ĐẠ Ọ

Ƣ ĐẠ Ọ Ọ

ĐẶNG THỊ THẢO

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ SĨ D Y

TÂN CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬ Ạ SĨTRIẾT HỌC

– 2019

ĐẠ Ọ

Ƣ ĐẠ Ọ Ọ

ĐẶNG THỊ THẢO

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ SĨ D Y

TÂN CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬ Ạ SĨ

Y TRIẾT HỌC

60.22.03.01

Ƣ Ƣ D Ọ

TS. NGUYỄN THỊ LAN

– 2019

L Đ

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được

thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Lan. Những

nghiên cứu và kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn

toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Đặng Thị Thảo

L I CẢ Ơ

Luận văn thạc sĩ với đề tài “Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy

tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX” là kết quả của quá trình học tập và nghiên

cứu một cách nghiêm túc của tác giả trong chương trình đào tạo cao học Triết

học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà

Nội.

Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:

Hội đồng khoa học, Hội đồng đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Triết học -

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã

tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận

lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực

hiện đề tài luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.

guyễn hị Lan - người đã hết lòng giúp đỡ, định hướng, trực tiếp dẫn dắt

cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các

bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.

Mặc dù đã cố gắng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu,

song luận văn không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự góp

ý của của thầy cô để luận văn hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Đặng Thị Thảo

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

N I DUNG ..................................................................................................... 14

ƢƠ 1. NHỮ Đ ỀU KIỆN VÀ TIỀ ĐỀ CHO SỰ HÌNH

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ SĨ D Y

CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX ................................................. 14

1.1. B i cảnh thế giới và Việt Nam cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ... 14

1.1.1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ........................ 14

1.1.2. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ...................... 19

1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành tƣ tƣởng chính trị - xã hội của

nho sỹ duy Tân cu i thế kỷ XIX– đầu thế kỷ XX ...................................... 28

1.2.1. Sự khủng hoảng của nho giáo Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX ...................................................................................... 29

1.2.2. Tư tưởng cải cách, duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc cuối thế kỷ XIX

– đầu thế kỷ XX .............................................................................................. 32

ƢƠ 2. Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ SĨ D Y

TÂN CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX – NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ

HẠN CHẾ ...................................................................................................... 40

2.1. Những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng chính trị - xã hội của Nguyễn

rƣờng Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh ..................................... 40

2.1.1.Tư tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ ........................... 41

2.1.2. Tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu ................................ 52

2.2. Những giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng chính trị - xã hội của nho ĩ

duy tân cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷXX .................................................... 75

2.2.1. Những giá trị trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ................................................................... 75

1

2.2.2. Những hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ................................................................... 82

KẾT LUẬN .................................................................................................... 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tư tưởng chính trị - xã hội là hệ thống những quan điểm, tư tưởng mối

quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội cũng như vấn đề giành, giữ và

xây dựng chính quyền cũng như thực thi quyền lực nhà nước. Tư tưởng chính

trị - xã hội được nảy sinh từ những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa – tư

tưởng, được chính bối cảnh lịch sử, văn hóa đó quy định. Ngược lại, tư tưởng

chính trị - xã hội sẽ phản ánh trực tiếp, rõ ràng và chính xác thực trạng của xã

hội thông qua mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.

Mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử sẽ có những hệ tư tưởng đóng

vai trò dẫn đường gắn liền với sự thay đổi, phát triển xã hội, đặc biệt là trước

những sự kiện ảnh hưởng đến tình hình chính trị – xã hội lớn của dân tộc.

Trong bối cảnh đó, tư tưởng chính trị giữ vai trò rất quan trọng, chi phối, định

hướng con đường phát triển của dân tộc.

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị, kinh tế - văn hóa

thế giới có nhiều biến động. Các nước châu Á, Phi và Mỹ La tinh trở thành

miếng mồi ngon cho các nước tư bản đang trong giai đoạn chuyển sang chủ

nghĩa đế quốc xâu xé. Nhiều nước bị biến thành thuộc địa, nửa thuộc địa, nửa

phong kiến. Việt Nam cũng không nằm ngoài luồng mở rộng thuộc địa của

các nước đế quốc phương Tây. Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược

nước ta, năm 1883 Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

Sự biến chuyển về tình hình chính trị - xã hội trong và ngoài nước tất

yếu sẽ dẫn đến sự chuyển biến về nhận thức tư tưởng nhằm giải quyết các vấn

đề bức thiết của dân tộc, của thời đại. Lịch sửViệt Nam giai đoạn cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX là minh chứng rõ nhất cho điều đó.

Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX từ một quốc gia

độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Lúc này, hệ tư tưởng

3

nắm vai trò thống trị là Nho giáo đã bất lực trước sự thay đổi của thời đại.

Nho giáo dần mất đi vai trò thống trị trong hệ hệ thống chính trị bởi những

hạn chế về mặt thời đại của mình. Những biến đổi về mặt lịch sử cùng với sự

xuất hiện của phương thức sản xuất mới đã dẫn đến sự biến đổi trong tư tưởng

chính trị - xã hội giai đoạn này. Đó là sự xuất hiện của tư tưởng canh tân vào

cuối thế kỷ XIX với những đề xuất canh tân của các trí thức Nho học như

Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch... Các nho sĩ đề xuất

những chủ trương canh tân trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là những tư tưởng

chính trị: cải cách bộ máy chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội... Nhưng

những đề xuất canh tân này vẫn chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng phong kiến,

chưa có sự chuyển biến triệt để theo hệ tư tưởng mới.

Sang đầu thế kỷ XX, tiếp thu tư tưởng Tân thư và trên cơ sở tư tưởng

canh tân các nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu

Trinh, Nguyễn An Ninh, Huỳnh Thúc Kháng đã đưa ra, đề xuất những tư

tưởng chính trị - xã hội mới, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng về mặt ý

thức hệ tư tưởng dân tộc giai đoạn này, từ hệ tư tưởng phong kiến sang tư

tưởng dân chủ tư sản và tiến gần đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng chính

trị theo khuynh hướng dân chủ tư sản những năm đầu thế kỷ XX đã tác động

không nhỏ đời sống xã hội nói chung và tiến trình cách mạng dân tộc giai

đoạn này nói riêng.

Nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn này vẫn còn nhiều khía

cạnh mới mẻ, cần được nghiên cứu. Tư tưởng Việt Nam giai đoạn này là sự

phản ánh của tồn tại xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ

XX. Những chuyển biến về mặt lịch sử tạo nên những chuyển biết về mặt tư

tưởng để phù hợp với sự thay đổi của thời đại, phù hợp với yêu cầu của tiến

trình lịch sử dân tộc. Đây là kết quả tất yếu của sự phát triển của lịch sử nói

chung và lịch sử tư tưởng nói riêng. Đồng thời, là kết quả của logic phát triển

4

lịch sử tư tưởng giai đoạn trước đó cũng như là động lực phát triển cho lịch sử

tư tưởng giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh đó, những tư tưởng chính trị - xã hội của các nhà tư tưởng giai

đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa thể hiện sự phát triển của tư tưởng

dân tộc vừa phản ánh sự nhạy cảm chính trị của các nhà tư tưởng. Những ảnh

hưởng mạnh mẽ của những cải cách ở Nhật Bản cũng như những ảnh hưởng

của Tân thư Tân văn ở Trung Quốc đối với các nhà tư tưởng Việt Nam giai

đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đã cho thấy sự chuyển biến trong hệ tư

tưởng dân tộc nhằm tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, nhận

thấy được những hạn chế mà hệ tư tưởng Nho giáo không giải quyết được,

mở ra hướng đi mới trong con đường cách mạng dân tộc.

Chính vì vậy, việc lựa chọn và tiếp thu những tư tưởng cách mạng

đương thời của Trung Hoa, Nhật Bản cũng như những tư tưởng dân chủ tư

sản phương Tây giai đoạn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng,

giải quyết nhu cầu về việc tìm ra một hệ tư tưởng mới dẫn đường cho cách

mạng. Mặc dù những tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ giai đoạn này

thất bại, song những tư tưởng chính trị đó của đã tạo nên sự thay đổi mạnh

mẽ, mang tính căn bản cho lối tư duy bảo thủ, lạc hậu trong tư tưởng chính trị

phong kiến.

Trong tư tưởng chính trị - xã hội giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ

XX, thì tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan

Châu Trinh đã thể hiện được rõ nhất những sự chuyển biến, chuyển mình của

các ông trong việc xác định đường lối lý luận cho cách mạng Việt Nam nói

riêng và lĩnh vực tư tưởng nói chung. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu

của luận văn, tác giả sẽ lựa chọn Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan

Châu trinh để phân tích.

5

Giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là giai đoạn quan trọng

trong tiến trình lịch sử Việt Nam nói chung và cả trong tiến trình lịch sử tư

tưởng dân tộc. Đánh dấu sự chuyển biến của xã hội Việt Nam cũng như sự

chuyển biến về mặt tư tưởng, thể hiện logic tất yếu của lịch sử tư tưởng Việt

Nam, đáp ứng yêu cầu của thời đại. Đây là minh chứng quan trọng nhất cho

tính biện chứng của tư tưởng Việt Nam.

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với bối

cảnh thời đại có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế

và vấn đề hội nhập quốc tế trở thành xu thế tất yếu mà các quốc gia đều phải

đối mặt. Trong bối cảnh đó, vấn đề quan trọng nhất, mang tính xuyên suốt

cho con đường xây dựng và phát triển đất nước được đặt ra đó chính là việc

lựa chọn con đường để vừa hội nhập vừa giữ vững được độc lập chủ quyền;

vừa tiếp thu được sự tiến bộ của nhân loại nhưng vừa phát huy được những

giá trị truyền thống của dân tộc để theo kịp thời đại? Bối cảnh lịch sử cũng

như vị thế xã hội Việt Nam giai đoạn này mặc dù khác giai đoạn cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX nhưng cả hai giai đoạn đều có điểm chung nằm trong sự

giao thời của lịch sử nên có những yêu cầu, đặc điểm giống nhau, đó là: cần

có trí tuệ, bản lĩnh vững vàng và sự nhạy cảm chính trị để đổi mới, lựa chọn

con đường hội nhập, độc lập tự chủ trước những thách thức lớn của thời đại,

v.v..

Cho nên chúng ta cần nghiên cứu những bài học lịch sử của giai đoạn

trước để tránh bớt những sai lầm cũng như biết phát huy những giá trị truyền

thống đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài Tư tưởng chính trị - xã hội của nho

sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

6

Nghiên cứu về tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối

XIX đầu thế kỷ XX đã có khá nhiều công trình không chỉ của triết học mà còn

của các khoa học khác như văn học, lịch sử. Trong đó, liên quan đến đề tài, có

một số công trình đã được nghiên cứu:

Hướng công trình nghiên cứu thứ nhất: Những công trình nghiên cứu

về lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Công trình Đại cương lịch sử Việt Nam (3 tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,

2006) của Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (Chủ biên).

Trong tác phẩm này, các tác giả đã nghiên cứu và trình bày toàn diện đời sống

xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng,… của các giai đoạn lịch sử dân

tộc, trong đó có giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Về lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung không thể không nói đến hai

cuốn sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam(1993) của Viện Triết học và Viện Khoa

học xã hội. Tập thể tác giả đã đi sâu nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam

trong các giai đoạn lịch sử cụ thể, từ thời nguyên thủy đến thế kỷ XIX với

những đặc điểm, đặc trưng cho từng giai đoạn.

Các tác giả cũng đưa ra nhận định rằng, dù mỗi giai đoạn, lịch sử tư

tưởng sẽ có những đặc điểm, đặc trưng riêng nhưng khuynh hướng chung của

tư duy triết học Việt Nam là chú trọng đến các vấn đề xã hội và nhân sinh,

vềchính trị - xã hội và luân lý, những vấn đề liên quan đến giáo dục đạo làm

người.Liên quan đến đề tài, các tác giả cho rằng, tư tưởng Việt Nam nói

chung, tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng có quá trình tiếp biến mạnh mẽ

để tạo nên nhiềunét mới trong đặc điểm, phương pháp tư duy và hành động.

Tuy nhiên, kết quả của sự tiếp biến ấy đã làm xuất hiện các trào lưu tư

tưởng, những vấn đề mới cần được tiếp tục giải quyết như thế nào lại chưa rõ.

Tác giả Trần Văn Giàu với công trình Sự phát triển của tư tưởng Việt

Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám(1993) gồm 3 tập. Trong tập 2

7

của bộ sách này, tác giả đã đi vào nghiên cứu hệ ý thức của giai cấp tư sản

Việt Nam với tư cách là vấn đề triết học, chính trị và sự bất lực của nó trước

thực tiễn xã hội nửa đầu thế kỷ XX. Liên quan đến lịch sử tư tưởng, tác giả

cũng bàn đến những vấn đề về đường lối tư tưởng và chính trị được các nhà

tư tưởng lựa chọn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: cầu viện, bạo động,

cải lương… Tác giả cho rằng, con đường canh tân, đổi mới hay những hình

thức đấu tranh trên thực chất là tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây,

mà lực lượng tiếp thu và truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản là những nho sĩ

nên tư tưởng mang nhiều sắc thái và khía cạnh đặc biệt biểu hiện đặc trưng

của xã hội Việt Nam.

Tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nxb. Khoa học xã hội, tập 2, Hà

Nội, 1997) của Lê Sỹ Thắng cũng đã trình bày tư tưởng của một số nhà tư

tưởng canh tân nửa cuối thế kỷ XIX như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ,

Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Bên cạnh đó, còn có công trình nghiên

cứu Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của tập thể tác giả, do Trương Văn Chung,

Doãn Chính đồng chủ biên. Các tác giả đã nghiên cứu những tiền đề của bước

chuyển, nội dung quan điểm, tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân

cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.

Hội thảo khoa họcTư tưởng triết học Việt Nam trong bối cảnh du nhập

các tư tưởng Đông – Tây nửa đầu thế kỷ XX (2005) đã tập hợp những báo cáo

từ rất nhiều công trình nghiên cứu về triết học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ

XX của nhiều nhà nghiên cứu khác nhau do trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Trong phần thứ hai và thứ ba

của cuốn kỷ yếu với nội dung Sự du nhập của các trào lưu tư tưởng phương

Đông và phương Tây vào Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng triết

học Việt Nam đã đi sâu vào nội dung và ảnh hưởng của các trào lưu triết học

8

phương Đông, phương Tây khi du nhập vào nước ta. Đặc biệt, trong những

báo cáo đó đã đưa ra quan điểm về vận mệnh của Nho giáo trong xã hội Việt

Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và những sự chuyển biến về

mặt tư tưởng của các Nho sĩ – những người xuất thân từ Nho giáo. Họ đã tiếp

biến những tư tưởng bên ngoài đó nhưng đồng thời cũng không lãng quên

những giá trị tiến bộ của Nho gia.

Đề tài khoa học đặc biệt của GS.TS Nguyễn Hữu Vui và Lương Gia

Tĩnh về Tư tưởng triết học Việt Nam từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (2003)đi

sâu vào tư tưởng triết học Việt Nam trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược

với nội dung chính là quá trình chuyển biến tư tưởng của các nhà tư tưởng

giai đoạn này và những hệ tư tưởng chủ yếu của họ đề ra trong quá trình tìm

ra con đường chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp.

Tóm lại, tổng quan lại những công trình nghiên cứu về lịch sử tư tưởng

Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chúng tôi thấy được

rằng việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn này khá toàn diện.

Tuy nhiên, ở phương diện nội dung, hệ thống nội dung tư tưởng của các nhà

tư tưởng vẫn chưa được đề cập sâu trong các công trình này.

Hướng nghiên cứu thứ hai, các công trình nghiên cứu về Nho giáo và

nho sĩViệt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chúng tôi nhận thấy cần

phải khảo cứu những công trình này bởi những công trình này liên quan trực

tiếp đến nhiều nội dung trong đề tài. Đồng thời, chủ thể của những tư tưởng

chính trị - xã hội giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là tầng lớp nho sĩ

duy tân.

Tác giả Phan Đại Doãn có tác phẩm Một số vấn đề Nho giáo Việt

Nam(1998),trong tác phẩmnày tác giả tập trung vào những vấn đề của Nho

giáo thời Lê – Nguyễn; Tư tưởng dân chủ của các nhà nho duy tân đầu thế kỷ

XX; Nho giáo với phong trào Đông kinh Nghĩa thục… Trong đó, nho sĩ duy

9

tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là những người tiên phong, đi

đầu trong việc truyền bé tư tưởng dân chủ. Điều này chứng tỏ các nho sĩ duy

tân đã có những bước chuyển về mặt tư tưởng để phù hợp với sự phát triển

của tiến trình lịch sử xã hội cũng như lịch sử tư tưởng.

Công trình Góp phần tìm hiểu Nho giáo, nho sĩ, trí thức Việt Nam trước

1945 (1998) của Chương Thâu cũng đã đưa ra những nhận xét, đánh giá của

những tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX –

đầu thế kỷ XX cũng như vị trí, vai trò của họ trong tiến trình cách mạng Việt

Nam. Những tư tưởng chính trị của họ, cụ thể là khuynh hướng dân chủ tư sản

được đánh giá là tiến bộ nhưng chưa đủ sức giành thắng lợi trước thực dân

Pháp. Nhưng điều quan trọng là các nho sĩ duy tân đã dần thoát khỏi ý thức hệ

tư tưởng phong kiến bảo thủ để đi đến với ý thức hệ mới tiến bộ hơn.

Khi nghiên cứu về nho sĩ duy tân Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX không thể không nhắc đến những công trình tiêu biểu như: Nguyễn

Trường Tộ con người và di thảo (1988) của Trương Bá Cần; Tìm hiểu tư

tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh (1996) của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới; Tư

tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu (2005) của tác giả Nguyễn

Văn Hòa.

Về tác phẩm Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo của tác giả Trương

Bá Cần, tác phẩm trình bày những di thảo của Nguyễn Trường Tộ, đặc biệt là

những bản điều trần của ông gửi cho triều đình nhà Nguyễn và vua Tự Đức.

Trong số những di thảo đó, ông đã đưa ra rất nhiều những tư tưởng, đề nghị

canh tân đất nước, đặc biệt những đề nghị liên quan đến lĩnh vực chính trị - xã

hội,

Công trình Tìm hiểu tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh (1996), tác

giả Đỗ Thị Hòa Hới đã chỉ ra được những bối cảnh của sự ra đời tư tưởng dân

chủ của Phan Châu Trinh và giai đoạn phát triển trong tư tưởng dân chủ của

10

Phan Châu Trinh. Theo đó, tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được chia

ra làm hai thời kì: thời kì tiếp nhận và truyền bá tư tưởng dân chủ ở Việt Nam

những năm 1902 – 1911 và thời kỳ Phan Châu Trinh hoạt động ở Pháp và

những năm cuối đời ở Việt Nam 1911-1925.

Trong mỗi giai đoạn, tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được phát

triển theo sự biến động của lịch sử để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Nếu như

giai đoạn trước 1911 là thời kỳ vận động trong tư tưởng Duy tân của ông với

những tư tưởng nổi bật như đề cao con người, vai trò của người dân, của quần

chúng nhân dân trong xã hội hay việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản nhất của

xã hội Việt Nam lúc bấy giờ… Sang giai đoạn sau 1911, ông đã phát triển

hơn nữa những tư tưởng dân chủ đó của mình. Cụ thể thông qua việc ông

công khai đấu tranh đòi quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam, yêu cầu chính

quyền thực dân thực thi dan chủ như như ở “chính quốc”; ông cũng đưa ra mô

hình nhà nước phù hợp với xã hội Việt Nam… Như vậy, trong mỗi giai đoạn,

Phan Châu Trinh đề xuất những tư tưởng cải cách phù họp với hoàn cảnh xã

hội. Nhưng mục đích cao nhất trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh

đó chính là việc thực thi dân chủ mà theo ông thực dân Pháp đã đi ngược lại

với tinh thần “Tự do – Bình đẳng – Bác ai” như cách mạng tư sản Pháp đã

làm được.

Trong số những nho sĩ duy tân tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỷ XIX –

đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu được coi là đại diện xuất sắc nhất trong trào

lưu canh tân, đổi mới đất nước những năm đầu thế kỷ XX. Đã có rất nhiều

công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu cũng như cuộc đời, sự nghiệp

cách mạng của ông. Nhưng nghiên cứu về tư tưởng của Phan Bội Châu

phải kể đến tác phẩm Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu

(2005) của tác giả Nguyễn Văn Hòa.

11

Tác phẩm đã trình bày những tư tưởng triết học cũng như chính trị của

Phan Bội Châu. Đặc biệt những tư tưởng về chính trị của ông có ý nghĩa vô

cùng quan trọng trong tiến trình cách mạng Việt Nam giai đoạn này. Trong tư

tưởng chính trị của Phan Bội Châu giai đoạn này, giải phóng dân tộc được coi

là mục đích tối cao, xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của ông.

Như vậy, ởcác trình nghiên cứu về nho giáo và nho sĩ duy tân, các tác

giả đã khái quát nên bức tranh về lịch sử nho giáo nói chung và tư tưởng của

nho sĩ duy tân Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Các

công trình đã trình bày được những đặc điểm nổi bật nhất về những tư tưởng

của các nho sĩ giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Nhưng bên cạnh

đó, các công trình cũng chưa đề cập được một cách sâu sắctư tưởng chính trị -

xã hội của nho sĩ duy tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Tóm lại, việc nghiên cứu tư tưởng nho sĩ duy tân giai đoạn cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX được nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm với

các phương diện khác nhau. Đặc biệt trên phương diện tư tưởng chính trị - xã

hội. Đây là nội dung có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử tư

tưởng của các nho sĩ duy tân nói riêng và toàn bộ tiến trình lịch sử tư tưởng

Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Với ý nghĩa đó, tác giả

đã lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ.

3. ục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Luận văn phân tích làm rõ tư tưởng chính trị - xã hội của các

nho sĩ duy tân, cụ thể là Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu

Trinh. Từ đó, chỉ ra những giá trị, hạn chế của những tư tưởng này trong giai

đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và trong thời đại ngày nay.

Nhiệm vụ:

12

- Phân tích những điều kiện và tiền đề dẫn đến sự hình thành tư tưởng

chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu

Trinh.

- Phân tích một số nội dung tư tưởng chính trị - xã hội của ba nhà tư

tưởng Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

- Phân tích giá trị, hạn chế trong tư tưởng chính – trị xã hội của Nguyễn

Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong bối cảnh giai

đoạn cuối thể kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

4. Đ i tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân

giai đoạn cuối thế kỷ XIX (từ năm 1868) đến đầu thế kỷ XX (1925) qua

tư tưởng của các nho sĩ tiêu biểu: Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và

Phan Châu Trinh

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống nhất logic và

lịch sử, phân tích và tổng hợp…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu tư

tưởng chính trị - xã hội giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nói riêng

và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu học

tập, nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIX – XX.

7. ết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

bao gồm 2 chương, 4 tiết.

13

N I DUNG

ƢƠ 1

NHỮ Đ ỀU KIỆN VÀ TIỀ ĐỀ CHO SỰ Ì Ƣ

ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ SĨ D Y CU I THẾ

KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

1.1. B i cảnh thế giới và Việt Nam cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

1.1.1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều chuyển

biến to lớn. Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai

đoạn độc quyền. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của của nền kinh tế các

nước TBCNngày càng làm gia tăng nhu cầu tìm kiếm thuộc địa để cung cấp

nguồn tài nguyên và thị trường tiêu thụ hàng hóa. Để mở rộng thị trường, chủ

nghĩa tư bản tiến hành xâm lược các nước Á, Phi, Mỹ La tinh – nơi có đẩy đủ

điều kiện đáp ứng nhu cầu phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Trong quá trình xâm lược thuộc địa, Đông Á và Đông Nam Á được xem

là mục tiêuxâm lược mà của các nước đế quốc. Cũng giống như quá trình xâm

lược thuộc địa ở các châu lục khác, thủ đoạn nham hiểm nhất mà các nước đế

quốc sử dụng chính là trực tiếp đe dọa đến chủ quyền và sự tồn vong của các

quốc gia, dân tộc. Lúc này, những người đứng đầu nhà nước của các quốc gia

này tỏ ra lúng túng, bị động bởi họ không thể đánh giá đúng bản chất sức mạnh

và dã tâm xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Mặt khác, những bất ổn trong chính

bộ máy nhà nước và đời sống xã hội càng tạo cơ hội cho các nước đế quốc thành

công trong công cuộc biến các nước Á Đông thành thuộc địa.

Đến đầu thế kỷ XX, miếng bánh thuộc địa phương Đông về cơ bản

đã phân chia xong. Sự xâm lược của các nước đế quốc phương Tây một

mặt đã làm phá vỡ xã hội cổ truyền đã tồn tại hàng nghìn năm ở các nước

phương Đông. Nhưng mặt khác, với công cuộc khai thác thuộc địa, một

14

mầm mống của một cơ cấu xã hội mới cũng dần được hình thành - mầm

mống sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Nhìn lại lịch sử xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây và quá

trình đấu tranh chống xâm lược của các dân tộc Á Đông trong những năm

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, có thể thấy rằng, mỗi quốc gia, dân tộc đã

có những sự thay đổi, chuyển biến để thích nghi với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy

giờ. Theo đó, các quốc gia, dân tộc sẽ lựa chọn những phương thức ứng phó

khác nhau, trong đó nổi lên ba phương thức tiêu biểu:

Phương thức thứ nhất: đầu hàng, chấp nhận ách chiếm đóng của thực

dân Phương Tây [32, tr.42].

Đây là phương thức ứng phó đã được các quốc gia Campuchia,

Philippin, Inđônêxia lựa chọn. Trong đó, trường hợp của Campuchia là một ví

dụ điển hình nhất. Vốn nằm trong địa bàn tranh chấp quyền lực giữa Xiêm và

Việt Nam, nhưng khi thực dân Pháp xâm lược thì quốc vương Nôrôđôm đã tự

nguyện thần phục nhằm thoát khỏi sức ép của hai nước láng giềng.

Phương thức ứng phó thứ hai: kiên quyết đứng lên đấu tranh chống lại

cuộc xâm lược của thực dân phương Tây bằng biện pháp kháng chiến [32,

tr.42]. Đây là phương thức ứng phó được nhiều dân tộc Đông Á lựa chọn

nhất. Các quốc gia lựa chọn phương thức đối đầu này đều được sự ủng hộ

mạnh mẽ của đông đảo dân chúng.

Chính nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúngnhân dân càng làm cho

các phong trào phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, những phong trào đấu tranh

của các quốc gia, dân tộc ở khu vực Đông Á giai đoạn này đều gặp thất bại.

Nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào này chứa đựng cả yếu tố

khách quan và chủ quan. Điều đó chứng tỏ trong bối cảnh thế kỷ XIX,

phương thức kháng chiến theo kiểu truyền thống không phải là sự lựachọn

phù hợp để đối phó với chủ nghĩa thực dân Phương Tây.

15

Phương thức ứng phó thứ ba: tiến hành cải cách, duy tân theo mô hình

phát triển của các nước phương Tây.

Phương thức ứng phó này được lựa chọn một mặt đối phó với nguy cơ

xâm lược của chủ nghĩa tư bản, nhưng đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình

các quốc gia Đông Á tự thay đổi mô hình phát triển, tự lực giải thoát khỏi sự

trì trệ và bế tắc của lịch sử.

Mặc dù công cuộc duy tân, cải cách được thực hiện và thể hiện dưới

nhiều hình thức và sắc thái khác nhau, song đã thể hiện ý chí, nỗ lực tự thân

vận động của các dân tộc Đông Á trong việc mô phỏng mô hình phát triển tư

bản chủ nghĩa của phương Tây nhằm chỉnh sửa mô hình phát triển truyền

thống của mình, mở ra con đường phát triển mới của dân tộc mình thoát khỏi

tình trạng lạc hậu, thoát khỏi họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân phương

Tây.Tiêu biểu cho phương thức ứng phó này là Nhật Bản và Trung Quốc.

Nhật Bản trước năm 1868 là một nước phong kiến. Từ giữa thế kỷ

XIX, Nhật Bản cũng như các quốc gia phương Đông khác, đều trở thành

miếng mồi cho các nước thực dân phương Tây xâu xé. Trước áp lực của các

nước phương Tây đòi mở cửa, Nhật Bản đứng trước hai lựa chọn: tăng cường

hệ thống phòng thủ để chống lại sự xâm lược và yêu sách đòi mở cửa của

thực dân phương Tây. Thứ hai, chấp nhận mở cửa giao thương với các nước

phương Tây, tránh được họa xâm lăng.

Trong bối cảnh đó, chính quyền Nhật đã lựa chọn mở cửa giao thương

với phương Tây. Quyết định này của chính phủ Nhật Bản cho thấy nỗ lực của

chính quyền trong việc giữ thế chủ động ngoại giao và hy vọng vào khả năng

duy trì độc lập. Sau cuộc đấu tranh quyết liệt và thắng lợi chống lại các thế

lực thủ cựu, Nhật Bản đã bắt đầu công cuộc duy tân trên tất cả mọi mặt của

đời sống xã hội. Và thực chất của công cuộc cải cách của Nhật bản chính là

tuân theo những yêu cầu phát triển theo phương thức sản xuất tư bản chủ

16

nghĩa tuyvẫn còn giữ nhiều tàn tích phong kiến trọng yếu trong chính trị.

Nhờphát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa mà Nhật Bản giữ được độc

lập tự do cho dân tộc, sớm trở thành quốc gia cường thịnh trong khu vực và đi

theo con đường mà chủ nghĩa thực dân phương Tây đã đi: bành trướng chính

sách thực dân, tiến hành xâm lược thuộc địa.

Trung Quốc là quốc gia phong kiến điển hình nhất ở phương Đông.

Các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam… đều chịu ảnh hưởng mạnh

mẽ của văn minh Trung Hoa. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, cũng giống

như Việt Nam, Trung Quốc từ một quốc gia quân chủ phong kiến tập quyền

trở thành quốc gia nửa thuộc địa nửa phong kiến sau các cuộc xâm lược thực

dân phương Tây. Sau khi trở thành thuộc địa, mầm mống kinh tế tư bản chủ

nghĩa cũng dần xuất hiện. Chính sách bế quan tỏa cảng dần bị phá bỏ, mầm

mống kinh tế tư bản chủ nghĩa dần được hình thành. Bên cạnh đó, việc mở

cửa giao thương với bên ngoài cùng với những ảnh hưởng từ duy tân Nhật

Bản cũng tạo điều kiện cho sự thay đổi trong thế giới quan của giới trí thức

Trung Quốc, đồng thời là nguồn gốc của những trào lưu tư tưởng, cải cách kỷ

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Những năm đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc

không ngừng phát triển; các sĩ phu tiến bộ và trí thức tư sản đã mạnh dạn đòi

cải cách, sáng lập ra nhiềuhọc hội, học đường, nhà xuất bản. Tiêu biểu là chủ

trương “Biến pháp duy tân” do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đứng đầu,

tồn tại dưới tổ chức mang tên “Cường học hội”, với chủ trương chính duy trì

và cải tiến chế độ phong kiến nhà Thanh. Họ tiến hành công cuộc duy tân vào

năm 1898 học tập theo mô hình Nhật Bản. Nhưng sau đó phong trào thất bại,

biến pháp không thể thi hành do sự đàn áp của phe thủ cựu trong triều đình.

Bên cạnh đó, phong trào chưa có sự tham gia của quần chúng nhân dân, đây

có thể coi là lực lượng cơ bản nhưng biến pháp duy tân lại thiếu hụt điều này.

17

Biến pháp duy tân thất bại nhưng để lại những ý nghĩa to lớn trong việc

thức tỉnh ý thức của quần chúng nhân dân lao động trong việc chống ngoại xâm.

Bên cạnh tổ chức “Cường học hội” còn có “Đồng minh hội” (1905)

được thành lập dựa trên lực lượng chính là những trí thức Tây học do Tôn

Trung Sơn đứng đầu, lực lượng chính là giai cấp tư sản, hoạt động với chủ

trương đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập chính phủ liên

hiệp. Đồng minh hội là đại diện tiêu biểu nhất của phong trào cách mạng tư

sản Trung Quốc đầu thế kỷ XX, lãnh đạo cách mạng Tân Hợi (1911) thành

công, lập ra Trung Hoa dân quốc. Từ đây, chế độ quân chủ chuyên chế bị lật

đổ, chế độ cộng hòa ra đời. Nhưng trên thực tế, cách mạng Tân Hợi vẫn chưa

giải quyết được vấn đề cơ bản nhất trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ là

đánh đuổi đế quốc, cũng chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nhân dân.

Từ nửa sau thế kỷ XIX, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều trở

thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Đến những năm

90 của thế kỷ XIX, về cơ bản, miếng bánh thuộc địa Đông Nam Á đã được

phân chia xong. Thực dân Anh chiếm Malaixia, Mianma; Pháp chiếm Việt

Nam, Lào, Campuchia; Tây Ban Nha sau đó là Mỹ chiếm Philippin; Hà Lan

chiếm Indonesia. Ở Đông Nam Á chỉ có duy nhất Thái Lan thoát khỏi tình

trạng thuộc địa nhưng về cơ bản vẫn là nước phụ thuộc. Sau khi quá trình

xâm lược hoàn thành, các quốc gia phương Tây bắt đầu vào quá trình khai

thác thuộc địa. Cùng với đó là phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh tại

các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ. Nhưng hầu hết các phong trào này đều

thất bại. Phải đến khi cách mạng tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, phong

trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á mới có những

chuyển biến, dấu hiệu tích cực.

Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư

bản ngày càng phát triển và có sự chuyển hóa, từ giai đoạn tự do cạnh tranh

18

sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế của

nó. Chính trong bối cảnh đó, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra và

giành thắng lợi, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời.

Thắng lợi này đã mở ra một đường lối cứu nước mới cho các dân tộc bị

áp bức: con đường giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới dưới ánh sáng

của chủ nghĩa Mác -Lênin.

Những chuyển biến về tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XIX –

đầu thế kỷ XX đã có những ảnh hưởng, tác động đến tình hình chính trị, kinh

tế xã hội nước ta giai đoạn này. Từ sự biến đổi về mặt xã hội, tạo nên sự hình

thành, phát triển tất yếu của kiến trúc thượng tầng tương ứng trong xã hội.

Hay nói cách khác, đây là điều kiện cần cho quá trình hình thành, chuyển biến

tư tưởng của các nho sĩ yêu nước ở Việt Nam giai đoạn này.

1.1.2. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

Nửa cuối thế kỷ XIX, Pháp tiến hành xâm lược Đông Dương, trong đó

có Việt Nam. Từ khi thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta vào năm 1858

đến năm 1883 sau Hiệp ước Harman, chỉ 24 năm thực dân Pháp đã biến nước

ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong

kiến và cuốn vào vòng xoáy của chủ nghĩa tư bản.

Sau khi biến nước ta thành thuộc địa, thực dân Pháp bắt tay thiết lập bộ

máy thống trị thực dân và tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt

tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ. Từ năm 1897,

thực dân Pháp bắt đầu tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.

Dưới tác động của khai thác thuộc địa, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội như chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục đều có sự chuyển biến mạnh mẽ.

* Về kinh tế:

Khi tiến hành xâm lược Việt Nam, mục đích của thực dân Pháp muốn

biến Việt Nam thành thị trường độc chiếm để bóc lột sức lao động với nguồn

19

nhân công rẻ mạt cùng với nguồn nguyên liệu phong phú giá rẻ, nhằm thu lợi

nhuận tối đa, phục vụ lợi lích của “mẫu quốc”. Để làm được điều đó, thực dân

Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa với việc du nhập các phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta. Nhưng đồng thời thực dân Pháp

vẫn duy trì các phương thức sản xuất phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch.

Điều này dẫn đến nền tảng và cơ cấu kinh tế - xã hội của nước ta có sự

chuyển biến.

Dưới sự tác động của hai phương thức sản xuất này, nền tảngcơ cấu

kinh tế - xã hội của nước ta dần chuyển theo tư bản chủ nghĩa nhưng là thứ tư

bản chủ nghĩa phụ thuộc vào chính quốc.

Đầu tiên, những đô thị mới mọc lên với những trung tâm kinh tế và

tụđiểm cư dân mới. Cùng với đó, quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ để

nhường chỗ cho sự hình thành của những đô thị mới.

Cơ cấu kinh tế truyền thống bị thay đổi, nền sản xuất nông nghiệp

không còn giữ vai trò độc tôn như trước. Các công trường, xí nghiệp, thương

điếm, nhà máy, hầm mỏ lần lượt ra đời.

Nhưng với việc vẫn duy trì phương thức sản xuất phong kiến kinh tế

nước ta không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được,

nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề

vào kinh tế Pháp. Nhưng sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế, đã tạo điều kiện

thuận lợi để các luồng tư tưởng bên ngoài có thể du nhập vào nước ta.

Mặt khác, những chuyển biến trong lĩnh vực kinh tế đã làm phá sản

chính sách bế quan tỏa cảnh của nhà Nguyễn, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp

xúc với thế giới. Mặc dù trước đó, việc trở thành thuộc địa của thực dân Pháp

phần nào mở ra cơ hội cho việc tiếp xúc với thế giới nhưng lại trong tâm thế

của một nước thuộc địa, phụ thuộc và “chỉ có quan hệ với riêng một nước Pháp

mà thôi”.

20

Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX về cơ

bản vẫn là nền kinh tế tự cung tự cấp. “Trên thực tế, các lực lượng sản xuất xã

hội cũ vẫn giữ một vai trò quan trọng” [29, tr.11].

Dưới những điều kiện kinh tế này, đã làm thay đổi tính chất của xã hội

Việt Nam. Cái cũ, cái truyền thống bị phá vỡ, cùng với đó là sự xuất hiện của

phương thức sản xuất mới. Đây là nguyên nhân quyết định đến sự thay đổi

của toàn bộ nội dung trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam giai đoạn

này nói chung và các nhà tư tưởng giai đoạn này nói riêng.

* Về chính trị:

Nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, ngay sau

khi hoàn thành xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy cai trị từ

trung ương đến địa phương. Song song với sự tồn tại với chính quyền thực

dân đóng vai trò thống trị, thực dân Pháp đồng thời duy trì bộ máy chính

quyền phong kiến bù nhìn, biến thành công cụ tay sai đắc lực cho chính quyền

thực dân trong công cuộc thống trị và khai thác thuộc địa.

Những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, những phong trào đấu

tranh của nhân dân ta chống lại sự đô hộ của chính quyền thực dân bùng lên

mạnh mẽ nhưng thực dân Pháp đã dùng vũ lực để đàn áp những phong trào

đó. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố, các cuộc đấu tranh của dân Việt Nam

trong biển máu.

Cùng với việc đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, chính

quyền thực dân còn thực hiện những chính sách cai trị hết sức thâm độc, như

chia để trị, áp đặt những chế độ cai trị khác nhau tại Bắc kì, Trung kì và Nam kì..

Chưa dừng lại ở đó, thực dân Pháp còn nhập ba kì của nước ta với Lào và

Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta khỏi

bản đồ thế giới.

21

Bên cạnh thi hành những chính sách cai trị đó, thực dân Pháp còn

chuyển mọi quyền hành tập trung trong tay các viên quan cai trị người Pháp,

từ Toàn quyền Đông Dương, vị trí đứng đầu các kì, công sứ các tỉnh, đến các

bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...

Thực dân Pháp còn thực hiện chính sách dùng người Việt trị người Việt

gây chia rẽ, hận thù dân tộc giữa ba miền. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa

Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là

giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông

Dương, giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số. Hoặc thâm độc hơn dùng

chính những phần tử phong kiến đã đầu hàng thực dân để cai trị chính quyền

làng xã, làm công cụ bóc lột nhân dân ta, biến vua quan Nam triều thành bù

nhìn, tay sai…

Với những chính sách cai trị đó đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc

Việt Nam với thực dân Pháp càng thêm gay gắt. Để giải quyết được mâu

thuẫn đó cần có sự đoàn kết, đồng tâm hiệp lực của toàn thể dân tộc, của mọi

giai tầng yêu nước trong xã hội. Nhưng để có được sự đoàn kết của toàn thể

dân tộc cần có một hệ tư tưởng đúng đắn soi đường. Chính yêu cầu này đã

ảnh hưởng và phản ánh rõ nét trong tiến trình phát triển tư tưởng của các nhà

yêu nước, cách mạng giai đoạn này.

* Về xã hội:

Sự tác động đồng thời của hai phương thức sản xuất cùng với việc thực

hiện những chính sách cai trị của chính quyền thực dân đã làm cho cơ cấu, vai

trò của các giai cấp trong xã hội Việt Nam có sự phân hóa, biến đổi. Tạo ra bộ

mặt xã hội mới cho xã hội Việt Nam giai đoạn này.

Bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại mấy trăm năm, việc

thực dân sự du nhập của chủ nghĩa tư bản thực dân đã tạo ra sự biến đổi trong

cơ cấu và nền tảng xã hội thể hiện rõ qua sự xuất hiện thêm những giai tầng

22

mới trong xã hội. Như vậy, “xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu

thế kỷ XX là sự bảo tồn và duy trì giai cấp cũ trong xã hội để làm cơ sở cho

chế độ thuộc địa cùng với sự xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới –

hệ quả của chương trình khai thác thuộc địa”.

Giai cấp địa chủ

Đây được xem là giai cấp có lịch sử lâu đời nhất trong xã hội Việt

Nam. Do chính sách cai trị của chính quyền thực dân, giai cấp địa chủ Việt

Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đã có sự phân hóa

mạnh mẽ, thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ.

Đại bộ phận của giai cấp này đã lựa chọn con đường thỏa hiệp, đầu

hàng chính quyền thực dân để bảo vệ “quyền lợi” của mình. Họ liên minh,

cấu kết với chính quyền thực dân để đàn áp, bóc lột nhân ta.

Ở một khía cạnh nào đó, hành động này của đại bộ phận giai cấp địa

chủ đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội nói chung và lịch sử

tư tưởng cũng như con đường truyền bá hệ tư tưởng mới của các nhà yêu

nước nói riêng, “nó kìm hãm các yếu tố mới” từ bên ngoài khi được du

nhập vào nước ta.

Bộ phận còn lại có lập trường thái độ đối nghịch với chính quyền thực

dân. Họ chỉ là những địa chủ vừa và nhỏ, non yếu về mọi mặt, cả kinh tế lẫn

địa vị chính trị nhưng một mặt vẫn ủng hộ các phong trào cách mạng khi có

đủ điều kiện.

Tầng lớp trung và tiểu địa chủ vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc

gia dân tộc có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, lại bị chính sách

thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên bộ phận này không

chịu nỗi nhục mất nước. Họ cũng có mâu thuẫn với chính những người

cùng tầng lớp là bộ phận đại địa chủ trên phương diện quyền lợi khi bị

chính những đại địa chủ chèn ép vì không lựa chọn đứng về phía chính

23

quyền thực dân. Chính điều này là điều kiện đủ để họ cùng tham gia đấu

tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.

Nông dân

Là thành phần chiếm đại đa số trong xã hội, chiếm khoảng 90% dân số.

Quá trình khai thác thuộc địa với những chính sách cai trị hà khắc trên mọi

lĩnh vực đã khiến họ bị bần cùng hóa. Đời sống của người dân Việt Nam

trong hai cuộc khai thác thuộc địa hết bi đát, họ bị dồn vào đường cùng, đứng

giữa ách kìm cặp của thực dân và địa chủ. Chính điều này đã tạo nên động lực

cho họ tham gia cách mạng khi các phong trào nổ ra.

Chính sách độc quyền kinh tế, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng

lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa

không lối thoát. Dưới ách kìm kẹp của thực dân Pháp cùng đội ngũ tay sai

quan lại bù nhìn, đời sống nhân dân ngày càng điêu đứng. Nông dân sống

trong cảnh lầm than, “một cổ hai tròng”.

Để duy trì cuộc sống, họ buộc phải bán sức lao động, làm thuê trong

các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu dịch tại các thuộc địa

khác của đế quốc Pháp. Vì những áp bức bóc lột nặng nề mà họ phải gánh

chịu cùng nỗi đau mất nước nên mâu thuẫn với chính quyền thực dân và đội

ngũ tay sai ngày càng gay gắt. Họ mang trong mình truyền thống yêu nước

bất khuất với lực lượng hùng hậu. Nhưng điều đó chưa đủ để họ trở thành

tầng lớp lãnh đạo cách mạng. Giai cấp nông dân chỉ trở thành lực lượng nòng

cốt trong của cách mạng khi có lý luận cách mạng đúng đắn soi đường.

Bên cạnh hai giai cấp cơ bản, cốt lõi trong xã hội giai đoạn nửa cuối thế

kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là địa chủ và nông dân, xã hội Việt Nam giai đoạn

này còn có sự tồn tại của một tầng lớp khác, đóng vai trò quan trọng trong

tiến trình lịch sử Việt Nam giai đoạn này. Đó là tầng lớp sĩ phu yêu nước.

24

Đây là tầng lớp đứng đầu trong số những giai cấp, tầng lớp của xã hội

Việt Nam giai đoạn này. Cùng với sự phân hóa của các giai cấp, tầng lớp

trong xã hội, tầng lớp sĩ phu giai đoạn này cũng có sự phân hóa nhất định.

Một bộ phận tỏ ra bế tắc, chán nản và chọn con đường lui về ở ẩn để

giữ trọn “đạo trung”, giữ gìn chữ “danh”. Một số khác lại chọn con đường

“ôm chân đế quốc”, luồn cúi “liếm gót thực dân”.

Nhưng bên cạnh đó, vẫn có những sĩ phu yêu nước tiến bộ, luôn nêu

cao tinh thần yêu nước, kiên quyết chống ngoại xâm. Đứng trước cảnh nước

mất nhà tan, họ ra sức thức tỉnh tinh thần yêu nước dân tộc trong mọi tầng lớp

xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn và những điều học hỏi được từ bên

ngoài, họ đã nhận thấy được những hạn chế, bất lực của hệ tư tưởng phong

kiến trong con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sẵn sàng gạt bỏ, phê

phán những cái lỗi thời, nhưng cũng không phủ định sạch trơn những giá trị,

tinh hoa truyền thống của dân tộc, sẵn sàng tiếp nhận, học hỏi những luồng tư

tưởng mới mà các nước “đồng chủng đồng văn” đã thực hiện.

Tuy có những hạn chế nhất định bởi hoàn cảnh lịch sử “nhưng họ thực

sự là những cầu nối cho sự chuyển hướng đi lên của dân tộc” [36, tr.34].

Bên cạnh các giai cấp đại diện cho xã hội Việt Nam truyền thống,

những giai cấp, tầng lớp mới được sinh ra từ phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa cũng dần được hình thành. Qua thời gian, đến những năm 20 của thế kỷ

XX, những giai cấp này mới đủ trưởng thành, trình độ để bước lên vũ đài

chính trị, tham gia, lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Giai cấp tư sản

Được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là

một tầng lớp nhỏ bé. Bởi vì ra đời trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép,

25

cạnh tranh rất gay gắt, nên thế lực kinh tế nhỏ bé, số lượng các nhà tư sản

cũng không nhiều.

Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam từ một tầng lớp xã hội mới họ chuyển

thành một giai cấp xã hội và bắt đầu bước vào vũ đài chính trị. Nhưng cũng từ

đây, trong lòng giai cấp tư sản có sự phân hóa rõ rệt thành hai bộ phận: tư sản

mại bản và tư sản dân tộc.

Bộ phận tư sản dân tộc có khuynh hướng kinh doanh, phát triển kinh tế

độc lập, nên ít nhiều có tinh thần dân tộc, dân chủ chống đế quốc, phong kiến,

nhưng lập trường của họ không kiên định, dễ dàng thỏa hiệp, cải lương.

Còn với Tư sản mại bản mại bản, tầng lớp này một mặt cấu kết chặt chẽ với

tư bản nước ngoài, mặt khác cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai

trong nước để bóc lột nhân dân lao động để duy trì địa vị và lợi ích của mình.

Dưới tác động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tầng lớp tiểu

tư sản cũng bắt đầu xuất hiện. Tầng lớp này này sinh và phát triển theo sự

hình thành và phát triển của các đô thị.

Tầng lớp tiểu tư sản:

Bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ

công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự

do. Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt

nhưng nhìn chung, địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bịđe dọa

phá sản, thất nghiệp.

Cùng với sự phát triển mở rộng của phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa, tầng lớp tiểu tư sản ngày càng đông và bắt đầu có sự phân hóa. Một bộ

phận trở nên giàu có và trở thành tầng lớp đại tư sản, có địa vị xã hội. Một bộ

phận khác bị bần cũng hóa, thất nghiệp, phá sản và có xu hướng gia nhập đội

ngũ công nhân lao động. Trong tầng lớp tiểu tư sản, bộ phận trí thức, học

sinh, sinh viên là bộ phận năng động nhất.

26

Đặc biệt bộ phận trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp

xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những

giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào cách mạng có lý

luận soi đường, họ bước vào trận chiến đấu tranh giải phóng dân tộc và đóng

một vai trò quan trọng. Họ chính là những người tiếp thu, truyền bá những tư

tưởng tiến bộ đến sâu rộng quần chúng nhân dân.

Giai cấp công nhân:

Sản phẩm đặc trưng nhất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

sản sinh ra ở tất cả các quốc gia đó chính là sự ra đời của giai cấp công nhân.

Ở Việt Nam cũng không ngoại lệ, giai cấp công nhân là sản phẩm của cuộc

khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp trên đất Đông Dương. Nó

là sản phẩm của nền kinh tế tư bản thuộc địa và nằm trong những mạch máu

kinh tế quan trọng của thực dân Pháp.

Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, những năm đầu thế kỷ XX, giai cấp công

nhân Việt Nam còn hết sức non yếu, “chưa đủ độ trưởng thành để đảm nhận

nhiệm vụ lịch sử được giao phó” [29, tr.19].

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), dưới sự tác động của

cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, đặc biệt dưới ảnh hưởng của Cách mạng

Tháng Mười Nga, phong trào công nhân đã có những bước phát triển mới.

Cuộc bãi công của công nhân nhà máy Ba Son (1925) là điểm khởi đầu

cho quá trình phát triển về chất của giai cấp công nhân Việt Nam. “Từ đây, cuộc

đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu đi vào đấu tranh tự giác…”

[29, tr.20]. Bước ngoặt chứng minh cho sự trưởng thành của giai cấp công nhân

Việt Nam đó chính là sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930). Từ đây,

giai cấp công nhân Việt Nam từ giai cấp “tự nó” đã phát triển thành giai cấp tiên

phong, nắm vững ngọn cờ lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.

Như vậy, dưới sự tác động của công cuộc khai thác thuộc địa, cơ cấu

giai cấp của xã hội Việt Nam đã có sự chuyển biển căn bản. Việt Nam từ một

xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Nhưng tính

27

chất xã hội cổ truyền không hoàn toàn mất, thực dân Pháp vẫn duy trì một

phần tính chất phong kiến của xã hội truyền thống, song khi đã thành thuộc

địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam

đều bịđặt trong quỹđạo chuyển động của xã hội đó.

Chính điều này đã làm cho mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và nhân dân

Việt Nam vốn đã sâu sắc lại càng sâu sắc hơn. Nhưng đồng thời đây cũng là

động lực thúc đẩy quá trình cách mạng hóa diễn ra sâu rộng trong xã hội Việt

Nam giai đoạn này diễn ra nhanh hơn.

Mặt khác, vào cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước lần lượt

thất bại. Đặc biệt, sau sự thất bại của phong trào Cần Vương, cùng lúc đó

thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị cho công cuộc khai thác thuộc địa tại Việt

Nam. Khó khăn chồng chất họ nhận thức được rằng đấu tranh theo phương

thức cũ chỉ là con đường chết nhưng lúc này họ chưa thể tìm ra một con

đường khác đúng đắn hơn.

Sang đầu thế kỷ XX, khi công cuộc bình định nước ta đã hoàn thành,

chính thức đi vào giai đoạn khai thác, thực dân Pháp càng có cơ sở vững chắc

để tăng cường bộ máy cai trị. Như vậy,cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc Việt

Nam càng khó khăn.

Một xã hội với cơ cấu giai cấp phức tạp như thế đã kéo theo sự phức tạp

trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, khi mà các hệ tư tưởng khác nhau cùng

tồn tại, nhưng lại chưa tìm ra một hệ tư tưởng đúng đắn, phù hợp soi đường.

Trong bối cảnh đó, yêu cầu về cải cách, canh tân để đưa đất nước thoát

khỏi ách xâm lược là điều tất yếu, phù hợp với yêu cầu của lịch sử, của thời

đại. Những tư tưởng về chính trị - xã hội của các tầng lớp yêu nước trong xã

hội cũng từ đây được hình thành, phát triển, phù hợp với khách quan phát

triển lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng nói riêng.

1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành tƣ tƣởng chính trị - xã hội của

nho sỹ duy Tân cu i thế kỷ XIX– đầu thế kỷ XX

28

1.2.1. Sự khủng hoảng của nho giáo Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX

– đầu thế kỷ XX

Nho giáo đã du nhập vào nước ta từ rất lâu, ngay từ thế kỷ I TCN. Nho

giáo vào nước ta chủ yếu thông qua con đường xâm lược của phong kiến

phương Bắc cùng với quá trình giao lưu văn hóa. Trong quá trình du nhập vào

nước ta, nho giáo với những tư tưởng hết sức hà khắc về Tam cương, Ngũ

thường, Thiên mệnh đã được phong kiến phương Bắc sử dụng như một công

cụ để thống trị nhân dân ta.

Đến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê những ảnh hưởng của Nho giáo trong xã

hội nước ta giai đoạn này cũng chưa thực sự sâu sắc. Nhưng sang thế kỷ 11,

từ thời nhà Lý trở đi, Nho giáo dần có sức ảnh hưởng lớn hơn trong bộ máy

nhà nước phong kiến tập quyền bởi những điều mà nó làm được trong việc

duy trì trật tự, ổn định xã hội, trong việc quản lý, xây dựng và phát triển đất

nước. Nho giáo được đề cao và được sử dụng như một công cụ trong việc cai

trị và quản lý xã hội.

Sang đến thế kỷ XV, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính, hệ tư tưởng

thống trị trong xã hội Việt Nam. Từ bộ máy chính quyền đến đời sống nhân

dân đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nho giáo. Đặc biệt dưới thời nhà Nguyễn

vai trò của Nho giáo càng được đẩy lên cao, triều đình nhà Nguyễn độc tôn

nho giáo. Vai trò của nho sĩ càng được đề cao, đặc biệt trong đời sống nhân

dân. Chính vì vậy, không có gì lạ khi trong tư tưởng của các sĩ phu yêu nước

tiến bộ sau này đều chịu ảnh hưởng của nho giáo.

Nhưng từ khi thực dân Pháp nổ sung xâm lược Việt Nam 1858 đến khi

triều đình nhà Nguyễn chính thức đầu hàng Pháp sau Hiệp ước Hác – măng

1883, nho giáo đã không thể phát huy những vai trò của mình trong việc

hoạch định đường lối để ứng phó với sự thay đổi của thời đại. Chế độ phong

kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước

29

yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm. Nho giáo chính thức bước vào thời

kì suy “vong trên vũ đài tư tưởng”. Theo đó, tầng lớp nho sĩ đã phải phải

đứng trước sự lựa chọn trong cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng giữa “duy tân và

thủ cựu” hay đường lối “chủ chiến và chủ hòa”. Nhưng nho sĩ nhà Nguyễn

cũng chưa thể giải quyết được những vấn đề mang tính thời đại đó, dẫn đến

nho giáo ngày càng bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc.

Trong bối cảnh đó, một số nhà tư tưởng tiêu biểu như Phạm Phú Thứ,

Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… đến Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh,… đã thực hiện một bước chuyển tư

tưởng chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn.

Các nhà tư tưởng này phần lớn đều xuất thân từ nho sĩ, chính vì xuất

thân từ nho sĩ nên họ đã hiểu được và nhận thấy được nho giáo đã không còn

phù hợp với bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại, họ nhận thấy nho giáo đã đi

vào con đường suy tàn, bất lực trước yêu cầu của lịch sử. Từ sự phê phán hệ

tư tưởng phong kiến đó, các ông đã đề xuất tư tưởng canh tân vào cuối thế kỷ

XIX và sau đó, khởi xướng tư tưởng dân chủ tư sản vào đầu thế kỷ XX, tạo

nên ảnh hưởng lớn đối với xã hội Việt Nam.

Trong trào lưu tư tưởng canh tân cuối thế kỷ XIX, Đặng Huy Trứ

(1825 – 1874), Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871)… là những nhà tư tưởng

tiêu biểu nhất. Cả hai ông đều là những người am hiểu nho học, chính vì

vậy, dù là tư tưởng canh tân, cải cách nhưng đâu đó vẫn còn bong dáng của

những tư tưởng nho giáo xưa.

Cụ thể, Nguyễn Trường Tộ coi “ngôi vua là quý”, “chức quan là

trọng”, không muốn thay đổi chế độ quân chủ mà muốn có một người cầm

quyền đủ khả năng dẫn dắt toàn dân tiến hành canh tân đất nước. Tuy

nhiên, bên cạnh việc đề cao chế độ quân chủ, kêu gọi thực hiện “chính

danh”, Nguyễn Trường Tộ cũng nhận thấy vai trò của pháp luật và cho

30

rằng, vua cũng nên tự hạ mình để ghép vào vòng pháp luật. Đây chính là

điểm duy tân trong tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong việc xây dựng

nhà nước theo mô hình quân chủ mà ông vẫn muốn lưu giữ.

Ông viết: “Bề trên lo giữ pháp độ, lo việc nước thì chỉ dùng người hiền,

đã theo công lý giữ pháp luật thì trên sẽ hợp điển chế không ai dị nghị, sự

nghiệp không suy đốn” [2, tr.204].

Như vậy, trong quan điểm của Nguyễn Trường Tộ, những yếu tố của tư

tưởng dân chủ đã xuất hiện, nhưng vẫn đan xen tồn tại với quan điểm nho

giáo khi ông vẫn muốn giữ lại chế độ quân chủ chuyên chế, người đứng đầu

nhà nước vẫn là vua… Qua đó phản ánh sự dao động tư tưởng của các nho sĩ

yêu nước khi “hệ tư tưởng cũ lung lay, hệ tư tưởng mới chưa được xác lập”.

Quan điểm về “dân” là quan điểm khá nổi bật trong tư tưởng chính trị

Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Trong đó nổi bật là quan điểm của Đặng Huy Trứ.

Ông coi “dân là gốc của nước, là chủ của thần”; “Khí mạnh của nước là lấy

dân làm gốc. Bồi bổ cái gốc đó mới là thầy thuốc giỏi” [48, tr.284].

Những quan niệm về vai trò của “dân” trong sự phát triển của xã hội đã

có từ lâu và trở thành một đạo lý. Thời Lý – Trần, những tư tưởng về thân

dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc

làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về “an

dân” đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ

hoạt động của mình. Như vậy, những quan niệm của Nguyễn Công Trứ về

“dân” như đã đưa ra ở trên đều xuất phát, kế thừa những quan niệm về dân

của nho giáo. Trên cơ sở kế thừa đó, ông mở rộng ra hơn nữa vai trò của

“dân” trong sự ổn định và phát triển xã hội. Đây chình là biểu hiện của việc

đánh dấu sự đổi mới trong tư duy của dân tộc ta cuối thế kỷ XIX.

Sang đến đầu thế kỷ XX, một số nhà tư tưởng đầu thế kỷ XX, như

Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh…

31

đã tiếp thu tư tưởng của các nhà canh tân cuối thế kỷ XIX trong khu vực

như Nhật Bản, Trung Quốc, tiếp tục phát triển tư tưởng đó lên trình độ

mới, cao hơn về chất. Các ông đã từ bỏ dần hệ tư tưởng phong kiến, mạnh

dạn đi tìm hệ tư tưởng mới cho dân tộc.

1.2.2. Tư tưởng cải cách, duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc cuối thế kỷ XIX –

đầu thế kỷ XX

* Tư tưởng cải cách, duy tân của Nhật Bản

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX khi các nước phương Đông đều chịu

sự thống trị, phụ thuộc của các nước tư bản phương Tây thì Nhật Bản lại thoát

khỏi được tình trạng đó. Nhờ vào công cuộc cải cách, duy tân được thực hiện

vào những năm cuối thế kỷ XIX đã đưa Nhật Bản thoát khỏi họa xâm lăng.

Chính “phong cách tư duy độc lập, tự chủ, duy lý” của người Nhật đã góp

phần không nhỏ vào thành công của công cuộc cải cách, đưa đất nước thoát

khỏi tình trạng bị xâm lược, phát triển ngang hàng với tư bản phương Tây.

Nhật Bản cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh

Trung Hoa, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo, nhưng trong xã hội Nhật Bản lại

không xuất hiện hiện tượng độc tôn về mặt tư tưởng. Đây là điều kiện thuận

lợi cho sự phát triển của các học thuyết, trường phái khác. Bên cạnh tầng lớp

nho sĩ trong xã hội góp phần định hình, phát triển xã hội, xã hội Nhật Bản còn

một tầng lớp khác đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản lý xã hội, đó là

tầng lớp võ sĩ. Hai tầng lớp này khác nhau về địa vị xã hội, nhưng họ đều đặt

lợi ích dân tộc lên trên lợi lích giai cấp mình. Do vậy, trong công cuộc cải

cách, duy tân Nhật Bản cuối thế lỷ XIX, tầng lớp võ sĩ nắm giữ vai trò quyết

định, nhưng sang đầu thế kỷ XX, vai trò này được chuyển giao sang cho tầng

lớp trí thức Tây học.

Tư tưởng cải cách, duy tân Nhật Bản xuất phát điểm với những nguồn

gốc khác nhau, với những phương thức khác nhau, lực lượng xã hội khác

32

nhau nhưng tất cả đều chung môt mục tiêu xây dựng xã hội mới, đưa đất nước

thoát khỏi họa xâm lăng.

Một số nội dung tiêu biểu trong công cuộc duy tân Minh Trị của Nhật Bản:

Về chính trị: thực hiện cải cách cơ bản hệ thống chính trị, tầng lớp võ sĩ

nắm giữ các vị trí chủ chốt. Chế độ trung ương tập quyền được thiết lập.

Về kinh tế: Cải cách nền tài chính, tập trung phát triển nội thương,

ngoại thương, tích lũy tư bản. Sức mạnh kinh tế và quyền lực chính trị nằm

dưới sự kiểm soát của chính quyền.

Về xã hội: tiến hành đổi mới xã hội theo kiểu phương Tây.Tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội: kiến trúc, phong cách sinh hoạt… đều học tập

theo phương Tây.

Về giáo dục: Đây là lĩnh vực được chính quyền hết sức coi trọng, coi đây

là cơ sở để thay đổi đất nước, chính vì vậy, chính quyền lựa chọn học hỏi theo

mô hình phương Tây, cụ thể là Pháp với những hình thức như cử người đi du

học, thuê các chuyên gia giáo dục ở các quốc gia tiến bộ về Nhật giảng dạy.

Cải cách Minh Trị diễn ra đã đạt được kết quả to lớn, không chỉ giữ

vững được nền độc lập mà còn trở thành quốc gia tư bản phát triển hùng

mạnh. Trong số những nhà tư tưởng đóng vai trò cho sự thành công đó của

duy tân Minh Trị, Fukuzawa Yukichi là một trong những nhà tư tưởng tiêu

biểu nhất.

Fukuzawa Yukichi là một nho sĩ có xuất thân từ tầng lớp võ sĩ. Là một

nho sĩ, ông nhận thấy được những hạn chế của Nho giáo như sự phân chia

đẳng cấp xã hội. Cùng với việc được chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của

các nước phương Tây, ông đã có những sự chuyển biến quan trọng trong tư

tưởng để đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc vào đầu thế kỷ XX, điều

mà những nho sĩ tiến bộ ở Trung Quốc hay Việt Nam chưa làm được.

33

Tư tưởng cải cách, duy tân của Fukuzawa Yukichi hướng đến tinh thần

học tập văn minh phương Tây nhưng trên cơ sở vẫn giữ gìn bản sắc và độc

lập, tự chủ dân tộc. Một trong những tư tưởng có tính then chốt trong hệ

thống tư tưởng của ông có ảnh hưởng đến các nho sĩ duy tân Việt Nam cuối

thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đó chính là những quan điểm về con người.

Ông đề xuất tư tưởng “con người bình đẳng”. Ông cho rằng, khi sinh

ra, mọi người đều bình đẳng, có tư cách địa vị như nhau, không phân biệt

trai gái, thấp hèn, không cho mình quyền đứng trên người khác. Trời sinh

ra con người nhưng không tạo ra cuộc sống của họ, cuộc sống của mỗi

người là do chính bàn tay họ tạo dựng nên. Tư tưởng này khắc phục hạn

chế của Nho giáo về “Thiên mệnh”.

Ngoài ra, quan điểm về nhà nước là đại diện của dân, điều hành mọi

hoạt động của nhân dân. Nhà nước phải làm ra luật để bảo vệ dân. Đây là

những tư tưởng chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính trị phương Tây mà ông

đã tiếp thu được. Chưa dừng lại ở đó, ông cho rằng, cần khuyến khích học

tập phương pháp tư duy của phương Tây trong lĩnh vực tư tưởng, đồng thời

phê phán lối tư duy của người phương Đông, phá bỏ những tư tưởng lạc

hậu, khắc nghiệt của nho giáo…

Tóm lại, những tư tưởng cải cách, duy tân ở Nhật bản cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX đã đưa Nhật Bản từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu

trở thành một cường quốc ở phương Đông. Những tư tưởng cải cách đó có

ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với xã hội Nhật Bản nói riêng mà cả

lịch sử tư tưởng các nước phương Đông nói chung. Những thành tựu mà

Nhật Bản đạt được tác động vào trí óc của những người Việt Nam yêu

nước cũng các dân tộc khác. Họ thực sự coi Nhật Bản là tấm gương noi

theo. Các sĩ phu yêu nước, tiến bộ lúc bấy giờ thực sự đã bị thu hút mạnh

mẽ bởi những thành tựu mà Nhật Bản đã đạt được.

34

Các nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX đã coi Nhật Bản như một tấm

gương trong việc duy tân, đổi mới đất nước để duy trì độc lập, cố gắng đưa đất

nước phát triển ngang hàng với phương Tây. Các phong trào yêu nước cũng từ

đây bùng nổ và phát triển. Các phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông kinh nghĩa

thục… đã tạo nên sự thay đổi trong Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng Việt

Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nói riêng.

Như vậy, dưới ảnh hưởng của Duy tân Nhật Bản mà bắt đầu từ cải

cách Minh Trị “nhiều nhân vật ưu tú của các phong trào dân tộc, dân chủ

của nhiều nước Châu Áđã có những hoạt động thực tế riêng ở từng đất

nước hoặc hoạt động chung trên đất nước Nhật Bản vào giai đoạn cuối thế

kỷ XIX, đầu thế kỷ XX” [26, tr.275].

* Tư tưởng cải cách, duy tân và cách mạng ở Trung Quốc

Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX rơi vào khủng hoảng

trầm trọng, chế độ phong kiến bảo thủ, trì trệ, đời sống người dân hết sức bần

cùng. Lúc này, luồng gió cải cách, duy tân Nhật Bản dần ảnh hưởng đến tầng

lớp sĩ phu yêu nước tiến bộ. Họ nhận thức được rằng, muốn thoát khỏi khủng

hoảng cẩn phải tiến hành cải cách.

Mở đầu cho công cuộc cải cách ở Trung Quốc chính là phong trào Biến

pháp duy tân 1898. Lúc này, các nhà tư tưởng duy tân Trung Quốc nhận thức

được rằng, hệ tư tưởng nho giáo đã thực sự lỗi thời, không thể đảm nhận

nhiệm vụ lịch sử và thay vào đó là ý thức hệ tư sản. Họ coi đây là vũ khí lý

luận dẫn đường cho phong trào cải cách và cách mạng dân chủ lúc bấy giờ.

Đại diện tiêu biểu cho phong trào duy tân giai đoạn này là những nhà tư

tưởng tiến bộ: Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Đàm Tự Đồng… Nhưng tư

tưởng duy tân ở Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX chia làm 2 phái: phái

cách mạng và phái cải lương.

35

Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu là hai đại diện tiêu biểu nhất của phái

cải lương. Họ đề ra chủ trương duy trì và cải tiến chế độ phong kiến nhà

Thanh. Thông qua “Biến pháp duy tân” (1898) mà Lương Khải Siêu đề

xướng, vua Quang Tự lúc bấy giờ đã cho thi hành một loạt cải cách trên tất cả

các lĩnh vực của xã hội. Trong đó, một số nội dung tiêu biểu có thể kể đến

như: thay đổi hệ thống pháp luật; sửa đổi chế độ khoa cử, khuyến khích

nghiên cứu, phát minh mới… Nhưng biến pháp duy tân chỉ duy trì được một

thời gian ngắn rồi thất bại do vấp phải sự phản đối của phe thủ cựu trong triều

đình Mãn Thanh.

Sau khi biến pháp thất bại, Lương Khải Siêu có sự chuyển biến về mặt

tư tưởng. Trong thời gian ở Nhật Bản, ông tuyên truyền tư tưởng bình đẳng,

tự do, dân chủ. Ông ủng hộ giai cấp tư sản Trung Quốc thực hiện cách mạng

dân chủ giống như các nước phương Tây. Nhưng sau đó, khi trực tiếp nhìn

thấy những mặt trái của chế độ dân chủ phương Tây, ông nhận thấy mô hình

đó không phù hợp với xã hội Trung Hoa. Lúc này những thành tựu từ công

cuộc cải cách ở Nhật Bản càng hấp dẫn ông. Ông ủng hộ chế độ quân chủ

chuyên chế, cũng từ đây ông phản đối con đường bạo lực cách mạng mà Tôn

Trung Sơn khởi xướng.

Nhìn chung, trong lĩnh vực tư tưởng, Lương Khải Siêu không ngừng

có sự chuyển biến. Ông sẵn sàng thử nghiệm, học tập những cái gì tiến bộ để

đưa đất nước thoát khỏi ngoại bang, đưa Trung Quốc trở thành cường quốc.

Tôn Trung Sơn là đại diện tiêu biểu cho các nhà tư tưởng phái cách

mạng đầu thế kỷ XX. Được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ nhỏ, nên

tư tưởng của Tôn Trung Sơn chịu ảnh hưởng rõ rệt của tư tưởng dân chủ tư

sản. Ông thành lập các các tổ chức cách mạng trong và ngoài nước. Năm

1905 Trung Quốc đồng minh hội ra đời với cương lĩnh “Tam dân chủ

nghĩa”: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Với cương

36

lĩnh đó, Tôn Trung Sơn cho rằng, các dân tộc trên thế giới này đầu bình

đẳng, không có dân tộc nào có quyền áp chế dân tộc nào, con người trong

xã hội đều bình đẳng, tự do, những người giàu có không thể áp chế những

người nghèo khó. Trong chủ nghĩa dân tộc của Tôn Trung Sơn, dân quyền

là là mục đích cuối cùng của cách mạng, là vấn đề quan trọng, cấp bách

nhất lúc này.

Mô hình nhà nước mà Tôn Trung Sơn hướng đến để thực hiện dân

quyền chính là một nước dân chủ cộng hòa tư sản nhưng mang màu sắc

Trung Quốc. Chính quyền của nhà nước đó là chính quyền của dân, dân trở

thành người làm chủ.

Những tư tưởng này về dân quyền của Tôn Trung Sơn ảnh hưởng rất

lớn đến các nhà tư tưởng Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Phan Bội

Châu cũng đã đưa ra những tư tưởng về dân quyền. Nhưng dân quyền của

Phan Bội Châu mới chỉ được khai thác ở khía cạnh về quyền bình đẳng tự

do, quyền làm người.

Những kết quả từ “Biến pháp duy tân” , “Cách mạng Tân Hợi” ở Trung

Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX có ý nghĩa vô cùng to lớn

đối với tầng lớp sĩ phu yêu nước Việt Nam giai đoạn này.

“Vụ Mậu Tuất chính biến 1898 đó đã ảnh hưởng đến các nhà Nho yêu

nước và tiến bộ ở Việt Nam và từ đó nhà Nho Việt Nam rủ nhau đi nếm mùi

“Tân thư”, “Tân văn” và tư tưởng tư sản Tây phương qua sách báo Trung

Quốc đặt biệt là những tác phẩm của Lương Khải Siêu” [10, tr.24].

Mặt khác, sự thắng lợi của cách mạng Tân Hợi (1911) với sự ra đời của

nhà nước Trung Hoa dân quốc đã làm cho “Châu Á thức tỉnh”. “Sự kiện này

đã có tác động tích cực đối với sự tiến triển mạnh mẽ hơn trong tư tưởng, tình

cảm của Phan Bội Châu trên con đường dân chủ tư sản và tạo điều kiện thuận

lợi cho sự ra đời của Việt Nam Quang phục hội (1912)” [13, tr.23].

37

Bên cạnh tư tưởng, cải cách duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc giai

đoạn này, sự kiện cách mạng tháng Mười Nga (1917) cũng đóng vai trò

quan trọng trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX.

Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư

bản ngày càng phát triển và có sự chuyển hóa, từ giai đoạntự do cạnh tranh

sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế của

nó. Chính trong bối cảnh đó, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra và

giành thắng lợi. Thắng lợi này đã mở ra một đường lối cứu nước mới cho các

dân tộc bị áp bức: con đường giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới dưới

ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin.

Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin

đã không ngừng được tuyên truyền vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt

Nam, đây là tiền đề tư tưởng quan trọng cho việc hình thành tư tưởng cách

mạng tiến bộ của các nhân sỹ, trí thức giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã làm cho “Cuộc đấu tranh giải

phóng dân tộc ở Châu Á mặc dù còn phải trải qua một thời kỳ đầy khó khăn nhưng

tiền đề lịch sử cho sự thắng lợi đã trở thành khả năng hiện thực” [17, tr.12].

Ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên sự chuyển

biến mới trong tư tưởng của các nhà yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX

theo hướng ngày càng tiệm cận đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin. Không ít

nhà tư tưởng giai đoạn này đã hướng theo cách mạng Tháng Mười với một

niềm hy vọng tìm thấy trong đó lối thoát cho sự bế tắc về tư tưởng của

mình vào con đường cứu nước giải phóng dân tộc.

38

iểu kết chƣơng 1

Những biến động của lịch sử thế giới những năm cuối thế kỳ XIX – đầu

thế kỷ XX nói chung và sự thay đổi của thể chế chính trị cùng với sự biến đổi

của cơ cấu xã hội Việt Nam nói riêng đã tạo nên những điều kiện, nền tảng

căn bản cho các luồng tư tưởng mới thế giới truyền vào Việt Nam. Đặc biệt là

trước những thay đổi mạnh mẽ của các quốc gia trong phạm vi Đông Á, như

sự thành công của Duy tân Nhật Bản (1868), biến Nhật Bản từ một quốc gia

nghèo nàn, lạc hậu, đứng trước nguy cơ xâm lược trở thành một cường quốc,

một đế quốc trẻ; Biến pháp Duy Tân (1898) và thành công của Cách mạng

Tân hợi (1911) ở Trung Quốc; Sự thành công của cách mạng Tháng Mười

Nga... đều tác động rất lớn đến quá trình chuyển biến tư tưởng yêu nước ở

Việt Nam trong giai đoạn này, góp phần quyết định nội dung nhảy vọt về chất

của tư tưởng yêu nước Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc ý thức hệ phong kiến rơi vào khủng hoảng, bất lực

trước hoàn cảnh lịch sử đã tạo điều kiện cho những luồng tư tưởng bên

ngoài truyền vào nước ta. Trong bối cảnh đó, tầng lớp nho sĩ yêu nước, tiến

bộ đã chủ động tiếp nhận những luồng tư tưởng mới đó để áp dụng vào

thực tiễn lịch sử.

Từ việc phê phán chế độ phong kiến và tiếp nhận những tư tưởng từ

bên ngoài, các nho sĩ Việt Nam đã tạo ra cuộc đấu tranh rất quyết liệt giữa hai

luồng tư tưởng mới và cũ, giữa ý thức hệ phong kiến với Nho giáo làm đại

diện và ý thức hệ mới mang khuynh hướng dân chủ tư sản, bắt đầu xây dựng

những phạm trù dân chủ tư sản ở Việt Nam.

Việc các nho sĩ giai đoạn này lựa chọn khuynh hướng dân chủ tư sản

làm kim chỉ nam xuất phát từ lợi ích của dân tộc, đồng thời phản ánh sự vận

động và phát triển tất yếu của lịch sử tư tưởng.

39

ƢƠ 2

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦA SĨ D Y I

THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX – NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

2.1. Những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng chính trị - xã hội của Nguyễn

Trƣờng Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn đầy biến động

của lịch sử Việt Nam. Thực dân Pháp xâm lược, các phong trào giải phóng

dân tộc lần lượt thất bại.Xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa, nửa

phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo

ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc đấu tranh chống ngoại

xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, những nhà nho yêu nước như

Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… đến Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh,… đã thực hiện một bước chuyển tư

tưởng chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn.

Từ sự phê phán hệ tư tưởng phong kiến cũng như những hạn chế của Nho

giáo đương thời, các ông đã đề xuất tư tưởng canh tân để đưa đất nước thoát

khỏi ách xâm lược, đô hộ của thực dân. Mở đầu trào lưu canh tân là những đề

xuất cải cách, canh tân đất nước vào cuối thế kỷ XIX và sau đó, khởi xướng tư

tưởng dân chủ tư sản vào đầu thế kỷ XX, tạo nên ảnh hưởng lớn đối với xã hội

Việt Nam.

Qua quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn nhận thấy, Nguyễn Trường

Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là những đại diện tiêu biểu nhất cho

tư tưởng duy tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Do đó, trong

phạm vi của luận văn, dưới góc độ nghiên cứu tư tưởng chính trị - xã hội của

nho sĩ duy tân, tác giả lựa chọn 3 nhà tư tưởng đó để phân tích.

40

2.1.1.Tư tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ

Trong khi cục diện thế giới cuối thế kỷ XIX thay đổi mạnh mẽ, là thời

đại chủ nghĩa thực dân, khuôn khổ tư duy chính trị Nho giáo đã hạn chế sự

phát triển mọi mặt của xã hội Việt Nam gia đoạn này. Đặc biệt, dưới triều

Nguyễn, “cách nhìn lấy Trung Quốc làm trung tâm đã khiến họ trở nên bất

cập trong phân tích thời thế, đánh giá tương quan lực lượng địch - ta, bản chất

của kẻ thù mới, từ đó không hoạch định được một chiến lược phù hợp chống

lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp” [. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự

thất bại của triều đình nhà Nguyễn trong công cuộc chống thực dân Pháp

những năm cuối thế kỷ XIX.

Sự phân hóa trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn giữa phái chủ chiến

và chủ hoà kéo dài gần 20 năm không chỉ thể hiện lối tư duy chính trị lạc

hậu của tầng lớp lãnh đạo, phản ánh sự bất lực của hệ tư tưởng Nho giáo

trong đường lối trị nước mà còn làm phân tán ý chí và sức mạnh chống

giặc ngoại xâm của toàn dân tộc.

Trong bối cảnh đó, nhiều đề xuất tiến hành cải cách, canh tân đất nước

được đề xuất lên triều đình. Trong đó phải kể đến tư tưởng canh tân của Nguyễn

Trường Tộ - nhà nho tiêu biểu nhất cho trào lưu canh tân giai đoạn này.

Tư tưởng canh tân là một trào lưu tư tưởng của tầng lớp trí thức yêu

nước, tiến bộ, xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX, với chủ trương vận dụng

những tri thức mới của văn minh nhân loại nhằm đổi mới toàn diện, phát

triển kinh tế – xã hội đất nước theo kịp sự phát triển thời đại. Đối lập với tư

tưởng canh tân là tư tưởng thủ cựu của một bộ phận quan lại triều đình nhà

Nguyễn, không chịu đổi mới, tiếp thu tư tưởng tiến bộ của phương Tây văn

minh, của nhân loại.

* Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ

41

Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830 (có tài liệu cho là ông sinh năm

1828) tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trong một gia

đình nghèo theo đạo Thiên chúa. Năm 1871, ông bị mắc trọng bệnh nên qua

đời khi mới 41 tuổi. Xuất thân từ gia đình công giáo nhưng khi còn nhỏ tuổi

ông theo học chữ Hán, ông học rất chăm chỉ, thông minh, được thầy và bạn

yêu mến, khâm phục. Vì vậy, ông sớm nổi tiếng là một người có đại tài, đại

trí, giỏi văn chương, chữ nghĩa. Nhưng thiên hướng Nho học của ông không

phải chuyên về bình luận thơ phú, mà ông quan tâm đến những giá trị thực tế

của sự vật. Ông trở thành thầy dạy chữ Hán cho người Pháp. Ông cũng nuôi

mộng trở thành quan lại trong bộ máy triều đình nhà Nguyễn nhưng do chính

sách “Cấm đạo” của triều đình nên tuy học giỏi ông nhưng không được đi thi.

Chính vì nguyên nhân này mà tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường

Tộ chứa đựng sự dung hoà các tư tưởng chính trị của Nho giáo, Kitô giáo và

pháp quyền tư sản của các nước Á - Âu đương thời.

Năm 1859, Nguyễn Trường Tộ xuất ngoại. Trong thời gian ở nước

ngoài, Nguyễn Trường Tộ có dịp đi nhiều nơi, kết giao với nhiều bạn bè ngoại

quốc, học hỏi được nhiều kiến thức tiên tiến của nhiều quốc gia, chứng kiến

và nắm bắt được những biến đổi của thế giới. Kiến thức và tầm nhìn về thế

giới của ông được nâng lên rất nhiều.

Ông quan sát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, các nước và cách làm

ăn buôn bán của tư bản phương Tây, so sánh với sự lạc hậu thấp kém trong

nước, dần dần trong ông đã hình thành ý tưởng và đề nghị canh tân của mình

nhằm mục đích đưa đất nước cường thịnh, đủ khả năng chống lại được chủ

nghĩa thực dân phương Tây, giành độc lập dân tộc.

Những tư tưởng về cải cách của Nguyễn Trường Tộ đưa ra trên cơ sở

được hình thành trên nhìn nhận đúng đắn về nội dung bản chất và xu hướng

42

của thời đại mới. Nhưng để đạt được sự nhận thức đúng đắn đó ông phải vượt

qua khuôn khổ của cái nhìn Nho giáo đã bám sâu vào xã hội.

Trong các bản điều trần của mình gửi lên vua Tự Đức, ông đã đề cập

cải cách, canh tân hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, như giáo dục,

kinh tế, văn hoá, quân sự, ngoại giao,hành chính... để đưa đất nước thoát khỏi

tình trạng khủng hoảng, đủ sức để đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Các bản điều

trần của Nguyễn Trường Tộ gửi lên vua Tự Đức và triều đình nhà Nguyễn

(gồm 58 bản, đượcsưu tầm và tập hợp trong cuốn sách Nguyễn Trường Tộ -

Con người và di thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, của tác giả

Trương Bá Cần). Những đề nghị cải cách, canh tân của ông được trình bày

một cách có hệ thống, toàn diện, bao gồm các vấn đề từ giáo dục, kinh tế, tài

chính, quốc phòng, ngoại giao, đến phong tục tập quán, chính trị, xã hội, chữ

viết, môi trường... tất cả đều rất thiết thực đối với xã hội nước ta lúc bấy giờ.

Trong số những tư tưởng, đề nghị canh tân đó của Nguyễn Trường Tộ,

những đề nghị cải cách về chính trị - xã hội có nghĩa vô cùng quan trọng

trong bối cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ.

* Nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ

Mục đích canh tân:

Nổi bật trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ là ông đã lý

giải vì sao phải tiến hành canh tân đất nước? Theo ông: “Thời đại nào có

chế độ ấy. Con người sinh ra thời đại nào cũng chỉ đủ làm công việc của

thời ñại ấy mà thôi. Vậy thì người sinh vào thời xưa làm xong công việc

của thời xưa. Rồi dần dần thời thế đổi đời, làm sao có thể mỗi mỗi ôm giữ

phép xưa mãi được?” [2, tr.260].

Ông phê phán tư tưởng phong kiến lỗi thời, lạc hậu đã trở thành lực cản

đối với sự phát triển của lịch sử xã hội, ông viết: “Làm việc gì họ cũng đều

43

muốn đi ngược lại theo xưa. Bọn Tống Nho sở dĩ làm hại đất nước, làm đất

nước hèn yếu không phát đạt đều do tư tưởng này mà ra cả” [2, tr.259].

Ông cho rằng, phương Tây nhờ đổi mới mà các nước đó đã phát triển

nhanh chóng: “Họ đã đến lúc trưởng thành. Xem thời thế vận hội trong thiên

hạ thì đã đến lúc tiến dần đến thời tráng thịnh, tung hoành bốn phương” [2,

tr.260]. Theo Nguyễn Trường Tộ, nhà vua nên thực hiện đổi mới canh tân đó

mới là trí, ông viết: “là người không phải không có lầm lạc ban đầu, mà là

người biết thay đổi hành động, không phải không có sai lạc, nhưng phải biết

sửa điều sai thành đúng đắn, không xấu hổ vì sửa đổi cái cũ” [2, tr.265]. Do

đó, theo ông muốn đất nước trường tồn và phát triển thì phải tiến hành đổi

mới, là nhu cầu khách quan và quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam.

Quan niệm về thời và thế

Đây được xem là một trong những nội dung chính trong tư tưởng chính

trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ.

Ông nhận thức rất rõ về thời và thế của dân tộc ta trong bối cảnh hiện

tại. Lúc này, so về tương quan lực lượng trên mọi phương diện của nước tavới

thực dân Pháp, ông cho rằng, muốn đánh Pháp phải chờ thời và tạo thời. Hoàn

cảnh lịch sử nước ta lúc này chưa thể làm cách mạng được. Nền kinh tế sa sút,

chính trị mục ruỗng, khủng hoảng, đời sống nhân dân khổ cực, khoa học - kỹ

thuật lạc hậu. Từ thực trạng đất nước như vậy, ông đề xuất chủ trương hòa với

Pháp để tìm cơ hội chấn hưng đất nước. Sở dĩ có chủ trương hòa với thực dân

Pháp là vì ông nhận thức rất rõ về thời và thế của dân tộc ta lúc này.

Trước hết, ông đề ra chủ trương phải tạm thời dựa vào Pháp. Trong bản

Di thảo số 19 ông viết: “Ngày nay nước ta đang bị ở vào cái thế xung đột,

Đông Tây tranh đoạt lẫn nhau, nên có hai cái lợi là ở Nam thì Gia Định, ở Bắc

thì Tứ Tuyên; nhưng lại có ba cái hại là Bắc thì Vân Nam, Nam thì nước địch,

Trung thì có bọn bất mãn chạy Đông chạy Tây rồi lại tụ tập về lại một chỗ là

44

như thế. Hiện nay ta chưa vội dùng thuật tung hoành để lập cái thế con rết

trăm chân được nên phải tuỳ thời giao thiệp thân mật với người Tây để tạm

mượn thế lực của họ, để chống lại ba cái hại trên, để thu cái lợi bên phía Tây

để dần dần lo kế sau này hoặc là khi gặp việc gì thì có thể cứu đỡ” [2, tr.94].

Nguyễn Trường Tộ đã nhận thức được sức mạnh của nước ta lúc này

chưa đủ để giành chiến thắng trước một đế quốc đầy đủ về sức mạnh về

mọi mặt như Pháp. Chính vì vậy, ông đề ra chủ trương “hòa” và “tạm thời

dựa vào Pháp” để hy vọng có đủ thời gian để tiến hành canh tân, đổi mới

đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.

Như vậy, dựa trên cơ sở phân tích xu hướng xâm chiếm thuộc địa của

các nước tư bản phương Tây đối với các quốc gia phương Đông, phân tích

tương quan lực lượng giữa quân xâm lược và quốc gia bị xâm lược, Nguyễn

Trường Tộ coi “hoà” là chiến lược phù hợp nhất ở thời điểm hiện tại. Trên thế

chủ động bàn hoà đó, chúng ta có thể có thời gian để chuẩn bị cơ sở vật chất,

lực lượng tiến hành canhtân, nâng cao nội lực đất nước.

Ông cho rằng: “Sự thế hiện nay chỉ có hoà. Hoà thì trên không cưỡng

lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ… Học cho tinh vi mới sinh kỹ

xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành

động, mất ở phía Đông thì lấy lại ở phía Tây, cũng chưa muộn gì” [2, tr.110].

Trong bối cảnh và thời điểm năm 1863, sau khi triều đình đã ký hoà

ước cắt đất của 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho thực dân Pháp, chủ trương

“hòa”, “đổi đất lấy hoà bình” của Nguyễn Trường Tộ nhằm tận dụng cơ hội,

thời gian để tiến hành canh tân đất nước là có cơ sở. Chủ trương “hoà” của

Nguyễn Trường Tộ hoàn toàn khác với chủ trương hoà (hay là hàng) của triều

đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, bởi mục đích của ông chính là chờ đợi thời cơ,

cơ hội để chuyển mình khi đủ sức mạnh. Còn triều Nguyễn chủ trương hòa để

tìm kiếm cầu viện, tìm mọi cách để đảm bảo quyền lợi của chế độ phong kiến.

45

Quan niệm của Nguyễn Trường Tộ về xã hội hài hòa

Triển khai quan niệm hoà vào lĩnh vực chính trị - xã hội, Nguyễn Trường

Tộ, “một mặt kế thừa lý tưởng xã hội của Nho giáo; mặt khác, bổ sung thêm một

số ý tưởng trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Kitô giáo và tư tưởng chính trị - xã hội

đương thời” [40, tr.53] để đưa ra quan niệm riêng của mình về một xã hội hài

hoà.

Ông cho rằng, xã hội hoà trước hết là một xã hội trong đó người dân

được đảm bảo dân sinh, yên ổn làm ăn, sinh sống theo “bản tính: của mình:

“Trong một nước, tuy nhân dân có phân chia nhà cửa khác nhau, nhưng

vua cũng chỉ lấy một quyền mà thống trị dân chúng, lấy một trí mà liên kết

muôn dân, khiến dân tình đều được yên ổn, hành động tuy khác nhau nhưng

đều lương thiện, chí hướng khác nhau nhưng đều đáng quý cả” [2, tr.116]. Vì

vậy, ông kiên trì dùng mọi lý lẽ để thuyết phục triều đình nhà Nguyễn và vua

Tự Đức gìn giữ sự yên ổn, đoàn kết trong xã hội, không tiến hành các chính

sách phân biệt tôn giáo, đẳng cấp trong xã hội.

Ông coi sự đoàn kết giữa toàn thể dân chúng trong xã hội là điều kiện

để duy trì sự ổn định của đất nước nhưng ông lại chưa nhận thấy được vai trò

trọng yếu của dân. Nếu như từ Nguyễn Trãi, quan niệm “an dân”, “khang

dân” … đã xuất hiện, vai trò của dân trong xã hội được đề cao thì Nguyễn

Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử thời điểm này lại không đồng ý với quan

điểm “dân là gốc của nước” như các chĩ sĩ yêu nước cùng thời. Ông cho rằng,

vua, quan mới là gốc của nước. Đất nước không có vua quan thì chẳng bao

lâu dân sẽ loạn, giành giật lợi ích lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau. “Cho nên nước

dù có vua bạo ngược còn hơn không vua” [2, tr.69].

Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Trường Tộ còn đưa ra dẫn chứng cho việc,

dân quý hơn vua đất nước càng loạn. Ông viết: “Dân là quý, rồi mới đến vua”.

Theo ông, quan niệm này đã tạo nên cái cớ cho vô số bọn hủ nho sau này lấy

46

cớ mượn việc công để làm việc tư. “Nếu mạo danh giết vua để được cái nghĩa

cứu dân thì cái nghĩa đó càng chưa trọn vẹn… cho nên ông nói: Mọi quyền

lợi hành vi trong một nước phải do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi

vui buồn. Ngoài quy luật này ra đều là tội cả” [2, tr.70; 71].

Như vậy, trong quan điểm về “dân” trong xã hội hài hòa của Nguyễn

Trường Tộ, vai trò của dân chưa thực sự được coi trọng. Ông cũng chưa nhận

thức được hết vai trò của dân khi đất nước có chiến tranh, cách mạng.

“Vua đối với dân, là người thay trời mà chăn dắt, theo ý trời mà hành

động. Dân sinh ở trên đời, tuy tiếng nói khác nhau, sự yêu chuộng khác nhau, kẻ

xứ lạnh, người xứ nóng khác nhau, đến hay đi, thuận hay nghịch, miễn sao biết

trung hiếu là được, cần gì phải câu nệ hình tích bên ngoài mà không xét đến cái

gốc ở trong tâm, cưỡng ép phải giống nhau để gây rối loạn” [2, tr.115].

Như vậy, cơ sở duy trì sự hài hoà trong xã hội là tôn trọng sự phát triển

tự do của từng tầng lớp, giai cấp, các đối tượng tôn giáo khác nhau trong một

khuôn khổ chính trị, luật pháp chung mà đại diện là quyền cai trị của nhà vua.

Tư tưởng này của ông đã bắt đầu có sự manh nha của những quan niệm về

“bình đẳng” giữa các giai cấp trong xã hội.

Xã hội hoà cũng là xã hội đảm bảo sự “chính danh”, trong đó “vua có

bổn phận của vua, quan có bổn phận của quan, dân có bổn phận của dân.

Danh phận mỗi người đều có cái quý trọng riêng” [2, tr.176].

Xã hội hoà lý tưởng theo quan niệm của Nguyễn Trường Tộ cũng

không nằm ngoài khuôn khổ Nho giáo khi “Bề trên lo giữ pháp độ, lo việc

nước chỉ dùng người hiền, đã theo công lý, giữ pháp luật thì lệnh trên sẽ

hợp điển chế… Kẻ làm dân… thì hết lòng làm sao cho thiên hạ kính trọng

vua mình hơn” [2, tr.176].

Ngoài ra, ông còn đề cao tư tưởng quản lý xã hội, duy trì sự hoà hợp xã

hội bằng pháp luật: “Bất kỳ trong đạo giáo nào, hễ ai phản nghịch loạn

47

thường đều là người đắc tội trong tôn giáo, cứ áp dụng hình pháp không tha

để đạo giáo được trong sạch. Còn ai yên phận tuân theo pháp luật thì để cho

họ tự nhiên, có hại gì đâu? Đồng hành mà không nghịch nhau là được, cần gì

bắt phải nhất tề những cái mà tạo vật không thể nhất tề, cũng không cần phải

nhất tề, để làm tổn thương hoà khí?” [2, tr.178].

Đây chính là điểm mà Nguyễn Trường Tộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng

dân chủ tư sản. Mặc dù còn sơ khai nhưng so với các chĩ sĩ yêu nước cùng

thời, ông là người đầu tiên mạnh dạn đưa ra quan điểm về việc áp dụng luật

pháp đối với người đứng đầu nhà nước. Một mặt ông kêu gọi, đề cao chế độ

quân chủ, mặt khác, ông lại đề cao luật pháp, cho rằng vua cũng cần phải tuân

theo pháp luật. Khuôn khổ pháp luật mà Nguyễn Trường Tộ đưa ra áp dụng

cho tất cả mọi thành viên trong xã hội, kể cả người đứng đầu đất nước là vua.

Đây có thể được xem là một ý tưởng mới trong tư tưởng chính trị - xã hội của

các nhà tư tưởng những năm cuối thế kỷ XIX. Ông viết: “Kẻ làm vua biết rõ

cái điều trời phó thác cho mình là nặng nề, mọi hoạ phúc đều do trách nhiệm

ở vua, cho nên tự hạ mình ghép vào vòng pháp luật” [2, tr.115].

Theo ông, quyền được thông tin việc nước và tự do ngôn luận cũng là

một trong những tiêu chuẩn xây dựng một xã hội hài hoà: “Điều thẳng lẽ cong

đều công bố cho thiên hạ, việc sai đúng phải cho mọi người bàn luận, không

dám tự mình che giấu bào chữa cho cái xấu” [2, tr.116].

Từ những phân tích nêu trên, chúng ta thấy tư tưởng về xây dựng một

xã hội hài hoà được Nguyễn Trường Tộ đưa ra dựa trên những nguyên tắc về

đảm bảo quyền sống cho con người, những quyền con người cơ bản phải

được đảm bảo. Bên cạnh đó, ông đề cao quyền tự do tôn giáo. “Xã hội hài hòa

của Nguyễn Trường Tộ được quản lý bởi người đứng đầu có hiểu biết, trọng

người tài và quan trọng nhất, tất cả mọi người trong xã hội đều phải tuân thủ

luật pháp, kể cả người đứng đầu nhà nước” [Dẫn theo 40].

48

Từ những quan điểm về xã hội hài hòa đó, Nguyễn Trường Tộ cũng

đã đưa ra mô hình nhà nước mà ông mong muốn xây dựng. Đó là mô hình

mang bóng dáng của nhà nước quân chủ kiểu Nhật, đây là mô hình nhà

nước mà ông coi là kiểu mẫu duy tân: “Tôi đã hiểu rõ cái chính lý của đạo

trung ái trong kinh, biết rõ danh vị là lợi ích cho nhân dân, thấy thiên hạ có

sự yên trị lâu dài, lợi ích to lớn là do chỗ một họ cầm quyền, do chỗ đời đời

truyền nối. Mà chế ngự được nhân tâm là do trị lý về kinh tế, và duy trì

được đời đời dài lâu là nhờ ngoại giao” [9, tr.180].

Từ mong muốn xây dựng một mô hình nhà nước như vậy, để đạt hiệu

quả trong quản lý đất nước, ông đã đưa ra nhiều đề nghị cải cách hành chính,

như hợp nhất một số cơ quan, chính quyền để tinh giản biên chế; giản lược

thủ tục giấy tờ; tăng lương và có chế độ đãi ngộ thoả đáng cho quan chức để

tăng trách nhiệm của đội ngũ quan lại, chống tham nhũng; sử dụng đội ngũ

quan lại có thực tài,… Những đề nghị cải cách này, nếu được thực hiện sẽ dần

dần tạo ra sự thay đổi lớn trong cơ chế quản lý, điều hành nhà nước, nâng cao

được sức mạnh quản lý của bộ máy nhà nước.

Quan niệm của Nguyễn Trường Tộ về xây dựng đường lối đối ngoại

Bên cạnh những đề nghị canh tân nhằm phát triển nội lực, tạo điều kiện

để đất nước chuẩn bị đầy đủ, tốt nhất để thực hiện canh tân, đổi mới, Nguyễn

Trường Tộ cũng đưa ra những đề nghị trong tư duy đối ngoại có thể làm thay

đổi cục diện chính trị đất nước.

Ông cho rằng, ngoại giao kiểu “bế quan toả cảng”, không giao thiệp với

người phương Tây đã khiến triều Nguyễn bỏ qua cơ hội phát triển đất nước,

đồng thời đẩy nước ta vào thế bất lợi khi không nhận thức, nắm bắt được sự

thay đổi của cục diện thế giới nói chung. Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn

vẫn hy vọng duy trì được nền độc lập thông qua đường lối ngoại giao đóng

cửa, chưa triệt để trong vấn đề lựa chọn phương thức ứng phó theo phái chủ

49

chiến hay chủ hòa. Trước sự lưỡng lự đó của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn

Trường Tộ đã mạnh dạn đề nghị mở cửa thông thương với bên ngoài:

“Tôi nghĩ rằng thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể,

dự tính được ở tương lai. Đi theo con đường nào mới được? Con đường phải

theo không thể tìm ở trong nước mà phải tìm ở trong thiên hạ” [Dẫn theo 40,

tr.53]. Đó là con đường ngoại giao mở cửa, thông thương mà Nhật Bản đã

từng làm. Và Nguyễn Trường Tộ đã tiếp thu chính phương thức này từ quốc

gia láng giềng, đất nước có hoàn cảnh lịch sử tương tự Việt Nam cuối thế kỷ

XIX để áp dụng vào nước ta. Nhật Bản đã lựa chọn mở cửa để thông thương,

tạo điều kiện để đất nước phát triển, củng cố, phát triển đất nước để thoát khỏi

ách xâm lược. Và ông cho rằng, nước ta trong bối cảnh hiện tại cũng không

còn con đường nào khác ngoài con đường này. Đây không chỉ là con đường

mà các nước Á Đông lựa chọn mà tất cả các quốc gia tiến bộ khác trên thế

giới đều lựa chọn.

“Đường lối thông thương mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều

tiến hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy, tìm cách thực hành

đường lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không ai nghỉ tay,

cũng vì bỏ đường lối này không còn phương sách nào khác … nhờ đường lối

ấy mà mở mang được phong khí đã mấy ngàn năm ngu muội, thay đổi được

phong tục đã mấy ngàn năm quê mùa... qua con đường ngoại giao, thế giới có

thể hoà hợp nhau, không phân biệt văn minh hay dã man, tất cả đều được

thịnh lợi” [2, tr.408; 409]. Qua việc Nguyễn Trường Tộ lựa chọn con đường

ngoại giao mở cửa này đã phần nào cho thấy được mầm mống của tư tưởng

thiết lập quan hệ đa phương và cùng có lợi về kinh tế, văn hoá trong tư duy

ngoại giao của Nguyễn Trường Tộ.

Những quan niệm trong tư duy ngoại giao của Nguyễn Trường Tộ

được ông đưa ra trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm từ các nước quốc gia đi

50

trước và ông chưa nhận thức được các điều kiện cũng như thực tiễn lịch sử

quyết định khả năng thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các

nước trong khu vực và trên thế giới khi đó, nhưng phải thừa nhận rằng, “về

mặt chiến lược, đường lối ngoại giao đa phương mà Nguyễn Trường Tộ đề

xướng là rất đúng đắn” [40, tr.53].

Nhưng chế độ chính trị nước ta lúc này, cụ thể triều Nguyễn đã không đủ

sáng suốt, đã không đủ mạnh dạn để thoát khỏi lối mòn mà Nho giáo đã định ra.

Triều đình nhà Nguyễn đã từ chối cơ hội để có thể thay đổi, cải thiện một phần

nào đó cục diện khủng hoảng trong đường lối chính trị đang xảy ra. Mặc dù chưa

thể khẳng định những đường lối ngoại giao mà Nguyễn Trường Tộ học hỏi được

tư bên ngoài có thể giúp triều Nguyễn giải quyết khủng hoảng nhưng những

những tư tưởng trong đường lối ngoại giao của Nguyễn Trường Tộ vẫn có

những ý nghĩa nhất định trong bối cảnh nước ta lúc bấy giờ.

“Và cho đến nay, đường lối ngoại giao đa phương, đa chiều trên cơ sở các

bên cùng có lợi mà Nguyễn Trường Tộ đã đề cập tới trong điều trần của ông vẫn

được coi là đường lối ngoại giao thông minh trong quan hệ quốc tế hiện đại, đặc

biệt là trong quan hệ của Việt Nam với các nước hiện nay” [40, tr.53].

Chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng chính trị - xã hội của nho giáo,

quan niệm về xây dựng xã hội hoà hợp của Nguyễn Trường Tộ lấy

chữ hoà làm giá trị trung tâm, lấy sự tự nhận thức của người đứng đầu nhà

nước làm cơ sở cho sự thay đổi hướng tới xã hội lý tưởng. Phương pháp ôn

hoà, cải cách, trí tuệ được ông coi là tối ưu để đạt được các tiến bộ trên con

đường thực hiện một xã hội hoà hợp lý tưởng.

Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ là một sự dung hoà các tư

tưởng chính trị của Nho giáo, Kitô giáo và tư sản của các nước Á - Âu đương

thời mà ông cho là hợp lẽ nhất, hiệu quả nhất. Ông đề cao chế độ quân chủ

51

hiện hành với uy quyền tuyệt đối thuộc về nhà vua dưới sự che chở của Chúa,

nhưng nhà vua cũng không đứng ngoài pháp luật.

Ông viết: “Kẻ làm vua biết rõ cái điều trời phó thác cho mình là nặng

nề, mọi hoạ phúc đều do trách nhiệm ở vua, cho nên tự hạ mình ghép vào

vòng pháp luật” [2, tr.175].

Với những giá trị đó, sức sống của tư tưởng dân sinh và xây dựng xã

hội hài hoà của Nguyễn Trường Tộ là điều không thể phủ nhận trong lịch sử

tư tưởng dân tộc. Những tư tưởng của ông chứa đựng nhiều gợi mở có ý nghĩa

đối với việc xây dựng một đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với

yêu cầu hiện đại của dân tộc.

2.1.2. Tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, nhận thấy được những hạn chế,

khiếm khuyết của hệ tư tưởng chính trị phong kiến tôn quyềncùng với việc

tiếp thu tư tưởng của các nhà canh tân trong và ngoài nước, một số nhà tư

tưởng đầu thế kỷ XX, như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc

Kháng, Nguyễn An Ninh… đã tiếp tục phát triển tư tưởng đó lên trình độ

mới, cao hơn về chất. Các ông đã từ bỏ dần hệ tư tưởng phong kiến, mạnh

dạn đi tìm hệ tư tưởng mới cho dân tộc.

Phan Bội Châu có thể được coi là đại biểu xuất sắc nhất giai đoạn

đầu thế kỷ XX trong việc tìm ra hướng đi mới cho cách mạng Việt Nam

dựa trên những lý luận mới mà ông được tiếp thu, kế thừa để vận dụng

vào con đường cứu nước.

* Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp của Phan Bội Châu

Phan Bội Châu tên cũ là Phan Văn San, hiệu Sào Nam. Ông sinh năm

1867, mất năm 1940. Phan Bội Châu sinh ra trong một gia đình nhà nho

nghèo yêu nước ở một miền quê có truyền thống đấu tranh cách mạng. Vì thế,

52

ngay từ khi còn niên thiếu, Phan Bội Châu đã là người thông thái, ham học,

chịu khó, sớm có tinh thần yêu nước và có chí hướng hoạt động cách mạng.

Lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc của Phan Bội Châu được hun đúc

từ bé qua các trận đánh giả với bạn bè và ngày càng lớn dần lên... Đến năm

Canh Tý (1900), Phan Bội Châu bắt đầu bước vào con đường khoa cử. Ông

đỗ đầu thi hương và sau đó về quê mở trường dạy học và kết giao với

những sĩ phu yêu nước, bàn bạc kế hoạch giúp dân cứu nước. Đây là một

cột mốc quan trọng đánh dấu việc Phan Bội Châu chính thức bước vào

cuộc đời hoạt động cách mạng, chiến đấu cho tự do, độc lập của dân tộc.

Ông không quản ngại khó khăn, vất vả, một mình lặn lội khắp cả nước, vừa

tuyên truyền cổ động lòng yêu nước của nhân dân, vừa kết giao, tập hợp

những người cùng chí hướng để cùng nhau cứu nước, cứu dân.

Trên con đường hoạt động cách mạng của mình, Phan Bội Châu đã

sớm nắm rõ tình hình trong nước và thế giới. Năm 1904, Phan Bội Châu

thành lập Duy Tân Hội với tôn chỉ, mục đích là đánh đuổi ngoại xâm với

phương pháp đấu tranh là bạo động, từ đó khôi phục độc lập dân tộc. Chủ

trương cầu viện Nhật Bản giúp đỡ để đánh đuổi thực dân chính là biện pháp

được Phan Bội Châu và các đồng lựa chọn, vì theo ông, Nhật Bản là nước

đồng chủng (cùng một màu da), đồng văn (đều dùng Hán văn).

Đầu năm 1905, Phan Bội Châu sang Nhật Bản, Trung Quốc rồi sang

Xiêm. Đi qua mỗi quốc gia, ông đều sẵn sang tiếp thu, tận tình học hỏi những

điều mới. Đặc biệt, khi nhà cầm quyền Nhật Bản đề nghị, hỗ trợ Phan Bội

Châu đưa các thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập, ông đã vận động, kêu

gọi các thanh niên nước ta vượt biển Đông du.

Trong khi phong trào Đông du đang phát triển thuận lợi, chính phủ

Pháp - Nhật đã ký Điều ước và tuyên bố chung về “vấn đề kiều dân Nhật

sống ở Đông Dương và những người Đông Dương “thần dân Pháp và được

53

Pháp bảo hộ” sống trên đất Nhật. Sau khi điều ước này được ký kết, Chính

phủ Nhật Bản đã ra lệnh giải tán toàn bộ du học sinh Việt Nam khỏi đất

Nhật, đồng thời trục xuất luôn Phan Bội Châu ra khỏi Nhật Bản. Phan Bội

Châu sau đó buộc phải ẩn náu ở Trung Quốc, sau đó sang Xiêm tiếp tục

hoạt động cách mạng.

Năm 1911, khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc nổ ra và giành

thắng lợi, Phan Bội Châu đã học tập thành quả từ cách mạng Tân Hợi, cải tổ

Duy Tân Hội thành Việt Nam Quang Phục Hội “với tôn chỉ thiết lập một

nước Việt Nam Cộng hòa Dân quốc”. Việc thành lập Việt Nam Quang Phục

Hội với tôn chỉ mới đã đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong đường lối cách

mạng của Phan Bội Châu. Nếu như trước kia Phan Bội Châu vẫn chủ trương

duy trì chế độ quân chủ thì với ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc, thì

nay Phan Bội Châu đã vượt lên một bước bằng việc thành lập một nhà nước

theo hướng “dân quốc”.

Với việc ủng hộ, phát động phong trào đấu tranh bằng phương

phápbạo động nhằm kích động, khích lệ tinh thần chống Pháp của nhân dân

ta, thực dân Pháp đã tuyên án tử hình vắng mặt Phan Bội Châu vào ngày

9/5/1913. Nhưng trước những ảnh hưởng to lớn của ông ở nước ngoài, thực

dân Pháp đã không thể thi hành án. Sau khi ở tù ra, Phan Bội Châu vẫn tiếp

tục hoạt động cách mạng.

Như vậy, qua quá trình hoạt động cách mạng đã chứng tỏ khả năng tập

hợp lực lượng để lãnh đạo phong trào cách mạng của Phan Bội Châu, điều mà

những nho sĩ tiến bộ cùng thời vớiông chưa làm được.

* Nội dung cơ bản tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu

Tư tưởng chính trị - xã hội ở Phan Bội Châu xuất hiện từ khi ông bắt

đầu tham gia cách mạng, trong quá trình hoạt động ở nước ngoài và cuối cùng

được cụ thể hóa ở chính những phong trào do ông lãnh đạo. Quá trình hình

54

thành tư tưởng chính trị - xã hội của ông cũng không thuần nhất mà có sự

chuyển biến giữa các thời kì hoạt động cách mạng.

Tư tưởng của Phan Bội Châu về mục đích chính trị

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị - xã hội Việt Nam

rơi vào khủng hoảng khi các phong trào đấu tranh, trào lưu canh tân lần lượt

thất bại. Phan Bội Châu cùng các nho sĩ tiến bộ đương thời đều “xác định

nhiệm vụ trước mắt là “Liên kết với đảng cũ Cần Vương” nhằm… “mục đích

cốt khôi phục Việt Nam, lập nên một chính phủ độc lập…” [ Dẫn theo 72, tr.

86]. Như vậy, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc trở thành mục tiêu

cho quá trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Mục đích này được

quy định bởi yêu cầu thực tiễn của lịch sử dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là

giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Trở thành hệ quy chiếu cho

toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của ông. Với ông, độc lập dân tộc là

mục đích tối cao và duy nhất.

Để phục vụ cho mục đích giải phóng dân tộc, giành độc lập cho nhân

dân, trong quá trình hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu không ngần ngại

tiếp thu, “tất cả những cách thức, thủ đoạn, đường lối, chiến lược, lực

lượng nào có khả năng thúc đẩy để thực hiện được mục đích” [41, tr.35].

Nhưng nếu những cách thức, thủ đoạn, đường lối, chiến lược đó làm ảnh

hưởng đến lợi ích dân tộc, thể diện dân tộc, ông sẵn sàng từ bỏ. Đây chính

là những nguyên tắc cốt lõi trong chủ nghĩa dân tộc của Phan Bội Châu, thể

hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt của ông. Những nguyên tắc này phần nào

lý giải được nhiệt huyết cách mạng trong con người Phan Bội Châu khi ông

“từ một nhà khoa bảng có thể nhẹ nhàng quẳng gánh công danh, lao vào

con đường đầy chông gai vì sự nghiệp cứu nước” [41, tr. 36].

Quá trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu càng minh chứng rõ

ràng hơn cho những nguyên tắc này của ông. Phan Bội Châu bằng sự nhạy bén

55

chính trị của mình “có thể thay đổi cách thức tổ chức hoạt động cứu nước một

cách nhanh chóng và thức thời từ Đông du cầu viện sang Đông du cầu học; từ tổ

chức Duy tân hội năm 1904 chuyển sang thành lập Việt Nam quang phục hội năm

1912 rồi chuyển thành tổ chức Việt Nam quốc dân đảng năm 1924; từ chủ trương

bạo động chuyển sang tuyên truyền nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, vun

trồng nhân tài, rồi quay lại hình thức đấu tranh bạo động, ám sát, v.v…”[41, tr.36].

Như đã nói ở trên, mục đích chính trị của Phan Bội Châu cũng có sự

chuyển biến, thay đổi theo bối cảnh lịch sử. Thông qua các chuyến đi cầu viện

Nhật Bản, nhận thức được những thành tựu của cuộc canh tân, Phan Bội Châu

nhận thấy rằng, để thực hiện mục đích giải phóng dân tộc, “trước hết cần giải

quyết vần đề nâng cao dân trí, chấn dân khí nhằm tự lực, tự cường. Đến đây,

mục đích cầu viện chuyển sang cầu học, vận động thanh niên sang Nhật Bản

du học để nâng cao dân trí, chấn dân khí nhằm tự lực, tự cường” [72, tr.88].

Xuất phát từ tình hình thực tiễn thế giới và khu vực, đặc biệt là Cách

mạng Tân Hợi (1911), cùng với quá trình hoạt động ở các nước tiến bộ

phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến tư duy chính trị của Phan Bội Châu.

Ông nhận thấy dân chủ, dân quyền và có các tổ chức cách mạng lãnh đạo là

những gì cần có ở cách mạng Việt Nam lúc này. Đây chính là cơ sở tiền đề

cho sự chuyển biến tiếp theo trong mục đích chính trị của ông từ quân chủ lập

hiến sang Dân chủ cộng hòa.

Việt Nam Quang phục hội ra đời (1912), lúc này đây, mục đích chính

trị của Phan Bội Châu đã được cụ thể hóa, phát triển mức cao hơn, đó là

“để giành độc lập dân tộc cách mạng Việt Nam phải xác định đồng thời hai

nhiệm vụ phản đế và phản phong nhằm xây dựng một chế độ Cộng hòa dân

chủ chứ không theo mô hình quân chủ lập hiến như Duy Tân hội hay Tân

Việt Nam” [72, tr. 89].

56

Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), phong trào cách

mạng vô sản phát triển mạnh mẽ ở các nước trên thế giới thì một lần nữa mục

đích chính trị của Phan Bội Châu có sự chuyển biến. Ông đưa ra quan điểm về

“một quốc gia mới”, “chế độ mới”. Mặc dù chưa đề cập đến một cách cụ thể

nhưng “trong tư tưởng của ông, chế ñộ mới là xã hội chủ nghĩa mà ông ñề cập

trong tác phẩm Xã hội chủ nghĩa (năm 1928)” [72, tr.90].

Những thay đổi trong tư duy chính trị và hành động trên của Phan Bội

Châu hoàn toàn tuân thủ tinh thần tuỳ thời, bám sát vào phân tích tình hình

thực tế quần chúng cách mạng trong nước và những biến động trên thế giới.

Những sự chuyển biến đó trong mục đích chính trị của Phan Bội Châu đều

hướng đến độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân thoát khỏi ách áp bức và xây

dựng nên một xã hội mới. Để đạt được mục đích đó, Phan Bội Châu đã lựa

chọn con đường cách mạng theo sự quy định của mục đích chính trị đó.

Quan điểm của Phan Bội Châuđường lối và phương pháp cách mạng

Những quan điểm về đường lối và phương pháp cách mạng trong tư

tưởng chính trị của Phan Bội Châu chính là sự cụ thể hóa mục đích chính trị

trong tư tưởng Phan Bội Châu, đồng thời trở thành công cụ để thực hiện mục

đích chính trị đó.

Trước khi được tiếp xúc với những Tân thư, Tân văn vào đầu thế kỷ

XX, hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu nói riêng và các nho sĩ duy tân,

tiến bộ vẫn chưa có một con đường cách mạng mới dẫn đường, thay thế cho

phong trào Cần Vương đã thất bại. Tiếp thu trào lưu tư tưởng canh tân cuối

thế kỷ XIX của các nhà canh tân như Nguyễn Trưởng Tộ, Đặng Huy Trứ…

cùng với những Tân thư, Tân văn, Phan Bội Châu đã dần chuyển hướng sang

con đường các cách mạng dân chủ. Nhưng đường lối cách mạng dân chủ của

Phan Bội Châu cũng trải qua một quá trình với nhiều sự chuyển biến, thay đổi

về mặt nhận thức để cuối cùng đi theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

57

Quá trình hoạt đông ở Nhật Bản, tiếp thu những tư tưởng canh tân cùng

với những tư tưởng tiến bộ phương Tây đã dần hình thành tư tưởng dân chủ

trong tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu. Nhưng ông vẫn chưa chính thức

từ bỏ con đường quân chủ. Phải đến khi hoạt động chính ở Trung Quốc, tiếp

xúc với Lương Khải Siêu và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là Cách mạng Tân hợi

(1911), Phan Bội Châu mới hoàn toàn ngả theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

Quá trình đi đến con đường cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản của

Phan Bội Châu trải qua nhiều sự lựa chọn bởi trong những năm đầu thế kỷ

XX, học thuyết dân chủ vẫn rất mới mẻ đối với các nho sĩ duy tân, mặt khác,

tình hình thực tiễn lịch sử nước ta chưa đủ điều kiện để hoàn toàn đi theo con

đường dân chủ tư sản bởi các yếu tố như: trình độ dân trí của nhân dân ta

chưa thể nhận thức được những tư tưởng tiến bộ đó; cùng với đó là ngọn cờ

dân chủ phần nào đó vẫn còn có tác dụng đối với cách mạng.

Như vậy, đường lối cách mạng từ quân chủ lập hiến sang dân chủ của Phan

Bội Châu đều phục vụ cho mục đích chính trị của cách mạng giai đoạn này.

Tương ứng với đường lối cách mạng đó, Phan Bội Châu đã lựa chọn

phương pháp cách mạng phù hợp để đạt được mục đích giải phóng dân tộc,

giành lại độc lập cho nhân dân. Phương pháp cách mạng mà Phan Bội Châu

lựa chọn cũng có sự chuyển biến, thay đổi giữa các thời kỳ chuyển biến trong

việc lựa chọn đường lối cách mạng của ông.

Giai đoạn đầu thế kỷ XX, ông lựa chọn phương pháp bạo động.

Phương pháp bạo động trong quan điểm của Phan Bội Châu “sử dụng

những hành động cách mạng được trang bị vũ trang của những lực lượng

cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc” [72,

tr.99]. Trước khi Duy tân hội ra đời, phương pháp bạo động của Phan Bội

Châu mới chỉ dừng lại ở việc những nhóm, những tổ chức nhỏ lẻ với hoạt

58

động vũ trang non yếu, chứ chưa phải tổ chức được một lực lượng bạo lực,

vũ trang theo cách mạng đúng nghĩa.

Sau khi ra nước ngoài hoạt động và tiếp xúc với nhiều phong trào cách

mạng dân chủ trên thế giới cùng với tiếp thu những tư tưởng cách mạng tiến

bộ thì tư tưởng về phương pháp cách mạng của Phan Bội Châu có sự thay đổi.

Ông nhận thấy “cần phải kết hợp cả phương pháp hòa bình và bạo động”

[Dẫn theo 72, tr.100]. Chính tư tưởng này đã dẫn đến sự hình thành hai phái

trong Duy tân hội: phái hòa bình thực hiện các phong trào diễn thuyết, tuyên

truyền những tư tưởng mới, tiến bộ trên thế giới; phái bạo động tiến hành các

hoạt động vũ trang bạo động.

Sau Cách mạng Tân hợi (1911), phương pháp cách mạng của Phan Bội

Châu lại có sự thay đổi theo hướng tích cực hơn, chuyển sang bạo động có tổ

chức, có cương lĩnh và chương trình hành động cụ thể dưới sự dẫn dắt của

một tổ chức quân sự. Càng về sau, những tư tưởng về bạo lực cách mạng của

Phan Bội Châu càng trở nên có hệ thống với những vấn đề lớn: “một là phải

tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang, hai là chuẩn bị mua sắm vũ khí, ba là

công tác binh vận” [72. tr.101].

Tuy vậy, trong tư tưởng về phương pháp bạo động cách mạng của

Phan Bội Châu có lúc rơi vào cực đoan, ông chưa chú trọng đến sự kết

hợp với phương pháp đấu tranh hòa bình. Như vậy, mỗi giai đoạn lịch sử,

Phan Bội Châu lựa chọn những phương pháp cách mạng khác nhau để phù

hợp với đường lối cách mạng ở thời điểm đó. Nhưng dù đường lối cách

mạng, phương pháp cách mạng biến đổi, chuyển biến như thế nào trong

từng thời kỳ đều phục vụ một mục đích duy nhất: giải phóng dân tộc,

giành độc lập cho nhân dân và xây dựng xã hội mới.

Quan niệm của Phan Bội Châu về mô hình nhà nước

59

Mục đích cuối cùng trong tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu chính

là việc xây dựng một nước Việt Nam mới. Trong đó, mô hình nước Việt Nam

mới mà ông hướng đến đã được cụ thể hoá trong tác phẩm "Tân Việt Nam".

Theo đó, mô hình nước Việt Nam mới của ông là mô hình một nhà

nước quân chủ lập hiến với lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của giai cấp tư

sản thời đang lên ở châu Âu [Dẫn theo 41, tr.46]. Trước đó, chịu ảnh

hưởng của những tư tưởng canh tân, cải cách của các nhà tư tưởng cuối thế

kỷ XIX, Phan Bội Châu vẫn ủng hộ chế độ quân chủ chuyên chế. Nhưng

khi “ánh sáng duy tân Nhật bản chiếu đến” ông nhận thấy rằng, “Duy Tân

hội chính là biểu hiện cụ thể nhất cho quá trình chuyển hướng từ chế độ

quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến mà ông hướng đến.

Với thể chế quân chủ lập hiến, nhân dân có quyền đứng lên đấu tranh, chủ

quyền phải thuộc về nhân dân” [Dẫn theo 72].

Ông viết: “Bao nhiêu việc đều do công chúng quyết định. Thượng

nghị viện phải đợi Trung nghị viện đồng ý, Trung nghị viện phải đợi Hạ

nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số công chúng

có quyền tài phán các việc của Trung nghị viện và Thượng nghị viện. Phàm

nhân dân nước ta không cứ là sang hèn, giầu nghèo, lớn bé đều có quyền

bỏ phiếu bầu cử” [4, tr.255; 256].

Bằng sự nhạy bén trong chính trị và kinh nghiệm được rút ra từ quá

trình hoạt động cách mạng cùng với việc thấu hiểu cuộc sống khốn cùng mà

nhân dân lao động đang phải gánh chịu, Phan Bội Châu đã biết vượt lên để

hướng tới một thể chế chính trị mới – quân chủ lập hiến. Với thể chế quân chủ

lập hiến, nhân dân có quyền đứng lên đấu tranh, chủ quyền phải thuộc về

nhân dân. Phan Bội Châu viết: “Vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa

đô thành nước ta đặt một toà Nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do

công chúng quyết định… Phàm nhân dân nước ta không cứ là sang hèn, giàu

60

nghèo, lớn bé đều có quyền bầu cử. Là vua nên để hay nên truất; dưới là quan

nên thăng hay nên giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả” [4, tr.286].

Năm 1912, Phan Bội Châu giải tán hội Duy Tân và thành lập Việt

Nam Quang phục hội. Việt Nam Quang phục hội ra đời đánh dấu sự tăng

tiến trong tư tưởng của Phan Bội Châu trên con đường dân chủ tư sản - từ

chế độ quân chủ lập hiến đến chế độ dân chủ tư sản. Tôn chỉ của Việt Nam

Quang phục hội khẳng định: “Chính thể dân chủ cộng hoà là một chính thể

rất tốt đẹp. Quang phục quân trong khi vừa đánh đuổi giặc Pháp, đồng thời

cũng vừa xây dựng một nước cộng hoà dân chủ. Quyền bính của nước là

của chung toàn dân do nhân dân quyết định. Những dấu vết độc hại của

chính thể chuyên chế không còn nữa” [4, tr.135].

Nền cộng hoà dân chủ là mục tiêu hướng tới trong cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc. Tư tưởng đó đã phần nào phản ánh được tiến trình

phát triển của lịch sử dân tộc. Và đó cũng chính là cống hiến của Phan

Bội Châu với tư cách nhà tư tưởng chính trị. Sự ra đời của Việt Nam

Quang phục hội là sự thể hiện Phan Bội Châu đã dứt khoát từ bỏ quân chủ

để đi theo con đường cách mạng dân chủ.

Để có thể xây dựng được mô hình nước Việt Nam cộng hòa, Phan

Bội Châu cho rằng, cần phải dùng đến bạo lực cách mạng. Ông cho rằng,

thực dân Pháp là kẻ thù không đội trời chung với dân tộc ta; chúng không

cho dân tộc ta phát triển kinh tế, mở mang văn hóa, giáo dục, đàn áp dã

man mọi sự phản kháng, kể cả phản kháng hòa bình nhất. Cho nên không

thể sử dụng con đường hòa bình để giành độc lập dân tộc, mà chỉ có sự lựa

chọn duy nhất là phương pháp bạo động.

Ông viết: “Vẫn biết bạo động với tự sát đều là việc làm của những kẻ

kiến thức hẹp hòi, không biết lo xa, nhưng nếu sự thể buộc tự sát, thà rằng

xoay ra bạo động mà chết còn hơn. Vì cứ bạo động may ra còn trông được có

61

chỗ thành công trong muôn một. Huống gì tôi đã suy đi tính lại, lúc nầy bỏ sự

bạo động ra không còn có việc gì đáng làm hơn nữa” [3, tr.201].

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, vấn đề giành độc lập dân tộc là

nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc ta. Vì vậy, có thể nói, tuy bằng nhiều con

đường cứu nước khác nhau, song các nhà tư tưởng đều hướng đến độc lập dân

tộc. Tư tưởng chính trị như vậy về cơ bản là đúng.

Quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền

Bên cạnh tư tưởng về mục đích chính trị, đường lối và phương pháp

cách mạng mà Phan Bội Châu đã đúc rút được từ quá trình hoạt động cách

mạng, những quan điểm về dân quyền cũng có ý nghĩa to lớn trong tiến trình

hoạt động cách mạng của ông.

Tư tưởng dân quyền ở Phan Bội Châu được hình thành từ những ảnh

hưởng của các trào lưu tư tưởng phương Tây. Quan niệm này chứa đựng

một nội dung mới mẻ đối với các sĩ phu yêu nước tiến bộ lúc bấy giờ, đồng

thời có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng, thể hiện tinh

ý chí, tinh thần cứu nước, giải phóng dân tộc để đem lại tự do, hạnh phúc

cho dân, đem lại quyền lực cho dân, để cho người dân trở thành chủ thể của

các quyền lực trong xã hội.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta buộc phải phục tùng

vô điều kiện những chính sách, yêu cầu của giai cấp thống trị. Họ bị tước bỏ tất

cả mọi quyền bình đẳng, bị chèn ép bởi hai thế lực thống trị: thực dân Pháp và

chính quyền tay sai. Trước những bất công, áp bức, thống trị đó, ông đã mạnh

mẽ lên án sự bóc lột, thống trị của chính quyền thực dân khiến dân ta không có

quyền: “tu chỉnh về quân chính, mở rộng dân quyền” [Dẫn theo 72, tr.127].

Mở rộng ra, Phan Bội Châu còn cho rằng: “Dân ta là chủ nước non”

[Dẫn theo 72, tr.127] và “Quyền bính của nước là của chung toàn dân do nhân

dân quyết định” [Dẫn theo 72, tr.127]. Dân quyền lúc này theo quan điểm của

62

Phan Bội Châu chính lànhân dân mới là người làm chủ đất nước, mới là chủ

thể chính trị, Chính vì dân là chủ thể của đất nước, là người làm chủ đất nước

nên nhân dân có tất có mọi quyền khác: quyền làm người, quyền hưởng tự do,

bình đẳng và bình quyền nam nữ.

Theo Phan Bội Châu, nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc người dân

không có quyền bắt nguồn từ sự bảo thủ, lạc hậu của chế độ thuộc địa nửa

phong kiến đã “đầu độc và giết chết” dân quyền trong dân tộc Việt Nam,

người dân đã sống một cuộc sống không có tự do. Khi dân không có quyền thì

cũng có nghĩa là, họ chỉ là một thứ công cụ để phục tùng kẻ mạnh. Ông viết:

“Cái nọc độc chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn năm …

Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại, không biết giành dân quyền, giữ quốc

mệnh…” [Dẫn theo 30, tr.33].

Trong khi đó, theo yêu cầu mục đích chính trị đề ra, giải phóng dân tộc

thì quyền lực phải thuộc về nhân dân, tức là người dân phải có quyền. Dân

quyền vừa là mục đích hướng tới, vừa là điều kiện để huy động sức mạnh của

toàn dân để thực hiện mục đích giải phóng dân tộc.

Quá trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu xuyên suốt chính là

quá trình đấu tranh để giải phóng dân tộc, để giải phóng con người thoát khỏi sự

áp bức để đem lại quyền cho người dân. Theo Phan Bội Châu, dân quyền chỉ

được thực hiện khi con người được bảo đảm quyền làm người hay còn gọi là

nhân quyền và quyền tự do. Dân quyền hiểu theo Phan Bội Châu chính là quyền

làm người. “Rằng quyền làm người tức là đã một con người, tất có quyền được

làm con người mà không phải là làm trâu ngựa” [Dẫn theo 72, tr.102].

Theo cách lập luận trên của Phan Bội Châu, có thể hiểu rằng, con người

trong xã hội có quyền đó là lẽ tất yếu, đã là con người dù nam hay nữ đều có

quyền làm người, là người tất phải có quyền: “Mọi thứ dân quyền đều được

bình đẳng” [Dẫn theo 30, tr.33]. Trong số những quyền của con người, quyền

63

tự do được Phan Bội Châu đánh là quan trọng nhất, trong đó tự do chính trị

“là điều kiện đảm bảo cho các dân tộc tiến bộ” [Dẫn theo 72, tr.128].

Theo Phan Bội Châu, dân quyền không thể tồn tại biệt lập với quốc

quyền mà trái lại, giữa chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Theo

ông, quốc quyền thực chất là quyền lực của dân; dân tạo nên quốc quyền. Bởi

vậy, Phan Bội Châu cho rằng: “Chính phủ phải dựa vào nhân dân để mà được

yên, nhân dân cũng nhờ vào chính phủ mà có giá trị… Còn cái căn bản, cái

then chốt thì toàn là ở dân” [Dẫn theo 31, tr.35].

Như vậy, dân quyền là cái cốt lõi, là cái cơ sở của quốc quyền; quyền

lực của nhà nước phải là quyền lực của dân,.. ngược lại, dân phải có nghĩa

vụ kiểm tra, giám sát nhà nước. “Xét về thực chất, dân quyền là cơ sở, nền

tảng của quốc quyền, còn nhà nước không có quyền mà chỉ là thực hiện sự

ủy quyền của dân” [31, tr.36].

Theo Phan Bội Châu, “dân quyền trở thành tiêu chí quan trọng nhất để

xem xét nước còn hay mất, nước mạnh hay yếu, giá trị của người dân cao hay

thấp, người dân còn hay mất” [30, tr.34]. “… Được gọi là một nước thì phải

có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền…Trong ba cái đó thì nhân dân là quan

trọng nhất…nhân dân còn thì nước còn; nhân dân mất thì nước mất…Dân

quyền mà được đề cao thì nhân dân được tôn trọng, mà nước cũng mạnh. Dân

quyền bị xem nhẹ, thì dân bị coi khinh, mà nước yếu. Dân quyền hoàn toàn

mất thì dân mất, mà nước cũng mất” [Dẫn theo 30, tr.35].

Như vậy, Phan Bội Châu đã xác định rõ vai trò và vị trí của dân quyền

đối với vận mệnh của đất nước. Đó là điều mà hầu hết các nhà Nho yêu nước

cùng thời với Phan Bội Châu chưa thể nhận thức được.

Những quan niệm về dân quyền trong tư tưởng chính trị - xã hội của

Phan Bội Châu chứa đựng những nội dung hết sức mới mẻ. Những quan niệm

đó về dân quyền vừa thể hiện được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức

64

chính trị của Phan Bội Châu, vừa góp phần làm phong phú thêm tư tưởng về

dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.

Như vậy, tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu được hình thành

từ rất sớm, trải qua nhiều quá trình chuyển biến để phù hợp với yêu cầu của lịch

sử. Những tư tưởng về độc lập dân tộc, dân quyền có ý nghĩa vô cùng to lớn

trong tiến trình lịch sử Việt Nam nói chung mà lịch sử tư tưởng nói chung.

2.1.3. Tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Châu Trinh

* Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp của Phan Châu Trinh

Trong những năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh Phan Bội Châu thì Phan

Châu Trinh được xem là một trong những nhà tư tưởng tiêu biểu đầu thế kỷ

XX. Tư tưởng dân chủ của ông được xem là điểm sáng trong lịch sử tư tưởng

Việt Nam giai đoạn này. Đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm đầu

thế kỷ XX, tư tưởng về dân chủ của ông có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Phan Châu Trinh, hiệu Tây Hồ, Huy Mã, tự là Tử Cán, sinh năm

1872, quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ

ông từng tham gia phong trào Cần Vương, chính vì thế tuổi thơ ông lớn lên

cùng với phong trào Cần Vương, chứng kiến sự đi xuống và thất bại của

con đường vũ trang bạo động kiểu cũ. Ngay từ bé, ông nổi tiếng học giỏi.

Con đường thi cử đều đỗ đạt, sau đó ông được bổ nhiệm một chức quan

trong triều Nguyễn. Nhưng ông chỉ làm một thời gian sau đó từ quan và

bước vào hoạt động cách mạng.

Ông kết giao với nhiều sỹ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng,

Phan Bội Châu… Năm 1906, sau khi gặp gỡ Phan Bội Châu, hai ông đã

cùng nhau sang Nhật để tìm hiểu về Duy tân. Sau quá trình học hỏi ở Nhật,

ông trở về Việt Nam, cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp bắt đầu

công cuộc vận động Duy Tân ở các tỉnh Trung kì. Năm 1908, ông tổ chức

phong trào chống thuế ở Trung kì nhưng bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội.

65

Ông và một vài thành viên khác bị đày ở Côn Đảo. Nhưng với những ảnh

hưởng của ông ở trong nước và sự vận động của Hội nhân quyền ở Pháp,

ông được trả tự do. Sau đó ông qua Pháp hoạt động cách mạng nhưng

không thu được nhiều kết quả, ông lại về nước. Những năm sau này, sức

khỏe ông ngày càng suy yếu. Đến năm 1926, ông qua đời tại Sài Gòn.

Trong quá trình hoạt động của mình, Phan Châu Trinh đã cống hiến hết

cuộc đời cho sự nghiệp vận động duy tân cứu nước.

Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX nổi lên mâu thuẫn cơ bản giữa

toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Nhiệm vụ hàng đầu lúc này

chính là giải quyết mâu thuẫn đó nhưng lại đặt ra yêu cầu về phương pháp

cách mạng mới. Nếu như chỉ đấu tranh bằng con đường vũ trang bạo động

như trước sẽ không thể giải quyết triệt để. Chính vì vậy “phải có sự kết hợp

nhiệm vụ giải phóng dân tộc với việc đòi quyền dân sinh, dân chủ cho nhân

nhân” [Dẫn theo 72], giúp nhân dân thoái khỏi ách phong kiến hà khắc. Chính

vì vậy, những năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh những phong trào theo khuynh

hướng bạo động vũ trang đã xuất hiện phong trào Duy tân, khuyến khích đổi

mới và cải cách như: phong trào Đông du do Phan Bội châu đứng đầu, phong

trào duy tân ở các tỉnh miền Trung do Phan Châu Trinh đứng đầu, phong trào

Đông kinh nghĩa thục ở Bắc kì.

Sự xuất hiện của hai khuynh hướng đấu tranh bạo động và cải cách

đó trong tiến trình cách mạng Việt Nam giai đoạn này là tất yếu. Phan

Châu Trinh là đại diện tiêu biểu nhất cho xu hướng cải cách đó. Ông nhận

thức rõ được những yêu cầu bức thiết cũng như mục tiêu cuối cùng của con

đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân quyền cho nhân dân. Ông đã

xác lập mục tiêu dân chủ như một định hướng cho toàn bộ phong trào đấu

tranh lúc này. Đây cũng chính là nội dung cơ bản nhất trong toàn bộ tư

tưởng chính trị - xã hội của Phan Châu Trinh.

66

* Nội dung tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Châu Trinh

Trong tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Châu Trinh, tư tưởng dân

chủ được coi là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt mọi quá trình hoạt động cách

mạng của ông. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh xuất phát từ chính yêu

cầu, điều kiện thực tiễn Việt Nam đầu thế kỷ XX, việc nhận thức của ông về

dân chủ có sự phát triển phù hợp với tiến trình vận động của dân tộc đầu thế

kỷ XX. Tiến trình thống nhất trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh

trải qua hai giai đoạn trước năm 1911 và sau năm 1911.

Mục đích chính trị trong tư tưởng Phan Châu Trinh

Như đã nói ở trên, trong tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Châu

Trinh, tư tưởng dân chủ là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động cách

mạng của ông. Chính vì vậy, mọi mục đích chính trị trong toàn bộ tư tưởng

chính trị của ông đều phục vụ mục tiêu dân chủ.

Cũng giống như Phan Bội Châu, mục đích chính trị của Phan Châu

Trinh trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của ông có sự chuyển

biến qua từng giai đoạn.

Giai đoạn trước 1911, không chỉ Phan Châu Trinh mà hầu hết các đồng

chí của ông đều xác định nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc, giành độc

lập dân tộc. Nhưng quá trình hoạt động cách mạng ở Nhật, tiếp xúc với

những tư tưởng tiển bộ của thế giới cùng những nhà cách mạng như Lương

Khải Siêu, các chính trị gia Nhật Bản… đã dần làm thay đổi mục đích chính

trị ban đầu theo chiều hướng bổ sung, phát triển mục đích đó.

Theo đó, Phan Châu Trinh nhận thấy nước ta cần có sự thay đổi theo

lối của các nước văn minh trên thế giới lúc bấy giờ, tổ chức các hội thương

để giành lại quyền lợi. Cũng trong thời gian này, do được tiếp xúc với các tư

tưởng tiến bộ phương Tây, Phan Châu Trinh nhận thấy nhân dân trong nước

chưa ý thức được về quyền lợi của mình, ông chủ trương thức tỉnh nhân dân

67

để hiểu quyền của mình. Ông viết: “bất tất nói chuyện bài Pháp làm gì, chỉ

nên xướng dân quyền. Dân đã biết có quyền, thì việc khác có thể tình làm

được” [Dẫn theo 72, tr.94]. Ông cho rằng, nên đề xướng và chú trọng dân

quyền. Nhưng “nếu không đập tan được nền quân chủ thì dù khôi phục được

nước thì cũng không phải hạnh phúc cho dân” [Dẫn theo 36, tr.33]. Đây

chính là chỗ ông nhận thấy được mối liên hệ mật thiết giữa dân chủ với giải

phóng dân tộc, nhưng do hạn chế về mặt tư tưởng, Phan Châu Trinh đã

không thế kết hợp hai nhiệm vụ đó với nhau để tạo nên một lực lượng cách

mạng hùng hậu. Ông dồn lực lượng vào nhiệm vụ trước mắt là thực hiện dân

chủ. Cũng giống như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhận ra

thậm chí sớm hơn tư tưởng về dân quyền, về nghĩa vụ của công dân, về sự

bình đẳng của công dân trong xã hội.

Với những nhận định này của Phan Châu Trinh, sau này chính Phan

Bội Châu đã nhận xét: “Phan Châu Trinh là người khai sinh, “khêu đèn” cho

phong trào dân chủ” [72, tr.94].

Như vậy, lúc này đây, mục đích chính trị của Phan Châu Trinh chính

không chỉ dừng lại ở việc giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc mà ông

đã suy nghĩ sâu xa hơn đến việc dành dân quyền về cho nhân dân. Đây đồng thời

cũng là bước chuyển trong đường lối cách mạng của Phan Châu Trinh.

Đường lối và phương pháp cách mạng

So với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh xác định đường lối cách

mạng của mình từ rất sớm. Ngay khi Phan Bội Châu còn lưu luyến với

con đường quân chủ, Phan Châu Trinh đã xác định con đường cách mạng

theo dân chủ tư sản. Năm 1906, ông nói với Phan Bội Châu rằng: “Không

thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ. Thế mà

bác còn dựng cờ Quân chủ lên hay sao” [Dẫn theo 72]. Như vậy, ngay từ

68

rất sớm, Phan Châu Trinh đã xác định, lựa chọn con đường dân chủ tư sản

để thực hiện mục đích dân chủ của mình.

Cũng từ sự khác nhau trong lựa chọn đường lối cách mạng dẫn đến việc

lựa chọn phương pháp cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh có

sự khác nhau. Phan Châu Trinh đã lựa chọn phương hóa hòa bình để tiến hành

những hoạt động cách mạng của mình.

Phan châu Trinh lựa chọn phương pháp này xuất phát từ việc nhận thấy

nội lực của dân tộc còn yếu kém, không thể đủ sức để chống lại sự đàn áp của

thực dân, “không có chỗ nương thân, không có khí giới mà dung… lại còn

chống cự với ai được nữa” [Dẫn theo 72, tr.104]. Chính vì lý do đó, ông cho

rằng phương pháp bạo động khôngphù hợp với hoàn cảnh nước ta lúc này,

ông kịch liệt phản đối phương pháp này: “bạo động ắt thất bại và ắt chết, …

Không bạo động, bạo động tất chết” [Dẫn theo 72, tr.103], bạo động chỉ càng

khiến đất nước rơi vào khủng hoảng và bạo động trong bối cảnh này là không

hợp với thời thế.

Để phản đổi phương pháp bạo động, ông ra sức kêu gọi nhân dân đi

theo phương pháp đấu tranh hòa bình, đấu tranh hợp pháp, công khai đòi thực

dân Pháp thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, tự do. Phan Châu Trinh Đã

cụ thể hóa những phương pháp đó thông qua các phong trào cách mạng mà

ông làm chủ như Phong trào Duy tân (1904) hoặc thông qua những chính sách

cải cách mà ông đề nghị thực dân Pháp tiến hành.

Trong tư tưởng về phương pháp cách mạng, Phan Châu Trinh chủ

trương đấu tranh hòa bình, nhưng đến cuối đời, ông cũng đã chuyển sang

bạo động cách mạng.

Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng, quan điểm về

phươngpháp cách mạng của Phan Châu Trinh có quá trình vận động của

nó, từ phát động Duy Tân đến đòi hỏi thực dân cải cách chính sách cai trị,

69

rồi đến phêphán bạo động cách mạng và cuối đời ông nhận thấy sự cần

thiết của bạo động cách mạng.

Một số nội dung trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh

Như đã nói ở trên, tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được chia

làm hai giai đoạn: trước 1911 và sau 1911. Giai đoạn phát triển sau là sự nối

tiếp, phát triển thêm những nội dung mới trong tư tưởng về dân chủ của ông.

Giai đoạn trước 1991

Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh giai đoạn này được thể hiện

thông qua các tác phẩm “Thư gửi Toàn quyền Beau”, “Tỉnh quốc hồn ca I”…

với những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, ông lên án sự độc ác của chế độ chuyên chế thực dân

phong kiến đương thời. Ông cho rằng, triều đình nhà Nguyễn phải chịu

trách nhiệm trước thực trạng khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu của xã hội

và cuộc sống bần cùng của người dân.

Thứ hai, ông lên án chính sách bóc lột, thuế khóa nặng nề của thực

dân Pháp, những chính sách này đã hút cạn máu của người dân, khiến họ

rơi vào đường cùng. Ông dùng chính khẩu hiệu “Tự do – Bình đằng – Bác

ái” mà cách mạng Tư sản pháp đã làm được để vạch trần tội ác của thực

dân Pháp trên đất an nam. Thực dân Pháp đã đi ngược lại với nguyên tắc lý

tưởng nhân đạo của cha ông họ.

Thứ ba, ông tổ chức phong trào chống lại chính sách bóc lột của chính

quyền thực dân dưới ánh sáng của tư tưởng dân chủ tư sản. Đây được coi là

đóng góp mới của Phan Châu Trinh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Chưa dừng lại ở đó, ông truyền bá về ý chí tự cường, tự lập, tự quản

đến với người dân, nhưng cũng không quên phát huy những tư tưởng dân chủ

truyền thống của dân tộc, đặc biệt là văn hóa làng xã. Một trong những tư

tưởng dân chủ truyền thống mà Phan Châu Trinh đã nhận thấy và đề cao

70

chính là tư tưởng đề cao vai trò của người dân, nâng cao hơn đó chính là tư

tưởng về quyền và nghĩa vụ của công dân.

Ông đề cao tư tưởng bình quyền của người dân trước pháp luật, ông đòi

thực dân Pháp thực thi nguyên tắc “Tự do – Bình đẳng” ở Viêt Nam. Yêu cầu

này được ông và các đồng chí của mình đưa ra trong bối cảnh nước ta là quốc

gia thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp tư sản Việt Nam chỉ vừa mới hình

thành. Thế hệ nho sĩ duy tân như Phan Châu Trinh đã làm thay nhiệm vụ đó

của giai cấp tư sản, tiến hành vận động cách mạng dân chủ tư sản, đồng thời

giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Khi bàn về làm như thế nào để có được dân chủ, ông cho rằng, trước

hết cần giáo dục nhân dân để họ có sự thay đổi về nhận thức về vai trò, vị trí

của mình, quan trọng nhất là “đồng tâm nhất trí”, “kết đoàn hợp xã” … đấu

tranh, yêu cầu nhà cầm quyền thực hiện cải cách. Nhưng điều này là bất khả

thi, là điều “không tưởng” khi mà các phong trào đều thất bại, thực dân Pháp

càng tăng cường chính sách khai thác, đời sống nhân dân càng khổ cực.

Về nội dung các quyền tự do, tự chủ của người dân được ông cụ thể

hóa. Đó là các quyền tự do trong mọi lĩnh vực trong đời sống như kinh tế:

tự do làm ăn, tự do kinh doanh, buôn bán… Ngoài ra, còn có các quyền tự

do về học tập, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, tự do ngôn luận. Cùng với

đó, nhà nước phải thay đổi những chính sách tuyển chọn người có tài để

làm việc trong bộ máy nhà nước. Các quyền tự do, dân chủ về chính trị -

kinh tế - văn hóa cho người dân thuộc địa.

Nhìn chung trong thời kỳ vận động Duy tân, Phan Châu Trinh tập trung

vào việc tuyền truyền vận động nhân dân hãy “nhanh chóng tự đổi mới, tự

nhận thức, tự thay đổi mới có tư cách quốc dân tự chủ” [36, tr.34].

Giai đoạn sau 1911

71

Ông tiếp tục phát triển các nội dung tư tưởng dân chủ trong giai đoạn

trước. Trong giai đoạn này, Phan Châu Trinh hoạt động ở nước ngoài là

chính, cụ thể tại Pháp. Tại đây, ông có điều kiện để học hỏi thêm những tư

tưởng của các nhà Khai sáng. Ông dùng chính những tư tưởng đó để làm vũ

khí đấu tranh, kết án chủ nghĩa thực dân đã đi ngược lại những lý tưởng tự do,

dân chủ, đàn áp dã man tự do của Đông Dương.

Qua các tác phẩm “Tỉnh Quốc hồn ca II”, “Thư gửi Hoàng đế Khải

Định năm 1922” …những nội dung về dân chủ được ông tiếp tục phát triển

so với giai đoạn trước.

Phan Châu Trinh đã nhìn thấy bản chất độc ác, trì trệ, bảo thủ của chế

độ quân chủ, từ đây ông chính thức đoạn tuyệt với mô hình nhà nước này.

Ông cho rằng, nền quân chủ đã cản trở tiến trình lịch sử xã hội Việt Nam.

Những chính sách bảo thủ, lạc hậu, bo bo giữ lợi ích cho tập đoàn phong kiến

đã khiến ông nhận thấy bản chất của chế độ quân chủ. Ông trực diện tuyên

chiến với vua quan triều Nguyễn, “thề đem tính mạng của mình cùng với

nhân dân “quyết một phen” với chế độ quân chủ” [36, tr.35]. Ông viết bức thư

hạ bệ uy nghiêm của vua Khải Định, đòi phá bỏ chế độ tôn vua kế vị đã tồn

tại hàng ngàn năm.

Với những hành động đó, Phan Châu Trinh đã phủ định hoàn toàn chế

độ quân chủ. Đồng thời ông công khai tuyên bố, dân chủ mới là ưu việt, dân

chủ mới là tiến bộ. Ông kêu gọi toàn thể nhân dân An Nam vùng lên đấu

tranh, không thể sống mãi dưới nền quân chủ dã man, bảo thủ, lạc hậu. Ông

yêu cầu nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương thực hiện chế độ dân chủ theo

chính quốc, thi hành tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.

Phan Châu Trinh đưa ra ba điều kiện để đi tới nền dân chủ ở Việt Nam:

Thứ nhất, mỗi người đều phải học hỏi rèn luyện để có đủ trình độ nhận

thức, phẩm chất tư cách và năng lực của người công dân tự chủ, đồng thời

72

phải biết kế thừa phát huy các giá trị dân chủ truyền thống. Theo Phan Châu

Trinh, một nền dân chủ quốc gia được tạo nên từ các cá nhân trong xã hội.

Nhưng không phải ai cũng đủ trình độ để đóng góp và nền dân chủ chung đó,

mà mỗi người phải không ngừng giáo dục.

Thứ hai, nhà nước phải tổ chức theo chế độ cộng hòa dân chủ, tam

quyền phân lập. Ông yêu cầu chính quyền thực dân cai trị ở Đông Dương

thiết lập chế độ dân chủ tại các nước thuộc địa của chính quốc. Chính vì

nằm dưới “chế độ bảo hộ” của chính quốc mà các quốc gia Đông Dương

cũng cần có quyền dân chủ.

Thứ ba, mọi thành viên trong xã hội, dù là người đứng đầu nhà nước

đều phải tuân thủ luật pháp, chịu sự điều chỉnh của luật pháp, luật pháp

nghiêm trị mọi hành vi vi phạm.

Phan Châu Trinh cho rằng, trong xã hội quân chủ, tất cả mọi quyền

hành đều nằm trong tay một người, nhân dân trong xã hội không có bất cứ

quyền hành gì. Còn trong xã hội dân chủ, mọi người, kể cả người đứng đầu

nhà nước đều chịu sự quy định, ràng buộc của pháp luật, “rõ ràng không khác

gì đường vạch sẵn, cứ đi trong đường ấy mà đi tự do ,… chỉ trừ xâm lấn đến

người khác thì không được, vì đối với pháp luật, mọi người đều bình đẳng…”

[ 36, tr.36].

Ông chủ trương kêu gọi nhân dân, nhất là tầng lớp trí thức trẻ hãy nhận

thức, phát huy những giá trị dân chủ truyền thống. Đây chính là điểm khác

biệt giữa ông và các nhà Khai sáng. Ý tưởng này có ý nghĩa về mặt thời đại

sâu sắc, cụ thể trong bối cảnh của công cuộc đổi mới hiện nay.

Ngoài những quan điểm về dân chủ, tư tưởng chính trị - xã hội của

Phan Châu Trinh còn được thể hiện thông qua những quan điểm của ông về

giáo dục. Tư tưởng về giáo dục thực chất chính là giải pháp để xây dựng và

thực thi dân chủ trong tư tưởng của Phan Châu Trinh.

73

Để thực hiện quyền dân chủ, các nho sĩ duy tân đầu thế kỷ XX nói

chung đều đưa ra chủ trương: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Cụ thể,

theo Phan Châu Trinh, khai dân trí là phải bỏ lối học tầm chương trích cú, thơ

văn, phù phiếm của người xưa, mở trường dạy chữ quốc ngữ, kiến thức khoa

học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Ông viết: “Ước học hành mở cho xứng

đáng; Đừng vẽ hình, vẽ dạng cho qua; Công thương, kỹ nghệ chuyên khoa;

Trí tri, cách vật cho ta theo cùng” [21, tr.297].

Phan Châu Trinh còn cho rằng, tư tưởng về khai dân trí thực sự làm

cho dân tộc thay đổi nếp suy tư cũ kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao

hơn, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Chấn dân khí là làm cho mọi

người thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, giác ngộ được quyền lợi của

mình, giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ quân chủ chuyên chế. Đây là

điều kiện đủ để dân chủ có thể được thực thi.

Như vậy, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, lịch sử Việt Nam đã chuyển

sang một giai đoạn mới. Tương ứng với điều kiện hoàn cảnh mới, nhiệm vụ

cách mạng giải phóng dân tộc cũng mang tính chất khác trước. Một bộ phận

nhà Nho tiến bộ, trong đó có Phan Châu Trinh đã “khai phá” những phương

pháp khả dĩ cứu nước, cứu dân theo những khuynh hướng khác nhau.

Tóm lại, từ tư duy chính trị mới của Nguyễn Trường Tộ về xã hội hòa

hợp cuối thế kỷ XIX đến khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản của Phan

Bội Châu và Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX đã góp phần làm thay đổi cục

diện xã hội Việt Nam đang trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ.

Nguyễn Trường Tộ lấy chữ hoà làm giá trị trung tâm làm đòn bẩy cho

sự thay đổi hướng tới xã hội lý tưởng. Phương pháp ôn hoà, cải cách, trí tuệ

được ông coi là tối ưu để đạt được các tiến bộ trên con đường thực hiện một

xã hội hoà hợp lý tưởng.

74

Phan Bội Châu với khuynh hướng bạo động cách mạng, đặt yêu cầu

độc lập dân tộc, dân quyền cho nhân dân lên đầu đã để lại dấu ấn không thể

phai mờ trên vũ đài chính trị Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong khi đó, Phan

Châu Trinh với đường hướng cách mạng theo kiểu cải cách, cải lương với

mục tiêu dân chủ cho toàn xã hội cũng có những đóng góp không nhỏ cho

cách mạng Việt Nam giai đoạn khủng hoảng về đường lối.

Sự chuyển biến về mặt tư tưởng, nhất là trong tư tưởng về chính trị - xã

hội của các nho sĩ duy tân tiêu biểu cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là

khuynh hướng tất yếu trong lịch sử tư tưởng, phù hợp với sự biến động của

lịch sử xã hội để đáp ứng yêu cầu khách quan trong tiến trình phát triển lịch

sử Việt Nam.

2.2. Những giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng chính trị - xã hội của nho sĩ

duy tân cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷXX

2.2.1. Những giá trị trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối

thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

Về mặt nội dung, tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

nói chung và những tư tưởng chính trị - xã hội nói riêng dường như chỉ tập

trung vào những vấn đề thuộc xã hội, hay là những vấn đề thuộc dân tộc, dân

chủ, dân sinh nếu xét ở góc độ chính trị – xã hội. Đương nhiên, do xuất phát

từ những lập trường triết học khác nhau, các xu hướng tư tưởng đã giải quyết

những vấn đề trên theo các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế

kỷ XX có giá trị, ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Một là, tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân giai đoạn này

đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong ý thức hệ tư tưởng, hình thành nên

hệ thống quan niệm chính trị mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản

75

Nửa trước thế kỷ XIX, tư tưởng Việt Nam nói chung vẫn chịu sự ảnh

hưởng, chi phối của thế giới quan nho giáo. Cùng với đó là chính sách bế

quan, cấm đạo của nhà Nguyễn đã hạn chế sự giao lưu, tiếp xúc với bên

ngoài, khiến cho xã hội ngày càng tụt hậu. Chính vì vậy, Việt Nam vẫn chưa

thể tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ, những ảnh hưởng mang tính thời đại.

Nhưng lúc bấy giờ, một số nhà nho tiến bộ có điều kiện tiếp xúc với

những trào lưu tư tưởng tiến bộ bên ngoài đã đề xuất tư tưởng canh tân để bắt

kịp xu thế chung của thế giới. Họ đã vượt qua khuôn khổ chung của hệ tư

tưởng phong kiến để hướng ra thế giới, bắt kịp xu thế thời đại.

Nguyễn Trường Tộ, người mở đầu cho trào lưu canh tân với những đề

xuất cải cách, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt là tư duy chính trị mới

trong tư tưởng chính trị - xã hội của ông.

Trong bối cảnh,đối mặt với nguy cơ mất nước, ở Việt Nam đã xuất hiện

nhiều kiểu phản ứng với cuộc xâm lược của thực dân Pháp, hoặc là bán nước

cầu vinh, hoặc là bảo thủ lạc hậu, thụ động và đầu hàng từng bước, hoặc là

anh dũng chiến đấu trong cuộc chiến không cân sức. Duy nhất đường lối canh

tân của Nguyễn Trường Tộ là mang tính phi truyền thống.

Ông đề nghị nhượng bộ, hoà với Pháp, tận dụng thời thế để mở cửa

ngoại giao, thông thương, học tập khoa học, kỹ thuật phương Tây, xây dựng

nền kinh tế chú trọng sản xuất hàng hoá để nâng cao sức mạnh vật chất và

tinh thần của dân tộc, đợi thời cơ giành lại độc lập lâu dài cho đất nước. Tinh

thần yêu nước và tính đổi mới tích cực trong tư tưởng canh tân của Nguyễn

Trường Tộ là không thể phủ nhận.

Những đề nghị cải cách hành chính của Nguyễn Trường Tộ đã thể

hiện tầm tư duy chính trị đổi mới của ông. Đứng ở vị thế một người độc lập

đối với bộ máy nhà nước, Nguyễn Trường Tộ phân tích, đánh giá nội lực

yếu kém của triều đình trong tương quan với sức mạnh quân sự của thực dân

76

Pháp và đề nghị giải pháp hoà để canh tân mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội

nhằm nâng cao nội lực, tiến tới bảo vệ lâu dài nền hoà bình thực sự cho đất

nước. Những tư tưởng chính trị này so với thực trạng chính trị triều Nguyễn

khi đó thực sự là có tính chất đổi mới.

Đặt những đề nghị canh tân của ông trong bối cảnh xã hội Việt Nam

cuối thế kỷ XIX với tất cả sự khủng hoảng trong đường lối chính trị đến sự

lạc hậu, nghèo nàn về kinh tế và sự bảo thủ thủ trong tư tưởng, những đề nghị

canh tân của ông được đưa ra trên cơ sở học hỏi, tiếp thu những cái tiến bộ

của thế giới và phù hợp với đặc thù của xã hội Việt Nam.

Với những giá trị đó, sức sống của tư tưởng xây dựng xã hội hài hoà

của Nguyễn Trường Tộ là điều không thể phủ nhận trong lịch sử tư tưởng dân

tộc. Những tư tưởng của ông chứa đựng nhiều gợi mở có ý nghĩa đối với việc

xây dựng một đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu hiện

đại của dân tộc.Với những quan niệm ấy, chứng tỏ Nguyễn Trường Tộ có tư

duy chính trị hết sức sắc bén, nhạy cảm, am hiểu tình hình và những nhận

định của ông về thời cuộc mang tính lịch sử – cụ thể.

Trong nửa cuối thế kỷ XIX, ngoài Nguyễn Trường Tộ còn có rất nhiều

nhưng tư tưởng canh tân của các nho sĩ tiến bộ khác như Phạm Phú Thứ,

Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch… Những đề nghị cải cách của họ đã thể

hiện một sự đổi mới tư duy nhằm đáp ứng yêu cầu lịch sử đặt ra vì sự tồn

vong của chính dân tộc Việt Nam.

Mặc dù các tư tưởng cải cách nửa cuối thế kỷ XIX không đem lại một

thay đổi đáng kể nào đối với thực tiễn xã hội Việt Nam khi đó, song không

thể phủ nhận vai trò của chúng trong lịch sử dân tộc.

Sang đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh những trào lưu, tư tưởng canh tân

đều thất bại, các nho sĩ duy tân buộc phải tìm con đường mới để đưa đất nước

77

thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Đây tiếp tục là một bước chuyển mới trong

ý thức hệ tư tưởng của các nho sĩ duy tân giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Sự chuyển biển ý thức hệ tư tưởng giai đoạn đầu thế kỷ XX được thể

hiện thông qua một loạt phạm trù: từ quan niệm thần dân đến quốc dân, từ tôn

quân quyền đến tôn dân quyền, từ vương quyền đến pháp quyền, từ chính thể

quân chủ lập hiến đến dân chủ cộng hòa, phương pháp cách mạng bạo động

và đấu tranh hòa bình, dân quyền, dân trí, dân sinh, v.v...

Những quan điểm, tư tưởng ấy góp phần chuyển biến nhận thức về dân

quyền, dân chủ, tinh thần yêu nước, thương nòi trong đời sống tinh thần xã

hội Việt Nam và từ đó làm thay đổi ý thức hệ phong kiến sang ý thức hệ dân

chủ tư sản. Có thể nói đầu thế kỷ XX, những vấn đề cơ bản của cách mạng

Việt Nam đã được các nhà tư tưởng đặt ra và tìm cách giải quyết, tuy nhiên

còn ở những mức độ nhất định. Nếu bỏ qua những hạn chế của nó, hệ thống

quan niệm mới này có ý nghĩa tích cực trên các phương diện tư tưởng và thực

tiễn chính trị – xã hội. Trong bối cảnh đó, những quan niệm về dân chủ, dân

quyền của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã tạo ra bước chuyển mới

trong ý thức hệ tư tưởng dân tộc đầu thế kỷ XX.

Phương pháp đấu tranh bạo động của Phan Bội Châu đặt trong bối cảnh

một nước thuộc địa nửa phong kiến, các phong trào đấu tranh theo phương

thức cũ đã không còn phù hợp mà phải đổi mới. Đây chính là sự chuyển biến

đầu tiên trong tư tưởng chính trị của ông – sự chuyển biến theo khuynh hướng

dần thoát khỏi hệ tư tưởng phong kiến. Đây là điều mà không phải nho sĩ nào

cũng làm được, bởi lẽ tư tưởng nho giáo đã tồn tại hàng ngàn năm nay với sức

ảnh hưởng cực kỳ sâu rộng.

Mặt khác, trong tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu nói

chung, những tư tưởng về mục đích chính trị, về đường lối cứu nước… ngày

càng mang đậm yếu tố dân chủ. Dân quyền trở thành một phạm trù quan trọng

78

trong con đường đấu tranh giành độc lập. Theo ông, dân tộc phải độc lập,

quyền lực phải thuộc về nhân dân. Đây là mục tiêu tối cao trong quá trình

hoạt động cách mạng của ông, trở thành ngọn cờ để tập hợp lực lượng tham

gia đấu tranh cách mạng những năm đầu thế kỷ XX.

Cùng với hệ thống quan điểm dân quyền của Phan Bội Châu, tư

tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là sự tiếp nối hợp quy luật những tư

tưởng canh tân, cải cách trước đó. Ông đi từ chủ nghĩa yêu nước kiểu cũ

đến chủ nghĩa yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản thông qua

những Tân thư, Tân văn. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh còn là sự

kết hợp của tư tưởng dân chủ truyền thống với những giá trị mới của tư

tưởng dân chủ phương Tây nhưng qua sự khúc xạ của các nhà tư tưởng

Nhật Bản, Trung Quốc để phù hợp với bối cảnh lịch sử dân tộc.

Phan Châu Trinh đã sớm nhận ra tính ưu việt của chế độ dân chủ và

cho rằng, con đường đấu tranh cho độc lập dân tộc theo lối bạo động cũ như

phong trào Cần Vương đã không còn phù hợp với yêu cầu lịch sử xã hội. Ông

chủ trương thực hiện cải cách bởi ông nhìn thấy những mặt tiến bộ của văn

minh phương Tây dưới chế độ dân chủ. Đồng thời, ông chỉ rõ nền quân chủ

Việt Nam ngăn cản người dân mở mang trí tuệ. Đây là một trong những

nguyên nhân dẫn đến việc dân chủ không có điều kiện và không thể được

tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Chính vì vậy, xã hội mới

không có dân chủ.

Nội dung cơ bản của tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là nâng cao

dân quyền, là xây dựng thể chế chính trị và hệ thống pháp luật để bảo đảm cho

dân quyền. Cũng giống như Phan Bội Châu, tư tưởng dân quyền của Phan Châu

Trinh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng của ông.

Đầu thế kỷ XX, yêu cầu về độc lập dân tộc đặt ra càng bức thiết hơn

bao giờ hết, không những cần có độc lập dân tộc, mà phải có dân chủ. Chính

79

yêu cầu đó của lịch sử đã khẳng định vai trò quan trọng của phong trào Duy

tân đổi mới và cải cách. Ông là người phát biểu một cách dõng dạc và rõ ràng

nhất những sự hủ bại của chế độ quân chủ chuyên chế và đưa ra những yêu

cầu cải cách hệ thống quan lại và những quan hệ chính trị lúc đương thời.

Không những thế, ông còn làm sáng tỏ vấn đề dân quyền về mặt lý thuyết và

ra sức cổ vũ tuyên truyền cho sự thực hiện dân chủ và dân quyền trong thực

tiễn. Tư tưởng dân chủ và dân quyền của Phan Châu Trinh là một đóng góp to

lớn không những cho phong trào đổi mới và cải cách mà cả cho sự phát triển

của lịch sử tư tưởng Việt nam đầu thế kỷ XX.

Mặt khác, phong trào Duy tân này chính là sự thể hiện việc đổi mới,

chuyển biến trong nhận thức sang áp dụng vào thực tiễn cách mạng. Đây là

điều mà nho sĩ duy tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX chưa làm được.

Nội dung triết học Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nói

chung và những tư tưởng về chính trị - xã hội nói riêng được biểu hiện tập

trung ở yêu cầu giải quyết những vấn đề về độc lập dân tộc và dân chủ xã hội.

Đó là những vấn đề cấp thiết, chủ yếu, có tính quyết định đối với vận mệnh

đất nước, buộc mọi hoạt động tư tưởng phải giải quyết.

Hai là, những tư tưởng chính trị - xã hội mới của các nho sĩ giai đoạn

này góp phần phát triển chủ nghĩa yêu nước.

Nếu như chủ nghĩa yêu nước theo quan niệm của nho giáo được thể

hiện thông qua những phạm trù “trung quân”, “ái quốc” thì đến những năm

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, phạm trù chủ nghĩa yêu nước đã vượt qua

khỏi những phạm vi đó.

Những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ vào những năm cuối

thế kỷ XIX đã thể thiện ý thức tinh thần trách nhiệm cao đối với dân tộc. Xuất

phát từ ý thức, trách nhiệm cá nhân, ông đã dày công, tâm huyết vận dụng

những tri thức đã học hỏi được từ bên ngoài để đưa ra những canh tân, cải

80

cách với hy vọng có thể giúp ích được cho dân tộc trong bối cảnh xã hội rối

ren, khủng hoảng. Những bản điều trần về những vấn đề như chính trị, quân

sự, ngoại giao, kinh tế… đều được Nguyễn Trường Tộ tâm huyết chuẩn bị

trình lên vua Tự Đức và triều đình Nguyễn. Không chỉ Nguyễn Trường Tộ mà

nhiều nha tư tưởng giai đoạn này như Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ cũng

đã có những đề xuất canh tân đất nước nhưng tất cả đều bị triều Nguyễn bác

bỏ, từ chối, dẫn đến sự thất bại của trào lưu canh tân cuối thế kỷ XIX.

Sang đầu thế kỷ XX, nhận thấy con đường canh tân, cải cách không

tạo ra sự chuyển biến tích cực đối với xã hội Việt Nam, Phan Bội Châu và

Phan Châu Trinh đã chủ động lựa chọn con đường mới phù hợp hơn với

cách mạng Việt Nam.

Những tư tưởng về dân quyền, dân chủ của Phan Bội Châu và Phan

Châu Trinh chính là bước phát triển cao hơn của chủ nghĩa yên nước giai

đoạn đầu thế kỷ XX. Lúc này đây, chủ nghĩa yêu nước không chỉ gói gọn

trong “trung quân” mà đã được mở rộng ra là dân chủ, dân quyền cho nhân

dân. Chính vì vậy, phạm trù yêu nước trong bối cảnh đầu thế kỷ XX còn gắn

liền với thương dân. Đòi quyền dân chủ, dân quyền cho nhân dân chính là sự

thể hiện của yêu thương giống nòi. Sau này, đến Hồ Chí Minh, quan điểm này

được quá độ lên: trung với nước, với Đảng, hiếu với dân.

Ngoài ra, tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX góp phần làm phong phú thêm kho tang lịch sử tư tưởng

Việt Nam trên nhiều phương diện.

Cụ thể, những phạm trù, học thuyết dân chủ tư sản hay từ bên ngoài

đã được các nhà Duy Tân chuyển thành những phạm trù mang máu sắc

riêng của dân tộc Việt Nam như “độc lập”, “dân chủ” ... Những phạm trù

này trở thành nguyên tắc tư tưởng và mục tiêu hành động của các nho sĩ

duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Hay nói cách khác, tư tưởng

81

chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân giai đoạn này nắm giữ vai trò chủ

đạo và phản ảnh chính xác hiện thực, thực tiễn chính trị - xã hội Việt Nam

giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Như vậy, tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX có giá trị quan trọng trong trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam. Nhưng đồng thời, những tư tưởng đó cũng không tránh khỏi những

hạn chế nhất định của thời đại.

2.2.2. Những hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối

thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

Tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX –

đầu thế kỷ XX đã có những giá trị, ý nghĩa to lớn trong tiến trình cách mạng

Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng nói riêng nhưng bên cạnh đó những

tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cũng không tránh khỏi

những hạn chế nhất định.

Một là, những tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ

XIX – đầu thế kỷ XX chưa có thế giới quan khoa học dẫn đường.

Cuối thế kỷ XIX, những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ

được coi là “điểm sáng” giữa sự khủng hoảng trầm trọng của xã hội Việt

Nam. Nhưng bên cạnh những giá trị mà những tư tưởng canh tân mà ông đưa

ra, vẫn còn rất nhiều điểm gây tranh cãi.

Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét về tư tưởng cải cách của Nguyễn

Trường Tộ “vẫn còn tồn tại mâu thuẫn”. “Đó là mâu thuẫn giữa những nét

quân chủ lập hiến, pháp trị, dân chủ của chính quyền với cái ý trung quân

tuyệt đối, cái quân chủ có tính chất thần quyền” [39, tr.42]. Và ông cho rằng,

khi Nguyễn Trường Tộ đề cao "Vua là gốc của nước" thì tư tưởng chính trị đó

cũng không khác so tư tưởng Nho giáo cổ đại.

82

Bàn về tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ, Trương Bá Cần

viết: "Có lẽ Nguyễn Trường Tộ không đặt vấn đề lựa chọn chế độ chính trị,

quân chủ hay dân chủ, dân chủ tư sản hay dân chủ nhân dân" [39, tr.42].

Những nhận xét ấy được rút ra từ những tư tưởng của ông về vấn đề lựa

chọn đường lối, quan điểm chính trị và thể chế chính trị. Những vấn đề này

không chỉ Nguyễn Trường Tộ mà các nhà canh tân khác cùng thời không

vượt qua, là ranh giới và là đặc điểm để phân biệt giữa tư tưởng canh tân,

cải cách và tư tưởng cách mạng.

Trong tư tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ về xã hội

hài hòa chưa thể hiện được sự nhận thức những mâu thuẫn gay gắt giữa

dân tộc Việt Nam với đế quốc, giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp dân

chúng bị, giữa các cộng đồng tôn giáo, khiến cho mâu thuẫn, xung đột

không ngừng nảy sinh. Do đó, ông cũng không đưa ra được những giải

pháp phù hợp để giải quyết những mâu thuẫn đó.

Đầu thế kỷ XX, sau thất bại của trào lưu canh tân, Phan Bội Châu xuất

hiện với tư cách là đại diện tiêu biểu nhất của khuynh hướng dân chủ tư sản,

những tư tưởng chính trị - xã hội của ông đã đóng góp không nhỏ vào tiến

trình cách mạng Việt Nam nói chung mà cả lịch sử tư tưởng nói riêng. Nhưng

bên cạnh những giá trị, đóng góp đó, tư tưởng chính trị xã hội của Phan Bội

Châu cũng gặp phải những hạn chế nhất định về mặt thời đại.

Trong tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu, cụ thể những

quan điểm, tư tưởng về con đường cách mạng, ông chưa nhận thức rõ được

vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp là vấn đề cơ bản và cấp thiết nhất trong

xã hội Việt Nam hiện nay. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với

thực dân Pháp là mâu thuẫn cơ bản nhất, mọi phương pháp đấu tranh đều đi

đến mục tiêu cuối cùng giải phóng dân tộc.

83

Đến Phan Châu Trinh, những tư tưởng dân chủ của ông cũng không tránh

khỏi những hạn chế của thời đại. Khi ông coi đấu tranh công khai hợp pháp làm

phương pháp tuyên truyền tư tưởng dân chủ. Nhưng ông chưa nhận thấy được

rằng, bản thân phương pháp này một mặt vừa vấp phải sự ngăn cản của thực dân

Pháp, mặt khác không đủ chống lại sự khủng bố của thực dân Pháp.

Ông chủ trương “bất vọng ngoại” nhưng ông chưa nhận thấy được sự

cần thiết của việc tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài. Đây là điều kiện cần để

tuyên truyền những tư tưởng dân chủ của ông. Nhưng mặt khác, Phan Châu

Trinh lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính thực dân Pháp. Ở đây, ông có sự

“nhầm lẫn khi chưa thực sự tách biệt giữa những người Pháp tiến bộ theo

tư tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp với bọn

đế quốc chuyên đi hút máu dân chúng thuộc địa, chỉ chú trọng đến lợi ích

kinh tế. Ông chưa nhận thấy được bản chất xâm lược, bóc lột thuộc địa của

chính quyền thực dân núp bóng khai hóa văn minh” [Dẫn theo 72].

Chủ trương “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” của ông cũng trở thành hạn chế

trong tư tưởng dân chủ của ông khi thực dân Pháp đã lợi dụng điều này để

tuyên truyền trong quần chúng nhân dân. Những điều này gây ảnh hưởng lớn

đến phong trào cách mạng và chính Phan Châu Trinh cũng không lường

trước được điều này.

Như vậy, cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, các nho sĩ duy tân đã có sự

chuyển biến quan trọng về mặt tư tưởng, đặc biệt là trong tư tưởng chính trị -

xã hội. Nhưng những đề xuất canh tân, cải cách hay những phong trào cách

mạng được thực hiện từ quá trình chuyển biến tư tưởng đó của các nho sĩ đều

thất bại. Mặc dù, các đã cố gắng để vượt qua những giới hạn của tư duy, ý

thức hệ cũ nhưng như vậy là chưa có một tư duy triết học mới để dẫn đường,

cho nên những tư tưởng chinh trị - xã hội của các ông vẫn chịu sự ràng buộc

của hệ tư tưởng chính trị cũ.

84

Sự vượt qua thế giới quan Nho giáo của các ông chưa hoàn toàn triệt

để, những phạm trù chính trị mới vẫn còn mang dấu ấn của Nho giáo, vẫn bế

tắc trong việc giải quyết những mâu thuẫn nội tại tư tưởng.

Như vậy, mặc dù các tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu và Phan

Châu Trinhđều đề cao tự do – bình đẳng – bác ái, tiến bộ xã hội, dân chủ,

nhân văn; song những tư tưởng đó đã không có được một hệ tư tưởng, một ý

thức giai cấp, một cơ sở khoa học, triệt để, một thực tiễn cách mạng - điều mà

sau đó chỉ có được ở phong trào cộng sản và ở những người cộng sản.

Bên cạnh đó, lập trường, đường lối và mục đích cứu cách mạng của các

nhà duy tân mặc dù đã đi theo khuynh hướng triết học tư sản đang là trào lưu

tiến bộ của thế giới nhưng họ chưa nhận thức được rằng, hệ thống triết học

này vốn ngay từ khi ra đời đã không phù hợp với cách mạng Việt Nam.

Đồng thời, dù là “bạo động” hay “cải cách”, các nho sĩ duy tân cũng

chưa nhận thức được cái gốc rễ của xã hội là vấn đề “kinh tế – xã hội”, cùng

với bản chất của chủ nghĩa thực dân đang thống trị nước ta lúc bấy giờ.

Hai là, tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX –

đầu thề kỷ XX còn mang tính cải lương, thiếu triệt để.

Mặc dù có những nội dung mới, cách mạng và tiến bộ, thể hiện tinh

thần yêu nước nhiệt tình, căm thù giặc cao độ, nhưng do điều kiện, hoàn cảnh

lúc bấy giờ, trong tư tưởng chính trị giai đoạn này có những biểu hiện dao

động, mơ hồ, thậm chí có lúc đi đến thỏa hiệp với thực dân. Chẳng hạn, Phan

Châu Trinh chủ trương dựa vào Pháp để thực hiện dân chủ, còn Phan Bội

Châu thì chủ trương dựa vào Nhật để cầu viện... Tuy những chủ trương của

các ông chỉ là nhất thời, nhưng nó cũng gây ra những ảnh hưởng không tốt

đến tinh thần cách mạng của dân tộc. Đây chính là hệ quả của việc thiếu một

tư duy triết học mới, thế giới quan khoa học nên dẫn đến tính cải lương, thiếu

triệt để trong quá trình thực hiện cách mạng.

85

Ngoài chủ trương xuất dương cầu viện, Phan Bội Châu cho rằng “chỉ

nằm gai nếm đắng, chứa giận chờ thời” [Dẫn theo 72, tr.190] để chờ đợi

thời cơ khi đất nước có đủ tiềm lực rồi tiến hành cách mạng. Như vậy,

Phan Bội Châu chưa có sự chuẩn bị mang tính chiến lược lâu dài cho cách

mạng. Đến Phan Châu Trinh, ông đề ra chủ trương đòi thực dân Pháp cải

cách, thực hiện dân chủ giống như ở nước Pháp chính quốc, đây là điều bất

khả thi bởi ông chưa nhận thấy được bản chất thật sự của chủ nghĩa đế

quốc đó là xâm lược và bóc lột thuộc địa.

Bên cạnh đó, tính chất cải lương, thiếu triệt để của tư tưởng chính

trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX còn thể hiện

ở sự dao động lập trường cách mạng của các nhà tư tưởng trước những

biến đổi của lịch sử.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, Phan Bội Châu cho rằng, Nhật

Bản là nước đồng chủng, đồng văn có thể giúp Việt Nam chống Pháp. Nhưng

ông chưa nhận thức được rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc mà lúc này Nhật

Bản đã trở thành một quốc gia như thế để kết quả cuối cùng là sự thất bại của

phong trào Đông Du. Chưa dừng lại ở đó, sau khi Nhật Bản có ý đồ thôn tính

các nước láng giềng, Phan Bội Châu lại một lần nữa sai lầm trong việc nhận

thức đối tượng cách mạng. Ông chủ trương hợp tác với Pháp ñể giữ lấy Việt

Nam không rơi vào sự thôn tính của Nhật Bản.

Sự thiếu triệt để trong con đường cách mạng đã dẫn đến thất bại của

Phan Bội Châu trong các hoạt động cách mang. Còn Phan Châu Trinh dựa và

Pháp để thực hiện cải cách chế độ phong kiến.

Có thể nói, nhược điểm lớn nhất của “tư tưởng chính trị - xã hội giai

đoạn này là chưa tìm ra được mối quan hệ khăng khít giữa bênh vực quyền lợi

thiết thực của người dân với nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ. Đó cũng là

sự thất bại có tính tất yếu của hệ ý thức tư sản cũng như ý thức hệ của các nhà

86

Nho yêu nước có khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX

trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc.

Ba là, tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX

– đầu thế kỷ XX chưa có sự nhất quán

Chẳng hạn như trong nhận thức về con đường cách mạng. Trong hai

mươi năm đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện cùng lúc hai con đường đấu tranh của

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Nhưng mỗi nhà tư tưởng lại lựa chọn

những con đường khác nhau.

Phan Bội Châu lựa chọn phương pháp đấu tranh bạo động, sử dụng bạo

lực cách mạng trong tư tưởng của ông nếu đặt trong bối cảnh nước ta đầu thế

kỷ XX vẫn chưa phù hợp. Bời vì lúc này, ông chưa xác định được và đúng

đâu là lực lượng chính của cách mạng. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong phương

châm cách mạng trong đường lối chính trị của Phan Bội Châu đã có những tác

động không tốt đến phong trào cách mạng những năm 1918 đến 1925.

Chính vì vậy những quan điểm, tư tưởng chính trị mới của các nho sĩ

giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX chưa có sự nhận thức đúng đắn

toàn diện những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Từ đó, chưa có sự

đánh giá đúng đắn về lực lượng cách mạng, từ đó chưa tạo nên sự thống nhất,

đoàn kết trong xã hội và chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam

trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản.

Sự thiếu nhất quán trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX còn thể hiện ở việc lựa chọn “đồng minh”

cách mạng. Phan Bội Châu cho rằng Nhật Bản là nước đồng chủng, đồng văn,

nên ông hướng sang Nhật Bản, còn Phan Châu Trinh cho rằng Pháp là nước

dân chủ tiến bộ của phương Tây nên ông hướng sang Pháp. Chính sự thiếu

nhất quán trong các quan điểm cách mạng nói chung đã dẫn đến những thất

bại của phong trào cách mạng trong nước.

87

Tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân không tránh khỏi

những hạn chế nhất định do hoàn cảnh lịch sử chi phối và do điều kiện chủ

quan mà bản thân các nhà tư tưởng chưa thể vượt qua được. Nhưng những

hạn chế ấy không thể làm lu mờ những giá trị tích cực trong tư tưởng các nho

sĩ. Những tư tưởng này, đến nay, vẫn có những giá trị để chúng ta nghiên cứu

và tìm hiểu.

Tiểu kết chƣơng 2

Trên cơ sở nhận thức về thời đại, đặc điểm xã hội Việt Nam, tiếp thu tư

tưởng canh tân, Tân thư, qua thực tiễn cách mạng trong và ngoài nước, các

nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đã phác thảo những vấn đề

mới và đưa cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng dân chủ tư sản

và hình thành những phạm trù chính trị mới.

Trong tư tưởng chính trị - xã hội của các ông, những phạm trù chính trị

mới như, quan niệm về mục đích chính trị, quan niệm về con đường cách

mạng, quan niệm về phương pháp cách mạng, quan niệm về chính thể, quan

niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan niệm về dân quyền, tư tưởng lập

hiến là những nội dung cơ bản nhất. Những phạm trù này có quá trình hình

thành, vận động và phát triển của nó theo sự thay đổi tình hình cách mạng thế

giới và trong nước, cũng như sự phát triển nhận thức của các ông.

Nhìn chung, những quan niệm nêu trên đều bắt đầu từ sự kiện mất nước

và nhất là khi phong trào Cần Vương thất bại đã thúc đẩy các nhà tư tưởng từ

bỏ dần dần ngọn cờ quân chủ để đi theo con đường cách mạng mới – dân chủ

tư sản. Cuộc cách mạng dân chủ tư sản không phải do giai cấp tư sản lãnh đạo

mà do tầng lớp sĩ phu được tư sản hóa lãnh đạo và xuất phát từ lợi ích của dân

tộc, cho nên, nó mang tính đặc thù, không giống như phương Tây.

Những nội dung tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tângiai

đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đã tạo nên bước chuyển biến quan trọng

88

trên bình diện ý thức hệ tư tưởng Việt Nam giai đoạn này: từ sự xuất hiện tư

tưởng canh tân trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ

tư sản và tiến gần đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, có thể nói, bước

chuyển tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là một

bước chuyển căn bản, lâu dài, khó khăn và hết sức phức tạp của các nhà tư

tưởng.

Qua việc nghiên cứu những nội dung, giá trị và hạn chế của tư tưởng

chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đã

để lại những bài học vô cùng ùng quý báu cho cách mạng Việt Nam giai đoạn

sau và cho cả công cuộc đổi mới hiện nay. Đó là bài học về nắm bắt thời cơ,

đề ra đường lối cách mạng phù hợp với xu thế vận động của lịch sử; bài học

về xây dựng lý luận dẫn đường khoa học, đúng đắn phù hợp với logic phát

triển của lịch sử và xu thế thời đại; bài học về lấy lợi ích dân tộc, nhân dân

làm mục tiêu tối cao cho mọi công cuộc cách mạng, đổi mới.

89

KẾT LUẬN

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một giai đoạn chứng kiến nhiều biến

đổi nhất trong chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, thực dân Pháp xâm

lược biến xã hội Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập thành xã hội

thuộc địa nửa phong kiến. Cùng với đó là sự biến động của tình hình thế giới

như sự phát triển và quá trình xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, các cuộc canh

tân của Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, các trào lưu tư tưởng dân chủ tiến

bộ của phương Tây đã tác động trực tiếp vào Việt Nam làm cho xã hội Việt

Nam có sự biến đổi trên nhiều phương diện.

Chính sự biến đổi của đời sống xã hội ấy đã tạo nên quá trình chuyển

biến trong tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng chính trị - xã hội của tầng lớp nho sĩ

cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Họ nhận thấy được những hạn chế, khiếm

khuyết của hệ tư tưởng chính trị phong kiến tôn quyền, từ đó đề xuất tư tưởng

canh tân vào cuối thế kỷ XIX, sau đó, khởi xướng tư tưởng dân chủ tư sản

vào đầu thế kỷ XX. Nho sĩ duy tân giai đoạn này chủ yếu tiếp thu học tập

công cuộc duy tân của Nhật Bản và cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc để đề

ra đường lối cho riêng dân tộc Việt Nam nhưng vẫn giữ được những giá trị

của Nho giáo. Đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này là Nguyễn Trường

Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…

Những tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân Việt Nam

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bao gồm nhiều nội dung nhưng cơ bản nhất

đó là sự phê phán sự lạc hậu, bảo thủ của hệ tư tưởng phong kiến và từ đó

xây dựng những phạm trù chính trị mới đưa dân tộc Việt Nam theo con

đường cách mạng dân chủ tư sản.

Đó là các quan niệm về mục đích chính trị, quan niệm về con đường

cách mạng, quan niệm về phương pháp cách mạng, quan niệm về chính thể,

quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan niệm về dân quyền. Những

90

phạm trù này có quá trình hình thành, tồn tại và phát triển theo sự tác động,

thay đổi của lịch sử cũng như sự phát triển nhận thức của dân tộc nói chung

và của các nhà tư tưởng nói riêng.

Nhìn chung, sự vận động và phát triển của những quan niệm đó đã tạo

nên bước chuyển về tư tưởng chính trị của nho sĩ duy tân Việt Nam giai đoạn

này. Bước chuyển tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX có những giá trị và hạn chế của nó.

Giá trị lớn nhất của quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là tạo ra sự thay đổi ý thức hệ của dân tộc

Việt Nam. Còn những nội dung trong những tư tưởng chính trị Việt Nam cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các nho sĩ duy tân là “bản tổng kết thực tiễn,

tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm kho tàng tư

tưởng Việt Nam trên nhiều phương diện” [72, tr.220]

Bên cạnh đó, những tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIXdo các

nhà tư tưởng tiêu biểu của tầng lớp nho sĩ – tầng lớp không còn đại diện của

thời đại thực hiện. Điều này dẫn đến những tư tưởng chính trị Việt Nam giai

đoạn này đã thiếu một tư duy triết học mới, thế giới quan đúng đắn, khoa học,

đâu đó trong những tư tưởng chính trị của họ vẫn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc

thế giới quan Nho giáo; thiếu sự thống nhất trong quan điểm chính trị nên

xuất hiện hai đường lối cách mạng, tạo nên sự phân hóa nhất định trong

phong trào cách mạng dân chủ tư sản vào đầu thế kỷ XX; và những tư tưởng

chính trị - xã hội đó của họ còn mang tính chất cải lương, thiếu triệt để.

Sự tiếp biến tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ Việt Nam giai đoạn

này vừa là sự phản ánh các điều kiện lịch sử vừa là sự biểu hiện tính quy luật

nội tại, khách quan tiến trình vận động của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Những

tư tưởng chính trị giai đoạn này đã để lại dấu ấn khá đậm nét trong tiến trình

lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và tư tưởng Việt Nam nói riêng.

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Bàn cùng nhiều tác giả (1999), Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều

Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.

2. Trương Bá Cần, (2002), Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

3. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 1 (Văn thơ thời kỳ trước khi xuất

dương, 1882-1905), Nxb. Thuận Hóa, Huế.

4. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 2 (Văn thơ những năm đầu ở nước

ngoài 1905-1908), Nxb. Thuận Hóa, Huế.

5. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 3 (Văn thơ những năm ở nước ngoài

1908- 1916), Nxb. Thuận Hóa, Huế.

6. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 4 (Tiểu thuyết và các truyện ký),

Nxb. Thuận Hóa, Huế.

7. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 5 (Văn thơ 1917-1925), Nxb. Thuận

Hóa, Huế.

8. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 6 (Tự truyện); Nxb. Thuận Hóa,

Huế.

9. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 7 (Văn xuôi 1925-1940), Nxb. Thuận

Hóa, Huế.

10. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 8 (Văn vần 1925-1940), Nxb. Thuận

Hóa, Huế.

11. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 9 (Chu Dịch),Nxb. Thuận Hóa, Huế.

12. Phan Bội Châu (2000), Toàn tập, tập 10 (Khổng Học Đăng), Nxb. Thuận

Hóa, Huế.

13. Phan Bội Châu (1971), Phan Bội Châu niên biểu: Hồi Ký, Nhà xuất bản

Văn Sử Địa.

92

14. Nguyễn Đổng Chi (1968), Bàn thêm quan niệm về anh hùng của Phan Bội

Châu, trong cuốn "Nhà yêu nước và nhà văn Phan Bội Châu", Kỷ niệm

100 năm ngày sinh của Phan Bội Châu, Viện Văn học, Hà Nội.

15. Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh (2007), Quá trình chuyển biến tư tưởng

chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các nhân vật tiêu

biểu, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Trịnh Kim Chi (2017), “Bài học lịch sử từ giá trị nhân văn trong tư tưởng

Phan Bội Châu”, Tạp chí triết học, (12), 319, tr.25.

17. Nguyễn Đình Chú (1997), Phan Bội Châu nhà văn hóa, trong tập kỷ yếu:

Hội thảo khoa học kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh của Phan Bội Châu,

Thừa Thiên - Huế.

18. Trương Văn Chung, Doãn Chính (2005), Bước chuyển tư tưởng Việt Nam

cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

20. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Đức Sự, Chương Thâu (1967), Phan Bội Châu -

tư tưởng chính trị, tư tưởng triết học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Dương (2006), Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nxb. Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

22. Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập từ thời nguyên thủy đến năm 2000

(2006), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Đại Học Quốc gia HN (1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Đại học quốc gia Hà Nội (2006), Tư tưởng triết học Việt Nam trong bối

cảnh du nhập các tư tưởng Đông – Tây nửa ñầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học

quốc gia, Hà Nội.

93

25. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ

XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập 1: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại

của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ

XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của

nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ

XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập 3: Thành công của chủ nghĩa

MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Trần Thị Hạnh (2012), Quá trình chuyển biến tư tưởng của nho sĩ Việt

Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Hòa (2006), Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội

Châu, NxbChính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Hòa (2008), “Quan niệm của Phan Bội Châu về dân

quyền”,Tạp chí Triết học, Hà Nội, số 9 – 2008.

31. Nguyễn Văn Hòa, “Tư tưởng Phan Bội Châu về nội lực”,Tạp chí Triết học,

Hà Nội, số 6 - 2000.

32. Trần Thi Thu Hoài (2012), Sự biến đổi chính tri Viê Nam từ 1858 – 1945,

Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc

gia Hà Nội.

33. Đỗ Thị Hòa Hới (1989), “Tìm hiểu tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh

với tư tưởng tự do – bình đẳng – bác ái của cách mạng Pháp 1789”,Tạp chí

Triết học, (4), tr. 47 – 51.

34. Đỗ Thị Hòa Hới (1992), “Phan Châu Trinh và sự thức tỉnh dân tộc ñầu thế

kỷ XX”, Tạp chí Triết học, (1), tr. 49 – 52.

35. Đỗ Thị Hòa Hới (1993), “Tư tưởng canh tân sáng tạo ñầu thế kỷ XX của

chí sỹ Phan Châu Trinh”,Tạp chí Triết học, (3), tr. 46 – 50. 43.

94

36. Đỗ Thị Hòa Hới (1996), Tìm hiểu tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh (2009), Bước

đầu tìm hiểu những giá trị Văn hoá chính trị truyền thống Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,

Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

39. Lê Thị Lan (2002), “Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ lạc hậu

hay đổi mới”, Tạp chí Triết học, 128(1), tr. 42 – 45.

40. Lê Thị Lan (2008),“Về những giá trị trong tư tưởng cải cách của Nguyễn

Trường Tộ”, Tạp chí Triết học (12), 211.

41. Lê Thị Lan (2006), “Chủ nghĩa dân tộc của Phan Bội Châu dưới nhãn quan

triết học”, Tạp chí Triết học(11), 186.

42. Lê Thị Lan (2018), Nhân cách kẻ sĩ – nền tảng chủ nghĩa yêu nước của

Phan Bội Châu, Tạp chí Triết học (7), 326, tr. 52 -59.

43. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương, Trần Kim Đỉnh

(1997), Phan Bội Châu (1867-1940),Con người và sự nghiệp, Trường Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

44. Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu, Phạm Xanh (2005), Phong trào Đông Du

và Phan Bội Châu, Nxb. Nghệ An, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông

Tây.

45. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam - Một số vấn đề

nghiên cứu, Nxb Thế giới mới, Hà Nội.

46. Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu (2012), Phong trào yêu nước cách mạng

đầu thế kỷ XX, nhân vật và sự kiện, Nxb Lao động, Hà Nội.

47. Lịch sử Việt Nam giản yếu (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95

48. Nhóm Trà Lĩnh (1990), Đặng Huy Trứ – con người và tác phẩm,Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

49. Vũ Dương Ninh (2007), Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa

thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

50. Trần Ích Nguyên - La Cảnh Văn, Phan Bội Châu và mối quan hệ mật thiết

với Nhật Bản và Trung Quốc - tìm hiểu trường hợp Phan Bội Châu tiếp

thu và chuyển hoá các câu chuyện anh hùng dựng nước phương Tây, Tạp

chí Văn học.

51. Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu (2005) Nxb Nghệ An, Trung tâm

văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

52. Lê Văn Quán (2007), Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam – tập 1, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

53. Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam – tập21, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

54. Nguyễn Anh Quốc, Trịnh Kim Chi, (2018), “Góp phần tìm hiểu tư tưởng

Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX”, Tạp chí triết học

(10), 329, tr. 50-57.

55. Shiraishi Masaya(Nguyễn Như Diệm dịch, 2000), Phong trào dân tộc Việt

Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và Châu Á: Tư tưởng của Phan Bội

Châu về cách mạng và thế giới, Sách tham khảo (Tập 1), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

56. Shiraishi Masaya, (Nguyễn Như Diệm dịch, 2000), Phong trào dân tộc

Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và Châu Á: Tư tưởng của Phan

Bội Châu về cách mạng và thế giới, Sách tham khảo (Tập 2), Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

96

57. Hồ Song (1997), “Sự chuyển hướng tư tưởng trong phong trào quốc gia

dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (2) 291, tr.

16-31.

58. Phan Đăng Thanh (2006), Tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

59. Nguyễn Kim Sơn (2017), “Mấy đặc điểm của việc tiếp nhận Nho giáo ở

Việt Nam từ khởi nguồn đến đầu thế kỷ XX”, Tạp chí triết học, (2), 309,

tr.59.

60. Lê Sĩ Thắng (1997),”Ảnh hưởng của Tân Thư trong tư tưởng Phan Bội

Châu và Phan Chu Trinh” ,Tạp chí Triết học, số 2/1997, trang 26-30.

61. Nguyễn Quang Thắng (2006), Phong trào duy tân – các khuôn mặt tiêu

biểu, Nxb Văn hóa thông tin.

62. Chương Thâu (2000), Sưu tầm và tuyển chọn, Phan Bội Châu về một số

vấn đề văn hoá - xã hội - chính trị, Nxb. Thuận Hoá, Huế.

63. Chương Thâu (2002), Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu, Nxb. Văn hoá Thông

tin; Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

64. Chương Thâu (2002), “Tinh thần dân tộc và dân chủ của Phan Châu Trinh

qua Tỉnh quốc hồn ca”, Triết học, 138(11), tr.15 – 26.

65. Chương Thâu (2004), Nghiên cứu Phan Bội Châu, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

66. Chương Thâu (2007), Phan Bội Châu trong dòng thời đại - Bình luận và

hồi ức, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây và Nxb. Nghệ An, Vinh.

67. Chương Thâu (2007),Góp phần tìm hiều Nho giáo, nho sĩ, trí thức Việt

Nam trước năm 1945, Nxb Văn hóa thông tin & Viện văn hóa.

68. Chương Thâu (2017), Phan Bội Châu - nhà yêu nước, nhà văn hoá lớn,

Nxb Thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh.

97

69. Chương Thâu, Triêu Dương, Nguyễn Đình Chú (Biên soạn) (1976), Thơ

văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội.

70. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương (2006), Phan Bội Châu - về tác gia và

tác phẩm, tuyển chọn, giới thiệu (tái bản lần thứ 2), Nxb. Giáo dục, Hà

Nội.

71. Lê Ngọc Thông (2001), Thế giới quan Phan Bội Châu, Luận án Tiến sỹ

Triết học, bảo vệ tại Viện triết học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân

văn quốc gia, Hà Nội.

72. Phạm Đào Thịnh (2009), Bước chuyển tư tưởng chính trị Việt Nam cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giá trị và bài học lịch sử, Luận án Tiến sĩ,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành

phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

73. Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 – 1930), (1976)

Nxb Văn học, Hà Nội.

74. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên), (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 1,

Nxb Khoa học xã hội.

75. Thu Trang (2000), Những hoạt động của Phan Chu Trinh tại Pháp 1911 -

1925, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.

76. Nguyễn Trọng Văn (1991), “Tư tưởng đổi mới của Nguyễn Trường Tộ,

một biểu hiện mới của tinh thần dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX”, Tạp chí

Triết học, (4), tr.54 – 56.

77. Việt Nam trong thế kỷ XX, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn

Quốc gia, Đại học quốc gia Hà Nội, (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

78. Nguyễn Hữu Vui, Lương Gia Tĩnh (2003), Tư tưởng triết học Việt Nam từ

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt.

98