ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
x
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀN LOAN PHƯỢNG
TỪ NGỮ CHỈ BỆNH TẬT VÀ THUỐC THANG
CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀN LOAN PHƯỢNG
TỪ NGỮ CHỈ BỆNH TẬT VÀ THUỐC THANG
CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60 22 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TẠ VĂN THÔNG
Thái Nguyên - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Nội dung luận văn có
tham khảo và sử dụng các tài liệu đã được đăng tải trên các sách, truyện, báo,
tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu
sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả luận văn
i
Ngàn Loan Phượng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thầy Tạ Văn Thông, người đã hướng dẫn
tôi viết luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã giảng dạy, khoa Sau đại học,
Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên, đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Sau cùng, xin cảm ơn gia đình, người thân, đồng nghiệp và các học viên Cao
học Ngôn ngữ K21 đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và viết luận
văn.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 5 năm 2015
Tác giả
ii
Ngàn Loan Phượng
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan..................................................................................................... i
Lời cảm ơn ....................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................... iii
Danh mục các bảng ......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................12
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................13
7. Cấu trúc luận văn.........................................................................................13
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...........................................14
1.1. Một số khái niệm chung về ngôn ngữ học và văn hóa học ........................14
1.1.1. Ngữ pháp ...............................................................................................14
1.1.1.1. Từ và ngữ ...........................................................................................14
1.1.1.2. Danh từ và danh ngữ...........................................................................19
1.1.1.3. Động từ và động ngữ ..........................................................................20
1.1.1.4. Tính từ và tính ngữ .............................................................................22
1.1.2. Ngữ nghĩa ..............................................................................................23
1.1.2.1. Khái niệm về “nghĩa” .........................................................................23
1.1.2.2. Khái niệm "trường nghĩa" ...................................................................31
1.1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa .................................................33
1.1.3.1. “Văn hóa” là gì? .................................................................................33
1.1.3.2. Ngôn ngữ và văn hóa ..........................................................................36
iii
1.1.4. Bệnh tật và thuốc thang cổ truyền..........................................................38
1.1.4.1. Bệnh tật ..............................................................................................38
1.1.4.2. Thuốc thang........................................................................................39
1.2. Người Nùng và thuốc thang cổ truyền của người Nùng ở Việt Nam................42
1.2.1. Người Nùng và tiếng Nùng....................................................................42
1.2.1.1. Khái quát về người Nùng ở Việt Nam.................................................42
1.2.1.2. Một số đặc điểm khái quát của tiếng Nùng .........................................44
1.2.2. Thuốc thang cổ truyền của người Nùng .................................................47
1.2.3. Thuốc thang cổ truyền hiện nay ở địa phương nghiên cứu. ....................49
1.3. TIỂU KẾT................................................................................................50
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỆNH
TẬT VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG ..........51
2.1. Khái quát về kết quả khảo sát ...................................................................51
2.2. Các từ ngữ có hình thức đơn âm tiết .........................................................52
2.3. Các từ ngữ có hình thức đa âm tiết ...........................................................53
2.3.1. Các từ ngữ hai âm tiết............................................................................53
2.3.2. Các từ ngữ ba âm tiết .............................................................................55
2.3.3. Các từ ngữ bốn âm tiết...........................................................................58
2.3.4. Các từ ngữ năm âm tiết ..........................................................................62
2.4. Tiểu kết ....................................................................................................65
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỆNH
TẬT VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN ...................................................66
3.1 Khái quát về sự phân loại ..........................................................................66
3.2. Sự phân loại và một số đặc điểm của từ ngữ chỉ bệnh tật ..........................66
3.2.1. Từ ngữ chỉ các bệnh ngoại thương.........................................................68
3.2.1.1. Từ ngữ chỉ các bệnh ngũ quan ............................................................68
3.2.1.2. Từ ngữ chỉ các bệnh phần mềm ..........................................................69
3.2.2. Từ ngữ chỉ các bệnh nội thương.............................................................69
iv
3.2.2.1. Từ ngữ chỉ các bệnh lục phủ ...............................................................69
3.2.2.2. Từ ngữ chỉ các bệnh ngũ tạng .............................................................70
3.2.2.3. Từ ngữ chỉ các bệnh thần kinh ............................................................71
3.2.2.4. Từ ngữ chỉ các bệnh xương khớp........................................................72
3.3. Sự phân loại và một số đặc điểm của từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền ....73
3.3.1. Từ ngữ chỉ thuốc chữa bệnh...................................................................73
3.3.1.1. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh xương khớp......................................73
3.3.1.2. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh ngũ quan, ngoài da, giải nhiệt ..........74
3.3.1.3. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh lục phủ .............................................75
3.3.1.4. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh ngũ tạng ...........................................76
3.3.1.5. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh tâm thần, thần kinh...........................77
3.3.1.6. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh sinh sản ............................................78
3.3.1.7. Từ ngữ chỉ thuốc chữa c rắn cắn, ong đốt…........................................79
3.3.2. Từ ngữ chỉ thuốc bổ...............................................................................79
3.3.2.1. Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho trẻ em và người già ......................................79
3.3.2.2. Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho người ốm và sau khi ốm ..............................80
3.3.2.3. Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh............................................81
3.3.2.4. Từ ngữ chỉ thuốc bổ tăng cường sức khỏe, nhan sắc ...........................82
3.4. Tiểu kết ....................................................................................................85
KẾT LUẬN....................................................................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................91
v
PHỤ LỤC.......................................................................................................95
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng
xét về hình thức ............................................................................ 51
Bảng 2.2: Các từ đơn âm tiết chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong
tiếng Nùng.................................................................................... 52
Bảng 2.3: Các từ ngữ hai âm tiết ................................................................... 53
Bảng 2.4: Các từ ngữ ba âm tiết .................................................................... 55
Bảng 2.5: Các từ ngữ bốn âm tiết .................................................................. 59
Bảng 2.6: Các từ ngữ năm âm tiết ................................................................. 63
Bảng 3.1 Từ ngữ chỉ bệnh tật trong tiếng Nùng xét về ngữ nghĩa .................. 66
Bảng 3.2: Từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng xét về ngữ nghĩa..... 83
iv
Bảng 3.3: Các từ ngữ chỉ vị thuốc trong tiếng Nùng xuất hiện với tần suất cao..... 84
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Trong nghiên cứu từ vựng - ngữ nghĩa của một ngôn ngữ, việc tìm
hiểu các từ ngữ được liên kết với nhau nhờ có một hoặc một số thành tố nghĩa
chung đã được xem là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa đặc biệt. Một mặt, nó
giúp hiểu rõ những đặc trưng và quan hệ mang tính hệ thống về cơ cấu nghĩa,
về sự phát triển nghĩa của các từ ngữ trong từ vựng và cách định danh sự vật
hiện tượng của ngôn ngữ đang xét. Mặt khác nó giúp hiểu được phần nào quan
hệ giữa hiện thực và lối tri nhận, cách liên tưởng của cộng đồng người nói, qua
việc định danh hay sự ghi nhận bằng phương tiện ngôn ngữ, đối với các sự vật
hiện tượng của hiện thực này.
1.2. Dân tộc Nùng là một dân tộc có số dân đông (Theo Tổng điều tra dân
số và nhà ở năm 2009, có 968 800 người, đứng thứ 7 ở Việt Nam). Người
Nùng có một nền văn hóa đặc sắc và có ngôn ngữ riêng của họ. Tuy nhiên cho
đến nay, việc nghiên cứu các mặt của ngôn ngữ dân tộc Nùng chưa được quan
tâm thực sự, trong đó có các từ ngữ thuộc trường “bệnh tật và thuốc thang cổ
truyền” của người Nùng. Nghiên cứu trường từ vựng - ngữ nghĩa này có thể
góp phần tìm hiểu sâu sắc hơn về tiếng Nùng, từ đó giúp có những hiểu biết sâu
sắc hơn về văn hóa cổ truyền của dân tộc Nùng.
1.3. Bản thân tác giả của luận văn này là người Nùng, có lòng thiết tha văn
hóa Nùng đồng thời có sự yêu thích với tiếng Nùng và thuốc thang cổ truyền
dân tộc, trong gia đình có người làm thuốc. Chính vì vậy, tác giả mong muốn
qua luận văn này có thể góp một phần nhỏ bé của mình vào việc lưu giữ tiếng
mẹ đẻ của mình - ngôn ngữ dân tộc Nùng và vốn kinh nghiệm về thuốc thang
cổ truyền của cha ông đang có nguy cơ bị mai một dần, ở quê hương mình.
Chính vì những lí do trên mà đề tài “Các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc
thang cổ truyền trong tiếng Nùng” được chọn làm hướng nghiên cứu của luận
1
văn này.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
2.1. Những nghiên cứu về trường từ vựng - ngữ nghĩa
Có thể nói, việc tìm hiểu về các đặc điểm trường từ vựng – ngữ nghĩa của
một ngôn ngữ được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm. Ngoài các công trình
của các học giả nước ngoài, ở Việt Nam có không ít công trình nghiên cứu về
trường từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt. Có thể kể đến những chuyên khảo được
sử dụng như giáo trình được giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng của
các tác giả: Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Mai Ngọc
Chừ, Diệp Quang Ban, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến... Tong các công
trình này, các tác giả đã tập trung tìm hiểu từ vựng – ngữ nghĩa của tiếng Việt,
căn cứ vào lí thuyết về trường từ vựng – ngữ nghĩa ở những mức độ khác nhau .
Có thể kể đến một số công trình sau:
- Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục, H.
- Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
- Mai Ngọc Chừ (2003), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
- Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
- Nguyễn Thiện Giáp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.
Trong nghiên cứu các trường từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, không thể
không kể đến các công trình có thể xem là tiêu biểu của các tác giả Đỗ Hữu
Châu và Nguyễn Thiện Giáp:
- Cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt (Đỗ Hữu Châu, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1999) gồm 312 trang, được chia năm phần riêng có liên kết chặt chẽ với
nhau theo trục “từ vựng - ngữ nghĩa”. Phần Mở đầu, Phần thứ nhất và Phần thứ
hai nghiên cứu các đơn vị từ vựng như những chỉnh thể hình thức (phần I) và ý
nghĩa (phần II) - cũng là sự nghiên cứu các đơn vị tách biệt của từ vựng; Phần
thứ ba và thứ tư nghiên cứu toàn bộ từ vựng như hệ thống của những đơn vị
tách biệt trên; Và Phần thứ năm có tính chất là phần ứng dụng và thử nghiệm.
Trong cuốn giáo trình này, Đỗ Hữu Châu đã dành ra cả chương IX thuộc
2
Phần thứ ba – hệ thống từ vựng hệ thống ý nghĩa để nói về các trường nghĩa.
Trong chương IX tác giả đã nêu khái niệm “trường nghĩa” và cách phân loại
các trường nghĩa căn cứ vào hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ học mà F.de
Saussure đã chỉ ra là quan hệ hình tuyến (quan hệ ngang) và quan hệ trực tuyến
(quan hệ dọc), theo đó chia trường nghĩa thành hai loại: trường nghĩa ngang
(trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến). Trong
trường nghĩa dọc có hai trường nghĩa nhỏ là trường biểu vật và trường biểu
niệm. Phối hợp trường nghĩa ngang và trường nghĩa dọc, ta có trường nghĩa
liên tưởng.
- Cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học (Nguyễn Thiện Giáp - chủ biên, Đoàn
Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2010) cũng dành sự
chú ý cho trường từ vựng - ngữ nghĩa. Cụ thể: Trong Chương Bốn: Từ vựng,
Mục B: Ý nghĩa của từ và ngữ, VII – Trường nghĩa (trang 108-112), tác giả
Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày một số cách hiểu về trường nghĩa như sau:
Lí thuyết trường nghĩa ra đời vào mấy chục năm gần đây. Mục đích cơ
bản của lí thuyết này là khảo sát từ vựng một cách hệ thống. Có nhiều cách
hiểu khác nhau về khái niệm trường nghĩa, nhưng có thể quy vào hai khuynh
hướng chủ yếu:
a, Khuynh hướng thứ nhất quan niệm trường nghĩa là toàn bộ các khái
niệm mà các từ trong ngôn ngữ biểu hiện. Đại diện cho khuynh hướng này là
L.Weisgerber và J.Trier. Hai ông chịu ảnh hưởng nhiều của học thuyết về “hình
thái bên trong của ngôn ngữ” của H.Humbold mà theo quan niệm của tác giả
này, là cái phản ánh “tinh thần” của một dân tộc nào đó. Đây là một quan điểm
có những hạn chế nhất định khi nhìn nhận mối quan hệ giữa trường khái niệm
và trường từ vựng, tức là bình diện nội dung và bình diện biểu hiện.
b, Khuynh hướng thứ hai cố gắng xây dựng lí thuyết trường nghĩa trên cơ
sở các tiêu chí ngôn ngữ học. Trường nghĩa không phải là phạm vi các khái
niệm nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ lẫn nhau về nghĩa.
Những trường nghĩa được xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ có thể được phân biệt
3
thành những kiểu khác nhau:
- Trường từ vựng – ngữ pháp
- Trường cấu tạo từ
- Trường từ vựng – cú pháp.
Kiểu trường nghĩa phổ biến nhất là cái được gọi là “nhóm từ vựng – ngữ
nghĩa”. Tiêu chuẩn để thống nhất các từ thành một nhóm từ vựng – ngữ nghĩa
có thể rất khác nhau. Chẳng hạn, có thể dựa vào sự tồn tại của các từ biểu thị
các khái niệm ở dạng chung nhất, trừu tượng nhất và trung hòa. Bên cạnh
những nhóm từ vựng - ngữ nghĩa với các từ khái quát như trên, người ta còn
tập hợp các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa trên cơ sở một khái niệm
chung có mặt ở trong mỗi một từ của nhóm này. Có người còn xếp cả từ loại và
các tiểu loại của một từ loại vào những nhóm từ vựng – ngữ nghĩa, bởi cho
rằng các từ thuộc một từ loại hoặc một tiểu loại cũng có cùng ý nghĩa khái quát
chung. Những loạt đồng nghĩa, trái nghĩa thực chất cũng là một kiểu đặc biệt
của các nhóm từ vựng - ngữ nghĩa.
Đặc biệt, một số tác giả cũng coi là trường nghĩa cả những kết cấu ngữ
nghĩa của các từ đa nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ đa nghĩa
thường có một yếu tố ngữ nghĩa chung, tạo nên cái gọi là trục ngữ nghĩa. Toàn
bộ các nghĩa khác nhau của một từ tạo ra một trường nghĩa nhỏ nhất....
Ngoài ra phải kể đến một số công trình tiêu biểu như:
- Năm 1973, Đỗ Hữu Châu có công trình Trường từ vựng và hiện tượng
đồng nghĩa, trái nghĩa.
- Năm 1975, Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trường và việc
nghiên cứu từ vựng.
Các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu đã cung cấp một hệ thống lý
thuyết về trường từ vựng - ngữ nghĩa. Trường từ vựng ngữ nghĩa được chia làm
bốn loại căn cứ vào các loại ý nghĩa của từ bao gồm: trường nghĩa biểu vật;
trường nghĩa biểu niệm; trường nghĩa tuyến tính; trường nghĩa liên tưởng.
Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết này để nghiên cứu tiếng Việt.
Đặc biệt, trường nghĩa liên tưởng được áp dụng nhiều khi nghiên cứu tác phẩm
4
văn học. Ví dụ một số công trình tiêu biểu như:
- Năm 1988, Nguyễn Đức Tồn có luận án PTS Trường từ vựng bộ phận cơ
thể người.
- Năm 1996, Nguyễn Thúy Khanh có luận án PTS Đặc điểm trường từ
vựng ngữ nghĩa tên gọi động vật.
- Năm 1999, Đinh Thị Oanh bảo vệ luận văn Thạc sĩ Cấu trúc ngữ nghĩa
của vị từ thuộc trường “thực vật”.
- Năm 2002, Nguyễn Đức Tồn xuất bản công trình Tìm hiểu đặc trưng văn
hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt. Ở chương thứ 8 đã chỉ ra
đặc điểm ngữ nghĩa của trường gọi thực vật.
- Năm 2007, tác giả Đỗ Thị Kim Liên có bài báo Trường ngữ nghĩa biểu
hiện quan niệm về nữ giới trong tục ngữ Việt (Đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và
đời sống, số 6 (140) - 2007).
- Năm 2007, Phan Thị Thúy Hằng bảo vệ luận văn Thạc sĩ Trường từ
vựng tên gọi các loại cây trong ca dao của người Việt.
- Năm 2008, Lê Thị Thanh Nga bảo vệ luận văn Thạc sĩ Đặc điểm lớp từ
ngữ thuộc trường nghĩa chỉ vật dụng - biểu tượng tình yêu trong ca dao tình
yêu lứa đôi.
- Năm 2009, TS. Hoàng Anh, Nguyễn Thị Yến có bài báo Trường nghĩa
ẩm thực trong các bài báo viết về bóng đá (Đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 7 (165) - 2009).
- Năm 2010, Trần Thị Mai có bài báo Trường từ vựng chỉ không gian
trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận (Đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 1+2 (171+172) - 2010)
…
Qua những tài liệu trên, ta thấy lý thuyết “trường” được vận dụng vào
5
nghiên cứu với vai trò là cơ sở để phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác
nhau: chỉ ra các đặc điểm của tiếng Việt; đặc trưng văn hóa của người bản ngữ
được phản ánh qua ngôn ngữ; đặc trưng ngôn ngữ tác phẩm văn học….
2.2. Những nghiên cứu về dân tộc Nùng và tiếng Nùng ở Việt Nam
2.2.1. Những nghiên cứu về dân tộc Nùng
Qua tìm hiểu ban đầu, có khá nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc
Nùng ở Việt Nam, xin kể đến một số công trình tiêu biểu:
- Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Nông Minh Châu (1973), Dân ca đám cưới Tày – Nùng, Nxb Việt Bắc.
- Vi Hồng (1979), Sli, lượn, dân ca trữ tình Tày, Nùng, NXB Văn Hóa.
- Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày – Nùng, NXB Văn hóa.
- Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc.
- Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược,
Vương Toàn (1993), Văn hóa truyền thống Tày – Nùng, NXB Văn hóa dân tộc.
- Lê Sĩ Giáo (2006), Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục.
...
Qua các tài liệu trên ta có thể thấy, các nhà nghiên cứu đã rất chú ý đến
những vấn đề về dân tộc Nùng như nguồn gốc tộc người, các khía cạnh văn
hóa... Những nghiên cứu này giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về dân tộc
Nùng và quan hệ của dân tộc này với các dân tộc anh em khác trong quốc gia
đa dân tộc Việt Nam.
2.2.2. Những nghiên cứu về tiếng Nùng
Tiếng Nùng đã được xác định thuộc nhóm Tày – Thái trung tâm, dòng
Tày – Thái, họ Tai – Ka Đai.
Đây là ngôn ngữ của một dân tộc có số dân đông ở Việt Nam, là phương
tiện giao tiếp chung của nhiều cộng đồng người dân tộc thiểu số ở một số tỉnh
miền núi phía Bắc. Chính vì thế, ngôn ngữ này đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu về tiếng
6
Tày - Nùng đã được công bố như:
- Nguyễn Hàm Dương (1970), “Chức năng xã hội của tiếng Tày - Nùng”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí (1971), Ngữ pháp tiếng Tày -
Nùng, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Nguyễn Minh Thuyết, Lương Bèn, Nguyễn Văn Chiến (1971), “Góp ý
về việc cải tiến chữ Tày - Nùng”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
- Viện Ngôn ngữ học (1972), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Cung Văn Lược (1992), Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ
Việt Nôm, Đề tài PTS Khoa học Ngữ văn, H.
- Viện Ngôn ngữ học (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Hoàng Văn Ma, Mông Kí Slay... (1994), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân
tộc ở Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Ngôn
ngữ học, H.
- Hoàng Văn Ma, Mông Kí Slay, Hoàng Văn Sán (2002), Sách học tiếng
Tày – Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (2005), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb Từ
điển bách khoa, H.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (2005), Từ điển Việt - Tày - Nùng, Nxb Từ
điển bách khoa, H.
- Lương Bèn - Chủ biên (2009), Slon phuối Tày, Nxb Đại học Thái
Nguyên, TN.
- Lương Bèn - Chủ biên (2011), Từ điển Tày - Việt, Nxb Đại học Thái
Nguyên, TN.
…
Có thể thấy rằng, trong thời gian qua các nhà nghiên cứu đã tập trung tới
7
nhiều khía cạnh cụ thể của tiếng Nùng, như: nguồn gốc lịch sử, vị trí của tiếng
Tày - Nùng, mối quan hệ giữa tiếng Tày, tiếng Nùng với nhau và với tiếng Việt,
hệ thống chữ viết, các quy tắc chính tả và ngữ pháp Tày - Nùng; vấn đề ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp, tình hình sử dụng ngôn ngữ… Đặc biệt, để góp phần bảo tồn
và phát triển tiếng Nùng. Đã có những bộ sách giáo khoa dạy - học tiếng Nùng,
các cuốn Từ điển Tày - Nùng - Việt, Từ điển Việt - Tày - Nùng .., cũng đã được
biên soạn nhằm đáp ứng nguyện vọng, mong muốn duy trì và phát triển ngôn
ngữ văn hoá của đồng bào Nùng.
Trong quá trình chuẩn bị thực hiện đề tài, tác giả luận văn này đã có cơ
hội được tiếp cận với những công trình trên ở các mức độ khác nhau. Trên cơ
sở đó, đã ít nhiều kế thừa được những giá trị khoa học, những phương pháp
nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu đi trước (từ các phương diện khác
nhau) để hoàn thành nhiệm vụ khoa học của đề tài.
2.3. Những nghiên cứu về bệnh tật và thuốc thang cổ truyền của dân tộc
Nùng ở Việt Nam
2.3.1. Những nghiên cứu về bệnh tật ở người Nùng
Nhìn chung mỗi một dân tộc, một vùng miền có những cách khám bệnh và
chữa bệnh không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, thói quen và
điều kiện sinh sống khác nhau. Qua tìm hiểu có thể thấy: Cách chữa bệnh của
người Nùng thường không quá phức tạp, cách “bắt” bệnh của họ chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm dân gian về thực trạng của bệnh, thể trạng, tuổi tác và giới
tính của bệnh nhân, để “bốc” các loại thuốc khác nhau.
Cho đến nay, những nghiên cứu về bệnh tật của người Nùng vẫn chưa
thấy được ghi chép trong một tài liệu chính thức nào, chỉ được cảnh báo và lưu
truyền lại cho các thế hệ sau bằng phương thức truyền miệng.
2.3.2. Những nghiên cứu về các thuốc thang cổ truyền nói chung và thuốc
thang cổ truyền của người Nùng
2.3.2.1. Từ xưa đến nay, nghề thuốc được coi là một trong những nghề cao
quý, đáng trân trọng. Không tự nhiên mà các người làm nghề thuốc, người chữa
8
bệnh được gọi với các tên rất thiêng liêng là thầy thuốc, lương y, bà mế... nghề
thuốc được coi là nghề đem lại sự hồi sinh, thậm chí tái sinh và cứu sống con người
chính vì thế mà có rất nhiều công trình nghiên cứu về bệnh tật và phương thuốc.
Có thể nói, Y học đã sớm đi vào đời sống nhân dân tự xa xưa từ những bài
thuốc dân gian truyền miệng cho đến các công trình đồ sộ của Tuệ Tĩnh thiền
sư như: “Nam dược thần hiệu”, “Hồng nghĩa giác tư y thư” hay “Hải Thượng y
tông tâm lĩnh” của Lê Hữu Trác đến “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”
của Đỗ Tất Lợi và nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng khác đã cho thấy, thuốc
thang là một thuật ngữ không hề xa lạ với bất cứ một ai, từ tầng lớp bình dân
đến thượng lưu… có bệnh ắt phải tìm đến thầy đến thuốc. Đi đầu trong lĩnh vực
này phải kể đến tác giả Đỗ Tất Lợi với công trình “Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam”. Với công trình này, ông được giới chuyên môn đánh giá cao,
coi là công trình khoa học lớn về cây thuốc ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Ngoài ra, theo tìm hiểu của chúng tôi, có số lượng lớn, đồ sộ các công
trình nghiên cứu về thuốc của nhiều tác giả như:
- Bùi Chí Hiếu (1981), 150 cây thuốc Nam thường dùng, Nxb Y học.
- Phan Đây (1989), Tính năng bào chế và tác dụng của thuốc nam theo y
học dân tộc, Tài liệu hướng dẫn y học dân tộc cơ sở của Hội Y học dân tộc tỉnh
Khánh Hòa.
- Viện Y học cổ truyền Việt Nam (1993), Phương pháp bào chế và sử
dụng thuốc đông dược, Nxb Y học.
- Lê Nguyên Khanh, Nguyễn Thiện Khuyến (1994), Những phương thuốc
kinh nghiệm bí truyền của các ông lang bà mế miền núi, Nxb VHDT.
- Trần Văn Quảng (1995), Đông dược học thiết yếu, Nxb Mũi Cà Mau.
- Hoàng Duy Tân, Trần Văn Nhủ (1995), Từ điển phương thang đông y ,
Nxb Đồng Nai.
- Lương Thừa Ân (2001), Thuốc quý ở quanh ta, Nxb Phụ nữ.
- Ngô Văn Khiêm (2002), Đông y – Kinh nghiệm gia truyền, Nxb Y học.
- Viện dược liệu (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam,
9
Nxb Khoa học và kĩ thuật.
- Võ Văn Chi (2011), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học.
- Nguyễn Văn Hưởng (2012), Toa thuốc đông y cổ truyền Việt Nam, Nxb
Tổng hợp TPHCM.
- Tuệ Tâm (2013), Mẹo vặt Đông y – cây thuốc nam thông dụng và trị
bệnh những phương thuốc hay trong dân gian, Nxb Đồng Nai.
…
Những tài liệu trên chỉ là một phần rất nhỏ những nghiên cứu về thuốc
thang cổ truyền, tuy vậy đã phần nào cho thấy các nhà nghiên cứu và các lương
y đã rất chú ý đến việc phát hiện, bào chế thuốc thang cổ truyền - một lĩnh vực
đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Họ đã có ý thức cần ghi chép lại
để truyền cho đời sau.
Có thể khi sưu tập về các thuốc thang cổ truyền, các nhà nghiên cứu đã
không thể bỏ qua vốn kinh nghiệm quý báu của đồng bào các dân tộc thiểu số
trên vùng rừng núi rất nhiều cây cỏ, trong đó có người Nùng.
2.3.2.2. Người Nùng sống hòa mình với thiên nhiên, coi thiên nhiên là một
phần cuộc sống, gắn bó với đời sống vật chất cũng như tâm linh của họ. Xuất
phát từ lối sống và tâm lí đó, nên thuốc thang của người Nùng có nguồn gốc
hoàn toàn tự nhiên. Đây có lẽ cần xem như những phát hiện, tìm hiểu và đóng
góp đáng ghi nhận của người Nùng đối với chính cuộc sống của họ nói riêng và
sức khỏe cộng đồng nói chung.
Qua tìm hiểu ban đầu, đa số những phương thuốc thông dụng và quý hiếm
của người Nùng thường được chia theo từng loại bệnh. Ví dụ như thuốc chữa
đau bụng, thuốc chữa đau đầu, thuốc chữa gãy xương, thuốc bổ thận… Thuốc của
người Nùng thường chia ra làm hai loại chính là thuốc chữa bệnh và thuốc bổ.
Trong các cuốn “Từ điển Việt - Tày – Nùng”, “Từ điển Tày – Nùng -
Việt” đã có một số mục từ về bệnh tật và các loại cây thuốc. Tuy nhiên, các
cuốn sách này chỉ sưu tập được một số rất nhỏ các từ ngữ chỉ thuốc thang cổ
10
truyền của người Nùng.
Theo các tài liệu hiện có, ngoài quyển “Danh mục các cây & bài thuốc bản
địa” của Hội Đông Y xã Tràng Phái và Bình Phúc huyện Văn Quan, tỉnh Lạng
Sơn, thì cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu về thuốc thang cổ truyền nào của
người Nùng.
Như vậy, cho đến nay, những tìm hiểu về bệnh tật và thuốc thang cổ
truyền của người Nùng vẫn chưa được ghi chép có hệ thống, chỉ được lưu
truyền lại cho thế hệ sau (phần lớn theo gia đình, dòng tộc) chủ yếu bằng
phương thức truyền miệng.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Qua việc tìm hiểu từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền, luận văn
sẽ chỉ ra một số đặc điểm của tiếng Nùng về mặt từ vựng ngữ nghĩa cùng một
số nét văn hóa cổ truyền của người Nùng, chủ yếu từ phương diện y dược. Qua
đó, công trình này hi vọng góp phần tìm hiểu sâu sắc hơn về tiếng Nùng và văn
hóa Nùng.
3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu và xác định cơ sở lí thuyết có liên quan đến trường từ vựng -
ngữ nghĩa, ngữ pháp, văn hóa học.
- Thu thập các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền qua lời ăn
tiếng nói của người Nùng ở Lạng Sơn.
- Phân tích và tổng hợp tư liệu, tìm ra các quy tắc chung về các từ ngữ
thuộc trường bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang
cổ truyền của người Nùng ở xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
Xã Tràng Phái là một xã trọng điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của
11
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Xã có tổng diện tích đất tự nhiên 4.090,91ha,
với số dân 3.288 khẩu, chủ yếu là người đồng bào dân tộc thiểu số trong đó
phần lớn là dân tộc Nùng. Xã có 746 hộ gia đình, sinh sống tại 8 thôn bản.
Địa hình của xã chủ yếu đồi núi, ruộng bậc thang, diện tích đất nông
nghiệp nhỏ lẻ. Từ bao đời nay, việc vào rừng, lên nương kiếm sống đã trở
thành thói quen sinh hoạt của đồng bào nơi đây. Ngày nay, cùng với sự phát
triển của đất nước, xã Tràng Phái đang dần thay da đổi thịt nhưng nguồn thu
chủ yếu vẫn là dựa vào nông nghiệp. Đời sống vật chất và tinh thần của người
dân còn khó khăn. Công tác tuyên truyền về giáo dục, sức khỏe đã đến tận thôn
bản, nhưng nhận thức của người dân nơi đây còn ít nhiều hạn chế. Nhiều khi
dân bản lựa chọn cách tự chăm sóc sức khỏe tại nhà hơn là đến trạm y tế. Điều
này đem lại những lợi ích thực tế: Vì tự chăm sóc sức khỏe của mình bằng cây
lá có sẵn quanh nhà và trong rừng núi mà người dân nơi đây có nhiều phương
thuốc hay, vị thuốc quý không phải nơi đâu cũng có được.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi lựa đã chọn xã Tràng Phái, huyện
Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn làm địa bàn của đối tượng nghiên cứu cho đề tài “Từ
ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền của người Nùng”.
4.2. Phạm vi
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số nội dung sau:
- Tên của các bệnh tật và triệu chứng lâm bệnh.
- Tên của các vị thuốc trong từng phương thuốc (không tìm hiểu về các
công dụng, đặc tính dược, cách chế biến, cách sử dụng và lưu ý khi sử dụng,
cách bảo quản, cách phòng chống, những kiêng kị và nghi lễ khi dùng thuốc).
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành luận văn này, một số phương pháp được sử dụng như sau:
- Ngôn ngữ học điền dã: để thu thập tư liệu ở địa phương về các từ ngữ chỉ
bệnh tật và thuốc thang cổ truyền của người Nùng.
- Thống kê – phân loại: để tìm ra các quy luật xuất hiện của các từ ngữ chỉ
12
bệnh tật và thuốc thang cổ truyền của người Nùng.
- Miêu tả: để phân tích và trình bày kết quả nghiên cứu, qua các thao tác
phân tích và tổng hợp.
Ngoài ra, luận văn sẽ tham khảo cách xem xét đối tượng từ góc nhìn Văn
hóa học: hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế xã hội, tâm lí của người Nùng…
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6.1. Về lí luận
- Tác giả hi vọng luận văn này sẽ góp thêm tư liệu cho nghiên cứu về
trường từ vựng - ngữ nghĩa nói chung.
- Ngoài ra, luận văn có thể còn góp một số kinh nghiệm nhìn nhận một số
hiện tượng trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số từ góc nhìn văn hóa.
6.2. Về thực tiễn
- Góp phần bảo tồn và phát triển tiếng Nùng.
- Góp phần bảo tồn vốn văn hóa của người Nùng, đặc biệt các phương
thuốc giá trị của người Nùng đang có nguy cơ thất lạc và hư truyền.
- Hướng tới biên soạn một cuốn bách khoa thư về sức khỏe cộng đồng và
thuốc thang cổ truyền của dân tộc Nùng.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn
dự kiến khoảng 110 trang, gồm các chương mục chính sau:
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỆNH
TẬT VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỆNH
13
TẬT VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NGÔN NGỮ HỌC VÀ VĂN
HÓA HỌC
1.1.1. Ngữ pháp
1.1.1.1. Từ và ngữ
Từ và các phương thức cấu tạo từ:
Trong các đơn vị ngôn ngữ, từ là một trong số những đơn vị cơ bản nhất
dùng để gọi tên các sự vật và thuộc tính của chúng, các hiện tượng, các quan hệ
của thực tiễn, là một tổng thể các dấu hiệu ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp đặc
trưng cho từng ngôn ngữ. Từ ở vị trí trung tâm của hệ thống ngôn ngữ, là cơ sở
để con người tiến hành hoạt động nhận thức và tạo ra các đơn vị ngôn ngữ
khác(cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản) phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Với vai
trò quan trọng ấy nên từ đã, đang và có thể sẽ vẫn là đối tượng lâu dài, trung
tâm của Ngôn ngữ học.
Các dấu hiệu đặc trưng của từ là: tính hoàn chỉnh, tính có thể phân chia
thành các bộ phận và khả năng tái hiện lại dễ dàng trong lời nói. Từ có thể phân
chia thành các cấu trúc: cấu trúc ngữ âm của từ (là toàn bộ các hiện tượng âm
thanh tạo nên vỏ âm thanh của từ); cấu trúc hình thái của từ (là toàn bộ các hình
vị tạo nên từ); cấu trúc ngữ nghĩa của từ (là toàn bộ các nghĩa khác nhau của
từ).
Cho đến nay, trong Ngôn ngữ học, có không ít công trình đề cập đến định
nghĩa từ, đã có tới trên 300 định nghĩa về từ. Tuy nhiên đây vẫn là đề tài còn
nhiều tranh luận. Với mỗi mục đích nghiên cứu khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu
lại nhấn mạnh tới một phương diện của từ. Có thể nêu ra một vài định nghĩa
tiêu biểu về từ như sau:
Tác giả Hoàng Phê đưa ra quan điểm trong cuốn Từ điển tiếng Việt như
14
sau: “Từ là đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực hiện chức
năng giao tiếp và chức năng tư duy... Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình thức
và mặt ý nghĩa. Mặt hình thức theo chúng tôi, là một hợp thể của một số thành
phần: thành phần ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn gọi
là cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp” [44, tr.334-335].
Nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến đưa ra
định nghĩa như sau: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền
vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do
trong lời nói để tạo câu” [18, tr.141].
Hoặc là những ý kiến về từ trong tiếng Việt:
Theo Đỗ Hữu Châu thì: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố
định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những
kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất
trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [12, tr.16].
Nguyễn Thiện Giáp lại quan niệm: “Từ tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất
có ý nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết
liền” [23, tr.69].
Có thể nhận thấy ít nhiều có sự khác nhau trong các định nghĩa từ của các
nhà ngôn ngữ học. Người thì nhấn mạnh vào hình thức ngữ âm “nó có hình
thức của một âm tiết, một khối viết liền”, người lại chú ý đến “chức năng gọi
tên”, có người lại tập trung vào mối quan hệ thống nhất giữa “hình thức, ý
nghĩa, ngữ pháp” của từ.
Điều này cũng còn do trên thực tế trong các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn
lập âm tiết tính như tiếng Tày, tiếng Nùng, tiếng Dao, tiếng Hán, tiếng Việt…. ,
khó có sự phân biệt rạch ròi giữa từ và ngữ, đặc biệt giữa đơn vị được gọi là “từ
ghép” và “cụm từ”.
Rõ ràng thật khó có thể đưa ra một định nghĩa về từ khiến cho tất cả mọi
người đều thoả mãn. Qua những ý kiến của các nhà ngôn ngữ học đi trước, có
15
thể thấy từ là một thực thể, tồn tại trong mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc
điểm hình thức, cấu trúc nội tại và có thể có cách biểu thị nội dung (ý nghĩa)
khác nhau, được người bản ngữ tri giác (hiện thực về mặt tâm lí).
Qua các định nghĩa, có thể nhận thấy từ có những đặc điểm cơ bản giúp
phân biệt nó với các đơn vị khác trong hệ thống ngôn ngữ như sau:
- Là một khối thống nhất, hoàn chỉnh của hình thức và nội dung hay nói
cách khác, từ bao gồm hai mặt: âm thanh và ý nghĩa. Tính hoàn chỉnh và thống
nhất giữa hai mặt này giúp cho từ có khả năng hoạt động độc lập để tạo câu
theo những quy tắc kết hợp nhất định.
- Mang tính sẵn có, tồn tại độc lập: Chúng có thể tách ra khỏi câu mà vẫn
có ý nghĩa như vậy, chúng có thể được dùng để đặt câu khác
- Về mặt nội dung (mặt được biểu thị), từ là đơn vị có ý nghĩa biểu thị các
sự vật, hiện tượng…nhất định
- Có cấu trúc cố định - bắt buộc: Từ không thể chia nhỏ ra nữa mà vẫn giữ
nguyên ý nghĩa cũ. Hay nói cách khác, từ là đơn vị có cấu trúc nội tại tương đối
vững chắc, ổn định, có nghĩa mà không thể phân tách thành đơn vị nhỏ hơn.
- Là đơn vị nhỏ nhất trực tiếp tạo câu, tạo lời nói.
Trong luận văn này, xin chấp nhận quan niệm về từ được nhiều nhà nghiên
cứu về các ngôn ngữ phương Đông xác định, là:
Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, được sử dụng độc lập, tái
hiện tự do trong lời nói để tạo nên câu.
Cách hiểu về từ như trên sẽ là cơ sở để tiến hành khảo sát, thống kê và
phân loại những ngữ liệu về từ và ngữ có liên quan đến bệnh tật và các phương
thuốc dân gian trong tiếng Nùng.
Các phương thức cấu tạo từ:
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, có ba phương thức:
+ Từ hoá hình vị là phương thức tác động vào bản thân một hình vị, làm
cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà
không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Hay nói cách khác, dùng một hình
16
vị tạo thành một từ thực chất là cấp cho hình vị cái tư cách đầy đủ của một từ. .
+ Ghép là phương thức tác động vào 2 hoặc hơn 2 hình vị có nghĩa, kết
hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới (mang đặc điểm ngữ pháp và ý
nghĩa như một từ).
Biểu đồ của phương thức ghép là:
Hình vị: A, B - Ghép - từ A+B hoặc B+A
+ Láy là phương thức tác động vào một hình vị cơ sở làm xuất hiện một
hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Các hình vị cơ sở và
hình vị láy tạo thành một từ (mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ).
Ví dụ: Phương thức láy tác động vào hình vị kheo (xanh) cho ta hình vị
láy kheo (xanh). Hình vị láy và hình vị cơ sở làm thành từ kheo kheo (xanh
xanh). Tác động vào hình vị: nọi (ít) cho ta hình vị láy: nòi. Từ đó, ta có các từ
nòi nọi (in ít)...
Biểu đồ của phương thức này là:
Hình vị A – láy - từ AA hoặc AA’ hoặc A’A
Theo Nguyễn Tài Cẩn [9] khi kết hợp thành tố với thành tố để tạo thành
một tổ hợp tự do, có thể kết hợp theo ba mối quan hệ chính sau đây: kết hợp
theo quan hệ đẳng lập; kết hợp theo quan hệ tường thuật; kết hợp theo quan hệ
chính phụ. Với ba loại quan hệ khác nhau đó, chúng ta sẽ có 3 loại tổ hợp tự do
khác nhau: loại tổ hợp gồm nhiều trung tâm nối liền với nhau bằng quan hệ
đẳng lập gọi là liên hợp, loại tổ hợp gồm 2 trung tâm nối liền với nhau bằng
quan hệ tường thuật gọi là mệnh đề và loại tổ hợp gồm một trung tâm nối liền
với các thành tố phụ bằng quan hệ chính phụ gọi là đoản ngữ (hoặc ngữ).
Ngữ:
Ngoài đơn vị “từ”, một đơn vị nữa cũng cùng chức năng nhưng khác cấu
tạo với “từ” là “ngữ” (hay còn được gọi là cụm từ, từ tổ). Khi nói đến “ngữ”
cần chú ý mấy điểm để phân biệt với “từ” như sau: Ngữ là sự kết hợp hai hoặc
nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó
về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức
17
tạp biểu thị các hiện tượng của thực tại khách quan.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Như Ý:
“Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ
có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm
thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của thực tại khách
quan” [58, tr.176].
Về cấu tạo, ngữ là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hoặc nhiều
thực từ trên cơ sở quan hệ đẳng lập, quan hệ tường thuật và quan hệ chính phụ.
Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp,
gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi là các thành tố
phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo nên ngữ danh từ), động từ
(tạo nên ngữ động từ), tính từ (tạo nên ngữ tính từ).
Về chức năng và đặc điểm: Cũng giống như từ, ngữ cũng là phương tiện
định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ pháp
của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại trên
cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng.
Về phân loại, ngữ thường được chia thành hai kiểu: ngữ tự do (cụm từ tự
do) và ngữ không tự do (ngữ/cụm từ cố định)
+ Ngữ tự do/ Cụm từ tự do: gồm những thực từ có tính độc lập. Mối liên hệ
cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ linh loạt và có sức sản sinh.
+ Ngữ không tự do/ Ngữ cố định/ cụm từ cố định: Tính độc lập về mặt từ
vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng của
ngữ trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biệt.
Tóm lại, có thể thấy: về bản chất từ và ngữ đều có nghĩa, có chức năng
định danh, cố định, trực tiếp tham gia tạo câu… nhưng ngữ khác từ về mặt cấu
tạo và phân loại.
Các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang trong tiếng Nùng thường chỉ sự
vật, động tác và tính chất (tương ứng với danh từ và danh ngữ, động từ và động
18
ngữ, tính từ và tính ngữ).
1.1.1.2. Danh từ và danh ngữ
Danh từ là từ loại thuộc thực từ, là những từ biểu thị sự vật (bao gồm cả người,
động vật, thực vật, sự vật, hiện tượng...).
Theo quan niệm phổ biến, danh từ chia thành hai loại: danh từ chung và
danh từ riêng.
Danh từ chung bao gồm:
- Danh từ vật thể: chỉ người, động vật, thực vật,...
- Danh từ chất thể: chỉ các chất làm nên sự vật
- Danh từ tượng thể: chỉ các khái niệm chỉ vật tưởng tượng ...
- Danh từ tập thể: chỉ tập hợp các vật thường là đồng nhất được hình dung
thành một khối.
Danh từ riêng là những tên riêng để gọi từng sự vật, đối tượng duy nhất,
cá biệt như tên người, tên địa danh…
Như vậy, danh từ chính là kết quả của quá trình định danh (cách gọi tên)
các sự vật, hiện tượng thuộc các phạm trù khác nhau. Mỗi dân tộc với điểm
nhìn khác nhau thì cách gọi tên (định danh) cũng khác nhau và đó chính là nét
đặc trưng văn hoá riêng biệt của mỗi nước. Và qua cách gọi tên các sự vật, hiện
tượng ít nhiều cũng thể hiện được quan niệm, cách nhìn, thói quen và tình cảm
của mình trong đó. Đó chính là một trong những biểu hiện cụ thể của mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
Khi dùng danh từ để giữ một chức vụ này hay một chức vụ khác trong
câu, thường người ta còn hay đặt thêm một số thành tố phụ bên cạnh nó để tạo
thành đoản ngữ. Loại đoản ngữ chính phụ gồm các yếu tố sắp đặt sẵn theo quan
hệ có danh từ làm trung tâm như thế gọi là “danh ngữ”.
Danh ngữ là đoản ngữ (hay ngữ) có danh từ làm trung tâm.
Về cấu tạo, danh ngữ bao gồm hai phần chính:
- Bộ phận trung tâm (do danh từ đảm nhiệm) chiếm vị trí nằm giữa lòng
19
đoản ngữ
- Các thành tố phụ (định tố) chia làm hai bộ phận: phần đầu của đoản ngữ
(trước trung tâm) và phần sau của đoản ngữ (sau trung tâm).
Trong danh ngữ, không có loại định tố nào có trật tự tự do cả, khi thì ở
trước khi thì ở sau.
Về dạng, danh ngữ có hai dạng: dạng đầy đủ và dạng không đầy đủ.
+ Dạng đầy đủ: phần đầu - phần trung tâm - phần cuối.
+ Dạng không đầy đủ: có 3 dạng:
Dạng chỉ có phần đầu và phần trung tâm: phần đầu - phần trung tâm –
Dạng chỉ có phần trung tâm và phần cuối: phần trung tâm - phần cuối
Dạng chỉ có phần đầu và phần cuối: phần đầu - phần cuối
Sau đây là một số chú thích cho sơ đồ danh ngữ:
- Phần trung tâm là trung tâm ghép bao gồm hai thành tố T1, T2. Trong
đó, T1 là trung tâm ngữ pháp, là các danh từ đơn vị; T2 là trung tâm ngữ nghĩa,
là các danh từ sự vật và chất liệu.
- Phần đầu có 3 vị trí:
+ Vị trí (-1) sát với trung tâm là phó từ “cái” gọi là từ chỉ xuất, định tố.
+ Vị trí (-2) là những từ chỉ phó từ số lượng, số từ.
+ Vị trí (-3) là các đại từ chỉ toàn bộ.
- Phần cuối có nhiều vị trí hơn. Phần đầu của phần cuối là từ hư và phần
cuối của phần cuối danh ngữ phần lớn là từ thực thậm chí có thể phát triển
thành cụm từ độc lập, cụm chính phụ hoặc cụm chủ - vị. Vị trí các thành tố tỏ
ra tự do hơn.
Danh ngữ có thể tồn tại ở các mô hình cấu tạo sau : D1- D2; D1-D2 – D3;
D- T; D1 – D2 – T; D1 - D2 - D3 - T; D1 - D2 - D3-… (trong đó: D là danh từ;
T là từ chỉ tính chất, trạng thái...)
1.1.1.3. Động từ và động ngữ
Động từ là từ loại thuộc thực từ, là những từ biểu thị các hoạt động, các đặc
20
trưng động hoặc đặc trưng tĩnh của sự vật hiện tượng.
Căn cứ vào các đặc trưng hoạt động của động từ, có thể chia động từ thành hai
loại lớn là động từ độc lập và động từ không độc lập.
Trong nhóm động từ độc lập lại chia thành các tiểu loại
- Động từ tác động (động từ ngoại động)
- Động từ trao nhận
- Động từ gây khiến
- Động từ cảm nghĩ nói năng
- Động từ chuyển động (gồm động từ chuyển động có hướng và động từ
chuyển động không có hướng)
- Động từ tồn tại
- Động từ biến hóa.
Động từ không độc lập gồm những động từ có ý nghĩa tình thái, không
có khả năng hoạt động độc lập, thường phải đi kèm với các động từ độc lập.
Động ngữ là đoản ngữ (hay ngữ) có động từ làm trung tâm
Đoản ngữ có động từ làm trung tâm (hay động ngữ) là tổ hợp tự do,
không có quan hệ từ đứng đầu, không có quan hệ chính phụ giữa các thành tố
chính với thành tố phụ và thành tố chính là động từ.
Cấu tạo chung của động ngữ gồm hai phần chính:
- Phần trung tâm: có thể do một động từ hoặc tổ hợp gồm nhiều động từ.
- Các thành tố phụ chia làm hai bộ phận: phần đầu của đoản ngữ (trước
trung tâm) và phần sau đoản ngữ (sau trung tâm).
Các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho động từ các ý nghĩa: quan hệ thời
gian, sự tiếp diễn tương tự, sự khuyến khích hoặc ngăn cản hành động, sự
khẳng định hoặc phủ định hành động...
Các phụ ngữ ở phần sau bổ sung cho động từ các chi tiết về đối tượng,
hướng, địa điểm, thời gian, mục đích, nguyên nhân, phương tiện và cách thức
21
hành động...
1.1.1.4. Tính từ và tính ngữ
Tính từ là lớp từ có ý nghĩa ngữ pháp khái quát biểu thị tính chất (hay
đặc trưng về tính chất) của sự vật, của đặc trưng động hay của đặc trưng tĩnh.
Căn cứ vào ý nghĩa và khả năng kết hợp với từ chỉ mức độ của tính từ, có
thể phân loại tính từ thành các nhóm sau:
- Tính từ có mức độ
- Tính từ không có mức độ.
Cụm tính từ (hay tính ngữ) là tổ hợp từ tự đo, không có quan hệ từ đứng
đầu, có quan hệ chính phụ giữa các thành tố chính với thành tố phụ, và thành tố
chính là tính từ.
Cấu tạo chung của cụm tính từ gồm ba phần: phần trung tâm, phần phụ
trước và phần phụ sau.
Các thành tố phụ của tính ngữ gồm hai loại: thành tố phụ là phụ từ và
thành tố phụ là thực từ. Các phụ ngữ ở phần trước có thể biểu thị quan hệ thời
gian, sự tiếp diễn tương tự, mức độ của đặc điểm, tính chất, khẳng định hay phủ
định,... Các phụ ngữ ở phần sau có thể biểu thị vị trí, sự so sánh, mức độ, phạm
vi hay nguyên nhân của đặc điểm, tính chất...
Phần lớn, những thành tố phụ là phụ từ xuất hiện ở động ngữ đồng thời
cũng có thể làm thành tố phụ trong tính ngữ. Cụ thể như (ví dụ tiếng Nùng): đạ
(đã), đang (đang), sẹ (sẽ), nám (vừa)... với tư cách thành tố phụ trước, rồi với
tư cách thành tố phụ sau.
Thực tế thì trong các ngôn ngữ đơn lập ở phương Đông, trong đó có tiếng
Nùng, sự phân biệt các “từ” (đặc biệt là từ phức) với “ngữ” cho đến nay chưa
đủ rõ. Chúng đều có vai trò định danh (gọi tên) sự vật hiện tượng, và các tiêu
chí về hình thức nhiều khi không áp dụng được để phân định chúng. Chính vì
vậy, phải chăng chỉ nên phân biệt các đơn vị định danh đơn tiết (một tiếng, có
thể quan niệm chắc chắn đó là “từ”) và các đơn vị định danh đa tiết (gồm nhiều
tiếng được xếp đặt cạnh nhau theo quan hệ chính phụ, tương đương với “từ
22
ghép” và “ngữ”).
1.1.2. Ngữ nghĩa
1.1.2.1. Khái niệm “nghĩa”
Khi nói về từ, chúng ta đã xác nhận đặc tính quan trọng nhất của chúng
là “có nghĩa”. Vậy nghĩa (hay ý nghĩa) là gì?
Trong hai mặt của các đơn vị ngôn ngữ (biểu hiện và được biểu hiện,
hình thức và nội dung), nghĩa thuộc mặt thứ hai.
Hiện nay, có không ít định nghĩa về nghĩa (đặc biệt về nghĩa của từ). Sở
dĩ như vậy, vì khái niệm “nghĩa” rất trừu tượng (so với từ và các đơn vị ngôn
ngữ khác). Về mặt lí thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa, là: các đơn vị đang xét (từ và
hình vị) được sử dụng trong sự quy chiếu về một sự vật hiện tượng nào đó, với
yêu cầu người nói và người nghe đều phải cùng nghĩ về sự vật hiện tượng ấy,
khi nhắc đến đơn vị đang xét. Nhờ sự quy chiếu như vậy, sự sử dụng các đơn vị
này trong cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới không gây nên sự lẫn lộn.
Nghĩa các đơn vị đang xét mang tính quy ước, là nhờ người nói và người
nghe (bản ngữ) ước định với nhau: âm thanh này thì biểu thị sự vật hiện tượng
này, âm thanh kia thì biểu thị sự vật hiện tượng kia v.v...Như vậy, mặt vật chất
và ý nghĩa có liên hệ mật thiết, quy định ràng buộc và là điều kiện tồn tại của
nhau. Đồng thời, cũng như các đơn vị ngôn ngữ, nghĩa của các đơn vị này (từ
và hình vị) cũng chỉ tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ thống,
chúng không tồn tại nữa.
Khi nói về nghĩa của từ, người ta phân biệt các thành phần như: nghĩa
biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện tượng cụ thể mà
nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với ý niệm –
cái biểu niệm, bao gồm các thuộc tính sự vật hiện tượng được phản ánh vào ý
thức con người)...Ngoài ra, người ta còn phân biệt nghĩa cấu trúc – là mối liên
hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ thống, nghĩa ngữ dụng – là mối liên hệ
23
giữa các đơn vị đang xét với tình cảm, thái độ của người sử dụng.
Khi đi vào phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ đang nói ở trên,
người ta đề xuất nhiều cách, trong đó thường được sử dụng hơn cả là làm cho
cái đơn vị này bộc lộ ý nghĩa của mình qua ngữ cảnh. Ngữ cảnh được hiểu là
chuỗi các đơn vị ngôn ngữ kết hợp với đơn vị đang xét hoặc bao xung quanh
nó, làm cho nó được cụ thể hoá hơn và được xác định về nghĩa. Ngữ cảnh, có
thể là tối thiểu (đơn giản nhất) và tối đa (mở rộng đến mức có thể).
Đối với từ, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ, trong đó nó
có vai trò tái hiện tự do tạo thành câu. Như vậy, chỉ trong sự hành chức, nghĩa
mới được hiện thực hoá và xác định. Hơn thế nữa, trong thực tế hoạt động của
ngôn ngữ, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm thiểu hoặc gia tăng so với
các yếu tố cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời người nói cũng có thể tạo
nên hàng loạt các quan hệ về nghĩa khác trong hệ thống ngôn ngữ của mình:
đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa.
Trong các tài liệu ngôn ngữ học, người ta thường chỉ nói đến ý nghĩa của
từ. Điều đó là do từ là đơn vị cần chú ý hơn, là đơn vị trực tiếp cấu thành nên
lời nói, và là sự kiện tâm lí - ngôn ngữ học tương đối hiển nhiên, thường trực
đối với người bản ngữ. Hơn nữa, từ là đơn vị gắn liền với sự tường giải nghĩa
và được đưa vào từ điển dưới dạng các “mục từ”.
Có hai loại nghĩa chính được phân biệt như sau:
Nghĩa từ vựng: Là mối liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với các hình
ảnh của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan hoặc các thuộc tính của
các sự vật hiện tượng này (nghĩa biểu vật và biểu niệm). Đây là kết quả của sự
nhận thức của con người được phản ánh vào ngôn ngữ, có liên quan đến phạm
trù “khái niệm” trong triết học, trong đó chủ yếu là cách con người mô hình
hoá thế giới khách quan qua phương tiện ngôn ngữ.
Nghĩa ngữ pháp: là ý nghĩa chung của nhiều dạng thức thuộc đơn vị
đang xét (từ, hình vị) có tính chất đồng loạt và tính khái quát trong một hệ
24
thống ngôn ngữ.
Sự phân biệt hai loại ý nghĩa kể trên được ghi nhận qua ý kiến của các
nhà ngôn ngữ học như sau:
“Ý nghĩa ngữ pháp luôn luôn phải được diễn đạt bằng những hình thức
chung có tính đồng loạt. Những hình thức này có thể thuộc về các phương thức
khác nhau (các phương thức ngữ pháp, các hình thức ngữ pháp) nhưng là
những hình thức cảm tính (lĩnh hội được bằng giác quan) và là chung cho mọi
trường hợp có tồn tại và cần biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp đó. Trong khi đó, hình
thức biểu hiện của ý nghĩa từ vựng, không có tính chất chung, hay nói cách khác,
ý nghĩa từ vựng không được biểu đạt bằng những hình thức chung” [10, tr.74].
Điều có thể rút ra được qua những phân tích ở trên là khi xem xét cấu tạo
từ của một ngôn ngữ, là phải chỉ ra mối quan hệ của các thành tố bên trong từ
và không thể không đặc biệt chú ý đến ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa khái quát
được diễn đạt bằng những hình thức đồng loạt.
Khi nghiên cứu vấn đề nghĩa của từ, người ta thấy khá nhiều nhân tố liên
quan tới việc hình thành nghĩa của từ như: hình thức ngữ âm của từ, sự vật hiện
tượng được gọi tên, khái niệm được từ biểu thị, những yếu tố hệ thống ngôn
ngữ chi phối, liên quan tới nghĩa của từ, tình cảm, thái độ, ý thức, tư tưởng,
cách cảm nghĩ của người sử dụng ngôn ngữ, văn cảnh mà từ xuất hiện. Trong
các nhân tố nói trên, những nhân tố được coi là quan trọng nhất liên quan tới
việc hình thành nghĩa của từ là sự vật, hiện tượng được từ gọi tên; khái niệm
được từ biểu thị và những yếu tố thuộc hệ thống ngôn ngữ.
Qua trình hình thành nghĩa của từ được hình dung như sau: Sự vật, hiện
tượng trong thực tế khách quan phản ánh vào tư duy con người thành khái niệm
(về sự vật, hiện tượng). Các khái niệm ấy đi vào hệ thống ngôn ngữ được ngôn
ngữ hoá, trở thành nghĩa của từ.
Theo Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt: “Nghĩa của
25
từ (cũng như các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm
ngoài bản thân nó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan
hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì” [25, tr.78].
Sau khái niệm “nghĩa của từ”, thường có những sự phân biệt: nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm, nghĩa biểu hiện, nghĩa cấu trúc, nghĩa chính, nghĩa
phụ, nghĩa chuyển tiếp, nghĩa gốc, nghĩa gợi cảm, nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn,...
Cũng trong ngôn ngữ học đại cương, F.De. Saussure đã quan niệm về tín
hiệu và gián tiếp nói về nghĩa: Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một không phải
một sự vật với một tên gọi, mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh.
Hình ảnh này không phải là cái âm vật chất, một vật thuần túy vật lí mà là dấu
vết tâm lí của cái âm đó, là cái biểu tượng mà các giác quan của ta cung cấp
cho ta về cái âm đó, nó thuộc cảm quan, và nếu đôi khi ta gọi nó là vật chất thì
chỉ với ý nghĩa đó và để đối lập với thành phần kia của sự liên hệ, tức là với
khái niệm thường trừu tượng hơn. Vậy, tín hiệu ngôn ngữ là một thực thể tâm
lý có hai mặt, hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là có
cái kia. Không những thế, F.de. Saussure còn dùng từ tín hiệu để chỉ cái tổng
thể và thay khái niệm bằng cái được biểu hiện, thay hình ảnh âm thanh bằng
cái được biểu hiện.
Theo Lê Quang Thiêm, trong ngôn ngữ học đại cương, F.de Sassure đã coi
nghĩa là cái khái niệm, là cái được biểu hiện. Trong quan niệm của ông, cái
biểu hiện là hình ảnh âm thanh “là cái biểu tượng mà giác quan của ta cung cấp
cho ta về giác quan đó”. Nhưng so với nó (cái biểu hiện) thì cái được biểu hiện,
khái niệm thường trừu tượng hơn. Đây là một phát hiện mang tính bước tiến
lớn trong nhận thức về nghĩa của tín hiệu – từ. Nó đưa ngôn ngữ học vào vị trí
trung tâm của khoa học ký hiệu học và cho nghĩa là cái trừu tượng [52].
Tuy nhiên, quan niệm của Sassure còn hạn chế vì chưa trả lời được câu
hỏi “Khái niệm là gì và nó được hình thành như thế nào?” và chưa đề cập đến
hai nhân tố quan trọng khác là hiện thực và chủ thể ngôn ngữ. Vì thế, sau F.de.
Saussure, đã có nhiều tác giả như Ogden, Rchards, G.tern, S.Ullmann, Lyons
26
đã có thêm những kiến giải về nghĩa một cách khá thuyết phục. Chẳng hạn:
- So với sơ đồ nghĩa của F.de.Saussure, Ogden và Richards đã gọi cái biểu
hiện là cái biểu trưng. Hai ông bổ sung thêm nhân tố tư duy con người và hiện
thực (sự vật) trong quy định nghĩa.
- So với Ogden và Richards, G.Stern đã thay cái biểu trưng bằng tín hiệu
ngôn ngữ là từ hình thức và giải thích thêm cái quy chiếu hoặc tư duy là nghĩa,
đồng thời thay quan hệ chính xác bằng quan hệ biểu hiện và thay quan hệ chính
xác bằng quan hệ biểu hiện và thay quan hệ dành cho bằng quan hệ lĩnh hội chủ
quan cái được quy chiếu, thay quan hệ thay thế đại diện thành quan hệ biểu thị
hoặc gọi tên cái được quy chiếu.
- So với G.Tern, S.Ullmannn đã chỉ rõ: “Nghĩa là nội dung mối quan hệ
qua lại và tác động lẫn nhau giữa tên gọi và nội dung liên hội”. Như vậy, đến
S.Ullmann, nghĩa không chỉ là thực thể tâm lý, tinh thần nữa mà có vai trò của
quan hệ, không chỉ bản thân mà cả chức năng.
- Theo Lê Quang Thiêm, so với S.Ullmann, Lyons không coi cái quy
chiếu là nghĩa nữa. Ông phân biệt quy chiếu và biểu thị. Nghĩa là nội dung khái
niệm, là nội dung liên hội và nghĩa biểu thị. Như vậy, với nhân tố tư duy con
người và hệ thống tín hiệu ngôn ngữ, Lyons cho rằng có hai loại nghĩa là:
Nghĩa biểu thị và nghĩa hệ thống.
Quan niệm về nghĩa (ý nghĩa) của từ:
Theo tác giả Lê Quang Thiêm: “Nói đến hình thức, biểu thức, từ, ngữ, câu,
lời, văn bản, diễn ngôn…là nói đến những hiện tượng, đơn vị, thực thể của
ngôn ngữ trong ngôn ngữ học. Nghĩa của những đơn vị thực thể đó là nghĩa của
ngôn ngữ, thuộc ngôn ngữ. Thuật ngữ gọi thứ nghĩa này là ngữ nghĩa. Nhưng
có sự khác nhau giữ nghĩa trong ngôn ngữ, nghĩa của ngôn ngữ với nghĩa của
các tồn tại khác” [52, tr.5].
Qua phần biện giải trên, có thể hình dung từ (một đơn vị quan trọng số
một của ngôn ngữ) có hai mặt: mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội
27
dung ý nghĩa. Hai mặt này gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy, nếu
không có mặt này thì cũng không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong từ,
nói rộng ra là trong hệ thống ngôn ngữ. Nó là cái phần nửa làm cho ngôn ngữ
nói chung và từ nói riêng, trở thành những thực thể vật chất - tinh thần.
Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con người. Trong
ý thức, trong tư duy của con người chỉ có những hoạt động nhận thức, hoạt
động tư duy... mà thôi. Điều này ngụ ý rằng: Trong ý thức, trong bộ óc trí tuệ
của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa
của từ. Từ những điều trên đây, suy tiếp ra rằng những lời trình bày, giải thích
trong từ điển, cái mà ta vẫn quen gọi là của từ trong từ điển, thực chất là những
lời trình bày tương đối đồng hình với sự hiểu biết của ta về nghĩa của từ mà thôi.
Như vậy, từ nhiều quan niệm khác nhau, xin chia sẻ một cách hiểu mang
tính tổng quát về ý nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là nội dung tinh thần mà
từ biểu hiện, nó được hình thành do sự kết hợp và tác động của nhiều nhân tố.
Trong số đó có những nhân tố nằm ngoài ngôn ngữ và những nhân tố nằm
trong ngôn ngữ. Nhân tố ngoài ngôn ngữ như: sự vật, hiện tượng trong thực tế
khách quan, tư duy và người sử dụng. Nhân tố trong ngôn ngữ như: chức năng
tín hiệu học, hệ thống (cấu trúc) của ngôn ngữ.
Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Bởi thế nghĩa của từ
cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Tùy theo các chức năng
mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa
sau đây:
- Ý nghĩa từ vựng, gồm:
+ Ý nghĩa biểu vật (denotative meaning) ứng với chức năng biểu vật: Là
liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tượng, thuộc tính, hành động,...) mà nó chỉ
ra. Bản thân sự vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động,... đó, người ta gọi là
biểu vật hay cái biểu vật (denotat). Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi hiện
28
thực, hữu hình hay vô hình, có bản chất vật chất hoặc phi vật chất.
+ Ý nghĩa biểu niệm (significative meaning) ứng với chức năng biểu niệm:
là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ
chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có những quan hệ nhất định.
Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu vật của từ. Chính vì ý nghĩa biểu
niệm của từ là một tập hợp có tổ chức, có quan hệ, cho nên còn có thể gọi nó là
cấu trúc biểu niệm.
+ Ý nghĩa biểu thái/Ý nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning) ứng với
chức năng biểu thái: còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ (connotative
meaning), là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của người nói.
Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân tố đánh giá, nhân
tố cảm xúc, nhân tố thái độ …mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. Ở đây,
chúng ta chỉ bàn tới ý nghĩa biểu thái trong hệ thống ngôn ngữ, nghĩa là những
ý nghĩa biểu thái khi nó đứng riêng rẽ, tách khỏi văn bản.
- Ý nghĩa ngữ pháp/ Nghĩa cấu trúc (structural meaning): ứng với chức
năng ngữ pháp (quan hệ, kết hợp, khái quát hóa). Ý nghĩa ngữ pháp là loại ý
nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngữ và được thể hiện bằng những
phương tiện ngữ pháp nhất định. Có thể nói, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa vật thể,
còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa siêu vật thể hay phi vật thể, được thể hiện ra
bằng những hình thức nhất định.
Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị (paradigmatical
axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis). Quan hệ trên trục đối vị cho ta xác
định được giá trị của từ, khu biệt từ này với từ khác, còn quan hệ trên trục ngữ
đoạn cho ta xác định được ngữ trị (valence) – khả năng kết hợp của từ.
Ở trên, đã được trình bày là từng thành phần ý nghĩa trong từ, theo quan
niệm phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, vì từ là một thể thống nhất, cho nên mỗi
thành phần ý nghĩa chỉ là sự tách bạch những phương diện khác nhau của cái
29
thể thống nhất đó. Sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của từ phải là sự hiểu biết
thấu đáo từng mặt một nhưng cũng phải là sự hiểu biết tổng quát về những mối
liên hệ quy định lẫn nhau giữa chúng.
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã khẳng định vai trò của ý nghĩa như sau: “Ý nghĩa
là cái quyết định, là lý do tồn tại của ngôn ngữ. Không một đối tượng nghiên
cứu nào của ngôn ngữ học mà không liên hệ với ý nghĩa…Ý nghĩa là tờ “chứng
chỉ” cho các sự kiện ngôn ngữ. Thế nhưng, tờ “chứng chỉ” ấy lại trừu tượng và
khá mơ hồ. Vì thế, để có thể tiến hành được sự nghiên cứu ý nghĩa, phải biết
tách nó ra từng mặt đối lập để tìm hiểu. Chẳng hạn, tách ý nghĩa trong hệ thống
với ý nghĩa trong lời nói; tách cấu trúc cốt lõi của ý nghĩa của từ với những
thành phần tạo nên “da thịt”, sức sống của từ do xã hội và cá nhân mang lại.
Cái cấu trúc cốt lõi đó là các cấu trúc biểu niệm. Cấu trúc này vừa là cái
chung cho nhiều từ, là một tổ chức những nét nghĩa chung, ở những mức độ
khái quát và cụ thể khác nhau, vừa là cái riêng cho từng từ, do sự có mặt của
các nét nghĩa hạn chế biểu vật trong cái cấu trúc chung đó. Cấu trúc biểu niệm
của từ là cái riêng, tính hệ thống về ngữ nghĩa là cái chung. Giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết. Tuy tách ra từng mặt đối lập để nghiên cứu, nhưng
chúng ta cũng phải chú ý đến những tác động qua lại, sự chuyển hóa giữa các
mặt đó” [10, tr.234].
Chúng ta trở lại với câu hỏi: Nghĩa là gì? Câu trả lời được tìm thấy trong
quan niệm đã được nhiều nhà ngôn ngữ học đồng tình như sau:
Hiện thực được phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ
thường trực, liên tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh
này được hiện thực hoá bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này được hiểu là “nghĩa”.
Có thể xem đây chính là quan niệm đa diện, là cơ sở giúp đi vào tìm hiểu
và biện giải về cấu trúc và ý nghĩa của các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang
30
cổ truyền của người Nùng.
1.1.2.2. Khái niệm "trường nghĩa"
Trong hệ thống ngôn ngữ, giữa các đơn vị từ vựng luôn tồn tại những mối
quan hệ qua lại nhất định. Một trong những mối quan hệ giữa các đơn vị từ
vựng mà các nhà ngôn ngữ học đặc biệt quan tâm là mối quan hệ về nghĩa. Với
việc thừa nhận sự tồn tại của đơn vị từ vựng trong hệ thống ngôn ngữ và tập
trung làm rõ mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị từ vựng, một thứ lí thuyết
mới đã ra đời - lí thuyết trường nghĩa.
Lí thuyết trường nghĩa xuất hiện trong nghiên cứu ngôn ngữ học vào
những năm 20 - 30 của thế kỉ XX, được khởi xướng bởi các nhà ngôn ngữ học
Đức và Thuỵ Sĩ. Nhắc đến lí thuyết về trường nghĩa người ta nhớ ngay đến các
tên tuổi như: J.Trier, L.Weisgerber, Meyer... Lúc đầu, lí thuyết “trường” này có
tham vọng quá lớn, chia hết các từ vào các trường, vạch ranh giới triệt để giữa
các trường. Về sau, lí thuyết này được vận dụng một cách “khiêm tốn” hơn,
không phân trường toàn bộ vốn từ mà chỉ nghiên cứu một vài trường nhỏ (trường
từ vựng hay nhóm từ vựng ngữ nghĩa). Ngày nay, lí thuyết trường nghĩa là một
trong những lí thuyết ngữ nghĩa đã và đang được vận dụng một cách rộng rãi để
nghiên cứu từ vựng ngữ nghĩa của rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Ở Việt Nam, lí thuyết trường nghĩa được du nhập muộn hơn - vào những
năm 70 và gắn liền với tên tuổi của nhà ngôn ngữ học Đỗ Hữu Châu. Với công
trình “Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt” (Nxb Giáo dục, 1981), lần đầu tiên ở
Việt Nam lí thuyết về trường nghĩa đã được trình bày đầy đủ, hệ thống. Sau
này, lí thuyết trường nghĩa đã được các nhà Việt ngữ ứng dụng rộng rãi trong
nghiên cứu từ vựng tiếng Việt. Tại sao lí thuyết trường nghĩa lại có sức lan toả
mạnh mẽ như vậy?
Ưu điểm của lí thuyết trường nghĩa là ở chỗ nó chẳng những giúp miêu tả
từ vựng của các ngôn ngữ một cách hệ thống mà còn cho phép dễ dàng so sánh
các ngôn ngữ, các nhóm từ với nhau, tìm ra những đặc điểm riêng phổ quát
31
cũng như những nét đặc thù của từng ngôn ngữ, từng nhóm từ.
F.de Saussure trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” đã chỉ ra hai
dạng quan hệ cơ bản của ngôn ngữ, là quan hệ ngang (quan hệ tuyến tính, quan
hệ hình tuyến...) và quan hệ dọc (quan hệ hệ hình) . Tương ứng với hai dạng
quan hệ đó có thể có hai loại trường nghĩa là:
Trường nghĩa ngang (trường tuyến tính)
Trường nghĩa dọc (trường trực tuyến).
Ở trường nghĩa dọc, lại được phân chia thành: trường biểu vật, trường biểu
niệm và trường liên tưởng.
Theo Đỗ Hữu Châu, giữa các từ có không ít sự đồng nhất về hình thức và
về ý nghĩa. Căn cứ vào những cái chung giữa các từ, chúng ta sẽ tiến hành sự
phân lập toàn bộ từ vựng của tiếng Việt thành những hệ thống nhỏ hơn và phát
hiện ra những quan hệ giữa các từ trong từ vựng.
Do quá phức tạp, những liên hệ ngữ nghĩa trong từ vựng không hiện ra
một cách trực tiếp giữa các từ lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Tuy nhiên, những
quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ (các ý nghĩa
của từ) vào những hệ thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ
nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ
vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những
tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là
một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa.
Với các trường nghĩa, chúng ta có thể phân định một cách tổng quát
những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa
các trường nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường.
F.de.Saussure đã chỉ ra hai dạng quan hệ ngang (quan hệ hình tuyến, quan hệ
ngữ đoạn) và quan hệ dọc (hay quan trực tuyến, quan hệ hệ hình). Theo hai
dạng quan hệ có thể có hai loại trường nghĩa: Trường nghĩa ngang (trường
32
nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến) [10, tr.171].
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, trường từ vựng của một trường nghĩa là tập
hợp các từ ngữ có những đơn vị từ vựng cơ sở cùng thuộc trường nghĩa này.
Trong luận văn này, sẽ được dùng phổ biến là thuật ngữ chung: “trường từ
vựng – ngữ nghĩa”.
1.1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
1.1.3.1. “Văn hóa” là gì?
Khái niệm “văn hoá” xuất hiện rất sớm ở phương Đông cũng như ở
phương Tây. Trong thời kì lịch sử cổ đại ở Trung Quốc, “văn hoá” được hiểu là
cách thức hành xử trong xã hội của tầng lớp thống trị. Chúng dùng “văn hoá”
và “giáo hoá”, dùng những lời hay, ý đẹp để cảm hoá dân chúng đi theo và
phục tùng chúng.
Còn ở phương Tây, khái niệm “văn hoá” bắt nguồn từ chữ Latinh: cultus,
được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng đất" và Cultus Animi là
"gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người". Theo
nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): "Lao động dành cho đất gọi là
sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần". Về sau khái
niệm “văn hoá” phát triển với nhiều nghĩa khác nhau tạo sự phong phú cho từ
“văn hoá”. Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau, điểm nhìn khác nhau, cách hiểu
khác nhau mà từ “văn hoá” trong các ngôn ngữ khác nhau đều có nhiều nghĩa,
từ đó mà những nhà nghiên cứu hình thành những khái niệm khác nhau về “văn
hoá”. Nhưng định nghĩa “văn hóa là gì?” vẫn đang là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Hiện nay đã có khoảng trên 500 định nghĩa khác nhau về
văn hoá.
Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc
học, nhân loại học (theo cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học hiện đại theo cách
gọi của châu Âu), dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,...và
trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các
33
định nghĩa về văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách
phân loại các định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó
phân loại các định nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây:
Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao
hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 -
1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa
rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào
mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội
Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền
thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định
nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học
người Mỹ: văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang
dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập
quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống.
Các định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị,
chẳng hạn William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi
văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết
chế, tập tục, phản ứng cư xử,...).
Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi
trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một
trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 -
1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và
cộng sự của ông là: Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện
sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh...Những sự thích nghi này
được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc
và truyền đạt bằng kế thừa.
Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa,
34
ví dụ Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa:
a.Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các
thành viên xã hội; b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố
của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa.
Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của
nó, ví dụ định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã
hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học
Harvard: Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay
được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân
tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt, “văn hoá” là:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong các quá trình lịch sử.
2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh
thần (nói tổng quát).
3. Tri thức, kiến thức khoa học (nói tổng quát). Ví dụ: Học văn hoá, trình
độ văn hoá...
4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.
5. Nền văn hoá của một thời kỳ cổ xưa được xác định trên cơ sở một tổng thể
những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau. Ví dụ: Văn hoá rìu hai
vai, văn hoá gốm màu, văn hoá Đông Sơn. [44, tr.1079].
Tổng Giám đốc UNESSCO Federico Mayor đưa ra định nghĩa như sau:
“Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Năm 2002, UNESSCO đã đưa ra định nghĩa về “văn hoá”: “Văn hoá nên
35
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” (Tuyên bố chung của Unessco
về “tính đa dạng của văn hoá”).
Tác giả Trần Ngọc Thêm đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội.” [51, tr.10].
Tóm lại, văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm do con người tạo ra.
Và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai loại: phi vật chất của xã hội như: ngôn
ngữ, tư tưởng, giá trị; vật chất như: nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v...
Văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và
xã hội. Và chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá
trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ
chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và
tinh thần mà do con người tạo ra.
1.1.3.2. Ngôn ngữ và văn hóa
Ngôn ngữ vừa là một thành tố văn hoá, vừa là phương tiện để phản ánh,
lưu giữ và phát triển nhiều thành tố văn hoá khác
Đó là ta đang bàn tới mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá. Khi bàn về
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, tác giả Nguyễn Văn Chiến trong cuốn
Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt đã đưa ra “ba định đề cơ bản nghiên
cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá” như sau:
Thứ nhất: Ta nói ngôn ngữ bình đẳng với văn hoá hay độc lập với văn hoá
36
bởi vì cả hai đều là sản phẩm của con người lao động có tư duy (Homo
Sapiens). Đó là những hiện tượng nhân loại (human phenomena). Thế nhưng
ngôn ngữ lại chính là sản phẩm văn hoá của nhân loại giống như tất cả những
sản phẩm văn hoá khác…Ngôn ngữ, nói cho chính xác, là một hiện tượng văn
hoá, nằn trong văn hoá. Văn hoá có ngoại diên lớn, trong khí đó ngôn ngữ có
ngoại diên hẹp hơn, nhưng có những đặc tính nội hàm rộng lớn hơn. Mối quan
hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ là mối quan hệ bao nhau. Giữa chúng có những
chỗ khác nhau, giao nhau và giống nhau.
Thứ hai: Ngôn ngữ là một hiện tượng văn hoá, thuộc phạm trù văn hoá,
cho nên tất cả những gì là đặc tính, thuộc tính của văn hoá cũng đều tương tự
như là đặc tính, thuộc tính của ngôn ngữ và được ẩn chứa trong ngôn ngữ.
Thứ ba: Khác với mọi hiện tượng văn hoá khác, ngôn ngữ là một hiện
tượng văn hoá đặc thù, do chỗ:
1. Ngôn ngữ là một sản phẩm văn hoá nhưng lại đồng thời là phương tiện
ghi nhận các hiện tượng văn hoá khác; là chỗ bảo lưu lâu dài các sự kiện văn
hoá; là công cụ thể hiện các đặc trưng văn hoá cộng đồng;
2. Với chức năng của mình là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con
người, ngôn ngữ trong hoạt động hành chức luôn luôn phải chịu sự chi phối
của hàng loạt các quy tắc giao tiếp văn hoá cộng đồng [16, tr.50 - 53].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về “Từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc
thang cổ truyền trong tiếng Nùng”, xin chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và văn hoá ở các phương diện sau:
- Tên các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng
phần nào thể hiện nếp sống, sinh hoạt và văn hóa con người Nùng ở Lạng Sơn.
- Cách gọi tên bệnh, thuốc thang cổ truyền mang đậm dấu ấn riêng của
người dân tộc Nùng và vùng đất nơi đây.
- Một số phương thuốc còn thể hiện trình độ nhận thức của người Nùng
nơi đây.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ
37
gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau, chúng tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ là cơ sở,
nền tảng của văn hóa. Văn hóa dân tộc không tồn tại ngoài ngôn ngữ. Trong
cuốn “Tiến tới xác lập vốn từ vưng văn hóa Việt”, tác giả Nguyễn Văn Chiến
cho rằng: “Ngôn ngữ lại chính là sản phẩm văn hóa của nhân loại giống như tất
cả những sản phẩm khác… Ngôn ngữ, nói một cách chính xác, là một hiện
tượng văn hóa, nằm trong văn hóa. Văn hóa có ngoại diên lớn, trong khi đó
ngôn ngữ có ngoại diên hẹp hơn, nhưng có những đặc tính nội hàm rộng lớn
hơn. Mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ là mối quan hệ bao nhau. Giữa
chúng có những chỗ khác nhau, giao nhau và giống nhau” [16, tr.51].
Do ngôn ngữ là một hiện tượng văn hóa, thuộc phạm trù văn hóa, cho nên
tất cả những gì là đặc tính, thuộc tính của văn hóa cũng đều tương tự như là đặc
tính thuộc tính của ngôn ngữ và được ẩn chứa trong ngôn ngữ. Mọi cấu trúc
phân tích các đơn vị phạm trù của ngôn ngữ. Nói một cách khác, các sự kiện
ngôn ngữ đều đẳng cấu với các sự kiện văn hóa. Khác với sự kiện văn hóa
khác, ngôn ngữ là một hiện tượng văn hóa đặc thù, bởi: Ngôn ngữ là một sản
phẩm văn hóa nhưng lại đồng thời là phương tiên ghi nhận các hiện tượng văn
hóa khác, là chỗ lưu lâu dài các sự kiện văn hóa; là công cụ thể hiện các đặc
trưng văn hóa cộng đồng. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của
con người. Trong hoạt động hành chức, ngôn ngữ luôn phải chịu sự chi phối
của hàng loạt các quy tắc giao tiếp văn hóa cộng đồng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, mỗi ngôn ngữ, tự thân, đều là sản phẩm
văn hóa cộng đồng. Mỗi một dân tộc đều có sản phẩm văn hóa trong đời sống.
Không những vậy, các dân tộc đều có cách nhìn nhận và thể hiện riêng. Do vậy
có thể hiểu ngôn ngữ là tinh thần văn hóa dân tộc. Từ đó, qua việc tìm hiểu một
ngôn ngữ ta có thể thấy được những nét văn hóa riêng của dân tộc đó. Việc tìm
hiểu “Từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng” của
chúng tôi cũng có phần hướng tới mục đích đó.
1.1.4. Bệnh tật và thuốc thang cổ truyền
1.1.4.1. Bệnh tật
Theo Từ điển tiếng Việt, “bệnh là trạng thái cơ thể hoặc bộ phận cơ thể
38
hoạt động không được bình thường” [44].
Bệnh có thể gặp ở người, động vật hay thực vật. Có nhiều nguyên nhân
sinh ra bệnh nhưng có thể chia thành ba loại chính như sau:
- Bệnh do bản thân cơ thể sinh vật có khuyết tật như di truyền, bẩm sinh
hay rối loạn sinh lí.
- Bệnh do hoàn cảnh sống của sinh vật khắc nghiệt như quá lạnh, quá
nóng, bị ngộ độc, không đủ chất dinh dưỡng.
- Bệnh do sinh vật khác kí sinh.
Trong Y học cổ truyền, nguyên nhân gây ra bệnh là do sự “mất cân bằng
âm dương”. Các nguyên nhân gây ra bệnh gồm mấy loại sau:
- Hoàn cảnh thiên nhiên (khí hậu, địa lý) ảnh hưởng đến con người qua
sáu thứ khí: phong, hàn, thấp, táo, hảo là nguyên nhân gây bệnh bên ngoài.
- Hoàn cảnh xã hội gây ra những rối loạn về tâm lý xã hội qua bảy thứ
tình chí: vui, giận, buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ là nguyên nhân gây bệnh bên trong.
- Các nguyên nhân khác: đàm ẩm, ứ huyết, ăn uống, lao động, sang chấn…
Như vậy, bệnh tật, ốm đau, phát bệnh… là những từ đôi khi được dùng thay
thế lẫn nhau để nói về tình trạng mất cân bằng, không bình thường của cơ thể.
1.1.4.2. Thuốc thang cổ truyền
Theo Từ điển tiếng Việt, “thuốc là chất được chế biến dùng để phòng hoặc
chữa bệnh”, còn “cổ truyền” để chỉ những gì “từ xưa truyền lại, vốn có từ xưa”
[44], ví dụ: nhạc cổ truyền, tổ chức lễ cưới theo phong tục cổ truyền…
Thuốc thang là khái niệm chung. Phương thuốc (còn gọi là “thang thuốc”,
“bài thuốc”) là những bài thuốc chữa các bệnh cụ thể. Vị thuốc là các loại dược
liệu dùng trong từng phương thuốc cụ thể.
Như vậy thì có thể đưa ra một quan niệm chung về “thuốc thang cổ
truyền” như sau: Thuốc thang cổ truyền là những phương thuốc, những vị
thuốc có nguồn gốc từ động vật, thực vật hay khoáng vật dùng để chữa bệnh,
cải thiện sức khỏe, kéo dài tuổi thọ con người, có tự xa xưa, được con người
39
tiếp thu, kế thừa và phát triển.
Các phương thuốc cổ truyền là vốn kinh nghiệm quý báu của hàng nghìn
thế hệ đã trải nghiệm, tích lũy và lưu truyền lại đến ngày nay.
Quy trình xác định một phương thuốc, một vị thuốc được thực hiện
nghiêm ngặt theo một số nguyên tắc nhất định, chẳng hạn các vị thuốc đưa vào
cơ thể phải có thuộc tính thức ăn. Phần lớn, dược liệu được Y cổ truyền lựa
chọn tạo ra thuốc đều xuất phát từ thức ăn hoặc uống được. Có thể nói, những
món ăn dân dã, có mặt hằng ngày trong mỗi bữa ăn đều là dược liệu để chế tạo
thành thuốc. Ngoài ra, còn rất nhiều loài hoa được Y cổ truyền coi là vị thuốc
quý, những con vật được thuần dưỡng từ động vật hoang dã để làm thức ăn
cũng được tuyển chọn để làm dược liệu chế biến thuốc.
Ngoài thức ăn còn phải kể đến số lượng lớn các loại cỏ cây mà các loài vật
thường ăn cũng được phát hiện là những nguyên liệu chế biến thuốc chữa các
bệnh nan y mà đôi khi Tây y không biết đến. Có vô số các loại côn trùng có
mặt trong dược điển của Y cổ truyền. Nguồn dược liệu để chế biến thành thuốc
chữa bệnh gần như là vô tận trong kho tàng việt dược nước ta.
Một phương thuốc có thể gồm một hoặc nhiều vị. Ví dụ bài độc ẩm thang
chỉ có một vị là nhân sâm, bài thuốc chữa viêm gan chỉ có một vị nhân trần…
Những bài thuốc Đông y đều do thầy thuốc hoặc nhân dân dựa theo kinh
nghiệm chữa bệnh ghi lại nên cùng một bệnh ở những nơi khác nhau có bài
thuốc khác nhau. Thông thường, một phương thuốc Đông y gồm 3 phần chính:
- Thuốc chính (chủ dược): là vị thuốc chính nhằm chữa bệnh.
- Thuốc hỗ trợ: để tăng thêm tác dụng của vị thuốc chính.
- Thuốc tùy chứng gia thêm (tá dược): để giải quyết những tác dụng phụ
của thuốc.
Ngoài 3 phần chính trên, còn một số vị thuốc được gọi là “dược sứ” để
giúp dẫn thuốc vào nơi bị bệnh hoặc các vị thuốc để điều hòa các vị thuốc khác
như: cam thảo, gừng tươi, đại táo…
Việc phối hợp các vị thuốc trong một phương thuốc như thế nào để phát
40
huy tác dụng tốt nhất theo ý muốn, được xem là “bí quyết” của thầy thuốc.
Chẳng thế mà cùng một liệu ấy nhưng có nơi được coi là thuốc hay, thuốc tốt,
có nơi thuốc lại không phát huy được hết tác dụng của nó bởi “bí quyết” làm
thuốc của các thầy thuốc không giống nhau.
Đông dược có 5 dạng thuốc cơ bản là:
- Thuốc thang: thuốc cho nước vào, nấu sôi thành nước uống.
- Thuốc hoàn: thuốc tán mịn thành bột, trộn với nước mật hoặc hồ viên
thành hoàn.
- Thuốc tán: thuốc được tán thành bột mịn, dùng uống hoặc bôi ngoài.
- Thuốc cao: thuốc có thể được cô đặc thành cao, có thể chế thành dạng
sirô hay rượu để dễ bảo quản.
- Thuốc đơn: thuốc hoàn hoặc tán, được tinh chế, như các loại: hồi xuân
đơn, tử tuyết đơn….
Trải qua kinh nghiệm lâu dài, hàng nghìn năm, những phương thuốc ít tác
dụng hoặc tác dụng phụ độc hại đều đã bị đào thải, chỉ có những phương thuốc
có tác dụng chữa bệnh thực sự mới tồn tại. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, Đông
dược không những có thể chữa khỏi các bệnh thông thường, các bệnh nan y,
bệnh mãn tính và cả bệnh cấp tính. Chỉ cần sử dụng đúng phương pháp, nhất
định sẽ có kết quả.
Do nhìn nhận con người là một thể thống nhất, khi chữa bệnh, Đông y
không chỉ chú ý đến những triệu chứng, những bệnh lí cụ thể mà tập trung vào
điều chỉnh trạng thái toàn thân, không phải “đau đầu chữa đau đầu, đau chân
chữa đau chân”. Vì coi trọng chỉnh thể nên thường gặp nhiều trường hợp bệnh
nhân chữa một bệnh nhưng lại khỏi một số bệnh liên quan.
Như đã nói ở trên, phần lớn các vị thuốc được sử dụng trong Đông y đều
lành tính, an toàn khi sử dụng, nhiều vị có thể sử dụng trong thời gian dài
không gây ra hiện tượng nhờn thuốc, ít tích lũy độc. Y học ngày càng phát triển
tuy nhiên hiện tượng “bệnh do thuốc” phát sinh do sử dụng thuốc ngày một
41
nhiều. Do đó, thuốc thang cổ truyền vẫn được ưu tiên trong sự lựa chọn của đại
đa số người sử dụng. Do đó, việc nghiên cứu thuốc thang cổ truyền cần được
coi trọng và phát triển.
1.2. NGƯỜI NÙNG VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI NÙNG
Ở VIỆT NAM
1.2.1. Người Nùng và tiếng Nùng
1.2.1.1. Khái quát về người Nùng ở Việt Nam
Dân tộc Nùng đứng hàng thứ 7 về dân số trong 54 dân tộc ở nước ta.
(Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, có 968 800 người)
Người Nùng cư trú ở hai khu vực chính: đông bắc (miền Bắc) và Tây
Nguyên. Gần 80 % tống số dân cư Nùng hiện sinh sống ở các tỉnh miền núi,
trung du miền Bắc, trong đó tập trung ở các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc
Giang, Hà Giang, Thái Nguyên…. Đây có thể xem là địa bàn cư trú truyền thống
của dân tộc Nùng. Gần 14 % cư dân Nùng sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ, trong đó tập trung đông nhất ở Đắk Lắk, Đắc Nông, Lâm Đồng,
Bình Phước. Đây là địa bàn người Nùng di cư đến từ nửa sau thế kỉ XX.
Người Nùng từ các địa phương khác nhau thuộc Quảng Tây di cư vào đến
Việt Nam vào các thời kì khác nhau, hình thành nên các nhóm địa phương
(thường gọi là ngành) Nùng khác nhau: Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng
Quí Rỉn, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Dín, Nùng Xuồng, Nùng Tùng
Xìn, Nùng Khèn Lài, Nùng La Hồi, Nùng Chủ, Nùng Giang, Nùng Vẻn… Ở
Trung Quốc, họ được gọi chung là “người Choang”.
Chính những đặc điểm trên đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa
tinh thần và vật chất của dân tộc Nùng. Có thể nói, môi trường sinh thái cảnh
quan chính là ngọn nguồn cảm hứng tạo nên nền văn hóa riêng, độc đáo, thấm
đẫm chất hiện thực, đồng thời chứa đựng trí tuệ, trí tưởng tượng của những con
người được sinh ra, lớn lên và gắn bó với núi rừng này.
Giống như hầu hết cộng đồng dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam, khi
42
mới bắt đầu định cư dân tộc Nùng cũng lấy nông nghiệp làm nghề chủ yếu, bên
cạnh đó kết hợp với chăn nuôi gia súc. Ngoài ra, người Nùng còn biết làm một
số ngành nghề thủ công như: nhuộm chàm, dệt vải, đúc rèn, đan lát, làm đồ gỗ,
giấy đỏ, làm ngói âm dương...
Người Nùng cư trú ở các tỉnh Đông Bắc nước ta thường sống xen kẽ với
người Tày, phần lớn ở nhà sàn, một số nhà đất làm theo kiểu trình tường hoặc
xây dựng bằng gạch mộc. Ở ven biên giới, trước kia còn có nhà làm theo kiểu
lô cốt, pháo đài và lỗ châu mai để chống giặc cướp.
Người Nùng thường ăn đồ rán, xào, nấu, ít khi luộc. Trong những dịp lễ,
tổ chức ăn mừng thường không thiếu món khau nhục. Còn trong dịp tang ma,
nhất thiết phải có món rau nấu bằng cây chuối non, để tưởng nhớ lại công ơn
sinh thành.
Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản,thường làm bằng vải
thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa, trang trí. Nam giới mặc
áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân cài cúc ở bên
nách và thường chỉ dài quá hông.
Nam nữ dân tộc Nùng được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng hôn nhân lại
do cha mẹ quyết định trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối hay không.
Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, tiền... Số tiền thách cưới càng lớn thì
giá trị cô gái càng được xem là “cao”. Ngày nay, trình độ nhận thức của người
Nùng cao hơn nên những thủ tục rườm rà cũng được cắt bỏ ít nhiều.
Người Nùng thờ cúng tổ tiên là chính, ban thờ đặt ở nơi trang trọng và
được trang hoàng đẹp đẽ. Khác với người Tày, người Nùng chỉ tổ chức sinh
nhật và không cúng giỗ.
Hát sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng
tập thể, thường là đôi nam nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè. Người
ta thường hát với nhau trong những ngày hội, ngày lễ, ngày chợ phiên...
Có thể nói rằng, đất đai, khí hậu ở những nơi cư trú của người Nùng đã tạo
43
nên sự phong phú, đa dạng về động vật và thực vật, hình thành nhiều loại cây
trồng, vật nuôi mang tính nhiệt đới và cả ôn đới. Môi trường tự nhiên như vậy
đã tạo điều kiện cho con người có lối sống dựa vào thiên nhiên, chan hoà với
thiên nhiên. Điều này phản ánh khá rõ trong ngôn ngữ dân tộc Nùng.
Vùng rừng núi là nơi cư trú lâu đời của người Nùng đã cung cấp cho cộng
đồng này nhiều nguồn lợi, từ vật liệu xây nhà cửa cho đến đồ ăn thức uống như
măng tươi, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong…, và trong đó có rất nhiều dược liệu
từ cây cỏ và chim muông thú quý.
1.2.1.2. Một số đặc điểm khái quát của tiếng Nùng
Ngôn ngữ Nùng thuộc nhóm Tày - Thái trung tâm, dòng Tày - Thái, họ
Tai - Ka Đai.
Ở Việt Nam, chưa hình thành một ngôn ngữ Nùng chung, chuẩn mực;
ngôn ngữ Nùng tồn tại dưới dạng ngôn ngữ nói của cư dân các ngành Nùng
như Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Giang, Nùng Lòi, Nùng Xuồng, Nùng Phàn
Slình, Nùng Quí Rỉn…. Nói cách khác, tiếng nói các ngành Nùng nói trên là
những dạng thức tồn tại, những biến thể của ngôn ngữ Nùng ở Việt Nam.
Về mặt lịch sử, tiếng Nùng thực chất là các biến thể của tiếng Choang
Nam - rất gần với Tày. Sự phân hóa giữa Tày (Thổ) và Choang Nam xảy ra vào
thế kỉ XI, khi đường biên giới giữa Đại Việt và Tống được phân định. Sau khi
di cư vào Việt Nam, cư dân các ngành Nùng sinh sống xen lẫn với người Tày,
sự tiếp xúc ngôn ngữ văn hóa giữa Tày và các ngành Nùng diễn ra suốt nhiều
thế kỉ. Do vậy, quan hệ các mặt giữa Tày và Nùng ở nước ta rất khăng khít, sự
ảnh hưởng tác động lẫn nhau giữa ngôn ngữ Tày và Nùng là tất yếu và dễ nhận
thấy. Trong thực tế, rất dễ tìm thấy những điểm chung giữa tiếng Tày và tiếng
Nùng, vì ở nhiều địa phương, cư dân hai dân tộc này vẫn thường giao tiếp và
giao tiếp được với nhau bằng tiếng mẹ đẻ của mình…
Đặc điểm loại hình
Xét về đặc điểm loại hình, tiếng Nùng thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
44
Những đặc trưng đơn lập ở tiếng Nùng được thể hiện cụ thể:
- Về mặt ngữ âm: Tiếng Nùng thuộc loại ngôn ngữ âm tiết tính, thuộc tiểu
loại hình trung. Trong tiếng Nùng, âm tiết có tổ chức chặt chẽ và có vị trí quan
trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Âm tiết gồm một số lượng nhất định thành tố
kết hợp với nhau theo quy tắc nhất định. Âm tiết thường là vỏ của hình vị,
trong nhiều trường hợp là vỏ của từ.
- Về mặt từ vựng: Cũng như các ngôn ngữ đơn lập khác (tiếng Việt,
tiếng Hán..), từ trong tiếng Nùng không có hiện tượng biến đổi hình thái. Ví dụ:
Hằm ngòa, câu hăn mân dú lừn. (Tối qua, tôi thấy nó ở nhà)
Hằm ngòa, mân hăn câu dú lừn. (Tối qua, nó gặp tôi ở nhà).
Ở hai phát ngôn (câu) trên, chúng ta thấy “câu” (tôi), “mân” (nó) có những
chức năng ngữ pháp khác nhau (chủ ngữ, định ngữ). Tuy đảm nhận các nhiệm
vụ ngữ pháp khác nhau và nằm ở vị trí khác nhau, dạng thức “mân” và “câu”
vẫn giữ nguyên hình thức ngữ âm khi tham gia cấu tạo lời nói.
- Về mặt ngữ pháp: Ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp trong Nùng
được biểu thị biểu chủ yếu bằng trật tự từ và hư từ. Ví dụ trong:
tu lăng – cửa sau; lăng tu – sau cửa.
do vị trí của từ “tu” (cửa) thay đổi, nên ý nghĩa của cụm từ cũng thay đổi theo.
Với những đặc điểm cơ bản nói trên, tiếng Nùng có thể được coi là một
ngôn ngữ điển hình cho loại hình đơn lập.
Chữ viết dân tộc Nùng
Người Choang ở Quảng Tây có một thứ chữ truyền thống dựa trên chữ
Hán, tương tự chữ Nôm Nùng ở Việt Nam. Người Choang gọi thứ chữ này là
“chữ sống” (“sinh tự”). Một số học giả Trung Quốc cho rằng chữ Choang được
sử dụng từ thời Đường (618 - 907). Về cấu trúc, chữ Choang có nhiều đặc điểm
tương đồng với chữ Nôm Kinh hay Nôm Nùng. Khi di cư vào Việt Nam, các
nhóm Nùng cũng mang theo các văn bản viết bằng thứ "sinh tự" này. Ở Việt
45
Nam, do sự gần gũi các mặt giữa Tày và Nùng, các nhà sưu tầm, nghiên cứu
không phân biệt rạch ròi giữa chữ Nôm Tày và Nôm Nùng. Chữ Nôm Nùng ra
đời vào khoảng thế kỷ XII, được hoàn chỉnh vào thế kỷ XVIII, còn được gọi là
“Slư nam”. Ở Việt Nam, với chữ viết cổ dựa trên cơ sở chữ Hán (chữ Nôm
Nùng) này, các thế hệ Nùng đã để lại cho ngày nay một kho tàng thư tịch cổ rất
đồ sộ.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhất là từ những năm kháng chiến chống
Pháp, cùng sự phổ biến chữ Quốc ngữ, chữ viết Nùng đã được Latinh hóa.
Chữ viết này trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn trước năm 1961; giai đoạn từ
1961 đến nay.
Đặc điểm chữ viết dân tộc Nùng
Từ thập kỉ 20 của thế kỉ XX, tiếng Nùng đã được ghi bằng cách dùng
Quốc ngữ ghi âm. Cách ghi này còn nhiều tùy tiện, mang tính cá nhân, không
phản ánh được ngữ âm tiếng Nùng.
Năm 1961, chữ Nùng (đúng ra là chữ Tày – Nùng) đã được Chính phủ
chính thức phê chuẩn tại Nghị định 206/CP. Phương án chữ Tày - Nùng (latin
hóa) là loại chữ viết ghi âm trên cơ sở chữ la tinh. Chữ Nùng dùng các chữ cái
và cách ghép vần của hệ chữ la tinh, về cơ bản các quy tắc sử dụng các kí hiệu
và chính tả giống với chữ Quốc ngữ. Chỉ có sự khác biệt (so với chữ Quốc
ngữ): tiếng Nùng có sự tồn tại các phụ âm ngạc hóa như bj, pj, phj, phụ âm sát
bên sl, cần có cách thể hiện các đặc trưng ngữ âm này. Ví dụ:
slư (hổ) trong thành ngữ cậy hang slư tẻm nẳng (ngồi nhờ trên đuôi hổ)
hay kin bặng cạ slư (ăn như là hổ)
pja (cá) trong thành ngữ pja nẩu chang đúc (cá thối từ xương) hay chiêm
pja dằng khương (nhìn cá sắm giỏ)…
Từ đó đến nay, kiểu chữ này được sử dụng rộng rãi trong các văn bản
phát thanh, tài liệu tuyên truyền, văn học nghệ thuật…cho tới ngày nay. Đặc
biệt, chữ này đã được sử dụng trong các tác phẩm sau:
- Hoàng Văn Ma, Mông Kí Slay, Hoàng Văn Sán (2002), Sách học tiếng
46
Tày – Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (2005), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb
Từ điển bách khoa, H.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (2005), Từ điển Việt - Tày - Nùng, Nxb
Từ điển bách khoa, H.
…
Các ví dụ tiếng Nùng trong luận văn này đều được ghi bằng chữ Nùng hệ
la tinh.
1.2.2. Thuốc thang cổ truyền của người Nùng
Người Nùng có khá nhiều nghề như: nghề dệt, nghề mộc, nghề đan lát,
nghề rèn, nghề gốm… Bên cạnh đó, người Nùng còn biết làm thuốc, tự chữa
bệnh cho mình và mọi người. Tuy nhiên, khác với nhiều dân tộc anh em, mặc
dù có nhiều bài thuốc hay, nhiều bài thuốc được coi là kì diệu nhưng nghề
thuốc không được coi là một nghề.
Người Nùng có những bài thuộc được xem là kì diệu, đem lại hiệu quả
ngay tức thời, thậm chí tái sinh, hồi sinh sự sống con người. Ví dụ như người
Nùng ở xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn có bài thuốc chữa rắn
cắn hiệu nghiệm vô cùng. Người bệnh bị rắn cắn có những biểu hiện như: tê bì
vùng bị cắn, sốt, co giật… thầy thuốc vẫn có thể loại bỏ độc ra khỏi cơ thể, cứu
sống người bệnh. Hay người nùng xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng
Sơn lại có bí thuật lạ lùng, bệnh nhân dù rách tí da, đứt gân, vết thương chảy
máu đầm đìa nhưng chỉ cần vài câu thần chú có thể cầm máu trong chốc lát.
Cũng ở xã Chi Lăng, người Nùng còn có những bài thuốc chữa gãy xương hiệu
nghiệm, có những cây thuốc quý thậm chí trong danh sách thảo dược Nhà nước
cũng chưa có. Thuộc tỉnh Lạng Sơn, ở bản Nà Làng, xã Tô Hiệu, huyện Bình
Gia, người Nùng lại có những bài thuốc được coi là thần diệu và thầy thuốc
được mọi người trân kính đặt cho cái tên là ông Mụ khi “nặn” ra con cho các
cặp vợ chồng hiếm muộn…
Khách quan mà nói, bệnh tật và thuốc thang cổ truyền sóng đôi với nhau
47
và không hề xa lạ với bất cứ một ai. Thiên nhiên có xuân hạ thu đông thì con
người sinh ra cũng tuân theo quy luật của tự nhiên đất trời: sinh lão bệnh tử.
Không ai có thể khẳng định mình chưa từng bị bệnh và sẽ không bị bệnh. Có
bệnh ắt phải có một phương thuốc đi kèm và phương thuốc thì chắc chắn để
chữa bệnh gì đó (bao hàm chung cả thuốc chữa bệnh và thuốc bổ). Con người
sinh ra để tồn tại, cũng không thể khác là phải gắn bó với thế giới xung quanh
mình. Trong quá trình tương tác với tự nhiên, trước hết là để duy trì sự sống,
sau đó là nhu cầu làm đẹp, ông cha ta đã để lại cho thế hệ sau những phương
thuốc vô cùng hữu hiệu mà ngày càng được cải biến cho phù hợp và đạt hiệu
quả cao nhất. Ngoài những điểm độc đáo như ẩm thực, trang phục, tín ngưỡng,
chữ viết…, dân tộc Nùng còn có số lượng lớn những phương thuốc dân gian
hữu hiệu, đáng được tôn vinh và lưu truyền.
Trải dài từ Bắc vào Nam, từ vùng Việt Bắc đến Tây Nguyên, dù vị trí địa
lí có khác nhau, điều kiện sinh sống có khác nhau, nhưng ngoài đặc điểm mang
trong mình dòng máu của Cần Slửa Đăm (Người Áo Đen), người Nùng còn
được mọi người yêu thương, trân quý bởi họ luôn sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ,
chăm sóc và cứu giúp mọi người từ những tật nhỏ nhất đến những căn bệnh nan
y, giúp người bệnh hồi sinh sự sống và duy trì giống nòi. Họ biết nhiều bài
thuốc quý, nhiều phương thuốc giá trị nhưng không giữ riêng cho mình mà chia
sẻ để mọi người có cuộc sống tốt hơn. Cho đến nay, chưa có tài liệu chính thức
nào ghi lại chính xác những công trình về các phương thuốc của người Nùng vì
thứ nhất người Nùng không coi đây là một nghề, họ không dùng nó làm
phương tiện để kiếm tiền nên không phát triển rộng rãi, chỉ phục vụ trong chính
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của mình và mọi người xung quanh. Do đó,
nguồn nguyên liệu chế biến thuốc không được trồng nhiều thành thành từng
vườn hay trên nương mà nguồn nguyên liệu chủ yếu được hái lượm quanh nhà
hoặc trên rừng. Thực tế, họ có nhiều bài thuốc, nhiều phương thuốc hay nhưng
không tập trung ở một người mà mỗi người có những bí truyền với một số loại
48
bệnh nhất định. Chẳng thế mà nhiều khi cùng là một phương thuốc nhưng mỗi
thầy thuốc khác nhau có một cách điều trị khác nhau và chắc chắn thời gian và
kết quả điều trị không giống nhau. Do đó, có nhiều bài thuốc được xem là tối
ưu, nhiều thầy thuốc được gọi là “mát tay”.
Có thể nói, những phương thuốc, những bài thuốc không những có ứng
dụng thực tế trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà còn góp phần thể hiện nếp
sống, nét văn hóa độc đáo và riêng biệt của người Nùng, phân biệt với các dân
tộc khác trên đất nước Việt Nam. Đồng thời, qua đó còn góp phần thể hiện
trình độ nhận thức, tri giác mọi sự vật, hiện tượng xung quanh của người Nùng
Lạng Sơn.
1.2.3. Thuốc thang cổ truyền hiện nay ở địa phương nghiên cứu
Như đã nói ở trên, đối tượng nghiên cứu của luận văn được giới hạn ở khu
vực người Nùng xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Cũng giống
như người Nùng các vùng khác, ở đây thuốc không được coi là một nghề vì
người làm thuốc không nhiều, cộng thêm thầy thuốc không đặt nặng vấn đề
kinh tế khi chữa bệnh cho mọi người, nhiều khi chữa miễn phí, người bệnh sau
khi khỏi có thể cảm ơn thầy thuốc bằng tấm lòng, tùy thuộc vào hoàn cảnh và
điều kiện kinh tế của gia đình mình. Có khi, chỉ bằng cân gạo, con gà… Thậm
chí, nhiều trường hợp sau khi chữa còn được thầy thuốc giúp đỡ, cưu mang. Có
nhiều bệnh nhân, sau khi chữa khỏi những căn bệnh nan y lại xin được nhận
thầy thuốc làm cha mẹ nuôi của mình. Ngoài chữa bệnh miễn phí, thầy thuốc
nơi đây còn phổ biến những bài thuốc đơn giản để đồng bào có thể tự chủ động
phòng tránh và chữa các bệnh thông thường cho mình và người thân.
Hầu hết, mọi dược liệu được lựa chọn tạo trong các phương thuốc ở đây
cũng đều xuất phát từ thức ăn và cỏ cây trên rừng. Những món ăn, thức ăn dân
dã có mặt hằng ngày trong mỗi bữa ăn đều là dược liệu để chế tạo thuốc. Bên
cạnh đó, các loài hoa, con vật thuần dưỡng cũng được coi là nguyên liệu làm
nên phương thuốc quý. Có những phương thuốc phổ biến, đại chúng và được
49
nhiều người biết đến nhưng cũng có những phương thuốc đặc biệt, chỉ một vài
người biết công thức, chỉ họ mới sử dụng được nhưng lại vô cùng đặc biệt, đem
lại hiệu quả bất ngờ trong thời gian ngắn. Dù là thuốc bổ, thuốc điều trị bệnh
đến thuốc cấp cứu người bệnh ngay tức thời đều được người dân chú ý lưu
truyền và phát triển để nó đến gần hơn và dễ dàng sử dụng hơn với người bệnh.
Theo ghi nhận, ở địa phương đang nghiên cứu cũng có số lượng lớn các
bài thuốc, các phương thuốc chữa được các bệnh, từ ngoài da đến xương khớp,
lục phủ ngũ tạng… Tuy nhiên, sự khác biệt có lẽ là ở cách gọi tên, thành phần
và tỉ lệ dược liệu để tạo thành một bài thuốc chữa bệnh so với các vùng và các
dân tộc khác.
1.3. TIỂU KẾT
Để tìm hiểu đặc điểm về cấu tạo và ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ bệnh tật
và thuốc thang cổ truyền tiếng Nùng, cần xác định các vấn đề lí thuyết có liên
quan đến đề tài, như: một số khái niệm và quan niệm như: hình vị, từ, ngữ,
nghĩa, trường nghĩa; mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, bệnh tật và thuốc
thang cổ truyền… Có thể thấy, muốn tìm hiểu văn hóa của một tộc người,
không thể không quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ, hay nói cách khác, qua ngôn
ngữ ta sẽ phần nào hiểu được văn hóa của cộng đồng đó.
Đồng thời, cũng cần được giới thiệu khái quát những tri thức tối thiểu về
người Nùng và thuốc thang cổ truyền của người Nùng (ở Việt Nam và địa
phương đang nghiên cứu: xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.),
tiếng Nùng (nguồn gốc, đặc điểm loại hình, chữ viết…). Qua tìm hiểu, có thể
bước đầu nhận xét: Người Nùng có nhiều nét độc đáo trong vốn văn hóa cổ
truyền, trong đó làm thuốc có thể xem là một nghề quan trọng (dù người Nùng
không xem đây là một nghề chính thống). Có thể nhận xét chung: cách làm
thuốc thang đã góp phần tạo nên nét đặc sắc trong văn hóa Nùng cũng như
mang lại những đóng góp vào lĩnh vực Y học nước nhà, vừa mang ích lợi thực
50
tế trong đời sống vừa có giá trị nhân văn sâu sắc.
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỆNH TẬT
VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG
2.1. KHÁI QUÁT VỀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Tìm hiểu về từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng
Nùng, kết quả khảo sát như sau:
Bảng 2.1: Từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền
trong tiếng Nùng xét về hình thức
Ví dụ Số lượng Tỉ lệ
Từ ngữ có hình thức đơn âm tiết lảu, mai, phjẻo, 20 2,7%
slăn, tận…
Từ ngữ có Từ ngữ hai âm tiết baư mjàu, cáng 230 30,9%
hình thức đa moọn,…
âm tiết Từ ngữ ba âm tiết baư đúc lình, 362 48,6%
sâm kha cáy,…
119 15,9% Từ ngữ bốn âm tiết baư mác phất
phja, phi pác
cắm bấc,…
14 1,9% Từ ngữ năm âm tiết cáng hồng bối
quế ngủ, héo
hăn tằng dìn
kheo,…
745 100% Tổng số
Nhận xét về kết quả khảo sát:
Qua số liệu trên có thể thấy, từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền
51
trong tiếng Nùng chủ yếu là từ có hình thức đa âm tiết (725 đơn vị, chiếm
97,3%); đơn âm tiết chiếm số lượng nhỏ (20 đơn vị, chiếm 2,7%). Trong số đa
âm tiết, từ ngữ ba âm tiết chiếm số lượng lớn nhất (362 đơn vị, chiếm 48,6%),
tiếp theo là từ ngữ hai âm tiết (230 đơn vị, chiếm 30,9%), sau là từ ngữ bốn âm
tiết (119 đơn vị, chiếm 15,9%), cuối cùng là từ ngữ năm âm tiết (14 đơn vị,
chiếm 1,9%). Đặc điểm cấu tạo của các nhóm từ ngữ này được thể hiện cụ thể
ở phần tiếp theo.
2.2. CÁC TÙ NGỮ CÓ HÌNH THỨC ĐƠN ÂM TIẾT
Theo kết quả khảo sát, từ ngữ đơn âm tiết có số lượng là 20 đơn vị chiếm
2,7%. Ví dụ:
Bảng 2.2: Các từ ngữ đơn âm tiết chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền
trong tiếng Nùng
STT Ví dụ Nghĩa
1 búng phù
2 cài rặm người
3 chác hắc lào
4 chjóc hói
5 cư muối
6 đẳn ngứa
7 fát sốt
8 khinh gừng
9 khít ghẻ
10 làn bỏng
12 lảu rượu
12 mai chàm
13 phjẻo sẹo
14 slăn hắt hơi
52
15 tận nôn mửa,...
Qua số liệu và ví dụ trên, có thể nhận thấy để chỉ bệnh tật và thuốc thang
cổ truyền, trong tiếng Nùng chỉ sử dụng số lượng nhỏ từ ngữ đơn âm tiết. Điều
này cũng dễ hiểu vì từ đơn âm tiết chưa miêu tả hết được đặc điểm, trạng thái
của bệnh, cũng như tính chất, thành phần của thuốc.
2.3. CÁC TỪ NGỮ CÓ HÌNH THỨC ĐA ÂM TIẾT
2.3.1. Các từ ngữ có hình thức hai âm tiết
Trong các từ ngữ chỉ bệnh tật và phương thuốc dân gian, từ ngữ hai âm
tiết chiếm số lượng không nhỏ, chỉ đứng sau từ ngữ ba âm tiết. Chúng gồm 230
đơn vị, chiếm 30,9%. Ví dụ:
Bảng 2.3: Các từ ngữ hai âm tiết
Ví dụ Nghĩa
53
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 bả mu bjoóc tào cáng moọn cảu tích chỉ slo dù ngà đúc slư giàu khao khau cườm khau tóm khinh đăm kho khoót khỏ sliu kho tao múc mẳn múc quẳn oóc lựt pót chấp tận lựt thúc lầm động kinh hoa đào cành dâu tằm Cóc tía tía tô dầu vừng xương hổ củ nâu trắng cam thảo dây tiết dê nghệ đen co giật khó tiêu chuột rút kiết lị cồn ruột thổ huyết đau phổi hộc máu cảm gió,...
Từ ngữ hai âm tiết có thể xuất hiện ở các dạng sau:
Dạng 1: Từ ngữ hai âm tiết gồm 1 yếu tố chính và một yếu tố phụ, yếu tố
phụ bổ sung nghĩa cho yếu tố chính. Có thể mô hình hóa mối quan hệ này bằng
sơ đồ sau:
C P
Ví dụ:
baư mjàu (lá - trầu lá trầu) =
baư pán (lá – gai lá gai) =
bjoóc lương (hoa – vàng sài đất) =
bjoóc phjức (hoa - trắng hoa lá phiếu) =
cáng moọn (cành – dâu cành dâu tằm) =
đảng toót (lạnh - buốt lạnh cóng) =
khảu nu (gạo - chuột gạo nếp) =
khát mừ (đứt – tay đứt tay) =
khửn teng (lên – đinh lên đinh) =
ma khấp (chó - cắn chó cắn) =
nam pà (gai – cào gai cào) =
năng đẳn (da - ngứa ngứa ngoài da) =
tó đoót (ong - đốt ong đốt) =
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng nhiều nhất trong nhóm từ ngữ hai âm
54
tiết: 196 đơn vị, chiếm 26,3% trong tổng số từ ngữ khảo sát được.
Dạng 2: Từ ngữ có hình thức hai âm tiết trong đó hai yếu tố kết hợp với
nhau một cách ngẫu nhiên, không theo quan hệ ngữ âm như từ láy cũng như
quan hệ ngữ nghĩa như từ ghép. Các từ ngữ này có thể xuất hiện do cách gọi
tên từ xa xưa của đồng bào nơi đây, giờ không thể xác định được nghĩa các yếu
tố và quan hệ giữa chúng. Ví dụ:
cá lá (su hào)
càng pa (quai bị)
cảu tích (cóc tía)
(tía tô) chỉ slo
(chuột rút) kho tao
loẹt mình (cầm hơi
…
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng ít hơn dạng 1. Từ ngữ thuộc dạng 2
gồm 34 đơn vị, chiếm 4,6% trong tổng số từ ngữ tìm được.
2.3.2. Các từ ngữ có hình thức ba âm tiết
Trong các từ ngữ chỉ bệnh tật và phương thuốc dân gian, từ ngữ ba âm tiết
chiếm số lượng lớn nhất (362 từ, chiếm 48,6%). Ví dụ:
Bảng 2.4: Các từ ngữ ba âm tiết
STT Ví dụ Nghĩa
1 baư đúc lình lá xương khỉ
2 baư xu nu lá tai chuột
3 bjoóc baư khao hoa lá trắng
4 cáng phjắc pát thân lá lốt
5 chấp toọng khỉ đau dạ dày
55
6 đúc đỉ lầm lạnh bụng
7 nả kheo meng mặt xám ngắt
8 năng khao xac da trắng bệch
9 năng nự mại da dẻ nhợt nhạt
phjâm lưng đeng tóc vàng hoe 10
11 phjum dủng dẳng tóc rối
12 pước mác chỉ vỏ quýt
13 sâm mạc cần sâm hình người
14 slâm tàu ón suy tim
15 tha phục xác mắt trắng rã
16 thúa páp đèng đậu ván đỏ
17 toọng chấp hưng đau dạ dày mãn tính
18 toọng khỉ mu dạ dày lợn
19 toọng pảng lung bụng phình to
20 xưng cầu pót,... viêm phổi,...
Từ ngữ ba âm tiết có thể xuất hiện ở các dạng sau:
Dạng 1: Từ ngữ ba âm tiết gồm một yếu tố bậc 1 (ký hiệu là C), một yếu
tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P). Yếu tố phụ bậc 1 lại chia thành một thành tố chính
(bậc 2) (ký hiệu là c) và một thành tố phụ (bậc 2) (ký hiệu là p). Có thể mô hình
hóa mối quan hệ của các thành tố C, P, c và p bằng sơ đồ sau:
C P (c p)
Ví dụ:
bát phéc noong (nhọt - vỡ - mủ = nhọt vỡ mủ)
baư đúc lình (lá – xương – khỉ = lá xương khỉ)
baư hồng phja (lá – hồng – núi = lá hồng rừng)
cáng coóc bẻ (cành - sừng – dê = cành thảo quyết minh)
56
chấp càm khẻo (đau - hàm – răng = hàm răng đau nhức)
chấp coóc tha (đau – góc - mắt = đau khóe mắt
nả kheo meng (mặt – xanh – ngắt = mặt xám ngắt)
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng nhiều nhất trong nhóm từ ngữ ba âm
tiết: 190 đơn vị, chiếm 25,5% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 2: Từ ngữ có ba âm tiết gồm một yếu tố chính (ký hiệu là C), 1 yếu
tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P) và một yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p). Hai yếu tố này
có mối quan hệ bình đẳng, bổ sung cho nhau và cùng bổ sung cho yếu tố chính.
Có thể mô hình hóa mối quan hệ của các yếu tố C, P và p bằng sơ đồ sau:
C P – p
Ví dụ:
baư bại trận (lá – bại trận lá răng cưa) =
baư bẩu mạt (lá - bẩu mạt lá mạt tiêu) =
baư hò pinh (lá – hò pinh lá thóc lép) =
baư phằn cứ (lá – phằn cứ lá răng bừa) =
bjoóc chăng ma (hoa – chăng ma = hoa hối hạt)
nự slỉnh slim (thịt - nhạy cảm = da nhạy cảm)
tha slẳm rộp (mắt – kèm nhèm = mắt kèm nhèm)
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng khá lớn trong nhóm từ ngữ ba âm tiết:
132 đơn vị, chiếm 17,2% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 3: Từ ngữ ba âm tiết gồm một yếu tố chính bậc 1 (ký hiệu là C),
yếu tố chính bậc 1 lại chia thành một yếu tố chính bậc 2 (ký hiệu là c) và một
yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p). Yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P) bổ sung cho yếu
tố chính bậc 1. Có thể mô hình hóa mối quan hệ của các yếu tố C, P và p bằng
57
sơ đồ sau:
C (c – p) P
Ví dụ:
kèng kha nái (cẳng - chân - mỏi = mỏi cẳng chân)
kèng kha tắc (cẳng - chân gẫy = cẳng chân bị gãy)
khẻo slút hòn (răng - khôn – lung lay = răng khôn lung lay)
khẻo vài mèng (răng - hàm – sâu sâu răng hàm) =
lục pút fàng (con - ngươi - mờ đục thủy tinh thể) =
mèng đeng đoót (muỗi – đỏ - đốt bọ đỏ cắn) =
ngù kheo khấp (rắn – xanh – cắn rắn xanh cắn) =
ngù nặm khấp (rắn – nước – cắn rắn nước cắn) =
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng không nhiều trong nhóm từ ngữ ba âm
tiết: 23 đơn vị, chiếm 3,1% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 4: Từ ngữ có ba âm tiết gồm một yếu tố chính bậc 1 (ký hiệu là C),
yếu tố chính bậc 1 lại chia thành hai yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p1 và p2) Hai
yếu tố phụ này có mối quan hệ bình đẳng, bổ sung cho nhau và tạo thành nét
nghĩa cho yếu tố chính. Yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P) bổ sung cho yếu tố
chính bậc 1. Có thể mô hình hóa mối quan hệ của các yếu tố C, P và p bằng sơ
đồ sau:
C (p1 – p2) P
Ví dụ:
đi slat ngù (nọc - rắn = nọc rắn)
dìn kheo caư (tĩnh mạch – sưng = giãn tĩnh mạch)
đúc đỉ lầm (rốn - lạnh = lạnh bụng)
mèng xung slảy (nhiễm trùng - ruột = nhiễm trùng đường ruột)
ngài mùi mừ (liệt – tay = liệt tay)
58
xưng cầu pót (viêm - phổi = viêm phổi)
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng không nhiều trong nhóm từ ngữ ba âm
tiết: 10 đơn vị, chiếm 1,3% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 5: Từ ngữ ba âm tiết không thuộc một trong bốn dạng trên được xếp
vào dạng 5: dạng đặc biệt. Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng ít nhất trong
nhóm từ ngữ ba âm tiết: 7 đơn vị, chiếm 0,9% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng này bao gồm các từ ngữ sau:
dăm chúng nam (giẫm – vào – gai giẫm phải gai) =
hua pền loản (đầu – thành - mảng = chốc đầu)
kheng thủn càng (cứng - cả - hàm = cứng hàm)
mì khảu slan (có – sán = nhiễm sán)
mí noòn đảy (không - ngủ - được = mất ngủ)
...
2.3.3. Các từ ngữ có hình thức bốn âm tiết
Trong các từ ngữ chỉ bệnh tật và phương thuốc dân gian, từ ngữ bốn âm
tiết chiếm số lượng khá lớn (119 từ, chiếm 16,1%), Ví dụ:
Bảng 2.5: Các từ ngữ bốn âm tiết
STT Ví dụ Nghĩa
ay khặc ay khẹp 1 ho gà
baư mác làng cây 2 lá rành rành
baư mác mặt rườn 3 lá hồng bì
baư mác nát vài 4 lá mua đỏ
baư mác pẻo khô 5 lá chỉ xác
bjoóc bàn tay ma 6 hoa bàn tay ma
bjoóc cảu ngàu lực 7 hoa khúc khắc
cáng chạ khảu cắm 8 cành dạ cẩm dại
9 chấp slương shai dần chấn thương thần kinh
59
10 chấp thủn đúc đang mỏi xương mỏi tủy
11 kha mừ kho ngoóng tay chân co quắp
12 khau mác ít cáy dây nho dại
13 kheng mừ kheng kha tay chân cứng đờ
14 mí ngòi đảy quay cận thị
15 mừ kha cắt chích chân tay lạnh ngắt
16 nái thủn đúc đang mỏi xương mỏi cốt
17 ngai mùi mừ kha liệt cả chân cả tay
18 pót tâừ nhả toọc phổi nhiễm độc
19 tắc đúc pi kha gẫy xương đùi
Từ ngữ bốn âm tiết có thể xuất hiện ở các dạng sau:
20 xưng cầu tắp slảy,... viêm gan,...
Dạng 1: Từ ngữ có bốn âm tiết gồm 1 yếu tố chính (ký hiệu là C), một
yếu tố bậc 1 (ký hiệu là P) và hai yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p1 – p2). Hai yếu
tố p1, p2 thường có quan hệ bình đẳng với nhau. Chúng có vai trò làm rõ nghĩa
cho cả hai yếu tố C – P hoặc chỉ làm rõ nghĩa cho yếu tố phụ 1 (P). Có thể mô
hình hóa mối quan hệ của các thành tố C, P, p1 và p2 bằng sơ đồ sau:
C P - p1 – p2
Ví dụ:
baư chạ khảu cắm (lá – cây - gạo - tím = lá dạ cẩm dại)
baư chạ khau khao (lá - cây - dây - trắng = lá cẩm trắng)
baư mác phất phja (lá – quả - ớt – núi = lá ớt rừng)
bjoóc phjắc liếp đông (hoa - rau - liếp - rừng = hoa bồ công anh)
bjoóc phjắc van phja (hoa – rau – ngót - núi = hoa rau ngót rừng)
chấp đíp phả mừ (đau – lòng – bàn – tay = đau lòng bàn tay)
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng tương đối nhiều trong nhóm từ ngữ
60
bốn âm tiết: 53 đơn vị, chiếm 7,1% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 2: Từ ngữ bốn âm tiết gồm 1 yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu tố
bậc 1 (ký hiệu là P), yếu tố phụ bậc 1 gồm ba hình vị kết hợp với nhau một
cách ngẫu nhiên, không dựa theo quan hệ ngữ âm như từ láy cũng như quan hệ
ngữ nghĩa như từ ghép. Các từ này có thể xuất hiện do cách gọi tên từ xưa của
đồng bào nơi đây, giờ mối quan hệ giữa các yếu tố không còn rõ nữa. Có thể
mô hình hóa mối quan hệ của các yếu tố C, p1, p2 và p3 bằng sơ đồ sau:
C P(p1 - p2 – p3)
Ví dụ:
baư bàn tay ma (lá - bàn tay ma)
baư cảu ngàu lực (lá - khúc khắc)
baư loỏng phù chăm (lá - xuyên tiêu)
baư mận tà là (lá - cà độc dược)
cáng pòng pì đeng (cành - xích đồng nam)
cáng mác pẻo khô (cành - chỉ xác)
cáng tỏng kìm vài (cành - gối hạc trâu)
cáng toong chính đèng (cành - dong đỏ)
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng không nhiều trong nhóm từ ngữ bốn
âm tiết: 30 đơn vị, chiếm 4% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 3: Từ ngữ bốn âm tiết gồm 1 yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu tố
bậc 1 (ký hiệu là P), ) và hai yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p1 – p2). Hai yếu tố P
và p1 có quan hệ bình đẳng với nhau. Chúng có vai trò làm rõ nghĩa cho yếu tố
C. Yếu tố phụ bậc 2 p2 bổ sung, làm rõ nghĩa cho ba yếu tố C, P và p1. Có thể
mô hình hóa mối quan hệ của các yếu tố C, P, p1 và p2 bằng sơ đồ sau:
61
C P - p1 – p2
Ví dụ:
ngù cáp tan khấp (rắn - cạp nia - cắn rắn cạp nia cắn) =
ngù khẳng khiếp khấp (rắn - rết – cắn rắn rết cắn) =
ngù khoóp đúng khấp (rắn - cạp nong - cắn = rắn cạp nong cắn)
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng ít trong nhóm từ ngữ bốn âm tiết: 3
đơn vị, chiếm 0,4% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 4: Từ ngữ bốn âm tiết gồm 1 yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu tố
bậc 1 (ký hiệu là P), ) và hai yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p1 – p2). Hai yếu tố P
và p1 có quan hệ bình đẳng với nhau. Chúng có vai trò làm rõ nghĩa cho yếu tố
C. Yếu tố phụ bậc 2 p2 bổ sung, làm rõ nghĩa cho ba yếu tố C, P và p1. Có thể
mô hình hóa mối quan hệ của các thành tố C, P, p1 và p2 bằng sơ đồ sau:
C P - p1 – p2
Ví dụ:
chấp kỹ shai dần (đau – dây - thần kinh = đau dây thần kinh)
mừ kha cản rạt tay (chân tay - gân guốc tay chân gân guốc) =
ngai mùi mừ kha (liệt - chân tay liệt cả chân tay) =
pi nự đẳn chíp (da thịt - ngứa đau viêm cơ địa) =
slúc noong slai hò (viêm phế quản viêm phế quản) =
xưng cầu shai hò (viêm họng viêm họng) =
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng không nhiêu trong nhóm từ ngữ bốn
âm tiết: 28 đơn vị, chiếm 3,8% trong tổng số từ ngữ tìm được.
2.3.4. Các từ ngữ có hình thức năm âm tiết
Trong các từ ngữ chỉ bệnh tật và phương thuốc dân gian, từ ngữ năm âm
62
tiết chiếm số lượng nhỏ (14 đơn vị, chiếm 1,9%), Ví dụ:
Bảng 2.6: Các từ ngữ năm âm tiết
STT Ví dụ Nghĩa
1 baư hồng bối quế ngủ lá đơn nước
2 cáng hồng bối quế ngủ lá đơn nước
3 chấp đỉu dú phả kha đau nhói gan bàn chân
4 chấp hu toỏng óc áy đau đầu nhức óc
5 chấp mí khay tha đảy đau không mở được mắt
6 héo hăn tằng dìn kheo gầy nổi gân xanh
7 khửn coỏng dú tha sla mọc lẹo ở mắt phải
8 khửn coỏng dú tha slại mọc lẹo ở mắt trái
9 mèng kèng nèo khảu tha bọ xít đái vào mắt
10 tắp slảy taư dả tooc gan nhiễm độc
11 tha quan noòn mí đảy mắt hõm vì ngủ không được
12 ti chấp lư oóc quảng vết thương lở
13 toọng pảng củn khỉ slot bụng ỏng đít beo
Từ ngữ năm âm tiết có thể xuất hiện ở các dạng sau:
14 xưng cầu lo thư cẩu,... viêm nhiễm đường hô hấp,...
Dạng 1: Từ ngữ năm âm tiết gồm 1 yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu
tố bậc 1 (ký hiệu là P), yếu tố phụ bậc 1 gồm bốn yếu tố kết hợp với nhau ngẫu
nhiên, không dựa theo quan hệ ngữ âm như từ láy cũng như quan hệ ngữ nghĩa
như từ ghép. Có thể mô hình hóa mối quan hệ của các thành tố C, p1, p2, p3 và
p4 bằng sơ đồ sau:
C P(p1 - p2 – p3 – p4
Ví dụ
baư hồng bối quế ngủ (lá – hồng bối quế ngủ lá đơn nước) =
63
cáng hồng bối quế ngủ (cành – hồng bối quế ngủ cành đơn nước) =
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng ít nhất trong nhóm từ ngữ năm âm tiết:
2 đơn vị, chiếm 0,3% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Dạng 2: Từ ngữ năm âm tiết nhưng không thuộc dạng 1 mà có cấu tạo
phức tạp hơn:
Động từ + Danh từ
Ví dụ:
chấp hu toỏng óc áy (đau đầu nhức óc = đau đầu nhức óc
tha quan noòn mí đảy (mắt sâu không ngủ được = mắt sâu vì ngủ không được
chấp đỉu dú phả kha (đau nóng ở gan bàn chân = đau nhói gan bàn chân
chấp mí khay tha đảy (đau không mở được = đau không mở được mắt
héo hăn tằng dìn kheo (gầy thấy gân xanh = gầy nổi gân xanh
khửn coỏng dú tha sla (mọc lẹo ở mắt phải = lên lẹo ở mắt phải
xưng cầu lo thư cẩu (viêm nhiễm đường thở = viêm nhiễm đường hô hấp
...
Danh từ + Động từ
Ví dụ:
mèng kèng nèo khảu tha (bọ xít đái vào mắt bọ xít đái vào mắt) =
tắp slảy taư dả tooc (gan nhiễm độc gan nhiễm độc) =
ti chấp lư oóc quảng (chỗ đau lan ra rộng vết thương lở) =
toọng pảng quẩn khỉ sláy (bụng to đít nhỏ bụng ỏng đít beo) =
...
Từ ngữ thuộc dạng này chiếm số lượng nhiều hơn dạng 1 trong nhóm từ ngữ
năm âm tiết: 12 đơn vị, chiếm 1,6% trong tổng số từ ngữ tìm được.
Qua khảo sát, có thể thấy từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền
trong tiếng Nùng hình thức khá phong phú và đa dạng: có thể là từ đơn âm tiết
hoặc từ đa âm tiết (trong từ đa âm tiết lại gồm từ hai âm tiết, ba âm tiết, bốn âm
tiết hoặc năm âm tiết). Tính chất phong phú này giúp chỉ rõ tên bệnh, tên thuốc
64
với những khu biệt, cụ thể hóa loại bệnh hoặc chỉ ra thành phần của thuốc.
2.4. TIỂU KẾT
Để gọi tên bệnh tật và thuốc thang cổ truyền, trong tiếng Nùng đã có
những từ ngữ với hình thức khá đa dạng.
Các từ ngữ đơn âm tiết chiếm số lượng nhỏ (20 đơn vị chiếm 2,7%), đây
là những đơn vị từ vựng thường găp trong đời sống dân tộc Nùng. Từ những
đơn vị cơ bản này, người Nùng đã tạo nên các đơn vị định danh phức bằng cách
ghép chúng với những yếu tố phụ nghĩa đứng sau đó. Trên thực tế, các từ ngữ
đa âm tiết chiếm số lượng lớn (725 đơn vị, chiếm 97,3%), so với đơn tiết. Từ
ngữ đa âm tiết khá phong phú, bao gồm hai âm tiết, ba âm tiết, bốn âm tiết và
năm âm tiết. Trong đó, từ ngữ ba âm tiết chiếm số lượng lớn hơn cả (362 đơn
vị), từ ngữ có cấu tạo hai âm tiết chiếm số lượng tương đối lớn (230 đơn vị). Từ
ngữ bốn âm tiết chiếm số lượng ít hơn (119 đơn vị). Cuối cùng là các từ ngữ
năm âm tiết (14 đơn vị). Có thể thấy cách tạo nên các đơn vị định danh phức
hai và ba âm tiết là cách người Nùng quen dùng, để gọi bệnh tật và thuốc thang
trong đời sống.
Ngoài ra, trong từng nhóm nói trên, lại có thể nhận thấy các từ ngữ được
cấu tạo theo các mô hình khác nhau, khá đa dạng. Những dạng khác nhau này ít
nhiều cho thấy sự tỉ mỉ trong cách chẩn đoán bệnh và sự kĩ càng trong khi pha
65
chế các bài thuốc của người Nùng.
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỆNH TẬT
VÀ THUỐC THANG CỔ TRUYỀN TRONG TIẾNG NÙNG
3.1. KHÁI QUÁT VỀ SỰ PHÂN LOẠI
Kết quả khảo sát với 299 từ ngữ chỉ bệnh tật và 446 từ ngữ chỉ thuốc
thang cổ truyền cho thấy các từ ngữ chỉ bệnh tật xuất hiện với mật độ không
quá cao so với thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng. Điều đó nói lên rằng
một số bệnh tật có thể có nhiều phương thuốc chữa, và một phương thuốc có
thể gồm nhiều vị thuốc. Các đợn vị từ có tần số cao hầu hết là các danh từ và
danh ngữ; các động từ, tính từ và động ngữ, tính ngữ chiếm số lượng nhỏ. Các
danh từ và danh ngữ chủ yếu là tên những loài thực vật vốn gần gũi và quen
thuộc với cuộc sống của người Nùng. Những động từ, tính từ và động ngữ, tính
ngữ chủ yếu chỉ triệu chứng, đặc điểm của mỗi loại bệnh và thuốc thang.
Luận văn này không đi sâu vào nghiên cứu bệnh tật cũng như thuốc thang
cổ truyền ở phương diện Y học mà xem xét và nghiên cứu ở góc độ ngôn ngữ,
“bệnh tật” và “thuốc thang cổ truyền” như một yếu tố của ngôn ngữ do đó dựa
vào đặc điểm ngữ nghĩa có thể phân loại thành hai loại lớn:
- các từ ngữ chỉ bệnh tật, và:
- các từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền.
Trong mỗi loại trên lại có thể phân thành các loại nhỏ hơn (tiểu loại).
Song song với các loại bệnh là các phương thuốc. Mỗi phương thuốc có
những vị thuốc và công thức kết hợp khác nhau. Với 446 từ ngữ chỉ thuốc
thang cổ truyền, có thể chia ra thành hai nhóm nhỏ hơn: từ ngữ chỉ thuốc chữa
bệnh và từ ngữ chỉ thuốc bổ, như sẽ được trình bày cụ thể ở phần tiếp theo.
3.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ BỆNH TẬT
3.2.1. Có thể hình dung sự phân loại nhỏ và số lượng từng tiểu loại các từ ngữ
66
chỉ bệnh tật qua bảng sau:
Từ ngữ chỉ
Từ ngữ chỉ bệnh nội thương
Tổng
bệnh ngoại thương
Từ ngữ chỉ các
Từ ngữ chỉ các bệnh
Từ ngữ chỉ các
Từ ngữ chỉ các bệnh
Từ ngữ chỉ các bệnh về
Từ ngữ chỉ các bệnh về
phần mềm
thần kinh
xương khớp
bệnh về ngũ quan
bệnh về lục phủ
về ngũ tạng
Tổng số
49
100
43
30
28
49
299
Tỉ lệ %
16,4
33,4
14,4
10,0
9,4
16,4
100
Bảng 3.1: Từ ngữ chỉ bệnh tật trong tiếng Nùng xét về ngữ nghĩa
Nhận xét về kết quả khảo sát:
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy nhóm từ ngữ chỉ bệnh phần mềm
chiếm con số cao hơn cả (100 đơn vị), sau đó là từ ngữ chỉ bệnh về ngũ quan và
các bệnh về xương khớp (49 đơn vị), từ ngữ chỉ các bệnh còn lại chiếm số
lượng ít hơn như: các bệnh về lục phủ (43 đơn vị), các bệnh về ngũ tạng (30 từ
ngữ), các bệnh về thần kinh (28 đơn vị). Các số liệu trên đã phần nào phản ánh
rất chân thực tình trạng sức khỏe và đời sống của người Nùng. Địa phương
khảo sát thuộc khu vực rừng núi, nơi có nhiều động vật nguy hiểm sinh sống
như: rắn độc, rết, ruồi, muỗi... địa bàn sinh sống thuộc vùng nông thôn, đời
sống còn nhiều khó khăn, những thông tin cũng như những công tác về y tế,
chăm sóc sức khỏe chưa được cập nhật thường xuyên, liên tục dẫn đến tình
trạng vệ sinh môi trường chưa chính xác, dễ gây nên các bệnh về phần mềm và
ngũ quan như truyền nhiễm, ngoài da... Thuộc khu vực rừng núi, nhiều nơi địa
thế khó khăn, hiểm trở, cuộc sống đồng bào nơi đây gắn liền với việc lên nương
rẫy và lên rừng. Trong quá trình sinh hoạt, chỉ sơ xuất nhỏ cũng có thể gây ra
các tai nạn về phần mềm xương khớp như gẫy tay, gẫy chân, trầy da, chảy
máu...Tình trạng vệ sinh không thật tốt có thể gây nên các bệnh về ngũ quan
như đau mắt, thối tai, viêm mũi… Những con số này chắc chắn đã là một trong
67
những quan tâm hàng đầu của các thầy thuốc ở Tràng Phái.
3.2.1. Từ ngữ chỉ các bệnh ngoại thương
3.2.1.1. Từ ngữ chỉ các bệnh về ngũ quan
Ngũ quan là năm bộ phận làm cửa đưa ngoại chất, ngoại vật, hình sắc và
âm thanh của ngoại cảnh vào con người để cung cấp nguyên liệu cho hoạt động
sống, cung cấp thông tin cho nhận thức của con người. Như: mũi đưa khí sạch
vào phổi, thải khí độc ra ngoài cơ thể, miệng đưa đồ ăn, nước uống vào để tỳ vị
chế biến thành huyết, thành tân dịch nuôi sống cơ thể con người. Mắt đưa màu
sắc, hình ảnh vào; tai đưa âm thanh vào, chúng cung cấp thông tin để làm thành
nhận thức của con người. Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân con người khi tiếp xúc với
mọi sự vật hiện tượng sinh ra: sắc, thanh, hương, vị, xúc đã làm thành 5 thức là:
nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức và thân thức.
Do 5 cửa này trực tiếp với môi trường sống bên ngoài nên rất dễ bị bụi,
khói, hơi độc, dị vật, ánh sáng mạnh, độ nóng cao, độ lạnh lớn, tiếng ồn to và
những biến cố bất thường về khí hậu, về mức sống vật chất, về đời sống tinh
thần đều có thể làm cho năm cửa bị tổn thương hay gây bệnh. Khi các cửa này
có bệnh, nhẹ thì gây ra đau đớn, vướng bận khó chịu (dân gian nói: “thứ nhất
đau mắt, thứ nhì giắt răng”), nặng thì gây mất chức năng phục vụ cuộc sống.
Hay gặp nhất có lẽ là bệnh về đường tiêu hóa, tức là từ cửa miệng. Miệng
có sẵn mầm bệnh, ăn uống không đầy đủ và hợp vệ sinh, không điều độ, ăn
không đúng lúc và đúng món hợp với tình trạng sức khỏe đều là nguyên nhân
gây bệnh (dân gian nói: “bệnh từ mồm mà vào”…)….
Từ ngữ xuất hiện trong nhóm bệnh ngũ quan khá phong phú. Có thể kể
một số ví dụ như:
càng chấp (cằm – đau = đau cằm)
chấp coóc tha (đau – góc – mắt = đau khóe mắt)
chấp lận (đau – lợi = đau lợi)
khẻo chấp (răng – đau = đau răng)
68
khẻo vài mèng (răng hàm – sâu = sâu răng hàm)
slu núc (tai – điếc = tai điếc)
tha đeeng ( mắt – đỏ = đau mắt đỏ)
tha slẳm rộp (mắt – kèm nhèm = mắt kem nhèm)
...
Các từ ngữ này là 49 đơn vị, chiếm 16,3% trong tổng số từ ngữ chỉ bệnh
tật tìm được.
3.2.1.2. Từ ngữ chỉ các bệnh phần mềm
Bệnh phần mềm đa số thuộc các bệnh ngoài da. Thông thường, các bệnh
phần mềm là những bệnh dễ chữa nhưng cần được chữa trị kịp thời. Nếu
không, có thể gây nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Từ ngữ chỉ bệnh phần mềm như:
bát phéc noong (nhọt – vỡ - mủ nhọt vỡ mủ) =
khát mừ (đứt – tay đứt tay) =
khửn teng tình hua (lên – đinh – trên – đầu = lên đinh ở đầu)
(bỏng làn bỏng) =
lòi cắm tình nả (vết tím – trên – mặt vết thâm trên má =
(loét lử loét) =
(chó – cắn ma khấp chó cắn) =
(gai – cào nam pà gai cào) =
(da – ngứa năng đẳn ngứa ngoài da) =
rắn cạp nia cắn) = ngù cáp tan khấp (rắn - cạp nia - cắn
rắn ráo cắn) = ngù khuýt khấp (rắn – ráo - cắn
= nự mì noon (thịt – có – sâu nhiễm trùng có giòi)
...
Các từ ngữ thuộc nhóm bệnh ngoài da là 100 đơn vị chiếm 33,4% trong
tổng số từ ngữ chỉ bệnh tật tìm được.
3.2.2. Từ ngữ chỉ các bệnh nội thương
3.2.2.1. Từ ngữ chỉ các bệnh lục phủ
Căn cứ vào hoạt động của cơ thể con người lúc bình thường và có bệnh
69
người xưa qui nạp thành các nhóm chức năng khác nhau rồi đặt tên cho các cơ
quan trong cơ thể với những tên gọi khác nhau. Một trong những nhóm chức
năng quan trọng trong cơ thể người, có nhiệm vụ thu nạp và chuyển vận gọi là
lục phủ. Lục phủ gồm sáu phủ sau: Vị (dạ dày), đảm (mật), bàng quang (bàng
quang), tam tiêu (thực quản), tiểu trường (ruột non), đại trường (ruột già). Đảm
có chức năng bài tiết chất mật. Vị chứa đựng và nghiền nát thức ăn. Tiểu
trường nhận thức ăn từ vị đưa xuống và hấp thụ thành chất tinh khiết, biến
thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, đưa các chất cặn bã xuống
đại trường và bàng quang. Đại trường có chức năng bài tiết cặn bã. Bàng quang
tiếp với thận để bài tiết nước tiểu. Tam tiêu là nhóm chức năng quan giữa các
tạng, phủ trên và dưới với nhau. Tam tiêu là đường vận chuyển trong cơ thể từ
nơi bắt đầu để nạp thu các chất (thượng tiêu), khí hóa các chất dinh dưỡng
(trung tiêu) đến bài tiết các chất cặn bã (hạ tiêu).
Nhóm từ ngữ chỉ các bệnh về lục phủ khá đa dạng, ví dụ:
đưn khảu ăn đi (giun – vào - ống mật giun chui ống mật) =
fát đảng (sốt – lạnh = sốt rét)
khít mì hìn sài (mật – có – sỏi = mật có sỏi)
(có – giun mì đưn = nhiễm giun)
(buồn – đái tầm nèo = đái dầm)
(nôn tận = nôn)
taư dả toọc (trúng – thuốc – độc nhiễm thuốc độc) =
toọng ón (bụng – yếu yếu dạ) =
xưng cầu toọng neo (viêm – bụng – đái = viêm bàng quang)
...
Các từ ngữ chỉ bệnh về lục phủ là 43 đơn vị chiếm 14,4% trong tổng số từ
ngữ chỉ bệnh tìm được.
3.2.2.2. Từ ngữ chỉ các bệnh ngũ tạng
Một nhóm chức năng cũng vô cùng quan trọng trong cơ thể con người là
nhóm tàng trữ tinh khí. Ngũ tạng gồm năm bộ phận chính là: Tâm (tim), can
70
(gan), tỳ (lá lách), phế (phổi), thận (thận). Trong đó:
Trong cơ thể, tâm đứng đầu các tạng, phụ trách về các hoạt động thần kinh
và tuần hoàn huyết mạch như: tư duy, trí nhớ, thông minh, bần huyết, mạch
yếu... Can phụ trách các hoạt động về kinh nguyệt và sự nuôi dưỡng các cân cơ.
Tỳ đảm nhiệm công việc “hậu cần” cho cơ thể, phụ trách việc tiêu hóa thức ăn
chuyển thành tinh chất vận hóa cơ thể hoạt động và phát triển tốt. Phế phụ trách
về hô hấp và sự khí hoá hoạt động toàn thân. Phế tiếp thu thanh khí, đào thải
khí độc, tiếp nhận tinh chất từ tỳ chuyển lên. Thận tàng tinh, chủ về sự phát dục
cơ thể và hoạt động sinh dục nam: thận hư trẻ con chậm phát triển trí tuệ, chậm
biết đi, chậm mọc răng, người lớn hoạt động sinh dục giảm, đau lưng, di tinh,
liệt dương...
Nhóm từ ngữ chỉ các bệnh về ngũ tạng gồm các từ ngữ như:
(phù
búng = phù)
chấp lằn loọc (đau – quằn quại = đau quằn quại)
chấp lù hò (đau – lỗ - cổ = đau họng)
dìn kheo câư (tĩnh mạch – sưng = giãn tĩnh mạch)
nả pín sắc (mặt – biến – sắc = mặt biến sắc)
tận lựt (nôn - máu = hộc máu)
tắp slảy taư dả tooc (gan – nhiễm – thuốc độc = gan nhiễm độc)
toọng pảng lung (bụng – to = bụng phình to)
...
Các từ ngữ chỉ bệnh về ngũ tạng là 30 đơn vị chiếm 10% trong tổng số từ
ngữ chỉ bệnh tật tìm được.
3.2.2.3. Từ ngữ chỉ các bệnh thần kinh
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, sức khỏe là “trạng thái hoàn
toàn thoải mái về cơ thể, tâm thần và xã hội”. Từ định nghĩa đó, có thể chia
bệnh tật thành 2 nhóm: các bệnh về cơ thể và các bệnh về thần kinh. Các bệnh
về thần kinh xuất hiện chủ yếu do 2 nguyên nhân sau:
- Tổn thương não và các tổ chức thần kinh trung ương do tai nạn, nhiễm
trùng thần kinh, nhiễm các chất độc trong nước thải công nghiệp và thuốc trừ
71
sâu, diệt cỏ...
- Sang chấn tâm lý: nhịp độ lao động quá khẩn trương, sự cạnh tranh gay
gắt, việc phải xử lý một lượng thông tin lớn, sự thay đổi các mối quan hệ và các
mâu thuẫn trong cuộc sống... có thể gây ra sự căng thẳng về tâm lý và dẫn đến
các bệnh tâm thần (như suy nhược thần kinh, trầm cảm, rối loạn hành vi).
Dấu hiệu của bệnh thường rất đa dạng, có khi không phải các biểu hiện về
hệ thần kinh mà lại là triệu chứng thể chất như: đau đầu, đau tức ngực, khó thở,
rối loạn giấc ngủ…
Nhóm từ ngữ chỉ các bệnh về thần kinh có số lượng không nhiều. Ví dụ:
hu chấp (đầu – đau = đau đầu)
chấp tình hu (đau – trên – đầu = đau đỉnh đầu)
dặt lảu (nghiện rượu = nghiện rượu)
kheng thủn càng (cứng – cả - hàm = cứng hàm)
mí noòn đảy (không - ngủ - được = mất ngủ)
pác nẻo (mồm – méo = méo mồm)
phi nhặn (ma – bóp = bóng đè)
tốc dan (giật mình = giật mình)
...
Các từ ngữ chỉ bệnh về thần kinh là 28 đơn vị chiếm 9,4% trong tổng số
từ ngữ chỉ bệnh tật tìm được.
3.2.2.4. Từ ngữ chỉ các bệnh xương khớp
Theo đông y, các bệnh liên quan đến xương khớp dù có sưng, nóng, đỏ,
hay chỉ tê mỏi, nặng, ở các khớp thì đều thuộc chứng Tý, nghĩa là bế tắc không
thông, dân gian gọi là phong thấp. Nguyên nhân gây các bệnh về xương khớp
là do sức đề kháng của cơ thể không đầy đủ nên các yếu tố gây bệnh cùng phối
hợp xâm phạm đến kinh lạc ở cơ, khớp. Hậu quả là sự vận hành của khí huyết
bị tắc nghẽn, gây sưng đau hoặc tê mỏi, nặng ở một khu vực xương khớp hoặc
toàn thân. Một số khác thì do chính khí hư suy vì mắc bệnh lâu ngày hoặc do
cao tuổi, các chức năng hoạt động cơ thể suy yếu nên khí huyết giảm sút,
72
không nuôi dưỡng được các gân mạch, gây thoái hóa xương khớp và đau. Bệnh
về xương khớp là bệnh khá phổ biến, thường gặp nhiều ở tuổi già, các bệnh về
xương khớp làm người bệnh thất đau nhức xương, chân tay kém linh hoạt, làm
việc không đạt kết quả và ảnh hưởng nhiều đến các sinh hoạt thường ngày.
Để chỉ các bệnh về xương khớp có các từ ngữ:
chấp bá (đau – vai đau vai) =
chấp đúc đang đau – xương mình đau xương đau cốt) =
chấp hu kha (đau – đầu gối = đau đầu gối)
chấp slặc khóa (đau – thắt lưng = đau thắt lưng)
kha nái = mỏi chân) (chân – mỏi
kha tắc = gãy chân) (chân – gãy
mừ kha cắt chích (tay – chân – lạnh ngắt = chân tay lạnh ngắt)
mừ nái = mỏi tay) (tay – mỏi
náp mừ = bị nghiến tay) (nghiến – tay
= gãy xương cổ) tắc đúc hò (gãy – xương – cổ
= tắc đúc slẻ (gẫy – xương – sườn gẫy xương sườn)
...
Các từ ngữ chỉ bệnh về xương khớp là 49 đơn vị chiếm 16,4% trong tổng
số từ ngữ chỉ bệnh tật tìm được.
3.3. SỰ PHÂN LOẠI VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ CHỈ
THUỐC THANG CỔ TRUYỀN
3.3.1. Từ ngữ chỉ thuốc chữa bệnh
3.3.1.1. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh xương khớp
Bệnh xương khớp có thể gặp ở nhiều đối tượng khác nhau nhưng thường
xảy ra ở người cao tuổi, chúng luôn mang lại sự đau đớn vô cùng cho người
bệnh, gây khó chịu nhất là trong thời tiết mùa đông.
Để chữa trị các chứng trên, dân gian cổ phương có một số bài thuốc gồm
nhiều vị thuốc từ thiên nhiên. Có thể thấy, các vị thuốc trong phương thuốc này
73
chủ yếu là các loài thực vật sống nhiều trong rừng, mọc hoang và không xuất
hiện nhiều trong vườn nhà. Đây là một điểm đặc biệt trong cách chữa bệnh so
với dân tộc và vùng miền khác. Ngoài thực vật còn có vị thuốc từ động vật như
đi slat ngù (nọc rắn). Điều này cho thấy người dân nơi đây cũng đã biết lợi
dụng vào thiên nhiên để cuộc sống được tốt hơn, ngoài việc biết chăm sóc sức
khỏe tự cây thuốc có từ rừng núi, họ cũng đã biết lợi dụng để lấy độc trị độc
như dùng nọc rắn trong việc chữa bệnh cho mình.
Đó là các từ ngữ:
baư khỉ bẻ (lá – cứt – dê lá cứt dê) =
bjoóc kha cáy (hoa – chân – gà hoa chân gà núi) =
bjoóc kha pất (hoa – chân – vịt hoa chân vịt đỏ) =
cáng mác chỉ (cành – quả - quýt cành quýt) =
cáng mác pục (cành – quả - bưởi cành bưởi) =
cáng tày mạ (cành – móng – ngựa cành móng ngựa) =
dù mác chác (dầu – quả - hồi dầu hồi) =
khít pất (mật – vịt mật vịt) =
mằn mi (khoai – gấu củ gấu) =
…
Số lượng từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về xương khớp là 137 đơn vị,
chiếm 30,7% trong tổng số từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.1.2. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh ngũ quan, ngoài da, nhiệt
Qua khảo sát, có số lượng lớn người Nùng mắc các bệnh liên quan đến các
vấn đề về ngũ quan (mắt, tai, mũi, họng, răng miệng)… Ngoại trừ một số bệnh
cần được chữa trị kịp thời như: đau mắt đỏ, viêm tai giữa… thì đa số bệnh
không quá nguy hiểm nhưng nhưng gây bất tiện trong sinh hoạt, giao tiếp ảnh
hưởng đến cuộc sống. Nguyên nhân chủ yếu là khí hậu ở đây khá ẩm ướt, tạo
điều kiện cho vi khuẩn phát triển, cộng với việc vệ sinh không đúng cách dễ
gây ra bệnh. Bên cạnh đó, nền nhiệt độ của nước ta khá nóng do nằm gần xích
74
đạo, vùng núi phía bắc dù nhiệt độ có thấp hơn đồng bằng nhưng những năm
gần đây, cùng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu thì các bệnh ngũ quan, ngoài da
thông thường cũng gia tăng.
Từ xưa, các thầy thuốc đã biết lợi dụng những cây thuốc thiên nhiên để
chữa bệnh về ngũ quan, ngoài da và giải nhiệt cơ thể. Ngoài một số vị thuốc
thường lấy trên rừng cha ông ta còn nhận biết được công dụng của những vị
thuốc quanh nhà. Tuy nhiên, số lượng từ ngữ chỉ vị thuốc quanh nhà không
nhiều, chủ yếu vẫn là các vị thuốc lấy từ rừng núi.
Từ đó có các từ ngữ:
baư coóc bẻ (lá – gốc – dê lá thảo quyết minh) =
baư kha pất (lá – chân – vịt lá chân vịt đỏ) =
baư khao (lá – trắng lá trắng) =
baư mác xà dù (lá – quả - chè – dầu lá thầu dầu) =
baư mác xáy (lá – quả - trứng lá mướp đắng) =
bjoóc cúc (hoa – cúc hoa cúc) =
bjoóc khẻo xay (hoa – cối – xay hoa cối xay) =
cáng nhả chiến (cành – cỏ - chiến cành bạch hoa xà) =
cáng nhả đơn đeng (cành – cỏ - đơn – đỏ cành đơn đỏ) =
khau mác ít cáy (dây – quả - nho – gà dây nho dại) =
lạc phjắc pát (rễ - rau – bát rễ lá lốt) =
…
Từ ngữ chỉ chỉ phương thuốc chữa các bệnh về ngũ quan, ngoài da và giải
nhiệt là 135 đơn vị, chiếm 30,3% trong tổng số từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.1.3. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh lục phủ
Các bệnh liên quan đến lục phủ hiện nay khá phổ biến, ít nhiều đe dọa đến
tính mạng con người nếu không chữa trị kịp thời. Trong Đông y cũng như Y
học địa phương đang khảo sát có một số vị thuốc hiệu quả cao trong việc chữa
bệnh. Các vị thuốc từ thực vật có trong phương thuốc này đa số không phải là
loài cây trồng, chủ yếu mọc trên rừng, núi song nó khá gần gũi với cuộc sống
75
nhân dân nơi đây. Ngoài những vị thuốc có nguồn gốc thực vật, người dân nơi
đây còn sử dụng đến vị thuốc có nguồn gốc động vật để chữa bệnh như: toọng
khỉ mỉn (dạ dày nhím), toọng khỉ mu (dạ dày lợn).
Đó là các vị thuốc được gọi bằng các tên:
baư chạ khảu cắm (lá – dây – gạo – tím = lá dạ cẩm dại)
baư chạ khau khao (lá – cây – dây – trắng = lá cẩm trắng)
baư mác nâm (lá – quả - sim = lá sim)
baư mạy cáy (lá – cây – tre = lá tre)
baư ỏi (lá - ổi = lá ổi)
cáng slam véng (cành – ba – chẽ = cành ba chẽ)
khinh đăm (gừng – đen = nghệ đen)
toọng khỉ mỉn (bụng – cứt – nhím = dạ dày nhím)
toọng khỉ mu (bụng – cứt – lợn = dạ dày lợn)
…
Từ ngữ chỉ chỉ thuốc chữa các bệnh về lục phủ là 86 đơn vị, chiếm 19,3%
trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.1.4. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh ngũ tạng
Đông y quan niệm cơ thể con người là một tổng thể hữu cơ bao gồm phủ
tạng, kinh lạc, tay chân, mắt, mũi, tai, mồm và được gắn kết hữu cơ, mối liên
hệ đó lấy ngũ tạng làm trung tâm. Thế nhưng ngày nay các bệnh liên quan đến
ngũ tạng ngày càng nhiều và nghiêm trọng hơn đa số các bệnh liên quan đến
ngũ tạng đều khá nguy hiểm. Ngoài phương pháp điều trị Tây y thì dân gian
cũng có nhiều phương thuốc chữa bệnh dễ tìm mà vô cùng hiệu nghiệm. Trong
các phương thuốc đó có chứa nhiều vị thuốc tự nhiên. Ngoài một số vị thuốc
quen thuộc quanh vườn nhà có số lượng lớn cây mọc ở rừng có tác dụng hữu
hiệu trong việc chữa bệnh cho con người.
Đó là các vị thuốc được gọi bằng các tên:
baư chạ mác chanh (lá – cây – quả - chanh = lá chanh rừng)
76
baư đúc lình (lá – xương – khỉ = lá xương khỉ)
baư khau dưng (lá – dây – hương lá bồ khai) =
(lá – nhọ - nồi lá nhọ nồi) = baư mỉ mỏ
(lá – vải – ma lá vông vang) = baư phải phi
(lá – tai – chuột lá tai chuột) = baư xu nu
choóp lìm kheo (nấm – lim – xanh nấm lim xanh) =
(gừng – núi giềng núi) = khinh xa
(khoai – ngứa khoai ngứa) = mằn đẳn
hạt gấc) = múi mác cấc (hạt – quả - gấc
rau má) = phjắc xèn (rau – tiền
= pước mác chanh (vỏ - quả - chanh vỏ chanh rừng)
= (lược – ma rẻ quạt) vì phi
...
Các từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về ngũ tạng chiếm số lượng lớn nhất,
gồm 174 đơn vị, chiếm 39% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.1.5. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh tâm thần, thần kinh
Áp lực cuộc sống hiện đại khiến con người dễ mắc các bệnh tâm thần,
thần kinh do đó số lượng người mắc bệnh này có xu hướng tăng. Song song với
những phương pháp trị liệu Tây y, dân gian có nhiều phương thuốc đơn giản,
dễ tìm và hiệu quả. Thuốc chữa các bệnh về tâm thần, thần kinh chủ yếu là các
loài cây dại mọc trên rừng và quanh nhà, có tác dụng thư giãn, giải tỏa căng
thẳng, an thần...
Có thể kể đến tên các vị thuốc như:
bjoóc nả nhẻn (hoa – mặt – ngại = hoa trinh nữ)
cáng mạy mục tâm (cành – cây – mục – đất = cành mục đất)
loóc ngù (xác – rắn = xác rắn)
mằn gió (khoai – gió = củ gió)
nhả đeng (cỏ - đỏ = ngải đỏ)
77
nhả khao (cỏ - trắng = ngải trắng)
phjắc lào lục (rau – mỡ - con = rau tàu bay)
pước trầm (vỏ - trầm = vỏ trầm)
sâm kha cáy (sâm – chân – gà = sâm chân gà)
...
Các từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về tâm thần, thần kinh là 68 đơn vị,
chiếm 15,2% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.1.6. Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh sinh sản
Theo khảo sát, các bệnh về đường sinh sản về cơ bản không gây ra những
nguy hiểm đến tính mạng, rất ít khi nguy hiểm đến tính mạng, nhưng nó ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống và đặc biệt là đối với người phụ nữ. Tuy nhiên
ở địa phương đang khảo sát có nhiều vị thuốc là khắc tinh đối với bệnh này. Đa
số các vị thuốc này mọc trên rừng núi và quanh vườn nhà, không quá khó để
tìm kiếm, nhiều cây trở nên quen thuộc trong đời sống của người dân nơi đây.
Có thể kể đến tên các vị thuốc:
baư càng lượt (lá – cằm – máu lá huyết dụ) =
baư mjàu (lá – trầu lá trầu) =
baư phjắc van rườn (lá – rau – ngọt – nhà lá rau ngót) =
(lá – quế baư quế lá quế) =
(lá – chè baư xà lá chè) =
cáng co pán (cành – cây – gai cành gai) =
(gừng khinh gừng) =
(lợi – vợ lợi mè ích mẫu) =
(cỏ - đỏ nhả đeng ngải đỏ) =
(cỏ - trắng nhả khao ngải trắng) =
(cỏ - dễ nhả ngài ngải cứu) =
= sâm mạc cần (sâm – hình – người sâm hình người)
…
Các từ ngữ chỉ phương thuốc chữa các bệnh về sinh sản là 57 đơn vị,
78
chiếm 12,8% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.1.7. Từ ngữ chỉ thuốc chữa rắn cắn, ong đốt…
Do đặc điểm cư trú sống chủ yếu gần rừng núi nên những tai nạn như rắn
rết cắn, ong đốt… khá phổ biến. Nhiều thôn bản địa hình xa xôi, xa trung tâm,
đi lại khó khăn nên buộc người dân nơi đây phải tìm cách “sống chung với lũ”
khi những tai nạn rắn rết cắn, ong đốt ghé thăm thường xuyên. Ngoài cách
kiểm tra kĩ lưỡng nơi sinh hoạt thì việc tìm ra phương thuốc hữu hiệu để cấp
cứu tai nạn ngay tại chỗ là việc cần thiết. Từ thực tế cuộc sống còn khó khăn và
buộc phải tự phòng vệ bản thân nên người dân nơi đây có những bài thuốc rất
hiệu nghiệm.
Trong những bài thuốc đó có sử dụng nhiều vị thuốc có tên gọi như:
baư khỉ bẻ (lá – cứt – dê = lá cứt dê)
baư khỉ mu (lá – cứt –lợn = lá cứt lợn)
baư phjắc liếp đông (lá – rau – liếp – rừng lá bồ công anh) =
baư slam véng (lá – ba – chẽ = lá ba chẽ)
khau cườm (dây – cườm = cam thảo)
lạc phjắc pát (rễ - rau – bát = rễ lá lốt)
lảu (rượu = rượu)
mác chác (quả - hồi = hoa hồi)
mác chanh (quả - chanh = quả chanh)
mằn củi (khoai – chuối = củ chuối)
tu đưn (con – giun = con giun)
tu lựt (con – rệp = con rệp)
...
Các từ ngữ chỉ phương thuốc chữa các bệnh về sinh sản là 49 đơn vị,
chiếm 10,9% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.2. Từ ngữ chỉ thuốc bổ
3.3.2.1. Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho trẻ em và người già
Trong tự nhiên có khá nhiều cây thuốc bổ nhưng với đối tượng trẻ em và
79
người già thì cần được chú ý đặc biệt vì sức đề kháng của trẻ em và người già
không được tốt, chỉ cần một vị thuốc nhỏ không phù hợp với cơ địa hoặc thể
trạng cũng có thể gây ra những biến chứng khó lường. Ở địa phương khảo sát,
có một vài vị thuốc nằm trong phương thuốc bổ dành cho trẻ em và người già.
Cũng tương tự như một vài vị thuốc nằm trong phương thuốc lục phủ, thuốc bổ
cho trẻ em và người già ngoài thực vật còn có một số vị có nguồn động vật
như: cao lình (cao khỉ), cao slư (cao hổ), đúc slư (xương hổ), mừ mi (tay gấu)...
Có thể kể đến tên các vị thuốc như:
baư hồng phja (lá – hồng – núi lá hồng rừng) =
baư mác xáy (lá – quả - trứng lá mướp đắng) =
baư phjắc van phja (lá – rau – ngọt – núi lá rau ngót rừng) =
bjoóc cúc (hoa – cúc hoa cúc) =
cao lình (cao – khỉ cao khỉ) =
cao slư (cao – hổ cao hổ) =
đúc slư (xương – hổ xương hổ) =
mác pùng slung (quả - nóng – cao quả đu đủ) =
xáy cáy (trứng – gà trứng gà) =
mèng thưưng (muỗi - đường mật ong) =
nục cu = (chim – cu chim bồ câu)
...
Các từ ngữ chỉ phương thuốc bổ cho trẻ em và người già là 60 đơn vị,
chiếm 13,5% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.2.2. Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho người ốm và sau khi ốm
Người ốm và sau ốm là đối tượng cần được quan tâm đặc biệt, cần được
chăm sóc và bồi bổ những loại thực phẩm cũng như các vị thuốc để hồi phục
sức khỏe, tăng cường sức đề kháng, nâng cao dẻo dai và phòng ngừa bệnh tật.
Khảo sát thực tế cho thấy ở địa phương có khá nhiều cây thuốc và vị thuốc
dành cho đối tượng này từ những cây dùng làm rau xanh hàng ngày và các loại
80
cây mọc trên rừng.
Có thể kể đến tên các vị thuốc:
baư phjắc van rườn (lá – rau – ngọt – nhà lá rau ngót) =
bjoóc cúc (hoa – cúc hoa cúc) =
cao lình (cao – khỉ cao khỉ) =
mác mòi (quả - mơ quả mơ) =
mèng thưưng (muỗi - đường mật ong) =
mừ mi (tay – gấu tay gấu) =
nhả đeng (cỏ - đỏ ngải đỏ) =
nhả khao (cỏ - trắng ngải trắng) =
nhả ngài (cỏ - dễ ngải cứu) =
phjắc xèn (rau – tiền rau má) =
pước trầm (vỏ - trầm vỏ trầm) =
thú kheo (đỗ - xanh đỗ xanh) =
…
Các từ ngữ chỉ phương thuốc bổ cho người ốm và sau ốm là 42 đơn vị,
chiếm 9,4% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.2.3. Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh
Phụ nữ sau sinh thường mất khá nhiều sức lực do đó cần có chế độ chăm
sóc đặc biệt để hồi phục sức khỏe cũng như nuôi con tốt hơn. Thuốc bổ cho phụ
nữ sau sinh bao gồm các vị thuốc có nguồn gốc thực vật và động vật, có thể mọc
quanh nhà hoặc trên rừng núi nhưng đặc biệt tốt cho sản phụ, có tác dụng lành vết
thương, thanh nhiệt, tiêu viêm, lọc máu và kích thích ăn ngon ngủ tốt.
Các phương thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh gồm các vị thuốc có tên gọi:
baư chạ khảu cắm (lá – cây – gạo – tím lá dạ cẩm dại) =
baư mjàu (lá – trầu lá trầu) =
baư phjắc van rườn (lá – rau – ngọt – nhà lá rau ngót) =
baư xà (lá – chè lá chè) =
81
bjoóc nả nhẻn (hoa – mặt – ngại hoa trinh nữ) =
khảu nu (gạo – chuột = gạo nếp)
lợi mè (lợi – vợ = ích mẫu)
mác cấc (quả - gấc = quả gấc)
nầm tó tàu (sữa – ong – cả sữa ong chúa) =
nhả đeng (cỏ - đỏ = ngải đỏ)
nhả khao (cỏ - trắng = ngải trắng)
nhả ngài (cỏ - dễ = ngải cứu)
pja chép (cá – chép = cá chép)
…
Các từ ngữ chỉ phương thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh là 37 đơn vị, chiếm
8,3% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
3.3.2.4. Từ ngữ chỉ thuốc bổ tăng cường sức khỏe, nhan sắc
Qua tìm hiểu, phương châm xưa kia của người dân nơi đây chỉ cần “ăn
chắc mặc bền” còn ngày nay, cùng sự phát triển của khoa học kĩ thuật, luồng tri
thức mới đã đi vào tận từng thôn bản, đồng bào lao động sản xuất mục đích
không phải chỉ đủ ăn đủ mặc mà còn xây dựng, phát triển kinh tế và nông thôn
mới. Do đó, phương châm “ăn ngon mặc đẹp” đã được con người đề cao. Song
song với nó, đồng bào cũng nhận thấy một số vị thuốc có thể giúp mình tăng
cường sức khỏe và nhan sắc.
Có thể kể đến tên các vị thuốc:
baư giải độc (lá – giải độc lá giải độc) =
baư mác pục (lá – quả - bưởi lá bưởi) =
baư mác tào (lá – quả - đào lá đào) =
baư moọn (lá – dâu lá dâu tằm) =
baư xà (lá – chè lá chè) =
bjoóc cúc (hoa – cúc hoa cúc) =
bjoóc hồng (hoa – hồng hoa hồng) =
82
bjoóc tào (hoa – đào hoa đào) =
dù ngà (dầu – vừng = dầu vừng)
khinh đeng (gừng – đỏ = nghệ vàng)
lào tang (mỡ - trăn = mỡ trăn)
phjắc hom (rau – thơm = rau mùi)
pước mác cam (vỏ - quả - cam = vỏ cam)
pước mác chỉ (vỏ - quả - quýt = vỏ quýt)
...
Các từ ngữ chỉ phương thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh la 48 đơn vị, chiếm
10,7% trong tổng số các từ ngữ chỉ thuốc thang tìm được.
Qua thống kê khảo sát, có thể hình dung từ ngữ được phân thành các
nhóm ở trên theo bảng sau:
Bảng 3.2: Từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng
xét về ngữ nghĩa
Từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền Số lượng Tỉ lệ %
Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh ngũ tạng 174 19,5
Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh xương khớp 137 15,3
Các từ ngữ chỉ thuốc chữa bệnh Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh ngũ quan, 135 15,1
ngoài da, giải nhiệt
Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh lục phủ 86 9,6
68 15
Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh tâm thần, thần kinh
Từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh sinh sản 57 6,4
Từ ngữ chỉ thuốc chữa rắn cắn, ong đốt… 49 5,5
Các từ ngữ Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho trẻ em và người già 60 6,7
chỉ thuốc bổ Từ ngữ chỉ thuốc bổ tăng cường sức khỏe, 48 5,4
nhan sắc
Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho người ốm và sau 42 4,7
khi ốm
Từ ngữ chỉ thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh 37 8,3
83
Tổng 893 100
Nhiều nhà nghiên cứu cấp cao về cây thuốc nam nhận định “người Việt
Nam ra ngõ gặp thuốc”. Không thể phủ nhận sự đa dạng, phong phú của các
cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, dân gian có câu nước ta “rừng vàng, biển bạc”
cũng vì lí do đó. Qua điền dã, kết quả thu được 446 từ ngữ chỉ thuốc thang cổ
truyền, thống kê khảo sát cho thấy với 446 từ ngữ nhưng có đến 893 lượt xuất
hiện. Có thể nói, thuốc thang cổ truyền của dân tộc Nùng khá đa dạng, phong
phú. Mỗi phương thuốc có từng vị thuốc không giống nhau tuy nhiên, bản thân
một vị thuốc có thể chữa được nhiều loại bệnh khác nhau. Do đó, vị thuốc ở
một phương thuốc này cũng có thể bắt gặp ở trong nhiều phương thuốc khác,
chỉ cần tỉ lệ và cách kết hợp các vị thuốc không giống nhau đã có thể tạo thành
các phương thuốc hữu hiệu có công dụng chữa bệnh khác nhau. Đây là điều
khá thú vị có thể nhận thấy được sau khi tiến hành khảo sát lớp từ ngữ này. Có
thể thấy một số từ ngữ chỉ vị thuốc trong tiếng Nùng xuất hiện với tần suất cao
qua bảng sau:
Bảng 3.3: Các từ ngữ chỉ vị thuốc trong tiếng Nùng xuất hiện
với tần suất cao
STT Từ ngữ chỉ vị thuốc Nghĩa Số lần xuất hiện
trong tiếng Nùng Tỉ lệ
1 nhả khao ngải trắng 8 0,9%
2 baư xà lá chè 6 0,7%
3 nhả ngài ngải cứu 6 0,7%
4 baư bại trận lá răng cưa 5 0,6%
5 bjoóc bại trận hoa răng cưa 5 0,6%
6 cáng nạn kép cành xạ hương 5 0,6%
7 cư muối 5 0,6%
8 khinh gừng 5 0,6%
9 nhả đeng ngải đỏ 5 0,6%
5 0,6% 10 thúa páp đèng,… đậu ván đỏ,…
84
Tổng số 893 100%
Nhận xét:
Xét về mặt ngữ nghĩa, số lượng các kiểu loại từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc
thang cổ truyền khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, số lượng lớn là từ ngữ
các vị thuốc mọc trên rừng, có một số vị thuốc quanh vườn nhà, thậm chí có
những vị thuốc là động vật, côn trùng. Có thể lí giải một cách đơn giản vì cuộc
sống quanh năm với núi rừng giúp người dân quen thuộc với từng gốc cây ngọn
cỏ, hiểu rõ từng công dụng của mỗi loài cây, thậm chí biết biết lợi dụng để “lấy
độc trị độc”. Ngoài ra, người dân còn biết lựa chọn các vị thuốc có nguồn gốc
từ thức ăn, không những cung cấp những dưỡng chất thiết yếu mà còn trở thành
một vị thuốc hữu hiệu. Một điều cần được lưu truyền và phát triển là trong quá
trình tương tác với tự nhiên (chủ yếu là núi rừng) con người nơi đây đã phát
hiện và nâng tầm những loài cây ngọn cỏ dường như vốn bình thường lên thành
những vị thuốc quí.
Ngoài những vị thuốc có nguồn gốc từ thảo dược, trong phương thuốc cổ
truyền dân tộc Nùng còn có những vị thuốc từ động vật quý hiếm như: cao lình
(cao khỉ), cao slư (cao hổ), đúc slư (xương hổ), mừ mi (tay gấu)… Theo kinh
nghiệm cổ truyền đây là những vị thuốc quý hiếm, là vị thuốc chính trong nhiều
phương thuốc (tuy nhiên đây là những động vật quý hiếm, cần được bảo tồn và
phát triển để đảm bảo hệ sinh thái tự nhiên được cân bằng. Thiết nghĩ cần phải có
công tác tuyên truyền hiệu quả hơn nữa tới từng thôn bản để thay đổi cách nhìn
nhận của người dân nơi đây về vấn đề này).
3.4. TIỂU KẾT
Qua việc tìm hiểu từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng
Nùng về mặt ngữ nghĩa, bước đầu có thể rút ra một vài nhận xét sau:
Các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng có thể
được chia thành hai lớp: từ ngữ chỉ bệnh tật và từ ngữ chỉ thuốc thang. Trong từng
lớp lại chia thành từng nhóm từ ngữ nhỏ với số lượng khác nhau. Cụ thể là:
Trong số các từ ngữ chỉ bệnh tật, nhóm từ ngữ chỉ bệnh phần mềm chiếm
85
con số cao hơn cả (100 đơn vị) sau đó là từ ngữ chỉ các bệnh về ngũ quan (49
đơn vị); các từ ngữ chỉ các bệnh về xương khớp có số lượng bằng từ ngữ chỉ
các bệnh về ngũ quan (49 đơn vị); các từ ngữ chỉ các bệnh còn lại chiếm số
lượng ít hơn như: từ ngữ chỉ các bệnh về lục phủ (43 đơn vị), từ ngữ chỉ các
bệnh về ngũ tạng (30 đơn vị), từ ngữ chỉ các bệnh về thần kinh (28 đơn vị).
Điều đó phần nào cho thấy quan niệm xét về phương diện dân gian và thực tế
quan tâm của các thầy thuốc người Nùng.
Có thể thấy, từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng
khá đa dạng và phong phú. Các từ ngữ chỉ bệnh tật được chia thành từng nhóm
bệnh cụ thể, rõ ràng và tương ứng với chúng là các phương thuốc đi kèm.
Ngoài những phương thuốc chữa bệnh còn có các phương thuốc bổ. Trong lớp
từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền, các từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về ngũ
tạng chiếm số lượng vượt trội (174 đơn vị); từ ngữ chiếm số lượng khá lớn
trong lớp từ này, chỉ sau từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về ngũ tạng là từ ngữ
chỉ thuốc chữa các bệnh về xương khớp (137 đơn vị) và từ ngữ chỉ thuốc chữa
các bệnh về ngũ quan, ngoài da, giải nhiệt (135 đơn vị). Nhóm từ ngữ chỉ các
loại thuốc còn lại chiếm số lượng nhỏ hơn như: từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh
về lục phủ (86 đơn vị), từ ngữ chỉ các bệnh về tâm thần, thần kinh (68 đơn vị),
từ ngữ chỉ chỉ thuốc bổ cho trẻ em và người gia (60 đơn vị từ), từ ngữ chỉ thuốc
chữa các bệnh về sinh sản (57 đơn vị), từ ngữ chỉ thuốc chữa các tai nạn rắn
cắn, ong đốt… (49 đơn vị), từ ngữ chỉ thuốc tăng cường sức khỏe, nhan sắc (48
đơn vị), từ ngữ chỉ thuốc bổ cho người ốm và sau ốm (42 đơn vị), từ ngữ chỉ
thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh (37 đơn vị từ)… Điều đó phần nào cho thấy khả
86
năng thực tế của các thầy thuốc dân gian người Nùng.
KẾT LUẬN
1. Trước khi đi vào tìm hiểu đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các từ
ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền, đã được xác định là một số vấn đề lí
thuyết, một số khái niệm và quan niệm có liên quan đến đề tài, như: từ, ngữ,
nghĩa, trường nghĩa, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, bệnh tật và thuốc
thang cổ truyền… Đồng thời, những tri thức tối thiểu về người Nùng và thuốc
thang cổ truyền của người Nùng (ở Việt Nam và địa phương đang nghiên cứu:
xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.), tiếng Nùng (nguồn gốc, đặc
điểm loại hình, chữ viết…) cũng đã được chú ý giới thiệu khái quát. Có thể
thấy: Muốn tìm hiểu văn hóa của một tộc người, không thể không quan tâm đến
vấn đề ngôn ngữ, hay nói cách khác, qua ngôn ngữ sẽ hiểu được phần nào văn
hóa của cộng đồng đó. Điều này rất đúng với trường hợp cộng đồng Nùng và
tiếng Nùng.
Người Nùng có nhiều nét độc đáo trong vốn văn hóa cổ truyền, trong đó làm
thuốc có thể xem là một nghề quan trọng (dù người Nùng không xem đây là
một nghề chính thống). Cách làm thuốc thang đã góp phần tạo nên nét đặc sắc
trong văn hóa Nùng cũng như mang lại những đóng góp vào lĩnh vực Y học nước
nhà, vừa mang ích lợi thực tế trong đời sống vừa có giá trị nhân văn sâu sắc. Một
phần những vốn tri thức dân gian quý báu này hiện đang được lưu giữ trong tiếng
Nùng và được kế tục ở các thế hệ sau, chủ yếu dưới dạng truyền khẩu.
2. Để gọi tên bệnh tật và thuốc thang cổ truyền, trong tiếng Nùng đã có
những từ ngữ với hình thức khác nhau khá đa dạng.
Các từ ngữ đơn âm tiết chiếm số lượng nhỏ (20 đơn vị chiếm 2,7%). Từ
những đơn vị cơ bản này, người Nùng đã tạo nên các đơn vị định danh phức
bằng cách ghép chúng với những yếu tố phụ nghĩa đứng sau đó. Trên thực tế,
các từ ngữ đa âm tiết chiếm số lượng lớn (725 đơn vị, chiếm 97,3%), so với
87
đơn tiết. Loại đa âm tiết này khá phong phú, bao gồm hai âm tiết, ba âm tiết,
bốn âm tiết và năm âm tiết. Trong đó, từ ngữ ba âm tiết chiếm số lượng lớn hơn
cả (362 đơn vị), từ ngữ có cấu tạo hai âm tiết chiếm số lượng tương đối lớn
(230 đơn vị). Từ ngữ bốn âm tiết chiếm số lượng ít hơn (119 đơn vị). Cuối
cùng là các từ ngữ năm âm tiết (14 đơn vị). Có thể thấy việc tạo nên các đơn vị
định danh phức hai và ba âm tiết là cách người Nùng đã thường dùng, để gọi
các loại bệnh tật và thuốc thang trong đời sống.
Ngoài ra, trong từng nhóm khác biệt theo số lượng âm tiết, lại có thể nhận
thấy các từ ngữ được tạo nên theo các mô hình khác nhau, khá đa dạng, nhưng
chủ yếu theo chính phụ (yếu tố đứng sau phụ nghĩ cho yếu tố đứng trước).
Những dạng khác nhau này ít nhiều cho thấy sự tỉ mỉ trong cách chẩn đoán
bệnh và sự kĩ càng trong khi pha chế các bài thuốc của người Nùng.
3. Qua việc tìm hiểu từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng
Nùng về mặt ngữ nghĩa, bước đầu rút ra được một vài nhận xét sau:
Các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng Nùng được
chia thành hai lớp: từ ngữ chỉ bệnh tật và từ ngữ chỉ thuốc thang. Trong từng
lớp lại chia thành từng nhóm nhỏ với số lượng khác nhau. Cụ thể là:
Trong số các từ ngữ chỉ bệnh tật, nhóm từ ngữ chỉ bệnh phần mềm chiếm
con số cao hơn cả (100 đơn vị) sau đó là từ ngữ chỉ các bệnh về ngũ quan (49
đơn vị); các từ ngữ chỉ các bệnh về xương khớp có số lượng bằng từ ngữ chỉ
các bệnh về ngũ quan (49 đơn vị); các từ ngữ chỉ các bệnh còn lại chiếm số
lượng ít hơn như: từ ngữ chỉ các bệnh về lục phủ (43 đơn vị), từ ngữ chỉ các
bệnh về ngũ tạng (30 đơn vị), từ ngữ chỉ các bệnh về thần kinh (28 đơn vị).
Điều đó phần nào cho thấy quan niệm dân gian về bệnh tật thuốc thang và khả
năng thực tế của các thầy thuốc người Nùng.
Ứng với các từ ngữ chỉ bệnh tật là các từ ngữ chỉ các phương thuốc đi kèm.
Trong lớp từ ngữ chỉ thuốc thang cổ truyền, các từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh
88
về ngũ tạng chiếm số lượng vượt trội (174 đơn vị); từ ngữ chiếm số lượng khá
lớn trong lớp từ này, chỉ sau từ ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về ngũ tạng là từ
ngữ chỉ thuốc chữa các bệnh về xương khớp (137 đơn vị) và từ ngữ chỉ thuốc
chữa các bệnh về ngũ quan, ngoài da, giải nhiệt (135 đơn vị). Nhóm từ ngữ chỉ
các loại thuốc còn lại chiếm số lượng nhỏ hơn như: từ ngữ chỉ thuốc chữa các
bệnh về lục phủ (86 đơn vị), từ ngữ chỉ các bệnh về tâm thần, thần kinh (68 đơn
vị), từ ngữ chỉ chỉ thuốc bổ cho trẻ em và người gia (60 đơn vị từ), từ ngữ chỉ
thuốc chữa các bệnh về sinh sản (57 đơn vị), từ ngữ chỉ thuốc chữa các tai nạn
rắn cắn, ong đốt… (49 đơn vị), từ ngữ chỉ thuốc tăng cường sức khỏe, nhan sắc
(48 đơn vị), từ ngữ chỉ thuốc bổ cho người ốm và sau ốm (42 đơn vị), từ ngữ
chỉ thuốc bổ cho phụ nữ sau sinh (37 đơn vị)… Điều đó phần nào cho thấy mối
quan tâm và khả năng thực tế của các thầy thuốc dân gian người Nùng.
4. Có thể thấy, từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền trong tiếng
Nùng khá đa dạng và phong phú (với danh sách các từ ngữ này được trình bày
trong Phụ lục). Ngoài những phương thuốc chữa bệnh còn có các phương thuốc
bổ. Nguồn gốc của các vị thuốc trong từng phương thuốc thường là lấy từ thiên
nhiên. Đó có thể là những loài cây, loài con gần gũi quanh nhà nhưng đôi khi
lại mọc tận núi cao, rừng sâu. Điều kiện sống, hoàn cảnh sống và kinh nghiệm
từ bao đời của người dân nơi đây phần nào tạo nên nếp sống hòa đồng cùng
thiên nhiên, đôi khi là sùng bái, tôn thờ rừng sâu nước thẳm – nơi có vô vàn
những loài cây cỏ và động vật hoang dã, đồng thời tìm thấy ở đó những cây và
con đã trở thành thần dược. Các từ ngữ chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền của
dân tộc Nùng không chỉ thể hiện mối quan hệ, tương tác của đồng bào nơi đây
với thiên nhiên miền sơn cước, mà còn thể hiện sự thích ứng, trình độ nhận thức,
tình làng nghĩa xóm của họ, trong cuộc sống còn không ít khó khăn hiện nay.
5. Việc khám phá, sưu tầm và bảo tồn các giá trị truyền thống trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số, ít nhất là từ phương diện Ngôn ngữ học và liên
89
ngành, là một điều vô cùng thú vị và cần thiết. Khi nghiên cứu về ngôn ngữ dân
tộc Nùng có liên quan đến bệnh tật và thuốc thang cổ truyền, còn nhiều nội
dung cần được tiếp tục khám phá: các từ ngữ thuộc loại nói trên ở các địa
phương khác (không chỉ ở Tràng Phái); cách chế biến, bảo quản thuốc thang;
cách phòng chống với từng loại bệnh và những điều kiêng kị khi dùng thuốc;
những nét văn hóa cổ truyền và tâm lí của người Nùng được phản ánh qua các
tên gọi chỉ bệnh tật và thuốc thang cổ truyền…. Với sự trân trọng tiếng Nùng
cùng những tri thức dân gian được phản ánh qua tiếng Nùng, tác giả luận văn
này hi vọng sẽ trở lại với những vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được nghiên cứu
90
sâu sắc nói trên, vào một dịp khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh, Nguyễn Thị Yến (2009), Trường nghĩa ẩm thực trong các bài
báo viết về bóng đá, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7.
2. Lương Thừa Ân (2001), Thuốc quý ở quanh ta, Nxb Phụ nữ.
3. Nguyễn Nhã Bản (2004), Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb Nghệ An, Nghệ An.
4. Diệp Quang Ban (1980), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, tập 1-2, Nxb Giáo
dục, H.
5. Lương Bèn, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Chiến (1971), Góp ý về việc
cải tiến chữ Tày - Nùng, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
6. Lương Bèn - Chủ biên (2009), Slon phuối Tày, Nxb Đại học Thái Nguyên, TN.
7. Lương Bèn - Chủ biên (2011), Từ điển Tày - Việt, Nxb Đại học Thái
Nguyên, TN.
8. Viết Đẳng Bế (1992), Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Nxb Viện dân tộc học.
9. Nguyễn Tài Cẩn (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, H.
10. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
11. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, H.
12. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
13. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2006), Đại cương ngôn ngữ học, Nxb Giáo
dục, H.
14. Nông Minh Châu (1973), Dân ca đám cưới Tày – Nùng, Nxb Việt Bắc.
15. Võ Văn Chi (2011), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học.
16. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt, Nxb
KHXH, H.
17. Mai Ngọc Chừ (CB, 2007), Nhập môn Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.
18. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2001), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
19. Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Văn Hiệp (2009). Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại
91
học quốc gia, H.
20. Nguyễn Hàm Dương (1970), Chức năng xã hội của tiếng Tày - Nùng, Tạp
chí Ngôn ngữ, số 1.
21. Phan Đây (1989), Tính năng bào chế và tác dụng của thuốc nam theo y học
dân tộc, Tài liệu hướng dẫn y học dân tộc cơ sở của Hội Y học dân tộc tỉnh
Khánh Hòa.
22. Lê Sĩ Giáo (2006), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo Dục, H.
23. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H
24. Nguyễn Thiện Giáp (CB, 2000), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.
25. Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
26. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc
gia, H.
27. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.
28. Vi Hồng (1979), Sli, lượn, dân ca trữ tình Tày, Nùng, Nxb Văn Hóa.
29. Bùi Chí Hiếu (1981), 150 cây thuốc Nam thường dùng, Nxb Y học.
30. Nguyễn Văn Hưởng (2012), Toa thuốc đông y cổ truyền Việt Nam, Nxb
Tổng hợp TPHCM.
31. Lê Nguyên Khanh, Nguyễn Thiện Khuyến (1994), Những phương thuốc
kinh nghiệm bí truyền của các ông lang bà mế miền núi, Nxb VHDT.
32. Ngô Văn Khiêm (2002), Đông y – Kinh nghiệm gia truyền, Nxb Y học.
33. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc
Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
34. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày – Nùng, Nxb Văn hóa.
35. Đỗ Tất Lợi (1962), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Y học
36. Đỗ Thị Kim Liên (2007), Trường ngữ nghĩa biểu hiện quan niệm về nữ giới
trong tục ngữ Việt, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6 (140) - 2007).
37. Cung Văn Lược (1992), Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ Việt
Nôm, Đề tài PTS Khoa học Ngữ văn, H.
38. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí (1971), Ngữ pháp tiếng Tày -
92
Nùng, Nxb Khoa học xã hội, H.
39. Hoàng Văn Ma, Mông Kí Slay... (1994), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc
ở Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Ngôn
ngữ học, H.
40. Hoàng Văn Ma, Mông Kí Slay, Hoàng Văn Sán (2002), Sách học tiếng Tày
– Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
41. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (2005), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb Từ
điển bách khoa, H.
42. Trần Thị Mai (2010), Trường từ vựng chỉ không gian trong tập thơ Lửa
thiêng của Huy Cận, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1+2.
43. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.
44. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển, Nxb Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
45. Trần Văn Quảng (1995), Đông dược học thiết yếu, Nxb Mũi Cà Mau.
46. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương
Toàn (1993), Văn hóa truyền thống Tày – Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc.
47. Hoàng Duy Tân, Trần Văn Nhủ (1995), Từ điển phương thang đông y , Nxb
Đồng Nai.
48. Tuệ Tâm (2013), Mẹo vặt Đông y – cây thuốc nam thông dụng và trị bệnh
những phương thuốc hay trong dân gian, Nxb Đồng Nai.
49. Nguyễn Đức Tồn (2002), Đặc trưng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt, Nxb Đại học Quốc gia, H.
50. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục, H.
51. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp
Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
52. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, H
53. Viện dược liệu (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nxb
93
Khoa học và kĩ thuật.
54. Viện Ngôn ngữ học (1972), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
55. Viện Ngôn ngữ học (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
56. Viện Y học cổ truyền Việt Nam (1993), Phương pháp bào chế và sử dụng
thuốc đông dược, Nxb Y học.
57. Trần Quốc Vượng (CB, 2001), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
58. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ
94
(1997), Từ điển giải thích Thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Từ ngữ chỉ bệnh tật trong tiếng Nùng
STT Tiếng Nùng Nghĩa
ay khặc ay khẹp 1 ho gà
2 bả mu động kinh
3 bát phéc noong nhọt vỡ mủ
4 búng phù
5 cài rặm người
6 càng chấp đau cằm
7 càng pa quai bị
cảng pja cà hò hóc xương cá 8
9 chác hắc lào
10 chân ngáy
11 chảng táng hinh nói lạc giọng
12 chấp ăn hèng tùi đau xương đòn
13 chấp bá đau vai
14 chấp càm khẻo hàm răng đau nhức
15 chấp chẳm chảy đau gáy
16 chấp coóc lẻm đau nhức thái dương
17 chấp coóc tha đau khóe mắt
18 chấp cục sloóc đau khuỷu tay
19 chấp đíp phả mừ đau lòng bàn tay
20 chấp đỉu dú phả kha đau nhói gan bàn chân
21 chấp đúc đảm đau xương bả vai
22 chấp đúc đang đau xương đau cốt
95
23 chấp đúc hèng đau cẳng chân
24 chấp đúc kha nhức xương chân
25 chấp đúc lăng đau cột sống
26 chấp đúc mừ nhức xương tay
27 chấp đúc ón đau khớp
28 chấp đúc slẻ đau xương sườn
29 chấp hò đau cổ
30 chấp hu kha đau đầu gối
31 đau đầu chấp hu toỏng óc áy
32 chấp kỹ shai dần đau dây thần kinh
33 chấp lận đau lợi
34 chấp lằn loọc đau quằn quại
35 chấp lù hò đau họng
36 chấp lù xu nhức trong tai
37 chấp mác chủ yếu hầu đau nhức
38 chấp mí khay tha đảy đau không mở được mắt
39 chấp slặc khóa đau thắt lưng
40 chấp slâm tàu đau tim
41 chấp slín lăng đau dọc sống lưng
42 chấp slương shai dần chấn thương thần kinh
43 chấp thủn đúc đang mỏi xương mỏi tủy
44 chấp tình hu đau đỉnh đầu
45 chấp toọng khỉ đau dạ dày
46 chjóc hói
47 dăm chúng nam giẫm phải gai
48 đẳn ngứa
49 đẳn cốc páng ngứa bẹn
96
50 đan đỉn uốn ván
51 đăng bỉ ngạt thở
52 đăng bắt ngạt mũi
53 đang ón ẻn suy nhược cơ thể
54 đảng toót lạnh cóng
55 dặt lảu nghiện rượu
56 dìn caư bong gân
57 dìn kheo caư giãn tĩnh mạch
58 đỉn pay bất tỉnh
59 đúc đỉ lầm lạnh bụng
đưn khảu ăn đi giun chui ống mật 60
61 fàng cáy quáng gà
62 fát sốt
63 fát đảng sốt rét
ha nả héo ngoáng mặt mũi hốc hác 64
héo hăn tằng dìn kheo gầy nổi gân xanh 65
héo mjặt thủn đúc gầy giơ xương 66
67 héo nghính còi nhom
68 hu chấp đau đầu
69 hu phjác chảy máu đầu
70 hua pền loản chốc đầu
71 kèng kha nái mỏi cẳng chân
72 kèng kha tắc cẳng chân bị gãy
73 kha chấp đau chân
74 kha mừ kho ngoóng tay chân co quắp
75 kha mửn mèo tê chân
76 kha nái mỏi chân
97
77 kha tắc gãy chân
78 kha tín taư chai chân
79 khẩn năng oón lên da non
80 khẩn tha pja mọc mụn
81 khát mừ đứt tay
82 khảy chấp ốm yếu
kheng mừ kheng kha tay chân cứng đờ 83
84 kheng thủn càng cứng hàm
85 khẻo chấp đau răng
86 khẻo hòn răng lung lay
87 khẻo khiết nghiến răng
88 khẻo lưng tưc vàng răng
89 khẻo ma hòn răng nanh lung lay
90 khẻo mèng răng sâu
91 khẻo slút hòn đau do mọc răng khôn
92 khẻo tu hòn răng cửa lung lay
93 khẻo tu mèng sâu răng cửa
94 khẻo vài hòn răng hàm lung lay
95 khẻo vài mèng sâu răng hàm
96 khỉ lì đi ngoài
97 khỉ phằn cao răng
98 khiếp khấp rết cắn
99 khít ghẻ
100 khít mì hìn sài sỏi mật
101 khiu lặc lẹ hôi nách
102 khiu xào tanh hôi
103 khỏ dú mệt mỏi
98
104 kho khoót co giật
105 khỏ sliu khó tiêu
106 kho tao chuột rút
107 khửn coỏng lên lẹo
khửn coỏng dú tha sla lên lẹo ở mắt phải 108
khửn coỏng dú tha slại lên lẹo ở mắt trái 109
110 khửn han lên sởi
111 khửn mác nặm lên thủy đậu
112 khửn teng lên đinh
khửn teng tình hua lên đinh ở đầu 113
114 làn bỏng
115 lăng chấp đau lưng
116 lăng nái mỏi lưng
117 lăng tắc gãy lưng
118 lảu màu say rượu
119 lịn chấp đau rát lưỡi
120 loẹt mình cầm hơi
121 lòi cắm tình nả vết thâm trên má
122 lòi chấp slảy lòi ruột
123 lòi chíp ngài lừ vết thương bị nhiễm trùng
124 lử loét
125 lục nu nổi hạch
126 lục pút fàng đục thủy tinh thể
127 lung nạm lá lách to
128 lựt đăng phú chảy máu cam
129 lựt khấp rệp cắn
130 ma khấp chó cắn
99
131 mác dui dày suy thận
132 mai chàm
133 mần đoót rận cắn
134 mật đoót kiến cắn
135 mắt khấp bọ chó cắn
136 mật mèng đoót côn trùng đốt
137 mèng đeng đoót bọ đỏ cắn
138 mèng đoót ruồi muỗi đốt
139 mèng kèng đoót bọ xít cắn
mèng kèng nèo khảu tha bọ xít đái vào mắt 140
141 mèng mặt da đồi mồi
142 mèng nhùng đoót muỗi đốt
143 mèng xung nhiễm trùng
mèng xung slảy nhiễm trùng đường ruột 144
145 mì đưn nhiễm giun
146 mì khảu slan nhiễm sán
147 mì ngạp có đờm
148 mí ngòi đảy quay cận thị
149 mí noòn đảy mất ngủ
150 mì noong có mủ
151 mí tùng bất động
152 mừ chấp đau tay
153 mừ kha cản rạt tay chân gân guốc
154 mừ kha cắt chích chân tay lạnh ngắt
155 mừ nái mỏi tay
156 mừ tắc gãy tay
157 mừ tín taư chai tay
100
158 mừ toót buốt tay
mục lài 159 sổ mũi
múc mẳn 160 kiết lị
múc quẳn 161 cồn ruột
nả đeng tựt 162 mặt đỏ bừng
nả kheo meng 163 mặt xám ngắt
nả lương méng 164 mặt mũi xanh xao
nả ngài caư 165 mặt sưng vù
nả pín sắc 166 mặt trắng bệch
nái cục sloóc 167 tê mỏi khuỷu tay
nái đúc đảm 168 tê mỏi xương bả vai
nái đúc đẳm 169 mỏi sống lưng
nái đúc kha 170 mỏi khớp chân
nái đúc lăng 171 mỏi đằng sau
nái đúc mừ 172 mỏi khớp tay
nái hu kháu 173 mỏi gối
nái lăng bá 174 mỏi vai
nái slặc khóa 175 mỏi vùng xương thắt lưng
nài slau dì 176 chảy giãi
nái slín lăng 177 mỏi lưng
178 nái thủn đúc đang nhức mỏi mỏi cốt
nam pà 179 gai cào
năng đẳn 180 ngứa ngoài da
năng khao xac 181 da trắng bệch
năng kheo 182 da vàng vọt
năng nự mại 183 da dẻ nhợt nhạt
184 năng nự oón pọi thịt nhão
101
185 náp kha bị nghiến chân
186 náp mừ bị nghiến tay
187 nèo nỉu đái dắt
188 ngạc slu nghễnh ngãng
189 ngài mùi kha liệt chân
190 ngài mùi mừ liệt tay
ngai mùi mừ kha liệt cả chân cả tay 191
192 ngài phát ốm
193 ngoày nghẹt gầy còm
194 ngù cáp tan khấp rắn cạp nia cắn
195 ngù hâu khấp rắn hổ mang cắn
ngù khẳng khiếp khấp rắn rết cắn 196
ngù kheo khấp rắn xanh cắn 197
ngù khoóp đúng khấp rắn cạp nong cắn 198
199 ngù khuýt khấp rắn ráo cắn
200 ngù nặm khấp rắn nước cắn
201 ngù toọc khấp rắn độc cắn
202 noon cài da chạm phải sâu
203 noon mèng cài dặm sâu bệnh
204 noon nhảng cài dặm sâu róm
205 nự héo khô da
206 nự mì noon nhiễm trùng có giòi
207 nủ náng nhăn nheo
208 nự slỉnh slim da nhạy cảm
209 oóc lựt thổ huyết
210 oón pet da xanh mét
211 pác ả oáp miệng bị há
102
212 pác chấp nhiệt miệng
213 pác khửn teng lên đinh râu
214 pác nẻo méo mồm
215 pác vặm câm
216 pâm đứt nóng trong
217 pây múc tháo dạ
218 pền lăng phát ban
219 pền mác đậu mùa
220 phảy trâu cứt trâu
221 phéc slèo nứt nẻ
222 phen đoót ong đốt
223 phi nhặn bóng đè
224 phi pác cắm bấc môi tím ngắt
225 phi pác đớt nhiệt miệng
226 phít hứ nổi rôm
227 phjác chấp trán bị đau
228 phjâm đeng tóc hung
229 phjâm lưng đeng tóc vàng hoe
230 phjâm mì cáy kép tóc có gầu
231 phjẻo sẹo
232 phú slứng tàn phế
233 pi nự đẳn chíp viêm cơ địa
234 pi nự toọng chíp viêm cơ bụng
235 pi pựt bệnh béo phì
236 pìn slu trứng cá
237 pìn thang tê thấp
238 pinh cò ai bướu cổ
103
239 pót caư sưng phổi
pót chấp đau phổi 240
pót tâừ nhả toọc phổi nhiễm độc 241
242 què lặc thọt
243 sắp tận buồn nôn
244 slâm tàu ón suy tim
245 slăn hắt hơi
246 slảy quẩn chòn lòi dom, trĩ ngoại
247 slảy slít đau ruột thừa
248 slem slep hơi buốt
249 slu chấp đau tai
250 slu nắc nặng tai
251 slu núc tai điếc
252 slúc noong mưng mủ
253 slúc noong slai hò viêm phế quản
254 tắc đúc hò gãy xương cổ
255 tắc đúc pi kha gãy xương đùi
256 tắc đúc slẻ gãy xương sườn
257 tầm nèo đái dầm
258 tận nôn mửa
259 tận lựt hộc máu
260 tắp slảy taư dả tooc gan nhiễm độc
261 taư dả toọc nhiễm thuốc độc
262 taư nhả nhiễm độc
263 taư nhả toọc bị nhiễm độc
264 tha boòng boòng mắt sưng húp
265 tha chấp đau mắt
104
266 tha đeng đau mắt đỏ
267 tha fàng mù mắt
268 tha fàng pạng sla mù mắt phải
269 tha fàng pạng slại mù mắt trái
270 tha lài mắt kém
271 tha lử mắt lác
272 tha phục xác mắt trắng dã
273 tha quan noòn mí đảy mắt hõm vì ngủ không được
274 tha slẳm rộp mắt kèm nhèm
275 tháo bao thổ tả
276 thau đoót chấy cắn
277 thư chaư ngạt thở
278 thúc lầm cảm gió
279 ti chấp lư oóc quảng vết thương lở loét
280 tì nhùng đoót nốt muỗi đốt
281 tó đoót ong đốt
282 tốc dan giật mình
283 toọng chấp đau bụng
284 toọng chấp hưng đau dạ dày mãn tính
285 toọng khỉ lay lựt chảy máu dạ dày
286 toọng ón yếu dạ
287 toọng pảng củn khỉ slot bụng ỏng đít beo
288 toọng pảng lung báng bụng
289 toọng pè chướng bụng
290 toọng slảy mí đay bụng dạ không tốt
291 tụp bảu câừ đánh bươu đầu
292 xắc ức nấc
105
293 xưng cầu lo thư cẩu viêm nhiễm đường hô hấp
xưng cầu pót viêm phổi 294
xưng cầu shai hò viêm họng 295
xung cầu slu viêm tai 296
xưng cầu tắp slảy viêm gan 297
xưng cầu toọng khỉ viêm dạ dày 298
106
xưng cầu toọng neo viêm bàng quang 299
PHỤ LỤC 2: Từ ngữ chỉ thuốc thang trong tiếng Nùng
STT Tiếng Nùng Nghĩa
1 baư bại trận lá răng cưa
2 baư bàn tay ma lá bàn tay ma
3 baư bẩu mạt lá mạt tiêu
4 baư bjoóc phjức lá phiếu
5 baư bjoóc quí lá dâm bụt
6 baư bưởi bung lá bưởi bung
7 baư cải pao lá cải bắp
8 baư cam lài lá giải gan
9 baư cam màu lá cam mã tẩu
10 baư càng lượt lá huyết dụ
11 baư cảu ngàu lực lá khúc khắc
12 baư chạ kham lá diệp hạ châu
13 baư chạ khảu cắm lá dạ cẩm dại
14 baư chạ khau khao lá cẩm trắng
15 baư chạ khảu mảy lá cơm cháy
16 baư chạ lỏm lá tràm dại
17 baư chạ mác chanh lá chanh rừng
18 baư chạ vạy mèo lá cỏ xước dại
19 baư chăng ma lá hối hạt
20 baư cờ lạng lá cờ lạng
21 baư cốc đầu lá đậu cọc rào
22 baư coóc bẻ lá thảo quyết minh
23 baư cốt khí lá cốt khí
107
24 baư cút đăm lá dương xỉ đen
25 baư cút may lá thòng boong
26 baư dang pinh lá đỗ trọng
27 baư đau nhá lá tất bạt
28 baư diều lùng lá chuối hoa đỏ
29 baư đúc lình lá xương khỉ
30 baư giải độc lá giải độc
31 baư giàu khao lá củ nâu trắng
32 baư gioóc máy lá nhân trần
33 baư hà péc lá sả
34 baư hằng ca lá tổ diều
35 baư hảu vài lá tai chua
36 baư hò pinh lá thóc lép
37 baư hoàn ngọc lá con khỉ
38 baư hoàng bá lá hoàng bá
39 baư hoàng kỳ lá hoàng kỳ
40 baư hoàng nghiệt lá hoàng nghiệt
41 baư hoàng tinh lá hoàng tinh
42 baư hồng bối quế ngủ lá đơn nước
43 baư hồng phja lá hồng rừng
44 baư kha cáy lá chân gà núi
45 baư kha pất lá chân vịt đỏ
46 baư khao lá trắng
47 baư khau dưng lá bồ khai
48 baư khau tóm lá tiết dê
49 baư khẻo xay lá cối xay
50 baư khỉ bẻ lá cứt dê
108
51 baư khỉ mu lá cứt lợn
52 baư kim xương lá kim xương
53 baư loỏng phù chăm lá xuyên tiêu
54 baư lừa cà lá ích trí nhân
55 baư lùng lá cây gạo
56 baư mác cà nam lá cà dại hoa tím
57 baư mác căng lá găng trâu
58 baư mác cằng lá tu hú
59 baư mác chỉ lá quýt
60 baư mác dử đông lá dứa dại
61 baư mác ít cáy lá nho dại
62 baư mác kham lá chua me
63 baư mác khắt lương lá ké hoa vàng
64 baư mác khuổi lá chua ngút
65 baư mác làng cây lá rành rành
66 baư mác mặt rườn lá hồng bì
67 baư mác mùm lá lạc tiên
68 baư mác muổi lá dây gắm
69 baư mác nâm lá sim
70 baư mác nam cằng lá găng mỏ quạ
71 baư mác nạng lá mề gà
72 baư mác nát vài lá mua đỏ
73 baư mác nẻng lá sa nhân
74 baư mác ngòa lá vả
75 baư mác pẻo khô lá chỉ xác
76 baư mác phất phja lá ớt rừng
77 baư mác pục lá bưởi
109
78 baư mác quyn lá bồ quân
79 baư mác rể phạ lá cà gai leo
80 baư mác sùng lá thầu dầu tía
81 baư mác tào lá đào
82 baư mác tèng lá bỏng nổ
83 baư mác tum lá mâm xôi
84 baư mác xà dù lá thầu dầu
85 baư mác xáy lá mướp đắng
86 baư mằn mi lá củ gấu
87 baư mận tà là lá cà độc dược
88 baư mạy cáy lá tre
89 baư mạy lùm kheo lá ngũ gia bì
90 baư mạy lùm khuân lá đa lông
91 baư mạy mục tâm lá mục đất
92 baư mạy sau đeng lá sâu sau đỏ
93 baư mạy tẹng khảu lá phèn đen
94 baư mỉ mỏ lá nhọ nồi
95 baư mí rò lá mí rò
96 baư mjàu lá trầu
97 baư moọn lá dâu tằm
98 baư nả nhen lá trinh nữ
99 baư nạn kép lá xạ hương
100 baư nhả chiến lá bạch hoa xà
101 baư nhả đơn đeng lá đơn đỏ
102 baư ỏi lá ổi
103 baư pặc hòm đeng lá mồng gà tía
104 baư pán lá gai
110
105 baư phải phi lá vông vang
106 baư phằn cứ lá răng bừa
107 baư phăng xa lá đào dại
108 baư phen phja lá dưa chuột rừng
baư phjắc liếp đông lá bồ công anh 109
110 baư phjắc pát lá lốt
111 baư phjắc van phja rau ngót rừng
112 baư phjắc van rườn lá rau ngót
113 baư pòng pì đeng lá xích đồng nam
114 baư pục lá bưởi non
115 baư quan âm lá ngũ bội tử
116 baư quế lá quế
117 baư sáo mộc cây vang
118 baư sen lá sen
119 baư slam véng lá ba chẽ
120 baư tài phung lá đại bi
121 baư tảng nam lá đơn châu chấu
122 baư tảo tẩn lá hòi thầu
123 baư tặp niếng lá bồ cu vẽ
124 baư tất ma đèng lá mơ lông đỏ
125 baư tày mạ lá móng ngựa
126 baư tha luồng lá huy thiên thảo
127 baư thạch phung lá cúc tần
128 baư thúa páp đèng lá đậu ván đỏ
129 baư thương nhĩ lá ké đầu ngựa
130 baư tiềm chằng lá chấm cân
131 baư tin pét lá vú sữa
111
132 baư tỏng kìm vài lá gối hạc trâu
133 baư toong chính đèng lá dong đỏ
134 baư toong hóc lá ngoi
135 baư toong pù lá chút chít
136 baư trạ mác bao lá trạ mác bao
137 baư tu lình đeng lá hoàn ngọc đỏ
138 baư vạt riêng lá thiên niên kiện
139 baư viễn sinh lá bỏng
140 baư xà lá chè
141 baư xà phòng lá đòn gánh
142 baư xoong linh lá điền thanh
143 baư xu nu lá tai chuột
144 bjoóc bại trận hoa răng cưa
bjoóc bàn tay ma hoa bàn tay ma 145
146 bjoóc baư khao hoa lá trắng
147 bjoóc bẩu mạt hoa mạt tiêu
148 bjoóc bjoóc quí hoa dâm bụt
149 bjoóc bưởi bung hoa bưởi bung
150 bjoóc cảu ngàu lực hoa khúc khắc
151 bjoóc chăng ma hoa hối hạt
152 bjoóc cúc hoa cúc
153 bjoóc củi múi hoa chuối hột
154 bjoóc củi phja hoa chuối rừng
155 bjoóc cút may hoa thòng boong
156 bjoóc đau nhá hoa tất bạt
157 bjoóc diều lùng hoa chuối hoa đỏ
158 bjoóc gioóc máy hoa nhân trần
112
159 bjoóc hằng ca hoa tổ diều
160 bjoóc hò pinh hoa thóc lép
161 bjoóc hồng hoa hồng
162 bjoóc kha cáy hoa chân gà núi
163 bjoóc kha pất hoa chân vịt đỏ
164 bjoóc khẻo xay hoa cối xay
165 bjoóc khỉ bẻ hoa cứt dê
166 bjoóc kim xương hoa kim xương
167 bjoóc loỏng phù chăm hoa xuyên tiêu
168 bjoóc lùng hoa gạo
169 bjoóc lương sài đất
170 bjoóc mác làng hoa cau
171 bjoóc mác làng cây hoa rành rành
172 bjoóc nả nhẻn hoa trinh nữ
173 bjoóc pặc hòm đeng hoa mồng gà tía
174 bjoóc phằn cứ hoa răng bừa
175 bjoóc phjắc liếp đông hoa bồ công anh
176 bjoóc phjắc van phja hoa rau ngót rừng
177 bjoóc phjức hoa lá phiếu
178 bjoóc pòng pì đeng hoa xích đồng nam
179 bjoóc pục hoa bưởi
180 bjoóc quí hoa dâm bụt
181 bjoóc slam véng hoa ba chẽ
182 bjoóc tào hoa đào
183 bjoóc tha luồng hoa huy thiên thảo
184 bjoóc thương nhĩ quả ké đầu ngựa
185 bjoóc trạ mác bao hoa trạ mác bao
113
186 bjoóc vạt riêng hoa thiên niên kiệu
187 bjoóc xà phòng hoa đòn gánh
188 bjoóc xu nu hoa tai chuột
189 cá lá su hào
190 cáng baư khao cành lá trắng
191 cáng bẩu mạt lá mạt tiêu
192 cáng bjoóc phjức cành lá phiếu
193 cáng bjoóc quí cành dâm bụt
194 cáng cam lài cành giải gan
195 cáng cam màu cành cam mã tẩu
196 cáng chạ khảu cắm cành dạ cẩm dại
cáng chạ khau khao cành dạ cẩm trắng 197
198 cáng chạ khảu mảy cành cơm cháy
199 cáng chạ lỏm cành chàm dại
200 cáng chạ vạy mèo cành cỏ xước dại
201 cáng chăng ma cành hối hạt
202 cáng co pán cành gai
203 cáng coóc bẻ cành thảo quyết minh
204 cáng cốt khí cành cốt khí
205 cáng cút đăm cành dương xỉ đen
206 cáng cút may cành thòng boong
207 cáng dang pinh cành đỗ trọng
208 cáng đúc lình cành xương khỉ
209 cáng giải độc cành giải độc
210 cáng gioóc máy cành nhân trần
211 cáng hằng ca cành tổ diều
212 cáng hảu vài cành tai chua
114
213 cáng hoàn ngọc cành con khỉ
214 cáng hoàng bá cành hoàng bá
215 cáng hoàng kỳ cành hoàng kỳ
216 cáng hoàng nghiệt lá hoàng nghiệt
217 cáng hoàng tinh cành hoàng tinh
cáng hồng bối quế ngủ lá đơn nước 218
219 cáng hồng phja cành hồng rừng
220 cáng khắt lương cành ké hoa vàng
221 cáng khẻo xay cành cối xay
cáng loỏng phù chăm cành xuyên tiêu 222
223 cáng lừa cà cành ích trí nhân
224 cáng mác căng cành găng trâu
225 cáng mác cằng cành tu hú
226 cáng mác chỉ cành quýt
227 cáng mác kham cành chua me
228 cáng mác khuổi cành chua ngút
229 cáng mác làng bẹ cau
230 cáng mác làng cây cành rành rành
231 cáng mác mặt rườn cành hồng bì
232 cáng mác muổi cành dây gắm
233 cáng mác nâm cành sim
234 cáng mác nam cằng cành găng mỏ quạ
235 cáng mác nạng cành mề gà
236 cáng mác nát vài cành mua đỏ
237 cáng mác nẻng cành sa nhân
238 cáng mác ngòa cành vả
239 cáng mác pẻo khô cành chỉ xác
115
240 cáng mác pục cành bưởi
241 cáng mác sùng cành thầu dầu tía
242 cáng mác tèng cành bỏng nổ
243 cáng mác tum cành mâm xôi
244 cáng mận tà là cành cà độc dược
245 cáng mạng tèng khảu cành phèn đen
246 cáng mạy lùm kheo cành ngũ gia bì
247 cáng mạy lùm khuân cành đa lông
248 cáng mạy mừ cành xoan trà
249 cáng mạy mục tâm cành mục đất
250 cáng mạy sau đeng cành sâu sau đỏ
251 cáng mí rò cành mí rò
252 cáng moọn cành dâu tằm
253 cáng nả nhẻn cành trinh nữ
254 cáng nạn kép cành xạ hương
255 cáng nhả chiến cành bạch hoa xà
256 cáng nhả đơn đeng cành đơn đỏ
257 cáng pặc hòm đeng cành mồng gà tía
258 cáng phằn cứ cành răng bừa
259 cáng phăng xa cành đào dại
260 cáng phjắc liếp đông cành bồ công anh
261 cáng phjắc pát thân lá lốt
262 cáng pòng pì đeng cành xích đồng nam
263 cáng quan âm cành ngũ bội tử
264 cáng sáo mộc cành cây vang
265 cáng slam véng cành ba chẽ
266 cáng tài phung cành đại bi
116
267 cáng tảng nam cành đơn châu chấu
268 cáng tảo tẩn cành hòi thầu
269 cáng tặp niếng cành bồ cu vẽ
270 cáng tày mạ cành móng ngựa
271 cáng tha luồng cành huy thiên thảo
272 cáng thúa páp đèng cành đậu ván đỏ
273 cáng thương nhĩ cành ké đầu ngựa
274 cáng tiềm chằng cành chấm cân
275 cáng tin pét cành vú sữa
cáng tỏng kìm vài cành gối hạc trâu 276
cáng toong chính đèng cành dong đỏ 277
278 cáng toong hóc cành ngoi
279 cáng toong pù cành chút chít
280 cáng trạ mác bao cành trạ mác bao
281 cáng tu lình đeng cành hoàn ngọc đỏ
282 cáng vạt riêng cành thiên niên kiện
283 cáng xoong linh cành điền thanh
284 cáng xu nu cành tai chuột
285 cao lình cao khỉ
286 cao slư cao hổ
287 cảu tích cóc tía
288 chỉ slo tía tô
289 choóp lìm kheo nấm lim xanh
290 cóoc tủm sâm nhung
291 cư muối
292 đi slat ngù nọc rắn
293 dù mác chác dầu hồi
117
294 dù mác đứa nhựa sung
295 dù ngà dầu vừng
296 đúc slư xương hổ
297 giàu khao củ nâu trắng
khau chạ mác chanh dây chanh rừng 298
299 khau cườm cam thảo
300 khau kha pất dây chân vịt đỏ
301 khau kim xướng dây kim xương
302 khau mác ít cáy dây nho dại
303 khau mác rể phạ dây cà gai leo
304 khảu nu gạo nếp
305 khau phen phja dây dưa chuột rừng
306 khau tất ma đèng dây mơ lông đỏ
307 khau tóm dây tiết dê
308 khau xà phòng dây đòn gánh
309 khinh gừng
310 khinh đăm nghệ đen
311 khinh đeng nghệ vàng
312 khinh khao nghệ xanh
313 khính trạng gừng dại
314 khinh xa giềng núi
315 khít mi mật gấu
316 khít pất mật vịt
317 lạc bjoóc quí rễ dâm bụt
318 lạc cam lài rễ giải gan
319 lạc chạ kham rễ diệp hạ châu
320 lạc chạ khảu cắm rễ dạ cẩm dại
118
321 lạc chạ khảu mảy rễ cơm cháy
322 lạc cốc đầu rễ đậu cọc rào
323 lạc cốt khí rễ cốt khí
324 lạc hoàn ngọc rễ con khỉ
325 lạc khau dưng rễ bồ khai
326 lạc khau tóm rễ dây tiết dê
327 lạc khẻo xay rễ cối xay
328 lạc khỉ bẻ rễ cứt dê
329 lạc mác mùm rễ lạc tiên
330 lạc mác muổi dây gắm
331 lạc mác nâm rễ sim
332 lạc mác nẻng rễ sa nhân
333 lạc nả nhẻn rễ trinh nữ
334 lạc nhả lung rễ cỏ tranh
335 lạc phjắc pát rễ lá lốt
336 lằm khảu cám gạo
337 lào mỡ lợn
338 lào tang mỡ trăn
339 lảu rượu
340 lợi mè ích mẫu
341 loóc ngù xác rắn
342 mạ đề mã đề
343 mác cà nam quả cà dại hoa tím
344 mác cấc quả gấc
345 mác cam quả cam
346 mác chác hoa hồi
347 mác chanh quả chanh
119
348 mác chẻ cà chua
349 mác chi quả vải
350 mác chỉ quả quýt
351 mác củi múi quả chuối hột
352 mác củi phja quả chuối rừng
353 mác dử quả dứa
354 mác dử đông quả dứa dại
355 mác đứa quả sung
356 mác hồng phja quả hồng rừng
357 mác khắt lương quả ké hoa vàng
358 mác lì quả lê
359 mác mận tà là quả cà độc dược
360 mác mặt rườn quả hồng bì
361 mác mòi quả mơ
362 mác na quả na
363 mác nam quả mít
364 mác nhàn quả nhãn
365 mác phất phja quả ớt rừng
366 mác phen phja quả dưa chuột rừng
367 mác pục quả bưởi
368 mác pùng slung quả đu đủ
369 mác quyn quả bồ quân
370 mác rể phạ quả cà gai leo
371 mác trằng mồng tơi đỏ
372 mác tum quả mâm xôi
373 mác xáy mướp đắng
374 mằn bủng khoai lang
120
375 mằn cát sắn dây
376 mằn củi củ chuối
377 mằn đẳn khoai ngứa
378 mằn gió củ gió
379 mằn kép củ mài
380 mằn mi củ gấu
381 mằn sa trong củ địa liền
382 mằn vạt vẹo củ ráy
383 mạy siếc cây sậy
384 mèng thưưng mật ong
385 mỉ mỏ cỏ nhọ nồi
386 mừ mi tay gấu
387 múi coóc bẻ hạt thảo quyết minh
388 múi củi múi hạt chuối hột
389 múi củi phja hoa chuối rừng
390 múi mác cấc hạt gấc
391 múi mác làng hạt cau
392 múi mác pục hạt bưởi
393 múi mác xáy hạt mướp đắng
394 múi ngà hạt vừng
395 múi phằn qua hạt bí xanh
396 múi qua hạt bí
397 mum khảu táy râu ngô
398 nam hẻo ráy nước
399 nặm mí giấm
400 nầm tó tàu sữa ong chúa
401 nhả đeng ngải đỏ
121
402 nhả khao ngải trắng
403 nhả ngài ngải cứu
404 nục cu chim bồ câu
405 ỏi mía
406 phằn qua bí xanh
407 phiu mạy cáy cật tre
408 phjắc hom rau mùi
409 phjắc kép rau hẹ
410 phjắc khuýt bồ kết
411 phjắc lào lục rau tàu bay
412 phjắc xèn rau má
413 phjum dủng dẳng tóc rối
414 pja chép cá chép
415 pước co lùng vỏ thân cây gạo
416 pước co quế vỏ cây quế
417 pước mác cam vỏ cam
418 pước mác chanh vỏ chanh rừng
419 pước mác chỉ vỏ quýt
420 pước mác pục vỏ bưởi
421 pước mạy mừ vỏ cây xoan trà
422 pước pục vỏ bưởi
423 pước tin pét vỏ vú sữa
424 pước trầm vỏ trầm
425 qua đeng bí đỏ
426 sâm kha cáy sâm chân gà
427 sâm mạc cần sâm hình người
428 slam lài sâm một lá
122
429 sli fạ tầm gửi
slún 430 tỏi
slún fạ 431 tỏi trời
thì là 432 thì là
thú đăm 433 đậu đen
thú hẳng 434 đỗ tương
thú kheo 435 đỗ xanh
thú phường 436 đậu rồng
thú tâm 437 lạc
thúa páp đèng 438 đậu ván đỏ
thưưng slai 439 đường cát
toọng khỉ mỉn 440 dạ dày nhím
toọng khỉ mu 441 dạ dày lợn
tu đưn 442 giun
tu lựt 443 rệp
tủm lừn 444 sâm nhà
vì phi 445 rẻ quạt
123
xáy cáy 446 trứng gà
Khung cảnh xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn
(Nguồn: Báo Lạng Sơn)
Thầy thuốc Đỗ Văn Quân
(Nguồn: Tác giả)
Thầy thuốc Đỗ Văn Quân cung cấp tư liệu cho tác giả luận văn
124
(Nguồn: Tác giả)
Cảnh phơi thuốc
125
(Nguồn: Tác giả)
Bìa sách Danh mục cây và bài thuốc bản địa
126
(Nguồn: Tác giả)