ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THANH VÂN TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THANH VÂN TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Văn Hảo THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luâ ̣n văn “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng”

là kết quả nghiên cứ u củ a riêng tôi, các kết quả củ a đề tài là trung thực và chưa

đươ ̣c công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào.

Nô ̣i dung củ a luâ ̣n văn có sử du ̣ng tài liê ̣u, thông tin đươ ̣c đăng tải trên các tác phẩm, ta ̣p chí, các trang web theo danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo củ a luâ ̣n văn.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chi ̣u trách nhiê ̣m.

Thá i Nguyên, thá ng 11 năm 2017

Tá c giả luâ ̣n văn

Dương Thanh Vân

i

LỜ I CẢ M ƠN

Em xin bày tỏ lò ng biết ơn chân thành và sâu sắc tớ i PGS.TS Phạm Văn Hảo về sự hướ ng dẫn tâ ̣n tình, đầy đủ , chu đáo và đầy tinh thần trách nhiê ̣m củ a thầy trong toàn bô ̣ quá trình em hoàn thành luâ ̣n văn.

Em xin trân tro ̣ng cảm ơn sự ta ̣o điều kiê ̣n giú p đỡ củ a Ban chủ nhiê ̣m

Khoa Ngữ Văn, các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trườ ng Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m Thái

Nguyên đã giúp đỡ em thực hiê ̣n đề tài luâ ̣n văn này. Xin được cảm ơn những

thầy cô đã trực tiếp giảng dạy các chuyên đề cao học cho lớp Ngôn ngữ khóa

2015 - 2017.

Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, ba ̣n bè, người thân đã đô ̣ng

viên và giú p đỡ em trong thờ i gian hoàn thành luâ ̣n văn.

Thá i Nguyên, thá ng 11 năm 2017

Tá c giả luâ ̣n văn Dương Thanh Vân

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜ I CẢ M ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC BẢNG .......................................................................................... iv

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3

3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3

5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 5

7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 5

NỘI DUNG ......................................................................................................... 6

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ

LÝ LUẬN ........................................................................................................... 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 6

1.1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề xưng hô ................................................. 6

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tác phẩm Vi Hồng ............................................ 7

1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 10

1.2.1. Giới thuyết về phạm trù xưng hô ....................................................... 10

1.2.2. Lý thuyết giao tiếp ............................................................................. 28

1.2.3. Lý thuyết hội thoại ............................................................................. 33

1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Vi Hồng ................... 37

1.3.1. Cuộc đời nhà văn Vi Hồng ................................................................ 37

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng ........................................................ 38

Tiểu kết chương 1: .......................................................................................... 40

iii

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI

VI HỒNG ......................................................................................................... 42

2.1. Từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật ............................ 42

2.1.1. Thống kê hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng ............ 42

2.1.2. Từ ngữ xưng hô xét về các vai giao tiếp ............................................ 54

2.2. Từ xưng hô qua ngôn ngữ trần thuật của tác giả ..................................... 56

2.2.1. Từ “lão”.............................................................................................. 57

2.2.2. Từ “hắn” ............................................................................................. 61

2.2.3. Từ “mụ” ............................................................................................. 63

2.2.4. Từ “chàng”, “nàng” ........................................................................... 65

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 70

Chương 3: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG

VĂN XUÔI VI HỒNG .................................................................................... 73

3.1. Dùng từ xưng hô thể hiện văn hóa dân tộc Tày ....................................... 73

3.1.1. Văn hóa gắn bó tự nhiên, sùng bái thần linh ..................................... 74

3.1.2. Văn hóa cộng đồng, làng bản ............................................................ 81

3.2. Dùng từ xưng hô thể hiện bản chất con người miền núi ......................... 86

3.2.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tính cách chân thật, hiền lành, chất

phác, ngay thẳng .......................................................................................... 87

3.2.2. Dùng từ xưng hô thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng ................... 90

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 95

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99

PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Từ ngữ xưng hô phân loại theo nhóm ............................................... 43

Bảng 2.2. Đặc điểm cấu tạo của đại từ nhân xưng ............................................ 45

Bảng 2.3. Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ thân tộc ............................................... 46

Bảng 2.4. Cấu tạo của nhóm từ ngữ chỉ tên riêng ............................................. 48

Bảng 2.5. Cấu tạo của từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp ................................... 50

Bảng 2.6. Vai giao tiếp trong từ ngữ xưng hô ................................................... 54

Bảng 2.7. Từ ngữ xưng gọi xét về vai giao tiếp trong các tác phẩm ................. 55

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ngôn ngữ ra đời đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội. Tùy theo

hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp mà người giao tiếp lựa chọn cách xưng

hô sao cho phù hợp. Việc sử dụng các đại từ nhân xưng và các lớp từ xưng hô

trong hội thoại là rất quan trọng. Bởi vì, các đại từ nhân xưng và lớp từ xưng hô

thể hiện thái độ tình cảm của người nói đối với người nghe hay đối tượng được

nói tới. Do đó, sử dụng từ xưng hô không chỉ giúp cuộc thoại có thể tiến hành

mà nó còn thể hiện chiến lược và hiệu quả giao tiếp. Xưng hô đúng, hay sẽ góp

phần thúc đẩy giao tiếp phát triển. Ngược lại, xưng hô không hợp lý sẽ gây ra

những hậu quả không mong muốn trong giao tiếp. Qua cách sử dụng từ xưng

hô người ta có thể biết được tình cảm, thái độ, mối quan hệ, trình độ học vấn

của các nhân vật tham gia giao tiếp. Có thể nói, xưng hô là yếu tố đầu tiên mà

các vai giao tiếp cần phải lựa chọn để xác lập vị trí của mình. Dựa vào xưng hô

mà quan hệ giữa các vai giao tiếp được thiết lập.

Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô lớn và tùy thuộc vào đối

tượng giao tiếp cũng như hoàn cảnh giao tiếp mà người Việt sử dụng những từ

ngữ xưng hô khác nhau nhằm thực hiện những mục đích giao tiếp riêng. Các từ

ngữ này đóng góp lớn vào vốn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc và tạo nên đặc

trưng tâm lý - văn hóa Việt.

1.2. Hệ thống các từ ngữ xưng hô không chỉ được sử dụng trong giao

tiếp đời sống hàng ngày mà còn được các nhà văn, nhà thơ sử dụng hết sức tinh

tế trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại trong văn xuôi.

Dưới ngòi bút tài hoa, khéo léo của người nghệ sĩ, các lớp từ ngữ xưng hô trong

các truyện ngắn, tiểu thuyết đa dạng và phong phú, qua đó thể hiện những cảm

xúc hết sức thú vị. Đồng thời những từ ngữ này trở thành những tín hiệu

chuyên trở những mạch nguồn cảm xúc và thái độ của nhà văn đối với các nhân

vật trong tác phẩm. Một trong những nhà văn sử dụng hệ thống từ ngữ xưng hô

1

hay và mang sắc thái địa phương sâu sắc nhất trong các sáng tác văn xuôi Việt

Nam thời kì hiện đại chính là nhà văn Vi Hồng.

1.3. Vi Hồng được biết đến là nhà văn viết về dân tộc và miền núi. Với

số lượng các tác phẩm đồ sộ, đăc biệt là về tiểu thuyết, chưa có nhà văn dân tộc

thiểu số nào vượt qua được ông. Điểm nổi bật trong các tác phẩm của Vi Hồng

là cái nhìn hiện thực và con người miền núi luôn ở thế lưỡng cực với hai tuyến

thiện, ác mang tính dân gian. Tác phẩm của Vi Hồng không chỉ được khẳng

định được vị thế ở trong nước mà giá trị của nó còn vượt ra ngoài biên giới

quốc gia (tác phẩm Vãi Đàng của Vi Hồng được dịch ra tiếng Nga in trong

Tuyển tập chọn lọc 6 nhà văn châu Á được ấn hành tại Liên Xô cũ). Tính từ tác

phẩm đầu tay năm 1959 đến lúc nhà văn qua đời năm 1997, Vi Hồng đã sáng

tác được một số lượng tác phẩm không nhỏ. Ông đã cho xuất bản 15 cuốn tiểu

thuyết, 4 tập truyện vừa, 1 tập truyện ngắn, 7 cuốn sách nghiên cứu và sưu tầm

văn học dân gian, gần 30 công trình nghiên cứu khoa học về sli lượn, dân ca,

nghi lễ người Tày, Nùng Việt Bắc.

Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công và nét đặc sắc trong văn

xuôi Vi Hồng chính là cách sử dụng từ ngữ xưng hô một cách mới mẻ, phong

phú, tinh tế và phù hợp với tư tưởng chủ đề của từng tác phẩm. Các nhân vật

của ông thường đối thoại với nhau bằng ngôn ngữ của thơ ca. Đó là hình thức

“nói với nhau theo đường ong bay hoa nở”, theo lối nói “trai thanh gái nụ”

mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày.

Vì vậy, việc tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi

Hồng vừa có ý nghĩa khoa học lại vừa có ý nghĩa thực tiễn. Khảo sát, thống kê

các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng sẽ cung cấp, bổ sung thêm cái nhìn

cụ thể, chi tiết về hệ thống từ xưng hô trong văn hóa Tày - Nùng nói riêng và

hệ thống từ xưng hô tiếng Việt nói chung. Đồng thời trên cơ sở phân tích có hệ

thống các từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng một lần nữa khẳng định được tài

năng của nhà văn trong cách sử dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ dân tộc. Mặt

2

khác, tìm hiểu cách sử dụng lớp từ ngữ này sẽ góp phần quan trọng trong công

việc giảng dạy, nghiên cứu tác phẩm Vi Hồng hiệu quả và sâu sắc hơn. Đó là

những lí do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài “Từ ngữ xưng hô trong văn

xuôi Vi Hồng” làm công trình nghiên cứu khoa học tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng”, luận văn

nhằm hướng tới mục đích:

- Khảo sát các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng để có một bức

tranh tổng thể về việc sử dụng từ ngữ xưng hô trong sáng tác của nhà văn.

- Thấy được những nét đặc sắc về cách dùng từ ngữ xưng hô, qua đó tìm

hiểu phong cách nhà văn. Đồng thời, khẳng định được vị trí và những đóng góp

của Vi Hồng cho nền văn học đương đại Việt Nam. Từ đó, giúp cho người học,

người yêu thích Vi Hồng có thêm cách tiếp cận mới trong việc tìm hiểu tác

phẩm của nhà văn.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác lập hệ thống cơ sở lý luận chung được sử dụng để nghiên cứu các

từ ngữ dùng để xưng hô.

- Khảo sát, thống kê, phân loại... các từ ngữ được dùng làm phương tiện

xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng.

- Miêu tả, phân tích, nhận xét những nét đặc sắc trong việc sử dụng từ

ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng. Qua đó, cho thấy vẻ đẹp phong cách

cũng như giá trị nghệ thuật qua các sáng tác của nhà văn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn

xuôi Vi Hồng.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các từ ngữ xưng hô, cách sử dụng và

hiệu quả của chúng trong các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng.

Phạm vi khảo sát tư liệu là 6 tiểu thuyết, 4 truyện ngắn, 1 truyện vừa và 2

truyện dài sau:

3

- “Đất bằng” (1980), Tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới (bao gồm 2 tiểu

thuyết: đất bằng và Vãi Đàng)

- “Người trong ống” (1990), Tiểu thuyết, Nxb Lao động.

- “Dòng sông nước mắt” (1993), Tiểu thuyết, Nxb Hội văn học nghệ

thuật Bắc Thái.

- “Tháng năm biết nói “(1993), Tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc.

- “Mùa hoa Bioóc loỏng” (1997), Tiểu thuyết, Nxb Thanh niên

- “Béc - Kha - Cải” (1988), Truyện ngắn (trích trong Vi Hồng tác phẩm

và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).

- “Nghĩ sủi bọt đá” (1991), Truyện ngắn, (trích trong Vi Hồng tác phẩm

và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).

-“Sự tích hang cứu tôi với” (1992), Truyện ngắn, (trích trong Vi Hồng

tác phẩm và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).

- “Cọn nước Eng Nhàn” (1971), Truyện ngắn (trích trong Vi Hồng tác

phẩm và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).

- “ Người làm mồi bẫy hổ” (1990), Truyện dài, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

- “Đường về với mẹ chữ” (1998), Nxb Kim Đồng, Hà Nội (bao gồm

truyện dài “Đường về với mẹ chữ” và truyện vừa - “Thách đố”).

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê, phân loại các từ xưng hô

trong các tác phẩm khảo sát.

- Phương pháp hệ thống: Xâu chuỗi các lớp từ xưng hô có cùng giá trị

ngữ nghĩa ngữ dụng, từ đó khái quát lại vấn đề nghiên cứu một cách hệ

thống hơn.

- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: thấy được cái hay, cái độc đáo của

lớp từ xưng hô trong tác phẩm văn học dưới ánh sáng của dụng học.

- Thủ pháp so sánh: So sánh giá trị ngữ nghĩa ngữ dụng của các đại từ

nhân xưng và lớp từ xưng hô trong tiếng Việt với các từ này trong tác phẩm của

Vi Hồng.

4

6. Đóng góp của luận văn

Khảo sát, miêu tả lớp từ xưng hô, luận văn đưa ra một góc nhìn có tính

hệ thống trong nghiên cứu sáng tác Vi Hồng. Đó là nghiên cứu các từ ngữ xưng

hô và cách xưng hô trên phương diện hệ thống hóa. Hướng nghiên cứu này, sẽ

góp phần quan trọng trong việc tiếp cận văn xuôi Vi Hồng trên bình diện ngôn

ngữ học.

Luận văn đã khai thác các giá trị ngữ nghĩa ngữ dụng của các lớp từ

xưng hô trong một số tác phẩm của Vi Hồng dưới ánh sáng của dụng học.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận

Chương 2: Đặc điểm từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng

Chương 3: Hiệu quả sử dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng

5

NỘI DUNG

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề xưng hô

Xưng hô từ lâu đã là vấn đề khá thú vị và thu hút được nhiều sự quan

tâm của giới ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã bước đầu

tìm hiểu một số công trình, bài viết về từ xưng hô của một số tác giả. Cụ thể là

công trình của Nguyễn Văn Chiến với “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Việt

Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường

ĐHNN Hà Nội (1993); Hoàng Thị Châu với “Vài đề nghị về chuẩn hóa cách

xưng hô trong xã giao”, Tạp chí Ngôn Ngữ và đời sống, số 3(1995). Tác giả

Bùi Minh Yến với những công trình đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ: “Xưng hô

giữa vợ và chồng trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3(1990);

“Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số

3 (1993); “Xưng hô giữa ông bà và cháu trong gia đình người Việt”, Tạp chí

Ngôn ngữ, số 2 (1994). Tác giả Phạm Ngọc Thưởng với công trình: “Về đại từ

nhân xưng ngôi thứ 3”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 10 (1994); “Xưng hô

giữa vợ và chồng trong gia đình người Tày- Nùng”, Tạp chí Dân tộc học, số

1(1995). Tác giả Phạm Văn Tình với “Nhân xem bảy sắc cầu vồng bàn thêm về

cách xưng hô trong nhà trường”, tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9 (1997);

Phạm Văn Hảo với “Từ xưng gọi trong phương ngữ Bắc”, Tạp chí Ngôn ngữ

và đời sống, số 1 và số 2 (2011). Đặc biệt, đã có các công trình luận văn, luận

án nghiên cứu về xưng hô: Lê Thanh Kim với “Từ xưng hô và cách xưng hô

trong các phương ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ

học”, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội (2000); Phạm Ngọc Thưởng

với “Cách xưng hô trong tiếng Nùng”, Luận án tiến sĩ, trường Đại học Sư phạm

6

Hà Nội; Bùi minh Yến với “Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã

hội của người Việt”, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

Điểm qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả trên, chúng tôi

nhận thây rằng, các tác giả tập trung nghiên cứu từ xưng hô dưới góc nhìn đa

chiều. Có thể thấy rằng, ở những công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt

đều đề cập đến từ xưng hô và tập trung phát triển theo ba hướng:

Thứ nhất: bàn về xưng hô ở góc độ lí luận chung về ngữ pháp học.

Thứ hai: bàn về xưng hô được sử dụng trong các phạm vi: gia đình và

ngoài xã hội.

Thứ ba: Từ xưng hô được nghiên cứu từ góc độ đối chiếu.

Tuy nhiên, theo khảo sát ban đầu của chúng tôi thì hướng nghiên cứu từ

xưng hô trong các tác phẩm văn học - một hướng tiếp cận mang tính trường hợp

về từ xưng hô chưa được quan tâm, nghiên cứu nhiều. Gần đây, một số công

trình đã tập trung vào nghiên cứu từ xưng hô trong văn học: Trần Ngọc Mi

(2009) với “Từ xưng hô trong tác phẩm Nam Cao”; Vũ Thị Lệ Tuyết (2012) với

“Từ ngữ xưng gọi trong thơ Tố Hữu”. Song, theo chúng tôi được biết, đến nay

vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tác phẩm Vi Hồng

Vi Hồng là nhà văn tiêu biểu, đã có những đóng góp không nhỏ vào nền

văn học Việt Nam hiện đại nói chung và nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng.

Với sự nghiệp văn chương dày dặn so với nhiều nhà văn dân tộc thiểu số nên

sáng tác của Vi Hồng đã trở thành nguồn đề tài phong phú, hấp dẫn cho giới

nghiên cứu phê bình văn học. Đánh giá về tiểu thuyết Vi Hồng, Tác giả Dương

Thuấn trong bài “ Nhìn lại văn học dân tộc Tày”, Tạp chí nghiên cứu văn học

số 5 - 2006, nhận định: Vi Hồng là “Tác giả đáng chú ý nhất trong nền văn học

Việt Nam hiện đại”. Đã có không ít công trình nghiên cứu khoa học về tác

phẩm của Vi Hồng trên phương diện nội dung và nghệ thuật cũng như những

đóng góp của ông trong nền văn học dân tộc.

7

Về nội dung:

Hình ảnh con người miền núi chính là phương diện được nhiều tác giả

chú ý nghiên cứu nhất trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Trong luận văn thạc sĩ

Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng (2003), Hoàng Văn Huyên đã chỉ ra

ba đặc điểm cơ bản của con người miền núi trong tiểu thuyết của Vi Hồng là:

con người giàu sức sống bền bỉ và mạnh mẽ; con người thật thà, bộc trực và

khẳng khái; con người giàu khát vọng về tình yêu tự do và chung thuỷ. Trong

luận văn thạc sĩ Đặc điểm tiểu thuyết Vi Hồng (2011), Thiều Thị Phương Nga

đã chỉ ra năm đặc điểm của con người miền núi, đó là: con người với số phận bi

kịch, con người lí tưởng - con người tận thiện, con người xấu xa - con người

tận ác, con người bản năng và con người tha hóa.

Yếu tố thiên nhiên và các giá trị văn hóa trong tiểu thuyết của Vi Hồng

cũng đã được một số tác giả đề cập đến. Trong bài viết Ảnh hưởng của văn hóa

dân gian trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng, tác giả Hoàng Thị Minh

Phương đã chỉ ra thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng là bức tranh đa

dạng vừa mang vẻ đẹp hoang sơ vừa mang nét bí hiểm. Hai tác giả Trần Thị

Ngọc Anh, Nguyễn Thị Vân Anh trong Biểu tượng về thiên nhiên như một diễn

ngôn về văn hóa Tày trong tiểu thuyết Vi Hồng đã chỉ ra sự gắn bó mật thiết

giữa con người và thiên nhiên trong tác phẩm Vi Hồng. Trong Tìm hiểu sự

nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã chỉ ra sự

trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương của Vi Hồng.

Về nghệ thuật:

Nghệ thuật xây dựng nhân vật là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan

tâm đặc biệt. Nhà văn Hồ Thủy Giang đã nhận xét Vi Hồng khi khắc họa nhân

vật ít đề cập đến sự phức tạp của tâm lí mà nghiêng về khắc họa những nét đẹp

thuần khiết của tâm hồn. Trong bài giới thiệu tác phẩm “Người trong ống”, tác

giả Nguyễn Long đưa ra nhận xét về cách xây dựng nhân vật chính diện và

phản diện trong tiểu thuyết Vi Hồng.

8

Về phương diện ngôn ngữ. Tác giả Nông Thị Huyền Trang trong Đặc

điểm ngôn ngữ văn xuôi Vi Hồng đã chỉ ra một số lớp từ ngữ thể hiện đặc

điểm văn xuôi Vi Hồng và các phương thức sử dụng ngôn ngữ trong văn

xuôi Vi Hồng.

Về lời văn nghệ thuật, tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong “Lời văn nghệ

thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng” đã nhấn mạnh một số phương diện tổ chức

lời văn nghệ thuật. TS. Ngô Thu Thủy trường ĐHSP Thái Nguyên trong

“Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của Vi Hồng” đã đưa

ra một số nhận xét về giọng điệu trong tiểu thuyết Vi Hồng.

Ngoài ra, khi tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có một số công trình đã đi

vào nghiên cứu một số phương diện cụ thể trong sáng tác Vi Hồng đó là: Tính

dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng, Luận văn thạc sĩ của Hoàng Văn Huyên

(2003); Thế giới nhân vật trong tác phẩm của Vi Hồng, Luận văn thạc sĩ của

Ma Thị Ngọc Bích (2004); Bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ tác phẩm Vi Hồng

của tác giả Phạm Mạnh Hùng (2006); Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu

thuyết của Vi Hồng của Ngô Thu Thuỷ (2006); Đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi Vi

Hồng, Luận văn thạc sĩ của Nông Thị Huyền Trang (2012).

Một số công trình nghiên cứu về đóng góp của Vi Hồng trong thành tựu

chung của văn học dân tộc thiểu số như: Tác giả Lâm Tiến với Văn học các dân

tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995), NXB Văn hoá dân tộc; Cách viết tiểu

thuyết của nhà văn Vi Hồng, số 13 - 14 (2007), báo Văn nghệ Thái Nguyên; tác

giả Dương Thuấn với Nhìn lại văn học Tày (2006) tạp chí nghiên cứu văn học

số 5; tác giả Phong Lê với Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), NXB

Văn hoá dân tộc; các tác giả Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng với Bản sắc

văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam,

NXB Đại học Thái Nguyên.

Một số công trình nghiên cứu về toàn bộ sáng tác của Vi Hồng như: Kỉ

yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng, Hội VHNT Thái Nguyên & Khoa Ngữ văn

9

ĐHSP Thái Nguyên đồng tổ chức (2006); Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà

văn Vi Hồng, đề tài nghiên cứu KH cấp bộ của Phạm Mạnh Hùng (2006); Vi

Hồng tác phẩm và dư luận (2015), Nxb Đại học Thái Nguyên.

Nhìn lại một cách tổng quát, chúng tôi nhận thấy các công trình, bài báo

nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng được tập trung khá rõ ở những

phương diện khác nhau như: nghiên cứu về giá trị nội dung, về tính dân tộc

trong tác phẩm; nghiên cứu về một số phương diện nghệ thuật trong sáng tác

của Vi Hồng. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa thấy có một công trình nghiên

cứu nào đề cập một cách cụ thể và chuyên biệt về Từ ngữ xưng hô trong văn

xuôi Vi Hồng. Công trình này mong muốn đóng góp thêm một tiếng nói vào

quá trình nghiên cứu, khám phá sáng tác của nhà văn Vi Hồng.

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Giới thuyết về phạm trù xưng hô

1.2.1.1. Khái niệm xưng hô

Xưng hô là một bộ phận của lời nói, là yếu tố không thể thiếu trong đối

thoại trực tiếp. Xưng hô như là một nghi thức giao tiếp quan trọng xác lập quan

hệ và vị thế xã hội trong giao tiếp giữa người nói với người nghe cùng với

người được nói tới. Trong giao tiếp, người nói dùng xưng hô như một phương

tiện để tự thể hiện mình, để tác động đến người nghe và gián tiếp đạt được mục

đích giao tiếp.

Xưng hô không chỉ gắn liền mà còn chi phối và bị chi phối các nhân tố

khi giao tiếp: người nói, người nghe, đối tượng được nói đến, hoàn cảnh giao

tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp.

Xưng hô là thuật ngữ chỉ việc tự gọi mình (xưng) và gọi người khác (hô)

khi giao tiếp. Xưng hô là một bộ phận của ngôn ngữ học xã hội, là sự tương tác

của vai xã hội với vai giao tiếp, phản chiếu các mối quan hệ đa chiều từ gia

đình đến xã hội của các cá nhân trong cộng đồng giao tiếp. Đối với giao tiếp

tiếng Việt, xưng hô giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Bản thân xưng hô

10

không chỉ tường minh hóa các vai xã hội của người Việt, làm cho các hình thức

xưng hô trở nên đa dạng và buộc người giao tiếp phải lựa chọn để thể hiện vai

giao tiếp mà xưng hô còn thể hiện ý đồ, mục đích giao tiếp.

Trong hệ thống ngôn ngữ, từ ngữ xưng hô được xem là một bộ phận khá

phong phú và phức tạp. Ngoài việc là đối tượng chính của ngữ pháp tiếng Việt,

từ xưng hô còn được nghiên cứu từ góc độ của hai phân môn: Ngữ dụng học và

phong cách học tiếng Việt.

Từ góc độ Ngữ dụng học, Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “Xưng hô là hành vi

chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn

với lời nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp” [5; 264].

Từ góc độ Phong cách học, Cù Đình Tú cho rằng: “Ngoài các đại từ

nhân xưng và các đại từ chỉ quan hệ họ hàng thân tộc thì còn lấy cả tiếng đệm

giữa họ và tên của nữ giới (thị) để làm từ xưng hô, thậm chí còn dùng cả cách

nói trống không để xưng hô” [50; 166]. Và cuối cùng ông đưa ra nhận xét:

“Trong tiếng Việt, từ xưng hô, cách xưng hô, và mô hình xưng hô là phương

tiện biểu cảm, là phương tiện phong cách” [50; 168].

Theo Bùi Minh Yến: “Khái niệm xưng hô được ý thức như là một hành

vi ngôn ngữ có chức năng xác lập vị thế xã hội của những người tham gia giao

tiếp và tương quan tâm thế giữa họ với nhau trong quá trình giao tiếp. Khi thực

hiện chức năng này, hành vi ngôn ngữ xưng hô đồng thời đảm nhận nhiệm vụ

khởi sự tạo sự tương tác ngôn ngữ cho cuộc thoại, điều chỉnh cuộc thoại theo

đích đã định, đảm bảo hiệu lực hành vi” [50; 17].

Tác giả Phạm Ngọc Thưởng đã bóc tách nghĩa và xác định nhiệm vụ của

từng yếu tố trong khái niệm xưng hô như sau: “Xưng là hành động người nói

dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa mình vào trong lời nói, để người nghe biết

rằng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Đó là hành

động tự quy chiếu của người nói (ngôi 1). Hô là hành động người nói dùng một

biểu thức ngôn ngữ để đưa người nghe vào trong lời nói (ngôi 2)” [47; 12].

11

Đại từ điển tiếng Việt đã định nghĩa xưng hô là: “Tự xưng mình và gọi

người khác trong giao tiếp hoặc trong thư từ” [54; 1880].

Từ điển tiếng Việt thì định nghĩa xưng hô là: “Tự xưng và gọi người khác

là ai đó với nhau nhằm làm rõ mối quan hệ giữa hai bên” [41; 1872].

Từ những định nghĩa trên, ta thấy có sự phong phú trong cách định nghĩa

khái niệm xưng hô. Tất nhiên, để thực hiện hành động xưng hô người nói cần

phải có phương tiện để xưng hô và phương tiện ở đây chính là từ ngữ xưng hô.

Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Văn Nở đã

định nghĩa: “Từ xưng hô là lớp từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng khi giao

tiếp” [35; 53].

Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy và Nguyễn Thị Ngọc Điệp cho rằng: “Từ

xưng hô là những từ dùng để xưng gọi, với tư cách ngôi, một yếu tố có liên quan

đến nhân tố giao tiếp. Từ xưng hô dùng để chiếu vật và giao tiếp” [46; 30].

Từ những định nghĩa trên, chúng tôi đưa ra quan niệm: Từ xưng hô là

những từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng khi tham gia giao tiếp.

Vấn đề xưng hô là câu chuyện không chỉ có ý nghĩa ngôn ngữ đơn thuần

mà nó còn là vấn đề văn hóa ứng xử của con người trong quá trình tiếp xúc với

nhau. Trong giao tiếp, các từ ngữ xưng hô vừa phải phù hợp với lĩnh vực của

người tham gia giao tiếp vừa thể hiện vị thế xã hội, mức độ thân sơ, tính văn

minh lịch sự của người nói với người tham gia hội thoại. Chính vì vậy, trong

một cuộc giao tiếp, từ xưng hô không cố định bất biến mà biến đổi linh hoạt tùy

vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

1.2.1.2. Các cách phân loại từ xưng hô trong tiếng Việt

a. Phân chia theo từ loại

Từ xưng hô là một bộ phận trong hệ thống từ loại tiếng Việt, nên có thể

thấy rằng phân chia từ xưng hô theo từ loại là cách phổ biến nhất được đông

đảo các nhà Việt Ngữ sử dụng. Tuy nhiên các tác giả lại có sự nghiên cứu tìm

hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau theo từng phân môn khác nhau:

12

*Quan điểm của Ngữ pháp học

Các tác giả của Ngữ pháp học truyền thống thường đồng nhất từ xưng hô

với đại từ xưng hô và chia thành hai nhóm: Đại từ xưng hô chuyên dụng và đại

từ xưng hô lâm thời.

Theo tác giả Lê Biên, nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng được chia thành

ba ngôi: ngôi thứ nhất (người nói), ngôi thứ hai (người nghe), ngôi thứ ba

(người, vật được nói tới). Trong mỗi ngôi tác giả lại chia theo tiêu chí số: số ít,

số nhiều, ngôi gộp hỗn số và các biến thể của nó. Sự phân chia này được tóm

tắt qua bảng sau đây:

Số ít Ngôi gộp Số Các Số nhiều Ngôi hỗn số biến thể

tao chúng tao tau (tao) ta

tôi chúng tôi tui (tôi) (1) Ngôi thứ mình

tớ chúng tớ ................... nhất (người chúng ta

mình chúng mình (tôi) = choa, min, nói)

ta chúng ta qua (2)

mày mi (mày) chúng mày Ngôi thứ hai bay bây (bay) (1) chúng bay (người nghe) chúng mình (mi) mày : Bậu (2)

nó Ngôi thứ ba chúng nó hắn (người, vật họ (nó) = va, nghi (2) y được nói chúng thị đến)

(1) : Biến thể ngữ âm.

(2) : Biến thể từ vựng (phương ngữ).

Theo tác giả Lê Biên, nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng là các đại từ

xưng hô gốc, đích thực và nó có số lượng khá ít. Các đại từ như: tao, ta, mày,

nó, hắn chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu cảm không lịch sự (suồng sã, thô

tục, khinh thường, thân mật).

13

Theo quan điểm của Ngữ pháp học, nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng

có những đặc điểm sau:

- Những từ tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng tớ là những từ chuyên dùng làm

lời “xưng” của người nói.

- Những từ mày, bay, cậu... (tớ - cậu), (tao - mày) là những từ chuyên

dùng cho người nghe (gọi hô).

- Có những từ vừa dùng gộp cả lời nói (xưng) và người nghe (hô) như:

ta, chúng ta, chúng mình...

- Đại từ “mình” có thể chỉ người nói, là đại từ nhân xưng. Có thể chỉ

người nghe, cũng có thể chỉ người đã được nói đến trước đó ở trong câu, tức là

tự xưng của ngôi 1, ngôi 2, ngôi 3.

- Đại từ “nó” chỉ ngôi thứ ba, số ít, trung tính.

- Đại từ “tôi” dùng để xưng trong giao tiếp xã hội, chỉ ngôi thứ nhất,

trung tính.

Nhóm từ xưng hô lâm thời thì mỗi tác giả lại có cách những cách phân

chia khác nhau. Hai tác giả Nguyễn Hữu Quỳnh và tác giả Đỗ Thị Kim Liên thì

các từ xưng hô lâm thời bao gồm các danh từ thân tộc như: ông, bà, cha, mẹ,

anh, em, cô, bác...Tác giả Đinh Văn Đức thì cho rằng từ xưng hô lâm thời còn

bao gồm cả những đại từ chỉ định như: đây, đấy, kia, kìa.

Tác giả Lê Biên trong Từ loại tiếng Việt hiện đại đã gọi nhóm từ xưng

hô lâm thời là những “yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô” [4; 123].

Bao gồm:

- Những từ nguyên là danh từ đã trở thành đại từ thực sự: tôi, tớ, mình, hoặc

còn mang dấu ấn danh từ khá rõ: chàng, nàng, thiếp, người, ngài, người ta...

- Những danh từ lâm thời đảm nhận chức năng như đại từ, đó là những

danh từ chỉ những người thuộc quan hệ gia tộc, thân thuộc như: cụ, ông, bà,

cha, mẹ, chú, bác, cậu, cô, dì, mợ, thím, anh, chị, em, con, cháu... Những từ

như: trai, gái, ruột, họ... không được sử dụng xưng hô trong gia đình và ngoài

14

xã hội. Hai yếu tố “nội, ngoại” chỉ được dùng trong xưng hô của phương ngữ

Nam bộ như một cách nói tắt.

- Những từ: dâu, rể, vợ, chồng cũng không được dùng làm từ ngữ

xưng hô.

- Các danh từ: bạn, đồng chí: tính từ danh hóa: lão.

- Các từ chỉ học hàm, học vị, tước hiệu: giáo sư, tiến sĩ, đại tướng...

- Các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: bác sĩ, tổ trưởng, chủ nhiệm...

- Các tên riêng của người: Hằng, Nga, Hồng...

- Các từ ngữ chỉ nơi chốn: ấy, đây, đấy, đằng ấy... chẳng hạn: “này, đây

nói cho mà biết đấy mà không trả không xong đâu”.

- Một số từ có nguồn gốc vay mượn: từ gốc Hán: Y, thị, chúng (là các từ

đã Việt hóa), huynh, đệ, đại ca...(danh từ); Từ gốc Pháp: moa (moi), toa (toi).

Trong Ngữ học trẻ 2007, tác giả Nguyễn Minh Hoạt cho rằng khái niệm

“ngôi” theo ngữ pháp học của hai nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng và đại từ

xưng hô lâm thời “không xác định như các đại từ nhân xưng của tiếng Anh,

tiếng Pháp mà ngôi của các từ này chỉ xác định trong ngữ cảnh” [22; 197] . Do

đó việc đồng nhất từ xưng hô với đại từ xưng hô là không thỏa đáng.

*Quan điểm của Ngữ dụng học

Đỗ Hữu Châu là tác giả tiêu biểu đại diện cho quan điểm này. Theo ông:

“Để xưng hô, ngoài các đại từ, các ngôn ngữ còn có thể dùng các từ thuộc từ

loại khác như tên riêng, tên chức danh, tên nghề nghiệp, các từ chỉ quan hệ

thân tộc, các từ chỉ không gian như đây, đấy, ấy, đằng này, thậm chí cả sự

trống vắng từ xưng hô...) [5; 266]. Cụ thể như sau:

- Đại từ nhân xưng: “Các đại từ nhân xưng tiếng Việt không có sự phân

chia rạch ròi về ngôi như trong tiếng Anh, gồm các đại từ: tôi, tớ, tao, tui, qua,

mày, mi, mình; choa, chúng tao, chúng tôi, chúng ta, chúng mình, chúng tớ,

bầy (bi) choa chúng mày; bay, hắn, nó, y, thị, va, chúng nó, nhau” [5; 266].

Theo Đỗ Hữu Châu, nhóm đại từ này có các đặc điểm sau:

15

+ Đại từ nhân xưng phân chia theo ngôi mà chúng biểu đạt, nhưng để

biểu đạt ngôi không nhất thiết bao giờ cũng phải dùng đại từ.

+ Nghĩa chiếu vật của các đại từ (và các từ khác) chỉ ngôi thứ ba phải có

mặt trong tiền ngôn cảnh.

+ Trong các từ xưng hô của tiếng Việt có những từ chuyên ngôi và kiêm

ngôi. Từ chuyên ngôi là những từ chỉ được dùng cho một ngôi: tôi, tớ, mày...Từ

kiêm ngôi là từ dùng được cho nhiều ngôi: Mình, ta...

+ Có sự phân biệt đại từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp gồm

một nhóm người, kể cả người nghe lấy người nói làm trung tâm. Từ xưng hô

không bao gộp gồm một nhóm người với người nói là trung tâm không kể

người nghe. “Chúng ta” là đại từ bao gộp, “chúng tôi” là đại từ không bao

gộp, “chúng mình” vừa là đại từ bao gộp vừa là đại từ không bao gộp.

+ Các đại từ xưng hô thực sự tiếng Việt, kể cả những đại từ ngôi thứ ba

khác với các từ xưng hô lấy từ các từ thân tộc như: cha, mẹ, ông, bà, anh, em...

ở chỗ chúng không mang nét nghĩa chỉ gia đình, họ tộc. Chúng lập thành từng

cặp tự xưng và đối xưng. Cụ thể như sau:

tớ (cậu)

tao (tui) mày (mi)

ta mình

ta ngươi

chúng tao chúng mày, chúng bay, bay, bọn bay

choa (bầy choa) bay, chúng bay, bọn bay...

Ngoài ra còn một vài cặp khác nữa. Tất cả những cặp này đều mang nét

nghĩa hoặc khinh thị, hoặc thân tình. Chính những nét nghĩa kèm theo này

khiến cho tiếng Việt không có cặp đại từ xưng hô thực sự trung tính chỉ vai như

trong tiếng Anh (I- You). Đại từ “Tôi” trong tiếng Việt vốn được xem là trung

tính nhưng lại không lập thành cặp với bất kì đại từ ngôi thứ hai nào khác.

Ngược lại, “tôi” lại lập thành cặp với tất cả các từ thân tộc dùng để xưng hô

16

(tôi - anh, tôi - chị, tôi - ông...), nó luôn luôn là một đại từ đối thoại, trong khi

“mình”, “ta” có thể dùng trong độc thoại. Trong một cặp đại từ, đại từ ngôi thứ

nhất khống chế đại từ ngôi thứ hai và ngược lại.

+ Các đại từ xưng hô tiếng Việt không phân định về tuổi tác, về giới tính.

Ngoài hai nét nghĩa thân tình và khinh thị đi kèm với nghĩa vai, đại từ xưng hô

còn có sự đối lập về số: choa, bay và các đại từ có hình vị: chúng, bọn, bầy,

(bi) đều có nghĩa số nhiều, còn lại là số ít.

+ Đại từ xưng hô chính thức tiếng Việt chỉ được dùng ngoài xã hội trong

ngữ vực cực thân tình hoặc xung đột, một ngữ vực chưa được đưa vào bảng xếp

loại các ngữ vực.

- Các từ chỉ quan hệ thân tộc: “Từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Việt

là những từ chỉ người trong gia đình, họ tộc có quan hệ huyết thống, nội ngoại

xa gần với nhau” [5; 274]. Trong “Đại cương ngôn ngữ học”, Đỗ Hữu Châu

chia đại từ thân tộc trong tiếng Việt thành ba nhóm: thứ nhất là nhóm gồm

những từ như: u, bầm, bủ, tía, ba, má...; thứ hai là nhóm gồm các từ như: anh,

chị, em, chú, bác, cha, mẹ, cháu, con...; thứ ba là nhóm gồm các từ như: anh

họ, ông nội, chị họ, dâu, rể...

Nhóm từ này có những đặc điểm:

+ Chỉ những từ thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai mới dùng để xưng hô,

nhóm thứ ba không thể dùng để xưng hô được.

+ Nhóm thứ nhất chỉ dùng để xưng hô, không dùng để miêu tả quan hệ,

còn nhóm thứ ba chỉ dùng để miêu tả quan hệ, không dùng để xưng hô. nhóm

thứ hai vừa dùng để miêu tả quan hệ vừa dùng để xưng hô. Đỗ Hữu Châu đưa

ra hai cách sử dụng từ thân tộc để xưng hô, đó là xưng hô trong gia đình, họ tộc

và xưng hô ngoài xã hội.

“Các từ thân tộc khi dùng thay cho đại từ xưng hô có thể dùng để

xưng hô giữa những người trong gia đình, họ tộc và giữa những người ngoài

xã hội” [5; 281].

17

 Xưng hô trong gia đình họ tộc: Theo Đỗ Hữu Châu, có hai cách xưng

hô bằng từ thân tộc: xưng hô theo chỉ xuất chủ quan và xưng hô theo chỉ xuất

khách quan.

Khi xưng hô theo chỉ xuất chủ quan, ngôi thứ nhất tự đồng nhất mình với

Ego. “Ego cũng tức là điểm mốc, là trung tâm định vị của các từ thân tộc” [5; 277].

Xưng hô theo chỉ xuất khách quan còn được gọi là xưng hô thay ngôi.

lối nói này thường chỉ được dùng trong ngữ vực cực thân tình và hoàn toàn

trong không khí gia đình, không có sự có mặt của những người ngoài gia

đình, họ hàng.

Có thể nói, từ “tôi” trong xưng hô gia đình, họ tộc là sự xã hội hóa xưng

hô gia đình, họ tộc.

 Xưng hô ngoài xã hội: Đỗ Hữu Châu cho rằng có hai cách sử dụng từ

thân tộc để xưng hô với người ngoài gia đình, họ tộc, đó là: Xưng hô thân tộc

hóa và xưng hô phi thân tộc hóa.

Xưng hô thân tộc hóa tức là cách người nói mượn một quan hệ thân tộc

nào đó, tự đặt mình và người tiếp thoại của mình vào rồi dùng các từ thân tộc

tương ứng mà tự xưng vào đối xưng.

Cách xưng hô thân tộc hóa thường chỉ được dùng khi giữa người nói và

người tiếp thoại có sự chênh lệch về tuổi tác và vị thế xã hội.

Xưng hô phi thân tộc hóa nghĩa là người nói không đặt mình với người

tiếp thoại của mình vào một quan hệ thân tộc nào cả, tự xưng và đối xưng như

những người ngoài xã hội với nhau. Đối với ngôi thứ nhất, khi xưng hô phi

thân tộc hóa với người ngoài thường tự xưng “tôi” và đối xưng bằng các từ

thân tộc khác như: cụ, ông, bà, bác, cô, anh, chị, em, con...

Theo Đỗ Hữu Châu: “Bốn danh từ thân tộc: anh, chị, ông, bà là lõi xưng

hô của các từ thân tộc, chúng là những yếu tố để tạo ra các biểu thức xưng hô

khác, ngoại trừ biểu thức xưng hô dùng đại từ xưng hô” [8; 78].

18

- Tên riêng: trước đây, ở Việt Nam có nhiều loại tên: tên hèm (tên cúng

cơm), tên húy, tên thụy, tên tự, tên hiệu, tên tục. Với những người theo đạo

Thiên chúa còn có tên thánh, các Phật tổ thường có pháp danh.

Theo Đỗ Hữu Châu, hiện nay xưng hô trong đời thường thường được

dùng là các tên chính hay còn gọi là tên khai sinh. Ngoài ra còn có cách xưng

hô bằng tiểu danh để gọi các trẻ khi còn nhỏ (cu, cò, hĩm, tí, cún...) Tên chính

phổ biến là một âm tiết, nhiều người có tên chính hai âm tiết. Đàn bà khi chưa

có con được gọi bằng tên chồng. Khi có con, bố và mẹ thường được gọi bằng

tên của con đầu lòng. Tuy nhiên cả hai cách gọi bằng tên chồng và tên con ngày

nay không phổ biến nữa.

Tên chính có thể dùng độc lập một mình để tự xưng đối xưng và tha xưng.

Người Việt ta có tục kiêng kị gọi tên tục. Trước đây với những trường

hợp xung đột dữ dội, người ta mới lôi tên tục ra mà chửi. Ngày nay, đối xưng

và tha xưng người có vị thế xã hội cao trong xã hội hoặc trong gia đình, họ tộc

chỉ bằng tên riêng là vô lễ với người đó.

Cách xưng hô tên riêng có thể kết hợp với những yếu tố khác

Từ thân tộc + tên riêng

Từ thân tộc + từ chức danh, nghề nghiệp + tên riêng.

- Từ chỉ người theo chức danh, nghề nghiệp.

Theo Đỗ Hữu Châu: “Từ chức danh, nghề nghiệp lập thành bốn kết cấu

sau đây để xưng hô:

Thứ nhất: Từ chức danh, nghề nghiệp dùng một mình;

Thứ hai: Từ chức danh nghề nghiệp kết hợp với từ thân tộc hoặc từ

“ngài” từ “quan” ở trước;

Thứ ba: Từ chức danh, nghề nghiệp dùng với tên riêng ở sau;

Thứ tư: Từ chức danh nghề nghiệp kết hợp với từ thân tộc hoặc từ

“ngài” từ “quan” ở trước và tên riêng ở sau” [5; 300].

Cũng theo tác giả thì cả bốn kết cấu trên đều có thể được dùng để tha

xưng với các sắc thái biểu cảm, trong những thoại trường, trong ngữ vực và

19

quan hệ liên cá nhân khác nhau. Đáng chú ý là việc dùng các kết cấu từ chức

danh, nghề nghiệp để đối xưng.

Kết cấu thứ nhất được dùng rất có hạn. Trước đây, kết cấu này hầu như

không bao giờ được dùng một mình để đối xưng (trừ trường hợp “bá tước”,

“nam tước”) hiện nay kết cấu từ chức danh, nghề nghiệp một mình đã được

dùng để đối xưng: Bộ trưởng, chủ tịch, bác sĩ...

Kết cấu thứ hai được dùng khá phổ biến và bắt buộc trước cách mạng

tháng Tám. Đây là những kết cấu đối xưng và tha xưng dùng cả trong gia đình,

thân tộc và ngoài xã hội: Anh Cu Bưởi, Bà phán, ông lớn, anh kiểm lâm.....

Kết cấu thứ ba và kết cấu thứ tư trước đây và hiện nay đều không được

dùng để đối xưng, chủ yếu chỉ được dùng để tha xưng. Chúng cũng được dùng

để thưa hoặc giới thiệu những người có vị thế xã hội cao: chủ tịch nước Nguyễn

Văn A, bộ trưởng bộ giáo dục Trần Văn B.

- Bán đại từ: tên gọi này được Đỗ Hữu Châu tạm dùng để chỉ những từ

xưng hô tiếng Việt không phải là từ thân tộc, cũng không phải là các đại từ

thực sự.

Theo tác giả, có ba nhóm đại từ:

+ Thứ nhất là các từ như: ngài, người, trẫm, khanh, thiếp, chàng, nàng...

Ngày nay, từ “ngài” được dùng kết hợp với chức danh hoặc tên riêng để

đối xưng hoặc tha xưng trong lĩnh vực quy thức, nhất là đối với người nước

ngoài. “Người” dùng để tha xưng với các thần tượng. “Tiên sinh” ngày nay

không được dùng để đối xưng và tha xưng nữa. “Trẫm, khanh” là từ vua tự

xưng và đối xưng với quan lại.

+ Thứ hai là những tổ hợp từ Hán Việt như: ngu đệ, hiền huynh...

Trong nhóm này có những từ được dùng để tự xưng theo nguyên tắc tự hạ:

ngu đệ, ngu huynh, hạ quan, hạ dân... có những từ chuyên dùng để đối xưng theo

nguyên tắc hô tôn: hiền đệ, hiền huynh...hoặc chuyên dùng để tha xưng cũng theo

nguyên tắc hô tôn: lệnh huynh, lệnh đệ.... Tất cả nhóm từ thứ hai này chỉ dùng

trong văn viết, không được dùng trong giao tiếp miệng đời thường.

20

+ Thứ ba là những từ chỉ xuất không gian hoặc những tổ hợp có từ chỉ

xuất không gian ở sau để tự xưng: (đây, thằng này, con này), để tha xưng:

(đấy, đằng ấy). Những bán đại từ này được dùng trong ngữ vực thân tình

hoặc xung đột.

Các bán đại từ bị đánh dấu chặt chẽ về ngôi, không có hiện tượng kiêm

ngôi. “Lệnh huynh, lệnh tỉ” bao giờ cũng dùng để nói tới anh hoặc chị của

người tiếp thoại.

*Quan điểm của Phong cách học

Quan điểm của các nhà Phong cách học khá giống với quan điểm của các

nhà Ngữ dụng học, nhưng có khác với quan điểm của các nhà Ngữ pháp học.

Các nhà Phong cách học không đồng nhất từ xưng hô với đại từ xưng hô như

các nhà Ngữ pháp học, nhưng phạm vi nghiên cứu về các từ loại khác nhau

được dùng để xưng hô thì khá ít so với các nhà Ngữ dụng học.

Tác giả Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt đã

cho rằng: “Bên cạnh các đại từ nhân xưng: tôi, tao, ta, chúng tôi, chúng ta,

chúng tao, chúng ông, chúng anh, chúng chị (ngôi 1), mày, bay, chúng mày,

chúng bay (ngôi 2), nó, hắn, y, va, nghỉ, chúng nó (ngôi 3), tiếng Việt còn lấy tất

cả các từ chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc dùng làm từ xưng hô như: cụ, ông, bà,

cha, chú, cụ, bác, thím, cô, dì, cậu, mợ, anh, em, chị, cháu...” [50; 166].

Tác giả Đinh Trọng Lạc trong Phong cách học tiếng Việt cũng có những

nhận xét khá giống với Cù Đình Tú. Tác giả viết: “Bên cạnh các đại từ nhân

xưng (tôi, tao, mày, nó/ hắn...) trong tiếng Việt còn dùng những từ chỉ quan hệ

gia đình huyết tộc (ông, bà, cha, mẹ, con, cháu...) để xưng hô” [31; 170].

Đinh Trọng Lạc đã sắp xếp các đại từ xưng hô như sau:

Số ít Ngôi gộp Số nhiều Số/ ngôi

tao chúng tao chúng tôi Tôi ta Ngôi thứ 1

mày chúng ta chúng mày / / Ngôi thứ 2

nó/ hắn chúng nó / / họ Ngôi thứ 3

21

Ngoài các đại từ xưng hô, các từ chỉ quan hệ họ hàng, thân tộc. Hai tác

giả Cù Đình Tú và Đinh Trọng Lạc còn cho rằng các từ chỉ chức tước của cá

nhân, tiếng đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị), tên riêng, những từ trống

(người ta, đây, đấy, đằng ấy...) và cách nói trống không zero còn được dùng để

xưng hô.

b. Phân chia theo phạm vi sử dụng

Theo tác giả Lê Biên: “Có thể chia những từ xưng hô tiếng Việt thành

hai lớp có phạm vi sử dụng khác nhau: Những từ xưng hô dùng trong gia đình

thân tộc và những từ xưng hô dùng ngoài xã hội” [4; 127].

- Những từ xưng hô dùng trong gia tộc, thân tộc

Theo Lê Biên, trong quan hệ gia tộc, thân tộc: “chủ yếu dùng các danh

từ thân thuộc, rất ít dùng đại từ xưng hô gốc, theo một tôn ti chặt chẽ, tương

đôi ổn định” [4; 127].

Giống như các khuôn hình sẵn có, ràng buộc mọi người phải chấp nhận

tuân theo, các từ xưng hô cũng phản ánh các quan hệ: thứ bậc (trên/ dưới), tuổi

tác, giới tính, địa vị xã hội.... Trong đó quan hệ thứ bậc quyết định và chi phối

các quan hệ khác. Tác giả cho rằng cái tôn ti trật tự trên ra trên, dưới ra dưới

chi phối cách ứng xử xưng hô. Cho dù người đó có địa vị cao trong xã hội thì

“nhập gia phải tùy tục”. Do đó, những đại từ xưng hô đích thực (tao, mày, nó)

chỉ thể hiện quan hệ một chiều: tao (trên), nó, mày (dưới) chỉ dùng nói về

những người ở bề dưới, “tôi” chỉ những người ở bậc trên được dùng để xưng

với những người ở bậc dưới.

Cũng theo tác giả, trong phạm vi thân tộc, các từ: ông, bà, bố, mẹ, chú,

bác, cô, anh, em, chị, con, cháu... được dùng với ý nghĩa gốc, cơ bản của chúng

để xưng và hô với những người trong gia tộc.

- Những từ xưng hô dùng ngoài xã hội

Việc sử dụng từ xưng hô ngoài xã hội thể hiện thái độ ứng xử giữa

những người không có quan hệ huyết thống, gia tộc là rất phức tạp, đa dạng và

22

phong phú. Cho nên, theo Lê Biên “Cả hai lớp từ, đại từ xưng hô gốc và các từ

lâm thời làm đại từ xưng hô đều được sử dụng để bộc lộ một vị thế ứng xử xã

hội nhất định” [4; 128].

Những từ xưng hô lâm thời như: ông, bà, bố, con, chị, em... nguyên là

những danh từ chỉ quan hệ gia tộc, thân thuộc, dùng với nghĩa mở rộng để

xưng hô trong giao tiếp ngoài xã hội với những người vốn không có quan hệ

họ hàng, thân thuộc gì với mình. Những từ này, Lê Biên cho rằng trong giao

tiếp xã hội đều đã chuyển nghĩa, tức là không dùng nghĩa gốc cơ bản. “Một số

từ có nội dung ý nghĩa khác xa nghĩa gốc ban đầu: ông, bà, anh, chị, em,

cháu... và có thể biểu lộ những sắc thái biểu cảm khác nhau: lịch sự trang

trọng, thân mật suồng sã, thô tục...” [4; 129]. Ngoài ra có một số từ có phạm

vi sử dụng thu hẹp lại, chẳng hạn như: hai từ “cha, con” dùng trong nhà thờ,

nghi lễ Thiên chúa giáo; các từ “bố, mẹ, con” có thể dùng chỉ quan hệ thân

mật giữa những người không cùng huyết thống hay các từ “thầy, cô, con, em”

dùng trong nhà trường.

Theo tác giả Lê Biên: “Trừ những nghi thức lời nói, các dùng từ xưng hô

trong giao tiếp xã hội, như một cách ứng xử xưng “khiêm”, hô “tôn” nên rất

linh hoạt, rất đa dạng” [4; 130,131]. Ông cho rằng từ xưng hô dùng ngoài xã

hội còn có hiện tượng “gọi thay ngôi” và “xu hướng nâng bậc phân vai”. Đó là

một biểu hiện văn hóa của người Việt: chú trọng đề cao “vai” xã hội của đối

tượng xưng hô theo tuổi tác và chức năng gia đình. Chẳng hạn như trong gia

đình, con cái gọi cha mẹ là “ông, bà” khi người gọi đã có con và gọi thay con,

cha mẹ gọi con hay vợ chồng gọi nhau theo kiểu: “Bố cái Hoa” hoặc “mẹ

Thảo”. Đáng chú ý, theo quan niệm của Lê Biên thì cách xưng hô ngoài xã hội

tồn tại hai hình thức: xưng hô tương ứng, chính xác và xưng hô tương ứng

không chính xác. điều này được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:

23

Ngôi 2 Anh Cô Bác Ông Con Cháu Em Ngôi 1 (chị) (cậu) (chú) (bà)

Con + + +

Cháu x x x

Em x + + +

Anh (chị) x + +

Cô (cậu) + x + +

Bác (chú) + x +

Ông (bà) + x +

Tôi + + + +

x: tương ứng chính xác

+: tương ứng không chính xác

Có thể thấy rằng có rất nhiều hướng nghiên cứu khác nhau về cách phân

loại từ xưng hô. Nhưng nhìn chung các nhà Việt ngữ ở ba phân môn: ngữ pháp,

ngữ dụng và phong cách học tiếng Việt đều có sự quan tâm về đặc điểm từ loại,

về phạm vi sử dụng cũng như những nguyên tắc chi phối các dùng từ xưng hô

trong tiếng Việt.

1.2.1.3. Đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt

Từ trước đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đặc điểm

của từ xưng hô trong tiếng Việt. Trong đó nổi bật là những công trình nghiên

cứu của các tác giả: Đỗ Hữu Châu, Phan Hồng Liên, Trương Thị Diễm, Lê

Biên, Đinh Trọng Lạc.

Theo Đỗ Hữu Châu: “Vì phải thể hiện quan hệ liên cá nhân cho nên các

ngôn ngữ mới có nhiều từ xưng hô và việc dùng từ xưng hô trở nên rắc rối” [8;

78]. Ở đây, Đỗ Hữu Châu đề cập đến vai trò quan trọng của quan hệ liên cá

nhân đã chi phối, sản sinh ra các từ xưng hô và điều đó làm cho hệ thống từ

xưng hô phong phú, phức tạp.

24

Theo tác giả Phan Hồng Liên trong Để tiếng Việt ngày càng trong sáng

đã đưa ra nhận định: “Người Việt không chỉ sử dụng một nhóm từ xưng hô là

danh từ thân tộc mà sử dụng tất cả các nhóm từ xưng hô nhưng linh hoạt trong

từng tình huống cụ thể, tạo ra cho hệ thống từ xưng hô Việt Nam một diện mạo

hết sức phong phú, mới mẻ” [32; 46].

Trong Ngữ học trẻ 2002, tác giả Trương Thị Diễm nhận định: “Cách sử

dụng từ xưng hô luôn luôn thay đổi theo sự thay đổi của xã hội. Hệ thống ngôn

ngữ nói chung và hệ thống từ xưng hô nói riêng luôn là hệ thống động và mở.

Sự thay đổi về lượng của các yếu tố trong hệ thống xưng hô tất yếu kéo theo sự

thay đổi về chất - cấu trúc của hệ thống” [12; 33]. Theo tác giả sự phong phú

đa dạng của từ xưng hô do tính chất động và mở của hệ thống lớp từ này.

Theo tác giả Lê Biên: “Các từ xưng hô phản ánh trực tiếp các mối quan

hệ gia đình thân thuộc và tính chất quan hệ xã hội; phản ánh trình độ nhận

thức, thái độ tình cảm của người nói với người nghe, thậm chí còn có thể bộc lộ

nhân cách con người” [4; 126]. Theo tác giả, sự phong phú đa dạng của từ

xưng hô ngoài việc thể hiện ở hệ thống từ, còn được bộc lộ qua tác dụng, ý

nghĩa của nó.

Trong Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc cho rằng: “Màu sắc biểu

cảm tu từ cực kì phong phú trong hệ thống đại từ nhân xưng và từ xưng hô phản

ánh ý thức cộng đồng, ý thức huyết thống của dân tộc Việt Nam” [31; 175] .

Từ những ý kiến của các nhà nghiên cứu, có thể rút ra được đặc điểm của

từ xưng hô trong tiếng Việt như sau:

Thứ nhất, từ xưng hô trong tiếng Việt có số lượng lớn, là một hệ thống

“động” và “mở”, không hạn chế và luôn biến đổi. Ngoài các từ có chức năng

xưng hô thực thụ như các đại từ nhân xưng (tôi, ta, mình, nó...), trong tiếng

Việt còn có một số lượng lớn các từ ngữ xưng gọi khác như các danh từ thân

tộc (ông, bà, bác, bá, con, cháu...); từ chỉ chức vụ nghề nghiệp (anh bác sĩ, chú

phó phòng...); họ và tên riêng (Nguyễn Trường An, Bác Ngô...) và các từ ngữ

xưng gọi lâm thời khác (bông hoa út, con vàng con ngọc...).

25

Thứ hai, trong giao tiếp hàng ngày, các danh từ dùng làm đại từ xưng hô

được dùng nhiều hơn, phổ biến hơn các đại từ xưng hô đích thực. Đặc biệt, các

danh từ thân tộc không chỉ dùng để xưng hô trong gia đình mà còn giao tiếp với

xã hội. Vì vậy có thể nói: “Xưng hô trong xã hội Việt Nam mang tính gia đình

hóa cao” [32; 146]. Đó là sự lấn át của các từ ngữ xưng gọi vốn xuất xứ từ các

danh từ chỉ thân tộc họ hàng. Các danh từ thân tộc như: Anh, em, ông, bà, con,

cháu... được dùng để xưng gọi trong gia đình, mối quan hệ huyết thống, hôn

nhân...nhưng đồng thời cũng được vận dụng để biểu thị mối quan hệ giao tiếp

ngoài xã hội. Nguyên nhân của hiện tượng này là do trong giao tiếp người Việt

luôn có thiên hướng lấy gia đình làm nơi khởi phát cho cộng đồng. Trong phạm

vi gia tộc, các danh từ thân tộc được dùng với ý nghĩa chính xác của chúng để

xưng và hô. Nhưng trong giao tiếp xã hội, chúng có sự chuyển biến ý nghĩa rất

mạnh mẽ.

Thứ ba, từ xưng hô trong tiếng Việt mang tính tình thái cao, rất đậm sắc

thái biểu cảm. Dù là giao tiếp trong phạm vi gia đình hay ngoài xã hội thì người

Việt thường bộc lộ trực tiếp quan hệ của người nói với người nghe với hiện

thực khách quan. Các từ xưng hô tiếng Việt rất ít khi mang sắc thái trung hòa.

Số lượng các biểu thị sắc thái trung hòa rất ít. Từ “tôi” là đại từ nhân xưng

tương đối trung hòa về thái độ biểu cảm, tuy nhiên trong đối thoại tạo thành các

cặp đối xưng với các từ khác (tôi - anh, tôi - ngài, tôi - cô) vẫn phần nào thể

hiện sắc thái biểu cảm. Trong khi đó, số lượng các từ biểu thị nghĩa tình thái lại

khá nhiều: thân mật suồng sã (mày, tao, tớ, cậu...), trịnh thượng, ngạo mạn (ta,

ta đây...), lịch sự, trang trọng (ngài, vị...), mỉa mai, châm biếm, khinh thường

(mụ, lão, thằng...).

Thứ tư, từ xưng hô trong tiếng Việt có hiện tượng kiêm ngôi. Nghĩa là

không có tính thuần nhất về cách sử dụng, cùng một từ xưng hô nhưng khi

tham gia giao tiếp có thể tham gia vào các vai khác nhau (ta, mình...).

26

Thứ năm, hệ thống từ xưng hô tiếng Việt có hiện tượng đồng âm, đồng

nghĩa (tôi - tui, mẹ - má - bầm - bủ...) nên khi giao tiếp cần am hiểu cũng như

vận dụng linh hoạt vào cuộc thoại.

Thứ sáu, các từ ngữ xưng gọi trong tiếng Việt được sử dụng trong giao

tiếp thường mang đậm dấu ấn văn hóa vùng miền, văn hóa dân tộc. Chính điều

đó làm cho lớp từ xưng hô trong tiếng Việt có những nét khác biệt cơ bản với

những ngôn ngữ khác. Trong các ngôn ngữ châu Âu, đại từ nhân xưng chiếm vị

trí vô cùng quan trọng, là yếu tố trung tâm và ít mang sắc thái biểu cảm. Ở

tiếng Việt, đại từ nhân xưng chiếm một vị trí không đáng kể trong hệ thống các

từ xưng gọi, không phải là yếu tố trung tâm và khi sử dụng thường gắn với một

tình thái nhất định. Ở các ngôn ngữ châu Âu, ít có hiện tượng các danh từ thân

tộc được chuyển sang làm từ xưng gọi. Trong tiếng Việt thì hiện tượng này

diễn ra phổ biến, trong cơ quan, công sở thay vì gọi theo chức vụ, nghề nghiệp,

người Việt vẫn thiên về sử dụng các từ thân tộc (anh, chị, em, cô, chú...) để thể

hiện sự gần gũi thân thiện.

Thứ bảy, so sánh hoạt động của “xưng” và “hô” trong xưng hô tiếng

Việt thì ta thấy từ “hô” kém linh hoạt hơn từ “xưng”. Trong thực tế giao tiếp,

một từ “xưng” thường cặp đôi với nhiều từ “hô”. Ví dụ từ “em” có thể cặp với

nhiều từ tạo thành các cặp xưng hô: em - anh, em - bô, em - mẹ, em - ông, em -

sếp, em - thầy... Ngoài ra ta thấy rằng các từ “hô” thuộc nhóm chức danh, chức

vụ rất ít khi dùng ở vị trí “xưng”.

Tóm lại, xưng hô là hành động ngôn ngữ có ý định, niềm tin, mục đích và

chiến thuật. Từ xưng hô phản ánh mối quan hệ gia đình, thân thuộc và các mối

quan hệ ngoài xã hội. Xưng hô phản ánh trình độ nhận thức, thái độ tình cảm của

người nói đối với người nghe và đồng thời giúp bộc lộ tính cách con người.

Việc sử dụng từ xưng hô trong tiếng Việt chịu sự chi phối từ nhiều nhân

tố như: nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, tình huống giao tiếp. Bên cạnh

đó yếu tố xã hội như phong tục tập quán, văn hóa xã hội cũng tạo nên đặc điểm

riêng cho xưng hô trong từng vùng miền nói riêng và cho tiếng Việt nói chung.

27

1.2.2. Lý thuyết giao tiếp

1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp

Theo Các Mác thì: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” và

sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá

nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp. Nghĩa là các mối quan hệ xã hội

này được biểu hiện rõ nhất trong giao tiếp. Chính vì vậy, giao tiếp không chỉ là

một hoạt động xã hội cơ bản mang tính tất yếu và đặc trưng mà nó còn đánh

dấu sự phát triển vượt bậc của loài người. Con người có thể giao tiếp thông qua

rất nhiều các phương tiện khác nhau: âm thanh, ánh sáng, cử chỉ.... Trong các

phương tiện đó thì ngôn ngữ âm thanh tự nhiên của con người là phương tiện

giao tiếp quan trọng nhất và mang lại hiệu quả cao nhất. Qua đó, con người có

thể bày tỏ và trao đổi về tư tưởng nhận thức, thái độ tình cảm. Có lẽ vì thế đã

có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà Việt ngữ về vấn đề giao tiếp.

Tác giả Diệp Quang Ban đã đưa ra định nghĩa: “Giao tiếp là một hiện

tượng phổ biến trong các kiểu xã hội, đó là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong

một cộng đồng để truyền đạt một nội dung nào đó. Giao tiếp là một trong

những đặc trưng của xã hội, giúp phân biệt xã hội với các quần thể khác không

phải là xã hội...” [3; 17].

Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin

(bao gồm cả tri thức, tình cảm, thái độ, ước muốn, hành động...) giữa ít nhất

hai chủ thể giao tiếp (kể cả trường hợp một người giao tiếp với chính mình)

diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định và một tình huống nhất định, bằng một

hệ thống tín hiệu nhất định” [8; 8].

Tác giả Nguyễn Như Ý đã đưa ra định nghĩa ngắn gọn: “Giao tiếp là sự

thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó” [54; 101].

Thực tế có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Trong đề tài

này, chúng tôi đồng tình với cách định nghĩa của Đỗ Hữu Châu. Theo cách hiểu

này, chúng ta thấy được vai trò quan trọng của giao tiếp đối với đời sống của

28

con người. Giao tiếp chính là điều kiện tồn tại và là nhu cầu đặc trưng sớm nhất

ở con người.

1.2.2.2. Các nhân tố cấu thành hoạt động giao tiếp

Hoạt động giao tiếp được cấu thành bởi rất nhiều yếu tố. Theo GS Đỗ

Hữu Châu, trong giao tiếp bằng ngôn ngữ đáng chú ý là sự có mặt của các nhân

tố giao tiếp sau: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn.... Trong khuôn khổ phạm vi

đề tài này, chúng tôi chỉ xin trình bày nhân tố ngữ cảnh giao tiếp trong việc ảnh

hưởng đến việc lựa chọn và sử dụng từ xưng hô của tác giả Vi Hồng.

Ngữ cảnh giao tiếp là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp

nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Nó là một tổng thể được hợp lại bởi những yếu tố:

nhân vật giao tiếp và hiện thực ngoài diễn ngôn (hoàn cảnh giao tiếp).

a. Nhân vật giao tiếp

Như chúng ta đã biết, để một cuộc hội thoại được diễn ra, yếu tố quan

trọng và mang tính bắt buộc đó là phải có các nhân vật giao tiếp. Trong Đại

cương ngôn ngữ học tập 2, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Nhân vật giao tiếp là

những người tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ

để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác động vào nhau. Đó là những

người tương tác bằng ngôn ngữ.” [8; 15].

Nhân vật giao tiếp chính là linh hồn của cuộc hội thoại, là một nhân tố

quan trọng có thể thúc đẩy và kết thúc cuộc thoại. Giữa các nhân vật giao tiếp

có hai quan hệ chính: vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.

*Vai giao tiếp

Khi tham gia giao tiếp các hoàn cảnh khác nhau, mỗi cá nhân lại đóng

một vai trò khác nhau tạo thành một bộ vai cho mình trong hệ thống giao tiếp

chung. Cùng một đối tượng nhưng khi tham gia vào các cuộc giao tiếp khác

nhau thì hình thành các vai giao tiếp khác nhau: khi đi mua đồ thì là khách

hàng, khi đi xem ca nhạc là khán giả, khi thi đấu thể thao là vận động viên, khi

ở nhà là con đối với bố mẹ, là em đối với anh... Có thể nói rằng, sự phong phú

29

trong các vai giao tiếp góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách xưng gọi của

mỗi cá nhân.

Theo Đỗ Hữu Châu: “Vai giao tiếp là cương vị xã hội của cá nhân nào

đó giữ trong một hệ thống các quan hệ xã hội và được hình thành trong quá

trình xã hội hóa cá nhân” [8; 30].

Trong một cuộc giao tiếp, các nhân vật thường có sự phân vai khá rõ ràng:

vai phát tức là vai nói (viết), vai nhận tức là vai nghe (đọc). Khi giao tiếp trực

tiếp, hai vai này thường luân chuyển, đổi vai cho nhau. việc đổi vai không chỉ

thúc đẩy giao tiếp mà còn kết thúc quá trình giao tiếp: “Trong quá trình giao

tiếp, người đọc có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực. Người nhận tích cực

khi anh ta luôn thay đổi vai trò người nhận - người phát, khi giao tiếp diễn ra ở

hai chiều. Người nhận tiêu cực khi anh ta luôn giữ vai trò người nhận trong suốt

quá trình giao tiếp, nghĩa là khi giao tiếp chỉ diễn ra một chiều” [8; 43].

Để tiến hành giao tiếp, mỗi thành viên tham gia giao tiếp phải xác lập vị

thế giao tiếp của mình, tức là phải nhận thức được một cách đầy đủ về đối tượng

tham gia giao tiếp, về chính bản thân mình và quan hệ giữa mình với đối tượng

giao tiếp đó (về mức độ thân sơ, vị thế trến/ dưới, trình độ văn hóa, tuổi tác, địa

vị...) để có thể lựa chọn những từ ngữ xưng hô thích hợp. Nhờ việc xác định

được đúng vị thế giao tiếp, các vai giao tiếp có thể xây dựng được chiến lược,

động cơ, mục đích giao tiếp để có thể đem lại hiệu quả cao trong giao tiếp.

*Quan hệ liên cá nhân

Theo Đỗ Hữu Châu: “Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong

tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau”

[8; 17].

Khi tham gia hội thoại, các nhân vật giao tiếp phải có một mối quan hệ

qua lại nhất định, đó được gọi là quan hệ liên cá nhân. Mối quan hệ này thực

chất rất đa dạng và phức tạp, nhưng nó diễn tiến theo hai kiểu quan hệ chính:

quan hệ quyền uy (vị thế xã hội) và quan hệ khoảng cách (thân cận).

30

Quan hệ quyền uy là quan hệ trên - dưới, sang - hèn, tôn - khinh.... Quan

hệ này tạo thành các vị thế xếp theo trục dọc. Dựa vào đặc trưng về yếu tố

quyền lực và giàu nghèo tạo thành ba kiểu quan hệ quyền uy đó là: quan hệ

ngang vai, quan hệ trên vai và quan hệ dưới vai.

Quan hệ khoảng cách là quan hệ thân - sơ giữa các nhân vật giao tiếp.

Quan hệ liên kết được đặc trưng bởi yếu tố cận kề gần gũi.

Có thể thấy rõ sự khác biệt của quan hệ quyền uy và quan hệ liên kết quả

bảng so sánh sau:

Quan hệ liên cá nhân Quan hệ Quan hệ quyền uy Quan hệ khoảng cách Đặc điểm ( Vị thế xã hội) (thân cận)

Là quan hệ ứng xử xã hội Là quan hệ ứng xử giữa các cá

dựa trên những quy tắc nhân thể hiện thái độ, tình cảm Khái niệm giao tiếp nhất định. của các vai giao tiếp.

Dựa vào tuổi tác, nghề Dựa vào mức độ hiểu biết lẫn Cơ sở xác lập nghiệp, chức quyền, thứ nhau, thân thiện với nhau. bậc.

Phi đối xứng, nghĩa là sẽ Đối xứng, có thể tạo sự thân Quan hệ giữa các giữ nguyên không thay tình hoặc xa lạ theo mức độ nhân vật giao đổi trong quá trình giao khác nhau. Qua thương lượng tiếp tiếp. có thể thay đổi khoảng cách.

Đặc trưng bởi yếu tố Đặc trưng bằng yếu tố cận kề,

quyền lực và tạo ra gần gũi theo mức độ tình cảm Yếu tố đặc trưng khoảng cách giữa hai bên và luôn hướng đến sự đồng

giao tiếp. đẳng, thân mật.

Quan hệ nơi công sở, cơ Quan hệ bạn bè, đối tác, trong Biểu hiện quan, nghi thức... gia đình...

[xem thêm 8; 17-18].

31

Theo mức độ tình cảm thì quan hệ quyền uy luôn tạo ra khoảng cách còn

quan hệ liên kết lại luôn có xu hướng tới một sự gần gũi, đồng đẳng. Trong

thực tế giao tiếp, các nhân vật giao tiếp có thể có quan hệ thân thiết hoặc xa lạ.

Mức độ thân cận thường tỉ lệ thuận với mức độ hiểu biết về nhau của những

nhân vật tham gia giao tiếp.

Quan hệ liên cá nhân chi phối toàn bộ quá trình giao tiếp, nội dung và hình

thức của diễn ngôn. Bởi vậy, xưng hô chịu áp lực mạnh mẽ từ quan hệ này. Bằng

việc sử dụng các từ ngữ xưng hô mà vai nghe biết được vai nói xác định quan hệ

vị thế và quan hệ xã hội với mình như thế nào. Với sự phong phú của từ xưng hô

trong tiếng Việt, việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ xưng hô được coi như là một

chiến lược quan trọng trong việc thiết lập quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.

Đối với môi trường cơ quan, công sở thì nghi thức giao tiếp như một lẽ

bắt buộc mà mọi người phải tuân theo. Do đó, quan hệ quyền uy ở đây được

xác lập vững vàng, ổn định, rất ít khi thay đổi. Giữa cấp trên và cấp dưới, thủ

trưởng và nhân viên đã có những từ xưng hô giúp định vị thứ bậc rõ ràng không

thể có sự đổi ngôi, trừ khi có các vấn đề tình cảm riêng, mục đích riêng... chi

phối giao tiếp.

Có thể thấy rằng, trong đời sống thường ngày, quan hệ thân sơ và quan

hệ quyền uy đồng thời được biểu hiện. Những từ ngữ biểu hiện hai kiểu quan

hệ này được các nhân vật lựa chọn sử dụng tạo ra không khí vừa tôn ghiêm vừa

thân mật. Chẳng hạn: người con gọi bố mẹ bằng ông bà và xưng con...

b. Hoàn cảnh giao tiếp

Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những yếu tố chủ đạo chi phối hoặt

động giao tiếp của con người. Đó là hiện thực khách quan mà chúng ta đang

sống với tất cả những nhân tố xã hội - ngôn ngữ ảnh hưởng đến việc lựa chọn

và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, như: hiểu biết về thế giới xã hội, văn

hóa, tôn giáo, lịch sử...; phong tục tập quán; trình độ học vấn; kinh nghiệm xã

hội; thói quen sử dụng ngôn ngữ; phạm vi giao tiếp (công sở, gia đình, lãnh thổ

riêng...); đề tài, chủ đề hay hình thức giao tiếp...

32

Trong hoàn cảnh giao tiếp bao giờ người ta cũng đặc biệt chú ý đến sự

tồn tại của tính quy thức trong giao tiếp thông qua sự diễn đạt ngôn ngữ của các

vai giao tiếp.

Tính quy thức có thể hiểu là những yêu cầu, những quy tắc, những nghi

lễ...trong những hoàn cảnh giao tiếp hẹp (không gian, thời gian cụ thể để cuộc

giao tiếp diễn ra như trong các nghi lễ ngoại giao, tôn giáo, trong công sở, nhà

trường...). Các nghi thức này mang tính quy phạm có chuẩn mực riêng mà các

thành viên tham gia giao tiếp ngầm hiểu và tôn trọng thực hiện.

Ngược lại, tính phi quy thức là những hành vi giao tiếp, nơi diễn ra những

hoạt động giao tiếp mà không chịu ảnh hưởng chi phối của bất cứ quy tắc, nghi lễ

nào. Các vai giao tiếp được tự do, thoải mái bộc lộ theo cách của riêng nó.

Tính quy thức/ phi quy thức của hoàn cảnh giao tiếp ảnh hưởng lớn đến

việc lựa chọn và sử dụng các từ xưng hô. Đối với những người có vị thế ngang

bằng nhau như bạn bè, từ ngữ xưng hô được sử dụng ít tính quy thức hơn.

Ngược lại đối với những người ở vị thế không ngang bằng thì vai giao tiếp (đặc

biệt là vai thấp hơn) thường có lối xưng hô quy thức, chuẩn mực, “xưng khiêm

hô tôn”.

Đối với các đại từ thực thụ trong tiếng Việt (trừ đại từ tôi) phần lớn ít có

tính quy thức. Các danh từ thân tộc (ông, bà, cô, chú, anh, chị...) đang chiếm ưu

thế trong các giao tiếp xã hội cùng các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp (giáo

sư, thầy giáo, bác sĩ...)... mang tính quy thức cao trong hoạt động giao tiếp.

trong khi đó danh từ chỉ tên riêng lại mang tính chất trung gian và thường phải

căn cứ vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà xác định tính quy thức/ phi quy thức.

1.2.3. Lý thuyết hội thoại

1.2.3.1. Khái niệm hội thoại

Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, hội thoại là một trong

những vấn đề được rất nhiều các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Các nhà Việt ngữ

học dưới nhiều góc độ nghiên cứu và đã đưa ra những định nghĩa về hội thoại.

33

Tác giả Đào Duy Anh trong Từ điển Hán Việt đã cắt nghĩa “hội” có

nghĩa là họp lại với nhau, gặp nhau; “thoại” là lời nói, nói chuyện. Như vậy,

theo cách hiểu đơn giản nhất, hội thoại là hai hay nhiều người nói chuyện với

nhau, tác động đến nhau bằng lời nói.

Tác giả Nguyễn Như Ý trong Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đã định

nghĩa: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời, ở dạng nói, giữa các nhân

vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích

được đặt ra” [54; 122] .

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong Dụng học Việt ngữ đã định nghĩa:

“Giao tiếp hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ. Trong giao tiếp, hội

thoại luôn luôn có sự hồi đáp giữa người nói và người nghe, chẳng những

người nói và người nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của từng người cũng tác

động lẫn nhau” [18; 63].

Có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về hội thoại, trong khuôn khổ

nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi lựa chọn cách định nghĩa của Đỗ Hữu

Châu trong Đại cương ngôn ngữ học - tập 2 - Ngữ dụng học: “Hội thoại là

hoạt động giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức

cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác” [8; 201].

Như vậy có thể thấy rằng, Đỗ Hữu Châu đưa ra khái niệm “hội thoại”

một cách bao quát và rộng hơn, có thể áp dụng cho nhiều hình thức ngôn ngữ:

hội thoại là hoạt động giao tiếp thường xuyên và căn bản nhất, là cái gốc của

các hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại có một số đặc điểm sau:

- Thoại trường là khoảng thời gian, không gian diễn ra cuộc hội thoại.

Thoại trường có thể mang tính công cộng cũng có thể mang tính riêng tư tùy

theo không gian và quan hệ giữa các vai thoại.

- Số lượng tham gia hội thoại trong từng cuộc thoại là không giống nhau.

cuộc thoại có hai người tham gia gọi là song thoại, ba người tham gia gọi là

tam thoại, nhiều người tham gia hội thoại hơn nữa gọi là đa thoại. Trong đó,

song thoại là hình thức hội thoại cơ bản và phổ biến nhất.

34

- Đích hội thoại có thể là mục tiêu ban đầu người tham thoại đã đề ra đã

xác định rõ ràng và hướng đến. Cũng có thể đích hội thoại nảy sinh trong quá

trình hội thoại một cách tự phát. Có những cuộc thoại ngẫu hứng tự do, có

những cuộc tán gẫu của bạn bè, có những cuộc thoại về chính trị, kinh tế, xã

hội, cũng có những cuộc thoại về nỗi niềm riêng tâm sự riêng. Mỗi một cuộc

thoại đều có một đích giao tiếp nhất định.

- Hình thức hội thoại: các cuộc hội thoại bao giờ cũng được diễn ra dưới

một hình thức nhất định và không giống nhau. Trong các cuộc mít tinh, hội

nghị, đại hội thường có hình thức cố định, chặt chẽ, mang tính nghi thức và có

tính tuần tự. Ngược lại, trong giao tiếp thường ngày, các cuộc thoại được diễn

ra tự do, không có tính quy thức, không bị bó buộc và không cần hình thức tổ

chức hỗ trợ nào cả.

1.2.3.2. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân

Hội thoại không phải diễn ra một cách tùy tiện mà theo những quy tắc

nhất định như: quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời, quy tắc điều hành nội

dung cuộc thoại, quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại và quy tắc chi phối

quan hệ liên cá nhân (phép lịch sự). Trong các quy tắc kể trên thì quy tắc chi

phối quan hệ liên cá nhân có tác động quan trọng đến nội dung cuộc thoại, ảnh

hưởng to lớn đến việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện xưng hô trong tác

phẩm văn học.

Lịch sự là một hiện tượng có tính phổ quát của xã hội trong mọi lĩnh vực.

Nhất là trong giao tiếp, lịch sự là một yếu tố vô cùng quan trọng: “Phép lịch sự

là hệ thống những phương thức mà người nói đưa vào hoạt động nhằm điều

hòa và gia tăng giá trị của đối tác với mình” [8; 280].

Lịch sự là những nguyên tắc chung trong tương tác xã hội của mỗi nền

văn hóa. Nói đến phép lịch sự, không thể không nhắc đến các khái niệm: thể

diện, hành vi đe dọa thể diện, chiến lược lịch sự... vì đây là những yếu tố quan

trọng có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc hội thoại.

35

a. Thể diện

Khái niệm “thể diện” được Brown và Levinson định nghĩa là: “hình ảnh

về ta công cộng mà mỗi thành viên trong xã hội muốn mình có được” [dẫn theo

8; 264]. Đây chính là cảm giác về giá trị cá nhân, ấn tượng cá nhân mà mỗi

người xây dựng nên cho những người tham gia giao tiếp được biết.

Khi đề cập đến vấn đề thể diện, các nhà nghiên cứu thường chú ý đến thể

diện âm tính và thể diện dương tính.

Thể diện âm tính: theo J. Thomas: “là mong muốn không bị can thiệp,

mong muốn được hành động tự do theo như cách mình đã lựa chọn” [dẫn theo

8; 264]. Theo G.Yule, thể diện âm tính là: “nhu cầu được độc lập, tự do trong

hành động, không bị người khác áp đặt.” [dẫn theo 8; 264].

Thể diện dương tính: theo G.Yule “Thể diện dương tính của một người

là cái nhu cầu được chấp nhận, thậm chí được yêu thích bởi người khác, được

đối xử như là một thành viên của cùng một nhóm xã hội và nhu cầu được biết

rằng mong muốn của mình cũng được người khác chia sẻ. Nói đơn giản thì thể

diện âm tính là nhu cầu được độc lập còn thể diện dương tính là nhu cầu được

liên thông với người khác” [dẫn theo 8; 264].

Như vậy, hành động giữ thể diện hướng vào thể diện âm tính, phải thể

hiện sự tôn trọng, nhấn mạnh tầm quan trọng của thời gian và quan hệ của

người khác. Hành động đó được gọi là phép lịch sự âm tính. Hành động giữ thể

diện hướng vào thể diện dương tính sẽ phải thể hiện sự đoàn kết, nhấn mạnh

vào mục đích chung của những người tham gia hội thoại. Đây là phép lịch sự

dương tính. Trong hội thoại, sự cân bằng giữa phép lịch sự âm tính và phép lịch

sự dương tính là một yêu cầu cần thiết và khó khăn trong việc tự hoàn thiện

mình của mỗi cá nhân.

b. Hành vi đe dọa thể diện

Trong hội thoại, những người tham gia đều mong muốn được giữ thể

diện. Mong muốn giữ thể diện là thể hiện cách xử sự sao cho hình ảnh của

36

mình được công cộng tôn trọng. Hoạt động giữ thể diện là hoạt động người

tham gia hội thoại không làm mất của mình và người khác.

Đại bộ phận các hành vi ngôn ngữ đều tiềm ẩn khả năng làm tổn hại đến

thể diện. Tương ứng với các thể diện sẽ xuất hiện các hành vi đe dọa thể diện

như sau:

- Hành vi đe dọa thể hiện âm tính của người thực hiện như: biếu, tặng,

hứa, thề thốt...

- Hành vi đe dọa thể diện dương tính của người thực hiện như: cảm ơn,

thú tội, xin lỗi...

- Hành vi đe dọa thể hiện âm tính của người tiếp nhận như: dặn dò,

khuyên nhủ...

- Hành vi đe dọa thể hiện dương tính của người tiếp nhận như: mắng mỏ,

phê bình...

Do tiềm năng đe dọa thể diện như vậy, nên khi tiến hành hoạt động lịch

sự, người nói nên cân nhắc hiệu lực đe dọa thể diện ở hành vi tại lời mà mình

sắp thực hiện để đạt hiệu quả giao tiếp cao.

1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Vi Hồng

1.3.1. Cuộc đời nhà văn Vi Hồng

Vi Hồng tên khai sinh là Vi Văn Hồng, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1936

tại bản Phai Thin, xã Đức Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Nhà văn có bút

danh khác là Hà Thúy Slao. Ông là con trai duy nhất trong một gia đình nông

dân nghèo, dân tộc Tày giàu truyền thống văn hóa. Quê hương ông là một trong

những cái nôi bảo tồn và lưu giữ truyền thống văn hóa Tày vùng Việt Bắc.

Ngay từ thuở thơ ấu, những câu chuyện kể dân gian Tày đã mang theo chất văn

giống như chất xúc tác đặc biệt thấm dần và hình thành vào tâm hồn nhà văn.

Từ nhỏ, Vi hồng đã rất thông minh và học rất giỏi. Năm 1943, lên bảy

tuổi, Vi Hồng bắt đầu tự học chữ Hán, chữ Quốc ngữ và được vào thẳng lớp

bốn trường làng.

37

Từ mười tuổi, Vi Hồng đã học một cách có ý thức các điệu lượn, điệu

then từ bà. Năm mười ba tuổi, Vi Hồng tập làm thơ, chủ yếu là thể Phong Slư-

một thể thơ tỏ tình trao duyên của dân dộc Tày.

Năm 1955, Vi Hồng xuống Thái Nguyên học trường cấp III Lương Ngọc

Quyến. Sau đó Vi Hồng thi đỗ vào khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm I Hà

Nội. Sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại trường làm giảng viên nhưng nhà văn

đã xung phong lên công tác ở sở Giáo dục Hà Giang. Một thời gian sau, ông trở

về Đại học Sư phạm I Hà Nội giảng dạy. Năm 1966, Trường Đại học Sư phạm

Việt Bắc được thành lập, Vi Hồng là một trong những nhà giáo đầu tiên xung

phong lên Thái Nguyên giảng dạy. Từ đó, Vi Hồng đã gắn bó với mảnh đất nơi

đây trở thành một nhà giáo ưu tú và cho ra đời nhiều công trình sáng tác và

nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian Tày - Nùng.

Nhà văn Vi Hồng đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 31 tháng 3 năm

1997 tại thành phố Thái Nguyên khi những trang tiểu thuyết của ông vẫn còn

dang dở.

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng

Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Việt Bắc, Vi Hồng rất có ý thức tìm hiểu

những di sản văn hóa, văn học của dân tộc mình. Nhà văn dồn rất nhiều tâm

huyết cho nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian của các dân tộc Việt Bắc.

Vi Hồng đã làm việc một cách nhiệt huyết, cần mẫn miệt mài để cho ra đời một

khối lượng tác phẩm văn học khá phong phú và dày dặn.

Về công trình nghiên cứu và sưu tầm: Vi Hồng cho ra đời 7 cuốn sách

nghiên cứu và sưu tầm văn học dân gian. Đáng kể nhất là các tác phẩm: Sli,

lượn, dân ca trữ tình Tày - Nùng, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.1979; Khảm hải,

Nxb Văn hóa Dân tộc, H.1993; Thì thầm dân ca nghi lễ. Nxb Văn hóa Dân

tộc, H.2001; Sáu tập sưu tầm Truyện cổ Tày - Nùng do Hội Văn nghệ Bắc

Thái in năm 1993…và hàng chục bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí trung

ương và địa phương. Nhà văn cũng viết một số bài thuộc lĩnh vực khoa học

38

giáo dục, cụ thể là về dạy và học văn ở miền núi (đăng trên Tạp chí Văn học,

Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp...). Những công trình nghiên cứu

đã phản ánh tài năng và tâm huyết của nhà văn Vi Hồng đối với di sản văn

hóa, văn học dân gian.

Về sáng tác văn học, Vi Hồng thành công ở cả ba thể loại: truyện ngắn,

truyện vừa và tiểu thuyết với 15 cuốn tiểu thuyết, 4 tập truyện vừa, 1 tập truyện

ngắn. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cho các sáng tác văn học của mình:

- Năm 1960: Giải Nhì - Giải thưởng của Tổng hội Sinh viên Việt Nam

cho truyện ngắn Ngôi sao đỏ trên đỉnh núi Phja Hoàng.

- Năm 1962: Giải Nhì báo Người giáo viên nhân dân cho truyện ngắn

Cây su su nọong Ỷ.

- Năm 1963: Giải Nhì cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Việt

Bắc cho truyện ngắn Nước suối tiên đào.

- Năm 1971: Giải ba cuộc thi truyện ngắn do Hội Nhà văn Việt Nam tổ

chức cho truyện Cọn nước Eng Nhàn.

- Năm 1993: Giải thưởng Văn học nghệ thuật cho tiểu thuyết Dòng sông

nước mắt.

- Năm 1994: Giải thưởng Văn học nghệ thuật cho tiểu thuyết Phụ tình.

- Năm 1994 - 1995: Giải C cuộc vận động viết về thiếu nhi dân tộc và

miền núi do báo Thiếu niên tiền phong và Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức.

- Năm 1995 Giải Ba của Hội văn nghệ Dân gian Việt Nam cho công

trình Khảm hải.

- Năm 1995 Giải Ba của Hội văn nghệ Dân gian Việt Nam cho công

trình Thì thầm dân ca nghi lễ (năm 2002 công trình này được trao giải C - Giải

thưởng Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam).

- Năm 1996 - 1997: Giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi của

nhà xuất bản Kim Đồng cho tác phẩm Đường về với Mẹ Chữ.

- Năm 2012 ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

39

Vi Hồng đã vẽ một bức tranh khái quát về cuộc sống con người và thiên

nhiên miền núi qua những phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hóa, lối suy

nghĩ tình cảm của người dân Việt Bắc. Nhà văn đã mang hồn điệu của văn học

dân gian vào trong tác phẩm của mình qua lối diễn đạt giàu hình ảnh, cách so

sánh độc đáo, sự bay bổng lãng mạn của thể loại Phong Slư (bức thư tình được

viết bằng thơ).

Trong các sáng tác của mình, Vi Hồng luôn đi vào những vấn đề mang

tính thiết thực của cuộc sống miền núi như: vấn đề người trí thức, người lao

động; vấn đề chống phong kiến; vấn đề định canh định cư; vấn đề tình yêu hôn

nhân… Có thể tìm thấy ở Vi Hồng một hồn văn chương truyền thống, một bộ óc

nhạy bén với sự biến động của thời cuộc. Tất cả như hòa quyện, giao thoa và kết

tinh lại tạo nên một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn giữa văn chương Vi Hồng với

bất kì một nhà văn nào khác.

Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Vi Hồng, chúng ta càng

trân trọng khát vọng sáng tạo luôn cháy bỏng trong ông cũng như sự công phu

lao động chữ nghĩa của ông. Đúng như những người quý trọng ông đã nhận xét:

"…Đi tìm Mẹ chữ ở tuổi thiếu niên, anh là người sáng tạo một khối chữ khổng

lồ ở tuổi 60 trước lúc qua đời".

Tiểu kết chương 1:

Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một số vấn đề chung mang tính

tổng quát về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý thuyết mang tính chất là

cơ sở, là tiền đề có liên quan đến đề tài. Đó là:

1. Xưng hô luôn là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm của giới ngôn

ngữ học, những nghiên cứu về từ xưng hô được xem xét dưới góc nhìn đa

chiều: góc độ lí luận chung về ngữ pháp học, góc độ phạm vi: gia đình và ngoài

xã hội, góc độ đối chiếu. Tuy nhiên hướng nghiên cứu lớp từ ngữ xưng hô

trong các tác phẩm văn học cụ thể vẫn luôn là một hướng đi mới mẻ.

40

Những nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng được tập trung khá

rõ ở những phương diện khác nhau như nội dung, nghệ thuật và những đóng

góp của nhà văn với nền văn học dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn

chưa thấy có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể và chuyên

biệt về “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng”. Công trình này mong

muốn đóng góp thêm một tiếng nói vào quá trình nghiên cứu, khám phá sáng

tác của nhà văn Vi Hồng.

2. Xưng hô là phạm trù quan trọng trong giao tiếp, là một lĩnh vực lý

thuyết thuộc ngành Ngữ dụng học đã có từ lâu đời cho đến ngày nay vẫn nhận

được sự quan tâm đặc biệt. Xưng hô là biểu hiện của lối ứng xử văn hóa để

thiết lập quan hệ tiếp xúc giữa những người tham gia giao tiếp. Các phương

tiện dùng để xưng hô bao gồm: đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc, danh từ

chỉ tên riêng, danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ và một số kiểu loại xưng hô

khác. Chi phối việc sử dụng lớp từ ngữ xưng hô trong các tác phẩm văn học

bao gồm cả các nhân tố ngôn ngữ học (hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp,

phép lịch sự...) và các nhân tố văn học (hội thoại trong tác phẩm văn học,

nhân vật văn học...) chúng tôi cũng xét tới một số vấn đề về lý thuyết giao tiếp

và lý thuyết hội thoại có liên quan tới phạm trù xưng gọi để làm cơ sở cho

việc nghiên cứu đề tài.

3. Vi Hồng là nhà văn tiêu biểu của nền văn học thiếu số Việt Nam hiện

đại. Sự thành công trong sáng tác của ông được thể hiện ở cả nội dung và hình

thức. Trong đó có việc làm mới ngôn ngữ dân tộc, nhất là việc sử dụng hệ

thống các từ xưng hô một cách đa dạng, phong phú và sáng tạo nhằm thể hiện

tư tưởng tình cảm một cách hiệu quả, mang đậm dấu ấn dân tộc Tày và ngôn

ngữ dân tộc Việt. Nghiên cứu “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng” sẽ

giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tác phẩm của nhà văn

và vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

41

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG

Vi Hồng là một cây bút có vốn sống, vốn hiểu biết, vốn ngôn ngữ vô

cùng phong phú nên từ ngữ xưng hô trong tác phẩm của ông luôn là một hệ

thống sống động, đa dạng và có sự biến hóa hết sức linh hoạt. Trong phạm vi

đề tài này, chúng tôi xin đề cập đến hai cách sử dụng từ xưng hô nổi bật nhất

và thể hiện được tài năng sử dụng từ ngữ của Vi Hồng, đó là: cách sử dụng từ

ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật và qua lời trần thuật của

chính tác giả.

Với mục đích có một cái nhìn toàn cảnh và tổng quát về từ ngữ xưng hô

trong văn xuôi Vi Hồng, chúng tôi đã lựa chọn nhiều thể loại trong sáng tác của

ông làm tư liệu khảo sát của luận văn. Đó là một số tác phẩm văn xuôi của Vi

Hồng, bao gồm: 6 tiểu thuyết, 4 truyện ngắn, 2 truyện dài và 1 truyện vừa với

1702 trang văn xuôi.

2.1. Từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật

2.1.1. Thống kê hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng

Theo số liệu khảo sát, số lượng và tần số xuất hiện của các từ xưng hô

qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong tác phẩm khá lớn. Trong 13 tác

phẩm với dung lượng 1702 trang, có tất cả 15052 lượt sử dụng. Như vậy trung

bình mỗi có trang văn xuôi có hơn 8,8 lượt từ ngữ xưng hô xuất hiện. Con số

đó không nhỏ nhất là với thể loại tiểu thuyết. Trong số 13 tác phẩm khảo sát,

tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng có số lượng từ ngữ xưng hô nhiều nhất cả về

số từ lẫn số lượt sử dụng với 191/837 từ ngữ (chiếm 22,82%) và 4045 lượt sử

dụng (chiếm 26,87%). Tác phẩm có số lượng từ ngữ xưng gọi và số lượt sử

dụng thấp nhất là tác phẩm Sự tích hang cứu tôi với với 15 từ ngữ (chiếm

1,79%) và 39 lượt sử dụng (chiếm 0,26%). Có sự chênh lệch nhau khá lớn về

việc sử dụng từ ngữ xưng trong tác phẩm Vi Hồng là do sự khác biệt về dung

lượng giữa thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài và truyện vừa.

42

Nhìn chung, các từ ngữ xưng gọi trong tác phẩm văn xuôi Vi Hồng được

sử dụng rất phong phú và thường xuyên. Ngoài việc sử dụng những từ ngữ

xưng hô thông thường, trong tác phẩm Vi Hồng còn có cả cách xưng hô đặc

biệt của dân tộc Tày với sự chất phác và cách bộc lộ thái độ trực tiếp qua xưng

hô. Lối diễn đạt rất giàu hình ảnh, nói theo đường “ong bay hoa nở” của những

trai non gái trẻ, trai thanh gái nụ đã góp phần tạo nên nét đặc trưng cho việc sử

dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng.

Nhìn một cách tổng thể các từ ngữ xưng hô trong 13 tác phẩm được chọn

để khảo sát, có thể thấy các từ ngữ xưng hô được xếp vào những nhóm sau đây:

đại từ nhân xưng; từ ngữ thân tộc; từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp; từ ngữ chỉ

tên riêng; từ ngữ xưng hô khác.

Bảng 2.1. Từ ngữ xưng hô phân loại theo nhóm

Nhóm xưng hô Số lượng từ ngữ Số lượt

Từ ngữ thân tộc 91 10,87% 7762 51,57%

Đại từ nhân xưng 35 4,18% 4658 30,95%

Từ ngữ chỉ tên riêng 270 32,26% 1585 10,53%

Kiểu loại xưng hô khác 374 44,69% 715 4,75%

Từ ngữ chỉ chức vụ nghề nghiệp 67 8,00% 332 2,20%

Tổng 837 100% 15052 100%

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy các nhóm được sử dụng làm

phương tiện xưng hô có số lượng và tần số xuất hiện khác nhau: một số nhóm

được sử dụng làm phương tiện xưng hô có số lượng xuất hiện lớn nhưng tần số

sử dụng lại thấp; ngược lại, có một số nhóm tuy số lượng ít nhưng tần số sử

dụng lại rất cao. Cụ thể:

1. Xét về tổng số các từ ngữ dùng để xưng hô theo thứ tự từ cao xuống

thấp, chúng ta có:

Kiểu loại xưng hô khác có số lượng nhiều nhất, chiếm 374/837 từ ngữ

dùng để xưng hô, tương đương với 44,69% trong tổng số các phương tiện dùng

để xưng hô.

43

Từ ngữ chỉ tên riêng có số lượng từ lớn thứ hai với 270/837 từ ngữ,

chiếm 32,26% trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.

Từ ngữ thân tộc có số lượng từ lớn thứ ba với 91/837 từ ngữ, chiếm

10,87% trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.

Từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp có số lượng từ lớn thứ tư với 67/837 từ

ngữ, chiếm 8,00% trog tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.

Đại từ nhân xưng có số lượng từ nhỏ nhất với 35/837 từ ngữ, chiếm

4,18% trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.

2. Xét về tần số sử dụng của các nhóm từ xưng hô theo thứ tự từ cao

xuống thấp thì có sự chuyển đổi. Chúng ta có:

Cao nhất là từ ngữ thân tộc với 7762 lượt sử dụng, chiếm 51,57% trong

tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.

Thứ hai là đại từ nhân xưng với 4658 lượt sử dụng, chiếm 30,95% trong

tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.

Thứ ba là từ ngữ chỉ tên riêng với 1585 lượt sử dụng, chiếm 10,53%

trong tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.

Thứ tư là nhóm kiểu loại xưng hô khác với 715 lượt sử dụng, chiếm

4,75% trong tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.

Nhóm từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ có 332 lượt sử dụng, chiếm

2,20% trong tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.

Kết quả trên cho thấy các từ ngữ để xưng hô trong tác phẩm của Vi Hồng

là rất đa dạng về loại đơn vị từ vựng và phong phú về hình thức biểu đạt. Điều

đó chứng tỏ vốn ngôn ngữ rất dồi dào của nhà văn.

Khi đi sâu vào tìm hiểu từng nhóm từ ngữ dùng làm phương tiện xưng

hô trong 13 tác phẩm của Vi Hồng, chúng tôi thấy rằng trong cùng một nhóm

từ ngữ xưng hô có những cách cấu tạo khác nhau tạo nên sự đa dạng cho chính

các loại đơn vị từ vựng.

44

2.1.1.1. Đại từ nhân xưng

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy đại từ nhân xưng có số lượng từ

ngữ xưng hô nhỏ nhất với 35/837 từ ngữ, tương đương với 4,18% nhưng khi đi

vào hành chức lại chiếm vị trí thứ hai 4658 lượt, chiếm 30,95% trong tổng số

lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.

Về cấu tạo, các đại từ nhân xưng có thể phân chia thành đại từ nhân xưng

số ít và đại từ nhân xưng số nhiều.

Bảng 2.2. Đặc điểm cấu tạo của đại từ nhân xưng

Sự phân bố Số lượng xuất hiện Tần số sử dụng Đặc điểm cấu tạo

Số ít 13 37,14% 3846 82,57%

Số nhiều 22 62,86% 812 17,43%

Tổng số 35 100% 4658 100%

Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy các đại từ nhân xưng số ít giữ vai trò

chủ yếu trong hệ thống đại từ nhân xưng trong văn xuôi Vi Hồng.

- Về số lượng, các đại từ nhân xưng số ít chiếm 13 từ (37,14%), ít hơn

nhóm đại từ nhân xưng số nhiều. Tuy nhiên xét về khả năng hành chức của

chúng trong văn bản thì chiếm tới 3846/4658 (lượt sử dụng) tương đương với

82,57%. Cao nhất là đại từ tôi (1290 lượt sử dụng), tao (733 lượt sử dụng),

mình (số ít) (682 lượt sử dụng), mày (634 lượt sử dụng)...

- Các đại từ nhân xưng số nhiều tuy xuất hiện với số lượng gần gấp đôi

nhóm đại từ nhân xưng số ít (22/13), tuy nhiên khi đi vào hành chức số lượt sử

dụng lại thấp hơn (812/4658) tương đương 17,43%. Cao nhất là đại từ chúng ta

(266 lượt sử dụng), ta (263 lượt sử dụng), chúng tôi (88 lượt sử dụng)...

- Về cấu tạo, đại từ nhân xưng số ít thường được cấu tạo bằng các từ một

hình vị, đại từ nhân xưng số nhiều được cấu tạo từ 2 hình vị trở lên. Các đại từ

nhân xưng số nhiều có cách cấu tạo chủ yếu là sự kết hợp danh từ chỉ đơn vị

với đại từ nhân xưng (chúng, bọn...+ đại từ nhân xưng). Ví dụ: chúng ta, chúng

tôi, bọn mày, bọn mình...

45

Ngoài cách cấu tạo tạo đại từ nhân xưng số nhiều kể trên, trong văn xuôi

Vi Hồng còn sử dụng một hệ thống các đại từ nhân xưng là những từ vay mượn

gốc Hán: nàng, chàng, ngài, nhà ngươi...

2.1.1.2. Từ ngữ thân tộc

Từ ngữ thân tộc chiếm vị trí thứ 3 (91/837), tương đương với 10,53%

trong tổng số các từ ngữ xưng hô và đứng thứ nhất (7762/15052), tương đương

với 51,57% về số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô trong 13 tác phẩm

văn xuôi của Vi Hồng mà chúng tôi đã chọn để khảo sát.

Xét về cách cấu tạo thì các từ ngữ thân tộc dùng để xưng hô trong 13 tác

phẩm văn xuôi của Vi Hồng được chia thành hai loại chính: danh từ thân tộc

gồm 1 hình vị và từ ngữ thân tộc ≥ 2 hình vị. Ngoài ra trong văn xuôi Vi Hồng

còn sử dụng các danh từ thân tộc gốc Hán. Chúng ta có bảng sau:

Bảng 2.3. Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ thân tộc

Sự phân bố Số lượng Tần số

Đặc điểm cấu tạo xuất hiện sử dụng

1 hình vị 19 20,88% 7319 94,29%

Kết hợp các danh từ thân tộc 18 19,78% 199 2,56%

Danh từ thân tộc + danh từ đơn vị 25 27,47% 182 2,35%

Danh từ thân tộc + số từ 6 6,59% 25 0,32%

≥2 hình vị Danh từ thân tộc gốc Hán 4 4,40% 16 0,21%

Danh từ thân tộc + yếu tố chỉ đặc 14 15,39% 15 0,19% điểm, tính chất

Danh từ thân tộc + từ chỉ thứ bậc 5 5,49% 6 0,08%

Tổng số 91 100% 7762 100%

- Nhóm danh từ thân tộc gồm 1 hình vị cũng là nhóm từ thân tộc chuyên

dụng, chiếm 19/91 tổng số danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô, tương

đương với 20,88%, khả năng đi vào hành chức của chúng rất lớn, 7319/7762 lượt,

chiếm 94,29% lượt sử dụng của các danh từ thân tộc xưng hô. Nhiều nhất là từ em

(1945 lượt sử dụng), anh (1894 lượt sử dụng) và cháu (1133 lượt sử dụng).

46

- Nhóm từ ngữ thân tộc ≥ 2 hình vị chiếm 72/91 tổng số từ ngữ thân

tộc làm phương tiện xưng hô, tương đương với 79,12%. Tuy chiếm số lượng

lớn, nhưng khả năng đi vào hành chức của chúng rất thấp chỉ chiếm

443/7762 lượt sử dụng, tương đương với 5,21%. Nhóm từ này có những cách

cấu tạo khác nhau:

+ Kết hợp các danh từ thân tộc: chiếm 18/91 từ ngữ, tương đương

19,78%. Về tần số sử dụng của chúng chiếm 199/7762 lượt, tương đương

2,56%, đứng thứ 2 sau nhóm từ thân tộc chuyên dụng. Nhiều nhất là những từ:

bố mẹ (90 lượt sử dụng), anh em (21 lượt sử dụng), ông bà (18 lượt sử dụng).

+ Danh từ thân tộc + danh từ đơn vị: chiếm 25/91 từ ngữ, tương đương

27,47% (chiếm số lượng từ lớn nhất trong tổng số các nhóm từ ngữ thân tộc để

xưng hô). Về tần số sử dụng thì đứng thứ 3 chiếm 182/7762 lượt, tương đương

2,35%. Nhóm này được sử dụng nhiều nhất là các từ: chúng cháu (36 lượt sử

dụng), các anh (23 lượt sử dụng), các ông (20 lượt sử dụng).

+ Danh từ thân tộc + yếu tố chỉ đặc điểm, tính chất: chiếm 14/91 từ ngữ,

tương đương 15,39% số lượng các từ ngữ xưng hô. Về tần số sử dụng chiếm

15/7762, tương đương 0,19%. Ngoài từ cháu gái được sử dụng 2 lần, còn lại

các từ khác chỉ được sử dụng một lần: bố già, ông anh đẹp trai, dì trẻ...

+ Danh từ thân tộc + số từ: về số lượng chiếm 6/91 từ, tương đương

6,52% số lượng các từ ngữ xưng hô. Về tần số sử dụng 25/7762 lượt sử dụng,

tương đương 0,32%. Những từ được sử dụng nhiều nhất là: hai bác (15 lượt

sử dụng), hai cháu (6 lượt sử dụng), còn lại những từ khác chỉ được sử dụng

một lượt.

+ Danh từ thân tộc + từ chỉ thứ bậc: về số lượng từ 5/91, tương

đương 5,49%, về số lượt sử dụng ít nhất trong tất cả các danh từ thân tộc

dùng để xưng hô: chiếm 6/7762, tương đương 0,08%. Ngoài từ anh cả được

sử dụng 2 lần, còn lại các từ khác chỉ được sử dụng một lần: ông tổ, cô út,

chú thứ ba...

47

+ Danh từ thân tộc gốc Hán: chiếm số lượng nhỏ nhất về số lượng từ:

4/91, tương đương 4,40%. Về tần số sử dụng là 16/7762 lượt, tương đương

0,21%. Trong nhóm từ này, các từ được sử dụng nhiều nhất là: đại huynh (4

lượt sử dụng), đại ca (4 lượt sử dụng).

2.1.1.3. Từ ngữ chỉ tên riêng

Danh từ chỉ tên riêng đứng vị trí thứ hai trong các phương tiện dùng để

xưng hô với 270 từ ngữ, chiếm 32,26% và đứng thứ ba trong tổng số lượt sử

dụng các từ ngữ dùng để xưng hô với 1585 lượt, chiếm 10,53%.

Từ ngữ chỉ tên riêng phản ánh tên gọi của các nhân vật giao tiếp mà

trong quá trình giao tiếp người ta sử dụng để thay thế cho các đại từ xưng hô

thực thụ. Cũng như các từ xưng hô lâm thời khác, hiện nay tên riêng được sử

dụng để xưng hô khá phổ biến trong tiếng Việt.

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy danh từ chỉ tên riêng được sử

dụng vô cùng phong phú: ở cả 2 vị trí xưng, hô và bằng những cách kết hợp

khác nhau.

Nhóm danh từ chỉ tên riêng trong 13 tác phẩm của Vi Hồng chiếm số

lượng từ ngữ lớn: 270 từ, 1585 lượt. Nhóm này bao gồm các tiểu loại sau:

Bảng 2.4. Cấu tạo của nhóm từ ngữ chỉ tên riêng

Sự phân bố Số lượng xuất hiện Tần số sử dụng Đặc điểm cấu tạo

Tên riêng 66 24,44% 847 53,44%

Tên riêng + danh từ thân tộc 135 50.00% 540 34,07%

Tên riêng + danh từ đơn vị 16 5,93% 28 1,77%

Tên riêng + yếu tố chỉ đặc điểm 18 6,67% 54 3,41%

Tên riêng + nghề nghiệp, chức vụ 13 4,81% 37 2,33%

Tên riêng chỉ vật 7 2,59% 37 2,33%

Tên riêng + đại từ nhân xưng 12 4,45% 34 2,15%

Biệt danh 3 1,11% 8 0,50%

Tổng số 270 100% 1585 100%

48

Nhóm tên riêng có số lượng từ ngữ 66/270, tương đương 24,44%. Tuy

nhiên tiểu loại này khi đi vào hành chức trong tác phẩm Vi Hồng lại có tần suất

sử dụng lớn nhất trong nhóm từ ngữ chỉ tên riêng, với 847/1585 lượt sử dụng,

tương đương 53,44%. Tên riêng trong tác phẩm văn xuôi Vi Hồng có cả tên

riêng 1 âm tiết và 2 âm tiết mang sắc thái dân tộc Tày rất rõ. Những tên riêng

được sử dụng nhiều nhất ở nhóm tiểu loại này là: Hoàng (122 lượt sử dụng),

Thu Lạ (99 lượt sử dụng), Đàng (68 lượt sử dụng).

Nhóm tên riêng + danh từ thân tộc có số lượng từ ngữ lớn nhất với

135/270 từ ngữ, chiếm 50,00%, tuy nhiên khi đi vào hành chức, tiểu loại này

chỉ xếp ở vị trí thứ hai với 540/1585 lượt sử dụng, tương đương với 34,07%.

Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: anh Hoàng (48 lượt sử dụng),

anh Tú (28 lượt sử dụng), anh Mi Tráng (26 lượt sử dụng).

Nhóm tên riêng + danh từ đơn vị có số lượng 16/270 từ ngữ, tương

đương 5,93%. Khi đi vào hành chức, nhóm từ này chiếm 28/1585 lượt sử dụng,

tương đương 1,77%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: thằng

Hoàng (9 lượt sử dụng), thằng Ang (2 lượt sử dụng), thằng Kim Công (2 lượt

sử dụng).

Nhóm tên riêng + yếu tố chỉ đặc điểm có số lượng từ ngữ 18/270, tương

đương 6,67%. Khi đi vào hành chức, nhóm từ này chiếm 54/1585 lượt sử dụng,

tương đương 3,41%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: già Viền

(20 lượt sử dụng), già Xanh (11 lượt sử dụng), Mạc trọc (5 lượt sử dụng).

Nhóm tên riêng + danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ có số lượng 13/270

từ ngữ, tương đương 4,81%. Khi đi vào hành chức, nhóm từ này chiếm 37

lượt sử dụng, tương đương 2,33%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là

các từ: tảo Mu (17 lượt sử dụng), then Kì (5 lượt sử dụng), tảo Lăm Đăm (3

lượt sử dụng).

Nhóm tên riêng + đại từ nhân xưng có số lượng từ ngữ 12/270, tương

đương 4,45%. Về tần số sử dụng của nhóm từ này là 34 lượt, tương đương

49

2,15%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: bạn Kì (7 lượt sử

dụng), bạn Thu Lạ (7 lượt sử dụng), bạn Đàng (5 lượt sử dụng).

Nhóm biệt danh là nhóm có số lượng nhỏ nhất cả về số lượng từ ngữ và

tần số sử dụng với 3/270 từ ngữ chiếm 1,11%, 8 lượt sử dụng chiếm 0,50%.

Trong nhóm tiểu loại này các từ anh Pu Pa, Hoa Nước được sử dụng 3 lượt,

còn từ cháu Hoa Nước được sử dụng 2 lượt.

Nhóm tên riêng chỉ vật có số lượng từ ngữ 7/270, tương đương 2,59%.

Về tần số sử dụng, nhóm này chiếm 37/1585 lượt, tương đương 2,33%. Đây là

tiểu loại rất đặc biệt dùng để hô các con vật trong tác phẩm. Nhóm tiểu loại này

sử dụng nhiều nhất là các từ: Vài Mu (11 lượt sử dụng), Đăm (9 lượt sử dụng),

Cắng (7 lượt sử dụng).

2.1.1.4. Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ

Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ chiếm vị trí thứ tư trong tổng số các

phương tiện dùng để xưng hô (67/837), tương đương 8,00 % và được sử dụng ít

nhất trong tổng số lượt sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô 332 lượt

(2,20%) trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng.

Trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng, có tất cả 67 từ thuộc nhóm

danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ với 332 lượt sử dụng. Trong đó:

Bảng 2.5. Cấu tạo của từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ

Sự phân bố Số lượng xuất hiện Tần số sử dụng

Tiểu loại Nghề nghiệp Chức vụ Nghề nghiệp + chức vụ Trình độ

Tổng 23 40 2 2 67 34,32% 59,70% 2,99% 2,99% 100% 257 70 3 2 332 77,42% 21,08% 0,90% 0,60% 100%

Nhìn vào bảng thống kê trên, ta thấy số lượng các danh từ chỉ chức vụ

chiếm hơn một nửa trong tổng số các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, với

40/67 từ ngữ, chiếm 59,70%. Tuy nhiên về tần số sử dụng thì ở mức trung

bình với 70 lượt, chiếm 21,08%. Các từ được sử dụng nhiều nhất là: thủ

50

trưởng (9 lượt sử dụng), quan viện trưởng (6 lượt sử dụng), đồng chí bí thư (3

lượt sử dụng).

Từ ngữ chỉ nghề nghiệp có số lượng từ ngữ là 23/67, chiếm 34,32%

trong tổng số từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ. Tuy nhiên khi đi vào hành chức,

tiểu loại này lại lớn gấp ba lần danh từ chỉ chức vụ, với 257/332 lượt sử dụng,

tương đương 77,42%. Những từ được sử dụng nhiều nhất là quan (53 lượt sử

dụng), bác sĩ (24 lượt sử dụng), dõng (7 lượt sử dụng).

Hai tiểu loại từ ngữ chỉ trình độ và từ ngữ chỉ nghề nghiệp + chức vụ

chiếm vị trí nhỏ cả về số lượng từ và về tần suất sử dụng trong tác phẩm với 4

từ và 5 lượt sử dụng.

Bên cạnh những từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ mang sắc thái biểu

cảm thông thường thì việc kết hợp các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ với

danh từ thân tộc, từ loại tính từ... cũng góp phần thể hiện sắc thái biểu cảm

cho nhóm từ này.

Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ + tính từ: quan lớn, quan sang... thể

hiện sắc thái kính trọng.

Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ + danh từ thân tộc: quan anh, quan

ông... biểu thị sắc thái lễ phép, kính trọng.

2.1.1.5. Kiểu loại xưng hô khác

Bên cạnh các phương tiện dùng để xưng hô được chia thành các nhóm

như: đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc, danh từ chỉ tên riêng, danh từ chỉ

chức vụ nghề nghiệp..., trong văn xuôi Vi Hồng còn rất nhiều từ ngữ xưng

hô có cấu tạo và cách diễn đạt khá đặc biệt nên chúng tôi xếp vào nhóm kiểu

loại xưng hô khác.

Kiểu loại xưng hô khác có số lượng từ lớn nhất so với các phương tiện

xưng hô còn lại với 374 từ ngữ. Về tần số sử dụng nhóm từ này xếp vị trí thứ 4

với 715 lượt sử dụng. Trong nhóm từ ngữ này, có 75 từ ngữ được sử dụng từ 2

lượt trở lên, còn lại 299 từ ngữ chỉ được sử dụng một lượt. Các từ xưng hô

51

được sử dụng nhiều nhất là: già (68 lượt sử dụng), các thằng mày (20 lượt sử

dụng), mường ta (18 lượt sử dụng). Nhóm từ này có các cách cấu tạo như sau:

- Đại từ nhân xưng + các yêu tố khác (danh từ thân tộc, danh từ chỉ tên

riêng...) chiếm số lượng lớn nhất cả về sô lượng từ ngữ với 83/374 và về tần số

sử dụng 195/715 lượt sử dụng. Những từ được sử dụng nhiều nhất trong nhóm

tiểu loại này là: các thằng mày (20 lượt sử dụng), mường ta (18 lượt sử dụng),

đôi ta (6 lượt sử dụng).

- Danh từ chỉ vật chiếm số lượng 24/374 từ ngữ của kiểu loại xưng hô

khác với 41 lượt sử dụng. Đây là tiểu loại chỉ những sự vật ngoài tự nhiên được

nhà văn Vi Hồng sử dụng rất sáng tạo qua cách gọi tên các sự vật đó: thần

sông, thần suối, bố trời, mẹ đất, thần rừng xanh, thần cây...Con người và thiên

nhiên như giao hòa và có thể giao tiếp với nhau, các lực lượng siêu nhiên như

lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của con người. Những từ được sử dụng

nhiều nhất trong nhóm tiểu loại này là: mẹ đất (4 lượt sử dụng), bố trời (3 lượt

sử dụng), trời (3 lượt sử dụng).

- Đại từ chỉ thị (này, kia, ấy, nọ, đó, đây) chiếm số lượng 55/374 từ ngữ

và 102/715 lượt sử dụng. Điều đó cho thấy tiểu loại này được sử dụng đa dạng

tạo nên một nét đặc trưng riêng trong xưng hô của tác Phẩm Vi Hồng. Các từ

được sử dụng nhiều nhất là: đây (15 lượt sử dụng), đằng ấy (12 lượt sử dụng),

già này (6 lượt sử dụng).

- Tiếng chửi tục, chửi thề chiếm số lượng 38/374 từ ngữ với 39 lượt sử

dụng. Các từ thuộc nhóm tiểu loại này chủ yếu bộc lộ thái độ tức giận, căm thù,

mỉa mai, khinh bỉ của người nói đối với người nghe. Hầu như các từ thuộc

nhóm chửi thề mỗi từ thường chỉ sử dụng 1 lượt: đồ vô phúc, đồ con chó không

nghe lời chủ, cái đồ lông cánh lông đuôi cun củn...

- Từ ngữ chỉ một nhóm đối tượng được nói tới chiếm 21/374 từ ngữ

xưng hô với 26 lượt sử dụng, người nghe cùng một lúc “hô” và giao tiếp với rất

nhiều với vai trò là người điều hành cuộc thoại. Các từ sử dụng nhiều nhất

52

trong nhóm tiểu loại này là: anh em mọi người (4 lượt sử dụng), anh chị em mọi

người (2 lượt sử dụng), anh em họ Nông (2 lượt sử dụng).

- Phương ngữ + khẩu ngữ: chiếm 13/374 từ ngữ, với 57 lượt sử dụng.

trong đó chủ yếu là các từ phương ngữ Tày với 11 từ, 55 lượt sử dụng (lạo pản,

pỉ noọng, vãi...) và các từ khẩu ngữ với 2 từ, 2 lượt sử dụng (cái mẹ Ỷ, con mẹ

Nơ). Việc sử dụng lớp từ phương ngữ và khẩu ngữ tạo nên sự đa dạng trong hệ

thống xưng hô của văn xuôi Vi Hồng. Người đọc như được mở rộng thêm vốn

ngôn ngữ và có những hiểu biết cụ thể về các từ xưng hô của người Tày.

- Từ ngữ xưng hô chỉ đặc điểm (giới tính, tuổi tác, hình thức, tính tình...)

chiếm 41/374 từ ngữ, với 135 lượt sử dụng. Những từ xuất hiện nhiều nhất là từ

già (68 lượt sử dụng), bạn gái Xinh Xông (9 lượt sử dụng), lão (8 lượt sử dụng).

- Từ ngữ xưng hô bộc lộ thái độ trực tiếp chiếm 7/374 từ ngữ, với 7 lượt

sử dụng. Các từ ngữ này xuất hiện góp phần thể hiện tình cảm, thái độ của

người nói với người nghe (bạn thân mến, em yêu quý, chị dâu kính yêu...).

Ngoài những từ ngữ xưng hô kể trên, trong văn xuôi Vi Hồng còn có một

kiểu loại từ ngữ xưng hô khá đặc biệt, theo chúng tôi gọi nhóm từ ngữ xưng hô

này là nhóm từ ngữ xưng hô bộc lộ mối quan hệ của vai nói với vai nghe.

Nhóm từ này chiếm số lượng 56 từ ngữ với 60 lượt sử dụng. Nhóm xưng hô sở

hữu này được cấu tạo theo công thức A của B. Trong đó A là vai nghe, B là vai

nói. Đa số nhóm từ này xuất hiện để bộc lộ sắc thái biểu cảm gần gũi, thân

thuộc của vai nghe với vai nói. Sự xuất hiện của nhóm từ này xuất phát từ lối

nói thân thiện của người Tày và qua đó thể hiện sự đa dạng trong cách sử dụng

từ ngữ xưng hô của Vi Hồng. Ngoài những từ anh Pu Pa của em (4 lượt sử

dụng), anh yêu của em (2 lượt sử dụng), các từ ngữ khác đều được sử dụng mỗi

từ một lần (búp nụ và bông hoa của anh, con gái đẹp con gái xinh con gái thơm

của mẹ, cháu hai mươi đời của ông...).

53

Các từ ngữ xưng hô còn lại (36 từ, 53 lượt sử dụng) là những từ ngữ

xưng hô bao gồm nhiều yếu tố hợp thành (tên riêng, danh từ chỉ đơn vị, danh từ

thân tộc, những từ xưng hô ngoài xã hội....). Ví dụ như: đồng chí, cùng thân họ

bạn Ai Hoa, ban lãnh đạo...).

2.1.2. Từ ngữ xưng hô xét về các vai giao tiếp

Khi khảo sát các từ ngữ xưng hô trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi

Hồng, chúng tôi chỉ xem xét các từ ngữ này ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.

Xét về các vai giao tiếp của các từ ngữ được dùng để xưng hô trong văn xuôi

Vi Hồng, chúng tôi nhận thấy số lượng và tần suất sử dụng các từ ngữ thuộc

nhóm xưng ít hơn so với nhóm hô. Cụ thể:

Bảng 2.6. Vai giao tiếp trong từ ngữ xưng hô

Kiểu loại Số lượng Số lượt sử dụng

Nhóm hô 703 80,07% 7687 51,07%

Nhóm xưng 175 19,93% 7365 48,93%

Tổng 878 100% 15052 100%

Xét về các vai giao tiếp của các từ ngữ được dùng để xưng hô trong tác

phẩm văn xuôi Vi Hồng cho thấy: nhóm hô chiếm tỉ lệ cao hơn nhóm xưng cả

về số lượng từ và tần số sử dụng. Về mặt số lượng từ ngữ, nhóm hô nhiều gấp

hơn 4 lần so với nhóm xưng: nhóm hô 703/878 từ, tương đương 80,07%, nhóm

xưng 175/878 từ, tương đương 19,93%. Về số lần xuất hiện, nhóm hô nhiều

hơn nhóm xưng 322 lượt sử dụng: nhóm hô 7687 lượt sử dụng, chiếm 51,07%,

nhóm xưng 7365 lượt sử dụng, chiếm 48,93%.

Trong các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng khi xét về vai giao tiếp cũng

có sự chênh lệch nhau. Cụ thể ta có bảng số liệu sau:

54

Bảng 2.7. Từ ngữ xưng hô xét về vai giao tiếp trong các tác phẩm

Số lượt sử dụng STT Tác phẩm Xưng Hô

Tháng năm biết nói Người trong ống Dòng sông nước mắt Vãi Đàng Đất bằng Thách đố Người làm mồi bẫy hổ Đường về với mẹ chữ

1 Mùa hoa Bioóc loỏng 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Cọn nước Eng Nhàn 11 Nghĩ sủi bọt đá 12 Béc - Kha - Cải 13 Sự tích hang cứu tôi với

Tổng số 2051 1164 1274 912 613 626 429 152 28 37 42 18 19 7365 27,84% 15,80% 17,30% 12,38% 8,33% 8,50% 5,83% 2,06% 0,38% 0,50% 0,57% 0,25% 0,26% 100% 1994 1225 1150 1054 770 685 441 194 48 41 40 25 20 7687 25,94% 15,94% 14,96% 13,71% 10,02% 8,91% 5,74% 2,52% 0,62% 0,53% 0,52% 0,33% 0,26% 100%

Trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng, tiểu thuyết Mùa Hoa Bioóc

loỏng là tác phẩm có các từ ngữ xưng và hô xuất hiện với tần suất cao nhất với

2051 lượt xưng (chiếm 27,84%) và 1994 lượt hô (chiếm 25,94%), truyện ngắn

Béc - Kha - Cải là tác phẩm có tần suất sử dụng từ ngữ xưng hô nhỏ nhất với

18 lượt xưng (chiếm 0,25%) và 25 lượt hô (chiếm 0,33%). Những từ ngữ xuất

hiện nhiều nhất trong nhóm xưng là: em (1378 lượt), tôi (1290), tao (733

lượt)... Những từ xuất hiện nhiều nhất trong nhóm hô là: anh (1395 lượt), mày

(634 lượt), cháu (533 lượt)...

Trong văn xuôi Vi Hồng, các từ ngữ xưng hô có hiện tượng kiêm chức.

Nghĩa là có những từ xuất hiện với cả hai vai trò là xưng và hô như: anh, em,

cháu, con, già....và một số từ chỉ tên riêng: Băng, Hoàng, Ai Hoa... cũng đảm

nhận cả chức năng xưng và hô.

Có thể thấy rằng, bằng việc sử dụng hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp,

Vi Hồng đã xây dựng thành công hình tượng các nhân vật qua chính ngôn ngữ

55

đối thoại của các nhân vật ấy. Qua xưng hô, các nhân vật bộc lộ rõ nét tính

cách, quan điểm, thái độ, phong cách của mình.

2.2. Từ xưng hô qua ngôn ngữ trần thuật của tác giả

Bên cạnh việc thể hiện sự phong phú và đa dạng của các lớp từ xưng hô

qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật, trong tác phẩm của Vi Hồng, ta còn

bắt gặp một ngôn ngữ mang nét riêng của nhà văn, đó chính là ngôn ngữ trần

thuật của tác giả.

Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc đã định

nghĩa: “Ngôn ngữ tác giả (thuyết minh, dẫn dắt), phải tương đối khách quan.

Nhưng nhà văn Việt Nam trong cách gọi tên cũ phải xác định cương vị: dạng

cùng tuổi tác hoặc cảm tình ở mức độ nào đó với nhân vật, dạng thân hay

không thân...(kiểu Lạp, Lê, Pha, Mị...) hoặc cùng giới (chẳng hạn Nguyễn

Công Hoan gọi Pha là Pha và vợ Pha là chị Pha) cái khó khăn là dùng ngôi

thứ ba thế nào để có tính khách quan...” [31; 176].

Việc sử dụng từ xưng hô qua ngôn ngữ trần thuật của tác giả góp phần

thể hiện quan điểm, thái độ, tình cảm, cách đánh giá của nhà văn với các nhân

vật trong tác phẩm, qua đó một lần nữa bộc lộ rõ nét hơn tính cách các nhân vật

trong tác phẩm.

Nếu như Nam Cao gọi các nhân vật của mình bằng cách gọi lạnh lùng vô

cảm nhưng lại gói ghém trong cách gọi đó một tình thương yêu bao la, sự đồng

cảm chia sẻ, một tấm lòng nhân hậu của mình dành cho các nhân vật của ông, thì

Vi Hồng lại sử dụng cách gọi tên các nhân vật để bộc lộ thái độ yêu ghét rõ ràng

một cách trực tiếp: khi thì ngợi ca, lúc lại coi thường, căm ghét, mỉa mai... điều

này xuất phát từ tính ngay thẳng, rõ ràng, bộc trực trong cách ứng xử của người

Tày. Tìm hiểu cách gọi nhân vật của nhà văn Vi Hồng, chúng tôi thấy tác giả sử

dụng rất khéo léo, linh hoạt và rất phù hợp với từng nhân vật. Mỗi một từ mà Vi

Hồng dùng để gọi các nhân vật của mình đều có một ý nghĩa nhất định. Kết quả

khảo sát của chúng tôi cho thấy, tác giả đã sử dụng rất nhiều kiểu xưng hô để gọi

56

tên các nhân vật trong tác phẩm của mình. Bên cạnh những cách gọi thông

thường như: gọi tên riêng (Hoàng, Băng, Ba...) gọi theo giới tính, theo độ tuổi

(anh, chị, cô, ông, bà...), Vi Hồng còn gọi tên các nhân vật của mình bằng những

từ xưng hô rất riêng biệt và mang sắc thái biểu cảm cao. Đó là những từ: lão, mụ,

hắn, nàng, chàng.

2.2.1. Từ “lão”

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, từ “lão” được nhà văn sử dụng

nhiều nhất và phổ biến nhất, “lão” xuất hiện trong 9/13 tác phẩm khi miêu tả về

các nhân vật.

Trong tiếng Việt, từ “lão” thường được dùng để chỉ những người già (ông

lão, bà lão...) để thể hiện sự thân mật trong xưng hô. Cũng có khi được dùng để

chỉ người đàn ông có tuổi với sắc thái coi khinh (lão thầy bói, lão quan huyện...).

Trong các tác phẩm của Vi Hồng, “lão” được sử dụng phổ biến, chỉ

nhiều loại người khác nhau ở cả hai sắc thái ý nghĩa trên, có khi là nhân vật

phản diện, khi là nhân vật chính diện. Nhưng nhìn chung, Vi Hồng sử dụng từ

“lão” chủ yếu là để chỉ người đàn ông đã có tuổi và dùng chỉ những nhân vật

xấu xa với hàm ý coi khinh nhiều hơn là sắc thái thân mật.

- Nhà văn Vi Hồng dùng từ “lão” để gọi các nhân vật phản diện có tính

cách xấu xa được nhà văn miêu tả rất tỉ mỉ từ ngoại hình tới nội tâm. Đó là

những ông quan tham, địa chủ; đó là những tên vô học, thích hưởng thụ, lười

lao động; đó là những kẻ ích kỉ, cổ hủ, lạc hậu; đó là những tên thầy tảo chuyên

lừa bịp để khoét tiền.

+ “Lão” để chỉ những ông quan, địa chủ với muôn vàn những cái xấu cái

ác. Đó là tổng Nhự, phó tổng Vọi trong tiểu thuyết Vãi Đàng:

“Tổng Nhự dẫn lính men theo rìa nương lên chỗ đoàn người đang ngồi

ăn. Lão mặc quần áo dạ, thắt thắt lưng to bằng bàn tay và đeo khẩu súng “sáu

viên”. Cách ăn mặc thời lão còn đóng chức cai khố đỏ. Lão leo lên đến trán

nương. Gần đoàn người, lão chống nạnh cả hai tay, đứng dạng chân...cố ra oai

nhìn mọi người. Nhưng thực ra lão đứng để thở.” [56; 34, 35].

57

“ Lão phó Tổng Vọi cười... Rồi lão im bặt, đưa con mắt lợn luộc nhìn

vào mặt Đàng... Lão đứng dậy phủi áo, phủi đít quần thùm thụp rồi chui ra

khỏi lều, không chào ai một tiếng.” [56; 17, 18].

Đó là lão chánh tổng trong tiểu thuyết Đất bằng:

“Lão chánh tổng bỏ thuốc độc cho chết. Con chết, mẹ điên. Lão chánh

tổng mất không biết bao nhiêu tiền và bạc trắng mua “cô gái mỏn con mắt”.

Lão lại bỏ thuốc độc cho cô vợ cũ của Moong chết nốt.” [56; 195].

Đó là quan tuần phủ Trần Hồi trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt:

“Trên đầu lão quan phủ đội khăn xếp nhiễu đoạn trơn láng và đen

nhánh. Lão bước đến tận cửa ô tô vui vẻ đón Kin Xa.” [58; 161].

Đó là lão địa chủ trong tiểu thuyết Người trong ống:

“Lão địa chủ chạy theo cười hứ hứ. Ba chưa bao giờ thấy lão ta cười thành

tiếng như thế... Ngoài ra hầu như lão chỉ câm lặng và cúi gằm”. [57; 75].

+ “lão” để chỉ những tên vô học, lười lao động, thích hưởng thụ:

Đó là nhân vật bố Thỉ - lão canh cũi, Xấn Xáng trong truyện dài Người

làm mồi bẫy hổ:

“Sống trong nhung lụa, bố Thỉ tập ăn chơi: lấy nhiều vợ và hút thuốc

phiện. Lão nghĩ: nhà giàu có ê hề, hút chơi cho khoái một đời, hết là bao!”

[61; 14].

“Lão canh cũi có đôi mắt như nằm dọc với khuôn mặ dài ngoẵng, gầy

gò, chăm chú nhìn cái cũi bẫy hổ. Cái trán của lão cao, nhưng hơi hẹp, thường

nhăn lại, kéo cả hai con mắt lên thành hình tam giác đều.” [61; 23].

Đó là nhân vật Xấn Xáng độc ác, mưu mô, dã man trong truyện dài

Người làm mồi bẫy hổ:

“Nói rồi Xấn Xáng cười hô hố, cười dài... Lão sai gia nhân buộc hổ để

khênh về.” [61; 60].

Đó là nhân vật Mạc trọc, Moong khịt nghiện hút trong tiểu thuyết

Đất bằng:

58

“Lão Mạc trọc kể về cuộc đời ăn trộm, ăn cướp, giết người, cướp trẻ con

...những mánh khóe lừa lọc của đời lão.” [56; 244].

“ Moong khịt vẫn cầm cái tẩu ngang phố lì, mắt lim dim. Lão cũng đang

mải nghĩ về cuộc đời của lão.” [56; 195].

Đó là nhân vật Châu Đoàn Pàng trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói:

“Lão nghĩ lại cuộc đời ngoài năm mươi của lão, lão tự hào, nở nụ cười

trong bụng. Lão càng nghĩ càng cảm ơn tổ tiên lắm!” [59; 85].

+ “Lão” để chỉ những người ích kỉ, cổ hủ, lạc hậu:

Khi miêu tả nhân vật Ké Thương trong truyện ngắn Cọn nước Eng Nhàn:

“Nếu bữa cơm có thịt đầy đĩa, rượu uống ướt ngực thì cọn lão làm ra

bao giờ cũng quay tít, nhưng nếu bữa cho lão ăn rau xanh thì cọn bao giờ cũng

quay uể oải.” [63; 359].

Đó là nhân vật bố Viền trong tiểu thuyết Đất bằng: “Lão đánh Viền một

trận rồi nhốt vào buồng kín.” [56; 116].

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Vi Hồng sử dụng từ “lão” để

gọi tên các nhân vật ích kỉ, lạc hậu tin vào lời nguyền, tin vào sự tồn tại của con

ma gà. Vì sự tối tăm trong nhận thức mà đã cản trở hạnh phúc tình yêu của con

cái, khinh rẻ, phỉ báng, trà đạp lên cuộc sống của những người bị khoác lên

mình tiếng ma gà.

Đó là nhân vật ông bố Cặm Cang: “Lão xông ra “síc” sàn nước hét lên

như một dũng tướng”. [60; 208].

Đó là nhân vật bố Chim Ca: “Không đợi lão hỏi thật lâu dài, nhiều lời

như những người khác. Bà vợ lão lập tức lên tiếng.” [60; 164].

Đó là nhân vật bố Hạ Chi: “Lão bảo chàng trai thắp hương lên bàn thờ

rồi khấn vái” [60; 140].

+ “Lão” để chỉ những tên thầy cúng chuyên lừa đảo, bịt bợm,

khoét tiền”

Trong truyện vừa Thách đố, Vi Hồng đã dùng từ “lão” để gọi tên nhân vật

tảo Lăm Đăm: “Lão đã trở thành người tàng hình. Trong khi lão tàng hình như

59

vậy, lão có thể nhìn thấy từng con ma, từng con quỷ. Và lão có thể biến hóa khôn

lường. Lão có thể bóp chết những con ma quỷ mà lão cần giết.” [62; 92].

Trong tiểu thuyết “Đất bằng”, Vi Hồng đã dùng từ “lão” để gọi tên

nhân vật tảo Mu: “Mới hôm qua lão đi cúng lén ở một nhà heo hút. Lão bói

được con ma to! Lão buộc gia chủ phải cúng to.” [56; 194].

- Vi Hồng sử dụng “lão” đơn thuần chỉ là từ để gọi những người già,

những người cao tuổi. Khi nói về các nhân vật này, nhà văn thường dùng

những từ như: ông lão, bà lão...

Đó là nhân vật bố Đàng trong tiểu thuyết Vãi Đàng: “Đến trước bếp,

ông lão dừng lại nhìn ngọn lửa đang cháy đùng đùng” [56; 27].

Đó là nhân vật mẹ Đàng trong Vãi Đàng: “Một câu hỏi mà mấy hôm nay

bà lão hỏi con gái.” [56; 22].

Đó là nhân vật ông già nhìn thấy chiếc bè của Đàng trôi trong Vãi Đàng:

“Ông lão đầu tóc bạc phơ, râu dài và trắng như bông, nhưng mặt mũi hồng

hào, khỏe mạnh.” [56; 68].

Đó là nhân vật bố ké Xanh trong tiểu thuyết Đất bằng: “Ông lão lại thét

lớn:” [56; 114].

Đó là nhân vật Cam Sáy trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng: “Nên

ông lão chỉ nói một câu” [60; 230].

Đó là nhân vật bố Mạnh Kha và mẹ Mạnh Kha trong Mùa hoa Bioóc

loỏng: “Ông lão nói như than. Bà lão lại quay ra an ủi.” [60; 279].

Đó là nhân vật bác Phàn trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói: “Ông lão

trở nên cáu kỉnh rồi lại hạ giọng” [60; 35].

Đó là nhân vật bố Ba trong tiểu thuyết Người trong ống: “Ông lão bóp

mạnh da bụng, một thỏi vàng to, dài và dày nổi len, nhìn thấy cả góc cả cạnh”.

[57; 303].

Đó là nhân vật bệnh nhân già trong Người trong ống: “Bà lão vừa van

xin bác sĩ viện trưởng thương tình, chữa cho bà để lấy nhân đức cho con cháu

vừa lê gối đến gần.” [57; 14] .

60

Đó là nhân vật vợ quan phủ Trần Hồi trong Dòng sông nước mắt: “Bà

lão giả vờ đến thăm bà bạn già chánh tổng Quang Khao xem sức khỏe còn bao

nả, sắc da, bắp thịt có còn săn, còn hương phấn.” [58; 74].

Nhìn chung từ “lão” được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong tác phẩm

Vi Hồng kể cả trong cách gọi trần thuật của tác giả và cả xưng hô của nhân vật.

Điều đó góp phần tạo nên một nét riêng biệt trong sáng tác Vi Hồng, như một

chất gia vị, càng thưởng thức càng thấy độc đáo, hấp dẫn.

2.2.2. Từ “hắn”

Trong tiếng Việt, đại từ “hắn” thường được dùng để chỉ người ở ngôi thứ

ba với hàm ý coi thường hoặc thân mật.

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, đại từ “hắn” được nhà văn sử

dụng trong 8/13 tác phẩm. Những nhân vật mà tác giả gọi là “hắn” gồm 15

nhân vật, thuộc nhiều kiểu người khác nhau. Nhưng chủ yếu là những nhân vật

phản diện.

- “Hắn” để chỉ những con người xấu xa, độc ác, tham lam, xảo trá:

Nhân vật tên thợ săn trong truyện ngắn Sự tích hang cứu tôi với hiện lên là

một tên dã man, độc ác, tàn bạo với sở thích ăn bào thai khỉ: “Hắn rất háu ăn

bào thai khỉ. Có ngày hắn hạ sát hàng chục con khỉ cái đang chửa.” [63; 428].

Đó là nhân vật Xấn Xáng trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ với sự

mưu mô, xảo quyệt, độc ác, dã man bằng việc nhốt người vào cũi làm mồi để

bẫy hổ: “Từ lâu, Xấn Xáng nghi ngờ người canh cũi thông đồng với “Thần

Rừng Xanh”. Hắn cắt cử bao nhiêu người theo dõi.” [61; 63].

Đó là nhân vật Thỉ trong Người làm mồi bẫy hổ với sự mưu mô, độc ác,

thủ đoạn bằng việc thông đồng với Xấn Xáng để gia đình Nen ly tán nhằm

chiếm được Nen làm vợ: “Thỉ nhìn thấy con hổ thì lại ngất. Nhưng rồi hắn

cũng phải tỉnh.” [60; 59].

Đó là tên quan tổng Nhự trong tiểu thuyết Vãi Đàng với bản chất tham

lam, dâm ô: “Đến cái hòm, cái rương hắn cũng vác một mình.” [56; 45].

61

Đó là nhân vật thầy cai trong tiểu thuyết Đất bằng với bản chất nhu

nhược, tham ô: “Hắn giơ một tờ bạc ra chỗ sáng nơi cửa sổ và chỉ cho tên

đồn” [56; 138].

Đó là nhân vật chánh tổng họ Nông trong Đất bằng với bản chất tham

lam, thủ đoạn: “Hắn không ngẩng lên, hắn vẫn nằm hút” [56; 136].

Đó là nhân vật quan phủ Trần Hồi trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt với

bản chất mưu mô, dâm ô: “Hư hứ - hắn cười ùng ục trong cổ họng”. [58; 118].

Đó là nhân vật Bùng trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói với sự ngu

dốt, tham lam: “Hắn quay đi, bước những bước dài và dứt khoát.” [59; 180].

Đó là nhân vật Châu Đoàn Pàng trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói với

tính cách xảo trá, lọc lừa, xấu xa, bỉ ổi: “Vì hắn đã chống chèo cuộc đời hắn

cùng dòng họ hắn qua bao phen sóng gió.” [59; 17].

Đó là nhân vật tên thầy thuốc làm mẹ Tú chết trong tiểu thuyết Người

trong ống, với tay nghề kém, thiếu trách nhiệm và ham tiền. Đó cũng chính là

nhân vật Ba với thủ đoạn đê tiện và hèn hạ, mánh khóe, tinh vi, lọc

lừa:“Hắn hú vía, thế mà năm sau hắn vẫn dám mò lên Lục Khê.” [57; 212] .

“Hắn” là những tên cướp táo tợn trong tiểu thuyết Người trong ống. Đó

là tên cướp Tư Lộn: “Tú túm thằng Tư Lộn lắc lắc, hắn rùng mình như bừng

tỉnh.” [57; 323] . Đó là tên cầm đầu bọn cướp: “Thằng cầm đầu bọn cướp giật

là một thằng lặn khá, nhưng hắn bị chuột rút, nên tí chết.” [57; 205] .

- “Hắn” để chỉ những kẻ vô học, tứ cố vô thân, bần cùng, liều lĩnh:

Đó là nhân vật Ang trong truyện vừa Thách đố với tính ham ăn, trộm

cắp, chuyên làm tay sai cho tảo Lăm Đăm: “Ang nói thay lời cảm ơn là tiếng

cười hi hi. Hắn ăn sùng sục.” [62; 172].

Đó là nhân vật Thìm trong Tháng năm biết nói chuyên trộm cướp, ngu si,

trâng tráo, lì lợm, vô văn hóa, sống theo bản năng của loài vật: “Hắn hiếp bằng

được bà già. Nhưng hắn chẳng tốn sức mấy.” [59; 25].

62

Đó là nhân vật Kin Xa trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt nghiện hút,

cờ bạc, lười lao động, thích hưởng thụ: “Cuối cùng hắn cũng phải thức dậy.

Hắn tự cất cái phần lùng nhùng che kín đầu hắn ra.” [58; 115] .

Cũng có khi “hắn” dùng để chỉ những con người khốn khổ, bế tắc, bất

lực trước hoàn cảnh. Khi miêu tả các nhân vật này, nhà văn gọi bằng sự cảm

thông, thấu hiểu và thương cảm. Chẳng hạn như nhân vật Cặm Cang trong tiểu

thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng với sự thật thà, niềm say mê cái đẹp, tài hát lượn

khéo nhưng lại mang một ngoại hình xấu xí, hắn bất lực, bế tắc và tức giận khi

bị gia đình ngăn cấm đến với Thu Lạ: “Ai nói gì hắn nghe được cả. Hắn chỉ

nhe hai hàm răng khấp khểnh, trắng nhởn ra cười.” [60; 108,109].

2.2.3. Từ “mụ”

Trong tiếng Việt, “mụ” thường chỉ người đàn bà đã có tuổi (hàm ý coi

khinh), cũng có khi “mụ” được dùng để người chồng gọi người vợ (hàm ý

thân mật).

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, từ “mụ” được nhà văn sử

dụng trong 4/13 tác phẩm và dùng cho 6 nhân vật.

Trong các tác phẩm của mình, hầu như tác giả Vi Hồng sử dụng từ “mụ”

để chỉ những người phụ nữ xấu xa, độc ác; những người phụ nữ chanh chua,

ngoa ngoắt, ích kỉ, tham lam, thích hưởng thụ theo bản năng.

Nhân vật Thẻo Léo trong truyện ngắn Nghĩ sủi bọt đá được hiện lên là

một người đàn bà chua ngoa, sấc lấc và nông cạn, coi trọng vật chất hơn ý thức.

Chỉ chú trọng dạy con dạy con cách kiếm tiền và khuyến khích chúng ăn ngon

mặc đẹp. Sự nuông chiều con của bà đã tạo nên hai đứa con hư hỏng và không

ai khác, chính bà phải chịu hậu quả: “Thẻo Léo không đưa chìa khóa, nó dọa

giết mụ. Mụ mắng nó. Nó rút dao đâm thẳng cánh tay trên của mụ.” [63; 440].

Nhân vật vợ cả tổng Nhự trong tiểu thuyết Vãi Đàng được hiện lên là

một bà già ghê ghớm và hay ghen tuông: “Mụ cả già, đầu bạc, tóc rụng gần

hết... nhưng mỗi lần mụ đánh ghen, tổng Nhự phải tối tăm mặt mũi.” [56; 57].

63

Nhân vật vợ cả phó tổng Vọi trong tiểu thuyết Vãi Đàng được hiện lên là

một người đàn bà chua ngoa, nhẫn tâm và độc ác khi khoác lên Đàng tiếng con

ma gà: “Nhập nhoạng tối hôm sau đó, mụ vợ lão phó tổng Vọi dẫn hai người

lính dõng đến. Vừa vào đầu bản, mụ đã chu chéo, ầm ĩ.” [56; 14].

Nhân vật Xẳn Lần trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng được hiện lên

là một người thiển cận, ích kỉ, chua ngoa. Bà đã tức giận tột độ khi không ngăn

cản được con gái Hạ Chi kết hôn với chàng trai ma gà Mi Tráng: “Bà Xẳn Lần

xem ra có vẻ uất ức. Mụ nghiến răng trèo trẹo, miệng lắp bắp mà không thành

tiếng.” [60; 269].

Nhân vật mẹ Chim Ca trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng được hiện

lên là một người độc ác, nhẫn tâm và mưu mô khi đã diễn màn kịch đóng giả là

bị ma gà Thu Lạ nhập để lừa bịp mọi người với mục đích ngăn cản con trai

Chim Ca yêu Thu Lạ. Nhân vật được Vi Hồng gọi tên bằng rất nhiều từ “mụ”:

“Mụ thức dậy ăn bữa cơm chiều tối với thịt lợn đủ các món. Mụ ăn no nê rồi

lại tiếp tục làm cái trò ma gà Thu Lạ nhập vào mình.” [60; 187].

Nhân vật Tẹo trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói hiện lên với đầy đủ

những tính cách xấu xa của một người đàn bà: chua ngoa, ích kỉ, mưu mô, thủ

đoạn, lăng loàn, ngu dốt đặc biệt là sự giả tạo có trong người đàn bà này từ hình

thức đến nội tâm. Trong tất cả các nhân vật phản diện được Vi Hồng gọi bằng

“mụ”, có lẽ Bế Thị Tẹo là nhân vật được dùng nhiều trang văn miêu tả nhất:

“Mụ Tẹo nghiến răng gọi Hoàng, nguyền rủa Hoàng, chửi tục tĩu một hồi, mụ

quay về.” [59; 124].

Nhìn chung, các nhân vật được nhà văn Vi Hồng gọi là “mụ” hiện lên

với nhiều kiểu phụ nữ khác nhau, nhưng họ đều là những nhân vật phản diện

mang trong mình những tính cách xấu xa. Căn nguyên của những cái xấu cái ác

đó có thể do nhận thức, do trình độ, do phẩm chất, do hoàn cảnh... Tất cả đã tạo

nên thế giới nhân vật phụ nữ phản diện đa dạng trong văn xuôi Vi Hồng.

64

2.2.4. Từ “chàng”, “nàng”

“Chàng” và “nàng” là hai từ gốc Hán, thường chỉ những người trẻ tuổi,

hoặc cũng có thể dùng để xưng hô trong tình yêu.

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, nhà văn thường sử dụng từ

“chàng”, “nàng” khi viết về đề tài tình yêu. Nếu như các từ “lão”, “mụ”, “hắn”

thường được Vi Hồng sử dụng chủ yếu để gọi các nhân vật phản diện, thì

“chàng”, “nàng” lại bao gồm cả những nhân vật chính diện và phản diện. Nhân

vật chính diện thường mang nét đẹp toàn mĩ từ hình thức đến tâm hồn. Họ là

những trai trẻ gái tơ, trai thanh gái nụ, trai non gái trẻ xinh đẹp, thông minh,

thủy chung, nhân hậu. Giọng văn mà nhà văn dành cho những nhân vật này là

ngợi ca, trân trọng; trái ngược là tuýp nhân vật phản diện với giọng văn mỉa

mai, châm biếm.

Trong tiếng Việt, “nàng’ chỉ người phụ nữ trẻ thường được dùng ở ngôi

thứ hai và ngôi thứ ba số ít. Trong văn xuôi Vi Hồng, “nàng” được sử dụng ở

cả hai ngôi đó.

- “Nàng” để gọi tên những nhân vật chính diện:

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Vi Hồng đã xây dựng và khắc

họa rất nhiều cô gái trẻ trung, xinh đẹp.

Đó là nàng Xinh Xông với tính tình phóng khoáng và “tài hát lượn có

tiếng cả tỉnh”: “Xinh Xông lại chạy đến với Khăm Tha. Nàng lại nắm hờ hờ lấy

bàn tay của người con trai cao lớn đi dạo giữa ngày hội.” [60; 18].

Đó là cô giáo Hạ Chi với tấm lòng lương thiện cao cả, nàng đã hi sinh

tình yêu với Chim Ca để đến với Mi Tráng nhằm xóa tan định kiến về con ma

gà mà Mi Tráng đang mang trong mình: “Chim Ca muốn cầm lấy tay của Hạ

Chi thì nàng bảo để ngày mai. Chim Ca muốn ôm hôn nàng. Nàng bảo để sau

ngày cưới.” [60; 61].

Đó là nàng Thu Lạ xinh đẹp, hiếu thảo, tốt bụng nhưng gặp nhiều bất

hạnh khi bị sống trong dòng họ nhà ma gà: “Thu Lạ buồn lắm. Nàng để mặc

65

cho những giọt nước mắt rơi dưới chân mình. Nàng bảo mình đừng khóc,

nhưng nàng vẫn khóc.” [60; 89].

Đó là nàng Thu Lương xinh đẹp rạng rỡ, với tình yêu thương say đắm

nồng nàn nhưng bạc phận: “Nàng ăn lá ngón ở tận trong núi, chứ không phải

hái ngay cây ở rừng sau nhà. Cho nên lúc đầu khi nàng mới lên tiếng rên rẩm

người ta không ai nghĩ nàng đã ăn lá ngón.” [60; 226].

Nhân vật Tua Be luôn yêu và khát khao cái đẹp, quý trọng cái tài nhưng

lại mang một ngoại hình xấu xí: “Cặm Cang đã ngừng chơi quay đợi Tua Be

nói một điều gì đó. Nhưng nàng chẳng nói mà chỉ cười.” [60; 234].

Đó là nàng Xiêm xinh đẹp, nhân hậu trong tiểu thuyết Dòng sông nước

mắt: “Nhưng từ ngày nàng Xiêm xinh đẹp lấy ông Cắm Hỷ, nàng cũng chẳng

bao giờ về bản Pác Phai. Nàng không về thăm cha mẹ một lần nào.” [58; 6].

Đó là nàng Thu Khoan xinh đẹp, nhân hậu, giàu lòng vị tha trong tiểu

thuyết Dòng sông nước mắt. Nàng dùng ân trả oán, đối xử tốt với người chồng

cũ - kin xa đã từng bán nàng để lấy tiền hút thuốc phiện. Cuộc đời nàng là một

“dòng sông nước mắt” với rất nhiều nỗi khổ: bị ép duyên, chồng mất, con hư

hỏng: “Nàng đau khổ, than khóc. Nàng đứng ngay mép thành đá đổ ra lõng

vực. Nàng khóc, nước mắt rơi tũm tĩm xuống vực.” [58; 61].

Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhân vật Ai Hoa cũng là một tiểu

thư xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc phận. Cũng giống như Thu Lương, nàng

chọn cách tự kết thúc cuộc sống khi không đến được với người mình yêu:

“Ai Hoa không đánh phấn. Vì Tú nhìn thấy rõ từng sợi lông tơ trên hai cặp

má của nàng chưa kịp rụng. Đôi mắt của nàng cũng tròn, đen ánh, lóng

lánh như trời thu.” [60; 128].

- “Nàng” để gọi tên những nhân vật phản diện:

Đó là những cô gái có vẻ đẹp hình thức nhưng lại bị đồng tiền làm tha

hóa phẩm chất, đó là những nàng “hư hỏng”, thực dụng, sống theo lợi ích bản

thân. Vi Hồng đã xây dựng và miêu tả chân thực những cô nàng này trong tiểu

66

thuyết Dòng sông nước mắt. Đó là các nhân vật: Lệ Hà - Kim Ngọc, Kim Ngần

- Hoa Nước, cô gái làng chơi.

Nhân vật Lệ Hà là một cô gái xinh đẹp nhưng bị ép duyên với Kin Xa.

Cô đã nhảy sông tự tử nhưng may mắn được cứu. Từ đó cô lấy cái tên Kim

Ngọc và trở thành một cô gái thực dụng, xảo trá, mưu mô. Cô thông đồng với

quan phủ Trần Hồi để lừa kết hôn với Kin Xa nhằm chiếm đoạt căn biệt thự của

Kin Xa: “Kim Ngọc cũng chẳng thắc mắc. Nàng chỉ hỏi han qua loa, nũng nịu

giả vờ, cười duyên đắc ý làm cho Kin Xa thấy lạ.” [58; 201].

Nhân vật Kim Ngần là một cô gái mới lớn ham vật chất, chuộng tiền bạc.

Vì tham cuộc sống nhung lụa, Kim Ngần đã tìm cách tiếp cận và lấy Kin Xa -

một kẻ nghiện ngập, cờ bạc và chồng cũ của mẹ mình: “nàng kéo dài giọng,

nghe có phần chua chát và mỉa mai”. [58; 190].

Nhân vật cô gái làng chơi làm theo lời sai khiến của Kin Xa để dụ giỗ

Kim Công vào chốn ăn chơi của những canh bạc và những cuộc vui qua đêm

với các cô gái điếm:“Nàng lại nhớ phận sự của mình là một cô gái làng chơi.

Nàng lại phải ôm lấy Kim Công với những cử chỉ thuần thục làm cho khách

làng chơi không bao giờ quên được nàng.” [58; 197].

Trong tiếng Việt, “Chàng” dùng để chỉ những người đàn ông trẻ tuổi,

thường được dùng ở ngôi thứ hai và ngôi thứ ba số ít. Trong tiểu thuyết của Vi

Hồng, “chàng” được dùng để chỉ những người con trai trẻ tuổi thuộc nhiều loại

khác nhau chia làm hai kiểu nhân vật: chính diện và phản diện.

- “Chàng” để gọi tên những nhân vật chính diện. Đó là những chàng trai

cường tráng, dũng cảm, tài năng. Tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng là tác phẩm

hội tụ rất nhiều những chàng trai tốt bụng, tình nghĩa như vậy.

Đó là nhân vật Mi Tráng đẹp trai, vạm vỡ, chăm chỉ. Bị mang tiếng là

con ma gà, chàng không chịu khuất phục buông xuôi, chàng cố gắng làm giàu

để chứng minh và xóa tan định kiến về con ma gà của dòng họ nhà chàng:

“Nàng thấy anh chàng Mi Tráng đẹp và oai phong như một thiên thần...Nàng

67

đứng sát đằng sau mà chàng cũng không hay biết. Chàng vẫn giơ cao cuốc,

bập xuống cái hố đã sâu ngang đùi.” [60; 119].

Đó là nhân vật Chim Ca - chàng trai khỏe mạnh và là kĩ sư cơ khí của

huyện. Chàng có một tình yêu sâu đậm với cô giáo Hạ Chi. Nhưng họ quyết

định làm một cuộc cách mạng xóa tan định kiến về con ma gà bằng cách hi sinh

tình yêu đôi lứa để kết hôn với một người ma gà: “Chim Ca hăm hở và quyết

tâm. Chàng cho rằng không có thế lực nào ngăn cản được tình yêu của chàng

với Thu Lạ.” [28; 249].

Đó là nhân vật Mạnh Kha - chàng trai lực lưỡng từ miền xuôi lên miền

núi lập nghiệp và có một mối tình say đắm với Thu Lạ: “Mạnh Kha im lặng,

khẽ nằm xuống bên cạnh Thu Lạ. Chàng ôm lấy nàng, siết chặt nàng trong hai

vòng tay lực lưỡng.” [60; 82,83].

Đó là nhân vật Khăm Tha cao lớn, dũng cảm và mưu trí như một võ sĩ đã

bảo vệ và cứu được Xinh Xông thoát khỏi hổ già hung dữ: “Cô gái lại cho

phép anh chàng Khăm Tha được nắm giữ thắt lưng của mình, chẳng khác gì

anh chàng được ôm eo người con gái xinh đẹp mà chàng đã ước mơ mấy năm

nay” [60; 23].

Đó là nhân vật Cặm Cang xấu xí nhưng yêu tha thiết và khát khao cái đẹp.

Chàng có tâm hồn và điệu lượn ngọt ngào chan chứa tình yêu thương: “Cặm

Cang không thèm đáp lại, chàng dắt tay Thu Lạ đi về nhà nàng.” [60; 182].

Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhà văn Vi Hồng đã xây dựng được

một hình tượng nhân vật lí tưởng hội tụ tất cả vẻ đẹp hình thức và tài năng,

phẩm chất tốt đẹp của một chàng trai trẻ tuổi yêu quê hương với sự quyết tâm

và tâm huyết với nghề thầy thuốc. Đó chính là nhân vật Tú. Tú được tác giả gọi

là “anh chàng” khi đặt điểm nhìn trần thuật vào nàng Ai Hoa: “Chẳng qua anh

chàng giả làm già để cao giá đấy thôi” [57; 248].

Nhân vật Kim Công trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt hiện lên là một

chàng trai hiền lành, chăm chỉ, giàu tình nghĩa và nhân hậu. Bằng tình yêu thủy

68

chung, son sắt với Thu Khoan, chàng đã lao động miệt mài để có tiền chuộc Thu

Khoan từ Kin Xa, hơn nữa chàng lại sẵn sàng dang cánh tay ra cứu vớt Kin Xa -

người đã chia cắt tình yêu của chàng và Thu Khoan: “Nàng Thu Khoan bé bỗng

vừa nói vừa đẩy chàng Kim Công cao hơn nàng một cái đầu.” [58; 44].

-“Chàng” để gọi tên nhân vật phản diện. Đó là nhân vật Kin Xa nghiện

hút, cờ bạc, ăn chơi trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt. Khi nhân vật nhờ cờ

bạc và đổi vận, ngoại hình thay đổi: “Hơn nữa, cái anh chàng Kin Xa sang

trọng, béo tốt đang đững trước mặt cô là một chàng Kin Xa hoàn toàn khác

thuở xưa." [58; 160].

Có thể thấy rằng các nhân vật mà nhà văn Vi Hồng gọi là “chàng”,

“nàng” là những nhân vật trẻ tuổi và chủ yếu sử dụng trong đề tài tình yêu. Có

lúc tạo thành các cặp đối xứng “chàng” - “nàng” khi nhà văn miêu tả hai nhân

vật cùng một lúc. Trong văn xuôi Vi Hồng, chúng ta bắt gặp những từ xưng hô

gốc Hán này là do sự ảnh hưởng của ngôn ngữ Hán đối với vùng Đông Bắc là

khu vực tiếp giáp về địa lý. Và trước khi có chữ Quốc ngữ thì chữ Hán và chữ

Nôm Tày được sử dụng phổ biến trong dân gian.

Trong tác phẩm của Vi Hồng, những nhân vật phụ rất ít khi được nhà

văn gọi bằng tên thật. Tác giả thường gọi lớp nhân vật này theo mối quan hệ

với các nhân vật chính trong tác phẩm: bố Ba, vợ Ba, em trai Ba, em út của Ba,

vợ ông trưởng Ty, bố Tú, mẹ Tú... (Người trong ống); bố Đàng, mẹ Đàng, vợ

tổng Nhự, mụ vợ lão phó tổng Vọi (Vãi Đàng); bố Viền, ông nội Xanh, bố

Xanh, mẹ Xanh, mẹ Kì, bà vợ ông Háo...(Đất bằng)... Điều này tạo thuận lợi

cho người đọc dễ hình dung và theo dõi cốt truyện.

Nét đặc biệt trong cách sử dụng từ xưng hô của tác giả Vi Hồng khi gọi

các nhân vật của mình đó chính là sự đa dạng và sự biến hóa linh hoạt trong

cách gọi tên các nhân vật. Cùng một nhân vật nhưng được nhà văn dùng nhiều

từ khác nhau để gọi tên: ví dụ như: khi miêu tả nhân vật Cặm Cang trong Mùa

hoa Bioóc loỏng tác giả sử dụng các đại từ: nó, hắn, hắn ta, chàng, chàng Cặm

69

Cang xấu xí..., nhân vật Ba trong Người trong ống cũng được miêu tả bằng

nhiều cách gọi khác nhau: Ba, hắn, thằng Ba, anh chàng Ba, anh ta, cậu ta....

sự biến đổi linh hoạt giữa những cách gọi này phụ thuộc vào sự thay đổi tuổi

tác, tính tình của các nhân vật. Có lúc nhà văn gọi nhân vật Thu Khoan trong

“Tháng năm biết nói” là nàng (khi nhân vật còn trẻ), gọi là bà (khi nhân vật đã

già). Hai cách gọi khác nhau đó tùy thuộc vào tuổi tác mà thời điểm tác giả

miêu tả. Có lúc nhân vật người canh cũi - bố Thỉ trong “Người làm mồi bẫy

hổ” được gọi là lão, lão mắt dọc, lão già canh cũi (lúc nghiện ngập và khi làm

nghề canh cũi hổ), gọi là ông, ông lão (lúc nhân vật trở thành người tốt).

Những cách gọi khác nhau đó phụ thuộc vào sự biến chuyển trong tư tưởng đạo

đức và hành động của nhân vật.

Ngoài ra sự khác nhau trong điểm nhìn trần thuật cũng tạo nên sự đa

dạng trong cách gọi tên các nhân vật trong tác phẩm Vi Hồng. Chẳng hạn như:

khi đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Nai Nị trong “Thách đố”, tảo Lăm

Đăm được gọi là bố Lăm Đăm, nhân vật Hoàng được gọi là Anh Hoàng... trong

tác phẩm “Vãi Đàng”, có lúc tác giả đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật

Đàng và gọi các nhân vật là anh Hinh, chị The, anh Thả, con gái Thèn...

Tiểu kết chương 2

Khảo sát các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng với phạm vi 13

tác phẩm, chúng tôi nhận thấy số lượng các từ ngữ xưng hô được sử dụng

trong các tác phẩm là khá lớn, cách sử dụng từ xưng hô đa dạng, phong phú,

độc đáo, mới mẻ.

- Xét về từ ngữ xưng hô qua lời đối thoại của nhân vật: hệ thống từ ngữ

xưng hô có thể xếp vào các nhóm loại như: đại từ nhân xưng; danh từ thân tộc;

tên riêng; từ chỉ chức vụ - nghề nghiệp; từ ngữ xưng gọi khác.

+ Về số lượng từ ngữ của các nhóm từ xưng hô: kiểu loại xưng hô khác có

số lượng nhiều nhất, với 374 từ ngữ (44,69%); danh từ chỉ tên riêng có số lượng

70

từ lớn thứ hai với 270 từ ngữ (32,26%); danh từ thân tộc có số lượng từ lớn thứ

ba với 91 từ ngữ (10,87%); danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp có số lượng từ lớn

thứ tư với 67 từ ngữ, (8,00%); đại từ nhân xưng có số lượng từ nhỏ nhất với 35

từ ngữ (4,18%) trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.

+ Về số lượt sử dụng của các nhóm từ xưng hô: Cao nhất là danh từ thân

tộc với 7762 lượt sử dụng (51,57%); thứ hai là đại từ nhân xưng với 4658 lượt

sử dụng (30,95%); thứ ba là danh từ chỉ tên riêng với 1585 lượt sử dụng

(10,53%); thứ tư là nhóm kiểu loại xưng hô khác với 715 lượt sử dụng (4,75%);

từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ có 332 lượt sử dụng (2,20%). Như vậy, nhóm danh

từ thân tộc chiếm số lượt sử dụng vượt trội (hơn một nửa) trong tổng số lượt sử

dụng các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng. Đó chính là xu hướng gia

đình hóa của người Tày nói riêng và của tiếng Việt nói chung.

+ Xét về các vai giao tiếp của các từ ngữ được dùng để xưng hô trong

văn xuôi Vi Hồng: số lượng và tần suất sử dụng các từ ngữ thuộc nhóm xưng ít

hơn so với nhóm hô. Về mặt số lượng từ ngữ, nhóm hô nhiều hơn gấp hơn 4,0

lần so với nhóm xưng: nhóm hô 703/878 từ, tương đương 80,07%, nhóm xưng

175/878 từ, tương đương 19,93%. Về số lần xuất hiện, nhóm hô và nhóm xưng

có tỉ lệ chênh lệch không đáng kể nhóm hô 7687 lượt sử dụng (51,07%), nhóm

xưng 7365 lượt sử dụng, (48,53%).

- Xét về từ ngữ xưng hô qua lời trần thuật của tác giả:

Nhà văn Vi Hồng đã sử dụng rất nhiều kiểu xưng hô để gọi tên các nhân

vật trong tác phẩm của mình: gọi tên riêng, gọi theo giới tính, theo độ tuổi....

Nhưng nét đặc biệt trong cách gọi nhân vật qua lời trần thuật của tác giả đó

chính là sử dụng các từ xưng hô rất riêng biệt và mang sắc thái biểu cảm cao:

lão, mụ, hắn, nàng, chàng. Trong đó nhà văn sử dụng nhiều nhất là từ “lão” với

9/13 tác phẩm, nhà văn gọi 17 nhân vật bằng từ “lão” và gọi 11 nhân vật bằng

từ “lão” kết hợp với yếu tố giới tính (ông lão, bà lão). Tiếp theo là từ “hắn”

được sử dụng trong 8 tác phẩm để gọi 15 nhân vật. Tiếp theo là từ “mụ” được

71

sử dụng trong 4 tác phẩm để gọi 6 nhân vật. Từ “nàng” được sử dụng trong 3

tác phẩm để gọi 11 nhân vật. Từ “chàng” được nhà văn sử dụng trong 3 tác

phẩm để gọi 8 nhân vật.

Nhìn chung, ở mỗi mảng đề tài, mỗi kiểu loại nhân vật, nhà văn Vi Hồng

lại có những cách gọi khác nhau khi trần thuật về các nhân vật của mình. Cách

chuyển biến trong điểm nhìn trần thuật của tác giả hết sức linh hoạt và đa dạng

tạo nên sự phong phú cho cách gọi trần thuật của Vi Hồng trong các tác phẩm

văn xuôi của mình. Cách xưng hô khi đối thoại của các nhân vật trong tác phẩm

Vi Hồng cũng hết sức đa dạng, sống động và đặc biệt mang đặc điểm riêng của

xưng hô của dân tộc Tày.

72

Chương 3

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ

TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG

3.1. Dùng từ xưng hô thể hiện văn hóa dân tộc Tày

Dân tộc Tày là dân tộc thiểu số đông dân nhất Việt Nam với 1.626.329

người (theo kết quả điều tra 2009) với địa bàn cư trú chủ yếu thuộc các tỉnh

miền núi phía Bắc Việt Nam như: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên

Quang... Trong đó nơi sinh tụ lâu đời của người Tày là Lạng Sơn (có 259.496

người) và Cao Bằng (có 207.805 người) đây là hai tỉnh có số người Tày cư trú

đông đúc nhất.

Nhà văn Vi Hồng là người con của dân tộc Tày, quê hương Hòa An -

Cao Bằng nơi ông sinh ra là cái nôi nuôi dưỡng, là cội nguồn làm nên chất văn

trong sáng tác của ông. Có thể thấy rằng, dấu ấn văn hóa Tày như một chất xúc

tác đặc biệt tạo nên hương vị rất riêng khi thưởng thức văn xuôi của Vi Hồng.

Chính nhà văn đã từng lí giải vì sao nhà văn dân tộc khi sáng tác về dân tộc

mình sẽ thành công và chân thật hơn những người khác: “Một dân tộc dù nhỏ

bé đến đâu, vẫn có một thế giới tâm hồn rất riêng mà chỉ có những con người

rất thông minh và nhạy cảm của dân tộc ấy có cơ may khám phá và phát hiện

được. Chính vì vậy, ông “đã làm được phần việc của mình; kể câu chuyện về

dân tộc mình, câu chuyện về mảnh đất mình đang sống đến với độc giả các

nơi”. [dẫn theo 63; 198].

Sáng tác bằng tiếng Kinh nhưng Vi Hồng không làm mất đi dấu ấn văn

hóa dân tộc Tày trong các tác phẩm của mình. Có thể thấy tư tưởng, tình cảm,

tâm hồn của người dân miền núi vẫn hiện ra một cách trung thực, sinh động

trên những trang văn của ông. Ngoài một số phương diện như: thiên nhiên, tâm

hồn, tính cách con người, các biện pháp nghệ thuật, cái nhìn dân tộc về cuộc

đời, về con người của nhà văn, dấu ấn ăn hóa dân tộc Tày còn hiện lên sâu đậm

ở phương diện sử dụng từ ngữ xưng hô trong tác phẩm của Vi Hồng. Qua xưng

73

hô, các tác phẩm trong văn xuôi Vi Hồng thể hiện văn hóa gắn bó tự nhiên,

sùng bái thần linh; văn hóa cộng đồng làng bản.

3.1.1. Văn hóa gắn bó tự nhiên, sùng bái thần linh

Người dân miền núi nói chung và dân tộc Tày nói riêng luôn sống gắn

bó, giao hòa với thiên nhiên. Thiên nhiên không phải là một khách thể độc lập

riêng biệt mà luôn hiện hữu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người

khi vui cũng như khi buồn. Thiên nhiên như là một người bạn, là một phần đời

sống của người miền núi.

Thiên nhiên miền núi cao vời, xanh thẳm nơi quê hương Vi Hồng vừa là

môi trường sinh sống, vừa là người bạn tâm tình, vừa là nguồn cảm hứng vô tận

cho ông sáng tác. Thế giới tự nhiên trong văn xuôi Vi Hồng đặc biệt ở chỗ nó

không chỉ phong phú mà còn vô cùng sống động. Thiên nhiên như có tâm hồn,

có thể trò chuyện cùng con người, lắng nghe và hiểu được tâm tư, nguyện vọng

của con người. Và nhà văn đã dành hẳn một lớp từ ngữ xưng hô để gọi tên thế

giới tự nhiên ấy. Thế giới tự nhiên đó bao gồm thế giới thực vật và thế giới động

vật. Đó là những cánh rừng xanh biếc, những dòng suối trong vắt, những dòng

thác dữ dội hoang vu nhưng lại mang nét trữ tình, thơ mộng. Đó là thế giới động

vật phong phú với những loài vật dễ thương và cả những con thú rừng hung dữ.

Khảo sát 13 tác phẩm văn xuôi trong sáng tác của Vi Hồng, chúng tôi

nhận thấy: Ngoài những trang văn mà tác giả dành để miêu tả về thiên nhiên,

thế giới tự nhiên trong tác phẩm của ông còn xuất hiện cả trong lời đối thoại

của nhân vật, qua các lời hát, câu hát then, qua lời khấn, qua điệu lượn.

Vi Hồng rất có tài miêu tả cuộc sống các loài vật như khỉ, hổ, gấu, chó,

ngựa... nhà văn rất am hiểu về những cuộc tổ chức săn bắt và bẫy thú rừng của

con người cũng như các cuộc đánh bắt cá trên sông. Thế giới loài vật trong tác

phẩm của ông không chỉ phong phú mà còn vô cùng hấp dẫn, li kì. Qua xưng

hô, các loài vật phần nào hiện ra được một cách sắc sảo, sinh động với những

tình huống căng thẳng, gay gắt, bất ngờ.

74

Các nhân vật trong tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng thường gọi các con

vật bằng những cái tên riêng: Nhì, Ất, Sam, Đăm, Cắng, Mạ Lài, Vài Mu và

được gọi là chúng, lũ chúng khi miêu tả.

Trong truyện vừa Thách đố, Hoàng đã 11 lần gọi trâu Vài Mu và trò

chuyện với con vật: “Vài Mu! Cái cổ mày to! Cái chân mày mập! mày lại về

với tao hả?” [62; 131]. Hoặc ra lệnh cho Vài Mu: “Đánh hổ đi Vài Mu” [62;

155]. Trâu Vài Mu không chỉ là con vật đầu cơ nghiệp, khỏe và được việc mà

còn có tình cảm gắn bó yêu thương chủ mình. Rất nhiều lần trâu Vài Mu về

thăm Hoàng giữa đêm, nhà văn miêu tả những giọt nước mắt của nó như mang

bao nỗi nhớ, cảm xúc của con người.

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Xinh Xông đã gọi tên Mạ Lài 4

lần và cũng thường trò chuyện với ngựa Mạ Lài: “Mạ Lài của ta! Mày ở ngoài

này ăn cỏ. Có làm sao thì mày phải gọi tao nhá! hiểu không!” [60; 9]. Hoặc khi

gặp nguy hiểm, Xinh Xông đã động viên ngựa của mình: “Mạ Lài ơi! Mày

dũng cảm lên. Đừng sợ. Tao có dao sắc chặt rụng đầu hổ hư chặt củ chuối”

[60; 21, “Mạ Lài đừng sợ, có tao đây mày đừng sợ” [60; 22].

Trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ, Nen đã 7 lần gọi tên của con khỉ

đầu đàn Cắng. Những ngày tháng lưu lạc cùng sống chung với lũ khỉ trong

rừng Nen coi chúng như người bạn: cùng ăn, cùng chiến đấu kẻ thù (gấu, lũ

cướp). Nen đã thường xuyên dạy bảo nó: “Cắng trèo lên” [61; 43], “Cắng, hái

những quả đã thâm, đã chết” [61; 43] và khi kẻ thù đến Nen đã ra lệnh:

“Cắng, đánh” [61; 44], “Cắng. Đánh mạnh”, “Cắng, tránh! Cắng, khẹc, khẹc,

dừng lại!” [61; 45]. “Cắng, mày sai lũ mày đi theo tao xuống khe” [61; 45].

Nen cũng hay trò truyện với lũ khỉ:

“Tao cho đứa nào thì đứa ấy được ăn, hiểu chưa” [61; 39].

“Chúng mày là bậy bạ lắm. Chúng mày quen dọa đàn bà con gái hả”

[61; 39].

Khi Nen từ rừng trở về sau 2 năm lạc trong rừng sâu, cô gọi Đăm (con

chó) “Đăm, Đăm, Đăm!” [61; 49].

75

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, Thu Khoan đã gọi tên từng con

ca nặm: “Ất!”, “Nhì”, “Sam” [58; 192]. Mỗi khi chúng lười bắt cá hoặc tham

ăn thường bị “Bà lại quát mắng và tát như tát trẻ con để đe dọa con ca nặm.

Nó biết lỗi, nên nó chẳng kêu và không giãy giụa” [58; 192]. Những con ca

nặm không chỉ biết bắt cá cho chủ mà còn biết cứu người khi bị đuối nước.

Trong tiểu thuyết Vãi Đàng, khi bị thả mảng trôi trên sông vì mang tiếng

ma gà, Đàng đã gọi và ra lệnh cho con chó Đăm: “Đăm! Đăm!”, “Đăm! cắn!

cắn!” [56; 67] để dọa con khỉ đực và xua đuổi chúng, nhằm bảo vệ cho mẹ con

Đàng. Có lúc Đàng lại thủ thỉ với con vật như với một người bạn: “Đăm ơi, mẹ

con tao sắp chết rồi! bao giờ mẹ con tao chết mày hãy bơi vào bờ, tìm đến một

chủ khác mà sống! Mày đừng về nhà tổng Nhự mà chúng nó sẽ đập mày chết!

Mày đừng về Đăm à!” [56; 67].

Câu hát lượn của Đàng trong tiểu thuyết Vãi Đàng là lời chào thân

thương đến các con vật nuôi gần gũi gắn bó với cuộc sống của người dân Tày:

“Chào đàn vịt bơi trên nước

Chào đàn gà mổ thóc ngoài sân

Chào lợn trắng, lợn đen dưới sàn

Chào đàn trâu sừng ngang, sừng vênh...

Gặp gì tôi chào đấy

người hãy đừng chê” [56; 31].

Thế giới loài vật trong văn xuôi Vi Hồng gần gũi, thân thiết với con

người như những người bạn, cùng mưu sinh, chiến đấu, trò chuyện. Nhưng

cũng có khi con người phải chiến đấu vật lộn giữ gìn sự sống với những “thằng

hổ”, “lão hổ”, “rết chúa” hung dữ, hiểm ác.

Không chỉ có loài vật được người dân Tày dành sự yêu thương, gần gũi

và coi là người bạn, mà thực vật cũng được con người coi như có linh hồn trú

ngụ, là một thế giới vô cùng gần gũi nhưng lại linh thiêng, huyền bí. Vì thế mà

trong tiểu thuyết Đất bằng, nhà văn miêu tả cảnh nhân vật già Viền nói chuyện

76

với cây: “Cây ơi, không phải ta giết mày. Cây chết ở đất này một lần để cây

vào núi sống mãi mãi. Núi cao đất dốc cho cây sống, nơi đây đất bằng cho

người sống, cây à!” [56; 142].

Trong đoạn thoại trên của già Viền, nhân vật đã 5 lần gọi tên cây, trò

chuyện với cây theo lối xưng hô ta - mày thân mật của người Tày. Đó là lời “rì

rầm nửa khấn nửa nhủ chuyện với cây.” [56; 142]. Già Viền như phân tích giãi

bày để cây hiểu lí do mà con người chặt cây, vừa như khuyên nhủ vừa như

mong cây không oán hận hành động chặt cây của con người. Đọc lời khấn của

già Viền, “cây” không còn là một sinh vật vô tri vô giác nữa, mà “cây” đã trở

thành một thực thể có tâm hồn, biết cảm thụ và lắng nghe, hiểu được ngôn ngữ

của con người.

Hay trong lời trần thuật của tác giả, Vi Hồng cũng nhắc đến cây: “giọt

sương từ ngọn cây rơi xuống, khi ta chặt là nước mắt của cây, nhiều người có

tuổi, cứ chặt đổ một cây lại chặt một cành nhỏ của cây ấy, cắm vào gốc hoặc

giữa tim gốc nó và khấn khứa”[56; 141,142]. Rõ ràng trong tiềm thức và quan

niệm của người dân vùng Đin Phiêng, cây như một người bạn có tâm hồn, có

trái tim, biết chảy nước mắt khi đau đớn.

Lời hát của trẻ con trong truyện ngắn Cọn nước Eng Nhàn:

“Trời ơi! hửng hửng

Hửng cho chim mò cá

Hửng cho chó săn nai

Hửng cho nai về tổ

hửng lên! trời nắng lên.” [63; 356].

“ Trời ơi! mưa to to

Cho gạo lại đầy vò vò

Cho quả trầu trĩu cành cành

Cho mọi bản ăn no no.” [63; 359].

Lời hát của bọn trẻ cất lên vừa như thể hiện ước muốn, vừa như lời cầu

khấn của con người muốn gửi đến đấng tự nhiên cầu cho mưa thuận gió hòa để

77

vạn vật sinh sôi để mùa màng bội thu. Trong quan niệm của người Tày, “trời” là

lực lượng siêu nhiên có sức mạnh to lớn trong việc quyết định cuộc sống no đủ

hay thất bát. Vì thế người Tày thường tôn thờ “trời” và gọi là “ông trời”, “bố

trời” “mẹ đất”. Không chỉ thể hiện “trời” là bậc trên, mà còn là ruột thịt, thân

thiết như bố như mẹ. Đó là lời của mẹ Đàng trong Vãi Đàng: “Bố trời ơi! mẹ đất

à! thế là nhà ta thành ma gà rồi con ơi.” [56; 19]. Trong tâm khảm, mẹ Đàng coi

lực lượng siêu nhiên vừa như là thứ gì đó thiêng liêng nhưng lại vô cùng gần gũi.

Ngay khi gặp nạn, câu đầu tiên bà kêu lên là gọi trời, gọi đất như để chia sẻ như

để trút bớt đi nỗi bất hạnh mang tiếng ma gà mà gia đình bà đang gặp phải. Khi

mẹ Đàng nghe Điển trả lời về tên chánh tổng đang đến gần, bà lại một lần nữa

vừa thể hiện sự bất ngờ vừa thể hiện sự sợ hãi: “ông trời, mẹ đất ơi!” [56; 34].

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, khi nghe con gái Kim Ngần đòi

lấy Kin Xa, Thu Khoan đã thể hiện sự bất ngờ, bất lực và đau khổ đến tột độ:

“Bố trời mẹ đất ơi! Ôi đất đen và trời cao ơi, sao tôi lại phải gặp những nỗi

đắng cay đắng quá sức người như thế này” [58; 224].

Ông Cắm Hỷ kêu thất thanh khi bất ngờ phát hiện thấy một người trên

sông: “Ôi, bố trời, mẹ đất ơi! Trời đất dựng đá ơi tại sao lại có một người tự

tử” [58; 12].

Trong các tác phẩm văn xuôi của mình, Vi Hồng thường lồng những câu

hát then, những câu sli tiếng lượn, những bức phong slư mang những nội dung

và thông điệp riêng. Hát then là một nét đẹp trong trong sinh hoạt văn hoá

thường nhật của người Tày. Khi vui người ta mời Then, khi nhà có chuyện mời

Then, người có bệnh mời Then, người hiếm muộn mời Then. Then gắn với đời

sống tâm linh và tín ngưỡng của người Tày. Các bà Then, ông Tào, Pụt, Mo là

những người có khả năng liên hệ với thần linh, tiếp cận với thế giới siêu nhiên,

là cầu nối giữa người trần với các đấng tự nhiên. Bởi vậy, họ có vai trò hết sức

quan trọng trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng. Then của

người Tày mượn lời ca, tiếng đàn tính, đàn mạy loi cùng chùm xóc nhạc dẫn

đường đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu hay bày tỏ lòng biết ơn.

78

Những câu lượn của Đàng trong tiểu thuyết Vãi Đàng là lời chào thân ái,

hồ hởi tới con người, tới thiên nhiên vô vàn yêu quý:

“ Nghiêng nón tôi xin chào gốc bản, gốc rừng

Cất đầu, tôi chào người quen, người lạ

Tôi chào người già người trẻ

Người người đẹp đẽ hơn hoa

Tôi chào đồng ruộng cho chủ nhiều thóc

Chào nước trong như ngọc chảy xuôi” [56; 31].

Hay lời hát của Then Kì trong trong tiểu thuyết Đất bằng:

“Chào núi chào sông chào mặt trăng rạng sáng” [56; 167].

Trong câu hát lượn của Đàng và của Kì là lời chào các đối tượng vô cùng

phong phú bao gồm cả con người và thiên nhiên: Gốc rừng, đồng ruộng, nước,

núi, sông, mặt trăng rạng sáng đã gắn bó từ bao đời với con người. Lời chào ấy

như mang theo niềm hồ hởi và lòng biết ơn thiên nhiên đã ưu ái để mùa màng

tốt tươi, mang lại nhiều thóc lúa cho con người.

Lời hát then của Kì trong Đất bằng cũng có rất nhiều những từ ngữ dùng

để gọi thiên nhiên:

“Hoa ơi, hoa hỡi, thơm nữa hỡi hoa

Cho ong bướm xa về hội họp...

... Anh làm gió mát hoa cười” [56; 159].

“Hoa ơi, hoa hỡi, hỡi hoa” là những tiếng gọi tha thiết mà chủ thể muốn

gửi đến “hoa” - biểu tượng về vẻ đẹp thiên nhiên thuần khiết nhất của Người

Tày. người Tày quan niệm con người vốn là con của Mẹ Hoa, mỗi người là một

bông hoa: “Mẹ Hoa phân Hoa. Mẹ Hoa chi lại để đầu thai vào lòng người”

Trong tác phẩm của Vi Hồng, “hoa” và con người có một sợi dây liên hệ vô

cùng đặc biệt. Trong lời hát then của Kì, con người xưng hô với “hoa” là anh -

hoa thể hiện sự thân thiết, gần gũi. Hơn nữa phép ẩn dụ “hoa cười” một lần nữa

con người miền núi đã thổi hồn vào cho thiên nhiên, cho cây cối.

79

Các vị thần thuộc thế giới tự nhiên cũng xuất hiện trong lời khấn của ông

Đáng trong tiểu thuyết Đất bằng khi làm lễ “ò lò pù gáng” để mừng đêm liên

hoan mừng cơm mới của Đin Phiêng:

“Ơi thần cây ở muôn cành cao

Hỡi thần suối ở muôn khe thấp

Thần sông không xương dẻo như tấm vải chàm” [56; 218].

“Hỡi thần xanh tươi tôn kính

Nhận của tôi thêm một lời

Sinh ra ở đất Đin Phiêng

Mùa này chúng tôi làm ruộng thay nương

Trồng đồng Đin Phiêng thuở trước

Cấy ruộng Đin Phiêng thuở xưa...” [56; 218].

Ông Đáng đã thay mặt cho toàn thể nhân dân Đin Phiêng đã gửi lời khấn,

lời cảm tạ của con người với những đấng siêu nhiên: thần cây, thần suối, thần

sông, thần xanh tươi (thần mùa màng). Mặc dù lễ “ò lò pù gáng” xuất phát từ

người Dao, nhưng người Tày ở Đin Phiêng lại thực hiện nghi lễ một cách tôn

kính và thiêng liêng. Người khấn xưng là “tôi” với các vị thần như thể hiện sự

trang trọng, nghiêm túc. Lời khấn không chỉ là nghi thức, nghi lễ mà còn mang

trong đó tâm tư, nguyện vọng, sự thành kính, trang nghiêm của con người,

mong muốn được các vị thần linh của thiên nhiên thấu hiểu.

Trong tác phẩm Đất bằng, sức mạnh của ông thần được thể hiện trong

lời nguyền của mẹ Xanh: “Ôi ông thần ngày xưa đã nằm ngửa làm nên cánh

đồng này hãy về đây thu lại ruộng đất của thần”.

Như vậy, qua lớp từ ngữ xưng hô mà các nhân vật trong tác phẩm Vi

Hồng dùng để gọi các đấng tự nhiên, có thể thấy rằng, đời sống văn hoá tâm

linh của người Tày không thể thiếu các vị thần: thần Thổ địa, thần Cây, thần

Nông nghiệp (bảo vệ mùa màng)… Vì thế trong mỗi gia đình người Tày bao

giờ cũng có bàn thờ để thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh đó. Văn hóa gắn bó

80

thiên nhiên, tôn thờ sùng bái thần linh như một nét đẹp văn hóa mang đặc trưng

riêng của Người Tày nói riêng và người miền núi nói chung.

Với giọng điệu miêu tả thiên nhiên, gọi tên tự nhiên, tôn sùng tự nhiên,

nhà văn Vi hồng như gửi vào trong tác phẩm một tình yêu thiên nhiên, yêu quê

hương xứ sở và truyền tới người đọc ý thức bảo vệ giữ gìn môi trường tự nhiên.

Vì thiên nhiên và con người luôn gần gũi, giao hòa, không thể tách rời độc lập.

3.1.2. Văn hóa cộng đồng, làng bản

Do điều kiện sinh sống của người Tày ở các tỉnh miền núi đất rộng người

thưa, điều kiện sống khó khăn nên người Tày luôn coi trọng việc giữ gìn các mối

quan hệ. Trong quan hệ với cộng đồng, với các dân tộc anh em khác, đồng bào

Tày rất trọng tình đoàn kết gắn bó. Tính đoàn kết của người Tày được thể hiện

trong nội bộ gia đình, dòng tộc, bản mường và với các dân tộc anh em khác.

Trong giao tiếp cũng như trong cuộc sống, quan hệ giữa các thành viên

trong bản làng có ảnh hưởng không nhỏ tới sự gắn kết cộng đồng. Một cộng

đồng có được sự đoàn kết cao hay thấp phụ thuộc vào tính chung mục đích,

chung lí tưởng, sự gắn bó cảm xúc, sự hòa nhập, sự tin tưởng lẫn nhau giữa các

thành viên trong cộng đồng. Qua lớp từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng phần

nào thể hiện được tính mến khách, sự gắn kết cộng đồng của người Tày trong

các hoạt động lao động sản xuất, nghi lễ hội hè, hoạt động cách mạng, chiến

đấu với kẻ thù.

Thống kê các từ ngữ xưng hô trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng,

qua lời thoại của các nhân vật, chúng tôi nhận thấy, trong phạm vi giao tiếp gia

đình, dòng tộc hay làng bản đều xuất hiện số lượng lớn các từ ngữ xưng hô chỉ

số nhiều. Chứng tỏ người Tày thường có thói quen tập trung đông người khi lao

động hoặc trong sinh hoạt đời thường. Đó là những từ ngữ chỉ một nhóm người

có chung đặc điểm hoặc về giới tính, hoặc về lứa tuổi, hoặc về dòng họ, dân tộc.

Trong phạm vi gia đình: các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để xưng:

chúng cháu 34 lượt, chúng em 19 lượt, nhà ta 17 lượt, con cháu 16 lượt, chúng

81

con 7 lượt, bố con ta 3 lượt, bọn anh 2 lượt, anh em ta 2 lượt. Còn lại các từ

các anh, bọn em, hai bố con ta, anh chị em chúng ta, con cháu chúng ta, trung

đội chúng ta, chị em chúng mình, anh em nhà ta, gia đình nhà ta được sử dụng

một lượt.

Các từ ngữ số nhiều được dùng để hô trong phạm vi gia đình: các ông 20

lượt, các anh 22 lượt, pỉ noọng (anh em) 14 lượt, các con 12 lượt, các bác 9

lượt, các em 7 lượt, các anh chị 7 lượt, các chú 5 lượt, các anh các chị 4 lượt,

các cháu 3 lượt, các cháu gái 3 lượt, các con cháu 2 lượt, các chị 2 lượt, các bà

2 lượt, anh em con cháu 2 lượt, còn lại các từ: các bá, con cháu gái, con cháu

trai, các cháu trai, các ông bà, các bác chú, các bác bá, các con các cháu, các

ông bà, con cháu ta, anh em họ hàng chú bác cô dì, toàn thể pỉ noọng được sử

dụng một lượt.

Trong dòng tộc: các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để xưng: hai họ

chúng ta 2 lượt, còn lại các từ họ Sầm ta, người họ Nông ta, anh em họ ta, anh

em họ Sầm, anh em mọi người hai họ được sử dụng một lượt.

Các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để hô: anh em họ Nông 2 lượt.

-Trong cộng đồng, làng bản: Các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để

xưng: chúng ta 266 lượt, ta 263 lượt, chúng tôi 88 lượt, chúng mình 22 lượt,

mình 18 lượt, mường ta 18 lượt, chúng tao 6 lượt, bọn mình 5 lượt, bản ta 5

lượt, quê ta 4 lượt, bọn tao 3 lượt, tập thể ta 3 lượt, dân quân chúng tôi 2 lượt,

dân tộc mình 2 lượt, người Tày mình 2 lượt, người Tày ta 2 lượt, người Tày

chúng ta 2 lượt, ban lãnh đạo chúng tôi 2 lượt, mọi người chúng ta 2 lượt, các

từ được sử dụng một lượt là: bọn ta, lũ tao, bọn chúng tôi, bọn tôi, đất ta, xóm

ta, quê mình, bản mường chúng ta, hội đồng chúng ta, Đảng ủy chúng ta, lãnh

đạo chúng ta, hai chúng ta, trường chúng ta, làng ta, thành phố ta, Lục Khê ta,

bản mường ta, hai đứa chúng mình, hai chúng mình, bọn chúng tôi, người Tày

chúng tôi, mọi người chúng tôi, anh em chúng tôi, hai vợ chồng chúng tôi.

Các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để hô: các bạn 18 lượt, mọi người 16

lượt, các người 14 lượt, các ngài 8 lượt, bà con 6 lượt, anh em mọi người 4

82

lượt. Những từ ngữ được sử dụng một lượt: trẻ con chúng mày, hai đứa chúng

mày, con trai con gái chúng mày, bọn mày thanh niên, các già, các bạn trai trẻ

trai non, các bạn trai non, trai non gái trẻ, mọi người thương yêu, bà con anh

em mọi người, bà con anh chị em hàng phố, anh em trên bờ, anh em mọi người,

anh chị em mọi người, anh em chú bác mọi người, anh chị em làng bản, chú

bác anh em làng bản.

Trong các tác phẩm văn xuôi Vi Hồng, các từ ngữ xưng hô chỉ số đông

có mặt trong đa dạng các cảnh huống giao tiếp: có khi là chuyện trò bình

thường, có khi là lời chỉ bảo, sai khiến, có khi là lời cầu cứu, van xin, khi là lời

than vãn, cũng có khi xuất hiện để thể hiện niềm ngỡ ngàng vui sướng tột độ.

Trong tiểu thuyết Đất bằng, già Viền đã rất nhiều lần vừa chuyện trò vừa

như dạy dỗ chỉ bảo con cháu:

“Các con cháu người Mèo cứ ăn cơm người Dao, người Tày... để già và

con cháu ăn mẻn mén” [56; 104]. Cách gọi của già Viền vừa như thể hiện sự

mến khách, nhường phần cơm ngon cho mọi người vừa như thể hiện sự gần

gũi, thân thiết giữa người Tày, người Dao và người Mèo. Đó không chỉ là bữa

cơm bình thường, mà đó là bữa cơm đoàn kết các dân tộc ở Đin Phiêng.

“Con cháu Đin Phiêng ta ơi, ta gặt lúa của ta đi!” [56; 220]. Trong

khung cảnh gặt lúa tập thể được diễn ra hết sức khẩn trương, già trẻ gái trai các

dân tộc anh em đều lao động hăng say, thể hiện tinh thần đoàn kết và giúp đỡ

nhau cùng nhau chia sẻ công việc, nhường nhau thức ăn..

“Các cháu trai phải biết nhường các cháu gái với! Phải mời các bạn

gái ăn! Các cháu gái ăn đi đừng xấu hổ!” [56; 104]. Lời dạy bảo của già Viền

trong bữa cơm như truyền lại cho con cháu truyền thống biết nhường nhịn, đùm

bọc thương yêu nhau của người miền núi.

Già Viền nói:“Thưa anh em mọi người hai họ, không nên ,mắc mưu con

cáo già, để đến nỗi chúng ta gặp nhau phải cúi mặt xuống đất.” [56; 119].

Câu nói của già Xanh khi bàn về tình hình làm ăn của tập thể Đin

Phiêng: “Các con cháu à! Cái việc ta làm thì to lớn...” [56; 106].

83

“Thôi, các bác ạ!... Ta ăn đi rồi lo chặt cây làm ruộng. [56; 105].

Câu nói của ông nội Xanh như một mệnh lệnh ban xuống cho mọi người

trong dòng họ:“Bây giờ các con các cháu về nhà lấy thêm dao gậy ra đây”[56;

117], Tất cả anh em họ Nông hãy dừng tay lại và sang bờ suối bên ta hết.”

[56; 114], “Các con cháu nghe ta” [56; 118], “Anh em họ ta hãy cắm giáo

mác xuống đất” [56; 115].

Bố Hạ Chi trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng nói như ra lệnh: “Anh

em họ hàng hãy đè nó xuống mà trói vào” [60; 139].

Không chỉ trong lao động mà khi gặp chuyện dữ, các nhân vật trong văn

xuôi Vi Hồng cũng thường gọi dòng họ, làng bản vừa như thông báo, vừa như

một sự cầu cứu, mong được giúp đỡ: Ké Viền trong tiểu thuyết Đất bằng đã

kêu: “Anh em họ Sầm đâu, mau mau đến cứu tôi” [56; 113].

Tiếng gọi của mọi người:“Trai tráng họ Nông ta đâu, người họ Sầm đã

đánh chết người họ Nông ta rồi” [56; 114].

Một người họ Nông gọi: “Ới anh em họ Nông, họ Sầm “mùn thớt” đã

đánh chết người họ Nông ta rồi’ [56; 113].

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, khi Kin xa phát hiện ra Thu

Khoan tự tử đã kêu lên: “Chú, bác, anh em làng bản ơi!Thu Khoan tự tử rồi”

[58; 62].

Thu Khoan kêu lên khi thấy con gái lấy Kin Xa: “Anh Linh Khay ơi!

Anh chị em chú bác mọi người ơi!” [58; 226].

Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhân vật bệnh nhân già đã kêu lên

như một sự cầu cứu: “Các ông các bà, các anh các chị bác sĩ ơi! Cứu tôi với!

Cứu con tôi với” [57; 5].

Không chỉ trong nỗi đau xót, mà khi vui, các nhân vật trong tác phẩm Vi

Hồng cũng gọi tên cộng đồng làng bản như một thói quen có từ lâu đời. Trong

tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc Loỏng, Cặm Cang thể hiện niềm vui tột độ khi được

Thu Lạ yêu thương: “Ta sung sướng quá các anh các chị các em ơi! Sung

84

sướng hơn ông vua ở kinh đô, hơn cả ngọc hoàng thượng đế trên trời!” [56;

109]. “Anh em mọi người chú bác cô dì ơi!Thằng Cặm Cang xấu xí này lấy

được nàng tiên rồi” [56; 203].

Văn hóa cộng đồng làng bản không những được thể hiện qua cách gọi

mà còn thể hiện trong lối xưng của Người Tày. Khi đối thoại, các nhân vật

trong tác phẩm Vi Hồng thường xưng là chúng tôi, chúng cháu, chúng ta,

người Tày ta, mọi người chúng tôi... Những trường hợp sử dụng kiểu xưng hô

này thường là một người đại diện cho ý kiến của nhiều người để nói lên ý kiến,

quan điểm của nhóm mình.

Trong hầu hết các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng, lối xưng chỉ số nhiều

đều được sử dụng phổ biến. Lấy ví dụ trong tiểu thuyết Đất bằng, mô hình đối

thoại tập thể xuất hiện rất nhiều trong không gian sinh hoạt, lao động chung của

làng bản. Vì vậy, lối xưng nói trên cũng được thể hiện đa dạng:

Già Viền nói hợp bụng chúng cháu đó” [56; 105].

“Anh em chúng tôi sang đây không phải để đánh nhau” [56; 119].

“Chúng ta hãy đi làm. Không thì thua Đin Phiêng phải” [56; 105].

“Chúng em tán thành ý kiến anh Đáp” [56; 125].

Còn rất nhiều các từ ngữ xưng hô khác thể hiện rõ văn hóa cộng đồng

làng bản của người Tày, trong khuôn khổ luận văn của đề tài này, chúng tôi xin

phép chỉ liệt kê ra một vài ví dụ như trên để thấy được nét độc đáo trong cách

gọi cộng đồng làng xóm của người Tày.

Đặc điểm dễ nhận thấy trong cách xưng hô của người Tày là thường

mang tính gia đình hóa. Những người già thường gọi những người trẻ tuổi là

con cháu, những người cùng lứa tuổi thì gọi nhau là anh em, những người dưới

gọi người trên là chú bác cô dì mặc dù không có quan hệ huyết thống. Qua cách

xưng hô đó mà quan hệ trong cộng đồng bản làng trở nên gần gũi, đoàn kết,

gắn bó thương yêu.

Văn hóa đoàn kết của dân tộc Tày nói chung và của dân tộc Việt nói

chung là một nét đẹp đặc trưng mang tính truyền thống cần được gìn giữ và

85

phát huy. Ngày nay, người Tày gọi ngày hội đại đoàn kết là “mự đại đoàn kết”.

Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong những sự kiện lớn của bản làng,

đồng bào miền núi luôn có ý thức tương trợ nhau. Trong quan hệ giao tiếp của

cộng đồng, quan hệ bản làng luôn được coi trọng hàng đầu.

Nét văn hóa gắn bó tự nhiên, tôn thờ thần linh, tinh thần đoàn kết của

người Tày được truyền từ đời này sang đời khác bằng một kho tàng văn học

dân gian phong phú bao gồm: truyện cổ tích, thần thoại và vốn thi ca cổ truyền

gồm: dân ca trữ tình, thơ ca đám cưới, hát ru, văn cúng bái, văn than...với nội

dung chủ yếu nhằm giải thích vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc các dân

tộc, nêu lên lòng chính nghĩa, ghét gian tà, tinh thần đấu tranh chống lực lượng

siêu nhiên thần kỳ, chống cường quyền ác bá, đấu tranh để giữ trọn vẹn mối

tình chung thuỷ lứa đôi, bạn bè, đấu tranh chống ngoại xâm, truyền thống đoàn

kết dân tộc trong cộng đồng người Tày.

3.2. Dùng từ xưng hô thể hiện bản chất con người miền núi

Giao tiếp của người Tày chịu ảnh hưởng bởi truyền thống văn hóa,

phong tục tập quán của dân tộc một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đó là những

giá trị tinh thần quý báu tồn tại vững chắc trong tâm lý người Tày ở mọi thế

hệ. Đặc điểm tính cách dân tộc cũng là một nhân tố khách quan ảnh hưởng đến

văn hóa giao tiếp của người Tày. Nét tính cách điển hình của người Tày là hiền

lành, thật thà và kín đáo. Người Tày ưa sự chân tình nhưng lại có lối ứng xử tế

nhị, nhẹ nhàng, lịch thiệp, mến khách và có phong cách nhu mì, giản dị, kiêm

nhường, ít khoa trương.

Vi Hồng là người con đích thực của quê hương miền núi, mang trong

mình phẩm chất, cốt cách dân tộc Tày. Nhà văn có những phát hiện tinh tường

về sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong tâm hồn của những con người nghèo khổ

chốn miền núi. Họ là những con người dũng cảm, giàu nghị lực vượt lên những

khó khăn, chiến thắng hoàn cảnh bằng một sức mạnh tinh thần phi thường. Sức

sống mãnh liệt ấy chính là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố tiềm tàng trong

đặc điểm tính cách của người miền núi.

86

Có thể nói rằng, qua đối thoại, qua cách xưng hô của nhân vật trong văn

xuôi Vi Hồng đã thể hiện khá rõ tính cách, tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của

người miền núi: đó là tính chân thật, hồn nhiên, sự rộng lượng, lòng vị tha và

cả sự phóng khoáng của người dân tộc thiểu số; đó là tâm hồn lãng mạn, bay

bổng rất giàu cảm xúc của người miền núi.

3.2.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tính cách chân thật, hiền lành, chất phác,

ngay thẳng

Thế giới nhân vật trong văn xuôi Vi Hồng chủ yếu là những người dân

tộc miền núi giản dị, chất phác, thô mộc nhưng giàu tình yêu thương, trọng tình

nghĩa. Bởi thế ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn mang đậm

phong cách diễn đạt của người miền núi. Phong cách đó thể hiện ở lời nói, cách

nói rất chân thật, ở từ ngữ giản dị, dễ hiểu. Trong đối thoại, người Tày thường

có lối xưng hô bộc lộ thái độ yêu ghét trực tiếp, từ xưng hô bộc lộ đặc điểm,

tính cách một cách cụ thể.

Tính cách chân thật, ngay thẳng của người Tày nói riêng và người miền

núi nói chung thể hiện ở cách xưng hô bộc lộ thái độ yêu ghét một cách trực

tiếp. Khi đối thoại, người miền núi thường dùng các xưng hô thể hiện thái độ

yêu thương, quý mến, trân trọng, ngợi ca: bạn thân mến, mọi người thương yêu

Thu lạ em yêu, em yêu Thu Lạ, bạn Thu Lạ thân thương, cô bạn gái thân mến,

chị dâu kính yêu, khách quý khách sang, anh bạn Kin Xa thân yêu.

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Chim Ca gọi Thu Lạ: “Thu Lạ

ơi, ơi bạn Thu Lạ thân thương!” [60; 89].

Chim Ca động viên Thu Lạ: “Đừng bi quan thế, bạn thân mến ạ!” [60; 92].

Cặm Cang nói với Thu Lạ: “Thu Lạ ơi, ta không thể sống nhìn trời nhìn

đất và nhìn em yêu Thu Lạ mà có thể sống được.” [60; 106].

Trong tiểu thuyết Đất bằng, một người trong đám thanh niên nói:

“Thưa mọi người thương yêu! Chúng tôi phải cản bà con lại, thật không

phải.” [56; 224].

87

Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhân vật Ba nói với Hoa: “Tôi cười

gió núi mây ngàn cô bạn gái thân mến ạ” [57; 152].

Khi đặt các nhân vật vào trong các tình huống xung đột gay gắt, Vi Hồng

thường để cho các nhân vật của mình đối thoại để thể hiện và bộc lộ rõ tính

cách. Lớp từ ngữ xưng hô trong được dùng giữa các nhân vật khi mâu thuẫn là

thái độ coi thường, căm thù, cay nghiệt, mỉa mai... và thường được thể hiện

bằng các từ ngữ vừa để gọi tên vừa là những tiếng chửi thề: bọn gia nhân độc

ác, thằng già canh cũi, con chó ghẻ bướng bỉnh, thằng trẻ con do cho sinh ra

do ma sinh lại, bà già đanh đá mỏ nhọn lưỡi sắc, bà già nửa điên nửa khùng,

mụ già kia, bà già có cái đầu óc thâm u như rừng cây, cái con cơm thiu mẻ

thối, cái thằng khốn nạn, cái thằng lau sậy chết khô, thằng Châu Đoàn già,

những kẻ ngu ngốc, kẻ độc ác, kẻ bịt bợm, đồ hèn, đồ dã man, đồ ăn mày, đồ

ma gà chuyên làm hại người, đồ gái đẹp ma gà, đồ ma gà chúng mày, đồ chết

trôi chết sấp, đò thằng Ba dê cụ, đồ thằng Ba đểu cáng, đồ con dê già, đồ con

chó không nghe lời chủ, đồ vô phúc, đồ phản phúc, cái đồ lông cánh lông đuôi

cun củn, cái đồ cơm nguội cơm thiu, lão già phản bội, chó già phản chủ, cái

ông ma gà đẻ ra cái con ma gà, thằng Mán con kia, cái thằng Cặm Cang xấu xí

kia, cái thằng con trai chó đẻ lợn nuôi kia.

Sau đây là một số ví dụ thể hiện lối nói bộc lộ thái độ căm ghét của nhân

vật qua những tiếng chửi thề:

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, thằng nghiện đã nói với Kin Xa

“Cái thằng lau sậy chết khô kia, mày “cáu tháy” ở đâu ra được cái của mập

thế?” [58; 146].

Trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói, nhân vật Tẹo đã nói với Hoàng:

“Tiên sư mày, mày có về không, đồ chết trôi, chết sấp nhà mày” [57; 96].

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Tua Be nói với bà Phí Thao:

“Hoa của tôi, tôi đã cho con trai Cặm Cang của bà dùng rồi! Bà già đanh đá

mỏ nhọn lưỡi sắc ạ!” [60; 208].

88

Tua Be nói với Bà Xẳn Lần: “Không biết thì bà câm đi. Bà già nửa điên

nửa khùng ạ!...Bà già có cái đầu óc thâm u như rừng cây ạ!” [60; 266].

Trong cách gọi của Mẹ Chim Ca với con: “Mày không nghe lời bố mẹ

mày nữa có phải không? Cái thằng con trai chó đẻ lợn nuôi kia!” [60; 250].

Ngoài việc bộc lộ thái độ yêu ghét một cách trực tiếp qua xưng hô, người

miền núi thường có cách gọi kèm theo đặc điểm cụ thể của đối tượng. Đó là

đặc điểm về ngoại hình và đặc điểm về tính cách.

Những từ ngữ xưng hô chỉ đặc điểm ngoại hình như: Mạc trọc, người

đẹp, người đẹp gái, em gái xinh đẹp, cô em xinh đẹp, bạn gái xinh đẹp của tôi,

chàng trai xấu xí, bà Xẳn Lần mặt rộng mắt trắng lưỡi mỏng, người già...

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang nói với Thu Lạ: “Tại

sao thế? Hay có con ma nó xui, con quỷ nào nó khiến bạn gái xinh đẹp của tôi

trở nên như thế?” [60; 102].

Thu Lạ nói với Cặm Cang: “Hỡi chàng trai xấu xí! Đừng kiêu ngạo

thế.” [60; 104].

Bà Xẳn Lần nói với Cặm Cang: “Cái thằng Cặm Cang xấu xí kia, tao

không nói với mày.” [60; 265].

Cặm Cang nói với bà Xẳn Lần: “Bà Xẳn Lần miệng rộng, mắt trắng,

lưỡi mỏng ơi! Bà đừng có mà mắng chửi người ta và con gái độc địa như thế.”

[60; 264].

Trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói, nhân vật Thìm nói với Châu

Đoàn: “Cái thằng Châu Đoàn già! cút cái con mẹ mày đi” [59; 22].

Những từ ngữ xưng hô chỉ đặc điểm tính cách như: thằng Lảm lười, lão

Moong cứt sái, thằng Moong cứt sái, thằng Toan ích kỉ...

Trong tiểu thuyết Đất bằng, cách gọi của nhân vật vừa như một lời nhận

xét vừa như lời yêu cầu: “Thằng Toan ích kỉ, thằng Lảm lười, lão Moong cứt

sái, và tất cả những thằng ăn cắp từ nơi khác đến muốn sống thì dừng mảng

lại!” [56; 241].

89

Những đặc điểm về tính cách và ngoại hình của các nhân vật trong văn

xuôi Vi Hồng không chỉ được bộc lô qua cách gọi các gọi các nhân vật khác,

mà còn bộc lộ qua chính cách xưng của các nhân vật đó trong giao tiếp: cái bà

già này, người nghèo này, cái con ma gà này, cơm thiu mẻ thối này, cặm cang

xấu xí này... Khi nhân vật nhận rõ và ý thức được những đặc điểm về tính cách

và ngoại hình của mình là xấu, các nhân vật sử dụng những từ tự xưng kèm thái

độ mặc cảm.

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang đã tự xưng mình:

“Ối hôm nay là ngày gì mà Cặm Cang xấu xí này được hưởng nhiều cái

phúc.” [60; 108].

“Thằng Cặm Cang xấu xí này đã lấy được nàng tiên rồi” [60; 203].

Nhân vật Tua Be đã tự xưng mình là cơm thiu mẻ thối khi nói với bà Xẳn

Lần: “Cơm thiu mẻ thối này thế mà lại còn văn minh hơn bà kia đấy” [60; 266].

Hầu hết, các nhân vật trong văn xuôi Vi Hồng giữ được những nét “hồn

nhiên như cây cỏ”. Thế giới nhân vật chính diện trong tác phẩm của Vi Hồng

đều lấy nguyên mẫu từ cuộc sống hiện thực của người dân tộc Tày. Họ sống

hồn nhiên, chân thật, yêu ghét rạch ròi, họ tin, yêu người khác như chính bản

thân mình. Thế giới nhân vật phản diện mang những cái xấu xa có khi là do bản

chất nhưng cũng có khi xuất phát từ sự nhận thức nông cạn, sự cả tin, cổ hủ, lạc

hậu. Những quan niệm mang tính gốc rễ đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân

miền núi đã tạo nên một cuộc sống vô tư, hồn nhiên nhưng nhiều khi lại mang

đến cho họ những bi kịch đáng thương.

3.2.2. Dùng từ xưng hô thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng

Ngôn ngữ của người Tày rất giàu và đẹp, điều đó đã khiến cho lời ăn

tiếng nói của người Tày trở nên hết sức phong phú, uyển chuyển, tinh tế và

khái quát. Với số đơn vị ngữ âm phong phú trong ngôn ngữ dân tộc mình,

người Tày đã tạo ra các từ ngữ diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống vật chất và

tinh thần bên cạnh vốn từ vay mượn từ tiếng Hán và tiếng Việt. Bởi thế bản sắc

90

dân tộc, bản sắc miền núi thể hiện ở cách nói mang tính ước lệ, tượng trưng,

giàu hình ảnh, hay ví von, so sánh.

Dù được sáng tác bằng tiếng Việt, nhưng ngôn ngữ các tác phẩm của Vi

Hồng vẫn ảnh hưởng rất lớn từ tâm hồn bay bổng, lãng mạn của người miền

núi. Và phương diện từ ngữ xưng hô trong văn xuôi cũng bị chi phối không nhỏ

bởi nét đặc trưng này trong tính cách của người Tày.

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy: trong lời trần thuật của tác giả

cũng như trong đối thoại của của các nhân vật, lớp từ ngữ xưng hô có chứa

những hình ảnh ví von, so sánh thường gần gũi với đời sống thiên nhiên, núi

rừng, thường gắn với những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống của người

dân miền núi. “Hoa” và “nàng tiên” là hai hình ảnh biểu trưng cho cái đẹp xuất

hiện nhiều nhất trong xưng hô của các tác phẩm văn xuôi Vi Hồng.

Trong một số tác phẩm văn xuôi Vi Hồng, “hoa” xuất hiện trong tên gọi

như một biệt danh:

Trong tiểu thuyết Đất bằng, già Viền thường gọi Nhình là “bông hoa út”

để gọi đứa cháu bé nhất nhà:

“Bông hoa út của bà làm vừa vừa thôi nhá, về lại ốm đấy.” [56; 145].

“Đúng đấy, hoa út của bà giỏi” [56; 145].

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, nhân vật Kim Ngần có biệt danh

là “Hoa Nước” vì cô sống ở môi trường sông nước và đẹp như một đóa hoa.

Kin Xa thường gọi tên cô bằng biệt danh đó:

“Bác buồn quá cháu Hoa Nước à!” [58; 212].

“Ôi, Hoa Nước yêu tôi thật đấy ư” [58; 220].

“Ta về nhà đi em - Hoa Nước của anh. Ôi, bông Hoa Nước kì diệu

không ngờ lại rơi vào trái tim anh” [58; 221].

Ngoài cách xuất hiện trong tên gọi như một biệt danh, “Hoa” còn xuất

hiện trong tên gọi một cách thường xuyên và được sử dụng lâm thời:

91

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, Kin Xa đã chào gái làng chơi:

Đại huynh xin chào gái hoa gái nụ... gái hoa có còn nguyên cánh, gái nụ có

còn phong nhụy? “[58; 148]; “Đại huynh của nàng xin đánh tiểu tiểu thôi,

nhưng số bạc thì cũng khá đấy có phải không búp nụ và bông hoa của anh?”

[58; 149].

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang nói: “Tôi là người

Mẹ Hoa đúc nhầm khuôn, Mẹ Đất đẻ nhầm lối, nên tôi không giống người trần

gian. Xin các bạn xinh đẹp như hoa nư nụ đừng mời mọc tôi làm người sang

người quý” [60; 26]; Tua be nói: “Thôi thế là thế nào, hỡi người bạn gái xinh

đẹp như một đóa hoa.” [60; 24].

Cùng với cách so sánh mang tính ước lệ vẻ đẹp người con gái với loài

hoa, Vi Hồng đã sử dụng dày đặc một hình thức ước lệ quen thuộc trong truyện

cổ tích dân gian với hình ảnh nàng tiên. Tiên chỉ những người đẹp nhưng

khồng có thật, tiên chỉ xuất hiện trong các huyền thoại. Nhưng trong tác phẩm

Vi Hồng con người rất nhiều lần được so sánh với nàng tiên và được gọi là

nàng tiên.

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, tên quan tuần phủ Trần Hồi đã

gọi Thu Khoan: “ôi, nàng tiên Thu Khoan của ta” [58; 123].

Kin Xa nói với cô gái làng chơi: “Hỡi nàng tiên bé nhỏ của chàng đại

ca!” [58; 156].

Trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ, Thỉ nói với Nen trong niềm

sung sướng: “Anh nhất định mang Pèng về cho em. Trời ơi hạnh phúc của anh

đây rồi! nàng tiên của anh đây rồi.” [61; 50].

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Tua Be nói: “À, anh Cặm Cang

dạy mình nói đấy, các bạn gái đẹp như nàng tiên của em ạ!” [60; 24].

Cặm Cang nói: “Các nàng tiên xinh đẹp của xuân xanh, hãy trao

những chiếc còn có tua bảy sắc vào trong tay các chàng mà các nàng muốn gửi

ở đấy cả mùa xuân vĩnh cửu” [60; 25].

92

Các nhân vật cũng thường gọi tên các “nàng tiên” ở ngôi thứ ba:

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang nói với bố mẹ: “Con

vừa mới ôm nàng tiên và chạy về báo cho bố mẹ” [60; 204]; “Vợ con là một

nàng tiên đấy” [60; 204]; “Con lấy nàng tiên Thu Lạ” [60; 205].

Trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ, Thỉ nói với Xấn Xáng: “Tại sao

lạo pản không giữ lời hứa ban đầu mà lại thả cái con Nen nàng tiên của tôi

đi”. [61; 51]. “Ông giả Pèng cho tôi nguyên vẹn thì tôi xí xóa mọi công cán,

giao kèo trong cuộc mua bán Nen nàng tiên của tôi với ông!” [61; 53].

Xấn Xáng nói với Thỉ một cách ngọt ngào và điềm tĩnh: “Nàng tiên Nen

của tài cá đang học vũ ba lê.” [61; 52].

Khi đối thoại, các nhân vật trong tác phẩm Vi Hồng cũng thường so sánh

vẻ đẹp của con người với nàng tiên: Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng,

Bố Thu Lạ nói với mẹ Cặm Cang: “Con gái tao là nàng tiên. Con trai mày là

con khỉ già què chân” [60; 218].

Mẹ Cặm Cang nói với dân quân: “Bá xin nói thật! Vì bá thấy Thu Lạ nó

đẹp như nàng tiên mà lũ con của bá thì xấu xí” [60; 190].

Nhìn chung, hình ảnh biểu trưng “hoa” và “nàng tiên” xuất hiện trong tên

gọi của rất nhiều các nhân vật trong văn xuôi Vi Hồng, nhất là ở mảng đề tài

tình yêu đôi lứa và để gọi tên những người trẻ tuổi có vẻ đẹp hình thức.

Tính ước lệ cao trong ngôn ngôn ngữ của người Tày thể hiện qua cách

gọi tên: trai non gái nụ, trai non gái trẻ, trai thanh gái lịch, trai nụ gái hoa...

được sử dụng với mật độ dày đặc.

Trong truyện dài Đường về với mẹ chữ, những người chủ chó đã hỏi:

“Các bạn trai trẻ, trai non ơi! Các bạn có thấy con chó nào sủa ở phía núi bên

kia không?” [62; 56].

“Cảm ơn các bạn trai non. Các bạn rất dũng cảm.” [62; 56].

Trong tiểu thuyết Đất bằng, Già viền đã nói với già Xanh: “Trai non, gái trẻ

bây giờ làm việc nặng nhọc mà cứ lượn hát như chơi hội ngày xưa vậy.” [56; 97].

93

Không chỉ trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, mà trong lời trần thuật

của tác giả, Vi Hồng cũng có cách gọi mang tính ước lệ, tượng trưng như vậy.

Trong tiểu thuyết Mùa hoa bioóc loỏng: “Ở Khoang Đông với những ngày hội

Xuống Đồng, trai thanh gái lịch, trai nụ gái hoa, trai non gái trẻ mặt sáng

như gương, mắt long lanh như họa mi, như quả nhót chín mọng.” [60; 5].

Ảnh hưởng sâu sắc từ những làn điệu dân ca của dân tộc và đặc trưng

giao tiếp vùng dân tộc miền núi. Các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn

thường đối thoại với nhau bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu cảm xúc, phong phú

về nhạc điệu, giàu hình ảnh, giống như lời thơ lối nói, lối hát của người Tày.

Điều này thể hiện ở lời thoại đưa đẩy, bay bướm, theo kiểu của lối hát đối đáp

trong các làn điệu sli, lượn của người Tày - Nùng: trong lời thoại của Ai Hoa

nói với Tú: “Em thấy anh là con bướm lớn khỏe đi ngang đồng. Hoa em muốn

đậu, nụ em muốn ong anh đỡ dậy sắc xuân” [57; 124].

Do ảnh hưởng từ cách diễn đạt dài dòng, vòng vo của người Tày, lối

xưng hô trong tác phẩm của Vi Hồng cũng có đặc điểm dài dòng và sử dụng rất

nhiều mĩ từ. Xuất hiện đậm đặc nhất là mô hình xưng hô A của B (với 60 lượt

sử dụng) thể hiện quan hệ của người nghe với người nói (thường là quan hệ gần

gũi, thân thiết). Đó là các từ: hoàng tử của em, nàng tiên của anh, con trai rất

thông minh của bố, con trai vô vàn yêu quý của cha, thằng cháu nội yêu quý

của ông, anh vô vàn yêu quý của em, nàng xiêm vàng ngọc của ta, quan đại

hiền đệ của em, anh bạn Kin Xa thân yêu, anh bạn nghệ sĩ dân gian lượn tuyệt

vời của tôi, người đẹp của anh, tình yêu lí tưởng và thần diệu của anh... (Xem

thêm Bảng 5- Phần Phụ lục).

Sau đây là một số ví dụ cụ thể trong tác phẩm:

Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Mi Tráng nói với Cặm Cang:

“Anh bạn nghệ sĩ dân gian lượn tuyệt vời của tôi. Anh thật là con người tốt

bụng. Tao quý mày đấy, Cặm Cang à!” [60; 162].

Mi Tráng nói với Xinh Xông: “Người đẹp của anh, tình yêu lí tưởng và

thần diệu của anh! Em đừng nói thế, đừng nghĩ thế” [60; 49].

94

Thu Lạ nói với Cặm Cang: “Thế nào, người yêu muôn thuở của em, anh

có biết biểu hiện tình yêu không?” [60; 200].

Bà Xẳn Lần nói với Hạ Chi: “Con gái Hạ Chi của mẹ. Con gái đẹp, con

gái xinh, con gái thơm của mẹ, về nhà đi!” [60; 268].

Trong tiểu thuyết Người trong ống, ông Hoàng nói với Ba: “Tôi đi là để

nhường đường đi nước bước cho cậu đấy. Cậu bác sĩ trẻ, đẹp trai của tôi ạ!”

[57; 145].

Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, Thu Khoan nói với Kim Công:

“Thôi được rồi đấy anh pupa của em ạ!” [58; 44]

Bà mối nói với Thu Khoan: “Ôi, nàng Thu Khoan của tôi thật là có

được một hạnh phúc thần tiên” [58; 65]

Quan phủ Trần Hồi nói với Kin Xa: “Ôi, anh bạn Kin Xa của tôi bây giờ

trở nên sang trọng và quý phái quá!” [58; 160].

Cô gái làng chơi nói với Kim Công: “Quan đại hiền đệ của em nằm

xuống đây” [58; 181].

Có thể thấy rằng, ngôn ngữ mang tính ước lệ, tượng trưng của người

miền núi không chỉ xuất hiện ở lời ăn tiếng nói, mà còn xuất hiện ở lời thơ lời

hát, ở cách xưng hô có cánh của các chàng trai cô gái trong các sinh hoạt lễ hội,

sinh hoạt đời thường. Ẩn sâu lớp từ ngữ xưng hô mang đậm chất thơ trong văn

xuôi Vi Hồng là tâm hồn bay bổng, lãng mạn, mang đậm màu sắc mang phong

vị miền núi, giản dị, tươi tắn nhưng hết sức tự nhiên.

Tiểu kết chương 3

Nghiên cứu về hiệu quả sử dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi

Hồng, điều dễ nhận thấy là, cùng với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân tộc,

Vi Hồng đã đưa vào tác phẩm của mình một hệ thống từ ngữ xưng hô phong

phú, đa dạng và đậm màu sắc dân tộc Tày. Trong giới hạn của đề tài, trong

chương này, chúng tôi tập trung làm rõ những vấn đề sau:

1. Vi Hồng là nhà văn của dân tộc Tày. Quê hương Cao Bằng là cái nôi

nuôi dưỡng, là cội nguồn làm nên chất văn trong sáng tác của ông. Dấu ấn văn

95

hóa Tày hiện lên sâu sắc và đậm đặc trong văn xuôi Vi Hồng. Qua việc sử dụng

lớp từ ngữ xưng hô, các tác phẩm của ông thể hiện văn hóa gắn bó tự nhiên, tôn

thờ thần linh và văn hóa cộng đồng, làng bản.

2. Vi Hồng là người con đích thực của quê hương miền núi, mang trong

mình phẩm chất, cốt cách của dân tộc Tày. Qua lớp từ ngữ xưng hô của các nhân

vật trong văn xuôi Vi Hồng phần nào thể hiện rõ tính cách, tâm hồn, tư tưởng,

tình cảm của người miền núi. Người dân tộc thiểu số không chỉ mang trong mình

tính chân thật, hiền lành, hồn nhiên, chất phác, ngay thẳng mà còn ẩn chứa một

tâm hồn lãng mạn, bay bổng giàu cảm xúc và đượm tình yêu thương.

Bằng vốn sống vốn hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ dân tộc mình, Vi Hồng

đã đem đến cho từ ngữ xưng hô những giá trị mới trong việc thể hiện nội dung,

tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Với việc sáng tác bằng tiếng Kinh, nhà văn

đã mở ra góc nhìn về văn hóa, con người của dân tộc thiểu số. Cách sử dụng

hiệu quả lớp từ ngữ xưng hô chọn lọc và phù hợp với từng ngữ cảnh đã góp

phần để lại dấu ấn sâu đậm, không thể trộn lẫn Vi Hồng với bất kì một nhà văn

nào khác.

96

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu về phạm trù xưng hô trong tác phẩm văn học cụ thể là

một hướng đi mới mẻ và thú vị. Tìm hiểu văn xuôi Vi Hồng từ góc nhìn từ ngữ

xưng hô sẽ giúp cho chúng ta có được một cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về tác

phẩm của ông qua một phong cách nghệ thuật riêng, cùng những đóng góp của

ông cho bức tranh văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

2. Hệ thống từ ngữ xưng hô trong tác phẩm Vi Hồng là một hệ thống

sống động, đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Ngoài việc vận dụng các từ ngữ

xưng hô trong tiếng Việt một cách linh hoạt, tinh tế, từ ngữ xưng hô trong văn

xuôi Vi Hồng còn mang những phong vị đặc biệt do ảnh hưởng bởi lối giao tiếp

của người Tày. Tài năng sử dụng ngôn ngữ của Vi Hồng được thể hiện bằng

việc dùng từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật và qua lời trần

thuật của chính tác giả.

2.1. Xét về từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Số

lượng từ ngữ xưng hô trong tác phẩm tương đối lớn. Trong 13 tác phẩm lựa

chọn để khảo sát có 837 từ ngữ, 15052 lượt sử dụng.

Xét về mặt nhóm loại, từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng có mặt

đầy đủ ở 5 nhóm: Đại từ nhân xưng; danh từ thân tộc; từ chỉ chức vụ, nghề

nghiệp; tên riêng; các từ ngữ xưng hô khác. Nét độc đáo trong các từ ngữ xưng

hô của Vi Hồng là sự xuất hiện của rất nhiều kiểu xưng hô mới lạ. Ở mỗi kiểu

xưng hô nhà văn có cách vận dụng riêng độc đáo phù hợp với từng chủ đề, qua

đó làm nổi bật thêm giá trị cũng như tư tưởng của tác phẩm.

Xét về vai giao tiếp, từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng được sử dụng

phổ biến ở cả hai vai: vai xưng và vai hô. Trong đó số lượng và tần số sử dụng

của vai xưng ít hơn so với vai hô. Đặc biệt từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi

Hồng có sự kiêm vai theo đúng quy luật sử dụng từ xưng hô của tiếng Việt.

Hiện tượng sử dụng chuyển vai một số từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng

diễn ra rất tự nhiên và hợp lý.

97

2.2. Xét về từ ngữ xưng hô qua lời trần thuật của tác giả: cách gọi nhân

vật trong tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng mang sắc thái biểu cảm cao qua một

số từ được nhà văn sử dụng phổ biến: lão, mụ, hắn, nàng, chàng. Ở mỗi mảng

đề tài, mỗi kiểu loại nhân vật, nhà văn đều có cách gọi riêng và có điểm nhìn

trần thuật hết sức linh hoạt, đa dạng. Việc sử dụng các từ ngữ xưng hô qua lời

trần thuật của tác giả góp phần thấy được thái độ của nhà văn với các nhân vật

trong tác phẩm của mình.

3. Hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng được sử dụng phong

phú, đa dạng, vừa mang tính toàn dân vừa mang sắc thái địa phương sâu sắc.

Đặc điểm sử dụng từ ngữ xưng hô trong tác phẩm tự sự của nhà văn phần nào

phản ánh được văn hóa dân tộc Tày và tính cách của con người miền núi. Đó

chính là văn hóa gắn bó tự nhiên, sùng bái thần linh và văn hóa đoàn kết được

hình thành, gìn giữ lâu đời trong cộng đồng, làng bản. Đó chính là nét tính cách

chân thật, hiền lành chất phác, ngay thẳng nhưng lại không thiếu yếu tố lãng

mạn bay bổng đẫm chất thơ của người đồng bào miền núi.

4. Vi Hồng là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học dân tộc

thiểu số Việt Nam hiện đại. Thành công của Vi Hồng không chỉ đến từ tài

năng và niềm đam mê văn chương mà còn đến từ những trải nghiệm cuộc

sống mà ông đã từng đi qua. Đắm mình trong dòng suối thơ ca dân gian của

dân tộc Tày và hòa nhập trong dòng chảy của ngôn ngữ Việt, Vi Hồng đã để

lại những trang viết tinh tế, sống động, đậm chất trữ tình, lãng mạn, mang

tính nhân văn sâu sắc. Việc sử dụng đa dạng và sáng tạo các lớp từ ngữ xưng

hô trong văn xuôi Vi Hồng đã mang đến những thành công và hương vị

riêng cho tác phẩm của ông.

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Diệp Quang Ban (2002), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

4. Lê Biên, (1998), Từ loại tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

5. Đỗ Hữu Châu, (2003), Cơ sở ngữ dụng, NXB ĐHSP Hà Nội.

6. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB ĐH&THCN,

Hà Nội.

7. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 1, NXB Giáo dục.

8. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, NXB Giáo dục.

9. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt. Việt Nam và

những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường

ĐHNN, Hà Nội.

11. Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán

(2013), Nhập môn ngôn ngữ học, NXB Giáo dục Việt Nam.

12. Trương Thị Diễm (2002), “Khảo sát các từ xưng hô thân tộc “thím, mợ,

dượng” (Ngữ học trẻ 2002), Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.

13. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ Điển Tiếng Việt 1999-2000, NXB Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

15. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NXB Văn

hóa - thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

99

17. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học và trung

học chuyên nghiệp.

18. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Dụng học Việt ngữ, NXB Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

19. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2006), Dẫn

luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

20. Phạm Ngọc Hàm (2008), Từ xưng hô trong tiếng Hán so sánh với tiếng

Việt, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

21. Phạm Văn Hảo (2011), Từ xưng gọi trong phương ngữ Bắc, Tạp chí Ngôn

ngữ và đời sống, số 1 + 2.

22. Nguyễn Minh Hoạt (2007), Nhóm từ xưng hô chuyện dụng (đại từ nhân

xưng) trong tiếng Êđê (Ngữ học trẻ 2007), Đại học Sư phạm Hà Nội.

23. Phạm Mạnh Hùng (2003), Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi

Hồng, Đại học Thái Nguyên.

24. Hoàng Văn Huyên (2003), Tính dân tộc trong tiểu thuyết Vi Hồng, Trường

Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.

25. Nguyễn Văn Khang (2004), “Giao tiếp Tiếng Việt với các nhân tố chi

phối”, Đề tài cấp Bộ.

26. Nguyễn Văn Khang (2014), Giao tiếp xưng hô Tiếng Việt bằng từ thân tộc

và việc sử dụng chúng trong giao tiếp công quyền, tạp chí Ngôn ngữ và đời

sống, số 10.

27. Nguyễn Văn Khang (1998), Ứng xử ngôn ngữ giao tiếp trong gia đình

người Việt, NXB VHTT, Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Khang (2000), Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, NXB

Văn hóa thông tin.

29. Nguyễn Văn Khang (2015), Tìm hiểu ngôn ngữ văn hóa Việt qua các

khuôn giao tiếp Tiếng Việt, Việt Nam học - những phương diện văn hóa và

truyền thông, NXB Khoa học xã hội.

100

30. Lê Thanh Kim (2000), “Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương

ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ học”, Luận án tiến

sĩ Ngữ văn, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.

31. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) - Nguyễn Thái Hòa (2006), “Phong cách học

tiếng Việt”, NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Phan Hồng Liên (2007), Để tiếng Việt ngày càng trong sáng, NXB

văn học.

33. Vi Hà Nguyên (2004), “Hình tượng nhân vật thiếu nhi trong truyện viết

cho thiếu nhi của Vi Hồng”, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.

34. Trần Thị Hồng Nhung (2007), Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết "Người

trong ống" của nhà văn Vi Hồng, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.

35. Nguyễn Văn Nở (2004), Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt, Đại học

Cần Thơ.

36. Vũ Ngọc Phan (1940), Những chữ xưng hô trong tiếng Việt Nam, Trên

đường nghệ thuật, NXB Nguyễn Du.

37. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB

Đà Nẵng.

38. Hoàng Trọng Phiến (1981), Đặc trưng ngôn ngữ nói tiếng Việt, Một số vấn

đề ngôn ngữ học Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Nguyễn Phú Phong (1996), Đại từ nhân xưng tiếng Việt, tạp chí Ngôn ngữ.

40. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi”,

tạp chí văn học, số 2.

41. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ Điển

Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài Gòn.

42. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ - Những phác

thảo, NXB Giáo dục, Hà Nội.

43. Nguyễn Đức Thắng (2002), “Về giới và ngôi ở những từ xưng hô trong

giao tiếp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.

101

44. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn

thể loại, NXB ĐHQG, Hà Nội.

45. Ngô Thu Thuỷ (2005), “Giọng điệu trần thuật trong văn xuôi Vi Hồng”,

Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.

46. Nguyễn Thị Thu Thủy, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2007), Ngữ dụng học, Tài

liệu Đào tạo sau đại học, Bộ Giáo dục và đào tạo.

47. Phạm Ngọc Thưởng (1998), “Cách xưng hô trong tiếng Nùng”, Luận án

tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

48. Phạm Văn Tình (1999), Xưng hô dùng chức danh, Ngôn ngữ và đời sống.

49. Nông Thị Quỳnh Trâm (2004), Tính dân tộc trong tiểu thuyết:Tháng năm

biết nói; Chồng thật vợ giả và Núi cỏ yêu thương của nhà văn Vi Hồng,

Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.

50. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

51. Vũ Anh Tuấn (2002), Vi Hồng với mùa xuân Nặm Cáp, Khoa Ngữ văn 35

năm xây dựng và trưởng thành, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.

52. Phùng Văn Tửu (1996), “Một Phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn

học, số 2.

53. Bùi Minh Yến (1990), “Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người

Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.

54. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ Điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

55. Như Ý (1990), “Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp”, Tạp chí

Ngôn ngữ, số 3.

TƯ LIỆU THỐNG KÊ

56. Vi Hồng (1980), Đất bằng, Tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới (Bao gồm hai

tiểu thuyết: Đất bằng và Vãi Đàng).

57. Vi Hồng (1990), Người trong ống, Tiểu thuyết, NXB Lao động.

102

58. Vi Hồng (1993), Dòng sông nước mắt, Tiểu thuyết, NXB Hội văn học nghệ

thuật Bắc Thái.

59. Vi Hồng (1993), Tháng năm biết nói, Tiểu thuyết, NXB Thanh niên,

Hà Nội.

60. Vi Hồng (1997), Mùa hoa Bióoc Loỏng, Tiểu thuyết, NXB Thanh niên.

61. Vi Hồng (1994), Người làm mồi bẫy hổ, truyện dài, NXB Kim Đồng,

Hà Nội.

62. Vi Hồng (1998), Đường về với mẹ chữ, truyện dài, NXB Kim Đồng,

Hà Nội (Bao gồm truyện dài Đường về với mẹ chữ và truyện vừa

Thách đố).

63. Nhiều tác giả (2015), Vi Hồng tác phẩm và dư luận, NXB Đại học Thái

Nguyên (Bao gồm toàn văn của 4 truyện ngắn: Cọn nước Eng Nhàn, Béc -

Kha - Cải, Nghĩ sủi bọt đá, Sự tích hang cứu tôi với).

103

PHỤ LỤC

Bảng 1: Đại từ nhân xưng

STT Đại từ nhân xưng

tôi tao mình (số ít) mày chúng ta ta (số nhiều) ta (số ít) bạn chúng tôi chúng mày chàng cậu (tớ) tớ chúng mình nàng

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 mình (số nhiều) các bạn 17 18 mọi người 19 các người 20 mi 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 ngài các ngài chúng bay chúng tao bọn mình bọn tao các nàng lũ chúng mày bọn chúng tôi lũ chúng bay bọn ta lũ tao nhà ngươi bọn tôi bọn mày

Tổng số Số lượng Hô 634 112 66 44 36 20 1 18 16 14 13 11 8 7 3 2 1 1 1 Xưng 1290 733 682 266 263 243 88 27 22 17 6 5 3 2 1 1 1 3650 Tổng 1290 733 682 634 266 263 243 112 88 66 44 36 27 22 20 18 18 16 14 13 11 8 7 6 5 3 3 2 2 1 1 1 1 1 1 1008 Tác phẩm 13 12 10 11 10 11 9 5 10 10 2 4 3 5 3 8 5 5 3 2 3 2 2 2 4 3 1 2 2 1 1 1 1 1 1

Bảng 2: Từ ngữ thân tộc

STT Từ ngữ thân tộc

em anh cháu con bác chị ông mẹ bố bà bá chú bố mẹ cô chúng cháu cậu các anh anh em các ông chúng em ông bà cụ con cháu hai bác các cháu các con thím anh chị các bác đại huynh chúng con các em các anh chị chú thím

Số lượng Hô 567 1395 533 290 307 188 201 107 101 126 73 68 35 68 2 29 22 21 20 18 17 16 15 13 12 5 10 9 5 7 7 3 2 6 6 Xưng 1378 499 600 257 168 77 13 96 58 3 37 28 55 14 34 1 19 1 6 4 7 4 5 1 Tổng 1945 1894 1133 547 475 265 214 203 159 129 110 96 90 82 36 29 23 21 20 19 18 17 16 15 14 12 11 10 9 9 7 7 7 7 7 7 6 Tác phẩm 10 11 9 9 9 5 9 8 8 7 6 6 5 6 3 2 6 5 3 6 4 2 1 3 3 5 2 5 6 1 5 3 2 1 2 2 1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 mẹ con cháu cô chú 36 rể 37

STT Từ ngữ thân tộc

hai cháu bà con các chú các anh các chị bác bá đại ca các cháu gái cô em ông anh cha u các bà các chị các con cháu bọn anh anh em con cháu cháu gái anh cả nhị đại huynh các bá các ông bà các bác chú các bác bá các con các cháu các cháu trai các ông bà bọn em hai mẹ con bá hai bác cháu hai chú ba anh chú em

38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 mẹ con em bà bác 71 ông bác 72 bố con ông 73 bố già 74 anh bạn trẻ 75 ông anh đẹp trai 76 Số lượng Hô 6 6 5 4 3 4 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Xưng 1 2 2 1 1 1 1 Tổng 6 6 5 4 4 4 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 2 3 4 2 2 2 1 1 1 1 1 2 2 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ thân tộc

77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91

Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 4386 Xưng 1 1 3376 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 7762 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 con dâu anh lớn con trai con cháu gái con cháu trai anh trai lớn con gái dì trẻ bố mẹ nuôi con bé chú thứ ba chú thứ tư ông tổ cô út anh lớn đại huynh Tổng số

Bảng 3: Từ ngữ chỉ tên riêng

STT Từ ngữ chỉ tên riêng

Xưng 5 10 4 1

6

Hoàng Thu Lạ Tua Be Đàng Băng Cặm Cang anh Hoàng Hạ Chi Ai Hoa Thu khoan anh Tú anh Mi Tráng

1

anh Cặm Cang chị Nơ anh Bền anh Thả anh Phàn già Xanh

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 Kì 14 Tú 15 Điển 16 Nai Nị 17 Ngọc già Viền 18 anh Đáp 19 tảo Mu 20 anh Kim Công 21 anh Chim Ca 22 The 23 chị The 24 25 anh Hinh 26 Kim Công ông Kin Xa 27 28 Xinh Xông 29 30 31 32 33 34 35 Vài Mu (tên riêng chỉ vật: Trâu) 36 37 La chị Đàng Số lượng Hô 117 89 64 67 65 60 48 31 32 32 28 26 23 22 22 21 20 20 18 17 16 16 15 15 14 12 13 12 12 11 11 11 11 11 11 10 10 Tổng 122 99 68 68 65 60 48 37 32 32 28 26 23 22 22 21 20 20 18 17 16 16 15 15 14 13 13 12 12 11 11 11 11 11 11 10 10 Tác phẩm 2 1 1 1 1 1 3 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng

anh Linh Khay Phàn bác Phàn anh Ang cháu Kì thằng Hoàng

bác Kin Xa bác Thương ông Háo bạn Kì bạn Thu Lạ Cắng (tên riêng chỉ vật: Khỉ)

chị Tẹo chú Mạc chú Thìm anh Toan anh Xanh anh Toàn anh Kin Xa anh Mạnh Kha

then Kì bạn Đàng

38 39 40 41 42 43 44 Đăm (tên riêng chỉ vật: Chó) 45 46 47 48 49 50 51 Mi Tráng 52 Viền 53 Nhình 54 Nen 55 56 57 58 59 60 61 62 63 Huế 64 bà Thu Khoan 65 anh Ba ông Đáng 66 67 Mạc trọc 68 69 70 Kin xa 71 72 73 74 75 76 Thả Ba chị Ly bác Mạc ké Thương cô Đàng Số lượng Hô 10 9 9 9 9 9 9 8 7 7 7 7 7 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 5 5 5 5 5 5 5 4 4 4 4 4 4 4 Tổng 10 9 9 9 9 9 9 8 7 7 7 7 7 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 5 5 5 5 5 5 5 4 4 4 4 4 4 4 Tác phẩm 1 1 1 1 1 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng

anh Hạng bạn Huế

Số lượng Hô 4 4 4 3

3 1

1

77 78 79 Mạ Lài (tên riêng chỉ vât: Ngựa) 80 Mạnh Kha 81 Ngọc Pèng 82 Thìm 83 chị Nhình 84 chị Loan 85 chị Xinh Xông 86 bà Tẹo 87 bác Cam Sáy 88 chú Kim Công 89 cô Kì 90 anh Thiên 91 anh Hồi 92 anh Bùng 93 cháu Hoàng 94 cháu Nhình 95 ông Mạc trọc 96 tảo Lăm Đăm 97 98 nàng Thu Khoan 99 Hoa Nước 100 anh Pu Pa 101 Eng Nhàn 102 Xấn Xáng 103 Slam 104 Lệ Hà 105 Kim Ngần 106 Toan 107 Đáp 108 Hoa 109 Ỷ 110 111 112 113 114 115 con Nhình chị Lèn chị Kì chị Thu Lạ bá Viền bá Chim Ca Tổng 4 4 4 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 2 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng

Số lượng Hô 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1

1

bà Ki Khẳm 116 bác Xanh 117 bác Lăm Đăm 118 bác Chim Ca 119 bố Đàng 120 anh Khăm Tha 121 ông Mạc 122 ông Hoàng 123 ông Hồi 124 ông Kim Công 125 cháu Kim Ngần 126 thằng Kin Xa 127 thằng Kim Công 128 thằng Ang 129 thằng Thìm 130 ông già Xanh 131 bác tảo Lăm Đăm 132 tổng Nhự 133 bạn Ỷ 134 cháu Hoa Nước 135 136 Sam (tên riêng chỉ vật: Ca Nặm) 137 Nhì (tên riêng chỉ vật: Ca Nặm) 138 Ất (tên riêng chỉ vật: Ca Nặm) 139 Hà Văn Hoàng 140 Tư Lộn 141 Tren Trô 142 A Mỵ 143 Linh Khay 144 Kim Ngọc 145 Khăm Tha 146 Moong Khịt 147 Nụ 148 Lèn 149 Kháng 150 Bền 151 Xanh 152 Moong 153 Hồi 154 Toàn 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng

155 Ki 156 Tập 157 Ang 158 Thỉ 159 Ti 160 Tẹo 161 Loan 162 Bùng 163 Slam - Ba 164 Ba - Slam em Nen 165 em Pèng 166 em Đường 167 em Ba 168 em Xinh Xông 169 170 con Đàng 171 mẹ Xanh 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 chị Thẻo Léo chị Thèn chị Hoa chị Liễu bá Đàng bà Thẻo Léo bà Phí Thao bà Sẳn Lần bà Chim Ca bác Sung bác Moong bác Mô bác Mu bác Kim Công bác Cắm Hỷ bác Linh Khay bác Kim Ngọc bác Ai Hoa bác Mạnh Kha chú Eng chú Béc chú Háo Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng

chú Moong chú Chim Ca cô Na cô Vui cô Viền cô Thu Khoan

anh Béc anh Hánh anh Phiếu anh Phiên anh Huy anh Cắm Hỷ anh chị Hinh ông Vọ ông Sung ông Đáp ông Cả ông Say ông Cụt ông Ba ông Bình ông Thìm ông Phàn ông bà Chim Ca cháu Đàng cháu Huế cháu Toàn cháu Kim Công cháu Thu Khoan cháu Hạ Chi

194 195 196 197 198 199 200 mẹ Đàng 201 mẹ Ỷ 202 mẹ Mên 203 mẹ Phí Thao 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 Đàng con 229 230 231 232 con mẹ Nơ bố mẹ Ai Hoa thằng Eng Nhàn thằng Van Ngả Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng

lão Moong cứt sái

bà tiên Viền anh cả Ba ông tổng Nhự ông Khao trưởng bản bị cáo Hoàng thầy Hồi quan Trần Hồi nguyên đơn Hà Văn Hoàng bị cáo Bế Thị Tẹo quan tòa Ngô Thế Bùng bạn Nhình bạn Ngoan bạn Cặm Cang nàng Ai Hoa ngài chánh Vọi ngài tổng Nhự ông Hà Văn Hoàng cô Đàm Thị Kim Ngần Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1552 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1585 33 233 thằng Van Thông 234 thằng Xấn Xáng 235 thằng Thỉ 236 thằng Toan 237 thằng Lảm 238 thằng Ba 239 thằng Bùng 240 cái Thèn 241 cái Nhình 242 lão Viền 243 lão Moong 244 lão Xấn Xáng 245 thằng Toan ích kỉ 246 thằng Lảm lười 247 thằng Moong cứt sái 248 bạn Đàng rách rưới con Đàng ma gà 249 250 ma gà con Đàng 251 252 Moong cứt sái 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 Tổng

Bảng 4. Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ

Số lượng

STT Tác phẩm Xưng Hô Tổng Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ

14

1

88 53 30 24 9 7 7 7 7 6 6 3 3 3

3

2 2 2 2 2

2

2

2

thầy quan quan lớn bác sĩ thủ trưởng quý tòa dõng bác tảo quan anh quan viện trưởng quan ông đồng chí bí thư giáo sư thủ trưởng quan tây tòa bác chủ nhiệm quan thàn lớn anh chánh nguyên cáo quan tổng tảo thầy tảo dân quân chúng tôi bác sĩ viện trưởng ông tiến sĩ bố tiến sĩ chủ nhiệm chủ nhà chị chủ nhà chủ mới bà chủ cô chủ các chủ trâu quan thàn anh chánh tổng ngài chánh tổng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 102 53 30 24 9 8 7 7 7 6 6 3 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 3 1 2 1 1 2 1 1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

Số lượng

STT Tác phẩm Xưng Hô Tổng Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1

bác bí thư ông vụ trưởng ông giám đốc sở ông giám đốc bệnh viện thầy hiệu trưởng ông giám đốc trường đại học Y chú phó phòng ông quan phủ bị cáo nguyên đơn quan sang lũ cộng sản con cộng sản ông chánh tổng quan chánh đồn quan chánh quan trên bác quan tổng ông tổng các bác đi săn cháu then lính thầy cai dân quân các quan lão ăn mày nhị quan nhị quan ông quan tòa cô giáo dạy văn cấp 3 thủ trưởng bác sĩ 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 332 23 1 1 309 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 Tổng

Bảng 5: Kiểu loại xưng hô khác

STT Từ ngữ xưng hô

Xưng 62

Số lượng Hô 6 20 1

18 17 15

7 3

14 12 11 10 10 9 1 5 8 8 8 7 7

6 6 5 5

4

5 1 5 4

già các thằng mày mường ta nhà ta đây pỉ noọng đằng ấy vãi người già (số ít) đồng chí bạn gái Xinh Xông người ta (số ít) lão hai già lạo pản noọng slao bố con mày các đồng chí đôi ta già này già tôi bản ta cây thằng này tài cá hai đứa chúng mày quê ta trường ta 4 4

4 4 4 1

3 4

4 4

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 mẹ đất thần sông 30 hoa 31 bên này 32 đằng này 33 anh em mọi người 34 anh Pu Pa của em 35 nhà mình 36 37 mẹ con tôi Tác phẩm 4 1 4 4 5 1 2 1 1 3 1 3 4 1 1 1 4 1 3 3 2 3 1 3 1 3 2 1 2 1 1 2 1 2 1 2 1 Tổng 68 20 19 17 15 14 12 11 10 10 9 8 8 8 8 8 7 7 6 6 5 5 5 5 5 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 3 3 3 3

STT Từ ngữ xưng hô Số lượng Hô

Xưng 3 3 3

3 3

3

3 3

3

3 2 2 2

2 2 2 2 2 2 2 2 2

tập thể ta bố con ta tòa bố trời trời Cặm Cang này người bạn be bé đồng chí Hoàng thiếp pàng dạu be bé nhà mày chú mày vợ chồng mày quê mình dân tộc mình người Tày mình ban lãnh đạo chúng tôi người Tày chúng ta người họ Nông ta hai chúng ta người Tày ta hai họ chúng ta anh em ta 2

2 2 2

2

2

2 2

2

38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 mọi người chúng ta 62 một mình tao 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 xã con này (coi thường) Thu Lạ này đằng kia cái ấy ta đây bé con người đẹp con quỷ cái anh em họ Nông anh chị em mọi người anh yêu của em đồng chí Ba pàng dạu Tổng 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 Tác phẩm 1 1 1 2 2 1 1 1 1 1 1 2 2 1 1 2 1 2 1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2

STT Từ ngữ xưng hô Xưng

Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1

trẻ con chúng mày bọn khỉ chúng mày vợ con mày con cháu mày hai anh em mày con trai con gái chúng mày bọn mày thanh niên hai bác cháu mình

1 1 1 1 1

1

1 1 1 1 1

1

1 1 1 1 1 1 1 1

1

77 78 79 80 81 82 83 84 85 mẹ con mình bố con mình 86 cô cháu mình 87 bác cháu mình 88 89 con cháu mình 90 mường mình hai đứa mình 91 hai chúng mình 92 hai đứa chúng mình 93 chị em chúng mình 94 thầy trò chúng bay 95 bọn chúng tôi 96 97 người Tày chúng tôi 98 mọi người chúng tôi 99 anh em chúng tôi 100 hai vợ chồng chúng tôi 101 con ma tôi 102 gia đình tôi 103 bố con tôi 104 cháu gái tôi 105 người Mèo ta 106 anh em nhà ta 107 bản mường chúng ta hội đồng chúng ta 108 109 Đảng ủy chúng ta lãnh đạo chúng ta 110 trường chúng ta 111 gia đình nhà ta 112 họ Sầm ta 113 đất ta 114 xóm ta 115 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ xưng hô Số lượng Hô

làng ta thành phố ta

Xưng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1

1 1

1

1

1

bản mường ta cơ quan ta bộ Y tế ta con cháu ta hai bố con ta anh chị em chúng ta con cháu chúng ta con cháu Đin Phiêng ta trung đội chúng ta anh em họ ta con cháu ta già chúng tao cả nhà tòa án nhân dân huyện 1

1 1 1 1 1

1

cái con Nai Nị cái con Nhình con bé Thu Khoan bố thằng Xanh thần rừng xanh ông trời thần ông thần quỷ thần con ma có cánh thần suối thần cây núi sông nước

116 117 118 Lục Khê ta 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 mẹ con con Thèn 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 mặt trăng rạng sáng thần xanh tươi 150 đàn trâu 151 đàn vịt 152 đàn gà 153 lợn trắng 154 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ xưng hô Xưng

Số lượng Hô 1

1

1

1 1

1 1

1

1 1

lợn đen cái này ông này ké Thương này cái con then Kì này đại huynh này chàng trai này nhà này cái con này con bé này cái bà già này người nghèo này cái con ma gà này cơm thiu mẻ thối này người con gái ma gà Thu Lạ này

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

thằng Cặm Cang xấu xí này thằng Thìm này bà kia cậu kia thằng kia cái thằng kia tổng Nhự kia

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1

1

thằng Mán con kia cái thằng Cặm Cang xấu xí kia cái thằng con trai chó đẻ lợn nuôi kia cái thằng bố nó thằng ấy bên ấy già đây nàng đây em đây bác bá đây lũ ta đây

155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 Hạ Chi này 171 Xinh Xông này 172 Tua Be này 173 174 175 176 177 178 179 180 mụ già kia 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 Thu Lạ đây 193 Cặm Cang đây 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ xưng hô Xưng

Số lượng Hô 1 1

1 1

1 1 1 1

1

1 1 1 1 1

1

194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

214 1 1 1

215 1 1 1

216 217 1 1 1 1 1 1

218 1 1 1

1 1 1 1 1 1 1 1

1

họ hàng ta đây chị Loan đây chúng cháu đây người ta đây bác quan tổng đây các con cháu người Mèo bé cô bé trẻ con điếc chúng sinh các già hai đứa bông hoa quý đàn bà con gái bọn gia nhân độc ác thằng già canh cũi bác chủ giữ chó ông rái cá con chó ghẻ bướng bỉnh thằng trẻ con do chó sinh ra, do ma sinh lại bà Xẳn Lần mặt rộng mắt trắng lưỡi mỏng bà già đanh đá mỏ nhọn lưỡi sắc bà già nửa điên nửa khùng bà già có cái đầu óc thâm u như rừng cây cái con cơm thiu mẻ thối thằng chạy trốn những thằng ăn cắp cái thằng khốn nạn cái thằng lau sậy chết khô những người ở bè võng con người lạc kiếp con ngựa xé quan tây đồn Nặm Cáp tên quan phủ Trần Hồi anh Bùng con Châu Đoàn bản Chín 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ xưng hô Tác phẩm Số lượng Hô Xưng Tổng

230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

263 1 1 1

Thoong thằng Châu Đoàn già thằng cháu Hoàng cậu bé Hoàng cháu gái Thu Khoan con dâu Thu Khoan anh chàng Đào Chim Ca cùng thân họ bạn Ai Hoa kẻ ác kẻ độc ác kẻ bịt bợm kẻ vô tội con người độc ác những kẻ ngu ngốc đồ hèn đồ dã man đồ ăn mày đồ ma gà chuyên làm hại người đồ gái đẹp ma gà đồ ma gà chúng mày đồ chết trôi, chết sấp nhà mày đồ thằng Ba dê cụ đồ thằng Ba đểu cáng đồ con dê già đồ con chó không nghe lời chủ đồ vô phúc đồ phản phúc cái đồ lông cánh, lông đuôi cun củn cái đồ cơm nguội, cơm thiu lão già phản bội chó già phản chủ cô gái dở hơi bạn Đàng rách rưới chàng trai xấu xí người bạn gái xinh đẹp như một đóa hoa các bạn xinh đẹp như hoa như nụ bạn thân mến

264 265 266 Thu Lạ em yêu 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ xưng hô Xưng

Số lượng Hô 1 1

1

1 1

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1

bạn Thu Lạ thân thương 267 cô bạn gái thân mến 268 em yêu quý 269 chị dâu kính yêu 270 khách quý khách sang 271 con ma gà 272 273 con Đàng ma gà 274 ma gà con Đàng cái con ma gà Thu Lạ 275 con ma gà bố con Thu Lạ 276 cái ông ma gà đẻ ra cái con ma gà 277 bố con nhà ma gà Thu Lạ 278 gái hoa 279 gái nụ 280 gái hoa gái nụ 281 người đẹp gái 282 em gái xinh đẹp 283 cô em xinh đẹp 284 con chó sói đực 285 người bạn 286 ban lãnh đạo 287 nàng tiên 288 các nàng tiên 289 quỷ cái 290 chàng quân tử 291 hai thằng 292 các bạn trai trẻ trai non 293 các bạn trai non 294 trai non gái trẻ 295 anh em họ hàng 296 anh em họ Sầm 297 anh em mọi người hai họ 298 299 tất cả mọi người 300 mọi người thương yêu 301 302 303 304 305 bà con anh em mọi người bà con anh chị em hàng phố thân nhân bệnh nhân anh em trên bờ anh em mọi người Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

STT Từ ngữ xưng hô Xưng

anh chị em chú bác mọi người anh chị em làng bản chú bác anh em làng bản anh em họ hàng chú bác cô dì cháu Ang quý mến của bác nàng đen của anh hoa út của bà bông hoa út của bà

306 307 308 309 310 311 312 313 314 Mạ Lài của ta 315 316 317 Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1 1 1 318

1 1 1 319

1 1 1 320

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 con gái Hạ Chi của mẹ các nàng tiên xinh đẹp của xuân xanh người đẹp muôn thuở trong hồn ta anh bạn nghệ sĩ dân gian lượn tuyệt vời của tôi bạn gái xinh đẹp của tôi con gái đẹp, con gái xinh, con gái thơm của mẹ người yêu muôn thuở của em em Thu Lạ yêu quý của anh tình yêu lý tưởng và thần diệu của anh người đẹp của Anh các bạn gái đẹp như nàng tiên của em anh của em hoàng tử của em nàng tiên của anh anh vô vàn yêu quý của em anh vô vàn yêu thương của em người bạn tri kỉ và rất trẻ của tôi cậu bác sĩ trẻ đẹp trai của tôi thằng cháu nội yêu quý của ông con trai vô vàn yêu quý của cha cháu hai mươi đời của ông con trai rất thông minh của bố anh Hoàng của em đây cái Băng nhà bác anh Bùng của Băng đồng chí binh nhất của em cháu của bác thằng cháu của bác 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342

STT Từ ngữ xưng hô Xưng

Số lượng Hô 1 1

nàng Thu Khoan của anh nàng tiên Thu Khoan của ta nàng Xiêm vàng ngọc của ta người vợ đẹp rực rỡ của ta búp nụ và bông hoa của anh nàng tiên bé nhỏ của chàng đại ca cháu của chú anh cả của em con gái của mẹ

343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 Hoa Nước của anh 353 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

354 1 1 1 quan anh của em anh Kim Công vô vàn yêu thương của em

355 Thu Khoan rất yêu quý của anh anh bạn Kin Xa của tôi 356 những con ca nặm thân yêu của ta 357 tiểu đệ của tôi 358 quan đại hiền đệ của em 359 đại hiền đệ của các nàng 360 nàng tiên của lòng bạn Kim Công 361 anh bạn Kim Công của tôi 362 anh bạn Kin Xa thân yêu 363 đồng chí Lèn 364 đồng chí Đáp 365 đồng chí Hánh 366 đồng chí The 367 đồng chí Thả 368 con mẹ Nơ 369 cái mẹ Ỷ 370 toàn thể pỉ noọng 371 ké 372 noọng slao xinh đẹp 373 noọng slao này 374 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

Tổng số 374 283 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 715 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 432