BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thúy Hằng
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM
CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Thúy Hằng
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM
CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH CÔNG TÍN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng Sau đại học, quý thầy cô giảng viên khoa Ngữ Văn
đã tận tình giảng dạy, và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được học tập, nghiên cứu
và hoàn thành khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh Công Tín đã dành nhiều thời
gian hướng dẫn, động viên và khuyến khích tôi vượt qua những khó khăn trong quá
trình làm luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012 Tác giả Trần Thị Thúy Hằng
nhất cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch ................................. 32
Bảng 2.2. Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước .... 33
Bảng 2.3. Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật,
hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ: ............................................... 34
Bảng 2.4. Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam ............................................. 38
Bảng 2.5. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer .......................................................... 41
Bảng 2.6. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán .............................................................. 43
Bảng 2.7. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp ............................................................. 45
Bảng 2.8. Quán ngữ ............................................................................................... 47
Bảng 2.9. Lớp từ có nguồn gốc từ Trung Bộ ......................................................... 50
Bảng 2.10. Lớp từ biến nghĩa................................................................................... 55
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO VIỆC NGHIÊN CỨU . 7
1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ ........................................................ 7
1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học ................................................................. 7
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học .............................. 7
1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ ......................................................... 8
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ ............................................................................... 10
1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc .............................................................. 15
1.2.1. Tiểu sử ..................................................................................................... 15
1.2.2. Các sáng tác chính ................................................................................... 17
1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc .............................................. 18
1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật ........................................................................ 22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 24
Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC
PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC ...................................................................... 25
2.1. Cơ sở phân chia ............................................................................................. 25
2.2. Các lớp từ cụ thể ............................................................................................. 25
2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc ................................................................ 25
2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ ........... 44
2.2.3. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân ............................ 46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 51
Chương 3 : ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC TRONG
MỐI TƯƠNG QUAN VỚI NGÔN NGỮ CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC ........... 53
3.1. So với tác giả trước Bình Nguyên Lộc ........................................................... 53
3.2. So với tác giả cùng thời với Bình Nguyên Lộc .............................................. 63
3.3. Nhận định chung về đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc .................... 79
3.3.1. Ngôn ngữ kể chuyện mang màu sắc địa phương Nam Bộ sinh động, giàu
âm thanh, hình ảnh ............................................................................................. 80
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật đa dạng về tính cách, đậm phong cách Nam Bộ ...... 82
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 85
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 87
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu tiếng Việt, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở mặt thống nhất của
ngôn ngữ, mà cần thấy được tính đa dạng của nó. Một trong những biểu hiện rõ rệt
nhất của nó là màu sắc địa phương vùng, miền.
Ý thức được vấn đề lí luận này, thời gian gần đây, các nhà Việt ngữ học đã
chú ý nhiều tới bình diện khác biệt địa phương này của tiếng Việt.
Trong các công trình mang tính lí luận chung về phương ngữ, các nhà nghiên
cứu thường quan tâm nhiều đến vấn đề phân chia tiếng Việt thành những vùng
phương ngữ là: có 3 phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ), 4
phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ), hay 5
phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ,
Nam Bộ). Điều này phụ thuộc vào việc xem xét sự khác biệt từ một bình diện hay
nhiều bình diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách diễn đạt…) của các
phương ngữ.
Ở nội bộ từng phương ngữ, lại có những công trình đi sâu tìm hiểu, khai thác
những vấn đề của phương ngữ ấy trên các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… dựa
vào những thực tiễn khảo sát từ người địa phương hoặc thông qua việc khảo sát các
sáng tác của những nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu có tên tuổi nhất định trong
dòng văn học sử của địa phương ấy.
Nói riêng về phương ngữ Nam Bộ, số lượng công trình nghiên cứu phương
ngữ này trong những năm gần đây ngày một dày thêm. Lí do là nếu xem xét vấn đề
phương ngữ trong sự đối lập với ngôn ngữ chuẩn toàn dân, thì bản thân phương
ngữ Nam Bộ có những giá trị rất đặc thù giúp làm sáng tỏ vấn đề này, hơn là những
vùng phương ngữ khác như Bắc Bộ hay Trung Bộ. Trong chừng mực nào đó,
phương ngữ Nam Bộ có tính hệ thống “theo kiểu” Nam Bộ khá rõ ở các bình diện:
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, làm rõ sự đối lập toàn dân/ địa phương hơn các phương
ngữ khác.
2
Mặt khác, nếu hiểu là nguồn “sinh lực” bổ sung những yếu tố địa phương làm
phong phú thêm cho tiếng Việt chuẩn toàn dân, thì tiếng địa phương Nam Bộ cũng
đáp ứng tốt yêu cầu này. Bởi vì đây là tiếng nói của một bộ phận người Việt tham
gia vào quá trình lịch sử Nam tiến, tiếp nối và phát huy mạnh mẽ tiếng Việt trên
vùng đất mới - vốn được nhìn nhận là vùng kinh tế năng động và là một trong
những vùng trọng điểm của cả nước. Điều này (nhất là từ sau 1975 trở lại đây) đã
đóng một vai trò không thể phủ nhận trong đời sống ngôn ngữ cũng như đời sống
văn hóa- xã hội…không chỉ nội tại trong vùng Nam Bộ, mà còn được nhìn nhận
như những giá trị chung của tiếng Việt toàn dân.
Hơn nữa, trên 300 năm phát triển, từ tiếng nói người bình dân, phương Nam
đã định hình nên một phong cách ngôn ngữ gọt giũa qua những sáng tác văn
chương, những công trình khoa học có giá trị, với những tên tuổi lớn đã được khẳng
định, như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh,
Phi Vân, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… và được tiếp nối bởi
những tác giả đương thời như: Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư…
Vì vậy, việc nghiên cứu tập trung vào địa hạt này cũng nhằm giúp làm sáng tỏ
những đóng góp và hạn chế của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình lịch sử tiếng
Việt và trong quá trình thống nhất trong sự đa dạng hiện nay của tiếng Việt.
Nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc về
phương ngữ này mà còn giúp giải quyết nhiều vấn đề trong việc tiếp nhận những
sáng tác văn chương, xác định đúng đắn vai trò của phương ngữ trong tiến trình
tiếng Việt toàn dân và những vấn đề xã hội của phương ngữ trong phạm vi nhà
trường và trên sách báo cũng như trong thực tiễn đời sống giao tiếp của người Việt.
Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, với
đề tài “ Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi sẽ đi
sâu vào bình diện từ vựng của phương ngữ Nam Bộ trên tư liệu ngôn từ của một tác
giả là Bình Nguyên Lộc, qua những sáng tác văn chương để tìm hiểu sự đóng góp
về ngôn ngữ, đồng thời để tìm ra những đặc sắc trong cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ
của ông, trong sự so sánh với một số nhà văn trước và cùng thời với ông.
3
2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Như vừa trình bày ở trên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là phương
ngữ Nam Bộ và giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn này chỉ dừng lại ở địa
hạt từ ngữ Nam Bộ và trên những sáng tác của Bình Nguyên Lộc, với mục đích
nghiên cứu là qua cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên
Lộc, nêu bật được vai trò của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và
hành chức của tiếng Việt; đồng thời, thấy được sự đóng góp ngôn từ của ông so với
những người đi trước và cùng thời với ông.
Công việc so sánh đối chiếu với các tác giả trước hoặc cùng thời với ông,
chúng tôi sẽ chủ yếu là tiếp thu kết quả nghiên cứu của những công trình khảo sát
phương ngữ của các tác giả đi trước, với mục đích là thông qua những sự so sánh,
đối chiếu đó, chúng tôi làm sáng tỏ những đóng góp riêng của Bình Nguyên Lộc và
thấy được sự phát triển phương ngữ Nam Bộ đã để lại những dấu ấn nhất định trong
dòng văn học viết của riêng Nam Bộ và của Việt Nam nói chung.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát toàn bộ tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi sẽ có được số
lượng từ ngữ đủ để làm cơ sở cho những nhận định, đánh giá. Thế nhưng, để đưa ra
được những gì thuộc về ý kiếng riêng của mình, chúng tôi phải dựa trên các phương
pháp, thủ pháp thống kê, phân loại những kết quả đạt được trong khảo sát. Đồng
thời so sánh, đối chiếu với những kết quả khảo sát khác, có thể là của các tác giả
khác, để thấy được một mặt, tiến trình từ ngữ địa phương Nam Bộ tham gia vào
hoạt động sáng tác văn chương để lại được ý nghĩa tích cực và cả những mặt hạn
chế của nó ra sao; mặt khác, thấy được sự đóng góp của tác giả so với lớp nhà văn
đi trước và cùng thời với ông, từ đó có được những đánh giá xác đáng về vị trí, vai
trò, đóng góp của Bình Nguyễn Lộc trong dòng văn chương Nam Bộ nói riêng và
trong văn chương của cả nước nói chung.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã đề cập ở trên, vấn đề về phương ngữ Nam Bộ đã và đang được khá
nhiều nhà phương ngữ học quan tâm. Có thể kể đến các công trình sau: “Từ điển
4
phương ngữ Nam Bộ” của tập thể tác giả do Nguyễn Văn Ái chủ biên (1994),
“Những từ ngữ gốc Khơme trong phương ngôn Nam Bộ” của Thái Văn Chải (1986),
“Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ Nam Bộ” của Cao Xuân Hạo (1998), “Sự
tiếp xúc giữa các phương ngữ ở thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Thị Ngọc Lang
(1986), “Phương ngữ Nam Bộ” của Trần Thị Ngọc Lang (1995), “Tiếng địa
phương” của Bình Nguyên Lộc và Nguiễn Ngu Í (1958), “Về một hiện tượng láy
trong phương ngữ miền Nam” của Trịnh Sâm (1986), “Tự vị tiếng Việt miền Nam”
của Vương Hồng Sển (1993), “Sơ lược hệ thống ngữ âm phương ngữ Sài Gòn” của
Huỳnh Công Tín (2007),... Công trình của Vương Hồng Sển (1993) và của Nguyễn
Văn Ái chủ biên (1994) đã tập hợp được số lượng tương đối đầy đủ lớp từ vựng của
phương ngữ Nam Bộ. Gần đây, công trình “Từ điển Từ ngữ Nam Bộ”, in lần 1
NXB. KHXH (2007), lần 2 (bổ sung) NXB. CTQG (2009) của Huỳnh Công Tín đã
tập hợp được một lượng từ ngữ hết sức phong phú. Đồng thời, tác giả nêu được
những dẫn liệu trích từ nhiều nguồn sáng tác của các nhà văn Nam Bộ khiến chúng
ta có được hình dung nhất định về vốn từ của phương ngữ Nam Bộ cả xưa và nay.
Bài của Cao Xuân Hạo tuy chưa đề cập hết những đặc điểm ngữ âm của phương
ngữ Nam Bộ, nhưng tác giả cũng đã trình bày khái quát hai trong số những đặc
điểm lớn thuộc vấn đề ngữ âm của phương ngữ Nam bộ: phụ âm cuối và các
nguyên âm đôi. Công trình của Trần Thị Ngọc Lang đã nêu ra được sự khác biệt
trong các kiểu cấu tạo giữa hai phương ngữ và xác định được đặc điểm riêng của
phương ngữ Nam Bộ trong một số nhóm từ cụ thể như từ xưng hô, tính từ chỉ mức
độ, từ láy, từ hư... Luận án tiến sĩ “Đặc điểm ngữ âm của tiếng Sài Gòn so với
phương ngữ Hà Nội và các phương ngữ khác ở Việt Nam” của Huỳnh Công Tín
(1999) cung cấp cho ta một bức tranh khá rõ về những biểu hiện ngữ âm được ghi
nhận từ tiếng Sài Gòn và những tương đồng, khác biệt có liên quan tới đặc điểm
ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ với các phương ngữ khác trong tiếng Việt.
Gần đây có nhiều luận văn thạc sĩ chú ý đi sâu vào nghiên cứu những đặc
trưng của phương ngữ Nam Bộ trên cơ sở khảo sát các tác phẩm văn học dân gian
và của các nhà văn cụ thể, như các công trình nghiên cứu sau: “Văn phong Nam Bộ
5
qua tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Biểu Chánh” của Đinh Thị Thanh Thủy,
2005; “Màu sắc Nam Bộ trong truyện kí Sơn Nam” của Nguyễn Nghiêm Phương,
2009; “Phương ngữ Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư” của Nguyễn
Bình Khang, 2009; “ Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian” của Đỗ Thị
Kiều Oanh, 2012,…
Riêng về việc nghiên cứu các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, đã có các công
trình sau: “ Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc” của Nguyễn Lương
Hải Khôi, 2004; “Văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc”
của Nguyễn Văn Đông, 2005; “Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc” của
Dương Thị Thanh, 2011. Các công trình nghiên cứu trên tuy có đề cập đến cách sử
dụng từ ngữ của Bình Nguyên Lộc nhưng chỉ với tư cách như một minh chứng để
làm rõ phong cách truyện ngắn của ông, chứ không đi sâu nghiên cứu như một
chuyên đề riêng biệt về từ ngữ địa phương Nam Bộ trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc .
Điểm qua tình hình nghiên cứu, với luận văn “Từ ngữ địa phương trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi hy vọng có thể đóng góp thêm, dù nhỏ bé,
trong việc khảo sát các tác phẩm của một nhà văn Nam Bộ cụ thể có quá trình sinh
trưởng và sáng tác ở miền Đông Nam Bộ là Bình Nguyên Lộc, để từ đó nêu bật
được vai trò góp phần của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và hành
chức của tiếng Việt; cũng như là làm rõ thêm sự đóng góp của ông so với những
người đi trước và cùng thời với ông (như mục đích nghiên cứu mà chúng tôi đã nêu
ở trên).
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận.
1. Phần mở đầu gồm có các tiểu mục như: lí do chọn đề tài, phạm vi, đối
tượng và mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu vấn đề
và cấu trúc luận án.
2. Phần nội dung gồm ba chương: chương một trình bày những vấn đề chung
làm cơ sở cho việc nghiên cứu; chương hai tiến hành khảo sát, phân loại, thống kê,
6
so sánh, đối chiếu các kết quả nghiên cứu để rút ra những miêu tả, nhận định cần
thiết; chương ba nhận xét, đánh giá đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc trong
sự đối chiếu với các tác giả khác.
3. Phần kết luận
7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO
VIỆC NGHIÊN CỨU
1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ
1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học
A. Phương ngữ
Có nhiều định nghĩa về phương ngữ.
Nhóm tác giả Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn
quan niệm: “ Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và
ngữ âm riêng biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là ngôn
ngữ; là hệ thống kí hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ thống khác
được coi là ngôn ngữ ( cho toàn dân tộc ), các phương ngữ ( có người gọi là tiếng
địa phương, phương ngôn ) khác nhau trước hết ở cách phát âm, sau đó là vốn từ
vựng”[ 46; 223].
Hoàng Thị Châu định nghĩa ngắn gọn hơn: “ Phương ngữ là một thuật ngữ
ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể
với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ
khác”.[5; 29]
B. Từ ngữ địa phương
Theo Nguyễn Thiện Giáp:“ Từ ngữ địa phương là những từ ngữ được dùng
hạn chế ở một hoặc một vài địa phương. Nói chung, từ ngữ địa phương là bộ phận
từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không
phải từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi được sử dụng vào sách báo nghệ thuật, các
từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa
phương, đặc điểm của nhân vật”.[13; 466]
Từ ngữ địa phương có thể bao gồm những từ ngữ biểu thị những sự vật, hiện
tượng, những hoạt động, cách sống đặc biệt chỉ có ở địa phương nào đó chứ không
phổ biến với toàn dân, do đó không có từ song song trong ngôn ngữ văn học toàn dân.
8
Ví dụ:
Các từ: sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, chao,…là những từ chỉ có ở miền
Nam Việt Nam.
Những từ về ngữ âm giống với các từ tương ứng trong ngôn ngữ văn học toàn
dân, nhưng ý nghĩa thì khác như: nón có nghĩa là cái mũ, chén có nghĩa là cái bát,
dù có nghĩa là cái ô,…
Những từ có sự đối lập về ngữ âm ( hoàn toàn hoặc bộ phận) với từ ngữ tương
ứng trong ngôn ngữ toàn dân như: mô, rào, chộ, ngái,…ở Trung Bộ ( tương ứng với
các từ đâu, sông, thấy, xa,… trong ngôn ngữ toàn dân)
Các từ con gấy, nác, cáo, mự, tru, chúc mào,…ở Nghệ Tĩnh ( tương ứng với
các từ con gái, nước, gạo, mợ, trâu, chào mào,… trong ngôn ngữ toàn dân)
Giữa từ ngữ toàn dân và từ ngữ địa phương có quan hệ qua lại lẫn nhau. Ranh
giới giữa hai lớp từ này sinh động, thay đổi phụ thuộc vào vấn đề sử dụng chúng.
Từ ngữ địa phương là nguồn bổ sung cho ngôn ngữ văn học ngày càng giàu có,
phong phú. Như trên đã nói, từ vựng địa phương chủ yếu là từ vựng khẩu ngữ. Khi
sử dụng từ địa phương vào sách báo nghệ thuật, cần phải hết sức thận trọng và có
mức độ. Nghĩa là chỉ nên sử dụng những từ ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng nào đó
lúc đầu chỉ được biết trong một khu vực, sau đó được phổ biến rộng rãi, có tính chất
toàn dân và những từ ngữ địa phương có sắc thái biểu cảm cao so với các từ đồng
nghĩa tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Nếu người viết làm được điều này, từ
ngữ địa phương sẽ phát huy hết tác dụng của chúng trong việc tham gia vào sáng tác
văn chương hay sách báo nghệ thuật.
1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ
Phân vùng phương ngữ là vấn đề phức tạp. Ở bình diện ngữ âm, cho đến nay
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc phân vùng phương ngữ, nhưng chủ yếu các
tác giả phân chia tiếng Việt ra thành ba, bốn hoặc năm vùng phương ngữ.
- Quan niệm chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ: Có nhiều tác giả
chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ, trong đó tiêu biểu là Hoàng Thị Châu.
Tác giả này cho rằng tiếng Việt có ba phương ngữ gồm: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ
9
và Thanh Hóa ), phương ngữ Trung ( từ Nghệ An đến Đà Nẳng), phương ngữ Nam
( từ Đà Nẵng trở vào )[5;89]
- Quan niệm chia phương tiếng Việt thành bốn vùng phương ngữ: Có các
tác giả sau:
+ Nguyễn Kim Thản chia tiếng Việt thành: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ và một
phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung Bắc ( phía Nam Thanh Hóa đến Bình Trị
Thiên ), phương ngữ Trung Nam ( từ Quảng Nam đến Phú Khánh), phương ngữ
Nam ( từ Thuận Hải trở vào )[5;89]
+ Huỳnh Công Tín: phương ngữ Bắc Bộ ( các tỉnh Bắc Bộ và Thanh Hóa),
Phương ngữ Bắc Trung Bộ ( các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên – Huế), phương
ngữ Nam Trung Bộ ( các tỉnh từ Đà Nẳng đến Bình Thuận), phương ngữ Nam Bộ (
gồm ba khu vực là miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ)[44;42]
- Quan niệm chia tiếng Việt thành năm vùng phương ngữ: Đây là quan
niệm của Nguyễn Bạt Tụy (1961). Theo ông, tiếng Việt có thể chia thành: phương
ngữ miền Bắc ( Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung Trên (từ Nghệ An đến
Quảng Trị), phương ngữ Trung Giữa (từ Thừa Thiên đến Quảng Ngãi), phương ngữ
Trung Dưới (từ Bình Định đến Bình Tuy) và phương ngữ miền Nam (từ Bình Tuy
trở vào)[5;89]
Xét trên bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, các tác giả cũng chia tiếng Việt ra làm
ba vùng phương ngữ trùng với sự phân chia theo tiêu chí ngữ âm như ở trên chúng
tôi đã trình bày. Chỉ có sự khác nhau về vị trí của các phương ngữ Thanh Hóa mà
thôi. Có tác giả đưa tiếng Thanh Hóa vào nhóm phương ngữ Bắc Bộ (Nguyễn Bạt
Tụy, 1950), nhưng lại có tác giả ghép nó vào nhóm phương ngữ miền Trung (Hoàng
Thị Châu, 1963; Vương Hữu Lễ, 1974)[5;89]
Tác giả Huỳnh Công Tín thì chia tiếng Việt thành hai phương ngữ: Bắc Bộ và
Nam Bộ. Theo tác giả nguyên nhân của tình hình này là “ vốn từ vựng của phương
ngữ Trung Bộ, ngoài một lượng từ riêng ít ỏi, lớp từ vựng còn lại, hoặc là giống với
lớp từ vựng của phương ngữ Bắc Bộ hoặc Nam Bộ” [44; 43]
10
Chúng tôi thống nhất với cách phân chia tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ
của Huỳnh Công Tín. Theo đó, vùng phương ngữ Nam Bộ được xác định bao gồm
ba khu vực: miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ, tính từ Bình Phước, Tây
Ninh đến Mũi Cà Mau.
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ
1.1.2.1. Sự hình thành vùng đất và con người Nam Bộ
Vùng Nam Bộ chia thành ba khu vực: Đông Nam Bộ, Sài Gòn (nay được gọi
là thành phố Hồ Chí Minh ) và Tây Nam Bộ. Có thể khái quát một số nét về sự hình
thành các khu vực này như sau:
a. Miền Đông Nam Bộ bao gồm năm tỉnh: Bình Phước, Tây Ninh, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. So với các vùng còn lại của Nam Bộ thì
đây là vùng đất được khai khẩn trước tiên trong quá trình di dân lập ấp của những
lưu dân Bắc Trung Bộ. Đông Nam Bộ có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển kinh
tế - xã hội, cụ thể là kinh tế công nghiệp và du lịch, mà tiêu biểu là khu vực Biên
Hòa – Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì thế, vùng Đông Nam Bộ là một địa bàn
thu hút mạnh lực lượng lao động, sau thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành phần
dân cư của vùng này cũng có tính chất đa dạng, đến từ nhiều vùng miền khác nhau
của đất nước.
b. Sài Gòn là trung tâm chính trị, kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế và du
lịch lớn của cả nước. Nó nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á, được ví
như Hòn ngọc viễn đông của vùng. Mặt khác, Sài Gòn là một thành phố lớn, nên sự
giao tiếp của người Việt từ các miền của cả nước diễn ra thường xuyên và liên tục.
Do đó, tính chất phương ngữ Nam Bộ ở Sài Gòn có thể bị biến đổi, bị pha trộn,
không còn giữ những đặc trưng “ban đầu” của một số vùng, một số tỉnh ở Nam Bộ.
c. Tây Nam Bộ ( Đồng bằng sông Cửu Long ) là một vùng đất rộng lớn và phì
nhiêu của miền đồng bằng Nam Bộ, bao gồm mười ba tỉnh, thành: Cần Thơ, Long
An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên
Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. So với các miền trong cả nước, có
11
thể nói, đây là vùng đất mới nhưng nhiều hứa hẹn của lưu dân Việt vùng Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ thế kỷ XVII.
Môi trường mới đã tạo nên một hoàn cảnh mới, từ đó cũng hình thành ở lớp cư
dân người Việt này một tính cách mới, một tư duy khác. Song song đó, những đặc
trưng văn hóa mới cũng được hình thành cùng với những đặc điểm ngôn ngữ mới.
1.1.2.2. Sự hình thành phương ngữ Nam Bộ
Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người dân Nam Bộ. Phương ngữ Nam
Bộ được hiểu là những biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân.
Có nhiều nguyên nhân hình thành một phương ngữ: điều kiện địa lý, điều kiện
xã hội và điều kiện kinh tế - chính trị,…Những điều kiện này sẽ dần dần dẫn đến sự
khác biệt về cách phát âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp và phong cách diễn đạt
giữa các vùng. Sự khác biệt đó ngày càng lớn và phương ngữ ra đời. Phương ngữ
Nam Bộ cũng được hình thành trên cơ sở ấy.
Sự ngăn cách về địa lý núi, đồi ở một đất nước có chiều dài tương đối lớn như
nước ta đã một thời làm cho sự giao lưu, tiếp xúc của người dân giữa các vùng bị
hạn chế. Tiếng Việt toàn dân bị cô lập giao tiếp trong các vùng, miền nhỏ và đó là
điều kiện khiến tiếng Việt thống nhất phát triển theo những khuynh hướng khác
nhau.
Lịch sử phát triển của vùng đất phương Nam của Tổ quốc cũng đi liền với lịch
sử của nhiều cuộc chiến tranh chia cắt có tính chất dai dẳng, quyết liệt, mà chính
những cuộc chiến tranh này chia cắt hẳn sự tiếp xúc giữa các vùng, miền. Cuộc
chiến tranh giữa hai họ Trịnh – Nguyễn, Đàng Ngoài – Đàng Trong, kéo dài trong
suốt hơn hai thế kỷ chia cắt, chiến tranh, kể từ khi Nguyễn Hoàn được lệnh vào
Nam, mùa đông năm 1558, đến ngày Nguyễn Ánh lấy lại Phú Xuân, thống nhất đất
nước 1802. Rồi những năm tháng trị vì ngắn ngủi của các vua nhà Nguyễn chưa
thống nhất xã hội được thì đất nước lại bị họa ngoại xâm. Thực dân Pháp lại chia
đất nước ta thành ba miền để trị: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Ba miền với những
thể chế hành chính và những luật lệ khác nhau đã góp phần tô đậm thêm cho những
sự chia cắt. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1954, đất
12
nước lại bị chia hai, và chúng ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ cho đến ngày thống nhất đất nước 30.4.1975.
Như vậy, sự phân chia lãnh thổ chính trị - hành chính do lịch sử để lại là nhân
tố chính hình thành nên phương ngữ Nam Bộ. Bên cạnh đó, sự chia cắt tự nhiên về
mặt địa lý, dẫn đến tâm lý vốn có ở những người Việt trước đây như ngại đi lại và
giao tiếp, cũng là nguyên nhân đưa đến sự hình thành phương ngữ Nam Bộ.
1.1.2.3. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
A. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ âm
- Phương ngữ Nam Bộ có 5 thanh điệu, trong đó hai thanh điệu hỏi và ngã
không được phân biệt rạch ròi
- Khác với phương ngữ Bắc, các cặp phụ âm /r – d /, / s – x /,/ ch- tr/ được
phân biệt tương đối rõ. Tuy nhiên, sự phân biệt này không đồng đều giữa các vùng
ở Nam Bộ. Một số nơi do có sự tiếp xúc với tiếng Hoa (Long An, Kiên Giang, Cà
Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu ) phụ âm quặc lưỡi /r/ biến thành phụ âm /g/ hoặc /j/,
/s/ thành /x/, /tr/ thành /ch/. Không có các phụ âm /v/, /gi/,/tr/ mà thay vào đó là các
âm tắc /d/, /ch/
- Người Nam Bộ không có thói quen phát âm đệm nên có hiện tượng rơi rụng
âm đệm trong phát âm ( duyên phát âm thành diêng, luyện phát âm thành liệng )
- Xuất hiện âm /w/ (âm môi, mạc, hữu thanh) từ sự hòa nhập âm đệm vào các
âm đầu /k/, /ng/, /h/ thể hiện trong các trường hợp như: qua – wa, ngoại- wại, hoãn-
wãng,..
- Số lượng các vần ít hơn phương ngữ Bắc do sự đồng nhất của các vần: ên-
ênh, ết- ếch, iết- iếc, im- iêm, in- inh, ip- iêp, it- ich, iu- iêu, oc- ôc, om- ôm-ơm,
ong-ông, op-ôp-ơp, ưn- ưng, ươi –ưi, ước- ướt, ưu- ươu-u, ứt-ức,…
- Bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù, thường là hình thức ngữ âm cổ như:
binh (bênh), kiểng (cảnh), nhứt (nhất), dòm (nhòm), thúi (thối), thơ ( thư), trợt
(trượt), hun (hôn), hường (hồng),…
B. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện từ vựng- ngữ nghĩa
13
Xét vốn từ vựng Nam Bộ, chúng ta thấy có một số khác biệt so với tiếng Việt
toàn dân. TS. Huỳnh Công Tín đã nêu một số điểm cơ bản về từ vựng – ngữ nghĩa
của phương ngữ Nam Bộ như sau:
- Phương ngữ Nam Bộ còn giữ lại một lớp từ cổ của tiếng Việt mà phương
ngữ Bắc Bộ, tiếng Việt chuẩn không còn sử dụng. Đó là có thể do lớp cư dân tổ phụ
phần lớn là dân vùng Bắc Trung Bộ. Hiện nay, những cứ liệu ngữ học cho thấy, còn
khá nhiều yếu tố tương tự giữa hai vùng này, chẳng hạn: mầng (mừng), ngộ (dễ
nhìn), coi (xem), cậy (nhờ), méc (mách), hun (hôn), thơ (thư), nhơn (nhân),…
- Phương ngữ Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây. Đó là sự phong
phú đến mức cực đại về từ ngữ chỉ địa hình, cây cối, sông nước của miền như:
sông, rạch, xẻo, kinh, mương, rãnh, láng, lung, đầm, ao, bàu, đìa; tràm, đước, bần,
mù u, trâm bầu, bình bát, điên điển; ghe, ghe chài, ghe bầu, ghe ngo, xuồng ba lá,
tam bản, võ lãi, trẹt, xà lan, tác rán, về tên gọi các loại sản vật, trái cây như: cá
bông, cá chẻm, cá chốt, cá kèo, cá he, cá linh, cá ngác, le le, chằng nghịch, thằng
chài; bồn bồn, chôm chôm, điên điển, sầu riêng, thốt nốt,…các từ ngữ gắn với hoạt
động sinh hoạt đời sống như: Tết mùng năm tháng năm, Tết mụ, Tục thờ cúng cá
voi, đám nói, đám tôi tôi,…các ngành nghề truyền thống như: ăn ong, bắt cá đồng,
khai thác lông chim, trồng hoa kiểng, làm mắm, làm nước mắm; các lễ hội của
vùng như: Cúng biển, Cúng Thần Nông, Cúng Thành hoàng bốn cảnh, Vía Bà,
Nghinh Ông, Đua ghe ngo; các từ ngữ gắn với sinh hoạt nghệ thuật như: cải
lương, ca ra bộ, đờn ca tài tử, vọng cổ, dù kê,…
- Người dân vùng đồng bằng sử dụng một số từ ngữ vay mượn từ các dân tộc
sống chung như Khmer, Hoa: cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rong, thốt nốt, len trâu, bò
hóc, đi ênh,…; chế, hia, tía, số dách, xập xám, bạc xỉu, miệt, mai, báo,.. trong quá
trình giao tiếp. Bên cạnh đó, tiếng Việt của người Việt, người Nam Bộ có quá trình
tiếp xúc khá lâu dài với tiếng Pháp. Bởi đó, có sự tiếp nhận, vay mượn lẫn nhau. Để
diễn đạt những thực tại mới, người Nam Bộ tiếp nhận, vay mượn một số yếu tố của
tiếng Pháp, tiếng nước ngoài. Cách vay mượn của người Nam Bộ vừa giống, vừa
khác với cách vay mượn của người Bắc Bộ.
14
- Có một số từ vựng Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung.
Sự biến âm này có thể do khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người Nam Bộ
như: hảo hớn, minh mông, phui pha, nươm nướp, cháng váng, lè lẹt,…; hoặc do
khuynh hướng kiêng kị như: huê (hoa), luông (lông), mệnh (mạng), kiểng (cảnh),
hường (hồng), huỳnh (hoàng), phước (phúc), quới (quý), … Trong phương ngữ Nam
Bộ, hiện tượng biến âm còn diễn ra hàng loạt từ, chẳng hạn: chư bư, chư bứ, chừ
bư, chừ bự, chứ bứ,…; tèo, tẻo, téo,…; rỉnh, rểnh, rảng,…; cà cựng, cà cửng; cà
khía, cà khìa, cà khịa,…’ chằm bằm, chằm quằm, chằm vằm,…
- Lớp từ vựng của phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng diễn đạt nhiều khía
cạnh, nhiều thực tại trong một hiện tượng từ ngữ khác với khuynh hướng từ vựng
toàn dân có riêng từ để diễn đạt từng khía cạnh, thực tại riêng ấy. Nói cách khác, từ
trong ngôn ngữ toàn dân có khuynh hướng chi tiết hóa, cụ thể hóa thực tại; từ trong
phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng khái quát hóa, trừu tượng hóa thực tại.
C. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ pháp
Trên bình diện ngữ pháp, không có những khác biệt lớn giữa các ngôn ngữ.
Nhưng trong cách nói của người Nam Bộ có một số hiện tượng đáng lưu ý:
- Đặc điểm thứ nhất là cách xưng gọi. Trong gia đình, ngoài xã hội, người
Nam Bộ có thói quen dùng thứ kết hợp với tên để xưng gọi ví dụ: Ba Dương, Năm
Hà, Tám Nghệ, Tư Hoạch, …; từ xưng gọi họ hàng như: cậu, mợ, dì cô, thím,
chú,…được dùng trong gia đình và cả trong làng xóm. Cách xưng gọi giữa những
người trong gia đình có tính tới quan hệ thứ bậc, nhưng có chừng mực và không
nặng nghi thức. Với người lớn, cao nhất chỉ gọi ông, không phân biệt cụ, cố, kỵ,…;
với người có thứ bậc lớn như: cha, mẹ, cô, chú, bác,…lớp con cháu có thể dùng thứ
để xưng gọi; với lớp con cháu, dù lớn tuổi, có địa vị, chức tước, vẫn được bậc cha,
mẹ, ông, bà gọi con hoặc thằng (nam), con (nữ) như ngày nào còn nhỏ, không có
cách xưng gọi trân trọng như anh, chị như ở gia đình miền Bắc.
- Phương ngữ Nam Bộ có sự thay thế và lược bỏ đại từ ấy trong tiếng Việt. Ấy
là một đại từ đi liền sau danh từ để biểu thị một không gian, thời gian, sự vật hoặc
con người khiếm diện khi hội thoại diễn ra (bên ấy, hôm ấy,..). Khi xuất hiện trên
các văn bản viết, đại từ ấy thường viết là ấy hoặc í. Nhưng trong thực tế hội thoại,
15
tất cả các phương ngữ Bắc, Trung, Nam đều lược hóa đại từ này thành âm tiết í,
phát âm không có trọng âm (hôm í, bên í). Trong phương ngữ Nam Bộ, ấy càng bị
nhược hóa mạnh hơn, hòa nhập vào danh từ đứng trước dưới dạng : thanh điệu hỏi
(bển, đẳng, trỏng, ngoải,..). Bằng cách đó, phương ngữ Nam Bộ đã hình thành một
nhóm đại từ có ý nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi.Trong một số trường hợp, nhược
hóa ấy thành thanh hỏi cho từ đi trước nó: bên ấy – bển, bà ấy – bả, trong ấy –
trỏng, trên ấy – trển,…
- Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ
dùng chung với phương ngữ Bắc Bộ như: thật, rất, lắm, quá,..phương ngữ Nam Bộ
còn sử dụng các từ chỉ mức độ: lận, hà, thiệt, hung, dữ, dữ lắm,.. và các phó từ chỉ
mức độ đi kèm với các tính từ: dở ẹt, tối hù, cụt ngủn, ốm nhom, mập ù,…
- Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, hén, hèn chi, hông, chèng ơi, dữ ác
hông, trời ơi là trời,..
- Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ chung với phương
ngữ Bắc, phương ngữ Nam còn hình thành các quán ngữ đặc thù của Nam Bộ: quá
cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, mút chỉ cà tha, mút mùa Lệ Thủy, tan nát đời cô Lựu, xí
lắt léo, trần ai khoai củ, cà kê dê ngỗng, tàn canh giá lạnh,…
- Nói lái là hiện tượng phổ biến, quen thuộc trong diễn đạt, nhận thức của
người Nam Bộ. Hiện tượng này tạo sự liên tưởng thú vị, hài hước, thể hiện lối lạc
quan yêu đời theo cách của người Nam Bộ. Tuy nhiên, nói lái có thể tạo tiếng cười
thiếu nghiêm túc. Chẳng hạn nói ít li cứ nghĩ ai đó uống rượu ít, không được nhiều;
nhưng nghĩa lái thì khác hoàn toàn: y lít là tửu lượng vô song, không có đối thủ; nói
lì một lam hiểu bắn một loạt đạn lại được hiểu làm một ly; nói lộng kiếng trang
trọng nhưng được hiểu là liệng cống; nem Bá Lộc cứ nghĩ là tên cửa hiệu bán nem
nhưng hóa ra là nem bọc lá, nghĩa là nem không chất lượng,…
1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc
1.2.1. Tiểu sử
Bình Nguyên Lộc (1914 – 1987 ) là nhà văn lớn Nam Bộ giai đoạn 1945 -
1975, tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại làng Tân Uyên,
16
tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương. Bình Nguyên Lộc xuất thân trong một gia đình trung lưu
có mười đời sống tại làng Tân Uyên. Cha ông là ông Tô Phương Sâm (1878 – 1971)
làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (1876 – 1972). Ngoài bút danh Bình
Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh khác như : Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn
Dzật Huân, Diên Quỳnh,..
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán với thầy đồ ở làng và học tiểu học Pháp - Việt ở
quê. Năm 1928, ông xuống Sài Gòn học trung học tại trường Pétrus Ký ( nay là
trường Lê Hồng Phong ). Ông đậu tú tài phần thứ nhất niên khóa 1933-1934 nhằm
lúc kinh tế khủng hoảng nên không tiếp tục học được nữa.
Năm 1934 về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt (1916-1988), rồi làm
công chức kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936 ông đổi
về Sài Gòn làm nhân viên kế toán ở Tổng Nha Ngân khố Sài Gòn. Thời gian này
ông bắt đầu tham gia hoạt động văn nghệ tại đây. Truyện ngắn đầu tay có tên là Phù
sa đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989).
Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không
lương và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư
về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một.
Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền
Đông Nam Bộ và là thành viên Hội Văn hóa cứu quốc Biên Hòa. Nhưng trong giai
đoạn này ( những năm 1944 – 1947 ), do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh
thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. Năm 1950, ông viết cuốn Nhốt
gió và xuất bản cùng năm.
Năm 1952, Bình Nguyên Lộc làm thư ký tòa soạn cho vài tờ báo xuất bản tại
Sài Gòn. Năm 1953, ông chủ trương tờ báo Vui sống, tuần báo văn nghệ có khuynh
hướng y học với mong muốn áp dụng kiến thức y học phổ thông vào đời sống thực
tế.
Năn 1956, ông cùng các văn hữu cho ra đời tờ Bến Nghé, tuần báo có tinh
thần văn nghệ lành mạnh mang màu màu sắc địa phương với mục đích làm sống
17
dậy sinh khí của vùng đất Gia Định xưa. Ngoài ra, ông còn cùng các đồng nghiệp
thành lập Nhà xuất bản Bến Nghé, chuyên xuất bản các tác phẩm văn chương mang
hương vị Đồng Nai, Bến Nghé.
Năm 1957, 1958 ông cộng tác với các tạp chí Bách khoa, Văn hóa ngày nay
(của Nhất Linh). Năm 1959, ông làm chủ nhiệm tuần báo Vui sống. Trong thời gian
này, ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc 1959 – 1960 thể loại tiểu thuyết với
cuốn Đò dọc. Năm 1960 – 1963, ông phụ trách trang văn nghệ của báo Tiếng
chuông, năm 1964 – 1965 làm chủ biên nhật báo Tin sớm.Từ năm 1965 – 1975, ông
chuyên viết truyện dài kỳ cho các nhật báo. Giai đoạn 1970 – 1975, ông làm hội
viên Hội đồng văn hóa giáo dục Việt Nam.
Sau 1975, ông ngưng cầm bút vì bệnh nặng. Từ năm 1975 – 1985 ông không
tham gia các hoạt động xã hội và văn nghệ với lý do bị bệnh kiệt sức và huyết áp
cao. Sau khi sang Mỹ định cư từ tháng 10.1985, bệnh đỡ nhiều, ông bắt đầu viết
lách trở lại và đăng báo nhiều bài thuộc các thể loại truyện ngắn, hồi ký, tiểu
thuyết,…Một số tiểu thuyết của ông đang được viết và đăng báo dở dang thì ông
qua đời. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Cordova, Sacramento, California,
vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi. Ông được an táng ngày 14 tháng 3 năm 1987 tại
nghĩa trang Sunset Lawn.
1.2.2. Các sáng tác chính
Bình Nguyên Lộc là nhà văn lớn của Việt Nam, ông thuộc vào ba nhà văn đã
sáng tác nhiều nhất trong cả nước. Trong khoảng 50 năm sáng tác, Bình Nguyên
Lộc viết trên nhiều lĩnh vực như dân tộc học, cổ sử học, ngôn ngữ học, văn
chương,…Riêng về văn chương, ông viết nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu
thuyết, thơ,..
Cổ văn: Bình Nguyên Lộc chú giải các tác phẩm văn chương cổ điển Việt
Nam bao gồm Văn tế chiêu hồn (Nguyễn Du), Tiếc thay duyên Tấn phận Tần
(Nguyễn Du), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận).
Các công trình này lần lượt được công bố trên các tạp chí Văn học ở Sài Gòn.
18
Dân tộc học: Nổi bật là tác phẩm Nguồn sống Mã Lai của dân tộc Việt Nam
(1971). Đây là một công trình khá dài trong sự nghiệp nghiên cứu của ông. Tác
phẩm cũng gây nên một dư luận đáng chú ý đối với các nhà Việt Nam học.
Ngôn ngữ học: Tiêu biểu là tác phẩm Lột trần Việt ngữ (1972), là một cái
nhìn mới về ngữ nghĩa tiếng Việt. Bình Nguyên Lộc đứng trên quan điểm dân tộc
học để tìm hiểu nguồn gốc và nguyên nhân của tiếng Việt từ thời cổ đến thời hiện
đại.
Văn chương: Đây là phần đồ sộ nhất trong hành trình sáng tác của Bình
Nguyên Lộc. Ông từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt
sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao,…
Tiểu thuyết: Ông có 53 tiểu thuyết (gồm cả xuất bản và chưa xuất bản). Một
số tác phẩm nổi tiếng: Đò dọc, Tỳ vết tâm linh, Khi Từ Thức về trần, Xô ngã bức
tường rêu,…
Truyện ngắn: Ông có khoảng 1000 truyện ngắn. Tuy nhiên chỉ có một số nhỏ
được xuất bản, số còn lại chưa xuất bản và bị thất lạc. Tác phẩm đầu tay tựa đề
Hương gió Đồng Nai viết trong gần mười năm (1935 – 1942) nhưng bản thảo bị thất
lạc trong lúc tản cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương gió
Đồng Nai chỉ còn lại một truyện ngắn và một tùy bút (đăng báo khoảng 1943).
Nhưng sau đó cũng bị thất lạc. Tập truyện thứ nhì là tác phẩm Phù sa và nó cũng có
cùng số phận với Hương gió Đồng Nai, nhưng may mắn hơn là đoạn mở đầu của nó
đã được đăng trên báo Thanh niên 1943, với tên Di dân lập ấp. Về sau, ông viết lại
được khoảng 1/6 tác phẩm này và cho in trên tuần báo Nhân loại.
Các tập truyện nổi tiếng đã xuất bản như: Nhốt gió (1950), Tân liêu trai
(1959), Ký thác (1960), Tâm trạng hồng (1963), Mưa thu nhớ tằm (Phù sa, 1965),
Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Thầm lặng
(1967), Nụ cười nước mắt học trò (1967), Cuốn rún chưa lìa (1969),…
1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc
Tình yêu quê hương đất nước là một tình cảm mà bất cứ một người Việt Nam
chân chính nào cũng có trong trái tim mình, trong đó phải kể đến đầu tiên là giới
19
văn nghệ sĩ Việt Nam. Nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ có cách thể hiện tình cảm ấy
theo cách riêng. Trong khoảng thời gian từ 1965 -1975, khu vực Nam Bộ bị xáo
động dữ dội do giặc Mỹ xâm lược. Các cuộc càn quét của Mỹ đã làm biết bao số
phận phải điêu đứng. Nhiều nhà văn đã cầm bút phản ánh thực tại xã hội với niềm
căm phẫn tột độ. Tuy nhiên, yêu nước trong giai đoạn này không đơn thuần là cầm
bút chiến đấu. Những trang văn của Bình Nguyên Lộc không sục sôi niềm căm
phẫn nhưng người đọc vẫn thấy một thời máu lửa của dân tộc trong suốt hai mươi
năm chống Mỹ và cảm nhận được một trái tim luôn luôn hướng về đất nước, đau
nỗi đau của dân tộc nơi tác giả Bình Nguyên Lộc.
Đọc tác phẩm của ông, chúng ta thấy lòng yêu nước biểu hiện trên hai phương
diện: tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ và lòng yêu thương
người dân ở Nam Bộ, đặc biệt là những số phận nghèo khó
1.2.3.1. Tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ
Sống gắn bó với miền Nam và là người trong hàng ngũ kháng chiến cũ ở lại
miền Nam sau 1954, quê hương Đồng Nai - Bến Nghé luôn là nỗi day dứt thường
trực trong tâm thức Bình Nguyên Lộc. Đó cũng là lý do vì sao tập truyện ngắn - tùy
bút đầu tay của ông có tên là “Hương gió Đồng Nai”. Tập truyện là tình cảm mà
ông dành cho mảnh đất Đồng Nai thân yêu.
Việc thường chọn vùng đất Đồng Nai, Bến Nghé hay Gia Định xưa làm bối
cảnh trong sáng tác cho thấy sự gắn bó trước hết của nhà văn với đất và con người
quê hương. Đề tài về thổ ngơi, cuộc sống, mùi vị, nếp sinh hoạt của người dân vùng
đồng bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long...luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ
vơi cạn, chắp cánh cho những trang viết thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, tạo
nên đặc trưng trong phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Trong mối liên hệ
ràng buộc giữa con người với tự nhiên, tình yêu đất là thứ tình cảm thiêng liêng và
sâu nặng hơn cả (Rừng mắm - tập Ký thác; Thèm mùi đất, Phân nửa con người,
Bám níu - tập Cuống rún chưa lìa; Đất không chết - tập Nhốt gió). Tình cảm ấy
được nhà văn biểu hiện một cách đa dạng, phong phú, nhiều sắc thái, có lúc như
một ám ảnh, thậm chí trở thành nỗi u uất, khủng hoảng trong tâm hồn, tình cảm con
20
người khi xa cách (Căn bệnh bí mật của nàng, Con Tám Cù Lần, Chiêu hồn nước,
Chiếc khăn kỉ niệm, Về làng cũ, Hương hành kho- tập Cuống rún chưa lìa)
Truyện ngắn “Rừng mắm” kể lại câu chuyện về một gia đình nông dân miền
Nam nghèo đi khai hoang ở dải đất tận cùng của đất nước: U Minh – Cà Mau.
Chính tình yêu đất, yêu người đã giúp họ bám trụ và vượt qua vô vàn cực khổ, thiếu
thốn, hi sinh của thế hệ tiên phong đi mở đất. Giống như cuộc đời những cây mắm
mọc trên đất bùn. Đời mắm ngã rạp đến đời tràm nối ngôi. Cứ thế, đất bùn kia có
lúc sẽ thuần. Và, đến đời con cháu thì những xoài, mít, dừa, cau sẽ mọc lên. Như
vậy, “Đời mắm tuy vô ích nhưng không uổng” [38; 660]. Rõ ràng đây là một lối
sống, quan niệm sống nặng tình nghĩa với cộng đồng, đậm đà tính nhân văn, có cội
nguồn từ truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc ta.
Tình yêu đất, yêu quê hương xứ sở của người Việt còn được Bình Nguyên Lộc
biểu hiện cụ thể bằng cảm giác “thèm mùi đất” thật xúc động qua truyện ngắn “
Thèm mùi đất”. Ở truyện này, ông giáo Quyền còn kể lại chuyện bà vợ quê Bến Tre
theo ông về Sài Gòn, suốt ngày chỉ ngồi bó gối mà buồn. Bà chỉ vui vẻ trở lại như
hồi vợ chồng mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa khi không
biết nhờ đâu gợi ý bà mua chậu về, cho đất vào để trồng đủ các loại rau. Thậm chí,
chiều lòng bà, ông còn lùi nhà ra ngoại ô xa để có nhiều đất cho bà trồng cây lớn, có
cả “hai cây dừa mà bà nhà tôi nhứt quyết phải trồng, vì quê bà ấy là xứ dừa, trồng
dừa cho đỡ thèm hình bóng cây dừa” [ 38; 982]. Hình ảnh ngọn lửa trong “Lửa tết”
gợi cho Minh và má vợ nhớ đến biết bao mùi vị quê hương và tình cảm gia đình. Ở
Sài Gòn, nhà cửa chật hẹp, ghiền khói ghiền lửa, nấu than cũng tạm an ủi phần nào.
Không như thành phố chỉ có mùi nước hoa và mùi ống cống, mùi vị thôn quê không
sao kể hết: “Mùi đất xông lên, sau đám mưa đầu mùa nè, mùi bông bưởi, bông sao
nè, mùi củi cây rù rì nè, mùi lúa chín nè, mùi rơm khô nè, mùi phân chuồng nè, mùi
rau, đậu tươi nè” [38; 967-968] – má vợ Minh lần lượt kể trong nỗi nhớ nhà đến tận
cùng. Lên thành phố làm đứa ở, hình ảnh những con ốc gạo bán đầy vỉa hè gợi cho
bé Tám nỗi nhớ làng quê da diết, nhớ mùa nước nổi, nhớ ngọn lửa rơm ngoài đồng
mùa gió bấc, nhớ cây bần dựa rạch, nhớ đom đóm chớp tắt đậu nghẹt cành cây,
21
khiến bé phải xin thôi việc (Con Tám Cù Lần). Căn bệnh bí mật của nàng kể về một
phụ nữ Việt Nam lấy chồng Pháp rồi mắc bệnh tâm thần. Trong một lần cùng chồng
rảo bước trên vỉa hè, sự xuất hiện thình lình của một lão Tây già từng sống ở Việt
Nam suốt ba mươi năm đã giúp bà khám phá ra sự thật ẩn ức lâu nay của mình,
chính là nỗi sầu xứ. Được chồng đưa đi chơi, tận mắt trông thấy cái ao rau muống,
những rau ngò, rau om, rau răm hiếm hoi trên đất Pháp, nước mắt bà chảy ròng ròng
vì “cái mùi Việt Nam của nó “ngàn năm chưa dễ đã ai quên” [38; 918].
Tất cả những tác phẩm ấy chính là niềm thương nỗi nhớ, là tình yêu, sự gắn bó
sâu nặng đối với vùng đất đã sinh ra và nuôi lớn tác giả nói riêng và đối với quê
hương Việt Nam nói chung.
1.2.3.2. Lòng yêu thương đối với những người dân nghèo
Là nhà văn giàu lòng thương cảm trước số phận những con người bé nhỏ,
hình tượng nhân vật thường gặp trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc là phụ nữ và
trẻ em với những mảnh đời và những nỗi đau khổ khác nhau, bất kể họ sống ở nông
thôn hay thành thị. Đó là các nhân vật như con Nhộng mù loà (Má ơi, má!), cô Dừa
đáng thương ( Cây đào lộn hột), người đàn bà mất cha, chồng và đứa con thân yêu
(Người chuột cống), con bé ăn xin (Nuôi ghẻ), bệnh nhân tâm thần Bùi Thị Phượng
(Xác không chôn), cô Chi và mẹ (Lá rụng về…ngọn)… Hầu hết nhân vật phụ nữ
trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc đều là những người có phẩm chất tốt đẹp. Bé
Nhộng mù loà, hiếu thảo, làm nghề hái cau nuôi người mẹ bại xụi nằm một chỗ đã
ba năm. Nhưng rồi cái nghề nguy hiểm ấy đã cướp đi sinh mạng của cô bé thật đáng
thương do rơi từ trên cao xuống (Má ơi, má!). Nỗi đau không khóc được của người
đàn bà (Người chuột cống) mất một lúc cả chồng và con trai làm nghề bắt cá ở
đường cống thành phố làm xúc động người đọc, bởi “đã hết nước mắt khi năm xưa
bà khóc ông cha cũng chết vì nghiệp ấy” [ 37; 161]. Xác không chôn là câu chuyện
về một người phụ nữ tên Bùi Thị Phượng vì đau khổ mà hóa điên, khi chồng nàng
ngoại tình bỏ nhà ra đi với nhân tình. Qua thời gian điều trị, chị khỏi bệnh. Nhiều
lần bệnh viện gửi thư bảo đảm đến chồng chị, vẫn không thấy hồi âm. Vào phút
chót, khi kiểm lại của cải, Viện Bác Ái chỉ nhận nuôi nổi ba mươi miệng ăn không
nơi dung thân. Trong số chín người Viện trả lại bệnh viện, có Phượng. Hy vọng
22
cuối cùng cũng tiêu tan, chị “không còn thiết đến sự sống và những cơn đau đớn
nữa!” [37; 575]. Trên đường về, chị đã lao mình vào một chiếc xe du lịch. May
mắn, xe hãm kịp và chị chỉ té gãy chân . Nhưng sự tồn tại của chị cũng chỉ còn là
một cái xác không chôn mà thôi.
1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật
Thành công trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc không
chỉ thể hiện ở tính chân thật của đề tài, các chi tiết, sự việc, cốt truyện được miêu tả,
ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, mà còn ở lời văn súc tích, bối cảnh lịch sử – xã hội,
khung cảnh thiên nhiên Nam Bộ hay quê hương được ông làm nền cho câu chuyện.
Trong truyện Ba con cáo, nhà văn có những đoạn văn miêu tả cảnh trời mưa ở mảnh
đất phía Nam Tổ Quốc thật ấn tượng: “Trời cứ mưa, mưa như cầm chỉnh mà đổ,
mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên
tàu, mưa cho ráo hết nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa
phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấy tủy khô” [38;
678]. Truyện ngắn “Rung cây dừa” viết về một Lỗ Bình Sơn tân thời, một thầy
giáo, vì sự phản bội của một người đàn bà đã rời bỏ mảnh đất con người trốn ra một
hòn đảo trong quần đảo Củ Tron. Nhưng rồi “tiếng vang của loài người, của xã hội
văn minh lại kêu réo như tiếng còi tàu thỉnh du. Còi tàu vẳng đưa lên hình bóng
nước non xa lạ, còn tiếng con người lại nghê nga chơn trời cũ, bóng bạn xưa,
không thúc dục như còi tàu, nhưng lại thỏ thẻ, nỉ non, dai dẳng như lời mời nhẫn
nại của một người nhiều hảo ý và thiết tha đón khách” [38; 779]. Những câu văn
đầy xúc cảm và giàu chất thơ như thế rất nhiều trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc.
Khác với các tác giả sinh ra ở miền Bắc, nhưng toàn bộ hành trang cuộc đời và
văn nghiệp đều gắn liền với phương Nam như Lê Văn Trương, Nguyễn Hiến Lê,
nhưng đồng thời cũng khác với các nhà văn sinh ra ở Nam Bộ nhưng hoàn toàn viết
theo lối Bắc như Đông Hồ và cũng không giữ nguyên đậm đặc chất liệu Nam Bộ
như Hồ Biểu Chánh, văn chương Bình Nguyên Lộc thể hiện sự giao lưu văn hoá,
đứng ở miền giao thoa văn hoá Bắc - Nam từ trong tâm thức, cách nhìn và nhất là
giọng điệu văn chương.
Việc sử dụng từ địa phương trong sáng tác cho thấy Bình Nguyên Lộc am hiểu
lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Nam Bộ. Đọc tác phẩm của ông, người
23
đọc như được sống trong không gian Nam Bộ với những cảnh vật, con người sinh
hoạt thật gần gũi, thân quen. Chính vì thế, tác phẩm của ông dễ dàng tìm được sự
đồng cảm, đồng điệu từ độc giả nơi đây. Khi sử dụng một từ ngữ có tính chất đặc
thù của phương ngữ miền Nam, ông thường tìm cách giải thích, truy nguyên nguồn
gốc của nó ở ngoài Bắc thế nào, có khi còn phê bình là nơi nào dùng chính xác, hợp
lý hơn, không chỉ trong văn phong khoa học, trong giọng điệu trần thuật hay miêu
tả, mà còn thông qua ngôn ngữ nhân vật: "Con chàng hiu má à! Người Bắc thì kêu
nó là con chẫu chuộc nghe ít ghê hơn tên của ta. Tiếng chàng hiu gợi hình dáng
một con người mà là người ma, ghê quá." [39; 56].
Bình Nguyên Lộc được ca ngợi là nhà ảo thuật về ngôn từ, khi ông luôn có lối
so sánh với những hình dung từ chính xác, đắc địa, hiện đại và tài hoa: "Là con trai
tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to" [38;
705]; hoặc "Vịnh Thái Lan, phần thuộc hải phận Việt Nam, chi chít những đảo là
đảo, như có đứa trẻ tinh nghịch nào hốt đá cuội mà vứt rải trên một cái ao con"
[38; 770]. Sức nặng trang văn của ông không chỉ ở vốn tri thức về văn hóa, mà còn
ở sự kết hợp hài hoà giữa giọng kể và giọng tả, vừa thể hiện sự bộc trực của miệt
quê nơi ông sáng tác, vừa phóng túng, mượt mà của một ngôn ngữ chuẩn mực phổ
thông.
Trong hàng ngũ những nhà văn cách mạng từng sống và viết trong vùng đô thị
miền Nam trước 1975, Bình Nguyên Lộc có một sức viết và một phong cách viết
nổi bật. Văn xuôi của ông nói chung, truyện ngắn nói riêng, đã làm say mê nhiều
thế hệ độc giả miền Nam vì hiện thực bình dị, đời thường, vì tình cảm yêu quê
hương đất nước, con người thấm đẫm trong từng trang viết, vì sự hấp dẫn ở nghệ
thuật viết truyện. Có thể Bình Nguyên Lộc không có tác phẩm bất hủ để đời hay bao
quát một phạm vi hiện thực xã hội rộng lớn, nhưng với những gì nhà văn đã cống
hiến, nhất là ở thể loại truyện ngắn, văn học sử nước nhà đã ghi nhận xứng đáng
công lao của ông. Ông xứng đáng là cây bút văn xuôi yêu nước nổi tiếng vùng đô
thị miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
24
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Trên đây là những cơ sở cho việc nghiên cứu từ ngữ địa phương trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc.
Nam Bộ là một vùng đất mới, được hình thành trong quá trình nam tiến của
những lưu dân từ Bắc và Trung Bộ, Việt Nam. Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh
hoạt mới đòi hỏi con người phải có cách định danh sự vật hiện tượng trong cuộc
sống hằng ngày bằng những từ ngữ mới, đó là phương ngữ Nam Bộ. Vì thế, có thể
nói chính vùng đất mới đã tạo ra phương ngữ Nam Bộ và đến lượt mình, phương
ngữ Nam Bộ đã khẳng định sự tồn tại rất riêng của vùng đất này và nét đẹp rất
duyên trong cách nói năng của con người nơi đây. Cũng chính phương ngữ Nam Bộ
đã làm phong phú cho vốn ngôn ngữ toàn dân, đặc biệt nó mang đến một màu sắc
mới cho kho tàng văn học của nước nhà.
Văn chương Nam Bộ là một bộ phận của văn học Việt Nam nhưng nó mang
những đặc điểm khác biệt nhất định do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử đặc
thù. Sự khác biệt rõ nhất là việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác. Có thể nói, Bình
Nguyên Lộc là một đại biểu xuất sắc của văn chương Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Các
sáng tác của ông là một minh chứng giúp ta hiểu rõ về phương ngữ Nam Bộ và tiến
trình mà phương ngữ Nam Bộ tham gia vào tác phẩm văn chương.
25
Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG TÁC PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
2.1. Cơ sở phân chia
Trong luận này, chúng tôi đã khảo sát trên 104 truyện ngắn và 5 tiểu thuyết,
thu được 445 từ ngữ. Tập hợp những từ ngữ địa phương trong tác phẩm Bình
Nguyên Lộc, chúng tôi chia chúng thành ba lớp từ lớn: lớp từ Nam Bộ chính gốc,
lớp từ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ và lớp từ ngữ Nam Bộ
có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân. Trong các lớp từ lớn này, chúng tôi tiếp tục chia
chúng thành những lớp từ nhỏ hơn. Cụ thể có các lớp từ sau:
2.2. Các lớp từ cụ thể
2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc
2.2.1.1. Lớp từ ngữ riêng của Nam Bộ không thấy xuất hiện ở các phương ngữ
khác
Có thể nói, đây là lớp từ được Bình Nguyên Lộc sử dụng nhiều nhất trong tác
phẩm, gồm 314 từ ( chiếm 70,6 %). Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì tác phẩm của ông
phản ánh cuộc sống của người dân Nam Bộ; lấy Nam Bộ làm không gian nghệ thuật
cho hầu hết các tác phẩm, cho nên những từ ngữ Nam Bộ sẽ phản ánh rõ nét đời
sống, tập quán sinh hoạt và tính cách rất riêng của người dân Nam Bộ. Chính lối
diễn đạt riêng đó của người Nam Bộ đã làm phong phú thêm ngôn ngữ của dân tộc.
Bởi nó đã minh họa một cách sắc nét những điều kiện địa lý tự nhiên, những quan
hệ kinh tế - xã hội đã tạo nên ngôn ngôn ngữ ấy, thể hiện bản chất và tính cách con
người, phù hợp với môi trường của những cộng đồng dân cư sinh sống. Chúng tôi
đã phân loại chúng ra thành nhiều lớp từ nhỏ như sau:
- Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch
Nam Bộ là vùng đất có hệ thống sông ngòi chằng chịt, nên các phương tiện đi
lại trên sông, rạch cũng vì thế mà trở nên phong phú, đa dạng, và chúng trở thành
những phương tiện đặc trưng của vùng sông nước Nam Bộ. Trong tác phẩm của
26
Bình Nguyên Lộc, chúng tôi thấy xuất hiện 5 từ chỉ phương tiện ( chiếm 1.9%)
như: Xuồng, xuồng ba lá, xuồng cui, ghe, bè
Bảng 2.1. Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch
STT Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Xuồng Thuyền nhỏ, phương tiện “Bây giờ, xuồng rẽ vào một
vận chuyển nhỏ được dùng con rạch con và đi thêm cỡ
chừng tàn điếu thuốc thì đậu đi lại trên sông, rạch
lại” [37;323]
2 Xuồng ba lá Xuồng được đóng bằng ba “Những chiếc xuồng ba lá
tiến mau như ghe chạy buồm tấm ván ghép lại, một
và không mấy chốc, họ đã tới miếng ván đáy, hai miếng
nơi”[37;112] ván be
3 Xuồng cui Xuồng đóng từ năm hoặc “Nhưng không hiểu sao một
bảy tấm ván, có khả năng hôm, tía má nó bán chiếc chòi
chở được nhiều lá, rồi ông nội nó, tía nó, má
nó và nó, một đứa bé mười
tuổi, kéo nhau xuống một chiếc
xuồng cui,…” [38; 644]
“– Mình cứ muốn đầy ghe
4 Ghe Thuyền, phương tiện di trong một con nước sao
chuyển trên sông nước, lớn được!” [37;110]
hơn xuồng “ Đó là những cây be chở từ
5 Bè rừng về Sài Gòn, bằng đường Phương tiện được kết bằng
thủy, dưới những chiếc bè tre” tre, nứa hay gỗ dùng để vận
[37;107] chuyển trên sông
Nếu đem so với các tác phẩm của Sơn Nam thì số lượng các từ ngữ chỉ
phương tiện di chuyển trên sông nước trong tác phẩm Sơn Nam có phần đa dạng
hơn. Bên cạnh ghe, xuồng, xuồng ba lá, tác phẩm của ông còn những từ ngữ chỉ
phương tiện khác như: tàu, tàu lặn, đò, thuyền, ghe bầu, ghe ngo,…
27
- Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước
Nếu như trong tác phẩm của Sơn Nam có 12 đơn vị gọi tên các vùng có liên
quan đến nước : sông, rạch, kinh, mương, đìa, lung, bàu, đầm, hồ, láng, doi, gành
thì trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm được 6 đơn vị ( chiếm
1.9%) như: bưng, kinh, mương, rạch, lung, lạch
Bảng 2.2. Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Bưng Vùng đất trong đồng sâu “- Đâu có. Xứ chị hổng có
ngập nước, có nhiều cây rừng.Chỉ có bưng thôi”[38;
929] hoang dại chưa được khai
khẩn
2 Kinh “Ai đã từng ăn món xu xoa Đường nước nhân tạo, có thể
đường mật hạ trên kinh Tàu thông hoặc không thông
Hủ vào mùa nực chưa?” sang rạch hoặc tận biển.
[38;824] Đường nước nhân tạo, nhỏ,
3 Mương “ Ông đã ướt như chuột té ngắn, cùng.
mương và bắt đầu lập cập dưới
gió từng cơn thổi đến” [39; 87]
4 Rạch “ - Đi vòng thì mấy tháng nữa Đường nước thiên nhiên,
mới qua tới bên kia rạch được. hẹp hơn sông, chảy trực tiếp
Rạch này nó sâu như vầy tới từ nơi phát nguyên ra sông,
tận trên nguồn” [37; 370] biển hoặc dẫn nước từ sông
này qua sông khác.
5 Lung “ – Uống nước đọng trên lung Đường nước thiên nhiên trên
trên rừng chớ nước gì”.[38; đồng, trong rừng thông hoặc
652] không thông sang nơi khác,
có thể lưu thông từng đoạn
ngắn
28
6 Lạch Dòng nước chảy tự nhiên, có Bấy giờ xuồng rẽ vào một con
thể nhỏ hoặc lớn lạch con, và đi thêm cỡ chừng
tàn điếu thuốc thì đậu lại [ 37;
323]
- Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật,
hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ:
Khảo sát tác phẩm Bình Nguyên Lộc, chúng tôi nhận thấy, đây là lớp từ mà
tác giả sử dụng với số lượng nhiều nhất trong nhóm từ ngữ riêng của Nam Bộ, gồm
170 từ ( chiếm 54,1%). Dưới đây là những trường hợp tiêu biểu:
Bảng 2.3. Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự
vật, hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ:
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Bá vơ Không rõ căn cứ, nguồn “Rồi đợi mình mãi không
gốc được nó rơi vào bất kì thằng
bá vơ nào” [40;1072]
2 Bài hải Lắm mồm, nhiều lời, to “Chơn ông chạy, miệng ông
tiếng luôn với người khác la bài hải” [37; 268]
3 Bén ngót Rất sắc “Con dao giống hệt cái mác
mà nhỏ và rất ngắn lưỡi trông
chừng bén ngót như lưỡi đoản
kiếm” [37; 584]
4 Chài bài Bừa bãi, tung tóe, không “Nàng vừa nói vừa chỉ năm
ghim bạc mà Gô đã vứt chài thứ tự, gọn gàng
bài dưới gạch” [37; 535]
“Con bé chành bành cái
5 Chành bành miệng ra cười rồi lắc đầu” Mở rộng ra, banh rộng ra
[37; 547]
29
6 Chào rào Rộn ràng, có cái vui rộn “Nơi buồng trong, nghe chào
lên do tác động của nhiều rào, chộn rộn, nghe lụi đụi dữ
âm thanh đến cùng một lúc lắm, rồi có tiếng cười, lại có
tiếng khóc, cười và khóc đều
do con gái cả” [39; 7]
7 Chèm bẹp Ngồi trong tư thế chân và “Anh ngồi chèm bẹp dưới đất,
bên cạnh có cô con gái bà cả mông sát nền
Hiệp, thỉnh thoảng liếc sang
người nằm, ngập ngừng rồi
lại thôi” [37; 376]
8 Chèo queo Đơn độc, không có ai bên “Hắn nằm chèo queo bên
trong chiếc mui lật ngửa, nệm cạnh
xe rơi xuống đùi hắn” [39; 89]
9 Chôm bôm “Trời ơi, đầu cổ mình chôm Bù xù, không gọn.
bôm như một con mẹ điên, áo
quần nhàu nát hết!” [40; 1169]
10 Chộn rộn Làm bận bịu, vướng víu, “Nơi buồng trong, nghe chào
rào, chộn rộn, nghe lụi đụi dữ gây trở ngại cho ai đó
lắm, rồi có tiếng cười, lại có
tiếng khóc, cười và khóc đều
do con gái cả” [39; 7]
11 Chồm hổm Ngồi xổm, trên hai chân co “Đợi lâu quá mỏi chân, chàng
gấp lại, mông không chạm ngồi chồm hổm xuống và nhìn
đất lại đứa núp phía trong” [37;
315]
12 Chồng ngồng Cao lớn, có vóc dáng “Chồng ngồng cái đầu mà
người lớn sao như con nít é!” [39; 9]
13 Chù vù Xưng tấy, phù to - “Ý ẹ, như vậy nếu cái mũi
30
em hơi lớn hơn tí, thì anh sẽ
vẽ cho nó chù vù ra à?” [ 39;
155]
14 Dáo dác Nháo nhác, hổn loạn lên “Lần này ông Nam Thành
với đầy vẻ sợ hãi, hốt hoảng giựt nảy mình, dáo dác nghe
ngóng, rồi tần ngần rất lâu
ông nói” [39; 40]
15 Dư dả Thừa, phần không cần “Nhưng ông nói thấp đèn
thiết sáng quá sợ người ta để ý ngỡ
gia đình giàu có dư dả lắm,
rồi trộm cướp nó mò tới” [39;
35]
16 Đầy nhóc Đầy vun, đầy tràn “Ngày mai lại, bà tư về với
hai chai nước sơn khê đầy
nhóc vi trùng mà bà tin chắc
rằng rất thần hiệu để tiêu trừ
bá bệnh” [37; 539]
17 Đỏ choét “Móng tay của chị đỏ choét Đỏ chói, đỏ đến mức nhìn
và nhọn hoắt, nước da mặt khó chịu cho mắt
của chị bị phấn ăn, chỗ thì
mét chằng, chỗ thì thâm đen
sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm
như mắt cô đào hát bội” [38;
681]
18 Đỏ rần “Những lúc không uống, như Đỏ đều khắp mọi bộ phận
giờ này, mặt ông Hương giáo
Hà cũng đỏ rần” [37; 263]
19 Hẹp té “Khi họ lên tới lầu, bà ấy đẩy Rất hẹp, hẹp đến mức khó
cửa một căn buồng hẹp té thì thực hiện vụ việc
31
Hà ngạc nhiên hết sức…” [38;
942]
20 Lu bù Nhiều vô kể, có một số “- Gì chứ chè thì sẽ có lu bù”
lượng quá lớn so với mức [38; 660]
bình thường
22 Lụi đụi Bị vướng bận vào một “Một tuần lễ nay, chàng lụi
công việc nào đó đụi mãi với một truyện ngắn
mà không viết xong” [37; 310]
23 Lùn xủn Lùn chủn, thấp chủn “Nhà lại ở ngoài bìa hằng
trăm nhà lá lúp súp, lụp sụp
khác, cái nào cũng lùn xủn
như đám dân bị bố ngồi bên
đường” [37; 280]
24 Mét chằn Mét xanh như con bà chằn, “Móng tay của chị đỏ choét
tái xanh vì bệnh và nhọn hoắt, nước da mặt
của chị bị phấn ăn, chỗ thì
mét chằn, chỗ thì thâm đen sì,
mắt chị mệt đừ và sâu hóm
như mắt cô đào hát bội” [38;
681]
Nhìn vào các từ được liệt kê bên trên, chúng ta thấy một điều thú vị là trong
tác phẩm, Bình Nguyên Lộc rất hay dùng những từ song tiết, đặc biệt là những từ
láy. Ngoài những từ trong bảng thống kê, tác phẩm của ông còn rất nhiều từ láy
như: lụp sụp, nhơn nhớt, rờn rợn, trống lổng, trống trơn, dơ dáy, lem luốc, ngỏn
ngoẻn, lởn vởn, lia lịa, ngoe nguẩy, lành lạnh, ươn ướt, chần chừ, hề hấn, lót tót,
xiên xẹo, lổn rổn, trễ tràng, lằm rằm,…Có lẽ bởi tính biểu cảm cao mà những từ
ngữ này mang lại, nên tác giả thường sử dụng chúng để tạo ra hiệu quả trong lời
giới thiệu về nhân vật, hoặc trong việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Điều này
32
cũng xuất phát từ tính cách của người Nam Bộ. Người Nam Bộ vốn bộc trực, ngay
thẳng, nói điều gì thì phải nói cho hết ý, hết mức, hết cỡ. Họ không thích diễn đạt
theo kiểu trung tính, ôn hòa, nhàn nhạt. Những từ ngữ này đã có sự ảnh hưởng,
thâm nhập vào vốn từ ngữ toàn dân, góp phần làm phong phú cho lớp từ ngữ toàn
dân.Với các từ ngữ này, Bình Nguyên Lộc đã thể hiện khả năng diễn đạt hết sức
tinh tế của mình.
- Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam
Bảng 2.4. Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Ãnh ương Ễnh ương, loài ếch nhái, có “Cô Hồng lấy hai tiếng kêu
da màu nâu, nhớt, miệng bé, của lũ ãnh ương ra mà làm lời
bụng to, tiếng kêu ồn. để hát theo điệu Hòn vọng
phu” [ 39; 85]
2 Ba khía Một loại còng có hai càng to “Nó chỉ biết họ ra biển để bắt
màu đỏ, sống ở vùng nước cua và ba khía, một năm mấy
kỳ” [38; 645] mặn, được người dân ngâm
trong nước muối để làm
thức ăn như một loại mắm
3 Bã trầu “Nơi đó tha hồ cho thủy thảo, Loại cá nhỏ ở ruộng,
cho bèo mọc, cho cá bã trầu mương, nơi có rong rêu, có
sanh sản” [37; 279] màu nâu sẫm như màu bã
trầu, hình dáng như cá lia
thia
4 Bình bát Cây mọc hoang ở bờ ao, “Nó đánh bạo chen qua những
kênh, rạch…có trái giống cây bình bát, cây rán mọc xen
quả mãng cầu ta. với tràm, để đi tới đích" [ 38;
647]
5 Bòng bong Loại dây hoang, mọc thành “Sau đó, rừng tràm dày mịt,
33
bụi, lá có lông mịn, hoa chằng chịt những dây bòng
xanh tím, trổ thành chùm bong, dây choại bò từ thân cây
này sang thân cây khác” [38;
647]
6 Bồn bồn Một loại cây thân cỏ, dẹp, “ - Nhổ bồn bồn ở dưới ấy,
phần lá non được dùng làm nhưng lên đây cho khô ráo để
dưa chua ăn kèm ăn cơm trưa é mà!” [38; 651]
7 Cá lóc “Nhưng cá nhiều quá, những Cá quả, cá có thân tròn, có
con cá lóc to bằng bắp chuối vảy lớn và dày, phía lưng
cứ lội đụng chơn họ hoài” [37; màu đen hoặc màu phèn,
157] bụng màu ngà, đầu và mõm
tròn, phóng giỏi và lóc đi
trên cạn rất nhanh.
8 Choại Loại cây dây leo dùng làm “Sau đó, rừng tràm dày mịt,
dây buộc rất chắc, đọt non chằng chịt những dây bòng
có thể luộc ăn được bong, dây choại bò từ thân cây
này sang thân cây khác” [38;
647]
9 Cò ma Loại cò có bộ lông màu đen “Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông
mốc bông, cò quắm, cò hương thân
mật nhìn bốn người gặt lúa
nhà” [ 38; 654]
10 Cò quắm Loại cò có mỏ dài và hơi “Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông
quặm bông, cò quắm, cò hương thân
mật nhìn bốn người gặt lúa
nhà” [38; 654]
11 Cóc kèn Loại dây leo mọc phổ biến ở “Những nơi ánh nắng lọt vào
34
bờ kinh, sông, rạch vùng được thì hai bên bờ, ô rô và
đồng bằng, lá có nhiều cóc kèn mọc đầy” [38; 657]
nhánh, hoa trắng, trái dẹp
12 Dừa nước “Hết dừa nước, rồi đến dừa Loại cây có những tàu lá,
nước, dừa mọc lên đều đều cao, to, mọc thành cụm, ở
như ai cặm nó ở đó để làm hai bên bờ sông, rạch vùng
hàng rào” [37; 322] đồng bằng Sông Cửu Long
13 Ốc gạo “- Dạ, cháu nhớ ốc gạo” [38; Loại gốc nhìn bề ngoài hơi
924] giống ốc đắng, nhưng lớn
hơn, vỏ có màu sáng hơn
14 Ô rô Loại cây mọc hoang thành “Những nơi ánh nắng lọt vào
từng đám, chung với cây được thì hai bên bờ, ô rô và
cóc kèn mọc đầy” [38; 657] mái giầm, thường mọc phía
trên bờ kinh, rạch, thân đỏ
sẫm, lá xanh tạo thành nhiều
góc nhọn
Nhóm từ chỉ các loài động, thực vật xuất hiện trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc rất phong phú, gồm 94 từ, (chiếm 29.9%). Trong đó, những từ ngữ chỉ
các loài động thực vật có đời sống gắn với sông nước, đầm lầy chiếm đa số. Một
mặt nó cho thấy sự trù phú của vùng đất Nam Bộ, mặt khác, trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc, nó gợi lên quang cảnh thiên nhiên của vùng đồng bằng Nam Bộ,
nơi những con người Nam Bộ sinh sống và làm việc.
Bên cạnh những từ ngữ chỉ thực vật ở Nam Bộ, thường thấy xuất hiện trong
tác phẩm của Sơn Nam, chúng ta thấy xuất hiện những cây dầu, cây sao, cây cao su,
cây xanh, cỏ bù xít,…mang nét đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ. Chính những từ
ngữ này, khi xuất hiện trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc, người đọc sẽ nhận ra
35
khung cảnh thiên nhiên ở một vùng quê miền Đông của Nam Bộ, nơi chôn nhau, cắt
rốn, nơi gắn bó yêu thương của chính tác giả.
2.2.1.2. Lớp từ vay mượn của nước ngoài theo cách riêng của người Nam Bộ
Cũng như một số quốc gia, Việt Nam là một trong những quốc gia trở thành
nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa. Sự tiếp xúc này đã để lại dấu vết trong vốn từ
vựng của ngôn ngữ Việt. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng về văn hóa này lại không giống
nhau ở các vùng phương ngữ khác nhau trong tiếng Việt. Hoàng Thị Châu trong
giáo trình “Phương ngữ học tiếng Việt” đã đưa ra nhận định: “ Trong ba phương
ngữ chính, phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ Hán Việt hay từ gốc Hán hơn cả (…).
Trong phương ngữ Nam có nhiều từ địa phương mới vay mượn của tiếng Khmer”
[5 ;108-109]. Như vậy, phân biệt sự khác nhau này cũng là cách tiếp cận về màu sắc
địa phương.
Trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm thấy có 27 từ ngữ (
chiếm 6.1%) được vay mượn từ các tiếng Khmer, Hán, Pháp.
A. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer
Bảng 2.5. Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Cà nhắc Luôn đi bước thấp, bước cao “Long cà nhắc lôi từ nhà ra
sân chiếc ghế bố dài kiểu tàu
thủy, rồi mở ra để nằm mà
ngắm đầu hôm” [39; 146]
2 Cà rá Nhẫn đeo ở các ngón tay “Qườn mặc pi gia ma màu
vải ú màu xanh lá cây, đầu
chải brilliantine Chợ Lớn
sực nức mùi chanh, cổ đeo
dây chuyền vàng khè, tay
nặng trịu nào là lắc vàng, cà
rá vàng và đồng hồ cũng
36
bằng vàng” [39; 66]
3 Cà ràng Bếp lò bằng đất nung, dạng “Nồi gạo vo rồi, được chị
dài, có phần phụ để đặt củi Nhánh bắc lên chiếc cà ràng
hoặc cào than ra mà bây giờ lửa đã cháy hỏa
hào hỏa đế rồi” [37; 106]
4 Cà ròn Một loại bao đệm đan bằng “Nàng vừa cúi xuống định
cọng bàng, có kích cỡ lớn hơn kéo hai cái cà ròn no nóc
túi đệm quà nhà quê thì Hảo cản”
[39; 269]
5 Cà rỡn Đùa giỡn, có những lời nói “- Chớ nãy giờ con ngỡ
đùa, pha trò vui vẻ ba,má nói cà rỡn hay sao?
Sách có chữ : Tọa thực sơn
băng..” [39; 24]
6 Ên Một mình, không có ai khác “Ngày bốn bận đi về, còn
phụ, tham dự chúa nhựt thì thầy dạo phố
có mình ên” [38; 579]
7 Nóp Bao đệm được đan bằng cọng “Đêm khuya nhờ nóp che
bàng, có kích cỡ vừa với khổ thân cho đỡ bị muỗi đốt và
người dùng thay cho chiếu và gió cắt da” [38; 656]
màn
Là một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Khmer đã
sinh sống lâu đời ở Đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer có tiếng nói và chữ
viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các
sóc, ấp,…Và chính trong đời sống cộng cư ấy, sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng
Khmer và tiếng Việt diễn ra như một qui luật tất yếu của ngôn ngữ. Sự ảnh hưởng
của tiếng Khmer trong tiếng Việt được diễn ra theo nhiều cách: giữ nguyên gốc
hoặc được Việt hóa theo phiên âm riêng của người Việt. Trong khảo sát này,
37
chúng ta thấy số lượng từ ngữ vay mượn từ tiếng Khmer không nhiều nhưng chúng
được lặp lại nhiều lần trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Điều này chứng
tỏ, khi đi vào tiếng Việt lâu dần, tiếng Khmer được người Việt xem chúng như là
lớp từ riêng của Nam Bộ và được sử dụng phổ biến trong người Việt ở Nam Bộ.
Bởi vì, mặc dù chúng có nguồn gốc từ Khmer, nhưng được dùng quá lâu đời nên đã
hoàn toàn Việt hóa, chúng ta không hề nghĩ đến những từ ngữ ấy có nguồn gốc từ
đâu.
Mặt khác, qua ngôn ngữ, cụ thể là qua ngôn ngữ trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc, chúng ta có thể nhận thấy sự giao lưu văn hóa, ngôn ngữ diễn ra một
cách tự nhiên giữa hai dân tộc sống gần nhau.
B. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán
Bảng 2.6. Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Á khẩu Ở tình trạng bệnh làm ảnh “ Nhưng nó vẫn á khẩu và bí
hưởng tới dây thần kinh đái suốt hai hôm”[37; 82]
miệng nên không thể phát
ngôn, nói chuyện bình
thường
2 Cắc chú “- Bác ráng chờ, người chết Tiếng gọi người Hoa kiều,
là dân Việt Nam, mướn người cách gọi có vẻ không được
Tàu, họ khóc tiếng cắc chú, trân trọng
nghe sao được” [37; 192]
3 Lộ “- Đi chợ ngoài đường lộ, Đường, phố, đường lớn xe có
chứ có phải đi chợ Bưng thể chạy được
đâu?” [ 38; 930]
4 Ngộ Tôi, tao, từ chỉ ngôi thứ nhất “Ngộ chạy không được mà
số ít, phát âm theo cách phátt ngộ tức lắm” [38; 798]
38
âm của người Hoa nói chung
5 Nhựt trình Báo ra hằng ngày “Chị ta đọc nhựt trình vanh
vách và chị ta có lần khinh
anh làm nghề đi xin” [37;
335]
6 Qua Từ người lớn dùng để tự “- Thằng Mùi thì qua cho
xưng một cách thân mật với một loi là nhào hớt” [38; 647]
người nhỏ, hoặc cách tự xưng
có đôi chút khách quan
nhưng thân tình
7 Số dách Hạng nhất, không còn gì hơn “Cá sát thịt rất ngon, nấu
cháo ăn thì số dách” [37;
107]
8 Tía Cha, cách xưng gọi của người “- Tía nó sao câm cái miệng,
đàn ông có con, trong mối không bắt vậy?” [38; 655]
quan hệ cha – con
Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là nơi chịu ảnh hưởng ngôn ngữ của người
Hoa nhiều hơn hết so với Trung Bộ và Nam Bộ. Tuy nhiên, trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc, chúng tôi tìm được số lượng từ có vay mượn từ tiếng Hán, dù
không nhiều. So với những từ ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam, chúng tôi nhận
thấy một điều: Những từ xưng gọi trong tác phẩm Sơn Nam thường là những từ vay
mượn từ tiếng Hán như: tía, hia, chế,…còn trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc,
chúng tôi chỉ phát hiện được một trường hợp là tía. Nhưng từ này cũng chỉ diễn ra
khi nhân vật là những người sinh sống ở cùng nông thôn mà thôi, còn nhân vật ở
thành thị thì xưng và gọi là ba.
C. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp
39
Trong gần 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, người dân Nam Bộ đã sử dụng
tiếng Pháp theo cách riêng của mình, đó là nói theo phiên âm tiếng Việt và viết
bằng cách phân tiết các từ vay mượn ấy. Chính vì thế mà trong phương ngữ Nam
Bộ có nhiều từ ngữ được vay mượn theo cách này. Nhưng sự vay mượn của người
miền Nam và người miền Bắc không giống nhau. Sau đây là một vài trường hợp
được lặp lại với tần số cao trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc:
40
Bảng 2.7. Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Bê tông Hỗn hợp xi măng, sắt đá, “Nhà bếp được phá nóc, làm
cát,.. trần bằng bê tông, trần này là
nền của căn gác ấy” [40;
1008]
2 Đèn măng Đèn đốt bằng dầu có bơm “Ông Nam Thành có sắm một
sông hơi, ánh sáng phát ra từ cái đèn mang sông, mua xăng,
mua rượu đủ cả” [39; 35] chụp mang sông rất sáng
thường dùng trong những
đêm đám tiệc.
3 Le “Mặc dầu ở dãy nhà bình dân Làm đỏm, làm đẹp, làm
phía sau, Bình vẫn quen với theo một cách phô trương
tất cả các gia đình giàu có hình thức bên ngoài, không
phía trước nhờ địa vị sinh viên được tự nhiên
của chàng, một địa vị khá le
trong xã hội ta” [37; 532]
4 Mô đen “Chàng không đi thăm Liễu Hiện đại, hợp thời trang
nữa, bụng bảo dạ để Liễu tự
do lựa chọn, vì biết đâu đêm
ra ngoài xã hội mà người
Pháp nói là vào xã hội, nuốt
mất đi hai tiếng mô đen, biết
đâu đêm đầu tiên ấy nàng đã
gặp ngay người lý tưởng” [40;
1067]
5 Rua “- Ê, rua nghen bồ!” [37; 564] Bắt tay để tỏ tình thân ái khi
mới gặp hoặc khi chia tay
41
6 Ve chai Đồ thủy tinh nói chung bị “Hai cô đã tổ chức đánh lộn
vứt bỏ làm đồ phế liệu với con trai tại vườn Tao Đàn,
hồi còn đi học đã dám vác ve
chai chọi lính Lê Dương thì có
gì mà hai cô không dám” [39;
27]
7 Xà bông Xà phòng, chất dùng để “- Làm lụng thì phải mặc đồ
giặt, rửa được chế tạo bằng đen cho nó đỡ tốn xà bông”
cách cho một chất kiềm kết [38; 25]
hợp với một chất béo
Cải soong, một loại rau lá
8 Xà lách son nhỏ, láng, màu xanh đậm, “Cô Hương xúc cá bằng vá
có vị đắng khi ăn sống dẫy rồi vội vàng đem lại đặt
lên trên nệm xà lách son trong
dĩa” [39; 17]
9 Xe cam Loại xe tải dùng trong quân “Ông Nam Thành đi mướn xe
cam nhông” [39; 28] nhông đội, có thùng xe phía sau
buồng lái, chở lính ngồi
thành hai hàng dọc theo
chân xe, giữa thùng xe để
đồ
10 “- Có xi nê không chị?” [40; Xi nê Chớp bóng, điện ảnh, có
927] tính chất bài bản như trong
phim, điện ảnh
42
2.2.1.3. Lớp đơn vị gồm nhiều từ được người dân Nam Bộ nói thành thói quen như
những tổ hợp từ, quán ngữ, thành ngữ ( gọi chung là quán ngữ)
Bảng 2.8. Quán ngữ
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Ăn đầm nằm dề Đeo bám mãi một nơi nào đó, “Bởi vì không khí ấy
từ có hàm ý chê bai còn nguyên ở đây với
những người khách ăn
dầm nằm dề hổm rày”
[39; 145]
Không chịu thua kém, “Ai làm cho mụt ghẻ 2 Ăn thua đủ
nhường nhịn ai con bé lành là mẹ nó
ăn thua đủ thực sự
đó” [27; 556]
“Quân tham lam, bây Giãy đành đạch, cựa quậy 3 Giãy tê tê
ăn thịt gà mắc xương liên tục do bị đau
nghẹt họng bây, bây
ăn rồi bây ngã ra giãy
tê tê, chết toi, chết
dịch” [39; 61]
“Hèn chi trẻ nhỏ hồi Hèn nào, hèn gì, thảo nào, từ 4 Hèn chi
đó và đến người lớn biểu thị lẽ tất yếu trong quan
bây giờ không đùa sao hệ logich
được” [37; 302]
“- Vậy hả? Hú hồn Hú hồn, nhưng ý diễn tả 5 Hú hồn hú vía
hú vía” [39; 55] mạnh hơn
“Nên chi Cộc nhìn Từ dùng để chuyển ý mang ý 6 Nên chi
xuống chèo khuất nghĩa chỉ kết quả
dạng thì quay lưng tức
khắc để chạy lên Ô
Heo” [38; 645]
43
7 Phó thường dân Cụm từ để diễn tả thành “Làng quê nào cũng
phần thấp kém trong xã hội, có ít lắm là một thằng
chưa được là dân thường nên khật khù như thằng
chưa bằng ai Bò, nó là phó thường
dân và sống bám theo
các anh thường xuyên
nói trên, vào ra công
sở một ngày” [37;
117]
“- Ông nói nghe dễ ợt. Thử xem, cách dùng ở cuối 8 Thử coi
Sao không giỏi đổi phát ngôn như lời đề nghị ai
nghề thử coi!” [39; đó làm một việc gì để xem
15] kết quả ra sao, có ý hi vọng
Rất sợ, sợ đến mức vừa tiếp
“- Gả con Qúa về đó xúc là đã khiếp 9 Thất kinh ông bà
cho nó khóc thất kinh
ông bà chơi” [39; 46]
“Hai người họ qua Rất tức giận, tức giận như 10 Trào máu họng
mặt mình một cái vù muốn tuôn trào ra ngoài cổ
mà mình không làm gì họng
được họ thì có trào
máu họng hay không
chứ!” [40; 1160]
Trời đất, nhưng được dùng để 11 Trời đất quỷ thần “- Trời đất quỷ thần
ơi, ngó xuống mà coi. nhấn mạnh sự ngạc nhiên,
hoặc sự đau khổ cao độ Cả dòng cả họ tôi,
bên nội, bên ngoại có
ai mà hư thân mất nết
như vầy không nè!”
[37; 93]
44
12 Trưa trờ trưa trật Trưa trờ, nhưng có ý nhấn “Cả nhà mòn mỏi rồi
mạnh hơn ở tính chất thời ngủ quên luôn cho đến
gian trưa, hoặc quá trưa trưa trờ trưa trật mới
dậy” [39; 11]
Lớp từ ngữ cố định có 19 đơn vị, (chiếm 4.3%), và chúng được lặp lại với tần
số cao trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, nhất là trong lời nói của nhân
vật. Lớp từ ngữ này thể hiện rõ bản sắc ngôn ngữ Nam Bộ và mang sắc thái biểu
cảm cao trong tác phẩm văn chương. Đó là lý do vì sao, Bình Nguyên Lộc vận
dụng chúng khá nhiều trong tác phẩm của mình.
2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ
Lớp từ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ cũng được tìm thấy trong
tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, tuy số lượng không nhiều, gồm 25 từ ngữ, ( chiếm
5.6%). Đây là lớp từ có nhiều từ giống với từ vựng trong phương ngữ Trung Bộ,
những từ mà người Nam Bộ sử dụng thì người Trung Bộ cũng đang còn dùng.
Nguyên nhân là vì tổ tiên của cộng đồng người Nam Bộ chính là người Việt vùng
Bắc Trung Bộ. Lớp từ ngữ này cho thấy một điều là khi nghiên cứu phương ngữ,
chúng ta không chỉ căn cứ vào sự phân chia theo không gian địa lý mà còn phải chú
ý đến yếu tố thời gian lịch sử nữa.Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi nêu ra
những từ ngữ có nguồn gốc từ Trung Bộ được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc. Cụ thể như sau:
45
Bảng 2.9. Lớp từ có nguồn gốc từ Trung Bộ
Stt Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Bắp Ngô, một loại cây lương thực “Bà Nam Thành đón bắp nấu trên
có quả dài ở lưng chừng cây, đường mua, đặng ăn sáng cho đỡ
tốn tiền, chớ không nấu nướng quả có lõi, và hạt mọc xung
gì” [39; 45] quanh
Nhờ
2 Cậy “- Còn thảo luận, thảo liếc gì
nữa, chừng nào con nhứt định thì
má cậy mai. Nhưng phải giữ liên
lạc thân mật luôn từ giờ đến đó”
[39; 243]
3 Coi Xem “Trừ ông Nam Thành ra, còn thì
cả nhà, kể cả Long, ai cũng đinh
ninh anh chàng đi coi vợ là một
cậu trai bé con như Quá vậy”
[39; 170]
4 Cự Cách nói tắt của từ “chống “- Thì có phải là cô sẽ cự rằng tôi
cự”, ý nói không đồng ý một ngồi đây mà như là không có mắt
điều gì đó hay chăng ?” [37; 203]
5 Dòm Nhìn, trông một cách chú ý “Đếm thêm cho tới chín chục mà
không thấy dạng chồng, chị
Nhánh quýnh lên và cuối xuống
dòm mặt nước” [37; 110]
6 Má Mẹ, từ xưng gọi người đàn bà “- Thôi lượm miểng rồi giấu; ba,
có con, trong mối quan hệ với má không để ý đâu” [37; 309]
con
7 Méc Mách, nói cho người trên biết “ Cô Hoa chạy vào trong nhà
lỗi của người dưới méc với ông Nam Thành” [39;
39]
46
8 Ngó Nhìn, trông, xem, đưa mắt về “Long còn đang ngĩ vẩn vơ thì có
một hướng nào đó để quan sát tiếng bước chân đạp lên sỏi, lên
lá khô khiến chàng day đầu ra
sau mà ngó” [39; 147]
9 Ngộ Đẹp, xinh về mặt hình thức “Muốn về trển hay không Cộc?
Muốn đi thì theo chị hai mầy đây,
chỉ có đứa em gái ngộ lắm” [ 38;
648]
10 Vô Vào “Rồi cô ta quay quả đi vô, hấp
tấp như sợ ai rượt bắt” [39; 151]
2.2.3. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân
2.2.3.1. Lớp từ gồm các từ biến âm
Lớp từ biến âm gồm 48 từ ngữ, chiếm ( 10.8% ). Trong số các từ ngữ có mang
các đặc điểm gần gũi về mặt ngữ âm, chúng tôi chia chúng thành các nhóm nhỏ:
khác nhau phần vần (chủ yếu là âm chính) và khác nhau phụ âm đầu
A. Khác nhau phần vần
Trong phương ngữ Nam Bộ, ta thấy có một số lượng khá lớn những biến thể
kiểu này. Những khác biệt ấy thường diễn ra ở hai âm có vị trí gần nhau trong hệ
thống âm vị. Qua thống kê cho thấy tác giả dùng những biến thể kiểu này khá nhiều.
Sau đây là những trường hợp tiêu biểu:
- “i” trong phương ngữ Nam Bộ, “ê” trong tiếng Việt toàn dân: Bịnh/bệnh,
lịnh/lệnh, kinh/kênh, binh/bênh, mích/mếch
Ví dụ:
“ Nhưng dù cao ngọn hay thắp ngọn, ánh sáng vàng vàng cũng phủ lên buồng
khách một màu dơ dáy ủ rũ và bịnh hoạn” [ 39; 36]
“ Ông Nam Thành ra lịnh” [ 39; 43]
“ - Thằng Cả ơi, mày đi dí gà coi, thì có phải làm mích lòng ông Hương Cả
hay không?” [ 39; 56]
47
“ Vốn yếu đuối tinh thần, Thuần không dám đương đầu với Chơn để binh vực
tánh riêng của mình” [37 ; 291]
- “u” trong phương ngữ Nam Bộ, “ô” trong tiếng Việt toàn dân: Thúi/thối,
lú/ló, tui/tôi, rún/rốn.
Ví dụ:
“ Nước đã lên khỏi rún họ” [37; 158]
“ – Trời ơi, bà con hàng xóm nghe nó nói trẹo họng đây nè. Sao lại không ăn
thua. Mày lấy ai, phải nói ra, để tao bắt nó cưới mày, chớ mày để cái bụng bình
rĩnh, xóm giềng cười tao với ba mày thúi đầu.” [37 ; 93]
- “ư” trong phương ngữ Nam Bộ, “â” trong tiếng Việt toàn dân: Nhứt/nhất,
giựt/giật, nhựt/nhật, bực/bậc.
Ví dụ:
“ Hồng sợ điều này lắm, vì như thế nàng sẽ đủ điều kiện thành một đứa giựt
chồng bạn” [37 ;134]
“ Đó là yếu tố quan trọng nhứt của không khí tiệm này. Đây là một tiệm cà
phê lâu đời và nhứt là một tiệm cà phê giữ truyền thống của họ nên họ có những
người khách lâu năm, rất lâu năm.” [ 38; 727]
“ Kỳ nghe tê tái nơi lòng, mắt ứa lệ. Bối rối là những con ma thiếu nữ gặp nơi
nhà quen khi ra chơi chúa nhựt, những con ma nó làm cậu học sinh ngơ ngẩn suốt
tuần.” [38 ;732]
- “â” trong phương ngữ Nam Bộ, “a” trong tiếng Việt toàn dân: Nầy/này,
mầy/mày, bây/bay.
Ví dụ:
“ - Họ xây cho đàn ông con trai chúng nó tắm, chứ có xây cho bây đâu” [39 ;
48]
“ – Nó sống dậy à! Tao đã bảo nó là tiên mà, có chết được đâu. Đâu mầy kể
lại đầu đuôi tao nghe thử coi.” [38 ; 739]
- “ơ” trong phương ngữ Nam Bộ, “ư” trong tiếng Việt toàn dân: Chớ/chứ,
thơ/thư, gởi/gửi, ờ/ừ .
48
Ví dụ:
“ Một thầy thơ ký đánh máy thì cuộc sống khuất dạng và tối tăm đến bực nào
trong một hãng buôn lớn” [37 ; 201]
“ - Chớ chị lại lớn hơn ai. Chị mười ba tuổi chớ bao nhiêu” [39 ;11]
- “ơ” trong phương ngữ Nam Bộ, “â” trong tiếng Việt toàn dân: Nhơn/nhân,
chơn/chân, đờn/ đàn, ơn/ân
Ví dụ:
“ Không một viên cảnh sát nào đủ can đảm lội sình nhứt là dầm chơn trong
một thứ nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo Lỗ Bình Sơn của anh”[38 ; 677]
“ Đội Một là nhơn viên sở Tào cáo về huu. Trái với Hương giáo già, mặt va
xanh rờn như mắc phải chứng rét rừng” [37 ; 263]
“ – Ai đập chó đó, phải chó của tui hôn? Trời ơi! Phải đây mà, con chó đốm
của tui, ai mà bất nhơn, thất đức, a hành ác nghiệp đập chết như vầy.” [37 ;269]
“ - Bà quên rằng hổm nay nó căng thẳng như dây đờn hay sao”[39 ; 9]
- “a” trong phương ngữ Nam Bộ, “i” trong ngôn ngữ toàn dân : sanh/sinh,
tánh/ tính, chánh/chính
Ví dụ:
“ - Nếu người hỏi là má tôi, thì bà sẽ sanh nghi ngay vì cái chi tiết không cần
thiết mà thầy vừa đưa ra ấy” [37 ; 203]
-“ Nhưng thím vẫn vui tánh như ngày nào” [37 ; 164]
B. Khác nhau phụ âm đầu
Cũng như biến thể ở âm chính, thực tế phát âm trong phương ngữ Nam Bộ
cũng có những khác biệt. Khảo sát sau đây là căn cứ vào sự xuất hiện của chúng
trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc: d/q ( day/ quay), d/nh ( dòm/ nhòm), nh/l (
nhanh/ lanh), d/đ ( dĩa/ đĩa), th/x ( thoa/xoa)
Ví dụ:
-“ Đếm thêm cho tới chín chục mà không thấy dạng chồng, chị Nhánh quýnh
lên và cuối xuống dòm mặt nước.” [37 ;110]
- “Anh Nhánh không day lại cũng biết rằng vợ anh đã ra tới nơi”[37; 106]
49
- “Tối lại thắp một dĩa dầu mù u” [ 39; 57]
Những từ ngữ biến âm trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc xuất hiện khá
nhiều với tần số cao. Các từ ngữ này được tạo ra trên cơ sở thay đổi hoặc là phần
phụ âm đầu, phần vần hay thanh điệu so với từ toàn dân. Nguyên nhân sâu xa có thể
là do những từ biến âm có giá trị hiệp vần trong các câu hò đối đáp của người dân
Nam Bộ hoặc do xu hướng đơn giản hóa trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của họ.
Mặc dù có từ ngữ tương đương trong từ toàn dân nhưng người dân Nam Bộ vẫn
thích dùng theo kiểu biến âm này. Điều đó cho thấy sức sống mãnh liệt của từ ngữ
được tạo ra trên mảnh đất Nam Bộ và màu sắc địa phương cũng từ đó được thể hiện
rõ nét hơn.
2.3.2.2. Lớp từ gồm các từ biến nghĩa
Từ biến nghĩa là các từ mà người Nam Bộ chỉ dùng các từ ngữ toàn dân với
nghĩa mới hoặc bổ sung nét nghĩa mới. Khảo sát từ ngữ trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc chúng tôi tìm thấy 12 từ ngữ, (chiếm 2.7%) và chúng được tạo ra từ hai
cơ sở:
- Sử dụng từ ngữ có trong ngôn ngữ toàn dân nhưng với ý nghĩa hẹp hơn hoặc
rộng hơn
Ví dụ:
Từ thương được dùng với nghĩa gộp của thương và yêu trong ngôn ngữ toàn
dân. Do đó mà đối tượng được thương có thể là người yêu cũng có thể là một người
gặp hoàn cảnh bất hạnh.
Từ lội được dùng với nghĩa của từ bơi trong ngôn ngữ toàn dân, vừa thêm ý
nghĩa di chuyển trên bộ hoặc trên địa hình không có nước bằng chân.
- Sử dụng từ ngữ toàn dân với nét nghĩa mới
Ví dụ:
Từ ve, từ cua được dùng tương đương với từ tán tỉnh trong ngôn ngữ toàn dân
Từ ngáp được dùng với ý nghĩa là bó tay, chịu chết trong ngôn ngữ toàn dân
Những từ biến nghĩa đã góp phần làm phong phú cho vốn ngôn ngữ tiếng
Việt, đồng thời trong tác phẩm văn chương, chúng tạo ra một màu sắc riêng mang
50
đậm tính Nam Bộ. Những từ ngữ này ban đầu là từ ngữ riêng của Nam Bộ nhưng về
sau chúng được sử dụng rộng rãi trong toàn dân, trở thành ngôn ngữ chung của
người Việt Nam. Sau đây là những từ biến nghĩa thường xuyên xuất hiện trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc mà chúng tôi khảo sát được:
Bảng 2.10. Lớp từ biến nghĩa
STT Từ, ngữ Đơn vị tương đương Ngữ cảnh
1 Cua Tán tỉnh, làm quen với “Hẳn chỉ khi nhầm thôi, vì chưa
người khác giới hiểu Liễu nên chưa bao giờ dám
cua nàng cả” [40; 1045]
2 Mèo Tình nhân gái, từ dùng có “Anh có kiếm mèo đâu mà tìm cô
gái thật trẻ” [37; 214] ý nói đùa hoặc không trân
trọng
3 Ngáp “- Về trển, bắt mầy nhịn xi nê cho Bó tay, chịu chết, hết
mầy ngáp chơi” [39; 23] phương cách
4 Ngứa “Nhưng đã quen với phép lịch sự Cảm giác khó chịu ở trong
mới, tôi không dám hỏi gì, mặc dầu lòng
tôi rất ngứa biết”[37; 167]
5 Thương Yêu, có tình cảm thắm “- Nó thương con khác, nên con
thiết giữa hai người khác nhỏ này mới thất tình” [37; 608]
giới
6 Vợ nhỏ “Nhưng nào có biết đời có gì để Vợ lẽ, vợ không chính
hưởng, thôi thì cưới vợ bé vậy, mà thức, vợ không được công
cưới một cô thật trẻ” [38; 667] nhận về mặt pháp lý xã hội
7 Vợ lớn “- Chị bếp của ông chủ nè, con nhỏ Vợ chính thưc, vợ cả, vợ
giữ em nè, vợ lớn và vợ bé của anh được công nhận về mặt
Chín xích lô đạp sau nhà nè. Anh ấy pháp lý, xã hội hay dòng
đau ốm suốt tuần rồi, họ cần tiền họ của người đàn ông có
lắm” [37; 193] nhiều vợ
51
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Qua khảo sát tác phẩm của Bình Nguyên Lộc và phân loại, thống kê các lớp
từ ngữ Nam Bộ, chúng ta thấy Bình Nguyên Lộc đã sử dụng hầu hết những từ ngữ
của phương ngữ Nam Bộ để tái hiện cuộc sống của con người Nam Bộ nói chung và
miền Đông Nam Bộ nói riêng. Trong số 445 từ ngữ Nam Bộ thì lớp từ ngữ riêng có
của Nam Bộ chiếm số lượng nhiều nhất. Điều này một mặt cho thấy số lượng từ
ngữ riêng Nam Bộ là rất phong phú, mặt khác chúng đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc thể hiện sắc thái địa phương trong tác phẩm văn chương Nam Bộ.
Đồng thời chúng phản ánh nhu cầu khách quan: tái hiện cảnh vật tự nhiên, đem đến
những bức tranh rất chân thật về thiên nhiên và con người Nam Bộ cho người đọc.
Nhóm từ ngữ biến âm từ từ ngữ toàn dân đã khắc họa tập quán phát âm địa
phương. Nếu như trong đời sống, chúng ta chỉ cần nghe giọng nói là nhận ra một ai
đó, thì tương tự như vậy, trong tác phẩm văn chương, thông qua những biến thể ngữ
âm, chúng ta chỉ cần nghe tiếng nói ở một địa phương, có thể nhận ra phạm vi
không gian, thời gian của tác phẩm. Khẩu ngữ là phương tiện biểu đạt tư tưởng, tình
cảm trực tiếp, thường nhật, cho nên việc khai thác nhóm từ ngữ này trong ngôn ngữ
nhân vật là một thành công lớn của nhà văn khi mục đích tái hiện một cách trung
thực hoạt động giao tiếp địa phương đã được thực hiện.
Nhóm từ ngữ vay mượn từ tiếng Khmer, Hán, Pháp xuất hiện không nhiều
nhưng tần số xuất hiện khá cao. Điều này cho thấy sự giao lưu văn hóa giữa các dân
tộc sống chung trên dải đất Nam Bộ đã để lại dấu ấn rõ rệt trong ngôn ngữ. Và việc
vận dụng nó trong tác phẩm cũng là một cách thể hiện sự trung thực trong việc phản
ánh hiện thực khách quan của tác giả Bình Nguyên Lộc. Bởi vì màu sắc Nam Bộ
trong trường hợp này chính là màu sắc văn hóa đa dân tộc. Nó được in dấu trong lời
ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Nam Bộ nói chung và Đông Nam Bộ nói
riêng và đi vào đời sống nghệ thuật.
52
Nhóm từ ngữ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ và toàn dân cho
thấy được dấu ấn ngôn ngữ của những con người khai hoang, mở đất từ miền Bắc
và Trung Bộ Việt Nam còn in đậm trong ngôn ngữ của người miền Nam, đồng thời
cho thấy quá trình tạo sinh ngôn ngữ từ vốn từ ngữ toàn dân của người dân Nam
Bộ. Điều này xuất phát từ đặc điểm tư duy, đặc điểm tri nhận của người Nam Bộ về
sự vật, hiện tượng trong đời sống hằng ngày. Và chính cách tri nhận khác với người
dân ở những miền khác đó đã tạo nên màu sắc Nam Bộ cho tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc.
53
Chương 3 : ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA BÌNH NGUYÊN
LỘC TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI NGÔN NGỮ CỦA
CÁC TÁC GIẢ KHÁC
Nói đến đặc điểm ngôn ngữ của một tác giả là chúng ta nói đến cách sử dụng
từ ngữ, câu văn và các biện pháp nghệ thuật mà nhà văn sử dụng trong tác phẩm.
Nhưng trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc sử dụng từ ngữ
Nam Bộ mà thôi, chứ không đi sâu tìm hiểu về cách sử dụng câu văn cũng như
những thủ pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong tác phẩm. Để làm rõ đặc điểm
ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi sẽ so sánh ngôn ngữ của ông với ngôn
ngữ của các tác giả Nam Bộ trước và cùng thời với ông.
3.1. So với tác giả trước Bình Nguyên Lộc
3.1.1. Nền văn học miền Nam đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám
1945 được đánh dấu bằng nhiều tên tuổi. Nhưng để làm nên một phong cách ngôn
ngữ tiêu biểu, đại diện cho nền văn học miền Nam giai đoạn đó không ai khác hơn,
chính là Hồ Biểu Chánh. Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có
công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Bởi lẽ, trong bối cảnh nền
văn học nước nhà đang có nhiều chuyển biến bởi sự ảnh hưởng của nền văn hóa
phương Tây, Hồ Biểu Chánh cũng như nhiều nhà văn khác đã tìm kiếm cho mình
một phương thức thể hiện phù hợp, nhằm tạo được tầm đón nhận rộng lớn từ độc
giả. Ngôn ngữ là phương diện đã được ông đặc biệt chú ý. Ông đã thoát khỏi văn
chương đài các đương thời để đưa vào tác phẩm một hệ thống ngôn ngữ mang tính
giản dị, đậm sắc thái Nam Bộ. Có thể nói, Hồ Biểu Chánh đã làm nên một phong
cách ngôn ngữ trong tiểu thuyết của mình.
Từ trước đến nay, có rất nhiều bài viết về ngôn ngữ tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh. Như đã trình bày ở phần mở đầu, trong khuôn khổ của luận văn này, chúng
tôi xin mượn các ý kiến, đánh giá của hai tác giả Huỳnh Thị Lan Phương và Nguyễn
Văn Nở về ngôn ngữ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh để làm căn cứ so sánh, đối
chiếu với đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc.
54
Hai tác giả đã nêu bật những đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh như sau:
3.1.1.1. Hồ Biểu Chánh sử dụng một số lượng lớn những từ ngữ biến âm từ từ ngữ
toàn dân.
Những từ ngữ biến âm không chỉ xuất hiện trong lời đối thoại của nhân vật
(khẩu ngữ tái hiện) mà còn trong ngôn ngữ tác giả (ngôn ngữ người dẫn truyện).
Những biến thể phát âm này thường diễn ra ở bộ phận âm chính và đấy thường là
hiện tượng rút ngắn độ mở của nguyên âm: nghĩa nhơn/ nghĩa nhân; đờn ông/ đàn
ông; đờn bà/ đàn bà; bất nhơn/ bất nhân; chúa nhựt/ chúa nhật; huê viên/ hoa viên;
hoan nghinh/ hoan nghênh; lum khum/ lom khom; phước/ phúc; bịnh/ bệnh; hun/
hôn; từng/ tầng; chơn/ chân; hườn/ hoàn; nưng/ nâng...
Ví dụ:
- “Cậu mợ làm phước cho ít đồng xu mua cơm ăn.” (Khóc thầm, trang 67)
- “Chưa được một năm thì cậu mang bịnh mà chết”. (Con nhà nghèo, trang
226)
- “Thu Hà nghe mấy lời bất nhơn của chồng thì cô lấy làm bất bình” (Khóc
thầm, trang 68)
- “Con Tý, là đứa tớ gái của bà, hai tay cầm cây chổi cứ lum khum quét nhà,
nó quét bụi bay ngang qua mấy ánh mặt trời dọi vô kẹt cửa coi như mấy lằn khói
chứa trăm ngàn vi trùng nhảy múa tưng bừng.” (Tại tôi, trang 05)
Những biến thể phát âm về phụ âm đầu xuất hiện trong tiểu thuyết không
nhiều và cũng không phải tiêu biểu nhưng các tác giả cũng ghi nhận được một số
trường hợp sau: mắc / đắc; hửi /ngửi; nhỏ mức/ nhỏ rức; nhắm nhía/ ngắm nghía;
day/ quay... Ví dụ:
- “Cực chẳng đã phải mua, chứ mắc quá” (Con nhà nghèo, trang 229)
- “Tối ngày hửi mùi hôi dưới đường mương hoài. “ (Chút phận linh đinh,
trang 06)
- “Chơn mày nàng cong vòng mà lại nhỏ mức.” (Ngọn cỏ gió đùa, trang 71)
- “Ông Phán day mặt chỗ khác.” (Thiệt giả giả thiệt, trang 61)
55
- “Chúa Tàu ngó Thu Thuỷ đợi nhắm nhía áo quần cho xong rồi mới hỏi.”
(Chúa Tàu Kim Quy, trang 110)
Qua cách viết trên, Hồ Biểu Chánh đã thể hiện phần nào đặc điểm nói năng
của người Nam Bộ. Cách phát âm ấy, đến nay vẫn phổ biến trong phong cách khẩu
ngữ. Nhờ đó, tác giả đã thể hiện chân thật và sinh động cách nói năng của con người
vùng sông nước phương Nam và góp phần làm nên phong cách ngôn ngữ của mình.
3.1.1.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là một thứ “ngôn ngữ ngồn
ngộn chất sống và giàu màu sắc địa phương”.
Khi viết tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã có dụng ý hướng đến quảng đại quần
chúng. Đối tượng công chúng lớn nhất của ông là giới bình dân. Vì thế Hồ Biểu
Chánh đã chú ý sử dụng từ ngữ thật giản dị, mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu.Và một
trong những dấu ấn riêng của Hồ Biểu Chánh về mặt từ ngữ là ông đã vận dụng một
cách khéo léo và phong phú lớp từ địa phương Nam Bộ, không chỉ trong ngôn ngữ
đối thoại của các nhân vật mà cả trong văn miêu tả, lời thuật truyện của nhà văn.
Điều này được thể hiện ở hai phương diện sau:
A. Người đọc sẽ bắt gặp nhiều từ ngữ quen thuộc, phổ biến ở vùng đất Nam
Bộ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh như: nín khe, giống gì, ngó, buồn hiu, té ra, lạ
hoắc, xí được, chưng dọn, hẳn hòi, thiệt tốt, quấy, bề nào, khoái chí, mấy bữa rày,
hổm nay, mừng quýnh, cứng cát, riu ríu, rán, từ rày sắp lên, lục đục, đi riết, không
dè, om sòm, không thèm, lật đật, lung lắm, cẳng, hàng tư... Ví dụ như:
- “ Trăng thanh gió mát mà Duy Linh nhớ tới Phi Phụng có chồng mồ hôi rịn
hai bên màng tang ướt đầm, lật đật thúc bước đi riết về nhà không dám nghểu
nghến một mình ngoài đường vắng. Anh ta lầm lũi đi vô tới Châu Thành, tiếng giầy
khua dưới đá nghe lốp bốp, chó ngủ trước cửa nhà ở dựa đường giật mình chạy ra
đứng sủa om sòm. Anh ta cứ ngó xuống đất mà đi, không thèm kể đến.” (Nhơn tình
ấm lạnh, tr 25)
- “Thằng Phùng với một người nữa Thị Tố không biết tên, đương ngồi chàng
háng ngoài hàng tư” (Con nhà nghèo, tr 52)
56
- “Mợ dằn lòng nhịn thua mà coi bộ tức giận lung lắm “ ( Con nhà nghèo,
tr155)
B. Hồ Biểu Chánh còn khai thác triệt để lớp từ khẩu ngữ Nam Bộ. Từ khẩu
ngữ không chỉ xuất hiện trong lời đối thoại giữa các nhân vật mà có được nhà văn
dùng khi miêu tả hay thuật truyện. Hàng loạt các từ khẩu ngữ sau đây đã được tác
giả sử dụng trong nhiều tác phẩm của mình: buồn nghiến, đầy nhóc, dịu nhĩu, tròn
vìn, mừng quýnh, sáng bét, chết điếng, rộng họng, bóp tai, đả nư, buồn so, dụm năm
dụm ba, cụt ngòi, cụt vốn, thúi lắm, hỉ mũi, giả đò, xụi lơ, chút đỉnh, xài, một đồng
điếu cũng không loại, cái việc sập nhà sập cửa, ...
Ví dụ: “ Con Quyên ra đi thì lòng mừng khấp khởi, miệng chúm chím cười.
Tuy nó mặt đồ vải bô, song mặt nó trắng tươi môi nó đỏ lòm, gò má nó tròn vìn,
chân mày nó nhỏ mức, bàn tay nó dịu nhĩu, tướng nó đi khoan thai.”(Cha con
nghĩa nặng, 109)
Còn đây là lời của nhân vật:
“Bên Tây nhà giàu họ xài tiền đúng lắm, nhằm chuyện bao nhiêu họ cũng
không tiếc, còn không nhằm chuyện, dầu một đồng điếu họ cũng không loại, chớ
không phải họ xài như mình vậy đâu” (Khóc thầm, tr 66)
Và với lời thuật truyện tác giả cũng dùng từ khẩu ngữ, điều mà nhiều nhà văn
ít khi vận dụng: “Trần Văn Sửu nín khe, bỏ đi thẳng vô nhà bếp. Anh ta thấy bếp
núc lạnh tanh, mà sắc mặt chẳng có một chút giận nào hết. Anh ta xách nồi đi xúc
gạo đem vo, rồi nhúm lửa bắt lên mà nấu. Thị Lựu không hề léo vô bếp.” ( Cha con
nghĩa nặng, tr 7)
So với các nhà văn đương thời như: Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Bá Học,
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Thuật...thì việc đưa khẩu ngữ vào tác phẩm văn
chương là một thành công lớn, là một đóng góp lớn của Hồ Biểu Chánh trong việc
làm cho văn chương có sự gần gũi, quen thuộc với công chúng bình dân. Tuy nhiên,
trong quá trình sử dụng khẩu ngữ, Hồ Biểu Chánh để lại một ít hạn chế. Ông chưa
chú ý sàng lọc, chưa tập hợp những tinh hoa của khẩu ngữ Nam Bộ. Không ít
trường hợp, khi đưa khẩu ngữ vào tác phẩm, Hồ Biểu Chánh tỏ ra dễ dãi, vô tình
57
làm ảnh hưởng đến giá trị thẩm mĩ của ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm nghệ
thuật, ít nhiều gợi lên tính chất thông tục hoá.
Ví dụ:
- “Tao đánh bài, dầu có thua đi nữa, thì tao thua tiền của tao, chứ phải tiền
bạc của cha mẹ mày chở đến đây hay sao mà mày nói? Tao là con nhà giàu, từ nhỏ
đến lớn tao ăn xài bài bạc chơi đã quen rồi chứ phải quân ăn mày coi đồng bạc như
cái bánh xe đâu. Mày có chê tao thì mày để tao ra rồi đi cưới vợ khác đi. Cha chả!
Mày tưởng tao màng cái tuồng mặt mày lắm sao? Bực mày là đồ bỏ đa, đừng có
làm phách?” (Thầy Thông ngôn, tr 83)
- “Hả! Mày nói sao? Cái léo mẹ tiên tổ mày, mày hư, mày thúi, mày làm đĩ lấy
trai ở đâu cho có chửa, bụng thè lè, rồi bây giờ mày nói xán xả cho cháu tao hả?
Cháu tao như rồng như phụng, còn mày là quân ăn mày, mày rửa đít cho nó cũng
chưa được, sao mày dám hỏi như vậy? ( Nợ đời, tr 39)
Dường như Hồ Biểu Chánh muốn diễn tả thật cụ thể, sống động tính cách của
những nhân vật phản diện. Bởi cách nói năng như trên thường được tác giả mớm
vào cửa miệng của những kẻ độc ác, ích kỉ tham lam hay hư thân mất nết. Thế
nhưng, vẫn có trường hợp không hẳn như vậy. Trong tác phẩm “Thầy thông
ngôn”, tác giả miêu tả cô Sáu Lý là một cô gái khôn khéo, lanh lợi nhưng không
kém phần nết na. Thế mà, có những đoạn văn viết về cô gái ấy hay thuật lại lời đối
thoại của cô Sáu Lý vẫn có nhiều từ khẩu ngữ mang sắc thái thô thiển nặng nề.
Ví dụ:
“Cô đợi một hồi lâu không nghe thầy trả lời, cô mới đứng dậy hỉ mũi mà
nói...” (trang 46)
hay: “Thầy thúi lắm, làm trai như vậy nên lắt cái mặt mà quăng đi” (trang
48).
Bên cạnh đó, ở một vài chỗ trong tác phẩm, Hồ Biểu Chánh còn sử dụng từ
địa phương chưa thật hợp nghĩa, làm cho câu văn mất đi sự chính xác cần có của nó.
Tác giả Huỳnh Thị Lan Phương và Nguyễn Văn Nở đã nhận xét như sau: “Tuy
nhiên, đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh người đọc đã phải xuýt xoa, tiếc nuối vì trong
58
bát cơm trắng trong đôi khi còn rơi rớt mấy hạt sạn vô tình. Có nhiều từ ngữ Hồ
Biểu Chánh đưa vào tác phẩm chưa thật hợp nghĩa khi đặt vào văn cảnh cụ thể.
Thậm chí có những từ chưa đúng”. [30; 12]
Ví dụ: “Mày đặt chuyện bậy bạ! Nó lấy ai đâu có chửa. Sao mày dám nói xán
xả cho cậu Hai. “ (Từ “xán xả” đặt vào câu văn trên chưa thật hợp nghĩa. Dụng ý
của tác giả muốn diễn tả lời của nhân vật này cho nhân vật kia đã áp đặt tội lỗi vào
người khác.)
- “Thu Vân nghe như vậy lại càng ráng sức lo lắng hơn nữa, đã lo tráo trở vật
ăn cơm, mà trưa lại còn làm bánh, tối lại còn chưng trứng gà, đặng cho ông ăn giải
lao.” (Chút phận linh đinh, tr 177) (Từ “tráo trở” mang ý nghĩa âm tính, thường
dùng để chỉ một hành động xấu. Với việc làm của Thu Vân không thể dùng từ “tráo
trở” để miêu tả)
- “ Tình cảm của em nặng nề, xâu xia, nó có thể đè em, nhận em chết được.”
(Từ “xâu xia” không thể dùng để diễn đạt tình cảm).
Tóm lại: Bỏ qua một vài sự thiếu sót trong việc sử dụng từ ngữ địa phương thì
văn chương của Hồ Biểu Chánh thật sự là một đóng góp to lớn cho văn học nước
nhà. Kể từ Hồ Biểu Chánh, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương và ngôn ngữ trong
cuộc sống không còn khoảng cách như trước kia nữa. Điều này đã được chứng minh
khi những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có tầm đón nhận vừa rộng lớn, vừa bền lâu
từ phía người đọc. Ông xứng đáng với vai trò người tiên phong cho nền tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại.
3.1.2. Kế thừa và phát huy truyền thống văn chương Nam Bộ từ Hồ Biểu
Chánh, Bình Nguyên Lộc cũng sử dụng từ ngữ địa phương Nam Bộ trong sáng tác.
Và chúng ta tìm được nhiều nét tương đồng giữa ngôn ngữ văn chương của Hồ Biểu
Chánh với ngôn ngữ văn chương của Bình Nguyên Lộc.
3.1.2.1. Trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều
những từ biến âm, nhất là biến thể phụ âm đầu và phần vần.
Như chúng ta đã biết, phương ngữ mỗi miền đều có cách phát âm riêng.
Những biến thể phát âm này sẽ bộc lộ rõ trong giao tiếp khẩu ngữ. Trong ngôn ngữ
59
viết, các biến thể phát âm trên ta không thấy lộ ra do yêu cầu của chính tả. Tuy
nhiên, trong tác phẩm văn chương, để thể hiện đúng cách nói năng riêng của từng
nhân vật, ở những địa bàn khác nhau, nhà văn có thể khai thác các biến thể phát âm
bằng cách ghi lại đúng cách nói năng của nhân vật qua chữ viết. Dù không nhiều
như trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, nhưng trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc,
chúng ta cũng thấy những biến thể phát âm nói trên và chúng có cùng tác dụng là
thể hiện thật sinh động, chính xác lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ.
Ví dụ:
-“Thuần không dám đương đầu với Chơn để binh vực tánh riêng của mình”
[37 ; 291]
-“Thầy khán hộ chạy vào nhà đó một lát rồi chạy ra biểu xe lui lại đường
Vannier”[37; 329]
-“Con Dừa vừa ngạc nhiên trước tình trạng này thì bỗng nghe đất ướt lầy
nhầy dưới chơn nó”[37; 83]
-“Anh Nhánh không day lại cũng biết rằng vợ anh đã ra tới nơi”[37; 106]
-“- Cũng như mình hút thuốc, bỏ đi cái một như em biểu thì làm sao mà bỏ
đặng, phải không?” [ 37; 343]
-“Tôi hửi sơ cũng biết của ai” [37; 266]
3.1.2.2. Chúng ta cũng tìm thấy một số lượng khá lớn những từ ngữ địa phương
trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Tài năng, phong cách của người nghệ sĩ bộc lộ chủ yếu qua cách vận dụng vốn
từ ngữ vào tác phẩm đúng cách, đúng chỗ, đúng mục đích. Cũng giống như Hồ Biểu
Chánh, văn chương của Bình Nguyên Lộc lấy đối tượng người bình dân làm đối
tượng phản ánh và đối tượng tiếp nhận. Vì thế, ông rất chú ý sử dụng từ ngữ thật
giản dị, mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu. Do đó, ông đã sử dụng những từ ngữ địa
phương bình dị, tự nhiên khi ông miêu tả cuộc sống và cách nói năng của người
bình dân trong những trang viết về vùng nông thôn Nam Bộ, nhất là vùng đất Đồng
Nai – Bến Nghé quê hương ông. Chúng ta bắt gặp khá nhiều những từ như: mừng
húm, om sòm, ngay bon, quá xá, rối nùi, bài hải, hết ráo, hết trọi, đỏ rần, củi đụt, té
60
ra, lạ hoắc, dễ ợt, tù lu, lu bù, kỳ cục, hề hấn, tía lia, leo lẻo, lãng xẹt, lia lịa, cũ xì,
chù vù, ong óng,…
Ví dụ:
- “Chơn ông chạy, miệng ông la bài hải” [37; 268]
- “Hễ cứ đúng giờ nghỉ nghơi, từ đúng ngọ đến ba giờ trưa, từ bảy giờ chiều
đến nửa đêm là nó ong óng lên như con mẹ điên, …” [37; 281]
-“ Thằng Mật tóc rối nùi, mặt vuông, miệng rộng” [37; 311]
- “Mấy đứa khác ngồi lâu bị muỗi đốt đau, tức mình ra mặt, chửi cậu bé om
sòm” [37; 315]
- “Nhưng không chong đèn thì tối hù, lại còn ghê hơn nữa”. [39; 37]
- “Nó ốm nhách, trắng đờ, mà hai con mắt trõm lơ như ma, tao vừa muốn
chạy thì nó nhảy qua ôm cổ tao rồi”[39; 56]
- “Xòn tái mặt, chối leo lẻo”[39; 62]
-“ Đôi mắt ấy thầm lặng hỏi thăm về sự có mặt của hắn ở một chỗ lạ hoắc nầy
đối với hắn”[39; 91]
Phản ánh đời sống, tình cảm người dân Nam Bộ, Bình Nguyên Lộc cũng đưa
vào tác phẩm của mình rất nhiều những từ khẩu ngữ trong đối thoại của nhân vật.
Chúng ta hãy đọc đoạn đối thoại sau:
“- Đồ con báo đời, đồ con trời đánh, mày lại định để vậy đặng bêu xấu tao với
ba mày hả? Trời đất qủy thần ơi, ngó xuống mà coi. Cả dòng cả họ tôi, bên nội,
bên ngoại có ai mà hư thân mất nết như vầy hay không nè!
- Ăn thua gì với má mà má làm rùm?
- Trời ơi, bà con xóm giềng nghe nó nói trẹo họng đây không nè. Sao lại
không ăn thua. Mày lấy ai, phải nói ra, để tao bắt nó cưới mày, chớ để cái bụng
bình rĩnh, xóm giềng cười tao với ba mày thúi đầu.” [37 ; 93]
Trên đây là đoạn đối thoại của mẹ con cô Dừa (Cây đào lộn hột). Bà mẹ vô
cùng tức giận, xấu hổ khi con gái có thai hoang nhưng cô gái nhất định không chịu
khai tên người tình. Và đây là lời của một nhân vật khác có cùng tâm trạng tức giận
khi con chó đốm của bà đang mạnh khỏe lại bị giết chết để ăn thịt:
61
- “Ai đập chó đó? Phải chó của tôi hôn? Trời ơi! Phải đây mà, con chó đốm
của tôi, ai mà ác nhơn, thất đức, a hành ác nghiệp đập chết như vầy. Tôi đi thưa
đây nè! Bắt đền mấy mươi tôi cũng không thèm. Ai? Ai đập?” [37 ; 269]
Qua những từ khẩu ngữ mà nhân vật phát ngôn, người đọc có thể hình dung
trước mắt mình những âm thanh sống của các nhân vật đang trong tâm trạng tức tối
tột độ, nhưng những từ ngữ mà họ sử dụng không thô thiển, mà vẫn trong sáng.
Điều đó có thể thấy rằng, kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp trong văn phong của
Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc cũng sử dụng từ khẩu ngữ, nhưng ông sử dụng
có chắt lọc tinh tế . Chính nhờ sự chắt lọc mà những từ khẩu ngữ trong tác phẩm
Bình Nguyên Lộc đã phát huy nét đẹp của nó trong việc thể hiện ngôn ngữ nhân
vật.
Việc sử dụng khẩu ngữ một cách khéo léo, không chỉ trong ngôn ngữ đối
thoại của nhân vật mà cả trong lời miêu tả, kể chuyện. Trong các nhà văn đi tiên
phong của văn học Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh là nhà văn thành công trong việc dùng
khẩu ngữ trong văn chương. Bình Nguyên Lộc là thế hệ sau, nhưng khi ông sử dụng
khẩu ngữ Nam Bộ không phải là bắt chước hay lặp lại văn phong của Hồ Biểu
Chánh mà thực ra đó là một công cuộc làm sống lại những màu sắc Nam Bộ xưa kia
và hiện tại qua ngôn ngữ. Nhiều trường hợp ông sử dụng rất hay, rất phù hợp với
tâm tư, tình cảm của người Nam Bộ: cái mới kỳ, cái mới khó hiểu, nịnh đầm số
dách, có cái gì lạ nè, thiệt là hết hi vọng, có hay thì thôi,..Vì vây, khi đọc tác phẩm
của Bình Nguyên Lộc, nhiều người cho rằng ông viết văn như nói, nhưng chính cái
lối viết như nói ấy khiến tác giả và người đọc gần gũi nhau hơn.
3.1.2.3. Mô tả con người và cảnh vật bình thường, nhà văn sử dụng một lối
viết giản dị, trong sáng, dễ hiểu nhưng đây đó cũng có những đoạn văn đầy màu sắc
như một bức tranh mà một họa sĩ tài ba đã vẽ lên. Chẳng hạn như cảnh lò chén về
chiều trong “Lò chén chòm sao”.
“ Bóng chòm sao cổ thọ năm cây nằm dài và đè lên nóc vài lò gốm. Bóng các
lò gốm cũng đua nhau mà bò ra xa. Dưới kia đằng xa, rừng trùng điệp nối tiếp
nhau đi về đâu không biết. Rừng đương mùa thay lá, một mớ đã trổ vàng. Nắng
62
chiều đi, phết lên đó nhiều màu kì lạ, cứ biến đổi lần theo thời khắc. Nhiều nơi rừng
thấp, nắng xiên bị cây cao ngăn cản, rọi không tới, trông như những hang tối om”
[37; 272]
Hay là khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, êm đềm, tĩnh lặng trong “ Rừng
mắm”
-“ Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết
sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút này đây.
Thật là huyền diệu, sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim
ai treo phơi khô ngoài sân nhà. Chim thầy bói nghiêng người dòm xuống mặt rạch
giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng.
Vừa đụng nước nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một
con cá nhỏ” [38; 643]
Nếu như nét đặc trưng của bức tranh nông thôn Bắc Bộ là những cổng làng,
những khóm trúc, lũy tre dài vô tận men theo con đường làng quanh co thì đặc
trưng của vùng sông nước miền Nam là cảnh hai bên bờ sông, bờ rạch mọc đầy
những cây bần, cây dừa nước. Và đây là khung cảnh đặc trưng của đồng quê Nam
Bộ: “ Hết dừa nước, rồi đến dừa nước, dừa mọc lên đều đều như ai cặm nó ở đó
để làm hàng rào. Cảnh bờ sông không thay đổi đến chán ngắt. Thỉnh thoảng một
cây bần, lá nhỏ, tàn thưa, vượt lên nhưng cũng không làm đỡ chán được. Chèo
khua nước, một con thằng chài xanh lặc lia giựt mình hay biến mất trong không,
lẹ như chớp” [37; 322]
Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, rất hiếm để thấy những trang văn đầy
chất thơ như thế này.
Vẫn với những từ ngữ địa phương Nam Bộ nhưng bằng sự kết hợp nhịp
nhàng của những thanh bằng, trắc ở cuối mỗi câu văn, Bình Nguyên Lộc vừa tạo ra
hình ảnh, vừa tạo ra âm thanh cho một bức tranh đậm chất Nam Bộ. Chất thơ không
phải bao giờ cũng được tạo nên bằng những từ ngữ đài các, mĩ lệ, mà đôi khi chất
thơ được tìm thấy trên những trang văn bình dị. Quả là Bình Nguyên Lộc đã đem
đến cho văn đàn một hương vị mới. Tuy cũng trên cái nền của chất liệu đậm đà
63
Nam Bộ, nhưng ngôn ngữ đã được chắt lọc, làm phong phú hơn, đồng thời dễ hiểu
hơn đối với bạn đọc trên cả nước. Điều này cho thấy một bước tiến mới của văn
chương Nam Bộ trong việc hội nhập văn chương cả nước.
Đến đây, chúng ta có thể thấy được một điều đáng ghi nhận trong đặc điểm
ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái mộc mạc
nhưng không thô ráp trong việc thể hiện lời ăn tiếng nói và tâm tư tình cảm của con
người Nam Bộ và chất thơ trong việc tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên Nam Bộ.
Đó là lý do vì sao Bình Nguyên Lộc được mệnh danh là nhà ảo thuật về ngôn từ. Và
đó cũng là sự khác nhau cơ bản trong đặc điểm ngôn ngữ của ông và ngôn ngữ của
Hồ Biểu Chánh. Có thể lấy nhận xét của Hồ Trường An để nói về ngôn ngữ của
Bình Nguyên Lộc trong mối tương quan với nhà văn tiền bối Hồ Biểu Chánh như
sau:
“…Hồ Biểu Chánh là kẻ mở đường cho lối viết miền Nam. Nhưng phải đợi tới
20,30 năm sau chính Bình Nguyên Lộc mới mang cờ quạt, biểu ngữ làm cuộc hành
trình có nhiều tiếng vang tốt đẹp vào ngôn ngữ miền Nam, gieo niềm tin cho người
cầm bút gốc miền Nam để viết bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu miền Nam. Vậy thì
hễ nói tới văn chương ngôn ngữ miền Nam, là phải nghĩ ngay tới Bình Nguyên Lộc
cũng như nói tới sông là phải nghĩ ngay tới nước: Bình Nguyên Lộc ở trong cõi văn
chương ngôn ngữ miền Nam cũng như nước trong sông vậy…” [1; 23]
3.2. So với tác giả cùng thời với Bình Nguyên Lộc
So với Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam thuộc lớp nhà văn đàn em, nhưng cũng có
thể xem ông như là một trong những nhà văn cùng thời với Bình Nguyên Lộc,
người có một đặc điểm ngôn ngữ miền Nam có thể so sánh với Bình Nguyên Lộc.
Sơn Nam là nhà văn lớn của Nam Bộ. Sáu mươi năm viết văn, Sơn Nam đã
tiếp nối được truyền thống văn xuôi Nam Bộ của lớp nhà văn đi trước như: Nguyễn
Trọng Quản, Phú Đức, Hồ Biểu Chánh,… Hơn thế nữa, ông còn làm được nhiều
hơn những nhà văn đi trước là không chỉ dừng lại ở những sáng tác văn chương, mà
còn quan tâm tới lĩnh vực biên khảo, một lĩnh vực mà các nhà biên khảo miền Nam
cũng có những đóng góp lớn, như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Lê Ngọc
64
Trụ, Vương Hồng Sển...Những đóng góp to lớn của Sơn Nam cho văn học miền
Nam nói riêng, cho văn học nước nhà nói chung xứng đáng để người đời gọi ông là
một “ Nhà Nam Bộ học”
Bên cạnh việc tái hiện lại vùng đất và con người Nam Bộ qua các công trình
khảo cổ, sự tài tình trong việc biểu thị tính cách nhân vật hoàn toàn phù hợp với đặc
trưng của con người Nam Bộ, điều quan trọng hơn cả để thiên hạ gọi ông là“Nhà
Nam Bộ học” chính là văn phong của ông. Văn phong của ông đã kế thừa và phát
huy được tốt văn phong của những nhà văn Nam Bộ tiền bối hoặc đàn anh, đặc biệt
là ở ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Nó mang những đặc trưng đầy đủ
về phương ngữ Nam Bộ ở cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong
cách diễn đạt. Nhưng ở trong khuôn khổ này, chúng tôi chỉ dừng lại ở từ ngữ Nam
Bộ trong sáng tác của Sơn Nam mà thôi
3.2.1. Việc dùng từ ngữ trong văn bản khoa học, hành chính đòi hỏi sự chuẩn
mực toàn dân; nhưng việc dùng từ ngữ trong sáng tác văn chương thì cần phải có
chất liệu đời sống mà điều này thì cần phải có một lối diễn đạt thích hợp. Chất liệu
của đời sống là những gì nhà văn quan sát, tai nghe mắt thấy và hơn nữa là sự trải
nghiệm. Ngôn ngữ văn chương của ông làm sống lại trước mắt người đọc một vùng
đất phía Nam của Tổ quốc với sự trù phú, đa dạng về sản vật tự nhiên nhưng cũng
vô cùng khắc nghiệt.
3.2.1.1. Theo khảo sát của Nguyễn Nghiêm Phương trong “ Màu sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữ truyện, ký của Sơn Nam”, tác phẩm của Sơn Nam có sự phong
phú đến mức cực đại những từ ngữ riêng của phương ngữ Nam Bộ, không thấy
xuất hiện ở những phương ngữ khác như:
- Từ ngữ miêu tả các địa hình chứa nước: rạch, kinh, mương, đìa, bàu, lung,
đầm, hồ, láng, doi, gành,…
- Từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch: ghe, xuồng, xuồng cui, xuồng
ba lá, tàu, tàu lặn, đò, ghe bầu, ghe ngo, xuồng tam bản…
- Từ ngữ miêu tả sự vận động của con nước: nước ròng, nước lớn, nước đứng,
nước cạn, nước vọt, nước bò, nước rút, nước nổi, nước leo, nước chuyển, nước
ngập, nước dậy, nước trở mình,…
65
- Từ ngữ chỉ tên gọi về nước: mặt nước, dòng nước, ngọn nước, mí nước, sóng
nước, bọt nước, giọt nước,…
- Từ ngữ gọi tên động và thực vật: cua, ốc, tôm, cá sấu, rùa, diệc, le le, già
sói, cò, vạc, giang sen, chàng bè, bồ nông, cáo, chồn, khỉ, nai, vượn, heo rừng, cọp,
chuột; cóc kèn, ô rô, choại, mốp. lau, sậy, đế, tràm, mái dầm,…
Trên đây là chất liệu từ đời sống mà nhà văn đã tái hiện trong tác phẩm của
mình. Sự phong phú của những từ ngữ riêng Nam Bộ đã giúp cho văn của Sơn Nam
không lẫn với văn của các nhà văn tiền bối và đàn anh. Bởi lẽ, điều kiện tự nhiên,
môi trường sinh sống là một yếu tố luôn để lại dấu ấn riêng trên trang văn của mỗi
tác giả.
3.2.1.2. Ngôn ngữ của người dẫn truyện trong tác phẩm của Sơn Nam hấp dẫn và
mang đậm sắc thái Nam Bộ
Ngôn ngữ dẫn truyện trong các tác phẩm của ông, có những đoạn có thể xem
là tiêu biểu của lối “văn nói Nam Bộ”, lối văn thường gồm những câu ngắn gọn, có
nhiều từ ngữ Nam Bộ trong giao tiếp bằng lời được thể thành văn viết như:
Đoạn nói về tình cảnh “gà trống nuôi con” của Tư Thính:
Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú
vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng vậy,
trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái dĩa nhỏ. Khi
thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng.” (Bà
Chúa Hòn)
Đoạn nói về tình cảnh cha con Hai Lến: “Nó chưa hiểu tại sao cha nó chiều
nay bỏ qua thời tụng kinh chiều. Là người cư sĩ tu tại gia, cha nó luôn luôn đi chùa
Phù Dung vào ngày sóc, ngày vọng và năm sáu năm liên tiếp, chưa bao giờ bỏ qua
thời kinh chiều, dẫu là khi đau ốm. Ba nó lên bàn thờ ông Bổn để làm gì? Nó không
dám hỏi, sợ bị rầy.
Từ trên cao, giọng khàn khàn của lão Hai Lến khấn vái nghe mơ hồ. Thằng
Mến nghiêng tai nhưng chẳng tài hiểu rõ vì ba nó khấn vái lâm râm, tiếng to, tiếng
nhỏ đứt quãng...” (Xóm Bàu Láng)
66
Đoạn nói về những trăn trở của Tư Lập khi quyết định rời khỏi khu rừng U
Minh, mảnh đất lập nghiệp ban đầu của mình: “Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa
bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo
bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về Long Xuyên. Nhưng hương
rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu
ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại không được. Chú lại trở về“.
(Hương rừng trích trong Hương rừng Cà Mau )
Đoạn miêu tả đặc điểm ở một địa hình sông nước có nhiều lục bình: “Dông
dài lắm. Chỗ này kêu là “giáp nước”, do Tây đào kinh xáng gây ra. Nước lớn phía
Cần Thơ dồn qua, nước lớn phía Rạch Giá dồn lại. Hai ngọn nước gặp nhau tại
đây. Suốt ngày đêm, nước đứng tại chỗ. Xa biển, ngoài biển vừa ròng, thỏm nỏm,
chưa rút hết thì đứng lại, rồi nước lớn. Bởi vậy, từ mấy chục năm rồi, nó sanh đẻ tại
chỗ, dày bịt, quy tụ nào xác chó, rắn nước, cá tôm. Giống như cái trấp ở U Minh,
trên mặt cứng, phía dưới nước lõng bõng, coi như bơi xuồng được, nhưng rốt cuộc
là chịu thua, sa lầy.” (Vẹt lục bình trích trong Biển cỏ miền Tây)
3.2.1.3. Ngôn ngữ đối thoại, hay ngôn ngữ nhân vật trong truyện Sơn Nam là ngôn
ngữ thường nhật của người dân Nam Bộ.
Nó thể thiện được tính cách và tâm lý ứng xử của người Nam Bộ đó là sự bộc
trực, mộc mạc, dân dã, tính hào hiệp, trọng nhân nghĩa...
Đoạn đối thoại giữa những người trong gia đinh chú Tư trong “Mùa len trâu”,
có thể làm ngạc nhiên vì cách ăn nói có vẻ quá “bình đẳng, dân chủ” trong một gia
đình, làm người nghe hơi khó chịu vì nó thiếu tính “lễ nghi, thứ bậc, tình cảm” cần
có của một gia đình, nhưng trong cách nói năng của người Nam Bộ thì điều ấy cũng
bình thường. Vì theo họ, cái chính là sự chân thật trong tình cảm của các thành viên.
Ta hãy nghe họ nói chuyện:
“Chú Tư Đinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một
cơn mưa to hơn sắp kéo đến:
- Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết...
Thím Tư như phản đối chồng:
67
- Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, cái hũ trôi lểnh
nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết...
Chú Tư chờ thằng Nhì vào nhà. Nó cởi cái áo ướt mem quăng trên sàn:
- Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba? Trâu đói nữa, con mắt
nó đổ ghèn hoài. Chú nói:
- Bên giòng cát Sóc Xoài... Mày có qua tới đó không?
- Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu
có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ đây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa,
làm sao chịu nổi?
- Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu cho họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày
ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi...”.
Đoạn đối thoại tình cảm giữa thằng Lợi và con Lài, con của hai ông thầy thuốc
rắn, trong Cây huê xà, cũng dân dã, mộc mạc; không hoa mĩ, trau chuốt như lớp
thanh niên thành thị, cố tìm những lời hay ý đẹp cho vừa lòng nhau:
“Thằng Lợi day lại cười:
- Đi đâu vậy cô hai... rắn bông súng?
Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc. Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ
đất. Cười em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn. - Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.”
3.2.1.4. Điều đặc sắc trong ngôn ngữ của Sơn Nam là ông đã vận dụng rất nhiều
thành ngữ, tục ngữ phản ánh môi trường thiên nhiên Nam Bộ trong sáng tác.
Với bút pháp tả thực và ngôn ngữ mộc mạc, dung dị, Sơn Nam đã tái hiện một
cách sinh động thiên nhiên, đất trời Nam Bộ của những ngày còn hoang sơ. Nhưng
để có được kết quả đó còn phải nói đến sự đóng góp của các thành ngữ, tục ngữ mà
ông sử dụng. Có thể kể ra một số thành ngữ như: cây nhà lá vườn, chim kêu vượn
hót, đồng không mông quạnh, nước mặn đồng chua, chim trời cá nước, cò bay
thẳng cánh, khỉ ho cò gáy, hải giác thiên nhai…Chính nhờ những thành ngữ này mà
vẻ nguyên sơ của một số vùng đất ở Nam Bộ như huyền hoặc, hấp dẫn hơn:
68
“Sau khi rời khỏi ghế trường quận, tuy thi rớt bằng sơ học nhưng hắn vẫn
bình tĩnh. Ở chốn khỉ ho cò gáy, kẻ thi rớt sơ học nghiễm nhiên là nhà thông thái”
(Mối tình đầm lai, tr. 613)
“Cô gái ở Rạch Giá thèm đời sống ở miệt vườn “Mẹ mong gả thiếp về vườn;
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”, cô gái miệt vườn lại e ngại khi lìa quê, theo
chồng tận chốn chim kêu vượn hú” (Văn minh miệt vườn, tr. 387).
Không dừng lại ở đó, những đặc điểm về khí hậu, thổ ngơi, tính chất hoang sơ,
vắng vẻ tiềm ẩn nhiều hiểm nguy đối với người đi khai hoang của vùng đất này
cũng được nhà văn miêu tả qua nhiều thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn:
“Phía Rạch Giá - Cà Mau là đất xấu, xưa kia ít vườn tược, nước mặn đồng
chua, con người “chân cẳng đóng phèn, quần áo mốc thích (thếch)” (Đồng bằng
sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa, tr. 13)
“Sống bằng nghề vườn ít dầm mưa dãi nắng như nghề ruộng, gặp mưa to
nắng cháy thì cứ vô nhà mà nghỉ. (Văn minh miệt vườn, tr. 308)
“Nhiều vùng hoang vắng, tưởng như chưa ai đến nhưng thấy rải rác năm ba
nấm mồ vô chủ, tự bao giờ, chưa kể những kẻ hùm tha sấu bắt chết ngoài sông cái,
giữa rừng hoang” (Đồng bằng sông Cửu Long- Nét sinh hoạt xưa, tr. 45)
Tác giả Dương Thị Thúy Hằng đã nhận xét về việc sử dụng thành ngữ, tục
ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam như sau: “Quả thật cùng với những đoạn tả cảnh
nhẹ nhàng dung dị, những thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Sơn Nam đã góp
phần không nhỏ trong việc tái hiện hình ảnh của thiên nhiên, đất trời Nam Bộ một
thời mở cõi với tất cả những chi tiết, đường nét sinh động của nó. Đó là một miền
Nam hãy còn ngủ yên trong hoang sơ, vắng vẻ, nơi còn tiềm ẩn biết bao nguy hiểm
và thách thức đối với con người. Nhưng đất ấy, thiên nhiên ấy cũng thật thơ mộng
và đầy hứa hẹn, hoàn toàn có thể sưởi ấm tâm hồn xa xứ của những lưu dân bằng
một cuộc sống ấm no và đầy đủ”. [27; 34]
Tóm lại: Với những đóng góp to lớn của Sơn Nam cho nền văn học miền Nam
nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung, ông xứng đáng là một Nhà Nam Bộ
học. Đóng góp lớn của ông không chỉ thể hiện ở việc tái hiện lại thiên nhiên và cuộc
69
sống của con người Nam Bộ từ thời khai hoang lập ấp mà còn thể hiện ở ngôn ngữ
mang đậm sắc thái địa phương Nam Bộ trong từng trang viết của ông.
3.2.2. Cùng một thế hệ với nhà văn Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc cũng sử
dụng từ ngữ địa phương Nam Bộ để sáng tác. Có thể nói, ngôn ngữ của Bình
Nguyên Lộc cũng là ngôn ngữ đặc trưng của văn chương và cuộc sống miền Nam.
3.2.2.1. Nét đặc trưng Nam Bộ được thể hiện trong việc sử dụng từ ngữ Nam
Bộ để tái hiện khung cảnh nông thôn Nam Bộ
Nếu như Sơn Nam đã dựng lên bức tranh thiên nhiên miền Tây Nam Bộ với
những từ ngữ riêng thì Bình Nguyên Lộc cũng có những bức tranh tương tự. “Rừng
mắm” là truyện ngắn hay, miêu tả cuộc chiến đấu với thiên nhiên, lấn biển để giành
đất sống của những con người mới ở vùng đất xa xôi, tận cùng của Tổ quốc. Có
nhiều đoạn văn hay miêu tả cái thiên nhiên hoang sơ của vùng đất này:
- “ Sau lưng thằng Cộc là những rặng tràm bị cháy xém dưới trận lửa khai
hoang, không chết cháy, nhưng chết nhát, cứ mỗi năm chết lần mòn thêm vài mươi
cây. Mấy hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy, căm hận nhìn
chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù đã lấn đất của chúng,
đã sát hại chúng.
Sau đó, rừng tràm dày mịt, chằng chịt những dây bòng bong, dây choại bò từ
thân cây này sang thân cây khác.
Thằng Cộc lắng tai nhưng không nghe tiếng động nào cả. Nó đánh bạo chen
qua những cây bình bát, cây ráng, mọc xen với tràm, để đi tới đích.
Một ổ chồn cộc bỗng chạy qua trước mặt nó khua lên một cái roạch, làm nó
giựt mình, nhưng tiếng người trên Ô Heo cách đó chừng hai hàng cây giúp nó vững
dạ” [38; 647]
Hay là:
- “ Đủ thứ là cò: cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò hương thân mật nhìn gia
đình bốn người gặt lúa nhà. Đây là bốn người độc nhứt mà chúng thấy mỗi ngày ở
vùng hoang vắng này; ban đầu chúng sợ hãi họ, nhưng về sau thấy họ hiền từ quá,
chúng làm quen với họ đã được ba, bốn thế hệ cò rồi” [38; 655]
70
Các từ ngữ chỉ động và thực vật của Nam Bộ cũng được tìm thấy trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc, nhưng không phong phú và đa dạng như trong tác
phẩm của Sơn Nam. Điều này hẳn có lý do. Ngôn ngữ, suy cho cùng, nó là một
phương tiện biểu đạt, nhằm thể hiện nội dung mà tác giả muốn đề cập. Trong sáu
mươi năm cầm bút, các sáng tác của Sơn Nam đều tập trung vào một chủ đề lớn: tái
hiện lại quá trình mở mang bờ cõi của những lưu dân miền Bắc và Trung ở vùng đất
mới. Do đó, nội dung sáng tác của Sơn Nam là thiên nhiên, tập quán sinh hoạt và cá
tính của con người Nam Bộ trong suốt quá trình sống, chiến đấu với tự nhiên của
họ. Chính nội dung ấy, chính chủ đề ấy đã chi phối phương tiện ngôn ngữ mà tác
giả sử dụng. Còn Bình Nguyên Lộc, bên cạnh đề tài khai hoang, mở đất, ông còn
khai thác nhiều đề tài khác; bên cạnh việc tái hiện lại thiên nhiên và con người Nam
Bộ, ông còn tái hiện thiên nhiên và con người ở thành thị, đó là Sài Gòn - Gia Định.
Sự đa dạng về đề tài đã góp phần phân tán những từ ngữ mà tác giả sử dụng để
sáng tác. Vì thế, sự phong phú hơn về lớp từ ngữ này trong tác phẩm của Sơn Nam
so với tác phẩm của Bình Nguyên Lộc là điều dễ hiểu.
Nhưng khác với vùng Tây Nam Bộ, bên cạnh những bức tranh sông nước,
Bình Nguyên Lộc còn khắc họa một nông thôn Đông Nam Bộ với hình ảnh, màu
sắc đặc trưng của những cây dầu lông vùng Tân Uyên, quê ông:
“ Nếu cây trắc giống như người già háp, lâu lớn, cằn cỗi, cây sao giống một
người mạnh mẽ, vừa tầm thì cây dầu giống một anh cao lỏng khỏng, y phục lại đơn
sơ.[…] Rừng dầu thưa, thân suôn đuồn đuột vươn mình lên cao mãi tận đâu.[…]
Trên lớp lá dầu tròn, xòe ra như cánh quạt bông dầu nhuộm hồng cả khu rừng.
Bông dầu lông đỏ lợt, lấm tấm những điểm trắng rất đẹp. Họ đạp lên những lá dầu
kêu rôm rốp. Trên đầu họ, ong kêu vù vù là muôn ngàn người đương trò chuyện
trên ngọn cây. Những miệng dầu bị đốt, hả miệng đen ngòm dưới ngọn cây”[39 ;
46]
Ở đây, những cây trắc, cây sao, cây dầu hiện lên sinh động với những gam
màu hồng, xanh, trắng và đen, những âm thanh vù vù, rôm rốp. Đặc biệt, bằng việc
sử dụng những từ ngữ sắc thái hóa cao: cao lỏng khỏng, suôn đuồn đuột, đen ngòm,
71
Bình Nguyên Lộc đã dựng lên trước mắt người đọc một rừng cây dầu quê ông.
Những ai chưa từng nhìn thấy cây dầu một lần cũng có thể hình dung được qua
trang văn của tác giả. Bởi lẽ, bản thân những từ ngữ sắc thái hóa trên đã giới thiệu
một cách rõ nét, cụ thể về đối tượng mà chúng biểu đạt.
Còn đây lại là một góc quen thuộc nữa của làng quê Đông Nam Bộ, nhưng
không thấy ở làng quê Tây Nam Bộ:
“ Rừng cao su dày mịt hai bên đường đuổi cả nắng ở đây không còn sót một
giọt. Những cây cao su già cỗi trồng ven đường giao nhành lại với nhau kết thành
một vòm xanh che kín mít…” [39 ;28]
Ấn tượng về một rừng cao su mang đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ là sự
dày mịt, kín mít. Hai tính từ chỉ mức độ cao này đã diễn tả được mật độ của những
cây cao su, cây này nối tiếp và đan xen với cây kia che mát cả một không gian rộng
lớn mà nói như tác giả là chúng “đuổi cả nắng ở đây không còn sót một giọt”.
Bên cạnh không gian nông thôn, Bình Nguyên Lộc còn khắc họa một không
gian đô thị. Không gian đô thị trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc là không gian
của một Sài Gòn, Sài Gòn trong hiện tại và cả một Sài Gòn trong tâm tưởng của tác
giả.
Sài Gòn trong con mắt của nhà văn là Sài Gòn của những hàng me, “ những
hàng me chứa chấp cô Mùa, một cô gái quê ít dám héo lánh đến thành phố. Chính
trên mớ tóc xanh biến màu theo thời tiết của người mà khách yêu thiên nhiên tìm
dấu chân Mùa hàng năm len lén đến vài lần nơi thành phố”[ 38;818] và đây là
những chi tiết miêu tả về chính hàng me ấy: “ Me vốn đẹp với thân cây đều đặn,
không cao lỏng khỏng như dầu, không lùn tịt như xanh, đẹp với cỏ cây cằn cỗi
những cội tùng già bên chùa cổ trên một sườn non, với rêu xanh non mởn bám trên
vỏ sậm đen, đẹp như non bộ dày sương dạn gió, với tàn không thưa, không xơ rơ
như tàn sầu riêng, không dày mịt như măng cụt, vốn nó đã đẹp ở ngoài thiên nhiên
rồi, mà trồng trên vỉa hè đá, bên cạnh những ngôi nhà xi măng cốt sắt, khô, nắng và
buồn, thì nó đẹp hơn biết bao!” [38; 817]
72
Sài Gòn trong tâm tưởng của tác giả còn là dòng sông Ông Lãnh, “ con sông
gợi tình, thỉnh thoảng màu nước xanh biến ra vàng sậm vì từ lòng cạn vẩn lên phù
sa gợi nhớ Thủy Chân Lạp hoang vu, nê địa, gợi nhớ cuộc đổ xô vào Nam, gợi hình
ảnh đẹp đẽ của đoàn người chiến đấu với thiên nhiên để khai thác đất mới” [38;
820]
Sài Gòn không chỉ có những hàng me, những con sông gợi tình mà có cả một
nghĩa địa của những hồn ma cũ. “ Đi trên vỉa hè, phố Bùi Chu đến góc Bùi Chu –
Bùi Thị Xuân bạn bỗng nghe một cảm giác là lạ dưới chơn. Vỉa hè đất thịt bằng
phẳng bỗng gập ghềnh và làm cho tiếng giày của bạn vang lên. Nhìn xuống, bạn
mới nhận ra dấu vết của một mả vôi trám cả bề rộng khá lớn của vỉa hè” và bạn
khám phá ra “ thành phố của ta xây cất trên một bãi tha ma minh mông” [38; 873]
3.2.2.2. Nét đặc trưng Nam Bộ thể hiện trong cách đặt tên riêng của nhân vật
Đọc tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, ta thấy rất nhiều nhân vật hiện lên với
cái tên “ rặt Nam Bộ”. Chỉ cần đọc tên là biết người dân của miền nào: Cậu Hai
Qườn, anh Xòn ( Đò dọc), thằng Cộc, con Thôi ( Rừng mắm), anh Nhánh ( Không
một tiếng vang), con Nhộng ( Má ơi! Má! ), con Dừa ( Cây Đào lộn hột), thằng Bò,
thằng Mận, thằng Nhóm, thằng Ngộ, ông Hương cả Mộc, anh thợ cày Mừng, bác
thợ rèn Nứa, thầy giáo Rô ( Tiếng vang trễ muộn)
3.2.2.3. Đặc biệt, nét riêng Nam Bộ còn được thể hiện trong cách vận dụng từ
ngữ và cách diễn đạt rất điển hình của quần chúng bình dân miền Nam.
Chẳng hạn:
“ – Gì đó chị Sáu? – Chú Tư Ngộ hỏi.
- Hu…hu…hu, bà con ơi, anh Nhánh ảnh lặn mất rồi
- Từ bao lâu?
- Độ tàn hai điếu thuốc.
- Dữ hôn? Sao không đợi tới chiều hãy la làng cầu cứu.” [37; 112]
Cách nói của nhân vật là cách diễn đạt rất điển hình của người bình dân Nam
Bộ. Cụm từ “ độ tàn hai điếu thuốc” là những từ ngữ thể hiện cách xác định không
gian rất đặc trưng của người bình dân Nam Bộ. Thời gian ở đây không qui định một
73
cách chính xác, mà nó tùy thuộc vào cảm nhận chủ quan của người nói.. Ngoài việc
dùng thời gian tàn điếu thuốc để đo lường thời gian, người Nam Bộ còn dùng con
nước, con bóng để xác định thời gian:
“ – Nước gần đứng lớn chưa?
- Mới có nửa con nước, còn lâu mà.
- Nửa con nước, nhưng ta chưa đầy nửa ghe cát.
- Khi mạnh khỏe thì khác, giờ bệnh hoạn thì khác chớ! Mình cứ muốn đầy ghe
trong một con nước sao được?” [37; 110]
“ – Mày đi đâu mà tới đứng bóng mới về?- Má thằng Cộc hỏi.
- Tôi đi lượm lông chim lông ô.
- Lông đâu?
- Mà kiếm hoài hổng có.
- Mồ tổ cha mày, nhiều chuyện. Chim lông ô đời xưa chứ đời nay đâu còn
nữa. Mai gặt nghe không? Ăn cơm khuya rồi xuống đồng cho sớm, đừng đi đâu
hết” [38; 651]
Cách đo độ dài của không gian cũng thế. Người miền Nam thường đo độ dài
không gian ước lượng bằng dặm hú : “ Trọn vùng này, ông nội nó đặt tên là Ô Heo.
Nhưng trong gia quyến của nó thì Ô Heo chính hiệu là một cái gò xa ở tận trên kia,
cách mé rạch đến hai dặm hú” [38; 645]
Cách đo thời gian, không gian như thế cho thấy đặc điểm, tính cách phóng
khoáng của người dân Nam Bộ. Họ không cần dùng đến những cách đo lường chính
xác tuyệt đối chỉ cốt làm sao thể hiện được điều mình muốn nói, đồng thời người
nghe cũng lĩnh hội được điều đó là được. Là một người con của đất Nam Bộ, Bình
Nguyên Lộc đã thể hiện điều đó thật hay trong tác phẩm.
Nếu truyện của Sơn Nam có nhiều đoạn đối thoại để lại nhiều ấn tượng cho
người đọc về đối đáp mộc mạc, chân tình, nhưng rất duyên dáng của người Nam Bộ
thì trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc cũng có không ít những đoạn đối thoại
như vậy. Chúng ta hay nghe cuộc trò chuyện của bốn chị em của Thái Huyên Trang
với cậu Hai Qườn trong tiểu thuyết Đò dọc:
74
“ – Độ rày cậu làm gì cậu Hai? – Hoa lại hỏi.
- Cũng hổng cần làm gì. À, mà tui có tự túc một bầy gà Huê Kỳ, coi bộ tương
lai quá khứ.
….
- Tự túc là gì cậu? – Hương hỏi thật tình
- Tự túc là nuôi, chớ là gì?
- Vậy hà, còn “ tương lai quá khứ”?
- Tương lai là tương lai, còn quá khứ là quá xá. Tiếng mới mà. Tui nghe họ
nói hay quá, nên tui bắt chước dùng theo. Thí dụ phạm tội họ nói phạm vi. Thù vặt
họ nói cá nhân, nghe hay quá khứ.
Hoa và Qúa núp sau lưng hai chị mà cười đến chảy nước mắt. Cô Qúa, mặt
mày đỏ rần, bước ra khỏi chỗ núp nói:
- Hôm nay cậu mặc đồ xanh trông đẹp trai quá khứ, nhưng cậu lại phạm vi về
đôi dép. Dép phải quai màu đỏ mới ăn với màu xanh nầy. Tui tính thiệt nói ngay,
cậu đừng có cá nhân tui nghen!
- Tui người quân tử mà, ai lại cá nhân cô” [39; 67]
Hay cuộc đối thoại sau đây trong “ Hai buổi giậm cù”:
“ – Ra đây chơi anh. Ở miệt trển chắc mấy anh ăn cực lắm?
- Thì đành là kham khổ rồi. Có khi chúng tôi chỉ ăn muối sả.
- Ở đây thì tôm cá ê hề. Biết rõ tình cảnh mấy anh, có khi nhớ tới chúng tôi
nuốt không vô. Bữa nay tôi tính đãi anh một bữa thịt chuột.
- Sướng a, chuột rô ti! Mà làm sao có?
- Thì đi bắt đây.
- Bắt chuột bằng đó? Tôi tưởng anh đi bắt cá chớ!
- Anh quên rồi sao? Giậm cù mà.
- Ờ phải, tôi mau quên quá.
- Mau đâu, hai mươi năm rồi, còn gì nữa” [37; 326]
Dù chú ý sử dụng từ ngữ địa phương bình dân, giản dị nhưng Bình Nguyên
Lộc không hề lạm dụng nó để làm nổi bật sắc thái địa phương mà tùy đối tượng, tùy
75
chủ đề tác phẩm mà ông sử dụng . Bên cạnh việc thể hiện cách nói của người bình
dân, trong tác phẩm, chúng ta còn bắt gặp cách nói của người đô thị, của tầng lớp trí
thức. Điều đó được nhận biết bằng cách ông sử dụng nhiều từ ngữ vay mượn từ
tiếng Pháp và việc sử dụng kết hợp giữa những từ tiếng Việt chuẩn và những từ ngữ
Nam Bộ trong cách dẫn truyện cũng như lời đối thoại của nhân vật.
“- Có bao giờ anh Lưu đưa chị đi xi nê không?
- Anh mà xấu quá! Chắc ảnh để dành xe đặng chở bạn gái chớ gì?
- Ai biết đâu. Hình như là ảnh không có bạn gái.” [40; 1025]
Hay:
-“ Từ ngày xóm tiếp nhận nữ khách mới thì cậu xức nước hoa chế tạo ở Chợ
Lớn mà nhét mù soa nhỏ có thêu chéo xanh xanh, đỏ đỏ, trên miệng túi pi gia ma”
[39; 65]
“- Chàng không đi thăm Liễu nữa, bụng bảo dạ để Liễu tự do lựa chọn, vì biết
đâu đêm ra ngoài xã hội mà người Pháp nói là vào xã hội, nuốt mất đi hai tiếng mô
đen, biết đâu đêm đầu tiên ấy nàng đã gặp ngay người lý tưởng” [40; 1067]
“ Qúa cầm chiếc nhà non bộ giữa hai ngon tay rồi hô lên:
- Búp bê lô- canh, không bằng nhựa mà bằng đất hầm” [39; 240]
“ Nỗi khổ của tôi bắt đầu từ hôm pic nic ấy”.Tôi có mang theo bánh mì, lạp
xưởng và nước trà nóng đựng trong bình thủy nên khỏi phải làm việc. Chính anh
Minh, ba của con bé Liên của chúng tôi, đã đòi hỏi như vậy, anh ấy cho rằng ăn
bánh mì tuy không ngon bằng ăn cơm nhưng anh ấy không muốn thấy tôi cực nhọc
cả trong ngày nghỉ cuối tuần nữa” [38; 959]
2.2.4. Bên cạnh ngôn ngữ giản dị, trong sáng dễ hiểu, ngôn ngữ trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc còn mang nét dí dỏm, thông minh và không thiếu những triết lý
sắc sảo.
Đây là điểm khác so với ngôn ngữ của Nhà Nam Bộ học, Sơn Nam
Sự dí dỏm, thông minh trong cách nói của nhân vật cũng như trong cách dẫn
truyện chính là sự khéo léo trong cách vận dụng từ ngữ của tác giả. Người đọc cảm
thấy hứng thú và bị lôi cuốn khi đọc văn ông. Để đạt được điều đó, nhà văn đã rất
76
chắt lọc, tìm tòi những từ ngữ hay nhất trên cái nền của từ ngữ địa phương Nam Bộ.
Chúng ta hãy nghe những cuộc trò chuyện của những người trong gia đình ông Nam
Thành về việc phân công lao động giữa các thành viên ngay sau khi họ vừa chuyển
từ Sài Gòn đến một vùng nông thôn hẻo lánh:
“ - Ở nhà quê phải vậy. Có nhậu mới có tới lui xóm giềng được. À, thay phiên
nhau đi chợ, rồi thay phiên nhau mà giặt dịa.
- Bàn ủi điện má bán rồi, còn đâu mà…
- Má mầy bán là phải, ở đây lấy đâu ra điện. Mà không cần mặc đồ ủi nữa.
Có muốn làm dáng hãy tự ủi lấy.
- Ủi điện?
- Phải, ủi điện, mà là điện trời, nghĩa là vuốt cho thẳng, xếp tử tế rồi để dưới
gối nằm đè lên đó, thì nó sẽ láng như là…
Cả nhà cười ngả nghiêng ngả ngửa
Ông Nam Thành lại tiếp:
- Thay phiên nhau giặt dịa, rồi áp nhau mà làm vườn.
- Đi chợ rồi nghỉ, giặt dịa rồi nghỉ, làm vườn rồi nghỉ, rửa chén rồi nghỉ,, cho
heo ăn rồi nghỉ, phải không ba? – Cô Hoa ranh mãnh hỏi cha như vậy.
- Đúng!
- Ứ hự!
- Còn chị Hai, ba?
- Con Hai làm bếp. Nên nói rõ chi tiết. Làm vườn gồm có những công việc sau
đây: nhổ cỏ, kéo nước tưới cây, bắt sâu, cho heo, cho gà ăn,…
- Ba trộn lộn chăn nuôi và trồng trọt. Đó là hai khoa khác nhau. Con học ở
trường họ dạy như vậy.
- Hay là con Ba biệt phái chăn nuôi. Hai đứa kia làm vườn – Ông Nam Thành
đề nghị sau lời cãi lý của Hoa.
- Không đâu, con muốn chăn nuôi hè!
- Con cũng vậy!
- Ừ, oẳn tù tì, đứa nào thắng là được chăn nuôi.
77
- Thôi, đừng cà rỡn nữa. Phận sự của bốn đứa bây đã rõ rồi. Còn bà, bà kiểm
soát, nhắc nhở chúng nó, và xuất phát tiền bạc.
- Còn ông?
- Tôi ấy à? Tôi thì tôi làm tất cả các công việc còn lại chưa ai nhận lãnh.
- Đâu còn công việc gì, ba – Hoa cãi.
- Ba ăn gian quá! Quá phàn nàn.
- Sao lại không còn? Tiếp khách nè, đi thăm xóm giềng nè…
- Nhậu nè, - Bà Nam Thành vừa xỉa thuốc sống, vừa tiếp lời chồng và bốn cô
con gái đều cười rộ lên.
- Nói chơi chứ ba sẽ làm tất cả công việc nặng mà mẹ con bây không làm nổi.
Nội hai việc sau đây, thử hỏi đứa nào dám đảm đương không? Đó là việc canh ăn
trộm và coi chừng ma cho bây ngủ” [39; 34-35]
Đôi khi, ngôn ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc đã đem
đến những triết lý sâu sắc, những điều giản dị nhưng người ta lại bỏ quên. Nhà văn
Tạo, nhân vật chính trong truyện ngắn “ Nhốt gió” đã nhận ra được một chân lý:
không thể nhốt những tư tưởng mới mẻ của lớp trẻ khi chúng ta đang sống trong
một xã hội luôn luôn vận động và phát triển, sau khi anh vô tình bắt gặp hình ảnh
một thằng bé đang cố hết sức để kìm giữ gió làm sập nhà chòi của nó, nhưng không
sao làm được:
“ Chàng đâm ra hoài nghi. Phải chăng lòng và trí người luôn thay đổi và cái
văn hóa phương Tây mà chàng hấp thụ được và tưởng là bât di, bất dịch cũng
đương biến chuyển mà chàng không dè.
Có thể như vậy lắm. Là vì chàng đã luyện con theo óc của chàng, chàng không
cổ hủ, mà sự xung đột lại bắt đầu
Chàng có thể cấm thằng Kiệt bỏ chàng lại sau chăng? Không! Chàng biết lịch
sử nhân loại. Không có một thí dụ nào chứng tỏ rằng người ta có thể ngăn cản tư
tưởng được hết. Nó như làn sóng vỡ bờ, lôi cuốn tất cả mọi chướng ngại vật. Và
như làn sóng, nó sẽ chết đi nơi bờ bến nào đó, trong khi những làn sóng khác tiếp
nhau mà rượt nó. Nó sẽ chết như vậy, và chỉ như vậy” [37; 259]
78
Bằng những từ ngữ Nam Bộ trong sáng, kết hợp với lối so sánh chính xác hợp
lý, Bình Nguyên Lộc đã mang đến những triết lý vừa mới mẻ vừa rất giản dị trong
cuộc sống hằng ngày.
Còn đây là những dòng văn đầy triết lý khác được rút ra bằng những lời độc
thoại nội tâm của Nhâm. Nhân vật Nhâm đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống hiện tại
khi chàng vừa bước qua ranh giới của những hoài niệm về một thời thơ dại. Nơi đó
chất chứa kỉ niệm trong sáng về người yêu, về những ngày tươi đẹp đã qua đi không
bao giờ trở lại.
“ Hiện tại có thiệt là tốt đẹp chăng?” – Nhâm lặp lại trong trí câu hỏi đó.
Chắc chắn là không, vì chàng đang nghe khó chịu. “ Nhưng cái gì mới thật tốt đẹp
chớ?” . Nhâm rối trí, điên đầu. “ Ngày mai, ừ, ngày mai sẽ tốt đẹp chăng?”. Hôm
nay đã là ngày mai của quá khứ, mà nó không đẹp thì ngày mai của hôm nay lại
đẹp gì hơn? Thế thì mình không bao giờ yên lòng được à? Hay là mình sẽ ráng làm
sao cho ngày mai trở nên tươi đẹp? Ừ, có thể lắm đó chớ!” [37; 318]
Có một điều thú vị từ trong ngôn từ của Bình Nguyên Lộc đó là tuy mang tính
triết lý nhưng vẫn gần gũi và dễ hiễu với người đọc. Bởi lẽ, các nhân vật trong tác
phẩm của ông là những con người hết sức bình thường, và những điều ông muốn
gửi gắm cũng không ở đâu xa mà ở ngay trong cuộc sống bình thường xung quanh
ta. Cũng vì hết sức bình thường như vậy nên mới dễ làm người đọc thấy rằng truyện
của Bình Nguyên Lộc rất gần gũi và điều ông muốn gửi gắm lại nhận được sự đồng
cảm của rất nhiều độc giả, không cứ là người nhiều chữ hay ít chữ. Đó là một thành
công lớn trong việc sử dụng ngôn từ của Bình Nguyên Lộc.
Tóm lại: Cùng là nhà văn Nam Bộ, cùng sử dụng một chất liệu ngôn ngữ Nam
Bộ để sáng tác nhưng ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam như hai nhánh
rẽ từ một con sông: một nhánh đi về hướng Đông Nam Bộ, một nhánh đi về hướng
Tây Nam Bộ. Cả hai cùng bổ sung cho nhau làm nên nhiều màu sắc, hương thơm
cho ngôn ngữ văn chương Nam Bộ.
79
3.3. Nhận định chung về đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc
Trong lịch sử văn học miền Nam, với chủ trương thể hiện tinh thần yêu
chuộng thứ tiếng nói nôm na, bình dị của quê hương, các nhà văn miền Nam đã đưa
ngôn ngữ Nam Bộ vào trong sáng tác và đã tạo nên màu sắc riêng cho vườn hoa văn
học nước nhà. Khoảng 1930 đến 1975, văn học miền Nam phát triển mạnh mẽ với
sự xuất hiện của nhiều tên tuổi được người đọc biết đến. Có những tác giả sinh ra ở
miền Bắc nhưng cuộc đời và sự nghiệp sáng tác gắn liền với Nam Bộ, sáng tác của
họ là sự pha trộn giữa ngôn ngữ miền Bắc và ngôn ngữ miền Nam như Lê Văn
Trương, Nguyễn Hiến Lê. Cũng có những tác giả sinh ra, sống và sáng tác ở miền
Nam nhưng sáng tác hoàn toàn theo ngôn ngữ miền Bắc như Đông Hồ, Mộng
Tuyết. Đọc tác phẩm của họ,chúng ta hoàn toàn không thể phân biệt với các tác
phẩm của các tác giả miền Bắc. Bên cạnh đó có những tác giả sử dụng thứ ngôn ngữ
đặc sệt chất Nam Bộ như Sơn Nam, Phi Vân. . . Bình Nguyên Lộc lại có một cách
vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ khác.
Không chỉ là nhà văn mà còn là nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Bình Nguyên Lộc
từng viết một số công trình khảo cứu đặc sắc như “Lột trần Việt ngữ”, “Nguồn gốc
Mã Lai của dân tộc Việt”,… thể hiện những tìm tòi, hiểu biết sâu rộng của ông về
thứ tiếng mẹ đẻ thân thương của mỗi con người Việt Nam. Am tường tiếng Việt,
yêu tha thiết quê hương Nam Bộ, Bình Nguyên Lộc đã sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ
làm chất liệu chính cho tác phẩm của mình. Tuy nhiên, ngôn ngữ Nam Bộ trong
truyện ngắn của ông là sự giao thoa văn hóa giữa hai miền Nam và Bắc. Bởi lẽ sử
dụng ngôn ngữ Nam Bộ, nhưng Bình Nguyên Lộc vẫn luôn giữ tác phong tỉ mỉ, chu
đáo của một nhà nghiên cứu khi thường hay đệm vào tác phẩm của mình những dẫn
giải, so sánh ngôn ngữ hai miền Nam Bắc. Nhìn chung, ngôn ngữ Nam Bộ trong
truyện ngắn Bình Nguyên Lộc có được sự kết hợp nhuần nhuyễn, tinh tế giữa sắc
thái phương ngữ Nam Bộ đậm đà và chất trau chuốt, mượt mà của tiếng Việt phổ
thông. Đặc điểm này thể hiện qua các yếu tố sau:
80
3.3.1. Ngôn ngữ kể chuyện mang màu sắc địa phương Nam Bộ sinh động, giàu
âm thanh, hình ảnh
Cùng với giọng điệu hóm hỉnh, duyên dáng, ngôn ngữ kể chuyện của Bình
Nguyên Lộc còn đặc biệt hấp dẫn bởi cách sử dụng tối đa các từ ngữ gợi hình ảnh,
âm thanh vô cùng phong phú và độc đáo. Ông thường sử dụng những từ đa tiết: ong
óng, lầm rầm, lụp cụp, lổn rổn,…để diễn tả đặc điểm, tính chất của sự vật, hiện
tượng.
Trong sáng tác, Bình Nguyên Lộc có thói quen quan sát và lắng nghe mọi âm
thanh của đời sống. Mọi thứ đều được ghi nhận trong tư duy của nhà văn, và được
diễn đạt lại bằng vốn từ địa phương phong phú của ông. Bình Nguyên Lộc nghe
được những thứ âm thanh lạ lùng mà rất gần gũi với đời sống: tiếng đất hấp hối,
quằn quại, nặng nề; tiếng trở mình của lá chết; tiếng “đồng hồ bụng” của anh Chím
Rắc; tiếng hát của người phổ ky trong tiệm ăn Tàu, tiếng tre nứa gặp lửa nổ lắc rắc,
tiếng ruồi bay vù vù. . . Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc như những cuốn phim
có âm thanh nổi được dựng bằng ngôn ngữ. Mặc dù Bình Nguyên Lộc không phải
là người đầu tiên, cũng không phải là người duy nhất sử dụng ngôn từ tái hiện âm
thanh cuộc sống: trước ông có Hồ Biểu Chánh, sau có Phi Vân, Sơn Nam cũng có
những đoạn văn “nổi” về âm thanh như thế. Tuy nhiên, Bình Nguyên Lộc vẫn có cái
đặc sắc của riêng mình khi dùng âm thanh cuộc sống chuyển tải qua ngôn ngữ làm
nên giọng văn đa dạng, sống động cho tác phẩm của mình. “Hồi bảy giờ rưỡi, thình
lình một tiếng đá rơi trên ngói nghe chát chúa. Mợ của Hén rủa: “Quân dịch vật,
ban đêm mà cũng bắn giàn thun cho bể ngói của người ta hết.
Cậu của Hén cũng có mặt ở dưới nhà bếp, chỉ làm thinh thôi, nhưng châu mày
suy nghĩ. Trẻ con bắn giàn thun bằng sỏi nhỏ cỡ ngón tay cái. Sỏi ấy rơi xuống ngói
rồi thì lăn đi, kêu rổn rổn, nghe như cả mái ngói đều bể hết, nhưng không sao cả.
Trong trường hợp này, tiếng chạm rất ngắn, nghe biết ngói bể, nhưng chỉ bể vài
tấm thôi rồi cái vật này nằm yên nơi chứ không lăn xuống dốc mái nhà, chứng tỏ nó
nặng lắm.” [38; 1018]
Hoặc:
81
“Một tiếng súng. Trả lời tiếng súng ấy, mấy mươi chiếc phèng la đánh lên một
lượt, rồi mấy trăm người hô lên một lượt để ra hiệu khởi hành:
Phèng!
-Hè!
Phèng!
-Hè!
Bây giờ sông nổi sóng. Mũi ghe rẽ nước vo vo. Giầm chém xuống mặt sông
làm bắn nước lên trắng như bọt thác.
Phèng!
-Hè!” [38; 785]
Một hòn sỏi nhỏ rơi trên mái ngói, những tiếng phèng la, tiếng người, tiếng
ghe rẽ nước… được tác giả chọn lựa từ ngữ miêu tả thật chuẩn xác: rổn rổn, phèng,
hè, vo vo…Điều này chứng tỏ nhà văn có một đôi tai vô cùng tinh nhạy. Cùng với
việc sử dụng từ ngữ tượng thanh, Bình Nguyên Lộc lại tài tình sử dụng những cách
thức so sánh để tô đậm âm thanh trong tác phẩm của mình, lối so sánh độc đáo,
chính xác và tài hoa: “...khà một tiếng dài như rắn hổ” [38; 781]
Không chỉ âm thanh được chú ý tô đậm trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc,
mà cả hình ảnh cũng thế. Tác giả cũng sử dụng nhiều từ ngữ gợi hình, nhiều cách
thức so sánh để làm nổi bật hình ảnh thiên nhiên, con người. Những tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc thực sự là những bức tranh cuộc sống và con người muôn màu,
muôn vẻ. Bình Nguyên Lộc thường hay “hình tượng hóa” tâm trạng của con người:
“…lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi trước gió to” [38; 705]; “ ...khi mà mùi
hương nặc danh kia như bấm một cái nút điện làm hoạt động cả bộ máy kí ức của
chàng…”[38; 679].Tác giả cũng có những phát hiện thật sống động và đẹp đẽ về
thiên nhiên, như khi miêu tả cảnh con chim thằng chài lao mình xuống nước bắt cá
trong “Rừng mắm”: “Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi
như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng
nước nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, miệng ngậm một con cá
nhỏ…”[38; 643]. So sánh động tác nhanh lẹ, chuẩn xác của chim bói cá bằng hình
ảnh “cục cao su” thì quả là tài tình. Còn hình ảnh nào sống động và hợp lí hơn thế?
82
Hoặc khi tả hình ảnh đoàn ghe thắng cuộc trong “Đồng đội”, Bình Nguyên Lộc lại
liên tưởng tới một con rít khổng lồ: “Ba mươi chiếc giầm sơn đỏ của ghe An Thịt
bỗng giơ cao lên một lượt để chào quan khách trong bờ. Khán giả có ấn tượng như
thấy một con rít chạy tới đó rồi ngã lăn đùng ra, đưa mấy trăm chân lên trời.” [37;
790]. Sinh động, phong phú là điểm đặc sắc trong ngôn ngữ truyện kể của Bình
Nguyên Lộc. Cách thức dùng ngữ âm diễn tả âm thanh, dùng từ ngữ, lối so sánh để
làm nổi bật hình ảnh một cách tài hoa khiến cho Bình Nguyên Lộc được xem là nhà
văn có khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện, thậm chí có nhà nghiên
cứu còn gọi Bình Nguyên Lộc là “nhà ảo thuật về ngôn từ”(Nguyễn Quốc Trụ)
Xét trên bình diện ngôn từ, Bình Nguyên Lộc đã dùng nhiều từ ngữ Nam Bộ
rất đắt. Ngoài những từ thông dụng, thường nhật, ông còn sử dụng vốn từ Nam Bộ
đặc thù, không phải nhà văn Nam Bộ nào cũng dùng. Trong tác phẩm “ Rừng
mắm”, ta thấy xuất hiện những từ như: trù xa (lo tính xa), dặm hú (khoảng đường
đo bằng tiếng hú), chết nhát (chết lần mòn), quá mùa hò ( qua thời con gái), rị (ghì
lại), đứng bóng ( xế trưa); trong tác phẩm “ Ma rừng” ông sử dụng những từ như :
hàng đen (trâu bò trộm được), hàng trắng ( trâu bò mua hợp pháp), bò bu ( bò lớn
con), nằm cát ( bò lười); trong “ Không một tiếng vang” những từ ngữ như: đứng
ròng (nước chuẩn bị ròng), đứng lớn (nước chuẩn bị lớn) đã được ông sử dụng;
trong “ Tì vết tâm linh” ta thấy xuất hiện những từ như: nê địa ( bùn đất), giấy
kiếng ( giấy trong có thể nhìn xuyên qua được), xẹt ( đi nhanh), nuối ( kéo dài sự
sống), hay trong “ Đồng đội” tác giả dùng từ như: xà bát (người cầm giầm lái), dồn
cục ( kẹt ứ đọng),...Lớp từ này làm phong phú them lối diễn đạt theo văn phong
Nam Bộ. Trên những trang văn của Bình Nguyên Lộc, nhiều từ ngữ Nam Bộ độc
đáo đã được lưu giữ cho đến ngày hôm nay.
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật đa dạng về tính cách, đậm phong cách Nam Bộ
Bình Nguyên Lộc hết sức chú ý đến việc dùng ngôn ngữ để giới thiệu và khắc
họa trình độ văn hóa, giai cấp xã hội, hoàn cảnh – nghề nghiệp của nhân vật. Nhờ
thế, mỗi con người trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc đều hiện ra với những nét
tính cách riêng biệt, với thói quen ngôn ngữ cũng riêng biệt. Người Nam Bộ có thói
83
quen nói năng mộc mạc, chân chất. Cái chất mộc mạc ấy thể hiện ở cách xưng hô dễ
dãi, buông tuồng có thể làm cho người ta hiểu lầm: cha mẹ thường xưng hô với con
cái là “mầy/bây- tao”, ngược lại con cái xưng hô với cha mẹ, ông bà là “ba(má),
ông/bà – tui”…Cách xưng hô đó được sử dụng như một cách nói thân mật, xuề xòa
trong gia đình người bình dân, hầu như không có ý diễn tả sự giận dữ, hay thái độ
xấc xược (Rừng mắm, Phân nửa con người,…). Thậm chí, trong một số gia đình
nông thôn Nam Bộ, chồng cũng gọi vợ là “mày”, xưng “tao” một cách bình thường
(Không một tiếng vang, Không có thứ thiệt…). Với những gia đình trí thức ở thị
thành thì cách xưng hô của họ có phần lịch sự và trau chuốt hơn (Lửa tết, Bức thư
đến trễ, Ho lao muôn năm…)
Xưng hô buông tuồng, thô ráp, người Nam Bộ lại có kiểu nói bị đánh giá là
“cộc lốc”, đặc biệt trong ngôn ngữ đối thoại, Bình Nguyên Lộc hay sử dụng những
câu ngắn, hoặc những câu tỉnh lược để diễn đạt tập quán ngôn ngữ này của người
Nam Bộ như một vài ví dụ sau đây:
“- Chị đã đỡ bớt hay chưa? –Anh hỏi bậy cho có chuyện.
- Có uống mẹ gì đâu mà đỡ bớt.
- Chị nghe trong mình làm sao?
- Không biết. Nhưng nếu ăn được một chén cháo thì khỏe.”
[38; 685]
- Nội nè, hồi mới tới, giữa mùa nắng, mình uống nước gì, tui quên rồi?
. . .
- Uống nước đọng trên lung, trên rừng, chớ uống nước gì.
- Sao mình tới đây ông nội?
- Đã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ mình không có ruộng, làm công cả đời, khổ
lắm.
- Ở đây, mình có ruộng nhưng cũng khổ cả đời.”[38; 652]
Lời ăn tiếng nói mộc mạc như chính tâm hồn người bình dân Nam Bộ. Không
cầu kì, không văn hoa bóng bẩy, ngôn ngữ của họ thể hiện tính cách thẳng thắn, tấm
lòng chân thành với con người và cuộc sống chung quanh mình. Thế nhưng cũng có
84
khi, những người bình dân ấy trở nên sâu sắc, trầm ngâm với những suy nghĩ,
những lí lẽ thấm đượm nghĩa tình: “Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm
trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần
rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời mắm tuy vô ích, nhưng không
uổng. Như lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho con cháu của họ
hưởng.”[38; 660]
Với người trí thức ở thành thị, Bình Nguyên Lộc đặt vào miệng họ một thứ
ngôn ngữ pha trộn. Đó là sự pha trộn giữa ngôn ngữ bình dân Nam Bộ, ngôn ngữ
chải chuốt, văn hoa xen lẫn một ít từ ngữ vay mượn có nguồn gốc Pháp, Mĩ, Trung
Hoa. . . là bằng chứng của quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa giữa các ngôn ngữ
cùng tồn tại ở đô thị miền Nam trước 1975. Ngôn ngữ của họ mang tính triết lí hơn,
cũng mượt mà hơn, thể hiện vốn sống phong phú, khả năng chiêm nghiệm đời sống:
“…Chuyện con chim Phượng không phải là tin nhảm. Đó là giấc mơ trẻ thơ.
Không một người lớn nào làm nên sự nghiệp gì đáng kể, nếu thưở bé họ không mơ
những giấc mơ kì thú như Phượng, họ không nuôi nấng những ảo ảnh huyền hoặc
nào.” [38; 980]
“Ai lại chẳng biết rằng việc học chăm đến đâu cũng không giỏi bằng thợ,
rằng ta hà tiện vải đến đâu, áo may cũng không rẻ bằng áo mua, họ may hàng
nghìn cái nên giá vốn rất hạ. Nhưng khi may áo cho con, em sẽ để tấm lòng thương
yêu con vào đó, em sẽ cố gắng và sẽ mến được cái qui phạm may áo và ngày kia em
được đưa vào nếp nội trợ, em làm nội trợ một cách vui thích, nhớ công việc nội trợ
như các cô đào nhớ đèn sân khấu mỗi đêm.” [38; 964]
Tóm lại, vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ là một thành công của Bình Nguyên
Lộc. Tính địa phương trong ngôn ngữ của ông không đặc sệt như Sơn Nam, Phi
Vân, mà nó thể hiện sự kết tinh hòa hợp văn hóa ngôn ngữ giữa các vùng miền, đạt
đến mức nhuần nhuyễn, điêu luyện. Qua ngôn ngữ, Bình Nguyên Lộc thể hiện được
toàn bộ bối cảnh, con người, và cá tính Nam Bộ. Đồng thời, qua đó chúng ta cũng
có thể cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm tha thiết mà nhà văn dành cho lời ăn tiếng
nói của quê mẹ thân thương.
85
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Khi nhắc đến các nhà văn cận đại tiêu biểu của miền Nam, các nhà nghiên
cứu văn học Việt Nam có thể có những nhận định không đồng nhất với nhau về
phương pháp luận, về cách phân chia những khuynh hướng và trào lưu văn học,
nhưng không ai có thể phủ nhận rằng ba cây bút tiêu biểu cho ngôn ngữ miền Nam
là Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam. Cùng sử dụng một chất liệu là
ngôn ngữ địa phương Nam Bộ để sáng tác, nhưng do sống trong những giai đoạn
lịch sử khác nhau và xuất phát từ những mục đích sáng tác không giống nhau, nên
ngôn ngữ văn chương của ba tác giả vừa có những điểm tương đồng, vừa có những
điểm khác biệt nhất định. Cùng với Hồ Biểu Chánh và Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc
đã góp thêm một hương vị mới cho vườn hoa văn học miền Nam nói riêng và đóng
góp cho văn học Việt Nam nói chung. Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc có sự kết hơp hài hòa giữa cái mộc mạc, giản dị, trong sáng, dễ hiểu và
sự trau chuốt, mượt mà, cái sâu sắc, thâm thúy, đầy triết lý từ ngôn ngữ dẫn truyện
cho đến ngôn ngữ của nhân vật. Với thành công này, Bình Nguyên Lộc đã bước
thêm những bước dài, chắc chắn trong việc đưa văn chương Nam Bộ hội nhập với
văn chương cả nước. Đồng thời nêu bật vai trò của phương ngữ Nam Bộ trong tiến
trình phát triển và hành chức của tiếng Việt. Sự thành công của các tác giả Nam Bộ,
trong đó có Bình Nguyên Lộc đã chứng minh rằng sự phát triển của phương ngữ
Nam Bộ đã để lại những dấu ấn nhất định trong văn học viết của Nam Bộ nói riêng
và của văn học Việt Nam nói chung.
86
KẾT LUẬN
Ngôn ngữ, trước hết là một phương tiện biểu đạt. Một tác phẩm văn chương
được xem là hay và có giá trị không thể không kể đến vai trò và giá trị biểu đạt của
ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng trong tác phẩm. Đến với tác phẩm của Bình Nguyên
Lộc, người đọc sẽ thấy rằng, bên cạnh những từ ngữ toàn dân, tác giả đã sử dụng số
lượng rất lớn từ ngữ Nam Bộ và chính nó đã tạo nên nét đẹp đặc trưng của văn
chương Nam Bộ trong kho tàng văn học Việt Nam. Việc sử dụng từ địa phương cho
thấy Bình Nguyên Lộc am hiểu lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Nam Bộ.
Đọc tác phẩm của ông, người đọc như được sống trong không gian Nam Bộ với
những cảnh vật, con người sinh hoạt thật gần gũi, thân quen. Chính vì thế, tác phẩm
của ông dễ dàng tìm được sự đồng cảm, đồng điệu từ độc giả nơi đây.
Không chỉ thế, những từ ngữ Nam Bộ trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc
nói riêng và của các tác giả Nam Bộ nói chung cũng đóng một vai trò quan trọng
trong việc đưa tác phẩm văn chương miền Nam hội nhập với văn chương cả nước.
Nó giúp cho độc giả ở những vùng, miền khác trên cả nước hiểu thêm về thiên
nhiên Nam Bộ, tập quán sinh hoạt và cá tính của con người Nam Bộ, đặc biệt là
hiểu hơn về vốn từ ngữ của người miền Nam. Nó là một chiếc cầu nối hữu hiệu để
những người nói tiếng Việt trên cả nước có thể xích lại gần nhau hơn.
Phương ngữ Nam Bộ là một vấn đề đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Nghiên cứu vấn đề “ Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc” chỉ là một đóng góp nhỏ trong rất nhiều những công trình nghiên cứu
về phương ngữ Nam Bộ. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng luận văn này không tránh
khỏi những thiếu sót. Những đặc điểm về cách sử dụng ngôn ngữ của Bình Nguyên
Lộc chưa được nghiên cứu ở độ sâu cũng như việc đối chiếu với nhiều tác giả Nam
Bộ khác để làm nổi bật phong cách ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc chưa được rộng
rãi. Những vấn đề còn tồn tại trong khuôn khổ luận văn này chắc chắn sẽ được
nghiên cứu ở mức độ sâu hơn, toàn diện hơn ở những công trình nghiên cứu khác.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Trường An, (2008), “ Tổng quan văn chương vùng đất Đồng Nai – Bình
Nguyên Lộc”, http://namkiluctinh.org
2. Nguyễn Văn Ái, (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, NXBGD, Hà Nội.
3. Thái Văn Chải, (1986), Những từ ngữ gốc Khơ-me trong phương ngữ Nam Bộ,
NXB GD,
4. Đỗ Hữu Châu, ( 2000), “ Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, số 10.
5. Hoàng Thị Châu,( 2004), Phương ngữ học tiếng Việt, NXB ĐHQG, Hà Nội
6. Hải Dân, (1982), “ Yếu tố cà trong phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ, số 1.
7. Trần Phỏng Diều, (2008), “ Sự giao lưu về ngôn ngữ giữa các dân tộc ở Nam
Bộ”, Ngôn ngữ, số 2.
8. Đỗ Thị Thùy Dung, ( 2011), Ngôn ngữ sông nước của người Việt miền Tây Nam
Bộ, ĐHKHXH&NV, TP. HCM.
9. Nguyễn Đức Dương, (1974), “Về hiện tượng kiểu ổng, chỉ, ngoải”, Ngôn ngữ, số 1.
10. Nguyễn Văn Đông, ( 2005), Văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm của
Bình Nguyên Lộc, ĐH.KHXH & NV, TP. HCM.
11. Nguyễn Thiện Giáp, (1998), Từ vựng học tiếng Việt, NXBGD, Hà Nội.
12. Nguyễn Thiện Giáp, ( 2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXBGD,
Hà Nội.
13. Nguyễn Thiện Giáp, (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, NXBĐHQG, Hà Nội
14. Cao Xuân Hạo, ( 1998), Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,
NXBGD, Hà Nội.
15. Cao Xuân Hạo, (1998), Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ Nam Bộ,
NXBGD, Hà Nội.
16. Phạm Thanh Hùng, (2011), “ Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc”,
http://thanhhungagu.blogspot.com
17. Nguyễn Thị Huyền, ( 2007), “Về việc tạo nghĩa mới trong quá trình thâm nhập
của từ địa phương vào vốn từ vựng toàn dân”, Ngôn ngữ & đời sống, số 5.
88
18. Nguyễn Thúy Khanh, (2004), “ Sự thâm nhập của từ ngữ địa phương vào ngôn
ngữ toàn dân”, Ngôn ngữ, số 7.
19. Nguyễn Bình Khang, (2009), Phương ngữ Nam Bộ trong các sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư, ĐH KHXH & NV, TP. HCM
20. Nguyễn Lương Hải Khôi, (2004), Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên
Lộc, ĐHSP, TP. HCM.
21. Trần Thị Ngọc Lang, (1982), “Từ láy trong phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ,
số 3.
22. Trần Thị Ngọc Lang, (1986), Sự tiếp xúc giữa các phương ngữ ở thành phố Hồ
Chí Minh, NXB KHXH, Hà Nội.
23. Trần Thị Ngọc Lang, (1985), Phương ngữ Nam Bộ, NXB KHXH, Hà Nội
24. Trần Thị Ngọc Lang, (1995), Phương ngữ Nam Bộ - Những khác biệt từ vựng –
ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ, NXB KHXH Hà Nội.
25. Trần Thị Ngọc Lang, (1991), “Về các yếu tố chỉ mức độ của tính từ trong
phương ngữ Nam Bộ”, Khoa học xã hội, số 10.
26. Trần Thị Ngọc Lang, (2002), “ Sự khác biệt về ngữ nghĩa của một số kiểu từ địa
phương Nam Bộ so với từ toàn dân”, Ngôn ngữ, số 2.
27. Dương Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Nở, (2012), “Môi trường tự nhiên, văn hóa
và con người Nam Bộ trong tác phẩm Sơn Nam”, http://www.ctu.edu.vn.
28. Vũ Văn Ngọc, (2011), Nam Bộ nhìn từ văn hóa, văn học và ngôn ngữ, NXB
KHXH, Hà Nội.
29. Đỗ Thị Kiều Oanh, (2012), Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian,
ĐHSP, TP.HCM.
30. Nguyễn Văn Nở, Huỳnh Thị Lan Phương, (2012), “ Vài nét về ngôn ngữ tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh”, http://www.hobieuchanh.com
31. Nguyễn Nghiêm Phương, (2009), Màu sắc Nam Bộ trong ngôn ngữ truyện ký
Sơn Nam, ĐHSP, TP. HCM.
32. Vương Hồng Sển, (1993), Tự vị tiếng Việt miền Nam, NXB ĐHQG, Hà Nội.
89
33. Dương Thị Thanh, (2001), Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc,
ĐHKHXH & NV, TP. HCM.
34. Đào Thản, (2001), “ Phương ngữ Nam Bộ - tiếng nói của quê hương ở vùng
cực Nam của Tổ quốc”, Ngôn ngữ và đời sống, số 1, 2.
35. Nguyễn Kim Thản, (1964), “ Thử bàn về một vài đặc điểm của phương ngữ
Nam Bộ”, Văn học, số 8.
36. Nguyễn Q. Thắng, (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, NXB Văn học.
37. Nguyễn Q. Thắng, (2001), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 1, NXB Văn học.
38. Nguyễn Q. Thắng, (2001), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 2, NXB Văn học.
39. Nguyễn Q. Thắng, (2001), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 3, NXB Văn học.
40. Nguyễn Q. Thắng, (2001), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 4, NXB Văn học.
41. Trần Minh Thương, (2012), “ Tiếng Việt gốc Khmer trong ngôn ngữ bình dân ở
miền Tây Nam Bộ - nhìn từ gốc độ ca dao”, Ngôn ngữ, số 7.
42. Huỳnh Công Tín, (1999), Đặc điểm ngữ âm của tiếng Sài Gòn so với phương
ngữ Hà Nội và các phương ngữ khác ở Việt Nam, ĐH KHXH &NV,
TP.HCM.
43. Huỳnh Công Tín, ( 2006), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, NXB Văn hóa – Thông
tin, Hà Nội.
44. Huỳnh Công Tín, (2009), Từ điển từ ngữ Nam Bộ , NXBCTQG.
45. Nguyễn Thế Truyền, (1999), “ Cách xưng hô của người Nam Bộ”, Ngôn ngữ và
đời sống, số 12.
46. Nguyễn Như Ý, (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXBGD,
Hà Nội.