BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHAN THÀNH VIỆT
Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Nông
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHAN THÀNH VIỆT
Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Nông
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƯU KIẾM THANH
HÀ NỘI - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan bài luận văn “Tuyên truyền phổ biến về Vệ sinh an toàn
thực phẩm trên địa tỉnh Đăk Nông” là công trình khoa học nghiên cứu độc
lập của riêng tôi. Tất cả các nội dung của công trình nghiên cứu này hoàn toàn
được hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi. Các
số liệu và kết quả được nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết.
Tác giả
Phan Thành Việt
I
LỜI CẢM ƠN
Trong khoảng thời gian thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
kinh tế, tác giả đã gặp nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị tài liệu, thu thập dữ
liệu sơ cấp và thứ cấp. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ tận
tình các thầy cô giáo Học viện hành chính Quốc gia, Phân viện khu vực Tây
Nguyên, các cán bộ quản lý Khoa sau Đại học, thầy giáo hướng dẫn, gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp trong suốt quá trình học tập và công tác.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Học viện hành chính
Quốc gia, Phân viện khu vực Tây Nguyên, Khoa sau Đại học đã động viên và
tạo mọi điều kiện để tác giả có thể yên tâm với công việc nghiên cứu.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn thầy giáo PGS.TS Lưu Kiếm Thanh - người
đã hướng dẫn chỉ bảo tận tình, động viên tác giả trong suốt quá trình nghiên
cứu để hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ công nhân viên các
Bộ, Ban ngành gồm: Bộ Công thương, Bộ Y tế, Cục An toàn vệ sinh thực
phẩm, Sở Công thương tỉnh Đăk Nông, Trung tâm Y tế huyện Cư Jút, Ủy ban
Nhân dân huyện Cư Jút đã hỗ trợ cung cấp tài liệu để tác giả có cơ sở thực
tiễn hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu bằng tất
cả năng lực và sự nhiệt tình của bản thân, tuy nhiên luận văn này không thể
tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được các ý kiến đóng góp
quý báu của các thầy, cô và đồng nghiệp để hoàn thiện hơn nữa nhận thức của
mình.
Xin chân thành cảm ơn!
II
DANH MỤC VIẾT TẮT
VSATTP
Vệ sinh an toàn thực phẩm
ATTP
An toàn thực phẩm
NĐTP
Ngộ độc thực phẩm
QLNN
Quản lý nhà nước
CSKDDVAU
Cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống
TP
Thực phẩm
BYT
Bộ Y tế
TCQG
Tiêu chuẩn Quốc gia
UBND
Ủy ban nhân dân
TAĐP
Thức ăn đường phố
NTD
Người tiêu dùng
CLVSATTP
Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm
BCĐ
Ban chỉ đạo
NN&PTNN
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
III
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Trang Sơ đồ 2.1: Mạng lưới quản lý an toàn thực phẩm ........................................... 30 Sơ đồ 2.2: Bộ máy quản lý về an toàn thực phẩm ngành y tế tỉnh Đăk Nông 31
IV
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM 1.1. Vệ sinh an toàn thực phẩm và quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm .......................................................................................................... 8 1.2. Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm ............................ 14 1.3. Trách nhiệm trong tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm20 Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 23 Chương 2 THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN VỀ VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Khái quát về tỉnh Đắk Nông có ảnh hưởng tới tuyên truyền phố biến về vệ sinh an toàn thực phẩm ....................................................................... 24 2.2. Tổ chức bộ máy thực hiện tuyên truyển phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm ........................................................................................................ 29 2.3. Tình hình tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông .................................................................................. 35 2.4. Đánh giá về tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian qua ............................................................ 55 Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 60 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ
BIẾN VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Quan điểm tăng cường tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay ............................................ 64 3.2. Giải pháp tăng cường tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay ............................................ 67 Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
V
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An toàn thực phẩm (ATTP) là một vấn đề vô cùng quan trọng và cấp
thiết đối với toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Bởi vì nó liên
quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của con người. Ở nước ta hiện nay
có rất nhiều cơ sở sản xuất và kinh doanh thực phẩm, từ những cơ sở có quy
mô lớn, nhỏ đến hộ gia đình, thức ăn đường phố …. chất lượng và các điều
kiện đảm bảo ATTP các cơ sở này như thế nào? có đảm bảo hay không? cần
có sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý về ATTP để bảo vệ quyền lợi,
cũng như sức khỏe người tiêu dùng.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thực phẩm chính là nguyên nhân
đã gây ra khoảng 50% các trường hợp tử vong đối với con người trên toàn thế
giới. Ngộ độc do thực phẩm luôn luôn là vấn đề quan tâm lo lắng của người
dân. Ở Việt Nam, theo tài liệu của Cục ATTP, số lượng các vụ ngộ độc thực
phẩm cũng như số người bị nhiễm độc thực phẩm còn khá cao, đặc biệt là các
trường hợp mắc bệnh nhiễm trùng bởi thực phẩm. Theo số liệu mới nhất từ
Tổng cục Thống kê năm 2015, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 98 vụ ngộ độc
thực phẩm làm 4.600 người bị ngộ độc, trong đó 16 người tử vong [17].
Theo số liệu thống kê của chi Cục ATTP tỉnh Đắk Nông tình hình ngộ
độc thực phẩm (NĐTP) Năm 2015, trên địa bàn tỉnh chỉ xảy ra 01 vụ NĐTP
tại thị xã Gia Nghĩa với 05 người mắc do ăn phải mướp đắng và không có
trường hợp nào tử vong. Năm 2016, Toàn tỉnh ghi nhận 147 ca ngộ độc lẻ tẻ
nhưng không xảy ra trường hợp tử vọng. Đồng thời, công tác TTPB về
VSATTP tại các huyện, thị xã vẫn còn nhiều tồn tại đó là: sự phân công
chậm, chưa rõ ràng, kinh phí hạn chế, cán bộ làm công tác ATTP chưa được
đào tạo bài bản,… đó là những khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ nhằm nâng
cao hiệu quả TTPB về VSATTP ở các huyện, thị xã.
1
Xuất phát từ những lý do trên, học viên chọn đề tài “Tuyên truyền phổ
biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Nông”làm luận
văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Trong thời gian qua, vấn đề ATTP đã thu hút sự quan tâm chú ý của
các chuyên gia, các nhà nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu các công trình
nghiên cứu khoa học cũng như báo cáo em nhận thấy có một số đề tài, bài viết
điển hình có nội dung gần nhất với đề tài khóa luận này như:
- Trong nghiên cứu của tác giả Chu Thế Vinh về đề tài: “Thực trạng
ATTP ở các cơ sở ăn uống và công tác quản lý tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng năm 2012-2013”, tác giả đã có nhìn nhận sâu sắc về thực trạng ATTP
tại thành phố Đà Lạt. Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng điều kiện ATTP tại
cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống (DVAU) tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng sẽ phần nào giúp cho ngành Y tế và các ngành liên quan trong việc phối
hợp thực hiện tốt hơn công tác bảo đảm ATTP trong thời gian tới, hướng đến
mục tiêu bảo đảm 100% cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống đạt tiêu chuẩn
ATTP theo quy định của Bộ Y tế. Do đó, kết quả của nghiên cứu không suy
rộng ra địa phương khác, nghiên cứu này có thể là cơ sở cho các nghiên cứu
tiếp theo [16].
- Nguyễn Thị Giang, Bùi Thị Thu Hương - Khoa Kinh tế - Đại học
Thương Mại (2009), đề tài nghiên cứu khoa học “Một số giải pháp trong
QLNN đối với vấn đề ATTP tại các chợ trên địa bàn Quận Cầu Giấy”. Đề tài
đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát vấn đề ATTP tại một số chợ trên địa bàn
quận Cầu Giấy như chợ Đồng Xa, chợ Nhà Xanh, chợ Nghĩa Tân. Từ đó chỉ
ra được thực trạng tình hình vi phạm ATTP, vấn đề QLNN về ATTP tại các
chợ này. Trên cơ sở quan điểm định hướng của Nhà nước về vấn đề ATTP, đề
tài đã đưa ra giải pháp, kiến nghị với cơ quan quản lý nhằm thực hiện tốt hơn
2
công tác QLNN về ATTP ở các chợ. Đề tài này thiên về đưa ra các giải pháp
trong QLNN về ATTP tại các chợ [9].
- Trần Thị Thúy - Khoa Kinh tế - Đại học Thương mại (2009) luận văn
tốt nghiệp: “Tăng cường QLNN về ATTP tại các siêu thị trên địa bàn Hà
Nội”. Đề tài này đi sâu vào nghiên cứu nội dung chủ yếu của QLNN là công
tác ban hành, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, sự phối hợp liên
ngành đối với vấn đề ATTP tại các siêu thị trên địa bàn Hà Nội [11].
- Trần Cầm Giang, Bùi Thị Thanh Huyền, Lê Thị Tri - Lớp 06QT2D,
Khoa Quản trị kinh doanh - Đại học Tôn Đức Thắng thành phố Hồ Chí Minh,
nghiên cứu khoa học 2010 “Một số giải pháp tăng cường và kiểm soát ATTP
ở thành phố Hồ Chí Minh”. Đề tài đã hệ thống hóa lại cơ sở lý luận về ATTP
để làm luận cứ cho việc nghiên cứu. Tìm hiểu tình trạng vi phạm ATTP,
công tác kiểm soát, quản lý, tuân thủ của các cơ quan chức năng và đề xuất
giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm soát đối với vấn đề ATTP trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài này cũng có nhiều nét tương đồng với đề
tài của học viên, nghiên cứu thực trạng ATTP để đưa ra giải pháp cho công
tác QLNN về ATTP [10].
Trên đây là một số đề tài có nét tương đồng nhất định với đề tài này
nên học viên cũng đã tiếp thu thêm nhiều điểm mới trong đề tài đó. Ngoài ra
còn một số đề tài khác liên quan nhưng đề tài cũng có những nét khác biệt
nhất định nên tác giả tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, từ trước đến
nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào nghiên cứu cho tuyên
truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
Đây là một khoảng trống trong nghiên cứu cần khắc phục, xuất phát từ tầm
quan trọng của các chính sách QLNN cũng như thực tế đòi hỏi.Vì vậy, đề tài:
“Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh
Đăk Nông” là một đề tài nghiên cứu tiếp theo trong thời gian hiện nay. Qua
đó, hy vọng có thể bổ sung, hoàn thiện hơn những kết luận nghiên cứu trước
3
đây nhằm góp phần hoàn thiện việc tuyên truyền phổ biến về VSATTP ở các
địa phương trong cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Tăng cường hiệu quả tuyên truyền phổ biến về VSATTP
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Một là, hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận đối với tuyên truyền
phổ biến về VSATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
+ Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tuyên truyền phổ biến về
VSATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
+ Ba là, đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền phổ
biến về VSATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm ở tỉnh Đắk Nông.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
+ Phạm vi về thời gian: Giai đoạn từ 2014 đến 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thấy rõ được thực trạng Tuyên truyền phổ biến về VSATTP trên địa
bàn tỉnh diễn ra như thế nào và đưa ra các giải pháp tăng cường tuyên truyền
phổ biến trên địa bàn tỉnh, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu:
Gồm phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp và phương pháp thu thập dữ
liệu sơ cấp
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
4
Luận văn thu thập, phân loại tài liệu đã được công bố về thực trạng và
chính sách nhà nước nhằm tuyên truyền phổ biến VSATTP như: các đề án, đề
tài, sách tham khảo, các bài báo khoa học chuyên ngành, các luận văn tiến sỹ,
đồng thời thu thập, phân loại các văn bản nhà nước về VSATTP nói chung và
những văn bản nhà nước được tỉnh Đăk Nông áp dụng nói riêng đã được ban
hành như: Luật, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư, liên
quan đến VSATTP.
Luận văn còn khai thác và sử dụng các số liệu trực tuyến trên Internet
của Tổng cục thống kê, Bộ Y tế, các tổ chức Chính phủ, đồng thời sử dụng
các quan điểm, đánh giá, nhận định của các chuyên gia về chính sách quản lý
nhà nước về VSATTP đã công bố.
Sau khi có các dữ liệu thứ cấp, tiến hành đánh giá, lựa chọn, sử dụng
dữ liệu phù hợp, kết hợp với phỏng vấn, hình thành nên khung lý thuyết
nghiên cứu đồng thời đánh giá thực trạng và tác động của chính sách nhà
nước giai đoạn từ năm 2014 đến 2018.
- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:
Là phương pháp thu thập thông tin trong đó nhà nghiên cứu tiến hành
quan sát đối tượng nghiên cứu. Đây là một phương pháp thu thập dữ liệu đơn
giản, dễ thực hiện nhưng rất hữu ích, đầy đủ. Người quan sát có thể sử dụng
trực tiếp tai, mắt, để nghe, nhìn bằng phương tiện cơ giới.
Luận văn sẽ tập trung quan sát trực tiếp điều kiện, dụng cụ sản xuất,
chế biến thực phẩm, địa điểm kinh doanh thực phẩm và cách thức quản lý của
các cơ quan chức năng trong địa bàn Tỉnh về VSATTP.
5.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp xử lý dự liệu sơ cấp
Để phân tích dữ liệu thu thập trên luận văn tập trung vào phương pháp
phân tích thống kê truyền thống, bảng excel. Khi sử dụng phương pháp này,
các dữ liệu xử lý bằng phần mềm excel và tổng hợp phân tích dựa trên các
5
phương pháp thống kê truyền thống, sử dụng bảng tính để so sánh, khái quát
hóa số liệu từ đồ đưa ra kết luận chung nhất về vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý dữ liệu thứ cấp
Sau khi tổng hợp các dữ liệu thứ cấp, luận văn sẽ sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chung trong khoa học kinh tế như: phương pháp phân tích
định lượng, so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê mô tả... từ đó đưa ra kết
luận chung nhất.
5.3. Phương pháp khác
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận văn còn sử dụng các phương
pháp khác như phương pháp đồ thị, biểu đồ, hình vẽ hoặc mô hình. Từ các
bảng số liệu, lập ra biểu đồ để thông qua đó quan sát và rút ra những đánh giá
tổng quát Tuyên truyền phổ biến về VSATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
6. Ý nghĩa, lý luận và thực tiển của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về TTPB đối với vấn đề VSATTP trên
địa bàn tỉnh Đăk Nông.
- Đánh giá một cách tổng quát thực trạng với những kết quả và hạn chế
về TTPB đối với vấn đề ATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông hiện nay.
- Nêu phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
TTPB đối với vấn đề ATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Tuyên truyền phổ biến về VSATTP có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nghiên cứu đề tài này để thấy được thực tiễn vấn đề VSATTP đang diễn ra
hết sức phức tạp tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, các chợ trên
địa bàn tỉnh. Ngoài ra, nghiên cứu cũng thể hiện những mặt hạn chế trong
công tác Tuyên truyền phổ biến về VSATTP.
Đối với đề tài: Việc nghiên cứu vấn đề này làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn.
6
Đối với đối tượng được chọn để nghiên cứu: Việc Tuyên truyền phổ
biến đối với các cơ sở chế biến, sản xuất, kinh doanh thực phẩm tốt sẽ giúp
phần cải thiện chất lượng sản phẩm bán ra, giảm thiểu số vụ ngộ độc thực
phẩm, giúp các cơ sở này kinh doanh lành mạnh hơn.
Đối với vấn đề tuyên truyền phổ biến: Nghiên cứu những vấn đề về
VSATTP trên địa bàn tỉnh Đăk Nông mang lại một cái nhìn tổng quan hơn về
thực trạng công tác tuyên truyền phổ biến về VSATTP trên địa bàn tỉnh, từ đó
đưa ra được giải pháp tăng cường tuyên truyền phổ biến nhằm thay đổi được
hành vi con người, giảm thiểu số tai nạn về VSATTP nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, Mục lục, Danh mục, Phụ
lục, Bảng biểu, Tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn bao gồm như sau:
Chương1: Cơ sở lý luận của tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn
thực phẩm
Chương 2: Thực trạng tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Nông
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường tuyên truyền phổ biến
về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Nông
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN VỀ
VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Vệ sinh an toàn thực phẩm và quản lý nhà nước về vệ sinh an
toàn thực phẩm
1.1.1. Vệ sinh an toàn thực phẩm
Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đề cập tới hai vấn đề là vệ sinh
thực phẩm và an toàn thực phẩm.
Theo cách hiểu phổ biến, thực phẩm là những sản phẩm dùng cho việc
ăn, uống của con người ở dạng nguyên liệu tươi, sống hoặc đã qua sơ chế, chế
biến, các chất được sử dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm. Thực phẩm
không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm [18].
Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 quy định, Thực
phẩm là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc đã
qua chế biến, bảo quản (khoản 1 Điều 3).
Cũng theo pháp lệnh này, Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là các
điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức
khỏe, tính mạng của con người (khoản 2 Điều 3).
Luật An toàn thực phẩm 2010 (thay thế Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực
phẩm năm 2003) quy định, An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm
không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người (khoản 1 Điều 2); Điều
kiện bảo đảm an toàn thực phẩm là những quy chuẩn kỹ thuật và những quy
định khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và hoạt
động sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an toàn đối với sức khoẻ,
tính mạng con người (khoản 6 Điều 2). Như vậy, theo cách hiểu từ điều chỉnh
8
của Luật, an toàn thực phẩm (ATTP) bao hàm cả yếu tố đảm bảo vệ sinh thực
phẩm. Trong luận văn này, về mặt thuật ngữ, sử dụng cụm từ VSATTP để
đảm bảo lô-gic về mặt hình thức. Về nội dung, để phù hợp với quy định hiện
hành, ATTP bao hàm cả nghĩa về VSTP.
Về thuật ngữ ATTP, theo cách hiểu phổ biến, là tất cả điều kiện, biện
pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển,
cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây
hại cho sức khoẻ người tiêu dùng [18].
Theo các chuyên gia của Tổ chức Lương Nông (FAO) và tổ chức Y tế
Thế giới thì: “ATTP là việc bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khỏe,
tính mạng người sử dụng, bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các
tác nhân vật lý, hóa học, sinh học, hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không
phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe
người sử dụng”. Quan niệm này rất đầy đủ, lột tả được bản chất của vấn đề
nhưng đề ngắn gọn và dễ hiểu mà vẫn bao hàm được ý nghĩa trong quản lý,
khái niệm được chấp nhận hơn cả là: “ATTP là việc bảo đảm thực phẩm
không gây hại cho sức khỏe, tính mạng của con người, không chứa các tác
nhân sinh học, hóa học, lý học quá giới hạn cho phép” [19].
1.1.2. Quan niệm quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm
Luật ATTP 2010 quy định quản lý nhà nước về VSATTP. Theo quy
định của Luật này thì, QLNN về VSATTP là việc nhà nước thực hiện quyền
lực công dân để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động về ATTP.
QLNN về VSATTP là quản lý theo ngành do nhiều cơ quan thực hiện.
Đó là việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, cơ chế và
chính sách phát triển lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, phù hợp với sự phát
triển kinh tế xã hội. QLNN về VSATTP là hoạt động có tổ chức của nhà nước
thông qua các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách của nhà nước sẽ tác
động đến tình hình thực hiện VATTP của đơn vị sản xuất, chế biến, kinh
9
doanh và người tiêu dùng trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể
này thực hiện tốt các vấn đề về VSATTP. QLNN về VSATTP bao gồm một
số các hoạt động chủ yếu: công tác hoạch định và ban hành các văn bản,
chính sách, chiến lược, kế hoạch có liên quan đến vấn đề VSATTP và công
tác tổ chức tuyên truyền, giáo dục, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm, công tác phối hợp liên ngành trong quản lý và nghiên cứu khoa
học...
1.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
ATTP là một vấn đề rất phức tạp, quản lý rất khó khăn, đòi hỏi có
nhiều chủ thể tham gia vào quản lý thì mới đạt hiệu quả đặt ra; tổ chức quản
lý về ATTP phải được đổi mới cho phù hợp với điều kiện thực tế, phù hợp với
chiến lược phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đạt ra, mà chủ thể chính và
quan trọng nhất là Nhà nước. Theo quy định của pháp luật QLNN đối với vấn
đề ATTP bao gồm những nội dung như sau:
1.1.3.1. Ban hành và triển khai các văn bản về an toàn thực phẩm
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch về ATTP;
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
ATTP, các quy định và tiêu chuẩn về ATTP;
- Ban hành các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành
chính về ATTP.
1.1.3.2. Xây dựng bộ máy
Bộ máy QLNN về ATTP đến nay đã được xây dựng hoàn chỉnh từ
Trung ương đến địa phương.
Bố trí nguồn lực cho bộ máy QLNN về ATTP đảm bảo hoạt động có
hiệu quả.
1.1.3.3. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
10
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng ngừa, khắc phục ngộ
độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm;
- Quản lý hệ thống kiểm nghiệm, thử nghiệm về ATTP;
- Quản lý việc công bố tiêu chuẩn ATTP, chứng nhận đủ điều kiện
ATTP;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm
pháp luật về ATTP.
- Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp
luật về ATTP;
- Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực ATTP;
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về an toàn thực
phẩm
Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về ATTP cho đội ngũ cán bộ làm công
tác ATTP.
1.1.3.4. Hợp tác quốc tế về an toàn thực phẩm
Tham quan, học tập kinh nghiệm các nước trên thế giới về quản lý trong
lĩnh vực ATTP áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Khuyến
khích các doanh nghiệp thực phẩm trong nước áp dụng quy trình HACCP “Hệ
thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn”.
1.1.4. Vai trò của quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong những năm gần đây vấn đề ATTP đang diễn ra ngày càng trầm
trọng, nhiều vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra liên tiếp, gây thiệt hại đến tính
mạng con người và tiền của. Trước những diễn biến đó thì vai trò của quản lý
nhà nước là đặc biệt quan trọng trong đó Nhà nước là chủ thể trực tiếp và toàn
diện của quản lý về ATTP. Trước hết nhà nước thông qua việc hoạch định và
ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến ATTP để hướng dẫn các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thực phẩm có định hướng để sản xuất thực
phẩm sạch, đảm bảo ATTP. Ngoài ra, thông qua các văn bản chính sách, nhà
11
nước cũng quy định rõ nhiệm vụ quản lý của từng bộ, ngành và các cấp chính
quyền quản lý chặt chẽ vấn đề ATTP.
Thông qua việc tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật, các
chương trình, kế hoạch có liên quan đến ATTP, nhà nước sẽ đóng vai trò trực
tiếp quản lý vấn đề ATTP trong việc kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện về
sản xuất, chế biến cũng như tiêu dùng của tất cả các mặt hàng thực phẩm.
Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật cũng như đội ngũ thanh tra, kiểm
tra, kiểm tra các cấp để quản lý vấn đề ATTP. Các bộ phận này có trách
nhiệm riêng biệt để thanh tra, kiểm tra, kiểm tra lập lại trật tự sản xuất, kinh
doanh theo đúng yêu cầu, tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà nước. Các bộ, ngành có
liên quan phối hợp với Bộ Y tế để cùng quản lý các vấn đề liên quan đến
ATTP.
Nhà nước tổ chức tuyên truyền, giáo dục về ATTP cho nhân dân để nâng
cao ý thức và hiểu biết vấn đề này. Chỉ đạo tổ chức các đợt cao điểm về ATTP,
đẩy mạnh công tác phòng chống ngộ độc thực phẩm, công tác tuyên truyền,
giáo dục đạt hiệu quả. Như vậy, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết
định trong mọi lĩnh vực có liên quan đến thực phẩm từ sản xuất, chế biến đến
tiêu dùng.
Mặt khác, QLNN về ATTP là sự tác động của các cơ quan QLNN về
ATTP nhằm định hướng phát triển, nâng cao khả năng kiểm soát chất lượng
sản phẩm thực phẩm đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Công tác quản lý chất lượng thực phẩm ra đời và phát triển cùng với các hoạt
động của đời sống kinh tế và xã hội, công tác quản lý ATTP có vai trò quan
trọng, tác động nhiều mặt và sâu sắc đến hầu khắp các lĩnh vực, từ sản xuất
kinh doanh, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cho đến việc bảo vệ
môi trường, an toàn sức khoẻ con người, đảm bảo công bằng và lợi ích quốc
gia. Trong thời kỳ nền kinh tế phát triển như hiện nay thì vai trò của quản lý
ngày càng trở lên quan trọng. Vai trò quản lý nhà nước về ATTP trước hết
12
phải là vai trò định hướng và đảm bảo cho hoạt động có tác động tích cực đối
với sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển kinh tế phải
dựa vào đẩy mạnh xuất khẩu, mà muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải dựa vào
tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Như vậy,
định hướng cơ bản về công tác ATTP hiện nay là đáp ứng các tiêu chuẩn quốc
tế. Làm tốt công tác này sẽ giúp hàng hoá của Việt Nam đáp ứng được nhu
cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
Vai trò không thể thiếu của QLNN về ATTP là việc đảm bảo lợi ích
quốc gia, dân tộc. Thông qua việc quy định và kiểm soát về vệ sinh, an toàn,
môi trường. Nhà nước đảm bảo sản phẩm, hàng hóa, nguyên vật liệu… nhập
khẩu vào Việt Nam phải bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng, an
toàn cho môi trường tự nhiên và xã hội. Bằng các hoạt động kiểm tra giám sát
thường xuyên ở các khu vực cửa khẩu các khu vực buôn bán để kịp thời phát
hiện và xử lý những vi phạm.
Nhờ có vai trò QLNN về ATTP đã tạo niềm tin đối với người tiêu
dùng giúp cho người tiêu dùng cảm thấy yên tâm hơn khi sử dụng sản phẩm
dịch vụ trên thị trường. Mặt khác, vai trò của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ
đề ra quy hoạch, kế hoạch tổng thể, đáp ứng những cân đối lớn của toàn bộ
nền kinh tế, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, không hiệu quả, đồng thời
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển trong lĩnh vực ATTP.
Định hướng cho công tác đảm bảo ATTP theo đúng chủ trương chính sách
đã đề ra. Hạn chế tiêu cực, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong
lĩnh vực ATTP.
1.1.5. Nguyên tắc quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm
Nhà nước là chủ thể quan trọng nhất, thống nhất quản lý về ATTP.
Sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện; tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm chịu trách nhiệm về an toàn đối với
thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh.
13
Quản lý an toàn thực phẩm phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương
ứng, quy định do cơ quan QLNN có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do tổ
chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng.
Quản lý ATTP phải được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, lưu
thông kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với ATTP và
tuân thủ về luật.
Quản lý ATTP phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp
liên ngành.
Quản lý ATTP phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.
1.2. Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn
thực phẩm
1.2.1.1. Khái niệm
Tuyên truyền phổ biến được ghép bởi hai thuật ngữ (động từ) là Tuyên
truyền và Phổ biến.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên (NXB. Văn
hóa – Thông tin, 1998) thì: Tuyên truyền (đt): Giải thích rộng rãi để thuyết
phục, vận động mọi người làm theo (tuyên truyền đường lối chính sách, tuyên
truyền chống tệ nạn xã hội). Theo cách hiểu này, người làm công tác tuyên
truyền được gọi là tuyên truyền viên. Còn Phổ biến (tt): rộng rãi, có tính chất
chung cho đối tượng (hiện tượng phổ biến, quy luật phổ biến, đặc điểm phổ
biến); (đt): truyền đạt rộng khắp, làm cho nhiều người cùng biết (phổ biến
kiến thức, phổ biến nghị quyết đại hội). Liên quan đến phổ biến, có khái niệm
phổ cập (đt), là: tiến hành rộng khắp ở mọi nơi, đến với mọi đối tượng (phổ
cập giáo dục).
Từ những phân tích nêu trên, tuyên truyền phổ biến về VSATTP có thể
hiểu là hoạt động có mục đích của chủ thể (này), bằng những hình thức, biện
14
pháp phù hợp, nhằm truyền đạt thông tin tới đối tượng xác định để đạt được
mục đích là nâng cao nhận thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, thay đổi hành
vi, phong tục, tập quán sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt, ăn uống lạc hậu, gây
mất an toàn thực phẩm, góp phần bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người; đạo
đức kinh doanh, ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
với sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng thực phẩm.
Khái niệm tuyên truyền, phổ biến được luận văn đề cập có nhiều ý
nghĩa tương đồng với vấn đề thông tin, giáo dục, tuyền thông về ATTP được
đề cập tại Chương IX Luật ATTP 2010. Chúng đều là hoạt động có mục đích
của chủ thể, nhằm cung cấp thông tin, kiến thức để thay đổi nhận thức, hành
vi của đối tượng có liên quan đến VSATTP theo hướng tích cực. Về mặt pháp
lý, tác giả luận văn lấy Chương IX của Luật ATTP năm 2010 làm cơ sở pháp
lý cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến về VSATTP.
Trong TTPB về VSATTP, nội dung quan trọng là TTPB pháp luật về
ATTP mà trọng tâm là Luật ATTP năm 2010.
Ở góc độ chung, phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi,
mang ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật
được ban hành nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một
công cụ để nhà nước dùng để trị dân. Bên cạnh đó phổ biến pháp luật còn
mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể.
Ở những mức độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối
tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật
trên thực tế. Phổ biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các hội
nghị, các cuộc tập huấn...
Có nhiều hình thức tuyên truyền pháp luật, song hình thức chiếm ưu thế
và giữ một vai trò quan trọng đối Tuyên truyền phổ biến pháp luật đó là hình
thức tuyên truyền miệng. Tuyên truyền miệng là hình thức mà người nói trực
tiếp nói với người nghe về một nội dung nào đó nhằm nâng cao nhận thức,
15
niềm tin, ý thức cho người nghe và kích thích người nghe hành động theo
mục đích của người tuyên truyền; Là quá trình hoạt động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm nâng cao cho con người những phẩm chất
đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt
của đời sống xã hội".
So với phổ biến thì tuyên truyền cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình
cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng
xác định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính
là các phương thức tuyên truyền cụ thể.
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả
đã khá thống nhất với khái niệm tuyên truyền pháp luật: Tuyên truyền pháp
luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể tuyên
truyền tác động lên đối tượng tuyên truyền một cách có hệ thống và thường
xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và
hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
1.2.1.2. Đặc điểm
- Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm được tổ chức
thực hiện bởi những chủ thể xác định (Chính phủ, Các bộ, ngành Trung
ương, UBND các cấp).
- Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm là một bộ phận
của công tác giáo dục trính trị, tư tưởng.
- Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm có mối liên hệ
chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện pháp luật.
- Tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm truyền đạt
thông tin, nội dung pháp luật giúp đối tượng được tác động có những hiểu biết
nhất định về pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng.
16
1.2.2. Mục đích, yêu cầu của tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn
thực phẩm
Việc TTPB về VSATTP có mục đích là: nhằm nâng cao nhận thức về
vệ sinh an toàn thực phẩm, thay đổi hành vi, phong tục, tập quán sản xuất,
kinh doanh, sinh hoạt, ăn uống lạc hậu, gây mất an toàn thực phẩm, góp phần
bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người; đạo đức kinh doanh, ý thức trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với sức khỏe, tính mạng của
người tiêu dùng thực phẩm.
Việc TTPB về VSATTP vệ sinh về an toàn thực phẩm phải bảo đảm
các yêu cầu sau đây:
- Chính xác, kịp thời, rõ ràng, đơn giản, thiết thực;
- Phù hợp với truyền thống, văn hoá, bản sắc dân tộc, tôn giáo, đạo đức
xã hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán;
- Phù hợp với từng loại đối tượng được tuyên truyền.
Những yêu cầu cụ thể đối với TTPB về VSATTP:
Trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ
vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác TTPBPL về VSATTP thì dù
công tác xây dựng pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm có làm tốt đến mấy
cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật.
Thứ hai TTPBPL về VSATTP phải tạo dựng được lòng tin vào pháp
luật về vệ sinh an toàn thực phẩm của đối tượng
TTPBPL về VSATTP chỉ có thể được mọi người thực hiện đúng và đầy
đủ khi họ tin tưởng vào những quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm. TTPBPL về VSATTP là để bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, đảm
bảo lợi ích chung của cộng đồng, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Khi
nào người dân nhận thức đầy đủ được như vậy thì pháp luật về vệ sinh an toàn
thực phẩm không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi người vẫn tự giác
thực hiện.
17
Thứ ba TTPBPL về VSATTP nhằm nâng cao ý thức tự giác chấp hành
pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm của đối tượng
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm của
nhân dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác TTPBPL về VSATTP cho
nhân dân được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục.
TTPBPL về VSATTP không đơn thuần là phổ biến các văn bản pháp luật về
vệ sinh an toàn thực phẩm đang có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi
phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng tình ủng hộ các hành vi
thực hiện đúng pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, hình thành dư luận và
tâm lý đồng tình ủng hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm
pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ tư là TTPBPL về VSATTP góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
TTPBPL về VSATTP đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ
xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều
kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo
ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp
luật diễn ra trong quá trình quản lý.
1.2.3. Nội dung tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm
Nội dung chính của TTPB về VSATTP gồm:
- Kiến thức, pháp luật về an toàn thực phẩm.
+ Tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch TTPB về ATTP;
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
TTPB về ATTP, các quy định và tiêu chuẩn về ATTP;
+ Thông báo bằng phương tiện thông tin đại chúng trên địa bàn toàn
tỉnh các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về ATTP.
18
- Nguyên nhân, cách nhận biết nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, bệnh
truyền qua thực phẩm và các biện pháp phòng, chống sự cố về an toàn thực
phẩm.
- Thông tin về các điển hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm bảo đảm
an toàn; việc thu hồi thực phẩm không bảo đảm an toàn, xử lý đối với cơ sở vi
phạm nghiêm trọng pháp luật về an toàn thực phẩm.
1.2.4. Đối tượng tiếp cận tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn
thực phẩm
Đối tượng của TTPB về VSATTP là:
- Tổ chức, cá nhân được quyền tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền
thông về an toàn thực phẩm.
- Ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực
phẩm cho các đối tượng sau đây:
+ Người tiêu dùng thực phẩm;
+ Người quản lý, điều hành các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
+ Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm tươi sống, sản xuất,
kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ; người dân khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn.
1.2.5. Hình thức tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm
- Thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về an toàn
thực phẩm.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân.
- Thông qua hoạt động văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt của các
đoàn thể, tổ chức xã hội và các loại hình văn hoá quần chúng khác.
19
- Thông qua điểm hỏi đáp về an toàn thực phẩm tại các Bộ quản lý
ngành.
1.3. Trách nhiệm trong tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn
thực phẩm
1.3.1. Trách nhiệm của các bộ, ngành
Theo quy định của Điều 60, 63, 64 Luật ATTP, trách nhiệm trong
TTPB về VSATTP như sau:
- Bộ Y tế: Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành và Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ có liên quan có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan hữu
quan cung cấp chính xác và khoa học các thông tin về an toàn thực phẩm; kịp
thời phản hồi thông tin không đúng sự thật về an toàn thực phẩm.
- Bộ Thông tin và Truyền thông: Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền
thông có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên
thông tin, truyền thông về an toàn thực phẩm, lồng ghép chương trình thông
tin, truyền thông về an toàn thực phẩm với các chương trình thông tin, truyền
thông khác.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách
nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành
và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có liên quan xây dựng nội dung giáo dục an
toàn thực phẩm kết hợp với các nội dung giáo dục khác.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
+ Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực
được phân công quản lý.
+ Quản lý an toàn thực phẩm đối với sản xuất ban đầu nông, lâm, thủy
sản, muối.
20
+ Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, thu gom,
giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh
doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm thủy
sản, rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả, trứng và các sản phẩm từ trứng,
sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong, thực phẩm biến
đổi gen, muối và các nông sản thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ.
+ Quản lý an toàn thực phẩm đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa
đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm
thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
+ Báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm
thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
trong quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc
lĩnh vực được phân công quản lý.
- Trách nhiệm của Bộ Công Thương:
+ Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực
được phân công quản lý.
+ Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, chế biến,
bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại
rượu, bia, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến bột
và tinh bột và các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ.
+ Quản lý an toàn thực phẩm đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa
đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm
thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
+ Ban hành chính sách, quy hoạch về chợ, siêu thị, quy định điều kiện
kinh doanh thực phẩm tại các chợ, siêu thị.
21
+ Chủ trì việc phòng chống thực phẩm giả, gian lận thương mại trong
lưu thông, kinh doanh thực phẩm.
+ Báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm
thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
trong quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc
lĩnh vực được phân công quản lý.
1.3.2. Trách nhiệm của chính quyền địa phương và cơ quan, đoàn
thể khác
Tại các địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức
thực hiện công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm cho
nhân dân trên địa bàn. Nhiệm vụ này được giao cho Sở Y tế thực hiện, cơ
quan tham mưu của Sở Y tế là Chi cục VSATTP. Tại cấp tỉnh, Chi cục
VSATTP là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an
toàn thực phẩm tỉnh, có nhiệm vụ chủ trì hướng dẫn, tổ chức thực hiện công
tác thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm; phổ biến, giáo dục
pháp luật về an toàn thực phẩm.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức xã hội có trách
nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm thuộc phạm vi
trách nhiệm của mình.
1.3.3. Trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng
Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm,
thời lượng phát sóng để thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực
phẩm trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo
in, báo hình, báo điện tử theo quy định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và
Truyền thông. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm
trên các phương tiện thông tin đại chúng không thu phí, trừ trường hợp thực
22
hiện theo hợp đồng riêng với chương trình, dự án hoặc do tổ chức, cá nhân
trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ.
Tiểu kết Chương 1
VSATTP là vấn đề quan trọng đối với đời sống con người. Để đảm bảo
VSATTP trong xã hội, Nhà nước có vai trò quan trọng, thể hiện qua chức
năng, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước về lĩnh vực này.
TTPB về VSATTP là một nội dung của QLNN về VSATTP. Đây là
một hoạt động có tính nghề nghiệp, được thực hiện bởi chủ thể có thẩm
quyền, trách nhiệm, bằng những hình thức phù hợp với đối tượng. Đây là
những vấn đề có tính lý luận cần lưu ý khi thực hiện hoạt động TTPB về
VSATTP trên thực tế.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN VỀ VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Khái quát về tỉnh Đắk Nông có ảnh hưởng tới tuyên truyền phố
biến về vệ sinh an toàn thực phẩm
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ
14 nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền đông Nam bộ với các tỉnh
Tây nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách
Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lăk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28
nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung,
cách Thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) 180 km và Thành phố Phan Thiết (Bình
Thuận) 230 km về phía Đông. Đăk Nông có 130 km đường biên giới với nước
bạn Campuchia, có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với
Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem Reap, v.v.
Diện tích tự nhiên có 650.927 ha, có 08 đơn vị hành chính cấp huyện,
thị xã với dân số thống kê năm 2016 là 636.000 người. Có 40 dân tộc cùng
sinh sống, dân tộc đa dạng, chủ yếu là dân tộc kinh, M'Nông, Tày, Thái, Ê Đê,
Nùng, dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,5%, M'Nông chiếm 9,7%, các dân
tộc khác chiếm tỷ lệ nhỏ. Trung tâm tỉnh lỵ là Thị xã Gia Nghĩa.
Đăk Nông là khu vực chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây
Nguyên và Đông nam bộ, chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu
nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc
trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa
Tây Nam khô nóng. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến hết
tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến hết
tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình năm 22-
24
230C, nhiệt độ cao nhất 350C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất
140C.
Vị trí địa lý như trên sẽ tạo điều kiện cho Đắk Nông có thể mở rộng
giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn động lực để
Đăk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong tương lai sẽ trở thành
trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Lĩnh vực Kinh tế
Về định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực. Cụ thể ngành nông,
lâm, thủy sản phát huy tiềm năng, thế mạnh đất đai và các điều kiện tự nhiên
nhằm đẩy mạnh phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa, xuất khẩu, gắn sản
xuất nông, lâm nghiệp với công nghiệp chế biến. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, thâm canh
tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông
nghiệp thời kỳ 2011 - 2015 bình quân 7,5%/năm, trong đó trồng trọt tăng
7%/năm, chăn nuôi tăng 11,5%/năm, khâu dịch vụ tăng 21%/năm. Năm 2015
thu nhập từ ngành nghề nông thôn và dịch vụ chiếm từ 15 - 20% tổng thu
nhập của cư dân nông thôn, đưa thu nhập kinh tế hộ gấp 1,8 - 2 lần hiện nay,
sản lượng lương thực có hạt đạt 360.000 tấn, bình quân đầu người 537 kg.
Đến năm 2020, thu từ ngành nghề, dịch vụ chiếm 30% trở lên trong thu nhập
của cư dân nông thôn, sản lượng lương thực 370.000 tấn, bình quân đầu người
trên 500kg đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ.
Về phát triển thủy sản, lâm nghiệp tiếp tục đẩy mạnh nuôi trồng thủy
sản nước ngọt. Cùng với chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
trong nông nghiệp, cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cải tạo ao
hồ,diện tích mặt nước sông suối, hồ thủy điện chưa sử dụng để nuôi trồng
25
thủy sản. Đẩy mạnh trồng rừng nguyên liệu, rừng phòng hộ nhằm phát triển
vốn rừng, phủ xanh đất trống, tăng tỷ lệ che phủ toàn tỉnh.
Lĩnh vực phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tiếp tục đầu tư
hạ tầng và xúc tiến, vận động doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh vào
các khu công nghiệp: Tâm Thắng, Nhân Cơ và các cụm công nghiệp: Đắk Ha,
Thuận An. Thu hút đầu tư kinh doanh hạ tầng các cụm công nghiệp đã được
quy hoạch, tạo điều kiện thuận lợi vềmặt bằng trong thu hút đầu tư. Phấn đấu
đến năm 2015 đưa giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh đạt
5.067 tỷ đồng, tăng bình quân 24,23%/năm thời kỳ 2011 - 2015, đến năm
2020 đạt 11.490 tỷ đồng, tăng bình quân khoảng 20,9%/năm thời kỳ 2011 -
2020.
Về phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch. Năm 2015 tổng kim
ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt khoảng 550 triệu USD, đến năm 2020 kim
ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1.500 triệu USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu trên địa bàn tỉnh tăng bình quân 16,17%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và
giai đoạn 2016 - 2020 là 22,2%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ xã hội đạt 18.405 tỷ đồng vào năm 2015, tăng bình quân 26,8%/năm
giai đoạn 2011 - 2015; đạt 43.400 tỷ đồng vào năm 2020, tốc độ tăng bình
quân cả giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 18,72%/năm.
2.1.2.2. Lĩnh vực xã hội:
- Y tế - Sức khoẻ:
Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được cải thiện, mạng lưới y
tế cơ sở được củng cố, nâng cấp; hệ thống y tế trên địa bàn phát triển mạnh cả
về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
Các chương trình dự án mục tiêu quốc gia về y tế được thực hiện tốt. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị y tế được quan tâm đầu tư, có chất lượng hơn; tăng cường
các dịch vụ kỹ thuật mới trong khám chữa bệnh. Trách nhiệm và y đức của cán
bộ y tế được nâng lên. Chủ động phòng, chống các dịch bệnh, không để lan
26
rộng. Y học cổ truyền tiếp tục phát triển, Hội Đông y các cấp được củng cố và
duy trì hoạt động, số lượng bệnh nhân khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền
ngày càng tăng. QLNN trong lĩnh vực ATTP, hành nghề y dược tư nhân; y học
cổ truyền, quản lý giá thuốc, vật tư y tế chuyển biến tốt hơn.
Thực hiện tốt công tác tiếp âm, sản xuất trang truyền hình địa phương
và cộng tác viên với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh. Tỷ lệ hộ được xem đài
truyền hình 95% và nghe đài tiếng nói Việt Nam là 97%.
- Văn hóa – Xã hội – Môi trường:
65% thôn, bon, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn thôn, bon, tổ dân phố văn
hoá; 50 % xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn văn hoá. 100% xã, phường, thị
trấn có trạm truyền thanh cơ sở; tỷ lệ hộ được nghe sóng truyền thanh đạt
100; tỷ lệ hộ được xem truyền hình đạt 100%.
- 100% các cơ sở sản xuất mới phải áp dụng công nghệ sạch, xử lý chất
thải đạt tiêu chuẩn môi trường. 95% khu vực công cộng, khu đông dân có
thùng gom rác thải. 100% các cơ sở sản xuất công nghiệp, cụm công nghiệp
có hệ thống xử lý rác thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, thu gom 95%
chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ. 98% dân cư được sử dụng
nước sạch.
2.1.2.3. Đánh giá chung về tỉnh Đăk Nông
- Về thuận lợi:
+ Sự quan tâm chỉ đạo của các cấp từ Trung ương đến địa phương đối
với công tác đảm bảo VSATTP.
+ Sự chỉ đạo và hướng dẫn trực tiếp chuyên ngành của các Cục ATTP,
Cục QLCL NLS & TS, Bộ Công thương,.... và của Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây
Nguyên.
+ Sự quan tâm chỉ đạo thống nhất của Thường trực BCĐ VSATTP tỉnh
đối với toàn bộ hệ thống quản lý công tác ATVSTP từ tỉnh đến huyện/thị xã,
xã/phường/thị trấn.
27
+ Sự phối hợp hoạt động của Sở Y tế, Sở Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn, Sở Công thương, Sở Khoa học & Công nghệ, Phòng Cảnh sát Môi
trường - Công an tỉnh và các ban ngành, tổ chức đoàn thể xã hội, tạo sự gắn
kết đồng thuận trong công tác thanh kiểm tra, quản lý ATVSTP trên địa bàn
tỉnh.
+ Sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội đối với công tác đảm bảo
VSATTP.
+ Nhận thức và sự chấp hành các quy định của pháp luật về ATTP của
các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm ngày càng được nâng lên
rõ rệt.
+ Tinh thần trách nhiệm và sự nhiệt tình, năng nổ tích cực của đội ngũ
CBCCVC và đội ngũ cộng tác viên làm công tác ATVSTP trên địa bàn toàn
tỉnh.
- Về khó khăn:
+ Về nhân lực:
Lực lượng đội ngũ CBCCVC hoạt động trong lĩnh vực ATTP trên địa
bàn tỉnh thiếu nhiều so với yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt, tuyến xã/phường/thị
trấn không có biên chế chuyên trách ATVSTP mà chỉ có 71 cộng tác viên
ATVSTP/71 xã/phường/thị trấn; tuyến huyện/thị xã chưa có biên chế chuyên
trách quản lý ATTP thuộc Ngành Nông nghiệp và Ngành Công thương.
+ Về kinh phí:
Nguồn kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia VSATTP do Trung
ương cấp còn hạn chế.
+ Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc: còn thiếu trên
tất cả các tuyến, các ngành; Đặc biệt là phòng kiểm nghiệm, trang thiết bị,
dụng cụ, phương tiện phục vụ công tác lấy mẫu, kiểm nghiệm, kiểm tra nhanh
những chỉ tiêu ATTP đối với sản phẩm thực phẩm còn rất hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn quản lý.
28
+ Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có quy mô nhỏ lẻ,
manh mún, nhân công lao động ít, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp, việc ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất còn hạn chế, chưa được nhân rộng.
2.2. Tổ chức bộ máy thực hiện tuyên truyển phổ biến về vệ sinh an
toàn thực phẩm
2.2.1. Thiết lập mạng lưới quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm
Công tác TTPB về ATTP đã được tổ chức, thực hiện theo quy định của
pháp luật. UBND tỉnh Đắk Nông chỉ đạo các Sở Y tế, Sở Công thương, Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện nhiệm vụ TTPB về ATTP.
Các chi cục dưới Sở trực tiếp thực hiện nhiệm vụ TTPB về ATTP bao gồm
Chi cục Quản lý thị trường, Chi cục ATTP, Chi cục Quản lý chất lượng nông
lâm thủy sản. Dưới chi cục là các đơn vị tham gia vào công tác chuyên môn;
Công tác TTPB về ATTP (trong ngành y tế) đã được củng cố và đi vào hoạt
động từ năm 2005, đến nay đã dần hoàn thiện. Đã thành lập được Ban chỉ đạo
liên ngành về ATTP, cấp huyện và cấp xã chỉ đạo hoạt động tuyên truyền đảm
bảo ATTP trên địa bàn, sự phối hợp giữa các cơ quan trong công tác tuyên
truyền phổ biến về an toàn thực phẩm như: UBND các huyện, thị xã đã thành
lập các đoàn liên ngành gồm y tế, kinh tế, kinh tế và Hạ tầng, Trung tâm y tế
dự phòng, đội quản lý thị trường, Công an các huyện/ thị xã, Đài truyền thanh
truyền hình, uỷ ban mặt trận tổ quốc các huyện/thị xã, Đoàn thanh niên, Hội
nông dân, Phòng Giáo dục và đào tạo; có trách nhiệm tuyên truyền phổ biến
về ATTP trong suốt quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, kinh
doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý và theo phân cấp
của các Bộ. Tuy nhiên, một số cán bộ còn thiếu kiến thức về tuyên truyền phổ
biến về VSATTP và yếu về chuyên môn dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong
triển khai nhiệm vụ. Trước những yêu cầu ngày càng cao, việc nâng cao kiến
thức quản lý và kiến thức chuyên môn ngày càng trở nên quan trọng.
29
Bộ máy QLNN về ATTP đã được tổ chức, thực hiện theo quy định của
pháp luật. UBND tỉnh Đắk Nông chỉ đạo các Sở Y tế, Sở Công thương, Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện nhiệm vụ quản lý về ATTP.
Các chi cục dưới Sở trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý về ATTP bao gồm
Chi cục Quản lý thị trường, Chi cục ATTP, Chi cục Quản lý chất lượng nông
lâm thủy sản. Dưới chi cục là các đơn vị tham gia vào công tác chuyên môn.
Bộ máy QLNN về ATTP (trong ngành y tế) đã được củng cố kiện toàn
và đi vào hoạt động từ năm 2005, đến nay bộ máy đã dần hoàn thiện. Đã
thành lập được Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP, cấp huyện và cấp xã chỉ đạo
toàn bộ hoạt động đảm bảo ATTP trên địa bàn.
Mạng lưới quản lý về ATTP được thể hiện qua sơ đồ sau:
UBND TỈNH
Sở Y tế
Sở Công thương Sở Nông nghiệp
Chi cục QLTT
Chi cục QLCLNLSTS Chi cục ATVSTP
Các đơn vị Các đơn vị Các đơn vị
UBND huyện Nguồn: Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Đăk Nông
Sơ đồ 2.1. Mạng lưới quản lý an toàn thực phẩm
Qua sơ đồ 2.1. cho thấy UBND các cấp chỉ đạo toàn bộ hoạt động
QLNN về ATTP trên địa bàn, tại tuyến tỉnh ngoài các sở ngành là đơn vị
tham mưu chính cho UBND cấp tỉnh thì các chi cục chịu trách nhiệm về
chuyên môn lĩnh vực ATTP. Đối với tuyến huyện, tham mưu chính cho
UBND cấp huyện về ATTP có phòng Y tế, phòng Kinh tế và trung tâm Y tế.
30
TTYT huyện
Phòng Y tế
Sở y tế
Chi cục ATVSTP
BCĐ liên ngành về ATVSTP Tỉnh
TTYT huyện
Phòng Y tế
Phòng y tế
Trung tâm y tế huyện
BCĐ liên ngành về ATVSTP huyện
Trạm Y tế xã
UBND xã
BCĐ liên ngành về ATVSTP xã
Nguồn: Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Đăk Nông
Sơ đồ 2.2. Bộ máy quản lý về an toàn thực phẩm ngành Y tế Đắk Nông
Qua sơ đồ 2.2. cho thấy bộ máy quản lý về an toàn thực phẩm của
ngành y tế, chi cục vệ sinh ATTP của tỉnh đã chỉ đạo xuyên suốt hoạt động
chuyên môn lĩnh vực ATTP thuộc ngành y tế quản lý thông qua đơn vị
chuyên môn là trung tâm y tế, phòng y tế.
Tuy nhiên, cần phải có một bộ máy quản lý từ TW đến địa phương đầy
đủ, thống nhất. Chức năng về quản lý phải làm tốt được ba vấn đề: Lập kế
hoạch - tổ chức phân công triển khai thực hiện – giám sát, kiểm tra, đánh giá.
Nguồn lực cho quản lý (nhân lực, tài lực, vật lực, thông tin) phải đáp ứng được
yêu cầu thực tế. Các văn bản pháp quy, các tiêu chuẩn, chế độ, chính sách...
cần được đầy đủ, thống nhất, phù hợp. Song thực tế, ở Việt Nam quản lý chuỗi
thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn” do nhiều Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, cá
nhân tham gia vào dẫn đến tình trạng để trôi nổi, bỏ ngỏ nhiều cơ sở, nhiều chỗ
lại chồng chéo.
Theo quy định cấp Bộ, Bộ Y tế là cơ quan đầu mối, chủ trì các vấn đề
liên quan đến ATTP, cấp tỉnh Sở Y tế là cơ quan chủ trì, đầu mối nhưng kết
quả thực hiện thì ngành nào chịu trách nhiệm trước Bộ, ngành đấy, các ngành
liên quan không chịu trách nhiệm trước Bộ y tế, Sở Y tế, lợi ích bộ phận gắn
31
bó hơn lợi ích toàn cục, dẫn đến thiếu tính ổn định, khó thống nhất trong bộ
máy quản lý. Đây là vấn đề bất cập trong quản lý của cơ chế chính sách.
Bộ máy QLNN về ATTP của ngành Y tế hiện tại so với chức năng,
nhiệm vụ được giao còn nhỏ bé. Cấp TW có Cục ATTP, cấp tỉnh có Chi cục
ATTP là cơ quan chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ QLNN về ATTP. Tại
tuyến cơ sở, có các bộ phận liên quan ở cấp huyện có Phòng y tế, khoa ATTP
thuộc Trung tâm y tế huyện; cấp xã, phường mỗi xã, phường có 1 cán bộ
chuyên trách ATTP nhưng đều kiêm nhiệm các chương trình khác.
2.2.2. Kiện toàn Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh – cơ quan
chủ trì công tác tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm trên
địa bàn tỉnh
Theo quyết định của Sở Y tế tỉnh Đắk Nông, Chi cục VSATTP tỉnh có
vị trí, chức năng: là tổ chức trực thuộc Sở Y tế, giúp Giám đốc Sở Y tế tham
mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
an toàn thực phẩm; thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về an
toàn thực phẩm, thực hiện thanh tra chuyên ngành về an toàn thực phẩm trên
địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
Chi cục VSATTP tỉnh (sau đây gọi tắt là Chi cục) có các nhiệm vụ,
quyền hạn sau:
- Tham mưu giúp Giám đốc Sở Y tế trình cấp có thẩm quyền ban hành
các quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, kế hoạch năm
năm và quy chế phối hợp liên ngành trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
- Trình Giám đốc Sở Y tế ban hành kế hoạch hằng năm, chương trình,
đề án, dự án về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu, chương trình hành
động, đề án, dự án đã được phê duyệt về an toàn thực phẩm.
32
- Là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn
thực phẩm tỉnh.
- Tham mưu, hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc quản lý an toàn thực
phẩm trong suốt quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển,
xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế
biến thực phẩm, nước uống đóng chai, nước khoáng thiên nhiên, thực phẩm
chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, dụng cụ, vật liệu bao
gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm và cơ sở kinh doanh dịch vụ
ăn uống theo quy định của pháp luật.
- Chủ trì hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác thông tin, giáo dục,
truyền thông về an toàn thực phẩm; phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn
thực phẩm.
- Chủ trì, hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác phòng ngừa, khắc phục
ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm trên địa bàn tỉnh
- Tổ chức cấp, đình chỉ và thu hồi các giấy chứng nhận liên quan đến an
toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Y tế.
- Chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn an toàn thực phẩm trên
địa bàn; tổ chức tập huấn, kiểm tra và cấp giấy xác nhận kiến thức về an toàn
thực phẩm cho Chủ cơ sở và người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm
trên địa bàn tỉnh;
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về an
toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế; thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm; xử lý, xử phạt vi phạm hành
chính và kiến nghị về lĩnh vực an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp với các đơn vị liên quan ở địa phương hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát và xử lý vi phạm việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản
lý an toàn thực phẩm theo chuỗi cung cấp thực phẩm từ sản xuất đến tiêu
dùng.
33
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về an toàn thực phẩm; thực hiện tổng hợp,
thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm.
- Tổ chức thực hiện nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật.
- Quản lý tổ chức, biên chế, tài chính, tài sản theo quy định của pháp
luật và phân cấp của Sở Y tế.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục An toàn thực phẩm và Giám đốc
Sở Y tế giao.
Trong các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, Sở Y tế giao Chi cục nhiệm
vụ về TTPB về VSATTP, đó là: Chủ trì hướng dẫn, tổ chức thực hiện công
tác thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm; phổ biến, giáo dục
pháp luật về an toàn thực phẩm. Gắn với đó là nhiệm vụ của cơ quan thường
trực của Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh. Đây là cơ
sở pháp lý để Chi cục thực hiện các hoạt động TTPB về VS ATTP trên địa
bàn tỉnh.
Để thực hiện nhiệm vụ TTPB về VSATTP, Chi cục có các phòng:
– Phòng Hành chính – Tổng hợp;
– Phòng Nghiệp vụ;
– Phòng Công tác Thanh tra.
Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ tham mưu giúp lãnh đạo Chi cục
thực hiện công tác theo chức năng, nhiệm vụ được Sở Y tế và Cục An toàn
thực phẩm quy định, thực hiện các mặt công tác: đăng ký và chứng nhận sản
phẩm; thông tin, truyền thông và quản lý ngộ độc thực phẩm; thanh tra; hành
chính - tổng hợp. Trong đó, tại Chi cục, phòng Công tác Thanh tra thực hiện
nhiệm vụ đầu mối về TTPB về VSATTP. Hiện nay, phòng này của Chi cục
gồm 7 nhân sự: 01 trưởng phòng, 02 phó phòng và 04 chuyên viên. Các nhân
sự đều có trình độ từ cao đẳng trở lên, được đào tạo chính quy, có thể đáp ứng
được yêu cầu công tác.
34
2.3. Tình hình tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
2.3.1. Tuyên truyền phổ biến thông qua các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về an toàn thực phẩm
Hình thức này được thực hiện thông qua hai kênh cơ bản, đó là phổ
biến thông tin tại Chi cục VSATTP tỉnh và tin tại website của Cục ATTP –
Bộ Y tế.
- Phổ biến thông tin tại Chi cục VSATTP tỉnh.
Đây là hình thức cơ bản, truyền thống. Hình thức này được thực hiện
theo quy định về công khai thông tin, công khai các thủ tục hành chính về lĩnh
vực VSATTP. Hiện nay, toàn bộ các thủ tục hành chính trong lĩnh vực
VSATTP đã được niêm yết công khai tại Trụ sở Chi cục để người dân tiện
theo dõi. Nội dung chính trong bộ thủ tục là các yêu cầu, hướng dẫn người
dân khi thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật.
- Phổ biến thông tin tại website của Cục ATTP – Bộ Y tế.
Website của Cục ATTP – Bộ Y tế (http://vfa.gov.vn/) là trang web
mạnh, tập trung của ngành VSATTP. Wbsite này được liên kết với nhiều
Website của các địa phương, nhất là website của tỉnh (trong đó có tỉnh Đắk
Nông) để thực hiện phổ biến thông tin, kiến thức, pháp luật 24/24h.
Website này cung cấp các nhóm thông tin sau:
- Mục Tin tức (1), gồm: Tin hoạt động của Cục, Tin hoạt động về
ATTP, Hội thảo, hội nghị, Thông báo – kế hoạch, Cảm báo về ATTP, 60 năm
y tế dự phòng.
- Mục Văn bản (2), có các văn bản điều hành của Cục, nhằm cung cấp
thông tin về hoạt động của ngành VSATTP.
- Mục Thủ tục hành chính (3), niêm yết toàn bộ các bộ thủ tục hành
chính được thực hiện ở cấp Cục và cấp chi cục.
35
- Mục Truyền thông (4), có các nhóm tin: Tháng hàng động vì chất
lượng VSATTP, Đào tạo, tập huấn. Tờ rơi – Tờ gấp, Băng đĩa hình thông
điệp, Ấn phẩm truyền thông.
- Mục Thanh tra, kiểm tra (5), có các nhóm tin: Tin tức thanh tra, kiểm
tra, Kế hoạch thanh, kiểm tra, Xử lý vi phạm ATTP, Công tác thanh, kiểm tra.
- Mục Ngộ độc thực phẩm (6), cung cấp các loại tin: Tin ngộ độc thực
phẩm, Phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, Báo cáo vụ ngộ độc thực phẩm.
- Mục Hoạt động của Chi cục: gồm nhóm tin: Tin địa phương, Bảo đảm
ATTP địa phương.
- Mục Media có các Video và Hình ảnh.
Bên cạnh đó, website này còn có các ứng dụng: Hỏi đáp trực tuyến, Hệ
thống tra cứu, các mục mang tính chất hướng dẫn về VSATTP và cảnh báo
mất VSATTP.
Hiện nay, website nhận hàng nghìn lượt truy cập mỗi ngày, tổng lượng
truy cập đạt hơn 127 triệu.
- Phổ biến thông tin tại website của Sở Y tế tỉnh.
Tương tự như chức năng của Website của Cục ATTP, Website của Sở
Y tế tỉnh Đắk Nông là nơi đưa tin chính thống, thường xuyên về các hoạt
động, thông tin, kiến thức, pháp luật về VSATTP trên địa bàn tỉnh Đắk Nông,
chủ yếu do nhân viên của Chi cục thực hiện biên tập.
Dưới đây là các hình ảnh thể hiện các chức năng đưa tin, TTPB về
VSATTP trên Website của Sở Y tế Đắk Nông.
36
Ảnh: Đưa tin về hoạt động của lãnh đạo UBND tỉnh về lĩnh vực VSATTP
đăng trên website của Sở Y tế tỉnh Đắk Nông
37
Ảnh: Các tin đã đưa về lĩnh vực VSATTP đăng trên website của
Sở Y tế tỉnh Đắk Nông
38
Ảnh: Dữ liệu về lĩnh vực VSATTP đăng trên website của Sở Y tế tỉnh Đắk
Nông
2.3.2. Tuyên truyền phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng trên địa bàn tỉnh
Việc TTPB thông tin về VSATTP trên địa bàn tỉnh được thực hiện
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng trên địa tỉnh, như: Truyền hình
Đắk Nông (http://truyenhinhdaknong.vn), Báo Đắk Nông
(http://m.baodaknong.org.vn), Tạp chí Nâm Nung, các trang điện tử, công
thông tin, đài truyền thanh các huyện, thị xã.
Thực hiện kế hoạch hoạt động năm 2018 được ban hành theo văn bản
số 11/KH-STTTT của Sở TTTT Đắk Nông ban hành ngày 15/3/2018, Sở đã
xác định việc tuyên truyền về VSATTP là nội dung thông tin chuyên đề (Nội
dung thứ 7), theo đó xác định nội dung tuyên truyền là: Tuyên truyền thực
hiện có hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, các biện pháp vệ
sinh môi trường, bảo đảm an toàn thực phẩm, phòng, chống các dịch bệnh.
Chú trọng tuyên truyền ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
để người dân có nhận thức và biện pháp phòng, chống dịch bệnh hiệu quả.
Kịp thời nêu gương những tổ chức, cá nhân thực hiện tốt, phê phán những tổ
39
chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về phòng, chống dịch
bệnh, an toàn thực phẩm trên địa bàn.
Biện pháp tổ chức thực hiện được xác định, bao gồm các chủ thể với
nội dung (tổng thể) như sau:
“1. Báo Đăk Nông, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Tạp chí Nâm
Nung
Các cơ quan báo chí chủ động xây dựng kế hoạch thông tin, tuyên
truyền các nội dung theo hướng dẫn và định hướng tuyên truyền trong năm
2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ và Sở Thông tin và Truyền thông; đảm bảo
tuyên truyền đúng định hướng, chất lượng và hiệu quả cao.
Các cơ quan báo chí mở các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề
triển khai thực hiện tuyên truyền, đảm bảo tuyên truyền đầy đủ những nội
dung tuyên truyền, và tính thống nhất trong công tác tổ chức hoạt động tuyên
truyền các nội dung trọng tâm trong năm 2018 của tỉnh.
Tăng cường đăng, phát các bài viết, phóng sự có nội dung về những
thành tựu nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị, an ninh - quốc phòng; phản ánh những thành tựu trong việc
triển khai thực hiện các chính sách của Đảng và nhà nước đối với nhân dân,
đặc biệt là vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, cũng như niềm tin của nhân
dân các dân tộc tỉnh Đăk Nông đối với Đảng và nhà nước; phát hiện, cổ vũ
những tấm gương điểm hình, gương người tốt việc tốt, những nhân tố nổi bật
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nói chung, tỉnh Đăk Nông
nói riêng.
Theo dõi, đưa tin và phản ánh đầy đủ các nội dung tuyên truyền một
cách kịp thời và hiệu quả.
Kịp thời đấu tranh, phê phán lại những luận điểm sai trái của các thế
lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc nhằm chống phá cách mạng và chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân.
40
2. Cổng thông tin điện tử, các trang tin điện tử, bản tin, tài liệu
không kinh doanh
Tuỳ theo chức năng nhiệm vụ của từng loại hình và của ngành chủ
quản, căn cứ nội dung kế hoạch tuyên truyền trong năm 2018, Cổng thông tin
điện tử, các trang thông tin điện tử, bản tin, tài liệu không kinh doanh xây
dựng kế hoạch riêng triên khai thông tin, tuyên truyền phù hợp với lĩnh vực
hoạt động của ngành mình, đồng thời đáp ứng yêu cầu nội dung thông tin và
định hướng thông tin tuyên truyền trong năm 2018 của tỉnh.
3. Đài truyền thanh các huyện, thị xã
Trên cơ sở kế hoạch tuyên truyền của Sở Thông tin và Truyền thông,
Đài truyền thanh các huyện, thị xã tổ chức xây dựng kế hoạch và triển khai
thông tin, tuyên truyền đầy đủ và hiệu quả. Tổ chức xây dựng tốt các chuyên
đề, chuyên mục, các chương trình phát thanh, truyền hình phát trên đài địa
phương và phát trên đài tỉnh; chú trọng khai thác tốt những thông tin từ cơ
sở, vùng sâu, vùng xa, vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống để
thông tin, tuyên truyền.”
Dưới đây là các ví dụ cho việc TTPB thông tin về VSATTP trên một số
phương tiện thông tin đại chúng ở Đắk Nông.
Ví dụ 1: Bài “Phát động “Tháng hàng động vì an toàn thực
phẩm năm 2018” trang điện tử của Đài phát thanh và Truyền
hình Đắk Nông
14:03 | 17/04/2018
“Sáng nay ngày 17/4, tại huyện Đắk R’lấp, Ban chỉ đạo liên ngành
vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh Đắk Nông phối hợp với UBND
huyện Đắk R’lấp tổ chức lễ phát động “Tháng hành động vì an
toàn thực phẩm năm 2018”. Bà Tôn Thị Ngọc Hạnh- Phó chủ tịch
41
UBND tỉnh- Phó trưởng Ban Thường trực Ban chỉ đạo liên ngành
Vừa tham gia phẫu thuật, bác sỹ hiến máu hiếm cứu sống bệnh
VSATTP tỉnh đến dự.
Chưa có cơ sở để kết luận về nguồn lây nhiễm HIV ở Phú Thọ
Hà Nội đình chỉ lưu hành, thu hồi dung dịch vệ sinh phụ nữ Lady
nhân
Wash
Phó chủ tịch UBND tỉnh Tôn Thị Ngọc Hạnh đề nghị các cơ quan,
đơn vị, địa phương cần phối hợp tổ chức nghiêm túc "Tháng hành
động vì VSATTP năm 2018". Trong đó, cần tập trung tuyên truyền
giáo dục các quy định, kiến thức về chất lượng an toàn thực phẩm,
luật an toàn thực phẩm để các cơ sở sản xuất kinh doanh nắm bắt
và thực hiện. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra bảo đảm ATTP tại
các cơ sở sản xuất, sơ chế biến, buôn bán thực phẩm trên địa bàn
tỉnh; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về ATTP, lập lại
trật tự kỷ cương trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực
phẩm. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan quản lý, tổ
chức xã hội và người tiêu dùng đối với việc thực thi pháp luật về
ATTP của các cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm trên
địa bàn.
42
Phó chủ tịch UBND tỉnh Tôn Thị Ngọc Hạnh phát biểu tại buổi lễ
Với chủ đề “Tăng cường trách nhiệm người sản xuất, kinh doanh
thực phẩm”, Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2018 còn
tập trung nâng cao vai trò trách nhiệm, ý thức chấp hành vệ sinh an
toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề,
người tiêu dùng như: áp dụng quy trình sản xuất chế biến thực
phẩm sạch; sử dụng, kinh doanh thực phẩm có nguồn gốc rõ ràng,
tránh hàng giả, hàng kém chất lượng; kiến quyết đấu tranh tố giác
các hành vi vi phạm về VSATTP.
43
Lễ phát động Tháng hành động vì ATTP năm 2018
"Tháng hành động vì VSATTP năm 2018" bắt đầu từ ngày 15/4 đến
15/5 với các hoạt động chính như: Triển khai chiến dịch truyền
44
thông bảo đảm VSATTP thông qua tuyên truyền, phổ biến các mô
hình sản xuất kinh doanh, các sản phẩm chuỗi thực phẩm an toàn.
Giáo dục, thông tin chính xác, kịp thời toàn diện, có trách nhiệm,
trung thực các vấn đề có liên quan đến an toàn thực phẩm…
Các đơn vị hưởng ứng Tháng hành động vì ATTP năm 2018
Tin, ảnh: Trịnh Nga- Văn Vân
Ví dụ 2: Tin “Đoàn kiểm tra của Ban Chỉ đạo liên ngành Trung
ương kiểm tra VSATTP trong dịp Tết Trung thu trên địa bàn Đắk
Nông” trên Báo Đắk Nông Online
“Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP) vừa thành lập 6 đoàn kiểm tra công tác VSATTP dịp Tết
Trung thu tại 12 tỉnh, thành. Trong đó, Ban Chỉ đạo liên ngành
Trung ương đã giao Thanh tra Bộ Nông nghiệp-PTNT chủ trì tiến
hành kiểm tra vấn đề bảo đảm VSATTP tại các cơ sở sản xuất, chế
biến, kinh doanh, nhập khẩu các mặt hàng bánh trung thu, bia,
rượu, nước giải khát trong mùa cao điểm Tết Trung thu trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông.
45
Theo kế hoạch, Đoàn kiểm tra sẽ tập trung thanh kiểm tra những
nơi cung cấp thực phẩm số lượng lớn như cơ sở sản xuất lớn, siêu
thị, sơ sở nhập khẩu thực phẩm, cơ sở kinh doanh ăn uống… nhằm
ngăn chặn thực phẩm giả, hàng nhái, thực phẩm kém chất lượng,
quá hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc xuất xứ, sử dụng nguyên liệu
thực phẩm không bảo đảm an toàn. Riêng đối với các cơ sở kinh
doanh dịch vụ ăn uống nếu có vi phạm thì Đoàn kiểm tra sẽ cương
quyết yêu cầu các cơ sở này dừng hoạt động cho đến khi khắc phục
vi phạm.
Dự kiến, thời gian kiểm tra sẽ được thực hiện từ nay đến hết tháng
9/2017.”
Ví dụ 3: Tin đăng trên Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Nông
Bài “Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng giả và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trên
địa bàn tỉnh” (ngày 24/5/2018)
“Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương
mại, hàng giả và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn
tỉnh
UBND tỉnh vừa có Chỉ thị về tăng cường công tác đấu tranh chống
buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh.
Thời gian qua, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ban chỉ đạo 389
Quốc gia, các Bộ, ngành Trung ương, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và
sự tăng cường phối hợp chặt chẽ của các lực lượng chức năng trên
địa bàn tỉnh, công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng
giả trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và hành vi vi
phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn diễn biến phức tạp; công
46
tác đấu tranh, phòng ngừa chưa được kiểm soát chặt chẽ và thường
xuyên, vẫn còn một số vụ việc nổi cộm xảy ra tại địa bàn.
Do đó, để chủ động phòng ngừa, quyết liệt đấu tranh có hiệu quả
đối với các hành vi vi phạm nêu trên, Chủ tịch UBND tỉnh chỉ thị:
Trưởng Ban Chỉ đạo 389/ĐP; Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành An
toàn thực phẩm tỉnh; Thủ trưởng các Sở, Ban, ngành có liên quan,
chính quyền địa phương các cấp theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền tập trung tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả các chương trình, kế hoạch, ý kiến chỉ đạo
của Trung ương và của tỉnh về phòng, chống buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng giả và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thủ trưởng các cơ quan là thành viên Ban Chỉ đạo 389/ĐP và Ban
Chỉ đạo liên ngành An toàn thực phẩm tỉnh: Chủ động phối hợp
chặt chẽ và hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn
lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh; chú trọng
đối với ngành, mặt hàng và địa bàn trọng điểm. Thường xuyên trao
đổi thông tin giữa các lực lượng chức năng nhằm kịp thời phát
hiện, triệt phá các đường dây, ổ nhóm, tụ điểm buôn lậu, gian lận
thương mại trên địa bàn; xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức vi
phạm.
Bảo đảm hiệu quả chất lượng công tác tuyên truyền, truyền thông;
gắn công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, công tác
dân vận chính quyền với công tác tuyên truyền về phòng, chống tội
phạm, các phương thức, thủ đoạn mới của các đối tượng.
Phải kiểm soát thực thi công vụ chặt chẽ, đúng quy định để ngăn
ngừa, phát hiện, chấn chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm những cán bộ
thiếu tinh thần trách nhiệm, có dấu hiệu dung túng, bảo kê, tiếp tay
cho các đối tượng buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua địa
47
bàn; trường hợp cán bộ thuộc quyền quản lý vi phạm, thì Thủ
trưởng cơ quan, đơn vị đó phải chịu trách nhiệm liên đới theo đúng
quy định; điều chuyển, kiến nghị điều chuyển, thay thế người đứng
đầu các đơn vị trực thuộc không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, để xảy
ra tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả nghiêm
trọng, kéo dài theo lĩnh vực hoặc trên địa bàn mình phụ trách.
Các cơ quan chức năng (Công an, Biên phòng, Hải quan, Thuế, Kế
hoạch và Đầu tư, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Y tế, Khoa học và Công nghệ, thanh tra chuyên ngành,…)
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao phải có biện pháp
phòng ngừa hiệu quả, phát hiện sớm và xử lý hoặc đề xuất cấp
thẩm quyền xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật đối với
các hành vi vi phạm về buôn bán hàng cấm, hàng lậu, gian lận
thương mại, hàng giả và vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Sở Kế hoạch và Đầu tư; UBND các huyện, thị xã theo nhiệm vụ,
quyền hạn được giao: thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã trong phạm vi quản lý
theo đúng quy định của pháp luật. Rà soát, đề xuất điều chỉnh, bổ
sung các thiết chế pháp lý có liên quan, nhằm bảo đảm hiệu quả
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Sở Thông tin và Truyền thông, Báo Đắk Nông, Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh, các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, các cơ
quan nhà nước tỉnh, huyện, xã thông tin kịp thời, đầy đủ, hiệu quả
và chính xác trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn bán hàng
cấm, hàng lậu, gian lận thương mại, hàng giả và vi phạm vệ sinh an
toàn thực phẩm.
Sở Y tế chủ trì, phối hợp với các Sở: Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Công Thương và các đơn vị có liên quan xây dựng kế
48
hoạch thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực thực phẩm trên địa bàn tỉnh, hoàn thành trong tháng 6 năm
2018 để triển khai thực hiện trong Quý III, IV năm 2018.
UBND tỉnh yêu cầu Thủ trưởng các Sở, Ban, ngành, Chủ tịch
UBND các huyện, thị xã thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ nêu trên;
ngành nào, địa phương nào có hành vi thiếu trách nhiệm, buông
lỏng, bao che, dung túng thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm
trước Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo 389/ĐP, Trưởng
Ban Chỉ đạo liên ngành An toàn thực phẩm tỉnh và xử lý trách
nhiệm theo quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Thường trực Ban Chỉ đạo 389/ĐP, Thường trực Ban Chỉ đạo liên
ngành An toàn thực phẩm tỉnh chịu trách nhiệm theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra việc tổ chức thực hiện Chỉ thị này theo lĩnh vực được phân
công, kịp thời báo cáo nhanh, đột xuất trong các trường hợp vụ
việc nghiêm trọng, nhạy cảm và định kỳ hàng tháng báo cáo kết quả
thực hiện về Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, Ban Chỉ đạo liên ngành
Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm và UBND tỉnh. Kết quả
thực hiện nhiệm vụ này được đưa vào đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ đối với cơ quan, đơn vị và người đứng đầu hàng năm.
H.N”
Ví dụ 4: Tin đăng trên cổng thông tin Sở Y tế
Bài “Nguy cơ mất an toàn thực phẩm tại các quán ăn trước
cổng BVĐK tỉnh"
An toàn thực phẩm (ATTP) trước cổng các bệnh viện là vấn đề luôn
được dư luận xã hội quan tâm bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe của người bệnh cũng như người nhà bệnh nhân. Vừa qua,
nhiều cử tri trên địa bàn tỉnh đã phản ánh về tình trạng mất an toàn
49
thực phẩm tại các quán ăn trước cổng bệnh viện tỉnh. Thực hiện chỉ
đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, Sở Y tế đã thành lập đoàn thanh,
kiểm tra liên ngành về công tác đảm ATTP tại các cơ sở dịch vụ ăn
uống trước cổng bệnh viện tỉnh. Thực trạng chung cho thấy đa số
các cơ sở đều vi phạm các quy định về ATTP.
Đoàn kiểm tra ATTP làm việc với đại diện quán cơm 52
Trong thời gian qua, Ban chỉ đạo ATTP tỉnh đã đẩy mạnh các biện
pháp quản lý và tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của các
cơ sở kinh doanh về vấn đề an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, việc đảm
bảo vệ sinh tại các cơ sở dịch vụ ăn uống, đặc biệt là các quán ăn
trước cổng các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh vẫn chưa
có sự chuyển biến đáng kể. Tại cổng bệnh viện đa khoa (BVĐK)
tỉnh, hàng ngày có khá đông bệnh nhân và người nhà bệnh nhân ra
ăn uống và mua đồ ăn tại các quán ăn bên ngoài bệnh viện. Trước
cổng BVĐK tỉnh có khoảng gần 10 quán ăn, sạp bán thức ăn chín.
Trong đó, có nhiều quán ăn không hề có dụng cụ che đậy thức ăn;
đồ dùng đựng thức ăn sơ sài; người bán cũng không sử dụng bao
50
tay nilon khi lấy thức ăn cho khách, chưa kể đến việc bày bán gây
mất mỹ quan đô thị và trật tự an toàn giao thông. Những người sử
dụng đồ ăn tại đây cũng cảm thấy lo ngại về vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm nhưng do phải nằm viện hoặc đi chăm sóc người bệnh
xa nhà nên buộc lòng sử dụng. Giá cả thức ăn bày bán ở đây nhìn
chung chỉ ở mức bình dân, cơ bản phù hợp với túi tiền của người
tiêu dùng, tuy nhiên vấn đề chất lượng thực phẩm và độ an toàn, vệ
sinh thì cần có sự kiểm định của các cơ quan chức năng .
Qua quá trình làm việc, hầu hết chủ các cơ sở đều không chứng
minh được nguồn gốc của thực phẩm sử dụng, không xuất trình
được các loại thủ tục hành chính mà Đoàn thanh, kiểm tra yêu cầu.
Ngoài ra, qua kiểm tra thực tế, các quán ăn cũng có khá nhiều lỗi
vi phạm. Đơn cử như trường hợp của quán cơm 52 - trước cổng
BVĐK tỉnh, ngoài việc không xuất trình được các thủ tục hành
chính liên quan, quán còn vi phạm nhiều lỗi như: khu vực bày bán
thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, không được vệ sinh định kỳ;
thực phẩm sơ chế chưa được kê cao; thực phẩm sống, chín để lẫn
lộn, quy trình chế biến thức ăn chưa đảm bảo nguyên tắc một
chiều… Bà Nguyễn Thị Kim Liên - chủ quán cho biết, quán đã bán
tại đây được gần 4 năm, bình quân mỗi ngày bán 100 suất bún, phở
và khoảng hơn 100 suất cơm. Tuy nhiên, tại đây không có nguồn
nước sạch phục vụ sinh hoạt nên bà phải chở nước bằng các can
nhựa từ nhà lên để phục vụ việc rửa chén bát sau khi dùng. Bà cũng
thuê một căn nhà khoảng 40m2 cách quán khoảng 1km để sơ chế và
chế biến thức ăn. Ngoài bán các loại thức ăn chín, quán của bà
Liên còn kết hợp bán thêm các loại hàng tạp hóa, tạp phẩm. Tuy
nhiên, đại diện Sở Công thương cho biết, ngoài việc khu vực bày
51
bán được sắp xếp không hợp lý, hàng hóa chưa được kê cao theo
quy định thì các loại thực phẩm còn được để lẫn lộn với các loại
hóa mỹ phẩm, bị ánh năng trực tiếp chiếu vào làm biến dạng bao bì
đóng gói thực phẩm. Sau khi chỉ ra các lỗi vi phạm và hướng dẫn
chủ cơ sở các biện pháp khắc phục, đoàn thanh, kiểm tra đã yêu
cầu cơ sở tạm dừng kinh doanh cho đến khi cung cấp được các thủ
tục hành chính cần thiết..
Trường hợp quán Hoàng Yến 169 cũng không ngoại lệ. Mặc dù mới
kinh doanh được 5 ngày, tính đến thời điểm đoàn thanh, kiểm tra
làm việc, nhưng cơ sở cũng không có các thủ tục hành chính cần
thiết. Ngoài ra, cơ sở cũng không xuất trình được các hồ sơ, hóa
đơn chứng minh nguồn gốc đối với các loại thực phẩm đang sử
dụng. Thùng rác, thùng đựng thức ăn thừa chưa có nắp đậy để
tránh các loại côn trùng, ruồi nhặng bu bám gây mất vệ sinh. Bà
Nguyễn Thị Thu Thảo - chủ cơ sở cho biết, ngay sau khi được đoàn
thanh, kiểm tra hướng dẫn các thủ tục cần thiết, cơ sở sẽ nhanh
chóng liên hệ với các cơ quan chức năng để được hướng dẫn hoàn
thiện thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, cơ sở cũng sẽ nhanh chóng
khắc phục các vi phạm theo quy định về điều kiện môi trường kinh
doanh, thực phẩm, kệ, tủ...
Bà Nguyễn Thị Thanh Tâm - Chi cục phó Chi cục An toàn vệ sinh
thực phẩm - trưởng đoàn thanh, kiểm tra cho biết, trong quá trình
làm việc, Đoàn đã kết hợp làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục
kiến thức pháp luật về VSATTP, nâng cao nhận thức của các quán
ăn, giải khát tại khu vực cổng BVĐK tỉnh. Đồng thời đoàn sẽ kiên
quyết xử lý các lỗi vi phạm và thậm chí buộc dừng kinh doanh đối
với các cơ sở không đảm bảo các yêu cầu theo quy định.
52
Ngọc Vân
2.3.3. Tuyên truyền phổ biến theo Chuyên đề, Dự án
Thực hiện Kế hoạch Dự án Chương trình mục tiêu quốc gia về an toàn
vệ sinh thực phẩm năm 2015, năm 2015, Sở Y tế phối hợp với các Sở, ngành,
đoàn thể địa phương tiếp tục đẩy mạnh, tăng cường công tác thông tin giáo
dục truyền thông dưới nhiều hình thức, đặc biệt tập trung vào các dịp cao
điểm: Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì ATTP và Tết Trung thu.
- Đối với chiến dịch truyền thông trên các phương tiện thông tin đại
chúng:
+ Tổ chức Lễ Phát động ‘Tháng hành động vì ATTP” năm 2015:
Tuyến tỉnh và 8/8 huyện/thị xã đều tổ chức Lễ Phát động với hơn 3.400 người
tham dự.
+ Phát thanh: 1.837 lần/toàn tỉnh.
+ Phát hình: 88 lần/toàn tỉnh.
+ Đăng khoảng 131 tin, bài, ảnh trên các loại tạp chí, báo in và báo điện
tử các Sở ngành trên toàn tỉnh. Các tác phẩm tiêu biểu: Tăng cường triển khai
các hoạt động đảm bảo ATTP trong các đợt cao điểm như: Tết Nguyên đán,
Tháng hành động vì ATTP, Tết Trung thu,…; Đảm bảo VSATTP: Nhận thức
đi đôi với thực hành; Nhiều cơ sở chưa thực hiện đúng quy định về đảm bảo
VSATTP; Công tác bảo đảm ATTP có nhiều chuyển biến; Tổng kết đợt cao
điểm hành động VSATTP trong lĩnh vực Nông nghiệp; tăng cường quản lý
VSATTP cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm; thực hành sản xuất nông nghiệp tốt
(GAP); thực trạng sản xuất Hồ tiêu; …
- Tổ chức treo 670 băng rôn, trong đó có gửi thông điệp khuyến khích
các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn quản lý
53
hưởng ứng treo được 385 băng rôn trong các dịp cao điểm như tết Nguyên
đán, Tháng hành động, Tết Trung thu năm 2015.
- Sang và phân phối đến Trung tâm TT- GDSK tỉnh, Trung tâm Y tế
các huyện, thị xã và Trạm Y tế các xã/phường/thị trấn: 27 đĩa hình, 240 đĩa
âm về công tác đảm bảo ATTP đối với các nhóm đối tượng.
- Tuyên truyền lưu động công tác ATTP trên địa bàn toàn tỉnh: 14 đợt.
- Cùng với chiến dịch truyền thông trên các phương tiện thông tin đại
chúng, công tác tập huấn, nói chuyện, truyền thông trực tiếp về các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo ATTP cũng được đẩy mạnh. Năm 2015,
Ngành Nông nghiệp đã tổ chức 01 Hội nghị phổ biến triển khai quy định của
pháp luật về quản lý ATTP với 40 người tham dự; toàn tỉnh tổ chức 241 buổi
nói chuyện chuyên đề về ATTP với 3.419 người tham dự; tổ chức 26 lớp tập
huấn kiến thức ATTP với 947 người tham dự (Ngành NN: 66 lớp/2.545 người
tham dự; Ngành YT: 26 lớp/947 người tham dự); tổ chức xác nhận kiến thức
VSATTP cho các đối tượng chủ cơ sở, người sản xuất, chế biến thực phẩm,
cấp Giấy xác nhận cho 2.157 người (trong đó Sở Y tế: 2.204 người; Sở Công
thương: 133 người). Ngoài ra, các sở ngành, hội, đoàn thể liên quan cũng
thường xuyên tuyên truyền trên trang thông tin điện tử đơn vị, kết hợp lồng
ghép trong tuyên truyền các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng
trong năm, đồng thời cũng kết hợp lồng ghép tuyên truyền, hướng dẫn thực
hiện các quy định của pháp luật về ATTP trong các đợt thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát, giám sát về ATTP.
Tuy nhiên, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức và ý thức chấp hành pháp luật về ATTP trên địa bàn còn hạn chế. Việc
tuyên truyền giáo dục về ATTP trên địa bàn còn mang tính hình thức, làm qua
loa đại khái, chưa chú trọng đến những hình thức tuyên truyền trực quan
nhiều người cùng tiếp nhận được thông tin tuyên truyền; những văn bản, bài
viết để tuyên truyền chưa có kế hoạch tổng thể, đa phần là do yêu cầu của tình
54
hình thực tế, hay khi có dịch bệnh xảy ra. Do một số văn bản ban hành về
ATTP khó hiểu đối với cả những người làm công tác tuyên truyền và những
người tiêu dùng, người bán hàng trong việc nhận thức. Điều này dẫn đến việc
tuyên truyền giáo dục gặp nhiều khó khăn, hậu quả là những vụ vi phạm về
ATTP vẫn nhiều, người bán hàng vẫn tiếp diễn vi phạm ATTP do sự nhận
thức về các điều kiện để đảm bảo ATTP yếu.
2.3.4. Các hình thức khác
Ngoài các hình thức trên, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông còn áp dụng một
số hình thức khác để TTPB về VSATTP như: Tuyên truyền phổ biến lồng
ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục; Thông qua hoạt động văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt của các
đoàn thể, tổ chức xã hội và các loại hình văn hoá quần chúng khác.
Trong hệ thống nhà nước, nội dung VSATTP được truyền thụ cho học
sinh thông qua hệ thống bài giảng ở các môn Kỹ thuật, hoặc các buổi sinh
hoạt ngoại khóa, gắn với các chủ để sống khỏe, ăn chín uống sôi, bảo vệ môi
trường.
2.4. Đánh giá về tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian qua
2.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư, của Thủ tướng Chính phủ. UBND
tỉnh Đăk Nông đã chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể tăng cường sự lãnh đạo đối với vấn đề ATTP trên địa bàn. Việc quán triệt,
triển khai công tác đảm bảo ATTP đã tạo bước chuyển biến tích cực trong nhận
thức và trách nhiệm của các ủy, chính quyền, của cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân về công tác đảm bảo ATTP của địa phương. Cấp ủy, chính
quyền các cấp đã phổ biến sâu rộng luật ATTP để nhân dân, các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất hiểu về quyền hạn, trách nhiệm để thực hiện luật.
55
Tích cực triển khai nhiều biện pháp, tăng cường sự phối hợp của các
cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ATTP đã đem lại những kết
quả nhất định. Nhận thức về ATTP trong cộng đồng xã hội có nhiều chuyển
biến. Tỷ lệ người lãnh đạo, quản lý, người sản xuất, người kinh doanh thực
phẩm và người tiêu dùng hiểu biết đúng về ATTP ngày càng được nâng cao.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý ATTP các tuyến,
các ngành được đào tạo, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ hàng năm. Công tác
thanh tra, kiểm tra ngày càng được tăng cường, có sự quan tâm và phối hợp
chặt chẽ giữa các ngành, các cấp liên quan, mang lại hiệu quả tích cực.
- Năm 2015, toàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào lớn,
không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; số ca mắc NĐTP/100.000 dân (vụ
NĐTP) đạt 0,9/≤8 kế hoạch.
- Năm 2015, 100% chỉ tiêu được giao đều đạt và vượt kế hoạch, cụ thể:
Tỷ lệ hiểu biết đúng về VSATTP đạt theo kế hoạch 2015 tương ứng với từng
đối tượng như sau: người sản xuất đạt 80,5%/80%; người kinh doanh đạt
78,5%/75%; người tiêu dùng đạt 77,6%/75%; người lãnh đạo, quản lý đạt
92,5/90%.
- Công tác ban hành văn bản, tổ chức thực hiện các chính sách, đề tài,
dự án, quy hoạch, chương trình đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm được triển
khai thực hiện đầy đủ và kịp thời.
- Việc tuân thủ các quy định về điều kiện bảo đảm VSATTP của các cơ
sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm có chiều hướng chuyển biến tích
cực; người tiêu dùng ngày càng nhận thức và quan tâm hơn đến vấn đề chọn
mua, chế biến, bảo quản và sử dụng thực phẩm đảm bảo chất lượng, vệ sinh
an toàn thực phẩm.
- Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý ATTP các
tuyến, các ngành được đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ hàng năm có
56
đủ khả năng và năng lực thực hiện tốt công tác chuyên môn được giao, mang
lại hiệu quả trong công việc.
- Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường hơn trước, có sự quan
tâm và phối hợp chặt chẽ giữa ngành, các cấp liên quan mang lại hiệu quả tích
cực, góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
thực phẩm, trong năm qua tỉnh Đăk Nông không có phát hiện vụ việc nào vi
phạm nghiêm trọng về các vấn đề ATTP.
- Nhận thức về an toàn thực phẩm của người sản xuất và người tiêu
dùng thực phẩm ngày càng được nâng cao, đặc biệt ý thức được vai trò, tầm
quan trọng và những lợi ích mang lại từ việc chứng nhận VietGAP,
VietGAHP, GlobalGAP trong sản xuất nông nghiệp từ đó làm cho các mô
hình sản xuất theo tiêu chuẩn nông nghiệp tốt ngày càng gia tăng.
- Công tác quản lý chất lượng vật tư và ATTP nông lâm thủy sản có
tiến bộ rõ rệt. Điều kiện đảm bảo chất lượng ATTP tại các cơ sở sản xuất,
kinh doanh nông lâm thủy sản bước đầu được cải thiện hơn. Số cơ sở được
cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm ngày càng tăng.
2.4.2. Những hạn chế, tồn đọng và nguyên nhân
- Nguy cơ tiềm ẩn mất an toàn vệ sinh thực phẩm còn cao, nhất là trong
loại hình kinh doanh thức ăn đường phố.
- Nhận thức về đảm bảo an toàn thực phẩm ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế.
- Nguồn kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia VSATTP do Trung
ương cấp còn hạn chế, mỗi năm ít dần, không đủ hoạt động nên công tác thông
tin truyền thông chưa được triển khai rộng rãi và đa dạng; công tác thanh tra
kiểm tra tuy được tổ chức đều khắp trên địa bàn tỉnh nhưng tần suất kiểm tra
tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn thấp; hoạt động thanh tra
chuyên ngành chủ yếu tập trung vào các dịp lễ, tết, tháng hành động vì
ATTP,..trong khi lực lượng có chức năng kiểm tra, giám sát còn mỏng, chưa
57
có phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc gia, cơ sở vật chất, trang thiết bị tác
nghiệp còn thiếu nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý ATTP.
- Lực lượng đội ngũ CBCCVC hoạt động trong lĩnh vực ATTP trên địa
bàn tỉnh thiếu nhiều so với yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt, tuyến xã/phường/thị
trấn không có biên chế chuyên trách ATVSTP mà chỉ có 71 cộng tác viên
ATVSTP/71 xã/phường/thị trấn; tuyến huyện/thị xã chưa có biên chế chuyên
trách quản lý ATTP thuộc Ngành Nông nghiệp và Ngành Công thương.
- Công tác xử lý vi phạm hành chính về lĩnh vực VSATTP ở một số
huyện, đặc biệt là tuyến xã, phường/thị trấn còn hạn chế, chủ yếu là nhắc nhở.
- Ý thức chấp hành các điều kiện đảm bảo VSATTP của một số chủ cơ
sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn hạn chế, còn chạy theo lợi nhuận,
chưa quan tâm đến công tác đảm bảo chất lượng VSATTP.
- Đối với Ngành Công thương: Qua công tác kiểm tra, kiểm soát đa số
các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm được kiểm tra chưa chấp hành tốt
các quy định của pháp luật về ATTP (188 cơ sở vi phạm/190 cơ sở được kiểm
tra, chiếm 98,9%), cụ thể các lỗi vi phạm chủ yếu: kinh doanh thực phẩm hết
hạn sử dụng; chưa chứng minh được nguồn gốc xuất xứ của nguyên liệu dùng
để sản xuất; người sản xuất, kinh doanh không có Giấy xác nhận kiến thức về
ATTP, không khám sức khoẻ định kỳ theo quy định; sử dụng nước không đạt
quy chuẩn kỹ thuật để sản xuất; chưa kiểm nghiệm sản phẩm thực phẩm theo
quy định; chưa thường xuyên duy trì điều kiện vệ sinh tại nơi sản xuất, kinh
doanh theo quy định; chưa lưu giữ những thông tin liên quan đến việc sản xuất,
kinh doanh để đảm bảo truy xuất được nguồn gốc thực phẩm khi có sự cố xảy
ra.
- Đối với Ngành Nông nghiệp: Các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản
phẩm nông, lâm, thuỷ sản trên địa bàn có quy mô nhỏ, nguồn vốn đầu tư hạn
hẹp, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn hạn chế và đa số
58
chưa xây dựng được chương trình giám sát chất lượng, VSATTP cũng như
chưa công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
- Cơ chế chính sách trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
Hệ thống văn bản quy định về ATTP đã hoàn chỉnh, nhưng hướng dẫn
của ngành, địa phương chưa kịp thời. UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành
quyết định phân công trách nhiệm trong 3 ngành: Y tế, Công thương, Nông
nghiệp nhưng quá trình thực hiện còn nhiều chồng chéo, bất cập, không
thống nhất. Một cơ sở thực phẩm có nhiều ngành quản lý vừa dễ dẫn đến
không thống nhất, đồng bộ trong quản lý, đồng thời quy định chồng chéo
gây phiền hà cho các cơ sở thực phẩm như cơ sở sản xuất bánh kẹo, sữa, do
ngành Công thương quản lý và cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện
nhưng công bố tiêu chuẩn sản phẩm lại do ngành Y tế đảm nhiệm. Hoặc các
cơ sở sản xuất bún sạch, nước tương do ngành Nông nghiệp quản lý và cấp
giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện nhưng công bố tiêu chuẩn sản phẩm lại
do ngành Y tế đảm nhiệm.
- Hoạt động tuyên truyền phổ biến về an toàn thực phẩm
Các cơ quan, ban ngành, UBND các xã, phường, thị trấn tổ chức các
hoạt động tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài, đặc
biệt huy động hệ thống loa truyền thanh ở xã, phường, thị trấn tham gia tuyên
truyền về ATTP với số lượng hạn chế. Hầu hết không tổ chức các buổi tọa
đàm, nói chuyện chuyên đề ATTP, viết bài tuyên truyền; tổ chức treo băng
rôn, khẩu hiệu tại xã, thị trấn với số lượng không đáng kể người dân cũng
không mấy quan tâm nên chưa phát huy tác dụng của công tác tuyên truyền.
- Công tác tài chính
Nguồn tài chính đầu tư cho lĩnh vực tuyên truyền về ATTP có chiều
hướng giảm xuống, phê duyệt kế hoạch còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ
triển khai các hoạt động trong công tác tuyên truyền phổ biến về ATTP.
59
Tiểu kết Chương 2
Qua phân tích thực trạng trên cho thấy, QLNN về ATTP còn một số
hạn chế và tồn tại như sau:
Một là, các văn bản, quy định phục vụ cho công tác QLNN ban hành
chậm, thiếu đồng bộ, nhiều quy định đã lạc hậu. Các văn bản về vấn đề ATTP
tuy nhiều nhưng thiếu tính thiết thực, thiếu đồng bộ, nhiều văn bản lạc hậu
không còn phù hợp với tình hình ATTP hiện nay. Nhiều văn bản ban hành thì
khó hiểu đối với các cán bộ thực thi và người tiêu dùng nên hiệu quả trong
công tác phòng, chống ATTP chưa cao. Nhiệm vụ giữa các ngành, bộ trong
công tác QLNN về ATTP chồng chéo. Việc ban hành các văn bản còn nhiều
vấn đề tồn tại trong đó gây nhiều khó khăn cho công tác QLNN về ATTP
trong cả nước cũng như trên địa bàn gặp nhiều khó khăn.
Hai là, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa thường xuyên
và hiệu quả còn thấp. Công tác thanh tra, kiểm tra tuy đã tăng lên trong những
năm gần đây nhưng số lần thanh tra, kiểm tra như vậy chưa đủ trong điều kiện
để giải quyết vấn đề ATTP hiện nay trên địa bàn. Hệ thống thanh tra, kiểm tra
chuyên ngành ATTP chưa hình thành đồng bộ từ trung ương đến địa phương,
đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, chưa
được tập huấn về nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, chưa đảm bảo thực thi năng
lực nhiệm vụ do đó chưa phát huy được hiệu quả của hoạt động thanh tra,
kiểm tra trong công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn. Việc xử lý vi phạm còn
nhiều bất cập như mức xử phạt thấp, thiếu tính răn đe, cùng một hành vi vi
phạm nhưng mức xử lý không thống nhất giữa các văn bản. Tại tuyến cơ sở
cán bộ tham mưu công tác ATTP yếu về nghiệp vụ xử lý vi phạm hành chính.
Ba là, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và
ý thức chấp hành pháp luật về ATTP trên địa bàn còn hạn chế. Việc tuyên
truyền giáo dục về ATTP trên địa bàn còn mang tính hình thức, làm qua loa
đại khái, chưa chú trọng đến những hình thức tuyên truyền trực quan nhiều
60
người cùng tiếp nhận được thông tin tuyên truyền; những văn bản, bài viết để
tuyên truyền chưa có kế hoạch tổng thể, đa phần là do yêu cầu của tình hình
thực tế, hay khi có dịch bệnh xảy ra. Do một số văn bản ban hành về ATTP
khó hiểu đối với cả những người làm công tác tuyên truyền và những người
tiêu dùng, người bán hàng trong việc nhận thức. Điều này dẫn đến việc tuyên
truyền giáo dục gặp nhiều khó khăn, hậu quả là những vụ vi phạm về ATTP
vẫn nhiều, người bán hàng vẫn tiếp diễn vi phạm ATTP do sự nhận thức về
các điều kiện để đảm bảo ATTP yếu.
Bốn là, hệ thống bộ máy QLNN về ATTP còn yếu, phân tán và thiếu sự
đồng bộ. Việc phối hợp giữa các cơ quan QLNN về ATTP trên địa bàn còn
lỏng lẻo, các cơ sở chưa có sự phối hợp quản lý nên gây chồng chéo trong
việc quản lý, mạnh ai người ấy làm. Công tác đảm bảo ATTP chưa được
UBND các cấp quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, đặc biệt đối với xã, phường còn
bỏ ngõ mảng ATTP lĩnh vực ngành Nông nghiệp và Công thương phụ trách.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành còn chưa đồng bộ,
cùng một cơ quan tại địa phương nhưng có thể chịu sự chỉ đạo về chuyên
môn, nghiệp vụ của nhiều cơ quan cấp trung ương dẫn đến khó khăn trong
việc bố trí nguồn lực, kinh phí triển khai công tác đảm bảo ATTP trên địa
bàn.
Năm là, Hiện nay nguồn nhân lực trong công tác tuyên truyền phổ biến
về an toàn thực phẩm. Là yếu tố quan trọng trong hoạt động TTPB về ATTP.
Trình độ của cán bộ làm công tác phù hợp với chuyên ngành được quản lý,
giúp cho cán bộ quản lý cư xử đúng mực, nhanh nhẹn nắm bắt các thông tin,
khả năng phân tích thông tin để đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. Bởi
vậy việc lựa chọn cán bộ có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn phù hợp
giúp cho hoạt động quản lý có hiệu quả. Hiện nay, nguồn nhân lực trong công
tác tuyên truyền phổ biến về ATTP ở các huyện, thị xã đã được hình thành
đầy đủ ở các tuyến, tuy nhiên do trình độ cán bộ, kinh nghiệm công tác có ảnh
61
hưởng nhiều đến hoạt động quản lý; Đội ngũ cán bộ xã, thị trấn đã được đào
tạo tập huấn hàng năm. Tuy nhiên, đánh giá mức độ hoàn thành công việc
chưa được cao và số lượng, trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
Sáu là, Cơ chế tài chính. Nguồn tài chính là điều kiện cần thiết để duy
trì công tác tuyên truyền phổ biến về ATTP và triển khai các hoạt động trong
quản lý về ATTP. Cơ chế tài chính phù hợp không những khuyến khích, động
viên đội ngũ cán bộ làm có nhiệt tình, hăng say, yên tâm trong công tác từ đó
nâng cao hiệu quả TTPB mà còn phát triển và đẩy mạnh các hoạt động
chuyên môn như mở rộng hệ thống kiểm nghiệm về ATTP, đầu tư trang thiết
bị cần thiết cho hoạt động tuyên truyền, tập huấn, thanh kiểm tra. Ngoài ra,
nguồn kinh phí cho duy trì tác tuyên truyền phổ biến về ATTP qua các năm
chủ yếu đầu tư cho bộ máy quản lý hành chính, mua sắm trang thiết bị. Thiếu
kinh phí hoạt động đã làm giảm hiệu quả trong công tác tuyên truyền.
Bảy là, Cơ sở vật chất, trang thiết bị. Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng công việc của cán bộ làm công tác quản lý. Cơ sở vật chất
tốt, cán bộ làm việc hiệu quả hơn, chính xác hơn. Tránh được tình trạng lãng
phí thời gian và công sức. Các thông tin truyền thông được truyền đạt nhanh
hơn, chính xác hơn. Các cán bộ có điều kiện tìm hiểu thêm các kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ tốt cho công việc của mình.
Tám là, Sự phối hợp của cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực
phẩm. Việc phân cấp chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến quản lý chồng chéo chưa
đồng bộ trong quản lý:
- Nhiều cơ quan cùng quản lý một cơ sở, cùng một lúc tiến hành thanh
tra, kiểm tra, cấp phép đã gây khó khăn, tạo áp lực cho cơ sở thực phẩm.
- Sự phối hợp giữa các ngành còn mang tính bị động, chưa có quy chế
phối hợp, chưa có kế hoạch chủ động phối hợp, sự phối hợp không thường
62
xuyên, liên tục. Chưa phát huy được sức mạnh liên ngành trong phối hợp
công việc.
Tóm lại, công tác QLNN về ATTP trên địa bàn nói riêng và trong cả
nước nói chung còn nhiều hạn chế và bất cập. Do vậy, nó đòi hỏi cần có sự
quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà nước trong việc nghiên cứu và hoàn thiện
công tác QLNN về ATTP.
63
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN
PHỔ BIẾN VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Quan điểm tăng cường tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an
toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay
Việc tăng cường TTPB về VSATTP trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện
nay cần được quán triệt trên các hướng cơ bản sau:
- Tuyên truyền phổ biến về VSATTP cần thường xuyên, kịp thời, đầy
đủ thông tin, kiến thức
- Tuyên truyền phổ biến về VSATTP cần đến được với đa số nhân dân
- Tuyên truyền phổ biến về VSATTP cần sự quan tâm chỉ đạo sát sao
của người có thẩm quyền, trách nhiệm và sự tham gia chủ động của các cơ
quan thông tin đại chúng.
Ngoài ra, cần tăng cường quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở các
huyện, thị xã tỉnh Đắk Nông. Đây được coi là vấn đề cơ bản trong QLNN về
VSATTP ở Đắk Nông hiện nay.
Tăng cường công tác phối hợp của các ban, ngành đoàn thể của các cấp
chính quyền về đảm bảo ATTP như: tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn
viên trong tổ chức và người lao động tích cực hưởng ứng các hoạt động bảo
đảm ATTP; phối hợp với các cơ quan chuyên môn của thành phố hướng dẫn
kiến thức, thực hành đúng cho nhân dân, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm về liên kết sản xuất bảo đảm ATTP nông lâm thủy sản theo chuỗi và
hướng dẫn người tiêu dùng chọn mua thực phẩm có nhãn nhận diện được xác
nhận an toàn.
Tăng cường và nâng cao hiệu lực QLNN về ATTP đối với các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống.
64
Bổ sung nhân lực làm công tác ATTP từ thành phố đến xã, phường.
Thường xuyên đào tạo, tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ; bổ sung
kinh phí đầu tư cho lĩnh vực ATTP. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, tuyên
truyền về ATTP cho cán bộ công chức, viên chức tham gia.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đa dạng hóa các loại hình tuyên
truyền làm thay đổi hành vi có lợi cho người dân đặc biệt là những người kinh
doanh, chế biến, sản xuất thực phẩm. Nêu gương những cá nhân, tập thể, cơ
sở chấp hành tốt quy định của pháp luật về ATTP. Tổng kết, động viên khen
thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác đảm
bảo ATTP.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy định của
pháp luật về ATTP. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm các quy định
của pháp luật về ATTP.
Đầu tư, nâng cấp về hệ thống kiểm nghiệm, xét nghiệm tại trung tâm Y
tế thành phố. Đào tạo bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ làm công tác xét
nghiệm, kiểm nghiệm.
Nâng cao nhận thức, thực hành về ATTP và ý thức trách nhiệm của
người kinh doanh thực phẩm phải đảm bảo ATTP; cải thiện thói quen vệ sinh
ăn uống của người tiêu dùng, hướng cộng đồng cùng tham gia giám sát ATTP
đối với hoạt động kinh doanh thực phẩm.
Tổ chức tập huấn, hội nghị, hội thảo nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ
cho các cán bộ có liên quan; đa dạng hóa nguồn lực tài chính từ các doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức nghề nghiệp, cá nhân trong
việc tham gia bảo đảm ATTP.
Nâng cao vai trò và năng lực quản lý của UBND các cấp trong việc
kiểm soát ATTP, gắn công tác bảo đảm ATTP với phong trào văn minh đô thị
và xây dựng đời sống văn hóa sức khỏe.
65
Tham mưu UBND ban hành văn bản chỉ đạo công tác bảo đảm ATTP,
trong đó: các loại hình kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn đường
phố bao gồm các nội dung:
- Về công tác quy hoạch để xây dựng phường/xã điểm, khu thức ăn
đường phố tập trung.
- Về xây dựng những tuyến đường không có kinh doanh thức ăn đường
phố tập trung, đảm bảo văn minh đô thị, an toàn giao thông.
- Hỗ trợ kinh phí về khám sức khỏe, tập huấn xác nhận kiến thức ATTP,
cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện…
- Về cơ chế phối hợp kiểm tra, giám sát, xử lý.
- Về giao trách nhiệm cho UBND cấp huyện, UBND cấp xã trong công
tác quản lý thức ăn đường phố.
- Về tiêu chuẩn phường - thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị và xã đạt
chuẩn văn hóa nông thôn mới có đánh giá tiêu chí ATTP trong kinh doanh
thức ăn đường phố.
Kiểm soát tốt ATTP tại các chợ, bảo đảm nguyên liệu thực phẩm, thực
phẩm phục vụ cho chế biến thức ăn đảm bảo an toàn.
Xây dựng mô hình điểm về nâng cao năng lực TTPB về VSATTP ở các
phường, xã.
Thiết lập hệ thống giám sát ô nhiễm thực phẩm và bệnh truyền qua thực
phẩm, chủ động phòng ngừa ngộ độc thực phẩm.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về ATTP trong các đợt cao điểm:
bảo đảm ATTP trong dịp tết Nguyên đán, Tháng hành động vì chất lượng
ATTP, tết Trung thu…; kiện toàn hệ thống tổ chức kiểm tra chuyên ngành
ATTP; bảo đảm nguồn nguyên liệu sạch phục vụ trong chế biến thức ăn, đặc
biệt đối với các nguyên liệu thực phẩm tươi sống, bao gói được bày bán tại
các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các hộ kinh doanh trên địa bàn
thành phố; xây dựng các điểm cung cấp rau, quả, thịt sạch; thiết lập hệ thống
66
giám sát chất lượng thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, xử lý sự cố về thực
phẩm và thông tin, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm thực phẩm.
Chủ động ngăn ngừa ngộ độc thực phẩm, sẽ làm giảm bớt gánh nặng
bệnh tật do thực phẩm không an toàn gây ra, góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống.
3.2. Giải pháp tăng cường tuyên truyền phổ biến về vệ sinh an toàn
thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay
3.2.1. Các phương hướng giải pháp
- Nâng cao chất lượng lập kế hoạch tuyên truyền phổ biến về ATTP
gắn liền với các chương trình hoạt động của ngành và của tỉnh
- Tăng cường kết nối với các cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn
tỉnh để chủ động thực hiện tuyên truyền phổ biến trên diện rộng, nhất là tuyên
truyền theo chủ đề
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân sự làm công tác tuyên truyền
phổ biến tại Chi cục VSATTP tỉnh Đắk Nông
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng cho công tác tuyên truyền
trên địa bàn tỉnh.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể tăng cường tuyên truyền phổ biến về vệ
sinh an toàn thực phẩm
3.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối
với công tác bảo đảm an toàn thực phẩm
Khẳng định vai trò của các cấp ủy Đảng, Chính quyền trong lãnh đạo,
chỉ đạo công tác bảo đảm ATTP. Các cấp ủy Đảng thường xuyên theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo công tác này.
Tăng cường công tác phối hợp của các ban, ngành đoàn thể của các cấp
chính quyền về đảm bảo ATTP như: tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn
viên trong tổ chức và người lao động tích cực hưởng ứng các hoạt động bảo
đảm ATTP; Phối hợp với các cơ quan chuyên môn của thành phố hướng dẫn
67
kiến thức, thực hành đúng cho nhân dân, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm về liên kết sản xuất bảo đảm ATTP nông lâm thủy sản theo chuỗi và
hướng dẫn người tiêu dùng chọn mua thực phẩm có nhãn nhận diện được xác
nhận an toàn; Tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh trong
quá trình chăn nuôi, trồng trọt và phòng chống dịch, bệnh ở người.
Đưa chỉ tiêu bảo đảm ATTP vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của các địa phương, của các cấp, các ngành và coi đây là các chỉ tiêu phát
triển cần được ưu tiên thực hiện. Đưa công tác bảo đảm ATTP vào nội dung
thảo luận ở các kỳ đại hội và các văn kiện, nghị quyết và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng.
Ban hành các văn bản, chỉ thị của các cấp ủy Đảng chỉ đạo đối với công
tác bảo đảm ATTP.
Phát huy tính chủ động của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác bảo
đảm ATTP. Đưa công tác bảo đảm ATTP thành một trong những nội dung
thường kỳ của các cuộc họp chi bộ.
Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của các đoàn đại biểu Quốc
hội và từng đại biểu Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp đối với
công tác bảo đảm ATTP.
Hội đồng nhân dân các cấp có các nghị quyết về công tác bảo đảm
ATTP. Công tác bảo đảm ATTP được báo cáo tại các kỳ họp định kỳ hàng
năm của hội đồng nhân dân các cấp.
Công tác bảo đảm ATTP là một trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội hàng năm của Chính phủ, đôn đốc chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp tích cực triển khai các biện pháp
đảm bảo ATTP.
- Xây dựng “Đề án nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản
hàng hóa chủ lực của tỉnh Đăk Nông đạt các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia, giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2030;
68
- Triển khai Chương trình xây dựng và thực hiện quảng bá thương hiệu
các mặt hàng nông sản đặc trưng, nổi trội của tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2016-
2020 theo nội dung Quyết định số 140/QĐ-UBND, ngày 01/3/2016 của UBND
tỉnh;
- Trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức triển khai Kế hoạch hành động
năm cao điểm VATTTP trong lĩnh vực nông nghiệp theo Quyết định số
629/QĐ-BNN-QLCL ngày 02/3/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Ngoài ra tiếp tục nghiên cứu tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban
hành các cơ chế, chính sách để thúc đẩy ngành nông nghiệp phù hợp với thực
tế và nhu cầu phát triển của tỉnh đồng thời phù hợp với sự phát triển đồng bộ
của cả nước.
- Triển khai, thực hiện Đề án thí điểm xây dựng mô hình kiểm soát chất
lượng ATTP theo chuỗi sản xuất, kinh doanh sản phẩm chanh dây trên địa
bàn tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2016-2017 và định hướng đến năm 2020.
- Làm việc với Trung tâm xúc tiến thương mại cũng như các doanh
nghiệp thu mua trên địa bàn tỉnh để xúc tiến, giới thiệu những cơ sở sản xuất,
kinh doanh sản phẩm nông sản an toàn, cũng như cung cấp thông tin các cơ
sở, quầy hàng bày bán các sản phẩm nông sản an toàn trên địa bàn tỉnh trên
thông tin đại chúng để người tiêu dùng biết và lựa chọn.
UBND các cấp thường xuyên chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác bảo
đảm ATTP chịu trách nhiệm toàn diện đối với công tác này. Lồng ghép các
chương trình công tác bảo đảm ATTP vào chương trình dinh dưỡng và các
chương trình khác; ưu tiên cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn.
Để nâng cao hiệu quả TTPB về VSATTP thì những vấn đề cần phải can
thiệp hiện nay chủ yếu là tăng cường truyền thông các kiến thức ATTP, quy
định bảo đảm ATTP cho người sản xuất, chế biến, người tiêu dùng, quản lý
chặt chẽ cả dây truyền thực phẩm với sự phối hợp của các ngành và sự tham
69
gia của cả cộng đồng. Trong việc truyền thông, cần chú trọng cung cấp các
thông tin hữu ích như: đưa tin về thực trạng ATTP, hướng dẫn chọn lựa thực
phẩm an toàn, các thông tin về các loại hóa chất có trong thực phẩm, đưa tin
về kiểm ra, xử lý vi phạm, thực trạng, hướng dẫn chọn lựa thực phẩm an toàn,
các thông tin về các loại hóa chất có trong thực phẩm... Những vấn đề cần ưu
tiên giải quyết đó là phải tăng cường thanh kiểm tra, giám sát cả quá trình sản
xuất, chế biến, lưu thông; quản lý tốt các nguyên liệu đầu vào, phụ gia thực
phẩm, các hóa chất và thuốc dùng trong nông nghiệp. Song song với vấn đề
đó, các cơ quan TTPB về VSATTP cần phải tập huấn, hướng dẫn cho người
sản xuất, dịch vụ ăn uống về quy trình sản xuất thực phẩm an toàn, xử lý
nghiêm các cơ sở vi phạm. Một vấn đề quan trọng khác là cần phải xây dựng
hệ thống văn bản pháp quy hoàn chỉnh.
Đẩy mạnh công tác thẩm định cấp GCN đủ điều kiện VSATTP cho các
cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống trên địa bàn theo phân
cấp. Triển khai thực hiện hợp chuẩn, hợp quy và công bố tiêu chuẩn sản phẩm
theo quy định được quy định tại Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012
về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm.
Tiếp tục rà soát, nắm tình hình hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh thuộc trách nhiệm quản lý của Sở Công
Thương để phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực
phẩm.
3.2.2.2. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách
- Các văn bản hướng dẫn đã ban hành còn nhiều chồng chéo, bất cập:
một cơ sở thực phẩm do nhiều ngành cùng quản lý thì khó thống nhất, gây
chồng chéo, khó thực hiện. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về ATTP cho phù hợp với tình hình thực tế
tại Việt Nam.
- Rà soát và tổ chức xây dựng mới/chuyển đổi để hình thành hệ thống
70
văn bản quy phạm pháp luật và tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo phủ
kín toàn bộ chuỗi quản lý theo phân công, đảm bảo hài hòa với các quy định
quốc tế và phù hợp với thực tế sản xuất.
- Nghiên cứu, đề nghị cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù của ngành Y
tế như thu phạt, thu lệ phí về ATTP phải có cơ chế trích lại một phần kinh phí
để hỗ trợ nâng cao năng lực hệ thống TTPB về VSATTP và phục vụ công tác
chuyên môn.
- Xây dựng văn bản quy định về trang phục, chế độ cho cán bộ thanh
tra, kiểm tra chuyên ngành về ATTP.
- Xây dựng mô hình điểm kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm để
phòng chống ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập thể, thức ăn đường phố.
- Tiếp tục tăng cường năng lực kiểm nghiệm VSATTP, đầu tư trang
thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật; đào tạo nguồn nhân lực La bo xét nghiệm
thuộc Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh đạt chuẩn Quốc gia về kiểm nghiệm đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Trình UBND tình ban hành quy định về phân cấp quản lý ATTP đối
với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh theo quy định
tại khoản 3, điều 2 của Thông tư số 25/2014/TT-BCT ngày 22/12/2014 của
Bộ Công thương.
- Tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật
về công tác quản lý ATTP thuộc Ngành Công thương.
3.2.2.3. Tăng cường nguồn nhân lực cho công tác quản lý nhà nước
về an toàn thực phẩm
Hệ thống thanh tra, kiểm tra chuyên ngành ATTP chưa hình thành
đồng bộ từ trung ương đến địa phương, do đó chưa phát huy được hiệu quả
của hoạt động thanh kiểm tra. Cần bổ sung đội ngũ cán bộ QLNN về ATTP
đồng thời nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
- Xây dựng kế hoạch quy hoạch, tuyển dụng đội ngũ cán bộ làm công
71
tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành ATTP hàng năm nhằm đáp ứng được
khối lượng công việc và phù hợp với mức độ gia tăng, phát triển của các cơ
sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm.
- Đào tạo nâng cao trình độ, hiểu biết và thực hành của đội ngũ cán bộ
TTPB về VSATTP.
- Đào tạo nâng cao năng lực kiểm nghiệm của các kiểm nghiệm viên ở
tuyến thành phố đáp ứng yêu cầu quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đào tạo, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ TTPB về VSATTP
trong những trường hợp khẩn cấp.
3.2.2.4. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra, kiểm tra
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý về ATTP tránh
chồng chéo.
- Đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra liên ngành, chuyên ngành
ATTP, xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm điều kiện đảm bảo ATTP.
- Nhanh chóng kiện toàn và ổn định tổ chức các đoàn kiểm tra liên
ngành, chuyên ngành tại các đơn vị.
- Công tác thanh kiểm tra cần được xây dựng kế hoạch cụ thể, khi triển
khai cần thực hiện theo nguyên tắc:
+ Tăng cường kiểm tra cơ sở thực hiện không tốt, cơ sở vi phạm, cả về
tần suất/ năm, và kiểm tra toàn diện, chi tiết, các cơ sở thực hiện tốt sẽ ít kiểm
tra hơn
+ Đối với cơ sở sản xuất chế biến thức ăn sẵn, bếp ăn tập thể cần có kế
hoạch kiểm tra, giám sát thường xuyên.
+ Đối với các lễ hội có ăn uống… cần có cán bộ theo dõi, kiểm tra
trong cả giai đoạn từ khâu chuẩn bị đến lúc ăn uống.
+ Kiểm tra độc lập hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan kiểm tra
việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm đối
với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh.
72
- Các đơn vị quản lý phải thiết lập hồ sơ cơ sở thực phẩm trên địa bàn
phụ trách và xác định tần suất thanh, kiểm tra đối với mỗi cơ sở.
+ Đối với thanh, kiểm tra liên ngành cần tập trung vào các cơ sở thực
phẩm chưa được TTPB về VSATTP; đưa các cơ sở này vào diện quản lý về
ATTP.
+ Cần kiểm tra chặt chẽ chất lượng ATTP của thực phẩm chế biến đưa
từ tỉnh ngoài vào thị trường trong tỉnh, đặc biệt là sản phẩm của cơ sở nhỏ,
chưa có thương hiệu.
- Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác thanh
tra, kiểm tra ATTP. Hỗ trợ đội ngũ cán bộ quản lý cấp cơ sở trong trường
hợp xảy ra NĐTP nhằm báo cáo nhanh và tìm ra nguyên nhân chính xác.
- Tăng cường công tác giám sát, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm thực phẩm;
ngăn ngừa, phòng chống các bệnh lây truyền từ thực phẩm không an toàn;
không để xảy ra các vụ NĐTP lớn; đảm bảo cho người tiêu dùng sử dụng thực
phẩm an toàn và chất lượng; nâng cao chất lượng cuộc sống trong cộng đồng
xã hội.
- Đảm bảo chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát điều kiện
đảm bảo VSATTP phục vụ các Đoàn công tác của Trung ương về làm việc tại
tỉnh Đăk Nông và các sự kiện trọng đại diễn ra trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường nâng cao chất lượng kiểm tra, chỉ đạo tuyến công tác
quản lý ATVSTP đối với cơ quan quản lý tuyến huyện/thị xã, xã/phường/thị
trấn.
- Triển khai thực hiện Kế hoạch số 43/KH-BCĐ ngày 25/02/2016 của
Ban chỉ đạo vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh. Tập trung thanh tra, kiểm tra chất
cấm sử dụng trong chăn nuôi; thuốc thú y ngoài danh mục; điều kiện vệ sinh
thú y, cơ sở chăn nuôi, cơ sở giết mổ động vật, kinh doanh sản phẩm động
vật, cơ sở ấp trứng gia cầm; việc chấp hành Pháp luật Bảo vệ - Kiểm dịch thực
vật và Giống cây trồng. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
73
3.2.2.5. Tăng cường công tác giáo dục, truyền thông
Giáo dục truyền thông được coi là nhiệm vụ trung tâm, đi trước một
bước và xuyên suốt trong các hoạt động quản lý vì chất lượng ATTP
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đảm bảo ATTP trong cộng
đồng xã hội. Nêu gương cơ sở điển hình, thông báo cơ sở không đảm bảo
ATTP trên các phương tiện thông tin đại chúng để cộng đồng biết để phân
biệt, chọn lựa.
Thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP nhằm nâng cao nhận thức
về ATTP, thay đổi hành vi, phong tục, tập quán sản xuất, kinh doanh, sinh
hoạt, ăn uống lạc hậu gây mất ATTP, góp phần bảo vệ sức khỏe, tính mạng
con người; đạo đức kinh doanh, ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh với sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng.
Cơ quan quản lý về ATTP bằng các hình thức trực tiếp hay gián tiếp
truyền đạt cho cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm về nội dung chính sách
pháp luật liên quan, đồng thời để các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm
hiểu và triển khai thực hiện theo mục đích, nội dung quy định.
Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật mới
ban hành về lĩnh vực ATTP của Ngành Công thương đến các cơ quan, đơn vị
có liên quan và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức các buổi tập huấn kiến thức về ATTP, học tập chuyên đề, hội
thi tìm hiểu về ATTP được tổ chức ở các hội như: hội nông dân, phụ nữ và
trường học qua nhiều hình thức đạt kết quả tốt, thu hút sự tham gia của người
dân.
Duy trì tuyên truyền thường xuyên qua báo chí, đài truyền hình, đặt
biệt là hệ thống phát thanh xã, phường. Huy động chiến dịch truyền thông
trong “Tháng hành động vì chất lượng ATTP” và những dịp nổi cộm về chất
lượng vệ sinh ATTP ở địa phương. Duy trì chương trình giáo dục trong nhà
trường về chất lượng ATTP.
74
Nội dung tuyên truyền là các văn bản pháp quy và kiến thức thông
thường về ATTP. Đối tượng cần tập trung chủ yếu: Cán bộ lãnh đạo, chính
quyền, những người sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng.
Tận dụng tối đa hệ thống thông tin, tuyên truyền sẵn có ở địa phương,
bổ sung chức năng và cán bộ chuyên trách về truyền thông, giáo dục ATTP.
Xây dựng chuyên mục ATTP trên truyền hình ở địa phương.
Phân công cụ thể trách nhiệm thực hiện công tác thông tin, giáo dục và
truyền thông và triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông
cho các nhóm đối tượng đặc thù của ngành mình.
UBND các cấp tăng cường chỉ đạo, triển khai các hoạt động thông tin,
giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi, chú ý tập trung các khu vực, các
địa phương trọng điểm về ATTP.
Sử dụng cách tiếp cận phù hợp với từng đối tượng cụ thể để tuyên truyền,
vận động, chú trọng hình thức truyền thông trực tiếp, truyền thông theo nhóm
nhỏ.
Xây dựng đội ngũ cộng tác viên tuyên truyền ATTP, chú trọng phát
triển đội ngũ tuyên truyền viên thuộc các đối tượng là người của các tôn giáo
khác nhau và những người dân tộc thiểu số, xây dựng hệ thống cán bộ chuyên
trách tại các bộ, ngành.
Đào tạo kiến thức chuyên ngành, nội dung tuyên truyền ATTP cho
người tham gia công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục ATTP.
Hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật cho các ban, ngành liên quan trong việc
biên tập mới, sửa đổi, bổ sung, cập nhật thông tin, kiến thức mới về ATTP.
Hướng dẫn, hỗ trợ từ 05 đến 08 cơ sở sản xuất, sơ chế sản phẩm nông
sản tập trung, có sản lượng tương đối lớn thực hiện áp dụng sản xuất theo tiêu
chuẩn GAP;
Hướng dẫn, hỗ trợ 1-2 cơ sở sơ chế, chế biến nông sản tiêu biểu áp
dụng chương trình quản lý tiên tiến (GMP, SSOP, HACCP) vào sản xuất;
75
Tiếp tục thực hiện kiểm tra, đánh giá và cấp giấy chứng nhận đủ điều
kiện ATTP cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh VTNN, sản phẩm nông lâm
thủy sản đạt yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Các tài liệu, thông điệp truyền thông cần tập trung vào các nội dung
mang tính hướng dẫn, định hướng và các biện pháp bảo đảm ATTP, phù hợp
với từng đối tượng.
Đa dạng hóa các loại hình truyền thông: bản tin, phim tài liệu, phóng
sự, các trò chơi, xây dựng các tờ rơi, tờ gấp, poster... xuất bản các ấn phẩm
bằng các thứ tiếng, ngôn ngữ để giáo dục, tuyên truyền cho đồng bào ít người,
dân tộc thiểu số và người khuyết tật.
Xây dựng hệ thống ngân hàng dữ liệu giáo dục và truyền thông bằng
cách tăng cường liên kết với các chương trình khác để tận dụng nguồn nhân
lực và kinh phí chuyển tải các thông điệp truyền thông xuống cộng đồng.
Tập huấn kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm cho các nhóm đối tượng
như: Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội nông dân, người sản xuất chế biến,
kinh doanh, tiêu dùng và tổ chức xác nhận kiến thức ATTP cho các đối tượng
có yêu cầu.
Triển khai tập huấn, cấp phát tờ rơi tới các cơ sở sản xuất, kinh doanh
cũng như tiêu dùng sản phẩm nông lâm thủy sản trên địa bàn tỉnh về kiến thức
thực hành ATTP cũng như các quy định của pháp luật về ATTP.
Tiếp tục triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các hoạt động thông tin, giáo
dục và truyền thông nhận thức đúng về chất lượng VTNN và ATTP; nâng cao
số lượng, chất lượng các tài liệu và thông điệp truyền thông về chất lượng
VTNN và ATTP.
3.2.2.6. Tăng cường nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động về an toàn
thực phẩm, đầu tư trang cơ sở vật chất về an toàn thực phẩm
- Nguồn kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia VSATTP do Trung
ương cấp cần đủ để hoạt động công tác thông tin truyền thông được triển khai
76
rộng rãi và đa dạng; công tác thanh tra kiểm tra được tổ chức đều khắp trên địa
bàn tỉnh; hoạt động thanh tra chuyên ngành chủ yếu tập trung vào các dịp lễ,
tết, tháng hành động vì ATTP,..cần có lực lượng chức năng kiểm tra, giám sát
lớn, cần đầu tư phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc gia, cơ sở vật chất, trang
thiết bị tác nghiệp đầy đủ nhằm đáp ứng được yêu cầu quản lý ATTP.
3.2.3. Kiến nghị
3.2.3.1. Đối với các Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Công thương
Kiến nghị với Trung ương, Chính phủ bổ sung thêm nguồn kinh phí
hoạt động quản lý ATTP năm 2016 và các năm tiếp theo do Trung ương cấp
để đảm bảo hoạt động hiệu quả.
Tiếp tục xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật tránh chồng chéo
giữa các bộ, ngành quản lý về ATTP trình Chính phủ.
Hoàn thiện hệ thống chuyên ngành trong bộ máy quản lý về ATTP từ cấp
Trung ương đến cấp huyện để nâng cao chức năng quản lý về ATTP.
Cần có kế hoạch đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý chất lượng
ATTP cấp tỉnh, có kế hoạch tăng cường lực lượng và trang thiết bị thử
nghiệm phục vụ công tác quản lý chất lượng ATTP.
Đối với Bộ Công Thương: Đề nghị sớm ban hành các Thông tư quy
định điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh
rượu; nước giải khát; sản phẩm chế biến bột, tinh bột; bánh, mứt, kẹo để Sở
Công Thương có cơ sở triển khai thực hiện cũng như để làm căn cứ xử lý các
hành vi vi phạm.
3.2.3.2. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh
- Bổ sung tăng nguồn kinh phí địa phương cho hoạt động công tác đảm
bảo ATVSTP, đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác kiểm tra, kiểm
nghiệm chất lượng VSATTP; đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC
tại các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP và các ngành liên quan. Đặc biệt là
77
kinh phí triển khai các dự án xây dựng mô hình điểm kiểm soát ATTP thuộc
quản lý của Ngành Nông nghiệp và Công thương.
- Quy hoạch cụ thể các khu vực nuôi trồng thủy sản, khu chăn nuôi,
giết mổ gia súc, gia cầm tập trung. Xây dựng cơ sở có chức năng phân tích,
kiểm nghiệm mẫu thực phẩm.
3.2.3.3. Đối với các Sở, ban, ngành liên quan
- Phối hợp tham mưu UBND tỉnh ban hành quy định chung về công tác
quản nhà nước về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thực phẩm nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh.
- Sở Y tế phối hợp với các đơn vị liên quan mở lớp tập huấn, bồi dưỡng
kỹ thuật, nghiệp vụ kiểm nghiệm, lấy mẫu thực phẩm cho cán bộ làm công tác
quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh.
3.2.3.4. Ban chỉ đạo an toàn thực phẩm tỉnh Đắk Nông
Tăng cường nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động về ATTP, đầu tư
trang cơ sở vật chất về ATTP. Đặc biệt tăng cường người có chuyên môn
trong lĩnh vực ATTP, cán bộ có năng lực quản lý tốt. Triển khai tốt về các
huyện, xã, phường. Quản lý và xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm ATTP,
mức xử phạt tăng theo số lần vi phạm, vừa xử phạt hành vi, vừa xử phạt mức
độ vi phạm thay vì trước đây chỉ xử phạt hành vi vi phạm ATTP. Bên cạnh đó
cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cá nhân phát hiện, tố giác cơ
sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm kém chất lượng, không rõ nguồn gốc. Đầu
tư trang thiết bị phát hiện thực phẩm không an toàn nhanh, phát hiện độc tố
trong thực phẩm.
Làm tốt công tác tuyên truyền thường xuyên phổ biến đến toàn tỉnh.
Công tác tuyên truyền là yếu tố quyết định trong nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ
người dân, do vậy cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến với người dân về
các quy định đảm bảo ATTP, các kiến thức về một số bệnh dịch có liên quan
đến thực phẩm. Hướng dẫn cho người dân sử dụng các loại thực phẩm an
78
toàn, cảnh giác và thận trọng hơn khi lựa chọn thực phẩm tiêu dùng. Cách
thức bảo quản cũng như nhận thức của người dân về vai trò quan trọng của
việc đảm bảo ATTP đối với sức khoẻ của họ và gia đình. Công tác tuyên
truyền không chỉ dừng lại ở viết bài vào các đợt: “ Tháng vì hành động
ATTP” mà phải thường xuyên hơn nữa, mở rộng kênh tuyên truyền như: phát
tờ rơi, tuyên truyền trực tiếp tại các nơi tập trung đông dân cư, hay nơi tập
trung nhiều cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh.
Cần chỉ rõ các vấn đề bức xúc nhất hiện nay trong công tác TTPB về
VSATTP, nêu rõ trách nhiệm của các nhà quản lý, lãnh đạo, các ban ngành,
đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân trong từng sự việc cụ thể đưa ra. Thẳng
thắn chỉ rõ những vấn đề tồn đọng trong công tác TTPB về VSATTP của các
nhà quản lý, lãnh đạo, các ban ngành, đoàn thể, các cấp chính quyền.
Hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chất lượng
hàng hóa, đảm bảo ATTP cho các hộ sản xuất, chế biến và kinh doanh trên
địa bàn. Cần tập trung tuyên truyền, hướng dẫn nâng cao vai trò trách nhiệm,
tầm quan trọng của việc thực hiện tốt các quy định về vệ sinh cơ sở, vệ sinh
trang thiết bị, dụng cụ chế biến thực phẩm, vệ sinh cá nhân, vệ sinh an toàn trong
nuôi, trồng, chế biến, vận chuyển, bảo quản, sử dụng thực phẩm và phụ gia thực
phẩm.
3.2.3.5. Đối với ban chỉ đạo vệ sinh an toàn thực phẩm các huyện/thị xã
- Tăng cường chỉ đạo các cơ quan quản lý ATTP trên địa bàn đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về ATTP đến các
nhà lãnh đạo, quản lý, chính quyền các cấp, người sản xuất, chế biến, kinh
doanh thực phẩm, người tiêu dùng thực phẩm; tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm hành chính đối với các cơ sở không đảm
bảo VSATTP; tăng cường công tác cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP, xác nhận kiến thức VSATTP cho các đối tượng có yêu cầu; chỉ đạo
tuyến công tác quản lý ATTP đối với xã/phường/thị trấn;
79
- Tổ chức họp sơ kết, tổng kết đánh giá công tác đảm bảo ATTP theo
quy định và triển khai kịp thời các hoạt động đảm bảo VSATTP trên địa bàn.
- Báo cáo đúng quy định và kịp thời các hoạt động thuộc Chương trình
mục tiêu quốc gia VSATTP.
Tiểu kết Chương 3
Để tổ chức thực hiện tốt công tác TTPB về VSATTP trên địa bàn tỉnh
cần phải có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị và xã
hội trong công tác quản lý của nhà nước về ATTP một cách quyết liệt, đồng
bộ từ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn tuyên truyền, thanh
kiểm tra, xử lý vi phạm. Cho nên cần có giải pháp căn cơ từ những quy định
pháp luật đến sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp chính quyền địa
phương trong tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến,
kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng sản phẩm. Một số giải pháp cần
quan tâm như sau:
Một là, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật theo hướng thống
nhất, đầy đủ có sự phối hợp chặt chẽ các ngành và đi đôi với biện pháp xử lý
phù hợp.
Hai là, nâng cao năng lực QLNN trong lĩnh vực này, đồng thời phải có
sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức hội, đoàn thể trong việc giám sát hoạt
động sản xuất và tuyên truyền những kiến thức về ATTP.
Ba là, đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyên, tập huấn từ kiến thức
pháp luật về ATTP, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng phương
pháp sản xuất theo quy trình, kỷ năng lựa chọn thực phẩm an toàn cho người
tiêu dùng.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý triệt để vi phạm
nhằm lập lại kỷ cương trong công tác đảm bảo ATTP.
80
Năm là, tăng cường nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động về ATTP,
đầu tư trang cơ sở vật chất về ATTP. Đặc biệt tăng cường đào tạo nguồn nhân
lực có chuyên môn trong lĩnh vực ATTP, cán bộ có năng lực quản lý tốt.
81
KẾT LUẬN
Hiện nay, khi tình hình kinh tế ngày càng phát triển, sự phát triển của
khoa học công nghệ mang lại những thành tựu đáng kể cho con người. Tuy
vậy, bên cạnh mặt tích cực đó thì chính sự phát triển này cũng gây ra những
hậu quả hết sức nặng nề: ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng, thiên
tai, hạn hán, lũ lụt …liên tiếp xảy ra, đặc biệt con người đang phải đối mặt với
những nguy cơ gây mất ATTP, đe doạ nghiêm trọng đến sức khoẻ tính mạng
con người. Thực tế cho thấy nhu cầu thực phẩm tăng cao, sản xuất chế biến và
kinh doanh thực phẩm ngày càng phát triển, việc TTPB đối với VSATTP còn
nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy TTPB về VSATTP có ý nghĩa rất quan trọng đối
với không chỉ các cơ quan QLNN mà còn đối với các doanh nghiệp và người
tiêu dùng. Với mục đích nghiên cứu chung là tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước về ATTP trên địa bàn các huyện, thị xã, tỉnh Đắk Nông, học viên đã
thực hiện một số công việc cụ thể sau:
Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TTPB về VSATTP trên địa bàn
các huyện, thị xã, tỉnh Đắk Nông. Từ khái niệm, phương pháp, công cụ TTPB
về VSATTP, luận văn làm rõ nội dung TTPB về VSATTP; chỉ ra các yếu tố
ảnh hưởng đến TTPB về VSATTP trên địa bàn toàn các huyện, thị xã.
Phân tích thực trạng TTPB về VSATTP (tập trung năm 2014 - 2016).
Từ đó, đánh giá những thành công, tồn tại và nguyên nhân thực trạng.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, những hạn chế còn tồn tại, luận văn đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTPB về VSATTP trong thời gian tới
như:
Tăng cường công tác phối hợp của các ban, ngành đoàn thể của các cấp
chính quyền về đảm bảo ATTP như: tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn
viên trong tổ chức và người lao động tích cực hưởng ứng các hoạt động bảo
đảm ATTP; Phối hợp với các cơ quan chuyên môn của thành phố hướng dẫn
kiến thức, thực hành đúng cho nhân dân, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
82
phẩm về liên kết sản xuất bảo đảm ATTP nông lâm thủy sản theo chuỗi và
hướng dẫn người tiêu dùng chọn mua thực phẩm có nhãn nhận diện được xác
nhận an toàn; Tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh trong
quá trình chăn nuôi, trồng trọt và phòng chống dịch, bệnh ở người.
Đa dạng hóa các loại hình truyền thông: bản tin, phim tài liệu, phóng
sự, các trò chơi, xây dựng các tờ rơi, tờ gấp, poster... xuất bản các ấn phẩm
bằng các thứ tiếng, ngôn ngữ để giáo dục, tuyên truyền cho đồng bào ít người,
dân tộc thiểu số và người khuyết tật.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đa dạng hóa các loại hình tuyên
truyền làm thay đổi hành vi có lợi cho người dân đặc biệt là những người kinh
doanh, chế biến, sản xuất thực phẩm. Nêu gương những cá nhân, tập thể, cơ
sở chấp hành tốt quy định của pháp luật về ATTP. Tổng kết, động viên khen
thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác đảm
bảo ATTP. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với cấp quản lý, hiệp hội,
hiệp đoàn có liên quan như:
Đối với Bộ Công Thương: Đề nghị sớm ban hành các Thông tư quy
định điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh
rượu; nước giải khát; sản phẩm chế biến bột, tinh bột; bánh, mứt, kẹo để Sở
Công Thương có cơ sở triển khai thực hiện cũng như để làm căn cứ xử lý các
hành vi vi phạm.
Tăng cường chỉ đạo các cơ quan quản lý ATTP trên địa bàn đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về ATTP đến các
nhà lãnh đạo, quản lý, chính quyền các cấp, người sản xuất, chế biến, kinh
doanh thực phẩm, người tiêu dùng thực phẩm
Hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chất lượng
hàng hóa, đảm bảo ATTP cho các hộ sản xuất, chế biến và kinh doanh trên
địa bàn. Cần tập trung tuyên truyền, hướng dẫn nâng cao vai trò trách nhiệm,
tầm quan trọng của việc thực hiện tốt các quy định về vệ sinh cơ sở, vệ sinh
83
trang thiết bị, dụng cụ chế biến thực phẩm, vệ sinh cá nhân, vệ sinh an toàn trong
nuôi, trồng, chế biến, vận chuyển, bảo quản, sử dụng thực phẩm và phụ gia thực
phẩm
Phối hợp tham mưu UBND tỉnh ban hành quy định chung về công tác
quản nhà nước về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thực phẩm nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh./.
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo VSATTP tỉnh Đăk Nông (2015), Báo cáo tổng kết BC- BCĐ: “Báo cáo công tác an toàn thực phẩm năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016”.
2. Chỉ thị 08/2008-CT-BT-TWĐ phương hướng hoạt động công tác VSATTP
giai đoạn 2015-2020.
3. Chỉ thị số 08/1999CT- TTg ngày 15/4/1999 về việc đảm bảo chất lượng
VSATTP.
4. Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (2005), "Vệ sinh an toàn thực phẩm", Nhà
xuất bản y học, tr. 467-495.
5. C. Mác, Ph. Awnghen. Toàn tập, Tr.23, tr.342. 6. Mai Hữu Khuê (2003), lý luận quản lý nhà nước, NXB Hà Nội. 7. Nghị định 79/2008/NĐ-CP : “Quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra
và kiêm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm”.
8. Quốc hội khóa XII (2010), "Luật An toàn thực phẩm", Nhà xuất bản Y học
Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Giang, Bùi Thị Thu Hương (2009), Một số giải pháp trong
QLNN đối với vấn đề ATTP tại các chợ cầu giấy.
10. Trần Cẩm Giang, Bùi Thị Thanh Huyền, Lê Thị Tri (2010), Một số giải
pháp tăng cường kiểm soát ATTP ở Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Trần Thị Thúy (2009), Tăng cường QLNN về ATTP tại các siêu thị trên
địa bàn Hà Nội.
12. Trần Văn Lạng (2003). Kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm ở công nhân tại các cơ sở sản xuất trứoc khi tập huấn, Kỷ yếu Hội nghị khoa học VSATTP lần thứ 2 (2003), NXB Y học, tr. 355 - 362.
13. Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Đỗ Phúc, Nguyễn Thu Ngọc Diệp và CS (2003), “Đánh giá tình trạng VSATTP quán ăn bình dân lân cận khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Long An”, Kỷ yếu hội nghị khoa học vệ sinh an toàn thực phẩm, tr.300- 305.
14. PGS.TS. Hà Văn Sự, TS. Thân Danh Phúc (2002), Bài giảng quản lý nhà
nước về thương mại, trường Đại học Thương Mại.
15. Phạm Duy Tường (2012),“Quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm; Thanh tra kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm”. An toàn vệ sinh thực phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 227-253.
85
16. Chu Thế Vinh (2013): Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm ở các cơ sở ăn uống và công tác quản lý tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng năm 2012-2013.
17. Trang web: https://www.gso.gov.vn. 18. Trang web: https://tusach.thuvienkhoahoc.com
19. Trang web: https://vi.wikipedia.org
86