ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------o0o----------

ĐỖ THỊ HẠNH

TƢ TƢỞNG NHÂN VĂN TRONG THƠ

HỒ XUÂN HƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2008

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------o0o----------

ĐỖ THỊ HẠNH

TƢ TƢỞNG NHÂN VĂN TRONG THƠ

HỒ XUÂN HƢƠNG

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

MÃ SỐ: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐỖ THỊ HOÀ HỚI

Hà Nội - 2008

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung và

các trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả luận văn:

3

ĐỖ THỊ HẠNH

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu………………………………………………………………………..3

Nội dung

Chƣơng 1. Những tiền đề cho sự hình thành

tƣ tƣởng nhân văn ở thơ Hồ Xuân Hƣơng……………………………….16

1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội

Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX……………………...16

1.2. Tiền đề văn hoá – tư tưởng…………………………………...23

Chƣơng 2. Tƣ tƣởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hƣơng

và ý nghĩa của nó đối với hiện nay………………………………………...36

2.1. Một số vấn đề về khái niệm “chủ nghĩa”,

“chủ nghĩa nhân văn”, “tư tưởng nhân văn”…………………………………36

2.2. Tư tưởng nhân văn trong thơ

Hồ Xuân Hương và ý nghĩa của nó đối với hiện nay………………………..43

2.2.1. Những nội dung độc đáo, đặc sắc của

tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương……………………………....43

2.2.2. Ý nghĩa của tư tưởng nhân văn trong thơ

Hồ Xuân Hương đối với hiện nay…………………………………………....68

Kết luận……………………………………………………………………..73

4

Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………………………..75

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Tinh thần nhân văn đã trở thành nét truyền thống quý báu của dân tộc

Việt Nam. Ngay từ xưa, trong ca dao dân ca của người Việt đã có những câu

thể hiện rõ nét tinh thần nhân văn ấy như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy

rằng khác giống nhưng chung một giàn”, hay “Thương người như thể thương

thân”… Dòng chảy tinh thần nhân văn ấy tiềm tàng nhưng mãnh liệt xuyên

suốt tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam, nhưng phải đến tận

cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX nó mới thực sự phát triển mạnh và trở

thành một trào lưu tư tưởng mang tính bộc phát.

Chúng ta đều biết, cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX là thời kỳ đánh

dấu sự mục ruỗng và suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Song trong

chính bối cảnh xã hội rối ren, con người bị đè nén đến cùng cực như vậy thì

những tiếng nói phản kháng chống lại sự hà khắc của chế độ phong kiến, đòi

hỏi quyền sống, bảo vệ những giá trị của con người càng được đề cao. Những

nguyên tắc, lễ nghi phong kiến xơ cứng không còn đủ sức để trói buộc con

người, mà ngược lại người ta luôn mong ước được giải phóng ra khỏi những

nghi lễ ràng buộc ấy, ước mơ được tự do, được hưởng những hạnh phúc trần

tục đời thường mà vì những lý do khuôn mẫu giáo điều người ta vẫn khinh rẻ

và chối bỏ chúng. Các nhà Nho tiêu biểu như Lê Hữu Trác, Nguyễn Du,

chính là các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời đại đã nói lên tiếng nói chung,

khát vọng chung của quảng đại quần chúng. Đặc biệt, trong dòng chảy tư

tưởng nhân văn chung của thời kỳ này, sẽ thực sự là một thiếu sót rất lớn nếu

chúng ta không nhắc đến sự xuất hiện của “hiện tượng Hồ Xuân Hương” như

là một nguồn năng lượng tiếp sức làm phong phú cho lịch sử tư tưởng Việt

Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…

Nam.

trong sự thể hiện tư tưởng nhân văn Việt Nam là một sự đột phá trong quan

5

Sự xuất hiện của hiện tượng Hồ Xuân Hương đánh dấu một bước ngoặt

niệm về con người trong bối cảnh thời đại đó. Dẫu rằng, Hồ Xuân Hương là

một nhà tư tưởng mà cho đến nay vẫn còn rất nhiều những tồn nghi xung

quanh tiểu sử cũng như văn bản nên việc nghiên cứu về Hồ Xuân Hương gặp

phải rất nhiều những trở khó khăn. Nhưng điều đó không thể ngăn cản giới

nghiên cứu đam mê tìm hiểu, mà ngược lại việc nghiên cứu hiện tượng Hồ

Xuân Hương thực sự là một đề tài hấp dẫn, thu hút sụ chú ý của giới nghiên

cứu nhất là từ góc độ tiếp cận văn học, sử học, văn hoá học, văn bản học…ở

cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu

như vậy nhưng cho đến nay các công trình nghiên cứu ấy mới chỉ dừng lại

việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương trên từng mặt, từng phương diện nào từ các

lĩnh vực văn học, lịch sử, văn hoá học chứ chưa có một công trình nghiên cứu

từ phương diện lịch sử tư tưởng mang tính tổng thể để có được sự đánh giá

toàn diện về vị trí của Hồ Xuân Hương trong lịch sử tư tưởng Việt, vẫn còn

rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng nhân

văn trong thơ Hồ Xuân Hương” làm đề tài thạc sĩ triết học để nghiên cứu với

mong muốn khái quát hệ thống hoá và khẳng định những nội dung và giá trị

của tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương trong dòng chảy tư tưởng

Việt Nam, góp phần làm sâu sắc và đầy đủ hơn nội dung lịch sử tư tưởng Việt

Nam giai đoạn này.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.

khởi phát của tư tưởng nhân văn ở Việt Nam với hàng loạt các nhà tư tưỏng

tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá

Quát…và đặc biệt là Hồ Xuân Hương.

Nhiều công trình nghiên cứu xác lập nhiều cứ liệu chân thực đã

khẳng định Hồ Xuân Hương là một nhân vật lịch sử và là một nhà thơ lớn có

Như trên đã nói, cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là một thời đại

những tư tưởng vô cùng đặc sắc, cho nên về con người, thơ văn và tư tưởng

khác nhau, điều này đã thể hiện tập trung, thống nhất qua thư mục hơn một

6

của bà đã được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu trên nhiều bình diện

trăm công trình nghiên cứu mà chúng tôi sắp xếp trong thư mục tài liệu tham

khảo.

Trước hết là về vấn đề lịch sử nghiên cứu tiểu sử, tác phẩm Hồ Xuân

Hương: như đã khẳng định ở trên, sự xuất hiện của Hồ Xuân Hương là một

hiện tượng độc đáo văn chương, văn hoá và nhất là trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam, vì vậy nghiên cứu về Hồ Xuân Hương là một đề tài thu hút sụ chú ý của

rất nhiều các nhà nghiên cứu từ trước cho đến nay. Theo thời gian, có thể chia

lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương làm hai giai đoạn lớn là trước và sau năm

1975.

* Trước 1975: Việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương đã phát triển khá

rầm rộ và đã thu được những kết quả nhất định. Trong số các công trình sớm

nhất trước cách mạng nghiên cứu về Hồ Xuân Hương phải kể đến Quốc văn

trích diễm (Dương Quảng Hàm, 1925), Nam thi hợp tuyển (Nguyễn Văn

Ngọc, 1927), Nữ lưu văn học sử ( Lê Dư, 1927)... Qua các công trình nghiên

cứu trên, chúng tôi tiếp nhận được rằng phần lớn các tác giả đã phác hoạ

những nét khái quát nhất về tiểu sử và văn bản, nội dung các tác phẩm chính

yếu của Hồ Xuân Hương. Tiếp sau đó là các nhà nghiên cứu đã chú ý hơn tới

con người và đặc điểm thơ Hồ Xuân Hương, Tản Đà nhận xét về Hồ Xuân

Hương và thơ của bà là: “Trong thơ có ma. Song mà nhận ra thời tục”, hay

Nguyễn Văn Hanh trong tác phẩm “Hồ Xuân Hương – thân thế - tác phẩm –

tiềm thức”…Như vậy, mặc dầu có sự khác biệt về chi tiết song nhìn chung

những nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trước Cách mạng tháng 8/1945 cho

thấy có sự tương hợp trong cách quan niệm về văn bản; nguồn thơ Nôm

truyền tụng dần được định hình rõ nét, tiểu sử Hồ Xuân Hương coi như được

xác định về các đường nét lớn.

văn tài” in năm 1936 cho rằng Hồ Xuân Hương bị chi phối bởi: “khát vọng

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu, khẳng định

xuất bản cuốn “Thân thế và thơ ca Hồ Xuân Hương”. Đây là lần đầu tiên Hồ

7

con người và giá trị thơ Hồ Xuân Hương vẫn tiếp diễn. Năm 1950, Lê Tâm

Xuân Hương được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”. Hoa Bằng cũng khẳng

định: “Bà chẳng những là một nhà đại thi hào mà là nhà đại tư tưởng, đại cách

mạng” trong cuốn “Hồ Xuân Hương – nhà thơ cách mạng” in năm 1950.

Nhận xét trên của Hoa Bằng bị phê phán bởi theo một số nhà nghiên cứu, Hoa

Bằng đã lấy quan niệm duy vật lịch sử làm căn bản lập luận, “ông Hoa Bằng

thuộc phái chính trị - xã hội…Sau cùng là ý đại cách mạng..” là hơi đề cao Hồ

Xuân Hương quá…

Ở miền Nam, trong các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương

các nhà nghiên cứu chủ yếu đi tìm hiểu về địa vị xã hội, nguồn gốc xã hội và

lịch sử của hiện tượng Hồ Xuân Hương. Nhưng do những hạn chế lịch sử và

nhận thức thiên lệch, có người trong số đó đã phủ nhận những ý nghĩa xã hội

trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong khi đó, ở Miền Bắc, sau năm 1961 nhờ việc

phát hiện các nguồn tư liệu mới như: Lưu Hương ký, Xuân Đường đàm

thoại…đã tạo nên không khí sôi nổi cho việc nghiên cứu Hồ Xuân Hương.

Tiêu biểu là bài viết của nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại: “Thử bàn lại vấn đề

dâm và tục trong thơ Hồ Xuân Hương ”, trong đó ông đã đặt vào bối cảnh xã

hội văn hoá Việt Nam nhằm giải thích trào lưu thơ văn có giá trị nhân văn

thời đại Hồ Xuân Hương…

Hoặc như tác phẩm: “Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học

và giáo dục” của nhà nghiên cứu Văn Tân, năm 1957, đã có những nhận xét

phẩm khác…

Như vậy, mặc dù trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh nhưng

trước năm 1975, giới nghiên cứu đã có những thành quả đáng trân trọng trong

việc nghiên cứu tiểu sử, văn bản thơ của hiện tượng Hồ Xuân Hương. Với

những công trình nghiên cứu công phu, có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa Hồ

xác đáng về giá trị thơ Hồ Xuân Hương đối với thời đại của bà, và nhiều tác

Xuân Hương lên một vị trí xứng đáng, ngang tầm với các nhà tư tưởng lớn

chưa có được sự thống nhất.

8

của dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Song về chi tiết còn nhiều điều

* Bước sang giai đoạn sau năm 1975: Việc nghiên cứu Hồ Xuân

Hương có điều kiện tiếp tục được chú ý. Các nhà nghiên cứu chú tâm đến sự

tương quan giữa phần Lưu hương ký mới phát hiện được và phần thơ Nôm

truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Về vấn đề này, có nhiều ý kiến khác nhau

chẳng hạn như nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc chủ trương mặc dù cần tính đến

Lưu hương ký song cần lấy thơ Nôm truyền tụng làm căn cứ nghiên cứu.

Ngược lại, nhà nghiên cứu về Hồ Xuân Hương là Đào Thái Tôn lại xác định

cần phải lấy Lưu hương ký làm tiêu chuẩn đánh giá, bình xét từ đó nhận định

chung về hiện tượng Hồ Xuân Hương. Đồng thời với hai hướng nghiên cứu

trên còn có hàng trăm bài báo, bài luận, phân tích, bình giảng theo từng chủ

đề hoặc theo từng bài thơ đặc sắc của Hồ Xuân Hương được đăng tải trên các

tạp chí, báo.... Trong số các nghiên cứu gần đây nhất, có luận văn thạc sỹ văn

học của Bùi Ngọc Minh: “Hồ Xuân Hương - Hiện tượng giao thoa giữa văn

hoá Folklo và văn hoá bác học”, Hà Nội năm 1999. Đặc biệt là có cuốn “Hồ

Xuân Hương – con người – tư tưởng – tác phẩm” của Hoàng Bích Ngọc,

NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội năm 2003. Đây là những công trình nghiên

cứu khá công phu về con người và tác phẩm của Hồ Xuân Hương, đặc biệt

trong cuốn sách này, tác giả đã chú ý kế thừa và phát triển thêm những thành

quả của các công trình nghiên cứu trước đó, đặc biệt tác giả đã có những phân

tích tinh tế về những đóng góp trên phương diện tư tưởng của thơ Hồ Xuân

sâu cụ thể hoá tư tưởng nhân văn và đặt nó trong tiến trình lịch sử tư tưởng

dân tộc như một chuyên khảo.

Từ những điều chúng tôi vừa khái lược về lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân

Hương đã cho thấy mặc dù còn một số chi tiết chưa xác định song về phần cơ

bản, vị thế của bà không chỉ quan trọng trên thi đàn mà tư tưởng của bà có

Hương tuy nhiên đó mới chỉ là những đường nét phác thảo chứ tác giả chưa đi

những giá trị xuất sắc nổi bật trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.

9

Chúng tôi cho rằng, những nghiên cứu về bà sẽ không chỉ dừng lại ở đây mà

rất cần tiếp tục đi sâu, giúp chúng ta nhận ra thêm những đóng góp to lớn của

bà cho lịch sử tư tưởng dân tộc.

Về hướng tiếp cận khi nghiên cứu về tiểu sử của Hồ Xuân Hương: như

đã trình bày ở phần trên, Hồ Xuân Hương là một tác giả, một nhà tư tưởng

“đặc biệt” mà cho đến nay vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn nghi xung quanh tiểu

sử, tác phẩm của bà. Vì vậy việc nghiên cứu tiểu sử Hồ Xuân Hương cũng

được tiếp cận theo nhiều hướng với những phương pháp khác nhau. Có thể

khẳng định lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương là “lịch sử nỗi ám ảnh chưa

bao giờ đứt đoạn của vấn đề tiểu sử và văn bản thơ Hồ Xuân Hương”.

[71;16].

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã nói rằng việc xác định tiểu sử

chính xác cuộc đời Hồ Xuân Hương là “cuộc tìm kiếm giữa màn sương huyền

thoại”. Hàng loạt các bài viết của các nhà nghiên cứu về khi viết về Hồ Xuân

Hương đã đặt ra vấn đề: “Có nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay không ?” (Hồng Tú

Hồng), “Có Chăng một bà Hồ Xuân Hương” (Lữ Hồ), hay “Thử tìm tên thật

của Hồ Xuân Hương ” (Nam Trân), “Hồ Xuân Hương sinh vào khoảng giữa

thế kỷ XVIII hay đầu thế kỷ XIX ?” (Trần Tường), tác giả Hoàng Xuân Hãn

lại đưa ra một giả thuyết là “Có một Hồ Xuân Hương khác”…Nhìn chung,

những nghiên cứu về tiểu sử của Hồ Xuân Hương rất phong phú với rất nhiều

tư liệu khẳng định có sự tồn tại một Hồ Xuân Hương song vẫn chưa có một

những ước thuyết về con người, cuộc đời của Hồ Xuân Hương, theo các nhà

nghiên cứu như sau:

- Theo Siêu Hải, Hồ Xuân Hương sinh khoảng năm 1735 – 1739

(căn cứ vào mối quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ, tạp chí Văn

học, số 5- 1991, tr70).

kết luận chính xác về năm sinh năm mất và di cảo của bà. Có thể liệt kê

- Phần đông các nhà nghiên cứu như Dương Quảng Hàm, Văn Tân,

sinh khoảng năm 1770, là con của Hồ Phi Diễn, quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh

10

Nguyễn Lộc, Trương Tửu, Hồ Tuấn Niêm thì lại cho rằng Hồ Xuân Hương

Lưu, Nghệ An với bà vợ lẽ họ Hà tại phường Khán Xuân, thuộc huyện Vĩnh

Thuận, Thăng Long. Chúng tôi cũng coi đây là tiểu sử khá hợp lý để là cơ sở

nghiên cứu.

- Các tác giả như Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn khẳng định Hồ

Xuân Hương sinh khoảng năm 1770 nhưng không phải con của Hồ Phi Diễn

mà là con của Hồ Sĩ Danh – anh em họ của Hồ Phi Diễn ở Quỳnh Đôi, Quỳnh

Lưu, Nghệ An.

- Hồ Xuân Hương từng có quan hệ thân thiết với Nguyễn Du (1766

- 1820).

- Hồ Xuân Hương từng làm vợ lẽ Tổng Cóc ở Phú Thọ.

- Hồ Xuân Hương là vợ kế của Phạm Viết Đại (1802 – 1842) - từng

có thời làm tri phủ Vĩnh Tường.

- Theo Xuân đường đàm thoại, Hồ Xuân Hương mất năm Kỷ tỵ, Tự

Đức thứ 22 (1869)… Như vậy, Hồ Xuân Hương sống ở khoảng cuối Lê, đầu

Nguyễn và là một nữ sĩ danh tiếng, song vẫn còn nhiều chi tiết cần phải xác

minh thêm.

Nếu những liệt kê trên cho thấy việc nghiên cứu tiểu sử, cuộc đời

Hồ Xuân Hương vẫn còn là vấn đề mở thì việc nghiên cứu di cảo văn thơ của

bà cũng không kém phần mờ ảo và hết sức phức tạp:

- Theo Đào Thái Tôn, trong cuốn “Hồ Xuân Hương - tiểu sử, văn

cuốn sách chép thơ Nôm của Hồ Xuân Hương và 3 văn bản khắc ván chữ

Nôm có kèm phần phiên âm chữ quốc ngữ. Trong đó còn phải dựa vào Lưu

hương ký để làm căn cứ tìm hiểu giá trị thơ văn Hồ Xuân Hương.

- Theo nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn, phần thơ Nôm truyền tụng

của Hồ Xuân Hương gồm có 77 bài, được tập hợp trong Xuân Hương thi

bản, tiến trình huyền thoại dân gian hoá” tại thư viện Hán Nôm còn lưu giữ 18

nhưng trong Quốc âm thi tuyển chỉ có 27 bài. Phần thơ văn đó là bộ phận có

Hương.

11

thể tin cậy để nghiên cứu về phong cách và nội dung tư tưởng Hồ Xuân

- Trong Giai nhân di mặc, Nguyễn Hữu Tiến cho rằng, có 45 bài

thơ, một số câu đối và các bài ca khuyết danh về Hồ Xuân Hương là đáng tin

cậy.

- Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho rằng, có khoảng 46 bài thơ Nôm

in đậm phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Trong cuốn Thơ Hồ Xuân Hương,

Nguyễn Lộc còn đưa thêm 9 bài thơ Nôm và 13 bài thơ chữ Hán trong Lưu

hương ký vào, được phần đông độc giả thừa nhận là thơ của Hồ Xuân

Hương.

- Đào Thái Tôn cho Hồ Xuân Hương có khoảng 30 bài thơ chữ Hán

và thơ chữ Nôm trong Lưu hương ký, còn lại, thơ Nôm truyền tụng của Hồ

Xuân Hương chỉ có khoảng 26 bài…

Nhìn chung, về văn bản thơ Hồ Xuân Hương còn nhiều tranh cãi về

số lượng cụ thể nhưng có thể tóm gọn mấy nhận định cơ bản như sau:

- Có nhiều ý kiến thừa nhận có một Hồ Xuân Hương là tác giả của

những bài thơ Nôm truyền tụng có phong cách ổn định riêng biệt.

- Sau khi phát hiện ra Lưu hương ký, có ý kiến cho rằng chỉ có một

Hồ Xuân Hương là tác giả của những bài thơ chữ Hán trang trọng mẫu mực,

là nguyên mẫu để người ta ghép vào những vần thơ nhảm như Quả mít, Ốc

nhồi…

- Có ý kiến lại thừa nhận Hồ Xuân Hương có cả thơ chữ Nôm và thơ

các đối lập ở con người và các tư tưởng Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, giới

nghiên cứu vẫn không nhất trí với quan điểm này vì họ cho rằng giữa thơ chữ

Nôm và thơ chữ Hán quá khác nhau một đằng thì trang trọng, mẫu mực (thơ

chữ Hán), một đằng thì lại quá “dâm” và “tục”, đó không thể là sáng tác của

cùng một Hồ Xuân Hương.

chữ Hán và họ cũng có đủ những cứ liệu hết sức thuyết phục về sự thống nhất

Từ các phân định trên, chúng tôi thấy rằng cần thừa nhận sự thực: ở

Nho họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An với bà vợ thứ họ Hà, ngụ ở

12

thời đại cuối Lê, đầu Nguyễn có một Hồ Xuân Hương là con của một nhà

phường Khán Xuân, Thăng Long. Nàng có tâm, có tài, có sắc nhưng bất hạnh

trong tình duyên (phải làm lẽ hai lần nhưng cả hai người chồng đều chết),

nàng cũng là tác giả của thơ Nôm truyền tụng và của tập Lưu Hương ký.

Từ khi hình thành lịch sử nghiên cứu về Hồ Xuân Hương cho đến

nay, các nhà nghiên cứu đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để tiếp

cận đối tượng. Có thể khái lược một vài cách tiếp cận cơ bản như sau:

- Nhà thơ Tản Đà đã đưa ra nhận xét về thần thái thơ Hồ Xuân

Hương như sau:

“Thơ Hồ Xuân Hương thật là linh quái, những câu hay đọc lên đến

ghê người. Người ta thường có câu “Thi trung hữu hoạ”, nghĩa là “trong thơ

có hoạ”, nhưng thơ Xuân Hương thời lại là “Thi trung hữu quỷ” nghĩa là

trong thơ có quỷ. Song mà nhận ra thời tục”. [18]

Đào Thái Tôn thì nhận xét: “với Hồ Xuân Hương không có cảnh

nào chết cứng, đứng yên, bất động, luôn luôn dồi dào sức trẻ” [98;48]… Cách

nhìn nhận trên về con người và đặc điểm thơ của Hồ Xuân Hương được rút ra

từ phong cách thơ văn của bà, các nhà nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra thần thái

riêng của Hồ Xuân Hương so với các tác giả cùng thời. Tuy nhiên cách

nghiên cứu vấn đề như trên tỏ ra là thiếu tính hệ thống, tính chỉnh thể và mạch

lạc, vì vậy, nó gần với sự thưởng thức hơn là nghiên cứu tư tưởng của bà.

- Trong bài viết “Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương”, Trương Tửu lại

thức sáng tạo của thơ Hồ Xuân Hương. Theo ông Trương Tửu, sở dĩ Hồ Xuân

Hương viết những bài thơ đậm chất “dâm” và “tục” như vậy vì bà bị mắc

bệnh thần kinh do dục tình không được thoả mãn, do ẩn ức tình dục. Nguyễn

Văn Hanh cũng tán đồng ý kiến của Trương Tửu và cho rằng: “Người thiếu

thốn khao khát nhục dục như Hồ Xuân Hương thì ngồi nhà hay đi ra ngoài

đã vận dụng thuyết phâm tâm học Frued vào việc phân tích cội nguồn tâm

vạn vật hoạt động dưới mắt nàng đều có vẻ dâm tục hết” [21]. Nếu nhìn nhận

thiếu sót vì giá trị tư tưởng ở những sáng tác của Hồ Xuân Hương không phải

13

những sáng tác của Hồ Xuân Hương chỉ theo như phương pháp trên thì còn

chỉ để giải toả ẩn ức cá nhân mà còn để giải toả ẩn ức cộng đồng, tiếng nói

của Hồ Xuân Hương chính là tiếng nói của những con người thời đại đó trước

sự đè nén của chế độ phong kiến, nó phản ánh sự phản kháng của cộng

đồngchống lại chế độ, đạo đức, lễ giáo phong kiến vì thế di sản thơ văn được

coi là của Hồ Xuân Hương là sản phẩm vừa có tính bác học của một chủ thể

là cá nhân, vừa là có chủ thể toàn cộng đồng, mang tính dân gian.

- Năm 1950, Hoa Bằng cho in cuốn “Thân thế và thơ ca Hồ Xuân

Hương ”, trong đó, Hoa Bằng nhiệt thành ca ngợi Hồ Xuân Hương “không

những là một nhà đại thi hào mà lại là nhà đại tư tưởng, đại cách mạng” [4],

thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói chống nam quyền, chống chế độ phong kiến,

chống thành kiến trọng nam khinh nữ… Văn Tân chỉ ra rằng “Xuân Hương

căm ghét đạo đức, lễ giáo phong kiến, nhưng bà chỉ căm ghét như một phụ

nữ…”[76;23], Thanh Lương nhận xét: “Hồ Xuân Hương và Cống Quỳnh đã

đại diện cho tinh thần thời đại họ và là kẻ bảo hiểm của cuộc khởi nghĩa Tây

Sơn”. Những nhận định của các nhà nghiên cứu trên tiếp cận từ góc độ chính

trị - xã hội - lịch sử đã thừa nhận một vấn đề cơ bản là vào thời đại cuối Lê

đầu Nguyễn, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo

chủ nghĩa nhưng hạn chế ở chỗ các ông đã vận dụng quá mức quan điểm giai

cấp - xã hội vào phê bình thơ Hồ Xuân Hương dẫn đến những kết luận mang

phần khiên cưỡng.

ta vừa nêu trên, khi nghiên cứu Hồ Xuân Hương các nhà nghiên cứu còn cố

gắng tiếp cận từ phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Chẳng hạn như Nguyễn

Lộc đã nhận xét: “Hồ Xuân Hương thuộc dòng phong cách bình dân, nhưng

thơ bà không tan biến trong phong cách chung ấy mà sắc thái cá nhân vẫn

đậm nét” [39; 278]. Nhà thơ Xuân Diệu nói: “Hồ Xuân Hương là nhà thơ

- Ngoài những tiếp cận nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương mà chúng

dòng Việt Nam, bà chúa thơ Nôm…thơ Hồ Xuân Hương đã làm cho chữ

với thuần tuý, trong trẻo tuyệt vời” [16]. Với phương pháp tiếp cận phong

14

“nôm na” không đồng nghĩa với “mách qué” nữa mà nôm na là đồng nghĩa

cách học này đã cho thấy những góc độ nhìn nhận mới, những khám phá mới

về thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ văn chương.

- Người đầu tiên đặt vấn đề tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương theo

phương pháp Bakhtin là nhà nghiên cứu người Nga N.I.Niculin, ông đã chỉ ra

tính hai chức năng, tính lưỡng trị, sự giao thoa giữa văn hoá bác học với văn

học dân gian ở một điển hình Việt Nam trong thơ Hồ Xuân Hương:

“Tiếng cười của bà gắn với tính chất tự phát của những ngày lễ hội

và những buổi biểu diễn của nhân dân…tiếng cười yêu ghét lẫn lộn trong đó

sự chỉ trích và ca tụng, phủ nhận và xác nhận, tử vong và sinh sản gắn bó chặt

chẽ như hai mặt của một quá trình phục sinh”.

Đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam, áp dụng phương pháp

Bakhtin vào hiện tượng Hồ Xuân Hương, các nghà nghiên cứu như Nguyễn

Lộc, Lê Trí Viễn, Xuân Diệu, Trần Ngọc Vương…đã chỉ ra sự ảnh hưởng của

văn học dân gian, đặc biệt là ca dao, dân ca đối với thơ Nôm truyền tụng Hồ

Xuân Hương đã tạo nên ở hiện tượng này một gương mặt thơ độc đáo vô

song. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên đã đặt ra vấn đề: “Cần phải đặt nó vào

nền văn hoá dân gian thế kỷ XVIII, XIX vì thơ Hồ Xuân Hương nảy sinh trên

và trong nền văn hóa dân gian ấy ”.

- Trong khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu

còn tiếp cận thơ bà dưới góc độ ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực. Người

Trí Viễn, Tam Vị… Phát hiện mối quan hệ giữa ảnh hưởng của loại hình tín

ngưỡng dân gian phồn thực với tư tưởng Hồ Xuân Hương, Nguyễn Tuân

trong Băm sáu cái nõn nường Xuân Hương khẳng định:

“Thế giới quan, nhân sinh quan của Hồ Xuân Hương là một nhỡn

quan nõn nường. Bất cứ cái gì, bất kể lúc nào và ở đâu vẫn ngân vang lên chữ

đầu tiên áp dụng cách tiếp cận này là Trương Tửu, kế đó là Nguyễn Tuân, Lê

nõn và nường, câu nào, chữ vần nào cũng chỉ có mỗi cái sự nhà thế, của cái

15

ấy và cái nọ”. [100]

Trong “Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực”, Đỗ Lai Thuý lại

khẳng định một cách thuyết phục rằng Hồ Xuân Hương là “người phát ngôn

phồn thực”. Nhưng đây mới là các khía cạnh tiếp cận mới cần được lý giải

đầy đủ hơn nữa.

Trên đây theo Bùi Ngọc Minh và Hoàng Bích Ngọc là các cách tiếp

cận nghiên cứu về hiện tượng Hồ Xuân Hương, từ các góc độ riêng đều có

những lý giải hợp lý và cả điểm hạn chế riêng, song với các lối nghiên cứu

mới ấy, các nhà nghiên cứu đã ngày càng đạt được những thành tựu mới trong

nghiên cứu về hiện tượng Hồ Xuân Hương góp phần làm cho những vấn đề

thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương ngày càng được sáng tỏ hơn. Nhưng rõ

ràng qua tình hình này chúng cũng khẳng định tính mở cần tiếp tục được khái

quát, hệ thống hoá, đặc biệt là khía cạnh các giá trị tư tưởng nhân văn trong

thơ Hồ Xuân Hương cần có sự phân tích sâu hơn trong các chuyên khảo để

làm rõ hơn nội dung và ý nghĩa của nó.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu đầy đủ hơn những nội dung và ý

nghĩa tư tưởng nhân văn của Hồ Xuân Hương thông qua việc nghiên cứu cuộc

đời và tác phẩm thơ của Hồ Xuân Hương.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: luận văn cần phải làm sáng tỏ được những

vấn đề sau:

+ Nội dung tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương.

+ Những ý nghĩa của tư tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương

trong giai đoạn hiện nay.

+ Những tiền đề cho sự xuất hiện của hiện tượng Hồ Xuân Hương.

4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của

triết học Mác – Lênin, những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và

điều kiện hiện nay.

16

Nhà nước về việc kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hoá dân tộc trong

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên những

phương pháp nghiên cứu khoa học của bộ môn lịch sử tư tưởng triết học Việt

Nam như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương

pháp logic - lịch sử, phương pháp liên ngành…

5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong đề tài luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu đối tượng là

những nội dung tư tưởng nhân văn của thơ Hồ Xuân Hương bởi vậy giới hạn

phạm vi nghiên cứu của đề tài là tiểu sử cuộc đời và tác phẩm thơ của Hồ

Xuân Hương đã được thừa nhận ở các công trình nghiên cứu liên quan đến

vấn đề này về cơ bản đã được các nhà nghiên cứu nhất trí xác định.

6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Luận văn góp phần hệ thống hoá, làm rõ nội dung và giá trị của tư

tưởng nhân văn trong thơ Hồ Xuân Hương. Qua đó, chúng tôi cũng mong

muốn đóng góp thêm vào việc làm đầy đủ hơn nội dung tư tưởng của một giai

đoạn phát triển của lịch sử tư tưởng nước nhà trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ

XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX hiện còn chưa được đi sâu đầy đủ.

7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN

Qua tìm hiểu những tư tưởng nhân văn Hồ Xuân Hương là nhằm

góp phần nhỏ bé nhằm khôi phục, bổ sung dầy đủ hơn và phát huy truyền

thống nhân văn tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bước đầu khai thác và đưa

luận văn cũng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm tới nội dung

lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ

XIX và trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.

những giá trị tinh thần ấy vào phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH. Đồng thời,

8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Danh mục tài liệu tham

17

khảo, nội dung của luận văn bao gồm 2 chương, 4 tiết:

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh, (1992), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh, (1938), Việt Nam văn hoá sử cương, NXB Quan Hải tùng

thư, Huế.

3. Nhan Bảo, (2000), Phát hiện mới về Hồ Xuân Hương: một số dị bản thơ

Nôm mới tìm thấy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Hoa Bằng, (1950), Hồ Xuân Hương - Nhà thơ cách mạng, Nxb Bốn

phương, Hà Nội.

5. Nguyễn Đức Bính, (1962), Người Cổ nguyệt chuyện Xuân Hương, Tạp chí

Văn nghệ số 10.

6. Nguyễn Thanh Bình, (2000), Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và

hoàn thiện con người, Tạp chí Giáo dục lý luận số 5.

7. Vũ Bình, (1958), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Sức sống mới, Sài Gòn.

8. Nguyễn Trọng Chuẩn, (chủ biên), (2005) Lịch sử tư tưởng triết học Việt

Nam Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Sĩ Căn b.s, (2001), Thơ Hồ Xuân Hương: Một văn bản thơ Nôm

mới tìm thấy, Nxb Nghệ An, Nghệ An.

10. Bùi Hạnh Cẩn, (1995), Hồ Xuân Hương: thơ chữ Hán, chữ Nôm và Giai

thoại, Nxb Văn Hoá thông tin, Hà Nội.

12.Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Sỹ Tế, (1952), Luận đề về Hồ Xuân Hương, bà

huyện Thanh Quan, Nxb Thăng Long, Hà Nội.

13. Xuân Diệu, Nguyễn Lộc, Nguyễn Đức Bính…tuyển chọn và b.s, (2000),

Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

14. Xuân Diệu, (1998), Các nhà Thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

11.Nguyễn Sĩ Cẩn, (2001), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Nghệ An, Nghệ An.

trình trung học Miền Nam, Tạp chí Văn nghệ số 32.

16. Đến với thơ Hồ Xuân Hương, (1997), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

18

15. Xuân Diệu, (tháng 6 – 1961), Hồ Xuân Hương bị gạt ra ngoài chương

17. Dzuy-Dzao, (2000), Sự thật về thơ và đời Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học,

Hà Nội.

18. Lê Dư, (1927), Nữ lưu văn học sử, Đông phương học xã, Hà Nội.

19. Tản Đà, (1932), An Nam tạp chí, số 3/1932

20. Hồ Sĩ Giàng, (1997), Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nxb Văn

hóa thông tin.

21. Nguyễn Văn Hanh, (1936), Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn

tài, Nhà in J. Aspar, Sài Gòn.

22. Dương Quảng Hàm, (1925), Quốc văn trích diễm, Hà Nội.

23. Dương Quảng Hàm, (1968), Văn học Việt Nam, Trung tâm học liệu xuất

bản, Sài Gòn.

24. Hoàng Xuân Hãn, (1999)– Tái bản lần thứ 1, Thiên tình sử Hồ Xuân

Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.

25. Hồ Sĩ Hiệp và một số giáo viên, (1996), Hồ Xuân Hương, Tủ sách văn

học nhà trường, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

26. Hồ Sĩ Hiệp sưu tập, b.s, (1996), Hồ Xuân Hương, Văn nghệ Tp. Hồ Chí

Minh, Tp Hồ Chí Minh,

27. Đỗ Đức Hiểu, (1990), Thế giới thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Tạp chí

Văn học số 5.

28. Trần Đình Hượu, (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại,

29. Lữ Hồ, (9/1958), Có chăng một bà Hồ Xuân Hương?, Tạp chí sáng tạo số

24, Sài Gòn.

30. Hồng Tú Hồng, (1953), Có nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay không?, Báo Nhân

loại số 2.

31. Cao Xuân Huy, (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn

NXB Giáo dục, Hà Nội.

tham chiếu, NXB Văn học, Hà Nội.

cuốn Quan điểm văn học và triết học), Nam Sơn, Sài Gòn.

19

32. Nguyễn Sa, Trần Bích Lan, (1960), Hồ Xuân Hương - Người lạ mặt (trong

33. V. I. Lênin toàn tập (1979), NXB Sự Thật, Mátxcơva.

34. Đặng Thanh Lê, (1963), Góp phần thêm một tiếng nói trong việc đánh giá

thơ Hồ Xuân Hương, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 3.

35. Phan Huy Lê, (1963), Bàn thêm mấy vấn đề về phong trào nông dân Tây

Sơn, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 49.

36. Mai Quốc Liên, (1994), Bàn lại chuyện Xuân Hương, Báo Văn nghệ số 6.

37. Nguyễn Lộc, (1983), Hồ Xuân Hương, Từ điển Văn học Việt Nam tập I,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Nguyễn Lộc, (1982), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.

39. Nguyễn Lộc, (2000) – tái bản lần thứ 5, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế

kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội

40. Nguyễn Lộc, (2007), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hêt thế kỷ

XIX, (tái bản lần thứ 7), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Nguyễn Lộc, Đào Thái Tôn, Nguyễn Văn Hanh, (2003)…tuyển chọn và

giới thiệu – Tái bản lần thứ 1, Hồ Xuân Hương: Về tác gia và tác phẩm, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

42. Đặng Đình Lưu, (1995), Nữ sĩ Tây Hồ, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

43. C.Mác- F. Ăngghen, (1996), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà

Nội.

44. Trần Thanh Mại, (1961), Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ

45. Trần Thanh Mại, (1963), Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ

chữ Hán, Tạp chí Văn học số 3.

46. Trần Thanh Mại, (1964), Bản Lưu Hương Ký và lai lịch phát hiện nó, Tạp

chí Văn học số 11.

47. Trần Thanh Mại, (1964), Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn

Xuân Hương, Tạp chí Văn học số 4.

học số 10.

Nôm Hồ Xuân Hương, Tạp chí Trung học phổ thông (Khoa học xã hội) số 12.

20

48. Bùi Ngọc Minh, (1996), Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ

49. Bùi Ngọc Minh, (1999), Hồ Xuân Hương - Hiện tượng giao thoa giữa văn

hoá Folklo và văn hoá bác học, Luận văn thạc sỹ văn học, Hà Nội.

50. Nguyễn Đăng Na, (1992), Xuân Hương di cảo - Tập thơ mới tìm thấy, Tạp

chí Đất nước – Cơ quan Đại sứ Quán Việt Nam tại Liên Bang Nga số 10.

51. Hồ Tuấn Niêm, (1972), Bàn lại đôi điều về tiểu sử Hồ Xuân Hương, Tạp

chí văn học số 1.

52. Hồ Tuấn Niêm, (9 – 10/ 1973), Chung quanh vấn đề tiểu sử Hồ Xuân

Hương, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 152.

53. Nguyễn Văn Ngọc, (1927), Nam thi hợp tuyển, Hà Nội.

54. Hoàng Bích Ngọc, (1996), Hồ Xuân Hương với bài thơ “Kẽm trống”, Báo

Người Hà Nội cuối tháng 7.

55. Hoàng Bích Ngọc, (1996), Một phong cách thơ Hồ Xuân Hương qua bài

thơ Vịnh cái giếng, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 8.

56. Hoàng Bích Ngọc, (1997), Tiếng nói của phụ nữ trong thơ Hồ Xuân

Hương, Tạp chí Tác phẩm mới số 3.

57. Hoàng Bích Ngọc, (1997), Mùa xuân ấy người ta nói về Hồ Xuân Hương

như thế nào?, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 9-10.

58. Hoàng Bích Ngọc, (2001), Một kỷ niệm rất đẹp về Hồ Xuân Hương trong

lòng nhân dân làng Quỳnh Đôi - Nghệ An, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ số 2

59. Hoàng Bích Ngọc, (2001), Một câu chuyện về tình duyên của Hồ Xuân

60. Hoàng Bích Ngọc, (2003), Hồ Xuân Hương: Con người, tác phẩm, tư

tưởng, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

61. Nguyễn Thị Ngọc, (1996): LAPTS Ngữ Văn, Hồ Xuân Hương và nền văn

hoá dân gian Việt Nam, Tp Hồ Chí Minh.

62. Lữ Huy Nguyên, (1996), Hồ Xuân Hương thơ và đời, Nxb Văn học, Hà

Hương, Tạp chí Nhà văn số 10.

Nội.

Hương thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.

21

63. Lữ Huy Nguyên, (2000) tuyển chọn và giới thiệu – in lần thứ 5, Hồ Xuân

64. Song Nguyệt, (1998), Tác gia Quỳnh Đôi, Nxb Văn hoá thông tin, Hà

Nội.

65. Nhiều tác giả, (1998), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

66. Minh Phúc b.s, (1996), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

67. Nguyễn Thanh Phúc, (1994), LAPTSKH Ngữ Văn, Thơ Nôm đường luật

(từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương), Tp Hồ Chí Minh.

68. Bùi Thanh Quất, (2005), Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

69. Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn, (1999), Hồ Xuân Hương. Bà huyện Thanh

Quan. Sương Nguyệt Anh: tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình

luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt Nam, Tạp chí Văn

nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

70. La Trường Sơn, (2001), Tuyển tập thơ Hán – Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb

Thế Giới, Hà Nội.

71. Nguyễn Hữu Sơn b.s, (2004), Thế giới thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Trẻ; Hội

Nghiên cứu & giảng dạy văn học TPHCM, Tp Hồ Chí Minh.

72.Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh…(2005) tuyển chọn, giới thiệu – Tái bản lần

thứ 2, Hồ Xuân Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

73. Lê Tâm, (1950), Thân thế và thơ ca Hồ Xuân Hương (Bà chúa thơ Nôm),

Nxb Cây Thông, Hà Nội.

dục, Nxb Sông Lô, Hà Nội.

75. Văn Tân, (1957)– In lần thứ 2 có bổ sung sửa chữa, Hồ Xuân Hương với

các giới phụ nữ, văn học và giáo dục, Nxb Sông Lô, Hà Nội.

76. Văn Tân, (1958), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (thế kỷ XVIII), Nxb

Văn sử địa, Hà Nội.

74. Văn Tân, (1955), Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo

77. Tuấn Thành, Anh Vũ tuyển chọn, (2005), Hồ Xuân Hương: Tác phẩm và

22

lời bình, Nxb Văn học, Hà Nội.

78. Nguyễn Bích Thuận b.s, (2002), Hồ Xuân Hương: Tác giả. Tác phẩm. Tư

liệu, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

79. Hoàng Tiến, (1992), Có một Hồ Xuân Hương khác, Nxb Thanh Niên, Hà

Nội.

80. Trương Xuân Tiếu, (2004), Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền

tụng Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.

81. Bùi Bội Tỉnh, (1996), Tình sử Hồ Xuân Hương, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

82. Dương Văn Thâm, Trần Dư, (1989), Hồ Xuân Hương: Giai thoại thơ, Sở

Văn hoá thông tin Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.

83. Lã Nhâm Thìn, (1993): LAPTS Khoa học ngữ văn, Thơ Nôm đường luật

(từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Hồ Xuân Hương), Hà Nội.

84. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, (1998), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

85. Đỗ Lai Thuý, (1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội.

86. Đỗ Lai Thuý, (1994), LAPTSKH Lịch sử, Lý giải cái dâm, cái tục trong

thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực, Hà Nội.

87. Trần Khải Thanh Thuỷ, (2002), Lạm bàn thơ Hồ Xuân Hương hay băm

sáu cái nõn nường Xuân Hương, Nxb Văn Hoá dân tộc, Hà Nội.

88. Trần Khải Thanh Thuỷ, (2004), Khúc Khích Xuân Hương, Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.

Hương Ký, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

90. Nguyễn Tài Thư, (1985), Xã hội phong kiến với sự phát triển của con

người Việt Nam trong lịch sử, Tạp chí Triết học số 4.

91. Nguyễn Tài Thư, (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

89. Trần Khải Thanh Thuỷ, (2004),tuyển chọn và bình chú, Tản mạn về Lưu

92. Nguyễn Tài Thư, (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối

23

với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Nguyễn Tài Thư, (1998), Nho học và Nho học ở Việt Nam (Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Lê Sĩ Thắng, (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

95. Hoàng Thơ, (2002), Đạo đức Phật giáo trong kinh tế thị trường, Tạp chí

Triết học số 7.

96. Hoàng Thơ, (2000),Vấn đề con người trong đạo Phật, Tạp chí Triết học

số 6.

97. Đào Thái Tôn, (1992), Hồ Xuân Hương - Tiểu sử văn bản, quá trình

huyền thoại dân gian hoá, LATS Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

98. Đào Thái Tôn, (1993), Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99. Đào Thái Tôn, (1999) – in lần thứ 4, Hồ Xuân Hương: Tiểu sử văn bản.

Tiến trình huyền thoại dân gian hoá, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

100. Nguyễn Tuân, (1986), Băm sáu cái nõn nường của Xuân Hương.

101. Trần Tường, (1974), Một số tư liệu mới tìm thấy về Hồ Xuân Hương,

Tạp chí Văn học số 3.

102. Trần Tường, (1974), Những nhầm lẫn từ lâu cần đính chính lại, Tạp chí

Văn học số 5.

103. Đặng Ánh Tuyết, (2007), Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải

chính trị số 3.

104. Trương Tửu, (1951), Hồ Xuân Hương - thiên tài huê nguyệt, Hợp tác xã

Văn hoá mới xuất bản, Thanh Hoá.

105. Lê Hữu Tầng (1997),Từ điển triết học, Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

phóng phụ nữ và kết quả thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, Tạp chí lý luận

106. Từ điển tiếng Việt Phổ thông A – C, (1975) Nxb Khoa học xã hội, Hà

24

Nội.

107. Tảo Trang ,(1992), Chiêu Hổ và Phạm Đình Hổ, Tạp chí Nghiên cứu

Văn học số 3.

108. Nam Trân, (1965), Thử tìm tên thật của Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn

học số 3.

109. Phương Tri, (1974), Tài liệu về Hồ Xuân Hương trên đất Nam Hà, Tạp

chí Văn học số 3.

110. Hoàng Trinh, (1996), CNXH với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và

văn hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Văn Minh Ấn tự quán, (1925), Hồ Xuân Hương Thi tập, Hà Nội.

112. Tam Vị, (1991), Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương, Tạp

chí Văn học số 3.

113. Huỳnh Khái Vinh, (2001), Một số vấn đề về lối sống chuẩn mực giá trị

xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Chế Lan Viên, (1962), Một bức thư, Tạp chí Văn nghệ số 6.

115. Lê Xuân Viễn, Phan Côn, Đặng Lê Thanh…(1966), Giáo trình lịch sử

văn học Việt Nam (tập III), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

116. Lê Trí Viễn, Lê Xuân Lít, Nguyễn Đức Quyền, (1996), Nghĩ về thơ Hồ

Xuân Hương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

117. Việt sử thông giám cương mục, (1960), bản dịch, tập XVII, quyển 38,

Nxb Văn sử địa, Hà Nội.

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Ngô Gia Võ, (2002), LATS ngữ văn: Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm

đường luật trào phúng, Hà Nội.

121. Ngô Gia Võ, (2000), Nghệ thuật với ý nghĩa khẳng định khát vọng nhân

văn trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học số 2.

119. Trần Nguyên Việt, (2001), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Văn tuyển tập I,

122. A.P.Vôn-ghin, (1956), Chủ nghĩa nhân văn và Chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự

25

thật, Hà Nội.

123. A.P. Vônghin, (1979), Lược khảo các tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ cổ

đại đến cuối thế kỷ XVIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

124.Nguyễn Hữu Vui, (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

125. Trần Ngọc Vương, (1998), Nhà nho tài tử và Văn học Việt Nam, Nxb

26

Giáo dục, Hà Nội.