BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

LÊ THỊ HUỆ

TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ -

VĂN HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH

HÀ NỘI - 2017

Lời cảm ơn

Lời đầu tiên, tôi xin bảy tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS

Nguyễn Thị Tuyết Minh, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình

thực hiện và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà

Nội 2, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn và các thầy, cô giáo Bộ môn Văn học

Việt Nam đã tham gia giảng dạy, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn khoa học,

đóng góp ý kiến quý báu và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như

trong quá trình thực hiện luận văn.

Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã cổ vũ, động viên

và tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để tôi hoàn thành tốt chương trình học

tập và nghiên cứu.

Hà Nội, tháng 10 năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Thị Huệ

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này

là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan

rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các

thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Lê Thị Huệ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8

6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 8

7. Cấu trúc luận văn...........................................................................................8

CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT VỀ TƯ DUY TỰ SỰ VÀ TIỂU THUYẾT

LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH ............................. 9

1.1. Giới thuyết về tư duy tự sự ..................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm tư duy ................................................................................. 9

1.1.2. Khái niệm tư duy tự sự ...................................................................... 12

1.1.3. Những phương diện cơ bản của tư duy tự sự ..................................... 14

1.2. Giới thuyết về tiểu thuyết lịch sử .......................................................... 19

1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử ............................................................. 19

1.2.2. Đặc trưng thể loại .............................................................................. 22

1.2.3. Tiểu thuyết lịch sử trong đời sống tiểu thuyết Việt Nam đương đại .... 23

1.3. Nguyễn Xuân Khánh và thể loại tiểu thuyết lịch sử - văn hóa ................ 25

1.3.1. Nguyễn Xuân Khánh và hành trình viết văn nửa thế kỉ ....................... 25

1.3.2. Tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh trong dòng chảy

tiểu thuyết thế kỉ XXI ................................................................................... 27

CHƯƠNG 2.TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN

HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN ........ 31

ĐỀ TÀI, CẢM HỨNG, NHÂN VẬT ........................................................... 31

2.1. Đề tài lịch sử - văn hóa và thông điệp thế sự ......................................... 31

2.2. Cảm hứng lịch sử - văn hóa và suy tư thế sự .......................................... 36

2.3. Nhân vật lịch sử - văn hóa ..................................................................... 45

2.3.1. Nhân vật lịch sử .................................................................................. 47

2.3.2. Nhân vật văn hóa ................................................................................ 56

CHƯƠNG 3. TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN

HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ

THUẬT TRẦN THUẬT .............................................................................. 72

3.1. Điểm nhìn trần thuật .............................................................................. 72

3.1.1. Sử dụng linh hoạt điểm nhìn ............................................................... 72

3.1.2. Điểm nhìn có sự chuyển dịch từ ngoài vào trong ................................ 77

3.2. Ngôn ngữ và các biểu tượng .................................................................. 81

3.2.1. Sự đan xen ngôn ngữ lịch sử với ngôn ngữ đời sống........................... 82

3.2.2. Sử dụng các biểu tượng ...................................................................... 86

3.3. Giọng điệu đa âm ................................................................................. 91

KẾT LUẬN .................................................................................................. 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giữa sự đa dạng của đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ

XXI, dòng tiểu thuyết lịch sử - văn hoá đã đóng góp những thành tựu quan

trọng với những tên tuổi như Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn

Mộng Giác... Họ đã kiến tạo một giá trị mới cho tiểu thuyết Việt Nam, trong

đó, Nguyễn Xuân Khánh là tác giả đạt được nhiều thành công. Bộ ba trường

thiên tiểu thuyết Hồ Qúy Ly (2000), Mẫu Thượng Ngàn (2006) và Đội gạo lên

chùa (2011) đã cho thấy một trong những chân dung tiểu thuyết gia hàng đầu,

trong chân dung một nhà văn hóa.

Tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh thu hút sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Năm 2012, Nhà xuất bản

Phụ nữ phối hợp với Viện Văn học Việt Nam tổ chức Hội thảo “Lịch sử và

văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh”. Hội thảo đã thu hút được

trên 20 bài viết với những kiến giải khác nhau về nghệ thuật tiểu thuyết của

Nguyễn Xuân Khánh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện

Văn học khẳng định:“ Ngày nay người ta coi tiểu thuyết lịch sử như một diễn

ngôn văn hóa nghệ thuật. Vì thế, mỗi nhà văn phải tạo ra một tư tưởng, cái

nhìn riêng của anh ta về lịch sử, gắn liền với nó là một thi pháp nghệ thuật...

Thông qua hiện tượng Nguyễn Xuân Khánh đặt ra một vấn đề sâu hơn, đó là

sự đổi mới tư duy nghệ thuật, diễn ngôn lịch sử, làm cho tiểu thuyết lịch sử

của Việt Nam phong phú hơn, khiến người ta yêu lịch sử hơn, biết hưởng thụ

lịch sử trên tinh thần nhân văn hiện đại” [15].

Khảo sát tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng

tôi nhận thấy, dường như có một dòng chảy liên tục trong tư duy tự sự của

nhà văn. Nếu Hồ Quý Ly hướng đến khai thác nhân vật lịch sử và kiến giải về

con đường lựa chọn lịch sử khi vận nước đòi hỏi phải canh tân đổi mới, thì

2

Mẫu Thượng Ngàn lại hướng đến khai thác vấn đề vấn đề phong tục - nguồn

cội của sức sống dân tộc, và Đội gạo lên chùa hướng đến lí giải vấn đề tôn

giáo trong tình huống con người phải lựa chọn con đường tu thân và cách ứng

xử tùy duyên.

Lựa chọn nghiên cứu đề tài Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử, văn

hóa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi mong muốn làm rõ hơn những đóng

góp của nhà văn đối với dòng tiểu thuyết lịch sử - văn hóa nói riêng và văn

xuôi Việt Nam đương đại nói chung.

2. Lịch sử vấn đề

Nối tiếp mạch truyền thống, tiểu thuyết lịch sử đương đại có nhiều tác

phẩm gây chú ý với người đọc, có những năm đã từng tạo nên “cơn sốt” trong

đời sống văn học. Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của

Nguyễn Xuân Khánh là những tác phẩm nằm trong số đó. Cả ba cuốn tiểu

thuyết sau khi xuất hiện trên văn đàn đã gây xôn xao dư luận và trở thành hiện

tượng văn học nổi bật. Bộ ba tiểu thuyết này giành được nhiều giải thưởng

danh giá: Hồ Quý Ly giành được 4 giải (Giải thưởng Cuộc thi tiểu thuyết

1998- 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội

2001; Giải thưởng Mai vàng của báo Người lao động 2001; Giải thưởng

Thăng Long của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội 2002); Mẫu Thượng

Ngàn có 2 giải (Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2006; Giải thưởng văn hoá

Doanh nhân 2007); Đội gạo lên chùa xuất bản đầu năm 2011, đầu năm 2012

đã được trao ngay Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Ba cuốn tiểu thuyết

của Nguyễn Xuân Khánh cũng là những đầu sách bán chạy của thập niên đầu

thế kỉ XXI: Hồ Quý Ly đã tái bản 11 lần; Mẫu Thượng Ngàn tái bản 7 lần;

Đội gạo lên chùa đã tái bản 4 lần.

Những vấn đề Nguyễn Xuân Khánh đặt ra trong tác phẩm cũng như

cách nhà văn chiêm nghiệm về lịch sử, văn hóa trong cả ba cuốn tiểu thuyết

3

đã trở thành mối quan tâm của đông đảo bạn đọc và các nhà phê bình, nghiên

cứu. Có thể kể những công trình tiêu biểu sau đây:

Lại Nguyên Ân nhận định: “Tác giả Nguyễn Xuân Khánh vừa khai thác

tối đa các nguồn sử liệu, văn liệu hiện còn, vừa phóng khoáng trong những hư

cấu tạo một thực tại tiểu thuyết vừa tương đồng với những thông tin còn lại về

một thời đã lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác giả”

[1].

Phạm Toàn nhận xét: “Nguyễn Xuân Khánh không vì viết về lịch sử

mà lệ thuộc vào sự việc, không rơi vào việc dùng “tiểu thuyết” chỉ để viết lại

thông sử nước nhà theo một cách khác” [47].

Đỗ Ngọc Yên khẳng định:“ Qua Hồ Qúy Ly, Nguyễn Xuân Khánh

không chỉ mang đến cho thể loại lịch sử một sinh khí còn nâng vị thế của nó

lên một tầm cao mới về nội dung, đề tài, chủ đề và hình thức thể hiện.

Nguyễn Xuân Khánh đã vượt lên trên những sự kiện lịch sử, thổi vào đó

luồng cảm xúc thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo, làm cho các sự kiện ấy trở nên

sống động hơn, gây hứng thú cho bạn đọc...”[58].

Nhà văn Hồ Anh Thái nhận xét: “Cuốn sách làm tốt hai yếu tố: tiểu

thuyết và lịch sử. Nhân vật và không khí lịch sử sinh động, có hồn, chuyển tải

được những vấn đề cốt lõi của lịch sử và thời đại. Viết về một nhân vật lịch sử

chủ trương đổi mới ráo riết tìm cách phế bỏ một chính thể cũ nát lỗi thời,

quyết tâm xây dựng một xã hội mới bằng phương pháp tàn bạo, hà khắc, thậm

chí tàn khốc, Nguyễn Xuân Khánh đã có được thái độ khách quan của một

nhà tiểu thuyết và của người khảo sát lịch sử. Cũng trong việc lựa chọn viết

về Hồ Qúy Ly và thời đại của ông, tác giả chọn được một phương tiện tốt để

gửi gắm nhiều tâm sự của trí thức hôm nay về thời cuộc” [35].

Nhà văn Trung Trung Đỉnh có ý kiến sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết

Hồ Qúy Ly “ không chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã tự lựa chọn

4

được cho mình một thế đứng vững chắc và một thế đứng với tư thế của một

nhà tiểu thuyết trước những vấn đề hôm qua và hôm nay”.[17]

Trong hội thảo về tiểu thuyết Hồ Qúy Ly do Hội Nhà văn tổ chức đã có

nhiều ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình [35]

Tham luận của Vũ Bão: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh không đi theo

vết chân đi trước. Ông rẽ trái, đạp đá tai mèo, dẫn nhân vật băng qua những

miền đất mới. Ông không buông mình trôi theo dòng cháy lịch sử. Ông cắt

ngang cuộc sống đầy biến động, tìm những nét tinh tế trong tính cách nhân

vật, giành không gian cho nhân vật hoạt động...

Hoàng Quốc Hải nêu bật cảm tưởng về tiểu thuyết Hồ Qúy Ly:

“đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc bám sát chính sử. Văn

chương mượt mà, có sức cuốn hút đọc hết hơn 800 trang vẫn muốn đọc lại”.

Theo ông, “ tư tưởng chủ đề của tiểu thuyết Hồ Qúy Ly xoay quanh ba chữ

“thời thiên túy” mà tác giả đã khéo léo đề cập...”. Cũng trong tham luận này,

Hoàng Quốc Hải nêu ra những nguyên nhân dẫn cuốn sách đến thành công

như chọn được thời điểm lịch sử, nhân vật mà mình yêu thích và nghiền ngẫm

cả cuộc đời, tạo được cảm hứng tự do, gạt ra mọi ràng buộc, thể hiện tính

công bằng lịch sử.

Ý kiến của Nguyên Ngọc cho rằng “lâu lắm rồi mới có một cuốn tiểu

thuyết chững chạc như thế này. Chọn thời đại Hồ Qúy Ly, nhân vật Hồ Qúy

Ly là đúng. Tác giả nói được nhiều điều và nói được sâu sắc bởi cách chọn

này.”

Châu Diên “nêu ra ba ưu điểm của cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly: không

né tránh vấn đề gay cấn, xử lí vấn đề tài tình, sự ảo tưởng tích cực của tác giả

thể hiện trong tác phẩm”.

Trịnh Đình Khôi nhấn mạnh một số phẩm chất tiêu biểu: Cuốn sách rất

có văn. Lâu nay ta chú ý truyện nhiều hơn văn. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa hiện

5

đại... Tác phẩm giải quyết thỏa đáng nhiều vấn đề lịch sử mà vẫn nóng hổi ý

nghĩa hiện đại: các mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, giữa giới cầm

quyền và trí thức, giữa chính trị và văn học.

Đỗ Hải Ninh đã chỉ ra: “các nhân vật, sự kiện lịch sử...không đơn nghĩa

mà trở nên đa diện khi được soi chiếu từ nhiều góc độ. Nhà văn đặt nhân vật

trong mối quan hệ phức tạp của gia đình và xã hội”. Thế giới trong tiểu thuyết

của ông là “ con người của đời thực, con người của cuộc sống thường ngày”,

“đều ở trong thế lưỡng cực, đa trị”. Tuy nhiên ở mỗi tác phẩm, nhà văn lại tập

trung vào một kiểu nhân vật riêng: “Ở Hồ Qúy Ly, nhà văn chú ý đến những

nhân vật có thật của lịch sử, những hình tượng đậm nét để đi đến cái phổ quát

của con người. Cuộc đời các nhân vật lịch sử cũng như mỗi biến cố, sự kiện

chỉ là cái chớp mắt của ngàn năm nhưng nhà văn đã lưu giữ lại những khoảnh

khắc đó, tạo dựng thành hình tượng nghệ thuật giàu sức sống như Hồ Qúy Ly,

Hồ Nguyên Trừng, Trần Nghệ Tôn, Trần Khát Chân,... Mẫu Thượng Ngàn lại

hướng tới những nhân vật hư cấu, vô danh trong lịch sử để dệt lên bức tranh

rộng lớn về văn hóa Việt”. [15]

Năm 2006 Mẫu Thượng Ngàn ra mắt bạn đọc và lập tức trở thành đối

tượng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình với hàng loạt các bài

viết như: Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng

Ngàn của tác giả Trần Thị An (Tạp chí Văn học, số 6/2007); Tác giả Bùi Kim

Ánh với bài viết Đạo mẫu trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn

(http:nguvan.hue); Bài viết Sức quyến rũ của Mẫu Thượng Ngàn của tác giả

Vũ Hà (http://hoilhpn.org.vn); Bài viết Mẫu Thượng Ngàn và nội lực văn

chương của Nguyễn Xuân Khánh (trao đổi giữa Việt Báo với nhà nghiên cứu

phê bình Phạm Xuân Nguyên); Bài viết Nguyễn Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn

tiểu thuyết mới (của tác giả Quỳnh Châu, http://vnca.cand.com.vn); Bài viết

Nguyên lý tính mẫu trong truyền thống văn học Việt của Dương Thị Huyền

6

(http://vannghequandoi.com.vn); Bài viết Mẫu Thượng Ngàn cơ duyên của

Nguyễn Xuân Khánh của Hòa Bình (http://www.vtc.vn); Bài viết Nơi bắt đầu

Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (Báo Tiền Phong cuối tuần, số

11/2007); Bài viết Một cuốn tiểu thuyết hay về văn hóa Việt của nhà văn

Nguyên Ngọc (in trên Việt Báo)...

Ngay sau khi xuất bản, tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cũng thu hút mạnh

mẽ giới nghiên cứu và bạn đọc. Tháng 6 năm 2011, Hội Nhà văn Hà Nội tổ

chức Tọa đàm khoa học “Nguyễn Xuân Khánh đội gạo lên chùa” [19]. Nhiều

nhà phê bình cũng có những tham luận tập trung vào vệc tìm hiểu vấn đề Phật

giáo trong đời sống văn hóa Việt Nam đã được kiến giải trong tác phẩm. Nhà

nghiên cứu Nguyễn Văn Tùng khai thác Cảm hứng Phật giáo [56]; nhà

nghiên cứu Nguyễn Thị Minh Thái tìm hiểu đặc điểm đạo Phật Việt Nam ở

vấn đề Tùy duyên [53]; Phạm Xuân Thạch coi tiểu thuyết này là Một tiếng gọi

khẩn thiết của cái thiện [50]… Sự phân tích, đánh giá của các nhà nghiên cứu,

phê bình đã cho thấy sự đón nhận trân trọng dành cho bộ ba tiểu thuyết của

Nguyễn Xuân Khánh.

Ngoài những bài viết ở trên, còn một số khóa luận Cử nhân, luận văn

Thạc sĩ đi vào tìm hiểu đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh thông

qua một hoặc cả bộ ba tác phẩm. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công

trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về tư duy tự sự trong tiểu thuyết

lịch sử , văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh. Đó là khoảng trống để chúng tôi

đi sâu nghiên cứu đề tài luận văn của mình. Chúng tôi xem ý kiến của các nhà

nghiên cứu đi trước là những gợi ý quan trọng để tập trung làm rõ tư duy tự

sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

7

Lựa chọn đề tài Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử, văn hóa của

Nguyễn Xuân Khánh, mục đích chúng tôi muốn khái quát những đặc điểm nổi

bật trong phong cách tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, cả về phương diện nội

dung và nghệ thuật. Qua đó thấy được những đóng góp riêng của nhà văn ở

một đề tài không mới như tiểu thuyết lịch sử.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu quan niệm của nhà văn Nguyễn

Xuân Khánh về hai yếu tố lịch sử và tiểu thuyết, cùng với sự kết hợp giữa lịch

sử và văn hóa để từ đó thấy được ý nghĩa nhà văn gửi gắm trong cả ba cuốn

tiểu thuyết của mình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung làm rõ tư duy tự sự trong

bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo

lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh. Cụ thể là các phương diện đề tài, cảm

hứng, nhân vật và nghệ thuật trần thuật.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chính là ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly (NXB Phụ

nữ, 2000), Mẫu Thượng Ngàn (NXB Phụ nữ, 2006) và Đội gạo lên chùa

(NXB Phụ nữ, 2011) của Nguyễn Xuân Khánh. Ngoài ra, để làm nổi bật

những nét mới về tư duy nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi còn tiến hành so

sánh với một số tiểu thuyết lịch sử khác.

5. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên

cứu sau: phương pháp loại hình, phương pháp khảo sát, thống kê, phương

pháp liên ngành, phương pháp phân tích, tổng hợp.

8

Ngoài ra, chúng tôi cũng vận dụng một số quan điểm của thi pháp học

hiện đại vào việc phân tích tác phẩm để chỉ ra những đóng góp của Nguyễn

Xuân Khánh qua bộ ba tiểu thuyết lịch sử - văn hóa.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu về tư duy tự sự của

Nguyễn Xuân Khánh để thấy được đóng góp của nhà văn đối với thể loại tiểu

thuyết lịch sử - văn hóa. Qua khảo sát, phân tích bộ ba trường thiên tiểu

thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa, chúng tôi muốn

góp thêm một tiếng nói khẳng định tài năng của một nhà văn - một nhà văn

hóa - một nhà lịch sử Nguyễn Xuân Khánh đối với văn đàn Việt Nam đương

đại.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

được kết cấu gồm ba chương

- Chương 1: Giới thuyết về tư duy tự sự và tiểu thuyết lịch sử - văn hóa

của Nguyễn Xuân Khánh

- Chương 2: Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của

Nguyễn Xuân Khánh - nhìn từ phương diện đề tài, cảm hứng, nhân vật.

- Chương 3: Tư duy tự sự trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của

Nguyễn Xuân Khánh - nhìn từ phương diện nghệ thuật trần thuật.

9

CHƯƠNG 1

GIỚI THUYẾT VỀ TƯ DUY TỰ SỰ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH

SỬ - VĂN HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

1.1. Giới thuyết về tư duy tự sự

1.1.1. Khái niệm tư duy

Chúng ta đang sống ở thế kỉ XXI, “thế kỉ của vốn trí tuệ”. Trong thời

đại bùng nổ công nghệ thông tin, con người để thích nghi và tồn tại cần phải

học rất nhiều thứ. Vậy làm sao để con người có thể làm chủ được vốn kiến

thức của bản thân và chiếm lĩnh tri thức nhân loại một cách tốt nhất? Điều ấy

đòi hỏi mỗi cá nhân phải nỗ lực không ngừng trong việc rèn luyện và phát

triển tư duy - nguồn gốc của mọi vấn đề.

Tư duy là phạm trù triết học, chỉ những hoạt động tinh thần làm cho

con người có nhận thức và ứng xử đúng đắn. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt

Nam quan niệm: “Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một

cách đặc biệt - bộ não con người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách

quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận” [41]. Trong triết

học duy tâm, tư duy là sản phẩm của “ý niệm tuyệt đối" với tư cách là bản

năng siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất. Triết học duy vật

biện chứng cho rằng, tư duy là một trong các đặc tính của vật chất phát triển

đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng: "Vận động kiểu tư

duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển vào và được

cải tạo/tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh" [42].

Tư duy là sự phát triển cấp cao của nhận thức, là kết quả của nhận thức.

Xuất phát điểm của nhận thức là những cảm giác, tri giác và biểu tượng...

được phản ánh từ thực tiễn khách quan với những thông tin về hình dạng,

hiện tượng bên ngoài được phản ánh một cách riêng lẻ. Giai đoạn này được

10

gọi là tư duy cụ thể. Ở giai đoạn sau, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt động tư

duy tiến hành các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu biệt,

quy nạp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào mối liên hệ phổ biến, lọc bỏ

những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự việc để tìm ra nội dung và bản

chất của sự vật, hiện tượng, quy nạp nó thành những khái niệm, phạm trù,

định luật... Giai đoạn này được gọi là giai đoạn tư duy trừu tượng.

Có thể thấy, tư duy là sản phẩm của một cơ quan vật chất sống có tổ

chức cao là bộ óc con người; được hình thành trong quá trình hoạt động thực

tiễn của con người. Hiện thực khách quan là đối tượng của tư duy và quyết

định hoạt động tư duy của con người. Do vậy, con người tác động đến thế giới

hiện thực như thế nào thì sẽ có những hình thức nhận thức như thế đó. Giữa

tư duy và sự phát triển của hoạt động thực tiễn con người có sự gắn bó chặt

chẽ và liên hệ biện chứng với nhau. Muốn có tư duy phải có hoạt động thực

tiễn. Ngược lại, muốn hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao thì phải có tư duy.

Khi chỉ ra sự phát triển của tư duy phụ thuộc vào sự phát triển của thực tiễn,

Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như

triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với

tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác, chỉ biết có

tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ

một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và

trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song

song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [42].

Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái

quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Ở giai đoạn nhận thức bằng tư

duy, sự vật được phản ánh một cách gián tiếp và khái quát trong các khái

niệm, phán đoán và suy lý. Xét về bản tính, tư duy là một quá trình sáng tạo.

Nói đến tính sáng tạo của tư duy là nói đến sự hình thành tri thức mới về các

11

mối liên hệ và quan hệ, về tính quy luật khách quan chi phối sự phát triển của

các sự kiện và quá trình lịch sử, về bản chất của các khách thể vi mô, cũng

như về diễn biến của hiện thực. Trên con đường nhận thức chân lý, chủ thể tư

duy không chỉ biết đặt ra các vấn đề mới, mà còn giải quyết chúng bằng

những phương pháp thích hợp. Đồng thời, đó cũng là quá trình chủ thể tư duy

huy động một cách sáng tạo vốn tri thức phong phú đã có, bao gồm cả kinh

nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp; huy động không chỉ tri thức lý luận

chung, mà cả sự am hiểu cần thiết, cụ thể về những lĩnh vực "có vấn

đề". Thiếu vốn tri thức phong phú của cuộc sống sẽ không có tư duy sáng

tạo. Ngoài ra, trong sự sáng tạo của tư duy ở trình độ lý luận khoa học cao còn

có sự tham gia tích cực của tưởng tượng và trực giác. Các tư tưởng, quan

niệm, lý thuyết khoa học... do tư duy sáng tạo ra cũng như bản thân tư duy có

sự biến đổi, phát triển là do thực tiễn lịch sử - xã hội quyết định. Điều này

không loại bỏ tính độc lập tương đối của tư duy. Tư duy có lôgíc phát triển

nội tại riêng, chịu sự chi phối của các quy luật (quy tắc, nguyên tắc) riêng.

Từ điển triết học khẳng định: " Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt

động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh thực tại một cách

gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật thực tại" [42]. Tư duy

giúp chúng ta nhận thức các sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất

chứ không phải là sự hiểu biết riêng lẻ, tách rời của các yếu tố, các bộ phận

của sự vật, hiện tượng. Tư duy trừu tượng là quá trình phản ánh thế giới một

cách gián tiếp, khái quát nhờ ngôn ngữ. Ở đây, các từ, cụm từ hay ngôn ngữ

nói chung, trong khi là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, diễn đạt các khái

niệm, phán đoán, suy lý, quy luật, lý thuyết, đã có tính chất khái quát và bao

hàm cái chung. Do vậy, ngôn ngữ càng phát triển, vốn từ vựng càng phong

phú thì tư duy gắn liền với nó càng linh hoạt, mềm dẻo, phản ánh càng sâu

sắc, chính xác và đầy đủ các mối liên hệ đa dạng, phức tạp của thế giới.

12

Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Nói đến văn

học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm

mĩ. Lý luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị trí thẩm mĩ lên hàng đầu, song

cái bản chất nhận thức của văn học vẫn là điều khẳng định. Hình tượng văn

học với tư cách sản phẩm nhận thức nghệ thuật, là sự thống nhất sinh động

giữa cái chung với cái riêng, cái cá biệt. Vì vậy, khi nghiên cứu bản chất nhận

thức của văn học, nhất thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học,

phải giải thích cái lô gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà văn

hư cấu và gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng như tình cảm chủ

quan của chủ thể nhận thức và sáng tạo, những điều mà nhận thức khoa học

nói chung không chấp nhận. Vậy để hiểu được những gì nhà văn muốn nói,

không cách nào khác là người đọc phải tìm ra tư duy của nhà văn, tìm ra

những ẩn ý đằng sau lớp vỏ bọc ngôn từ của tác phẩm.

1.1.2. Khái niệm tư duy tự sự

Phạm vi của tác phẩm tự sự hết sức rộng lớn và có thể được phân loại ở

nhiều góc độ khác nhau. Dựa vào hình thức lời văn, có thể nói tới các thể loại

cơ bản như anh hùng ca (sử thi), truyện thơ, trường ca (văn vần), tiểu thuyết,

truyện vừa, truyện ngắn (văn xuôi), ngụ ngôn (thường dùng cả hai hình thức

văn vần và văn xuôi). Dựa vào nội dung thể loại, có thể phân thành các tác

phẩm có chủ đề dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tư... Trong luận văn này, chúng

tôi đề cập đến tư duy của thể loại tiêu biểu nhất trong loại tác phẩm tự sự đó

là tư duy tiểu thuyết.

Tư duy tiểu thuyết, trước hết là khái niệm dùng trong văn học, dùng

trong phạm vi thể loại tiểu thuyết. Chính vì sự đặc hữu này mà ta thường thấy

xuất hiện kiểu gọi tên: truyện ngắn mang chất tiểu thuyết hay truyện ngắn

mang tư duy tiểu thuyết. Khái niệm này dùng trong tiểu thuyết chủ yếu tập

trung ở tính chất: sự dài hơi. Khái niệm tư duy tiểu thuyết không chỉ dùng ở

13

phạm vi tiểu thuyết với tư cách là thể loại đã sản sinh ra khái niệm (nghĩa

hẹp) mà còn được hiểu là hệ hình (paradigme, cách hiểu và vận dụng của

Trần Đình Sử) tư duy (theo nghĩa rộng). Theo sự xác định của Milan

Kundera, khái niệm này ra đời trong thời hiện đại và nói đến tư duy tiểu

thuyết là nói đến tâm thế trước hiện thực hiện hữu, nó là cái nhìn xóa bỏ

khoảng cách (không chỉ hiểu ở nghĩa vật chất là khoảng không gian) giữa chủ

thể và đối tượng. Nói một cách dễ hiểu, nếu tư duy sử thi biểu hiện một

khoảng cách lí tưởng giữa chủ thể và đối tượng mà theo M, Bakhtin là

“khoảng cách sử thi” [4], biểu hiện tâm thế của kẻ con cháu trước ông, cha,

đấng bậc thì tư duy tiểu thuyết thay thế nó bằng cái nhìn bình đẳng, nhiều

chiều từ đó đem đến một cách tư duy hoàn toàn mới mẻ.

Tư duy tiểu thuyết có nguồn gốc từ triết học đời sống, nghĩa là khi có

nhận thức về con người, về cuộc sống. Những biến động của cuộc đời, của

ngoại giới, nhất là những biến động trong lòng người, điển hình cho điều đó

là những biến thái đang diễn ra trong kiếp hiện sinh là những việc con người

không thể lường trước được. Tư duy tiểu thuyết là phản ánh cái đang diễn ra,

cái hiện thực chưa hoàn thành. Nó nhìn nhận sự vật, con người cũng tương

đối với vô vàn giá trị, khoảnh khắc, do đó tư duy tiểu thuyết đưa đến sự giác

ngộ về cá nhân, thức tỉnh ý thức bình đẳng và dân chủ; tư duy tiểu thuyết

không khẳng định khoảng cách giữa chủ thể và sự vật, thừa nhận giá trị được

nhìn thấy là giá trị tương đối, có góp phần của màu sắc cá nhân, của sự cảm

thụ cá nhân. Điều này đã dẫn đến hệ quả là sự phong phú của tính cách mà

phản ánh rõ nét nhất là trong văn chương: nhiều cách viết của nhiều người, có

thể viết về một đối tượng nhưng ở mỗi cây bút là mỗi sự khám phá khác biệt,

không trùng lặp.

Đặc điểm về tư duy tiểu thuyết là sự trần thuật không khoảng cách, nói

khác đi là sự trần thuật ở điểm nhìn hiện tại, ở cái chưa hoàn thành. Giọng

14

điệu và ngôn ngữ có sự đan xen, sự dịch chuyển không có quy tắc, là chất

giọng của ngôn ngữ đời thường vốn sinh động và giàu sắc thái. Sự bất định,

dự cảm của tác giả về cuộc đời (theo Milan Kundera là sự hiển minh của

lưỡng lự), của cái tôi thử nghiệm của tác giả trong hành trình tác phẩm; có thể

bắt gặp trong tác phẩm những bất trắc, những sự không đoán lường, những

chân thật của cõi lòng kiếp hiện sinh. Với việc khẳng định tính đa chân lý,

xóa bỏ khoảng cách, khẳng định cá nhân như đã nói trên, tư duy tiểu thuyết đã

làm cho văn học mở rộng đề tài, chủ đề, tránh được sự nhàm chán đơn điệu,

tác phẩm trở nên phong phú.

1.1.3. Những phương diện cơ bản của tư duy tự sự

Nhìn vào tiến trình của văn xuôi Việt Nam hiện đại, chúng ta có thể

nhận thấy tính phong phú, phức tạp của thi pháp tự sự, của nghệ thuật tự sự

trong tất cả các thể loại của nó: vừa như là định hình vừa như là luôn vận

động biến đổi. Đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, với sự luân chuyển của các

ngôi kể cùng sự đan xen của các điểm nhìn; với sự phong phú, đa dạng các

giọng điệu trần thuật cùng sự pha trộn, chuyển đổi bất ngờ các loại lời người

trần thuật đã tạo nên sự mới mẻ về cấu trúc thể loại của tiểu thuyết.

Một vấn đề đặt ra đối với văn học nước ta từ sau 1975 nhu cầu đổi mới

cách nghĩ, cách viết, đổi mới để tồn tại và phát triển là một vấn đề có thật và

cấp thiết. Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, trở về với quỹ đạo cuộc

sống thời bình, văn xuôi dường như vẫn theo dòng chảy cũ khiến công chúng

bạn đọc tỏ ra hờ hững, sự nỗ lực của nhà văn không mấy hiệu quả, văn học

dường như dậm chân tại chỗ. Đại hội Đảng lần thứ VI đã thật sự đem lại niềm

tin, sức mạnh cho toàn dân, làm điểm tựa để văn học chuyển mình mạnh mẽ

và mới mẻ. Đảng nhận định phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới

cách nghĩ, cách làm. Sự giao lưu rộng rãi với các nước phương Tây là một

15

thuận lợi để văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo trong sáng tác của mình. Những

phương diện của tư duy cũng vì thế có sự thay đổi đáng kể.

Từ đầu thập kỉ 80, văn xuôi nước ta chuyển sang cảm hứng thế sự, đời

tư (trên thực tế những tác phẩm viết viết theo cảm hứng sử thi vẫn còn nhưng

khá mờ nhạt và không gây được tiếng vang lớn). Cảm hứng thế sự mang lại

cho văn xuôi nhiều chất tiểu thuyết hơn, trước hết ở khả năng chiếm lĩnh con

người ở góc độ đời tư. Nếu cảm hứng sử thi quy chiếu mọi vấn đề đời sống về

hiện thực lịch sử thì cảm hứng thế sự tìm đến hiện thực con người, quy chiếu

về số phận con người với những quan hệ xung quanh sự tồn tại của nó. Với

cái nhìn thế sự, đời sống của cá nhân, kinh nghiệm cá nhân mới được coi là

đối tượng khám phá chủ yếu, bởi mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư, độc

đáo, cá biệt. Theo M. Bakhtin, cá nhân tự phân biệt mình không phải bằng “vị

trí” và “số phận” khác nhau mà bằng những “chân lí” và “lẽ phải” khác nhau

[4]. Niềm tin riêng của con người quy định mọi mặt của nó, cái nhìn sử thi

không bao quát được điều này.

Phương diện thứ hai của tư duy tự sự là cơ cấu đề tài cũng có sự biến

đổi. Trước 1975, đề tài về gia đình, tình yêu, hạnh phúc, số phận cá nhân

không nhiều, dù có thì hướng xử lí hiện thực ở những tác phẩm này vẫn bị chi

phối bởi tiêu chí cộng đồng. Sau 1975, cuộc sống thời bình với nhu cầu cân

bằng lại trạng thái của con người sau chiến tranh nên sự quan tâm của cả bạn

đọc và nhà văn dịch chuyển nhiều hơn sang mảng đề tài đời tư. Nhà nghiên

cứu Nguyễn Thị Bình nhận xét: “Chưa bao giờ trong văn học nước ta, gương

mặt của hạnh phúc và tình yêu muôn vẻ được biểu hiện phong phú đến thế và

những bi kịch do tình yêu cũng chưa bao giờ được đề cập nhiều đến thế, riết

róng đến thế” [5]. Có được điều đó là kết quả của việc các nhà văn không còn

bị chi phối bởi “chủ nghĩa đề tài” nữa. Giờ đây văn chương lấy con người làm

tâm điểm để quy chiếu, vì thế mọi yếu tố khác đều phục tùng yêu cầu khám

16

phá chính con người. Ngay cả khi viết về đề tài người lính, các nhà văn cũng

chịu ảnh hưởng bởi quan niệm này. Là những nhân vật anh hùng, hình ảnh

người lính là đại diện xứng đáng của chính nghĩa cộng đồng sẽ toát lên vẻ đẹp

cao cả trong cảm hứng sử thi. Nhưng khi soi ngắm họ từ cảm hứng thế sự đời

tư đã làm họ trở nên phức tạp, chân thật và sinh động hơn.

Sự thay đổi cảm hứng cũng kéo theo sự thay đổi về không gian và thời

gian nghệ thuật. Kiểu không gian lịch sử rộng lớn, nơi diễn ra các sinh hoạt

cộng đồng của những năm 1945 - 1975 được thay thế bằng không gian sinh

hoạt đời thường, không gian mang tính chất riêng tư. Đó là khoảng không

gian xác thực bắt buộc con người luôn phải bộc lộ đến tận cùng bản chất của

mình, không có cơ hội lảnh tránh trách nhiệm cá nhân. Không gian ấy tham

gia vào cuộc đời mỗi người, gắn liền với những buồn vui, với cảm quan đời

sống của con người. Một không gian xuất hiện nhiều trong văn học giai đoạn

này là không gian của tâm linh, tuy nhiên điều đáng chú ý là thần thánh không

còn mang trên mình quyền uy của đấng bề trên nữa mà các nhà văn đã kéo họ

gần với cõi người, đặt mọi giá trị vào hệ quy chiếu nhân bản nhằm giải quyết

mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh. Nhà văn như tạo ra bầu không gian

ảo giác, hoang tưởng của tâm linh, của cảm thức tôn giáo, khiến người đọc

được đánh thức khi tiếp xúc với không gian của niềm tin bí ẩn này.

Cũng như sự thay đổi của không gian, thời gian cũng có sự biến đổi rõ

rệt. Không còn là thời gian của trật tự tuyến tính mà thay vào đó là thời gian

phụ thuộc vào sự trải nghiệm của cá nhân và bị chi phối bởi trạng thái tâm lí

tình cảm của cá nhân. Thời gian mang cảm quan lịch sử vẫn tồn tại nhưng nó

được nhìn qua kinh nghiệm cá nhân nên các mốc thời gian thường không còn

nguyên ý nghĩa khách quan. Cũng do thiên hướng nắm bắt chiều sâu tâm lí

con người nên nhiều tác phẩm giới hạn thời gian sự kiện rất ngắn nhưng thời

gian hồi tưởng có thể mở hết biên độ. Chính vì thế, quá khứ đồng hiện cùng

17

thực tại và tương lai, các lớp thời gian chồng lên nhau, có khi nhòe mờ, có khi

đứt nối lộn xộn đã phá vỡ cấu trúc truyện truyền thống, đưa kiểu cốt truyện

tâm lí lên hàng đầu, đẩy cốt truyện sự kiện xuống hàng thứ yếu, cho phép văn

xuôi dung nạp những kĩ thuật “lồng ghép”, “cắt dán” của điện ảnh. Cùng với

yếu tố không gian, thời gian nghệ thuật giữ vai trò không thể thiếu trong việc

bộc lộ đời sống riêng tư của con người.

Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về

con người. Tiểu thuyết ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời

sống xã hội còn có khả năng đi sâu khám phá số phận con người. Nhân vật

văn xuôi sau 1975 là những con người nhiều trải nghiệm, nội tâm chứa những

giằng xé bi kịch, ít thiên về hành động bên ngoài. Cuộc đấu tranh nội tâm,

những động cơ thúc đẩy dẫn đến nhu cầu tự thú, sám hối. Kiểu nhân vật này

đặt ra nhiều vấn đề xung quanh khát vọng tự hoàn thiện nhân cách, khả năng

tự vấn, tự nghiệm khiến cho câu truyện trở nên phức tạp đầy tính bất ngờ.

Cũng chính những nhân vật này cho thấy một đặc điểm thi pháp mới đó là sự

coi trọng “vấn đề”, coi trọng “tư tưởng” hơn tính cách, nhân vật vì thế, trở

thành phương tiện để nhà văn chuyển tải quan niệm của mình về cuộc sống.

Việc xử lí chất liệu hiện thực cũng không đơn thuần chỉ là vấn đề thời

sự - chính trị như trước. Nhà văn đã quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề tư

tưởng mà trọng tâm khám phá là chiều sâu tâm hồn con người, là các vấn đề

tư tưởng, đạo đức, nhân sinh trong cuộc sống thường nhật hàng ngày. Sự chủ

động về tư tưởng làm nảy sinh khả năng đối thoại khiến cho tư tưởng triết

luận phát triển, nhu cầu triết luận cũng phổ biến, tỉ lệ các tác phẩm luận đề

cũng vì thế tăng lên. Chính những tác phẩm đó nổi lên giọng trần thuật hướng

nội, giọng chiêm nghiệm, tự thú. Không khó để nhận thấy văn học giai đoạn

trước né tránh “cái bi” vì cảm hứng sử thi và định hướng động viên, cổ vũ.

Nhưng khi văn học lấy con người cá nhân làm trung tâm, hệ giá trị nhân bản

18

được xác lập thì “cái bi” mới thực sự có chỗ đứng. Những biến đổi tích cực

của đời sống vẫn mang trong mình những cái bi, và số phận cá nhân đâu phải

lúc nào cũng trùng khít với số phận cộng đồng. Trong mạch cảm hứng về cái

bi là những sắc thái muôn vẻ của nỗi buồn nhân thế, là sự cảm nhận về cái

hữu hạn, bé nhỏ của kiếp người. Nói đến cái bi nhưng các nhà văn không chỉ

cắt nghĩa nguyên nhân, truy tìm trách nhiệm mà còn để bảo vệ và nuôi dưỡng

nhân tính. Thông qua phương diện này, tác phẩm tự sự xuất hiện giọng trầm

lắng xót xa, thông qua “cái bi” người đọc điều chỉnh lại cách sống, định

hướng lại cuộc đời, đó là một khả năng kì diệu của văn học.

Trong công cuộc đổi mới ý thức cá nhân được giải phóng, giá trị cá

nhân được đề cao, xuất hiện những mâu thuẫn giữa cá nhân và cộng đồng.

Chính hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đạo đức - thế sự đã làm lộ ra những

mặt trái của đời sống và con người từ đó tạo điều kiện cho tiếng cười và nó

trở thành một dấu hiệu biến đổi quan trọng của văn xuôi giai đoạn này, nó

mang đậm sắc thái dân chủ hóa, chi phối cả giọng điệu văn chương, tạo ra

những giá trị nhân văn mới. Đồng thời tiếng cuời cũng là cũng là một phương

diện thể hiện tính tích cực xã hội của văn học khi nó gắn với sức mạnh phê

phán. Một bằng chứng của dân chủ hóa đó là khuynh hướng trần thuật qua

nhiều điểm nhìn. Mỗi điểm nhìn mang dấu ấn cá nhân, văn xuôi sẽ trở nên

phong phú, đa tầng hơn. Chủ đề tác phẩm và tư tưởng tác giả không lộ diện,

khó nắm bắt đòi hỏi người đọc khi tiếp cận phải suy nghĩ nhiều hơn, câu

chuyện sẽ dừng lại ở lối kết thúc bỏ ngỏ linh động gây hứng thú đối thoại sau

khi nó kết thúc. Sự thay đổi điểm nhìn trần thuật tạo ra nhiều cơ hội cho nhà

văn đổi mới cốt truyện, chú trọng hơn đến cấu trúc tác phẩm.

Được coi là cái vỏ của tư duy - ngôn ngữ văn học cũng vận động không

ngừng theo sự thay đổi của đời sống và chính sự phát triển của ngôn ngữ thời

đại cũng góp phần chi phối tư duy văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật bớt đi nhiều

19

vẻ trang trọng du dương mà thay vào đó là thứ ngôn ngữ khẩu ngữ, suồng sã

trong giọng điệu góc cạnh trong từ ngữ, văn xuôi thời kì này đặt mình đối lập

với thơ ca bởi nhu cầu diễn đạt cá tính, nhu cầu thông tin trong điều kiện ý

thức cá nhân được khơi dậy mạnh mẽ. Chưa bao giờ trong văn chương lại có

nhiều những câu chửi thề với lối nói trần tục, bụi bặm, dân dã đến thế. Bên

cạnh những nhà văn nam như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Ma Văn

Kháng.... còn có những nhà văn nữ cũng mạnh dạn thể nghiệm thứ ngôn ngữ

xô bồ của đời sống vào văn chương. Ở thời đại bùng nổ thông tin nhu cầu

tăng cường tốc độ và lượng thông tin là một nhu cầu chính đáng. Tính tốc độ

thể hiện ở lối truyện nhanh, mạch truyện dồn dập, lối liệt kê giản lược sự bình

luận, đánh giá, kĩ thuật lồng ghép, cắt dán của điện ảnh được sử dụng rộng rãi

vì thế dù mạch văn đi chậm nhưng sức nén của thông tin rất lớn. Sự xuất hiện

loại truyện mini, cực ngắn được chào đón vì nó phù hợp với lượng thời gian

không nhiều của độc giả.

Đã có không ít những tranh cãi xung quanh việc thay đổi của văn học

nói chung và tư duy của thể loại tự sự nói riêng trong văn học giai đoạn sau

1975, có ý kiến đánh giá lạc quan, tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều ý

kiến phản ứng gay gắt, phẫn nộ. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận chính sự

thay đổi đã giúp cho văn học mang được nhiều hơi thở của cuộc sống. Trong

luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về đề tài, cảm hứng, nhân vật và

những phương diện nghệ thuật: điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu trong ba

cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh để thấy được những cách tân, sáng

tạo của nhà văn về tư duy tự sự.

1.2. Giới thuyết về tiểu thuyết lịch sử

1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử

Tiểu thuyết lịch sử là thể loại viết về đề tài lịch sử, trong đó có nhân

vật, sự kiện, thời kì hay tiến trình lịch sử. Bởi vậy, nó có sự khác biệt cơ bản

20

với các thể loại tiểu thuyết khác như tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết trinh

thám, tiểu thuyết phong tục... ở cách thức nhà văn tiếp cận đề tài cũng như đối

tượng được miêu tả.

Một yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa người viết tiểu thuyết lịch sử với

người viết tiểu thuyết thông thường chính là đối tượng lịch sử, nên yêu cầu

nhà văn vừa phải có kiến thức uyên bác, tỉ mỉ như một nhà sử học, vừa có khả

năng biến những kiến thức lịch sử khô khan trở thành một tác phẩm nghệ

thuật. Có thể thấy, chất liệu làm nên tác phẩm của nhà tiểu thuyết lịch sử phải

đảm bảo yếu tố chuẩn mực về thời gian, sự kiện, tập quán... vì người đọc hoàn

toàn có thể kiểm chứng tính đúng đắn đó. Những hư cấu của nhà văn phải

nằm trong “vùng an toàn” và đảm bảo sự kiện hay nhân vật lịch sử được nhắc

đến không bị sai lệch, nhưng đồng thời vẫn phải tạo ra yếu tố hấp dẫn cho tác

phẩm của mình. Bên cạnh những nhân vật có thật trong lịch sử, nhà văn còn

sáng tạo nên những nhân vật hư cấu. Bằng tài năng của mình họ sẽ gắn kết hai

đối tượng nhân vật này, thậm chí có thể dành sự chăm chút, miêu tả nhiều hơn

về phía nhân vật hư cấu.

Vấn đề quan trọng làm rõ khái niệm tiểu thuyết lịch sử là phải phân biệt

được đâu là nhà văn và đâu là nhà sử học. Mối quan tâm chính của họ là lịch

sử nhưng mỗi người lại có mục đích riêng, và mối quan tâm là không giống

nhau. Nếu nhà sử học có mục đích chính là khám phá sự thật lịch sử, thì nhà

tiểu thuyết lịch sử lại thông qua việc tái hiện lịch sử rút ra những quan niệm

và suy ngẫm về cuộc sống và con người. Tôn trọng sự chân thực lịch sử nên

nhà sử học quan tâm đến tính chỉnh thể của lịch sử và tính chính xác đến từng

chi tiết, còn nhà tiểu thuyết ít bị ràng buộc hơn, ông ta có thể quan tâm đến

một khoảnh khắc nào đó trong lịch sử, không bị lệ thuộc vào chi tiết, và sự hư

cấu sáng tạo là không thể thiểu. Cách miêu tả lịch sử và nhân vật lịch sử của

nhà văn cũng khác với nhà sử học. Sử gia giới thiệu nhân vật như những danh

21

nhân anh hùng trong các biến cố, sự kiện lịch sử, còn nhà văn miêu tả nhân

vật lịch sử như con người trong tính nhất quán, trong mối quan hệ phức tạp

của nó với các mặt đời sống.

Khi tìm hiểu về sự hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử, các nhà nghiên cứu

vừa chú ý đến các yếu tố của tiểu thuyết vừa quan tâm tới sự thật lịch sử trong

tiểu thuyết để suy ngẫm chiêm nghiệm. Một điều dễ nhận thấy là tiểu thuyết

lịch sử thiên về góc độ đời tư của nhân vật. Cái nhìn từ góc độ đời tư trong

tiểu thuyết lịch sử là nhu cầu phản ánh số phận để qua đó đưa ra cách đánh

giá các vấn đề thời đại. Nhân vật tiểu thuyết là con người cá nhân, con người

đó sẽ tham gia vào các biến cố lịch sử theo sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng

tạo và hư cấu đó là không có giới hạn. Đó là điều thu hút các nhà tiểu thuyết

cũng là sức mạnh của tiểu thuyết lịch sử so với sách lịch sử.

Viết tiểu thuyết lịch sử nhưng nhà văn thường không coi việc phản ánh

lịch sử là mục đích chính mà qua các yếu tố lịch sử đó nêu lên những vấn đề

có ý nghĩa đối với con người, đối với hiện tại. Biêlinxki, nhà nghiên cứu văn

học nước Nga khẳng định: “chúng ta hỏi và chúng ta chất vấn những cái đã

qua để chúng ta giải thích cho hiện tại và chỉ ra tương lai của chúng ta” [8].

Ở quan niệm này, ông đã nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa quá khứ với hiện

tại trong tiểu thuyết lịch sử.

Có những thể loại gần gũi với tiểu thuyết lịch sử như truyện kí lịch sử,

truyện dã sử. Điểm giống nhau giữa chúng là đều có những yếu tố lịch sử

trong tác phẩm. Tuy nhiên, ở truyện dã sử nhà văn dựa vào một vài chi tiết

lịch sử và hầu như sử dụng những hư cấu, những điều lưu truyền trong dân

gian để tạo thành cốt truyện của mình. Nhân vật chính trong truyện dã sử

cũng là nhân vật hư cấu, truyện thường mang sắc thái kiếm hiệp ly kỳ nhằm

tạo sự hấp dẫn. Truyện ký lịch sử ngoài yêu cầu phải đảm bảo về tính chính

xác lịch sử thì gần như nó loại trừ yếu tố hư cấu.

22

Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử ngày càng có những đổi mới về nghệ

thuật, về tư duy tự sự… khiến thể loại thực sự có sức hấp dẫn đối với công

chúng.

1.2.2. Đặc trưng thể loại

Là một thể loại có tính đặc thù, tiểu thuyết lịch sử có những quy luật

sáng tạo riêng so với các thể loại khác. Như trên đã trình bày, tiểu thuyết lịch

sử yêu cầu nhà văn viết về đề tài lịch sử trong quá khứ; nguồn dữ liệu từ lịch

sử và đảm bảo được màu sắc lịch sử; nhà văn được quyền hư cấu như một

không gian mở của tiểu thuyết, tuy nhiên nhà văn nói chuyện xưa nhưng

nhằm mục đích soi chiếu vào hiện tại để làm rõ vấn đề. Nói một cách khác,

tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi rất cao ở người viết: phải xử lí được mối quan hệ

giữa sự thực lịch sử và hư cấu, tưởng tượng. Thông thường, nhà văn có thể tự

do trong lựa chọn nhân vật, chi tiết, sự kiện lịch sử nhưng ngược lại, cũng bị

chính những yếu tố đó quy định. Khi viết về một thời đại lịch sử hoặc một

nhân vật lịch sử, đối với nhà văn bên cạnh tài năng còn là vấn đề cái nhìn,

cách nhìn, đòi hỏi nhà văn không đơn thuần chỉ có vốn sống mà còn là vốn

hiểu biết về lịch sử, phong tục tập quán, địa lí, ngôn ngữ, văn hóa... để có thể

đưa những chi tiết của lịch sử vào tác phẩm “chân thật hơn lịch sử”. Tiểu

thuyết lịch sử ưu tiên khẳng định tính chất hư cấu của cốt truyện nhưng tạo

cho nó cái vẻ giống như thật bởi kết cấu và những hành động. Bảo đảm cho

độc giả rằng mọi sự đều có thể diễn ra như vậy, tiểu thuyết lịch sử còn giúp

họ hiểu tốt hơn những nguyên nhân và hậu quả của những sự kiện đã qua.

Vấn đề tiếp nhận của người đọc cũng ảnh hưởng lớn đến tiểu thuyết

lịch sử. Tác phẩm văn học nói chung, tiểu thuyết lịch sử nói riêng chỉ trở

thành một tác phẩm thực sự khi nó được tiếp nhận. Nhà văn cố gắng tạo cho

mình một lượng công chúng ủng hộ, nhưng họ cũng bị chính công chúng chi

phối lại. Ở thời kì đổi mới, cuộc sống con người không đơn giản chỉ là ăn no

23

mặc lành nữa, mà những nhu cầu về giải trí đối với công chúng không ngừng

đòi hỏi được nâng cao, trong đó nhu cầu giải trí bằng văn học cũng đòi hỏi

phong phú hơn, mới mẻ hơn. Cần thấy rằng, sự thật trong văn học tuy thống

nhất với sự thật ngoài đời nhưng rõ ràng chúng chưa bao giờ là một. Sự đồng

nhất giữa hai loại sự thật này, dù chỉ là vô tình cũng làm phương hại đến sự

lung linh đa nghĩa của nghệ thuật. Chỉ khi hai yếu tố thông tin sự thật và

thông tin thẩm mĩ kết hợp hài hòa thì tác phẩm mới có cơ hội tồn tại lâu dài.

Vì vậy đọc văn phải khác đọc sử. Những tác phẩm văn học viết về lịch sử dù

nổi tiếng đến mấy cũng không thay thế được các bộ chính sử, thông sử. Mặt

khác, không thể phủ nhận ý nghĩa nhận thức lịch sử của các sáng tác nghệ

thuật có giá trị. Một người đọc “đích thực” sẽ không được nhầm lẫn giữa tác

phẩm văn học viết về lịch sử với những công trình khoa học lịch sử.

1.2.3. Tiểu thuyết lịch sử trong đời sống tiểu thuyết Việt Nam

đương đại

Tiểu thuyết Việt Nam đương đại là chặng đường chưa dài so với tiến

trình vận động của thể loại hơn hai thế kỉ qua, nhưng cũng để lại những dấu

ấn đáng chú ý trong đời sống văn học. Với tinh thần đổi mới, văn học đương

đại có sự thay đổi lớn lao về tư duy nghệ thuật. Là loại hình tự sự có nhiều ưu

thế, đáp ứng nhanh nhạy những yêu cầu đổi mới, từ năm 1986 đến nay tiểu

thuyết nhanh chóng chiếm giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn xuôi.

Chỉ trong vòng mười năm đầu thế kỉ XXI, người đọc dễ dàng quan sát và

khắc nhớ hàng loạt cái tên, những người viết tiểu thuyết như Võ Thị Hảo với

Giàn thiêu; Hồ Anh Thái với Cõi người rung chuông tận thế, Đức

P hật, nàng Savitri và tôi, Mười lẻ một đêm, SBC là săn bắt chuột, Dấu về

gió xóa. Rồi Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà; Thoạt

kì thủy, Ngồi của Nguyễn Bình Phương; Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế

Hoàng Linh; China Town, Paris 11 tháng 8 của Thuận; Và khi tro bụi, Mưa ở

24

kiếp sau của Đoàn Minh Phượng; Nháp, Phiên bản, Kín của Nguyễn Đình Tú;

Nhiều cách sống, Mất kí ức của Nguyễn Quỳnh Trang…

Thời gian gần đây, công chúng yêu văn học chứng kiến sự nở rộ của

các tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Có thể kể một số cuốn tiểu thuyết lịch sử

tiêu biểu như: Người đẹp ngậm oan, Gươm thần Vạn Kiếp của Ngô Văn Phú;

Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Vương triều sụp đổ của Hoàng

Quốc Hải; Vua đen của Hoàng Công Khanh; Sông Côn mùa lũ của Nguyễn

Mộng Giác; Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn

Xuân Khánh; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo; Minh sư của Thái Bá Lợi; Hội thề

của Nguyễn Quang Thân; Thông reo Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang...

Đề tài lịch sử đã tạo nên tiếng vang nhất định cho một số cây bút tiểu

thuyết đương đại, đem lại nhiều đóng góp vào quá trình phát triển thể loại,

đặc biệt trong khoảng chục năm trở lại đây. Người viết tiểu thuyết lịch sử

hôm nay đã vượt qua cái khó của chính mình khi cố gắng thoát khỏi “định

mệnh thuyết”, sáng tạo lịch sử từ nhân vật như một con người của tiểu thuyết,

xóa nhòa những định kiến đã biết trước về nhân vật. Số lượng tác phẩm cho

thấy ưu thế của tiểu thuyết lịch sử chặng này là sự đa dạng trong phong cách

cá nhân. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do tính chất dân chủ

hóa đã khai phóng cho cá tính sáng tạo và kinh nghiệm cá nhân của nhà văn.

Những quan niệm quen thuộc trong văn học trước đây bị phá vỡ hoặc được

bổ sung. Có nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử trở về với khuynh hướng sử thi, có

tác phẩm đi sâu khai thác vấn đề thế sự, có tác phẩm tiếp nối kĩ thuật tự sự

của tiểu thuyết lịch sử truyền thống, có tác phẩm tiếp thu lối viết hiện đại của

tiểu thuyết phương Tây… Tất cả tạo thành một vườn hoa với đủ cả sắc,

hương và một bầu không khí sôi nổi.

Hiện thực được phản ánh trong các tiểu thuyết lịch sử thời kì này cũng

vô cùng phong phú, đa dạng. Đó có thể là hiện thực của các sự kiện, biến cố

25

lịch sử nhưng có thể là hiện thực của số phận con người. Hiện thực được phản

ánh trong tác phẩm không chỉ một chiều mà đa diện, nhiều chiều, thậm chí có

khi là hiện thực “xoay chiều, ngược chiều”, hiện thực ở dạng khả năng, tiềm

ẩn những bất ngờ. Đó dường như là lịch sử trong cảm nhận riêng, được biết

đến qua những trăn trở, khổ đau, vui buồn của từng nhân vật. Có nhà văn như

Nguyễn Xuân Khánh còn đưa các yếu tố phong tục, văn hóa vào tác phẩm để

mở rộng khả năng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết lịch sử.

1.3. Nguyễn Xuân Khánh và thể loại tiểu thuyết lịch sử - văn hóa

1.3.1. Nguyễn Xuân Khánh và hành trình viết văn nửa thế kỉ

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại Hà Nội. Ông học Đại

học Y khoa Hà Nội. Thời trai trẻ, ông được biết đến là người rất say mê âm

nhạc. Bước vào ngưỡng tuổi hai mươi, Nguyễn Xuân Khánh tham gia vào lực

lượng quân đội. Trong thời gian ở quân ngũ, Nguyễn Xuân Khánh đã viết tác

phẩm đầu tiên. Năm 1957, truyện ngắn Một đêm của ông được giải Nhì cuộc

thi viết truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (không có giải nhất). Từ

đó văn chương gắn với ông như một duyên nghiệp. Năm 1962, sau khi in tập

truyện ngắn đầu tay có tên Rừng sâu và bị kỉ luật, ông tạm ngừng sáng tác.

Tuy nhiên ông vẫn ấp ủ những dự định văn chương của mình. Ông về hưu

sớm và không xuất hiện trong đời sống văn học. Để đối diện với cuộc sống

mưu sinh, ông làm rất nhiều nghề như dịch sách, thợ may, thợ khóa... Chính

thời gian này đã cho ông sự trải nghiệm trong cuộc sống, vốn tri thức văn hóa

ông vẫn hàng ngày nghiền ngẫm. Từ sâu thẳm tâm hồn, Nguyễn Xuân Khánh

vẫn dành cho văn chương một vị trí đặc biệt.

Từ sau Đại hội Đảng VI (1986), sự nghiệp Đổi mới đất nước diễn ra

trên mọi phương diện đã tác động tới văn nghệ sĩ. Sự thay đổi diện mạo của

đất nước, sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật là những nhân tố quan trọng

tạo nên chuyển biến của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Ngoài ý

26

thức đổi mới thể loại còn có sự đổi mới cả trong tư tưởng, nội dung phản ánh.

Thế hệ nhà văn Cách mạng trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp như

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc... trở thành những người

mở đường tinh anh và đặt nền móng cho quá trình đổi mới văn học. Từ đó

đến nay có sự xuất hiện trở lại của một thế hệ nhà văn mà do thử thách thời

thế đã có một thời gian vắng bóng như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Xuân Khánh...

Sự nỗ lực âm thầm bền bỉ cuối cùng đã mang lại cho Nguyễn Xuân Khánh

những thành quả xứng đáng. Đầu thế kỉ XXI, bộ ba tiểu thuyết Hồ Qúy Ly,

Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của ông giành được nhiều giải thưởng

danh giá như Giải thưởng Thăng Long của UBND TP Hà Nội, Giải thưởng

của Hội Nhà văn Hà Nội, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam... Nhưng giải

thưởng chưa phải là tất cả, bởi vì độ dày của sách, số lần tái bản, danh mục

giải thưởng, sự hâm mộ của độc giả tuy mang lại nhiều vinh quang cho người

sáng tác, nhưng tất cả những cái đó chưa hẳn đã đủ đảm bảo để tác phẩm có

đời sống lâu bền trong lịch sử văn học. Điều đó có nghĩa, chỉ sau khi đọc tác

phẩm, tìm được giá trị nội tại của nó, ta mới có thể bàn tới vị trí văn học sử

của một nhà văn. Song, thực tiễn đời sống văn học đã chứng minh bộ ba

trường thiên tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa đã

khiến Nguyễn Xuân Khánh xác lập cho mình một vị trí riêng trên văn đàn

Việt Nam đương đại. Nguyễn Xuân Khánh “đột ngột xuất hiện, như thể ông

vừa bước ra từ một huyền thoại nào đó, từ một sự ẩn mình đâu đó lâu lắm,

như loài trầm hương trong rừng sâu kia, một ngày nhoài lên từ lớp mùn và

mục gỗ để đi về phía ánh sáng mặt trời và đem theo mùi hương quý giá” [35].

Những cuốn tiểu thuyết của một người viết cao tuổi không chỉ khiến người

đọc kinh ngạc vì sức lao động nghệ thuật đáng nể, mà còn gây ấn tượng mạnh

cho độc giả bởi sự độc đáo của một cây bút bậc thầy về văn hóa. Nó làm nên

nét hấp dẫn riêng của văn chương Nguyễn Xuân Khánh.

27

1.3.2. Tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh trong

dòng chảy tiểu thuyết thế kỉ XXI

Như đã biết, Nguyễn Xuân Khánh viết văn từ thời kì kháng chiến chống

Mỹ, nhưng thành công mà ông thu được trên con đường hoạt động nghệ thuật

nhọc nhằn chứ không dễ dàng. Mãi đầu thế kỉ XXI, ông mới thực sự thành

công với bộ ba tiểu thuyết về đề tài lịch sử, văn hóa là Hồ Qúy Ly (2000);

Mẫu Thượng Ngàn (2006); Đội gạo lên chùa (2011).

Lựa chọn viết về một thể loại văn học không mới như tiểu thuyết lịch

sử Nguyễn Xuân Khánh có những quan điểm riêng: “Tôi quan niệm tiểu

thuyết lịch sử không phải để kể lại lịch sử, minh họa lịch sử... Người viết lịch

sử không thể dựng lại đúng hiện thực mà chỉ là cách nhìn về lịch sử, và cái

nhìn ấy, ngôn ngữ ấy được độc giả chấp nhận là được” [25]. Như vậy, nhà

văn quan niệm: lịch sử chỉ là phương tiện để truyền đạt các ý tưởng, chủ đề và

làm nền cho tưởng tượng, hư cấu của tác phẩm. Tuy nhiên, việc hư cấu trong

tiểu thuyết lịch sử trên nền tảng các cứ liệu lịch sử cũng có những khó khăn

riêng, những quy định riêng cần đảm bảo chứ không thể tùy tiện, phóng túng.

Nói về vấn đề này, Nguyễn Xuân Khánh cho rằng: “Tôi quan niệm tiểu thuyết

lịch sử phải tạo ra một hiện thực làm sao để gây cho người đọc một ảo tưởng

là có thật... Tiểu thuyết phải có đời thường, bi hài, trữ tình. Trong khi đó kí sự

lịch sử chỉ là bám chắc vào các văn bản sử để viết” [25]. Nhà văn đưa hiện

thực lịch sử ấy vào trong tác phẩm và gán cho nó những trải nghiệm của cá

nhân, theo cái nhìn của cá nhân.

Hồ Qúy Ly là cuốn tiểu thuyết tái hiện lại thời kì lịch sử sóng gió cuối

thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV. Đó là giai đoạn cuối triều đại nhà Trần, đầu triều

đại nhà Hồ; với nhân vật lịch sử Hồ Qúy Ly, trong bối cảnh nước Đại Việt

phải gồng mình đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng trong nước và chống giặc

ngoại xâm. Thấm đẫm trong từng trang văn, kết cấu truyện, không gian, nhân

vật tác phẩm… là những chất liệu lịch sử, văn hóa và phong tục, tập quán rất

28

tiêu biểu của dân tộc Việt. Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly được nhà văn viết

trong những suy tư, trăn trở sâu sắc về quá trình đổi mới của dân tộc bằng

việc lật lại câu chuyện đầy sóng gió cuối thời Trần (1225-1440), khi nhà

nước Đại Việt đang gồng mình chống đỡ khủng hoảng trong nước và chống

giặc ngoại xâm. Tác phẩm góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người

Hồ Quý Ly, một trí thức cách tân trước thời đại nhưng vấp phải bi kịch đau

đớn nhất là không được lòng dân. Đồng thời, tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp

về văn hóa ngàn năm của dân tộc với những địa đanh cổ nổi tiếng, những

cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục đẹp… được

lưu truyền đến nay đã mai một cùng năm tháng. Nguyễn Xuân Khánh đã đem

đến một luồng gió mới cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, khi mà hầu hết các

nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước ông đã bỏ qua, đó là: viết tiểu thuyết

lịch sử tức là làm một cuộc khám phá và truy xét lịch sử để có nhận thức

chính xác cho mình về lịch sử.

Tiếp đến hai tiểu thuyết sau đó, Nguyễn Xuân Khánh đã thực hiện đầy

đủ bút lực của mình: nhà văn hóa, lịch sử, nhà tư tưởng trong tư cách nhà

văn. Lấy bối cảnh thời sơ khởi của công cuộc tiếp xúc, tiếp biến văn hóa

Đông Tây ở Việt Nam những năm cuối cùng thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX,

tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh tiếp tục khám phá

quá khứ dân tộc, góp thêm cái nhìn sâu sắc về đề tài lịch sử. Tác phẩm cũng

mang đậm chủ đề văn hóa phong tục Việt Nam, thể hiện qua cuộc sống của

người dân ở một làng quê bán sơn địa Bắc Bộ hồi cuối thế kỉ XIX mang tên

Cổ Đình. Giữa bối cảnh Pháp xâm lược Việt Nam, đạo Phật bị gạt bỏ, đạo

Thiên chúa bắt đầu ảnh hưởng và lan rộng, người dân quê trở về với đạo

Mẫu, một tôn giáo của người Việt cổ có từ ngàn đời. Nhà văn dày công kể

lại cho người đọc những câu chuyện tình yêu của người đàn bà Việt trong

không gian ấy, một tình yêu vừa bao dung, vừa mãnh liệt, vừa bản năng đầy

chất phồn thực và cũng nhiều đắng cay. Ở Mẫu Thượng Ngàn, chúng ta còn

29

thấy một bức tranh về lịch sử xã hội Hà Nội cuối thế kỉ XIX với việc Pháp

đánh thành Hà Nội, việc xây dựng Nhà thờ Lớn… Những vấn đề lịch sử,

văn hóa, phong tục đậm đặc dung chứa trong cuốn tiểu thuyết gần ngàn

trang đã cho thấy bút pháp trữ tình đầy ấn tượng ở Nguyễn Xuân Khánh,

nhất là sự trưởng thành trong suy ngẫm của tác giả: tư duy của một nhà văn

hóa, nhà tư tưởng trong tư cách một nhà văn.

Trong tác phẩm Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh vẫn bắt vào

mạch tự sự văn hóa, lịch sử tiếp tục khẳng định sức sống mạnh mẽ của dân

tộc Việt Nam. Tác phẩm lấy bối cảnh làng quê Bắc Bộ, một ngôi chùa làng,

nơi chứng kiến tất cả những thăng trầm, bi thương của số phận người nông

dân và văn hóa làng trong một khoảng thời gian khốc liệt không kém: từ cuộc

kháng chiến chống Pháp đến khi đất nước lập lại hòa bình. Đội gạo lên chùa

được viết theo lối cổ điển, mang tính luận đề về ảnh hưởng của đạo Phật

trong đời sống của cư dân Việt. Không khí Phật giáo, tinh thần Phật giáo và

tư tưởng của đạo Phật gần như can thiệp vào tất cả các tình tiết quan trọng

nhất trong cuốn tiểu thuyết đồ sộ này. Tác phẩm thấm đẫm màu sắc Phật

giáo, được nhà văn viết trong bốn năm, cũng là những chứng nghiệm sâu

sắc của Nguyễn Xuân Khánh về biến thiên của làng quê, về sự ảnh hưởng,

hiện diện của Phật giáo đối với cuộc sống con người mà ông rút ra là: “Phật

giáo là một lối sống” [24]. Ở tiểu thuyết này, ông không kiến giải về lịch sử

dân tộc qua người đại diện như Hồ Quý Ly, cũng không kiến giải về dân tộc

qua thời đoạn lịch sử thử lửa khốc liệt của nó như Mẫu Thượng Ngàn, mà

xuất phát từ chính lịch sử của sự xây dựng dân tộc Việt Nam suốt thời hiện

đại.

Ở hai tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, những nhân

vật chính không còn là những người có thực trong lịch sử như Hồ Qúy Ly

nữa, mà là những nhân vật phần nhiều do nhà văn hư cấu và các sự kiện có

thực trong lịch sử được giảm thiểu tối đa. Trọng tâm cảm hứng của Nguyễn

30

Xuân Khánh trong hai tiểu thuyết này chính là văn hóa - phong tục, với những

hệ tư tưởng tín ngưỡng, tôn giáo: tín ngưỡng thờ Mẫu (trong Mẫu Thượng

Ngàn) và đạo Phật trong (Đội gạo lên chùa).

Có thể nói, bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa này, Nguyễn Xuân Khánh

đã gác sang bên những trăn trở về đổi mới bút pháp để đi sâu vào đổi mới về

mặt tư tưởng. Làm nên bước ngoặt về quan niệm nghệ thuật, là trở về với lối

tự sự truyền thống trong khi rất nhiều nhà văn Việt Nam khác dấn thân vào

con đường đổi mới nghệ thuật tự sự. Nguyễn Xuân Khánh đã thực sự thành

công, không chỉ trong vai trò một nhà văn mà còn trong vai trò một trí thức

luôn quan tâm đến các vấn đề của văn hóa, quốc gia, dân tộc. Ông đã đi theo

một hướng riêng, không sa đà vào cuộc tìm kiếm cách tân cầu kì trên bề mặt

hình thức đơn thuần.

31

CHƯƠNG 2

TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA

NGUYỄN XUÂN KHÁNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN

ĐỀ TÀI, CẢM HỨNG, NHÂN VẬT

2.1. Đề tài lịch sử - văn hóa và thông điệp thế sự

Chọn tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử làm phương tiện chuyển

tải tư tưởng, Nguyễn Xuân Khánh không sử dụng nhiều lối kĩ thuật hiện đại

và hậu hiện đại, nhưng cách viết của ông được làm mới bằng tinh thần luận

giải lịch sử - văn hóa. Đối với Nguyễn Xuân Khánh, lịch sử chỉ là cái “đinh

treo” để nhà văn bày tỏ cái nhìn về cuộc sống. Không chịu áp lực từ các quan

điểm của cộng đồng, cũng như lối tư duy trong tiểu thuyết gắn liền với cảm

hứng ngợi ca, kính cẩn và chiêm bái lịch sử, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh

tìm thấy những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại, dùng quá khứ để

soi tỏ hiện tại, nêu ra được những chân lý có tính phổ quát. Bộ ba tiểu thuyết

lịch sử, văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh ra đời được coi là một hiện tượng

của tiểu thuyết đương đại. Điều nhà văn làm khác so với các nhà tiểu thuyết

cùng thời chính là tác phẩm của ông có nét vượt trội mà không nhiều nhà văn

cùng thời làm được: sự hài hòa giữa yếu tố văn hóa và lịch sử.

Lịch sử, theo cách hiểu đơn giản nhất là những gì thuộc về quá khứ, và

đối tượng Nguyễn Xuân Khánh miêu tả, thể hiện đều là những con người,

những sự việc thuộc về quá khứ. Nhưng trên thực tế, không phải quá khứ nào

cũng được coi là lịch sử, có quá khứ xa và quá khứ gần và thường thì quá khứ

xa mới được coi là lịch sử. Điều đó được thể hiện ngay ở thái độ ngập ngừng

của nhà xuất bản khi định danh thể tài của tác phẩm: trong ba cuốn tiểu thuyết

của Nguyễn Xuân Khánh chỉ có Hồ Qúy Ly được in rõ là “tiểu thuyết lịch sử”

trên bìa, hai cuốn còn lại chỉ in là “tiểu thuyết”.

32

Hồ Qúy Ly là cuốn tiểu thuyết tái hiện lại thời kì lịch sử cuối thế kỉ

XIV đầu thế kỉ XV, đó là thời kì cuối triều đại nhà Trần và đầu triều Hồ, với

nhân vật lịch sử phức tạp Hồ Qúy Ly. Ở Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân

Khánh chọn bối cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tái hiện xung đột

văn hóa Đông - Tây của dân tộc Việt và quân xâm lược Pháp. Trong hai cuốn

tiểu thuyết này, cách xử lí lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh khá tự do và đầy

tính chủ quan. Nhu cầu cắt nghĩa đời sống theo những suy ngẫm, trải nghiệm

đã khiến người đọc nghĩ rằng lịch sử đích thực của tác phẩm là hư cấu. Điều

này phù hợp với tinh thần của tiểu thuyết, “không ngừng nhận thức lại” bằng

thái độ hoài nghi. Điều đó khiến bức tranh lịch sử không mang giá trị tự thân,

nghĩa là không nhằm tái hiện chân thực thời đại lịch sử. Nguyễn Xuân Khánh

chỉ mượn lịch sử làm phương tiện để chuyển tải những suy nghĩ của mình về

thế sự. Có thể thấy, các vấn đề nhận thức và thẩm mĩ mà Hồ Qúy Ly và Mẫu

Thượng Ngàn đặt ra đều là vấn đề của hiện tại, chỉ có khung cảnh thiên nhiên,

ngôn ngữ, lễ hội, tập tục là của lịch sử. Lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn

Xuân Khánh là lịch sử đã được nhìn qua lăng kính cá nhân, qua những trải

nghiệm của nhà văn để từ đó nhà văn hướng ngòi bút của mình về phía hiện

thực đời sống. Nhân vật Hồ Qúy Ly và tư tưởng cách tân của ông... đều được

tái hiện theo kiến giải riêng của nhà văn. Lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật

của Nguyễn Xuân Khánh đã cho thấy điểm riêng trong cách nhà văn hư cấu.

Ông không lệ thuộc nhiều vào lịch sử mà chỉ mượn nó làm phương tiện để soi

rọi vào thực tại. Song ông cũng không hư cấu và đẩy lịch sử đi quá xa như

Nguyễn Huy Thiệp đã làm trong những truyện ngắn lịch sử như Kiếm sắc,

Vàng lửa, Phẩm tiết. Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khiến

người đọc hoang mang, muốn lục tung mọi ngóc ngách của chính sử để minh

định, còn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh mang đến một cảm giác nhẹ

nhàng khi nhà văn muốn bạn đọc cùng đồng hành với những gì nhà văn chiêm

33

nghiệm về quá khứ. Đỗ Hải Ninh cho rằng: khía cạnh tạo nên sự thành công

trong các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh là việc nhà văn có “khả

năng nắm bắt cái hằng số lịch sử và hiện đại hóa các vấn đề của quá khứ”

[15].

Lịch sử là những gì đã qua, con người hiện tại nhìn lịch sử như là

những gì đã được ghi trong sử sách, điều đó trở thành cảm hứng cho những

suy ngẫm về văn hóa, tôn giáo... Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh dù viết

về thời điểm lịch sử nào đều có khả năng mở rộng biên độ phản ánh hiện thực

bởi tính thời sự cập nhật của nó. Không né tránh những vấn đề hôm nay, nhà

văn luôn ráo riết tìm lời đáp cho những câu hỏi thiết thực đối với hiện tại.

Tiểu thuyết Hồ Qúy Ly khiến người đọc liên tưởng đến cuộc cải cách từ thế kỉ

XV với nhu cầu đổi mới đất nước trong mấy thập kỉ gần đây, từ đó nhiều vấn

đề khác cũng được đặt ra: giải quyết cái cũ như thế nào, vai trò của trí thức

trước bước ngoặt của thời cuộc, đổi mới và quyền lực, lợi ích của dân chúng

và lợi ích của nhà cầm quyền... Đó đều là những thông điệp thế sự sâu sắc của

con người hôm nay được nhà văn khéo léo gửi gắm vào câu chuyện lịch sử.

Mẫu Thượng Ngàn đề cập đến vấn đề gìn giữ bản sắc dân tộc trong

giao lưu và tiếp biến văn hóa. Đâu là hướng đi của dân tộc trước những biến

động của lịch sử? Nhà văn đã tìm thấy những điểm tương đồng giữa quá khứ

và hiện tại, dùng hiện tại soi tỏ quá khứ, nêu ra được những chân lý có tính

phổ quát đối với con người, đó chính là giải thích mới về đề tài cũ. Dù viết về

nhân vật lịch sử quen thuộc, thời đại đã được các nhà sử học phân tích, đánh

giá nhưng tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh vẫn mới mẻ vì nó chở tải

được những vấn đề mà con người hôm nay đang quan tâm. Thiết nghĩ đây

cũng là điều mà các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử cần phải chú ý, bởi nó là

một phần của câu trả lời: vì sao giới trẻ ngày nay không hứng thú với lịch sử

nước nhà, và môn lịch sử trong nhà trường phổ thông không hấp dẫn được

34

học sinh. Sức hấp dẫn của tiểu thuyết lịch sử không đơn giản đến từ những

câu chuyện hư cấu, tưởng tượng của các nhà văn mà nó đến từ những kiến

giải lịch sử in đậm dấu ấn cá nhân và cách mà nhà văn lí giải quá khứ đó như

thế nào. Dấu ấn thời đại trong cách nhà văn kiến giải về lịch sử khiến nó trở

nên sống động, không phải là một quá khứ hoàn kết, nó thúc đẩy trí tò mò và

hứng thú tư duy của người đọc.

Với tư duy hiện đại, Nguyễn Xuân Khánh luôn đặt lịch sử ở trạng thái

động. Thói quen trung thành với lịch sử khiến nhiều người tìm đến các tài liệu

lịch sử để đối chiếu và từ đó mặc nhiên chấp nhận một lịch sử đã hoàn tất, các

nhân vật và sự kiện trở thành những gì đã được mặc định và không được phép

thay đổi. Nguyễn Xuân Khánh đặt nhân vật lịch sử trong những mối quan hệ

phức tạp của gia đình, xã hội và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhân

vật Hồ Qúy Ly (trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly) được hiện lên ở nhiều vai khác

nhau: một con người văn võ song toàn, một con người có cảm nhận tinh tế,

sâu sắc, một người chồng hết mực yêu thương vợ, một người cha nén chặt

tình cảm trong lòng, một kẻ loạn thần thâm hiểm, một kẻ tàn bạo... Ở mỗi góc

nhìn, nhân vật cũng không đồng nhất đơn chiều: trong mắt những người thuộc

phe bảo thủ như Nguyên Hàng, Khát Chân, Đoàn Xuân Lôi thì chính sách của

Hồ Qúy Ly là trái với lề lối tổ tiên, dấu hiệu của âm mưu thoán nghịch. Cùng

sự kiện đó, nhưng dưới con mắt của Nguyên Cẩn, Hán Thương lại là sự

ngưỡng mộ. Họ coi đó là những việc làm cấp bách mà chỉ bậc minh quân mới

thực hiện được. Còn những người như nhà sử học Sử Văn Hoa và Hồ Nguyên

Trừng lại hiểu rõ đất nước cần phải có những con người như Hồ Quý Ly mới

có thể lột xác, song chính họ lại băn khoăn liệu cách làm ấy có đúng không.

Đặt quá khứ trước những khả năng khác nhau, nhà văn cũng để ngỏ

nhiều chi tiết lịch sử như muốn cùng bạn đọc suy ngẫm. Cái chết của nhà sử

học Sử Văn Hoa là một bí ẩn. Có hai giả thiết: liên quan đến Hồ Qúy Ly với

35

kẻ thân tín Nguyên Cẩn, người đã tịnh thân để được thăng tiến hay phe Trần

Khát Chân và thuộc hạ của ông với thế võ Hạ Ngọc Trản. Trong Mẫu Thượng

Ngàn những lời đồn đại về tướng sát phu của cô Mùi và cái chết kì lạ của

Philippe, người chồng thứ ba vẫn là một điều chưa có lời giải. Kĩ thuật bỏ ngỏ

này có điểm gần gũi với Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn thường đưa vào tác

phẩm những chi tiết gây bất tín nhận thức, dựa vào những tài liệu sưu tầm, sử

dụng lời đồn đại, hiến cho người đọc những cái kết với nhiều khả năng khác

nhau. Qua đó, người đọc có thể tự mình rút ra kết luận theo khả năng tư duy

của mình và từ đó đối thoại với lịch sử. Nhà văn không phải là người biết

trước kể cho ta nghe câu chuyện lịch sử. Và như vậy, lịch sử không hoàn toàn

là cái đã xảy ra mà là cái có thể xảy ra, lịch sử trở thành một sáng tạo mới

trong mỗi cá nhân người đọc.

Nguyễn Xuân Khánh không xác lập trong lòng người đọc những hình

ảnh cố định về nhân vật lịch sử của mình. Nhân vật Hồ Qúy Ly xuất hiện với

tư cách là một bạo chúa hay một nhà cách tân cũng hiện lên với đầy đủ cả hai

mặt sáng và tối. Nhà văn cũng tạo ra ý thức tranh luận trước mỗi đối tượng.

Cha con Nghệ Hoàng là những ông vua hiền, nhân từ, đức độ nhưng để cho

muôn dân đói khổ, lầm than, đất nước chiến tranh loạn lạc, vậy có phải là bậc

minh quân? Sự đối thoại của nhiều luồng tư tưởng được thể hiện ở nhiều phát

ngôn trực tiếp bên cạnh những đối thoại ngầm được gửi gắm qua hình tượng

nghệ thuật sinh động. Có thể thấy, lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân

Khánh là phương tiện để chuyển tải tư tưởng chứ không phải là mục đích.

Thực ra, Nguyễn Xuân Khánh đã rất thành công khi tái tạo lại không khí của

lịch sử, bức tranh của thời đại đã qua nhưng đóng góp của nhà văn là ở tư duy

mới mẻ về lịch sử, lịch sử đã không khép lại hoàn toàn mà có thể mở ra

những chân trời khám phá mới, nó phù hợp với tư duy của con người hiện đại,

luôn xem xét, hoài nghi những giá trị tưởng như đã xác định.

36

Nhìn chung, tạo ra sự hòa quyện giữa yếu tố lịch sử và văn hóa; mượn

nó để gửi gắm thông điệp thế sự là sáng tạo mới mẻ của tiểu thuyết Nguyễn

Xuân Khánh so với nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử trước đây của ta. Nguyễn

Xuân Khánh xác định rõ đối tượng của mình, phát huy tận độ vốn hiểu biết và

khả năng tưởng tượng để làm sống lại quá khứ lịch sử và gửi gắm những

thông điệp của con người hiện tại. Điều đó đã mang lại thành công cho

Nguyễn Xuân Khánh ở cả ba cuốn trường thiên tiểu thuyết.

2.2. Cảm hứng lịch sử - văn hóa và suy tư thế sự

Không cầu kì kiểu cách trong nghệ thuật tự sự, cũng không ham các trò

chơi cấu trúc hay ngôn ngữ, “gốc mai già” Nguyễn Xuân Khánh đã nở ra

những bông mai vàng rực một màu sang trọng và quyền quý của tư tưởng.

Bởi văn chương đối với ông không phải sự chơi mà là sự nghiền ngẫm, chiêm

nghiệm đến đốn ngộ về đạo và đời. Văn hóa và lịch sử dưới cái nhìn của

Nguyễn Xuân Khánh không hề đơn giản, một chiều mà được soi chiếu và lý

giải từ nhiều giác độ, trong một sự phong phú, vững chãi và thâm hậu của tri

thức về con người và thế giới - điều mà không phải nhà tiểu thuyết nào cũng

có được. Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, do vậy, không phải chỉ để

mua vui - một căn tính sơ khởi của tiểu thuyết, mà kết nối quá khứ và hiện tại,

thể hiện được nhiều vấn đề thế sự, nhân sinh thường ngày. Vì thế bên cạnh

cảm hứng lớn là cảm hứng lịch sử còn có cảm hứng văn hóa cũng là một dụng

công của Nguyễn Xuân Khánh trong cả ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu

Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa.

Một thời gian dài hầu hết các nhà văn đặt tiểu thuyết lịch sử của mình

vào khuynh hướng ngợi ca truyền thống lịch sử dân tộc và đều quy tụ hai cảm

hứng lớn là cảm hứng yêu nước và cảm hứng đạo đức. Tùy từng hoàn cảnh,

khi đất nước có chiến tranh, tiểu thuyết lịch sử tập trung ở cảm hứng yêu

nước, khi hòa bình lại mượn lịch sử nêu gương cho thế hệ mai sau và nhìn

37

chung, mọi vấn đề đều được quy chiếu về lịch sử. Văn học Việt Nam thời kì

đổi mới có sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, hướng

mối quan tâm đến con người. Số phận con người với những quan hệ xung

quanh sự tồn tại của nó, phát hiện những vấn đề tự nó đã tác động không

không nhỏ tới tiểu thuyết lịch sử và qua đó nhà văn cũng thể hiện những trăn

trở, suy tư của mình về thế sự.

Tiểu thuyết Hồ Qúy Ly là sự kết hợp của nhiều nguồn cảm hứng. Có

niềm tự hào về những nét đẹp truyền thống của dân tộc, nhưng khác với các

tiểu thuyết lịch sử khác thường ca ngợi phẩm chất anh hùng của con người

trong công cuộc chống giặc ngoại xâm; trong tiểu thuyết này nhà văn đề cập

đến trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện ở nhân vật Hồ Qúy Ly - con

người có những ý nghĩ mới mẻ, độc lập, quyết liệt trong công cuộc cải tổ

nhằm canh tân đất nước. Đây là một cảm hứng mới của tiểu thuyết lịch sử

Nguyễn Xuân Khánh. Có thể nói, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc

ngoại xâm và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam suốt thế kỉ XX đã tìm được mối

tương đồng với quá khứ ở nét chính đó. Không phải trong lịch sử của ta

không có những con người có tư tưởng canh tân đất nước, chẳng hạn như

Quang Trung, Phan Châu Trinh, nhưng trong số họ chưa ai bước vào tiểu

thuyết lịch sử ở phương diện ấy. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Xuân

Khánh có nhắc đến chiến công của vua tôi nhà Trần khi ba lần chiến thắng

quân Nguyên xâm lược với thái độ tự hào. Ông cũng dày công khi ca ngợi vị

tướng tài ba Trần Khát Chân tiêu diệt Chế Bồng Nga - ông vua kiệt hiệt nhất

trong lịch sử Chiêm Thành. Tuy nhiên, đó không phải là mạch cảm hứng

trọng tâm trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh. Điều nhà văn thật sự

dụng công là nhấn mạnh vào tư tưởng canh tân, tinh thần đổi mới của Hồ Qúy

Ly. Từ đó khẳng định tầm tư tưởng, trí tuệ, tinh thần độc lập và táo bạo của

con người Việt Nam dám làm dám chịu, dám tuyên chiến với hệ tư tưởng Nho

38

giáo và bằng việc đó, nó bổ sung vào truyền thống tốt đẹp của dân tộc những

phẩm chất mới. Một phần nào đó tác giả cũng quan tâm đến các giá trị đạo

đức mà các cuốn tiểu thuyết trước đó đã đề cập. Nhưng nếu các tác phẩm

trước đó thường phân biệt tốt - xấu, thiện - ác, địch - ta rõ ràng thì đến Hồ

Qúy Ly, sự phân biệt đó được nhìn từ cảm quan của con người hiện đại nên

mềm dẻo hơn. Mỗi người đọc sẽ phải tìm cho mình một câu trả lời theo quan

điểm riêng, kinh nghiệm riêng. Về nhân vật Trần Nghệ Tôn được xây dựng là

ông vua hiền nhưng cứ mãi để nhân dân chìm trong đói khổ loạn lạc, đất nước

mục ruỗng, quan lại nhũng nhiễu, liệu có được coi là một minh quân, là một

người tốt? Để đạt được mục đích của mình, một phe có thể thực hiện tất cả

những việc làm tàn bạo cốt tiêu diệt phe kia, ngược lại, phe kia cũng sẵn sàng

làm những việc như tìm người viết sách sử dụng chuyện bôi nhọ hạ thấp kể

thù, cần đến cả cái chết của vua để kích động mọi người, dùng mỹ nhân kế

đối với cả bạn tâm giao... Đâu là hành động được coi là chính nghĩa và đâu là

phi nghĩa? Khi đọc tác phẩm, người đọc dễ dàng nhận ra nhà văn cũng bị ảnh

hưởng bởi cảm hứng đạo đức, song cảm hứng này luôn đan cài vào các mạch

cảm hứng thế sự khác, có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn với cảm hứng phân

tích chiêm nghiệm lịch sử từ điểm nhìn hiện tại. Trong các cảm hứng trên có

lẽ cảm hứng quan trọng, giữ vai trò chi phối chiều hướng tổ chức tác phẩm là

nhu cầu nhận thức, chiêm nghiệm lịch sử. Xuất phát từ cảm hứng thế sự và

triết luận kết hợp với cảm hứng lịch sử, tác giả đề cập đến những vấn đề

không phải riêng ở một thời đại cụ thể nào mà có ý nghĩa chung cho mọi thời

đại. Thông qua nhân vật Hồ Qúy Ly và thời kì đầy biến động, nhà văn lí giải

nhiều hiện tượng phức tạp của lịch sử, đặt ra nhiều câu hỏi để người đọc suy

nghĩ, chẳng hạn đổi mới để phát triển hay bảo thủ trì trệ để ổn định? Thế nào

được coi là một vị vua anh minh? Cơ sở của niềm tin khi vương triều lung

lay?... Nguyễn Xuân Khánh đã đề cập đến những vấn đề của lịch sử bằng thái

39

độ thẳng thắn, chân thành, suy nghĩ nghiêm túc và bằng chính những trải

nghiệm cá nhân. Trước mỗi chi tiết lịch sử tác giả đều xoay đi, lật lại để rút ra

những triết lí nhân sinh thiết thực. Hồ Qúy Ly là người nhận thức rất rõ tình

trạng “nước ta như cái giếng khơi để lâu năm, dưới đáy giếng có nhiều bùn

nhơ lắng cặn... cái giếng cũ toàn một mùi nước tanh tưởi...” [22]. Điều ông

muốn là thay đổi tận gốc rễ, như thế nghĩa là phải xáo trộn mọi thứ thuộc về

lề lối cũ vốn đã ổn định nay không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Một loạt

câu hỏi được đặt ra: Giữ lại cái gì? Phá bỏ cái gì? Tiến trình của quá trình đổi

mới ra sao? Thái độ cần có trong quá trình thay đổi đó như thế nào?... Đó là

những câu hỏi mà để tìm ra được câu trả lời không phải là điều dễ dàng. Lịch

sử thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc cải cách như của vua Minh Trị, vua Pie

đại đế... Cái giá của những cuộc cách tân đó còn tùy thuộc sự tổng hợp của

nhiều yếu tố. Xung quanh vấn đề bảo thủ và cách tân, tác giả Nguyễn Xuân

Khánh còn gợi mở nhiều điều về thời cuộc, đạo lí, đạo đức, tri thức và kẻ sĩ...

Hồ Qúy Ly có lí do riêng khi ông quyết tâm đổi mới, đổi mới triệt để và

nhanh chóng. Đất nước đã trì trệ quá lâu, phía Bắc nhà Minh nhăm nhe nhòm

ngó, trong nước nhiều thế lực chống đối nổi dậy... Hồ Qúy Ly muốn tiến hành

cải cách thật nhanh, đồng nghĩa với nó là ông chấp nhận đổ máu và đau

thương. Vua Nghệ Tôn cũng hiểu điều đó, nhưng đồng suy nghĩ với các

vương thân quý tộc họ Trần. Ông biết rằng với sự đổi mới đó quyền lợi của

dòng họ ông sẽ không còn như trước, sự yên tĩnh bấy lâu nay cũng bị khuấy

động. Ông ủng hộ Hồ Qúy Ly nhưng chỉ ủng hộ nửa chừng. Còn Hồ Nguyên

Trừng vốn là người tài năng, trí tuệ hơn người, nhận ra đất nước cần sự thay

đổi, tích cực vào những kế hoạch của Hồ Qúy Ly, nhưng trong thâm tâm lại

không đồng tình với cách làm của cha. Mỗi nhân vật có một mạch suy nghĩ và

thái độ khác nhau, nhà văn như muốn lí giải một quy luật phát triển của lịch

sử: quy luật thịnh suy.

40

Không khó để nhận ra trong tiểu thuyết có nhiều đoạn nói về sự giằng

co giữa cái cũ và cái mới, giữa cách tân và bảo thủ. Thái độ dùng dằng không

nỡ của Hồ Qúy Ly với ông vua già Nghệ Tôn vì ông vua già vốn là người

hiểu Hồ Qúy Ly nhất, chính ông mở đầu cho những ý tưởng cách tân táo bạo.

Trước khi chết, Nghệ Tôn hy vọng sẽ dùng những mối dây tình cảm để ràng

buộc Hồ Qúy Ly nhưng điều đó chứng tỏ ông đã đặt lợi ích của dòng họ lên

trên. Chính Hồ Qúy Ly đã suy nghĩ chuyện này rất nhiều, nó ám ảnh ông,

theo ông cả vào những giấc mơ. Phải chăng cách cư xử của Hồ Qúy Ly là tàn

nhẫn? Nguyên Trừng nói với cha: “Trung thành như Chu Công Khuông phò

Chu Võ Vương có thể còn được, chứ đến Khổng Minh phò Lưu Thiện, Tô

Hiến Thành phò Lý Cao Tôn là hai ông vua trẻ con ngu độn, trong lúc triều

chính mục ruỗng thật là ngu trung, Nghệ Hoàng không hiểu cha, không hiểu

thời thế...” [22]. Sự lồng ghép cảm hứng đạo đức và cảm hứng nhận thức,

chiêm nghiệm lịch sử mở ra cho tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh

khả năng bao quát đời sống rộng lớn và tạo những chiều sâu tư tưởng mới cho

tác phẩm.

Chọn bối cảnh lịch sử là những năm cuối của triều Trần, một thời đại

cách ngày nay rất xa, Nguyễn Xuân Khánh có cơ hội tự do bày tỏ những suy

ngẫm về sự còn mất, lẽ thịnh suy. Những nhân vật như Trần Nguyên Đán lặng

lẽ rũ áo về quê bởi hiểu thời thế: “vận nhà Trần ta làm sao có thể trường tồn

mãi được” và ủng hộ nguyên tắc ứng xử “việc nước là quan trọng hơn hết”.

Ông nhìn thấy ở Hồ Qúy Ly tham vọng giành ngôi báu nhà Trần nhưng cũng

nhận ra chỉ Hồ Qúy Ly mới có khả năng chèo chống đất nước thoát khỏi tình

trạng mục ruỗng, rối ren như hiện tại. Sự im lặng của Trần Nguyên Đán trước

câu hỏi của Trần Nguyên Hàng, sự im lặng của Sư Hiền trong cuộc nói

chuyện với Nguyên Đán chính là sự im lặng thấu hiểu và chấp nhận lẽ tự

nhiên của lịch sử.

41

Một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết được Nguyễn Xuân Khánh tâm

huyết xây dựng là Sử Văn Hoa với quan niệm: “Sử là hồn núi, hồn sông. Sử

là tinh túy của đất nước...” [22; tr.42]. Đây là nhân vật chuyển tải quan niệm,

triết lí về lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh. Sử Văn Hoa chú trọng đến hồn

nước. Hồn nước vốn là một khái niệm trừu tượng, nó là cái bất biến nhưng

cũng là ý niệm tùy thuộc quan niệm. Sư Vô Trụ giải thích: “Một con sông

cũng như một con người, vốn có cái cộng nghiệp của nó. Đó là cái cộng

nghiệp của toàn thể người dân. Đức Phật bảo con người có cái A lại da thức,

nơi tàng chứa những chủng tử lành dữ của con người qua nhiều kiếp. Một đất

nước cũng vậy, trong tàng thức của non sông có chứa những chủng tử...

những mong muốn tốt đẹp, những điều văn hiến mà dân tộc ấy đã gieo trồng,

chúng biến thành khát vọng, thành hồn của núi sông, rồi từ đời này sang đời

khác, khát vọng ấy sẽ hóa thân vào những bậc hiền nhân, vĩ nhân, danh nhân

và cả trong trái tim tốt lành của người dân thường để dẫn dắt dân tộc ấy đi

đến con đường của Đạo” [22; tr.42].

Có thể nói, tiểu thuyết lịch sử của ta ít có tác phẩm nào có sự tổng hòa

và sâu sắc cảm hứng thế sự như Hồ Qúy Ly. Đây là một giải pháp cho tiểu

thuyết lịch sử bởi vì, nhà tiểu thuyết lịch sử có lợi thế và cũng bị thách thức rõ

ràng hơn so với nhà tiểu thuyết thông thường: những nhân vật, những sự kiện

lịch sử đã được nhiều người biết đến, đã trở nên quen thuộc, nhà văn sẽ viết

lại bằng một nguồn cảm hứng mới mẻ, bằng những nhận thức, đánh giá và

kiến giải của thời đại nhà văn ấy đang sống.

Mẫu Thượng Ngàn tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất

nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ở giai đoạn này Mẫu Thượng Ngàn

không thể không động chạm đến cuộc tiếp xúc, giao thoa văn hóa Đông - Tây.

Ở đấy, đại diện phương Tây được thể hiện qua chân dung những kẻ đi đầu

trong cuộc chinh phục (ba anh em nhà Messmer, nhà dân tộc học René, thiếu

42

úy Bonard), trên nền cảnh của những sự kiện Francis Ganier và Henri Riviere

đánh chiếm thành Hà Nội, việc xây dựng nhà thờ lớn Hà Nội và sự mở rộng

ảnh hưởng của đạo Thiên chúa mà đại diện là đức cha Conlombert. Dân làng

Cổ Đình, cũng như mọi người dân Việt Nam phải đối mặt với một sức mạnh

mới đến từ phương Tây xa lạ, trong một tình thế khó khăn. Nhưng những

người dân Cổ Đình, đặc biệt là những người phụ nữ đã có cách ứng xử vừa

uyển chuyển mềm mại mà không hề bị khuất phục trong cuộc đụng độ Đông -

Tây ấy. Cô Mùi từ chỗ bị ép lấy Philippe Messmer, dần đã tìm thấy sự thích

nghi ở đồn điền trong địa vị một người vợ. Cô đã ưng thuận? Sự ngoan ngoãn

có phần cam chịu của cô Mùi đã vuốt ve tính hiếu thắng và thích chinh phục

của gã đàn ông xa lạ - cho dù hắn không lí giải được tại sao có sự bằng lòng

ấy. Nhưng khi chứng kiến cảnh vợ nhảy múa cuồng nhiệt trong vũ điệu mê

đắm của thứ đạo giáo bản địa khó hiểu, Philippe hiểu rằng nàng không khi

nào là quà tặng cho y. Cả Philippe và sau này là Julien - những kẻ sang xứ

Đông Dương với một mục đích duy nhất để “chinh phục” và “khai hóa” nên

không thể hiểu hết được sức mạnh kì bí của xứ sở này. Cả hai đều là những

người tích cực trong công cuộc khai phá mảnh đất mà họ cho là con mê muội

tối tăm. Tuy nhiên chúng không thể ngờ được những con người trên mảnh đất

ấy không chấp nhận bất cứ khái niệm dung hợp nào. Trong cuộc chinh phạt

chỉ có khái niệm kẻ đi chinh phạt và bị chinh phạt với chân lý kẻ mạnh sẽ

chiến thắng. Đó là lí lẽ mà họ đang áp dụng lên xứ sở lạ lùng này. Tuy nhiên

kết quả Philippe bỏ mạng, còn Jilien trở thành gã ngu đần và vô dụng. Những

gì cả hai mang đến cho xứ Cổ Đình chỉ là sức mạnh của sự áp đặt và tuân

phục - nó xa lạ và không phù hợp với bản chất ôn hòa, thuần hậu nhưng cũng

rất quyết liệt của những con người Cổ Đình. Đức cha Colombert, Pierre, René

là những người ít nhiều hiểu được bản chất ấy. Bản thân họ bước chân sang

xứ Đông Dương không nhận mình là kẻ đi khai hóa, mà chỉ sang để “học làm

43

giàu cho riêng mình, học tính khiêm nhường, lễ độ, học tính cam chịu”, “sự

hòa hợp”, “muốn xoa dịu những nỗi khổ của người dân An Nam bằng sự

thành thiện của đức tin” [23]. Cha Colombert sang Việt Nam nhưng không có

tham vọng làm chủ nó, mà để học làm một người Việt Nam, vì thế không lạ

khi ông là một đức giám mục phương Tây nhưng lại thông thạo chữ Quốc ngữ

và chữ Nho, biết xem tướng số và thuộc Kiều, am hiểu cách sống của đám

con dân mà ông có trách nhiệm hướng đạo và chăn dắt. Ngay cả đến ông

Lềnh - một người Tàu đã gắn bó với mảnh đất này mấy chục năm, cuối cùng

cũng phải thú nhận mình mãi mãi chỉ là một “trú khách” của nó mà thôi. Cả

đức cha và những giáo dân của ông được nhìn nhận không phải là những kẻ đi

chinh phục và những kẻ bán nước. Họ đơn giản chỉ đại diện của một cuộc

giao lưu văn hóa, từ chỗ gượng ép, áp đảo đến chấp thuận và dung hòa, thậm

chí có những cố gắng đồng hóa ngược lại. Hình ảnh cô bé Nhị - đứa con được

sinh ra trong lễ hội ông Đùng, bà Đà - kết quả của một vụ cưỡng đoạt tồi tệ -

vẫn trong trẻo, thánh thiện ở cuối tác phẩm là một biểu tượng nhiều ý nghĩa.

Sự lo sợ của Nhụ cho tương lai của đứa bé - một đứa con lai dễ bị cộng đồng

chối bỏ, bị dứt khỏi cội rễ của nó không xảy ra. Lại một điều diệu kì. Dưới

vòng che chở của Mẫu chăng? Hay đơn thuần là một sự đền bù của hóa công

cho những nỗi đau khôn cùng của con người.

Với hơn 800 trang tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã nhìn

nhận một giai đoạn lịch sử phức tạp đã qua của dân tộc bằng một nhãn quan

dân chủ. Ở đây không phải là xét lại lịch sử, ông chỉ đưa ra một lời bàn, một ý

kiến. Trong cuộc tiếp xúc văn hóa này, không hề có kẻ thắng, người thua, kẻ

mạnh, người yếu, kẻ đi chinh phục và người bị chinh phục - chỉ có thể là sức

mạnh tổng hợp, tiếp nhận lẫn nhau, chuyển hóa và cùng chung sống giữa các

nền văn hóa. Có một sự thật lịch sử là cuộc xâm lược của thực dân Pháp về

bản chất là cuộc chiến tranh tìm kiếm thuộc địa của chủ nghĩa tư bản, nhưng

44

hệ quả cuộc tìm kiếm ấy mang lại một cuộc giao lưu về văn hóa. Sự va chạm

Đông - Tây, Pháp - Việt đã được lí giải ở một góc nhìn mới. Ở đấy, văn hóa

Việt đã tìm được phương cách biến đổi, hóa giải những nguồn văn hóa khác

nhau mà không đánh mất chính mình.

Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết bao quát nhiều vấn đề, vừa có

lịch sử, xã hội (giai đoạn Pháp đánh vào thành Hà Nội cuối thế kỉ XIX), vừa

chạm tới cả những khía cạnh thuộc nhân sinh, thế sự (câu chuyện tình yêu của

người đàn bà Việt trong khung cảnh ngôi làng cổ, vừa bao dung, cay đắng,

vừa mãnh liệt, “vừa đầy chất phồn thực, bi hài quyện với mộng mơ và cao

thượng” [23]) và trên hết là cái nhìn về văn hóa - phong tục Việt Nam thể

hiện qua cuộc sống của những người dân quê ở một làng cổ thuần chất. Tái

hiện một giai đoạn lịch sử nhiều bi thương qua lăng kính văn hóa - phong tục,

Nguyễn Xuân Khánh bổ sung thêm một cách nhìn, nêu ra một kiến giải khác:

sự trường tồn của dân tộc suy đến cùng cũng vẫn lấy ở cái gốc văn hóa mà ra.

Tuy không phải lúc nào cũng bộc lộ thành sức mạnh trực tiếp, song cội nguồn

của bản sắc và sức sống một dân tộc là ở nền văn hóa bản địa đã hình thành

và được gìn giữ lưu truyền hàng nghìn năm, không dễ mai một. Phải chăng đó

cũng là sự luận giải của nhà văn về vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc

trong thời kì hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

Đội gạo lên chùa là câu chuyện về ngôi chùa Sọ ở vùng làng quê Bắc

Bộ. Đây là nơi chứng kiến biết bao biến động dữ dội qua những giai đoạn

khác nhau, với những con người mang số phận phức tạp. Cha mẹ đều bị giết

trong những trận càn của thực dân Pháp, hai chị em Nguyệt và An dắt díu

nhau rời xóm Giếng và tìm đến chùa Sọ mong nương nhờ cửa Phật. Từ chỗ

ban đầu còn lạ lẫm bỡ ngỡ, dần dần ngôi chùa đã trở thành gia đình mới của

hai em. Nguyệt cũng có ý xin được xuống tóc đi theo con đường tu hành,

nhưng sư cụ trụ trì Vô Úy nhận thấy chị còn vướng nhiều duyên nợ với đời

45

nên không đồng ý. Dù không được sư cụ chấp nhận nhưng Nguyệt một lòng

gắn bó với chùa, tâm hồn luôn hướng thiện. Cậu bé An thì khác, ngay từ lúc

mới đến đã được các sư thầy trong chùa đón nhận. Sư cụ Vô Úy nhận ra An

có duyên với nhà Phật nên đã đồng ý thu nhận để cho cậu theo con đường tu

tập. Tại đây, hai chị em đã cùng các sư vãi và mọi người chứng kiến những

thăng trầm biến động của ngôi chùa cũng như của dân làng. Những đồn bốt

được giặc dựng lên ngày càng dày đặc. Không khí căng thẳng ngột ngạt bao

trùm lên làng quê nghèo nhỏ bé. Những tên chỉ huy khét tiếng của giặc là Đại

úy Thalan, Trung úy tây lai Bernard đã gieo rắc bao nhiêu căm phẫn. Sự bắt

bớ, tra tấn và cái chết là những điều dân làng phải đối mặt hàng ngày. Nhưng

rồi không hiểu nhờ sức mạnh từ đâu tất cả đều được vượt qua. Có người trẫm

mình xuống giếng, có người phát điên, có người phải bạt xứ mà bỏ đi... Con

sông thành chiến địa, đêm tối là không gian, mỗi người là một du kích, nhà

chùa là nơi trú ẩn.... Bằng cách đó ngôi chùa và làng quê đã vượt qua những

bão tố của thời đoạn đó một cách bền bỉ, thể hiện một sức sống mạnh mẽ.

Cả ba cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên

chùa của Nguyễn Xuân Khánh đều được viết bởi nhiều cảm hứng đan xen,

hòa quyện vào nhau. Cảm hứng lịch sử - văn hóa giữ vai trò chủ đạo nhưng

luôn dung chứa trong đó mạch cảm hứng thế sự của đời sống nhân sinh muôn

thuở.

2.3. Nhân vật lịch sử - văn hóa

“Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá

nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.

Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời

sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [14]. Nghiên cứu về nhân vật, ở

một góc độ nào đó chính là thao tác tìm hiểu cách nhà văn nhìn nhận, cắt

nghĩa và lí giải về con người, nhất là con người đặt trong tác phẩm văn

46

chương. Nghiên cứu nhân vật - con người trong tác phẩm nghệ thuật cũng là

một hành trình nhận thức - khám phá nhiều tín hiệu mới xoay quanh cuộc

sống con người. Trong các thể loại văn xuôi tự sự, nhân vật đóng một vai

trò tối quan trọng. Đó là sức sống của thể loại. Toàn bộ tài năng nghệ thuật

của nhà tiểu thuyết nằm ở chỗ, trên trục vận động của diễn biến cốt truyện,

nhân vật phải làm chủ mọi cảnh huống, mọi tình thế, phát triển theo quy luật

nội tại của nó. Cách kể chuyện của nhà tiểu thuyết phải làm sao hòa vào các

nhân vật, hòa vào từng nhân vật và thế giới riêng của nó, kể về nhân vật bằng

ngôn ngữ của nó, bằng tiết tấu của chính nó.

Đối với tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là nơi thử thách và cũng là để

khẳng định tài năng của nhà văn rõ nhất. Nhà văn từ những tư liệu sử học có

khi chỉ là một vài dòng khắc trên bia đá, hay chỉ là một cái tên, mà phải thổi

hồn vào đó khiến nhân vật có thể đi lại, nói năng, bộc lộ tình cảm, cảm xúc để

phục vụ cho tư tưởng của nhà văn. Nhân vật thành công là nhân vật không đi

quá xa sử liệu mà vẫn phải phù hợp với thị hiếu người đọc đương đại.

Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh gắn bó mật thiết

với mối quan tâm của nhà văn về đề tài lịch sử và văn hóa dân tộc, nằm trọn

vẹn trong ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên

chùa. Nguyễn Xuân Khánh đã kiến tạo thế giới nhân vật phong phú, chứng

tỏ tài năng bậc thầy trong cách tổ chức, xây dựng nhân vật và biết cách để

nhân vật làm chủ trang viết. Tác giả rất kì công trong việc tổ chức đời

sống cho nhân vật. Mỗi cuốn sách có số lượng lên đến hàng trăm nhân vật

rất phong phú bao gồm: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật lịch sử, nhân

vật hư cấu, nhân vật người trí thức, nhân vật nông dân, nhân vật ngoại

quốc, nhân vật tín ngưỡng, tôn giáo… Nhưng mỗi nhân vật đều có màu sắc

và đường nét rõ ràng, không bị ràng buộc hay trùng lặp.

Ba cuốn tiểu thuyết c ủ a N g u y ễ n X u â n K h á n h mang cảm thức

47

“luận giải” trong diễn ngôn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Đặt trong cảm thức

luận giải ấy, hình ảnh các nhân vật luận đề - tư tưởng đã vượt lên công

thức “phát ngôn” khô cứng thông thường mà trở thành mẫu hình nhân vật

rất sống động, bộc lộ cái nhìn đa diện trong suy nghĩ và nhận thức cũng như

quan điểm của nhà văn trước những biến thiên lịch sử - xã hội.

2.3.1. Nhân vật lịch sử

Nhân vật lịch sử là những con người có bản lĩnh, tài trí và khát vọng

hơn người. Tính cách của họ làm ảnh hưởng và thay đổi lịch sử. Họ là những

người đóng vai trò mở đường. Dù con đường ấy có thể thành công hay thất

bại, nhưng họ vẫn đại diện cho tầm vóc và ao ước của dân tộc, tên tuổi của họ

đã được ghi vào sử sách. Có người trở thành anh hùng của thời đại, có người

thất bại nhưng họ đã khẳng định vai trò của mình đối với lịch sử. Vì vậy,

những khát vọng của họ rất đáng được trân trọng. Trong một cuốn tiểu thuyết

lịch sử, kiểu nhân vật này chính là dụng công lớn nhất của nhà văn và họ góp

phần tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm. Đồng thời, cũng thể hiện

những tìm tòi của nhà văn và góp phần lí giải tính tất yếu để nhận thức sâu

hơn về quá trình vận động của lịch sử.

Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ vén

bức màn thâm nghiêm của một giai đoạn đầy bão táp lịch sử, phục dựng lịch

sử qua những chân dung con người mà quan trọng ông đã miêu tả và làm

sống dậy tinh thần - khát vọng của lịch sử. Tinh thần và khát vọng ấy được

thể hiện rõ nét trong hình tượng nhân vật trung tâm: Hồ Quý Ly. Trước khi

trở thành nhân vật tiểu thuyết, Hồ Quý Ly đã là một nhân vật lịch sử. Do

vậy, xây dựng chân dung Hồ Quý Ly - nhân vật nguyên mẫu của lịch sự hiện

vẫn còn tồn tại nhiều tranh cãi, Nguyễn Xuân Khánh đã làm một cuộc tự thử

thách chính mình. Hình tượng Hồ Quý Ly tiêu biểu cho kiểu nhân vật mang

khát vọng xây dựng, cải cách, không phải bằng quan niệm đã có của lịch

48

sử cho thấy năng lực sáng tạo dồi dào và bản lĩnh của nhà văn Nguyễn Xuân

Khánh, một cây bút tiểu thuyết có nghề. Cuốn tiểu thuyết gồm 13 chương,

ngoài hai chương mở đầu và kết thúc, chương 9 và chương 10 (Minh Đạo I

và II) trần thuật trọn vẹn về Hồ Quý Ly, các chương còn lại tập trung làm

sáng tỏ thế giới nhân vật mà ở đó, Hồ Quý Ly vẫn là linh hồn và làm chủ

mọi mối quan hệ phức tạp nhất.

Trước khi làm vua triều Hồ (1400 - 1407), Hồ Quý Ly đã đặt

chân vào chính trường từ ba mươi năm trước đó, trong một bối cảnh lịch sử

sóng gió: nhà Trần tiễu trừ quân phiến loạn của ông vua phường chèo Dương

Nhật Lễ, lập Trần Nghệ Tông lên ngôi, rồi nhường ngôi cho cho Trần Ngung

để về vị thế Thái thượng hoàng. Ba mươi năm làm Thái sư dưới triều Trần,

Hồ Quý Ly vừa phải chèo chống con thuyền lịch sử vượt qua cơn bão táp,

vừa phải đối phó với những người thuộc tôn thất nhà Trần, quân Chiêm

Thành phía Nam, nhà Minh ở phương Bắc và lòng dân trăm họ. Đặt nhân vật

này vào tình thế lịch sử không có nhiều lựa chọn, Nguyễn Xuân Khánh đã

bộc lộc rất rõ khí chất của Hồ Quý Ly - một nhà chính trị có tài thao lược,

quyền biến và kiệt hiệt, một nhà cải cách táo bạo, dám nghĩ dám làm. Giữa

bối cảnh vận mệnh xã tắc đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, thù trong giặc

ngoài: ở phía Nam, quân Chiêm Thành tiến ra giao chiến với nhà Trần,

phía Bắc nhà Minh lăm le nhòm ngó, triều đình rối ren, diệt được quân

phiến loạn Dương Nhật Lễ thì đến đồng đảng Phạm Sư Ôn kéo xuống Thăng

Long trấn thủ… Hồ Quý Ly đã không một chút chần chừ, lập tức hành động,

và chấp nhận mọi tổn thất vì: “Đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một thay

đổi, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên, tàn nhẫn đấy, đau thương đấy,

nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt cảnh đầu rơi máu chảy” [22; tr.486].

Tham vọng thay đổi cục diện của đất nước, giữ yên giang sơn và lòng

dân của Hồ Quý Ly, xét một cách tích cực, đó là cuộc cách tân dân chủ vì lợi

49

ích bình đẳng của muôn dân. Ở phương diện này, Hồ Quý Ly thực sự là một

trí thức mẫn cảm thời thế. Ông ban hành một loạt các chính sách như hạn

điền: bắt người có ruộng tự cung khai, cắm biển đề tên chủ ruộng, ai thừa số

quy định thì sung công. Ông không muốn trong dân gian có kẻ lang thang

nên cho làm sổ hộ khẩu khắp nước, không sót một người dân nào để chú ý

quản lý từng người dân, cấp đất cho họ làm ruộng… Rồi chính sách hạn nô

cho phép nhà giàu chỉ giữ lại một số ít nô tì nhất định, còn lại trả về gia đình,

sư sãi hoàn tục… Về mục đích, những chính sách cải tổ của Hồ Quý Ly đều

nhằm tập trung sức người sức của để cứu nước khỏi cơn nguy khốn. Nhưng

sai lầm của Hồ Quý Ly là ngay khi ban hành những chính sách ấy và ý thức

rõ: “Phàm cái gì mới là người ta hay chống lại” [22; tr.491], ông đã vấp

phải sự phản đối kịch liệt từ giới quý tộc nhà Trần và một bộ phận đông đảo

tăng ni, phật tử của Phật giáo vốn là quốc giáo rất được lòng người trong

những triều đại trước.

Với cá tính mạnh mẽ, dám đương đầu với sóng gió, Hồ Quý Ly đã

không từ bỏ bất kì chính sách nào mà ông cho là đúng đắn, phù hợp. Ông

quyết liệt đến tàn bạo, độc tài đến nghiệt ngã trước tình thế lịch sử đặt ra nên

tất cả mọi người, từ tôn thất nhà Trần đến muôn dân đều căm thù ông như

một bạo chúa. Là con người hành động, Hồ Quý Ly đã làm tất cả mọi việc

để đạt được mục đích của mình. Ông sẵn sàng trừng phạt những kẻ đi ngược

với thuận ý của mình, bất kể đó là người Quý Ly từng tôn trọng hay là người

trong họ tộc ông hết lòng cưu mang, sủng ái. Hồ Quý Ly thẳng tay giết

Nguyễn Đa Phương, người em kết nghĩa, con trai của thầy dạy; rồi thượng

tướng Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, quan thái bảo Trần Nguyên Hàng,

những tôn thất nhà Trần nổi tiếng khẳng khái, từng hiển danh trong cuộc

kháng chiến chống quân Chiêm Thành, xây dựng Tây Đô, cũng chính Hồ

Quý Ly đã có lần dành cho Trần Khát Chân nhiều lời khen ngợi: chững chạc,

50

chín chắn, một vị đô tướng tinh thông binh pháp và vô cùng bình tĩnh… Ở

bậc đại trí thức như Hồ Quý Ly, tinh thần và khát vọng lịch sử không chỉ là

hành động, mà còn là khát khao của một con người mang nỗi mặc cảm ngoại

tộc nên luôn luôn củng cố niềm tin vào dòng dõi huyết thống của mình. Quý

Ly dặn con trai Nguyên Trừng những lời đau đáu: “Trong đạo hiếu, việc làm

rạng rỡ tổ tiên, làm cho tên tuổi của dòng họ vang danh, lưu truyền sử sách,

đó chính là đại hiếu. Lúc nào trong tâm khảm con cũng phải nhớ con dòng

dõi họ Hồ. Việc đổi sang họ Lê chỉ nhất thời; người quân tử cũng phải biết

chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được” [22; tr.54].

Là con người khôn ngoan, luôn tính toán kín kẽ mọi chuyện, Hồ

Quý Ly đã quyết định hôn nhân của con trai cả là Hồ Nguyên Trừng với

Quỳnh Hoa - con gái của quan thái bảo Trần Nguyên Hàng “nhất thiết ông

ta phải là thân gia với ta” để thu phục quan thái bảo, để ông ta thấu hiểu

mình. Ngay cả ý định lập thêm kinh đô mới, một nơi địa thế hiểm trở, có

thế dựa lưng vào núi cũng vì ông đang chứng kiến tận mắt sự thối ruỗng

của vương triều nhà Trần và tự đặt câu hỏi: “so với một triều đại mới được

dựng lên, được quét sạch lũ tham quan ô lại, được tổ chức cứng rắn, được

hết lời bàn ra tán vào, thì hỏi hai triều đại ấy bên nào tốt hơn, mạnh hơn?”

[22; tr.105]. Khát vọng của Hồ Quý Ly là khát vọng của một nhà chính trị có

tinh thần tự nhiệm, dám tranh biện với cái cũ, cái trì trệ và tranh biện với

chính mình để củng cố niềm tin vào con đường mình đang đi. Sự tỉnh táo

đến lạnh lùng, sự đa nghi đến mức tàn độc ở Thái sư đã khiến ông càng

ngày càng lún sâu vào canh bạc chính trị, và để thực hiện khát vọng đổi mới

đất nước, Hồ Quý Ly chấp nhận bước qua những rào cản mà với ông, nó

cũng đau đớn như chính lúc làm đau mình và làm đau người khác.

Trái ngược hoàn toàn với Hồ Quý Ly, ông vua già Nghệ Tôn (tên

húy là Trần Phủ, con thứ ba của vua Trần Minh Tôn, mẹ là Lê Thị, cô của

51

Quý Ly), người rất mực tin tưởng Quý Ly, cũng là một nhân vật tư tưởng nửa

vời, mang khát vọng của một con người muốn “giữ yên” bánh xe lịch sử. Khi

lịch sử đặt lên vai ông trọng trách gánh vác cơ nghiệp nhà Trần, Trần Phủ

đã khước từ vì “Từ lúc còn trẻ, ta vốn không có chí làm vua. Ý nguyện của ta

chỉ mong cho đất nước được thanh bình, hết loạn li…” [22; tr.114]. Được

muôn dân ủng hộ và các bậc tôn thất nhà Trần kính trọng, lúc ở trên ngai

vàng, vua Trần Nghệ Tôn rất chú trọng đến văn hiến, cư xử trọng thị với các

bậc danh nho, mong cầu người hiền tài… Nhưng dầu biết đất nước có nhiều

vấn đề phải thay đổi tận gốc rễ, ông vẫn không muốn làm vì sợ nhiễu sự.

Ông chỉ muốn giải quyết mọi việc theo nề nếp tổ tông, ông vua phải là

khuôn mẫu của sự nhân từ, thương dân… Triều đình trong ba năm ông cai

trị mọi việc đều suôn sẻ vì đã có những thủ túc thân tín bên cạnh. Nhưng khi

đối mặt với kẻ thù ngoại bang, quân Chiêm Thành lăm le tiến đánh, ông

nhường ngôi cho em là Trần Kính, xưng vua Duệ Tông, còn ông lên làm

Thái thượng hoàng. Nghệ Hoàng cũng không tránh khỏi những va chạm

khốc liệt của lịch sử. Cái chết của ông vua già cũng là minh chứng cho sự tàn

lụi của một vương triều yếu đuối, bạc nhược và đầy lo âu trong từng bước đi

lịch sử.

Nhà chép sử Sử Văn Hoa mặc dù là nhân vật hư cấu, nhưng lại là

nhân vật tư tưởng có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện các quan điểm

của lịch sử. Thái độ của người trí thức và sự lựa chọn trước những khúc

quanh của lịch sử được thể hiện rất rõ trong nhân vật này. Trong suốt thiên

tiểu thuyết, kể từ khi xuất hiện ở chương I, trải qua nhiều cơn tao loạn đến

lúc chết, Sử Văn Hoa vẫn bộc lộ tâm hồn ngay thẳng, trung thực ngay giữa

mối quan hệ phức tạp của các phe phái đối lập. Nhân vật gây ấn tượng với

người đọc bởi những suy tư sâu sắc về lịch sử: “Sử là hồn núi hồn sông. Sử

là tinh túy của đất nước. Dân tộc nào biết chép sử càng sớm càng có nhiều

52

cơ hội văn hiến. Dân tộc nào càng biết quý trọng đến sử, càng có nhiều cơ

hội trường tồn. Thịnh đấy! Suy đấy! Chẳng vì thịnh mà kiêu, chẳng vì suy mà

nản. Cứ bền lòng nhìn vào sử như tự ngắm mình trong một tấm gương.

Ngắm để vẽ, để tô, để sửa, ắt khuôn mặt càng dễ ưa, dễ coi. Hồn núi ở đó,

hồn sông cũng ở đó” [22; tr.42]. Là người chép sử, lại có nghề chiêm bốc, Sử

Văn Hoa biết mình luôn trong tình cảnh “đùa chơi với lửa” bởi lẽ: “Ta là kẻ

dùng cây bút, dùng ba tấc lưỡi để hé nhìn tương lai, để sống ở đời, để làm

bạn với vua chúa. Chỉ một chữ thôi, chỉ một câu nói thôi, ta có thể làm xổng

xích một bạo chúa, hoặc có khi ngăn chặn một cuộc chém giết”[22;

tr.43,44]. Nhà chép sử quyết tâm không che giấu sự thật bên trong giấc mộng

của ông vua già nên đã giải mã giấc mơ “hầu mõm đỏ, lầu gà trắng” vì

theo ông, người gần đến cái chết (vua Nghệ Tôn) cần phải biết sự thật. Ông

không đồng tình với cách làm tàn bạo, bất chấp tất cả của Hồ Quý Ly nhưng

cũng cương quyết không theo lời Trần Khát Chân viết một cuốn sách bôi

nhọ Thái sư. Sử Văn Hoa sẵn sàng đón nhận cái chết khi ở trong tù, ông

ngày đêm viết cuốn sách mơ ước của đời mình, trong đó có chương “Minh

Đạo luận” nhưng cũng rất quân tử khi nói ra sự thật trong “giấc mộng kẻ bôi

vôi” của Hồ Quý Ly… Nhân vật Sử Văn Hoa mang cốt cách trí thức, tinh

thần phản biện và sự mẫn cảm thời thế. Tính cách cứng cỏi, thông tuệ và thấu

cả những huyền vi của tạo hóa đã giúp ông không chịu khuất phục trước bạo

quyền. Không thể phủ nhận, việc xây dựng chân dung nhân vật Sử Văn Hoa

triền miên trong dòng suy nghĩ, tự vấn là Nguyễn Xuân Khánh đã lồng ghép

những suy tư của bản thân đối với việc minh định, nhìn nhận lịch sử: “Núi

sông cũng có âm dương; một đất nước cũng có âm dương; Phật giáo và Nho

giáo. Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh

thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thúy của núi sông. Đã bao đời nay,

nó vẫn ngân nga trong tiếng chuông chùa làng, lẩn khuất trong đầu ngọn tre,

53

dưới mái rạ, để xoa dịu, nâng đỡ hồn người dân quê trong những lúc nhiễu

nhương loạn lạc… Còn Nho giáo, phần dương của núi sông, đó là phép tắc,

lễ giáo, đó là cương cường xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son

vinh quang” [22; tr.514,515]. Những trải nghiệm ấy được đúc kết từ biết bao

suy tư, nghiền ngẫm của nhân vật trong suốt chiều dài thời gian lịch sử,

cũng là trải nghiệm của cá nhân nhà văn khi đi tìm hiểu và đào sâu vốn văn

hóa dân tộc - cội rễ của lịch sử.

Trong biến động của lịch sử, những bậc trí thức như Hồ Quý Ly, Sử

Văn Hoa, Đoàn Xuân Lôi, Hồ Nguyên Trừng… là những con người biểu

hiện rõ nét nhất khát vọng của họ trong các vấn đề quốc gia dân tộc. Nếu Hồ

Quý Ly, ngay từ lúc làm quan Thái sư đã muốn mình làm mưa tưới mát khắp

muôn nhà thì Hồ Nguyên Trừng lại mong ước trở thành “rường cột để chống

đỡ xã tắc”. Dường như, Hồ Nguyên Trừng cũng là nhân vật mà tác giả gửi

gắm nhiều ý tưởng, bên cạnh Hồ Quý Ly. Hoài bão làm rường cột của nước

nhà song Hồ Nguyên Trừng trong hành động và suy tư vẫn là một khối

mâu thuẫn lớn. Là con trai cả của Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng thấu hiểu

tham vọng và chí lớn của cha nhưng ông cũng nhìn thẳng vào cục diện

của tình thế lịch sử để biết rằng: “Nhà Trần hiện nay đã thối ruỗng, đáng

lật đổ. Và cha là người duy nhất hiện nay có thể lật đổ nhà Trần dễ dàng.

Nhưng ơn sâu của nhà Trần với muôn dân thì cha có lật đổ được không?”

[22; tr.104]. Ông dứt khoát không đồng tình với những việc làm mù quáng

đến tàn bạo của cha, nhưng cũng không dễ dàng thoái lui khỏi chiến trường

chính sự. Chính “lũy tre, nếp nhà, mặt đất” đã níu kéo Nguyên Trừng trong

giấc mơ bay như lời tiên đoán của Sử Văn Hoa, và lựa chọn cuối cùng của

nhân vật vẫn là “Lặng lẽ đi về phía có tiếng trống” với mơ ước thuở bình

sinh: “tha nhật tác đống tác lương dĩ phù xã tắc”. Còn thượng tướng Trần

Khát Chân đại diện cho những bậc tôn thất nhà Trần khư khư giữ những tư

54

tưởng bảo thủ một cách mù quáng. Là một trong số ít những tài năng còn lại

của triều Trần, thượng tướng nhận thức rõ phải thay đổi thì mới cứu vãn tình

thế nước nhà. Nhưng ông lại cực đoan duy trì ngôi báu, duy trì những giá

trị cũ kĩ của triều đại đã tới hồi kết thúc. Con người như Trần Khát Chân đi

ngược lại bánh xe của lịch sử cuối cùng đã phải trả giá đắt trong cuộc thảm

sát ở Đốn Sơn.

Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, hình ảnh các bậc trí thức mang

khát vọng lịch sử cũng là một điểm sáng của tác phẩm. Đặt các nhân vật

trong bối cảnh giao tranh văn hóa khốc liệt giữa phương Đông và phương

Tây của buổi đầu thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Xuân Khánh đã khắc

họa một số chân dung con người mang trong mình lí tưởng và khát vọng

của nhân dân, của cả cộng đồng. Đó là thế hệ các nhà Nho như cụ Cử

Khiêm, cụ Vũ Huy Tân, những người trí thức kiên trung, đến lúc chết vẫn

quyết giữ gìn phẩm tiết. Vợ chồng cụ Cử Khiêm sẵn sàng giang tay cứu

vớt những thân phận khốn cùng (cha con trưởng Cam) dù bị quy kết là kẻ

che chắn cho bọn tà giáo, song cũng chính con người ấy trong cuộc dấy

binh khởi nghĩa chống Pháp, đã tự tay rạch bụng mình trong bữa rượu máu

của những kẻ hàng giặc. Hình ảnh cụ Vũ Huy Tân là thầy giáo dạy Nho học

cho các cụ trong làng như: cụ Đồ Tiết, cụ Tú Cao, ông Phủ Lễ… và truyền

lại cho thế hệ các trí thức trẻ Vũ Xuân Huy nhiệt huyết Cách mạng, vận

động nhân dân lập “Tổ tương tế”, dạy chữ Quốc ngữ… là mẫu hình tiêu biểu

cho lớp người trí thức mới trong buổi giao thời, mang khát vọng thức tỉnh

quần chúng, giành quyền tự chủ dân tộc.

Trong Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa xuất hiện hình ảnh

những trí thức người Pháp ở thuộc địa Đông Dương. Họ gánh trách nhiệm

với Tổ quốc là đi chinh phục xứ sở An Nam, nhưng không phải ai cũng tự

hào ở vị thế kẻ xâm chiếm. Ở họ toát lên cái nhìn trân trọng và yêu mến bản

55

sắc văn hóa của dân tộc da vàng. Họ mong muốn hiểu biết, đồng cảm và từ

đó chia sẻ lòng ái hữu. Philippe Messmer là người Pháp, xuất thân nông dân

ngoan đạo. Sự khôn ngoan và thực tế của Philippe khi đến làm chủ đồn

điền xứ sở này đã giúp ông hiểu rằng: “Không có sự cai trị nào vững bền

hơn sự cai trị thông qua văn hóa tôn giáo” [23; tr.316]. Cha Colombert là

người cả đời chỉ chăm lo việc đạo, ông nhìn nhận người An Nam là những

con người hiền hòa, chăm chỉ, thông minh và cam chịu nhất trên Trái Đất

nên nguyện gắn bó với xứ sở tươi đẹp này. Đại úy Thalan trong Đội gạo lên

chùa là một nhà quân sự có học và có nguyên tắc. Chứng kiến những người

lính Pháp xúc phạm tới người đàn bà An Nam (cô Nguyệt), ông khẳng định:

“Chúng ta là những chiến binh của nước Pháp văn minh và vinh quang.

Chúng ta đem ánh sáng đến cho xứ sở này. Vậy, đối với người dân, chúng

ta phải là bạn” [24; tr.37]. Cũng giống như Philippe Messmer, đại úy Thalan

thấu triệt và tôn trọng văn hóa bản địa mà cội rễ là văn hóa làng xã. Ông

không cho phép Tây lùn Bernard có những nhận xét kì thị và ác ý về nhà

chùa, cho họ là lũ dân mê tín, vì ông hiểu: “con người có đức tin tôn

giáo là những người lương thiện, đáng quý. Người Pháp muốn đứng vững

trên mảnh đất này, thì phải biết trân trọng ngôi chùa” [24; tr.37]. Những

nhận định và phát biểu của đại úy Thalan về chiến tranh, về tôn giáo, là tư

tưởng của một bậc trí thức được thụ hưởng nền giáo dục văn minh, rất

đáng được xem trọng: “Chiến tranh là tàn bạo, nhưng một dân tộc văn minh

làm chiến tranh cũng phải tiến hành một cách văn minh” [24; tr.219]. Phải

chăng sự trân trọng tôn giáo bản địa - đạo Phật ở một người có cha mẹ đi

theo công giáo và rất hiểu đạo như đại úy Thalan có thể xuất phát từ chính

căn cốt của đạo Thiên chúa, đó là lòng thương xót con người?

Có thể nói, những nhân vật trí thức mang tư tưởng thời đại, mang khát

vọng lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh được miêu tả rất đa

56

dạng, phong phú. Song dù ở bước ngoặt nào của lịch sử, dù đứng ở phía bên

nào của cuộc chiến, họ vẫn có những mối đồng cảm chung, đó là sự đồng

cảm vượt lên sự khác biệt, ước mong xã tắc vững bền, ước mong đổi mới,

đem lợi ích cho cả cộng đồng.

2.3.2. Nhân vật văn hóa

Nhân vật n g ư ờ i tu hành là một thế giới rất sống động, đa dạng

xuất hiện trong cả ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. Xuyên suốt

các tác phẩm là cảm hứng luận giải, trên hết là sự luận giải về các vấn

đề: sức mạnh cá nhân trong dòng chảy lịch sử, sức mạnh của tính cộng

đồng trong biến thiên xã hội, sức mạnh của tôn giáo bản địa trong bối cảnh

giao lưu, tiếp xúc văn hóa Đông - Tây. Thông qua thế giới nhân vật, Nguyễn

Xuân Khánh thể hiện rất rõ những tư tưởng chính yếu trong cơ tầng văn hóa

- chính trị - lịch sử Việt Nam. Đó là Nho giáo trong Hồ Quý Ly, đạo Mẫu

trong Mẫu Thượng Ngàn và đạo Phật trong Đội gạo lên chùa.

Đội gạo lên chùa là tiểu thuyết mang cảm thức Phật giáo. Những

triết lí căn cốt của đạo Phật được nhà văn đề cập rõ nét qua số phận các nhân

vật. Trong suy tư của nhà văn, ngay từ thời điểm ra mắt tiểu thuyết Hồ

Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã rất quan tâm đến tư tưởng Phật giáo (tất

nhiên trong bối cảnh xã hội lịch sử triều Trần với những va chạm khốc liệt

với Nho giáo). Nhà văn đề cao và xem Phật giáo là bộ phận tư tưởng căn bản

nhất, nắm giữ cội nguồn và duy trì nguồn mạch của nó trong suốt chiều dài

xây dựng, phát triển đất nước. Triết lí Phật giáo trong diễn ngôn của

Nguyễn Xuân Khánh ở tác phẩm Đội gạo lên chùa không quá cao siêu,

xa lạ mà chủ tâm đi sâu vào đời sống thường nhật, bình dị hàng ngày. Sư

cụ Vô Úy trụ trì chùa Sọ, là người nhìn xa trông rộng, thấu hiểu căn tính con

người và sự biến đổi của thời thế. Vì lẽ đó, ông không coi Phật giáo là một

hệ thống những quan niệm cứng nhắc, mô phạm và bất biến mà chủ trương

57

coi Phật giáo là một lối sống tùy duyên, tùy người, tùy hoàn cảnh như lời

truyền dạy của đức vua Trần Nhân Tông, sư tổ phái Thiền Tông: “Cư trần

lạc đạo thả tùy duyên”. Trải quan muôn vàn cay đắng của cõi trần, “nơi

cửa Phật cũng không tránh khỏi bão táp mưa sa”, nhưng ở sư cụ Vô Úy là

một thái độ sống không khuất phục, không sợ hãi, như chính pháp hiệu

của ông. Ngay lúc bị giam cầm trong tù ngục, sư cụ Vô Úy đã dặn dò chú

tiểu An, cũng là tự dặn lòng: “Sống ở cõi nhân gian, tức là sống giữa những

đau khổ. Không sợ hãi mới tìm được Niết Bàn. Niết Bàn chẳng ở đâu xa. Nó

ở ngay cõi trần gian này” [24, tr.204].

Tư tưởng nhập thế, coi Phật giáo là một lối sống của sư cụ Vô Úy đã

thẩm thấu đến tâm hồn non nớt của chú tiểu An. Không hiếm trong tác phẩm

là những trường đoạn tác giả để nhân vật thuyết giáo về tư tưởng nhập thế,

tùy duyên của đạo Phật. Nhưng rao giảng mà không khô khan, cứng nhắc vì

những điều sư cụ Vô Úy nói với chú tiểu, cũng là trải nghiệm từ chính gian

khổ cuộc đời ông đã đi qua. Với nguyên tắc Đạo là Đời, gắn bó hữu cơ với

cuộc đời, sư cụ cho rằng, người xuất gia tu hành không chỉ ở chùa mới tu

mà Phật tử phải tu mọi lúc, mọi nơi: “Gặp cảnh an bình cũng tu. Gặp cảnh

oan nghiệt cũng tu. Có thể nói, chính những lúc ấy mới là cơ hội để ta tìm

đến chân như… Khổ cực ở đời chỉ là chứng cứ, là sự nhắc nhở cho người tu

hành cái chân lí không thể chối cãi được của đức Thế Tôn rằng đã mang lấy

nghiệp vào thân, con người còn chịu khổ…” [24; tr.598]. Lời nói của sư cụ

Vô Úy trong những ngày cả hai thầy trò bị bắt đi cải tạo sau Cải cách ruộng

đất như mang một sức mạnh diệu kì, nó xoa dịu nỗi đau khổ và giúp chú tiểu

An có thêm sức chịu đựng vượt qua những ngày sóng gió.

Tư tưởng Phật giáo ở Đội gạo lên chùa có mặt trong từng lời nói, từng

hành động và suy tư của các nhân vật. Không chỉ nắm giữ vai trò của tôn

giáo, Phật giáo còn vươn lên trở thành một lối sống, có mặt trong tất cả mọi

58

người, đó là Phật tính: “Người nam sinh hoạt ở đình. Người nữ sinh hoạt ở

chùa. Vì vậy, tinh thần Phật giáo thấm vào xã hội thông qua người mẹ,

người vợ. Mà phụ nữ nào chẳng có gia đình và con cái. Người đàn bà ứng

xử trong gia đình xã hội và dạy con cái ít nhiều theo tinh thần Phật giáo. Vậy

nên mới nói, bất cứ người Việt nào cũng đều có chút Phật giáo trong người”

[24; tr.255]. Những bài học đầu tiên sư cụ truyền dạy cho chú tiểu An là bài

học thực hành Phật giáo trong cuộc đời: “Người chân tu phải lúc nào cũng

tu. Đi cũng thiền. Ăn cũng thiền. Uống cũng thiền. Nói cũng thiền. Từng

giây từng phút đều thiền” [24; tr.25]. Phật giáo có trong mỗi cuộc đời,

ngân vọng qua tiếng gõ mõ đánh thức sự tốt lành, qua tiếng chuông chùa

vang xa giữa làng xóm, qua sự cảm hóa thuần thục cả con vật hung tợn, là

phép niệm chú để Đức Phật dẫn dắt con người qua những khổ ải cõi trần

ai… Suy tư của chú tiểu An về kiếp người ở phần cuối câu chuyện, cũng là

kết quả những chiêm nghiệm về lẽ đời mà tư tưởng biện chứng của Phật giáo

thẩm thấu trong anh: “Kiếp người chẳng qua như những con đom đóm. Vầng

trăng kia là ánh sáng của Phật, tỏa chiếu khắp nhân gian. Kiếp nhân sinh là

con đom đóm. Chẳng ai thắp mà đom đóm vẫn sáng. Nghĩa là con người vốn

có ánh sáng trong mình. Trong đêm đen, con đom đóm cố hết sức để tự phát

sáng. Ánh sáng ấy nhỏ nhoi lắm, yếu ớt lắm. Nhưng dù sao cũng là ánh

sáng” [24; tr.866].

Nhân vật sư thúc Vô Trần cũng là con người mang trong mình nhiều

Phật tính. Là con nhà giàu sống giữa phố thị ồn ào, cậu bé Trần đã cảm mến

ngay khung cảnh thanh bình của ngôi chùa Ổi và tự nguyện trốn nhà, xuất gia

đi tu, ngày đêm miệt mài kinh kệ, thông tuệ chữ Hán. Nhưng mười tám năm

sau, trong cuộc gặp gỡ định mệnh với cô Nấm ở vườn cò, sư Vô Trần đã từ

bỏ cuộc đời tu hành để hoàn tục, lập gia đình với cô Nấm và trở thành Chính

ủy, phụng sự Cách mạng. Nhà sư Cách mạng kì lạ ấy đã sống một cuộc đời

59

tận hiến đến cùng, quyết tâm đi tu, quyết tâm hoàn tục, tưởng như mâu thuẫn

vì sư là con người từ bi, còn nhà Cách mạng cần sự lạnh lùng sắt đá, nhưng

sau tất cả đó vẫn là một con người có tấm lòng vì đạo, “tùy duyên”, tùy thời.

Trong cách diễn giải của Nguyễn Xuân Khánh, ông không đồng nhất tất cả

những quan điểm Phật giáo. Là tôn giáo đồng hành cùng con người suốt

chiều dài lịch sử, ở mỗi biến cố, mỗi thời đoạn, Phật giáo lại có những biến

đổi và cả hạn chế của nó. Không phủ nhận Phật giáo có ước vọng cao

đẹp, hướng con người đến tính Thiện, nhưng Nguyễn Xuân Khánh cũng

thẳng thắn nhìn ra những điểm phi thực tế của Phật giáo trong cuộc đời.

Việc sư cụ Vô Úy thuần phục chú hổ Khoan Hòa, đặt Pháp danh cho nó là

một nghĩa cử và hành động đẹp. Nhưng kết cục bi đát của con hổ lại là

minh chứng cho sự bất lực trong triết lí từ bi của đạo Phật. Hay những băn

khoăn của sư cụ Vô Úy trước trường hợp nhà sư Cách Mạng - người em út

Vô Trần khi đứng giữa Đạo và Đời: “Hay là trong thời mạt pháp, con người

chỉ như những chiếc lá để gió lốc cuốn đi. Hay là còn chưa đủ nhân duyên

cho con người trụ lại, và có quá nhiều nhân duyên kéo con người trôi lăn

trong trần thế?...” [24; tr.167]. Là đệ tử thuần thành, hiểu rõ những cấm kị

của Phật giáo đối với kẻ tu hành nhưng chú tiểu An vẫn nhiều khi không kìm

nén được cảm giác yêu đương nam nữ với Huệ: “Phật giáo có một sức hút

tinh thần ghê gớm. Song đến lúc này tôi mới biết người đàn bà cũng có một

sức hút ghê gớm chẳng kém” [24; tr.799]. Trong xã hội loạn lạc, Phật giáo

không đủ sức lan tỏa niềm tin tuyệt đối với tất cả mọi người, như lời của ông

Đoàn ủy đã tâm sự rất thật với sư cụ trong những ngày ở trại cải tạo:

“Tôi sợ rằng con đường của Phật tuy vĩ đại nhưng ảo tưởng. Và nếu đi quá

mức đến một giới hạn nào đó sẽ là thứ thuốc ru ngủ cho những con người

tuyệt vọng” [24; tr.596]. Ngay trong thái độ giác ngộ của một số nhà sư

giữa thời tao loạn, Nguyễn Xuân Khánh cũng nhìn thấy hình ảnh không

60

mấy tốt đẹp: “Rồi sau đêm chạy đàn, mấy ông sư còn kêu ca, mè nheo các bà

dì Bernard về chuyện tiền nong... Những nhà sư quá ham tiền đó đã biến

sự khó chịu chuyển thành ác cảm” [24; tr.400].

Trước Đội gạo lên chùa, trong tác phẩm Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân

Khánh cũng dành rất nhiều cảm tình cho đạo Phật, khẳng định vai trò âm nhu

trong cơ cấu tinh thần - tư tưởng và văn hóa Việt: “Phật giáo là phần âm của

hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và

thâm thúy của núi sông. Đã bao đời nay, nó vẫn ngân nga trong tiếng

chuông chùa làng, trên đầu ngọn tre, dưới mái rạ… đem lại cho người dân

ta sức chịu dựng dẻo dai để chờ đến buổi bình minh sẽ tới” [22; tr.514].

Mượn lời Thái sư Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh cũng bày tỏ cái nhìn phê

phán trong lịch sử Phật giáo có những giai đoạn ba chục vạn người đi tu,

“trốn việc quan đi ở chùa”, lánh đời, ăn bám, dựa dẫm vào bổng lộc dư thừa

của nhà chùa và tư tưởng yếm thế làm đất nước suy yếu. Câu hỏi Quý Ly

đặt ra, cũng là trăn trở sâu sắc của nhà văn về tình cảnh này: “Ai ai cũng

chỉ lo xuất thế gian đi tìm cực lạc. Dòng khí âm ào ạt chảy… Dòng từ bi

miên trường sẽ làm lòng dân mềm yếu hết sức đối kháng. Kẻ ngoại bang lăm

le dòm ngó, ta biết lấy gì chống đỡ non sông?” [22; tr.126, 127]. Cụ lang

Phạm khi chuyện trò với cháu ngoại là Hồ Nguyên Trừng đã căn dặn: “Con

đừng nên chỉ học Phật. Hãy đọc cả trăm nhà, con có duyên với nhà nào,

lòng con sẽ dừng ở đó, không nên cưỡng lại lòng mình” [22; tr.31]. Cũng vì

triết lý “tùy duyên”, “tùy thời” ấy mà trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn

Xuân Khánh xây dựng chân dung nhân vật sư cụ Vô Trụ và nhà sư nổi loạn

Phạm Sư Ôn như một minh chứng đầy thuyết phục. Là một đứa con hoang,

được sư cụ Vô Trụ cưu mang, đùm bọc nhưng ở Phạm Sư Ôn, mọi giáo lý từ

bi của nhà Phật và cả biện pháp ngoại giáo là võ thuật cũng không thuần hóa

được con ngựa bất kham ấy. Phạm Sư Ôn cùng đồng đảng nổi dậy với niềm

61

tin mơ hồ: “Chính quân của ta là đạo quân bồ tát… Quân sĩ không được

cướp bóc của dân. Chỉ được cướp của nhà giàu chia cho người nghèo…”

[22; tr.251]. Cuối cùng, thất bại thảm hại của Phạm Sư Ôn cũng là kết cục tất

yếu cho một khát vọng viển vông, mù quáng. Rõ ràng, Nguyễn Xuân Khánh

không ngợi ca một chiều hay cổ súy cho đạo Phật. Bằng cái tâm của con

người rất có cảm tình với Phật giáo, ông đã chứng minh Phật giáo là một

lối sống, lối sống ấy đi vào nhân dân, với tất cả những tốt đẹp, vị tha và cả

những hạn chế không phù hợp với quỹ đạo phát triển xã hội. Trên tất cả,

Nguyễn Xuân Khánh vẫn giữ một niềm tin: “Phật giáo trong đời sống xã hội

Việt Nam, tuy có lúc phát triển huy hoàng, có lúc lắng xuống, nhưng chưa

bao giờ đứt đoạn… Trong xã hội hiện đại, hiểu và sống cho được cái lối

sống Phật giáo đấy, đã là sự tốt đẹp rồi.”[39]

Trong diễn ngôn tiểu thuyết Hồ Quý Ly, ở một góc độ riêng, Nguyễn

Xuân Khánh cũng thể hiện cái nhìn phê phán và tranh biện với tư tưởng Nho

giáo. Nho giáo là hệ tư tưởng căn bản của giai cấp phong kiến trong suốt

chiều dài lịch sử trung đại. Tư tưởng Nho giáo có mặt trong quan niệm ứng

xử, phong tục tập quán và tính cách dân tộc suốt nhiều thế kỉ. Ở một cái nhìn

đối chiếu với Phật giáo, Nguyễn Xuân Khánh khái quát: “Còn Nho giáo, đó

là phần dương của núi sông; đó là phép tắc, lễ giáo, đó là cương thường

xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son và vinh quang” [22; tr.515].

Hồ Quý Ly, mặc dù xuất thân là bậc đại Nho, cũng phải lên tiếng phê

phán và hạ bệ những “thần tượng” của Nho giáo: “Ông phê phán Khổng

Tử đã đến yết kiến nàng Nam Tử - vợ vua Vệ Linh Công, một người đàn bà

tà dâm. Ông chê sự kém minh mẫn của ngài… Rồi thái sư lại phê phán cả

Chu, Trình, hai bậc đại nho thời Tống, hai người dựng nên lý học. Họ là

những con người viển vông, không nghĩ đến việc đời…” [22; tr.478]. Cố

nhiên, khi đặt vào nhân vật những lời phê phán này, Nguyễn Xuân

62

Khánh cũng bộc lộ gián tiếp cái nhìn biện chứng của mình trước sự lụi tàn

của Nho giáo trước thời cuộc. Khát vọng thay đổi của kẻ sĩ như Hồ Quý

Ly giúp ông dám nhìn vào và xét lại lịch sử, mặc dù nó có thể chạm tới

những đấng linh thiêng đã ăn sâu vào tiềm thức của Nho sĩ. Nhân vật cụ Tú

Cao, một bậc trí thức cao niên của làng Cổ Đình, trong buổi đất nước nhiễu

nhương cũng phải cay đắng thừa nhận: “Cánh nhà nho chúng ta hết thời rồi.

Bây giờ là thời của các ông làm cho Tây và các ông Chánh, ông Lý” [23;

tr.171].

Nguyễn Xuân Khánh cũng dành riêng một cuốn tiểu thuyết để nói về

giá trị văn hóa của đạo Mẫu, “tôn giáo” của người Việt cổ trong cuốn Mẫu

Thượng Ngàn. Những nhân vật phát biểu tư tưởng của đạo Mẫu, trong tác

phẩm này, hầu hết là nhân vật nữ, là những người đàn bà thôn quê vừa hồn

hậu, vừa tràn đầy sức sống: “Họ sẵn sàng đến để nhập cuộc, để mê đắm, sẵn

sàng rũ bỏ tục lụy thường nhật để dấn thân vào những cõi trời siêu nghiệm

xa lạ, ở đó ta trở về với ta, tức là ta trở về với mẹ. Ở đó là sự yên bình, niềm

an ủi, cái diệu kì thánh thiện”[23; tr.705]. Trong Đội gạo lên chùa cũng có

đoạn nhận định: “Đâu có giống như đạo Mẫu, đạo ngồi đồng, đạo dân gian

chẳng bao giờ có chút quyền uy. Đó là đạo của những người đàn bà thôn

quê khổ cực chẳng biết than thân cùng ai, nên đến đó để làm ông hoàng bà

chúa trong chốc lát, cốt giải tỏa những sầu khổ, uất ức, tủi nhục. Đã là đạo

của những người đàn bà thì ai muốn làm gì chả được, muốn đối xử tùy tiện

thế nào chả được”[24; tr.559]. Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, đặt

mình trong vị thế phát ngôn của nhân dân làng Cổ Đình, nhất là qua hai nhân

vật nữ: bà Tổ cô và cô Mùi, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã cung cấp cho

người đọc nhiều tri thức thú vị về đạo Mẫu, sưởi ấm tâm hồn con người

trong những cơn tao loạn không còn nơi nương tựa, bấu víu. “Đạo Mẫu là

đạo dân gian… Cái tôn giáo dân gian ấy đã an ủi bao tâm hồn cay cực của

63

nông dân. Nhưng nó vẫn bị ghẻ lạnh hắt hủi. Thân phận của đạo Mẫu

chẳng khác gì số kiếp của những người đàn bà của quê hương chúng ta…

Người dân quê dù giàu nghèo đều tri ân Mẫu. Mẫu là hồn của đất. Mẫu là

cơm gạo ta ăn, cho hoa trái bốn mùa tươi tốt. Những bài hát văn đều ca tụng

công ơn… Những vị nhà nho thường bài trừ đạo Mẫu, cho là cúng bái quàng

xiên. Song chẳng hiểu sao, cụ đồ Tiết lại không bao giờ báng bổ Mẫu. Ông

nói với Nhụ: “Mẫu cho ta tất cả” [23 tr.421].

Nhân vật bà Tổ cô cũng là người truyền niềm tin vào đạo Mẫu cho

nhân dân Cổ Đình. Bằng tấm lòng cao cả thờ phụng Mẫu, bà dốc hết bao

điều sở đắc trong lòng để căn dặn cô Mùi: “Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo

Giê su cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện. Người theo đạo

Gia tô chăm chú sửa mình sao cho ngày càng gần Chúa hơn. Còn chúng ta

thì làm sao cho mình hòa vào với Mẫu” [23; tr.696]. Trong nỗi đau khổ vì bị

chiếm đoạt thể xác và mang trong mình đứa con của sự cưỡng bức, cô bé

Nhụ trở về với bà Mùi, đó cũng là lúc nhân vật tìm thấy niềm an ủi, vững

vàng hơn trong sự che chở của Mẫu: “Mẫu đã thương xót đưa dắt con trở

về đây, tức là Người sẽ che chở cho con. Sống với Mẫu, con sẽ thấy thảnh

thơi, vơi nhẹ…” [23; tr.798]. Có thể thấy, nhân vật văn hóa trong tiểu

thuyết Mẫu Thượng Ngàn là nhân vật mang tư tưởng luận đề triết học của

Nguyễn Xuân Khánh về tầng sâu lớp văn hóa dân tộc - văn hóa bản địa dân

gian: “Người đàn bà là Mẫu, là Mẹ - Người đàn bà là Đất xứ sở. Người đàn

bà là văn hiến” [23; tr.806].

Ở bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, hình ảnh những người

phụ nữ Việt mộc mạc, tinh khiết và tràn đầy sức sống hiện lên như một điểm

sáng và làm nên cái riêng của tác phẩm (với 50 nhân vật nữ trong cả ba tác

phẩm song hành cùng biết bao biến cố của xã hội Việt Nam trong những

khúc quanh co của lịch sử). Số phận người đàn bà Việt cũng thăng trầm,

64

chìm nổi, cũng chấp nhận những đau đớn, bi kịch nhưng không vì thế mà họ

mất đi vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp toát lên từ thiên tính Mẫu. Phát hiện độc đáo

của Nguyễn Xuân Khánh khi xây dựng các nhân vật nữ là ở chỗ, ông đã

khai thác yếu tố cội nguồn trong văn hóa Việt: Mẫu tính. Mẫu tính không

đơn thuần là những diễn giải về tín ngưỡng thờ Mẫu, mà nó được cụ thể hóa

và bồi đắp trong cái nhìn ở từng nhân vật người đàn bà. Chân dung của họ

toát lên sức sống, sức mạnh tiềm tàng, khả năng cảm hóa, thu phục và cũng

ẩn chứa mầm mống của sự hủy diệt. Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn,

Nguyễn Xuân Khánh xây dựng 14 nhân vật nữ, từ đứa bé Nhị (con gái của

Nhụ) đến bà Tổ cô ngót nghét 90 tuổi. Sức hấp dẫn của các nhân vật này là

sức sống của những người đàn bà Việt, đi ra từ làng quê và mang vẻ đẹp đậm

đặc chất thôn quê, một vẻ đẹp đằm thắm, mặn mà, tinh khiết. Những cái tên

như bà ba Váy, thím Pháo, cô Ngơ, cô Mùi, cái Nhụ… là cách gọi quê kiểng,

dân dã, nó gần gũi trong tâm thức của bất kì ai và khiến cho nhân vật, ngay

từ đầu đã mang một vẻ đẹp đầy thiên tính nữ.

Nhân vật thím Pháo rất tiêu biểu cho người đàn bà ở nông thôn. Bà

chẳng đẹp, nhưng có duyên. Cái duyên toát lên từ khuôn mặt tươi tắn, sinh

động, ở đôi mắt đen lay láy, hiền hậu và thông minh, ẩn chứa một tấm

lòng đôn hậu. Dù nghèo khổ cơ cực, nhưng cái váy lúc nào cũng đen nhánh,

cái áo vá thì xinh hơn cả tấm áo lành… Làm cái nghề ai cũng cho là hèn

hạ, nghề mõ làng, nhưng vẻ đẹp thắt đáy lưng ong, xắn váy quai cồng và

một tâm hồn mộc mạc, lành hiền của thím Pháo là một nét đẹp truyền thống

của người đàn bà Việt cổ. Cô Mùi không có vóc dáng mảnh mai, nhỏ nhắn

như con gái Việt, nhưng lại được trời phú cho đường nét xinh đẹp trên khuôn

mặt tròn vành vạnh: mày ngài đen nhánh, đôi mắt đen trắng phân minh.

Mười tám tuổi đã góa chồng, nhưng ở cô vẫn rực rỡ nét xuân thì tươi rói,

đến lúc ngoài bốn mươi tuổi, đôi vú vẫn nở nang, eo thon nhỏ, mông nẩy đều

65

chắc nịch. Chính vẻ đẹp mặn mà đằm thắm của cô Mùi đã khiến quan Tây

Philippe Messmer say mê, si cuồng. Bà Tổ cô trong tác phẩm lại là nhân vật

được bao bọc trong ánh sáng tinh khiết của huyền thoại. Vẻ đẹp của bà Tổ

cô là nét đẹp đài các mà không xa lạ, bởi nó hắt lên từ chính cuộc sống ở

chốn thôn quê bình dị hàng ngày: khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú,

ngón tay dài búp măng, gót chân đỏ như son, lấp ló dưới chiếc váy sồi đen

nhánh…Vẻ đẹp tao nhã của người đàn bà Việt đã khiến Philippe Messmer

phải ngạc nhiên đến sững sờ. Từ chiếc váy đen và cái áo lụa nâu, từ chiếc

yếm lụa bạch thắt lưng hoa lý - những điểm trang rất bản địa, cả đôi dép bằng

gỗ sơn mài cong cong kì lạ nữa… tất cả khiến Philippe phải thừa nhận:

“Trông bà ta như một bức tranh tố nữ tô màu, một thứ màu sắc đạm bạc, nền

nã nhưng vẫn nổi bật” [23; tr.108]. Những cô gái trẻ trung, mang sức sống

thanh tân như cô Nhụ, cô Hoa, cô Thắm… cũng là những bức chân dung

đẹp. Đôi mắt trong veo, đầy tin cậy, đôi má ửng hồng, cổ tay tròn lẳn của

Nhụ, vẻ tươi tắn lạ thường của cô Hoa, cái hay lam hay làm thương cha

thương mẹ của cô Thắm… đó là những vẻ đẹp thuần Việt hồn hậu, nền nã

gợi cho người đọc nhiều cảm tình, yêu mến.

Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cũng được tác giả

miêu tả trong bối cảnh làng quê vùng trung du Bắc Bộ, nhưng đa dạng và

phong phú hơn. Đó có thể là thân phận của những người nông dân quê

mùa như bà vãi Thầm, chị Thì, chị Khoai, cô Xim… Đó có thể là những bà

vợ lẽ của cụ Chánh, cụ Bá như bà Thêu, bà Bệu với các cô con gái: cô Rêu,

cái Hiếu… Đó có thể là người làm Cách mạng như bà Nấm, cô Nguyệt, cái

Huệ hay kiểu người phụ nữ Việt lấy Tây như bà Thu - mẹ của Tây lùn

Bernard. Một tập hợp đông đảo 16 nhân vật như thế, nhà văn vẫn giúp

người đọc hình dung rất kĩ về họ, những cô gái, những người mẹ, người

phụ nữ Việt mang nét đẹp đằm thắm, mặn mà của cội nguồn văn hóa dân

66

gian dân tộc.

Vẻ đẹp của Nguyệt là dáng vẻ quê mùa, lam lũ trong chiếc khăn mỏ

quạ với gương mặt thanh tú. Mặc dù khoác lên mình bộ quần áo nâu sồng

rách rưới, chiếc khăn vuông đen che kín chiếc cổ trắng ngà và mái tóc đen

mượt, nhưng ở Nguyệt vẫn ánh lên nét đẹp thuần khiết, dịu dàng. Cô Nấm,

cô gái được sư Vô Trần cưu mang trong vườn cò, lại mang một vẻ đẹp mát

mẻ, trong sáng. Giữa ánh trăng đêm, sư Vô Trần cảm nhận khuôn mặt trẻ

trung, tròn vành vạnh, tỏa ra một thứ hương thơm như bông lúa ngậm sữa…

Vẻ đẹp và thứ hương thơm dịu ngọt đó đã quyến rũ nhà sư, để anh quyết

định hoàn tục và thành thân với cô. Trong những tai ương của số phận, hình

như vẻ đẹp người phụ nữ vẫn không mất đi, chỉ có thể bị chìm khuất trong

đói khổ, rệu rã. Chị Khoai, người vợ bất hạnh của sư bác Khoan Độ là một

điển hình như thế. Được sư Độ cứu sống trong đêm, người đàn bà ăn mày có

khuôn mặt vêu vao, hố mắt trũng sâu, đôi môi trắng bợt đã làm thức dậy

trong con người thô tháp, cục mịch ấy một sự an bình, dịu dàng, một khát

khao đã ngủ lịm trong anh từ rất lâu, nay mới tỉnh thức. Nữ tính Việt hiền

hòa, dịu dàng mà đằm thắm trong các nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh đều

được ông cấp cho một sức mạnh tiềm ẩn, đó là sức mạnh cảm hóa và thu

phục con người.

Nếu hiểu Mẫu tính trong người đàn bà Việt là ngọn nguồn và dưỡng

chất của sự sống, là phần âm khí chảy dạt dào trong huyết mạch con người

và dân tộc Việt thì điều này hoàn toàn đúng trong các nhân vật nữ ở tiểu

thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Phải thừa nhận rằng, những trang viết về vẻ đẹp

Mẫu tính đầy nhục cảm, say mê và toát lên bản năng mạnh mẽ của người đàn

bà là những trang văn hấp dẫn nhất trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, đặc

biệt là Mẫu Thượng Ngàn. Những cuộc giao hoan của người đàn bà Việt

trong miêu tả của Nguyễn Xuân Khánh, là những cảnh đẹp đầy nhục cảm,

67

lôi cuốn. Nó có sức mạnh vô biên, khơi dậy phần dương khí trong mỗi

người đàn ông. Cái đẹp phồn thực của bà ba Váy được biểu hiện lồ lộ ở sắc

đẹp bề ngoài. Đó là vẻ mỡ màng của da thịt, ở con mắt lóng lánh, ở đôi vú

căng tràn nảy nở. Vẻ đẹp đầy sức sống ấy bà dâng hiến khi tuổi còn trăng

tròn cho anh Phác (tức Trịnh Huyền) trong đêm trăng của mùa “trải ổ”, có

ánh trăng khuya và sương đêm tắm mát để đôi trẻ quấn quýt, hoan lạc bên

nhau. Trở thành bà ba Cỏn nhưng đĩ Váy vẫn giữ nguyên nét quê mùa, chỉ

thích gọi là Váy, cũng chỉ thích bận lên người chiếc váy nâu thơ thới, mát

mẻ. Ở con người bà, toát lên cái hừng hực căng tràn sự sống, sinh liền năm

đứa con nhưng bà không mất đi cái hấp dẫn ma lực của bản năng. Chẳng thế

mà, chính bầu sữa ngọt ngào, căng tròn của bà trong những ngày lý Cỏn sắp

chết đã cứu sống người đàn ông ấy. Sức mạnh của Mẫu tính trong hành động

có phần hoang sơ, nguyên thủy ở người đàn bà đã trở thành liều thuốc đưa

người chồng trở về từ cõi chết. Tình thương, sức mạnh của Mẫu, của thiên

tính nữ vĩnh hằng đã cứu giúp và phục sinh cho con người. Do đó, ông

trưởng Cam - người chồng thứ hai theo công giáo đã được bàn tay dịu

dàng và bầu vú của bà Tổ cô chữa lành bạo bệnh. Dường như, vẻ đẹp

nhục cảm đều tồn tại ở tất cả người đàn bà, chỉ cần đánh thức và khơi dậy

, nó sẽ triển nở, sinh sôi, thậm chí còn trở thành mầm mống của sự hủy diệt.

Cô Mùi trải qua ba đời chồng, mà người nào cũng chết vì “chân khí suy

kiệt”, vì mắc phải chứng “thượng mã phong”. Ở người đàn bà ấy, sinh lực

tràn trề khiến người đàn ông lúc nào cũng thèm khát nhưng đâu biết

rằng: “khi người đàn bà thức dậy, thì tiềm lực của cô ta là vô cùng mãnh

liệt, và cường độ càng lúc càng tăng cho tới vô biên. Ôi! Một sức mạnh,

một tinh lực ngút ngàn” [23, tr.248]. Đến tận lúc chết, anh Tẻo vẫn muốn

được tận hưởng vẻ đẹp mĩ miều của cô Mùi, như đứa con trở về bên dòng

sữa Mẹ và hạnh phúc đọng lại trong giọt nước mắt cuối cùng.

68

Vẻ đẹp Mẫu tính trong người đàn bà Việt còn có hấp lực kì lạ với

những người ngoại xứ. Cái đẹp mê hồn toát lên từ đôi mắt, làn da, thân

hình chắc lẳn hài hòa, đầy sức bật, hứa hẹn những thú vui không biết mệt

mỏi. Đó cũng là lí do Philippe Messmer phải kì công để chiếm đoạt bằng

được cô Mùi khi gặp cô ở đồn điền. Những hình dung ban đầu của Philippe

Messmer về cô Mùi đã ám ảnh hắn suốt những ngày ở đồn điền: “Người

đàn bà mặc chiếc váy đen, thân trên nửa trần, chỉ bịt phía trước ngực

bằng một miếng vải hình vuông màu hồng… lộ ra tấm lưng trần trắng lẳn

thật hứa hẹn… cái vuông vải màu hồng hé cho ta thấy cái bụng và phần đáy

của đôi vú…” [23; tr.357, 358]. Cuộc chiếm đoạt thứ nhất khiến Philippe

Messmer hả hê, sung sướng vì “cô ta dư thừa sinh lực, cô ta lắm chất đàn

bà”. Nhưng quãng thời gian sau này, khi cô Mùi chấp nhận lấy ông Tây

Philippe thì cô mới đích thực là một người đàn bà ào ạt sinh lực, phì nhiêu.

Cái bản năng giống cái thức dậy trong cô, cô như một con người chủ động

hoàn toàn, dâng hiến và điều khiển, để Philippe rên lên trong vui sướng:

“Nàng bắt mất hồn ta rồi. Ta tan biến đi trong nàng rồi. Nàng đã dắt ta tới

miền lạc thú mà chưa bao giờ ta biết. Ta run rẩy, ta quỳ sụp trước nàng để

van xin phép lạ” [23; tr.383]. Ở một góc độ nào đó, cuộc chiếm đoạt thân xác

của kẻ chinh phục Philippe lại chứng minh cho sức mạnh thuần phục của

Mẫu tính, của bản năng người đàn bà, của phần âm khí trong xứ sở nhiệt đới

này.

Cái đẹp đầy nhục cảm của người phụ nữ trong trang viết Nguyễn Xuân

Khánh có khi biểu lộ trực tiếp, mạnh mẽ, khoáng đạt trong cuộc tình của cô

Nấm với sư Vô Trần, cô Khoai với sư Độ, cô Xim với anh Hạ, cô Ngơ với

anh Mường Rồ…; cũng có khi ẩn ngầm trong niềm e ấp của người con

gái như Nhụ, như Huệ, như Nguyệt. Cảm giác hạnh phúc chờ đợi đến ngày

hội của cô bé Nhụ với anh chàng Điều để trao cho anh những gì trinh

69

nguyên nhất hay cái ngượng ngùng của cô Nguyệt bên thầy giáo Hải trong

cái nắm tay, cái ôm thật chặt… là những biểu hiện đẹp đẽ của tính Nữ: dịu

dàng, đầy khát khao.

Nói đến vẻ đẹp tính Mẫu, không thể không kể đến sự hiện diện của

những nghi thức nhập đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với hình ảnh nhân

vật bà Tổ cô và cô đồng Mùi. Một năm hai lần, cô Mùi lên đền Mẫu, bắc ghế

hầu thánh, những khi ấy, cô như con người khác hẳn, khác với vẻ âu sầu, hờ

hững thường ngày mà tươi tắn, sinh động hẳn lên. Trong ánh đèn nến lung

linh, vàng son nhấp nhánh, khói hương mù mịt, cô Mùi trở nên lẫm liệt, đầy

uy quyền. Cảm giác linh thiêng, siêu thoát đã dẫn dụ con người hoàn toàn

trở nên tinh khiết. Sức mạnh của đạo Mẫu, thấm nhuần trong tâm hồn của

người phụ nữ, người mẹ và sức mạnh của niềm an ủi, chở che, như Đất Mẹ

linh thiêng.

Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, những nhân vật nữ xuất hiện thấp thoáng

đằng sau chân dung các nhà chính trị tư tưởng. Vẻ đẹp của họ hiện lên trong

bối cảnh không gian cung đình, quyền quý nên ít nhiều mất đi cái phồn thực,

dân dã đời sống hàng ngày. Mẫu tính trong chân dung nàng Quỳnh Hoa là

một vẻ đẹp mong manh với làn da trắng muốt, thon thả như một nhành hoa,

mớ tóc đen dài, dầy và mượt. Cái dịu dàng đã chuyển thành sức mạnh của

nỗi u sầu. Ngược lại với vẻ đẹp mang hình hài thiếu nắng trần gian, nhân vật

kì nữ Thanh Mai là hiện thân sống động của cuộc sống chốn dương gian. Vẻ

đẹp hoang dại của nàng như một thứ lan rừng “vốn sống trong thiên nhiên

bao la, vì vậy nó phải chống với gió táp mưa sa cùng với trăm ngàn

hương hoa khác, nó phải tranh sống, nó không thể chết yểu vì vậy nó

phải mạnh khỏe, ngút ngát, phải tràn trề sắc hương”. Thanh Mai là biểu

tượng cho tính nữ đầy nhục cảm và tràn trề sức sống, làm say đắm lòng

người, làm tình yêu trong con người Hồ Nguyên Trừng bùng lên khát khao

70

thăng hoa và hòa quyện bên nhau. Nét đẹp tưởng như bị vùi lấp chốn cung

đình nghiêm cẩn của cô cung nữ Ngọc Kiểm khi đứng trước hình hài héo

mòn của ông vua trẻ Thuận Tôn, lại tự nhiên sống dậy. Niềm thương xót

khiến người đàn bà mủi lòng, bản năng thương yêu khiến họ quên hết tất cả:

“Thị Kiểm nóng bỏng ôm chặt lấy tấm thân gày gò, non tơ của Thuận Tôn.

Còn Thuận Tôn thì đang bơi trên một dòng sông bao la, mà Thị Kiểm là

một mảnh ván đôn hậu, biết an ủi, biết xoa dịu lòng chàng. Hai tấm thân non

trẻ ấy đã bám vào nhau tìm về sự sống…” [22, tr.409]. Tình thương và sự

tận hiến ở người con gái này hay chính sức mạnh của Mẫu đã tái sinh

Thuận Tôn một lần nữa. Sức mạnh và quyền lực của Mẫu tính không có lí do

nào giải thích, nó ẩn tàng trong nội lực mỗi người đàn bà, như ngọn lửa chỉ đợi

bùng lên.

Trong sức sống phồn thực của người đàn bà, có vẻ đẹp nhục cảm,

đằm thắm nhưng cũng không ít những bi kịch khoác lên tâm hồn họ. Ở điểm

này, Nguyễn Xuân Khánh đã miêu tả và tái hiện đời sống của nhân vật nữ

qua nhiều biến cố, trong những mất mát và đau khổ. Song ông cũng khẳng

định rằng: Mẫu tính trong người phụ nữ, không chỉ là sự cam chịu, mà còn

là niềm tin vượt lên và chiến thắng số phận. Người đàn bà góa chồng từ thuở

đôi mươi, về già vẫn không một mụn con, lại mang tiếng là me Tây theo

quân Pháp như cô Mùi, đã vượt lên sự bất hạnh để tìm về chốn nương nhờ

nơi cửa Mẫu, nguyện thờ phụng Mẫu suốt đời, đem tài năng của mình trị

bệnh, cứu người. Bà Tổ cô Vũ Thị Ngát là người phụ nữ có tấm lòng đôn

hậu và nhân cách cứng cỏi, sau hai cuộc hôn nhân với người đàn ông bà hết

lòng yêu kính, trân trọng, cũng bỏ lại tất cả gia sản, đồng ruộng để lên núi

Mẫu, trở thành bà Tổ cô đức độ, linh thiêng.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cũng rất chú ý khi miêu tả bi kịch

của những người phụ nữ xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau. Cái bi

71

kịch “vòng tròn” từ đời thím Pháo giờ thấp thoáng trong tương lai của cô

Hoa, đứa con gái thông minh, lanh lẹ giữa thím Pháo và hộ Hiếu để rồi nhân

vật dứt khoát bước ra khỏi kiếp làm mõ của mẹ, quyết tâm ra đi, tìm mục

đích và cuộc sống cho mình. Đứa bé Nhị sinh ra trong cuộc cưỡng bức của

quan Tây mắt mèo Julien với cô Nhụ không chỉ là ẩn dụ về sự áp chế của

văn hóa phương Tây với xứ sở bản địa, mà sự trở về của Nhụ cùng đứa con

bé bỏng còn khẳng định sức mạnh đất Mẹ là ngọn nguồn nuôi dưỡng tâm

hồn con người, không kẻ thù nào có thể xâm hại. Nỗi bất hạnh của cô

Nguyệt khi sớm mồ côi cha mẹ, chứng kiến cái chết oanh liệt của người

chồng đầu tiên - anh giáo Hải, trải qua bao biến động của thời gian, cô

trở về làng Sọ, và lấy anh Hạ - một quái nhân của làng cũng là số phận của

rất nhiều người phụ nữ trong bối cảnh xã hội loạn lạc. Những thân phận như

cô Khoai, cô Rêu, cô Ngơ, cô Xim… là hình bóng sống động cho cuộc đời

đau khổ của con người. Đằng sau những tâm hồn mất mát, chịu cay đắng ấy,

là sức sống kiên cường, là nội lực vượt lên hoàn cảnh để tiếp tục tồn tại của

văn hóa Việt. Tư duy tự sự của nhà văn hướng đến luận giải cội nguồn sức

sống ấy.

72

CHƯƠNG 3

TƯ DUY TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ - VĂN

HÓA CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH - NHÌN TỪ PHƯƠNG

DIỆN NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT

3.1. Điểm nhìn trần thuật

Trong văn học, điểm nhìn được hiểu là vị trí người trần thuật quan sát,

cảm thụ, miêu tả và đánh giá đối tượng. Người ta có thể nói đến điểm nhìn vật

lí (không gian, thời gian); điểm nhìn tâm lí (giới tính, lứa tuổi...); trường nhìn

(của tác giả hay nhân vật)... Trong tác phẩm, mỗi nhà văn có cách thiết tạo

điểm nhìn riêng nhưng việc tổ chức điểm nhìn trần thuật bao giờ cũng mang

tính sáng tạo cao độ. Muốn hiểu sâu sắc một tác phẩm văn xuôi, người đọc

không thể không chú ý đến điểm nhìn trần thuật.

Khảo sát tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh, chúng

tôi nhận thấy nhà văn rất sáng tạo trong xây dựng điểm nhìn mà nổi bật là sử

dụng linh hoạt điểm nhìn và dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong.

3.1.1. Sử dụng linh hoạt điểm nhìn

Trong tự sự về lịch sử, việc lựa chọn lối kể chuyện từ ngôi thứ ba với

điểm nhìn toàn tri là một thao tác hợp lí giúp nhà văn tái hiện và nhận thức

lịch sử một cách khách quan. Khảo sát ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa của

Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi nhận thấy: điểm nhìn toàn tri với ngôi

kể thứ ba giữ vai trò chủ đạo. Nhưng bên cạnh đó, nhà văn còn có ý thức sử

dụng linh hoạt điểm nhìn để tạo nên nhiều kênh quan sát và miêu tả nhân

vật. Cụ thể: tiểu thuyết Hồ Quý Ly có 13 chương, trong đó 8 chương bắt

đầu bằng ngôi kể thứ ba. Các chương còn lại người kể chuyện là Hồ Nguyên

Trừng, xưng “tôi” ngôi thứ nhất. Mẫu Thượng Ngàn có 15 chương, duy nhất

73

chương XI – Bà ba Váy kể chuyện là điểm nhìn bên trong, đặt vào ngôi thứ

nhất, bà ba Váy xưng "tôi". Còn lại 14 chương của tác phẩm được kể bằng

ngôi thứ ba, nhưng điểm nhìn liên tục đặt vào sự quan sát của các nhân vật

khác nhau. Đội gạo lên chùa gồm ba phần lớn: I - Trôi sông, II - Bão nổi can

qua, III - Về cõi nhân gian. Mỗi phần được cấu tạo bởi các chương nhỏ:

Phần I gồm 18 chương, trong đó 11 chương được kể bằng ngôi thứ ba; Phần

II gồm 5 chương, trong đó 3 chương được kể bằng ngôi thứ ba; Phần III gồm

9 chương, trong đó 4 chương được kể bằng ngôi thứ ba.

Ba cuốn tiểu thuyết lịch sử, văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh có một

thế giới nhân vật đông đảo, phong phú, thuộc đủ giai tầng xã hội, ở những

thời đại lịch sử khác nhau nên việc tác giả sử dụng điểm nhìn toàn tri với

ngôi kể thứ ba là một lựa chọn đích đáng. Bởi lẽ, toàn bộ sự kiện lịch sử

trong suốt một thế kỉ với nhiều biến động cuối thời Trần, đầu triều Hồ hay

những bước ngoặt lớn lao của lịch sử - xã hội Việt Nam trong cuộc xung đột,

giao lưu văn hóa Đông - Tây những năm đầu thế kỉ XX và cuộc chiến tranh

vệ quốc chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ sau này, nếu không có một

điểm nhìn toàn tri, đồng nghĩa với việc khó có thể bao quát các chi tiết và sự

kiện lịch sử - một yếu tố quan trọng tác động lên đời sống con người.

Điểm nhìn toàn tri với lợi thế người kể chuyện ở ngôi thứ ba, người

quan sát và lặng lẽ chứng kiến toàn bộ sự việc sẽ đem đến cho câu chuyện

giọng điệu tự nhiên và khách quan. Hơn thế nữa, ở cả ba tác phẩm (đặc biệt

là Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn), mỗi chương truyện gần như là một

câu chuyện có tính độc lập tương đối về cuộc đời của nhân vật chính, vì thế

giọng điệu của người kể chuyện dường như chồng chéo lên nhau. Việc tạo ra

điểm nhìn toàn tri trong tiểu thuyết giúp Nguyễn Xuân Khánh gia tăng cấp

độ bao quát các sự kiện lịch sử - xã hội ở nhiều thời điểm khác nhau. Nhưng

thành công của nhà văn còn đặc biệt được nhấn mạnh ở chỗ, điểm nhìn toàn

74

tri không phải điểm nhìn duy nhất. Tác giả liên tục di chuyển và phối hợp

linh hoạt các điểm nhìn. Bên cạnh điểm nhìn của người kể chuyện là điểm

nhìn của các nhân vật khác, cả nhân vật chính và nhân vật phụ. Sự luân phiên

và đan chéo các điểm nhìn một cách linh hoạt cũng là cơ sở quan trọng làm

nên tính đối thoại, tính đa thanh trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nói

riêng, tiểu thuyết đương đại nói chung.

Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, chương I và chương XIII, điểm nhìn

được đặt cố định vào vị trí người kể chuyện vắng mặt, ngôi thứ ba. Bắt đầu

từ chương II và một số chương còn lại (chương VI, chương XII), điểm nhìn

được giao trực tiếp cho nhân vật Hồ Nguyên Trừng. Có thể nói, đây là nhân

vật được giao nhiều điểm nhìn và có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng

mối quan hệ thân thiết với các nhân vật khác. Cũng ở Hồ Nguyên Trừng,

điểm nhìn đồng thời dịch chuyển sang cả hai phía: bên trong và bên ngoài.

Người kể chuyện xưng “tôi” - Hồ Nguyên Trừng đồng thời có mặt ở cả hai

dạng thức: tôi kể chuyện chứng kiến và tôi kể chuyện về mình. Với điểm

nhìn bên trong, Hồ Nguyên Trừng có cái nhìn chân thực về cuộc đời, tính

cách, khát vọng, mơ ước cá nhân. Đi kèm với đó là biết bao suy tư, dằn vặt

và tự thấu hiểu vai trò của mình trong mối quan hệ: cha con, anh em, vợ

chồng, bạn hữu, người tri kỉ: “Trong đám cưới của tôi, tôi hiểu rằng tôi là

một con mồi mà cha tôi quăng ra giữa dòng nước, họ nhà Trần như một

con cá lớn đớp lấy tôi, và cha tôi cầm chiếc cần câu…” [22; tr.66]. “Những

lúc như vậy, lòng tôi như bị xát muối. Tôi tủi thân, nén nỗi tức giận, dìm nó

xuống đáy lòng. Có lẽ đó là lí do đầu tiên làm anh em tôi suốt đời bất hòa;

đối địch nhau; thậm chí có lúc như hận thù nhau…” [22; tr.336].

Đoạn văn trên cho thấy, với vai trò tôi kể chuyện tôi chứng kiến, Hồ

Nguyên Trừng có những đánh giá, nhìn nhận khách quan toàn bộ các

diễn biến sự kiện lịch sử trong giai đoạn nhạy cảm cuối thời Trần, đầu thời

75

Hồ, gắn với tham vọng canh tân của Hồ Quý Ly, với những âm mưu quyền

lực khốc liệt.

Để làm nổi bật tính cách và đời sống của nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly,

bằng thủ pháp tấm gương, nhà văn chiếu rọi nhân vật trong điểm nhìn của

hàng loạt nhân vật khác nhau. Trong con mắt của những kẻ cuồng tín như Hồ

Hán Thương, Nguyễn Cẩn thì “Hồ Quý Ly là một con rồng nằm ngủ”; ông

vua già Nghệ Tôn thì vừa tin tưởng Quý Ly, vừa thấy đó là một kẻ “mưu

lược nhưng tham vọng”; chàng nho sĩ Phạm Sinh vừa ngưỡng mộ con người

đại trí, vừa căm thù con người tàn bạo đến cùng cực ở Hồ Quý Ly, Sử Văn

Hoa lại thẳng thắn thừa nhận: “Quý Ly là một người đầy táo bạo. Một kẻ

cướp phải có gan: trên đầu nào biết có ai. Ông ta là một con người dám

“trên đầu chẳng có ai” [22; tr.661]. Hồ Nguyên Trừng dường như là

người thấu hiểu cha mình nhiều nhất. Ông nhìn thấy ở Quý Ly khát vọng

mạnh mẽ đến tàn bạo, tham vọng mù quáng đến điên rồ và cả những nỗi cô

đơn không dễ gì chia sẻ: “Người ta bảo cha anh là kẻ gian hùng. Người ta

bảo ông đặt ra lắm chuyện phiền hà. Người ta bảo ông là kẻ gian thần rắp

tâm… Cha ta có ảo tưởng không? Cha ta có tham vọng quá không? Nỗi bi

đát, nỗi khốn cùng của cha ta chính là ở chỗ đó” [22; tr.33]. Những đánh

giá từ nhiều góc độ như vậy khiến Hồ Quý Ly hiện lên không còn là một

nhân vật như lịch sử đã biết, mà đó là một chân dung phức tạp, một con

người bằng xương bằng thịt, có tính cách, số phận, phẩm chất và những nỗi

niềm riêng.

Nhân vật Thượng tướng Trần Khát Chân hiện lên qua điểm nhìn khách

quan là người anh hùng cứu nước oai phong lẫm liệt, là ngôi sao sáng của

Đại Việt trong những giờ phút nguy nan, nhưng thẳm sâu trong tâm hồn, ở

cái nhìn đầy thấu hiểu, Trần Khát Chân còn là một tính cách mâu thuẫn, vừa

quý trọng Nguyên Trừng, vừa căm ghét Thái sư, vừa khẳng khái cứng cỏi,

76

vừa đê hèn bảo thủ.

Tương tự như Hồ Quý Ly, tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn cũng có sự

luân phiên linh hoạt điểm nhìn, mặc dù bao quát tác phẩm vẫn là điểm nhìn

toàn tri. Chương 1 là điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ 3, đến chương

2, điểm nhìn được đặt vào các nhân vật cụ thể: Nhụ và Điều; Cụ đồ Tiết và Trịnh Huyền; Bà Ba Váy… Mỗi nhân vật trong điểm nhìn của mình đều phát

huy năng lực quan sát và khám phá riêng đối với đời sống làng quê và số

phận những con người. Nhân vật văn hóa Bà Tổ cô được nhìn từ nhiều

phía: phía dòng họ Vũ là cái nhìn tôn kính; phía nhân dân làng Cổ Đình là

sự sùng bái, ngưỡng mộ; phía lớp trẻ như Nhụ, như Hoa là một niềm yêu

mến và quý trọng… Nhân vật cô Mùi trong câu chuyện cũng được soi chiếu

từ nhiều điểm nhìn. Trong con mắt của dân làng Cổ Đình, cô vừa đáng khinh

miệt vì làm me Tây, vừa đầy thiêng liêng tin cậy khi trở về với Mẫu, chữa

bệnh cứu người. Trong con mắt của Philippe Messmer, cô Mùi là người đàn

bà An Nam có sức mạnh nội sinh, có cả sự kiêu hãnh mà hắn không bao giờ vượt qua…

Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cũng sử dụng linh hoạt điểm nhìn.

Khoảng một nửa tác phẩm là điểm nhìn người kể chuyện xưng tôi - chú tiểu

An, nửa còn lại là người kể chuyện vắng mặt, đặt điểm nhìn trong các nhân

vật khác: sư cụ Vô Úy, sư thúc Vô Trần, cô Nguyệt, sư Khoan Độ… Những

dòng tự sự của chú tiểu An về mình, về những xung đột mâu thuẫn trong nội

tâm và cái nhìn đối với thế giới xung quanh (về chiến tranh, về đạo Phật, về

những nỗi đau khổ của con người) hiện lên cảm động và chân thực. Chân

dung các nhân vật khác với muôn mặt phức tạp của đời sống như cuộc đời

chìm nổi của chị Nguyệt, bà Nấm, sư thúc Vô Trần, Rêu, cô Khoai, anh

Hạ… hiện lên trong cái nhìn khách quan nhưng đầy đồng cảm của người

kể chuyện với điểm nhìn toàn tri. So với Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn,

77

điểm nhìn toàn tri trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa chiếm vị thế khá áp đảo

nên có nhiều trường đoạn, lời kể của người kể chuyện lấn lướt lời của nhân

vật, hạn chế sự thể hiện bản sắc ở từng con người, từng số phận. Điểm

chung quan trọng nhất là cuộc sống và số phận của những con người trong

gần nửa thế kỉ chiến tranh loạn lạc ở Đội gạo lên chùa luôn được chiếu rọi

dưới cái nhìn nhân ái, khoan hòa của đạo Phật. Đó cũng là điểm nhìn soi

sáng thế giới nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh ở tác phẩm này.

3.1.2. Điểm nhìn có sự chuyển dịch từ ngoài vào trong

Sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong thể hiện qua hình thức

độc thoại và độc thoại nội tâm xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết Hồ

Quý Ly, ở các nhân vật Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, ông vua già Nghệ

Tôn, đức vua trẻ Thuận Tôn, Trần Khát Chân… và các nhân vật hư cấu

như: Sử Văn Hoa, Phạm Sinh. Trên thực tế, các nhân vật luôn bị đặt vào

trong dòng ý thức, đó là nỗi suy tư và dằn vặt, trăn trở và mâu thuẫn giữa

quyền lực - trách nhiệm, giữa khát vọng - hành động… Ở họ là những khối

cô đơn lớn, luôn thường trực và đẩy nhân vật vào những bi kịch bế tắc không

dễ gì cởi thoát. Xuyên suốt hai chương “Một ngày của Thái sư I, II (Minh

Đạo I, II)” là dòng độc thoại và độc thoại nội tâm của Hồ Quý Ly. Nhà văn

để ngòi bút hoàn toàn nương theo những giấc mơ, những suy nghĩ triền

miên của Quý Ly. Đó là lúc nhân vật đối diện với chính mình và băn khoăn

cùng cực vì không biết mình có xứng đáng là bậc minh chủ không và đi tìm

câu trả lời: “Làm sao để thu phục kẻ sĩ, một chiến lược lớn làm ông mất bao

nhiêu tâm huyết” [22, tr.494]. Những giây phút cô đơn nhất của Hồ Quý Ly

là giây phút ông lặng lẽ hoài nhớ về người vợ thương yêu, người đồng cảm

sâu sắc với ông: “Những người như ông, nỗi cô đơn là bạn đồng hành. Ông

kiêu hãnh vì sự cô đơn ấy. Thậm chí, ông nghĩ phải có sự cô đơn, ông mới

làm nên sự nghiệp ở đời. Thế gian này, dễ mấy ai hiểu nổi ông. Nhưng với

78

bà, lại hoàn toàn khác… Bà là điều ông thiếu, là cái khát khao mà ông

không có. Bà là cái màu trắng mát mẻ luôn tràn vào tâm hồn ông để hòa dịu

cái mầu đỏ luôn đêm ngày rừng rực trong ông” [22; tr.571]. Trong tác phẩm,

Hồ Quý Ly chưa một lần đứng ra xưng tôi với tư cách “tôi kể về chính

tôi”, nhưng sự dịch chuyển điểm nhìn khiến hình ảnh Hồ Qúy Ly vang lên

trong dòng suy tưởng của chính mình là hình ảnh vị thái sư quyền biến, táo

bạo nhưng cô độc hiện lên thật rõ nét! Giấc mơ ám ảnh nhất là Hồ Quý Ly

gặp Nghệ Hoàng, tất cả những suy nghĩ sâu kín nhất của vua tôi đều được

cởi bỏ, bộc lộ chân thực. Đằng sau mỗi giấc mơ, là một phần của hiện thực,

hiện thực nỗi cô đơn và sợ hãi của con người khi thấy mình “độc hành,

độc bộ”. Trong cơn hoảng hốt, Quý Ly không sợ vị vua đã băng hà, mà sợ

hãi chính mình khi không còn làm chủ, không còn kiên trì với con đường

mình đang đi.

Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cũng thường xuyên quay ngược vào

trong để nhìn lại chính mình, từ đó tự xoa dịu và đi tìm lời đáp cho những

câu hỏi giằng xé mâu thuẫn trong ông. Nguyên Trừng hiểu rõ trong tình thế

lịch sử này, dòng họ Hồ phải đương đầu với bao tố vì: “Chí càng lớn, bão

tố càng lớn. Chí mà thành thì muôn đời có công, chí mà bại thì lưu tiếng xấu

ngàn thu. Từ đó lòng tôi buồn vô hạn, lòng tôi giằng xé trăm điều. Nhưng

biết sao được!” [22; tr.55]. Nhìn cây mai trong khu vườn của thượng tướng,

Nguyên Trừng không giấu được những cảm xúc xót xa và ý nghĩ về sự mất

mát, phai tàn: “Thật quả Trừng tôi không dám thở dài, chỉ biết ngậm ngùi

trong dạ… Thấy thương cây mai già bị giam hãm trong chiếc chậu… Mặc dù

nó ngồi trên lưng chín con rồng, nhưng chỉ là những con rồng đất… Ừ! Thì

nó đẹp đấy! Nhưng chỉ là thứ đẹp ảo, cái đẹp của sự già nua, thoi thóp…

cái đẹp của sự tàn lụi, của một thời vàng son đã qua, mà ai đó còn cố níu…”

[22, tr.320, 321]. Những suy nghĩ trong ông bộc lộ một tâm hồn đa cảm và

79

còn bật lên suy tư về người bạn vong niên Trần Khát Chân, một người tri

kỉ ông quý trọng, nhưng cũng chỉ là con người bảo thủ, khư khư giữ những

nuối tiếc về quá khứ vàng son đã đi qua, như cây mai cố kìm hãm mình

trong cái chậu chật chội.

Dòng suy nghĩ trong nhà ngục của nhân vật Sử Văn Hoa cũng là đoạn

văn đặc sắc, nó cho thấy cuộc đấu tranh, tự vật lộn với chính mình ở con

người có khí phách cứng cỏi này: “Cứng rắn ư? Mềm dẻo ư? Chọn lựa thái

độ nào? Ông không phải kẻ cuồng si, không phải kẻ ngu trung, cũng không

biết lựa theo chiều gió… Ông chỉ muốn mình vẫn là mình… Đó là sự dại khờ

của ông, nỗi khổ đau của con người sống trong thời “thiên túy” [22, tr.532].

Tính cách cứng cỏi và lòng biết giá người của Sử Văn Hoa là một nét son

đẹp trên cái nền lịch sử mục ruỗng.

Nho sĩ Phạm Sinh được tác giả hư cấu hoàn toàn để làm nổi bật phần

khuất lấp trong tâm hồn của các nhân vật lịch sử. Phạm Sinh là con người

đầy mâu thuẫn khi bản thân chất chứa nhiều bi kịch: bi kịch mang nỗi thù

của cha, nỗi thù của thầy (Sư Tề), bi kịch của kẻ trí thức mang hoài bão lịch

sử. Ở Phạm Sinh luôn là quá trình đấu tranh khi tự biết mình vừa là mục

tiêu của tôn thất nhà Trần, vừa là sự săn đuổi mến mộ của phe cánh Hồ Quý

Ly…

Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn có sự xuất hiện khá thường xuyên

nhân vật b à Ba Váy. Nhà văn cùng lúc khám phá những diễn biến nội tâm

của nhân vật và khơi sâu vào dòng suy nghĩ, khát vọng thầm kín của những

người đàn bà Việt. Lần gặp lại Trịnh Huyền, anh Phác ngày xưa, người đàn

ông đầu tiên của đời mình khiến Ba Váy chìm đắm trong miên man suy

tưởng về kỉ niệm: “Tạ tội ư? Người đàn bà đa tình kia dễ dàng tha thứ cho

anh lắm chứ. Bao nhiêu năm làm bà ba của ông lý Cỏn có bao giờ bà quên

được những phút đằm thắm của thời con gái. Những phút ấy, chỉ có một

80

người, một người duy nhất có thể đem lại cho bà hạnh phúc… Những

phút ân ái đầu đời. Những phút “trải ổ” mà Phác đã nâng niu bà, đã đem

lại cho bà những ngọt bùi mà sau này ông lý Cỏn không thể bao giờ đem lại

cho bà được” [23, tr.409]. Nhân vật bà Ba Váy kể chuyện nằm trọn trong

chương XI, chương truyện kéo dài 33 trang, triền miên là những suy tưởng

của bà, duy nhất có ba lần nhân vật nói chuyện với một ai đó. Những câu

chuyện về cuộc đời của dân làng Cổ Đình, về những người vợ cả, vợ hai của

Lý Cỏn, về những đứa con, về mối tình năm xưa… khiến nhân vật bà B a

Váy hiện lên vô cùng sống động, linh hoạt. Xúc động nhất vẫn là giây

phút người phụ nữ năm con trải lòng về khát khao hạnh phúc trọn vẹn, cái

hạnh phúc bình thường, dung dị, rất đàn bà: “Tôi như cánh đồng hạn lâu

ngày… Nó chỉ chờ một cơn mưa. Nó chờ đợi một trận mưa dầm dề, mà nó

đã tuyệt vọng, tưởng chừng như sẽ chẳng bao giờ thấy. Tâm trạng của tôi

lúc gặp anh Phác trở về là như vậy đó” [23, tr.528]. Dường như, ngôn ngữ

của nhân vật lúc này đã hòa quyện sâu sắc trong mối đồng cảm của tác giả

với những người phụ nữ Việt nên càng có sức lay động mạnh mẽ nơi người

đọc.

Tương tự tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, trong Đội gạo lên chùa,

tâm hồn của chú tiểu An thường xuyên trôi trong suy nghĩ rất thành thực về

chính mình, về con đường khổ hạnh mà chú đang độc bộ: “Phải nói những

lúc tôi không kiềm chế được để vi phạm điều giới, tôi vẫn sám hối. Tuy

nhiên, buồn thay! Cuộc đời luôn có những cơn giông tố và dù tôi ở chùa, tôi

đi tu, tôi cũng không tránh được những cơn giông, và cũng buồn thay, tôi là

kẻ đức mỏng phúc bạc…” [24, tr.107]. Nếu những suy nghĩ bên trong giúp

nhân vật tự biểu hiện đời sống tinh thần thì đối thoại trong tác phẩm Nguyễn

Xuân Khánh với ưu thế của tính tương tác cao độ lại giúp nhân vật bộc lộ

mình một cách trực tiếp, sinh động và hấp dẫn hơn. Song nhân vật vẫn khá

81

“kiệm lời”, họ hiện lên gần như là một người khác, có khi che giấu cả những

suy nghĩ thầm kín nhất.

Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, đa phần các nhân vật sống trong thế giới

suy tưởng nhiều hơn là bộc lộ trực diện. Nhân vật có xu hướng nói với

người nhưng thực chất là nói với mình, đối thoại chỉ là một phương tiện

hình thức bên ngoài. Đoạn đối thoại giữa Hồ Quý Ly và Hồ Nguyên Trừng

“- Con nói lo lắng vì nhà Trần đã tạo được cái ơn sâu dầy cho Đại

về vận nước, về lẽ thịnh suy là một ví dụ:

Việt… Hơn một trăm năm Đại Việt hùng cường, thật là ơn sâu nghĩa dầy.

Nhà Trần hiện nay đã thối ruỗng, thật đáng lật đổ. Và cha là người duy

nhất hiện nay có thể lật đổ nhà Trần dễ dàng. Nhưng ơn sâu của nhà Trần

với muôn dân thì cha có lật đổ được không?

Cha tôi nắm chặt bàn tay phải và đập xuống cái kỷ:

- Thế nếu để nguyên trạng như hiện nay, Đại Việt ta có suy yếu không?

Nếu nhà Trần thối ruỗng như hiện nay, mà nhà Trần tồn tại, so với một triều

đại mới được dựng lên, được quét sạch lũ tham quan ô lại, được tổ chức cứng

rắn, được hết lời bàn ra tán vào, thì hỏi hai triều đại ấy bên nào tốt hơn,

mạnh hơn?” [22, tr.104, 105].

Ở đây, Hồ Quý Ly dường như quên mất vai trò của mình với người đối

diện, ông ta hầu như đang tự nói với chính mình, tự suy ngẫm về ước vọng

của mình.

3.2. Ngôn ngữ và các biểu tượng

Văn học sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu, làm phương tiện biểu đạt chủ

đề, tư tưởng của tác phẩm. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng

trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm, đó cũng là yếu tố mà người

đọc tiếp xúc với tác phẩm để tìm hiểu những ẩn ý của nhà văn trong từng câu

chữ.

82

Ngôn ngữ và các biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của

Nguyễn Xuân Khánh cho thấy sáng tạo riêng trong tư duy tự sự của nhà

văn.

3.2.1. Sự đan xen ngôn ngữ lịch sử với ngôn ngữ đời sống

Khi viết tiểu thuyết lịch sử các nhà văn vừa phải xử lí đồng thời hai yếu

tố lịch sử và tiểu thuyết. Tiểu thuyết hiện đại muốn tự làm mới mình thì

không thể náu mình mãi trong cái vỏ ngôn ngữ cũ kĩ. Tuy nhiên, dù mới đến

đâu vẫn phải đảm bảo tính xác thực của lịch sử, độc giả sẽ tự nhận ra được

những điểm mới trong ngôn ngữ của nhà văn. Nguyễn Xuân Khánh là một

nhà văn thành công trong việc sử dụng hài hòa ngôn ngữ lịch sử và đời

thường để truyền đạt ý tưởng của mình.

Ngôn ngữ trang trọng, thành kính xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết

Hồ Quý Ly, gắn liền với không gian cung đình, với các mối quan hệ vua tôi,

phụ tử, huynh đệ… rất đặc trưng của Nho giáo phong kiến. Trong các lời

thoại và xưng hô của nhân vật, luôn luôn có mặt những ngôn từ thể hiện rõ

sự phân biệt đẳng cấp và tôn kính đối với vua chúa như: trẫm, thần thiếp, bệ

hạ, tiểu nhân, ta - ngươi, chàng - nàng... Ngay trong các mối quan hệ cha

con, chồng vợ, anh em cũng thể hiện rõ màu sắc ngôn ngữ kiểu này.

Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, kiểu ngôn ngữ trang trọng,

thành kính chủ yếu dành cho các nhân vật tâm linh trong tâm thức người dân

Cổ Đình. Đối với dân làng Cổ Đình, bà Tổ C ô là hiện thân của vẻ đẹp

cao quý, là niềm sùng bái của nhân dân. Khi nhắc đến bà Tổ C ô, hầu hết

các nhân vật đều dành cho bà lời lẽ tôn trọng, kính nể, gọi là bà phủ Khiêm,

là cụ, là bà Tổ Cô. Cô bé Nhụ xuôi thuyền lên đền Mẫu, gặp bà Tổ Cô là

“quỳ trên chiếu chắp tay cúi lạy”. Ngôn ngữ trong đoạn văn nói về nghi thức

đạo Mẫu, về niềm tin thiêng liêng của nhân dân vào thánh Mẫu cũng mang

màu sắc tôn giáo, đầy kính cẩn, tôn thờ: “Trăm lạy Mẫu. Ngàn lạy Mẫu.

83

Hóa ra là thế. Cô có dạy, tôi mới biết. Hóa ra trăm sự, ngàn sự đều do

Mẫu cả” [23, tr.702].

Tâm thức Phật giáo trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa lại đem đến cho

tác phẩm một lớp ngôn ngữ nhuốm màu đạo Phật. Những câu niệm chú từ bi:

“A di đà Phật”, “Lạy Phật”, “Nam mô đại từ đại bi Thích ca mâu ni Phật”,

“Nam mô Quán thế âm bồ tát ma ha tát”… Những từ ngữ nói về căn tính

và giáo lí nhà Phật như: từ bi, hỉ xả, giải thoát, tùy duyên, đạo, đời, bể khổ,

nhân duyên, tâm từ bi, tham, sân, si, bố thí, chân tu, Niết Bàn… xuất hiện rất

nhiều trong tác phẩm. Nó đem đến cho câu chuyện màu sắc Phật giáo rất rõ

nét, lan tỏa trong tâm hồn người đọc là sự giác ngộ, là chân lí: Phật giáo là

một lối sống, Phật nằm ngay trong tâm của mỗi người. Những ngôn từ miêu

tả về tiếng mõ đều đều, tiếng tụng kinh, tiếng chuông chùa xa thẳm, mùi

hương của nhang trầm, mùi hoa đại ở góc sân chùa… cũng góp phần tạo nên

không gian tâm linh thành kính, thiêng liêng, có sức mạnh an ủi tâm hồn con

người.

Sức sống biểu hiện bằng ngôn từ trong mỗi trang viết của Nguyễn

Xuân Khánh không chỉ nằm ở giới hạn sự trang nghiêm, tôn kính. Nó còn

bộc lộ rõ nét nhất ở ngôn ngữ dân gian bình dị hòa quyện với cái trần tục, cái

hàng ngày. Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, bên cạnh các chi tiết về đời sống

cung đình, hình ảnh nhân vật được tác giả trao cho một sự sống đúng nghĩa

với tất cả những miêu tả đời thường, giản dị. Các nhân vật lịch sử vì thế

không chỉ mang tính chiêm bái, ngưỡng vọng, mà đích thực là con người của

dân gian, của những vui buồn, cô đơn rất gần gũi, quen thuộc. Những hình

ảnh miêu tả bát canh sâm cầm, chiếc chăn, chiếc gối thơm tho được bàn tay

bà Huy Ninh thu vén hay cảm giác thiếu vắng, mất mát của Hồ Quý Ly khi

nhìn vào đôi mắt buồn bã của đứa cháu ngoại, khuôn mặt xanh xao vô

hồn của con gái… là biểu hiện rất cụ thể ở ngôn ngữ đời thường.

84

Ngôn ngữ đ ờ i t h ư ờ n g , bình dị trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly

không nhiều, nhưng ở một số chi tiết miêu tả nhân vật, nó trở nên vô cùng

đắt giá. Nhân vật nhờ đó hiện diện sinh động lạ thường. Chân dung Hồ Hán

Thương lúc còn nhỏ qua đoạn miêu tả của Hồ Nguyên Trừng là một ví dụ

như thế: “Hán Thương khóc khỏe lắm, nó khóc suốt ngày, suốt đêm. Chậm

ăn: khóc. Chậm ỉa: khóc. Chậm chiều ý nó: khóc. Không bằng lòng: khóc.

Đông người quá: khóc. Vắng người quá: khóc… Cứ thoáng trông thấy mặt

tôi xuất hiện gần bà Huy Ninh là nó đuổi: Cút! Cút đi!” [22, tr.91]. Chính ở

những chi tiết và miêu tả rất đời thường, nhân vật lịch sử được lột tả như một

con người với đầy đủ tốt xấu, không “khô cứng” và “sao chép” như dữ liệu

của chính sử.

Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn viết về làng quê và những con người

nông dân Bắc Bộ, viết về tín ngưỡng dân gian - Đạo Mẫu của người Việt

khiến lớp ngôn từ đ ờ i t h ư ờ n g bình dị được vận dụng thường xuyên và

nhịp nhàng hơn. Có tới 30 câu hát dân gian là những bài ca dao, đối đáp,

khóc người chết, những điệu hò, những bài rao của mõ làng và nhất là

những bài hát c h ầu văn trong nghi lễ nhập đồng hầu Thánh xuất hiện

trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Nét độc đáo trong hình thức ngôn ngữ

này là đem lại cho người đọc cảm giác vừa gần gũi, vừa say mê, thích thú.

Đặc biệt, gắn với từng nhân vật, lời hát dân gian còn biểu hiện đời sống tâm

hồn phong phú của người Việt. Đó là tiếng hát cao vút, lảnh lót của cô bé

Nhụ giữa cánh đồng, cất lên điệu hát Xá rộn ràng, câu hát về bà chúa Thác

Bờ: “Cảnh thanh xuân thiều quang soi tỏ/ Chúa Thác Bờ tiên nữ giáng sinh/

Họ Mường, áo trắng, đai xanh/ Lưng đeo xà tích, bên mình dao quai/ Đôi

mắt phượng, hoa cài, trâm giắt/ Vầng trán xinh, vẻ mặt càng tươi/ Môi son

như đóa hoa cười/ Thanh tân lịch sự mắt người thu ba” [23, tr.117].

R ồ i n h ữ n g câu vè đầy màu sắc châm biếm, giễu nhại của thanh

85

niên hai họ Đinh, họ Vũ ở làng Cổ Đình khiến người đọc bật cười:“Họ Vũ,

làm chủ làng Đình/ Họ Đinh mà rình cơm nguội/ Họ Vũ là cú là cáo/ Họ Đinh

là dinh ông nghè” [23; tr.121].

Ngoài ra, lớp ngôn ngữ đời thường nhuốm màu nhục cảm cũng là

điểm nhấn ở các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh: “Đã

xấu thế mà đàn bà chẳng ra đàn bà… Thì lúc vợ chồng ân ái với nhau

ấy. Thật là buồn cho người đàn ông, khi người đàn bà lúc ấy lại chỉ biết

nằm thượt ra như cây gỗ. Rồi cái miệng lúc ấy lại chỉ biết ú ú ớ ớ nữa chứ.

Thật là chán mớ đời! Thật là nẫu cả ruột!” [23, tr. 560]. Rõ ràng, ngôn

ngữ miêu tả tính dục rất đời thường mà không thô thiển trong trang

viết Nguyễn Xuân Khánh. Nó có khả năng truyền cho người đọc những

tình cảm gần gũi, xúc động. Cuộc giao hoan của cô Mùi - người đàn bà Việt

với Philippe Messmer cũng được tác giả miêu tả rất đẹp. Đó là sự trầm trồ,

ngưỡng mộ của đại diện văn minh phương Tây với vẻ đẹp phồn thực và sức

sống phương Đông: “Hắn lim dim mắt để cái ngai ngái ấy bò dần trong mũi,

kích thích từ những vùng não bộ tối mò nhất trong hắn gọi chúng thức dậy.

Để rồi cuối cùng, hắn đi vào trong nàng lúc nào chẳng hay. Một cảm giác

thăm thẳm và hun hút lạ thường. Để rồi cuối cùng, hắn như kẻ bị tước vũ

khí, run rẩy nằm trong vòng tay nhào nặn của người đàn bà” [26, tr.383].

Cái trần tục hàng ngày trong ngôn ngữ miêu tả nhân vật cũng xuất hiện

ở tiểu thuyết Hồ Quý Ly. Đó là những trang viết về mối tình của Hồ Nguyên

Trừng với kì nữ Thanh Mai, của ông vua trẻ Thuận Tôn với cô cung nữ Ngọc

Kiểm. Hình như, trong những cuộc tình ấy, nhà văn để các nhân vật khước

từ quyền lực cao quý của mình, và trở thành những con người bản năng

nhất, đam mê nhất, đời thường nhất. Thuận Tôn run rẩy, ngây dại trước sự

quyến rũ mới mẻ của cung nữ Ngọc Kiểm: “Ông vua con hấp tấp, luống

cuống, run rẩy đi vào lòng nàng. Và ngay lập tức, chợt thấy mênh mang,

86

ràn rụa… Trần Ngung rùng mình, co rúm lại, sợ hãi” [22, tr.409].

Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, sự có mặt của ngôn ngữ trần tục,

đời thường không nhiều. Nhưng để làm rõ phần tối, những khoảng trống

trong tâm hồn con người, Nguyễn Xuân Khánh vẫn dành những trang viết

để miêu tả về đam mê và tham vọng cuồng nhiệt của các nhân vật. Cảnh

tượng sư Vô Trần bên cô Nấm trong vườn cò được đặt trong không gian

của ánh trăng ngút ngàn nên cái trần tục thô tháp hàng ngày dường như

không còn chỗ đứng, ngôn từ lúc này được bao bọc trong ánh sáng của sự

giao hòa, dâng tặng: “Khi cái yếm đào rơi xuống, Vô Trần đỡ lấy nó, nâng

niu trên hai bàn tay, nghi lễ của một bước ngoặt, nghi lễ điểm đạo trần gian.

Họ hiến dâng cho nhau có trăng sao làm chứng, có rừng tre rì rào hát khúc

tụng ca, có đồng lúa tỏa mùi thơm được gió dẫn vào ướp hương cho cái

nệm ái ân của họ” [24, tr.104].

Tóm lại, ngôn ngữ đời thường bình dị của cuộc sống hàng ngày kết

hợp với ngôn ngữ đầy màu sắc thành kính, trang trọng trong miêu tả nhân vật

được Nguyễn Xuân Khánh xử lí khá nhuần nhị, bên trong cái tục vẫn chan

chứa cái thanh, bên trong cái kính cẩn, tôn nghiêm vẫn có dáng dấp cái đời

thường, bình dị vì thế rất dễ đi vào lòng người đọc.

3.2.2. Sử dụng các biểu tượng

Dưới ánh sáng của văn hóa Việt, văn hóa tâm linh, hình ảnh nhân vật

tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh cũng được mô tả qua một số biểu tượng

độc đáo. Ngay ở phần mở đầu, chân dung Hồ Quý Ly, một con người đa

mưu với khát vọng thống trị mạnh mẽ được tác giả thể hiện ngay trong hình

ảnh giấc mơ “hầu mõm đỏ” lăm le trèo lên “lầu gà trắng” của Nghệ Hoàng.

Hồ Quý Ly sinh năm Thân, cầm tinh con Khỉ, một hình ảnh ẩn dụ “hầu mõm

đỏ” cũng đủ giúp người đọc hình dung phần nào về con người đáng sợ

này. Biểu tượng nổi bật và ấn tượng nhất gắn với nhân vật Hồ Quý Ly phải

87

là hình ảnh đôi rồng đá trước điện thờ Nghệ Tông, sau này được tạc ở Tây

Đô và ngọn lửa ấp ủ từ thời thơ bé.

Trong quan niệm của người phương Đông, rồng là con vật đứng đầu

trong tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng, cũng là con vật chỉ có trong tưởng

tượng, mang biểu tượng của sức mạnh áp chế, cường lực vô biên. Đôi

rồng được đích thân Quý Ly sai nghệ nhân làng Nhồi đẽo tạc có tư thế sắp

bay, có dáng vẻ cương mãnh, và phải bay lên thực sự. Trong cử chỉ vuốt ve

của Quý Ly với bờm rồng dựng đứng, thân rồng lượn cong dịu dàng, âu

yếm chiếc móng rồng, phải chăng là niềm say mê và khao khát được trở

thành con rồng của đất nước, thống trị và chế ngự vạn vật, muôn nhà? Niềm

yêu thích của Quý Ly với ngọn lửa ngày còn nhỏ, cùng trò chơi giữ lửa với

công chúa Huy Ninh và suy nghĩ: “Nhóm lửa không khó, nhưng rấm lửa

mãi mãi mới là chuyện khó” [22, tr.566]. Đó không chỉ là cảm giác khi được

nhìn thấy ánh sáng ấm nóng của ngọn lửa, mà còn là ngọn lửa tinh thần hun

đúc ở con người đầy hoài bão và lí tưởng. Chính ngọn lửa ấy là sức mạnh

để Hồ Quý Ly vượt qua nỗi ám ảnh, sự cô độc và sống dậy những tình cảm

yêu thương thầm kín không dễ gì bày tỏ.

Thượng tướng Trần Khát Chân là nhân vật để lại ấn tượng cho người

đọc không hẳn ở chiến thắng lẫy lừng diệt quân Chiêm Thành mà sử sách đã

dẫn. Nhân cách cao đẹp ở vị tướng tài này còn được bộc lộ đầy ý nhị qua

niềm đam mê của ông với khu Trại Mai. Những trang miêu tả đẹp nhất về

Trần Khát Chân đều gắn liền với hình ảnh của rừng mai, cây mai, hoa mai,

hương mai… Hoa mai trong quan niệm của nghệ sĩ phương Đông là biểu

tượng của cốt cách thanh cao, tao nhã; phải chăng đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn

ở con người này? Ông cũng tự nhận mình quá yêu những bông hoa súng, cái

dáng thẳng đứng cương nghị của hoa súng giữa đầm, cũng chính là tính cách

cứng cỏi, khẳng khái, không chịu khuất phục của Thượng tướng Trần Khát

88

Chân.

Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn ngập tràn những biểu tượng văn

hóa tâm linh và biểu tượng của thiên tính Nữ. Hình ảnh bà Tổ Cô linh

thiêng trong đền Mẫu xuất hiện cùng hình ảnh của đôi rắn thần và đôi

ngựa ngài, như mang sức mạnh che chở cho con người và bảo vệ ngôi đền

thờ Mẫu. Hình tượng rắn trong tâm thức dân gian giữ vai trò đặc biệt như là

loài vật linh thiêng. Chạm vào rắn thần là chạm vào ngựa ngài, và những kẻ

báng bổ thần linh chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Tây mắt mèo Julien đã phải

hứng chịu cơn cuồng nộ của rắn thần cũng vì sự báng bổ niềm tin của nhân

dân, niềm tin vào linh vật thiêng canh giữ ngôi đền và cuộc sống của họ.

Hình ảnh cây đa, cây đề, gốc gạo ở làng quê Việt cũng mang biểu tượng của

đời sống tâm linh. Ở làng Cổ Đình cũng có một cây đa rễ phủ ôm trùm,

gốc to chục người ôm không xuể. Cây đa ngự trị trong tâm hồn người dân

Cổ Đình, vừa như một niềm tự hào, vừa như một đức tin đầy thiêng

liêng, che chở cho cả ngôi làng. Đặc biệt, những biểu tượng văn hóa mang

thiên tính Nữ gắn với hình ảnh những người đàn bà Việt trong Mẫu Thượng

Ngàn là một ẩn dụ rất đặc sắc.

Đôi vú - bộ ngực người đàn bà trong cái nhìn của khoa học là biểu

tượng của sự tái sinh. Trong truyện, tác giả không chỉ đề cập đến huyền thoại

bà Đà với bầu vú vĩ đại mà còn cho thấy sức mạnh có thật, vẻ đẹp có thật

nằm ngay ở các nhân vật nữ. Đó là đôi vú thây lẩy của cô Váy từ năm 13

tuổi đã làm anh Phác say mê, đến khi trở thành người đàn bà năm con, bà ba

Váy vẫn khiến người chồng thèm khát. Đó là đôi vú ấm giỏ quá cỡ làm chiếc

yếm luôn luôn hếch ra của cô Ngơ, đôi vú “vừa to, vừa dài, giống quả mít

không có gai” [23, tr.161]. Đó là đôi vú trắng trẻo của thím Pháo trong đêm

tình kì diệu với hộ Hiếu, là đôi vú nở nang, to ăm ắp của cô Mùi khiến

Philippe Messmer mê mẩn, là đôi vú “chum chúm núm cau” của cái Nhụ mà

89

Điều ấp ủ mơ về… Những đôi vú không chỉ biểu hiện vẻ đẹp phồn thực của

người đàn bà mà còn là sức mạnh ngút ngàn của sự sống. Chính bầu vú ấm

áp của bà Tổ Cô đã tái sinh trưởng Cam một lần nữa, bầu vú của cô Mùi là

niềm hạnh phúc cuối cùng của lý Tẻo trong giờ hấp hối, bầu vú trinh nguyên

của Nhụ giúp Điều vượt qua bạo bệnh…

“Trăng” cũng là biểu tượng văn hóa đẹp đẽ, tinh khiết, được tác giả lặp

lại 62 lần trong Mẫu Thượng Ngàn. Biểu tượng “trăng” được Nguyễn Xuân

Khánh miêu tả ở nhiều trạng thái: trăng lưỡi liềm, trăng sáng, trăng giàn

giụa… Những nhân vật nữ được tắm mình trong ánh trăng, dường như càng

trở nên đẹp hơn. Ánh trăng xóa nhòa tất cả cái trần tục, cái thô tháp hàng

ngày “làm cho đôi mắt xếch của phô Hộ Pháp hình như cũng dịu bớt đi”

[23, tr.234]. Ánh trăng còn là nhân chứng cho những mối tình sống động,

những giây phút giao hoan tuyệt diệu: “Ánh trăng làm mắt chị ba Pháo

long lanh. Ánh trăng làm cho thân hình của chị như biến thành ngọc, thành

ngà” [23, tr.234]. Ngoài ra, những biểu tượng của Rừng, Nước, Đất, Hang

đá… cũng là ẩn dụ cho thiên tính Mẫu với sức mạnh che chở, bao bọc, là

ngọn nguồn sinh dưỡng cho con người ở xứ sở này.

Nước xuất hiện trong tác phẩm mang đặc tính uyển chuyển, mềm dẻo

và hòa hợp của người đàn bà Việt, của đạo Mẫu. Đó là nước mưa tinh khiết

thấm hương hòa nhài, hoa cau trong chén trà của cụ đồ Tiết, là dòng nước

âm khí dào dạt chảy trong cô Mùi, bà Ba Váy, là dòng nước thấm ướt và tươi

mới những khát vọng của Nhụ, của Điều… Đó là dòng sông Son mỗi năm

tháng ba mùa xuân, người dân Kẻ Đình lại rộn rã qua sông để đến với núi

Mẫu, đến với sự cứu rỗi và hàm ơn sâu nặng… Rừng cũng là biểu tượng xuất

hiện dày đặc trong Mẫu Thượng Ngàn. Nó tham dự tự nhiên và gắn bó máu

thịt với dân làng Cổ Đình. Rừng là nơi Cò Huy nhận ra người cha đích thực

của mình, cũng chính khu rừng là nơi Cò xoa dịu nỗi đau khổ khi tìm ra bí

90

mật của đấng sinh thành. Rừng là nơi che chở cho Điều và Nhụ sau những

mất mát, đau đớn vì bị chiếm đoạt cả ước mơ, ước mơ mùa trái chín. Rừng

cũng là nơi tìm đến cuối cùng trong cơn điên loạn của L ý Cỏn với tiếng

thét nóng quá và hành động ôm đầu chạy thẳng vào rừng.

“Hang đá” là nơi ẩn náu, trú ngụ an toàn, cũng là nơi tái sinh những

tâm hồn. Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, hang đá được định

nghĩa đầy hình ảnh “là mẫu gốc của hình ảnh tử cung của người mẹ” [40].

Sự miêu tả về hang đá trong Mẫu Thượng Ngàn xuất hiện quanh những mối

tình: mối tình của Trịnh Huyền (anh Phác) với bà Ba Váy, cuộc tình thần

thánh với anh Phác diễn ra nơi hang đá trên hẻm núi Mẫu đã để lại cho nhân

vật những kí ức sâu thẳm đẹp đẽ, mãi mãi bà không bao giờ quên được. Hang

đá cũng che giấu cuộc giao hoan của họ một lần nữa, trong sự say đắm, thèm

khát ngay khi bà đã có chồng và năm đứa con. Hang đá cũng là miền đất mơ

ước của Điều, khi anh ngày đêm mong chờ ngày mình biết được bí mật lớn

lao của tạo hóa, ngày trái chín hái quả nơi Nhụ. Hang đá chữ Chi cũng giúp

Cò Huy trở về với sự thật: Trịnh Huyền là cha ruột của mình…

Hình ảnh “giếng thơm”, cái giếng đá ong của chùa Sọ, nơi chứng kiến

cái chết cô bé Rêu trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa là một chi tiết ẩn dụ

nhiều ám ảnh. Cô bé có cái tên trong trắng với thân hình gầy gò, bé nhỏ, đôi

môi hồng, tóc đen nhánh, nhưng mang trong mình bi kịch suốt cả tuổi thơ.

Câu hỏi về nguồn gốc mà cô phải lặn lội tìm câu trả lời: cha mình là ai? đã

khiến Rêu vừa đau khổ, vừa hạnh phúc khi nhận ra cụ chánh Long là cha đẻ

của mình. Lúc tìm được cha, cũng là lúc Rêu tận mắt nhìn cảnh ông chết

trong đau đớn và sự bội phản của mẹ. Nỗi bất hạnh đó, Rêu tìm sự giải thoát

trong nước giếng chùa thơm. Cái chết của Rêu là minh chứng cho một tâm

hồn đẹp đẽ, thánh thiện, không chấp nhận sự vấy bẩn ở đời hay còn bởi:

“Đức Phật dạy rằng chẳng có gì sinh ra, chẳng có gì mất đi. Gặp duyên thì

91

tụ thì sinh. Hết duyên thì tán thì diệt” [24, tr.552].

Có thể nói, việc sử dụng những hình ảnh biểu tượng khiến cho bộ ba

tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh trở nên sâu sắc.

3.3. Giọng điệu đa âm

Theo Từ điển thuật ngữ văn học giọng điệu: “có vai trò rất lớn trong

việc xác lập phong cách của nhà văn và tác dụng truyền cảm hứng cho người

đọc” [36]. Là một phạm trù thẩm mĩ của văn học, giọng điệu làm thành bản

sắc riêng của một trào lưu, một trường phái hay một thời đại văn học. Ở ba

cuốn tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của

Nguyễn Xuân Khánh, chúng tôi thấy nổi bật lên giọng điệu tự thuật, giọng

điệu triết luận - thế sự và một vài giọng điệu khác.

Giọng điệu tự thuật vang lên trong ba tác phẩm chủ yếu gắn liền với

nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”. Câu chuyện về cuộc đời, gốc gác, về

những biến cố của bản thân và gia đình được nhân vật kể lại chân thực. Đó là

những dòng trần thuật của Nguyên Trừng ở chương II bắt đầu từ “Tôi là Lê

Nguyên Trừng, hay nói cho đúng hơn tôi là Hồ Nguyên Trừng…” [22, tr.53].

Cũng từ đây, nhân vật Hồ Nguyên Trừng được toàn quyền kể lại những chi

tiết xung quanh cuộc sống của mình, về gia đình bên ngoại, về mối tình với

Quỳnh Hoa, những nỗi ưu tư sâu kín không dễ thổ lộ… Trong Hồ Quý Ly,

tác giả để cho một số ít nhân vật phụ bộc bạch về cuộc đời sóng gió của

mình. Trong đêm hội ngộ diệu kì với Hồ Nguyên Trừng, Thanh Mai đã cởi

bỏ nỗi lòng và tâm sự rất thành thực: “Gia đình em làm nghề chài lưới, ở một

vùng hạ lưu sông Hồng… Năm ấy, em chừng mười ba tuổi, quân Chiêm

Thành theo Chế Bồng Nga tràn ra cướp phá nước ta… Năm ấy, em mười ba

tuổi, vừa xinh đẹp vừa có giọng hát hay nên bị xung vào đội ca múa của vua

Chế Bồng Nga” [22, tr.681, 682]. Những tình tiết trong cuộc đời cay đắng

của người con gái bị bắt làm trò mua vui cho quân Chiêm Thành được nhân

92

vật kể lại cụ thể, với nhiều dẫn chứng thời gian, dẫn chứng sự kiện nên càng

có độ tin cậy. Giọng điệu tự thuật lúc này còn đan bện với giọng xót xa,

thương cảm nên gây được nỗi xúc động mạnh mẽ với người đọc.

Cũng như thế, ở tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, giọng điệu tự thuật

phần lớn được thể hiện qua lời kể của bà Ba Váy. Ngoài “Chương XI - Bà Ba

Váy kể chuyện”, nhân vật này cũng có riêng một lượt lời ở mục 3 -

chương XII. Bà B a Váy tâm sự về gia đình nhà chồng, về những mặc cảm

của con nhà nghèo, lấy chồng để trả nợ 20 thúng thóc của cha mẹ nhưng qua

lời tự thuật của nhân vật, chúng ta thấy hiện lên chân dung của một bà Ba

Váy thật chung tình, biết ăn ở, biết vun vén và chấp nhận hi sinh, như chính

cốt cách của người phụ nữ Việt.

Trong Đội gạo lên chùa, lời kể của chú tiểu An về nỗi bất hạnh

của gia đình, của người chị đáng thương và những năm tháng theo hầu sư

cụ cho tới lúc trở thành anh bộ đội giải phóng, trở về xây dựng cuộc đời

cũng mang giọng điệu tự thuật sâu sắc. Những biến cố, tai họa của đất nước

trong suốt nửa thế kỉ đặt trọn vẹn trong không gian làng Sọ - chùa Sọ, nhân

vật bám sát các dữ kiện thời gian và không gian mình chứng kiến nên tầm

bao quát ít nhiều bị hạn chế. Đặc biệt, nhân vật có xu hướng tự thuật về mình

với nhiều trăn trở cá nhân nên giọng điệu này chưa vươn lên trở thành giọng

chủ đạo của cả tác phẩm. Riêng nhân vật bà Nấm có một đoạn văn ngắn hồi

tưởng về kỉ niệm từ thời con gái, một lát cắt của thời gian dường như trở nên

có ý nghĩa hơn với nhân vật và với chính cô bé Huệ: “Lúc ấy, mẹ mới mười

bảy, mười tám, ở với bà dì. Bà ấy là bà Tư của ông chánh Long. Hai dì cháu

ở ngoài rừng Cò. Dì Tư lấy chồng giàu, tuy vậy vẫn sống rất tằn tiện chẳng

khác gì người nông dân nghèo…” [24, tr.492]. Đoạn hồi tưởng về kỉ niệm và

đưa kỉ niệm sống dậy trong hiện tại của bà Nấm đã trở thành công cụ để hai

mẹ con đào thoát khỏi gông cùm của đội cải cách là cách dẫn dắt khá

93

uyển chuyển của nhà văn. Nhân vật sau lời tự thuật ngắn gọn ấy, hiện lên là

một con người bản lĩnh, thông minh và quyết tâm thay đổi số phận cuộc đời

mình!

Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh về cơ bản mang cảm hứng luận

giải do đó, giọng điệu triết luận - thế sự là giọng điệu chủ đạo. Trong tiểu

thuyết Hồ Quý Ly, để làm nổi bật cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa

tư tưởng cải cách chính trị với tư tưởng bảo thủ giữ gìn truyền thống

cùng những suy tư về đất nước, dân tộc của các nhân vật, nhà văn vận

dụng tối đa giọng điệu triết luận - thế sự. Câu chuyện vì thế vừa mang

tính chiêm nghiệm lịch sử, vừa đánh giá lịch sử và những vấn đề quan thiết

của thời đại. Những lời căn dặn của cụ Phạm, ông ngoại Nguyên Trừng

đã gieo vào tâm hồn chàng trai ý nghĩa của y học, đó cũng là nền móng vững

chắc của tư duy, ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ của Hồ Nguyên Trừng sau

này: “Y là cái gốc. Phật cũng là y. Nho, Lão cũng là y… Có thứ vương y, có

thứ bá y. Vương y là làm cho con người được âm dương điều hòa, trở về

quân bình. Con đường ấy lâu và khó, nhưng bền gốc. Còn bá y thì giống như

ông tướng cầm quân nóng nảy và quyết liệt. Nó nhanh đấy, tưởng như kết

quả đấy, nhưng căn nguyên thì không dứt” [22, tr.32].

Thông qua những liên tưởng, suy tư của các nhân vật, nhà văn khái

quát và phát biểu thành các định đề. Đó là lí tưởng của Đạo giáo thấm nhuần

trong tâm thức của ông vua trẻ Thuận Tôn: “Tu đạo cốt nhất ở lòng

mình tĩnh lặng” [22, tr.443], là tư tưởng Sử Văn Hoa quyết tâm bảo vệ đến

cùng, ngay cả khi bị giam cầm trong tù ngục: “Cốt ở đức, không cốt ở nơi

hiểm trở”. Ngay cả Hồ Quý Ly, khi đánh giá con đường đi của người trí thức,

bản thân ông cũng thừa nhận: “Những người lỗi lạc thường phải đắn đo suy

ngẫm, bởi vì chỉ một bước chệch chân sẽ ôm hận ngàn năm”[22, tr.483].

Giọng điệu triết luận còn xuất hiện trong một số cảm xúc của nhân vật

94

về những triều đại cũ, về những người anh hùng kiệt hiệt. Tiêu biểu nhất

là đoạn văn Sử Văn Hoa viết về đức vua Trần Nhân Tông: “Một ngôi sao

sáng nhất trong bầu trời lịch sử Đại Việt… Đó là một đức vua văn hiến; một

nước Đại Việt có được tồn tại sánh vai được với thiên hạ hay không, ngoài

chiến công hiển hách, còn phải có Văn hiến. Không Văn hiến, dân Nam ta sẽ

chỉ còn là một bộ tộc dã man mông muội” [22, tr.513]. Khẳng định nhân

cách và tài năng lỗi lạc ở đức vua Trần Nhân Tông, Sử Văn Hoa gián tiếp

bộc lộ cách đánh giá của mình về bậc minh chủ trong cái nhìn so sánh với

Nghệ Tôn và Hồ Quý Ly. Trong cái nhìn về cuộc đời, về thế sự đảo điên, các

nhân vật có xu hướng bộc lộ nhiều chiêm nghiệm. Từ hình ảnh hạt mầm,

Phạm Sinh suy tư về cuộc đời, về những tàn lụi và tái sinh: “Hạt mầm sinh

ra từ cây cổ thụ. Gặp duyên mầm sẽ bừng xanh, để rồi cuối cùng đi tới lúa

vàng, nhưng lại thay thế bằng một mầm mới. Một trận gió sẽ cuốn mầm đi.

Có thể mầm sẽ bay đến vùng đất mầu mỡ mới và sẽ tái sinh. Nhưng

cũng có thể mầm bị rơi vào một hốc đá tối tăm nghèo kiệt, để rồi èo uột tan

rữa ra ở đấy… Biết làm sao được! Thôi thì hãy phó mặc cho con tạo xoay

vần…” [22, tr.252]. Đó còn là chiêm nghiệm của Đạo sĩ ở Thanh Hư

quán: “Đời người mờ mịt; thoắt đến thoắt đi, biết đâu là phúc, biết đâu là

họa, biết đâu là thị, biết đâu là phi… Sao chẳng như hơi thở của đất trời, đã

không nổi lên thì thôi, đã nổi lên sẽ ra muôn giọng” [22, tr.427].

Trong Mẫu Thượng Ngàn, giọng điệu triết luận không phải là chủ đạo,

nhưng khi nói về văn hóa bản địa, về niềm tin của đạo Mẫu, về sức sống bất

diệt của dân tộc, giọng điệu ấy lại đem đến vẻ đẹp rất riêng cho trang

viết Nguyễn Xuân Khánh. Lời than của hộ Hiếu trước cái chết của Philippe

Messmer: “Khi số mệnh đã định, chẳng ai cưỡng lại nổi! Chúng ta chỉ

chữa được bệnh, chữa sao nổi mệnh” [23, tr.386] là bài học đau đớn cho

người phương Tây khi không thể hòa nhập với văn hóa phương Đông. Cả sự

95

sòng phẳng đến lạnh lùng của Julien trong cái nhìn về dân tộc học cũng

mang đầy sắc điệu của tư duy lí tính: “Có những dân tộc sinh ra trên trái

đất này để thống trị, và cũng có những dân tộc sinh ra để bị trị. Lịch sử là

một cuộc vật lộn khốc liệt giữa các dân tộc. Dân tộc nào yếu hèn, dân tộc ấy

sẽ phải ở vị trí mà họ xứng đáng. Lịch sử loài người mãi mãi như vậy” [23,

tr.413]. Suy nghĩ của Pierre có phần khách quan hơn, mang sắc thái biện

giải cho những khác biệt văn hóa mà những người phương Tây như ông

hay Julien đang nhìn thấy và sống chung hàng ngày: “Đạo của họ thờ Mẹ

trời, Mẹ đất, Mẹ nước. Họ nói đó là đạo Người Mẹ. Có thể nói gọn, đó là

đạo thờ khí thiêng của thiên nhiên, thờ người Mẹ đã sinh ra thế gian này. Thờ

như vậy tức là thờ những điều cao quý nhất. Đâu có phải tà giáo” [23,

tr.427]. Nhà dân tộc học René sau khi chứng kiến tất cả những biến cố ở làng

Cổ Đình và sự thất bại của người phương Tây trong cuộc xung đột văn hóa

với phương Đông, cũng ngậm ngùi khẳng định: “Chẳng ai đi dưới bóng hàng

cọ mà không hề hấn gì. Phải chăng, khi ra khỏi bóng hàng cọ, ta sẽ chẳng

còn giống như xưa? Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới

bóng hàng cọ” [23, tr.806].

Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, giọng điệu triết luận - thế sự lại

trở thành giọng điệu chủ đạo, bao trùm cả tác phẩm. Những chiêm nghiệm

của sư cụ Vô Úy về đạo Phật và cuộc đời, nhìn nhận của sư thúc Vô Trần về

đạo Phật và Cách mạng, những quan sát cuộc sống của chú tiểu An khi từng

ngày nghiền ngẫm giáo lí nhà Phật hay suy tư của nhân vật đại úy Thalan,

bà Nấm và các nhân vật khác… tràn ngập mỗi chương truyện. Khó có thể

dẫn giải hết các đoạn văn tác giả để nhân vật rao giảng về triết lí đạo Phật và

văn hóa cộng đồng làng xã, về Cách mạng. Ở đây, chúng tôi chỉ lựa chọn ở

mỗi nhân vật những phát ngôn và định đề tiêu biểu. Chủ trương Phật giáo là

một lối sống, hòa thượng Vô Úy đã truyền vào tâm hồn chú tiểu An những

96

bài học đầu tiên về đạo Phật và sự gắn bó hòa hợp của đạo Phật với cuộc đời:

“Con ơi! Trên đường đời dài dằng dặc, một người con của Phật, hay một con

người cũng vậy, đều phải biết tự đi bằng đôi chân của mình… Phải biết độc

hành con ạ… Chẳng biết thầy nói con có hiểu gì không? Đường của Phật

gian nan lắm con ơi. Muốn tìm được đạo, phải biết độc hành… Không có

ai tìm hộ cho con đâu…” [24, tr.28]. “Con đường Phật giáo là con đường

dẫn đến yên tĩnh tâm hồn, dẫn đến minh triết. Con đường ấy là hành đạo

chứ không tìm ra được bằng những tranh cãi xa vời” [24, tr.327]. Thiền sư

Vô Chấp - vị sư tổ của hòa thượng Vô Úy hiện lên thoáng qua nhưng cũng

để lại ấn tượng đẹp về những điều người dạy: “Có người nghĩ rằng chữ Nhẫn

của đạo Phật là sự yếu hèn cam chịu. Chắc chắn không phải vậy. Cuộc đời

lắm lúc cần phải dừng lại để suy ngẫm, để tích tụ sức mạnh. Khi nào cần

thiết, Phật giáo sẽ bùng nổ theo cách của nó. Năng lượng của cái nhẫn sẽ

ghê gớm không thể tưởng tượng nổi. Nó kinh thiên động địa. Sức mạnh của

từ bi có thể làm sụp đổ những gì bạo tàn nhất” [24, tr.256]

Tâm niệm của sư thúc Vô Trần khi nghĩ về người mẹ thương yêu cũng

trở thành một định đề mà tác giả nhiều lần trở đi trở lại: “Trong mỗi con

người đàn ông đều có bóng dáng một người đàn bà”. Cũng ở nhân vật này

toát lên hệ thống tư duy sâu sắc, mỗi lời nói đều mang giọng triết lý nhưng

không nặng nề, khô cứng: “Tôi chưa hề bao giờ giấu giếm mình đã là một

nhà sư. Cũng như dân tộc mình chưa hề bao giờ chối bỏ thời Lý - Trần,

chúng ta đã từng có một dân tộc Phật giáo. Có thể nói những giá trị Phật

giáo đã đóng góp rất lớn vào việc hình thành tính cách Việt” [24, tr.784].

Thế rồi giọng điệu của nhân vật bà Nấm với lời lẽ cứng cỏi trong cái nhìn thế

sự giúp Nguyệt có thêm sức mạnh để vượt qua những lời phê bình của tổ

chức: “Những chuyện gì nằm ngoài tay ta không thể thay đổi khác được thì

phải chấp nhận. Cứ để cho mọi sự diễn biến. Rồi tùy theo mà ta hành động.

97

Buồn bã cũng chẳng giải quyết được gì” [24, tr.387]. Có thể nói, ở hầu hết

các nhân vật của tiểu thuyết này, mỗi lời nói, suy nghĩ đều ít nhiều có ảnh

hưởng từ tư tưởng Phật giáo. Giọng điệu triết luận của tâm thức Phật giáo,

nhìn mọi sự đều tùy duyên, tùy thời, vừa mềm dẻo, vừa cương quyết, vừa

biện giải, vừa khoan dung… đã bao trùm và chi phối các giọng điệu trần thuật

khác trong tác phẩm.

Bên cạnh các giọng điệu chính, trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh

còn có các sắc thái giọng điệu khác. Giọng điệu tự vấn xuất hiện nhiều ở

những trường đoạn các nhân vật đối diện và tra vấn mình bằng dạng thức câu

hỏi. Nhân vật Sử Văn Hoa nhiều lần đặt mình vào tình huống này khi liên tục

hoài nghi: “Ta là kẻ thiện hay kẻ ác? Ta run sợ khi nghĩ đến điều đó, bởi chữ

nghĩa có thể làm đảo điên biến ác thành thiện, hay thiện chuyển sang ác.

Sống ư? Chết ư?... Thú thực nhiều lúc ta run sợ” [22, tr.44]. Ông vua già

Nghệ Tôn trong những giây phút đối diện với lòng mình cũng tự trào và hoài

nghi về con đường trị nước mà ông đã nếm trải suốt 30 năm qua: “Nhân từ ư?

Thương dân ư? Những đức hạnh tốt đẹp đó hỏi trên đời này có ông vua nào

hơn được cha con ông? Thế mà tại sao, tại sao nước Đại Việt này vẫn đói

khát, loạn lạc; tại sao cơ đồ của tổ tiên ông vẫn ngả nghiêng. Nghiệp báo

chăng? Không!... Ông có lỗi lầm gì đâu? Ông có tạo nghiệp ác đâu?” [22,

tr.165]. Khi hội làng kết thúc, cảm giác trống vắng và cô đơn xâm chiếm

khiến Nhụ hoang mang và tự hỏi: “Có phải đây là nỗi buồn sau những cuộc

vui? Có phải là nỗi buồn khi ta rời khỏi đám đông, để một mình bước chân

vào nẻo đường hoang vắng? Hay nỗi buồn ấy sinh ra từ một đám thiêu, dù là

thiêu xác hình nhân?” [23, tr.761]. Chú tiểu An cũng triền miên trong

những phút truy vấn bản thân đầy mâu thuẫn. Nhìn cảnh làng quê thanh

bình mà lòng trĩu nặng nỗi buồn, để nước mắt tràn mi và lại tự hỏi dồn dập:

“Tủi phận chăng? Nỗi thèm khát một gia đình êm ấm chăng? Ghen tị với đời

98

chăng?... Từ bi ư? Hận thù ư? Sống thế nào mới phải?” [24, tr.375]. Đằng

sau giọng điệu truy vấn, người đọc lại có cơ hội khám phá sâu hơn những

góc khuất trong tâm hồn các nhân vật với bao nỗi niềm day dứt, hoài nghi!

Giọng điệu bình dân, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày ở mỗi vùng

quê Việt Nam vang lên trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn lại khiến cho

nhân vật trở nên tươi tắn, hồn nhiên lạ thường. Đó là những lời cạnh khóe

của thằng Điều với thằng Cò khi Điều nhìn thấy Nhụ và Cò nói chuyện cùng

nhau: “- Cứ ra vẻ ta đây cậu ấm, ta đây Kẻ Chợ. Ôi dào! Mả nhà nó có

táng vào cái bút cái nghiên đâu. Học cũng toi cơm thôi.

- Này Điều, mày xỏ xiên ai đấy?

- Tao nói giữa đường, đứa nào cấm được tao… “Để rồi anh dạy cho

em!”. Học được mấy bồ chữ mà ghê thế” [23, tr.120]… Quả thực, giọng điệu

dân gian bình dị gắn với ngôn ngữ của làng quê, của những người nông dân

hiện lên thật tự nhiên trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Từ lời của

những người đàn bà, đến lời nói của các bậc cao niên trong làng… tất cả đều

hài hòa và đậm đà sắc màu của nông thôn Việt Nam.

Ngoài ra, rải rác trong ba tác phẩm là những giọng điệu khác nhau như:

giọng điệu hách dịch của bọn cường hào, ác bá, bọn chỉ điểm tay sai cho

quân Pháp, giọng điệu hùng hổ của đội Cải cách (tiêu biểu là nhân vật

đội Khoát), giọng điệu bi tráng, thống thiết khi chứng kiến những cái chết

đau đớn của người thân (như cái chết của nhà sư Phạm Sư Ôn trong cái nhìn

ai oán của Phạm Sinh, như cuộc thảm sát của Trần Khát Chân trong nỗi đau

khổ của Thanh Mai, như cuộc hành hình xử tội chết của cụ chánh Long

trong sự tuyệt vọng của cô Rêu…). Sự đan bện của các loại giọng điệu khác

nhau trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh đã tạo nên tính đa thanh, một đặc

trưng tiêu biểu của thi pháp tiểu thuyết đương đại.

99

KẾT LUẬN

Sau một thời gian vắng bóng trên văn đàn, khi trở lại, tên tuổi Nguyễn

Xuân Khánh trở thành một hiện tượng của tiểu thuyết lịch sử, văn hóa đương

đại. Chỗ đứng mà ông tạo dựng trong lòng công chúng yêu văn chương không

chỉ là kết quả của tài năng vốn có mà hơn hết, đó là thành quả của quá trình

lao động nghệ thuật nghiêm túc, say mê, vượt lên mọi khó khăn bằng bản lĩnh

và nghị lực mạnh mẽ. Những giá trị nghệ thuật đích thực đã đưa ông về đúng

với vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam hôm nay.

Bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa: Hồ Qúy Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội

gạo lên chùa đã cho thấy những sáng tạo trong tư duy tự sự của Nguyễn Xuân

Khánh. Nhà văn vừa nhận diện quá khứ, vừa đối thoại với quá khứ; vừa minh

định lịch sử, vừa suy ngẫm về lịch sử. Con người trong những sự kiện lịch sử,

chứ không phải bản thân các sự kiện lịch sử mới là tâm điểm chú ý của tác

phẩm. Sự đổi mới trong tư duy tự sự của Nguyễn Xuân Khánh biểu hiện tập

trung ở thi pháp nhân vật với mạch đề tài và cảm hứng lịch sử: nhà văn không

chỉ tái hiện những con người của thời đại lịch sử nhất định mà còn thể hiện ở

sức mạnh tinh thần, cảm quan lịch sử mang tâm thức thì hiện tại, nghĩa là

nhìn lịch sử bằng con mắt hiện tại. Nguyễn Xuân Khánh đứng trong tư thế

của con người hôm nay, trong bầu không khí cởi mở của thời kì đổi mới để

xây dựng nhân vật của mình. Vì vậy, đôi khi vấn đề của lịch sử không còn của

riêng quá khứ mà là của hiện tại, nhằm cảnh tỉnh những vấn đề sẽ diễn ra

trong đời sống xã hội.

Đặc điểm nổi bật, xuyên suốt bộ ba tiểu thuyết lịch sử - văn hóa của

Nguyễn Xuân Khánh là tư duy đối thoại trong cái nhìn biện chứng với dòng

chảy lịch sử và văn hóa dân tộc. Những suy tư về di sản quá khứ, những

chiêm nghiệm về sức sống văn hóa dân tộc đã giúp nhà văn có cái nhìn sâu

sắc và thể hiện thành công nội dung này. V iết về lịch sử nhưng tiểu thuyết

100

của Nguyễn Xuân Khánh đã vượt qua mô hình cũ mà nghiêng về phương diện

văn hóa, đối thoại văn hóa, từ đó chở tải một thông điệp sâu sắc cho con

người hôm nay. Bởi suy cho cùng, mọi sáng tạo nghệ thuật tầm cỡ đều là

những tấm gương cho mỗi con người, mỗi xã hội soi ngắm chính mình, để

điều chỉnh những sai lạc và khích lệ những phẩm hạnh thanh cao.

Nghệ thuật trần thuật cũng là phương diện thể hiện rõ tư duy tự sự của

Nguyễn Xuân Khánh trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, văn hóa. Với một tư duy

tiểu thuyết năng động, tác giả đã huy động vốn ngôn ngữ vừa phong phú đa

dạng, vừa là sản phẩm của đời sống mang ý nghĩa nhân sinh. Nó phản ánh

giọng điệu văn chương thông tục, đời thường mang hơi thở của đời sống và

tình yêu thương ấm áp với con người.

Với bộ ba tiểu thuyết của mình, Nguyễn Xuân Khánh đã thể hiện tài

năng của một nhà tiểu thuyết không chỉ có sở trường viết về lịch sử mà còn

viết về những vấn đề mang tính triết luận, văn hóa, phong tục. Bộ ba tiểu

thuyết lịch sử - văn hóa là dấu son quan trọng trong sự nghiệp của nhà văn.

Chúng là sản phẩm kết tinh từ vốn lịch sử - văn hóa, tư tưởng nghệ thuật và

năng lực tiếp cận thực tại tinh tế. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng có

thể góp một ý kiến nhỏ trong việc nghiên cứu những giá trị to lớn đó.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Lê Thị Huệ (2017), Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết

Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Khoa học (Khoa học Xã hội và

Giáo dục), Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 17/ tháng 7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2000), Hồ Qúy Ly, Tạp chí Nhà văn số 6, Hà Nội

2. Lại Nguyên Ân (2002), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội

3. Hoàng Lan Anh (2006), Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nói về Mẫu thượng

ngàn, Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/index.php?

4. M.Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư (dịch),

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

5. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư

Phạm, Hà Nội

6. Lê Thị Thanh Bình (2007), Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Về từ Miền

hoang tưởng Nguồn: http://antgct.cand.com.vn/vi VN/nhanvat/2007

7. Văn Chinh (2006), Lão mai Nguyễn Xuân Khánh vẫn rừng rực nở hoa,

Nguồn:http://vietnamtinhhoa.vn/lao-mai-nguyen-xuan-khanh-van-rung-ruc-

no-hoa/

8. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội

9. Nguyễn Văn Dân (2011), Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam đương đại, Văn nghệ số 11

10. Trương Đăng Dung (1994), Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mĩ

học của G.Lucas, Tạp chí Văn học số 5

11. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội

12. Châu Diên (2006), Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc,

Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van hoc/150703/nguyen-xuan-

khanh-va-cuoc-gianh-lai-ban-sac.html

13. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Những

vấn đề lịch sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội

14. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội

15. Nguyễn Đăng Điệp (Chủ biên) (2012), Lịch sử và văn hóa – Cái nhìn

nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ - Viện Văn học, Hà Nội

16. Nguyễn Đăng Điệp (2000), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền

trong văn học Việt Nam đương đại, Nguồn: http://phongdiep.net

17. Trung Trung Đỉnh (2001), Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho

tiểu thuyết lịch sử nước nhà, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 10

18. Hội nhà văn (2001), tiểu thuyết dòng chảy liên tục với thời gian, (Báo cáo

của Hội đồng chung khảo Cuộc thi Tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam

1998-2000), Văn nghệ, số 37

19. Hội nhà văn (2011), Nguyễn Xuân Khánh đội gạo lên chùa, (Tọa đàm

khoa học)

20. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

21. Mai Hương (2006), Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây

bút văn xuôi, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11

22. Nguyễn Xuân Khánh (2001), Hồ Qúy Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội

23. Nguyễn Xuân Khánh (2007), Mẫu Thượng Ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội

24. Nguyễn Xuân Khánh (2011), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội

25. Nguyễn Xuân Khánh (2001), Về nghệ thuật viết tiểu thuyết, Báo Văn

nghệ, số 38

26. Nguyễn Xuân Khánh, Ngô Văn Phú (2003), “Viết tiểu thuyết lịch sử

cũng cần phải hư cấu”, Nguồn: http://vietbao.vn/Van-hoa/Viet- tieu-

thuyet-lich-su-cung-can-phai-hu-cau/20010382/181/

27. Kudenrra (2001), Nghệ thuật t i ể u thuyết, Nguyên Ngọc (dịch), Nxb

Văn hóa Thông tin, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội

28. Hoàng Thị Hiền Lương (2010), Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh

qua góc nhìn trần thuật học, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Hà Nội

29. Hồng Minh (2011), Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: “Viết cũng tùy duyên”,

Nguồn:http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dien-dan

30. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945

đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội

31. Hoài Nam (2008), Bàn về tiểu thuyết lịch sử, Văn nghệ số 45

32. Nguyên Ngọc (2006), Một cuốn tiểu thuyết hay về văn hóa Việt,

Nguồn:http://tusach.tuoitre.vn

33. Phạm Xuân Nguyên (2006), Mẫu thượng ngàn – nội lực văn chương của

Nguyễn Xuân Khánh, Nguồn: http://vtc.vn/13-3597/giai-

34. Phạm Xuân Nguyên (2001),Đọc Hồ Quý Ly, Tạp chí Tia sáng, số 1

35. Nhiều tác giả (2000), Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly,Văn nghệ,số 41

36. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội

37. Nhiều tác giả (2010), Đại Việt sử ký toàn thư (4 tập), Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội888

38. Nhiều tác giả (1983), Số phận tiểu thuyết,Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội

39. Nhiều tác giả (2013), Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Xuân Khánh,

Báo Hà Nội mới, số Xuân Quý Tị 2013

40. Nhiều tác giả (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà

Nẵng

41. Nhiều tác giả (2005), Từ điển Bách Khoa toàn thư, Nxb Từ điển Bách

Khoa

42. Nhiều tác giả (2013), Từ điển Triết học, Nxb Tri Thức

43. Mai Hải Oanh (2008), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt

Nam đương đại giai đoạn 1986-2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

44. Nguyễn Danh Phiệt (1997), Hồ Quý Ly, Viện Sử học và Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội

45.Yves Reuter (2010), Dẫn nhập phân tích tiểu thuyết, bản dịch của Phạm

Xuân Thạch

46. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và

lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội

47. Phạm Toàn (2008), Đọc Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Báo Xưa

và Nay

48. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội

49. Tống Thị Thanh (2010), Những đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh vào

tiến trình Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua 2 tác phẩm Hồ Quý

Ly và Mẫu thượng ngàn), Luận văn Thạc sĩ Văn học, Hà Nội

50. Phạm Xuân Thạch (2006), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại - Suy nghĩ từ

những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử, Nguồn: https://thachpx/tựsựlịchsử

51. Phạm Xuân Thạch, Quá trình cá nhân hóa hư cấu, Tự sự đương

đại Việt Nam về đề tài lịch sử, giữa truyền thống và hiện đại, Nguồn:

https://sites.google.com/site/thachpx/cánhânhóahưcấu

52. Phạm Xuân Thạch (2006), Tiểu thuyết như là trạng thái tìm kiếm ý

nghĩa của đời sống (Đọc Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Nxb Đà Nẵng,

2006), Văn nghệ, số

53. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Con mắt xanh (Tiểu luận - phê bình), Nxb

Thanh niên, Hà Nội

54. Narada Thera (1991), Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh

dịch, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh

55. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới,

Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11

56. Nguyễn Văn Tùng (Biên soạn) (2008), Tuyển tập các bài viết về tiểu

thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội

57. Đinh Công Vĩ (2000), Về tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân

Khánh, tham luận đọc tại Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn

Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ

58. Đỗ Ngọc Yên, (2000), Hồ Quý Ly, cách tân hay bạo chúa, Tạp chí

Sông Hương, số 10