BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
LÊ THỊ HUỆ
TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ -
VĂN HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI - 2017
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, tôi xin bảy tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS
Nguyễn Thị Tuyết Minh, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn và các thầy, cô giáo Bộ môn Văn học
Việt Nam đã tham gia giảng dạy, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn khoa học,
đóng góp ý kiến quý báu và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như
trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã cổ vũ, động viên
và tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để tôi hoàn thành tốt chương trình học
tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn
Lê Thị Huệ
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Lê Thị Huệ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 8
7. Cấu trúc luận văn...........................................................................................8
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT VỀ TƯ DUY TỰ SỰ VÀ TIỂU THUYẾT
LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH ............................. 9
1.1. Giới thuyết về tư duy tự sự ..................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm tư duy ................................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm tư duy tự sự ...................................................................... 12
1.1.3. Những phương diện cơ bản của tư duy tự sự ..................................... 14
1.2. Giới thuyết về tiểu thuyết lịch sử .......................................................... 19
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử ............................................................. 19
1.2.2. Đặc trưng thể loại .............................................................................. 22
1.2.3. Tiểu thuyết lịch sử trong đời sống tiểu thuyết Việt Nam đương đại .... 23
1.3. Nguyễn Xuân Khánh và thể loại tiểu thuyết lịch sử - văn hóa ................ 25
1.3.1. Nguyễn Xuân Khánh và hành trình viết văn nửa thế kỉ ....................... 25
1.3.2. Tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh trong dòng chảy
tiểu thuyết thế kỉ XXI ................................................................................... 27
CHƯƠNG 2.TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN
HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN ........ 31
ĐỀ TÀI, CẢM HỨNG, NHÂN VẬT ........................................................... 31
2.1. Đề tài lịch sử - văn hóa và thông điệp thế sự ......................................... 31
2.2. Cảm hứng lịch sử - văn hóa và suy tư thế sự .......................................... 36
2.3. Nhân vật lịch sử - văn hóa ..................................................................... 45
2.3.1. Nhân vật lịch sử .................................................................................. 47
2.3.2. Nhân vật văn hóa ................................................................................ 56
CHƯƠNG 3. TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN
HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ
THUẬT TRẦN THUẬT .............................................................................. 72
3.1. Điểm nhìn trần thuật .............................................................................. 72
3.1.1. Sử dụng linh hoạt điểm nhìn ............................................................... 72
3.1.2. Điểm nhìn có sự chuyển dịch từ ngoài vào trong ................................ 77
3.2. Ngôn ngữ và các biểu tượng .................................................................. 81
3.2.1. Sự đan xen ngôn ngữ lịch sử với ngôn ngữ đời sống........................... 82
3.2.2. Sử dụng các biểu tượng ...................................................................... 86
3.3. Giọng điệu đa âm ................................................................................. 91
KẾT LUẬN .................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữa sự đa dạng của đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ
XXI, dòng tiểu thuyết lịch sử - văn hoá đã đóng góp những thành tựu quan
trọng với những tên tuổi như Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Mộng Giác... Họ đã kiến tạo một giá trị mới cho tiểu thuyết Việt Nam, trong
đó, Nguyễn Xuân Khánh là tác giả đạt được nhiều thành công. Bộ ba trường
thiên tiểu thuyết Hồ Qúy Ly (2000), Mẫu Thượng Ngàn (2006) và Đội gạo lên
chùa (2011) đã cho thấy một trong những chân dung tiểu thuyết gia hàng đầu,
trong chân dung một nhà văn hóa.
Tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Năm 2012, Nhà xuất bản
Phụ nữ phối hợp với Viện Văn học Việt Nam tổ chức Hội thảo “Lịch sử và
văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh”. Hội thảo đã thu hút được
trên 20 bài viết với những kiến giải khác nhau về nghệ thuật tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện
Văn học khẳng định:“ Ngày nay người ta coi tiểu thuyết lịch sử như một diễn
ngôn văn hóa nghệ thuật. Vì thế, mỗi nhà văn phải tạo ra một tư tưởng, cái
nhìn riêng của anh ta về lịch sử, gắn liền với nó là một thi pháp nghệ thuật...
Thông qua hiện tượng Nguyễn Xuân Khánh đặt ra một vấn đề sâu hơn, đó là
sự đổi mới tư duy nghệ thuật, diễn ngôn lịch sử, làm cho tiểu thuyết lịch sử
của Việt Nam phong phú hơn, khiến người ta yêu lịch sử hơn, biết hưởng thụ
lịch sử trên tinh thần nhân văn hiện đại” [15].
Khảo sát tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng
tôi nhận thấy, dường như có một dòng chảy liên tục trong tư duy tự sự của
nhà văn. Nếu Hồ Quý Ly hướng đến khai thác nhân vật lịch sử và kiến giải về
con đường lựa chọn lịch sử khi vận nước đòi hỏi phải canh tân đổi mới, thì
2
Mẫu Thượng Ngàn lại hướng đến khai thác vấn đề vấn đề phong tục - nguồn
cội của sức sống dân tộc, và Đội gạo lên chùa hướng đến lí giải vấn đề tôn
giáo trong tình huống con người phải lựa chọn con đường tu thân và cách ứng
xử tùy duyên.
Lựa chọn nghiên cứu đề tài Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử, văn
hóa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi mong muốn làm rõ hơn những đóng
góp của nhà văn đối với dòng tiểu thuyết lịch sử - văn hóa nói riêng và văn
xuôi Việt Nam đương đại nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Nối tiếp mạch truyền thống, tiểu thuyết lịch sử đương đại có nhiều tác
phẩm gây chú ý với người đọc, có những năm đã từng tạo nên “cơn sốt” trong
đời sống văn học. Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của
Nguyễn Xuân Khánh là những tác phẩm nằm trong số đó. Cả ba cuốn tiểu
thuyết sau khi xuất hiện trên văn đàn đã gây xôn xao dư luận và trở thành hiện
tượng văn học nổi bật. Bộ ba tiểu thuyết này giành được nhiều giải thưởng
danh giá: Hồ Quý Ly giành được 4 giải (Giải thưởng Cuộc thi tiểu thuyết
1998- 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội
2001; Giải thưởng Mai vàng của báo Người lao động 2001; Giải thưởng
Thăng Long của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội 2002); Mẫu Thượng
Ngàn có 2 giải (Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2006; Giải thưởng văn hoá
Doanh nhân 2007); Đội gạo lên chùa xuất bản đầu năm 2011, đầu năm 2012
đã được trao ngay Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Ba cuốn tiểu thuyết
của Nguyễn Xuân Khánh cũng là những đầu sách bán chạy của thập niên đầu
thế kỉ XXI: Hồ Quý Ly đã tái bản 11 lần; Mẫu Thượng Ngàn tái bản 7 lần;
Đội gạo lên chùa đã tái bản 4 lần.
Những vấn đề Nguyễn Xuân Khánh đặt ra trong tác phẩm cũng như
cách nhà văn chiêm nghiệm về lịch sử, văn hóa trong cả ba cuốn tiểu thuyết
3
đã trở thành mối quan tâm của đông đảo bạn đọc và các nhà phê bình, nghiên
cứu. Có thể kể những công trình tiêu biểu sau đây:
Lại Nguyên Ân nhận định: “Tác giả Nguyễn Xuân Khánh vừa khai thác
tối đa các nguồn sử liệu, văn liệu hiện còn, vừa phóng khoáng trong những hư
cấu tạo một thực tại tiểu thuyết vừa tương đồng với những thông tin còn lại về
một thời đã lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác giả”
[1].
Phạm Toàn nhận xét: “Nguyễn Xuân Khánh không vì viết về lịch sử
mà lệ thuộc vào sự việc, không rơi vào việc dùng “tiểu thuyết” chỉ để viết lại
thông sử nước nhà theo một cách khác” [47].
Đỗ Ngọc Yên khẳng định:“ Qua Hồ Qúy Ly, Nguyễn Xuân Khánh
không chỉ mang đến cho thể loại lịch sử một sinh khí còn nâng vị thế của nó
lên một tầm cao mới về nội dung, đề tài, chủ đề và hình thức thể hiện.
Nguyễn Xuân Khánh đã vượt lên trên những sự kiện lịch sử, thổi vào đó
luồng cảm xúc thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo, làm cho các sự kiện ấy trở nên
sống động hơn, gây hứng thú cho bạn đọc...”[58].
Nhà văn Hồ Anh Thái nhận xét: “Cuốn sách làm tốt hai yếu tố: tiểu
thuyết và lịch sử. Nhân vật và không khí lịch sử sinh động, có hồn, chuyển tải
được những vấn đề cốt lõi của lịch sử và thời đại. Viết về một nhân vật lịch sử
chủ trương đổi mới ráo riết tìm cách phế bỏ một chính thể cũ nát lỗi thời,
quyết tâm xây dựng một xã hội mới bằng phương pháp tàn bạo, hà khắc, thậm
chí tàn khốc, Nguyễn Xuân Khánh đã có được thái độ khách quan của một
nhà tiểu thuyết và của người khảo sát lịch sử. Cũng trong việc lựa chọn viết
về Hồ Qúy Ly và thời đại của ông, tác giả chọn được một phương tiện tốt để
gửi gắm nhiều tâm sự của trí thức hôm nay về thời cuộc” [35].
Nhà văn Trung Trung Đỉnh có ý kiến sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết
Hồ Qúy Ly “ không chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã tự lựa chọn
4
được cho mình một thế đứng vững chắc và một thế đứng với tư thế của một
nhà tiểu thuyết trước những vấn đề hôm qua và hôm nay”.[17]
Trong hội thảo về tiểu thuyết Hồ Qúy Ly do Hội Nhà văn tổ chức đã có
nhiều ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình [35]
Tham luận của Vũ Bão: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh không đi theo
vết chân đi trước. Ông rẽ trái, đạp đá tai mèo, dẫn nhân vật băng qua những
miền đất mới. Ông không buông mình trôi theo dòng cháy lịch sử. Ông cắt
ngang cuộc sống đầy biến động, tìm những nét tinh tế trong tính cách nhân
vật, giành không gian cho nhân vật hoạt động...
Hoàng Quốc Hải nêu bật cảm tưởng về tiểu thuyết Hồ Qúy Ly:
“đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc bám sát chính sử. Văn
chương mượt mà, có sức cuốn hút đọc hết hơn 800 trang vẫn muốn đọc lại”.
Theo ông, “ tư tưởng chủ đề của tiểu thuyết Hồ Qúy Ly xoay quanh ba chữ
“thời thiên túy” mà tác giả đã khéo léo đề cập...”. Cũng trong tham luận này,
Hoàng Quốc Hải nêu ra những nguyên nhân dẫn cuốn sách đến thành công
như chọn được thời điểm lịch sử, nhân vật mà mình yêu thích và nghiền ngẫm
cả cuộc đời, tạo được cảm hứng tự do, gạt ra mọi ràng buộc, thể hiện tính
công bằng lịch sử.
Ý kiến của Nguyên Ngọc cho rằng “lâu lắm rồi mới có một cuốn tiểu
thuyết chững chạc như thế này. Chọn thời đại Hồ Qúy Ly, nhân vật Hồ Qúy
Ly là đúng. Tác giả nói được nhiều điều và nói được sâu sắc bởi cách chọn
này.”
Châu Diên “nêu ra ba ưu điểm của cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly: không
né tránh vấn đề gay cấn, xử lí vấn đề tài tình, sự ảo tưởng tích cực của tác giả
thể hiện trong tác phẩm”.
Trịnh Đình Khôi nhấn mạnh một số phẩm chất tiêu biểu: Cuốn sách rất
có văn. Lâu nay ta chú ý truyện nhiều hơn văn. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa hiện
5
đại... Tác phẩm giải quyết thỏa đáng nhiều vấn đề lịch sử mà vẫn nóng hổi ý
nghĩa hiện đại: các mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, giữa giới cầm
quyền và trí thức, giữa chính trị và văn học.
Đỗ Hải Ninh đã chỉ ra: “các nhân vật, sự kiện lịch sử...không đơn nghĩa
mà trở nên đa diện khi được soi chiếu từ nhiều góc độ. Nhà văn đặt nhân vật
trong mối quan hệ phức tạp của gia đình và xã hội”. Thế giới trong tiểu thuyết
của ông là “ con người của đời thực, con người của cuộc sống thường ngày”,
“đều ở trong thế lưỡng cực, đa trị”. Tuy nhiên ở mỗi tác phẩm, nhà văn lại tập
trung vào một kiểu nhân vật riêng: “Ở Hồ Qúy Ly, nhà văn chú ý đến những
nhân vật có thật của lịch sử, những hình tượng đậm nét để đi đến cái phổ quát
của con người. Cuộc đời các nhân vật lịch sử cũng như mỗi biến cố, sự kiện
chỉ là cái chớp mắt của ngàn năm nhưng nhà văn đã lưu giữ lại những khoảnh
khắc đó, tạo dựng thành hình tượng nghệ thuật giàu sức sống như Hồ Qúy Ly,
Hồ Nguyên Trừng, Trần Nghệ Tôn, Trần Khát Chân,... Mẫu Thượng Ngàn lại
hướng tới những nhân vật hư cấu, vô danh trong lịch sử để dệt lên bức tranh
rộng lớn về văn hóa Việt”. [15]
Năm 2006 Mẫu Thượng Ngàn ra mắt bạn đọc và lập tức trở thành đối
tượng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình với hàng loạt các bài
viết như: Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn của tác giả Trần Thị An (Tạp chí Văn học, số 6/2007); Tác giả Bùi Kim
Ánh với bài viết Đạo mẫu trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn
(http:nguvan.hue); Bài viết Sức quyến rũ của Mẫu Thượng Ngàn của tác giả
Vũ Hà (http://hoilhpn.org.vn); Bài viết Mẫu Thượng Ngàn và nội lực văn
chương của Nguyễn Xuân Khánh (trao đổi giữa Việt Báo với nhà nghiên cứu
phê bình Phạm Xuân Nguyên); Bài viết Nguyễn Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn
tiểu thuyết mới (của tác giả Quỳnh Châu, http://vnca.cand.com.vn); Bài viết
Nguyên lý tính mẫu trong truyền thống văn học Việt của Dương Thị Huyền
6
(http://vannghequandoi.com.vn); Bài viết Mẫu Thượng Ngàn cơ duyên của
Nguyễn Xuân Khánh của Hòa Bình (http://www.vtc.vn); Bài viết Nơi bắt đầu
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (Báo Tiền Phong cuối tuần, số
11/2007); Bài viết Một cuốn tiểu thuyết hay về văn hóa Việt của nhà văn
Nguyên Ngọc (in trên Việt Báo)...
Ngay sau khi xuất bản, tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cũng thu hút mạnh
mẽ giới nghiên cứu và bạn đọc. Tháng 6 năm 2011, Hội Nhà văn Hà Nội tổ
chức Tọa đàm khoa học “Nguyễn Xuân Khánh đội gạo lên chùa” [19]. Nhiều
nhà phê bình cũng có những tham luận tập trung vào vệc tìm hiểu vấn đề Phật
giáo trong đời sống văn hóa Việt Nam đã được kiến giải trong tác phẩm. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Văn Tùng khai thác Cảm hứng Phật giáo [56]; nhà
nghiên cứu Nguyễn Thị Minh Thái tìm hiểu đặc điểm đạo Phật Việt Nam ở
vấn đề Tùy duyên [53]; Phạm Xuân Thạch coi tiểu thuyết này là Một tiếng gọi
khẩn thiết của cái thiện [50]… Sự phân tích, đánh giá của các nhà nghiên cứu,
phê bình đã cho thấy sự đón nhận trân trọng dành cho bộ ba tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh.
Ngoài những bài viết ở trên, còn một số khóa luận Cử nhân, luận văn
Thạc sĩ đi vào tìm hiểu đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh thông
qua một hoặc cả bộ ba tác phẩm. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về tư duy tự sự trong tiểu thuyết
lịch sử , văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh. Đó là khoảng trống để chúng tôi
đi sâu nghiên cứu đề tài luận văn của mình. Chúng tôi xem ý kiến của các nhà
nghiên cứu đi trước là những gợi ý quan trọng để tập trung làm rõ tư duy tự
sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
7
Lựa chọn đề tài Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử, văn hóa của
Nguyễn Xuân Khánh, mục đích chúng tôi muốn khái quát những đặc điểm nổi
bật trong phong cách tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, cả về phương diện nội
dung và nghệ thuật. Qua đó thấy được những đóng góp riêng của nhà văn ở
một đề tài không mới như tiểu thuyết lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu quan niệm của nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh về hai yếu tố lịch sử và tiểu thuyết, cùng với sự kết hợp giữa lịch
sử và văn hóa để từ đó thấy được ý nghĩa nhà văn gửi gắm trong cả ba cuốn
tiểu thuyết của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung làm rõ tư duy tự sự trong
bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo
lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh. Cụ thể là các phương diện đề tài, cảm
hứng, nhân vật và nghệ thuật trần thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chính là ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly (NXB Phụ
nữ, 2000), Mẫu Thượng Ngàn (NXB Phụ nữ, 2006) và Đội gạo lên chùa
(NXB Phụ nữ, 2011) của Nguyễn Xuân Khánh. Ngoài ra, để làm nổi bật
những nét mới về tư duy nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi còn tiến hành so
sánh với một số tiểu thuyết lịch sử khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau: phương pháp loại hình, phương pháp khảo sát, thống kê, phương
pháp liên ngành, phương pháp phân tích, tổng hợp.
8
Ngoài ra, chúng tôi cũng vận dụng một số quan điểm của thi pháp học
hiện đại vào việc phân tích tác phẩm để chỉ ra những đóng góp của Nguyễn
Xuân Khánh qua bộ ba tiểu thuyết lịch sử - văn hóa.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu về tư duy tự sự của
Nguyễn Xuân Khánh để thấy được đóng góp của nhà văn đối với thể loại tiểu
thuyết lịch sử - văn hóa. Qua khảo sát, phân tích bộ ba trường thiên tiểu
thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa, chúng tôi muốn
góp thêm một tiếng nói khẳng định tài năng của một nhà văn - một nhà văn
hóa - một nhà lịch sử Nguyễn Xuân Khánh đối với văn đàn Việt Nam đương
đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được kết cấu gồm ba chương
- Chương 1: Giới thuyết về tư duy tự sự và tiểu thuyết lịch sử - văn hóa
của Nguyễn Xuân Khánh
- Chương 2: Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của
Nguyễn Xuân Khánh - nhìn từ phương diện đề tài, cảm hứng, nhân vật.
- Chương 3: Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của
Nguyễn Xuân Khánh - nhìn từ phương diện nghệ thuật trần thuật.
9
CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT VỀ TƯ DUY TỰ SỰ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ - VĂN HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
1.1. Giới thuyết về tư duy tự sự
1.1.1. Khái niệm tư duy
Chúng ta đang sống ở thế kỉ XXI, “thế kỉ của vốn trí tuệ”. Trong thời
đại bùng nổ công nghệ thông tin, con người để thích nghi và tồn tại cần phải
học rất nhiều thứ. Vậy làm sao để con người có thể làm chủ được vốn kiến
thức của bản thân và chiếm lĩnh tri thức nhân loại một cách tốt nhất? Điều ấy
đòi hỏi mỗi cá nhân phải nỗ lực không ngừng trong việc rèn luyện và phát
triển tư duy - nguồn gốc của mọi vấn đề.
Tư duy là phạm trù triết học, chỉ những hoạt động tinh thần làm cho
con người có nhận thức và ứng xử đúng đắn. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt
Nam quan niệm: “Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một
cách đặc biệt - bộ não con người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách
quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận” [41]. Trong triết
học duy tâm, tư duy là sản phẩm của “ý niệm tuyệt đối" với tư cách là bản
năng siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất. Triết học duy vật
biện chứng cho rằng, tư duy là một trong các đặc tính của vật chất phát triển
đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng: "Vận động kiểu tư
duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển vào và được
cải tạo/tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh" [42].
Tư duy là sự phát triển cấp cao của nhận thức, là kết quả của nhận thức.
Xuất phát điểm của nhận thức là những cảm giác, tri giác và biểu tượng...
được phản ánh từ thực tiễn khách quan với những thông tin về hình dạng,
hiện tượng bên ngoài được phản ánh một cách riêng lẻ. Giai đoạn này được
10
gọi là tư duy cụ thể. Ở giai đoạn sau, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt động tư
duy tiến hành các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu biệt,
quy nạp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào mối liên hệ phổ biến, lọc bỏ
những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự việc để tìm ra nội dung và bản
chất của sự vật, hiện tượng, quy nạp nó thành những khái niệm, phạm trù,
định luật... Giai đoạn này được gọi là giai đoạn tư duy trừu tượng.
Có thể thấy, tư duy là sản phẩm của một cơ quan vật chất sống có tổ
chức cao là bộ óc con người; được hình thành trong quá trình hoạt động thực
tiễn của con người. Hiện thực khách quan là đối tượng của tư duy và quyết
định hoạt động tư duy của con người. Do vậy, con người tác động đến thế giới
hiện thực như thế nào thì sẽ có những hình thức nhận thức như thế đó. Giữa
tư duy và sự phát triển của hoạt động thực tiễn con người có sự gắn bó chặt
chẽ và liên hệ biện chứng với nhau. Muốn có tư duy phải có hoạt động thực
tiễn. Ngược lại, muốn hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao thì phải có tư duy.
Khi chỉ ra sự phát triển của tư duy phụ thuộc vào sự phát triển của thực tiễn,
Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như
triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với
tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác, chỉ biết có
tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ
một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và
trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song
song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [42].
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái
quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Ở giai đoạn nhận thức bằng tư
duy, sự vật được phản ánh một cách gián tiếp và khái quát trong các khái
niệm, phán đoán và suy lý. Xét về bản tính, tư duy là một quá trình sáng tạo.
Nói đến tính sáng tạo của tư duy là nói đến sự hình thành tri thức mới về các
11
mối liên hệ và quan hệ, về tính quy luật khách quan chi phối sự phát triển của
các sự kiện và quá trình lịch sử, về bản chất của các khách thể vi mô, cũng
như về diễn biến của hiện thực. Trên con đường nhận thức chân lý, chủ thể tư
duy không chỉ biết đặt ra các vấn đề mới, mà còn giải quyết chúng bằng
những phương pháp thích hợp. Đồng thời, đó cũng là quá trình chủ thể tư duy
huy động một cách sáng tạo vốn tri thức phong phú đã có, bao gồm cả kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp; huy động không chỉ tri thức lý luận
chung, mà cả sự am hiểu cần thiết, cụ thể về những lĩnh vực "có vấn
đề". Thiếu vốn tri thức phong phú của cuộc sống sẽ không có tư duy sáng
tạo. Ngoài ra, trong sự sáng tạo của tư duy ở trình độ lý luận khoa học cao còn
có sự tham gia tích cực của tưởng tượng và trực giác. Các tư tưởng, quan
niệm, lý thuyết khoa học... do tư duy sáng tạo ra cũng như bản thân tư duy có
sự biến đổi, phát triển là do thực tiễn lịch sử - xã hội quyết định. Điều này
không loại bỏ tính độc lập tương đối của tư duy. Tư duy có lôgíc phát triển
nội tại riêng, chịu sự chi phối của các quy luật (quy tắc, nguyên tắc) riêng.
Từ điển triết học khẳng định: " Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt
động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh thực tại một cách
gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật thực tại" [42]. Tư duy
giúp chúng ta nhận thức các sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất
chứ không phải là sự hiểu biết riêng lẻ, tách rời của các yếu tố, các bộ phận
của sự vật, hiện tượng. Tư duy trừu tượng là quá trình phản ánh thế giới một
cách gián tiếp, khái quát nhờ ngôn ngữ. Ở đây, các từ, cụm từ hay ngôn ngữ
nói chung, trong khi là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, diễn đạt các khái
niệm, phán đoán, suy lý, quy luật, lý thuyết, đã có tính chất khái quát và bao
hàm cái chung. Do vậy, ngôn ngữ càng phát triển, vốn từ vựng càng phong
phú thì tư duy gắn liền với nó càng linh hoạt, mềm dẻo, phản ánh càng sâu
sắc, chính xác và đầy đủ các mối liên hệ đa dạng, phức tạp của thế giới.
12
Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Nói đến văn
học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm
mĩ. Lý luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị trí thẩm mĩ lên hàng đầu, song
cái bản chất nhận thức của văn học vẫn là điều khẳng định. Hình tượng văn
học với tư cách sản phẩm nhận thức nghệ thuật, là sự thống nhất sinh động
giữa cái chung với cái riêng, cái cá biệt. Vì vậy, khi nghiên cứu bản chất nhận
thức của văn học, nhất thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học,
phải giải thích cái lô gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà văn
hư cấu và gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng như tình cảm chủ
quan của chủ thể nhận thức và sáng tạo, những điều mà nhận thức khoa học
nói chung không chấp nhận. Vậy để hiểu được những gì nhà văn muốn nói,
không cách nào khác là người đọc phải tìm ra tư duy của nhà văn, tìm ra
những ẩn ý đằng sau lớp vỏ bọc ngôn từ của tác phẩm.
1.1.2. Khái niệm tư duy tự sự
Phạm vi của tác phẩm tự sự hết sức rộng lớn và có thể được phân loại ở
nhiều góc độ khác nhau. Dựa vào hình thức lời văn, có thể nói tới các thể loại
cơ bản như anh hùng ca (sử thi), truyện thơ, trường ca (văn vần), tiểu thuyết,
truyện vừa, truyện ngắn (văn xuôi), ngụ ngôn (thường dùng cả hai hình thức
văn vần và văn xuôi). Dựa vào nội dung thể loại, có thể phân thành các tác
phẩm có chủ đề dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tư... Trong luận văn này, chúng
tôi đề cập đến tư duy của thể loại tiêu biểu nhất trong loại tác phẩm tự sự đó
là tư duy tiểu thuyết.
Tư duy tiểu thuyết, trước hết là khái niệm dùng trong văn học, dùng
trong phạm vi thể loại tiểu thuyết. Chính vì sự đặc hữu này mà ta thường thấy
xuất hiện kiểu gọi tên: truyện ngắn mang chất tiểu thuyết hay truyện ngắn
mang tư duy tiểu thuyết. Khái niệm này dùng trong tiểu thuyết chủ yếu tập
trung ở tính chất: sự dài hơi. Khái niệm tư duy tiểu thuyết không chỉ dùng ở
13
phạm vi tiểu thuyết với tư cách là thể loại đã sản sinh ra khái niệm (nghĩa
hẹp) mà còn được hiểu là hệ hình (paradigme, cách hiểu và vận dụng của
Trần Đình Sử) tư duy (theo nghĩa rộng). Theo sự xác định của Milan
Kundera, khái niệm này ra đời trong thời hiện đại và nói đến tư duy tiểu
thuyết là nói đến tâm thế trước hiện thực hiện hữu, nó là cái nhìn xóa bỏ
khoảng cách (không chỉ hiểu ở nghĩa vật chất là khoảng không gian) giữa chủ
thể và đối tượng. Nói một cách dễ hiểu, nếu tư duy sử thi biểu hiện một
khoảng cách lí tưởng giữa chủ thể và đối tượng mà theo M, Bakhtin là
“khoảng cách sử thi” [4], biểu hiện tâm thế của kẻ con cháu trước ông, cha,
đấng bậc thì tư duy tiểu thuyết thay thế nó bằng cái nhìn bình đẳng, nhiều
chiều từ đó đem đến một cách tư duy hoàn toàn mới mẻ.
Tư duy tiểu thuyết có nguồn gốc từ triết học đời sống, nghĩa là khi có
nhận thức về con người, về cuộc sống. Những biến động của cuộc đời, của
ngoại giới, nhất là những biến động trong lòng người, điển hình cho điều đó
là những biến thái đang diễn ra trong kiếp hiện sinh là những việc con người
không thể lường trước được. Tư duy tiểu thuyết là phản ánh cái đang diễn ra,
cái hiện thực chưa hoàn thành. Nó nhìn nhận sự vật, con người cũng tương
đối với vô vàn giá trị, khoảnh khắc, do đó tư duy tiểu thuyết đưa đến sự giác
ngộ về cá nhân, thức tỉnh ý thức bình đẳng và dân chủ; tư duy tiểu thuyết
không khẳng định khoảng cách giữa chủ thể và sự vật, thừa nhận giá trị được
nhìn thấy là giá trị tương đối, có góp phần của màu sắc cá nhân, của sự cảm
thụ cá nhân. Điều này đã dẫn đến hệ quả là sự phong phú của tính cách mà
phản ánh rõ nét nhất là trong văn chương: nhiều cách viết của nhiều người, có
thể viết về một đối tượng nhưng ở mỗi cây bút là mỗi sự khám phá khác biệt,
không trùng lặp.
Đặc điểm về tư duy tiểu thuyết là sự trần thuật không khoảng cách, nói
khác đi là sự trần thuật ở điểm nhìn hiện tại, ở cái chưa hoàn thành. Giọng
14
điệu và ngôn ngữ có sự đan xen, sự dịch chuyển không có quy tắc, là chất
giọng của ngôn ngữ đời thường vốn sinh động và giàu sắc thái. Sự bất định,
dự cảm của tác giả về cuộc đời (theo Milan Kundera là sự hiển minh của
lưỡng lự), của cái tôi thử nghiệm của tác giả trong hành trình tác phẩm; có thể
bắt gặp trong tác phẩm những bất trắc, những sự không đoán lường, những
chân thật của cõi lòng kiếp hiện sinh. Với việc khẳng định tính đa chân lý,
xóa bỏ khoảng cách, khẳng định cá nhân như đã nói trên, tư duy tiểu thuyết đã
làm cho văn học mở rộng đề tài, chủ đề, tránh được sự nhàm chán đơn điệu,
tác phẩm trở nên phong phú.
1.1.3. Những phương diện cơ bản của tư duy tự sự
Nhìn vào tiến trình của văn xuôi Việt Nam hiện đại, chúng ta có thể
nhận thấy tính phong phú, phức tạp của thi pháp tự sự, của nghệ thuật tự sự
trong tất cả các thể loại của nó: vừa như là định hình vừa như là luôn vận
động biến đổi. Đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, với sự luân chuyển của các
ngôi kể cùng sự đan xen của các điểm nhìn; với sự phong phú, đa dạng các
giọng điệu trần thuật cùng sự pha trộn, chuyển đổi bất ngờ các loại lời người
trần thuật đã tạo nên sự mới mẻ về cấu trúc thể loại của tiểu thuyết.
Một vấn đề đặt ra đối với văn học nước ta từ sau 1975 nhu cầu đổi mới
cách nghĩ, cách viết, đổi mới để tồn tại và phát triển là một vấn đề có thật và
cấp thiết. Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, trở về với quỹ đạo cuộc
sống thời bình, văn xuôi dường như vẫn theo dòng chảy cũ khiến công chúng
bạn đọc tỏ ra hờ hững, sự nỗ lực của nhà văn không mấy hiệu quả, văn học
dường như dậm chân tại chỗ. Đại hội Đảng lần thứ VI đã thật sự đem lại niềm
tin, sức mạnh cho toàn dân, làm điểm tựa để văn học chuyển mình mạnh mẽ
và mới mẻ. Đảng nhận định phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới
cách nghĩ, cách làm. Sự giao lưu rộng rãi với các nước phương Tây là một
15
thuận lợi để văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo trong sáng tác của mình. Những
phương diện của tư duy cũng vì thế có sự thay đổi đáng kể.
Từ đầu thập kỉ 80, văn xuôi nước ta chuyển sang cảm hứng thế sự, đời
tư (trên thực tế những tác phẩm viết viết theo cảm hứng sử thi vẫn còn nhưng
khá mờ nhạt và không gây được tiếng vang lớn). Cảm hứng thế sự mang lại
cho văn xuôi nhiều chất tiểu thuyết hơn, trước hết ở khả năng chiếm lĩnh con
người ở góc độ đời tư. Nếu cảm hứng sử thi quy chiếu mọi vấn đề đời sống về
hiện thực lịch sử thì cảm hứng thế sự tìm đến hiện thực con người, quy chiếu
về số phận con người với những quan hệ xung quanh sự tồn tại của nó. Với
cái nhìn thế sự, đời sống của cá nhân, kinh nghiệm cá nhân mới được coi là
đối tượng khám phá chủ yếu, bởi mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư, độc
đáo, cá biệt. Theo M. Bakhtin, cá nhân tự phân biệt mình không phải bằng “vị
trí” và “số phận” khác nhau mà bằng những “chân lí” và “lẽ phải” khác nhau
[4]. Niềm tin riêng của con người quy định mọi mặt của nó, cái nhìn sử thi
không bao quát được điều này.
Phương diện thứ hai của tư duy tự sự là cơ cấu đề tài cũng có sự biến
đổi. Trước 1975, đề tài về gia đình, tình yêu, hạnh phúc, số phận cá nhân
không nhiều, dù có thì hướng xử lí hiện thực ở những tác phẩm này vẫn bị chi
phối bởi tiêu chí cộng đồng. Sau 1975, cuộc sống thời bình với nhu cầu cân
bằng lại trạng thái của con người sau chiến tranh nên sự quan tâm của cả bạn
đọc và nhà văn dịch chuyển nhiều hơn sang mảng đề tài đời tư. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Thị Bình nhận xét: “Chưa bao giờ trong văn học nước ta, gương
mặt của hạnh phúc và tình yêu muôn vẻ được biểu hiện phong phú đến thế và
những bi kịch do tình yêu cũng chưa bao giờ được đề cập nhiều đến thế, riết
róng đến thế” [5]. Có được điều đó là kết quả của việc các nhà văn không còn
bị chi phối bởi “chủ nghĩa đề tài” nữa. Giờ đây văn chương lấy con người làm
tâm điểm để quy chiếu, vì thế mọi yếu tố khác đều phục tùng yêu cầu khám
16
phá chính con người. Ngay cả khi viết về đề tài người lính, các nhà văn cũng
chịu ảnh hưởng bởi quan niệm này. Là những nhân vật anh hùng, hình ảnh
người lính là đại diện xứng đáng của chính nghĩa cộng đồng sẽ toát lên vẻ đẹp
cao cả trong cảm hứng sử thi. Nhưng khi soi ngắm họ từ cảm hứng thế sự đời
tư đã làm họ trở nên phức tạp, chân thật và sinh động hơn.
Sự thay đổi cảm hứng cũng kéo theo sự thay đổi về không gian và thời
gian nghệ thuật. Kiểu không gian lịch sử rộng lớn, nơi diễn ra các sinh hoạt
cộng đồng của những năm 1945 - 1975 được thay thế bằng không gian sinh
hoạt đời thường, không gian mang tính chất riêng tư. Đó là khoảng không
gian xác thực bắt buộc con người luôn phải bộc lộ đến tận cùng bản chất của
mình, không có cơ hội lảnh tránh trách nhiệm cá nhân. Không gian ấy tham
gia vào cuộc đời mỗi người, gắn liền với những buồn vui, với cảm quan đời
sống của con người. Một không gian xuất hiện nhiều trong văn học giai đoạn
này là không gian của tâm linh, tuy nhiên điều đáng chú ý là thần thánh không
còn mang trên mình quyền uy của đấng bề trên nữa mà các nhà văn đã kéo họ
gần với cõi người, đặt mọi giá trị vào hệ quy chiếu nhân bản nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh. Nhà văn như tạo ra bầu không gian
ảo giác, hoang tưởng của tâm linh, của cảm thức tôn giáo, khiến người đọc
được đánh thức khi tiếp xúc với không gian của niềm tin bí ẩn này.
Cũng như sự thay đổi của không gian, thời gian cũng có sự biến đổi rõ
rệt. Không còn là thời gian của trật tự tuyến tính mà thay vào đó là thời gian
phụ thuộc vào sự trải nghiệm của cá nhân và bị chi phối bởi trạng thái tâm lí
tình cảm của cá nhân. Thời gian mang cảm quan lịch sử vẫn tồn tại nhưng nó
được nhìn qua kinh nghiệm cá nhân nên các mốc thời gian thường không còn
nguyên ý nghĩa khách quan. Cũng do thiên hướng nắm bắt chiều sâu tâm lí
con người nên nhiều tác phẩm giới hạn thời gian sự kiện rất ngắn nhưng thời
gian hồi tưởng có thể mở hết biên độ. Chính vì thế, quá khứ đồng hiện cùng
17
thực tại và tương lai, các lớp thời gian chồng lên nhau, có khi nhòe mờ, có khi
đứt nối lộn xộn đã phá vỡ cấu trúc truyện truyền thống, đưa kiểu cốt truyện
tâm lí lên hàng đầu, đẩy cốt truyện sự kiện xuống hàng thứ yếu, cho phép văn
xuôi dung nạp những kĩ thuật “lồng ghép”, “cắt dán” của điện ảnh. Cùng với
yếu tố không gian, thời gian nghệ thuật giữ vai trò không thể thiếu trong việc
bộc lộ đời sống riêng tư của con người.
Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về
con người. Tiểu thuyết ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời
sống xã hội còn có khả năng đi sâu khám phá số phận con người. Nhân vật
văn xuôi sau 1975 là những con người nhiều trải nghiệm, nội tâm chứa những
giằng xé bi kịch, ít thiên về hành động bên ngoài. Cuộc đấu tranh nội tâm,
những động cơ thúc đẩy dẫn đến nhu cầu tự thú, sám hối. Kiểu nhân vật này
đặt ra nhiều vấn đề xung quanh khát vọng tự hoàn thiện nhân cách, khả năng
tự vấn, tự nghiệm khiến cho câu truyện trở nên phức tạp đầy tính bất ngờ.
Cũng chính những nhân vật này cho thấy một đặc điểm thi pháp mới đó là sự
coi trọng “vấn đề”, coi trọng “tư tưởng” hơn tính cách, nhân vật vì thế, trở
thành phương tiện để nhà văn chuyển tải quan niệm của mình về cuộc sống.
Việc xử lí chất liệu hiện thực cũng không đơn thuần chỉ là vấn đề thời
sự - chính trị như trước. Nhà văn đã quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề tư
tưởng mà trọng tâm khám phá là chiều sâu tâm hồn con người, là các vấn đề
tư tưởng, đạo đức, nhân sinh trong cuộc sống thường nhật hàng ngày. Sự chủ
động về tư tưởng làm nảy sinh khả năng đối thoại khiến cho tư tưởng triết
luận phát triển, nhu cầu triết luận cũng phổ biến, tỉ lệ các tác phẩm luận đề
cũng vì thế tăng lên. Chính những tác phẩm đó nổi lên giọng trần thuật hướng
nội, giọng chiêm nghiệm, tự thú. Không khó để nhận thấy văn học giai đoạn
trước né tránh “cái bi” vì cảm hứng sử thi và định hướng động viên, cổ vũ.
Nhưng khi văn học lấy con người cá nhân làm trung tâm, hệ giá trị nhân bản
18
được xác lập thì “cái bi” mới thực sự có chỗ đứng. Những biến đổi tích cực
của đời sống vẫn mang trong mình những cái bi, và số phận cá nhân đâu phải
lúc nào cũng trùng khít với số phận cộng đồng. Trong mạch cảm hứng về cái
bi là những sắc thái muôn vẻ của nỗi buồn nhân thế, là sự cảm nhận về cái
hữu hạn, bé nhỏ của kiếp người. Nói đến cái bi nhưng các nhà văn không chỉ
cắt nghĩa nguyên nhân, truy tìm trách nhiệm mà còn để bảo vệ và nuôi dưỡng
nhân tính. Thông qua phương diện này, tác phẩm tự sự xuất hiện giọng trầm
lắng xót xa, thông qua “cái bi” người đọc điều chỉnh lại cách sống, định
hướng lại cuộc đời, đó là một khả năng kì diệu của văn học.
Trong công cuộc đổi mới ý thức cá nhân được giải phóng, giá trị cá
nhân được đề cao, xuất hiện những mâu thuẫn giữa cá nhân và cộng đồng.
Chính hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đạo đức - thế sự đã làm lộ ra những
mặt trái của đời sống và con người từ đó tạo điều kiện cho tiếng cười và nó
trở thành một dấu hiệu biến đổi quan trọng của văn xuôi giai đoạn này, nó
mang đậm sắc thái dân chủ hóa, chi phối cả giọng điệu văn chương, tạo ra
những giá trị nhân văn mới. Đồng thời tiếng cuời cũng là cũng là một phương
diện thể hiện tính tích cực xã hội của văn học khi nó gắn với sức mạnh phê
phán. Một bằng chứng của dân chủ hóa đó là khuynh hướng trần thuật qua
nhiều điểm nhìn. Mỗi điểm nhìn mang dấu ấn cá nhân, văn xuôi sẽ trở nên
phong phú, đa tầng hơn. Chủ đề tác phẩm và tư tưởng tác giả không lộ diện,
khó nắm bắt đòi hỏi người đọc khi tiếp cận phải suy nghĩ nhiều hơn, câu
chuyện sẽ dừng lại ở lối kết thúc bỏ ngỏ linh động gây hứng thú đối thoại sau
khi nó kết thúc. Sự thay đổi điểm nhìn trần thuật tạo ra nhiều cơ hội cho nhà
văn đổi mới cốt truyện, chú trọng hơn đến cấu trúc tác phẩm.
Được coi là cái vỏ của tư duy - ngôn ngữ văn học cũng vận động không
ngừng theo sự thay đổi của đời sống và chính sự phát triển của ngôn ngữ thời
đại cũng góp phần chi phối tư duy văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật bớt đi nhiều
19
vẻ trang trọng du dương mà thay vào đó là thứ ngôn ngữ khẩu ngữ, suồng sã
trong giọng điệu góc cạnh trong từ ngữ, văn xuôi thời kì này đặt mình đối lập
với thơ ca bởi nhu cầu diễn đạt cá tính, nhu cầu thông tin trong điều kiện ý
thức cá nhân được khơi dậy mạnh mẽ. Chưa bao giờ trong văn chương lại có
nhiều những câu chửi thề với lối nói trần tục, bụi bặm, dân dã đến thế. Bên
cạnh những nhà văn nam như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Ma Văn
Kháng.... còn có những nhà văn nữ cũng mạnh dạn thể nghiệm thứ ngôn ngữ
xô bồ của đời sống vào văn chương. Ở thời đại bùng nổ thông tin nhu cầu
tăng cường tốc độ và lượng thông tin là một nhu cầu chính đáng. Tính tốc độ
thể hiện ở lối truyện nhanh, mạch truyện dồn dập, lối liệt kê giản lược sự bình
luận, đánh giá, kĩ thuật lồng ghép, cắt dán của điện ảnh được sử dụng rộng rãi
vì thế dù mạch văn đi chậm nhưng sức nén của thông tin rất lớn. Sự xuất hiện
loại truyện mini, cực ngắn được chào đón vì nó phù hợp với lượng thời gian
không nhiều của độc giả.
Đã có không ít những tranh cãi xung quanh việc thay đổi của văn học
nói chung và tư duy của thể loại tự sự nói riêng trong văn học giai đoạn sau
1975, có ý kiến đánh giá lạc quan, tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều ý
kiến phản ứng gay gắt, phẫn nộ. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận chính sự
thay đổi đã giúp cho văn học mang được nhiều hơi thở của cuộc sống. Trong
luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về đề tài, cảm hứng, nhân vật và
những phương diện nghệ thuật: điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu trong ba
cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh để thấy được những cách tân, sáng
tạo của nhà văn về tư duy tự sự.
1.2. Giới thuyết về tiểu thuyết lịch sử
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử là thể loại viết về đề tài lịch sử, trong đó có nhân
vật, sự kiện, thời kì hay tiến trình lịch sử. Bởi vậy, nó có sự khác biệt cơ bản
20
với các thể loại tiểu thuyết khác như tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết trinh
thám, tiểu thuyết phong tục... ở cách thức nhà văn tiếp cận đề tài cũng như đối
tượng được miêu tả.
Một yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa người viết tiểu thuyết lịch sử với
người viết tiểu thuyết thông thường chính là đối tượng lịch sử, nên yêu cầu
nhà văn vừa phải có kiến thức uyên bác, tỉ mỉ như một nhà sử học, vừa có khả
năng biến những kiến thức lịch sử khô khan trở thành một tác phẩm nghệ
thuật. Có thể thấy, chất liệu làm nên tác phẩm của nhà tiểu thuyết lịch sử phải
đảm bảo yếu tố chuẩn mực về thời gian, sự kiện, tập quán... vì người đọc hoàn
toàn có thể kiểm chứng tính đúng đắn đó. Những hư cấu của nhà văn phải
nằm trong “vùng an toàn” và đảm bảo sự kiện hay nhân vật lịch sử được nhắc
đến không bị sai lệch, nhưng đồng thời vẫn phải tạo ra yếu tố hấp dẫn cho tác
phẩm của mình. Bên cạnh những nhân vật có thật trong lịch sử, nhà văn còn
sáng tạo nên những nhân vật hư cấu. Bằng tài năng của mình họ sẽ gắn kết hai
đối tượng nhân vật này, thậm chí có thể dành sự chăm chút, miêu tả nhiều hơn
về phía nhân vật hư cấu.
Vấn đề quan trọng làm rõ khái niệm tiểu thuyết lịch sử là phải phân biệt
được đâu là nhà văn và đâu là nhà sử học. Mối quan tâm chính của họ là lịch
sử nhưng mỗi người lại có mục đích riêng, và mối quan tâm là không giống
nhau. Nếu nhà sử học có mục đích chính là khám phá sự thật lịch sử, thì nhà
tiểu thuyết lịch sử lại thông qua việc tái hiện lịch sử rút ra những quan niệm
và suy ngẫm về cuộc sống và con người. Tôn trọng sự chân thực lịch sử nên
nhà sử học quan tâm đến tính chỉnh thể của lịch sử và tính chính xác đến từng
chi tiết, còn nhà tiểu thuyết ít bị ràng buộc hơn, ông ta có thể quan tâm đến
một khoảnh khắc nào đó trong lịch sử, không bị lệ thuộc vào chi tiết, và sự hư
cấu sáng tạo là không thể thiểu. Cách miêu tả lịch sử và nhân vật lịch sử của
nhà văn cũng khác với nhà sử học. Sử gia giới thiệu nhân vật như những danh
21
nhân anh hùng trong các biến cố, sự kiện lịch sử, còn nhà văn miêu tả nhân
vật lịch sử như con người trong tính nhất quán, trong mối quan hệ phức tạp
của nó với các mặt đời sống.
Khi tìm hiểu về sự hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử, các nhà nghiên cứu
vừa chú ý đến các yếu tố của tiểu thuyết vừa quan tâm tới sự thật lịch sử trong
tiểu thuyết để suy ngẫm chiêm nghiệm. Một điều dễ nhận thấy là tiểu thuyết
lịch sử thiên về góc độ đời tư của nhân vật. Cái nhìn từ góc độ đời tư trong
tiểu thuyết lịch sử là nhu cầu phản ánh số phận để qua đó đưa ra cách đánh
giá các vấn đề thời đại. Nhân vật tiểu thuyết là con người cá nhân, con người
đó sẽ tham gia vào các biến cố lịch sử theo sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng
tạo và hư cấu đó là không có giới hạn. Đó là điều thu hút các nhà tiểu thuyết
cũng là sức mạnh của tiểu thuyết lịch sử so với sách lịch sử.
Viết tiểu thuyết lịch sử nhưng nhà văn thường không coi việc phản ánh
lịch sử là mục đích chính mà qua các yếu tố lịch sử đó nêu lên những vấn đề
có ý nghĩa đối với con người, đối với hiện tại. Biêlinxki, nhà nghiên cứu văn
học nước Nga khẳng định: “chúng ta hỏi và chúng ta chất vấn những cái đã
qua để chúng ta giải thích cho hiện tại và chỉ ra tương lai của chúng ta” [8].
Ở quan niệm này, ông đã nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa quá khứ với hiện
tại trong tiểu thuyết lịch sử.
Có những thể loại gần gũi với tiểu thuyết lịch sử như truyện kí lịch sử,
truyện dã sử. Điểm giống nhau giữa chúng là đều có những yếu tố lịch sử
trong tác phẩm. Tuy nhiên, ở truyện dã sử nhà văn dựa vào một vài chi tiết
lịch sử và hầu như sử dụng những hư cấu, những điều lưu truyền trong dân
gian để tạo thành cốt truyện của mình. Nhân vật chính trong truyện dã sử
cũng là nhân vật hư cấu, truyện thường mang sắc thái kiếm hiệp ly kỳ nhằm
tạo sự hấp dẫn. Truyện ký lịch sử ngoài yêu cầu phải đảm bảo về tính chính
xác lịch sử thì gần như nó loại trừ yếu tố hư cấu.
22
Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử ngày càng có những đổi mới về nghệ
thuật, về tư duy tự sự… khiến thể loại thực sự có sức hấp dẫn đối với công
chúng.
1.2.2. Đặc trưng thể loại
Là một thể loại có tính đặc thù, tiểu thuyết lịch sử có những quy luật
sáng tạo riêng so với các thể loại khác. Như trên đã trình bày, tiểu thuyết lịch
sử yêu cầu nhà văn viết về đề tài lịch sử trong quá khứ; nguồn dữ liệu từ lịch
sử và đảm bảo được màu sắc lịch sử; nhà văn được quyền hư cấu như một
không gian mở của tiểu thuyết, tuy nhiên nhà văn nói chuyện xưa nhưng
nhằm mục đích soi chiếu vào hiện tại để làm rõ vấn đề. Nói một cách khác,
tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi rất cao ở người viết: phải xử lí được mối quan hệ
giữa sự thực lịch sử và hư cấu, tưởng tượng. Thông thường, nhà văn có thể tự
do trong lựa chọn nhân vật, chi tiết, sự kiện lịch sử nhưng ngược lại, cũng bị
chính những yếu tố đó quy định. Khi viết về một thời đại lịch sử hoặc một
nhân vật lịch sử, đối với nhà văn bên cạnh tài năng còn là vấn đề cái nhìn,
cách nhìn, đòi hỏi nhà văn không đơn thuần chỉ có vốn sống mà còn là vốn
hiểu biết về lịch sử, phong tục tập quán, địa lí, ngôn ngữ, văn hóa... để có thể
đưa những chi tiết của lịch sử vào tác phẩm “chân thật hơn lịch sử”. Tiểu
thuyết lịch sử ưu tiên khẳng định tính chất hư cấu của cốt truyện nhưng tạo
cho nó cái vẻ giống như thật bởi kết cấu và những hành động. Bảo đảm cho
độc giả rằng mọi sự đều có thể diễn ra như vậy, tiểu thuyết lịch sử còn giúp
họ hiểu tốt hơn những nguyên nhân và hậu quả của những sự kiện đã qua.
Vấn đề tiếp nhận của người đọc cũng ảnh hưởng lớn đến tiểu thuyết
lịch sử. Tác phẩm văn học nói chung, tiểu thuyết lịch sử nói riêng chỉ trở
thành một tác phẩm thực sự khi nó được tiếp nhận. Nhà văn cố gắng tạo cho
mình một lượng công chúng ủng hộ, nhưng họ cũng bị chính công chúng chi
phối lại. Ở thời kì đổi mới, cuộc sống con người không đơn giản chỉ là ăn no
23
mặc lành nữa, mà những nhu cầu về giải trí đối với công chúng không ngừng
đòi hỏi được nâng cao, trong đó nhu cầu giải trí bằng văn học cũng đòi hỏi
phong phú hơn, mới mẻ hơn. Cần thấy rằng, sự thật trong văn học tuy thống
nhất với sự thật ngoài đời nhưng rõ ràng chúng chưa bao giờ là một. Sự đồng
nhất giữa hai loại sự thật này, dù chỉ là vô tình cũng làm phương hại đến sự
lung linh đa nghĩa của nghệ thuật. Chỉ khi hai yếu tố thông tin sự thật và
thông tin thẩm mĩ kết hợp hài hòa thì tác phẩm mới có cơ hội tồn tại lâu dài.
Vì vậy đọc văn phải khác đọc sử. Những tác phẩm văn học viết về lịch sử dù
nổi tiếng đến mấy cũng không thay thế được các bộ chính sử, thông sử. Mặt
khác, không thể phủ nhận ý nghĩa nhận thức lịch sử của các sáng tác nghệ
thuật có giá trị. Một người đọc “đích thực” sẽ không được nhầm lẫn giữa tác
phẩm văn học viết về lịch sử với những công trình khoa học lịch sử.
1.2.3. Tiểu thuyết lịch sử trong đời sống tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại là chặng đường chưa dài so với tiến
trình vận động của thể loại hơn hai thế kỉ qua, nhưng cũng để lại những dấu
ấn đáng chú ý trong đời sống văn học. Với tinh thần đổi mới, văn học đương
đại có sự thay đổi lớn lao về tư duy nghệ thuật. Là loại hình tự sự có nhiều ưu
thế, đáp ứng nhanh nhạy những yêu cầu đổi mới, từ năm 1986 đến nay tiểu
thuyết nhanh chóng chiếm giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn xuôi.
Chỉ trong vòng mười năm đầu thế kỉ XXI, người đọc dễ dàng quan sát và
khắc nhớ hàng loạt cái tên, những người viết tiểu thuyết như Võ Thị Hảo với
Giàn thiêu; Hồ Anh Thái với Cõi người rung chuông tận thế, Đức
P hật, nàng Savitri và tôi, Mười lẻ một đêm, SBC là săn bắt chuột, Dấu về
gió xóa. Rồi Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà; Thoạt
kì thủy, Ngồi của Nguyễn Bình Phương; Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế
Hoàng Linh; China Town, Paris 11 tháng 8 của Thuận; Và khi tro bụi, Mưa ở
24
kiếp sau của Đoàn Minh Phượng; Nháp, Phiên bản, Kín của Nguyễn Đình Tú;
Nhiều cách sống, Mất kí ức của Nguyễn Quỳnh Trang…
Thời gian gần đây, công chúng yêu văn học chứng kiến sự nở rộ của
các tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Có thể kể một số cuốn tiểu thuyết lịch sử
tiêu biểu như: Người đẹp ngậm oan, Gươm thần Vạn Kiếp của Ngô Văn Phú;
Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Vương triều sụp đổ của Hoàng
Quốc Hải; Vua đen của Hoàng Công Khanh; Sông Côn mùa lũ của Nguyễn
Mộng Giác; Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn
Xuân Khánh; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo; Minh sư của Thái Bá Lợi; Hội thề
của Nguyễn Quang Thân; Thông reo Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang...
Đề tài lịch sử đã tạo nên tiếng vang nhất định cho một số cây bút tiểu
thuyết đương đại, đem lại nhiều đóng góp vào quá trình phát triển thể loại,
đặc biệt trong khoảng chục năm trở lại đây. Người viết tiểu thuyết lịch sử
hôm nay đã vượt qua cái khó của chính mình khi cố gắng thoát khỏi “định
mệnh thuyết”, sáng tạo lịch sử từ nhân vật như một con người của tiểu thuyết,
xóa nhòa những định kiến đã biết trước về nhân vật. Số lượng tác phẩm cho
thấy ưu thế của tiểu thuyết lịch sử chặng này là sự đa dạng trong phong cách
cá nhân. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do tính chất dân chủ
hóa đã khai phóng cho cá tính sáng tạo và kinh nghiệm cá nhân của nhà văn.
Những quan niệm quen thuộc trong văn học trước đây bị phá vỡ hoặc được
bổ sung. Có nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử trở về với khuynh hướng sử thi, có
tác phẩm đi sâu khai thác vấn đề thế sự, có tác phẩm tiếp nối kĩ thuật tự sự
của tiểu thuyết lịch sử truyền thống, có tác phẩm tiếp thu lối viết hiện đại của
tiểu thuyết phương Tây… Tất cả tạo thành một vườn hoa với đủ cả sắc,
hương và một bầu không khí sôi nổi.
Hiện thực được phản ánh trong các tiểu thuyết lịch sử thời kì này cũng
vô cùng phong phú, đa dạng. Đó có thể là hiện thực của các sự kiện, biến cố
25
lịch sử nhưng có thể là hiện thực của số phận con người. Hiện thực được phản
ánh trong tác phẩm không chỉ một chiều mà đa diện, nhiều chiều, thậm chí có
khi là hiện thực “xoay chiều, ngược chiều”, hiện thực ở dạng khả năng, tiềm
ẩn những bất ngờ. Đó dường như là lịch sử trong cảm nhận riêng, được biết
đến qua những trăn trở, khổ đau, vui buồn của từng nhân vật. Có nhà văn như
Nguyễn Xuân Khánh còn đưa các yếu tố phong tục, văn hóa vào tác phẩm để
mở rộng khả năng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết lịch sử.
1.3. Nguyễn Xuân Khánh và thể loại tiểu thuyết lịch sử - văn hóa
1.3.1. Nguyễn Xuân Khánh và hành trình viết văn nửa thế kỉ
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại Hà Nội. Ông học Đại
học Y khoa Hà Nội. Thời trai trẻ, ông được biết đến là người rất say mê âm
nhạc. Bước vào ngưỡng tuổi hai mươi, Nguyễn Xuân Khánh tham gia vào lực
lượng quân đội. Trong thời gian ở quân ngũ, Nguyễn Xuân Khánh đã viết tác
phẩm đầu tiên. Năm 1957, truyện ngắn Một đêm của ông được giải Nhì cuộc
thi viết truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (không có giải nhất). Từ
đó văn chương gắn với ông như một duyên nghiệp. Năm 1962, sau khi in tập
truyện ngắn đầu tay có tên Rừng sâu và bị kỉ luật, ông tạm ngừng sáng tác.
Tuy nhiên ông vẫn ấp ủ những dự định văn chương của mình. Ông về hưu
sớm và không xuất hiện trong đời sống văn học. Để đối diện với cuộc sống
mưu sinh, ông làm rất nhiều nghề như dịch sách, thợ may, thợ khóa... Chính
thời gian này đã cho ông sự trải nghiệm trong cuộc sống, vốn tri thức văn hóa
ông vẫn hàng ngày nghiền ngẫm. Từ sâu thẳm tâm hồn, Nguyễn Xuân Khánh
vẫn dành cho văn chương một vị trí đặc biệt.
Từ sau Đại hội Đảng VI (1986), sự nghiệp Đổi mới đất nước diễn ra
trên mọi phương diện đã tác động tới văn nghệ sĩ. Sự thay đổi diện mạo của
đất nước, sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật là những nhân tố quan trọng
tạo nên chuyển biến của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Ngoài ý
26
thức đổi mới thể loại còn có sự đổi mới cả trong tư tưởng, nội dung phản ánh.
Thế hệ nhà văn Cách mạng trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp như
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc... trở thành những người
mở đường tinh anh và đặt nền móng cho quá trình đổi mới văn học. Từ đó
đến nay có sự xuất hiện trở lại của một thế hệ nhà văn mà do thử thách thời
thế đã có một thời gian vắng bóng như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Xuân Khánh...
Sự nỗ lực âm thầm bền bỉ cuối cùng đã mang lại cho Nguyễn Xuân Khánh
những thành quả xứng đáng. Đầu thế kỉ XXI, bộ ba tiểu thuyết Hồ Qúy Ly,
Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của ông giành được nhiều giải thưởng
danh giá như Giải thưởng Thăng Long của UBND TP Hà Nội, Giải thưởng
của Hội Nhà văn Hà Nội, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam... Nhưng giải
thưởng chưa phải là tất cả, bởi vì độ dày của sách, số lần tái bản, danh mục
giải thưởng, sự hâm mộ của độc giả tuy mang lại nhiều vinh quang cho người
sáng tác, nhưng tất cả những cái đó chưa hẳn đã đủ đảm bảo để tác phẩm có
đời sống lâu bền trong lịch sử văn học. Điều đó có nghĩa, chỉ sau khi đọc tác
phẩm, tìm được giá trị nội tại của nó, ta mới có thể bàn tới vị trí văn học sử
của một nhà văn. Song, thực tiễn đời sống văn học đã chứng minh bộ ba
trường thiên tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa đã
khiến Nguyễn Xuân Khánh xác lập cho mình một vị trí riêng trên văn đàn
Việt Nam đương đại. Nguyễn Xuân Khánh “đột ngột xuất hiện, như thể ông
vừa bước ra từ một huyền thoại nào đó, từ một sự ẩn mình đâu đó lâu lắm,
như loài trầm hương trong rừng sâu kia, một ngày nhoài lên từ lớp mùn và
mục gỗ để đi về phía ánh sáng mặt trời và đem theo mùi hương quý giá” [35].
Những cuốn tiểu thuyết của một người viết cao tuổi không chỉ khiến người
đọc kinh ngạc vì sức lao động nghệ thuật đáng nể, mà còn gây ấn tượng mạnh
cho độc giả bởi sự độc đáo của một cây bút bậc thầy về văn hóa. Nó làm nên
nét hấp dẫn riêng của văn chương Nguyễn Xuân Khánh.
27
1.3.2. Tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh trong
dòng chảy tiểu thuyết thế kỉ XXI
Như đã biết, Nguyễn Xuân Khánh viết văn từ thời kì kháng chiến chống
Mỹ, nhưng thành công mà ông thu được trên con đường hoạt động nghệ thuật
nhọc nhằn chứ không dễ dàng. Mãi đầu thế kỉ XXI, ông mới thực sự thành
công với bộ ba tiểu thuyết về đề tài lịch sử, văn hóa là Hồ Qúy Ly (2000);
Mẫu Thượng Ngàn (2006); Đội gạo lên chùa (2011).
Lựa chọn viết về một thể loại văn học không mới như tiểu thuyết lịch
sử Nguyễn Xuân Khánh có những quan điểm riêng: “Tôi quan niệm tiểu
thuyết lịch sử không phải để kể lại lịch sử, minh họa lịch sử... Người viết lịch
sử không thể dựng lại đúng hiện thực mà chỉ là cách nhìn về lịch sử, và cái
nhìn ấy, ngôn ngữ ấy được độc giả chấp nhận là được” [25]. Như vậy, nhà
văn quan niệm: lịch sử chỉ là phương tiện để truyền đạt các ý tưởng, chủ đề và
làm nền cho tưởng tượng, hư cấu của tác phẩm. Tuy nhiên, việc hư cấu trong
tiểu thuyết lịch sử trên nền tảng các cứ liệu lịch sử cũng có những khó khăn
riêng, những quy định riêng cần đảm bảo chứ không thể tùy tiện, phóng túng.
Nói về vấn đề này, Nguyễn Xuân Khánh cho rằng: “Tôi quan niệm tiểu thuyết
lịch sử phải tạo ra một hiện thực làm sao để gây cho người đọc một ảo tưởng
là có thật... Tiểu thuyết phải có đời thường, bi hài, trữ tình. Trong khi đó kí sự
lịch sử chỉ là bám chắc vào các văn bản sử để viết” [25]. Nhà văn đưa hiện
thực lịch sử ấy vào trong tác phẩm và gán cho nó những trải nghiệm của cá
nhân, theo cái nhìn của cá nhân.
Hồ Qúy Ly là cuốn tiểu thuyết tái hiện lại thời kì lịch sử sóng gió cuối
thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV. Đó là giai đoạn cuối triều đại nhà Trần, đầu triều
đại nhà Hồ; với nhân vật lịch sử Hồ Qúy Ly, trong bối cảnh nước Đại Việt
phải gồng mình đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng trong nước và chống giặc
ngoại xâm. Thấm đẫm trong từng trang văn, kết cấu truyện, không gian, nhân
vật tác phẩm… là những chất liệu lịch sử, văn hóa và phong tục, tập quán rất
28
tiêu biểu của dân tộc Việt. Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly được nhà văn viết
trong những suy tư, trăn trở sâu sắc về quá trình đổi mới của dân tộc bằng
việc lật lại câu chuyện đầy sóng gió cuối thời Trần (1225-1440), khi nhà
nước Đại Việt đang gồng mình chống đỡ khủng hoảng trong nước và chống
giặc ngoại xâm. Tác phẩm góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người
Hồ Quý Ly, một trí thức cách tân trước thời đại nhưng vấp phải bi kịch đau
đớn nhất là không được lòng dân. Đồng thời, tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp
về văn hóa ngàn năm của dân tộc với những địa đanh cổ nổi tiếng, những
cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục đẹp… được
lưu truyền đến nay đã mai một cùng năm tháng. Nguyễn Xuân Khánh đã đem
đến một luồng gió mới cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, khi mà hầu hết các
nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước ông đã bỏ qua, đó là: viết tiểu thuyết
lịch sử tức là làm một cuộc khám phá và truy xét lịch sử để có nhận thức
chính xác cho mình về lịch sử.
Tiếp đến hai tiểu thuyết sau đó, Nguyễn Xuân Khánh đã thực hiện đầy
đủ bút lực của mình: nhà văn hóa, lịch sử, nhà tư tưởng trong tư cách nhà
văn. Lấy bối cảnh thời sơ khởi của công cuộc tiếp xúc, tiếp biến văn hóa
Đông Tây ở Việt Nam những năm cuối cùng thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX,
tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh tiếp tục khám phá
quá khứ dân tộc, góp thêm cái nhìn sâu sắc về đề tài lịch sử. Tác phẩm cũng
mang đậm chủ đề văn hóa phong tục Việt Nam, thể hiện qua cuộc sống của
người dân ở một làng quê bán sơn địa Bắc Bộ hồi cuối thế kỉ XIX mang tên
Cổ Đình. Giữa bối cảnh Pháp xâm lược Việt Nam, đạo Phật bị gạt bỏ, đạo
Thiên chúa bắt đầu ảnh hưởng và lan rộng, người dân quê trở về với đạo
Mẫu, một tôn giáo của người Việt cổ có từ ngàn đời. Nhà văn dày công kể
lại cho người đọc những câu chuyện tình yêu của người đàn bà Việt trong
không gian ấy, một tình yêu vừa bao dung, vừa mãnh liệt, vừa bản năng đầy
chất phồn thực và cũng nhiều đắng cay. Ở Mẫu Thượng Ngàn, chúng ta còn
29
thấy một bức tranh về lịch sử xã hội Hà Nội cuối thế kỉ XIX với việc Pháp
đánh thành Hà Nội, việc xây dựng Nhà thờ Lớn… Những vấn đề lịch sử,
văn hóa, phong tục đậm đặc dung chứa trong cuốn tiểu thuyết gần ngàn
trang đã cho thấy bút pháp trữ tình đầy ấn tượng ở Nguyễn Xuân Khánh,
nhất là sự trưởng thành trong suy ngẫm của tác giả: tư duy của một nhà văn
hóa, nhà tư tưởng trong tư cách một nhà văn.
Trong tác phẩm Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh vẫn bắt vào
mạch tự sự văn hóa, lịch sử tiếp tục khẳng định sức sống mạnh mẽ của dân
tộc Việt Nam. Tác phẩm lấy bối cảnh làng quê Bắc Bộ, một ngôi chùa làng,
nơi chứng kiến tất cả những thăng trầm, bi thương của số phận người nông
dân và văn hóa làng trong một khoảng thời gian khốc liệt không kém: từ cuộc
kháng chiến chống Pháp đến khi đất nước lập lại hòa bình. Đội gạo lên chùa
được viết theo lối cổ điển, mang tính luận đề về ảnh hưởng của đạo Phật
trong đời sống của cư dân Việt. Không khí Phật giáo, tinh thần Phật giáo và
tư tưởng của đạo Phật gần như can thiệp vào tất cả các tình tiết quan trọng
nhất trong cuốn tiểu thuyết đồ sộ này. Tác phẩm thấm đẫm màu sắc Phật
giáo, được nhà văn viết trong bốn năm, cũng là những chứng nghiệm sâu
sắc của Nguyễn Xuân Khánh về biến thiên của làng quê, về sự ảnh hưởng,
hiện diện của Phật giáo đối với cuộc sống con người mà ông rút ra là: “Phật
giáo là một lối sống” [24]. Ở tiểu thuyết này, ông không kiến giải về lịch sử
dân tộc qua người đại diện như Hồ Quý Ly, cũng không kiến giải về dân tộc
qua thời đoạn lịch sử thử lửa khốc liệt của nó như Mẫu Thượng Ngàn, mà
xuất phát từ chính lịch sử của sự xây dựng dân tộc Việt Nam suốt thời hiện
đại.
Ở hai tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, những nhân
vật chính không còn là những người có thực trong lịch sử như Hồ Qúy Ly
nữa, mà là những nhân vật phần nhiều do nhà văn hư cấu và các sự kiện có
thực trong lịch sử được giảm thiểu tối đa. Trọng tâm cảm hứng của Nguyễn
30
Xuân Khánh trong hai tiểu thuyết này chính là văn hóa - phong tục, với những
hệ tư tưởng tín ngưỡng, tôn giáo: tín ngưỡng thờ Mẫu (trong Mẫu Thượng
Ngàn) và đạo Phật trong (Đội gạo lên chùa).
Có thể nói, bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa này, Nguyễn Xuân Khánh
đã gác sang bên những trăn trở về đổi mới bút pháp để đi sâu vào đổi mới về
mặt tư tưởng. Làm nên bước ngoặt về quan niệm nghệ thuật, là trở về với lối
tự sự truyền thống trong khi rất nhiều nhà văn Việt Nam khác dấn thân vào
con đường đổi mới nghệ thuật tự sự. Nguyễn Xuân Khánh đã thực sự thành
công, không chỉ trong vai trò một nhà văn mà còn trong vai trò một trí thức
luôn quan tâm đến các vấn đề của văn hóa, quốc gia, dân tộc. Ông đã đi theo
một hướng riêng, không sa đà vào cuộc tìm kiếm cách tân cầu kì trên bề mặt
hình thức đơn thuần.
31
CHƯƠNG 2
TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA
NGUYỄN XUÂN KHÁNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
ĐỀ TÀI, CẢM HỨNG, NHÂN VẬT
2.1. Đề tài lịch sử - văn hóa và thông điệp thế sự
Chọn tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử làm phương tiện chuyển
tải tư tưởng, Nguyễn Xuân Khánh không sử dụng nhiều lối kĩ thuật hiện đại
và hậu hiện đại, nhưng cách viết của ông được làm mới bằng tinh thần luận
giải lịch sử - văn hóa. Đối với Nguyễn Xuân Khánh, lịch sử chỉ là cái “đinh
treo” để nhà văn bày tỏ cái nhìn về cuộc sống. Không chịu áp lực từ các quan
điểm của cộng đồng, cũng như lối tư duy trong tiểu thuyết gắn liền với cảm
hứng ngợi ca, kính cẩn và chiêm bái lịch sử, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
tìm thấy những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại, dùng quá khứ để
soi tỏ hiện tại, nêu ra được những chân lý có tính phổ quát. Bộ ba tiểu thuyết
lịch sử, văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh ra đời được coi là một hiện tượng
của tiểu thuyết đương đại. Điều nhà văn làm khác so với các nhà tiểu thuyết
cùng thời chính là tác phẩm của ông có nét vượt trội mà không nhiều nhà văn
cùng thời làm được: sự hài hòa giữa yếu tố văn hóa và lịch sử.
Lịch sử, theo cách hiểu đơn giản nhất là những gì thuộc về quá khứ, và
đối tượng Nguyễn Xuân Khánh miêu tả, thể hiện đều là những con người,
những sự việc thuộc về quá khứ. Nhưng trên thực tế, không phải quá khứ nào
cũng được coi là lịch sử, có quá khứ xa và quá khứ gần và thường thì quá khứ
xa mới được coi là lịch sử. Điều đó được thể hiện ngay ở thái độ ngập ngừng
của nhà xuất bản khi định danh thể tài của tác phẩm: trong ba cuốn tiểu thuyết
của Nguyễn Xuân Khánh chỉ có Hồ Qúy Ly được in rõ là “tiểu thuyết lịch sử”
trên bìa, hai cuốn còn lại chỉ in là “tiểu thuyết”.
32
Hồ Qúy Ly là cuốn tiểu thuyết tái hiện lại thời kì lịch sử cuối thế kỉ
XIV đầu thế kỉ XV, đó là thời kì cuối triều đại nhà Trần và đầu triều Hồ, với
nhân vật lịch sử phức tạp Hồ Qúy Ly. Ở Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân
Khánh chọn bối cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tái hiện xung đột
văn hóa Đông - Tây của dân tộc Việt và quân xâm lược Pháp. Trong hai cuốn
tiểu thuyết này, cách xử lí lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh khá tự do và đầy
tính chủ quan. Nhu cầu cắt nghĩa đời sống theo những suy ngẫm, trải nghiệm
đã khiến người đọc nghĩ rằng lịch sử đích thực của tác phẩm là hư cấu. Điều
này phù hợp với tinh thần của tiểu thuyết, “không ngừng nhận thức lại” bằng
thái độ hoài nghi. Điều đó khiến bức tranh lịch sử không mang giá trị tự thân,
nghĩa là không nhằm tái hiện chân thực thời đại lịch sử. Nguyễn Xuân Khánh
chỉ mượn lịch sử làm phương tiện để chuyển tải những suy nghĩ của mình về
thế sự. Có thể thấy, các vấn đề nhận thức và thẩm mĩ mà Hồ Qúy Ly và Mẫu
Thượng Ngàn đặt ra đều là vấn đề của hiện tại, chỉ có khung cảnh thiên nhiên,
ngôn ngữ, lễ hội, tập tục là của lịch sử. Lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh là lịch sử đã được nhìn qua lăng kính cá nhân, qua những trải
nghiệm của nhà văn để từ đó nhà văn hướng ngòi bút của mình về phía hiện
thực đời sống. Nhân vật Hồ Qúy Ly và tư tưởng cách tân của ông... đều được
tái hiện theo kiến giải riêng của nhà văn. Lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật
của Nguyễn Xuân Khánh đã cho thấy điểm riêng trong cách nhà văn hư cấu.
Ông không lệ thuộc nhiều vào lịch sử mà chỉ mượn nó làm phương tiện để soi
rọi vào thực tại. Song ông cũng không hư cấu và đẩy lịch sử đi quá xa như
Nguyễn Huy Thiệp đã làm trong những truyện ngắn lịch sử như Kiếm sắc,
Vàng lửa, Phẩm tiết. Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khiến
người đọc hoang mang, muốn lục tung mọi ngóc ngách của chính sử để minh
định, còn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh mang đến một cảm giác nhẹ
nhàng khi nhà văn muốn bạn đọc cùng đồng hành với những gì nhà văn chiêm
33
nghiệm về quá khứ. Đỗ Hải Ninh cho rằng: khía cạnh tạo nên sự thành công
trong các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh là việc nhà văn có “khả
năng nắm bắt cái hằng số lịch sử và hiện đại hóa các vấn đề của quá khứ”
[15].
Lịch sử là những gì đã qua, con người hiện tại nhìn lịch sử như là
những gì đã được ghi trong sử sách, điều đó trở thành cảm hứng cho những
suy ngẫm về văn hóa, tôn giáo... Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh dù viết
về thời điểm lịch sử nào đều có khả năng mở rộng biên độ phản ánh hiện thực
bởi tính thời sự cập nhật của nó. Không né tránh những vấn đề hôm nay, nhà
văn luôn ráo riết tìm lời đáp cho những câu hỏi thiết thực đối với hiện tại.
Tiểu thuyết Hồ Qúy Ly khiến người đọc liên tưởng đến cuộc cải cách từ thế kỉ
XV với nhu cầu đổi mới đất nước trong mấy thập kỉ gần đây, từ đó nhiều vấn
đề khác cũng được đặt ra: giải quyết cái cũ như thế nào, vai trò của trí thức
trước bước ngoặt của thời cuộc, đổi mới và quyền lực, lợi ích của dân chúng
và lợi ích của nhà cầm quyền... Đó đều là những thông điệp thế sự sâu sắc của
con người hôm nay được nhà văn khéo léo gửi gắm vào câu chuyện lịch sử.
Mẫu Thượng Ngàn đề cập đến vấn đề gìn giữ bản sắc dân tộc trong
giao lưu và tiếp biến văn hóa. Đâu là hướng đi của dân tộc trước những biến
động của lịch sử? Nhà văn đã tìm thấy những điểm tương đồng giữa quá khứ
và hiện tại, dùng hiện tại soi tỏ quá khứ, nêu ra được những chân lý có tính
phổ quát đối với con người, đó chính là giải thích mới về đề tài cũ. Dù viết về
nhân vật lịch sử quen thuộc, thời đại đã được các nhà sử học phân tích, đánh
giá nhưng tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh vẫn mới mẻ vì nó chở tải
được những vấn đề mà con người hôm nay đang quan tâm. Thiết nghĩ đây
cũng là điều mà các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử cần phải chú ý, bởi nó là
một phần của câu trả lời: vì sao giới trẻ ngày nay không hứng thú với lịch sử
nước nhà, và môn lịch sử trong nhà trường phổ thông không hấp dẫn được
34
học sinh. Sức hấp dẫn của tiểu thuyết lịch sử không đơn giản đến từ những
câu chuyện hư cấu, tưởng tượng của các nhà văn mà nó đến từ những kiến
giải lịch sử in đậm dấu ấn cá nhân và cách mà nhà văn lí giải quá khứ đó như
thế nào. Dấu ấn thời đại trong cách nhà văn kiến giải về lịch sử khiến nó trở
nên sống động, không phải là một quá khứ hoàn kết, nó thúc đẩy trí tò mò và
hứng thú tư duy của người đọc.
Với tư duy hiện đại, Nguyễn Xuân Khánh luôn đặt lịch sử ở trạng thái
động. Thói quen trung thành với lịch sử khiến nhiều người tìm đến các tài liệu
lịch sử để đối chiếu và từ đó mặc nhiên chấp nhận một lịch sử đã hoàn tất, các
nhân vật và sự kiện trở thành những gì đã được mặc định và không được phép
thay đổi. Nguyễn Xuân Khánh đặt nhân vật lịch sử trong những mối quan hệ
phức tạp của gia đình, xã hội và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhân
vật Hồ Qúy Ly (trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly) được hiện lên ở nhiều vai khác
nhau: một con người văn võ song toàn, một con người có cảm nhận tinh tế,
sâu sắc, một người chồng hết mực yêu thương vợ, một người cha nén chặt
tình cảm trong lòng, một kẻ loạn thần thâm hiểm, một kẻ tàn bạo... Ở mỗi góc
nhìn, nhân vật cũng không đồng nhất đơn chiều: trong mắt những người thuộc
phe bảo thủ như Nguyên Hàng, Khát Chân, Đoàn Xuân Lôi thì chính sách của
Hồ Qúy Ly là trái với lề lối tổ tiên, dấu hiệu của âm mưu thoán nghịch. Cùng
sự kiện đó, nhưng dưới con mắt của Nguyên Cẩn, Hán Thương lại là sự
ngưỡng mộ. Họ coi đó là những việc làm cấp bách mà chỉ bậc minh quân mới
thực hiện được. Còn những người như nhà sử học Sử Văn Hoa và Hồ Nguyên
Trừng lại hiểu rõ đất nước cần phải có những con người như Hồ Quý Ly mới
có thể lột xác, song chính họ lại băn khoăn liệu cách làm ấy có đúng không.
Đặt quá khứ trước những khả năng khác nhau, nhà văn cũng để ngỏ
nhiều chi tiết lịch sử như muốn cùng bạn đọc suy ngẫm. Cái chết của nhà sử
học Sử Văn Hoa là một bí ẩn. Có hai giả thiết: liên quan đến Hồ Qúy Ly với
35
kẻ thân tín Nguyên Cẩn, người đã tịnh thân để được thăng tiến hay phe Trần
Khát Chân và thuộc hạ của ông với thế võ Hạ Ngọc Trản. Trong Mẫu Thượng
Ngàn những lời đồn đại về tướng sát phu của cô Mùi và cái chết kì lạ của
Philippe, người chồng thứ ba vẫn là một điều chưa có lời giải. Kĩ thuật bỏ ngỏ
này có điểm gần gũi với Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn thường đưa vào tác
phẩm những chi tiết gây bất tín nhận thức, dựa vào những tài liệu sưu tầm, sử
dụng lời đồn đại, hiến cho người đọc những cái kết với nhiều khả năng khác
nhau. Qua đó, người đọc có thể tự mình rút ra kết luận theo khả năng tư duy
của mình và từ đó đối thoại với lịch sử. Nhà văn không phải là người biết
trước kể cho ta nghe câu chuyện lịch sử. Và như vậy, lịch sử không hoàn toàn
là cái đã xảy ra mà là cái có thể xảy ra, lịch sử trở thành một sáng tạo mới
trong mỗi cá nhân người đọc.
Nguyễn Xuân Khánh không xác lập trong lòng người đọc những hình
ảnh cố định về nhân vật lịch sử của mình. Nhân vật Hồ Qúy Ly xuất hiện với
tư cách là một bạo chúa hay một nhà cách tân cũng hiện lên với đầy đủ cả hai
mặt sáng và tối. Nhà văn cũng tạo ra ý thức tranh luận trước mỗi đối tượng.
Cha con Nghệ Hoàng là những ông vua hiền, nhân từ, đức độ nhưng để cho
muôn dân đói khổ, lầm than, đất nước chiến tranh loạn lạc, vậy có phải là bậc
minh quân? Sự đối thoại của nhiều luồng tư tưởng được thể hiện ở nhiều phát
ngôn trực tiếp bên cạnh những đối thoại ngầm được gửi gắm qua hình tượng
nghệ thuật sinh động. Có thể thấy, lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh là phương tiện để chuyển tải tư tưởng chứ không phải là mục đích.
Thực ra, Nguyễn Xuân Khánh đã rất thành công khi tái tạo lại không khí của
lịch sử, bức tranh của thời đại đã qua nhưng đóng góp của nhà văn là ở tư duy
mới mẻ về lịch sử, lịch sử đã không khép lại hoàn toàn mà có thể mở ra
những chân trời khám phá mới, nó phù hợp với tư duy của con người hiện đại,
luôn xem xét, hoài nghi những giá trị tưởng như đã xác định.
36
Nhìn chung, tạo ra sự hòa quyện giữa yếu tố lịch sử và văn hóa; mượn
nó để gửi gắm thông điệp thế sự là sáng tạo mới mẻ của tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh so với nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử trước đây của ta. Nguyễn
Xuân Khánh xác định rõ đối tượng của mình, phát huy tận độ vốn hiểu biết và
khả năng tưởng tượng để làm sống lại quá khứ lịch sử và gửi gắm những
thông điệp của con người hiện tại. Điều đó đã mang lại thành công cho
Nguyễn Xuân Khánh ở cả ba cuốn trường thiên tiểu thuyết.
2.2. Cảm hứng lịch sử - văn hóa và suy tư thế sự
Không cầu kì kiểu cách trong nghệ thuật tự sự, cũng không ham các trò
chơi cấu trúc hay ngôn ngữ, “gốc mai già” Nguyễn Xuân Khánh đã nở ra
những bông mai vàng rực một màu sang trọng và quyền quý của tư tưởng.
Bởi văn chương đối với ông không phải sự chơi mà là sự nghiền ngẫm, chiêm
nghiệm đến đốn ngộ về đạo và đời. Văn hóa và lịch sử dưới cái nhìn của
Nguyễn Xuân Khánh không hề đơn giản, một chiều mà được soi chiếu và lý
giải từ nhiều giác độ, trong một sự phong phú, vững chãi và thâm hậu của tri
thức về con người và thế giới - điều mà không phải nhà tiểu thuyết nào cũng
có được. Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, do vậy, không phải chỉ để
mua vui - một căn tính sơ khởi của tiểu thuyết, mà kết nối quá khứ và hiện tại,
thể hiện được nhiều vấn đề thế sự, nhân sinh thường ngày. Vì thế bên cạnh
cảm hứng lớn là cảm hứng lịch sử còn có cảm hứng văn hóa cũng là một dụng
công của Nguyễn Xuân Khánh trong cả ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu
Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa.
Một thời gian dài hầu hết các nhà văn đặt tiểu thuyết lịch sử của mình
vào khuynh hướng ngợi ca truyền thống lịch sử dân tộc và đều quy tụ hai cảm
hứng lớn là cảm hứng yêu nước và cảm hứng đạo đức. Tùy từng hoàn cảnh,
khi đất nước có chiến tranh, tiểu thuyết lịch sử tập trung ở cảm hứng yêu
nước, khi hòa bình lại mượn lịch sử nêu gương cho thế hệ mai sau và nhìn
37
chung, mọi vấn đề đều được quy chiếu về lịch sử. Văn học Việt Nam thời kì
đổi mới có sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, hướng
mối quan tâm đến con người. Số phận con người với những quan hệ xung
quanh sự tồn tại của nó, phát hiện những vấn đề tự nó đã tác động không
không nhỏ tới tiểu thuyết lịch sử và qua đó nhà văn cũng thể hiện những trăn
trở, suy tư của mình về thế sự.
Tiểu thuyết Hồ Qúy Ly là sự kết hợp của nhiều nguồn cảm hứng. Có
niềm tự hào về những nét đẹp truyền thống của dân tộc, nhưng khác với các
tiểu thuyết lịch sử khác thường ca ngợi phẩm chất anh hùng của con người
trong công cuộc chống giặc ngoại xâm; trong tiểu thuyết này nhà văn đề cập
đến trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện ở nhân vật Hồ Qúy Ly - con
người có những ý nghĩ mới mẻ, độc lập, quyết liệt trong công cuộc cải tổ
nhằm canh tân đất nước. Đây là một cảm hứng mới của tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Xuân Khánh. Có thể nói, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc
ngoại xâm và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam suốt thế kỉ XX đã tìm được mối
tương đồng với quá khứ ở nét chính đó. Không phải trong lịch sử của ta
không có những con người có tư tưởng canh tân đất nước, chẳng hạn như
Quang Trung, Phan Châu Trinh, nhưng trong số họ chưa ai bước vào tiểu
thuyết lịch sử ở phương diện ấy. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Xuân
Khánh có nhắc đến chiến công của vua tôi nhà Trần khi ba lần chiến thắng
quân Nguyên xâm lược với thái độ tự hào. Ông cũng dày công khi ca ngợi vị
tướng tài ba Trần Khát Chân tiêu diệt Chế Bồng Nga - ông vua kiệt hiệt nhất
trong lịch sử Chiêm Thành. Tuy nhiên, đó không phải là mạch cảm hứng
trọng tâm trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh. Điều nhà văn thật sự
dụng công là nhấn mạnh vào tư tưởng canh tân, tinh thần đổi mới của Hồ Qúy
Ly. Từ đó khẳng định tầm tư tưởng, trí tuệ, tinh thần độc lập và táo bạo của
con người Việt Nam dám làm dám chịu, dám tuyên chiến với hệ tư tưởng Nho
38
giáo và bằng việc đó, nó bổ sung vào truyền thống tốt đẹp của dân tộc những
phẩm chất mới. Một phần nào đó tác giả cũng quan tâm đến các giá trị đạo
đức mà các cuốn tiểu thuyết trước đó đã đề cập. Nhưng nếu các tác phẩm
trước đó thường phân biệt tốt - xấu, thiện - ác, địch - ta rõ ràng thì đến Hồ
Qúy Ly, sự phân biệt đó được nhìn từ cảm quan của con người hiện đại nên
mềm dẻo hơn. Mỗi người đọc sẽ phải tìm cho mình một câu trả lời theo quan
điểm riêng, kinh nghiệm riêng. Về nhân vật Trần Nghệ Tôn được xây dựng là
ông vua hiền nhưng cứ mãi để nhân dân chìm trong đói khổ loạn lạc, đất nước
mục ruỗng, quan lại nhũng nhiễu, liệu có được coi là một minh quân, là một
người tốt? Để đạt được mục đích của mình, một phe có thể thực hiện tất cả
những việc làm tàn bạo cốt tiêu diệt phe kia, ngược lại, phe kia cũng sẵn sàng
làm những việc như tìm người viết sách sử dụng chuyện bôi nhọ hạ thấp kể
thù, cần đến cả cái chết của vua để kích động mọi người, dùng mỹ nhân kế
đối với cả bạn tâm giao... Đâu là hành động được coi là chính nghĩa và đâu là
phi nghĩa? Khi đọc tác phẩm, người đọc dễ dàng nhận ra nhà văn cũng bị ảnh
hưởng bởi cảm hứng đạo đức, song cảm hứng này luôn đan cài vào các mạch
cảm hứng thế sự khác, có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn với cảm hứng phân
tích chiêm nghiệm lịch sử từ điểm nhìn hiện tại. Trong các cảm hứng trên có
lẽ cảm hứng quan trọng, giữ vai trò chi phối chiều hướng tổ chức tác phẩm là
nhu cầu nhận thức, chiêm nghiệm lịch sử. Xuất phát từ cảm hứng thế sự và
triết luận kết hợp với cảm hứng lịch sử, tác giả đề cập đến những vấn đề
không phải riêng ở một thời đại cụ thể nào mà có ý nghĩa chung cho mọi thời
đại. Thông qua nhân vật Hồ Qúy Ly và thời kì đầy biến động, nhà văn lí giải
nhiều hiện tượng phức tạp của lịch sử, đặt ra nhiều câu hỏi để người đọc suy
nghĩ, chẳng hạn đổi mới để phát triển hay bảo thủ trì trệ để ổn định? Thế nào
được coi là một vị vua anh minh? Cơ sở của niềm tin khi vương triều lung
lay?... Nguyễn Xuân Khánh đã đề cập đến những vấn đề của lịch sử bằng thái
39
độ thẳng thắn, chân thành, suy nghĩ nghiêm túc và bằng chính những trải
nghiệm cá nhân. Trước mỗi chi tiết lịch sử tác giả đều xoay đi, lật lại để rút ra
những triết lí nhân sinh thiết thực. Hồ Qúy Ly là người nhận thức rất rõ tình
trạng “nước ta như cái giếng khơi để lâu năm, dưới đáy giếng có nhiều bùn
nhơ lắng cặn... cái giếng cũ toàn một mùi nước tanh tưởi...” [22]. Điều ông
muốn là thay đổi tận gốc rễ, như thế nghĩa là phải xáo trộn mọi thứ thuộc về
lề lối cũ vốn đã ổn định nay không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Một loạt
câu hỏi được đặt ra: Giữ lại cái gì? Phá bỏ cái gì? Tiến trình của quá trình đổi
mới ra sao? Thái độ cần có trong quá trình thay đổi đó như thế nào?... Đó là
những câu hỏi mà để tìm ra được câu trả lời không phải là điều dễ dàng. Lịch
sử thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc cải cách như của vua Minh Trị, vua Pie
đại đế... Cái giá của những cuộc cách tân đó còn tùy thuộc sự tổng hợp của
nhiều yếu tố. Xung quanh vấn đề bảo thủ và cách tân, tác giả Nguyễn Xuân
Khánh còn gợi mở nhiều điều về thời cuộc, đạo lí, đạo đức, tri thức và kẻ sĩ...
Hồ Qúy Ly có lí do riêng khi ông quyết tâm đổi mới, đổi mới triệt để và
nhanh chóng. Đất nước đã trì trệ quá lâu, phía Bắc nhà Minh nhăm nhe nhòm
ngó, trong nước nhiều thế lực chống đối nổi dậy... Hồ Qúy Ly muốn tiến hành
cải cách thật nhanh, đồng nghĩa với nó là ông chấp nhận đổ máu và đau
thương. Vua Nghệ Tôn cũng hiểu điều đó, nhưng đồng suy nghĩ với các
vương thân quý tộc họ Trần. Ông biết rằng với sự đổi mới đó quyền lợi của
dòng họ ông sẽ không còn như trước, sự yên tĩnh bấy lâu nay cũng bị khuấy
động. Ông ủng hộ Hồ Qúy Ly nhưng chỉ ủng hộ nửa chừng. Còn Hồ Nguyên
Trừng vốn là người tài năng, trí tuệ hơn người, nhận ra đất nước cần sự thay
đổi, tích cực vào những kế hoạch của Hồ Qúy Ly, nhưng trong thâm tâm lại
không đồng tình với cách làm của cha. Mỗi nhân vật có một mạch suy nghĩ và
thái độ khác nhau, nhà văn như muốn lí giải một quy luật phát triển của lịch
sử: quy luật thịnh suy.
40
Không khó để nhận ra trong tiểu thuyết có nhiều đoạn nói về sự giằng
co giữa cái cũ và cái mới, giữa cách tân và bảo thủ. Thái độ dùng dằng không
nỡ của Hồ Qúy Ly với ông vua già Nghệ Tôn vì ông vua già vốn là người
hiểu Hồ Qúy Ly nhất, chính ông mở đầu cho những ý tưởng cách tân táo bạo.
Trước khi chết, Nghệ Tôn hy vọng sẽ dùng những mối dây tình cảm để ràng
buộc Hồ Qúy Ly nhưng điều đó chứng tỏ ông đã đặt lợi ích của dòng họ lên
trên. Chính Hồ Qúy Ly đã suy nghĩ chuyện này rất nhiều, nó ám ảnh ông,
theo ông cả vào những giấc mơ. Phải chăng cách cư xử của Hồ Qúy Ly là tàn
nhẫn? Nguyên Trừng nói với cha: “Trung thành như Chu Công Khuông phò
Chu Võ Vương có thể còn được, chứ đến Khổng Minh phò Lưu Thiện, Tô
Hiến Thành phò Lý Cao Tôn là hai ông vua trẻ con ngu độn, trong lúc triều
chính mục ruỗng thật là ngu trung, Nghệ Hoàng không hiểu cha, không hiểu
thời thế...” [22]. Sự lồng ghép cảm hứng đạo đức và cảm hứng nhận thức,
chiêm nghiệm lịch sử mở ra cho tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
khả năng bao quát đời sống rộng lớn và tạo những chiều sâu tư tưởng mới cho
tác phẩm.
Chọn bối cảnh lịch sử là những năm cuối của triều Trần, một thời đại
cách ngày nay rất xa, Nguyễn Xuân Khánh có cơ hội tự do bày tỏ những suy
ngẫm về sự còn mất, lẽ thịnh suy. Những nhân vật như Trần Nguyên Đán lặng
lẽ rũ áo về quê bởi hiểu thời thế: “vận nhà Trần ta làm sao có thể trường tồn
mãi được” và ủng hộ nguyên tắc ứng xử “việc nước là quan trọng hơn hết”.
Ông nhìn thấy ở Hồ Qúy Ly tham vọng giành ngôi báu nhà Trần nhưng cũng
nhận ra chỉ Hồ Qúy Ly mới có khả năng chèo chống đất nước thoát khỏi tình
trạng mục ruỗng, rối ren như hiện tại. Sự im lặng của Trần Nguyên Đán trước
câu hỏi của Trần Nguyên Hàng, sự im lặng của Sư Hiền trong cuộc nói
chuyện với Nguyên Đán chính là sự im lặng thấu hiểu và chấp nhận lẽ tự
nhiên của lịch sử.
41
Một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết được Nguyễn Xuân Khánh tâm
huyết xây dựng là Sử Văn Hoa với quan niệm: “Sử là hồn núi, hồn sông. Sử
là tinh túy của đất nước...” [22; tr.42]. Đây là nhân vật chuyển tải quan niệm,
triết lí về lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh. Sử Văn Hoa chú trọng đến hồn
nước. Hồn nước vốn là một khái niệm trừu tượng, nó là cái bất biến nhưng
cũng là ý niệm tùy thuộc quan niệm. Sư Vô Trụ giải thích: “Một con sông
cũng như một con người, vốn có cái cộng nghiệp của nó. Đó là cái cộng
nghiệp của toàn thể người dân. Đức Phật bảo con người có cái A lại da thức,
nơi tàng chứa những chủng tử lành dữ của con người qua nhiều kiếp. Một đất
nước cũng vậy, trong tàng thức của non sông có chứa những chủng tử...
những mong muốn tốt đẹp, những điều văn hiến mà dân tộc ấy đã gieo trồng,
chúng biến thành khát vọng, thành hồn của núi sông, rồi từ đời này sang đời
khác, khát vọng ấy sẽ hóa thân vào những bậc hiền nhân, vĩ nhân, danh nhân
và cả trong trái tim tốt lành của người dân thường để dẫn dắt dân tộc ấy đi
đến con đường của Đạo” [22; tr.42].
Có thể nói, tiểu thuyết lịch sử của ta ít có tác phẩm nào có sự tổng hòa
và sâu sắc cảm hứng thế sự như Hồ Qúy Ly. Đây là một giải pháp cho tiểu
thuyết lịch sử bởi vì, nhà tiểu thuyết lịch sử có lợi thế và cũng bị thách thức rõ
ràng hơn so với nhà tiểu thuyết thông thường: những nhân vật, những sự kiện
lịch sử đã được nhiều người biết đến, đã trở nên quen thuộc, nhà văn sẽ viết
lại bằng một nguồn cảm hứng mới mẻ, bằng những nhận thức, đánh giá và
kiến giải của thời đại nhà văn ấy đang sống.
Mẫu Thượng Ngàn tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất
nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ở giai đoạn này Mẫu Thượng Ngàn
không thể không động chạm đến cuộc tiếp xúc, giao thoa văn hóa Đông - Tây.
Ở đấy, đại diện phương Tây được thể hiện qua chân dung những kẻ đi đầu
trong cuộc chinh phục (ba anh em nhà Messmer, nhà dân tộc học René, thiếu
42
úy Bonard), trên nền cảnh của những sự kiện Francis Ganier và Henri Riviere
đánh chiếm thành Hà Nội, việc xây dựng nhà thờ lớn Hà Nội và sự mở rộng
ảnh hưởng của đạo Thiên chúa mà đại diện là đức cha Conlombert. Dân làng
Cổ Đình, cũng như mọi người dân Việt Nam phải đối mặt với một sức mạnh
mới đến từ phương Tây xa lạ, trong một tình thế khó khăn. Nhưng những
người dân Cổ Đình, đặc biệt là những người phụ nữ đã có cách ứng xử vừa
uyển chuyển mềm mại mà không hề bị khuất phục trong cuộc đụng độ Đông -
Tây ấy. Cô Mùi từ chỗ bị ép lấy Philippe Messmer, dần đã tìm thấy sự thích
nghi ở đồn điền trong địa vị một người vợ. Cô đã ưng thuận? Sự ngoan ngoãn
có phần cam chịu của cô Mùi đã vuốt ve tính hiếu thắng và thích chinh phục
của gã đàn ông xa lạ - cho dù hắn không lí giải được tại sao có sự bằng lòng
ấy. Nhưng khi chứng kiến cảnh vợ nhảy múa cuồng nhiệt trong vũ điệu mê
đắm của thứ đạo giáo bản địa khó hiểu, Philippe hiểu rằng nàng không khi
nào là quà tặng cho y. Cả Philippe và sau này là Julien - những kẻ sang xứ
Đông Dương với một mục đích duy nhất để “chinh phục” và “khai hóa” nên
không thể hiểu hết được sức mạnh kì bí của xứ sở này. Cả hai đều là những
người tích cực trong công cuộc khai phá mảnh đất mà họ cho là con mê muội
tối tăm. Tuy nhiên chúng không thể ngờ được những con người trên mảnh đất
ấy không chấp nhận bất cứ khái niệm dung hợp nào. Trong cuộc chinh phạt
chỉ có khái niệm kẻ đi chinh phạt và bị chinh phạt với chân lý kẻ mạnh sẽ
chiến thắng. Đó là lí lẽ mà họ đang áp dụng lên xứ sở lạ lùng này. Tuy nhiên
kết quả Philippe bỏ mạng, còn Jilien trở thành gã ngu đần và vô dụng. Những
gì cả hai mang đến cho xứ Cổ Đình chỉ là sức mạnh của sự áp đặt và tuân
phục - nó xa lạ và không phù hợp với bản chất ôn hòa, thuần hậu nhưng cũng
rất quyết liệt của những con người Cổ Đình. Đức cha Colombert, Pierre, René
là những người ít nhiều hiểu được bản chất ấy. Bản thân họ bước chân sang
xứ Đông Dương không nhận mình là kẻ đi khai hóa, mà chỉ sang để “học làm
43
giàu cho riêng mình, học tính khiêm nhường, lễ độ, học tính cam chịu”, “sự
hòa hợp”, “muốn xoa dịu những nỗi khổ của người dân An Nam bằng sự
thành thiện của đức tin” [23]. Cha Colombert sang Việt Nam nhưng không có
tham vọng làm chủ nó, mà để học làm một người Việt Nam, vì thế không lạ
khi ông là một đức giám mục phương Tây nhưng lại thông thạo chữ Quốc ngữ
và chữ Nho, biết xem tướng số và thuộc Kiều, am hiểu cách sống của đám
con dân mà ông có trách nhiệm hướng đạo và chăn dắt. Ngay cả đến ông
Lềnh - một người Tàu đã gắn bó với mảnh đất này mấy chục năm, cuối cùng
cũng phải thú nhận mình mãi mãi chỉ là một “trú khách” của nó mà thôi. Cả
đức cha và những giáo dân của ông được nhìn nhận không phải là những kẻ đi
chinh phục và những kẻ bán nước. Họ đơn giản chỉ đại diện của một cuộc
giao lưu văn hóa, từ chỗ gượng ép, áp đảo đến chấp thuận và dung hòa, thậm
chí có những cố gắng đồng hóa ngược lại. Hình ảnh cô bé Nhị - đứa con được
sinh ra trong lễ hội ông Đùng, bà Đà - kết quả của một vụ cưỡng đoạt tồi tệ -
vẫn trong trẻo, thánh thiện ở cuối tác phẩm là một biểu tượng nhiều ý nghĩa.
Sự lo sợ của Nhụ cho tương lai của đứa bé - một đứa con lai dễ bị cộng đồng
chối bỏ, bị dứt khỏi cội rễ của nó không xảy ra. Lại một điều diệu kì. Dưới
vòng che chở của Mẫu chăng? Hay đơn thuần là một sự đền bù của hóa công
cho những nỗi đau khôn cùng của con người.
Với hơn 800 trang tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã nhìn
nhận một giai đoạn lịch sử phức tạp đã qua của dân tộc bằng một nhãn quan
dân chủ. Ở đây không phải là xét lại lịch sử, ông chỉ đưa ra một lời bàn, một ý
kiến. Trong cuộc tiếp xúc văn hóa này, không hề có kẻ thắng, người thua, kẻ
mạnh, người yếu, kẻ đi chinh phục và người bị chinh phục - chỉ có thể là sức
mạnh tổng hợp, tiếp nhận lẫn nhau, chuyển hóa và cùng chung sống giữa các
nền văn hóa. Có một sự thật lịch sử là cuộc xâm lược của thực dân Pháp về
bản chất là cuộc chiến tranh tìm kiếm thuộc địa của chủ nghĩa tư bản, nhưng
44
hệ quả cuộc tìm kiếm ấy mang lại một cuộc giao lưu về văn hóa. Sự va chạm
Đông - Tây, Pháp - Việt đã được lí giải ở một góc nhìn mới. Ở đấy, văn hóa
Việt đã tìm được phương cách biến đổi, hóa giải những nguồn văn hóa khác
nhau mà không đánh mất chính mình.
Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết bao quát nhiều vấn đề, vừa có
lịch sử, xã hội (giai đoạn Pháp đánh vào thành Hà Nội cuối thế kỉ XIX), vừa
chạm tới cả những khía cạnh thuộc nhân sinh, thế sự (câu chuyện tình yêu của
người đàn bà Việt trong khung cảnh ngôi làng cổ, vừa bao dung, cay đắng,
vừa mãnh liệt, “vừa đầy chất phồn thực, bi hài quyện với mộng mơ và cao
thượng” [23]) và trên hết là cái nhìn về văn hóa - phong tục Việt Nam thể
hiện qua cuộc sống của những người dân quê ở một làng cổ thuần chất. Tái
hiện một giai đoạn lịch sử nhiều bi thương qua lăng kính văn hóa - phong tục,
Nguyễn Xuân Khánh bổ sung thêm một cách nhìn, nêu ra một kiến giải khác:
sự trường tồn của dân tộc suy đến cùng cũng vẫn lấy ở cái gốc văn hóa mà ra.
Tuy không phải lúc nào cũng bộc lộ thành sức mạnh trực tiếp, song cội nguồn
của bản sắc và sức sống một dân tộc là ở nền văn hóa bản địa đã hình thành
và được gìn giữ lưu truyền hàng nghìn năm, không dễ mai một. Phải chăng đó
cũng là sự luận giải của nhà văn về vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc
trong thời kì hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Đội gạo lên chùa là câu chuyện về ngôi chùa Sọ ở vùng làng quê Bắc
Bộ. Đây là nơi chứng kiến biết bao biến động dữ dội qua những giai đoạn
khác nhau, với những con người mang số phận phức tạp. Cha mẹ đều bị giết
trong những trận càn của thực dân Pháp, hai chị em Nguyệt và An dắt díu
nhau rời xóm Giếng và tìm đến chùa Sọ mong nương nhờ cửa Phật. Từ chỗ
ban đầu còn lạ lẫm bỡ ngỡ, dần dần ngôi chùa đã trở thành gia đình mới của
hai em. Nguyệt cũng có ý xin được xuống tóc đi theo con đường tu hành,
nhưng sư cụ trụ trì Vô Úy nhận thấy chị còn vướng nhiều duyên nợ với đời
45
nên không đồng ý. Dù không được sư cụ chấp nhận nhưng Nguyệt một lòng
gắn bó với chùa, tâm hồn luôn hướng thiện. Cậu bé An thì khác, ngay từ lúc
mới đến đã được các sư thầy trong chùa đón nhận. Sư cụ Vô Úy nhận ra An
có duyên với nhà Phật nên đã đồng ý thu nhận để cho cậu theo con đường tu
tập. Tại đây, hai chị em đã cùng các sư vãi và mọi người chứng kiến những
thăng trầm biến động của ngôi chùa cũng như của dân làng. Những đồn bốt
được giặc dựng lên ngày càng dày đặc. Không khí căng thẳng ngột ngạt bao
trùm lên làng quê nghèo nhỏ bé. Những tên chỉ huy khét tiếng của giặc là Đại
úy Thalan, Trung úy tây lai Bernard đã gieo rắc bao nhiêu căm phẫn. Sự bắt
bớ, tra tấn và cái chết là những điều dân làng phải đối mặt hàng ngày. Nhưng
rồi không hiểu nhờ sức mạnh từ đâu tất cả đều được vượt qua. Có người trẫm
mình xuống giếng, có người phát điên, có người phải bạt xứ mà bỏ đi... Con
sông thành chiến địa, đêm tối là không gian, mỗi người là một du kích, nhà
chùa là nơi trú ẩn.... Bằng cách đó ngôi chùa và làng quê đã vượt qua những
bão tố của thời đoạn đó một cách bền bỉ, thể hiện một sức sống mạnh mẽ.
Cả ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên
chùa của Nguyễn Xuân Khánh đều được viết bởi nhiều cảm hứng đan xen,
hòa quyện vào nhau. Cảm hứng lịch sử - văn hóa giữ vai trò chủ đạo nhưng
luôn dung chứa trong đó mạch cảm hứng thế sự của đời sống nhân sinh muôn
thuở.
2.3. Nhân vật lịch sử - văn hóa
“Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá
nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời
sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [14]. Nghiên cứu về nhân vật, ở
một góc độ nào đó chính là thao tác tìm hiểu cách nhà văn nhìn nhận, cắt
nghĩa và lí giải về con người, nhất là con người đặt trong tác phẩm văn
46
chương. Nghiên cứu nhân vật - con người trong tác phẩm nghệ thuật cũng là
một hành trình nhận thức - khám phá nhiều tín hiệu mới xoay quanh cuộc
sống con người. Trong các thể loại văn xuôi tự sự, nhân vật đóng một vai
trò tối quan trọng. Đó là sức sống của thể loại. Toàn bộ tài năng nghệ thuật
của nhà tiểu thuyết nằm ở chỗ, trên trục vận động của diễn biến cốt truyện,
nhân vật phải làm chủ mọi cảnh huống, mọi tình thế, phát triển theo quy luật
nội tại của nó. Cách kể chuyện của nhà tiểu thuyết phải làm sao hòa vào các
nhân vật, hòa vào từng nhân vật và thế giới riêng của nó, kể về nhân vật bằng
ngôn ngữ của nó, bằng tiết tấu của chính nó.
Đối với tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là nơi thử thách và cũng là để
khẳng định tài năng của nhà văn rõ nhất. Nhà văn từ những tư liệu sử học có
khi chỉ là một vài dòng khắc trên bia đá, hay chỉ là một cái tên, mà phải thổi
hồn vào đó khiến nhân vật có thể đi lại, nói năng, bộc lộ tình cảm, cảm xúc để
phục vụ cho tư tưởng của nhà văn. Nhân vật thành công là nhân vật không đi
quá xa sử liệu mà vẫn phải phù hợp với thị hiếu người đọc đương đại.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh gắn bó mật thiết
với mối quan tâm của nhà văn về đề tài lịch sử và văn hóa dân tộc, nằm trọn
vẹn trong ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên
chùa. Nguyễn Xuân Khánh đã kiến tạo thế giới nhân vật phong phú, chứng
tỏ tài năng bậc thầy trong cách tổ chức, xây dựng nhân vật và biết cách để
nhân vật làm chủ trang viết. Tác giả rất kì công trong việc tổ chức đời
sống cho nhân vật. Mỗi cuốn sách có số lượng lên đến hàng trăm nhân vật
rất phong phú bao gồm: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật lịch sử, nhân
vật hư cấu, nhân vật người trí thức, nhân vật nông dân, nhân vật ngoại
quốc, nhân vật tín ngưỡng, tôn giáo… Nhưng mỗi nhân vật đều có màu sắc
và đường nét rõ ràng, không bị ràng buộc hay trùng lặp.
Ba cuốn tiểu thuyết c ủ a N g u y ễ n X u â n K h á n h mang cảm thức
47
“luận giải” trong diễn ngôn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Đặt trong cảm thức
luận giải ấy, hình ảnh các nhân vật luận đề - tư tưởng đã vượt lên công
thức “phát ngôn” khô cứng thông thường mà trở thành mẫu hình nhân vật
rất sống động, bộc lộ cái nhìn đa diện trong suy nghĩ và nhận thức cũng như
quan điểm của nhà văn trước những biến thiên lịch sử - xã hội.
2.3.1. Nhân vật lịch sử
Nhân vật lịch sử là những con người có bản lĩnh, tài trí và khát vọng
hơn người. Tính cách của họ làm ảnh hưởng và thay đổi lịch sử. Họ là những
người đóng vai trò mở đường. Dù con đường ấy có thể thành công hay thất
bại, nhưng họ vẫn đại diện cho tầm vóc và ao ước của dân tộc, tên tuổi của họ
đã được ghi vào sử sách. Có người trở thành anh hùng của thời đại, có người
thất bại nhưng họ đã khẳng định vai trò của mình đối với lịch sử. Vì vậy,
những khát vọng của họ rất đáng được trân trọng. Trong một cuốn tiểu thuyết
lịch sử, kiểu nhân vật này chính là dụng công lớn nhất của nhà văn và họ góp
phần tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm. Đồng thời, cũng thể hiện
những tìm tòi của nhà văn và góp phần lí giải tính tất yếu để nhận thức sâu
hơn về quá trình vận động của lịch sử.
Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ vén
bức màn thâm nghiêm của một giai đoạn đầy bão táp lịch sử, phục dựng lịch
sử qua những chân dung con người mà quan trọng ông đã miêu tả và làm
sống dậy tinh thần - khát vọng của lịch sử. Tinh thần và khát vọng ấy được
thể hiện rõ nét trong hình tượng nhân vật trung tâm: Hồ Quý Ly. Trước khi
trở thành nhân vật tiểu thuyết, Hồ Quý Ly đã là một nhân vật lịch sử. Do
vậy, xây dựng chân dung Hồ Quý Ly - nhân vật nguyên mẫu của lịch sự hiện
vẫn còn tồn tại nhiều tranh cãi, Nguyễn Xuân Khánh đã làm một cuộc tự thử
thách chính mình. Hình tượng Hồ Quý Ly tiêu biểu cho kiểu nhân vật mang
khát vọng xây dựng, cải cách, không phải bằng quan niệm đã có của lịch
48
sử cho thấy năng lực sáng tạo dồi dào và bản lĩnh của nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh, một cây bút tiểu thuyết có nghề. Cuốn tiểu thuyết gồm 13 chương,
ngoài hai chương mở đầu và kết thúc, chương 9 và chương 10 (Minh Đạo I
và II) trần thuật trọn vẹn về Hồ Quý Ly, các chương còn lại tập trung làm
sáng tỏ thế giới nhân vật mà ở đó, Hồ Quý Ly vẫn là linh hồn và làm chủ
mọi mối quan hệ phức tạp nhất.
Trước khi làm vua triều Hồ (1400 - 1407), Hồ Quý Ly đã đặt
chân vào chính trường từ ba mươi năm trước đó, trong một bối cảnh lịch sử
sóng gió: nhà Trần tiễu trừ quân phiến loạn của ông vua phường chèo Dương
Nhật Lễ, lập Trần Nghệ Tông lên ngôi, rồi nhường ngôi cho cho Trần Ngung
để về vị thế Thái thượng hoàng. Ba mươi năm làm Thái sư dưới triều Trần,
Hồ Quý Ly vừa phải chèo chống con thuyền lịch sử vượt qua cơn bão táp,
vừa phải đối phó với những người thuộc tôn thất nhà Trần, quân Chiêm
Thành phía Nam, nhà Minh ở phương Bắc và lòng dân trăm họ. Đặt nhân vật
này vào tình thế lịch sử không có nhiều lựa chọn, Nguyễn Xuân Khánh đã
bộc lộc rất rõ khí chất của Hồ Quý Ly - một nhà chính trị có tài thao lược,
quyền biến và kiệt hiệt, một nhà cải cách táo bạo, dám nghĩ dám làm. Giữa
bối cảnh vận mệnh xã tắc đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, thù trong giặc
ngoài: ở phía Nam, quân Chiêm Thành tiến ra giao chiến với nhà Trần,
phía Bắc nhà Minh lăm le nhòm ngó, triều đình rối ren, diệt được quân
phiến loạn Dương Nhật Lễ thì đến đồng đảng Phạm Sư Ôn kéo xuống Thăng
Long trấn thủ… Hồ Quý Ly đã không một chút chần chừ, lập tức hành động,
và chấp nhận mọi tổn thất vì: “Đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một thay
đổi, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên, tàn nhẫn đấy, đau thương đấy,
nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt cảnh đầu rơi máu chảy” [22; tr.486].
Tham vọng thay đổi cục diện của đất nước, giữ yên giang sơn và lòng
dân của Hồ Quý Ly, xét một cách tích cực, đó là cuộc cách tân dân chủ vì lợi
49
ích bình đẳng của muôn dân. Ở phương diện này, Hồ Quý Ly thực sự là một
trí thức mẫn cảm thời thế. Ông ban hành một loạt các chính sách như hạn
điền: bắt người có ruộng tự cung khai, cắm biển đề tên chủ ruộng, ai thừa số
quy định thì sung công. Ông không muốn trong dân gian có kẻ lang thang
nên cho làm sổ hộ khẩu khắp nước, không sót một người dân nào để chú ý
quản lý từng người dân, cấp đất cho họ làm ruộng… Rồi chính sách hạn nô
cho phép nhà giàu chỉ giữ lại một số ít nô tì nhất định, còn lại trả về gia đình,
sư sãi hoàn tục… Về mục đích, những chính sách cải tổ của Hồ Quý Ly đều
nhằm tập trung sức người sức của để cứu nước khỏi cơn nguy khốn. Nhưng
sai lầm của Hồ Quý Ly là ngay khi ban hành những chính sách ấy và ý thức
rõ: “Phàm cái gì mới là người ta hay chống lại” [22; tr.491], ông đã vấp
phải sự phản đối kịch liệt từ giới quý tộc nhà Trần và một bộ phận đông đảo
tăng ni, phật tử của Phật giáo vốn là quốc giáo rất được lòng người trong
những triều đại trước.
Với cá tính mạnh mẽ, dám đương đầu với sóng gió, Hồ Quý Ly đã
không từ bỏ bất kì chính sách nào mà ông cho là đúng đắn, phù hợp. Ông
quyết liệt đến tàn bạo, độc tài đến nghiệt ngã trước tình thế lịch sử đặt ra nên
tất cả mọi người, từ tôn thất nhà Trần đến muôn dân đều căm thù ông như
một bạo chúa. Là con người hành động, Hồ Quý Ly đã làm tất cả mọi việc
để đạt được mục đích của mình. Ông sẵn sàng trừng phạt những kẻ đi ngược
với thuận ý của mình, bất kể đó là người Quý Ly từng tôn trọng hay là người
trong họ tộc ông hết lòng cưu mang, sủng ái. Hồ Quý Ly thẳng tay giết
Nguyễn Đa Phương, người em kết nghĩa, con trai của thầy dạy; rồi thượng
tướng Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, quan thái bảo Trần Nguyên Hàng,
những tôn thất nhà Trần nổi tiếng khẳng khái, từng hiển danh trong cuộc
kháng chiến chống quân Chiêm Thành, xây dựng Tây Đô, cũng chính Hồ
Quý Ly đã có lần dành cho Trần Khát Chân nhiều lời khen ngợi: chững chạc,
50
chín chắn, một vị đô tướng tinh thông binh pháp và vô cùng bình tĩnh… Ở
bậc đại trí thức như Hồ Quý Ly, tinh thần và khát vọng lịch sử không chỉ là
hành động, mà còn là khát khao của một con người mang nỗi mặc cảm ngoại
tộc nên luôn luôn củng cố niềm tin vào dòng dõi huyết thống của mình. Quý
Ly dặn con trai Nguyên Trừng những lời đau đáu: “Trong đạo hiếu, việc làm
rạng rỡ tổ tiên, làm cho tên tuổi của dòng họ vang danh, lưu truyền sử sách,
đó chính là đại hiếu. Lúc nào trong tâm khảm con cũng phải nhớ con dòng
dõi họ Hồ. Việc đổi sang họ Lê chỉ nhất thời; người quân tử cũng phải biết
chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được” [22; tr.54].
Là con người khôn ngoan, luôn tính toán kín kẽ mọi chuyện, Hồ
Quý Ly đã quyết định hôn nhân của con trai cả là Hồ Nguyên Trừng với
Quỳnh Hoa - con gái của quan thái bảo Trần Nguyên Hàng “nhất thiết ông
ta phải là thân gia với ta” để thu phục quan thái bảo, để ông ta thấu hiểu
mình. Ngay cả ý định lập thêm kinh đô mới, một nơi địa thế hiểm trở, có
thế dựa lưng vào núi cũng vì ông đang chứng kiến tận mắt sự thối ruỗng
của vương triều nhà Trần và tự đặt câu hỏi: “so với một triều đại mới được
dựng lên, được quét sạch lũ tham quan ô lại, được tổ chức cứng rắn, được
hết lời bàn ra tán vào, thì hỏi hai triều đại ấy bên nào tốt hơn, mạnh hơn?”
[22; tr.105]. Khát vọng của Hồ Quý Ly là khát vọng của một nhà chính trị có
tinh thần tự nhiệm, dám tranh biện với cái cũ, cái trì trệ và tranh biện với
chính mình để củng cố niềm tin vào con đường mình đang đi. Sự tỉnh táo
đến lạnh lùng, sự đa nghi đến mức tàn độc ở Thái sư đã khiến ông càng
ngày càng lún sâu vào canh bạc chính trị, và để thực hiện khát vọng đổi mới
đất nước, Hồ Quý Ly chấp nhận bước qua những rào cản mà với ông, nó
cũng đau đớn như chính lúc làm đau mình và làm đau người khác.
Trái ngược hoàn toàn với Hồ Quý Ly, ông vua già Nghệ Tôn (tên
húy là Trần Phủ, con thứ ba của vua Trần Minh Tôn, mẹ là Lê Thị, cô của
51
Quý Ly), người rất mực tin tưởng Quý Ly, cũng là một nhân vật tư tưởng nửa
vời, mang khát vọng của một con người muốn “giữ yên” bánh xe lịch sử. Khi
lịch sử đặt lên vai ông trọng trách gánh vác cơ nghiệp nhà Trần, Trần Phủ
đã khước từ vì “Từ lúc còn trẻ, ta vốn không có chí làm vua. Ý nguyện của ta
chỉ mong cho đất nước được thanh bình, hết loạn li…” [22; tr.114]. Được
muôn dân ủng hộ và các bậc tôn thất nhà Trần kính trọng, lúc ở trên ngai
vàng, vua Trần Nghệ Tôn rất chú trọng đến văn hiến, cư xử trọng thị với các
bậc danh nho, mong cầu người hiền tài… Nhưng dầu biết đất nước có nhiều
vấn đề phải thay đổi tận gốc rễ, ông vẫn không muốn làm vì sợ nhiễu sự.
Ông chỉ muốn giải quyết mọi việc theo nề nếp tổ tông, ông vua phải là
khuôn mẫu của sự nhân từ, thương dân… Triều đình trong ba năm ông cai
trị mọi việc đều suôn sẻ vì đã có những thủ túc thân tín bên cạnh. Nhưng khi
đối mặt với kẻ thù ngoại bang, quân Chiêm Thành lăm le tiến đánh, ông
nhường ngôi cho em là Trần Kính, xưng vua Duệ Tông, còn ông lên làm
Thái thượng hoàng. Nghệ Hoàng cũng không tránh khỏi những va chạm
khốc liệt của lịch sử. Cái chết của ông vua già cũng là minh chứng cho sự tàn
lụi của một vương triều yếu đuối, bạc nhược và đầy lo âu trong từng bước đi
lịch sử.
Nhà chép sử Sử Văn Hoa mặc dù là nhân vật hư cấu, nhưng lại là
nhân vật tư tưởng có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện các quan điểm
của lịch sử. Thái độ của người trí thức và sự lựa chọn trước những khúc
quanh của lịch sử được thể hiện rất rõ trong nhân vật này. Trong suốt thiên
tiểu thuyết, kể từ khi xuất hiện ở chương I, trải qua nhiều cơn tao loạn đến
lúc chết, Sử Văn Hoa vẫn bộc lộ tâm hồn ngay thẳng, trung thực ngay giữa
mối quan hệ phức tạp của các phe phái đối lập. Nhân vật gây ấn tượng với
người đọc bởi những suy tư sâu sắc về lịch sử: “Sử là hồn núi hồn sông. Sử
là tinh túy của đất nước. Dân tộc nào biết chép sử càng sớm càng có nhiều
52
cơ hội văn hiến. Dân tộc nào càng biết quý trọng đến sử, càng có nhiều cơ
hội trường tồn. Thịnh đấy! Suy đấy! Chẳng vì thịnh mà kiêu, chẳng vì suy mà
nản. Cứ bền lòng nhìn vào sử như tự ngắm mình trong một tấm gương.
Ngắm để vẽ, để tô, để sửa, ắt khuôn mặt càng dễ ưa, dễ coi. Hồn núi ở đó,
hồn sông cũng ở đó” [22; tr.42]. Là người chép sử, lại có nghề chiêm bốc, Sử
Văn Hoa biết mình luôn trong tình cảnh “đùa chơi với lửa” bởi lẽ: “Ta là kẻ
dùng cây bút, dùng ba tấc lưỡi để hé nhìn tương lai, để sống ở đời, để làm
bạn với vua chúa. Chỉ một chữ thôi, chỉ một câu nói thôi, ta có thể làm xổng
xích một bạo chúa, hoặc có khi ngăn chặn một cuộc chém giết”[22;
tr.43,44]. Nhà chép sử quyết tâm không che giấu sự thật bên trong giấc mộng
của ông vua già nên đã giải mã giấc mơ “hầu mõm đỏ, lầu gà trắng” vì
theo ông, người gần đến cái chết (vua Nghệ Tôn) cần phải biết sự thật. Ông
không đồng tình với cách làm tàn bạo, bất chấp tất cả của Hồ Quý Ly nhưng
cũng cương quyết không theo lời Trần Khát Chân viết một cuốn sách bôi
nhọ Thái sư. Sử Văn Hoa sẵn sàng đón nhận cái chết khi ở trong tù, ông
ngày đêm viết cuốn sách mơ ước của đời mình, trong đó có chương “Minh
Đạo luận” nhưng cũng rất quân tử khi nói ra sự thật trong “giấc mộng kẻ bôi
vôi” của Hồ Quý Ly… Nhân vật Sử Văn Hoa mang cốt cách trí thức, tinh
thần phản biện và sự mẫn cảm thời thế. Tính cách cứng cỏi, thông tuệ và thấu
cả những huyền vi của tạo hóa đã giúp ông không chịu khuất phục trước bạo
quyền. Không thể phủ nhận, việc xây dựng chân dung nhân vật Sử Văn Hoa
triền miên trong dòng suy nghĩ, tự vấn là Nguyễn Xuân Khánh đã lồng ghép
những suy tư của bản thân đối với việc minh định, nhìn nhận lịch sử: “Núi
sông cũng có âm dương; một đất nước cũng có âm dương; Phật giáo và Nho
giáo. Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh
thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thúy của núi sông. Đã bao đời nay,
nó vẫn ngân nga trong tiếng chuông chùa làng, lẩn khuất trong đầu ngọn tre,
53
dưới mái rạ, để xoa dịu, nâng đỡ hồn người dân quê trong những lúc nhiễu
nhương loạn lạc… Còn Nho giáo, phần dương của núi sông, đó là phép tắc,
lễ giáo, đó là cương cường xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son
vinh quang” [22; tr.514,515]. Những trải nghiệm ấy được đúc kết từ biết bao
suy tư, nghiền ngẫm của nhân vật trong suốt chiều dài thời gian lịch sử,
cũng là trải nghiệm của cá nhân nhà văn khi đi tìm hiểu và đào sâu vốn văn
hóa dân tộc - cội rễ của lịch sử.
Trong biến động của lịch sử, những bậc trí thức như Hồ Quý Ly, Sử
Văn Hoa, Đoàn Xuân Lôi, Hồ Nguyên Trừng… là những con người biểu
hiện rõ nét nhất khát vọng của họ trong các vấn đề quốc gia dân tộc. Nếu Hồ
Quý Ly, ngay từ lúc làm quan Thái sư đã muốn mình làm mưa tưới mát khắp
muôn nhà thì Hồ Nguyên Trừng lại mong ước trở thành “rường cột để chống
đỡ xã tắc”. Dường như, Hồ Nguyên Trừng cũng là nhân vật mà tác giả gửi
gắm nhiều ý tưởng, bên cạnh Hồ Quý Ly. Hoài bão làm rường cột của nước
nhà song Hồ Nguyên Trừng trong hành động và suy tư vẫn là một khối
mâu thuẫn lớn. Là con trai cả của Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng thấu hiểu
tham vọng và chí lớn của cha nhưng ông cũng nhìn thẳng vào cục diện
của tình thế lịch sử để biết rằng: “Nhà Trần hiện nay đã thối ruỗng, đáng
lật đổ. Và cha là người duy nhất hiện nay có thể lật đổ nhà Trần dễ dàng.
Nhưng ơn sâu của nhà Trần với muôn dân thì cha có lật đổ được không?”
[22; tr.104]. Ông dứt khoát không đồng tình với những việc làm mù quáng
đến tàn bạo của cha, nhưng cũng không dễ dàng thoái lui khỏi chiến trường
chính sự. Chính “lũy tre, nếp nhà, mặt đất” đã níu kéo Nguyên Trừng trong
giấc mơ bay như lời tiên đoán của Sử Văn Hoa, và lựa chọn cuối cùng của
nhân vật vẫn là “Lặng lẽ đi về phía có tiếng trống” với mơ ước thuở bình
sinh: “tha nhật tác đống tác lương dĩ phù xã tắc”. Còn thượng tướng Trần
Khát Chân đại diện cho những bậc tôn thất nhà Trần khư khư giữ những tư
54
tưởng bảo thủ một cách mù quáng. Là một trong số ít những tài năng còn lại
của triều Trần, thượng tướng nhận thức rõ phải thay đổi thì mới cứu vãn tình
thế nước nhà. Nhưng ông lại cực đoan duy trì ngôi báu, duy trì những giá
trị cũ kĩ của triều đại đã tới hồi kết thúc. Con người như Trần Khát Chân đi
ngược lại bánh xe của lịch sử cuối cùng đã phải trả giá đắt trong cuộc thảm
sát ở Đốn Sơn.
Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, hình ảnh các bậc trí thức mang
khát vọng lịch sử cũng là một điểm sáng của tác phẩm. Đặt các nhân vật
trong bối cảnh giao tranh văn hóa khốc liệt giữa phương Đông và phương
Tây của buổi đầu thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Xuân Khánh đã khắc
họa một số chân dung con người mang trong mình lí tưởng và khát vọng
của nhân dân, của cả cộng đồng. Đó là thế hệ các nhà Nho như cụ Cử
Khiêm, cụ Vũ Huy Tân, những người trí thức kiên trung, đến lúc chết vẫn
quyết giữ gìn phẩm tiết. Vợ chồng cụ Cử Khiêm sẵn sàng giang tay cứu
vớt những thân phận khốn cùng (cha con trưởng Cam) dù bị quy kết là kẻ
che chắn cho bọn tà giáo, song cũng chính con người ấy trong cuộc dấy
binh khởi nghĩa chống Pháp, đã tự tay rạch bụng mình trong bữa rượu máu
của những kẻ hàng giặc. Hình ảnh cụ Vũ Huy Tân là thầy giáo dạy Nho học
cho các cụ trong làng như: cụ Đồ Tiết, cụ Tú Cao, ông Phủ Lễ… và truyền
lại cho thế hệ các trí thức trẻ Vũ Xuân Huy nhiệt huyết Cách mạng, vận
động nhân dân lập “Tổ tương tế”, dạy chữ Quốc ngữ… là mẫu hình tiêu biểu
cho lớp người trí thức mới trong buổi giao thời, mang khát vọng thức tỉnh
quần chúng, giành quyền tự chủ dân tộc.
Trong Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa xuất hiện hình ảnh
những trí thức người Pháp ở thuộc địa Đông Dương. Họ gánh trách nhiệm
với Tổ quốc là đi chinh phục xứ sở An Nam, nhưng không phải ai cũng tự
hào ở vị thế kẻ xâm chiếm. Ở họ toát lên cái nhìn trân trọng và yêu mến bản
55
sắc văn hóa của dân tộc da vàng. Họ mong muốn hiểu biết, đồng cảm và từ
đó chia sẻ lòng ái hữu. Philippe Messmer là người Pháp, xuất thân nông dân
ngoan đạo. Sự khôn ngoan và thực tế của Philippe khi đến làm chủ đồn
điền xứ sở này đã giúp ông hiểu rằng: “Không có sự cai trị nào vững bền
hơn sự cai trị thông qua văn hóa tôn giáo” [23; tr.316]. Cha Colombert là
người cả đời chỉ chăm lo việc đạo, ông nhìn nhận người An Nam là những
con người hiền hòa, chăm chỉ, thông minh và cam chịu nhất trên Trái Đất
nên nguyện gắn bó với xứ sở tươi đẹp này. Đại úy Thalan trong Đội gạo lên
chùa là một nhà quân sự có học và có nguyên tắc. Chứng kiến những người
lính Pháp xúc phạm tới người đàn bà An Nam (cô Nguyệt), ông khẳng định:
“Chúng ta là những chiến binh của nước Pháp văn minh và vinh quang.
Chúng ta đem ánh sáng đến cho xứ sở này. Vậy, đối với người dân, chúng
ta phải là bạn” [24; tr.37]. Cũng giống như Philippe Messmer, đại úy Thalan
thấu triệt và tôn trọng văn hóa bản địa mà cội rễ là văn hóa làng xã. Ông
không cho phép Tây lùn Bernard có những nhận xét kì thị và ác ý về nhà
chùa, cho họ là lũ dân mê tín, vì ông hiểu: “con người có đức tin tôn
giáo là những người lương thiện, đáng quý. Người Pháp muốn đứng vững
trên mảnh đất này, thì phải biết trân trọng ngôi chùa” [24; tr.37]. Những
nhận định và phát biểu của đại úy Thalan về chiến tranh, về tôn giáo, là tư
tưởng của một bậc trí thức được thụ hưởng nền giáo dục văn minh, rất
đáng được xem trọng: “Chiến tranh là tàn bạo, nhưng một dân tộc văn minh
làm chiến tranh cũng phải tiến hành một cách văn minh” [24; tr.219]. Phải
chăng sự trân trọng tôn giáo bản địa - đạo Phật ở một người có cha mẹ đi
theo công giáo và rất hiểu đạo như đại úy Thalan có thể xuất phát từ chính
căn cốt của đạo Thiên chúa, đó là lòng thương xót con người?
Có thể nói, những nhân vật trí thức mang tư tưởng thời đại, mang khát
vọng lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh được miêu tả rất đa
56
dạng, phong phú. Song dù ở bước ngoặt nào của lịch sử, dù đứng ở phía bên
nào của cuộc chiến, họ vẫn có những mối đồng cảm chung, đó là sự đồng
cảm vượt lên sự khác biệt, ước mong xã tắc vững bền, ước mong đổi mới,
đem lợi ích cho cả cộng đồng.
2.3.2. Nhân vật văn hóa
Nhân vật n g ư ờ i tu hành là một thế giới rất sống động, đa dạng
xuất hiện trong cả ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. Xuyên suốt
các tác phẩm là cảm hứng luận giải, trên hết là sự luận giải về các vấn
đề: sức mạnh cá nhân trong dòng chảy lịch sử, sức mạnh của tính cộng
đồng trong biến thiên xã hội, sức mạnh của tôn giáo bản địa trong bối cảnh
giao lưu, tiếp xúc văn hóa Đông - Tây. Thông qua thế giới nhân vật, Nguyễn
Xuân Khánh thể hiện rất rõ những tư tưởng chính yếu trong cơ tầng văn hóa
- chính trị - lịch sử Việt Nam. Đó là Nho giáo trong Hồ Quý Ly, đạo Mẫu
trong Mẫu Thượng Ngàn và đạo Phật trong Đội gạo lên chùa.
Đội gạo lên chùa là tiểu thuyết mang cảm thức Phật giáo. Những
triết lí căn cốt của đạo Phật được nhà văn đề cập rõ nét qua số phận các nhân
vật. Trong suy tư của nhà văn, ngay từ thời điểm ra mắt tiểu thuyết Hồ
Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã rất quan tâm đến tư tưởng Phật giáo (tất
nhiên trong bối cảnh xã hội lịch sử triều Trần với những va chạm khốc liệt
với Nho giáo). Nhà văn đề cao và xem Phật giáo là bộ phận tư tưởng căn bản
nhất, nắm giữ cội nguồn và duy trì nguồn mạch của nó trong suốt chiều dài
xây dựng, phát triển đất nước. Triết lí Phật giáo trong diễn ngôn của
Nguyễn Xuân Khánh ở tác phẩm Đội gạo lên chùa không quá cao siêu,
xa lạ mà chủ tâm đi sâu vào đời sống thường nhật, bình dị hàng ngày. Sư
cụ Vô Úy trụ trì chùa Sọ, là người nhìn xa trông rộng, thấu hiểu căn tính con
người và sự biến đổi của thời thế. Vì lẽ đó, ông không coi Phật giáo là một
hệ thống những quan niệm cứng nhắc, mô phạm và bất biến mà chủ trương
57
coi Phật giáo là một lối sống tùy duyên, tùy người, tùy hoàn cảnh như lời
truyền dạy của đức vua Trần Nhân Tông, sư tổ phái Thiền Tông: “Cư trần
lạc đạo thả tùy duyên”. Trải quan muôn vàn cay đắng của cõi trần, “nơi
cửa Phật cũng không tránh khỏi bão táp mưa sa”, nhưng ở sư cụ Vô Úy là
một thái độ sống không khuất phục, không sợ hãi, như chính pháp hiệu
của ông. Ngay lúc bị giam cầm trong tù ngục, sư cụ Vô Úy đã dặn dò chú
tiểu An, cũng là tự dặn lòng: “Sống ở cõi nhân gian, tức là sống giữa những
đau khổ. Không sợ hãi mới tìm được Niết Bàn. Niết Bàn chẳng ở đâu xa. Nó
ở ngay cõi trần gian này” [24, tr.204].
Tư tưởng nhập thế, coi Phật giáo là một lối sống của sư cụ Vô Úy đã
thẩm thấu đến tâm hồn non nớt của chú tiểu An. Không hiếm trong tác phẩm
là những trường đoạn tác giả để nhân vật thuyết giáo về tư tưởng nhập thế,
tùy duyên của đạo Phật. Nhưng rao giảng mà không khô khan, cứng nhắc vì
những điều sư cụ Vô Úy nói với chú tiểu, cũng là trải nghiệm từ chính gian
khổ cuộc đời ông đã đi qua. Với nguyên tắc Đạo là Đời, gắn bó hữu cơ với
cuộc đời, sư cụ cho rằng, người xuất gia tu hành không chỉ ở chùa mới tu
mà Phật tử phải tu mọi lúc, mọi nơi: “Gặp cảnh an bình cũng tu. Gặp cảnh
oan nghiệt cũng tu. Có thể nói, chính những lúc ấy mới là cơ hội để ta tìm
đến chân như… Khổ cực ở đời chỉ là chứng cứ, là sự nhắc nhở cho người tu
hành cái chân lí không thể chối cãi được của đức Thế Tôn rằng đã mang lấy
nghiệp vào thân, con người còn chịu khổ…” [24; tr.598]. Lời nói của sư cụ
Vô Úy trong những ngày cả hai thầy trò bị bắt đi cải tạo sau Cải cách ruộng
đất như mang một sức mạnh diệu kì, nó xoa dịu nỗi đau khổ và giúp chú tiểu
An có thêm sức chịu đựng vượt qua những ngày sóng gió.
Tư tưởng Phật giáo ở Đội gạo lên chùa có mặt trong từng lời nói, từng
hành động và suy tư của các nhân vật. Không chỉ nắm giữ vai trò của tôn
giáo, Phật giáo còn vươn lên trở thành một lối sống, có mặt trong tất cả mọi
58
người, đó là Phật tính: “Người nam sinh hoạt ở đình. Người nữ sinh hoạt ở
chùa. Vì vậy, tinh thần Phật giáo thấm vào xã hội thông qua người mẹ,
người vợ. Mà phụ nữ nào chẳng có gia đình và con cái. Người đàn bà ứng
xử trong gia đình xã hội và dạy con cái ít nhiều theo tinh thần Phật giáo. Vậy
nên mới nói, bất cứ người Việt nào cũng đều có chút Phật giáo trong người”
[24; tr.255]. Những bài học đầu tiên sư cụ truyền dạy cho chú tiểu An là bài
học thực hành Phật giáo trong cuộc đời: “Người chân tu phải lúc nào cũng
tu. Đi cũng thiền. Ăn cũng thiền. Uống cũng thiền. Nói cũng thiền. Từng
giây từng phút đều thiền” [24; tr.25]. Phật giáo có trong mỗi cuộc đời,
ngân vọng qua tiếng gõ mõ đánh thức sự tốt lành, qua tiếng chuông chùa
vang xa giữa làng xóm, qua sự cảm hóa thuần thục cả con vật hung tợn, là
phép niệm chú để Đức Phật dẫn dắt con người qua những khổ ải cõi trần
ai… Suy tư của chú tiểu An về kiếp người ở phần cuối câu chuyện, cũng là
kết quả những chiêm nghiệm về lẽ đời mà tư tưởng biện chứng của Phật giáo
thẩm thấu trong anh: “Kiếp người chẳng qua như những con đom đóm. Vầng
trăng kia là ánh sáng của Phật, tỏa chiếu khắp nhân gian. Kiếp nhân sinh là
con đom đóm. Chẳng ai thắp mà đom đóm vẫn sáng. Nghĩa là con người vốn
có ánh sáng trong mình. Trong đêm đen, con đom đóm cố hết sức để tự phát
sáng. Ánh sáng ấy nhỏ nhoi lắm, yếu ớt lắm. Nhưng dù sao cũng là ánh
sáng” [24; tr.866].
Nhân vật sư thúc Vô Trần cũng là con người mang trong mình nhiều
Phật tính. Là con nhà giàu sống giữa phố thị ồn ào, cậu bé Trần đã cảm mến
ngay khung cảnh thanh bình của ngôi chùa Ổi và tự nguyện trốn nhà, xuất gia
đi tu, ngày đêm miệt mài kinh kệ, thông tuệ chữ Hán. Nhưng mười tám năm
sau, trong cuộc gặp gỡ định mệnh với cô Nấm ở vườn cò, sư Vô Trần đã từ
bỏ cuộc đời tu hành để hoàn tục, lập gia đình với cô Nấm và trở thành Chính
ủy, phụng sự Cách mạng. Nhà sư Cách mạng kì lạ ấy đã sống một cuộc đời
59
tận hiến đến cùng, quyết tâm đi tu, quyết tâm hoàn tục, tưởng như mâu thuẫn
vì sư là con người từ bi, còn nhà Cách mạng cần sự lạnh lùng sắt đá, nhưng
sau tất cả đó vẫn là một con người có tấm lòng vì đạo, “tùy duyên”, tùy thời.
Trong cách diễn giải của Nguyễn Xuân Khánh, ông không đồng nhất tất cả
những quan điểm Phật giáo. Là tôn giáo đồng hành cùng con người suốt
chiều dài lịch sử, ở mỗi biến cố, mỗi thời đoạn, Phật giáo lại có những biến
đổi và cả hạn chế của nó. Không phủ nhận Phật giáo có ước vọng cao
đẹp, hướng con người đến tính Thiện, nhưng Nguyễn Xuân Khánh cũng
thẳng thắn nhìn ra những điểm phi thực tế của Phật giáo trong cuộc đời.
Việc sư cụ Vô Úy thuần phục chú hổ Khoan Hòa, đặt Pháp danh cho nó là
một nghĩa cử và hành động đẹp. Nhưng kết cục bi đát của con hổ lại là
minh chứng cho sự bất lực trong triết lí từ bi của đạo Phật. Hay những băn
khoăn của sư cụ Vô Úy trước trường hợp nhà sư Cách Mạng - người em út
Vô Trần khi đứng giữa Đạo và Đời: “Hay là trong thời mạt pháp, con người
chỉ như những chiếc lá để gió lốc cuốn đi. Hay là còn chưa đủ nhân duyên
cho con người trụ lại, và có quá nhiều nhân duyên kéo con người trôi lăn
trong trần thế?...” [24; tr.167]. Là đệ tử thuần thành, hiểu rõ những cấm kị
của Phật giáo đối với kẻ tu hành nhưng chú tiểu An vẫn nhiều khi không kìm
nén được cảm giác yêu đương nam nữ với Huệ: “Phật giáo có một sức hút
tinh thần ghê gớm. Song đến lúc này tôi mới biết người đàn bà cũng có một
sức hút ghê gớm chẳng kém” [24; tr.799]. Trong xã hội loạn lạc, Phật giáo
không đủ sức lan tỏa niềm tin tuyệt đối với tất cả mọi người, như lời của ông
Đoàn ủy đã tâm sự rất thật với sư cụ trong những ngày ở trại cải tạo:
“Tôi sợ rằng con đường của Phật tuy vĩ đại nhưng ảo tưởng. Và nếu đi quá
mức đến một giới hạn nào đó sẽ là thứ thuốc ru ngủ cho những con người
tuyệt vọng” [24; tr.596]. Ngay trong thái độ giác ngộ của một số nhà sư
giữa thời tao loạn, Nguyễn Xuân Khánh cũng nhìn thấy hình ảnh không
60
mấy tốt đẹp: “Rồi sau đêm chạy đàn, mấy ông sư còn kêu ca, mè nheo các bà
dì Bernard về chuyện tiền nong... Những nhà sư quá ham tiền đó đã biến
sự khó chịu chuyển thành ác cảm” [24; tr.400].
Trước Đội gạo lên chùa, trong tác phẩm Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân
Khánh cũng dành rất nhiều cảm tình cho đạo Phật, khẳng định vai trò âm nhu
trong cơ cấu tinh thần - tư tưởng và văn hóa Việt: “Phật giáo là phần âm của
hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và
thâm thúy của núi sông. Đã bao đời nay, nó vẫn ngân nga trong tiếng
chuông chùa làng, trên đầu ngọn tre, dưới mái rạ… đem lại cho người dân
ta sức chịu dựng dẻo dai để chờ đến buổi bình minh sẽ tới” [22; tr.514].
Mượn lời Thái sư Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh cũng bày tỏ cái nhìn phê
phán trong lịch sử Phật giáo có những giai đoạn ba chục vạn người đi tu,
“trốn việc quan đi ở chùa”, lánh đời, ăn bám, dựa dẫm vào bổng lộc dư thừa
của nhà chùa và tư tưởng yếm thế làm đất nước suy yếu. Câu hỏi Quý Ly
đặt ra, cũng là trăn trở sâu sắc của nhà văn về tình cảnh này: “Ai ai cũng
chỉ lo xuất thế gian đi tìm cực lạc. Dòng khí âm ào ạt chảy… Dòng từ bi
miên trường sẽ làm lòng dân mềm yếu hết sức đối kháng. Kẻ ngoại bang lăm
le dòm ngó, ta biết lấy gì chống đỡ non sông?” [22; tr.126, 127]. Cụ lang
Phạm khi chuyện trò với cháu ngoại là Hồ Nguyên Trừng đã căn dặn: “Con
đừng nên chỉ học Phật. Hãy đọc cả trăm nhà, con có duyên với nhà nào,
lòng con sẽ dừng ở đó, không nên cưỡng lại lòng mình” [22; tr.31]. Cũng vì
triết lý “tùy duyên”, “tùy thời” ấy mà trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn
Xuân Khánh xây dựng chân dung nhân vật sư cụ Vô Trụ và nhà sư nổi loạn
Phạm Sư Ôn như một minh chứng đầy thuyết phục. Là một đứa con hoang,
được sư cụ Vô Trụ cưu mang, đùm bọc nhưng ở Phạm Sư Ôn, mọi giáo lý từ
bi của nhà Phật và cả biện pháp ngoại giáo là võ thuật cũng không thuần hóa
được con ngựa bất kham ấy. Phạm Sư Ôn cùng đồng đảng nổi dậy với niềm
61
tin mơ hồ: “Chính quân của ta là đạo quân bồ tát… Quân sĩ không được
cướp bóc của dân. Chỉ được cướp của nhà giàu chia cho người nghèo…”
[22; tr.251]. Cuối cùng, thất bại thảm hại của Phạm Sư Ôn cũng là kết cục tất
yếu cho một khát vọng viển vông, mù quáng. Rõ ràng, Nguyễn Xuân Khánh
không ngợi ca một chiều hay cổ súy cho đạo Phật. Bằng cái tâm của con
người rất có cảm tình với Phật giáo, ông đã chứng minh Phật giáo là một
lối sống, lối sống ấy đi vào nhân dân, với tất cả những tốt đẹp, vị tha và cả
những hạn chế không phù hợp với quỹ đạo phát triển xã hội. Trên tất cả,
Nguyễn Xuân Khánh vẫn giữ một niềm tin: “Phật giáo trong đời sống xã hội
Việt Nam, tuy có lúc phát triển huy hoàng, có lúc lắng xuống, nhưng chưa
bao giờ đứt đoạn… Trong xã hội hiện đại, hiểu và sống cho được cái lối
sống Phật giáo đấy, đã là sự tốt đẹp rồi.”[39]
Trong diễn ngôn tiểu thuyết Hồ Quý Ly, ở một góc độ riêng, Nguyễn
Xuân Khánh cũng thể hiện cái nhìn phê phán và tranh biện với tư tưởng Nho
giáo. Nho giáo là hệ tư tưởng căn bản của giai cấp phong kiến trong suốt
chiều dài lịch sử trung đại. Tư tưởng Nho giáo có mặt trong quan niệm ứng
xử, phong tục tập quán và tính cách dân tộc suốt nhiều thế kỉ. Ở một cái nhìn
đối chiếu với Phật giáo, Nguyễn Xuân Khánh khái quát: “Còn Nho giáo, đó
là phần dương của núi sông; đó là phép tắc, lễ giáo, đó là cương thường
xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son và vinh quang” [22; tr.515].
Hồ Quý Ly, mặc dù xuất thân là bậc đại Nho, cũng phải lên tiếng phê
phán và hạ bệ những “thần tượng” của Nho giáo: “Ông phê phán Khổng
Tử đã đến yết kiến nàng Nam Tử - vợ vua Vệ Linh Công, một người đàn bà
tà dâm. Ông chê sự kém minh mẫn của ngài… Rồi thái sư lại phê phán cả
Chu, Trình, hai bậc đại nho thời Tống, hai người dựng nên lý học. Họ là
những con người viển vông, không nghĩ đến việc đời…” [22; tr.478]. Cố
nhiên, khi đặt vào nhân vật những lời phê phán này, Nguyễn Xuân
62
Khánh cũng bộc lộ gián tiếp cái nhìn biện chứng của mình trước sự lụi tàn
của Nho giáo trước thời cuộc. Khát vọng thay đổi của kẻ sĩ như Hồ Quý
Ly giúp ông dám nhìn vào và xét lại lịch sử, mặc dù nó có thể chạm tới
những đấng linh thiêng đã ăn sâu vào tiềm thức của Nho sĩ. Nhân vật cụ Tú
Cao, một bậc trí thức cao niên của làng Cổ Đình, trong buổi đất nước nhiễu
nhương cũng phải cay đắng thừa nhận: “Cánh nhà nho chúng ta hết thời rồi.
Bây giờ là thời của các ông làm cho Tây và các ông Chánh, ông Lý” [23;
tr.171].
Nguyễn Xuân Khánh cũng dành riêng một cuốn tiểu thuyết để nói về
giá trị văn hóa của đạo Mẫu, “tôn giáo” của người Việt cổ trong cuốn Mẫu
Thượng Ngàn. Những nhân vật phát biểu tư tưởng của đạo Mẫu, trong tác
phẩm này, hầu hết là nhân vật nữ, là những người đàn bà thôn quê vừa hồn
hậu, vừa tràn đầy sức sống: “Họ sẵn sàng đến để nhập cuộc, để mê đắm, sẵn
sàng rũ bỏ tục lụy thường nhật để dấn thân vào những cõi trời siêu nghiệm
xa lạ, ở đó ta trở về với ta, tức là ta trở về với mẹ. Ở đó là sự yên bình, niềm
an ủi, cái diệu kì thánh thiện”[23; tr.705]. Trong Đội gạo lên chùa cũng có
đoạn nhận định: “Đâu có giống như đạo Mẫu, đạo ngồi đồng, đạo dân gian
chẳng bao giờ có chút quyền uy. Đó là đạo của những người đàn bà thôn
quê khổ cực chẳng biết than thân cùng ai, nên đến đó để làm ông hoàng bà
chúa trong chốc lát, cốt giải tỏa những sầu khổ, uất ức, tủi nhục. Đã là đạo
của những người đàn bà thì ai muốn làm gì chả được, muốn đối xử tùy tiện
thế nào chả được”[24; tr.559]. Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, đặt
mình trong vị thế phát ngôn của nhân dân làng Cổ Đình, nhất là qua hai nhân
vật nữ: bà Tổ cô và cô Mùi, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã cung cấp cho
người đọc nhiều tri thức thú vị về đạo Mẫu, sưởi ấm tâm hồn con người
trong những cơn tao loạn không còn nơi nương tựa, bấu víu. “Đạo Mẫu là
đạo dân gian… Cái tôn giáo dân gian ấy đã an ủi bao tâm hồn cay cực của
63
nông dân. Nhưng nó vẫn bị ghẻ lạnh hắt hủi. Thân phận của đạo Mẫu
chẳng khác gì số kiếp của những người đàn bà của quê hương chúng ta…
Người dân quê dù giàu nghèo đều tri ân Mẫu. Mẫu là hồn của đất. Mẫu là
cơm gạo ta ăn, cho hoa trái bốn mùa tươi tốt. Những bài hát văn đều ca tụng
công ơn… Những vị nhà nho thường bài trừ đạo Mẫu, cho là cúng bái quàng
xiên. Song chẳng hiểu sao, cụ đồ Tiết lại không bao giờ báng bổ Mẫu. Ông
nói với Nhụ: “Mẫu cho ta tất cả” [23 tr.421].
Nhân vật bà Tổ cô cũng là người truyền niềm tin vào đạo Mẫu cho
nhân dân Cổ Đình. Bằng tấm lòng cao cả thờ phụng Mẫu, bà dốc hết bao
điều sở đắc trong lòng để căn dặn cô Mùi: “Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo
Giê su cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện. Người theo đạo
Gia tô chăm chú sửa mình sao cho ngày càng gần Chúa hơn. Còn chúng ta
thì làm sao cho mình hòa vào với Mẫu” [23; tr.696]. Trong nỗi đau khổ vì bị
chiếm đoạt thể xác và mang trong mình đứa con của sự cưỡng bức, cô bé
Nhụ trở về với bà Mùi, đó cũng là lúc nhân vật tìm thấy niềm an ủi, vững
vàng hơn trong sự che chở của Mẫu: “Mẫu đã thương xót đưa dắt con trở
về đây, tức là Người sẽ che chở cho con. Sống với Mẫu, con sẽ thấy thảnh
thơi, vơi nhẹ…” [23; tr.798]. Có thể thấy, nhân vật văn hóa trong tiểu
thuyết Mẫu Thượng Ngàn là nhân vật mang tư tưởng luận đề triết học của
Nguyễn Xuân Khánh về tầng sâu lớp văn hóa dân tộc - văn hóa bản địa dân
gian: “Người đàn bà là Mẫu, là Mẹ - Người đàn bà là Đất xứ sở. Người đàn
bà là văn hiến” [23; tr.806].
Ở bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, hình ảnh những người
phụ nữ Việt mộc mạc, tinh khiết và tràn đầy sức sống hiện lên như một điểm
sáng và làm nên cái riêng của tác phẩm (với 50 nhân vật nữ trong cả ba tác
phẩm song hành cùng biết bao biến cố của xã hội Việt Nam trong những
khúc quanh co của lịch sử). Số phận người đàn bà Việt cũng thăng trầm,
64
chìm nổi, cũng chấp nhận những đau đớn, bi kịch nhưng không vì thế mà họ
mất đi vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp toát lên từ thiên tính Mẫu. Phát hiện độc đáo
của Nguyễn Xuân Khánh khi xây dựng các nhân vật nữ là ở chỗ, ông đã
khai thác yếu tố cội nguồn trong văn hóa Việt: Mẫu tính. Mẫu tính không
đơn thuần là những diễn giải về tín ngưỡng thờ Mẫu, mà nó được cụ thể hóa
và bồi đắp trong cái nhìn ở từng nhân vật người đàn bà. Chân dung của họ
toát lên sức sống, sức mạnh tiềm tàng, khả năng cảm hóa, thu phục và cũng
ẩn chứa mầm mống của sự hủy diệt. Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn,
Nguyễn Xuân Khánh xây dựng 14 nhân vật nữ, từ đứa bé Nhị (con gái của
Nhụ) đến bà Tổ cô ngót nghét 90 tuổi. Sức hấp dẫn của các nhân vật này là
sức sống của những người đàn bà Việt, đi ra từ làng quê và mang vẻ đẹp đậm
đặc chất thôn quê, một vẻ đẹp đằm thắm, mặn mà, tinh khiết. Những cái tên
như bà ba Váy, thím Pháo, cô Ngơ, cô Mùi, cái Nhụ… là cách gọi quê kiểng,
dân dã, nó gần gũi trong tâm thức của bất kì ai và khiến cho nhân vật, ngay
từ đầu đã mang một vẻ đẹp đầy thiên tính nữ.
Nhân vật thím Pháo rất tiêu biểu cho người đàn bà ở nông thôn. Bà
chẳng đẹp, nhưng có duyên. Cái duyên toát lên từ khuôn mặt tươi tắn, sinh
động, ở đôi mắt đen lay láy, hiền hậu và thông minh, ẩn chứa một tấm
lòng đôn hậu. Dù nghèo khổ cơ cực, nhưng cái váy lúc nào cũng đen nhánh,
cái áo vá thì xinh hơn cả tấm áo lành… Làm cái nghề ai cũng cho là hèn
hạ, nghề mõ làng, nhưng vẻ đẹp thắt đáy lưng ong, xắn váy quai cồng và
một tâm hồn mộc mạc, lành hiền của thím Pháo là một nét đẹp truyền thống
của người đàn bà Việt cổ. Cô Mùi không có vóc dáng mảnh mai, nhỏ nhắn
như con gái Việt, nhưng lại được trời phú cho đường nét xinh đẹp trên khuôn
mặt tròn vành vạnh: mày ngài đen nhánh, đôi mắt đen trắng phân minh.
Mười tám tuổi đã góa chồng, nhưng ở cô vẫn rực rỡ nét xuân thì tươi rói,
đến lúc ngoài bốn mươi tuổi, đôi vú vẫn nở nang, eo thon nhỏ, mông nẩy đều
65
chắc nịch. Chính vẻ đẹp mặn mà đằm thắm của cô Mùi đã khiến quan Tây
Philippe Messmer say mê, si cuồng. Bà Tổ cô trong tác phẩm lại là nhân vật
được bao bọc trong ánh sáng tinh khiết của huyền thoại. Vẻ đẹp của bà Tổ
cô là nét đẹp đài các mà không xa lạ, bởi nó hắt lên từ chính cuộc sống ở
chốn thôn quê bình dị hàng ngày: khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú,
ngón tay dài búp măng, gót chân đỏ như son, lấp ló dưới chiếc váy sồi đen
nhánh…Vẻ đẹp tao nhã của người đàn bà Việt đã khiến Philippe Messmer
phải ngạc nhiên đến sững sờ. Từ chiếc váy đen và cái áo lụa nâu, từ chiếc
yếm lụa bạch thắt lưng hoa lý - những điểm trang rất bản địa, cả đôi dép bằng
gỗ sơn mài cong cong kì lạ nữa… tất cả khiến Philippe phải thừa nhận:
“Trông bà ta như một bức tranh tố nữ tô màu, một thứ màu sắc đạm bạc, nền
nã nhưng vẫn nổi bật” [23; tr.108]. Những cô gái trẻ trung, mang sức sống
thanh tân như cô Nhụ, cô Hoa, cô Thắm… cũng là những bức chân dung
đẹp. Đôi mắt trong veo, đầy tin cậy, đôi má ửng hồng, cổ tay tròn lẳn của
Nhụ, vẻ tươi tắn lạ thường của cô Hoa, cái hay lam hay làm thương cha
thương mẹ của cô Thắm… đó là những vẻ đẹp thuần Việt hồn hậu, nền nã
gợi cho người đọc nhiều cảm tình, yêu mến.
Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cũng được tác giả
miêu tả trong bối cảnh làng quê vùng trung du Bắc Bộ, nhưng đa dạng và
phong phú hơn. Đó có thể là thân phận của những người nông dân quê
mùa như bà vãi Thầm, chị Thì, chị Khoai, cô Xim… Đó có thể là những bà
vợ lẽ của cụ Chánh, cụ Bá như bà Thêu, bà Bệu với các cô con gái: cô Rêu,
cái Hiếu… Đó có thể là người làm Cách mạng như bà Nấm, cô Nguyệt, cái
Huệ hay kiểu người phụ nữ Việt lấy Tây như bà Thu - mẹ của Tây lùn
Bernard. Một tập hợp đông đảo 16 nhân vật như thế, nhà văn vẫn giúp
người đọc hình dung rất kĩ về họ, những cô gái, những người mẹ, người
phụ nữ Việt mang nét đẹp đằm thắm, mặn mà của cội nguồn văn hóa dân
66
gian dân tộc.
Vẻ đẹp của Nguyệt là dáng vẻ quê mùa, lam lũ trong chiếc khăn mỏ
quạ với gương mặt thanh tú. Mặc dù khoác lên mình bộ quần áo nâu sồng
rách rưới, chiếc khăn vuông đen che kín chiếc cổ trắng ngà và mái tóc đen
mượt, nhưng ở Nguyệt vẫn ánh lên nét đẹp thuần khiết, dịu dàng. Cô Nấm,
cô gái được sư Vô Trần cưu mang trong vườn cò, lại mang một vẻ đẹp mát
mẻ, trong sáng. Giữa ánh trăng đêm, sư Vô Trần cảm nhận khuôn mặt trẻ
trung, tròn vành vạnh, tỏa ra một thứ hương thơm như bông lúa ngậm sữa…
Vẻ đẹp và thứ hương thơm dịu ngọt đó đã quyến rũ nhà sư, để anh quyết
định hoàn tục và thành thân với cô. Trong những tai ương của số phận, hình
như vẻ đẹp người phụ nữ vẫn không mất đi, chỉ có thể bị chìm khuất trong
đói khổ, rệu rã. Chị Khoai, người vợ bất hạnh của sư bác Khoan Độ là một
điển hình như thế. Được sư Độ cứu sống trong đêm, người đàn bà ăn mày có
khuôn mặt vêu vao, hố mắt trũng sâu, đôi môi trắng bợt đã làm thức dậy
trong con người thô tháp, cục mịch ấy một sự an bình, dịu dàng, một khát
khao đã ngủ lịm trong anh từ rất lâu, nay mới tỉnh thức. Nữ tính Việt hiền
hòa, dịu dàng mà đằm thắm trong các nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh đều
được ông cấp cho một sức mạnh tiềm ẩn, đó là sức mạnh cảm hóa và thu
phục con người.
Nếu hiểu Mẫu tính trong người đàn bà Việt là ngọn nguồn và dưỡng
chất của sự sống, là phần âm khí chảy dạt dào trong huyết mạch con người
và dân tộc Việt thì điều này hoàn toàn đúng trong các nhân vật nữ ở tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Phải thừa nhận rằng, những trang viết về vẻ đẹp
Mẫu tính đầy nhục cảm, say mê và toát lên bản năng mạnh mẽ của người đàn
bà là những trang văn hấp dẫn nhất trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, đặc
biệt là Mẫu Thượng Ngàn. Những cuộc giao hoan của người đàn bà Việt
trong miêu tả của Nguyễn Xuân Khánh, là những cảnh đẹp đầy nhục cảm,
67
lôi cuốn. Nó có sức mạnh vô biên, khơi dậy phần dương khí trong mỗi
người đàn ông. Cái đẹp phồn thực của bà ba Váy được biểu hiện lồ lộ ở sắc
đẹp bề ngoài. Đó là vẻ mỡ màng của da thịt, ở con mắt lóng lánh, ở đôi vú
căng tràn nảy nở. Vẻ đẹp đầy sức sống ấy bà dâng hiến khi tuổi còn trăng
tròn cho anh Phác (tức Trịnh Huyền) trong đêm trăng của mùa “trải ổ”, có
ánh trăng khuya và sương đêm tắm mát để đôi trẻ quấn quýt, hoan lạc bên
nhau. Trở thành bà ba Cỏn nhưng đĩ Váy vẫn giữ nguyên nét quê mùa, chỉ
thích gọi là Váy, cũng chỉ thích bận lên người chiếc váy nâu thơ thới, mát
mẻ. Ở con người bà, toát lên cái hừng hực căng tràn sự sống, sinh liền năm
đứa con nhưng bà không mất đi cái hấp dẫn ma lực của bản năng. Chẳng thế
mà, chính bầu sữa ngọt ngào, căng tròn của bà trong những ngày lý Cỏn sắp
chết đã cứu sống người đàn ông ấy. Sức mạnh của Mẫu tính trong hành động
có phần hoang sơ, nguyên thủy ở người đàn bà đã trở thành liều thuốc đưa
người chồng trở về từ cõi chết. Tình thương, sức mạnh của Mẫu, của thiên
tính nữ vĩnh hằng đã cứu giúp và phục sinh cho con người. Do đó, ông
trưởng Cam - người chồng thứ hai theo công giáo đã được bàn tay dịu
dàng và bầu vú của bà Tổ cô chữa lành bạo bệnh. Dường như, vẻ đẹp
nhục cảm đều tồn tại ở tất cả người đàn bà, chỉ cần đánh thức và khơi dậy
, nó sẽ triển nở, sinh sôi, thậm chí còn trở thành mầm mống của sự hủy diệt.
Cô Mùi trải qua ba đời chồng, mà người nào cũng chết vì “chân khí suy
kiệt”, vì mắc phải chứng “thượng mã phong”. Ở người đàn bà ấy, sinh lực
tràn trề khiến người đàn ông lúc nào cũng thèm khát nhưng đâu biết
rằng: “khi người đàn bà thức dậy, thì tiềm lực của cô ta là vô cùng mãnh
liệt, và cường độ càng lúc càng tăng cho tới vô biên. Ôi! Một sức mạnh,
một tinh lực ngút ngàn” [23, tr.248]. Đến tận lúc chết, anh Tẻo vẫn muốn
được tận hưởng vẻ đẹp mĩ miều của cô Mùi, như đứa con trở về bên dòng
sữa Mẹ và hạnh phúc đọng lại trong giọt nước mắt cuối cùng.
68
Vẻ đẹp Mẫu tính trong người đàn bà Việt còn có hấp lực kì lạ với
những người ngoại xứ. Cái đẹp mê hồn toát lên từ đôi mắt, làn da, thân
hình chắc lẳn hài hòa, đầy sức bật, hứa hẹn những thú vui không biết mệt
mỏi. Đó cũng là lí do Philippe Messmer phải kì công để chiếm đoạt bằng
được cô Mùi khi gặp cô ở đồn điền. Những hình dung ban đầu của Philippe
Messmer về cô Mùi đã ám ảnh hắn suốt những ngày ở đồn điền: “Người
đàn bà mặc chiếc váy đen, thân trên nửa trần, chỉ bịt phía trước ngực
bằng một miếng vải hình vuông màu hồng… lộ ra tấm lưng trần trắng lẳn
thật hứa hẹn… cái vuông vải màu hồng hé cho ta thấy cái bụng và phần đáy
của đôi vú…” [23; tr.357, 358]. Cuộc chiếm đoạt thứ nhất khiến Philippe
Messmer hả hê, sung sướng vì “cô ta dư thừa sinh lực, cô ta lắm chất đàn
bà”. Nhưng quãng thời gian sau này, khi cô Mùi chấp nhận lấy ông Tây
Philippe thì cô mới đích thực là một người đàn bà ào ạt sinh lực, phì nhiêu.
Cái bản năng giống cái thức dậy trong cô, cô như một con người chủ động
hoàn toàn, dâng hiến và điều khiển, để Philippe rên lên trong vui sướng:
“Nàng bắt mất hồn ta rồi. Ta tan biến đi trong nàng rồi. Nàng đã dắt ta tới
miền lạc thú mà chưa bao giờ ta biết. Ta run rẩy, ta quỳ sụp trước nàng để
van xin phép lạ” [23; tr.383]. Ở một góc độ nào đó, cuộc chiếm đoạt thân xác
của kẻ chinh phục Philippe lại chứng minh cho sức mạnh thuần phục của
Mẫu tính, của bản năng người đàn bà, của phần âm khí trong xứ sở nhiệt đới
này.
Cái đẹp đầy nhục cảm của người phụ nữ trong trang viết Nguyễn Xuân
Khánh có khi biểu lộ trực tiếp, mạnh mẽ, khoáng đạt trong cuộc tình của cô
Nấm với sư Vô Trần, cô Khoai với sư Độ, cô Xim với anh Hạ, cô Ngơ với
anh Mường Rồ…; cũng có khi ẩn ngầm trong niềm e ấp của người con
gái như Nhụ, như Huệ, như Nguyệt. Cảm giác hạnh phúc chờ đợi đến ngày
hội của cô bé Nhụ với anh chàng Điều để trao cho anh những gì trinh
69
nguyên nhất hay cái ngượng ngùng của cô Nguyệt bên thầy giáo Hải trong
cái nắm tay, cái ôm thật chặt… là những biểu hiện đẹp đẽ của tính Nữ: dịu
dàng, đầy khát khao.
Nói đến vẻ đẹp tính Mẫu, không thể không kể đến sự hiện diện của
những nghi thức nhập đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với hình ảnh nhân
vật bà Tổ cô và cô đồng Mùi. Một năm hai lần, cô Mùi lên đền Mẫu, bắc ghế
hầu thánh, những khi ấy, cô như con người khác hẳn, khác với vẻ âu sầu, hờ
hững thường ngày mà tươi tắn, sinh động hẳn lên. Trong ánh đèn nến lung
linh, vàng son nhấp nhánh, khói hương mù mịt, cô Mùi trở nên lẫm liệt, đầy
uy quyền. Cảm giác linh thiêng, siêu thoát đã dẫn dụ con người hoàn toàn
trở nên tinh khiết. Sức mạnh của đạo Mẫu, thấm nhuần trong tâm hồn của
người phụ nữ, người mẹ và sức mạnh của niềm an ủi, chở che, như Đất Mẹ
linh thiêng.
Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, những nhân vật nữ xuất hiện thấp thoáng
đằng sau chân dung các nhà chính trị tư tưởng. Vẻ đẹp của họ hiện lên trong
bối cảnh không gian cung đình, quyền quý nên ít nhiều mất đi cái phồn thực,
dân dã đời sống hàng ngày. Mẫu tính trong chân dung nàng Quỳnh Hoa là
một vẻ đẹp mong manh với làn da trắng muốt, thon thả như một nhành hoa,
mớ tóc đen dài, dầy và mượt. Cái dịu dàng đã chuyển thành sức mạnh của
nỗi u sầu. Ngược lại với vẻ đẹp mang hình hài thiếu nắng trần gian, nhân vật
kì nữ Thanh Mai là hiện thân sống động của cuộc sống chốn dương gian. Vẻ
đẹp hoang dại của nàng như một thứ lan rừng “vốn sống trong thiên nhiên
bao la, vì vậy nó phải chống với gió táp mưa sa cùng với trăm ngàn
hương hoa khác, nó phải tranh sống, nó không thể chết yểu vì vậy nó
phải mạnh khỏe, ngút ngát, phải tràn trề sắc hương”. Thanh Mai là biểu
tượng cho tính nữ đầy nhục cảm và tràn trề sức sống, làm say đắm lòng
người, làm tình yêu trong con người Hồ Nguyên Trừng bùng lên khát khao
70
thăng hoa và hòa quyện bên nhau. Nét đẹp tưởng như bị vùi lấp chốn cung
đình nghiêm cẩn của cô cung nữ Ngọc Kiểm khi đứng trước hình hài héo
mòn của ông vua trẻ Thuận Tôn, lại tự nhiên sống dậy. Niềm thương xót
khiến người đàn bà mủi lòng, bản năng thương yêu khiến họ quên hết tất cả:
“Thị Kiểm nóng bỏng ôm chặt lấy tấm thân gày gò, non tơ của Thuận Tôn.
Còn Thuận Tôn thì đang bơi trên một dòng sông bao la, mà Thị Kiểm là
một mảnh ván đôn hậu, biết an ủi, biết xoa dịu lòng chàng. Hai tấm thân non
trẻ ấy đã bám vào nhau tìm về sự sống…” [22, tr.409]. Tình thương và sự
tận hiến ở người con gái này hay chính sức mạnh của Mẫu đã tái sinh
Thuận Tôn một lần nữa. Sức mạnh và quyền lực của Mẫu tính không có lí do
nào giải thích, nó ẩn tàng trong nội lực mỗi người đàn bà, như ngọn lửa chỉ đợi
bùng lên.
Trong sức sống phồn thực của người đàn bà, có vẻ đẹp nhục cảm,
đằm thắm nhưng cũng không ít những bi kịch khoác lên tâm hồn họ. Ở điểm
này, Nguyễn Xuân Khánh đã miêu tả và tái hiện đời sống của nhân vật nữ
qua nhiều biến cố, trong những mất mát và đau khổ. Song ông cũng khẳng
định rằng: Mẫu tính trong người phụ nữ, không chỉ là sự cam chịu, mà còn
là niềm tin vượt lên và chiến thắng số phận. Người đàn bà góa chồng từ thuở
đôi mươi, về già vẫn không một mụn con, lại mang tiếng là me Tây theo
quân Pháp như cô Mùi, đã vượt lên sự bất hạnh để tìm về chốn nương nhờ
nơi cửa Mẫu, nguyện thờ phụng Mẫu suốt đời, đem tài năng của mình trị
bệnh, cứu người. Bà Tổ cô Vũ Thị Ngát là người phụ nữ có tấm lòng đôn
hậu và nhân cách cứng cỏi, sau hai cuộc hôn nhân với người đàn ông bà hết
lòng yêu kính, trân trọng, cũng bỏ lại tất cả gia sản, đồng ruộng để lên núi
Mẫu, trở thành bà Tổ cô đức độ, linh thiêng.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cũng rất chú ý khi miêu tả bi kịch
của những người phụ nữ xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau. Cái bi
71
kịch “vòng tròn” từ đời thím Pháo giờ thấp thoáng trong tương lai của cô
Hoa, đứa con gái thông minh, lanh lẹ giữa thím Pháo và hộ Hiếu để rồi nhân
vật dứt khoát bước ra khỏi kiếp làm mõ của mẹ, quyết tâm ra đi, tìm mục
đích và cuộc sống cho mình. Đứa bé Nhị sinh ra trong cuộc cưỡng bức của
quan Tây mắt mèo Julien với cô Nhụ không chỉ là ẩn dụ về sự áp chế của
văn hóa phương Tây với xứ sở bản địa, mà sự trở về của Nhụ cùng đứa con
bé bỏng còn khẳng định sức mạnh đất Mẹ là ngọn nguồn nuôi dưỡng tâm
hồn con người, không kẻ thù nào có thể xâm hại. Nỗi bất hạnh của cô
Nguyệt khi sớm mồ côi cha mẹ, chứng kiến cái chết oanh liệt của người
chồng đầu tiên - anh giáo Hải, trải qua bao biến động của thời gian, cô
trở về làng Sọ, và lấy anh Hạ - một quái nhân của làng cũng là số phận của
rất nhiều người phụ nữ trong bối cảnh xã hội loạn lạc. Những thân phận như
cô Khoai, cô Rêu, cô Ngơ, cô Xim… là hình bóng sống động cho cuộc đời
đau khổ của con người. Đằng sau những tâm hồn mất mát, chịu cay đắng ấy,
là sức sống kiên cường, là nội lực vượt lên hoàn cảnh để tiếp tục tồn tại của
văn hóa Việt. Tư duy tự sự của nhà văn hướng đến luận giải cội nguồn sức
sống ấy.
72
CHƯƠNG 3
TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN
HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH - NHÌN TỪ PHƯƠNG
DIỆN NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
3.1. Điểm nhìn trần thuật
Trong văn học, điểm nhìn được hiểu là vị trí người trần thuật quan sát,
cảm thụ, miêu tả và đánh giá đối tượng. Người ta có thể nói đến điểm nhìn vật
lí (không gian, thời gian); điểm nhìn tâm lí (giới tính, lứa tuổi...); trường nhìn
(của tác giả hay nhân vật)... Trong tác phẩm, mỗi nhà văn có cách thiết tạo
điểm nhìn riêng nhưng việc tổ chức điểm nhìn trần thuật bao giờ cũng mang
tính sáng tạo cao độ. Muốn hiểu sâu sắc một tác phẩm văn xuôi, người đọc
không thể không chú ý đến điểm nhìn trần thuật.
Khảo sát tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng
tôi nhận thấy nhà văn rất sáng tạo trong xây dựng điểm nhìn mà nổi bật là sử
dụng linh hoạt điểm nhìn và dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong.
3.1.1. Sử dụng linh hoạt điểm nhìn
Trong tự sự về lịch sử, việc lựa chọn lối kể chuyện từ ngôi thứ ba với
điểm nhìn toàn tri là một thao tác hợp lí giúp nhà văn tái hiện và nhận thức
lịch sử một cách khách quan. Khảo sát ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa của
Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi nhận thấy: điểm nhìn toàn tri với ngôi
kể thứ ba giữ vai trò chủ đạo. Nhưng bên cạnh đó, nhà văn còn có ý thức sử
dụng linh hoạt điểm nhìn để tạo nên nhiều kênh quan sát và miêu tả nhân
vật. Cụ thể: tiểu thuyết Hồ Quý Ly có 13 chương, trong đó 8 chương bắt
đầu bằng ngôi kể thứ ba. Các chương còn lại người kể chuyện là Hồ Nguyên
Trừng, xưng “tôi” ngôi thứ nhất. Mẫu Thượng Ngàn có 15 chương, duy nhất
73
chương XI – Bà ba Váy kể chuyện là điểm nhìn bên trong, đặt vào ngôi thứ
nhất, bà ba Váy xưng "tôi". Còn lại 14 chương của tác phẩm được kể bằng
ngôi thứ ba, nhưng điểm nhìn liên tục đặt vào sự quan sát của các nhân vật
khác nhau. Đội gạo lên chùa gồm ba phần lớn: I - Trôi sông, II - Bão nổi can
qua, III - Về cõi nhân gian. Mỗi phần được cấu tạo bởi các chương nhỏ:
Phần I gồm 18 chương, trong đó 11 chương được kể bằng ngôi thứ ba; Phần
II gồm 5 chương, trong đó 3 chương được kể bằng ngôi thứ ba; Phần III gồm
9 chương, trong đó 4 chương được kể bằng ngôi thứ ba.
Ba cuốn tiểu thuyết lịch sử, văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh có một
thế giới nhân vật đông đảo, phong phú, thuộc đủ giai tầng xã hội, ở những
thời đại lịch sử khác nhau nên việc tác giả sử dụng điểm nhìn toàn tri với
ngôi kể thứ ba là một lựa chọn đích đáng. Bởi lẽ, toàn bộ sự kiện lịch sử
trong suốt một thế kỉ với nhiều biến động cuối thời Trần, đầu triều Hồ hay
những bước ngoặt lớn lao của lịch sử - xã hội Việt Nam trong cuộc xung đột,
giao lưu văn hóa Đông - Tây những năm đầu thế kỉ XX và cuộc chiến tranh
vệ quốc chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ sau này, nếu không có một
điểm nhìn toàn tri, đồng nghĩa với việc khó có thể bao quát các chi tiết và sự
kiện lịch sử - một yếu tố quan trọng tác động lên đời sống con người.
Điểm nhìn toàn tri với lợi thế người kể chuyện ở ngôi thứ ba, người
quan sát và lặng lẽ chứng kiến toàn bộ sự việc sẽ đem đến cho câu chuyện
giọng điệu tự nhiên và khách quan. Hơn thế nữa, ở cả ba tác phẩm (đặc biệt
là Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn), mỗi chương truyện gần như là một
câu chuyện có tính độc lập tương đối về cuộc đời của nhân vật chính, vì thế
giọng điệu của người kể chuyện dường như chồng chéo lên nhau. Việc tạo ra
điểm nhìn toàn tri trong tiểu thuyết giúp Nguyễn Xuân Khánh gia tăng cấp
độ bao quát các sự kiện lịch sử - xã hội ở nhiều thời điểm khác nhau. Nhưng
thành công của nhà văn còn đặc biệt được nhấn mạnh ở chỗ, điểm nhìn toàn
74
tri không phải điểm nhìn duy nhất. Tác giả liên tục di chuyển và phối hợp
linh hoạt các điểm nhìn. Bên cạnh điểm nhìn của người kể chuyện là điểm
nhìn của các nhân vật khác, cả nhân vật chính và nhân vật phụ. Sự luân phiên
và đan chéo các điểm nhìn một cách linh hoạt cũng là cơ sở quan trọng làm
nên tính đối thoại, tính đa thanh trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nói
riêng, tiểu thuyết đương đại nói chung.
Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, chương I và chương XIII, điểm nhìn
được đặt cố định vào vị trí người kể chuyện vắng mặt, ngôi thứ ba. Bắt đầu
từ chương II và một số chương còn lại (chương VI, chương XII), điểm nhìn
được giao trực tiếp cho nhân vật Hồ Nguyên Trừng. Có thể nói, đây là nhân
vật được giao nhiều điểm nhìn và có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng
mối quan hệ thân thiết với các nhân vật khác. Cũng ở Hồ Nguyên Trừng,
điểm nhìn đồng thời dịch chuyển sang cả hai phía: bên trong và bên ngoài.
Người kể chuyện xưng “tôi” - Hồ Nguyên Trừng đồng thời có mặt ở cả hai
dạng thức: tôi kể chuyện chứng kiến và tôi kể chuyện về mình. Với điểm
nhìn bên trong, Hồ Nguyên Trừng có cái nhìn chân thực về cuộc đời, tính
cách, khát vọng, mơ ước cá nhân. Đi kèm với đó là biết bao suy tư, dằn vặt
và tự thấu hiểu vai trò của mình trong mối quan hệ: cha con, anh em, vợ
chồng, bạn hữu, người tri kỉ: “Trong đám cưới của tôi, tôi hiểu rằng tôi là
một con mồi mà cha tôi quăng ra giữa dòng nước, họ nhà Trần như một
con cá lớn đớp lấy tôi, và cha tôi cầm chiếc cần câu…” [22; tr.66]. “Những
lúc như vậy, lòng tôi như bị xát muối. Tôi tủi thân, nén nỗi tức giận, dìm nó
xuống đáy lòng. Có lẽ đó là lí do đầu tiên làm anh em tôi suốt đời bất hòa;
đối địch nhau; thậm chí có lúc như hận thù nhau…” [22; tr.336].
Đoạn văn trên cho thấy, với vai trò tôi kể chuyện tôi chứng kiến, Hồ
Nguyên Trừng có những đánh giá, nhìn nhận khách quan toàn bộ các
diễn biến sự kiện lịch sử trong giai đoạn nhạy cảm cuối thời Trần, đầu thời
75
Hồ, gắn với tham vọng canh tân của Hồ Quý Ly, với những âm mưu quyền
lực khốc liệt.
Để làm nổi bật tính cách và đời sống của nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly,
bằng thủ pháp tấm gương, nhà văn chiếu rọi nhân vật trong điểm nhìn của
hàng loạt nhân vật khác nhau. Trong con mắt của những kẻ cuồng tín như Hồ
Hán Thương, Nguyễn Cẩn thì “Hồ Quý Ly là một con rồng nằm ngủ”; ông
vua già Nghệ Tôn thì vừa tin tưởng Quý Ly, vừa thấy đó là một kẻ “mưu
lược nhưng tham vọng”; chàng nho sĩ Phạm Sinh vừa ngưỡng mộ con người
đại trí, vừa căm thù con người tàn bạo đến cùng cực ở Hồ Quý Ly, Sử Văn
Hoa lại thẳng thắn thừa nhận: “Quý Ly là một người đầy táo bạo. Một kẻ
cướp phải có gan: trên đầu nào biết có ai. Ông ta là một con người dám
“trên đầu chẳng có ai” [22; tr.661]. Hồ Nguyên Trừng dường như là
người thấu hiểu cha mình nhiều nhất. Ông nhìn thấy ở Quý Ly khát vọng
mạnh mẽ đến tàn bạo, tham vọng mù quáng đến điên rồ và cả những nỗi cô
đơn không dễ gì chia sẻ: “Người ta bảo cha anh là kẻ gian hùng. Người ta
bảo ông đặt ra lắm chuyện phiền hà. Người ta bảo ông là kẻ gian thần rắp
tâm… Cha ta có ảo tưởng không? Cha ta có tham vọng quá không? Nỗi bi
đát, nỗi khốn cùng của cha ta chính là ở chỗ đó” [22; tr.33]. Những đánh
giá từ nhiều góc độ như vậy khiến Hồ Quý Ly hiện lên không còn là một
nhân vật như lịch sử đã biết, mà đó là một chân dung phức tạp, một con
người bằng xương bằng thịt, có tính cách, số phận, phẩm chất và những nỗi
niềm riêng.
Nhân vật Thượng tướng Trần Khát Chân hiện lên qua điểm nhìn khách
quan là người anh hùng cứu nước oai phong lẫm liệt, là ngôi sao sáng của
Đại Việt trong những giờ phút nguy nan, nhưng thẳm sâu trong tâm hồn, ở
cái nhìn đầy thấu hiểu, Trần Khát Chân còn là một tính cách mâu thuẫn, vừa
quý trọng Nguyên Trừng, vừa căm ghét Thái sư, vừa khẳng khái cứng cỏi,
76
vừa đê hèn bảo thủ.
Tương tự như Hồ Quý Ly, tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn cũng có sự
luân phiên linh hoạt điểm nhìn, mặc dù bao quát tác phẩm vẫn là điểm nhìn
toàn tri. Chương 1 là điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ 3, đến chương
2, điểm nhìn được đặt vào các nhân vật cụ thể: Nhụ và Điều; Cụ đồ Tiết và Trịnh Huyền; Bà Ba Váy… Mỗi nhân vật trong điểm nhìn của mình đều phát
huy năng lực quan sát và khám phá riêng đối với đời sống làng quê và số
phận những con người. Nhân vật văn hóa Bà Tổ cô được nhìn từ nhiều
phía: phía dòng họ Vũ là cái nhìn tôn kính; phía nhân dân làng Cổ Đình là
sự sùng bái, ngưỡng mộ; phía lớp trẻ như Nhụ, như Hoa là một niềm yêu
mến và quý trọng… Nhân vật cô Mùi trong câu chuyện cũng được soi chiếu
từ nhiều điểm nhìn. Trong con mắt của dân làng Cổ Đình, cô vừa đáng khinh
miệt vì làm me Tây, vừa đầy thiêng liêng tin cậy khi trở về với Mẫu, chữa
bệnh cứu người. Trong con mắt của Philippe Messmer, cô Mùi là người đàn
bà An Nam có sức mạnh nội sinh, có cả sự kiêu hãnh mà hắn không bao giờ vượt qua…
Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cũng sử dụng linh hoạt điểm nhìn.
Khoảng một nửa tác phẩm là điểm nhìn người kể chuyện xưng tôi - chú tiểu
An, nửa còn lại là người kể chuyện vắng mặt, đặt điểm nhìn trong các nhân
vật khác: sư cụ Vô Úy, sư thúc Vô Trần, cô Nguyệt, sư Khoan Độ… Những
dòng tự sự của chú tiểu An về mình, về những xung đột mâu thuẫn trong nội
tâm và cái nhìn đối với thế giới xung quanh (về chiến tranh, về đạo Phật, về
những nỗi đau khổ của con người) hiện lên cảm động và chân thực. Chân
dung các nhân vật khác với muôn mặt phức tạp của đời sống như cuộc đời
chìm nổi của chị Nguyệt, bà Nấm, sư thúc Vô Trần, Rêu, cô Khoai, anh
Hạ… hiện lên trong cái nhìn khách quan nhưng đầy đồng cảm của người
kể chuyện với điểm nhìn toàn tri. So với Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn,
77
điểm nhìn toàn tri trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa chiếm vị thế khá áp đảo
nên có nhiều trường đoạn, lời kể của người kể chuyện lấn lướt lời của nhân
vật, hạn chế sự thể hiện bản sắc ở từng con người, từng số phận. Điểm
chung quan trọng nhất là cuộc sống và số phận của những con người trong
gần nửa thế kỉ chiến tranh loạn lạc ở Đội gạo lên chùa luôn được chiếu rọi
dưới cái nhìn nhân ái, khoan hòa của đạo Phật. Đó cũng là điểm nhìn soi
sáng thế giới nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh ở tác phẩm này.
3.1.2. Điểm nhìn có sự chuyển dịch từ ngoài vào trong
Sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong thể hiện qua hình thức
độc thoại và độc thoại nội tâm xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết Hồ
Quý Ly, ở các nhân vật Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, ông vua già Nghệ
Tôn, đức vua trẻ Thuận Tôn, Trần Khát Chân… và các nhân vật hư cấu
như: Sử Văn Hoa, Phạm Sinh. Trên thực tế, các nhân vật luôn bị đặt vào
trong dòng ý thức, đó là nỗi suy tư và dằn vặt, trăn trở và mâu thuẫn giữa
quyền lực - trách nhiệm, giữa khát vọng - hành động… Ở họ là những khối
cô đơn lớn, luôn thường trực và đẩy nhân vật vào những bi kịch bế tắc không
dễ gì cởi thoát. Xuyên suốt hai chương “Một ngày của Thái sư I, II (Minh
Đạo I, II)” là dòng độc thoại và độc thoại nội tâm của Hồ Quý Ly. Nhà văn
để ngòi bút hoàn toàn nương theo những giấc mơ, những suy nghĩ triền
miên của Quý Ly. Đó là lúc nhân vật đối diện với chính mình và băn khoăn
cùng cực vì không biết mình có xứng đáng là bậc minh chủ không và đi tìm
câu trả lời: “Làm sao để thu phục kẻ sĩ, một chiến lược lớn làm ông mất bao
nhiêu tâm huyết” [22, tr.494]. Những giây phút cô đơn nhất của Hồ Quý Ly
là giây phút ông lặng lẽ hoài nhớ về người vợ thương yêu, người đồng cảm
sâu sắc với ông: “Những người như ông, nỗi cô đơn là bạn đồng hành. Ông
kiêu hãnh vì sự cô đơn ấy. Thậm chí, ông nghĩ phải có sự cô đơn, ông mới
làm nên sự nghiệp ở đời. Thế gian này, dễ mấy ai hiểu nổi ông. Nhưng với
78
bà, lại hoàn toàn khác… Bà là điều ông thiếu, là cái khát khao mà ông
không có. Bà là cái màu trắng mát mẻ luôn tràn vào tâm hồn ông để hòa dịu
cái mầu đỏ luôn đêm ngày rừng rực trong ông” [22; tr.571]. Trong tác phẩm,
Hồ Quý Ly chưa một lần đứng ra xưng tôi với tư cách “tôi kể về chính
tôi”, nhưng sự dịch chuyển điểm nhìn khiến hình ảnh Hồ Qúy Ly vang lên
trong dòng suy tưởng của chính mình là hình ảnh vị thái sư quyền biến, táo
bạo nhưng cô độc hiện lên thật rõ nét! Giấc mơ ám ảnh nhất là Hồ Quý Ly
gặp Nghệ Hoàng, tất cả những suy nghĩ sâu kín nhất của vua tôi đều được
cởi bỏ, bộc lộ chân thực. Đằng sau mỗi giấc mơ, là một phần của hiện thực,
hiện thực nỗi cô đơn và sợ hãi của con người khi thấy mình “độc hành,
độc bộ”. Trong cơn hoảng hốt, Quý Ly không sợ vị vua đã băng hà, mà sợ
hãi chính mình khi không còn làm chủ, không còn kiên trì với con đường
mình đang đi.
Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cũng thường xuyên quay ngược vào
trong để nhìn lại chính mình, từ đó tự xoa dịu và đi tìm lời đáp cho những
câu hỏi giằng xé mâu thuẫn trong ông. Nguyên Trừng hiểu rõ trong tình thế
lịch sử này, dòng họ Hồ phải đương đầu với bao tố vì: “Chí càng lớn, bão
tố càng lớn. Chí mà thành thì muôn đời có công, chí mà bại thì lưu tiếng xấu
ngàn thu. Từ đó lòng tôi buồn vô hạn, lòng tôi giằng xé trăm điều. Nhưng
biết sao được!” [22; tr.55]. Nhìn cây mai trong khu vườn của thượng tướng,
Nguyên Trừng không giấu được những cảm xúc xót xa và ý nghĩ về sự mất
mát, phai tàn: “Thật quả Trừng tôi không dám thở dài, chỉ biết ngậm ngùi
trong dạ… Thấy thương cây mai già bị giam hãm trong chiếc chậu… Mặc dù
nó ngồi trên lưng chín con rồng, nhưng chỉ là những con rồng đất… Ừ! Thì
nó đẹp đấy! Nhưng chỉ là thứ đẹp ảo, cái đẹp của sự già nua, thoi thóp…
cái đẹp của sự tàn lụi, của một thời vàng son đã qua, mà ai đó còn cố níu…”
[22, tr.320, 321]. Những suy nghĩ trong ông bộc lộ một tâm hồn đa cảm và
79
còn bật lên suy tư về người bạn vong niên Trần Khát Chân, một người tri
kỉ ông quý trọng, nhưng cũng chỉ là con người bảo thủ, khư khư giữ những
nuối tiếc về quá khứ vàng son đã đi qua, như cây mai cố kìm hãm mình
trong cái chậu chật chội.
Dòng suy nghĩ trong nhà ngục của nhân vật Sử Văn Hoa cũng là đoạn
văn đặc sắc, nó cho thấy cuộc đấu tranh, tự vật lộn với chính mình ở con
người có khí phách cứng cỏi này: “Cứng rắn ư? Mềm dẻo ư? Chọn lựa thái
độ nào? Ông không phải kẻ cuồng si, không phải kẻ ngu trung, cũng không
biết lựa theo chiều gió… Ông chỉ muốn mình vẫn là mình… Đó là sự dại khờ
của ông, nỗi khổ đau của con người sống trong thời “thiên túy” [22, tr.532].
Tính cách cứng cỏi và lòng biết giá người của Sử Văn Hoa là một nét son
đẹp trên cái nền lịch sử mục ruỗng.
Nho sĩ Phạm Sinh được tác giả hư cấu hoàn toàn để làm nổi bật phần
khuất lấp trong tâm hồn của các nhân vật lịch sử. Phạm Sinh là con người
đầy mâu thuẫn khi bản thân chất chứa nhiều bi kịch: bi kịch mang nỗi thù
của cha, nỗi thù của thầy (Sư Tề), bi kịch của kẻ trí thức mang hoài bão lịch
sử. Ở Phạm Sinh luôn là quá trình đấu tranh khi tự biết mình vừa là mục
tiêu của tôn thất nhà Trần, vừa là sự săn đuổi mến mộ của phe cánh Hồ Quý
Ly…
Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn có sự xuất hiện khá thường xuyên
nhân vật b à Ba Váy. Nhà văn cùng lúc khám phá những diễn biến nội tâm
của nhân vật và khơi sâu vào dòng suy nghĩ, khát vọng thầm kín của những
người đàn bà Việt. Lần gặp lại Trịnh Huyền, anh Phác ngày xưa, người đàn
ông đầu tiên của đời mình khiến Ba Váy chìm đắm trong miên man suy
tưởng về kỉ niệm: “Tạ tội ư? Người đàn bà đa tình kia dễ dàng tha thứ cho
anh lắm chứ. Bao nhiêu năm làm bà ba của ông lý Cỏn có bao giờ bà quên
được những phút đằm thắm của thời con gái. Những phút ấy, chỉ có một
80
người, một người duy nhất có thể đem lại cho bà hạnh phúc… Những
phút ân ái đầu đời. Những phút “trải ổ” mà Phác đã nâng niu bà, đã đem
lại cho bà những ngọt bùi mà sau này ông lý Cỏn không thể bao giờ đem lại
cho bà được” [23, tr.409]. Nhân vật bà Ba Váy kể chuyện nằm trọn trong
chương XI, chương truyện kéo dài 33 trang, triền miên là những suy tưởng
của bà, duy nhất có ba lần nhân vật nói chuyện với một ai đó. Những câu
chuyện về cuộc đời của dân làng Cổ Đình, về những người vợ cả, vợ hai của
Lý Cỏn, về những đứa con, về mối tình năm xưa… khiến nhân vật bà B a
Váy hiện lên vô cùng sống động, linh hoạt. Xúc động nhất vẫn là giây
phút người phụ nữ năm con trải lòng về khát khao hạnh phúc trọn vẹn, cái
hạnh phúc bình thường, dung dị, rất đàn bà: “Tôi như cánh đồng hạn lâu
ngày… Nó chỉ chờ một cơn mưa. Nó chờ đợi một trận mưa dầm dề, mà nó
đã tuyệt vọng, tưởng chừng như sẽ chẳng bao giờ thấy. Tâm trạng của tôi
lúc gặp anh Phác trở về là như vậy đó” [23, tr.528]. Dường như, ngôn ngữ
của nhân vật lúc này đã hòa quyện sâu sắc trong mối đồng cảm của tác giả
với những người phụ nữ Việt nên càng có sức lay động mạnh mẽ nơi người
đọc.
Tương tự tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, trong Đội gạo lên chùa,
tâm hồn của chú tiểu An thường xuyên trôi trong suy nghĩ rất thành thực về
chính mình, về con đường khổ hạnh mà chú đang độc bộ: “Phải nói những
lúc tôi không kiềm chế được để vi phạm điều giới, tôi vẫn sám hối. Tuy
nhiên, buồn thay! Cuộc đời luôn có những cơn giông tố và dù tôi ở chùa, tôi
đi tu, tôi cũng không tránh được những cơn giông, và cũng buồn thay, tôi là
kẻ đức mỏng phúc bạc…” [24, tr.107]. Nếu những suy nghĩ bên trong giúp
nhân vật tự biểu hiện đời sống tinh thần thì đối thoại trong tác phẩm Nguyễn
Xuân Khánh với ưu thế của tính tương tác cao độ lại giúp nhân vật bộc lộ
mình một cách trực tiếp, sinh động và hấp dẫn hơn. Song nhân vật vẫn khá
81
“kiệm lời”, họ hiện lên gần như là một người khác, có khi che giấu cả những
suy nghĩ thầm kín nhất.
Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, đa phần các nhân vật sống trong thế giới
suy tưởng nhiều hơn là bộc lộ trực diện. Nhân vật có xu hướng nói với
người nhưng thực chất là nói với mình, đối thoại chỉ là một phương tiện
hình thức bên ngoài. Đoạn đối thoại giữa Hồ Quý Ly và Hồ Nguyên Trừng
“- Con nói lo lắng vì nhà Trần đã tạo được cái ơn sâu dầy cho Đại
về vận nước, về lẽ thịnh suy là một ví dụ:
Việt… Hơn một trăm năm Đại Việt hùng cường, thật là ơn sâu nghĩa dầy.
Nhà Trần hiện nay đã thối ruỗng, thật đáng lật đổ. Và cha là người duy
nhất hiện nay có thể lật đổ nhà Trần dễ dàng. Nhưng ơn sâu của nhà Trần
với muôn dân thì cha có lật đổ được không?
Cha tôi nắm chặt bàn tay phải và đập xuống cái kỷ:
- Thế nếu để nguyên trạng như hiện nay, Đại Việt ta có suy yếu không?
Nếu nhà Trần thối ruỗng như hiện nay, mà nhà Trần tồn tại, so với một triều
đại mới được dựng lên, được quét sạch lũ tham quan ô lại, được tổ chức cứng
rắn, được hết lời bàn ra tán vào, thì hỏi hai triều đại ấy bên nào tốt hơn,
mạnh hơn?” [22, tr.104, 105].
Ở đây, Hồ Quý Ly dường như quên mất vai trò của mình với người đối
diện, ông ta hầu như đang tự nói với chính mình, tự suy ngẫm về ước vọng
của mình.
3.2. Ngôn ngữ và các biểu tượng
Văn học sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu, làm phương tiện biểu đạt chủ
đề, tư tưởng của tác phẩm. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng
trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm, đó cũng là yếu tố mà người
đọc tiếp xúc với tác phẩm để tìm hiểu những ẩn ý của nhà văn trong từng câu
chữ.
82
Ngôn ngữ và các biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của
Nguyễn Xuân Khánh cho thấy sáng tạo riêng trong tư duy tự sự của nhà
văn.
3.2.1. Sự đan xen ngôn ngữ lịch sử với ngôn ngữ đời sống
Khi viết tiểu thuyết lịch sử các nhà văn vừa phải xử lí đồng thời hai yếu
tố lịch sử và tiểu thuyết. Tiểu thuyết hiện đại muốn tự làm mới mình thì
không thể náu mình mãi trong cái vỏ ngôn ngữ cũ kĩ. Tuy nhiên, dù mới đến
đâu vẫn phải đảm bảo tính xác thực của lịch sử, độc giả sẽ tự nhận ra được
những điểm mới trong ngôn ngữ của nhà văn. Nguyễn Xuân Khánh là một
nhà văn thành công trong việc sử dụng hài hòa ngôn ngữ lịch sử và đời
thường để truyền đạt ý tưởng của mình.
Ngôn ngữ trang trọng, thành kính xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết
Hồ Quý Ly, gắn liền với không gian cung đình, với các mối quan hệ vua tôi,
phụ tử, huynh đệ… rất đặc trưng của Nho giáo phong kiến. Trong các lời
thoại và xưng hô của nhân vật, luôn luôn có mặt những ngôn từ thể hiện rõ
sự phân biệt đẳng cấp và tôn kính đối với vua chúa như: trẫm, thần thiếp, bệ
hạ, tiểu nhân, ta - ngươi, chàng - nàng... Ngay trong các mối quan hệ cha
con, chồng vợ, anh em cũng thể hiện rõ màu sắc ngôn ngữ kiểu này.
Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, kiểu ngôn ngữ trang trọng,
thành kính chủ yếu dành cho các nhân vật tâm linh trong tâm thức người dân
Cổ Đình. Đối với dân làng Cổ Đình, bà Tổ C ô là hiện thân của vẻ đẹp
cao quý, là niềm sùng bái của nhân dân. Khi nhắc đến bà Tổ C ô, hầu hết
các nhân vật đều dành cho bà lời lẽ tôn trọng, kính nể, gọi là bà phủ Khiêm,
là cụ, là bà Tổ Cô. Cô bé Nhụ xuôi thuyền lên đền Mẫu, gặp bà Tổ Cô là
“quỳ trên chiếu chắp tay cúi lạy”. Ngôn ngữ trong đoạn văn nói về nghi thức
đạo Mẫu, về niềm tin thiêng liêng của nhân dân vào thánh Mẫu cũng mang
màu sắc tôn giáo, đầy kính cẩn, tôn thờ: “Trăm lạy Mẫu. Ngàn lạy Mẫu.
83
Hóa ra là thế. Cô có dạy, tôi mới biết. Hóa ra trăm sự, ngàn sự đều do
Mẫu cả” [23, tr.702].
Tâm thức Phật giáo trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa lại đem đến cho
tác phẩm một lớp ngôn ngữ nhuốm màu đạo Phật. Những câu niệm chú từ bi:
“A di đà Phật”, “Lạy Phật”, “Nam mô đại từ đại bi Thích ca mâu ni Phật”,
“Nam mô Quán thế âm bồ tát ma ha tát”… Những từ ngữ nói về căn tính
và giáo lí nhà Phật như: từ bi, hỉ xả, giải thoát, tùy duyên, đạo, đời, bể khổ,
nhân duyên, tâm từ bi, tham, sân, si, bố thí, chân tu, Niết Bàn… xuất hiện rất
nhiều trong tác phẩm. Nó đem đến cho câu chuyện màu sắc Phật giáo rất rõ
nét, lan tỏa trong tâm hồn người đọc là sự giác ngộ, là chân lí: Phật giáo là
một lối sống, Phật nằm ngay trong tâm của mỗi người. Những ngôn từ miêu
tả về tiếng mõ đều đều, tiếng tụng kinh, tiếng chuông chùa xa thẳm, mùi
hương của nhang trầm, mùi hoa đại ở góc sân chùa… cũng góp phần tạo nên
không gian tâm linh thành kính, thiêng liêng, có sức mạnh an ủi tâm hồn con
người.
Sức sống biểu hiện bằng ngôn từ trong mỗi trang viết của Nguyễn
Xuân Khánh không chỉ nằm ở giới hạn sự trang nghiêm, tôn kính. Nó còn
bộc lộ rõ nét nhất ở ngôn ngữ dân gian bình dị hòa quyện với cái trần tục, cái
hàng ngày. Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, bên cạnh các chi tiết về đời sống
cung đình, hình ảnh nhân vật được tác giả trao cho một sự sống đúng nghĩa
với tất cả những miêu tả đời thường, giản dị. Các nhân vật lịch sử vì thế
không chỉ mang tính chiêm bái, ngưỡng vọng, mà đích thực là con người của
dân gian, của những vui buồn, cô đơn rất gần gũi, quen thuộc. Những hình
ảnh miêu tả bát canh sâm cầm, chiếc chăn, chiếc gối thơm tho được bàn tay
bà Huy Ninh thu vén hay cảm giác thiếu vắng, mất mát của Hồ Quý Ly khi
nhìn vào đôi mắt buồn bã của đứa cháu ngoại, khuôn mặt xanh xao vô
hồn của con gái… là biểu hiện rất cụ thể ở ngôn ngữ đời thường.
84
Ngôn ngữ đ ờ i t h ư ờ n g , bình dị trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly
không nhiều, nhưng ở một số chi tiết miêu tả nhân vật, nó trở nên vô cùng
đắt giá. Nhân vật nhờ đó hiện diện sinh động lạ thường. Chân dung Hồ Hán
Thương lúc còn nhỏ qua đoạn miêu tả của Hồ Nguyên Trừng là một ví dụ
như thế: “Hán Thương khóc khỏe lắm, nó khóc suốt ngày, suốt đêm. Chậm
ăn: khóc. Chậm ỉa: khóc. Chậm chiều ý nó: khóc. Không bằng lòng: khóc.
Đông người quá: khóc. Vắng người quá: khóc… Cứ thoáng trông thấy mặt
tôi xuất hiện gần bà Huy Ninh là nó đuổi: Cút! Cút đi!” [22, tr.91]. Chính ở
những chi tiết và miêu tả rất đời thường, nhân vật lịch sử được lột tả như một
con người với đầy đủ tốt xấu, không “khô cứng” và “sao chép” như dữ liệu
của chính sử.
Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn viết về làng quê và những con người
nông dân Bắc Bộ, viết về tín ngưỡng dân gian - Đạo Mẫu của người Việt
khiến lớp ngôn từ đ ờ i t h ư ờ n g bình dị được vận dụng thường xuyên và
nhịp nhàng hơn. Có tới 30 câu hát dân gian là những bài ca dao, đối đáp,
khóc người chết, những điệu hò, những bài rao của mõ làng và nhất là
những bài hát c h ầu văn trong nghi lễ nhập đồng hầu Thánh xuất hiện
trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Nét độc đáo trong hình thức ngôn ngữ
này là đem lại cho người đọc cảm giác vừa gần gũi, vừa say mê, thích thú.
Đặc biệt, gắn với từng nhân vật, lời hát dân gian còn biểu hiện đời sống tâm
hồn phong phú của người Việt. Đó là tiếng hát cao vút, lảnh lót của cô bé
Nhụ giữa cánh đồng, cất lên điệu hát Xá rộn ràng, câu hát về bà chúa Thác
Bờ: “Cảnh thanh xuân thiều quang soi tỏ/ Chúa Thác Bờ tiên nữ giáng sinh/
Họ Mường, áo trắng, đai xanh/ Lưng đeo xà tích, bên mình dao quai/ Đôi
mắt phượng, hoa cài, trâm giắt/ Vầng trán xinh, vẻ mặt càng tươi/ Môi son
như đóa hoa cười/ Thanh tân lịch sự mắt người thu ba” [23, tr.117].
R ồ i n h ữ n g câu vè đầy màu sắc châm biếm, giễu nhại của thanh
85
niên hai họ Đinh, họ Vũ ở làng Cổ Đình khiến người đọc bật cười:“Họ Vũ,
làm chủ làng Đình/ Họ Đinh mà rình cơm nguội/ Họ Vũ là cú là cáo/ Họ Đinh
là dinh ông nghè” [23; tr.121].
Ngoài ra, lớp ngôn ngữ đời thường nhuốm màu nhục cảm cũng là
điểm nhấn ở các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh: “Đã
xấu thế mà đàn bà chẳng ra đàn bà… Thì lúc vợ chồng ân ái với nhau
ấy. Thật là buồn cho người đàn ông, khi người đàn bà lúc ấy lại chỉ biết
nằm thượt ra như cây gỗ. Rồi cái miệng lúc ấy lại chỉ biết ú ú ớ ớ nữa chứ.
Thật là chán mớ đời! Thật là nẫu cả ruột!” [23, tr. 560]. Rõ ràng, ngôn
ngữ miêu tả tính dục rất đời thường mà không thô thiển trong trang
viết Nguyễn Xuân Khánh. Nó có khả năng truyền cho người đọc những
tình cảm gần gũi, xúc động. Cuộc giao hoan của cô Mùi - người đàn bà Việt
với Philippe Messmer cũng được tác giả miêu tả rất đẹp. Đó là sự trầm trồ,
ngưỡng mộ của đại diện văn minh phương Tây với vẻ đẹp phồn thực và sức
sống phương Đông: “Hắn lim dim mắt để cái ngai ngái ấy bò dần trong mũi,
kích thích từ những vùng não bộ tối mò nhất trong hắn gọi chúng thức dậy.
Để rồi cuối cùng, hắn đi vào trong nàng lúc nào chẳng hay. Một cảm giác
thăm thẳm và hun hút lạ thường. Để rồi cuối cùng, hắn như kẻ bị tước vũ
khí, run rẩy nằm trong vòng tay nhào nặn của người đàn bà” [26, tr.383].
Cái trần tục hàng ngày trong ngôn ngữ miêu tả nhân vật cũng xuất hiện
ở tiểu thuyết Hồ Quý Ly. Đó là những trang viết về mối tình của Hồ Nguyên
Trừng với kì nữ Thanh Mai, của ông vua trẻ Thuận Tôn với cô cung nữ Ngọc
Kiểm. Hình như, trong những cuộc tình ấy, nhà văn để các nhân vật khước
từ quyền lực cao quý của mình, và trở thành những con người bản năng
nhất, đam mê nhất, đời thường nhất. Thuận Tôn run rẩy, ngây dại trước sự
quyến rũ mới mẻ của cung nữ Ngọc Kiểm: “Ông vua con hấp tấp, luống
cuống, run rẩy đi vào lòng nàng. Và ngay lập tức, chợt thấy mênh mang,
86
ràn rụa… Trần Ngung rùng mình, co rúm lại, sợ hãi” [22, tr.409].
Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, sự có mặt của ngôn ngữ trần tục,
đời thường không nhiều. Nhưng để làm rõ phần tối, những khoảng trống
trong tâm hồn con người, Nguyễn Xuân Khánh vẫn dành những trang viết
để miêu tả về đam mê và tham vọng cuồng nhiệt của các nhân vật. Cảnh
tượng sư Vô Trần bên cô Nấm trong vườn cò được đặt trong không gian
của ánh trăng ngút ngàn nên cái trần tục thô tháp hàng ngày dường như
không còn chỗ đứng, ngôn từ lúc này được bao bọc trong ánh sáng của sự
giao hòa, dâng tặng: “Khi cái yếm đào rơi xuống, Vô Trần đỡ lấy nó, nâng
niu trên hai bàn tay, nghi lễ của một bước ngoặt, nghi lễ điểm đạo trần gian.
Họ hiến dâng cho nhau có trăng sao làm chứng, có rừng tre rì rào hát khúc
tụng ca, có đồng lúa tỏa mùi thơm được gió dẫn vào ướp hương cho cái
nệm ái ân của họ” [24, tr.104].
Tóm lại, ngôn ngữ đời thường bình dị của cuộc sống hàng ngày kết
hợp với ngôn ngữ đầy màu sắc thành kính, trang trọng trong miêu tả nhân vật
được Nguyễn Xuân Khánh xử lí khá nhuần nhị, bên trong cái tục vẫn chan
chứa cái thanh, bên trong cái kính cẩn, tôn nghiêm vẫn có dáng dấp cái đời
thường, bình dị vì thế rất dễ đi vào lòng người đọc.
3.2.2. Sử dụng các biểu tượng
Dưới ánh sáng của văn hóa Việt, văn hóa tâm linh, hình ảnh nhân vật
tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh cũng được mô tả qua một số biểu tượng
độc đáo. Ngay ở phần mở đầu, chân dung Hồ Quý Ly, một con người đa
mưu với khát vọng thống trị mạnh mẽ được tác giả thể hiện ngay trong hình
ảnh giấc mơ “hầu mõm đỏ” lăm le trèo lên “lầu gà trắng” của Nghệ Hoàng.
Hồ Quý Ly sinh năm Thân, cầm tinh con Khỉ, một hình ảnh ẩn dụ “hầu mõm
đỏ” cũng đủ giúp người đọc hình dung phần nào về con người đáng sợ
này. Biểu tượng nổi bật và ấn tượng nhất gắn với nhân vật Hồ Quý Ly phải
87
là hình ảnh đôi rồng đá trước điện thờ Nghệ Tông, sau này được tạc ở Tây
Đô và ngọn lửa ấp ủ từ thời thơ bé.
Trong quan niệm của người phương Đông, rồng là con vật đứng đầu
trong tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng, cũng là con vật chỉ có trong tưởng
tượng, mang biểu tượng của sức mạnh áp chế, cường lực vô biên. Đôi
rồng được đích thân Quý Ly sai nghệ nhân làng Nhồi đẽo tạc có tư thế sắp
bay, có dáng vẻ cương mãnh, và phải bay lên thực sự. Trong cử chỉ vuốt ve
của Quý Ly với bờm rồng dựng đứng, thân rồng lượn cong dịu dàng, âu
yếm chiếc móng rồng, phải chăng là niềm say mê và khao khát được trở
thành con rồng của đất nước, thống trị và chế ngự vạn vật, muôn nhà? Niềm
yêu thích của Quý Ly với ngọn lửa ngày còn nhỏ, cùng trò chơi giữ lửa với
công chúa Huy Ninh và suy nghĩ: “Nhóm lửa không khó, nhưng rấm lửa
mãi mãi mới là chuyện khó” [22, tr.566]. Đó không chỉ là cảm giác khi được
nhìn thấy ánh sáng ấm nóng của ngọn lửa, mà còn là ngọn lửa tinh thần hun
đúc ở con người đầy hoài bão và lí tưởng. Chính ngọn lửa ấy là sức mạnh
để Hồ Quý Ly vượt qua nỗi ám ảnh, sự cô độc và sống dậy những tình cảm
yêu thương thầm kín không dễ gì bày tỏ.
Thượng tướng Trần Khát Chân là nhân vật để lại ấn tượng cho người
đọc không hẳn ở chiến thắng lẫy lừng diệt quân Chiêm Thành mà sử sách đã
dẫn. Nhân cách cao đẹp ở vị tướng tài này còn được bộc lộ đầy ý nhị qua
niềm đam mê của ông với khu Trại Mai. Những trang miêu tả đẹp nhất về
Trần Khát Chân đều gắn liền với hình ảnh của rừng mai, cây mai, hoa mai,
hương mai… Hoa mai trong quan niệm của nghệ sĩ phương Đông là biểu
tượng của cốt cách thanh cao, tao nhã; phải chăng đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn
ở con người này? Ông cũng tự nhận mình quá yêu những bông hoa súng, cái
dáng thẳng đứng cương nghị của hoa súng giữa đầm, cũng chính là tính cách
cứng cỏi, khẳng khái, không chịu khuất phục của Thượng tướng Trần Khát
88
Chân.
Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn ngập tràn những biểu tượng văn
hóa tâm linh và biểu tượng của thiên tính Nữ. Hình ảnh bà Tổ Cô linh
thiêng trong đền Mẫu xuất hiện cùng hình ảnh của đôi rắn thần và đôi
ngựa ngài, như mang sức mạnh che chở cho con người và bảo vệ ngôi đền
thờ Mẫu. Hình tượng rắn trong tâm thức dân gian giữ vai trò đặc biệt như là
loài vật linh thiêng. Chạm vào rắn thần là chạm vào ngựa ngài, và những kẻ
báng bổ thần linh chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Tây mắt mèo Julien đã phải
hứng chịu cơn cuồng nộ của rắn thần cũng vì sự báng bổ niềm tin của nhân
dân, niềm tin vào linh vật thiêng canh giữ ngôi đền và cuộc sống của họ.
Hình ảnh cây đa, cây đề, gốc gạo ở làng quê Việt cũng mang biểu tượng của
đời sống tâm linh. Ở làng Cổ Đình cũng có một cây đa rễ phủ ôm trùm,
gốc to chục người ôm không xuể. Cây đa ngự trị trong tâm hồn người dân
Cổ Đình, vừa như một niềm tự hào, vừa như một đức tin đầy thiêng
liêng, che chở cho cả ngôi làng. Đặc biệt, những biểu tượng văn hóa mang
thiên tính Nữ gắn với hình ảnh những người đàn bà Việt trong Mẫu Thượng
Ngàn là một ẩn dụ rất đặc sắc.
Đôi vú - bộ ngực người đàn bà trong cái nhìn của khoa học là biểu
tượng của sự tái sinh. Trong truyện, tác giả không chỉ đề cập đến huyền thoại
bà Đà với bầu vú vĩ đại mà còn cho thấy sức mạnh có thật, vẻ đẹp có thật
nằm ngay ở các nhân vật nữ. Đó là đôi vú thây lẩy của cô Váy từ năm 13
tuổi đã làm anh Phác say mê, đến khi trở thành người đàn bà năm con, bà ba
Váy vẫn khiến người chồng thèm khát. Đó là đôi vú ấm giỏ quá cỡ làm chiếc
yếm luôn luôn hếch ra của cô Ngơ, đôi vú “vừa to, vừa dài, giống quả mít
không có gai” [23, tr.161]. Đó là đôi vú trắng trẻo của thím Pháo trong đêm
tình kì diệu với hộ Hiếu, là đôi vú nở nang, to ăm ắp của cô Mùi khiến
Philippe Messmer mê mẩn, là đôi vú “chum chúm núm cau” của cái Nhụ mà
89
Điều ấp ủ mơ về… Những đôi vú không chỉ biểu hiện vẻ đẹp phồn thực của
người đàn bà mà còn là sức mạnh ngút ngàn của sự sống. Chính bầu vú ấm
áp của bà Tổ Cô đã tái sinh trưởng Cam một lần nữa, bầu vú của cô Mùi là
niềm hạnh phúc cuối cùng của lý Tẻo trong giờ hấp hối, bầu vú trinh nguyên
của Nhụ giúp Điều vượt qua bạo bệnh…
“Trăng” cũng là biểu tượng văn hóa đẹp đẽ, tinh khiết, được tác giả lặp
lại 62 lần trong Mẫu Thượng Ngàn. Biểu tượng “trăng” được Nguyễn Xuân
Khánh miêu tả ở nhiều trạng thái: trăng lưỡi liềm, trăng sáng, trăng giàn
giụa… Những nhân vật nữ được tắm mình trong ánh trăng, dường như càng
trở nên đẹp hơn. Ánh trăng xóa nhòa tất cả cái trần tục, cái thô tháp hàng
ngày “làm cho đôi mắt xếch của phô Hộ Pháp hình như cũng dịu bớt đi”
[23, tr.234]. Ánh trăng còn là nhân chứng cho những mối tình sống động,
những giây phút giao hoan tuyệt diệu: “Ánh trăng làm mắt chị ba Pháo
long lanh. Ánh trăng làm cho thân hình của chị như biến thành ngọc, thành
ngà” [23, tr.234]. Ngoài ra, những biểu tượng của Rừng, Nước, Đất, Hang
đá… cũng là ẩn dụ cho thiên tính Mẫu với sức mạnh che chở, bao bọc, là
ngọn nguồn sinh dưỡng cho con người ở xứ sở này.
Nước xuất hiện trong tác phẩm mang đặc tính uyển chuyển, mềm dẻo
và hòa hợp của người đàn bà Việt, của đạo Mẫu. Đó là nước mưa tinh khiết
thấm hương hòa nhài, hoa cau trong chén trà của cụ đồ Tiết, là dòng nước
âm khí dào dạt chảy trong cô Mùi, bà Ba Váy, là dòng nước thấm ướt và tươi
mới những khát vọng của Nhụ, của Điều… Đó là dòng sông Son mỗi năm
tháng ba mùa xuân, người dân Kẻ Đình lại rộn rã qua sông để đến với núi
Mẫu, đến với sự cứu rỗi và hàm ơn sâu nặng… Rừng cũng là biểu tượng xuất
hiện dày đặc trong Mẫu Thượng Ngàn. Nó tham dự tự nhiên và gắn bó máu
thịt với dân làng Cổ Đình. Rừng là nơi Cò Huy nhận ra người cha đích thực
của mình, cũng chính khu rừng là nơi Cò xoa dịu nỗi đau khổ khi tìm ra bí
90
mật của đấng sinh thành. Rừng là nơi che chở cho Điều và Nhụ sau những
mất mát, đau đớn vì bị chiếm đoạt cả ước mơ, ước mơ mùa trái chín. Rừng
cũng là nơi tìm đến cuối cùng trong cơn điên loạn của L ý Cỏn với tiếng
thét nóng quá và hành động ôm đầu chạy thẳng vào rừng.
“Hang đá” là nơi ẩn náu, trú ngụ an toàn, cũng là nơi tái sinh những
tâm hồn. Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, hang đá được định
nghĩa đầy hình ảnh “là mẫu gốc của hình ảnh tử cung của người mẹ” [40].
Sự miêu tả về hang đá trong Mẫu Thượng Ngàn xuất hiện quanh những mối
tình: mối tình của Trịnh Huyền (anh Phác) với bà Ba Váy, cuộc tình thần
thánh với anh Phác diễn ra nơi hang đá trên hẻm núi Mẫu đã để lại cho nhân
vật những kí ức sâu thẳm đẹp đẽ, mãi mãi bà không bao giờ quên được. Hang
đá cũng che giấu cuộc giao hoan của họ một lần nữa, trong sự say đắm, thèm
khát ngay khi bà đã có chồng và năm đứa con. Hang đá cũng là miền đất mơ
ước của Điều, khi anh ngày đêm mong chờ ngày mình biết được bí mật lớn
lao của tạo hóa, ngày trái chín hái quả nơi Nhụ. Hang đá chữ Chi cũng giúp
Cò Huy trở về với sự thật: Trịnh Huyền là cha ruột của mình…
Hình ảnh “giếng thơm”, cái giếng đá ong của chùa Sọ, nơi chứng kiến
cái chết cô bé Rêu trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa là một chi tiết ẩn dụ
nhiều ám ảnh. Cô bé có cái tên trong trắng với thân hình gầy gò, bé nhỏ, đôi
môi hồng, tóc đen nhánh, nhưng mang trong mình bi kịch suốt cả tuổi thơ.
Câu hỏi về nguồn gốc mà cô phải lặn lội tìm câu trả lời: cha mình là ai? đã
khiến Rêu vừa đau khổ, vừa hạnh phúc khi nhận ra cụ chánh Long là cha đẻ
của mình. Lúc tìm được cha, cũng là lúc Rêu tận mắt nhìn cảnh ông chết
trong đau đớn và sự bội phản của mẹ. Nỗi bất hạnh đó, Rêu tìm sự giải thoát
trong nước giếng chùa thơm. Cái chết của Rêu là minh chứng cho một tâm
hồn đẹp đẽ, thánh thiện, không chấp nhận sự vấy bẩn ở đời hay còn bởi:
“Đức Phật dạy rằng chẳng có gì sinh ra, chẳng có gì mất đi. Gặp duyên thì
91
tụ thì sinh. Hết duyên thì tán thì diệt” [24, tr.552].
Có thể nói, việc sử dụng những hình ảnh biểu tượng khiến cho bộ ba
tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh trở nên sâu sắc.
3.3. Giọng điệu đa âm
Theo Từ điển thuật ngữ văn học giọng điệu: “có vai trò rất lớn trong
việc xác lập phong cách của nhà văn và tác dụng truyền cảm hứng cho người
đọc” [36]. Là một phạm trù thẩm mĩ của văn học, giọng điệu làm thành bản
sắc riêng của một trào lưu, một trường phái hay một thời đại văn học. Ở ba
cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của
Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi thấy nổi bật lên giọng điệu tự thuật, giọng
điệu triết luận - thế sự và một vài giọng điệu khác.
Giọng điệu tự thuật vang lên trong ba tác phẩm chủ yếu gắn liền với
nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”. Câu chuyện về cuộc đời, gốc gác, về
những biến cố của bản thân và gia đình được nhân vật kể lại chân thực. Đó là
những dòng trần thuật của Nguyên Trừng ở chương II bắt đầu từ “Tôi là Lê
Nguyên Trừng, hay nói cho đúng hơn tôi là Hồ Nguyên Trừng…” [22, tr.53].
Cũng từ đây, nhân vật Hồ Nguyên Trừng được toàn quyền kể lại những chi
tiết xung quanh cuộc sống của mình, về gia đình bên ngoại, về mối tình với
Quỳnh Hoa, những nỗi ưu tư sâu kín không dễ thổ lộ… Trong Hồ Quý Ly,
tác giả để cho một số ít nhân vật phụ bộc bạch về cuộc đời sóng gió của
mình. Trong đêm hội ngộ diệu kì với Hồ Nguyên Trừng, Thanh Mai đã cởi
bỏ nỗi lòng và tâm sự rất thành thực: “Gia đình em làm nghề chài lưới, ở một
vùng hạ lưu sông Hồng… Năm ấy, em chừng mười ba tuổi, quân Chiêm
Thành theo Chế Bồng Nga tràn ra cướp phá nước ta… Năm ấy, em mười ba
tuổi, vừa xinh đẹp vừa có giọng hát hay nên bị xung vào đội ca múa của vua
Chế Bồng Nga” [22, tr.681, 682]. Những tình tiết trong cuộc đời cay đắng
của người con gái bị bắt làm trò mua vui cho quân Chiêm Thành được nhân
92
vật kể lại cụ thể, với nhiều dẫn chứng thời gian, dẫn chứng sự kiện nên càng
có độ tin cậy. Giọng điệu tự thuật lúc này còn đan bện với giọng xót xa,
thương cảm nên gây được nỗi xúc động mạnh mẽ với người đọc.
Cũng như thế, ở tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, giọng điệu tự thuật
phần lớn được thể hiện qua lời kể của bà Ba Váy. Ngoài “Chương XI - Bà Ba
Váy kể chuyện”, nhân vật này cũng có riêng một lượt lời ở mục 3 -
chương XII. Bà B a Váy tâm sự về gia đình nhà chồng, về những mặc cảm
của con nhà nghèo, lấy chồng để trả nợ 20 thúng thóc của cha mẹ nhưng qua
lời tự thuật của nhân vật, chúng ta thấy hiện lên chân dung của một bà Ba
Váy thật chung tình, biết ăn ở, biết vun vén và chấp nhận hi sinh, như chính
cốt cách của người phụ nữ Việt.
Trong Đội gạo lên chùa, lời kể của chú tiểu An về nỗi bất hạnh
của gia đình, của người chị đáng thương và những năm tháng theo hầu sư
cụ cho tới lúc trở thành anh bộ đội giải phóng, trở về xây dựng cuộc đời
cũng mang giọng điệu tự thuật sâu sắc. Những biến cố, tai họa của đất nước
trong suốt nửa thế kỉ đặt trọn vẹn trong không gian làng Sọ - chùa Sọ, nhân
vật bám sát các dữ kiện thời gian và không gian mình chứng kiến nên tầm
bao quát ít nhiều bị hạn chế. Đặc biệt, nhân vật có xu hướng tự thuật về mình
với nhiều trăn trở cá nhân nên giọng điệu này chưa vươn lên trở thành giọng
chủ đạo của cả tác phẩm. Riêng nhân vật bà Nấm có một đoạn văn ngắn hồi
tưởng về kỉ niệm từ thời con gái, một lát cắt của thời gian dường như trở nên
có ý nghĩa hơn với nhân vật và với chính cô bé Huệ: “Lúc ấy, mẹ mới mười
bảy, mười tám, ở với bà dì. Bà ấy là bà Tư của ông chánh Long. Hai dì cháu
ở ngoài rừng Cò. Dì Tư lấy chồng giàu, tuy vậy vẫn sống rất tằn tiện chẳng
khác gì người nông dân nghèo…” [24, tr.492]. Đoạn hồi tưởng về kỉ niệm và
đưa kỉ niệm sống dậy trong hiện tại của bà Nấm đã trở thành công cụ để hai
mẹ con đào thoát khỏi gông cùm của đội cải cách là cách dẫn dắt khá
93
uyển chuyển của nhà văn. Nhân vật sau lời tự thuật ngắn gọn ấy, hiện lên là
một con người bản lĩnh, thông minh và quyết tâm thay đổi số phận cuộc đời
mình!
Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh về cơ bản mang cảm hứng luận
giải do đó, giọng điệu triết luận - thế sự là giọng điệu chủ đạo. Trong tiểu
thuyết Hồ Quý Ly, để làm nổi bật cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa
tư tưởng cải cách chính trị với tư tưởng bảo thủ giữ gìn truyền thống
cùng những suy tư về đất nước, dân tộc của các nhân vật, nhà văn vận
dụng tối đa giọng điệu triết luận - thế sự. Câu chuyện vì thế vừa mang
tính chiêm nghiệm lịch sử, vừa đánh giá lịch sử và những vấn đề quan thiết
của thời đại. Những lời căn dặn của cụ Phạm, ông ngoại Nguyên Trừng
đã gieo vào tâm hồn chàng trai ý nghĩa của y học, đó cũng là nền móng vững
chắc của tư duy, ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ của Hồ Nguyên Trừng sau
này: “Y là cái gốc. Phật cũng là y. Nho, Lão cũng là y… Có thứ vương y, có
thứ bá y. Vương y là làm cho con người được âm dương điều hòa, trở về
quân bình. Con đường ấy lâu và khó, nhưng bền gốc. Còn bá y thì giống như
ông tướng cầm quân nóng nảy và quyết liệt. Nó nhanh đấy, tưởng như kết
quả đấy, nhưng căn nguyên thì không dứt” [22, tr.32].
Thông qua những liên tưởng, suy tư của các nhân vật, nhà văn khái
quát và phát biểu thành các định đề. Đó là lí tưởng của Đạo giáo thấm nhuần
trong tâm thức của ông vua trẻ Thuận Tôn: “Tu đạo cốt nhất ở lòng
mình tĩnh lặng” [22, tr.443], là tư tưởng Sử Văn Hoa quyết tâm bảo vệ đến
cùng, ngay cả khi bị giam cầm trong tù ngục: “Cốt ở đức, không cốt ở nơi
hiểm trở”. Ngay cả Hồ Quý Ly, khi đánh giá con đường đi của người trí thức,
bản thân ông cũng thừa nhận: “Những người lỗi lạc thường phải đắn đo suy
ngẫm, bởi vì chỉ một bước chệch chân sẽ ôm hận ngàn năm”[22, tr.483].
Giọng điệu triết luận còn xuất hiện trong một số cảm xúc của nhân vật
94
về những triều đại cũ, về những người anh hùng kiệt hiệt. Tiêu biểu nhất
là đoạn văn Sử Văn Hoa viết về đức vua Trần Nhân Tông: “Một ngôi sao
sáng nhất trong bầu trời lịch sử Đại Việt… Đó là một đức vua văn hiến; một
nước Đại Việt có được tồn tại sánh vai được với thiên hạ hay không, ngoài
chiến công hiển hách, còn phải có Văn hiến. Không Văn hiến, dân Nam ta sẽ
chỉ còn là một bộ tộc dã man mông muội” [22, tr.513]. Khẳng định nhân
cách và tài năng lỗi lạc ở đức vua Trần Nhân Tông, Sử Văn Hoa gián tiếp
bộc lộ cách đánh giá của mình về bậc minh chủ trong cái nhìn so sánh với
Nghệ Tôn và Hồ Quý Ly. Trong cái nhìn về cuộc đời, về thế sự đảo điên, các
nhân vật có xu hướng bộc lộ nhiều chiêm nghiệm. Từ hình ảnh hạt mầm,
Phạm Sinh suy tư về cuộc đời, về những tàn lụi và tái sinh: “Hạt mầm sinh
ra từ cây cổ thụ. Gặp duyên mầm sẽ bừng xanh, để rồi cuối cùng đi tới lúa
vàng, nhưng lại thay thế bằng một mầm mới. Một trận gió sẽ cuốn mầm đi.
Có thể mầm sẽ bay đến vùng đất mầu mỡ mới và sẽ tái sinh. Nhưng
cũng có thể mầm bị rơi vào một hốc đá tối tăm nghèo kiệt, để rồi èo uột tan
rữa ra ở đấy… Biết làm sao được! Thôi thì hãy phó mặc cho con tạo xoay
vần…” [22, tr.252]. Đó còn là chiêm nghiệm của Đạo sĩ ở Thanh Hư
quán: “Đời người mờ mịt; thoắt đến thoắt đi, biết đâu là phúc, biết đâu là
họa, biết đâu là thị, biết đâu là phi… Sao chẳng như hơi thở của đất trời, đã
không nổi lên thì thôi, đã nổi lên sẽ ra muôn giọng” [22, tr.427].
Trong Mẫu Thượng Ngàn, giọng điệu triết luận không phải là chủ đạo,
nhưng khi nói về văn hóa bản địa, về niềm tin của đạo Mẫu, về sức sống bất
diệt của dân tộc, giọng điệu ấy lại đem đến vẻ đẹp rất riêng cho trang
viết Nguyễn Xuân Khánh. Lời than của hộ Hiếu trước cái chết của Philippe
Messmer: “Khi số mệnh đã định, chẳng ai cưỡng lại nổi! Chúng ta chỉ
chữa được bệnh, chữa sao nổi mệnh” [23, tr.386] là bài học đau đớn cho
người phương Tây khi không thể hòa nhập với văn hóa phương Đông. Cả sự
95
sòng phẳng đến lạnh lùng của Julien trong cái nhìn về dân tộc học cũng
mang đầy sắc điệu của tư duy lí tính: “Có những dân tộc sinh ra trên trái
đất này để thống trị, và cũng có những dân tộc sinh ra để bị trị. Lịch sử là
một cuộc vật lộn khốc liệt giữa các dân tộc. Dân tộc nào yếu hèn, dân tộc ấy
sẽ phải ở vị trí mà họ xứng đáng. Lịch sử loài người mãi mãi như vậy” [23,
tr.413]. Suy nghĩ của Pierre có phần khách quan hơn, mang sắc thái biện
giải cho những khác biệt văn hóa mà những người phương Tây như ông
hay Julien đang nhìn thấy và sống chung hàng ngày: “Đạo của họ thờ Mẹ
trời, Mẹ đất, Mẹ nước. Họ nói đó là đạo Người Mẹ. Có thể nói gọn, đó là
đạo thờ khí thiêng của thiên nhiên, thờ người Mẹ đã sinh ra thế gian này. Thờ
như vậy tức là thờ những điều cao quý nhất. Đâu có phải tà giáo” [23,
tr.427]. Nhà dân tộc học René sau khi chứng kiến tất cả những biến cố ở làng
Cổ Đình và sự thất bại của người phương Tây trong cuộc xung đột văn hóa
với phương Đông, cũng ngậm ngùi khẳng định: “Chẳng ai đi dưới bóng hàng
cọ mà không hề hấn gì. Phải chăng, khi ra khỏi bóng hàng cọ, ta sẽ chẳng
còn giống như xưa? Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới
bóng hàng cọ” [23, tr.806].
Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, giọng điệu triết luận - thế sự lại
trở thành giọng điệu chủ đạo, bao trùm cả tác phẩm. Những chiêm nghiệm
của sư cụ Vô Úy về đạo Phật và cuộc đời, nhìn nhận của sư thúc Vô Trần về
đạo Phật và Cách mạng, những quan sát cuộc sống của chú tiểu An khi từng
ngày nghiền ngẫm giáo lí nhà Phật hay suy tư của nhân vật đại úy Thalan,
bà Nấm và các nhân vật khác… tràn ngập mỗi chương truyện. Khó có thể
dẫn giải hết các đoạn văn tác giả để nhân vật rao giảng về triết lí đạo Phật và
văn hóa cộng đồng làng xã, về Cách mạng. Ở đây, chúng tôi chỉ lựa chọn ở
mỗi nhân vật những phát ngôn và định đề tiêu biểu. Chủ trương Phật giáo là
một lối sống, hòa thượng Vô Úy đã truyền vào tâm hồn chú tiểu An những
96
bài học đầu tiên về đạo Phật và sự gắn bó hòa hợp của đạo Phật với cuộc đời:
“Con ơi! Trên đường đời dài dằng dặc, một người con của Phật, hay một con
người cũng vậy, đều phải biết tự đi bằng đôi chân của mình… Phải biết độc
hành con ạ… Chẳng biết thầy nói con có hiểu gì không? Đường của Phật
gian nan lắm con ơi. Muốn tìm được đạo, phải biết độc hành… Không có
ai tìm hộ cho con đâu…” [24, tr.28]. “Con đường Phật giáo là con đường
dẫn đến yên tĩnh tâm hồn, dẫn đến minh triết. Con đường ấy là hành đạo
chứ không tìm ra được bằng những tranh cãi xa vời” [24, tr.327]. Thiền sư
Vô Chấp - vị sư tổ của hòa thượng Vô Úy hiện lên thoáng qua nhưng cũng
để lại ấn tượng đẹp về những điều người dạy: “Có người nghĩ rằng chữ Nhẫn
của đạo Phật là sự yếu hèn cam chịu. Chắc chắn không phải vậy. Cuộc đời
lắm lúc cần phải dừng lại để suy ngẫm, để tích tụ sức mạnh. Khi nào cần
thiết, Phật giáo sẽ bùng nổ theo cách của nó. Năng lượng của cái nhẫn sẽ
ghê gớm không thể tưởng tượng nổi. Nó kinh thiên động địa. Sức mạnh của
từ bi có thể làm sụp đổ những gì bạo tàn nhất” [24, tr.256]
Tâm niệm của sư thúc Vô Trần khi nghĩ về người mẹ thương yêu cũng
trở thành một định đề mà tác giả nhiều lần trở đi trở lại: “Trong mỗi con
người đàn ông đều có bóng dáng một người đàn bà”. Cũng ở nhân vật này
toát lên hệ thống tư duy sâu sắc, mỗi lời nói đều mang giọng triết lý nhưng
không nặng nề, khô cứng: “Tôi chưa hề bao giờ giấu giếm mình đã là một
nhà sư. Cũng như dân tộc mình chưa hề bao giờ chối bỏ thời Lý - Trần,
chúng ta đã từng có một dân tộc Phật giáo. Có thể nói những giá trị Phật
giáo đã đóng góp rất lớn vào việc hình thành tính cách Việt” [24, tr.784].
Thế rồi giọng điệu của nhân vật bà Nấm với lời lẽ cứng cỏi trong cái nhìn thế
sự giúp Nguyệt có thêm sức mạnh để vượt qua những lời phê bình của tổ
chức: “Những chuyện gì nằm ngoài tay ta không thể thay đổi khác được thì
phải chấp nhận. Cứ để cho mọi sự diễn biến. Rồi tùy theo mà ta hành động.
97
Buồn bã cũng chẳng giải quyết được gì” [24, tr.387]. Có thể nói, ở hầu hết
các nhân vật của tiểu thuyết này, mỗi lời nói, suy nghĩ đều ít nhiều có ảnh
hưởng từ tư tưởng Phật giáo. Giọng điệu triết luận của tâm thức Phật giáo,
nhìn mọi sự đều tùy duyên, tùy thời, vừa mềm dẻo, vừa cương quyết, vừa
biện giải, vừa khoan dung… đã bao trùm và chi phối các giọng điệu trần thuật
khác trong tác phẩm.
Bên cạnh các giọng điệu chính, trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
còn có các sắc thái giọng điệu khác. Giọng điệu tự vấn xuất hiện nhiều ở
những trường đoạn các nhân vật đối diện và tra vấn mình bằng dạng thức câu
hỏi. Nhân vật Sử Văn Hoa nhiều lần đặt mình vào tình huống này khi liên tục
hoài nghi: “Ta là kẻ thiện hay kẻ ác? Ta run sợ khi nghĩ đến điều đó, bởi chữ
nghĩa có thể làm đảo điên biến ác thành thiện, hay thiện chuyển sang ác.
Sống ư? Chết ư?... Thú thực nhiều lúc ta run sợ” [22, tr.44]. Ông vua già
Nghệ Tôn trong những giây phút đối diện với lòng mình cũng tự trào và hoài
nghi về con đường trị nước mà ông đã nếm trải suốt 30 năm qua: “Nhân từ ư?
Thương dân ư? Những đức hạnh tốt đẹp đó hỏi trên đời này có ông vua nào
hơn được cha con ông? Thế mà tại sao, tại sao nước Đại Việt này vẫn đói
khát, loạn lạc; tại sao cơ đồ của tổ tiên ông vẫn ngả nghiêng. Nghiệp báo
chăng? Không!... Ông có lỗi lầm gì đâu? Ông có tạo nghiệp ác đâu?” [22,
tr.165]. Khi hội làng kết thúc, cảm giác trống vắng và cô đơn xâm chiếm
khiến Nhụ hoang mang và tự hỏi: “Có phải đây là nỗi buồn sau những cuộc
vui? Có phải là nỗi buồn khi ta rời khỏi đám đông, để một mình bước chân
vào nẻo đường hoang vắng? Hay nỗi buồn ấy sinh ra từ một đám thiêu, dù là
thiêu xác hình nhân?” [23, tr.761]. Chú tiểu An cũng triền miên trong
những phút truy vấn bản thân đầy mâu thuẫn. Nhìn cảnh làng quê thanh
bình mà lòng trĩu nặng nỗi buồn, để nước mắt tràn mi và lại tự hỏi dồn dập:
“Tủi phận chăng? Nỗi thèm khát một gia đình êm ấm chăng? Ghen tị với đời
98
chăng?... Từ bi ư? Hận thù ư? Sống thế nào mới phải?” [24, tr.375]. Đằng
sau giọng điệu truy vấn, người đọc lại có cơ hội khám phá sâu hơn những
góc khuất trong tâm hồn các nhân vật với bao nỗi niềm day dứt, hoài nghi!
Giọng điệu bình dân, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày ở mỗi vùng
quê Việt Nam vang lên trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn lại khiến cho
nhân vật trở nên tươi tắn, hồn nhiên lạ thường. Đó là những lời cạnh khóe
của thằng Điều với thằng Cò khi Điều nhìn thấy Nhụ và Cò nói chuyện cùng
nhau: “- Cứ ra vẻ ta đây cậu ấm, ta đây Kẻ Chợ. Ôi dào! Mả nhà nó có
táng vào cái bút cái nghiên đâu. Học cũng toi cơm thôi.
- Này Điều, mày xỏ xiên ai đấy?
- Tao nói giữa đường, đứa nào cấm được tao… “Để rồi anh dạy cho
em!”. Học được mấy bồ chữ mà ghê thế” [23, tr.120]… Quả thực, giọng điệu
dân gian bình dị gắn với ngôn ngữ của làng quê, của những người nông dân
hiện lên thật tự nhiên trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Từ lời của
những người đàn bà, đến lời nói của các bậc cao niên trong làng… tất cả đều
hài hòa và đậm đà sắc màu của nông thôn Việt Nam.
Ngoài ra, rải rác trong ba tác phẩm là những giọng điệu khác nhau như:
giọng điệu hách dịch của bọn cường hào, ác bá, bọn chỉ điểm tay sai cho
quân Pháp, giọng điệu hùng hổ của đội Cải cách (tiêu biểu là nhân vật
đội Khoát), giọng điệu bi tráng, thống thiết khi chứng kiến những cái chết
đau đớn của người thân (như cái chết của nhà sư Phạm Sư Ôn trong cái nhìn
ai oán của Phạm Sinh, như cuộc thảm sát của Trần Khát Chân trong nỗi đau
khổ của Thanh Mai, như cuộc hành hình xử tội chết của cụ chánh Long
trong sự tuyệt vọng của cô Rêu…). Sự đan bện của các loại giọng điệu khác
nhau trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh đã tạo nên tính đa thanh, một đặc
trưng tiêu biểu của thi pháp tiểu thuyết đương đại.
99
KẾT LUẬN
Sau một thời gian vắng bóng trên văn đàn, khi trở lại, tên tuổi Nguyễn
Xuân Khánh trở thành một hiện tượng của tiểu thuyết lịch sử, văn hóa đương
đại. Chỗ đứng mà ông tạo dựng trong lòng công chúng yêu văn chương không
chỉ là kết quả của tài năng vốn có mà hơn hết, đó là thành quả của quá trình
lao động nghệ thuật nghiêm túc, say mê, vượt lên mọi khó khăn bằng bản lĩnh
và nghị lực mạnh mẽ. Những giá trị nghệ thuật đích thực đã đưa ông về đúng
với vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam hôm nay.
Bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa: Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội
gạo lên chùa đã cho thấy những sáng tạo trong tư duy tự sự của Nguyễn Xuân
Khánh. Nhà văn vừa nhận diện quá khứ, vừa đối thoại với quá khứ; vừa minh
định lịch sử, vừa suy ngẫm về lịch sử. Con người trong những sự kiện lịch sử,
chứ không phải bản thân các sự kiện lịch sử mới là tâm điểm chú ý của tác
phẩm. Sự đổi mới trong tư duy tự sự của Nguyễn Xuân Khánh biểu hiện tập
trung ở thi pháp nhân vật với mạch đề tài và cảm hứng lịch sử: nhà văn không
chỉ tái hiện những con người của thời đại lịch sử nhất định mà còn thể hiện ở
sức mạnh tinh thần, cảm quan lịch sử mang tâm thức thì hiện tại, nghĩa là
nhìn lịch sử bằng con mắt hiện tại. Nguyễn Xuân Khánh đứng trong tư thế
của con người hôm nay, trong bầu không khí cởi mở của thời kì đổi mới để
xây dựng nhân vật của mình. Vì vậy, đôi khi vấn đề của lịch sử không còn của
riêng quá khứ mà là của hiện tại, nhằm cảnh tỉnh những vấn đề sẽ diễn ra
trong đời sống xã hội.
Đặc điểm nổi bật, xuyên suốt bộ ba tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của
Nguyễn Xuân Khánh là tư duy đối thoại trong cái nhìn biện chứng với dòng
chảy lịch sử và văn hóa dân tộc. Những suy tư về di sản quá khứ, những
chiêm nghiệm về sức sống văn hóa dân tộc đã giúp nhà văn có cái nhìn sâu
sắc và thể hiện thành công nội dung này. V iết về lịch sử nhưng tiểu thuyết
100
của Nguyễn Xuân Khánh đã vượt qua mô hình cũ mà nghiêng về phương diện
văn hóa, đối thoại văn hóa, từ đó chở tải một thông điệp sâu sắc cho con
người hôm nay. Bởi suy cho cùng, mọi sáng tạo nghệ thuật tầm cỡ đều là
những tấm gương cho mỗi con người, mỗi xã hội soi ngắm chính mình, để
điều chỉnh những sai lạc và khích lệ những phẩm hạnh thanh cao.
Nghệ thuật trần thuật cũng là phương diện thể hiện rõ tư duy tự sự của
Nguyễn Xuân Khánh trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa. Với một tư duy
tiểu thuyết năng động, tác giả đã huy động vốn ngôn ngữ vừa phong phú đa
dạng, vừa là sản phẩm của đời sống mang ý nghĩa nhân sinh. Nó phản ánh
giọng điệu văn chương thông tục, đời thường mang hơi thở của đời sống và
tình yêu thương ấm áp với con người.
Với bộ ba tiểu thuyết của mình, Nguyễn Xuân Khánh đã thể hiện tài
năng của một nhà tiểu thuyết không chỉ có sở trường viết về lịch sử mà còn
viết về những vấn đề mang tính triết luận, văn hóa, phong tục. Bộ ba tiểu
thuyết lịch sử - văn hóa là dấu son quan trọng trong sự nghiệp của nhà văn.
Chúng là sản phẩm kết tinh từ vốn lịch sử - văn hóa, tư tưởng nghệ thuật và
năng lực tiếp cận thực tại tinh tế. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng có
thể góp một ý kiến nhỏ trong việc nghiên cứu những giá trị to lớn đó.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Lê Thị Huệ (2017), Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết
Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Khoa học (Khoa học Xã hội và
Giáo dục), Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 17/ tháng 7.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2000), Hồ Qúy Ly, Tạp chí Nhà văn số 6, Hà Nội
2. Lại Nguyên Ân (2002), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội
3. Hoàng Lan Anh (2006), Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nói về Mẫu thượng
ngàn, Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/index.php?
4. M.Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư (dịch),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
5. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư
Phạm, Hà Nội
6. Lê Thị Thanh Bình (2007), Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Về từ Miền
hoang tưởng Nguồn: http://antgct.cand.com.vn/vi VN/nhanvat/2007
7. Văn Chinh (2006), Lão mai Nguyễn Xuân Khánh vẫn rừng rực nở hoa,
Nguồn:http://vietnamtinhhoa.vn/lao-mai-nguyen-xuan-khanh-van-rung-ruc-
no-hoa/
8. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội
9. Nguyễn Văn Dân (2011), Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại, Văn nghệ số 11
10. Trương Đăng Dung (1994), Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mĩ
học của G.Lucas, Tạp chí Văn học số 5
11. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
12. Châu Diên (2006), Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc,
Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van hoc/150703/nguyen-xuan-
khanh-va-cuoc-gianh-lai-ban-sac.html
13. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Những
vấn đề lịch sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội
14. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
15. Nguyễn Đăng Điệp (Chủ biên) (2012), Lịch sử và văn hóa – Cái nhìn
nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ - Viện Văn học, Hà Nội
16. Nguyễn Đăng Điệp (2000), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền
trong văn học Việt Nam đương đại, Nguồn: http://phongdiep.net
17. Trung Trung Đỉnh (2001), Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho
tiểu thuyết lịch sử nước nhà, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 10
18. Hội nhà văn (2001), tiểu thuyết dòng chảy liên tục với thời gian, (Báo cáo
của Hội đồng chung khảo Cuộc thi Tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam
1998-2000), Văn nghệ, số 37
19. Hội nhà văn (2011), Nguyễn Xuân Khánh đội gạo lên chùa, (Tọa đàm
khoa học)
20. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
21. Mai Hương (2006), Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây
bút văn xuôi, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11
22. Nguyễn Xuân Khánh (2001), Hồ Qúy Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
23. Nguyễn Xuân Khánh (2007), Mẫu Thượng Ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
24. Nguyễn Xuân Khánh (2011), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
25. Nguyễn Xuân Khánh (2001), Về nghệ thuật viết tiểu thuyết, Báo Văn
nghệ, số 38
26. Nguyễn Xuân Khánh, Ngô Văn Phú (2003), “Viết tiểu thuyết lịch sử
cũng cần phải hư cấu”, Nguồn: http://vietbao.vn/Van-hoa/Viet- tieu-
thuyet-lich-su-cung-can-phai-hu-cau/20010382/181/
27. Kudenrra (2001), Nghệ thuật t i ể u thuyết, Nguyên Ngọc (dịch), Nxb
Văn hóa Thông tin, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội
28. Hoàng Thị Hiền Lương (2010), Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
qua góc nhìn trần thuật học, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Hà Nội
29. Hồng Minh (2011), Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: “Viết cũng tùy duyên”,
Nguồn:http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dien-dan
30. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945
đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội
31. Hoài Nam (2008), Bàn về tiểu thuyết lịch sử, Văn nghệ số 45
32. Nguyên Ngọc (2006), Một cuốn tiểu thuyết hay về văn hóa Việt,
Nguồn:http://tusach.tuoitre.vn
33. Phạm Xuân Nguyên (2006), Mẫu thượng ngàn – nội lực văn chương của
Nguyễn Xuân Khánh, Nguồn: http://vtc.vn/13-3597/giai-
34. Phạm Xuân Nguyên (2001),Đọc Hồ Quý Ly, Tạp chí Tia sáng, số 1
35. Nhiều tác giả (2000), Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly,Văn nghệ,số 41
36. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội
37. Nhiều tác giả (2010), Đại Việt sử ký toàn thư (4 tập), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội888
38. Nhiều tác giả (1983), Số phận tiểu thuyết,Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
39. Nhiều tác giả (2013), Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Xuân Khánh,
Báo Hà Nội mới, số Xuân Quý Tị 2013
40. Nhiều tác giả (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà
Nẵng
41. Nhiều tác giả (2005), Từ điển Bách Khoa toàn thư, Nxb Từ điển Bách
Khoa
42. Nhiều tác giả (2013), Từ điển Triết học, Nxb Tri Thức
43. Mai Hải Oanh (2008), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại giai đoạn 1986-2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
44. Nguyễn Danh Phiệt (1997), Hồ Quý Ly, Viện Sử học và Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội
45.Yves Reuter (2010), Dẫn nhập phân tích tiểu thuyết, bản dịch của Phạm
Xuân Thạch
46. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và
lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội
47. Phạm Toàn (2008), Đọc Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Báo Xưa
và Nay
48. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội
49. Tống Thị Thanh (2010), Những đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh vào
tiến trình Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua 2 tác phẩm Hồ Quý
Ly và Mẫu thượng ngàn), Luận văn Thạc sĩ Văn học, Hà Nội
50. Phạm Xuân Thạch (2006), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại - Suy nghĩ từ
những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử, Nguồn: https://thachpx/tựsựlịchsử
51. Phạm Xuân Thạch, Quá trình cá nhân hóa hư cấu, Tự sự đương
đại Việt Nam về đề tài lịch sử, giữa truyền thống và hiện đại, Nguồn:
https://sites.google.com/site/thachpx/cánhânhóahưcấu
52. Phạm Xuân Thạch (2006), Tiểu thuyết như là trạng thái tìm kiếm ý
nghĩa của đời sống (Đọc Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Nxb Đà Nẵng,
2006), Văn nghệ, số
53. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Con mắt xanh (Tiểu luận - phê bình), Nxb
Thanh niên, Hà Nội
54. Narada Thera (1991), Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh
dịch, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh
55. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11
56. Nguyễn Văn Tùng (Biên soạn) (2008), Tuyển tập các bài viết về tiểu
thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội
57. Đinh Công Vĩ (2000), Về tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân
Khánh, tham luận đọc tại Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ
58. Đỗ Ngọc Yên, (2000), Hồ Quý Ly, cách tân hay bạo chúa, Tạp chí
Sông Hương, số 10