ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HOA
TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN
TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
Mã số: 8.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TÚ QUYÊN
THÁI NGUYÊN- 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả Nguyễn Thị Hoa
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Nguyễn Tú Quyên, người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong và ngoài trường Trường Đại học
Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa
học.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn hữu,
đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Thị Hoa
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... v
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 3
6. Đóng góp mới của luận văn ...................................................................................... 4
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT .............................................................................. 5
1.1. Khái quát về thiên nhiên ........................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 5
1.1.2. Phân loại thiên nhiên .......................................................................................... 6
1.2. Khái quát về từ loại tiếng Việt ............................................................................... 9
1.2.1. Khái niệm ............................................................................................................ 9
1.2.2. Hệ thống từ loại tiếng Việt ................................................................................. 9
1.3. Vài nét về tác giả Trần Đăng Khoa và “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” ................ 22
1.3.1. Tác giả Trần Đăng Khoa ................................................................................... 22
1.3.2. “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” .......................................................................... 24
1.4. Tiểu kết ................................................................................................................ 24
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
TRẦN ĐĂNG KHOA ............................................................................................... 26
2.1. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực ................................................................... 27
2.1.1. Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên .................................................................. 28
2.1.2. Các từ ngữ chỉ động vật .................................................................................... 30
2.1.3. Các từ ngữ chỉ thực vật ..................................................................................... 35
2.1.4. Các từ ngữ chỉ thời gian .................................................................................... 40
iii
2.1.5. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên ....................................................................... 43
2.2. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa ................... 49
2.2.1. Đại từ nhân xưng .............................................................................................. 49
2.2.2. Danh từ (cụm danh từ) ...................................................................................... 51
2.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 58
Chương 3: VAI TRÒ CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN TRONG
THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA ..................................................................................... 60
3.1. Vai trò trong việc khắc họa toàn cảnh bức tranh làng quê đồng bằng Bắc bộ
Việt Nam .......................................................................................................... 60
3.1.1. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phong phú và đa dạng ...... 60
3.1.2. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam đẹp và sinh động ........... 70
3.2. Vai trò thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên ..................................... 72
3.3. Vai trò trong việc góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả ............ 78
3.3.1. Biện pháp nhân hóa........................................................................................... 78
3.3.2. Biện pháp ẩn dụ, hoán dụ ................................................................................. 92
3.4. Tiểu kết ................................................................................................................ 96
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các tiểu loại danh từ ............................................................................... 16
Bảng 2.1. Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa ................................ 26
Bảng 2.2. Số lượng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa .... 27
Bảng 2.3: Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên ......................................................... 28
Bảng 2.4: Số lượng các từ ngữ chỉ động vật ........................................................... 31
Bảng 2.5: Tên gọi các loài động vật ........................................................................ 31
Bảng 2.6: Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật....................................................... 34
Bảng 2.7: Số lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ thực vật ....................... 35
Bảng 2.8: Tên các loài thực vật ............................................................................... 36
Bảng 2.9: Tên gọi các bộ phận của thực vật ............................................................ 37
Bảng 2.10: Các từ ngữ chỉ thời gian .......................................................................... 40
Bảng 2.11: Số lượng và tần số xuất hiện chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần
Đăng Khoa .............................................................................................. 43
Bảng 2.12: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời ........................... 43
Bảng 2.13: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất ............................ 45
Bảng 2.14: Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa ...... 49
Bảng 2.15: Các từ ngữ là đại từ nhân xưng được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên ..... 49
Bảng 2.16: Các từ ngữ là danh từ (cụm danh từ) được sử dụng lâm thời để chỉ
thiên nhiên ............................................................................................... 52
Bảng 2.17: Các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên.................. 52
Bảng 2.18: Các cụm danh từ hỗn hợp được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên ......... 55
v
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nếu giai điệu âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc, mảng khối là ngôn ngữ của
kiến trúc, màu sắc đường nét là ngôn ngữ của hội hoạ thì ngôn ngữ đích thực là chất
liệu của tác phẩm văn chương. Như Macxi Gorki đã từng nói: Ngôn ngữ là yếu tố thứ
nhất của văn học. Muốn khám giá trị của một tác phẩm văn học, yếu tố đầu tiên và
quyết định chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học là một bức tranh đa màu sắc, chứa
nhiều điều bí ẩn và hấp dẫn luôn thu hút sự khám phá của người đọc, người nghiên
cứu. Ngôn ngữ vừa là chất liệu tạo nên tác phẩm, nhưng cũng vừa là phương tiện để
qua đó người đọc cảm nhận được cái hay, vẻ đẹp của tác phẩm đó. Có lẽ, đó là một
trong những lí do khiến xu hướng dạy theo quan điểm tích hợp ngữ - văn đang được đề
cao như hiện nay. Lí thuyết về ngôn ngữ trong đó có lí thuyết về từ loại càng được quan
tâm ứng dụng vào nghiên cứu tác phẩm, góp phần giải mã tín hiệu ngôn ngữ ở một
dạng đặc biệt - ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì vậy, khi đi nghiên cứu lí thuyết về từ
ngữ trong quan hệ với phân tích tác phẩm văn học cũng nằm trong xu hướng chung đó.
1.2. Thần đồng thơ Trần Đăng Khoa, cái tên không chỉ được nhắc nhiều trên thi
đàn Việt mà còn có sức lay động đến nhiều bạn bè trên thế giới. Từ lâu thơ Trần Đăng
Khoa đã đi vào tiềm thức của bao thế hệ thiếu nhi. Những vần thơ trong trẻo, hồn nhiên,
ngộ nghĩnh vô cùng tươi vui, gắn bó sâu sắc với con người, cảnh vật, thiên nhiên,
quê hương, đất nước trở thành một dấu ấn khó phai mờ trong tâm hồn tuổi thơ. Đọc
thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về một vùng
quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người dưới con mắt
trẻ thơ thông minh đã đi vào thơ một cách sinh động đầy sáng tạo.
1.3. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ ông. Tuy nhiên về
phương diện từ ngữ, một phương diện quan trọng ảnh hưởng trực tiếp, ghi dấu trực tiếp
bút pháp thi ca của nhà thơ thì chưa được chú ý nhiều. Chính vì thế, chúng tôi đã chọn
đề tài “Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa”. Việc chọn đề tài này giúp
cho chúng ta hiểu biết thêm về cách dùng từ của nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng như
trang bị cho người viết ít nhiều hành trang tiếp cận các tác phẩm khác trong nền văn
1
học Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
“Đọc thơ Trần Đăng Khoa” Phạm Hổ thấy có cả một thế giới tình cảm
ở đó. Thơ Trần Đăng Khoa chủ yếu viết bằng tình cảm, bằng lòng yêu thương…Yêu
thương từ cây cỏ đến loài vật, từ người thân trong nhà đến bà con trong làng. Từ Bác
Hồ kính yêu đến các thầy cô giáo, các bạn bè cùng lớp…, các anh bộ đội các cô bác
công nhân đào than…Một trong những yếu tố giúp Trần Đăng Khoa có được cái riêng,
từ những quan sát nhỏ đến những tình cảm, những ý nghĩ lớn, đó là sức liên
tưởng phong phú và mạnh mẽ.
Vân Thanh đã khái quát về nội dung và giá trị của thơ Trần Đăng Khoa,
cùng với tình yêu thơ, khao khát được làm thơ mãi mãi: “Thơ Khoa, những dòng thơ
tươi mát, hồn nhiên, những dòng ấm áp tình người, đã làm tăng lên trong người đọc
tình yêu quê hương và lòng tự hào dân tộc” [76,tr.126]. Và chính trong cuốn “Văn
học thiếu nhi như tôi đươc biết” Vân Thanh cho rằng Trần Đăng Khoa biết lắng
nghe, quan sát những gì xảy ra xung quanh, làm cho cảnh vật dưới ngòi bút của ông
có hình nét và cả tâm hồn: “Thơ Khoa nắm bắt được nhiều màu sắc âm thanh, hương vị
của thế giới bên ngoài, của thiên nhiên, hoa cỏ, của sinh hoạt quê hương, đồng nội.
Em biết lắng nghe những gì đã xảy ra quanh mình. Cảnh vật dưới ngòi bút của Khoa
có cả hình nét và có cả tâm hồn”[76,tr.126]. Sống gần gũi với thiên nhiên, chan hòa
tình cảm với con người, Trần Đăng Khoa đã góp nhặt những gì quý giá nhất của cuộc
sống vào trong thơ mình. Mỗi bài thơ là một câu chuyện thân thương nhưng mang
nhiều triết lý.
Trần Thị Định, trong khóa luận của mình đã nghiên cứu về “Thế giới nghệ thuật thơ
thời niên thiếu của nhà thơ Trần Đăng Khoa qua tập Góc sân và khoảng trời”[28]. Khóa
luận đã chỉ ra những nét đặc sắc của nhà thơ trong việc sử dụng giọng điệu, trí liên tưởng
tưởng tượng, bên cạnh đó còn là những triết lí, suy tư của tác giả qua tập thơ.
Trần Thị Thùy Linh trong luận văn nghiên cứu Thạc sĩ với đề tài “Thơ Trần Đăng
Khoa dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật” [53] đã làm nổi bật cái tôi trữu tình trong thơ
Trần Đăng Khoa. Cái tôi trữ tình xưng em - thể hiện tư duy trẻ thơ hồn nhiên. Cái tôi
chiến sĩ - thể hiện yếu tố nội cảm, yếu tố luận lí. Còn tư duy thơ hướng ngoại lại mang
2
nhiều cái tôi của nhiều nhân vật trữu tình khác nhau.
Hay Nguyễn Thị Trang Nhung, lại đề cập đến chủ đề “Biển đảo trong sáng tác
của Trần Đăng Khoa” [62]. Để một lần nữa khẳng định chủ quyền lãnh thổ về biển
đảo. Qua đó, ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam trong thơ Trần
Đăng Khoa.
Nhìn một cách tổng thể, phần lớp các bài nghiên cứu trên có chung một khẳng
định: thơ Trần Đăng Khoa được viết lên bởi tình cảm, biết lắng nghe quan sát, làm cho
cảnh vật trong thơ ông có hình có nét. Tất cả hiện lên trang viết của nhà thơ hết sức
mộc mạc mà gần gũi thân thương. Song ở bình diện ngữ nghĩa học và dụng học thì
chưa có nhiều. Chúng tôi mạnh dạn đưa tìm hiểu đề tài: “Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong
thơ Trần Đăng Khoa”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là từ ngữ chỉ thiên nhiên (tức là các từ ngữ có
chức năng định danh). Tuy nhiên, đôi chỗ, những từ ngữ chỉ hoạt động hay đặc điểm
của thiên nhiên cũng sẽ được chúng tôi phân tích để làm nổi bật giá trị của các từ ngữ
chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi sẽ giới hạn phạm vi khảo sát ở bộ “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa”, xuất
bản năm 2016, NXB Văn học.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện đề tài, chúng tôi nhằm mục đích:
- Xác lập và miêu tả được từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa về
phương diện ý nghĩa.
- Phân tích được giá trị của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan những vấn đề lý luận liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài.
- Thống kê, xác lập từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.
- Phân tích giá trị của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.
5. Phương pháp nghiên cứu
3
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Thống kê, phân loại từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, từ đó đưa
ra những số liệu cụ thể về các nhóm từ ngữ chỉ thiên nhiên.
5.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được dùng để miêu tả từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần
Đăng Khoa.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về lí luận
Luận văn góp phần khẳng định những vấn đề lí luận cơ bản về từ loại và vai trò
của nó với việc biểu đạt trong tác phẩm văn chương.
6.2. Về thực tiễn
- Những kết quả chúng tôi thu được khi tìm hiểu thiên nhiên trong thơ Trần
Đăng Khoa dựa vào lí thuyết từ loại tiếng Việt là cơ sở cho việc tìm hiểu giá trị nội
dung, nghệ thuật nói chung của thơ Trần Đăng Khoa, mở ra hướng nghiên cứu tích hợp
giữa ngôn ngữ và văn bản.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh nhà trường, đặc biệt
dưới góc nhìn ngôn ngữ học, khi cần đọc - hiểu tác phẩm văn chương.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đặc điểm của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa
4
Chương 3: Vai trò của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương này dành cho việc tìm hiểu những nền tảng lý thuyết làm cơ sở cho việc
nghiên cứu đề tài, đó là các vấn đề lớn như:
- Khái quát về thiên nhiên;
- Khái quát về từ loại
Ngoài ra, chúng tôi có điểm qua về tác giả Trần Đăng Khoa và “Tuyển thơ Trần
Đăng Khoa”.
1.1. Khái quát về thiên nhiên
1.1.1. Khái niệm
Thiên nhiên là một danh từ quen thuộc được chúng ta sử dụng nhiều trong các
hoạt động học tập và lao động hằng ngày.
Theo định nghĩa của Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) thì “thiên nhiên hay còn
được gọi là tự nhiên, thế giới vật chất vũ trụ… Nó bao gồm tất cả các dạng vật chất và
năng lượng tồn tại từ cấp độ bé là hạt nguyên tử đến cấp độ to lớn như ngôi sao, thiên
hà, ngân hà…” [58]
Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, “tự nhiên cũng nhắc đến địa chất và
thế giới hoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau,
và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác - cách
mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ
như thời tiết và hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng như vật chất và năng lượng của
tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên” [58].
Còn nói theo cách hiểu đơn giản, thông dụng thì “thiên nhiên bao gồm tất cả
những gì bao quanh con người mà không do bàn tay con người tạo ra. Thiên nhiên bao
gồm không khí, khí hậu, nguồn nước, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn động thực
vật, các yếu tố địa lý, địa hình…” [58].
Như vậy, có thể nói, thiên nhiên là cái nôi sản sinh ra sự sống, giúp cân bằng hệ
sinh thái và là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên để phục vụ cho cuộc sống và sản xuất
5
sinh hoạt của con người.
1.1.2. Phân loại thiên nhiên
Căn cứ vào khái niệm về thiên nhiên ở trên, có thể xác lập các phạm trù thuộc
thiên nhiên như sau:
- Các hiện tượng tự nhiên;
- Động vật;
- Thực vật;
- Thời gian;
- Thực thể tự nhiên.
1.1.2.1. Các hiện tượng tự nhiên
Có thể thấy “Hiện tượng tự nhiên là những hiện tượng khí tượng phức hợp, bao
gồm nhiều yếu tố trong khí quyển gây ra” [58]. Các hiện tượng tự nhiên điển hình mà
chúng ta có thể kể ra đó là: mưa, gió, bão, dông, sấm, sét, tuyết, sóng…
Ở mỗi hiện tượng tự nhiên khác nhau, lại do những yếu tố khác nhau trong hiện
tượng khí tượng gây ra.
VD: dông hay còn được viết là giông được hình thành khi có khối không khí nóng
ẩm chuyển động, là hiện tượng bao gồm chớp kèm theo sấm do đối lưu rất mạnh trong
khí quyển gây ra. Nó thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, sấm sét dữ dội, thậm chí cả
mưa đá, vòi rồng. Ở những vùng vĩ độ cao, có khi còn có cả tuyết rơi.
Sét hay tia sét là hiện tượng phóng điện trong khí quyển giữa các đám mây và đất
hay giữa các đám mây mang các điện tích khác dấu, đôi khi còn xuất hiện trong các
trận phun trào núi lửa hay bão bụi (cát).
Mưa là một hiện tượng tự nhiên, xảy ra do sự ngưng tụ của hơi nước trên bầu trời,
dưới dạng những đám mây, khi gặp điều kiện lạnh, tạo thành giọt nước, nặng hơn không
khí, và rơi xuống mặt đất, tạo thành cơn mưa.
Nhưng cũng có những hiện tượng tự nhiên xảy ra, mà con người chưa giải thích
được như: ánh sáng lạ xuất hiện trước động đất, sét hình cầu…
Qua những ví dụ trên cho ta thấy, tất cả các hiện tượng tự nhiên kì thú đó đều do
thiên nhiên tạo ra. Mà con người muốn giải thích nó đều phải thông qua các nghiên cứu
6
của khoa học tự nhiên như: vật lí học, hóa học...
1.1.2.2. Động vật
“Động vật là một nhóm sinh vật đa bào, nhân chuẩn, được phân loại là giới động
vật trong hệ thống phân loại 5 giới. Cơ thể của chúng lớn lên khi phát triển. Hầu hết
động vật có khả năng di chuyển một cách tự nhiên và độc lập” [59]. Theo định nghĩa
về động vật, ta thấy, động vật được chia thành nhiều nhóm nhỏ, một vài trong số đó
là động vật có xương sống (ví dụ: chim, khỉ, cá sấu, chó, mèo, cá…); động vật thân
mềm ( ví dụ: trai, hàu, bạch tuộc, mực, và ốc sên…); động vật chân khớp (ví dụ: cuốn
chiếu, rết, côn trùng, nhện, bọ cạp, tôm hùm, tôm…); giun đốt (ví dụ: giun
đất, đỉa); bọt biển và sứa.
Thế giới động vật rất phong phú và đa dạng. Chúng xuất hiện ở hầu khắp các quốc
gia, qua vài tỉ năm tiến hóa và có khoảng 7.7 triệu loài đã được phát hiện.
Bên cạnh những động vật đơn bào có kích thước hiểm vi, còn có các động vật rất
lớn như: trai tượng (vỏ dài 1,4 m; nặng 250 kg), voi châu Phi (nặng 4 tấn; cao 3m), cá
voi xanh (nặng 150 tấn; dài 33m)…
Một số động vật được con người thuần hóa thành vật nuôi. Từ khi được con người
thuần dưỡng, chúng đã khác nhiều với tổ tiên hoang dại và biến đổi thành nhiều loại,
đáp ứng các nhu cầu khác nhau của con người.
Ví dụ: Gà nuôi có tổ tiên là loài gà rừng nhỏ nhắn còn đang sống ở rừng nhiệt
đới. Nhưng gà nuôi đã biến đổi rất nhiều về màu lông, kích thước, về chiều cao và khác
xa với tổ tiên của chúng.
Chính vì vậy, có thể nói các loài động vật sống ở nhiều môi trường khác nhau và
thích nghi với môi trường đó.
1.1.2.3. Thực vật
“Thực vật là những sinh vật có khả năng tạo cho mình chất dinh dưỡng từ
những hợp chất vô cơ đơn giản và xây dựng thành những phần tử phức tạp nhờ quá
trình quang hợp, diễn ra trong lục lạp của thực vật” (theo Bách khoa toàn thư -
Wikipedia).
Như vậy, thực vật chủ yếu là các sinh vật tự dưỡng. Thực vật không có khả
năng chuyển động tự do ngoại trừ một số thực vật hiển vi có khả năng chuyển động
được. Thực vật còn khác ở động vật là chúng phản ứng rất chậm với sự kích thích, sự
phản ứng lại thường phải đến hàng ngày và chỉ trong trường hợp có nguồn kích thích
7
kéo dài.
Thực vật là một nhóm chính các sinh vật, bao gồm các sinh vật rất quen thuộc
như: cây, hoa, cây cỏ, dương xỉ, rêu… Vào thời điểm năm 2007, có khoảng 300.000
loài đã được nhận dạng, trong đó 258.650 loài thực vật có hoa và 15.000 loài rêu.
1.1.2.4. Thời gian
Thời gian là một phần rất quan trọng, là thước đo cho cuộc sống, người ta sử dụng
thời gian để đặt mốc cho mọi sự vật, sự việc. Chính vì vậy, có thể nói thời gian là một
thứ rất khó để định nghĩa. Từ thời gian có trong tất cả các ngôn ngữ của loài người và
có thể có cả ở động vật. Định nghĩa về thời gian là một định nghĩa khó nếu phải cắt
nghĩa chính xác.
Chính vì vậy, chúng tôi thấy định nghĩa của Wikipedia (Bách khoa toàn thư
mở) là hợp lí, khi nói rằng: “Thời gian là khái niệm để diễn tả trình tự xảy ra của
các sự kiện, biến cố và khoảng kéo dài của chúng. Thời gian được xác định bằng số
lượng các chuyển động của các đối tượng có tính lặp lại và thường có một thời điểm
mốc gắn với một sự kiện nào đó” [60]. Khái niệm này đã được đông đảo mọi người
tán thành.
Cho đến bây giờ, chúng ta thấy rõ thời gian chỉ có một chiều duy nhất đó là từ
quá khứ đến hiện tại và tương lai. Thời gian được tính bằng ngày, đêm, sáng, tối,
năm…
1.1.2.5. Thực thể tự nhiên
Đây là một khái niệm rất rộng và trừu tượng. “Thực thể là một cái gì đó tồn tại
như tự chính nó, như một chủ thể hoặc như một khách thể, một cách thực sự hay một
cách tiềm năng, một cách cụ thể hay một cách trừu tượng, một cách vật lý hoặc không.
Nó không cần là sự tồn tại vật chất. Nói riêng, vật trừu tượng và trừu tượng pháp lý
được coi như là các thực thể” [61].
Qua đó, chúng ta có thể hình dung thực thể tự nhiên là một cái gì đó tồn tại như
tự chính nó, mà không hề có bàn tay con người tác động vào. Thực thể tự nhiên có thể
gắn liền với bầu trời như: mây, mặt trời, mặt trăng, sao… nhưng cũng có khi thực thể
8
tự nhiên gắn liền với mặt đất như: núi, sông, đồi, biển, than, đá, cát…
1.2. Khái quát về từ loại tiếng Việt
1.2.1. Khái niệm
Như đã biết, vốn từ của mỗi ngôn ngữ có số lượng vô cùng lớn và không có sự
thuần nhất. Vì vậy, để có thể nắm được và sử dụng các từ một cách tiện lợi, cần tiến
hành phân loại chúng.
Việc phân loại từ có thể được thực hiện dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ
vào ý nghĩa, có thể chia từ thành: từ đơn nghĩa, từ đa nghĩa. Căn cứ vào cấu tạo, có thể
từ chia thành: từ đơn, từ phức (gồm từ ghép, từ láy). Căn cứ vào phạm vi sử dụng, có
thể chia từ thành: từ toàn dân, từ địa phương. Căn cứ vào nguồn gốc, có thể chia từ
thành: từ thuần Việt và từ vay mượn…
Trong ngữ pháp học, còn có cách phân loại từ dựa đồng thời vào ý nghĩa ngữ
pháp và hình thức ngữ pháp (theo nghĩa rộng, được hiểu là toàn bộ đặc điểm hoạt động
ngữ pháp của từ). Cách phân loại này cho ta những phạm trù ngữ pháp hay những lớp
từ được gọi là từ loại…
Vậy “từ loại là những lớp từ được phân định dựa vào những đặc điểm chung về
ý nghĩa và hình thức ngữ pháp” [54].
Theo định nghĩa này, Nguyễn Văn Lộc đã dựa vào sự giống nhau vào đặc điểm
chung về ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của các từ để phân tách ra thành từng loại.
1.2.2. Hệ thống từ loại tiếng Việt
Dựa vào tiêu chí xác định từ loại khác nhau mà có nhiều tác giả phân loại thành
các nhóm từ khác nhau. Chúng tôi theo tác giả Lê A [1,tr.25] chia từ thành hai loại lớn
sau:
- Thực từ (bao gồm các từ loại danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ);
- Hư từ (bao gồm các từ loại phụ từ, quan hệ từ, trợ từ, thán từ, tình thái từ).
Do đề tài tìm hiểu các từ ngữ chỉ thiên nhiên (tức là các từ ngữ có chức năng định
danh) nên trong chương này, chúng tôi tìm hiểu sâu hai từ loại liên quan đến đối tượng
nghiên cứu của đề tài, đó là danh từ, đại từ và điểm một chút về hai từ loại động từ và
tính từ. Đây là hai từ loại liên quan đến việc mô tả đặc điểm của các từ ngữ chỉ thiên
9
nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.
1.2.2.1. Danh từ
a. Về ý nghĩa khái quát
Theo Lê A, “Danh từ có ý nghĩa khái quát chỉ sự vật (bao gồm các thực thể như
người, đồ vật, cây cối, các vật thể tự nhiên, các hiện tượng xã hội và các khái niệm trừu
tượng thuộc phạm trù tinh thần)” [1,tr.26].
VD: người, học sinh, công nhân, tu hú, bàn, ghế, chuối, đồi, chính phủ, công ti,
tình yêu, vấn đề, phương pháp, ý kiến…
b. Về khả năng kết hợp
+ Danh từ có thể kết hợp với các từ chỉ số, chỉ lượng ở phía trước.
Ví dụ:
(1) vài suy nghĩ, mấy vấn đề, v.v...
+ Danh từ kết hợp được với các đại từ chỉ định: này, kia, ấy, đó, nọ… ở phía sau.
Ví dụ:
(2) ba người ấy, những tư tưởng đó, v.v...
c. Về chức năng ngữ pháp
Danh từ có thể đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp sau:
- Làm chủ ngữ.
VD:
(3) Năm nay, vải được mùa quá!
- Làm bổ ngữ.
VD:
(4) Tôi yêu Tổ quốc tôi.
- Làm định ngữ.
VD:
(5) Nhân dân thành phố Thái Nguyên đang mít tinh.
- Làm vị ngữ (nhưng rất ít trường hợp). Khi làm vị ngữ, trước danh từ thường có
thêm từ là, của, bằng.
VD:
(6) Tôi là sinh viên.
10
(7) Sách của tôi.
(8) Bàn bằng gỗ.
Trường hợp đặc biệt, danh từ làm vị ngữ không cần kết hợp với từ là, của, bằng
như trong ví dụ sau:
(9) Tôi người Hà Nội.
(10) Em quê Bắc Giang.
d. Các tiểu loại danh từ
- Danh từ riêng
+ Về ý nghĩa:
Danh từ riêng là lớp danh từ dùng để gọi tên riêng của mỗi cá thể sự vật, như: tên
một người, tên một địa điểm (Trần Vân Hương, Hoàng Linh Trang, Hà Nội, Trường
Sơn, Mê Công, v.v…).
+ Về hoạt động ngữ pháp:
* Danh từ riêng ít có khả năng kết hợp với từ chỉ số lượng ở phía trước và các yếu
tố phụ ở phía sau để lập thành nhóm vì: nó chỉ cá thể chứ không chỉ toàn bộ.
VD:
(11) Hai Hà Nội (-)
(12) Hà Nội này (-)
Danh từ riêng chỉ kết hợp với từ chỉ số lượng và yếu tố phụ ở phía sau trong
những trường hợp sau:
▪ Khi danh từ riêng được dùng lâm thời với ý nghĩa của danh từ chung.
Ví dụ:
(13) Những Điện Biên Phủ đang gọi chúng ta ở phía trước.
▪ Khi có hiện tượng trùng tên, tức là một tên gọi ứng với nhiều cá thể.
VD:
(14) Ở đây có ba Hương, bạn gặp Hương nào?
▪ Khi người nói muốn nhấn mạnh một đặc điểm vốn có của sự vật để tỏ thái độ,
tình cảm. Trong trường hợp này, định ngữ sau danh từ riêng là định ngữ miêu tả chứ
không phải là định ngữ hạn định.
VD:
11
(15) Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
▪ Khi sự vật do danh từ riêng biểu thị tuy vẫn chỉ là một nhưng được phân chia
bởi ý thức của người nói.
VD:
(16) Hà Nội ngày nay đã khác xa Hà Nội những năm trước dưới thời Pháp thuộc.
▪ Danh từ riêng không kết hợp với đại từ chỉ định này, kia, ấy ở phía sau. Trường
hợp sau tên riêng có từ này (kiểu như Hoa này...) là lối gọi tên có tác dụng dẫn xuất
gây sự chú ý trong lời thoại trực tiếp.
* Danh từ riêng thường kết hợp về phía trước với danh từ chung chỉ phạm vi hoặc
loại sự vật của tên riêng.
Ví dụ:
(17) Đèo Khế
Chị Hương
- Danh từ chung
“Danh từ chung là những danh từ gọi tên chung các cá thể trong cùng một lớp sự
vật” [1,tr.27].
VD: Từ ghế là một tên chung cho tất cả các sự vật do con người tạo ra, có chân,
có mặt phẳng, để con người có thể ngồi lên đó. Các cá thể ghế có thể khác nhau về các
phương diện: hình dáng, kích thước, chất liệu... nhưng đều được con người gọi tên bằng
một tên chung là ghế.
Danh từ chung gồm các tiểu loại sau:
+ Danh từ tổng hợp
* Về ý nghĩa
Là các danh từ không chỉ tên riêng từng sự vật mà chỉ tổng thể nhiều sự vật hoặc
chúng cùng loại với nhau hoặc chúng có chung một số đặc điểm nào đó.
Ví dụ: quần áo, binh lính, bạn bè, máy móc, bếp núc…
* Về khả năng kết hợp
Danh từ tổng hợp không kết hợp trực tiếp với số từ (chính xác), không kết hợp được
với danh từ chỉ đơn vị cá thể (con, cái, chiếc,…) nhưng có thể kết hợp với các phụ từ chỉ
tổng thể (tất cả, cả, toàn thể, hết thảy...) và các danh từ chỉ đơn vị tổng thể (bộ, đàn, tốp,
12
đống…).
VD: Chúng ta không thể nói:
(18) hai bạn bè (-)
(19) ba nhà cửa (-)
(20) chiếc quần áo (-)
(21) cây tre pheo (-)
(22) tất cả quần áo (+)
nhưng có thể nói:
(23) hết thảy bạn bè (+)
(24) tốp binh lính (+)
(25) chồng sách vở (+)
* Về cấu tạo
Danh từ tổng hợp có thể có cấu tạo theo kiểu từ ghép đẳng lập (bạn bè, quần
áo…), hoặc từ láy (máy móc, gai góc...).
+ Danh từ không tổng hợp
Danh từ không tổng hợp gồm các tiểu loại sau:
* Danh từ trừu tượng:
▪ Về ý nghĩa:
“Danh từ trừu tượng chỉ các khái niệm trừu tượng thuộc phạm trù tinh thần (không
thể cảm nhận được bằng các giác quan)” [1,tr.28].
VD:
(26) tư tưởng, thái độ, quan điểm, ý nghĩa, đạo đức, niềm vui, …
▪ Về khả năng kết hợp
Danh từ trừu tượng có thể kết hợp trực tiếp với các từ có ý nghĩa số lượng về phía
trước và đại từ chỉ định về phía sau.
VD:
(27) hai quan điểm, thái độ ấy, quan điểm này...
* Danh từ chỉ sự vật cụ thể:
▪ Danh từ chỉ đơn vị:
٧ Về ý nghĩa:
Danh từ đơn vị chỉ đơn vị dùng để đo, đếm, tính toán sự vật.
VD:
13
(28) con, cây, cái, cân, tạ, lít...
٧ Về khả năng kết hợp:
Chúng kết hợp trực tiếp sau số từ, lượng từ và đứng liền trước danh từ chỉ sự vật.
VD:
(29) ba cái bàn, bốn quyển sách, v.v...
٧ Các tiểu loại của danh từ đơn vị:
▫ Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên:
Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên chỉ dạng tồn tại tự nhiên của sự vật. Chúng vừa có ý
nghĩa chỉ đơn vị, vừa có ý nghĩa chỉ loại sự vật. Vì vậy, các danh từ chỉ đơn vị tự nhiên
còn được gọi là loại từ hay danh từ chỉ loại, danh từ loại thể.
VD:
(30) Chỉ người: đứa, thằng, con, người, anh, chị...
(31) Chỉ động vật, thực vật: con, cây, quả, cái, chiếc...
▫ Danh từ chỉ đơn vị đo lường, tính toán:
Về ý nghĩa:
Chúng có ý nghĩa chỉ đơn vị đo lường, tính toán với các sự vật là chất liệu. Các
đơn vị này có tính quy ước chính xác.
VD:
(32) cân, lít, mét, tấn...
Về khả năng kết hợp: Chúng được dùng trực tiếp sau số từ và trước các danh từ
chất liệu.
VD:
(33) hai lít nước, ba cân đường, v.v...
▫ Danh từ chỉ đơn vị tập thể:
VD:
(34) bộ, cặp, bọn, tụi, đàn, đoàn...
Các danh từ này kết hợp trước danh từ tổng hợp và sau các từ chỉ lượng.
Ví dụ:
(35) vài bộ bàn ghế, những đống máy móc...
▫ Danh từ chỉ đơn vị thời gian:
VD:
14
(36) giờ, phút, giây, ngày, tháng, năm, quý, mùa...
▫ Danh từ chỉ đơn vị tổ chức hành chính:
VD:
(37) xã, làng, huyện, quận...
▫ Danh từ chỉ đơn vị hành động, sự việc:
VD:
(38) lần, lượt, trận, chuyến, phen, cuộc,...
▪ Danh từ chỉ sự vật đơn thể:
Về ý nghĩa:
Danh từ chỉ sự vật đơn thể là các danh từ chỉ người, động vật, thực vật, đồ vật và
cả các hiện tượng tự nhiên hay xã hội.
Ví dụ:
▫ Chỉ người: chú, cô, anh, em, bộ đội, giáo viên, chủ tịch, bác sĩ…
Trong danh từ chỉ người còn có thể chia thành:
Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ, như: giáo viên, công nhân, bác sĩ, hiệu trưởng,
giám đốc…
Danh từ chỉ quan hệ thân tộc, như: ông, bà, bố, mẹ, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em
, cháu, chắt…
▫ Chỉ động vật: trâu, bò, lợn, gà, bồ câu, cá, cào cào…
▫ Chỉ thực vật: vải, mít, hoa, cỏ, cây, nhãn, sầu riêng…
▫ Chỉ đồ vật: bàn ghế, quạt, bảng, nhà, cửa….
▫ Chỉ hiện tượng tự nhiên hay xã hội: mưa, gió, mây, núi, sông, chính phủ, công
ti, nhà nước…
Về khả năng kết hợp:
Danh từ chỉ sự vật đơn thể thường kết hợp với các từ chỉ số lượng thông qua một
danh từ chỉ đơn vị tự nhiên. Vì vậy, chúng được quy vào nhóm danh từ đếm được, hoặc
nhóm các danh từ biệt loại (chỉ các sự vật được phân loại nhờ các danh từ chỉ các đơn
vị tự nhiên).
VD:
(39) vài quyển sách, bốn cái mũ, năm bác sĩ, v.v...
Trong sử dụng, có những danh từ chỉ sự vật đơn thể chuyển thành danh từ đơn vị.
Khi đó ý nghĩa của chúng thay đổi (nghĩa sự vật đơn thể → nghĩa đơn vị) và cách dùng
15
cũng thay đổi (kết hợp gián tiếp với số từ → kết hợp trực tiếp với số từ).
VD:
(40) một cái cân (danh từ chỉ sự vật đơn thể) → một cân muối (danh từ đơn vị)
(41) hai cái xe (danh từ chỉ sự vật đơn thể) → hai xe gạch (danh từ đơn vị)
▪ Danh từ chỉ chất liệu
٧ Về ý nghĩa:
Danh từ chỉ chất liệu có ý nghĩa chỉ các chất chứ không phải các vật.
VD:
(42) đá, đất, quặng, đồng, dầu khí, nước khoáng, muối, khói…
٧ Về khả năng kết hợp:
Chúng là các danh từ không đếm được. Khi cần tính đếm, danh từ chỉ chất liệu
kết hợp với danh từ chỉ đơn vị tính toán, đo lường.
VD:
(43) một lít nước, hai tấn sắt…
Tóm lại, có thể hình dung các tiểu loại danh từ qua bảng sau đây:
Bảng 1.1. Các tiểu loại danh từ
Danh từ riêng Danh Danh từ tổng hợp từ Danh từ trừu tượng Danh trong Danh từ từ Danh từ chỉ đơn vị tiếng không Danh từ chỉ sự chung Danh từ chỉ sự vật đơn thể Việt tổng hợp vật cụ thể Danh từ chỉ chất liệu
1.2.2.2. Đại từ
a. Khái niệm
Đại từ là những từ dùng để xưng hô, thay thế và chỉ trỏ. Đại từ không trực tiếp
biểu thị khái niệm sự vật, hiện tượng hay hành động, trạng thái, tính chất, mà dùng để
thay thế cho những từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng, hành động, trạng thái, tính chất. Khi
thay thế cho từ loại nào, đại từ mang ý nghĩa của từ loại đó.
Ví dụ:
(44) Tôi là sinh viên.
(45) Nó học giỏi. Lan cũng thế.
Trong hai ví dụ trên, tôi, nó và thế là các đại từ. Ở ví dụ (45), từ thế được dùng để
16
thay cho cụm động từ học giỏi cho nên nó cũng mang ý nghĩa của cụm động từ này.
b. Các tiểu loại đại từ
Có nhiều tiêu chí để phân chia đại từ thành các tiểu loại.
- Căn cứ vào chức năng thay thế
Dựa vào tiêu chí này, đại từ được chia thành 3 loại:
+ Đại từ thay thế cho danh từ:
Đó là các đại từ như: tôi, tao, nó, mày, chúng nó, v.v...
Ví dụ:
(46) Tôi rất yêu màu tím.
(47) Nó là bạn học của tôi.
Các đại từ này có đặc điểm ngữ pháp giống như danh từ. Tức là chức năng phổ
biến của nó là làm chủ ngữ.
+ Đại từ thay thế cho động từ, tính từ:
Đó là các đại từ như: thế, vậy, như thế, như vậy, v.v...
Ví dụ:
(48) Nó yêu thơ. Tôi cũng vậy.
Các đại từ này có đặc điểm ngữ pháp giống như động từ, tính từ, cho nên chức
năng phổ biến của chúng là làm vị ngữ.
+ Đại từ thay thế cho số từ:
Đó là các đại từ như: bao nhiêu, bao, bấy nhiêu, v.v...
Các đại từ này có đặc điểm ngữ pháp giống như số từ.
VD:
(49) (Nấu năm bơ gạo cho mười lăm người ăn?) Bấy nhiêu người mà chỉ nấu có
bằng ấy gạo thì làm sao đủ cơm ăn!
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Dựa vào tiêu chí này, có thể chia đại từ thành 3 loại:
+ Đại từ xưng hô
Đại từ xưng hô thay thế cho danh từ, biểu thị các vai trong hoạt động giao tiếp.
17
Tiếng Việt có các đại từ xưng hô dùng theo các ngôi như sau:
Số Ngôi Số ít Số nhiều
Ngôi thứ nhất (tương ứng với tôi, tao, tớ, mình… chúng tôi, chúng tao,
cương vị người nói) chúng tớ, chúng mình…
Ngôi thứ hai (tương ứng với mày, cậu, bay… chúng mày, chúng bay,
cương vị người nghe) các cậu…
Ngôi thứ 3 (tương ứng với nó, hắn, thị, y… chúng nó, họ, chúng…
cương vị người được nói đến)
Tuy nhiên, nói đến đại từ xưng hô trong tiếng Việt, cần lưu ý một số điểm sau
đây:
Thứ nhất: Trong các đại từ xưng hô của tiếng Việt, có những từ chuyên ngôi và
kiêm ngôi. Những từ chuyên ngôi là những từ chỉ dùng cho một ngôi. Ví dụ như: tôi,
tớ, mày... Còn từ kiêm ngôi là những từ được dùng cho nhiều ngôi. Chẳng hạn:
Từ mình có thể được dùng để chỉ ngôi thứ nhất và cũng có thể được dùng cho
ngôi thứ hai.
Ví dụ:
(50) Hôm qua mình đến chỗ cậu nhưng cậu không có nhà.
Từ mình trong ví dụ (50) được dùng để chỉ ngôi thứ nhất.
(51) Mình đọc hay tôi đọc?
Từ mình trong ví dụ (51) lại được dùng để chỉ ngôi thứ hai.
Thứ hai: Cần phân biệt từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp và từ xưng hô
ngôi thứ nhất số nhiều không bao gộp. Từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp là
từ mang ý nghĩa chỉ một nhóm người, kể cả người nghe và lấy người nói làm trung tâm
(bao gộp vai nói và vai nghe).
Ví dụ:
(52) Hà ơi, chúng mình đi học đi.
Từ chúng mình trong ví dụ (52) là đại từ bao gộp, bao gồm cả ngôi thứ nhất và
ngôi thứ hai.
(53) Hà ơi, chúng mình về đây, chào bạn nhé.
18
Từ chúng mình trong ví dụ (53) chỉ ngôi thứ nhất, số nhiều, không bao gộp.
+ Đại từ chỉ định
Đại từ chỉ định thường là những từ chỉ định các đối tượng được phản ánh trong
thực tại.
Đại từ chỉ định được chia thành:
Đại từ chỉ định thời gian: bấy giờ, bây giờ, nãy, bấy…
Đại từ chỉ định không gian: này, kia, ấy, đó, đây, nọ…
Đại từ chỉ định khối lượng, số lượng, lượng: tất cả, cả, cả thảy, tất thảy...
Đại từ chỉ định tính chất, trạng thái: thế, vậy
+ Đại từ nghi vấn
Đại từ nghi vấn thường là những từ dùng để hỏi về thời gian, không gian, số
lượng, con người…
Đại từ nghi vấn được chia thành:
Đại từ nghi vấn chỉ người, sự vật: ai, gì, sao, nào…
Đại từ nghi vấn chỉ thời gian: bao giờ, bao lâu, nào…
Đại từ nghi vấn chỉ không gian: đâu
Đại từ nghi vấn chỉ số lượng, khối lượng: mấy, bao nhiêu
1.2.2.3. Động từ
a. Về ý nghĩa khái quát
“Động từ có ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, trạng thái, tình thái hay quan hệ, nói
chung là chỉ những dạng thức vận động, biến chuyển của sự vật về vật lý, tâm lý và
sinh lý” [1,tr.31].
Ví dụ: ăn, uống, ngủ, đi, nằm, đứng, thổi, v.v…
b. Về khả năng kết hợp
- Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với các yếu tố phụ sau đây:
+ Nhóm các yếu tố phụ chỉ yêu cầu, mệnh lệnh như: hãy, chớ, đừng.
+ Nhóm yếu tố phụ chỉ thời gian: đã, sẽ, vừa, vừa mới.
+ Nhóm yếu tố phụ chỉ sự tiếp diễn kéo dài: vẫn, cứ, còn.
+ Nhóm các yếu tố phụ chỉ sự diễn ra đồng thời hay tương tự của hoạt động: cũng,
đều, cùng.
19
+ Nhóm các yếu tố chỉ sự phủ định: không, chưa, chẳng.
+ Ngoài ra, những động từ chỉ trạng thái tình cảm như vui, buồn, tức, giận, yêu,
ghét…còn có thể kết hợp với nhóm yếu tố phụ chỉ mức độ như: rất, hơi, quá.
- Về phía sau, động từ có khả năng kết hợp rất phong phú và đa dạng.
Xét về mặt từ loại, phía sau của động từ có thể là thực từ hoặc hư từ.
Ví dụ: đọc sách, chơi bóng (thực từ); ăn xong, làm rồi (hư từ)
Xét về mặt cấu tạo, phía sau của động từ có thể là từ, cụm từ hay cụm chủ vị.
Ví dụ: ăn cơm (từ), đọc sách tiếng Việt (cụm từ), khiến nó buồn (cụm chủ vị).
c. Về chức vụ ngữ pháp
Động từ có thể đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp sau:
- Làm chủ ngữ:
Ví dụ:
(54) Lao động là vinh quang.
- Làm vị ngữ:
Ví dụ:
(55) Tôi ngủ.
- Làm bổ ngữ:
Ví dụ:
(56) Lan học vẽ.
- Làm định ngữ:
Ví dụ:
(57) Ngày lên đường đã đến.
- Làm trạng ngữ:
Ví dụ:
(58) Nói xong, anh bước vào nhà.
1.2.2.4. Tính từ
a. Về ý nghĩa khái quát
“Tính từ chỉ tính chất, đặc điểm của sự vật, của hoạt động, trạng thái” [1,tr.34].
Ví dụ: nhanh, chậm, đắng cay, ngọt, xanh, đỏ, tím, vàng, v.v…
b. Về khả năng kết hợp
Khả năng kết hợp của tính từ có nhiều điểm giống với động từ; kết hợp với hầu hết
20
các phó từ về phía trước. Tuy nhiên, có một số điểm khác biệt sau đây:
- Khả năng kết hợp với phó từ chỉ mệnh lệnh là hạn chế.
Ví dụ:
(59) hãy đỏ (-)
(60) đừng đẹp (-)
Chỉ những tính từ chỉ phẩm chất mới có thể kết hợp được với phó từ chỉ mệnh lệnh.
Ví dụ:
(61) đừng lười biếng
(62) hãy khiêm tốn
- Khả năng kết hợp với phó từ chỉ mức độ phổ biến hơn.
Ví dụ:
(63) rất đẹp (+)
(64) quá xấu (+)
Về phía sau, tính từ có khả năng kết hợp với thực từ mà đa số là danh từ.
Ví dụ:
(65) giỏi toán
(66) xa thành phố
Tính từ cũng có khả năng kết hợp với hư từ mà hầu hết là các phó từ chỉ mức độ.
Ví dụ:
(67) tốt lắm
(68) giỏi ghê
c. Về chức vụ ngữ pháp
Tính từ có thể đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp sau:
- Làm chủ ngữ:
Ví dụ:
(69) Khiêm tốn là đức tính quý báu.
- Làm vị ngữ:
Ví dụ:
(70) Nó rất xinh.
- Làm bổ ngữ:
Ví dụ:
(71) Nó học giỏi.
21
- Làm định ngữ:
Ví dụ:
(72) Cái bút đẹp này là của tôi.
- Làm trạng ngữ:
Ví dụ:
(73) Xa xa, từng đàn chim đang bay về.
1.3. Vài nét về tác giả Trần Đăng Khoa và “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa”
1.3.1. Tác giả Trần Đăng Khoa
1.3.1.1. Cuộc đời
Trần Đăng Khoa sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958, quê ở làng Trực Trì, xã Quốc
Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên tạp
chí Văn Nghệ Quân Đội, hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Hiện nay, ông đang giữ chức
vụ Bí thư đảng ủy, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
Trần Đăng Khoa có một người anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh -
tác giả của các tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ, Bản xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của
kẻ vô danh… , nguyên là Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Ông có
một người chị gái là Trần Thị Bình hiện đang sống ở quê và một người em gái Trần
Thị Thuý Giang ở Cẩm Phả - Quảng Ninh.
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975, khi đang học lớp 10 Trường
phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng
cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất đất nước, việc bổ sung quân cho chiến trường
không còn cần thiết nữa, ông về Quân chủng Hải quân. Sau đó Trần Đăng Khoa theo
học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới M.
Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên
Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân
đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức
Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài
Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có
hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa
- Du lịch Vietnam Jouney), Trần Đăng Khoa được phân công làm Giám đốc đầu tiên của
hệ này. Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải -
22
Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để Trần Đăng Khoa chuyển sang làm Phó Bí
thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch
Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.
1.3.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nhiều thế hệ độc giả cho đến tân bay giờ vẫn không thể quên những bài thơ như:
“Hạt gạo làng ta”, “Mẹ ốm”, “Cây dừa” … Với giọng thơ trong sáng, tự nhiên, sự
quan sát tinh tế và cảm xúc dạt dào về gia đình, về quê hương, đất nước trong hồn thơ
của ông đã tạo nên sự yêu thích từ độc giả.
Từ khi còn nhỏ, ông đã được nhiều người cho là “thần đồng thơ”. Mới lên 8,
nhưng ông đã có bài đăng báo. Năm 1968, khi đó nhà thơ lên 10, tập thơ đầu tiên: “Góc
sân và khoảng trời” được xuất bản bởi nhà xuất bản Kim Đồng - tập thơ gắn liền với
tên tuổi của ông nhất. Ngay khi ra đời, tập thơ đã tạo nên một tiếng vang lớn trong làng
thơ ca Việt Nam lúc bây giờ. Có lẽ tác phẩm được nhiều người biết đến nhất, phải kể
đến tác phẩm: “Hạt gạo làng ta” sáng tác 1968, được Xuân Diệu hiệu đính, sau lại được
nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm 1971.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Trần Đăng Khoa đã cho ra mắt rất nhiều tập
thơ khác nhau như:
“Từ góc sân và nhà em” sau được đổi thành“Góc sân và khoảng trời”, (năm
1968), tái bản khoảng hơn trăm lần, được dịch và xuất bản ở 42 nước trên thế giới.
“Thơ Trần Đăng Khoa”, tập 1 (năm 1970),
“Thơ Trần Đăng Khoa”, tập 2 (năm 1976)
“Cánh cò trắng muốt” (năm 1973)
“Trường ca khúc hát người anh hùng” (năm 1974)
“Bên cửa sổ máy bay” (năm 1986)
“Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” (năm 2016).
Ngoài ra Trần Đằng Khoa còn một số tác phẩm thuộc thể loại khác: tiểu thuyết,
bình luận văn chương, truyện ngắn, bút ký, ghi chép, tản văn… Trong đó, có những tác
phẩm được độc giả đặc biệt quân tâm như:
“Chân dung và đối thoại” tiểu luận phê bình (năm 1998).
“Đảo chìm” tiểu thuyết mini (năm 2000)
23
“Hầu chuyện thượng đế” (năm 2017)
Trần Đăng Khoa 3 lần được nhận giải thưởng thơ của Báo Thiếu niên tiền phong
(các năm 1968, 1969, 1971); giải nhất Báo Văn nghệ (1982); giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật (2001); giải thưởng Sunthorn Phu trao cho các nhà thơ Đông Nam Á
có những cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật năm 2013.
1.3.2. “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa”
“Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” in 2016, tái bản lần 2, Nhà xuất bản Văn học.
Tuyển tập đã chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu nhất trong tất cả những tập thơ của
Trần Đăng Khoa. Đặc biệt, cùng với thơ còn có những mảng kí ức, những trang hồi
kí, những cuộc trao đổi của nhà thơ xung quanh “chuyện bếp núc” trong nghề. Nhiều
bí mật lần đầu được nhà thơ hé mở. Tập sách hấp dẫn, thích hợp với nhiều đối tượng
bạn đọc, từ những người làm công tác nghiên cứu đến các em học sinh, sinh viên và
nhất là với những bạn nhỏ đang học làm thơ. Tuyển thơ này sẽ đem lại cho các em
nhỏ rất nhiều những kinh nghiệm thú vị.
Bởi vậy mà nhà văn Đình Kính cho rằng: “thơ Trần Đăng Khoa không còn xa lạ,
nhưng tự dưng lại muốn đọc lại. Mà mỗi lần đọc lại, vẫn còn thấy thích, không nhàm
một chút nào vẫn là một miền riêng, không trộn lẫn” [46].
Nhà văn Đình Kính đã ví von thơ Trần Đăng Khoa như: “cô gái làng mộc mạc,
không son phấn, không giả vờ ưỡn ẹo làm duyên, làm dáng phô khoe cơ thể, như là
một thứ duyên thầm đằm thắm, nền nã, nhiều nét đồng bãi. Vẻ đẹp toả ra một cách tự
nhiên, hồn hậu, chân chất, tuần khiết, đằm lắng…” [46]. Quả không hề sai, vì khi đọc
tuyển thơ, độc giả tìm thấy mình trong đó, với những trò chơi dân gian, những âm thanh
quên thuộc của làng quê, và đặc biệt tìm thấy tuổi thơ của chính mình.
1.4. Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày những nền tảng lý thuyết liên quan đến
đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đó là các vấn đề như:
- Khái quát về thiên nhiên. Theo đó, thiên nhiên được chia thành 5 loại:
+ Các hiện tượng tự nhiên;
24
+ Động vật;
+ Thực vật;
+ Thời gian;
+ Thực thể tự nhiên.
- Khái quát về từ loại. Từ loại được chia thành hai loại lớn là thực từ và hư từ,
trong đó, có 4 từ loại liên quan đến đối tượng nghiên cứu đề tài như danh từ, đại từ,
động từ, tính từ.
Trần Đăng Khoa là nhà thơ lớn, đã khẳng định được tên tuổi và vị trí của mình
trong nền văn học Việt Nam đương đại. Những nền tảng lý thuyết trên sẽ là cơ sở để
chúng tôi tìm hiểu những từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, để từ đấy
25
thấy được tài năng của ông trong việc sử dụng ngôn từ.
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN
TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa có thể được xem xét dưới
nhiều góc độ, như: đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ý nghĩa, v.v… Song, do dung lượng của
luận văn cũng như mục đích nghiên cứu của đề tài, trong chương này, chúng tôi chỉ
tìm hiểu đặc điểm của các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa xét về
phương diện ý nghĩa.
Kết quả thống kê cho thấy, trong Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, có 702 từ ngữ chỉ
thiên nhiên, với tần số xuất hiện 3086 lần. Theo sự phân tích của chúng tôi, các từ ngữ
này được chia thành hai loại:
- Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực;
- Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực.
Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.1. Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa
Từ ngữ chỉ thiên nhiên Số lượng Tỉ lệ % Tần số xuất hiện Tỉ lệ % trong thơ Trần Đăng Khoa
Các từ ngữ chỉ 663 94.4 2925 94.78 thiên nhiên đích thực
Các từ ngữ chỉ 39 5.56 161 5.22 thiên nhiên không đích thực
Tổng 702 100 3086 100
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực là các từ ngữ có ý nghĩa trực tiếp chỉ thiên
nhiên. Đó là các từ như: mây, mưa, hoa, lá, mùa xuân, v.v…
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực là các từ ngữ vốn được dùng để chỉ
đối tượng này nhưng lâm thời được dùng để chỉ thiên nhiên và phải dựa vào văn cảnh
mới xác định được ý nghĩa đích thực của chúng. Ví dụ:
Mày ngủ chưa hả trầu?
Tao đã đi ngủ đâu.
26
(Đánh thức trầu)
Mày là đại từ nhân xưng ngôi thứ 2, thường được dùng để chỉ con người. Nhưng
ở câu thơ này, nó có ý nghĩa chỉ cây trầu. Và muốn hiểu đúng nghĩa của từ này, ta phải
dựa vào văn bản, cụ thể là bài thơ. Những từ như vậy sẽ được chúng tôi xếp vào các từ
ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực.
2.1. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực
Theo tư liệu đã thống kê, trong thơ Trần Đăng Khoa có 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên
đích thực, chiếm tỉ lệ 94.4% trong tổng số các từ ngữ chỉ thiên nhiên. Xét về phương
diện ý nghĩa, các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực được chia thành 5 loại:
- Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên;
- Các từ ngữ chỉ động vật;
- Các từ ngữ chỉ thực vật;
- Các từ ngữ chỉ thời gian;
- Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên.
Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.2. Số lượng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực
trong thơ Trần Đăng Khoa
Tần số Số Nội dung Phân loại Tỉ lệ % xuất Tỉ lệ % lượng hiện
59 8.4 479 15.52 Các từ ngữ Hiện tượng tự nhiên
chỉ 149 21.22 359 11.63 Động vật
thiên nhiên 213 30.33 626 20.28 Thực vật
đích thực 85 12.10 414 13.42 Thời gian
157 22.25 1047 33.93 Thực thể tự nhiên
663 94.4 2925 94.78 Các từ ngữ chỉ
thiên nhiên đích thực
Tổng Từ ngữ chỉ
27
thiên nhiên trong thơ 702 100 3082 100
Trần Đăng Khoa
2.1.1. Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên
Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực/702
từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 59 từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên, chiếm tỉ lệ 8.4%
(59/702), với tần số xuất hiện là 479 lần, chiếm tỉ lệ 15.52% (479/3082). Đó là các từ
ngữ như: bão, gió, chớp, mưa, sét, sóng, tuyết, v.v…
Có thể hình dung các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa
qua bảng thống kê dưới đây:
Bảng 2.3: Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên
STT STT HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN
hừng đông khói khói sương làn khói làn sương
28
ánh ánh chớp ánh nắng ánh trăng bão bão dông bão mưa bão tuyết bọt bọt sóng cầu vồng chớp chớp bể cơn bão cơn dông cơn gió cơn mưa con sóng dông dông bão gió gió bão gió sương hạn hán hoàng hôn hơi hơi gió hơi mưa 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 31 32 33 34 35 36 mưa 37 mưa nắng 38 mưa tuyết 39 mưa Xuân 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 nắng nắng gió nắng mưa phong ba sấm sấm sét sét sóng sóng gió sương sương khói sương mù sương muối thần hạn thần lụt thuỷ triều tia chớp tia nắng tuyết TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 10 3 2 2 73 2 1 1 64 4 5 1 7 1 1 38 2 8 2 1 1 1 1 1 1 1 19 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 10 3 1 7 24 2 1 1 8 1 2 5 1 1 2 5 14 3 2 4 112 2 1 1 5 1 1 1
29 30 hơi sương hơi thu 1 2 59 vệt nắng 1
Nhìn vào bảng thống kê trên, ta thấy các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên trong thơ
Trần Đăng Khoa có số lượng không nhiều (59 từ ngữ). Tuy nhiên, tần số xuất hiện của
các từ ngữ này tương đối lớn (479 lần). Thêm vào đó, tần số xuất hiện của chúng cũng
không đồng đều. Có những từ được tác giả sử dụng nhiều lần ngay trong một bài thơ
hoặc xuất hiện trong nhiều bài thơ. Nhưng cũng có những từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần.
Chẳng hạn:
Từ gió được xuất hiện 112 lần/190 bài thơ. Và ở mỗi bài thơ, sự xuất hiện của từ
này cũng không giống nhau. Có những bài, từ gió xuất hiện với số lượng đậm đặc.
Chẳng hạn trong bài Đập cửa Diêm vương, từ gió xuất hiện 19 lần (19/112). Trong
Khúc hát người anh hùng (Khúc hai), từ gió được xuất hiện 7 lần (7/112). Nhưng trong
bài Nửa đêm tỉnh giấc, từ gió chỉ xuất hiện 1 lần.
Hay trong bài Mưa, từ mưa đã xuất hiện 7 lần (7/73). Nhưng trong bài Nghe thầy
đọc thơ, từ mưa chỉ xuất hiện 1 lần (1/73). Tuy nhiên, cũng có rất nhiều từ ngữ chỉ xuất
hiện 1 lần duy nhất (1/190 bài thơ) như: hơi sương, thủy triều, tia chớp, v.v…
Xét về mặt ý nghĩa, các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong thơ Trần
Đăng Khoa tương đối đa dạng. Nó dường như bao quát được hết tất cả các hiện tượng
thiên nhiên có trong cuộc sống hàng ngày, từ mưa, gió, sấm, chớp, bão, nắng, hạn hán,
v.v…
Ví dụ:
(1) Nghe trăng thở động tàu dừa
Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời
(Nghe thầy đọc thơ)
(2) Nghe hàng chuối vườn em
Gió trở mình trăn trở
(Nửa đêm tỉnh giấc)
29
(3) Bố em đi làm về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa
(Mưa)
…
Trong thơ Trần Đăng Khoa, có những bài thơ xuất hiện rất nhiều các từ ngữ chỉ
các hiện tượng tự nhiên khác nhau.
Ví dụ:
(4) Nắng bập bình cửa sổ
Mây bồng bềnh về đâu
Em ngồi trên dông bão
…
Áo bạc màu nắng gió
…
Ngang trời - như nổi sóng
Nhà máy nào vừa dựng
Khói bay trắng một miền
(Đi tàu hỏa)
Có thể nhận thấy, bài thơ Đi tàu hỏa trong ví dụ (4) đề cập đến 4 hiện tượng tự
nhiên. Đó là nắng, dông bão, nắng gió, sóng.
Sự xuất hiện nhiều hay ít các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như nội dung tư tưởng mà tác
phẩm cần thể hiện.
2.1.2. Các từ ngữ chỉ động vật
Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích
thực/702 từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 149 từ ngữ chỉ động vật, chiếm tỉ lệ 21.22%
30
(149/702), với tần số xuất hiện là 359 lần, chiếm tỉ lệ 11.63% (359/3082). Đó là các
từ ngữ như: trâu, bò, chim, dơi, ếch, gà, cá, v.v… Các từ ngữ chỉ động vật trong thơ
Trần Đăng Khoa gồm 2 loại:
- Tên gọi các loài động vật;
- Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật.
Có thể hình dung các từ ngữ chỉ động vật trong thơ Trần Đăng Khoa qua bảng
thống kê dưới đây:
Bảng 2.4: Số lượng các từ ngữ chỉ động vật
Số Tần số Nội dung Phân loại Tỉ lệ % Tỉ lệ % lượng xuất hiện
Các từ ngữ Tên gọi các loài động vật 109 15.52 281 9.10
chỉ động vật Tên gọi các 40 5.70 78 2.53 bộ phận cơ thể động vật
Tổng Các từ ngữ chỉ động vật 149 21.22 359 11.63
2.1.2.1. Tên gọi các loài động vật
Trâu, bò, lợn, gà, v.v… là các từ ngữ chỉ tên gọi các loài động vật. Có 109 các từ
ngữ này, chiếm tỉ lệ 15.52% (109/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ động vật, với tần
số xuất hiện 281 lần, chiếm tỉ lệ 9.10% (281/3082). Các loài động vật xuất hiện trong thơ
Trần Đăng Khoa gồm có các loại sau:
Bảng 2.5: Tên gọi các loài động vật
TÊN CÁC TẦN SỐ TẦN SỐ TÊN CÁC LOÀI STT STT ĐỘNG VẬT LOÀI ĐỘNG VẬT XUẤT HIỆN XUẤT HIỆN
bê 1 con ngựa 2 1 56
bò 2 con nhám 1 1 57
bọ chó 3 con nhện 2 1 58
bò tót 4 con ốc 1 1 59
bướm 5 con ong 1 8 60
cá 6 con rô cụ 1 19 61
cá cờ 7 con thuồng luồng 1 2 62
31
cá mập 8 con trâu 7 2 63
TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG STT TẦN SỐ XUẤT STT TẦN SỐ XUẤT TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT HIỆN HIỆN VẬT
cá mè 9 1 con vạc 64 2
cà niễng 10 1 con vẹt 65 1
cáy 11 1 con vịt bầu 66 1
21 16 chim 12 cua 67
Chim Hoạ Mi 13 1 cuốc 68 1
chim khách 14 1 diều hâu 69 1
chim ngói 15 1 dơi 70 1
chim ri 16 1 ếch 71 6
chim rừng 17 1 gà 72 5
Chim Sơn ca 18 1 Gà Trống 73 1
chó 19 6 gấu 74 1
chó ngao 20 1 giun 75 2
chó sói 21 1 gon mực 76 1
chuột 22 3 hến 77 1
chuột cống 23 1 kiến 78 3
cò 24 3 Kiến Càng 79 1
cóc 25 2 Kiến Cánh 80 1
con bò 26 1 Kiến Đất 81 1
con bươm 27 1 Kiến Đen 82 2
bướm
con bướm vàng 28 6 Kiến Gió 83 1
con cá 29 4 Kiến Kim 84 1
con cà cuống 30 1 Kiến Lửa 85 1
con cá diếc 31 1 lợn 86 1
con cá mè 32 2 mập 87 5
con cá mương 33 1 mèo 88 6
con cá ngão 34 1 mèo ta 89 1
con cá rô 35 1 mối 90 3
con cá sấu 36 1 nghé 91 2
con châu chấu 37 1 ngựa 92 9
32
con chim 38 8 nhái 93 2
TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG STT TẦN SỐ XUẤT STT TẦN SỐ XUẤT TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT HIỆN HIỆN VẬT
39 con chim khách 1 94 nhộng 1
40 con chó 1 95 ong 2
41 con chó khoang 1 96 rắn 1
42 con chó vàng 3 97 rô ron 1
43 con chó vện 1 98 rồng 1
44 con chuồn 1 99 sâu 4
45 con chuột 1 100 sói lang 1
46 con chuột đồng 1 101 sơn ca 3
47 con cò 9 102 sứa 1
48 con cua 2 103 tằm 1
49 Con Dói 1 104 tôm 1
50 con đom đóm 1 105 trâu 20
51 con gà mái 1 106 ve 5
52 con lợn 2 107 vế 1
53 con mèo 1 108 ve sầu 1
54 con mèo 1 109 vịt 1
khoang
1 55 con mối
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, số lượng các từ ngữ chỉ tên các loài động vật
tương đối nhiều (109 từ ngữ). Tuy nhiên, tần số xuất hiện của các từ ngữ này không
cao. Nhiều nhất là từ chim xuất hiện 21 lần, từ trâu xuất hiện 20 lần, từ cá xuất hiện 19
lần. Còn lại, đa số các từ ngữ khác chỉ xuất hiện 1 lần, như: con sứa, ve sầu, con đom
đóm, v.v…
Cũng cần phải nói ngay rằng, nói có 109 các từ ngữ chỉ tên gọi các loài động vật
ở đây không có nghĩa là có 109 con vật khác nhau xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa.
Thực chất, ở đây có những con vật được gọi bằng nhiều cách gọi khác nhau hoặc chúng
có nhiều loại. Chẳng hạn mèo thì lúc được gọi là con mèo, con mèo khoang, rồi lại con
mèo ta, v.v…Hay cá thì cũng gồm có rất nhiều loại, như: con cá mè, con cá rô, con cá
33
ngão, con cá diếc, con Dói, con Trê, v.v… Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu của đề
tài là tìm hiểu các từ ngữ chỉ thiên nhiên (cụ thể ở mục này là các từ ngữ chỉ tên gọi
các loài động vật) chứ không phải tìm hiểu các loại động vật có trong thực tế cho nên
những từ ngữ nào dùng để gọi động vật sẽ đều được chúng tôi thống kê ở đây.
2.1.2.2. Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật
Trong số 149 từ ngữ chỉ động vật trong thơ Trần Đăng Khoa, có 40 từ ngữ chỉ bộ
phận cơ thể động vật, chiếm tỉ lệ 5.70% (40/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ động vật
nói chung, với tần số xuất hiện là 78 lần, chiếm tỉ lệ 2.53% (78/3082).
Các từ ngữ chỉ bộ phận của động vật được Trần Đăng Khoa đề cập đến gồm có
những từ ngữ sau:
Bảng 2.6: Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật
TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ
STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT
ĐỘNG VẬT HIỆN ĐỘNG VẬT HIỆN
1 bụng cá 1 21 sừng trâu 1
cánh bướm 2 1 22 tiếng bò 1
23 tiếng chim 17 cánh chim 3 1
cánh chim chiền chiện 24 tiếng chim chích choè 4 1 2
cánh cò 5 1 25 tiếng chó 4
cánh kiến 6 2 26 tiếng dế 1
chân chim 7 1 27 tiếng ếch 1
chân trâu 8 1 28 tiếng gà 9
cổ cò 9 2 29 tiếng hổ 1
10 cổ ngỗng 4 30 tiếng mèo 1
11 dạ sói 1 31 tiếng muỗi 1
12 đuôi chim 1 32 tiếng ong 1
13 đuôi trâu 1 33 tiếng sâu 1
14 lòng gà 1 34 tiếng sẻ 1
15 lưng cua 1 35 tiếng trâu 1
16 lưng ngựa 3 36 tiếng ve 3
34
17 mắt cá 1 37 vẩy rồng 1
TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ
STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT
ĐỘNG VẬT HIỆN ĐỘNG VẬT HIỆN
18 mắt con mèo 1 38 vỏ hà 1
19 ngà 1 39 vó ngựa 2
20 râu tôm 1 40 vỏ ốc 1
Như vậy có thể thấy, các từ ngữ chỉ bộ phận của động vật có số lượng ít hơn các từ
ngữ chỉ tên gọi động vật (có 40 từ ngữ). Thêm vào đó, tần số xuất hiện của các từ ngữ này
cũng không cao. Đa số các từ xuất hiện 1 lần. Chỉ có vài trường hợp xuất hiện hơn 1 lần
như tiếng chim (17 lần), tiếng gà (9 lần), tiếng ve (3 lần). Điều này cũng thật dễ hiểu bởi
vì bộ phận của động vật là cái chi tiết. Cho nên khi miêu tả, khả năng thể hiện những giá
trị tư tưởng của nó ít hơn khi đề cập đến con vật cụ thể nói chung.
2.1.3. Các từ ngữ chỉ thực vật
Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực/702
từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 213 từ ngữ chỉ thực vật, chiếm tỉ lệ 30.33% (213/702), với
tần số xuất hiện là 626 lần, chiếm tỉ lệ 20.28% (626/3082). Đó là các từ ngữ như: bàng,
bắp, cây tre, cây na, cây đa, cây dừa, cây cau, v.v… Các từ ngữ chỉ thực vật trong thơ
Trần Đăng Khoa được chia thành hai loại:
- Tên gọi các loài thực vật;
- Tên gọi các bộ phận của thực vật.
Dưới đây là bảng thống kê số lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ
thực vật.
Bảng 2.7: Số lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ thực vật
Nội dung Phân loại Số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ %
lượng xuất
hiện
314 Các từ ngữ Tên gọi các loài thực vật 80 11.39 10.17
chỉ thực vật Tên gọi các 133 18.94 312 10.11
bộ phận của thực vật
35
Tổng Các từ ngữ chỉ thực vật 213 30.33 626 20.28
2.1.3.1. Tên gọi các loài thực vật
Theo tư liệu đã thống kê, trong thơ Trần Đăng Khoa, có 80 từ ngữ được dùng để
gọi tên các loài thực vật, chiếm tỉ lệ 11.39% (80/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ thực
vật, với tần số xuất hiện là 314 lần, chiếm tỉ lệ 10.17% (314/3082).
Tên các loài thực vật xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa gồm có các loại sau:
Bảng 2.8: Tên các loài thực vật
STT STT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT
36
1 bạch đàn 2 bạch dương 3 bàng 4 bắp 5 bèo 6 bí đỏ 7 bụi cỏ 8 bụi tre 9 bưởi 10 cà 11 cải 12 cải ngồng 13 cam 14 cau 15 cây 16 cây bạch dương 17 cây bàng 18 cây cau 19 cây chuối 20 cây cỏ 21 cây cối 22 cây đa 23 cây dừa 24 cây lá 25 cây lúa 26 cây lựu 27 cây mía 28 cây na 29 Cây Nam Lùn 30 cây Nếp 31 32 cây phi lao cây phong ba TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 1 2 1 2 1 1 1 2 2 4 1 1 5 45 1 4 3 1 3 1 11 3 2 6 1 1 3 1 1 1 1 cỏ 41 cỏ cây 42 cỏ gà 43 cỏ hoa 44 cỏ mật 45 cỏ may 46 cúc tần 47 dãy thông 48 dừa 49 duối 50 đa 51 đay 52 khoai 53 khoai lang 54 lau 55 lau sậy 56 lúa 57 lúa chiêm 58 59 luỹ tre 60 măng 61 măng cụt 62 mía na 63 nấm 64 ngô 65 nhãn 66 nho 67 phi lao 68 phượng 69 rau 70 rau muống 71 rau tàu bay 72 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 24 4 2 3 1 2 4 1 8 2 6 1 5 1 1 1 42 1 3 3 1 8 1 2 1 5 3 6 2 1 1 1
STT STT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT
cây vú sữa cây xoan
33 34 35 Cây Xuân 36 37 38 39 40 chanh ớt chè chôm chôm chuối chuối mật TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 2 2 1 2 1 10 1 73 74 75 76 77 78 79 80 rong biển san hô sầu riêng thông trầu tre trúc xoan TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 3 1 6 9 7 4 2
So với các từ ngữ chỉ các loài động vật, các từ ngữ chỉ các loài thực vật xuất hiện
trong thơ Trần Đăng Khoa ít hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tần số xuất hiện của chúng lại tương
đối lớn. Có những từ được trở đi trở lại nhiều lần trong nhiều bài thơ như từ cây (45 lần),
lúa (42 lần), cỏ (24 lần), dừa (8 lần), v.v…
Cũng giống như các loài động vật, nói có 80 từ ngữ chỉ tên gọi các loài thực vật
không có nghĩa là có tất cả 80 loài thực vật xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa. Có những
loài thực vật được gọi bằng nhiều cách gọi cũng như có những loài thực vật được chia
thành các loại nhỏ, kiểu như: cỏ, bụi cỏ, cỏ gà, cỏ mật, cỏ may, v.v… Thêm vào đó, trong
số này, có nhiều từ có ý nghĩa chỉ thực vật nói chung, không chỉ một loại cây cụ thể. Ví
dụ: cây, cây cối, rau, v.v…
2.1.3.2. Tên gọi các bộ phận của thực vật
Trong số 213 từ ngữ chỉ thực vật trong thơ Trần Đăng Khoa, có 133 từ ngữ chỉ
bộ phận của thực vật, chiếm tỉ lệ 18.94% (133/702), với tần số xuất hiện là 312 lần,
chiếm tỉ lệ 10.11% (312/3082). Đó là các từ ngữ như hoa hồng, hoa khế, cành bưởi,
hương sen, hương nhãn, lá mía, lá dừa, v.v…
Các từ ngữ chỉ bộ phận của thực vật trong thơ Trần Đăng Khoa gồm các từ ngữ sau:
Bảng 2.9: Tên gọi các bộ phận của thực vật
STT STT
TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT
37
bắp ngô bông bông hoa bông hồng 1 2 4 1 68 69 70 71 hoa sen hoa sim hoa trái hoa trứng gà 1 1 1 1 1 2 3 4
STT STT
TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT TẦN SỐ XUẤT HIỆN
hoa xương rồng hương bưởi hương cau hương cỏ hương đồng hương hoa hương lê - ki- ma hương lúa hương nhãn hương sen hương trầm lá lá bàng lá cành lá cây lá đa lá dừa lá lúa lá mía lá thông lá trầu lá tre lá xà nu
TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT bông lúa buồng chuối buồng dừa cành cánh bèo cánh bèo dâu cành bưởi cành cây cành chè cành củi cành đào cánh hoa cành hồng cành khế cành lá cành ổi cành sầu cành táo cành tre chiếc lá chồi chùm sấu cổ dừa cốm củ khoai củ khoai lang củi cùi nhãn cuống lá
38
5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 dây khoai 35 dây khoai lang 36 đòng đòng 37 gai 3 2 1 6 1 1 1 2 2 1 2 1 1 3 1 1 1 1 6 1 3 1 1 1 1 1 3 2 1 1 1 1 2 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 mạ 96 mầm 97 mầm cây 98 mầm hoa 99 mắt na 100 ngọn cây 101 ngọn cỏ 102 ngọn mùng tơi 103 ngọn tre 104 nhánh 3 1 1 1 1 2 1 2 3 1 1 38 1 1 1 1 2 2 1 2 3 2 1 1 3 2 1 1 2 3 1 3 1
STT STT
TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT
6 4 2 2 12 1 1 9 3 1 2 24 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 1 1 1 3 1 1 2 1 38 gạo 39 gốc cây 40 gốc cây bàng 41 gốc rạ 42 hạt 43 hạt cau 44 hạt đậu 45 hạt gạo 46 hạt giống 47 hạt lúa 48 hạt thóc 49 hoa 50 hoa ban 51 hoa bưởi 52 hoa bụt 53 hoa cà 54 hoa cải ngồng 55 hoa cau 56 hoa cỏ 57 hoa dại 58 hoa đại 59 hoa dâu da 60 hoa dong giềng 61 hoa duối 62 hoa hồng 63 hoa lựu 64 hoa nhài 65 hoa nhãn 66 hoa phượng 67 hoa râm bụt 105 nhành lan 106 nhị 107 nụ hồng 108 ổi đào 109 quả 110 quả bồ hòn 111 quả bòng 112 quả cam 113 quả đào 114 quả dừa 115 quả khế 116 quả mận 117 quả na 118 quả thị rạ 119 rạ rơm 120 rễ 121 rễ cây 122 rơm 123 124 sữa lúa 125 126 127 128 129 130 131 132 133 tàu chuối tàu dừa thân cây thân dừa thóc tiếng cây tiếng dừa tiếng hoa trái 3 1 1 1 11 1 2 1 1 1 1 1 3 1 1 1 4 1 8 1 1 2 1 1 9 1 1 1 2
Nhìn vào bảng thống kê này, có thể nhận thấy, so với các từ ngữ chỉ tên gọi các
39
loài thực vật, các từ ngữ chỉ tên gọi các bộ phận của thực vật có số lượng lớn hơn (nhiều
hơn 53 từ ngữ). Tuy nhiên, tần số xuất hiện của chúng lại không cao. Nhiều nhất là từ
hoa, xuất hiện 24 lần, tiếp đó là từ hạt, xuất hiện 12 lần, từ thóc xuất hiện 9 lần. Còn
lại đại bộ phận là các từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần như hoa cau, hoa nhài, cành bưởi, hạt
đậu, ngọn mùng tơi, v.v…
Việc xuất hiện nhiều các từ ngữ chỉ bộ phận các loài thực vật cho thấy Trần Đăng
Khoa rất tinh tế khi miêu tả từng sự chuyển động, biến đổi của cây cối. Từ cành cây
cho đến hoa, lá, rễ, quả, nhị đều được Trần Đăng Khoa quan sát tỉ mỉ, chi tiết để tô vẽ
nên vẻ đẹp đầy màu sắc của thiên nhiên. Không những quan sát bằng mắt, Trần Đăng
Khoa còn cảm nhận bằng khứu giác khi đặc tả cả mùi hương của cây cối. Điều này
được thể hiện thông qua các từ hương hoa, hương lê - ki - ma, hương nhãn, hương sen,
v.v…
2.1.4. Các từ ngữ chỉ thời gian
Chiều, đêm, sáng, mùa thu, mùa xuân, hôm nay, hôm qua… là các từ ngữ chỉ thời
gian được xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa. Có 85 từ ngữ này, chiếm tỉ lệ 1210%
(85/702) trong số các từ ngữ chỉ thiên nhiên, với tần số xuất hiện là 414 lần, chiếm tỉ
lệ 13.42% (414/3082).
Các từ ngữ chỉ thời gian trong thơ Trần Đăng Khoa gồm có các từ sau:
Bảng 2.10: Các từ ngữ chỉ thời gian
STT STT TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN
40
TẦN SỐ XUẤT HIỆN 2 1 3 2 1 2 1 1 1 3 1 1 55 44 mùa đông 45 mùa hè 46 mùa thu 47 mùa xuân 48 năm 49 năm tháng 50 nay mai 51 ngàn năm 52 ngàn xuân 53 ngang đêm 54 ngày 55 ngày đêm 56 ngày hôm qua TẦN SỐ XUẤT HIỆN 5 2 4 1 10 1 1 1 1 1 27 6 1 ban đêm 1 ban mai 2 ban ngày 3 bóng chiều 4 bóng đêm 5 bóng tối 6 buổi 7 buổi chiều 8 9 buổi sáng 10 buổi trưa cả ngày 11 canh khuya 12 chiều 13
STT STT TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN
chiều chiều
ráng chiều sắc chiều sắc Xuân sáng sáng mai sớm sớm chiều sớm sớm sớm thu sớm trưa tháng tháng năm tháng ngày thu tối trưa trưa hè
TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 79 7 2 1 4 1 2 2 1 1 1 1 1 5 1 13 1 8 1 3 2 2 2 1 1 2 1 2 1 57 ngày mai 58 ngày ngày 59 ngày tháng 60 ngày xưa 61 Ngày Xuân 62 những đêm 63 những ngày 64 những sáng 65 nửa đêm 66 phút giây 67 qua đêm 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 xế trưa TẦN SỐ XUẤT HIỆN 26 6 1 1 1 6 8 1 7 1 1 1 3 1 14 1 9 3 1 1 2 2 5 3 6 3 12 2 1 14 15 đêm 16 đêm đêm 17 đêm hè 18 đêm khuya 19 đêm ngày 20 đêm thu 21 đêm tối 22 đông 23 đông chiều 24 Đông Xuân 25 giữa trưa 26 hàng năm 27 hàng ngày 28 hè 29 hôm ấy 30 hôm nay 31 hôm qua 32 khuya 33 khuya sớm 34 mai 35 mai ngày 36 mai sau 37 mấy chục năm 38 mấy năm 39 mấy ngàn ngày 40 mấy ngày 41 mỗi chiều 42 mỗi ngày 43 mọi ngày
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, các từ ngữ chỉ thời gian trong thơ Trần Đăng
Khoa có số lượng không quá nhiều. Tuy nhiên, tần số xuất hiện của chúng lại tương
đối lớn. Đặc biệt, có những từ được lặp lại rất nhiều lần, như: đêm (79 lần), chiều (55
41
lần), ngày (27 lần). Không những vậy, đôi khi, sự lặp lại này còn được thể hiện ngay
trong chính một bài thơ. Chẳng hạn, trong Trường ca Khúc hát người anh hùng (Khúc
hai - Khúc thương đau), từ đêm xuất hiện đến 7 lần. Thêm vào đó, có bài thơ, xuất hiện
rất nhiều các từ chỉ thời gian. Ví dụ:
(5) Sớm mẹ về, thấy khoai đã chin
Buổi mẹ về, gạo đã trắng tinh
Trưa mẹ về, cơm dẻo và ngon
Chiều mẹ về, cỏ đã quang vườn
Tối mẹ về, cổng nhà sạch sẽ
…
Mẹ ngày đêm khó nhọc
(Khi mẹ vắng nhà)
Đương nhiên, cũng những từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần, mặc dù con số này không
nhiều. Đó là các từ ngữ như: sáng mai, sớm sớm, xế trưa, v.v…
(6) Và, có thể là sáng mai bừng mắt ra
Mẹ sẽ nhận về một tờ giấy
(Thư gửi mẹ)
(7) Ca ngợi bác công nhân
Sớm sớm lên tầng
Mặt Trời mọc dưới chân như một giọt phẩm đỏ
(Lời của than)
Hay:
(8) Xế trưa tìm thăm nhà bạn
Lại gặp chú bù nhìn rơm
(Đường sang nhà bạn)
Có thể nói, giống như các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên, các từ ngữ chỉ thời gian
trong thơ Trần Đăng Khoa cũng bao quát được tất cả các khoảng thời gian trong ngày hay
trong năm, như: từ sáng cho đến trưa, chiều, tối; từ ban ngày cho đến ban đêm; từ mùa
42
xuân cho đến mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Thế mới thấy, Trần Đăng Khoa quan sát thiên
nhiên và con người ở góc nhìn rất rộng. Và có lẽ vì thế, thiên nhiên trong thơ ông mới
phong phú và đa dạng đến vậy.
2.1.5. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên
Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực/702
từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 157 từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên, chiếm tỉ lệ 22.25%
(157/702). Đó là các từ ngữ như: trời, đất, sông, núi, trời mây,v.v… Có thể chia các từ
ngữ chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa thành hai loại sau:
- Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời;
- Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất.
Có thể hình dung số lượng các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa qua bảng thống kê dưới đây:
Bảng 2.11: Số lượng và tần số xuất hiện chỉ thực thể tự nhiên
trong thơ Trần Đăng Khoa
Số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Nội dung Phân loại lượng % xuất hiện %
Các từ Các từ ngữ chỉ thực thể tự 23 3.26 380 12.31 ngữ chỉ nhiên gắn liền với bầu trời
thực thể Các từ ngữ chỉ thực thể tự 134 18.99 667 21.62 tự nhiên nhiên gắn liền với mặt đất
Tổng Các từ ngữ chỉ thực thể tự 157 22.25 1047 33.93 nhiên
2.1.5.1. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời
Có 23 từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời trong số 157 từ ngữ chỉ
thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa. Đó là những từ ngữ như: mây, trời, trăng,
vầng trăng, vì sao … 23 từ ngữ này có tần số xuất hiện tương đối lớn, 380 lần, chiếm
tỉ lệ 12.31% (380/3082).
43
Bảng 2.12: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời
STT STT TẦN SỐ XUẤT TẦN SỐ XUẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI BẦU TRỜI TTTN GẮN LIỀN VỚI BẦU TRỜI HIỆN HIỆN
1 bầu trời 2 13 mây trời 2
2 chân trời 1 14 ngôi sao 8
3 chùm sao 2 15 Sao Mai 1
4 cổng Trời 1 sao trời 16 2
5 đám mây 5 17 trăng 118
6 làn mây 2 18 trăng sao 1
7 lưng trời 4 19 trời 135
8 mảnh trăng 1 20 trời mây 2
9 mảnh trời 2 21 trời sao 2
10 mặt trăng 2 22 vầng trăng 13
11 mặt trời 17 23 vì sao 3
12 mây 54
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, chỉ có 5 từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên gắn
với bầu trời xuất hiện 1 lần, còn lại 18 từ ngữ xuất hiện từ 2 lần trở lên trong thơ Trần
Đăng Khoa. Đặc biệt, có những từ ngữ xuất hiện với tần số rất lớn, như từ trời (135
lần), trăng (118 lần), mây (54 lần). Thậm chí có bài, 1 thực thể tự nhiên được trở đi trở
lại rất nhiều lần. Ví dụ:
(9) Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
Trăng ơi... từ đâu đến?
44
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ lời mẹ ru
Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân
Trăng ơi... từ đâu đến?
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em...
(Trăng ơi…từ đâu đến?)
Ở ví dụ (9), bài thơ với 24 câu thơ nhưng từ trăng được lặp lại đến 12 lần. Việc lặp
lại này là có dụng ý nghệ thuật, giúp chuyển tải nội dung mà tác giả muốn thể hiện.
2.1.5.2. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất
Trong số các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, có 134 từ
ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất, chiếm tỉ lệ 18.99% (134/702), với tần
số xuất hiện 667 lần, chiếm tỉ lệ 21.62% (667/3082). Đó là những từ như: biển, sông,
núi, bãi, đồi, núi … Điều này được thể hiện trong bảng thống kê dưới đây:
45
Bảng 2.13: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất
STT STT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT
TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 68 lưng đồi 1 bãi
69 mạch nước ngầm 2 bãi biển 1 2
70 mặt biển 3 bãi cát 2 1
71 mặt đất 4 bãi sông 4 4
72 mặt nước 5 bầu trời 5 3
73 mặt sông 6 bể 2 1
44 74 mặt vịnh 7 biển 1
8 biển cả 2 75 mép biển 1
9 biển khơi 2 76 miền 1
10 bụi 7 77 miền đất 2
11 bụi đất 1 78 mỗi phương 1
12 bụi than 1 79 muối 3
13 bùn 7 80 mương 1
14 bùn đất 1 81 ngòi 1
15 cánh rừng 3 82 ngọn đồi 1
16 cát 19 83 ngọn núi 2
17 cát bụi 1 84 non 2
18 chóp núi 1 85 non nước 2
19 cồn 2 86 núi 21
20 cồn cát 2 87 Núi Bài Thơ 1
21 con sông 3 88 núi đồi 2
22 con suối 2 89 Núi Mã Yên 1
23 cục đất 1 90 núi non 1
24 đá 31 91 núi sông 2
25 đá cuội 26 dải đất 1 2 92 nước 93 nước biển 73 1
27 dải đồi 28 đại dương 29 Đại Tây Dương 1 4 1 94 nước Hồ Gươm 95 nước sông 96 nước sông Ranh 1 1 1
30 đảo 33 97 phù sa 15
31 Đảo Chìm 1 98 quả đất 1
46
32 Đảo Nam Yết 1 99 quần đảo 1
STT STT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT
33 Đảo Sinh Tồn TẦN SỐ XUẤT HIỆN 3 100 rừng TẦN SỐ XUẤT HIỆN 20
34 Đảo Sơn Ca 101 Rừng Bạch Dương 4 1
35 Đảo Thuyền Chài 102 Rừng Pắc Bó 2 1
127 103 rừng thu 36 đất 1
37 đất đá 3 3 104 sỏi
38 đất đai 4 1 105 sỏi cát
39 đất liền 1 2 106 sỏi đá
40 đất mỏ 1 46 107 sông
41 đất nước 1 1 108 sông Hồng
42 dầu 2 1 109 sông Kinh
43 dãy núi 1 6 110 sông Kinh Thầy
44 đê 1 1 111 sông Ngân
45 đèo 1 2 112 sông núi
46 Đỉnh Cóc Pài 1 2 113 sông nước
47 Đỉnh Côn Sơn 1 8 114 suối
48 đỉnh Fansipăng 1 1 115 suối đầu nguồn
49 đỉnh núi 5 1 116 sườn
50 đỉnh tháp 2 1 117 sườn đồi
51 đỉnh trời 1 1 118 tảng đá
52 dốc 1 2 119 thác
53 dọc sườn đê 1 10 120 than
54 đồi 2 1 121 thiếc
55 đồi núi 1 7 122 trái đất
56 đồi thông 1 1 123 triền bãi
57 dòng 58 giọt nước 3 2 4 1 124 125 tro tro than
trường Sa
59 gò 60 gò đống 61 hải đảo 1 1 4 1 1 1 126 127 vách 128 vách đá
62 hạt bụi 1 1 129 vách đất
63 hạt phù sa 1 1 130 vách núi
47
64 hòn đá 2 1 131 vàng
STT STT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT
65 hòn đảo 132 viên sỏi TẦN SỐ XUẤT HIỆN 3 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 2
66 hòn đất 133 vịnh Hạ Long 1 1
67 lưng đèo 134 vôi 3 1
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn với
mặt đất có số lượng lớn hơn gấp nhiều lần các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền
với bầu trời. Tuy nhiên, xét về tần số xuất hiện, các từ ngữ này lại thấp hơn. Nhiều
nhất có từ đất xuất hiện 127 lần, từ nước xuất hiện 73 lần, từ sông xuất hiện 46 lần,
v.v… Còn lại, đa số các từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần như vôi, vịnh Hạ Long, đỉnh trời,
v.v…
Ví dụ:
(10) Xe vôi trắng toát
Xe cát vàng vàng
(Lọc cà lọc cọc)
(11) Tôi muốn làm thơ
Ca ngợi vịnh Hạ Long
(Lời của Than)
Hay:
(12) Ta ngự giữa đỉnh trời
Canh một vùng biên ải
(Đỉnh núi)
Bên cạnh đó, có bài thơ còn xuất hiện rất nhiều từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên như
bài Hát về một hòn đảo. Trong bài thơ này, có thể nhận thấy xuất hiện rất nhiều các từ
ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên gắn liền với mặt đất như: đảo, nước, đất, đại dương, biển,
v.v…
Tóm lại, trong thơ Trần Đăng Khoa, các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực có số
lượng tương đối lớn và với tần số xuất hiện cũng khá cao. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên
48
này thuộc về nhiều kiểu loại rất phong phú và không thể phủ nhận rằng, chúng đã
đem đến những giá trị nhất định trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Những
giá trị này sẽ được chúng tôi phân tích tỉ mỉ hơn ở chương 3.
2.2. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa
Theo tư liệu đã thống kê, trong thơ Trần Đăng Khoa có 39 từ ngữ chỉ thiên nhiên
không đích thực, chiếm tỉ lệ 5,56% (39/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ thiên nhiên.
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực được chia thành 2 loại lớn:
- Đại từ nhân xưng;
- Danh từ (cụm danh từ).
Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.14: Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực
trong thơ Trần Đăng Khoa
Nội dung
Phân loại
Đại từ nhân xưng
Số lượng 7
Tỉ lệ % 1.00
Tần số xuất hiện 98
Tỉ lệ % 3.18
Danh từ (cụm danh từ)
32
4.56
63
2.04
39
5.56
161
5.22
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực Tổng
702
100
3082
100
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa
2.2.1. Đại từ nhân xưng
Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 39 từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích
thực/702 từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 7 từ là đại từ nhân xưng, chiếm tỉ lệ 1.00% (7/702).
Đó là các từ ngữ như: tôi, ta, mày…
Các từ ngữ là đại từ nhân xưng được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên trong
thơ Trần Đăng Khoa gồm có các từ sau:
Bảng 2.15: Các từ ngữ là đại từ nhân xưng
được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên
STT VẬT QUY CHIẾU TẦN SỐ XUÁT HIỆN
ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG
2 1
Chúng mày 1 2 Hắn 3 Mày
44
49
Con cá Sông Kinh Thầy Gà con Chó vàng Con gà mái 1 15 16
1 6 5
1
4 Mình 5 Nó
14
6 Ta 4
7 Tôi
32
Bông lúa Trầu Cây lúa Núi Hạn hán Con bướm vàng Con chim Con trâu Chó Sâu Quả lựu Cây cau Hạn hán Phù sa Sóng Con cua Cây thông Cây mía Cây dừa Than Sông Núi đồi Viên sỏi Đất 3 1 4 2 1 1 1 1 3 1 1 1 2 3 3 15 3 1 1 2
Qua thống kê trên, ta thấy các đại từ nhân xưng sử dụng lâm thời để gọi tên thiên
nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa có số lượng không quá nhiều. Có những từ được tác giả
sử dụng nhiều lần trong một bài thơ hoặc trong nhiều bài thơ.
Khi xuất hiện ở nhiều bài thơ, một đại từ xưng hô có thể được dùng để chiếu chỉ
những đối tượng khác nhau. Chẳng hạn:
(13) Tao đi học về nhà
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Rồi mày nhún chân sau
50
Chân trước chồm, mày bắt
(Sao không về Vàng ơi?)
Trong bài Sao không về Vàng ơi?, từ mày được dùng để chiếu chỉ con chó. Nhưng
trong bài Nói về con gà mái, từ mày lại được dùng để chiếu chỉ con gà mái.
(14) Mày tớp mồi, nhằn nhường con tất cả
Diều con no kềnh, diều mày vẫn lép không
(Nói về con gà mái)
Trong thơ Trần Đăng Khoa, còn có trường hợp một hiện tượng thiên nhiên nhưng
được tác giả dùng nhiều đại từ xưng hô khác nhau để chiếu chỉ. Chẳng hạn:
Để chỉ hiện tượng hạn hán, tác giả đã dùng các đại từ nhân xưng như nó và ta.
(15) Nó có cái vòi ác lắm
…
Ta đã tha tội chết
(Trường ca Đánh thần hạn)
Nhưng cũng có đại từ nhân xưng chỉ xuất hiện 1 lần và được dùng để chiếu chỉ
một đối tượng duy nhất, như từ mình.
Ví dụ:
(16) Có màu lính giữa đại ngàn
Núi bỗng quên mình ngàn tuổi
(Tây Bắc)
Từ mình trong câu thơ trên được tác giả dùng lâm thời để gọi thực thể tự nhiên là
núi.
Có thể nói, sự xuất hiện của các đại từ nhân xưng lâm thời được dùng để chỉ thiên
nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa không quá nhiều và tần số xuất hiện cũng không cao.
Tuy nhiên, các đại từ này lại rất có giá trị trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác
giả. Điều này sẽ được chúng tôi phân tích cụ thể ở chương 3.
2.2.2. Danh từ (cụm danh từ)
Theo tư liệu đã thống kê, có 32 danh từ (cụm danh từ) được Trần Đăng Khoa sử
dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên. Các danh từ (cụm danh từ) này thuộc các loại sau:
- Danh từ thân tộc
51
- Danh từ thân tộc kết hợp với danh từ chỉ sự vật
Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.16: Các từ ngữ là danh từ (cụm danh từ)
được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên
Số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Nội dung Phân loại lượng % xuất hiện %
Danh từ Danh từ thân tộc 6 0.86 17 0.55
(cụm danh từ) Danh từ thân tộc kết hợp với 26 3.70 46 1.49 danh từ chỉ sự vật
Danh từ (cụm danh từ) 32 4.56 63 2.04
Tổng Các từ ngữ chỉ 39 5.56 161 5.22 thiên nhiên không đích thực
2.2.2.1. Danh từ thân tộc
Bạn, chị, cô, chú… là các danh từ thân tộc được tác giả sử dụng lâm thời để chỉ
thiên nhiên. Theo tư liệu đã thống kê, có 6 từ thuộc loại này.
Các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa gồm có các từ sau:
Bảng 2.17: Các danh từ thân tộc được dùng lâm thời
để chỉ thiên nhiên
STT DANH TỪ THÂN TỘC VẬT QUY CHIẾU TẦN SỐ XUẤT HIỆN
1 Bạn Than 4
2 Chị Gió 1
Con gà 4
3 Chú Cá 1 6
Chim 1
4 Cô Mây 1
5 Em Cây đa 1
52
6 Ông Mặt trăng 4
Qua bảng thống kê trên, ta thấy các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ
thiên nhiên có số lượng không nhiều và tần số xuất hiện cũng không cao. Nhiều nhất
là từ chú, được sử dụng 6 lần. Và cũng chỉ có từ này được dùng để chiếu chỉ các đối
tượng ở các bài thơ khác nhau (được dùng để chỉ 3 đối tượng). Còn lại, các danh từ
khác chỉ được dùng để chỉ 1 đối tượng duy nhất.
Ví dụ:
Trong bài thơ Con gà liếp nhiếp, từ chú được sử dụng 4 lần để chỉ con gà.
(17) Trời mưa lâm thâm làm các chú ướt đầu
Chú rùng mình, giọt mưa rơi khỏi cánh
Trời mưa to hơn, sau rồi đâm ra tạnh
Chú chẳng giũ long bởi mải bắt giun, sâu
Nhưng nắng to, chú vẫn khô đầu
(Con gà liếp nhiếp)
Nhưng trong bài Tiếng chim kêu, từ chú lại được dùng để chỉ con chim.
Ví dụ:
(18) Mấy chú rơi xuống rồi
Cái cánh đập bồi hồi
(Tiếng chim kêu)
Còn lại, các từ như em, chị hay bạn lại được dùng để chiếu chỉ một đối tượng duy nhất.
Ví dụ:
(19) Đa ơi, em còn che cho ai bóng mát
Quán xưa đổ rồi
(Bến đò)
Từ em trong bài thơ Bến đò ở trên được dùng lâm thời để chỉ cây đa.
Hoặc từ chị trong Trường ca Đánh thần hạn được dùng lâm thời để chỉ gió.
(20) Chị khoác chiếc áo xanh
Gùi nước đeo trĩu cổ
(Trường ca Đánh thần hạn)
53
Hay từ bạn trong bài thơ Lời của Than được dùng lâm thời để chỉ than.
(21) - Than ơi!
Bạn từ đâu ra
Mà bạn đen thế?
(Lời của Than)
Nói tóm lại, các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên trong thơ
Trần Đăng Khoa không nhiều. Tuy nhiên, cũng giống như việc sử dụng các đại từ nhân
xưng, các danh từ thân tộc này cũng mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc thể hiện ý đồ nghệ
thuật của tác giả mà điều này sẽ được chúng tôi tiếp tục minh chứng ở chương 3.
2.2.2.2. Danh từ thân tộc kết hợp với danh từ chỉ sự vật
Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 32 từ ngữ chỉ thiên nhiên là danh từ (cụm
danh từ), có 26 trường hợp là danh từ thân tộc kết hợp với danh từ chỉ sự vật (mà từ đây
chúng tôi sẽ gọi tắt là cụm danh từ hỗn hợp). Đó là các cụm danh từ như: bác giun, cậu
tre, chú chim, chú gà…
Có thể hình dung các cụm danh từ hỗn hợp được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên
54
trong thơ Trần Đăng Khoa qua bảng thống kê dưới đây:
Bảng 2.18: Các cụm danh từ hỗn hợp được dùng lâm thời
để chỉ thiên nhiên
STT STT CỤM DANH TỪ HỖN HỢP
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 bác giun bác Mặt Trời cậu chích chòe cậu Mèo cậu tre chị chim sâu chị Cua Càng chị gió chị lúa chị Tre chú cào cào chú chim chú gà TẦN SỐ XUẤT HIỆN 2 1 1 1 1 2 2 3 1 1 1 1 1 CỤM DANH TỪ HỖN HỢP chú trống làng 14 cô chim trĩ 15 cô Gió 16 cô mây 17 18 lão Trê 19 mụ Gà 20 21 22 23 24 25 26 nàng Mây thằng Dói thằng gà trống ông cóc tía ông rừng ông trăng ông trời TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 1 1 4 2 1 1 2 1 1 1 9 3
Qua bảng thống kê trên, ta thấy các cụm danh từ hỗn hợp có số lượng nhiều nhất
trong tổng số các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực nói chung, trong tổng số các
danh từ nói riêng. Chúng tôi thống kê dược 26 cụm danh từ, với tần số xuất hiện là 46
lần.
Trong số các cụm danh từ hỗn hợp này, có những cụm danh từ được xuất hiện
nhiều lần và trong nhiều bài thơ, chẳng hạn như ông trăng (9 lần), ông trời (3 lần), chị
gió (2 lần)… Còn lại, các cụm danh từ hỗn hợp khác chỉ xuất hiện 1 lần, như chú gà,
chú chim, chị gió, chị lúa, v.v…
Có thể hình dung điều này qua các ví dụ cụ thể dưới đây:
Ví dụ:
(22) Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
55
Ơi ông trăng sáng tỏ
…
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
(Trăng sáng sân nhà em)
Hay:
Chiếc ngõ nhỏ (23)
Thở sương đêm
Ông trăng lên
Cười trong lá
(Chiếc ngõ nhỏ)
Hoặc:
Vườn xanh biếc tiếng chim (24)
Dơi chiều khua chạng vạng
Ai dắt ông trăng vàng
Thả chơi trong lùm nhãn
(Hương nhãn)
Các cụm danh từ hỗn hợp chỉ xuất hiện 1 lần như:
(25) Ngoài sân lội, mấy chú gà liếp nhiếp
Đi tìm mồi, cùng mẹ bắt giun, sâu
(Gà con liếp nhiếp)
(26) Chẳng vui cũng nhảy
Là chú cào cào
Đêm ngồi đếm sao
Là ông cóc tía
(Kể cho bé nghe)
Đặc biệt, có bài thơ tác giả sử dụng rất nhiều các cụm danh từ hỗn hợp để chỉ
thiên nhiên. Ví dụ:
(27) Ông Trời nổi lửa đằng đông
…
56
Cậu Mèo đã dạy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi
Cái Na đã tỉnh giấc rồi
…
Chị Tre chải tóc bên ao
Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương
(Buổi sáng nhà em)
Như vậy, có thể thấy trong bài Buổi sáng nhà em, có đến 7 cụm danh từ hỗn hợp
được sử dụng, bao gồm: Ông Trời, Cậu Mèo, Mụ Gà, thằng Gà Trống, Cái Na, Chị
Tre, Nàng Mây.
Hay trong bài thơ Em kể chuyện này, cũng có 7 cụm danh từ hỗn hợp xuất hiện.
Đó là các cụm danh từ như chị lúa, cậu tre, cô gió, bác mặt trời, chị Cua càng, thằng
Dói, lão Trê.
(28) Những chị lúa phất phơ mái tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm
...
Cô Gió chăn mây trên đồng
Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi
…
Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa
Này thằng Dói nhớ ai?
Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa
Này lão Trê nhảy võ ở đâu?
(Em kể chuyện này)
Có thể nhận thấy các cụm danh từ hỗn hợp này có cấu tạo gồm 2 yếu tố. Yếu tố
thứ nhất là danh từ chung chỉ thân tộc, như bác, cậu, chú…, yếu tố thứ hai là danh từ
chung chỉ sự vật và 100 % yếu tố thứ hai này xét về mặt ý nghĩa là các từ chỉ thiên
nhiên, như gió, chim, gà…
57
Theo tư liệu của chúng tôi, ý nghĩa của yếu tố thứ hai này gồm các loại sau:
a. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ hiện tượng tự nhiên
Cô gió, chị gió là những cụm danh từ hỗn hợp có ý nghĩa chỉ hiện tượng tự nhiên.
Các từ thuộc nhóm này không nhiều. Chúng tôi mới chỉ tìm thấy một hiện tượng tự
nhiên là hiện tượng gió được kết hợp với yếu tố thứ nhất là hai danh từ thân tộc chị và
cô.
b. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ thực vật
Thuộc loại này gồm có các cụm danh từ hỗn hợp như chị lúa, chị tre. Chúng tôi
cũng chỉ tìm được 2 loại thực vật nằm trong yếu tố thứ hai này là lúa và tre và chúng
cũng chỉ xuất hiện 1 lần.
c. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ động vật
Các cụm danh từ hỗn hợp có yếu tố thứ hai chỉ động vật xuất hiện trong thơ Trần
Đăng Khoa khá nhiều so với các cụm danh từ hỗn hợp khác. Các động vật được đề cập
đến ở đây bao gồm như giun, chích chòe, cua càng, chim sâu, trê, v.v… Một điều đặc
biệt là việc kết hợp các danh từ chỉ động vật này với các danh từ thân tộc có ý nghĩa to
lớn trong việc thể hiện thái độ, tình cảm của tác giả đối với các con vật được đề cập
đến. Điều này chúng tôi cũng xin được phân tích trong chương 3.
d. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ thực thể tự nhiên
Cô mây, bác mặt trời, ông trăng là các danh từ hỗn hợp có yếu tố thứ hai chỉ thực
thể tự nhiên. Cũng như các danh từ hỗn hợp có yếu tố thứ hai chỉ động vật, việc gọi tên
các thực thể tự nhiên đi kèm với các danh từ thân tộc có giá trị rất lớn trong việc thể
hiện thái độ, tình cảm của tác giả đối với đối tượng được nói đến.
2.3. Tiểu kết
Tóm lại, trong Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, xét về phương diện ý nghĩa, các từ
ngữ chỉ thiên nhiên được chia thành hai loại:
- Từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực là các từ ngữ có ý nghĩa trực tiếp chỉ thiên
nhiên. Có 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên thuộc loại này, với tần số xuất hiện là 2925 lần.
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực gồm có 5 loại nhỏ. Đó là:
+ Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên;
58
+ Các từ ngữ chỉ động vật;
+ Các từ ngữ chỉ thực vật;
+ Các từ ngữ chỉ thời gian;
+ Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên.
- Từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực
Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực là các từ ngữ vốn được dùng để chỉ đối
tượng này nhưng lâm thời được dùng để chỉ thiên nhiên và phải dựa vào văn cảnh mới xác
định được ý nghĩa đích thực của chúng. Có 39 từ ngữ thuộc loại này, với tần số xuất hiện
là 161 lần. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực gồm có 2 loại. Đó là:
- Đại từ nhân xưng;
- Danh từ (cụm danh từ).
Việc sử dụng nhiều các từ ngữ chỉ thiên nhiên cùng với tần số xuất hiện lớn là cơ
sở để tác giả chuyển tải những nội dung tư tưởng cũng như thể hiện những ý đồ nghệ
59
thuật mà điều này sẽ được chúng tôi phân tích ở chương 3.
Chương 3
VAI TRÒ CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN
TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Như đã trình bày ở chương 2, trong thơ Trần Đăng Khoa, số lượng các từ ngữ chỉ
thiên nhiên tương đối lớn. Xét về mặt dụng học, các từ ngữ này đã có vai trò trong việc
giúp tác giả chuyển tải nội dung tư tưởng cũng như thể hiện phong cách nghệ thuật.
Chương 3 dành cho việc phân tích các vai trò này.
3.1. Vai trò trong việc khắc họa toàn cảnh bức tranh làng quê đồng bằng Bắc bộ
Việt Nam
Có thể nói, qua việc dùng nhiều các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ của mình,
Trần Đăng Khoa đã khắc họa cho người đọc thấy được toàn cảnh bức tranh muôn màu
của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Bức tranh muôn màu ấy thể hiện ở hai khía
cạnh:
- Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phong phú và đa dạng;
- Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam đẹp và sinh động.
3.1.1. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phong phú và đa dạng
Sự phong phú và đa dạng về thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt
Nam thể hiện rõ nhất ở việc làng quê có nhiều con vật, nhiều loài thực vật mang đậm
dấu ấn của vùng đồng bằng chiêm trũng. Thêm vào đó, thời tiết, khí hậu cũng mang rõ
phong vị của làng quê Việt Nam.
3.1.1.1. Về con vật
Qua thơ Trần Đăng Khoa, có thể thấy các con vật ở làng quê đồng bằng Bắc bộ
Việt Nam rất nhiều, phong phú về số lượng cũng như đa dạng về chủng loại: có con ở
dưới nước, có con ở trên cạn, có con bay trên trời và có những con trong lòng đất, v.v…
Chẳng hạn:
(1) Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa
Này thằng Dói nhớ ai?
60
Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa
Này lão Trê nhảy võ ở đâu?
Mà ngã bẹp đầu!
(Em kể chuyện này…)
(2) Những trưa tháng Sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
(Hạt gạo làng ta)
(3) Nửa đêm nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
(Chớm thu3)
Cua, cá Dói, cá cờ, Trê hay ếch là đều là những con vật sống dưới nước. Hơn thế
nữa, những con vật này còn là những con vật rất gần gũi, gắn bó với ruộng đồng, với
người nông dân.
(4) Sao không về hả chó?
Nghe bom thằng Mĩ nổ
Mày bỏ chạy đi đâu?
(Sao không về Vàng ơi?)
(5) Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi
(Buổi sáng nhà em)
(6) Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
61
(Kể cho bé nghe)
Chó, mèo, gà, vịt là những con vật gắn bó với đời sống sinh hoạt hàng ngày của
người nông dân, cụ thể là ở nơi góc sân và mảnh vườn. Chúng đã được hiện lên rất sinh
động và gần gũi qua những dòng thơ của Trần Đăng Khoa.
Nếu như chó, mèo, gà, vịt là những con vật gắn bó với đời sống sinh hoạt hàng
ngày của người nông dân ở nơi góc sân và mảnh vườn thì trâu, bò lại là người bạn của
người nông dân trên ruộng đồng.
(7) Dưới bóng đa, con trâu
Thong thả nhai hương lúa
Đủng đỉnh đàn bò về
Lông hồng như đốm lửa
(Cây đa)
Không xuất hiện một lần, hình ảnh con trâu còn trở đi trở lại trong thơ Trần Đăng
Khoa như một sự minh chứng về tầm quan trọng của con vật này trong đời sống lao
động của người nông dân. Chẳng hạn:
(8) Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi sung
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
(9) Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày cho khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ
Ta có máy bơm rồi
(Con trâu đen lông mượt)
(10) Cổng làng bồng bềnh mây nổi
Bốn bề sương khói ngổn ngang
Trâu quên đôi sừng lấm đất
Tưởng mình lững thững lên Trăng
(Trong sương sớm)
Không chỉ có trâu, bò, gà, vịt, những con vật vốn gắn bó với đời sống sinh hoạt
62
và lao động của người nông dân mà những con vật rất bé nhỏ cũng đi vào thơ Trần
Đăng Khoa như: con bươm bướm, con kiến, con nhện, con mối, con ve, con sâu, con
dế, v.v…
Ví dụ:
(11) Con bướm vàng
Bay nhẹ nhàng
Trên đồng cỏ
(Con bướm vàng)
(12) Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
(Đám ma bác Giun)
(13) Hay chăng dây điện
Là con nhện con
(14) Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
(Mưa)
(15) Trưa nay bỗng thấy ve ngân
Ve ngân trưa nắng quả dần vàng ươm
(Hoa lựu)
(16) Nghe ri rỉ tiếng sâu
Nó đang thở cuối tường
(Nửa đêm tỉnh giấc)
(17) Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi - lê)
Thế giới các con vật tiếp tục được mở ra trong thơ Trần Đăng Khoa khi nhà thơ
nhắc đến con vật bay trên trời, đó là chim.
(18) Sắc hoa râm bụt quanh ao
Tiếng chim vườn mẹ cùng vào thăm cô
63
(Em dâng cô một vòng hoa)
Chim ở đây cũng gồm rất nhiều loại: chim sẻ, chim chích chòe, chim ri, chim ngói,
chim trĩ, chim sâu, v.v…
Ví dụ:
(19) Vui sao khi chớm vào hè
Xôn xao tiếng sẻ tiếng ve báo mùa
(Mùa xuân mùa hè)
(20) Xa xa từ một ngọn tre
Tiếng chim chích chòe đang hót
(Tiếng chim chích chòe)
(21) Rồi từ nhà cháu, chú đi
Lúa chiêm vào mẩy, chim ri bay về
(Gửi theo các chú bộ đội)
(22) Hạt mẩy uốn cong bông
Chim ngói bay đầy đồng
(Thôn xóm vào mùa)
(23) Hay múa xập xòe
Là cô chim trĩ
(Kể cho bé nghe)
(24) Những chị chim sâu trên cành
nhìn chúng em cười: Tích! Tích!
(Em kể chuyện này)
Đặc biệt, trong số những con vật biết bay, con cò được Trần Đăng Khoa nhắc đến
rất nhiều. Có thể nói, con cò đã trở thành hình ảnh biểu tượng trong nền văn học Việt
Nam. Nó là hiện thân của người phụ nữ cần cù, chịu khó, lam lũ, vất vả. Ta đã từng
gặp rất nhiều hình ảnh con cò trong ca dao, như:
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Hay:
Con cò mày hay ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.
64
v.v…
Và bây giờ, ta lại gặp con cò trong thơ Trần Đăng Khoa với rất nhiều màu sắc.
(25) Trong giấc mơ em
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
Có gặp cánh bướm
Mênh mông mêng mông
(Tiếng võng kêu)
(26) Mẹ già ơi!
Đêm ngủ có yên không?
Lặn lội con cò, con vạc, con nông
Đến lúc chết, kẽ chân còn dính đất…
(Khúc hát người anh hùng)
(27) Khi cơn mưa đen rầm rầm đằng đông
Khi cơn mưa đen rầm rầm đằng tây
Khi cơn mưa đen rầm rầm đằng nam, đằng bắc
Em vẫn thấy
Cánh cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa
(Cánh cò trắng muốt)
Hay:
(28) Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy…
(Góc sân và khoảng trời)
Từ những ví dụ trên cho thấy, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình một thế giới
các con vật rất phong phú và những con vật này đều là những con vật gắn bó với đời
65
sống của người nông dân vùng đồng bằng Bắc bộ.
3.1.1.2. Về thực vật
Cùng với thế giới con vật, các loài thực vật tiêu biểu của làng quê Việt Nam cũng
được Trần Đăng Khoa nhắc đến trong thơ. Loài thực vật đầu tiên phải kể đến, đó chính
là cây lúa.
Nước ta là một nước nông nghiệp cho nên lúa là cây lương thực rất quan trọng.
Chính vì thế, loài cây này đã được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều khi phác họa
đời sống lao động của con người vùng đồng bằng Bắc bộ. Ví dụ:
(29) Khi trời râm em vẽ
Vẽ cô tiên lặng lẽ
Rải hoa trên bầu trời
Thế là bao đồng lúa
Cứ chín vàng, vàng tươi…
(Cái sân)
(30) Trâu ơi ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
(Con trâu đen lông mượt)
(31) Sáng nay bọn em đi đánh dậm
Ở ao ven làng
Bên ruộng lúa xanh non
(Em kể chuyện này…)
Bên cạnh cây lúa, phải kể đến các loại thực vật phục vụ cho đời sống sinh hoạt
hàng ngày của người nông dân như cây cà, cây chuối, khoai, ngô, rau cải, v.v…
(32) Nhà em có một luống khoai
Có hàng chuối mật với hai luống cà
(Vườn em)
(33) Bắp ngô non răng sún
Óng vàng một chòm râu
(Bên sông Kinh Thầy)
66
(34) Gió lên vườn cải tốt tươi
Lá xanh như mảnh mây trời lao xao
(Vườn cải)
Đặc biệt, quê hương Việt Nam còn rất đa dạng về các loại cây ăn quả. Đó là bưởi,
na, nhãn, khế, cây trứng gà (lê - ki - ma), sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, v.v…Thơ
của Trần Đăng Khoa cũng cho ta thấy rõ điều này.
Ví dụ:
(35) Hàng bưởi
Đu đưa
Bế lũ con
Đầu tròn
Trọc lốc
(Mưa)
(36) Em trồng thêm một cây na
Lá xanh vẫy gió như là gọi chim
(Vườn em)
(37) Hàng năm mùa nhãn chín
Anh em về thăm nhà
(Hương nhãn)
(38) Ríu ran cành khế
Là cậu chích chòe
(Kể cho bé nghe)
(39) Cháu nghe hương lê - ki - ma
Thoảng trên vai chú, chú ra thăm vườn
Cháu nghe thơm mát sầu riêng
Ngọt ngào măng cụt những miền xa xôi
Chôm chôm chín thẫm lưng đồi
Bỗng thơm trong tiếng chú cười hôm nay
(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)
Còn có những loài thực vật, mà nhìn vào đó, người ta nghĩ nhiều đến Việt Nam,
như cây tre, cây chè, cây dừa, cây cau, cây đa, hoa sen, v.v… Các loại cây này đều
được Trần Đăng Khoa đề cập đến trong những bài thơ của mình.
67
Chẳng hạn:
(50) Con chim nó đỗ cành tre
Bay ra cành chè nó hót hay hay
(Con chim hay hót)
(51) Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
(Cây dừa)
(52) Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
(Trăng sáng sân nhà em)
(53) Làng em có cây đa
Bên mương nước giữa đồng
(Cây đa)
(54) Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi - lê)
Như vậy, bên cạnh các loài động vật, thơ Trần Đăng Khoa còn cho chúng ta biết
thêm về sự phong phú của các loài thực vật ở Việt Nam.
3.1.1.3. Về mùa, thời tiết và khí hậu
Miền Bắc Việt Nam có 4 mùa rõ rệt, đó là: xuân, hạ, thu, đông. Cả 4 mùa này đều
được Trần Đăng Khoa thể hiện trong thơ mình.
Chẳng hạn:
(55) Mùa xuân hoa nở đẹp tươi
Bướm con bướm mẹ ra chơi hoa hồng
…
Vui sao khi chớm vào hè
Xôn xao tiếng sẻ, tiếng ve báo mùa
(Mùa xuân - mùa hè)
(56) Hàng năm
Mùa thu, mùa đông
Thần lăn ra chết ngất
68
(Trường ca Đánh thần hạn)
Cùng với 4 mùa như vậy, thời tiết và khí hậu ở vùng đồng bằng Bắc bộ cũng có
những đặc trưng riêng. Có lúc, thời tiết rất khắc nghiệt. Khi thì nắng chói chang, làm
nước ruộng nóng như ai nấu. Khi thì bão bùng, mưa gió. Kèm theo đó là sấm, là chớp.
Nhưng cũng có lúc, thời tiết lại ôn hòa, se se lạnh vào chớm thu, rất dễ chịu. Đọc thơ
Trần Đăng Khoa, chúng ta cảm nhận được hết điều này. Xin được đưa ra một vài ví
dụ:
(57) Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng Sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
(Hạt gạo làng ta)
(58) Chớp
Rạch ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
(Mưa)
(59) Nửa đêm nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau
69
(Chớm thu)
Tóm lại, qua việc khảo sát các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa, ta thấy tác giả đã vẽ lên một bức tranh về làng quê Việt Nam với tất cả sự
phong phú về sản vật thiên nhiên cũng như đặc trưng về thời tiết và khí hậu. Những
điều này làm cho làng quê Việt Nam không thể lẫn với một nơi nào khác.
3.1.2. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam đẹp và sinh động
Không thể phủ nhận nét đẹp của làng quê Việt Nam được khắc họa dưới ngoài
bút của Trần Đăng Khoa. Nét đẹp ấy có thể biểu hiện ở sự bình yên của cảnh vật vào
những đêm trăng sáng hay sự thảnh thơi của các con vật sau một thời gian lao động:
(60) Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
…
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
(Trăng sáng sân nhà em)
Bài thơ vẽ ra một khoảng không gian bát ngát và tĩnh lặng. Cây cau, ở trên cao
thì lặng đứng. Hàng cây chuối ở dưới thấp cũng đứng im. Các con vật đều không kêu.
Tràn ra tất cả mọi nơi chỉ có ánh trăng mà thôi. Một vẻ đẹp thật yên bình.
(61) Dưới bóng đa con trâu
Thong thả nhai hương lúa
Đủng đỉnh đàn bò về
Lông hồng như đốm lửa
(Cây đa)
Sự thong thả của con trâu và sự đủng đỉnh của đàn bò cho thấy các con vật rất
ung dung, bình thản và dường như sự ung dung bình thản này khởi nguồn từ nếp sống
70
vốn dĩ rất bình yên của làng quê Việt Nam.
Nét đẹp của làng quê Việt Nam còn thể hiện ở không khí hối hả, sự náo nhiệt của
vạn vật bắt nhịp vào hoạt động lao động khi một ngày mới bắt đầu.
(62) Ò…ó…o…
Ò…ó…o…
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
…
Giục hạt đậu
Nảy mầm
Giục bông lúa
Uốn câu
Giục con trâu
Ra đồng
(Ò…ó…o…)
Tiếp đó, cảnh sắc thiên nhiên được Trần Đăng Khoa miêu tả rất thơ mộng. Bức
tranh quê hương còn hiện ra với núi, với sông, có cánh đồng và làng xóm. Tất cả đều
hài hòa và yên bình.
Ví dụ:
(63) Bên này là núi uy nghiêm
Bên kia là cánh đồng liền chân mây
Xóm làng xanh mát bóng cây
Sông xa trắng cánh buồm bay lưng trời…
(Quê em)
Rồi trăng ở làng quê cũng rất đẹp, sáng và đầy màu sắc.
(64) Chỉ có trăng sáng tỏ
71
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
(Trăng sáng sân nhà em)
Hay:
(65) Trăng ơi…từ đâu đến
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
Trăng ơi từ đâu đến
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
(Trăng ơi…từ đâu đến)
Tóm lại, thông qua việc sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ, Trần Đăng
Khoa đã cho người đọc thấy được bức tranh toàn cảnh làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt
Nam. Bức tranh ấy vừa phong phú về các sản vật, đa dạng về khí hậu thời tiết mà còn
rất đẹp, sinh động và đầy màu sắc.
3.2. Vai trò thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên
Có thể nói, ngay từ khi còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã sớm thể hiện là một người
có tình yêu thiên nhiên. Điều này cũng thật dễ hiểu, bởi khi mới 6, 7 tuổi, cậu đã được
mẹ giáo dục tình yêu ấy. Còn nhớ, khi bà ngoại mất, mẹ cậu đã xé khăn tang cho cậu
đeo cho các cây bưởi, cây na, cây mít… trong vườn. Mẹ cậu bảo, cây cũng có tâm
trạng, cảm xúc như con người, cũng biết vui, biết buồn. Rồi gần đến tết, mẹ cậu lại pha
nước vôi loãng cho cậu quét các gốc cây, để cho cây được mặc quần áo mới. Ngày tết,
nhà cậu ăn gì, thì các con vật cũng được ăn như thế. Như mẹ cậu nói, thì các con vật
cũng phải có tết chứ. Chính vì thế, đối với Trần Đăng Khoa, cây cối, con vật trong nhà,
hay nói khái quát hơn là thiên nhiên luôn gắn bó với cậu như những người bạn vậy.
Cho nên, thơ Trần Đăng Khoa đề cập đến rất nhiều hình ảnh thiên nhiên. Việc đưa
72
thiên nhiên vào thơ và cách miêu tả về thiên nhiên trong thơ đã minh chứng rất rõ tình
yêu thiên nhiên của Trần Đăng Khoa. Tình yêu này được thể hiện cụ thể dưới các góc
độ sau:
a. Luôn có thái độ thân mật, gần gũi với thiên nhiên, coi thiên nhiên như là người bạn
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, đặc biệt là tuyển tập Góc sân và khoảng trời, ta thấy
rất rõ điều này. Không khó mà bắt gặp chi tiết Trần Đăng Khoa gọi các con vật, cây
cối bằng cách gọi rất thân mật là mày. Chẳng hạn:
(66) Trầu ơi hãy tỉnh lại
Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé.
(Đánh thức trầu)
Từ mày trong ví dụ trên được dùng để quy chiếu cây trầu. Gọi cây trầu là mày và
tự xưng là tao, rõ ràng, Trần Đăng Khoa đã thể hiện thái độ thân mật, gần gũi. Phải coi
cây trầu như là người bạn, Trần Đăng Khoa mới có cách gọi như thế.
Hay:
Cái Na đã tỉnh giấc rồi (67)
Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao.
(Buổi sáng nhà em)
Cây chuối, cây na là loài thực vật vô tri vô giác. Nhưng dưới con mắt của Trần
Đăng Khoa, loài thực vật này lại có cảm xúc và hành động như những con người. Và
vì coi như con người, Trần Đăng Khoa mới dùng cách gọi cái Na và đàn chuối. Những
loại từ này vốn thường được dùng để chỉ con người.
Không chỉ coi thực vật như những người bạn, các con vật cũng được Trần Đăng
Khoa nhân cách hóa để chúng trở nên gần gũi, thân thuộc với mình. Chẳng hạn:
(68) Tao đi học về nhà
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
73
Khịt khịt mũi rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt
…
(Sao không về Vàng ơi?)
Bài thơ Sao không về Vàng ơi? là một bài thơ gây nhiều cảm xúc cho bạn đọc.
Đây là bài thơ được ứng tác ngay tại chỗ, theo yêu cầu của bác Lê Hào, Trưởng ti Giáo
dục tỉnh Hải Dương. Khi về thăm nhà Trần Đăng Khoa, thấy cả nhà buồn như có tang,
hỏi lý do, bác biết con chó trong nhà mới chạy đi mất. Bác liền bảo Trần Đăng Khoa:
Cháu viết bài thơ mất chó đi. Thế là bài thơ ra đời. Sở dĩ nói đến nguồn gốc xuất xứ
bài thơ ở đây là muốn minh chứng Trần Đăng Khoa và gia đình rất yêu động vật. Vì
thế mới có chuyện một con chó bỏ đi mà cả nhà buồn đến vậy. Vì yêu động vật, cụ thể
ở đây là con chó, cho nên khi viết về nó, Trần Đăng Khoa đã coi nó như một người
bạn, và thực sự là một người bạn. Với cách gọi con chó là mày và tự xưng là tao, nếu
như không nhìn vào phần thuyết của từ mày, chúng ta không thể biết được đây là Trần
Đăng Khoa đang nói về con chó. Bởi cách xưng hô này vốn là cách xưng hô giữa con
người với con người một cách thân mật.
Một ví dụ khác:
(69) Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng.
(Buổi sáng nhà em)
Cũng giống như con chó, mèo cũng là con vật gần gũi trong nhà được Trần Đăng
Khoa luôn yêu quý. Vì thế, với cách gọi cậu Mèo, tác giả thể hiện rất rõ sự thân mật
của mình với con vật này.
Hay:
(70) Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa
Này thằng Dói nhớ ai?
Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa
Này lão Trê nhảy võ ở đâu?
Mà ngã bẹp đầu!
74
(Em kể chuyện này…)
Trong ví dụ trên, tác giả đã gọi Cua Càng, con cá Dói, cá Trê bằng các danh từ
thân tộc như chị, thằng, lão. Đây cũng là cách gọi thể hiện sự thân mật, gần gũi, coi
các con vật như là những con người.
Như vậy, có thể thấy, việc sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ đã thể
hiện Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên.
b. Luôn trân trọng những gì thuộc về thiên nhiên
Ngoài việc luôn có thái độ thân mật, gần gũi với thiên nhiên, coi thiên nhiên như
là người bạn, Trần Đăng Khoa còn rất trân trọng những gì thuộc về thiên nhiên. Chính
vì thế, khi nhắc đến thiên nhiên, nhà thơ dùng nhiều những từ ngữ thể hiện rõ thái độ
này. Xin phân tích một số ví dụ dưới đây làm minh chứng cho điều vừa nói.
(71) Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm
Đứng học
Đàn cò trắng
Nghiêng nắng
Qua sông
Cô Gió chăn mây trên đồng
Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi
(Em kể chuyện này…)
Lúa, tre, gió hay mặt trời vốn là những sự vật vô tri vô giác. Nhưng với Trần
Đăng Khoa, những vật tưởng như vô tri vô giác ấy lại như những con người có tình
cảm. Chính vì thế, để gọi các đối tượng này, Trần Đăng Khoa dùng những danh từ thân
tộc thể hiện rõ thái độ trân trọng của mình như: cô, cậu, chị, bác.
Một ví dụ khác:
(72) Ông Trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
….
Chị Tre chải tóc bên ao
Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương
75
(Buổi sáng nhà em)
Tương tự, mặt trời, cây tre hay mây cũng chỉ là những sự vật vô tri vô giác. Nhưng
khi đề cập đến chúng, Trần Đăng Khoa lại gọi bằng những cách gọi thể hiện rõ sự trân
trọng như ông Trời, chị Tre, nàng Mây.
Hay:
Đêm nay trăng đang rằm (73)
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe cái mặt tròn
(Trông trăng)
Chiếc ngõ nhỏ (74)
Thở sương đêm
Ông trăng lên
Cười trong lá
(Chiếc ngõ nhỏ)
(75) Vườn xanh biếc tiếng chim
Dơi chiều khua chạng vạng
Ai dắt ông trăng vàng
Thả chơi trong lùm nhãn
(Hương nhãn)
Hình ảnh trăng xuất hiện tương đối nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa. Trăng vốn
dĩ là biểu tượng cho sự thanh bình, ấm áp, yên ả. Viết về trăng, bao giờ Trần Đăng
Khoa cũng dành một thứ tình cảm đặc biệt cùng với sự trân trọng và ngưỡng mộ. Vì
thế, ông trăng hay ông là cách gọi Trần Đăng Khoa sử dụng nhiều khi viết về thực thể
này.
Đối với các loài thực vật và các thực thể tự nhiên, Trần Đăng Khoa đã thể hiện
thái độ trân trọng như thế, thì với động vật, thái độ này càng thể hiện rõ hơn. Bởi động
vật luôn có hoạt động. Và dưới con mắt Trần Đăng Khoa, hoạt động của động vật là
các hoạt động có ý thức, nghĩa là biết tư duy như con người. Từ việc coi động vật có ý
thức như con người như vậy, Trần Đăng Khoa cũng gọi chúng với các cách gọi thể
76
hiện rõ sự trân trọng.
Ví dụ:
(76) Những chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa
…
Những chị chim sâu trên cành
nhìn chúng em cười: Tích! Tích
(Em kể chuyện này)
Chim sâu và Cua Càng, những con vật vốn rất nhỏ bé đã được Trần Đăng Khoa trân
trọng gọi là chị. Và Trần Đăng Khoa cho rằng, chúng thực sự có cảm xúc và những hành
động của chúng là hành động có ý thức, giống như con người.
Hay:
(77) Ngoài sân lội, mấy chú gà liếp nhiếp
Đi tìm mồi, cùng mẹ bắt giun, sâu
Trời mưa lâm thâm làm các chú ướt đầu
Chú rùng mình, giọt mưa rơi khỏi cánh
(Gà con liếp nhiếp)
Những con vật gắn bó với đời sống nông thôn đi vào thơ Trần Đăng Khoa rất tự
nhiên và gần gũi. Và chưa bao giờ Trần Đăng Khoa nghĩ chúng là những con vật đơn
thuần. Phải yêu và trân trọng chúng, Trần Đăng Khoa mới có thể viết về chúng đáng
yêu đến thế. Ngay một con gà nhỏ bé, Trần Đăng Khoa cũng gọi là chú, một cách gọi
thể hiện cậu rất yêu quý coi nó như một người bạn.
Sự trân trọng còn được Trần Đăng Khoa dành cho cả những con vật nhỏ bé nhất,
như con giun chẳng hạn.
(78) Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
(Đám ma bác Giun)
Nhắc đến con giun, người ta thường liên tưởng đến con vật thuộc tầng lớp dưới
đáy, thấp cổ bé họng nhất. Xưa có cụm từ “thân phận con giun cái kiến”. Vậy mà Trần
Đăng Khoa lại gọi con vật này là bác. Tại sao không phải là Con Giun đào đất suốt
77
ngày mà lại là bác Giun? Phải chăng, Trần Đăng Khoa chưa bao giờ coi con vật này là
nhỏ bé. Hay nói khác đi, con vật có hình thức dù nhỏ bé nhưng Trần Đăng Khoa vẫn
luôn có thái độ trân trọng.
Qua sự phân tích trên cho thấy, Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên.
Tình yêu này được thể hiện qua nhiều phương diện, trong đó không thể phủ nhận rằng,
việc dùng các từ ngữ để chỉ thiên nhiên cũng góp một phần không nhỏ giúp nhà thơ
bộc lộ tình yêu đó.
3.3. Vai trò trong việc góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả
Hơn nửa thế kỷ ngược xuôi trên văn đàn, Trần Đăng Khoa thực sự đã khẳng định
được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại. Để có được thành công
ấy, do rất nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến phong cách nghệ thuật mang đậm chất
riêng mà nhà thơ đã thể hiện.
Góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa có vai trò của việc
sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên. Chính việc dùng các từ ngữ chỉ thiên nhiên có dụng
ý đã giúp Trần Đăng Khoa thực hiện thành công một số biện pháp tu từ. Đó là các biện
pháp tu từ sau:
3.3.1. Biện pháp nhân hóa
Nhân hóa là biện pháp tu từ gọi hoặc tả sự vật bằng những từ ngữ sử dụng cho
con người. Trong thơ Trần Đăng Khoa, việc sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đã góp
phần giúp nhà thơ thực hiện biện pháp tu từ này.
3.3.1.1. Gọi thiên nhiên bằng những từ ngữ để gọi con người
Như đã phân tích ở mục 3.2, Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên. Điều
này thể hiện ở việc nhà thơ luôn có thái độ thân mật, gần gũi với thiên nhiên, coi thiên
nhiên như là người bạn cũng như luôn trân trọng những gì thuộc về thiên nhiên. Vì coi
thiên nhiên như là người bạn, tức cũng là con người, cho nên Trần Đăng Khoa đã dùng
rất nhiều các từ ngữ vốn thường dùng chỉ người để gọi các sự vật, thực thể hay hiện
tượng thiên nhiên. Chẳng hạn:
(79) Chẳng vui cũng nhảy
Là chú cào cào
Đêm ngồi đếm sao
Là ông cóc tía
78
Ríu ran cành khế
Là cậu chích chòe
Hay múa xập xòe
Là cô chim trĩ
(Kể cho bé nghe)
Có thể nhận thấy, trong đoạn thơ trên, Trần Đăng Khoa đã dùng các danh từ thân
tộc như chú, ông, cậu, cô để gọi các con vật cào cào, cóc tía, chích chòe, chim trĩ. Với
cách gọi này, Trần Đăng Khoa đã làm cho các con vật sống động hơn, gần gũi hơn với
con người.
(80) Cậu Mèo đã dạy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi
(Buổi sáng nhà em)
Tương tự, cậu, mụ, thằng cũng vốn là các danh từ thân tộc được dùng để chỉ con
người. Ở đây, Trần Đăng Khoa đã dùng chúng để gọi con mèo và con gà. Với cách
dùng này, rõ ràng, các con vật đã được nhân cách hóa như là những con người.
Hay:
(81) Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
(Đám ma bác Giun)
Bác cũng là danh từ thân tộc được Trần Đăng Khoa dùng để gọi con giun. Biện
pháp nhân hóa này đã giúp biến con vật vốn nhỏ bé thành như con người.
Một ví dụ khác:
(82) Những chị chim sâu trên cành
nhìn chúng em cười: Tích! Tích!
(Em kể chuyện này)
Con chim sâu cũng được Trần Đăng Khoa nhân cách hóa thành con người khi gọi
nó bằng từ chị.
Không chỉ gọi các con vật bằng các cách gọi của con người, các loài thực vật, các
hiện tượng tự nhiên hay các thực thể tự nhiên cũng được Trần Đăng Khoa sử dụng biện
79
pháp nhân hóa này. Xin được phân tích một số ví dụ dưới đây:
(82) Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm
Đứng học
Đàn cò trắng
Nghiêng nắng
Qua sông
(Em kể chuyện này…)
Lúa, tre vốn là loài thực vật vô tri vô giá. Nhưng dưới ngòi bút của mình, Trần
Đăng Khoa đã biến chúng trở thành con người bằng cách gọi chúng bằng những từ như
chị, cậu.
Hay:
(84) Các cô Mây
Chị Gió
Cổ đeo gùi nước về trời
(Đánh thần hạn)
Gió là một hiện tượng trong tự nhiên đã được Trần Đăng Khoa nhân hóa thành
con người thông qua cách gọi là chị.
Cũng trong ví dụ này, mây - một thực thể tự nhiên được gọi là cô, một từ thường
dùng để chỉ con người.
Trăng và mặt trời xuất hiện khá nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa. Đây là những
thực thể tự nhiên rất gắn bó với con người và mang giá trị biểu tượng cao. Để nhân
cách hóa hai đối tượng này, Trần Đăng Khoa thường gọi chúng là bác hay ông. Điều
này thể hiện qua các ví dụ dưới đây:
(85) Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi
Có vẻ vui tươi
Nhìn chúng em nhăn nhó cười…
(Em kể chuyện này…)
(86) Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
80
(Buổi sáng nhà em)
(87) Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
(Mưa)
(88) Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
(Trăng sáng sân nhà em)
(89) Đêm nay trăng đang rằm
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe cái mặt tròn
(Trông trăng)
Từ sự phân tích ở trên cho thấy, để thực hiện biện pháp nhân hóa, Trần Đăng
Khoa đã dùng các từ ngữ chỉ con người để gọi thiên nhiên. Với cách này, thiên nhiên
đã trở nên sống động, gần gũi hơn, mang nhiều màu sắc hơn.
3.3.1.2. Miêu tả thiên nhiên bằng những từ ngữ miêu tả con người
Không chỉ gọi thiên nhiên bằng những từ ngữ để gọi con người, Trần Đăng Khoa
còn miêu tả chúng có những hoạt động, tâm trạng và tính cách như của con người vậy.
Cụ thể:
a. Nhân hóa để tả hoạt động
Có thể nói, bằng thủ pháp nhân hóa khi miêu tả hoạt động của các loài cây, các
con vật, các thực thể hay hiện tượng thiên nhiên, Trần Đăng Khoa thực sự đã thổi hồn
cho chúng. Chúng trở nên sống động, gần gũi và có tình hơn bao giờ hết. Xin được
phân tích một vài ví dụ tiêu biểu dưới đây để minh chứng cho điều này.
Dừa là hình ảnh quen thuộc của đất nước Việt Nam. Đã có rất nhiều nhà thơ viết
về loài cây này. Ta đã từng gặp hình ảnh cây dừa trong bài thơ Dừa ơi của Lê Anh
81
Xuân viết năm 1966:
Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ?”
Một hình ảnh cây dừa rất gần gũi gắn liền với các thế hệ tuổi thơ. Cũng viết về
cây dừa, năm 1967, Trần Đăng Khoa lại có cái nhìn rất mới.
(90) Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
(Cây dừa)
Dưới con mắt Trần Đăng Khoa, cây dừa không còn là cây dừa nữa, mà nó như
một con người có cảm xúc, thích tâm giao, muốn hòa quện vào thiên nhiên. Bằng thủ
pháp nhân hóa, Trần Đăng Khoa miêu tả cây dừa với những động tác như dang tay, gật
đầu để đón gió, gọi trăng, để hòa mình vào vũ trụ. Không chỉ muốn hòa mình vào thiên
nhiên, cây dừa còn trở nên bề thế, tự tin như một người lính đang làm nhiệm vụ bảo vệ
đất trời.
(91) Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi
(Cây dừa)
Với các hành động như canh, đứng chơi trong một phong thái đủng đỉnh, cây dừa
bỗng chốc như thành hiện thân của con người Việt Nam hiên ngang, dũng cảm.
Có khi, dừa được Trần Đăng Khoa miêu tả khỏe khoắn, năng động như một vận
động viên bơi lội:
(92) Cây dừa
Sải tay
Bơi
(Mưa)
Trong Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, một bài thơ mà biện pháp nhân hóa được thể hiện
rõ nhất và phủ ra hầu hết các câu thơ chính là bài Đám ma bác Giun.
(93) Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
82
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, Kiến già theo sau
Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu Kiến Gió bay ra chia phần…
(Đám ma bác Giun)
Giun là con vật bé nhỏ, thường bò sâu trong lòng đất. Khi con giun chết, lũ kiến
thường kéo đến tha xác con giun về tổ, thực chất là để ăn thịt. Tuy nhiên, chứng kiến
cảnh đó, Trần Đăng Khoa nhìn ra đấy là một đám tang. Đám tang ấy có sự lít nhít của
bọn trẻ con, đó chính là lũ kiến con (kiến con đi trước); có những người đi đầu cầm
hương, đó là Kiến Đất (đầu nó màu bạc như que hương vậy); có người nhà mặc áo tang
khóc than, đó chính là Kiến Cánh (có bộ cánh dài màu trắng trong); có người cầm gậy
(Kiến Kim - con kiến mà ở miệng nó có 1 cái kim); có người khiêng vác người chết
(Kiến Càng). Và trong đám tang như thế, cũng không thiếu những kẻ lợi dụng để kiếm
chác (Kiến Đen uống rượu la đà, Kiến Gió bay ra chia phần). Như vậy, từ việc nhân
hóa các con kiến bằng những hành động giống con người (với các động từ như đi, theo,
cầm hương, khóc than, chống gậy, khoác màu áo tang, đốt đuốc, uống rượu, chia phần),
Trần Đăng Khoa đã miêu tả một đám tang không khác gì một đám tang của con người
thực.
Thủ pháp nhân hóa tiếp tục được nhà thơ thể hiện trong bài Chớm thu.
(94) Nửa đêm nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau
83
(Chớm thu)
Đây là một bài thơ tả cảnh đất trời bắt đầu vào thu. Xuân Diệu rất thích bài thơ
này nhưng ông lại chưa thật ưng câu thơ đầu tiên “Nửa đêm nghe ếch học bài”. Ông
cho rằng câu thơ cọc cạnh so với 3 câu sau. Vì thế, sau này Trần Đăng Khoa đã thay
câu thơ ấy bằng câu “Sân trăng nghe đã dần phai”. Nội dung của câu thơ có vẻ phù
hợp với toàn bài hơn. Tuy nhiên, như thế câu thơ lại “chững chạc” quá, không phù hợp
với góc nhìn của cậu bé mới 9 tuổi. Thế là Trần Đăng Khoa lại giữ nguyên câu thơ cũ.
Có thể, câu thơ cũ này không phù hợp với thực tế (bởi khi đã vào chớm thu, tức là lạnh
thì ếch không còn kêu nữa) nhưng câu thơ mang được cái nhìn hồn nhiên của cậu bé 9
tuổi. Chỉ trẻ con mới có tư duy như thế.
Dưới con mắt của cậu, động vật, thực vật đều “biết học” hết.
(95) Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm
Đứng học
(Em kể chuyện này…)
Đề cập đến vấn đề này, nhà báo Trịnh Bá Ninh đã từng nói vui: Chẳng thấy cậu
Khoa học bao giờ, chỉ thấy ếch với tre học. Có 1 lần cậu tả cậu bên bàn học nhưng thật
ra cũng chẳng phải học (Em ngồi bên bàn học/ Hương nhãn thơm bay đầy (Hương
nhãn)). Cậu ngồi để ngắm cảnh, ngửi hương nhãn đấy chứ có học đâu? (Tư liệu Trần
Đăng Khoa kể). Chi tiết này càng thể hiện sự hồn nhiên của Trần Đăng Khoa trong
việc luôn luôn chú tâm để nắm bắt mọi sự chuyển động của thiên nhiên. Và với biện
pháp nhân hóa trong việc gán cho ếch, cho tre hoạt động học, Trần Đăng Khoa thực sự
đã thổi vào thiên nhiên một sức sống mới. Thiên nhiên trở nên hòa nhập với con người.
Hay:
Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa (96)
Này thằng Dói nhớ ai?
Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa
Này lão Trê nhảy võ ở đâu?
Mà ngã bẹp đầu!
84
(Em kể chuyện này…)
Đoạn thơ trên có 5 câu thì cả 5 câu Trần Đăng Khoa đều dùng những động từ vốn
là hoạt động của con người để được gán cho các con vật. Đó là những động từ như giơ
tay, nhớ, khóc, nhảy võ và ngã. Bằng thủ pháp nhân hóa này, một mặt, Trần Đăng Khoa
làm cho hoạt động của các con vật trở thành những hoạt động có ý thức, mặt khác còn
miêu tả được đặc điểm ngoại hình của các con vật. Vì sao con cua lại hay giơ tay (tức
là càng) lên? Vì nó muốn “chào biển lúa”. Vì sao mắt con cá Dói lại đỏ ngầu? Vì nó
nhớ ai đó nên khóc mãi. Vì sao cá trê lại bẹp đầu? Vì cá hay nhảy võ nên bị ngã. Một
sự lý giải vừa hồn nhiên, vừa bất ngờ và đầy sáng tạo. Ở đây, Trần Đăng Khoa thực sự
thành công trong việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa.
Không chỉ các con vật hay cây cối được Trần Đăng Khoa miêu tả như những con
người, các thực thể tự nhiên cũng được nhà thơ ví von rất sinh động. Thực thể đầu tiên
phải kể đến chính là trăng.
Có thể nói, hình ảnh trăng xuất hiện rất nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa. Ở mỗi
bài, trăng lại hiện lên với những dáng vẻ rất khác nhau.
(97) Đêm nay trăng đang rằm
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe có mặt tròn
…
Ông trăng nhìn thấy xôi
Là ông nhoẻn miệng cười
Áng chừng ông thích lắm
...
Khuya, không trông trăng nữa
Trăng thập thò ngoài cửa
Muốn rủ em đi chơi...
(Trông trăng)
Bằng biện pháp nhân hóa, Trần Đăng Khoa đã miêu tả trăng rất hồn nhiên và
85
ngây thơ như một đứa trẻ. Trăng muốn khoe các em bé cái mặt tròn. Trăng cũng
thích thú khi nhìn thấy xôi, thấy chuối. Trăng cũng ham chơi khi muốn rủ em tham
gia cùng.
Nhưng cũng có lúc, trăng trông thật già nua:
(98) Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
Chú ơi, trăng già thế
Sao bà bảo trăng non?...
(Trăng đầu tháng)
Hình ảnh trăng cười hở ra toàn những lợi, chẳng có chiếc răng nào làm cho ta liên
tưởng trăng như một ông già vậy.
Rồi trong con mắt Trần Đăng Khoa, trăng còn hồ hởi góp sức cùng con người,
hòa nhập với con người trong lao động sản xuất.
(99) Tối về ông trăng đến
Cùng các đội bình công
Ấm nước chè tỏa nóng
Thơm như hương lúa đồng…
Sau một ngày cả thôn xóm làm việc vất vả, buổi tối, họ lại quay quần bên nhau
để chấm công. Khi ấy, trăng đã chủ động đến để soi sáng cho mọi người, cùng góp
phần vào công việc chung với mọi người.
Tiếp sau trăng, một thực thể nữa được Trần Đăng Khoa nhân hóa rất sinh động,
đó là mặt trời. Bằng sự liên tưởng tinh tế, Trần Đăng Khoa đã để mặt trời có những
hoạt động như một con người: biết đạp xe, biết nhìn, biết nhăn nhó cười, biết nổi lửa,
biết mặc áo để ra trận, v.v…
(100) Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi
Có vẻ vui tươi
Nhìn chúng em nhăn nhó cười…
(Em kể chuyện này…)
(101) Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
86
(Buổi sáng nhà em)
(102) Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
(Mưa)
Sự nhân hóa này xuất phát từ hiện thực mà Trần Đăng Khoa quan sát được về đối
tượng. Nhìn thấy mặt trời nhô lên qua đỉnh núi, tác giả liên tưởng như là nó đang đạp
xe. Rồi khi mặt trời bắt đầu xuất hiện ở đằng đông, ban ánh sáng rực rỡ cho vũ trụ, tác
giả tưởng tượng ra mặt trời như đang nổi lửa. Trời chuẩn bị mưa, trời đất sầm sì, tác
giả cảm thấy như ông trời đang mặc áo giáp đen chuẩn bị ra trận. Như vậy có thể thấy,
bằng thủ pháp nhân hóa, mặt trời - một thực thể vô tri vô giác nhưng lại hiện lên rất
sống động với những hoạt động có ý thức như một con người.
b. Nhân hóa để tả tâm trạng, tính cách
Thiên nhiên dưới con mắt của Trần Đăng Khoa không chỉ có những hoạt động
như con người mà chúng cũng mang đầy tâm trạng và có tính cách. Có thể thấy điều
này qua các ví dụ dưới đây:
(103) Có con châu chấu phương nào
Bâng khuâng nhớ lúa, đậu vào vai em.
(Đồng quê)
Bâng khuâng là một tính từ có ý nghĩa tả tâm trạng luyến tiếc, nhớ thương xen
lẫn nhau, hơi ngẩn ngơ. Chỉ bằng một từ thôi nhưng Trần Đăng Khoa đã bộc lộ được
cảm xúc của một con vật nhỏ bé, làm cho nó mang hơi thở của một con người.
Một ví dụ khác:
(104) Con chó vàng nhà em xem chừng vui vẻ
Tiếng nó cười vang
- A! Thằng giặc Mĩ đến Việt Nam
Nó đến là như thế!
(A! Em biết thằng giặc Mĩ rồi!)
Khi chứng kiến thằng giặc Mĩ chết, không chỉ mọi người trong làng mà đến con
chó cũng có tâm trạng vui vẻ. Phải chăng, con chó cũng giống như những người dân
87
chốn thôn quê này đều có tấm lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.
(105) Cóc nhảy chồm chồm
Chó sủa
Cây lá hả hê
(Mưa)
Hả hê có nghĩa là “vui sướng vì cảm thấy được đầy đủ như ý muốn” [,399]. Như
vậy, bằng thủ pháp nhân hóa, Trần Đăng Khoa đã biến cây cối trở nên có cảm xúc, tâm
trạng như con người, biết vui, biết sung sướng.
(106) Nghe hàng chuối vườn em
Gió trở mình trăn trở
Chuột chạy giàn bí đỏ
Loáng vỡ ánh trăng vàng
(Nửa đêm tỉnh giấc)
Trăn trở có nghĩa là “trở mình luôn, không nằm yên ở một tư thế” [,991]. Phải
chăng, cái nóng nực của đêm hè đã làm cho vạn vật có gì đó bức bối. Con sâu thì ri rỉ
thở cuối tường; rặng duối thì rì rầm đòi uống sương; cây cau thì bí bách quạt phành
phạch liên hồi. Và gió cũng không yên được, cũng thao thức, trăn trở.
Không chỉ mang tâm trạng giống con người, thiên nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa cũng có những tính cách mà chỉ con người mới có.
(107) Cây Nam Lùn đâu, đừng thẹn thò khép nép
Hãy trổ ta xem như tóc kết đuôi gà
(Bài hát gọi cây lúa)
Thẹn thò, khép nép có nghĩa chỉ tính cách nhút nhát, rụt rè. Rõ ràng, với thủ pháp
nhân hóa này, cây lúa đã không còn là cây lúa nữa, mà nó thực sự như một con người.
Một ví dụ khác:
(108) Riêng Mặt Trời tinh nghịch
Ngậm mồi dưới đáy ao
Giật mấy lần không được
Còn làm ta ngã nhào
88
(Câu cá)
Bài thơ ở ví dụ (108) nói về một buổi câu cá. Trong buổi câu cá này, cậu bé câu
được rất nhiều cá, từ con cá ngão, cá rô cho đến con cá diếc. Tất cả các con cá, “Dù
con to con nhỏ/ Nếu chạm đến mồi ta/ Đều nằm khoèo trong rổ”. Tuy nhiên, đến “con
cá” cuối cùng, “con cá” tinh nghịch nhất, tưởng ngậm mồi dưới đáy áo rồi đấy, vậy mà
giật mấy lần không được. Con cá đấy chính là con cá Mặt Trời. Hóa ra, mục đích của
cậu bé có phải là câu cá đâu? Cậu chính là đang muốn đùa nghịch với mặt trời. Và mặt
trời, với tính cách tinh nghịch, như trêu ngươi cậu bé, quyết không dính câu, làm cậu
câu mãi không được, còn bị ngã nhào.
Như vậy, việc miêu tả các sự vật thuộc về thiên nhiên cũng có tâm trạng, tính
cách như của con người chính là một biểu hiện của thủ pháp nghệ thuật nhân hóa mà
Trần Đăng Khoa đã khéo léo thể hiện trong thi phẩm của mình.
3.3.1.3. Xưng hô với thiên nhiên thân mật như con người
Xưng hô với thiên nhiên thân mật như con người là điều mà Trần Đăng Khoa đã
thể hiện rất nhiều trong các bài thơ của mình. Các sự vật hiện tượng thuộc thiên nhiên
vốn vô tri vô giác. Nhưng thông qua cách trò chuyện, các sự vật hiện tượng này đã trở
nên gần gũi hơn. Việc xưng hô với thiên nhiên thân mật như con người biểu hiện ở hai
khía cạnh sau:
a. Dùng các đại từ để xưng hô
Trong tiếng Việt, có các đại từ được dùng để xưng hô theo các ngôi thứ nhất, thứ
hai và thứ ba. Khi dùng các đại từ này để xưng hô với các sự vật, hiện tượng thuộc
thiên nhiên cũng chính là biểu hiện của phép nhân hóa. Chẳng hạn:
(109) Trầu ơi hãy tỉnh lại
Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
(Đánh thức trầu)
Ở đoạn thơ trên, tao là đại từ ở ngôi thứ nhất, chỉ tác giả của bài thơ. Mày là đại
từ ở ngôi thứ hai, chỉ cây trầu. Với cách xưng hô này, Trần Đăng Khoa đã biến cây trầu
89
như một người bạn có vị thế ngang hàng với mình.
Tương tự:
Tao đi học về nhà (110)
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt
Bắt tay tao rất chặt
(Sao không về Vàng ơi?)
Nếu như ở bài thơ Đánh thức trầu, đối tượng giao tiếp của tác giả là loài thực
vật thì ở bài Sao không về Vàng ơi?, đối tượng giao tiếp lại là con vật. Và cũng vẫn
với lối xưng hô tao (tác giả) - ngôi thứ nhất và mày (con chó Vàng) - ngôi thứ hai,
Trần Đăng Khoa đã cho thấy một cuộc trò chuyện rất thân mật, gần gũi của hai người
bạn.
Ở vị trí ngôi thứ nhất, ngoài từ tao, Trần Đăng Khoa còn sử dụng các đại từ khác
như ta, tôi.
(111) Ta sẽ nâng đê cho cao hơn mặt lũ
Ta sẽ khuyên trời bảo bão đừng giật gió
Ta sẽ nhìn sao tính chớp bể, mưa nguồn
Những mất mát trong chiến tranh
ta chưa kịp ngồi buồn
Ta vui lòng đổi mỗi ngày hòa bình
Bằng bao giọt máu hồng sáng chói
Bằng cả cái bụng ta hôm nay còn đói
Hãy trỗ nào, lúa ơi
Ta chợp mắt đi, mai mày đã thấp thoi
90
(Bài hát gọi cây lúa)
Ta là đại từ xưng hô ngôi thứ nhất - chỉ tác giả. Mày là đại từ xưng hô ngôi thứ
hai - chỉ cây lúa. Chính cách xưng hô này đã thể hiện sự thân mật của tác giả với một
loài thực vật vốn vô tri vô giác.
Hay:
(112) Đất ơi, hãy nói giùm tôi, nhúm nhau tôi
mẹ vùi ở nơi nào?
Mà cơn mưa xói mòn làm da tôi bỏng dát
Mà trận nắng chết cây làm tim tôi đau thắt
Đất ơi, núm ruột tôi đất giữ ở nơi nào?
(Đất ơi!)
Trong bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã dùng từ tôi - một đại từ ở ngôi thứ nhất
với ý nghĩa ngang hàng để xưng với đất. Và điều này cũng có nghĩa, tác giả đã coi đất
như một người bạn của mình.
b. Dùng cảm từ sau từ chỉ đối tượng xưng hô
Ơi được gọi là cảm từ thường được dùng sau từ chỉ đối tượng xưng hô với mục
đích biểu thị tiếng gọi thân mật, gần gũi. Trong thơ Trần Đăng Khoa, chúng ta thấy
một loạt các con vật, các loài thực vật, các thực thể hay các hiện tượng tự nhiên đã
được Trần Đăng Khoa gọi kết hợp với cảm từ này, kiểu như: sông ơi, đất ơi, hoa ơi,
trăng ơi, đa ơi, trâu ơi, Vàng ơi, v.v…Ví dụ:
(113) Sông ơi, nhớ thương ai
Mà bốn mùa nước đỏ
(Cầu Cầm)
(114) Đất ơi, hãy nói giùm tôi, nhúm nhau tôi
mẹ vùi ở nơi nào?
Mà cơn mưa xói mòn làm da tôi bỏng dát
Mà trận nắng chết cây làm tim tôi đau thắt
Đất ơi, núm ruột tôi đất giữ ở nơi nào?
(Đất ơi!)
(115) Một vùng tươi mát trong lành
Cái nắng trưa hè dịu lại
91
Vui vẻ người qua,
Hoa ơi
Ai bảo em là hoa dại?
(Hoa dại)
(116) Trăng ơi… từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
(Trăng ơi… từ đâu đến?)
(117) Đa ơi, em còn che cho ai bóng mát
Quán xưa đổ rồi
Cỏ mọc rì xanh xóa vết chân người
(Bến đò)
(118) Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
(Con trâu đen lông mượt)
(119) Sao không về hả chó?
Tao nhớ mày lắm đó
Vàng ơi là Vàng ơi!...
(Sao không về Vàng ơi?)
Rõ ràng, việc dùng các cảm từ ở đây đã có tác dụng nhân hóa, biến thiên nhiên trở
thành người bạn thân thiết với con người, mà cụ thể ở đây chính là tác giả.
3.3.2. Biện pháp ẩn dụ, hoán dụ
Ẩn dụ và hoán dụ là hai biện pháp tu từ có đặc điểm là lấy tên gọi của sự vật này
để gọi tên cho sự vật khác nhằm mục đích gợi hình, gợi cảm. Trong thơ Trần Đăng
Khoa, việc dùng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đã có vai trò thể hiện hai biện pháp tu từ
này. Xin minh chứng điều này qua việc phân tích một số ví dụ dưới đây.
3.3.2.1. Ẩn dụ
Như đã nói, ẩn dụ là biện pháp tu từ có đặc điểm là lấy tên gọi của sự vật này để
92
gọi tên cho sự vật khác. Cơ sở của phép ẩn dụ là hai đối tượng được lấy làm tên gọi
cho nhau phải có mối quan hệ tương đồng (tức là giống nhau). Trong thơ Trần Đăng
Khoa, có thể tìm thấy rất nhiều hiện tượng ẩn dụ như vậy:
(120) Con mắt trời nóng bỏng
Rừng rực những ngôi sao
Đêm đêm con mắt ấy
Cháy bùng trên mặt ao
(Con mắt)
Để miêu tả những ngôi sao, Trần Đăng Khoa sử dụng hình ảnh ẩn dụ con mắt
(con mắt trời). Sở dĩ có sự liên tưởng này là bởi ngôi sao cũng có những đặc điểm giống
như con mắt vậy: nhỏ, sáng, long lanh. Câu thơ là một phát hiện rất mới mẻ mà phải
có trí tưởng tượng phong phú lắm, Trần Đăng Khoa mới chỉ ra được điều đấy.
Một ví dụ khác:
(121) Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay
…
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta
(Hạt gạo làng ta)
Nhắc đến thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu là người ta nhắc đến bài thơ Hạt
gạo làng ta. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của lao động cũng như sự trân quý của hạt gạo giữa
hoàn cảnh đất nước còn đang chiến tranh. Để làm ra hạt gạo, người nông dân phải vất
vả vô cùng. Cho nên giá trị của hạt gạo không chỉ bởi nó là sản phẩm vật chất mà nó
93
còn là sản phẩm tinh thần. Chính vì thế, cuối bài thơ, Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo
là hạt vàng. Hạt vàng là một hình ảnh ẩn dụ. Vàng là một kim loại rất quý hiếm. Gọi
hạt gạo là hạt vàng, Trần Đăng Khoa muốn nhấn mạnh hạt gạo cũng quý như hạt vàng
vậy.
Hay:
(122) Em nằm lơ mơ ngủ
Thấy mình về Thủ đô
Ôi chao, trăng vàng óng
Quay tròn… bánh ô tô.
(Trăng tròn)
Hình ảnh bánh ô tô cuối bài thơ cũng là một hình ảnh ẩn dụ. Bánh ô tô ở đây
chính là mặt trăng. Nhận vật em trong giấc mơ thấy trăng tròn ngỡ như đấy là bánh ô
tô đang đưa mình về thủ đô.
(123) Bắp ngô non răng sún
Óng vàng một chòm râu
Ôi cánh buồm nhỏ bé
Biết bay về nơi đâu?
(Bên sông Kinh Thầy)
Miêu tả bắp ngô còn non, Trần Đăng Khoa dùng từ răng sún. Răng sún là hình
ảnh ẩn dụ được dùng để chỉ hạt ngô. Bởi hạt ngô có hình thức giống như cái răng vậy.
Với sự so sánh ngầm này, rõ ràng, câu thơ đã có sức nặng hơn về mặt biểu cảm.
(124) Bác ơi cháu đến đây rồi
Ba Đình phượng đỏ, một trời tiếng ve
Cháu nghe Hà Nội vào hè
Hồ Gươm nước biếc, bốn bề hoa tươi
…
Bác ơi, cháu đến đây rồi
Xanh trên nhà Bác vẫn trời mùa thu…
(Đất trời sáng lắm hôm nay)
Bài thơ Đất trời sáng lắm hôm nay được sáng tác khi lần đầu Trần Đăng Khoa ra
thăm Hà Nội. Xét về mặt thời gian, đây là thời điểm bắt đầu vào hè. Tuy nhiên, kết
thúc bài thơ lại là “xanh trên nhà Bác vẫn trời mùa thu…”. Trời mùa thu là một hình
94
ảnh ẩn dụ, chỉ mùa của cách mạng, mùa của kháng chiến thành công.
3.3.2.2. Hoán dụ
Cũng giống ẩn dụ ở đặc điểm là lấy tên gọi của sự vật này để gọi tên cho sự vật
khác, nhưng cơ sở của phép hoán dụ là hai đối tượng được lấy làm tên gọi cho nhau là
mối quan hệ tương cận (gần gũi với nhau). Trong thơ Trần Đăng Khoa, việc sử dụng
các từ ngữ chỉ thiên nhiên cũng có vai trò giúp tác giả thể hiện biện pháp tu từ này.
Chẳng hạn:
(125) Em đi chọc ếch chiều nay
Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu
Râm ran suốt cả trời chiều
Tiện mồm, em cũng hát theo một bài…
(Chọc ếch)
Tiếng kêu ở đây chính là hình ảnh hoán dụ, chỉ con ếch. Cơ sở của phép hoán dụ
này là lấy bộ phận để chỉ toàn thể.
Một ví dụ khác:
(126) Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy
(Góc sân và khoảng trời)
Tương tự, cánh cò trong ví dụ (126) cũng là hình ảnh hoán dụ, lấy bộ phận để chỉ
toàn thể. Cánh cò ở đây chính là để chỉ con cò.
Hay:
(127) Tháng năm lừng lững đi qua
Chỉ còn mấy đỉnh tháp già ngẩn ngơ
(Qua Xuzđan)
Tháng năm có ý nghĩa chỉ thời gian. Trong câu thơ này, tác giả đã lấy đơn vị thời
gian nhỏ để gọi đơn vị thời gian lớn.
Tóm lại, phong cách nghệ thuật là điều mà mỗi nhà văn, nhà thơ cần thể hiện nếu
muốn tác phẩm của mình “đứng” được. Trần Đăng Khoa cũng vậy. Sở dĩ người ta gọi
95
anh là thần đồng thi ca Việt Nam vì bởi anh thổi vào thơ anh một cái hồn riêng không
lẫn vào đâu được. Để có được thành công này, không thể phủ nhận có một phần không
nhỏ của cách anh sử dụng các từ ngữ điêu luyện, trong đó có việc dùng có dụng ý các
từ ngữ chỉ thiên nhiên.
3.4. Tiểu kết
Chương này tìm hiểu vai trò của các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa. Theo đó, việc sử dụng các từ ngữ này có các tác dụng chính sau:
- Góp phần khắc họa được toàn cảnh bức tranh làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam.
Dưới ngòi bút của Trần Đăng Khoa, thiên nhiên ở làng quê đồng bằng Bắc bộ
Việt Nam hiện lên vừa phong phú, đa dạng, vừa đẹp và sinh động.
- Góp phần thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên
Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên. Tình yêu ấy được thể hiện rất rõ
qua việc tác giả dùng nhiều những từ ngữ để chỉ thiên nhiên. Trong thơ mình, nhắc tới
thiên nhiên, Trần Đăng Khoa luôn có thái độ thân mật, gần gũi cũng như luôn trân
trọng những gì thuộc về thiên nhiên.
- Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả.
Trong tác phẩm của mình, Trần Đăng Khoa đã thực hiện rất nhiều các biện pháp tu
từ như nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Chính các biện pháp tu từ này làm cho thiên nhiên trong
thơ Trần Đăng Khoa càng trở nên sống động và gần gũi đồng thời đã tạo nên một dấu ấn
riêng trong phong cách sáng tác của Trần Đăng Khoa. Điều này lý giải vì sao tên tuổi và
96
tác phẩm của anh chưa bao giờ “ngủ” trong lòng bạn đọc.
KẾT LUẬN
Tiếp cận những bài thơ của Trần Đăng Khoa, chúng tôi càng xác tin rằng, trong
sáng tạo nghệ thuật, nhà thơ luôn lao động miệt mài, nghiêm túc, say mê đến không
biết mệt mỏi. Thông qua thế giới của mình, thi sĩ đã tạo nên một phong cách thơ riêng
biệt, khá độc đáo. Sự riêng biệt, độc đáo ấy trước hết được thể hiện ở những từ ngữ chỉ
thiên nhiên được ông sử dụng trong những tác phẩm của mình.
Trên nền tảng lí thuyết về thiên nhiên và từ loại, thiên nhiên trong thơ Trần Đăng
Khoa hiện lên thật trong trẻo, kì diệu và đầy chất thơ. Với những từ ngữ chỉ trực tiếp
thiên nhiên và từ ngữ vốn được dùng để chỉ đối tượng này, nhưng lâm thời được dùng
để chỉ thiên nhiên, đã gợi cho người đọc về một bức tranh nông thôn thuần nhất nhưng
cũng hết sức thơ mộng. Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa luôn tràn đầy sức sống,
luôn luôn vận động và phát triển. Đặc biệt là khả năng cảm nhận thiên nhiên bằng mọi
giác quan, bằng sự mở rộng tâm hồn, trí tưởng tượng phong phú, độc đáo.
Trần Đăng Khoa không bao giờ nhìn thiên nhiên trong sự đồng nhất, trần trụi mà
luôn phát hiện ra mối quan hệ giữa chúng hoặc liên tưởng với những hình ảnh tương
đồng, qua đó khái quát lên một cái gì cao hơn. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, bạn đọc cảm
nhận được cả một thế giới tự nhiên sinh động, giản dị nhưng qua đó lại thể hiện tình yêu
đằm thắm, tha thiết với con người, với cuộc sống và với thiên nhiên. Thơ ông đến với tuổi
thơ trước tiên bằng những rung động, cảm xúc chân thành, thân ái. Thơ ông còn khơi dậy
những rung động trong tâm hồn người lớn, làm cho họ được cảm giác trở về với tuổi thơ,
97
tìm lại mình ở cái trong trẻo tinh nguyên cảm xúc với thiên nhiên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A (chủ biên) (2014), Giáo trình Tiếng Việt 3, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Trần Thanh Ái (2003), Về vấn đề đề - thuyết, T/c Ngôn ngữ và đời sống, Số 4.
3. Diệp Quang Ban (1972), Xung quanh việc phân biệt câu ghép với câu đơn, T/c
Ngôn ngữ, Số 4.
4. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb GD, H.
5. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, tập 2, Nxb ĐH &
THCN, H.
6. Diệp Quang Ban (1992), Bàn góp về quan hệ chủ - vị và quan hệ phần đề- phần
thuyết, T/c Ngôn ngữ, Số 4.
7. Diệp Quang Ban (1998), Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
8. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
9. Diệp Quang Ban (2000), Thử điểm qua việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt
trong nửa thế kỷ qua, T/c ngôn ngữ, Số 9, tr. 41-47.
10. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội
11. Lê Biên (1996), Từ loại tiếng Việt hiện đại, ĐHQGHN, Trường ĐHSP, H.
12. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH,
H.
13. Nguyễn Tài Cẩn (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, (Tiếng - từ ghép - đoản ngữ, Nxh
ĐHQG HN, H.
14. Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich N.V. (1973), ”Góp thêm một số ý kiến về vấn đề
hệ thống đơn vị ngữ pháp, T/c Ngôn ngữ, Số 2.
15. Đỗ Hữu Châu (1974), Khái niệm trường và việc nghiên cứu hệ thống từ vựng,
Tạp chí ngôn ngữ số 2.
16. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Đỗ Hữu Châu (1998) Các bình diện của từ và từ Tiếng Việt, NXB Khoa Học Xã
Hội.
18. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập (Tập 1,tập 2), NXB Giáo dục,
98
Hà Nội.
20. Đỗ Hữu Châu (chủ biên) (1993), Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn ngữ học, tập
1, Nxb GD, H.
21. Hoàng Cao Cương (1985), Bước đầu nhận xét về đặc điểm ngữ điệu tiếng Việt,
T/c Ngôn ngữ, Số 3.
22. Hoàng Cao Cương (1986), Suy nghĩ thêm về thanh điệu, T/c Ngôn ngữ, Số 3.
23. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgíc, ngữ nghĩa, cú pháp, Nxb ĐH&THCN, H.
24. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb GD, H.
25. Nguyễn Đức Dương (2001), Nhìn lại vấn đề phân loại câu tiếng Việt theo cấu
tạo ngữ pháp, T/c Ngôn ngữ & đời sống, Số 11.
26. Phạm Tất Đắc (1953), Phân tích từ loại và phân tích mệnh đề, Nxb H.
27. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc Gia,
Hà Nội.
28. Trần Thị Định (2008), Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu,
Đại học An Giang.
29. Lê Đông & Nguyễn Văn Hiệp (1996), Cấu trúc đề - thuyết của một kiểu câu
tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 3.
30. Lê Đông (1993), Một vài khía cạnh cụ thể ngữ dụng học có thể góp phần nghiên
cứu xung quanh cấu trúc đề- thuyết, T/c Ngôn ngữ, Số 1
31. Đinh Văn Đức (1993), Một vài cảm nhận về ngữ pháp chức năng, T/c Ngôn
ngữ, Số 3.
32. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, từ loại, Nxb Đại học Quốc gia, H.
33. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội.
34. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội. 92
35. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo
dục Biệt Nam. Hà Nội.
36. Phạm Thị Hà (2011), Trường nghĩa thiên nhiên xứ Huế trong ký Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, ĐHSP Hà Nội.
99
37. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt- Văn Việt- Người Việt, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
38. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt: Mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ
nghĩa, Nxb GD, H.
39. Cao Xuân Hạo (2002), Bắt buộc và tùy ý, về hai cách biểu đạt trong ngôn ngữ,
T/c Ngôn ngữ, Số 9.
40. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (1999), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi
Tất Tươm, Câu trong tiếng Việt, Nxb GD, H.
41. Võ Tấn Hòa (2014), Trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng tác của
Nguyên Ngọc, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nôi.
42. Vũ Tiến Hóa (2015), Trường nghĩa thiên nhiên và con người Tây Bắc trong các tác
phẩm của nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ, ĐH Tây Bắc.
43. Đỗ Việt Hùng (2013) Ngữ nghĩa học, NXB Đại Học sư phạm.
44. Phan Khôi (1997), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng.
45. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1960), Văn phạm Việt Nam, Nxb
Tân Việt, Sài Gòn, 1940 (in lại lần thứ 4)
46. Đình Kính (2014), Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa, Hội nhà văn Hải Phòng,
https://vanhaiphong.com/c-li-th-trn-ng-khoa-inh-kinh/
47. Trương Vĩnh Ký (1883), Grammaire de la langue Annamite, Saigon: Guillaud
& Martinon.
48. Nguyễn Lai (1992), Suy nghĩ một số vấn đề về ngữ pháp chức năng, T/c Ngôn
ngữ, Số 3.
49. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc Đề -
Thuyết, Nxb ĐHQGHN, H.
50. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và Tiếng Việt, Nxb KHXH, H.
51. Hồ Lê (1991), Cú pháp tiếng Việt, Quyển 1, Phương pháp nghiên cứu cú
pháp, Nxb KHXH, H.
52. Hồ Lê (1993), Ngữ pháp chức năng- Cống hiến và khiếm khuyết, T/c Ngôn ngữ,
Số 1.
53. Trần Thị Thùy Linh (2011), Thơ Trần Đăng Khoa dưới góc nhìn tư duy nghệ
thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường ĐHKHXH&NV.
54. Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) (2016), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam.
100
55. Lê Văn Lý (1948), Le parler vietnamien, Paris.
56. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Bộ Giáo dục, Trung tâm học
liệu xuất bản.
57. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb KHXH, H.
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1_nhi%C3%AAn
58. Bách khoa toàn thư mở, Tự nhiên,
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng_v%E1%BA%ADt
59. Bách khoa toàn thư mở, Động vật,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_gian
60. Bách khoa toàn thư mở, Thời gian,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%B1c_th%E1%BB%83
61. Bách khoa toàn thư mở, thực thể,
62. Nguyễn Thị Trang Nhung (2017), Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần
Đăng Khoa, , ĐHTN, Trường ĐHKH.
63. Phó Thị Hồng Oanh (2013), Trường từ vựng - ngữ nghĩa trong truyện Tây Bắc của
Tô Hoài, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, ĐHP Thái Nguyên.
64. Panfilov V.X. (1979), Các cấp thể và các chỉ tố tình thái- thể trong tiếng Việt,
T/c Ngôn ngữ, Số 2.
65. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt, câu, Nxh ĐH& THCN, H.
66. Nguyễn Phú Phong (2002), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. Loại từ và chỉ
thị từ, Nxb ĐHQGHN, H.
67. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, H.
68. Lê Xuân Thại (1969), Cụm từ và phân tích câu theo cụm từ, T/c Ngôn ngữ, số 2.
69. Lê Xuân Thại (1978), Các kiểu loại cấu trúc chủ - vị, T/c Ngôn ngữ, Số 2.
70. Lê Xuân Thại (1995), Câu chủ vị trong tiếng Việt, Nxb KHXH, H.
71. Nguyễn Kim Thản (1997), Động từ trong tiếng Việt, Nxb KHXH, H.
72. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, H.
73. Lý Toàn Thắng (1981), Giới thiệu lý thuyết phân đoạn thực tại câu, T/c Ngôn
ngữ, Số 1.
74. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại
cương, Nxb KHXH, H.
101
75. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói, Nxb GD, H.
76. Vân Thanh (chủ biên) (2019), Văn học thiếu nhi Việt Nam một số vấn đề về tác
phẩm và thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
77. Phan Thiều (1993), Bàn về nghiên cứu ngữ pháp theo quan điểm chức năng, T/c
Ngôn ngữ, Số 3.
78. Trần Thường (1971), Những công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học
Liên Xô về tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 3.
79. Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1997), Thành phần câu tiếng
Việt, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, H.
80. Tiểu ban “Tiếng Việt trong nhà trường” (2002), Ngữ pháp chức năng, cấu trúc
đề- thuyết và ngữ pháp tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 14.
81. Bùi Đức Tịnh (1952), Văn phạm Việt Nam, Sài Gòn: P.Văn Tươi.
82. Bùi Minh Toán (1992), Tiếng Việt, tập 2, Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo viên, H.
83. Bùi Minh Toán (2012) Ngôn ngữ với văn chương, NXB Giáo dục Việt Nam.
84. Hoàng Tuệ, Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG TP Hồ Chí Minh.
85. Uỷ ban khoa học xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH, H.
86. Hoàng Văn Vân (2002), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt theo quan điểm
chức năng hệ thống, NXB KHXH, H.
NGUỒN NGỮ LIỆU
102
87. Trần Đăng Khoa (2016), Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, NXB Văn học.