BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HIẾU HẠNH

MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

THỰC VÀ CHÊNH LỆCH LÃI SUẤT THỰC -

BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT

NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HIẾU HẠNH

MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

THỰC VÀ CHÊNH LỆCH LÃI SUẤT THỰC -

BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT

NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á

Chuyên ngành: Tài chính-Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và

chênh lệch lãi suất thực - Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam và một số

nước Châu Á” là công trình nghiên cứu cá nhân dưới sự hướng dẫn khoa học của

TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo. Các số liệu sử dụng trong bài luận văn là trung thực,

có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Bên cạnh đó, bài luận văn còn sử dụng một số thông

tin, ý kiến đánh từ các nghiên cứu của các tác giả khác và được nêu rõ trong phần

tài liệu tham khảo. Kết quả của nghiên cứu này chưa từng được công bố trong bất

kỳ công trình nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014

Tác giả

Lê Thị Hiếu Hạnh

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

DANH MỤC HÌNH

TÓM TẮT ........................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ........................................................... 2

1.1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................... 3

1.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 4

1.4. Bố cục bài nghiên cứu ........................................................................ 5

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ MỐI QUAN HỆ DÀI HẠN GIỮA TỶ GIÁ THỰC VÀ CHÊNH LỆCH LÃI SUẤT THỰC ............................................... 6

2.1. Khung lý thuyết về mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá .................. 6

2.1.1. Lý thuyết ngang giá sức mua (PPP) ....................................................... 6

2.1.2. Giả định của Fisher ................................................................................. 7

2.1.3. Lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa UIP ............................. 8

2.2. Các bằng chứng thực nghiệm của mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực .................................................................. 9

2.2.1. Các nghiên cứu tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực trong trường hợp không xem xét đếm điểm gãy cấu trúc…… .............................................................................................................. 12

2.2.2. Các nghiên cứu tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực trong trường hợp có xem xét đếm điểm gãy cấu trúc……. ............................................................................................................. 17

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 20

3.1. Mô hình lý thuyết .............................................................................. 20

3.2. Phương pháp ước lượng ................................................................... 22

3.2.1. Phương pháp chung của bài nghiên cứu .............................................. 22

3.2.2. Các phương pháp kiểm định cụ thể ..................................................... 25

3.2.2.1. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu ......................................... 25

3.2.2.2. Kiểm định đồng liên kết ................................................................ 28

3.2.2.3. Mô hình thể hiện mối quan hệ giữa các biến số ........................... 32

3.3. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................ 35

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................... 37

4.1. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực giữa đồng Việt Nam và Dollar Mỹ ............................................................ 37

4.1.1. Kết quả kiểm định tính dừng ............................................................... 37

4.1.2. Kết quả kiểm định đồng liên kết .......................................................... 45

4.1.3. Đánh giá mối quan hệ trong dài hạn và kiểm định tính ổn định của mô hình…… ............................................................................................................ 51

4.2. Mở rộng nghiên cứu cho các nước trong khu vực ......................... 56

4.2.1. Kết quả kiểm định tính dừng ............................................................... 56

4.2.2. Kết quả kiểm định đồng liên kết .......................................................... 59

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ............................................................ 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Bảng Tên bảng Trang

Bảng 4.1 37 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.2 38 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị DF-GLS trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.3 39 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị S&L trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.4 45 Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen Trace Test trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.5 47 Kết quả kiểm định đồng liên kết S&L không xem xét đến điểm gãy cấu trúc trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.6 48 Kết quả kiểm định đồng liên kết S&L có xem xét đến điểm gãy cấu trúc trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.7 52 Kết quả ước lượng phương trình dài hạn giữa tỷ giá thực và lãi suất thực trường hợp Việt Nam và Mỹ

Bảng 4.8 56 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF và DF-GLS trường hợp các nước Châu Á và Mỹ

Bảng 4.9 58 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị S&L trường hợp các nước Châu Á và Mỹ

Bảng 4.10 59 Kết quả kiểm định đồng liên kết S&L có xem xét điểm gãy cấu trúc trường hợp các nước Châu Á và Mỹ

DANH MỤC HÌNH

Tên hình Trang Hình

Chuỗi tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ trong giai đoạn từ Hình 4.1 42 tháng 1/1996 đến tháng 5/2014

Chuỗi lãi suất thực Mỹ trong giai đoạn từ tháng 1/1996 Hình 4.2 43 đến tháng 5/2014

Chuỗi lãi suất thực Việt Nam trong giai đoạn từ tháng Hình 4.3 44 1/1996 đến tháng 5/2014

Kết quả kiểm định đồng liên kết lãi suất thực Việt Nam Hình 4.4 46 và lãi suất thực Mỹ

Kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình VECM với Hình 4.5 54 lãi suất tiền nghiệm

Kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình VECM với Hình 4.6 55 lãi suất hậu nghiệm

1

TÓM TẮT

Bài nghiên cứu tiến hành nhằm tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa

tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực trong dài hạn.

Các bằng chứng được tìm kiếm trong mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và lãi suất

thực hai nước Việt Nam và Mỹ, sau đó bài viết mở rộng nghiên cứu sang một số quốc

gia khác trong khu vực Châu Á bao gồm Malaysia, Indonesia, Philippine, Thái Lan và

Hàn Quốc nhằm củng cố kết quả tìm được.

Một vấn đề mà bài viết đặc biệt quan tâm là sự xuất hiện của điểm gãy cấu trúc trong

chuỗi dữ liệu, và nhân tố này có thể gây ra tác động dẫn đến sự sai lệch của các kết qủa

kinh tế lượng. Do đó một điểm đặc biệt của bài nghiên cứu này là sẽ xem xét đến vai

trò của điểm gãy cấu trúc trong chuỗi dữ liệu khi tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ

giữa giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực. Bài viết tiến hành kiểm định

song song hai phương pháp: phương pháp kiểm định truyền thống không xem xét đến

điểm gãy cấu trúc và phương pháp mới có xem xét đến sự xuất hiện của điểm gãy cấu

trúc trong chuỗi dữ liệu. Từ đó đưa ra kết quả cuối cùng và làm nổi bật vai trò của việc

xem xét đến yếu tố điểm gãy cấu trúc trong quá trình nghiên cứu.

Kết quả thu được sau khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng tồn tại mối

quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực giữa hai quốc gia.

Và điểm gãy cấu trúc đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định mối quan hệ đó ở

một số quốc gia trong bộ dữ liệu nghiên cứu.

2

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

1.1.

Lý do chọn đề tài

Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu hiệu

của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh

hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch định của nền kinh tế. Chính vì thế,

những nghiên cứu về tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực giữa hai quốc gia

từ lâu đã là một trong những vấn đề trọng tâm của lĩnh vực tài chính quốc tế và được

các nhà kinh tế học đặc biệt quan tâm. Mối quan hệ về mặt lý thuyết và thực nghiệm

giữa hai biến số này luôn là một câu hỏi được nghiên cứu và tranh luận rất nhiều giữa

các nhà kinh tế học.

Trong khi hầu hết các mô hình lý thuyết truyền thống ủng hộ cho sự tồn tại mối quan

hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực, thì các bằng chứng thực

nghiệm về sự tồn tại mối quan hệ này còn rất mơ hồ. Điều này đã đặt ra câu hỏi: Liệu

thực tế có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất

thực hay không? Nếu mối quan hệ này thực sự tồn tại, nó sẽ trở thành một công cụ hữu

hiệu cho các nhà làm chính sách đưa ra các quyết định hiệu quả trong việc tác động

đến các biến số kinh tế nhằm đạt mục tiêu kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó, sự biến động

của tỷ giá hối đoái thực theo chênh lệch lãi suất thực cũng là một trong những công cụ

giúp các nhà quản trị rủi ro tài chính dự đoán chính xác hơn về tỷ giá trong tương lai

nhằm hoạch định các chiến lược đề phòng rủi ro và kinh doanh hiệu quả. Vì vậy, hàng

loạt các bài nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến vấn đề này đã ra đời, ta có thể kể

đến các nghiên cứu của Campbell & Clarida (1987), Meese & Rogoff (1988), Edison

& Pauls (1993) và nhiều nghiên cứu khác. Tuy nhiên, sau rất nhiều nghiên cứu được

tiến hành, người ta vẫn tìm thấy rất ít các bằng chứng ủng hộ cho mối quan hệ giữa tỷ

giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực.

3

Những thất bại trong việc tìm kiếm mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và

chênh lệch lãi suất thực trong các nghiên cứu trước đó được nhấn mạnh là do ba lý do

sau: thứ nhất - khả năng dữ liệu không dừng và nó kéo theo việc xác định các mối quan hệ

dài hạn; thứ hai – phương pháp ước lượng không phù hợp và nỗ lực cải thiện khả năng của

kiểm định thống kê bằng cách mở rộng bộ dữ liệu; và cuối cùng - vấn đề điểm gãy cấu

trúc trong các mô hình chuỗi thời gian (người ta nhận thấy việc mô hình hóa các biến

kinh tế thành tuyến tính là không chính xác khi chúng bị lệ thuộc vào cú sốc bất

thường, làm ảnh hưởng đến tính hữu dụng của kết quả thống kê. Cụ thể, các phép kiểm

định nghiệm đơn vị thông thường và kiểm định đồng liên kết có xu hướng chấp nhận

giả thiết H0 khi xuất hiện điểm gãy cấu trúc trong một chuỗi thời gian). Vì thế những

nghiên cứu gần đây đã đưa ra những quan điểm mới với các phương pháp thực nghiệm

cải tiến nhằm khắc phục những thiếu sót của các phương pháp trước đây, từ đó tìm ra

được các bằng chứng cho thấy sự tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực

và lãi suất thực, đồng thời nêu bật lên tầm quan trọng của việc kiểm định đối với điểm

gãy hoặc phi tuyến tính khi xem xét mối quan hệ này. Ta có thể kể đến các bài nghiên

cứu của Edison và Melick (1999), Nakagawa (2002)...

Tiếp theo xu hướng đó, bài viết này đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa

tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực - Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

và một số nước Châu Á” dựa trên bài nghiên cứu gốc “Structural breaks in the real

exchange rate and real interest rate relationship” của Joseph P. Byrne và Jun Nagayasu.

Qua đó, đề tài này hy vọng sẽ cung cấp thêm được bằng chứng thực nghiệm tại Việt

Nam và mở rộng sang một số nước Châu Á trong mối quan hệ giữa hai biến số kinh tế

trọng yếu là tỷ giá thực và lãi suất thực.

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu nhằm tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ giá hối

đoái thực và chênh lệch lãi suất thực. Tuy nhiên, rõ ràng các biến chuỗi thời gian trong

4

tài chính và kinh tế thường có các cấu trúc dữ liệu thay đổi khác nhau dẫn đến các mối

quan hệ cơ bản của những biến số trong mô hình thay đổi đáng kể. Do đó, một điểm

đặc biệt của bài viết là sẽ xem xét đến vai trò của điểm gãy cấu trúc trong việc tìm

kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực.

1.3.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp của bài nghiên cứu sẽ được thực hiện thông qua hai hướng tiếp cận:

hướng tiếp cận truyền thống không có xem xét đến hiện tượng điểm gãy cấu trúc và

hướng tiếp cận thứ hai có xem xét đến hiện tượng này trong quá trình nghiên cứu về

mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và lãi suất thực. Ở cả hai hướng tiếp cận đều có

chung một quy trình phương pháp như sau:

Thứ nhất, tính dừng của chuỗi dữ liệu sẽ được kiểm tra thông qua các kiểm định

nghiệm đơn vị ADF, DF-GLS và kiểm định nghiệm đơn vị có xét đến điểm gãy cấu

trúc được xây dựng theo phương pháp của Saikkonen và Lütkepohl.

Thứ hai, bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ dài hạn giữa các biến đang nghiên

cứu sẽ được xác nhận thông qua các kiểm định đồng liên kết Johansen và kiểm định

đồng liên kết của Saikkonen và Lütkepohl trong cả hai trường hợp không xét và có xét

đến điểm gãy cấu trúc.

Thứ ba, mô hình VECM được sử dụng để ước lượng mối quan hệ dài hạn giữa các biến

và sau đó bài viết sẽ tiến hành một số kiểm định nhằm kiểm tra độ ổn định của mô

hình.

Dữ liệu tỷ giá thực, lãi suất thực của Việt Nam, Mỹ cũng như một số nước Châu Á

khác nhằm phục vụ cho bài viết sẽ được tính toán từ các dữ liệu tỷ giá danh nghĩa, lãi

suất danh nghĩa, tỷ lệ lạm phát, chỉ số CPI. Những dữ liệu trên sẽ được thu thập từ

nguồn dữ liệu tài chính quốc tế của IMF với khoảng thời gian của dữ liệu kéo dài từ

5

tháng 1/1996 đến tháng 5/2014 đối với dữ liệu Việt Nam và từ tháng 1/1994 đến tháng

5/2014 đối với dữ liệu các nước còn lại.

1.4.

Bố cục bài nghiên cứu

Bài nghiên cứu được trình bày trong năm phần theo thứ tự sau.

Đầu tiên, bài viết sẽ trình bày một cách tổng quát về đề tài trong chương một bao gồm

lý do chọn đề tài, mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu, cũng như phương pháp nghiên

cứu của bài viết.

Sau đó khung lý thuyết về mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá và các nghiên cứu thực

nghiệm về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực sẽ được

giới thiệu trình bày tóm tắt trong chương hai.

Phần tiếp theo bài viết sẽ trình bày về cách thu thập và xử lý bộ dữ liệu phục vụ cho bài

nghiên cứu, sau đó xây dựng mô hình lý thuyết và phương pháp thực nghiệm phù hợp

với đặc tính các chuỗi dữ liệu.

Sau khi tiến hành các kiểm định và thực hiện mô hình hồi quy, chương bốn sẽ trình bày

về các kết quả nghiên cứu thu được, cụ thể là kết quả của kiểm định tính dừng, kiểm

định đồng liên kết trong hai trường hợp không xét và có xét đến điểm gãy cấu trúc, và

kết quả hồi quy mối quan hệ dài hạn giữa các chuỗi dữ liệu mà bài nghiên cứu xem xét.

Cuối cùng, trong chương 5 bài viết tổng kết lại công trình nghiên cứu, trình bày những

điểm hạn chế đề tài còn gặp phải, từ đó đưa ra hướng phát triển tiếp theo của bài

nghiên cứu

6

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

VỀ MỐI QUAN HỆ DÀI HẠN GIỮA TỶ GIÁ THỰC VÀ

CHÊNH LỆCH LÃI SUẤT THỰC

2.1.

Khung lý thuyết về mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá

Như đã đề cập trên đây, do tầm quan trọng của việc tìm ra mối quan hệ giữa tỷ giá hối

đoái thực và chênh lệch lãi suất thực trong điều hành nền kinh tế vĩ mô nói chung và

đối với hoạt động xúc tiến thương mại nói riêng, cho nên, từ nhiều năm trước, các nhà

nghiên cứu đã tỏ ra rất quan tâm đến mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh

lệch lãi suất thực.

Mối quan hệ giữa hai biến số kinh tế là tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực

được xây dựng dựa trên ba nền tảng cơ bản, đó là: lý thuyết ngang giá sức mua (PPP),

giả định của Fisher và lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa rủi ro (UIP).

2.1.1. Lý thuyết ngang giá sức mua (PPP)

Lý thuyết về ngang giá sức mua đã trở thành lời giải thích quan trọng cho tỷ giá hối

đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực của thế giới trong suốt những năm 1970 và

1980.

Trong hình thức tuyệt đối, lý thuyết ngang giá sức mua cho thấy rằng giá trị của tỷ

giá hối đoái danh nghĩa bằng với tỷ lệ mức giá của hai quốc gia và được định nghĩa

như sau:

Trong đó, S là tỷ giá giao ngay danh nghĩa, P và P* theo thứ tự là mức giá nội địa và

nước ngoài. Lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối cho thấy rằng sự thay đổi trong tỷ

giá hối đoái danh nghĩa được xác định bởi sự thay đổi giá tương ứng ở hai quốc gia.

7

Hình thức tương đối của lý thuyết này là một cách khác giải thích cho khả năng bất

hoàn hảo của thị trường như chi phí vận chuyển, thuế quan, và hạn ngạch… Hình thức

này công nhận rằng do các bất hoàn hảo của thị trường, giá cả của các hàng hoá giống

nhau ở các nước khác nhau thì không nhất thiết giống nhau khi được tính bằng một

đồng tiền chung. Tuy nhiên, tỷ lệ thay đổi của giá cả hàng hoá sẽ phần nào giống nhau

khi được tính bằng một đồng tiền chung, miễn là chi phí vận chuyển và các hàng rào

mậu dịch là không thay đổi. Theo đó, chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng trong nước (Ph)

sau khi có lạm phát sẽ tăng lên một tỷ lệ là (1 + Ih), chỉ số giá cả nước ngoài cũng thay

đổi theo lạm phát nước đó và tăng (1 + If). Lý thuyết ngang giá sức mua phát biểu rằng

khi có sự chênh lệch trong lạm phát giữa hai nước, tỷ giá hối đoái không giữ nguyên

mà sẽ điều chỉnh đê duy trì ngang giá trong sức mua.

( ) ( ) ( )

Tỷ giá thực. Khi ngang giá sức mua tồn tại, giá cả rổ hàng hoá trong nước sẽ bằng giá

cả của rổ hàng hoá mua ở nước ngoài nếu tính theo một đồng tiền chung. Tỷ giá quy

đổi bằng đồng tiền chung này gọi là tỷ giá theo ngang giá sức mua Sppp. Đây là tỷ giá

cân bằng giữa sức mua trong nước và ngoài nước. Chính phủ các nước sử dụng thước

đo chênh lệch giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá PPP để thực hiện mục tiêu điều hành

cán cân tài khoản vãng lai. Một trong những thước đo này là tỷ giá thực. Tỷ giá thực

cho thấy tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo lạm phát trong và ngoài nước, và

nó đo lường sức mua của một đơn vị ngoại tệ trong nền kinh tế nước ngoài trong mối

quan hệ tương đối với sức mua của một lương nội tệ tương đương ở nền kinh tế trong

nước.

Một tỷ giá hối đoái thực được xác định như sau:

2.1.2. Giả định của Fisher

8

Theo Fisher, lãi suất danh nghĩa sẽ tương đương với lãi suất thực và lạm phát, được thể

hiện qua phương trình sau:

(1 + lãi suất danh nghĩa) = (1 + lãi suất thực) x (1 + tỷ lệ lạm phát)

Với giả định thị trường là hoàn hảo và các dòng vốn có thể dịch chuyển tự do, lãi suất

thực ở các quốc gia sẽ tiến về mức cân bằng. Lúc này một sự chênh lệch trong lãi suất

danh nghĩa thể hiện chênh lệch trong lạm phát. Fisher đã dùng giả định là lãi suất thực

là ngang nhau giữa các nước cùng với giả định ngang giá sức mua tồn tại để đi đến kết

luận rằng: Một nước có lãi suất cao tương đối so với một nước khác thì đồng tiền nước

đó sẽ giảm giá tương ứng với chênh lệch lãi suất.

2.1.3. Lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa UIP

Lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa UIP giải thích mối quan hệ giữa chênh

lệch lãi suất và biến động tỷ giá hối đoái. UIP được dựa trên giả định Fisher “Chênh

lệch lãi suất giữa các quốc gia là kết quả của chênh lệch trong lạm phát”.

Tỷ suất sinh lợi thực (r) của các nhà đầu tư khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, thị

trường tiền tệ nước ngoài tuỳ thuộc vào hai yếu tố: lãi suất nước ngoài (if) và phần trăm

thay đổi trong giá ngoại tệ (ef).

R = (1 + if) (1 + ef)

Lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa phát biểu rằng: “Trong điều kiện thị

trường hiệu quả, tỷ suất sinh lợi từ đầu tư trong nước tính trung bình sẽ bằng tỷ suất

sinh lợi có hiệu lực từ đầu tư nước ngoài”.

 r = ih

( ) ( )

 rf = (1 + if) (1 + ef) -1 = ih

9

Như vậy, lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa cho rằng: “Trong điều kiện thị

trường hiệu quả thì tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ sẽ thay đổi một giá trị

gần bằng chênh lệch lãi suất danh nghĩa giữa hai đồng tiền để duy trì trạng thái cân

bằng ngang giá lãi suất không phòng ngừa trên thị trường”.

2.2.

Các bằng chứng thực nghiệm của mối quan hệ giữa tỷ giá hối

đoái thực và chênh lệch lãi suất thực

Từ những lý thuyết nền tảng trên, rất nhiều bài nghiên cứu đã cố gắng tìm ra bằng

chứng của mối quan hệ cân bằng dựa trên cách tiếp cận ban đầu này và nhiều kết quả

hỗn hợp khác nhau đã được đưa ra. Đơn cử như các bài nghiên cứu của Campbell và

Clarida (1987), Meese & Rogoff (1988) và Edison và Pauls (1993).

Vào những năm đầu, do không có nhiều các phương pháp thực nghiệm, cho nên mặc

dù có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã xem xét về sự tồn tại của mối quan hệ giữa tỷ

giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực, song hầu như các nhà nghiên cứu này đều

không thể tìm ra bằng chứng nào về sự tồn tại của mối quan hệ này. Mãi đến những

năm sau này, với sự xuất hiện của các phương pháp thực nghiệm cải tiến nhằm khắc

phục những thiếu sót trong các phương pháp truyền thống trước đây, thì ta mới quan

sát được các bằng chứng cho thấy sự tồn tại của mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối

đoái thực và chênh lệch lãi suất thực. Vì vậy, bài viết sẽ đi từ những bài nghiên cứu đã

được thực hiện từ rất lâu trước đây nhằm đưa ra một cái nhìn sơ lược về quá trình thực

hiện các cuộc nghiên cứu thực nghiệm đối với mối quan hệ giữa hai biến số kinh tế

quan trọng này.

Một số điểm của phương pháp luận được nhấn mạnh trong nghiên cứu thực nghiệm về

mô hình tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng đến cách tiếp cận của chúng ta. Bao gồm: tính

biến động của dữ liệu và ý nghĩa của nó trong việc xác định mối quan hệ dài hạn; mối

bận tâm về tính kém hiệu quả của những số liệu thống kê trong kiểm định (chẳng

hạn như không thể bác bỏ giả thuyết H0 - giả thuyết sai trong kiểm định nghiệm đơn vị

10

hoặc trong kiểm định đồng liên kết) và những nỗ lực cải thiện độ mạnh của các thống

kê kiểm định bằng cách mở rộng khoảng thời gian và phạn vi bao phủ của bộ dử liệu

xem xét; và cuối cùng là vấn đề thay đổi cấu trúc trong các mô hình chuỗi thời gian.

Những bài nghiên cứu thực nghiệm thường sử dụng các kỹ thuật đồng liên kết đơn

phương trình hoặc hệ phương trình (single-equation/ system-of-equation cointegration

techniques) để khám phá bằng chứng cho các mối quan hệ cân bằng và cũng là để cung

cấp những ước lượng đáng tin cậy trong dài hạn. Ta có thể kể đến các bài nghiên cứu

của Campbell & Clarida (1987), Meese & Rogoff (1988) và Edison &Pauls (1993)

đã sử dụng phương pháp đơn phương trình nhằm tiếp cận đến mối quan hệ giữa tỷ giá

hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực. Tuy nhiên, do tính kém hữu hiệu của các

kiểm định thống kê, do đó, các tác giả đã không phát hiện ra bằng chứng cụ thể nào về

sự tồn tại mối quan hệ đang xem xét.

Từ sự quan tâm đến tính kém hữu hiệu của các giá trị thống kê kiểm định, hai giải pháp

cho các bài nghiên cứu khi xem xét các giả thiết cụ thể trong các nghiên cứu về tỷ giá

hối đoái đã được đề xuất, đó là: việc mở rộng khoảng mẫu bằng cách mở rộng chuỗi

thời gian (time series) hay dữ liệu chéo (the cross sectional dimension) của bộ dữ liệu.

Các bộ dữ liệu bảng bao gồm chuỗi thời gian và dữ liệu chéo đã được sử dụng để xác

định mối quan hệ tỷ giá hối đoái-lãi suất. Ví dụ: Chortareas and Driver (2001) đã sử

dụng phương pháp bảng (a panel approach) nhằm đánh giá mối quan hệ giữa tỷ giá hối

đoái thực và lãi suất thực. Và hai ông đã thành công trong việc tìm thấy bằng chứng rất

thuyết phục có liên quan đến mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái - chênh lệch lãi suất,

mặc dù sự tồn tại của mối quan hệ này chỉ tập trung vào mối quan hệ song phương giữa

các nền kinh tế mở cửa tự do nhỏ mà không phải G7. MacDonald và Nagayasu (2000)

cũng sử dụng các phương pháp đồng liên kết bằng bảng (panel cointergration methods)

và tìm thấy nhiều bằng chứng hơn nghiêng về ủng hộ cho sự liên kết giữa tỷ giá hối

đoái thực và lãi suất thực trong các quốc gia công nghiệp. Tuy nhiên, có nhiều sự khác

11

biệt nghiêm trọng trong hệ số ước lượng được dùng để lấy mẫu từng phần trong bảng

dữ liệu, điều này có thể gây ra sai lệch trong việc ước lượng biến động (xem Pesaran &

Smith, 1995). Campbell và Perron (1991) thì đề xuất rằng việc mở rộng khoảng thời

gian của các bộ dữ liệu sẽ là một cách để cải thiện tính hiệu quả của kiểm định thống

kê. Điều này đã dẫn đến các tập dữ liệu mở rộng vượt ra khỏi thời kỳ hậu Bretton

Woods của tỷ giá hối đoái thả nổi (xem ví dụ, Lothian & Taylor, năm 1996).

Tuy nhiên, Campbell và Perron (1991) cũng đã cho rằng việc mở rộng khoảng thời

gian như đã được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm có thể xuất hiện sự thay

đổi cấu trúc trong dữ liệu và vì thế sẽ dẫn đến những vấn đề lớn hơn về tính hiệu quả

của những kiểm định này. Perron (1989) đã đưa ra quan điểm cho rằng, khi có sự thay

đổi cấu trúc trong chuỗi thời gian đơn biến thì có thể suy ra chuỗi thời gian này là

không dừng. Tương tự như vậy, đối với một vector đồng liên kết, việc mở rộng đến

khoảng thời gian có sự tồn tại sự chuyển đổi cấu trúc (breaks) trong mối quan hệ cân

bằng, có thể đưa ta đi đến kết luận cho các kiểm định là không có đồng liên kết và chấp

nhận giả thiết H0 (tức không có mối quan hệ cân bằng nào), trong khi thực tế lại tồn tại

mối quan hệ này. Cũng cùng quan điểm như Perron, Edison và Melick (1999) cho

rằng trạng thái chuyển đối cấu trúc trong mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực - lãi

suất thực là rất quan trọng khi ta sử dụng các kiểm định hệ phương trình cho tính đồng

liên kết. Gần đây thì Saikkonen và Lütkepohl (2000, 2002) đã đề xuất một cách tiếp

cận hệ thống cho việc kiểm tra các mối quan hệ cân bằng giữa các biến dựa trên mô

hình tự hồi quy vector (VAR) cùng các thay đổi cấu trúc.

Đến đây, chúng ta đã có một cái nhìn tổng quát về những bài nghiên cứu trước đây và

sau đây bài viết sẽ đi sâu vào xem xét từng bài nghiên cứu cụ thể để tìm hiểu sâu hơn

về quá trình thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm với hai biến số kinh tế quan trọng

này. Và bài viết sẽ tiếp cận theo hai nhóm, nhóm thứ nhất là các nghiên cứu tìm kiếm

bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực trong trường

12

hợp không xem xét đếm điểm gãy cấu trúc, và nhóm thứ hai là các nghiên cứu tìm

kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực trong

trường hợp có xem xét đếm điểm gãy cấu trúc.

2.2.1. Các nghiên cứu tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và

chênh lệch lãi suất thực trong trường hợp không xem xét đếm điểm gãy cấu trúc

Rất nhiều bài nghiên cứu đã cố gắng tìm ra bằng chứng của mối quan hệ cân bằng và

nhiều kết quả hỗn hợp khác nhau đã được đưa ra.

Campbell và Clarida (1987) với bài nghiên cứu “The dollar and real interest rates”

đã tiến hành điều tra mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực của đồng Đôla và chênh

lệch lãi suất thực.

Vấn đề nghiên cứu: xem xét xem khả năng mà sự dịch chuyển của tỷ giá hối đoái thực

có phản ánh sự dịch chuyển của tỷ giá hối đoái cân bằng dài hạn cũng như những

chênh lệch lãi suất thực.

Dữ liệu nghiên cứu: tác giả sử dụng dữ liệu của Mỹ, Canada, Anh, Đức và Nhật từ

10/1979 đến 3/1986.

Phương pháp tiếp cận: Các tác giả đã sử dụng phương pháp state-space để ước lượng

tầm quan trọng của sự chuyển đổi trong tỷ giá hối đoái cân bằng dài hạn, mức độ kéo

dài của các chênh lệch lãi suất ngắn hạn tiền nghiệm, và ảnh hưởng của chênh lệch lãi

suất này đến tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, Campbell và Clarida còn sử dụng mô hình

kỳ vọng của Mussa cho tỷ giá hối đoái và các báo cáo hiện tại để làm sáng tỏ kết quả

của mình.

Kết quả thu được: bài nghiên cứu phát hiện được rằng sự dịch chuyển trong tỷ giá hối

đoái thực của đồng Đôla Mỹ bị chi phối bởi những thay đổi không dự đoán được trong

tỷ giá hối đoái thực dài hạn kỳ vọng và chỉ một phần rất nhỏ trong sự biến đổi này

được giải thích do sự thay đổi của chênh lệch lãi suất thực. Do đó cũng như các bài

13

nghiên cứu trước đó, Campbell và Clarida cho rằng: những thay đổi trong chênh lệch

lãi suất thực không phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái

thực.

Meese và Rogoff (1988) trong bài nghiên cứu “Was it real? The exchange rate-

interest rate differential relation over the modern floating rate-period” cũng

nghiên cứu về mối quan hệ thực nghiệm giữa tỷ giá hối đoái thực và lãi suất thực và

hai nhà nghiên cứu này cũng tìm thấy rất ít bằng chứng về một mối quan hệ bền vững

giữa tỉ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực.

Vấn đề nghiên cứu: Các tác giả muốn tìm hiểu xem liệu trong thực tế có tồn tại mối

quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và chênh lệch lãi suất hay không, đặc biệt là trong thời kì

tỷ giá thả nổi hiện đại (từ năm 1973).

Dữ liệu nghiên cứu: Các tỷ giá hối đoái được tác giả xem xét bao gồm đồng

Đôla/Mark, Đôla/Yên, Đôla/Bảng từ tháng 2 năm 1974 đến tháng 3 năm 1986.

Phương pháp tiếp cận: Dựa trên các nghiên cứu trước đây được xây dựng bởi

Dornbush (1976), Frankel (1979), Hooper và Morton (1982), Meese và Rogroff đã xây

dựng trong bài nghiên cứu của mình một mô hình giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh

lệch lãi suất thực. Hai ông tiến hành thực hiện các phân tích thực nghiệm bao gồm các

kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định đồng liên kết của Engel và Granger, sử dụng

phương pháp GMM để hồi quy mô hình, kiểm tra mức độ bền vững của mô hình.

Kết quả thu được: Tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực có một mối quan hệ

có thể tìm thấy về mặt lý thuyết, tuy nhiên về mặt thực nghiệm mối quan hệ này không

có ý nghĩa thống kê. Do đó, nghiên cứu này không thành công trong việc cung cấp

bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi

suất thực. Tuy vậy, hai ông có đề cập đến một vài lý do khiến cho các mô hình tiền tệ

không có hiệu quả, và đưa ra gợi ý về giả thuyết những cú sốc thực, mặc dù thật sự thì

14

Meese và Rogoff vẫn chưa chắc chắn về việc điều đó có ích trong việc đóng góp xây

dựng một mô hình tỷ giá hối đoái tốt hơn hay không.

Edison và Paul (1993) với bài nghiên cứu “A re-assessment of the relationship

between real exchange rates and real interest rate” cũng cho rằng việc nghiên cứu

về mối quan hệ giữa lãi suất thực và tỷ giá hối đoái thực là thực sự có ích cho việc

nghiên cứu sự dịch chuyển của tỷ giá hối đoái, tuy nhiên kết quả hai ông thu được cũng

tương tự với nghiên cứu trước đó của Meese và Rogroff (1988).

Vấn đề nghiên cứu: bài viết xem xét liệu có mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và

lãi suất thực hay không, và liệu mối quan hệ đó có thật sự được thể hiện trong dữ liệu

hay không. Câu hỏi nghiên cứu của bài xoay quanh hai vấn đề: (1) Có hay không sự

tồn tại mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực và (2) nếu có,

dữ liệu đại diện nào ủng hộ cho sự tồn tại của mối quan hệ này.

Dữ liệu nghiên cứu: quan sát theo quý từ năm 1974 đến năm 1990 sử dụng tỷ giá hối

đoái bình quân có trọng số (được đo lường bằng cách điều chỉnh giá trị danh nghĩa

trong chỉ số của Mỹ với CPI nước ngoài) giữa đồng Đôla Mỹ với 10 đơn vị tiền tệ

trong nhóm G-10 và đồng Yên Nhật, Mark Đức, Bảng Anh, Đôla Canada, lãi suất danh

nghĩa là lãi suất đáo hạn không đổi 10 năm đối với trái phiếu kho bạc của Mỹ.

Phương pháp tiếp cận: Tác giả sử dụng hàng loạt các kiểm định nghiệm đơn vị cũng

như các phương pháp ước lượng lạm phát kỳ vọng để xem xét dữ liệu tỷ giá hối đoái

và lãi suất, cả danh nghĩa và thực, và thu được kết quả là tất cả các chuỗi dữ liệu đều

không dừng. Tiếp theo đó sử dụng kiểm định đồng liên kết Engle-Granger với các

chuỗi dữ liệu tỷ giá hối đoái và lãi suất để tìm ra mối quan hệ dài hạn giữa các biến số

này. Kết quả tương tự Meese và Rogoff, Edison và Paul không thu được mối quan hệ

dài hạn nào giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất trong suốt thời kì mẫu nghiên cứu. Sau đó,

tác giả mở rộng kiểm định, cho thêm các biến khác như cán cân tài khoản vãng lai -

15

một biến có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thực kỳ vọng dài hạn, nhưng vẫn không

tìm được bằng chứng nào về tính đồng liên kết.

Kết quả thu được: Mặc dù có xét đến nhiều biến khác, nhưng cũng tương tự như các

nghiên cứu trước đó, Edison và Paul cũng không thể tìm được một chuỗi hay một tập

hợp chuỗi nào đồng liên kết với tỷ giá hối đoái thực. Vì vậy, không có bằng chứng nào

về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất trong dài hạn.

MacDonald và Nagayasu (2000) với bài nghiên cứu “The long-run relationship

between Real Exchange Rates and Real Interest Rate Differentials: A panel

Study”

Vấn đề nghiên cứu: Bài nghiên cứu đã tiến hành xem xét mối quan hệ trong dài hạn

giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực bằng cách sử dụng các phương

pháp đồng liên kết bảng được phát triển trong khoảng thời gian nghiên cứu. Bài nghiên

cứu cũng cung cấp những bằng chứng mạnh nhất, tính đến thời điểm bấy giờ, về mô

hình thể hiện mối quan hệ tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực.

Dữ liệu nghiên cứu: Tất cả dữ liệu được lấy từ Số liệu thống kê Tài chính Quốc Tế của

IMF, trong giai đoạn quý 1 năm 1976 đến quý 4 năm 1997 ở 14 nước công nghiệp hóa

(Úc, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Hà Lan, New Zealand, Na Uy,

Thụy Sĩ và Anh).

Phương pháp tiếp cận: Bằng cách sử dụng phương pháp đồng liên kết bảng, hai ông đã

tìm ra bằng chứng bác bỏ giả thuyết Ho (giả thiết Ho: không tồn tại đồng liên kết giữa

các chuỗi dữ liệu đang xem xét), thậm chí ngay cả khi tỷ giá hối đoái thực ở trạng thái

cân bằng được cho là không đổi. Việc bác bỏ giả thuyết Ho là rõ ràng nhất khi lãi suất

dài hạn được sử dụng. Một cách chi tiết hơn, hai ông phân tích các thứ tự liên kết trong

tập dữ liệu bằng cách sử dụng các kiểm định nghiệm đơn vị, gọi là kiểm định ADF

(Augmented Dickey-Fuller). Các thống kê ADF được tính toán với hằng số và hằng số

cộng thêm xu hướng thời gian một cách lần lượt.

16

Kết quả thu được: bài nghiên cứu đã tìm ra bằng chứng về mối quan hệ trong dài hạn

có ý nghĩa thống kê giữa tỷ giá hối đoái thực và khoản chênh lệch lãi suất thực.

Chortareas and Driver (2001) cũng tiến hành nghiên cứu “PPP and the real

exchange rate–real interest rate differential puzzle revisited: evidence from non-

stationary panel data”

Vấn đề nghiên cứu: Bài nghiên cứu xem xét hai trong số các mối quan hệ nền tảng của

kinh tế học vĩ mô Quốc tế. Đầu tiên là về PPP- ngang giá sức mua, hay lý thuyết về sự

tồn tại trạng thái cân bằng cố định trong dài hạn của tỷ giá hối đoái thực. Thứ hai là

thiết lập mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực.

Dữ liệu nghiên cứu: Bài nghiên cứu này được thực hiện dựa trên dữ liệu của 18 quốc

gia thuộc khối OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế), với việc coi đồng Dollar

Mỹ như một phương pháp định giá cho thời kì Bretton Woods, dữ liệu được lấy trong

giai đoạn từ quý 2 năm 1987 đến quý 4 năm 1998 với chuỗi dữ liệu tính theo từng quý

và lấy từ Số liệu thống kê Tài chính Quốc Tế của IMF.

Phương pháp tiếp cận: Các tác giả đã sử dụng các kiểm định với dữ liệu mảng cố định

và các phương pháp đồng liên kết được phát triển gần đây. Để phân tích rõ hơn, tác giả

chia bảng dữ liệu thành 2 nhóm: các nước thuộc khối G7 (mở cửa tự do nhiều) và 11

nước còn lại.

Kết quả thu được: Chortareas and Driver đã tìm ra bằng chứng về sự tồn tại của mối

quan hệ có hiệu lực, cố định trong dài hạn giữa hai biến số kinh tế đang xem xét. Các

bằng chứng ủng hộ cho mối quan hệ trong dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh

lệch lãi suất thực xuất hiện nhiều hơn. Với bảng dữ liệu của 11 nước tác giả đã tìm ra

bằng chứng mạnh mẽ về tính đồng liên kết. Ngược lại, Chortareas and Driver không

tìm ra bằng chứng về tính đồng liên kết trong dữ liệu của các nước thuộc G7.

17

Hironobu Nakagawa (2002) với bài nghiên cứu “Real exchange rates and real

interest differentials: implications of nonlinear adjustment in real exchange rates”

Vấn đề nghiên cứu: bài nghiên cứu này đã xem xét đến tính chất phi tuyến tính của quá

trình điều chỉnh tỷ gía hối đoái thực trong nghiên cứu về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ

giá thực và chênh lệch lãi suất thực.

Dữ liệu nghiên cứu: bài nghiên cứu tìm kiếm mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và

chênh lệch lãi suất thực trong trường hợp của Dollar Mỹ so với Mark Đức, Yên Nhật,

Bảng Anh và Dollar Canada từ năm 1974 đến 1997.

Phương pháp nghiên cứu: Nakagawa cho rằng các nghiên cứu trước đây gặp khó khăn

khi đi tìm bằng chứng về quan hệ này là do những biến động trong tỷ giá hối đoái thực

kéo dài liên tục và không ổn định. Theo ông, trong các nghiên cứu trước, sự hội tụ của

tỷ giá hối đoái thực về giá trị cân bằng dài hạn của nó là một quá trình tuyến tính, tức

tốc độ điều chỉnh của tỷ giá là một hằng số. Trong khi đó, theo Nakagawa, với sự hiện

diện của chi phí giao dịch thì sự hội tụ của tỷ giá thực là một qúa trình phi tuyến. Và để

giải quyết vấn đề này, ông đã mở rộng mô hình của Mundell - Fleming - Dornbusch

bằng cách đưa vào những ngưỡng tới hạn (critical threshold) mà ông gọi là vùng không

xảy ra kinh doanh chênh lệch giá.

Kết quả thu được: bằng việc đưa tính chất phi tuyến tính của tỷ giá hối đoái thực vào

xem xét trong mô hình, Nakagawa phát hiện được bằng chứng thực nghiệm về mối

quan hệ giữa tỷ gía thực và chênh lệch lãi suất thực trong bộ dữ liệu nghiên cứu.

2.2.2. Các nghiên cứu tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và

chênh lệch lãi suất thực trong trường hợp có xem xét đếm điểm gãy cấu trúc

Từ những hàm ý từ các nghiên cứu trước đó đã đưa ra các nghiên cứu càng về sau này

càng chú trọng hơn đến các kiểm định cho hiện tượng có thể ảnh hưởng đến dữ liệu,

đơn cử như việc xuất hiện các điểm gãy cấu trúc khi xác định mối quan hệ giữa tỷ giá

18

hối đoái thực và lãi suất thực. Những bài nghiên cứu có xem xét đến vấn đề này có thể

kể đến như:

Edison và Melick (1999) với bài nghiên cứu “Alternative Approaches to Real

Exchange Rates and Real Interest Rates: Three Up and Three Down”

Dữ liệu nghiên cứu: bài nghiên cứu được thực hiện dựa trên dữ liệu tỷ giá hối đoái của

đồng Mark Đức, Yên Nhật, Dollar Canada so với đồng Dollar Mỹ và tỷ giá bình quân

có trọng số của Mỹ với các quốc gia trong nhóm G10 từ năm 1974 đến 1997.

Phương pháp nghiên cứu: Edison và Melick đã áp dụng ba phương pháp khác nhau

cho các chuỗi tỷ giá. Phương pháp thứ nhất là phương pháp tiêu chuẩn nhất với nền

tảng là các mô hình trước đây của Meese và Rogoff (1988) với giả định biến tỷ giá hối

đoái thực kỳ vọng trong mô hình là một hằng số. Phương pháp thứ hai gỡ bỏ gỉa định

của phương pháp chuẩn và biểu diễn biến tỷ giá hối đoái thực kỳ vọng là một hàm số

của một vài biến khác. Phương pháp thứ ba xử lý biến tỷ giá hối đoái thực kỳ vọng

bằng cách sử dụng giá trị hậu nghiệm và dự báo sai số. Điểm đáng lưu ý trong bài

nghiên cứu này đó là Edison và Melick đã đặt vấn đề liên quan đến khả năng xảy ra

điểm gãy cấu trúc trong chuỗi dữ liệu lãi suất của Mỹ trong giai đoạn lãi suất có những

biến động lớn từ quý 4/1979 đến quý 4/1982 và giải quyết bằng cách sử dụng biến giả.

Kết quả thu được: Edison và Melick đã tìm được một số bằng chứng cho thấy mối

quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực. Tuy nhiên, một số nghiên cứu sau

này (đơn cử như nghiên cứu của Byrne và Nagayasu 2010) cho rằng kết quả của

Edison và Melick tìm được là không đáng tin cậy bởi kiểm định Johansen Trace test

đòi hỏi phải điều chỉnh giá trị tới hạn khi xem xét đến sự hiện diện của điểm gãy cấu

trúc.

Byrne và Nagayasu (2010) với bài nghiên cứu “Structural breaks in the real

exchange rate and real interest rate relationship” đã tiến hành xem xét mối quan hệ

19

giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực của Mỹ và Anh trong khoảng thời gian từ

năm 1973 đến 2005.

Vấn đề nghiên cứu: khảo sát thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và

chênh lệch lãi suất thực bằng cách sử dụng các phương pháp kinh tế lượng cải tiến đối

với sự thay đổi cấu trúc tiềm tàng trong chuỗi dữ liệu.

Dữ liệu nghiên cứu: tiến hành xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi

suất thực của Mỹ và Anh trong khoảng thời gian từ tháng 1/1973 đến tháng 5/ 2005.

Sau đó, tác giả mở rộng mẫu quan sát sang mười hai quốc gia Châu Âu khác bao gồm

Áo, Bỉ, Canada, Phần Lan, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển và

Thuỵ Sĩ trong khoảng thời gian từ tháng 1/1978 đến 12/1998.

Phương pháp nghiên cứu: sử dụng mô hình lý thuyết của Meese và Rogoff (1988) làm

nền tảng, nhưng so với phần lớn các nghiên cứu trước đây, Byrne và Nagayasu đặc biệt

quan tâm đến tính dừng của dữ liệu và xem xét đến điểm gãy cấu trúc trong quá trình

nghiên cứu về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và lãi suất thực. Dựa trên luận

điểm của Perron (1989), hai học giả này nhấn mạnh vấn đề về sự xuất hiện của điểm

gãy cấu trúc có thể gây lệch lạc đến các kết quả kinh tế lượng. Để giải quyết vấn đề

này, sau khi tham khảo nhiều nghiên cứu khác, Byrne và Nagayasu đã đề xuất sử dụng

các kiểm định và phương pháp phân tích của Saikkonen và Lütkepohl (2002, 2003).

Kết quả thu được: Byrne và Nagayasu đưa ra nhận định rằng các kỹ thuật và kiểm định

của Saikkonen và Lütkepohl mạnh và bền vững hơn khi có xem xét đến điểm gãy cấu

trúc hai ông đãthu được bằng chứng thực nghiệm đáng tin cậy về mối quan hệ dài hạn

giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực.

20

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1.

Mô hình lý thuyết

Mô hình lý thuyết bắt nguồn từ phương trình phản ánh mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái

thực - lãi suất thực dựa theo nghiên cứu của Edison và Pauls (1993). Hai bộ phận cấu

thành chính của mô hình này là ngang giá lãi suất không phòng ngừa rủi ro (UIP) và

điều kiện ngang giá Fisher. Bài viết sẽ trình bày lần lượt từng phương trình trước khi

xác định một phương trình ước lượng. Trước hết, ta xác định tỷ giá hối đoái thực ( )

như sau:

(1)

Trong đó:

: lần lượt là logarit tự nhiên của chỉ số giá trong nước và nước ngoài.

: logarit tự nhiên của tỷ hối đoái danh nghĩa giao ngay.

UIP khẳng định rằng với thị trường vốn mở, những thay đổi dự kiến trong tỷ giá hối

đoái danh nghĩa sẽ bằng mức chênh lệch trong lãi suất danh nghĩa. Khi nhà đầu tư là

không bàng quang với rủi ro, UIP có thể được mở rộng có tính đến phần bù rủi ro:

(2) ( )

: lần lượt là lãi suất danh nghĩa trong nước và nước ngoài.

Trong đó:

( ) : sự kỳ vọng trong giai đoạn hiện hành đối với tỷ giá hối đoái trong thời kì tiếp

theo.

: phần bù rủi ro tỷ giá.

Từ phương trình (1), ta có:

) ( ) ( ) ( ) (

21

(*) )  ( ) ( ) ( ) (

Từ phương trình (2), ta có:

* + ut

Et (st+1) – Et (st) = it – it

* + ut

Et (st+1) – st = it – it

Thế tỷ giá hối đoái danh nghĩa dự kiến trong phương trình (*) vào phương trình trên, ta

được:

(3)

) ( ) ( ) (

Ngoài ra, giả định sự thay đổi dự kiến trong lạm phát như sau:

(4) ( )

(

(5) )

Hơn nữa, theo điều kiện ngang giá Fisher, ta sẽ có lãi suất thực tiền nghiệm cho một

giai đoạn bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát kỳ vọng:

(6)

(7)

Từ phương trình (4) và (5), ta có:

(**) ( )

( )

Từ phương trình (6) và (7), ta có:

(***)

Thế (**) và (***) vào phương trình (3), ta có biểu thức sau đây:

22

) ( ) ( ) (

( ) (

)

(8)

(9)  ( )

(10)  ( )

Cuối cùng, ta có biểu thức cho những thay đổi dự kiến trong tỷ giá hối đoái thực :

( )

(11)

Một vấn đề nảy sinh là các giá trị kỳ vọng của tỷ giá hối đoái thực trong phương trình

(11) không sẵn có. Do đó, hàng loạt các giá trị đại diện đã được sử dụng trước đây, như

Meese và Rogoff (1988) đề nghị sử dụng giá trị xuất khẩu ròng tích lũy và một hằng

số. Sự phụ thuộc về mặt thời gian trong tỷ giá hối đoái thực kỳ vọng có thể được mô

hình hóa bằng một biến giả dịch chuyển (shift dummy), nếu trạng thái cân bằng không

thay đổi thường xuyên. Trong quá trình thiết lập mô hình, Joseph P.Byrne và Jun

Nagayasu đã giả định rằng tỷ giá hối đoái thực kỳ vọng là hằng số, tương tự như Meese

và Rogoff (1988), Edison và Pauls (1993) và Baxter (1994). Khi đó, phương trình (11)

được viết như sau:

(12)

Trong đó, phần bù rủi ro biến đổi theo thời gian ( ) là một thành phần không quan sát

được trong phương trình này và được giả định là ổn định.

Phương trình (12) được dùng như là cơ sở của phương pháp ước lượng trong bài

nghiên cứu này.

3.2.

Phương pháp ước lượng

3.2.1. Phương pháp chung của bài nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý thuyết và các luận điểm của Byrne và Nakayasu, bài nghiên cứu sẽ

tiến hành các kiểm định kinh tế lượng theo một trình tự tổng quát như sau để tìm ra

23

bằng chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực giữa

Việt Nam và Mỹ cũng như các quốc gia trong khu vực Châu Á và Mỹ.

Thứ nhất, vấn đề được xác định đầu tiên là kiểm định tính dừng của dữ liệu. Một

chuỗi thời gian là dừng khi giá trị trung bình, phương sai, hiệp phương sai tại các độ trễ

khác nhau sẽ giữ nguyên không đổi cho dù được xác định tại thời điểm nào; chuỗi

dừng có xu hướng trở về giá trị trung bình và những giá trị dao động quanh giá trị

trung bình là như nhau.Vậy tại sao cần kiểm định tính dừng? Đầu tiên, yếu tố “dừng”

hay “không dừng” của biến số chuỗi thời gian có thể ảnh hưởng mạnh mẽ tới các thuộc

tính và hành vi của biến số đó, ví dụ tác động của một cú sốc có thể kéo dài cho đến

khoảng thời gian không xác định nếu chuỗi thời gian là không dừng. Bên cạnh đó, nếu

các biến số đều thay đổi theo một mẫu hình nào đó theo thời gian (trending over time) thì khi đó việc hồi quy biến số này với biến số còn lại có thể cho ra hệ số R2 rất cao

ngay cả khi hai biến số này hoàn toàn không tương quan gì với nhau, thêm vào đó các

giả định nền tảng cho việc thực hiện phân tích hồi quy dựa trên quy luật tiệm cận sẽ

không còn giá trị. Kết quả các kiểm định và hồi quy là giả tạo và không có giá trị. Tiếp

theo đó, việc xác định chuỗi thời gian không dừng còn mang hàm ý về mối quan hệ dài

hạn giữa các chuỗi này. Vì vậy, vấn đề được nghiên cứu đầu tiên trong quy trình là

kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu. Các kiểm định nghiệm đơn vị sẽ được thực

hiện trên chuỗi gốc (chuỗi level) và chuỗi sai phân của tỷ giá thực và lãi suất thực. Kỳ

vọng của kiểm định nghiệm đơn vị trong bài nghiên cứu là các biến số chuỗi thời gian

không dừng ở bậc level và có liên kết ở bậc một (hay nói cách khác là dừng ở sai phân

bậc một). Các kiểm định nghiệm đơn vị được sử dụng để tiến hành trong bước này là

kiểm định Augmented Dickey Fuller (ADF Test) và kiểm định Dickey Fuller

General Least Square (DF-GLS Test). Ngoài ra, dựa trên luận điểm của Perron

(1989) cũng như của Byrne và Nagayasu (2010), sự biến đổi về mặt cấu trúc trong

chuỗi dữ liệu có thể ảnh hưởng đến độ mạnh của kết quả kiểm định tính dừng của

chuỗi dữ liệu. Do đó, quá trình đi tìm bằng chứng về mối quan hệ dài hạn đòi hỏi giai

24

đoạn kiểm định nghiệm đơn vị cũng cần phải có sự xem xét đến yếu tố điểm gãy cấu

trúc trong chuỗi dữ liệu nghiên cứu nhằm đưa ra kết quả xác thực nhất. Dựa theo đề

xuất của Byrne và Nagayasu (2010), bài nghiên cứu sẽ áp dụng kiểm định nghiệm

đơn vị theo phương pháp của Saikkonen và Lütkepohl (2002) để giải quyết vấn đề

này.

Thứ hai, bài viết sẽ đi tìm bằng chứng mối quan hệ trong dài hạn giữa tỷ giá thực và

chênh lệch lãi suất thực thông qua các kiểm định đồng liên kết. Từ kỳ vọng của kiểm

định nghiệm đơn vị của chuỗi dữ liệu, chúng ta có thể thấy được chuỗi dữ liệu gốc là

không dừng, tuy nhiên rất nhiều biến số chuỗi thời gian không dừng nhưng có xu

hướng di chuyển cùng nhau theo thời gian (đồng liên kết). Nếu các biến số chuỗi thời

gian đồng liên kết, điều đó có nghĩa rằng một kết hợp tuyến tính của chúng cũng sẽ

dừng. Và một mối quan hệ đồng liên kết được xem như là một mối quan hệ dài hạn

giữa các biến số, kiểm định đồng liên kết có thể xem là kiểm định tính dừng của phần

dư trong phương trình mối quan hệ giữa các biến số. Các kiểm định nghiệm đồng liên

kết được tiến hành trong bài nghiên cứu là kiểm định Johansen Trace Test, kiểm

định Saikkonen và Lütkepohl Trace Test trong trường hợp không xét và có xét

đến điểm gãy cấu trúc. Từ việc sử dụng phương pháp mới song song với các phương

pháp kiểm định truyền thống, bài viết hy vọng có thể nêu bật được vai trò của điểm gãy

cấu trúc trong việc tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái

thực và chênh lệch lãi suất thực. Và qua đó chúng ta có thể thấy được ưu điểm của

phương pháp Saikkonen và Lütkepohl trong việc đưa ra các bằng chứng thực nghiệm.

Thứ ba, từ việc tìm được mối quan hệ đồng liên kết, bài viết sẽ ước lượng phương

trình dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực để làm rõ hơn mối

tương quan giữa các biến số này. Cuối cùng, phương pháp hồi quy được phát triển bởi

Johansen (1995) và Hasen và Johansen (1999) được sử dụng để kiểm định tính ổn định

và bền vững trong mối quan hệ giữa các biến số này.

25

3.2.2. Các phương pháp kiểm định cụ thể

Phương pháp thực nghiệm của bài nghiên cứu bao gồm ba giai đoạn như trên. Trong

đó, hai bước kiểm định đầu tiên được áp dụng chung cho nghiên cứu trong cả trường

hợp của Việt Nam và các quốc gia khác tại Châu Á. Riêng bước thứ ba là giai đoạn hồi

quy phương trình dài hạn cùng một số kiểm định tính ổn định chỉ được áp dụng cho

trường hợp của Việt Nam nhằm làm rõ hơn mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và lãi

suất thực.

3.2.2.1. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu

 Hướng tiếp cận truyền thống

Kiểm định Augmented Dicky Fuller

Phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị ADF, còn được gọi là kiểm định gia tăng Dicky

Fuller, là một hình thức mở rộng của kiểm định DF trong trường hợp sai số ut trong

dạng hồi quy của kiểm định DF là tự trương quan.

Các thể loại khác nhau của hồi quy kiểm định tính dừng DF

i. Mô hình có thuộc tính stationary

H0: yt = yt-1 + ut

H1: yt = yt-1 + ut

ii. Mô hình có thuộc tính stationary with drift

H0: yt = yt-1 + ut

H1: yt = yt-1 + + ut

iii. Mô hình có thuộc tính stationary with drift and trend

H0: yt = yt-1 + ut

H1: yt = yt-1 + + + ut

26

Các kiểm định DF trên chỉ có giá trị khi ut là nhiễu trắng (white noise). Trong trường

hợp các giá trị của biến phụ thuộc (yt) tương quan với nhau thì các giá trị ut sẽ tương

quan với nhau. Giải pháp cho trường hợp này sẽ sử dụng p lag của biến phụ thuộc. Như

vậy mô hình tổng quát của DF sẽ được biến đổi như sau:

Đây chính là mô hình của kiểm định ADF

Giả thiết của kiểm định ADF:

H0: = 0 (phương trình có nghiệm đơn vị, chuỗi thời gian đang xem xét là không

dừng)

H1: 0 (phương trình không có nghiệm, chuỗi thời gian đang xem xét là dừng)

Kiểm định Dickey Fuller General Least Square (DF-GLS)

Năm 1996, một phiên bản cải tiến của kiểm định ADF đã được Elliott, Rothemborg và

Stock công bố, còn được gọi là kiểm định nghiệm đơn vị DF-GLS. Nhiều bài nghiên

cứu sau này đã chứng minh được rằng các kết quả của phương pháp kiểm định DF-

GLS thì đáng tin cậy hơn so với kiểm định ADF.

Về cơ bản, kiểm định DF-GLS cũng giống như kiểm định ADF, nhưng chỉ khác ở

điểm là các chuỗi thời gian sử dụng trong kiểm định DF-GLS phải được biến đổi qua

hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS – Generalized Least Squares) trước khi

tiến hành kiểm định. Do phần dư ut trong phương trình có hiện tượng tự tương quan

(hay còn gọi là hiện tượng phương sai thay đổi) vì vậy nếu sử dụng các kiểm định

thông thường thì thì sẽ cho ra kết quả hồi quy giả tạo và không có giá trị. Từ đó,

phương pháp DF-GLS đã khắc điểm này bằng cách tiến hành biến đổi GLS đối với các

27

biến để thoả mãn giả thiết bình quân tối thiểu tiêu chuẩn, sau đó đưa các thông tin này

vào mô hình và tiến hành hồi quy.

 Hướng tiếp cận mới (có xem xét đến điểm gãy cấu trúc)

Kiểm định Saikkonen và Lütkepohl

Saikkonen và Lütkepohl đã cải tiến kiểm định nghiệm đơn vị bằng cách đưa thêm biến

giả dịch chuyển (shift dummy) vào phương trình kiểm định. Ngày dịch chuyển gắn liền

với dữ liệu được sử dụng, do đó, phương pháp này cho phép chúng ta kiểm tra xem

liệu sự suy đoán về thời điểm xuất hiện điểm gãy (breaks) dựa trên những sự kiện lịch

sử có phù hợp với bộ dữ liệu thu thập được hay không.

Mô hình sử dụng trong kiểm định S&L (không xét đến xu hướng tuyến tính):

(A1) ( )

Trong đó:

: sai số được biểu diễn qua sơ đồ tự hồi quy bậc p Markov (ký hiệu: AR(p)): ( )( ) , với: ( ) và ( ),

( ) :hàm dịch chuyển (shift function) được thêm vào phương trình bên cạnh các thành phần khác của chuỗi dữ liệu.

Trong bài nghiên cứu của Joseph P.Byrne và Jun Nagayasu, hai ông chỉ tập trung vào

trường hợp ngày dịch chuyển (shift date, TB) được mô tả như một biến giả dịch chuyển (shift dummy, dt). Do đó, hàm dịch chuyển ( ) sẽ có dạng sau:

( ) {

28

Trong đó TB là thời điểm xuất hiện điểm gãy cấu trúc, và từ thời điểm TB trở lùi về trước các giá trị trong hàm ( ) sẽ được gán bằng 0, đồng thời từ TB trở về thời điểm sau này các giá trị trong hàm ( ) sẽ được gán bằng 1.

Giả thiết của kiểm định S&L:

H0: chuỗi thời gian đang xem xét có nghiệm đơn vị (chuỗi không dừng)

H1: chuỗi thời gian đang xem xét không có nghiệm đơn vị (chuỗi dừng)

Trong bài nghiên cứu này, các bước thực hiện theo phương pháp kiểm định nghiệm

đơn vị của Saikkonen và Lütkepohl đều được tiến hành bằng cách sử dụng phần mềm

JMulti 4. Trong đó, theo bài nghiên cứu gốc của Byrne và Nagayasu (2010), quy ước

về độ trễ của chuỗi thời gian được lựa chọn theo tiêu chuẩn thông tin AIC với độ trễ tối

đa là 12. Mặt khác, phần mềm JMulti 4 sẽ đề xuất điểm gãy cấu trúc trong từng chuỗi

dữ liệu nghiên cứu.

3.2.2.2. Kiểm định đồng liên kết

Engle và Granger (1987) cho rằng nếu kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian

không dừng là một chuỗi dừng thì các chuỗi thời gian không dừng đó có xu hướng di

chuyển cùng nhau theo thời gian và được cho là có mối quan hệ đồng liên kết. Kết hợp

tuyến tính dừng được gọi là phương trình đồng liên kết và được sử dụng để giải thích

cho mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến số. Nghĩa là, nếu phần dư trong mô

hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi

quy là có giá trị và thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình.

Nếu như mô hình là đồng liên kết thì sẽ không xảy ra trường hợp hồi quy giả mạo, khi

đó các kiểm định dựa trên tiêu chuẩn t và F vẫn có ý nghĩa. Có nhiều phương pháp

kiểm định mối quan hệ đồng liên kết: kiểm định Engle-Granger…và kiểm định theo

phương pháp của Johansen.

29

Thông thường việc kết hợp hai biến số có liên kết bậc nhất I(1) sẽ dẫn đến kết quả hồi

qui vô nghĩa. Tuy nhiên nếu thật sự giữa hai biến có quan hệ dài hạn, thì sai số của mô

hình sẽ có xu hướng giảm dần và sẽ bằng 0, tức là sai số của mô hình là chuỗi dừng –

I(0).

Nếu tồn tại quan hệ giữa hai dãy số liên kết bậc nhất – I(1) sao cho phần dư (residuals)

của mô hình hồi qui là chuỗi dừng thì hai biến số này gọi là đồng

liên kết (cointegration) và chúng có mối quan hệ cân bằng dài hạn.

Trong bài nghiên cứu này, sử dụng hai hướng tiếp cận khi kiểm định đồng liên kết.

Hướng tiếp cận truyền thống không xét đến điểm gãy cấu trúc sử dụng phương pháp

kiểm định Johansen Trace Test (1988, 1992) và phương pháp đề xuất bởi Saikkonen và

Lütkepohl (2000) trong không xem xét điểm gãy cấu trúc. Tiếp theo, để nêu bật vai trò

của điểm gãy cấu trúc trong việc tìm ra bằng chứng về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá

hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực trong dữ liệu nghiên cứu, hướng tiếp cận mới

được sử dụng để kiểm định được thực hiện theo phương pháp đề xuất bởi Saikkonen và

Lütkepohl đưa thêm điểm gãy cấu trúc vào mô hình kiểm định.

 Hướng tiếp cận truyền thống

Kiểm định Johansen Trace Test

Kiểm định Johansen là phương pháp cơ bản để kiểm định tính đồng liên kết giữa các

chuỗi thời gian. Các chỉ số thống kê mô tả của Johansen đều là phân phối không chuẩn,

phụ thuộc vào kích thước (K – r) (với K là số biến và r là số vector đồng liên kết trong

giả thiết H0) và cấu trúc của kỳ quan sát. Trong phương pháp kiểm định này, Johansen

đã đề xuất hai loại giá trị kiểm định, đó là: Trace và maximal Eigenvalue. Bài viết này

tập trung vào sử dụng giá trị kiểm định Trace thông thường, theo như hướng tiếp cận

của bài nghiên cứu gốc của Joseph P.Byrne và Jun Nagayasu.

Giá trị kiểm định Trace Johansen:

30

LRTrace(r) = - T ∑ ( )

Với: là chỉ số đặc trưng nhỏ nhất của công thức định lượng tương đương.

T là khoảng thời gian quan sát (chiều dài của chuỗi dữ liệu).

Kiểm định Trace Johansen xem xét cặp giả thuyết:

H0: Rank ( ) , tồn tại vector đồng liên kết giữa K biến trong mô hình

H1: rank( ) , tồn tại tối đa vector đồng liên kết giữa K biến trong mô

hình

Với

Nếu: p-value > mức ý nghĩa (α): không bác bỏ giả thiết H0

p-value < mức ý nghĩa (α): bác bỏ giả thiết H0

 Hướng tiếp cận mới của Saikkonen và Lütkepohl

Kiểm định Saikkonen và Lütkepohl

Từ những kiểm định về nghiệm đơn vị và đồng liên kết ta nhận thấy rằng sự thay đổi

cấu trúc trong chuỗi dữ liệu theo thời gian có thể ảnh hưởng đến quá trình tiến hành

kiểm định. Đặc biệt đối với những mẫu nhỏ, ta có thể dùng kiểm định đồng liên kết của

Saikkonen & Lütkepohl (2000). Giả định rằng mức độ thay đổi của các biến trong một

hệ thống chuỗi dữ liệu chưa biết roc thời gian. Kiểm định này bước đầu yêu cầu ước

lượng sự thời gian thay đổi và tiếp theo là thực hiện kiểm định đồng liên kết. Đầu tiên

ta sẽ xử lý dữ liệu ban đầu theo phương pháp GLS. Trong mẫu nhỏ thì ngày thay đổi

“break day” ảnh hưởng mạnh đến kiểm định đồng liên kết. Cụ thể là, kích cỡ mức độ

thay đổi của ước lượng “break day” và kiểm định quan trọng trong những kiểm định

đối với mẫu nhỏ. Trong bài nghiên cứu được đưa ra vào năm 2000 mang tên “Testing

for the cointegrating rank of a VAR process with structural shifts”, Saikkonen &

Lütkepohl đã tiến hành xem xét mô hình kiểm định S&L cho trường hợp có sự tồn tại

31

của sự dịch chuyển cấu trúc. Các điểm gãy (break points) được giả định là đã có sẵn.

Và kết quả mà các tác giả thu được là việc bao gồm biến giả trong mô hình và việc ước

lượng cho hệ số của chúng hoàn toàn không ảnh hưởng đến phân phối định hạn của

kiểm định đồng liên kết S&L (the limiting distribution of the S&L cointegration

test).

Như vậy, đối với cả trường hợp không xét đến biến giả hay đưa biến giả vào mô hình

thì các giá trị tới hạn của Kiểm định S&L là như nhau.

( ) ∑ ( )

Giá trị kiểm định Trace S&L:

Giả thiết của Kiểm định Trace S&L:

H0: số vector đồng liên kết (r) = i

H1: số vector đồng liên kết (r) > i

Nếu: p-value > mức ý nghĩa (α): không bác bỏ giả thiết H0

p-value < mức ý nghĩa (α): bác bỏ giả thiết H0

Trong phần phân tích sau, ta quy ước một vài ký hiệu:

: sự chênh lệch

L: độ trễ

I(d): bậc liên kết của chuỗi dữ liệu.

Rk(A): hạng của ma trận A

= ( …… )’ (t = 1,…..T)

Xử lý dữ liệu đối với kiểm định đồng liên kết S&L:

32

Mô hình kiểm định S&L không có biến giả:

Mô hình kiểm định S&L có biến giả, biến giả được thêm vào vì trong chuỗi thời gian

được xét trong bài gần với những biến động lịch sử ảnh hưởng đến sự ổn định của

chuỗi dữ liệu trong 1 khoản thời gian.

Trong đó:

δ: là tham số của vector

: là biến giả được thể hiện qua như sau: khi t < và bằng 1 khi t ≥

3.2.2.3. Mô hình thể hiện mối quan hệ giữa các biến số

Đối với trường hợp giữa hai nước Việt Nam – Mỹ, sau khi đã xác nhận được sự tồn tại

mối quan hệ đồng liên kết giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực, phương trình

biểu diễn cho mối quan hệ này sẽ được ước lượng nhằm hiểu rõ sự tác động qua lại

giữa các biến với nhau, cụ thể là sự thay đổi trong lãi suất thực của hai nước có thể giải

thích như thế nào cho những thay đổi trong tỷ gía thực. Để thực hiện giai đoạn này, mô

hình VECM được lựa chọn là mô hình thích hợp có thể áp dụng cho các chuỗi dữ liệu

trong nghiên cứu của chúng ta bởi bằng chứng về sự đồng liên kết giữa các biến số mà

chúng ta thu được từ các giai đoạn kiểm định trên.

Mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM

Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa các biến số kinh tế không phải lúc nào cũng chỉ

mang một chiều hướng nhất định. Các biến độc lập (biến giải thích) không phải luôn

luôn tác động lên biến phụ thuộc mà trong nhiều trường hợp biến phụ thuộc có thể tác

động ngược trở lại lên biến độc lập. Do vậy, để đảm bảo tính hợp lý, ta phải xét ảnh

hưởng qua lại của các biến này trong cùng một lúc. Chính vì thế, mô hình kinh tế lượng

33

mà ta phải xét đến không phải là mô hình một phương trình như trước đây mà phải là

mô hình gồm nhiều phương trình.

Tuy nhiên, để ước lượng được các mô hình này ta phải đảm bảo rằng các phương trình

trong hệ đã được định dạng, một số biến được coi là nội sinh (biến mà giá trị được xác

định bởi mô hình, hay còn gọi là biến ngẫu nhiên) và một số biến khác được coi là

ngoại sinh. Việc định dạng này thường được thực hiện bằng cách đưa ra giả thiết rằng:

Một số biến được xác định trước chỉ có mặt trong một số phương trình. Việc đưa ra giả

thiết này thường mang tính chủ quan và cũng đã bị Chrishtopher Sims chỉ trích. Theo

Chrishtopher Sims, nếu tồn tại mối quan hệ tác động qua lại giữa một số biến thì các

biến này phải được xem xét là có vai trò như nhau, tức là, tất cả các biến xét đến đều là

biến nội sinh. Dựa trên tinh thần đó mà Chrishtopher Sims đã xây dựng mô hình vector

tự hồi quy VAR.

Khi hồi quy mô hình với các biến là chuỗi thời gian thì yêu cầu đặt ra là các chuỗi này

phải dừng. Nếu biến số là không dừng, chúng ta sẽ tiến hành lấy sai phân của biến số

đó cho tới khi chuỗi dừng. Tuy nhiên, cách tiếp cận sai phân này có một nhược điểm là

nó làm mất đi mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến số. Ví dụ khi chúng ta xem xét

hai biến số yt và xt với bậc liên kết là I(1), mô hình ước lượng mối quan hệ giữa hai

biến số này là , tuy nhiên phương trình sai phân này không cho chúng

ta biết được gì về mối quan hệ trong dài hạn có thể có giữa yt và xt (vì trong dài hạn yt =

yt-1 = y, xt = xt-1 = x, do vậy sai phân các biến số sẽ bằng zero).

Một cách để khắc phục nhược điểm của việc lấy sai phân là vừa sử dụng sai phân và

biến không lấy sai phân (biến level). Ví dụ ta có phương trình sau: ( )

Trong đó:

: tác động điều chỉnh trong ngắn hạn

34

( ): tác động điều chỉnh về mối quan hệ dài hạn, và ( )

được biết như là thành tố hiệu chỉnh sai số

Phương trình trên cho thấy một sự biến đổi trong y được giải thích một phần bởi thay

đổi của x trong cùng kỳ, và một phần được giải thích bởi tác động điều chỉnh về mối

quan hệ trong dài hạn. Nếu yt và xt có mối quan hệ đồng liên kết với hệ số đồng liên kết

là , thì khi đó ( ) sẽ là I(0) mặc dù yt và xt đều là I(1). Và do vậy chúng ta

có thề hồi quy OLS với phương trình trên.

Đây chính là mô hình hiệu chỉnh sai số ECM. Mô hình VECM là một dạng của mô

hình VAR tổng quát, được sử dụng trong trường hợp chuỗi dữ liệu là không dừng và

chứa đựng mối quan hệ đồng liên kết.

Mô hình tổng thể VECM của bài nghiên cứu có dạng:

[ ] ∑ ∑

Trong đó [ ] . Các thành phần của mô hình VECM bao gồm:

: hệ số chặn

]: thành tố thể hiện tác động điều chỉnh về mối quan hệ dài hạn [

: thành tố thể hiện tác động điều chỉnh trong ngắn hạn ∑

∑ : thành tố thể hiện tác động của cú sốc đến sự thay đổi của các biến số

trong mô hình

: phần dư của mô hình

35

Trong bài nghiên cứu gốc, mô hình VECM được sử dụng cho tỷ giá hối đoái thực dựa

trên một vector đồng liên kết và được đo lường bởi phương pháp hai giai đoạn của

S&L.

Giai đoạn đầu liên quan đến việc đánh giá mối quan hệ dài hạn. Nếu chỉ có một quan

hệ đồng liên kết được tìm thấy từ kiểm định S&L thì mối quan hệ này cũng sẽ xảy ra

trong bối cảnh công thức đơn của mô hình VECM, được đánh giá bởi mô hình OLS, và

được tham số lại bằng cách tiêu chuẩn hóa hệ số tỷ giá hối đoái thực.

Giai đoạn hai liên quan đến việc đánh giá lại toàn bộ hệ thống bằng phương pháp

OLS, bao gồm vector đồng liên kết đã xác định trong giai đoạn 1 cũng như các biến

ngoại sinh.

Hai giai đoạn kể trên của phương pháp nhằm ước lượng mô hình VECM đều được thực

hiện bằng phần mềm JMulti. Sau đó, các kiểm định bao gồm kiểm định bằng phương

pháp hồi quy Johansen và giá trị thống kê tau sẽ được thực hiện nhằm kiểm tra sự phù

hợp và ổn định của mô hình. Kết qủa hồi quy phương trình dài hạn giữa các biến và

một số kiểm định liên quan được trình bày trong Chương 4.

3.3.

Dữ liệu nghiên cứu

Bài viết tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi

suất thực giữa hai quốc gia. Đầu tiên là trường hợp Việt Nam và Mỹ, sau đó mở rộng

ra một số quốc gia khu vực Châu Á (bao gồm Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Thái

Lan và Philippine) và Mỹ. Việt Nam và các nước Châu Á được xem là thị trường nội

địa, Mỹ là quốc gia được lựa chọn làm thị trường nước ngoài.

Các biến kinh tế vĩ mô chính được xem xét ở đây là: tỷ giá hối đoái thực, lãi suất thực

của đồng nội tệ, và lãi suất thực của đồng ngoại tệ. Các biến số này được tính toán dựa

trên bài nghiên cứu gốc của Byrne và Nagayasu (2002). Chuỗi tỷ giá thực được xác

định dựa trên tỷ giá hối đoái song phương cuối kỳ của các đồng tiền so với đồng Dollar

36

Mỹ và chỉ số giá CPI, chuỗi lãi suất thực dựa trên lãi suất danh nghĩa và lạm phát (dựa

vào CPI). Dữ liệu về chỉ số CPI được thu thập dựa trên CPI năm gốc 2010 bằng 100,

lãi suất danh nghĩa được thu thập là lãi suất thị trường tiền tệ. Ở những quốc gia mà dữ

liệu về lãi suất thị trường tiền tệ không có sẵn do những hạn chế về số liệu thống kê,

bài viết sử dụng lãi suất liên ngân hàng thay thế (trường hợp Việt Nam).

Dữ liệu được tiến hành thu thập từ nguồn dữ liệu thống kê tài chính quốc tế của Quỹ

tiền tệ thế giới: International Financial Statistics (IFS), số liệu được lấy theo tháng và

chiều dài dữ liệu là từ tháng 1/1996 đến tháng 5/2014 đối với bộ dữ liệu Việt Nam và

từ tháng 1/1994 đến tháng 5/2014 đối với bộ dữ liệu của các quốc gia còn lại.

37

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1.

Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất

thực giữa đồng Việt Nam và Dollar Mỹ

4.1.1. Kết quả kiểm định tính dừng

 Hướng tiếp cận truyền thống

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF trường hợp Việt Nam và Mỹ

ADF Test

q t-statistic p-value Chuỗi gốc 0.077947 (1) 0.9634

r

r* Ex ante inflation t-statistic p-value t-statistic p-value -2.407796 (12) 0.1408 -1.334907 (0) 0.6134

r

r* Ex post inflation t-statistic p-value t-statistic p-value -2.435621 (12) 0.1333 -1.214738 (0) 0.6684 Chuỗi sai phân bậc một -12.91840*** (0) 0.0000 -4.836155*** (12) 0.0001 -13.71348*** (0) 0.0000 -4.639079*** (11) 0.0002 -11.35484*** (1) 0.0000

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Độ trễ của mỗi trường hợp được ghi nhận

trong dấu (.) và được xác định bởi tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ Akaike Information

Criterion (AIC) với độ trễ tối đa là 12. Kiểm định tính dừng ở chuỗi gốc và chuỗi sai

phân bậc một có tính đến hệ số chặn (intercept). Các ký hiệu (*), (**), (***) lần

lượt đại diện cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.

38

Bảng 4.2. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị DF-GLS trường hợp Việt Nam và Mỹ

DF-GLS Test

Chuỗi gốc -0.252064 (1) q

Ex ante inflation

-0.606219 (12) -0.422888 (0) r r*

Ex post inflation

-0.429753 (12) -0.401832 (0) Chuỗi sai phân bậc một -0.760837 (11) -1.454417 (11) -0.822957 (11) -0.604073 (11) -11.18368*** (1) r r*

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Độ trễ của mỗi trường hợp được ghi nhận

trong dấu (.) và được xác định bởi tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ Akaike Information

Criterion (AIC) với độ trễ tối đa là 12. Kiểm định tính dừng ở chuỗi gốc và chuỗi sai

phân bậc một có tính đến hệ số chặn (intercept). Các ký hiệu (*), (**), (***) lần

lượt đại diện cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.

Bài viết sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị ADF và DF-GLS để xem xét tính dừng của

chuỗi dữ liệu tỷ giá thực, lãi suất thực trong nước và lãi suất thực nước ngoài (ở đây

lần lượt là Việt Nam và Mỹ).

Bảng 4.1 cho thấy giá trị p-value của các chuỗi dữ liệu level xem xét đều lớn hơn giá

trị 0.05 (p-value càng lớn thì khả năng chấp nhận H0 càng cao và ngược lại p càng bé

thì khả năng chấp nhận H0 càng cao, giá trị p-value bài viết chọn để so sánh mức độ

chấp nhận và bác bỏ giả thuyết H0 là ở mức ý nghĩa 5%) và giá trị thống kê t lớn hơn

giá trị tới hạn (t-statistic > t-critical) ở các mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%, do đó tại các

chuỗi level (q, r, r*), kiểm định ADF cho ra kết quả là chấp nhận giả thuyết H0, tức là

chuỗi level không dừng. Vì chuỗi level không dừng nên tiếp tục kiểm định ADF cho

chuỗi sai phân bậc một, và kết quả kiểm định cho thấy t-statistic < t-critical ở mức ý

nghĩa 1%, do đó kết quả kiểm định là bác bỏ H0, chuỗi sai phân bậc một dừng. Điều

39

này mang hàm ý về khả năng tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và chênh

lệch lãi suất thực giữa Việt Nam và Mỹ.

Tiến hành tương tự đối với kiểm định DF-GLS, kết quả kiểm định ở bảng 4.2 cho thấy

các chuỗi dữ liệu nghiên cứu (q, r, r*) không dừng ở bậc level, tuy nhiên khác với kiểm

định ADF, chuỗi sai phân bậc một của các chuỗi trong kiểm định DF-GLS lại không

dừng, ngoại trừ sai phân bậc một của chuỗi lãi suất thực dựa trên lạm phát hậu nghiệm.

Có thể thấy được rằng, hai kiểm định nghiệm đơn vị ADF và DF-GLS đều cho kết quả

giống nhau đối với chuỗi dữ liệu gốc, các chuỗi tỷ giá thực, lãi suất thực Việt Nam và

Mỹ đều không dừng ở bậc level, tuy nhiên kết quả giữa hai phép kiểm định này có sai

khác ở chuỗi sai phân bậc một, các chuỗi dữ liệu trong kiểm định ADF đều dừng ở liên

kết bậc một, còn trong kiểm định DF-GLS các chuỗi dữ liệu sau khi được lấy sai phân

vẫn không dừng, ngoại trừ chuỗi lãi suất thực dựa trên lạm phát hậu nghiệm (ex-post).

Theo Perron (1998), việc xảy ra những cú sốc biến đổi bất thường trong chuỗi dữ liệu

có thể tác động đến độ mạnh và tính chính xác của các kết quả thống kê, hay nói cách

khác kiểm định nghiệm đơn vị ở đây có thể sẽ đưa ra bằng chứng không đáng tin cậy

khi có sự xuất hiện điểm gãy cấu trúc trong các chuỗi biến số đang nghiên cứu. Chính

vì vậy, bài viết sẽ tiếp tục kiểm định nghiệm đơn vị bằng phương pháp tiếp cận mới để

đưa ra bằng chứng thuyết phục hơn, đồng thời đánh giá lại độ chính xác bằng cách so

sánh với hai kiểm định vừa tiến hành.

 Hướng tiếp cận mới (có xem xét điểm gãy cấu trúc)

Sau khi sử dụng hai kiểm định ADF và DF-GLS để kiểm tra tính dừng của các chuỗi

dữ liệu, bài viết tiếp tục tiến hành kiểm định theo phương pháp của Saikkonen và

Lütkepohl nhằm xem xét việc xuất hiện điểm gãy cấu trúc trong từng chuỗi dữ liệu

xem xét có tác động như thế nào đến tính dừng của các chuỗi dữ liệu.

Bảng 4.3. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị S&L trường hợp Việt Nam và Mỹ

40

S&L Test Unit Root Test

Chuỗi gốc 0.6279 (1)

-1.7353 (12) -1.7232 (0)

-1.5294 (12) -1.5822 (0) Chuỗi sai phân bậc một -3.0492** (0) -3.2186** (12) -13.6085*** (0) -2.7079* (11) -9.5748***(1) Shift date 2011 M2 2008 M6 2008 M12 2008 M6 2009 M1 q Ex ante inflation r r* Ex post inflation r r*

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Độ trễ của mỗi trường hợp được ghi nhận

trong dấu (.) và được xác định bởi tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ Akaike Information

Criterion (AIC) với độ trễ tối đa là 12. Các ký hiệu (*), (**), (***) lần lượt đại diện

cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. Các thời điểm xuất hiện điểm gãy cấu trúc (shift

date) được đề xuất bởi phần mềm Jmulti.

Như chúng ta đã biết, điểm gãy cấu trúc là điểm thay đổi đột ngột trong cấu trúc dữ

liệu của bất kỳ mô hình hồi quy đơn biến, đa biến hay hệ phương trình và nó có thể tác

động đến các tham số của mô hình bao gồm hệ số độ dốc, hệ số chặn và phương sai

của phần dư. Do đó, để tìm kiếm bằng chứng đáng tin cậy và đưa ra kết quả được kiểm

định chính xác, điểm gãy cấu trúc đề xuất được đưa vào mô hình và tiến hành kiểm

định theo phương pháp S&L, được thực hiện bởi phần mềm Jmulti. Theo bảng 4.3 ta

thấy, điểm gãy cấu trúc (shift date) đối với các chuỗi dữ liệu lần lượt như sau: thời

điểm tháng 2/2011 đối với chuỗi tỷ giá thực giữa Việt Nam và Mỹ; tháng 6/2008 đối

với cả hai chuỗi lãi suất thực Việt Nam dựa trên lạm phát tiền nghiệm (ex-ante) và lạm

phát hậu nghiệm (ex-post); và cuối cùng điểm gãy cấu trúc của chuỗi lãi suất thực Mỹ

dựa trên lạm phát tiền nghiệm và lạm phát hậu nghiệm có tương ứng là tháng 12/2008

và 1/2009. Trong khoảng mẫu từ 1/1996 đến 5/2014 mà bài viết tiến hành nghiên cứu,

các trạng thái thay đổi trong cấu trúc các chuỗi dữ liệu có thể đến từ các nguyên nhân

41

như chiến tranh, hỗn loạn trên thị trường tài chính, thay đổi đột ngột mang tính bước

ngoặt trong các chính sách điều hành của chính phủ, hoặc giả là những thay đổi trong

kỳ vọng của người dân và nhà đầu tư (market sentiment) hay là những cú sốc của các

biến kinh tế vĩ mô…

Cụ thể, trạng thái thay đổi cấu trúc trong chuỗi tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ được xác

lập là vào thời điểm tháng 2/2011, thời điểm này NHNN tiến hành điều chỉnh tăng tỷ

giá bình quân liên ngân hàng thêm 9.3% (tương đương việc VND bị phá giá 8.5%) và

thu hẹp biên độ dao động tỷ giá từ ±3% xuống còn ±1%, giá Dollar Mỹ do đó tăng đột

biến từ 18,932 VND/ USD của tháng liền kề trước lên 20,693 VND/ USD, cao nhất từ

trước đến thời điểm hiện tại. Nguyên nhân chủ yếu là do trong nước tình hình lạm phát

tăng cao, cán cân tài khoảng vãng lai thâm hụt, thêm vào đó kỳ vọng về giảm giá VND

trong thời điểm hiện tại, giá vàng tăng liên tục thiết lập các mức kỷ lục mới, sự bất ổn

của nền kinh tế toàn cầu khiến cho tâm lý găm giữ vàng và USD của người dân và

doanh nghiệp tăng cao. Do đó động thái điều chỉnh tỷ giá này kỳ vọng giúp VND xích

lại gần hơn so với giá trị thực, loại trừ tình trạng tồn tại hai tỷ giá với mức chênh lệch

khá lớn trong một khoảng thời gian dài và nó trở thành sự kiện đánh dấu một sự

chuyển đổi trạng thái trong chuỗi tỷ giá thực giữa Việt Nam và Mỹ trong thời kỳ

nghiên cứu. Điểm gãy phần mềm Jmulti đề xuất là 2/2011 hoàn toàn hợp lý với tình

hình thực tế diễn ra vào thời điểm đó.

42

Hình 4.1. Chuỗi tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ trong giai đoạn từ 1/1996 đến 5/2014

Đối với chuỗi lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ nhìn chung có những biến

động mạnh mẽ trong khoảng thời gian năm 2008 và đầu năm 2009, đây là khoảng thời

gian đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi lần lượt các tổ chức tài

chính ngân hàng khổng lồ sụp đổ. Bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp ở

Hoa Kỳ, tình hình phát triển nhanh chóng và trở thành một cuộc khủng hoảng tài chính

từ tháng 8 năm 2007, trước tình khủng hoảng nghiêm trọng chính phủ Mỹ đã thực hiện

những gói kích cầu quy mô lớn nhằm vực dậy nền kinh tế vào khoảng cuối năm 2008

và đầu năm 2009, đồng thời Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) liên tục tiến hành

các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính, do đó lãi

suất Mỹ giảm liên tục và chạm đáy vào khoảng cuối 12/2008 cho tới hiện tại ở mức

gần bằng 0%. Tình hình thực tế trên tại Mỹ gắn liền với sự chuyển đổi cấu trúc trong

chuỗi dữ liệu lãi suất thực, điểm gãy được đề xuất lần lượt là tháng 12/2008 và tháng

1/2009 cho chuỗi lãi suất thực Mỹ dựa trên lạm phát tiền nghiệm và lạm phát hậu

nghiệm.

43

Hình 4.2. Chuỗi lãi suất thực Mỹ trong giai đoạn từ 1/1996 đến 5/2014

Còn ở Việt Nam, vào khoảng 6 tháng đầu năm 2008, từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%,

các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất và tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6

năm 2008 là 18,5%. Nguyên nhân chủ yếu là do các rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi

ro thị trường và do lạm phát trong nước tăng cao, ngoài ra ảnh hưởng từ cuộc khủng

hoảng tài chính toàn cầu làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các tổ

chức tín dụng không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc đảm bảo an toàn

hoạt động. Sau khi đã bình ổn và giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, cùng với

những biến chuyển khả quan hơn trong tình hình kinh tế, lãi suất nửa giai đoạn sau

năm 2008 có xu hướng giảm nhẹ và đi dần vào ổn định. Do vậy, cột mốc tháng 6/2008

được xem như là điểm gãy cấu trúc trong chuỗi dữ liệu lãi suất thực Việt Nam.

44

Hình 4.3. Chuỗi lãi suất thực Việt Nam trong giai đoạn từ 1/1996 đến 5/2014

Như vậy, bằng việc tìm ra điểm gãy cấu trúc gắn liền với từng sự kiện thực tế trong

từng chuỗi dữ liệu, kiểm định Saikkonen và Lütkepohl xem xét chúng như là một biến

giả (shift dummy) và đưa vào mô hình tiến hành kiểm định. Kết quả thu được hầu như

tương đồng với kiểm định ADF và có sự khác biệt rõ rệt với điểm định DF-GLS đã

thực hiện ở phần trên. Cụ thể, bảng kết quả 4.3 cho thấy các chuỗi dữ liệu tỷ giá thực,

lãi suất thực Việt Nam, lãi suất thực Mỹ (trong cả hai trường hợp dựa trên lạm phát tiền

nghiệm và lạm phát hậu nghiệm) đều không dừng ở bậc level và dừng ở sai phân bậc

một, với các mức ý nghĩa 5% cho chuỗi tỷ giá thực, 5% và 10% cho chuỗi lãi suất thực

Việt Nam dựa trên lạm phát tiền nghiệm va hậu nghiệm, và 1% cho chuỗi lãi suất thực

Mỹ trong cả hai trường hợp tiền nghiệm và hậu nghiệm. Vậy bằng việc sử dụng kiểm

định S&L, bài viết đã giải quyết được những vấn đề liên quan đến điểm gãy cấu trúc và

tính chính xác của kết quả kiểm định như Perron (1989) đã đề cập.

Tóm lại, bước kiểm định đầu tiền bao gồm cả ba phương pháp ADF, DF-GLS, S&L đã

cho thấy được mức độ biến động của các chuỗi dữ liệu đang nghiên cứu, các biến số

đều không dừng ở chuỗi gốc mà dừng ở chuỗi sai phân bậc một. Từ kết quả này, bài

45

viết tiếp tục thực hiện bước kiểm định tiếp theo là kiểm định đồng liên kết để đi tìm

bằng chứng về mối quan hệ dài hạn giữa các chuỗi biến số đang nghiên cứu.

4.1.2. Kết quả kiểm định đồng liên kết

 Hướng tiếp cận truyền thống

Kiểm định Johansen Trace Test

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen Trace Test trường hợp Việt

Nam và Mỹ

Ho: r = 0 Ho: r = 1 Ho: r = 2 Optimal lag

Johansen Trace Test

22.25623 [0.2845] 6.510661 [0.6351] 0.022606 [0.8804] 3 2 14.89119 [0.0615] 0.194581 [0.6591] - 1 8.287874 [0.4351] 0.052302 [0.8191] - 7 15.61212 [0.0480] 2.608262 [0.1063] - 20.98677 [0.3585] 6.552568 [0.6302] 0.008713 [0.9253] 3 3 14.87196 [0.0619] 0.129662 [0.7188] - 2 8.162302 [0.4482] 0.044817 [0.8323] - 3 11.84703 [0.1644] 1.130059 [0.2878] - Với Ex ante inflation q, r, r* q, r q, r* r, r* Với Ex post inflation q, r, r* q, r q, r* r, r*

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở mức ý nghĩa 5%. Giá trị p-value mỗi trường hợp được ghi nhận trong dấu [.].

Độ trễ được lấy trong kiểm định Johansen Trace Test được xác định bởi tiêu chuẩn lựa

chọn độ trễ Akaike Information Criterion (AIC) với độ trễ tối đa là 12.Vector đồng liên

kết trong kiểm định Johansen có tính đến hệ số chặn (Intercept co trend in CE and test

VAR).

46

Dựa vào bảng kết quả 4.4, chúng ta có thể thấy được các cặp dữ liệu được kiểm định

đều không có mối quan hệ đồng liên kết, ngoại trừ cặp dữ liệu lãi suất thực Việt Nam

và lãi suất thực Mỹ trong trường hợp dựa trên lạm phát tiền nghiệm.

Cụ thể, trong trường hợp q, r, r* dựa trên lạm phát tiền nghiệm, đầu tiên xét giả thuyết

H0: r = 0 (không có mối quan hệ đồng liên kết), p-value của các cặp dữ liệu (q, r, r*),

(q, r), (q, r*) đều bé hơn 0.05, đồng thời t-statistic của các cặp này lớn hơn t-critical (ở

mức ý nghĩa 5%), do đó giá trị điểm định rơi vào vùng “fail to reject” tức là không thể

bác bỏ giả thuyết H0, không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các cặp dữ liệu trên.

Riêng đối với cặp lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ (r, r*), p-value có giá trị

là 0.048 xấp xỉ bằng 0.05, đồng thời t-stactistic bằng 15.61212 cũng xấp xỉ bằng với

giá trị t-critical là 15.49471, giá trị kiểm định này cho phép chúng ta bác bỏ giả thuyết

H0 (H0: không có mối quan hệ đồng liên kết), từ đó tiếp tục xét trường hợp H0: có một

mối quan hệ đồng liên kết, thì p-value lúc này lớn hơn 0.05, do đó không thể bác bỏ H0

có một mối quan hệ đồng liên kết, có thể đưa ra bằng chứng về một mối quan hệ đồng

liên kết giữa lãi suất thực hai nước Việt Nam và Mỹ, tuy nhiên độ mạnh của kiểm định

trong trường hợp này không cao, chưa đủ tin cậy để cho ra một bằng chứng xác thực do

Sample (adjusted): 1996M09 2014M05 Included observations: 213 after adjustments Trend assumption: Linear deterministic trend Series: RVN_ANTE RUS_ANTE Lags interval (in first differences): 1 to 7

Trace

Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace) Hypothes ized No. of CE(s)

Eigen value

Statistic

0.05 Critical Value

Prob.**

None *

0.059225

15.61212

15.49471

0.0480

giá trị kiểm định rất gần cận biên giữa chấp nhận và bác bỏ H0.

47

2.608262

0.1063

0.012171

3.841466

At most 1 Trace test indicates 1 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

Hình 4.4. Kết quả kiểm định đồng liên kết lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ

Tương tự như vậy, đối với trường hợp q, r, r* dựa trên lạm phát hậu nghiệm, các giá trị

kiểm định đều cho ra một kết quả là không có mối quan hệ đồng liên kết giữa các cặp

dữ liệu đang xem xét.

Kiểm định S&L Trace Test không xem xét đến điểm gãy cấu trúc

Bảng 4.5. Kết quả kiểm định đồng liên kết S&L không xem xét đến điểm gãy cấu

trúc trường hợp Việt Nam và Mỹ

S&L Trace Test without shifts Ho: r = 0 Ho: r = 1 Ho: r = 2 Lag

Với Ex ante inflation q, r, r* q, r q, r* r, r* Với Ex post inflation q, r, r* q, r q, r* r, r* 27.97 [0.0587] 4.70 [0.8946] 0.33 [0.9575] 2 1 15.24 [0.0610] 0.19 [0.9818] - 1 0.10 [0.9934] - 4.54 [0.9060] 7 0.90 [0.8191] - 7.99 [0.5485] 21.67 [0.2848] 4.14 [0.9324] 0.00 [1.0000] 3 2 0.42 [0.9395] - 20.34 [0.076] 2 0.01 [0.9999] - 5.10 [0.8622] 3 1.76 [0.5951] - 5.35 [0.8397]

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Giá trị p-value mỗi trường hợp được ghi nhận trong

dấu [.]. Độ trễ được lấy trong kiểm định S&L Trace Test được xác định bởi tiêu chuẩn

lựa chọn độ trễ Akaike Information Criterion (AIC) với độ trễ tối đa là 12.

48

Kiểm định đồng liên kết S&L khi không xem xét đến điểm gãy cấu trúc cũng cho ra

kết quả gần như tương tự như trong kiểm định Johansen Trace Test. Bảng 4.5 cho thấy

tại giả thuyết H0: r = 0 (không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết), p-value của các cặp

chuỗi biến số đều rất cao, đều có giá trị lớn hơn 0.05 và thậm chí có nhiều giá trị xấp xỉ

bằng 1, do đó mặc nhiên giá trị thống kê của kiểm định sẽ rơi vào vùng “fail to reject”

không thể bác bỏ giả thuyết H0, tức là không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các

cặp biến số đang xem xét.

Qua hai phương pháp kiểm định đồng liên kết mà bài viết vừa thực hiện, kết quả kiểm

định không tìm được bằng chứng ủng hộ mối quan hệ dài hạn giữa các chuỗi dữ liệu tỷ

giá thực, lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ hoặc nếu có như trường hợp giữa

lãi suất thực Việt Nam và Mỹ dựa trên lạm phát tiền nghiệm trong phép kiểm định

Johansen thì độ mạnh kiểm định lại chưa có, chưa đủ mức độ tin cậy để có thể kết luận

về một mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực. Và kết quả này

cũng tương tự như trong bài nghiên cứu gốc của Byrne và Nagayasu (2000) khi hai ông

cũng không tìm thấy bằng chứng hoặc bằng chứng vẫn chưa đáng tin cậy về mối quan

hệ dài hạn giữa tỷ giá thực và lãi suất thực giữa hai nước Anh và Mỹ bằng cả hai phép

kiểm định Johansen và kiểm định S&L không xem xét điểm gãy cấu trúc.

Như vậy, vai trò điểm gãy cấu trúc có thật sự quan trọng và sự xuất hiện của chúng

có gây ra tác động để làm sai lệch kết quả kiểm định hay không? Bài viết sẽ tiếp tục

tiến hành kiểm định lại bằng phương pháp S&L có xem xét đến điểm gãy cấu trúc

để làm sáng tỏ vấn đề này.

 Hướng tiếp cận mới (có xem xét điểm gãy cấu trúc)

Bảng 4.6. Kết quả kiểm định đồng liên kết S&L có xem xét đến điểm gãy cấu

trúc trường hợp Việt Nam và Mỹ

Ho: r = 0 Ho: r = 1 Ho: r = 2 Lag Shift day S&L Trace

49

28.76** [0.0465] 17.91 [0.5484] 30.73*** [0.0252] 6.66 [0.7025] 33.49*** [0.0000] 1.06 [0.7752] 0.02 [0.9994] 21.22 [0.0052] 0.35 [0.9529] 6.69 [0.6989] 0.24 [0.9740] 4.94 [0.8752] 4.57 [0.1596] 8.10 [0.5355] 0.11 [0.9925] 7.63 [0.5898]

4.87 [0.8814] 29.06** [0.0425] 8.97 [0.4396] 22.92 [0.2178] 3.91 [0.9453] 28.01 [0.0580] 22.63*** [0.0027] 0.24 [0.9744] 22.28*** [0.0032] 0.43 [0.9363] 0.00 [1.0000] 6.32 [0.7405] 0.10 [0.9935] 5.48 [0.8272] 3.56 [0.2631] 6.07 [0.7666] 1.40 [0.6850] 4.65 [0.8985] 5.30 [0.8442] 1.02 [0.7858] 3 11.68 [0.2079] 0.11 [0.9920] 3 0.83 [0.8376] 2 7 - 2 - 1 - 1 - 7 - 7 - 0.34 [0.9551] 1 0.32 [0.9603] 1 0.16 [0.9861] 1 3 - 2 - 2 - 2 - 3 - 3 - 2008 M6 2008 M12 2011 M2 2008 M6 2011 M2 2008 M12 2011 M2 2008 M6 2008 M12 2008 M6 2009 M1 2011 M2 2008 M6 2011 M2 2009 M1 2011 M2 2008 M6 2009 M1 Test with shifts Với Ex ante inflation q, r, r* q, r, r* q, r, r* q, r q, r q, r* q, r* r, r* r, r* Với Ex post inflation q, r, r* q, r, r* q, r, r* q, r q, r q, r* q, r* r, r* r, r*

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Giá trị p-value mỗi trường hợp được ghi nhận trong

dấu [.]. Độ trễ được lấy trong kiểm định S&L Trace Test là độ trễ tối ưu (optimal lag)

với độ trễ tối đa là 12. Các ký hiệu (*), (**), (***) lần lượt đại diện cho mức ý nghĩa

10%, 5% và 1%.

Trong giai đoạn kiểm định nghiệm đơn vị, phần mềm Jmulti đã xác định điểm gãy

tương ứng với từng chuỗi dữ liệu, theo đó các điểm gãy lần lượt là tháng 2/2011 cho

chuỗi tỷ giá thực, tháng 6/2008 cho lãi suất thực Việt Nam ứng với cả hai thước đo tỷ

lệ lạm phát kỳ vọng, tháng 12/2008 và tháng 1/2009 cho chuỗi lãi suất thực Mỹ dựa

50

trên lạm phát tiền nghiệm và lạm phát hậu nghiệm. Mặt khác, theo phương pháp kiểm

định kiểm định S&L, chỉ một biến giả đại diện cho điểm gãy cấu trúc được đưa vào

xem xét trong vector đồng liên kết giữa các biến. Do đó, bài viết sẽ thực hiện bằng

cách lần lượt đưa từng biến giả tương ứng với các cặp dữ liệu vào trong mô hình kiểm

định và xem xét mối quan hệ đồng liên kết trong từng trường hợp cụ thể, và ứng với

hai thước đo của tỷ lệ lạm phát kỳ vọng bài viết sẽ xem xét tổng cộng là mười tám

trường hợp.

Dựa vào bảng kết quả 4.6, chúng ta có thể thấy được có bằng chứng về mối quan hệ dài

hạn của các chuỗi dữ liệu khi có xem xét đến các điểm gãy cấu trúc của chuỗi tỷ giá

thực (tháng 2/2011) và chuỗi lãi suất thực Việt Nam (tháng 6/2008) trong cả hai trường

hợp ứng với lạm phát tiền nghiệm và hậu nghiệm. Riêng điểm gãy cấu trúc của chuỗi

lãi suất thực Mỹ, khi đưa vào mô hình tiến hành kiểm định đồng liên kết vẫn không

cho ra kết quả như kỳ vọng.

Cụ thể, khi đưa điểm gãy tháng 6/2008 của chuỗi lãi suất thực Việt Nam lần lượt vào

các mô hình kiểm định, giá trị kiểm định t-stactistic và p-value tìm được đều đưa đến

kết quả bác bỏ giả thuyết H0 không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết, và chấp nhận giả

thuyết H0 tồn tại một mối quan hệ đồng liên kết, kết quả này xuất hiện ở các cặp dữ liệu

tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ, lãi suất thực Việt Nam, lãi suất thực Mỹ (q, r, r*) và giữa

cặp tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ, lãi suất thực Việt Nam (q, r) trong cả hai trường hợp

lạm phát tiền nghiệm và lạm phát hậu nghiệm. Còn trường hợp các cặp dữ liệu còn lại

(q, r*) và (r, r*), kết quả kiểm định không đưa ra được bằng chứng về mối quan hệ

đồng liên kết dù mô hình đã xem xét đến điểm gãy cấu trúc.

Tiếp theo đó, khi đưa điểm gãy tháng 2/2011 của chuỗi tỷ giá thực lần lượt vào các mô

hình kiểm định, tương tự như trên, các giá trị kiểm định t-stactistic và p-value tìm được

đều đưa đến kết quả bác bỏ giả thuyết H0 không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết, và

chấp nhận giả thuyết tồn tại một mối quan hệ đồng liên kết, kết quả này xuất hiện ở các

51

cặp dữ liệu tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ, lãi suất thực Việt Nam, lãi suất thực Mỹ (q, r,

r*) trong trường hợp lạm phát tiền nghiệm và giữa cặp tỷ giá thực Việt Nam và Mỹ, lãi

suất thực Việt Nam (q, r) trong trường hợp lạm phát hậu nghiệm.

Cuối cùng kiểm định đồng liên kết S&L xem xét đến điểm gãy cấu trúc của chuỗi lãi

suất Mỹ (tháng 12/2008 cho chuỗi tiền nghiệm và tháng 1/2009 cho chuỗi hậu

nghiệm), kết quả kiểm định lại không tìm thấy bằng chứng nào về mối quan hệ trong

dài hạn của các cặp chuỗi biến số mà bài viết nghiên cứu.

Về độ mạnh của kết quả kiểm định, qua bảng 4.6 ta có thể thấy được các giá trị t-

statistic đều có thể bác bỏ giả thuyết H0 không có mối quan hệ đồng liên kết ở các mức

ý nghĩa 1% và 5% và các giá trị p-value đều có ý nghĩa thống kê, đồng thời nhỏ hơn

nhiều so với trường hợp có đồng liên kết ở kiểm định Johansen. Kết quả này cho chúng

ta thấy được việc cân nhắc xem xét yếu tố điểm gãy cấu trúc vào trong mô hình nghiên

cứu là hoàn toàn hợp lý và đã mang lại kết quả kiểm định hữu hiệu.

Như vậy cho tới thời điểm này, bài viết đã đi tìm mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá thực

và chênh lệch lãi suất thực trường hợp Việt Nam và Mỹ dựa trên hai hướng tiếp cận có

xem xét và không xem xét đến điểm gãy cấu trúc và đã đưa ra được bằng chứng vững

chắc về mối quan hệ dài hạn giữa hai biến số kinh tế này. Giống như những luận điểm

đã được các nhà kinh tế học như Perron (1989) hay Byrne và Nagayasu (2010) đề cập

đến trong các bài nghiên cứu của mình về mức độ ảnh hưởng của điểm gãy cấu trúc có

thể làm sai lệch kết quả kiểm định, bài viết cũng đã nêu bật tầm quan trọng của điểm

gãy cấu trúc trong các bước tiến hành kiểm định khi so sánh với kết quả kiểm định

không có xem xét đến điểm gãy.

4.1.3. Đánh giá mối quan hệ trong dài hạn và kiểm định tính ổn định của mô

hình

Hồi quy VECM

52

Sau khi tìm được bằng chứng khẳng định tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa

các biến số, bài viết đánh giá hệ thống trong mô hình VECM và đưa ra các đánh giá dài

hạn cho mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và lãi suất thực.

Từ kết quả kiểm định đồng liên kết S&L có xem xét đến điểm gãy cấu trúc, bài viết tìm

ra được hai điểm gãy có tác động lên việc ước lượng mối quan hệ dài hạn của các

chuỗi dữ liệu, đó là điểm tháng 2/2011 của chuỗi tỷ giá thực và tháng 6/2008 của chuỗi

lãi suất thực Việt Nam. Tuy nhiên, điểm gãy tháng 6/2008 có tác động tới việc ước

lượng mối quan hệ dài hạn của các cặp (q, r, r*) và (q, r) trong cả hai trường hợp lạm

phát hậu nghiệm và lạm phát tiền nghiệm, trong khi đó điểm gãy tháng 2/2011 chỉ tác

động tới việc ước lượng mối quan hệ dài hạn của cặp (q, r, r*) trong trường hợp lạm

phát hậu nghiệm và (q, r) trong trường hợp lạm phát tiền nghiệm. Do đó, khi đưa yếu

tố điểm gãy cấu trúc vào mô hình để ước lượng các tham số cho các chuỗi dữ liệu, bài

viết sẽ lựa chọn điểm gãy là tháng 6/2008 của chuỗi lãi suất thực Việt Nam.

Bảng 4.7. Kết quả ước lượng phương trình dài hạn giữa tỷ giá thực và lãi suất

thực trường hợp Việt Nam và Mỹ

Ex ante 1.000 [0.000] 10.586 [0.043] -10.343 [0.312] -2.277 [0.004] -12.174 [0.000] Ex post 1.000 [0.000] 5.646 [0.001] -0.973 [0.759] -0.608 [0.012] -11.003 [0.000] Biến q r r* shift 6/2008 const

Phương trình ước lượng cụ thể cho trường hợp lạm phát hậu nghiệm

(Tương tự đối với phương trình ước lượng cho trường hợp lạm phát tiền nghiệm)

53

Phương trình liên kết ở trên có vai trò biểu diễn mối quan hệ giữa tỷ giá thực và chênh

lệch lãi suất thực giữa Việt Nam và Mỹ khi các biến số này đạt được trạng thái cân

bằng trong dài hạn. Hệ số ước lượng của tỷ giá hối đoái được tiêu chuẩn hoá trong mối

quan hệ dài hạn, và kết quả hồi quy thu được trong bảng kết quả 4.7 là hoàn toàn phù

hợp với mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và mức chênh lệch lãi suất thực.

Giá trị p-value của chuỗi tỷ giá thực và lãi suất thực Việt Nam (dựa trên hai thước đo

lạm phát kỳ vọng) đều bé hơn rất nhiều so với giá trị 0.05, chứng tỏ các hệ số ước

lượng của hai chuỗi biến số này đều có ý nghĩa thống kê. Các giá trị ước lượng của hai

biến số này trái dấu biểu thị mối tương quan ngược chiều giữa tỷ giá hối đoái thực và

lãi suất thực Việt Nam. Điều này cho thấy một sự gia tăng trong lãi suất của Việt Nam

sẽ thu hút ngoại tệ đầu tư vào trong nước, do đó cung ngoại tệ tăng đồng nghĩa với

đồng Dollar Mỹ mất giá và đi kèm với sự sụt giảm trong tỷ giá hối đoái. Cụ thể trong

trường hợp lãi suất thực hậu nghiệm, khi lãi suất thực Việt Nam tăng 1%, tỷ giá thực sẽ

điều chỉnh giảm một khoảng tương ứng là 5.646%.

Còn đối với chuỗi lãi suất thực Mỹ, hệ số ước lượng từ mô hình có giá trị p-value là

lớn hơn 0.05 không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này không đưa ra được một kết luận

rõ ràng về mối quan hệ giữa tỷ giá thực và lãi suất thực Mỹ. Tuy nhiên theo kỳ vọng

dấu mô hình ước lượng được giữa q và r*, mối tương quan giữa hai biến số này là cùng

chiều, đồng nghĩa với việc khi lãi suất thực trong dài hạn của Mỹ tăng cao hơn Việt

Nam, tỷ giá thực sẽ gia tăng một khoảng tương ứng. Kết quả thu được trong trường

hợp Việt Nam và Mỹ có sự tương đồng với kết quả trường hợp Anh và Mỹ trong bài

nghiên cứu của Byrne và Nagayasu (2010), tỷ giá hối đoái thực tương quan nghịch

chiều với lãi suất thực trong nước và tương quan cùng chiều với lãi suất thực nước

ngoài.

Kiểm định tính ổn định của mô hình

54

Sau khi ước lượng phương trình dài hạn giữa các biến số bằng mô hình VECM, bài

viết sử dụng phương pháp đệ quy đưa ra bởi Johansen (1995) và Hansen & Johansen

(1999) để kiểm định sự ổn định của mô hình. Kết quả trình bày trong hình 5 và hình 6.

Ước lượng đệ quy đơn giản của các eigenvalue với khoảng tin cậy 95% (Johansen,

1995) để kiểm tra sự tồn tại của đồng liên kết qua thời gian.

A. Recursive eigenvalues

B. -statistics

Hình 4.5. Kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình VECM với lãi suất tiền

nghiệm. A. Recursive eienvalues. B. -statistics.

55

A. Recursive eigenvalues

B. -statistics

Hình 4.6. Kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình VECM với lãi suất hậu nghiệm.

A. Recursive eienvalues. B. -statistics.

56

Nhìn vào hình 4.5 và hình 4.6, chúng ta có thể thấy được ở phương pháp recursive

eigenvalues, các giá trị eigenvalue dao động nhẹ và đều nhỏ hơn đường giới hạn đơn vị

1 và đồng thời các giá trị thống kê t của kiểm định đều nhỏ hơn giá trị tới hạn (đường

biểu diển t-statistic nằm dưới đường nằm ngang đứt khúc t-critical) cho cả hai trường

hợp lãi suất tiền nghiệm và lãi suất hậu nghiệm. Điều này cho thấy hệ số ước lượng là

đáng tin cậy, mô hình là ổn định và phù hợp.

4.2.

Mở rộng nghiên cứu cho các nước trong khu vực

Sau khi tìm thấy được bằng chứng về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và

chênh lệch lãi suất thực tại Việt Nam, bài viết tiến hành mở rộng kiểm định mối quan

hệ này đối với các quốc gia trong khu vực Châu Á nhằm củng cố hơn nữa bằng chứng

về mối quan hệ dài hạn giữa hai biến số kinh tế này.

4.2.1. Kết quả kiểm định tính dừng

 Hướng tiếp cận truyền thống

Trước tiên, bài viết phân tích rằng liệu có thể sử dụng các kiểm định ADF và DF-GLS

để bác bỏ giả thiết không dừng đối với chuỗi dữ liệu đa quốc gia hay không. Và kết

quả cho thấy rằng hầu hết các chuỗi tỷ giá thực và lãi suất thực đều không dừng ở bậc

level, trừ chuỗi lãi suất thực của Mỹ và lãi suất thực Thái Lan là dừng ở bậc level trong

trường hợp sử dụng kiểm định DF-GLS.

Bảng 4.8. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF và DF-GLS trường hợp các

nước Châu Á và Mỹ

ADF Test DF-GLS Test Quốc gia Biến

Mỹ r*

Malaysia q Chuỗi gốc Chuỗi sai phân bậc 1 Chuỗi gốc Chuỗi sai phân bậc 1 -3.335043 (12) -1.490531 (0) -11.75451*** (1) -15.12310*** (0) -2.704044* (12) -1.292968 (0) -3.668800*** (6)

57

r

q

Indonesia

r

q

Hàn Quốc

r

q -1.038510 (12) -5.706829*** (12) -14.28113*** (1) -15.06067*** (0) -2.272394 (11) -5.660050*** (6) Thái Lan

r

q

Philippine

r -22.14127*** (0) -5.967480*** (12) -14.26560*** (1) -15.46566*** (0) -6.108791*** (10) -6.147659*** (6) -4.363777*** (8) -14.44228*** (0) -9.269828*** (9) -2.746543 (1) -2.692167 (9) -1.984701 (2) -2.349477 (0) -2.435915 (11) -1.831933 (7) -3.273742 (9) -0.891299 (0) -3.141725 (11) -2.201071 (1) -1.931509 (9) -1.934432 (2) -2.086076 (0) -2.508015 (11) -1.293807 (7) -3.233287** (9) -0.818553 (0) -2.533288 (11) -14.11333*** (0) -1.927167 (12)

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Độ trễ của mỗi trường hợp được ghi nhận trong

dấu (.) và được xác định bởi tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ Akaike Information Criterion

(AIC) với độ trễ tối đa là 12. Kiểm định tính dừng ở chuỗi gốc và chuỗi sai phân bậc

một có tính đến hệ số chặn (intercept). Các ký hiệu (*), (**), (***) lần lượt đại diện

cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.

 Hướng tiếp cận mới (có xem xét điểm gãy cấu trúc)

Kiểm định nghiệm đơn vị S&L được thực hiện bởi phần mềm JMulti và trong đó các

thời điểm xảy ra điểm gãy cấu trúc cũng được đề xuất bởi phần mềm này. Các điểm

gãy tại các nước tiến hành nghiên cứu đều dao động trong khoảng thời gian năm 1997

và đầu năm 1998, đây là thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, bắt đầu

khởi nguồn từ Thái Lan sau đó lan ra rất nhanh và ảnh hưởng mạnh đến các thị trường

58

chứng khoán, tổ chức tài chính, và giá cả của những tài sản khác ở các nước khu vực

Châu Á khác. Trong đó, Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng

nghiêm trọng nhất bởi cuộc khủng hoảng này, theo sau đó Hồng

Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi sự sụt giá bất thình

lình. Căn cứ vào biến động lịch sử kể trên, chúng ta có thể thấy được các điểm gãy cấu

trúc được Jmulti đề xuất là hoàn toàn phù hợp.

Bảng 4.9. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị S&L trường hợp các nước Châu Á và

Mỹ

Quốc gia Biến

Mỹ

Malaysia

Indonesia

Hàn Quốc

Thái Lan

Philippine Chuỗi gốc -2.5321 (12) -1.7098 (0) -2.5958* (1) -1.7303 (9) -1.6187 (2) -2.2570 (0) -1.5452 (11) -2.2674 (7) -1.8480 (9) -0.8578 (0) -2.1711 (11) S&L Test Chuỗi sai phân bậc 1 -3.6224*** (1) -2.2760 (0) -2.9567** (0) -8.3097*** (12) -3.9305*** (1) -6.6741*** (0) -5.6546*** (10) -2.3591 (6) -4.9545*** (8) -4.4245*** (0) -3.0888** (9) Shift date 2008 M11 1998 M2 1997 M7 1998 M1 1997 M7 1997 M12 1997 M11 1998 M2 1997 M8 1997 M12 1997 M10 r* q r q r q r q r q r

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Độ trễ của mỗi trường hợp được ghi nhận trong

dấu (.) và được xác định bởi tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ Akaike Information Criterion

(AIC) với độ trễ tối đa là 12. Các ký hiệu (*), (**), (***) lần lượt đại diện cho mức ý

nghĩa 10%, 5% và 1%. Các thời điểm xuất hiện điểm gãy cấu trúc (shift date) được đề

xuất bởi phần mềm Jmulti.

Kết quả kiểm định S&L gần như tương thích hoàn toàn với hai phương pháp kiểm định

ADF, DF-GLS đã tiến hành trước đó, các chuỗi dữ liệu đều thể hiện sự biến động và

59

kết quả t-statistic không thể bác bỏ giả thuyết H0 là chuỗi không dừng ở bậc level, chỉ

ngoại trừ chuỗi lãi suất thực Malaysia dừng ở bậc level với mức ý nghĩa là 10%.

Nhìn chung, cả ba phương pháp kiểm định đều cho thấy chúng ta sẽ nghiên cứu một

tập hợp nhiều chuỗi dữ liệu dừng và không dừng (theo hai bảng kết quả 4.8 và 4.9 là

các chuỗi I(0) và I(1)). Nghiên cứu của Byrne và Nagayasu (2010) trong trường hợp

giữa hai nước Anh và Mỹ cũng đưa ra kết qủa kiểm định nghiệm đơn vị tương tự với

dữ liệu lãi suất thực của Anh là một chuỗi dừng so với các dữ liệu không dừng khác.

Tuy nhiên hai ông đã đưa ra nhận định rằng trong các chuỗi dữ liệu tỷ giá thực và lãi

suất thực mà mình đang xem xét, sự hiện diện của ít nhất hai chuỗi dữ liệu không dừng

trong khi có sự xuất hiện của các chuỗi dừng khác vẫn có thể đảm bảo cho khả năng

tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến này theo như mô hình lý thuyết đã đưa ra ban

đầu. Theo Byrne và Nagayasu, trong trường hợp này kiểm định đồng liên kết được xây

dựng theo phương pháp của Saikkonen và Lütkepohl (2000) vẫn phù hợp và có ý

nghĩa. Do đó, bước kế tiếp sẽ tiến hành kiểm định đồng liên kết dựa trên phương pháp

Johansen và phương pháp S&L để đi tìm bằng chứng về mối quan hệ dài hạn này.

4.2.2. Kết quả kiểm định đồng liên kết

Bảng 4.10. Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen và S&L có xem xét điểm

gãy cấu trúc trường hợp các nước Châu Á và Mỹ

Quốc gia Shift date

Giả thiết Ho: r = 0 Ho: r = 1 Ho: r = 2 Lag Johansen Trace Test

10 Malaysia q, r, r*

12 Indonesia q, r, r*

2 Hàn Quốc q, r, r*

12 Thái Lan q, r, r* 51.42324 [0.0000] 40.54773 [0.0020] 26.92529 [0.1035] 27.93174 [0.0808] 10.62713 [0.2355] 10.39049 [0.2519] 12.49158 [0.1348] 10.31450 [0.2573] 2.766606 [0.0962] 3.651232 [0.0560] 3.152561 [0.0758] 1.058764 [0.3035]

60

2 Philippine q, r, r* 36.85918 [0.0065] 3.754461 [0.9223] 1.221915 [0.2690]

S&L Trace Test with shifts

2 1997 M11 q, r, r*

2 1997 M12 Hàn Quốc q, r, r*

2 2008 M11 q, r, r*

12 1997 M8 q, r, r*

12 1998 M2 Thái Lan q, r, r*

12 2008 M11 q, r, r* 19.68 [0.4155] 18.88 [0.4742] 23.34 [0.1979] 24.86 [0.1369] 17.61 [0.5721] 29.73 [0.0346] 9.15 [0.4206] 8.27 [0.5169] 5.24 [0.8493] 3.89 [0.9465] 5.19 [0.8540] 7.65 [0.5877] 1.01 [0.7889] 0.24 [0.9736] 0.42 [0.9383] 1.54 [0.6484] 0.66 [0.8814] 0.08 [0.9959]

Ghi chú: Các giá trị thống kê t-statistic được tính toán và so sánh với các giá trị tới

hạn ở mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. Giá trị p-value mỗi trường hợp được ghi nhận trong

dấu [.]. Độ trễ được lấy trong kiểm định được xác định bởi tiêu chuẩn lựa chọn độ trễ

Akaike Information Criterion (AIC) với độ trễ tối đa là 12.

Bảng 4.10 bài viết xem xét liệu có bằng chứng nào về mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá

hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực trong một mẫu gồm nhiều quốc gia. Bằng

cách sử dụng kiểm định Johansen truyền thống, chúng ta phát hiện được bằng chứng về

mối liên hệ đồng liên kết ở các quốc gia Malaysia, Indonesia và Philippine ở mức ý

nghĩa 5%. Kết quả này ủng hộ mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và lãi suất thực

hơn những nghiên cứu trước đây và có thể là do mức độ hài hoà giữa hội nhập kinh tế

tài chính ở các quốc gia này. Tuy nhiên, trong hai trường hợp không tìm thấy mối quan

hệ đồng liên kết ở kiểm định Johansen, bài viết vẫn có thể tìm thấy được một mối quan

hệ đồng liên kết trong trường hợp Thái Lan khi xét đến trạng thái chuyển đổi cấu trúc

thông qua kiểm định S&L. Điều này cho thấy một mức độ không đồng nhất giữa các

quốc gia trong thời kỳ mẫu xem xét. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực và lãi suất

61

thực không được tìm thấy ở Hàn Quốc, điều này có thể được giải thích vì Mỹ không

phải là quốc gia giao thương chiếm tỷ trọng hàng đầu trong tổng kim ngạch xuất nhập

khẩu của Hàn Quốc (hai quốc gia chiếm tỷ trọng giao dịch với Hàn Quốc lớn nhất là

Trung Quốc và Nhật Bản), do đó điều kiện kinh tế của Hàn Quốc có thể xem như

không gắn kết chặt chẽ với Mỹ.

Tóm lại, bao gồm cả Việt Nam đã được điều ra ở phần trên, bài viết đã nghiên cứu sáu

quốc gia và phát hiện được mối quan hệ đồng liên kết ở năm quốc gia, trong đó có hai

quốc gia chỉ tìm thấy mối quan hệ này khi xem xét đến trạng thái chuyển đổi cấu trúc

trong chuỗi dữ liệu. Như vậy, sự thay đổi cấu trúc có thể không là một hiện tượng phổ

biến ở khắp các quốc gia, tuy nhiên bằng chứng của chúng ta vẫn ủng hộ cho mối quan

hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và chênh lệch lãi suất thực.

62

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN

Dựa trên nền tảng là bài nghiên cứu của Joseph P. Byrne và Jun Nagayasu (2010), bài

viết tiến hành xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực USD/VND và chênh lệch

lãi suất thực giữa Việt Nam và Mỹ. Sau đó mở rộng nghiên cứu cho các quốc gia

Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippine trong mối quan hệ với Mỹ để

khẳng định lại mối quan hệ đó.

Sau khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm, áp dụng song song cả hai phương pháp tiếp

cận truyền thống không xem xét điểm gãy cấu trúc và phương pháp tiếp cận mới có

xem xét đến điểm gãy cấu trúc, bài viết đã tìm ra được bằng chứng về mối quan hệ

trong dài hạn giữa tỷ giá thực và chênh lệch lãi suất thực ở các quốc gia nghiên cứu.

Ở các quốc gia Malaysia, Indonesia và Philippine thì mối quan hệ giữa lãi suất thực và

chênh lệch lãi suất thực cũng đã được tìm thấy ngay cả khi chưa đưa điểm gãy cấu trúc

vào trong mô hình kiểm định. Còn trong trường hợp Việt Nam và Thái Lan, điểm gãy

cấu trúc góp phần nêu bật được mối quan hệ đó khi phương pháp tiếp cận theo truyền

thống không thể khẳng định được mối quan hệ trong dài hạn giữa tỷ giá thực và chênh

lệch lãi suất thực. Có thể thấy được vai trò của điểm gãy cấu trúc không hoàn toàn

giống nhau ở các quốc gia, tuy nhiên bằng chứng mà bài viết tìm được thông qua các

kết quả kiểm định vẫn ủng hộ cho mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái thực và

chênh lệch lãi suất thực.

Nhìn chung, mối quan hệ tìm được giữa hai biến số này mang hàm ý về sự thay đổi của

chính sách tiền tệ, mà cụ thể là sự thay đổi trong lãi suất giữa hai nước sẽ tác động đến

tỷ giá hối đoái. Các nhà hoạch định chính sách có thể cân nhắc đến vấn đề này khi đưa

ra quyết định thay đổi trong chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta biết

rằng sự kỳ vọng của tỷ giá hối đoái còn chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố như cán cân

thương mai, sự dịch chuyển của các dòng vốn, kiểm soát của chính phủ…., do đó phải

xem xét một cách toàn diện các nhân tố này để đưa ra quyết định chính sách đúng đắn

63

và phù hợp. Bài nghiên cứu này chỉ nghiên cứu một khía cạnh trong một tổng thể nhiều

yếu tố có khả năng tác động đến tỷ giá trong dài hạn mà thôi. Đó cũng là điểm hạn chế

của bài viết này khi giả định kỳ vọng của tỷ giá thực không đổi. Những nghiên cứu

trong tương lai nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất có thể tiếp cận theo

hướng tìm hiểu về mối quan hệ phi tuyến giữa tỷ giá thực và lãi suất thực hoặc cũng có

thể thêm những yếu tố khác vào trong mô hình để giải quyết hạn chế mà bài viết đề

cập.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Trần Ngọc Thơ và Nguyễn Ngọc Định, 2008. Tài chính Quốc Tế. 4. Thành phố

Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thống Kê.

Tài liệu Tiếng Anh

1. Baxter, M., 1994. Real exchange rates and real interest rate differentials: Have

we missed the business cycle relationship. Journal of Monetary Economics, 33:

5−37.

2. Byrne, J.P. and J. Nagayasu, 2010. Structural breaks in the real exchange rate

and real interest rate relationship. Global Finance Journal, 21: 138–151.

3. Campbell, J.Y. and R.H. Clarida, 1987. The dollar and real interest rates.

Carnegie Rochester Conference Series on Public Policy, 27: 103−140.

4. Campbell, J.Y. and P. Perron, 1991. Pitfalls and opportunities: What

macroeconomists should know about unit root. NBER Macroeconomics Annual

1991, Volume 6, 1991.

5. Chortareas, G.E. and R.L. Driver, 2001. PPP and the real exchange rate–real

interest rate differential revisited: Evidence from nonstationary panel data. Bank

of England Working Paper #138.

6. Dickey, D.A. and W.A. Fuller, 1979. Estimators for autoregressive time series

with a unit root. Journal of the American StatisticalAssociation, 74: 427−431.

7. Dornbusch, R., 1976. Expectations and exchange rate dynamics. Journal of

Political Economy, 84: 1161−1176.

8. Edison, H.J. and W.R. Melick, 1999. Alternative approaches to real exchange

rates and real interest rates: Three up and three down. International Journal of

Finance and Economics, 4: 93−111.

9. Edison, H.J. and B.D. Pauls, 1993. A re-assessment of the relationship between

real exchange rates and real interest rates: 1974–1990. Journal of Monetary

Economics, 31, 165−187.

10. Elliott, G., T.J. Rothemborg and J.H. Stock, 1996. Efficient tests for an

autoregressive unit root. Econometrica, 64: 813−836.

11. Engle R. F and C. W. J. Granger, 1987, Co-Integration and Error Correction:

Representation, Estimation, and Testing. Econometrica, 55: 251-276

12. Frankel, J.A, 1979. On the mark: A theory of floating exchange rates based on

real interest differential. American Economic Review, 69: 610−622.

13. Frenkel, J.A., 1976. A monetary approach to the exchange rate: doctrinal

aspects and empirical evidence. Scandinavian Journal of Economics, 78: 255–

276.

14. Hansen, H. and S. Johansen, 1999. Some tests for parameter constancy in

cointegrated VAR-models. Econometrics Journal, 2: 306−333.

15. Hooper, P. and J. Morton, 1982. Fluctuations in the dollar: A model of nominal

and real exchange rate determination, Journal of International Money and

Finance, 1: 39-56.

16. Johansen, S., 1988. Statistical analysis of cointegrating vectors. Journal of

Economic Dynamics and Control, 12: 231−254.

17. Johansen, S. and K. Juselius, 1992. Testing structural hypotheses in

amultivariate cointegration analysis of the PPP and the UIP for the UK. Journal

of Econometrics, 53: 211−244.

18. Johansen, S., 1995. Likelihood-based inference in cointegrated vector

autoregressive models. Oxford: Oxford University Press.

19. Kanas, A., 2005. Regime linkages in the US/UK real exchange rate–real interest

rate differential relation. Journal of International Money and Finance, 24:

257−274.

20. MacDonald, R. and J. Nagayasu, 2000. The long-run relationship between real

exchange rates and real interest rate differentials: A panel study. IMF Staff

Papers, 47: 116−128.

21. Meese, R. and K. Rogoff, 1988. Was it real? The exchange rate–interest

differential relation over the modern floating rate-period. Journal of Finance,

43: 933−948.

22. Nakagawa, H., 2002. Real exchange rates and real interest rate differentials:

Implications of nonlinear adjustment in real exchange rates. Journal of

Monetary Economics, 49: 629−649.

23. Perron, P., 1989. The great crash, the oil price shock, and the unit root

hypothesis. Econometrica, 57: 1361−1401.

24. Saikkonen, P. and H. Lütkepohl, 2000. Testing for the cointegrating rank of a

VAR process with structural shifts. Journal of Business and Economic

Statistics, 18: 451−464.

25. Saikkonen, P. and H. Lütkepohl, 2002. Testing for a unit root in a time series

with a level shift at unknown time. Econometric Theory, 18: 313−348.

Website 1. Quỹ tiền tệ thế giới: http://www.imf.org/

PHỤ LỤC

1. Kết quả kiểm định tính dừng

1.1. Kiểm định tính dừng ADF Test

1.1.1. Đối với chuỗi tỷ giá thực USD/VND

 Chuỗi gốc

Null Hypothesis: QT has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 1 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Test critical values:

Augmented Dickey-Fuller test statistic 1% level 5% level 10% level t-Statistic 0.077947 -3.460173 -2.874556 -2.573784 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. Prob.* 0.9634

 Chuỗi sai phân bậc 1

Null Hypothesis: D(QT) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values: 1% level 5% level 10% level t-Statistic -12.91840 -3.460173 -2.874556 -2.573784 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. Prob.* 0.0000

1.1.2. Đối với chuỗi lãi suất thực USD

 Chuỗi gốc

Null Hypothesis: RUS_POST has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

t-Statistic Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level -1.214738 -3.460035 -2.874495 -2.573751 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. 0.6684

 Chuỗi sai phân bậc 1

Null Hypothesis: D(RUS_POST) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 1 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

t-Statistic Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic

Test critical values:

1% level 5% level 10% level -11.35484 -3.460313 -2.874617 -2.573817 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. 0.0000

1.1.3. Đối với chuỗi lãi suất thực VND

 Chuỗi gốc

Null Hypothesis: RVN_POST has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 12 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

t-Statistic Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level -2.435621 -3.461783 -2.875262 -2.574161 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. 0.1333

 Chuỗi sai phân bậc 1

Null Hypothesis: D(RVN_POST) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 11 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

t-Statistic Prob.*

-4.639079 -3.461783 -2.875262 -2.574161 Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values: 1% level 5% level 10% level *MacKinnon (1996) one-sided p-values. 0.0002

1.2. Kiểm định tính dừng DF – GLS Test

1.2.1. Đối với chuỗi tỷ giá thực USD/VND

 Chuỗi gốc

Null Hypothesis: QT has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 1 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Elliott-Rothenberg-Stock DF-GLS test statistic 1% level Test t-Statistic -0.252064 -2.575564

critical values:

 Chuỗi sai phân bậc 1

5% level 10% level *MacKinnon (1996) -1.942282 -1.615734

Null Hypothesis: D(QT) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 11 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Elliott-Rothenberg-Stock DF-GLS test statistic 1% level Test 5% level critical 10% level values: *MacKinnon (1996) t-Statistic -0.760837 -2.576127 -1.942361 -1.615684

1.2.2. Đối với chuỗi lãi suất thực USD

 Chuỗi gốc

Null Hypothesis: RUS_POST has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Elliott-Rothenberg-Stock DF-GLS test statistic 1% level Test 5% level critical 10% level values: *MacKinnon (1996)

t-Statistic -0.401832 -2.575516 -1.942276 -1.615738

 Chuỗi sai phân bậc 1

Null Hypothesis: D(RUS_POST) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 1 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Elliott-Rothenberg-Stock DF-GLS test statistic 1% level Test 5% level critical 10% level values: *MacKinnon (1996) t-Statistic -11.18368 -2.575613 -1.942289 -1.615730

1.2.3. Đối với chuỗi lãi suất thực VND

 Chuỗi gốc

Null Hypothesis: RVN_POST has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 12 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

Elliott-Rothenberg-Stock DF-GLS test statistic 1% level Test 5% level critical 10% level values: *MacKinnon (1996) t-Statistic -0.429753 -2.576127 -1.942361 -1.615684

 Chuỗi sai phân bậc 1

Null Hypothesis: D(RVN_POST) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 11 (Automatic based on AIC, MAXLAG=12)

t-Statistic

Elliott-Rothenberg-Stock DF-GLS test statistic

Test critical values:

1% level 5% level 10% level *MacKinnon (1996) -0.604073 -2.576127 -1.942361 -1.615684

1.3. Kiểm định tính dừng S&L Test

1.3.1. Đối với chuỗi tỷ giá thực USD/VND

 Chuỗi gốc

UR Test with structural break for series: QT sample range: [1996 M4, 2014 M5], T = 218 number of lags (1st diff): 1 value of test statistic: -0.7529 used break date: 2011 M2 shiftfunction: shift dummy time trend included critical values (Lanne et al. 2002): --------------------------------------- T 1% 5% 10% --------------------------------------- 1000 -3.55 -3.03 -2.76 ---------------------------------------

 Chuỗi sai phân bậc 1

UR Test with structural break for series: QT_d1 sample range: [1996 M3, 2014 M5], T = 219 number of lags (1st diff): 0 value of test statistic: -4.4352 used break date: 2011 M2 shiftfunction: shift dummy time trend included

critical values (Lanne et al. 2002): --------------------------------------- T 1% 5% 10% --------------------------------------- 1000 -3.55 -3.03 -2.76 ---------------------------------------

1.3.2. Đối với chuỗi lãi suất thực USD

 Chuỗi gốc

UR Test with structural break for series: RUSPOST sample range: [1996 M2, 2014 M5], T = 220 number of lags (1st diff): 0 value of test statistic: -2.1178 used break date: 2009 M1 shiftfunction: shift dummy time trend included critical values (Lanne et al. 2002): --------------------------------------- T 1% 5% 10% --------------------------------------- 1000 -3.55 -3.03 -2.76 ---------------------------------------

 Chuỗi sai phân bậc 1

UR Test with structural break for series: RUSPOST_d1 sample range: [1996 M4, 2014 M5], T = 218 number of lags (1st diff): 1 value of test statistic: -10.7278 used break date: 2009 M1 shiftfunction: shift dummy time trend included critical values (Lanne et al. 2002):

--------------------------------------- T 1% 5% 10% --------------------------------------- 1000 -3.55 -3.03 -2.76 ---------------------------------------

1.3.3. Đối với chuỗi lãi suất thực VND

 Chuỗi gốc

UR Test with structural break for series: RVNPOST sample range: [1997 M3, 2014 M5], T = 207 number of lags (1st diff): 12 value of test statistic: -2.2860 used break date: 2008 M6 shiftfunction: shift dummy time trend included critical values (Lanne et al. 2002): --------------------------------------- T 1% 5% 10% --------------------------------------- 1000 -3.55 -3.03 -2.76 ---------------------------------------

 Chuỗi sai phân bậc 1

UR Test with structural break for series: RVNPOST_d1 sample range: [1997 M2, 2014 M5], T = 208 number of lags (1st diff): 11 value of test statistic: -3.6275 used break date: 2008 M6 shiftfunction: shift dummy time trend included critical values (Lanne et al. 2002): --------------------------------------- T 1% 5% 10% --------------------------------------- 1000 -3.55 -3.03 -2.76

---------------------------------------

2. Kết quả kiểm định đồng liên kết

2.1. Kiểm định Johansen Trace Test

Sample (adjusted): 1996M05 2014M05

Included observations: 217 after adjustments

Trend assumption: Linear deterministic trend

Series: RVN_POST RUS_POST QT

Lags interval (in first differences): 1 to 3

Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized

Trace

0.05

No. of CE(s)

Eigenvalue

Statistic

Critical Value

Prob.**

None

0.064353

20.98677

29.79707

0.3585

At most 1

0.029706

6.552568

15.49471

0.6302

At most 2

4.02E-05

0.008713

3.841466

0.9253

Trace test indicates no cointegration at the 0.05 level

* denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level

**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

 Chuỗi tỷ giá thực, lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ

Sample (adjusted): 1996M05 2014M05

Included observations: 217 after adjustments

Trend assumption: Linear deterministic trend

Series: QT RVN_POST

 Chuỗi tỷ giá thực và lãi suất Việt Nam

Lags interval (in first differences): 1 to 3

Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized

Trace

0.05

No. of CE(s)

Eigenvalue

Statistic

Critical Value

Prob.**

None

0.065681

14.87196

15.49471

0.0619

At most 1

0.000597

0.129662

3.841466

0.7188

Trace test indicates no cointegration at the 0.05 level

* denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level

**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

Sample (adjusted): 1996M04 2014M05

Included observations: 218 after adjustments

Trend assumption: Linear deterministic trend

Series: QT RUS_POST

Lags interval (in first differences): 1 to 2

Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized

Trace

0.05

No. of CE(s)

Eigenvalue

Statistic

Critical Value

Prob.**

None

0.036551

8.162302

15.49471

0.4482

At most 1

0.000206

0.044817

3.841466

0.8323

Trace test indicates no cointegration at the 0.05 level

* denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level

**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

 Chuỗi tỷ giá thực và lãi suất thực Mỹ

Date: 09/07/14 Time: 16:01

Sample (adjusted): 1996M05 2014M05

Included observations: 217 after adjustments

Trend assumption: Linear deterministic trend

Series: RVN_POST RUS_POST

Lags interval (in first differences): 1 to 3

Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized

Trace

0.05

No. of CE(s)

Eigenvalue

Statistic

Critical Value

Prob.**

None

0.048187

11.84703

15.49471

0.1644

At most 1

0.005194

1.130059

3.841466

0.2878

Trace test indicates no cointegration at the 0.05 level

* denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level

**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

 Lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ

2.2. Kiểm định S&L Trace Test có xem xét điểm gãy cấu trúc

S&L Test for: qt rvnpost ruspost

included dummy variables: shift2011m2

sample range: [1996 M2, 2014 M5], T = 220

included lags (levels): 1

dimension of the process: 3

trend and intercept included

response surface computed:

 Chuỗi tỷ giá thực, lãi suất thực Việt Nam và lãi suất thực Mỹ

-----------------------------------------------

r0 LR pval 90% 95% 99%

-----------------------------------------------

0 28.01 0.0580 26.07 28.52 33.50

1 3.91 0.9453 13.88 15.76 19.71

2 0.16 0.9861 5.47 6.79 9.73

S&L Test for: rvnpost ruspost qt

included dummy variables: shift2008m6

sample range: [1996 M3, 2014 M5], T = 219

included lags (levels): 1

dimension of the process: 3

trend and intercept included

response surface computed:

-----------------------------------------------

r0 LR pval 90% 95% 99%

-----------------------------------------------

0 29.06 0.0425 26.07 28.52 33.50

1 4.87 0.8814 13.88 15.76 19.71

2 0.34 0.9551 5.47 6.79 9.73

S&L Test for: qt rvnpost

included dummy variables: shift2008m6

sample range: [1996 M4, 2014 M5], T = 218

included lags (levels): 3

dimension of the process: 2

 Chuỗi tỷ giá thực và lãi suất Việt Nam

trend and intercept included

response surface computed:

-----------------------------------------------

r0 LR pval 90% 95% 99%

-----------------------------------------------

0 22.63 0.0027 13.88 15.76 19.71

1 0.24 0.9744 5.47 6.79 9.73

S&L Test for: rvnpost qt

included dummy variables: shift2011m2

sample range: [1996 M3, 2014 M5], T = 219

included lags (levels): 2

dimension of the process: 2

trend and intercept included

response surface computed:

-----------------------------------------------

r0 LR pval 90% 95% 99%

-----------------------------------------------

0 22.28 0.0032 13.88 15.76 19.71

1 0.43 0.9363 5.47 6.79 9.73

3. Kết quả mô hình VECM

VEC REPRESENTATION

endogenous variables: qt ruspost rvnpost

exogenous variables:

 Trường hợp hậu nghiệm

deterministic variables: shift2008m6 CONST TREND

endogenous lags (diffs): 2

exogenous lags: 0

sample range: [1996 M4, 2014 M5], T = 218

estimation procedure: Two stage. 1st=Johansen approach, 2nd=OLS

Estimated cointegration relation(s):

====================================

ec1(t-1)

--------------------------

qt (t-1) | 1.000

| (0.000)

| {0.000}

| [0.000]

ruspost(t-1) | -0.973

| (3.172)

| {0.759}

| [-0.307]

rvnpost(t-1) | 5.646

| (1.627)

| {0.001}

| [3.470]

shift2008m6(t-1)| -0.608

| (0.241)

| {0.012}

| [-2.520]

CONST | -11.003

| (0.249)

| {0.000}

| [-44.113]

TREND(t-1) | 0.008

| (0.002)

| {0.000}

| [4.617]

--------------------------

VEC REPRESENTATION

endogenous variables: qt rusante rvnante

exogenous variables:

deterministic variables: shift2008m6 CONST TREND

endogenous lags (diffs): 2

exogenous lags: 0

sample range: [1996 M4, 2014 M5], T = 218

estimation procedure: Two stage. 1st=Johansen approach, 2nd=OLS

Estimated cointegration relation(s):

====================================

ec1(t-1)

--------------------------

qt (t-1) | 1.000

| (0.000)

| {0.000}

| [0.000]

rusante(t-1) | -10.343

| (10.234)

 Trường hợp tiền nghiệm

| {0.312}

| [-1.011]

rvnante(t-1) | 10.586

| (5.243)

| {0.043}

| [2.019]

shift2008m6(t-1)| -2.277

| (0.786)

| {0.004}

| [-2.897]

CONST | -12.174

| (0.809)

| {0.000}

| [-15.049]

TREND(t-1) | 0.022

| (0.006)

| {0.000}

| [4.040]

--------------------------