`
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ THỊ KIM OANH
TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA NHÀ VĂN PHAN TỨ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ THỊ KIM OANH
TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA NHÀ VĂN PHAN TỨ
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS PHẠM VĂN HẢO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
`
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu phát hiện có sự gian lận, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung
luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hà Thị Kim Oanh
`
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS. Phạm Văn Hảo, người đã
hướng dẫn luận văn.
Xin cảm ơn Thầy, Cô giáo giảng dạy Ngôn ngữ học, Khoa Ngữ Văn,
Phòng đào tạo (Bộ phận Sau đại học) đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả
trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, các anh chị em, bạn bè lớp Ngôn ngữ
Việt Nam K25 đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên tác giả trong suốt thời gian
học tập và thực hiện luận văn.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hà Thị Kim Oanh
`
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 4
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 4
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 5
1.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ............................ 5
1.1.1. Khái niệm................................................................................................... 5
1.1.2. Phân loại .................................................................................................... 6
1.1.3. Chức năng .................................................................................................. 9
1.2. Những vấn đề ngữ dụng chủ yếu khi xem xét từ xưng hô ......................... 10
1.2.1. Giao tiếp và các nhân tố giao tiếp ........................................................... 10
1.2.2. Các nhân tố chi phối việc xưng hô .......................................................... 16
1.3. Vài nét về Phan Tứ và tác phẩm của ông ................................................... 17
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 19
Chương 2. NHỮNG NHÓM TỪ NGỮ DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA PHAN TỨ ........................................ 20
2.1. Các phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng hô trong một số tác phẩm
của Phan Tứ ....................................................................................................... 20
2.1.1. Xưng hô bằng các đại từ nhân xưng ........................................................ 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.1.2. Xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ thân tộc .............................................. 32
`
2.1.3. Xưng hô bằng tên riêng ........................................................................... 40
2.1.4. Xưng hô bằng các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp .................................. 42
2.1.5. Xưng hô bằng các kết hợp khác .............................................................. 43
2.2. Các từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ xét về
phương diện cấu tạo ........................................................................................... 44
2.2.1. Từ xưng hô là từ đơn ............................................................................... 44
2.2.2. Từ xưng hô là từ phức ............................................................................. 45
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 46
Chương 3. CÁCH DÙNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM CỦA PHAN TỨ ......................................................................... 48
3.1. Sử dụng từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc, thái độ của nhân vật .............. 48
3.1.1. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc .................................................. 48
3.1.2. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện thái độ ..................................................... 55
3.1.3. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự thay đổi tình cảm, thái độ .................. 60
3.2. Nét riêng của Phan Tứ trong cách sử dụng từ ngữ xưng hô ....................... 63
3.2.1. Từ ngữ xưng hô mang dấu ấn Nam Trung Bộ ....................................... 63
3.2.2. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ xưng hô ....................................................... 64
3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 75
`
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Hệ thống từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ ....... 20
Trang
Bảng 2.2: Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số ít) trong một số tác
phẩm của Phan Tứ ....................................................................... 20
Bảng 2.3. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số nhiều) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ ................................................................. 24
Bảng 2.4. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số ít) trong một số tác
phẩm của Phan Tứ ....................................................................... 26
Bảng 2.5. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số nhiều) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ ................................................................. 28
Bảng 2.6. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (số ít) trong một số tác
phẩm của Phan Tứ ....................................................................... 29
Bảng 2.7. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (số nhiều) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ ................................................................. 30
Bảng 2.8. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số ít) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 32
Bảng 2.9. Các từ ngữ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số nhiều)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ................ 35
Bảng 2.10. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ hai (số ít) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 36
Bảng 2.11. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ hai (số nhiều) của
các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ....................... 38
Bảng 2.12. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ ba (số ít) của các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 39
`
Bảng 2.13. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ ba (số nhiều) của các
nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ ............................. 40
Bảng 2.14. Các từ xưng hô bằng tên riêng của các nhân vật trong một
số tác phẩm của Phan Tứ............................................................. 41
Bảng 2.15. Các từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ xét
về phương diện cấu tạo ............................................................... 46
Bảng 3.1. Từ ngữ xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ 63được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sử dụng trong một số tác phẩm của Phan Tứ .............................. 63
`
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xưng hô là yếu tố không thể thiếu trong giao tiếp. Nói cách khác,
có giao tiếp là có xưng hô. Giao tiếp là nhu cầu tất yếu của con người, việc
vận dụng từ ngữ xưng hô trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả giao tiếp. Các đối
tượng giao tiếp nếu biết xưng hô linh hoạt, khéo léo có thể sẽ mang lại hiệu
quả giao tiếp cao, và ngược lại. Nhóm từ ngữ xưng hô, bởi vậy mà giữ vai trò
quan trọng trong hệ thống từ vựng nói riêng và trong hệ thống ngôn ngữ (của
bất kì quốc gia nào) nói chung.
Kế thừa thành quả nghiên cứu của những người đi trước kết hợp với
quan sát thực tế có thể thấy rằng: Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt phong phú,
ấn tượng hơn so với từ ngữ xưng hô ở nhiều ngôn ngữ khác (như ngôn ngữ
Anh, ngôn ngữ Trung...). Thông qua hoạt động của nhóm từ này, một vài đặc
trưng về ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của Việt Nam được thể hiện. Tìm hiểu
những vấn đề liên quan đến từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt là một cách để
biểu hiện văn hóa dân tộc.
Trong các tác phẩm văn chương, từ ngữ xưng hô ngoài việc cho thấy
dấu ấn văn hóa vùng miền và phong cách sáng tác của người viết thì còn là
phương tiện để người đọc tiếp cận các nhân vật về các mặt tính cách, tình
cảm, thái độ... Những vai trò này cho thấy từ ngữ xưng hô là yếu tố đáng để
khai thác khi nghiên cứu một tác phẩm văn chương.
Phan Tứ là tác giả tiêu biểu của mảnh đất Nam Trung Bộ (Quảng
Nam). Ngay từ những ngày văn học cách mạng khu vực Nam Trung Bộ còn
non nớt, Phan Tứ đã ghi dấu ấn trên văn đàn bằng bút pháp hiện thực sắc sảo
qua những tác phẩm như: Về Làng, Gia đình má Bảy. Bằng những trải nghiệm
xương máu của người cầm súng cùng vốn sống thu nhận được từ mảnh đất
Quảng Nam, Phan Tứ đã cho ra đời những trang viết mang đầy hơi thở thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đại nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Ở mỗi tác phẩm, Phan Tứ đều kì công xây
`
dựng bức tranh đa dạng về thế giới nhân vật nói chung và sự phong phú trong
tính cách của từng nhân vật nói riêng. Qua xưng hô trong lời thoại của nhân
vật, người đọc có thể thấy được một phần tính cách nhân vật cũng như tình
cảm - thái độ của nhân vật dành cho đối phương hoặc người được nhắc tới
trong diễn ngôn.
Từ những lí do trên, luận văn lựa chọn “Từ xưng hô trong một số tác
phẩm của nhà văn Phan Tứ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ xưng hô trong tiếng Việt là vấn đề đã được đầu tư nghiên cứu. Có thể
kể tên một vài tác giả với những công trình nghiên cứu về từ xưng hô như sau:
Nghiên cứu về từ xưng hô từ góc độ ngữ pháp, có thể quan tâm đến
những công trình nghiên cứu của các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm
Duy Khiêm (1940), Phan Khôi (1955), Nguyễn Kim Thản (1963),...
Nghiên cứu về từ xưng hô từ phương diện cấu trúc luận như: Nguyễn
Tài Cẩn (1962), Đái Xuân Ninh (1978)...
Nghiên cứu theo quan điểm ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội về từ
xưng hô với các tác giả tên tuổi như: Đỗ Hữu Châu (1993), Nguyễn Đức Dân
(1989), Hoàng Thị Châu (1995), Nguyễn Văn Tu (1996),...
Các luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ cũng đã đem đến một cái nhìn toàn diện
hơn về xưng hô với đặc điểm, cấu trúc, chức năng và cả những yếu tố văn hóa
dân tộc như: Cách xưng hô trong tiếng Tày - Nùng (Phạm Ngọc Thưởng -
1998); Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương ngữ tiếng Việt dưới góc
nhìn của lý thuyết ngôn ngữ học xã hội (Lê Thanh Kim - 2000); Từ xưng hô
trong gia đình đến ngoài xã hội của người Việt (Bùi Thị Minh Yến 2001)...
Bên cạnh đó, cũng có một số công trình nghiên cứu về từ xưng hô trong
các tác phẩm văn học như: Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Nguyễn
Quang Sáng (Nguyễn Thị Thảo Ly - 2011); Từ xưng hô trong một số tác
phẩm của Ngô Tất Tố (Đoàn Lăng Em - 2011); Từ xưng hô trong một số tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phẩm của Nam Cao (Trần Ngọc Mi - 2009),...
`
Về phía nhà văn Phan Tứ, bởi là cây bút có nhiều đóng góp cho nền
văn học cách mạng nước nhà nên giới phê bình khá quan tâm đến những sáng
tác của ông, đặc biệt là ba tác phẩm được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng
tác của Phan Tứ bao gồm: Bên kia biên giới, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi.
Có thể kể đến một vài công trình như: Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt
Nam của tác giả Nguyễn Thị Đức Hạnh; Lối kể chuyện của nhà văn Phan Tứ
(Đặng Tiến - báo Văn Hóa Nghệ An); Tiểu thuyết Mẫn và tôi nhìn từ góc độ
thể loại (Võ Trường Giang - 2012)... Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về từ xưng hô trong tác phẩm của Phan Tứ.
Những công trình nghiên cứu kể trên là nguồn tài liệu quý cho luận
văn. Đồng thời, cũng xin khẳng định rằng: Từ xưng hô trong một số tác phẩm
của Phan Tứ là đề tài mới, chưa từng được nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu từ ngữ xưng hô trong hai tiểu thuyết Bên kia biên giới và
Gia đình má Bảy của tác giả Phan Tứ.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát hệ thống từ ngữ dùng để xưng hô trong hai tiểu thuyết Bên kia
biên giới và Gia đình má Bảy, đồng thời so sánh, đối chiếu đối tượng khác trong
những chừng mực thích hợp để có thể làm rõ hơn đối tượng đang nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ đặc điểm cấu tạo và vai trò của từ ngữ
xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống cơ sở lí luận về từ ngữ xưng hô.
- Khảo sát, thống kê, phân loại các từ ngữ dùng để xưng hô trong một
số tác phẩm của Phan Tứ.
- Mô tả và phân tích cách dùng các từ ngữ xưng hô trong một số tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phẩm của Phan Tứ.
`
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nội dung trên, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: dùng để miêu tả các dạng, các mô hình của các
kiểu xưng hô, từ đó phân tích các phương diện của xưng hô từ góc độ ngữ
pháp và ngữ dụng.
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Được sử dụng trong quá trình phân
tích các ngữ liệu (cuộc thoại, đoạn thoại...) có chứa các từ ngữ xưng hô trong
mối tương quan với bối cảnh giao tiếp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở lí thuyết về xưng hô, lí
thuyết giao tiếp, lí thuyết hội thoại... luận văn sẽ phân tích và lí giải xưng hô với
các ngôi giao tiếp. Từ sự miêu tả và phân tích, luận văn cũng sẽ đi đến những
kiến giải cụ thể trong từng phương diện nghiên cứu về xưng hô cũng như đưa ra
những nhận định, đánh giá một cách toàn diện các vấn đề nghiên cứu.
- Các thủ pháp nghiên cứu: Khảo sát, thống kê, phân loại, so sánh...
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Lý giải sắc thái văn hóa trong xưng hô.
6. Đóng góp của luận văn
Từ những khảo sát, phân tích, phân loại từ xưng hô, đồng thời tìm hiểu
vai trò, chức năng, giá trị của từ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ,
luận văn hy vọng sẽ mang lại những đóng góp tích cực cho việc nghiên cứu từ
ngữ xưng hô của người Việt và có thể trở thành tài liệu tham khảo cho đối
tượng học của các ngành như: ngữ văn, tâm lí học, văn hóa học...
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Những nhóm từ ngữ dùng để xưng hô trong một số tác
phẩm của Phan Tứ
Chương 3: Chức năng của từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phan Tứ
`
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm
Xưng hô trước hết là một hành vi giao tiếp xã hội thể hiện lối ứng xử
văn hóa của con người trong những cộng đồng nói năng nhất định. Hành vi
giao tiếp ấy được hiện thực hóa qua các dạng thức ngôn ngữ xưng hô
(address form) [17].
Theo cách hiểu của những người thực hiện luận văn, “xưng” là việc sử
dụng một biểu thức ngôn ngữ để tự quy chiếu mình, “hô” là việc sử dụng một
biểu thức ngôn ngữ để quy chiếu đối tượng trực tiếp tham gia giao tiếp và cả
đối tượng mà hành vi giao tiếp hướng tới.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về “từ xưng hô” trong tiếng
Việt. Những quan niệm khác nhau này đã được cụ thể qua việc đưa ra những
khái niệm và các cách lý giải không giống nhau về từ xưng hô, đồng thời gọi
tên từ xưng hô bằng những thuật ngữ khác nhau như: đại từ nhân xưng, đại từ
xưng hô, đại danh từ nhân xưng, từ xưng gọi [4].
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Xưng hô là một hành vi chiếu vật, ở
đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn với người
nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện quan niệm vai giao tiếp.”[4].
Tác giả Nguyễn Minh Chiến đã quan niệm: “Đó là những từ được rút ra
trong hệ thống ngôn ngữ dùng để xưng hô (biểu thị các phạm trù xưng hô
nhất định) giao tiếp xã hội”.
Các tác giả Lên Biên, Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, đại từ nhân xưng
(xưng hô) được chia làm hai nhóm:
a. Đại từ nhân xưng (xưng hô) đích thực: tôi, tao, tớ, hắn, họ...
b. Đại từ nhân xưng lâm thời: nguyên là những danh từ chỉ người trong
quan hệ thân thuộc được lâm thời dùng làm đại từ nhân xưng (xưng hô): ông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bà, bố, mẹ, anh, em, con, cháu, cô, dì, chú, bác, cậu...
`
Từ cách quan niệm trên, các tác giả đưa ra khái niệm rằng: “Đại từ
nhân xưng (xưng hô) là những từ ngữ dùng để trỏ hay thay thế cho một chủ
thể giao tiếp với mục đích xưng hô [33].
Tác giả Trương Thị Diễm [7] trong công trình nghiên cứu của mình đã
đưa ra quan điểm rằng: “một khi chúng ta xem đại từ là những từ không có nghĩa
biểu vật thì cũng khó chấp nhận đưa tất cả các từ dùng để trỏ hay thay thế cho
một chủ thể trong giao tiếp với mục đích xưng hô vào loại đại từ. Bởi vì, ngoài
những từ mà các tác giả gọi là đại từ nhân xưng đích thực vốn không có nghĩa
biểu vật thì còn rất nhiều từ mang chức năng xưng hô nhưng nghĩa biểu vật của
nó vẫn nhận ra rất rõ. Thí dụ, các từ như anh, chị, cô, bác, kỹ sư, bác sĩ, vv...”.
Xoay quanh khái niệm về từ nhân xưng, tác giả Lê Thanh Kim [17]
cũng đã đưa ra quan điểm rằng: “Từ xưng hô bao gồm những từ dùng để xưng
(tự xưng) hoặc để hô (gọi) một người nào đó khi người đó ở một ngôi giao
tiếp nhất định. Luận văn cho rằng quan điểm này đã làm rõ được hai vấn đề
mà những quan niệm đi trước thường nhầm lẫn hoặc mập mờ trong cách hiểu,
đó là: 1. Từ xưng hô bao gồm đại từ nhân xưng/đại từ xưng hô, 2. “Xưng hô”
và “xưng gọi” không hoàn toàn giống nhau.
1.1.2. Phân loại
Có nhiều quan niệm được đưa ra xoay quanh việc phân loại từ xưng hô
trong tiếng Việt, xin được tóm tắt một số cách phân loại như sau:
Tác giả Đỗ Hữu Châu [4] cho rằng: để xưng hô, ngoài các đại từ, các
ngôn ngữ còn có thể dùng các từ loại khác nhau như: tên riêng, tên chức danh,
tên nghề nghiệp, các từ chỉ quan hệ thân tộc, các từ chỉ quan hệ không gian
(đây, đấy, ấy, đằng này...), thậm chí trống vắng từ xưng hô...; cụ thể là:
- Trước hết, phải kể đến “biểu thức ngôn ngữ ngữ pháp hóa các ngôi để
xưng hô trong các ngôn ngữ là các đại từ nhân xưng”.Các đại từ nhân xưng
trong tiếng Việt là tôi, tao, tớ, tui, qua, mày, mi, mình; choa, chúng tao, chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ta, chúng tôi, chúng mình, chúng tớ, bầy (bi), chúng mày; bay, hắn, nó, y, thị,...
`
- Thứ hai là các từ chỉ quan hệ thân tộc. Từ chỉ quan hệ thân tộc trong
tiếng Việt là những từ chỉ người trong gia đình, họ tộc có quan hệ huyết
thống, nội ngoại gần xa với nhau. Các từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Việt
có thể chia thành hai nhóm: các từ thân tộc đơn (kị, cụ, ông, bà, bác, chú, cậu,
cô, dì, mợ, thím, cha, mẹ, bố, tía, ba, má, u, bầm, anh, chị, em, con, cháu, chồng,
vợ, dâu, rể...) và các từ thân tộc phức (kị ông, kị bà, kị nội, kị ngoại, cụ ông,
cụ bà, cụ nội, cụ ngoại, ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, bác trai, bác
giá, anh trai, chị gái, cháu trai, cháu gái...).
- Thứ ba là dùng tên riêng. Tên riêng - tên chính (không kể tên gọi
theo tên của chồng - với phụ nữ có chồng và tên gọi theo tên con - với phụ nữ
đã có con) có thể dùng một mình để tự xưng, đối xưng và tha xưng. Khi được
dùng để tự xưng và đối xưng, các tên chính thường được dùng ở dạng một âm
tiết. Việc dùng tên chính hai âm tiết cũng có thể, nhưng không phổ biến.
- Thứ 4 là dùng từ chức danh, nghề nghiệp. “Nghề nghiệp là tính
chuyên nghiệp trong sản xuất, điều hành, quản lí xã hội, trong tôn giáo mà
một người được đảm nhiệm. Chức danh bao gồm chức và hàm. Chức hay
chức vụ là trách nhiệm và quyền lực được giao trong việc điều hành một tổ
chức kinh tế, hành chính, xã hội, quân đội, tôn giáo... Hàm là danh nghĩa được
phong tặng hay công nhận theo tài năng, đức độ, sự cống hiến”.
- Cuối cùng là các bán đại từ, đây là các từ xưng hô không phải từ thân
tộc, cũng không phải là các đại từ thực sự. Có ba nhóm bán đại từ: 1. Các từ
như ngài, ngươi, trẫm, khanh, thiếp, chàng, nàng...; 2. Những tổ hợp từ Hán
Việt như ngu đệ, hiền huynh...; 3. Các từ chỉ xuất không gian hoặc những tổ
hợp từ có chỉ xuất không gian ở sau để tự xưng như đây, thằng này (con này),
đấy, đằng ấy...
Trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản [16], tác giả
Nguyễn Văn Khang đã hệ thống xưng hô thành 6 cách, tương đương với 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kiểu như sau:
`
A. Xưng hô bằng họ và tên, gồm:
(1) Xưng hô bằng tên.
(2) Xưng hô bằng họ.
(3) Xưng hô bằng tên đệm + tên.
(4) Xưng hô bằng họ + tên.
(5) Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên.
B. Xưng hô bằng tất cả các từ dùng để xưng hô, gồm:
(6) Các đại từ nhân xưng.
(7) Các từ thân tộc dùng làm từ xưng hô.
(8) Các từ khác được dùng làm từ xưng hô.
C. Xưng hô bằng chức danh, gồm:
(9) Gọi bằng một trong các chức danh.
(10) Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh.
D. Xưng gọi bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con).
(11) Gọi bằng tên của người thân thuộc như tên của chồng, vợ, con
E. Xưng hô bằng sự kết hợp (1), (2), (3), (4):
(12) Gọi bằng các kết hợp khác nhau (thí dụ chức danh + tên; chức
danh + họ tên; từ xưng hô + tên/họ tên...)
F. Xưng hô bằng sự khuyết vắng từ xưng hô (12) không xuất hiện từ
xưng hô trong giao tiếp (khuyết vắng từ xưng hô).
Công trình nghiên cứu về “Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương
ngữ tiếng Việt” cũng bàn đến vấn đề phân loại từ xưng hô. Theo tác giả, những
từ dùng để xưng hô rất phong phú và đa dạng, bao gồm hai nhóm lớn:
a. Đại từ nhân xưng chuyên dùng: tôi, tao, tớ, mày, bay, mi, ngài, mình,
nó, hắn, vị, gã, thị, nàng, chàng, thiếp...
b. Từ xưng hô lâm thời bao gồm:
- Các danh từ chỉ quan hệ thân tộc: ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, cô, dì,
chú, bác, cậu, mợ, con, cháu...
- Các danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: giáo sư, bác sĩ, chủ tịch,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giám đốc, kĩ sư...
`
- Các danh từ chỉ quan hệ xã hội: bạn, đồng chí, đồng hương...
- Các từ chỉ nơi chốn: đằng ấy, đây, đấy, đó,ấy...
- Họ tên riêng của người: Lâm, Vân, Thành, Hải, Nguyễn Văn A, Hoàng
Thị B...
- Thậm chí là các động từ, tính từ chuyển hóa như: cưng, bé, nhỏ, út, bồi...
Luận văn cho rằng cách phân loại của tác giả Nguyễn Văn Khang là
khoa học, phù hợp hơn cả. Luận văn sẽ áp dụng cách phân loại này vào việc
phân loại từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ.
1.1.3. Chức năng
Mặc dù tên gọi, khái niệm và cách phân loại từ xưng hô chưa hoàn toàn
thống nhất; nhưng từ sự hành chức có thể thấy sự thống nhất về chức năng của
từ xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ. Có thể kể đến hai chức năng cơ bản của từ
xưng hô là chức năng chiếu vật và chức năng thể hiện quan hệ liên nhân.
1.1.3.1. Chức năng chiếu vật
Đỗ Hữu Châu cho rằng, xưng hô là một hành động chiếu vật. Vì vậy,
xưng hô trước hết để qui chiếu một người nào đó trong một vai giao tiếp cụ
thể bằng một từ xưng hô nào đấy. Sự chiếu vật chính là sự định vị, sự quy
chiếu của người nói và người nghe về vai giao tiếp của mình với các đối
tượng trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. “Định vị được hiểu là sự xác định
và sự đồng nhất người, quá trình, sự kiện mà người ta nói đến và quy chúng
với một ngữ cảnh không gian nào đó được tạo nên và được duy trì bởi hành
động phát ngôn và bởi sự tham gia của một người nói duy nhất và ít ra là đối
với một người nghe” [35].
Từ sự cắt nghĩa về chức năng định vị (chức năng chiếu vật) của từ xưng
hô như trên, có thể hiểu là từ xưng hô chỉ bộc lộ chức năng định vị (chiếu vật)
trong sự hành chức của từ xưng hô. Nhưng trong quá trình hành chức, một phát
ngôn nói chung và sự hành chức của từ xưng hô nói riêng bị chi phối bởi nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
yếu tố khác nhau như ngữ cảnh giao tiếp (quy thức hay phi quy thức), vị thế của
`
đối tượng giao tiếp (cao hơn hay thấp hơn người phát ngôn)...vv... Bởi vậy, nhân
vật tham thoại phải hiểu được tính chất của ngữ cảnh giao tiếp và xác định được
vị thế của bản thân mình để lựa chọn từ xưng hô sao cho phù hợp.
1.1.3.2. Chức năng liên nhân
“Sự tương tác là một hoạt động làm tổn hại hay duy trì những mối quan
hệ giữa mình với người trong sự giao tiếp mặt đối mặt. Quan hệ giữa các
nhân vật hội thoại là quan hệ liên cá nhân” [50].
Theo C. K. Orecchioni, nói tới quan hệ liên cá nhân trước hết là nói tới
quan hệ ngang và dọc giữa các nhân vật. Trục quan hệ ngang biểu thị quan hệ
gần gũi hay xa cách giữa những nhân vật giao tiếp với nhau. Ở trục này, quan
hệ giữa các nhân vật giao tiếp về bản chất là đối xứng. Tuy nhiên cũng không
hiếm những trường hợp bất đối xứng như: người này muốn gần, người kia
muốn giữ nguyên hoặc cách xa. Trái ngược với quan hệ ngang, nguyên tắc
của quan hệ dọc về bản chất là bất đối xứng.
Thực tế giao tiếp cho thấy, ngoài những đại từ nhân xưng đích thực, người
Việt còn sử dụng vô số từ khác trong xưng hô nhằm đạt được những mục đích
giao tiếp khác nhau. Có thể nói rằng, xưng và hô trong tiếng Việt là một nghệ
thuật giao tiếp chứ không chỉ là xưng hô thuần túy như một số ngôn ngữ khác.
1.2. Những vấn đề ngữ dụng chủ yếu khi xem xét từ xưng hô
1.2.1. Giao tiếp và các nhân tố giao tiếp
1.2.1.1. Giao tiếp
Về khái niệm giao tiếp, các tác giả của cuốn Từ điển tiếng Việt cho
rằng: giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với nhau. Sự tiếp xúc và trao đổi có thể ở
nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực trong đời sống con người. Con người
trong quá trình giao tiếp ấy có thể thực hiện bằng nhiều cách thức khác
nhau, nhưng phương tiện phổ biến và quan trọng nhất của con người là giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp phổ biến và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quan trọng nhất của con người [35].
`
Cũng cho rằng ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất, tác giả
Nguyễn Văn Khang nêu quan điểm: “Giao tiếp là một hoạt động xã hội của con
người. Hình thức giao tiếp cơ bản nhất của con người là giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Giao tiếp bằng ngôn ngữ là hình thức giao tiếp sử dụng ngôn ngữ làm
công cụ chủ yếu để truyền cho nhau những thông tin về tự nhiên và xã hội
nhằm những mục đích khác nhau.”. Ngoài ra, tác giả đã cho thấy sự cần thiết
của hành động xưng hô trong giao tiếp, rằng trong bất kì một cuộc giao tiếp
nào cũng không thể thiếu được xưng và hô. “Ngay cả khi trong trường hợp
vắng mặt (zero) cũng có thể coi là một sự có mặt không hiện hữu mang tải một
ý nghĩa nhất định” [16]. Theo cách biện giải của tác giả, giao tiếp và xưng hô là
hai yếu tố không thể tách rời. Vì vậy, sẽ là không triệt để nếu nghiên cứu từ
xưng hô mà không dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết giao tiếp.
Về chức năng của giao tiếp, Đỗ Hữu Châu và Diệp Quang Ban [4] cho
rằng giao tiếp có những chức năng sau:
- Chức năng thông tin: Khi giao tiếp, nhân vật giao tiếp thu nhận được
những hiểu biết, những tri thức mới về thế giới khách quan.
- Chức năng tạo lập quan hệ: Qua giao tiếp quan hệ liên cá nhân thay
đổi. Có thể qua giao tiếp những quan hệ thân hữu giữa người với người được
xây dựng, bồi đắp hoặc mất đi.
- Chức năng biểu hiện: Giao tiếp giúp con người bày tỏ được suy nghĩ,
tình cảm, cá tính, nhân cách, thái độ, quan điểm...vv... đối với những vấn đề
được nói tới, đối với mọi người.
- Chức năng giải trí: Giao tiếp giúp con người được trao đổi, trò
chuyện với nhau, giúp mọi người tiêu khiển, giải tỏa những bức xúc, thư
giãn đầu óc vơi nhẹ tâm hồn. Giao tiếp bằng lời là một hình thức giải trí mà
ai cũng có thể sử dụng.
- Chức năng hành động: Thông qua giao tiếp chúng ta thực hiện hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
động và thúc đẩy nhau hành động.
`
Như vậy, giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với con người trong đời
sống xã hội. Giao tiếp là môi trường hành chức của từ xưng hô, giao tiếp đặt
từ xưng hô vào bối cảnh cụ thể gắn với hành loạt các yếu tố liên quan đến con
người và xã hội như văn hóa, phong tục, tâm lý...vv...
1.2.1.2. Các nhân tố giao tiếp
Trái với quan niệm của ngữ pháp truyền thống, cho rằng ngữ pháp của
câu độc lập với ngữ cảnh, Đỗ Hữu Châu cho rằng ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn
ngôn là các nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp, “chi phối cuộc giao tiếp
đó và chi phối diễn ngôn về hình thức cũng như nội dung”. Luận văn xin
được tóm tắt lại quan điểm này như sau:
Về ngữ cảnh
Ngữ cảnh là nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài
dĩn ngôn. Các hợp phần của ngữ cảnh bao gồm đối ngôn và hiện thực ngoài
diễn ngôn.
a, Đối ngôn
Đối ngôn (là những người tham gia vào cuộc giao tiếp). Giữa những đối
ngôn trong một cuộc giao tiếp có những quan hệ. Những quan hệ này chi phối cả
nội dung và hình thức. Đó là quan hệ tương tác và quan hệ liên cá nhân.
Quan hệ tương tác chính là sự tác động lẫn nhau trong quá trình giao
tiếp, nên còn gọi là vai tương tác. Vai tương tác gồm vai nói và vai nghe, còn
gọi là vai phát và vai nhận. Trong một cuộc giao tiếp nói, mặt đối mặt, hai bai
nói, nghe thường luân chuyển. Nói cách khác, quan hệ tương tác là quan hệ
giữa các nhân vật giao tiếp đối với chính sự phát, nhận trong giao tiếp.
Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội,
hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Quan hệ này có thể
xét theo hai trục, trục tung là trục vị thế xã hội còn gọi là trục quyền uy
(power), trục hoành là trục của quan hệ khoảng cách (distance), còn gọi là
trục thân cận (solidarity). Trong xã hội, con người khác nhau về địa vị xã hội
có thể do chức quyền, tuổi tác, nghề nghiệp... mà có. Vị thế xã hội và mức độ
thân cận cũng là yếu tố thuộc hình ảnh tinh thần mà những người tham gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giao tiếp xây dựng về nhau.
`
b, Hiện thực ngoài diễn ngôn
Hiện thực ngoài diễn ngôn được hiểu là “...tất cả những yếu tố vật chất, xã
hội, văn hóa... có tính cảm tính và những nội dung tinh thần tương ứng không
được nói đến trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp (trừ nhân vật giao tiếp).
Tuy gồm cả những yếu tố vật chất và tinh thần, nhưng hiện thực ngoài
diễn ngôn phải được nhân vật giao tiếp ý thức. Khi đã trở thành hiểu biết của
những người giao tiếp (và của những người sử dụng ngôn ngữ) thì hiện thực
ngoài diễn ngôn hợp thành tiền giả định bách khoa hay tiền giả định giao
tiếp của diễn ngôn.
Nhân tố hiện thực ngoài diễn ngôn gồm 4 bộ phận: 1. Hiện thực - đề tài
của diễn ngôn. Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu; 2. Hoàn cảnh giao tiếp; 3.
Thoại trường; 4. Ngữ huống giao tiếp.
Hiện thực - đề tài của diễn ngôn. Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu
được tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm rằng: “Khi giao tiếp, các nhân vật giao
tiếp dùng diễn ngôn của mình để “nói” về một cái gì đó. Cái được nói tới là
hiện thực - đề tài của diễn ngôn.”.
Thuộc hiện thực - đề tài của diễn ngôn trước hết là những cái tồn tại,
diễn tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ và ngoài diễn ngôn. Cũng được xem
là hiện thực ngoài ngôn ngữ, ngoài diễn ngôn những cái thuộc tâm giới của
con người như một cảm xúc, một tư tưởng, một ý định, một nguyện vọng.v.v.
Hiện thực - đề tài của diễn ngôn còn là bản thân ngôn ngữ; hay chính các cuộc
giao tiếp, các diễn ngôn đã có hay đang được thực hiện
Hoàn cảnh giao tiếp (trước đây gọi là hoàn cảnh giao tiếp rộng) được
hiểu là: “Loại trừ thế giới khả hữu - hệ quy chiếu, loại trừ hiện thực - đề tài,
tất cả những cái còn lại trong hiện thực ngoài ngôn ngữ làm nên hoàn cảnh
giao tiếp rộng của cuộc giao tiếp, của diễn ngôn.”. Hoàn cảnh giao tiếp rộng
bao gồm những hiểu biết về thế giới vật lí, sinh lí, tâm lí, xã hội, văn hóa, tôn
giáo, lịch sử các ngành khoa học, nghệ thuật... ở thời điểm và ở không gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp.
`
Thoại trường (settinh, site) trước đây được hiểu là hoàn cảnh giao tiếp
hẹp. Một cuộc giao tiếp phải diễn ra trong một không gian cụ thể ở một thời
gian cụ thể, Thoại trường được hiểu là cái không - thời gian cụ thể ở đó cuộc
giao tiếp diễn ra. Không nên hiểu không - thời gian thoại trường là không gian
và thời gian bất kì, thường xuyên biến đổi. Không - thời gian thoại trường là
không gian có những đặc trưng chung, đòi hỏi người ta phải xử sự, nói năng
theo những cách thức mà ít nhiều cũng chung cho nhiều lần xuất hiện. Thoại
trường được phân thành thoại trường hằng thể, điển dạng và thoại trường
biến thể, hiện dạng.
Ngữ huống giao tiếp được hiểu là “...tác động tổng hợp của các yếu tố
tạo nên ngữ cảnh ở từng thời điểm của cuộc giao tiếp”. Thông qua ngữ huống
mà ngữ cảnh chi phối diễn ngôn. Ngữ cảnh là một khái niệm động, không
phải tĩnh; bất cứ cái gì muốn trở thành ngữ cảnh của cuộc giao tiếp thì chúng
phải được nhân vật giao tiếp ý thức, phait thành hiểu biết của nhân vật giao
tiếp. Do đó, sự thay đổi của các yếu tố tạo nên ngữ cảnh phải được những
người đang giao tiếp ý thức thì mới được gọi là ngữ huống.
Về ngôn ngữ
Tất cả các cuộc giao tiếp đều phải sử dụng một tín hiệu làm công cụ.
Trong trường hợp giao tiếp bằng ngôn ngữ thì hệ thống tín hiệu là các ngôn
ngữ tự nhiên.
Có ba phương diện của ngôn ngữ tự nhiên sẽ chi phối diễn ngôn; bao
gồm 1. Đường kênh thính giác và đường kênh thị giác của ngôn ngữ, 2. Các
biến thể của ngôn ngữ và 3. Loại thể.
a. Đường kênh thính giác và đường kênh thị giác của ngôn ngữ
Ngôn ngữ tự nhiên là ngôn ngữ có đường kênh cơ bản là đường kênh
thính giác. Về sau, cùng với sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ có đường kênh
thị giác. Từ đó, diễn ngôn có hai dạng thức: diễn ngôn nói (miệng) và diễn
ngôn viết... Tuy nhiên, vì đã ra đời và sử dụng hai thể chất cảm tính khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhau cho nên mỗi thứ ngôn nhữ nói và viết vẫn có tính độc lập tương đối. Sự
`
sai biệt giữa chúng ngày một trở nên đáng kể. Tuy nhiên không thể tuyệt đối
hóa sự sai biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Những quy tắc chi phối
ngôn ngữ nói vẫn là cơ sở để lý giải những cái có trong ngôn ngữ viết mặc dù
không thể giải thích được tất cả.
b. Các biến thể của ngôn ngữ: biến thể chuẩn mực hóa, biến thể
phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội, ngữ vực và phong cách chức năng
Khác với tất cả các hệ thống tín hiệu giao tiếp thông thường khác mà
tính đồng chất (có nghĩa là không có các biến thể) là chủ đạo, ngôn ngữ là một
hệ thống tín hiệu tồn tại và hành chức trong những biến thể nhất định. Ngôn
ngữ chuẩn mực (tiếng Việt chuẩn mực) là một biến thể của những biến thể đó.
Ngôn ngữ chuẩn mực bao gồm những đơn vị từ vựng, kể cả các ngữ cố định,
các kết cấu cú pháp, các cách phát âm được toàn thể một cộng đồng ngôn ngữ
chấp nhận, cho là đúng, được xem là cơ sở để đánh giá ngôn ngữ của từng cá
nhân, của các cộng đồng - các tiểu xã hội - trong lòng xã hội vĩ mô.
Phương ngữ địa lý bao gồm cách phát âm, các đơn vị từ vựng và một
số những kết cấu cú pháp được sử dụng ở những địa phương nhất định
trong một quốc gia.
Phương ngữ xã hội là những biến thể chủ yếu bao gồm các đơn vị từ vựng
và một số quán ngữ, một số kiểu kết cấu được sử dụng trong một cộng đồng xã
hội theo nghề nghiệp, theo hoạt động khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng
v.v... thậm chí trong cộng đồng của những người sinh sống ngoài vòng pháp luật.
Ngữ vực
Đỗ Hữu Châu đã bày tỏ sự đồng tình với quan niệm về ngữ vực của
Halliday. Theo đó, “Ngữ vực (register - phong cách học, xã hội ngôn ngữ học)
là một biến thể của ngôn ngữ theo các hoàn cảnh xã hội (social situation - tức
“thoại trường” theo thuật ngữ của chúng tôi - Đỗ Hữu Châu) như tư pháp, báo
chí, tự nhiên, nghi thức... (Đặc biệt, trong ngữ pháp hệ thống (systemic
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
grammar), ngữ vực đối lập với phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội - Đỗ
`
Hữu Châu). Phương ngữ là biến thể quan hệ với người dùng còn ngữ vực là
biến thể liên quan tới cách dùng.
c. Loại thể
Loại thể là những biến thể sử dụng của các diễn ngôn... Điều quan
trọng là các loại thể tạo nên các câu thúc - constraint đối với việc tạo ra và
thuyết giải diễn ngôn... Những dấu hiệu trong diễn ngôn sẽ đóng vai trò
những cái kích thích tác động vào các nhân vật giao tiếp, khiến cho những
người này khởi động các mã ngôn ngữ, tức khởi động biến thể ngôn ngữ, ngữ
vực, phong cách và thể loại tương ứng với kích thích tiếp nhận được.
Về diễn ngôn
Diễn ngôn là lời của từng người nói ra trong một cuộc giao tiếp. Cũng
có những diễn ngôn do hai hay hơn hai nhân vật giao tiếp xây dựng nên (như
trong trường hợp một cuộc hội thoại tay ba, hai người liên kết với nhau để
chống lại người thứ ba).
Diễn ngôn có hình thức và nội dung, cả hai đều bị chi phối của tác động
của ngữ cảnh. Hình thức diễn ngôn được tạo thành bởi các yếu tố của ngôn
ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học các hành vi ngôn ngữ tạo nên
diễn ngôn. Các yếu tố kèm lời và phi lời cũng được xem là các yếu tố thuộc
hình thức của diễn ngôn. Về nội dung, diễn ngôn có hai thành tố là nội dung
thông tin và nội dung liên cá nhân.
Ý định hay mục đích giao tiếp sẽ cụ thể hóa thành đích của diễn ngôn
qua các thành tố nội dung của diễn ngôn. Nói một cách tổng quát, diễn ngôn
có đích tác động.
1.2.2. Các nhân tố chi phối việc xưng hô
Như đã nói: có giao tiếp là có xưng hô, nghĩa là: xưng hô là phần không
thể thiếu của giao tiếp và bị chi phối bởi những yếu tố cấu thành giao tiếp.
Nói về mối quan hệ giữa vai giao tiếp với vấn đề xưng hô, Lê Thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Kim [17] cho rằng: Trong một diễn biến giao tiếp, hình thức ngôn ngữ biểu
`
hiện trực tiếp vai giao tiếp của từng cá nhân là các từ xưng hô. Từ xưng biểu
hiện vai chủ thể giao tiếp, từ hô biểu hiện khách thể hay đối tượng giao tiếp.
Trong quá trình giao tiếp sẽ có sự luân phiên thay đổi vai trò của các vai giao
tiếp. Tư cách vai của một cá nhân (từ xưng - hô) được minh định qua vị thế xã
hội của từng cá nhân và được xác lập thông qua các quan hệ cá nhân. Hay nói
cách khác, các quan hệ cá nhân là cơ sở để xác lập tư cách vai và để người
tham gia giao tiếp lựa chọn từ xưng hô thích hợp. Từ đây có thể thấy, vị thế
xã hội và của những người tham gia giao tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa
chọn và sử dụng từ xưng hô. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng có ba quan hệ
ảnh hưởng đến xưng hô là: 1. Quan hệ tôn ti trong gia tộc, 2. Quan hệ quyền
thế hay vị thế trong xã hội, 3. Quan hệ liên kết trong xã hội.
Theo Đỗ Hữu Châu [4], việc sử dụng các từ xưng hô khi giao tiếp bị
chi phối bởi 5 yếu tố: 1. Vai giao tiếp (vai nói, vai tiếp thoại), 2. Quan hệ liên
cá nhân (quyền uy và thân cận, trong nhóm và ngoài nhóm), 3. Ngữ vực, 4.
Thoại trường, 5. Tình cảm, thái độ đánh giá của các vai với nhau và vai trò
của các vai với sự vật được thưa xưng...
Trong thực tế, yếu tố “vai giao tiếp” được cho rằng có ảnh hưởng nhiều
nhất tới cách xưng hô. Việc xưng hô sẽ trở nên khó khăn nếu không xác định
được vai giao tiếp.
1.3. Vài nét về Phan Tứ và tác phẩm của ông
Phan Tứ (1930 - 1995) tên thật là Lê Khâm, ông là một trong những
cây bút xuất sắc của thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Phan Tứ được sinh ra ở Bình Định nhưng suốt thời niên
thiếu ông sống ở quê cha là Quế Phong - Quế Sơn - Quảng Nam. Vốn là cháu
ngoại nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, được sinh trưởng trong một gia
đình giàu truyền thống Cách mạng, Phan Tứ sớm được giác ngộ và có ý thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
`
Năm 1958, ông theo học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Cũng năm này, ông đã viết cuốn "Bên kia biên giới" với bút danh Lê Khâm.
Tác phẩm viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam tại Hạ Lào.
Năm 1960, ông ra mắt cuốn "Trước giờ nổ súng" với cùng đề tài trên. Cả hai
tác phẩm được đánh giá cao, và ông trở thành một nhà văn tên tuổi thời bấy
giờ khi mới vừa tròn 30 tuổi [51].
Sau khi tốt nghiệp năm 1961, ông được phân công trở lại công tác tại
chiến trường Miền Nam, làm phái viên tuyên truyền khu ủy Liên khu V, ủy
viên đảng đoàn Văn nghệ khu 5, và viết văn dưới bút danh Phan Tứ. Bút danh
này gắn liền với các tác phẩm nổi tiếng của ông sau này. Do sức khỏe yếu và
chịu ảnh hưởng bởi tác động của chất độc hóa học, năm 1966 ông được rút ra
Bắc để chữa bệnh, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam,
sau đó giữ chức quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng [51].
Nói về những tác phẩm của Phan Tứ, có thể nhận định rằng ông là nhà văn
đã đi đến cùng với đề tài chiến tranh cách mạng bằng chính những trải nghiệm
xương máu của mình. Xin được tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Phan Tứ bằng hệ
thống những tác phẩm đã gây dấu ấn trên văn đàn theo trình tự: Bên kia biên giới
(tiểu thuyết, 1958, tái bản 1978), Trước giờ nổ súng (tiểu thuyết, 1960), Trở về Hà
Nội (truyện ngắn, 1960), Trên đất Lào (bút ký, 1961), Về làng (1964), Gia đình
má Bảy (tiểu thuyết, 1968, tái bản 1971, 1972, 1975), Mẫn và tôi (tiểu thuyết,
1972, 1975, 1978, 1987, 1995), Trại ST 18 (tiểu thuyết, 1974), Người cùng quê
(tiểu thuyết 3 tập, 1985, 1995, 1997, chưa hoàn thành).
Bên kia biên giới mặc dù không phải tác phẩm đầu tay nhưng là tiểu thuyết
đầu tiên khiến bạn đọc biết đến tên Lê Khâm. Ở Bên kia biên giới, bạn đọc thấy
được bản chất Cách mạng của quân đội hai nước Việt Nam - Lào và tinh thần
đoàn kết máu thịt của quân dân hai nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Gia đình má Bảy ra đời sau bốn năm khi Lê Khâm đổi bút danh thành
Phan Tứ. Tác phẩm đã phản ánh cuộc chiến kiên cường của đồng bào xã Kỳ
Bường. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là má Bảy, một người mẹ giàu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tình cảm , nói ít làm nhiều, dẫu phải đối mặt với những tra tấn, kìm kẹp dã
`
man của kẻ thù vẫn kiên trung theo con đường Cách mạng. Cuộc đời và sự
thay đổi trong nhận thức của má Bảy mang tính chất điển hình cho quần
chúng cách mạng trước và sau đồng khởi.
Còn nhiều những tác phẩm khác của Phan Tứ đáng được đầu tư nghiên
cứu một cách bài bản như: Mẫn và tôi, Trước giờ nổ súng... Trong phạm vi
nghiên cứu, luận văn xin được khảo sát hai tác phẩm Bên kia biên giới và Gia
đình má Bảy.
1.4. Tiểu kết
1. Xưng hô trước hết là một hành vi giao tiếp xã hội thể hiện lối ứng xử
văn hóa của con người trong những cộng đồng nói năng nhất định. Hành vi
giao tiếp này được hiện thực hóa qua dạng thức ngôn ngữ xưng hô.
2. “Từ xưng hô bao gồm những từ dùng để xưng (tự xưng) hoặc để hô
(gọi) một người nào đó khi người đó ở một ngôi giao tiếp nhất định. Từ xưng hô
được tập hợp bởi nhiều lớp từ loại khác nhau. Luận văn đồng tình với cách phân
loại từ xưng hô thành 6 nhóm, tương đương với 12 kiểu của tác giả Nguyễn Văn
Khang trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản [22].
3. Mặc dù tên gọi, khái niệm và cách phân loại từ xưng hô chưa hoàn toàn
thống nhất; nhưng từ sự hành chức có thể thấy sự thống nhất về chức năng của
từ xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ. Có thể kể đến hai chức năng cơ bản của từ
xưng hô là chức năng chiếu vật và chức năng thể hiện quan hệ liên nhân.
4. Giao tiếp là môi trường hành chức của từ xưng hô, giao tiếp đặt từ
xưng hô vào bối cảnh cụ thể gắn với hành loạt các yếu tố liên quan đến con
người và xã hội như văn hóa, phong tục, tâm lý...vv... Có ba nhân tố có mặt
trong một cuộc giao tiếp, chi phối cuộc giao tiếp đó và chi phối hình thức -
nội dung của diễn ngôn là ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn.
5. Tiếp nhận những tác phẩm của Phan Tứ, có thể thấy rằng ông là nhà
văn đã đi đến cùng với đề tài chiến tranh cách mạng. Bên kia biên giới mặc dù
không phải tác phẩm đầu tay nhưng là tiểu thuyết đầu tiên khiến bạn đọc biết
đến tên Lê Khâm. Gia đình má Bảy ra đời sau bốn năm khi Lê Khâm đổi bút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
danh thành Phan Tứ. Đây là hai tác phẩm được khảo sát trong luận văn.
`
Chương 2
NHỮNG NHÓM TỪ NGỮ DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ TRONG
MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA PHAN TỨ
2.1. Các phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng hô trong một số tác phẩm
của Phan Tứ
Luận văn đã khảo sát, thống kê và phân loại nhóm từ ngữ xưng hô
trong hai tiểu thuyết Bên kia biên giới và Gia đình Má Bảy. Qua khảo sát, có
thể hình dung hệ thống từ ngữ xưng hô trong những tác phẩm này như sau:
Bảng 2.1. Hệ thống từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Nhóm từ ngữ dùng để xưng hô Tần số xuất hiện Tỉ lệ
1 2 3 4 5 6
Đại từ nhân xưng Từ chỉ quan hệ thân tộc Tên riêng Từ chỉ chức danh nghề nghiệp Bán đại từ Kết hợp khác Tổng 889 639 422 8 3 8 1969 45.1% 32.5% 21.4% 0.4% 0.2% 0.4% 100%
2.1.1. Xưng hô bằng các đại từ nhân xưng
2.1.1.1. Ngôi thứ nhất
a, Ngôi thứ nhất số ít
Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít gồm: tôi, ta, tao, tớ, mình. Trong
thực tiễn giao tiếp, các đại từ này đều được sử dụng. Tuy nhiên, trong phạm vi
khảo sát của luận văn, đại từ ta ngôi thứ nhất số ít không xuất hiện.
Bảng 2.2: Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số ít) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ
STT Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số ít) Tần số xuất hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1 2 3 4 Tôi Tao Mình Tớ 253 130 35 23
`
Kết quả khảo sát các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số ít) trong một số
tác phẩm của Phan Tứ được thể hiện ở bảng 2.2.
Tôi là đại từ nhân xưng có sắc thái trung tính. Thông thường, đại từ tôi
được vai giao tiếp trên sử dụng trong xưng hô với vai dưới hoặc xưng hô giữa
những người ngang hàng với nhau. Đại từ tôi được cũng được sử dụng ở môi
trường giao tiếp quy thức như trong các cuộc họp, các diễn đàn, hội nghị... hoặc
trong những tình huống giao tiếp mà những người tham gia giao tiếp có nhiều
mối quan hệ đan chéo. Như vậy, mặc dù không tạo được cảm giác thân quen,
gần gũi nhưng đại từ tôi vẫn được xem như một giải pháp tình thế cho việc xưng
hô trong nhiều bối cảnh giao tiếp. Đây có thể được xem như sự lý giải cho hiện
tượng đại từ tôi được sử dụng nhiều nhất trong một số tác phẩm của Phan Tứ. Có
thể dẫn ra một vài tình huống giao tiếp sử dụng đại từ nhân xưng tôi như sau:
<1> Anh đợi tôi với! [52, tr.63]
Đại từ tôi ở ví dụ này được Kham sử dụng trong xưng hô với Đeng.
Kham và Đeng là người cùng làng, Đeng hơn tuổi Kham và có tình cảm đặc
biệt với Kham. Nếu xưng hô theo đúng vai vế xã hội, Kham phải gọi anh -
xưng em. Tuy nhiên, Kham không muốn đáp lại tình cảm của Đeng. Vì vậy,
Kham đã sử dụng từ tôi trong xưng hô với Đeng nhằm tạo khoảng cách.
<2> Bà con ạ, cho tôi góp đôi câu. [52, tr.68]
Đây là phát ngôn của nhân vật Tiến trong khi trao đổi về Cách mạng Việt -
Lào với bà con làng Na Bua. Cuộc hội thoại này có nhiều nhân vật thuộc nhiều độ
tuổi, nghề nghiệp khác nhau. Vì vậy, từ xưng hô tôi được nhân vật sử dụng.
<3> - Thố! Mải nói chuyện quên cả anh hem đồng chí. Anh mới về tôi
chưa quen, xin lỗi nhé.
- Vâng, tôi mới về huyện ta.
- Anh nói giọng hơi cứng. Hình như người ở Bô Lô Ven phải không?
Ở tình huống này, việc các đương sự đều xưng tôi, gọi anh là một giải
pháp xưng hô an toàn nhằm đảm bảo tính lịch sự mà lại không quá cứng nhắc.
Từ nội dung lời thoại và cách xưng hô có thể thấy họ vừa quen biết, chưa biết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những thông tin về tuổi tác, quê quán của nhau. [52, tr.68]
`
<4> Đồng chí Tiến… anh nhận làm xiều tôi nhé? Anh giúp tôi,… tôi
bướng, tôi tự cao, tôi xấu lắm. Anh cứu mạng tôi, anh khuyên bảo hàng năm
nay, tôi vẫn không nên người tốt… Anh kết xiều với tôi nhé?[tr174]
Người phát ngôn ở ví dụ trên là Xẩy. Xét về tuổi tác, Xẩy đáng tuổi
cha/chú Tiến. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Tiến là ân nhân của mình, Xẩy đã
xưng tôi gọi anh để thể hiện sự trân trọng, nhún nhường.
<5> Cảm ơn đồng chí nhé. Tôi đỡ lo nhiều rồi. [52, tr.146]
Đại từ tôi ở ví dụ này được nhân vật Vi Xiên sử dụng trong xưng hô
với Tiến. Tiến và Vi Xiên là những người ngang tuổi nhau và cùng tham
gia chiến đấu.
<6> Tôi không ưa những phương pháp khủng bố. Trừng trị là hạ sách.
Phải thu phục, các ông bạn ạ, phải thu phục lòng người. [52, tr.188]
Đây là phát ngôn của Đờ Lagiurê tại câu lạc bộ sĩ quan với những
người đồng cấp về phương án cai trị nhân dân Lào. Vì vậy, việc hắn xưng tôi,
gọi các ông bạn là điều dễ hiểu.
Đại từ tao xuất hiện 130 lần, xếp thứ 2 về tần số xuất hiện. Thông
thường, đại từ tao là kiểu xưng hô thân mật, mang sắc thái suồng sã giữa những
đối ngôn có quan hệ bình đẳng hoặc thân thiết. Có thể dẫn ra một vài tình
huống sử dụng đại từ nhân xưng tao trong tác phẩm của Phan Tứ như sau:
<7> Không, tụi tao ở tập trung. Sao mày bị... không viết thư tao biết?
[29, tr.52]
Đại từ tao ở ví dụ này được nhân vật Tiến sử dụng trong xưng hô với
Điềm. Hai nhân vật này ngang tuổi và là đồng đội của nhau
<8> Cái thằng... Sao mày nói với tao mày không dại gì lãnh súng?
[52, tr 519].
Đây là câu nói của má Bảy với con trai của mình là Tư Sỏi. Trong hoàn
cảnh này, má Bảy được tự do lựa chọn cách xưng hô. Tuy nhiên, má Bảy đã
chọn cách xưng hô tao - mày để tỏ thái độ không bằng lòng về việc Tư Sỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lãnh súng làm dân vệ cho Mỹ.
`
<9> Đây Phổ nè, tao tiếp tế cộng sản đây nè. Không cho chén gạo gạo
nào, mày cũng hút hết máu má con tao. Đã vậy tao ủng hộ Cộng sản tận bờ
sát góc cho mày biết mặt. Cách mạng về, mày chết tới đít Phổ ơi, mày chết tới
đít rồi...[52, tr. 570]
Đây là lời thoại của má Bảy khi nghĩ đến Phổ (tay sai của giặc). Má
Bảy xưng tao trong trạng thái tức giận, căm thù đối với Phổ. Như vậy, đại từ
tao trong tác phẩm của Phan Tứ không chỉ sắc thái suồng sã giữa những đối
ngôn có quan hệ bình đẳng hoặc thân thiết như thường thấy.
Đại từ mình xuất hiện 35 lần. Thông thường, đại từ mình ngôi thứ nhất
được người nói sử dụng khi muốn thể hiện mối quan hệ thân mật, hữu nghị
với người nghe. Đại từ mình ngôi thứ nhất số ít xuất hiện trong tác phẩm của
Phan Tứ thông qua phát ngôn của một vài nhân vật như sau:
<10> Tôi già rồi anh Xẩy ạ. Anh tin lời tôi nói. Mình để mất nước thì
khổ nhục thân mình, lại còn mang tội đời đời nữa đấy... [52, tr.73].
Đây ra phát ngôn của phò Phun khi muốn thuyết phục Xẩy tin tưởng và
trung kiên với sự nghiệp Cách mạng. Phò Phun đã sử dụng đại từ mình để
Xẩy thấy rằng sự nghiệp giữ nước không phải của riêng ai; đồng thời khẳng
định phò Phun và Xẩy tuy là hai người nhưng khi thực hiện nhiệm vụ giữ
nước lại là một. Vì vậy, đại từ mình đã được lựa chọn sử dụng trong xưng hô.
Đại từ tớ xuất hiện 23 lần, xếp thứ 4 về tần số xuất hiện của đại từ nhân
xưng ngôi thứ nhất số ít. Đại từ tớ thường được dùng để xưng hô giữa những
người đồng trang lứa, mới quen hoặc đã quen từ lâu nhưng mức độ tình cảm
chưa thân thiết lắm.
<13> Cậu đi với tớ, gặp dân hỏi tình hình. Này, nghỉ mười phút!
[52, tr.45]
Đây là lời đại đội phó Sơn Linh nói với Trung đội phó Tiến khi hai
người đang đi trong rừng. Mặc dù Tiến ít tuổi hơn nhưng Sơn Linh vẫn dùng
cậu - tớ trong xưng hô với mục đích cố kéo gần khoảng cách, tạo sự thân mật.
Lúc này, Tiến và Sơn Linh mới quen.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
<14> Thôi được, tớ đi soi cá một thể, kiếm tí tươi. [52, tr.131]
`
Đây là phát ngôn của Tiến nói với đồng đội của mình là Bân và
Huy. Tiến xưng tớ với Huy và Bân không phải bởi ba người mới quen hay
sự thân thiết chưa đủ. Thực tế, ba người rất gắn bó với nhau, nhưng do
Tiến đã mười mấy năm làm công tác dân vận, đặc thù công việc đã chi
phối cách xưng hô - cư xử của Tiến khiến những phát ngôn - hành động
của Tiến luôn chừng mực, quy thức.
b, Ngôi thứ nhất số nhiều
Trong thực tiễn giao tiếp, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều
thường được sử dụng gồm chúng tôi, chúng tao, chúng ta, chúng tớ, chúng
mình, tụi mình, tụi tao, bọn tao... Trong phạm vi khảo sát, chỉ có chúng tôi,
chúng mình, chúng ta, tụi mình, bọn tao được sử dụng. Tần số xuất hiện của
những từ này như sau:
Bảng 2.3. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số nhiều)
trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (số nhiều) Tần số xuất hiện
1 Chúng tôi 43
2 Chúng mình 8
3 Chúng ta 9
4 Tụi mình 3
Bọn tao 5
Kết quả khảo sát cho thấy, đại từ được sử dụng nhiều nhất là chúng tôi.
Ví dụ:
<16> Anh Xẩy ạ, nếu thật tình nhân dân Lào không cần nữa…chúng tôi
về ngay…về… tất cả…[52, tr.70]
Đây là lời Tiến nói với Xẩy. Khi dùng đại từ chúng tôi, Tiến đã cho
mình tư cách đại diện phát ngôn cho tất cả bộ đội Việt đang chiến đấu tại Lào.
<17> Chúng tôi tha thiết kêu gọi bà con làng ta, ai có chồng con theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phiến loạn Itxala hãy nhắn gọi về. [52, tr.142]
`
Đây là phát ngôn trung đội phó lính Pháp khi đứng trước bà con Na
Bua. Hắn đã sử dụng đại từ chúng tôi để vừa nêu lên ý kiến của mình, vừa
ngụ ý thay mặt bộ đội, du kích và nhân dân Xây Thả Von khuyên nhủ dân
làng Na Bua không theo phiến loạn.
Đại từ chúng mình xuất hiện 8 lần, đứng thứ hai trong số các đại từ
nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều, xét về tần số xuất hiện.
<19> Chiều nay B.8 họp để bình nghị cho đi phép, nhưng Mạc bận
không dự. Bắt tay Tiến, anh ngần ngừ nói: “cậu về chúng mình lúng túng
nhiều đấy” [52, tr.123]
Phát ngôn trên của Tiến trong giao tiếp với Mạc. Trong hoàn cảnh Tiến
có cơ hội về nghỉ phép và muốn chuyển công tác; Mạc muốn giữ Tiến ở lại
nhưng ngần ngại và không muốn để lộ cảm xúc cá nhân, Mạc đã sử dụng đại
từ chúng mình.
Hay <20> Thôi ngủ đi chú em. Thì ra mày xỏ tai búi tóc, tao mất tay đi
cơ sở, là bởi chúng mình khéo nịnh cấp trên cả đấy![ 52, tr.54]
Bên cạnh đó, từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều như: chúng ta, tụi mình,
bọn tao cũng được các nhân vật trong tác phẩm của Phan Tứ cũng sử dụng:
<21> Tôi đề nghị chúng ta nắm lại trọng tâm ngày hôm nay: “ Trong
hoàn cảnh thằng Rạng đào ngũ…” [52, tr.95]
Đây là phát ngôn của Mạc, khi Mạc thay lời của Linh ra lệnh rút quân
và giao lại nhiệm vụ cho từng người. Mạc sử dụng đại từ chúng ta thay cho
các đồng chí nhằm góp phần làm dịu bầu không khí căng thẳng đang diễn ra.
<22> Trên khu đoán chắc phải đúng. Pháp định càn rất mạnh, rất lâu,
nó định diệt hết chúng ta đấy. [52, tr.27]
Đây là phát ngôn của Tiến với anh em tổ trinh sát. Tiến thay từ người
cách mạng bằng đại từ chúng ta nhằm phân biệt rạch ròi giữa 2 cực: chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(những người yêu hòa bình) với chúng nó (quân xâm lược)
`
<23> Tụi mình lãnh cái làng khó nhai nhứt hạng [52, tr.129]
Đây là phát ngôn cửa Thiết khi trò chuyện với Huy và Bân.
Hay <24> Tai nó to, nó nghe rõ hơn tụi mình [52, tr.514]
Tụi mình chỉ quân Cách mạng cùng sống trong rừng. Tụi mình là cách
xưng hô trong sinh hoạt hàng ngày của người miền Trung thể hiện sự gần
gũi, thân quen.
<25> Tội nghiệp, con nít mới lớn lên đã phải chịu cực. Bọn tao quen
rồi không nói chi, tuổi tụi bây đang sức ăn ngủ, chơi bời,…[52, tr.534]
Đây là phát ngôn của Thiết với đàn em, đồng thời là cấp dưới của mình.
2.1.1.2. Ngôi thứ hai
a, Ngôi thứ hai số ít
Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít thường được sử dụng gồm: mày,
bay, mi, cậu. Trong phạm vi khảo sát của luận văn, các đại từ này được sử
dụng với tần số như sau:
Bảng 2.4. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số ít) trong
một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số ít) Tần số xuất hiện
1 Mày 203
2 Bay 8
3 Mi 11
4 Cậu 32
Đại từ mày được sử dụng nhiều nhất (203 lần) trong xưng hô của các
nhân vật ở một số tác phẩm của Phan Tứ. Ví dụ:
<26> Đánh trưa hôm qua, mày biết không? [52, tr.116]
Đây là phát ngôn của Xẩy khi trò chuyện với Kham về chiến công của
bộ đội Việt và du kích Na Bua. Từ cách Xẩy không tự xưng và gọi Kham là
mày có thể thấy Xẩy ở vai trên trong quan hệ xã hội với Kham. Bởi vậy, Xẩy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không cần giữ lễ.
`
<27> Cái thằng…Sao mày nói với tao mày không dại gì lãnh súng?
[52, tr.519]
Câu trên là phát ngôn của má Bảy khi đối thoại với con trai - Tư Sỏi.
Trong cuộc sống, mày - tao được sử dụng nhiều trong xưng hô giữa bố mẹ
với con cái.
Từ cậu được sử dụng 32 lần, xếp thứ 2 về tần số xuất hiện của đại từ
nhân xưng ngôi thứ hai số ít. Ví dụ:
<28> Cậu đi với tớ, gặp dân hỏi tình hình. Này, nghỉ mười phút!
[52, tr.45]
Đây là lời Trung đội phó Tiến nói với đại đội phó Sơn Linh. Tiến và
Sơn Linh ngang tuổi. Lúc này, hai người mới quen nên việc xưng hô cậu - tớ
là hoàn toàn hợp lí.
Hay <29>...Cậu đưa mình tới chị Năm Tân, rồi nhà bà gì gần sông
Nhớn…à bà Son, bà Bảy Son. [52, tr.551]
Đây là phát ngôn của anh Chín khi trò chuyện với Dõng. Anh Chín là
cấp trên của Dõng, tuy nhiên anh chọn cách xưng mình gọi cậu để tạo không
khí vui vẻ, gần gũi.
Một số đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít khác cũng được sử dụng
như: bay, mi. Tuy nhiên, cách gọi này chỉ được sử dụng trong sinh hoạt hằng
ngày của nhân dân Trung Bộ. Cách dùng phương ngữ Trung Bộ cũng là nét
đặc trưng nổi bật trong xưng hô ở một số tác phẩm của Phan Tứ. Ví dụ:
<30> Cho bay chết đủ cha con, bay khỏi thắc mắc! [52, tr.665]
Đây là lời thoại của Út Sâm khi tự tay đánh bật lửa đốt ảnh thằng Diệm
và lột tấm tranh quảng cáo viện trợ Mỹ. Đại từ bay thường được dùng trong
xưng hô với người ngang hàng hoặc hàng dưới. Từ cách xưng hô này có thể
thấy được thái độ coi thường của Út Sâm dành cho Mỹ, Diệm.
<31> Đừng viết dông dài. Bay cứ viết là Mặt trận biểu gì má con mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
làm nấy, vậy đủ rồi [52, tr.719]
`
Đây là phát ngôn của má Bảy trong trò chuyện với Sâm. Má Bảy là vai
xưng hô trên, bởi vậy không cần giữ lễ và có quyền thể hiện sự suồng sã trong
giao tiếp với Sâm.
<32> Mi viết thơ về nhà thằng An, kể lại cái hôm đánh ở Na Bua nghe.
[52, tr.97]
Đây là phát ngôn của anh Thiết nói với Huy khi vừa đánh xong trận ở
Na Bua. Thông thường ngôi thứ hai số ít mi là dùng để gọi người ngang hàng
hoặc hàng dưới, tỏ ra thái độ thân mật hoặc coi thường, khinh bỉ. Ở phát ngôn
trên Thiết và Huy là anh em cùng vào sinh ra tử, Thiết hơn Huy vài tuổi. Như
vậy, cách xưng hô trên cho thấy mối quan hệ thân thiết giữa Thiết và Huy.
Hay <33> Mi qua nổi không rứa? [52, tr.50]
Đây là câu hỏi của Tiến hỏi Mộc trong hoàn cảnh Mộc có thể sẽ không
qua được khúc sông sâu.
b, Ngôi thứ hai số nhiều
Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số nhiều thường được sử dụng trong giao
tiếp hàng ngày gồm: chúng mày, lũ chúng mày, bọn chúng mày, bon bay,
chúng bay,... Tuy nhiên, trong phạm vi khảo sát, chỉ có các đại từ tụi bay,
chúng mày được sử dụng.
Bảng 2.5. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số nhiều) trong
một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số nhiều) Tần số xuất hiện
Tụi bay Chúng mày 6 8 1 2
Ví dụ:
<34> Tụi bay đưa nó cây M.1, cây mới nhứt…Ra đây bắn tao coi.[52, tr.611]
Đây là phát ngôn của Ba Phổ khi thách thức Tư Sỏi. Đại từ xưng hô
ngôi thứ hai số nhiều tụi bay dùng khi ra lệnh hoặc nói với những người cấp
dưới. Ở phát ngôn trên Tư Phổ gọi tụi bay với tư cách người xưng hô ngôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trên để sai khiến, ra lệnh.
`
Cũng sử dụng tụi bay trong xưng hô nhưng thái độ của má Bảy dành
cho Sâm, Mại, Bê lại đầy âu yếm:
<35> Tụi bay còn thức, tao ngủ sao được. Nghỉ uống nước đã. Chao,
lạnh dữ ác! [52, tr.634]
<40> Còn chúng mày nữa, đồ toi cơm! Liệu hồn, cứ giở trò quái ác với
đồng bào, tao cho máy bay đến ném bom giết sạch! [52, tr.143]
Phát ngôn trên <40> của tên trung úy Pháp khi đe dọa bọn tay sai người
Việt. Từ cách gọi chúng mày cùng nội dung phát ngôn cho thấy sựu thiếu trân
trọng, coi thường cấp dưới của tên quan Pháp.
2.1.1.3. Ngôi thứ ba
a. Ngôi thứ ba số ít
Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít gồm: nó, hắn, y, thị được sử
dụng khá nhiều trong thực tiễn giao tiếp. Tuy nhiên, trong phạm vi khảo sát,
các đại từ y, thị không được sử dụng. Những đại từ được sử dụng như nó, hắn
xuất hiện với tần số như sau:
Bảng 2.6 Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (số ít)
trong một số tác phẩm của Phan Tứ
Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số ít) Tần số xuất hiện
Hắn 24
Nó 31
Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba nó, hắn thường được sử dụng trong xưng
hô giữa những người bạn, hoặc người trên gọi người dưới, hoặc là cách gọi
người thứ ba của các đối ngôn trong một cuộc giao tiếp với thái độ coi
thường. Ví dụ:
<36> Chưa gì hơn. Phò bảo anh Linh sửa lỗi tiến bộ rồi. Hắn vẫn nhất
quyết: Đánh Pháp chung với người Việt thì được, nhưng gặp Linh hắn bắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chết ngay.[52, tr.76]
`
Đây là phát ngôn của Phò Phun với Tiến về thái độ của Xẩy dành cho
Linh. Đại từ hắn được phò Phun sử dụng để chỉ Xẩy - một người bạn chiến
đấu và là cấp dưới của phò Phun.
<37> Hắn còn nhỏ dại, để lớn lên tôi kèm cho [52, tr.86]
Đây là phát ngôn của Thiết nói với Tiến về Huy. Thiết chọn đại từ hắn
để chỉ Huy, là cách gọi không cầu kì với một người em, đồng thời là cấp dưới.
<38> Tránh ra! Nó cắt cổ cha tôi hôm kia! [52, tr.43]
Đây là phát ngôn của trung đội trưởng Vi Xiên đối với Mông Phai -
một tên quan sai cho Pháp. Vi Xiên sử dụng đại từ nó trong hoàn cảnh này là
một cách bộc lộ sự coi thường.
<39> - Không ưng thì thôi, đừng làm vậy nó thù [52, tr.534]
- Sợ gì thằng công tử bột, để con viết thơ chửi nó một trận líp ba ga.
Đây là đối thoại của má Bảy và Út Sâm. Nhân vật nó được nhắc đến
trong hội thoại trên là Rân, một tay công tử bột ăn chơi có tiếng trong vùng.
b, Ngôi thứ ba số nhiều
Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều thường được sử dụng trong ngôn
ngữ toàn dân là: chúng nó, họ, chúng, bọn họ. Tuy nhiên, bởi chịu ảnh hưởng
của cách xưng hô vùng Nam Trung Bộ nên trong một số tác phẩm của Phan
Tứ có sử dụng tụi nó trong xưng hô giữa các nhân vật.
Bảng 2.7. Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (số nhiều) trong
một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (số ít) Tần số xuất hiện
1 Chúng nó 12
2 Họ 19
3 Tụi nó 13
4 Chúng 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
5 Bọn họ 8
`
Cũng giống như đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 số ít, đại từ nhân xưng
ngôi thứ ba số nhiều thường được sử dụng trong xưng hô giữa những người
bạn, hoặc người trên gọi người dưới, hoặc là cách gọi người thứ ba của các
đối ngôn trong một cuộc giao tiếp với thái độ coi thường. Ví dụ:
<40> Chúng nó định bắt tớ đi cơ sở, bắt học tiếng học chữ. Tớ bảo:
“Thằng này đánh giặc đến hói đầu rồi, đừng hòng nhét cái thứ chữ kho, khỏ,
co, no ấy vào”. Thế là chúng nó đẩy tớ về khu bộ. Chó thật! [52, tr.45]
Đây là phát ngôn của Linh khi trò chuyện với Tiến. Chúng nó ở đây là
chỉ những người lãnh đạo cấp cao. Từ cách gọi trên của Sơn Linh có thể thấy
sự coi thường của Sơn Linh với đối tượng thứ ba được nhắc tới.
<41> Họ đi luôn hả chú? [52, tr.57]
Đây là câu hỏi của Kham dành cho chú Xẩy. Đại từ xưng hô họ ở phát
ngôn trên là chỉ ba anh em không cha không mẹ sống trên cõi trần trên đỉnh
núi Ba Lô Ven ( anh cả tên là Khạ).
<42> Họ ngang ngược vậy, con phải chửi rát mặt họ mới chừa. Đánh
thì đánh, tù thì tù, bất quá họ bắn chém là cùng. Con thí mạng đó. [52, tr.562]
Đây là phát ngôn của Sâm khi trò chuyện với má Bảy. Họ ở đây chỉ
bọn cướp nước và bọn bán nước. Họ trong cách xưng hô của Sâm mang sắc
thái miệt thị, khinh thường.
<43> Dạ có anh Hai đây tụi nó đâu dám… dạ, thiệt bậy chớ… dạ, em
ra lệnh tụi nó hổng nghe, tụi nó nói em không phải trung sĩ hã sĩ gì mà đòi xài
xể người ta. [52, tr.604]
Đây là phát ngôn của tên tiểu đội trưởng nói với Huỳnh. Tụi nó ở đây là
chỉ những người cấp thấp hơn tên tiểu đội trưởng. Cách xưng hô này của tên
tiểu đội trưởng nhằm hạ bệ cấp dưới, tâng bốc cấp trên.
<44> Trò giành chính quyền. Vui ghê lắm. Con đi bắt ác ôn Kỳ Lâm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tụi nó lạy con như vái giỗ cha. [52, tr.641]
`
Đây là phát ngôn của Út Sâm. Tụi nó mà Út Sâm nói tới ở đây là bọn
cướp nước, bán nước đang thất thế. Từ cách xưng hô có thể phần nào thấy
được sự coi thường của Út Sâm dành cho những đối tượng này.
<45> Bọn vũ trang vẫn canh gác, lùng rừng chung quang Na Bua. Rơi
vào ổ phục kích một lần, chúng bắn suýt vỡ sọ. [52, tr.55]
Phát ngôn trên nói về nhân vật Tiến - người liều lĩnh viết ba lá thư trong
nửa tháng và bị địch truy kích. Đại từ xưng hô chúng được dùng để chỉ bọn vũ
trang tay sai vẫn đang ngày đêm đang lùng sục những người làm Cách mạng.
2.1.2. Xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ thân tộc
Sự phân chia thân tộc - không thân tộc trong dân tộc học về quan hệ
của con người trong xã hội cũng kéo theo sự lưỡng phân trong các từ xưng hô
và cách xưng hô của người Việt [12]. Trong phạm vi xưng hô ngoài xã hội,
người Việt sử dụng tất cả các lớp từ loại xưng hô, kể cả danh từ thân tộc.
Xưng hô bằng từ chỉ quan hệ thân tộc của các nhân vật trong một số tác
phẩm của Phan Tứ được dùng ở mọi hoàn cảnh giao tiếp (trong gia đình và
ngoài xã hội), biểu hiện cụ thể qua xưng hô của các ngôi giao tiếp như sau:
2.1.2.1. Ngôi thứ nhất
a. Ngôi thứ nhất số ít
Bảng 2.8. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số ít)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT
1 Các từ thân tộc dùng trong xưng hô ngôi thứ nhất (số ít) Con Tần số xuất hiện 23
2 Em 102
3 Anh 275
4 Cháu 29
5 Bác 9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
6 Bà 5
`
Từ con ngôi thứ nhất số ít thường dùng để tự xưng trong trường hợp
nói chuyện với với ông bà, cha mẹ; những người bà con ngang vai với ông bà
cha mẹ; với những người lớn tuổi; hoặc được học trò ngày xưa dùng trong
xưng hô với thầy cô. Như vậy, từ con có thể dùng để xưng hô cho cả những
mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội.
Một vài ví dụ về từ xưng hô con ngôi thứ nhất số ít trong một số tác
phẩm của Phan Tứ:
<46> Thằng Rân mới gởi cho con lá thư nữa. Nó viết văn chương má
ơi. Giấy hồng thơm ghê, con đốt cứ tiếc tờ giấy hoài. [52, tr.523]
<47> - Tùy, con về đó hả con?
(Thằng Tùy nở cái miệng rộng đến tận mang tai, nói giọng Bắc pha
Nam trọ trẹ: )
- Dạ, con đây má! [52, tr.523]
Ở ví dụ <46>, Út Sâm xưng con và gọi má, bởi Sâm là con gái má Bảy.
Nhưng ở <47>, Tùy và má Bảy không có quan hệ huyết thống. Chính Tùy
cũng đã tự thuật: “Hồi đầu tiếng súng đánh Tây, má Bảy vào hội mẹ chị binh
sĩ giữa cái tuổi dở dang, “gọi chị thì nhẹ, gọi mẹ thì nặng”. Bộ đội về Đồng
Dừa, nhiều người gọi má bằng chị, sau thấy Hai Son con má đã lớn mới đổi
giọng bằng mẹ”. Như vậy, Tùy và các chiến sĩ khác gọi má Bảy là má xưng
con bởi xét trong quan hệ xã hội thì Tùy đáng tuổi con má Bảy.
Từ em ngôi thứ nhất số ít thường được dùng trong xưng hô với anh chị;
với chồng (nếu người nói là nữ); với thầy cô (ngày nay); hoặc với những
người hơn tuổi, hơn chức phận. Các cách xưng hô này đều được Phan Tứ sử
dụng cho xưng hô của các nhân vật. Ví dụ:
<49> Gì đâu. Em quen anh, chưa quen mấy anh kia... Anh cắt bằng dao
chậm lắm. Anh cao, níu nhánh xuống em cắt [52, tr.585]
<50> Lâu nay em tìm cách mạng hoài mà không gặp. Bây giờ gặp rồi, các
anh chị biểu gì em xin làm nấy. Em còn dại chưa biết gì, vậy chớ sợ giặc thì dứt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khoát em không sợ. Em phải trả thù cho cả hai má con, cho đồng bào mình.
`
<51> Thầy ở đó à? Sao thầy không bắn vài phát cho em chạy? [52,
tr.568]
Ví dụ <49>, <50> và <51> đều là phát ngôn của Út Sâm trong những
hoàn cảnh khác nhau.
Ở ví dụ <49>, người nghe là Bê; Bê đáng tuổi Tư Sỏi - anh trai của Út
Sâm. Bởi vây; Sâm xưng em gọi Bê là anh. Cách xưng hô trong trường hợp
này không chị chi phối bởi quan hệ huyết thống.
Ở ví dụ <50>, đối tượng nghe là những người làm cách mạng, được Út
Sâm coi như hạng “tiền bối”, bởi vậy Út Sâm xưng em và gọi các anh chị.
Ví dụ <51> là lời thoại của Sâm trong cuộc trò chuyện với nhân vật Dõng.
Dõng là người đã dạy chữ cho Sâm và má Bảy. Bởi vậy Sâm gọi Dõng là thầy
xưng em. Đây cũng là cách xưng hô phổ biến của học trò với thầy cô ngày nay.
Như vậy, trong phạm vi khảo sát, từ xưng hô em chỉ dùng trong những
mối quan hệ xã hội. Mặc dù Gia đình má Bảy là tiểu thuyết nói về gia đình
cách mạng, nhưng giao tiếp giữa Út Sâm với anh trai là Tư Sỏi thường khuyết
từ xưng hô, hoặc chỉ có Út Sâm gọi Tư Sỏi là anh, không tự xưng.
Từ anh thường dùng trong xưng hô với các em, hoặc với những đối
tượng mà người phát ngôn coi là đàn em của mình. Trong phạm vi khảo sát ,
đại từ anh được sử dụng khá nhiều. Ví dụ:
<52> Anh núp trong bụi cây cách hầm năm bảy chục thước. Hễ địch
tới xăm hầm, anh vừa bắn vừa nhử tụi nó đuổi theo. Em giữ tiểu liên, đưa...
[52, tr.776]
Bê tự xưng anh với Sâm trong hoàn cảnh Bê đã có tình cảm nam nữ với cô
gái này. Khi Bê chưa có tình cảm nam nữ và chỉ xem Sâm là đồng đội, Bê luôn
xưng hô với Út Sâm rất chừng mực, nguyên tắc: gọi Sâm là Cô Út và tự xưng tôi.
<53> Anh đi đây. Em xem thư sẽ hiểu. Còn sống, còn có lúc anh về
thăm. [52, tr.145]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đây là phát ngôn của Tiến trong cuộc trò chuyện với Bua Kham.
`
Có thể thấy, từ xưng hô anh ngôi thứ nhất chỉ được sử dụng trong phát
ngôn của nhân vật nam khi nói với nhân vật nữ mà mình yêu mến. Trong
xưng hô với các em (quan hệ huyết thống) và những đối tượng mà người phát
ngôn coi là đàn em của mình, những đại từ như: tao, tôi, hoặc khuyết từ xưng
hô thường được sử dụng.
Từ cháu ngôi thứ nhất số ít thường được người phát ngôn dùng để tự
xưng với ông bà, cô dì chú bác; hoặc với những người ngang tuổi ông bà cha
mẹ mình. Ở những tác phẩm thuộc phạm vi khảo sát của luận văn, đại từ cháu
thường được thế hệ Việt Cộng trẻ sử dụng trong xưng hô với những vị lão
thành cách mạng, hoặc những người lớn tuổi tham gia cách mạng, ví dụ:
<54> - Mày dám gặp ông cụ à? Thật không Đeng?
- Ông ấy nhắn gọi cháu ra... Cháu sợ. [52, tr.14]
Phát ngôn trên của Đeng khi đối thoại với Xẩy. Đeng và Xẩy không có
quan hệ huyết thống nhưng Đeng vẫn gọi Xẩy là chú xưng cháu, bởi Xẩy
đáng tuổi cha Đeng và Đeng tôn trọng Xẩy.
<55> Cháu may cờ cho Sâm đây. Giấu đi bác. Cháu không chối từ một
hy sinh nào vì Sâm. Thưa bác cháu về ạ [52, tr.643].
Tương tự như ví dụ <61>, các đương sự không có mối quan hệ huyết
thống. Tuy nhiên, Mại (người nói) là bạn Sâm - con gái người nghe nên đã tự
xưng cháu để phù hợp với vai xã hội.
b. Ngôi thứ nhất số nhiều
Bảng 2.9. Các từ ngữ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số nhiều)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ
Tần số xuất hiện STT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1 2 3 4 5 6 Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ nhất (số nhiều) Tụi con Chúng con Má con tao Mẹ con tôi Bà con mình Chị em mình 2 3 1 1 1 2
`
Ví dụ:
<56> Thằng Rân mới gởi cho con lá thơ nữa. Nó viết văn chương má
ơi. Giấy hồng thơm ghê, con đốt cứ tiếc tờ giấy hoài.
- Mày lại kêu bạn bè tới đọc chung hả?
- Có bốn đứa. Chao, tụi con cười lăn lộn. [52, tr.560]
<57> Chúng con dỡ nhà của má, bây giờ phải dựng đền. [52, tr.525]
<68> Đây Phổ nè, tao tiếp tế cộng sản đây nè. Không cho chén gạo
gạo nào, mày cũng hút hết máu má con tao. Đã vậy tao ủng hộ Cộng sản tận
bờ sát góc cho mày biết mặt. Cách mạng về, mày chết tới đít Phổ ơi, mày chết
tới đít rồi... [52, tr.570]
<59> - Cách mạng về luôn không bác?
- Các ông giải phóng làm tội mẹ con tôi không bác? [52, tr.653]
<60> Ông Nhâm hô một câu tếu:
- Bà con mình theo Việt cộng muôn năm! [52, tr.664]
Hoặc <61> Chị Năm đập tay Sâm:
- Hỏng rồi, chị em mình không có giấy phép. [52, tr.581]
2.1.1.2. Ngôi thứ hai
a. Ngôi thứ hai số ít
Bảng 2.10. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ hai (số ít) của
các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các từ thân tộc dùng trong xưng hô ngôi thứ hai (số ít)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Má Anh Em Chị Chú Cô Bà Bác Thầy Tần số xuất hiện 35 12 25 5 24 9 7 11 6 1 2 3 4 5 6 7 8 10
`
Có thể thấy, xưng hô bằng từ chỉ quan hệ thân tộc ngôi thứ hai số ít khá
phong phú về số lượng. Chính sự phong phú của những từ chỉ quan hệ thân
tộc đã tạo nên sự phong phú của nhóm từ này. Bên cạnh đó, vai trò giao tiếp
(có thể dùng cả trong giao tiếp gia đình và giao tiếp ngoài xã hội) đã khiến lớp
từ này được mở rộng.
Trong một số tác phẩm của Phan Tứ, những từ trên xuất hiện ở các ví
dụ sau:
<62> Dạo ở nhà má Bảy, anh bị cảm nên thường nằm trong buồng kín,
khi động mới xuống hầm. Má sợ Sâm bép xép, không cho biết có cán bộ
trong nhà. Sâm hỏi luôn miệng:
- Sao mà nấu cơm nhiều vậy má?
- Hồi trưa còn hai khúc cá, mất đâu một khúc rồi má?
- Dầu cù là đâu thơm quá má? [29, 547]
<63> Gì đâu. Em quen anh, chưa quen mấy anh kia... Anh cắt bằng
dao chậm lắm. Anh cao, níu nhánh xuống em cắt. Ở nhà anh làm gì anh Bê?
[52, tr.585]
<64> ...Tiến hỏi gặng lần cuối:
- Em không giận anh nữa chứ? Anh tệ lắm...
Kham lắc đầu, mắt còn ướt đẫm.
- Anh muốn nói với em... lâu nay anh định... ờ... em đừng giận... [52,
tr.194]
<65> Ảnh không biết ở quê bây giờ ra sao, phải gởi về tỉnh nhờ tụi tôi
chuyển lại. Khôn ghê. Chị đọc đi rồi ta bàn công tác. [52, tr.587]
<66> Nghĩ thấy tức, Kham hỏi vặn khiêu khích:
- Thế sao chú không tìm theo Itxala đi? [52, tr.60]
<67> Tôi hỏi cô phải nói dứt khoát. Có chịu làm vợ tôi không thì bao?
Lão Mắt Mèo thèm cô lắm rồi, nhưng còn nể mặt tôi. Lấy tôi thì được giàu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sang, khỏe xác, không sợ Pháp nó hiếp. Cô muốn sao? [52, tr.145]
`
<68> - Thằng Rân con lão Hạnh học dốt như bò, tao nhớ! Nó gởi thơ cả
lô, Sâm trả lời chưa?
Sâm ngớ ra, vụt đỏ ửng hai má:
- Em đốt hết. Thầy đừng nghe họ đồn tầm bậy. Ai nói thầy biết? [29,
tr.567]
b. Ngôi thứ hai số nhiều
Bảng 2.11. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ hai (số nhiều)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các từ thân tộc dùng trong xưng hô ngôi thứ hai (số nhiều)
1 Mẹ con bà Tần số xuất hiện 1
3 Các anh 3
4 Các chị 1
5 Các anh chị 5
6 Bà con 10
<69> Bà con ạ cho tôi góp đôi câu. [52, tr.68]
<70> Cha Kham mỗi lần giảng cái gì cho vợ con cũng mắng phủ đầu :
“ Mẹ con bà ngu lắm !” [52, tr.135]
<71> Ừ, vào làng khó thật đấy. Vô ý là bị chông ngay. Em vót chông
đến sưng ngón tay đây... Hoài ! đau em... anh đến Pa Thôn nhờ du kích dẫn
vào Na Bua, đừng đi một mình nhé. A, em học tiếng Việt nữa đấy. Nhưng chả
nói đâu, nói sai các anh cười xấu hổ chết. [52, tr.221]
Hay <72> Con trai tôi cầm súng cho các ông, mà đêm hôm các ông tới
đào nhà phá cửa, thất nhân tâm lắm ông ơi. [52, tr.561]
Có thể thấy, xưng hô bằng các từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc ngôi thứ hai
số nhiều không phong phú như từ chỉ quan hệ thân tộc ngôi thứ hai số ít.
Xưng hô ngôi thứ hai số nhiều trong các trường hợp trên là: mẹ con bà, các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
anh, các chị, các anh chị, bà con.
`
2.1.2.3. Ngôi thứ ba
a. Ngôi thứ ba số ít
Bảng 2.12. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ ba (số ít)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Tần số xuất hiện Các từ thân tộc dùng trong xưng hô ngôi thứ ba (số ít)
1 Vợ tôi 2
2 Anh ấy 13
3 Ông ấy 3
4 Chú ấy 2
5 Cha em 1
6 Con bé 5
7 Anh mày 2
8 Con tôi 1
9 Anh con 1
<73> Chú Xẩy ạ... Ông quan hai Mắt mèo trên đồn là giống con Hổ
tinh đầu thai hở?
- Bậy, nó cũng là người.
- Sao ông ấy trông ác thế? [52, tr.59]
<74> Nhưng Kham vấn đứng tần ngần, cắn mãi đầu ngón tay, mí mắt
đập phanh. Thiết hiểu ý:
- Anh Tiến đón tổ du kích dẫn về đây ban sáng, rồi đivới anh Vi Xiên.
Hôm kia Kham giận anh ấy phải không? [52, tr.179]
<75> - Mày còn tiền về đường không?
Mộc cười tươi:
- Hết. Cần khỉ gì, được về là khoái rồi. Anh coi như vợ tôi nó... [52, tr.125]
<76> Kham đứng trước mặt Tiến, nhìn xuống đất, ngón chân cái di di
một mảnh lá:
<83> Em đem cơm... tưởng cha em về... [52, tr.130]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
<77> Thấy Kham giương mắt hãi hùng nhìn vào bóng đêm, Tiến cười:
`
- Cậu nào đưa hộ con bé về làng tí? [52, tr.131]
<78> Mè xì mũi, quay đi. Lại gắt mấy câu nữa. Rồi mè chõ sang bụi
cây bên cạnh có tiếng máy khâu tanh tách.
- Đi ơi! Ném cho mẻ lưới nhé. Anh mày về đây. [52, tr.167]
<79> Chị Đa vốn tính bộc tuệch, dễ quên. Chị nghĩ bấy nhiêu đã thấy
rối óc. Chị ôm con sà vào bếp, rất mừng khi má Bảy bắt chuyện bâng quơ:
- Cả xã kéo đi xăm hầm trên gò Chà La, được gì không mà chưa thấy
con tôi về. [52, tr.513]
<80> Có điều anh con nó đã... như vậy, con phải, con phải rán tìm
được anh Dõng cho má.Tụi nó đồn ảnh chết, má chưa tin mà sao cứ nóng ruột
hoài. Con mời ảnh về thăm má một chút, má trông lắm.Con nói bấy nhiêu
thôi, đừng hở ra chuyện anh Tư lãnh súng, nhớ chưa? [52, tr.539]
b. Ngôi ba số nhiều
Bảng 2.13. Các từ thân tộc dùng xưng hô ngôi thứ ba (số nhiều)
của các nhân vật trong một số tác phẩm của Phan Tứ
Các từ thân tộc dùng trong xưng hô ngôi thứ ba
Tần số xuất hiện
STT
(số nhiều)
Mấy cô Việt kiều
1
1
Các ông trên khu
1
2
Ví dụ:
<81> Các ông trên khu chỉ khéo dọa. [52, tr.128]
Hoặc <82> Đúng, mình cũng nhớ... Hôm trước có mấy cô Việt kiều
trong đội Đời sống mới đến bàn công tác, mình nghe cứ như chim hót ríu rít.
Họp xong, các ả trách mình ngủ gật. Mình bảo “Tôi nhắm mắt để thưởng thức
tiếng Việt, các chị nói hay quá”. Thế là cười trừ hòa cả làng. [52, tr.123]
2.1.3. Xưng hô bằng tên riêng
Kết quả khảo sát cho thấy, tên riêng trong một số tác phẩm của Phan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tứ cũng được dùng để xưng hô. Trong hội thoại việc xưng hô bằng tên riêng
`
của các nhân vật có thể dùng ở cả ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba.
Cách Xưng hô bằng tên riêng ở từng trường hợp, từng ngôi riêng biệt sẽ mang
lại hiệu quả khác nhau. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm của Phan Tứ, tên
riêng chỉ được dùng trong xưng hô ở ngôi thứ nhất và thứ hai.
Bảng 2.14. Các từ xưng hô bằng tên riêng của các nhân vật
trong một số tác phẩm của Phan Tứ
STT Các từ xưng hộ bằng tên riêng Tần số xuất hiện
1 Kham 59
2 Xẩy 27
3 Việt 19
4 Vi Xiên 34
5 Phun 23
6 Tiến 64
7 Linh 12
8 Đeng 13
9 Nuôn 9
10 Mi 11
11 Sỏi 25
12 Năm 8
13 Bê 22
14 Sâm 41
15 Dõng 26
16 Bảy 29
Ví dụ:
<83> - Sao Kham biết?
Kham tỏ vẻ thạo:
- Bọn trong làng mổ ba trâu, bắt mỗi nhà đồ bốn hông xôi anh ạ. Mà đại
đội thằng Tóc đỏ mới đi chiều qua, làm gì đã về ngay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Không, tôi hỏi sao Kham biết anh em phục ở đây.
`
- A, chú Xẩy vào làng nói. Chú đi với… không, chú trốn về… [52,
tr.269]
<84> - Đồng chí Tiến biết làng Thông Nọi trước ra sao không?
Tiến lắc đầu. Vi Xiên rì rầm:
- Đẹp nhất Xây Thả Von đấy. Nhà gỗ to như chùa. Xoài vô khối, quả
bằng đu đủ… Tôi chơi hội ở đấy mới gặp Nuôn. [52, tr.200]
<85> Không, hội vùng ta thích hơn nhiều. Không có bọn lính Pháp phá
đám… Nghe tin cha ốm, em mang sữa với thuốc về thăm, không định đi chơi
đâu nhé. Đi với Nuôn, Đeng. Anh gặp Đeng chưa? À anh múa lâm vông chắc
thạo chứ?
- Biết múa nhưng chả thích. [52, tr.107]
Hoặc <86> Đến hầm, Bê cúi đầu dòm xuống:
- Sỏi ơi, để mình đào thay [52, tr.534]
2.1.4. Xưng hô bằng các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp
Trong thực tế các từ chỉ chức danh nghề nghiệp được dùng để xưng hô
cũng khá phổ biến. Tuy nhiên, nhóm từ này chỉ được dùng để xưng hô, gọi
đối với ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ ba trong giao tiếp mà thôi.
Trong các tác phẩm của Phan Tứ, nhóm từ này được sử dụng như sau:
<87> Tiếng đập bàn đánh sầm:
- Ông trung úy! Khi quan trên nói, cấp cưới phải thế nào?
Đờ Larugiê đứng nghiêm, cúi mặt. Đôi mắt mèo xanh lè lia một ánh
vui. Đợi cơn thịnh nộ tậm ngớt, hắn rụt rè chiềng:
- Thưa đại tá, tôi mải suy nghĩ về một kế hoạch mới, khả dĩ bình định
được cái cùng Xây Tha Von quỷ ám ấy. [52, tr.139]
<88> - Cái hôm ảnh thi bắn được giải nhứt hai trăm, con đã nghi nghi,
không chừng rồi ảnh ham tiền chạy theo cây súng đó. Anh ký giấy, tuyên thệ
mà giấu cả nhà, thiệt hết chỗ nói. Bây giờ ảnh mặc sức đi phục kích, giết cán
bộ lấy thưởng, theo lão Phổ mà mổ bụng ăn gan. [52, tr.521]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
<89> - Có bộ đội mình về không ?
`
- Nghe nói thầy đi với hai ba người nữa, mang súng hết…Mai con đi
thăm thầy, nghe má ? [52, tr.538]
<90> - Ô hay cái ông thầy tu này ! Để người ta hỏi nhau tí tẹo, hàng
mấy tháng mới vào đám hội…
- Tôi mách cô Nuôn cho mà xem ! [52, tr.106]
<91> Bộ đội giải phóng gác hết đường làng ngõ xóm, má đừng lo. [52, tr.565]
2.1.5. Xưng hô bằng các kết hợp khác
Có thể nói, ngoài xưng hô bằng các đại từ xưng hô đích thực, từ chỉ
quan hệ thân tộc, bằng tên riêng hay các bán đại từ, thì xưng hô bằng các kiểu
kết hợp khác cũng được sử dụng khá phong phú qua giao tiếp giữa các nhân
vật. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, xưng hô bằng các kết hợp từ khác của
các nhân vật được Phan Tứ sử dụng các dạng như sau:
2.1.5.1. Từ thân tộc + tên riêng
Ví dụ:
<95> - Đi với ai?
- Với con Ngọ. Bác Nhâm dặn con Ngọ lên tìm họ hàng trên đó, người
ta chỉ chỗ thầy Dõng cho…Để con mượn cái bao bố, cái cân, con giả hỏi mua
chè khô, à mà con mua chè luôn chớ sao lại giả. Con qua chị Đa mượn bao
nghe má. Lấy xe đạp con Mai ba đứa đèo nhau… [52, tr.539]
<96> - Không, tôi hỏi sao Kham biết anh em phục vụ ở đây.
- A, chú Xẩy vào làng nói. Chú đi với… Không, chú trốn về… [52, tr.178]
2.1.5.2. Bán đại từ + tên riêng + từ chỉ nghề nghiệp
<97> Này, đêm nào cậu Đeng cũng đến thổi kèn ve vãn Kham đấy.
Thằng Phủi con buôn vài ngày lại một lần quà cáp. Chậm chân thì hụt mồi
Tiến ạ. Gái đẹp như nước đọng lá sen, ai chưa kịp hứng tay… [52, tr.100]
2.1.5.3. Từ chỉ quan hệ thân tộc + đại từ xưng hô đích thực
<98> Mè xì mũi, quay đi. Lại gắt mấy câu nữa. Rồi mè gọi chõ sang
bụi cây bên cạnh có tiếng máy khâu tanh tách:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Đi ơi! Ném cho mẻ lưới nhé. Anh mày về đây [52, tr.167]
`
2.2. Các từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ xét về
phương diện cấu tạo
Về phương diện cấu tạo từ, xưng hô có thể không chỉ là từ, mà còn có
thể là ngữ. Tuy nhiên, luận văn xin được phân chia từ xưng hô thành hai loại
là từ đơn và từ phức.
2.2.1. Từ xưng hô là từ đơn
Từ đơn có thể là cấu tạo của các nhóm từ dùng để xưng hô như: đại từ
nhân xưng đích thực (mày, tao, nó, hắn...), từ chỉ quan hệ thân tộc (anh, em,
chú, bác, mẹ, con....), tên riêng (Thơ, Ánh...), các bán đại từ (thằng, đệ. Trái
lại, các từ chỉ nghề nghiệp thường có cấu tạo là từ phức.
2.2.1.1. Các đại từ nhân xưng đích thực là từ đơn.
<99> - Mi qua nổi không rứa?
- Hay để mày để tao! Tao mạnh hơn. [52, tr.50]
<100> - Tao bị phục ở Na Bua. Mày lên vùng Hàng rào, bọn vũ trang
xông xáo dữ lắm. Hàng rào tức là vùng giằng co ấy mà. Địch giằng mất đã hai
năm, ta chưa co lại được. [52, tr.52]
<101> - Đấy, ông thử hỏi khắp làng xem ai bảo con tôi hư?
Ơn đức Phật tổ nó, được người được nết, chịu khó lam làm lại thông
minh sáng dạ. Gái làng đã mấy đứa biết chữ được như nó. Tuổi chưa nên
người, ông định bắt nó đi cán bộ để tôi thui thủi. Có mụn con trai đi bộ đội
chết rồi, giờ đến con gái... Nhỡ nó có làm thì sao tôi... tôi...
Mè khóc thút thít và phò chịu thua. [52, tr.114]
Hoặc <102> Tiến ngượng cười:
- Chỉ sợ nói họ không nghe thôi.
- Nói mãi họ cũng lọt tai. [52, tr.76]
2.2.1.2. Các từ chỉ quan hệ thân tộc là từ đơn dùng xưng hô
Ví dụ:
<103> Cơm xong, Tiến nằm dài hút thuốc lá, đợi mè Phao giục lấy vợ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Quả nhiên mè nói gần nói xa một lúc rồi thủ thỉ:
`
- Lấy vợ đi con ạ. Có nơi lui tới cũng đỡ vất vả. [52, tr.168]
Hoặc <104> Tiến cười làm mè phát cáu: “Làm tội mày đi! Bố mẹ ở cả
bên nước Việt, sang đây mẹ không giúp thì ai lo!”. [52, tr.168]
Hoặc <105> Em xem, anh có tiếc gì với em đâu. Tất cả cơ nghiệp nhà
anh, cả mạng anh nữa, anh chỉ đổi lấy chút tình yêu... Sao em nỡ hắt hủi anh,
hở Kham? [52, tr.115]
<106> Dũng hỏi má:
- Lỡ hắn trở mặt bắt má thì sao ? [52, tr.733]
2.2.1.3. Các từ chỉ tên riêng là từ đơn dùng xưng hô
<107> Sao Kham biết ?
Kham tỏ vẻ thạo:
- Bọn trong làng mổ ba trâu, bắt mỗi nhà đồ bốn hông xôi anh ạ. Mà
thằng tóc đỏ mới đi chiều qua, làm gì đã về ngay. [52, tr.178]
<108> Một tối Tiến rất ngạc nhiên khi thấy ông cụ lấy ra một hộp sữa,
tươi cười:
- Xẩy nó gửi biếu con.
Theo lời ông cụ thì Xẩy đã bắt đầu tin anh em Việt, mến Tiến khá rõ.
[52, tr.76]
<109> Mi viết thơ về thằng An, kể lại cái hôm đánh ở Na Bua nghe.
[52, tr.97]
2.2.2. Từ xưng hô là từ phức
2.2.2.1. Các đại từ nhân xưng đích thực là từ phức
Ví dụ:
<110> Tiến ho liền liền, lưỡi ríu không nói được. Rồi phát cáu với mình,
anh bóp bàn tay Kham đau điếng, nói bừa như người đâm đầu xuống giếng :
- Chúng mình lấy nhau, em nhé ? [52, tr.194]
<111> Rồi một mùa đông khác đến. Cũng vào lúc bụi tre bắt đầu đưa
võng trong gió bấc, đại đội của Tùy lại kéo qua Đồng Dừa. Anh em từ trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tây Nguyên về sắp xuống tàu đi tập kết. Tùy nói:
`
- Chúng con dỡ nhà của má, bây giờ phải dựng đền. [52, tr.525]
<112> - Thằng Bê dù giỏi nhớ ghê ta.
- Tai nó to, nó nghe rõ hơn tụi mình. Ai nói gì cũng lọt tai nó trước...
[29, tr.541]
<113> Sâm ngồi thụp xuống bên anh, túm cánh tay anh giật mạnh, nói
qua nước mắt giàn giụa:
- Tụi nó mổ bụng bác, phơi bác giữa chợ... à mà không phải bác, bác
khác kia... [52, tr.590]
2.2.2.2. Các từ chỉ quan hệ thân tộc là từ phức được dùng để xưng hô
Ví dụ:
<114> Tay má làm thoăn thoắt, óc má nghĩ hằn học và thích thú: “Đây
Phổ nè, tao tiếp tế Cộng sản đây nè. Không cho chén gạo nào, mày cũng hút
hết máu má con tao. Đã vậy tao ủng hộ Cộng sản tận bờ sát góc cho mày biết
mặt. Cách mạng về, mày chết Phổ ơi, mày chết tới đít rồi...” [52, tr.570].
Bảng 2.15. Các từ ngữ xưng hô trong một số tác phẩm của Phan Tứ
xét về phương diện cấu tạo
Các từ ngữ xưng hô xét về phương diện cấu tạo Số lượng Tỉ lệ
Từ đơn 44 58.7%
Từ phức 31 41.3%
Tổng 75 100%
2.3. Tiểu kết
1. Trong một số tác phẩm của Phan Tứ, từ ngữ được sử dụng trong
xưng hô khá đa dạng, đó là: xưng hô bằng đại từ nhân xưng, xưng hô bằng
từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc, xưng hô bằng tên riêng, xưng hô bằng các từ
ngữ chỉ chức danh nghề nghiệp, xưng hô bằng bán đại từ và một số kết hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khác. Cách xưng hô bằng đại từ nhân xưng và từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc
`
của một số nhân vật bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ Nam Trung Bộ. Điều này
đã góp phần tạo ra nét riêng trong xưng hô ở một số tác phẩm của Phan Tứ
xét về góc độ ngôn từ.
2. Kết quả khảo sát cho thấy đại từ nhân xưng, từ ngữ chỉ quan hệ
thân tộc và tên riêng được sử dụng trong xưng hô với tần số nhiều hơn cả.
Cả ba nhóm từ này đều có thể sử dụng cho xưng hô ở ngôi thứ nhất, thứ
hai và thứ ba.
3. Về phương diện cấu tạo, bao gồm tất cả các từ ngữ dùng để xưng hô,
có 44 (58.7%) từ đơn, 31 (41.3%) là từ phức. Như vậy, trong phạm vi khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sát, từ ngữ xưng hô có cấu tạo là từ đơn được sử dụng nhiều hơn.
`
Chương 3
CÁCH DÙNG TỪ NGỮ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM CỦA PHAN TỨ
3.1. Sử dụng từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc, thái độ của nhân vật
Đỗ Hữu Châu cho rằng “xưng hô là một chiến thuật giao tiếp”. Qua
xưng hô, người nói có thể biểu hiện thái độ, tình cảm của mình với người
nghe hoặc với sự vật, hiện tượng, con người được nói tới trong phát ngôn.
Tùy theo cảm xúc, thái độ của mình mà người nói lựa chọn cách xưng hô sao
cho phù hợp. Các sắc thái cảm xúc có thể được biểu hiện bằng xưng hô là:
yêu thương, lưu luyến, ngưỡng mộ, tự hào...(sắc thái cảm xúc tích cực); hay
sắc thái tiêu cực như: khó chịu, cay cú, bực bội, tưc giận, căm thù;...; hoặc sắc
thái trung tính. Các sắc thái biểu thị thái độ có thể là khen ngợi, đồng tình;
thân mật, lịch sự hoặc thân mật, suồng sã; khinh miệt, mỉa mai; thái độ quỵ
lụy; hay thái độ lạnh nhạt trách móc... Đồng thời, qua xưng hô có thể thấy
được những đặc điểm về tính cách, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính, hoàn
cảnh... của nhân vật (bản chất của nhân vật). Theo đó, xưng hô trong một số
tác phẩm của Phan Tứ có thể được xác định với các sắc thái sau:
3.1.1. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc
3.1.1.1. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự yêu thương, lưu luyến
Từ ngữ xưng hô thể hiện cảm xúc yêu thương, lưu luyến được sử
dụng trong xưng hô giữa bộ đội Việt với nhân dân Lào yêu nước (Bên kia
biên giới); hoặc trong xưng hô giữa bộ đội Việt với dân Việt (Gia đình má
Bảy). Ví dụ:
<114> Hai anh em đi cho khéo, về cho đủ má mừng... (Má buông tay.
Dõng tần ngần nhìn má, chớp mắt. Anh chào vội một lần nữa, lách qua cửa.
Bê bước theo, hai người chìm ngay vào trong đêm, không một tiếng động).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
[52, tr.579].
`
Đây là lời má Bảy dặn dò Dõng và Bê trước khi hai người trở lại địa
bàn hoạt động bí mật của bộ đội Việt Nam. Mặc dù không có quan hệ huyết
thống nhưng má Bảy xưng má, gọi Bê và Dõng là hai anh em. Cách xưng hô
này cho thấy tình cảm yêu thương của má Bảy dành cho Dõng và Bê - những
người tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, rằng những người cách mạng trong
lòng dân là quan hệ máu mủ ruột già và nhân dân sẵn sàng nuôi dưỡng, chở
che người Cách mạng như bảo vệ những đứa con máu thịt của mình. Sự lưu
luyến của đương sự được thể hiện nhiều nhất qua những từ miêu tả hoạt động
trạng thái. Tuy nhiên, cách xưng hô như trên cũng một phần cho thấy những
luyến lưu của má Bảy đối với bộ đội Việt, giống như cách một người mẹ bịn
rịn chia tay những đứa con của mình trước khi chúng dấn thân vào nơi mà sự
sống hoàn toàn mong manh.
<115> Con đừng giận lão Xẩy. Hắn đứt mối đã lâu, bị lạc hậu rồi, con
phải dẫn dắt hắn theo. Cả làng Na Bua này cũng vậy [52, tr.76].
Đây là phát ngôn của phò Phun khi trò chuyện với Tiến. Trong hội
thoại, phò Phun không tự xưng và gọi Tiến là con. Nếu theo vai xã hội, phò
Phun giữ chức vụ cao hơn Tiến. Tuy nhiên, phò Phun không xưng tôi và gọi
đồng chí như cách xưng hô của cấp trên với cấp dưới (trong quân đội) thông
thường. Nhân vật lựa chọn cách gọi con nhằm bày tỏ những yêu thương mà
mình dành cho anh cán bộ Việt trẻ tuổi.
<116> Làm ăn cho bảnh, nghe không Bình? [52, 531]
(Anh dùng tên thật của Bê để thay cho tiếng con mà anh rất muốn gọi).
Đây là lời dặn dò của anh Chín dành cho Bê khi Bê phải chuyển công
tác. Anh Chín có hai con tầm tuổi Bê đều đã mất vì chiến tranh, Bê cũng đã
từng cứu anh Chín một lần thoát chết. Anh Chín không muốn tỏ ra yêu riêng
một ai, Bê cũng tránh cái tiếng thân thiết với cấp trên. Cách xưng hô của anh
Chín thể hiện sự yêu thương trong chừng mực với Bê, đồng thời giúp anh che
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giấu cảm xúc tiếc nuối khi phải tạm rời xa người cán bộ trẻ mà anh đã dành
`
nhiều tình cảm. Anh dùng tên thật của Bê để thay cho tiếng con mà anh rất
muốn gọi, bởi anh không muốn để lộ tình cảm hơn mức bình thường mà anh
dành cho Bê.
<117> Chứ mẹ thì mong hai đứa chúng mày được sự thương yêu
nhau…[52, tr.218]
Đây là phát ngôn của mẹ Kham trong khi trò chuyện với Kham và
Tiến. Thực tế, Tiến và Bua Kham chưa phải quan hệ vợ chồng nhưng cách
xưng hô của mẹ Kham cho thấy bà đã coi Tiến là con; Tiến trong quan hệ với
với bà cũng là mẹ - con, là quan hệ huyết thống. Đây là một cách bà gửi
những lời yêu thương, nhắn nhủ dành cho Tiến và Kham.
Đôi khi, từ ngữ xưng hô thể hiện tình cảm yêu thương, lưu luyến cũng
được dùng trong đối thoại của những chàng trai, cô gái có tình cảm đặc biệt
với nhau. Ví dụ:
<118> Anh đi đây. Em xem thư sẽ hiểu. Còn sống, còn có lúc anh về
thăm. [52, tr.193]
Đây là phát ngôn của Tiến trong cuộc trò chuyện với Bua Kham. Có
thể thấy, đại từ anh ngôi thứ nhất (trong phạm vi khảo sát của luận văn) chỉ
được nhân vật nam sử dụng khi nói với nhân vật nữ mà mình yêu mến. Khi
xưng hô với các em (quan hệ huyết thống) và những đối tượng mà đương sự
coi là đàn em của mình, những đại từ như: tao, tôi, hoặc dạng khuyết từ xưng
hô thường được sử dụng. Trong phát ngôn trên, Tiến tự xưng anh và gọi Bua
Kham là em nhằm thể hiện tình cảm yêu thương đặc biệt; khác khi mới quen,
anh gọi Bua Kham là cô xưng tôi.
<119> Kham đuổi anh sao? Không cho anh sống nữa ư? [52, tr.116]
Đây là phát ngôn của Phủi trong hoàn cảnh Bua Kham tỏ thái độ không
muốn đón tiếp anh tại nhà. Phủi tự xưng anh và gọi Kham bằng tên riêng.
Trong hoàn cảnh giao tiếp chỉ có hai người, cách xưng hô này rõ ràng không
phải để định danh. Phủi trực tiếp gọi tên riêng của Kham và xưng anh nhằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
gián tiếp thể hiện tình cảm yêu thương đặc biệt của mình.
`
3.1.1.2. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự ngưỡng mộ, tự hào
Từ ngữ xưng hô thể hiện sự ngưỡng mộ, tự hào được thường được sử
những người dân Việt - Lào yêu nước sử dụng, khi họ nhắc tới một đối tượng
thứ ba là những người làm Cách mạng. Ví dụ:
<120> Bà con Kỳ Sơn thấy một chị cộng nữ đẹp như tiên, đeo bốn súng
lục, hút điếu thuốc rồi ném lên trời, rút súng bắn theo đứt đôi điếu thuốc. Y
như trong tuồng xilama vậy đó... [52, tr.513]
Phát ngôn trên của nhân vật Đa (một người dân Kỳ Bường) trong khi
trò chuyện với má Bảy. Ở phát ngôn trên, nhân vật Đa có nhắc tới những đối
tượng thứ 3 là bà con Kỳ Sơn và chị cộng nữ đẹp như tiên. So sánh cách
người phát ngôn sử dụng những biểu thức ngôn ngữ khác nhau để chỉ các đối
tượng như trên, có thể thấy những tình cảm không giống nhau của người phát
ngôn dành cho từng đối tượng. Bằng những từ ngữ miêu tả hoạt động cùng
với cách gọi “chị cộng nữ”đầy trân trọng đã thấy được sự ngưỡng mộ và tự
hào của người phát ngôn đối với nữ Cộng sản Việt Nam.
<121> Anh Tiến trúng đạn bị thương nhẹ. Bộ đội bây giờ nghỉ ở Ka
Lan. Tao cho cái đồn Núi Quỷ sống dai cũng được tháng nữa chứ mấy. Tài
thật các ông bộ đội! [52, tr.118]
Đây là phát ngôn của Xẩy khi nói chuyện với Bua Kham về kết quả
trận chiến vừa qua, đồng thời dự đoán tình hình mặt trận những ngày tiếp
theo. Sau khi thấy được những cống hiến và chiến công của bộ đội Việt, từ
một người cho rằng bộ đội Việt là “quân cướp nước” chẳng khác gì bọn
Pháp, Xẩy thay đổi cách xưng hô, gọi những cán bộ Cách mạng người Việt
trẻ tuổi là “các ông bộ đội” đầy ngưỡng mộ, tự hào.
<122> Tao biết mà. Đời nào anh Tiến nhận của mày biếu. Anh ấy có
tham như thằng Phủi đâu! [52, tr.118]
Đây là phát ngôn của Xẩy trong cuộc trò chuyện với Kham. Ở phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngôn này, Xẩy có nhắc đến nhân vật thứ 3 là anh Tiến. Xét về quan hệ xã hội,
`
Tiến đáng tuổi con cháu Xẩy. Cách Xẩy gọi Tiến là “anh Tiến”, “anh ấy”
thật trân trọng, hoàn toàn khác biệt cách anh gọi “thằng Phủi” đầy khinh bỉ đã
làm nổi bật tình cảm ngưỡng mộ và sự tự hào mà Xẩy dành cho anh Tiến.
<123> Anh Việt ấy không phải người trần. Ai vạch áo anh mà xem, ắt
thấy ba nốt ruồi đỏ dọc sống lưng. [52, tr.79]
Đây là phát ngôn của ông cụ Pứ phù thủy về anh Tiến khi nói chuyện
với dân làng. Ông cụ Pứ là già làng, người uy tín trong bản. Nhưng trong phát
ngôn, cụ Pứ vẫn hạ mình gọi Tiến là anh Việt ấy/ anh ấy. Cùng với những chi
tiết cụ Pứ thần thánh hóa nhân vật Tiến, có thể thấy dường như cụ Pứ đang
tránh gọi tên riêng của Tiến bởi không muốn phạm húy nhân vật mà ông coi
là đấng thiên sai. Cách xưng hô trên cho thấy sự ngưỡng mộ, tự hào, thậm chí
là tôn thờ của cụ Pứ dành cho Tiến.
3.1.1.3. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự khó chịu, bực bội
Nhóm từ ngữ này thường được dùng trong giao tiếp giữa những
những người cùng phe, ở hoàn cảnh người phát ngôn đang tức giận và muốn
thể hiện cho người nghe thấy rõ sự khó chịu, bực bội của mình. Ví dụ:
<124> (Kham uất nghẹn cổ, trách mình không về bộ với cánh bạn gái,
lại đi nhờ voi cái nhà bác dở dở ương ương này, để lão tạt cho sượng mặt. Cô
nhổm dậy, nắm cánh tay Xẩy day mạnh, run giọng: )
- Tôi không thèm đi nhờ! Ông để tôi xuống! Dừng lại. [52, tr.61]
Đây là phát ngôn của Bua Kham trong cuộc trò chuyện với Xẩy. Trong
tác phẩm, Xẩy tự xưng là bạn cũ của cha Kham và thường kín đáo giúp đỡ mẹ
Kham. Ở ví dụ trên, bởi bị Xẩy vu oan cho tội tày đình là “yêu một thằng gián
điệp” nên Bua Kham rất tức giận. Kham đã gọi Xẩy là ông xưng tôi để tỏ rõ
cho Xẩy thấy cảm xúc đó của mình. Cách xưng hô này xa lạ và thiếu lễ phép,
khác với cách xưng hô chú - cháu giữa Bua Kham và Xẩy hằng ngày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
<125> Cái thằng... Sao mày nói với tao mày không dại gì lãnh súng?
`
Đây là phát ngôn của má Bảy trong trò chuyện với con trai - Tư Sỏi.
Theo xưng hô của mẹ với con cái thường thấy, má Bảy phải xưng má, gọi
con. Nhưng trong ví dụ trên, má Bảy gọi con là thằng/ mày, xưng tao để tỏ rõ
sự khó chịu, bực bội khi con mình lãnh súng làm dân vệ cho giặc Mỹ.
<126> (Chỉ riêng trung úy Đờ Lagiurê không sợ. Giữa lúc đại tá thét ra
khói lửa, hắn vẫn cố ý làm ra vẻ lơ đãng, đăm chiêu. Thỉnh thoảng hắn lật sổ
tay vờ tìm một điều ghi chép, kì thực chỉ xem vụng mấy chiếc ảnh đầm cởi
truồng loại mới... Tiếng đập bàn đánh sầm)
- Ông trung úy! Khi quan trên nói, cấp dưới phải thế nào? [52, tr.139]
Phát ngôn trên là của tên Đại tá quân đội Mỹ nói với cấp dưới của
mình là Đờ Lagiurê. Trước thái độ không nghiêm túc và thiếu tôn trọng của
cấp dưới. Tên đại tá đã gọi cấp dưới bằng chức vụ “ông trung úy”,đồng
thời dùng những từ sở chỉ như “quan trên”,“cấp dưới” nhằm thể hiện
quyền lực và nhắc nhở cấp dưới ý thức về trách nhiệm của bản thân. Cách
xưng hô này cho thấy tên đại tá đang khó chịu, bực bội trước sự hỗn hào,
thiếu kỉ luật của cấp dưới.
3.1.1.4. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự tức giận, căm thù
Trong phạm vi khảo sát, nhóm từ ngữ này được sử dụng trong giao tiếp
để xưng và hô (gọi) giữa những người không cùng phe chiến đấu, cho thấy sự
tức giận, căm thù của quân ta đối với quân địch, và ngược lại. Ví dụ:
<127> Cháu ăn thịt bác cho lại gan đây nè. Báo hại cả nhà cháu khóc
sưng mắt. Cháu đi chợ quận, tụi ác ôn cứ lật nón lên dòm, nói bữa nay ai đỏ
mắt với mua hương đèn là đúng Việt cộng trăm phần trăm...[ 52, tr.591]
Hoặc
<128> Vừa bước vào làng, Mắt mèo hạ ngay nghiêm lệnh: “Ai ra rừng
liên lạc với phiến loạn sẽ xử bắn...”
Nửa giờ sau, hắn đứng lên nói trước dân làng bằng tiếng Lào chỉ hơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sai dấu:
`
- Kính thưa các bậc cha mẹ, anh chị, các bạn thân mến! Quân đội Pháp
- Lào mở cuộc hành binh lớn tảo trừ bọn tàn quân Việt minh cộng sản. Chúng
thua to bên Việt Nam, phải chạy sang cướp bóc nhân dân Lào để mưu sống
sót... Hãy chung sức tiêu diệt bọn Keo sang xâm lược [52, tr.142].
Đó cũng có thể là xưng hô của những người dân yêu chuộng hòa bình
với quân cướp nước:
<129> Đời cha tôi đi phu làm đường, bị thằng cai lục lộ người Việt
đánh giập phổi, về ốm suýt chết. Đến đời tôi... cầm súng đánh Pháp từ năm
bốn mươi sáu, vợ con Pháp giết sạch, thế mà một thằng Việt oắt con nó tát
giữa mặt. Phò hiểu tôi đấy. Kiếp này không đánh được pháp, đầu thai kiếp sau
tôi vẫn còn đánh... [52, tr.67].
Nhân vật phát ngôn ở ví dụ này là Xẩy - một người từng hoạt động
Cách mạng sôi nổi nhưng hiện tại đang mất niềm tin vào Cách mạng. Cụm từ
thằng Việt oắt con Xẩy dùng để chỉ Sơn Linh. Trước đây Xẩy là dân quân tự
vệ (sau là du kích), chức vụ thấp hơn chức cai lục lộ và chức đại đội phó của
Sơn Linh. Nếu xưng hô theo vai vế xã hội, Xẩy phải gọi Sơn Linh và cán bộ
cai lục lộ là: đồng chí cai lục lộ người Việt, đồng chí đại đội phó. Tuy nhiên,
Xẩy dùng những từ ngữ thiếu trân trọng như thằng cai lục lộ người Việt và
thằng Việt oắt con chỉ hai đối tượng này để phò Phun thấy rằng: thằng cai lục
lộ người Việt và thằng Việt oắt con thực chất cũng là quân cướp nước như
thằng Mỹ, thằng Diệm... Sự tức giận, căm thù của Xẩy dành cho hai đối tượng
này cũng là mối cừu thù, là sự đối kháng sống còn.
3.1.1.5. Sắc thái cảm xúc trung tính
<130> Bà con ạ, cho tôi góp đôi câu. [52, tr.68]
Đây là phát ngôn của nhân vật Tiến trong khi trao đổi về cách mạng
Việt - Lào với bà con làng Na Bua. Cuộc hội thoại này có nhiều nhân vật
thuộc nhiều độ tuổi, nghề nghiệp khác nhau. Tôi là một đại từ nhân xưng có
sắc thái trung tính. Thông thường, đại từ tôi được người trên sử dụng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xưng hô với người dưới hoặc xưng hô giữa những người ngang hàng với
`
nhau. Đại từ tôi được cũng được sử dụng ở môi trường giao tiếp quy thức như
trong các cuộc họp, các diễn đàn, hội nghị... hoặc trong những tình huống
giao tiếp mà những người tham gia giao tiếp có nhiều mối quan hệ đan chéo.
Như vậy, mặc dù không tạo được cảm giác thân quen, gần gũi nhưng đại từ
tôi vẫn được xem như một giải pháp tình thế cho việc xưng hô trong nhiều bối
cảnh giao tiếp. Vì vậy, từ xưng hô tôi được nhân vật Tiến sử dụng.
<131> Áo quần anh khác cỡ tôi, giặt phơi dễ lộ. Anh cứ gánh đất. [52,
tr.628]
Đây là phát ngôn của Tư Sỏi khi đối thoại với Bê. Bê và Tư Sỏi ngang
tuổi nhau, lại mới quen nên Tư Sỏi chọn xưng tôi, gọi anh mang màu sắc
trung tính để thể hiện sự lịch sự xã giao là hoàn toàn phù hợp.
<132> ...Nhưng đồng chí Linh bỏ mặc cơ sở, chả thèm ngó ngàng đến.
Đồng chí bảo tôi nịnh cấp trên. Tôi không nịnh ai cả, tôi thấy đúng tôi mới
làm. Nhiều lần đồng chí Linh tỏ ý không thích tôi ở B.8 nữa. Tôi cũng muốn
xin đi nơi khác. Ở chung với đồng chí Linh tôi không chịu được cái lối giữ
miếng, đối phó từng tí của đồng chí ấy. Đề nghị cấp trên cho tôi sang đơn vị
khác. Báo cáo hết! [52, tr.43]
Đây là phát ngôn của Tiến trong cuộc họp với ban lãnh đạo B.8. Mặc
dù nội dung phát ngôn cho thấy Tiến đang tức giận, bực bội với những hành
động của nhân vật Linh, nhưng Tiến đã khéo léo lựa chọn từ xưng hô đúng
vai vế, đúng hoàn cảnh, mang sắc thái trung tính khiến người nghe cảm nhận
rằng Tiến đang bình tĩnh để đưa ra ý kiến một cách khách quan nhất.
3.1.2. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện thái độ
3.1.2.1. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự thân mật, lịch sự hoặc thân mật,
suồng sã
a. Sắc thái thân mật, lịch sự
Trong giao tiếp xã hội, cách xưng hô biểu thị sắc thái thân mật, lịch sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thường xuất hiện trong giao tiếp giữa những người đồng cấp, hoặc phát ngôn
`
của cấp trên trong giao tiếp với cấp dưới, ở môi trường giao tiếp quy thức.
Sắc thái cảm xúc này cũng được sử dụng trong những trường hợp tương tự ở
một số tác phẩm của Phan Tứ. Ví dụ:
<133> Tôi không ưa những phương pháp khủng bố. Trừng trị là hạ
sách. Phải thu phục, các ông bạn ạ, phải thu phục lòng người. [52, tr.188]
Đây là phát ngôn của Đờ Lagiurê tại câu lạc bộ sĩ quan với những
người đồng cấp về phương án cai trị nhân dân Lào. Theo cách xưng hô trong
những cuộc họp thông thường, Đờ Lagiurê phải xưng tôi và gọi các đồng chí.
Tuy nhiên, hắn đã xưng tôi để vẫn giữ được thái độ lịch sự, nhưng đồng thời
gọi những sĩ quan đồng cấp là các ông bạn nhằm thể hiện sự thân mật, rút
ngắn khoảng cách giữa hắn và những người trong hội thoại.
<134> Chiều nay B.8 họp để bình nghị cho đi phép, nhưng Mạc bận
không dự. Bắt tay Tiến, anh ngần ngừ nói: “...cậu về chúng mình lúng túng
nhiều đấy”. [52, tr.48]
Đây là phát ngôn của Mạc nói với Tiến trong hoàn cảnh Tiến chuẩn bị
về nghỉ phép và có ý định chuyển công tác mới. Trong những môi trường giao
tiếp quy thức, Mạc cần xưng tôi và gọi Tiến là đồng chí. Nhưng ở đây Mạc đã
chọn cách xưng hô chúng mình - cậu để tỏ thái độ thân mật nhưng vẫn lịch,
ngầm tỏ ý muốn giữ Tiến ở lại.
<135> Cậu đi với tớ, gặp dân hỏi tình hình. Này, nghỉ mười phút! [52,
tr.45]
Đây là lời đại đội phó Sơn Linh nói với Trung đội phó Tiến khi hai
người đang đi trong rừng. Mặc dù Tiến ít tuổi hơn nhưng Sơn Linh vẫn dùng
cậu - tớ trong xưng hô với mục đích cố kéo gần khoảng cách, tạo sự thân mật.
Lúc này, Tiến và Sơn Linh mới quen.
b. Sắc thái thân mật, suồng sã
Ở một số tác phẩm của Phan Tứ, từ xưng hô thể hiện sắc thái thân mật,
suồng sã thường được sử dụng trong giao tiếp giữa những người bằng vai,
hoặc được những người ở vai trên sử dụng trong giao tiếp với những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thuộc vai dưới. Ví dụ:
`
<136> Không, tụi tao ở tập trung. Sao mày bị... không viết thư tao biết?
[52, tr.52]
Cách xưng hô mày - tao thường được sử dụng khi những người tham
thoại không cần giữ lễ, hoặc muốn biểu lộ uy quyền, hoặc muốn biểu hiện sự
tức giận. Câu nói trên là phát ngôn của Tiến khi trò chuyện với Điềm, “cậu
bạn chung chăn năm xưa”. Như vậy, giữa Tiến và Điềm không cần giữ lễ,
Tiến chọn cách xưng hô mày - tao biểu hiện sự thân mật, suồng sã.
<137> Tụi mình lãnh cái làng khó nhai nhứt hạng [52, tr.129]
Đây là phát ngôn cửa Thiết trong bối cảnh có Thiết, Huy và Bân cùng
nhau bàn về làng mà họ đến để thuyết phục và lập làng kháng chiến. Đại từ
xưng hô tụi mình mà Thiết sử dụng trong phát ngôn trên mang sắc thái suồng
sã, thân mật.
<138> Tội nghiệp, con nít mới lớn lên đã phải chịu cực. Bọn tao quen
rồi không nói chi, tuổi tụi bây đang sức ăn ngủ, chơi bời,… [52, tr.171]
Đây là phát ngôn của Thiết khi trò chuyện với An và Huy. An và Huy
là những người lính trẻ gốc Hà Thành; Thiết là cấp trên và đáng tuổi đàn anh
của Huy, An. Tuy nhiên, Thiết không chọn lối xưng hô xa lạ để thể hiện
quyền lực của cấp trên hay xưng hô anh - các em theo quy tắc xưng hô theo
quan hệ xã hội. Anh xưng bọn tao, gọi tụi bay; thể hiện sự thân mật, suồng sã
trong giao tiếp để Huy và An hiểu rằng: mối quan hệ giữa họ thân thiết tới
mức không cần giữ lễ.
3.1.2.2. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự khinh miệt, thách thức
Trong phạm vi khảo sát, nhóm từ ngữ này thường được quân - dân Việt
- Lào sử dụng để nhắc tới quân địch. Ví dụ:
<139> Đây Phổ nè, tao tiếp tế cộng sản đây nè. Không cho chén gạo
gạo nào, mày cũng hút hết máu má con tao. Đã vậy tao ủng hộ Cộng sản tận
bờ sát góc cho mày biết mặt. Cách mạng về, mày chết tới đít Phổ ơi, mày chết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tới đít rồi... [52, tr.570]
`
Đây là lời của má Bảy khi trò chuyện với Phổ trong hoàn cảnh cách
mạng đã về. Má Bảy xưng tao và gọi Phổ là mày. Như đã nói, cách xưng hô
mày - tao thường được sử dụng khi những người tham thoại không cần giữ lễ,
hoặc muốn biểu lộ uy quyền, hoặc muốn biểu hiện sự tức giận. Phổ là người
nắm quyền sinh quyền sát trong vùng và có mối thâm thù với má Bảy. Khi
vắng bóng Cách mạng, má Bảy không có chỗ dựa nên khi đối thoại, má Bảy
thường gọi Phổ là ông và xưng tôi. Tình thế thay đổi, má Bảy xưng tao và gọi
Phổ là mày (như ví dụ) nhằm biểu hiện thái độ khinh miệt và thách thức.
<140> Tôi đề nghị chúng ta nắm lại trọng tâm ngày hôm nay: “Trong
hoàn cảnh thằng Rạng đào ngũ…” [52, tr.95]
Ví dụ trên là phát ngôn của Mạc trong cuộc họp với các cán bộ cấp
dưới. Nhân vật “thằng Rạng” được Mạc nhắc tới là một người không trung
thành với cách mạng, đã đào ngũ. Mạc gọi “thằng Rạng” để tỏ thái độ coi
thường, khinh bỉ; để thấy hắn cũng đáng khinh như “thằng Mỹ”, “thằng
Diệm” hay “thằng đầu trộm đuôi cướp”.
<141> Trên khu đoán chắc phải đúng. Pháp định càn rất mạnh, rất lâu,
nó định diệt hết chúng ta đấy. [52, tr.127]
Đây là phát ngôn của Tiến khi anh nhận định về tình tình cách mạng
Tiến tự gọi những người làm cách mạng là chúng ta, ý nói những người cách
mạng là một khối thống nhất, cùng chung một mục tiêu, đồng thời phân biệt
rạch ròi giữa 2 cực: Chúng ta (những người yêu hòa bình) với nó (kẻ xâm
lược). Như vậy, cách xưng chúng ta và gọi nó trong ví dụ trên phần nào cho
thấy sự khinh miệt, coi thường quân Pháp của người phát ngôn là Tiến.
<142> Trò giành chính quyền. Vui ghê lắm. Con đi bắt ác ôn Kỳ Lâm,
tụi nó lạy con như rái giỗ cha. [52, tr.641]
Đây là phát ngôn của Út Sâm trong giao tiếp với má Bảy. Ở lời thoại
này, Út Sâm có nhắc đến đối tượng thứ 3 là: ác ôn Kỳ Lâm, dùng tụi nó làm
từ gọi thay thế. Bằng cách xưng hô này, Út Sâm tỏ rõ thái độ khinh miệt, coi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thường đối với quân bán nước và cướp nước.
`
<143> Chối làm gì. Mày nhận của nó bao nhiêu quần áo bạc vàng rồi.
Kéo nhau đi chơi bao nhiêu hội hè. Cũng may chưa kịp chửa hoang với thằng
gián điệp ấy, đẻ ra vài đứa gián điệp cho đẹp mặt cha mẹ mày! [52, tr.60]
Phát ngôn trên của nhân vật Xẩy khi đối thoại với Bua Kham. Nhân vật
“thằng gián điệp” mà Xẩy nhắc đến trong ví dụ trên là Phủi.
3.1.2.3. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự quỵ lụy
<144> Đồng chí Tiến... anh nhận làm xiều tôi nhé? Anh giúp tôi... tôi
bướng, tôi tự cao, tôi xấu lắm. Anh cứu mạng tôi, anh khuyên bảo hàng năm
nay, tôi vẫn không nên người tốt... Anh kết xiều với tôi nhé? [52, tr.63]
Thái độ quỵ lụy của Xẩy đối với Tiến được bộc lộ rõ nhất qua những
lời tự trách và đề nghị “kết xiều” của Xẩy. Tuy nhiên, cách Xẩy gọi Tiến là
anh, xưng tôi, trong khi Xẩy đáng tuổi cha chú Tiến cũng phần nào cho thấy
sự nhún nhường của Xẩy.
<145> - Mày tính tố tao lấy thưởng hả?
- Chết, Sâm đừng nghi, tội lắm. Hễ mình hở ra với ai thì sét đánh chết
lập tức. Mình nói có mặt trời soi vô miệng đây nè.
(Sâm mủi lòng vì Mại đã rân rấn nước mắt. Với lại nó thề rồi. Cả nhà
Mại quanh năm cũng vái, mỗi tháng ăn chay tám ngày đủ lệ bát trai, nó không
dám thề bậy đâu. Sâm nuốt cau mắng “đồ tồi” vào bụng, ấm ức bỏ đi, Mại
chạy theo run rẩy:
- Để mình đi, mình đi. Sâm đừng giận, mình đau đớn lắm. [52, tr62]
Ví dụ trên là đối thoại của Sâm và Mại. Trong khi Sâm gọi mày, xưng
tao để thể hiện cảm xúc khó chịu, bực bội, không muốn giữ lễ thì Mại “rân
rấn nước mắt” xưng mình, gọi tên riêng của Sâm. Trong bối cảnh giao tiếp bí
mật chỉ có hai người, hành động gọi Sâm bằng tên riêng của Mại rõ ràng
không nhằm mục đích định danh mà để thể hiện những mến thương đặc biệt
dành cho Sâm. Từ hai cách xưng hô có phần đối lập trên, có thể thấy thái độ
quỵ lụy của Mại dành cho Sâm - người bạn mà Mại “không bao giờ từ chối sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hy sinh nào”.
`
3.1.2.4. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự lạnh nhạt, trách móc
Nhóm từ ngữ này được sử dụng trong giao tiếp giữa những người thân
quen, ở hoàn cảnh giữa họ đang có hiểu lầm, giận dỗi và muốn khéo léo thể
hiện thái độ ấy cho đối tác của mình. Ví dụ:
<146> Anh Xẩy ạ, nếu thật tình nhân dân Lào không cần nữa…chúng
tôi về ngay…về… tất cả…[52, tr.70]
Đây là phát ngôn của Tiến khi đối thoại với Xẩy. Trong phát ngôn này,
Tiến gọi Xẩy là anh, nhắc đến đối tượng thứ 3 là nhân dân Lào và xưng
chúng tôi. Để có thể hiểu tường tận thái độ của Tiến qua cách xưng hô này lại
cần nắm được ở anh những thông tin cơ bản về tính cách, công việc và hoàn
cảnh. Tiến là bộ đội Việt đến Lào để giúp đỡ nhân dân Lào giải phóng đất
nước. Theo lời phò Phun, bộ đội Việt phải “xa nhà cửa, xa đất nước tổ tiên,
qua đây giúp mình còn phải nghe chửi. Sống nằm rừng, chết chôn rừng, hết
chỗ nói. Gặp mùa đói kém, họ nhường gạo cho bộ đội Itxala...”. Trong mắt
những người dân Lào đã giác ngộ Cách mạng, Tiến là người thay mặt cho
một dân tộc và một quân đội anh hùng, giúp đỡ nhân dân Lào hết sức vô tư.
Vậy mà, Tiến lại chính tai nghe một người dân Lào có ý thức về Cách mạng
(Xẩy) nói bộ đội Việt là “quân xâm lược”. Bởi vậy, anh chọn cách tự xưng
chúng tôi (để chỉ chung bộ đội Việt), gọi Xẩy là anh (thay vì gọi bà con, đồng
bào... như thường gọi) và nhắc đến đối tượng thứ 3 là nhân dân Lào để phân
biệt rạch ròi với nhân dân Việt. Trong hoàn cảnh bị Xẩy chạm đến lòng tự hào
dân tộc, Tiến rất tức giận nhưng cố gắng kiềm chế và chọn cách xưng hô như
trên để tỏ thái độ lạnh nhạt, trách móc.
3.1.3. Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự thay đổi tình cảm, thái độ
Dùng từ ngữ xưng hô thể hiện sự thay đổi tình cảm thái độ là cách được
nhiều tác giả (trong đó có Phan Tứ) lựa chọn để miêu tả diễn biến tâm lý nhân
vật, đôi khi là cách để nhân vật bộc lộ bản chất. Ví dụ:
<147>
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(1) - Thế sao chú không tìm theo Itxala đi?
`
- Còn đâu nữa mà theo... Có kẻ ra hàng dẫn Pháp đi bắt bạn cũ. Tao
ngoài ba mươi mà như ông lão, vợ con chết cả... May còn được con voi chịu
thương chịu khó nuôi tao. A, mày định lấy thằng Phủi phải không?
(2) - Không, không! Ai bảo chú...
- Chối làm gì. Mày nhận của nó bao nhiêu quần áo bạc vàng rồi. Kéo
nhau đi chơi bao nhiêu hội hè. Cũng may chưa kịp chửa hoang với thằng gián
điệp ấy, đẻ ra vài đứa gián điệp cho đẹp mặt cha mẹ mày!
(Kham uất nghẹn cổ, trách mình không về bộ với cánh bạn gái, lại đi
nhờ voi cái nhà bác dở dở ương ương này, để lão tạt cho sượng mặt. Cô nhổm
dậy, nắm cánh tay Xẩy day mạnh, run giọng:
(3) - Tôi không thèm đi nhờ! Ông để tôi xuống! Dừng lại. [52, tr.60-61]
Trong trường hợp này, các nhân vật giao tiếp đã thay đổi xưng hô ngay tại
thời điểm nói. Sự thay đổi thái độ biểu hiện bằng việc xưng hô ở đây chủ yếu từ
phía nhân vật Kham. Ở (1), Kham gọi Xẩy là chú bằng tâm tình yêu mến đối với
người có ơn với gia đình mình. Ở (2), mặc dù có chút bất ngờ về câu hỏi cảu
Xẩy thì Kham vẫn gọi chú như thường lệ. Nhưng đến khi Xẩy vu oan cho Kham
tội tày đình là “yêu thằng gián điệp”, rồi mỉa mai về viễn cảnh Kham “đẻ ra vài
đứa gián điệp” thì Kham giận run người, nắm cánh tay Xẩy lắc mạnh, đổi giọng,
đồng thời thay đổi cách xưng hô tôi - ông. Xét theo quan hệ xã hội và mức độ
thân mật giữa Kham và xẩy thì cách xưng hô (3) là thiếu phép tắc, tuy nhiên lại
hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm trạng của Kham.
<148>
(1) - Kham đuổi anh sao? Không cho anh sống nữa ư? [52, tr.116]
Sự thay đổi xưng hô nhằm thay đổi thái độ đã cho thấy bộ mặt tráo trở,
bản chất con buôn của nhân vật Phủi. Ở (1), Phủi đã thể hiện thái độ quỵ lụy,
nhún nhường, đồng thời thể hiện tình yêu với Kham qua cách xưng anh, gọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Kham. Nhưng sau khi cảm thấy chiến thuật nói lời ngọt ngào qua xưng hô và
`
thái độ quỵ luỵ và không hiệu quả, hắn chuyển sang xưng tôi, gọi cô, đồng
thời thể hiện thái độ đe dọa, thách thức:
(2) - Tôi hỏi cô phải nói dứt khoát. Có chịu làm vợ tôi không thì bao?
Lão Mắt Mèo thèm cô lắm rồi, nhưng còn nể mặt tôi. Lấy tôi thì được giàu
sang, khỏe xác, không sợ Pháp nó hiếp. Cô muốn sao? [52, tr.145]
<149>
(1) - Thế Kham hỏi ai mà biết địch ra?
(2) - Em hỏi bọn lính. Một hôm chính thằng quan ba nói.
(3) - Thằng quan ba nói, cô cùng tin à?
(4) - Ừ, tin đấy.
...
(5) - Ra thế đấy. Cô muốn chúng tôi ốm chết rục cả...
(6) - Cho anh nói, tôi không cần! [52, tr.147]
Cách xưng hô của Tiến ở (1), (3), (5) cho thấy sự thay đổi về tình cảm,
thái độ của Tiến với đối tượng hội thoại là Bua Kham. Ở (1), khi sự nghi ngờ
về việc Bua Kham làm gián điệp chưa nhiều, Tiến vẫn chọn cách gọi Kham
bằng tên riêng mà Tiến cho là “dịu giọng”. Nhưng khi sự nghi ngờ về việc
Bua Kham là gián điệp được đẩy lên đến đỉnh điểm, Tiến đổi xưng hô cô - tôi
một cách cọc cằn. Tương tự, cách xưng hô của Kham ở (2), (4), (6) cũng cho
thấy những thay đổi trong tình cảm, thái độ của Kham. Ở (2), trong tâm thế
vui vẻ, hy vọng sẽ được anh Tiến ghi nhận, Kham xưng em. Nhưng khi nhận
thấy ở Tiến những trách móc, nghi hoặc, Kham “nói trống không” cộc lốc ở
(4) để tỏ sự giận dỗi, bực bội và thay đổi xưng hô thành anh - tôi ở (6) để tỏ ra
lạnh nhạt, trách móc.
Như vậy, từ xưng hô có vai trò quan trọng trong việc biểu hiện những
diễn biến tâm trạng của nhân vật. Việc dùng từ xưng hô phù hợp hay không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phù hợp sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến thành công của một tác phẩm nói chung.
`
3.2. Nét riêng của Phan Tứ trong cách sử dụng từ ngữ xưng hô
3.2.1. Từ ngữ xưng hô mang dấu ấn Nam Trung Bộ
Không chỉ sử dụng từ xưng hô trong tiếng Việt toàn dân, Phan Tứ còn
đưa vào những tác phẩm của mình cách xưng hô trong phương ngữ Nam
Trung Bộ tiếng Việt. Đây là lớp từ giúp phản ánh rõ nét cách ứng xử trong
giao tiếp của người Nam Trung Bộ nói chung. Có thể hình dung hệ thống từ
ngữ xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ được sử dụng ở một số tác
phẩm của Phan Tứ như sau :
Bảng 3.1. Từ ngữ xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ
được sử dụng trong một số tác phẩm của Phan Tứ
Từ ngữ xưng hô trong phương ngữ Tần số STT Nam Trung Bộ xuất hiện
1 Hắn 24
2 Bay 8
3 Mi 11
4 Má 35
5 Tụi bay 6
6 Tụi mình 3
7 Tụi nó 13
8 Tụi con 2
9 Má con tao 1
Tổng 103
<150> Cho bay chết đủ cha con, bay khỏi thắc mắc! [52, tr.665]
<151> Mi viết thơ về nhà thằng An, kể lại cái hôm đánh ở Na Bua
nghe. [52, tr.97]
<152> Tụi bay đưa nó cây M.1, cây mới nhứt…Ra đây bắn tao coi. [52,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tr.611]
`
<153> Tụi mình lãnh cái làng khó nhai nhứt hạng [52, tr.129]
<154> Dạ có anh Hai đây tụi nó đâu dám… dạ, thiệt bậy chớ… dạ, em
ra lệnh tụi nó hổng nghe, tụi nó nói em không phải trung sĩ hạ sĩ gì mà đòi xài
xể người ta. [52, tr.604]
<155> Thằng Rân mới gởi cho con lá thơ nữa. Nó viết văn chương
má ơi. Giấy hồng thơm ghê, con đốt cứ tiếc tờ giấy hoài.
- Mày lại kêu bạn bè tới đọc chung hả?
- Có bốn đứa. Chao, tụi con cười lăn lộn. [52, tr.560]
<156> Đây Phổ nè, tao tiếp tế cộng sản đây nè. Không cho chén gạo
gạo nào, mày cũng hút hết máu má con tao. Đã vậy tao ủng hộ Cộng sản tận
bờ sát góc cho mày biết mặt. Cách mạng về, mày chết tới đít Phổ ơi, mày chết
tới đít rồi... [52, tr.570]
Có thể thấy, từ ngữ xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ trong
một số tác phẩm của Phan Tứ khá đa dạng, phong phú. Mỗi lần sử dụng từ
xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ là một lần chân dung nhân vật
xưng hô hiện ra một cách chân thật, sinh động với những trong trẻo, giản đơn
đặc trưng cho tính cách của người miền Trung. Có thể thấy rằng, lớp từ xưng
hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ chỉ được Phan Tứ sử dụng trong những
hoàn cảnh giao tiếp mang tính suồng sã, thân mật; hoặc đôi khi là xưng hô
bộc phát trong lúc nóng giận của người nói (như <150>, <156>).
3.2.2. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ xưng hô
Về việc xưng hô trong giao tiếp nói chung, muốn xưng hô hay, trước
hết cần xưng hô đúng.
Việc đánh giá một hành động xưng hô là đúng hay không cần dựa vào
nhiều yếu tố khác nhau. Trong khuôn khổ, luận văn xin được đánh giá cách
dùng từ xưng hô trong tác phẩm của Phan Tứ qua vai giao tiếp - yếu tố được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
coi là quan trọng nhất chi phối việc xưng hô.
`
Theo cách hiểu của Lê Thanh Kim (đã trình bày ở mục 1.2.2), vai giao
tiếp trong xưng hô lại bị chi phối bởi ba quan hệ là: quan hệ tôn ti trong gia
tộc, quan hệ quyền thế hay vị thế trong xã hội, quan hệ liên kết trong xã hội.
Luận văn đánh giá cách dùng từ xưng hô của Phan Tứ cũng trên cơ sở các
mối quan hệ này.
Từ xưng hô để biểu hiện quan hệ tôn ti trong gia tộc đã được Phan Tứ
sử dụng để biểu thị các mối quan hệ trong gia đình như: mẹ - con, anh - em...
Trong hội thoại của các nhân vật thuộc các vai giao tiếp này, tính tôn ti được
chi tiết hóa rất cụ thể qua từng cách xưng hô tương ứng chính xác. Ví dụ:
<157> Thằng Rân mới gởi cho con lá thư nữa. Nó viết văn chương má
ơi. Giấy hồng thơm ghê, con đốt cứ tiếc tờ giấy hoài. [52, tr.523]
<158> Dạo ở nhà má Bảy, anh bị cảm nên thường nằm trong buồng
kín, khi động mới xuống hầm. Má sợ Sâm bép xép, không cho biết có cán bộ
trong nhà. Sâm hỏi luôn miệng:
- Sao mà nấu cơm nhiều vậy má?
- Hồi trưa còn hai khúc cá, mất đâu một khúc rồi má?
- Dầu cù là đâu thơm quá má? [52, tr.589]
Các ví dụ trên là phát ngôn của Út Sâm trong giao tiếp với má Bảy. Út
Sâm gọi má và xưng con với người sinh ra mình.
<159> - Tùy, con về đó hả con?
(Thằng Tùy nở cái miệng rộng đến tận mang tai, nói giọng Bắc pha
Nam trọ trẹ: )
- Dạ, con đây má! [52, tr.523]
Ở ví dụ <159>, mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng má Bảy
gọi Tùy là con, Tùy cũng xưng con và gọi má Bảy là má. Tuy nhiên, không
phải vì vậy mà cách dùng từ xưng hô của Phan Tứ trong trường hợp này là
không đúng, bởi má Bảy là người đã cưu mang, cứu sống Tùy. Việc xưng con
và gọi má đối với người được coi như sinh ra mình lại góp phần làm nổi bật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chủ đề của tác phẩm.
`
Như vậy, quan hệ tôn ti trong gia tộc không chỉ chi phối vai xưng hô
với những giao tiếp trong gia đình, mà còn chi phối vai xưng hô của những
giao tiếp ngoài xã hội. Qua khảo sát, luận văn cũng bắt gặp không ít những
hành động xưng hô trong giao tiếp ngoài xã hội bằng từ chỉ quan hệ thân tộc.
Các nhân vật xưng cháu với những người thuộc từ vai cha mẹ mình trở lên
như: cụ, ông, bà, cô, bác, chú,...; xưng em với những người bằng vai anh/chị
mình theo quy tắc xưng hô của các thành viên trong gia đình. Ví dụ:
<160> - Thế sao chú không tìm theo Itxala đi?
- Còn đâu nữa mà theo... Có kẻ ra hàng dẫn Pháp đi bắt bạn cũ. Tao
ngoài ba mươi mà như ông lão, vợ con chết cả... May còn được con voi chịu
thương chịu khó nuôi tao. A, mày định lấy thằng Phủi phải không?
- Không, không! Ai bảo chú... [52, tr.60]
Trong hội thoại trên, Kham gọi Xẩy là chú. Thực tế, Kham và xẩy
không có quan hệ huyết thống. Nhưng Xẩy ngang vai với bố của Kham, lại là
ân nhân của gia đình nên Kham gọi Xẩy là chú.
Hoặc <161> Gì đâu. Em quen anh, chưa quen mấy anh kia... Anh cắt
bằng dao chậm lắm. Anh cao, níu nhánh xuống em cắt. [52, tr.585]
Ở ví dụ <162>, người nghe là Bê; Bê đáng tuổi Tư Sỏi - anh trai của Út
Sâm. Bởi vậy; Sâm xưng em gọi Bê là anh.
Như vậy, có thể thấy, quan hệ tôn ti trong gia tộc là một thiết chế
nghiêm ngặt, có thể quy định cách xưng hô cả trong giao tiếp gia đình và giao
tiếp ngoài xã hội. Dựa vào quy tắc xưng hô của quan hệ này, có thể đánh giá
rằng Phan Tứ đã sử dụng từ ngữ xưng hô tương ứng chính xác cho từng vai
giao tiếp của các nhân vật.
Tuy nhiên, từ ngữ xưng hô trong một vài tình huống được Phan Tứ đi
chệch quy tắc về quan hệ tôn ti trong gia tộc. Ví dụ:
<163> Tao biết mà. Đời nào anh Tiến nhận của mày biếu. Anh ấy có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tham như thằng Phủi đâu! [52, tr.118]
`
Đây là phát ngôn của Xẩy trong cuộc trò chuyện với Kham. Ở phát
ngôn này, Xẩy có nhắc đến nhân vật thứ 3 là anh Tiến. Xét về quan hệ xã hội,
Tiến đáng tuổi con cháu Xẩy. Cách Xẩy gọi Tiến là “anh Tiến”, “anh ấy”
đầy trân trọng, hoàn toàn khác biệt cách anh gọi “thằng Phủi” đầy khinh bỉ đã
làm nổi bật tình cảm ngưỡng mộ và sự tự hào mà Xẩy dành cho anh Tiến.
<164> Anh Việt ấy không phải người trần. Ai vạch áo anh mà xem, ắt
thấy ba nốt ruồi đỏ dọc sống lưng. [52, tr.79]
Đây là phát ngôn của ông cụ Pứ phù thủy về anh Tiến khi nói chuyện
với dân làng. Ông cụ Pứ là già làng, người uy tín trong bản. Nhưng trong phát
ngôn, cụ Pứ vẫn hạ mình gọi Tiến là anh Việt ấy/ anh ấy. Cùng với những chi
tiết cụ Pứ thần thánh hóa nhân vật Tiến, có thể thấy dường như cụ Pứ đang
tránh gọi tên riêng của Tiến bởi không muốn phạm húy đấng thiên sai. Cách
xưng hô trên cho thấy sự ngưỡng mộ, tự hào, thậm chí là tôn thờ của cụ Pứ
dành cho Tiến.
Xét về quan hệ quyền thế, Phan Tứ đã sử dụng từ xưng hô chính xác
và chuẩn mực (không có ngoại lệ). Ví dụ:
<165> (Chỉ riêng trung úy Đờ Lagiurê không sợ. Giữa lúc đại tá thét ra
khói lửa, hắn vẫn cố ý làm ra vẻ lơ đãng, đăm chiêu. Thỉnh thoảng hắn lật sổ
tay vờ tìm một điều ghi chép, kì thực chỉ xem vụng mấy chiếc ảnh đầm cởi
truồng loại mới... Tiếng đập bàn đánh sầm)
- Ông trung úy! Khi quan trên nói, cấp dưới phải thế nào? [52, tr.139]
Phát ngôn trên là của tên Đại tá quân đội Mỹ nói với cấp dưới của mình
là Đờ Lagiurê. Tên đại tá đã gọi cấp dưới bằng chức vụ “ông trung úy”,đồng
thời dùng những từ sở chỉ như “quan trên”, “cấp dưới” nhằm thể hiện quyền
lực và nhắc nhở cấp dưới ý thức về trách nhiệm của bản thân.
<166> Đồng chí Tiến… anh nhận làm xiều tôi nhé? Anh giúp tôi,… tôi
bướng, tôi tự cao, tôi xấu lắm. Anh cứu mạng tôi, anh khuyên bảo hàng năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nay, tôi vẫn không nên người tốt… Anh kết xiều với tôi nhé? [52, tr.174]
`
Người phát ngôn ở ví dụ trên là Xẩy. Xét về quan hệ quyền thế (vị thế),
Xẩy là cấp dưới của Tiến (quan hệ thủ trưởng - nhân viên). Bởi vậy, Xẩy gọi
Tiến là anh xưng tôi.
<167> Thầy ở đó à? Sao thầy không bắn vài phát cho em chạy? [52,
tr.568]
Ví dụ trên là lời thoại của Sâm trong trò chuyện với Dõng. Dõng là
người đã dạy chữ cho Sâm và má Bảy. Bởi vậy Sâm gọi Dõng là thầy xưng em.
Có thể nói, quan hệ vị thế tạo nên những xưng hô mang tính chất quy
thức và thường không bị phá vỡ. Cách xưng hô này tạo ra khoảng cách
giữa những người tham thoại (cấp trên - cấp dưới; thầy giáo - học trò...)
Xét ở khía cạnh này, cách sử dụng từ xưng hô của Phan Tứ cũng không
nằm ngoài quy luật.
Xét về quan hệ kết liên, Phan Tứ đã sử dụng từ xưng hô chính xác -
phù hợp, đó là: thể hiện được mối quan hệ đồng đẳng - cận kề giữa những
người tham gia giao tiếp. Ví dụ:
<168> Không, tụi tao ở tập trung. Sao mày bị... không viết thư tao
biết? [52, tr.52]
Đại từ tao ở ví dụ này được nhân vật Tiến sử dụng trong xưng hô với
Điềm. Hai nhân vật này ngang tuổi và là đồng đội, mối quan hệ rất thân thiết,
từng cùng nhau vào sinh ra tử nơi chiến trường.
<169> Cậu đi với tớ, gặp dân hỏi tình hình. Này, nghỉ mười phút! [52,
tr.45]
Hay <170> Thôi ngủ đi chú em. Thì ra mày xỏ tai búi tóc, tao mất tay
đi cơ sở, là bởi chúng mình khéo nịnh cấp trên cả đấy![52, tr.54]
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cách xưng hô của Phan Tứ (xét về
quan hệ liên kết) lại mất đối xứng, tức không thể hiện được quan hệ đồng
đẳng - cận kề giữa các nhân vật. Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
<171> Anh đợi tôi với! [52, tr.63]
`
Đại từ tôi ở ví dụ này được Kham sử dụng trong xưng hô với Đeng.
Kham và Đeng là người cùng làng, Đeng hơn tuổi Kham và có tình cảm đặc
biệt với Kham. Trong giao tiếp với Kham, Đeng luôn gọi em xưng anh. Tuy
nhiên, Kham không muốn đáp lại tình cảm của Đeng. Vì vậy, Kham đã sử
dụng từ tôi trong xưng hô với Đeng để tỏ thái độ lạnh nhạt, nhằm tạo khoảng
cách. Như vậy, quan hệ liên kết trong xưng hô ở ví dụ trên là bất đối xứng.
Trong khi Đeng muốn xưng hô anh - em nhằm tạo quan hệ gần gũi thì Kham
lại cố ý tạo ra khoảng cách bằng việc xưng hô tôi - anh.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, mặc dù cách dùng từ xưng hô
của Phan Tứ trong một vài tình huống đi chệch khỏi quy tắc, nhưng không
vì thế mà hiệu quả giao tiếp bị giảm. Trái lại, đó lại là nét sáng tạo nghệ
thuật nhằm tái hiện rõ hơn chân dung, tính cách, thái độ, tình cảm của từng
nhân vật. Điều này đã tạo ra sự mới mẻ, hấp dẫn trong cách dụng từ ngữ
xưng hô của Phan Tứ.
Cái hay trong cách sử dụng từ ngữ xưng hô của Phan Tứ là chủ đề có
thể được khai thác trên nhiều khía cạnh. Trong khuôn khổ có hạn, luận văn
xin được điểm qua một vài biểu hiện của việc sử dụng từ ngữ xưng hô trong
tác phẩm của Phan Tứ phù hợp với từng nhóm đối tượng, làm nổi bật tính
cách nhân vật và chủ đề tác phẩm, như sau:
<172> (Cơm xong, Tiến nằm dài hút thuốc lá, đợi mè Phao giục lấy vợ.
Quả nhiên mè nói gần nói xa một lúc rồi thủ thỉ:
- Lấy vợ đi con ạ. Có nơi lui tới cũng đỡ vất vả. Tao chỉ vá cho mày
được mấy năm nữa thôi.
Tiến cười làm mè phát cáu: “Làm tội mày đi! Bố mẹ ở cả bên nước Việt,
sang đây mẹ không lo giúp thì ai lo!”. Rồi mè lại làm lành, điểm qua cho Tiến
nghe tất cả các cô gái Pa Thôn có gì tốt xấu. “Ư, mẹ trông con bé Chăm Tha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thế mà được, mặt mũi sạch sẽ phúc hậu, dáng người ấy mắn con phải biết...”
`
Ở <173>, mè Phao xưng hô với Tiến theo hai cách: 1. Gọi con, xưng
mẹ, 2. Gọi mày, xưng tao. Trong tác phẩm, Tiến là bộ đội tình nguyện Việt
Nam chiến đấu tại Lào, được gia đình mè Phao cứu chữa, chăm sóc khi anh bị
thương nặng, khả năng sống quá đỗi mong manh. Có thể nói rằng, mè Phao là
người đã sinh ra Tiến lần thứ hai. Bởi vậy, mè Phao xưng má, gọi Tiến là con.
Cách xưng hô này phần nào cho thấy tình cảm gắn bó ruột thịt giữa mè Phao
và Tiến, cũng là sự khăng khít của bộ đội và nhân dân hai nước Việt - Lào. Ở
cách thứ hai, mè Phao xưng tao và gọi Tiến là mày. Như đã nói, xưng hô tao -
mày là kiểu xưng hô thân mật, mang sắc thái suồng sã giữa những đối ngôn có
quan hệ bình đẳng hoặc thân thiết. Xét về quan hệ liên kết, mè Phao là người
có ơn cứu mạng với Tiến. Nhưng xét về quan hệ quyền thế, Tiến lại là cán bộ
Cách mạng chỉ huy bà con bưng Pa Thôn chiến đầu, trong đó có mè Phao.
Cách xưng hô tao - mày như trên là một sự lựa chọn khôn khéo, tạo sắc thái
suồng sã thân mật nhằm xóa đi thái độ “giữ lễ” còn lại giữa người làm ơn và
người chịu ơn, giữa một cán bộ chỉ huy với nhân dân Cách mạng.
<174> Má hốt sạch ổ trứng gà gói vào mo cau, gửi cho anh chị em đau
yếu... Tay má làm thoăn thoắt, óc má nghĩ hằn học và thích thú: “Đây Phổ nè,
tao tiếp tế Cộng Sản đây nè. Không cho chén gạo nào, mày cũng hút hết máu
của má con tao. Đã vậy tao ủng hộ cộng sản tận bờ sát góc cho mày biết mặt.
Cách mạng về, mày chết Phổ ơi, mày chết tới đít rồi...”
Ở <174>, má Bảy gọi Phổ là mày - xưng tao. Phổ là tên Việt sai cho
Mỹ, chuyên cướp bóc đánh, bắt bớ đánh đập, tù đày những người Việt yêu
nước và nhân dân Cách mạng, trong đó có má Bảy. Sự uất hận của má Bảy
đối với Phổ lên tới đỉnh điểm, má Bảy những mong một ngày được “lột da”
Phổ trả thù cho gia đình, quê hương. Xét về quan hệ giữa các đương sự là
má Bảy và Phổ, khó có thể xuất hiện xưng hô mang tính thân mật - suồng sã
(như cách xưng hô mày - tao thông thường). Rõ ràng, hành động xưng tao -
gọi mày ở đây thể hiện thái độ khinh thường, thách thức của má Bảy dành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cho Phổ.
`
Như vậy, cùng một cách xưng hô mày - tao nhưng ý nghĩa biểu hiện
của chúng ở <173> và <174> lại hoàn toàn khác biệt. Nếu như ở <173>, xưng
hô mày - tao để tăng sự thân thiết, thể hiện sự bình đẳng, máu thịt giữa cán bộ
và nhân dân hai nước Việt - Lào, khái quát hơn là bản chất Cách mạng của hai
nước Việt Lào: bình đẳng, thân thiết, không có khoảng cách; thì ở <174>,
xưng hô mày - tao lại thể hiện thái độ khinh thường, thách thức, căm hận của
nhân dân Cách mạng đối với bè lũ tay sai. Đây là biểu hiện của cái hay trong
cách dùng từ xưng hô của cây bút tài hoa - Phan Tứ.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, Phan Tứ đã sử dụng từ xưng
hô chính xác và phù hợp với từng vai giao tiếp. Sự chính xác và phù hợp này
được thể hiện qua cách Phan Tứ xây dựng hệ thống từ xưng hô dựa trên ba
quan hệ chi phối trực tiếp đến vai giao tiếp và xưng hô là: quan hệ tôn ti trong
gia tộc, quan hệ kết liên, quan hệ quyền thế. Tuy nhiên, cũng có những tình
huống tác giả dụng từ xưng hô không dựa trên cơ sở những quan hệ đã nêu,
nhằm nhấn mạnh tình huống giao tiếp hoặc làm nổi bật tính cách nhân vật.
Đây cũng là sự khéo léo trong cách dùng từ xưng hô của Phan Tứ.
3.3. Tiểu kết
1. Người nói có thể biểu hiện thái độ, tình cảm của mình với người
nghe hoặc với sự vật, hiện tượng, con người được nói tới trong phát ngôn qua
xưng hô. Tùy theo cảm xúc, thái độ của mình mà người nói lựa chọn cách
xưng hô sao cho phù hợp. Các sắc thái cảm xúc được biểu hiện qua xưng hô
có thể là: yêu thương, lưu luyến, ngưỡng mộ, tự hào...(sắc thái cảm xúc tích
cực); hay sắc thái tiêu cực như: khó chịu, cay cú, bực bội, tưc giận, căm
thù;...; hoặc sắc thái trung tính. Các sắc thái biểu thị thái độ có thể là khen
ngợi, đồng tình; thân mật, lịch sự hoặc thân mật, suồng sã; khinh miệt, mỉa
mai; thái độ quỵ lụy; hay thái độ lạnh nhạt trách móc... Những sắc thái cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xúc - thái độ tích cực thường được nhân dân Việt - Lào sử dụng trong xưng
`
hô với nhau, hay khi họ nhắc tới cán bộ Cách mạng. Sắc thái cảm xúc - thái
độ tiêu cực thường được quân - dân hai nước Việt - Lào sử dụng để chỉ bè lũ
bán nước và cướp nước.
2. Qua xưng hô có thể thấy được sự vận động của cảm xúc, sự thay đổi
về thái độ của người phát ngôn, đôi khi là tín hiệu để phát hiện bản chất nhân
vật. Sự vận động, thay đổi đó có thể từ trạng cảm xúc, thái độ tích cực chuyển
sang tiêu cực và ngược lại.
3. Ngoài sử dụng từ xưng hô trong tiếng Việt toàn dân, Phan Tứ còn
đưa vào những tác phẩm của mình cách xưng hô trong phương ngữ Nam
Trung Bộ. Lớp từ này chỉ được Phan Tứ sử dụng trong những hoàn cảnh giao
tiếp mang tính suồng sã, thân mật; hoặc đôi khi là xưng hô bộc phát trong lúc
nóng giận của người nói. Bằng cách xưng hô này, chân dung nhân vật phát
ngôn đã hiện ra chân thật, sinh động với những trong trẻo, giản đơn, đặc trưng
cho tính cách của người miền Trung.
4. Phan Tứ đã sử dụng từ xưng hô khéo léo và phù hợp với từng vai
giao tiếp. Sự khéo léo và phù hợp này được thể hiện qua cách tác giả xây
dựng hệ thống từ xưng hô dựa trên ba quan hệ chi phối trực tiếp đến vai giao
tiếp và xưng hô, đó là: quan hệ tôn ti trong gia tộc, quan hệ kết liên, quan hệ
quyền thế. Tuy nhiên, cũng có những tình huống việc sử dụng từ ngữ xưng hô
không dựa trên cơ sở những quan hệ đã nêu, nhằm nhấn mạnh tình huống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giao tiếp hoặc làm nổi bật tính cách nhân vật.
`
KẾT LUẬN
1. Trong chương I, luận văn đã tìm hiểu một số vấn đề cơ sở lý thuyết
và thực tiễn làm tiền đề cho nghiên cứu là: Khái niệm từ ngữ xưng hô, Phân
loại từ ngữ xưng hô, Chức năng của từ ngữ xưng hô, Các nhân tố chi phối
giao tiếp và xưng hô, Đôi nét về cuộc đời - sự nghiệp của Phan Tứ.
2. Ở tác phẩm của Phan Tứ, người đọc có thể bắt gặp những cách
xưng hô trong cuộc sống hàng ngày như: xưng hô bằng đại từ nhân xưng,
xưng hô bằng từ chỉ quan hệ thân tộc, xưng hô bằng tên riêng, xưng hô bằng
các từ chỉ chức danh nghề nghiệp, xưng hô bằng bán đại từ và một số kết
hợp khác. Xưng hô bằng đại từ nhân xưng (889 lần), từ chỉ quan hệ thân tộc
(639 lần) và tên riêng (422 lần) được sử dụng với tần số nhiều hơn cả. Cả ba
nhóm từ này đều có thể sử dụng cho xưng hô ở ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ
ba. Về phương diện cấu tạo, bao gồm tất cả các từ ngữ dùng để xưng hô, có
44 (58.7%) từ đơn, 31 (41.3%) là từ phức. Như vậy, cách xưng hô bằng từ
đơn được sử dụng nhiều hơn.
3. Người nói có thể biểu hiện thái độ, tình cảm của mình với người
nghe hoặc với sự vật, hiện tượng, con người được nói tới trong phát ngôn
qua xưng hô. Tùy theo cảm xúc, thái độ của mình mà người nói lựa chọn
cách xưng hô sao cho phù hợp. Các sắc thái cảm xúc được biểu hiện qua
xưng hô có thể là: yêu thương, lưu luyến, ngưỡng mộ, tự hào...(sắc thái cảm
xúc tích cực); hay sắc thái tiêu cực như: khó chịu, cay cú, bực bội, tưc giận,
căm thù...; hoặc sắc thái trung tính. Các sắc thái biểu thị thái độ có thể là
khen ngợi, đồng tình; thân mật, lịch sự hoặc thân mật, suồng sã; khinh miệt,
mỉa mai; thái độ quỵ lụy; hay thái độ lạnh nhạt trách móc... Những sắc thái
cảm xúc - thái độ tích cực thường được nhân dân Việt - Lào sử dụng trong
xưng hô với nhau, hay khi nhắc tới cán bộ Cách mạng. Sắc thái cảm xúc -
thái độ tiêu cực thường được quân - dân hai nước Việt - Lào sử dụng khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhắc tới bè lũ bán nước và cướp nước.
`
Phan Tứ đã sử dụng từ xưng hô khéo léo và phù hợp với từng vai giao
tiếp. Sự khéo léo và phù hợp này được thể hiện qua cách tác giả xây dựng hệ
thống từ xưng hô dựa trên ba quan hệ chi phối trực tiếp đến vai giao tiếp và
xưng hô, đó là: quan hệ tôn ti trong gia tộc, quan hệ kết liên, quan hệ quyền
thế. Tuy nhiên, cũng có những tình huống xưng hô không dựa trên cơ sở
những quan hệ đã nêu, nhằm nhấn mạnh tình huống giao tiếp hoặc làm nổi bật
tính cách nhân vật. Đây là biểu hiện của sự tài hoa, khéo léo trong cách dùng
từ xưng hô của Phan Tứ.
Việc sử dụng từ ngữ xưng hô trong phương ngữ Nam Trung Bộ cũng
góp phần tạo sự ấn tượng, hấp dẫn ở một số tác phẩm của Phan Tứ. Lớp từ
này chỉ được Phan Tứ sử dụng trong những hoàn cảnh giao tiếp mang tính
suồng sã, thân mật; hoặc đôi khi là xưng hô bộc phát trong lúc nóng giận của
người nói. Bằng cách xưng hô này, chân dung nhân vật phát ngôn đã hiện ra
chân thật, sinh động với những trong trẻo, giản đơn, đặc trưng cho tính cách
của người miền Trung.
7. Từ xưng hô là một trong những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn trong
những tác phẩm văn chương của Phan Tứ. Mỗi tác phẩm của Phan Tứ là một
trang văn ghi dấu từng chặng đường lịch sử sử oai hùng. Tuy nhiên, bằng chất
văn chương dung dị, chân thực từ cách tạo hình nhân vật cho tới ngôn từ, đặc
biệt là cách xưng hô của các nhân vật trong tác phẩm đã khiến không khí
những năm tháng chiến tranh hiện thực và gần gũi hơn bao giờ hết. Hy vọng
nghiên cứu này có thể là cầu nối đưa bạn đọc ngày nay đến với những tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phẩm của Phan Tứ nhiều hơn.
`
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn An (1982), Ngôn ngữ học xã hội và việc chuẩn hóa tiếng
Việt về mặt từ ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ,
tập 1, NXB KHXH, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB ĐHQG Hà Nội.
4. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập 2 NXB Giáo dục.
5. Hoàng Thị Châu (1995), vài đề nghị chuẩn hóa cách xưng hô tiếng Việt,
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 3.
6. Nguyễn Văn Chiến (1992), từ xưng hô trong tiếng Việt, Việt Nam -
những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam,
Trường Đại học Ngoại ngữ, Hà Nội.
7. Trương Thị Diễm (2002), từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc
trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, ĐH Vinh.
8. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu của ngôn ngữ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Cao Xuân Hạo (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Lê Ngọc Hòa (2006), Đặc điểm cách xưng hô của các vai giao tiếp trong
truyện ngắn (chọn lọc) của Nguyễn Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ Ngữ
văn, ĐH Vinh.
11. Nam Hưng (1963), Tiếng xưng hô, Văn hóa nguyệt san, số 73.
12. Vũ Thị Thanh Hương (2006) (đồng dịch giả), Ngôn ngữ, văn hóa và xã
hội: Một cách tiếp cận liên ngành, NXB Thế Giới, Hà Nội.
13. Phạm Khiêm Ích (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỉ XX, Viện thông
tin khoa học xã hội.
14. Nguyễn Thị Ly Kha (1998), Thử tìm hiểu về danh từ Thân tộc của tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
việt, tạp chí Ngôn ngữ, số 6.
`
15. Nguyễn Văn Khang (1996), Ứng xử ngôn ngữ trong gia đình người Việt,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản,
NXB KHXH, Hà Nội.
17. Lê Thanh Kim (1998), Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương
ngữ tiếng việt dưới góc nhìn của lý thuyết xã hội học ngôn ngữ, Luận án
Tiến sĩ Ngữ Văn, Viện Ngôn ngữ.
18. Nguyễn Thế Kỷ, 2011, Nói năng, giao tiếp trên đài truyền hình, NXB
ĐHQG HN.
19. Macionis, J. Jonhn (1987), Xã hội học, NXB thống kê, Hà Nội.
20. Lò Thị Hồng Nhung (2014), Tìm hiểu Cách sử dụng từ xưng hô trong
tiếng Thái Đen vùng Tây Bắc, Hội thảo ngôn ngữ và văn học vùng Tây
Bắc, NXB ĐHSP HN.
21. Hoàng Phê (Chủ biên), 2011, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
22. Vũ Trọng Phụng (2010), tuyển tập Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học
Việt Nam.
23. Trần Kim Phượng (2013), Các từ xưng hô trong truyện ngắn Chí phèo
của Nam Cao, Hội thảo Ngôn ngữ và văn học, ĐHSP Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Tài (1977), Một vài nhận xét về cách xưng hô tiếng Mường,
tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
25. Tạ Thị Thanh Tâm, 2009, Lịch sự trong giao tiếp người Việt, NXB tổng
hợp, TP HCM.
26. Phạm Thành (1985), Vài nét về các đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
hiện đại, tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
27. Bùi Khánh Thế (1990), Về hệ thống đại từ xưng hô trong tiếng Chàm,
tạp chí Ngôn ngữ, số 1.
28. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp Hồ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
`
29. Phạm Ngọc Thưởng (1994), Về đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục, số 10.
30. Phạm Ngọc Thưởng (1995), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình
người Tày - Nùng, Tạp chí dân tộc học, số 1.
31. Phạm Ngọc Thưởng (1998), Cách Xưng hô trong tiếng Nùng, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy của người Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Minh Thuyết (1988), Mấy nhận xét về đại từ và đại từ xưng hô,
Tiếng Việt, (Số phụ của tạp chí Ngôn ngữ).
34. Nguyễn Minh Thuyết, Kim Young Soo (1996), Mấy nhận xét về từ xưng
hô tiếng Việt và tiếng Hàn Quốc, NXB Hà Nội.
35. Nguyễn Mai Trung, (2016), Xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, Đại học Hồng Đức.
36. Nguyễn Văn Tuyên (2013), Về một cách xưng hô của người Việt trong
hoạt động giao tiếp của Nguyễn Văn Tuyên, Hội thảo Ngôn ngữ và văn
học, ĐHSP Hà Nội.
37. Lê Thị Vân (2011), Từ Xưng hô trong tiếng địa phương Thanh Hóa,
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Hồng Đức.
38. Phạm Thái Việt (chủ biên), Đào ngọc Tuấn (2004). Đại cương về văn
hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
39. Trần Quốc Vượng (chủ biên, 1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn
hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
40. Nguyễn Như Ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp,
tạp chí ngôn ngữ, số 3.
41. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lệ (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
`
43. Bùi Minh Yến (1990), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người
Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
44. Bùi Minh Yến (1993), Xưng hô giữa anh chị và chồng trong gia đình
người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
45. Bùi Minh Yến (2001), Từ xưng hô trong gia đình đến ngoài xã hội, Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
46. Hà Ngọc Yến (2009), Đối chiếu các phương tiện để xưng hô trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Thị
Ngọc Tư, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
47. Nguyễn Hoàng Yến và Trần Hạnh Nguyễn (2014), Từ góc độ cách thức
xưng hô bằng danh từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Thái, nghiên cứu
ảnh hưởng của ngôn ngữ dân tộc với tâm lý học, Hội thảo Ngôn ngữ và
văn học vùng Tây Bắc, NXB ĐHSP HN.
48. Mai Thị Hảo Yến (2015), Xưng hô của cư dân vùng ven biển Quảng
Xương - Thanh Hóa, Tạp chí ngôn Ngữ, số 12.
49. Mai Thị Hảo Yến (2016), Các hình thức thoại dẫn, NXB Khoa học xã
hội, HN.
50. [https://toc.123doc.org/document/671582-chuong-1-nhung-co-so-ly-
thuyet-ve-xung-ho.htm].
51. https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_T%E1%BB%A9
TÀI LIỆU NGUỒN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
52. Phan Tứ toàn tập, Tập 1, Văn học hiện đại Việt Nam, NXBVH.