ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
======================
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
THỜI TRẦN (1225-1400)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
======================
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
THỜI TRẦN (1225-1400)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số : 60220301
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Bình
Hà Nội - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
THỜI TRẦN .............................................................................................. 7
1.1. Bối cảnh xã hội hình thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần .................... 7
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XIII - XIV ..... 7
1.1.2. Nhu cầu và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra của quốc gia Đại Việt thời Trần .. 24
1.2. Tiền đề lý luận hình thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần ................... 27
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 40
Chƣơng 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN ............................................................................ 41
2.1. Những quan điểm cơ bản về thể chế chính trị và tổ chức xã hội trong tư
tưởng chính trị - xã hội thời Trần .................................................................... 41
2.1.1. Quan điểm về cơ cấu xã hội và mối quan hệ giữa các tầng lớp ............... 41
2.1.2. Quan điểm về quyền lực chính trị và thể chế chính trị trong tư tưởng
chính trị - xã hội thời Trần ...................................................................................... 50
2.1.3. Quan điểm về tổ chức và quản lý xã hội trong tư tưởng chính trị - xã hội
thời Trần ................................................................................................................... 55
2.2. Những quan điểm cơ bản về đối nội và đối ngoại trong tư tưởng chính trị
- xã hội thời Trần ............................................................................................. 69
2.2.1. Chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự chủ, tinh thần đoàn kết dân tộc trong hoạt
động đối nội của nhà Trần ...................................................................................... 69
2.2.2. Quan điểm về cách thức tổ chức quân sự của nhà nước phong
kiến thời Trần .................................................................................... 73
2.2.3. Tư tưởng chính trị - xã hội thể hiện trong chính sách và đường lối ngoại
giao của chính quyền phong kiến thời Trần .......................................................... 81
2.3. Những giá trị chủ yếu của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần ................... 85
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 94
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 97
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính trị là một phạm trù triết học và chính trị học dùng để chỉ công
việc cai trị, quản lý xã hội nhằm duy trì sự tồn tại xã hội trong vòng trật tự
và phát triển thông qua hoạt động của nhà nước và pháp luật. Chính trị mà
biểu hiện đặc biệt của nó là quyền lực nhà nước trực tiếp can thiệp và chi
phối các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Do đó, trong xã hội có
giai cấp, tư tưởng chính trị mà cấp độ cao là hệ tư tưởng chính trị là nền
tảng, là căn cứ lý luận, là nguyên tắc chủ đạo để giai cấp thống trị xây dựng
hệ thống quyền lực nhà nước của mình vì lợi ích giai cấp thống trị và lợi
ích dân tộc. Ở nước ta, đồng thời với phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa,
phát triển khoa học công nghệ thì ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết
để tiến hành các hoạt động khác trong xã hội.
Sau 30 năm đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế
khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Bên
cạnh những cơ hội phát triển mà quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
đem lại thì quá trình này cũng dẫn đến những tranh chấp quyền lực, những
bất ổn về kinh tế chính trị, xã hội ở một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
những quốc gia đang phát triển. Điển hình là các hoạt động tranh chấp,
xung đột cục bộ, hoạt động khủng bố quốc tế đang gây mất ổn định chính
trị ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới như khủng bố ở Mỹ và các nước
phương Tây, khủng hoảng chính trị ở nhiều nước trên thế giới, tranh chấp
quyền lợi kinh tế và chính trị giữa các nước khu vực biển Đông… Do đó,
để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thành công, Đảng ta luôn khẳng
định, nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, còn nhiệm vụ ổn định chính
trị là then chốt. Để giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của một quốc gia
luôn bị đe dọa bởi sự xâm lăng và nguy cơ đồng hóa như đất nước ta trong
1
lịch sử, trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã biết dựa
vào sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc để thực hiện chủ quyền độc lập, tự do
của mình. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp, hình thành
nên nội lực mạnh mẽ của toàn thể dân tộc ta đó chính là bản sắc văn hóa
truyền thống, những giá trị tinh thần dân tộc. Nội lực đó đã và đang phát
huy sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước hiện nay. Vì vậy, tìm hiểu và nghiên cứu những giá trị văn hóa
tinh thần của dân tộc ta, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị
đó trong việc xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện
nay là việc làm có ý nghĩa lý luận lâu dài và cấp bách.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thời Trần được xem là mốc son
chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển diện mạo văn hóa, tư tưởng
của một quốc gia phong kiến độc lập, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong
tư duy, nhận thức của dân tộc ta về lòng yêu nước và tinh thần độc lập, tự
cường. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa mà cả trong lĩnh vực chính trị, biểu hiện rõ nét
trong công cuộc xây dựng một quốc gia thống nhất, độc lập, có chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, trong phát triển mọi mặt về kinh tế và văn hóa; trong
tổ chức và quản lý xã hội quy củ và thống nhất từ trung ương đến địa
phương; trong việc thống nhất tư tưởng, đoàn kết lòng dân, tạo sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc để chiến thắng giặc ngoại xâm… Những thành tựu ấy
là minh chứng hùng hồn cho những giá trị lý luận và tư tưởng được nhà
Trần vận dụng trong tổ chức và quản lý xã hội, nhất là tư tưởng chính trị.
Những vấn đề chính trị - xã hội như: tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng
hệ thống pháp luật, quản lí và vận dụng sức mạnh của các tầng lớp trong xã
hội, khoan thư sức dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tổ chức
quân sự và các chính sách ngoại giao trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2
được thể hiện trong tư tưởng chính trị thời Trần đến nay vẫn có ý nghĩa và
giá trị nhất định trong đời sống chính trị đương đại. Để hoàn thiện và phát
huy hiệu quả vai trò của chính trị và hệ thống chính trị trong quá trình phát
triển đất nước hiện nay, việc tiếp thu, kế thừa tư tưởng chính trị của cha
ông ta trong lịch sử, đặc biệt là tư tưởng chính trị thời Trần là hết sức cần
thiết và bổ ích. Do vậy, luận văn chọn vấn đề “Tư tưởng chính trị - xã hội
Việt Nam thời Trần (1225 - 1400)” làm đề tài nghiên cứu của mình với
mong muốn làm sáng tỏ những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự hình thành và
phát triển của tư tưởng chính trị thời Trần, những nội dung chủ yếu của tư
tưởng chính trị - xã hội thời Trần, từ đó nêu lên những giá trị cơ bản trong
tư tưởng chính trị thời Trần.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay, tìm hiểu tư tưởng chính trị thời Trần, đã có nhiều
công trình nghiên cứu, những bài viết dưới các phương diện, hình thức và
mức độ khác nhau. Liên quan đến đề tài luận văn có thể khái quát một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu theo các hướng nghiên cứu sau:
Hướng thứ nhất: đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng chính trị
thời Trần dưới góc độ lịch sử - xã hội, trước hết là những bộ sách sử lớn
hoặc viết về lịch sử Việt Nam thời Trần có giá trị về Khoa học lịch sử như:
- Việt Sử lược của Trần Quốc Vượng (Nxb.Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960)
- Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần của Viện Sử học (Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981)
- Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1 và tập 2 (NXB. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1998)
- Tìm hiểu về kết cấu xã hội thời Trần của Trương Thị Yến (Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000)
3
- Nước Đại Việt thời Lý – Trần của Nguyễn Khắc Thuần (Nxb. Thanh
niên Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
- Đại cương lịch sử Việt Nam do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm,
Lê Mậu Hãn chủ biên (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009)
Qua nghiên cứu những công trình khoa học nêu trên cho thấy, các tác
giả đã trình bày và phân tích khá sâu sắc những sự kiện lịch sử xuyên suốt
thời đại nhà Trần, trong đó làm nổi bật những vấn đề kinh tế, chính trị và
văn hóa xã hội Đại Việt từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỉ XIV. Tiêu biểu là
công trình Đại Việt sử ký toàn thư tập 1 và tập 2 được biên soạn qua nhiều
đời, gắn liền với tên tuổi của những nhà sử học lớn như Lê Văn Hưu thế kỷ
XIII, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên thế kỷ XV… Đó là nguồn tư liệu nguyên
bản, đáng tin cậy nhất mà tác giả luận văn sử dụng để trích dẫn cho những
nội dung nghiên cứu, những nhận định đánh giá trong luận văn của mình.
Hướng thứ hai: đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng chính trị thời
Trần dưới các góc độ văn hóa, tôn giáo như:
- Thơ văn Lý - Trần do Viện Văn học biên soạn (Nxb. Khoa học xã
hội, tập 1 xuất bản năm 1977, tập 2 xuất bản năm 1989 và tập 3 xuất bản
năm 1978)
- Lịch sử các định chế chính trị và pháp quyền Việt Nam, (tập1), của
Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hoa (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995)
- Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, (tập 1), của Lê Mạt Thát (Nxb.
Văn hóa, Huế, 1999)
- Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời Trần
(Luận án tiến sĩ triết học của Vũ Văn Vinh, Viện Triết học, Hà Nội, năm 1999)
Hướng thứ ba: đó là các công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị
thời Trần dưới góc độ tư tưởng triết học.
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam, (tập 1), do Nguyễn Tài Thư chủ biên,
Nbx. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
4
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh, năm 1998)
- Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương
Văn Chung (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998)
- Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, (tập 1), do Nguyễn
Hùng Hậu chủ biên (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002)
- Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ
biên (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006)
- Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần do Doãn Chính và Trương Văn
Chung chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008)
- Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý
- Trần của Lê Văn Quán (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008)…
Kết quả của những công trình nghiên cứu kể trên là tài liệu khoa học
bổ ích cho tác giả trong việc nghiên cứu, kế thừa, phát triển những nội dung
cần trình bày trong luận văn của mình. Tuy nhiên, trong các công trình kể
trên, các tác giả chủ yếu tập trung phân tích khái quát các khía cạnh lịch sử,
văn hóa, tôn giáo, triết lý, tư tưởng của các nhà tư tưởng qua các triều đại
theo tiến trình lịch sử. Tiếp thu thành quả của các công trình trên, tác giả
luận văn cố gắng đi sâu vào nghiên cứu, trình bày những điều kiện, tiền đề
dẫn đến sự hình thành tư tưởng chính trị thời Trần cùng những nội dung tư
tưởng chính trị thời Trần một cách có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
* Mục đích của luận văn:
Mục đích của luận văn là tập trung phân tích, làm rõ những nội dung
cơ bản của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần và từ đó, chỉ ra những giá
trị chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
5
- Thứ nhất: Phân tích bối cảnh xã hội và những tiền đề lý luận hình
thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần.
- Thứ hai: Phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị -
xã hội thời Trần.
- Thứ ba: Chỉ ra những giá trị chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội
thời Trần.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ trên, tác giả luận văn dựa trên cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, tác giả còn sử dụng hệ thống các
phương pháp nghiên cứu cự thể như: phương pháp nghiên cứu lịch sử triết
học, phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp phân tích và tổng hợp,
lôgic và lịch sử, diễn dịch và quy nạp, đối chiếu và so sánh… để nghiên
cứu và trình bày luận văn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Hệ thống tư tưởng chính trị -
xã hội ` thời Trần.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Những nội dung và giá trị cơ bản
của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần được thể hiện tập trung thông qua
đường lối, chính sách chính trị - xã hội của nhà Trần và sử liệu thời Trần là
tác phẩm Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (2 tập, 1998), Nxb. Khoa học xã hội
Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Với mục đích và nhiệm vụ trên, ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và
Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn được kết cấu
thành 2 chương, 5 tiết.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN
1.1. Bối cảnh xã hội hình thành tƣ tƣởng chính trị - xã hội thời Trần
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ
XIII - XIV
Về kinh tế và các hoạt động kinh tế thời Trần. Dựa trên các tài liệu
lịch sử, các nhà sử học đều thống nhất rằng, “cơ sở kinh tế của xã hội thời
Lý – Trần (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII) về cơ bản là chế độ sở hữu nhà
nước về đất đai thông qua công xã nông thôn” [8, tr.14]. Dưới thời Trần,
kinh tế nông nghiệp nông thôn giữ vai trò chủ đạo, nổi bật là sự phát triển
mạnh mẽ của chế độ tư hữu về ruộng đất, dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp địa
chủ, quí tộc nhà Trần. Do yêu cầu tăng cường sức mạnh của quốc gia và ổn
định xã hội, đời sống mà hàng năm, nhân dân và nhà nước thời kỳ này đều
chăm lo phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, sự phát triển của nông nghiệp
cũng làm cho các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa ngày càng phát
triển, tiền tệ giữ vai trò quan trọng trong xã hội và việc mua bán ruộng đất
cũng dần được phổ biến hơn trong xã hội. Tất cả điều đó đã làm cho chế độ
ruộng đất nói chung và chế độ sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân về ruộng
đất nói riêng dưới thời Trần rất phát triển. Đồng thời, sự phát triển của nền
kinh tế cũng làm bộc lộ mầm mống của những mâu thuẫn mới trong quan
hệ giai cấp dưới chế độ phong kiến nhà Trần trên bình diện xã hội.
Về chế độ ruộng đất dưới thời Trần, hình thức sở hữu ruộng đất gồm
có ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Về
hình thức ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được cấu thành bởi hai bộ phận:
Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý và ruộng đất công làng xã (ruộng
7
đất công do làng xã trực tiếp quản lý). Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng
đất thực chất là quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà vua - người
đứng đầu nhà nước chuyên chế. Loại ruộng đất này tồn tại như tài sản của
bản thân nhà vua và hoàng cung. Quyền sở hữu được biểu hiện ở quyền
được hưởng những hoa lợi do bóc lột, quyền thu địa tô do thần dân cống
nạp cho riêng hoàng đế. Bộ phận này bao gồm sơn lăng, tịch điền và quốc
khố, chiếm diện tích không lớn, nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể cho
triều đình. Tuy ruộng đất công về danh nghĩa là của vua, nhưng thực chất là
công điền, công thổ của làng xã, do công xã quản lý và phân phối cho các
thành viên công xã cày cấy; nông dân nộp lại tô thuế, nô dịch cho nhà nước.
Ruộng công làng xã dưới thời Trần đã thực sự trở thành một cơ sở kinh tế
của nhà nước. Như vậy, quyền sở hữu nhà nước được thiết lập trên các
công xã nông thôn, nghĩa là vua nắm quyền sở hữu tối cao về ruộng đất,
còn các công xã được nắm quyền chiếm dụng và phân phối lại ruộng đất
cho các thành viên công xã. Đây là mối quan hệ sở hữu kép mang đậm màu
sắc của chế độ phong kiến phương Đông. Tuy nhiên, sự chi phối của nhà
nước và ý thức bộ phận ruộng đất công này còn chưa chặt chẽ, biểu hiện ra
là các làng xã được phân công ruộng đất công không bằng nhau và không
phải nhân đinh nào cũng được chia đều ruộng đất như nhau, “nhân đinh có
ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả” [60, tr.
19]. Quan hệ sở hữu kép này cộng hưởng với chính sách ban cấp ruộng đất
cho công thần của các vua Trần đã góp phần làm lộ diện mạnh mẽ hình
thức sở hữu tư nhân về ruộng đất dưới thời Trần…
Trên bước đường xây dựng một nhà nước ngày càng hoàn chỉnh, đến
thời nhà Trần, nhà nước định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài,
sử dụng ruộng đất công làng xã vào việc phong cấp cho quan lại, họ hàng,
cận thần và công thần của mình. Chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc
8
của nhà Trần được thể hiện tiêu biểu nhất là thái ấp. Việc ban cấp thái ấp
chính là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính
quyền nhà Trần. Sử thần Ngô Sỹ Liên chép: “theo qui chế nhà Trần, các
vương hầu đều ở phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc
Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả” [60, tr. 32]. Vua Trần Thái
Tông khi đỡ tội làm phản cho Trần Liễu, đã “lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng,
Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc” [60, tr. 16].
Thái ấp là tài sản riêng, thuộc sở hữu tư nhân của quí tộc, do đó sự tồn tại
của nó gắn chặt với triều đình, với dòng họ nhà Trần. Mặt khác, do nhu cầu
mở rộng diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng, củng cố thế
lực của quí tộc nhà Trần, nhà nước chủ trương khai hoang, lập đồn điền ở
nơi đất hoang nhiều, dân cư thưa thớt. Chẳng hạn như vào tháng 10 năm
1266, nhà vua “xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung
tần chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai
khẩn ruộng hoang lập làm điền trang. Vương hầu có trang thực bắt đầu từ
đấy” [11, tr. 291]. Như vậy, người lao động chủ yếu trong các điền trang,
thái ấp là các nông nô, nô tỳ. Họ có thân phận khác nhau, có người là nô tỳ,
có người là nông dân bị lệ thuộc, hoặc là những người nô tỳ sau khi khai
khẩn đất hoang thành ruộng thì cho lấy nhau mà ở ngay đấy. Việc thực hiện
định lệ lập điền trang đã đẩy mạnh sự phát triển sở hữu lớn của quí tộc nhà
Trần, làm phát triển mạnh mẽ việc chiếm hữu tư nhân về ruộng đất, tạo
thêm một bước chuyển biến và mở rộng cho hình thái kinh tế phong kiến.
Điền trang và thái ấp là hai bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tính
chất, loại hình sở hữu ruộng đất phong kiến quí tộc thời bấy giờ.
Cùng với đó, việc nhà Trần cho bán công điền thành tư điền thì chế độ
sở hữu về ruộng đất đã có thêm điều kiện để phát triển mạnh mẽ, rộng khắp
và trở thành một nhân tố kinh tế mới. Từ năm 1254, nhà Trần bắt đầu thực
9
hiện chính sách tư nhân hóa ruộng đất, bắt đầu bằng việc vào tháng 6 năm
1254, triều đình ra lệnh “bán ruộng công, mỗi một diện là 5 quan tiền (bấy
giờ gọi mẫu là diện), cho phép nhân dân mua làm của tư” [11, tr. 281]. Tiền
tệ cũng đã xâm nhập mạnh mẽ vào ruộng đất. Ruộng đất trở thành hàng hóa
có thể mua bán trao đổi, do vậy mà chế độ sở hữu tư nhân được mở rộng và
phát triển mạnh. Đến khi việc mua bán ruộng đất thường xuyên hơn, triều
đình phải đưa ra qui định về thể thức làm văn tự bán hay đợ ruộng đất, như
xuống chiếu “những người mua dân lương thiện làm nô tỳ thì cho chuộc lại,
ruộng đất và nhà ở không theo luật này” [60, tr. 68]; “phát thóc công chẩn
cấp dân nghèo và miễn thuế dân đinh” [60, tr. 67]. Như vậy đến thời Trần,
ruộng đất đã thực sự biến thành hàng hóa, kích thích tầng lớp quí tộc xúc
tiến mạnh mẽ việc khai khẩn đất hoang lập điền trang, mua bán ruộng đất,
kinh doanh làm giàu. Do đó, diện tích đất của nông dân ngày càng bị thu
hẹp. Hệ quả của nó là sự phân hóa sâu sắc trong xã hội, sự bóc lột của giai
cấp phong kiến thống trị tất yếu làm bùng nổ những cuộc khởi nghĩa của
nông nô, nô tỳ, tạo ra những trở lực trên bình diện chung của nền kinh tế xã
hội thời Trần.
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với đặc trưng là chế
độ sở hữu về ruộng đất, trong thời Trần, triều đình cũng chú trọng xây
dựng các công trình thủy lợi, trị thủy, xây dựng hệ thống đê điều dọc sông
Hồng và các sông vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Như vào tháng
2 năm 1255, vua Trần Thái Tông đã “sai Lưu Miễn bồi đắp đê sông các xứ
ở Thanh Hóa” [11, tr. 282], đồng thời cho nạo vét kênh ngòi tạo điều kiện
thuận lợi để sản xuất, bảo vệ mùa màng, khắc phục thiên tai, phát triển
nông nghiệp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn chép rằng: “Mùa xuân,
tháng giêng năm 1231, sai Nội minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ
huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào từ phủ Thanh Hóa
10
đến địa giới phía nam Diễn Châu” [60, tr. 13], vào tháng 3 năm 1248, vua
Trần Thái Tông “sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê đỉnh nhĩ (quai
vạc), đắp suốt từ đầu nguồn cho đến bờ biển để giữ nước lụt tràn ngập. Đặt
chức Hà đê chính phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp vào mất bao
nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê đỉnh nhĩ (hình giống
cái quai vạc quai xanh) bắt đầu từ đấy” [11, tr. 278], tháng 2 năm 1284, vua
Trần Nhân Tông cho “vét sông Tô Lịch” [11, tr. 302] nhằm đảm bảo giao
thông và tưới tiêu cho các vùng xung quanh kinh thành. Hoặc như vào
tháng 6 năm 1248, vua Trần Thái Tông “Sai những nhà phong thủy đi xem
khắp các núi sông trong nước, chỗ nào có vượng khí thì dùng phép thuật để
trấn áp, như là đào sông Bà Mã (tức sông Mã ở tỉnh Thanh Hóa), sông Lễ
(sông Chu ở Thanh Hóa), đục núi Chiếu Bạc (thuộc huyện Hà Trung,
Thanh Hóa ngày nay) ở Thanh Hóa,v.v... còn lấp các khe kênh mở đường
ngang dọc thì nhiều không kể xiết. Đó là theo lời của Trần Thủ Độ” [11, tr.
278]. Như vậy, bên cạnh việc xây dựng và củng cố chính quyền, nhà Trần
có biện pháp nhanh chóng phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm
diện tích canh tác thì một biện pháp khuyến khích nông nghiệp, phát triển
kinh tế được nhà Trần hết sức chú trọng đó là tổ chức làm thủy lợi trên
phạm vi cả nước. Với mạng lưới sông ngòi dày đặc, các trung tâm kinh tế
văn hóa, chính trị Đại Việt đều phát triển quanh các con sông mà nhà Trần
ý thức được rằng, muốn bảo vệ mùa màng, nhà cửa, tính mạng nhân dân
một cách ổn định, lâu dài phải có quy hoạch đắp đê theo quy mô cả dòng
sông. Để thực hiện công cuộc đó, nhà nước tổ chức đắp đê trên các triền
sông và thiết lập cơ quan chuyên trách để chỉ đạo việc quản lý đê điều, như
cơ quan Hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách. Việc trị thủy hiệu quả và
tiến bộ của nhà Trần so với các triều đại khác đã có tác dụng hết sức quan
trọng trong việc phục hồi nền kinh tế đình trệ của Đại Việt cuối thời Lý và
thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, thương nghiệp về sau.
11
Kinh tế nông nghiệp phát triển đã tạo điều kiện cho sự phát triển kinh
tế công, thương nghiệp, thủ công nghiệp của nhà nước. Các quan xưởng
thủ công nhà nước chế tạo ra nhiều binh khí, đồ trang sức, đúc tiền, chuông,
xây dựng đền, đài, cung điện. Thủ công nghiệp nhân dân cũng là bộ phận
quan trọng và phổ biến trong thời Trần, nó góp phần làm nên đặc trưng của
nền kinh tế tiểu nông thời bấy giờ. Loại hình thủ công nghiệp nhân dân này
phát triển mạnh mẽ các nghề thủ công như dệt lụa, làm gốm, mỹ nghệ, v. v…
Về thương nghiệp, qua nghiên cứu bộ Đại Việt sử ký toàn thư và tư
liệu lịch sử cho thấy, sự phát triển của kinh tế nông nghiệp và thủ công
nghiệp tất yếu kéo theo hoạt động mua bán rất sầm uất, chợ lớn nhỏ mọc ở
nhiều nơi, tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội. Để thuận tiện cho
việc trao đổi mua bán hàng hóa trong xã hội, nhà Trần “xuống chiếu cho
dân gian dùng tiền “tỉnh bách” mỗi tiền là 69 đồng. Tiền nộp cho nhà nước
(tiền “thượng cung” thì mỗi tiền là 70 đồng” [60, tr. 9]. Những qui định
như vậy cho thấy chức năng thanh toán của tiền tệ thời Trần đã phát triển
rộng lớn. Quan hệ tiền tệ cũng xâm nhập vào đời sống chính trị bằng việc
nhà nước nhiều lần xuống chiếu quy định việc thu thuế, thưởng phạt bằng
tiền. Trước sự phát triển mạnh mẽ của thủ công nghiệp và thương nghiệp
thời bấy giờ, nhà nước đã đặt ra các chính sách thu thuế theo sản phẩm, đặt
ty phụ trách kho lúa để thu mua thóc lúa của nhân dân, nghiêm trị những
người thu thêm thuế lụa, trả công thợ bằng tiền, thống nhất các đơn vị đo
lường, cho đào vét sông ngòi, đắp đường, làm cầu cống, xây dựng hệ thống
giao thông đường bộ và đường thủy để dễ dàng giao lưu, buôn bán. Nhà
Trần cũng rất chú trọng xây dựng mạng lưới thương nghiệp và thành thị,
xây dựng hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy, đồng thời với việc
phát triển các phủ lộ ở đồng bằng sông Hồng, như phố Luy Lâu bên bờ
sông Dâu (Bắc Ninh), phố Lố bên bờ sông Nghĩa Trụ (Hưng Yên). Đặc biệt
12
với vị trí trung tâm rất thuận lợi cho giao lưu buôn bán, Thăng Long đã
phát triển rất sầm uất. Tận dụng những cơ sở có từ thời Lý, nhà Trần đã tu
bổ thêm và phát triển đô thành Thăng Long trở thành một trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa lớn nhất của Đại Việt thời bấy giờ. Sự phát triển của
Thăng Long đã có những ảnh hưởng, tác động đến các vùng ven, tạo sợi
dây liên kết về kinh tế, văn hóa giữa các vùng trong cả nước. Bên cạnh đó,
tận dụng mạng lưới sông ngòi dày đặc, đường bờ biển dài là mạch nối giữa
Đại Việt với các nước xung quanh và truyền thống giao thông vận tải bằng
thuyền trên sông nước của người Việt mà nhà Trần còn chú ý đến việc phát
triển các tuyến giao thông đường biển và các cảng biển như cảng Vân Đồn
(Quảng Ninh), các cảng biển ở Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa. Tất cả đã tạo những
điều kiện thuận lợi, ổn định để phát triển thương nghiệp và những ngành
nghề thủ công truyền thống thời bấy giờ.
Tóm lại, việc duy trì sự tồn tại song song hình thức công hữu (công
điền) và tư hữu (tư điền) đã giúp nhà Trần tập trung được toàn bộ của cải
và nhân lực, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thực hiện di dân, lập làng, làm
chức năng trị thủy, thủy lợi, phát triển công thương nghiệp, mở rộng giao
lưu buôn bán, trao đổi, làm cho nền kinh tế Đại Việt thực sự phát triển.
Những vấn đề kinh tế nổi bật đó cần ở giai cấp thống trị thời Trần một hệ
thống tư tưởng chính trị làm cơ sở để đề ra những chính sách kinh tế,
những quy định pháp luật hỗ trợ cho những chính sách kinh tế đó, và hơn
hết là những quan điểm chính trị thân dân, phát huy được sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, từ đó khai thác được toàn bộ sức người sức của trong dân
chúng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, chống lại địch thù trong
ngoài. Bên cạnh đó, mặc dù công thương nghiệp thời kỳ này còn phát triển
theo quy luật, trong khuôn khổ của nền kinh tế tự cấp, tự túc, trong sự ràng
buộc của địa tô phong kiến, chưa là động lực kinh tế tạo nên những mâu
13
thuẫn đối lập dẫn đến những nguy cơ có thể làm tan rã của chế độ phong
kiến, nhưng sự phát triển trên tất cả mọi lĩnh vực ấy đã bộc lộ thành những
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa hình thức công
hữu với sự chiếm dụng tư nhân về ruộng đất, mâu thuẫn trong chính sách
thu thuế, cấp chẩn cho dân chúng… Một khi xã hội đã bộc lộ nhiều mâu
thuẫn, nó sẽ đòi hỏi sự giải quyết thỏa đáng được lí luận hóa bằng một hệ
tư tưởng chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu giữ vững độc lập, tự chủ, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đại Việt thời bấy giờ.
Trên bình diện xã hội nói chung và lĩnh vực hoạt động chính trị - xã
hội nói riêng. Đại Việt bắt đầu từ thế kỷ XIII đã chứng kiến những tiến bộ
to lớn về mặt xã hội, đó là sự kiện nhà Trần thay thế nhà Lý vào tháng 12
năm 1225. Sau một thời kỳ dài huy hoàng với nhiều thành tựu nổi bật trên
mọi phương diện, nhà Lý từ đời vua Anh Tông (1138 - 1175) trở đi, nền
chính trị đã dần suy yếu, sút kém. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã nhận xét
vua Lý Anh Tông rằng: “Trong việc bỏ con nọ lập con kia, vua không mê
hoặc lời nói của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi
là không thẹn với việc gánh vác. Song không phân biệt được kẻ gian tà,
không sáng suốt trong việc hình phạt, cho nên trời xuống tai biến để răn,
giặc cướp nổi lên, giềng mối rối loạn, không thể nói xiết” [11, tr. 232]. Các
vua lên ngôi đều nhỏ tuổi, chết yểu, ham thích tiền của, như vua Lý Cao
Tông “xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực, hàng ngày cùng
cung nữ dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp giả cách không
biết” [11, tr. 254], quyền hành triều chính dần dần nằm trong tay bọn quan
lại, mọt nước, hại dân. Trong khi “Người Tống sang cướp biên giới, dân ta
khó nhọc đối phó, giặc cướp dần nổi”, thì “Vua thì thích làm tiền, các quan
phần nhiều bán quan chức buôn hình ngục” [11, tr. 254]. Cùng với sự
khủng hoảng trầm trọng của đất nước và sự suy yếu của chính quyền trung
14
ương, là sự đói khổ, lầm than của đông đảo quần chúng nhân dân, những
người đang cam chịu sự bóc lột nặng nề nhằm phục vụ cho sự ăn chơi xa xỉ
của giai cấp thống trị; cam chịu nạn mất mùa, thiên tai liên tiếp xảy ra, năm
1156 “năm ấy đói to, một thăng gạo giá 70 đồng tiền” [11, tr. 243], năm
1208, dưới thời vua Lý Cao Tông trị vì (1176 – 1210) xảy ra hiện tượng
“Đói to, xác người chết đói nằm gối lên nhau” [11, tr. 255]. Bên cạnh đó,
các thế lực phong kiến nổi lên chống lại triều đình, chém giết lẫn nhau
hòng chia sẻ quyền lực, đất đai, chẳng hạn như vào tháng 2 năm 1212, lợi
dụng việc nhà vua Lý Huệ Tông sai đi chiêu mộ dân Châu Hồng để bắt
giặc cướp, Đoàn Thượng ( cùng vú nuôi với nhà vua) và là một hào trưởng
lớn, trấn giữ đất Hồng Châu (vùng Hải Dương – Hải Phòng) và nhân “thế
nước suy nhược, triều đình không có chính sách hay, mất mùa đói kém
luôn, nhân dân cùng khổ” đã tự tiện làm oai làm phúc,… nhóm họp bè
đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể
ngăn được” [11, tr. 257-258]… Ngoài ra, ở vùng biên giới, giặc Nguyên -
Mông hùng mạnh đang ngang dọc đánh chiếm các nước lân bang và sửa
soạn đại binh để đánh chiếm Đại Việt.
Trước tình hình đó, vua Lý bất lực đã phải dựa vào các thế lực khác
nhau cuối cùng là dựa vào nhà Trần, dần dần mọi quyền hành của vương
triều Lý đều do anh em, chú cháu người họ Trần nắm giữ. Trong cảnh loạn
ly của đất nước, thế lực nhà Trần đã dần chinh phục được các lực lượng cát
cứ nổi loạn, thâu tóm được mọi quyền hành trong triều đình, thế lực nhà Lý
mất dần. Do vua Lý Huệ Tông không có con trai nối dõi tông đường, nên
xuống chiếu nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Bằng mưu lược
của mình, Trần Thủ Độ, bấy giờ là em họ hoàng hậu vua Lý, đang giữ chức
Điện tiền chỉ huy sứ, chuyên lo sắp đặt mọi việc trong triều đình, đã chuyển
triều chính từ nhà Lý sang nhà Trần một cách êm thấm. Lý Chiêu Hoàng
15
nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, triều Trần chính thức được thiết lập
(11/12/1225).
Nhà Trần ra đời đã chấm dứt tình trạng hỗn loạn xảy ra từ khi nhà Lý
suy yếu, khôi phục và củng cố chính quyền trung ương tập quyền. Đất nước
Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần, trên nền tảng xã hội được
xây dựng tương đối ổn định và vững chắc từ thời Lý, đã tiếp tục duy trì và
phát triển một chế độ xã hội ổn định với kết cấu xã hội đa dạng. Dưới thời
Trần, kinh tế nông nghiệp phát triển, việc mở rộng giao lưu buôn bán trao đổi
hàng hóa đã đem đến sự phồn thịnh trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa. Nhưng
song hành với quá trình ấy, xã hội thời Trần cũng đã diễn ra sự phân hóa
mạnh mẽ, sự biến động sâu sắc về mặt kết cấu giai cấp xã hội. Một xã hội mới
với những đẳng cấp mới đã dần được hình thành. Có thể thấy, trong gần hai
thế kỷ tồn tại, xã hội Đại Việt thời Trần đã hình thành và tồn tại ba đẳng cấp
chính, đó là đẳng cấp quí tộc, tôn thất, quan lại trong chính quyền quân chủ;
đẳng cấp những người bình dân và đẳng cấp nô tỳ. Trong giai đoạn phồn thịnh
của nhà Trần, sự phân tầng xã hội là tương đối ổn định, nhưng càng về sau, do
những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố chính trị, kinh tế, cũng như sự phát
triển tất yếu của lịch sử, mà những biến động, sự chuyển dịch và phân hóa các
giai tầng xã hội càng thể hiện rõ. Sở dĩ như vậy bởi vì, mỗi một tầng lớp tồn
tại trong xã hội đều mang những đặc điểm riêng, được qui định bởi các nhân
tố như: nguồn gốc xuất thân, địa vị chính trị trong xã hội, quyền lợi kinh tế và
mức độ hưởng thụ của cải xã hội… Đặc biệt, “một điều đáng lưu ý hơn nữa là
mỗi tầng lớp xã hội thời Trần đều mang đậm dấu ấn thời đại cùng với những
đặc điểm khác biệt, không hoàn toàn giống những người cùng giai tầng xã hội
với họ ở những thời đại trước hoặc sau đó” [48, tr.102].
Trước hết, trong nội bộ giai cấp thống trị đã phân hóa thành hai tầng
lớp, đó là tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần và tầng lớp địa chủ quan liêu,
16
mà cụ thể là các nho sĩ trong bộ máy quản lí (nho quan) của nhà Trần. Đây
là hai tầng lớp có sự khác nhau về kinh tế và địa vị xã hội, bao gồm nhà
vua, các vương hầu quý tộc và quan lại các cấp. Trong kết cấu đẳng cấp,
nhà vua giữ vai trò đặc biệt, là người đứng ở vị trí trung tâm cộng đồng, có
quyền sở hữu tối cao về danh nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất, tài sản của
đất nước; lãnh đạo và điều hành mọi công việc của nhà nước, từ kinh tế,
chính trị đến văn hóa, quân sự… Đặc biệt, ở thời Trần, vị trí độc tôn này cùng
do vua và Thái thượng hoàng nắm giữ. Tất cả các vua chỉ ở ngôi một số năm
rồi nhường ngôi cho con và lên làm Thái thượng hoàng. Việc làm này nhằm
đảm bảo vững chắc vị trí và khả năng nắm giữ chính quyền của dòng họ nhà
Trần, tránh những vụ tranh chấp ngai vàng trong hoàng tộc, đồng thời tập sự
cho vua trẻ điều hành việc triều chính. Trên danh nghĩa, họ giữ vai trò “cố
vấn” cho vua trẻ, song thực chất, Thái thượng hoàng là người quyết định mọi
công việc của quốc gia. Theo lời bàn của Ngô sĩ Liên: “Con đã lớn thì cho nối
ngôi chính, cha lui ở cung Thánh từ, xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi
chính sự. Thực ra chỉ truyền ngôi để yên việc về sau, phòng khi thảng thốt mà
thôi, chứ mọi việc đều do Thượng hoàng quyết định. Vua nối ngôi không
khác gì Hoàng thái tử cả.” [60, tr. 31]. Tóm lại, “ở thời Trần, trên nguyên tắc,
quyền lực nhà vua là độc tôn, tuyệt đối, toàn diện và đa chức năng. Nhưng đó
chưa phải là một hiện tượng độc đoán chuyên chế, mà là một sự tập trung
quyền lực và thống nhất quản lí cần thiết” [49, tr. 284]. Chính vì vậy trong
một thời gian tương đối dài, các vua Trần đã có khả năng tập hợp được đông
đảo nhân dân, được nhân dân tin yêu, chung sức, đồng lòng, tiến hành thắng
lợi công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội cũng như chống ngoại xâm, sáng tạo
nên những giá trị rực rỡ của nền văn minh Đại Việt.
Đứng dưới vua, trong giai cấp thống trị là đẳng cấp thượng lưu cầm
quyền. Đó là khối vương hầu quí tộc tôn thất quan liêu gần gũi, giúp việc
17
cho vua cai trị đất nước. Bộ phận tôn thất nắm giữ những chức vụ cao nhất
trong triều đình, có ruộng phong, có trang ấp, phủ đệ, gia nô, nô tỳ với số
lượng lớn. Họ là những người thân thích của nhà vua. Khi một dòng họ
nắm trong tay chính quyền, việc quí tộc tôn thất phải nắm trọn vẹn tất cả
những chức vụ cao nhất trong triều đình đã trở thành quốc sách. Tháng 3
năm 1267, Trần Thánh Tông đã đặt ra cả một hệ thống tôn thất “kim chi
ngọc diệp” (cành vàng lá ngọc), dựa theo tiêu chuẩn “ngũ phục” để ấn định
họ hàng xa gần và cũng để qui định các tước hiệu khác nhau: “Tháng 3,
định lệ phong ấm cho hoàng tông, chính phái ngọc điệp của vương hầu
công chúa gọi là kim chi ngọc diệp; cháu ba đời được phong làm hầu và
quận vương, cháu bốn đời được tước minh tự, cháu năm đời được tước
thượng phẩm, tước y theo bản đồ năm bậc tang (3 năm, 1 năm, 9 tháng)”
[11, tr. 292]. Và rút kinh nghiệm từ triều Lý, để đề phòng nạn ngoại thích,
nhà Trần đã cho thi hành chế độ hôn nhân đồng tộc có một không hai trong
lịch sử, nhằm củng cố chặt chẽ mối liên hệ huyết thống, biến nó thành một
tập đoàn thống trị độc quyền gia đình trị có cùng chung một lợi ích, gắn bó
mật thiết cùng nhau. Về vấn đề này, như vào tháng 1 năm 1268, vua Trần
Thánh Tông đã từng nói với người tôn thất rằng: “Thiên hạ là thiên hạ của
tổ tông, người nối nghiệp tổ tông nên cùng với anh em trong họ hưởng phú
quý; tuy bên ngoài thì là cả thiên hạ phụng sự một người tôn quý, nhưng
bên trong thì ta cùng với các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui
thì cùng vui, các khanh nên lấy câu nói ấy mà truyền cho con cháu để nhớ
lâu đừng quên, thế là phúc muôn năm của tôn miếu, xã tắc vậy” [11, tr.
292]. Như vậy, có thể nói, dưới thời Trần, tầng lớp quí tộc tôn thất đã giữ
một vai trò quan trọng, cùng với vua điều hành đất nước, tạo nên phương
thức cai trị chuyên chế dòng họ điển hình. Phương thức này thích ứng trong
một cơ chế phong kiến tập quyền mới được thành lập, tạo nên một thế lực
18
trung thành vừa được gắn bó bởi quan hệ huyết thống, vừa bị ràng buộc bởi
quan hệ vua tôi trong bộ máy chính quyền phong kiến quan liêu. Tuy vậy,
khi đất nước đi vào sự ổn định, phát triển thì đòi hỏi nhà Trần phải có một
sự quản lí, điều hành những công việc của đất nước một cách qui mô, toàn
diện hơn, nhất là về mặt hành chính và chuyên môn. Do đó, hệ thống quan
liêu cũng phải không ngừng được mở rộng, tầng lớp quý tộc quan liêu phải
được ra đời nhằm đáp ứng hiệu quả những nhu cầu mới của đất nước. Họ
chủ yếu là các nho sĩ và quan lại không thuộc dòng họ nhà Trần, không
được phong cấp đất đai và cũng không có nô tỳ. Họ được tuyển chọn chủ
yếu thông qua chế độ khoa cử Nho học. Các vua nhà Trần “chọn những
nho sinh hay chữ, bổ sung vào các, quán, sảnh, viện. Nguồn văn học được
giữ quyền bính bắt đầu từ đây” (năm 1267) [11, tr. 292]; tháng 9 năm 1253
và tháng 10 năm 1272, “xuống chiếu tìm người hiền lương (tài giỏi và có
đạo đức) thông hiểu kinh sách làm tư nghiệp Quốc tử giám, người biết
giảng tứ thư ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách” [11, tr. 294]. Do vậy,
thành phần này vừa là những người phục vụ trực tiếp cho vua, vừa cùng
vua bàn luận, điều hành công việc chung của đất nước. Mặc dù ban đầu, họ
chỉ giữ những chức quan chuyên môn thuộc viện, sảnh mà chưa phải là các
chức quyền lãnh đạo, nhưng sử cũ đã ghi nhận: “Theo chế độ cũ, không
phải là nội nhân (hoạn quan), thì không được làm chức hành khiển, chưa
từng dùng người văn học (tức nho sĩ). Người văn học được giữ quyền bính
bắt đầu từ đây” [11, tr. 292]. Dần dần, cùng với sự xâm nhập và ảnh hưởng
ngày càng sâu rộng của Nho giáo, các nho sĩ đời Trần đã được bổ sung
ngày một nhiều vào tầng lớp quan liêu. Cho đến tháng 8 năm 1323, “Bấy
giờ quan ở trong triều như bọn Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ Thiên
Hứ, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung
Ngạn, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Lê Duy, Trương Hán Siêu, Lê Cư Nhân
19
nối nhau làm quan, nhân tài đầy dẫy” [11, tr. 357]. Như vậy, việc các nho sĩ
thời Trần xâm nhập ngày càng nhiều vào hàng ngũ quý tộc quan liêu, tiến
lên nắm giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình và bộ máy nhà
nước các cấp đã góp phần củng cố vững chắc hệ thống chính quyền nhà
nước, mang những tư tưởng của Nho giáo vào làm cho nó ngày càng đậm
dần tính chất quan liêu, chuyên chế, đồng thời cũng làm nhạt dần tính chất
quí tộc trong đẳng cấp quan liêu. Theo thời gian, họ thực sự dần trở thành
những người điều hành bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Như vậy, giai cấp thống trị nhà Trần mang trong mình tất cả những
đặc quyền, đặc lợi của một đẳng cấp thống trị phong kiến bóc lột, có một
lối sống khác biệt về cơ bản với đông đảo quần chúng nhân dân. Mặc dù
vậy, dưới thời Trần, tầng lớp quí tộc quan liêu vẫn chưa hoàn toàn thoái
hóa, họ vẫn đóng vai trò nhất định, quan trọng trong công cuộc bảo vệ, xây
dựng đất nước. Tuy nhiên, do sự khác nhau về kinh tế và địa vị xã hội như
đã đề cập ở trên, do sự khác nhau về những ràng buộc với triều đình, cũng
như những mâu thuẫn về tư tưởng dần nảy sinh trong quá trình phát triển;
hai tầng lớp quí tộc tôn thất và địa chủ quan liêu cũng đòi hỏi ở nhà Trần
một lý luận chính trị để liên kết họ thành một khối vững chắc, để có thể sử
dụng được tài năng trí tuệ của họ, đồng thời củng cố, bảo vệ được ngai
vàng của dòng họ mình.
Xã hội Đại Việt dưới thời Trần, bên cạnh sự hình thành tầng lớp quí
tộc tôn thất, quan liêu là sự mở rộng tầng lớp bình dân bao gồm ngoài đông
đảo những người nông dân sống trong các làng xã, là thợ thủ công và
thương nhân sống chủ yếu ở các đô thị hay các làng nghề truyền thống, là
các nho sĩ, sư tăng hay đạo sĩ… Phần lớn các tầng lớp này là lực lượng sản
xuất chính làm ra của cải vật chất cho xã hội, đồng thời gánh vác hầu hết
các nghĩa vụ xã hội như: nộp tô thuế cho nhà nước, đắp đê chống lụt, tham
20
gia quân đội… Từ thế kỷ XIV trở đi, cùng với quá trình phát triển thì sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc trong xã hội, xuất hiện việc chiếm
đoạt ruộng đất nông dân của quý tộc như “Trần Thị Thái Bình là cung tần
của Thượng hoàng, tính tham lam, thường chiếm đoạt ruộng đất của nhân
dân” [60, tr. 102], sự kiệt quệ của quốc khố do mất mùa, thiên tai và chiến
tranh thuế má tăng cao mà nhiều nông dân bị bần cùng hóa. Trong những
năm đói kém, họ nổi lên cướp bóc, năm 1317 “bấy giờ trộm cướp bắt đầu
nổi lên” [60, tr. 102], và trở thành những người xiêu tán, khiến cho cộng
đồng nông thôn làng xã vốn được tạo dựng lâu đời, là nền móng kinh tế xã
hội của nhà nước phong kiến thời Trần thì giờ đây không còn thật sự vững
chắc. Như vậy, không chỉ có sự biến động trong nội bộ giai cấp thống trị
mà trong nội bộ dân chúng, cơ cấu về đẳng cấp và sự phân tầng xã hội cũng
không ngừng biến động. Do đó xét về quan hệ giai cấp, họ là tầng lớp bị
bóc lột; xét về cơ chế đẳng cấp, họ là đẳng cấp bên dưới và bị thống trị, bị
bóc lột.
Tầng lớp nông nô, nô tỳ do nhu cầu phục dịch cho quí tộc thống trị, do
bộ phận nông dân làng xã bị bần cùng hóa, mà tầng lớp này được hình
thành. Họ là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội, là lực lượng lao động chủ
yếu trong các đại điền trang, thái ấp của quí tộc tôn thất nhà Trần. Chế độ
điền trang, thái ấp ngày càng phát triển thì tầng lớp nô tỳ ngày càng đông
đảo; mỗi vương hầu, tôn thất đều nuôi nhiều nô tỳ. Tuy nhiên, tầng lớp
nông nô, nô tỳ không hoàn toàn lệ thuộc vào chủ, có tự do nhân thân, có gia
đình và tài sản riêng, có thể chuộc lại thân phận bằng tiền để trở thành quan
nô. Ngoài nghĩa vụ trung thành tuyệt đối, sống chết với chủ, họ còn có
nghĩa vụ với nhà nước, tiêu biểu như Yết Kiêu, Dã Tượng là gia nô của
Hưng Đạo Vương, tham gia chiến đấu chống ngoại xâm và lập nhiều thành
tích. Họ cùng các tầng lớp khác đoàn kết, tạo sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
21
Với kết cấu xã hội như thế, xã hội Đại Việt dưới thời Trần đã trải qua một
thời kỳ ổn định và phát triển lâu dài. Mặc dù giữa các tầng lớp có sự phân
biệt về địa vị chính trị, quyền lợi kinh tế, trách nhiệm xã hội… nhưng nó
chưa tạo ra hố sâu ngăn cách về đẳng cấp quá rạch ròi, không tạo thành
những mâu thuẫn xã hội gay gắt, phá vỡ sự đoàn kết, đe dọa sự bình ổn của
thể chế chính trị.
Tóm lại, sự khôi phục và phát triển trên nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp cùng với sự phân
hóa tương đối ổn định về kết cấu giai cấp trên bình diện xã hội đã tạo
cho nước Đại Việt thời Trần một thế nước vững mạnh. Sự hưng thịnh
ấy một mặt đã được thể hiện đậm nét trong đường lối trị nước của các
vua Trần; mặt khác, nhà nước và nhân dân thời kỳ này cần đến một lý
luận chính trị mới được xây dựng vừa dựa trên nhu cầu củng cố, khôi
phục và phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội, vừa dựa trên những
chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị, lấy quan hệ gần gũi, chan
hòa thân tình giữa nhân dân và vua quan làm cơ sở để đề ra những chủ
trương, chính sách kinh tế - xã hội phù hợp với tình hình phát triển và
để dưới nền tảng lý luận ấy, các tầng lớp nhân dân đều có thể cống hiến
hết sức lực, tài năng cho sự nghiệp xây dựng đất nước và để các vua
Trần có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp của dân tộc với tinh thần
“vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt”
[11, tr. 330], tạo thành một khối vững chắc làm nên sự ổn định và đạt
nhiều thành tựu của xã hội Đại Việt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa… và đặc biệt là ba lần đại thắng kẻ thù hung bạo, tô
đậm nét vàng son cho đất nước.
Cũng như nhà Lý trước kia, sau một thời kỳ thịnh trị, cuối nhà Trần
mà rõ nhất là từ thời vua Trần Dụ Tông trị vì (1341 – 1369) trở đi, thế chao
22
đảo trong xã hội lại xuất hiện. Khi đất nước đã hòa bình, độc lập, mâu
thuẫn giữa dân tộc với xâm lược ngoại bang đã tạm dịu đi, thì những mâu
thuẫn vốn có mầm mống từ trong nội bộ giai cấp thống trị lại bộc lộ và
ngày càng gay gắt. Sự sa đọa của tầng lớp thống trị, nạn ngoại thích và
những cuộc tranh chấp phe phái đã làm cho hệ thống vua quan đi dần đến
tình trạng khủng hoảng. Gay gắt hơn cả là mâu thuẫn giữa quý tộc tôn thất
nhà Trần và tầng lớp địa chủ quan liêu. Chế độ đại điền trang đã làm cho
tầng lớp quí tộc quan liêu ngày càng xâm phạm nhiều đến chế độ công hữu
ruộng đất làng xã. Họ xa rời việc quản lí nhà nước, lao vào làm giàu, dần
dần mất hết uy tín, không có năng lực. Việc vua Trần Anh Tông cho
Đoàn Nhữ Hài (nho sĩ) làm tri khu mật viện sự mà không cho quí tộc
tôn thất Bảo Hưng Vương dù được “rất yêu mến nhưng không được đặt
vào chức quan trọng vì không có tài” [60, tr. 123] cũng là vì lẽ đó. Mặt
khác, tình trạng nông dân mất đất, bị bần cùng hóa với số lượng ngày
càng nhiều đã phá hoại nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống cộng
đồng làng xã. Bên cạnh đó, hàng ngũ nho sĩ ngày càng đông đảo, vai
trò ảnh hưởng của họ ngày càng trở nên cần thiết và được khẳng định
đã dần nắm các công việc quản lí hành chính nhà nước quan trọng. Một
khi nhà nước không còn khả năng bảo vệ và chăm lo đời sống nhân dân,
tạo ra sự bình ổn, hài hòa giữa các giai tầng xã hội thì sự bùng nổ
những cuộc đấu tranh giai cấp, những cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của
quần chúng nhân dân là một tất yếu. Thực tiễn xã hội như thế đã đặt ra
cho giai cấp thống trị nhiệm vụ phải xác định một hệ tư tưởng lí luận
chính trị đáp ứng nhu cầu giải quyết ổn thỏa những mâu thuẫn gay gắt
nảy sinh trong xã hội lúc này.
23
1.1.2. Nhu cầu và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra của quốc gia Đại Việt
thời Trần
Sự hình thành và phát triển về nội dung và tính chất của một tư tưởng
bao giờ cũng có mối liên hệ mật thiết với những nhu cầu xã hội. Một khi
lịch sử, xã hội đặt ra những vấn đề, nhu cầu và nhiệm vụ đòi hỏi con người
phải giải quyết; khi đó những quan điểm, tư tưởng của con người được
hình thành để đáp ứng nhu cầu và nhiệm vụ thực tiễn của xã hội ấy. Xã hội
Đại Việt thời Trần cũng vậy, sự ra đời và phát triển của tư tưởng chính trị -
xã hội chủ yếu là nhằm đáp ứng nhu cầu của công cuộc dựng nước và giữ
nước, nhu cầu củng cố trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp phong
kiến đương thời.
Nhu cầu thống nhất về chính trị - xã hội và phát triển nền văn hóa Đại Việt
Là một triều đại vừa được thiết lập, giai cấp quý tộc tôn thất nhà Trần
muốn đứng vững trên ngai vàng để điều hành đất nước thì không có con
đường nào khác ngoài việc nhanh chóng ổn định trật tự xã hội và thống
nhất về tư tưởng chính trị. Qua các bộ Quốc sử cho thấy ngay sau khi nhà
Trần được thiết lập, có được ngôi báu, Trần Thủ Độ cùng với tôn thất nhà
Trần cùng nhau chung sức thực hành pháp trị để đè bẹp các thế lực cát cứ
trong nước, chấn hưng kinh tế, đại xá dân chúng, cải tổ lại bộ máy thống trị
điều hành đất nước từ trung ương đến địa phương và chuẩn bị lực lượng
đối phó với nguy cơ ngoại xâm… Như vậy, với động thái chính trị rất phổ
biến mà các triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử đã thực hiện đó là
chuyển giao quyền lực từ dòng họ này sang dòng họ khác, mà nhà Trần đã
có được thiên hạ. Đó cũng đồng thời là biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu
thống nhất đất nước, ổn định chính trị lúc bấy giờ. Nhu cầu đó buộc giai
cấp thống trị thời Trần phải cần đến một lý luận chính trị vừa khôn khéo,
vừa kiên quyết để chấm dứt sự thống trị của vương triều cũ, dẹp yên các
24
cuộc nổi dậy của các thế lực cát cứ, cướp giết trong nước, khôi phục và
phát triển nền kinh tế đang hết sức trì trệ; chuẩn bị lực lượng quân sự để
đối phó với kẻ thù ngoại bang đang chuẩn bị xâm lược Đại Việt.
Nhu cầu củng cố trật tự xã hội, duy trì địa vị thống trị và bảo vệ lợi
ích của giai cấp cầm quyền
Nhà Trần cũng như các triều đại phong kiến khác ở Việt Nam đều
quan tâm đến nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước trung ương
tập quyền sao cho ngày càng lớn mạnh, vừa duy trì địa vị thống trị và đảm
bảo quyền lợi của giai cấp thống trị, vừa tạo ra một xã hội phong kiến có
trật tự và ổn định. Bên cạnh đó, để đáp ứng xu thế phát triển tất yếu của
lịch sử, thì nhiệm vụ tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước của một quốc
gia độc lập được đặt ra một cách khẩn thiết. Dựa trên những nền móng đầu
tiên dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, nhà Lý đã tổ chức một nhà nước
phong kiến tập quyền có quy mô, bước đầu đi vào quy củ và từng bước
hoàn thiện, nhà Trần nhiều lần ra sức kiện toàn bộ máy chính quyền chuyên
chế với những cơ quan hành chính chuyên trách từ trung ương đến địa
phương (được định vị trong các bộ Quốc triều thông chế và Quốc triều
thường lễ - soạn vào năm 1230 để thực hiện); biên soạn các điều luật thành
văn quy định cụ thể các công việc xử phạt, khen thưởng của triều đình cũng
như trong việc cai trị, quản lý xã hội (như định các điều về hình luật vào
năm 1244 và vào tháng 8 năm 1341, sai hai nho quan là Nguyễn Trung
Ngạn và Trung Hán Siêu khảo soạn bộ Hình thư,…); nhiều lần định lại và
bổ sung quy chế thi cử, lựa chọn nguồn nhân sự cho triều đình, coi trọng
binh pháp, kỹ thuật quân sự và chế độ tuyển duyệt, huấn luyện quân binh
phục vụ cho những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Và chỉ có như
thế, nhà nước trung ương tập quyền dưới thời nhà Trần mới có khả năng
thống nhất được quốc gia, chống kẻ thù xâm lược, tiến hành khôi phục và
25
phát triển kinh tế, đạt được những thành tựu rực rỡ của văn minh Đại Việt.
Nhà nước phong kiến thời Trần được hình thành và phát triển thì giai cấp
phong kiến Việt Nam cũng ngày càng trưởng thành hơn với tư cách là giai
cấp thống trị. Và để củng cố quyền lợi, địa vị thống trị của mình, phát triển
những quan hệ kinh tế và xã hội có ích cho sự tồn tại của mình, giai cấp
phong kiến thống trị thời Trần lập ra những qui chế, luật pháp phong kiến
và không ngừng hoàn thiện chúng cho phù hợp với tinh thần kinh tế - xã
hội Đại Việt, hòa hợp với tư tưởng của mọi tầng lớp nhân dân. Vì lẽ đó,
nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
cùng với sự trưởng thành của giai cấp phong kiến Việt Nam đặt ra những
đòi hỏi cấp thiết sự hình thành các quan điểm, những nhận thức lí luận về
mặt chính trị nhằm chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn của chế độ phong kiến
và nhân dân Đại Việt dưới thời Trần.
Nhu cầu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích
quốc gia
Với những thành tựu trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ
nền độc lập, tự chủ của dân tộc, thời Trần được xem là một giai đoạn phát
triển đặc biệt trong lịch sử Việt Nam với ba cuộc kháng chiến anh dũng
chống quân Nguyên Mông. Dưới thời vua Trần Thái Tông và Trần Nhân
Tông, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (1258),
cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288)
thắng lợi đã nâng cao vị thế nhà Trần trong lịch sử, hun đúc và bồi đắp ý
chí quật cường, anh dũng của dân tộc ta. Để thực hiện nhiệm vụ lịch sử có
ý nghĩa sống còn và bao trùm, chi phối các nhiệm vụ khác ấy, nhà Trần
không ngừng khẳng định nền độc lập thiêng liêng và bất khả xâm phạm của
đất nước ta qua những chiến công lẫy lừng trước quân xâm lược với những
anh hùng hào kiệt mà tiêu biểu là mưu lược và cách thức tổ chức quân đội,
26
năng lực huấn luyện quân sự tài tình của thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn
và trên hết là với tinh thần đồng lòng, chung sức của toàn thể vua tôi, tướng
lĩnh và nhân dân Đại Việt thời Trần. Tinh thần yêu nước nồng nàn ấy của
vương triều thời Trần và nhân dân Đại Việt tất yếu phải được phản ánh vào
trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, phải trở thành những quan điểm và nhận
thức lí luận về chủ quyền đất nước. Những bài học kinh nghiệm từ các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, là để giành thắng lợi, nhân dân ta phải chấp
nhận những mất mát to lớn, cần phải được đúc kết về mặt lí luận, trở thành
những nguyên lí chung soi đường cho công cuộc dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta trong quá trình phát triển của mình. Do vậy, nó thực sự trở
thành nhu cầu xã hội - nhu cầu của công cuộc dựng nước và giữ nước cho
sự phát triển của tư tưởng chính trị thời Trần.
1.2. Tiền đề lý luận hình thành tƣ tƣởng chính trị - xã hội thời Trần
Tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần không chỉ chịu sự quy định bởi
các điều kiện và nhu cầu xã hội dưới thời Trần, mà còn tiếp thu những giá
trị tư tưởng truyền thống của dân tộc và của Phương Đông như tư tưởng
của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam với việc hình thành tư tưởng
chính trị - xã hội thời Trần
Tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần được hình thành xuất phát từ văn
hóa truyền thống của dân tộc ta, với ba nội dung tiêu biểu là: Ý thức độc
lập dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đoàn kết dân tộc.
Ý thức độc lập dân tộc là ý thức về chủ quyền quốc gia, là ý thức
giành và giữ độc lập, tự do của dân tộc, là ý thức xây dựng một quốc gia
độc lập, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu và hành động xâm lược của kẻ
thù. Từ người anh hùng làng Gióng trong buổi bình minh lịch sử, từ An
Dương Vương, Hai Bà Trưng giương cao ngọn cờ độc lập, tự chủ đến trận
27
Bạch Đằng lịch sử năm 938 của Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm
lược, mở đầu thời kì độc lập, tự do của đất nước đã khẳng định ý thức độc
lập tự chủ của dân tộc ta có từ rất sớm. Kế thừa tinh thần hào hùng ấy, lịch
sử của dân tộc tiếp tục ghi thêm nhiều chiến công hiển hách qua kháng
chiến chống Tống thắng lợi của nhân dân Đại Việt, trong tiếng âm vang
bốn cõi của bài thơ thần đánh giặc cứu nước, đồng thời là tuyên ngôn độc
lập sau hơn ngàn năm Bắc thuộc của Lý Thường Kiệt:
“ Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa:
Sông núi nước Nam hoàng đế nước Nam ở,
[Ranh giới] đã phân định rạch ròi ở sách trời
Sao quân giặc [kia dám] đến xâm phạm?
Bọn bay cứ thử xem, sẽ chuốc lấy bại vong” [54, tr. 321].
Ở đây, vấn đề độc lập chủ quyền của dân tộc đã được trịnh trọng tuyên
bố một cách đanh thép, là một bước tiến dài trên con đường tự khẳng định
mình, khẳng định một quốc gia độc lập, tự chủ, có vua ngang hàng với
phong kiến phương Bắc, khẳng định chủ quyền thiêng liêng và bất khả xâm
phạm, phản ánh khát vọng bình đẳng và tự do của dân tộc ta.
Ý thức độc lập dân tộc còn được thể hiện ở việc dân tộc ta luôn bảo vệ
các di sản văn hóa dân tộc, những giá trị truyền thống mà ông cha để lại.
Suốt một ngàn năm Bắc thuộc, âm mưu của các thế lực phương Bắc là
đồng hóa nhân dân ta về tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán, văn hóa, tư
tưởng với hàng loạt chính sách và biện pháp thâm độc nhằm mục đích cuối
cùng là biến nước ta thành quận huyện của phong kiến phương Bắc và xóa
28
bỏ nền văn hóa Việt. Trong suốt một ngàn năm ấy, dù chịu sự đô hộ, áp
bức, bóc lột dưới nhiều hình thức nhưng dân tộc ta kiên trì đấu tranh không
khoan nhượng, thế hệ trước thất bại ngã xuống thì thế hệ sau đứng lên, tiếp
tục giương cao ngọn cờ độc lập, tự chủ. Những chính quyền độc lập dù non
trẻ được thiết lập sau các cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng, Lý Bí, Phùng
Hưng… lãnh đạo đã củng cố thêm tinh thần tự cường của dân tộc, làm lớn
mạnh ý thức tự chủ dân tộc của nhân dân, tiếp thêm sức mạnh cho các
phong trào yêu nước ngày càng mạnh mẽ và rộng lớn hơn của dân tộc ta kể
từ thế kỷ X. Thời Trần, quân và dân Đại Việt tiếp nối và phát huy truyền
thống vẻ vang của toàn dân tộc trong suốt thời kì dựng nước và giữ nước,
đã làm nên chiến thắng oanh liệt trước quân xâm lược Nguyên- Mông.
Lòng yêu nước nồng nàn được hình thành và củng cố, được phát triển
và phát huy từ đời này sang đời khác của dân tộc ta. Lòng yêu nước của
dân tộc được hình thành từ tình yêu gia đình, quê hương, cộng đồng làng
xã phát triển dần lên là tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Tinh thần
yêu nước của dân tộc Việt Nam gắn liền với ý thức cộng đồng dân tộc,
được thể hiện song hành với lòng tự hào và tự tôn dân tộc, khẳng định độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ. Yêu nước không chỉ là cứu con người ra khỏi
chiến tranh, loạn lạc mà còn là cứu người, tức nhân dân khỏi những nỗi khổ
nhật hàng ngày. Do vậy, yêu nước còn được thể hiện ở những tư tưởng và
chính sách của bậc minh quân và của giai cấp thống trị để nhân dân được
ấm no, hạnh phúc. Thời Trần, đặc biệt hơn là giai cấp quý tộc phải chủ
động điều hòa mâu thuẫn giữa các giai cấp, đặt lợi ích của họ tộc mình
ngang bằng lợi ích của dân tộc trước nhiệm vụ thiêng liêng là vừa xây dựng
đất nước, vừa ba lần chống sự xâm lược của quân Nguyên - Mông hùng
mạnh. Do vậy mà lòng yêu nước được thể hiện hào hùng trong cuộc kháng
chiến của dân tộc, trong tư tưởng sáng suốt của các minh quân như Trần
29
Nhân Tông, trong khí tiết khảng khái của các anh hùng như Trần Quốc
Tuấn yêu cầu vua chém đầu mình trước rồi hãy hàng giặc, Trần Bình Trọng
bị bắt vẫn hiên ngang “thà làm quỷ nước Nam chớ không thèm làm vương
đất Bắc”, quân sĩ thời Trần tự mình thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát”
(giết quân Mông Cổ) để tỏ lòng quyết tâm đánh đuổi giặc thù. Yêu nước
đồng nghĩa với yêu nhân dân, hướng con người đến cái tâm thanh tịnh, bao
dung, nhân ái, nhiều vua Trần đều tu thiền “dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (tức
lấy cái tâm của chúng sinh làm cái tâm của mình trong hoạt động trị nước,
làm tấm gương đạo đức để giáo hóa cho dân chúng noi theo)… Tất cả đã
làm nên chủ nghĩa yêu nước như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, làm
nên nét đặc trưng của tư tưởng chính trị thân dân thời Trần.
Tinh thần đoàn kết dân tộc, cố kết toàn dân để “trùng hưng” sự nghiệp
sáng ngời từ thuở trước. Tinh thần đoàn kết giúp nhân dân ta tập hợp và
đoàn kết được sức mạnh toàn dân tộc. Sức mạnh ấy giúp dân tộc Việt thiết
lập chủ quyền lãnh thổ, chống ngoại xâm, chống đồng hóa, Hán hóa, xây
dựng và phát triển đất nước. Đến thời Trần, bài học về tinh thần đoàn kết
được vua tôi, tướng lĩnh nhà Trần vận dụng triệt để. Để tạo dựng và khơi
dậy được tinh thần đoàn kết trong nhân dân, nhiều vua Trần sống gần gũi
với nhân dân, lo với nỗi lo thiên hạ (dữ thiên hạ đồng ưu), vui với nỗi vui
thiên hạ (dữ thiên hạ đồng lạc), đề ra những chính sách thân dân để tạo
niềm tin cho nhân dân, tạo sự phát triển vượt bậc về kinh tế, chính trị xã hội,
đem lại ấm no cho nhân dân Đại Việt. Vì lẽ đó mà khi giặc Nguyên –
Mông xâm lược, được nhà vua mời về kinh thành (hội nghị ở thềm điện
Diên Hồng) để hỏi kế đánh giặc, các bô lão đã đồng thanh hô vang “quyết
đánh”. Tinh thần ấy lan truyền khắp cả nước, tạo thành một khối đại đoàn
kết, quyết tâm đánh giặc, cứu nước. Bên cạnh đó, như trên đã trình bày,
giai cấp thống trị thời Trần cũng ý thức sâu sắc rằng, muốn nên nghiệp lớn,
30
bản thân nội bộ dòng tộc phải gắn kết chặt chẽ với nhau bằng quan hệ
huyết thống, bằng lợi ích kinh tế, chính trị. Bởi vậy mà nhà Trần chủ
trương kết hôn đồng tộc, đùm bọc, thương yêu, ban cấp đất đai cho các
vương hầu, tôn thất, khuyên các tôn thất xem thiên hạ là của tổ tông mà nối
nghiệp, cùng anh em trong họ hưởng phú quý, vua và khanh lo cùng lo, vui
cùng vui…
Có thể thấy, đất nước Việt Nam, con người Việt Nam với một tinh
thần hòa dịu đã sớm biết bồi đắp cho vốn nhân bản của mình bằng sự tiếp
cận có ý thức và chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Trong tiến
trình phát triển, chúng ta đã tiếp xúc, giao lưu với nhiều luồng văn hóa lớn,
không chỉ khác mà còn rất khác nhau. Trên cơ sở ý thức dân tộc và tinh
thần tự cường, nhưng không bảo thủ, đóng kín, nhân dân ta đã biết kết hợp
truyền thống dân tộc với cái hay, cái đẹp của những luồng tư tưởng văn hóa
ngoại nhập, cải biến nó, làm cho nó trở thành giá trị văn hóa bản địa mang
đậm màu sắc dân tộcViệt Nam. Văn hóa bản địa đậm đà bản sắc văn hóa
Việt Nam là sức mạnh gắn kết các dân tộc trong nước, tạo nên một khối
thống nhất qui tụ vào một chính quyền trung ương duy nhất của nhà nước
quân chủ dưới các vương triều Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần. Vì vậy, chắc chắn,
nó là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng chính trị
- xã hội thời Trần.
Tư tưởng Nho - Phật - Đạo với việc hình thành tư tưởng chính trị -
xã hội thời Trần
Cùng với ý thức tự hào dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần
đoàn kết dân tộc làm nên văn hóa bản địa rất riêng được bồi đắp trong suốt
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thì sự du nhập của
các trào lưu tư tưởng khác điển hình là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đã
trở thành nhân tố tinh thần tiêu biểu, ảnh hưởng tới hệ tư tưởng thời kỳ này
31
nói chung, tư tưởng chính trị - xã hội nói riêng. Những tư tưởng tôn giáo
này tạo thành những luồng tư tưởng bên ngoài được dân tộc Việt tiếp biến,
làm giàu thêm cho nền tảng tư tưởng của dân tộc và thực sự trở thành tiền
đề lý luận cho việc hình thành, phát triển của tư tưởng chính trị - xã hội
thời Trần. Trải qua không ít thăng trầm trong tiến tình du nhập lâu dài để
dành chỗ đứng trong đời sống tư tưởng của người dân Việt, mỗi tôn giáo có
lối đi riêng với những hình thức khác nhau, có khi ôn hòa, có khi gay gắt.
Tuy nhiên, khi du nhập vào nước ta, các tôn giáo đã dần hòa mình với
truyền thống bản địa của dân tộc Việt Nam, và bản thân chúng cũng dung
hợp lẫn nhau trên cở sở “tam giáo đồng nguyên”, hình thành nên một hệ tư
tưởng chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của nhân dân ta, nhất là hệ
Phật giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm, chủ yếu bằng hai con
tư tưởng chính trị.
đường: đường bộ từ phương Bắc xuống và đường biển theo chân những
người lái buôn, những ông thầy người Ấn, lập nên trung tâm Phật giáo Luy
Lâu. Bằng con đường như vậy mà thông qua Phật giáo, ảnh hưởng của văn
hóa Ấn Độ là một đối trọng của văn hóa Trung Hoa trên đất Việt, làm trung
hòa ảnh hưởng khá mạnh mẽ của văn hóa Trung Hoa. Cùng với cơ tầng văn
hóa Việt cổ, nó góp sức ngăn chặn khuynh hướng đồng hóa của văn minh
Trung Hoa, đồng thời hội nhập vào văn hóa Việt, làm giàu văn hóa Việt,
góp phần làm nên cái khác của văn hóa Việt Nam so với văn hóa Trung
Hoa. Do phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, với tư tưởng giáo lý
của mình, đạo Phật dễ dàng chung sống với phong tục tập quán của nhân
dân bản địa.
Thuyết “nhân quả” của đạo Phật đồng điệu với những quan niệm dân
gian của người Việt như “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành”,… Bên cạnh đó,
32
thuyết “từ bi” của đạo Phật lại phù hợp với lòng nhân hậu, tương thân
tương ái, mà thế hệ người Việt đi trước luôn khuyên răn, dạy bảo thế hệ sau.
Vì lẽ đó, tư tưởng chính trị - đạo đức của Phật giáo tỏ ra gần gũi, phù hợp
với quan niệm truyền thống và phong tục tập quán của người Việt. Thái độ
từ bi hỷ xả, sự tu dưỡng về thập thiện và ngũ giới mà đạo Phật đòi hỏi ở
mỗi người Phật tử đã là nền tảng hình thành ở giai cấp thống trị thời Trần
tình cảm xót thương với những nỗi đau khổ và cực nhọc của dân chúng,
góp phần hình thành những khái niệm chính trị thân dân dưới thời Trần như:
khoan hòa, nhân từ, phúc huệ. Phật giáo cũng góp phần đưa đến cách giải
quyết vấn đề chính trị một cách khoan dung như khoan giảm hình phạt cho
dân khi phạm tội, cứu đói cho dân khi mất mùa, thiên tai xuất phát từ lòng
nhân ái, trắc ẩn được xây dựng từ đạo đức Phật giáo.
Dưới thời nhà Lý, tư tưởng Phật giáo đã khẳng định được tầm quan
trọng trong đời sống tâm linh, tinh thần của dân tộc ta. Phật giáo lúc này
không chỉ có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, đời sống văn hóa dân tộc
mà còn chi phối cả đời sống chính trị - xã hội. Ở giai đoạn lịch sử này,
vương triều phong kiến trong sự phát triển ngày càng quy củ của mình, cần
tìm chỗ dựa tinh thần vững chắc, làm cơ sở cho chủ trương chính sách cai
trị của giai cấp phong kiến và chiếm được sự đồng tình ủng hộ của mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội. Do vậy, những lời giáo huấn của Đức Phật
đều được truyền bá rộng rãi trong nhân dân. Phật giáo trong giai đoạn từ Lý
Nam Đế trở đi đã chính thức đứng ra gánh vác trách nhiệm trước dân tộc và
đạo pháp do yêu cầu đoàn kết để bảo vệ độc lập của Tổ quốc đã trở nên bức
thiết. Phật giáo thời kỳ này đã chỉ ra rằng, trong mỗi con người đã tiềm
tàng tính Phật và con người có thể xây dựng cho mình một thế giới an lạc
tại chính cuộc đời này. Việc xây dựng một thế giới như thế đòi hỏi mọi
người phải đoàn kết với nhau. Vì lẽ đó, thời nhà Lý tư tưởng của Phật giáo
33
đã hỗ trợ cho chính trị một cách hiệu quả thông qua hoạt động của các vị
Thiền sư nhập thế, tích cực tranh đấu cho tự chủ của dân tộc, nổi bật là hai
Thiền sư Khuông Việt (sư Ngô Chân Lưu) và Vạn Hạnh.
Thời Trần, Phật giáo tiếp tục thịnh hành trên cơ sở phát triển từ thời
Lý, biểu hiện ở việc nhà nước xây dựng thêm chùa chiền, đúc tượng
chuông thờ Phật ở khắp nơi. Đời Trần Thái Tông, “thượng hoàng xuống
chiếu rằng trong nước, chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để
thờ” [60, tr. 13], “làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm,
đến quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ” [60, tr. 21], hay
“trùng tu chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ” [60, tr. 22], năm
1256, cho “đúc 330 quả chuông bằng đồng” [60, tr. 27]. Đến năm 1262, ở
hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, quê hương của các vua Trần, nhà Trần
“làm chùa ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ Minh” [60, tr. 33]
để cho các vua Trần khi nhường ngôi về ngự ở đây. Thế mới thấy ở đầu
nhà Trần, Phật giáo thịnh hành đến chừng nào. Trong giai cấp thống trị,
không những nhiều vua Trần hầu hết nửa cuộc đời dành cho đất nước, nửa
đời còn lại dành cho Phật, mà còn sử dụng Phật giáo như một công cụ tư
tưởng để giáo huấn đạo đức, tu dưỡng nhân cách, củng cố khối đoàn kết
trong nội bộ vương hầu quý tộc và trong nhân dân. Vị vua đầu tiên của nhà
Trần là Trần Thái Tông - tập đại thành đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.
Trong lời đề tựa cho tác phẩm “Thiền tông chỉ nam ca”, Trần Thái Tông
viết: “Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu,
cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ người mê
muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đạo giáo của đức Phật. Đặt
mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm
của tiên thánh… Thế thì nay lẽ nào trẫm không coi trách nhiệm của tiên
thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của đức Phật là giáo lý của mình
34
ư” [55, tr. 27-28]. Tuệ Trung Thượng Sỹ với quan niệm đạo với đời
không tách rời nhau, đời cũng là đạo và đạo cũng là đời:
“Hải giốc thiên đầu thị dưỡng chân”
Dịch nghĩa:
“Góc bể chân trời là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta” [55, tr. 226]
Và
“Tu tri thế hữu nhân trung Phật
Hưu quái lô khai hỏa lý liên”
Dịch nghĩa;
“Nên biết rằng đời có vị Phật trong đám người bình thường
Thì đừng lạ gì đóa sen nở ra trong lò lửa” [55, tr. 259].
Như vậy, ông đã mong muốn thiết lập nên một hệ tư tưởng mới phù
hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuệ Trung Thượng Sỹ, cũng như các
bậc tài trí trong thiên hạ thời bấy giờ, đứng trước vận mệnh tồn vong của
dân tộc, không khoanh tay đứng nhìn, dù đi theo đường lối tu Phật nhưng
không xuất gia mà vừa tham vấn thiền học, vừa nhập thế giúp đời bằng
những hành động cụ thể đáp ứng đòi hỏi của thời cuộc là đuổi giặc, cứu
nước, đem lại hòa bình cho đất nước, hạnh phúc cho muôn dân. Tiếp tục
đảm đương trọng trách đó, Trần Nhân Tông, sau khi hoàn thành sứ mệnh
lịch sử mà dân tộc giao phó, lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Nguyên - Mông, thổi bùng lên tinh thần bất khuất, ý thức tự
cường dân tộc; đã từ bỏ địa vị cao sang, phú quí tột cùng, chấp nhận sống
tu hành đạm bạc, theo nếp sống thiện của Phật giáo:
“Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
35
Náu mình sơn dã.” [55, tr. 533]
Trần Nhân Tông đề cao yếu tố con người đến cao độ, mang lại niềm
tin vững chắc vào sức mạnh tinh thần nơi con người, mọi người đều có thể
tìm được chân tâm ở chính mình.
“Bụt ở trong nhà;
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt;
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.” [55, tr. 506].
Ông còn hô hào dân chúng khắp nơi theo nếp sống „thập thiện” của
Phật giáo, trở thành tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền
phái này phát triển đạt đến đỉnh cao ở Pháp Loa rồi đến thoái trào sau khi
tổ thứ ba là Huyền Quang mất. Với tinh thần nhập thế tích cực, các thiền sư
của thiền phái Trúc Lâm đã hướng vào xã hội để phụng sự dân tộc, hòa
mình vào đời sống xã hội, lo lắng, đóng góp công sức vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước. Do vậy, đó là những hành động mang mục đích
và ý nghĩa xã hội tích cực. Những hành động đó kết hợp với tư tưởng nhân
bản đề cao sức mạnh và ý chí con người, lôi cuốn, khuyên răn con người
vào cuộc sống đức độ “từ, bi, hỷ, xả” của Phật giáo, đã không chỉ vì mục
đích chính trị của giai cấp thống trị mà còn vì chính cuộc sống của con
người, của nhân dân Đại Việt.
Chính nhờ những tư tưởng chính trị - đạo đức căn bản như vậy, mà
Phật giáo ở thời Trần đã phát triển rực rỡ, đạt đến cực thịnh, chiếm được vị
trí quan trọng trong xã hội, đặc biệt có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư
tưởng chính trị - xã hội của giai cấp thống trị đương thời. Tuy nhiên, khi du
nhập vào Việt Nam, qua lăng kính tiếp thu của người Việt Nam, Phật giáo
đã được điều chỉnh, tiếp thu theo cách của người Việt; nghĩa là yếu tố nào
có lợi, gần gũi với thực tế, phù hợp với đời sống của mình thì người Việt
36
tiếp thu. Nếu như ảnh hưởng của Phật giáo trên lĩnh vực đạo đức, nhân sinh
rất rõ ràng thì trên lĩnh vực chính trị, những người cầm đầu bộ máy nhà
nước phong kiến khi thảo những văn kiện hành chính như: chiếu, chế, biểu,
hịch… đã không tìm thấy những căn cứ về mặt lý luận và kinh nghiệm
quản lý nhà nước trong giáo lý của đạo Phật. Do vậy mà, ảnh hưởng của
Phật giáo đối với sự phát triển của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần
ngày càng sa sút, nhất là vào thế kỷ XIV, nhường sân rồng cho sự ảnh
hưởng của học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo.
Cùng với Phật giáo, sự xâm nhập của Nho giáo trong thời kỳ này đã
nhanh chóng hơn trước kia và có vai trò đáng kể trong đời sống tinh thần
của nhân dân, trong hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị. Nếu như
Phật giáo chi phối đời sống tinh thần của dân tộc Đại Việt, biểu hiện qua
việc hình thành đạo đức nhân cách, lòng nhân ái, tư tưởng thân dân của
tầng lớp thống trị và đại bộ phận quần chúng nhân dân, thì Nho giáo lại dần
chiếm vị trí quan trọng trong hệ tư tưởng quan phương do những nhu cầu
thực tiễn chính trị thời bấy giờ. Dưới thời Lý, cùng với sự phát triển của
nhà nước phong kiến, những tư tưởng của Nho giáo về “Thiên mệnh‟,
“thiên nhân cảm ứng”, “thiên bất biến đạo diệc biến”, “tam cương ngũ
thường”, “trung quân”… đã trở thành công cụ tinh thần đắc lực phục vụ
cho bộ máy quan liêu. Thời nhà Lý, Phật giáo thịnh hành, được nhà nước
phong kiến suy tôn, nhưng muốn củng cố chế độ phong kiến, lại là một
nước láng giềng có mối quan hệ văn hóa và chủng tộc với Trung Quốc, nhà
Lý không thể không dựa vào Nho giáo. Với tư tưởng bảo vệ sự liên hệ
dòng họ, gia đình, duy trì sự phân chia đẳng cấp xã hội theo danh phận, cố
kết quan hệ giữa cá nhân và xã hội xung quanh triều đình chuyên chế, Nho
giáo đã dung hợp sự phân chia và liên kết này trên cơ sở những quan niệm
về lễ và pháp kết hợp với nhau và thần thánh hóa trung hiếu, tam cương
37
nhằm phục vụ cho những yêu cầu của giai cấp thống trị đương thời. Trong
tư tưởng chính trị - xã hội, Nho giáo chủ trương quyền hành phải thống
nhất và tập trung vào Thiên tử, bảo vệ quyền lợi của dòng họ thống trị và
địa vị tôn quý của nó, đồng thời đưa ra những chuẩn mực đạo đức để điều
chỉnh hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ trong xã hội,
đối với việc tu thân, dưỡng tính… Vì vậy, tư tưởng Nho giáo tỏ ra rất phù
hợp với chế độ quân chủ tập quyền thời bấy giờ, theo Trần Văn Giàu, “Có
thể nói rằng, trong thời Lý, triều đình sử dụng cả hai nguồn Nho và Phật để
trị nước. Phật giáo ở nguồn tín ngưỡng là chính, Nho giáo ở đường chính
trị là chính” [15, tr. 116].
Sang thời Trần, do yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, yêu cầu tuyển lựa nhân tài để bổ sung vào bộ máy chính quyền
chuyên chế phong kiến mà Phật giáo đạt đến cực thịnh để rồi lui dần, còn
Nho giáo dần chiếm vị trí quan trọng hơn trong xã hội, nhất là trên lĩnh vực
chính trị. Kế tục nhà Lý, nhà Trần cho mở khá đều đặn các khoa thi Nho
học để cung cấp nhân tài cho đất nước. Nhà nước phong kiến thời Trần
càng đi vào quy củ thì nhu cầu mở mang tri thức, chủ yếu ở tầng lớp thống
trị càng đặt ra cấp bách. Chế độ phong kiến tập quyền Đại Việt ngày càng
cần đến tầng lớp nho sĩ. Tầng lớp nho sĩ chiếm số lượng ngày càng đông
đảo và dần đẩy lùi thế lực và ảnh hưởng của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực
chính trị, thi cử. Quan lại xuất thân từ Nho học (Nho quan) ngày càng
chiếm vị trí ưu thế trong bộ máy chính quyền và nắm giữ các chức vụ quan
trọng trong triều đình. Ngoài hai quốc viện là Quốc sử viện và Quốc học
viện, Đại Việt thời Trần còn có các trường tư nổi tiếng như trường của Chu
Văn An, trường của Chiêu Quốc Vương. Nhà nước “mở khoa thi chọn học
trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng
La Ma đỗ thám hoa lang; lấy đỗ thái học sinh 48 người, cho xuất thân theo
38
thứ bậc khác nhau” [11, tr. 278]. Các nhà Nho dần phát huy ảnh hưởng của
Nho giáo, đề cao quan điểm “đức trị” của Nho giáo, chủ trương tu thân, sửa
đức theo những nguyên lí đạo đức mà Nho giáo đặt ra và noi theo những
tấm gương của các bậc thánh hiền. Các nho sĩ có khí phách, đạo đức chú
trọng hành động, hướng dẫn thực tiễn.
Không đặc sắc như Phật giáo, Nho giáo, nhưng trong hệ tư tưởng của
nhân dân Đại Việt, Đạo giáo cũng giữ một vai trò, một vị trí, có ảnh hưởng
lan rộng trong nhân dân.
Thời nhà Lý, Đạo giáo đã có những ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống
tinh thần của xã hội, biểu hiện xây dựng nhiều miếu thờ, trọng vọng và tin
dùng các đạo sỹ, nổi bật là đạo sỹ Thông Huyền.
Đến thời nhà Trần, Đạo giáo đã hòa mình vào tín ngưỡng dân gian của
nhân dân Việt Nam, tạo nên sự dung hợp trong tinh thần Tam giáo đồng
nguyên
Như vậy, cùng với những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, tư
tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo là những tiền đề quan trọng cho
việc hình thành, phát triển những tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần.
39
Tiểu kết chương 1
Tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần được hình thành xuất phát từ
những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng của nước ta giai đoạn đầu
thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XIV, đồng thời phản ánh những nhu cầu và
nhiệm vụ thực tiễn của quốc gia Đại Việt là thống nhất về chính trị - xã hội,
củng cố trật tự xã hội, duy trì địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp
cầm quyền, chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước hiểm
họa ba lần xâm lược của quân Nguyên - Mông. Đó là những tiền đề hình
thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần.
Cùng với đó, văn hóa và tư tưởng của dân tộc Đại Việt cũng không
ngừng được tiếp biến, giao thoa và phát triển, đó là sự kết hợp hài hòa giữa
văn hóa bản địa truyền thống của dân tộc ta với các dòng văn hóa được du
nhập và tồn tại trong thời kỳ này là: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Tất cả
đã là những điều kiện và tiền đề giúp xã hội Đại Việt đi vào thế phát triển
ổn định, kinh tế phát triển, văn hóa tư tưởng ngày càng hưng thịnh, trực
tiếp quyết định đến sự hình thành tư tưởng chính trị - xã hội và đến lượt nó,
tư tưởng chính trị - xã hội lại hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động xây dựng
và bảo vệ quốc gia Đại Việt dưới thời Trần.
Thực tiễn ấy đòi hỏi giai cấp thống trị thời Trần phải xây dựng và hoàn
thiện tư tưởng chính trị - xã hội có khả năng quản lý và điều hành đất nước ngày
càng quy mô, toàn diện hơn, giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn nảy sinh trong
xã hội; đồng thời tư tưởng chính trị - xã hội đó phải đáp ứng được nhu cầu xã hội
đặt ra trong quá trình phát triển, không chỉ nhằm bảo vệ địa vị, quyền lợi của giai
cấp thống trị phong kiến thời Trần, mà quan trọng hơn cả là tiến hành thắng lợi
công cuộc đấu tranh giữ nước, xây dựng và phát triển Đại Việt về mọi mặt.
40