ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THANH VÂN TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THANH VÂN TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Văn Hảo THÁI NGUYÊN - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luâ ̣n văn “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng”
là kết quả nghiên cứ u củ a riêng tôi, các kết quả củ a đề tài là trung thực và chưa
đươ ̣c công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào.
Nô ̣i dung củ a luâ ̣n văn có sử du ̣ng tài liê ̣u, thông tin đươ ̣c đăng tải trên các tác phẩm, ta ̣p chí, các trang web theo danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo củ a luâ ̣n văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chi ̣u trách nhiê ̣m.
Thá i Nguyên, thá ng 11 năm 2017
Tá c giả luâ ̣n văn
Dương Thanh Vân
i
LỜ I CẢ M ƠN
Em xin bày tỏ lò ng biết ơn chân thành và sâu sắc tớ i PGS.TS Phạm Văn Hảo về sự hướ ng dẫn tâ ̣n tình, đầy đủ , chu đáo và đầy tinh thần trách nhiê ̣m củ a thầy trong toàn bô ̣ quá trình em hoàn thành luâ ̣n văn.
Em xin trân tro ̣ng cảm ơn sự ta ̣o điều kiê ̣n giú p đỡ củ a Ban chủ nhiê ̣m
Khoa Ngữ Văn, các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trườ ng Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m Thái
Nguyên đã giúp đỡ em thực hiê ̣n đề tài luâ ̣n văn này. Xin được cảm ơn những
thầy cô đã trực tiếp giảng dạy các chuyên đề cao học cho lớp Ngôn ngữ khóa
2015 - 2017.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, ba ̣n bè, người thân đã đô ̣ng
viên và giú p đỡ em trong thờ i gian hoàn thành luâ ̣n văn.
Thá i Nguyên, thá ng 11 năm 2017
Tá c giả luâ ̣n văn Dương Thanh Vân
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜ I CẢ M ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG .......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 5
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 5
NỘI DUNG ......................................................................................................... 6
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN ........................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề xưng hô ................................................. 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tác phẩm Vi Hồng ............................................ 7
1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 10
1.2.1. Giới thuyết về phạm trù xưng hô ....................................................... 10
1.2.2. Lý thuyết giao tiếp ............................................................................. 28
1.2.3. Lý thuyết hội thoại ............................................................................. 33
1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Vi Hồng ................... 37
1.3.1. Cuộc đời nhà văn Vi Hồng ................................................................ 37
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng ........................................................ 38
Tiểu kết chương 1: .......................................................................................... 40
iii
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI
VI HỒNG ......................................................................................................... 42
2.1. Từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật ............................ 42
2.1.1. Thống kê hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng ............ 42
2.1.2. Từ ngữ xưng hô xét về các vai giao tiếp ............................................ 54
2.2. Từ xưng hô qua ngôn ngữ trần thuật của tác giả ..................................... 56
2.2.1. Từ “lão”.............................................................................................. 57
2.2.2. Từ “hắn” ............................................................................................. 61
2.2.3. Từ “mụ” ............................................................................................. 63
2.2.4. Từ “chàng”, “nàng” ........................................................................... 65
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 70
Chương 3: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG
VĂN XUÔI VI HỒNG .................................................................................... 73
3.1. Dùng từ xưng hô thể hiện văn hóa dân tộc Tày ....................................... 73
3.1.1. Văn hóa gắn bó tự nhiên, sùng bái thần linh ..................................... 74
3.1.2. Văn hóa cộng đồng, làng bản ............................................................ 81
3.2. Dùng từ xưng hô thể hiện bản chất con người miền núi ......................... 86
3.2.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tính cách chân thật, hiền lành, chất
phác, ngay thẳng .......................................................................................... 87
3.2.2. Dùng từ xưng hô thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng ................... 90
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Từ ngữ xưng hô phân loại theo nhóm ............................................... 43
Bảng 2.2. Đặc điểm cấu tạo của đại từ nhân xưng ............................................ 45
Bảng 2.3. Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ thân tộc ............................................... 46
Bảng 2.4. Cấu tạo của nhóm từ ngữ chỉ tên riêng ............................................. 48
Bảng 2.5. Cấu tạo của từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp ................................... 50
Bảng 2.6. Vai giao tiếp trong từ ngữ xưng hô ................................................... 54
Bảng 2.7. Từ ngữ xưng gọi xét về vai giao tiếp trong các tác phẩm ................. 55
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ ra đời đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội. Tùy theo
hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp mà người giao tiếp lựa chọn cách xưng
hô sao cho phù hợp. Việc sử dụng các đại từ nhân xưng và các lớp từ xưng hô
trong hội thoại là rất quan trọng. Bởi vì, các đại từ nhân xưng và lớp từ xưng hô
thể hiện thái độ tình cảm của người nói đối với người nghe hay đối tượng được
nói tới. Do đó, sử dụng từ xưng hô không chỉ giúp cuộc thoại có thể tiến hành
mà nó còn thể hiện chiến lược và hiệu quả giao tiếp. Xưng hô đúng, hay sẽ góp
phần thúc đẩy giao tiếp phát triển. Ngược lại, xưng hô không hợp lý sẽ gây ra
những hậu quả không mong muốn trong giao tiếp. Qua cách sử dụng từ xưng
hô người ta có thể biết được tình cảm, thái độ, mối quan hệ, trình độ học vấn
của các nhân vật tham gia giao tiếp. Có thể nói, xưng hô là yếu tố đầu tiên mà
các vai giao tiếp cần phải lựa chọn để xác lập vị trí của mình. Dựa vào xưng hô
mà quan hệ giữa các vai giao tiếp được thiết lập.
Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô lớn và tùy thuộc vào đối
tượng giao tiếp cũng như hoàn cảnh giao tiếp mà người Việt sử dụng những từ
ngữ xưng hô khác nhau nhằm thực hiện những mục đích giao tiếp riêng. Các từ
ngữ này đóng góp lớn vào vốn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc và tạo nên đặc
trưng tâm lý - văn hóa Việt.
1.2. Hệ thống các từ ngữ xưng hô không chỉ được sử dụng trong giao
tiếp đời sống hàng ngày mà còn được các nhà văn, nhà thơ sử dụng hết sức tinh
tế trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại trong văn xuôi.
Dưới ngòi bút tài hoa, khéo léo của người nghệ sĩ, các lớp từ ngữ xưng hô trong
các truyện ngắn, tiểu thuyết đa dạng và phong phú, qua đó thể hiện những cảm
xúc hết sức thú vị. Đồng thời những từ ngữ này trở thành những tín hiệu
chuyên trở những mạch nguồn cảm xúc và thái độ của nhà văn đối với các nhân
vật trong tác phẩm. Một trong những nhà văn sử dụng hệ thống từ ngữ xưng hô
1
hay và mang sắc thái địa phương sâu sắc nhất trong các sáng tác văn xuôi Việt
Nam thời kì hiện đại chính là nhà văn Vi Hồng.
1.3. Vi Hồng được biết đến là nhà văn viết về dân tộc và miền núi. Với
số lượng các tác phẩm đồ sộ, đăc biệt là về tiểu thuyết, chưa có nhà văn dân tộc
thiểu số nào vượt qua được ông. Điểm nổi bật trong các tác phẩm của Vi Hồng
là cái nhìn hiện thực và con người miền núi luôn ở thế lưỡng cực với hai tuyến
thiện, ác mang tính dân gian. Tác phẩm của Vi Hồng không chỉ được khẳng
định được vị thế ở trong nước mà giá trị của nó còn vượt ra ngoài biên giới
quốc gia (tác phẩm Vãi Đàng của Vi Hồng được dịch ra tiếng Nga in trong
Tuyển tập chọn lọc 6 nhà văn châu Á được ấn hành tại Liên Xô cũ). Tính từ tác
phẩm đầu tay năm 1959 đến lúc nhà văn qua đời năm 1997, Vi Hồng đã sáng
tác được một số lượng tác phẩm không nhỏ. Ông đã cho xuất bản 15 cuốn tiểu
thuyết, 4 tập truyện vừa, 1 tập truyện ngắn, 7 cuốn sách nghiên cứu và sưu tầm
văn học dân gian, gần 30 công trình nghiên cứu khoa học về sli lượn, dân ca,
nghi lễ người Tày, Nùng Việt Bắc.
Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công và nét đặc sắc trong văn
xuôi Vi Hồng chính là cách sử dụng từ ngữ xưng hô một cách mới mẻ, phong
phú, tinh tế và phù hợp với tư tưởng chủ đề của từng tác phẩm. Các nhân vật
của ông thường đối thoại với nhau bằng ngôn ngữ của thơ ca. Đó là hình thức
“nói với nhau theo đường ong bay hoa nở”, theo lối nói “trai thanh gái nụ”
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày.
Vì vậy, việc tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi
Hồng vừa có ý nghĩa khoa học lại vừa có ý nghĩa thực tiễn. Khảo sát, thống kê
các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng sẽ cung cấp, bổ sung thêm cái nhìn
cụ thể, chi tiết về hệ thống từ xưng hô trong văn hóa Tày - Nùng nói riêng và
hệ thống từ xưng hô tiếng Việt nói chung. Đồng thời trên cơ sở phân tích có hệ
thống các từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng một lần nữa khẳng định được tài
năng của nhà văn trong cách sử dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ dân tộc. Mặt
2
khác, tìm hiểu cách sử dụng lớp từ ngữ này sẽ góp phần quan trọng trong công
việc giảng dạy, nghiên cứu tác phẩm Vi Hồng hiệu quả và sâu sắc hơn. Đó là
những lí do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài “Từ ngữ xưng hô trong văn
xuôi Vi Hồng” làm công trình nghiên cứu khoa học tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng”, luận văn
nhằm hướng tới mục đích:
- Khảo sát các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng để có một bức
tranh tổng thể về việc sử dụng từ ngữ xưng hô trong sáng tác của nhà văn.
- Thấy được những nét đặc sắc về cách dùng từ ngữ xưng hô, qua đó tìm
hiểu phong cách nhà văn. Đồng thời, khẳng định được vị trí và những đóng góp
của Vi Hồng cho nền văn học đương đại Việt Nam. Từ đó, giúp cho người học,
người yêu thích Vi Hồng có thêm cách tiếp cận mới trong việc tìm hiểu tác
phẩm của nhà văn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập hệ thống cơ sở lý luận chung được sử dụng để nghiên cứu các
từ ngữ dùng để xưng hô.
- Khảo sát, thống kê, phân loại... các từ ngữ được dùng làm phương tiện
xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng.
- Miêu tả, phân tích, nhận xét những nét đặc sắc trong việc sử dụng từ
ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng. Qua đó, cho thấy vẻ đẹp phong cách
cũng như giá trị nghệ thuật qua các sáng tác của nhà văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn
xuôi Vi Hồng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các từ ngữ xưng hô, cách sử dụng và
hiệu quả của chúng trong các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng.
Phạm vi khảo sát tư liệu là 6 tiểu thuyết, 4 truyện ngắn, 1 truyện vừa và 2
truyện dài sau:
3
- “Đất bằng” (1980), Tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới (bao gồm 2 tiểu
thuyết: đất bằng và Vãi Đàng)
- “Người trong ống” (1990), Tiểu thuyết, Nxb Lao động.
- “Dòng sông nước mắt” (1993), Tiểu thuyết, Nxb Hội văn học nghệ
thuật Bắc Thái.
- “Tháng năm biết nói “(1993), Tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc.
- “Mùa hoa Bioóc loỏng” (1997), Tiểu thuyết, Nxb Thanh niên
- “Béc - Kha - Cải” (1988), Truyện ngắn (trích trong Vi Hồng tác phẩm
và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).
- “Nghĩ sủi bọt đá” (1991), Truyện ngắn, (trích trong Vi Hồng tác phẩm
và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).
-“Sự tích hang cứu tôi với” (1992), Truyện ngắn, (trích trong Vi Hồng
tác phẩm và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).
- “Cọn nước Eng Nhàn” (1971), Truyện ngắn (trích trong Vi Hồng tác
phẩm và dư luận, Nxb Đại học Thái Nguyên (2015).
- “ Người làm mồi bẫy hổ” (1990), Truyện dài, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
- “Đường về với mẹ chữ” (1998), Nxb Kim Đồng, Hà Nội (bao gồm
truyện dài “Đường về với mẹ chữ” và truyện vừa - “Thách đố”).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê, phân loại các từ xưng hô
trong các tác phẩm khảo sát.
- Phương pháp hệ thống: Xâu chuỗi các lớp từ xưng hô có cùng giá trị
ngữ nghĩa ngữ dụng, từ đó khái quát lại vấn đề nghiên cứu một cách hệ
thống hơn.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: thấy được cái hay, cái độc đáo của
lớp từ xưng hô trong tác phẩm văn học dưới ánh sáng của dụng học.
- Thủ pháp so sánh: So sánh giá trị ngữ nghĩa ngữ dụng của các đại từ
nhân xưng và lớp từ xưng hô trong tiếng Việt với các từ này trong tác phẩm của
Vi Hồng.
4
6. Đóng góp của luận văn
Khảo sát, miêu tả lớp từ xưng hô, luận văn đưa ra một góc nhìn có tính
hệ thống trong nghiên cứu sáng tác Vi Hồng. Đó là nghiên cứu các từ ngữ xưng
hô và cách xưng hô trên phương diện hệ thống hóa. Hướng nghiên cứu này, sẽ
góp phần quan trọng trong việc tiếp cận văn xuôi Vi Hồng trên bình diện ngôn
ngữ học.
Luận văn đã khai thác các giá trị ngữ nghĩa ngữ dụng của các lớp từ
xưng hô trong một số tác phẩm của Vi Hồng dưới ánh sáng của dụng học.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Đặc điểm từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng
Chương 3: Hiệu quả sử dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng
5
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề xưng hô
Xưng hô từ lâu đã là vấn đề khá thú vị và thu hút được nhiều sự quan
tâm của giới ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã bước đầu
tìm hiểu một số công trình, bài viết về từ xưng hô của một số tác giả. Cụ thể là
công trình của Nguyễn Văn Chiến với “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Việt
Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường
ĐHNN Hà Nội (1993); Hoàng Thị Châu với “Vài đề nghị về chuẩn hóa cách
xưng hô trong xã giao”, Tạp chí Ngôn Ngữ và đời sống, số 3(1995). Tác giả
Bùi Minh Yến với những công trình đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ: “Xưng hô
giữa vợ và chồng trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3(1990);
“Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số
3 (1993); “Xưng hô giữa ông bà và cháu trong gia đình người Việt”, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2 (1994). Tác giả Phạm Ngọc Thưởng với công trình: “Về đại từ
nhân xưng ngôi thứ 3”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 10 (1994); “Xưng hô
giữa vợ và chồng trong gia đình người Tày- Nùng”, Tạp chí Dân tộc học, số
1(1995). Tác giả Phạm Văn Tình với “Nhân xem bảy sắc cầu vồng bàn thêm về
cách xưng hô trong nhà trường”, tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9 (1997);
Phạm Văn Hảo với “Từ xưng gọi trong phương ngữ Bắc”, Tạp chí Ngôn ngữ
và đời sống, số 1 và số 2 (2011). Đặc biệt, đã có các công trình luận văn, luận
án nghiên cứu về xưng hô: Lê Thanh Kim với “Từ xưng hô và cách xưng hô
trong các phương ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ
học”, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội (2000); Phạm Ngọc Thưởng
với “Cách xưng hô trong tiếng Nùng”, Luận án tiến sĩ, trường Đại học Sư phạm
6
Hà Nội; Bùi minh Yến với “Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã
hội của người Việt”, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả trên, chúng tôi
nhận thây rằng, các tác giả tập trung nghiên cứu từ xưng hô dưới góc nhìn đa
chiều. Có thể thấy rằng, ở những công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt
đều đề cập đến từ xưng hô và tập trung phát triển theo ba hướng:
Thứ nhất: bàn về xưng hô ở góc độ lí luận chung về ngữ pháp học.
Thứ hai: bàn về xưng hô được sử dụng trong các phạm vi: gia đình và
ngoài xã hội.
Thứ ba: Từ xưng hô được nghiên cứu từ góc độ đối chiếu.
Tuy nhiên, theo khảo sát ban đầu của chúng tôi thì hướng nghiên cứu từ
xưng hô trong các tác phẩm văn học - một hướng tiếp cận mang tính trường hợp
về từ xưng hô chưa được quan tâm, nghiên cứu nhiều. Gần đây, một số công
trình đã tập trung vào nghiên cứu từ xưng hô trong văn học: Trần Ngọc Mi
(2009) với “Từ xưng hô trong tác phẩm Nam Cao”; Vũ Thị Lệ Tuyết (2012) với
“Từ ngữ xưng gọi trong thơ Tố Hữu”. Song, theo chúng tôi được biết, đến nay
vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tác phẩm Vi Hồng
Vi Hồng là nhà văn tiêu biểu, đã có những đóng góp không nhỏ vào nền
văn học Việt Nam hiện đại nói chung và nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng.
Với sự nghiệp văn chương dày dặn so với nhiều nhà văn dân tộc thiểu số nên
sáng tác của Vi Hồng đã trở thành nguồn đề tài phong phú, hấp dẫn cho giới
nghiên cứu phê bình văn học. Đánh giá về tiểu thuyết Vi Hồng, Tác giả Dương
Thuấn trong bài “ Nhìn lại văn học dân tộc Tày”, Tạp chí nghiên cứu văn học
số 5 - 2006, nhận định: Vi Hồng là “Tác giả đáng chú ý nhất trong nền văn học
Việt Nam hiện đại”. Đã có không ít công trình nghiên cứu khoa học về tác
phẩm của Vi Hồng trên phương diện nội dung và nghệ thuật cũng như những
đóng góp của ông trong nền văn học dân tộc.
7
Về nội dung:
Hình ảnh con người miền núi chính là phương diện được nhiều tác giả
chú ý nghiên cứu nhất trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Trong luận văn thạc sĩ
Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng (2003), Hoàng Văn Huyên đã chỉ ra
ba đặc điểm cơ bản của con người miền núi trong tiểu thuyết của Vi Hồng là:
con người giàu sức sống bền bỉ và mạnh mẽ; con người thật thà, bộc trực và
khẳng khái; con người giàu khát vọng về tình yêu tự do và chung thuỷ. Trong
luận văn thạc sĩ Đặc điểm tiểu thuyết Vi Hồng (2011), Thiều Thị Phương Nga
đã chỉ ra năm đặc điểm của con người miền núi, đó là: con người với số phận bi
kịch, con người lí tưởng - con người tận thiện, con người xấu xa - con người
tận ác, con người bản năng và con người tha hóa.
Yếu tố thiên nhiên và các giá trị văn hóa trong tiểu thuyết của Vi Hồng
cũng đã được một số tác giả đề cập đến. Trong bài viết Ảnh hưởng của văn hóa
dân gian trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng, tác giả Hoàng Thị Minh
Phương đã chỉ ra thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng là bức tranh đa
dạng vừa mang vẻ đẹp hoang sơ vừa mang nét bí hiểm. Hai tác giả Trần Thị
Ngọc Anh, Nguyễn Thị Vân Anh trong Biểu tượng về thiên nhiên như một diễn
ngôn về văn hóa Tày trong tiểu thuyết Vi Hồng đã chỉ ra sự gắn bó mật thiết
giữa con người và thiên nhiên trong tác phẩm Vi Hồng. Trong Tìm hiểu sự
nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã chỉ ra sự
trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương của Vi Hồng.
Về nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng nhân vật là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan
tâm đặc biệt. Nhà văn Hồ Thủy Giang đã nhận xét Vi Hồng khi khắc họa nhân
vật ít đề cập đến sự phức tạp của tâm lí mà nghiêng về khắc họa những nét đẹp
thuần khiết của tâm hồn. Trong bài giới thiệu tác phẩm “Người trong ống”, tác
giả Nguyễn Long đưa ra nhận xét về cách xây dựng nhân vật chính diện và
phản diện trong tiểu thuyết Vi Hồng.
8
Về phương diện ngôn ngữ. Tác giả Nông Thị Huyền Trang trong Đặc
điểm ngôn ngữ văn xuôi Vi Hồng đã chỉ ra một số lớp từ ngữ thể hiện đặc
điểm văn xuôi Vi Hồng và các phương thức sử dụng ngôn ngữ trong văn
xuôi Vi Hồng.
Về lời văn nghệ thuật, tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong “Lời văn nghệ
thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng” đã nhấn mạnh một số phương diện tổ chức
lời văn nghệ thuật. TS. Ngô Thu Thủy trường ĐHSP Thái Nguyên trong
“Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của Vi Hồng” đã đưa
ra một số nhận xét về giọng điệu trong tiểu thuyết Vi Hồng.
Ngoài ra, khi tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có một số công trình đã đi
vào nghiên cứu một số phương diện cụ thể trong sáng tác Vi Hồng đó là: Tính
dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng, Luận văn thạc sĩ của Hoàng Văn Huyên
(2003); Thế giới nhân vật trong tác phẩm của Vi Hồng, Luận văn thạc sĩ của
Ma Thị Ngọc Bích (2004); Bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ tác phẩm Vi Hồng
của tác giả Phạm Mạnh Hùng (2006); Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu
thuyết của Vi Hồng của Ngô Thu Thuỷ (2006); Đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi Vi
Hồng, Luận văn thạc sĩ của Nông Thị Huyền Trang (2012).
Một số công trình nghiên cứu về đóng góp của Vi Hồng trong thành tựu
chung của văn học dân tộc thiểu số như: Tác giả Lâm Tiến với Văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995), NXB Văn hoá dân tộc; Cách viết tiểu
thuyết của nhà văn Vi Hồng, số 13 - 14 (2007), báo Văn nghệ Thái Nguyên; tác
giả Dương Thuấn với Nhìn lại văn học Tày (2006) tạp chí nghiên cứu văn học
số 5; tác giả Phong Lê với Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), NXB
Văn hoá dân tộc; các tác giả Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng với Bản sắc
văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam,
NXB Đại học Thái Nguyên.
Một số công trình nghiên cứu về toàn bộ sáng tác của Vi Hồng như: Kỉ
yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng, Hội VHNT Thái Nguyên & Khoa Ngữ văn
9
ĐHSP Thái Nguyên đồng tổ chức (2006); Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà
văn Vi Hồng, đề tài nghiên cứu KH cấp bộ của Phạm Mạnh Hùng (2006); Vi
Hồng tác phẩm và dư luận (2015), Nxb Đại học Thái Nguyên.
Nhìn lại một cách tổng quát, chúng tôi nhận thấy các công trình, bài báo
nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng được tập trung khá rõ ở những
phương diện khác nhau như: nghiên cứu về giá trị nội dung, về tính dân tộc
trong tác phẩm; nghiên cứu về một số phương diện nghệ thuật trong sáng tác
của Vi Hồng. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa thấy có một công trình nghiên
cứu nào đề cập một cách cụ thể và chuyên biệt về Từ ngữ xưng hô trong văn
xuôi Vi Hồng. Công trình này mong muốn đóng góp thêm một tiếng nói vào
quá trình nghiên cứu, khám phá sáng tác của nhà văn Vi Hồng.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Giới thuyết về phạm trù xưng hô
1.2.1.1. Khái niệm xưng hô
Xưng hô là một bộ phận của lời nói, là yếu tố không thể thiếu trong đối
thoại trực tiếp. Xưng hô như là một nghi thức giao tiếp quan trọng xác lập quan
hệ và vị thế xã hội trong giao tiếp giữa người nói với người nghe cùng với
người được nói tới. Trong giao tiếp, người nói dùng xưng hô như một phương
tiện để tự thể hiện mình, để tác động đến người nghe và gián tiếp đạt được mục
đích giao tiếp.
Xưng hô không chỉ gắn liền mà còn chi phối và bị chi phối các nhân tố
khi giao tiếp: người nói, người nghe, đối tượng được nói đến, hoàn cảnh giao
tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp.
Xưng hô là thuật ngữ chỉ việc tự gọi mình (xưng) và gọi người khác (hô)
khi giao tiếp. Xưng hô là một bộ phận của ngôn ngữ học xã hội, là sự tương tác
của vai xã hội với vai giao tiếp, phản chiếu các mối quan hệ đa chiều từ gia
đình đến xã hội của các cá nhân trong cộng đồng giao tiếp. Đối với giao tiếp
tiếng Việt, xưng hô giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Bản thân xưng hô
10
không chỉ tường minh hóa các vai xã hội của người Việt, làm cho các hình thức
xưng hô trở nên đa dạng và buộc người giao tiếp phải lựa chọn để thể hiện vai
giao tiếp mà xưng hô còn thể hiện ý đồ, mục đích giao tiếp.
Trong hệ thống ngôn ngữ, từ ngữ xưng hô được xem là một bộ phận khá
phong phú và phức tạp. Ngoài việc là đối tượng chính của ngữ pháp tiếng Việt,
từ xưng hô còn được nghiên cứu từ góc độ của hai phân môn: Ngữ dụng học và
phong cách học tiếng Việt.
Từ góc độ Ngữ dụng học, Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “Xưng hô là hành vi
chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn
với lời nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp” [5; 264].
Từ góc độ Phong cách học, Cù Đình Tú cho rằng: “Ngoài các đại từ
nhân xưng và các đại từ chỉ quan hệ họ hàng thân tộc thì còn lấy cả tiếng đệm
giữa họ và tên của nữ giới (thị) để làm từ xưng hô, thậm chí còn dùng cả cách
nói trống không để xưng hô” [50; 166]. Và cuối cùng ông đưa ra nhận xét:
“Trong tiếng Việt, từ xưng hô, cách xưng hô, và mô hình xưng hô là phương
tiện biểu cảm, là phương tiện phong cách” [50; 168].
Theo Bùi Minh Yến: “Khái niệm xưng hô được ý thức như là một hành
vi ngôn ngữ có chức năng xác lập vị thế xã hội của những người tham gia giao
tiếp và tương quan tâm thế giữa họ với nhau trong quá trình giao tiếp. Khi thực
hiện chức năng này, hành vi ngôn ngữ xưng hô đồng thời đảm nhận nhiệm vụ
khởi sự tạo sự tương tác ngôn ngữ cho cuộc thoại, điều chỉnh cuộc thoại theo
đích đã định, đảm bảo hiệu lực hành vi” [50; 17].
Tác giả Phạm Ngọc Thưởng đã bóc tách nghĩa và xác định nhiệm vụ của
từng yếu tố trong khái niệm xưng hô như sau: “Xưng là hành động người nói
dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa mình vào trong lời nói, để người nghe biết
rằng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Đó là hành
động tự quy chiếu của người nói (ngôi 1). Hô là hành động người nói dùng một
biểu thức ngôn ngữ để đưa người nghe vào trong lời nói (ngôi 2)” [47; 12].
11
Đại từ điển tiếng Việt đã định nghĩa xưng hô là: “Tự xưng mình và gọi
người khác trong giao tiếp hoặc trong thư từ” [54; 1880].
Từ điển tiếng Việt thì định nghĩa xưng hô là: “Tự xưng và gọi người khác
là ai đó với nhau nhằm làm rõ mối quan hệ giữa hai bên” [41; 1872].
Từ những định nghĩa trên, ta thấy có sự phong phú trong cách định nghĩa
khái niệm xưng hô. Tất nhiên, để thực hiện hành động xưng hô người nói cần
phải có phương tiện để xưng hô và phương tiện ở đây chính là từ ngữ xưng hô.
Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Văn Nở đã
định nghĩa: “Từ xưng hô là lớp từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng khi giao
tiếp” [35; 53].
Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy và Nguyễn Thị Ngọc Điệp cho rằng: “Từ
xưng hô là những từ dùng để xưng gọi, với tư cách ngôi, một yếu tố có liên quan
đến nhân tố giao tiếp. Từ xưng hô dùng để chiếu vật và giao tiếp” [46; 30].
Từ những định nghĩa trên, chúng tôi đưa ra quan niệm: Từ xưng hô là
những từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng khi tham gia giao tiếp.
Vấn đề xưng hô là câu chuyện không chỉ có ý nghĩa ngôn ngữ đơn thuần
mà nó còn là vấn đề văn hóa ứng xử của con người trong quá trình tiếp xúc với
nhau. Trong giao tiếp, các từ ngữ xưng hô vừa phải phù hợp với lĩnh vực của
người tham gia giao tiếp vừa thể hiện vị thế xã hội, mức độ thân sơ, tính văn
minh lịch sự của người nói với người tham gia hội thoại. Chính vì vậy, trong
một cuộc giao tiếp, từ xưng hô không cố định bất biến mà biến đổi linh hoạt tùy
vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
1.2.1.2. Các cách phân loại từ xưng hô trong tiếng Việt
a. Phân chia theo từ loại
Từ xưng hô là một bộ phận trong hệ thống từ loại tiếng Việt, nên có thể
thấy rằng phân chia từ xưng hô theo từ loại là cách phổ biến nhất được đông
đảo các nhà Việt Ngữ sử dụng. Tuy nhiên các tác giả lại có sự nghiên cứu tìm
hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau theo từng phân môn khác nhau:
12
*Quan điểm của Ngữ pháp học
Các tác giả của Ngữ pháp học truyền thống thường đồng nhất từ xưng hô
với đại từ xưng hô và chia thành hai nhóm: Đại từ xưng hô chuyên dụng và đại
từ xưng hô lâm thời.
Theo tác giả Lê Biên, nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng được chia thành
ba ngôi: ngôi thứ nhất (người nói), ngôi thứ hai (người nghe), ngôi thứ ba
(người, vật được nói tới). Trong mỗi ngôi tác giả lại chia theo tiêu chí số: số ít,
số nhiều, ngôi gộp hỗn số và các biến thể của nó. Sự phân chia này được tóm
tắt qua bảng sau đây:
Số ít Ngôi gộp Số Các Số nhiều Ngôi hỗn số biến thể
tao chúng tao tau (tao) ta
tôi chúng tôi tui (tôi) (1) Ngôi thứ mình
tớ chúng tớ ................... nhất (người chúng ta
mình chúng mình (tôi) = choa, min, nói)
ta chúng ta qua (2)
mày mi (mày) chúng mày Ngôi thứ hai bay bây (bay) (1) chúng bay (người nghe) chúng mình (mi) mày : Bậu (2)
nó Ngôi thứ ba chúng nó hắn (người, vật họ (nó) = va, nghi (2) y được nói chúng thị đến)
(1) : Biến thể ngữ âm.
(2) : Biến thể từ vựng (phương ngữ).
Theo tác giả Lê Biên, nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng là các đại từ
xưng hô gốc, đích thực và nó có số lượng khá ít. Các đại từ như: tao, ta, mày,
nó, hắn chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu cảm không lịch sự (suồng sã, thô
tục, khinh thường, thân mật).
13
Theo quan điểm của Ngữ pháp học, nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng
có những đặc điểm sau:
- Những từ tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng tớ là những từ chuyên dùng làm
lời “xưng” của người nói.
- Những từ mày, bay, cậu... (tớ - cậu), (tao - mày) là những từ chuyên
dùng cho người nghe (gọi hô).
- Có những từ vừa dùng gộp cả lời nói (xưng) và người nghe (hô) như:
ta, chúng ta, chúng mình...
- Đại từ “mình” có thể chỉ người nói, là đại từ nhân xưng. Có thể chỉ
người nghe, cũng có thể chỉ người đã được nói đến trước đó ở trong câu, tức là
tự xưng của ngôi 1, ngôi 2, ngôi 3.
- Đại từ “nó” chỉ ngôi thứ ba, số ít, trung tính.
- Đại từ “tôi” dùng để xưng trong giao tiếp xã hội, chỉ ngôi thứ nhất,
trung tính.
Nhóm từ xưng hô lâm thời thì mỗi tác giả lại có cách những cách phân
chia khác nhau. Hai tác giả Nguyễn Hữu Quỳnh và tác giả Đỗ Thị Kim Liên thì
các từ xưng hô lâm thời bao gồm các danh từ thân tộc như: ông, bà, cha, mẹ,
anh, em, cô, bác...Tác giả Đinh Văn Đức thì cho rằng từ xưng hô lâm thời còn
bao gồm cả những đại từ chỉ định như: đây, đấy, kia, kìa.
Tác giả Lê Biên trong Từ loại tiếng Việt hiện đại đã gọi nhóm từ xưng
hô lâm thời là những “yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô” [4; 123].
Bao gồm:
- Những từ nguyên là danh từ đã trở thành đại từ thực sự: tôi, tớ, mình, hoặc
còn mang dấu ấn danh từ khá rõ: chàng, nàng, thiếp, người, ngài, người ta...
- Những danh từ lâm thời đảm nhận chức năng như đại từ, đó là những
danh từ chỉ những người thuộc quan hệ gia tộc, thân thuộc như: cụ, ông, bà,
cha, mẹ, chú, bác, cậu, cô, dì, mợ, thím, anh, chị, em, con, cháu... Những từ
như: trai, gái, ruột, họ... không được sử dụng xưng hô trong gia đình và ngoài
14
xã hội. Hai yếu tố “nội, ngoại” chỉ được dùng trong xưng hô của phương ngữ
Nam bộ như một cách nói tắt.
- Những từ: dâu, rể, vợ, chồng cũng không được dùng làm từ ngữ
xưng hô.
- Các danh từ: bạn, đồng chí: tính từ danh hóa: lão.
- Các từ chỉ học hàm, học vị, tước hiệu: giáo sư, tiến sĩ, đại tướng...
- Các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: bác sĩ, tổ trưởng, chủ nhiệm...
- Các tên riêng của người: Hằng, Nga, Hồng...
- Các từ ngữ chỉ nơi chốn: ấy, đây, đấy, đằng ấy... chẳng hạn: “này, đây
nói cho mà biết đấy mà không trả không xong đâu”.
- Một số từ có nguồn gốc vay mượn: từ gốc Hán: Y, thị, chúng (là các từ
đã Việt hóa), huynh, đệ, đại ca...(danh từ); Từ gốc Pháp: moa (moi), toa (toi).
Trong Ngữ học trẻ 2007, tác giả Nguyễn Minh Hoạt cho rằng khái niệm
“ngôi” theo ngữ pháp học của hai nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng và đại từ
xưng hô lâm thời “không xác định như các đại từ nhân xưng của tiếng Anh,
tiếng Pháp mà ngôi của các từ này chỉ xác định trong ngữ cảnh” [22; 197] . Do
đó việc đồng nhất từ xưng hô với đại từ xưng hô là không thỏa đáng.
*Quan điểm của Ngữ dụng học
Đỗ Hữu Châu là tác giả tiêu biểu đại diện cho quan điểm này. Theo ông:
“Để xưng hô, ngoài các đại từ, các ngôn ngữ còn có thể dùng các từ thuộc từ
loại khác như tên riêng, tên chức danh, tên nghề nghiệp, các từ chỉ quan hệ
thân tộc, các từ chỉ không gian như đây, đấy, ấy, đằng này, thậm chí cả sự
trống vắng từ xưng hô...) [5; 266]. Cụ thể như sau:
- Đại từ nhân xưng: “Các đại từ nhân xưng tiếng Việt không có sự phân
chia rạch ròi về ngôi như trong tiếng Anh, gồm các đại từ: tôi, tớ, tao, tui, qua,
mày, mi, mình; choa, chúng tao, chúng tôi, chúng ta, chúng mình, chúng tớ,
bầy (bi) choa chúng mày; bay, hắn, nó, y, thị, va, chúng nó, nhau” [5; 266].
Theo Đỗ Hữu Châu, nhóm đại từ này có các đặc điểm sau:
15
+ Đại từ nhân xưng phân chia theo ngôi mà chúng biểu đạt, nhưng để
biểu đạt ngôi không nhất thiết bao giờ cũng phải dùng đại từ.
+ Nghĩa chiếu vật của các đại từ (và các từ khác) chỉ ngôi thứ ba phải có
mặt trong tiền ngôn cảnh.
+ Trong các từ xưng hô của tiếng Việt có những từ chuyên ngôi và kiêm
ngôi. Từ chuyên ngôi là những từ chỉ được dùng cho một ngôi: tôi, tớ, mày...Từ
kiêm ngôi là từ dùng được cho nhiều ngôi: Mình, ta...
+ Có sự phân biệt đại từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp gồm
một nhóm người, kể cả người nghe lấy người nói làm trung tâm. Từ xưng hô
không bao gộp gồm một nhóm người với người nói là trung tâm không kể
người nghe. “Chúng ta” là đại từ bao gộp, “chúng tôi” là đại từ không bao
gộp, “chúng mình” vừa là đại từ bao gộp vừa là đại từ không bao gộp.
+ Các đại từ xưng hô thực sự tiếng Việt, kể cả những đại từ ngôi thứ ba
khác với các từ xưng hô lấy từ các từ thân tộc như: cha, mẹ, ông, bà, anh, em...
ở chỗ chúng không mang nét nghĩa chỉ gia đình, họ tộc. Chúng lập thành từng
cặp tự xưng và đối xưng. Cụ thể như sau:
tớ (cậu)
tao (tui) mày (mi)
ta mình
ta ngươi
chúng tao chúng mày, chúng bay, bay, bọn bay
choa (bầy choa) bay, chúng bay, bọn bay...
Ngoài ra còn một vài cặp khác nữa. Tất cả những cặp này đều mang nét
nghĩa hoặc khinh thị, hoặc thân tình. Chính những nét nghĩa kèm theo này
khiến cho tiếng Việt không có cặp đại từ xưng hô thực sự trung tính chỉ vai như
trong tiếng Anh (I- You). Đại từ “Tôi” trong tiếng Việt vốn được xem là trung
tính nhưng lại không lập thành cặp với bất kì đại từ ngôi thứ hai nào khác.
Ngược lại, “tôi” lại lập thành cặp với tất cả các từ thân tộc dùng để xưng hô
16
(tôi - anh, tôi - chị, tôi - ông...), nó luôn luôn là một đại từ đối thoại, trong khi
“mình”, “ta” có thể dùng trong độc thoại. Trong một cặp đại từ, đại từ ngôi thứ
nhất khống chế đại từ ngôi thứ hai và ngược lại.
+ Các đại từ xưng hô tiếng Việt không phân định về tuổi tác, về giới tính.
Ngoài hai nét nghĩa thân tình và khinh thị đi kèm với nghĩa vai, đại từ xưng hô
còn có sự đối lập về số: choa, bay và các đại từ có hình vị: chúng, bọn, bầy,
(bi) đều có nghĩa số nhiều, còn lại là số ít.
+ Đại từ xưng hô chính thức tiếng Việt chỉ được dùng ngoài xã hội trong
ngữ vực cực thân tình hoặc xung đột, một ngữ vực chưa được đưa vào bảng xếp
loại các ngữ vực.
- Các từ chỉ quan hệ thân tộc: “Từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Việt
là những từ chỉ người trong gia đình, họ tộc có quan hệ huyết thống, nội ngoại
xa gần với nhau” [5; 274]. Trong “Đại cương ngôn ngữ học”, Đỗ Hữu Châu
chia đại từ thân tộc trong tiếng Việt thành ba nhóm: thứ nhất là nhóm gồm
những từ như: u, bầm, bủ, tía, ba, má...; thứ hai là nhóm gồm các từ như: anh,
chị, em, chú, bác, cha, mẹ, cháu, con...; thứ ba là nhóm gồm các từ như: anh
họ, ông nội, chị họ, dâu, rể...
Nhóm từ này có những đặc điểm:
+ Chỉ những từ thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai mới dùng để xưng hô,
nhóm thứ ba không thể dùng để xưng hô được.
+ Nhóm thứ nhất chỉ dùng để xưng hô, không dùng để miêu tả quan hệ,
còn nhóm thứ ba chỉ dùng để miêu tả quan hệ, không dùng để xưng hô. nhóm
thứ hai vừa dùng để miêu tả quan hệ vừa dùng để xưng hô. Đỗ Hữu Châu đưa
ra hai cách sử dụng từ thân tộc để xưng hô, đó là xưng hô trong gia đình, họ tộc
và xưng hô ngoài xã hội.
“Các từ thân tộc khi dùng thay cho đại từ xưng hô có thể dùng để
xưng hô giữa những người trong gia đình, họ tộc và giữa những người ngoài
xã hội” [5; 281].
17
Xưng hô trong gia đình họ tộc: Theo Đỗ Hữu Châu, có hai cách xưng
hô bằng từ thân tộc: xưng hô theo chỉ xuất chủ quan và xưng hô theo chỉ xuất
khách quan.
Khi xưng hô theo chỉ xuất chủ quan, ngôi thứ nhất tự đồng nhất mình với
Ego. “Ego cũng tức là điểm mốc, là trung tâm định vị của các từ thân tộc” [5; 277].
Xưng hô theo chỉ xuất khách quan còn được gọi là xưng hô thay ngôi.
lối nói này thường chỉ được dùng trong ngữ vực cực thân tình và hoàn toàn
trong không khí gia đình, không có sự có mặt của những người ngoài gia
đình, họ hàng.
Có thể nói, từ “tôi” trong xưng hô gia đình, họ tộc là sự xã hội hóa xưng
hô gia đình, họ tộc.
Xưng hô ngoài xã hội: Đỗ Hữu Châu cho rằng có hai cách sử dụng từ
thân tộc để xưng hô với người ngoài gia đình, họ tộc, đó là: Xưng hô thân tộc
hóa và xưng hô phi thân tộc hóa.
Xưng hô thân tộc hóa tức là cách người nói mượn một quan hệ thân tộc
nào đó, tự đặt mình và người tiếp thoại của mình vào rồi dùng các từ thân tộc
tương ứng mà tự xưng vào đối xưng.
Cách xưng hô thân tộc hóa thường chỉ được dùng khi giữa người nói và
người tiếp thoại có sự chênh lệch về tuổi tác và vị thế xã hội.
Xưng hô phi thân tộc hóa nghĩa là người nói không đặt mình với người
tiếp thoại của mình vào một quan hệ thân tộc nào cả, tự xưng và đối xưng như
những người ngoài xã hội với nhau. Đối với ngôi thứ nhất, khi xưng hô phi
thân tộc hóa với người ngoài thường tự xưng “tôi” và đối xưng bằng các từ
thân tộc khác như: cụ, ông, bà, bác, cô, anh, chị, em, con...
Theo Đỗ Hữu Châu: “Bốn danh từ thân tộc: anh, chị, ông, bà là lõi xưng
hô của các từ thân tộc, chúng là những yếu tố để tạo ra các biểu thức xưng hô
khác, ngoại trừ biểu thức xưng hô dùng đại từ xưng hô” [8; 78].
18
- Tên riêng: trước đây, ở Việt Nam có nhiều loại tên: tên hèm (tên cúng
cơm), tên húy, tên thụy, tên tự, tên hiệu, tên tục. Với những người theo đạo
Thiên chúa còn có tên thánh, các Phật tổ thường có pháp danh.
Theo Đỗ Hữu Châu, hiện nay xưng hô trong đời thường thường được
dùng là các tên chính hay còn gọi là tên khai sinh. Ngoài ra còn có cách xưng
hô bằng tiểu danh để gọi các trẻ khi còn nhỏ (cu, cò, hĩm, tí, cún...) Tên chính
phổ biến là một âm tiết, nhiều người có tên chính hai âm tiết. Đàn bà khi chưa
có con được gọi bằng tên chồng. Khi có con, bố và mẹ thường được gọi bằng
tên của con đầu lòng. Tuy nhiên cả hai cách gọi bằng tên chồng và tên con ngày
nay không phổ biến nữa.
Tên chính có thể dùng độc lập một mình để tự xưng đối xưng và tha xưng.
Người Việt ta có tục kiêng kị gọi tên tục. Trước đây với những trường
hợp xung đột dữ dội, người ta mới lôi tên tục ra mà chửi. Ngày nay, đối xưng
và tha xưng người có vị thế xã hội cao trong xã hội hoặc trong gia đình, họ tộc
chỉ bằng tên riêng là vô lễ với người đó.
Cách xưng hô tên riêng có thể kết hợp với những yếu tố khác
Từ thân tộc + tên riêng
Từ thân tộc + từ chức danh, nghề nghiệp + tên riêng.
- Từ chỉ người theo chức danh, nghề nghiệp.
Theo Đỗ Hữu Châu: “Từ chức danh, nghề nghiệp lập thành bốn kết cấu
sau đây để xưng hô:
Thứ nhất: Từ chức danh, nghề nghiệp dùng một mình;
Thứ hai: Từ chức danh nghề nghiệp kết hợp với từ thân tộc hoặc từ
“ngài” từ “quan” ở trước;
Thứ ba: Từ chức danh, nghề nghiệp dùng với tên riêng ở sau;
Thứ tư: Từ chức danh nghề nghiệp kết hợp với từ thân tộc hoặc từ
“ngài” từ “quan” ở trước và tên riêng ở sau” [5; 300].
Cũng theo tác giả thì cả bốn kết cấu trên đều có thể được dùng để tha
xưng với các sắc thái biểu cảm, trong những thoại trường, trong ngữ vực và
19
quan hệ liên cá nhân khác nhau. Đáng chú ý là việc dùng các kết cấu từ chức
danh, nghề nghiệp để đối xưng.
Kết cấu thứ nhất được dùng rất có hạn. Trước đây, kết cấu này hầu như
không bao giờ được dùng một mình để đối xưng (trừ trường hợp “bá tước”,
“nam tước”) hiện nay kết cấu từ chức danh, nghề nghiệp một mình đã được
dùng để đối xưng: Bộ trưởng, chủ tịch, bác sĩ...
Kết cấu thứ hai được dùng khá phổ biến và bắt buộc trước cách mạng
tháng Tám. Đây là những kết cấu đối xưng và tha xưng dùng cả trong gia đình,
thân tộc và ngoài xã hội: Anh Cu Bưởi, Bà phán, ông lớn, anh kiểm lâm.....
Kết cấu thứ ba và kết cấu thứ tư trước đây và hiện nay đều không được
dùng để đối xưng, chủ yếu chỉ được dùng để tha xưng. Chúng cũng được dùng
để thưa hoặc giới thiệu những người có vị thế xã hội cao: chủ tịch nước Nguyễn
Văn A, bộ trưởng bộ giáo dục Trần Văn B.
- Bán đại từ: tên gọi này được Đỗ Hữu Châu tạm dùng để chỉ những từ
xưng hô tiếng Việt không phải là từ thân tộc, cũng không phải là các đại từ
thực sự.
Theo tác giả, có ba nhóm đại từ:
+ Thứ nhất là các từ như: ngài, người, trẫm, khanh, thiếp, chàng, nàng...
Ngày nay, từ “ngài” được dùng kết hợp với chức danh hoặc tên riêng để
đối xưng hoặc tha xưng trong lĩnh vực quy thức, nhất là đối với người nước
ngoài. “Người” dùng để tha xưng với các thần tượng. “Tiên sinh” ngày nay
không được dùng để đối xưng và tha xưng nữa. “Trẫm, khanh” là từ vua tự
xưng và đối xưng với quan lại.
+ Thứ hai là những tổ hợp từ Hán Việt như: ngu đệ, hiền huynh...
Trong nhóm này có những từ được dùng để tự xưng theo nguyên tắc tự hạ:
ngu đệ, ngu huynh, hạ quan, hạ dân... có những từ chuyên dùng để đối xưng theo
nguyên tắc hô tôn: hiền đệ, hiền huynh...hoặc chuyên dùng để tha xưng cũng theo
nguyên tắc hô tôn: lệnh huynh, lệnh đệ.... Tất cả nhóm từ thứ hai này chỉ dùng
trong văn viết, không được dùng trong giao tiếp miệng đời thường.
20
+ Thứ ba là những từ chỉ xuất không gian hoặc những tổ hợp có từ chỉ
xuất không gian ở sau để tự xưng: (đây, thằng này, con này), để tha xưng:
(đấy, đằng ấy). Những bán đại từ này được dùng trong ngữ vực thân tình
hoặc xung đột.
Các bán đại từ bị đánh dấu chặt chẽ về ngôi, không có hiện tượng kiêm
ngôi. “Lệnh huynh, lệnh tỉ” bao giờ cũng dùng để nói tới anh hoặc chị của
người tiếp thoại.
*Quan điểm của Phong cách học
Quan điểm của các nhà Phong cách học khá giống với quan điểm của các
nhà Ngữ dụng học, nhưng có khác với quan điểm của các nhà Ngữ pháp học.
Các nhà Phong cách học không đồng nhất từ xưng hô với đại từ xưng hô như
các nhà Ngữ pháp học, nhưng phạm vi nghiên cứu về các từ loại khác nhau
được dùng để xưng hô thì khá ít so với các nhà Ngữ dụng học.
Tác giả Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt đã
cho rằng: “Bên cạnh các đại từ nhân xưng: tôi, tao, ta, chúng tôi, chúng ta,
chúng tao, chúng ông, chúng anh, chúng chị (ngôi 1), mày, bay, chúng mày,
chúng bay (ngôi 2), nó, hắn, y, va, nghỉ, chúng nó (ngôi 3), tiếng Việt còn lấy tất
cả các từ chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc dùng làm từ xưng hô như: cụ, ông, bà,
cha, chú, cụ, bác, thím, cô, dì, cậu, mợ, anh, em, chị, cháu...” [50; 166].
Tác giả Đinh Trọng Lạc trong Phong cách học tiếng Việt cũng có những
nhận xét khá giống với Cù Đình Tú. Tác giả viết: “Bên cạnh các đại từ nhân
xưng (tôi, tao, mày, nó/ hắn...) trong tiếng Việt còn dùng những từ chỉ quan hệ
gia đình huyết tộc (ông, bà, cha, mẹ, con, cháu...) để xưng hô” [31; 170].
Đinh Trọng Lạc đã sắp xếp các đại từ xưng hô như sau:
Số ít Ngôi gộp Số nhiều Số/ ngôi
tao chúng tao chúng tôi Tôi ta Ngôi thứ 1
mày chúng ta chúng mày / / Ngôi thứ 2
nó/ hắn chúng nó / / họ Ngôi thứ 3
21
Ngoài các đại từ xưng hô, các từ chỉ quan hệ họ hàng, thân tộc. Hai tác
giả Cù Đình Tú và Đinh Trọng Lạc còn cho rằng các từ chỉ chức tước của cá
nhân, tiếng đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị), tên riêng, những từ trống
(người ta, đây, đấy, đằng ấy...) và cách nói trống không zero còn được dùng để
xưng hô.
b. Phân chia theo phạm vi sử dụng
Theo tác giả Lê Biên: “Có thể chia những từ xưng hô tiếng Việt thành
hai lớp có phạm vi sử dụng khác nhau: Những từ xưng hô dùng trong gia đình
thân tộc và những từ xưng hô dùng ngoài xã hội” [4; 127].
- Những từ xưng hô dùng trong gia tộc, thân tộc
Theo Lê Biên, trong quan hệ gia tộc, thân tộc: “chủ yếu dùng các danh
từ thân thuộc, rất ít dùng đại từ xưng hô gốc, theo một tôn ti chặt chẽ, tương
đôi ổn định” [4; 127].
Giống như các khuôn hình sẵn có, ràng buộc mọi người phải chấp nhận
tuân theo, các từ xưng hô cũng phản ánh các quan hệ: thứ bậc (trên/ dưới), tuổi
tác, giới tính, địa vị xã hội.... Trong đó quan hệ thứ bậc quyết định và chi phối
các quan hệ khác. Tác giả cho rằng cái tôn ti trật tự trên ra trên, dưới ra dưới
chi phối cách ứng xử xưng hô. Cho dù người đó có địa vị cao trong xã hội thì
“nhập gia phải tùy tục”. Do đó, những đại từ xưng hô đích thực (tao, mày, nó)
chỉ thể hiện quan hệ một chiều: tao (trên), nó, mày (dưới) chỉ dùng nói về
những người ở bề dưới, “tôi” chỉ những người ở bậc trên được dùng để xưng
với những người ở bậc dưới.
Cũng theo tác giả, trong phạm vi thân tộc, các từ: ông, bà, bố, mẹ, chú,
bác, cô, anh, em, chị, con, cháu... được dùng với ý nghĩa gốc, cơ bản của chúng
để xưng và hô với những người trong gia tộc.
- Những từ xưng hô dùng ngoài xã hội
Việc sử dụng từ xưng hô ngoài xã hội thể hiện thái độ ứng xử giữa
những người không có quan hệ huyết thống, gia tộc là rất phức tạp, đa dạng và
22
phong phú. Cho nên, theo Lê Biên “Cả hai lớp từ, đại từ xưng hô gốc và các từ
lâm thời làm đại từ xưng hô đều được sử dụng để bộc lộ một vị thế ứng xử xã
hội nhất định” [4; 128].
Những từ xưng hô lâm thời như: ông, bà, bố, con, chị, em... nguyên là
những danh từ chỉ quan hệ gia tộc, thân thuộc, dùng với nghĩa mở rộng để
xưng hô trong giao tiếp ngoài xã hội với những người vốn không có quan hệ
họ hàng, thân thuộc gì với mình. Những từ này, Lê Biên cho rằng trong giao
tiếp xã hội đều đã chuyển nghĩa, tức là không dùng nghĩa gốc cơ bản. “Một số
từ có nội dung ý nghĩa khác xa nghĩa gốc ban đầu: ông, bà, anh, chị, em,
cháu... và có thể biểu lộ những sắc thái biểu cảm khác nhau: lịch sự trang
trọng, thân mật suồng sã, thô tục...” [4; 129]. Ngoài ra có một số từ có phạm
vi sử dụng thu hẹp lại, chẳng hạn như: hai từ “cha, con” dùng trong nhà thờ,
nghi lễ Thiên chúa giáo; các từ “bố, mẹ, con” có thể dùng chỉ quan hệ thân
mật giữa những người không cùng huyết thống hay các từ “thầy, cô, con, em”
dùng trong nhà trường.
Theo tác giả Lê Biên: “Trừ những nghi thức lời nói, các dùng từ xưng hô
trong giao tiếp xã hội, như một cách ứng xử xưng “khiêm”, hô “tôn” nên rất
linh hoạt, rất đa dạng” [4; 130,131]. Ông cho rằng từ xưng hô dùng ngoài xã
hội còn có hiện tượng “gọi thay ngôi” và “xu hướng nâng bậc phân vai”. Đó là
một biểu hiện văn hóa của người Việt: chú trọng đề cao “vai” xã hội của đối
tượng xưng hô theo tuổi tác và chức năng gia đình. Chẳng hạn như trong gia
đình, con cái gọi cha mẹ là “ông, bà” khi người gọi đã có con và gọi thay con,
cha mẹ gọi con hay vợ chồng gọi nhau theo kiểu: “Bố cái Hoa” hoặc “mẹ
Thảo”. Đáng chú ý, theo quan niệm của Lê Biên thì cách xưng hô ngoài xã hội
tồn tại hai hình thức: xưng hô tương ứng, chính xác và xưng hô tương ứng
không chính xác. điều này được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:
23
Ngôi 2 Anh Cô Bác Ông Con Cháu Em Ngôi 1 (chị) (cậu) (chú) (bà)
Con + + +
Cháu x x x
Em x + + +
Anh (chị) x + +
Cô (cậu) + x + +
Bác (chú) + x +
Ông (bà) + x +
Tôi + + + +
x: tương ứng chính xác
+: tương ứng không chính xác
Có thể thấy rằng có rất nhiều hướng nghiên cứu khác nhau về cách phân
loại từ xưng hô. Nhưng nhìn chung các nhà Việt ngữ ở ba phân môn: ngữ pháp,
ngữ dụng và phong cách học tiếng Việt đều có sự quan tâm về đặc điểm từ loại,
về phạm vi sử dụng cũng như những nguyên tắc chi phối các dùng từ xưng hô
trong tiếng Việt.
1.2.1.3. Đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt
Từ trước đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đặc điểm
của từ xưng hô trong tiếng Việt. Trong đó nổi bật là những công trình nghiên
cứu của các tác giả: Đỗ Hữu Châu, Phan Hồng Liên, Trương Thị Diễm, Lê
Biên, Đinh Trọng Lạc.
Theo Đỗ Hữu Châu: “Vì phải thể hiện quan hệ liên cá nhân cho nên các
ngôn ngữ mới có nhiều từ xưng hô và việc dùng từ xưng hô trở nên rắc rối” [8;
78]. Ở đây, Đỗ Hữu Châu đề cập đến vai trò quan trọng của quan hệ liên cá
nhân đã chi phối, sản sinh ra các từ xưng hô và điều đó làm cho hệ thống từ
xưng hô phong phú, phức tạp.
24
Theo tác giả Phan Hồng Liên trong Để tiếng Việt ngày càng trong sáng
đã đưa ra nhận định: “Người Việt không chỉ sử dụng một nhóm từ xưng hô là
danh từ thân tộc mà sử dụng tất cả các nhóm từ xưng hô nhưng linh hoạt trong
từng tình huống cụ thể, tạo ra cho hệ thống từ xưng hô Việt Nam một diện mạo
hết sức phong phú, mới mẻ” [32; 46].
Trong Ngữ học trẻ 2002, tác giả Trương Thị Diễm nhận định: “Cách sử
dụng từ xưng hô luôn luôn thay đổi theo sự thay đổi của xã hội. Hệ thống ngôn
ngữ nói chung và hệ thống từ xưng hô nói riêng luôn là hệ thống động và mở.
Sự thay đổi về lượng của các yếu tố trong hệ thống xưng hô tất yếu kéo theo sự
thay đổi về chất - cấu trúc của hệ thống” [12; 33]. Theo tác giả sự phong phú
đa dạng của từ xưng hô do tính chất động và mở của hệ thống lớp từ này.
Theo tác giả Lê Biên: “Các từ xưng hô phản ánh trực tiếp các mối quan
hệ gia đình thân thuộc và tính chất quan hệ xã hội; phản ánh trình độ nhận
thức, thái độ tình cảm của người nói với người nghe, thậm chí còn có thể bộc lộ
nhân cách con người” [4; 126]. Theo tác giả, sự phong phú đa dạng của từ
xưng hô ngoài việc thể hiện ở hệ thống từ, còn được bộc lộ qua tác dụng, ý
nghĩa của nó.
Trong Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc cho rằng: “Màu sắc biểu
cảm tu từ cực kì phong phú trong hệ thống đại từ nhân xưng và từ xưng hô phản
ánh ý thức cộng đồng, ý thức huyết thống của dân tộc Việt Nam” [31; 175] .
Từ những ý kiến của các nhà nghiên cứu, có thể rút ra được đặc điểm của
từ xưng hô trong tiếng Việt như sau:
Thứ nhất, từ xưng hô trong tiếng Việt có số lượng lớn, là một hệ thống
“động” và “mở”, không hạn chế và luôn biến đổi. Ngoài các từ có chức năng
xưng hô thực thụ như các đại từ nhân xưng (tôi, ta, mình, nó...), trong tiếng
Việt còn có một số lượng lớn các từ ngữ xưng gọi khác như các danh từ thân
tộc (ông, bà, bác, bá, con, cháu...); từ chỉ chức vụ nghề nghiệp (anh bác sĩ, chú
phó phòng...); họ và tên riêng (Nguyễn Trường An, Bác Ngô...) và các từ ngữ
xưng gọi lâm thời khác (bông hoa út, con vàng con ngọc...).
25
Thứ hai, trong giao tiếp hàng ngày, các danh từ dùng làm đại từ xưng hô
được dùng nhiều hơn, phổ biến hơn các đại từ xưng hô đích thực. Đặc biệt, các
danh từ thân tộc không chỉ dùng để xưng hô trong gia đình mà còn giao tiếp với
xã hội. Vì vậy có thể nói: “Xưng hô trong xã hội Việt Nam mang tính gia đình
hóa cao” [32; 146]. Đó là sự lấn át của các từ ngữ xưng gọi vốn xuất xứ từ các
danh từ chỉ thân tộc họ hàng. Các danh từ thân tộc như: Anh, em, ông, bà, con,
cháu... được dùng để xưng gọi trong gia đình, mối quan hệ huyết thống, hôn
nhân...nhưng đồng thời cũng được vận dụng để biểu thị mối quan hệ giao tiếp
ngoài xã hội. Nguyên nhân của hiện tượng này là do trong giao tiếp người Việt
luôn có thiên hướng lấy gia đình làm nơi khởi phát cho cộng đồng. Trong phạm
vi gia tộc, các danh từ thân tộc được dùng với ý nghĩa chính xác của chúng để
xưng và hô. Nhưng trong giao tiếp xã hội, chúng có sự chuyển biến ý nghĩa rất
mạnh mẽ.
Thứ ba, từ xưng hô trong tiếng Việt mang tính tình thái cao, rất đậm sắc
thái biểu cảm. Dù là giao tiếp trong phạm vi gia đình hay ngoài xã hội thì người
Việt thường bộc lộ trực tiếp quan hệ của người nói với người nghe với hiện
thực khách quan. Các từ xưng hô tiếng Việt rất ít khi mang sắc thái trung hòa.
Số lượng các biểu thị sắc thái trung hòa rất ít. Từ “tôi” là đại từ nhân xưng
tương đối trung hòa về thái độ biểu cảm, tuy nhiên trong đối thoại tạo thành các
cặp đối xưng với các từ khác (tôi - anh, tôi - ngài, tôi - cô) vẫn phần nào thể
hiện sắc thái biểu cảm. Trong khi đó, số lượng các từ biểu thị nghĩa tình thái lại
khá nhiều: thân mật suồng sã (mày, tao, tớ, cậu...), trịnh thượng, ngạo mạn (ta,
ta đây...), lịch sự, trang trọng (ngài, vị...), mỉa mai, châm biếm, khinh thường
(mụ, lão, thằng...).
Thứ tư, từ xưng hô trong tiếng Việt có hiện tượng kiêm ngôi. Nghĩa là
không có tính thuần nhất về cách sử dụng, cùng một từ xưng hô nhưng khi
tham gia giao tiếp có thể tham gia vào các vai khác nhau (ta, mình...).
26
Thứ năm, hệ thống từ xưng hô tiếng Việt có hiện tượng đồng âm, đồng
nghĩa (tôi - tui, mẹ - má - bầm - bủ...) nên khi giao tiếp cần am hiểu cũng như
vận dụng linh hoạt vào cuộc thoại.
Thứ sáu, các từ ngữ xưng gọi trong tiếng Việt được sử dụng trong giao
tiếp thường mang đậm dấu ấn văn hóa vùng miền, văn hóa dân tộc. Chính điều
đó làm cho lớp từ xưng hô trong tiếng Việt có những nét khác biệt cơ bản với
những ngôn ngữ khác. Trong các ngôn ngữ châu Âu, đại từ nhân xưng chiếm vị
trí vô cùng quan trọng, là yếu tố trung tâm và ít mang sắc thái biểu cảm. Ở
tiếng Việt, đại từ nhân xưng chiếm một vị trí không đáng kể trong hệ thống các
từ xưng gọi, không phải là yếu tố trung tâm và khi sử dụng thường gắn với một
tình thái nhất định. Ở các ngôn ngữ châu Âu, ít có hiện tượng các danh từ thân
tộc được chuyển sang làm từ xưng gọi. Trong tiếng Việt thì hiện tượng này
diễn ra phổ biến, trong cơ quan, công sở thay vì gọi theo chức vụ, nghề nghiệp,
người Việt vẫn thiên về sử dụng các từ thân tộc (anh, chị, em, cô, chú...) để thể
hiện sự gần gũi thân thiện.
Thứ bảy, so sánh hoạt động của “xưng” và “hô” trong xưng hô tiếng
Việt thì ta thấy từ “hô” kém linh hoạt hơn từ “xưng”. Trong thực tế giao tiếp,
một từ “xưng” thường cặp đôi với nhiều từ “hô”. Ví dụ từ “em” có thể cặp với
nhiều từ tạo thành các cặp xưng hô: em - anh, em - bô, em - mẹ, em - ông, em -
sếp, em - thầy... Ngoài ra ta thấy rằng các từ “hô” thuộc nhóm chức danh, chức
vụ rất ít khi dùng ở vị trí “xưng”.
Tóm lại, xưng hô là hành động ngôn ngữ có ý định, niềm tin, mục đích và
chiến thuật. Từ xưng hô phản ánh mối quan hệ gia đình, thân thuộc và các mối
quan hệ ngoài xã hội. Xưng hô phản ánh trình độ nhận thức, thái độ tình cảm của
người nói đối với người nghe và đồng thời giúp bộc lộ tính cách con người.
Việc sử dụng từ xưng hô trong tiếng Việt chịu sự chi phối từ nhiều nhân
tố như: nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, tình huống giao tiếp. Bên cạnh
đó yếu tố xã hội như phong tục tập quán, văn hóa xã hội cũng tạo nên đặc điểm
riêng cho xưng hô trong từng vùng miền nói riêng và cho tiếng Việt nói chung.
27
1.2.2. Lý thuyết giao tiếp
1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp
Theo Các Mác thì: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” và
sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá
nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp. Nghĩa là các mối quan hệ xã hội
này được biểu hiện rõ nhất trong giao tiếp. Chính vì vậy, giao tiếp không chỉ là
một hoạt động xã hội cơ bản mang tính tất yếu và đặc trưng mà nó còn đánh
dấu sự phát triển vượt bậc của loài người. Con người có thể giao tiếp thông qua
rất nhiều các phương tiện khác nhau: âm thanh, ánh sáng, cử chỉ.... Trong các
phương tiện đó thì ngôn ngữ âm thanh tự nhiên của con người là phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất và mang lại hiệu quả cao nhất. Qua đó, con người có
thể bày tỏ và trao đổi về tư tưởng nhận thức, thái độ tình cảm. Có lẽ vì thế đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà Việt ngữ về vấn đề giao tiếp.
Tác giả Diệp Quang Ban đã đưa ra định nghĩa: “Giao tiếp là một hiện
tượng phổ biến trong các kiểu xã hội, đó là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong
một cộng đồng để truyền đạt một nội dung nào đó. Giao tiếp là một trong
những đặc trưng của xã hội, giúp phân biệt xã hội với các quần thể khác không
phải là xã hội...” [3; 17].
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin
(bao gồm cả tri thức, tình cảm, thái độ, ước muốn, hành động...) giữa ít nhất
hai chủ thể giao tiếp (kể cả trường hợp một người giao tiếp với chính mình)
diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định và một tình huống nhất định, bằng một
hệ thống tín hiệu nhất định” [8; 8].
Tác giả Nguyễn Như Ý đã đưa ra định nghĩa ngắn gọn: “Giao tiếp là sự
thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó” [54; 101].
Thực tế có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Trong đề tài
này, chúng tôi đồng tình với cách định nghĩa của Đỗ Hữu Châu. Theo cách hiểu
này, chúng ta thấy được vai trò quan trọng của giao tiếp đối với đời sống của
28
con người. Giao tiếp chính là điều kiện tồn tại và là nhu cầu đặc trưng sớm nhất
ở con người.
1.2.2.2. Các nhân tố cấu thành hoạt động giao tiếp
Hoạt động giao tiếp được cấu thành bởi rất nhiều yếu tố. Theo GS Đỗ
Hữu Châu, trong giao tiếp bằng ngôn ngữ đáng chú ý là sự có mặt của các nhân
tố giao tiếp sau: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn.... Trong khuôn khổ phạm vi
đề tài này, chúng tôi chỉ xin trình bày nhân tố ngữ cảnh giao tiếp trong việc ảnh
hưởng đến việc lựa chọn và sử dụng từ xưng hô của tác giả Vi Hồng.
Ngữ cảnh giao tiếp là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp
nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Nó là một tổng thể được hợp lại bởi những yếu tố:
nhân vật giao tiếp và hiện thực ngoài diễn ngôn (hoàn cảnh giao tiếp).
a. Nhân vật giao tiếp
Như chúng ta đã biết, để một cuộc hội thoại được diễn ra, yếu tố quan
trọng và mang tính bắt buộc đó là phải có các nhân vật giao tiếp. Trong Đại
cương ngôn ngữ học tập 2, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Nhân vật giao tiếp là
những người tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ
để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác động vào nhau. Đó là những
người tương tác bằng ngôn ngữ.” [8; 15].
Nhân vật giao tiếp chính là linh hồn của cuộc hội thoại, là một nhân tố
quan trọng có thể thúc đẩy và kết thúc cuộc thoại. Giữa các nhân vật giao tiếp
có hai quan hệ chính: vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.
*Vai giao tiếp
Khi tham gia giao tiếp các hoàn cảnh khác nhau, mỗi cá nhân lại đóng
một vai trò khác nhau tạo thành một bộ vai cho mình trong hệ thống giao tiếp
chung. Cùng một đối tượng nhưng khi tham gia vào các cuộc giao tiếp khác
nhau thì hình thành các vai giao tiếp khác nhau: khi đi mua đồ thì là khách
hàng, khi đi xem ca nhạc là khán giả, khi thi đấu thể thao là vận động viên, khi
ở nhà là con đối với bố mẹ, là em đối với anh... Có thể nói rằng, sự phong phú
29
trong các vai giao tiếp góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách xưng gọi của
mỗi cá nhân.
Theo Đỗ Hữu Châu: “Vai giao tiếp là cương vị xã hội của cá nhân nào
đó giữ trong một hệ thống các quan hệ xã hội và được hình thành trong quá
trình xã hội hóa cá nhân” [8; 30].
Trong một cuộc giao tiếp, các nhân vật thường có sự phân vai khá rõ ràng:
vai phát tức là vai nói (viết), vai nhận tức là vai nghe (đọc). Khi giao tiếp trực
tiếp, hai vai này thường luân chuyển, đổi vai cho nhau. việc đổi vai không chỉ
thúc đẩy giao tiếp mà còn kết thúc quá trình giao tiếp: “Trong quá trình giao
tiếp, người đọc có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực. Người nhận tích cực
khi anh ta luôn thay đổi vai trò người nhận - người phát, khi giao tiếp diễn ra ở
hai chiều. Người nhận tiêu cực khi anh ta luôn giữ vai trò người nhận trong suốt
quá trình giao tiếp, nghĩa là khi giao tiếp chỉ diễn ra một chiều” [8; 43].
Để tiến hành giao tiếp, mỗi thành viên tham gia giao tiếp phải xác lập vị
thế giao tiếp của mình, tức là phải nhận thức được một cách đầy đủ về đối tượng
tham gia giao tiếp, về chính bản thân mình và quan hệ giữa mình với đối tượng
giao tiếp đó (về mức độ thân sơ, vị thế trến/ dưới, trình độ văn hóa, tuổi tác, địa
vị...) để có thể lựa chọn những từ ngữ xưng hô thích hợp. Nhờ việc xác định
được đúng vị thế giao tiếp, các vai giao tiếp có thể xây dựng được chiến lược,
động cơ, mục đích giao tiếp để có thể đem lại hiệu quả cao trong giao tiếp.
*Quan hệ liên cá nhân
Theo Đỗ Hữu Châu: “Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong
tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau”
[8; 17].
Khi tham gia hội thoại, các nhân vật giao tiếp phải có một mối quan hệ
qua lại nhất định, đó được gọi là quan hệ liên cá nhân. Mối quan hệ này thực
chất rất đa dạng và phức tạp, nhưng nó diễn tiến theo hai kiểu quan hệ chính:
quan hệ quyền uy (vị thế xã hội) và quan hệ khoảng cách (thân cận).
30
Quan hệ quyền uy là quan hệ trên - dưới, sang - hèn, tôn - khinh.... Quan
hệ này tạo thành các vị thế xếp theo trục dọc. Dựa vào đặc trưng về yếu tố
quyền lực và giàu nghèo tạo thành ba kiểu quan hệ quyền uy đó là: quan hệ
ngang vai, quan hệ trên vai và quan hệ dưới vai.
Quan hệ khoảng cách là quan hệ thân - sơ giữa các nhân vật giao tiếp.
Quan hệ liên kết được đặc trưng bởi yếu tố cận kề gần gũi.
Có thể thấy rõ sự khác biệt của quan hệ quyền uy và quan hệ liên kết quả
bảng so sánh sau:
Quan hệ liên cá nhân Quan hệ Quan hệ quyền uy Quan hệ khoảng cách Đặc điểm ( Vị thế xã hội) (thân cận)
Là quan hệ ứng xử xã hội Là quan hệ ứng xử giữa các cá
dựa trên những quy tắc nhân thể hiện thái độ, tình cảm Khái niệm giao tiếp nhất định. của các vai giao tiếp.
Dựa vào tuổi tác, nghề Dựa vào mức độ hiểu biết lẫn Cơ sở xác lập nghiệp, chức quyền, thứ nhau, thân thiện với nhau. bậc.
Phi đối xứng, nghĩa là sẽ Đối xứng, có thể tạo sự thân Quan hệ giữa các giữ nguyên không thay tình hoặc xa lạ theo mức độ nhân vật giao đổi trong quá trình giao khác nhau. Qua thương lượng tiếp tiếp. có thể thay đổi khoảng cách.
Đặc trưng bởi yếu tố Đặc trưng bằng yếu tố cận kề,
quyền lực và tạo ra gần gũi theo mức độ tình cảm Yếu tố đặc trưng khoảng cách giữa hai bên và luôn hướng đến sự đồng
giao tiếp. đẳng, thân mật.
Quan hệ nơi công sở, cơ Quan hệ bạn bè, đối tác, trong Biểu hiện quan, nghi thức... gia đình...
[xem thêm 8; 17-18].
31
Theo mức độ tình cảm thì quan hệ quyền uy luôn tạo ra khoảng cách còn
quan hệ liên kết lại luôn có xu hướng tới một sự gần gũi, đồng đẳng. Trong
thực tế giao tiếp, các nhân vật giao tiếp có thể có quan hệ thân thiết hoặc xa lạ.
Mức độ thân cận thường tỉ lệ thuận với mức độ hiểu biết về nhau của những
nhân vật tham gia giao tiếp.
Quan hệ liên cá nhân chi phối toàn bộ quá trình giao tiếp, nội dung và hình
thức của diễn ngôn. Bởi vậy, xưng hô chịu áp lực mạnh mẽ từ quan hệ này. Bằng
việc sử dụng các từ ngữ xưng hô mà vai nghe biết được vai nói xác định quan hệ
vị thế và quan hệ xã hội với mình như thế nào. Với sự phong phú của từ xưng hô
trong tiếng Việt, việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ xưng hô được coi như là một
chiến lược quan trọng trong việc thiết lập quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
Đối với môi trường cơ quan, công sở thì nghi thức giao tiếp như một lẽ
bắt buộc mà mọi người phải tuân theo. Do đó, quan hệ quyền uy ở đây được
xác lập vững vàng, ổn định, rất ít khi thay đổi. Giữa cấp trên và cấp dưới, thủ
trưởng và nhân viên đã có những từ xưng hô giúp định vị thứ bậc rõ ràng không
thể có sự đổi ngôi, trừ khi có các vấn đề tình cảm riêng, mục đích riêng... chi
phối giao tiếp.
Có thể thấy rằng, trong đời sống thường ngày, quan hệ thân sơ và quan
hệ quyền uy đồng thời được biểu hiện. Những từ ngữ biểu hiện hai kiểu quan
hệ này được các nhân vật lựa chọn sử dụng tạo ra không khí vừa tôn ghiêm vừa
thân mật. Chẳng hạn: người con gọi bố mẹ bằng ông bà và xưng con...
b. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là một trong những yếu tố chủ đạo chi phối hoặt
động giao tiếp của con người. Đó là hiện thực khách quan mà chúng ta đang
sống với tất cả những nhân tố xã hội - ngôn ngữ ảnh hưởng đến việc lựa chọn
và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, như: hiểu biết về thế giới xã hội, văn
hóa, tôn giáo, lịch sử...; phong tục tập quán; trình độ học vấn; kinh nghiệm xã
hội; thói quen sử dụng ngôn ngữ; phạm vi giao tiếp (công sở, gia đình, lãnh thổ
riêng...); đề tài, chủ đề hay hình thức giao tiếp...
32
Trong hoàn cảnh giao tiếp bao giờ người ta cũng đặc biệt chú ý đến sự
tồn tại của tính quy thức trong giao tiếp thông qua sự diễn đạt ngôn ngữ của các
vai giao tiếp.
Tính quy thức có thể hiểu là những yêu cầu, những quy tắc, những nghi
lễ...trong những hoàn cảnh giao tiếp hẹp (không gian, thời gian cụ thể để cuộc
giao tiếp diễn ra như trong các nghi lễ ngoại giao, tôn giáo, trong công sở, nhà
trường...). Các nghi thức này mang tính quy phạm có chuẩn mực riêng mà các
thành viên tham gia giao tiếp ngầm hiểu và tôn trọng thực hiện.
Ngược lại, tính phi quy thức là những hành vi giao tiếp, nơi diễn ra những
hoạt động giao tiếp mà không chịu ảnh hưởng chi phối của bất cứ quy tắc, nghi lễ
nào. Các vai giao tiếp được tự do, thoải mái bộc lộ theo cách của riêng nó.
Tính quy thức/ phi quy thức của hoàn cảnh giao tiếp ảnh hưởng lớn đến
việc lựa chọn và sử dụng các từ xưng hô. Đối với những người có vị thế ngang
bằng nhau như bạn bè, từ ngữ xưng hô được sử dụng ít tính quy thức hơn.
Ngược lại đối với những người ở vị thế không ngang bằng thì vai giao tiếp (đặc
biệt là vai thấp hơn) thường có lối xưng hô quy thức, chuẩn mực, “xưng khiêm
hô tôn”.
Đối với các đại từ thực thụ trong tiếng Việt (trừ đại từ tôi) phần lớn ít có
tính quy thức. Các danh từ thân tộc (ông, bà, cô, chú, anh, chị...) đang chiếm ưu
thế trong các giao tiếp xã hội cùng các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp (giáo
sư, thầy giáo, bác sĩ...)... mang tính quy thức cao trong hoạt động giao tiếp.
trong khi đó danh từ chỉ tên riêng lại mang tính chất trung gian và thường phải
căn cứ vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà xác định tính quy thức/ phi quy thức.
1.2.3. Lý thuyết hội thoại
1.2.3.1. Khái niệm hội thoại
Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, hội thoại là một trong
những vấn đề được rất nhiều các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Các nhà Việt ngữ
học dưới nhiều góc độ nghiên cứu và đã đưa ra những định nghĩa về hội thoại.
33
Tác giả Đào Duy Anh trong Từ điển Hán Việt đã cắt nghĩa “hội” có
nghĩa là họp lại với nhau, gặp nhau; “thoại” là lời nói, nói chuyện. Như vậy,
theo cách hiểu đơn giản nhất, hội thoại là hai hay nhiều người nói chuyện với
nhau, tác động đến nhau bằng lời nói.
Tác giả Nguyễn Như Ý trong Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đã định
nghĩa: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời, ở dạng nói, giữa các nhân
vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích
được đặt ra” [54; 122] .
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong Dụng học Việt ngữ đã định nghĩa:
“Giao tiếp hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ. Trong giao tiếp, hội
thoại luôn luôn có sự hồi đáp giữa người nói và người nghe, chẳng những
người nói và người nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của từng người cũng tác
động lẫn nhau” [18; 63].
Có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về hội thoại, trong khuôn khổ
nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi lựa chọn cách định nghĩa của Đỗ Hữu
Châu trong Đại cương ngôn ngữ học - tập 2 - Ngữ dụng học: “Hội thoại là
hoạt động giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức
cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác” [8; 201].
Như vậy có thể thấy rằng, Đỗ Hữu Châu đưa ra khái niệm “hội thoại”
một cách bao quát và rộng hơn, có thể áp dụng cho nhiều hình thức ngôn ngữ:
hội thoại là hoạt động giao tiếp thường xuyên và căn bản nhất, là cái gốc của
các hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại có một số đặc điểm sau:
- Thoại trường là khoảng thời gian, không gian diễn ra cuộc hội thoại.
Thoại trường có thể mang tính công cộng cũng có thể mang tính riêng tư tùy
theo không gian và quan hệ giữa các vai thoại.
- Số lượng tham gia hội thoại trong từng cuộc thoại là không giống nhau.
cuộc thoại có hai người tham gia gọi là song thoại, ba người tham gia gọi là
tam thoại, nhiều người tham gia hội thoại hơn nữa gọi là đa thoại. Trong đó,
song thoại là hình thức hội thoại cơ bản và phổ biến nhất.
34
- Đích hội thoại có thể là mục tiêu ban đầu người tham thoại đã đề ra đã
xác định rõ ràng và hướng đến. Cũng có thể đích hội thoại nảy sinh trong quá
trình hội thoại một cách tự phát. Có những cuộc thoại ngẫu hứng tự do, có
những cuộc tán gẫu của bạn bè, có những cuộc thoại về chính trị, kinh tế, xã
hội, cũng có những cuộc thoại về nỗi niềm riêng tâm sự riêng. Mỗi một cuộc
thoại đều có một đích giao tiếp nhất định.
- Hình thức hội thoại: các cuộc hội thoại bao giờ cũng được diễn ra dưới
một hình thức nhất định và không giống nhau. Trong các cuộc mít tinh, hội
nghị, đại hội thường có hình thức cố định, chặt chẽ, mang tính nghi thức và có
tính tuần tự. Ngược lại, trong giao tiếp thường ngày, các cuộc thoại được diễn
ra tự do, không có tính quy thức, không bị bó buộc và không cần hình thức tổ
chức hỗ trợ nào cả.
1.2.3.2. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân
Hội thoại không phải diễn ra một cách tùy tiện mà theo những quy tắc
nhất định như: quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời, quy tắc điều hành nội
dung cuộc thoại, quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại và quy tắc chi phối
quan hệ liên cá nhân (phép lịch sự). Trong các quy tắc kể trên thì quy tắc chi
phối quan hệ liên cá nhân có tác động quan trọng đến nội dung cuộc thoại, ảnh
hưởng to lớn đến việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện xưng hô trong tác
phẩm văn học.
Lịch sự là một hiện tượng có tính phổ quát của xã hội trong mọi lĩnh vực.
Nhất là trong giao tiếp, lịch sự là một yếu tố vô cùng quan trọng: “Phép lịch sự
là hệ thống những phương thức mà người nói đưa vào hoạt động nhằm điều
hòa và gia tăng giá trị của đối tác với mình” [8; 280].
Lịch sự là những nguyên tắc chung trong tương tác xã hội của mỗi nền
văn hóa. Nói đến phép lịch sự, không thể không nhắc đến các khái niệm: thể
diện, hành vi đe dọa thể diện, chiến lược lịch sự... vì đây là những yếu tố quan
trọng có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc hội thoại.
35
a. Thể diện
Khái niệm “thể diện” được Brown và Levinson định nghĩa là: “hình ảnh
về ta công cộng mà mỗi thành viên trong xã hội muốn mình có được” [dẫn theo
8; 264]. Đây chính là cảm giác về giá trị cá nhân, ấn tượng cá nhân mà mỗi
người xây dựng nên cho những người tham gia giao tiếp được biết.
Khi đề cập đến vấn đề thể diện, các nhà nghiên cứu thường chú ý đến thể
diện âm tính và thể diện dương tính.
Thể diện âm tính: theo J. Thomas: “là mong muốn không bị can thiệp,
mong muốn được hành động tự do theo như cách mình đã lựa chọn” [dẫn theo
8; 264]. Theo G.Yule, thể diện âm tính là: “nhu cầu được độc lập, tự do trong
hành động, không bị người khác áp đặt.” [dẫn theo 8; 264].
Thể diện dương tính: theo G.Yule “Thể diện dương tính của một người
là cái nhu cầu được chấp nhận, thậm chí được yêu thích bởi người khác, được
đối xử như là một thành viên của cùng một nhóm xã hội và nhu cầu được biết
rằng mong muốn của mình cũng được người khác chia sẻ. Nói đơn giản thì thể
diện âm tính là nhu cầu được độc lập còn thể diện dương tính là nhu cầu được
liên thông với người khác” [dẫn theo 8; 264].
Như vậy, hành động giữ thể diện hướng vào thể diện âm tính, phải thể
hiện sự tôn trọng, nhấn mạnh tầm quan trọng của thời gian và quan hệ của
người khác. Hành động đó được gọi là phép lịch sự âm tính. Hành động giữ thể
diện hướng vào thể diện dương tính sẽ phải thể hiện sự đoàn kết, nhấn mạnh
vào mục đích chung của những người tham gia hội thoại. Đây là phép lịch sự
dương tính. Trong hội thoại, sự cân bằng giữa phép lịch sự âm tính và phép lịch
sự dương tính là một yêu cầu cần thiết và khó khăn trong việc tự hoàn thiện
mình của mỗi cá nhân.
b. Hành vi đe dọa thể diện
Trong hội thoại, những người tham gia đều mong muốn được giữ thể
diện. Mong muốn giữ thể diện là thể hiện cách xử sự sao cho hình ảnh của
36
mình được công cộng tôn trọng. Hoạt động giữ thể diện là hoạt động người
tham gia hội thoại không làm mất của mình và người khác.
Đại bộ phận các hành vi ngôn ngữ đều tiềm ẩn khả năng làm tổn hại đến
thể diện. Tương ứng với các thể diện sẽ xuất hiện các hành vi đe dọa thể diện
như sau:
- Hành vi đe dọa thể hiện âm tính của người thực hiện như: biếu, tặng,
hứa, thề thốt...
- Hành vi đe dọa thể diện dương tính của người thực hiện như: cảm ơn,
thú tội, xin lỗi...
- Hành vi đe dọa thể hiện âm tính của người tiếp nhận như: dặn dò,
khuyên nhủ...
- Hành vi đe dọa thể hiện dương tính của người tiếp nhận như: mắng mỏ,
phê bình...
Do tiềm năng đe dọa thể diện như vậy, nên khi tiến hành hoạt động lịch
sự, người nói nên cân nhắc hiệu lực đe dọa thể diện ở hành vi tại lời mà mình
sắp thực hiện để đạt hiệu quả giao tiếp cao.
1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Vi Hồng
1.3.1. Cuộc đời nhà văn Vi Hồng
Vi Hồng tên khai sinh là Vi Văn Hồng, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1936
tại bản Phai Thin, xã Đức Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Nhà văn có bút
danh khác là Hà Thúy Slao. Ông là con trai duy nhất trong một gia đình nông
dân nghèo, dân tộc Tày giàu truyền thống văn hóa. Quê hương ông là một trong
những cái nôi bảo tồn và lưu giữ truyền thống văn hóa Tày vùng Việt Bắc.
Ngay từ thuở thơ ấu, những câu chuyện kể dân gian Tày đã mang theo chất văn
giống như chất xúc tác đặc biệt thấm dần và hình thành vào tâm hồn nhà văn.
Từ nhỏ, Vi hồng đã rất thông minh và học rất giỏi. Năm 1943, lên bảy
tuổi, Vi Hồng bắt đầu tự học chữ Hán, chữ Quốc ngữ và được vào thẳng lớp
bốn trường làng.
37
Từ mười tuổi, Vi Hồng đã học một cách có ý thức các điệu lượn, điệu
then từ bà. Năm mười ba tuổi, Vi Hồng tập làm thơ, chủ yếu là thể Phong Slư-
một thể thơ tỏ tình trao duyên của dân dộc Tày.
Năm 1955, Vi Hồng xuống Thái Nguyên học trường cấp III Lương Ngọc
Quyến. Sau đó Vi Hồng thi đỗ vào khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm I Hà
Nội. Sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại trường làm giảng viên nhưng nhà văn
đã xung phong lên công tác ở sở Giáo dục Hà Giang. Một thời gian sau, ông trở
về Đại học Sư phạm I Hà Nội giảng dạy. Năm 1966, Trường Đại học Sư phạm
Việt Bắc được thành lập, Vi Hồng là một trong những nhà giáo đầu tiên xung
phong lên Thái Nguyên giảng dạy. Từ đó, Vi Hồng đã gắn bó với mảnh đất nơi
đây trở thành một nhà giáo ưu tú và cho ra đời nhiều công trình sáng tác và
nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian Tày - Nùng.
Nhà văn Vi Hồng đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 31 tháng 3 năm
1997 tại thành phố Thái Nguyên khi những trang tiểu thuyết của ông vẫn còn
dang dở.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng
Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Việt Bắc, Vi Hồng rất có ý thức tìm hiểu
những di sản văn hóa, văn học của dân tộc mình. Nhà văn dồn rất nhiều tâm
huyết cho nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian của các dân tộc Việt Bắc.
Vi Hồng đã làm việc một cách nhiệt huyết, cần mẫn miệt mài để cho ra đời một
khối lượng tác phẩm văn học khá phong phú và dày dặn.
Về công trình nghiên cứu và sưu tầm: Vi Hồng cho ra đời 7 cuốn sách
nghiên cứu và sưu tầm văn học dân gian. Đáng kể nhất là các tác phẩm: Sli,
lượn, dân ca trữ tình Tày - Nùng, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.1979; Khảm hải,
Nxb Văn hóa Dân tộc, H.1993; Thì thầm dân ca nghi lễ. Nxb Văn hóa Dân
tộc, H.2001; Sáu tập sưu tầm Truyện cổ Tày - Nùng do Hội Văn nghệ Bắc
Thái in năm 1993…và hàng chục bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí trung
ương và địa phương. Nhà văn cũng viết một số bài thuộc lĩnh vực khoa học
38
giáo dục, cụ thể là về dạy và học văn ở miền núi (đăng trên Tạp chí Văn học,
Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp...). Những công trình nghiên cứu
đã phản ánh tài năng và tâm huyết của nhà văn Vi Hồng đối với di sản văn
hóa, văn học dân gian.
Về sáng tác văn học, Vi Hồng thành công ở cả ba thể loại: truyện ngắn,
truyện vừa và tiểu thuyết với 15 cuốn tiểu thuyết, 4 tập truyện vừa, 1 tập truyện
ngắn. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cho các sáng tác văn học của mình:
- Năm 1960: Giải Nhì - Giải thưởng của Tổng hội Sinh viên Việt Nam
cho truyện ngắn Ngôi sao đỏ trên đỉnh núi Phja Hoàng.
- Năm 1962: Giải Nhì báo Người giáo viên nhân dân cho truyện ngắn
Cây su su nọong Ỷ.
- Năm 1963: Giải Nhì cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Việt
Bắc cho truyện ngắn Nước suối tiên đào.
- Năm 1971: Giải ba cuộc thi truyện ngắn do Hội Nhà văn Việt Nam tổ
chức cho truyện Cọn nước Eng Nhàn.
- Năm 1993: Giải thưởng Văn học nghệ thuật cho tiểu thuyết Dòng sông
nước mắt.
- Năm 1994: Giải thưởng Văn học nghệ thuật cho tiểu thuyết Phụ tình.
- Năm 1994 - 1995: Giải C cuộc vận động viết về thiếu nhi dân tộc và
miền núi do báo Thiếu niên tiền phong và Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức.
- Năm 1995 Giải Ba của Hội văn nghệ Dân gian Việt Nam cho công
trình Khảm hải.
- Năm 1995 Giải Ba của Hội văn nghệ Dân gian Việt Nam cho công
trình Thì thầm dân ca nghi lễ (năm 2002 công trình này được trao giải C - Giải
thưởng Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam).
- Năm 1996 - 1997: Giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi của
nhà xuất bản Kim Đồng cho tác phẩm Đường về với Mẹ Chữ.
- Năm 2012 ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
39
Vi Hồng đã vẽ một bức tranh khái quát về cuộc sống con người và thiên
nhiên miền núi qua những phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hóa, lối suy
nghĩ tình cảm của người dân Việt Bắc. Nhà văn đã mang hồn điệu của văn học
dân gian vào trong tác phẩm của mình qua lối diễn đạt giàu hình ảnh, cách so
sánh độc đáo, sự bay bổng lãng mạn của thể loại Phong Slư (bức thư tình được
viết bằng thơ).
Trong các sáng tác của mình, Vi Hồng luôn đi vào những vấn đề mang
tính thiết thực của cuộc sống miền núi như: vấn đề người trí thức, người lao
động; vấn đề chống phong kiến; vấn đề định canh định cư; vấn đề tình yêu hôn
nhân… Có thể tìm thấy ở Vi Hồng một hồn văn chương truyền thống, một bộ óc
nhạy bén với sự biến động của thời cuộc. Tất cả như hòa quyện, giao thoa và kết
tinh lại tạo nên một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn giữa văn chương Vi Hồng với
bất kì một nhà văn nào khác.
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Vi Hồng, chúng ta càng
trân trọng khát vọng sáng tạo luôn cháy bỏng trong ông cũng như sự công phu
lao động chữ nghĩa của ông. Đúng như những người quý trọng ông đã nhận xét:
"…Đi tìm Mẹ chữ ở tuổi thiếu niên, anh là người sáng tạo một khối chữ khổng
lồ ở tuổi 60 trước lúc qua đời".
Tiểu kết chương 1:
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một số vấn đề chung mang tính
tổng quát về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý thuyết mang tính chất là
cơ sở, là tiền đề có liên quan đến đề tài. Đó là:
1. Xưng hô luôn là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm của giới ngôn
ngữ học, những nghiên cứu về từ xưng hô được xem xét dưới góc nhìn đa
chiều: góc độ lí luận chung về ngữ pháp học, góc độ phạm vi: gia đình và ngoài
xã hội, góc độ đối chiếu. Tuy nhiên hướng nghiên cứu lớp từ ngữ xưng hô
trong các tác phẩm văn học cụ thể vẫn luôn là một hướng đi mới mẻ.
40
Những nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Vi Hồng được tập trung khá
rõ ở những phương diện khác nhau như nội dung, nghệ thuật và những đóng
góp của nhà văn với nền văn học dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn
chưa thấy có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể và chuyên
biệt về “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng”. Công trình này mong
muốn đóng góp thêm một tiếng nói vào quá trình nghiên cứu, khám phá sáng
tác của nhà văn Vi Hồng.
2. Xưng hô là phạm trù quan trọng trong giao tiếp, là một lĩnh vực lý
thuyết thuộc ngành Ngữ dụng học đã có từ lâu đời cho đến ngày nay vẫn nhận
được sự quan tâm đặc biệt. Xưng hô là biểu hiện của lối ứng xử văn hóa để
thiết lập quan hệ tiếp xúc giữa những người tham gia giao tiếp. Các phương
tiện dùng để xưng hô bao gồm: đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc, danh từ
chỉ tên riêng, danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ và một số kiểu loại xưng hô
khác. Chi phối việc sử dụng lớp từ ngữ xưng hô trong các tác phẩm văn học
bao gồm cả các nhân tố ngôn ngữ học (hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp,
phép lịch sự...) và các nhân tố văn học (hội thoại trong tác phẩm văn học,
nhân vật văn học...) chúng tôi cũng xét tới một số vấn đề về lý thuyết giao tiếp
và lý thuyết hội thoại có liên quan tới phạm trù xưng gọi để làm cơ sở cho
việc nghiên cứu đề tài.
3. Vi Hồng là nhà văn tiêu biểu của nền văn học thiếu số Việt Nam hiện
đại. Sự thành công trong sáng tác của ông được thể hiện ở cả nội dung và hình
thức. Trong đó có việc làm mới ngôn ngữ dân tộc, nhất là việc sử dụng hệ
thống các từ xưng hô một cách đa dạng, phong phú và sáng tạo nhằm thể hiện
tư tưởng tình cảm một cách hiệu quả, mang đậm dấu ấn dân tộc Tày và ngôn
ngữ dân tộc Việt. Nghiên cứu “Từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng” sẽ
giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tác phẩm của nhà văn
và vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
41
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG
Vi Hồng là một cây bút có vốn sống, vốn hiểu biết, vốn ngôn ngữ vô
cùng phong phú nên từ ngữ xưng hô trong tác phẩm của ông luôn là một hệ
thống sống động, đa dạng và có sự biến hóa hết sức linh hoạt. Trong phạm vi
đề tài này, chúng tôi xin đề cập đến hai cách sử dụng từ xưng hô nổi bật nhất
và thể hiện được tài năng sử dụng từ ngữ của Vi Hồng, đó là: cách sử dụng từ
ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật và qua lời trần thuật của
chính tác giả.
Với mục đích có một cái nhìn toàn cảnh và tổng quát về từ ngữ xưng hô
trong văn xuôi Vi Hồng, chúng tôi đã lựa chọn nhiều thể loại trong sáng tác của
ông làm tư liệu khảo sát của luận văn. Đó là một số tác phẩm văn xuôi của Vi
Hồng, bao gồm: 6 tiểu thuyết, 4 truyện ngắn, 2 truyện dài và 1 truyện vừa với
1702 trang văn xuôi.
2.1. Từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật
2.1.1. Thống kê hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng
Theo số liệu khảo sát, số lượng và tần số xuất hiện của các từ xưng hô
qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong tác phẩm khá lớn. Trong 13 tác
phẩm với dung lượng 1702 trang, có tất cả 15052 lượt sử dụng. Như vậy trung
bình mỗi có trang văn xuôi có hơn 8,8 lượt từ ngữ xưng hô xuất hiện. Con số
đó không nhỏ nhất là với thể loại tiểu thuyết. Trong số 13 tác phẩm khảo sát,
tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng có số lượng từ ngữ xưng hô nhiều nhất cả về
số từ lẫn số lượt sử dụng với 191/837 từ ngữ (chiếm 22,82%) và 4045 lượt sử
dụng (chiếm 26,87%). Tác phẩm có số lượng từ ngữ xưng gọi và số lượt sử
dụng thấp nhất là tác phẩm Sự tích hang cứu tôi với với 15 từ ngữ (chiếm
1,79%) và 39 lượt sử dụng (chiếm 0,26%). Có sự chênh lệch nhau khá lớn về
việc sử dụng từ ngữ xưng trong tác phẩm Vi Hồng là do sự khác biệt về dung
lượng giữa thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài và truyện vừa.
42
Nhìn chung, các từ ngữ xưng gọi trong tác phẩm văn xuôi Vi Hồng được
sử dụng rất phong phú và thường xuyên. Ngoài việc sử dụng những từ ngữ
xưng hô thông thường, trong tác phẩm Vi Hồng còn có cả cách xưng hô đặc
biệt của dân tộc Tày với sự chất phác và cách bộc lộ thái độ trực tiếp qua xưng
hô. Lối diễn đạt rất giàu hình ảnh, nói theo đường “ong bay hoa nở” của những
trai non gái trẻ, trai thanh gái nụ đã góp phần tạo nên nét đặc trưng cho việc sử
dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng.
Nhìn một cách tổng thể các từ ngữ xưng hô trong 13 tác phẩm được chọn
để khảo sát, có thể thấy các từ ngữ xưng hô được xếp vào những nhóm sau đây:
đại từ nhân xưng; từ ngữ thân tộc; từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp; từ ngữ chỉ
tên riêng; từ ngữ xưng hô khác.
Bảng 2.1. Từ ngữ xưng hô phân loại theo nhóm
Nhóm xưng hô Số lượng từ ngữ Số lượt
Từ ngữ thân tộc 91 10,87% 7762 51,57%
Đại từ nhân xưng 35 4,18% 4658 30,95%
Từ ngữ chỉ tên riêng 270 32,26% 1585 10,53%
Kiểu loại xưng hô khác 374 44,69% 715 4,75%
Từ ngữ chỉ chức vụ nghề nghiệp 67 8,00% 332 2,20%
Tổng 837 100% 15052 100%
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy các nhóm được sử dụng làm
phương tiện xưng hô có số lượng và tần số xuất hiện khác nhau: một số nhóm
được sử dụng làm phương tiện xưng hô có số lượng xuất hiện lớn nhưng tần số
sử dụng lại thấp; ngược lại, có một số nhóm tuy số lượng ít nhưng tần số sử
dụng lại rất cao. Cụ thể:
1. Xét về tổng số các từ ngữ dùng để xưng hô theo thứ tự từ cao xuống
thấp, chúng ta có:
Kiểu loại xưng hô khác có số lượng nhiều nhất, chiếm 374/837 từ ngữ
dùng để xưng hô, tương đương với 44,69% trong tổng số các phương tiện dùng
để xưng hô.
43
Từ ngữ chỉ tên riêng có số lượng từ lớn thứ hai với 270/837 từ ngữ,
chiếm 32,26% trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.
Từ ngữ thân tộc có số lượng từ lớn thứ ba với 91/837 từ ngữ, chiếm
10,87% trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.
Từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp có số lượng từ lớn thứ tư với 67/837 từ
ngữ, chiếm 8,00% trog tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.
Đại từ nhân xưng có số lượng từ nhỏ nhất với 35/837 từ ngữ, chiếm
4,18% trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.
2. Xét về tần số sử dụng của các nhóm từ xưng hô theo thứ tự từ cao
xuống thấp thì có sự chuyển đổi. Chúng ta có:
Cao nhất là từ ngữ thân tộc với 7762 lượt sử dụng, chiếm 51,57% trong
tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.
Thứ hai là đại từ nhân xưng với 4658 lượt sử dụng, chiếm 30,95% trong
tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.
Thứ ba là từ ngữ chỉ tên riêng với 1585 lượt sử dụng, chiếm 10,53%
trong tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.
Thứ tư là nhóm kiểu loại xưng hô khác với 715 lượt sử dụng, chiếm
4,75% trong tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.
Nhóm từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ có 332 lượt sử dụng, chiếm
2,20% trong tổng số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.
Kết quả trên cho thấy các từ ngữ để xưng hô trong tác phẩm của Vi Hồng
là rất đa dạng về loại đơn vị từ vựng và phong phú về hình thức biểu đạt. Điều
đó chứng tỏ vốn ngôn ngữ rất dồi dào của nhà văn.
Khi đi sâu vào tìm hiểu từng nhóm từ ngữ dùng làm phương tiện xưng
hô trong 13 tác phẩm của Vi Hồng, chúng tôi thấy rằng trong cùng một nhóm
từ ngữ xưng hô có những cách cấu tạo khác nhau tạo nên sự đa dạng cho chính
các loại đơn vị từ vựng.
44
2.1.1.1. Đại từ nhân xưng
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy đại từ nhân xưng có số lượng từ
ngữ xưng hô nhỏ nhất với 35/837 từ ngữ, tương đương với 4,18% nhưng khi đi
vào hành chức lại chiếm vị trí thứ hai 4658 lượt, chiếm 30,95% trong tổng số
lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô.
Về cấu tạo, các đại từ nhân xưng có thể phân chia thành đại từ nhân xưng
số ít và đại từ nhân xưng số nhiều.
Bảng 2.2. Đặc điểm cấu tạo của đại từ nhân xưng
Sự phân bố Số lượng xuất hiện Tần số sử dụng Đặc điểm cấu tạo
Số ít 13 37,14% 3846 82,57%
Số nhiều 22 62,86% 812 17,43%
Tổng số 35 100% 4658 100%
Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy các đại từ nhân xưng số ít giữ vai trò
chủ yếu trong hệ thống đại từ nhân xưng trong văn xuôi Vi Hồng.
- Về số lượng, các đại từ nhân xưng số ít chiếm 13 từ (37,14%), ít hơn
nhóm đại từ nhân xưng số nhiều. Tuy nhiên xét về khả năng hành chức của
chúng trong văn bản thì chiếm tới 3846/4658 (lượt sử dụng) tương đương với
82,57%. Cao nhất là đại từ tôi (1290 lượt sử dụng), tao (733 lượt sử dụng),
mình (số ít) (682 lượt sử dụng), mày (634 lượt sử dụng)...
- Các đại từ nhân xưng số nhiều tuy xuất hiện với số lượng gần gấp đôi
nhóm đại từ nhân xưng số ít (22/13), tuy nhiên khi đi vào hành chức số lượt sử
dụng lại thấp hơn (812/4658) tương đương 17,43%. Cao nhất là đại từ chúng ta
(266 lượt sử dụng), ta (263 lượt sử dụng), chúng tôi (88 lượt sử dụng)...
- Về cấu tạo, đại từ nhân xưng số ít thường được cấu tạo bằng các từ một
hình vị, đại từ nhân xưng số nhiều được cấu tạo từ 2 hình vị trở lên. Các đại từ
nhân xưng số nhiều có cách cấu tạo chủ yếu là sự kết hợp danh từ chỉ đơn vị
với đại từ nhân xưng (chúng, bọn...+ đại từ nhân xưng). Ví dụ: chúng ta, chúng
tôi, bọn mày, bọn mình...
45
Ngoài cách cấu tạo tạo đại từ nhân xưng số nhiều kể trên, trong văn xuôi
Vi Hồng còn sử dụng một hệ thống các đại từ nhân xưng là những từ vay mượn
gốc Hán: nàng, chàng, ngài, nhà ngươi...
2.1.1.2. Từ ngữ thân tộc
Từ ngữ thân tộc chiếm vị trí thứ 3 (91/837), tương đương với 10,53%
trong tổng số các từ ngữ xưng hô và đứng thứ nhất (7762/15052), tương đương
với 51,57% về số lượt sử dụng các từ ngữ dùng để xưng hô trong 13 tác phẩm
văn xuôi của Vi Hồng mà chúng tôi đã chọn để khảo sát.
Xét về cách cấu tạo thì các từ ngữ thân tộc dùng để xưng hô trong 13 tác
phẩm văn xuôi của Vi Hồng được chia thành hai loại chính: danh từ thân tộc
gồm 1 hình vị và từ ngữ thân tộc ≥ 2 hình vị. Ngoài ra trong văn xuôi Vi Hồng
còn sử dụng các danh từ thân tộc gốc Hán. Chúng ta có bảng sau:
Bảng 2.3. Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ thân tộc
Sự phân bố Số lượng Tần số
Đặc điểm cấu tạo xuất hiện sử dụng
1 hình vị 19 20,88% 7319 94,29%
Kết hợp các danh từ thân tộc 18 19,78% 199 2,56%
Danh từ thân tộc + danh từ đơn vị 25 27,47% 182 2,35%
Danh từ thân tộc + số từ 6 6,59% 25 0,32%
≥2 hình vị Danh từ thân tộc gốc Hán 4 4,40% 16 0,21%
Danh từ thân tộc + yếu tố chỉ đặc 14 15,39% 15 0,19% điểm, tính chất
Danh từ thân tộc + từ chỉ thứ bậc 5 5,49% 6 0,08%
Tổng số 91 100% 7762 100%
- Nhóm danh từ thân tộc gồm 1 hình vị cũng là nhóm từ thân tộc chuyên
dụng, chiếm 19/91 tổng số danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô, tương
đương với 20,88%, khả năng đi vào hành chức của chúng rất lớn, 7319/7762 lượt,
chiếm 94,29% lượt sử dụng của các danh từ thân tộc xưng hô. Nhiều nhất là từ em
(1945 lượt sử dụng), anh (1894 lượt sử dụng) và cháu (1133 lượt sử dụng).
46
- Nhóm từ ngữ thân tộc ≥ 2 hình vị chiếm 72/91 tổng số từ ngữ thân
tộc làm phương tiện xưng hô, tương đương với 79,12%. Tuy chiếm số lượng
lớn, nhưng khả năng đi vào hành chức của chúng rất thấp chỉ chiếm
443/7762 lượt sử dụng, tương đương với 5,21%. Nhóm từ này có những cách
cấu tạo khác nhau:
+ Kết hợp các danh từ thân tộc: chiếm 18/91 từ ngữ, tương đương
19,78%. Về tần số sử dụng của chúng chiếm 199/7762 lượt, tương đương
2,56%, đứng thứ 2 sau nhóm từ thân tộc chuyên dụng. Nhiều nhất là những từ:
bố mẹ (90 lượt sử dụng), anh em (21 lượt sử dụng), ông bà (18 lượt sử dụng).
+ Danh từ thân tộc + danh từ đơn vị: chiếm 25/91 từ ngữ, tương đương
27,47% (chiếm số lượng từ lớn nhất trong tổng số các nhóm từ ngữ thân tộc để
xưng hô). Về tần số sử dụng thì đứng thứ 3 chiếm 182/7762 lượt, tương đương
2,35%. Nhóm này được sử dụng nhiều nhất là các từ: chúng cháu (36 lượt sử
dụng), các anh (23 lượt sử dụng), các ông (20 lượt sử dụng).
+ Danh từ thân tộc + yếu tố chỉ đặc điểm, tính chất: chiếm 14/91 từ ngữ,
tương đương 15,39% số lượng các từ ngữ xưng hô. Về tần số sử dụng chiếm
15/7762, tương đương 0,19%. Ngoài từ cháu gái được sử dụng 2 lần, còn lại
các từ khác chỉ được sử dụng một lần: bố già, ông anh đẹp trai, dì trẻ...
+ Danh từ thân tộc + số từ: về số lượng chiếm 6/91 từ, tương đương
6,52% số lượng các từ ngữ xưng hô. Về tần số sử dụng 25/7762 lượt sử dụng,
tương đương 0,32%. Những từ được sử dụng nhiều nhất là: hai bác (15 lượt
sử dụng), hai cháu (6 lượt sử dụng), còn lại những từ khác chỉ được sử dụng
một lượt.
+ Danh từ thân tộc + từ chỉ thứ bậc: về số lượng từ 5/91, tương
đương 5,49%, về số lượt sử dụng ít nhất trong tất cả các danh từ thân tộc
dùng để xưng hô: chiếm 6/7762, tương đương 0,08%. Ngoài từ anh cả được
sử dụng 2 lần, còn lại các từ khác chỉ được sử dụng một lần: ông tổ, cô út,
chú thứ ba...
47
+ Danh từ thân tộc gốc Hán: chiếm số lượng nhỏ nhất về số lượng từ:
4/91, tương đương 4,40%. Về tần số sử dụng là 16/7762 lượt, tương đương
0,21%. Trong nhóm từ này, các từ được sử dụng nhiều nhất là: đại huynh (4
lượt sử dụng), đại ca (4 lượt sử dụng).
2.1.1.3. Từ ngữ chỉ tên riêng
Danh từ chỉ tên riêng đứng vị trí thứ hai trong các phương tiện dùng để
xưng hô với 270 từ ngữ, chiếm 32,26% và đứng thứ ba trong tổng số lượt sử
dụng các từ ngữ dùng để xưng hô với 1585 lượt, chiếm 10,53%.
Từ ngữ chỉ tên riêng phản ánh tên gọi của các nhân vật giao tiếp mà
trong quá trình giao tiếp người ta sử dụng để thay thế cho các đại từ xưng hô
thực thụ. Cũng như các từ xưng hô lâm thời khác, hiện nay tên riêng được sử
dụng để xưng hô khá phổ biến trong tiếng Việt.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy danh từ chỉ tên riêng được sử
dụng vô cùng phong phú: ở cả 2 vị trí xưng, hô và bằng những cách kết hợp
khác nhau.
Nhóm danh từ chỉ tên riêng trong 13 tác phẩm của Vi Hồng chiếm số
lượng từ ngữ lớn: 270 từ, 1585 lượt. Nhóm này bao gồm các tiểu loại sau:
Bảng 2.4. Cấu tạo của nhóm từ ngữ chỉ tên riêng
Sự phân bố Số lượng xuất hiện Tần số sử dụng Đặc điểm cấu tạo
Tên riêng 66 24,44% 847 53,44%
Tên riêng + danh từ thân tộc 135 50.00% 540 34,07%
Tên riêng + danh từ đơn vị 16 5,93% 28 1,77%
Tên riêng + yếu tố chỉ đặc điểm 18 6,67% 54 3,41%
Tên riêng + nghề nghiệp, chức vụ 13 4,81% 37 2,33%
Tên riêng chỉ vật 7 2,59% 37 2,33%
Tên riêng + đại từ nhân xưng 12 4,45% 34 2,15%
Biệt danh 3 1,11% 8 0,50%
Tổng số 270 100% 1585 100%
48
Nhóm tên riêng có số lượng từ ngữ 66/270, tương đương 24,44%. Tuy
nhiên tiểu loại này khi đi vào hành chức trong tác phẩm Vi Hồng lại có tần suất
sử dụng lớn nhất trong nhóm từ ngữ chỉ tên riêng, với 847/1585 lượt sử dụng,
tương đương 53,44%. Tên riêng trong tác phẩm văn xuôi Vi Hồng có cả tên
riêng 1 âm tiết và 2 âm tiết mang sắc thái dân tộc Tày rất rõ. Những tên riêng
được sử dụng nhiều nhất ở nhóm tiểu loại này là: Hoàng (122 lượt sử dụng),
Thu Lạ (99 lượt sử dụng), Đàng (68 lượt sử dụng).
Nhóm tên riêng + danh từ thân tộc có số lượng từ ngữ lớn nhất với
135/270 từ ngữ, chiếm 50,00%, tuy nhiên khi đi vào hành chức, tiểu loại này
chỉ xếp ở vị trí thứ hai với 540/1585 lượt sử dụng, tương đương với 34,07%.
Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: anh Hoàng (48 lượt sử dụng),
anh Tú (28 lượt sử dụng), anh Mi Tráng (26 lượt sử dụng).
Nhóm tên riêng + danh từ đơn vị có số lượng 16/270 từ ngữ, tương
đương 5,93%. Khi đi vào hành chức, nhóm từ này chiếm 28/1585 lượt sử dụng,
tương đương 1,77%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: thằng
Hoàng (9 lượt sử dụng), thằng Ang (2 lượt sử dụng), thằng Kim Công (2 lượt
sử dụng).
Nhóm tên riêng + yếu tố chỉ đặc điểm có số lượng từ ngữ 18/270, tương
đương 6,67%. Khi đi vào hành chức, nhóm từ này chiếm 54/1585 lượt sử dụng,
tương đương 3,41%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: già Viền
(20 lượt sử dụng), già Xanh (11 lượt sử dụng), Mạc trọc (5 lượt sử dụng).
Nhóm tên riêng + danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ có số lượng 13/270
từ ngữ, tương đương 4,81%. Khi đi vào hành chức, nhóm từ này chiếm 37
lượt sử dụng, tương đương 2,33%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là
các từ: tảo Mu (17 lượt sử dụng), then Kì (5 lượt sử dụng), tảo Lăm Đăm (3
lượt sử dụng).
Nhóm tên riêng + đại từ nhân xưng có số lượng từ ngữ 12/270, tương
đương 4,45%. Về tần số sử dụng của nhóm từ này là 34 lượt, tương đương
49
2,15%. Nhóm tiểu loại này sử dụng nhiều nhất là các từ: bạn Kì (7 lượt sử
dụng), bạn Thu Lạ (7 lượt sử dụng), bạn Đàng (5 lượt sử dụng).
Nhóm biệt danh là nhóm có số lượng nhỏ nhất cả về số lượng từ ngữ và
tần số sử dụng với 3/270 từ ngữ chiếm 1,11%, 8 lượt sử dụng chiếm 0,50%.
Trong nhóm tiểu loại này các từ anh Pu Pa, Hoa Nước được sử dụng 3 lượt,
còn từ cháu Hoa Nước được sử dụng 2 lượt.
Nhóm tên riêng chỉ vật có số lượng từ ngữ 7/270, tương đương 2,59%.
Về tần số sử dụng, nhóm này chiếm 37/1585 lượt, tương đương 2,33%. Đây là
tiểu loại rất đặc biệt dùng để hô các con vật trong tác phẩm. Nhóm tiểu loại này
sử dụng nhiều nhất là các từ: Vài Mu (11 lượt sử dụng), Đăm (9 lượt sử dụng),
Cắng (7 lượt sử dụng).
2.1.1.4. Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ chiếm vị trí thứ tư trong tổng số các
phương tiện dùng để xưng hô (67/837), tương đương 8,00 % và được sử dụng ít
nhất trong tổng số lượt sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô 332 lượt
(2,20%) trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng.
Trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng, có tất cả 67 từ thuộc nhóm
danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ với 332 lượt sử dụng. Trong đó:
Bảng 2.5. Cấu tạo của từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
Sự phân bố Số lượng xuất hiện Tần số sử dụng
Tiểu loại Nghề nghiệp Chức vụ Nghề nghiệp + chức vụ Trình độ
Tổng 23 40 2 2 67 34,32% 59,70% 2,99% 2,99% 100% 257 70 3 2 332 77,42% 21,08% 0,90% 0,60% 100%
Nhìn vào bảng thống kê trên, ta thấy số lượng các danh từ chỉ chức vụ
chiếm hơn một nửa trong tổng số các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, với
40/67 từ ngữ, chiếm 59,70%. Tuy nhiên về tần số sử dụng thì ở mức trung
bình với 70 lượt, chiếm 21,08%. Các từ được sử dụng nhiều nhất là: thủ
50
trưởng (9 lượt sử dụng), quan viện trưởng (6 lượt sử dụng), đồng chí bí thư (3
lượt sử dụng).
Từ ngữ chỉ nghề nghiệp có số lượng từ ngữ là 23/67, chiếm 34,32%
trong tổng số từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ. Tuy nhiên khi đi vào hành chức,
tiểu loại này lại lớn gấp ba lần danh từ chỉ chức vụ, với 257/332 lượt sử dụng,
tương đương 77,42%. Những từ được sử dụng nhiều nhất là quan (53 lượt sử
dụng), bác sĩ (24 lượt sử dụng), dõng (7 lượt sử dụng).
Hai tiểu loại từ ngữ chỉ trình độ và từ ngữ chỉ nghề nghiệp + chức vụ
chiếm vị trí nhỏ cả về số lượng từ và về tần suất sử dụng trong tác phẩm với 4
từ và 5 lượt sử dụng.
Bên cạnh những từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ mang sắc thái biểu
cảm thông thường thì việc kết hợp các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ với
danh từ thân tộc, từ loại tính từ... cũng góp phần thể hiện sắc thái biểu cảm
cho nhóm từ này.
Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ + tính từ: quan lớn, quan sang... thể
hiện sắc thái kính trọng.
Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ + danh từ thân tộc: quan anh, quan
ông... biểu thị sắc thái lễ phép, kính trọng.
2.1.1.5. Kiểu loại xưng hô khác
Bên cạnh các phương tiện dùng để xưng hô được chia thành các nhóm
như: đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc, danh từ chỉ tên riêng, danh từ chỉ
chức vụ nghề nghiệp..., trong văn xuôi Vi Hồng còn rất nhiều từ ngữ xưng
hô có cấu tạo và cách diễn đạt khá đặc biệt nên chúng tôi xếp vào nhóm kiểu
loại xưng hô khác.
Kiểu loại xưng hô khác có số lượng từ lớn nhất so với các phương tiện
xưng hô còn lại với 374 từ ngữ. Về tần số sử dụng nhóm từ này xếp vị trí thứ 4
với 715 lượt sử dụng. Trong nhóm từ ngữ này, có 75 từ ngữ được sử dụng từ 2
lượt trở lên, còn lại 299 từ ngữ chỉ được sử dụng một lượt. Các từ xưng hô
51
được sử dụng nhiều nhất là: già (68 lượt sử dụng), các thằng mày (20 lượt sử
dụng), mường ta (18 lượt sử dụng). Nhóm từ này có các cách cấu tạo như sau:
- Đại từ nhân xưng + các yêu tố khác (danh từ thân tộc, danh từ chỉ tên
riêng...) chiếm số lượng lớn nhất cả về sô lượng từ ngữ với 83/374 và về tần số
sử dụng 195/715 lượt sử dụng. Những từ được sử dụng nhiều nhất trong nhóm
tiểu loại này là: các thằng mày (20 lượt sử dụng), mường ta (18 lượt sử dụng),
đôi ta (6 lượt sử dụng).
- Danh từ chỉ vật chiếm số lượng 24/374 từ ngữ của kiểu loại xưng hô
khác với 41 lượt sử dụng. Đây là tiểu loại chỉ những sự vật ngoài tự nhiên được
nhà văn Vi Hồng sử dụng rất sáng tạo qua cách gọi tên các sự vật đó: thần
sông, thần suối, bố trời, mẹ đất, thần rừng xanh, thần cây...Con người và thiên
nhiên như giao hòa và có thể giao tiếp với nhau, các lực lượng siêu nhiên như
lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của con người. Những từ được sử dụng
nhiều nhất trong nhóm tiểu loại này là: mẹ đất (4 lượt sử dụng), bố trời (3 lượt
sử dụng), trời (3 lượt sử dụng).
- Đại từ chỉ thị (này, kia, ấy, nọ, đó, đây) chiếm số lượng 55/374 từ ngữ
và 102/715 lượt sử dụng. Điều đó cho thấy tiểu loại này được sử dụng đa dạng
tạo nên một nét đặc trưng riêng trong xưng hô của tác Phẩm Vi Hồng. Các từ
được sử dụng nhiều nhất là: đây (15 lượt sử dụng), đằng ấy (12 lượt sử dụng),
già này (6 lượt sử dụng).
- Tiếng chửi tục, chửi thề chiếm số lượng 38/374 từ ngữ với 39 lượt sử
dụng. Các từ thuộc nhóm tiểu loại này chủ yếu bộc lộ thái độ tức giận, căm thù,
mỉa mai, khinh bỉ của người nói đối với người nghe. Hầu như các từ thuộc
nhóm chửi thề mỗi từ thường chỉ sử dụng 1 lượt: đồ vô phúc, đồ con chó không
nghe lời chủ, cái đồ lông cánh lông đuôi cun củn...
- Từ ngữ chỉ một nhóm đối tượng được nói tới chiếm 21/374 từ ngữ
xưng hô với 26 lượt sử dụng, người nghe cùng một lúc “hô” và giao tiếp với rất
nhiều với vai trò là người điều hành cuộc thoại. Các từ sử dụng nhiều nhất
52
trong nhóm tiểu loại này là: anh em mọi người (4 lượt sử dụng), anh chị em mọi
người (2 lượt sử dụng), anh em họ Nông (2 lượt sử dụng).
- Phương ngữ + khẩu ngữ: chiếm 13/374 từ ngữ, với 57 lượt sử dụng.
trong đó chủ yếu là các từ phương ngữ Tày với 11 từ, 55 lượt sử dụng (lạo pản,
pỉ noọng, vãi...) và các từ khẩu ngữ với 2 từ, 2 lượt sử dụng (cái mẹ Ỷ, con mẹ
Nơ). Việc sử dụng lớp từ phương ngữ và khẩu ngữ tạo nên sự đa dạng trong hệ
thống xưng hô của văn xuôi Vi Hồng. Người đọc như được mở rộng thêm vốn
ngôn ngữ và có những hiểu biết cụ thể về các từ xưng hô của người Tày.
- Từ ngữ xưng hô chỉ đặc điểm (giới tính, tuổi tác, hình thức, tính tình...)
chiếm 41/374 từ ngữ, với 135 lượt sử dụng. Những từ xuất hiện nhiều nhất là từ
già (68 lượt sử dụng), bạn gái Xinh Xông (9 lượt sử dụng), lão (8 lượt sử dụng).
- Từ ngữ xưng hô bộc lộ thái độ trực tiếp chiếm 7/374 từ ngữ, với 7 lượt
sử dụng. Các từ ngữ này xuất hiện góp phần thể hiện tình cảm, thái độ của
người nói với người nghe (bạn thân mến, em yêu quý, chị dâu kính yêu...).
Ngoài những từ ngữ xưng hô kể trên, trong văn xuôi Vi Hồng còn có một
kiểu loại từ ngữ xưng hô khá đặc biệt, theo chúng tôi gọi nhóm từ ngữ xưng hô
này là nhóm từ ngữ xưng hô bộc lộ mối quan hệ của vai nói với vai nghe.
Nhóm từ này chiếm số lượng 56 từ ngữ với 60 lượt sử dụng. Nhóm xưng hô sở
hữu này được cấu tạo theo công thức A của B. Trong đó A là vai nghe, B là vai
nói. Đa số nhóm từ này xuất hiện để bộc lộ sắc thái biểu cảm gần gũi, thân
thuộc của vai nghe với vai nói. Sự xuất hiện của nhóm từ này xuất phát từ lối
nói thân thiện của người Tày và qua đó thể hiện sự đa dạng trong cách sử dụng
từ ngữ xưng hô của Vi Hồng. Ngoài những từ anh Pu Pa của em (4 lượt sử
dụng), anh yêu của em (2 lượt sử dụng), các từ ngữ khác đều được sử dụng mỗi
từ một lần (búp nụ và bông hoa của anh, con gái đẹp con gái xinh con gái thơm
của mẹ, cháu hai mươi đời của ông...).
53
Các từ ngữ xưng hô còn lại (36 từ, 53 lượt sử dụng) là những từ ngữ
xưng hô bao gồm nhiều yếu tố hợp thành (tên riêng, danh từ chỉ đơn vị, danh từ
thân tộc, những từ xưng hô ngoài xã hội....). Ví dụ như: đồng chí, cùng thân họ
bạn Ai Hoa, ban lãnh đạo...).
2.1.2. Từ ngữ xưng hô xét về các vai giao tiếp
Khi khảo sát các từ ngữ xưng hô trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi
Hồng, chúng tôi chỉ xem xét các từ ngữ này ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.
Xét về các vai giao tiếp của các từ ngữ được dùng để xưng hô trong văn xuôi
Vi Hồng, chúng tôi nhận thấy số lượng và tần suất sử dụng các từ ngữ thuộc
nhóm xưng ít hơn so với nhóm hô. Cụ thể:
Bảng 2.6. Vai giao tiếp trong từ ngữ xưng hô
Kiểu loại Số lượng Số lượt sử dụng
Nhóm hô 703 80,07% 7687 51,07%
Nhóm xưng 175 19,93% 7365 48,93%
Tổng 878 100% 15052 100%
Xét về các vai giao tiếp của các từ ngữ được dùng để xưng hô trong tác
phẩm văn xuôi Vi Hồng cho thấy: nhóm hô chiếm tỉ lệ cao hơn nhóm xưng cả
về số lượng từ và tần số sử dụng. Về mặt số lượng từ ngữ, nhóm hô nhiều gấp
hơn 4 lần so với nhóm xưng: nhóm hô 703/878 từ, tương đương 80,07%, nhóm
xưng 175/878 từ, tương đương 19,93%. Về số lần xuất hiện, nhóm hô nhiều
hơn nhóm xưng 322 lượt sử dụng: nhóm hô 7687 lượt sử dụng, chiếm 51,07%,
nhóm xưng 7365 lượt sử dụng, chiếm 48,93%.
Trong các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng khi xét về vai giao tiếp cũng
có sự chênh lệch nhau. Cụ thể ta có bảng số liệu sau:
54
Bảng 2.7. Từ ngữ xưng hô xét về vai giao tiếp trong các tác phẩm
Số lượt sử dụng STT Tác phẩm Xưng Hô
Tháng năm biết nói Người trong ống Dòng sông nước mắt Vãi Đàng Đất bằng Thách đố Người làm mồi bẫy hổ Đường về với mẹ chữ
1 Mùa hoa Bioóc loỏng 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Cọn nước Eng Nhàn 11 Nghĩ sủi bọt đá 12 Béc - Kha - Cải 13 Sự tích hang cứu tôi với
Tổng số 2051 1164 1274 912 613 626 429 152 28 37 42 18 19 7365 27,84% 15,80% 17,30% 12,38% 8,33% 8,50% 5,83% 2,06% 0,38% 0,50% 0,57% 0,25% 0,26% 100% 1994 1225 1150 1054 770 685 441 194 48 41 40 25 20 7687 25,94% 15,94% 14,96% 13,71% 10,02% 8,91% 5,74% 2,52% 0,62% 0,53% 0,52% 0,33% 0,26% 100%
Trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng, tiểu thuyết Mùa Hoa Bioóc
loỏng là tác phẩm có các từ ngữ xưng và hô xuất hiện với tần suất cao nhất với
2051 lượt xưng (chiếm 27,84%) và 1994 lượt hô (chiếm 25,94%), truyện ngắn
Béc - Kha - Cải là tác phẩm có tần suất sử dụng từ ngữ xưng hô nhỏ nhất với
18 lượt xưng (chiếm 0,25%) và 25 lượt hô (chiếm 0,33%). Những từ ngữ xuất
hiện nhiều nhất trong nhóm xưng là: em (1378 lượt), tôi (1290), tao (733
lượt)... Những từ xuất hiện nhiều nhất trong nhóm hô là: anh (1395 lượt), mày
(634 lượt), cháu (533 lượt)...
Trong văn xuôi Vi Hồng, các từ ngữ xưng hô có hiện tượng kiêm chức.
Nghĩa là có những từ xuất hiện với cả hai vai trò là xưng và hô như: anh, em,
cháu, con, già....và một số từ chỉ tên riêng: Băng, Hoàng, Ai Hoa... cũng đảm
nhận cả chức năng xưng và hô.
Có thể thấy rằng, bằng việc sử dụng hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp,
Vi Hồng đã xây dựng thành công hình tượng các nhân vật qua chính ngôn ngữ
55
đối thoại của các nhân vật ấy. Qua xưng hô, các nhân vật bộc lộ rõ nét tính
cách, quan điểm, thái độ, phong cách của mình.
2.2. Từ xưng hô qua ngôn ngữ trần thuật của tác giả
Bên cạnh việc thể hiện sự phong phú và đa dạng của các lớp từ xưng hô
qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật, trong tác phẩm của Vi Hồng, ta còn
bắt gặp một ngôn ngữ mang nét riêng của nhà văn, đó chính là ngôn ngữ trần
thuật của tác giả.
Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc đã định
nghĩa: “Ngôn ngữ tác giả (thuyết minh, dẫn dắt), phải tương đối khách quan.
Nhưng nhà văn Việt Nam trong cách gọi tên cũ phải xác định cương vị: dạng
cùng tuổi tác hoặc cảm tình ở mức độ nào đó với nhân vật, dạng thân hay
không thân...(kiểu Lạp, Lê, Pha, Mị...) hoặc cùng giới (chẳng hạn Nguyễn
Công Hoan gọi Pha là Pha và vợ Pha là chị Pha) cái khó khăn là dùng ngôi
thứ ba thế nào để có tính khách quan...” [31; 176].
Việc sử dụng từ xưng hô qua ngôn ngữ trần thuật của tác giả góp phần
thể hiện quan điểm, thái độ, tình cảm, cách đánh giá của nhà văn với các nhân
vật trong tác phẩm, qua đó một lần nữa bộc lộ rõ nét hơn tính cách các nhân vật
trong tác phẩm.
Nếu như Nam Cao gọi các nhân vật của mình bằng cách gọi lạnh lùng vô
cảm nhưng lại gói ghém trong cách gọi đó một tình thương yêu bao la, sự đồng
cảm chia sẻ, một tấm lòng nhân hậu của mình dành cho các nhân vật của ông, thì
Vi Hồng lại sử dụng cách gọi tên các nhân vật để bộc lộ thái độ yêu ghét rõ ràng
một cách trực tiếp: khi thì ngợi ca, lúc lại coi thường, căm ghét, mỉa mai... điều
này xuất phát từ tính ngay thẳng, rõ ràng, bộc trực trong cách ứng xử của người
Tày. Tìm hiểu cách gọi nhân vật của nhà văn Vi Hồng, chúng tôi thấy tác giả sử
dụng rất khéo léo, linh hoạt và rất phù hợp với từng nhân vật. Mỗi một từ mà Vi
Hồng dùng để gọi các nhân vật của mình đều có một ý nghĩa nhất định. Kết quả
khảo sát của chúng tôi cho thấy, tác giả đã sử dụng rất nhiều kiểu xưng hô để gọi
56
tên các nhân vật trong tác phẩm của mình. Bên cạnh những cách gọi thông
thường như: gọi tên riêng (Hoàng, Băng, Ba...) gọi theo giới tính, theo độ tuổi
(anh, chị, cô, ông, bà...), Vi Hồng còn gọi tên các nhân vật của mình bằng những
từ xưng hô rất riêng biệt và mang sắc thái biểu cảm cao. Đó là những từ: lão, mụ,
hắn, nàng, chàng.
2.2.1. Từ “lão”
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, từ “lão” được nhà văn sử dụng
nhiều nhất và phổ biến nhất, “lão” xuất hiện trong 9/13 tác phẩm khi miêu tả về
các nhân vật.
Trong tiếng Việt, từ “lão” thường được dùng để chỉ những người già (ông
lão, bà lão...) để thể hiện sự thân mật trong xưng hô. Cũng có khi được dùng để
chỉ người đàn ông có tuổi với sắc thái coi khinh (lão thầy bói, lão quan huyện...).
Trong các tác phẩm của Vi Hồng, “lão” được sử dụng phổ biến, chỉ
nhiều loại người khác nhau ở cả hai sắc thái ý nghĩa trên, có khi là nhân vật
phản diện, khi là nhân vật chính diện. Nhưng nhìn chung, Vi Hồng sử dụng từ
“lão” chủ yếu là để chỉ người đàn ông đã có tuổi và dùng chỉ những nhân vật
xấu xa với hàm ý coi khinh nhiều hơn là sắc thái thân mật.
- Nhà văn Vi Hồng dùng từ “lão” để gọi các nhân vật phản diện có tính
cách xấu xa được nhà văn miêu tả rất tỉ mỉ từ ngoại hình tới nội tâm. Đó là
những ông quan tham, địa chủ; đó là những tên vô học, thích hưởng thụ, lười
lao động; đó là những kẻ ích kỉ, cổ hủ, lạc hậu; đó là những tên thầy tảo chuyên
lừa bịp để khoét tiền.
+ “Lão” để chỉ những ông quan, địa chủ với muôn vàn những cái xấu cái
ác. Đó là tổng Nhự, phó tổng Vọi trong tiểu thuyết Vãi Đàng:
“Tổng Nhự dẫn lính men theo rìa nương lên chỗ đoàn người đang ngồi
ăn. Lão mặc quần áo dạ, thắt thắt lưng to bằng bàn tay và đeo khẩu súng “sáu
viên”. Cách ăn mặc thời lão còn đóng chức cai khố đỏ. Lão leo lên đến trán
nương. Gần đoàn người, lão chống nạnh cả hai tay, đứng dạng chân...cố ra oai
nhìn mọi người. Nhưng thực ra lão đứng để thở.” [56; 34, 35].
57
“ Lão phó Tổng Vọi cười... Rồi lão im bặt, đưa con mắt lợn luộc nhìn
vào mặt Đàng... Lão đứng dậy phủi áo, phủi đít quần thùm thụp rồi chui ra
khỏi lều, không chào ai một tiếng.” [56; 17, 18].
Đó là lão chánh tổng trong tiểu thuyết Đất bằng:
“Lão chánh tổng bỏ thuốc độc cho chết. Con chết, mẹ điên. Lão chánh
tổng mất không biết bao nhiêu tiền và bạc trắng mua “cô gái mỏn con mắt”.
Lão lại bỏ thuốc độc cho cô vợ cũ của Moong chết nốt.” [56; 195].
Đó là quan tuần phủ Trần Hồi trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt:
“Trên đầu lão quan phủ đội khăn xếp nhiễu đoạn trơn láng và đen
nhánh. Lão bước đến tận cửa ô tô vui vẻ đón Kin Xa.” [58; 161].
Đó là lão địa chủ trong tiểu thuyết Người trong ống:
“Lão địa chủ chạy theo cười hứ hứ. Ba chưa bao giờ thấy lão ta cười thành
tiếng như thế... Ngoài ra hầu như lão chỉ câm lặng và cúi gằm”. [57; 75].
+ “lão” để chỉ những tên vô học, lười lao động, thích hưởng thụ:
Đó là nhân vật bố Thỉ - lão canh cũi, Xấn Xáng trong truyện dài Người
làm mồi bẫy hổ:
“Sống trong nhung lụa, bố Thỉ tập ăn chơi: lấy nhiều vợ và hút thuốc
phiện. Lão nghĩ: nhà giàu có ê hề, hút chơi cho khoái một đời, hết là bao!”
[61; 14].
“Lão canh cũi có đôi mắt như nằm dọc với khuôn mặ dài ngoẵng, gầy
gò, chăm chú nhìn cái cũi bẫy hổ. Cái trán của lão cao, nhưng hơi hẹp, thường
nhăn lại, kéo cả hai con mắt lên thành hình tam giác đều.” [61; 23].
Đó là nhân vật Xấn Xáng độc ác, mưu mô, dã man trong truyện dài
Người làm mồi bẫy hổ:
“Nói rồi Xấn Xáng cười hô hố, cười dài... Lão sai gia nhân buộc hổ để
khênh về.” [61; 60].
Đó là nhân vật Mạc trọc, Moong khịt nghiện hút trong tiểu thuyết
Đất bằng:
58
“Lão Mạc trọc kể về cuộc đời ăn trộm, ăn cướp, giết người, cướp trẻ con
...những mánh khóe lừa lọc của đời lão.” [56; 244].
“ Moong khịt vẫn cầm cái tẩu ngang phố lì, mắt lim dim. Lão cũng đang
mải nghĩ về cuộc đời của lão.” [56; 195].
Đó là nhân vật Châu Đoàn Pàng trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói:
“Lão nghĩ lại cuộc đời ngoài năm mươi của lão, lão tự hào, nở nụ cười
trong bụng. Lão càng nghĩ càng cảm ơn tổ tiên lắm!” [59; 85].
+ “Lão” để chỉ những người ích kỉ, cổ hủ, lạc hậu:
Khi miêu tả nhân vật Ké Thương trong truyện ngắn Cọn nước Eng Nhàn:
“Nếu bữa cơm có thịt đầy đĩa, rượu uống ướt ngực thì cọn lão làm ra
bao giờ cũng quay tít, nhưng nếu bữa cho lão ăn rau xanh thì cọn bao giờ cũng
quay uể oải.” [63; 359].
Đó là nhân vật bố Viền trong tiểu thuyết Đất bằng: “Lão đánh Viền một
trận rồi nhốt vào buồng kín.” [56; 116].
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Vi Hồng sử dụng từ “lão” để
gọi tên các nhân vật ích kỉ, lạc hậu tin vào lời nguyền, tin vào sự tồn tại của con
ma gà. Vì sự tối tăm trong nhận thức mà đã cản trở hạnh phúc tình yêu của con
cái, khinh rẻ, phỉ báng, trà đạp lên cuộc sống của những người bị khoác lên
mình tiếng ma gà.
Đó là nhân vật ông bố Cặm Cang: “Lão xông ra “síc” sàn nước hét lên
như một dũng tướng”. [60; 208].
Đó là nhân vật bố Chim Ca: “Không đợi lão hỏi thật lâu dài, nhiều lời
như những người khác. Bà vợ lão lập tức lên tiếng.” [60; 164].
Đó là nhân vật bố Hạ Chi: “Lão bảo chàng trai thắp hương lên bàn thờ
rồi khấn vái” [60; 140].
+ “Lão” để chỉ những tên thầy cúng chuyên lừa đảo, bịt bợm,
khoét tiền”
Trong truyện vừa Thách đố, Vi Hồng đã dùng từ “lão” để gọi tên nhân vật
tảo Lăm Đăm: “Lão đã trở thành người tàng hình. Trong khi lão tàng hình như
59
vậy, lão có thể nhìn thấy từng con ma, từng con quỷ. Và lão có thể biến hóa khôn
lường. Lão có thể bóp chết những con ma quỷ mà lão cần giết.” [62; 92].
Trong tiểu thuyết “Đất bằng”, Vi Hồng đã dùng từ “lão” để gọi tên
nhân vật tảo Mu: “Mới hôm qua lão đi cúng lén ở một nhà heo hút. Lão bói
được con ma to! Lão buộc gia chủ phải cúng to.” [56; 194].
- Vi Hồng sử dụng “lão” đơn thuần chỉ là từ để gọi những người già,
những người cao tuổi. Khi nói về các nhân vật này, nhà văn thường dùng
những từ như: ông lão, bà lão...
Đó là nhân vật bố Đàng trong tiểu thuyết Vãi Đàng: “Đến trước bếp,
ông lão dừng lại nhìn ngọn lửa đang cháy đùng đùng” [56; 27].
Đó là nhân vật mẹ Đàng trong Vãi Đàng: “Một câu hỏi mà mấy hôm nay
bà lão hỏi con gái.” [56; 22].
Đó là nhân vật ông già nhìn thấy chiếc bè của Đàng trôi trong Vãi Đàng:
“Ông lão đầu tóc bạc phơ, râu dài và trắng như bông, nhưng mặt mũi hồng
hào, khỏe mạnh.” [56; 68].
Đó là nhân vật bố ké Xanh trong tiểu thuyết Đất bằng: “Ông lão lại thét
lớn:” [56; 114].
Đó là nhân vật Cam Sáy trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng: “Nên
ông lão chỉ nói một câu” [60; 230].
Đó là nhân vật bố Mạnh Kha và mẹ Mạnh Kha trong Mùa hoa Bioóc
loỏng: “Ông lão nói như than. Bà lão lại quay ra an ủi.” [60; 279].
Đó là nhân vật bác Phàn trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói: “Ông lão
trở nên cáu kỉnh rồi lại hạ giọng” [60; 35].
Đó là nhân vật bố Ba trong tiểu thuyết Người trong ống: “Ông lão bóp
mạnh da bụng, một thỏi vàng to, dài và dày nổi len, nhìn thấy cả góc cả cạnh”.
[57; 303].
Đó là nhân vật bệnh nhân già trong Người trong ống: “Bà lão vừa van
xin bác sĩ viện trưởng thương tình, chữa cho bà để lấy nhân đức cho con cháu
vừa lê gối đến gần.” [57; 14] .
60
Đó là nhân vật vợ quan phủ Trần Hồi trong Dòng sông nước mắt: “Bà
lão giả vờ đến thăm bà bạn già chánh tổng Quang Khao xem sức khỏe còn bao
nả, sắc da, bắp thịt có còn săn, còn hương phấn.” [58; 74].
Nhìn chung từ “lão” được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong tác phẩm
Vi Hồng kể cả trong cách gọi trần thuật của tác giả và cả xưng hô của nhân vật.
Điều đó góp phần tạo nên một nét riêng biệt trong sáng tác Vi Hồng, như một
chất gia vị, càng thưởng thức càng thấy độc đáo, hấp dẫn.
2.2.2. Từ “hắn”
Trong tiếng Việt, đại từ “hắn” thường được dùng để chỉ người ở ngôi thứ
ba với hàm ý coi thường hoặc thân mật.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, đại từ “hắn” được nhà văn sử
dụng trong 8/13 tác phẩm. Những nhân vật mà tác giả gọi là “hắn” gồm 15
nhân vật, thuộc nhiều kiểu người khác nhau. Nhưng chủ yếu là những nhân vật
phản diện.
- “Hắn” để chỉ những con người xấu xa, độc ác, tham lam, xảo trá:
Nhân vật tên thợ săn trong truyện ngắn Sự tích hang cứu tôi với hiện lên là
một tên dã man, độc ác, tàn bạo với sở thích ăn bào thai khỉ: “Hắn rất háu ăn
bào thai khỉ. Có ngày hắn hạ sát hàng chục con khỉ cái đang chửa.” [63; 428].
Đó là nhân vật Xấn Xáng trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ với sự
mưu mô, xảo quyệt, độc ác, dã man bằng việc nhốt người vào cũi làm mồi để
bẫy hổ: “Từ lâu, Xấn Xáng nghi ngờ người canh cũi thông đồng với “Thần
Rừng Xanh”. Hắn cắt cử bao nhiêu người theo dõi.” [61; 63].
Đó là nhân vật Thỉ trong Người làm mồi bẫy hổ với sự mưu mô, độc ác,
thủ đoạn bằng việc thông đồng với Xấn Xáng để gia đình Nen ly tán nhằm
chiếm được Nen làm vợ: “Thỉ nhìn thấy con hổ thì lại ngất. Nhưng rồi hắn
cũng phải tỉnh.” [60; 59].
Đó là tên quan tổng Nhự trong tiểu thuyết Vãi Đàng với bản chất tham
lam, dâm ô: “Đến cái hòm, cái rương hắn cũng vác một mình.” [56; 45].
61
Đó là nhân vật thầy cai trong tiểu thuyết Đất bằng với bản chất nhu
nhược, tham ô: “Hắn giơ một tờ bạc ra chỗ sáng nơi cửa sổ và chỉ cho tên
đồn” [56; 138].
Đó là nhân vật chánh tổng họ Nông trong Đất bằng với bản chất tham
lam, thủ đoạn: “Hắn không ngẩng lên, hắn vẫn nằm hút” [56; 136].
Đó là nhân vật quan phủ Trần Hồi trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt với
bản chất mưu mô, dâm ô: “Hư hứ - hắn cười ùng ục trong cổ họng”. [58; 118].
Đó là nhân vật Bùng trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói với sự ngu
dốt, tham lam: “Hắn quay đi, bước những bước dài và dứt khoát.” [59; 180].
Đó là nhân vật Châu Đoàn Pàng trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói với
tính cách xảo trá, lọc lừa, xấu xa, bỉ ổi: “Vì hắn đã chống chèo cuộc đời hắn
cùng dòng họ hắn qua bao phen sóng gió.” [59; 17].
Đó là nhân vật tên thầy thuốc làm mẹ Tú chết trong tiểu thuyết Người
trong ống, với tay nghề kém, thiếu trách nhiệm và ham tiền. Đó cũng chính là
nhân vật Ba với thủ đoạn đê tiện và hèn hạ, mánh khóe, tinh vi, lọc
lừa:“Hắn hú vía, thế mà năm sau hắn vẫn dám mò lên Lục Khê.” [57; 212] .
“Hắn” là những tên cướp táo tợn trong tiểu thuyết Người trong ống. Đó
là tên cướp Tư Lộn: “Tú túm thằng Tư Lộn lắc lắc, hắn rùng mình như bừng
tỉnh.” [57; 323] . Đó là tên cầm đầu bọn cướp: “Thằng cầm đầu bọn cướp giật
là một thằng lặn khá, nhưng hắn bị chuột rút, nên tí chết.” [57; 205] .
- “Hắn” để chỉ những kẻ vô học, tứ cố vô thân, bần cùng, liều lĩnh:
Đó là nhân vật Ang trong truyện vừa Thách đố với tính ham ăn, trộm
cắp, chuyên làm tay sai cho tảo Lăm Đăm: “Ang nói thay lời cảm ơn là tiếng
cười hi hi. Hắn ăn sùng sục.” [62; 172].
Đó là nhân vật Thìm trong Tháng năm biết nói chuyên trộm cướp, ngu si,
trâng tráo, lì lợm, vô văn hóa, sống theo bản năng của loài vật: “Hắn hiếp bằng
được bà già. Nhưng hắn chẳng tốn sức mấy.” [59; 25].
62
Đó là nhân vật Kin Xa trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt nghiện hút,
cờ bạc, lười lao động, thích hưởng thụ: “Cuối cùng hắn cũng phải thức dậy.
Hắn tự cất cái phần lùng nhùng che kín đầu hắn ra.” [58; 115] .
Cũng có khi “hắn” dùng để chỉ những con người khốn khổ, bế tắc, bất
lực trước hoàn cảnh. Khi miêu tả các nhân vật này, nhà văn gọi bằng sự cảm
thông, thấu hiểu và thương cảm. Chẳng hạn như nhân vật Cặm Cang trong tiểu
thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng với sự thật thà, niềm say mê cái đẹp, tài hát lượn
khéo nhưng lại mang một ngoại hình xấu xí, hắn bất lực, bế tắc và tức giận khi
bị gia đình ngăn cấm đến với Thu Lạ: “Ai nói gì hắn nghe được cả. Hắn chỉ
nhe hai hàm răng khấp khểnh, trắng nhởn ra cười.” [60; 108,109].
2.2.3. Từ “mụ”
Trong tiếng Việt, “mụ” thường chỉ người đàn bà đã có tuổi (hàm ý coi
khinh), cũng có khi “mụ” được dùng để người chồng gọi người vợ (hàm ý
thân mật).
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, từ “mụ” được nhà văn sử
dụng trong 4/13 tác phẩm và dùng cho 6 nhân vật.
Trong các tác phẩm của mình, hầu như tác giả Vi Hồng sử dụng từ “mụ”
để chỉ những người phụ nữ xấu xa, độc ác; những người phụ nữ chanh chua,
ngoa ngoắt, ích kỉ, tham lam, thích hưởng thụ theo bản năng.
Nhân vật Thẻo Léo trong truyện ngắn Nghĩ sủi bọt đá được hiện lên là
một người đàn bà chua ngoa, sấc lấc và nông cạn, coi trọng vật chất hơn ý thức.
Chỉ chú trọng dạy con dạy con cách kiếm tiền và khuyến khích chúng ăn ngon
mặc đẹp. Sự nuông chiều con của bà đã tạo nên hai đứa con hư hỏng và không
ai khác, chính bà phải chịu hậu quả: “Thẻo Léo không đưa chìa khóa, nó dọa
giết mụ. Mụ mắng nó. Nó rút dao đâm thẳng cánh tay trên của mụ.” [63; 440].
Nhân vật vợ cả tổng Nhự trong tiểu thuyết Vãi Đàng được hiện lên là
một bà già ghê ghớm và hay ghen tuông: “Mụ cả già, đầu bạc, tóc rụng gần
hết... nhưng mỗi lần mụ đánh ghen, tổng Nhự phải tối tăm mặt mũi.” [56; 57].
63
Nhân vật vợ cả phó tổng Vọi trong tiểu thuyết Vãi Đàng được hiện lên là
một người đàn bà chua ngoa, nhẫn tâm và độc ác khi khoác lên Đàng tiếng con
ma gà: “Nhập nhoạng tối hôm sau đó, mụ vợ lão phó tổng Vọi dẫn hai người
lính dõng đến. Vừa vào đầu bản, mụ đã chu chéo, ầm ĩ.” [56; 14].
Nhân vật Xẳn Lần trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng được hiện lên
là một người thiển cận, ích kỉ, chua ngoa. Bà đã tức giận tột độ khi không ngăn
cản được con gái Hạ Chi kết hôn với chàng trai ma gà Mi Tráng: “Bà Xẳn Lần
xem ra có vẻ uất ức. Mụ nghiến răng trèo trẹo, miệng lắp bắp mà không thành
tiếng.” [60; 269].
Nhân vật mẹ Chim Ca trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng được hiện
lên là một người độc ác, nhẫn tâm và mưu mô khi đã diễn màn kịch đóng giả là
bị ma gà Thu Lạ nhập để lừa bịp mọi người với mục đích ngăn cản con trai
Chim Ca yêu Thu Lạ. Nhân vật được Vi Hồng gọi tên bằng rất nhiều từ “mụ”:
“Mụ thức dậy ăn bữa cơm chiều tối với thịt lợn đủ các món. Mụ ăn no nê rồi
lại tiếp tục làm cái trò ma gà Thu Lạ nhập vào mình.” [60; 187].
Nhân vật Tẹo trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói hiện lên với đầy đủ
những tính cách xấu xa của một người đàn bà: chua ngoa, ích kỉ, mưu mô, thủ
đoạn, lăng loàn, ngu dốt đặc biệt là sự giả tạo có trong người đàn bà này từ hình
thức đến nội tâm. Trong tất cả các nhân vật phản diện được Vi Hồng gọi bằng
“mụ”, có lẽ Bế Thị Tẹo là nhân vật được dùng nhiều trang văn miêu tả nhất:
“Mụ Tẹo nghiến răng gọi Hoàng, nguyền rủa Hoàng, chửi tục tĩu một hồi, mụ
quay về.” [59; 124].
Nhìn chung, các nhân vật được nhà văn Vi Hồng gọi là “mụ” hiện lên
với nhiều kiểu phụ nữ khác nhau, nhưng họ đều là những nhân vật phản diện
mang trong mình những tính cách xấu xa. Căn nguyên của những cái xấu cái ác
đó có thể do nhận thức, do trình độ, do phẩm chất, do hoàn cảnh... Tất cả đã tạo
nên thế giới nhân vật phụ nữ phản diện đa dạng trong văn xuôi Vi Hồng.
64
2.2.4. Từ “chàng”, “nàng”
“Chàng” và “nàng” là hai từ gốc Hán, thường chỉ những người trẻ tuổi,
hoặc cũng có thể dùng để xưng hô trong tình yêu.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, nhà văn thường sử dụng từ
“chàng”, “nàng” khi viết về đề tài tình yêu. Nếu như các từ “lão”, “mụ”, “hắn”
thường được Vi Hồng sử dụng chủ yếu để gọi các nhân vật phản diện, thì
“chàng”, “nàng” lại bao gồm cả những nhân vật chính diện và phản diện. Nhân
vật chính diện thường mang nét đẹp toàn mĩ từ hình thức đến tâm hồn. Họ là
những trai trẻ gái tơ, trai thanh gái nụ, trai non gái trẻ xinh đẹp, thông minh,
thủy chung, nhân hậu. Giọng văn mà nhà văn dành cho những nhân vật này là
ngợi ca, trân trọng; trái ngược là tuýp nhân vật phản diện với giọng văn mỉa
mai, châm biếm.
Trong tiếng Việt, “nàng’ chỉ người phụ nữ trẻ thường được dùng ở ngôi
thứ hai và ngôi thứ ba số ít. Trong văn xuôi Vi Hồng, “nàng” được sử dụng ở
cả hai ngôi đó.
- “Nàng” để gọi tên những nhân vật chính diện:
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Vi Hồng đã xây dựng và khắc
họa rất nhiều cô gái trẻ trung, xinh đẹp.
Đó là nàng Xinh Xông với tính tình phóng khoáng và “tài hát lượn có
tiếng cả tỉnh”: “Xinh Xông lại chạy đến với Khăm Tha. Nàng lại nắm hờ hờ lấy
bàn tay của người con trai cao lớn đi dạo giữa ngày hội.” [60; 18].
Đó là cô giáo Hạ Chi với tấm lòng lương thiện cao cả, nàng đã hi sinh
tình yêu với Chim Ca để đến với Mi Tráng nhằm xóa tan định kiến về con ma
gà mà Mi Tráng đang mang trong mình: “Chim Ca muốn cầm lấy tay của Hạ
Chi thì nàng bảo để ngày mai. Chim Ca muốn ôm hôn nàng. Nàng bảo để sau
ngày cưới.” [60; 61].
Đó là nàng Thu Lạ xinh đẹp, hiếu thảo, tốt bụng nhưng gặp nhiều bất
hạnh khi bị sống trong dòng họ nhà ma gà: “Thu Lạ buồn lắm. Nàng để mặc
65
cho những giọt nước mắt rơi dưới chân mình. Nàng bảo mình đừng khóc,
nhưng nàng vẫn khóc.” [60; 89].
Đó là nàng Thu Lương xinh đẹp rạng rỡ, với tình yêu thương say đắm
nồng nàn nhưng bạc phận: “Nàng ăn lá ngón ở tận trong núi, chứ không phải
hái ngay cây ở rừng sau nhà. Cho nên lúc đầu khi nàng mới lên tiếng rên rẩm
người ta không ai nghĩ nàng đã ăn lá ngón.” [60; 226].
Nhân vật Tua Be luôn yêu và khát khao cái đẹp, quý trọng cái tài nhưng
lại mang một ngoại hình xấu xí: “Cặm Cang đã ngừng chơi quay đợi Tua Be
nói một điều gì đó. Nhưng nàng chẳng nói mà chỉ cười.” [60; 234].
Đó là nàng Xiêm xinh đẹp, nhân hậu trong tiểu thuyết Dòng sông nước
mắt: “Nhưng từ ngày nàng Xiêm xinh đẹp lấy ông Cắm Hỷ, nàng cũng chẳng
bao giờ về bản Pác Phai. Nàng không về thăm cha mẹ một lần nào.” [58; 6].
Đó là nàng Thu Khoan xinh đẹp, nhân hậu, giàu lòng vị tha trong tiểu
thuyết Dòng sông nước mắt. Nàng dùng ân trả oán, đối xử tốt với người chồng
cũ - kin xa đã từng bán nàng để lấy tiền hút thuốc phiện. Cuộc đời nàng là một
“dòng sông nước mắt” với rất nhiều nỗi khổ: bị ép duyên, chồng mất, con hư
hỏng: “Nàng đau khổ, than khóc. Nàng đứng ngay mép thành đá đổ ra lõng
vực. Nàng khóc, nước mắt rơi tũm tĩm xuống vực.” [58; 61].
Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhân vật Ai Hoa cũng là một tiểu
thư xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc phận. Cũng giống như Thu Lương, nàng
chọn cách tự kết thúc cuộc sống khi không đến được với người mình yêu:
“Ai Hoa không đánh phấn. Vì Tú nhìn thấy rõ từng sợi lông tơ trên hai cặp
má của nàng chưa kịp rụng. Đôi mắt của nàng cũng tròn, đen ánh, lóng
lánh như trời thu.” [60; 128].
- “Nàng” để gọi tên những nhân vật phản diện:
Đó là những cô gái có vẻ đẹp hình thức nhưng lại bị đồng tiền làm tha
hóa phẩm chất, đó là những nàng “hư hỏng”, thực dụng, sống theo lợi ích bản
thân. Vi Hồng đã xây dựng và miêu tả chân thực những cô nàng này trong tiểu
66
thuyết Dòng sông nước mắt. Đó là các nhân vật: Lệ Hà - Kim Ngọc, Kim Ngần
- Hoa Nước, cô gái làng chơi.
Nhân vật Lệ Hà là một cô gái xinh đẹp nhưng bị ép duyên với Kin Xa.
Cô đã nhảy sông tự tử nhưng may mắn được cứu. Từ đó cô lấy cái tên Kim
Ngọc và trở thành một cô gái thực dụng, xảo trá, mưu mô. Cô thông đồng với
quan phủ Trần Hồi để lừa kết hôn với Kin Xa nhằm chiếm đoạt căn biệt thự của
Kin Xa: “Kim Ngọc cũng chẳng thắc mắc. Nàng chỉ hỏi han qua loa, nũng nịu
giả vờ, cười duyên đắc ý làm cho Kin Xa thấy lạ.” [58; 201].
Nhân vật Kim Ngần là một cô gái mới lớn ham vật chất, chuộng tiền bạc.
Vì tham cuộc sống nhung lụa, Kim Ngần đã tìm cách tiếp cận và lấy Kin Xa -
một kẻ nghiện ngập, cờ bạc và chồng cũ của mẹ mình: “nàng kéo dài giọng,
nghe có phần chua chát và mỉa mai”. [58; 190].
Nhân vật cô gái làng chơi làm theo lời sai khiến của Kin Xa để dụ giỗ
Kim Công vào chốn ăn chơi của những canh bạc và những cuộc vui qua đêm
với các cô gái điếm:“Nàng lại nhớ phận sự của mình là một cô gái làng chơi.
Nàng lại phải ôm lấy Kim Công với những cử chỉ thuần thục làm cho khách
làng chơi không bao giờ quên được nàng.” [58; 197].
Trong tiếng Việt, “Chàng” dùng để chỉ những người đàn ông trẻ tuổi,
thường được dùng ở ngôi thứ hai và ngôi thứ ba số ít. Trong tiểu thuyết của Vi
Hồng, “chàng” được dùng để chỉ những người con trai trẻ tuổi thuộc nhiều loại
khác nhau chia làm hai kiểu nhân vật: chính diện và phản diện.
- “Chàng” để gọi tên những nhân vật chính diện. Đó là những chàng trai
cường tráng, dũng cảm, tài năng. Tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng là tác phẩm
hội tụ rất nhiều những chàng trai tốt bụng, tình nghĩa như vậy.
Đó là nhân vật Mi Tráng đẹp trai, vạm vỡ, chăm chỉ. Bị mang tiếng là
con ma gà, chàng không chịu khuất phục buông xuôi, chàng cố gắng làm giàu
để chứng minh và xóa tan định kiến về con ma gà của dòng họ nhà chàng:
“Nàng thấy anh chàng Mi Tráng đẹp và oai phong như một thiên thần...Nàng
67
đứng sát đằng sau mà chàng cũng không hay biết. Chàng vẫn giơ cao cuốc,
bập xuống cái hố đã sâu ngang đùi.” [60; 119].
Đó là nhân vật Chim Ca - chàng trai khỏe mạnh và là kĩ sư cơ khí của
huyện. Chàng có một tình yêu sâu đậm với cô giáo Hạ Chi. Nhưng họ quyết
định làm một cuộc cách mạng xóa tan định kiến về con ma gà bằng cách hi sinh
tình yêu đôi lứa để kết hôn với một người ma gà: “Chim Ca hăm hở và quyết
tâm. Chàng cho rằng không có thế lực nào ngăn cản được tình yêu của chàng
với Thu Lạ.” [28; 249].
Đó là nhân vật Mạnh Kha - chàng trai lực lưỡng từ miền xuôi lên miền
núi lập nghiệp và có một mối tình say đắm với Thu Lạ: “Mạnh Kha im lặng,
khẽ nằm xuống bên cạnh Thu Lạ. Chàng ôm lấy nàng, siết chặt nàng trong hai
vòng tay lực lưỡng.” [60; 82,83].
Đó là nhân vật Khăm Tha cao lớn, dũng cảm và mưu trí như một võ sĩ đã
bảo vệ và cứu được Xinh Xông thoát khỏi hổ già hung dữ: “Cô gái lại cho
phép anh chàng Khăm Tha được nắm giữ thắt lưng của mình, chẳng khác gì
anh chàng được ôm eo người con gái xinh đẹp mà chàng đã ước mơ mấy năm
nay” [60; 23].
Đó là nhân vật Cặm Cang xấu xí nhưng yêu tha thiết và khát khao cái đẹp.
Chàng có tâm hồn và điệu lượn ngọt ngào chan chứa tình yêu thương: “Cặm
Cang không thèm đáp lại, chàng dắt tay Thu Lạ đi về nhà nàng.” [60; 182].
Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhà văn Vi Hồng đã xây dựng được
một hình tượng nhân vật lí tưởng hội tụ tất cả vẻ đẹp hình thức và tài năng,
phẩm chất tốt đẹp của một chàng trai trẻ tuổi yêu quê hương với sự quyết tâm
và tâm huyết với nghề thầy thuốc. Đó chính là nhân vật Tú. Tú được tác giả gọi
là “anh chàng” khi đặt điểm nhìn trần thuật vào nàng Ai Hoa: “Chẳng qua anh
chàng giả làm già để cao giá đấy thôi” [57; 248].
Nhân vật Kim Công trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt hiện lên là một
chàng trai hiền lành, chăm chỉ, giàu tình nghĩa và nhân hậu. Bằng tình yêu thủy
68
chung, son sắt với Thu Khoan, chàng đã lao động miệt mài để có tiền chuộc Thu
Khoan từ Kin Xa, hơn nữa chàng lại sẵn sàng dang cánh tay ra cứu vớt Kin Xa -
người đã chia cắt tình yêu của chàng và Thu Khoan: “Nàng Thu Khoan bé bỗng
vừa nói vừa đẩy chàng Kim Công cao hơn nàng một cái đầu.” [58; 44].
-“Chàng” để gọi tên nhân vật phản diện. Đó là nhân vật Kin Xa nghiện
hút, cờ bạc, ăn chơi trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt. Khi nhân vật nhờ cờ
bạc và đổi vận, ngoại hình thay đổi: “Hơn nữa, cái anh chàng Kin Xa sang
trọng, béo tốt đang đững trước mặt cô là một chàng Kin Xa hoàn toàn khác
thuở xưa." [58; 160].
Có thể thấy rằng các nhân vật mà nhà văn Vi Hồng gọi là “chàng”,
“nàng” là những nhân vật trẻ tuổi và chủ yếu sử dụng trong đề tài tình yêu. Có
lúc tạo thành các cặp đối xứng “chàng” - “nàng” khi nhà văn miêu tả hai nhân
vật cùng một lúc. Trong văn xuôi Vi Hồng, chúng ta bắt gặp những từ xưng hô
gốc Hán này là do sự ảnh hưởng của ngôn ngữ Hán đối với vùng Đông Bắc là
khu vực tiếp giáp về địa lý. Và trước khi có chữ Quốc ngữ thì chữ Hán và chữ
Nôm Tày được sử dụng phổ biến trong dân gian.
Trong tác phẩm của Vi Hồng, những nhân vật phụ rất ít khi được nhà
văn gọi bằng tên thật. Tác giả thường gọi lớp nhân vật này theo mối quan hệ
với các nhân vật chính trong tác phẩm: bố Ba, vợ Ba, em trai Ba, em út của Ba,
vợ ông trưởng Ty, bố Tú, mẹ Tú... (Người trong ống); bố Đàng, mẹ Đàng, vợ
tổng Nhự, mụ vợ lão phó tổng Vọi (Vãi Đàng); bố Viền, ông nội Xanh, bố
Xanh, mẹ Xanh, mẹ Kì, bà vợ ông Háo...(Đất bằng)... Điều này tạo thuận lợi
cho người đọc dễ hình dung và theo dõi cốt truyện.
Nét đặc biệt trong cách sử dụng từ xưng hô của tác giả Vi Hồng khi gọi
các nhân vật của mình đó chính là sự đa dạng và sự biến hóa linh hoạt trong
cách gọi tên các nhân vật. Cùng một nhân vật nhưng được nhà văn dùng nhiều
từ khác nhau để gọi tên: ví dụ như: khi miêu tả nhân vật Cặm Cang trong Mùa
hoa Bioóc loỏng tác giả sử dụng các đại từ: nó, hắn, hắn ta, chàng, chàng Cặm
69
Cang xấu xí..., nhân vật Ba trong Người trong ống cũng được miêu tả bằng
nhiều cách gọi khác nhau: Ba, hắn, thằng Ba, anh chàng Ba, anh ta, cậu ta....
sự biến đổi linh hoạt giữa những cách gọi này phụ thuộc vào sự thay đổi tuổi
tác, tính tình của các nhân vật. Có lúc nhà văn gọi nhân vật Thu Khoan trong
“Tháng năm biết nói” là nàng (khi nhân vật còn trẻ), gọi là bà (khi nhân vật đã
già). Hai cách gọi khác nhau đó tùy thuộc vào tuổi tác mà thời điểm tác giả
miêu tả. Có lúc nhân vật người canh cũi - bố Thỉ trong “Người làm mồi bẫy
hổ” được gọi là lão, lão mắt dọc, lão già canh cũi (lúc nghiện ngập và khi làm
nghề canh cũi hổ), gọi là ông, ông lão (lúc nhân vật trở thành người tốt).
Những cách gọi khác nhau đó phụ thuộc vào sự biến chuyển trong tư tưởng đạo
đức và hành động của nhân vật.
Ngoài ra sự khác nhau trong điểm nhìn trần thuật cũng tạo nên sự đa
dạng trong cách gọi tên các nhân vật trong tác phẩm Vi Hồng. Chẳng hạn như:
khi đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Nai Nị trong “Thách đố”, tảo Lăm
Đăm được gọi là bố Lăm Đăm, nhân vật Hoàng được gọi là Anh Hoàng... trong
tác phẩm “Vãi Đàng”, có lúc tác giả đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật
Đàng và gọi các nhân vật là anh Hinh, chị The, anh Thả, con gái Thèn...
Tiểu kết chương 2
Khảo sát các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng với phạm vi 13
tác phẩm, chúng tôi nhận thấy số lượng các từ ngữ xưng hô được sử dụng
trong các tác phẩm là khá lớn, cách sử dụng từ xưng hô đa dạng, phong phú,
độc đáo, mới mẻ.
- Xét về từ ngữ xưng hô qua lời đối thoại của nhân vật: hệ thống từ ngữ
xưng hô có thể xếp vào các nhóm loại như: đại từ nhân xưng; danh từ thân tộc;
tên riêng; từ chỉ chức vụ - nghề nghiệp; từ ngữ xưng gọi khác.
+ Về số lượng từ ngữ của các nhóm từ xưng hô: kiểu loại xưng hô khác có
số lượng nhiều nhất, với 374 từ ngữ (44,69%); danh từ chỉ tên riêng có số lượng
70
từ lớn thứ hai với 270 từ ngữ (32,26%); danh từ thân tộc có số lượng từ lớn thứ
ba với 91 từ ngữ (10,87%); danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp có số lượng từ lớn
thứ tư với 67 từ ngữ, (8,00%); đại từ nhân xưng có số lượng từ nhỏ nhất với 35
từ ngữ (4,18%) trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô.
+ Về số lượt sử dụng của các nhóm từ xưng hô: Cao nhất là danh từ thân
tộc với 7762 lượt sử dụng (51,57%); thứ hai là đại từ nhân xưng với 4658 lượt
sử dụng (30,95%); thứ ba là danh từ chỉ tên riêng với 1585 lượt sử dụng
(10,53%); thứ tư là nhóm kiểu loại xưng hô khác với 715 lượt sử dụng (4,75%);
từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ có 332 lượt sử dụng (2,20%). Như vậy, nhóm danh
từ thân tộc chiếm số lượt sử dụng vượt trội (hơn một nửa) trong tổng số lượt sử
dụng các từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng. Đó chính là xu hướng gia
đình hóa của người Tày nói riêng và của tiếng Việt nói chung.
+ Xét về các vai giao tiếp của các từ ngữ được dùng để xưng hô trong
văn xuôi Vi Hồng: số lượng và tần suất sử dụng các từ ngữ thuộc nhóm xưng ít
hơn so với nhóm hô. Về mặt số lượng từ ngữ, nhóm hô nhiều hơn gấp hơn 4,0
lần so với nhóm xưng: nhóm hô 703/878 từ, tương đương 80,07%, nhóm xưng
175/878 từ, tương đương 19,93%. Về số lần xuất hiện, nhóm hô và nhóm xưng
có tỉ lệ chênh lệch không đáng kể nhóm hô 7687 lượt sử dụng (51,07%), nhóm
xưng 7365 lượt sử dụng, (48,53%).
- Xét về từ ngữ xưng hô qua lời trần thuật của tác giả:
Nhà văn Vi Hồng đã sử dụng rất nhiều kiểu xưng hô để gọi tên các nhân
vật trong tác phẩm của mình: gọi tên riêng, gọi theo giới tính, theo độ tuổi....
Nhưng nét đặc biệt trong cách gọi nhân vật qua lời trần thuật của tác giả đó
chính là sử dụng các từ xưng hô rất riêng biệt và mang sắc thái biểu cảm cao:
lão, mụ, hắn, nàng, chàng. Trong đó nhà văn sử dụng nhiều nhất là từ “lão” với
9/13 tác phẩm, nhà văn gọi 17 nhân vật bằng từ “lão” và gọi 11 nhân vật bằng
từ “lão” kết hợp với yếu tố giới tính (ông lão, bà lão). Tiếp theo là từ “hắn”
được sử dụng trong 8 tác phẩm để gọi 15 nhân vật. Tiếp theo là từ “mụ” được
71
sử dụng trong 4 tác phẩm để gọi 6 nhân vật. Từ “nàng” được sử dụng trong 3
tác phẩm để gọi 11 nhân vật. Từ “chàng” được nhà văn sử dụng trong 3 tác
phẩm để gọi 8 nhân vật.
Nhìn chung, ở mỗi mảng đề tài, mỗi kiểu loại nhân vật, nhà văn Vi Hồng
lại có những cách gọi khác nhau khi trần thuật về các nhân vật của mình. Cách
chuyển biến trong điểm nhìn trần thuật của tác giả hết sức linh hoạt và đa dạng
tạo nên sự phong phú cho cách gọi trần thuật của Vi Hồng trong các tác phẩm
văn xuôi của mình. Cách xưng hô khi đối thoại của các nhân vật trong tác phẩm
Vi Hồng cũng hết sức đa dạng, sống động và đặc biệt mang đặc điểm riêng của
xưng hô của dân tộc Tày.
72
Chương 3
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ
TRONG VĂN XUÔI VI HỒNG
3.1. Dùng từ xưng hô thể hiện văn hóa dân tộc Tày
Dân tộc Tày là dân tộc thiểu số đông dân nhất Việt Nam với 1.626.329
người (theo kết quả điều tra 2009) với địa bàn cư trú chủ yếu thuộc các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam như: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang... Trong đó nơi sinh tụ lâu đời của người Tày là Lạng Sơn (có 259.496
người) và Cao Bằng (có 207.805 người) đây là hai tỉnh có số người Tày cư trú
đông đúc nhất.
Nhà văn Vi Hồng là người con của dân tộc Tày, quê hương Hòa An -
Cao Bằng nơi ông sinh ra là cái nôi nuôi dưỡng, là cội nguồn làm nên chất văn
trong sáng tác của ông. Có thể thấy rằng, dấu ấn văn hóa Tày như một chất xúc
tác đặc biệt tạo nên hương vị rất riêng khi thưởng thức văn xuôi của Vi Hồng.
Chính nhà văn đã từng lí giải vì sao nhà văn dân tộc khi sáng tác về dân tộc
mình sẽ thành công và chân thật hơn những người khác: “Một dân tộc dù nhỏ
bé đến đâu, vẫn có một thế giới tâm hồn rất riêng mà chỉ có những con người
rất thông minh và nhạy cảm của dân tộc ấy có cơ may khám phá và phát hiện
được. Chính vì vậy, ông “đã làm được phần việc của mình; kể câu chuyện về
dân tộc mình, câu chuyện về mảnh đất mình đang sống đến với độc giả các
nơi”. [dẫn theo 63; 198].
Sáng tác bằng tiếng Kinh nhưng Vi Hồng không làm mất đi dấu ấn văn
hóa dân tộc Tày trong các tác phẩm của mình. Có thể thấy tư tưởng, tình cảm,
tâm hồn của người dân miền núi vẫn hiện ra một cách trung thực, sinh động
trên những trang văn của ông. Ngoài một số phương diện như: thiên nhiên, tâm
hồn, tính cách con người, các biện pháp nghệ thuật, cái nhìn dân tộc về cuộc
đời, về con người của nhà văn, dấu ấn ăn hóa dân tộc Tày còn hiện lên sâu đậm
ở phương diện sử dụng từ ngữ xưng hô trong tác phẩm của Vi Hồng. Qua xưng
73
hô, các tác phẩm trong văn xuôi Vi Hồng thể hiện văn hóa gắn bó tự nhiên,
sùng bái thần linh; văn hóa cộng đồng làng bản.
3.1.1. Văn hóa gắn bó tự nhiên, sùng bái thần linh
Người dân miền núi nói chung và dân tộc Tày nói riêng luôn sống gắn
bó, giao hòa với thiên nhiên. Thiên nhiên không phải là một khách thể độc lập
riêng biệt mà luôn hiện hữu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người
khi vui cũng như khi buồn. Thiên nhiên như là một người bạn, là một phần đời
sống của người miền núi.
Thiên nhiên miền núi cao vời, xanh thẳm nơi quê hương Vi Hồng vừa là
môi trường sinh sống, vừa là người bạn tâm tình, vừa là nguồn cảm hứng vô tận
cho ông sáng tác. Thế giới tự nhiên trong văn xuôi Vi Hồng đặc biệt ở chỗ nó
không chỉ phong phú mà còn vô cùng sống động. Thiên nhiên như có tâm hồn,
có thể trò chuyện cùng con người, lắng nghe và hiểu được tâm tư, nguyện vọng
của con người. Và nhà văn đã dành hẳn một lớp từ ngữ xưng hô để gọi tên thế
giới tự nhiên ấy. Thế giới tự nhiên đó bao gồm thế giới thực vật và thế giới động
vật. Đó là những cánh rừng xanh biếc, những dòng suối trong vắt, những dòng
thác dữ dội hoang vu nhưng lại mang nét trữ tình, thơ mộng. Đó là thế giới động
vật phong phú với những loài vật dễ thương và cả những con thú rừng hung dữ.
Khảo sát 13 tác phẩm văn xuôi trong sáng tác của Vi Hồng, chúng tôi
nhận thấy: Ngoài những trang văn mà tác giả dành để miêu tả về thiên nhiên,
thế giới tự nhiên trong tác phẩm của ông còn xuất hiện cả trong lời đối thoại
của nhân vật, qua các lời hát, câu hát then, qua lời khấn, qua điệu lượn.
Vi Hồng rất có tài miêu tả cuộc sống các loài vật như khỉ, hổ, gấu, chó,
ngựa... nhà văn rất am hiểu về những cuộc tổ chức săn bắt và bẫy thú rừng của
con người cũng như các cuộc đánh bắt cá trên sông. Thế giới loài vật trong tác
phẩm của ông không chỉ phong phú mà còn vô cùng hấp dẫn, li kì. Qua xưng
hô, các loài vật phần nào hiện ra được một cách sắc sảo, sinh động với những
tình huống căng thẳng, gay gắt, bất ngờ.
74
Các nhân vật trong tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng thường gọi các con
vật bằng những cái tên riêng: Nhì, Ất, Sam, Đăm, Cắng, Mạ Lài, Vài Mu và
được gọi là chúng, lũ chúng khi miêu tả.
Trong truyện vừa Thách đố, Hoàng đã 11 lần gọi trâu Vài Mu và trò
chuyện với con vật: “Vài Mu! Cái cổ mày to! Cái chân mày mập! mày lại về
với tao hả?” [62; 131]. Hoặc ra lệnh cho Vài Mu: “Đánh hổ đi Vài Mu” [62;
155]. Trâu Vài Mu không chỉ là con vật đầu cơ nghiệp, khỏe và được việc mà
còn có tình cảm gắn bó yêu thương chủ mình. Rất nhiều lần trâu Vài Mu về
thăm Hoàng giữa đêm, nhà văn miêu tả những giọt nước mắt của nó như mang
bao nỗi nhớ, cảm xúc của con người.
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Xinh Xông đã gọi tên Mạ Lài 4
lần và cũng thường trò chuyện với ngựa Mạ Lài: “Mạ Lài của ta! Mày ở ngoài
này ăn cỏ. Có làm sao thì mày phải gọi tao nhá! hiểu không!” [60; 9]. Hoặc khi
gặp nguy hiểm, Xinh Xông đã động viên ngựa của mình: “Mạ Lài ơi! Mày
dũng cảm lên. Đừng sợ. Tao có dao sắc chặt rụng đầu hổ hư chặt củ chuối”
[60; 21, “Mạ Lài đừng sợ, có tao đây mày đừng sợ” [60; 22].
Trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ, Nen đã 7 lần gọi tên của con khỉ
đầu đàn Cắng. Những ngày tháng lưu lạc cùng sống chung với lũ khỉ trong
rừng Nen coi chúng như người bạn: cùng ăn, cùng chiến đấu kẻ thù (gấu, lũ
cướp). Nen đã thường xuyên dạy bảo nó: “Cắng trèo lên” [61; 43], “Cắng, hái
những quả đã thâm, đã chết” [61; 43] và khi kẻ thù đến Nen đã ra lệnh:
“Cắng, đánh” [61; 44], “Cắng. Đánh mạnh”, “Cắng, tránh! Cắng, khẹc, khẹc,
dừng lại!” [61; 45]. “Cắng, mày sai lũ mày đi theo tao xuống khe” [61; 45].
Nen cũng hay trò truyện với lũ khỉ:
“Tao cho đứa nào thì đứa ấy được ăn, hiểu chưa” [61; 39].
“Chúng mày là bậy bạ lắm. Chúng mày quen dọa đàn bà con gái hả”
[61; 39].
Khi Nen từ rừng trở về sau 2 năm lạc trong rừng sâu, cô gọi Đăm (con
chó) “Đăm, Đăm, Đăm!” [61; 49].
75
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, Thu Khoan đã gọi tên từng con
ca nặm: “Ất!”, “Nhì”, “Sam” [58; 192]. Mỗi khi chúng lười bắt cá hoặc tham
ăn thường bị “Bà lại quát mắng và tát như tát trẻ con để đe dọa con ca nặm.
Nó biết lỗi, nên nó chẳng kêu và không giãy giụa” [58; 192]. Những con ca
nặm không chỉ biết bắt cá cho chủ mà còn biết cứu người khi bị đuối nước.
Trong tiểu thuyết Vãi Đàng, khi bị thả mảng trôi trên sông vì mang tiếng
ma gà, Đàng đã gọi và ra lệnh cho con chó Đăm: “Đăm! Đăm!”, “Đăm! cắn!
cắn!” [56; 67] để dọa con khỉ đực và xua đuổi chúng, nhằm bảo vệ cho mẹ con
Đàng. Có lúc Đàng lại thủ thỉ với con vật như với một người bạn: “Đăm ơi, mẹ
con tao sắp chết rồi! bao giờ mẹ con tao chết mày hãy bơi vào bờ, tìm đến một
chủ khác mà sống! Mày đừng về nhà tổng Nhự mà chúng nó sẽ đập mày chết!
Mày đừng về Đăm à!” [56; 67].
Câu hát lượn của Đàng trong tiểu thuyết Vãi Đàng là lời chào thân
thương đến các con vật nuôi gần gũi gắn bó với cuộc sống của người dân Tày:
“Chào đàn vịt bơi trên nước
Chào đàn gà mổ thóc ngoài sân
Chào lợn trắng, lợn đen dưới sàn
Chào đàn trâu sừng ngang, sừng vênh...
Gặp gì tôi chào đấy
người hãy đừng chê” [56; 31].
Thế giới loài vật trong văn xuôi Vi Hồng gần gũi, thân thiết với con
người như những người bạn, cùng mưu sinh, chiến đấu, trò chuyện. Nhưng
cũng có khi con người phải chiến đấu vật lộn giữ gìn sự sống với những “thằng
hổ”, “lão hổ”, “rết chúa” hung dữ, hiểm ác.
Không chỉ có loài vật được người dân Tày dành sự yêu thương, gần gũi
và coi là người bạn, mà thực vật cũng được con người coi như có linh hồn trú
ngụ, là một thế giới vô cùng gần gũi nhưng lại linh thiêng, huyền bí. Vì thế mà
trong tiểu thuyết Đất bằng, nhà văn miêu tả cảnh nhân vật già Viền nói chuyện
76
với cây: “Cây ơi, không phải ta giết mày. Cây chết ở đất này một lần để cây
vào núi sống mãi mãi. Núi cao đất dốc cho cây sống, nơi đây đất bằng cho
người sống, cây à!” [56; 142].
Trong đoạn thoại trên của già Viền, nhân vật đã 5 lần gọi tên cây, trò
chuyện với cây theo lối xưng hô ta - mày thân mật của người Tày. Đó là lời “rì
rầm nửa khấn nửa nhủ chuyện với cây.” [56; 142]. Già Viền như phân tích giãi
bày để cây hiểu lí do mà con người chặt cây, vừa như khuyên nhủ vừa như
mong cây không oán hận hành động chặt cây của con người. Đọc lời khấn của
già Viền, “cây” không còn là một sinh vật vô tri vô giác nữa, mà “cây” đã trở
thành một thực thể có tâm hồn, biết cảm thụ và lắng nghe, hiểu được ngôn ngữ
của con người.
Hay trong lời trần thuật của tác giả, Vi Hồng cũng nhắc đến cây: “giọt
sương từ ngọn cây rơi xuống, khi ta chặt là nước mắt của cây, nhiều người có
tuổi, cứ chặt đổ một cây lại chặt một cành nhỏ của cây ấy, cắm vào gốc hoặc
giữa tim gốc nó và khấn khứa”[56; 141,142]. Rõ ràng trong tiềm thức và quan
niệm của người dân vùng Đin Phiêng, cây như một người bạn có tâm hồn, có
trái tim, biết chảy nước mắt khi đau đớn.
Lời hát của trẻ con trong truyện ngắn Cọn nước Eng Nhàn:
“Trời ơi! hửng hửng
Hửng cho chim mò cá
Hửng cho chó săn nai
Hửng cho nai về tổ
hửng lên! trời nắng lên.” [63; 356].
“ Trời ơi! mưa to to
Cho gạo lại đầy vò vò
Cho quả trầu trĩu cành cành
Cho mọi bản ăn no no.” [63; 359].
Lời hát của bọn trẻ cất lên vừa như thể hiện ước muốn, vừa như lời cầu
khấn của con người muốn gửi đến đấng tự nhiên cầu cho mưa thuận gió hòa để
77
vạn vật sinh sôi để mùa màng bội thu. Trong quan niệm của người Tày, “trời” là
lực lượng siêu nhiên có sức mạnh to lớn trong việc quyết định cuộc sống no đủ
hay thất bát. Vì thế người Tày thường tôn thờ “trời” và gọi là “ông trời”, “bố
trời” “mẹ đất”. Không chỉ thể hiện “trời” là bậc trên, mà còn là ruột thịt, thân
thiết như bố như mẹ. Đó là lời của mẹ Đàng trong Vãi Đàng: “Bố trời ơi! mẹ đất
à! thế là nhà ta thành ma gà rồi con ơi.” [56; 19]. Trong tâm khảm, mẹ Đàng coi
lực lượng siêu nhiên vừa như là thứ gì đó thiêng liêng nhưng lại vô cùng gần gũi.
Ngay khi gặp nạn, câu đầu tiên bà kêu lên là gọi trời, gọi đất như để chia sẻ như
để trút bớt đi nỗi bất hạnh mang tiếng ma gà mà gia đình bà đang gặp phải. Khi
mẹ Đàng nghe Điển trả lời về tên chánh tổng đang đến gần, bà lại một lần nữa
vừa thể hiện sự bất ngờ vừa thể hiện sự sợ hãi: “ông trời, mẹ đất ơi!” [56; 34].
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, khi nghe con gái Kim Ngần đòi
lấy Kin Xa, Thu Khoan đã thể hiện sự bất ngờ, bất lực và đau khổ đến tột độ:
“Bố trời mẹ đất ơi! Ôi đất đen và trời cao ơi, sao tôi lại phải gặp những nỗi
đắng cay đắng quá sức người như thế này” [58; 224].
Ông Cắm Hỷ kêu thất thanh khi bất ngờ phát hiện thấy một người trên
sông: “Ôi, bố trời, mẹ đất ơi! Trời đất dựng đá ơi tại sao lại có một người tự
tử” [58; 12].
Trong các tác phẩm văn xuôi của mình, Vi Hồng thường lồng những câu
hát then, những câu sli tiếng lượn, những bức phong slư mang những nội dung
và thông điệp riêng. Hát then là một nét đẹp trong trong sinh hoạt văn hoá
thường nhật của người Tày. Khi vui người ta mời Then, khi nhà có chuyện mời
Then, người có bệnh mời Then, người hiếm muộn mời Then. Then gắn với đời
sống tâm linh và tín ngưỡng của người Tày. Các bà Then, ông Tào, Pụt, Mo là
những người có khả năng liên hệ với thần linh, tiếp cận với thế giới siêu nhiên,
là cầu nối giữa người trần với các đấng tự nhiên. Bởi vậy, họ có vai trò hết sức
quan trọng trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng. Then của
người Tày mượn lời ca, tiếng đàn tính, đàn mạy loi cùng chùm xóc nhạc dẫn
đường đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu hay bày tỏ lòng biết ơn.
78
Những câu lượn của Đàng trong tiểu thuyết Vãi Đàng là lời chào thân ái,
hồ hởi tới con người, tới thiên nhiên vô vàn yêu quý:
“ Nghiêng nón tôi xin chào gốc bản, gốc rừng
Cất đầu, tôi chào người quen, người lạ
Tôi chào người già người trẻ
Người người đẹp đẽ hơn hoa
Tôi chào đồng ruộng cho chủ nhiều thóc
Chào nước trong như ngọc chảy xuôi” [56; 31].
Hay lời hát của Then Kì trong trong tiểu thuyết Đất bằng:
“Chào núi chào sông chào mặt trăng rạng sáng” [56; 167].
Trong câu hát lượn của Đàng và của Kì là lời chào các đối tượng vô cùng
phong phú bao gồm cả con người và thiên nhiên: Gốc rừng, đồng ruộng, nước,
núi, sông, mặt trăng rạng sáng đã gắn bó từ bao đời với con người. Lời chào ấy
như mang theo niềm hồ hởi và lòng biết ơn thiên nhiên đã ưu ái để mùa màng
tốt tươi, mang lại nhiều thóc lúa cho con người.
Lời hát then của Kì trong Đất bằng cũng có rất nhiều những từ ngữ dùng
để gọi thiên nhiên:
“Hoa ơi, hoa hỡi, thơm nữa hỡi hoa
Cho ong bướm xa về hội họp...
... Anh làm gió mát hoa cười” [56; 159].
“Hoa ơi, hoa hỡi, hỡi hoa” là những tiếng gọi tha thiết mà chủ thể muốn
gửi đến “hoa” - biểu tượng về vẻ đẹp thiên nhiên thuần khiết nhất của Người
Tày. người Tày quan niệm con người vốn là con của Mẹ Hoa, mỗi người là một
bông hoa: “Mẹ Hoa phân Hoa. Mẹ Hoa chi lại để đầu thai vào lòng người”
Trong tác phẩm của Vi Hồng, “hoa” và con người có một sợi dây liên hệ vô
cùng đặc biệt. Trong lời hát then của Kì, con người xưng hô với “hoa” là anh -
hoa thể hiện sự thân thiết, gần gũi. Hơn nữa phép ẩn dụ “hoa cười” một lần nữa
con người miền núi đã thổi hồn vào cho thiên nhiên, cho cây cối.
79
Các vị thần thuộc thế giới tự nhiên cũng xuất hiện trong lời khấn của ông
Đáng trong tiểu thuyết Đất bằng khi làm lễ “ò lò pù gáng” để mừng đêm liên
hoan mừng cơm mới của Đin Phiêng:
“Ơi thần cây ở muôn cành cao
Hỡi thần suối ở muôn khe thấp
Thần sông không xương dẻo như tấm vải chàm” [56; 218].
“Hỡi thần xanh tươi tôn kính
Nhận của tôi thêm một lời
Sinh ra ở đất Đin Phiêng
Mùa này chúng tôi làm ruộng thay nương
Trồng đồng Đin Phiêng thuở trước
Cấy ruộng Đin Phiêng thuở xưa...” [56; 218].
Ông Đáng đã thay mặt cho toàn thể nhân dân Đin Phiêng đã gửi lời khấn,
lời cảm tạ của con người với những đấng siêu nhiên: thần cây, thần suối, thần
sông, thần xanh tươi (thần mùa màng). Mặc dù lễ “ò lò pù gáng” xuất phát từ
người Dao, nhưng người Tày ở Đin Phiêng lại thực hiện nghi lễ một cách tôn
kính và thiêng liêng. Người khấn xưng là “tôi” với các vị thần như thể hiện sự
trang trọng, nghiêm túc. Lời khấn không chỉ là nghi thức, nghi lễ mà còn mang
trong đó tâm tư, nguyện vọng, sự thành kính, trang nghiêm của con người,
mong muốn được các vị thần linh của thiên nhiên thấu hiểu.
Trong tác phẩm Đất bằng, sức mạnh của ông thần được thể hiện trong
lời nguyền của mẹ Xanh: “Ôi ông thần ngày xưa đã nằm ngửa làm nên cánh
đồng này hãy về đây thu lại ruộng đất của thần”.
Như vậy, qua lớp từ ngữ xưng hô mà các nhân vật trong tác phẩm Vi
Hồng dùng để gọi các đấng tự nhiên, có thể thấy rằng, đời sống văn hoá tâm
linh của người Tày không thể thiếu các vị thần: thần Thổ địa, thần Cây, thần
Nông nghiệp (bảo vệ mùa màng)… Vì thế trong mỗi gia đình người Tày bao
giờ cũng có bàn thờ để thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh đó. Văn hóa gắn bó
80
thiên nhiên, tôn thờ sùng bái thần linh như một nét đẹp văn hóa mang đặc trưng
riêng của Người Tày nói riêng và người miền núi nói chung.
Với giọng điệu miêu tả thiên nhiên, gọi tên tự nhiên, tôn sùng tự nhiên,
nhà văn Vi hồng như gửi vào trong tác phẩm một tình yêu thiên nhiên, yêu quê
hương xứ sở và truyền tới người đọc ý thức bảo vệ giữ gìn môi trường tự nhiên.
Vì thiên nhiên và con người luôn gần gũi, giao hòa, không thể tách rời độc lập.
3.1.2. Văn hóa cộng đồng, làng bản
Do điều kiện sinh sống của người Tày ở các tỉnh miền núi đất rộng người
thưa, điều kiện sống khó khăn nên người Tày luôn coi trọng việc giữ gìn các mối
quan hệ. Trong quan hệ với cộng đồng, với các dân tộc anh em khác, đồng bào
Tày rất trọng tình đoàn kết gắn bó. Tính đoàn kết của người Tày được thể hiện
trong nội bộ gia đình, dòng tộc, bản mường và với các dân tộc anh em khác.
Trong giao tiếp cũng như trong cuộc sống, quan hệ giữa các thành viên
trong bản làng có ảnh hưởng không nhỏ tới sự gắn kết cộng đồng. Một cộng
đồng có được sự đoàn kết cao hay thấp phụ thuộc vào tính chung mục đích,
chung lí tưởng, sự gắn bó cảm xúc, sự hòa nhập, sự tin tưởng lẫn nhau giữa các
thành viên trong cộng đồng. Qua lớp từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng phần
nào thể hiện được tính mến khách, sự gắn kết cộng đồng của người Tày trong
các hoạt động lao động sản xuất, nghi lễ hội hè, hoạt động cách mạng, chiến
đấu với kẻ thù.
Thống kê các từ ngữ xưng hô trong 13 tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng,
qua lời thoại của các nhân vật, chúng tôi nhận thấy, trong phạm vi giao tiếp gia
đình, dòng tộc hay làng bản đều xuất hiện số lượng lớn các từ ngữ xưng hô chỉ
số nhiều. Chứng tỏ người Tày thường có thói quen tập trung đông người khi lao
động hoặc trong sinh hoạt đời thường. Đó là những từ ngữ chỉ một nhóm người
có chung đặc điểm hoặc về giới tính, hoặc về lứa tuổi, hoặc về dòng họ, dân tộc.
Trong phạm vi gia đình: các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để xưng:
chúng cháu 34 lượt, chúng em 19 lượt, nhà ta 17 lượt, con cháu 16 lượt, chúng
81
con 7 lượt, bố con ta 3 lượt, bọn anh 2 lượt, anh em ta 2 lượt. Còn lại các từ
các anh, bọn em, hai bố con ta, anh chị em chúng ta, con cháu chúng ta, trung
đội chúng ta, chị em chúng mình, anh em nhà ta, gia đình nhà ta được sử dụng
một lượt.
Các từ ngữ số nhiều được dùng để hô trong phạm vi gia đình: các ông 20
lượt, các anh 22 lượt, pỉ noọng (anh em) 14 lượt, các con 12 lượt, các bác 9
lượt, các em 7 lượt, các anh chị 7 lượt, các chú 5 lượt, các anh các chị 4 lượt,
các cháu 3 lượt, các cháu gái 3 lượt, các con cháu 2 lượt, các chị 2 lượt, các bà
2 lượt, anh em con cháu 2 lượt, còn lại các từ: các bá, con cháu gái, con cháu
trai, các cháu trai, các ông bà, các bác chú, các bác bá, các con các cháu, các
ông bà, con cháu ta, anh em họ hàng chú bác cô dì, toàn thể pỉ noọng được sử
dụng một lượt.
Trong dòng tộc: các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để xưng: hai họ
chúng ta 2 lượt, còn lại các từ họ Sầm ta, người họ Nông ta, anh em họ ta, anh
em họ Sầm, anh em mọi người hai họ được sử dụng một lượt.
Các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để hô: anh em họ Nông 2 lượt.
-Trong cộng đồng, làng bản: Các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để
xưng: chúng ta 266 lượt, ta 263 lượt, chúng tôi 88 lượt, chúng mình 22 lượt,
mình 18 lượt, mường ta 18 lượt, chúng tao 6 lượt, bọn mình 5 lượt, bản ta 5
lượt, quê ta 4 lượt, bọn tao 3 lượt, tập thể ta 3 lượt, dân quân chúng tôi 2 lượt,
dân tộc mình 2 lượt, người Tày mình 2 lượt, người Tày ta 2 lượt, người Tày
chúng ta 2 lượt, ban lãnh đạo chúng tôi 2 lượt, mọi người chúng ta 2 lượt, các
từ được sử dụng một lượt là: bọn ta, lũ tao, bọn chúng tôi, bọn tôi, đất ta, xóm
ta, quê mình, bản mường chúng ta, hội đồng chúng ta, Đảng ủy chúng ta, lãnh
đạo chúng ta, hai chúng ta, trường chúng ta, làng ta, thành phố ta, Lục Khê ta,
bản mường ta, hai đứa chúng mình, hai chúng mình, bọn chúng tôi, người Tày
chúng tôi, mọi người chúng tôi, anh em chúng tôi, hai vợ chồng chúng tôi.
Các từ ngữ chỉ số nhiều được dùng để hô: các bạn 18 lượt, mọi người 16
lượt, các người 14 lượt, các ngài 8 lượt, bà con 6 lượt, anh em mọi người 4
82
lượt. Những từ ngữ được sử dụng một lượt: trẻ con chúng mày, hai đứa chúng
mày, con trai con gái chúng mày, bọn mày thanh niên, các già, các bạn trai trẻ
trai non, các bạn trai non, trai non gái trẻ, mọi người thương yêu, bà con anh
em mọi người, bà con anh chị em hàng phố, anh em trên bờ, anh em mọi người,
anh chị em mọi người, anh em chú bác mọi người, anh chị em làng bản, chú
bác anh em làng bản.
Trong các tác phẩm văn xuôi Vi Hồng, các từ ngữ xưng hô chỉ số đông
có mặt trong đa dạng các cảnh huống giao tiếp: có khi là chuyện trò bình
thường, có khi là lời chỉ bảo, sai khiến, có khi là lời cầu cứu, van xin, khi là lời
than vãn, cũng có khi xuất hiện để thể hiện niềm ngỡ ngàng vui sướng tột độ.
Trong tiểu thuyết Đất bằng, già Viền đã rất nhiều lần vừa chuyện trò vừa
như dạy dỗ chỉ bảo con cháu:
“Các con cháu người Mèo cứ ăn cơm người Dao, người Tày... để già và
con cháu ăn mẻn mén” [56; 104]. Cách gọi của già Viền vừa như thể hiện sự
mến khách, nhường phần cơm ngon cho mọi người vừa như thể hiện sự gần
gũi, thân thiết giữa người Tày, người Dao và người Mèo. Đó không chỉ là bữa
cơm bình thường, mà đó là bữa cơm đoàn kết các dân tộc ở Đin Phiêng.
“Con cháu Đin Phiêng ta ơi, ta gặt lúa của ta đi!” [56; 220]. Trong
khung cảnh gặt lúa tập thể được diễn ra hết sức khẩn trương, già trẻ gái trai các
dân tộc anh em đều lao động hăng say, thể hiện tinh thần đoàn kết và giúp đỡ
nhau cùng nhau chia sẻ công việc, nhường nhau thức ăn..
“Các cháu trai phải biết nhường các cháu gái với! Phải mời các bạn
gái ăn! Các cháu gái ăn đi đừng xấu hổ!” [56; 104]. Lời dạy bảo của già Viền
trong bữa cơm như truyền lại cho con cháu truyền thống biết nhường nhịn, đùm
bọc thương yêu nhau của người miền núi.
Già Viền nói:“Thưa anh em mọi người hai họ, không nên ,mắc mưu con
cáo già, để đến nỗi chúng ta gặp nhau phải cúi mặt xuống đất.” [56; 119].
Câu nói của già Xanh khi bàn về tình hình làm ăn của tập thể Đin
Phiêng: “Các con cháu à! Cái việc ta làm thì to lớn...” [56; 106].
83
“Thôi, các bác ạ!... Ta ăn đi rồi lo chặt cây làm ruộng. [56; 105].
Câu nói của ông nội Xanh như một mệnh lệnh ban xuống cho mọi người
trong dòng họ:“Bây giờ các con các cháu về nhà lấy thêm dao gậy ra đây”[56;
117], Tất cả anh em họ Nông hãy dừng tay lại và sang bờ suối bên ta hết.”
[56; 114], “Các con cháu nghe ta” [56; 118], “Anh em họ ta hãy cắm giáo
mác xuống đất” [56; 115].
Bố Hạ Chi trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng nói như ra lệnh: “Anh
em họ hàng hãy đè nó xuống mà trói vào” [60; 139].
Không chỉ trong lao động mà khi gặp chuyện dữ, các nhân vật trong văn
xuôi Vi Hồng cũng thường gọi dòng họ, làng bản vừa như thông báo, vừa như
một sự cầu cứu, mong được giúp đỡ: Ké Viền trong tiểu thuyết Đất bằng đã
kêu: “Anh em họ Sầm đâu, mau mau đến cứu tôi” [56; 113].
Tiếng gọi của mọi người:“Trai tráng họ Nông ta đâu, người họ Sầm đã
đánh chết người họ Nông ta rồi” [56; 114].
Một người họ Nông gọi: “Ới anh em họ Nông, họ Sầm “mùn thớt” đã
đánh chết người họ Nông ta rồi’ [56; 113].
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, khi Kin xa phát hiện ra Thu
Khoan tự tử đã kêu lên: “Chú, bác, anh em làng bản ơi!Thu Khoan tự tử rồi”
[58; 62].
Thu Khoan kêu lên khi thấy con gái lấy Kin Xa: “Anh Linh Khay ơi!
Anh chị em chú bác mọi người ơi!” [58; 226].
Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhân vật bệnh nhân già đã kêu lên
như một sự cầu cứu: “Các ông các bà, các anh các chị bác sĩ ơi! Cứu tôi với!
Cứu con tôi với” [57; 5].
Không chỉ trong nỗi đau xót, mà khi vui, các nhân vật trong tác phẩm Vi
Hồng cũng gọi tên cộng đồng làng bản như một thói quen có từ lâu đời. Trong
tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc Loỏng, Cặm Cang thể hiện niềm vui tột độ khi được
Thu Lạ yêu thương: “Ta sung sướng quá các anh các chị các em ơi! Sung
84
sướng hơn ông vua ở kinh đô, hơn cả ngọc hoàng thượng đế trên trời!” [56;
109]. “Anh em mọi người chú bác cô dì ơi!Thằng Cặm Cang xấu xí này lấy
được nàng tiên rồi” [56; 203].
Văn hóa cộng đồng làng bản không những được thể hiện qua cách gọi
mà còn thể hiện trong lối xưng của Người Tày. Khi đối thoại, các nhân vật
trong tác phẩm Vi Hồng thường xưng là chúng tôi, chúng cháu, chúng ta,
người Tày ta, mọi người chúng tôi... Những trường hợp sử dụng kiểu xưng hô
này thường là một người đại diện cho ý kiến của nhiều người để nói lên ý kiến,
quan điểm của nhóm mình.
Trong hầu hết các tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng, lối xưng chỉ số nhiều
đều được sử dụng phổ biến. Lấy ví dụ trong tiểu thuyết Đất bằng, mô hình đối
thoại tập thể xuất hiện rất nhiều trong không gian sinh hoạt, lao động chung của
làng bản. Vì vậy, lối xưng nói trên cũng được thể hiện đa dạng:
Già Viền nói hợp bụng chúng cháu đó” [56; 105].
“Anh em chúng tôi sang đây không phải để đánh nhau” [56; 119].
“Chúng ta hãy đi làm. Không thì thua Đin Phiêng phải” [56; 105].
“Chúng em tán thành ý kiến anh Đáp” [56; 125].
Còn rất nhiều các từ ngữ xưng hô khác thể hiện rõ văn hóa cộng đồng
làng bản của người Tày, trong khuôn khổ luận văn của đề tài này, chúng tôi xin
phép chỉ liệt kê ra một vài ví dụ như trên để thấy được nét độc đáo trong cách
gọi cộng đồng làng xóm của người Tày.
Đặc điểm dễ nhận thấy trong cách xưng hô của người Tày là thường
mang tính gia đình hóa. Những người già thường gọi những người trẻ tuổi là
con cháu, những người cùng lứa tuổi thì gọi nhau là anh em, những người dưới
gọi người trên là chú bác cô dì mặc dù không có quan hệ huyết thống. Qua cách
xưng hô đó mà quan hệ trong cộng đồng bản làng trở nên gần gũi, đoàn kết,
gắn bó thương yêu.
Văn hóa đoàn kết của dân tộc Tày nói chung và của dân tộc Việt nói
chung là một nét đẹp đặc trưng mang tính truyền thống cần được gìn giữ và
85
phát huy. Ngày nay, người Tày gọi ngày hội đại đoàn kết là “mự đại đoàn kết”.
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong những sự kiện lớn của bản làng,
đồng bào miền núi luôn có ý thức tương trợ nhau. Trong quan hệ giao tiếp của
cộng đồng, quan hệ bản làng luôn được coi trọng hàng đầu.
Nét văn hóa gắn bó tự nhiên, tôn thờ thần linh, tinh thần đoàn kết của
người Tày được truyền từ đời này sang đời khác bằng một kho tàng văn học
dân gian phong phú bao gồm: truyện cổ tích, thần thoại và vốn thi ca cổ truyền
gồm: dân ca trữ tình, thơ ca đám cưới, hát ru, văn cúng bái, văn than...với nội
dung chủ yếu nhằm giải thích vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc các dân
tộc, nêu lên lòng chính nghĩa, ghét gian tà, tinh thần đấu tranh chống lực lượng
siêu nhiên thần kỳ, chống cường quyền ác bá, đấu tranh để giữ trọn vẹn mối
tình chung thuỷ lứa đôi, bạn bè, đấu tranh chống ngoại xâm, truyền thống đoàn
kết dân tộc trong cộng đồng người Tày.
3.2. Dùng từ xưng hô thể hiện bản chất con người miền núi
Giao tiếp của người Tày chịu ảnh hưởng bởi truyền thống văn hóa,
phong tục tập quán của dân tộc một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đó là những
giá trị tinh thần quý báu tồn tại vững chắc trong tâm lý người Tày ở mọi thế
hệ. Đặc điểm tính cách dân tộc cũng là một nhân tố khách quan ảnh hưởng đến
văn hóa giao tiếp của người Tày. Nét tính cách điển hình của người Tày là hiền
lành, thật thà và kín đáo. Người Tày ưa sự chân tình nhưng lại có lối ứng xử tế
nhị, nhẹ nhàng, lịch thiệp, mến khách và có phong cách nhu mì, giản dị, kiêm
nhường, ít khoa trương.
Vi Hồng là người con đích thực của quê hương miền núi, mang trong
mình phẩm chất, cốt cách dân tộc Tày. Nhà văn có những phát hiện tinh tường
về sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong tâm hồn của những con người nghèo khổ
chốn miền núi. Họ là những con người dũng cảm, giàu nghị lực vượt lên những
khó khăn, chiến thắng hoàn cảnh bằng một sức mạnh tinh thần phi thường. Sức
sống mãnh liệt ấy chính là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố tiềm tàng trong
đặc điểm tính cách của người miền núi.
86
Có thể nói rằng, qua đối thoại, qua cách xưng hô của nhân vật trong văn
xuôi Vi Hồng đã thể hiện khá rõ tính cách, tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của
người miền núi: đó là tính chân thật, hồn nhiên, sự rộng lượng, lòng vị tha và
cả sự phóng khoáng của người dân tộc thiểu số; đó là tâm hồn lãng mạn, bay
bổng rất giàu cảm xúc của người miền núi.
3.2.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tính cách chân thật, hiền lành, chất phác,
ngay thẳng
Thế giới nhân vật trong văn xuôi Vi Hồng chủ yếu là những người dân
tộc miền núi giản dị, chất phác, thô mộc nhưng giàu tình yêu thương, trọng tình
nghĩa. Bởi thế ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn mang đậm
phong cách diễn đạt của người miền núi. Phong cách đó thể hiện ở lời nói, cách
nói rất chân thật, ở từ ngữ giản dị, dễ hiểu. Trong đối thoại, người Tày thường
có lối xưng hô bộc lộ thái độ yêu ghét trực tiếp, từ xưng hô bộc lộ đặc điểm,
tính cách một cách cụ thể.
Tính cách chân thật, ngay thẳng của người Tày nói riêng và người miền
núi nói chung thể hiện ở cách xưng hô bộc lộ thái độ yêu ghét một cách trực
tiếp. Khi đối thoại, người miền núi thường dùng các xưng hô thể hiện thái độ
yêu thương, quý mến, trân trọng, ngợi ca: bạn thân mến, mọi người thương yêu
Thu lạ em yêu, em yêu Thu Lạ, bạn Thu Lạ thân thương, cô bạn gái thân mến,
chị dâu kính yêu, khách quý khách sang, anh bạn Kin Xa thân yêu.
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Chim Ca gọi Thu Lạ: “Thu Lạ
ơi, ơi bạn Thu Lạ thân thương!” [60; 89].
Chim Ca động viên Thu Lạ: “Đừng bi quan thế, bạn thân mến ạ!” [60; 92].
Cặm Cang nói với Thu Lạ: “Thu Lạ ơi, ta không thể sống nhìn trời nhìn
đất và nhìn em yêu Thu Lạ mà có thể sống được.” [60; 106].
Trong tiểu thuyết Đất bằng, một người trong đám thanh niên nói:
“Thưa mọi người thương yêu! Chúng tôi phải cản bà con lại, thật không
phải.” [56; 224].
87
Trong tiểu thuyết Người trong ống, nhân vật Ba nói với Hoa: “Tôi cười
gió núi mây ngàn cô bạn gái thân mến ạ” [57; 152].
Khi đặt các nhân vật vào trong các tình huống xung đột gay gắt, Vi Hồng
thường để cho các nhân vật của mình đối thoại để thể hiện và bộc lộ rõ tính
cách. Lớp từ ngữ xưng hô trong được dùng giữa các nhân vật khi mâu thuẫn là
thái độ coi thường, căm thù, cay nghiệt, mỉa mai... và thường được thể hiện
bằng các từ ngữ vừa để gọi tên vừa là những tiếng chửi thề: bọn gia nhân độc
ác, thằng già canh cũi, con chó ghẻ bướng bỉnh, thằng trẻ con do cho sinh ra
do ma sinh lại, bà già đanh đá mỏ nhọn lưỡi sắc, bà già nửa điên nửa khùng,
mụ già kia, bà già có cái đầu óc thâm u như rừng cây, cái con cơm thiu mẻ
thối, cái thằng khốn nạn, cái thằng lau sậy chết khô, thằng Châu Đoàn già,
những kẻ ngu ngốc, kẻ độc ác, kẻ bịt bợm, đồ hèn, đồ dã man, đồ ăn mày, đồ
ma gà chuyên làm hại người, đồ gái đẹp ma gà, đồ ma gà chúng mày, đồ chết
trôi chết sấp, đò thằng Ba dê cụ, đồ thằng Ba đểu cáng, đồ con dê già, đồ con
chó không nghe lời chủ, đồ vô phúc, đồ phản phúc, cái đồ lông cánh lông đuôi
cun củn, cái đồ cơm nguội cơm thiu, lão già phản bội, chó già phản chủ, cái
ông ma gà đẻ ra cái con ma gà, thằng Mán con kia, cái thằng Cặm Cang xấu xí
kia, cái thằng con trai chó đẻ lợn nuôi kia.
Sau đây là một số ví dụ thể hiện lối nói bộc lộ thái độ căm ghét của nhân
vật qua những tiếng chửi thề:
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, thằng nghiện đã nói với Kin Xa
“Cái thằng lau sậy chết khô kia, mày “cáu tháy” ở đâu ra được cái của mập
thế?” [58; 146].
Trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói, nhân vật Tẹo đã nói với Hoàng:
“Tiên sư mày, mày có về không, đồ chết trôi, chết sấp nhà mày” [57; 96].
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Tua Be nói với bà Phí Thao:
“Hoa của tôi, tôi đã cho con trai Cặm Cang của bà dùng rồi! Bà già đanh đá
mỏ nhọn lưỡi sắc ạ!” [60; 208].
88
Tua Be nói với Bà Xẳn Lần: “Không biết thì bà câm đi. Bà già nửa điên
nửa khùng ạ!...Bà già có cái đầu óc thâm u như rừng cây ạ!” [60; 266].
Trong cách gọi của Mẹ Chim Ca với con: “Mày không nghe lời bố mẹ
mày nữa có phải không? Cái thằng con trai chó đẻ lợn nuôi kia!” [60; 250].
Ngoài việc bộc lộ thái độ yêu ghét một cách trực tiếp qua xưng hô, người
miền núi thường có cách gọi kèm theo đặc điểm cụ thể của đối tượng. Đó là
đặc điểm về ngoại hình và đặc điểm về tính cách.
Những từ ngữ xưng hô chỉ đặc điểm ngoại hình như: Mạc trọc, người
đẹp, người đẹp gái, em gái xinh đẹp, cô em xinh đẹp, bạn gái xinh đẹp của tôi,
chàng trai xấu xí, bà Xẳn Lần mặt rộng mắt trắng lưỡi mỏng, người già...
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang nói với Thu Lạ: “Tại
sao thế? Hay có con ma nó xui, con quỷ nào nó khiến bạn gái xinh đẹp của tôi
trở nên như thế?” [60; 102].
Thu Lạ nói với Cặm Cang: “Hỡi chàng trai xấu xí! Đừng kiêu ngạo
thế.” [60; 104].
Bà Xẳn Lần nói với Cặm Cang: “Cái thằng Cặm Cang xấu xí kia, tao
không nói với mày.” [60; 265].
Cặm Cang nói với bà Xẳn Lần: “Bà Xẳn Lần miệng rộng, mắt trắng,
lưỡi mỏng ơi! Bà đừng có mà mắng chửi người ta và con gái độc địa như thế.”
[60; 264].
Trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói, nhân vật Thìm nói với Châu
Đoàn: “Cái thằng Châu Đoàn già! cút cái con mẹ mày đi” [59; 22].
Những từ ngữ xưng hô chỉ đặc điểm tính cách như: thằng Lảm lười, lão
Moong cứt sái, thằng Moong cứt sái, thằng Toan ích kỉ...
Trong tiểu thuyết Đất bằng, cách gọi của nhân vật vừa như một lời nhận
xét vừa như lời yêu cầu: “Thằng Toan ích kỉ, thằng Lảm lười, lão Moong cứt
sái, và tất cả những thằng ăn cắp từ nơi khác đến muốn sống thì dừng mảng
lại!” [56; 241].
89
Những đặc điểm về tính cách và ngoại hình của các nhân vật trong văn
xuôi Vi Hồng không chỉ được bộc lô qua cách gọi các gọi các nhân vật khác,
mà còn bộc lộ qua chính cách xưng của các nhân vật đó trong giao tiếp: cái bà
già này, người nghèo này, cái con ma gà này, cơm thiu mẻ thối này, cặm cang
xấu xí này... Khi nhân vật nhận rõ và ý thức được những đặc điểm về tính cách
và ngoại hình của mình là xấu, các nhân vật sử dụng những từ tự xưng kèm thái
độ mặc cảm.
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang đã tự xưng mình:
“Ối hôm nay là ngày gì mà Cặm Cang xấu xí này được hưởng nhiều cái
phúc.” [60; 108].
“Thằng Cặm Cang xấu xí này đã lấy được nàng tiên rồi” [60; 203].
Nhân vật Tua Be đã tự xưng mình là cơm thiu mẻ thối khi nói với bà Xẳn
Lần: “Cơm thiu mẻ thối này thế mà lại còn văn minh hơn bà kia đấy” [60; 266].
Hầu hết, các nhân vật trong văn xuôi Vi Hồng giữ được những nét “hồn
nhiên như cây cỏ”. Thế giới nhân vật chính diện trong tác phẩm của Vi Hồng
đều lấy nguyên mẫu từ cuộc sống hiện thực của người dân tộc Tày. Họ sống
hồn nhiên, chân thật, yêu ghét rạch ròi, họ tin, yêu người khác như chính bản
thân mình. Thế giới nhân vật phản diện mang những cái xấu xa có khi là do bản
chất nhưng cũng có khi xuất phát từ sự nhận thức nông cạn, sự cả tin, cổ hủ, lạc
hậu. Những quan niệm mang tính gốc rễ đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân
miền núi đã tạo nên một cuộc sống vô tư, hồn nhiên nhưng nhiều khi lại mang
đến cho họ những bi kịch đáng thương.
3.2.2. Dùng từ xưng hô thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng
Ngôn ngữ của người Tày rất giàu và đẹp, điều đó đã khiến cho lời ăn
tiếng nói của người Tày trở nên hết sức phong phú, uyển chuyển, tinh tế và
khái quát. Với số đơn vị ngữ âm phong phú trong ngôn ngữ dân tộc mình,
người Tày đã tạo ra các từ ngữ diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống vật chất và
tinh thần bên cạnh vốn từ vay mượn từ tiếng Hán và tiếng Việt. Bởi thế bản sắc
90
dân tộc, bản sắc miền núi thể hiện ở cách nói mang tính ước lệ, tượng trưng,
giàu hình ảnh, hay ví von, so sánh.
Dù được sáng tác bằng tiếng Việt, nhưng ngôn ngữ các tác phẩm của Vi
Hồng vẫn ảnh hưởng rất lớn từ tâm hồn bay bổng, lãng mạn của người miền
núi. Và phương diện từ ngữ xưng hô trong văn xuôi cũng bị chi phối không nhỏ
bởi nét đặc trưng này trong tính cách của người Tày.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy: trong lời trần thuật của tác giả
cũng như trong đối thoại của của các nhân vật, lớp từ ngữ xưng hô có chứa
những hình ảnh ví von, so sánh thường gần gũi với đời sống thiên nhiên, núi
rừng, thường gắn với những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống của người
dân miền núi. “Hoa” và “nàng tiên” là hai hình ảnh biểu trưng cho cái đẹp xuất
hiện nhiều nhất trong xưng hô của các tác phẩm văn xuôi Vi Hồng.
Trong một số tác phẩm văn xuôi Vi Hồng, “hoa” xuất hiện trong tên gọi
như một biệt danh:
Trong tiểu thuyết Đất bằng, già Viền thường gọi Nhình là “bông hoa út”
để gọi đứa cháu bé nhất nhà:
“Bông hoa út của bà làm vừa vừa thôi nhá, về lại ốm đấy.” [56; 145].
“Đúng đấy, hoa út của bà giỏi” [56; 145].
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, nhân vật Kim Ngần có biệt danh
là “Hoa Nước” vì cô sống ở môi trường sông nước và đẹp như một đóa hoa.
Kin Xa thường gọi tên cô bằng biệt danh đó:
“Bác buồn quá cháu Hoa Nước à!” [58; 212].
“Ôi, Hoa Nước yêu tôi thật đấy ư” [58; 220].
“Ta về nhà đi em - Hoa Nước của anh. Ôi, bông Hoa Nước kì diệu
không ngờ lại rơi vào trái tim anh” [58; 221].
Ngoài cách xuất hiện trong tên gọi như một biệt danh, “Hoa” còn xuất
hiện trong tên gọi một cách thường xuyên và được sử dụng lâm thời:
91
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, Kin Xa đã chào gái làng chơi:
Đại huynh xin chào gái hoa gái nụ... gái hoa có còn nguyên cánh, gái nụ có
còn phong nhụy? “[58; 148]; “Đại huynh của nàng xin đánh tiểu tiểu thôi,
nhưng số bạc thì cũng khá đấy có phải không búp nụ và bông hoa của anh?”
[58; 149].
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang nói: “Tôi là người
Mẹ Hoa đúc nhầm khuôn, Mẹ Đất đẻ nhầm lối, nên tôi không giống người trần
gian. Xin các bạn xinh đẹp như hoa nư nụ đừng mời mọc tôi làm người sang
người quý” [60; 26]; Tua be nói: “Thôi thế là thế nào, hỡi người bạn gái xinh
đẹp như một đóa hoa.” [60; 24].
Cùng với cách so sánh mang tính ước lệ vẻ đẹp người con gái với loài
hoa, Vi Hồng đã sử dụng dày đặc một hình thức ước lệ quen thuộc trong truyện
cổ tích dân gian với hình ảnh nàng tiên. Tiên chỉ những người đẹp nhưng
khồng có thật, tiên chỉ xuất hiện trong các huyền thoại. Nhưng trong tác phẩm
Vi Hồng con người rất nhiều lần được so sánh với nàng tiên và được gọi là
nàng tiên.
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, tên quan tuần phủ Trần Hồi đã
gọi Thu Khoan: “ôi, nàng tiên Thu Khoan của ta” [58; 123].
Kin Xa nói với cô gái làng chơi: “Hỡi nàng tiên bé nhỏ của chàng đại
ca!” [58; 156].
Trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ, Thỉ nói với Nen trong niềm
sung sướng: “Anh nhất định mang Pèng về cho em. Trời ơi hạnh phúc của anh
đây rồi! nàng tiên của anh đây rồi.” [61; 50].
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Tua Be nói: “À, anh Cặm Cang
dạy mình nói đấy, các bạn gái đẹp như nàng tiên của em ạ!” [60; 24].
Cặm Cang nói: “Các nàng tiên xinh đẹp của xuân xanh, hãy trao
những chiếc còn có tua bảy sắc vào trong tay các chàng mà các nàng muốn gửi
ở đấy cả mùa xuân vĩnh cửu” [60; 25].
92
Các nhân vật cũng thường gọi tên các “nàng tiên” ở ngôi thứ ba:
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Cặm Cang nói với bố mẹ: “Con
vừa mới ôm nàng tiên và chạy về báo cho bố mẹ” [60; 204]; “Vợ con là một
nàng tiên đấy” [60; 204]; “Con lấy nàng tiên Thu Lạ” [60; 205].
Trong truyện dài Người làm mồi bẫy hổ, Thỉ nói với Xấn Xáng: “Tại sao
lạo pản không giữ lời hứa ban đầu mà lại thả cái con Nen nàng tiên của tôi
đi”. [61; 51]. “Ông giả Pèng cho tôi nguyên vẹn thì tôi xí xóa mọi công cán,
giao kèo trong cuộc mua bán Nen nàng tiên của tôi với ông!” [61; 53].
Xấn Xáng nói với Thỉ một cách ngọt ngào và điềm tĩnh: “Nàng tiên Nen
của tài cá đang học vũ ba lê.” [61; 52].
Khi đối thoại, các nhân vật trong tác phẩm Vi Hồng cũng thường so sánh
vẻ đẹp của con người với nàng tiên: Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng,
Bố Thu Lạ nói với mẹ Cặm Cang: “Con gái tao là nàng tiên. Con trai mày là
con khỉ già què chân” [60; 218].
Mẹ Cặm Cang nói với dân quân: “Bá xin nói thật! Vì bá thấy Thu Lạ nó
đẹp như nàng tiên mà lũ con của bá thì xấu xí” [60; 190].
Nhìn chung, hình ảnh biểu trưng “hoa” và “nàng tiên” xuất hiện trong tên
gọi của rất nhiều các nhân vật trong văn xuôi Vi Hồng, nhất là ở mảng đề tài
tình yêu đôi lứa và để gọi tên những người trẻ tuổi có vẻ đẹp hình thức.
Tính ước lệ cao trong ngôn ngôn ngữ của người Tày thể hiện qua cách
gọi tên: trai non gái nụ, trai non gái trẻ, trai thanh gái lịch, trai nụ gái hoa...
được sử dụng với mật độ dày đặc.
Trong truyện dài Đường về với mẹ chữ, những người chủ chó đã hỏi:
“Các bạn trai trẻ, trai non ơi! Các bạn có thấy con chó nào sủa ở phía núi bên
kia không?” [62; 56].
“Cảm ơn các bạn trai non. Các bạn rất dũng cảm.” [62; 56].
Trong tiểu thuyết Đất bằng, Già viền đã nói với già Xanh: “Trai non, gái trẻ
bây giờ làm việc nặng nhọc mà cứ lượn hát như chơi hội ngày xưa vậy.” [56; 97].
93
Không chỉ trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, mà trong lời trần thuật
của tác giả, Vi Hồng cũng có cách gọi mang tính ước lệ, tượng trưng như vậy.
Trong tiểu thuyết Mùa hoa bioóc loỏng: “Ở Khoang Đông với những ngày hội
Xuống Đồng, trai thanh gái lịch, trai nụ gái hoa, trai non gái trẻ mặt sáng
như gương, mắt long lanh như họa mi, như quả nhót chín mọng.” [60; 5].
Ảnh hưởng sâu sắc từ những làn điệu dân ca của dân tộc và đặc trưng
giao tiếp vùng dân tộc miền núi. Các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn
thường đối thoại với nhau bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu cảm xúc, phong phú
về nhạc điệu, giàu hình ảnh, giống như lời thơ lối nói, lối hát của người Tày.
Điều này thể hiện ở lời thoại đưa đẩy, bay bướm, theo kiểu của lối hát đối đáp
trong các làn điệu sli, lượn của người Tày - Nùng: trong lời thoại của Ai Hoa
nói với Tú: “Em thấy anh là con bướm lớn khỏe đi ngang đồng. Hoa em muốn
đậu, nụ em muốn ong anh đỡ dậy sắc xuân” [57; 124].
Do ảnh hưởng từ cách diễn đạt dài dòng, vòng vo của người Tày, lối
xưng hô trong tác phẩm của Vi Hồng cũng có đặc điểm dài dòng và sử dụng rất
nhiều mĩ từ. Xuất hiện đậm đặc nhất là mô hình xưng hô A của B (với 60 lượt
sử dụng) thể hiện quan hệ của người nghe với người nói (thường là quan hệ gần
gũi, thân thiết). Đó là các từ: hoàng tử của em, nàng tiên của anh, con trai rất
thông minh của bố, con trai vô vàn yêu quý của cha, thằng cháu nội yêu quý
của ông, anh vô vàn yêu quý của em, nàng xiêm vàng ngọc của ta, quan đại
hiền đệ của em, anh bạn Kin Xa thân yêu, anh bạn nghệ sĩ dân gian lượn tuyệt
vời của tôi, người đẹp của anh, tình yêu lí tưởng và thần diệu của anh... (Xem
thêm Bảng 5- Phần Phụ lục).
Sau đây là một số ví dụ cụ thể trong tác phẩm:
Trong tiểu thuyết Mùa hoa Bioóc loỏng, Mi Tráng nói với Cặm Cang:
“Anh bạn nghệ sĩ dân gian lượn tuyệt vời của tôi. Anh thật là con người tốt
bụng. Tao quý mày đấy, Cặm Cang à!” [60; 162].
Mi Tráng nói với Xinh Xông: “Người đẹp của anh, tình yêu lí tưởng và
thần diệu của anh! Em đừng nói thế, đừng nghĩ thế” [60; 49].
94
Thu Lạ nói với Cặm Cang: “Thế nào, người yêu muôn thuở của em, anh
có biết biểu hiện tình yêu không?” [60; 200].
Bà Xẳn Lần nói với Hạ Chi: “Con gái Hạ Chi của mẹ. Con gái đẹp, con
gái xinh, con gái thơm của mẹ, về nhà đi!” [60; 268].
Trong tiểu thuyết Người trong ống, ông Hoàng nói với Ba: “Tôi đi là để
nhường đường đi nước bước cho cậu đấy. Cậu bác sĩ trẻ, đẹp trai của tôi ạ!”
[57; 145].
Trong tiểu thuyết Dòng sông nước mắt, Thu Khoan nói với Kim Công:
“Thôi được rồi đấy anh pupa của em ạ!” [58; 44]
Bà mối nói với Thu Khoan: “Ôi, nàng Thu Khoan của tôi thật là có
được một hạnh phúc thần tiên” [58; 65]
Quan phủ Trần Hồi nói với Kin Xa: “Ôi, anh bạn Kin Xa của tôi bây giờ
trở nên sang trọng và quý phái quá!” [58; 160].
Cô gái làng chơi nói với Kim Công: “Quan đại hiền đệ của em nằm
xuống đây” [58; 181].
Có thể thấy rằng, ngôn ngữ mang tính ước lệ, tượng trưng của người
miền núi không chỉ xuất hiện ở lời ăn tiếng nói, mà còn xuất hiện ở lời thơ lời
hát, ở cách xưng hô có cánh của các chàng trai cô gái trong các sinh hoạt lễ hội,
sinh hoạt đời thường. Ẩn sâu lớp từ ngữ xưng hô mang đậm chất thơ trong văn
xuôi Vi Hồng là tâm hồn bay bổng, lãng mạn, mang đậm màu sắc mang phong
vị miền núi, giản dị, tươi tắn nhưng hết sức tự nhiên.
Tiểu kết chương 3
Nghiên cứu về hiệu quả sử dụng từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi
Hồng, điều dễ nhận thấy là, cùng với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân tộc,
Vi Hồng đã đưa vào tác phẩm của mình một hệ thống từ ngữ xưng hô phong
phú, đa dạng và đậm màu sắc dân tộc Tày. Trong giới hạn của đề tài, trong
chương này, chúng tôi tập trung làm rõ những vấn đề sau:
1. Vi Hồng là nhà văn của dân tộc Tày. Quê hương Cao Bằng là cái nôi
nuôi dưỡng, là cội nguồn làm nên chất văn trong sáng tác của ông. Dấu ấn văn
95
hóa Tày hiện lên sâu sắc và đậm đặc trong văn xuôi Vi Hồng. Qua việc sử dụng
lớp từ ngữ xưng hô, các tác phẩm của ông thể hiện văn hóa gắn bó tự nhiên, tôn
thờ thần linh và văn hóa cộng đồng, làng bản.
2. Vi Hồng là người con đích thực của quê hương miền núi, mang trong
mình phẩm chất, cốt cách của dân tộc Tày. Qua lớp từ ngữ xưng hô của các nhân
vật trong văn xuôi Vi Hồng phần nào thể hiện rõ tính cách, tâm hồn, tư tưởng,
tình cảm của người miền núi. Người dân tộc thiểu số không chỉ mang trong mình
tính chân thật, hiền lành, hồn nhiên, chất phác, ngay thẳng mà còn ẩn chứa một
tâm hồn lãng mạn, bay bổng giàu cảm xúc và đượm tình yêu thương.
Bằng vốn sống vốn hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ dân tộc mình, Vi Hồng
đã đem đến cho từ ngữ xưng hô những giá trị mới trong việc thể hiện nội dung,
tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Với việc sáng tác bằng tiếng Kinh, nhà văn
đã mở ra góc nhìn về văn hóa, con người của dân tộc thiểu số. Cách sử dụng
hiệu quả lớp từ ngữ xưng hô chọn lọc và phù hợp với từng ngữ cảnh đã góp
phần để lại dấu ấn sâu đậm, không thể trộn lẫn Vi Hồng với bất kì một nhà văn
nào khác.
96
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu về phạm trù xưng hô trong tác phẩm văn học cụ thể là
một hướng đi mới mẻ và thú vị. Tìm hiểu văn xuôi Vi Hồng từ góc nhìn từ ngữ
xưng hô sẽ giúp cho chúng ta có được một cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về tác
phẩm của ông qua một phong cách nghệ thuật riêng, cùng những đóng góp của
ông cho bức tranh văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
2. Hệ thống từ ngữ xưng hô trong tác phẩm Vi Hồng là một hệ thống
sống động, đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Ngoài việc vận dụng các từ ngữ
xưng hô trong tiếng Việt một cách linh hoạt, tinh tế, từ ngữ xưng hô trong văn
xuôi Vi Hồng còn mang những phong vị đặc biệt do ảnh hưởng bởi lối giao tiếp
của người Tày. Tài năng sử dụng ngôn ngữ của Vi Hồng được thể hiện bằng
việc dùng từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật và qua lời trần
thuật của chính tác giả.
2.1. Xét về từ ngữ xưng hô qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Số
lượng từ ngữ xưng hô trong tác phẩm tương đối lớn. Trong 13 tác phẩm lựa
chọn để khảo sát có 837 từ ngữ, 15052 lượt sử dụng.
Xét về mặt nhóm loại, từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng có mặt
đầy đủ ở 5 nhóm: Đại từ nhân xưng; danh từ thân tộc; từ chỉ chức vụ, nghề
nghiệp; tên riêng; các từ ngữ xưng hô khác. Nét độc đáo trong các từ ngữ xưng
hô của Vi Hồng là sự xuất hiện của rất nhiều kiểu xưng hô mới lạ. Ở mỗi kiểu
xưng hô nhà văn có cách vận dụng riêng độc đáo phù hợp với từng chủ đề, qua
đó làm nổi bật thêm giá trị cũng như tư tưởng của tác phẩm.
Xét về vai giao tiếp, từ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng được sử dụng
phổ biến ở cả hai vai: vai xưng và vai hô. Trong đó số lượng và tần số sử dụng
của vai xưng ít hơn so với vai hô. Đặc biệt từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi
Hồng có sự kiêm vai theo đúng quy luật sử dụng từ xưng hô của tiếng Việt.
Hiện tượng sử dụng chuyển vai một số từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng
diễn ra rất tự nhiên và hợp lý.
97
2.2. Xét về từ ngữ xưng hô qua lời trần thuật của tác giả: cách gọi nhân
vật trong tác phẩm văn xuôi của Vi Hồng mang sắc thái biểu cảm cao qua một
số từ được nhà văn sử dụng phổ biến: lão, mụ, hắn, nàng, chàng. Ở mỗi mảng
đề tài, mỗi kiểu loại nhân vật, nhà văn đều có cách gọi riêng và có điểm nhìn
trần thuật hết sức linh hoạt, đa dạng. Việc sử dụng các từ ngữ xưng hô qua lời
trần thuật của tác giả góp phần thấy được thái độ của nhà văn với các nhân vật
trong tác phẩm của mình.
3. Hệ thống từ ngữ xưng hô trong văn xuôi Vi Hồng được sử dụng phong
phú, đa dạng, vừa mang tính toàn dân vừa mang sắc thái địa phương sâu sắc.
Đặc điểm sử dụng từ ngữ xưng hô trong tác phẩm tự sự của nhà văn phần nào
phản ánh được văn hóa dân tộc Tày và tính cách của con người miền núi. Đó
chính là văn hóa gắn bó tự nhiên, sùng bái thần linh và văn hóa đoàn kết được
hình thành, gìn giữ lâu đời trong cộng đồng, làng bản. Đó chính là nét tính cách
chân thật, hiền lành chất phác, ngay thẳng nhưng lại không thiếu yếu tố lãng
mạn bay bổng đẫm chất thơ của người đồng bào miền núi.
4. Vi Hồng là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại. Thành công của Vi Hồng không chỉ đến từ tài
năng và niềm đam mê văn chương mà còn đến từ những trải nghiệm cuộc
sống mà ông đã từng đi qua. Đắm mình trong dòng suối thơ ca dân gian của
dân tộc Tày và hòa nhập trong dòng chảy của ngôn ngữ Việt, Vi Hồng đã để
lại những trang viết tinh tế, sống động, đậm chất trữ tình, lãng mạn, mang
tính nhân văn sâu sắc. Việc sử dụng đa dạng và sáng tạo các lớp từ ngữ xưng
hô trong văn xuôi Vi Hồng đã mang đến những thành công và hương vị
riêng cho tác phẩm của ông.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2002), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
4. Lê Biên, (1998), Từ loại tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu, (2003), Cơ sở ngữ dụng, NXB ĐHSP Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB ĐH&THCN,
Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 1, NXB Giáo dục.
8. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, NXB Giáo dục.
9. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt. Việt Nam và
những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường
ĐHNN, Hà Nội.
11. Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán
(2013), Nhập môn ngôn ngữ học, NXB Giáo dục Việt Nam.
12. Trương Thị Diễm (2002), “Khảo sát các từ xưng hô thân tộc “thím, mợ,
dượng” (Ngữ học trẻ 2002), Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
13. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ Điển Tiếng Việt 1999-2000, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
15. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NXB Văn
hóa - thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
99
17. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học và trung
học chuyên nghiệp.
18. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Dụng học Việt ngữ, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
19. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2006), Dẫn
luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Phạm Ngọc Hàm (2008), Từ xưng hô trong tiếng Hán so sánh với tiếng
Việt, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
21. Phạm Văn Hảo (2011), Từ xưng gọi trong phương ngữ Bắc, Tạp chí Ngôn
ngữ và đời sống, số 1 + 2.
22. Nguyễn Minh Hoạt (2007), Nhóm từ xưng hô chuyện dụng (đại từ nhân
xưng) trong tiếng Êđê (Ngữ học trẻ 2007), Đại học Sư phạm Hà Nội.
23. Phạm Mạnh Hùng (2003), Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi
Hồng, Đại học Thái Nguyên.
24. Hoàng Văn Huyên (2003), Tính dân tộc trong tiểu thuyết Vi Hồng, Trường
Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
25. Nguyễn Văn Khang (2004), “Giao tiếp Tiếng Việt với các nhân tố chi
phối”, Đề tài cấp Bộ.
26. Nguyễn Văn Khang (2014), Giao tiếp xưng hô Tiếng Việt bằng từ thân tộc
và việc sử dụng chúng trong giao tiếp công quyền, tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 10.
27. Nguyễn Văn Khang (1998), Ứng xử ngôn ngữ giao tiếp trong gia đình
người Việt, NXB VHTT, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Khang (2000), Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, NXB
Văn hóa thông tin.
29. Nguyễn Văn Khang (2015), Tìm hiểu ngôn ngữ văn hóa Việt qua các
khuôn giao tiếp Tiếng Việt, Việt Nam học - những phương diện văn hóa và
truyền thông, NXB Khoa học xã hội.
100
30. Lê Thanh Kim (2000), “Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương
ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ học”, Luận án tiến
sĩ Ngữ văn, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.
31. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) - Nguyễn Thái Hòa (2006), “Phong cách học
tiếng Việt”, NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Phan Hồng Liên (2007), Để tiếng Việt ngày càng trong sáng, NXB
văn học.
33. Vi Hà Nguyên (2004), “Hình tượng nhân vật thiếu nhi trong truyện viết
cho thiếu nhi của Vi Hồng”, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
34. Trần Thị Hồng Nhung (2007), Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết "Người
trong ống" của nhà văn Vi Hồng, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
35. Nguyễn Văn Nở (2004), Giáo trình Phong cách học Tiếng Việt, Đại học
Cần Thơ.
36. Vũ Ngọc Phan (1940), Những chữ xưng hô trong tiếng Việt Nam, Trên
đường nghệ thuật, NXB Nguyễn Du.
37. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB
Đà Nẵng.
38. Hoàng Trọng Phiến (1981), Đặc trưng ngôn ngữ nói tiếng Việt, Một số vấn
đề ngôn ngữ học Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Nguyễn Phú Phong (1996), Đại từ nhân xưng tiếng Việt, tạp chí Ngôn ngữ.
40. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi”,
tạp chí văn học, số 2.
41. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ Điển
Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài Gòn.
42. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ - Những phác
thảo, NXB Giáo dục, Hà Nội.
43. Nguyễn Đức Thắng (2002), “Về giới và ngôi ở những từ xưng hô trong
giao tiếp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
101
44. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, NXB ĐHQG, Hà Nội.
45. Ngô Thu Thuỷ (2005), “Giọng điệu trần thuật trong văn xuôi Vi Hồng”,
Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
46. Nguyễn Thị Thu Thủy, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2007), Ngữ dụng học, Tài
liệu Đào tạo sau đại học, Bộ Giáo dục và đào tạo.
47. Phạm Ngọc Thưởng (1998), “Cách xưng hô trong tiếng Nùng”, Luận án
tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
48. Phạm Văn Tình (1999), Xưng hô dùng chức danh, Ngôn ngữ và đời sống.
49. Nông Thị Quỳnh Trâm (2004), Tính dân tộc trong tiểu thuyết:Tháng năm
biết nói; Chồng thật vợ giả và Núi cỏ yêu thương của nhà văn Vi Hồng,
Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
50. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
51. Vũ Anh Tuấn (2002), Vi Hồng với mùa xuân Nặm Cáp, Khoa Ngữ văn 35
năm xây dựng và trưởng thành, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
52. Phùng Văn Tửu (1996), “Một Phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn
học, số 2.
53. Bùi Minh Yến (1990), “Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
54. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ Điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
55. Như Ý (1990), “Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp”, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 3.
TƯ LIỆU THỐNG KÊ
56. Vi Hồng (1980), Đất bằng, Tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới (Bao gồm hai
tiểu thuyết: Đất bằng và Vãi Đàng).
57. Vi Hồng (1990), Người trong ống, Tiểu thuyết, NXB Lao động.
102
58. Vi Hồng (1993), Dòng sông nước mắt, Tiểu thuyết, NXB Hội văn học nghệ
thuật Bắc Thái.
59. Vi Hồng (1993), Tháng năm biết nói, Tiểu thuyết, NXB Thanh niên,
Hà Nội.
60. Vi Hồng (1997), Mùa hoa Bióoc Loỏng, Tiểu thuyết, NXB Thanh niên.
61. Vi Hồng (1994), Người làm mồi bẫy hổ, truyện dài, NXB Kim Đồng,
Hà Nội.
62. Vi Hồng (1998), Đường về với mẹ chữ, truyện dài, NXB Kim Đồng,
Hà Nội (Bao gồm truyện dài Đường về với mẹ chữ và truyện vừa
Thách đố).
63. Nhiều tác giả (2015), Vi Hồng tác phẩm và dư luận, NXB Đại học Thái
Nguyên (Bao gồm toàn văn của 4 truyện ngắn: Cọn nước Eng Nhàn, Béc -
Kha - Cải, Nghĩ sủi bọt đá, Sự tích hang cứu tôi với).
103
PHỤ LỤC
Bảng 1: Đại từ nhân xưng
STT Đại từ nhân xưng
tôi tao mình (số ít) mày chúng ta ta (số nhiều) ta (số ít) bạn chúng tôi chúng mày chàng cậu (tớ) tớ chúng mình nàng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 mình (số nhiều) các bạn 17 18 mọi người 19 các người 20 mi 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 ngài các ngài chúng bay chúng tao bọn mình bọn tao các nàng lũ chúng mày bọn chúng tôi lũ chúng bay bọn ta lũ tao nhà ngươi bọn tôi bọn mày
Tổng số Số lượng Hô 634 112 66 44 36 20 1 18 16 14 13 11 8 7 3 2 1 1 1 Xưng 1290 733 682 266 263 243 88 27 22 17 6 5 3 2 1 1 1 3650 Tổng 1290 733 682 634 266 263 243 112 88 66 44 36 27 22 20 18 18 16 14 13 11 8 7 6 5 3 3 2 2 1 1 1 1 1 1 1008 Tác phẩm 13 12 10 11 10 11 9 5 10 10 2 4 3 5 3 8 5 5 3 2 3 2 2 2 4 3 1 2 2 1 1 1 1 1 1
Bảng 2: Từ ngữ thân tộc
STT Từ ngữ thân tộc
em anh cháu con bác chị ông mẹ bố bà bá chú bố mẹ cô chúng cháu cậu các anh anh em các ông chúng em ông bà cụ con cháu hai bác các cháu các con thím anh chị các bác đại huynh chúng con các em các anh chị chú thím
Số lượng Hô 567 1395 533 290 307 188 201 107 101 126 73 68 35 68 2 29 22 21 20 18 17 16 15 13 12 5 10 9 5 7 7 3 2 6 6 Xưng 1378 499 600 257 168 77 13 96 58 3 37 28 55 14 34 1 19 1 6 4 7 4 5 1 Tổng 1945 1894 1133 547 475 265 214 203 159 129 110 96 90 82 36 29 23 21 20 19 18 17 16 15 14 12 11 10 9 9 7 7 7 7 7 7 6 Tác phẩm 10 11 9 9 9 5 9 8 8 7 6 6 5 6 3 2 6 5 3 6 4 2 1 3 3 5 2 5 6 1 5 3 2 1 2 2 1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 mẹ con cháu cô chú 36 rể 37
STT Từ ngữ thân tộc
hai cháu bà con các chú các anh các chị bác bá đại ca các cháu gái cô em ông anh cha u các bà các chị các con cháu bọn anh anh em con cháu cháu gái anh cả nhị đại huynh các bá các ông bà các bác chú các bác bá các con các cháu các cháu trai các ông bà bọn em hai mẹ con bá hai bác cháu hai chú ba anh chú em
38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 mẹ con em bà bác 71 ông bác 72 bố con ông 73 bố già 74 anh bạn trẻ 75 ông anh đẹp trai 76 Số lượng Hô 6 6 5 4 3 4 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Xưng 1 2 2 1 1 1 1 Tổng 6 6 5 4 4 4 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 2 3 4 2 2 2 1 1 1 1 1 2 2 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ thân tộc
77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91
Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 4386 Xưng 1 1 3376 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 7762 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 con dâu anh lớn con trai con cháu gái con cháu trai anh trai lớn con gái dì trẻ bố mẹ nuôi con bé chú thứ ba chú thứ tư ông tổ cô út anh lớn đại huynh Tổng số
Bảng 3: Từ ngữ chỉ tên riêng
STT Từ ngữ chỉ tên riêng
Xưng 5 10 4 1
6
Hoàng Thu Lạ Tua Be Đàng Băng Cặm Cang anh Hoàng Hạ Chi Ai Hoa Thu khoan anh Tú anh Mi Tráng
1
anh Cặm Cang chị Nơ anh Bền anh Thả anh Phàn già Xanh
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 Kì 14 Tú 15 Điển 16 Nai Nị 17 Ngọc già Viền 18 anh Đáp 19 tảo Mu 20 anh Kim Công 21 anh Chim Ca 22 The 23 chị The 24 25 anh Hinh 26 Kim Công ông Kin Xa 27 28 Xinh Xông 29 30 31 32 33 34 35 Vài Mu (tên riêng chỉ vật: Trâu) 36 37 La chị Đàng Số lượng Hô 117 89 64 67 65 60 48 31 32 32 28 26 23 22 22 21 20 20 18 17 16 16 15 15 14 12 13 12 12 11 11 11 11 11 11 10 10 Tổng 122 99 68 68 65 60 48 37 32 32 28 26 23 22 22 21 20 20 18 17 16 16 15 15 14 13 13 12 12 11 11 11 11 11 11 10 10 Tác phẩm 2 1 1 1 1 1 3 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng
anh Linh Khay Phàn bác Phàn anh Ang cháu Kì thằng Hoàng
bác Kin Xa bác Thương ông Háo bạn Kì bạn Thu Lạ Cắng (tên riêng chỉ vật: Khỉ)
chị Tẹo chú Mạc chú Thìm anh Toan anh Xanh anh Toàn anh Kin Xa anh Mạnh Kha
then Kì bạn Đàng
38 39 40 41 42 43 44 Đăm (tên riêng chỉ vật: Chó) 45 46 47 48 49 50 51 Mi Tráng 52 Viền 53 Nhình 54 Nen 55 56 57 58 59 60 61 62 63 Huế 64 bà Thu Khoan 65 anh Ba ông Đáng 66 67 Mạc trọc 68 69 70 Kin xa 71 72 73 74 75 76 Thả Ba chị Ly bác Mạc ké Thương cô Đàng Số lượng Hô 10 9 9 9 9 9 9 8 7 7 7 7 7 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 5 5 5 5 5 5 5 4 4 4 4 4 4 4 Tổng 10 9 9 9 9 9 9 8 7 7 7 7 7 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 5 5 5 5 5 5 5 4 4 4 4 4 4 4 Tác phẩm 1 1 1 1 1 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng
anh Hạng bạn Huế
Số lượng Hô 4 4 4 3
3 1
1
77 78 79 Mạ Lài (tên riêng chỉ vât: Ngựa) 80 Mạnh Kha 81 Ngọc Pèng 82 Thìm 83 chị Nhình 84 chị Loan 85 chị Xinh Xông 86 bà Tẹo 87 bác Cam Sáy 88 chú Kim Công 89 cô Kì 90 anh Thiên 91 anh Hồi 92 anh Bùng 93 cháu Hoàng 94 cháu Nhình 95 ông Mạc trọc 96 tảo Lăm Đăm 97 98 nàng Thu Khoan 99 Hoa Nước 100 anh Pu Pa 101 Eng Nhàn 102 Xấn Xáng 103 Slam 104 Lệ Hà 105 Kim Ngần 106 Toan 107 Đáp 108 Hoa 109 Ỷ 110 111 112 113 114 115 con Nhình chị Lèn chị Kì chị Thu Lạ bá Viền bá Chim Ca Tổng 4 4 4 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 2 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2
STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng
Số lượng Hô 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1
1
bà Ki Khẳm 116 bác Xanh 117 bác Lăm Đăm 118 bác Chim Ca 119 bố Đàng 120 anh Khăm Tha 121 ông Mạc 122 ông Hoàng 123 ông Hồi 124 ông Kim Công 125 cháu Kim Ngần 126 thằng Kin Xa 127 thằng Kim Công 128 thằng Ang 129 thằng Thìm 130 ông già Xanh 131 bác tảo Lăm Đăm 132 tổng Nhự 133 bạn Ỷ 134 cháu Hoa Nước 135 136 Sam (tên riêng chỉ vật: Ca Nặm) 137 Nhì (tên riêng chỉ vật: Ca Nặm) 138 Ất (tên riêng chỉ vật: Ca Nặm) 139 Hà Văn Hoàng 140 Tư Lộn 141 Tren Trô 142 A Mỵ 143 Linh Khay 144 Kim Ngọc 145 Khăm Tha 146 Moong Khịt 147 Nụ 148 Lèn 149 Kháng 150 Bền 151 Xanh 152 Moong 153 Hồi 154 Toàn 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng
155 Ki 156 Tập 157 Ang 158 Thỉ 159 Ti 160 Tẹo 161 Loan 162 Bùng 163 Slam - Ba 164 Ba - Slam em Nen 165 em Pèng 166 em Đường 167 em Ba 168 em Xinh Xông 169 170 con Đàng 171 mẹ Xanh 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 chị Thẻo Léo chị Thèn chị Hoa chị Liễu bá Đàng bà Thẻo Léo bà Phí Thao bà Sẳn Lần bà Chim Ca bác Sung bác Moong bác Mô bác Mu bác Kim Công bác Cắm Hỷ bác Linh Khay bác Kim Ngọc bác Ai Hoa bác Mạnh Kha chú Eng chú Béc chú Háo Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng
chú Moong chú Chim Ca cô Na cô Vui cô Viền cô Thu Khoan
anh Béc anh Hánh anh Phiếu anh Phiên anh Huy anh Cắm Hỷ anh chị Hinh ông Vọ ông Sung ông Đáp ông Cả ông Say ông Cụt ông Ba ông Bình ông Thìm ông Phàn ông bà Chim Ca cháu Đàng cháu Huế cháu Toàn cháu Kim Công cháu Thu Khoan cháu Hạ Chi
194 195 196 197 198 199 200 mẹ Đàng 201 mẹ Ỷ 202 mẹ Mên 203 mẹ Phí Thao 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 Đàng con 229 230 231 232 con mẹ Nơ bố mẹ Ai Hoa thằng Eng Nhàn thằng Van Ngả Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ chỉ tên riêng Xưng
lão Moong cứt sái
bà tiên Viền anh cả Ba ông tổng Nhự ông Khao trưởng bản bị cáo Hoàng thầy Hồi quan Trần Hồi nguyên đơn Hà Văn Hoàng bị cáo Bế Thị Tẹo quan tòa Ngô Thế Bùng bạn Nhình bạn Ngoan bạn Cặm Cang nàng Ai Hoa ngài chánh Vọi ngài tổng Nhự ông Hà Văn Hoàng cô Đàm Thị Kim Ngần Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1552 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1585 33 233 thằng Van Thông 234 thằng Xấn Xáng 235 thằng Thỉ 236 thằng Toan 237 thằng Lảm 238 thằng Ba 239 thằng Bùng 240 cái Thèn 241 cái Nhình 242 lão Viền 243 lão Moong 244 lão Xấn Xáng 245 thằng Toan ích kỉ 246 thằng Lảm lười 247 thằng Moong cứt sái 248 bạn Đàng rách rưới con Đàng ma gà 249 250 ma gà con Đàng 251 252 Moong cứt sái 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 Tổng
Bảng 4. Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
Số lượng
STT Tác phẩm Xưng Hô Tổng Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
14
1
88 53 30 24 9 7 7 7 7 6 6 3 3 3
3
2 2 2 2 2
2
2
2
thầy quan quan lớn bác sĩ thủ trưởng quý tòa dõng bác tảo quan anh quan viện trưởng quan ông đồng chí bí thư giáo sư thủ trưởng quan tây tòa bác chủ nhiệm quan thàn lớn anh chánh nguyên cáo quan tổng tảo thầy tảo dân quân chúng tôi bác sĩ viện trưởng ông tiến sĩ bố tiến sĩ chủ nhiệm chủ nhà chị chủ nhà chủ mới bà chủ cô chủ các chủ trâu quan thàn anh chánh tổng ngài chánh tổng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 102 53 30 24 9 8 7 7 7 6 6 3 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 3 1 2 1 1 2 1 1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
Số lượng
STT Tác phẩm Xưng Hô Tổng Từ ngữ chỉ nghề nghiệp, chức vụ
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1
bác bí thư ông vụ trưởng ông giám đốc sở ông giám đốc bệnh viện thầy hiệu trưởng ông giám đốc trường đại học Y chú phó phòng ông quan phủ bị cáo nguyên đơn quan sang lũ cộng sản con cộng sản ông chánh tổng quan chánh đồn quan chánh quan trên bác quan tổng ông tổng các bác đi săn cháu then lính thầy cai dân quân các quan lão ăn mày nhị quan nhị quan ông quan tòa cô giáo dạy văn cấp 3 thủ trưởng bác sĩ 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 332 23 1 1 309 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 Tổng
Bảng 5: Kiểu loại xưng hô khác
STT Từ ngữ xưng hô
Xưng 62
Số lượng Hô 6 20 1
18 17 15
7 3
14 12 11 10 10 9 1 5 8 8 8 7 7
6 6 5 5
4
5 1 5 4
già các thằng mày mường ta nhà ta đây pỉ noọng đằng ấy vãi người già (số ít) đồng chí bạn gái Xinh Xông người ta (số ít) lão hai già lạo pản noọng slao bố con mày các đồng chí đôi ta già này già tôi bản ta cây thằng này tài cá hai đứa chúng mày quê ta trường ta 4 4
4 4 4 1
3 4
4 4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 mẹ đất thần sông 30 hoa 31 bên này 32 đằng này 33 anh em mọi người 34 anh Pu Pa của em 35 nhà mình 36 37 mẹ con tôi Tác phẩm 4 1 4 4 5 1 2 1 1 3 1 3 4 1 1 1 4 1 3 3 2 3 1 3 1 3 2 1 2 1 1 2 1 2 1 2 1 Tổng 68 20 19 17 15 14 12 11 10 10 9 8 8 8 8 8 7 7 6 6 5 5 5 5 5 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 3 3 3 3
STT Từ ngữ xưng hô Số lượng Hô
Xưng 3 3 3
3 3
3
3 3
3
3 2 2 2
2 2 2 2 2 2 2 2 2
tập thể ta bố con ta tòa bố trời trời Cặm Cang này người bạn be bé đồng chí Hoàng thiếp pàng dạu be bé nhà mày chú mày vợ chồng mày quê mình dân tộc mình người Tày mình ban lãnh đạo chúng tôi người Tày chúng ta người họ Nông ta hai chúng ta người Tày ta hai họ chúng ta anh em ta 2
2 2 2
2
2
2 2
2
38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 mọi người chúng ta 62 một mình tao 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 xã con này (coi thường) Thu Lạ này đằng kia cái ấy ta đây bé con người đẹp con quỷ cái anh em họ Nông anh chị em mọi người anh yêu của em đồng chí Ba pàng dạu Tổng 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 Tác phẩm 1 1 1 2 2 1 1 1 1 1 1 2 2 1 1 2 1 2 1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2
STT Từ ngữ xưng hô Xưng
Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1
trẻ con chúng mày bọn khỉ chúng mày vợ con mày con cháu mày hai anh em mày con trai con gái chúng mày bọn mày thanh niên hai bác cháu mình
1 1 1 1 1
1
1 1 1 1 1
1
1 1 1 1 1 1 1 1
1
77 78 79 80 81 82 83 84 85 mẹ con mình bố con mình 86 cô cháu mình 87 bác cháu mình 88 89 con cháu mình 90 mường mình hai đứa mình 91 hai chúng mình 92 hai đứa chúng mình 93 chị em chúng mình 94 thầy trò chúng bay 95 bọn chúng tôi 96 97 người Tày chúng tôi 98 mọi người chúng tôi 99 anh em chúng tôi 100 hai vợ chồng chúng tôi 101 con ma tôi 102 gia đình tôi 103 bố con tôi 104 cháu gái tôi 105 người Mèo ta 106 anh em nhà ta 107 bản mường chúng ta hội đồng chúng ta 108 109 Đảng ủy chúng ta lãnh đạo chúng ta 110 trường chúng ta 111 gia đình nhà ta 112 họ Sầm ta 113 đất ta 114 xóm ta 115 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ xưng hô Số lượng Hô
làng ta thành phố ta
Xưng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1
1 1
1
1
1
bản mường ta cơ quan ta bộ Y tế ta con cháu ta hai bố con ta anh chị em chúng ta con cháu chúng ta con cháu Đin Phiêng ta trung đội chúng ta anh em họ ta con cháu ta già chúng tao cả nhà tòa án nhân dân huyện 1
1 1 1 1 1
1
cái con Nai Nị cái con Nhình con bé Thu Khoan bố thằng Xanh thần rừng xanh ông trời thần ông thần quỷ thần con ma có cánh thần suối thần cây núi sông nước
116 117 118 Lục Khê ta 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 mẹ con con Thèn 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 mặt trăng rạng sáng thần xanh tươi 150 đàn trâu 151 đàn vịt 152 đàn gà 153 lợn trắng 154 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ xưng hô Xưng
Số lượng Hô 1
1
1
1 1
1 1
1
1 1
lợn đen cái này ông này ké Thương này cái con then Kì này đại huynh này chàng trai này nhà này cái con này con bé này cái bà già này người nghèo này cái con ma gà này cơm thiu mẻ thối này người con gái ma gà Thu Lạ này
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
thằng Cặm Cang xấu xí này thằng Thìm này bà kia cậu kia thằng kia cái thằng kia tổng Nhự kia
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1
1
thằng Mán con kia cái thằng Cặm Cang xấu xí kia cái thằng con trai chó đẻ lợn nuôi kia cái thằng bố nó thằng ấy bên ấy già đây nàng đây em đây bác bá đây lũ ta đây
155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 Hạ Chi này 171 Xinh Xông này 172 Tua Be này 173 174 175 176 177 178 179 180 mụ già kia 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 Thu Lạ đây 193 Cặm Cang đây 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ xưng hô Xưng
Số lượng Hô 1 1
1 1
1 1 1 1
1
1 1 1 1 1
1
194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
214 1 1 1
215 1 1 1
216 217 1 1 1 1 1 1
218 1 1 1
1 1 1 1 1 1 1 1
1
họ hàng ta đây chị Loan đây chúng cháu đây người ta đây bác quan tổng đây các con cháu người Mèo bé cô bé trẻ con điếc chúng sinh các già hai đứa bông hoa quý đàn bà con gái bọn gia nhân độc ác thằng già canh cũi bác chủ giữ chó ông rái cá con chó ghẻ bướng bỉnh thằng trẻ con do chó sinh ra, do ma sinh lại bà Xẳn Lần mặt rộng mắt trắng lưỡi mỏng bà già đanh đá mỏ nhọn lưỡi sắc bà già nửa điên nửa khùng bà già có cái đầu óc thâm u như rừng cây cái con cơm thiu mẻ thối thằng chạy trốn những thằng ăn cắp cái thằng khốn nạn cái thằng lau sậy chết khô những người ở bè võng con người lạc kiếp con ngựa xé quan tây đồn Nặm Cáp tên quan phủ Trần Hồi anh Bùng con Châu Đoàn bản Chín 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ xưng hô Tác phẩm Số lượng Hô Xưng Tổng
230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
263 1 1 1
Thoong thằng Châu Đoàn già thằng cháu Hoàng cậu bé Hoàng cháu gái Thu Khoan con dâu Thu Khoan anh chàng Đào Chim Ca cùng thân họ bạn Ai Hoa kẻ ác kẻ độc ác kẻ bịt bợm kẻ vô tội con người độc ác những kẻ ngu ngốc đồ hèn đồ dã man đồ ăn mày đồ ma gà chuyên làm hại người đồ gái đẹp ma gà đồ ma gà chúng mày đồ chết trôi, chết sấp nhà mày đồ thằng Ba dê cụ đồ thằng Ba đểu cáng đồ con dê già đồ con chó không nghe lời chủ đồ vô phúc đồ phản phúc cái đồ lông cánh, lông đuôi cun củn cái đồ cơm nguội, cơm thiu lão già phản bội chó già phản chủ cô gái dở hơi bạn Đàng rách rưới chàng trai xấu xí người bạn gái xinh đẹp như một đóa hoa các bạn xinh đẹp như hoa như nụ bạn thân mến
264 265 266 Thu Lạ em yêu 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ xưng hô Xưng
Số lượng Hô 1 1
1
1 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1
bạn Thu Lạ thân thương 267 cô bạn gái thân mến 268 em yêu quý 269 chị dâu kính yêu 270 khách quý khách sang 271 con ma gà 272 273 con Đàng ma gà 274 ma gà con Đàng cái con ma gà Thu Lạ 275 con ma gà bố con Thu Lạ 276 cái ông ma gà đẻ ra cái con ma gà 277 bố con nhà ma gà Thu Lạ 278 gái hoa 279 gái nụ 280 gái hoa gái nụ 281 người đẹp gái 282 em gái xinh đẹp 283 cô em xinh đẹp 284 con chó sói đực 285 người bạn 286 ban lãnh đạo 287 nàng tiên 288 các nàng tiên 289 quỷ cái 290 chàng quân tử 291 hai thằng 292 các bạn trai trẻ trai non 293 các bạn trai non 294 trai non gái trẻ 295 anh em họ hàng 296 anh em họ Sầm 297 anh em mọi người hai họ 298 299 tất cả mọi người 300 mọi người thương yêu 301 302 303 304 305 bà con anh em mọi người bà con anh chị em hàng phố thân nhân bệnh nhân anh em trên bờ anh em mọi người Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STT Từ ngữ xưng hô Xưng
anh chị em chú bác mọi người anh chị em làng bản chú bác anh em làng bản anh em họ hàng chú bác cô dì cháu Ang quý mến của bác nàng đen của anh hoa út của bà bông hoa út của bà
306 307 308 309 310 311 312 313 314 Mạ Lài của ta 315 316 317 Số lượng Hô 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1 1 1 318
1 1 1 319
1 1 1 320
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 con gái Hạ Chi của mẹ các nàng tiên xinh đẹp của xuân xanh người đẹp muôn thuở trong hồn ta anh bạn nghệ sĩ dân gian lượn tuyệt vời của tôi bạn gái xinh đẹp của tôi con gái đẹp, con gái xinh, con gái thơm của mẹ người yêu muôn thuở của em em Thu Lạ yêu quý của anh tình yêu lý tưởng và thần diệu của anh người đẹp của Anh các bạn gái đẹp như nàng tiên của em anh của em hoàng tử của em nàng tiên của anh anh vô vàn yêu quý của em anh vô vàn yêu thương của em người bạn tri kỉ và rất trẻ của tôi cậu bác sĩ trẻ đẹp trai của tôi thằng cháu nội yêu quý của ông con trai vô vàn yêu quý của cha cháu hai mươi đời của ông con trai rất thông minh của bố anh Hoàng của em đây cái Băng nhà bác anh Bùng của Băng đồng chí binh nhất của em cháu của bác thằng cháu của bác 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342
STT Từ ngữ xưng hô Xưng
Số lượng Hô 1 1
nàng Thu Khoan của anh nàng tiên Thu Khoan của ta nàng Xiêm vàng ngọc của ta người vợ đẹp rực rỡ của ta búp nụ và bông hoa của anh nàng tiên bé nhỏ của chàng đại ca cháu của chú anh cả của em con gái của mẹ
343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 Hoa Nước của anh 353 Tổng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Tác phẩm 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
354 1 1 1 quan anh của em anh Kim Công vô vàn yêu thương của em
355 Thu Khoan rất yêu quý của anh anh bạn Kin Xa của tôi 356 những con ca nặm thân yêu của ta 357 tiểu đệ của tôi 358 quan đại hiền đệ của em 359 đại hiền đệ của các nàng 360 nàng tiên của lòng bạn Kim Công 361 anh bạn Kim Công của tôi 362 anh bạn Kin Xa thân yêu 363 đồng chí Lèn 364 đồng chí Đáp 365 đồng chí Hánh 366 đồng chí The 367 đồng chí Thả 368 con mẹ Nơ 369 cái mẹ Ỷ 370 toàn thể pỉ noọng 371 ké 372 noọng slao xinh đẹp 373 noọng slao này 374 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
Tổng số 374 283 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 715 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 432