ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HOA

TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN

TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM

Mã số: 8.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TÚ QUYÊN

THÁI NGUYÊN- 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và

kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố

trong bất kỳ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020

Tác giả Nguyễn Thị Hoa

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự

quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Nguyễn Tú Quyên, người đã tận

tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn

này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong và ngoài trường Trường Đại học

Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa

học.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn hữu,

đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020

Tác giả

Nguyễn Thị Hoa

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... v

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 3

6. Đóng góp mới của luận văn ...................................................................................... 4

7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 4

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT .............................................................................. 5

1.1. Khái quát về thiên nhiên ........................................................................................ 5

1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 5

1.1.2. Phân loại thiên nhiên .......................................................................................... 6

1.2. Khái quát về từ loại tiếng Việt ............................................................................... 9

1.2.1. Khái niệm ............................................................................................................ 9

1.2.2. Hệ thống từ loại tiếng Việt ................................................................................. 9

1.3. Vài nét về tác giả Trần Đăng Khoa và “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” ................ 22

1.3.1. Tác giả Trần Đăng Khoa ................................................................................... 22

1.3.2. “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” .......................................................................... 24

1.4. Tiểu kết ................................................................................................................ 24

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN TRONG THƠ

TRẦN ĐĂNG KHOA ............................................................................................... 26

2.1. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực ................................................................... 27

2.1.1. Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên .................................................................. 28

2.1.2. Các từ ngữ chỉ động vật .................................................................................... 30

2.1.3. Các từ ngữ chỉ thực vật ..................................................................................... 35

2.1.4. Các từ ngữ chỉ thời gian .................................................................................... 40

iii

2.1.5. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên ....................................................................... 43

2.2. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa ................... 49

2.2.1. Đại từ nhân xưng .............................................................................................. 49

2.2.2. Danh từ (cụm danh từ) ...................................................................................... 51

2.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 58

Chương 3: VAI TRÒ CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN TRONG

THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA ..................................................................................... 60

3.1. Vai trò trong việc khắc họa toàn cảnh bức tranh làng quê đồng bằng Bắc bộ

Việt Nam .......................................................................................................... 60

3.1.1. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phong phú và đa dạng ...... 60

3.1.2. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam đẹp và sinh động ........... 70

3.2. Vai trò thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên ..................................... 72

3.3. Vai trò trong việc góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả ............ 78

3.3.1. Biện pháp nhân hóa........................................................................................... 78

3.3.2. Biện pháp ẩn dụ, hoán dụ ................................................................................. 92

3.4. Tiểu kết ................................................................................................................ 96

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các tiểu loại danh từ ............................................................................... 16

Bảng 2.1. Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa ................................ 26

Bảng 2.2. Số lượng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa .... 27

Bảng 2.3: Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên ......................................................... 28

Bảng 2.4: Số lượng các từ ngữ chỉ động vật ........................................................... 31

Bảng 2.5: Tên gọi các loài động vật ........................................................................ 31

Bảng 2.6: Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật....................................................... 34

Bảng 2.7: Số lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ thực vật ....................... 35

Bảng 2.8: Tên các loài thực vật ............................................................................... 36

Bảng 2.9: Tên gọi các bộ phận của thực vật ............................................................ 37

Bảng 2.10: Các từ ngữ chỉ thời gian .......................................................................... 40

Bảng 2.11: Số lượng và tần số xuất hiện chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần

Đăng Khoa .............................................................................................. 43

Bảng 2.12: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời ........................... 43

Bảng 2.13: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất ............................ 45

Bảng 2.14: Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa ...... 49

Bảng 2.15: Các từ ngữ là đại từ nhân xưng được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên ..... 49

Bảng 2.16: Các từ ngữ là danh từ (cụm danh từ) được sử dụng lâm thời để chỉ

thiên nhiên ............................................................................................... 52

Bảng 2.17: Các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên.................. 52

Bảng 2.18: Các cụm danh từ hỗn hợp được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên ......... 55

v

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nếu giai điệu âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc, mảng khối là ngôn ngữ của

kiến trúc, màu sắc đường nét là ngôn ngữ của hội hoạ thì ngôn ngữ đích thực là chất

liệu của tác phẩm văn chương. Như Macxi Gorki đã từng nói: Ngôn ngữ là yếu tố thứ

nhất của văn học. Muốn khám giá trị của một tác phẩm văn học, yếu tố đầu tiên và

quyết định chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học là một bức tranh đa màu sắc, chứa

nhiều điều bí ẩn và hấp dẫn luôn thu hút sự khám phá của người đọc, người nghiên

cứu. Ngôn ngữ vừa là chất liệu tạo nên tác phẩm, nhưng cũng vừa là phương tiện để

qua đó người đọc cảm nhận được cái hay, vẻ đẹp của tác phẩm đó. Có lẽ, đó là một

trong những lí do khiến xu hướng dạy theo quan điểm tích hợp ngữ - văn đang được đề

cao như hiện nay. Lí thuyết về ngôn ngữ trong đó có lí thuyết về từ loại càng được quan

tâm ứng dụng vào nghiên cứu tác phẩm, góp phần giải mã tín hiệu ngôn ngữ ở một

dạng đặc biệt - ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì vậy, khi đi nghiên cứu lí thuyết về từ

ngữ trong quan hệ với phân tích tác phẩm văn học cũng nằm trong xu hướng chung đó.

1.2. Thần đồng thơ Trần Đăng Khoa, cái tên không chỉ được nhắc nhiều trên thi

đàn Việt mà còn có sức lay động đến nhiều bạn bè trên thế giới. Từ lâu thơ Trần Đăng

Khoa đã đi vào tiềm thức của bao thế hệ thiếu nhi. Những vần thơ trong trẻo, hồn nhiên,

ngộ nghĩnh vô cùng tươi vui, gắn bó sâu sắc với con người, cảnh vật, thiên nhiên,

quê hương, đất nước trở thành một dấu ấn khó phai mờ trong tâm hồn tuổi thơ. Đọc

thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về một vùng

quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người dưới con mắt

trẻ thơ thông minh đã đi vào thơ một cách sinh động đầy sáng tạo.

1.3. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ ông. Tuy nhiên về

phương diện từ ngữ, một phương diện quan trọng ảnh hưởng trực tiếp, ghi dấu trực tiếp

bút pháp thi ca của nhà thơ thì chưa được chú ý nhiều. Chính vì thế, chúng tôi đã chọn

đề tài “Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa”. Việc chọn đề tài này giúp

cho chúng ta hiểu biết thêm về cách dùng từ của nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng như

trang bị cho người viết ít nhiều hành trang tiếp cận các tác phẩm khác trong nền văn

1

học Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

“Đọc thơ Trần Đăng Khoa” Phạm Hổ thấy có cả một thế giới tình cảm

ở đó. Thơ Trần Đăng Khoa chủ yếu viết bằng tình cảm, bằng lòng yêu thương…Yêu

thương từ cây cỏ đến loài vật, từ người thân trong nhà đến bà con trong làng. Từ Bác

Hồ kính yêu đến các thầy cô giáo, các bạn bè cùng lớp…, các anh bộ đội các cô bác

công nhân đào than…Một trong những yếu tố giúp Trần Đăng Khoa có được cái riêng,

từ những quan sát nhỏ đến những tình cảm, những ý nghĩ lớn, đó là sức liên

tưởng phong phú và mạnh mẽ.

Vân Thanh đã khái quát về nội dung và giá trị của thơ Trần Đăng Khoa,

cùng với tình yêu thơ, khao khát được làm thơ mãi mãi: “Thơ Khoa, những dòng thơ

tươi mát, hồn nhiên, những dòng ấm áp tình người, đã làm tăng lên trong người đọc

tình yêu quê hương và lòng tự hào dân tộc” [76,tr.126]. Và chính trong cuốn “Văn

học thiếu nhi như tôi đươc biết” Vân Thanh cho rằng Trần Đăng Khoa biết lắng

nghe, quan sát những gì xảy ra xung quanh, làm cho cảnh vật dưới ngòi bút của ông

có hình nét và cả tâm hồn: “Thơ Khoa nắm bắt được nhiều màu sắc âm thanh, hương vị

của thế giới bên ngoài, của thiên nhiên, hoa cỏ, của sinh hoạt quê hương, đồng nội.

Em biết lắng nghe những gì đã xảy ra quanh mình. Cảnh vật dưới ngòi bút của Khoa

có cả hình nét và có cả tâm hồn”[76,tr.126]. Sống gần gũi với thiên nhiên, chan hòa

tình cảm với con người, Trần Đăng Khoa đã góp nhặt những gì quý giá nhất của cuộc

sống vào trong thơ mình. Mỗi bài thơ là một câu chuyện thân thương nhưng mang

nhiều triết lý.

Trần Thị Định, trong khóa luận của mình đã nghiên cứu về “Thế giới nghệ thuật thơ

thời niên thiếu của nhà thơ Trần Đăng Khoa qua tập Góc sân và khoảng trời”[28]. Khóa

luận đã chỉ ra những nét đặc sắc của nhà thơ trong việc sử dụng giọng điệu, trí liên tưởng

tưởng tượng, bên cạnh đó còn là những triết lí, suy tư của tác giả qua tập thơ.

Trần Thị Thùy Linh trong luận văn nghiên cứu Thạc sĩ với đề tài “Thơ Trần Đăng

Khoa dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật” [53] đã làm nổi bật cái tôi trữu tình trong thơ

Trần Đăng Khoa. Cái tôi trữ tình xưng em - thể hiện tư duy trẻ thơ hồn nhiên. Cái tôi

chiến sĩ - thể hiện yếu tố nội cảm, yếu tố luận lí. Còn tư duy thơ hướng ngoại lại mang

2

nhiều cái tôi của nhiều nhân vật trữu tình khác nhau.

Hay Nguyễn Thị Trang Nhung, lại đề cập đến chủ đề “Biển đảo trong sáng tác

của Trần Đăng Khoa” [62]. Để một lần nữa khẳng định chủ quyền lãnh thổ về biển

đảo. Qua đó, ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam trong thơ Trần

Đăng Khoa.

Nhìn một cách tổng thể, phần lớp các bài nghiên cứu trên có chung một khẳng

định: thơ Trần Đăng Khoa được viết lên bởi tình cảm, biết lắng nghe quan sát, làm cho

cảnh vật trong thơ ông có hình có nét. Tất cả hiện lên trang viết của nhà thơ hết sức

mộc mạc mà gần gũi thân thương. Song ở bình diện ngữ nghĩa học và dụng học thì

chưa có nhiều. Chúng tôi mạnh dạn đưa tìm hiểu đề tài: “Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong

thơ Trần Đăng Khoa”.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là từ ngữ chỉ thiên nhiên (tức là các từ ngữ có

chức năng định danh). Tuy nhiên, đôi chỗ, những từ ngữ chỉ hoạt động hay đặc điểm

của thiên nhiên cũng sẽ được chúng tôi phân tích để làm nổi bật giá trị của các từ ngữ

chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi sẽ giới hạn phạm vi khảo sát ở bộ “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa”, xuất

bản năm 2016, NXB Văn học.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu.

Thực hiện đề tài, chúng tôi nhằm mục đích:

- Xác lập và miêu tả được từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa về

phương diện ý nghĩa.

- Phân tích được giá trị của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ sau:

- Tổng quan những vấn đề lý luận liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài.

- Thống kê, xác lập từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.

- Phân tích giá trị của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.

5. Phương pháp nghiên cứu

3

5.1. Phương pháp thống kê, phân loại

Thống kê, phân loại từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, từ đó đưa

ra những số liệu cụ thể về các nhóm từ ngữ chỉ thiên nhiên.

5.2. Phương pháp miêu tả

Phương pháp này được dùng để miêu tả từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần

Đăng Khoa.

6. Đóng góp mới của luận văn

6.1. Về lí luận

Luận văn góp phần khẳng định những vấn đề lí luận cơ bản về từ loại và vai trò

của nó với việc biểu đạt trong tác phẩm văn chương.

6.2. Về thực tiễn

- Những kết quả chúng tôi thu được khi tìm hiểu thiên nhiên trong thơ Trần

Đăng Khoa dựa vào lí thuyết từ loại tiếng Việt là cơ sở cho việc tìm hiểu giá trị nội

dung, nghệ thuật nói chung của thơ Trần Đăng Khoa, mở ra hướng nghiên cứu tích hợp

giữa ngôn ngữ và văn bản.

- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh nhà trường, đặc biệt

dưới góc nhìn ngôn ngữ học, khi cần đọc - hiểu tác phẩm văn chương.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn

gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận

Chương 2: Đặc điểm của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa

4

Chương 3: Vai trò của từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa

Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Chương này dành cho việc tìm hiểu những nền tảng lý thuyết làm cơ sở cho việc

nghiên cứu đề tài, đó là các vấn đề lớn như:

- Khái quát về thiên nhiên;

- Khái quát về từ loại

Ngoài ra, chúng tôi có điểm qua về tác giả Trần Đăng Khoa và “Tuyển thơ Trần

Đăng Khoa”.

1.1. Khái quát về thiên nhiên

1.1.1. Khái niệm

Thiên nhiên là một danh từ quen thuộc được chúng ta sử dụng nhiều trong các

hoạt động học tập và lao động hằng ngày.

Theo định nghĩa của Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) thì “thiên nhiên hay còn

được gọi là tự nhiên, thế giới vật chất vũ trụ… Nó bao gồm tất cả các dạng vật chất và

năng lượng tồn tại từ cấp độ bé là hạt nguyên tử đến cấp độ to lớn như ngôi sao, thiên

hà, ngân hà…” [58]

Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, “tự nhiên cũng nhắc đến địa chất và

thế giới hoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau,

và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác - cách

mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ

như thời tiết và hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng như vật chất và năng lượng của

tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên” [58].

Còn nói theo cách hiểu đơn giản, thông dụng thì “thiên nhiên bao gồm tất cả

những gì bao quanh con người mà không do bàn tay con người tạo ra. Thiên nhiên bao

gồm không khí, khí hậu, nguồn nước, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn động thực

vật, các yếu tố địa lý, địa hình…” [58].

Như vậy, có thể nói, thiên nhiên là cái nôi sản sinh ra sự sống, giúp cân bằng hệ

sinh thái và là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên để phục vụ cho cuộc sống và sản xuất

5

sinh hoạt của con người.

1.1.2. Phân loại thiên nhiên

Căn cứ vào khái niệm về thiên nhiên ở trên, có thể xác lập các phạm trù thuộc

thiên nhiên như sau:

- Các hiện tượng tự nhiên;

- Động vật;

- Thực vật;

- Thời gian;

- Thực thể tự nhiên.

1.1.2.1. Các hiện tượng tự nhiên

Có thể thấy “Hiện tượng tự nhiên là những hiện tượng khí tượng phức hợp, bao

gồm nhiều yếu tố trong khí quyển gây ra” [58]. Các hiện tượng tự nhiên điển hình mà

chúng ta có thể kể ra đó là: mưa, gió, bão, dông, sấm, sét, tuyết, sóng…

Ở mỗi hiện tượng tự nhiên khác nhau, lại do những yếu tố khác nhau trong hiện

tượng khí tượng gây ra.

VD: dông hay còn được viết là giông được hình thành khi có khối không khí nóng

ẩm chuyển động, là hiện tượng bao gồm chớp kèm theo sấm do đối lưu rất mạnh trong

khí quyển gây ra. Nó thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, sấm sét dữ dội, thậm chí cả

mưa đá, vòi rồng. Ở những vùng vĩ độ cao, có khi còn có cả tuyết rơi.

Sét hay tia sét là hiện tượng phóng điện trong khí quyển giữa các đám mây và đất

hay giữa các đám mây mang các điện tích khác dấu, đôi khi còn xuất hiện trong các

trận phun trào núi lửa hay bão bụi (cát).

Mưa là một hiện tượng tự nhiên, xảy ra do sự ngưng tụ của hơi nước trên bầu trời,

dưới dạng những đám mây, khi gặp điều kiện lạnh, tạo thành giọt nước, nặng hơn không

khí, và rơi xuống mặt đất, tạo thành cơn mưa.

Nhưng cũng có những hiện tượng tự nhiên xảy ra, mà con người chưa giải thích

được như: ánh sáng lạ xuất hiện trước động đất, sét hình cầu…

Qua những ví dụ trên cho ta thấy, tất cả các hiện tượng tự nhiên kì thú đó đều do

thiên nhiên tạo ra. Mà con người muốn giải thích nó đều phải thông qua các nghiên cứu

6

của khoa học tự nhiên như: vật lí học, hóa học...

1.1.2.2. Động vật

“Động vật là một nhóm sinh vật đa bào, nhân chuẩn, được phân loại là giới động

vật trong hệ thống phân loại 5 giới. Cơ thể của chúng lớn lên khi phát triển. Hầu hết

động vật có khả năng di chuyển một cách tự nhiên và độc lập” [59]. Theo định nghĩa

về động vật, ta thấy, động vật được chia thành nhiều nhóm nhỏ, một vài trong số đó

là động vật có xương sống (ví dụ: chim, khỉ, cá sấu, chó, mèo, cá…); động vật thân

mềm ( ví dụ: trai, hàu, bạch tuộc, mực, và ốc sên…); động vật chân khớp (ví dụ: cuốn

chiếu, rết, côn trùng, nhện, bọ cạp, tôm hùm, tôm…); giun đốt (ví dụ: giun

đất, đỉa); bọt biển và sứa.

Thế giới động vật rất phong phú và đa dạng. Chúng xuất hiện ở hầu khắp các quốc

gia, qua vài tỉ năm tiến hóa và có khoảng 7.7 triệu loài đã được phát hiện.

Bên cạnh những động vật đơn bào có kích thước hiểm vi, còn có các động vật rất

lớn như: trai tượng (vỏ dài 1,4 m; nặng 250 kg), voi châu Phi (nặng 4 tấn; cao 3m), cá

voi xanh (nặng 150 tấn; dài 33m)…

Một số động vật được con người thuần hóa thành vật nuôi. Từ khi được con người

thuần dưỡng, chúng đã khác nhiều với tổ tiên hoang dại và biến đổi thành nhiều loại,

đáp ứng các nhu cầu khác nhau của con người.

Ví dụ: Gà nuôi có tổ tiên là loài gà rừng nhỏ nhắn còn đang sống ở rừng nhiệt

đới. Nhưng gà nuôi đã biến đổi rất nhiều về màu lông, kích thước, về chiều cao và khác

xa với tổ tiên của chúng.

Chính vì vậy, có thể nói các loài động vật sống ở nhiều môi trường khác nhau và

thích nghi với môi trường đó.

1.1.2.3. Thực vật

“Thực vật là những sinh vật có khả năng tạo cho mình chất dinh dưỡng từ

những hợp chất vô cơ đơn giản và xây dựng thành những phần tử phức tạp nhờ quá

trình quang hợp, diễn ra trong lục lạp của thực vật” (theo Bách khoa toàn thư -

Wikipedia).

Như vậy, thực vật chủ yếu là các sinh vật tự dưỡng. Thực vật không có khả

năng chuyển động tự do ngoại trừ một số thực vật hiển vi có khả năng chuyển động

được. Thực vật còn khác ở động vật là chúng phản ứng rất chậm với sự kích thích, sự

phản ứng lại thường phải đến hàng ngày và chỉ trong trường hợp có nguồn kích thích

7

kéo dài.

Thực vật là một nhóm chính các sinh vật, bao gồm các sinh vật rất quen thuộc

như: cây, hoa, cây cỏ, dương xỉ, rêu… Vào thời điểm năm 2007, có khoảng 300.000

loài đã được nhận dạng, trong đó 258.650 loài thực vật có hoa và 15.000 loài rêu.

1.1.2.4. Thời gian

Thời gian là một phần rất quan trọng, là thước đo cho cuộc sống, người ta sử dụng

thời gian để đặt mốc cho mọi sự vật, sự việc. Chính vì vậy, có thể nói thời gian là một

thứ rất khó để định nghĩa. Từ thời gian có trong tất cả các ngôn ngữ của loài người và

có thể có cả ở động vật. Định nghĩa về thời gian là một định nghĩa khó nếu phải cắt

nghĩa chính xác.

Chính vì vậy, chúng tôi thấy định nghĩa của Wikipedia (Bách khoa toàn thư

mở) là hợp lí, khi nói rằng: “Thời gian là khái niệm để diễn tả trình tự xảy ra của

các sự kiện, biến cố và khoảng kéo dài của chúng. Thời gian được xác định bằng số

lượng các chuyển động của các đối tượng có tính lặp lại và thường có một thời điểm

mốc gắn với một sự kiện nào đó” [60]. Khái niệm này đã được đông đảo mọi người

tán thành.

Cho đến bây giờ, chúng ta thấy rõ thời gian chỉ có một chiều duy nhất đó là từ

quá khứ đến hiện tại và tương lai. Thời gian được tính bằng ngày, đêm, sáng, tối,

năm…

1.1.2.5. Thực thể tự nhiên

Đây là một khái niệm rất rộng và trừu tượng. “Thực thể là một cái gì đó tồn tại

như tự chính nó, như một chủ thể hoặc như một khách thể, một cách thực sự hay một

cách tiềm năng, một cách cụ thể hay một cách trừu tượng, một cách vật lý hoặc không.

Nó không cần là sự tồn tại vật chất. Nói riêng, vật trừu tượng và trừu tượng pháp lý

được coi như là các thực thể” [61].

Qua đó, chúng ta có thể hình dung thực thể tự nhiên là một cái gì đó tồn tại như

tự chính nó, mà không hề có bàn tay con người tác động vào. Thực thể tự nhiên có thể

gắn liền với bầu trời như: mây, mặt trời, mặt trăng, sao… nhưng cũng có khi thực thể

8

tự nhiên gắn liền với mặt đất như: núi, sông, đồi, biển, than, đá, cát…

1.2. Khái quát về từ loại tiếng Việt

1.2.1. Khái niệm

Như đã biết, vốn từ của mỗi ngôn ngữ có số lượng vô cùng lớn và không có sự

thuần nhất. Vì vậy, để có thể nắm được và sử dụng các từ một cách tiện lợi, cần tiến

hành phân loại chúng.

Việc phân loại từ có thể được thực hiện dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ

vào ý nghĩa, có thể chia từ thành: từ đơn nghĩa, từ đa nghĩa. Căn cứ vào cấu tạo, có thể

từ chia thành: từ đơn, từ phức (gồm từ ghép, từ láy). Căn cứ vào phạm vi sử dụng, có

thể chia từ thành: từ toàn dân, từ địa phương. Căn cứ vào nguồn gốc, có thể chia từ

thành: từ thuần Việt và từ vay mượn…

Trong ngữ pháp học, còn có cách phân loại từ dựa đồng thời vào ý nghĩa ngữ

pháp và hình thức ngữ pháp (theo nghĩa rộng, được hiểu là toàn bộ đặc điểm hoạt động

ngữ pháp của từ). Cách phân loại này cho ta những phạm trù ngữ pháp hay những lớp

từ được gọi là từ loại…

Vậy “từ loại là những lớp từ được phân định dựa vào những đặc điểm chung về

ý nghĩa và hình thức ngữ pháp” [54].

Theo định nghĩa này, Nguyễn Văn Lộc đã dựa vào sự giống nhau vào đặc điểm

chung về ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của các từ để phân tách ra thành từng loại.

1.2.2. Hệ thống từ loại tiếng Việt

Dựa vào tiêu chí xác định từ loại khác nhau mà có nhiều tác giả phân loại thành

các nhóm từ khác nhau. Chúng tôi theo tác giả Lê A [1,tr.25] chia từ thành hai loại lớn

sau:

- Thực từ (bao gồm các từ loại danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ);

- Hư từ (bao gồm các từ loại phụ từ, quan hệ từ, trợ từ, thán từ, tình thái từ).

Do đề tài tìm hiểu các từ ngữ chỉ thiên nhiên (tức là các từ ngữ có chức năng định

danh) nên trong chương này, chúng tôi tìm hiểu sâu hai từ loại liên quan đến đối tượng

nghiên cứu của đề tài, đó là danh từ, đại từ và điểm một chút về hai từ loại động từ và

tính từ. Đây là hai từ loại liên quan đến việc mô tả đặc điểm của các từ ngữ chỉ thiên

9

nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa.

1.2.2.1. Danh từ

a. Về ý nghĩa khái quát

Theo Lê A, “Danh từ có ý nghĩa khái quát chỉ sự vật (bao gồm các thực thể như

người, đồ vật, cây cối, các vật thể tự nhiên, các hiện tượng xã hội và các khái niệm trừu

tượng thuộc phạm trù tinh thần)” [1,tr.26].

VD: người, học sinh, công nhân, tu hú, bàn, ghế, chuối, đồi, chính phủ, công ti,

tình yêu, vấn đề, phương pháp, ý kiến…

b. Về khả năng kết hợp

+ Danh từ có thể kết hợp với các từ chỉ số, chỉ lượng ở phía trước.

Ví dụ:

(1) vài suy nghĩ, mấy vấn đề, v.v...

+ Danh từ kết hợp được với các đại từ chỉ định: này, kia, ấy, đó, nọ… ở phía sau.

Ví dụ:

(2) ba người ấy, những tư tưởng đó, v.v...

c. Về chức năng ngữ pháp

Danh từ có thể đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp sau:

- Làm chủ ngữ.

VD:

(3) Năm nay, vải được mùa quá!

- Làm bổ ngữ.

VD:

(4) Tôi yêu Tổ quốc tôi.

- Làm định ngữ.

VD:

(5) Nhân dân thành phố Thái Nguyên đang mít tinh.

- Làm vị ngữ (nhưng rất ít trường hợp). Khi làm vị ngữ, trước danh từ thường có

thêm từ là, của, bằng.

VD:

(6) Tôi là sinh viên.

10

(7) Sách của tôi.

(8) Bàn bằng gỗ.

Trường hợp đặc biệt, danh từ làm vị ngữ không cần kết hợp với từ là, của, bằng

như trong ví dụ sau:

(9) Tôi người Hà Nội.

(10) Em quê Bắc Giang.

d. Các tiểu loại danh từ

- Danh từ riêng

+ Về ý nghĩa:

Danh từ riêng là lớp danh từ dùng để gọi tên riêng của mỗi cá thể sự vật, như: tên

một người, tên một địa điểm (Trần Vân Hương, Hoàng Linh Trang, Hà Nội, Trường

Sơn, Mê Công, v.v…).

+ Về hoạt động ngữ pháp:

* Danh từ riêng ít có khả năng kết hợp với từ chỉ số lượng ở phía trước và các yếu

tố phụ ở phía sau để lập thành nhóm vì: nó chỉ cá thể chứ không chỉ toàn bộ.

VD:

(11) Hai Hà Nội (-)

(12) Hà Nội này (-)

Danh từ riêng chỉ kết hợp với từ chỉ số lượng và yếu tố phụ ở phía sau trong

những trường hợp sau:

▪ Khi danh từ riêng được dùng lâm thời với ý nghĩa của danh từ chung.

Ví dụ:

(13) Những Điện Biên Phủ đang gọi chúng ta ở phía trước.

▪ Khi có hiện tượng trùng tên, tức là một tên gọi ứng với nhiều cá thể.

VD:

(14) Ở đây có ba Hương, bạn gặp Hương nào?

▪ Khi người nói muốn nhấn mạnh một đặc điểm vốn có của sự vật để tỏ thái độ,

tình cảm. Trong trường hợp này, định ngữ sau danh từ riêng là định ngữ miêu tả chứ

không phải là định ngữ hạn định.

VD:

11

(15) Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.

▪ Khi sự vật do danh từ riêng biểu thị tuy vẫn chỉ là một nhưng được phân chia

bởi ý thức của người nói.

VD:

(16) Hà Nội ngày nay đã khác xa Hà Nội những năm trước dưới thời Pháp thuộc.

▪ Danh từ riêng không kết hợp với đại từ chỉ định này, kia, ấy ở phía sau. Trường

hợp sau tên riêng có từ này (kiểu như Hoa này...) là lối gọi tên có tác dụng dẫn xuất

gây sự chú ý trong lời thoại trực tiếp.

* Danh từ riêng thường kết hợp về phía trước với danh từ chung chỉ phạm vi hoặc

loại sự vật của tên riêng.

Ví dụ:

(17) Đèo Khế

Chị Hương

- Danh từ chung

“Danh từ chung là những danh từ gọi tên chung các cá thể trong cùng một lớp sự

vật” [1,tr.27].

VD: Từ ghế là một tên chung cho tất cả các sự vật do con người tạo ra, có chân,

có mặt phẳng, để con người có thể ngồi lên đó. Các cá thể ghế có thể khác nhau về các

phương diện: hình dáng, kích thước, chất liệu... nhưng đều được con người gọi tên bằng

một tên chung là ghế.

Danh từ chung gồm các tiểu loại sau:

+ Danh từ tổng hợp

* Về ý nghĩa

Là các danh từ không chỉ tên riêng từng sự vật mà chỉ tổng thể nhiều sự vật hoặc

chúng cùng loại với nhau hoặc chúng có chung một số đặc điểm nào đó.

Ví dụ: quần áo, binh lính, bạn bè, máy móc, bếp núc…

* Về khả năng kết hợp

Danh từ tổng hợp không kết hợp trực tiếp với số từ (chính xác), không kết hợp được

với danh từ chỉ đơn vị cá thể (con, cái, chiếc,…) nhưng có thể kết hợp với các phụ từ chỉ

tổng thể (tất cả, cả, toàn thể, hết thảy...) và các danh từ chỉ đơn vị tổng thể (bộ, đàn, tốp,

12

đống…).

VD: Chúng ta không thể nói:

(18) hai bạn bè (-)

(19) ba nhà cửa (-)

(20) chiếc quần áo (-)

(21) cây tre pheo (-)

(22) tất cả quần áo (+)

nhưng có thể nói:

(23) hết thảy bạn bè (+)

(24) tốp binh lính (+)

(25) chồng sách vở (+)

* Về cấu tạo

Danh từ tổng hợp có thể có cấu tạo theo kiểu từ ghép đẳng lập (bạn bè, quần

áo…), hoặc từ láy (máy móc, gai góc...).

+ Danh từ không tổng hợp

Danh từ không tổng hợp gồm các tiểu loại sau:

* Danh từ trừu tượng:

▪ Về ý nghĩa:

“Danh từ trừu tượng chỉ các khái niệm trừu tượng thuộc phạm trù tinh thần (không

thể cảm nhận được bằng các giác quan)” [1,tr.28].

VD:

(26) tư tưởng, thái độ, quan điểm, ý nghĩa, đạo đức, niềm vui, …

▪ Về khả năng kết hợp

Danh từ trừu tượng có thể kết hợp trực tiếp với các từ có ý nghĩa số lượng về phía

trước và đại từ chỉ định về phía sau.

VD:

(27) hai quan điểm, thái độ ấy, quan điểm này...

* Danh từ chỉ sự vật cụ thể:

▪ Danh từ chỉ đơn vị:

٧ Về ý nghĩa:

Danh từ đơn vị chỉ đơn vị dùng để đo, đếm, tính toán sự vật.

VD:

13

(28) con, cây, cái, cân, tạ, lít...

٧ Về khả năng kết hợp:

Chúng kết hợp trực tiếp sau số từ, lượng từ và đứng liền trước danh từ chỉ sự vật.

VD:

(29) ba cái bàn, bốn quyển sách, v.v...

٧ Các tiểu loại của danh từ đơn vị:

▫ Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên:

Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên chỉ dạng tồn tại tự nhiên của sự vật. Chúng vừa có ý

nghĩa chỉ đơn vị, vừa có ý nghĩa chỉ loại sự vật. Vì vậy, các danh từ chỉ đơn vị tự nhiên

còn được gọi là loại từ hay danh từ chỉ loại, danh từ loại thể.

VD:

(30) Chỉ người: đứa, thằng, con, người, anh, chị...

(31) Chỉ động vật, thực vật: con, cây, quả, cái, chiếc...

▫ Danh từ chỉ đơn vị đo lường, tính toán:

Về ý nghĩa:

Chúng có ý nghĩa chỉ đơn vị đo lường, tính toán với các sự vật là chất liệu. Các

đơn vị này có tính quy ước chính xác.

VD:

(32) cân, lít, mét, tấn...

Về khả năng kết hợp: Chúng được dùng trực tiếp sau số từ và trước các danh từ

chất liệu.

VD:

(33) hai lít nước, ba cân đường, v.v...

▫ Danh từ chỉ đơn vị tập thể:

VD:

(34) bộ, cặp, bọn, tụi, đàn, đoàn...

Các danh từ này kết hợp trước danh từ tổng hợp và sau các từ chỉ lượng.

Ví dụ:

(35) vài bộ bàn ghế, những đống máy móc...

▫ Danh từ chỉ đơn vị thời gian:

VD:

14

(36) giờ, phút, giây, ngày, tháng, năm, quý, mùa...

▫ Danh từ chỉ đơn vị tổ chức hành chính:

VD:

(37) xã, làng, huyện, quận...

▫ Danh từ chỉ đơn vị hành động, sự việc:

VD:

(38) lần, lượt, trận, chuyến, phen, cuộc,...

▪ Danh từ chỉ sự vật đơn thể:

Về ý nghĩa:

Danh từ chỉ sự vật đơn thể là các danh từ chỉ người, động vật, thực vật, đồ vật và

cả các hiện tượng tự nhiên hay xã hội.

Ví dụ:

▫ Chỉ người: chú, cô, anh, em, bộ đội, giáo viên, chủ tịch, bác sĩ…

Trong danh từ chỉ người còn có thể chia thành:

Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ, như: giáo viên, công nhân, bác sĩ, hiệu trưởng,

giám đốc…

Danh từ chỉ quan hệ thân tộc, như: ông, bà, bố, mẹ, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em

, cháu, chắt…

▫ Chỉ động vật: trâu, bò, lợn, gà, bồ câu, cá, cào cào…

▫ Chỉ thực vật: vải, mít, hoa, cỏ, cây, nhãn, sầu riêng…

▫ Chỉ đồ vật: bàn ghế, quạt, bảng, nhà, cửa….

▫ Chỉ hiện tượng tự nhiên hay xã hội: mưa, gió, mây, núi, sông, chính phủ, công

ti, nhà nước…

Về khả năng kết hợp:

Danh từ chỉ sự vật đơn thể thường kết hợp với các từ chỉ số lượng thông qua một

danh từ chỉ đơn vị tự nhiên. Vì vậy, chúng được quy vào nhóm danh từ đếm được, hoặc

nhóm các danh từ biệt loại (chỉ các sự vật được phân loại nhờ các danh từ chỉ các đơn

vị tự nhiên).

VD:

(39) vài quyển sách, bốn cái mũ, năm bác sĩ, v.v...

Trong sử dụng, có những danh từ chỉ sự vật đơn thể chuyển thành danh từ đơn vị.

Khi đó ý nghĩa của chúng thay đổi (nghĩa sự vật đơn thể → nghĩa đơn vị) và cách dùng

15

cũng thay đổi (kết hợp gián tiếp với số từ → kết hợp trực tiếp với số từ).

VD:

(40) một cái cân (danh từ chỉ sự vật đơn thể) → một cân muối (danh từ đơn vị)

(41) hai cái xe (danh từ chỉ sự vật đơn thể) → hai xe gạch (danh từ đơn vị)

▪ Danh từ chỉ chất liệu

٧ Về ý nghĩa:

Danh từ chỉ chất liệu có ý nghĩa chỉ các chất chứ không phải các vật.

VD:

(42) đá, đất, quặng, đồng, dầu khí, nước khoáng, muối, khói…

٧ Về khả năng kết hợp:

Chúng là các danh từ không đếm được. Khi cần tính đếm, danh từ chỉ chất liệu

kết hợp với danh từ chỉ đơn vị tính toán, đo lường.

VD:

(43) một lít nước, hai tấn sắt…

Tóm lại, có thể hình dung các tiểu loại danh từ qua bảng sau đây:

Bảng 1.1. Các tiểu loại danh từ

Danh từ riêng Danh Danh từ tổng hợp từ Danh từ trừu tượng Danh trong Danh từ từ Danh từ chỉ đơn vị tiếng không Danh từ chỉ sự chung Danh từ chỉ sự vật đơn thể Việt tổng hợp vật cụ thể Danh từ chỉ chất liệu

1.2.2.2. Đại từ

a. Khái niệm

Đại từ là những từ dùng để xưng hô, thay thế và chỉ trỏ. Đại từ không trực tiếp

biểu thị khái niệm sự vật, hiện tượng hay hành động, trạng thái, tính chất, mà dùng để

thay thế cho những từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng, hành động, trạng thái, tính chất. Khi

thay thế cho từ loại nào, đại từ mang ý nghĩa của từ loại đó.

Ví dụ:

(44) Tôi là sinh viên.

(45) Nó học giỏi. Lan cũng thế.

Trong hai ví dụ trên, tôi, nó và thế là các đại từ. Ở ví dụ (45), từ thế được dùng để

16

thay cho cụm động từ học giỏi cho nên nó cũng mang ý nghĩa của cụm động từ này.

b. Các tiểu loại đại từ

Có nhiều tiêu chí để phân chia đại từ thành các tiểu loại.

- Căn cứ vào chức năng thay thế

Dựa vào tiêu chí này, đại từ được chia thành 3 loại:

+ Đại từ thay thế cho danh từ:

Đó là các đại từ như: tôi, tao, nó, mày, chúng nó, v.v...

Ví dụ:

(46) Tôi rất yêu màu tím.

(47) Nó là bạn học của tôi.

Các đại từ này có đặc điểm ngữ pháp giống như danh từ. Tức là chức năng phổ

biến của nó là làm chủ ngữ.

+ Đại từ thay thế cho động từ, tính từ:

Đó là các đại từ như: thế, vậy, như thế, như vậy, v.v...

Ví dụ:

(48) Nó yêu thơ. Tôi cũng vậy.

Các đại từ này có đặc điểm ngữ pháp giống như động từ, tính từ, cho nên chức

năng phổ biến của chúng là làm vị ngữ.

+ Đại từ thay thế cho số từ:

Đó là các đại từ như: bao nhiêu, bao, bấy nhiêu, v.v...

Các đại từ này có đặc điểm ngữ pháp giống như số từ.

VD:

(49) (Nấu năm bơ gạo cho mười lăm người ăn?) Bấy nhiêu người mà chỉ nấu có

bằng ấy gạo thì làm sao đủ cơm ăn!

- Căn cứ vào mục đích sử dụng:

Dựa vào tiêu chí này, có thể chia đại từ thành 3 loại:

+ Đại từ xưng hô

Đại từ xưng hô thay thế cho danh từ, biểu thị các vai trong hoạt động giao tiếp.

17

Tiếng Việt có các đại từ xưng hô dùng theo các ngôi như sau:

Số Ngôi Số ít Số nhiều

Ngôi thứ nhất (tương ứng với tôi, tao, tớ, mình… chúng tôi, chúng tao,

cương vị người nói) chúng tớ, chúng mình…

Ngôi thứ hai (tương ứng với mày, cậu, bay… chúng mày, chúng bay,

cương vị người nghe) các cậu…

Ngôi thứ 3 (tương ứng với nó, hắn, thị, y… chúng nó, họ, chúng…

cương vị người được nói đến)

Tuy nhiên, nói đến đại từ xưng hô trong tiếng Việt, cần lưu ý một số điểm sau

đây:

Thứ nhất: Trong các đại từ xưng hô của tiếng Việt, có những từ chuyên ngôi và

kiêm ngôi. Những từ chuyên ngôi là những từ chỉ dùng cho một ngôi. Ví dụ như: tôi,

tớ, mày... Còn từ kiêm ngôi là những từ được dùng cho nhiều ngôi. Chẳng hạn:

Từ mình có thể được dùng để chỉ ngôi thứ nhất và cũng có thể được dùng cho

ngôi thứ hai.

Ví dụ:

(50) Hôm qua mình đến chỗ cậu nhưng cậu không có nhà.

Từ mình trong ví dụ (50) được dùng để chỉ ngôi thứ nhất.

(51) Mình đọc hay tôi đọc?

Từ mình trong ví dụ (51) lại được dùng để chỉ ngôi thứ hai.

Thứ hai: Cần phân biệt từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp và từ xưng hô

ngôi thứ nhất số nhiều không bao gộp. Từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp là

từ mang ý nghĩa chỉ một nhóm người, kể cả người nghe và lấy người nói làm trung tâm

(bao gộp vai nói và vai nghe).

Ví dụ:

(52) Hà ơi, chúng mình đi học đi.

Từ chúng mình trong ví dụ (52) là đại từ bao gộp, bao gồm cả ngôi thứ nhất và

ngôi thứ hai.

(53) Hà ơi, chúng mình về đây, chào bạn nhé.

18

Từ chúng mình trong ví dụ (53) chỉ ngôi thứ nhất, số nhiều, không bao gộp.

+ Đại từ chỉ định

Đại từ chỉ định thường là những từ chỉ định các đối tượng được phản ánh trong

thực tại.

Đại từ chỉ định được chia thành:

Đại từ chỉ định thời gian: bấy giờ, bây giờ, nãy, bấy…

Đại từ chỉ định không gian: này, kia, ấy, đó, đây, nọ…

Đại từ chỉ định khối lượng, số lượng, lượng: tất cả, cả, cả thảy, tất thảy...

Đại từ chỉ định tính chất, trạng thái: thế, vậy

+ Đại từ nghi vấn

Đại từ nghi vấn thường là những từ dùng để hỏi về thời gian, không gian, số

lượng, con người…

Đại từ nghi vấn được chia thành:

Đại từ nghi vấn chỉ người, sự vật: ai, gì, sao, nào…

Đại từ nghi vấn chỉ thời gian: bao giờ, bao lâu, nào…

Đại từ nghi vấn chỉ không gian: đâu

Đại từ nghi vấn chỉ số lượng, khối lượng: mấy, bao nhiêu

1.2.2.3. Động từ

a. Về ý nghĩa khái quát

“Động từ có ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, trạng thái, tình thái hay quan hệ, nói

chung là chỉ những dạng thức vận động, biến chuyển của sự vật về vật lý, tâm lý và

sinh lý” [1,tr.31].

Ví dụ: ăn, uống, ngủ, đi, nằm, đứng, thổi, v.v…

b. Về khả năng kết hợp

- Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với các yếu tố phụ sau đây:

+ Nhóm các yếu tố phụ chỉ yêu cầu, mệnh lệnh như: hãy, chớ, đừng.

+ Nhóm yếu tố phụ chỉ thời gian: đã, sẽ, vừa, vừa mới.

+ Nhóm yếu tố phụ chỉ sự tiếp diễn kéo dài: vẫn, cứ, còn.

+ Nhóm các yếu tố phụ chỉ sự diễn ra đồng thời hay tương tự của hoạt động: cũng,

đều, cùng.

19

+ Nhóm các yếu tố chỉ sự phủ định: không, chưa, chẳng.

+ Ngoài ra, những động từ chỉ trạng thái tình cảm như vui, buồn, tức, giận, yêu,

ghét…còn có thể kết hợp với nhóm yếu tố phụ chỉ mức độ như: rất, hơi, quá.

- Về phía sau, động từ có khả năng kết hợp rất phong phú và đa dạng.

Xét về mặt từ loại, phía sau của động từ có thể là thực từ hoặc hư từ.

Ví dụ: đọc sách, chơi bóng (thực từ); ăn xong, làm rồi (hư từ)

Xét về mặt cấu tạo, phía sau của động từ có thể là từ, cụm từ hay cụm chủ vị.

Ví dụ: ăn cơm (từ), đọc sách tiếng Việt (cụm từ), khiến nó buồn (cụm chủ vị).

c. Về chức vụ ngữ pháp

Động từ có thể đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp sau:

- Làm chủ ngữ:

Ví dụ:

(54) Lao động là vinh quang.

- Làm vị ngữ:

Ví dụ:

(55) Tôi ngủ.

- Làm bổ ngữ:

Ví dụ:

(56) Lan học vẽ.

- Làm định ngữ:

Ví dụ:

(57) Ngày lên đường đã đến.

- Làm trạng ngữ:

Ví dụ:

(58) Nói xong, anh bước vào nhà.

1.2.2.4. Tính từ

a. Về ý nghĩa khái quát

“Tính từ chỉ tính chất, đặc điểm của sự vật, của hoạt động, trạng thái” [1,tr.34].

Ví dụ: nhanh, chậm, đắng cay, ngọt, xanh, đỏ, tím, vàng, v.v…

b. Về khả năng kết hợp

Khả năng kết hợp của tính từ có nhiều điểm giống với động từ; kết hợp với hầu hết

20

các phó từ về phía trước. Tuy nhiên, có một số điểm khác biệt sau đây:

- Khả năng kết hợp với phó từ chỉ mệnh lệnh là hạn chế.

Ví dụ:

(59) hãy đỏ (-)

(60) đừng đẹp (-)

Chỉ những tính từ chỉ phẩm chất mới có thể kết hợp được với phó từ chỉ mệnh lệnh.

Ví dụ:

(61) đừng lười biếng

(62) hãy khiêm tốn

- Khả năng kết hợp với phó từ chỉ mức độ phổ biến hơn.

Ví dụ:

(63) rất đẹp (+)

(64) quá xấu (+)

Về phía sau, tính từ có khả năng kết hợp với thực từ mà đa số là danh từ.

Ví dụ:

(65) giỏi toán

(66) xa thành phố

Tính từ cũng có khả năng kết hợp với hư từ mà hầu hết là các phó từ chỉ mức độ.

Ví dụ:

(67) tốt lắm

(68) giỏi ghê

c. Về chức vụ ngữ pháp

Tính từ có thể đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp sau:

- Làm chủ ngữ:

Ví dụ:

(69) Khiêm tốn là đức tính quý báu.

- Làm vị ngữ:

Ví dụ:

(70) Nó rất xinh.

- Làm bổ ngữ:

Ví dụ:

(71) Nó học giỏi.

21

- Làm định ngữ:

Ví dụ:

(72) Cái bút đẹp này là của tôi.

- Làm trạng ngữ:

Ví dụ:

(73) Xa xa, từng đàn chim đang bay về.

1.3. Vài nét về tác giả Trần Đăng Khoa và “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa”

1.3.1. Tác giả Trần Đăng Khoa

1.3.1.1. Cuộc đời

Trần Đăng Khoa sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958, quê ở làng Trực Trì, xã Quốc

Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên tạp

chí Văn Nghệ Quân Đội, hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Hiện nay, ông đang giữ chức

vụ Bí thư đảng ủy, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.

Trần Đăng Khoa có một người anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh -

tác giả của các tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ, Bản xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của

kẻ vô danh… , nguyên là Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Ông có

một người chị gái là Trần Thị Bình hiện đang sống ở quê và một người em gái Trần

Thị Thuý Giang ở Cẩm Phả - Quảng Ninh.

Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975, khi đang học lớp 10 Trường

phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng

cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất đất nước, việc bổ sung quân cho chiến trường

không còn cần thiết nữa, ông về Quân chủng Hải quân. Sau đó Trần Đăng Khoa theo

học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới M.

Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên

Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân

đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức

Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài

Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có

hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa

- Du lịch Vietnam Jouney), Trần Đăng Khoa được phân công làm Giám đốc đầu tiên của

hệ này. Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải -

22

Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để Trần Đăng Khoa chuyển sang làm Phó Bí

thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch

Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.

1.3.1.2. Sự nghiệp sáng tác

Nhiều thế hệ độc giả cho đến tân bay giờ vẫn không thể quên những bài thơ như:

“Hạt gạo làng ta”, “Mẹ ốm”, “Cây dừa” … Với giọng thơ trong sáng, tự nhiên, sự

quan sát tinh tế và cảm xúc dạt dào về gia đình, về quê hương, đất nước trong hồn thơ

của ông đã tạo nên sự yêu thích từ độc giả.

Từ khi còn nhỏ, ông đã được nhiều người cho là “thần đồng thơ”. Mới lên 8,

nhưng ông đã có bài đăng báo. Năm 1968, khi đó nhà thơ lên 10, tập thơ đầu tiên: “Góc

sân và khoảng trời” được xuất bản bởi nhà xuất bản Kim Đồng - tập thơ gắn liền với

tên tuổi của ông nhất. Ngay khi ra đời, tập thơ đã tạo nên một tiếng vang lớn trong làng

thơ ca Việt Nam lúc bây giờ. Có lẽ tác phẩm được nhiều người biết đến nhất, phải kể

đến tác phẩm: “Hạt gạo làng ta” sáng tác 1968, được Xuân Diệu hiệu đính, sau lại được

nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm 1971.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Trần Đăng Khoa đã cho ra mắt rất nhiều tập

thơ khác nhau như:

“Từ góc sân và nhà em” sau được đổi thành“Góc sân và khoảng trời”, (năm

1968), tái bản khoảng hơn trăm lần, được dịch và xuất bản ở 42 nước trên thế giới.

“Thơ Trần Đăng Khoa”, tập 1 (năm 1970),

“Thơ Trần Đăng Khoa”, tập 2 (năm 1976)

“Cánh cò trắng muốt” (năm 1973)

“Trường ca khúc hát người anh hùng” (năm 1974)

“Bên cửa sổ máy bay” (năm 1986)

“Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” (năm 2016).

Ngoài ra Trần Đằng Khoa còn một số tác phẩm thuộc thể loại khác: tiểu thuyết,

bình luận văn chương, truyện ngắn, bút ký, ghi chép, tản văn… Trong đó, có những tác

phẩm được độc giả đặc biệt quân tâm như:

“Chân dung và đối thoại” tiểu luận phê bình (năm 1998).

“Đảo chìm” tiểu thuyết mini (năm 2000)

23

“Hầu chuyện thượng đế” (năm 2017)

Trần Đăng Khoa 3 lần được nhận giải thưởng thơ của Báo Thiếu niên tiền phong

(các năm 1968, 1969, 1971); giải nhất Báo Văn nghệ (1982); giải thưởng Nhà nước về

văn học nghệ thuật (2001); giải thưởng Sunthorn Phu trao cho các nhà thơ Đông Nam Á

có những cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật năm 2013.

1.3.2. “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa”

“Tuyển thơ Trần Đăng Khoa” in 2016, tái bản lần 2, Nhà xuất bản Văn học.

Tuyển tập đã chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu nhất trong tất cả những tập thơ của

Trần Đăng Khoa. Đặc biệt, cùng với thơ còn có những mảng kí ức, những trang hồi

kí, những cuộc trao đổi của nhà thơ xung quanh “chuyện bếp núc” trong nghề. Nhiều

bí mật lần đầu được nhà thơ hé mở. Tập sách hấp dẫn, thích hợp với nhiều đối tượng

bạn đọc, từ những người làm công tác nghiên cứu đến các em học sinh, sinh viên và

nhất là với những bạn nhỏ đang học làm thơ. Tuyển thơ này sẽ đem lại cho các em

nhỏ rất nhiều những kinh nghiệm thú vị.

Bởi vậy mà nhà văn Đình Kính cho rằng: “thơ Trần Đăng Khoa không còn xa lạ,

nhưng tự dưng lại muốn đọc lại. Mà mỗi lần đọc lại, vẫn còn thấy thích, không nhàm

một chút nào vẫn là một miền riêng, không trộn lẫn” [46].

Nhà văn Đình Kính đã ví von thơ Trần Đăng Khoa như: “cô gái làng mộc mạc,

không son phấn, không giả vờ ưỡn ẹo làm duyên, làm dáng phô khoe cơ thể, như là

một thứ duyên thầm đằm thắm, nền nã, nhiều nét đồng bãi. Vẻ đẹp toả ra một cách tự

nhiên, hồn hậu, chân chất, tuần khiết, đằm lắng…” [46]. Quả không hề sai, vì khi đọc

tuyển thơ, độc giả tìm thấy mình trong đó, với những trò chơi dân gian, những âm thanh

quên thuộc của làng quê, và đặc biệt tìm thấy tuổi thơ của chính mình.

1.4. Tiểu kết

Trong chương này, chúng tôi đã trình bày những nền tảng lý thuyết liên quan đến

đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đó là các vấn đề như:

- Khái quát về thiên nhiên. Theo đó, thiên nhiên được chia thành 5 loại:

+ Các hiện tượng tự nhiên;

24

+ Động vật;

+ Thực vật;

+ Thời gian;

+ Thực thể tự nhiên.

- Khái quát về từ loại. Từ loại được chia thành hai loại lớn là thực từ và hư từ,

trong đó, có 4 từ loại liên quan đến đối tượng nghiên cứu đề tài như danh từ, đại từ,

động từ, tính từ.

Trần Đăng Khoa là nhà thơ lớn, đã khẳng định được tên tuổi và vị trí của mình

trong nền văn học Việt Nam đương đại. Những nền tảng lý thuyết trên sẽ là cơ sở để

chúng tôi tìm hiểu những từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, để từ đấy

25

thấy được tài năng của ông trong việc sử dụng ngôn từ.

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN

TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa có thể được xem xét dưới

nhiều góc độ, như: đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ý nghĩa, v.v… Song, do dung lượng của

luận văn cũng như mục đích nghiên cứu của đề tài, trong chương này, chúng tôi chỉ

tìm hiểu đặc điểm của các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa xét về

phương diện ý nghĩa.

Kết quả thống kê cho thấy, trong Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, có 702 từ ngữ chỉ

thiên nhiên, với tần số xuất hiện 3086 lần. Theo sự phân tích của chúng tôi, các từ ngữ

này được chia thành hai loại:

- Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực;

- Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực.

Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:

Bảng 2.1. Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa

Từ ngữ chỉ thiên nhiên Số lượng Tỉ lệ % Tần số xuất hiện Tỉ lệ % trong thơ Trần Đăng Khoa

Các từ ngữ chỉ 663 94.4 2925 94.78 thiên nhiên đích thực

Các từ ngữ chỉ 39 5.56 161 5.22 thiên nhiên không đích thực

Tổng 702 100 3086 100

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực là các từ ngữ có ý nghĩa trực tiếp chỉ thiên

nhiên. Đó là các từ như: mây, mưa, hoa, lá, mùa xuân, v.v…

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực là các từ ngữ vốn được dùng để chỉ

đối tượng này nhưng lâm thời được dùng để chỉ thiên nhiên và phải dựa vào văn cảnh

mới xác định được ý nghĩa đích thực của chúng. Ví dụ:

Mày ngủ chưa hả trầu?

Tao đã đi ngủ đâu.

26

(Đánh thức trầu)

Mày là đại từ nhân xưng ngôi thứ 2, thường được dùng để chỉ con người. Nhưng

ở câu thơ này, nó có ý nghĩa chỉ cây trầu. Và muốn hiểu đúng nghĩa của từ này, ta phải

dựa vào văn bản, cụ thể là bài thơ. Những từ như vậy sẽ được chúng tôi xếp vào các từ

ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực.

2.1. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực

Theo tư liệu đã thống kê, trong thơ Trần Đăng Khoa có 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên

đích thực, chiếm tỉ lệ 94.4% trong tổng số các từ ngữ chỉ thiên nhiên. Xét về phương

diện ý nghĩa, các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực được chia thành 5 loại:

- Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên;

- Các từ ngữ chỉ động vật;

- Các từ ngữ chỉ thực vật;

- Các từ ngữ chỉ thời gian;

- Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên.

Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:

Bảng 2.2. Số lượng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực

trong thơ Trần Đăng Khoa

Tần số Số Nội dung Phân loại Tỉ lệ % xuất Tỉ lệ % lượng hiện

59 8.4 479 15.52 Các từ ngữ Hiện tượng tự nhiên

chỉ 149 21.22 359 11.63 Động vật

thiên nhiên 213 30.33 626 20.28 Thực vật

đích thực 85 12.10 414 13.42 Thời gian

157 22.25 1047 33.93 Thực thể tự nhiên

663 94.4 2925 94.78 Các từ ngữ chỉ

thiên nhiên đích thực

Tổng Từ ngữ chỉ

27

thiên nhiên trong thơ 702 100 3082 100

Trần Đăng Khoa

2.1.1. Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên

Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực/702

từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 59 từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên, chiếm tỉ lệ 8.4%

(59/702), với tần số xuất hiện là 479 lần, chiếm tỉ lệ 15.52% (479/3082). Đó là các từ

ngữ như: bão, gió, chớp, mưa, sét, sóng, tuyết, v.v…

Có thể hình dung các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa

qua bảng thống kê dưới đây:

Bảng 2.3: Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên

STT STT HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN

hừng đông khói khói sương làn khói làn sương

28

ánh ánh chớp ánh nắng ánh trăng bão bão dông bão mưa bão tuyết bọt bọt sóng cầu vồng chớp chớp bể cơn bão cơn dông cơn gió cơn mưa con sóng dông dông bão gió gió bão gió sương hạn hán hoàng hôn hơi hơi gió hơi mưa 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 31 32 33 34 35 36 mưa 37 mưa nắng 38 mưa tuyết 39 mưa Xuân 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 nắng nắng gió nắng mưa phong ba sấm sấm sét sét sóng sóng gió sương sương khói sương mù sương muối thần hạn thần lụt thuỷ triều tia chớp tia nắng tuyết TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 10 3 2 2 73 2 1 1 64 4 5 1 7 1 1 38 2 8 2 1 1 1 1 1 1 1 19 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 10 3 1 7 24 2 1 1 8 1 2 5 1 1 2 5 14 3 2 4 112 2 1 1 5 1 1 1

29 30 hơi sương hơi thu 1 2 59 vệt nắng 1

Nhìn vào bảng thống kê trên, ta thấy các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên trong thơ

Trần Đăng Khoa có số lượng không nhiều (59 từ ngữ). Tuy nhiên, tần số xuất hiện của

các từ ngữ này tương đối lớn (479 lần). Thêm vào đó, tần số xuất hiện của chúng cũng

không đồng đều. Có những từ được tác giả sử dụng nhiều lần ngay trong một bài thơ

hoặc xuất hiện trong nhiều bài thơ. Nhưng cũng có những từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần.

Chẳng hạn:

Từ gió được xuất hiện 112 lần/190 bài thơ. Và ở mỗi bài thơ, sự xuất hiện của từ

này cũng không giống nhau. Có những bài, từ gió xuất hiện với số lượng đậm đặc.

Chẳng hạn trong bài Đập cửa Diêm vương, từ gió xuất hiện 19 lần (19/112). Trong

Khúc hát người anh hùng (Khúc hai), từ gió được xuất hiện 7 lần (7/112). Nhưng trong

bài Nửa đêm tỉnh giấc, từ gió chỉ xuất hiện 1 lần.

Hay trong bài Mưa, từ mưa đã xuất hiện 7 lần (7/73). Nhưng trong bài Nghe thầy

đọc thơ, từ mưa chỉ xuất hiện 1 lần (1/73). Tuy nhiên, cũng có rất nhiều từ ngữ chỉ xuất

hiện 1 lần duy nhất (1/190 bài thơ) như: hơi sương, thủy triều, tia chớp, v.v…

Xét về mặt ý nghĩa, các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong thơ Trần

Đăng Khoa tương đối đa dạng. Nó dường như bao quát được hết tất cả các hiện tượng

thiên nhiên có trong cuộc sống hàng ngày, từ mưa, gió, sấm, chớp, bão, nắng, hạn hán,

v.v…

Ví dụ:

(1) Nghe trăng thở động tàu dừa

Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời

(Nghe thầy đọc thơ)

(2) Nghe hàng chuối vườn em

Gió trở mình trăn trở

(Nửa đêm tỉnh giấc)

29

(3) Bố em đi làm về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa

(Mưa)

Trong thơ Trần Đăng Khoa, có những bài thơ xuất hiện rất nhiều các từ ngữ chỉ

các hiện tượng tự nhiên khác nhau.

Ví dụ:

(4) Nắng bập bình cửa sổ

Mây bồng bềnh về đâu

Em ngồi trên dông bão

Áo bạc màu nắng gió

Ngang trời - như nổi sóng

Nhà máy nào vừa dựng

Khói bay trắng một miền

(Đi tàu hỏa)

Có thể nhận thấy, bài thơ Đi tàu hỏa trong ví dụ (4) đề cập đến 4 hiện tượng tự

nhiên. Đó là nắng, dông bão, nắng gió, sóng.

Sự xuất hiện nhiều hay ít các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như nội dung tư tưởng mà tác

phẩm cần thể hiện.

2.1.2. Các từ ngữ chỉ động vật

Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích

thực/702 từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 149 từ ngữ chỉ động vật, chiếm tỉ lệ 21.22%

30

(149/702), với tần số xuất hiện là 359 lần, chiếm tỉ lệ 11.63% (359/3082). Đó là các

từ ngữ như: trâu, bò, chim, dơi, ếch, gà, cá, v.v… Các từ ngữ chỉ động vật trong thơ

Trần Đăng Khoa gồm 2 loại:

- Tên gọi các loài động vật;

- Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật.

Có thể hình dung các từ ngữ chỉ động vật trong thơ Trần Đăng Khoa qua bảng

thống kê dưới đây:

Bảng 2.4: Số lượng các từ ngữ chỉ động vật

Số Tần số Nội dung Phân loại Tỉ lệ % Tỉ lệ % lượng xuất hiện

Các từ ngữ Tên gọi các loài động vật 109 15.52 281 9.10

chỉ động vật Tên gọi các 40 5.70 78 2.53 bộ phận cơ thể động vật

Tổng Các từ ngữ chỉ động vật 149 21.22 359 11.63

2.1.2.1. Tên gọi các loài động vật

Trâu, bò, lợn, gà, v.v… là các từ ngữ chỉ tên gọi các loài động vật. Có 109 các từ

ngữ này, chiếm tỉ lệ 15.52% (109/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ động vật, với tần

số xuất hiện 281 lần, chiếm tỉ lệ 9.10% (281/3082). Các loài động vật xuất hiện trong thơ

Trần Đăng Khoa gồm có các loại sau:

Bảng 2.5: Tên gọi các loài động vật

TÊN CÁC TẦN SỐ TẦN SỐ TÊN CÁC LOÀI STT STT ĐỘNG VẬT LOÀI ĐỘNG VẬT XUẤT HIỆN XUẤT HIỆN

bê 1 con ngựa 2 1 56

bò 2 con nhám 1 1 57

bọ chó 3 con nhện 2 1 58

bò tót 4 con ốc 1 1 59

bướm 5 con ong 1 8 60

cá 6 con rô cụ 1 19 61

cá cờ 7 con thuồng luồng 1 2 62

31

cá mập 8 con trâu 7 2 63

TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG STT TẦN SỐ XUẤT STT TẦN SỐ XUẤT TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT HIỆN HIỆN VẬT

cá mè 9 1 con vạc 64 2

cà niễng 10 1 con vẹt 65 1

cáy 11 1 con vịt bầu 66 1

21 16 chim 12 cua 67

Chim Hoạ Mi 13 1 cuốc 68 1

chim khách 14 1 diều hâu 69 1

chim ngói 15 1 dơi 70 1

chim ri 16 1 ếch 71 6

chim rừng 17 1 gà 72 5

Chim Sơn ca 18 1 Gà Trống 73 1

chó 19 6 gấu 74 1

chó ngao 20 1 giun 75 2

chó sói 21 1 gon mực 76 1

chuột 22 3 hến 77 1

chuột cống 23 1 kiến 78 3

cò 24 3 Kiến Càng 79 1

cóc 25 2 Kiến Cánh 80 1

con bò 26 1 Kiến Đất 81 1

con bươm 27 1 Kiến Đen 82 2

bướm

con bướm vàng 28 6 Kiến Gió 83 1

con cá 29 4 Kiến Kim 84 1

con cà cuống 30 1 Kiến Lửa 85 1

con cá diếc 31 1 lợn 86 1

con cá mè 32 2 mập 87 5

con cá mương 33 1 mèo 88 6

con cá ngão 34 1 mèo ta 89 1

con cá rô 35 1 mối 90 3

con cá sấu 36 1 nghé 91 2

con châu chấu 37 1 ngựa 92 9

32

con chim 38 8 nhái 93 2

TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG STT TẦN SỐ XUẤT STT TẦN SỐ XUẤT TÊN CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT HIỆN HIỆN VẬT

39 con chim khách 1 94 nhộng 1

40 con chó 1 95 ong 2

41 con chó khoang 1 96 rắn 1

42 con chó vàng 3 97 rô ron 1

43 con chó vện 1 98 rồng 1

44 con chuồn 1 99 sâu 4

45 con chuột 1 100 sói lang 1

46 con chuột đồng 1 101 sơn ca 3

47 con cò 9 102 sứa 1

48 con cua 2 103 tằm 1

49 Con Dói 1 104 tôm 1

50 con đom đóm 1 105 trâu 20

51 con gà mái 1 106 ve 5

52 con lợn 2 107 vế 1

53 con mèo 1 108 ve sầu 1

54 con mèo 1 109 vịt 1

khoang

1 55 con mối

Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, số lượng các từ ngữ chỉ tên các loài động vật

tương đối nhiều (109 từ ngữ). Tuy nhiên, tần số xuất hiện của các từ ngữ này không

cao. Nhiều nhất là từ chim xuất hiện 21 lần, từ trâu xuất hiện 20 lần, từ cá xuất hiện 19

lần. Còn lại, đa số các từ ngữ khác chỉ xuất hiện 1 lần, như: con sứa, ve sầu, con đom

đóm, v.v…

Cũng cần phải nói ngay rằng, nói có 109 các từ ngữ chỉ tên gọi các loài động vật

ở đây không có nghĩa là có 109 con vật khác nhau xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa.

Thực chất, ở đây có những con vật được gọi bằng nhiều cách gọi khác nhau hoặc chúng

có nhiều loại. Chẳng hạn mèo thì lúc được gọi là con mèo, con mèo khoang, rồi lại con

mèo ta, v.v…Hay cá thì cũng gồm có rất nhiều loại, như: con cá mè, con cá rô, con cá

33

ngão, con cá diếc, con Dói, con Trê, v.v… Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu của đề

tài là tìm hiểu các từ ngữ chỉ thiên nhiên (cụ thể ở mục này là các từ ngữ chỉ tên gọi

các loài động vật) chứ không phải tìm hiểu các loại động vật có trong thực tế cho nên

những từ ngữ nào dùng để gọi động vật sẽ đều được chúng tôi thống kê ở đây.

2.1.2.2. Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật

Trong số 149 từ ngữ chỉ động vật trong thơ Trần Đăng Khoa, có 40 từ ngữ chỉ bộ

phận cơ thể động vật, chiếm tỉ lệ 5.70% (40/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ động vật

nói chung, với tần số xuất hiện là 78 lần, chiếm tỉ lệ 2.53% (78/3082).

Các từ ngữ chỉ bộ phận của động vật được Trần Đăng Khoa đề cập đến gồm có

những từ ngữ sau:

Bảng 2.6: Tên gọi các bộ phận cơ thể động vật

TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ

STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT

ĐỘNG VẬT HIỆN ĐỘNG VẬT HIỆN

1 bụng cá 1 21 sừng trâu 1

cánh bướm 2 1 22 tiếng bò 1

23 tiếng chim 17 cánh chim 3 1

cánh chim chiền chiện 24 tiếng chim chích choè 4 1 2

cánh cò 5 1 25 tiếng chó 4

cánh kiến 6 2 26 tiếng dế 1

chân chim 7 1 27 tiếng ếch 1

chân trâu 8 1 28 tiếng gà 9

cổ cò 9 2 29 tiếng hổ 1

10 cổ ngỗng 4 30 tiếng mèo 1

11 dạ sói 1 31 tiếng muỗi 1

12 đuôi chim 1 32 tiếng ong 1

13 đuôi trâu 1 33 tiếng sâu 1

14 lòng gà 1 34 tiếng sẻ 1

15 lưng cua 1 35 tiếng trâu 1

16 lưng ngựa 3 36 tiếng ve 3

34

17 mắt cá 1 37 vẩy rồng 1

TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ TÊN CÁC BỘ TẦN SỐ

STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT STT PHẬN CƠ THỂ XUẤT

ĐỘNG VẬT HIỆN ĐỘNG VẬT HIỆN

18 mắt con mèo 1 38 vỏ hà 1

19 ngà 1 39 vó ngựa 2

20 râu tôm 1 40 vỏ ốc 1

Như vậy có thể thấy, các từ ngữ chỉ bộ phận của động vật có số lượng ít hơn các từ

ngữ chỉ tên gọi động vật (có 40 từ ngữ). Thêm vào đó, tần số xuất hiện của các từ ngữ này

cũng không cao. Đa số các từ xuất hiện 1 lần. Chỉ có vài trường hợp xuất hiện hơn 1 lần

như tiếng chim (17 lần), tiếng gà (9 lần), tiếng ve (3 lần). Điều này cũng thật dễ hiểu bởi

vì bộ phận của động vật là cái chi tiết. Cho nên khi miêu tả, khả năng thể hiện những giá

trị tư tưởng của nó ít hơn khi đề cập đến con vật cụ thể nói chung.

2.1.3. Các từ ngữ chỉ thực vật

Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực/702

từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 213 từ ngữ chỉ thực vật, chiếm tỉ lệ 30.33% (213/702), với

tần số xuất hiện là 626 lần, chiếm tỉ lệ 20.28% (626/3082). Đó là các từ ngữ như: bàng,

bắp, cây tre, cây na, cây đa, cây dừa, cây cau, v.v… Các từ ngữ chỉ thực vật trong thơ

Trần Đăng Khoa được chia thành hai loại:

- Tên gọi các loài thực vật;

- Tên gọi các bộ phận của thực vật.

Dưới đây là bảng thống kê số lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ

thực vật.

Bảng 2.7: Số lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ chỉ thực vật

Nội dung Phân loại Số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ %

lượng xuất

hiện

314 Các từ ngữ Tên gọi các loài thực vật 80 11.39 10.17

chỉ thực vật Tên gọi các 133 18.94 312 10.11

bộ phận của thực vật

35

Tổng Các từ ngữ chỉ thực vật 213 30.33 626 20.28

2.1.3.1. Tên gọi các loài thực vật

Theo tư liệu đã thống kê, trong thơ Trần Đăng Khoa, có 80 từ ngữ được dùng để

gọi tên các loài thực vật, chiếm tỉ lệ 11.39% (80/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ thực

vật, với tần số xuất hiện là 314 lần, chiếm tỉ lệ 10.17% (314/3082).

Tên các loài thực vật xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa gồm có các loại sau:

Bảng 2.8: Tên các loài thực vật

STT STT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT

36

1 bạch đàn 2 bạch dương 3 bàng 4 bắp 5 bèo 6 bí đỏ 7 bụi cỏ 8 bụi tre 9 bưởi 10 cà 11 cải 12 cải ngồng 13 cam 14 cau 15 cây 16 cây bạch dương 17 cây bàng 18 cây cau 19 cây chuối 20 cây cỏ 21 cây cối 22 cây đa 23 cây dừa 24 cây lá 25 cây lúa 26 cây lựu 27 cây mía 28 cây na 29 Cây Nam Lùn 30 cây Nếp 31 32 cây phi lao cây phong ba TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 1 2 1 2 1 1 1 2 2 4 1 1 5 45 1 4 3 1 3 1 11 3 2 6 1 1 3 1 1 1 1 cỏ 41 cỏ cây 42 cỏ gà 43 cỏ hoa 44 cỏ mật 45 cỏ may 46 cúc tần 47 dãy thông 48 dừa 49 duối 50 đa 51 đay 52 khoai 53 khoai lang 54 lau 55 lau sậy 56 lúa 57 lúa chiêm 58 59 luỹ tre 60 măng 61 măng cụt 62 mía na 63 nấm 64 ngô 65 nhãn 66 nho 67 phi lao 68 phượng 69 rau 70 rau muống 71 rau tàu bay 72 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 24 4 2 3 1 2 4 1 8 2 6 1 5 1 1 1 42 1 3 3 1 8 1 2 1 5 3 6 2 1 1 1

STT STT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT

cây vú sữa cây xoan

33 34 35 Cây Xuân 36 37 38 39 40 chanh ớt chè chôm chôm chuối chuối mật TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 2 2 1 2 1 10 1 73 74 75 76 77 78 79 80 rong biển san hô sầu riêng thông trầu tre trúc xoan TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 3 1 6 9 7 4 2

So với các từ ngữ chỉ các loài động vật, các từ ngữ chỉ các loài thực vật xuất hiện

trong thơ Trần Đăng Khoa ít hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tần số xuất hiện của chúng lại tương

đối lớn. Có những từ được trở đi trở lại nhiều lần trong nhiều bài thơ như từ cây (45 lần),

lúa (42 lần), cỏ (24 lần), dừa (8 lần), v.v…

Cũng giống như các loài động vật, nói có 80 từ ngữ chỉ tên gọi các loài thực vật

không có nghĩa là có tất cả 80 loài thực vật xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa. Có những

loài thực vật được gọi bằng nhiều cách gọi cũng như có những loài thực vật được chia

thành các loại nhỏ, kiểu như: cỏ, bụi cỏ, cỏ gà, cỏ mật, cỏ may, v.v… Thêm vào đó, trong

số này, có nhiều từ có ý nghĩa chỉ thực vật nói chung, không chỉ một loại cây cụ thể. Ví

dụ: cây, cây cối, rau, v.v…

2.1.3.2. Tên gọi các bộ phận của thực vật

Trong số 213 từ ngữ chỉ thực vật trong thơ Trần Đăng Khoa, có 133 từ ngữ chỉ

bộ phận của thực vật, chiếm tỉ lệ 18.94% (133/702), với tần số xuất hiện là 312 lần,

chiếm tỉ lệ 10.11% (312/3082). Đó là các từ ngữ như hoa hồng, hoa khế, cành bưởi,

hương sen, hương nhãn, lá mía, lá dừa, v.v…

Các từ ngữ chỉ bộ phận của thực vật trong thơ Trần Đăng Khoa gồm các từ ngữ sau:

Bảng 2.9: Tên gọi các bộ phận của thực vật

STT STT

TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT

37

bắp ngô bông bông hoa bông hồng 1 2 4 1 68 69 70 71 hoa sen hoa sim hoa trái hoa trứng gà 1 1 1 1 1 2 3 4

STT STT

TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT TẦN SỐ XUẤT HIỆN

hoa xương rồng hương bưởi hương cau hương cỏ hương đồng hương hoa hương lê - ki- ma hương lúa hương nhãn hương sen hương trầm lá lá bàng lá cành lá cây lá đa lá dừa lá lúa lá mía lá thông lá trầu lá tre lá xà nu

TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT bông lúa buồng chuối buồng dừa cành cánh bèo cánh bèo dâu cành bưởi cành cây cành chè cành củi cành đào cánh hoa cành hồng cành khế cành lá cành ổi cành sầu cành táo cành tre chiếc lá chồi chùm sấu cổ dừa cốm củ khoai củ khoai lang củi cùi nhãn cuống lá

38

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 dây khoai 35 dây khoai lang 36 đòng đòng 37 gai 3 2 1 6 1 1 1 2 2 1 2 1 1 3 1 1 1 1 6 1 3 1 1 1 1 1 3 2 1 1 1 1 2 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 mạ 96 mầm 97 mầm cây 98 mầm hoa 99 mắt na 100 ngọn cây 101 ngọn cỏ 102 ngọn mùng tơi 103 ngọn tre 104 nhánh 3 1 1 1 1 2 1 2 3 1 1 38 1 1 1 1 2 2 1 2 3 2 1 1 3 2 1 1 2 3 1 3 1

STT STT

TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT TẦN SỐ XUẤT HIỆN TÊN GỌI CÁC BỘ PHẬN CỦA THỰC VẬT

6 4 2 2 12 1 1 9 3 1 2 24 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 1 1 1 3 1 1 2 1 38 gạo 39 gốc cây 40 gốc cây bàng 41 gốc rạ 42 hạt 43 hạt cau 44 hạt đậu 45 hạt gạo 46 hạt giống 47 hạt lúa 48 hạt thóc 49 hoa 50 hoa ban 51 hoa bưởi 52 hoa bụt 53 hoa cà 54 hoa cải ngồng 55 hoa cau 56 hoa cỏ 57 hoa dại 58 hoa đại 59 hoa dâu da 60 hoa dong giềng 61 hoa duối 62 hoa hồng 63 hoa lựu 64 hoa nhài 65 hoa nhãn 66 hoa phượng 67 hoa râm bụt 105 nhành lan 106 nhị 107 nụ hồng 108 ổi đào 109 quả 110 quả bồ hòn 111 quả bòng 112 quả cam 113 quả đào 114 quả dừa 115 quả khế 116 quả mận 117 quả na 118 quả thị rạ 119 rạ rơm 120 rễ 121 rễ cây 122 rơm 123 124 sữa lúa 125 126 127 128 129 130 131 132 133 tàu chuối tàu dừa thân cây thân dừa thóc tiếng cây tiếng dừa tiếng hoa trái 3 1 1 1 11 1 2 1 1 1 1 1 3 1 1 1 4 1 8 1 1 2 1 1 9 1 1 1 2

Nhìn vào bảng thống kê này, có thể nhận thấy, so với các từ ngữ chỉ tên gọi các

39

loài thực vật, các từ ngữ chỉ tên gọi các bộ phận của thực vật có số lượng lớn hơn (nhiều

hơn 53 từ ngữ). Tuy nhiên, tần số xuất hiện của chúng lại không cao. Nhiều nhất là từ

hoa, xuất hiện 24 lần, tiếp đó là từ hạt, xuất hiện 12 lần, từ thóc xuất hiện 9 lần. Còn

lại đại bộ phận là các từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần như hoa cau, hoa nhài, cành bưởi, hạt

đậu, ngọn mùng tơi, v.v…

Việc xuất hiện nhiều các từ ngữ chỉ bộ phận các loài thực vật cho thấy Trần Đăng

Khoa rất tinh tế khi miêu tả từng sự chuyển động, biến đổi của cây cối. Từ cành cây

cho đến hoa, lá, rễ, quả, nhị đều được Trần Đăng Khoa quan sát tỉ mỉ, chi tiết để tô vẽ

nên vẻ đẹp đầy màu sắc của thiên nhiên. Không những quan sát bằng mắt, Trần Đăng

Khoa còn cảm nhận bằng khứu giác khi đặc tả cả mùi hương của cây cối. Điều này

được thể hiện thông qua các từ hương hoa, hương lê - ki - ma, hương nhãn, hương sen,

v.v…

2.1.4. Các từ ngữ chỉ thời gian

Chiều, đêm, sáng, mùa thu, mùa xuân, hôm nay, hôm qua… là các từ ngữ chỉ thời

gian được xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa. Có 85 từ ngữ này, chiếm tỉ lệ 1210%

(85/702) trong số các từ ngữ chỉ thiên nhiên, với tần số xuất hiện là 414 lần, chiếm tỉ

lệ 13.42% (414/3082).

Các từ ngữ chỉ thời gian trong thơ Trần Đăng Khoa gồm có các từ sau:

Bảng 2.10: Các từ ngữ chỉ thời gian

STT STT TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN

40

TẦN SỐ XUẤT HIỆN 2 1 3 2 1 2 1 1 1 3 1 1 55 44 mùa đông 45 mùa hè 46 mùa thu 47 mùa xuân 48 năm 49 năm tháng 50 nay mai 51 ngàn năm 52 ngàn xuân 53 ngang đêm 54 ngày 55 ngày đêm 56 ngày hôm qua TẦN SỐ XUẤT HIỆN 5 2 4 1 10 1 1 1 1 1 27 6 1 ban đêm 1 ban mai 2 ban ngày 3 bóng chiều 4 bóng đêm 5 bóng tối 6 buổi 7 buổi chiều 8 9 buổi sáng 10 buổi trưa cả ngày 11 canh khuya 12 chiều 13

STT STT TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN TỪ NGỮ CHỈ THỜI GIAN

chiều chiều

ráng chiều sắc chiều sắc Xuân sáng sáng mai sớm sớm chiều sớm sớm sớm thu sớm trưa tháng tháng năm tháng ngày thu tối trưa trưa hè

TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 79 7 2 1 4 1 2 2 1 1 1 1 1 5 1 13 1 8 1 3 2 2 2 1 1 2 1 2 1 57 ngày mai 58 ngày ngày 59 ngày tháng 60 ngày xưa 61 Ngày Xuân 62 những đêm 63 những ngày 64 những sáng 65 nửa đêm 66 phút giây 67 qua đêm 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 xế trưa TẦN SỐ XUẤT HIỆN 26 6 1 1 1 6 8 1 7 1 1 1 3 1 14 1 9 3 1 1 2 2 5 3 6 3 12 2 1 14 15 đêm 16 đêm đêm 17 đêm hè 18 đêm khuya 19 đêm ngày 20 đêm thu 21 đêm tối 22 đông 23 đông chiều 24 Đông Xuân 25 giữa trưa 26 hàng năm 27 hàng ngày 28 hè 29 hôm ấy 30 hôm nay 31 hôm qua 32 khuya 33 khuya sớm 34 mai 35 mai ngày 36 mai sau 37 mấy chục năm 38 mấy năm 39 mấy ngàn ngày 40 mấy ngày 41 mỗi chiều 42 mỗi ngày 43 mọi ngày

Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, các từ ngữ chỉ thời gian trong thơ Trần Đăng

Khoa có số lượng không quá nhiều. Tuy nhiên, tần số xuất hiện của chúng lại tương

đối lớn. Đặc biệt, có những từ được lặp lại rất nhiều lần, như: đêm (79 lần), chiều (55

41

lần), ngày (27 lần). Không những vậy, đôi khi, sự lặp lại này còn được thể hiện ngay

trong chính một bài thơ. Chẳng hạn, trong Trường ca Khúc hát người anh hùng (Khúc

hai - Khúc thương đau), từ đêm xuất hiện đến 7 lần. Thêm vào đó, có bài thơ, xuất hiện

rất nhiều các từ chỉ thời gian. Ví dụ:

(5) Sớm mẹ về, thấy khoai đã chin

Buổi mẹ về, gạo đã trắng tinh

Trưa mẹ về, cơm dẻo và ngon

Chiều mẹ về, cỏ đã quang vườn

Tối mẹ về, cổng nhà sạch sẽ

Mẹ ngày đêm khó nhọc

(Khi mẹ vắng nhà)

Đương nhiên, cũng những từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần, mặc dù con số này không

nhiều. Đó là các từ ngữ như: sáng mai, sớm sớm, xế trưa, v.v…

(6) Và, có thể là sáng mai bừng mắt ra

Mẹ sẽ nhận về một tờ giấy

(Thư gửi mẹ)

(7) Ca ngợi bác công nhân

Sớm sớm lên tầng

Mặt Trời mọc dưới chân như một giọt phẩm đỏ

(Lời của than)

Hay:

(8) Xế trưa tìm thăm nhà bạn

Lại gặp chú bù nhìn rơm

(Đường sang nhà bạn)

Có thể nói, giống như các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên, các từ ngữ chỉ thời gian

trong thơ Trần Đăng Khoa cũng bao quát được tất cả các khoảng thời gian trong ngày hay

trong năm, như: từ sáng cho đến trưa, chiều, tối; từ ban ngày cho đến ban đêm; từ mùa

42

xuân cho đến mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Thế mới thấy, Trần Đăng Khoa quan sát thiên

nhiên và con người ở góc nhìn rất rộng. Và có lẽ vì thế, thiên nhiên trong thơ ông mới

phong phú và đa dạng đến vậy.

2.1.5. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên

Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực/702

từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 157 từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên, chiếm tỉ lệ 22.25%

(157/702). Đó là các từ ngữ như: trời, đất, sông, núi, trời mây,v.v… Có thể chia các từ

ngữ chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa thành hai loại sau:

- Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời;

- Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất.

Có thể hình dung số lượng các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa qua bảng thống kê dưới đây:

Bảng 2.11: Số lượng và tần số xuất hiện chỉ thực thể tự nhiên

trong thơ Trần Đăng Khoa

Số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Nội dung Phân loại lượng % xuất hiện %

Các từ Các từ ngữ chỉ thực thể tự 23 3.26 380 12.31 ngữ chỉ nhiên gắn liền với bầu trời

thực thể Các từ ngữ chỉ thực thể tự 134 18.99 667 21.62 tự nhiên nhiên gắn liền với mặt đất

Tổng Các từ ngữ chỉ thực thể tự 157 22.25 1047 33.93 nhiên

2.1.5.1. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời

Có 23 từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời trong số 157 từ ngữ chỉ

thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa. Đó là những từ ngữ như: mây, trời, trăng,

vầng trăng, vì sao … 23 từ ngữ này có tần số xuất hiện tương đối lớn, 380 lần, chiếm

tỉ lệ 12.31% (380/3082).

43

Bảng 2.12: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với bầu trời

STT STT TẦN SỐ XUẤT TẦN SỐ XUẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI BẦU TRỜI TTTN GẮN LIỀN VỚI BẦU TRỜI HIỆN HIỆN

1 bầu trời 2 13 mây trời 2

2 chân trời 1 14 ngôi sao 8

3 chùm sao 2 15 Sao Mai 1

4 cổng Trời 1 sao trời 16 2

5 đám mây 5 17 trăng 118

6 làn mây 2 18 trăng sao 1

7 lưng trời 4 19 trời 135

8 mảnh trăng 1 20 trời mây 2

9 mảnh trời 2 21 trời sao 2

10 mặt trăng 2 22 vầng trăng 13

11 mặt trời 17 23 vì sao 3

12 mây 54

Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, chỉ có 5 từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên gắn

với bầu trời xuất hiện 1 lần, còn lại 18 từ ngữ xuất hiện từ 2 lần trở lên trong thơ Trần

Đăng Khoa. Đặc biệt, có những từ ngữ xuất hiện với tần số rất lớn, như từ trời (135

lần), trăng (118 lần), mây (54 lần). Thậm chí có bài, 1 thực thể tự nhiên được trở đi trở

lại rất nhiều lần. Ví dụ:

(9) Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ cánh rừng xa

Trăng hồng như quả chín

Lửng lơ lên trước nhà

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay biển xanh diệu kỳ

Trăng tròn như mắt cá

Chẳng bao giờ chớp mi

Trăng ơi... từ đâu đến?

44

Hay từ một sân chơi

Trăng bay như quả bóng

Đứa nào đá lên trời

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ lời mẹ ru

Thương Cuội không được học

Hú gọi trâu đến giờ!

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ đường hành quân

Trăng soi chú bộ đội

Và soi vàng góc sân

Trăng ơi... từ đâu đến?

Trăng đi khắp mọi miền

Trăng ơi có nơi nào

Sáng hơn đất nước em...

(Trăng ơi…từ đâu đến?)

Ở ví dụ (9), bài thơ với 24 câu thơ nhưng từ trăng được lặp lại đến 12 lần. Việc lặp

lại này là có dụng ý nghệ thuật, giúp chuyển tải nội dung mà tác giả muốn thể hiện.

2.1.5.2. Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất

Trong số các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, có 134 từ

ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất, chiếm tỉ lệ 18.99% (134/702), với tần

số xuất hiện 667 lần, chiếm tỉ lệ 21.62% (667/3082). Đó là những từ như: biển, sông,

núi, bãi, đồi, núi … Điều này được thể hiện trong bảng thống kê dưới đây:

45

Bảng 2.13: Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền với mặt đất

STT STT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT

TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 68 lưng đồi 1 bãi

69 mạch nước ngầm 2 bãi biển 1 2

70 mặt biển 3 bãi cát 2 1

71 mặt đất 4 bãi sông 4 4

72 mặt nước 5 bầu trời 5 3

73 mặt sông 6 bể 2 1

44 74 mặt vịnh 7 biển 1

8 biển cả 2 75 mép biển 1

9 biển khơi 2 76 miền 1

10 bụi 7 77 miền đất 2

11 bụi đất 1 78 mỗi phương 1

12 bụi than 1 79 muối 3

13 bùn 7 80 mương 1

14 bùn đất 1 81 ngòi 1

15 cánh rừng 3 82 ngọn đồi 1

16 cát 19 83 ngọn núi 2

17 cát bụi 1 84 non 2

18 chóp núi 1 85 non nước 2

19 cồn 2 86 núi 21

20 cồn cát 2 87 Núi Bài Thơ 1

21 con sông 3 88 núi đồi 2

22 con suối 2 89 Núi Mã Yên 1

23 cục đất 1 90 núi non 1

24 đá 31 91 núi sông 2

25 đá cuội 26 dải đất 1 2 92 nước 93 nước biển 73 1

27 dải đồi 28 đại dương 29 Đại Tây Dương 1 4 1 94 nước Hồ Gươm 95 nước sông 96 nước sông Ranh 1 1 1

30 đảo 33 97 phù sa 15

31 Đảo Chìm 1 98 quả đất 1

46

32 Đảo Nam Yết 1 99 quần đảo 1

STT STT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT

33 Đảo Sinh Tồn TẦN SỐ XUẤT HIỆN 3 100 rừng TẦN SỐ XUẤT HIỆN 20

34 Đảo Sơn Ca 101 Rừng Bạch Dương 4 1

35 Đảo Thuyền Chài 102 Rừng Pắc Bó 2 1

127 103 rừng thu 36 đất 1

37 đất đá 3 3 104 sỏi

38 đất đai 4 1 105 sỏi cát

39 đất liền 1 2 106 sỏi đá

40 đất mỏ 1 46 107 sông

41 đất nước 1 1 108 sông Hồng

42 dầu 2 1 109 sông Kinh

43 dãy núi 1 6 110 sông Kinh Thầy

44 đê 1 1 111 sông Ngân

45 đèo 1 2 112 sông núi

46 Đỉnh Cóc Pài 1 2 113 sông nước

47 Đỉnh Côn Sơn 1 8 114 suối

48 đỉnh Fansipăng 1 1 115 suối đầu nguồn

49 đỉnh núi 5 1 116 sườn

50 đỉnh tháp 2 1 117 sườn đồi

51 đỉnh trời 1 1 118 tảng đá

52 dốc 1 2 119 thác

53 dọc sườn đê 1 10 120 than

54 đồi 2 1 121 thiếc

55 đồi núi 1 7 122 trái đất

56 đồi thông 1 1 123 triền bãi

57 dòng 58 giọt nước 3 2 4 1 124 125 tro tro than

trường Sa

59 gò 60 gò đống 61 hải đảo 1 1 4 1 1 1 126 127 vách 128 vách đá

62 hạt bụi 1 1 129 vách đất

63 hạt phù sa 1 1 130 vách núi

47

64 hòn đá 2 1 131 vàng

STT STT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT TTTN GẮN LIỀN VỚI MẶT ĐẤT

65 hòn đảo 132 viên sỏi TẦN SỐ XUẤT HIỆN 3 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 2

66 hòn đất 133 vịnh Hạ Long 1 1

67 lưng đèo 134 vôi 3 1

Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn với

mặt đất có số lượng lớn hơn gấp nhiều lần các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên gắn liền

với bầu trời. Tuy nhiên, xét về tần số xuất hiện, các từ ngữ này lại thấp hơn. Nhiều

nhất có từ đất xuất hiện 127 lần, từ nước xuất hiện 73 lần, từ sông xuất hiện 46 lần,

v.v… Còn lại, đa số các từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần như vôi, vịnh Hạ Long, đỉnh trời,

v.v…

Ví dụ:

(10) Xe vôi trắng toát

Xe cát vàng vàng

(Lọc cà lọc cọc)

(11) Tôi muốn làm thơ

Ca ngợi vịnh Hạ Long

(Lời của Than)

Hay:

(12) Ta ngự giữa đỉnh trời

Canh một vùng biên ải

(Đỉnh núi)

Bên cạnh đó, có bài thơ còn xuất hiện rất nhiều từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên như

bài Hát về một hòn đảo. Trong bài thơ này, có thể nhận thấy xuất hiện rất nhiều các từ

ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên gắn liền với mặt đất như: đảo, nước, đất, đại dương, biển,

v.v…

Tóm lại, trong thơ Trần Đăng Khoa, các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực có số

lượng tương đối lớn và với tần số xuất hiện cũng khá cao. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên

48

này thuộc về nhiều kiểu loại rất phong phú và không thể phủ nhận rằng, chúng đã

đem đến những giá trị nhất định trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Những

giá trị này sẽ được chúng tôi phân tích tỉ mỉ hơn ở chương 3.

2.2. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực trong thơ Trần Đăng Khoa

Theo tư liệu đã thống kê, trong thơ Trần Đăng Khoa có 39 từ ngữ chỉ thiên nhiên

không đích thực, chiếm tỉ lệ 5,56% (39/702) trong tổng số các từ ngữ chỉ thiên nhiên.

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực được chia thành 2 loại lớn:

- Đại từ nhân xưng;

- Danh từ (cụm danh từ).

Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:

Bảng 2.14: Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực

trong thơ Trần Đăng Khoa

Nội dung

Phân loại

Đại từ nhân xưng

Số lượng 7

Tỉ lệ % 1.00

Tần số xuất hiện 98

Tỉ lệ % 3.18

Danh từ (cụm danh từ)

32

4.56

63

2.04

39

5.56

161

5.22

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực Tổng

702

100

3082

100

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực Từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa

2.2.1. Đại từ nhân xưng

Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 39 từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích

thực/702 từ ngữ chỉ thiên nhiên, có 7 từ là đại từ nhân xưng, chiếm tỉ lệ 1.00% (7/702).

Đó là các từ ngữ như: tôi, ta, mày…

Các từ ngữ là đại từ nhân xưng được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên trong

thơ Trần Đăng Khoa gồm có các từ sau:

Bảng 2.15: Các từ ngữ là đại từ nhân xưng

được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên

STT VẬT QUY CHIẾU TẦN SỐ XUÁT HIỆN

ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG

2 1

Chúng mày 1 2 Hắn 3 Mày

44

49

Con cá Sông Kinh Thầy Gà con Chó vàng Con gà mái 1 15 16

1 6 5

1

4 Mình 5 Nó

14

6 Ta 4

7 Tôi

32

Bông lúa Trầu Cây lúa Núi Hạn hán Con bướm vàng Con chim Con trâu Chó Sâu Quả lựu Cây cau Hạn hán Phù sa Sóng Con cua Cây thông Cây mía Cây dừa Than Sông Núi đồi Viên sỏi Đất 3 1 4 2 1 1 1 1 3 1 1 1 2 3 3 15 3 1 1 2

Qua thống kê trên, ta thấy các đại từ nhân xưng sử dụng lâm thời để gọi tên thiên

nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa có số lượng không quá nhiều. Có những từ được tác giả

sử dụng nhiều lần trong một bài thơ hoặc trong nhiều bài thơ.

Khi xuất hiện ở nhiều bài thơ, một đại từ xưng hô có thể được dùng để chiếu chỉ

những đối tượng khác nhau. Chẳng hạn:

(13) Tao đi học về nhà

Là mày chạy xồ ra

Đầu tiên mày rối rít

Cái đuôi mừng ngoáy tít

Rồi mày lắc cái đầu

Khịt khịt mũi, rung râu

Rồi mày nhún chân sau

50

Chân trước chồm, mày bắt

(Sao không về Vàng ơi?)

Trong bài Sao không về Vàng ơi?, từ mày được dùng để chiếu chỉ con chó. Nhưng

trong bài Nói về con gà mái, từ mày lại được dùng để chiếu chỉ con gà mái.

(14) Mày tớp mồi, nhằn nhường con tất cả

Diều con no kềnh, diều mày vẫn lép không

(Nói về con gà mái)

Trong thơ Trần Đăng Khoa, còn có trường hợp một hiện tượng thiên nhiên nhưng

được tác giả dùng nhiều đại từ xưng hô khác nhau để chiếu chỉ. Chẳng hạn:

Để chỉ hiện tượng hạn hán, tác giả đã dùng các đại từ nhân xưng như nó và ta.

(15) Nó có cái vòi ác lắm

Ta đã tha tội chết

(Trường ca Đánh thần hạn)

Nhưng cũng có đại từ nhân xưng chỉ xuất hiện 1 lần và được dùng để chiếu chỉ

một đối tượng duy nhất, như từ mình.

Ví dụ:

(16) Có màu lính giữa đại ngàn

Núi bỗng quên mình ngàn tuổi

(Tây Bắc)

Từ mình trong câu thơ trên được tác giả dùng lâm thời để gọi thực thể tự nhiên là

núi.

Có thể nói, sự xuất hiện của các đại từ nhân xưng lâm thời được dùng để chỉ thiên

nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa không quá nhiều và tần số xuất hiện cũng không cao.

Tuy nhiên, các đại từ này lại rất có giá trị trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác

giả. Điều này sẽ được chúng tôi phân tích cụ thể ở chương 3.

2.2.2. Danh từ (cụm danh từ)

Theo tư liệu đã thống kê, có 32 danh từ (cụm danh từ) được Trần Đăng Khoa sử

dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên. Các danh từ (cụm danh từ) này thuộc các loại sau:

- Danh từ thân tộc

51

- Danh từ thân tộc kết hợp với danh từ chỉ sự vật

Có thể hình dung điều này qua bảng thống kê sau đây:

Bảng 2.16: Các từ ngữ là danh từ (cụm danh từ)

được sử dụng lâm thời để chỉ thiên nhiên

Số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Nội dung Phân loại lượng % xuất hiện %

Danh từ Danh từ thân tộc 6 0.86 17 0.55

(cụm danh từ) Danh từ thân tộc kết hợp với 26 3.70 46 1.49 danh từ chỉ sự vật

Danh từ (cụm danh từ) 32 4.56 63 2.04

Tổng Các từ ngữ chỉ 39 5.56 161 5.22 thiên nhiên không đích thực

2.2.2.1. Danh từ thân tộc

Bạn, chị, cô, chú… là các danh từ thân tộc được tác giả sử dụng lâm thời để chỉ

thiên nhiên. Theo tư liệu đã thống kê, có 6 từ thuộc loại này.

Các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa gồm có các từ sau:

Bảng 2.17: Các danh từ thân tộc được dùng lâm thời

để chỉ thiên nhiên

STT DANH TỪ THÂN TỘC VẬT QUY CHIẾU TẦN SỐ XUẤT HIỆN

1 Bạn Than 4

2 Chị Gió 1

Con gà 4

3 Chú Cá 1 6

Chim 1

4 Cô Mây 1

5 Em Cây đa 1

52

6 Ông Mặt trăng 4

Qua bảng thống kê trên, ta thấy các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ

thiên nhiên có số lượng không nhiều và tần số xuất hiện cũng không cao. Nhiều nhất

là từ chú, được sử dụng 6 lần. Và cũng chỉ có từ này được dùng để chiếu chỉ các đối

tượng ở các bài thơ khác nhau (được dùng để chỉ 3 đối tượng). Còn lại, các danh từ

khác chỉ được dùng để chỉ 1 đối tượng duy nhất.

Ví dụ:

Trong bài thơ Con gà liếp nhiếp, từ chú được sử dụng 4 lần để chỉ con gà.

(17) Trời mưa lâm thâm làm các chú ướt đầu

Chú rùng mình, giọt mưa rơi khỏi cánh

Trời mưa to hơn, sau rồi đâm ra tạnh

Chú chẳng giũ long bởi mải bắt giun, sâu

Nhưng nắng to, chú vẫn khô đầu

(Con gà liếp nhiếp)

Nhưng trong bài Tiếng chim kêu, từ chú lại được dùng để chỉ con chim.

Ví dụ:

(18) Mấy chú rơi xuống rồi

Cái cánh đập bồi hồi

(Tiếng chim kêu)

Còn lại, các từ như em, chị hay bạn lại được dùng để chiếu chỉ một đối tượng duy nhất.

Ví dụ:

(19) Đa ơi, em còn che cho ai bóng mát

Quán xưa đổ rồi

(Bến đò)

Từ em trong bài thơ Bến đò ở trên được dùng lâm thời để chỉ cây đa.

Hoặc từ chị trong Trường ca Đánh thần hạn được dùng lâm thời để chỉ gió.

(20) Chị khoác chiếc áo xanh

Gùi nước đeo trĩu cổ

(Trường ca Đánh thần hạn)

53

Hay từ bạn trong bài thơ Lời của Than được dùng lâm thời để chỉ than.

(21) - Than ơi!

Bạn từ đâu ra

Mà bạn đen thế?

(Lời của Than)

Nói tóm lại, các danh từ thân tộc được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên trong thơ

Trần Đăng Khoa không nhiều. Tuy nhiên, cũng giống như việc sử dụng các đại từ nhân

xưng, các danh từ thân tộc này cũng mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc thể hiện ý đồ nghệ

thuật của tác giả mà điều này sẽ được chúng tôi tiếp tục minh chứng ở chương 3.

2.2.2.2. Danh từ thân tộc kết hợp với danh từ chỉ sự vật

Theo tư liệu đã thống kê, trong tổng số 32 từ ngữ chỉ thiên nhiên là danh từ (cụm

danh từ), có 26 trường hợp là danh từ thân tộc kết hợp với danh từ chỉ sự vật (mà từ đây

chúng tôi sẽ gọi tắt là cụm danh từ hỗn hợp). Đó là các cụm danh từ như: bác giun, cậu

tre, chú chim, chú gà…

Có thể hình dung các cụm danh từ hỗn hợp được dùng lâm thời để chỉ thiên nhiên

54

trong thơ Trần Đăng Khoa qua bảng thống kê dưới đây:

Bảng 2.18: Các cụm danh từ hỗn hợp được dùng lâm thời

để chỉ thiên nhiên

STT STT CỤM DANH TỪ HỖN HỢP

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 bác giun bác Mặt Trời cậu chích chòe cậu Mèo cậu tre chị chim sâu chị Cua Càng chị gió chị lúa chị Tre chú cào cào chú chim chú gà TẦN SỐ XUẤT HIỆN 2 1 1 1 1 2 2 3 1 1 1 1 1 CỤM DANH TỪ HỖN HỢP chú trống làng 14 cô chim trĩ 15 cô Gió 16 cô mây 17 18 lão Trê 19 mụ Gà 20 21 22 23 24 25 26 nàng Mây thằng Dói thằng gà trống ông cóc tía ông rừng ông trăng ông trời TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 1 1 4 2 1 1 2 1 1 1 9 3

Qua bảng thống kê trên, ta thấy các cụm danh từ hỗn hợp có số lượng nhiều nhất

trong tổng số các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực nói chung, trong tổng số các

danh từ nói riêng. Chúng tôi thống kê dược 26 cụm danh từ, với tần số xuất hiện là 46

lần.

Trong số các cụm danh từ hỗn hợp này, có những cụm danh từ được xuất hiện

nhiều lần và trong nhiều bài thơ, chẳng hạn như ông trăng (9 lần), ông trời (3 lần), chị

gió (2 lần)… Còn lại, các cụm danh từ hỗn hợp khác chỉ xuất hiện 1 lần, như chú gà,

chú chim, chị gió, chị lúa, v.v…

Có thể hình dung điều này qua các ví dụ cụ thể dưới đây:

Ví dụ:

(22) Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

55

Ơi ông trăng sáng tỏ

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…

(Trăng sáng sân nhà em)

Hay:

Chiếc ngõ nhỏ (23)

Thở sương đêm

Ông trăng lên

Cười trong lá

(Chiếc ngõ nhỏ)

Hoặc:

Vườn xanh biếc tiếng chim (24)

Dơi chiều khua chạng vạng

Ai dắt ông trăng vàng

Thả chơi trong lùm nhãn

(Hương nhãn)

Các cụm danh từ hỗn hợp chỉ xuất hiện 1 lần như:

(25) Ngoài sân lội, mấy chú gà liếp nhiếp

Đi tìm mồi, cùng mẹ bắt giun, sâu

(Gà con liếp nhiếp)

(26) Chẳng vui cũng nhảy

Là chú cào cào

Đêm ngồi đếm sao

Là ông cóc tía

(Kể cho bé nghe)

Đặc biệt, có bài thơ tác giả sử dụng rất nhiều các cụm danh từ hỗn hợp để chỉ

thiên nhiên. Ví dụ:

(27) Ông Trời nổi lửa đằng đông

56

Cậu Mèo đã dạy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ Gà cục tác như điên

Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi

Cái Na đã tỉnh giấc rồi

Chị Tre chải tóc bên ao

Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương

(Buổi sáng nhà em)

Như vậy, có thể thấy trong bài Buổi sáng nhà em, có đến 7 cụm danh từ hỗn hợp

được sử dụng, bao gồm: Ông Trời, Cậu Mèo, Mụ Gà, thằng Gà Trống, Cái Na, Chị

Tre, Nàng Mây.

Hay trong bài thơ Em kể chuyện này, cũng có 7 cụm danh từ hỗn hợp xuất hiện.

Đó là các cụm danh từ như chị lúa, cậu tre, cô gió, bác mặt trời, chị Cua càng, thằng

Dói, lão Trê.

(28) Những chị lúa phất phơ mái tóc

Những cậu tre bá vai nhau thì thầm

...

Cô Gió chăn mây trên đồng

Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi

Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa

Này thằng Dói nhớ ai?

Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa

Này lão Trê nhảy võ ở đâu?

(Em kể chuyện này)

Có thể nhận thấy các cụm danh từ hỗn hợp này có cấu tạo gồm 2 yếu tố. Yếu tố

thứ nhất là danh từ chung chỉ thân tộc, như bác, cậu, chú…, yếu tố thứ hai là danh từ

chung chỉ sự vật và 100 % yếu tố thứ hai này xét về mặt ý nghĩa là các từ chỉ thiên

nhiên, như gió, chim, gà…

57

Theo tư liệu của chúng tôi, ý nghĩa của yếu tố thứ hai này gồm các loại sau:

a. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ hiện tượng tự nhiên

Cô gió, chị gió là những cụm danh từ hỗn hợp có ý nghĩa chỉ hiện tượng tự nhiên.

Các từ thuộc nhóm này không nhiều. Chúng tôi mới chỉ tìm thấy một hiện tượng tự

nhiên là hiện tượng gió được kết hợp với yếu tố thứ nhất là hai danh từ thân tộc chị và

cô.

b. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ thực vật

Thuộc loại này gồm có các cụm danh từ hỗn hợp như chị lúa, chị tre. Chúng tôi

cũng chỉ tìm được 2 loại thực vật nằm trong yếu tố thứ hai này là lúa và tre và chúng

cũng chỉ xuất hiện 1 lần.

c. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ động vật

Các cụm danh từ hỗn hợp có yếu tố thứ hai chỉ động vật xuất hiện trong thơ Trần

Đăng Khoa khá nhiều so với các cụm danh từ hỗn hợp khác. Các động vật được đề cập

đến ở đây bao gồm như giun, chích chòe, cua càng, chim sâu, trê, v.v… Một điều đặc

biệt là việc kết hợp các danh từ chỉ động vật này với các danh từ thân tộc có ý nghĩa to

lớn trong việc thể hiện thái độ, tình cảm của tác giả đối với các con vật được đề cập

đến. Điều này chúng tôi cũng xin được phân tích trong chương 3.

d. Yếu tố thứ hai có ý nghĩa chỉ thực thể tự nhiên

Cô mây, bác mặt trời, ông trăng là các danh từ hỗn hợp có yếu tố thứ hai chỉ thực

thể tự nhiên. Cũng như các danh từ hỗn hợp có yếu tố thứ hai chỉ động vật, việc gọi tên

các thực thể tự nhiên đi kèm với các danh từ thân tộc có giá trị rất lớn trong việc thể

hiện thái độ, tình cảm của tác giả đối với đối tượng được nói đến.

2.3. Tiểu kết

Tóm lại, trong Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, xét về phương diện ý nghĩa, các từ

ngữ chỉ thiên nhiên được chia thành hai loại:

- Từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực là các từ ngữ có ý nghĩa trực tiếp chỉ thiên

nhiên. Có 663 từ ngữ chỉ thiên nhiên thuộc loại này, với tần số xuất hiện là 2925 lần.

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên đích thực gồm có 5 loại nhỏ. Đó là:

+ Các từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên;

58

+ Các từ ngữ chỉ động vật;

+ Các từ ngữ chỉ thực vật;

+ Các từ ngữ chỉ thời gian;

+ Các từ ngữ chỉ thực thể tự nhiên.

- Từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực

Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực là các từ ngữ vốn được dùng để chỉ đối

tượng này nhưng lâm thời được dùng để chỉ thiên nhiên và phải dựa vào văn cảnh mới xác

định được ý nghĩa đích thực của chúng. Có 39 từ ngữ thuộc loại này, với tần số xuất hiện

là 161 lần. Các từ ngữ chỉ thiên nhiên không đích thực gồm có 2 loại. Đó là:

- Đại từ nhân xưng;

- Danh từ (cụm danh từ).

Việc sử dụng nhiều các từ ngữ chỉ thiên nhiên cùng với tần số xuất hiện lớn là cơ

sở để tác giả chuyển tải những nội dung tư tưởng cũng như thể hiện những ý đồ nghệ

59

thuật mà điều này sẽ được chúng tôi phân tích ở chương 3.

Chương 3

VAI TRÒ CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ THIÊN NHIÊN

TRONG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

Như đã trình bày ở chương 2, trong thơ Trần Đăng Khoa, số lượng các từ ngữ chỉ

thiên nhiên tương đối lớn. Xét về mặt dụng học, các từ ngữ này đã có vai trò trong việc

giúp tác giả chuyển tải nội dung tư tưởng cũng như thể hiện phong cách nghệ thuật.

Chương 3 dành cho việc phân tích các vai trò này.

3.1. Vai trò trong việc khắc họa toàn cảnh bức tranh làng quê đồng bằng Bắc bộ

Việt Nam

Có thể nói, qua việc dùng nhiều các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ của mình,

Trần Đăng Khoa đã khắc họa cho người đọc thấy được toàn cảnh bức tranh muôn màu

của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Bức tranh muôn màu ấy thể hiện ở hai khía

cạnh:

- Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phong phú và đa dạng;

- Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam đẹp và sinh động.

3.1.1. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam phong phú và đa dạng

Sự phong phú và đa dạng về thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt

Nam thể hiện rõ nhất ở việc làng quê có nhiều con vật, nhiều loài thực vật mang đậm

dấu ấn của vùng đồng bằng chiêm trũng. Thêm vào đó, thời tiết, khí hậu cũng mang rõ

phong vị của làng quê Việt Nam.

3.1.1.1. Về con vật

Qua thơ Trần Đăng Khoa, có thể thấy các con vật ở làng quê đồng bằng Bắc bộ

Việt Nam rất nhiều, phong phú về số lượng cũng như đa dạng về chủng loại: có con ở

dưới nước, có con ở trên cạn, có con bay trên trời và có những con trong lòng đất, v.v…

Chẳng hạn:

(1) Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa

Này thằng Dói nhớ ai?

60

Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa

Này lão Trê nhảy võ ở đâu?

Mà ngã bẹp đầu!

(Em kể chuyện này…)

(2) Những trưa tháng Sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy

(Hạt gạo làng ta)

(3) Nửa đêm nghe ếch học bài

Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây

(Chớm thu3)

Cua, cá Dói, cá cờ, Trê hay ếch là đều là những con vật sống dưới nước. Hơn thế

nữa, những con vật này còn là những con vật rất gần gũi, gắn bó với ruộng đồng, với

người nông dân.

(4) Sao không về hả chó?

Nghe bom thằng Mĩ nổ

Mày bỏ chạy đi đâu?

(Sao không về Vàng ơi?)

(5) Cậu Mèo đã dậy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ Gà cục tác như điên

Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi

(Buổi sáng nhà em)

(6) Hay nói ầm ĩ

Là con vịt bầu

Hay hỏi đâu đâu

Là con chó vện

61

(Kể cho bé nghe)

Chó, mèo, gà, vịt là những con vật gắn bó với đời sống sinh hoạt hàng ngày của

người nông dân, cụ thể là ở nơi góc sân và mảnh vườn. Chúng đã được hiện lên rất sinh

động và gần gũi qua những dòng thơ của Trần Đăng Khoa.

Nếu như chó, mèo, gà, vịt là những con vật gắn bó với đời sống sinh hoạt hàng

ngày của người nông dân ở nơi góc sân và mảnh vườn thì trâu, bò lại là người bạn của

người nông dân trên ruộng đồng.

(7) Dưới bóng đa, con trâu

Thong thả nhai hương lúa

Đủng đỉnh đàn bò về

Lông hồng như đốm lửa

(Cây đa)

Không xuất hiện một lần, hình ảnh con trâu còn trở đi trở lại trong thơ Trần Đăng

Khoa như một sự minh chứng về tầm quan trọng của con vật này trong đời sống lao

động của người nông dân. Chẳng hạn:

(8) Cánh đồng làng Điền Trì

Sớm nay sao mà rộng

Sương tan trên mũi sung

Trên sừng trâu cong veo

(Cánh đồng làng Điền Trì)

(9) Trâu cứ chén cho no

Ngày mai cày cho khỏe

Đừng lo đồng nứt nẻ

Ta có máy bơm rồi

(Con trâu đen lông mượt)

(10) Cổng làng bồng bềnh mây nổi

Bốn bề sương khói ngổn ngang

Trâu quên đôi sừng lấm đất

Tưởng mình lững thững lên Trăng

(Trong sương sớm)

Không chỉ có trâu, bò, gà, vịt, những con vật vốn gắn bó với đời sống sinh hoạt

62

và lao động của người nông dân mà những con vật rất bé nhỏ cũng đi vào thơ Trần

Đăng Khoa như: con bươm bướm, con kiến, con nhện, con mối, con ve, con sâu, con

dế, v.v…

Ví dụ:

(11) Con bướm vàng

Bay nhẹ nhàng

Trên đồng cỏ

(Con bướm vàng)

(12) Họ hàng nhà kiến kéo ra

Kiến con đi trước, kiến già theo sau

(Đám ma bác Giun)

(13) Hay chăng dây điện

Là con nhện con

(14) Mối trẻ

Bay cao

Mối già

Bay thấp

(Mưa)

(15) Trưa nay bỗng thấy ve ngân

Ve ngân trưa nắng quả dần vàng ươm

(Hoa lựu)

(16) Nghe ri rỉ tiếng sâu

Nó đang thở cuối tường

(Nửa đêm tỉnh giấc)

(17) Ao trường vẫn nở hoa sen

Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu

(Gửi bạn Chi - lê)

Thế giới các con vật tiếp tục được mở ra trong thơ Trần Đăng Khoa khi nhà thơ

nhắc đến con vật bay trên trời, đó là chim.

(18) Sắc hoa râm bụt quanh ao

Tiếng chim vườn mẹ cùng vào thăm cô

63

(Em dâng cô một vòng hoa)

Chim ở đây cũng gồm rất nhiều loại: chim sẻ, chim chích chòe, chim ri, chim ngói,

chim trĩ, chim sâu, v.v…

Ví dụ:

(19) Vui sao khi chớm vào hè

Xôn xao tiếng sẻ tiếng ve báo mùa

(Mùa xuân mùa hè)

(20) Xa xa từ một ngọn tre

Tiếng chim chích chòe đang hót

(Tiếng chim chích chòe)

(21) Rồi từ nhà cháu, chú đi

Lúa chiêm vào mẩy, chim ri bay về

(Gửi theo các chú bộ đội)

(22) Hạt mẩy uốn cong bông

Chim ngói bay đầy đồng

(Thôn xóm vào mùa)

(23) Hay múa xập xòe

Là cô chim trĩ

(Kể cho bé nghe)

(24) Những chị chim sâu trên cành

nhìn chúng em cười: Tích! Tích!

(Em kể chuyện này)

Đặc biệt, trong số những con vật biết bay, con cò được Trần Đăng Khoa nhắc đến

rất nhiều. Có thể nói, con cò đã trở thành hình ảnh biểu tượng trong nền văn học Việt

Nam. Nó là hiện thân của người phụ nữ cần cù, chịu khó, lam lũ, vất vả. Ta đã từng

gặp rất nhiều hình ảnh con cò trong ca dao, như:

Cái cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

Hay:

Con cò mày hay ăn đêm

Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.

64

v.v…

Và bây giờ, ta lại gặp con cò trong thơ Trần Đăng Khoa với rất nhiều màu sắc.

(25) Trong giấc mơ em

Có gặp con cò

Lặn lội bờ sông

Có gặp cánh bướm

Mênh mông mêng mông

(Tiếng võng kêu)

(26) Mẹ già ơi!

Đêm ngủ có yên không?

Lặn lội con cò, con vạc, con nông

Đến lúc chết, kẽ chân còn dính đất…

(Khúc hát người anh hùng)

(27) Khi cơn mưa đen rầm rầm đằng đông

Khi cơn mưa đen rầm rầm đằng tây

Khi cơn mưa đen rầm rầm đằng nam, đằng bắc

Em vẫn thấy

Cánh cò

Trắng muốt

Bay ra đón cơn mưa

(Cánh cò trắng muốt)

Hay:

(28) Góc sân nho nhỏ mới xây

Chiều chiều em đứng nơi này em trông

Thấy trời xanh biếc mênh mông

Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy…

(Góc sân và khoảng trời)

Từ những ví dụ trên cho thấy, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình một thế giới

các con vật rất phong phú và những con vật này đều là những con vật gắn bó với đời

65

sống của người nông dân vùng đồng bằng Bắc bộ.

3.1.1.2. Về thực vật

Cùng với thế giới con vật, các loài thực vật tiêu biểu của làng quê Việt Nam cũng

được Trần Đăng Khoa nhắc đến trong thơ. Loài thực vật đầu tiên phải kể đến, đó chính

là cây lúa.

Nước ta là một nước nông nghiệp cho nên lúa là cây lương thực rất quan trọng.

Chính vì thế, loài cây này đã được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều khi phác họa

đời sống lao động của con người vùng đồng bằng Bắc bộ. Ví dụ:

(29) Khi trời râm em vẽ

Vẽ cô tiên lặng lẽ

Rải hoa trên bầu trời

Thế là bao đồng lúa

Cứ chín vàng, vàng tươi…

(Cái sân)

(30) Trâu ơi ăn cỏ mật

Hay là ăn cỏ gà

Đừng ăn lúa đồng ta

(Con trâu đen lông mượt)

(31) Sáng nay bọn em đi đánh dậm

Ở ao ven làng

Bên ruộng lúa xanh non

(Em kể chuyện này…)

Bên cạnh cây lúa, phải kể đến các loại thực vật phục vụ cho đời sống sinh hoạt

hàng ngày của người nông dân như cây cà, cây chuối, khoai, ngô, rau cải, v.v…

(32) Nhà em có một luống khoai

Có hàng chuối mật với hai luống cà

(Vườn em)

(33) Bắp ngô non răng sún

Óng vàng một chòm râu

(Bên sông Kinh Thầy)

66

(34) Gió lên vườn cải tốt tươi

Lá xanh như mảnh mây trời lao xao

(Vườn cải)

Đặc biệt, quê hương Việt Nam còn rất đa dạng về các loại cây ăn quả. Đó là bưởi,

na, nhãn, khế, cây trứng gà (lê - ki - ma), sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, v.v…Thơ

của Trần Đăng Khoa cũng cho ta thấy rõ điều này.

Ví dụ:

(35) Hàng bưởi

Đu đưa

Bế lũ con

Đầu tròn

Trọc lốc

(Mưa)

(36) Em trồng thêm một cây na

Lá xanh vẫy gió như là gọi chim

(Vườn em)

(37) Hàng năm mùa nhãn chín

Anh em về thăm nhà

(Hương nhãn)

(38) Ríu ran cành khế

Là cậu chích chòe

(Kể cho bé nghe)

(39) Cháu nghe hương lê - ki - ma

Thoảng trên vai chú, chú ra thăm vườn

Cháu nghe thơm mát sầu riêng

Ngọt ngào măng cụt những miền xa xôi

Chôm chôm chín thẫm lưng đồi

Bỗng thơm trong tiếng chú cười hôm nay

(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)

Còn có những loài thực vật, mà nhìn vào đó, người ta nghĩ nhiều đến Việt Nam,

như cây tre, cây chè, cây dừa, cây cau, cây đa, hoa sen, v.v… Các loại cây này đều

được Trần Đăng Khoa đề cập đến trong những bài thơ của mình.

67

Chẳng hạn:

(50) Con chim nó đỗ cành tre

Bay ra cành chè nó hót hay hay

(Con chim hay hót)

(51) Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu

Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng

(Cây dừa)

(52) Hàng cây cau lặng đứng

Hàng cây chuối đứng im

(Trăng sáng sân nhà em)

(53) Làng em có cây đa

Bên mương nước giữa đồng

(Cây đa)

(54) Ao trường vẫn nở hoa sen

Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu

(Gửi bạn Chi - lê)

Như vậy, bên cạnh các loài động vật, thơ Trần Đăng Khoa còn cho chúng ta biết

thêm về sự phong phú của các loài thực vật ở Việt Nam.

3.1.1.3. Về mùa, thời tiết và khí hậu

Miền Bắc Việt Nam có 4 mùa rõ rệt, đó là: xuân, hạ, thu, đông. Cả 4 mùa này đều

được Trần Đăng Khoa thể hiện trong thơ mình.

Chẳng hạn:

(55) Mùa xuân hoa nở đẹp tươi

Bướm con bướm mẹ ra chơi hoa hồng

Vui sao khi chớm vào hè

Xôn xao tiếng sẻ, tiếng ve báo mùa

(Mùa xuân - mùa hè)

(56) Hàng năm

Mùa thu, mùa đông

Thần lăn ra chết ngất

68

(Trường ca Đánh thần hạn)

Cùng với 4 mùa như vậy, thời tiết và khí hậu ở vùng đồng bằng Bắc bộ cũng có

những đặc trưng riêng. Có lúc, thời tiết rất khắc nghiệt. Khi thì nắng chói chang, làm

nước ruộng nóng như ai nấu. Khi thì bão bùng, mưa gió. Kèm theo đó là sấm, là chớp.

Nhưng cũng có lúc, thời tiết lại ôn hòa, se se lạnh vào chớm thu, rất dễ chịu. Đọc thơ

Trần Đăng Khoa, chúng ta cảm nhận được hết điều này. Xin được đưa ra một vài ví

dụ:

(57) Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng Sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy

(Hạt gạo làng ta)

(58) Chớp

Rạch ngang trời

Khô khốc

Sấm

Ghé xuống sân

Khanh khách

Cười

(Mưa)

(59) Nửa đêm nghe ếch học bài

Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây

Nghe trời trở gió heo may

Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau

69

(Chớm thu)

Tóm lại, qua việc khảo sát các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa, ta thấy tác giả đã vẽ lên một bức tranh về làng quê Việt Nam với tất cả sự

phong phú về sản vật thiên nhiên cũng như đặc trưng về thời tiết và khí hậu. Những

điều này làm cho làng quê Việt Nam không thể lẫn với một nơi nào khác.

3.1.2. Thiên nhiên của làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam đẹp và sinh động

Không thể phủ nhận nét đẹp của làng quê Việt Nam được khắc họa dưới ngoài

bút của Trần Đăng Khoa. Nét đẹp ấy có thể biểu hiện ở sự bình yên của cảnh vật vào

những đêm trăng sáng hay sự thảnh thơi của các con vật sau một thời gian lao động:

(60) Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Hàng cây cau lặng đứng

Hàng cây chuối đứng im

Con chim quên không kêu

Con sâu quên không kêu

Chỉ có trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

(Trăng sáng sân nhà em)

Bài thơ vẽ ra một khoảng không gian bát ngát và tĩnh lặng. Cây cau, ở trên cao

thì lặng đứng. Hàng cây chuối ở dưới thấp cũng đứng im. Các con vật đều không kêu.

Tràn ra tất cả mọi nơi chỉ có ánh trăng mà thôi. Một vẻ đẹp thật yên bình.

(61) Dưới bóng đa con trâu

Thong thả nhai hương lúa

Đủng đỉnh đàn bò về

Lông hồng như đốm lửa

(Cây đa)

Sự thong thả của con trâu và sự đủng đỉnh của đàn bò cho thấy các con vật rất

ung dung, bình thản và dường như sự ung dung bình thản này khởi nguồn từ nếp sống

70

vốn dĩ rất bình yên của làng quê Việt Nam.

Nét đẹp của làng quê Việt Nam còn thể hiện ở không khí hối hả, sự náo nhiệt của

vạn vật bắt nhịp vào hoạt động lao động khi một ngày mới bắt đầu.

(62) Ò…ó…o…

Ò…ó…o…

Tiếng gà

Tiếng gà

Giục quả na

Mở mắt

Tròn xoe

Giục hạt đậu

Nảy mầm

Giục bông lúa

Uốn câu

Giục con trâu

Ra đồng

(Ò…ó…o…)

Tiếp đó, cảnh sắc thiên nhiên được Trần Đăng Khoa miêu tả rất thơ mộng. Bức

tranh quê hương còn hiện ra với núi, với sông, có cánh đồng và làng xóm. Tất cả đều

hài hòa và yên bình.

Ví dụ:

(63) Bên này là núi uy nghiêm

Bên kia là cánh đồng liền chân mây

Xóm làng xanh mát bóng cây

Sông xa trắng cánh buồm bay lưng trời…

(Quê em)

Rồi trăng ở làng quê cũng rất đẹp, sáng và đầy màu sắc.

(64) Chỉ có trăng sáng tỏ

71

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

(Trăng sáng sân nhà em)

Hay:

(65) Trăng ơi…từ đâu đến

Hay từ cánh rừng xa

Trăng hồng như quả chín

Lửng lơ lên trước nhà

Trăng ơi từ đâu đến

Hay biển xanh diệu kỳ

Trăng tròn như mắt cá

Chẳng bao giờ chớp mi

(Trăng ơi…từ đâu đến)

Tóm lại, thông qua việc sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ, Trần Đăng

Khoa đã cho người đọc thấy được bức tranh toàn cảnh làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt

Nam. Bức tranh ấy vừa phong phú về các sản vật, đa dạng về khí hậu thời tiết mà còn

rất đẹp, sinh động và đầy màu sắc.

3.2. Vai trò thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên

Có thể nói, ngay từ khi còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã sớm thể hiện là một người

có tình yêu thiên nhiên. Điều này cũng thật dễ hiểu, bởi khi mới 6, 7 tuổi, cậu đã được

mẹ giáo dục tình yêu ấy. Còn nhớ, khi bà ngoại mất, mẹ cậu đã xé khăn tang cho cậu

đeo cho các cây bưởi, cây na, cây mít… trong vườn. Mẹ cậu bảo, cây cũng có tâm

trạng, cảm xúc như con người, cũng biết vui, biết buồn. Rồi gần đến tết, mẹ cậu lại pha

nước vôi loãng cho cậu quét các gốc cây, để cho cây được mặc quần áo mới. Ngày tết,

nhà cậu ăn gì, thì các con vật cũng được ăn như thế. Như mẹ cậu nói, thì các con vật

cũng phải có tết chứ. Chính vì thế, đối với Trần Đăng Khoa, cây cối, con vật trong nhà,

hay nói khái quát hơn là thiên nhiên luôn gắn bó với cậu như những người bạn vậy.

Cho nên, thơ Trần Đăng Khoa đề cập đến rất nhiều hình ảnh thiên nhiên. Việc đưa

72

thiên nhiên vào thơ và cách miêu tả về thiên nhiên trong thơ đã minh chứng rất rõ tình

yêu thiên nhiên của Trần Đăng Khoa. Tình yêu này được thể hiện cụ thể dưới các góc

độ sau:

a. Luôn có thái độ thân mật, gần gũi với thiên nhiên, coi thiên nhiên như là người bạn

Đọc thơ Trần Đăng Khoa, đặc biệt là tuyển tập Góc sân và khoảng trời, ta thấy

rất rõ điều này. Không khó mà bắt gặp chi tiết Trần Đăng Khoa gọi các con vật, cây

cối bằng cách gọi rất thân mật là mày. Chẳng hạn:

(66) Trầu ơi hãy tỉnh lại

Mở mắt xanh ra nào

Lá nào muốn cho tao

Thì mày chìa ra nhé.

(Đánh thức trầu)

Từ mày trong ví dụ trên được dùng để quy chiếu cây trầu. Gọi cây trầu là mày và

tự xưng là tao, rõ ràng, Trần Đăng Khoa đã thể hiện thái độ thân mật, gần gũi. Phải coi

cây trầu như là người bạn, Trần Đăng Khoa mới có cách gọi như thế.

Hay:

Cái Na đã tỉnh giấc rồi (67)

Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao.

(Buổi sáng nhà em)

Cây chuối, cây na là loài thực vật vô tri vô giác. Nhưng dưới con mắt của Trần

Đăng Khoa, loài thực vật này lại có cảm xúc và hành động như những con người. Và

vì coi như con người, Trần Đăng Khoa mới dùng cách gọi cái Na và đàn chuối. Những

loại từ này vốn thường được dùng để chỉ con người.

Không chỉ coi thực vật như những người bạn, các con vật cũng được Trần Đăng

Khoa nhân cách hóa để chúng trở nên gần gũi, thân thuộc với mình. Chẳng hạn:

(68) Tao đi học về nhà

Là mày chạy xồ ra

Đầu tiên mày rối rít

Cái đuôi mừng ngoáy tít

Rồi mày lắc cái đầu

73

Khịt khịt mũi rung râu

Rồi mày nhún chân sau

Chân trước chồm, mày bắt

(Sao không về Vàng ơi?)

Bài thơ Sao không về Vàng ơi? là một bài thơ gây nhiều cảm xúc cho bạn đọc.

Đây là bài thơ được ứng tác ngay tại chỗ, theo yêu cầu của bác Lê Hào, Trưởng ti Giáo

dục tỉnh Hải Dương. Khi về thăm nhà Trần Đăng Khoa, thấy cả nhà buồn như có tang,

hỏi lý do, bác biết con chó trong nhà mới chạy đi mất. Bác liền bảo Trần Đăng Khoa:

Cháu viết bài thơ mất chó đi. Thế là bài thơ ra đời. Sở dĩ nói đến nguồn gốc xuất xứ

bài thơ ở đây là muốn minh chứng Trần Đăng Khoa và gia đình rất yêu động vật. Vì

thế mới có chuyện một con chó bỏ đi mà cả nhà buồn đến vậy. Vì yêu động vật, cụ thể

ở đây là con chó, cho nên khi viết về nó, Trần Đăng Khoa đã coi nó như một người

bạn, và thực sự là một người bạn. Với cách gọi con chó là mày và tự xưng là tao, nếu

như không nhìn vào phần thuyết của từ mày, chúng ta không thể biết được đây là Trần

Đăng Khoa đang nói về con chó. Bởi cách xưng hô này vốn là cách xưng hô giữa con

người với con người một cách thân mật.

Một ví dụ khác:

(69) Cậu Mèo đã dậy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng.

(Buổi sáng nhà em)

Cũng giống như con chó, mèo cũng là con vật gần gũi trong nhà được Trần Đăng

Khoa luôn yêu quý. Vì thế, với cách gọi cậu Mèo, tác giả thể hiện rất rõ sự thân mật

của mình với con vật này.

Hay:

(70) Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa

Này thằng Dói nhớ ai?

Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa

Này lão Trê nhảy võ ở đâu?

Mà ngã bẹp đầu!

74

(Em kể chuyện này…)

Trong ví dụ trên, tác giả đã gọi Cua Càng, con cá Dói, cá Trê bằng các danh từ

thân tộc như chị, thằng, lão. Đây cũng là cách gọi thể hiện sự thân mật, gần gũi, coi

các con vật như là những con người.

Như vậy, có thể thấy, việc sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ đã thể

hiện Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên.

b. Luôn trân trọng những gì thuộc về thiên nhiên

Ngoài việc luôn có thái độ thân mật, gần gũi với thiên nhiên, coi thiên nhiên như

là người bạn, Trần Đăng Khoa còn rất trân trọng những gì thuộc về thiên nhiên. Chính

vì thế, khi nhắc đến thiên nhiên, nhà thơ dùng nhiều những từ ngữ thể hiện rõ thái độ

này. Xin phân tích một số ví dụ dưới đây làm minh chứng cho điều vừa nói.

(71) Những chị lúa phất phơ bím tóc

Những cậu tre bá vai nhau thì thầm

Đứng học

Đàn cò trắng

Nghiêng nắng

Qua sông

Cô Gió chăn mây trên đồng

Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi

(Em kể chuyện này…)

Lúa, tre, gió hay mặt trời vốn là những sự vật vô tri vô giác. Nhưng với Trần

Đăng Khoa, những vật tưởng như vô tri vô giác ấy lại như những con người có tình

cảm. Chính vì thế, để gọi các đối tượng này, Trần Đăng Khoa dùng những danh từ thân

tộc thể hiện rõ thái độ trân trọng của mình như: cô, cậu, chị, bác.

Một ví dụ khác:

(72) Ông Trời nổi lửa đằng đông

Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

….

Chị Tre chải tóc bên ao

Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương

75

(Buổi sáng nhà em)

Tương tự, mặt trời, cây tre hay mây cũng chỉ là những sự vật vô tri vô giác. Nhưng

khi đề cập đến chúng, Trần Đăng Khoa lại gọi bằng những cách gọi thể hiện rõ sự trân

trọng như ông Trời, chị Tre, nàng Mây.

Hay:

Đêm nay trăng đang rằm (73)

Trăng như cái mâm con

Ai treo ông cao thế

Ông nhìn đàn em bé

Muốn khoe cái mặt tròn

(Trông trăng)

Chiếc ngõ nhỏ (74)

Thở sương đêm

Ông trăng lên

Cười trong lá

(Chiếc ngõ nhỏ)

(75) Vườn xanh biếc tiếng chim

Dơi chiều khua chạng vạng

Ai dắt ông trăng vàng

Thả chơi trong lùm nhãn

(Hương nhãn)

Hình ảnh trăng xuất hiện tương đối nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa. Trăng vốn

dĩ là biểu tượng cho sự thanh bình, ấm áp, yên ả. Viết về trăng, bao giờ Trần Đăng

Khoa cũng dành một thứ tình cảm đặc biệt cùng với sự trân trọng và ngưỡng mộ. Vì

thế, ông trăng hay ông là cách gọi Trần Đăng Khoa sử dụng nhiều khi viết về thực thể

này.

Đối với các loài thực vật và các thực thể tự nhiên, Trần Đăng Khoa đã thể hiện

thái độ trân trọng như thế, thì với động vật, thái độ này càng thể hiện rõ hơn. Bởi động

vật luôn có hoạt động. Và dưới con mắt Trần Đăng Khoa, hoạt động của động vật là

các hoạt động có ý thức, nghĩa là biết tư duy như con người. Từ việc coi động vật có ý

thức như con người như vậy, Trần Đăng Khoa cũng gọi chúng với các cách gọi thể

76

hiện rõ sự trân trọng.

Ví dụ:

(76) Những chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa

Những chị chim sâu trên cành

nhìn chúng em cười: Tích! Tích

(Em kể chuyện này)

Chim sâu và Cua Càng, những con vật vốn rất nhỏ bé đã được Trần Đăng Khoa trân

trọng gọi là chị. Và Trần Đăng Khoa cho rằng, chúng thực sự có cảm xúc và những hành

động của chúng là hành động có ý thức, giống như con người.

Hay:

(77) Ngoài sân lội, mấy chú gà liếp nhiếp

Đi tìm mồi, cùng mẹ bắt giun, sâu

Trời mưa lâm thâm làm các chú ướt đầu

Chú rùng mình, giọt mưa rơi khỏi cánh

(Gà con liếp nhiếp)

Những con vật gắn bó với đời sống nông thôn đi vào thơ Trần Đăng Khoa rất tự

nhiên và gần gũi. Và chưa bao giờ Trần Đăng Khoa nghĩ chúng là những con vật đơn

thuần. Phải yêu và trân trọng chúng, Trần Đăng Khoa mới có thể viết về chúng đáng

yêu đến thế. Ngay một con gà nhỏ bé, Trần Đăng Khoa cũng gọi là chú, một cách gọi

thể hiện cậu rất yêu quý coi nó như một người bạn.

Sự trân trọng còn được Trần Đăng Khoa dành cho cả những con vật nhỏ bé nhất,

như con giun chẳng hạn.

(78) Bác Giun đào đất suốt ngày

Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà

(Đám ma bác Giun)

Nhắc đến con giun, người ta thường liên tưởng đến con vật thuộc tầng lớp dưới

đáy, thấp cổ bé họng nhất. Xưa có cụm từ “thân phận con giun cái kiến”. Vậy mà Trần

Đăng Khoa lại gọi con vật này là bác. Tại sao không phải là Con Giun đào đất suốt

77

ngày mà lại là bác Giun? Phải chăng, Trần Đăng Khoa chưa bao giờ coi con vật này là

nhỏ bé. Hay nói khác đi, con vật có hình thức dù nhỏ bé nhưng Trần Đăng Khoa vẫn

luôn có thái độ trân trọng.

Qua sự phân tích trên cho thấy, Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên.

Tình yêu này được thể hiện qua nhiều phương diện, trong đó không thể phủ nhận rằng,

việc dùng các từ ngữ để chỉ thiên nhiên cũng góp một phần không nhỏ giúp nhà thơ

bộc lộ tình yêu đó.

3.3. Vai trò trong việc góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả

Hơn nửa thế kỷ ngược xuôi trên văn đàn, Trần Đăng Khoa thực sự đã khẳng định

được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại. Để có được thành công

ấy, do rất nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến phong cách nghệ thuật mang đậm chất

riêng mà nhà thơ đã thể hiện.

Góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa có vai trò của việc

sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên. Chính việc dùng các từ ngữ chỉ thiên nhiên có dụng

ý đã giúp Trần Đăng Khoa thực hiện thành công một số biện pháp tu từ. Đó là các biện

pháp tu từ sau:

3.3.1. Biện pháp nhân hóa

Nhân hóa là biện pháp tu từ gọi hoặc tả sự vật bằng những từ ngữ sử dụng cho

con người. Trong thơ Trần Đăng Khoa, việc sử dụng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đã góp

phần giúp nhà thơ thực hiện biện pháp tu từ này.

3.3.1.1. Gọi thiên nhiên bằng những từ ngữ để gọi con người

Như đã phân tích ở mục 3.2, Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên. Điều

này thể hiện ở việc nhà thơ luôn có thái độ thân mật, gần gũi với thiên nhiên, coi thiên

nhiên như là người bạn cũng như luôn trân trọng những gì thuộc về thiên nhiên. Vì coi

thiên nhiên như là người bạn, tức cũng là con người, cho nên Trần Đăng Khoa đã dùng

rất nhiều các từ ngữ vốn thường dùng chỉ người để gọi các sự vật, thực thể hay hiện

tượng thiên nhiên. Chẳng hạn:

(79) Chẳng vui cũng nhảy

Là chú cào cào

Đêm ngồi đếm sao

Là ông cóc tía

78

Ríu ran cành khế

Là cậu chích chòe

Hay múa xập xòe

Là cô chim trĩ

(Kể cho bé nghe)

Có thể nhận thấy, trong đoạn thơ trên, Trần Đăng Khoa đã dùng các danh từ thân

tộc như chú, ông, cậu, cô để gọi các con vật cào cào, cóc tía, chích chòe, chim trĩ. Với

cách gọi này, Trần Đăng Khoa đã làm cho các con vật sống động hơn, gần gũi hơn với

con người.

(80) Cậu Mèo đã dạy từ lâu

Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng

Mụ Gà cục tác như điên

Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi

(Buổi sáng nhà em)

Tương tự, cậu, mụ, thằng cũng vốn là các danh từ thân tộc được dùng để chỉ con

người. Ở đây, Trần Đăng Khoa đã dùng chúng để gọi con mèo và con gà. Với cách

dùng này, rõ ràng, các con vật đã được nhân cách hóa như là những con người.

Hay:

(81) Bác Giun đào đất suốt ngày

Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà

(Đám ma bác Giun)

Bác cũng là danh từ thân tộc được Trần Đăng Khoa dùng để gọi con giun. Biện

pháp nhân hóa này đã giúp biến con vật vốn nhỏ bé thành như con người.

Một ví dụ khác:

(82) Những chị chim sâu trên cành

nhìn chúng em cười: Tích! Tích!

(Em kể chuyện này)

Con chim sâu cũng được Trần Đăng Khoa nhân cách hóa thành con người khi gọi

nó bằng từ chị.

Không chỉ gọi các con vật bằng các cách gọi của con người, các loài thực vật, các

hiện tượng tự nhiên hay các thực thể tự nhiên cũng được Trần Đăng Khoa sử dụng biện

79

pháp nhân hóa này. Xin được phân tích một số ví dụ dưới đây:

(82) Những chị lúa phất phơ bím tóc

Những cậu tre bá vai nhau thì thầm

Đứng học

Đàn cò trắng

Nghiêng nắng

Qua sông

(Em kể chuyện này…)

Lúa, tre vốn là loài thực vật vô tri vô giá. Nhưng dưới ngòi bút của mình, Trần

Đăng Khoa đã biến chúng trở thành con người bằng cách gọi chúng bằng những từ như

chị, cậu.

Hay:

(84) Các cô Mây

Chị Gió

Cổ đeo gùi nước về trời

(Đánh thần hạn)

Gió là một hiện tượng trong tự nhiên đã được Trần Đăng Khoa nhân hóa thành

con người thông qua cách gọi là chị.

Cũng trong ví dụ này, mây - một thực thể tự nhiên được gọi là cô, một từ thường

dùng để chỉ con người.

Trăng và mặt trời xuất hiện khá nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa. Đây là những

thực thể tự nhiên rất gắn bó với con người và mang giá trị biểu tượng cao. Để nhân

cách hóa hai đối tượng này, Trần Đăng Khoa thường gọi chúng là bác hay ông. Điều

này thể hiện qua các ví dụ dưới đây:

(85) Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi

Có vẻ vui tươi

Nhìn chúng em nhăn nhó cười…

(Em kể chuyện này…)

(86) Ông trời nổi lửa đằng đông

Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

80

(Buổi sáng nhà em)

(87) Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận

(Mưa)

(88) Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…

(Trăng sáng sân nhà em)

(89) Đêm nay trăng đang rằm

Trăng như cái mâm con

Ai treo ông cao thế

Ông nhìn đàn em bé

Muốn khoe cái mặt tròn

(Trông trăng)

Từ sự phân tích ở trên cho thấy, để thực hiện biện pháp nhân hóa, Trần Đăng

Khoa đã dùng các từ ngữ chỉ con người để gọi thiên nhiên. Với cách này, thiên nhiên

đã trở nên sống động, gần gũi hơn, mang nhiều màu sắc hơn.

3.3.1.2. Miêu tả thiên nhiên bằng những từ ngữ miêu tả con người

Không chỉ gọi thiên nhiên bằng những từ ngữ để gọi con người, Trần Đăng Khoa

còn miêu tả chúng có những hoạt động, tâm trạng và tính cách như của con người vậy.

Cụ thể:

a. Nhân hóa để tả hoạt động

Có thể nói, bằng thủ pháp nhân hóa khi miêu tả hoạt động của các loài cây, các

con vật, các thực thể hay hiện tượng thiên nhiên, Trần Đăng Khoa thực sự đã thổi hồn

cho chúng. Chúng trở nên sống động, gần gũi và có tình hơn bao giờ hết. Xin được

phân tích một vài ví dụ tiêu biểu dưới đây để minh chứng cho điều này.

Dừa là hình ảnh quen thuộc của đất nước Việt Nam. Đã có rất nhiều nhà thơ viết

về loài cây này. Ta đã từng gặp hình ảnh cây dừa trong bài thơ Dừa ơi của Lê Anh

81

Xuân viết năm 1966:

Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ

Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ

Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió

Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ?”

Một hình ảnh cây dừa rất gần gũi gắn liền với các thế hệ tuổi thơ. Cũng viết về

cây dừa, năm 1967, Trần Đăng Khoa lại có cái nhìn rất mới.

(90) Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu

Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng

(Cây dừa)

Dưới con mắt Trần Đăng Khoa, cây dừa không còn là cây dừa nữa, mà nó như

một con người có cảm xúc, thích tâm giao, muốn hòa quện vào thiên nhiên. Bằng thủ

pháp nhân hóa, Trần Đăng Khoa miêu tả cây dừa với những động tác như dang tay, gật

đầu để đón gió, gọi trăng, để hòa mình vào vũ trụ. Không chỉ muốn hòa mình vào thiên

nhiên, cây dừa còn trở nên bề thế, tự tin như một người lính đang làm nhiệm vụ bảo vệ

đất trời.

(91) Đứng canh trời đất bao la

Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi

(Cây dừa)

Với các hành động như canh, đứng chơi trong một phong thái đủng đỉnh, cây dừa

bỗng chốc như thành hiện thân của con người Việt Nam hiên ngang, dũng cảm.

Có khi, dừa được Trần Đăng Khoa miêu tả khỏe khoắn, năng động như một vận

động viên bơi lội:

(92) Cây dừa

Sải tay

Bơi

(Mưa)

Trong Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, một bài thơ mà biện pháp nhân hóa được thể hiện

rõ nhất và phủ ra hầu hết các câu thơ chính là bài Đám ma bác Giun.

(93) Bác Giun đào đất suốt ngày

Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà

82

Họ hàng nhà kiến kéo ra

Kiến con đi trước, Kiến già theo sau

Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu

Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang

Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng

Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai

Đám ma đưa đến là dài

Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà

Kiến Đen uống rượu la đà

Bao nhiêu Kiến Gió bay ra chia phần…

(Đám ma bác Giun)

Giun là con vật bé nhỏ, thường bò sâu trong lòng đất. Khi con giun chết, lũ kiến

thường kéo đến tha xác con giun về tổ, thực chất là để ăn thịt. Tuy nhiên, chứng kiến

cảnh đó, Trần Đăng Khoa nhìn ra đấy là một đám tang. Đám tang ấy có sự lít nhít của

bọn trẻ con, đó chính là lũ kiến con (kiến con đi trước); có những người đi đầu cầm

hương, đó là Kiến Đất (đầu nó màu bạc như que hương vậy); có người nhà mặc áo tang

khóc than, đó chính là Kiến Cánh (có bộ cánh dài màu trắng trong); có người cầm gậy

(Kiến Kim - con kiến mà ở miệng nó có 1 cái kim); có người khiêng vác người chết

(Kiến Càng). Và trong đám tang như thế, cũng không thiếu những kẻ lợi dụng để kiếm

chác (Kiến Đen uống rượu la đà, Kiến Gió bay ra chia phần). Như vậy, từ việc nhân

hóa các con kiến bằng những hành động giống con người (với các động từ như đi, theo,

cầm hương, khóc than, chống gậy, khoác màu áo tang, đốt đuốc, uống rượu, chia phần),

Trần Đăng Khoa đã miêu tả một đám tang không khác gì một đám tang của con người

thực.

Thủ pháp nhân hóa tiếp tục được nhà thơ thể hiện trong bài Chớm thu.

(94) Nửa đêm nghe ếch học bài

Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây

Nghe trời trở gió heo may

Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau

83

(Chớm thu)

Đây là một bài thơ tả cảnh đất trời bắt đầu vào thu. Xuân Diệu rất thích bài thơ

này nhưng ông lại chưa thật ưng câu thơ đầu tiên “Nửa đêm nghe ếch học bài”. Ông

cho rằng câu thơ cọc cạnh so với 3 câu sau. Vì thế, sau này Trần Đăng Khoa đã thay

câu thơ ấy bằng câu “Sân trăng nghe đã dần phai”. Nội dung của câu thơ có vẻ phù

hợp với toàn bài hơn. Tuy nhiên, như thế câu thơ lại “chững chạc” quá, không phù hợp

với góc nhìn của cậu bé mới 9 tuổi. Thế là Trần Đăng Khoa lại giữ nguyên câu thơ cũ.

Có thể, câu thơ cũ này không phù hợp với thực tế (bởi khi đã vào chớm thu, tức là lạnh

thì ếch không còn kêu nữa) nhưng câu thơ mang được cái nhìn hồn nhiên của cậu bé 9

tuổi. Chỉ trẻ con mới có tư duy như thế.

Dưới con mắt của cậu, động vật, thực vật đều “biết học” hết.

(95) Những chị lúa phất phơ bím tóc

Những cậu tre bá vai nhau thì thầm

Đứng học

(Em kể chuyện này…)

Đề cập đến vấn đề này, nhà báo Trịnh Bá Ninh đã từng nói vui: Chẳng thấy cậu

Khoa học bao giờ, chỉ thấy ếch với tre học. Có 1 lần cậu tả cậu bên bàn học nhưng thật

ra cũng chẳng phải học (Em ngồi bên bàn học/ Hương nhãn thơm bay đầy (Hương

nhãn)). Cậu ngồi để ngắm cảnh, ngửi hương nhãn đấy chứ có học đâu? (Tư liệu Trần

Đăng Khoa kể). Chi tiết này càng thể hiện sự hồn nhiên của Trần Đăng Khoa trong

việc luôn luôn chú tâm để nắm bắt mọi sự chuyển động của thiên nhiên. Và với biện

pháp nhân hóa trong việc gán cho ếch, cho tre hoạt động học, Trần Đăng Khoa thực sự

đã thổi vào thiên nhiên một sức sống mới. Thiên nhiên trở nên hòa nhập với con người.

Hay:

Này chị Cua Càng giơ tay chào biển lúa (96)

Này thằng Dói nhớ ai?

Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như lửa

Này lão Trê nhảy võ ở đâu?

Mà ngã bẹp đầu!

84

(Em kể chuyện này…)

Đoạn thơ trên có 5 câu thì cả 5 câu Trần Đăng Khoa đều dùng những động từ vốn

là hoạt động của con người để được gán cho các con vật. Đó là những động từ như giơ

tay, nhớ, khóc, nhảy võ và ngã. Bằng thủ pháp nhân hóa này, một mặt, Trần Đăng Khoa

làm cho hoạt động của các con vật trở thành những hoạt động có ý thức, mặt khác còn

miêu tả được đặc điểm ngoại hình của các con vật. Vì sao con cua lại hay giơ tay (tức

là càng) lên? Vì nó muốn “chào biển lúa”. Vì sao mắt con cá Dói lại đỏ ngầu? Vì nó

nhớ ai đó nên khóc mãi. Vì sao cá trê lại bẹp đầu? Vì cá hay nhảy võ nên bị ngã. Một

sự lý giải vừa hồn nhiên, vừa bất ngờ và đầy sáng tạo. Ở đây, Trần Đăng Khoa thực sự

thành công trong việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa.

Không chỉ các con vật hay cây cối được Trần Đăng Khoa miêu tả như những con

người, các thực thể tự nhiên cũng được nhà thơ ví von rất sinh động. Thực thể đầu tiên

phải kể đến chính là trăng.

Có thể nói, hình ảnh trăng xuất hiện rất nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa. Ở mỗi

bài, trăng lại hiện lên với những dáng vẻ rất khác nhau.

(97) Đêm nay trăng đang rằm

Trăng như cái mâm con

Ai treo ông cao thế

Ông nhìn đàn em bé

Muốn khoe có mặt tròn

Ông trăng nhìn thấy xôi

Là ông nhoẻn miệng cười

Áng chừng ông thích lắm

...

Khuya, không trông trăng nữa

Trăng thập thò ngoài cửa

Muốn rủ em đi chơi...

(Trông trăng)

Bằng biện pháp nhân hóa, Trần Đăng Khoa đã miêu tả trăng rất hồn nhiên và

85

ngây thơ như một đứa trẻ. Trăng muốn khoe các em bé cái mặt tròn. Trăng cũng

thích thú khi nhìn thấy xôi, thấy chuối. Trăng cũng ham chơi khi muốn rủ em tham

gia cùng.

Nhưng cũng có lúc, trăng trông thật già nua:

(98) Ông trăng cười những lợi

Răng chẳng chiếc nào còn

Chú ơi, trăng già thế

Sao bà bảo trăng non?...

(Trăng đầu tháng)

Hình ảnh trăng cười hở ra toàn những lợi, chẳng có chiếc răng nào làm cho ta liên

tưởng trăng như một ông già vậy.

Rồi trong con mắt Trần Đăng Khoa, trăng còn hồ hởi góp sức cùng con người,

hòa nhập với con người trong lao động sản xuất.

(99) Tối về ông trăng đến

Cùng các đội bình công

Ấm nước chè tỏa nóng

Thơm như hương lúa đồng…

Sau một ngày cả thôn xóm làm việc vất vả, buổi tối, họ lại quay quần bên nhau

để chấm công. Khi ấy, trăng đã chủ động đến để soi sáng cho mọi người, cùng góp

phần vào công việc chung với mọi người.

Tiếp sau trăng, một thực thể nữa được Trần Đăng Khoa nhân hóa rất sinh động,

đó là mặt trời. Bằng sự liên tưởng tinh tế, Trần Đăng Khoa đã để mặt trời có những

hoạt động như một con người: biết đạp xe, biết nhìn, biết nhăn nhó cười, biết nổi lửa,

biết mặc áo để ra trận, v.v…

(100) Bác Mặt Trời đạp xe qua đỉnh núi

Có vẻ vui tươi

Nhìn chúng em nhăn nhó cười…

(Em kể chuyện này…)

(101) Ông trời nổi lửa đằng đông

Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

86

(Buổi sáng nhà em)

(102) Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận

(Mưa)

Sự nhân hóa này xuất phát từ hiện thực mà Trần Đăng Khoa quan sát được về đối

tượng. Nhìn thấy mặt trời nhô lên qua đỉnh núi, tác giả liên tưởng như là nó đang đạp

xe. Rồi khi mặt trời bắt đầu xuất hiện ở đằng đông, ban ánh sáng rực rỡ cho vũ trụ, tác

giả tưởng tượng ra mặt trời như đang nổi lửa. Trời chuẩn bị mưa, trời đất sầm sì, tác

giả cảm thấy như ông trời đang mặc áo giáp đen chuẩn bị ra trận. Như vậy có thể thấy,

bằng thủ pháp nhân hóa, mặt trời - một thực thể vô tri vô giác nhưng lại hiện lên rất

sống động với những hoạt động có ý thức như một con người.

b. Nhân hóa để tả tâm trạng, tính cách

Thiên nhiên dưới con mắt của Trần Đăng Khoa không chỉ có những hoạt động

như con người mà chúng cũng mang đầy tâm trạng và có tính cách. Có thể thấy điều

này qua các ví dụ dưới đây:

(103) Có con châu chấu phương nào

Bâng khuâng nhớ lúa, đậu vào vai em.

(Đồng quê)

Bâng khuâng là một tính từ có ý nghĩa tả tâm trạng luyến tiếc, nhớ thương xen

lẫn nhau, hơi ngẩn ngơ. Chỉ bằng một từ thôi nhưng Trần Đăng Khoa đã bộc lộ được

cảm xúc của một con vật nhỏ bé, làm cho nó mang hơi thở của một con người.

Một ví dụ khác:

(104) Con chó vàng nhà em xem chừng vui vẻ

Tiếng nó cười vang

- A! Thằng giặc Mĩ đến Việt Nam

Nó đến là như thế!

(A! Em biết thằng giặc Mĩ rồi!)

Khi chứng kiến thằng giặc Mĩ chết, không chỉ mọi người trong làng mà đến con

chó cũng có tâm trạng vui vẻ. Phải chăng, con chó cũng giống như những người dân

87

chốn thôn quê này đều có tấm lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.

(105) Cóc nhảy chồm chồm

Chó sủa

Cây lá hả hê

(Mưa)

Hả hê có nghĩa là “vui sướng vì cảm thấy được đầy đủ như ý muốn” [,399]. Như

vậy, bằng thủ pháp nhân hóa, Trần Đăng Khoa đã biến cây cối trở nên có cảm xúc, tâm

trạng như con người, biết vui, biết sung sướng.

(106) Nghe hàng chuối vườn em

Gió trở mình trăn trở

Chuột chạy giàn bí đỏ

Loáng vỡ ánh trăng vàng

(Nửa đêm tỉnh giấc)

Trăn trở có nghĩa là “trở mình luôn, không nằm yên ở một tư thế” [,991]. Phải

chăng, cái nóng nực của đêm hè đã làm cho vạn vật có gì đó bức bối. Con sâu thì ri rỉ

thở cuối tường; rặng duối thì rì rầm đòi uống sương; cây cau thì bí bách quạt phành

phạch liên hồi. Và gió cũng không yên được, cũng thao thức, trăn trở.

Không chỉ mang tâm trạng giống con người, thiên nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa cũng có những tính cách mà chỉ con người mới có.

(107) Cây Nam Lùn đâu, đừng thẹn thò khép nép

Hãy trổ ta xem như tóc kết đuôi gà

(Bài hát gọi cây lúa)

Thẹn thò, khép nép có nghĩa chỉ tính cách nhút nhát, rụt rè. Rõ ràng, với thủ pháp

nhân hóa này, cây lúa đã không còn là cây lúa nữa, mà nó thực sự như một con người.

Một ví dụ khác:

(108) Riêng Mặt Trời tinh nghịch

Ngậm mồi dưới đáy ao

Giật mấy lần không được

Còn làm ta ngã nhào

88

(Câu cá)

Bài thơ ở ví dụ (108) nói về một buổi câu cá. Trong buổi câu cá này, cậu bé câu

được rất nhiều cá, từ con cá ngão, cá rô cho đến con cá diếc. Tất cả các con cá, “Dù

con to con nhỏ/ Nếu chạm đến mồi ta/ Đều nằm khoèo trong rổ”. Tuy nhiên, đến “con

cá” cuối cùng, “con cá” tinh nghịch nhất, tưởng ngậm mồi dưới đáy áo rồi đấy, vậy mà

giật mấy lần không được. Con cá đấy chính là con cá Mặt Trời. Hóa ra, mục đích của

cậu bé có phải là câu cá đâu? Cậu chính là đang muốn đùa nghịch với mặt trời. Và mặt

trời, với tính cách tinh nghịch, như trêu ngươi cậu bé, quyết không dính câu, làm cậu

câu mãi không được, còn bị ngã nhào.

Như vậy, việc miêu tả các sự vật thuộc về thiên nhiên cũng có tâm trạng, tính

cách như của con người chính là một biểu hiện của thủ pháp nghệ thuật nhân hóa mà

Trần Đăng Khoa đã khéo léo thể hiện trong thi phẩm của mình.

3.3.1.3. Xưng hô với thiên nhiên thân mật như con người

Xưng hô với thiên nhiên thân mật như con người là điều mà Trần Đăng Khoa đã

thể hiện rất nhiều trong các bài thơ của mình. Các sự vật hiện tượng thuộc thiên nhiên

vốn vô tri vô giác. Nhưng thông qua cách trò chuyện, các sự vật hiện tượng này đã trở

nên gần gũi hơn. Việc xưng hô với thiên nhiên thân mật như con người biểu hiện ở hai

khía cạnh sau:

a. Dùng các đại từ để xưng hô

Trong tiếng Việt, có các đại từ được dùng để xưng hô theo các ngôi thứ nhất, thứ

hai và thứ ba. Khi dùng các đại từ này để xưng hô với các sự vật, hiện tượng thuộc

thiên nhiên cũng chính là biểu hiện của phép nhân hóa. Chẳng hạn:

(109) Trầu ơi hãy tỉnh lại

Mở mắt xanh ra nào

Lá nào muốn cho tao

Thì mày chìa ra nhé

(Đánh thức trầu)

Ở đoạn thơ trên, tao là đại từ ở ngôi thứ nhất, chỉ tác giả của bài thơ. Mày là đại

từ ở ngôi thứ hai, chỉ cây trầu. Với cách xưng hô này, Trần Đăng Khoa đã biến cây trầu

89

như một người bạn có vị thế ngang hàng với mình.

Tương tự:

Tao đi học về nhà (110)

Là mày chạy xồ ra

Đầu tiên mày rối rít

Cái đuôi mừng ngoáy tít

Rồi mày lắc cái đầu

Khịt khịt mũi rung râu

Rồi mày nhún chân sau

Chân trước chồm, mày bắt

Bắt tay tao rất chặt

(Sao không về Vàng ơi?)

Nếu như ở bài thơ Đánh thức trầu, đối tượng giao tiếp của tác giả là loài thực

vật thì ở bài Sao không về Vàng ơi?, đối tượng giao tiếp lại là con vật. Và cũng vẫn

với lối xưng hô tao (tác giả) - ngôi thứ nhất và mày (con chó Vàng) - ngôi thứ hai,

Trần Đăng Khoa đã cho thấy một cuộc trò chuyện rất thân mật, gần gũi của hai người

bạn.

Ở vị trí ngôi thứ nhất, ngoài từ tao, Trần Đăng Khoa còn sử dụng các đại từ khác

như ta, tôi.

(111) Ta sẽ nâng đê cho cao hơn mặt lũ

Ta sẽ khuyên trời bảo bão đừng giật gió

Ta sẽ nhìn sao tính chớp bể, mưa nguồn

Những mất mát trong chiến tranh

ta chưa kịp ngồi buồn

Ta vui lòng đổi mỗi ngày hòa bình

Bằng bao giọt máu hồng sáng chói

Bằng cả cái bụng ta hôm nay còn đói

Hãy trỗ nào, lúa ơi

Ta chợp mắt đi, mai mày đã thấp thoi

90

(Bài hát gọi cây lúa)

Ta là đại từ xưng hô ngôi thứ nhất - chỉ tác giả. Mày là đại từ xưng hô ngôi thứ

hai - chỉ cây lúa. Chính cách xưng hô này đã thể hiện sự thân mật của tác giả với một

loài thực vật vốn vô tri vô giác.

Hay:

(112) Đất ơi, hãy nói giùm tôi, nhúm nhau tôi

mẹ vùi ở nơi nào?

Mà cơn mưa xói mòn làm da tôi bỏng dát

Mà trận nắng chết cây làm tim tôi đau thắt

Đất ơi, núm ruột tôi đất giữ ở nơi nào?

(Đất ơi!)

Trong bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã dùng từ tôi - một đại từ ở ngôi thứ nhất

với ý nghĩa ngang hàng để xưng với đất. Và điều này cũng có nghĩa, tác giả đã coi đất

như một người bạn của mình.

b. Dùng cảm từ sau từ chỉ đối tượng xưng hô

Ơi được gọi là cảm từ thường được dùng sau từ chỉ đối tượng xưng hô với mục

đích biểu thị tiếng gọi thân mật, gần gũi. Trong thơ Trần Đăng Khoa, chúng ta thấy

một loạt các con vật, các loài thực vật, các thực thể hay các hiện tượng tự nhiên đã

được Trần Đăng Khoa gọi kết hợp với cảm từ này, kiểu như: sông ơi, đất ơi, hoa ơi,

trăng ơi, đa ơi, trâu ơi, Vàng ơi, v.v…Ví dụ:

(113) Sông ơi, nhớ thương ai

Mà bốn mùa nước đỏ

(Cầu Cầm)

(114) Đất ơi, hãy nói giùm tôi, nhúm nhau tôi

mẹ vùi ở nơi nào?

Mà cơn mưa xói mòn làm da tôi bỏng dát

Mà trận nắng chết cây làm tim tôi đau thắt

Đất ơi, núm ruột tôi đất giữ ở nơi nào?

(Đất ơi!)

(115) Một vùng tươi mát trong lành

Cái nắng trưa hè dịu lại

91

Vui vẻ người qua,

Hoa ơi

Ai bảo em là hoa dại?

(Hoa dại)

(116) Trăng ơi… từ đâu đến?

Hay từ một sân chơi

Trăng bay như quả bóng

Đứa nào đá lên trời

(Trăng ơi… từ đâu đến?)

(117) Đa ơi, em còn che cho ai bóng mát

Quán xưa đổ rồi

Cỏ mọc rì xanh xóa vết chân người

(Bến đò)

(118) Trâu ơi, ăn cỏ mật

Hay là ăn cỏ gà

Đừng ăn lúa đồng ta

(Con trâu đen lông mượt)

(119) Sao không về hả chó?

Tao nhớ mày lắm đó

Vàng ơi là Vàng ơi!...

(Sao không về Vàng ơi?)

Rõ ràng, việc dùng các cảm từ ở đây đã có tác dụng nhân hóa, biến thiên nhiên trở

thành người bạn thân thiết với con người, mà cụ thể ở đây chính là tác giả.

3.3.2. Biện pháp ẩn dụ, hoán dụ

Ẩn dụ và hoán dụ là hai biện pháp tu từ có đặc điểm là lấy tên gọi của sự vật này

để gọi tên cho sự vật khác nhằm mục đích gợi hình, gợi cảm. Trong thơ Trần Đăng

Khoa, việc dùng các từ ngữ chỉ thiên nhiên đã có vai trò thể hiện hai biện pháp tu từ

này. Xin minh chứng điều này qua việc phân tích một số ví dụ dưới đây.

3.3.2.1. Ẩn dụ

Như đã nói, ẩn dụ là biện pháp tu từ có đặc điểm là lấy tên gọi của sự vật này để

92

gọi tên cho sự vật khác. Cơ sở của phép ẩn dụ là hai đối tượng được lấy làm tên gọi

cho nhau phải có mối quan hệ tương đồng (tức là giống nhau). Trong thơ Trần Đăng

Khoa, có thể tìm thấy rất nhiều hiện tượng ẩn dụ như vậy:

(120) Con mắt trời nóng bỏng

Rừng rực những ngôi sao

Đêm đêm con mắt ấy

Cháy bùng trên mặt ao

(Con mắt)

Để miêu tả những ngôi sao, Trần Đăng Khoa sử dụng hình ảnh ẩn dụ con mắt

(con mắt trời). Sở dĩ có sự liên tưởng này là bởi ngôi sao cũng có những đặc điểm giống

như con mắt vậy: nhỏ, sáng, long lanh. Câu thơ là một phát hiện rất mới mẻ mà phải

có trí tưởng tượng phong phú lắm, Trần Đăng Khoa mới chỉ ra được điều đấy.

Một ví dụ khác:

(121) Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay

Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về phương xa

Em vui em hát

Hạt vàng làng ta

(Hạt gạo làng ta)

Nhắc đến thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu là người ta nhắc đến bài thơ Hạt

gạo làng ta. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của lao động cũng như sự trân quý của hạt gạo giữa

hoàn cảnh đất nước còn đang chiến tranh. Để làm ra hạt gạo, người nông dân phải vất

vả vô cùng. Cho nên giá trị của hạt gạo không chỉ bởi nó là sản phẩm vật chất mà nó

93

còn là sản phẩm tinh thần. Chính vì thế, cuối bài thơ, Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo

là hạt vàng. Hạt vàng là một hình ảnh ẩn dụ. Vàng là một kim loại rất quý hiếm. Gọi

hạt gạo là hạt vàng, Trần Đăng Khoa muốn nhấn mạnh hạt gạo cũng quý như hạt vàng

vậy.

Hay:

(122) Em nằm lơ mơ ngủ

Thấy mình về Thủ đô

Ôi chao, trăng vàng óng

Quay tròn… bánh ô tô.

(Trăng tròn)

Hình ảnh bánh ô tô cuối bài thơ cũng là một hình ảnh ẩn dụ. Bánh ô tô ở đây

chính là mặt trăng. Nhận vật em trong giấc mơ thấy trăng tròn ngỡ như đấy là bánh ô

tô đang đưa mình về thủ đô.

(123) Bắp ngô non răng sún

Óng vàng một chòm râu

Ôi cánh buồm nhỏ bé

Biết bay về nơi đâu?

(Bên sông Kinh Thầy)

Miêu tả bắp ngô còn non, Trần Đăng Khoa dùng từ răng sún. Răng sún là hình

ảnh ẩn dụ được dùng để chỉ hạt ngô. Bởi hạt ngô có hình thức giống như cái răng vậy.

Với sự so sánh ngầm này, rõ ràng, câu thơ đã có sức nặng hơn về mặt biểu cảm.

(124) Bác ơi cháu đến đây rồi

Ba Đình phượng đỏ, một trời tiếng ve

Cháu nghe Hà Nội vào hè

Hồ Gươm nước biếc, bốn bề hoa tươi

Bác ơi, cháu đến đây rồi

Xanh trên nhà Bác vẫn trời mùa thu…

(Đất trời sáng lắm hôm nay)

Bài thơ Đất trời sáng lắm hôm nay được sáng tác khi lần đầu Trần Đăng Khoa ra

thăm Hà Nội. Xét về mặt thời gian, đây là thời điểm bắt đầu vào hè. Tuy nhiên, kết

thúc bài thơ lại là “xanh trên nhà Bác vẫn trời mùa thu…”. Trời mùa thu là một hình

94

ảnh ẩn dụ, chỉ mùa của cách mạng, mùa của kháng chiến thành công.

3.3.2.2. Hoán dụ

Cũng giống ẩn dụ ở đặc điểm là lấy tên gọi của sự vật này để gọi tên cho sự vật

khác, nhưng cơ sở của phép hoán dụ là hai đối tượng được lấy làm tên gọi cho nhau là

mối quan hệ tương cận (gần gũi với nhau). Trong thơ Trần Đăng Khoa, việc sử dụng

các từ ngữ chỉ thiên nhiên cũng có vai trò giúp tác giả thể hiện biện pháp tu từ này.

Chẳng hạn:

(125) Em đi chọc ếch chiều nay

Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu

Râm ran suốt cả trời chiều

Tiện mồm, em cũng hát theo một bài…

(Chọc ếch)

Tiếng kêu ở đây chính là hình ảnh hoán dụ, chỉ con ếch. Cơ sở của phép hoán dụ

này là lấy bộ phận để chỉ toàn thể.

Một ví dụ khác:

(126) Góc sân nho nhỏ mới xây

Chiều chiều em đứng nơi này em trông

Thấy trời xanh biếc mênh mông

Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy

(Góc sân và khoảng trời)

Tương tự, cánh cò trong ví dụ (126) cũng là hình ảnh hoán dụ, lấy bộ phận để chỉ

toàn thể. Cánh cò ở đây chính là để chỉ con cò.

Hay:

(127) Tháng năm lừng lững đi qua

Chỉ còn mấy đỉnh tháp già ngẩn ngơ

(Qua Xuzđan)

Tháng năm có ý nghĩa chỉ thời gian. Trong câu thơ này, tác giả đã lấy đơn vị thời

gian nhỏ để gọi đơn vị thời gian lớn.

Tóm lại, phong cách nghệ thuật là điều mà mỗi nhà văn, nhà thơ cần thể hiện nếu

muốn tác phẩm của mình “đứng” được. Trần Đăng Khoa cũng vậy. Sở dĩ người ta gọi

95

anh là thần đồng thi ca Việt Nam vì bởi anh thổi vào thơ anh một cái hồn riêng không

lẫn vào đâu được. Để có được thành công này, không thể phủ nhận có một phần không

nhỏ của cách anh sử dụng các từ ngữ điêu luyện, trong đó có việc dùng có dụng ý các

từ ngữ chỉ thiên nhiên.

3.4. Tiểu kết

Chương này tìm hiểu vai trò của các từ ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa. Theo đó, việc sử dụng các từ ngữ này có các tác dụng chính sau:

- Góp phần khắc họa được toàn cảnh bức tranh làng quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam.

Dưới ngòi bút của Trần Đăng Khoa, thiên nhiên ở làng quê đồng bằng Bắc bộ

Việt Nam hiện lên vừa phong phú, đa dạng, vừa đẹp và sinh động.

- Góp phần thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên

Trần Đăng Khoa là người rất yêu thiên nhiên. Tình yêu ấy được thể hiện rất rõ

qua việc tác giả dùng nhiều những từ ngữ để chỉ thiên nhiên. Trong thơ mình, nhắc tới

thiên nhiên, Trần Đăng Khoa luôn có thái độ thân mật, gần gũi cũng như luôn trân

trọng những gì thuộc về thiên nhiên.

- Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả.

Trong tác phẩm của mình, Trần Đăng Khoa đã thực hiện rất nhiều các biện pháp tu

từ như nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Chính các biện pháp tu từ này làm cho thiên nhiên trong

thơ Trần Đăng Khoa càng trở nên sống động và gần gũi đồng thời đã tạo nên một dấu ấn

riêng trong phong cách sáng tác của Trần Đăng Khoa. Điều này lý giải vì sao tên tuổi và

96

tác phẩm của anh chưa bao giờ “ngủ” trong lòng bạn đọc.

KẾT LUẬN

Tiếp cận những bài thơ của Trần Đăng Khoa, chúng tôi càng xác tin rằng, trong

sáng tạo nghệ thuật, nhà thơ luôn lao động miệt mài, nghiêm túc, say mê đến không

biết mệt mỏi. Thông qua thế giới của mình, thi sĩ đã tạo nên một phong cách thơ riêng

biệt, khá độc đáo. Sự riêng biệt, độc đáo ấy trước hết được thể hiện ở những từ ngữ chỉ

thiên nhiên được ông sử dụng trong những tác phẩm của mình.

Trên nền tảng lí thuyết về thiên nhiên và từ loại, thiên nhiên trong thơ Trần Đăng

Khoa hiện lên thật trong trẻo, kì diệu và đầy chất thơ. Với những từ ngữ chỉ trực tiếp

thiên nhiên và từ ngữ vốn được dùng để chỉ đối tượng này, nhưng lâm thời được dùng

để chỉ thiên nhiên, đã gợi cho người đọc về một bức tranh nông thôn thuần nhất nhưng

cũng hết sức thơ mộng. Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa luôn tràn đầy sức sống,

luôn luôn vận động và phát triển. Đặc biệt là khả năng cảm nhận thiên nhiên bằng mọi

giác quan, bằng sự mở rộng tâm hồn, trí tưởng tượng phong phú, độc đáo.

Trần Đăng Khoa không bao giờ nhìn thiên nhiên trong sự đồng nhất, trần trụi mà

luôn phát hiện ra mối quan hệ giữa chúng hoặc liên tưởng với những hình ảnh tương

đồng, qua đó khái quát lên một cái gì cao hơn. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, bạn đọc cảm

nhận được cả một thế giới tự nhiên sinh động, giản dị nhưng qua đó lại thể hiện tình yêu

đằm thắm, tha thiết với con người, với cuộc sống và với thiên nhiên. Thơ ông đến với tuổi

thơ trước tiên bằng những rung động, cảm xúc chân thành, thân ái. Thơ ông còn khơi dậy

những rung động trong tâm hồn người lớn, làm cho họ được cảm giác trở về với tuổi thơ,

97

tìm lại mình ở cái trong trẻo tinh nguyên cảm xúc với thiên nhiên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê A (chủ biên) (2014), Giáo trình Tiếng Việt 3, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

2. Trần Thanh Ái (2003), Về vấn đề đề - thuyết, T/c Ngôn ngữ và đời sống, Số 4.

3. Diệp Quang Ban (1972), Xung quanh việc phân biệt câu ghép với câu đơn, T/c

Ngôn ngữ, Số 4.

4. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb GD, H.

5. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, tập 2, Nxb ĐH &

THCN, H.

6. Diệp Quang Ban (1992), Bàn góp về quan hệ chủ - vị và quan hệ phần đề- phần

thuyết, T/c Ngôn ngữ, Số 4.

7. Diệp Quang Ban (1998), Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt, Nxb Giáo

dục.

8. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

9. Diệp Quang Ban (2000), Thử điểm qua việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt

trong nửa thế kỷ qua, T/c ngôn ngữ, Số 9, tr. 41-47.

10. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội

11. Lê Biên (1996), Từ loại tiếng Việt hiện đại, ĐHQGHN, Trường ĐHSP, H.

12. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH,

H.

13. Nguyễn Tài Cẩn (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, (Tiếng - từ ghép - đoản ngữ, Nxh

ĐHQG HN, H.

14. Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich N.V. (1973), ”Góp thêm một số ý kiến về vấn đề

hệ thống đơn vị ngữ pháp, T/c Ngôn ngữ, Số 2.

15. Đỗ Hữu Châu (1974), Khái niệm trường và việc nghiên cứu hệ thống từ vựng,

Tạp chí ngôn ngữ số 2.

16. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

17. Đỗ Hữu Châu (1998) Các bình diện của từ và từ Tiếng Việt, NXB Khoa Học Xã

Hội.

18. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

19. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập (Tập 1,tập 2), NXB Giáo dục,

98

Hà Nội.

20. Đỗ Hữu Châu (chủ biên) (1993), Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn ngữ học, tập

1, Nxb GD, H.

21. Hoàng Cao Cương (1985), Bước đầu nhận xét về đặc điểm ngữ điệu tiếng Việt,

T/c Ngôn ngữ, Số 3.

22. Hoàng Cao Cương (1986), Suy nghĩ thêm về thanh điệu, T/c Ngôn ngữ, Số 3.

23. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgíc, ngữ nghĩa, cú pháp, Nxb ĐH&THCN, H.

24. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb GD, H.

25. Nguyễn Đức Dương (2001), Nhìn lại vấn đề phân loại câu tiếng Việt theo cấu

tạo ngữ pháp, T/c Ngôn ngữ & đời sống, Số 11.

26. Phạm Tất Đắc (1953), Phân tích từ loại và phân tích mệnh đề, Nxb H.

27. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc Gia,

Hà Nội.

28. Trần Thị Định (2008), Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu,

Đại học An Giang.

29. Lê Đông & Nguyễn Văn Hiệp (1996), Cấu trúc đề - thuyết của một kiểu câu

tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 3.

30. Lê Đông (1993), Một vài khía cạnh cụ thể ngữ dụng học có thể góp phần nghiên

cứu xung quanh cấu trúc đề- thuyết, T/c Ngôn ngữ, Số 1

31. Đinh Văn Đức (1993), Một vài cảm nhận về ngữ pháp chức năng, T/c Ngôn

ngữ, Số 3.

32. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, từ loại, Nxb Đại học Quốc gia, H.

33. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học Quốc Gia Hà

Nội.

34. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia,

Hà Nội. 92

35. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo

dục Biệt Nam. Hà Nội.

36. Phạm Thị Hà (2011), Trường nghĩa thiên nhiên xứ Huế trong ký Hoàng Phủ

Ngọc Tường, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, ĐHSP Hà Nội.

99

37. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt- Văn Việt- Người Việt, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

38. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt: Mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ

nghĩa, Nxb GD, H.

39. Cao Xuân Hạo (2002), Bắt buộc và tùy ý, về hai cách biểu đạt trong ngôn ngữ,

T/c Ngôn ngữ, Số 9.

40. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (1999), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi

Tất Tươm, Câu trong tiếng Việt, Nxb GD, H.

41. Võ Tấn Hòa (2014), Trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng tác của

Nguyên Ngọc, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nôi.

42. Vũ Tiến Hóa (2015), Trường nghĩa thiên nhiên và con người Tây Bắc trong các tác

phẩm của nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ, ĐH Tây Bắc.

43. Đỗ Việt Hùng (2013) Ngữ nghĩa học, NXB Đại Học sư phạm.

44. Phan Khôi (1997), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng.

45. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1960), Văn phạm Việt Nam, Nxb

Tân Việt, Sài Gòn, 1940 (in lại lần thứ 4)

46. Đình Kính (2014), Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa, Hội nhà văn Hải Phòng,

https://vanhaiphong.com/c-li-th-trn-ng-khoa-inh-kinh/

47. Trương Vĩnh Ký (1883), Grammaire de la langue Annamite, Saigon: Guillaud

& Martinon.

48. Nguyễn Lai (1992), Suy nghĩ một số vấn đề về ngữ pháp chức năng, T/c Ngôn

ngữ, Số 3.

49. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc Đề -

Thuyết, Nxb ĐHQGHN, H.

50. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và Tiếng Việt, Nxb KHXH, H.

51. Hồ Lê (1991), Cú pháp tiếng Việt, Quyển 1, Phương pháp nghiên cứu cú

pháp, Nxb KHXH, H.

52. Hồ Lê (1993), Ngữ pháp chức năng- Cống hiến và khiếm khuyết, T/c Ngôn ngữ,

Số 1.

53. Trần Thị Thùy Linh (2011), Thơ Trần Đăng Khoa dưới góc nhìn tư duy nghệ

thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường ĐHKHXH&NV.

54. Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) (2016), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam.

100

55. Lê Văn Lý (1948), Le parler vietnamien, Paris.

56. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Bộ Giáo dục, Trung tâm học

liệu xuất bản.

57. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb KHXH, H.

https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1_nhi%C3%AAn

58. Bách khoa toàn thư mở, Tự nhiên,

https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng_v%E1%BA%ADt

59. Bách khoa toàn thư mở, Động vật,

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_gian

60. Bách khoa toàn thư mở, Thời gian,

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%B1c_th%E1%BB%83

61. Bách khoa toàn thư mở, thực thể,

62. Nguyễn Thị Trang Nhung (2017), Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần

Đăng Khoa, , ĐHTN, Trường ĐHKH.

63. Phó Thị Hồng Oanh (2013), Trường từ vựng - ngữ nghĩa trong truyện Tây Bắc của

Tô Hoài, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, ĐHP Thái Nguyên.

64. Panfilov V.X. (1979), Các cấp thể và các chỉ tố tình thái- thể trong tiếng Việt,

T/c Ngôn ngữ, Số 2.

65. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt, câu, Nxh ĐH& THCN, H.

66. Nguyễn Phú Phong (2002), Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. Loại từ và chỉ

thị từ, Nxb ĐHQGHN, H.

67. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, H.

68. Lê Xuân Thại (1969), Cụm từ và phân tích câu theo cụm từ, T/c Ngôn ngữ, số 2.

69. Lê Xuân Thại (1978), Các kiểu loại cấu trúc chủ - vị, T/c Ngôn ngữ, Số 2.

70. Lê Xuân Thại (1995), Câu chủ vị trong tiếng Việt, Nxb KHXH, H.

71. Nguyễn Kim Thản (1997), Động từ trong tiếng Việt, Nxb KHXH, H.

72. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, H.

73. Lý Toàn Thắng (1981), Giới thiệu lý thuyết phân đoạn thực tại câu, T/c Ngôn

ngữ, Số 1.

74. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại

cương, Nxb KHXH, H.

101

75. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói, Nxb GD, H.

76. Vân Thanh (chủ biên) (2019), Văn học thiếu nhi Việt Nam một số vấn đề về tác

phẩm và thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

77. Phan Thiều (1993), Bàn về nghiên cứu ngữ pháp theo quan điểm chức năng, T/c

Ngôn ngữ, Số 3.

78. Trần Thường (1971), Những công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học

Liên Xô về tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 3.

79. Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1997), Thành phần câu tiếng

Việt, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, H.

80. Tiểu ban “Tiếng Việt trong nhà trường” (2002), Ngữ pháp chức năng, cấu trúc

đề- thuyết và ngữ pháp tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 14.

81. Bùi Đức Tịnh (1952), Văn phạm Việt Nam, Sài Gòn: P.Văn Tươi.

82. Bùi Minh Toán (1992), Tiếng Việt, tập 2, Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo viên, H.

83. Bùi Minh Toán (2012) Ngôn ngữ với văn chương, NXB Giáo dục Việt Nam.

84. Hoàng Tuệ, Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG TP Hồ Chí Minh.

85. Uỷ ban khoa học xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH, H.

86. Hoàng Văn Vân (2002), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt theo quan điểm

chức năng hệ thống, NXB KHXH, H.

NGUỒN NGỮ LIỆU

102

87. Trần Đăng Khoa (2016), Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, NXB Văn học.