VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HẠNH DUNG
TỪ CHỈ ĐẦU TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HẠNH DUNG
TỪ CHỈ ĐẦU TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8 22 90 20
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao
chép của ai. Các kết quả khảo sát và miêu tả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Hạnh Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT .................................................................. 13
Chương 2 NGHĨA CỦA TỪ “ĐẦU” TRONG TIẾNG VIỆT VÀ “头”
TRONG TIẾNG HÁN .................................................................................. 24
2.1. Quá trình phát triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt ............................... 24
2.2. Quá trình phát triển nghĩa của từ “头” trong tiếng Hán ................................ 29
2.3. Đối chiếu quá trình phát triển nghĩa từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán38
CHƯƠNG 3 CÁC ẨN DỤ Ý NIỆM CỦA TỪ “ĐẦU” TRONG TIẾNG
VIỆT VÀ TỪ “头” TRONG TIẾNG HÁN ................................................. 48
3.1. Ẩn dụ vật chứa của từ ''đầu'' trong tiếng Việt và “头” trong tiếng Hán ... 49
3.2. Ẩn dụ định hướng của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong
tiếng Hán ................................................................................................................. 51
3.3. Ẩn dụ cấu trúc của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong tiếng
Hán ........................................................................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT ............................................................... 78
MỤC LỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, LƯỢC ĐỒ
Hình 2.1 : Sơ đồ phát triển nghĩa của từ “đầu” ....................................... 27
Hình 2.2 : Sơ đồ phát triển nghĩa của từ “头” .......................................... 37
Bảng 2.1. Bảng đối chiếu nghĩa từ “đầu” và từ “头” ............................. 38
Lược đồ 3.1. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm KHÔNG GIAN LÀ CƠ THỂ NGƯỜI
................................................................................................................... 57
Lược đồ 3.2. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm SỰ LÃNH ĐẠO LÀ ĐẦU NGƯỜI . 61
Lược đồ 3.3. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm THỨ TỰ ĐẦU TIÊN LÀ ĐẦU
NGƯỜI...................................................................................................... 62
Bảng 3.1. Bảng đối chiếu những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu”
trong tiếng Việt và “头” tiếng Hán ....................................................... 65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, thông qua ngôn ngữ, chúng ta có thể
thấy được những đặc trưng tư duy và giá trị văn hóa của cả một dân tộc.
Nghiên cứu quá trình chuyển nghĩa cùng các ẩn dụ ý niệm của từ nhằm làm rõ
cách tri nhận về hiện thực khách quan, qua đó thấy được các dấu ấn và giá trị
văn hóa của một cộng đồng ngôn ngữ là hướng đi cần thiết. Hơn nữa, các
nghiên cứu đối chiếu về mặt ngữ nghĩa của hai ngôn ngữ để chỉ ra những
điểm tương đồng và khác biệt về mặt tư duy của hai dân tộc là một trong
những hướng nghiên cứu liên ngành đang rất được quan tâm hiện nay.
Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán gồm có: “đầu (头)”, “thủ (
首)”, “óc (大脑)”, “não (脑, 脑筋)”, “sọ (头骨)”, “trốc”. Theo khảo sát
trong Từ điển tiếng Việt [26] và Từ điển Hán ngữ hiện đại [60], chúng tôi
nhận thấy khả năng kết hợp từ của “đầu/头” là mạnh nhất, “thủ/首” yếu hơn
và có nhiều nét nghĩa và cách biểu đạt tương đồng, còn “óc/大脑”, “não/脑,
脑筋”, “sọ/头骨” thì rất hạn chế. Vậy nên, với tiêu chí chọn lựa từ thông
dụng, phổ biến trong giao tiếp hàng ngày, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
đối chiếu sự phát triển nghĩa, những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu/头”,
cùng những cách biểu đạt tương đồng với từ “đầu/头” của từ “thủ/首” .
Trong hệ thống ngôn ngữ của tiếng Việt và tiếng Hán, không khó để
tìm ra những từ ngữ có chứa yếu tố “đầu”. Ví dụ trong tiếng Việt có “bắt
đầu”, “đứng đầu”, đầu sỏ”, “to đầu”, “đầu cua tai nheo”,...; còn trong tiếng
Hán chúng ta có 头段情缘 (mối tình đầu),机头 (đầu máy), 月头 (đầu tháng),
头大 (to đầu)... Chính bởi tính phổ biến này mà “đầu” trở thành một miền
nguồn quan trọng trong nghiên cứu về tri nhận ẩn dụ cơ thể người. Về nhóm
từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người, giới nghiên cứu Việt ngữ học đã quan tâm
1
nghiên cứu, song cho đến nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về
sự phát triển nghĩa và các ẩn dụ ý niệm của đầu đặt trong sự đối chiếu với
tiếng Hán. Từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Từ chỉ đầu
trong tiếng Việt và tiếng Hán” với mong muốn có thể làm rõ con đường phát
triển ngữ nghĩa với những chiều kích tâm lý, văn hóa dân tộc liên quan đến sự
phát triển ngữ nghĩa của từ “đầu” thông qua các biểu thức ẩn dụ ý niệm trong
tiếng Việt và tiếng Hán.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đã có để tiến hành đối chiếu với
tiếng Hán, các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần củng cố lý thuyết
của ngôn ngữ học tri nhận, bước đầu làm rõ những sự tương đồng và khác
biệt về đặc trưng tư duy và cách thức tư duy của người Việt Nam và người
Trung Quốc trong cách thức tri nhận về từ chỉ đầu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ trong
tiếng Việt
Nghiên cứu theo hướng cấu trúc luận: Từ vựng là một bộ phận
được coi là không ổn định nhất trong hệ thống ngôn ngữ, nghĩa của từ cũng vì
thế mà không ngừng thay đổi. Do đó, những vấn đề liên quan đến ngữ nghĩa
cũng rất hấp dẫn các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Theo Lê Quang Thiêm,
lịch sử ngôn ngữ học được phân thành 3 thời kỳ chính: thời kỳ tiền cấu trúc
luận, thời kỳ cấu trúc luận, thời kỳ hậu cấu trúc luận, trong đó thời kỳ hậu cấu
trúc luận gắn với khuynh hướng ngôn ngữ học tri nhận.
Nghiên cứu về sự chuyển nghĩa trong tiếng Việt, cuốn sách “Đặc
trưng Văn hóa - Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy” (Nxb.Khoa học xã hội,
2010) của tác giả Nguyễn Đức Tồn đã trình bày đặc trưng văn hoá – dân tộc
của ngôn ngữ và tư duy tộc người bao gồm các vấn đề về đặc trưng văn hoá –
dân tộc của sự phạm trù hoá và định danh thế giới khách quan của ngữ nghĩa
2
và tư duy ngôn ngữ ở người Việt, có so sánh với những dân tộc khác, trên cơ
sở khảo sát một số trường và nhóm từ vựng - ngữ nghĩa cơ bản. Tác giả đã
thống kê số lượng nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa từ đó rút ra
những nhận định có ý nghĩa. Cùng hướng nghiên cứu đó là một số đề tài, luận
văn, luận án như “Đặc điểm trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán
và tiếng Việt)” của Ngô Minh Nguyệt. Luận án tìm hiểu đặc điểm cấu trúc,
ngữ nghĩa, đặc trưng văn hóa dân tộc của từ ngữ ẩm thực tiếng Hán và tiếng
Việt. Đồng thời, bước đầu chỉ ra sự khác biệt trong trường nghĩa này của hai
ngôn ngữ Việt-Hán. Trịnh Thị Thu Hòa với luận án “Từ ngữ chỉ động vật và
thực vật trong tiếng Sán Dìu” đã bước đầu mô tả một cách có hệ thống về lớp
từ vựng của tiếng Sán Dìu thông qua nhóm từ ngữ chỉ động vật và thực vật.
Kết quả phân tích ngữ nghĩa các từ ngữ chỉ động, thực vật giúp hình dung
phần nào bức tranh phân cắt hiện thực bằng ngôn ngữ của người Sán Dìu.
Nghiên cứu theo hướng hậu cấu trúc luận: Năm 1989, hội nghị
khoa học tổ chức tại Duisbury của Đức đã đánh dấu sự ra đời của ngôn ngữ
học tri nhận – tên gọi một khuynh hướng ngữ nghĩa coi trọng sự tri nhận trong
nghiên cứu ngữ nghĩa. Khuynh hướng này đề cao sự tri giác, nhận thức và
năng lực của tư duy trong việc phân tích, miêu tả nghĩa của ngôn ngữ. Nhìn từ
góc độ của Ngôn ngữ học tri nhận, sự phát triển nghĩa của từ được nhắc tới
chủ yếu qua các nghiên cứu về ẩn dụ và hoán dụ ý niệm, thuyết nghiệm thân,
các cơ chế ánh xạ.
Ở Việt Nam, Lý Toàn Thắng là người đầu tiên giới thiệu lý thuyết
Ngôn ngữ học tri nhận tại Việt Nam qua công trình “Ngôn ngữ học tri nhận
nhìn từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” (Nxb.Khoa học xã hội,
2005) với những khái niệm cơ bản của Ngôn ngữ học tri nhận. Nguyễn Thiện
Giáp đã dành một khoảng khá lớn trong cuốn “Phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu ngôn ngữ” (Nxb.Giáo dục, 2009) để đề cập tới những khái
3
niệm cơ bản của Ngôn ngữ học tri nhận. Ngoài ra, cũng có rất nhiều những
luận văn, luận án nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ dưới góc độ tri
nhận. Hướng nghiên cứu các ẩn dụ tri nhận gắn với các điển mẫu và phạm trù
tỏa tia của ngữ nghĩa học tri nhận, có một số công trình của Nguyễn Thị Bích
Hợp (2015), Nguyễn Thị Hương (2017), Nguyễn Thị Hiền (2018). Nguyễn Thị
Bích Hợp (2015) đã nghiên cứu khá kỹ về miền ý niệm đồ ăn dưới góc nhìn
của Ngôn ngữ học tri nhận. Tác giả đã xây dựng cấu trúc miền đồ ăn gồm 5
nhóm lớn với 5 điển mẫu tương ứng: thực thể - cơm; đặc điểm – mặn; đồ
dùng – bát; cảm giác – đói; hoạt động – ăn. Nguyễn Thị Hương (2017)
nghiên cứu, đối chiếu ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh đối
chiếu với tiếng Việt, nghiên cứu sự chuyển nghĩa, tỏa tia nghĩa của những
điển mẫu là những từ chỉ phạm trù ăn, uống, từ nghĩa gốc, nghĩa chuyển,
nghĩa phái sinh đến các ẩn dụ ý niệm trong hai ngôn ngữ.
Hầu hết các luận án, luận văn hay các bài nghiên cứu đều kế thừa các
lý thuyết của ngôn ngữ tri nhận để áp dụng nghiên cứu vào thực tiễn, từ đó
chứng minh quá trình phát triển và chuyển nghĩa của từ sẽ là chìa khóa để con
người tư duy, tri nhận thế giới khách quan.
2.2. Tình hình nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ trong
tiếng Hán
Ở Trung Quốc, ngay từ giai đoạn 1977-1989, từ vựng ngữ nghĩa học
đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đáng chú ý là quan
điểm của Phù Phó Thanh (符准清) đưa ra trong cuốn “现代汉语词汇” (Từ
vựng Hán ngữ hiện đại) xuất bản năm 1985. Tác giả quan niệm từ là đơn vị
nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa, dùng để tạo câu. Từ có hai mặt là hình thức
ngữ âm và khái niệm (nội dung). Theo Phù Chuẩn Thanh, từ trong quá trình
sử dụng chịu rất nhiều những chế định, ảnh hưởng và nghĩa của từ thể hiện ra
rất nhiều điểm dị biệt. Tuy vậy, trong những điểm dị biệt ấy vẫn có những nét
4
chung có thể xác định được, đó chính là ý nghĩa của từ. Đây là một công trình
khảo cứu chuyên sâu về từ vựng ngữ nghĩa học, có ứng dụng lý luận của nước
ngoài vào việc nghiên cứu từ vựng tiếng Hán. Có thể nói rằng “Từ vựng Hán
ngữ hiện đại” của Phù Chuẩn Thanh là một trong số ít công trình nghiên cứu
về từ vựng học có tầm ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc đương thời và cho đến
tận bây giờ.
Các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học có thể kể đến cuốn sách
“汉语语义研究” (Nghiên cứu ngữ nghĩa tiếng Hán) của Khâu Chấn Cường
(邱震强) xuất bản năm 2006. Thành quả nghiên cứu của cuốn sách này chính
là những kiến giải độc đáo về sự phát triển ngữ nghĩa về cả chiều rộng và
chiều sâu, tập trung phân tích ngữ tố trong tiếng Hán hiện đại, đưa ra khái
niệm trường ngữ nghĩa tổng quát, nghiên cứu ngữ nghĩa dưới trạng thái động
và trạng thái tĩnh. Cuốn sách này cũng chỉ ra một số đặc điểm và hướng
nghiên cứu mới về ngữ nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống lý luận nghiên
cứu ngữ nghĩa tiếng Hán.
Bên cạnh một số công trình nghiên cứu nêu trên, còn có rất nhiều
luận văn, luận án, các bài nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ. Luận án
tiến sĩ của 魏慧萍 (Ngụy Huệ Bình) nghiên cứu về đề tài “汉语词义发展演
变研究” (Nghiên cứu diễn biến phát triển nghĩa của từ trong tiếng Hán).
Luận án đã nghiên cứu sự phát triển nghĩa của từ dưới góc độ tư duy, tri nhận,
phát triển lịch sử xã hội, vận dụng phương pháp nghiên cứu đồng đại và lịch
đại, mở ra con đường nghiên cứu mở rộng nghĩa của từ, từ đó chỉ ra những
quy luật diễn biến phát triển nghĩa của từ trong tiếng Hán. Bài nghiên cứu “从
认知隐喻的角度看词义延伸”(Sự mở rộng nghĩa của từ nhìn từ góc độ ẩn
dụ tri nhận)đăng trên chuyên mục diễn đàn văn hóa của tạp chí Văn hóa và
Kinh tế biên cương năm 2010 của Lưu Tái Nam (刘赛男) căn cứ vào lý
5
thuyết ngôn ngữ học tri nhận đưa ra quan điểm nghĩa của từ được sinh ra dưới
sự tác động của tư duy tri nhận của con người, chỉ ra việc mở rộng nghĩa của
từ còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như môi trường ngôn ngữ, bối cảnh
văn hóa, phong cách ngôn ngữ...
Đi sâu vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể về sự phát triển nghĩa của
từ có thể kể đến nghiên cứu “从认知角度看‘口’的词义演变” (Diễn biến
nghĩa của từ “khẩu/miệng” từ góc độ tri nhận) của Lý Lôi (李雷) đăng trên
báo trường đại học Kỹ thuật Nghiệp vụ Diên An. Bài nghiên cứu đã tiến hành
phân tích có hệ thống diễn biến phát triển nghĩa của từ “khẩu/miệng” nhìn từ
góc độ ẩn dụ và hoán dụ của ngôn ngữ học tri nhận, từ đó đưa ra kết luận việc
mở rộng nghĩa của từ về bản chất là một hiện tượng ẩn dụ.
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về nguyên nhân của sự
chuyển nghĩa trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Hán nói riêng đã được
các nhà nghiên cứu quan tâm và nhắc đến trong các luận án, chuyên đề,...
Trong luận án tiến sĩ của Kỳ Quảng Mưu cho rằng sự chuyển nghĩa của từ
ngữ cũng là phương thức tạo từ mới. Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri
nhận, có thể thấy, các nghiên cứu đã vận dụng linh hoạt lý thuyết của ngôn
ngữ học tri nhận đem lại nhiều kết quả nghiên cứu đáng ghi nhận.
2.3. Tình hình nghiên cứu về từ chỉ đầu và sự phát triển nghĩa của từ
chỉ đầu
2.3.1. Những nghiên cứu ở ngoài nước
Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ trước đến nay luôn thu hút sự
quan tâm tìm hiểu của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Tiêu biểu có thể
kể đến hai cuốn sách của Giáo sư nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng người
Trung Quốc Ning Yu xuất bản năm 2009 với tựa đề “The Chinese HEART in
a cognitive perspective: Culture, body, and language” (Từ “tim” trong tiếng
Hán nhìn về văn hoá, con người và ngôn ngữ) và “From body to meaning in
6
culture: Papers on cognitive semantic studies of Chinese” (Từ các bộ phận cơ
thể người đến ý nghĩa văn hóa: Tài liệu về nhận thức ngữ nghĩa trong tiếng
Hán) nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của một số bộ phận cơ thể người trong
tiếng Hán.
Đi sâu vào tìm hiểu một bộ phận cụ thể là “đầu” cũng có rất nhiều
nghiên cứu. Có thể kể đến nghiên cứu của Vương Côn với đề tài “汉语“头”
的隐喻认知系统考察”(Khảo sát hệ thống ẩn dụ tri nhận của từ “đầu” trong
tiếng Hán) phân tích ý nghĩa ẩn dụ và hoán dụ của từ “đầu” qua việc ánh xạ
đến các miền đích khác nhau, vận dụng lý thuyết về ẩn dụ để khảo sát ngữ
nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Hán. Tiếp cận dưới góc độ đối chiếu có đề tài
“汉语“头”、“首”词群语义范畴与隐喻认知研究” (Nghiên cứu ẩn dụ tri
nhận và phạm trù ngữ nghĩa của từ “đầu”, “thủ” trong tiếng Hán) của Lưu
Y Na, phân tích phương thức tạo từ của “đầu” và “thủ”, sau đó tiến hành đối
chiếu ý nghĩa ẩn dụ với từ “head” trong tiếng Anh. Hoàng Lị Bình với đề tài
“从体验认知的角度看’头’的概念隐喻”(Ẩn dụ khái niệm của từ “đầu” nhìn
từ góc độ tri nhận nghiệm thân) đã tiến hành đối chiếu cơ chế ánh xạ của từ
“đầu” trong tiếng Hán và tiếng Anh, phân tích sự mở rộng về mặt ngữ nghĩa
của từ “đầu” trong hai ngôn ngữ này. “认知,从“头”开始——浅谈隐喻、
转喻与一词多义” (Tri nhận, bắt đầu từ “đầu” – bàn về ẩn dụ, hoán dụ và
một từ đa nghĩa) của Tiết Phương đã đối chiếu nghĩa mở rộng của từ “đầu”,
khái quát tính tương đồng trong ẩn dụ khi phân tích về từ “đầu” trong tiếng
Hán và tiếng Nhật.
Các nghiên cứu đối chiếu về vấn đề này giữa tiếng Hán và tiếng Việt
còn khiêm tốn, có thể kể đến nghiên cứu “从认知角度看汉越人体词“头
(đầu)”的概念隐喻” (Ấn dụ ý niệm của từ “đầu” trong tiếng Hán và tiếng
Việt nhìn từ góc độ tri nhận) đăng trên báo trường Đại học Dân tộc Quảng
7
Tây của Vi Trường Phúc. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu ẩn dụ của từ “đầu”
bằng việc phân tích và đối chiếu cơ chế ánh xạ của từ này tới bốn miền đích là
đồ vật, thời gian, độ lớn, động vật trong tiếng Hán và tiếng Việt, nhưng phân
loại còn đơn giản và chưa đề cập đến nguyên nhân của sự khác nhau này.
Từ những nghiên cứu nói trên, có thể thấy, ẩn dụ của từ “đầu” trong
tiếng Hán hay trong việc đối chiếu giữa tiếng Hán với các ngôn ngữ khác rất
có sức hút đối với các nhà nghiên cứu, nhưng các nghiên cứu trước đó chủ
yếu là đặt từ chỉ “đầu” trong việc nghiên cứu chung với nhóm từ chỉ bộ phận
cơ thể người, xem xét nó dưới góc nhìn nội hàm văn hóa, chưa chỉ ra được sự
phát triển ngữ nghĩa của từ chỉ “đầu” và đặc trưng tri nhận về từ chỉ “đầu”
trong các loại ngôn ngữ sử dụng đối chiếu.
2.3.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây có một số bài viết, sách chuyên
khảo, luận văn, luận án đề cập đến sự phát triển nghĩa của từ chỉ bộ phận cơ
thể người khi nghiên cứu về từ vựng ngữ nghĩa. Có thể kể đến đề tài “Tìm
hiểu thành ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người trên lý thuyết ba
bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng” của Nguyễn Trung Kiên nghiên
cứu về thành ngữ nói chung và thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người
nói riêng dựa trên một cái nhìn tổng thể, đa chiều của lý thuyết ba bình diện
ngôn ngữ là ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Đề tài “Sự phát triển ngữ
nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận”
của Nguyễn Thị Hiền (2018) nghiên cứu các điển mẫu, là các từ chỉ bộ phận
cơ thể người và cơ chế tỏa tia của các điển mẫu theo hướng tri nhận, phân tích
các đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trên cơ sở
mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và tri nhận, góp phần chứng minh ẩn dụ, hoán dụ
tri nhận không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy, nhận
thức. Về đối chiếu, có thể kể đến một số đề tài như “Khảo sát đặc trưng từ,
8
ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt liên hệ chuyển dịch sang tiếng
Anh” của Phạm Thị Tuyết Thanh; “Từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong
tục ngữ, ca dao tiếng Hán và tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận”
của Liêu Thị Thanh Nhàn, “Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng
Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ phận cơ
thể người)” của Trịnh Thị Thanh Huệ...
Tuy nhiên, những nghiên cứu trong nước tập trung tìm hiểu về một bộ
phận của cơ thể người lại chưa có nhiều. Bài nghiên cứu với tiêu đề “Thành
ngữ tiếng Việt có từ chỉ "tay", "chân" với đặc trưng văn hoá dân tộc” của tác
giả Nguyễn Thị Thu đăng trên trang tin điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam đã xem xét các thành ngữ có từ chỉ tứ chi người với
những ý nghĩa khác nhau thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc và cốt cách của
con người Việt Nam. Về đối chiếu có đề tài “Định danh chuyển nghĩa của từ
‘tay’ trong tiếng Việt và các từ tương đương trong tiếng Anh” của Nguyễn
Văn Hải đăng trên chuyên mục Ngoại ngữ với Bản ngữ của Tạp chí Ngôn
ngữ&Đời sống số 4(234)-2015. Bài báo phân tích sự chuyển nghĩa ẩn dụ và
hoán dụ của từ “tay” trong tiếng Việt và “arm”, “hand” trong tiếng Anh.
Như vậy, có thể thấy, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người đã được nghiên
cứu theo nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự phát triển
nghĩa của riêng một bộ phận (ở đây là từ chỉ đầu) lại chưa được đề cập một
cách chi tiết và hệ thống, sự chuyển nghĩa của của từ chỉ đầu cũng có được
nhắc đến trong một vài công trình nhưng nó diễn ra theo con đường nào,
nguyên nhân dẫn đến sự phát triển nghĩa này là do đâu lại chưa được giải
thích cụ thể. Từ những lý do trên, luận văn đã lựa chọn triển khai nghiên cứu
về sự phát triển nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt, và tiến thêm một bước
là tiến hành đối chiếu với tiếng Hán.
9
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Chỉ ra con đường phát triển nghĩa của từ “đầu”
trong tiếng Việt và từ “头” trong tiếng Hán, trên cơ sở đó tìm ra những
nguyên nhân tương đồng và khác biệt trong tư duy tri nhận của người Việt
Nam và Trung Quốc, từ đó xác định đặc điểm tri nhận, đặc trưng văn hóa của
hai dân tộc Việt-Trung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Qua việc phân tích những ý nghĩa cụ thể của từ
chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán ở những ngữ cảnh khác nhau, luận văn
sẽ cố gắng chỉ ra sự phát triển ngữ nghĩa của từ “đầu” qua mô hình tỏa tia, từ
đó tiến hành đối chiếu ý nghĩa ẩn dụ, để tìm ra sự phát triển ngữ nghĩa của từ
chỉ đầu trong hai ngôn ngữ trên. Qua khảo sát khối liệu từ vựng tiếng Việt và
tiếng Hán có chứa từ chỉ đầu, luận văn chỉ ra con đường và sự chuyển di
nghĩa phái sinh của từ “đầu” thông qua việc xây dựng các mô hình ẩn dụ ý
niệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là từ chỉ
đầu (thủ) trong tiếng Việt và tiếng Hán
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển ngữ
nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán qua phương thức chuyển
nghĩa cơ bản là ẩn dụ.
- Phạm vi ngữ liệu nghiên cứu: Luận văn khảo sát các từ chỉ đầu và các
nghĩa phái sinh của từ chỉ đầu trong Từ điển Tiếng Việt (Từ điển tiếng Việt
của Hoàng Phê, Nxb Đà Nẵng, 2013) và Từ điển tiếng Hán (Từ điển Hán ngữ
hiện đại của của Nxb Thương vụ, 2014); khảo sát các ngữ có chứa từ chỉ đầu
trong các cuốn thành ngữ tiếng Việt (1. Từ điển giải thích thành ngữ tiếng
Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang,
10
Phan Xuân Thành; 2. Từ điển thành ngữ tiếng Việt, 1978, Nguyễn Lực-Lương
Văn Đang) và tiếng Hán (Thành ngữ đại từ điển, Nxb Thương vụ, 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp miêu tả: được dùng để miêu tả và phân tích sự phát triển
ngữ nghĩa, cơ chế chuyển nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán.
- Phương pháp phân tích nghĩa tố: Phương pháp phân tích nghĩa tố
phân xuất ý nghĩa của từ thành các nghĩa tố, từ đó xác định được sự biến đổi
về ý nghĩa, cơ chế chuyển nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán.
Phương pháp này được coi là phương pháp nghiên cứu chính trong luận văn.
- Phương pháp phân tích ý niệm: Phương pháp này được sử dụng để
phân tích các ý niệm và chỉ ra sự chuyển di các nét thuộc tính từ miền nguồn
sang miền đích trong các biểu thức ẩn dụ ý niệm có chứa từ chỉ chỉ đầu trong
tiếng Việt và tiếng Hán.
- Thủ pháp thống kê: Thủ pháp này được dùng để thống kê những ý
nghĩa cùng hệ thống những ẩn dụ ý niệm của từ chỉ đầu trong tiếng Việt và
tiếng Hán.
- Thủ pháp so sánh: Thủ pháp này được sử dụng để chỉ ra những điểm
khác biệt và tương đồng trong những ý nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt
và tiếng Hán, từ đó chỉ ra cơ chế chuyển di nghĩa và chiếu xạ của từ chỉ đầu
trong hai ngôn ngữ trên.
- Thao tác quy nạp, phân tích: thao tác này được dùng sau khi đã tiến
hành đối chiếu hai ngôn ngữ để tổng kết và phân tích những đặc điểm tri nhận
và đặc trưng văn hóa Việt-Trung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về ý nghĩa lý luận: Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần
làm rõ thêm một số vấn đề lý thuyết về sự phát triển ngữ nghĩa của từ chỉ đầu
trong tiếng Việt và tiếng Hán, củng cố lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận,
11
giúp chúng ta tìm ra những đặc điểm về tư duy tri nhận thế giới khách quan
của hai cộng đồng ngôn ngữ, qua đó đóng góp và bổ sung những kết quả
nghiên cứu ẩn dụ tri nhận về các bộ phận cơ thể người.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cho
người học tiếng Việt và tiếng Hán biết cách sử dụng những từ có chứa yếu tố
“đầu” chuẩn xác hơn, đa dạng hơn, sâu sắc hơn trong ngữ cảnh giao tiếp phù
hợp tạo hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Mặt khác, kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể được ứng dụng trong nghiên cứu, giảng dạy tiếng Việt hoặc tiếng Hán,
rộng hơn là giới thiệu về ngôn ngữ và văn hóa Việt- Trung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và ngữ liệu khảo
sát, luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
Chương 2. Nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong tiếng
Hán
Chương 3. Ẩn dụ ý niệm của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头” trong
tiếng Hán
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Một số vấn đề cơ bản về nghĩa của từ
1.1.1 Nghĩa của từ
Nghĩa của từ là một hệ thống các nét có quan hệ qua lại với nhau.
Hoàng Phê [25] đã phân tích ngữ nghĩa của từ mẹ để có được một cái nhìn cụ
thể về cấu trúc của nghĩa từ. Mẹ có thể phân tích thành ba nét nghĩa: [phụ nữ],
[đã có con], [nói trong mối quan hệ với con]. Giữa ba nét nghĩa trên có mối
quan hệ trật tự nhất định. Nét nghĩa đứng trước là tiền đề cho nét nghĩa đứng
sau, nét nghĩa đứng sau thuyết minh, cụ thể hóa nét nghĩa đứng trước. Quan
hệ quy định lẫn nhau này của các nét là “một quan hệ tĩnh, trong nội bộ
nghĩa của từ, xét một cách cô lập” [25]. Khi từ hoạt động để tạo thành các tổ
hợp từ lớn hơn, giữa các nét nghĩa của từ cần có một loại quan hệ khác vô
cùng quan trọng: “quan hệ cấp bậc”.
Hoàng Phê đã nhấn mạnh: “Giữa hai loại quan hệ, trật tự và cấp bậc
không nhất thiết có sự tương ứng, mà trái lại thường có mâu thuẫn” [25]. Khi
từ được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể, không phải lúc nào mọi nét nghĩa xét
trong quan hệ tĩnh cũng đều tham gia vào việc thực hiện chức năng thông báo.
Chẳng hạn, khi từ “mẹ” thực hiện chức năng thông báo, có thể là cả ba nét
nghĩa nhưng cũng có thể chỉ có hai, thậm chí một nét nghĩa trong cấu trúc
biểu niệm của nó được hiện thực hóa.
Nói tóm lại, nghĩa của từ được Hoàng Phê [25] kết luận như sau:
“Nghĩa của từ , nói chung:
a. Là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau;
b. Giá trị của các nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có
quan hệ cấp bậc), biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực
hiện chức năng thông báo;
13
c. Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối, biểu hiện ở khả năng độc
lập tổ hợp và tác động qua lại với những nét nghĩa của những từ khác khi từ
tổ hợp với nhau.”
Quan niệm của Hoàng Phê cho thấy cấu trúc của nghĩa từ là một cấu
trúc động, nghĩa là khi từ hoạt động, thường chỉ có một số nét nghĩa trong
nghĩa của từ có khả năng hiện thực hóa. Và nét nào của từ được hiện thực hóa
là tùy thuộc vào ngữ cảnh, cụ thể là “tùy vào chức năng của từ trong ngữ”,
tùy vào quan hệ cú pháp của từ với các từ khác, tùy nội dung ngữ nghĩa của
những từ kết hợp với nó. Như vậy, cấu trúc ngữ nghĩa của một từ có liên quan
chặt chẽ đến hoạt động ngữ pháp của nó. Điều này không chỉ Hoàng Phê mà
các nhà ngữ nghĩa học hiện đại đều công nhận.
Đỗ Hữu Châu khi nói về mối quan hệ giữa ý nghĩa biểu niệm và ý
nghĩa ngữ pháp đã khẳng định: “Những nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm
chung cho nhiều từ không chỉ có tính từ vựng mà cũng có tính ngữ pháp” [2,
tr.119] bởi những nét nghĩa khái quát trong cấu trúc biểu niệm (sự vật, hoạt
động, tính chất) chính là ý nghĩa từ loại hay ý nghĩa ngữ pháp của từ. Tác giả
cũng nhấn mạnh rằng “bản thân những nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm và
quan hệ giữa chúng có tác dụng quy định cách dùng từ, qui định cách kết hợp
của nó với các từ khác trong câu” [2, tr.119]. Các từ chỉ có thể tạo thành
những tổ hợp chấp nhận được trong thực tế khi giữa chúng có sự tương hợp
về ngữ nghĩa. Nói như JU.D Aprexjan: “Hạn chế về kết hợp của những từ
khác nhau trong lời nói là sự vắng mặt trong ý nghĩa của chúng những thành
tố nghĩa chung hoặc là sự có mặt của các thành tố nghĩa không dung hòa
được nhau” [19].
Cuối cùng, chúng tôi xin nhấn mạnh quan điểm của Hoàng Phê, “nghĩa
của từ xem ra nên quan niệm là một tiềm năng. Có những nét nghĩa hầu như
luôn luôn được hiện thực hóa, bên cạnh những nét nghĩa chỉ được hiện thực
14
hóa trong những trường hợp nhất định, có khi là những trường hợp rất hãn
hữu. Định nghĩa từ điển của từ nhiều lắm cũng chỉ có thể nêu được những nét
nghĩa có khả năng hiện thực hóa trong những trường hợp điển hình” [25].
1.1.2. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, hiện tượng nhiều nghĩa là kết quả của sự
chuyển biến ý nghĩa của từ. Từ (đơn hoặc phức) lúc đầu mới xuất hiện đều chỉ
có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian được sử dụng, nó có thể có thêm
những nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều
thì nghĩa biểu niệm của nó càng có khả năng biến đi. [2, tr.147].
Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa mới có thể diễn ra sự biến đổi theo
kiểu móc xích. Phần lớn các trường hợp của từ chuyển biến theo lối “tỏa ra”
nghĩa là các nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện. Sự chuyển
nghĩa có thể dẫn tới kết quả là ý nghĩa sau khác hẳn với nghĩa trước, thậm chí
ngay cùng một từ sự chuyển nghĩa có thể khiến cho nó trở thành đồng nghĩa
với cái từ trái nghĩa trước kia của nó. Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ
với nhau, sự chuyển nghĩa có thể làm cho ý nghĩa của từ mở rộng ra hoặc thu
hẹp lại.[2, tr.149 -150]
Chuyển nghĩa từ vựng là một trong những nội dung cơ bản của ngôn
ngữ học truyền thống. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ Hữu Châu, sự
phát triển nghĩa của từ chủ yếu dựa vào hai phương thức ẩn dụ và hoán dụ. Cụ
thể:
- Phương thức ẩn dụ
“Phương thức ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa lấy tên gọi A của
x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau. Các sự vật được gọi
tên, tức x và y, không có liên hệ khách quan, chúng thuộc những phạm trù
hoàn toàn khác nhau. Sự chuyển tên gọi diễn ra tùy thuộc vào nhận thức có
tính chất chủ quan của con người về sự giống nhau giữa chúng” [2, tr.156].
15
Ví dụ: từ “đầu” có nghĩa gốc chỉ bộ phận cơ thể người hay động vật,
ở vị trí đầu tiên, trước hết, có chứa được chuyển nghĩa sang để chỉ các sự vật
hiện tượng khác dựa trên sự tương đồng về hình dáng và chức năng: đầu máy,
đầu làng, đầu câu chuyện, đứng hàng đầu…
- Phương thức hoán dụ
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, phương thức chuyển nghĩa “Hoán dụ là
phương thức chuyển nghĩa lấy tên gọi A của x để gọi y nếu x và y đi đôi với
nhau trong thực tế. Mối liên hệ đi đôi với nhau giữa x và y là có thật, không
tùy thuộc vào nhận thức của con người. Cho nên các hoán dụ có tính khách
quan hơn các ẩn dụ” [2, tr.156].
Có thể thấy rằng, vấn đề nghĩa và chuyển nghĩa là một trong những
nội dung trọng tâm của ngôn ngữ học cấu trúc. Tuy nhiên, ngôn ngữ học cấu
trúc mới chỉ xem chuyển nghĩa của từ là quá trình chuyển đổi tên gọi thông
qua các phương thức ẩn dụ và hoán dụ mà chưa chú trọng đến quá trình tư
duy của con người, đến đặc trưng tri nhận của con người trong việc tạo nghĩa
mới cho từ.
Ngôn ngữ học tri nhận coi trọng vai trò chủ thể của con người trong
việc kiến tạo và lưu giữ nghĩa. Nghĩa được bộc lộ trong hoạt động hành chức,
trong quá trình con người thực hiện hoạt động giao tiếp. Như vậy, nghĩa theo
ngôn ngữ học tri nhận là ở trong tư duy con người, trong hoạt động hành chức
của từ. Vì vậy, trong ngôn ngữ học tri nhận, hiện tượng chuyển nghĩa của từ
cũng thuộc tư duy, ý thức của con người. Theo Gibbs [46] khẳng định “hiện
tượng chuyển nghĩa không tồn tại với tư cách là những đơn vị nghĩa độc lập
trong hệ thống từ vựng mà về bản chất chúng là những bộ phận của hệ thống
các khái niệm đã được ẩn dụ hóa”.
Theo quan điểm này, các nghĩa chuyển có quan hệ với nhau theo
cách nhất định dựa trên cơ chế tri nhận ẩn dụ và hoán dụ. Chúng được tổ chức
16
sắp xếp theo một hệ thống giống như cách thức tổ chức nghĩa trong tư duy
con người. Sơ đồ ý niệm giúp chúng ta sắp xếp tổ chức các nghĩa trong từ
nhiều nghĩa, giúp chúng ta hiểu được các nghĩa lời nói, nghĩa từ điển của từ
được tổ chức sắp xếp theo quy tắc nhất định.
Chính quan niệm này đã định hướng việc nghiên cứu bản chất của
hiện tượng chuyển nghĩa. Theo đó, các nghĩa chuyển ẩn dụ và hoán dụ có thể
được miêu tả rõ ràng hơn thông qua lược đồ tri nhận qua mối liên hệ giữa ý
niệm nguồn và ý niệm đích.
1.2. Một số lý thuyết cơ bản về ẩn dụ ý niệm
1.2.1. Ý niệm và ý niệm hóa Ý niệm (concept) là một trong những khái niệm quan trọng của ngôn
ngữ học tri nhận (congnitive linguistics). Theo ngôn ngữ học tri nhận, ý niệm
được hình thành trong ý thức con người, “là đơn vị nội dung của bộ nhớ động,
của từ vựng tinh thần và của bộ não, của toàn bộ bức tranh thế giới được
phản ánh trong tâm lý con người”. [3, tr.139]
Ý niệm là đơn vị của ý thức, có cấu trúc bao gồm 3 thành tố: cảm
xúc, trí tuệ, ý chí. Tác giả Trần Văn Cơ cho rằng : “ý niệm có cấu trúc trường
- chức năng được tổ chức theo mô hình trung tâm và ngoại vi. Có thể hình
dung trường chức năng của ý niệm như một vòng tròn to chứa vòng tròn nhỏ
ở tâm và những vòng tròn nhỏ khác giao nhau ở ngoại vi. Hạt nhân là khái
niệm, nằm ở trung tâm của trường - chức năng, mang tính phổ quát, toàn
nhân loại. Nằm ở ngoại vi là những yếu tố mang nét đặc thù văn hóa dân
tộc”. [3, tr.141]
Ý niệm được hình thành trong ý thức của con người, cơ sở của ý
niệm là kinh nghiệm cảm tính trực tiếp mà con người thu nhận được thông
qua quá trình tri giác thế giới bằng các cơ quan cảm giác, thông qua hoạt động
tư duy và hoạt động giao tiếp dưới hình thức ngôn ngữ.
17
Vậy, ý niệm là “cái chứa đựng” sự hiểu biết của con người về thế
giới được hình thành trong ý thức trong quá trình tri nhận và hiện thân trong
ngôn ngữ. Trong ý niệm có cái phổ quát (khái niệm) và cái đặc thù (văn hóa
được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau).
1.2.2. Thuyết nghiệm thân
Nghiệm thân (Embodiment) là khái niệm có vai trò quan trọng trong
ngôn ngữ học tri nhận. Thuật ngữ Embodiment được Lakoff và Johnson đề
cập trong công trình Philosophy in the flesh (Triết học trong thân xác). Theo
Lakoff và Johnson, khái niệm nghiệm thân liên quan đến quá trình con người
lấy các bộ phận của cơ thể và sự trải nghiệm của thân xác để định hình hệ
thống ý niệm và tư duy. Lakoff và Johnson cho rằng nghiệm thân gồm hai yếu
tố chính, đó là những tiếp nhận của con người với thế giới khách quan và
đồng thời là sự trải nghiệm trong cuộc sống để hình thành hệ thống tư duy và
nhận thức.
Ở Việt Nam, thuyết nghiệm thân đã được tác giả Nguyễn Thiện Giáp
nhắc đến trong cuốn “Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn
ngữ” với thuật ngữ hiện thân. Tác giả cho rằng “Tính hiện thân (embodyment)
là một tư tưởng trung tâm của ngôn ngữ học tri nhận” và đó là tư tưởng
“nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm loài người, tính trung tâm của
thân thể con người” [4, tr.211 – 212]. Trong hai bài viết gần đây, tác giả
Nguyễn Văn Hiệp đã dùng giả thuyết nghiệm thân để nghiên cứu những con
đường phát triển ngữ nghĩa của hai từ “ra” và “vào” trong tiếng Việt [13&14]
và khẳng định trong vốn từ vựng hằng ngày của tiếng Việt, có vô số những
trường hợp chứng minh cho giả thuyết nghiệm thân như vậy.
Như vậy, có thể hiểu nghiệm thân là quá trình tương tác không
ngừng giữa tư duy, thân thể với môi trường sống bên ngoài, cùng với sự vận
18
hành của các hoạt động, từ đó tạo nên một hệ thống tri nhận với các cấu trúc ý
niệm và ngôn ngữ.
1.2.3. Định nghĩa về ẩn dụ ý niệm
Ẩn dụ ý niệm (Conceptual metaphors) là một trong những hình thức ý
niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những
ý niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới. Trong khi
ngôn ngữ học truyền thống coi ẩn dụ là một phương tiện tu từ, là một cách nói
bóng bẩy dựa trên sự tương đồng giữa hai sự vật, hiện tượng, thì Ngôn ngữ
học tri nhận khẳng định ẩn dụ không chỉ là phương tiện tu từ mà còn là
phương thức của tư duy, là công cụ để ý niệm hóa thế giới. “Theo Lakoff, ẩn
dụ ý niệm (conceptual metaphor) là các ánh xạ có tính hệ thống giữa hai
miền ý niệm: miền nguồn là một phạm trù trải nghiệm được ánh xạ hay phóng
chiếu vào miền đích là một miền trải nghiệm khác” [dt 4, tr.240].
Lakoff & Johnson (1980) khẳng định, “Ẩn dụ ý niệm có thể mở rộng
vượt ra ngoài cách nghĩ và cách nói theo nghĩa đen thông thường để đi vào
phạm vi của những gì được gọi là lối suy nghĩ và ngôn ngữ bóng bẩy, thơ
mộng và huyền ảo” [dt 44, tr.13]. Hay “Ẩn dụ là một công cụ tri nhận, nghĩa
là nó không chỉ là một phương cách biểu thị các tư tưởng bằng ngôn ngữ mà
còn là một phương cách để tư duy về các sự vật; rằng hệ thống ý niệm đời
thường của chúng ta, mà trong khuôn khổ của nó chúng ta suy nghĩ và hành
động, về bản chất là ẩn dụ”. [dt 44, tr. 3]
Như vậy, nói một cách khái quát, ẩn dụ ý niệm là một trong hai cơ
chế tri nhận quan trọng của con người, là kết quả của quá trình ánh xạ từ
phạm trù này (miền nguồn) sang phạm trù khác (miền đích).
1.2.4. Miền nguồn – miền đích
Trong cuốn Metaphor – a practical introduction [49], Kovesces đã
thực hiện một khảo sát về những miền nguồn và miền đích chủ yếu trong ẩn
19
dụ ý niệm và chỉ ra được 13 miền nguồn phổ biến (bộ phận cơ thể người, sức
khỏe, động vật, thực vật, xây dựng, công cụ/máy móc, trò chơi/thể thao,
tiền/giao dịch kinh tế, ẩm thực, nóng/lạnh, sáng/tối, lực tác động, sự di
chuyển) và 13 miền đích phổ biến (cảm xúc, tham vọng, đạo đức, tư duy, xã
hội/quốc gia, chính trị, kinh tế, mối quan hệ con người, giao tiếp, thời gian,
cuộc sống/cái chết, tôn giáo, sự kiện/hành động).
Như vậy, có thể hiểu, miền nguồn là một tập hợp các thực thể trực
quan, dễ nhận biết, mang tính cụ thể, còn miền đích lại mang tính trừu tượng,
khó nhận biết, mới mẻ.
Nếu như miền nguồn có tính cụ thể dễ nhận biết thì miền đích lại
mang tính trừu tượng, khó nhận biết và mới mẻ. Thông qua các ánh xạ giữa
miền nguồn và miền đích, chúng ta có thể nhận thức một cách dễ dàng hơn về
các khái niệm phức tạp ở miền đích. Đây chính là một căn cứ quan trọng để
luận văn có thể xây dựng được các mô hình ẩn dụ ý niệm của từ chỉ đầu trong
hai ngôn ngữ Việt - Trung.
1.2.5. Ánh xạ
Ánh xạ (mapping) là sự phóng chiếu giữa những yếu tố tương ứng
của miền nguồn đến các yếu tố tương ứng của miền đích. [dt 10, tr.19]
Như vậy, có thể thấy, ánh xạ là một quá trình chuyển tập hợp những
thông tin từ các thực thể ở miền nguồn sang các thực thể ở miền đích. Các
ánh xạ có tính chất bộ phận tức là chỉ một bộ phận của ý niệm niềm nguồn
được ánh xạ lên miền đích, những phương diện còn lại bị ẩn, bị che giấu đi.
Có hai loại ánh xạ: ánh xạ ý niệm và ánh xạ hình ảnh, cả hai đều
phục tùng nguyên tắc bất biến. Ánh xạ ẩn dụ theo nguyên tắc một hướng là sơ
đồ hình ảnh của miền nguồn được ánh xạ lên miền đích chứ không ngược lại.
Sự ánh xạ không võ đoán, cơ sở tri nhận của những ánh xạ ẩn dụ ý
niệm là kinh nghiệm hay nền tảng kinh nghiệm.
20
1.2.6. Lược đồ hình ảnh
Để hiểu rõ ánh xạ ý niệm thì chúng ta cần tìm hiểu khái niệm lược
đồ hình ảnh. Các nhà nghiên cứu cho rằng lược đồ hình ảnh vượt ra ngoài
phạm vi của lý thuyết ngôn ngữ, theo nghĩa là chúng có thực tạo về mặt tâm
lý mà được chứng minh bằng nghiên cứu thực nghiệm trong ngôn ngữ - tâm
lý học, tâm lý học tri nhận và tâm lý phát triển.
Theo Lakoff &Tuner [43], lược đồ hình ảnh là một cấu trúc có tính
chất lặp đi lặp lại và nó dựa trên kinh nghiệm của con người. Những miền
thiếu hình ảnh như “thời gian, sự sống, cái chết...” được gọi là miền trừu
tượng hay vô ảnh. Còn các miền tạo nên hình ảnh thì mang tính nghiệm thân.
Lược đồ hình ảnh không phải là các hình ảnh cụ thể mà là trừu tượng theo
nghĩa là các lược đồ trong nhận thức, biểu trưng cho các mô hình lược đồ xuất
phát từ các miền hữu ảnh chẳng hạn như “vật chứa, đường đi, lực đẩy, cân
bằng...”.
Có thể thấy, lược đồ hình ảnh là bằng chứng quan trọng cho luận
điểm rẳng ánh xạ ẩn dụ ý niệm là từ các miền cụ thể đến các miền trừu tượng
do được hình thành dựa trên kinh nghiệm thân thể và kinh nghiệm không gian,
nên các lược đồ hình ảnh có ý nghĩa trực tiếp với con người. Và cũng chính
vì lý do đó mà lược đồ hình ảnh được dùng làm cơ sở cho các ý niệm khác,
đem lại nguồn phong phú cho ẩn dụ ý niệm.
1.2.7. Phân loại ẩn dụ ý niệm
Lakoff và Johnson [44] chia ẩn dụ ý niệm thành ba loại chính sau:
- Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors) “là tạo ra một cấu trúc ý
niệm này từ một cấu trúc ý niệm khác, dùng các từ ngữ thuộc vùng ý niệm này
để bàn về ý niệm khác” [4, tr.243]. Ví dụ, ẩn dụ ý niệm TRANH LUẬN LÀ
CHIẾN TRANH), trong đó CHIẾN TRANH thuộc miền nguồn, TRANH
21
LUẬN thuộc miền đích. Ý niệm CHIẾN TRANH giúp chúng ta hiểu nghĩa
của ý niệm TRANH LUẬN. [44, tr.4]
- Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphors) “cấu trúc hóa một số
miền và tạo nên một hệ thống ý niệm hóa chung cho chúng, chúng liên quan
đến việc định hướng trong không gian với những đối lập kiểu như lên - xuống,
vào - ra, sâu - cạn, trung tâm - ngoại vi” [4, tr.319]. Ví dụ, ẩn dụ định hướng
VUI LÀ HƯỚNG LÊN, BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG với các biểu thức như:
mắt sáng rực lên; đôi mi cụp xuống, lòng trĩu nặng…
- Ẩn dụ bản thể (Ontological metaphors) là trường hợp mà những
khái niệm trừu tượng như hoạt động, cảm xúc, tư tưởng được thể hiện như cái
gì đó cụ thể, chẳng hạn như một đồ vật, một chất liệu, một vật chứa hay một
con người. Vật chứa thông thường được hiểu là những thực thể vật lý bị hạn
chế trong một không gian nhất định và tách biệt khỏi thế giới còn lại bởi bề
mặt của nó. Mỗi con người là một vật chứa bị hạn chế bởi bề mặt của thân thể,
cái vật chứa này có khả năng định hướng kiểu “trong – ngoài”. Ví dụ:
KANSAS LÀ VẬT CHỨA.
Tiểu kết chương
Trong chương này, chúng tôi đã tổng kết lại những nghiên cứu trong
và ngoài nước liên quan đến tài. Chúng tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu đã
dành nhiều sự quan tâm đối với từ chỉ đầu, và điều này đã cho thấy vai trò
quan trọng của nhóm từ này trong ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ học
tri nhận nói riêng.
Tiếp đó, chương 1 của luận văn đã đưa ra những lý thuyết cơ bản có
liên quan đến đề tài, với mục đích sử dụng những lý thuyết này để tiến hành
phân tích phương thức chuyển di ý nghĩa của từ chỉ đầu trong tiếng Việt của
tiếng Hán. Những vấn đề lý thuyết được nêu ra trong chương 1 gồm:
22
- Lý thuyết về nghĩa của từ và sự phát triển nghĩa của từ, nhấn mạnh
quan điểm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ Hữu Châu về sự chuyển
nghĩa của từ chủ yếu dựa vào hai phương thức ẩn dụ và hoán dụ, bên cạnh đó
cũng đề cập đến cách nhìn của ngôn ngữ học tri nhận về hiện tượng chuyển
nghĩa, đó là các nghĩa chuyển có quan hệ với nhau theo cách nhất định dựa
trên cơ chế tri nhận ẩn dụ và hoán dụ.
- Một số lý thuyết cơ bản về ẩn dụ ý niệm: ý niệm và ý niệm hóa,
thuyết nghiệm thân, khái niệm ẩn dụ ý niệm, miền tri nhận, miền nguồn, miền
đích, ánh xạ, lược đồ hình ảnh, phân loại ẩn dụ ý niệm.
23
Chương 2
NGHĨA CỦA TỪ “ĐẦU” TRONG TIẾNG VIỆT
VÀ “头” TRONG TIẾNG HÁN
Nhìn theo góc độ khoa học, đầu (thủ) là phần trên cùng của cơ thể con
người và động vật, nơi có bộ óc và nhiều giác quan khác. Trong đó, não (óc)
là khối mềm màu trắng đục chứa ở trong hộp sọ, cơ sở của hoạt động thần
kinh cấp cao. Có thể nói đầu chính là cơ quan tổng chỉ huy tất cả các giác
quan và các bộ phận trên cơ thể con người và là đầu mối chỉ huy tất cả các
hoạt động hành vi cùng các chức năng sinh lý của con người và động vật, đặc
biệt là trí tuệ, tư duy và ngôn ngữ vốn chỉ có ở con người cũng được quyết
định bởi đại não. Trong quá trình tri nhận về thế giới và mọi vật xung quanh,
người Việt Nam và Trung Quốc đặc biệt coi trọng đầu, coi đầu là điểm khởi
đầu của tất cả vạn vật trên thế gian, là cội nguồn của mọi hoạt động. Như vậy,
có thể thấy, từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán gồm có: “đầu (头)”,
“thủ (首)”, “óc (大脑)”, “não (脑, 脑筋)”, “sọ (头骨)”. Theo khảo sát trong
Từ điển tiếng Việt [26] và Từ điển Hán ngữ hiện đại [60], chúng tôi nhận thấy
khả năng kết hợp từ của “đầu/头” là mạnh nhất, “thủ/首” yếu hơn và có
nhiều nét nghĩa và cách biểu đạt tương đồng, còn “óc/大脑”, “não/脑, 脑筋”,
“sọ/头骨” thì rất hạn chế. Vậy nên, với tiêu chí chọn lựa từ thông dụng, phổ
biến trong giao tiếp hàng ngày, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu đối chiếu sự
phát triển nghĩa, những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu/头”, cùng những
cách biểu đạt tương đồng với từ “đầu/头” của từ “thủ/首” .
2.1. Quá trình phát triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt
Theo Từ điển tiếng Việt [26, tr.398], từ “đầu” có 9 nghĩa, với nghĩa
gốc là chỉ sự nhận thức, phản ánh chỉ vật (referent) – đầu của người và động
vật. Cụ thể như sau:
24
(1) Bộ phận cơ thể người, phần trên cùng, phía trước, cơ quan trung
ương, nơi có bộ óc và nhiều giác quan khác của cơ thể con người hay phần
trước nhất của thân thể động vật.
(2) Đầu của con người, coi là biểu tượng của suy nghĩ, nhận thức (dùng
hạn chế trong một số tổ hợp). Vấn đề đau đầu. Cứng đầu.
(3) Phần có tóc mọc ở trên đầu con người; tóc (nói tổng quát). Gãi đầu
gãi tai. Chải đầu. Mái đầu xanh. Đầu bạc.
(4) Đầu là phần trước nhất hoặc phần trên cùng của một số vật. Đầu
máy bay. Trên đầu tủ. Sóng bạc đầu.
(5) Phần có điểm xuất phát của một khoảng không gian hoặc thời gian,
đối lập với cuối. Đi từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh. Nhà ở đầu làng. Đầu mùa thu.
Những ngày đầu tháng.
(6) Phần ở tận cùng, giống nhau ở hai phía đối lập trên chiều dài của
một vật. Hai bên đầu cầu. Nắm một đầu dây. Trở đầu đũa.
(7) Vị trí hoặc thời điểm thứ nhất, trên hoặc trước tất cả những vị trí,
thời điểm khác. Hàng ghế đầu. Lần đầu. Tập đầu của bộ sách. Đếm lại từ đầu.
Dẫn đầu.
(8) Từ dùng để chỉ từng đơn vị để tính đổ đồng về người, gia súc, đơn
vị diện tích. Sản lượng tính theo đầu người. Mỗi lao động hai đầu lợn. Tăng
số phân bón trên mỗi đầu mẫu.
(9) Từ dùng để chỉ từng đơn vị máy móc, nói chung (kết hợp hạn chế).
Đầu máy khâu. Đầu video. Đầu đọc. Đầu cắm.
Theo tác giả Lê Quang Thiêm [35], quá trình phát triển nghĩa của từ
“đầu” có sự mở rộng, đa dạng theo thời gian tuyến dẫn xuất. Cụ thể:
• Từ “đầu” năm 1931, trước năm 1945 có các nghĩa với quan hệ sau: 1.
Phần trên nhất trong thân thể người ta và các loài động vật – Tiếng cổ gọi là
trốc, 2. Dùng để chỉ từng đơn vị một: Mấy đầu con, mấy đầu gậy. Tôm kể đầu,
25
rau kể mớ. 3. Nghĩa rộng: Ở trên hết, trước hết, hay là cùng hết: Đầu núi, đầu
tháng, đầu làng, v.v. (Việt Nam Tự điển – Hội Khai Trí)
• Hơn 30 năm sau, nghĩa của từ “đầu” được miêu tả như sau: “ I d. 1.
Phần trên nhất của thân thể người hay phần trước nhất của thân thể loài vật ở
đó có hệ thần kinh trung ương; phần lớn các giác quan và nối vào thân bằng
cổ; 2. Chỗ cao nhất của phần nói trên (ngh1) ở đó có tóc; 3. Bộ phận bên
trong của phần nói trên, thường nói về mặt ý nghĩ, tư duy; 4. Đơn vị gia súc,
thường nói trong một đàn; 5. Phần trên nhất, trước nhất của một vật, một thời
gian; Phần trước nhất và phần cuối; 6. Phần tốt nhất; II. Phần trên hết. (Từ
điển Tiếng Việt – Văn Tân)”. Dù chỉ 6 nghĩa cùng với sự phân biệt hai từ loại
nhưng cũng có thể coi đây là bước phát triển, phát triển hiện thực nghĩa của từ
và sự nhận thức, phân tích của nhà từ điển – nghĩa học để có kết quả miêu tả
trên.
• Cho đến nay, theo từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, từ “đầu”
được miêu tả thành 9 nghĩa (như trình bày bên trên). Nghĩa (1) được coi là
nghĩa gốc cũng là nghĩa cơ bản. Trong nghĩa (1) này có hai nét nghĩa quan
trọng, một là vị trí “trên cùng” hay “phần trước nhất” của người và động vật,
hai là nét nghĩa “có bộ óc và nhiều giác quan khác”. Chính hai nét nghĩa quan
trọng, khái quát này sẽ là “điểm tựa” để tạo ra các nghĩa phái sinh theo tuyến
dẫn xuất khác nhau:
- Tuyến thứ nhất phái sinh theo vị trí cụ thể của người: (2) Đầu, tóc (đội
trên đầu, đầu tóc, gãi đầu gãi tai); (3) Theo vị trí cụ thể tận cùng của vật (đầu
tủ, đầu nhà, đầu làng…); (4) Theo vị trí đầu của thời gian (đầu năm, đầu
xuân…); (5)Theo vị trí thứ tự (đứng đầu, dẫn đầu).
- Tuyến thứ hai phái sinh theo chức năng, tầm quan trọng: (6) Vai trò
điều khiển (cầm đầu, đầu não); (7) Biểu trưng cho khả năng trí tuệ, ý chí
(cứng đầu, có đầu, vấn đề đau đầu,…).
26
- Tuyến thứ ba phái sinh theo đơn vị đếm: (8) Đơn vị động vật (đầu
người, đầu gia súc); (9) Đơn vị máy móc (đầu máy khâu, đầu video).
Như vậy, có thể thấy, theo thời gian trước năm 1945, sau đó từ những
năm 60 rồi đến những năm 90 của thế kỷ XX, đầu năm 2000 từ “đầu” đã có
những bước phái sinh, dẫn xuất, phát triển; từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ
thể đến trừu tượng.
Điều khiển (1)
Chức năng
Trí tuệ, ý chí (2)
i
Đầu là phần trước nhất (3)
Vị trí
Đầu là vị trí cao nhất (4)
U Ầ Đ
Thứ tự (5)
Người (6)
ờ ư g n ể h t ơ c n ậ h p ộ B
Đơn vị tính đếm
Động vật (7)
Máy móc (8)
( Nguồn: Khảo sát của tác giả)
Hình 2.1 : Sơ đồ phát triển nghĩa của từ “đầu”
Qua mô hình trên, có thể thấy, các nghĩa phái sinh của từ “đầu” là kết
quả của hai phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Cụ thể, nghĩa (6),
(7), (8) được chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ; (1), (2), (3), (4), (5)
chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ, trong đó (1), (2) chuyển nghĩa theo nét
nghĩa chức năng, còn (3), (4), (5) chuyển nghĩa theo nét nghĩa vị trí.
Cụ thể, xét theo nét nghĩa chức năng, “đầu” với biểu tượng về trí tuệ
thường kết hợp với từ “óc” để tạo ra các cách nói: đầu óc nhanh nhạy (ca
27
ngợi trí tuệ minh mẫn), ba đầu sáu tay (hình dung về người có năng lực,
sức mạnh gấp mấy lần người bình thường), đau đầu nhức óc (suy nghĩ
cân nhắc cẩn thận, tỉ mỉ ), đầu óc non nớt (suy nghĩ thiếu già dặn, chưa
chín chắn, thiếu bản lĩnh)… Để ca ngợi sự minh mẫn của trí tuệ, chúng ta
có thể nói “một cái đầu sáng suốt”; để chỉ ra quan hệ giữa trí tuệ và tình
cảm, chúng ta có “cái đầu lạnh, trái tim nóng”. Đó là những cách nói khá
mới nhưng cùng trong một hướng phát triển ngữ nghĩa của từ “đầu”.
Xét theo nét nghĩa vị trí, vị trí trước nhất nhìn theo chiều thẳng
ngang của đầu người đã được chuyển di sang chỉ bộ phận trước nhất của
động vật (đầu gà, đầu trâu, đầu lợn, đầu cá…). Vị trí cao nhất nhìn theo
chiều thẳng đứng của đầu người tiếp tục được mở rộng chỉ bộ phận cao
nhất trên cơ thể thực vật. Cụ thể, người Việt đã Việt đã dựa trên sự tương
đồng về vị trí với bộ phận đầu của cơ thể mình để gọi tên các bộ phận của
thực vật như: đầu lá, đầu rễ, đầu cành, đầu nhụy, đầu cây ngọn cỏ, đầu
quả… hay dựa trên sự tương đồng về hình dáng làm nảy sinh cách gọi tên như:
cỏ bạc đầu, cỏ đầu tròn…
Vị trí cao nhất của đầu tiếp tục được sử dụng để nói đến vị trí tận
cùng/trên cùng của đồ vật (đầu nhà, đầu bàn, đầu ghế, đầu giường, đầu bút,
đầu tủ…). Từ những khái niệm cụ thể, thuộc tính về vị trí của đầu được phát
triển để giải thích cho các khái niệm trừu tượng hơn. Ví dụ, xưa nay chúng ta
vẫn nói “bắt đầu công việc”, chính là một cách nói trừu tượng chứ không
phải là quá cụ thể, vì là trừu tượng nên mới vận dụng được vào bất kỳ trường
hợp cụ thể nào. Mở đầu, bắt đầu, khởi đầu, ban đầu , hồi đầu, lúc đầu, mới
đầu... cũng từ đó mà ra. Cặp đôi “đầu – đuôi” gắn liền với khái niệm “trước –
sau”: Đầu đi thì đuôi lọt. Khái niệm này thông qua tư duy của người Việt lại
được vận dụng một cách trừu tượng để nhấn mạnh nguyên nhân, khởi nguồn
của sự việc. Chúng ta vẫn thường nói: đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi xuôi
28
ngược... Ngoài ra còn có: đầu dây mối nhợ, đầu cua tai nheo, đầu sông ngọn
nguồn, đầu cua tai đỉa, đầu cua tai ếch...
2.2. Quá trình phát triển nghĩa của từ “头” trong tiếng Hán
Theo Từ điển Hán ngữ hiện đại [66], “头” có tới 15 nghĩa như sau:
(1) Phần trên cùng của cơ thể người hoặc phần trước nhất của động vật,
nơi có miệng, mũi, mắt và các cơ quan khác.
(2) Chỉ tóc hoặc kiểu để tóc. 剃头 (cạo đầu). 梳头 (chải đầu, chải tóc).
分头(rẽ ngôi)
(3) Phần trên cùng hoặc cuối cùng của vật thể. 山头 (đầu núi). 笔头
(đầu bút)
(4) Bắt đầu và kết thúc của sự việc. 话头 (câu chuyện). 提头 (đưa ra
câu chuyện)
(5) Phần còn lại của đồ vật. 布头 (vải vụn). 蜡头(nến vụn). 铅笔头
(đầu mẩu bút chì)
(6) Thủ lĩnh, đầu sỏ, trùm . 头目 (Người lãnh đạo một nhóm, đầu sỏ,
thủ lãnh, đầu mục, kẻ đứng đầu). 特務头子 (Trùm đặc vụ).
(7) Khía cạnh, phương diện.一 心挂两头 (một tim treo hai đầu (lòng
hướng về cả hai phía)
(8) Thứ nhất. 头等 (hạng đầu). 头号 (số đầu)
(9) Dẫn đầu, thứ tự ở trước. 头马 (ngựa đầu đàn). 头羊 (dê đầu đàn).
头车 (xe dẫn đầu)
(10) Dùng trước lượng từ hoặc số từ, biểu thị thứ tự trước tiên. 头半本
(nửa quyển đầu). 头几个 (mấy cái đầu). 头三天 (3 ngày đầu)
(11) Tiếng địa phương, dùng trước “năm” hoặc “ngày”, biểu thị thời
gian phía trước. 头年 (năm ngoái hoặc một năm trước). 头天 (một ngày trước)
29
(12) Biểu thị gần, hoặc lân cận. 头五点就得动身 (gần 5 giờ phải tập
thể dục)
(13) Biểu thị số ước lượng. 三 头五百 (khoảng ba đến năm trăm) . 十
头八块钱不算多 (Chừng 8 đến 10 đồng thôi không bao nhiêu)
(14) Lượng từ dùng cho động vật hoặc những đồ vật có hình dạng tròn
giống đầu. 一头牛 (một con bò). 一头猪 (một con lợn). 两头蒜 (hai củ tỏi)
(15) 1. Đặt sau danh từ làm tiếng đệm, đọc thanh nhẹ[tou]: 木头 (gỗ)
石头 (đá) 拳头 (quả đấm) 2. Đặt sau tính từ: 甜头 (vị ngọt, lợi ích), 准头
(tiêu chuẩn) 3. Đặt sau động từ: 有听头(nghe hay hay) 没有看头 (xem chẳng
ra gì) 4. Đặt sau từ phương vị chỉ nơi chốn: 前头 (đằng trước, phía trước) 上
头 (bên trên) 外头(bên ngoài, phía ngoài).
Từ “đầu” trong tiếng Hán xuất hiện với ý nghĩa ban đầu là phần trên
cùng của cơ thể người hoặc phần trước nhất của động vật, nơi có miệng, mũi,
mắt và các cơ quan khác. Theo ý nghĩa này, chúng ta thấy rằng, khái niệm
“phần trước nhất” và “phần trên cùng” được miêu tả căn cứ theo thuộc tính vị
trí của đầu, do đó có thể mở rộng thành nghĩa (3) là phần phía trên cùng và
phần dưới cùng của vật thể. Đây là khái niệm mang tính cụ thể, nhưng khi
trừu tượng hóa khái niệm này, chúng ta có nghĩa (4) là sự bắt đầu (đầu mở) và
kết thúc (đầu kết) của sự việc. Rất dễ thấy, "đầu mở và đầu kết” có những đặc
trưng tương tự với “đầu trên và đầu dưới”. Cũng từ nghĩa (3), “đầu trên” hay
“đầu dưới” sẽ được coi là bộ phận của một vật thể hoàn chỉnh, từ đó phái sinh
ra nghĩa (5), và mở rộng thêm thành nghĩa (7). Bộ phận của một vật thể hoàn
chỉnh sau quá trình trừu tượng hóa sẽ được dùng để giải thích cho khái niệm
“khía cạnh, phương diện”, tức một phần, một mặt của một vấn đề có thể tách
riêng ra mà xem xét.
30
Như chúng ta đã biết, đầu là bộ phận quan trọng nhất của cơ thể con
người, là biểu tượng của trí tuệ. Những quyết định, những tính toán đều được
“tiết” ra từ bên trong đầu. Đây chính là cơ sở để phái sinh ra nghĩa (6) là thủ
lĩnh, người lãnh đạo. Những người nắm vai trò lãnh đạo hay đứng đầu trong
một tổ chức thường đại diện cho những gì tốt nhất, tinh hoa nhất, có năng lực
nhất. Từ đây, nghĩa (8), (9) được mở rộng để biểu thị thứ tự trước nhất là
đẳng cấp, là dẫn đầu. Nghĩa (10) cũng được phái sinh theo hướng này.
Chuyển sang nghĩa (12), vì đầu là bộ phận quan trọng nhất không thể thiếu
của một cơ thể sống, nên đầu rất phù hợp để trở thành một đơn vị để tính đếm
số lượng người và động vật trong một quần thể.
Quay lại với nghĩa (2), tóc mọc ở trên đầu, vậy nên đầu cũng có nghĩa
là tóc. Đây là phương thức chuyển nghĩa hoán dụ của từ “đầu” trong tiếng
Hán, lấy cái toàn thể để chỉ bộ phận.
Từ “đầu” trong tiếng Hán là một từ có tần suất sử dụng khá phổ biến
từ trước đến nay, ý nghĩa và cách dùng của nó cũng vì thế mà trải qua một
quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Nghiên cứu của Lưu Văn Bình (2009)
đăng trên báo của Học viện Hình Đài [57] xem xét sự phát triển nghĩa từ của
“头” qua hai thời kỳ đó là: thời kỳ Tiên Tần đến cuối Nguyên đầu Thanh và
thời kỳ hiện đại.
a) Thời kỳ Tiên Tần
- Xuân Thu chiến quốc: từ “头” đã xuất hiện, nhưng chưa phổ biến.
Thời kỳ này “头” được sử dụng hoàn toàn với nghĩa gốc là đầu/sọ của con
người, sau đó mở rộng thành đầu/sọ của con vật.
(1) 文公之出也, 竖头须. Văn công chi xuất dã, thụ đầu tu. {46}
31
(2) 蟡者, 一头而两身, 其形若蛇. Qụy giả, nhất đầu nhi lưỡng thân, kỳ
hình nhược xà. (Loài động vật một thân hai đầu, hình dáng giống con rắn).
{72}
头 trong ví dụ (1) là đầu người, “thụ đầu tu” nghĩa là đầu phải thẳng, ý
chỉ đầu người phải thẳng. 头 trong ví dụ (2) là đầu của động vật, “nhất đầu
nhi lưỡng thân” nghĩa là một đầu mà hai thân, ý chỉ đầu của một loài động vật
như rắn nước.
- Lưỡng Hán: chủ yếu vẫn được sử dụng với nghĩa đầu/sọ, nhưng có
mở rộng thêm về ý nghĩa và cách dùng.
o “头” đã xuất hiện với cách dùng của lượng từ, dùng để tính đếm
động vật, người. Con đường phát triển này thực ra rất dễ lý giải, bởi đầu là bộ
phận quan trọng nhất, lộ ra rõ nhất, nên tất nhiên con người sẽ dùng “头” để
tính đếm số lượng động vật. Cách giải thích cho sự phát triển này cũng khá
phù hợp với cách thức tư duy của hoán dụ.
(3) 式入山牧十余岁,羊致千余头,买田宅. Thức vào núi chăn cừu
hơn mười năm, cừu có tới hàng nghìn con, mua ruộng vườn nhà cửa. {50}
(4) 外内骚动,百姓罢敝,头会箕敛,以供军费. Trong ngoài nháo
nhác, trăm họ mỏi mệt rã rời, cứ theo đầu người mà nộp thóc, vơ vét để cung
cấp quân phí. {51}
Trong ví dụ (3), 头 được dùng để tính đếm số lượng cừu (hàng nghìn
đầu cừu),头 trong ví dụ (4) được dùng để tính đếm số lượng người (nộp
thóc theo đầu người).
o Với vị trí đầu tiên, trước nhất trên cơ thể người và động vật, “头”
được mở rộng với cách dùng chỉ phần đỉnh, phần trước của vật thể/đồ vật.
(5) 至月余, 匈奴斩山头而去. Không đến một tháng, Hung Nô chém
đỉnh núi mà chạy {67}
32
山头 (sơn đầu) trong ví dụ (5) là đầu ngọn núi, chỉ phần đỉnh của ngọn
núi.
o Nhìn theo chiều thẳng đứng, “头” chỉ phần đỉnh của sự vật, nhìn
theo chiều thẳng ngang, “头” có thể mở rộng biểu thị ý nghĩa điểm đầu và
điểm cuối của sự vật.
(6) 退而西南, 三月生天枪, 长数丈, 两头兑. Lui về phía Tây Nam, thì
3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Thương, dài vài trượng và có hai đầu
nhọn. {52}
头 trong ví dụ (6) đặt trong cụm “两头兑”(lưỡng đầu nhuệ) nghĩa là hai
đầu nhọn, “hai đầu” ý chỉ điểm đầu và điểm cuối của sao chổi Thiên Thương.
o Theo tập tục đội khăn ở trên đầu của người xưa, chiếc khăn tượng
trưng cho những thân phận khác nhau, vì thế từ “đầu” trong tiếng Hán có thể
biểu thị chức vị hoặc địa vị của con người trong xã hội. Từ “仓头” (thương
đầu) trong ví dụ (7) dưới đây ra đời từ việc binh sĩ trong quân đội buộc khăn
màu xanh ở trên đầu, vì thế “仓头” ý chỉ binh sĩ.
(7) 武力二十余万,苍头二千万. Vũ lực hơn 20 vạn, binh sĩ 200
vạn.{74}
Có thể thấy, từ “头” trong thời Lưỡng Hán đã có sự phát triển nghĩa
hết sức mạnh mẽ, xuất hiện thêm 4 nét nghĩa mới.
- Tùy Đường: “头” diễn biến hóa từ nghĩa thực từ sang nghĩa hư từ,
đứng sau thực từ, bản thân không có nghĩa, chỉ khi kết hợp với thực từ phía
trước tạo thành kết cấu “Từ gốc + 头”. Tuy nhiện, trong thời kỳ này tần suất
xuất hiện chưa nhiều.
(8) 含情欲说宫中事﹐鹦鹉前头不敢言. Hàm tình dục thuyết cung
trung sự, Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn. (Ngậm ngùi toan nói điều cung cấm,
Chợt thấy chim về bỗng lặng thinh). {68}
33
前天 (tiền đầu) trong ví dụ (8) là kết cấu 前 (tiền, phía trước) + 头 biểu
thị ý nghĩa là phía trước, “头” trong cụm từ này không có nghĩa gì. “Anh vũ
tiền đầu bất cảm ngôn” nghĩa là chim vẹt phía trước không dám nói ra.
- Ngũ Đại: Hiện tượng hậu tố hóa của từ “头” trở nên phổ biến. Trong
《敦煌变文选》(Đôn Hoàng biến văn tuyển) có rất nhiều câu sử dụng cách
dùng này của từ “头” như:
(9) 外头有一僧, 善有妙术, 口称医疗, 不感不报. Bên ngoài có một vị
tăng, giỏi phép thuật, tự xưng chữa bệnh, không cần báo đáp. {78}
(10) 难陀走到佛前头, 礼拜如来双泪流. Nan Đà đi đến trước mặt
Phật Tổ, rưng rưng hai hàng nước mắt, cúi lạy Như Lai. {78}
Dễ thấy, trong ví dụ (9) (10) là kết cấu “Phương vị từ + 头” , “头”
trong 外头 (ngoại đầu) không mang nghĩa gì, chỉ là hậu tố thêm vào phía sau
từ.
- Đời Nguyên: “头” có thêm hai nét nghĩa mới:
o Đầu là bộ phận quan trọng nhất của cơ thể, là cơ quan linh hồn, có
tác dụng chi phối hành vi của con người. Do đó, “头” được dùng để chỉ
người đứng đầu, lãnh đạo, chỉ huy.
(11) 官里面前, 丞相为头儿 . Quan lý diện tiền, Thừa tướng vi đầu.
(Thừa tướng là người đứng đầu trong số các quan). {75}
(12) 有一千军, 内有一头目. Nghìn quân chỉ có một tướng. {76}
“头” mang theo âm uốn lưỡi “儿” trong ví dụ (11) ý chỉ người đứng
đầu; còn trong ví dụ (12) là từ ghép đẳng lập 头目. “头” (đầu) và “目”(mục,
mắt) là hai bộ phận vô cùng quan trọng trên cơ thể người, vậy nên khi hai chữ
này ghép lại để hình dung về một con người phi phàm, có vai trò quan trọng.
34
o Đầu ở vị trí cao nhất trên cơ thể, nên có thể biểu thị đỉnh của sự vật,
cũng có thể biểu thị khởi nguồn của sự việc. Từ “头” ở Triều Nguyên từ nét
nghĩa “phía trước” chuyển di sang nghĩa “thứ tự trước tiên”. “头” có thể
đứng trước Danh từ, Lượng từ biểu thị ý nghĩa “trước tiên”, “trước nhất”; và
cũng có thể đứng trước Số từ hoặc Đoản ngữ chỉ số lượng, biểu thị “前几个”
(mấy cái trước). Ví dụ:
(13) 头一道团撺汤, 第二道鲜鱼汤. Món ăn đầu là canh mọc, món thứ
hai là canh cá tươi. {77}
“头” trong ví dụ (13) đặt trong cụm “头一道” (đầu nhất đạo), “đạo” là
lượng từ của món ăn, “nhất” là số từ. Từ “头” đặt trước cụm số lượng từ
mang nghĩa thứ tự trước tiên.
Cho đến cuối đời Tống đầu đời Thanh, từ “头” kết thúc quá trình phát
triển nghĩa, những đời sau tiếp tục với những cách dùng này, trở thành từ
thường dùng trong tiếng Hán.
b) Thời kỳ hiện đại
Quá trình chuyển từ thực từ thành hư từ được coi là quá trình ngữ pháp
hóa của từ “头”. Hiện tượng ngữ pháp hóa điển hình là từ ngữ hoặc kết cấu
có nghĩa trong ngôn ngữ sẽ trở nên không có nghĩa mà chỉ là thành phần biểu
thị chức năng ngữ pháp, hoặc là một thành phần ngữ pháp không bị hư hóa
quá sẽ trở nên hư hóa hơn. “头” với cách dùng của hư từ bắt đầu từ thời kỳ
Tùy Đường, nhưng chưa phổ biến, mà phải đến thời kỳ Ngũ Đại mới được sử
dụng nhiều trong các văn kiện. Trong Hán ngữ hiện đại, “头” trở lại với cách
dùng của thực từ, trở thành từ gốc kết hợp với các từ khác tạo thành từ mới,
và không đọc thanh nhẹ. Ví dụ:
头发 (tóc), 光头 (trọc đầu), 头脑 (đầu não, đầu óc), 头痛 (đau đầu)
(头: đầu óc)
35
船头 (đầu thuyền), 桥头 (đầu cầu), 床头 (đầu giường) (头: phần trước
vật thể)
山头 (đầu núi), 树头 (đầu cây), 顶头 (đỉnh đầ 头: phần đỉnh của
vật thể
头子, 头儿 (đầu mục) (头: dẫn đầu)
“头” trong tiếng Hán hiện đại có cách dùng vô cùng quan trọng, đó
chính là làm hậu tố. Cách dùng này đã xuất hiện từ thời Hán cổ và được mở
rộng thêm, trở nên có quan hệ mật thiết hơn với từ gốc, có vị trí cố định, dùng
sau từ gốc làm hậu tố, không có ý nghĩa, đọc thanh nhẹ. Cụ thể:
o “头” dùng sau Danh từ: 石头 thạch đầu (đá), 木头 mộc đầu (gỗ),
骨头 cốt đầu (xương), 劲头 kình đầu(sức mạnh), 罐头 quán đầu (đồ hộp)…
o “头” dùng sau ngữ tố biểu thị động tác hành vi, tính chất trạng
thái: 念头 niệm đầu (suy nghĩ),想头 tưởng đầu (cách nghĩ),盼头 phán đầu
(hy vọng có thể thành hiện thức,甜头 điềm đầu (lợi ích), 苦头 khổ đầu
(nỗi khổ)...
o “头” dùng sau Phương vị từ: 上头 thượng đầu (trên đầu), 下头 hạ
đầu (bên dưới), 里头 lí đầu (trong đầu), 外头 ngoại đầu (bên trong)...
Hậu tố “头” không những làm tăng cường tính danh từ mà còn làm
cho kết cấu của từ trở nên vững chắc hơn, là biện pháp quan trọng làm phong
phú danh từ song âm tiết trong tiếng Hán.
Có thể thấy, ý nghĩa của “头” đã trải qua một quá trình diễn biến phát
triển lâu dài và phức tạp. Không chỉ là thực từ, sau khi ngữ pháp hóa có thể
làm hư từ, khả năng liên kết từ mạnh, tạo thành một lượng lớn từ ngữ có kết
cấu “Từ gốc + 头”. Vậy nên, dù là trong tiếng Hán cổ đại hay hiện đại, dù là
36
trong biểu thị ý nghĩa hay tạo từ, “头” luôn có một vai trò vô cùng lớn. Sự
Điều khiển (1)
Chức năng
Trí tuệ, ý chí (2)
Phần trước nhất (3)
Vị trị cao nhất (4)
Bắt đầu và kết thúc của sự việc (11)
Vị trí
Phần trên cùng hoặc cuối cùng (5)
phát triển ý nghĩa của “头” sẽ được sơ đồ hóa như sau:
头
Phần thừa lại của đồ vật (12)
Đầu, tóc (6)
i ờ ư g n ể h t ơ c n ậ h p ộ B
Thứ tự (7)
Đơn vị tính đếm
Động vật, người (8)
Khía cạnh, phương diện (13)
Lượng từ cho vật thể tròn (9)
Hình dáng
Đồ vật có hình tròn (10)
( Nguồn: Khảo sát của tác giả)
Hình 2.2 : Sơ đồ phát triển nghĩa của từ “头”
Tóm lại, nghĩa gốc của từ “头” trong tiếng Hán cũng giống với tiếng
Việt, đều là sự nhận thức, phản ánh chỉ vật (referent) – đầu của người và động
vật. Sự phát triển nghĩa này được tiếp tục qua các giai đoạn bằng phương thức
ẩn dụ và hoán dụ. Nghĩa (2) và (9) chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ,
các nghĩa còn lại chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ. Cụ thể, từ nghĩa gốc
37
là bộ phận cơ thể người phái sinh theo nét nghĩa chức năng (1, 3), vị trí (4, 5,
6, 7, 8, 10, 14), đơn vị tính đếm (11) và hình dáng (12, 13).
Ngoài ra, trong quá trình phát triển nghĩa của từ “头” xuất hiện sự
chuyển loại, từ danh từ chuyển sang lượng từ rồi phát triển thành hậu tố. Hiện
tượng hậu tố hóa của “头” thể hiện ở chỗ: đứng sau phương vị từ hoặc danh
từ cấu thành một từ chỉ phương vị hoặc danh từ mới; đứng sau động từ cấu
thành một danh từ; đứng sau tính từ cấu thành danh từ.
2.3. Đối chiếu quá trình phát triển nghĩa từ “đầu” trong tiếng Việt
và tiếng Hán
Thông qua đối chiếu hai sơ đồ phát triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng
Việt và tiếng Hán ở trên, chúng tôi tổng kết thành bảng sau:
Bảng 2.1. Bảng đối chiếu nghĩa từ “đầu” và từ “头”
Đầu 头
Ví dụ Ý nghĩa Ví dụ ST T Ý nghĩa
Bộ phận cơ thể người, phần trên cùng, phía trước, cơ quan trung
1
ương, nơi có bộ óc và nhiều giác quan khác của cơ thể con người hay phần trước nhất của thân thể động vật.
2 Chỉ tóc hoặc kiểu để tóc. 剃头 (cạo đầu). 梳头 (chải đầu, chải tóc). 分 头 (rẽ ngôi) Gãi đầu gãi tai. Chải đầu. Mái đầu xanh. Đầu bạc.
/
3 /
Vấn đề đau đầu. Cứng đầu
Phần có tóc mọc ở trên đầu người; tóc (nói tổng quát). Đầu của con người, coi là biểu tượng của suy nghĩ, nhận thức (dùng hạn
38
chế trong một số tổ hợp).
4 山头 (đầu núi). 笔头 (đầu bút)
Đầu máy bay. Trên đầu tủ. Sóng bạc đầu. Phần trên cùng hoặc cuối cùng của vật thể. Phần trước nhất hoặc phần trên cùng của một số vật.
村头(đầu làng)…
Phần trước nhất của vật thể địa lí 5
月头 (đầu tháng), 年 头 (đầu năm), 头两天 (hai ngày đầu)… Đi từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh. Nhà ở đầu làng. Đầu mùa thu. Những ngày đầu tháng.
Phần có điểm xuất phát của một khoảng không gian hoặc thời gian, đối lập với cuối. Khoảng thời gian trước nhất
头马 (ngựa đầu đàn). 头羊 (dê đầu đàn). 头 车 (xe dẫn đầu)
6
- Thứ tự ở trước.
Thời điểm thứ nhất, trên hoặc trước tất cả những vị trí, thời điểm khác. Hàng ghế đầu. Lần đầu. Tập đầu của bộ sách. Đếm lại từ đầu. Dẫn đầu. 头半本 (nửa quyển đầu). 头几个 (mấy cái đầu). - Thứ tự trước nhất.
7 中间粗,两头细 (ở giữa thô, hai đầu tinh) Hai bên đầu cầu. Nắm một đầu dây. Trở đầu đũa. Phần cuối cùng, giống nhau ở hai phía của một vật
Phần ở tận cùng, giống nhau ở hai phía đối lập trên chiều dài của một vật.
39
8
一头牛 (một con bò). 一头猪 (một con lợn). 两头蒜 (hai củ tỏi) Sản lượng tính theo đầu người. Mỗi lao động hai đầu lợn.
Lượng từ dùng cho động vật hoặc những đồ vật có hình dạng tròn giống đầu.
9 / /
Đầu máy khâu. Đầu video. Đầu đọc. Đầu cắm.
Từ dùng để chỉ từng đơn vị để tính đổ đồng về người, gia súc, đơn vị diện tích. Từ dùng để chỉ từng đơn vị máy móc, nói chung (kết hợp hạn chế).
Khởi đầu. Ban đầu. Mới đầu. 10
开头 (bắt đầu, khởi đầu),从头到尾 ,彻 头彻尾 (từ đầu đến cuối) Bắt đầu /
到头 (đến cuối),尽头 (tận cùng)… Kết thúc của sự việc Bắt đầu của sự việc Kết thúc của sự việc
11 / Phần còn lại của đồ vật. /
布头 (vải vụn). 蜡头 (nến vụn). 铅笔头 (đầu mẩu bút chì)
/
12 / 头年 (năm ngoái hoặc một năm trước). 头天 (một ngày trước)
Tiếng địa phương, dùng trước “năm” hoặc “ngày”, biểu thị thời gian phía trước.
40
Biểu thị gần, hoặc lân cận. / 13 头五点就得动身 (gần 5 giờ phải tập thể dục) /
/ 14 / Biểu thị số ước lượng.
三 头五百 (khoảng ba đến năm trăm) . 十头 八块钱不算多 (Chừng 8 đến 10 đồng thôi không bao nhiêu)
15 Thủ lĩnh, đầu sỏ, trùm .
Đầu đàn, đầu đảng, đầu lĩnh/ đầu lãnh 头目 (Người lãnh đạo một nhóm, đầu sỏ, thủ lãnh, đầu mục, kẻ đứng đầu). 特務头子 (Trùm đặc vụ). Người đứng đầu cơ quan, tổ chức
16 / Khía cạnh, phương diện. / 一 心挂两头 (một tim treo hai đầu (lòng hướng về cả hai phía)
17 头等 (hạng đầu). 头号 (số một) Tốt nhất, hay nhất Chất lượng sản phẩm hàng đầu
Tốt nhất, hay nhất 木头 (gỗ) 石头 (đá) 拳头 (quả đấm)
1. Đặt sau danh từ làm tiếng đệm, đọc thanh nhẹ[tou]:
2. Đặt sau tính từ: / 18 /
3. Đặt sau động từ
4. Đặt sau từ phương vị chỉ nơi chốn: 甜头 (vị ngọt) 准头 (tiêu chuẩn) 有听头(nghe hay hay) 没有看头 (xem chẳng ra gì) 前头 (đằng trước, phía trước) 上头 (bên trên) 外头(bên ngoài, phía ngoài).
( Nguồn: Khảo sát của tác giả)
41
2.3.1. Điểm tương đồng trong sự phát triển nghĩa của “đầu” và “头”
Qua đối chiếu, chúng tôi nhận thấy, “đầu” và “头” có 8 nghĩa tương
đồng hoàn toàn như sau:
- Đều có nghĩa gốc là bộ phận cơ thể của người và động vật, nơi có
miệng, mũi, mắt và các cơ quan khác.
- Đều chỉ tóc, kiểu tóc.
- Đều chỉ phần trên cùng, phần trước nhất của động vật hay đồ vật
- Đều chỉ khoảng không gian và thời gian trước nhất
- Đều chỉ những động vật hay đồ vật có vị trí, thứ tự trên hoặc trước.
- Đều chỉ phần ở tận cùng, giống nhau ở hai phía đối lập trên chiều dài
của một vật.
- Đều là đơn vị tính đếm cho người, đồ vật và động vật
- Đều chỉ người đứng đầu quan, tổ chức
- Đều chỉ đẳng cấp, những gì tốt nhất, hay nhất, giỏi nhất
Nguyên nhân của sự giống nhau này rất dễ lý giải, bởi tư duy tri nhận
của con người về vị trí, chức năng của đầu về cơ bản là giống nhau. Hơn nữa,
văn hóa Việt Nam và Trung Quốc lại càng có nhiều điểm tương đồng.
Theo tác giả Vũ Thế Khôi, trong giới Hán học Trung Quốc và Việt
Nam khá phổ biến ý kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần (cuối thế kỷ
thứ III TCN) chữ Hán đã bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam, được các
triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng trong các văn bản chính thức. Mặc dù
vào thế kỷ thứ 13, nhà Trần sáng tạo ra chữ Nôm nhưng kết cấu chữ Nôm vô
cùng phức tạp, phạm vi sử dụng tương đối hạn chế. Tuy Triều đại nhà Hồ sử
dụng chữ Nôm trong các văn bản chính thức, nhưng vẫn phải thừa nhận vai
trò và ảnh hưởng không thể thay thế của chữ Hán trong quá trình phát triển và
truyền bá văn hóa. Đến thế kỷ thứ 16, các giáo sĩ phương Tây bắt đầu đến
Việt Nam truyền bá tôn giáo và sáng tạo ra bảng chữ cái Latin để ghi phát âm
42
của tiếng Việt. Đến thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp đã thi hành chính sách
xóa bỏ chữ Hán để sử dụng bảng chữ cái Latin. Dù vậy, sự ảnh hưởng của
chữ Hán đến văn hóa Việt Nam cũng không vì thế mà mất đi. Cho đến ngày
nay, chữ Hán vẫn xuất hiện rất nhiều ở đền, chùa, kể cả những nơi mới xây
dựng. Bên cạnh ảnh hưởng về văn tự là ảnh hưởng về mặt tư tưởng. Tư tưởng
Nho giáo của Trung Quốc cũng có những tác động không nhỏ đến Việt Nam.
Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo, lấy chữ “Nhân(仁)” làm tư tưởng
trung tâm, dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý. Các triều đại
phong kiến ở Việt Nam khi xây dựng đất nước đã sử dụng những tư tưởng
của Nho giáo để ban hành chính sách. Cho đến xã hội hiện đại bây giờ, dấu
vết của Nho giáo vẫn còn ẩn hiện, thể hiện ở sự phức tạp trong cách xưng hô
của người Việt, vì chịu ảnh hưởng của tư tưởng “tôn ti trật tự, đạo đức luân lý”
của đạo Nho.
Có thể thấy, nguyên nhân từ “đầu” của tiếng Việt có nhiều điểm tương
đồng với từ “头” của tiếng Hán cũng chính là do những ảnh hưởng về mặt tư
tưởng và văn tự, tạo nên những tương đồng trong sự tri nhận về thế giới xung
quanh.
2.3.2. Điểm khác biệt trong sự phát triển nghĩa của “đầu” và “头”
Như đã trình bày ở trên, từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán có khá
nhiểu điểm tương đồng, nhưng bên cạnh những điểm tương đồng đó vẫn tồn
tại những khác biệt do cách thức tư duy trong việc tổ chức ngôn ngữ và giải
thích khái niệm giữa hai cộng đồng người là khác nhau. Sự khác nhau đó biểu
hiện ở những điểm sau:
- Tiếng Việt có nghĩa đầu được coi là biểu tượng của suy nghĩ, nhận
thức với cách dùng “đau đầu” để chỉ những khó khăn, phiền phức, khó giải
quyết; Tiếng Hán không có cách dùng này, “đau đầu” (头疼) trong tiếng Hán
chỉ mang nghĩa đơn thuần là tình trạng sức khỏe, ý chỉ bị bệnh đau đầu.
43
- Tiếng Việt dùng “đầu” trong sự kết hợp hạn chế với bộ phận máy
móc như đầu video hay đầu máy khâu, tiếng Hán không có cách kết hợp để
chỉ bộ phận máy móc này.
- Với nghĩa chỉ sự bắt đầu và kết thúc của sự việc, tiếng Hán có cách
dùng để chỉ cả sự bắt đầu và kết thúc, còn tiếng Việt chỉ có cách dùng với ý
nghĩa bắt đầu.
- Từ “đầu” trong tiếng Hán được dùng để nói đến những phần còn thừa
lại của đồ vật sau khi đã qua sử dụng như: vải vụn (布头), nến vụn (蜡头);
Tiếng Việt không có sự kết hợp này.
- Từ “đầu” trong tiếng Hán dùng trước “năm” hoặc “ngày”, biểu thị
thời gian phía trước. Đây là cách dùng không phổ biển, và tiếng Việt cũng
không có cách dùng này.
- Với ý nghĩa biểu thị gần, hoặc lân cận, biểu thị số ước lượng là một
cách dùng đặc trưng của tiếng Hán, tiếng Việt không có cách nói này.
- Từ “đầu” trong tiếng Hán có ý nghĩa khía cạnh, phương diện. Đây là
ý nghĩa phái sinh từ nét nghĩa “một đầu nào đó của vật thể”, qua quá trình
trừu tượng hóa mở rộng thành khái niệm “khía cạnh”. Tiếng Việt không có
cách nói cũng như cách tư duy này.
- Hiện tượng hậu tố hóa của từ “đầu” trong tiếng tiếng Hán là một cách
dùng mà tiếng Việt không có.
Ngoài ra, trong quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, nhận
thức về bộ phận trước nhất của động vật của người Việt Nam và người
Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng, tuy nhiên cách lựa chọn các loài
động vật khi miêu tả cùng một khái niệm lại tồn tại những điểm khác biệt.
Lấy ví dụ khi miêu tả về người khi bắt đầu làm một việc gì đó thì rất mạnh
mẽ nhưng sau đó lại không làm đến nơi đến chốn thì Việt Nam có cách nói
“đầu voi đuôi chuột” hay “đầu rồng đuôi tôm” nhưng Trung Quốc thì dùng
44
cụm “虎头蛇尾 (đầu hổ đuôi rắn)”. Biểu đạt cùng một ý nghĩa, khái niệm
nhưng người Việt dùng cặp động vật voi/chuột, rồng/tôm còn Trung Quốc
thì dùng cặp hổ/rắn. Vậy nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau này là gì?
Theo tìm hiểu của chúng tôi, chính điều kiện tự nhiên của hai nước
đã dẫn đến sự khác biệt này. Như chúng ta đã biết, Việt Nam bị chi phối
bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa cận nhiệt đới và nhiệt đới. Khí hậu nóng và
mưa nhiều làm rừng rậm phát triển, phù hợp cho voi sinh trưởng và phát
triển. Voi được người Việt Nam nuôi để phục vụ cho hoạt động sản xuất
của mình. Việt Nam là một đất nước có nền nông nghiệp lúa nước, những
cánh đồng thẳng cánh cò bay trải dài trên khắp mọi miền Tổ quốc, và chuột
đồng thì được biết đến như một loài động vật phá hoại mùa màng. Sông
ngòi nhiều khiến cho tài nguyên thủy sản phong phú, tôm cá là nguồn thực
phẩm không thể thiếu trong các bữa ăn của người Việt. Còn rồng được
nhắc tới trong câu truyện thần thoại “con Rồng cháu Tiên”. Trong tưởng
tượng của con người, rồng là loài vật vô cùng to lớn và mạnh mẽ, còn tôm
thì là những con vật bé nhỏ. Như vậy, có thể thấy, voi, rồng, chuột, tôm
đều là những động vật quen thuộc trong đời sống sản xuất, sinh hoạt của
người Việt Nam, sinh trưởng và phát triển trong điều kiện môi trường tự
nhiên phù hợp của Việt Nam. Từ đó, những loài động vật này đi vào tri
nhận của con người một cách hết sức tự nhiên và con người dùng nó để giải
thích cho sự vật hiện tượng mà cụ thể ở đây là cặp động vật voi/rồng được
dùng để mô tả sự mạnh mẽ, hoành tráng, còn cặp chuột/tôm thể hiện sự nhỏ
bé, phá hoại. Trong khi đó, vẫn khái niệm này, trong tri nhận của người
Trung Quốc thì họ dùng cặp động vật hổ/rắn. Diện tích đất liền rộng lớn,
khí hậu phong phú và địa hình đa dạng của Trung Quốc khiến Trung Quốc
trở thành một quốc gia có số lượng hổ nhiều và đa dạng nhất trên thế giới.
Thân hình của hổ cũng rất to lớn và dũng mãnh. Với đặc trưng này, loài hổ
45
đã được người Trung Quốc tri nhận cho những sự vật sự việc quan trọng,
hoành tráng, mạnh mẽ. Từ ví dụ trên, có thể thấy, môi trường tự nhiên khác
nhau sẽ dẫn đến sự tri nhận khác nhau. Sự tri nhận khác nhau đó sẽ được
phản ánh vào trong ngôn ngữ, chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ
và môi trường tự nhiên.
Thêm một ví dụ nữa để minh chứng cho điều này, tiếng Việt dùng “đầu
cua tai nheo”, “đầu cua tai đỉa”, “đầu cua tai ếch” để biểu thị nguyên nhân
của sự việc nhưng tiếng Hán lại không có cách nói tương đồng để biểu đạt ý
niệm này. Lý do có thể do điều kiện tự nhiên của Việt Nam có hệ thống sông
ngòi dày đặc, cua, đỉa, ếch vì thế cũng có môi trường để phát triển phong phú,
và trở thành những món ăn trong đời sống hàng ngày của người dân, nên
người Việt có nhiều cơ hội để quan sát hình dáng hay thói quen sinh hoạt của
các loài này hơn người Trung Quốc, và đưa những loài động vật này vào
trong ngôn ngữ. Đây là một bằng chứng cho thấy các đặc điểm của môi
trường tự nhiên sẽ được thể hiện từ trong ngôn ngữ của con người. Và con
người trong môi trường tự nhiên khác nhau sẽ có cách tri nhận và phản ánh
vào trong ngôn ngữ khác nhau
Như vậy có thể thấy rằng, từ “đầu” chỉ có 9 nghĩa, trong khi đó từ “头”
lại có tới 15 nghĩa. Điều này chứng tỏ khả năng tạo từ của “头” mạnh hơn
“đầu”. Sự khác nhau này có thể do thói quen biểu đạt ngôn ngữ của tiếng
Hán và tiếng Việt. Định ngữ của tiếng Hán bất kể có bao nhiêu loại, bao nhiêu
tầng thì luôn luôn đứng trước thành phần trung tâm ngữ. Nhưng tiếng Việt thì
định ngữ biểu thị toàn bộ ý nghĩa, định nghĩa biểu thị số lượng hay đơn vị
mới có thể đứng trước trung tâm ngữ, định ngữ mang tính miêu tả, tính hạn
chế thì chỉ có thể đứng sau trung tâm ngữ. Thói quen biểu đạt ngôn ngữ có
mối liên hệ mật thiết với ngữ pháp. Xét về mặt thói quen biểu đạt ngôn ngữ,
46
“头”có thể làm thành phần hậu tố thêm vào phía sau từ gốc để biểu đạt những
khái niệm trừu tượng, còn tiếng Việt không có cách biểu đạt này.
Tiểu kết chương
Trong chương này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và đối chiếu nghĩa
của từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán. Kết quả như sau:
- Từ “đầu” chỉ có 9 nghĩa, trong khi đó từ “头” có 15 nghĩa. Sự chênh
lệch này cho thấy khả năng tạo từ của “头” mạnh hơn “đầu”. Sự chuyển
nghĩa của từ này trong hai ngôn ngữ đều phát triển thông qua hai phương thức
ẩn dụ và hoán dụ.
- Luận văn xem xét sự phát triển nghĩa từ của “đầu” theo thời gian
trước năm 1945, sau đó từ những năm 60 rồi đến những năm 90 của thế kỷ
XX, đầu năm 2000 và quá trình chuyển nghĩa của từ “头” qua hai thời kỳ đó
là: thời kỳ Tiên Tần đến cuối Nguyên đầu Thanh và thời kỳ hiện đại. Chúng
tôi nhận thấy từ này trong hai ngôn ngữ đã có những bước phái sinh, dẫn xuất,
phát triển; từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng.
- Thông qua các sơ đồ, bảng biểu, mô hình trực quan, luận văn đã tiến
hành phân tích và đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt
trong sự phát triển nghĩa của từ “đầu” và từ “头”, chỉ ra được chuyển nghĩa
của từ là hiện tượng mang tính phổ quát ở mọi ngôn ngữ, xuất phát từ chính
nhu cầu giao tiếp của con người, và có động lực từ con người; chỉ ra nguyên
nhân của sự tương đồng là do những ảnh hưởng về mặt văn tự và tư tưởng,
nguyên nhân của sự khác biệt là do môi trường tự nhiên khác nhau sẽ dẫn
đến sự tri nhận khác nhau, bên cạnh đó thói quen biểu đạt ngôn ngữ cùng
với kết cấu ngữ pháp cũng là lý do dẫn đến những khác biệt về sự phát
triển nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Hán và tiếng Việt.
47
CHƯƠNG 3
CÁC ẨN DỤ Ý NIỆM CỦA TỪ “ĐẦU”
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TỪ “头” TRONG TIẾNG HÁN
Như chúng ta đã biết, quá trình tri nhận của con người luôn bắt đầu từ
những gì cụ thể và gần gũi mà con người hiểu rõ nhất. Chính vì vậy, con
người có xu hướng dùng những kinh nghiệm, hiểu biết về chính bản thân
mình, về những sự vật, hiện tượng quen thuộc, đơn giản xung quanh làm tiêu
chuẩn để đánh giá thế giới, để tri nhận về những sự vật phức tạp và trừu tượng
hơn.
Triết học nghiệm thân cũng cho rằng, sự hiểu biết của con người về các
khái niệm bắt nguồn từ kinh nghiệm của chính con người về thế giới. Nghiên
cứu của Lakoff và Johnson [44] chỉ ra rằng, sự hình thành của các khái niệm
được xây dựng dựa trên các lược đồ hình ảnh, còn lược đồ hình ảnh là bằng
chứng quan trọng cho luận điểm rẳng ánh xạ ẩn dụ ý niệm là từ các miền cụ
thể đến các miền trừu tượng do được hình thành dựa trên kinh nghiệm thân
thể và kinh nghiệm không gian, nên các lược đồ hình ảnh có ý nghĩa trực tiếp
với con người. Và việc dùng cơ thể con người để làm miền nguồn cho các ẩn
dụ ý niệm đã thể hiện tính nghiệm thân trong quá trình tìm hiểu, nhận thức thế
giới của con người. Các bộ phận trên cơ thể con người được coi là một miền
nguồn lý tưởng vì theo lẽ tự nhiên thì con người có sự hiểu biết rõ ràng nhất
về cơ thể của mình, tính chất cũng như chức năng của các bộ phận trên cơ thể.
Vì thế, trong tiếng Việt cũng như tiếng Hán, miền ý niệm CƠ THỂ
NGƯỜI là một trong số những miền ý niệm cơ bản, bởi trong quá trình tri
nhận của con người, miền nguồn CƠ THỂ NGƯỜI được ánh xạ tới nhiều
miền ý niệm đa dạng và phong phú. Trong chương này, luận văn sẽ sử dụng
lý thuyết về triết học nghiệm thân và lược đồ hình ảnh để nghiên cứu cơ chế
48
ánh xạ của từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán, từ đó xây dựng và đối
chiếu các ẩn dụ ý niệm của từ này trong hai ngôn ngữ trên.
3.1. Ẩn dụ vật chứa của từ ''đầu'' trong tiếng Việt và “头” trong
tiếng Hán
Cơ thể con người chính là vật chứa các bộ phận phức tạp bên trong
nó như: hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, cơ bắp, tư tưởng, cảm
xúc…. Và mỗi bộ phận trong cơ thể lại là một vật chứa cho thế giới của
riêng nó: Lòng, gan, bụng là những vật chứa cho ý chí, suy nghĩ, tình cảm;
Đầu là vật chứa suy nghĩ, nề nếp suy nghĩ hay rộng ra là trí nhớ, trí tuệ…
Theo khoa học, não, hay còn gọi là óc, là trung tâm điều khiển của
hệ thần kinh trung ương, có vai trò điều khiển hoạt động tư duy của con
người. Não được đặt trên đầu, được bảo vệ bởi hộp sọ. Quá trình tư duy
của con người là một quá trình phức tạp. Với ý niệm ĐẦU LÀ VẬT
CHỨA, người Việt quan niệm, suy nghĩ được chứa bên trong đầu, đầu sẽ
tiết ra các suy nghĩ giống như cách gan tiết ra mật hay dạ dày tiết ra dịch
vị vậy. Nói một cách đơn giản, người Việt đã tri nhận quá trình tư duy
phức tạp và trừu tượng như là một quá trình cơ học dễ hiểu: suy nghĩ
được tiết ra từ trong đầu.
(14) Tiếng hỏi làm ông giật mình, những suy tư vẩn vơ trong đầu
chợt tan biến.{7}
(15) Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong
đầu óc con người và được cải biến đi trong đó. {12}
(16) Tôi cóc sợ mà thiết nghĩ đầu óc nó chứa bã đậu hay thứ rác
rưởi gì mà dám lên đời đe dọa tôi. {10}
(17) Thằng đấy thì trong đầu nó có sỏi rồi!
Như vậy, “đầu” được coi là vật chứa cho những gì phức tạp nhất
thuộc về con người đó là suy nghĩ, trí tuệ, vì vậy người Việt thường nói:
49
“những suy nghĩ trong đầu”, “không hiểu trong đầu nó nghĩ gì” hay như
ví dụ (15) là “chuyển vào trong đầu óc” , Ý niệm về trí tuệ là một ý niệm
nổi bật. Vì thế, thay vì nói “suy nghĩ sáng suốt”, “nhanh nhạy”, “trí tuệ
minh mẫn” hay “suy nghĩ chậm chạp, ngu đần”… Người Việt thường sử
dụng các ẩn dụ chứa từ “đầu” như: Đầu óc bã đậu (trong đầu chứa toàn
bã đậu), đầu đất (trong đầu chứa toàn đất), óc lợn (trong đầu chứa toàn
óc lợn) để nói về sự chậm chạp, ngu dốt; dùng “đầu óc điện tử (trong đầu
chứa các vi mạch điện tử), “đầu có sỏi” (trong đầu chứa sỏi) để ca ngợi
sự nhanh nhạy, khôn ngoan. Để chỉ ra quan hệ giữa trí tuệ và tình cảm,
chúng ta có “cái đầu lạnh, trái tim nóng”. Đó là cách nói khá mới nhưng
cùng trong một hướng phát triển ngữ nghĩa của từ “đầu”.
Ý niệm về trí tuệ này của từ “đầu” đã được kết hợp với từ “óc” để
tạo ra cách nói mang tính tiêu cực như đầu óc hẹp hòi (không rộng rãi,
hay xét nét trong cách nhìn), Khi muốn giải tỏa khỏi những suy nghĩ phức
tạp, những khúc mắc, có thể nói “Ra ngoài thư giãn chút cho thoáng đầu”.
(18) Đó là bệnh tự mãn, tự túc, hiếu danh hiếu vị, tư tưởng địa
phương chủ nghĩa; đầu óc hẹp hòi, đặt lợi ích địa phương, cục bộ lên trên
lợi ích của quốc gia; óc bè phái, óc quân phiệt, quan liêu, lối làm việc bàn
giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa là những “ung nhọt” phá hoại đạo đức,
văn minh của Đảng cầm quyền. {21}
Ẩn dụ vật chứa ý niệm hóa của “头” (đầu) như là những vật chứa
qua biểu thức ý niệm 头/脑袋/脑筋 (não) LÀ VẬT CHỨA/BẦU CHỨA.
Người Trung Quốc tưởng tượng “头” giống như một cái container, và
chứa bên trong đó là những suy nghĩ. Như chúng ta đã biết, container
được dùng để chứa đựng hàng hóa. Hay nói cách khác, hàng hóa được
chứa bên trong/nằm trong container. Theo kinh nghiệm này, người Trung
Quốc coi đầu như một vật để chứa tư duy, suy nghĩ và trí tuệ. Tuy nhiên,
50
trong tiếng Hán, việc dùng từ “头” để biểu đạt ý niệm này không nhiều,
mà thay vào đó họ dùng “脑”(não) hoặc“脑筋”(não cân). Não bộ được
dùng làm vật chứa cho những thứ trừu tượng như tư duy, suy nghĩ, giai
điệu, sự tình… Cách tri nhận này khá giống với cách tri nhận của người
Việt, cho rằng những suy nghĩ được tiết ra từ bên trong đầu/óc/não, hay
nói cách khác là suy nghĩ nằm bên trong đầu/óc/não.
(19) 这个想法在她头脑中形成了. Suy nghĩ này hình thành bên
trong đầu óc nó. {81}
(20) 他的脑袋里却装满了疑问. Trong não/óc nó chứa đầy các câu
hỏi. {40}
(21) 我爹呀!他还是老脑筋. Bố tôi á, đúng là bộ óc già cỗi. {71}
Người Trung Quốc coi đầu là “nơi cư trú” của não, còn não thì là bộ
máy tư duy của con người. Những kế hoạch, tư tưởng, quan niệm của con
người đều được sinh ra từ đó. Vậy nên, đầu và não có quan hệ hết sức mật
thiết, “头” chính biểu tượng cho trí tuệ, tư duy, tư tưởng.
(22) 曾经留恋过别的东西的人们,有些人倒下去了,有些人觉悟
过来了,有些人正在换脑筋. Những người đã từng lưu luyến những thứ
khác, có vài người ngã xuống, có vài người đã tỉnh ngộ, có vài người đang
thay đổi não bộ. {39}
3.2. Ẩn dụ định hướng của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头”
trong tiếng Hán
Với tư cách là ý niệm thuộc miền nguồn, đặc điểm, vị trí của đầu ở
một vị trí nhất định trong không gian sẽ là cơ sở để tri nhận các ý niệm
khác trừu tượng hơn. Trong tiếng Việt và tiếng Hán, thường có một số ẩn
dụ định hướng liên quan đến từ “đầu” như sau:
51
3.2.1. Định hướng lên – xuống
Ý CHÍ MẠNH MẼ LÀ ĐẦU HƯỚNG LÊN, KHÔNG CÓ Ý CHÍ
LÀ ĐẦU HƯỚNG XUỐNG
Kinh nghiệm cho thấy, tư thế đứng thẳng, hướng lên trên của con
người thường thể hiện trạng thái tinh thần vui vẻ. Khi cảm thấy tự hào về
một vấn đề gì đó, con người có xu hướng ngẩng cao đầu lên, thể hiện sự
hài lòng, hãnh diện về cái tốt đẹp mà mình có, mình đạt được. Khi chúng
ta nói “hãy ngẩng cao đầu” để khuyên ai đó hãy tỏ ra có dũng khí trước
gian lao, tai họa, hay trước cường quyền, thì chính là đã phát huy ý niệm
về ý chí. Và ngược lại, kinh nghiệm sinh lý cho thấy, tư thế cúi đầu xuống
thường đi với trạng thái tinh thần tiêu cực như buồn bã, ủ rũ, thất vọng,
xấu hổ. Nhà khoa học thế kỷ 19 Charles Darwin đã mô tả sự xấu hổ ảnh
hưởng ở dạng nhận thấy được bao gồm sự đỏ mặt, bối rối của tâm trí, mắt
nhìn xuống, tư thế chùng xuống và đầu cúi xuống.
(23) Hãy ngẩng cao đầu mà sống, sống với tình cảm trong sáng,
với lý tưởng cao đẹp của mình. {11}
(23) Không hề lép vế trước các cầu thủ Nhật Bản, đội bóng hàng
đầu châu Á, thầy trò HLV Park Hang-seo chỉ chịu thua với tỉ số sát nút 0-
1 và rời Asian Cup 2019 trong tư thế ngẩng cao đầu. {29}
(24) Đầu ngẩng cao bất khuất
Ngay trong phút hy sinh
Bây giờ dưới gốc dương
Chị nằm nghe biển hát…
(25) Khoảnh khắc cúi đầu nhận tội của tên sát thủ bắn người ở vũ
trường. {23}
Trong hệ giá trị của cả dân tộc Việt và dân tộc Hán, đầu ở vị trí cao
nhất, luôn là tượng trưng cho sự tôn nghiêm, cho ý chí mạnh mẽ. Cổ nhân
52
từng nói trong Lễ Ký rằng: “Đầu phải thẳng, đứng vững như núi, cần di
chuyển mới di chuyển”. Kinh nghiệm cho ta thấy, tư thể đứng thẳng,
hướng lên trên của con người thường hình dung về trạng thái tinh thần
phấn chấn, dũng mãnh tiến về phía trước, thể hiện sự hiên ngang, tự hào,
hãnh diện về cái tốt đẹp mà mình có, mình đạt được. Và ngược lại, tư thế
cúi đầu xuống thường đi với trạng thái tinh thần tiêu cực như hèn nhát, bị
khuất phục, sợ hãi, xấu hổ, nhục nhã.
(26) 有的昂头阔步走着,终免不了摔下来. Có người ngẩng đầu
sải bước, cuối cùng không tránh khỏi ngã nhào. {36}
(27) 不但不敢得罪人,还得低首下心,处处让人. 《十年 - 杨朔》
Không những không dám đắc tội với người khác, mà còn cúi đầu hạ
mình, đến đâu cũng nhường nhịn. {57}
Tiếng Hán sử dụng kết cấu “Động từ + 头” để xây dựng một hình
ảnh ẩn dụ phản ánh ý chí của con người như thành ngữ 抬头挺胸 (đài đầu
đĩnh hung: ngẩng đầu ưỡn ngực) để hình dung về con người có ý chí
mạnh mẽ, hay 昂首阔步 (ngang thủ khoát bộ: ngẩng đầu sải bước; “thủ”
ở đây đồng nghĩa với “đầu”) miêu tả về người tràn đầy sinh lực, tinh thần
phấn chấn, ý chí ngút trời, và ngược lại 低首下心 (đê thủ hạ tâm: cúi đầu
hạ mình; “thủ” ở đây đồng nghĩa với “đầu”) miêu tả về con người hèn
nhát, không có ý chí, chỉ biết cúi đầu khuất phục.
3.2.2. Định hướng vào – ra
Con người luôn trải nghiệm các chuyển động vật lý theo hướng đi
ra và đi vào một không gian bao quanh mình, ví dụ như đi ra đi vào phòng,
cho đồ vào túi, lấy đồ ra khỏi túi, hay rót nước vào bình, đổ nước ra khỏi
bình. Các trải nghiệm này tao cơ sở hình thành ẩn dụ có định hướng “ra –
vào” như sau:
53
ĐỊNH HƯỚNG RA CỦA “ĐẦU/头” LÀ SỰ THIẾU TẬP TRUNG,
ĐỊNH HƯỚNG VÀO CỦA “ĐẦU/头” LÀ SỰ TẬP TRUNG.
(28) Phụ nữ 20: Mải mê kiếm tiền, vùi đầu vào công việc để rồi khi
ngoảnh lại ta đã ngoài 30. {19}
(29) Những mối “hiểm họa nhãn tiền” nhưng game thủ nào cũng
cắm đầu cắm cổ phi vào. {24}
(30) Khó tập trung vào công việc, đầu óc lơ đãng… là những biểu
hiện thường thấy ở phần lớn nhân viên văn phòng. {23}
Theo Từ điển tiếng Việt [26], “vùi đầu” có nghĩa là để hết tâm trí vào
một việc gì đó, không còn biết gì những việc khác. “Vùi đầu” thể hiện sự tập
trung cao độ vào một công việc nào đó. Còn“lơ đãng” là tỏ ra không chú ý,
không tập trung tư tưởng vào việc đang làm, mà đang mải nghĩ về những việc
nào khác [26]. Trạng thái “lơ đãng” thể hiện sự thiếu tập trung, lơ là, không
để tâm đến công việc. Ngoài ra, người Việt còn có các cách nói thể hiện sự
lơ đễnh, không tập trung như: đầu óc để trên mây, đầu óc bay bổng…
(31) 他头里作事,何等爽利周到,如今怎么掣肘了这个样儿!我
看这两三天连一点头脑都没有,不是老太太白疼了他吗?Anh ta lúc
đầu làm việc chu đáo, sao bây giờ lại như thế này! Tôi thấy hai ba ngày
nay không có một chút đầu óc nào, chẳng phải là lão thái thái đã uổng
công thương anh ta hay sao? {48}
(32) 诸事已毕,就埋头作起举业的工夫来. Mọi việc đã kết thúc,
thì vùi đầu vào việc học hành thi cử. {43}
Cách nói “一点头脑都没有” (một chút đầu óc cũng không có) trong
tiếng Hán là một cách nói phủ định hoàn toàn, ở đây chỉ sự không tập
trung, bên trong đầu hoàn toàn không có gì, tất cả những suy nghĩ về công
54
việc đều ở bên ngoài đầu, thể hiện xu hướng ra của hành động (suy nghĩ).
“埋头” có nghĩa giống như “vùi đầu của tiếng Việt.
Cơ sở tri nhận của những ý niệm này được xây dựng dựa trên ý thức
tập trung ghi nhớ của con người. Khi con người muốn tập trung ghi nhớ
một điều gì đó, một kiến thức nào đó thì cơ quan đầu/não thường để ý, tập
trung cao độ vào đối tượng cần ghi nhớ, tìm hiểu. Và như vậy thì đối
tượng cần ghi nhớ đó sẽ có xu hướng “đi vào” trong đầu của con người,
giúp con người nhớ được, hiểu được và vận dụng được. Còn xu hướng “ra”
có thể hiểu là đối tượng cần ghi nhớ kia vì sự lơ đãng, thiếu để tâm mà
không thể dung nạp được vào trong đầu nên có chiều hướng hướng ra phía
bên ngoài đầu. Ẩn dụ định hướng “ra – vào” này của tiếng Việt và tiếng
Hán được xây dựng trên nền tảng tư duy tri nhận hoàn toàn tương đồng
giữa người Việt Nam và người Trung Quốc.
3.2.3. Định hướng sâu – cạn
Ẩn dụ định hướng “sâu – cạn” có cơ sở là tri nhận của con người về
mức độ nông - sâu của các thực thể trong không gian. Lược đồ hình ảnh
“sâu – cạn” bao gồm một đầu là vị trí ở mức sâu (thấp), một đầu là vị trí
cạn (cao) so với một mốc quy chiếu nào đó. Từ đó ta có ẩn dụ như sau:
ĐỊNH HƯỚNG SÂU CỦA “ĐẦU” LÀ SỰ SÂU SẮC, ĐỊNH
HƯỚNG CẠN LÀ SỰ THIẾU SÂU SẮC.
(33) Người sáng suốt nhìn thấy trước sự việc thể hiện là người có
đầu óc thông minh sâu sắc, tầm nhì sắc bén, phân tích rõ ràng lý tính, việc
gì cũng nhìn chính xác. {22}
(34) Ngẫm lại tôi thấy do mình đầu óc nông cạn hay sao mà bố
con tôi không thể gần nhau. {34}
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy chúng ta có thể đo lường,
kiểm tra, đánh giá về độ nông sâu của nước, của đường hầm hay vết
55
thương... Với những kinh nghiệm đó, sự hiểu biết đó, đã trở thành cơ sở
để kích hoạt sự đánh giá về chiều sâu của hiểu biết, suy nghĩ chứa bên
trong đầu. Trong tiếng Hán không có cách biểu đạt này.
3.3. Ẩn dụ cấu trúc của từ “đầu” trong tiếng Việt và “头”
trong tiếng Hán
3.3.1. Không gian, thời gian là cơ thể người
Con người sống trong không gian nên những nhận thức của con người
về không gian luôn là cơ bản nhất, và không gian cũng đại diện cho sự tồn tại
của vật chất, nên sự tri nhận ban đầu của con người về thế giới cũng bắt
nguồn từ không gian. Theo Lakoff và Johnson, phép ẩn dụ không gian xuất
phát từ trải nghiệm vật lý trực tiếp, bởi con người bắt đầu hiểu thế giới từ vị
trí và chuyển động của mình trong môi trường không gian.
Người Việt Nam và Trung Quốc tri nhận về không gian theo nguyên lý
“dĩ nhân vi trung” - lấy chính mình để định vị không gian, như dùng dáng
đứng thẳng của con người để xác định độ cao/ thấp, trên/ dưới, dài/ ngắn, hay
lấy tư thế của con người để tri nhận chiều hướng trong không gian như: đứng
lên/ ngồi xuống; ngẩng lên/ cúi xuống…
Trải nghiệm đơn giản nhất của con người là sự hiểu biết về cơ thể của
mình và không gian xung quanh. Từ trải nghiệm đó, những khái niệm “trên”,
“dưới”, “trong”, “ngoài” được xây dựng. Đây được coi là cơ sở cho các ẩn dụ
về không gian trong ngôn ngữ. Con người hình thành nhận thức về hướng
trong không gian, rồi sau đó mở rộng nó sang các lĩnh vực tri nhận khác thông
qua các phép ẩn dụ dựa trên các mối quan hệ với không gian, từ đó hình thành
nên ẩn dụ cơ sở là KHÔNG GIAN LÀ CƠ THỂ NGƯỜI với cơ chế ánh xạ
như sau:
56
Miền nguồn Miền đích
CƠ THỂ NGƯỜI KHÔNG GIAN
Đầu Trên
Chân Dưới
Mặt Trước
Gáy Sau
Da Ngoài
Lòng Trong
Lược đồ 3.1. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm KHÔNG GIAN LÀ CƠ THỂ NGƯỜI
Thuộc tính về vị trí “trên cùng, cao nhất” của đầu người đã ánh xạ đến
vị trí hướng của không gian tạo nên các biểu thức: phía trên (trên đầu) và phía
trước (đầu nhà, đầu thôn, đầu làng, đầu xóm). Như chúng ta đã biết, trình tự
tri nhận của con người thường đi từ những thứ hữu hình, cụ thể và đơn giản
xung quanh mình rồi mới đến những thứ vô hình, trừu tượng và phức tạp khác.
Đầu là bộ phận nằm ở phần trên cùng của cơ thể nhìn theo chiều thẳng đứng,
cụ thể và dễ nhận thấy nhất, nên được con người dùng để tri nhận những vị trí
trong không gian.
(35) Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp
đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. {6}
(36) Hồn trăng lạnh lẽo ở đầu thôn
Trống vắng, cô đơn, ánh chập chờn… {17}
(37) Hiểm hoạ từ dây điện “tử thần” treo trên đầu người dân Sài
Gòn.{28}
(38) Phú Thọ: Tá hoả vì trăn "khủng" vắt vẻo trên cột điện đầu xóm.
{23}
57
Người Trung Quốc thường coi đầu là một vật tham chiếu, tưởng tượng
đầu giống như một cái container để lý giải khái niệm về chiều không gian “里”
(lý: trong) và “外”(ngoại: ngoài), những gì nằm bên trong container chính là
里头 (lý đầu), còn vượt ra ngoài phạm vi bên trong là 外头 (ngoại đầu), phía
trước sẽ là 前头 (tiền đầu), phía sau là 后头 (hậu đầu), vị trí cao hơn đầu là 上
头 (thượng đầu). Với tư cách là ý niệm miền nguồn, “đầu” trong tiếng Hán
cũng giống với tiếng Việt, được kích hoạt để tri nhận vị trí, hướng của không
gian đó là: 山头 (sơn đầu: đầu núi, đỉnh núi), 墙头 (tường đầu: đầu tường,
đỉnh tường), 村头 (thôn đầu: đầu thôn, đầu làng), 百尺竿头 (đầu sào trăm
thước), 床头 (đầu giường), 绳子两头 (hai đầu dây thừng) …
(39) 山下旌旗在望,山头鼓角相闻. Dưới núi cờ hiệu bay phấp phới,
đỉnh núi trống lệnh hưởng ứng. {38}
(40) 百尺竿头五两斜,此生何处不为家. Trăm thước sào đầu ngũ
lưỡng tà, thử sinh hà xứ bất vi gia. {55}
(41) 孙逸民抬头望着阴森森竖在墙角的氧气筒,又盯着床头的心
电监视仪. Tôn Dật Dân ngẩng đầu nhìn bình oxy u ám dựng ở góc tường, lại
trừng mắt nhìn máy đo điện tim ở đầu giường. {54}
Ngoài ra, khi tri nhận về không gian, “đầu” trong tiếng Hán mang ý ẩn
dụ về các địa điểm khác nhau: 两头奔波 (bôn ba hai nơi), 两头跑 (chạy hai
nơi); hoặc mở rộng ra là nói đến các sự vật khác nhau: 职业家庭两头忙 (sự
nghiệp gia đình hai việc đều bận rộn), 两头落空 (hai việc đều không ra sao).
Đây là một đặc trưng trong ẩn dụ ý niệm về không gian liên quan đến từ “đầu”
trong tiếng Hán mà tiếng Việt không có.
(42) 中年女人,谁没吃过两头奔波的苦? Đàn bà tuổi trung niên, có
ai là chưa từng nếm mùi đau khổ bôn ba khắp nơi? {82}
58
(43) 如果你继续这样下去,你将两头落空. Nếu bạn cứ tiếp tục thế
này thì cả hai việc chẳng đâu vào đâu. {80}
Khái niệm thời gian trong ngôn ngữ thường được thể hiện thông qua ẩn
dụ của khái niệm không gian. Như đã nói ở trên, nhận thức của con người về
thế giới bắt đầu từ chính cơ thể con người và kinh nghiệm về thế giới của họ.
Phạm trù không gian được coi là phạm trù nhận thức cơ bản nhất của con
người, sau đó mở rộng để tri nhận phạm trù thời gian thông qua cơ chế ẩn dụ
hoặc hoán dụ. Trong tiếng Việt và tiếng Hán, "đầu" có một ý nghĩa trừu
tượng quan trọng đại diện cho khái niệm thời gian. Cụ thể, “đầu” trong hai
ngôn ngữ này đều biểu thị thứ tự thời gian trước tiên, tương đối sớm. Tiếng
Việt có: đầu tuần, đầu tháng, hai năm đầu, đầu giờ chiều, đầu ngày, đầu
năm, đầu đời, đầu Thu…; còn tiếng Hán có: 月头 (nguyệt đầu: đầu tháng), 一
年的头一天 (ngày đầu tiên của một năm), 头两个星期 (hai tuần đầu), 头两
天 (hai ngày đầu)…
(44) Em thảnh thơi như buổi sáng đầu ngày
Em mạnh mẽ như buổi chiều giữa hạ. {4}
(45) Đầu năm ra cửa được đồng tiền
Nào có cầu đâu, được tự nhiên. {9}
(46) Nhưng bất chấp tính khí thất thường của Hà Lan, tôi vẫn yêu mến
nó, người bạn gái đầu đời của tôi, bằng một tình cảm trong trẻo và ấm áp. {1}
(47) Gió lạnh đầu thu đã về rồi đấy, mùa thu thứ hai xa gia đình, mùa
thu thứ hai lăn mình trong cuộc chiến đấu. {11}
(48) 客里青春愁不禁,月头月尾 雨阴阴. Khách lý thanh xuân sầu
bất tận, nguyệt đầu nguyệt vĩ vũ âm âm. {70}
Sự tương đồng trong tư duy tri nhận về vấn đề này của người Việt Nam
và Trung Quốc có liên quan đến kinh nghiệm trong cuộc sống của con người.
59
Chuyển động điển hình của động vật là đầu ở phía trước và đuôi ở phía sau.
Con người từ giai đoạn tiến hóa sớm nhất đã có phương thức vận động đầu
trước đuôi sau. Sự di chuyển của phần đầu trong không gian và thời gian đều
diễn ra trước các bộ phận khác trên cơ thể. Vì vậy, thuộc tính này của đầu đã
được kích hoạt để tri nhận về thời gian xảy ra sớm hơn, còn “đuôi” biểu thị
thời gian xảy ra muộn hơn.
Ngoài ra, một đặc trưng trong tri nhận về thời gian của tiếng Hán mà
tiếng Việt không có, đó là người Trung Quốc sử dụng từ “đầu” để biểu thị
thời gian đã qua như: 头年 (đầu niên: năm ngoái), 头月 (đầu nguyệt: tháng
trước) , 头天 (đầu thiên: ngày hôm trước), 里头 (lý đầu: hôm trước)…
(49) 头年他不在屯子里,今年才回来. Năm ngoái anh ta không ở
trong thôn, năm nay mới quay về. {47}
(50) 我店里头天夜里就得到信. Quán của tôi đêm hôm trước đã nhận
được thư. {63}
3.3.2. Sự lãnh đạo là đầu người
Đầu là bộ phận nằm ở vị trí cao nhất của cơ thể người, chứa não và các
cơ quan quan trọng khác, đầu có tác dụng chỉ huy, điều khiển mọi tư duy và
hành động của con người. Những thuộc tính kể trên của miền nguồn ĐẦU
NGƯỜI đều được ánh xạ sang miền đích SỰ LÃNH ĐẠO ở cả hai ngôn ngữ
và được thể hiện trong sơ đồ ánh xạ sau:
Miền nguồn Miền đích
ĐẦU NGƯỜI SỰ LÃNH ĐẠO
Vị trí cao nhất trên cơ thể người Điều khiển hoạt động của các cơ quan trong cơ thể Vị trí cao nhất trong một tổ chức Điểu khiển các bộ phận trong một tổ chức
60
Lược đồ 3.2. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm SỰ LÃNH ĐẠO LÀ ĐẦU NGƯỜI
Dựa vào sơ đồ trên, chúng ta có thể thấy thuộc tính vị trí của miền
nguồn ĐẦU NGƯỜI đã được kích hoạt để tri nhận về người lãnh đạo hay
một nhân vật có vị trí cao nhất trong một tổ chức xã hội nào đó. Về ý niệm
này, người Việt Nam và người Trung Quốc có tư duy tri nhận hoàn toàn
tương đồng. Trong tiếng Việt, chúng ta có: đầu đàn, đầu ngành, đầu đảng,
đầu bếp, đầu lĩnh, đầu não…, còn tiếng Hán có: 头人 (đầu nhân: người đứng
đầu), 排头兵 (bài đầu binh: quân tiên phong), 工头 (công đầu: quản đốc)…
(51) Các cơ quan đầu não của Đảng, Quốc hội, Nhà nước và Chính phủ
đặt tại khu vực Ba Đình. {32}
(52) 党委唯一可以帮忙的事情,就是把牧区各个兄弟民族的头人
请来,和他谈谈. Việc duy nhất mà đảng ủy có thể giúp được, đó chính là
mời những người đứng đầu các dân tộc anh em đến, bàn bạc với ông ấy. {53}
Bên cạnh đó, trong tiếng Việt và tiếng Hán có từ “thủ/首” cũng có ý
nghĩa tương đồng với từ “đầu/头”, đều chỉ người lãnh đạo hoặc giữ vị trí cao
nhất trong một tổ chức như: Thủ tướng (首相), thủ đô (首都), thủ lĩnh (首领),
thủ phủ (首付), thủ trưởng (首长)…
(53) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thông báo nhiều thông tin mới, tích
cực về nền kinh tế. {31}
(54) 50 thủ lĩnh thanh niên công nhân được Thành đoàn Thành phố Hồ
Chí Minh tuyên dương. {33}
(55) 他们要给太平军送行,要见一见太平军首领的面容. Họ phải
đưa quân đội Thái Bình Thiên Quốc đến, phải nhìn khuôn mặt của thủ lĩnh
quân đội Thái Bình một chút.
61
Xét theo thuộc tính chỉ huy, điều khiển của đầu, từ xưa, tiếng Việt đã
xác nhận cách dùng từ “đầu” trong những trường hợp như: đầu nậu, đầu xâu,
đầu mực, đầu sỏ, đầu trò, cầm đầu… Còn tiếng Hán thì sử dụng kết cấu
“Động từ + 头” để chỉ hành vi lãnh đạo hay dẫn dắt người khác, ví dụ: 带头
(đới đầu: dẫn đầu),打头 (đả đầu: dẫn đầu), 领头 (lĩnh đầu: dẫn dắt), 出头
(xuất đầu: ra mặt)
(56) Đầu sỏ IS đột nhiên xuất hiện sau nhiều năm “mai danh ẩn tích”.
{32}
Doanh nhân cầm đầu đường dây đánh bạc 3.000 tỷ đồng. {34}
(57) 他戴了一顶狗皮帽,打头迈进里屋来. Ông ta đội một chiếc mũ
làm từ da chó, dẫn đầu đoàn tiến vào phòng. {47}
3.3.3. Thứ tự đầu tiên là đầu người
Dù nhìn theo chiều thẳng ngang hay thẳng đứng thì đầu vẫn là bộ phận
trên cùng hoặc trước nhất trên cơ thể người hay động vật. Và thuộc tính về vị
trí này một lần nữa được kích hoạt trong hai ngôn ngữ để tri nhận về thứ tự,
trình tự của sự vật sự việc, cụ thể ở đây là việc đầu tiên phải làm hay người
đầu tiên thực hiện việc gì đó, hoặc vị trí thứ nhất, cao nhất trong một bảng xếp
hạng nào đó. Tư duy tri nhận đó đã làm hình thành nên ẩn dụ THỨ TỰ ĐẦU
TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI với cơ chế ánh xạ như sau:
Miền nguồn Miền đích
ĐẦU NGƯỜI THỨ TỰ ĐẦU TIÊN
Vị trí trước nhất/trên Vị trí đầu tiên (tổ chức,
cùng bảng xếp hạng…)
Chỉ huy, hướng dẫn (tổ Chức năng điều khiển chức, đoàn thể…)
Lược đồ 3.3. Ánh xạ ẩn dụ ý niệm THỨ TỰ ĐẦU TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI
62
Tiếng Việt có: (người) đầu tiên, (tác phẩm) đầu tay, (con) đầu lòng, mối tình
đầu, giỗ đầu, đầu bảng, dẫn đầu, đứng đầu, hàng đầu...
(58) Tôi say sưa hát tới hát lui bản nhạc đầu tay của mình hàng trăm lần,
quên béng cả giờ giấc. {1}
(59) Em mình xông xáo, dũng cảm dễ có khả năng đi đầu bám đường lắm.
{11}
(60) Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu. {13}
(61) Người đầu tiên của nhân loại vĩnh viễn an nghỉ trên Mặt trăng là ai?
{25}
Với “dẫn đầu”, “đứng đầu” xuất hiện một hiện tượng liên kết các ý niệm
khác nhau để tạo ra những nét nghĩa khác nhau trong cùng một trường hợp. Cụ thể,
trong “dẫn đầu”, “đứng đầu” vừa có ý niệm về vị trí trên hết, lại vừa có ý niệm về
chức năng điều khiển và ý niệm về vị trí trước hết. Lại có cả hiện tượng về ý niệm
phát sinh ra từ một ý niệm chính. Thuộc tính về vị trí trên hết hay trước hết có thể
làm phát sinh ý niệm về danh dự, về tính chất quan trọng. Người đứng đầu một tổ
chức là người có địa vị quan trọng, địa vị danh dự. Một ý niệm phát sinh thường tùy
thuộc hoàn cảnh nhất định mới hiện ra. Nói “đứng đầu một phái đoàn” thì ý niệm
phát sinh như đã nói ở trên hiện ra rất rõ. Nói “con đầu lòng” hay “tác phẩm đầu
tay” thì vừa có ý niệm trước hết lại có ý niệm phát sinh là đáng ghi nhớ nhất.
Còn trong tiếng Hán có rất nhiều từ có chứa “头” hoặc “首” được dùng để
biểu thị thứ tự đầu tiên như: 首次 (lần đầu tiên), 首先 (trước tiên), 首播 (chương
trình phát sóng lần đầu), 首映 (lần đầu công chiếu)…
(62) 首先,是很认真的,虽然也不过取了茀罗特说,来解释创造-
-人和文学的--的缘起. Trước tiên, rất thật lòng là, tuy chỉ là dùng thuyết
Sigmund Freud để giải thích – Duyên khởi – của con người và văn học. {64}
63
Đầu được tri nhận là bộ phận thu hút sự chú ý nhất trong các bộ phận trên cơ
thể người, sự ảnh hưởng của đầu đến các sự vật xung quanh cũng vì thế mà trở nên
vô cùng sâu sắc. Vậy nên, khi muốn miêu tả một người hay sự việc gì đó có tầm
ảnh hưởng lớn, cực kỳ quan trọng, người Trung Quốc thường liên hệ đến “头” như:
头号新闻 (đầu hiệu tân văn: tin tức quan trọng), 头等大事 (đầu đẳng đại sự:
chuyện quan trọng hàng đầu), 头等重要任务 (đầu đẳng trọng yếu nhiệm vụ:
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu), 首要原因 (thủ yếu nguyên nhân: nguyên nhân
quan trọng nhất), 出人头地 (xuất nhân đầu địa: nổi trội, xuất sắc)…
(63) 孙俊英见人家看得起,能出人头地,一呼百应,好不威风自在.
Tôn Tuấn Anh rất coi trọng người khác, xuất sắc vượt trội, nhất hô bách ứng, thật
là uy phong tự tại. {69}
Ngoài ra, thuộc tính về vị trí của “头” còn được dùng để tri nhận về phạm
trù giá trị, đẳng cấp: 头名 (đầu danh: giải nhất), 头奖 (đầu tưởng: giải nhất, vị trí số
1), 头等舱 (đầu đẳng thương: khoang hạng nhất), 头等品 (đầu đẳng phẩm:
chất lượng hàng đầu), 头号种子 (đầu hiệu chủng tử: hạt giống số 1)…
(64) 那头等大船也有十数只,却被他火船推来,钻在大船队里一
烧. 《水浒传》Tàu hiện đại nhất cũng có đến hàng chục cái, nhưng bị
thuyền lửa của hắn đẩy đến, luồn qua đội thuyền lớn đốt sạch. {73}
(65) 这个头号 种子选手决定要参加冬季运动会. Tuyển thủ hạt
giống số 1 này quyết định sẽ tham gia Olympic mùa Đông.
Dựa vào những thống kê trên, chúng tôi đưa ra bảng đối chiếu những
ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán như sau:
64
Bảng 3.1. Bảng đối chiếu những ẩn dụ ý niệm liên quan đến
từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán
Tiếng Tiếng Các ẩn dụ ý niệm
Việt Hán
ĐẦU LÀ VẬT CHỨA Ẩn dụ vật chứa
LÊN – XUỐNG
VÀO – RA Ẩn dụ định hướng
X SÂU – CẠN
THỜI GIAN TRƯỚC TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI
KHÔNG GIAN TRÊN CÙNG LÀ ĐẦU
NGƯỜI
Ẩn dụ cấu trúc SỰ LÃNH ĐẠO LÀ ĐẦU NGƯỜI
THỨ TỰ ĐẦU TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI
( Nguồn: Khảo sát của tác giả)
Như vậy, theo khảo sát của chúng tôi, ẩn dụ định hướng SÂU – CẠN
chỉ có trong tri nhận của người Việt, người Trung quốc không có sự tri nhận
này. Đây có thể coi là một điểm khác biết trong tư duy và văn hóa của hai dân
tộc.
Tiểu kết chương
Thông qua việc xây dựng các mô hình ẩn dụ ý niệm và phân tích những
ví dụ liên quan trong chương 3, luận văn đã xây dựng được hệ thống ẩn dụ ý
niệm liên quan đến từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán như sau:
65
- Ẩn dụ vật chứa: ĐẦU LÀ VẬT CHỨA
- Ẩn dụ định hướng: Định hướng LÊN – XUỐNG, Định hướng VÀO –
RA, Định hướng SÂU – CẠN
- Ẩn dụ cấu trúc: THỜI GIAN TRƯỚC TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI,
KHÔNG GIAN TRÊN CÙNG LÀ ĐẦU NGƯỜI, SỰ LÃNH ĐẠO LÀ ĐẦU
NGƯỜI, THỨ TỰ ĐẦU TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI.
Các loại ẩn dụ này đã góp phần minh chứng cho quan niệm: ẩn dụ
không chỉ là một phương thức chuyển nghĩa dựa trên sự tương tự hay giống
nhau giữa hai sự vật A và B trong mô hình ẩn dụ “A là B”, mà nó sự chiếu
xạ dựa trên những điểm tương đồng với cơ chế bắt nguồn từ sự vận động
của thân thể trong không gian và từ các trải nghiệm, hiểu biết của con
người trong đời sống hàng ngày.
Là hai ngôn ngữ cùng thuộc một loại hình ngôn ngữ, là hai dân tộc
đều lấy nông nghiệp làm gốc và cùng chịu ảnh hưởng bởi các luồng văn
hóa như Phật giáo và Nho giáo nên cách tư duy tiếng Việt và tiếng Hán về
cơ bản là giống nhau. Song, mỗi dân tộc đều có kinh nghiệm sống và các
mô hình văn hóa riêng biệt, nên cách tri nhận của họ về thế giới khách
quan cũng có điểm dị biệt ở những khía cạnh sâu, cụ thể. Ví dụ như đặc
trưng trong tri nhận về thời gian của tiếng Hán mà tiếng Việt không có, đó là
người Trung Quốc sử dụng từ “đầu” để biểu thị thời gian đã qua. Hay như
khi tri nhận về không gian, “đầu” trong tiếng Hán mang ý ẩn dụ về các địa
điểm khác nhau, hoặc mở rộng ra là nói đến các sự vật khác nhau. Đây là một
đặc trưng trong ẩn dụ ý niệm về không gian liên quan đến từ “đầu” trong
tiếng Hán mà tiếng Việt không có.
Trên cơ sở những mô hình ẩn dụ ý niệm đã xây dựng, luận văn tiến
hành đối chiếu với tiếng Hán, chỉ ra môi trường tự nhiên khác nhau chính là
nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong tri nhận của hai dân tộc, góp phần
66
chứng minh các mô hình ẩn dụ ý niệm là sự hiện thực hóa quá trình tư duy
của con người. Đó là quá trình tư duy và mở rộng tư duy, sự hiểu biết về
không gian, thời gian, thực vật, động vật thông qua các thuộc tính của đầu,
qua đó chỉ ra năng lực biểu hiện phong phú của từ chỉ đầu trong hoạt động
giao tiếp của hai ngôn ngữ Việt-Hán.
67
KẾT LUẬN
Từ chỉ đầu là thuộc vốn từ cơ bản của mọi ngôn ngữ. Nghĩa của từ chỉ
đầu là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Từ kết quả khảo sát, phân tích, so sánh đối chiếu từ chỉ
đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, luận văn đã đi đến các kết luận sau:
1. Thống kê những nét nghĩa của từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng
Hán. Từ “đầu” trong tiếng Việt chỉ có 9 nghĩa, trong khi đó từ “đầu” trong
tiếng Hán có tới 15 nghĩa. Tiếng Việt và tiếng Hán đều có những nghĩa sau:
bộ phận cơ thể của người và động vật; Chỉ tóc, kiểu tóc; Chỉ phần trên cùng,
phần trước nhất của động vật hay đồ vật; Chỉ khoảng không gian và thời gian
trước nhất; Chỉ những động vật hay đồ vật có vị trí, thứ tự trên hoặc trước;
Chỉ phần ở tận cùng, giống nhau ở hai phía đối lập trên chiều dài của một vật;
Là đơn vị tính đếm cho người, đồ vật và động vật; Chỉ người đứng đầu quan,
tổ chức; Chỉ đẳng cấp, những gì tốt nhất, hay nhất, giỏi nhất. Nguyên nhân
dẫn đến sự tương đồng này chính là do những ảnh hưởng về mặt tư tưởng và
văn tự của Trung Quốc, tạo nên những tương đồng trong sự tri nhận về thế
giới xung quanh. Những nghĩa tiếng Việt có mà tiếng Hán không có là: “đau
đầu” để chỉ những khó khăn, phiền phức, khó giải quyết; Dùng trong sự kết
hợp hạn chế với bộ phận máy móc như đầu video hay đầu máy khâu. Những
nghĩa tiếng Hán có mà tiếng Việt không có là: Chỉ sự bắt đầu và kết thúc của
sự việc; Dùng để nói đến những phần còn thừa lại của đồ vật sau khi đã qua
sử dụng; Dùng trước “năm” hoặc “ngày”, biểu thị thời gian phía trước; Biểu
thị gần, hoặc lân cận, biểu thị số ước lượng; khía cạnh, phương diện; Hiện
tượng hậu tố hóa. Sự khác nhau này có thể do thói quen biểu đạt ngôn ngữ
của tiếng Hán và tiếng Việt. Thông qua việc thống kê những nghĩa tương
đồng và khác biệt của từ “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán, luận văn đã chỉ
68
ra phương thức chuyển nghĩa của từ này trong hai ngôn ngữ đều phát triển
thông qua hai phương thức ẩn dụ và hoán dụ.
2. Luận văn xem xét sự phát triển nghĩa từ của “đầu” trong tiếng Việt
theo thời gian trước năm 1945, sau đó từ những năm 60 rồi đến những năm 90
của thế kỷ XX, đầu năm 2000 và quá trình chuyển nghĩa của từ “đầu” trong
tiếng Hán qua hai thời kỳ đó là: thời kỳ Tiên Tần đến cuối Nguyên đầu Thanh
và thời kỳ hiện đại. Chúng tôi nhận thấy từ này trong hai ngôn ngữ đã có
những bước phái sinh, dẫn xuất, phát triển; từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ
thể đến trừu tượng.
3. Từ việc xác lập sự lựa chọn và phân bố thuộc tính giữa hai miền ý
niệm nguồn - đích, chúng tôi đã thiết lập lại những ẩn dụ ý niệm cơ sở là:
ĐẦU LÀ VẬT CHỨA, Ý CHÍ MẠNH MẼ LÀ ĐẦU HƯỚNG LÊN,
KHÔNG CÓ Ý CHÍ LÀ ĐẦU HƯỚNG XUỐNG, ĐỊNH HƯỚNG RA CỦA
ĐẦU LÀ SỰ THIẾU TẬP TRUNG, ĐỊNH HƯỚNG VÀO CỦA ĐẦU LÀ
SỰ TẬP TRUNG, ĐỊNH HƯỚNG SÂU CỦA ĐẦU LÀ SỰ SÂU SẮC,
ĐỊNH HƯỚNG CẠN LÀ SỰ THIẾU SÂU SẮC, KHÔNG GIAN/THỜI
GIAN LÀ CƠ THỂ NGƯỜI, SỰ LÃNH ĐẠO LÀ ĐẦU NGƯỜI, THỨ TỰ
ĐẦU TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI, SỰ VIỆC LÀ CƠ THỂ NGƯỜI. Từ những ẩn
dụ cơ sở trên, chỉ ra cơ chế ánh xạ của từng loại ẩn dụ và phân tích các biểu
thức để đưa ra những ẩn dụ phái sinh có liên quan đến từ “đầu” và tiến hành
khảo sát tổ chức ý niệm “đầu” với tư cách là ý niệm thuộc miền nguồn cơ thể
người trong hai ngôn ngữ Việt - Trung. Chúng tôi nhận thấy tiếng Việt và
tiếng Hán có những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu” giống nhau sau:
THỜI GIAN TRƯỚC TIÊN LÀ ĐẦU NGƯỜI, KHÔNG GIAN TRÊN
CÙNG LÀ ĐẦU NGƯỜI. Nguyên nhân của sự tương đồng này bắt nguồn từ
việc người Việt Nam và người Trung Quốc đều tri nhận về đầu theo cùng cơ
chế ánh xạ giống nhau, chính cơ sở kinh nghiệm, bao gồm những hiểu biết
69
của con người về vị trí, hình dáng, chức năng của bộ phận đầu đã tạo nên sự
tương đồng nêu trên. Những ẩn dụ ý niệm liên quan đến từ “đầu” tiếng Việt
có nhưng tiếng Hán không có gồm: ĐỊNH HƯỚNG SÂU CỦA “ĐẦU” LÀ
SỰ SÂU SẮC, ĐỊNH HƯỚNG CẠN LÀ SỰ THIẾU SÂU SẮC. Chính
những điều kiện về địa lý, tự nhiên của hai quốc gia Việt Nam – Trung Quốc
đã tạo nên sự khác biệt này. Con người trong môi trường tự nhiên khác nhau
sẽ có cách tri nhận và phản ánh vào trong ngôn ngữ khác nhau.
4. Luận văn chỉ ra cơ sở tri nhận của các ẩn dụ ý niệm “đầu/头” là kinh
nghiệm của người dân Việt Nam và Trung Quốc về một trong những bộ phận
quan trọng của cơ thể người. Triết học nghiệm thân và ngôn ngữ học tri nhận
cho rằng, ẩn dụ không chỉ là hiện tượng tu từ trong ngôn ngữ mà còn là công
cụ và kết quả của hoạt động tri nhận của con người. Khi chúng ta xây dựng hệ
thống ý niệm thì ý niệm trung tâm thường đến từ kinh nghiệm tự thân của
mình về những cảm nhận của con người về môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội, kinh nghiệm cuộc sống xã hội, kinh nghiệm hoạt động lao động sản
xuất…còn những ý niệm khác thông thường không đến từ những kinh nghiệm
như vậy, mà xây dựng thông qua ẩn dụ trên cơ sở kinh nghiệm đó. Điều này
có nghĩa là, ẩn dụ chính là con đường tất yếu để hình thành nên các khái niệm
trừu tượng, do đó ẩn dụ cũng mang tính nghiệm thân.
Với những đóng góp kể trên, chúng tôi hy vọng những kết quả nghiên
cứu của luận văn có thể góp phần giúp cho người học tiếng Việt và tiếng Hán
biết cách sử dụng những từ có chứa yếu tố “đầu” chuẩn xác hơn, đa dạng hơn,
sâu sắc hơn trong ngữ cảnh giao tiếp phù hợp tạo hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
Tuy nhiên, do giới hạn về dung lượng, luận văn vẫn còn một vài hạn chế như:
Ngữ liệu khảo sát còn hơi sơ sài, chưa bao quát được hết tất cả các ẩn ý niệm
phái sinh và ẩn dụ ý niệm cụ thể về miền nguồn “đầu”, những lý giải cho sự
tương đồng và khác biệt đôi chỗ còn chưa đầy đủ và có phần khiên cưỡng,
70
chưa khảo sát hết các mô hình văn hóa, đặc trưng văn hóa chi phối khung tri
nhận của hai dân tộc. Đó cũng là những định hướng nghiên cứu có thể nối
tiếp luận văn này trong tương lai. Ngoài ra, đề tài này cũng có thể được triển
khai để nghiên cứu những biểu thức ý niệm thông qua các thành ngữ có chứa
thành tố “đầu” trong tiếng Việt và tiếng Hán, mở rộng đối chiếu với các ngôn
ngữ khác như tiếng Anh hay tiếng Nhật.
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
2. Đỗ Hữu Châu (1999) , Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội
3. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ),
Nxb.KHXH, Hà Nội.
4. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Hải (2015), Định danh chuyển nghĩa của từ ‘tay’ trong
tiếng Việt và các từ tương đương trong tiếng Anh, Tạp chí Ngôn
ngữ&Đời sống, Số 4.
6. Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb. Khoa học Xã
hội.
7. Hoàng Văn Hành (Tái bản 2005), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb.
Văn hóa Sài Gòn.
8. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2015), Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công
Sơn, Nxb. Khoa học Xã hội.
9. Trần Thị Hồng Hạnh (2017), Ngôn ngữ học nhân chủng nghiên cứu
trường hợp thành ngữ tiếng Việt, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Hiền (2018), Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ
phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, Luận án Tiến sĩ
Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học-Xã hội.
11. Nguyễn Văn Hiệp (2006), Nghĩa chủ đề và những cách tiếp cận về nghĩa
chủ đề, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 11.
72
12. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở phân tích ngữ nghĩa cú pháp, Nxb.
Giáo dục Việt Nam.
13. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Ngữ nghĩa của RA trong tiếng Việt nhìn từ
góc độ nghiệm thân, in trong “Những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa”,
Nxb.Thông tin và Truyền thông.
14. Nguyễn Văn Hiệp (2013), Ngữ nghĩa của RA,VÀO trong tiếng Việt nhìn
từ góc độ nghiệm thân, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về Nghiên cứu so sánh
nhân văn Đài Việt & Hội thảo Quốc tế chữ latinh Đài Loan.
15. Trịnh Thị Thu Hòa (2018), Từ ngữ chỉ động vật và thực trong tiếng Sán
Dìu, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học-Xã hội.
16. Nguyễn Thị Bích Hợp (2016), Ẩn dụ ý niệm miền đồ ăn trong tiếng Việt,
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
17. Trịnh Thị Thanh Huệ (2010), Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong
tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ
phận cơ thể người), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội.
18. Đỗ Việt Hùng (2013), Ngữ nghĩa học từ bình diện hệ thống đến hoạt
động, Nxb. Đại học Sư phạm.
19. Đỗ Việt Hùng (2004), “Nét nghĩa và hoạt động của nét nghĩa trong kết
hợp từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2 - 2004.
20. Nguyễn Trung Kiên (2013), Tìm hiểu thành ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ
bộ phận cơ thể người trên lý thuyết ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa,
ngữ dụng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
21. Ngô Minh Nguyệt (2014), Đặc điểm trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư
liệu tiếng Hán và tiếng Việt), Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Học viện Khoa
học-Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
22. Hà Quang Năng (2001), Hình ảnh biểu trưng của từ chỉ miệng trong
thành ngữ Việt, Tạp chí Ngôn ngữ&Đời sống, Số 12.
73
23. Liêu Thị Thanh Nhàn (2018), Từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tục
ngữ, ca dao tiếng Hán và tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận,
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học Huế.
24. Bùi Thị Oanh (2018), Đặc điểm trường từ vựng-ngữ nghĩa chỉ trang
phục (trên tư liệu tiếng Việt và tiếng Anh), Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ
học, Học viện Khoa học-Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam.
25. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 2, tr10-
26.
26. Hoàng Phê (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
27. Vi Trường Phúc (2014), Nghiên cứu thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm trong
tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (có liên hệ với tiếng Việt),
Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Lê Thị Thanh Tâm (2011), Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa
tiếng Việt (trên cứ liệu của nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên
hệ với tiếng Nga), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học
Xã hội&Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Tạ Thành Tấn (2012), “Hoán dụ từ góc nhìn tri nhận”, Tạp chí Khoa học
Đại học Sư phạm Hà Nội.
30. Nguyễn Đức Tồn (2007), “Bản chất của ẩn dụ”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số
10.
31. Nguyễn Đức Tồn (2008), “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri
nhận trong thành ngữ” (Kỳ I), Tạp chí Ngôn ngữ, Số 12, tr.20-26.
32. Nguyễn Đức Tồn (2010), “Huyền thoại về cấu trúc nghĩa của từ”, Tạp
chí Ngôn ngữ, Số 4.
74
33. Phạm Thị Tuyết Thanh (2007), Khảo sát đặc trưng từ, ngữ chỉ bộ phận
cơ thể người trong tiếng Việt liên hệ chuyển dịch sang tiếng Anh, Luận
văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội&Nhân văn.
34. Lê Phương Thảo (2018), Đối chiếu các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng
Anh và tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học-
Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
35. Lý Toàn Thắng (1994), “Ngôn ngữ và sự tri nhận không gian”, Tạp chí
Ngôn ngữ.
36. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận - từ lý thuyết đại cương
đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Lê Quang Thiêm (2006), “Về khuynh hướng ngữ nghĩa học tri nhận”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 11.
38. Lê Quang Thiêm (2018), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945
đến 2005, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Nguyễn Thị Thu (2002), “Sự chuyển nghĩa của từ tay trong các tổ hợp”,
Tạp chí Ngôn ngữ, Số 9.
40. Nguyễn Thị Thu (2006), “Thành ngữ tiếng Việt có từ chỉ "tay", "chân"
với đặc trưng văn hoá dân tộc”, Trang tin điện tử Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
41. Hoàng Tuệ (2013), Cuộc sống ở trong ngôn ngữ, Nxb.Trẻ.
42. Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trưng của tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn
ngữ, Số 1.
43. Nguyễn Ngọc Vũ (2008), Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt
có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngôn ngữ
học tri nhận, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã
hội&Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
75
B. Tiếng Anh
44. Lakoff, G., & Turner, M, (1989), More than Cool Reason, A Field Guide
to Poetic Metaphor, Chicago, University Press.
45. Lakoff G. and Johnson M (1980), Metaphor we live by, Chicago,
University of Chicago Press.
46. G. Lakoff and M. Johnson (1999), Philosophy in the flesh-The embodied
mind and its challenge to western thought, Basic Books New York.
47. Gibbs, R. W. (1997). Metaphors inidiom comphension. Journal of
Memory and Language 37, pp. 141-154.
48. Yu Ning (2009), The Chinese HEART in a cognitive perspective: Culture,
body, and language, De Gruyter Mouton.
49. Yu Ning (2009), From body to meaning in culture: Papers on cognitive
semantic studies of Chinese, John Benjamins Publishing Company.
50. Kovecses, Z (2010), Metaphor a practical introduction, Oxford
University Press.
C. Tiếng Hán
51. 成语大词典编委会 (2013), 成语大辞典:最新修订彩色本, 商务印书
馆国际有限公司
52. 薛芳 (2014), 认知,从“头”开始——浅谈隐喻、转喻与一词多义, 语
文学刊, 外语教育教学, 第 8 期
53. 张凤 (2004),“头”的文化语义分析:俄汉对比研究, 解放军外国语学
院学报
54. 韦长福 (2012), 从认知角度看汉越人体词“头(đầu)”的概念隐喻,
广西民族大学学报, 第 34 卷第 4 期
55. 谷晓俊 (2014), 英汉人体隐喻对比, 硕士学位论文,西安外国语大学
56. 王坤 (2013), 汉语“头”的隐喻认知系统考察 , 吉林大学文学院
76
57. 李雷 (2010),从认知角度看‘口’的词义演变,延安职业技术学院学
报,第 24 卷第 3 期
58. 肖灵(2007), 人体隐喻的认知分析, 赣南师范学院学报, 第 1 期
59. 刘依娜 (2008),汉语“头”、“首”词群语义范畴与隐喻认知研究,硕
士学位论文,云南师范大学
60. 彭小南 (2009), 汉语成语中“头”的概念隐喻分析, 河北经贸大学学报,
第 4 期
61. 刘赛男 (2010),从认知隐喻的角度看词义延伸,边疆经济与文化,
第 11 期
62. 魏慧萍 (2002),汉语词义发展演变研究,博士学位论文, 山东大学
63. 黄莉萍 (2014), 从体验认知的角度看 ‘头’ 的概念隐喻, 钦州学院学报,
第 29 卷第 4 期
64. 刘云平 (2009), 关于“头”的认知演变, 邢台学院学报,第 24 卷第 1
期
65. 邱震强 (2006),汉语语义研究,,中南大学出版社
66. 符准清 (1985),现代汉语词汇,北京大学出版社
67. 中国社会科学院语言研究所词典编辑室 (2014), 现代汉语词典:大字
本, 商务印书馆
77
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
A. TIẾNG VIỆT
I. SÁCH, TRUYỆN, THƠ
1. Nguyễn Nhật Ánh (2004), Mắt biếc, Nxb Trẻ
2. Nam Cao (1941), Chí Phèo, Tạp chí Đời Mới
3. Xuân Diệu (1939), Vội vàng, Nxb. Huy-Xuân (Huy Cận và Xuân Diệu).
4. Xuân Diệu (1945), Đẹp, Nxb. Thời đại
5. Trần Đăng Khoa (1993), Chân dung và đối thoại, Nxb. Thanh Niên
6. Kim Lân (1948), Làng, Tạp chí Văn nghệ
7. Nhiều tác giả (2009), Truyện ngắn hay về tình yêu, Nxb. Thanh Hóa
8. Thơ Trần Tế Xương (1998), Văn tế sống vợ, Nxb. Văn hóa - Thông tin
9. Thơ Trần Tế Xương (1998), Bắt được đồng tiền, Nxb. Văn hóa - Thông
tin
10. Trần Thu Trang, Phải lấy người như anh, Nxb. Lao động
11. Đặng Thùy Trâm (2010), Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nxb. Hội nhà văn.
12. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập (1993), Nxb. Chính trị Quốc gia –
Sự thật
13. Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1 (1983), Thơ duyên, Nxb. Văn học
14. Tuyển tập Tự lực văn đoàn, tập III (2004), Tặng Tú Mỡ, Nxb. Hội nhà
văn
15. Hoài Vũ (1989), Anh ở đầu sông em cuối sông
16. Chu Văn Sơn (2019), Ba đỉnh cao thơ mới - Xuân Diệu - Nguyễn Bính
- Hàn Mặc Tử, Nxb. Hội Nhà Văn
17. Nguyễn Thành Sáng, Lạnh lẽo
18. John Medina (2018), Luật trí não, Nxb. Thế giới
78
II. BÁO MẠNG
19. Afamily
20. Bình Định
21. Báo Chính phủ
22. Cafebiz
23. Dân trí
24. GameK
25. Infonet
26. Mầm Non
27. Nhân Dân
28. Pháp luật
29. Pháp luật & Xã hội
30. Tạp chí Sống Khỏe
31. Thanh Niên
32. Tiền Phong
33. Tuổi Trẻ
34. Vnexpress
35. VTC News
B. TIẾNG HÁN
I. SÁCH, TRUYỆN, THƠ
36. 梁遇春, 一个“心力克”的微笑
37. 毛泽东, 论人民民主专政
38. 毛泽东, 西江月·井冈山
39. 毛泽东, 学习和时局
40. 茅盾, 喜剧
41. 邶风,静女
79
42. 巴金,家
43. 文康,儿女英雄传
44. 孙犁,白洋淀纪事
45. 翁森,四时读书乐
46. 左丘明,国语
47. 周立波,暴风骤雨
48. 曹雪芹,红楼梦
49. 罗虬,比红儿诗
50. 司马迁,史记 • 平准书
51. 司马迁,史记 • 张耳陈余列传
52. 司马迁,史记 • 天官书
53. 华山,山中海路
54. 谌容,人到中年
55. 吴融,商人
56. 老舍,赵子曰
57. 杨朔,十年
58. 姬文,市声
59. 施肩吾,望夫词
60. 林学武,胡雪岩全传
61. 欧阳修,生查子·元夕
62. 冰心,陶奇的星期日记
63. 吴组缃,山洪
64. 鲁迅,序言
65. 陈毅,示儿女
80
66. 吴伟业,圆圆曲
67. 荀悦,汉纪
68. 朱庆馀,宮詞
69. 冯德英,迎春花
70. 郭翼, 春日有怀
71. 李准,不能走那条路
72. 管仲,管子 • 水地篇
73. 罗贯中,水浒传
74. 为多人所作,战国策
75. 作者不明,朴通事
76. 作者不明,三国志平话
77. 作者不明,老乞大
78. 佚名,敦煌变文选
79. 中国相声,卖布头
II. TRANG WEB
80. chazidian.com
81. youdao.com
82. jianshu.com
83. zaoju.cn
81