tiết, Đỗ Văn Khang viết bài “Vì sao văn của Nguyễn Huy Thiệp ngày càng sa sút”
[41, tr.410], như một cái nhìn tổng thể về sáng tác Nguyễn Huy Thiệp theo quan điểm
của ông. Một mặt đồng tình với những người đã từng góp ý với Nguyễn Huy Thiệp
để nhà văn thay đổi cách viết, mặt khác lên án gay gắt những người đã từng tung hô
Nguyễn Huy Thiệp là “thần tượng” của “văn học đổi mới”. Tìm một số dẫn chứng
trong truyện Những bài học nông thôn, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ của
Nguyễn Huy Thiệp, ông Khang lên án nhà văn với đầu óc “u ám, độc địa” [41, tr.415]
đã biến “con người trở thành méo mó, đáng khinh bỉ” [41, tr414], đã cố tình “xuyên
tạc lịch sử” [41, tr.415] (với nhân vật Quang Trung, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi), đã
dám “thoá mạ dân tộc”[41, tr.415]. Phải chăng ông Khang chưa hiểu hết ý nghĩa hàm
ẩn ở phía sau câu chữ của nhà văn Huy Thiệp ?
Cũng có quan điểm gần giống như trên, Vương Quốc Hoa trong bài "Đọc lại
truyện ngắn Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp" có phê phán Nguyễn Huy Thiệp "khi
đề cập người anh hùng áo vải, vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), Nguyễn Huy Thiệp
đã làm xấu đi hình ảnh của vị anh hùng dân tộc - vua Quang Trung". Ông đồng tình
với Đỗ Văn Khang trong việc đánh giá về cách tả một số chi tiết về Quang Trung của
Nguyễn Huy Thiệp "Nguyễn Huy Thiệp tả được cảnh khá tỉ mỉ. Như vua Quang
Trung chết không nhắm mắt mà cuối cùng phải nhờ “bàn tay thối” của Vinh Hoa
“Vinh Hoa phải lấy ngón tay út của mình đặt lên hai mi mắt nhà vua thì mắt nhà vua
mới nhắm lại được. Sau đó, chỗ ngón tay út của Vinh Hoa đen như chàm, rửa thế nào
cũng không sạch”. Ở tình tiết này, nói như TSKH Đỗ Văn Khang là Nguyễn Huy
Thiệp đã đạt tới mục đích cuối cùng là hạ bệ một lịch sử dân tộc, một lịch sử đã phải
viết bằng máu và mồ hôi, bằng cả vinh quang và đau đớn mới có được. Kể ra thì lời
khẳng định này cũng có lý"[44]..... Và Vương Quốc Hoa đi đến kết luận: chúng ta
thấy đúng như lời của TSKH Đỗ Văn Khang “văn của Nguyễn Huy Thiệp ngày càng
sa sút”. Có thể nhận thấy ý kiến chủ quan của Vương Quốc Hoa cũng thể hiện một
cái nhìn phiến diện về truyện ngắn của Huy Thiệp.
Các ý kiến phản đối tiếp đó không tập trung vào một tác phẩm cụ thể trong bộ
ba truyện “lịch sử giả” nữa mà phê phán chung về cách viết truyện lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp và cái Tài, cái Tâm của nhà văn. Nguyễn Văn Lưu bảo Nguyễn
Huy Thiệp chỉ mượn lịch sử để “bộc lộ thái độ đối với hiện tại” [41, tr.311] nhưng
ông lại khẳng định luôn rằng “Sự vay mượn của Nguyễn Huy Thiệp không nghiêm
túc, thậm chí quá trớn, đối đãi với lịch sử như trò đùa tếu táo” [41, tr.311]. Trong
66
một cuộc hội thảo khoa học ở khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội I,
Nguyễn Văn Lưu có nhắc lại quan niệm của mình rằng "Nguyễn Huy Thiệp có tài
nhưng tâm thiếu trong sáng" ("Hội nghị một số vấn đề thời sự văn học", 8/12/1988)
[41, tr534]. Thu Bồn rất ủng hộ việc in tập truyện Tướng về hưu nhưng với truyện
lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp ông tỏ ra ái ngại “Tôi nói với Thiệp: mày ác quá, mày
tàn nhẫn quá, đọc kinh tởm” [41, tr.535]. Bùi Hiển coi truyện Nguyễn Huy Thiệp “có
khuynh hướng phủ định và nhiều khi muốn lật ngược vấn đề một cách vô lối với nhân
vật lịch sử” [41, tr.450]. Sau này có nhiều bài viết không đồng tình với cách viết của
Nguyễn Huy Thiệp và tập trung nhiều đến vấn đề cái tài và cái tâm của ông. Với tất
cả những gì không đồng tình với sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Trung Phương viết
mỉa mai "Gần đấy ở nước ta, có tác phẩm văn học thật ra là bình thường, nhưng
người viết ra nó có những lẽ...ồn ào nên tác phẩm vì thế thành quá cỡ…" rồi quy kết,
cách ứng xử của Nguyễn Huy Thiệp là “không có văn hoá và tự làm nhỏ bé tâm hồn
mình bằng những chữ nghĩa chát chúa, kẻ chợ”[41, tr.439]. Không dám nói thẳng,
chỉ ám chỉ "người ấy" thế này thế nọ, rồi lên án, phỉ báng cả đồng nghiệp là cách phê
bình của Trung Phương in trên báo An Ninh Thủ Đô có tên “Chữ nghĩa với tâm
hồn…”.Nhà phê bình Hồng Diệu của báo Quân Đội Nhân Dân có một bài viết ngắn
gọn “Một cây bút có tài, nhưng…” [41, tr.283], cũng đủ thấy quan điểm của nhà phê
bình này trong đó. Bài viết của Hồng Diệu cho người đọc tiếp cận với các ý kiến
xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhìn chung ai cũng khẳng định đây là
“cây bút có tài, nhưng có những điểm “chưa tới”, có nhiều chỗ phải rút kinh
nghiệm”[41, tr.283]. Đặc biệt Hồng Diệu đồng tình với ý kiến của Nguyễn Văn Lưu
khi ông đả kích một số cách “đọc” Nguyễn Huy Thiệp, phê phán những bài viết kinh
viện hàn lâm, muốn “lên lớp” cho người đọc…Tiếp đó nhân buổi trò chuyện với một
số nhà văn quen biết Hồng Diệu có bài viết “Xung quanh sáng tác Nguyễn Huy
Thiệp” [41, tr.449]. Nhà phê bình đã phỏng vấn các nhà nghiên cứu văn chương như
Bùi Hiển, Hồ Phương, Bùi Bình Thi về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.Hồ Phương
cho rằng Phẩm Tiết của Nguyễn Huy Thiệp viết quá thô tục. Bùi Hiển cũng đánh giá
"truyện anh có khuynh hướng phủ định và nhiều khi muốn lật ngược vấn đề một cách
vô lối đối với nhân vật lịch sử" [41, tr450]. Cả ba nhà phê bình đều có ý kiến giống
nhau ở một điểm: Chê sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và chê cả những người đã từng
“tán dương” văn chương của ông. Mượn ý kiến của người khác nhằm nói lên ý kiến của
mình rằng: Tôi không đồng tình với các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Đó là cách
67
phản đối riêng của Hồng Diệu. [41, tr.432].
Nhìn lại những ý kiến không đồng tình với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
chúng tôi thấy: xuất phát từ việc người đọc đối chiếu các hình tượng trong tác phẩm
của nhà văn với sự thực cuộc sống và sự thực lịch sử. Từ đó rút ra kết luận những
hình tượng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một sự xuyên tạc, làm méo mó
những hình ảnh có thực, rồi họ suy ra tác giả thiếu một cái tâm trong sáng của
người cầm bút.Thế nhưng thực tế chính khi người đọc phản ứng mạnh mẽ với
Nguyễn Huy Thiệp tức cũng tự trình bày một cách hiểu, một quan niệm về cuộc
sống, về văn chương nghệ thuật. Đây cũng là một biểu hiện phong phú của tiếp
nhận văn học và đồng thời khẳng định Nguyễn Huy Thiệp chính là “của hiếm
của một tài năng” [41, tr.427].
Tựu chung lại, qua khảo sát các ý kiến, các bài phê bình của các nhà nghiên cứu
và bạn đọc trong và ngoài nước, chúng tôi nhận thấy: Nguyễn Huy Thiệp thu hút và
có sự phân lập khá rõ rệt công chúng tiếp nhận.Quá trình tiếp nhận truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp có thể chia thành 2 xu hướng chính: tán thành ủng hộ và lên án
chê bai. Ở xu hướng khen ngợi, bạn đọc tập trung ca ngợi truyện Những ngọn gió
Hua Tát, Muối của rừng,Tướng về hưu và bộ ba giả lịch sử: Vàng lửa, Phẩm tiết và
Kiếm sắc. Những lời khen chủ yếu nhấn mạnh về nội dung tư tưởng của truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.Họ khen nhà văn có lối viết dân chủ, cùng đối thoại với bạn đọc;
Tác giả đã có sự đổi mới về cách nhìn hiện thực, đổi mới về quan niệm con người.
Người ta khen Huy Thiệp dám viết về những con người đời thường với muôn vẻ
trắng đen bi hài. Khi viết về những con người đô thị, đời thường nhà văn phản ánh rất
chân thực và rất hay. Dưới góc độ lịch sử, nhà văn đã làm cho các nhân vật lịch sử
được đời thường hóa. Các nhân vật anh hùng lịch sử được nhà văn phản ánh sinh
động trở nên người hơn, đời thường hơn. Bởi dẫu là vĩ nhân thì trước tiên họ cũng là
con người. Mà con người thì luôn tốt xấu đan cài. Có thể thấy Huy Thiệp đã tập trung
khắc họa thành công kiểu nhân vật đa diện, lưỡng phân để bạn đọc thấy rằng trong
con người không chỉ có rồng phượng mà còn có cả rắn rết, không chỉ có phần tốt đẹp
mà còn có phần khuất tối xấu xa, hèn kém - điều mà ít nhà văn dám phản ánh. Ngoài
ra bạn đọc cũng nhận thấy Nguyễn Huy Thiệp có những trang viết rất hay về mối
quan hệ thiên nhiên. Dưới góc độ sinh thái nhà văn viết về con người rất gần gũi với
thiên nhiên. Cụ thể như tác phẩm "Những ngọn gió Hua Tát","Muối của rừng"
"Những bài học nông thôn" và "Chảy đi sông ơi"...Các nhà nghiên cứu và giới phê
68
bình cùng bạn đọc còn ngợi ca Huy Thiệp có cách viết lạ về hình thức. Văn hay
không chỉ ở nội dung tư tưởng mà hay ở lối hành văn ở sử dụng ngôn ngữ mới, hay ở
việc xây dựng kết cấu truyện để ngỏ và tạo được những tình huống truyện có không
khí huyền thoại... Tuy nhiên bên những lời ngợi khen là những lời chê bai về truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp Chủ yếu bạn đọc xoáy vào Tướng về hưu và bộ ba giả lịch
sử: Vàng lửa, Phẩm tiết và Kiếm sắc. Đó là các ý kiến phản đối của Tạ Ngọc Liễn,
Đỗ Văn Khang, Nguyễn Thúy Ái.... Những lời chê cho rằng văn Huy Thiệp ngày
càng sa sút, cách phản ánh hiện thực quá tàn nhẫn, quá ác. Ở góc độ lịch sử: họ cho
rằng Huy Thiệp bôi nhọ lịch sử, hạ bệ các nhân vật anh hùng... Thậm chí có người
còn cho rằng nhà văn thiếu Tâm sáng tác.Nhìn chung người ta chê nhiều về nội dung
tư tưởng của một số truyện ngắn của nhà văn. Việc dư luận và công chúng văn học
khen và chê sáng tác của Huy Thiệp chính là biểu hiện của tiếp nhận văn học. Bởi
69
văn bản của nhà văn đã xác lập được đời sống riêng thông qua người đọc.
Chương 3
NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG GIỚI HẠN TRONG VIỆC TIẾP NHẬN
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
Lí giải nguyên nhân của những giới hạn trong việc tiếp nhận truyện ngắn
nguyễn Huy Thiệp chúng tôi nhận thấy giới hạn cộng đồng diễn giải trong đó có
chuẩn thẩm mĩ truyền thống và chuẩn thẩm mĩ mới đã ảnh hưởng lớn tới việc đánh
giá tác phẩm. Đồng thời giới hạn của chủ thể tiếp nhận trước những cách tân độc đáo
của Huy Thiệp cũng gây nên những đột biến về tiếp nhận.
3.1. Giới hạn của cộng đồng diễn giải
Trong quá trình tiếp nhận những sáng tác của mỗi tác giả bao giờ cũng có
nhiều luồng ý kiến khác nhau. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng vậy. Dường như
để khẳng định sự tồn tại và giá trị của mình, tác phẩm nào của nhà văn khi ra đời đều
chịu số phận sóng gió, bấp bênh. Sở dĩ, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp khiến dư
luận quan tâm như vậy một phần do tác phẩm mới lạ, phần khác là do những giới hạn
của cộng đồng diễn giải trong quá trình tiếp nhận tác phẩm.
Trước hết cần phải nói rằng văn bản văn học sẽ không trở thành tác phẩm nếu
không có quá trình tiếp nhận và quá trình tiếp nhận cũng sẽ không xảy ra nếu không
tồn tại một cộng đồng diễn giải nhất định. Suy đến cùng, cộng đồng diễn giải là yếu
tố quan trọng hàng đầu quyết định một văn bản có thể đảm nhận sứ mệnh một tác
phẩm văn học có giá trị hay không. Bàn về vấn đề cộng đồng diễn giải có lẽ người am
hiểu thấu đáo và có các công trình nghiên cứu rất hệ thống và khoa học chính là
PGS.TS Trương Đăng Dung. Ở hạng mục này, chúng tôi xin phép chỉ đóng vai trò
tổng thuật lại những vấn đề liên quan đến cộng đồng diễn giải dựa trên các công trình
của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung. Cụ thể là ở bài viết "Những giới hạn của
cộng đồng diễn giải". Mở đầu bài viết ông đã trích dẫn nhận định của Antoine
Compagnon “Người đọc cần được quan niệm như tổng thể các phản ứng cá nhân,
hay như sự hiện tại hóa một năng lực cộng đồng? Hình ảnh một người đọc có tự do
được giám sát, do văn bản kiểm soát, có phải là hình ảnh hay nhất không”? [18]
Điều đó có nghĩa là văn bản văn học thực sự trở thành tác phẩm khi có sự tham gia
của hoạt động tiếp nhận từ phía người đọc. Hơn thế người đọc ở đây là tổng thể cộng
đồng chứ không phải sự riêng rẽ của những cá nhân riêng biệt, hay nói một cách khoa
70
học chuyên nghiệp hơn đó là cộng đồng diễn giải. Theo Trương Đăng Dung: S. Fish
viết: “Cộng đồng diễn giải chứ không phải văn bản hay người đọc tạo nên các nghĩa
của văn bản”[12, tr.177]. Tức là các nghĩa này được hình thành với dấu ấn của một
thiết chế cộng đồng. Sự tương đồng ý kiến của các thành viên trong một cộng đồng
cho thấy uy thế của cộng đồng diễn giải đã tạo ra những yếu tố làm cho các thành
viên của cộng đồng trong cùng một thời gian có thể đồng ý kiến. Xuất phát từ chỗ
nghĩa không phải là của riêng của văn bản, nghĩa không do bạn đọc (cá nhân) tạo ra
mà là do cộng đồng diễn giải. Stanley Fish viết: “Sự đồng nhất và ổn định của nghĩa
là nhờ sự đồng nhất và ổn định của nhóm người tạo ra nghĩa”[12, tr.124]. Ở đây
Stanley Fish muốn nhấn mạnh đến quyền lực của Cộng đồng diễn giải, thứ quyền lực
có sức mạnh tập hợp và tạo nên sự thống nhất ý kiến giữa các thành viên của cộng
đồng trong việc diễn giải văn bản văn học. Chúng ta cần phải thừa nhận có một Cộng
đồng diễn giải đứng sau người đọc. Một mặt, nếu cộng đồng đó quy định các phương
thức diễn giải mà thành viên của nó có thể lựa chọn thì điều đó có nghĩa là có những
yếu tố ngoại lệ đặc trưng cho một nhóm xã hội nhất định, chúng tác động đến sự hiểu
văn bản của các thành viên cộng đồng. Mặt khác, nếu cộng đồng diễn giải là cộng
đồng của những người diễn giải văn bản văn học thì phải có cái gì đó chung cho
những cá nhân cùng diễn giải giống nhau một văn bản có sẵn. Cái chung này theo
Stanley Fish là sự đồng thuận, ông viết: “Sự đồng thuận không chứng minh cho sự ổn
định của các sự việc, mà nó chứng tỏ cái quyền uy của một cộng đồng đã tạo ra
những đối tượng để các thành viên của nó có thể nhất trí với nhau” [12, tr.179]. Như
thế là cộng đồng diễn giải tạo ra các đối tượng đồng thời với việc tạo ra các thành
viên của nó. Từ khái niệm cộng đồng diễn giải mà Stanley Fish đề xuất, chúng ta
cũng có thể hình dung về những cộng đồng diễn giải được tạo ra thật sự vì mục đích
diễn giải. Có những cộng đồng đặc biệt dành riêng cho sự diễn giải mà không phải
bất kì ai cũng có thể là thành viên. Những cộng đồng này thường ra đời bên trong hệ
thống thiết chế của đời sống khoa học như các viện nghiên cứu, trường học, thư
viện… Lí thuyết cộng đồng diễn giải có thể giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn bản chất
phi lí của giáo điều, lưu ý chúng ta về một cơ chế đứng sau sự diễn giải văn bản văn
học có khả năng chi phối cách hiểu văn học, thậm chí làm cho người ta đánh giá văn
học tốt hay xấu bằng những yếu tố nằm ngoài văn học! Chính vì thế, lịch sử phê bình
văn học cần phải quan tâm nhiều đến các loại cộng đồng diễn giải thay thế lẫn nhau ở
một thời kì văn học, vì chúng ta sẽ không hiểu được sâu sắc những mâu thuẫn trong
71
cách đánh giá văn học và cả những vấn đề đặt ra trong các cuộc tranh luận văn học,
nếu chúng ta không nghiên cứu các cộng đồng diễn giải đã có tác động như thế nào
đến những hoạt động đó. Bản chất của sự diễn giải là quá trình bất tận, là cuộc chiến
chiếm hữu và loại bỏ các giá trị. Chính cộng đồng diễn giải đứng sau văn bản và
người đọc, tạo lập và nuôi dưỡng cả hai, quy định phương thức tồn tại đặc trưng của
tác phẩm văn học. Chính cộng đồng diễn giải tạo nên chuẩn thẩm mĩ cộng đồng. Sự
tương đồng ý kiến của các thành viên trong một cộng đồng cho thấy uy thế của cộng
đồng diễn giải, đã tạo ra các yếu tố làm cho các thành viên của cộng đồng trong cùng
một thời gian có cùng một ý kiến. Có thể thấy rằng Cộng đồng diễn giải với chuẩn
thẩm mĩ cộng đồng đã chi phối hướng tiếp cận tác phẩm. Theo Stanley Fish, người
đọc lí giải tác phẩm phù hợp với hệ thống chuẩn mực mà theo thời gian cộng đồng đã
quen dùng để đo giá trị. Điều này giải thích tại sao cùng nói về một văn bản nhưng
các thành viên của cộng đồng khác nhau, hoặc cùng một người đọc nhưng với tư cách
là thành viên của các cộng đồng khác nhau thì sẽ có những phản ứng với văn bản tác
phẩm một cách khác nhau. Từ đó sẽ dẫn đến hệ quả là có một nhóm người đọc có
cùng ý kiến hoặc ngược ý kiến về cùng một tác phẩm của cùng một tác giả. Nói như
vậy không có nghĩa cộng đồng diễn giải bao giờ cũng chính xác. Bởi tiếp nhận văn
học cũng bị chi phối bởi yếu tố tâm lí cộng đồng, sự diễn giải tác phẩm của nhóm
cộng đồng này có thể lây lan sang nhóm cộng đồng khác có cùng tư duy thưởng thức.
Quay về với Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi thấy những sáng tác của nhà văn từ
khi ra đời chưa bao giờ khiến cho dư luận thôi gay gắt. Từ tác phẩm đầu tiên trình
làng cho tới hiện tại độc giả và giới nghiên cứu vẫn còn đang tốn nhiều bút mực và
tâm huyết trong hành trình tiếp nhận sáng tác của ông. Có người khen ngợi tột bậc
nhưng cũng có người chê bai không tiếc lời. Vậy sở dĩ có sự khen chê trái chiều ấy là
do đâu?Thứ nhất là do
3.1.1. Chuẩn thẩm mĩ truyền thống
Chuẩn thẩm mỹ truyền thống có vai trò gì trong quá trình người đọc tiếp nhận
tác phẩm văn học? Có thể thấy rằng cộng đồng diễn giải với chuẩn thẩm mỹ truyền
thống đã chi phối hướng tiếp cận tác phẩm. Bởi vì, tiếp nhận tác phẩm văn học cũng
thường bị tâm lí cộng đồng chi phối. Một vài người diễn giải tác phẩm gần giống
nhau sẽ dễ lây lan sang cả cộng đồng -những người có cùng tư duy thưởng thức.Văn
học trước 1975 là văn học phục vụ cách mạng gắn liền với hai cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại. Các nhà văn chiến sĩ đã biến văn học thành một phương tiện đấu tranh,
72
một phương tiện tuyên truyền thức tỉnh lòng yêu nước.... Văn học như những hình
mẫu đạo đức đã được mặc định từ trước. Do đó những hình tượng trung tâm văn học
luôn là kiểu mẫu của thời đại, những anh hùng dân tộc được lý tưởng hóa để ngợi ca.
Như vậy, văn học trước đổi mới mô hình phản ánh hiện thực vẫn chiếm ưu thế, dẫn
đến nhiều người quen theo lối tư duy truyền thống (là những quan niệm văn học trở
nên quen thuộc, ăn sâu vào ý thức văn học, từng chi phối đời sống văn học đã qua
nhiều thế hệ) vẫn thích cách tiếp cận cũ và mô hình diễn giải tác phẩm văn học của
họ đương nhiên chịu sự chi phối của mô hình phản ánh. Theo mô hình diễn giải này,
họ đánh giá tác phẩm là căn cứ xem tác phẩm có phản ánh đúng hiện thực không. Từ
đây, nhìn vào tác phẩm là họ nhìn xem hiện thực trong đó, tác giả có chú ý vào cái
chung cái cộng đồng, vào nhân dân hay không? Tác phẩm có nội dung rõ ràng
không? Kết luận có dứt khoát không? Nhân vật trong tác phẩm có chia thành hai thế
lực “địch”- “ta” rõ ràng không? Và quan niệm ăn sâu vào nếp nghĩ của bao người là
“Địch” xấu xa, “ta” tốt đẹp. Những tác phẩm viết được như thế là tác phẩm hay,
truyện như thế là hấp dẫn. Đọc xong tác phẩm họ cảm thấy yên lòng vì mọi cái đều
diễn ra tốt đẹp theo đúng ý họ, nhà văn là người nói hết mọi việc, họ không phải băn
khoăn, suy nghĩ gì thêm. Cuộc đời thật đẹp biết bao... Chuẩn thẩm mỹ truyền thống
ấy phù hợp cho một cộng đồng người thời trước 1975 và cũng là phù hợp với nhiệm
vụ chung của thời đại lúc bấy giờ. Nhưng cả một giai đoạn văn học sáng tác theo
chuẩn thẩm mỹ chung ấy sẽ là một giới hạn trong cách tiếp nhận tác phẩm văn học.
Bởi vì, khi đó người đọc cảm và hiểu tác phẩm sẽ có xu hướng giống nhau. Từ đây,
có thể khẳng định, vai trò của chuẩn thẩm mỹ truyền thống rất lớn, chính nó dẫn đến
cách đọc theo tư duy một chiều, thụ động, chấp nhận, ít phải suy nghĩ. Như vậy, có
thể hiểu chuẩn thẩm truyền thống chính là khả năng tiếp nhận của người đọc hay có
thể hiểu là năng lực của người tiếp nhận đã có sẵn, là hệ quy chiếu thuộc về kinh
nghiệm văn học của những người đọc bị ảnh hưởng, chi phối của tư tưởng kinh điển
và tôn giáo, những chuẩn mực thẩm mĩ truyền thống đến thế giới quan, nhân sinh
quan của người đọc. Chuẩn thẩm mĩ truyền thống còn là thói quen lưu chuyển quá lâu
đã trở thành nếp về đọc và tiếp nhận do sống trong quan niệm truyền thống của sáng
tác và phê bình văn học từ đầu thế kỉ XX. Văn học trước đổi mới chỉ quan tâm tới
việc hiện thực được phản ánh trong tác phẩm văn học như thế nào? Phần đa độc giả
cho rằng một tác phẩm chỉ được coi là có giá trị khi nó phản ánh được một cách chân
thực hiện tại cuộc sống đang diễn ra. Có thể nói đó là mô hình phản ánh hiện thực
73
một cách thô thiển mà trong một thời gian khá dài có ảnh hưởng không hề nhỏ tới
sáng tác cũng như tiếp nhận văn chương. Theo đó hiện thực được mô tả trong tác
phẩm luôn phân biệt rạch ròi ranh giới giữa tốt - xấu, trắng - đen, cao thượng - thấp
hèn…, qua cảm hứng ngợi ca và phê phán...Vì thế kể cả nhà phê bình đến người đọc
khi tiếp nhận tác phẩm, nói theo cách hóm hỉnh của Đặng Anh Đào là "cứ nghển
cổ...mà hỏi: Ta hay địch?"
Chúng tôi nhận thấy hoạt động đọc và chất lượng đọc, phê bình về truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp đã bị chi phối rất lớn bởi chuẩn thẩm mĩ truyền thống này. Chuẩn
thẩm mĩ truyền thống còn thể hiện ở phương diện truyền thống đạo đức, tín ngưỡng
của con người Việt Nam. Truyền thống này khiến cho tầm đón đợi của độc giả và
không ít nhà phê bình thời đó khó dung nạp những cách nhìn lối thể hiện mới lạ của
Huy Thiệp. Đó là truyền thống đã ăn sâu mặc định vào lĩnh vực đời sống tinh thần, tư
tưởng của bao người. Cụ thể là văn học trước 1975 văn học giai đoạn này quá chú
trọng đến mô hình phản ánh hiện thực, nhấn mạnh vai trò của khách thể mà đã lược
qua, coi nhẹ vai trò của chủ thể tiếp nhận. Chính bởi thế khi sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp xuất hiện, một bộ phận của cộng đồng diễn giải chĩa mũi nhọn vào ông,
phản ứng dữ dội vì tác phẩm của ông mới quá, lạ quá. Độc giả cho rằng Nguyễn Huy
Thiệp chối bỏ hiện thực, quay lưng lại với cuộc sống hàng ngày.Có lẽ do họ mới
bước qua thời kì chiến tranh chưa lâu, họ còn chưa quên mùi khói súng bom đạn, họ
chỉ quen văn học mang tính sử thi và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Vì lẽ đó đó một
thời cả nhà văn và bạn đọc chỉ quen với nhân vật đẹp lý tưởng như Nguyệt (Mảnh
Trăng cuối rừng) như Dít, Tnú (Rừng xà nu)... Vậy mà hôm nay trong những trang
văn của Nguyễn Huy Thiệp họ lại thấy những ông “tướng về hưu” bất lực, khổ đau,
lạc lõng; họ lại thấy những Quang Trung, Gia long bê tha, nhếch nhác, vương vấn
chuyện ân ái lả lơi, những người anh hùng lẫm liệt oai phong bỗng chốc gần như trở
nên đối lập “Nhà vua vào phòng Ngô Thị Vinh Hoa, mở cửa ra thấy Vinh Hoa bị trói,
trên người không có mảnh vải che. Gia nhân thưa rằng Hoàn muốn làm nhục Vinh
Hoa nhưng nàng không chịu, nhà vua rất thương xót. Nhà vua đến gần, thấy Vinh
Hoa đẹp quá, bỗng nhiên xây xẩm mặt mày. Nước thơm từ cung Vinh Hoa tiết ra
thơm ngát như mùi hoa sữa. Nhà vua thở dài, ngã quay ra đất, ngất lịm đi” [40], và họ
chưa có sự chuẩn bị tâm lí để chấp nhận điều đó. Trong tâm thức họ luôn phân biệt
rạch ròi ranh giới giữa tốt - xấu, trắng - đen, cao thượng - thấp hèn…nên họ chưa
quen, chưa thích nghi được với hiện thực mới, cách viết mới là thực chất con người
74
tồn tại ở trạng thái đa chiều, nhiều vẻ.
Tựu chung lại, sau đổi mới sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp khá bất ngờ,
một bộ phận bạn đọc không khỏi giật mình bởi những cách tân táo bạo mà Nguyễn
Huy Thiệp mang lại. Trong khi đó cả một thời gian dài văn học gạt bỏ cái tôi để
hướng tới cái ta, gạt bỏ cái riêng để cái chung là duy nhất, một thời gian dài người ta
coi văn học chân chính phải là văn học tuyên truyền, cổ vũ và xoay quanh những giá
trị khuôn phép đạo đức hàng ngàn năm của dân tộc. Trái lại với những điều đó là
nhạo báng, là chống đối và tiêu cực. Họ chưa thể theo kịp chuẩn thẩm mĩ mới, chưa
nhìn nhận con người và sự việc ở nhiều khía cạnh, nhiều góc khuất phức tạp mà trước
kia văn học vì nhiều lí do chưa có điều kiện đề cập tới. Tầm đón đợi của họ vẫn đang
dừng lại ở những thói quen truyền thống. Vì lẽ đó họ phản ứng, chê bai, không đồng
tình. Đó cũng là một hiện thực không quá khó hiểu.
3.1.2. Chuẩn thẩm mĩ mới
Bàn về chuẩn thẩm mĩ mới trước tiên cần hiểu tầm đón đợi mới ở đây chính là
năng lực những phẩm chất mới của người đọc trước những cách tân nghệ thuật mới
mẻ. Đó là tác động của người đọc ở tư thế chủ động đến sự phá vỡ những quy tắc
chuẩn mực thẩm mĩ truyền thống. Sự xuất hiện của tầm đón đợi mới của một công
chúng văn học mới thường diễn ra khi có những bước ngoặt lịch sử hoặc sự tiếp xúc
của một nền văn hóa khác. Đến một giai đoạn mới công chúng bạn đọc đòi hỏi một
thẩm mĩ mới không theo nếp cũ. Có thể hiểu một số công chúng bạn đọc do trình độ
văn hóa nhận thức được nâng cao, hay nói cách khác họ là những người đọc lí tưởng,
trình độ và thị hiếu của họ được khẳng định. Lớp bạn đọc này đòi các tác phẩm văn
học phải có gì đó đổi mới hơn so với trước đó. Họ không thích kiểu các nhân vật với
vẻ đẹp lí tưởng như đi đến chiến tranh mà vẫn "đôi gót chân bóng hồng sạch sẽ", bị
thương mà vẫn "đẹp như con công vừa tắm ".. cái mà họ cần là các nhân vật đời hơn,
thật hơn. Cho nên những người đọc này khi đọc những truyện theo mô típ cũ, họ đọc
phần đầu đã đoán ra phần cuối họ thấy nhàm chán. Có thể họ chỉ đọc một lần, còn lần
hai chỉ có thể mở ra và lại gấp sách lại, cất kĩ...Họ giã từ tác phẩm và cũng giã từ
cách đọc cũ. Như vậy chuẩn thẩm mĩ mới ở đây có thể hiểu chính là công chúng, độc
giả đòi hỏi một cách viết mới, sáng tạo nghệ thuật mới không theo một công thức
truyền thống nhàm chán. Tác phẩm viết ra phải để bạn đọc cùng suy nghĩ đối thoại
trăn trở. Tác phẩm phải bàn đến những con người trong cuộc mưu sinh trong hành
trình đi tìm hạnh phúc của đời thường, nhìn nhận con người và sự việc ở nhiều khía
75
cạnh, nhiều góc khuất phức tạp...Như vậy văn học đổi mới kéo theo những chuẩn
thẩm mĩ chung của cộng đồng cũng có những lối rẽ mới,cộng đồng diễn giải cũng
không còn dập khuôn cứng nhắc theo những nguyên mẫu như trước nữa.
3.2. Giới hạn của chủ thể tiếp nhận
Bên cạnh giới hạn của cộng đồng diễn giải mà biểu hiện là chuẩn thẩm mĩ
truyền thống và chuẩn thẩm mĩ mới đã gây nên nhiều biến thể tiếp nhận khác nhau về
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn là giới hạn của chủ thề tiếp nhận. Về vấn đề chủ
thể tiếp nhận xin được mượn lời của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung trong công
trình Từ văn bản đến tác phẩm văn học [11]. Ông nhận xét: “Một sáng tác văn học
được gọi là tác phẩm văn học với điều kiện nó chỉ có giá trị văn học. Nhưng giá trị
văn học nếu có chỉ hình thành trong quá trình đọc và sau khi đọc mà thôi. Vậy quá
trình từ văn bản đến tác phầm văn học diễn ra như thế nào? Thực chất giá trị của tác
phẩm văn học là gì? Có thể đánh giá được tác phẩm văn học không?... Việc nghiên
cứu văn bản văn học trong mối liên hệ với chủ thể tiếp nhận sẽ giúp ta trả lời một
cách khoa học cho những câu hỏi đó”[11, tr.24]. Khi nói về mối quan hệ giữa chủ thể
và khách thể, tác giả khẳng định thêm: “Sự gặp gỡ giữa người đọc và tác phẩm là sự
gặp gỡ giữa chủ thể tiếp nhận và khách thể văn học”[11, tr.34]. Như vậy có thể hiểu
theo quan điểm của mĩ học tiếp nhận, chủ thể tiếp nhận là thuật ngữ nhằm nhấn mạnh
vai trò của người đọc trong việc đánh giá các giá trị văn học thông qua quá trình tác
động của người đọc lên văn bản. Và như đã trình bày ở trên người đọc bị chi phối
mạnh bởi chuẩn thẩm mĩ truyền thống và kể cả chuẩn thẩm mĩ mới nên đã có độ vênh
trong cảm nhận tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp. Song bên canh đó cũng phải thừa nhận
chủ thể tiếp nhận - người đọc còn có giới hạn nhất định trước những cách tân độc đáo
của Huy Thiệp. Hay nói cách khác là người đọc bị bất ngờ trước những cách tân độc đáo
về cách nhìn thực tại và việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật mới của nhà văn. Vì
vậy đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chủ thể tiếp nhận cần có sự thay đổi chuẩn
thẩm mĩ, thay đổi cả tầm đón đợi để phù hợp với sáng tạo của nhà văn
3.2.1. Cách nhìn mới về thực tại
Chỉ riêng ở lĩnh vực truyện ngắn, bạn đọc đã thấy được sự phong phú sâu sắc và
phức tạp trong phản ánh hiện thực của Nguyễn Huy Thiệp. Nhà văn đã tiếp cận và
nhìn nhận về thực tại và con người theo một góc nhìn rất mới mẻ và độc đáo. Chính
cách nhìn mới mẻ về thực tại của sáng tác Nguyễn Huy Thiệp đã đặt ra cho người
đọc, giới phê bình nghiên cứu những thử thách và cản trở không nhỏ.Trước hết truyện
76
của Nguyễn Huy Thiệp chỉ nói tới những gì liên quan tới cuộc sống và mang chủ ý
riêng của tác giả: Những tư tưởng triết lý sâu sắc hiếm thấy. Nhà văn đi sâu vào phần
tự nhiên, phần bản thể, bản năng trong mỗi con người. Các nhân vật của ông vô cùng
đa dạng, mỗi nhân vật một tiếng nói góp phần vào việc khẳng định sức mạnh của bản
năng tự nhiên. Con người trong văn học giai đoạn trước dường như quá tỉnh táo, họ là
những người duy ý chí, luôn triệt tiêu mọi cái riêng để hướng tới lý tưởng cộng đồng.
Còn con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại ít lý trí hơn, họ sống với tất
cả vẻ đời thường, có phần vô thức, phần tâm linh và phần bản năng. Với việc tiếp cận
con người từ góc nhìn đời thường và đời tư, Nguyễn Huy Thiệp đã cho bạn đọc thấy
con người là một thực thể chứa đầy những bí ẩn, những mâu thuẫn, những câu hỏi
khó lý giải. Nguyễn Huy Thiệp kéo con người trong văn học về gần sát với cuộc sống
đời thường, chân thực và sống động.
Đầu tiên nhà văn nhìn con người ở đô thị qua các tác phẩm tiêu biểu như:
Tướng về hưu, Không có vua, Huyền thoại phố phường…Nhà văn đã mạnh dạn chỉ ra
sự tha hóa của con người nơi đô thị. Người đọc dễ dàng nhận thấy nhà văn không
ngần ngại bới tung và phơi bày trước mắt mọi người những thực trạng nhức nhối.
Nhà văn đã đi tìm, tìm trong những cái nhếch nhác, đồi bại, xấu xa, hèn kém, để có
thể giúp người đọc hiểu thấu bản chất phức tạp của cuộc sống. Nhân vật trong mảng
đề tài này của Nguyễn Huy Thiệp hết sức đa dạng, và sự đa dạng ấy tồn tại ngay
trong bản thân từng tác phẩm. Từ: tướng lĩnh, kĩ sư, bác sĩ, người làm thuê, cô gái lỡ
làng, thằng tù … (Tướng về hưu), đến: chuyên viên bộ, sinh viên, thợ sửa xe đạp, thợ
cắt tóc, tên đồ tể hay người phụ nữ nội trợ quẩn quanh nơi xó bếp (Không có vua), và
đây nữa: chuyên viên của một vụ, nhân viên xưởng phim truyện, cô học sinh trượt đại
học, bà chủ tiệm vàng (Huyền thoại phố phường) …với rất nhiều mối quan hệ phức
tạp: cha - con, mẹ - con, anh - em, ông - cháu, họ hàng, thông gia, nhân tình nhân
ngãi … Trong những truyện ngắn ấy con người hiện lên chân thật, sống động thậm
chí còn có phần thật hơn ở ngoài đời. Như chính nhà văn nói:" Tôi nghĩ tìm ra được
hạnh phúc trong đời thường mới khó, mới quan trọng. Khi tôi viết truyện “Tướng về
hưu” tôi cũng có ý đó, truyện có sống, có chết, có đám ma, có đám cưới, có ngoại
tình, có đào đồ cổ... Đời thường được nén lại trong “Tướng về hưu”, báo hiệu cuộc
sống đang dần quay lại bình thường". Nếu trước đây, trong các tác phẩm của giai
đoạn văn học, chúng ta bắt gặp những con người đẹp đẽ "sạch sẽ, vô trùng", những
con người xả thân vì đất nước thì nay thời bình con người trở về với quỹ đạo đời
77
thường với muôn vẻ trắng đen bi hài. Con người được nhà văn phát hiện với xấu tốt
đan cài. Ngay trong mối quan hệ gia đình cũng vậy. Trước đó các thành viên trong
gia đình gắn kết với nhau chặt chẽ, sẵn sàng hi sinh cho nhau để cùng hi sinh cho đất
nước. Người đọc từng cảm thấy khâm phục pha lẫn hãnh diện tự hào trước dòng sông
truyền thống của gia đình trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi. Thì
nay, trong xã hội thị thành, khi cơ chế bao cấp đã bị thay thế bằng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ gia đình cùng với những cách
ứng xử của các thành viên với nhau lại là dấu hiệu rõ rệt của sự xuống cấp trong đạo
đức. Cả trong Tướng về hưu, Không có vua hay Huyền thoại phố phường, người đọc
đều có thể nhận thấy những mối quan hệ gia đình lỏng lẻo. Các nhân vật không có sự
gắn kết cần thiết để tạo thành một tế bào vững chắc cho xã hội. Vợ với chồng sống
cảnh “đồng sàng dị mộng” bên nhau như Thuần và Thuỷ trong Tướng về hưu. Cũng
có khi mối quan hệ vợ chồng xây dựng trên quyền hành, bạo lực và sự chịu đựng mỏi
mòn như Sinh và Cấn (Không có vua). Họ lấy nhau vì đã từng có tình yêu nhưng
cuộc sống vợ chồng trong cái đại gia đình hổ lốn đã làm cho tình yêu phai nhạt. Cấn
sẵn sàng tát vợ đến “nảy đom đóm mắt” và sẽ còn tiếp tục đánh vợ không tiếc tay nếu
không có sự can ngăn kịp thời của người em trai. Sinh thì chấp nhận hiện thực phũ
phàng ấy với bản tính nhịn nhục của người phụ nữ …Mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái trong đời sống của các gia đình ở thị thành cũng có thật nhiều điều đáng nói.
Một ông Tướng cả đời chinh chiến ngoài trận mạc, những năm tháng cuối đời trở về
sống với gia đình lại không thể tìm được tình cảm yêu thương, gần gũi từ đứa con trai
độc nhất của mình. Trước đứa con dâu thực dụng, toan tính cùng những hành động
mất cả tính người của nó, ông cũng chỉ còn biết khóc và nếu có quyết liệt hơn đó
cũng chỉ là hành động “cầm phích đá ném vào đàn chó bécgiê”. Khi con dâu hú hí với
nhân tình ngay trong nhà, thằng con trai thì bạc nhược bưng tai, che mắt, ông cũng
chỉ còn biết “lắc đầu, bỏ đi lên gác”… Không chỉ như vậy, quan hệ cha con trong gia
đình lão Kiền (Không có vua) mới thật là khủng khiếp. Ở một nơi góc phố đô thị con
người đối nhân xử thế thật lạnh lùng và tàn nhẫn làm sao.Trong gia đình đó chứa
đựng cả lao động trí óc và lao động chân tay song đạo đức thì xuống cấp suy đồi.
Người đọc bắt gặp bao con người tha hóa “Không có vua” tức là không có tôn ty trên
dưới, cha không ra cha, con không ra con, anh không ra anh, em không ra em. Cha
con chửi nhau, anh em đánh lộn nhau. Bố chồng nhìn trộm con dâu tắm. Em trai đòi
ngủ với chị dâu. Mất dạy nhất lại là người có học hẳn hoi, “học đại học, làm việc ở
78
Bộ Giáo dục”! Cha bị bệnh ung thư, nó mở miệng nói: “Ai đồng ý bố chết giơ tay!
Tôi biểu quyết nhé!” Và khi bố chết thì họ mừng rỡ thốt lên: “thật may quá. Bây giờ
tôi đi mua quan tài”.Ta thấy có gì đó giông giống với Hạnh phúc của một tang gia
chăng? Nhà này, khi mọi người đi làm vắng thì thôi, khi tụ họp lại là y như có
chuyện. Họ ăn nói với nhau nghe rợn cả người! Nguyễn Huy Thiệp tô đen phải
không? Không. Anh nói: “Xin đừng nghĩ tôi viết bịa như thật, bởi vì tôi viết rất thật”
(“Gặp gỡ và trao đổi với Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Văn học, số 5-6/1988). Đó là
chuyện đời thường, chuyện đầu đường góc phố. Chúng ta tránh, làm ngơ như không
biết, không thấy, không nghe. Anh không tránh, không làm ngơ. Im lặng là có “tâm”
hay nói lên là không có “tâm”?
Có thể thấy những lời lẽ thô tục đời thường đi vào trang văn của Huy Thiệp rất
tự nhiên dung dị, rất đời như thế. … Quan hệ giữa hai mẹ con bà Thiều trong Huyền
thoại phố phường cũng rất “đặc biệt”. Người mẹ sẵn sàng bỏ ra cả đống tiền tổ chức
sinh nhật cho con gái nhằm khoe khoang với mọi người về sự giàu sang cũng như sự
cưng chiều với con cái. Song cũng người mẹ ấy vì chiếc nhẫn vàng một chỉ mà bà sẵn
sàng “tát một cái bất ngờ làm cô con gái ngã lạng” ngay trước mặt rất nhiều bạn bè,
khách khứa…Mối quan hệ anh em trong các gia đình ở thành thị cũng được Nguyễn
Huy Thiệp mổ xẻ. Anh em cắt tóc cho nhau cũng thanh toán tiền sòng phẳng như
người dưng, làm mai làm mối cho nhau cũng phải ghi giấy biên nhận trả công cẩn
thận....Truyện ngắn của ông còn trực tiếp đề cập tới nhiều vấn đề thuộc về phần
“kiêng kị” của văn chương. Đó là những trang viết chân thực đến đáy. Cuộc sống của
con người đâu chỉ có cái đẹp, cái cao cả mà còn có cả cái xấu, cái thấp hèn, cái tầm
thường. Đây chính là phần được tạo ra từ những vô thức và bản năng của con người.
Cùng với nỗ lực phản ánh chân thực về cuộc sống, Nguyễn Huy Thiệp đồng thời
cũng nhìn con người một cách đa diện hơn, soi chiếu họ ở nhiều góc độ khác nhau để
khẳng định con người là một thực thể phức tạp, đan xen cả xấu và tốt, khó phân định
rạch ròi. Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp thì trong phút chốc biến một nhân vật
cả đời sống ti tiện, tính toán như ông Bổng trong “Tướng về hưu” trở thành một đứa
trẻ con khóc hu hu trước câu nói của bà chị dâu: “Ông Bổng lại hỏi: “Chị ơi chị có
nhận ra em không?”. Mẹ tôi bảo: “có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?”. Mẹ tôi bảo: “Là
người”. Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là
đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi
em là người.”[40] Hóa ra, trong sâu thẳm con người ông Bổng vẫn còn tồn tại phần
79
lương tri, lương năng rất người. Nó cũng chứng minh rằng ông không phải là kẻ xấu
hoàn toàn, ông vẫn khát vọng muốn được làm người tốt, người lương thiện. Nguyễn
Huy Thiệp đã để cho cái thiện và cái ác tồn tại ngay trong một con người. Điều đó đã
giúp ông thức tỉnh nơi người đọc một cách nhìn đa diện hơn về con người. Theo
những điều đã nói ở trên chúng ta có thể thấy cách viết của Nguyễn Huy Thiệp khác
lạ so với các nhà văn giai đoạn trước. Cũng chính cái khác và lạ này khiến cho một
bộ phận công chúng cho rằng ông viết như vậy là mất niềm tin vào con người, ông
nhìn con người đâu đâu cũng chỉ thấy mặt xấu xa, bỉ ổi. Họ cho rằng Nguyễn Huy
Thiệp luôn sẵn cái cảm hứng phê phán, chỉ biết phê phán, cố tình can thiệp và moi
móc những thói hư tật xấu của đồng loại.
Bên cạnh viết về con người đời thường, Nguyễn Huy Thiệp còn có cách nhìn
mới về các nhân vật lịch sử. Ở khía cạnh này có thể nói hiện thực lịch sử chỉ là cái cớ
để Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo nên những cốt truyện mới, những hoàn cảnh mới và
những tính cách nhân vật kiểu mới. Trong quan niệm của người dân Việt Nam biết
bao nhiêu thế hệ nay, những anh hùng lịch sử luôn luôn là những con người cao cả có
vẻ đẹp hoàn thiện và tuyệt đối. Và Nguyễn Huy Thiệp đã đối thoại lại cách nhìn nhận
truyền thống ấy bằng các tác phẩm “giả lịch sử” như: “Vàng lửa”, “Kiếm sắc”,
“Phẩm tiết”. Viết về Nguyễn Trãi, Quang Trung, Gia Long, Hoàng Hoa Thám,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương … Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn từ góc
độ khác nên các nhân vật lịch sử trở nên rất thực và rất đời.Vì vậy, không ít người
cho rằng Nguyễn Huy Thiệp đã “làm cho diện mạo lịch sử méo mó đi”, đã “xúc phạm
tới danh dự dân tộc” (Tạ Ngọc Liễn),... Ở Phẩm tiết, tác giả không xây dựng hình
tượng vua Quang Trung hùng dũng cưỡi voi xung trận ở tư thế bách chiến bách thắng
mà tái hiện hình ảnh Quang Trung hết sức đời thường với những cung bậc tâm trạng
hết sức phong phú, đa dạng. Quang Trung là một con người cũng nói tục, cũng mê
gái như biết bao người khác. Khi tức giận nhà vua cũng mắng chửi bằng lời lẽ tục tĩu
đến tận cùng. Nhà vua mắng chửi bề tôi: “Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê
ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho mày ăn cứt!”. Để Quang Trung nói những lời nói ấy
nhà văn không có ý phỉ báng lại nhân vật lịch sử mà ông chỉ muốn rút ngắn khoảng
cách tiếp nhận của bạn đọc về những nhân vật được thần thánh hóa mà thôi. Quang
Trung cũng có những lúc nóng giận khi đối diện với những gian ngoan lọc lõi của
người đời, lúc thất vọng khi không sở hữu được thể xác của một cô gái đẹp, có lúc lại
rất bình dị chân thực: “... ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay
80
cũng nên thử một chuyến xem có tốt không”. Tiếp nữa là nhà thơ Nguyễn Du - đại thi
hào của dân tộc Việt Nam không xuất hiện với dáng vẻ hào hoa, phong nhã của thi
nhân mà xuất hiện với vẻ mặt “nhàu nát vì đau khổ…ông hoàn toàn không hiểu gì về
chính trị…". Với những trang viết như thế, Nguyễn Huy Thiệp đã “giải thiêng” cho
những gì được coi là chuẩn mực trong tâm thức con người. Ông không phản bội quá
khứ mà chỉ muốn quá khứ đó thực hơn và gần hơn với cuộc sống. Bởi lẽ, những anh
hùng dân tộc, những nhà thơ vĩ đại, những vị tướng… họ cũng đều là những con
người. Mà đã là con người thì họ có quyền được sống bằng tất cả phần lý trí và bản
năng; ý thức và vô thức. Trong Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn nhận và thể
hiện một nhân vật Nguyễn Ánh hoàn toàn trái ngược với cách nghĩ, cách cảm truyền
thống. Cho dù có tài mưu lược, bản tính lại kiêu ngạo, hiếu thắng nhưng cuối cùng
ông vẫn là một con người bình thường bằng xương bằng thịt. Cảm động sâu xa trước
nhan sắc và giọng hát của Vinh Hoa nhưng Ánh không thể có được nàng. Ánh không
được sống đúng là mình, không được làm những điều mình muốn bởi Ánh ở ngôi vị
đế vương, chỉ được phép cao cả, không được phép thấp hèn. Có những lúc, lòng Ánh
chỉ mong ước được là “người thường” để mặc lòng yêu ghét. Nỗi khao khát Vinh
Hoa thiêu đốt lòng Ánh đến nỗi trên đường hành quân ra Bắc mà Ánh cứ nghe "văng
vẳng tiếng hát ca nữ bên tai”. Độc giả xưa nay đều quen với những hình ảnh người
anh hùng được xây dựng là những hình tượng mẫu mực, nay Nguyễn Huy Thiệp lại
nhìn nhận những danh nhân lịch sử lỗi lạc ấy ở khía cạnh “người” quá nên một bộ
phận cộng đồng diễn giải phản kháng ông. Với họ lịch sử và danh nhân phải luôn
được tôn thờ, không được có mặt trái, không hề có khuyết điểm, không thể có tì vết.
Bởi vậy, khi tiếp cận tác phẩm của ông họ không tiếp nhận mà phản ứng, thậm chí
phản ứng kịch liệt, gay gắt.
Như vậy, có thể nói rằng chính giới hạn của chủ thể tiếp nhận trước cách nhìn
mới về thực tại của Nguyễn Huy Thiệp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những giới hạn nhất định trong quá trình tiếp nhận những sáng tác của ông.
Không phải ông sai mà tác phẩm của ông lạ, không phải độc giả kém cỏi mà nhất thời
họ chưa thể thích ứng và chấp nhận thứ văn chương lệch ra khỏi quỹ đạo quen thuộc
mà bấy lâu nay họ vẫn quen dùng.
3.2.2. Những thủ pháp nghệ thuật mới
Trong sáng tạo văn chương, nghệ thuật bao giờ cũng phải thống nhất với nội
dung. Vì vậy nghệ thuật cũng là yếu tố quan trọng đối với sự thành bại của tác phẩm.
81
Ở Nguyễn Huy Thiệp, việc sử dụng linh hoạt hệ thống các biện pháp nghệ thuật đã
khiến tác phẩm của ông để lại những ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc. Nhưng
cũng chính việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật mới lạ này đã khiến cho không ít
độc giả ngỡ ngàng và không chấp nhận, không bằng lòng. Dưới đây là một vài biểu
hiện của sự sáng tạo, cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của ông.
3.2.2.1 Nghệ thuật tạo tình huống truyện và xây dựng không khí huyền thoại có yếu
tô giễu nhại cổ tích
Tình huống truyện là một trong những yếu tố quan trọng làm nên thành công
của một tác phẩm văn học.Cái bất ngờ, éo le, ngang trái trong tình huống truyện sẽ
tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp luôn “nằm ngoài dự kiến” của tư duy độc giả. Truyện của ông không có những
cái kết đẹp, không có những nhân vật lý tưởng, hoàn hảo, có chăng chỉ là “cái bóng”
của sự hoàn hảo và lý tưởng khiến nhân vật phải mải miết kiếm tìm, đuổi bắt. Là
những câu chuyện mang màu sắc cổ tích, “Những ngọn gió Hua Tát cũng “tuân thủ”
theo đúng “quy trình” của cổ tích: tập trung vào cuộc đời của nhân vật chính, có
những “biến cố được báo trước” một cách khéo léo (VD: Trái tim hổ - Trước khi con
hổ dữ xuất hiện, năm ấy Hua Tát sống trong một mùa đông khủng khiếp. Trời trở
chứng, cây cối khô héo vì sương muối, nước đóng thành băng; …), có mở đầu - cao
trào - kết thúc… Tuy nhiên, đọc qua 10 truyện nhỏ trong “Những ngọn gió Hua Tát”,
bất cứ người đọc nào cũng dễ dàng nhận ra điểm “bất thường” của những câu chuyện
cổ ở đây: kết thúc không có hậu. Chỉ có 3/10 truyện có kết thúc tương đối “có hậu”
là: Tiệc xòe vui nhất, Nàng Sinh, Chiếc tù và bị bỏ quên. Đây có thể xem như là một
kiểu “cổ tích mới” của tác giả. Những dư vị lắng lại sau mỗi cái kết “không đẹp” của
những câu chuyện cổ tích này sẽ “nói” cho chúng ta biết rất nhiều điều về con người
và cuộc đời xung quanh mình: Trải qua gần hết đời người, Sạ trở về bản Hua Tát để
sống những ngày bình thường, giản dị nhất; để nhận ra rằng suốt một đời người, sau
bao nhiêu chuyến hành trình, sau vô vàn những khát khao, kiếm tìm, điều mà người
ta cần nhất chính là một cuộc sống “bình thường”!....Như vậy, chính thông qua tình
huống truyện mà người đọc có thể nhận ra những “thông điệp” mà tác giả muốn gửi
gắm. Cổ tích trong “Những ngọn gió Hua Tát” là một thứ cổ tích của văn học thời
hiện đại. Ở đó, có những con người, những cuộc đời, số phận chưa có đoạn kết thật
sự…Tình huống truyện chùm truyện ngắn “Con gái thủy thần” cũng là một kiểu tình
huống khá đặc biệt. Đó là kiểu tình huống xâu chuỗi, liền mạch trong cả ba truyện. Ở
82
truyện thứ nhất, đó là sự “vỡ lẽ” của nhân vật về huyền thoại Mẹ Cả. Sự thật trần trụi
đến tầm thường, dung tục của việc đôi giao long quấn chặt lấy nhau làm vẩn đục cả
một khúc sông cùng ngôi mộ của Mẹ Cả khiến người đọc ngỡ ngàng, thất vọng. Tình
huống thứ nhất có thể kết thúc tại đây. Tuy nhiên, vấn đề là chính ngay điểm kết thúc
của tình huống thứ nhất lại là điểm khởi đầu cho tình huống thứ hai: Chương quyết
định ra biển, đi tìm con gái thủy thần trong khi bản thân anh luôn biết “ngoài biển
không có thủy thần”! Tình huống này chính là cái lõi xuyên suốt tác phẩm. Những
mâu thuẫn trong suy nghĩ và hành động của nhân vật Chương đã khiến người đọc
phải cùng anh tiếp tục hành trình tìm kiếm con gái thủy thần. Bên cạnh tình huống
chính, tình huống trung tâm, Nguyễn Huy Thiệp con dụng công xây dựng những kiểu
tình huống phụ khác: tình huống gặp gỡ giữa Chương và ba người phụ nữ tên
Phượng. Chương gặp cả ba cô gái trong những hoàn cảnh khá ngẫu nhiên, nhưng lần
nào cũng vậy, điều khiến Chương ở lại bên cạnh họ đều vì họ có nét giống Mẹ Cả
trong suy nghĩ của anh. Và, điều khiến anh rời xa họ cũng chỉ vì “hình mẫu” Mẹ Cả.
Khi phát hiện ra họ không phải là Mẹ Cả, anh lại khăn gói lên đường, bắt đầu một
hành trình mới. Kiểu tình huống này khá giống nhau ở cả ba truyện. Nó gợi nhắc cho
người đọc về những “công thức”, motip của truyện cổ dân gian. Trong một chừng
mực nào đó, loại tình huống này góp phần tạo nên không khí huyền thoại cho câu
chuyện. Việc xây dựng không khí huyền thoại trong truyện Huy Thiệp ta có thể thấy
rõ trong “Những ngọn gió Hua Tát”. Đó là những câu chuyện cổ thấm đẫm màu sắc
huyền thoại. Những câu chuyện cổ của Nguyễn Huy Thiệp một mặt có vẻ như là
chuyện cổ dân gian, mặt khác, chúng có sự xử lý văn học rõ ràng của tác giả. Ngay ở
phần mở đầu, Nguyễn Huy Thiệp đã đưa người đọc vào một không gian thấm đẫm
huyền thoại: “Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ
sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể
mà thôi. Đây là một thứ không khí huyền thoại”. Bản Hua Tát “ba bề bốn bên là núi
bao bọc” lại thêm quanh năm chìm trong sương mù dày đặc khiến cho toàn bộ không
khí nơi đây càng huyền bí hơn. Những chuyện cổ ở Hua Tát đã được sinh thành và
tồn tại trong thứ không gian rất đặc biệt này, trong cái sắc vàng đến nhức mắt của hoa
cúc dại mọc quanh hồ nước nhỏ ở cuối thung lũng. “Ở Hua Tát, những câu chuyện cổ
như những bông hoa dại, màu vàng nhạt, bé như khuy áo, điểm đâu đó quanh rào,
trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm hoa này trong miệng, uống rượu không bao giờ
say. Nó cũng giống như những viên đã cuội trắng, có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm
83
kín đáo nơi lòng suối. Phụ nữ thích những viên sỏi này. Họ nhặt nó về ủ trong áo lót
đủ một trăm ngày. Khi làm đệm cho chồng, họ giấu viên sỏi ấy vào trong. Có lời
nguyền rằng, người chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tưởng đến người
phụ nữ khác”.[40,tr197] Không ai biết rõ lời nguyền này có từ đâu, nhưng người bản
Hua Tát rất tin vào nó. Vả chăng, ở đây, người ta đã quen sống chung với những
truyền thuyết, với những linh hồn, bởi lẽ “có thể những câu chuyện cổ ấy nói nhiều
đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy
nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tính người”. Sâu trong tâm thức người
dân bản luôn tin và biết rằng “những người sống trong chuyện cổ bây giờ đều không
còn nữa. Ở Hua Tát, họ đã biến thành đất bụi và tro than cả. Tuy vậy, linh hồn của
họ vẫn bay thấp thoáng trên các khau cút nhà sàn. Như những ngọn gió…”[40].Trên
cái nền không gian huyền thoại này, những câu chuyện kể về bản Hua Tát được bắt
đầu. Có thể thấy, không gian ở đây đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện ý
đồ nghệ thuật của tác giả. Thoạt đầu, người ta thấy nó có vẻ rất quen thuộc, rất cổ
tích, đầy sức hấp dẫn. Thế nhưng, càng đi sâu vào, chúng ta càng nhận ra rằng nó rất
đời, rất người, rất trần thế, trần thế đến xót xa. Trần thế lắm nên nó để lại những dư vị
đắng chát lẫn ngậm ngùi, phẫn nộ cho người đọc sau cuộc hành trình săn tìm trái tim
hổ của chàng Khó: Khi tìm thấy Khó và con hổ thì," điều kỳ lạ nhất là ngực con hổ
đã bị rạch đi, trái tim nó không còn đấy nữa. Vết rạch bằng dao còn mới, máu bết hai
bên vết đạn chảy ròng ròng, sủi thành bọt như bong bóng. Đã có kẻ nào đánh cắp
trái tim con hổ!”.[40] Vả chăng, có một câu chuyện khác đằng sau cổ tích? Một câu
chuyện của đời và của người - chuyện về những kẻ ăn cắp chiến công của đồng loại!
Mà, câu chuyện ấy, nghiệt ngã thay, nào có phải của riêng bản Hua Tát ngày ấy! Nói
cho đúng hơn, nó thuộc về con người thời đại chúng ta. Sự im lặng, cúi gằm mặt
xuống trong nỗi hổ thẹn, căm giận, chua xót của tất cả trai bản Hua Tát cùng sự im
lặng, cố quên của dân bản đã nói nhiều hơn những điều mà tác giả muốn nói: “Không
ai nhắc lại huyền thoại về sự mầu nhiệm của trái tim hổ. Người ta đã quên nó đi như
quên bao điều cay đắng xảy ra trên thế gian này”. Trong không khí huyền thoại đó
Huy Thiệp cũng rất chú ý đến yếu tố giễu nhại cổ tích:Yếu tố giễu nhại xuất hiện
gần như xuyên suốt trong 10 truyện ngắn về bản Hua Tát. Giễu nhại là “bắt chước”
cổ tích, nhưng không phải theo kiểu “sao y bản chính”, mà là “bắt chước có chủ ý”.
“Bắt chước” cổ tích để nói về những điều rất “phi cổ tích”. Cổ tích dân gian xưa đẹp
đẽ, hồn nhiên bao nhiêu thì cổ tích của Nguyễn Huy Thiệp phức tạp, đa đoan, đa sự
84
bấy nhiêu. Cổ tích xưa kết thúc bằng nụ cười, bằng hạnh phúc, bằng đại đoàn viên; cổ
tích Nguyễn Huy Thiệp kết thúc bằng những cái cúi đầu lặng im, cái chết, sự ngậm
ngùi, nuối tiếc.“Con thú lớn nhất” mở ra một cuộc hành trình tìm kiếm chiến công
và niềm khát khao được “khẳng định mình” của “tay thợ săn cự phách”. Con đường
này, không ít nhân vật cổ tích đã đi qua. Nếu trong cổ tích, nhân vật có thể trải qua
khó khăn thử thách để đạt được chiến công thì lão thợ săn già - “hiện thân thần Chết
của rừng” - cả một đời luôn khổ tâm, dằn vặt vì “khẩu súng của lão chỉ bắn được
những con vật nhỏ ngu ngốc”. Con thú lớn nhất đời lão là chính lão! Đó là cái giá
phải trả cho những khát vọng quá lớn. “Nạn dịch” kể về cuộc đời ngắn ngủi và đáng
thương của cặp vợ chồng Lù - Hếnh. Hình ảnh kết thúc chuyện là ngôi mộ chôn Lù -
Hếnh cùng với cách nhìn của người dân bản: “người già ở bản Hua Tát đặt tên nó là
mộ tình chung thủy, còn bọn trẻ con gọi là mộ hai người chết dịch”. Cùng một ngôi
mộ nhưng có hai cách gọi tên khác nhau. Người già khoác lên ngôi mộ sắc màu
huyền thoại nên gọi nó là mộ tình chung thủy. Bọn trẻ con thực tế hơn, gọi đó là mộ
hai người chết dịch. Tuy cách nhìn nhận này có phần “trần trụi” nhưng phải nói rằng
nó lại rất đúng, rất thực tế.Không khí huyền thoại cũng là một trong những thành
công của truyện ngắn Con gái thủy thần Không khí huyền thoại đầu tiên trong tác
phẩm được tạo nên bởi “lời đồn” về đôi giao long và đứa bé mới sinh dưới gốc cây
muỗm đại thụ. “Lời đồn” không được xác chứng nhưng vẫn cứ bay xa và “thuyết
phục” được mọi người “tin” vào nó. “Lời đồn” vừa là cội nguồn sản sinh huyền thoại,
vừa là ký ức cộng đồng lưu giữ huyền thoại của đời sống hoang sơ. Và, thậm chí,
ngay khi “lời đồn” đã được xác chứng, đôi khi người ta vẫn cứ “muốn tin” vào nó.
Bằng chứng là khi Chương đào mộ Mẹ Cả lên, chỉ thấy một khúc gỗ mục chẳng hình
thù gì, lúc đó, “lời đồn” lẽ ra đã được xóa bỏ. Nhưng, lạ thay, Chương vẫn “tin” là có
Mẹ Cả.Như vậy, không khí huyền thoại tiếp tục được duy trì và phủ trùm tác phẩm
cùng với chi tiết về “niềm tin” của nhân vật Chương. Chương tin vào huyền thoại Mẹ
Cả như dân gian ngày xưa tin vào những quyền năng thần thánh, “tin” không lay
chuyển, không đổi thay được. Niềm tin dẫn Chương đi từ không gian làng quê đến
không gian thành thị, đưa Chương gặp ba cô gái cùng tên Phượng - “có vẻ” như là
những “mảnh ghép” mà Mẹ Cả gửi đến cho anh. Niềm tin khiến Chương khắc khoải
hy vọng, mải miết kiếm tìm. Niềm tin dẫn đường cho Chương ra biển, dù bản thân
anh chẳng biết biển ở đâu và, “ngoài biển không có thủy thần”. Niềm tin đó chính là
kiểu niềm tin của huyền thoại - niềm tin có tác dụng tạo nên huyền thoại, chí ít là đối
85
với người sở hữu nó.Không gian bến sông là không gian quen thuộc của làng quê
Việt Nam xa xưa. Không gian nhỏ bé thôi nhưng lại chứa đựng bên trong đó vô vàn
bí mật. Chính không gian này đã sinh thành nên câu chuyện về Mẹ Cả để sau này trở
thành những ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí Chương. Bến sông và Mẹ Cả luôn gắn
chặt với nhau để tạo nên không khí huyền thoại trong truyện. Mẹ Cả phải sống ở
sông, nhưng sông rộng thế, sông lại chảy ra biển, ai mà biết Mẹ Cả ở đâu? Hơn nữa,
Mẹ Cả lại cứ thoắt ẩn thoắt hiện trong cuộc sống của Chương, muốn không tin cũng
khó! Nguyễn Huy Thiệp đã thành công khi tạo nên “độ nhòe” của sự thật trong các
tình tiết, chi tiết. Chính “độ nhòe” này góp phần tạo nên không khí huyền thoại cho
tác phẩm. Tóm lại, không khí huyền thoại đã được tạo nên bởi nhiều yếu tố khác
nhau: lời đồn, niềm tin huyền thoại, không gian bến sông và hình tượng Mẹ Cả.
Thành công của Nguyễn Huy Thiệp là đã kết hợp một cách hài hòa và sáng tạo cái
yếu tố huyền thoại để sau đó đi tìm lời “giải thiêng” cho nó và đưa nó trở về với cuộc
đời thực. Người đọc còn có thể nhận thấy yếu tố huyền thoại qua các vị thần sông,
thần nước trong Chảy đi sông ơi, thần rừng trong Sói trả thù...Từ một hướng khác,
Nguyễn Huy Thiệp còn lấy nhân vật từ lịch sử, nhân vật có gốc rễ huyền thoại, cũng
có thể qua lời đồn đại của người đời để tạo thành huyền thoại như Vinh Hoa( Phẩm
Tiết), Trương Chi (trong truyện ngắn cùng tên), Gia Long, Đặng Phú Lân (Kiếm sắc),
Nguyễn Du (Vàng lửa), Hồ Xuân Hương (Chút thoáng Xuân Hương), Nguyễn Thị Lộ
(trong truyện ngắn cùng tên)...loại truyện này nhân vật vừa được thần thánh hóa vừa
được bình dân hóa.
3.2.2.2. Đưa thơ vào văn xuôi để tăng hiệu ứng thẩm mỹ
Có thể khẳng định rằng các sáng tác của Huy Thiệp chúng tôi chưa có điều kiện
được đọc hết. Tuy nhiên tìm đọc tập truyện Những ngọn gió Hua Tát và Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp chúng tôi nhận thấy có rất nhiều truyện ngắn nhà văn đưa cả thơ
vào. Điều này cho thấy, việc đưa thơ vào văn xuôi có thể được xem là một đặc trưng
trong phong cách của ông. Xét về nguồn gốc những câu thơ trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, ta thấy có những đặc điểm sau đây: Trước hết trong các truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy nhà văn hay sử dụng thơ mượn của các nhà
thơ khác.Những vần thơ đã rất quen thuộc với người yêu Truyện Kiều của Nguyễn
Du như Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung được xuất hiện trong Kiếm sắc hoặc
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn (mượn thơ Trần Tế Xương) ở truyện Giọt
máu hoặc ' Tuổi son má đỏ môi hồng.Bước chân về đến nhà chồng là thôi (mượn thơ
86
Nguyễn Bính) trong Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt. Ngoài ra còn xuất hiện ở các
truyện Sang sông (mượn thơ Nguyễn Gia Thiều); Chút thoáng Xuân Hương (mượn
thơ Hồ Xuân Hương); Nguyễn Thị Lộ (mượn thơ Nguyễn Trãi;), Ngoài ra bằng
những câu thơ của chính mình sáng tác, tác giả Huy Thiệp đã làm cho truyện ngắn
của chính mình tăng chất tự sự trữ tình. Những câu thơ:
''Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng làm chi? [40, tr11]
đã làm tăng chất thơ trong văn xuôi của Huy Thiệp. Ta có thể gặp thơ của Huy Thiệp
qua các truyện: Tướng về hưu; Chảy đi sông ơi; Những bài học ở nông thôn; Huyền
thoại phố phường…
Bên cạnh đó những câu thơ ca dân gian được nhà văn sử dụng lại theo cách
của mình. Đây là những câu ca dân gian đã in dấu trong kí ức tuổi thơ của mỗi con
người " Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì về cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú tí..."[40]
(Hát dỗ em) Trích ở Những người thợ xẻ; điển hình trong các truyện: Con gái
thủy thần; Những người thợ xẻ…
`Về đặc điểm sử dụng thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy có
những nét nổi bật sau: Thơ được dùng làm đề từ, chẳng hạn như trong tác phẩm
Trương Chi với lời đề nhà văn chọn ngay lời trích Truyện cổ
" Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu hát thì thậm hay"
Ở các truyện khác như Con gái thủy thần; Những người thợ xẻ, Phẩm tiết…ta
cũng gặp tương tự như vậy.
Nhà văn còn dùng thơ được để làm lời hát của các nhân vật, và cũng từ đó ta
thấy được rõ hơn cuộc sống thực dụng của con người nơi đô thị. Đây là lời thơ và
cũng là lời hát của anh thanh niên trong đám cưới ngoại ô lố lăng:
Ừ...ê...cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
87
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta [40]
Ừ...ê...cái con gà rù..." trong: Tướng về hưu. Ở các tác phẩm khác cũng có hiện
tượng như vậy như Chương Chi, Những bài học nông thôn; Phẩm tiết…Hoặc nhà
văn dùng thơ để bộc lộ dòng suy nghĩ của nhân vật, điển hình như: Những bài học
nông thôn (suy nghĩ của nhân vật Lâm); Sang sông (suy nghĩ của nhân vật ông
giáo); Thương nhớ đồng quê (suy nghĩ của nhân vật xưng “tôi”); Trong Chăn trâu cắt
cỏ thơ và cũng là suy nghĩ của nhân vật Năng
Tôi nghĩ
Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất )…[40]
Cá biệt, trong truyện ngắn “Tội ác và trừng phạt”, Nguyễn Huy Thiệp dùng thơ
thay cho bài tụng của vị sư Lục tổ Huệ Năng.Có thể thấy, việc sử dụng thơ song hành
với văn xuôi trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra những hiệu ứng thẩm mỹ và
đặc trưng rõ nét về phong cách. Điều này tạo nên tính giao thoa, sự hòa quyện giữa
thơ và văn xuôi. Đó là sự dung hòa tuyệt diệu giữa một thể loại mang đậm tính tự sự
và một thể loại mang đậm tính trữ tình. Mặt khác, nó góp phần phá vỡ tính cứng nhắc
về nguyên tắc thể loại, giúp tác giả có điều kiện thể hiện đa chiều tư tưởng của mình.
Cũng cần nói thêm, việc đưa thơ vào văn xuôi không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên,
các tác giả trước đây chủ yếu lấy thơ làm đề từ cho văn xuôi (Như trong Tùy bút Sông
Đà của Nguyễn Tuân) hoặc đưa thơ vào văn với một tỉ lệ khiêm tốn. Đến Nguyễn
Huy Thiệp, tác giả đã sử dụng thơ như một phương tiện nghệ thuật độc đáo và tạo
được hiệu ứng thẩm mỹ rõ nét.
3.2.2.3. Ngôn ngữ trong truyện
Ngôn ngữ mà Nguyễn Huy Thiệp hay sử dụng cho các nhân vật là ngôn ngữ
sinh hoạt đời thường với lời ăn tiếng nói hàng ngày thậm chí là thô tục. Ví như giọng
của lão Kiền ít học, chẳng biết sợ ai: "Đồ ruồi nhặng! Học với chả hành! Người ta
dạy dỗ mày cơm toi". Còn đây là giọng Đoài người con - một trí thức vậy mà "Mất
thì giờ bỏ mẹ, Ai đồng ý cho bố chết, giơ tay, tôi biểu quyết nhé". Ngôn ngữ táo tợn
đã lột trần những ý nghĩ, những thèm khát mà con người cứ phải che đậy. Chỉ cần
thông qua ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Huy Thiệp đã cho ta thấy rõ hơn bản chất các
88
nhân vật trong truyện ngắn. Bạn đọc còn thấy, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy
Thiệp sử dụng khá nhiêu ngôn ngữ tỉnh lược. Kiểu ngôn ngữ này đôi khi khiến người
đọc khó chịu, nhất là những độc giả đã quen với một lối viết văn đi kèm những lời
giải thích rõ ràng. Phép tỉnh lược khiến cho người ta thấy văn chương sao lại cộc lốc,
khô khan đến thế. Chẳng hạn, đoạn đối thoại trong " Mưa":"họ trốn chứ?" "- Đúng
vào phút cuối cùng thì họ từ bỏ ý định, từ bỏ lời thề." " khốn khiếp ?" " Ừ..." Lời
thoại cộc lốc qua lại như thế, có những người chẳng hiểu rằng ai đang nói với ai, vậy
nên họ đọc nhưng họ thấy khó chịu. Thậm chí trong truyện của mình, nhà văn cố tình
dùng tiếng chửi để bộc lộ cái nhìn chủ quan của người kể chuyện và xây dựng ngôn
ngữ nhân vật. Chẳng hạn Lão Kiền là “vua”, giữ nền nếp, tôn ti trong gia đình nhưng
phát ngôn của lão thường bắt đầu bằng tiếng chửi thề: “mẹ cha chúng mày”, “cha
chúng mày”, “mẹ kiếp”… Lão chửi bất cứ ai và bất cứ thời điểm nào. Và đây là tiếng
chửi của Bường trong "Những người thợ xẻ':" Tiên sư đời, khốn nạn chưa " hay " Đồ
chó..." Việc Nguyễn Huy Thiệp đưa vào tác phẩm của mình quá nhiều những “tiếng
lóng” và “tiếng chửi” làm cho người đọc có cảm giác rằng ông đang thô tục hóa văn
chương. Xưa nay người ta vẫn quen rằng ngôn ngữ văn chương là thứ ngôn ngữ được
trau chuốt, gọt giũa, dễ nghe. Nay người ta lại chứng kiến một hiện thực đảo ngược
lại và người ta không chấp nhận điều đó.
3.2.2.4. Kết cấu truyện để ngỏ (kết thúc mở)
Đây là kiểu kết thúc rất dân chủ nhà văn muốn bạn đọc đồng sáng tạo với mình.
Ở văn học truyền thống, các truyện kể dân gian thường có cách kết cấu theo trình tự
thời gian và điều này được tuân thủ một cách rất chặt chẽ, kết thúc truyện có hậu ví
như cổ tích Tấm Cám, Sọ Dừa...Trong hầu hết các câu chuyện cổ tích, trật tự này
không có sự đảo lộn. Đến văn học hiện đại thì cách mở đầu và kết thúc câu chuyện đã
ít nhiều có sự cách tân: cách mở đầu và kết thúc ở nhiều truyện ngắn hiện đại khác
hẳn với cách kết cấu truyền thống. Ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, điều này lại
khác nữa. Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có mở đầu rất ngắn gọn,
nhanh chóng đi vào nội dung chính chứ không cầu kì, rườm rà, lan man, dài dòng,
đặc biệt là chùm chuyện “Những ngọn gió Hua Tát”: “Ngày ấy, ở Hua Tát có một cô
gái tên là Pùa. Sắc đẹp của nàng khắp các mường không ai bì kịp, da trắng như
trứng gà bóc, tóc mượt và dài, môi đỏ như son. Chỉ khổ một nỗi là Pùa bị liệt hai
chân, suốt năm suốt tháng nằm một chỗ” (Trái tim hổ). Chính vẻ đẹp mê hồn của Pùa
là nguyên nhân khiến cho bao chàng trai Hua Tát sẵn sàng liều mình đi tìm phương
89
thuốc thần diệu chữa bệnh cho Pùa - trong đó có chàng Khó... Nếu trong văn xuôi
truyền thống, người đọc đã rất quen với những kết thúc khép kín, nghĩa là ở đó người
ta không chờ đợi một sự quay ngược hay thay đổi nào nữa của câu chuyện, câu
chuyện kết thúc là độc giả có thể yên tâm gấp sách lại mà không hề phải băn khoăn,
lo lắng cho số phận của nhân vật thì ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp điều này hoàn
toàn có thể xảy ra. Mở đầu theo công thức truyền thống, dẫn dắt người đọc đi từ lai
lịch, xuất xứ nhân vật, sự kiện nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã phá bỏ những phán đoán
tuân theo quy luật lôgíc thông thường để tạo ra những cách kết thúc mới, buộc người
đọc phải suy nghĩ, trăn trở. Nói cách khác là ông kéo người đọc vào quá trình đồng
sáng tạo thực thụ với mình. Mở đầu theo lối truyền thống, kết thúc theo lối hiện đại,
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trở thành những kết cấu để ngỏ để bạn đọc tự hiểu.
Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy ông đã sáng tạo ra
nhiều kiểu kết thúc bỏ ngỏ khá độc đáo: kết thúc bỏ lửng, kết thúc với nhân vật chính
tiếp tục ra đi, kết thúc mở ra nhiều kiểu khác nhau trong việc giải quyết các xung đột
và số phận nhân vật, kết thúc đảo ngược so với cổ tích, và thực tế lịch sử, trong một
số truyện ngắn của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng kiểu kết thúc bỏ lửng. Kết
thúc khi sự việc chưa hoàn chỉnh, nhân vật chưa đi hết con đường đời của mình cũng
như số phận của nhân vật chưa được ngã ngũ.Chúng ta có thể thấy kiểu kết thức để
ngỏ qua câu chuyện Trái tim hổ trích trong Những ngọn gió Hua Tát. Kiểu kết thúc
“không có hậu” này không có trong cổ tích xưa. Có “kẻ nào” đã cướp công của Khó!
“Kẻ nào” ấy không phải như “Lý Thông” trong chuyện “Thạch Sanh” vì ít nhất,
Thạch Sanh còn biết kẻ nào đã cướp công mình và cuối cùng anh cũng được “nhận
công” xứng đáng khi mọi việc sáng tỏ. Yếu tố “giả cổ tích” của Nguyễn Huy Thiệp
nằm ở đấy, ngay trong cái “bất thường” của cổ tích truyền thống. Cổ tích là giả nhưng
“vấn đề” bên trong cái giả đó lại rất thật. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người
đọc sẽ triền miên trong cảm giác day dứt. Không có vua, một truyện ngắn viết về hiện
thực của cuộc sống thành thị được xem là khá thành công của Nguyễn Huy Thiệp.
Trong số rất nhiều nhân vật và sự kiện, Nguyễn Huy Thiệp chọn ra và dừng lại khá kĩ
ở một số các sự việc tiêu biểu của một đại gia đình không còn tôn ti trật tự, và kết
thúc ở “ngày thường”. Trong quỹ thời gian vô cùng, vô tận của dương thế có biết bao
nhiêu ngày là “ngày thường”? Bản chất con người có lẽ cũng dễ được biểu hiện trong
những trạng thái cuộc sống bình thường như vậy. Cuộc sống của một gia đình với
biết bao sự kiện lớn nhỏ đã xảy ra. Có người chết đi, có người được sinh ra, có người
90
tiếp tục con đường học vấn nhọc nhằn, có người nhăm nhe lập gia đình riêng …Và
rốt cục, cuộc sống của gia đình họ sẽ thế nào? Đoài có buông tha cho Sinh? Cấn có
đối xử tử tế hơn với vợ không khi con gái họ ra đời? Cuộc đời Khảm, Khiêm và Tốn
sẽ thế nào? Không ai biết được, kể cả tác giả, và người đọc sẽ cứ băn khoăn, day dứt
mãi với rất nhiều câu hỏi trước kiểu kết thúc bỏ lửng như vậy của tác phẩm.Một kiểu
kết thúc khác mà ta có thể gặp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là kiểu kết thúc
mà cuối cùng nhân vật chính tiếp tục ra đi. Các truyện ngắn: Con gái thuỷ thần,
Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Thiên văn … Trong Con gái thuỷ
thần, điều nung nấu tâm can Chương khiến anh từ bỏ tất cả để ra đi chính là sự vẫy
gọi của huyền thoại Mẹ Cả. Trải qua rất nhiều thời gian tìm kiếm, dường như Chương
chỉ gặp toàn những thất bại. Cũng có lúc anh tưởng mình đã tìm thấy con gái thuỷ
thần, nhưng cuối cùng anh mới vỡ lẽ: Những người phụ nữ tên Phượng mà anh đã
gặp chỉ là những mảnh vụn của nàng mà thôi. Không nản lòng, anh lại tiếp tục một
cuộc hành trình mới, cứ thế, trước mặt anh lúc nào cũng là “dòng sông thao thiết
chảy. Sông chảy ra Biển” và “biển không có thuỷ thần”. Một câu hỏi mãi là niềm
nhức nhối dày vò trái tim anh, bất cứ lúc nào cũng bật ra thống thiết “Con gái thuỷ
thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì? Bởi cái gì? Để tôi mượn màu son phấn
ra đi?”. Thời gian của câu chuyện không có điểm dừng như trong kiểu kết thúc truyền
thống, và điều đó mở ra không gian không giới hạn trong hành trình kiếm tìm của
nhân vật và sự tưởng tượng vô hạn trong lòng độc giả về những cuộc hành trình tiếp
theo của nhân vật trên bước đường chinh phục những khát vọng cao đẹp. Trong Cánh
buồm nâu thủa ấy, sự ra đi đường đột của nhân vật Nhi là điểm mốc phá vỡ cuộc
sống yên ổn của gia đình ông Hân, bà Lành. Cũng chính sự biệt tăm biệt tích của cô
đã khiến cho hai kẻ già nua mong ngóng, đau khổ, kiếm tìm và tuyệt vọng. Trở về
thăm lại quê hương sau bao tháng ngày đằng đẵng cách xa, lúc những kẻ sinh thành
đã yên nghỉ dưới lớp cỏ xanh, Nhi cũng không có nổi thời gian để khắc cho cha mẹ
một tấm bia mộ. Cô vội vã ra đi, vội vã thu vén cho cái hạnh phúc riêng của mình.
Câu chuyện khép lại với hình ảnh: “Nhi vào đình làng gửi tiền công đức rối mấy mẹ
con ríu rít xuống thuyền. Cánh buồm nâu quay đầu, lặng lẽ xuôi dòng tìm đường ra
biển”. Người đọc chắc sẽ hụt hẫng nhiều với cách kết thúc câu chuyện như vậy cũng
như rất khó lí giải về tính cách cũng như bản chất nhân vật Nhi. Không đưa ra cách
kết luận duy nhất, không nói lời cuối cùng với bạn đọc, Nguyễn Huy Thiệp còn sáng
tạo ra một kiểu kết thúc khác lạ: đưa ra nhiều khả năng lí giải về số phận nhân vật
91
cũng như giải quyết các xung đột. Trong đó,Vàng lửa là một truyện điển hình. Trong
Vàng lửa, người kể chuyện với lí do không biết kết thúc câu chuyện thế nào mặc dù
đã cố gắng “cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏi han nhiều bô lão” nên đã “hiến
người đọc ba đoạn kết này để bạn đọc tuỳ ý lựa chọn”: Không chỉ được quyền “tuỳ ý
lựa chọn”, qua ba đoạn kết này, người đọc còn có thể nhìn nhận về nhân vật, sự kiện
ở ba điểm nhìn khác nhau. Trong đoạn kết một, cùng với cái chết của Phăng do vua
An Nam đầu độc, Phăng đứng ở vị trí cao với tư cách của một nhà tư tưởng. Ở đoạn
kết hai, Phăng hiện lên với tư cách một tên thực dân đi ăn cắp ở một nước thuộc địa.
Những gì Phăng nói vẫn là lấy tư cách một nhà tư tưởng với sứ mệnh “khai hoá văn
minh” cho nước thuộc địa, điều này khiến y được nhà vua ban thưởng, và như vậy,
Phăng đã tự lừa dối mọi người và lừa dối chính mình. Đoạn kết thứ ba lại mở ra một
góc nhìn nhận khác: Phăng và toàn bộ những nhận xét đánh giá của y về mảnh đất và
con người An Nam hoàn toàn chỉ là những nhận định của người ngoài cuộc. Phăng đã
sai khi tưởng rằng mình đã nắm bắt được bản chất con người. Thực tế phũ phàng đã
dội vào Phăng một đòn chí mạng khi Phăng và cả đoàn tìm vàng bị lính triều đình bao
vây và tiêu diệt hết… Tuy nhiên cách đưa ra ba cách kết thúc, tác giả đồng thời đưa
ra nhiều cách nhìn cho người đọc về một tác phẩm từng gây nhiều sóng gió nhất trên
văn đàn thời kì đổi mới. Thêm nữa khi trong một thời gian dài độc giả quen với
những câu chuyên có đầu có cuối rõ ràng, đọc xong họ thấy thoải mái, mãn nguyện
thì khi va phải những truyện của Nguyễn Huy Thiệp họ thấy mới khó chịu làm sao.
Có quá nhiều tác phẩm của ông là kết thúc bỏ ngỏ, họ cho rằng đó là sự không rõ
ràng, kết thúc mờ mịt quá. Có những người khi đọc xong câu chuyện họ hoang mang,
mơ hồ, không biết phải diễn giải như thế nào cho câu chuyện được rõ nghĩa. Những
người quen chìm trong những câu chuyện ngọt ngào, kết thúc tốt đẹp như ru ngủ độc
giả, gấp sách lại họ có thể mơ màng mỉm cười mong ước giá như mình có thể được là
những nhân vật ấy hay chí ít được gặp những nhân vật ấy một lần trong đời thực thì
kì thực khi đọc truyện của Thiệp chẳng khác nào bị dội một gáo nước lạnh buốt vào
mặt giữa trời mùa đông. Bởi thế họ tức giận, phẫn uất, khó chịu. Và đó cũng là một
giới hạn rất đáng tiếc trong việc tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp.
Như vậy, qua một số vấn đề mà chúng tôi đã trình bày ở trên có thể nhận thấy
rằng còn khá nhiều những giới hạn trong quá trình tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy
Thiệp. Giới hạn đó có thể do chủ thể sáng tạo mới mẻ quá, có thể do cộng đồng diễn
giải chưa theo kịp chuẩn thẩm mĩ mới, cũng có thể giới hạn xuất phát từ những
92
nguyên nhân khách quan khác mà trong phạm vi luận văn này chúng tôi chưa có điều
kiện đề cập tới. Tuy nhiên cần phải nói rằng, muốn đọc và hiểu tác phẩm của Nguyễn
Huy Thiệp một cách sâu sắc thì cần phải có một tư duy đọc mới. Người sáng tác khi
chọn con đường đi của riêng mình họ cũng đã có những dự tính và sẵn sàng đón nhận
những phản ứng khác nhau từ phía bạn đọc, nhưng không vì thế mà họ từ bỏ lối viết
mà mình đã lựa chọn. Phải có những lối viết mới, những bạo dạn mới thì chúng ta
93
mới có thể xây dựng được một nền văn học mới và một chuẩn thẩm mĩ mới.
KẾT LUẬN
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo được sự chú ý của đông đảo chủ thể
tiếp nhận. Với cách viết dân chủ, đối thoại cùng bạn đọc, nhà văn đã khám phá nhiều vấn
đề của cuộc sống. Mỗi tác phẩm của ông ra đời đều gây ra những cuộc tranh luận. Để
hiểu được vì sao lại có làn sóng phản ứng như vậy đòi hỏi độc giả phải có cái nhìn khách
quan, khoa học và lí thuyết tiếp nhận chính là một công cụ đắc lực để soi sáng những
hiện tượng này.
1. Trong văn học, tiếp nhận là một hoạt động không thể thiếu, nó đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong việc hình thành những giá trị đích thực của tác phẩm cũng
như thể hiện vai trò bình đẳng giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận. Nếu Lí luận
văn học tiền hiện đại và hiện đại lấy sáng tác của nhà văn làm trung tâm, chỉ quan
tâm đến vấn đề tác phẩm văn học ra đời như thế nào và quan tâm đến vấn đề tác giả
thì Lí luận văn học hậu hiện đại lại quan tâm đến văn bản và người đọc. Theo đó tác
phẩm văn học sẽ tạo lập được đời sống riêng thông qua người đọc, sẽ trở nên phong phú
và không thể khoanh vùng với nhiều lớp nghĩa khác nhau ẩn sau lớp câu chữ phi vật thể.
Và chỉ khi có hoạt động đọc văn bản của độc giả thì văn bản mới thực sự trở thành tác
phẩm hay nói khác đi có văn bản nhưng chưa thể thành tác phẩm nếu không có sự tiếp
nhận của bạn đọc. Chính hoạt động đọc rồi khen chê, thẩm bình đã làm cho văn bản luôn
sống động. Từ đây quá trình văn học không chỉ là tổng số các văn bản mà còn là sự thay
đổi quan niệm thẩm mĩ trong quá trình tiếp nhận văn học của cộng đồng diễn giải, là sự
chủ động tác động của người tiếp nhận lên văn bản văn học.
Như vậy lí thuyết tiếp nhận rất đề cao vai trò của người đọc, hành động đọc của
chủ thể tiếp nhận trong quá trình tạo nghĩa của văn bản. Thêm nữa khi đứng trước một
văn bản, mỗi người đọc lại có một sự cụ thể hóa văn bản khác nhau, mỗi người đọc có
một tầm đón đợi khác nhau. Việc đọc văn bản còn phụ thuộc vào từng cá nhận , trình độ
văn hóa, thẩm mĩ của mỗi người vì vậy mà mỗi bạn đọc lại đem lại cho văn bản một nét
nghĩa khác nhau Do đó tác phẩm văn học không tĩnh mà động và việc đọc là một quá
trình tạo nghĩa không ngừng.
2. Trong không khí đổi mới sôi nổi của văn học sau 75, Nguyễn Huy Thiệp nổi
lên là cây bút lạ với những sáng tạo và cách tân độc đáo.Với cách nhìn và lối chiêm
nghiệm riêng, Huy Thiệp đã đi vào khám phá những mảnh đời nham nhở của thời
94
hiện đại. Nhà văn dám miêu tả cả những xấu xa hèn kém nhất và cả nỗi cô đơn của
con người. Tác phẩm của ông gây xôn xao dư luận và làng bút văn. Quá trình tiếp
nhận truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra sự phản hồi đầy mâu thuẫn..
Người khen cũng nhiều mà người chê cũng lắm về các tác phẩm. Vô hình chung xung
quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo thành 2 luồng dư luận phản đối và ngợi
ca. Các ý kiến ca ngợi truyện Huy Thiệp chính là sự phản hồi tích cực của bạn đọc
trong và ngoài nước. Ở đó chủ thể tiếp nhận đi sâu vào những nét mới mẻ,cách tân
táo bạo trong lối viết của Nguyễn Huy Thiệp. Người ta khen Huy Thiệp dám viết về
những con người đời thường với muôn vẻ trắng đen bi hài;Thậm chí nhà văn đã làm
cho các nhân vật lịch sử được đời thường hóa..Điều đó thể thiện ở các tập truyện
"Những ngọn gió Hua Tát", "Muối của rừng'', "Tướng về hưu" và bộ ba truyện ngắn
"lịch sử giả": Vàng lửa, Phẩm tiết và Kiếm sắc. Tuy nhiên bên cạnh các ý kiến đồng
tình là những lời chê bai truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Chủ yếu bạn đọc tập trung
vào truyện Tướng về hưu và bộ ba truyện ngắn lịch sử giả. Nổi bật như là các ý kiến
phê phán của Nguyễn Thúy Ái, Đỗ Văn Khang, Tạ Ngọc Liễn... Việc dư luận đọc rồi
khen và chê sáng tác Huy Thiệp chính là biểu hiện của tiếp nhận văn học bởi văn bản
của nhà văn đã xác lập được đời sống riêng thông qua người đọc.Từ hoạt động đọc
rồi đồng tình ngợi khen và phản đối chê bai sáng tác của nhà văn Huy Thiệp đã làm
cho đời sống văn học trở nên sôi động hơn. Tác phẩm của nhà văn sẽ còn có nhiều ý
kiến đánh giá khen chê khác nhau cùng với sự thay đổi không ngừng của tầm đón đợi
của độc giả. Điều đó càng cho thấy giá trị của tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp trong lòng bạn đọc và vị trí, công lao của nhà văn trong Văn học đổi mới. Nhìn
từ sự tiếp nhận của người đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra một tiếng
vang lớn trên văn đàn. Những cuộc tranh luận trái chiều kẻ khen người chê đã cho
thấy sức hút của truyện ngắn và tài năng của nhà văn. Dù thế nào chăng nữa bạn đọc
đều thừa nhận Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn thực tài có tâm và truyện ngắn của
ông sẽ còn mãi thu hút bạn đọc..
3. Lí giải nguyên nhân hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp không thể không nói đến
vai trò của cộng đồng diễn giải và chủ thể tiếp nhận. Bởi văn học sẽ không đúng
nghĩa là văn học nếu như không có quá trình tiếp nhận. Quá trình tiếp nhận cũng sẽ
không trọn vẹn nếu không có chủ thể tiếp nhận và không có một cộng đồng diễn giải
nhất định. Cộng đồng diễn giải đứng sau văn bản và người đọc, tạo lập và nuôi dưỡng
cả hai, quy định phương thức tồn tại đặc trưng của văn bản văn học. Và chính cộng
95
đồng diễn giải góp phần quan trọng tạo nên chuẩn thẩm mĩ truyền thống và chuẩn
thẩm mĩ mới Qua thực tế tìm hiểu khảo sát nghiên cứu về Truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp nhìn từ sự tiếp nhận của người đọc, chúng tôi nhận thấy: Việc tiếp nhận truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp tạo thành 2 xu hướng ngợi ca và phê phán. Bên cạnh nguyên
nhân do giới hạn của cộng đồng diễn giải, do chuẩn thẩm mĩ truyền thống và chuẩn
thẩm mĩ mới chi phối thì giới hạn của chủ thể tiếp nhận cũng ảnh hưởng lớn đến vấn
đề tiếp nhận truyện ngắn của nhà văn. Chính những đổi mới về cách nhìn thực tại, đổi
mới về hiện thực, đổi mới về quan niệm con người.. cùng với đó là những cách tân về
phương diện diện nghệ thuật độc đáo mới mẻ như Nghệ thuật tạo tình huống truyện
và xây dựng không khí huyền thoại có yếu tô giễu nhại cổ tích; việc đưa thơ vào văn
xuôi để tăng hiệu ứng thẩm mỹ, lối kết thúc mở,... khiến cho một bộ phận cộng đồng
diễn giải đã quen với tầm đón đợi cũ, quen với chuẩn thẩm mĩ truyền thống khó
chịu, họ cho rằng Nguyễn Huy Thiệp hạ bệ và phủ định mọi thứ thuộc về lịch sử
và quá khứ, chính thế họ phản ứng gay gắt. Suy cho cùng cũng do mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng diễn giải có một cách đọc khác nhau, chịu sự chi phối của những
chuẩn thẩm mĩ khác nhau nên tiếp nhận tác phẩm theo những nghĩa không tương
ứng với nhau. Vì thế luận văn này giúp người đọc định hướng một cách đọc mới
để tiếp cận giá trị những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng và bất cứ tác
phẩm văn học nào nói chung.
4. Qua luận văn này chúng tôi nhận thấy: Việc tranh cãi về truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp đều liên quan đến vai trò của của chủ thể tiếp nhận - người đọc. Mỗi
người đọc khi đến với tác phẩm Huy Thiệp với một gương mặt khác nhau do trình độ,
văn hóa thẩm mĩ và cảm xúc khác nhau. Vì vậy mỗi lần đọc, cá nhân lại rút ra những
ý nghĩa khác nhau từ truyện ngắn của nhà văn. Từ đó mà ý nghĩa của truyện ngắn
Huy Thiệp không cố định mà sẽ là quá trình tạo nghĩa không ngừng thông qua người
đọc. Và truyện ngắn của nhà văn đã, đang và sẽ không ngừng được thiết lập và bổ
sung những nét nghĩa mới, điều mà bạn đọc trước đó chưa khám phá được hết. Đây
chính là câu chuyện của Tiếp nhận văn học. Bởi còn có tranh luận bàn cãi có nghĩa là
truyện ngắn của nhà văn còn có sức hút với công chúng văn học.
Trải qua rất nhiều những ý kiến khen chê, đến nay truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp vẫn được khẳng định với những giá trị nhất định. Điều đó cho thấy truyện ngắn
của ông luôn trong quá trình vận động, thông qua quá trình đọc, chủ động đồng sáng
tạo của độc giả. Người đọc có thể nhận thấy và hiểu hơn về đóng góp của nhà văn
96
trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà. Đánh giá về công lao của Huy Thiệp
chúng ta không phải nhìn nhận vào số lượng tác phẩm mà chính là ở chất lượng tác
phẩm. Điều này đã được lịch sử tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ghi nhận.
Đóng góp lớn nữa của Huy Thiệp còn là nhờ cách viết mới mẻ, lạ hóa của nhà văn
còn giúp cho tầm đón đợi, trình độ văn hóa, thị hiếu thẩm mĩ, nhu cầu thưởng thức
văn chương của độc giả còn có cơ hội được nâng lên. Với những đóng góp lớn lao về
cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật - truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng
trở thành một món ăn tinh thần đầy hữu ích cho độc giả nhiều thế hệ cả ở trong nước
lẫn ngoài nước. Và câu chuyện tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp sẽ còn được
97
tiếp diễn bởi đọc là một quá trình tạo nghĩa không ngừng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Xuân Ba (1990), "Tản mạn tại nhà Nguyễn Huy Thiệp", Báo Tiền phong, số Xuân.
2. Nguyễn Thị Bình (1996), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995 những đổi mới cơ bản,
Nxb Giáo dục.
3. Phạm Thị Thanh Bình (2006), Đặc trưng phản ánh nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.
4. Ngô Thị Lệ Chi (2014), "Giới hạn của sự diễn giải văn bản văn học qua lịch sử
tiếp nhận sáng tác Nguyễn Huy Thiệp", luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Dân (1986), “Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên quan điểm
liên ngành”, Tạp chí Văn học số 4.
6. Nguyễn Văn Dân (1991), Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, TTKHXH, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lí luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục.
8. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, NXb văn học.
9. Nguyễn Đăng Điệp (2006), "Trương Đăng Dung: hành trình đến với phương thức
tồn tại của tác phẩm văn học", Tạp chí Sông Hương.
10. Nguyễn Đăng Điệp, "Trương Đăng Dung: hành trình đến với phương thức tồn tại
của tác phẩm văn học", Sông Hương, nghiên cứu và bình luận.
11. Trương Đăng Dung (1988), "Từ văn bản đến tác phẩm văn học", Nxb Khoa học
và Xã hội, Hà Nội.
12. Trương Đăng Dung (2000), "Những giới hạn của lịch sử văn học", Tạp chí văn
học, số 6.
13. Trương Đăng Dung (2001), "Những đặc điểm của hệ thống lí luận văn học macxit
thế kỉ XX”, Tạp chí văn học, số 7.
14. Trương Đăng Dung (2002), "Phương thưc tồn tại của tác phẩm văn học”, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 8.
15. Trương Đăng Dung (2004), "Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa", Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 3.
16. Trương Đăng Dung (2004), "Những giới hạn của phê bình văn học", Tạp chí
98
nghiên cứu văn học, số 7.
17. Trương Đăng Dung (2004), "Trên đường đến với tư duy lí luận văn học hiện đại",
Tạp chí nghiên cứu văn học, số 12.
18. Trương Đăng Dung (2008), "Những giới hạn của cộng đồng diễn giải", Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 9.
19. Trương Đăng Dung (2011), "Khoa học văn học tiền hiện đại", Nghiên cứu văn
học, số 6.
20. Trương Đăng Dung (2011) "Khoa học văn học hiện đại, hậu hiện đại", Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 8.
21. Trương Đăng Dung (2012), "Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại",
Nghiên cứu văn học, số 1.
22. Trương Đăng Dung (2013), "Những giới hạn của lí thuyết văn học nước ngoài ở
Việt Nam", Tạp chí nghiên cứu văn học, số 11.
23. Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học nhìn từ lí thuyết tiếp nhận, Nxb Khoa học
xã hội.
24. Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học nhìn từ lí thuyết tiếp nhận, Giáo trình lí
luận văn học cho học viên Cao học.
25. Hà Minh Đức (2008), Lí luận văn học, của giáo sư, Nxb Giáo dục.
26. Mai Thị Liên Giang (2007), Vấn đề chủ thể tiếp nhận qua lịch sử tiếp nhận Thơ
Mới, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
27. Hans Robert Jauss (2002), "Lịch sử văn học như là khiêu khích đối với khoa học văn
học" (Trương Đăng Dung dịch và giới thiệu), Văn học nước ngoài số 1, tr71-112.
28. Trần Thị Diễm Hằng (2010), Luận văn thạc sĩ Vấn đề tiếp hận truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, ĐH Sư Phạm Hà Nội 2.
29. Bùi Hiển (1989), "Gắn bó tâm huyết với công cuộc đổi mới", Tuần báo Văn nghệ,
số 49.
30. Đỗ Đức Hiểu (2002), Đổi mới và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
31. Nguyễn Thanh Hùng (1990), “Trao đổi thêm về tiếp nhận văn học”, Văn nghệ, số 42.
32. Mai Hương, "Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi",
99
hhtp/www.Irc.ctu.edu.vn
33. Lê Đình Kỵ (1998), "Gặp gỡ và trao đổi với Nguyễn Huy Thiệp", Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số 5-6
34. Nguyễn Lai (1990), "Tiếp nhận văn học - một vấn đề thời sự", Báo Văn nghệ, số 28.
35. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo dục,
Hà Nội
36. Nguyễn Văn Long (chủ biên), (2006), Văn học Việt Nam sau 1975- những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy, NXb Giáo dục, tr.323.
37. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb. Giáo dục.
38. Phương Lựu (2004), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
39. Nguyên Ngọc (1990), "Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay", Báo Văn nghệ,
số 15, 14/04/1990
40. Nguyễn Huy Thiệp truyện ngắn (tái bản 2005), Nxb hội nhà văn, Hà Nội.
41. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp,
Nxb Văn hoá Thông tin.
42. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn, Hà nội.
43. Trần Thị Xuân Nhiệm (2015), Luận văn thạc sĩ Nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy thiệp nhìn từ tâm thức hiện sinh, Học Viện Khoa học Xã Hội.
44. Nhiều tác giả (1989), “Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm và dư luận”, Tạp chí Sông
Hương, NXB Trẻ.
45. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn.
46. Trần Đình Sử (2004), “Mấy vấn đề lý luận về phê bình văn học”, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học, số 7, tr.34 - 35.
47. Nguyễn Thanh (1988), "Về truyện ngắn Phẩm tiết", Tạp chí Văn học, TP Hồ Chí
Minh số 1.
48. Bùi Bình Thi (1988), “Trả lời phỏng vấn sau Hội nghị BCH Hội Nhà văn Việt
Nam”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 11
49. Đỗ Lai Thúy (2007), "Người đọc hành trình từ cổ điển đến hiện đại", Tạp chí
Sông Hương, số 218, tr.72.
50. Đỗ Lai Thúy, "Trương Đăng Dung những con chữ không đồng hành", Trích từ
sách "chân trời có người bay"
51. Phan Thị Thủy (2005), Từ mô hình diễn giải tác phẩm văn học đến hiện tượng
100
tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn thạc sĩ, Vinh.