BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-----------------

PHẠM CÔNG MẠNH

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THƯỚC ĐO THANH

KHOẢN- CHO VAY DÀI HẠN TRÊN TIẾT

KIỆM NGẮN HẠN - TẠI CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-----------------

PHẠM CÔNG MẠNH

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THƯỚC ĐO THANH

KHOẢN- CHO VAY DÀI HẠN TRÊN TIẾT

KIỆM NGẮN HẠN - TẠI CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng

Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. TRẦN HUY HOÀNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Nội dung và số liệu phân tích trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập

của học viên và chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Học viên

Phạm Công Mạnh

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯỚC ĐO THANH KHOẢN- CHO VAY DÀI HẠN TRÊN TIẾT KIỆM NGẮN HẠN-TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4

1.1 Đánh giá khả năng thanh khoản của NHTM: ................................................... 4

1.1.1 Thanh khoản và khả năng thanh khoản: ..................................................... 4

1.1.2 Cung cầu về thanh khoản: .......................................................................... 7

1.1.3 Rủi ro thanh khoản trong NHTM: .............................................................. 7

1.1.4 Đánh giá khả năng thanh khoản: ................................................................ 9

1.2 Các chỉ tiêu và mô hình đánh giá thanh khoản NHTM: ................................. 10

1.2.1 Nhóm chỉ số để đánh giá khả năng thanh khoản: ..................................... 10

1.2.2 Mô hình đánh giá khả năng thanh khoản thông qua sự thay đổi tiền gửi: ... ........................................................................................................................... 11

1.3 Thước đo thanh khoản và mô hình kiểm định thực nghiệm về khả năng thanh khoản của NHTM: ................................................................................................ 12

1.3.1 Giới thiệu thước đo thanh khoản LLSS ( tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiết kiệm ngắn hạn): ................................................................................................. 13

1.3.2 Mô hình đánh giá thanh khoản thông qua kiểm định mức độ phụ thuộc giữa lợi nhuận ngân hàng vào tỉ lệ LLSS: ......................................................... 23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THƯỚC ĐO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 24

2.1 Giới thiệu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: .................................. 24

2.2 Đánh giá khả năng thanh khoản ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua: ................................................................................................................ 28

2.2.1 Đánh giá về khả năng quản lý thanh khoản của các NHTM: ................... 28

2.2.2 Đánh giá về khả năng thanh khoản của NHTM: ...................................... 30

2.2.3 Sự thất bại của những công cụ phòng chống rủi ro thanh khoản của các ngân hàng: ......................................................................................................... 36

2.3 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm: .................................................................. 38

2.3.1 Xác định vấn đề nghiên cứu: .................................................................... 38

2.3.2 Mô hình nghiên cứu: ................................................................................ 39

2.3.3 Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................... 39

2.4 Kết quả nghiên cứu: ........................................................................................ 41

2.4.1 Mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng: ..... 41

2.4.2 Kết luận nghiên cứu ................................................................................. 49

2.4.3 Hạn chế của mô hình ................................................................................ 49

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THƯỚC ĐO THANH KHOẢN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG THANH KHOẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 51

3.1 Đối với ngân hàng thương mại: ...................................................................... 51

3.1.1 Thực hiện những vấn đề cấp bách nhằm giảm áp lực thanh khoản: ........ 51

3.1.2 Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và mô hình quản trị thanh khoản nội bộ: ...................................................................................................................... 53

3.1.3 Xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ phù hợp: ......................................... 58

3.1.4 Xây dựng kịch bản kế hoạch vốn khẩn cấp: ............................................. 59

3.1.5 Tuân thủ trích lập dự phòng: .................................................................... 60

3.1.6 Tăng cường liên kết hợp tác lẫn nhau giữa các NHTM và tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô: ............................................................. 61

3.2 Đối với Ngân hàng nhà nước: ......................................................................... 62

3.2.1 Áp dụng một trần lãi suất cho thị trường liên ngân hàng: ........................ 62

3.2.2 Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM và sớm ban hành quy định tỷ lệ nắm giữ trái phiếu chính phủ: ................................................................................... 62

3.2.3 Hạ mặt bằng lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế, đây là giải pháp tình thế để tạo thanh khoản cho ngân hàng: ...................................................... 63

3.2.4 Tái cơ cấu hệ thống NHTM với trọng tâm nâng cao năng lực thanh khoản: ........................................................................................................................... 64

3.2.5 Tỉ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động không nên bỏ mà cần phải thay thế bằng tỉ lệ LLSS trong thông tư 13: ...................................................... 65

3.2.6 Cần ban hành quy định về dự trữ vượt trội cho NHTM: .......................... 67

3.2.7 Vận dụng M&A, một giải pháp hiệu quả giảm rủi ro thanh khoản: ....... 67

3.2.8 Hiện đại hoá hệ thống thông tin báo cáo và tăng cường khả năng giám sát: ........................................................................................................................... 68

3.2.9 Xây dựng kịch bản đối phó khủng hoảng thanh khoản: .......................... 72

3.3 Giải pháp khác: ............................................................................................... 72

3.3.1 Ổn định chính sách vĩ mô : ....................................................................... 72

3.3.2 Công khai thông tin và hoàn thiện cơ chế pháp lý: .................................. 73

3.3.3 Chuẩn bị tốt hơn cho quá trình tự do hoá tài chính: ................................. 74

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Gốc Tiếng Anh (nếu có) Từ viết tắt Diễn giải

Asset-Backed Commercial Thương phiếu có tài sản đảm bảo. ABCP Paper

Chứng khoán thế chấp bằng khoản vay Mortgage-backed Security MBS thế chấp.

Ngân hàng nhà nước N/A NHNN

Ngân hàng Trung Ương. N/A NHTW

Ngân hàng thương mại N/A NHTM

The Federal Deposit Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. FDIC Insurance Corporation

Long – term Capital Công ty quản lý quỹ LTCM LTCM Management LP

Tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiết kiệm Long-term Loans over Short LLSS ngắn hạn term Savings

Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu. Capital Adequacy Ratio CAR

Phương sai sai số thay đổi. N/A PSSSTĐ

N/A: không áp dụng từ Tiếng Anh

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi tính đến tháng 9/2011 .......................... 33

Hình 2.2: Tỷ trọng tiền gửi Hình 2.3: Tỷ trọng tiền gửi và và cho vay tại các NHTM khác vay từ các NHTM khác ...... 34

Hình 3.1. Vị trí của bộ phận quản trị thanh khoản ở Ngân hàng .............................. 58

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Bảng thống kê mô tả dữ liệu biến TN lãi thuần và LLSS ........................ 41

Bảng 2.2: Giá trị trung bình của biến TN lãi thuần và LLSS qua các năm .............. 41

Bảng 2.3: Ma trận tương quan giữa TN lãi thuần và LLSS ...................................... 42

Bảng 2.4: Mô hình hồi quy ...................................................................................... 43

Bảng 2.5: Kiểm định tự tương quan cho mô hình .................................................... 43

Bảng 2.6: Kiểm định PSSSTĐ cho mô hình ............................................................ 44

Bảng 2.7: Mô hình dự báo xu thế không mùa vụ cho biến thu nhập lãi thuần ......... 47

Bảng 2.8: Mô hình dự báo xu thế không mùa vụ cho biến LLSS ............................. 48

Bảng 2.9: Kết quả dự báo biến TNLT và LLSS năm 2013-2015 ............................. 48

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Dưới bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn sau khi bước qua cuộc khủng

hoảng “dưới chuẩn” bùng phát ở Mỹ; tình hình nợ công đang leo thang ở Châu Âu

thì chúng ta phải thừa nhận rằng nền kinh tế thế giới đang trải qua những nốt thăng

trầm nhất định.

Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, lĩnh vực tài chính ngân hàng có những sự

kiện đáng chú ý đó là việc kém thanh khoản của một số ngân hàng thương mại vừa

qua làm dấy lên sự lo ngại của nhà đầu tư về các vấn đề quản trị doanh nghiệp, tính

minh bạch và thanh khoản của hệ thống ngân hàng mà theo tổ chức xếp hạng tín

nhiệm Fitch Ratings cho rằng ngành này rất dễ bị tổn thương trước các cú sốc đơn

lẻ và cú sốc hệ thống. Chúng ta đã tranh luận nhiều về rủi ro vỡ nợ, khả năng thanh

toán và các hiệp định BASEL trong những năm qua mà giảm sự chú ý vào rủi ro

thanh khoản. Giờ nhìn lại rủi ro này cần được quan tâm hơn nữa. Rủi ro thanh

khoản là một dạng không thể né tránh, càng không thể triệt tiêu, nhưng với sự phát

triển và biến hóa ngày càng phức tạp thì dường như rủi ro thanh khoản hiện nay đã

vượt khỏi khả năng kiểm soát của các nhà điều hành và quản lý thị trường, trở nên

đáng báo động hơn bao giờ hết. Người ta cũng nhận ra rằng rủi ro thanh khoản đóng

một vai trò là nguyên nhân quan trọng gây ra cuộc khủng hoảng tài chính gần đây

nhưng … trong thực tế, chúng vẫn chưa được chú trọng đúng mức bởi những thành

phần tham gia thị trường cũng như những người nắm quyền kiểm soát. Rủi ro thanh

khoản thật sự là mối đe doạ nghiêm trọng đối với lĩnh vự tài chính, nó là một trong

những nguyên nhân gây ra sự tổn thương cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt

Nam.

Với việc tham khảo các mô hình nghiên cứu về thước đo thanh khoản ngân hàng

của các nhà kinh tế học trên thế giới, dùng những mô hình này để kiểm định, đánh

2

giá tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam và kiến nghị những giải

pháp cho hệ thống ngân hàng để khắc phục vấn đề về thanh khoản khi đối mặt trước

các cú sốc. Với những mong muốn của bản thân trong việc tìm hiểu về rủi ro thanh

khoản của ngân hàng, vận dụng các thước đo đã nghiên cứu trên thế giới để đánh

giá, kiểm định cho thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và đây

chính là lý do khiến tác giả quyết tâm nghiên cứu đề tài này.

2. Mục tiêu nghiên cứu:

Trên cơ sở nghiên cứu những mô hình, thước đo thanh khoản của các nhà kinh tế

học trên thế giới, tìm hiểu và kiểm định khả năng thanh khoản của hệ thống ngân

hàng thương mại Việt Nam, đề tài đã nêu lên một cái nhìn tổng quan về tính thanh

khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, tập trung nghiên cứu và làm

rõ hơn những khó khăn trong việc quản trị thanh khoản của ngân hàng thương mại,

cũng như dự báo và đề ra những giải pháp cho việc nâng cao khả năng thanh khoản

của hệ thống ngân hàng nước ta.

3. Phạm vi nghiên cứu: Hiện nay tính đến 31/12/2012, Việt Nam có tất cả 39 ngân

hàng thương mại hoạt động, trong đó có khoảng trên 30 ngân hàng là NHTM Cổ

Phần. Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng dữ liệu mẫu của 23 NHTM Cổ Phần để

thực hiện nghiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu: Để nêu bậc lên những vấn đề quan trọng của đề tài,

ngoài việc vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử với số liệu thứ cấp để phân tích đánh giá thực

trạng, tác giả còn sử dụng phương pháp hồi qui OLS cổ điển theo định lượng để làm

rõ vấn đề nghiên cứu.

5. Nội dung nghiên cứu: Đề tài có 3 chương.

- Chương 1: Cơ sở lý luận về thước đo thanh khoản- cho vay dài hạn trên tiết

kiệm ngắn hạn tại Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam.

3

- Chương 2: Thực trạng ứng dụng mô hình thước đo thanh khoản tại Ngân

Hàng Thương Mại Việt Nam.

- Chương 3: Giải pháp ứng dụng mô hình thước đo thanh khoản nhằm nâng

cao khả năng thanh khoản tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam.

6. Đóng góp của đề tài:

Với mục tiêu nghiên cứu về thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tác

giả đã hệ thống hoá cơ sở lý thuyết khoa học về thanh khoản và rủi ro thanh khoản,

nêu lên được thực trạng về thanh khoản tại các NHTM Việt Nam hiện nay. Bên

cạnh đó đã thực hiện mô hình nghiên cứu định lượng để xác định mối quan hệ giữa

rủi ro thanh khoản và thu nhập lãi thuần của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu đã cho

thấy rằng, rủi ro thanh khoản và thu nhập lãi có mối quan hệ đồng biến với nhau. Và

đưa ra một số giải pháp để nâng cao khả năng thanh khoản cho NHTM Việt Nam

trong thời gian tới.

7. Hướng phát triển của đề tài:

Trong tương lai với nguồn số liệu và kiến thức phong phú và sâu hơn tác giả rất

mong muốn hoàn thiện mô hình đo lường này với độ tin cậy cao. Và để từ đó có thể

đưa ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả hơn để tăng khả năng thanh khoản cho hệ

thống ngân hàng. Bên cạnh đó tác giả cũng mong muốn tìm hiểu sâu hơn vai trò của

NHTW, chính sách lãi suất và các nhân tố kinh tế vĩ mô… tác động đến khả năng

thanh khoản của ngân hàng.

4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯỚC ĐO THANH KHOẢN- CHO VAY DÀI HẠN TRÊN TIẾT KIỆM NGẮN HẠN-TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Đánh giá khả năng thanh khoản của NHTM:

1.1.1 Thanh khoản và khả năng thanh khoản:

Lý thuyết tài chính lý giải vai trò của các ngân hàng thương mại như là những

nhà cung cấp tính thanh khoản: bởi chức năng trợ cấp những khoản vay hoặc nắm

giữ những chứng khoán nợ sơ cấp được phát hành bởi các thành phần kinh tế có

nhu cầu được cung cấp thêm vốn, bởi chức năng tập trung nguồn vốn từ những nhà

đầu tư bằng cách phát hành “chứng khoán nợ gián tiếp”. Do sự phát triển lớn mạnh

và nhất là những đặc tính trong hợp đồng của các chứng khoán nợ này, chúng được

cân nhắc và chấp nhận chung như là một sự thay thế, trong hầu hết các mối quan hệ,

cho cơ sở tiền tệ hợp pháp. Điều này đã dẫn dắt đến định nghĩa về thanh khoản

ngân hàng, thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng các yêu cầu về vốn khả

dụng của mình. Khả năng và yêu cầu về thanh khoản thể hiện trong nguồn cung và

cầu về thanh khoản.

Rủi ro thanh khoản ngân hàng vì thế liên kết cả với khả năng đáp ứng nghĩa vụ

của ngân hàng đối với người gửi tiền ở ngân hàng họ cũng như việc chuyển tiền gửi

thành tiền mặt khi cần thiết (bằng cách rút bớt “drawing-down” dòng tín dụng) và

chức năng duy trì sự cân bằng giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra. Những dòng tiền

này được quản lý dưới sự điều hành và kiểm soát của ngân hàng trung ương, nó bảo

đảm tính có sẵn của cơ sở tiền tệ cần thiết để giữ vững sự phát triển của tiền ngân

hàng. Ngân hàng trung ương cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và

làm mạnh thêm cơ sở hạ tầng cần thiết để ổn định hệ thống tài chính.

Theo những nghiên cứu những năm 90 về khả năng thương mại thì thanh

khoản là khả năng trao đổi thường trực các sản phẩm trên thị trường vốn mà không

làm giảm giá quá mức.

Thanh khoản thị trường là khả năng của thị trường trong việc tạo cơ sở cho

5

hoạt động vay mượn tại các thị trường vốn và thị trường tiền tệ.

Do thực hiện bằng tiền mặt nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng

lưu chuyển tiền tệ. Việc không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình

trạng thiếu khả năng hay mất tính thanh khoản.

Do đó, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là

một tỉ lệ. Thay vào đó, nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh

toán của một ngân hàng. Trái ngược với nó là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa

là: ngân hàng thiếu khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo nghĩa này thì

thanh khoản đại diện cho yếu tố định tính về sức mạnh tài chính của một ngân hàng

( Duttweiler, 2008, trang 30).

Thanh khoản là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc nguồn vốn có thể

dùng để chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh. Một nguồn vốn

được coi là có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động thấp và thời gian huy động

nhanh. Một tài sản được gọi là có tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển hóa thành

tiền thấp và có khả năng chuyển hóa ra tiền nhanh (Trần Huy Hoàng, 2011, trang

232).

Như vậy trong ngân hàng khả năng thanh khoản được định nghĩa bao gồm

nhiều phương diện:

Trong ngắn hạn: là khả năng ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán

ngay thời điểm chúng phát sinh liên quan đến khả năng sinh lãi và đảm bảo

thanh khoản.

Trong dài hạn: là khả năng vay đủ vốn dài hạn với lãi suất hợp lý nhằm hỗ trợ

cho việc tăng tài sản (thanh khoản theo cấu trúc, hiện rất được các ngân hàng chú

trọng).

Khả năng thanh khoản, hay khả năng đáp ứng nguồn vốn cho sự tăng lên của tài

sản có và thanh toán các khoản nợ khi đến hạn là điểm cực kỳ quan trọng đối với sự

tồn tại của bất kỳ ngân hàng nào. Vì vậy, quản lý khả năng thanh khoản là một

6

trong những hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng. Quản lý khả năng thanh

khoản tốt sẽ giúp giảm xác suất xảy ra những tổn thất nghiêm trọng. Tầm quan

trọng của khả năng thanh khoản thực sự vượt ra khỏi phạm vi của những ngân hàng

đơn lẻ vì sự suy giảm khả năng thanh khoản tại một ngân hàng có thể có ảnh hưởng

tới toàn hệ thống. Vì lý do đó, việc phân tích khả năng thanh khoản đòi hỏi các bộ

quản lý ngân hàng không chỉ đo lường khả năng thanh khoản của ngân hàng một

cách liên tục mà còn nghiên cứu xem các yêu cầu cấp vốn có khả năng diễn biến

như thế nào trong những hoàn cảnh khác nhau bao gồm cả những điều kiện bất lợi.

Tránh nhầm lẫn về khả năng thanh toán và tính thanh khoản:

Những quy định về khả năng thanh toán và tính thanh khoản giữ một vai

trò chủ chốt trong việc điều hành và giám sát ngân hàng, đảm nhận việc duy trì

tính lành mạnh và sự ổn định bền vững tài chính của những ngân hàng tư nhân,

Kể từ cuối thập niên 80, những định chế tài chính đã chủ yếu dựa vào

giảm đi khả năng thiệt hại tài chính quá mức trước những cú sốc vĩ mô.

lượng vốn mạnh để giải quyết những rủi ro tài chính có thể làm cho các ngân hàng

khó khăn. Trong Basel 2 cũng phản ánh một ý tưởng cho rằng, trong tất cả các sự

kiện, một cơ sở vốn mạnh sẽ hạn chế những tác động của cú sốc thanh khoản. Như

chúng ta đã biết, đúng là sự đầy đủ vốn có thể cung cấp sự tái bảo hiểm cho những

người tham gia thị trường, nhưng trong thực tế cũng có không ít những ngân hàng

vốn hoá tốt cũng phải đối mặt với những vấn đề thanh khoản trong những điều kiện

bất lợi điển hình như đợt khủng hoảng vừa qua. Do đó, tính thanh khoản cần được

cân nhắc như là một phần bổ sung của chỉ số khả năng thanh toán. Việc giám sát

rủi ro thanh khoản sẽ làm giảm đi những vấn đề rắc rối về khả năng thanh toán. Xin

được nhắc lại, vốn mạnh không phải là an toàn tuyệt đối mà quan trọng là vốn đó

có khả năng thanh khoản như thế nào? Trả lời câu hỏi đó cũng chính là chúng ta

đã hiểu được mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và tính thanh khoản đặc biệt

trong những tình huống khó khăn và căng thẳng về tài chính.

7

1.1.2 Cung cầu về thanh khoản:

Khả năng và yêu cầu về thanh khoản được thể hiện trong nguồn cung và cầu

thanh khoản.

Cung thanh khoản:

Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng,

là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:

- Các khoản tiền gửi đang đến.

- Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền gửi.

- Thu hồi các khoản tín dụng đã cấp.

- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng .

- Vay mượn trên thị trường tiền tệ.

Cầu thanh khoản:

Cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân

hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực kinh

doanh của ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:

- Khách hàng rút tiền từ tài khoản.

- Yêu cầu vay vốn từ những khách hàng có chất lượng tín dụng cao.

- Hoàn trả các khoản vay mượn phi tiền gửi.

- Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ.

- Thanh toán cổ tức bằng tiền cho các cổ đông.

1.1.3 Rủi ro thanh khoản trong NHTM:

Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về tiền, rủi ro thanh khoản

liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền một cách nhanh chóng

mà không chịu thất thoát về giá cả. Hay nói một cách khác rủi ro thanh khoản là rủi

ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán,

hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng rút tiền ào ạt.

8

Sự mất cân đối giữa tài sản nợ (Tài sản nợ của ngân hàng gồm: nguồn vốn huy

động được, vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác) và tài sản có (Tài sản có của ngân

hàng gồm: tiền mặt, nguồn tín dụng, tiền gửi ở các ngân hàng khác, đầu tư, chứng

khoán và các tài sản khác) là trạng thái chênh lệch, không cân đối giữa nguồn vốn

huy động được và cho vay trên thị trường, giữa dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay

trung hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn. Việc cơ

cấu tài sản nợ và tài sản có phù hợp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra,

đây là công việc hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân

hàng thương mại.

Nếu các ngân hàng thương mại để xảy ra trạng thái mất cân đối giữa tài sản nợ và

tài sản có thì ngân hàng sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản.

Một khi rủi ro thanh khoản của ngân hàng cao thì rủi ro đỗ vỡ của ngân hàng cũng

sẽ cao vì vậy thanh khoản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngân hàng.

Dấu hiệu ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro thanh khoản:

Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những diễn biến bất thường.

Lãi suất huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ hạn

dài, các ngân hàng chỉ tập trung huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện

tượng này phản ánh việc hệ thống ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích

huy động vốn của các ngân hàng lúc này chủ yếu là nhằm đảm bảo khả năng

thanh khoản chứ không phải vì mục tiêu sinh lời.

Lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam

có những thời điểm lãi suất vay qua đêm lên đến 30-40%/năm, nhưng cũng

không có ngân hàng nào cho vay. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do

các ngân hàng đều đang có vấn về thanh khoản, trong điều kiện tình hình huy

động vốn từ dân cư và doanh nghiệp không thuận lợi buộc họ phải chấp nhận vay

với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng để giải quyết nhu cầu thanh khoản

trước mắt.

9

1.1.4 Đánh giá khả năng thanh khoản:

Trạng thái thanh khoản ròng NLP (net liquidity position) của một ngân hàng

được xác định như sau:

NLP = Tổng cung về thanh khoản - Tổng cầu về thanh khoản

Có ba khả năng có thể xãy ra sau đây:

Thặng dư thanh khoản: khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản, ngân

hàng ở trạng thái thừa thanh khoản (NLP>0). Nhà quản trị phải đưa ra quyết định ở

đâu và vào thời điểm nào cần phải sử dụng nguồn thanh khoản thừa để đầu tư kiếm

lời cho đến khi nguồn thanh khoản này được sử dụng để đáp ứng cho nhu cầu thanh

khoản trong tương lai. Thanh khoản thừa thường được ngân hàng sử dụng như sau:

- Mua các chứng khoán dự trữ thứ cấp đã bán ra trước đó.

- Cho vay trên thị trường tiền tệ ( phù hợp với thời hạn nhàn rỗi của số thanh khoản

thừa).

- Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng khác…

Thiếu hụt thanh khoản: khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản, ngân

hàng đối mặt với tình trạng thiếu vốn để hoạt động (NLP<0). Nhà quản trị phải đưa

ra quyết định ở đâu và vào thời điểm nào cần phải bổ sung thanh khoản để đáp ứng

nhu cầu vốn với chi phí thấp nhất và kịp thời nhất. Ngân hàng có thể áp dụng các

biện pháp sau để xử lý:

- Sử dụng dự trữ bắt buộc dư ra nếu có (do tiền gửi kỳ này giảm so với kỳ trước).

- Bán dự trữ thứ cấp ( các chứng khoán ngắn hạn do Chính phủ phát hành).

- Vay qua đêm, vay tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước.

- Huy động vốn từ thị trường tiền tệ: phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn

để huy động vốn…

Cân bằng thanh khoản: khi cung thanh khoản cân bằng với cầu thanh khoản

(NLP=0), tình trạng này được gọi là cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên, đây là trạng

thái rất khó xảy ra trên thực tế

10

1.2 Các chỉ tiêu và mô hình đánh giá thanh khoản NHTM:

1.2.1 Nhóm chỉ số để đánh giá khả năng thanh khoản:

Hiện nay các NHTM dùng các chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng thanh khoản của mình.

Vốn điều lệ: Là nguồn vốn ban đầu của ngân hàng có được khi mới hoạt động

và được ghi vào bản điều lệ hoạt động của ngân hàng. Và nó có vai trò rất quan

trọng để đảm bảo năng lực tài chính và tăng khả năng thanh khoản cho ngân hàng.

Vốn điều lệ tăng có nghĩa là khả năng huy động và cho vay của các ngân hàng cũng

tăng theo. Từ đó các ngân hàng có khả năng mở rộng mạng lưới hoạt động của mình

để chiếm lĩnh thị trường.

 Hệ số CAR: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (vốn tự có/tổng tài sản “Có” rủi ro

quy đổi.

 Hệ số H1: Vốn tự có/Tổng nguồn vốn huy động. Hệ số này đưa ra nhằm mục

đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để tránh tình trạng khi ngân

hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo vệ của vốn tự có làm cho

ngân hàng có thể mất khả năng chi trả.

 Hệ số H2: Vốn tự có/Tổng tài sản “Có”. Hệ số này được đưa ra để đánh giá

mức độ rủi ro của tổng tài sản có của một ngân hàng. Thông thường ngân

hàng nào gặp phải sự sụt giảm về tài sản (do rủi ro xuất hiện) càng lớn thì lợi

nhuận của ngân hàng đó càng thấp. Vì vậy, hệ số này cho phép tài sản của

ngân hàng sụt giảm ở một mức độ nhất định so với vốn tự có của ngân hàng.

 Chỉ số H3: (Tiền mặt+Tiền gửi tại các TCTD)/Tổng tài sản “Có”; hoặc,

 *H3: (Tiền mặt+Tiền gửi thanh toán tại NHNN+Tiền gửi không kỳ hạn tại

các TCTD)/Tổng tài sản “Có”. Đây là chỉ số trạng thái tiền mặt, một tỷ lệ tiền

mặt và tiền gửi cao, nghĩa là chỉ số H3 cao, đảm bảo cho ngân hàng có khả năng

đáp ứng nhu cầu thanh khoản tức thời.

 Chỉ số năng lực cho vay H4:Dư nợ/Tổng tài sản “Có”.

11

 Chỉ số H5: Dư nợ/Tiền gửi khách hàng. Đánh giá các ngân hàng đã sử dụng

tiền gửi khách hàng để cung ứng tín dụng với tỷ lệ bao nhiêu phần trăm. Tỷ

lệ này càng cao, khả năng thanh khoản càng thấp.

 Chỉ số chứng khoán thanh khoản H6: (Chứng khoán kinh doanh+Chứng

khoán sẵn sàng để bán)/Tổng tài sản “Có”.

 Chỉ số H7: Tiền gửi và cho vay TCTD/Tiền gửi và vay từ TCTD.

 Chỉ số H8: (Tiền mặt+Tiền gửi tại TCTD)/Tiền gửi của khách hàng; hoặc,

 *H8: (Tiền mặt+Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD)/Tiền gửi của khách

hàng.

Ngoài các chỉ tiêu đánh giá trên, chúng ta cũng có thể xem xét khả năng thanh

khoản ngân hàng thông qua các chỉ tiêu:

Lượng tài sản dự trữ: Không những số lượng tài sản dự trữ ảnh hưởng đến khả

năng thanh khoản ngân hàng mà chất lượng của chúng cũng đóng vai trò quan

trọng. Một danh mục tài sản dự trữ chất lượng tốt, tức có tính thanh khoản cao như:

tiền mặt, chứng khoán thị trường, trái phiếu chính phủ…sẽ đảm bảo khả năng thanh

toán cho ngân hàng ở hiện tại và tương lai gần.

Khả năng tiếp cận thị trường tiền tệ: Đây là một chỉ tiêu không kém phần quan

trọng trong việc đánh giá khả năng thanh khoản ngân hàng. Điều này thể hiện mối

quan hệ của bản thân ngân hàng với các tổ chức tài chính khác, ngân hàng Nhà

nước…Một mối quan hệ tốt có thể giúp ngân hàng thuận tiện hơn trong việc vay

mượn và nhận sự hỗ trợ từ các bên tham gia thị trường tiền tệ khi cần thiết với chi

phí hợp lí và kịp thời. Điều này tạo điều kiện đảm bảo danh tiếng và thuận lợi cho

hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

1.2.2 Mô hình đánh giá khả năng thanh khoản thông qua sự thay đổi tiền gửi:

Theo phương pháp tiếp cận nguồn và sử dụng vốn thì khả năng thanh khoản

tăng hay giảm là phụ thuộc vào sự thay đổi tiền gửi. Điều này bắt nguồn từ hai thực

tế đơn giản sau:

12

Một là, khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng.

Hai là, khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm.

Và những nhân tố mà tác động đến sự thay đổi tiền gửi thì sẽ ảnh hưởng đến vấn đề

thanh khoản của ngân hàng. Mô hình này đi nghiên cứu các nhân tố như tăng trưởng

về thu nhập cá nhân (GDP), tỷ lệ lạm phát (CPI), sự thay đổi giá vàng, sự thay đổi

lãi suất hay tỷ lệ tăng cung tiền của NHTW…

1.3 Thước đo thanh khoản và mô hình kiểm định thực nghiệm về khả năng

thanh khoản của NHTM:

Thước đo tính thanh khoản đã được tập trung chú ý trong một thời gian

dài bởi nhiều nhà nghiên cứu. Friedman và Schwartz nghiên cứu cuộc chạy đua

rút tiền ở các ngân hàng và miêu tả vai trò ngân hàng thương mại trong việc

chuyển đổi tài sản tiết kiệm thanh khoản thành tài sản kém thanh khoản. Patinkin,

Tobin và Niehans nghiên cứu thêm một số đặc điểm thanh khoản của tài sản và

tiết kiệm. Trước đó, mô hình rủi ro thanh khoản lấy biến động giá như là cơ sở

của rủi ro và vốn cổ phần là giải pháp duy nhất để chuẩn bị cho những mất mát

và tiếp đó là một cuộc chạy đua rút tiền gửi. Tuy nhiên, giá biến động ngẫu nhiên

và khá năng động nên ít tương quan với mô hình. Ví dụ, theo Basel II, LTCM vẫn

còn đầy đủ vốn cổ phần vào cuối quý II năm 1998. Nhưng nó đã mất hơn 2.3 tỉ

đô la trong 3 tuần đầu tháng 9. Không khả thi để LTCM tăng vốn chủ sở hữu

trong một thời gian ngắn để chuẩn bị cho một cú sốc, cái hiếm khi mới xảy ra

(Jorion). Vấn đề này một lần nữa được đưa ra trong cuộc khủng hoảng dưới chuẩn

vừa qua.

Chúng ta có thể đánh giá mức độ thanh khoản dựa trên khả năng của ngân hàng

trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của mình. Những yếu tố cần

xem xét bao gồm mức độ biến động của tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn

nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh

chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói

chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng,

13

tuân thủ với các chính sách thanh khoản nội bộ ngân hàng, nội dung, quy mô và

khả năng sử dụng dự kiến của các cam kết cấp tín dụng.

Tuy nhiên, rất khó có thể xây dựng một thước đo duy nhất để định lượng hay

bao quát được tất cả các yếu tố về thanh khoản, mức độ đủ vốn, chất lượng tài sản

có và lợi nhuận, do có nhiều khác biệt về quy mô, hoạt động giữa các ngân hàng

khác nhau, cũng như do ảnh hưởng của điều kiện thị trường khu vực, quốc gia và

quốc tế. Không có một tỷ lệ nào thực sự bao hàm được các khía cạnh khác nhau

của yếu tố thanh khoản đối với tất cả các ngân hàng với quy mô và loại hình khác

nhau.

1.3.1 Giới thiệu thước đo thanh khoản LLSS ( tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiết kiệm ngắn hạn):

Phần trình bày này giới thiệu tỉ lệ LLSS như một thước đo mới khả năng

thanh khoản ngân hàng. Thước đo này thể hiện khả năng của ngân hàng để đáp

ứng những khoản vay dài hạn bằng tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn. Khả năng này

được xác định bởi sự phân phối tài sản thanh khoản và kém thanh khoản trong

ngân hàng. Phần trình bày còn sử dụng ABCP và MBS đại diện cho hoạt động thị

trường liên ngân hàng, đây được xem như là nguồn tài trợ bên ngoài để ngân hàng

đối phó với những cú sốc thanh khoản. Sau đây, chúng ta đi sâu tìm hiểu tỉ lệ

LLSS, tính toán tỉ lệ LLSS tối ưu theo điều kiện thị trường và sử dụng thước đo này

để đánh giá khả năng thanh khoản ngân hàng.

Giới thiệu tỉ lệ LLSS:

Tỉ lệ LLSSθ, thước đo tính thanh khoản, đo lường khả năng ngân hàng duy

trì chức năng cốt lõi của mình – vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.

Khi thực hiện chức năng vay mượn ngắn hạn và cho vay dài hạn, ngân hàng

phải nắm giữ tài sản của mình đến ngày đáo hạn mới có thể thu được toàn bộ giá

trị. Do đó, việc bán tài sản để đáp ứng nhu cầu rút tiền sẽ dẫn đến thiệt hại lớn cho

các ngân hàng (Tobin[17]). Khả năng phát hành các khoản vay dài hạn của ngân

hàng là hữu hạn bởi giới hạn của nguồn vốn hiện tại và sự bất ổn của lượng tiền

14

gửi trong tương lai, và ngân hàng buộc phải nắm giữ một lượng tài sản ngắn hạn,

như tiền mặt và tín phiếu kho bạc. Do đó, tỉ lệ LLSS của ngân hàng < 1. Càng ít

các khoản vay dài hạn được phát hành, càng làm giảm tỉ lệ LLSS, càng an toàn hơn

cho ngân hàng. Tỉ lệ LLSS còn xác định được lợi nhuận ngân hàng. Các ngân

hàng tìm kiếm lợi nhuận từ hai nguồn: Thứ nhất, ngân hàng đi vay giá rẻ và cho

vay giá cao. Trong hai thập kỷ trước, chênh lệch lãi suất huy động tiền gửi và

cho vay của ngân hàng phổ biến từ 30 đến 200 điểm phần trăm. Thứ hai, ngân hàng

kiếm lời từ việc huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn. Chênh lệch thời gian

càng dài thì chênh lệch lãi suất càng lớn. Chênh lệch lãi suất nghiệp vụ thứ hai cao

hơn trong nghiệp vụ thứ nhất. Ví dụ, trong 30 năm, bình quân lãi suất thế chấp tài

sản cố định cao hơn LIBRA tối thiểu 400 điểm. Lợi nhuận ngân hàng bằng chênh

lệch lãi suất cùng kỳ hạn cộng thêm θ lần chênh lệch lãi suất khác kỳ hạn. Tỉ lệ

LLSS càng cao thì lợi nhuận ngân hàng càng cao.

Tỉ lệ LLSS đo lường sự thỏa hiệp giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản mong

đợi. Trong trường hợp tối đa, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS θ =1. Họ đầu tư tất cả tiền

gửi tiết kiệm vào các khoản vay dài hạn và hoàn toàn không đầu tư vào tài sản thanh

khoản. Nếu thuận lợi, ngân hàng có thể thu được lợi nhuận cao từ khoản cho vay

dài hạn. Tuy nhiên, sự kiện rút tiền không được mong đợi có thể gây ra hoãn loạn

và sau đó là một cuộc chạy đua rút tiền. Trong trường hợp ngược lại, ngân hàng

chọn tỉ lệ LLSS θ = 0 và đầu tư toàn bộ tiền gửi tiết kiệm để cho vay ngắn hạn.

Ngân hàng luôn đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền, nhưng chi phí cho sự an

toàn là lợi nhuận thấp.

Mô hình:

Trước khi đưa ra và giải thích mô hình, để mô hình đơn giản chúng ta cần

làm rõ hai vấn đề. Thứ nhất, hoạt động ngân hàng được chia làm hai nhóm: dịch

vụ với khách hàng phi tài chính và hoạt động thị trường liên ngân hàng như vay

và cho vay thị trường qua đêm, bán và mua ABCP và MBS…Vấn đề thứ hai, cú

sốc thanh khoản được chia làm hai nhóm: cú sốc hệ thống và những cú sốc đơn

15

lẻ. Cú sốc hệ thống là việc rút riền ròng ra khỏi hệ thống ngân hàng. Cú sốc đơn

lẻ là sự chuyển giao tiền gửi giữa các ngân hàng. Hãy tưởng tưởng, một người gửi

tiền có tài khoản ở 2 ngân hàng. Dòng tiền vào của anh ta không chắc chắn và

sở thích của anh ta vào các ngân hàng là ngẫu nhiên. Sự không chắc chắn của

dòng tiền vào là một rủi ro hệ thống, vì nó làm thay đổi tiền gửi ròng của toàn

ngành ngân hàng. Sự không chắc chắn trong sở thích của anh ta là một rủi ro đơn

lẻ. Khi người gửi tiền chuyển tiền gửi của mình từ một ngân hàng sang một ngân

hàng được ưa thích hơn, cú sốc tiền gửi chỉ có tác động đến 2 ngân hàng không

có ảnh hưởng đến toàn ngành.

Mô hình hai khoảng thời gian đạt được như một thỏa hiệp và dự báo tỉ lệ

* . Ngân hàng i với vốn chủ sở hữu mi, nhận tiết

LLSS tối ưu của ngân hàng

kiệm ngắn hạn si,0 và si,1 vào thời điểm 0 và 1, khi đó si,1 là biến thiên ngẫu nhiên

vào thời điểm 0. Vốn vào ngắn hạn ci,t từ khu vực phi tài chính {si,t}, hoặc từ

nguồn vốn bên ngoài do hoạt động thị trường liên ngân hàng. Dòng vốn vào ngắn

hạn phải trả lại vào kỳ tiếp theo. Ngân hàng i đầu tư vốn ngắn hạn của nó ci,0 vào

i , hoặc cho vay ngắn hạn qs

i,0 vào thời điểm 0. Khoản cho vay

khoản vay dài hạn ql

dài hạn được hoàn trả lại vào cuối kỳ kế tiếp. Ngân hàng kiếm lời bằng chênh

i,t ; và cả sự khác biệt

lệch lãi suất đi vay và cho vay  từ đầu tư ngắn hạn qs

i.

chênh lệch lãi suất vay và đi vay  với chênh lệch kỳ khoản  từ đầu tư dài hạn ql

Giả sử  và  là hằng số xác định. Giả định này gần đúng với thực tế. Vay thế

chấp nhà với lãi suất điều chỉnh (ARM) là một dạng hợp đồng vay thế chấp nhà, về

phía ngân hàng thu được lợi nhuận cố định là (+). Chúng ta giả định  và  là

hằng số là vì “việc xác định lãi suất không phải là vấn đề chính trong thị trường thứ

cấp”(Fooote). Chúng ta còn giả định rằng lợi nhuận ngay lập tức được chia cho cổ

đông.

16

Khi đó, tỉ lệ LLSS được định nghĩa như sự cân bằng giữa hai quyết định đầu

i

i

q l i mc 0,

. Tỉ lệ LLSS biến tư ( cho vay dài hạn và ngắn hạn) trên tổng tiền gửi θi=

0,

i mc 0, i

c i

21, 

. Trong đó Πi là

thiên xác định giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản.

i m

+ 2βθi 

=

c 1, i

- Lợi nhuận ngân hàng là : Πi= α c i

l

q i

i

i mc 0,

P  1,ic

hàm lợi nhuận theo θi. - Khả năng xảy ra một cuộc chạy đua rút tiền vào thời điểm 1 là: P

θi. 

. Đây cũng là một hàm theo biến θi.

Để đơn giản hóa mô hình, giả định rằng thiệt hại do một cuộc chạy đua rút tiền

là vô hạn, và lượng tiền gửi trong tương lai không chắc chắn ci,1 thấp hơn biên ci.

0,

c i

i mc 0, i

21, 

Sự phân bổ tài sản tối ưu của ngân hàng đạt được là do tối ưu hàm sau:

α c i

i m

+ 2βθi 

max  0, i

i + q s

i 0,  ci,0 + mi

q l

i + q s

i 1,  ci,1 + mi

0  q l

i  d l i

0  q s

i,.  d s i,.

Điều kiện: q l

i và d s

ti, (t = 0,1) lần lượt là cầu khoản vay dài hạn và ngắn hạn từ bộ phận

Ở đây, d l

*

phi tài chính. Khi tác động của một cuộc chạy đua rút tiền là vô hạn và cú sốc tiền

i là phải đạt được ngưỡng tỉ

gửi là hữu hạn bởi si, thì giải pháp tối ưu cho vấn đề

i . Khi tổng các khoản vay dài hạn vượt quá

, một

i 

i mc 0, i

lệ LLSS an toàn

cuộc chạy đua rút tiền là gần như chắc chắn.

Không có hoạt động thị trường liên ngân hàng và i:

Phần này thảo luận về sự lựa chọn tỉ lệ LLSS của ngân hàng trong một thị

17

trường giản đơn, nơi ngân hàng chỉ phục vụ những khách hàng phi tài chính mà

không có hoạt động của thị trường liên ngân hàng. M & A là một cách để các ngân

hàng tránh né những cú sốc tiền gửi, và tạo lợi thế do quy mô để ngân hàng đạt lợi

nhuận cao. Khi ngân hàng chỉ phục vụ những khách hàng từ bộ phận phi tài chính,

thì dòng vốn vào ngắn hạn của ngân hàng ci,t bằng tiền gửi tiết kiệm si,t từ cư dân,

tổ chức phi tài chính và chính phủ. Do đó, khả năng cho vay dài hạn của ngân hàng

được quyết định bởi sự biến thiên ngẫu nhiên của si,l. Để có thể tồn tại qua những

* theo định lý sau:

cú sốc tồi tệ nhất, tức si,1=si, thì ngân hàng phải đạt

Định lý 1: không có hoạt động thị trường liên ngân hàng, để có thể tồn tại qua

những cú sốc tiền gửi, giải pháp tối ưu cho các ngân hàng giải quyết vấn đề tối đa

* =

ms  i i ms  0, i i

và các khoản cho vay ngắn hạn, dài hạn lần lượt hóa lợi nhuận là

l

i

là:

i = min

i

,   dms  i 

  

i

i

,

q s

l i

ti, = min

q l

s tidqms  ,

Minh họa: ngân hàng A có vốn chủ sở hữu là mA = 100 triệu USD lượng tiền gửi

hiện tại là sA,0= $1 tỉ, tiền gửi kỳ kế tiếp sA,1 có thể là $800 triệu hoặc $1.2 tỉ. Như

vậy, tổng tiết kiệm thời điểm 1 không nhỏ hơn $900 triệu. Ngân hàng A có thể phát

hành $900 triệu nợ dài hạn mà không phải lo sợ một cuộc chạy đua rút tiền. Trong

trường hợp cú sốc tiền gửi xảy ra, ngân hàng có thể chi trả $200 triệu cho người gửi

bằng cách thu hồi $200 triệu nợ ngắn hạn. Nếu ngân hàng phát hành nhiều hơn $900

triệu nợ dài hạn, ví dụ như $1 tỉ, như vậy ngân hàng chỉ có $100 triệu nợ ngắn hạn

để thu hồi trả cho $200 triệu tiền gửi bị rút ra, như vậy ngân hàng A phải đối mặt

với một cuộc chạy đua rút tiền.

18

Một khía cạnh khác, θi cho thấy tối đa ảnh hưởng của thanh khoản đến ngân

hàng. θi càng thấp, tài sản thanh khoản càng nhiều, ngân hàng càng an toàn để vượt

qua những cú sốc thanh khoản.

Theo quan điểm về rủi ro thanh khoản, θ đo lường khả năng thanh khoản của tài

sản ngân hàng, cái không thể đo lường bằng tác động của đòn bẩy.

Định lý 1 chỉ ra rằng khả năng phát hành nợ dài hạn của ngân hàng phụ thuộc

vào {ci}. M & A là một cách hiệu quả để làm giảm những cú sốc tiền gửi. Hãy

tưởng tượng có 2 ngân hàng A và B, cung cấp cùng một nhóm các dịch vụ. Kênh

đầu tư mà người dân lựa chọn là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Nếu A và B hoạt

động riêng biệt, thì lượng tiền gửi của họ trong tương lai phụ thuộc vào sở thích

của cư dân. Giả sử A và B có vốn chủ sử hữu là mA=mB=$100 triệu và tiền gửi

ban đầu là sA,0=sB,0=$1 tỉ. Sự chuyển giao tiền gửi một cách ngẫu nhiên giữa 2

=90.9% (=1/1.1). Cung tín dụng tổng cộng là ngân hàng là $100 triệu. Để chuẩn bị cho việc rút tiền $100 triệu, cả 2 ngân hàng đều xây dựng tỉ lệ LLSS θ*

$2.2 tỉ nhưng tổng khoản cho vay là $2 tỉ. Nếu A và B sáp nhập thành ngân hàng

*

c =1 (không còn cú sốc tiền gửi đơn lẻ nữa). Tổng giá trị các khoản cho vay lúc

C, C có vốn chủ sở hữu là $200 triệu, lượng tiền gửi ban đầu là $2 tỉ, tỉ lệ LLSS

này là $2.2 tỉ. Ngành ngân hàng trong trường hợp này an toàn, không có rủi ro thanh

khoản.

Như vậy, M & A làm giảm những cú sốc tiền gửi đơn lẻ và làm tăng ngưỡng

an toàn của tỉ lệ LLSS θ *. Ngành ngân hàng có thể cho vay dài hạn nhiều hơn mà

không làm tăng rủi ro thanh khoản nhờ M & A.

Trước 1990, thị trường vẫn chưa hoàn thiện, vì vậy tất cả các ngân hàng tập

trung vào khách hàng từ khu vực phi tài chính. Khi phục vụ khách hàng từ khu

vực phi tài chính, các ngân hàng tư nhân phải nắm giữ thêm nhiều tiền mặt và tài

19

sản thanh khoản để quản lý những cú sốc tiền gửi, là việc rút tiền hoặc chuyển

giao tiền gửi giữa các ngân hàng. Tổng tiền mặt và tài sản thanh khoản của

ngành ngân hàng trong giai đoạn này nhiều hơn cần thiết để đáp ứng rút tiền

thuần. Do đó, ngành an toàn, nhưng không hiệu quả vì tổng khoản vay dài hạn

thấp hơn tiềm năng.

i:

Hoạt động thị trường liên ngân hàng và

Phần này thảo luận làm thế nào hoạt động thị trường liên ngân hàng có thể chia

sẻ và loại bỏ những cú sốc tiền gửi. Kết quả còn dự báo hạn mức thị trường liên

ngân hàng. Những ngân hàng tư nhân xem thị trường liên ngân hàng như nguồn

lực bên ngoài để vượt qua những cú sốc tiền gửi và làm giảm tài sản thanh khoản

của mình. Ngân hàng trong trường hợp này không phải gia tăng rủi ro, vì hoạt

i .

động của thị trường liên ngân hàng làm tăng tỉ lệ LLSS

Chúng ta sử dụng ABCP và MBS để đại diện cho hoạt động của thị trường liên

ngân hàng. Đến năm 2007, MBS chiếm 76% công cụ tín dụng ở Mỹ có giá trị hơn

$10,000 tỉ (Randall Wray [15]), ABCP toàn cầu đạt $12,100 tỉ trong đó 32% được

phát hành ở Mỹ. (Viral và Philipp [19]) .

Định lý sau đây cho thấy ABCP và MBS cung cấp một nền tảng để các ngân

i .

hàng chia sẻ và loại bỏ những cú sốc tiền gửi đơn lẻ, và tăng

Định lý 2: ngân hàng i đối mặt với cú sốc tiền gửi đơn lẻ εi và một phần ρi của

cú sốc hệ thống ε. Với ABCP và MBS, giải pháp tối ưu cho vấn đề tối đa hoá lợi

i = Θ

0,

i

i

dm ,

nhuận là :

q l

  

l

i

i = min  s

i

, ti

i

,

dqms 

q s

s

l , ti

, ti

ti, = min 

20

ms      0, i i ms     0, i i

là ngưỡng an toàn LLSS của ngành. Trong đó, Θ*=

Một ví dụ tương tự như trên là một minh họa hữu ích cho định lý 2. Có 2 ngân

hàng A và B với vốn chủ sở hữu $100 triệu và tiền gửi ban đầu là sA=sB= $1 tỉ vào

=1, và tổng tiền gửi là $2 tỉ. thời điểm 0. Cú sốc chuyển giao tiền gửi giữa 2 ngân hàng ngẫu nhiên là $200 triệu. Khi những cú sốc hệ thống bằng không, thì Θ*

Nếu không có ABCP, tiền gửi ngân hàng A vào thời điểm 1 sA,1 hoặc là $1200

1000

100

200

triệu hoặc là $800 triệu. Ngưỡng an toàn tỷ lệ LLSS của ngân hàng là 81.8%

1000

100

  

  

. Ngành ngân hàng giữ $400 triệu tài sản thanh khoản để tránh xa

khỏi những cuộc chạy đua rút tiền. Tổng các khoản vay của dân chúng là $1.8 tỉ,

tổng cung vốn là $2.2 tỉ cũng không chắc chắn.

Khi có tài trợ bên ngoài, ABCP cải thiện ngưỡng tỉ lệ LLSS an toàn của A và B

sA,1+aA,1 , trong đó aA,1 là giao dịch ABCP và được ngân hàng kiểm soát. Khi sA,1 =

từ 81.8% lên  . Vốn vào ngắn hạn của ngân hàng vào thời điểm 1 là cA,1=

$800 triệu, A bán 200 triệu ABCP để đáp ứng nhu cầu rút tiền 200 triệu; khi sA,1=

$1.2 tỉ, A có thể mua 200 triệu ABCP từ B. Do đó, A và B loại bỏ những cú sốc

A

A

A

cA,1=$1 tỉ,

%100

tiền gửi đơn lẻ, và dòng vốn vào thời điểm 1 là một số xác định cA,1=cB,1= $1 tỉ. Khi

0,

A

A

Mc   Ms 

, tương đương A= 1, tương tự ta cũng có B=1.

MBS tạo ra tính thanh khoản giữa hai ngân hàng để cho ra một kết quả tương tự.

Nếu không có MBS, rất tốn kém để các ngân hàng thu hồi các khoản cho vay dài

hạn nếu chưa đến hạn.

Với hoạt động của thị trường liên ngân hàng, tổng khoản cho vay vào thời

điểm 0 tăng lên đến $2.2 tỉ. Ngân hàng A và B không còn đối mặt với những cú

sốc tiền gửi đơn lẻ nữa, và ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS tăng lên đến mức tiềm

21

năng của ngân hàng. Ngân hàng A và B tăng cho vay dài hạn mà không gây thêm

rủi ro thanh khoản.

i

0,

dm , i

 

 và q l

l . Những ngân hàng tư nhân nắm giữ tiền mặt

i

i = min  s

i

Định lý 2 cũng cho thấy rằng thị trường ABCP và MBS là có giới hạn. Lưu ý: i=

và tài sản thanh khoản để chuẩn bị đương đầu với những cú sốc hệ thống, và

ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS của từng ngân hàng i không thể vượt quá ngưỡng an

toàn của ngành  . Khi ngân hàng tin tưởng sai lầm rằng thị trường ABCP và MBS

vô hạn, thì họ có thể phát hành quá mức các khoản vay dài hạn vào thời điểm đó.

Trong trường hợp xấu xảy ra, ngân hàngkhông có đủ tiền mặt và tài sản thanh

khoản để vượt quá cú sốc hệ thống. Sau khi sử dụng hết tài sản thanh khoản, ngân

hàng bắt đầu thanh lý những tài sản ít thanh khoản để đáp ứng việc rút tiền không

được mong đợi này. Sau đó cầu ABCP và MBS vượt qua cung từ các ngân hàng

khác, ảnh hưởng của việc thanh lý các khoản vay dài hạn lên nền kinh tế không thể

tránh khỏi. Và việc bán tháo tài sản vào thời điểm xấu này làm mất niềm tin của

nhà đầu tư, điều này có thể càng làm nguy hiểm hơn cho ngành tài chính và nền

kinh tế thực.

Tấm đệm an toàn Minsky:

Phần này nghiên cứu tấm đệm an toan tỉ lệ LLSS của ngành  và việc phân bổ

tài sản trong ngành  . Với  được quyết định bởi những cú sốc tiền gửi hệ

thống, và quyết định tối thiểu hoá tài sản thanh khoản ngân hàng để đối phó với

những cú sốc tiền gửi;  được xác định bằng phân bổ tài sản hiện tại của ngân

hàng. Khoảng cách giữa  và  cho biết liệu ngành ngân hàng đầu tư có đủ linh

động để ứng phó với những cú sốc thanh khoản.  và  còn quyết định sự thoả

hiệp giữa an toàn thanh khoản và hiệu quả hoạt động. Khi  <<  thì toàn ngành

an toàn nhưng không hiệu quả;    thì ngành an toàn và hiệu quả;  >  thì

toàn ngành có lợi nhuận cao nhưng không thể tồn tại qua một cú sốc. Sự cải tiến tài

chính đóng vai trò quan trọng trong sự thay đổi  , trong khi đó  tương đối ổn

22

định.

Nếu không có hoạt động thị trường liên ngân hàng, những ngân hàng tư nhân cung

cấp dịch vụ cho khách hàng từ bộ phận phi tài chính. Mức lợi nhuận của ngành

ngân hàng trong trường hợp này an toàn cao. Trong trường hợp này ngân hàng tư

i

0,

i

s

m

i

i

nhân phải nắm giữ đủ tài sản thanh khoản để đối phó với cả hai cú sốc hệ thống và

i=

0,

i

i

i

đơn lẻ. Ngân hàng lựa chon tỷ lệ LLSS thấp: và nợ dài hạn

s

m i

0,

i

i

  ms  i và  lần lượt là cú sốc đơn lẻ và hệ thống.

là : . Trong đó

s

M

 

i và  độc lập, các khoản cho vay dài hạn của ngành là

i



i



Khi , và

. Toàn ngành phải gia tăng tài sản



MS    MS 

tỉ lệ LLSS của ngành là

thanh khoản  i để chuẩn bị cho cú sốc thanh khoản đơn lẻ,  thấp hơn ngưỡng

an toàn tỉ lệ LLSS của ngành  .

Khi thị trường liên ngân hàng hoàn thiện, các ngân hàng chia sẽ và loại bỏ cú

sốc đơn lẻ thông qua ABCP và MBS. An toàn trong lợi nhuận của ngân hàng bằng

i

0,

i

m

s

i

0. Trong trường hợp này, giao dich ABCP và MBS thực sự xoá cú sốc đơn lẻ,

0

 . Tỉ lệ LLSS của ngân hàng

i=

i ba

i

i

0,

i

i

   ms 

i

i

và khoản cho vay dài

s

m

 0,

i

M

hạn của họ là . Do đó, khoản cho vay dài hạn của ngành ngân hàng

S

M



S   MS 

là . Và tỉ lệ LLSS của ngành là , bằng với ngưỡng an toàn

LLSS  . Toàn ngành giữ đủ tài sàn thanh khoản để ứng phó với cú sốc hệ thống và

đứng vững trong trường hợp một cuộc chạy đua rút tiền tồi tệ nhất diễn ra.

Với sự lạm dụng hoạt động của thị trường liên ngân hàng, ngân hàng giả định

sai rằng thị trường liên ngân hàng vô tận. Ngân hàng mong đợi vào ABCP và MBS

để vượt qua cả cú sốc hệ thống và đơn lẻ trong tương lai, và phát hành một lượng

S

M



lớn các khoản vay dài hạn. Khoản cho vay dài hạn của ngành cao hơn ,

23

và tỉ lệ LLSS của ngành cao hơn  . An toàn trong lợi nhuận của ngành âm. Toàn

ngành không giữ đủ tài sản thanh khoản để đối phó với những cú sốc hệ thống, và

cuộc chạy đua rút tiền là không thể tránh khỏi.

Phần tóm tắt sau đây thể hiện tác động thay đổi của an toàn lợi nhuận :



i ba 

i

i

i ba 

i

i

i

i

1 

1 

i

1 

i

i

i

i

Không có ABCP ABCP hoàn thiện

0,

i

i

i 

Lạm dụng ABCP  i    i i ms  0,



0 i i ba   ms   Cao

  i ms  i 0,  0

 ̅ Âm An toàn lợi nhuận

Lợi nhuận Thấp Cao Rất cao

1.3.2 Mô hình đánh giá thanh khoản thông qua kiểm định mức độ phụ thuộc giữa lợi nhuận ngân hàng vào tỉ lệ LLSS:

Tỉ lệ LLSS đo lường sự thỏa hiệp giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản mong

đợi. Trong trường hợp tối đa, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS =1. Họ đầu tư tất cả tiền

gửi tiết kiệm vào các khoản vay dài hạn và hoàn toàn không đầu tư vào tài sản thanh

khoản. Nếu thuận lợi, ngân hàng có thể thu được lợi nhuận cao từ khoản cho vay

dài hạn. Tuy nhiên, sự kiện rút tiền không được mong đợi có thể gây ra hoãn loạn

và sau đó là một cuộc chạy đua rút tiền, như vậy nếu duy trì tỉ lệ này càng cao thì

khả năng thanh khoản ngân hàng càng giảm. Trong trường hợp ngược lại, ngân

hàng chọn tỉ lệ LLSS = 0 và đầu tư toàn bộ tiền gửi tiết kiệm để cho vay ngắn hạn.

Ngân hàng luôn đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền và lúc này khả năng thanh

khoản ngân hàng tăng nhưng chi phí cho sự an toàn là lợi nhuận thấp. Điều này thể

hiện có sự tương quan giữa lợi nhuận ngân hàng và tỉ lệ LLSS qua mô hình hồi quy

đánh giá mức độ phụ thuộc giữa lợi nhuận ngân hàng vào tỉ lệ LLSS.

24

Kết luận chương 1: Như vậy với việc hệ thống hoá một cách khoa học cơ sở

lý thuyết về thanh khoản, nêu rõ lên được khái niệm về thanh khoản, khả năng

thanh khoản trong ngân hàng hiện nay. Bên cạnh đó, sử dụng nghiên cứu nước

ngoài về thanh khoản một cách thực tế và linh động đã mang lại một cách nhìn

tổng quan hài hoà hơn về vấn đề thanh khoản. Và để hiểu hơn về tình hình thanh

khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay ra sao thì hãy cùng tác

giả nghiên cứu nó xuyên suốt trong chương 2.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THƯỚC ĐO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1 Giới thiệu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam:

Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam:

Hiện nay ở nước ta có rất nhiều loại hình ngân hàng thương mại được phân

theo hình thức sở hữu. Đó là ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương

mại cổ phần (đô thị và nông thôn), ngân hàng thương mại liên doanh, chi nhánh

ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài.

Trong thời gian qua, đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân

hàng thương mại Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt những

cơ hội trong quá trình hội nhập, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh. Đó là có mạng

lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống và hiểu biết về khách hàng cũng như

các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích lũy trong nhiều

năm qua. Đây là một lợi thế trong việc chăm sóc khách hàng. Do vậy, các ngân

hàng thương mại trong nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các

dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Hiện nay, thị phần huy động

vốn của các ngân hàng thương mại trong nước chiếm tỷ trọng lớn, trên 90%.

25

Công nghệ ngân hàng là lĩnh vực được các ngân hàng rất chú trọng, coi là

phương tiện chủ lực để rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng của các

nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các ngân hàng thương mại đã

đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi (core banking), cho phép quản trị dữ liệu

một cách tập trung tại hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

Về sản phẩm dịch vụ: các ngân hàng thương mại đã tập trung đổi mới, cho ra

đời nhiều sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những

sản phẩm truyền thống như tiền gửi và cho vay, đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới

tăng tiện ích cho khách hàng như: tăng tiện ích của tài khoản cá nhân, phát triển

dịch vụ thẻ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như phone banking, internet

banking… Dịch vụ tiền gửi được đa dạng hóa, cho phép người gửi có nhiều lựa

chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm

với lãi suất cố định truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi

được hưởng lãi suất biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng, được

bù chênh lệch tỷ giá… Đặc biệt, dịch vụ thanh toán thẻ đã có sự phát triển bùng nổ.

Nhiều sản phẩm thẻ đa tiện ích đã được giới thiệu tới khách hàng và thanh toán

bằng thẻ ATM đã trở nên khá phổ biến tại các tỉnh, thành phố lớn.

Về năng lực tài chính: quy mô vốn của các ngân hàng thương mại đã được tăng

lên đáng kể. Ngoài việc tăng quy mô vốn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh việc

thực hiện cơ cấu lại tài chính như tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tổ chức

và hoạt động. Từ năm 2002 đến năm 2007 tình hình nợ xấu đã được cải thiện,

giảm từ 7,2% xuống còn 1,38%. Bước sang 2008 tỷ lệ nợ xấu tăng cao lên mức

3,5%, chủ yếu là nợ xấu từ tín dụng bất động sản. Cuối năm 2009 tỷ lệ nợ xấu

giảm xuống còn 2,03%, và vào cuối năm 2010 tỷ lệ này có tăng nhẹ lên mức

2,14%. Nhưng đến cuối năm 2011 tỷ lệ nợ xấu tăng lên mức 3,05% và đến hết

quý 1 năm 2012 tỷ lệ này tăng lên 4,22%. Có nhiều nguyên nhân và tăng

trưởng tín dụng cao kéo dài trong nhiều năm trước cũng là một nhân tố góp

phần tạo nợ xấu cao như hiện nay. Việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn,

26

phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu đã giúp

các ngân hàng thương mại giải quyết tốt vấn đề nợ xấu phát sinh từ nhiều năm

trước, chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể.

Cải thiện tỉ lệ CAR. Một số thống kê gần đây cho thấy hệ số CAR tại các

NHTM của khu vực châu Á - Thái Bình Dương bình quân hiện nay là 13,1%, của

khu vực Đông Á là 12,3%. Đây cũng là mức một số NHTM Việt Nam đã đạt được.

Theo đánh giá từ các nguồn số liệu công bố, hầu hết các ngân hàng thương mại và

các ngân hàng thương mại nhà nước mới cổ phần hoá (Vietcombank, Vietinbank,

sắp tới là BIDV) đều đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% mà NHNN đặt ra tại

Thông tư 13. Trong những năm trở lại đây, sự tăng trưởng nhanh về quy mô vốn

đã giúp các ngân hàng cải thiện đáng kể năng lực tài chính và hệ số này.

Một số ngân hàng thương mại cổ phần đã và đang nỗ lực trong việc đổi mới cơ

cấu quản trị điều hành theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức và hoạt

động của ngân hàng thương mại.

Bên cạnh những mặt khá tốt đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn

nhiều hạn chế.

Thứ nhất, năng lực tài chính của các ngân hàng nội địa còn rất non yếu.

Thứ hai, các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi

đó các ngân hàng nội địa chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tín dụng.

Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ

công nghệ ngân hàng với các hệ thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng

công nghệ thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng.

Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến vấn đề nhân sự. Việt

Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực ngân hàng.

Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa trong vấn đề quản

lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa các ngân hàng sẽ đẩy

27

chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân hàng trong nước sẽ gặp

khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám. Bên cạnh những điểm hạn chế

hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên, các ngân hàng trong nước còn gặp

phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co hẹp.

Dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều

bất cập, các ngân hàng chưa xây dựng được phương án phát triển dịch vụ ngân

hàng bán lẻ một cách đồng bộ và hiệu quả.

Kênh cung ứng dịch vụ truyền thống chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ

khách hàng cá nhân, các kênh phân phối dịch vụ hiện đại mới chỉ được cung ứng tại

một số ngân hàng, các phương thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng công nghệ

thông tin và điện tử chưa phổ biến.

Nhiều ngân hàng chưa có chiến lược tiếp thị rõ ràng trong hoạt động ngân hàng

bán lẻ, hoạt động tiếp thị còn yếu và thiếu chuyên nghiệp, tỉ lệ khách hàng cá nhân

tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng còn ít. Chính sách khách hàng kém hiệu

quả, chất lượng phục vụ chưa cao, các Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa đáp

ứng nhu cầu cơ bản về dịch vụ ngân hàng của các nhóm đối tượng khác nhau,

thủ tục giao dịch chưa thuận tiện, một số qui định và quy trình nghiệp vụ còn nặng

về bảo đảm an toàn cho ngân hàng, chưa thuận lợi cho khách hàng.

Bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ

chuyên nghiệp về nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Trình độ công nghệ và ứng dụng

công nghệ của các ngân hàng còn nhiều bất cập, nền tảng công nghệ thấp, không

có khả năng phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Trình độ thiết kế tổng thể

còn yếu, hệ thống ứng dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, các ngân hàng vẫn chưa có một

bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược phát triển công nghệ thông tin. Mức

độ ứng dụng công nghệ thông tin chưa cao, các sản phẩm mới chưa nhiều, vấn đề

bảo mật thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ rủi ro còn tiềm ẩn với cả

khách hàng và ngân hàng.

28

Trên tầm vĩ mô, mặc dù môi trường pháp lý đã được cải thiện đáng kể, nhưng

các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ

sở các quy trình thao tác giao dịch thủ công, mang nặng tính giấy tờ và phức tạp

trong quá trình xử lý, nhiều quy chế đã trở nên bất cập và không bao hàm hết các

mặt nghiệp vụ.

Nhà nước còn giữ tỉ lệ sở hữu khá lớn trong hệ thống ngân hàng thương mại,

nên không thể tránh khỏi mâu thuẫn và xung đột lợi ích, còn can thiệp quá sâu vào

quá trình ra quyết định của các ngân hàng thương mại, kết quả là quản trị ngân

hàng yếu kém và ảnh hưởng tiêu cực quyền lợi của các cổ đông.

2.2 Đánh giá khả năng thanh khoản ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời

gian qua:

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam từng bước

phát triển về quy mô cũng như chất lượng để đảm bảo yêu cầu thanh khoản, cũng

như đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Một trong những bước phát triển quan

trọng là nỗ lực tăng vốn điều lệ ngân hàng thương mại của Nhà nước. Cụ thể,

Chính phủ đã ban hành nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục vốn pháp

định của các TCTD, trong đó mức vốn pháp định áp dụng cho NHTMCP đến cuối

năm 2008 là 1000 tỷ đồng và đến cuối năm 2010 là 3000 tỷ đồng. Tuy nhiên, vốn

điều lệ của nhiều NHTM hiện nay còn quá nhỏ bé và hạn chế so với NHTM của

các nước trong khu vực làm cho tình hình tài chính một số NHTM không lành

mạnh, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản cao và năng lực cạnh tranh thấp.

2.2.1 Đánh giá về khả năng quản lý thanh khoản của các NHTM:

Nhìn chung, tính đến nay, lịch sử các NHTM chưa có khủng hoảng nợ, danh

mục tài sản nhìn chung là lành mạnh, không có sản phẩm dịch vụ độc hại như thị

trường tài chính Mỹ hay ở một số quốc gia phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn

còn rất nhiều hạn chế mà các NHTM vấp phải trong quá trình quản lý tính thanh

29

khoản của mình dẫn đến những khó khăn lớn vào những cao trào xoay chuyển của

thị trường. Cụ thể như sau:

- Hầu hết các NHTM đều không có hoặc có nhưng rất ít trái phiếu Chính phủ

trong danh mục tài sản của mình. Theo ước tính của Fitch thì tỷ trọng trái phiếu

chính phủ trong tổng tài sản ngân hàng không quá 10%.

“Lý do đơn giản là họ rất tham lam vì cho rằng duy trì trái phiếu Chính

phủ thì lợi nhuận thấp, trong khi sử dụng đồng vốn đó cho vay thì lợi nhuận cao

hơn”, tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia

chia sẻ.

Hơn nữa, không ít cổ đông phất lên từ buôn bán bất động sản, xe máy,

ôtô, sắt thép… nhờ tích lũy được nguồn vốn nên khi nhảy sang kinh doanh

ngân hàng cũng với quan niệm “kinh doanh ngân hàng cũng thế cả” nên đã đòi

hỏi lợi nhuận quá mức đối với ban điều hành, ngược lại ban điều hành cũng muốn

lấy thành tích với cổ đông, nên cố bằng mọi cách đẩy lợi nhuận lên cao. Từ đó,

họ chọn những danh mục đầu tư rủi ro cao nhưng đem lại tỷ suất sinh lời cao và

ngược lại, những tài sản lợi nhuận bền vững nhưng rủi ro thấp thì bị bỏ qua.

Dường như họ quan tâm quá nhiều đến lợi ích ngắn hạn mà không nghĩ

rằng, trái phiếu Chính phủ, ngoài việc đem lại lợi nhuận, thì chúng còn trở thành

vật cầm cố nơi NHNN để bù đắp thanh khoản khi cần thiết.

- Công tác dự báo và phân tích thị trường của các NHTM Việt Nam còn

nhiều hạn chế.

Các NHTM Việt Nam còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà

nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc

các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị

trường nên đã dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động

trước những tác động thị trường.

- Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn cho tính

thanh khoản còn yếu.

30

Tính cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu trong bất cứ thị trường nào, cũng là

yếu tố khách quan giúp cho các NHTM không ngừng phấn đấu và tự cải thiện.

Tuy nhiên, đôi lúc sự cạnh tranh đó lại tạo ra hiện tượng không lành mạnh, các

NHTM cạnh tranh bằng cách nào? Hiện nay chủ yếu vẫn là lãi suất, họ không

biết rằng khi đẩy lãi suất lên cao như vậy lại tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền

“làm giá, tăng lãi suất”, khách hàng cứ rút tiền chuyển từ NHTM này sang

NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của

toàn hệ thống. Như vậy, các NHTM đã quên một bài học rằng, bên cạnh việc

cạnh tranh nhau, tính liên kết cũng luôn cần thiết để đảm bảo khả năng thanh

khoản được “an toàn”.

2.2.2 Đánh giá về khả năng thanh khoản của NHTM:

(i) Thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế sụt giảm so với các

năm trước:

Đối với toàn bộ thị trường, lượng tiền gửi huy động đã suy giảm nhanh chóng.

Theo NHNN, số dư tiền gửi của khách hàng tại các NHTM tháng 10/2011 giảm

0,74% so với tháng 9, còn tháng 9 giảm 1,07% so với tháng 8 và giảm mạnh nhất là

tiền gửi VND. Đến cuối tháng 10/2011, huy động thị trường I đạt 2.819,6 nghìn tỷ

đồng, chỉ tăng 8,4% so cuối năm 2010 (bình quân tháng tăng 0,84%; trong khi mức

bình quân tháng của năm 2010 là 3,1%). Tính từ thời điểm tháng 3/2011 khi Thông

tư 07 được ban hành, số dư tiền gửi của khu vực ngân hàng giảm trong 2 tháng kế

tiếp đó (tháng 3 và 4/2011). Sau đó, tỷ lệ này tăng trở lại với biên độ không ổn định.

Đáng chú ý là tổng tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại NHTM đã giảm mạnh trong

năm 2011, dẫn đến giảm tốc độ luân chuyển tiền tệ của toàn nền kinh tế. Thêm vào

đó, chính sách trần lãi suất huy động VND ở mức 14% đã gây ra sự suy giảm nguồn

vốn huy động tiền gửi từ dân cư, đồng thời khuyến khích sự tích lũy “đóng băng”

dưới các dạng tài sản khác (chủ yếu là vàng, ngoại tệ, bất động sản...) của dân

chúng. Điều này làm trầm trọng hóa vấn đề vàng hóa và đô la hóa, vốn tồn tại cố

hữu trong nền kinh tế Việt Nam từ lâu. Thị trường vàng cũng đã chứng kiến nhiều

31

biến động trong tháng 9 khi nhu cầu tích trữ của người dân tăng mạnh khiến NHNN

phải cho phép nhập vàng nhằm bình ổn thị trường.

(ii) Các “đối phó” với chính sách nhằm đảm bảo thanh khoản:

Cuộc đua lãi suất giữa các NHTM những tháng cuối năm 2010 vẫn được tiếp

tục trong năm 2011 với lãi suất huy động phổ biến ở mức 14-16%, bất chấp đồng

thuận lãi suất của các thành viên Hiệp hội Ngân hàng. Lãi suất huy động VND có

kỳ hạn tháng 2/2011 vẫn ở mức 14%/năm, nhưng lãi suất huy động không kỳ hạn

đã tăng từ 3%/năm lên 8-9%/năm, thậm chí Seabank đưa ra sản phẩm có lãi suất

không kỳ hạn lên 12%/năm. Nhằm hạn chế cuộc đua lãi suất và kéo hạ lãi suất cho

vay, NHNN ban hành Thông tư 02/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định mức lãi suất

huy động vốn tối đa bằng VND của các NHTM bao gồm cả khoản chi khuyến mại

dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm, riêng các Quỹ tín dụng nhân dân cơ

sở không vượt quá 14,5%/năm. Đồng thời, NHNN ban hành Thông tư 09/2011/TT-

NHNN áp dụng từ 13/4/2011 quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng

USD của NHTM là 1,0%/năm (giữ nguyên so với mức cũ) và đối với cá nhân là

3,0%/năm (trước đó các NHTM huy động lãi suất USD từ 5- 6%/năm).

Tuy nhiên, việc tăng giá xăng dầu 2 lần, vào ngày 24/2/2011 và 29/3/2011, và

tăng giá điện bình quân 15,28% so với mức áp dụng năm 2010 kể từ 01/3/2011, đã

khiến kỳ vọng lạm phát tăng cao. Bên cạnh đó, các mặt hàng lương thực thực phẩm

cũng tăng giá mạnh do tác động của tăng giá thế giới cũng như nguồn cung trong

nước thiếu hụt, đã gây áp lực gia tăng lớn đến lạm phát. Các NHTM đã thực hiện

các biện pháp “lách luật” với nhiều sáng tạo trong các sản phẩm huy động như: “tiết

kiệm lãi suất linh hoạt”, “tiết kiệm rút gốc linh hoạt”, “nhận tiền gửi tiết kiệm bằng

VND đảm bảo bằng USD” hoặc sản phẩm “hợp tác đầu tư, nhận vốn và cho vay

theo yêu cầu của bên ủy thác” được phát triển phổ biến trong hệ thống NHTM.

Trước tình hình đó, NHNN tiếp tục ban hành Thông tư số 04/2011/TT-NHNN

quy định áp dụng lãi suất không kỳ hạn trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền

gửi trước hạn tại các NHTM. Để đối phó, các khoản tiền gửi rút gốc linh hoạt trước

đây của các NHTM được chuyển thành các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần hoặc không kỳ

32

hạn. Hơn thế, sự căng thẳng về thanh khoản thể hiện rõ qua việc niêm yết lãi suất

gần như ở mức ngang bằng nhau (và bằng đúng lãi suất trần 14%) trong các kỳ hạn

từ 1 đến 12 tháng tại các ngân hàng trong 5 tháng đầu năm 2011. Với CPI tháng

4/2011 tăng tới 3,32% so với tháng trước, mức tăng cao nhất kể từ tháng 3/2008, và

tăng 9,64% so với tháng 12/2010, vượt xa mức chỉ tiêu 7% cho cả năm được Quốc

hội phê duyệt, nhiều NHTM đã dùng nhiều biện pháp “phá trần lãi suất huy động”

lên trên 17%/năm, thậm chí có nơi lên tới 20%/năm. Tình hình vi phạm trần lãi suất

tiếp diễn cho đến đầu tháng 9, khi Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011 được ban

hành, yêu cầu chấp hành quy định trần lãi suất huy động của các NHTM là

14%/năm đối với VND; huy động USD là 2%/năm đối với cá nhân và 0,5%/năm

đối với tổ chức. Chỉ thị 02/CT-NHNN cũng nêu rõ những biện pháp xử lý đối với

các NHTM cố tình vi phạm trần lãi suất huy động nhằm xác lập lại kỷ luật thị

trường. Tuy nhiên, một số NHTM tiếp tục lách quy định này bằng cách áp dụng

mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngày, tuần, khiến cho lãi

suất thực tế lên cao hơn 14%/năm. Vì vậy, NHNN đã phải ban hành Thông tư

30/TT-NHNN ngày 28/9, quy định rõ trần lãi suất huy động 14%/năm được áp dụng

đối với tiền gửi VND có kỳ hạn 1 tháng trở lên, với kỳ hạn dưới 1 tháng và không

kỳ hạn, lãi suất huy động tối đa là 6%/năm. Trước những hành động quyết liệt của

NHNN, “chính sách trần lãi suất huy động” đã phát huy tác dụng theo đúng bản

chất của nó. Đó là giúp xác định rõ những NHTM hoạt động không hiệu quả, sử

dụng biện pháp cạnh tranh lãi suất huy động nhằm đầu tư vào lĩnh vực bất động sản.

(iii) Thanh khoản căng thẳng do hệ lụy của “độ trễ” của tăng trưởng tín dụng

Tình hình thanh khoản của một số NHTM Việt Nam trở nên căng thẳng một

thiếu hợp lý trong giai đoạn 2007- 2010:

phần do tiền gửi suy giảm trong toàn bộ nền kinh tế, nhưng một phần nguyên nhân

quan trọng bắt nguồn từ việc tăng trưởng tín dụng bất hợp lý trong giai đoạn trước

đây. Không tính những ngân hàng như ACB hoặc trường hợp đặc thù của

HabuBank và SHB, các ngân hàng còn lại trong (hình 2.1) đều có xu thế tăng mạnh

tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi. Thực tế là các NHTM không hề dễ dàng trong xử

33

lý vấn đề thanh khoản khi đã cấp nhiều khoản tín dụng bất động sản trong các năm

trước đây.

Hình 2.1: Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi tính đến tháng 9/2011

Nguồn: báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM

(iv) Xuất hiện sự chuyển dịch vốn huy động từ các NHTM nhỏ sang các NHTM

lớn khiến cho tổng huy động trên thị trường I suy giảm:

Thực tế cho thấy, trong giai đoạn đầu năm, các NHTM lớn như Agribank,

Vietinbank, BIDV,... đã có sự giảm sút đáng kể nguồn vốn huy động, trong khi các

NHTM nhỏ có sự gia tăng mạnh vốn huy động kể từ khi chính sách trần lãi suất huy

động 14% có hiệu lực từ ngày 03/3/2011. Tuy nhiên, trong nửa cuối năm, sự dịch

chuyển này có xu hướng ngược lại. Rõ ràng, do NHNN áp dụng các biện pháp đồng

bộ liên quan đến trần lãi suất huy động, các NHTM có quy mô nhỏ gặp khó khăn

hơn trong việc huy động tiền gửi so với các NHTM có quy mô lớn, buộc các

NHTM có quy mô nhỏ khi gặp áp lực thanh khoản phải vay các NHTM có quy mô

lớn trên thị trường liên ngân hàng. Tỷ trọng tiền gửi và cho vay của các NHTM có

quy mô nhỏ tại các NHTM có quy mô lớn đã giảm xuống (hình 2.2) trong khi tỷ

trọng tiền gửi của NHTM có quy mô lớn và cho vay NHTM khác tăng lên đáng kể

từ năm 2009 trở lại đây (hình 2.3).

34

Hình 2.2: Tỷ trọng tiền gửi Hình 2.3: Tỷ trọng tiền gửi và và cho vay tại các NHTM khác vay từ các NHTM khác

Nguồn: báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM

Kết quả của việc tốc độ tăng trưởng huy động thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín

dụng là tỷ lệ dư nợ trên huy động ở hầu hết các ngân hàng tăng mạnh trong năm

2011. Một trong những nguyên nhân khiến cho ba ngân hàng buộc phải thực hiện

sáp nhập (NHTMCP Đệ nhất, Sài Gòn và Việt Nam Tín Nghĩa) là vì ba ngân hàng

này đã có những thiếu hụt thanh khoản tạm thời do mất cân đối kỳ hạn giữa nguồn

vốn huy động và cho vay. Sự kiện này cho thấy, dù ngân hàng có tăng trưởng quy

mô cao, kết quả kinh doanh có lãi mà khả năng quản trị rủi ro kém thì nguy cơ rơi

vào căng thẳng thanh khoản là hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt là trong những thời

kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN.

(v) Thị trường II xuất hiện những biến động bất thường:

Từ những khó khăn của thị trường I, một số NHTM có lợi thế huy động vốn trên

thị trường I đã cho vay lại trên thị trường II với mức lãi suất cao và rủi ro thấp hơn

so với cho vay khách hàng, khiến cho nguồn vốn huy động không được cho vay ra

nền kinh tế mà di chuyển qua lại trong hệ thống ngân hàng. Khó khăn thanh khoản

tại một số ngân hàng nhỏ có khoản tiền vay từ các ngân hàng lớn, cộng với thực

trạng vay nợ chằng chịt giữa các ngân hàng càng khiến cho mức độ rủi ro của cả hệ

thống ngân hàng Việt Nam trở nên lớn hơn. Lãi suất liên ngân hàng trong tháng

9/2011, sau 4 tháng liên tục ổn định ở mức 11-12%/năm, đã bật tăng và tại một số

35

phiên giao dịch trung tuần tháng 10 lên tới 30-40%/năm, đã bộc lộ rõ việc thiếu hụt

thanh khoản tại một số NHTM. Đến tháng 11, khi các ngân hàng đang giao dịch với

nhau ở mức lãi suất 14-16%/năm với các kỳ hạn qua đêm và một tuần,

Vietcombank bất ngờ hạ lãi suất xuống còn ở mức 12-13,5%/năm, nhưng yêu cầu

phải có tài sản bảo đảm. Các tài sản bảo đảm phải có tính thanh khoản cao như

vàng, ngoại tệ (không nhận bảo đảm bằng trái phiếu dù là trái phiếu của chính ngân

hàng cho vay phát hành) và hạn mức cho vay không quá 50% giá trị tài sản bảo

đảm. Đòi hỏi này là do một số ngân hàng vay liên ngân hàng nhưng không trả nợ

đúng hạn, thậm chí chây ỳ trả nợ gốc. Thực tế có NHTMCP lớn đã cho vay trên thị

trường liên ngân hàng với khối lượng khá lớn, trong đó bao gồm một nửa là tín

chấp, nhưng đến hạn vẫn chưa thu hồi được. Những yêu cầu về tài sản bảo đảm đã

khiến cho thị trường liên ngân hàng- vốn là thị trường dựa vào uy tín và có tốc độ

giao dịch nhanh với khối lượng lớn- không còn hiệu quả, khiến cho các NHTM nhỏ

càng khó khăn hơn trong bù đắp thanh khoản của mình.

Theo báo cáo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tỷ lệ cho vay/huy động

của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam nói chung luôn ở mức trên 90%. Đặc biệt tỷ

lệ cho vay/huy động ngoại tệ luôn ở mức trên 100%, có khi đạt xấp xỉ 130%.

“Thanh khoản hệ thống luôn bấp bênh, căng thẳng; chưa kể đến sự mất cân đối kỳ

hạn giữa huy động và cho vay và việc tiền gửi rút trước kỳ hạn gia tăng” - Cơ quan

này nhận định. Thanh khoản hệ thống luôn căng thẳng, thị trường liên ngân hàng

ách tắc, một số TCTD rơi vào tình trạng mất thanh khoản liên tục (luôn rơi vào tình

trạng mất cân đối kỳ hạn, về huy động và cho vay…).

Nhìn chung, năm 2011 đã chứng kiến sự phức tạp trong tình hình huy động vốn

của các NHTM: (i) cuộc đua lãi suất bất chấp các quy định của NHNN nhưng tổng

huy động tiền gửi vẫn sụt giảm; (ii) sự siết chặt kỷ cương của NHNN đã làm xuất

hiện những hiện tượng lạ trên thị trường II; (iii) tình hình thanh khoản của các

NHTM nhỏ ở trạng thái căng thẳng; (iv) chính sách trần lãi suất huy động đã phát

huy tác dụng phát hiện các NHTM hoạt động không hiệu quả; và (v) mặt bằng lãi

36

suất giảm không như mong đợi của nền kinh tế, dù chính sách trần lãi suất huy

động đã được tuân thủ vào cuối năm.

Như vậy, nếu các ngân hàng yếu kém không xử lý được vấn đề thanh khoản, thì

việc sáp nhập, hợp nhất sẽ trở nên dễ dàng và nhanh gọn hơn nhiều, nhất là khi

được M&A bằng mệnh giá. Kết quả của áp lực thanh khoản là cuộc đua nước rút

của các ngân hàng gặp vấn đề. Sau cuộc đua ấy, chỉ có các ngân hàng có chất lượng

được giữ lại, không bị M&A và điều này cũng phù hợp với định lý 1 để giảm cú sốc

đơn lẻ trong hệ thống ngân hàng.

2.2.3 Sự thất bại của những công cụ phòng chống rủi ro thanh khoản của các ngân hàng:

Chúng ta đã thấy những ảnh hưởng thực sự nghiêm trọng và nặng nề của rủi ro

thanh khoản đối với việc ổn định hệ thống tài chính cũng như sự phát triển của

nền kinh tế. Những lý do đó giải thích cho câu hỏi tại sao việc xây dựng những

công cụ phòng chống loại rủi ro thanh khoản lại thực sự quan trọng như vậy, đặc

biệt khi sự phát triển của thị trường tài chính cũng như nền kinh tế vĩ mô trong

vài năm qua đã dẫn đến sự gia tăng “tính dễ tổn thương” đối với rủi ro thanh khoản

trong tổng thể các ngân hàng. Và khi môi trường thay đổi như thế này, việc quản

trị và giám sát rủi ro thanh khoản đã không còn theo kịp. Những sự kiện gần đây

đã chứng minh rõ ràng những công cụ chống đỡ hiện tại còn thiếu sót, những ngân

hàng chưa chuẩn bị đủ sức cho một giai đoạn căng thẳng tính thanh khoản kéo dài.

Những ngân hàng có một loạt những công cụ chống đỡ với sự sụt giảm bất

ngờ trong tính sẵn có của nguồn vốn. Sự phát triển gần đây đã nhấn mạnh một số

giới hạn của những công cụ này đặc biệt là cú sốc thanh khoản trong toàn hệ thống

gần đây.

Một phương sách tiềm tàng để vượt qua áp lực thanh khoản đó là chuyển

đổi những tài sản thành tiền mặt. Cho nên trong một sự kiện áp lực thanh khoản

gia tăng, nhiều ngân hàng đã lên kế hoạch sử dụng kỹ thuật “chứng khoán hóa”

37

một cách mạnh mẽ hơn để “hóa lỏng” những tài sản chẳng hạn như những khoản

cầm cố, ký quỹ. Phương sách như thế có thể thành công nếu chỉ một cá nhân đối

mặt với vấn đề thanh khoản. Nhưng dĩ nhiên cách tiếp cận này sẽ hoàn toàn thất

bại khi sự thay đổi trong điều kiện thị trường làm sụt giảm nhu cầu nắm giữ

những sản phẩm chứng khoán này trên toàn cầu và sự kết thúc hợp đồng hàng loạt

của thị trường cho vay kỳ hạn.

Phương pháp khác là nâng lãi suất cho những khoản tiền gửi tiết kiệm cá nhân

cao hơn. Điều này có thể sẽ mất thời gian vì nhiều cá nhân gửi tiền phản ứng rất

chậm sau những thay đổi trong lãi suất liên quan. Quan trọng hơn nữa là cách giải

quyết này chỉ có thể thành công bằng việc cung cấp lãi suất cao hơn những đối

thủ cạnh tranh, mà điều đó lại làm xói mòn đi số dư dự trữ. Và trong một môi

trường căng thẳng tính thanh khoản trải rộng, những đối thủ cũng có thể tuân theo

nhu cầu để bảo vệ thị phần của họ, các ngân hàng khác sẽ đều cung cấp lãi suất

cao hơn trong tiền gửi có kỳ hạn để giới hạn những “sự di chuyển” của khách hàng.

Đối mặt với những hạn chế trong việc gia tăng tính thanh khoản, một ngân

hàng phản ứng với sự sụt giảm trong nguồn vốn bằng cách thay đổi phần tài sản

trong bảng cân đối kế toán nhằm làm giảm nhu cầu tài chính của nó: nói cách

khác, bằng cách trì hoãn thậm chí là cắt giảm việc cho vay đối với hộ gia đình

và khách hàng doanh nghiệp. Chính sách này sẽ xoa dịu áp lực vốn và nâng đỡ

tính thanh khoản, nhưng nó cũng có hai trở ngại chính như sau. Thứ nhất, nó cần

một thời gian mới có hiệu lực. Nhiều quyết định cho vay được ký kết trong tuần

hoặc tháng trước đó không thể rút lại ngay. Nên phương pháp này sẽ không phải

là một kênh dẫn lưu tính thanh khoản nhanh. Hơn nữa, khi một ngân hàng thắt

chặt điều kiện cho vay để giới hạn sự gia tăng trong bảng cân đối, những ngân

hàng khác phải đối diện với một áp lực tương tự cũng sẽ phản ứng lại để giới hạn

bất cứ sự trệch hướng nào của áp lực vốn lên bảng cân đối của họ. Thứ hai, sự cắt

giảm cho vay có thể đưa ra những ảnh hưởng thực sự rộng hơn đối với nền kinh tế,

vì những công ty và hộ gia đình nhận ít tài trợ hơn để hỗ trợ cho việc đầu tư và tiêu

38

dùng dài hạn. Những công cụ phòng chống rủi ro này mang chung một khuyết điểm

phổ biến.

Đó là, trong khi chúng hoạt động rất tốt khi một ngân hàng riêng lẻ đối diện với

áp lực vốn, thì khi áp lực thanh khoản lan rộng, các ngân hàng đều cố gắng sử

dụng chúng cùng một lúc, hành động của ngân hàng này sẽ vô hiệu hóa hành động

của những đối thủ cạnh tranh khác, những lợi ích và mất mát trong thị phần của họ

bù trừ nhau. Điều đó hàm ý một sự gia tăng trong chi phí điều chỉnh kinh tế rộng

hơn, và những rủi ro trong việc ổn định tài chính trong suốt quá trình điều chỉnh.

Tuy nhiên, có một công cụ đã bị bỏ quên. Một ngân hàng nắm giữ tấm

đệm những tài sản thanh khoản chất lượng cao và đáng tin cậy như trái phiếu kho

bạc hay những chứng khoán khác của chính phủ, có thể chuyển đổi chúng thành

tiền một cách trực tiếp và tức khắc khi có một sự sụt giảm tính thanh khoản thị

trường hoặc một sự gia tăng không mong đợi trong nhu cầu vốn của nó. Dĩ

nhiên, những tài sản thanh khoản và an toàn cung cấp một tỷ suất sinh lợi thấp

hơn những loại tài sản khác, nên sẽ có một chi phí cơ hội khi nắm giữ một tấm

đệm thanh khoản như vậy trong bảng cân đối kế toán. Nhưng bù lại, những tài sản

này cung cấp khả năng dự phòng hầu như sẵn sàng và đáng tin cậy để chống lại hậu

Thật không may, việc dự trữ những tài sản thanh khoản đáng tin đó của các ngân

quả rủi ro thanh khoản.

hàng lại được chứng minh là quá thiếu để đối mặt với cú sốc vốn gần đây. Tìm hiểu

sau sự việc này, người ta mới phát hiện là động cơ gia tăng liên tục sự hoán đổi kỳ

hạn thanh toán đã làm lỏng đi “cái van an toàn” này trong hệ thống tài chính.

2.3 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm:

2.3.1 Xác định vấn đề nghiên cứu:

Như đã trình bày ở trên, tỉ lệ LLSS đo lường sự thỏa hiệp giữa lợi nhuận và rủi

ro thanh khoản mong đợi. Trong trường hợp tối đa, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS =1.

Họ đầu tư tất cả tiền gửi tiết kiệm vào các khoản vay dài hạn và hoàn toàn không

39

đầu tư vào tài sản thanh khoản. Nếu thuận lợi, ngân hàng có thể thu được lợi nhuận

cao từ khoản cho vay dài hạn. Tuy nhiên, sự kiện rút tiền không được mong đợi có

thể gây ra hoãn loạn và sau đó là một cuộc chạy đua rút tiền. Trong trường hợp

ngược lại, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS = 0 và đầu tư toàn bộ tiền gửi tiết kiệm để cho

vay ngắn hạn. Ngân hàng luôn đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền, nhưng chi

phí cho sự an toàn là lợi nhuận thấp. Điều này thể hiện có sự tương quan giữa lợi

nhuận ngân hàng và tỉ lệ LLSS. Và để đánh giá mức độ phụ thuộc của lợi nhuận

ngân hàng vào tỉ lệ LLSS này thì ta hãy đi kiểm định chúng.

2.3.2 Mô hình nghiên cứu:

*Mô hình : Mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản

Y1 = α+βX

Trong đó :

- Y : Thu nhập lãi thuần, thu nhập lãi thuần phản ánh hiệu quả hoạt động của

ngân hàng là chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi.

- X : Tỷ lệ cho vay dài hạn trên nguồn vốn ngắn hạn (LLSS).

- α là hệ số tự do ( hệ số tung độ gốc ).

- β là hệ số góc của X.

2.3.3 Phương pháp nghiên cứu:

2.3.3.1 Thu thập dữ liệu:

*Số lượng mẫu

Đối với mô hình trên, hiện nay Việt Nam có tất cả 39 ngân hàng thương mại

hoạt động trong đó có khoảng trên 30 ngân hàng là NHTM Cổ Phần. Trong nghiên

cứu, tác giả sử dụng dữ liệu mẫu của 23 NHTM Cổ Phần để thực hiện nghiên cứu

mô hình từ năm 2005 đến năm 2012. Tuy nhiên, do một số NHTM mới chuyển đổi

hoặc sáp nhập, và do điều kiện công bố thông tin hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế,

nên để số lượng này đầy đủ hơn phục vụ cho công tác nghiên cứu, tác giả lấy lùi

thêm 1-2 năm dữ liệu của một số ngân hàng để có đầy đủ số liệu các năm hoạt động

nên số lượng mẫu tác giả thu thập được từ 23 ngân hàng là 182 mẫu.

40

*Phương thức lấy mẫu:

Từ mô hình nghiên cứu, tác giả đã thu thập thông tin từ các báo cáo tài chính,

báo cáo thường niên của các NHTM qua các năm để lấy các thông tin về thu nhập

lãi thuần, tổng tài sản, huy động, cho vay, vốn điều lệ, tỷ trọng cho vay dài hạn, tỷ

trọng huy động ngắn hạn... để tính ra các chỉ tiêu cần thiết phục vụ cho công tác

nghiên cứu. LLSS được tính theo công thức: LLSS =Dư nợ cho vay*tỷ trọng cho

vay dài hạn/vốn huy động*tỷ trọng huy động ngắn hạn.

2.3.3.2 Xử lý dữ liệu:

Dữ liệu sau khi được thu thập thì sẽ được nhập vào file Excel và xử lý trên file

này. Sau đó, tác giả sẽ chuyển dữ liệu vào phần mềm Eview 6.0 để tính toán và xử

lý dữ liệu theo mô hình.

2.3.3.3 Các kỹ thuật nghiên cứu:

Hồi quy tuyến tính đơn biến:

Đây là dạng đơn giản nhất của mô hình hồi quy tuyến tính, mô hình này chỉ

gồm 1 biến phụ thuộc và một biến độc lập và xem xét mối quan hệ giữa hai biến

này. Trong mô hình nghiên cứu của đề tài này, hồi quy tuyến tính đơn biến sẽ được

sử dụng để xem xét mức độ phụ thuộc giữa lợi nhuận ngân hàng vào tỉ lệ LLSS.

Các phép kiểm định:

Đa cộng tuyến, phương sai sai số thay đổi, tự tương quan. Các phép kiểm định

này được sử dụng để kiểm tra sự phù hợp của các biến trong mô hình.

Dự báo mô hình:

Sử dụng mô hình dự báo san mũ Holt – Winter không mùa vụ để dự báo cho các

biến trong mô hình.

41

2.4 Kết quả nghiên cứu:

2.4.1 Mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng:

2.4.1.1 Mô tả dữ liệu:

TNLT = α+β*LLSS

Trong đó :

TNLT : Thu nhập lãi thuần

LLSS : Tỷ lệ cho vay dài hạn trên huy động ngắn hạn

Bảng 2.1: Bảng thống kê mô tả dữ liệu biến TN lãi thuần và LLSS

Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis Jarque-Bera Probability Sum Sum Sq. Dev. Observations LLSS 0.828501 0.823571 0.922339 0.722759 0.060616 -0.187777 2.565180 0.110037 0.946468 6.628006 0.025720 8 TNLT 2231905. 1688860. 4408847. 795484.1 1401273. 0.652047 1.832387 1.021327 0.600097 17855238 1.37E+13 8

Bảng 2.2: Giá trị trung bình của biến TN lãi thuần và LLSS qua các năm

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 LLSS ngành 0,789099 0,826434 0,820708 0,722759 0,805607 0,875935 0,922339 0,865125 TNLT ngành 1095544,842 795484,0588 1211092,227 1667250,409 1710470,387 2817452,65 4408846,595 4149096,348

42

Tỷ lệ cho vay dài hạn trên huy động ngắn hạn trung bình của ngành từ năm 2005

đến 2012 là 0,828501. Tỷ lệ cao nhất là 0,922339 là vào năm 2011, tỷ lệ thấp nhất

là 0,722759 vào năm 2008. Có thể thấy giá trị trung bình của tỷ lệ này có biến động

tăng vào năm 2005-2006 và giai đoạn 2009-2011 và có biến động giảm vào giai

đoạn 2007-2008 và giai đoạn 2011-2012. Giai đoạn năm 2007-2008 là thời điểm

cuộc khủng hoảng xảy ra, vì vậy, nhu cầu cho vay dài hạn có xu hướng giảm so với

các năm kinh tế phát triển mạnh như 2005-2006 và giai đoạn kinh tế phục hồi 2009-

2011. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2012, trong thời gian qua mặc dù NHNN đã tích

cực đưa ra các biện pháp nhằm giảm mặt bằng lãi suất cho vay cũng như tìm cách

khơi thông tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp. Trong bối

cảnh tổng cầu của nền kinh tế vẫn còn yếu, nợ xấu tiếp tục gia tăng, thì tín dụng đối

với nền kinh tế vẫn chưa thể cải thiện.

Thu nhập lãi thuần của ngành có giá trị trung bình là 2231905 triệu đồng, giá

trị thấp nhất là 795484 vào năm 2006 và có giá trị cao nhất là 4408846 vào năm

2011. Như vậy thu nhập lãi thuần trung bình của ngành theo tính toán trên exel có

biến động giảm từ năm 2005-2006 và tăng từ năm 2006 đến 2011 và giảm trong

giai đoan 2011-2012.

Như vậy, ta có thể thấy sự đồng biến trong mối quan hê giữa thu nhập lãi thuần

và tỷ lệ LLSS vào giai đoạn 2005-2007, 2008-2011. Vào giai đoạn này, thanh khoản

của ngân hàng và thu nhập lãi thuần giảm vào năm 2006, 2011-2012 và tăng từ

2006-2007, 2008-2011. Năm 2008, hai biến này lại có mối quan hệ nghịch đảo khi

thanh khoản ngân hàng giảm còn thu nhập lãi thuần biến động tăng.

Xét mô hình định lượng mối tương quan giữa hai biến LLSS và TN lãi thuần

Bảng 2.3: Ma trận tương quan giữa TN lãi thuần và LLSS

LLSS TNLT LLSS 1.000000 0.722555 TNLT 0.722555 1.000000

Theo lý thuyết toán ta có:

Hệ số tương quan r

43

+│r│<0.4: tương quan lỏng lẻo

0.4 <│r│< 0.8: tương quan trung bình

│r│>0.8: tương quan chặt chẽ

+ r<0: tương quan nghịch

r>0: tương quan thuận

Từ bảng ma trận tương quan có thể thấy mối tương quan giữa hai biến thu

nhập lãi thuần và LLSS là mối tương quan thuận do giá trị tương quan mang dấu

dương. Hai biến này cũng có giá trị tương quan trung bình.

2.4.1.2 Kết quả hồi quy mô hình với biến độc lập LLSS và biến phụ thuộc thu

nhập lãi ta có:

Bảng 2.4: Mô hình hồi quy

Dependent Variable: TNLT Method: Least Squares Date: 01/23/13 Time: 12:33 Sample: 2005 2012 Included observations: 8

Variable C LLSS

t-Statistic Coefficient Std. Error -2.142275 -11606995 5418070. 16703546 6524346. 2.560187 0.522086 Mean dependent var 0.442434 S.D. dependent var 1046336. Akaike info criterion 6.57E+12 Schwarz criterion -121.0872 F-statistic 1.285550 Prob(F-statistic) Prob. 0.0759 0.0429 2231905. 1401273. 30.77181 30.79167 6.554557 0.042898

R-squared Adjusted R-quared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat

Kiểm định tự tương quan:

Ta sử dụng kiểm định BG(Breusch – Godfrey)

Giả thiết:

Ho:( Mô hình không có tương quan chuỗi)

H1: (Mô hình có tương quan chuỗi)

Bảng 2.5: Kiểm định tự tương quan cho mô hình

44

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic Obs*R-squared 0.349906 Probability 0.523233 Probability

0.579896 0.469466

Test Equation: Dependent Variable: RESID Method: Least Squares Date: 01/23/13 Time: 12:34 Presample missing value lagged residuals set to zero.

Coefficient Std. Error

Variable C LLSS RESID(-1)

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat t-Statistic 801942.3 5895809. 0.136019 -906631.6 7077343. -0.128103 0.311296 0.526257 0.591528 0.065404 Mean dependent var -0.308434 S.D. dependent var 1108087. Akaike info criterion 6.14E+12 Schwarz criterion -120.8167 F-statistic 1.523129 Prob(F-statistic) Prob. 0.8971 0.9031 0.5799 -4.86E-09 968719.0 30.95416 30.98395 0.174953 0.844422

Ta có LM *=Obs*R-squared=0.523233

P_value(Obs*R-squared=0.523233) = 0.469466 >0.05 chấp nhận Ho tức

mô hình không có tự tương quan.

Kiểm định PSSSTĐ, ta sử dụng kiểm định White:

Bảng 2.6: Kiểm định PSSSTĐ cho mô hình

White Heteroskedasticity Test: F-statistic Obs*R-squared 0.127990 Probability 0.389622 Probability 0.882654 0.822990

Coefficient Std. Error

Test Equation: Dependent Variable: RESID^2 Method: Least Squares Date: 01/23/13 Time: 12:36 Sample: 2005 2012 Included observations: 8 Variable C LLSS LLSS^2 t-Statistic 4.89E+12 5.43E+13 0.090142 -7.04E+12 1.32E+14 -0.053255 2.55E+12 8.02E+13 0.031793 Prob. 0.9317 0.9596 0.9759

45

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat 0.048703 Mean dependent var -0.331816 S.D. dependent var 9.02E+11 Akaike info criterion 4.07E+24 Schwarz criterion -229.6975 F-statistic 1.954032 Prob(F-statistic) 8.21E+11 7.82E+11 58.17438 58.20417 0.127990 0.882654

Giả thiết:

Ho: Mô hình không có hiện tượng PSSSTĐ

LM** = Obs*R-squared=0.389622

H1: Mô hình có hiện tượng PSSSTĐ

P_value(Obs*R-squared=2.672939)=0.822990 >0.05  chấp nhận Ho tức mô

hình không có PSSSTĐ.

Như vậy mô hình không có bệnh PSSSTĐ và bệnh tự tương quan.

Phương trình hồi quy:

TNLT = -11606994.8 + 16703545.8*LLSS

Với tham số β = 16703545.8, mô hình hồi quy đã chỉ ra rằng khi LLSS tăng 1 đơn

vị thì thu nhập tăng 16703545.8 đơn vị hay khi tỷ lệ LLSS tăng 1 % thì thu nhập

tăng 16703545.8 triệu đồng.

P_value của tham số β =0.0429, với mức ý nghĩa 5% thì tham số β của LLSS

có ý nghĩa.

R2= 0.522086 cho biết LLSS trong mô hình giải thích được khoảng 52,2% sự

thay đổi thu nhập lãi. Với mức ý nghĩa 5%, p_value của mô hình là 0.042498<0.05

cho thấy mô hình là có ý nghĩa.

Trên thực tế, giai đoạn 2005-2011 là giai đoạn mà thanh khoản của ngành

ngân hàng Việt Nam bắt đầu có những dấu hiệu suy giảm. Nguyên nhân là do giai

đoạn 2005-2007 là giai đoạn phát triển quá nóng của nền kinh tế Việt Nam, lượng

tiền đưa vào lưu thông tăng quá nhanh so với khả năng hấp thụ của nền kinh tế dẫn

đến lạm phát tăng cao và tạo ra bong bóng chứng khoán và bất động sản. NHNN

với mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đưa các chính sách nhằm rút bớt lượng tiền

46

trong lưu thông. Tuy nhiên các biện pháp của NHNN không đủ mạnh và kịp thời,

đồng bộ nên kiểm soát tiền tệ còn nhiều hạn chế dẫn đến sự lệch pha giữa tăng

trưởng cung tiền và , tiết kiệm và cho vay trong nền kinh tế. Thời gian này, các

ngân hàng bị mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn tài sản và buộc phải lấy vốn ngắn

hạn cho vay dài hạn. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng huy động dân cư giảm so cới

2006, trong khi tăng trưởng tín dụng lại cao đạt đạt 37,8%. Điều này cho thấy các

ngân hàng thương mại đã phải sử dụng nguồn vốn từ thị trường liên ngân hàng, nơi

có lãi suất thấp, dưới 7%/năm để đáp ứng tốc độ tăng trưởng tín dụng này.

Tuy nhiên, theo quy định thì khoản vay liên ngân hàng chỉ được sử dụng trong

trường hợp giải quyết các khó khăn thanh khoản trong ngắn hạn. Việc làm này đã

dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu nguồn vốn và tiềm ẩn rủi ro

thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.Các ngân hàng đã quá chủ quan khi theo

đuổi mục tiêu lợi nhuận trong ngắn hạn qua việc lấy nguồn vốn liên ngân hàng để

cho vay dài hạn.

Sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán trong năm 2007 cũng làm

cho các doanh nghiệp tập trung vào hoạt động đầu tư tài chính, không tập trung phát

triển sản xuất kinh doanh và một bộ phận dân cư cũng trở nên giàu có. Bong bóng

chứng khoán và bất động sản đã đem lại cảm giác thịnh vượng cho cả nền kinh tế,

từ đó dẫn đến những lệch lạc trong sản xuất, tiêu dùng và tiết kiệm, làm ngòi nổ cho

những khó khăn của nền kinh tế vĩ mô trong năm 2008.

Ngay từ những tháng đầu năm 2008, tình hình lạm phát và thâm hụt cán cân

thương mại đã trở nên nghiêm trọng. Chính phủ đã ưu tiên mục tiêu chống lạm phát

bằng việc áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm giảm lượng cung tiền trong lưu

thông – nguyên nhân chính gây ra lạm phát cao. Hệ thống ngân hàng, cầu nối cung

cấp nguồn vốn cho nền kinh tế, đã chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các biện pháp thắt

chặt tiền tệ này. Các ngân hàng buộc phải mua tín phiếu bắt buộc để NHNN rút tiền

về đã làm hệ thống ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản. Trong giai đoạn này,

rất nhiều ngân hàng đã bộc lộ những yếu kém trong việc giải quyết những khó khăn

về thanh khoản. Khi cuộc đua lãi suất diễn ra, các ngân hàng rơi vào tình trạng mất

47

cân đối kỳ hạn giữa huy động và cho vay khi phần lớn nguồn vốn huy động là

nguồn vốn ngắn hạn trong khi cơ cấu cho vay vốn trung và dài hạn cũng chiếm tỷ

trọng lớn.

Tình trạng này lại tiếp tục diễn ra trong giai đoạn 2010-2011 khi nền kinh tế

rơi vào khó khăn và chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN lại được áp dụng. Cuộc

đua lãi suất huy động tiếp tục diễn ra mạnh mẽ với mức 14-16% bất chấp sự đồng

thuận lãi suất của các thành viên hiệp hội ngân hàng. Tình hình thanh khoản của các

NHTM Việt Nam trở nên căng thẳng một phần do tiền gửi suy giảm một phần từ sự

tăng trưởng tín dụng bất hợp lý trong giai đoạn 2005-2007, rất nhiều ngân hàng đã

rất khó khăn khi xử lý vấn đề thanh khoản khi đã cấp rất nhiều khoản tín dụng bất

động sản vào thời kỳ thị trường này phát triển nóng nhất.

Như vậy, có thể thấy thực tế thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam khá

sát với diễn biến thanh khoản trong mô hình thông qua chỉ số LLSS. Cả mô hình và

thực tế đều cho thấy rằng, tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam

đang thực sự nghiêm trọng, số liệu trong mô hình cho thấy, LLSS đang dần tiến tới

1, tức là mức rủi ro thanh khoản rất cao. Điều này đòi hỏi cần có những biện pháp

kịp thời để nâng cao thanh khoản cho ngành ngân hàng Việt Nam, tránh rủi ro thanh

khoản tiềm ẩn dẫn đến khủng hoảng đổ vỡ hệ thống ngân hàng.

Dự báo:

Bảng 2.7: Mô hình dự báo xu thế không mùa vụ cho biến thu nhập lãi thuần

Date: 01/23/13 Time: 15:15 Sample: 2005 2012 Included observations: 8 Method: Holt-Winters No Seasonal Original Series: TNLT Forecast Series: TNLTSM Parameters: Alpha

Beta

Sum of Squared Residuals Root Mean Squared Error End of Period Levels: Mean Trend 1.0000 0.0500 3.52E+12 662895.1 4149096. 245372.4

48

Bảng 2.8: Mô hình dự báo xu thế không mùa vụ cho biến LLSS

Date: 01/23/13 Time: 15:23 Sample: 2005 2012 Included observations: 8 Method: Holt-Winters No Seasonal Original Series: LLSS Forecast Series: LLSSSM Parameters:

Alpha Beta

Sum of Squared Residuals Root Mean Squared Error End of Period Levels: Mean Trend 0.2500 0.0000 0.024919 0.055811 0.856062 0.004127

Công thức dự báo:

TNLT n1+k =TNLT n1+k*Tn1

LLSS n2+k =LLSS n2+k*Tn2

Bảng 2.9: Kết quả dự báo biến TNLT và LLSS năm 2013-2015

Năm TNLT LLSS

4394468,748 0,869252 2013

4885213,548 0,877506 2014

5621330,748 0,889887 2015

( Nguồn: Tác giả tính toán)

Kết quả dự báo từ mô hình cho thấy tỷ lệ LLSS tăng dần qua các năm cho

thấy thanh khoản trong thời gian tới được dự báo là còn khá khó khăn. Trong khi đó

thu nhập lãi thuần cũng có diễn biến cùng chiều với chỉ số LLSS cho thấy trong thời

gian tới vẫn tồn tại hiện tượng sử dụng vốn huy động ngắn hạn để tài trợ cho vay

trung và dài hạn tại nhiều ngân hàng. Với triển vọng nền kinh tế không mấy sáng

sủa thì ngành ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng, nhất là trong hoạt động huy động

vốn, bởi trong tình hình nền kinh tế khó khăn thì vàng là phương tiện cất giữ được

ưa chuộng. Vì vậy thanh khoản của ngân hàng Việt Nam được dự báo là còn nhiều

49

bấp bênh. Thực tế trong năm 2012, thanh khoản tại một số thời điểm được cải thiện

nhưng các chuyên gia trong ngành vẫn đánh giá là còn mỏng và yếu. Hiện tại, vấn

đề thanh khoản của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam khá trầm trọng. Các

Ngân hàng thương mại vẫn nằm trong tình trạng "hoảng sợ" không dám cho vay.

Nợ xấu trong hệ thống, gốc rễ là ở vấn đề thanh khoản. Điều này không dễ dàng

giải quyết nhanh chóng, nhất là vào thời điểm các thị trường tài sản chưa tan băng

như hiện nay. Theo chuyên gia kinh tế, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương

Đình Tuyển thì ưu tiên trước mắt là phải giải quyết sự yếu kém trong vấn đề thanh

khoản của các ngân hàng, sau đó mới chuyển sang xử lý mối quan hệ giữa tăng

trưởng và lạm phát. Bởi thanh khoản mới là vấn đề đáng lo nhất hiện nay của chính

sách tiền tệ, Giải quyết được thanh khoản mới giảm được lãi suất, giảm được lãi

suất thì mới hồi phục được thị trường tài sản (đặc biệt là thị trường bất động sản và

thị trường chứng khoán), thị trường này phục hồi cũng giảm được nợ xấu của khu

vực ngân hàng, từ đó mới thực hiện được thành công các mục đích tái cấu trúc nền

kinh tế mà Chính phủ đề ra.

2.4.2 Kết luận nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu trên cho ta thấy: tỉ lệ LLSS và thu nhập lãi thuần của

ngân hàng có quan hệ đồng biến, khi LLSS tăng 1% thì thu nhập lãi thuần tăng

16703545.8 triệu đồng và ngược lại. Tỷ lệ LLSS càng lớn thì rủi ro thanh khoản

càng cao. Kết quả hồi quy mô hình đã khẳng định rủi ro và thu nhập có mối quan hệ

cùng chiều. Mô hình cũng cho thấy rủi ro thanh khoản của ngành ngân hàng Việt

Nam liên tục tăng, điều này cũng phù hợp với thực tế của Việt Nam giai đoạn vừa

qua.

2.4.3 Hạn chế của mô hình

Do giới hạn về nguồn số liệu và kỳ nghiên cứu, nên mặc dù mô hình đều thể

hiện mối tương quan giữa các biến nhưng mức độ giải thích của biến độc lập vẫn chưa cao. Ví dụ như trong mô hình: R2= 52,2%.

50

Số liệu đầu vào còn thiếu và có thể chưa phản ánh được thực tế hoạt động các

NHTM Việt Nam hiện nay, thông tin vẫn chưa được minh bạch hóa và còn bị che

giấu bởi nhiều mục đích khác nhau. Chính vì thế, kết quả hồi quy của mô hình chưa

thực sự phản ánh được thực trạng thanh khoản một cách chính xác nhất của các

NHTM Việt Nam.

Kết luận chương 2: Qua chương này đã cho chúng ta thấy toàn cảnh một

bức tranh về thực trạng thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong

những năm vừa qua và hiện nay. Bằng phương pháp định tính kết hợp với định

lượng sử dụng thống kê mô tả và phương pháp hồi qui cổ điển OLS, tác giả đã đánh

giá và kiểm chứng một cách xác đáng về tình hình thanh khoản của các NHTM hiện

nay, đồng thời còn dự báo nó trong thời gian tới. Để từ đó có những giải pháp phù

hợp hơn, và cụ thể những giải pháp đó như thế nào thì hãy cùng tác giả một lần nữa

xem xét trong chương 3.

51

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THƯỚC ĐO THANH KHOẢN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG THANH KHOẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1 Đối với ngân hàng thương mại:

3.1.1 Thực hiện những vấn đề cấp bách nhằm giảm áp lực thanh khoản:

Thứ nhất, cần cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Đây là công việc

hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Các ngân hàng

cần cân nhắc giữa an toàn thanh khoản và sinh lời. Cụ thể là, các ngân hàng cần

xem lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp, nhằm hạn chế thấp nhất

rủi ro có thể xảy ra. Đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường,

cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn huy động

ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn. NHTM nên thường xuyên đánh giá tỉ lệ

LLSS của ngành và bản thân để không vượt quá khả năng chịu đựng thanh khoản

của ngành.

Thứ hai, cần đa dạng hóa nguồn huy động và hạn chế cho vay vào các lĩnh vực

nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán, bất động sản. Các ngân hàng cần ưu

tiên đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá cho nghiệp vụ huy động vì các loại giấy tờ

này đảm bảo cho ngân hàng có nguồn vốn ổn định và không biến động thường

xuyên như tiền gửi thông thường, duy trì quan hệ tốt với các khách hàng lớn. Ngoài

ra, các ngân hàng đều phải nghiêm túc thực hiện các qui định về dự trữ bắt buộc và

dự trữ thanh khoản của NHNN cụ thể là duy trì một tỷ lệ dự trữ bao gồm: tiền mặt

trong ngân hàng, tiền gửi tại NHNN và các tài sản khác có tính lỏng cao. Làm như

vậy sẽ giúp các ngân hàng đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc của NHNN và để đối

phó với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ

giúp ngân hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản, vừa có thu nhập hợp

lý nghĩa là NHTM phải biết lựa chọn tỉ lệ LLSS ở mức nào cho phù hợp với điều

kiện thực tế của ngân hàng mình.

52

Thứ ba, các NHTM cần thực hiện tốt công tác quản lý rủi ro. Trước hết, các

ngân hàng cần hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động và cho vay (nhất là

huy động, cho vay trung, dài hạn) theo lãi suất thị trường. Cùng với đó, các NHTM

cũng cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi

tiền, rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ cạnh

tranh khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một

thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay, vì e

ngại sau khi trả, họ sẽ rất khó vay lại từ ngân hàng hoặc cũng có thể do ảnh hưởng

của khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho nền kinh tế đình trệ, làm giảm khả năng

trả nợ đúng hạn của cá nhân và doanh nghiệp. Một khi khả năng trả nợ của họ giảm

thì kéo theo thanh khoản trên thị trường tín dụng của các NHTM giảm, lạm phát do

sốc cung buộc lãi suất huy động của NHTM trên thị trường I tăng điều này khiến lãi

suất cho vay tăng cao dẫn đến doanh nghiệp và cá nhân không tiếp cận được vốn

khi họ có nhu cầu, đây chính là “ vòng luẩn quẩn” thực tế xảy ra hiện nay. Chính

điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.

Thứ tư, các ngân hàng cần quan tâm hơn nữa dịch vụ chăm sóc khách hàng.

Việc chăm sóc tốt sẽ giúp ngân hàng giữ chân được khách hàng, đồng thời có thể

xác định được trước thời hạn và số tiền mà khách hàng sẽ rút. Như vậy, các ngân

hàng sẽ chủ động hơn trong công tác huy động nguồn vốn. Hiện nay các đặc tính

sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra sự khác biệt là

hết sức quan trọng, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa

cho khách hàng.

Thứ năm, các NHTM cần phải tăng cường năng lực tài chính bằng cách khẩn

trương chủ động tăng vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn nội bộ để chủ

động vượt qua cú sốc thanh khoản đơn lẻ cũng như hệ thống. Các ngân hàng nên

không ngừng tăng vốn nội bộ để đảm bảo thanh khoản, nâng cao tín nhiệm với mục

đích cuối cùng là đạt lợi nhuận cao và đáp ứng vốn cho nền kinh tế. NHTM không

nên đợi chính sách của NHNN mà nên chủ động huy động nguồn vốn nội bộ, thực

53

hiện các nghiệp vụ M&A phù hợp để tăng khả năng cạnh tranh. Đối với ngân hàng

thương mại Nhà nước, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn,

đổi mới hình thức sở hữu, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động

nhằm làm nền tảng để duy trì sự ổn định và phát triển của cả hệ thống. Ngoài ra, cần

nâng cao tính thanh khoản cho nguồn vốn chủ sở hữu thông qua việc đầu tư, sử

dụng có hiệu quả nguồn vốn. Như việc đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản

cao. Việc đầu tư vào những tài sản có tính thanh khoản thấp là một trong những

nguyên nhân làm cho tính thanh khoản của vốn chủ sở hữu giảm đi. Và khi tính

thanh khoản của nguồn vốn chủ sở hữu lớn còn là điều kiện để ngân hàng phát triển

các mãng dịch vụ, các sản phẩm mới, hiện đại hóa công nghệ nhằm cung cấp dịch

vụ tốt hơn khi thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt.

Sự thuận lợi của một ngân hàng có nguồn vốn lớn còn có thể hiện qua việc gia

tăng lòng tin của khách hàng từ đó gia tăng được các khoản tiền gửi nhằm giúp cho

nguồn vốn huy động được dồi dào hơn. Do vậy các NHTM Cổ phần cần có sự

chuẩn bị để gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu càng nhanh càng tốt để hoạt động ngân

hàng ngày càng hiệu quả hơn.

3.1.2 Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và mô hình quản trị thanh khoản nội bộ:

3.1.2.1 Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ:

Mỗi ngân hàng cần có một hệ thống kiểm soát nội bộ đầy đủ cho quá trình

quản lý rủi ro về khả năng thanh khoản. Một thành phần cơ sở của hệ thống kiểm

soát nội bộ là việc đánh giá và xem xét một cách độc lập tính hiệu quả của hệ thống

và đảm bảo là việc kiểm soát nội bộ được tăng cường hoặc chỉnh sửa khi cần thiết.

Kết quả của những đánh giá này cần được cung cấp cho các cơ quan giám sát. Các

ngân hàng cần có hệ thống kiểm soát nội bộ đủ mạnh để đảm bảo sự đúng đắn trong

việc quản lý rủi ro thanh khoản của mình. Việc kiểm soát nội bộ đối với việc quản

lý rủi ro thanh khoản cần là một phần không thể thiếu của hệ thống kiểm soát nội bộ

54

chung của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ về quản lý rủi ro thanh khoản cần thúc đẩy

những hoạt động có hiệu quả, các hệ thống báo cáo quản lý và báo cáo tài chính đều

đặn và đáng tin cậy và thúc đẩy việc tuân thủ các luật lệ, quy trình và các chính sách

của ngân hàng.

Một hệ thống kiểm soát nội bộ về rủi ro thanh khoản hiệu quả cần bao gồm:

 Một môi trường kiểm soát mạnh;

 Một quy trình đầy đủ cho việc xác định và đánh giá rủi ro thanh khoản;

 Xây dựng các hoạt động kiểm soát như các chính sách và quy trình;

 Các hệ thống thông tin đầy đủ; và

Về các quy trình và chính sách kiểm soát, cần chú ý tới những quy trình xét

 Xem xét thường xuyên về việc tuân thủ các chính sách và quy trình được đưa ra.

duyệt, các giới hạn và các cơ chế khác để đảm bảo là việc quản lý rủi ro thanh

khoản của ngân hàng đạt được mục tiêu đề ra. Nhiều công việc cần làm để quản lý

rủi ro tốt như đo lường rủi ro, theo dõi và kiểm soát là những khía cạnh chủ chốt

của một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả của ngân hàng. Các ngân hàng cần đảm

bảo là mọi khía cạnh của hệ thống kiểm soát nội bộ đều hiệu quả, kể cả những khía

cạnh không trực tiếp là một bộ phận của quy trình quản lý rủi ro. Ngoài ra, một

thành phần quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng đối với quá

trình quản lý rủi ro thanh khoản là việc đánh giá và xem xét thường xuyên. Công

việc này bao gồm việc đảm bảo là các cán bộ làm theo đúng các chính sách, các quy

trình đã đưa ra cũng như là các quy trình đưa ra thực sự hướng tới các mục tiêu đã

định. Việc xem xét và đánh giá như vậy cũng cần đề cập tới những thay đổi đáng kể

có thể tác động tới tính hiệu quả của việc kiểm soát. Các cán bộ quản lý cần đảm

bảo là việc xem xét và đánh giá được thực hiện thường xuyên bởi những cán bộ độc

lập với bộ phận được đánh giá. Khi đã có những thay đổi hoặc cải tiến đối với hệ

thống kiểm soát nội bộ thì cũng cần có cơ chế để đảm bảo là những thay đổi hoặc

55

cải tiến này được thực hiện kịp thời. Cho dù tất cả quy trình xây dựng các giới hạn

và việc thực hiện chúng có thể khác nhau giữa các ngân hàng nhưng việc xem xét

định kỳ cần được thực hiện để xác định liệu ngân hàng có tuân thủ các chính sách

và quy trình đưa ra hay không. Các trạng thái vượt quá những giới hạn cho phép cần

được các cán bộ có thẩm quyền chú ý kịp thời của và phải được chấn chỉnh theo các

quy trình được đưa trong các chính sách đã được duyệt. Việc xem xét định kỳ quá

trình quản lý khả năng thanh khoản cũng cần đề cập tới những thay đổi đáng kể về

bản chất của các công cụ, các giới hạn hạn và các biện pháp kiểm soát đã diễn ra từ

sau lần xem xét trước đó. Bộ phận kiểm toán nội bộ cũng cần xem xét định kỳ qui

trình quản lý khả năng thanh khoản để xác định những vấn đề hoặc những điểm yếu

của qui trình này. Sau đó, những vấn đề được phát hiện cần được xem xét bởi các

cán bộ quản lý một cách kịp thời và hiệu quả.

Cần thiết phải xem Quản trị rủi ro thanh khoản là một ưu tiên hàng đầu trong

hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bằng cách nâng cao năng lực quản trị của ban

điều hành, nâng cao năng lực hoạch định và dự báo để có kế hoạch chủ động đối

phó kịp thời.

Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực

khác nhau của nền kinh tế, liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và các cá

nhân. Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro lớn, có thể dẫn tới việc người gửi tiền ở

ngân hàng hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở ngân hàng, làm cho

không chỉ ngân hàng gặp rủi ro mà cả hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, nền kinh

tế - xã hội mất ổn định. Bởi vậy, tiếp tục bổ sung, điều chỉnh chính sách, xây dựng,

hoàn thiện các quy trình quản trị rủi ro, hòan thiện tổ chức và hoạt động kiểm tra

kiểm soát nội bộ ở các NHTM là các vấn đề cần phải được chú trọng, để tạo niềm

tin cho khách hàng, công chúng trong bối cảnh hiện nay.

Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng

phân tích khách hàng, xếp hạng tín dụng, hệ thống phê duyệt và kiểm soát tín dụng.

Vận dụng một cách có hiệu quả các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng đã được áp

56

dụng trên thế giới để tạo công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc ra quyết định tín dụng

đúng đắn.

Tiếp tục cải tiến các mô hình quản trị rủi ro thị trường (hệ thống theo dõi và

kiểm soát thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối) theo hướng tiên tiến và

hiện đại. Hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, quản trị rủi ro, ứng

dụng công nghệ, sử dụng các phương pháp đo lường rủi ro hiện đại đảm bảo đưa ra

những quyết sách điều hành phòng ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp, nhanh nhạy,

chi phí thấp và hiệu quả cao.

Đi liền với quản trị rủi ro là hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ.

Hệ thống này của Ngân hàng cần bảo đảm mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu

quả. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ không chỉ dừng ở công tác hậu kiểm, dưới

hình thức tổ chức từng đợt kiểm tra, phát hiện những sai phạm đã phát sinh, mà cần

nâng cao khả năng phát hiện, ngăn ngừa và quản trị rủi ro. Ngoài ra cần nâng cao

vai trò của Bộ phận kiểm toán nội bộ, thực hiện đánh giá độc lập về hoạt động của

hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống

kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở NHTM.

3.1.2.2 Hoàn thiện mô hình quản trị thanh khoản nội bộ:

Trong hoàn thiện mô hình quản trị thanh khoản này NHTM Cổ phần phải làm

những việc như: thiết lập các nguyên tắc quản lý và sử dụng nguồn vốn, các quy

trình điều chuyển vốn, các quy định về định lượng, đo lường khả năng thanh khoản

phù hợp với yêu cầu của NHNN, tổ chức về nhân sự, cách thức vận hành cũng như

định nghĩa vị trí và vai trò của bộ phận quản trị vốn. Xây dựng các chỉ tiêu đo lường

rủi ro. Thành lập ban kiểm soát độc lập để kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện các

chính sách quản trị thanh khoản nội bộ và theo yêu cầu của NHNN.

Phân công công tác Phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước hội đồng quản

trị về tình hình thanh khoản của ngân hàng. Các báo cáo thuộc bộ phận này phải

được báo cáo tực tiếp lên Uỷ ban kiểm soát và hội đồng ALCO (Assets and

57

Liabilities Committee). Bộ phận này ra đời từ rất lâu trên thế giới, tuy nhiên nó mới

chỉ bắt đầu ở Việt Nam trong thời gian gần đây và đi đầu là NHTM ACB triển khai

áp dụng xây dựng hội đồng ALCO trong bộ máy quản trị của mình. Nhiệm vụ của

bộ phận này là gì? Hội đồng ALCO sẽ hổ trợ và nâng cao năng lực điều hành của

nhà quản trị ngân hàng, bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có này có trách nhiệm

theo dõi và quản lý các danh mục trong bảng tổng kết tài sản, quản lý khả năng

thanh toán và các rủi ro thị trường ( rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá…). Đặc biệt bộ phận

này còn làm nhiệm vụ thu thập và xử lý thông tin, quản trị thông tin để cung cấp

cho cán bộ tín dụng khi họ có nhu cầu như: thông tin về khách hàng, thông tin về thị

trường,…. Bên cạnh đó, bộ phận này còn liên kết các hoạt động, các quyết định của

các phòng nghiệp vụ giúp ban điều hành ngân hàng nắm được tổng thể và nhìn nhận

bao quát hơn các hoạt động của ngân hàng.

Như vậy bộ phận nguồn vốn là trung tâm điều hoà và chịu trách nhiệm thanh

khoản vốn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tại đây mọi nguồn vốn của ngân hàng

được tập trung quản lý và điều hoà cho toàn hệ thống ngân hàng. Chúng ta xem

Hình 3.1 để hình dung khái quát vị trí của phòng nguồn vốn – quản trị thanh khoản

trong ngân hàng.

58

Hình 3.1. Vị trí của bộ phận quản trị thanh khoản ở Ngân hàng

Huy động thị trường II

Điều hòa

Huy động vốn Thị trường I

Cho vay thị trường I

Điều hòa, cân đối thanh khoản

Cho vay thị trường II

(nguồn tham khảo từ tạp chí ngân hàng)

3.1.3 Xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ phù hợp:

Trong mọi tình huống, việc luân chuyển vốn nội bộ phải gắn với hiệu quả

kinh doanh của từng chi nhánh, phòng giao dịch và vốn được tập trung về hội sở

chính; có như vậy mới dự báo, đo lường được nhu cầu thanh khoản một cách

chính xác và từ đó có chiến lược quản trị thanh khoản phù hợp. Cơ chế chuyển

vốn nội bộ còn phải tính đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội ở địa bàn mà

chi nhánh, phòng giao dịch hoạt động. Một chính sách giống nhau đối với mọi

điểm giao dịch có thể dẫn đến việc mất thị phần không đáng có. Một chính sách

phân biệt hoá phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ lợi thế quy mô.

59

3.1.4 Xây dựng kịch bản kế hoạch vốn khẩn cấp:

Kế hoạch vốn khẩn cấp CFP (Contingency Funding Plan) hay còn có thể gọi

là những kịch bản stress test. CFP là tổng số tiền gửi khách hàng rút đột ngột, số

tiền tối đa mà ngân hàng có thể đáp ứng được.

Mặc dù kế hoạch thanh khoản và quản trị đã được xây dựng và vận hành hằng

ngày theo các tiêu chuẩn đã đặt ra, tuy nhiên các kịch bản về kế hoạch vốn khẩn cấp

(CFP) hay stress test vẫn phải được xây dựng và được khởi động ngay khi có các

dấu hiệu khủng hoảng thanh khoản xảy ra. Việc xây dựng stress test này là rất quan

trọng để nhận ra một sự kiện không mong đợi của kinh tế hay thị trường mà có thể

sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng thanh khoản.

Kế hoạch vốn khẩn cấp (CFP) là một phần của chương trình “hoạt động liên

tục” của ngân hàng đặt ra với các mục tiêu:

 Xác định và nhận ra khủng hoảng thanh khoản.

 Xác định cách vận hành phù hợp và phản ứng trong suốt giai đoạn khủng

hoảng.

 Sửa chữa những lĩnh vực cần quan tâm xem xét lại.

 Đảm bảo tính chắc chắn về thời gian của các dòng tiền và không bị gián đoạn

để làm cơ sở đưa ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả.

Hai kịch bản thanh khoản để chuẩn bị kế hoạch vốn khẩn cấp được xác

định (định nghĩa) như sau:

 Thứ nhất: Kịch bản khủng hoảng về phía ngân hàng trong biến động dòng tiền

mà có thể nhận thấy được những vấn đề của ngân hàng như các vấn đề về hoạt

động, nghi ngờ về khả năng thanh toán, hay sự thay đổi (giảm) trong xếp hạng

tín nhiệm. Kịch bản này được áp dụng cho kế hoạch dòng tiền khi có sự rút

tiền của khách hàng (non-bank) cao hơn mức dự báo (dự đoán) trước.

 Thứ hai: Kịch bản khủng hoảng hệ thống hay toàn thị trường ám chỉ đến việc

60

khủng hoảng thanh khoản xảy ra cho một thị trường (trong nước) hay nhiều thị

trường. Kế hoạch này trong tình huống xấu nhất của kế hoạch dòng tiền khi mà

sự rút tiền từ khách hàng cao hơn mức kịch bản trên. Khi này sự “miễn cưỡng

cho vay” gia tăng trên thị trường liên ngân hàng giữa các ngân hàng với nhau.

μσ 

*K

Kế hoạch vốn khẩn cấp cấp 1 xác định như sau:

 Dw

Tổng số tiền khách hàng rút:

- Trong đó K=3 (tương đương 99,70% tổng thể của phần diện tích phân

phối chuẩn).

- σ là độ lệch chuẫn của số dư tiền gửi theo 1 ngày hay trong vòng 1

tuần theo trục thời gian.

- μ là số dư trung bình lịch sử tiền gửi của khách hàng theo 1 ngày hay

1 tuần theo trục thời gian

3.1.5 Tuân thủ trích lập dự phòng:

Theo khảo sát của Uỷ ban Basel, phần lớn các nước đang phát triển đánh giá

tính đầy đủ của khoản dự phòng của các ngân hàng. Nhưng hướng dẫn về dự

phòng thường không rõ ràng hoặc yếu, vì vậy những hướng dẫn này cần cụ thể và

chặt chẽ hơn nhằm giúp các đơn vị dự phòng đầy đủ. Việc phân loại tài sản một

cách chặt chẽ và mang tính thực tiễn có thể giảm thời gian trì hoãn công nhận các

khoản nợ xấu, đồng thời khuyến khích ngân hàng dự phòng đầy đủ để cho những

khoản vay có thể bị tổn thất. Hiện nay, phần lớn các ngân hàng thương mại thực

hiện phân loại nợ, trích dự phòng rủi ro theo Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-

NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về

phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt

động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Các nội dung của Quyết định trên nhìn

chung đã tiếp cận được với cách phân loại nợ và trích lập dự phòng của các ngân

hàng trên thế giới. Việc thực hiện Quyết định này đã giúp các ngân hàng thương

mại đánh giá đúng, trung thực hơn chất lượng các khoản tín dụng; từ đó, trích lập

dự phòng hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xãy ra. Tuy nhiên nó cũng còn nhiều

61

khuyết điểm và hạn chế. Thông tư 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày 21/01/2013,

có hiệu lực từ ngày 01/06/2013 buộc các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng tài

chính trong năm nay, được xem là động thái cần thiết để tăng cường ổn định ngân

hàng và giảm nợ xấu.

Các ngân hàng Việt Nam cần một danh mục tài sản dự phòng an toàn hơn,

tránh hiện tượng chạy theo lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi quá cao như thời gian

vừa qua. Cũng không nên tồn tại quan niệm “trông chờ vào NHNN” khi có các sự

cố về thanh khoản xảy ra, vì chính những lúc đó, nếu NHNN bơm vào thị

trường tính thanh khoản tăng thêm qua các kênh trung gian sẽ càng làm cho thị

trường thêm méo mó và mọi việc có thể sẽ càng tồi tệ hơn. Đó là lý do tại sao

các NHTM nên hỗ trợ nhau, trước khi gõ cửa NHNN, và lý do tại sao chúng ta gọi

NHNN là “người cho vay cuối cùng”.

3.1.6 Tăng cường liên kết hợp tác lẫn nhau giữa các NHTM và tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô:

3.1.6.1 Tăng cường liên kết, hợp tác lẫn nhau:

Tăng cường tính liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng với nhau để có thể khai

thác lợi thế cạnh tranh của nhau, cùng nhau phát triển sản phẩm, dịch vụ, thu hút

khách hàng, tiết giảm chi phí tăng hiệu quả hoạt động và có thể hỗ trợ lẫn nhau

trong vấn đề thanh khoản khi thị trường có biến động bất lợi. Bên cạnh đó tìm kiếm

các nhà đầu tư chiến lược, định chế tài chính nước ngoài đầu tư vào các ngân hàng

trong nước để tăng cường tiềm lực về tài chính và nâng cao trình độ quản lý của

ngân hàng.

3.1.6.2 Tăng cường công tác dự báo các điều kiện vĩ mô:

Điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.

Khi Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách ban hành

liên tiếp hàng loạt các giải pháp mạnh, khả năng thanh khoản của các ngân hàng

thương mại Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Bởi trước đó, có thời điểm tình

62

trạng dư thừa vốn khả dụng đã xãy ra ở một số ngân hàng. Các ngân hàng này đã

giảm lãi suất huy động tiền gửi. Nhưng khi, điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi, các

ngân hàng trở nên lúng túng. Điều này chứng tỏ, việc tăng cường và nâng cao

hiệu quả của công tác dự báo kinh tế ở các ngân hàng là cần thiết.

3.2 Đối với Ngân hàng nhà nước:

3.2.1 Áp dụng một trần lãi suất cho thị trường liên ngân hàng:

Cần áp dụng một trần lãi suất cho thị trường liên ngân hàng để các ngân hàng

thừa vốn không còn cửa trục lợi từ các ngân hàng khó khăn. Đây là điều mà NHNN

cần phải xem xét để cứu thanh khoản cho các ngân hàng nhỏ. Về lâu dài, NHNN

cần hướng tới việc thiết lập các tiêu chuẩn pháp định về tính thanh khoản, xây dựng

lộ trình thực hiện một cách phù hợp các tiêu chuẩn pháp định này để giúp các ngân

hàng có thể ổn định và vững chãi kể cả trong các thời điểm xấu kéo dài.

3.2.2 Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM và sớm ban hành quy định tỷ lệ nắm giữ trái phiếu chính phủ:

3.2.2.1 Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM:

NHNN vẫn cần hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM thông qua các công cụ

điều hành chính sách tiền tệ. Đối với các NHTM lớn, có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu

chuẩn, thì việc hỗ trợ thanh khoản sẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại NHNN.

Đối với các NHTM nhỏ không đủ giấy tờ có giá hoặc không có khả năng cạnh tranh

trên thị trường mở, thì NHNN hỗ trợ thông qua công cụ tái cấp vốn. Việc hỗ trợ này

của NHNN rất ngắn hạn và các NHTM được yêu cầu là phải điều chỉnh lại cơ cấu

nguồn và sử dụng nguồn cho phù hợp, hạn chế thấp nhất rủi ro thanh khoản.

3.2.2.2 Sớm ban hành tỷ lệ nắm giữ trái phiếu chính phủ:

NHNN cần sớm ban hành tỷ lệ nắm giữ trái phiếu chính phủ ở các NHTM

căn cứ theo vốn chủ sở hữu và tổng nợ phải trả. Tỷ lệ này giúp các NHTM có danh

63

mục đầu tư không rủi ro. Các trái phiếu mua của chính phủ còn được dùng để làm

DTBB, giao dịch trên thị trường mở khi NHTM Cổ phần có nhu cầu mua bán ngắn

hạn với NHNN hay dùng để tham gia các giao dịch điều hoà vốn với NHNN. Hơn

nữa việc này còn giúp các ngân hàng kinh doanh trái phiếu hiệu quả hơn, giao dịch

về trái phiếu trên thị trường sẽ sôi động hơn. Việc quy định tỷ lệ nắm giữ trái phiếu

giúp cho thanh khoản của ngân hàng tốt hơn và giúp cho chính phủ huy động được

nguồn vốn nhằm vào các mục tiêu kinh tế xã hội.

Tỷ lệ nắm giữ trái phiếu chính phủ này tối thiểu 10%-15% Vốn chủ sở hữu.

Số trái phiếu chính phủ này như là một tấm đệm để giúp các ngân hàng có thể hoạt

động trên thị trường mở để vay vốn từ NHNN khi thị trường thiếu cung tiền, khủng

hoảng thanh khoản ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD.

3.2.3 Hạ mặt bằng lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế, đây là giải pháp tình thế để tạo thanh khoản cho ngân hàng:

Giải pháp tình thế trước mắt là: NHNN nên hạ mặt bằng lãi suất để kích thích

tăng trưởng kinh tế, tạo ra thanh khoản thị trường. Vấn đề là lựa chọn giữa biện

pháp trần huy động hay trần lãi suất cho vay trong nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất đối

với nền kinh tế, và giảm lãi suất huy động về 9%/năm vào ngày 08/06/2012 và trần

huy động 8%/năm vào 24/12/2012. Lựa chọn này đã phần nào mang lại hiệu quả

cho vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân

hàng. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời vì nếu áp dụng trần lãi suất huy động

thì đa phần các ngân hàng lớn, có uy tín cao sẽ thu hút được lượng tiền gửi từ nền

kinh tế tốt hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ và chuyện căng thẳng về thanh khoản

cho ngân hàng nhỏ lại xảy ra. Về lâu dài NHNN nên bỏ dỡ biện pháp hành chính

đối với lãi suất, nên để thị trường tự quyết định và NHNN chỉ sử dụng các công cụ

điều hành như nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu và tái cấp vốn để điều chỉnh lãi

suất thị trường.

64

3.2.4 Tái cơ cấu hệ thống NHTM với trọng tâm nâng cao năng lực thanh khoản:

Thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam với trọng tâm nâng cao năng

lực thanh khoản của hệ thống cần một giai đoạn từ 5 đến 10 năm. Trước mắt trong

năm 2013, NHNN nên thực hiện một số biện pháp cụ thể sau để làm tiền đề cho các

năm tiếp theo của quá trình tái cơ cấu:

3.2.4.1 Bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và hệ thống:

Bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và hệ thống các NHTM theo đúng

tinh thần của Đề án “Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt

Nam giai đoạn 2011-2015” của NHNN. Thứ nhất, NHNN tái cấp vốn kịp thời đối

với các NHTM thiếu hụt thanh khoản tạm thời theo quy định của Luật NHNN để

bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và toàn bộ hệ thống các NHTM, đồng

thời bảo đảm chu chuyển vốn bình thường trên thị trường tài chính và đáp ứng nhu

cầu vốn, phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Thứ hai, cho phép NHTM mất khả

năng chi trả phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu dài hạn đề tạo điều kiện cho

các NHTM này tăng vốn cấp 2 và có nguồn vốn dài hạn cơ cấu lại tài chính, hoạt

động. Thứ ba, NHTM được NHNN tái cấp vốn phải tập trung thu hồi vốn đầu tư,

cho vay để trả nợ NHNN và thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn, đồng thời củng cố

thanh khoản của NHTM. Đồng thời, thực hiện giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với

NHTM được NHNN tái cấp vốn. Thứ tư, các NHTM được NHNN tái cấp vốn chịu

sự giám sát của NHNN về tài chính, hoạt động và việc sử dụng vốn vay của NHNN.

Thứ năm, NHNN tăng cường giám sát thị trường tiền tệ để kịp thời phát hiện

NHTM thừa hoặc thiếu thanh khoản nhằm kết nối các nhu cầu vay mượn ngắn hạn

giữa các NHTM, giảm bớt nhu cầu vay tái cấp vốn từ NHNN; chỉ định NHTM lành

mạnh, thừa thanh khoản cho vay đối với NHTM tạm thời thiếu hụt thanh khoản.

Thứ sáu, NHTM vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và

hoạt động ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ

thống ngân hàng được NHNN áp dụng một hoặc một số biện pháp xử lý đặc biệt

như đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của NHTM; sáp

65

nhập, hợp nhất, giải thể NHTM; yêu cầu NHTM phải chuyển nhượng vốn điều lệ

hoặc vốn cổ phần; cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối phải chuyển

nhượng cổ phần để thực hiện các giải pháp cơ cấu lại…

3.2.4.2 Hoàn thiện hoạt động thị trường tài chính:

Khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện hoạt

động của thị trường chứng khoán, để các ngân hàng thương mại dễ dàng huy động

vốn tăng năng lực tài chính.

Tổ chức nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý để đưa các công cụ phái sinh

(như ABCP, MBS) vào hoạt động thị trường liên ngân hàng, thị trường vốn để tạo

khả năng thanh khoản cao hơn và nâng cao ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS cho các

NHTM vượt qua những cú sốc thanh khoản đơn lẻ. Đồng thời, cũng cần xây dựng

cơ chế quản lý và thanh tra quá trình sử dụng các công cụ trên của NHTM để giảm

tối đa rủi ro xảy ra một cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng vừa qua.

3.2.5 Tỉ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động không nên bỏ mà cần phải thay thế bằng tỉ lệ LLSS trong thông tư 13:

Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định các tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt

động của tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2010. Đây được coi là

một khung pháp lý tiến bộ nhất từ trước cho đến nay về các tỉ lệ bảo đảm an toàn

trong hoạt động ngân hàng. Tỉ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động LDR

(loan to deposit ratio) được xem là một thước đo thanh khoản nhận được nhiều quan

tâm nhất. Tuy nhiên, thông tư 22 ngày 30/08/2011 hiệu lực ngày 09/09/2011 đã bỏ

tỉ lệ cấp tín dụng này. Tỉ lệ LDR đúng như tên gọi của nó, bằng tổng các khoản cho

vay chia cho tổng tiền gửi – biểu hiện % các khoản cho vay của ngân hàng được tài

trợ thông qua tiền gửi. Một sự gia tăng tỉ lệ này cho thấy ngân hàng đang có ít hơn

“tấm đệm” để tài trợ cho tăng trưởng và bảo vệ mình khỏi nguy cơ rút tiền gửi đột

ngột, nhất là các ngân hàng dựa quá nhiều vào nguồn tiền gửi để tài trợ cho tăng

trưởng. Khi tỉ lệ này tăng đến mức tương đối cao, các nhà quản trị ngân hàng ít

66

muốn cho vay và đầu tư. Hơn nữa, họ sẽ thận trọng khi tỉ lệ cấp tín dụng so với

nguồn vốn huy động tăng lên và đòi hỏi phải thắt chặt tín dụng, do đó, lãi suất có

chiều hướng tăng lên. Mặc dù, một tỉ lệ LDR cao chưa bao giờ được lượng hóa,

nhưng nó là một nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định về đầu tư và cho vay, việc

sử dụng mối quan hệ giữa cho vay và tiền gửi như một thước đo về thanh khoản dựa

trên tiền đề cho rằng tín dụng là tài sản kém linh hoạt nhất trong số các tài sản sinh

lời của ngân hàng. Vì thế, khi tỉ lệ LDR tăng thì tính thanh khoản của ngân hàng

giảm đi một cách tương ứng.

Tuy nhiên, tỉ lệ LDR vẫn có một số hạn chế nhất định. Trước hết, nó không cung

cấp thông tin về thời gian đáo hạn hoặc bản chất của các khoản cho vay. Việc đánh

giá tính thanh khoản của một khoản cho vay đòi hỏi phải có thông tin về thời gian

đáo hạn trung bình của nó; khoản cho vay này được trả dần hay trả một lần và

những thông tin về hồ sơ tín dụng của người vay. Hai ngân hàng có cơ sở tiền gửi

và tỉ lệ LDR như nhau có thể có tính thanh khoản rất khác nhau nếu một ngân hàng

có các khoản vay có tính khả mại cao, trong khi, ngân hàng kia có nhiều khoản vay

rủi ro, các khoản vay dài hạn. Điều tương tự cũng đúng đối với cơ sở tiền gửi ngân

hàng. Một số khoản mục tiền gửi như tiền gửi kỳ hạn có thời hạn dài sẽ có tính ổn

định hơn các khoản mục khác, nên rủi ro rút tiền gửi cũng sẽ nhỏ hơn. Thứ hai, tỉ lệ

LDR không cho ta một ý niệm gì liên quan đến bản chất của các tài sản “Có” nằm

ngoài các khoản mục cho vay. Một ngân hàng có thể có 20% tiền gửi được đầu tư

vào chứng khoán chính phủ ngắn hạn, ngân quỹ; trong khi, một ngân hàng khác có

thể có cùng tỉ lệ như thế đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, nhưng cả hai

ngân hàng này có thể có cùng tỉ lệ LDR như nhau. Rõ ràng hai ngân hàng này sẽ

không có cùng chung một thước đo về thanh khoản. Từ những hạn chế trên, thiết

nghĩ NHNN cần xem xét bổ sung tỉ lệ LLSS như là thước đo thanh khoản mới thay

cho tỉ lệ LDR.

67

3.2.6 Cần ban hành quy định về dự trữ vượt trội cho NHTM:

Chúng ta có thể thấy vai trò của tỷ lệ dự trữ, vốn tự có của các ngân hàng để

vượt qua cuộc các cuộc khủng hoảng thanh khoản đã qua. Một lượng dự trữ tương

đối sẽ nâng cao khả năng thanh khoản của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,

NHTW không thể để các ngân hàng tự mình thiết lập một tỉ lệ dự trữ vượt trội

của mình. Một qui định tỉ lệ dự trữ vượt trội sẽ bắt buộc các NHTM dự trữ tài sản

thanh khoản phù hợp. Bên cạnh đó, một qui định tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiền gửi

sẽ phần nào góp phần đảm khả năng thanh khoản cho NHTM.

Quy định về dự trữ đã được coi là một phương pháp kiềm chế bùng nổ cho vay

bởi vì yêu cầu tăng dự trữ làm giảm vốn khả dụng và tăng chi phí đối với ngân

hàng, dẫn tới ngân hàng bị bất lợi trong cạnh tranh. Các quốc gia Châu Á và Mỹ

La Tinh cho thấy việc nâng tỷ lệ dự trữ giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì

quy mô hệ số nhân tiền trong giai đoạn khó khăn. Tương tự, việc tăng tỷ lệ dự trữ

được sử dụng như một công cụ hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng sẽ ảnh hưởng

đáng kể trong việc mở rộng khoảng cách giữa tiền gửi và tiền vay và giảm sự mở

rộng giữa lượng cung tiền hẹp và lượng cung tiền rộng. Ngoài ra, việc nâng tỷ lệ dự

trữ sẽ chống được bùng nổ cho vay tại ngân hàng “yếu” là những ngân hàng có

mức vốn dưới mức được phép và không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ tốt.

3.2.7 Vận dụng M&A, một giải pháp hiệu quả giảm rủi ro thanh khoản:

Trong phần trình bày trên, M & A là một giải pháp hiệu quả để các ngân hàng

giảm rủi ro thanh khoản mà chúng phải đối mặt. Chúng ta nhận thấy rằng,

chính sách Ngân hàng trung ương đang áp dụng là hướng đi đúng đắn để phát triển

thị trường Việt Nam (qui định về vốn điều lệ 3000 tỉ ). Tuy nhiên chúng ta cần có

chính sách để thúc đẩy tiến trình này diễn ra nhanh hơn trong tương lai. Như

khuyến khích các ngân hàng có qui mô vừa và nhỏ M & A để mở rộng qui mô và

hoạt động hiệu quả hơn. Qui mô nhỏ là một điều dễ thấy khi nhìn nhận hệ thống

ngân hàng Việt Nam. Các qui định vốn điều lệ ngày càng tăng, khuyến khích

M&A là cách để ngân hàng Việt Nam tiến gần h ơ n về qui mô cũng như khả

68

năng cạnh tranh với các ngân hàng khác trong khu vực, cũng như tăng khả năng

huy động lượng tiền trôi nổi trong dân và đáp ứng nhu cầu vốn phát triển nền kinh

tế. Tuy nhiên, chỉ hô hào thực hiện không chưa đủ. NHTW còn cần những công cụ

thanh tra về tình hình thực hiện các qui định đề ra. Như: thường xuyên thanh tra về

tình hình dự trữ đảm bảo thanh khoản của các NHTM, giám sát tình hình thực hiện,

đồng thời cần có cơ quan tư vấn cho các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tăng vốn

như M&A để đảm bảo tiến độ thực hiện chính sách. Cần thiết thanh tra, giám sát

chặt chẽ và liên tục để đảm bảo tính an toàn thanh khoản của hệ thống.

3.2.8 Hiện đại hoá hệ thống thông tin báo cáo và tăng cường khả năng giám sát:

3.2.8.1 Hiện đại hoá hệ thống thông tin:

NHTW cần hiện đại hoá hệ thống báo cáo số liệu tài chính ngân hàng, các

báo cáo thanh khoản của từng ngân hàng nhằm tăng cường hiệu quả kiểm soát và

nắm bắt được tình hình thanh khoản của toàn bộ hệ thống một cách chính xác để có

quyết sách điều hành chính xác kịp thời. Chẳng hạn xây dựng hệ thống kiểm tra

thanh toán liên ngân hàng, hay hệ thống báo cáo giao dịch liên ngân hàng theo một

tiêu chuẩn nhất định để tập hợp được thanh khoản của toàn thị trường nhằm cung

cấp thông tin cho thị trường (toàn bộ giao dịch của các NHTM sẽ báo cáo theo một

chuẩn nhất định từ nó NHNN sẽ thống kê được trạng thái của toàn hệ thống là bao

nhiêu). Thông tin cung cấp từ NHTW là một thông tin quý giá khi mà những nhận

xét của NHTW về tình hình thanh khoản của thị trường chính xác.

Xây dựng hệ thống tương tác thông tin giữa NHNN và các NHTM Cổ Phần,

một khi hệ thống thông tin về tình hình vốn, tình hình thanh khoản tốt giữa các ngân

hàng thì lúc đó mới tránh được những thiệt hại không đáng có xảy ra cho nền kinh

tế. Theo ông Riedel-Giáo sư của trường ĐH Johns Hopkins cho rằng: “ thiếu nghiên

cứu và bất đối xứng thông tin là một thứ thuế có hại, người trả là phần lớn cư dân,

nhưng người nhận không phải là ngân sách chính phủ mà là túi tiền nhà đầu cơ”.

69

Bảo đảm khả năng bình đẳng trong tiếp cận, tính đầy đủ và khoa học của thông tin

là yêu cầu và nhiệm vụ của hệ thống truyền thông và giới báo chí.

Bằng việc ban hành thông tư 21 của thống đốc NHNN ngày 08/10/2010, quy

định báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn vị thuộc NHNN và các TCTD, chi

nhánh ngân hàng nước ngoài thay thế quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN và quyết

định số 1747/2005/QĐ-NHNN. Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày

01/07/2011 đã giúp cho NHNN nắm bắt tốt tình hình thanh khoản của các ngân

hàng từ đó có quyết định can thiệp, điều chỉnh thị trường tốt hơn.

3.2.8.2 Tăng cường khả năng giám sát:

Nhìn lại khủng hoảng tài chính Mỹ vừa qua giúp ta nhìn ra rằng một khi vai trò

giám sát bị bỏ qua thì với sự tinh vi của thị trường sẽ tạo ra những sản phẩm, những

rủi ro tiềm ẩn. Mà rủi ro thì không từ bỏ hay né tránh một quốc gia nào.

Ngày nay chúng ta đã có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nên việc thực thi vai

trò giám sát sẽ rất thuận lợi khi mà NHNN “ hiện đại” hơn trong sử dụng tin học

hoá để quản trị các ngân hàng (khi mà ý thức chấp hành luật pháp của NHTM chưa

cao thì buộc NHNN phải gia tăng khả năng giám sát). Khả năng giám sát của

NHTW đóng vai trò rất quan trọng trong sự ổn định của thị trường tài chính. Việc

phân bổ, điều hành các nguồn lực, công cụ và thực thi các công cụ của mình một

cách hiệu quả sẽ đảm bảo cho thị trường vận hành một cách nghiêm túc hơn và ổn

định hơn khi mà sự giám sát được thực hiện tốt hơn.

Tuy các quy định báo cáo theo thông tư 21 thực hiện hằng ngày, ba kỳ trong

tháng, báo cáo tháng, báo cáo quý nhưng sự giám sát và thanh tra thực tế cần được

tổ chức và nên tổ chức thường xuyên hơn để phát hiện những sai phạm của các ngân

hàng như trong việc đảm bảo lãi suất huy động, tỷ giá…

Về nguyên tắc giám sát:

70

Các cơ quan giám sát cần thực hiện việc đánh giá các chiến lược, chính sách

của ngân hàng có liên quan đến công tác quản lý khả năng thanh khoản một cách

độc lập. Các cơ quan giám sát cần yêu cầu các ngân hàng phải có một hệ thống hiệu

quả để đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh khoản. Các cơ quan giám sát

cũng cần được cung cấp các thông tin từ các ngân hàng một cách đầy đủ và kịp thời

để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng và đảm bảo là ngân hàng có các kế hoạch dự

phòng về khả năng thanh khoản đầy đủ.

Trong việc thực hiện đánh giá độc lập về các chiến lược, chính sách, quy trình

và thông lệ của ngân hàng, các cơ quan giám sát cần xem xét tính hiệu quả của việc

quản lý yêu cầu cấp vốn ròng của ngân hàng trong những tình huống khác nhau. Vì

hội đồng quản trị và các cán bộ quản lý cao cấp chịu trách nhiệm cuối cùng cho việc

quản lý rủi ro thanh khoản nên các cơ quan giám sát cần xác định những đối tượng

này có tham gia tích cực vào quá trình quản lý khả năng thanh khoản của ngân hàng

hay không và họ có nhận được những thông tin chi tiết và kịp thời để có thể hiểu và

Các cơ quan giám sát cũng cần đánh giá tính hiệu quả của ngân hàng trong

đánh giá được rủi ro thanh khoản của ngân hàng hay không.

việc đo lường và theo dõi rủi ro thanh khoản bằng cách xem xét các kỹ thuật và các

giả thiết cơ bản trong việc ước tính yêu cầu cấp vốn ròng trong tương lai. Về vấn đề

này, các cơ quan giám sát cần xem xét tính hợp lý của các tình huống dạng “nếu

thì”. Các cơ quan giám sát cần đảm bảo là các cán bộ quản lý cao cấp của ngân

hàng đang xem xét sự đúng đắn của những giả thiết chủ chốt trong điều kiện thị

trường hiện tại và trong tương lai. Các cơ quan giám sát có thể thấy việc sử dụng

các tiêu chuẩn về quản lý rủi ro thanh khoản là hữu ích. Thông thường, những tiêu

chuẩn này bao gồm các yêu cầu về giám sát những giới hạn và tỷ lệ nhất định. Các

cơ quan giám sát cũng có thể thấy hữu ích khi đưa ra các hướng dẫn chẳng hạn như

về định nghĩa tài sản có tính thanh khoản cao, và xử lý các cam kết chưa thực hiện

và các tài sản nợ ngoại bảng khác. Chỉ những tài sản có có tính thanh khoản cao

71

mới được đưa vào tính toán các mức chênh lệch về thanh khoản hoặc các tỷ lệ đảm

Các cơ quan giám sát có thể xác minh là những hướng dẫn về khả năng thanh

bảo an toàn.

khoản này có được tuân thủ hàng ngày hay không. Một mẫu báo cáo giám sát được

tiêu chuẩn hoá có thể được sử dụng cho việc này. Mẫu báo cáo trên có thể được bổ

sung bằng báo cáo quản lý. Những báo cáo này cần bao quát không chỉ việc tuân

thủ của ngân hàng đối với các giới hạn ngắn hạn mà còn cung cấp cho cơ quan giám

sát những thông tin đầy đủ để theo dõi khả năng thanh khoản của ngân hàng trong

Các cơ quan giám sát cần xem xét rủi ro thanh khoản của ngân hàng trong mối

dài hạn.

quan hệ với mức vốn của nó. Để làm điều này, các cơ quan giám sát cần thu thập từ

ngân hàng các thông tin đầy đủ và kịp thời để đánh giá mức độ rủi ro thanh khoản

của ngân hàng. Tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, cơ quan giám sát có thể yêu

cầu ngân hàng có mức rủi ro thanh khoản cao phải có mức vốn cao hơn và cân đối

lại các tài sản có và các hoạt động cấp vốn của mình để hạ mức rủi ro thanh khoản.

Như một bộ phận của quá trình giám sát này, các cơ quan giám sát cũng có thể xem

xét việc thực hiện các yêu cầu đối với những giới hạn hoặc tỷ lệ đảm bảo an toàn về

Một khía cạnh quan trọng của quá trình quản lý rủi ro thanh khoản là một hệ

thanh khoản nhất định.

thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả. Về vấn đề này, các cơ quan giám sát

cần xem xét việc kiểm soát nội bộ của ngân hàng để đảm bảo là việc xem xét độc

lập được thực hiện thường xuyên và những thay đổi hợp lý và kịp thời đối với việc

kiểm soát nội bộ được thực hiện.

Các cơ quan giám sát cũng cần có kế hoạch dự phòng riêng để xử lý các vấn đề

về thanh khoản tại các ngân hàng đơn lẻ cũng như là với toàn bộ thị trường. Để thực

hiện các kế hoạch dự phòng của mình một cách hiệu quả, các cơ quan giám sát cần

72

thu thập những thông tin chính xác và kịp thời từ các ngân hàng gặp khủng hoảng.

Một ngân hàng cần liên hệ với với cơ quan giám sát của mình (ở nước sở tại hoặc ở

nước của mình) và ngân hàng trung ương ngay khi phát hiện những vấn đề về thanh

khoản phát sinh.

3.2.9 Xây dựng kịch bản đối phó khủng hoảng thanh khoản:

Ngân hàng nhà nước song song với vai trò điều tiết và quản lý thị trường của

mình thì cần xây dựng các kịch bản để ổn định thanh khoản cho thị trường. Các

kịch bản cần xây dựng để áp dụng khi có tình huống xảy ra nhằm nhanh chóng dập

tắt khủng hoảng thanh khoản. Khi đã có kịch bản thì sự hành động khi thị trường rơi

vào các kịch bản sẽ tốt hơn khi thực tế xảy ra rồi mới tìm giải pháp. Ngân hàng nhà

nước cần kiên quyết, kịp thời để khủng hoảng thanh khoản không lan rộng, ảnh

hưởng toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Xây dựng cơ chế hỗ trợ thanh khoản kịp thời trước mắt cho các tình huống

khẩn cấp và thành lập quỹ bình ổn thị trường (quỹ bình ổn lãi suất) nhằm nhanh

chóng đưa thị trường về tình trạng ổn định, an toàn trong hoạt động ngân hàng.

3.3 Giải pháp khác:

3.3.1 Ổn định chính sách vĩ mô :

Chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá là hai chính sách phải thực hiện song

song với nhau, không được mâu thuẫn lẫn nhau trong điều hành. Việc điều hành

chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng sẽ ảnh hưởng đến tình hình thanh khoản

của thị trường. Khi mở rộng tiền tệ thì sẽ đối diện với lạm phát khi đó cách điều

hành của NHNN phải đảm bảo được kiểm soát lạm phát và không gây ra thiếu hụt

thanh khoản, nghĩa là phải kiểm soát tốt lạm phát để chính sách tiền tệ có hiệu quả,

từ đó không làm thanh khoản của hệ thống thêm căng thẳng.

Sự ổn định trong các chính sách và cách điều hành của NHNN là cơ sở, nền

tảng và là nguyên nhân hay là thành tựu cho một hệ thống ngân hàng với tính thanh

khoản, ổn định cao hay thấp.

73

Việc thay đổi đột ngột các chính sách sẽ ảnh hưởng đến tình hình thanh

khoản các ngân hàng do các NHTM không đủ thời gian, đủ nguồn vốn bù đắp để

đáp ứng các yêu cầu quản lý mới của NHNN dẫn đến việc thiếu hụt, căng thẳng về

thanh khoản. Ngược lại nếu các chính sách được thực thi một cách ổn định thì tạo

sự an tâm cho hệ thống NHTM cổ phần từ đó giúp NHTM có điều kiện ổn định để

duy trì, hoạch định chiến lược kinh doanh của mình.

3.3.2 Công khai thông tin và hoàn thiện cơ chế pháp lý:

Công khai thông tin cơ bản về hoạt động ngân hàng, thu nhập và bảng cân đối

tài sản cần được mở rộng và theo một tiến trình hòa hợp. Những thông tin này cho

phép chủ nợ ngân hàng và người đầu tư có được bức tranh tổng thể về lợi nhuận

ngân hàng, vốn, tài sản suy yếu, dự phòng đối với từng loại khoản vay một cách

kịp thời. Kinh nghiệm của Newzealand về công khai thông tin ngân hàng cho thấy,

công khai thông tin hỗ trợ thanh tra viên ngân hàng trong giám sát tuân thủ, yêu

cầu sửa chữa kịp thời sai phạm hoặc báo cáo sai lệch và khởi đầu thủ tục pháp lý

chống lại các ngân hàng về việc cung cấp thông tin sai lệch. Bởi vì chất lượng

thông tin giữ vai trò quan trọng nhất, nên để đảm bảo chất lượng thông tin ngân

hàng, việc chuẩn bị báo cáo tài chính cần phù hợp với Tiêu chuẩn Kế toán Quốc

tế và theo mẫu báo cáo thống nhất. Nhờ vậy, hiệu quả của công khai thông tin cũng

được cải thiện vì đã tạo điều kiện cho công chúng có thể so sánh hoạt động của các

ngân hàng với nhau (trong nước và với các nước khác). Kết quả xếp loại tín dụng

các tổ chức ngân hàng cũng nên công khai trên các phương tiện truyền thông và

kết quả này nếu do các tổ chức xếp loại tín dụng thực hiện thì cần được thẩm định

hai năm một lần. Achentina gần đây yêu cầu các ngân hàng phải được xếp loại bởi

các cơ quan xếp loại tín dụng độc lập. Trong khi vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về

giá trị các chỉ số đánh giá xếp loại tín dụng, nhưng kết quả xếp loại các ngân hàng

do các tổ chức quốc tế độc lập thực hiện sẽ khuyến khích quản trị tốt và kiểm soát

rủi ro nội bộ nghiêm túc hơn.

74

Cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng cần tập trung vào nâng cao quyền hạn

của cơ quan thanh tra theo luật định trong việc thực hiện trách nhiệm giám sát và

hiệu chỉnh. Bên cạnh đó, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy định pháp lý

về hoạt động ngân hàng an toàn và lành mạnh như các cơ chế chính sách khuyến

khích kiểm soát và hạn chế rủi ro đối với chủ sở hữu ngân hàng, quản lý ngân hàng,

các chủ nợ và thanh tra viên ngân hàng. Song song với việc sử dụng mô hình kiểm

soát nội bộ tại ngân hàng, ngân hàng và thanh tra viên ngân hàng phải thực hiện tốt

chức năng và nhiệm vụ của mình nếu như những cải cách pháp lý loại bỏ những

cản trở đối với cầm cố, chuyển nhượng và tịch biên tài sản cầm cố khoản vay.

Những qui định, chính sách cần được ban hàng sớm để các ngân hàng có

thể lường trước được những ảnh hưởng bất ngờ của ngân hàng trung ương. Thông

tin lãi suất mục tiêu, cũng như các mục tiêu khác ngân hàng trung ương nên công

bố trước để các ngân hàng có chính sách điều chỉnh phù hợp. Cần hoàn thiện hệ

thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước,

Luật các tổ chức tín dụng cho phù hợp.

Thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính. Tự

do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu

và tự do hoá thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ

đảm bảo hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không

bị vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.

3.3.3 Chuẩn bị tốt hơn cho quá trình tự do hoá tài chính:

Những nghiên cứu lý thuyết như của McKinnon và Shaw (1973) về trình tự

thích hợp của tự do hoá tài chính đề cập tới 3 điểm cơ bản. Thứ nhất, việc gia nhập

thị trường của ngân hàng mới hoặc tư nhân hóa những ngân hàng nhà nước là một

phần của quá trình tự do hóa tài chính, vì vậy cần đảm bảo có những quy định về

chủ sở hữu và bộ máy quản lý mới của những ngân hàng này phải “phù hợp và

thích hợp”. Kinh nghiệm của Chi Lê những năm 1970 cung cấp câu chuyện mang

75

tính cảnh báo này. Những ngân hàng tư nhân hóa mới đã được bán để mở rộng

thành tập đoàn, nhưng với khả năng thanh toán còn hạn chế và thường được sử

dụng để tài trợ việc mua bán công ty. Trong quá trình này những chủ ngân hàng

mới thường đầu tư vào các hoạt động rủi ro cũng như có vấn đề về tài chính, vì vậy

đã những món nợ xấu tăng, phần lớn là của những công ty trong cùng tập đoàn. Thứ

hai, nguồn lực cho hoạt động thanh tra và năng lực của thanh tra ngân hàng cần

được củng cố trước khi tự do hóa tài chính. Nguồn lực có thanh tra phải đủ để có

thể triển khai các cuộc kiểm tra đúng thời gian với nội dung kiểm tra ngày càng

mở. Thiếu nguồn lực kiểm tra cũng là tác nhân góp phần gây ra khủng hoảng tiết

kiệm và cho vay tại Mỹ vào năm 1980 (FDIC, 1997). Tuy nhiên, trình độ và kỹ

năng của thanh tra viên cũng không kém phần quan trọng. Thanh tra viên cần được

đào tạo và trang bị đầy đủ kỹ năng để đánh giá chính xác tình hình hoạt động của

các ngân hàng, nhất là những hoạt động mới phát sau tự do hóa tài chính. Ngoài

ra, cần khuyến khích các cơ quan thanh tra - giám sát thông báo kịp thời các ngân

hàng có vấn đề với ngân hàng trung ương, hoặc cơ quan có thẩm quyền, tránh xảy

ra hiện tượng rủi ro đạo đức. Theo đó các biện pháp đối phó thích hợp được thực

thi nhanh chóng và hiệu quả, giảm thiểu những đình trệ không cần thiết về thủ tục

hành chính. Thứ ba, nếu tự do hóa tài chính được quyết định thực hiện trước khi cơ

sở pháp lý về thanh tra và điều tiết được nâng cấp, cần phải giới hạn dòng vốn

chảy vào hoặc hạn chế việc mở rộng cho vay ngân hàng ít nhất là cho đến khi chất

lượng của hệ thống thanh tra bắt kịp với tốc độ của tự do hóa tài chính.

Kết luận chương 3: Với những vấn đề cấp bách cần làm hiện nay và những

đề xuất thiết thực được nêu ra cho các NHTM, cũng như những giải pháp cần thiết

dành cho NHNN được đề cập trong chương này đã góp phần nâng cao khả năng

thanh khoản cho hệ thống NHTM Việt Nam.

76

KẾT LUẬN

Bài nghiên cứu đã trình bày một số chỉ tiêu đo lường thanh khoản đã tồn tại từ

trước và tỉ lệ LLSS như thước đo mới đo lường rủi ro thanh khoản của ngân hàng.

Thước đo thể hiện sự lựa chọn của ngân hàng về lợi nhuận và an toàn thanh khoản.

Sự thay đổi của LLSS còn phản ánh chiến lược quản trị tài sản thanh khoản của

ngân hàng theo tính năng động của thị trường liên ngân hàng. Mô hình đã thể hiện

các công cụ phái sinh của thị trường liên ngân hàng là một hỗ trợ vốn bên ngoài để

ngân hàng đối phó với những cú sốc tiền gửi. Tỉ lệ LLSS tăng lên và lợi nhuận được

cải thiện vì ngân hàng càng tự do để cho vay dài hạn và càng ít phụ thuộc vào tài

sản thanh khoản của bản thân. Tuy nhiên, thị trường liên ngân hàng có giới hạn. Nó

có thể cung cấp nền tảng cho ngân hàng chia sẻ và loại bỏ những cú sốc đơn lẻ.

Nhưng để đối phó với những cú sốc hệ thống thì nó quá tải và có thể sẽ sụp đổ sau

những cú sốc như vậy. Bên cạnh đó bài nghiên cứu này còn giới thiệu thực trạng về

thanh khoản của hệ thống NHTM Việt Nam, cũng như những đánh giá về tình hình

thanh khoản trong hệ thống NHTM và đề xuất một số giải pháp nhằm năng cao khả

năng thanh khoản cho hệ thống NHTM Việt Nam.

Do nguồn số liệu còn hạn chế cũng như sự hạn chế về kiến thức và thời

gian…nên sẽ không tránh những thiếu sót. Trong tương lai với nguồn số liệu, kiến

thức phong phú và sâu hơn, tác giả rất mong muốn hoàn thiện mô hình với độ tin

cậy cao hơn. Và để từ đó có thể đưa ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả hơn để

tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, trong quá trình

học tập, triển khai nghiên cứu đề tài và những gì đạt được hôm nay, tác giả không

thể quên được công lao giảng dạy và hướng dẫn của các thầy cô giáo trường Đại

Học Kinh Tế TP.HCM. Tác giả xin được gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất

đến PGS.TS. TRẦN HUY HOÀNG, thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tác giả

trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO



TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Dương Thị Bình Minh, Sử Đình Thành, “Giáo trình Nhập môn tài chính tiền

tệ”, NXB Thống kê.

2. Frederic S.Mishkin (1995), “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”,

Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội.

3. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số: 47/2010/QH12).

4. Nguyễn Thị Kim Oanh- Lê Thị Nguyệt Anh, “Nhận diện khủng hoảng ngân

hàng”, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

5. Nguyễn Văn Nguyên (2011) “Khủng hoảng thanh khoản và những giải pháp

ngắn hạn”.

6. Nguyễn Duy Sinh (2009), Luận văn thạc sỹ “ Nâng cao hiệu quả quản trị rủi

ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, trường Đại

học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

7. Nghiên cứu khoa học sinh viên, nhà kinh tế trẻ (2010) “ Thanh khoản ngân

hàng thương mại, định lượng và giải pháp thực tiễn thị trường Việt Nam

trong những năm gần đây”, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Hữu Phước (2011), Luận văn thạc sỹ “ Mô hình đánh giá mức độ

căng thẳng tài chính hệ thộng ngân hàng Việt Nam áp dụng phương pháp

VAR”, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

9. Peter S.Rose (2001), “ Quản trị ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Hà

Nội.

10. Rudolf Duttweiler. (2010), “Quản lý thanh khoản trong ngân hàng”, Nhà

xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

11. Trần Huy Hoàng (2011), “Giáo trình quản trị ngân hàng thương mại”, Nhà

xuất bản lao động xã hội Hà Nội.

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI

1. Acharya, Viral V., Schnabl, Philipp and Suarez, Gustavo, Securitization

Without Risk Transfer (2010). 'Securitization Without Risk Transfer ' AFA

2010 Atlanta Meetings Paper.

2. Allen N. Berger † and Christa H.S. Bouwman, “Bank Liquidity Creation”

3. Christopher J. Mayer , and Karen M. Pence. 'Subprime Mortgages: What,

Where, and to Whom?' 2008, NBER working paper W14083

4. Christopher L. Foote, Kristopher Gerardi, Loreanz Goette, and Paul

S. Willen.'Subprime Facts: what (we think) we know about the subprime

crisis and what we don't'2008, Pbulic Policy Discussion papers. Federal

Reserve Bank of Boston.

5. Charles W. Calomiris, Stanley D. Longhofer, and William Miles, The

Foreclosure- House Price Nexus: Lessons from the 2007-2008 Housing

Turmoil 2008, NBER Working Paper No. 14294

6. David Greenlaw, Jan Hatzius, Anil K Kashyap, and Hyun Song Shin.

'Leveraged Losses: Lessons from the Mortgage Market Meltdown' 2008, US

Monetary Policy Forum Conference

7. Deep, A., and G. Schaefer,2004, Are Banks Liquidity Transformers?

Working Paper, Harvard University 1. Xavier Freixas, Antoine Martin,

David Skeie. 2010. “Bank liquidity, interbank markets, and monetary

policy”. European Banking Center Discusstion Paper No.2010-08S

8. Financial Crises and Bank Liquidity Creation - Allen N. Berger † and Christa

H.S.Bouwman

9. George Soros, “The credit crisis of 2008 and what it means”.

10. Khandani, A. Lo, A. 'What happened to the quants in August 2007?' 2007 ,

working paper, MIT.

11. Markus K. Brunnermeier. 'Deciphering the 2007-2008 liquidity and

credit crunch' 2008, Journal of Economic Perspectives, forthcoming.

12. Niehans, Jrg. 1978. The theory of money. Baltimore: Johns Hopkins

University Press.

13. Jorion, Philippe, (1999). 'Risk Management Lessons from Long-Term

Capital Management'

14. Patinkin, Don. 1965. Money, interest, and prices: An integration of

monetary and value theory. 2d ed. New York: Harper & Row.

15. Randall Wray (2008), “Financial Market Meltdown”, Public Policy Bried

Series, The Levy Economics Institute of Bard College”.

16. Tobin, James. (1882). "The Commercial Banking Firm: A Simple Model".

Journal of Economics, 84(4) pp.495-530.

17. Tobin, James. (1965). 'The theory of portfolio selection'. 'In The theory

of interest rates', edited by Frank H. Hahn and F. P. R. Brechling, pp. 3C51.

London: Macmillan.

18. Jianbo Tian.May 2010. “A model of bank liquidity”.

19. Viral V. Acharya and Philipp Schnabl, Do Global Banks Spread Global

Imbalances? The Case of Asset-Backed Commercial Paper During the

Financial Crisis of 2007-09 NBER Working Paper No. 16079 Issued in

June 2010.

20. Yuliya Demyanyk and Otto Van Hemert. 'Understanding the Subprime

Mortgage Crisis' Working paper.

TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ

1. www.cpv.org.vn

2. www.countryanalysis.eiu.com/

3. www.vcb.com.vn

4. www.acb.com.vn

5. www.ssi.com.vn

6. www.hastc.org.vn

7. www.hsx.vn

8. www.ssrn.com.vn

9. www.icb.com.vn

10. www.tailieu.vn

11. www.caohockinhte.info

12. www.vneconomy.vn

13. http://thegioithongtin.net/web/experience/244-tim-hieu-ve-mo-hinh-camels-

trong-quan-tri-rui-ro-ngan-hang.tgtt

14. http://www.occ.treas.gov/handbook/liquid…

15. http://www.siilats.com/docs/keskkoolECON/BANKS.htm

16. http://www.financialguide.ch/ica/markets/money_markets/fundamentals/wca

a3.html

17. http://wfhummel.cnchost.com/bankliquidity.html

18. www.sbv.gov.vn (web ngânhàngnhànước VN)

19. www.vietcombank.com.vn

PHỤ LỤC



ABCP - Asset-Backed Commercial Paper

ABCP – là một khoảng đầu tư ngắn hạn với kỳ khoản từ 90 đến 180 ngày,

được phát hành bởi các ngân hàng hoặc một số tổ chức tài chính khác, được đảm

bảo bằng tài sản vật chất như những khoản phải thu thương mại, và được sử dụng

cho các mục tiêu tài chính ngắn hạn.

Một công ty hoặc một nhóm công ty tìm kiếm thanh khoản có thể bán các

khoản phải thu cho ngân hàng hoặc các trung gian khác; đến lượt mình, các ngân

hàng phát hành chúng cho nhà đầu tư dưới dạng thương phiếu. Thương phiếu được

đảm bảo bằng mong đợi dòng riền vào từ các khoản phải thu. Khi các khoản phải

thu được thu hồi, những công ty ban đầu sẽ trả khoản tiền này cho ngân hàng hoặc

các trung gian, sau đó các ngân hàng sẽ trả tiền cho những người nắm giữ ABCP.

Như vậy, thương phiếu có tài sản đảm bảo là một dạng thương phiếu ,

nó được đảm bảo bằng những tài sản tài chính khác.

Tài sản tài chính phục vụ như một thế chấp cho ABCP là một sự kết hợp

thông thường của nhiều tài sản khác nhau, chúng được đánh giá là có rủi ro vỡ

nợ thấp bởi các công ty xếp loại. Tuy nhiên, những năm 2007 – 2008 nhiều tài

sản loai này ít được mong đợi hơn dự kiến, làm cho người mua ít sẵn sàng để mua

ABCP.

Khi thị trường không còn mong muốn mua ABCP, rắc rối xảy ra cho các tổ

chức dùng doanh số bán ABCP để tài trợ cho các khoản đầu tư dài hạn. Đặc biệt,

các khoản đầu tư theo cấu trúc được đưa ra bởi một số ngân hàng thương mại để

tài trợ với tài trợ dài hạn của họ, vì đầu tư dài hạn có lợi nhuận cao hơn bán

ABCP. Điều này rất có lợi khi mà ABCP được đánh giá là an toàn, nhưng yêu cầu

thanh lý các khoản đầu tư dài hạn tạo ra mất mát đáng kể khi họ không thể bán

ABCP.

FDIC

Bảo hiểm tiền gửi liên bang-FDIC(The Federal Deposit Insuarance

Corporation), là một tổ chức của chính phủ Mỹ được thành lập theo đạo luật

Glass– Steagall Act năm 1993. Nó cung cấp bảo hiểm cho các khoản tiền gửi,

đảm bảo sự an toàn cho các khoản tiền gửi của các ngân hàng thành viên,

với các khoản tiền trên 250000$ cho một hợp đồng gửi tiền cho một ngân

hàng. Ngày 18/11/2010, FDIC bảo hiểm tiền gửi cho 7723 tổ chức. FDIC còn

kiểm tra và giám sát một số tổ chức tài chính nhất định về mức độ an toàn và

lành mạnh, , thực hiện một số chức năng bảo vệ người tiêu dùng, và quản lý một

số ngân hàng trong việc quản lý tài sản. Tổ chức được bảo hiểm được đề nghị kí

vào cam kết rằng “khoản tiền gửi được chi trả bằng cam kết hoàn toàn và uy tín

của chính phủ Mỹ”.

Tổ chức:

Hội đồng quản trị của FDIC là cơ quan chủ quản của FDIC. Hội đồng gồm

năm thành viên, ba chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ với sự đồng ý của Thượng

viện Hoa Kỳ và hai mặc nhiên các thành viên. Ba thành viên được chỉ định mỗi

năm phục vụ sáu điều khoản. Không có nhiều hơn ba thành viên Hội đồng có thể

được của các liên kết chính trị tương tự. Tổng thống, với sự đồng ý của Thượng

viện, cũng chỉ định một trong những thành viên được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội

đồng quản trị, để phục vụ một nhiệm kỳ năm năm, và một trong những thành viên

được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội đồng, cũng phục vụ một nhiệm kỳ năm

năm .

Đến năm 2009, các thành viên hiện tại của Hội đồng quản trị của Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang là:

• Sheila Bair -Chủ tịch Hội đồng quản trị. • Martin J. Gruenberg - Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị.

• Thomas J. Curry .

• John C. Dugan - Kiểm soát viên tiền tệ.

• John E. Bowman - Quyền Giám đốc của Văn phòng giám sát tiết kiệm.

Lịch sử

Trong năm 1930, Mỹ và phần còn lại của thế giới trải qua một cuộc Đại suy

thoái. Tại Hoa Kỳ trong thời gian cao điểm của khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp

chính thức là 25% và thị trường chứng khoán đã giảm 75% kể từ năm 1929. Ngân

hàng chạy đã được phổ biến bởi vì không có bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng, và

công dân chạy các nguy cơ mất tiền mà họ đã gửi nếu ngân hàng của họ không

thành công.

Ngày 16 tháng 6 Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã ký Đạo

luật Ngân hàng năm 1933. Nội dung:

• Thành lập FDIC là một tập đoàn của chính phủ tạm thời

• Cho phép FDIC cung cấp bảo hiểm tiền gửi cho các ngân hàng

• FDIC cơ quan điều tiết và giám sát các ngân hàng nhà nước không là thành viên

• Tài trợ của FDIC với các khoản vay ban đầu của $ 289,000,000 thông qua Bộ Tài

chính Mỹ và Cục Dự trữ Liên bang.

• Mở rộng giám sát liên bang cho tất cả các ngân hàng thương mại.

• Tách thương mại và đầu tư ngân hàng (Glass-Steagall Act)

• Cho phép các ngân hàng quốc gia để chi nhánh trên toàn tiểu bang, nếu được

phép của pháp luật nhà nước.

Hạn mức bảo hiểm

• 1934 - $2500

• 1935 - $5000

• 1950 - $10.000

• 1966 - $15.000

• 1969 - $20.000

• 1974 - $40.000

• 1980 - $100.000

• 2008 - $ 250.000

LTCM

Long-Term Capital Management L.P. (LTCM) là một quỹ chống rủi ro

lớn của Mỹ. Quỹ này là một quỹ tự bảo hiểm đi tiên phong về sử dụng kĩ thuật

quản lý rủi ro dựa trên cơ sở lý thuyết thị trường hiệu quả. Người sáng lập và

điều hành Quỹ này là John Meriwether, chuyên gia đầu tư về trái phiếu nổi tiếng.

Trong đội ngũ thành viên chủ chốt của LTCM còn có nhiều nhà kinh tế học

từng đoạt giải Nobel. Thành công đến với LTCM thời gian đầu là điều không

có gì ngạc nhiên, nhưng cuối cùng vì quá tự phụ với tài năng của mình mà

những nhà lãnh đạo của LTCM đã 'góp công' đưa Quỹ này đến với vực sâu phá

sản năm 2000.

John Meriwether nghĩ rằng phương pháp siêu việt để kinh doanh chứng

khoán là phương pháp toán học. Vì thế, ông tuyển vào LTCM nhiều chuyên gia

nổi tiếng đã thành công về toán tài chính. Trong số những chuyên gia đó có

những đồng nghiệp cũ khi ông còn làm thuê cho ngân hàng Salomon Brothers,

David Mullins, cựu phó chủ tịch cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), Robert Merton,

giáo sư đại học Harvard, Myron Scholes, giáo sư Đại học Standford,… Năm 1997

hai vị giáo sư Merton và Sholes được giải Nobel Kinh tế.

LTCM khởi đầu với vốn 1,25 tỷ USD, trở thành quỹ phòng vệ lớn nhất và

linh động nhất thế giới vào thời đó. Sau khi trừ tiền hoa hồng, tỉ suất lợi nhuận của

cổ đông là 42,8% năm 1995, 40,8% năm 1996 và 17,4% năm 1997. Đầu năm 1998,

vốn của LTCM là 4,8 tỷ USD với khả năng vay 200 tỷ và tình hình tài khoản

những sản phẩm thứ cấp hơn 1.200 tỷ USD. Với những thành tích như vậy, lãnh

đạo LTCM mỗi ngày mỗi phiêu lưu hơn. Họ kiêu căng đến nỗi đề nghị trả lại tiền

vốn những ai muốn hỏi chi tiết về chính sách đầu tư của họ.

Sau khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997, tỉ lệ chiết khấu các trái phiếu

tăng làm cho lãi của LTCM giảm. Nhưng lãnh đạo LTCM vẫn dự đoán tình hình sẽ

mau chóng trở lại như xưa. Họ bán trái phiếu với vị thế mở (open position), bỏ

qua việc mua hợp đồng ngoại tệ kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro khi tỉ giá thay đổi trên

thị trường Mỹ để mua ở thị trường Nga. Ngày 17.8.1998, thủ tướng Nga Sergueï

Kirienko tuyên bố gia hạn nợ của Liên bang Nga và phá giá đồng rúp. Ngay lập

tức các nhà đầu tư quốc tế rút tiền từ Nga để đầu tư vào Mỹ. LTCM phải bán

tháo trái phiếu Nga để thanh toán những hợp đồng trên thị trường Mỹ. Do không

có biện pháp chống rủi ro tỉ giá, trong tháng tám họ lỗ 1,7 tỷ USD rồi lỗ thêm một

tỷ nữa trong ba tuần đầu tháng 9.1998.

Ngày 18.9.1998, khi tin đồn khả năng phá sản bắt đầu lan tràn, vốn của LTCM

tụt từ 4,8 tỷ USD xuống còn 1,5 tỉ USD và chính thức phá sản năm 2000.

MBS

Một mortgage-backed security (MBS) là một chứng khoán có tài sản đảm bảo là

một khoản phải thu từ khoản vay thế chấp thông qua quá trình được gọi là chứng

khoán hóa.

Chứng khoán hóa là một quá trình phức tạp, và phụ thuộc nhiều vào thẩm quyền

mà tiến trình được thực hiện. Các vấn đề cơ bản:

1.Các khoản vay thế chấp được mua từ các ngân hàng và các tổ chức cho

vay khác được tin tưởng.

2.Các khoản nợ này được tập hợp chung lại.

3.Tập hợp chứng khoán được tín nhiệm và phát hành những chứng khoán

đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp, với cơ sở là các khoản cho vay làm cơ bản.

Sau khi cuộc Đại khủng hoảng, chính phủ liên bang Hoa Kỳ đã thành lập Cơ

quan quản lý nhà liên bang (FHA) bên cạnh Tổ chức Nhà ở quốc gia năm 1934 để

hỗ trợ trong việc mua, xây dựng nhà ở dân cư. Các FHA đã giúp phát triển và tiêu

chuẩn hóa thế chấp lãi suất cố định, và giúp thu hồi các khoản vay thế chấp.

Năm 1938, chính phủ cũng thành lập Hiệp hội Thế chấp Quốc gia Liên

bang (FNMA) được tài trợ bởi chính phủ, được biết đến như Fannie Mae, để tạo

thị thị trường thứ cấp thanh khoản trong các khoản thế chấp và tạo thêm nhiều các

khoản vay từ các khoản vay thế chấp bằng cách mua FHA - bảo hiểm thế .

Hầu hết trái phiếu được đảm bảo bằng khoản vay thế chấp được cho là

một MBS. Điều này có thể gây ra nhầm lẫn, vì một chứng khoán xuất phát từ

MBS cũng được gọi là MBS. Chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp

bao gồm các loại:

• Chứng khoán đảm bảo bằng khoản vay thế chấp truyền thống là các

MBS đơn giản, như mô tả hình sau. Về bản chất, nó là chứng khoán hóa

của các khoản thanh toán, thế chấp cho các tổ chức thế chấp. Đây có thể

được chia thành: chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp nhà ở (RMBS) và

chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp thương mại (CMBS).

• Thế chấp nghĩa vụ (CMO) là một MBS phức tạp hơn, trong đó các

khoản thế chấp được đặt hàng về một số chỉ tiêu chất lượng (như thời gian trả

nợ), mỗi đợt bán như là một chứng khoán riên biệt.

• Chứng khoán đảm bảo bằng khỏa vay thế chấp(SMB), nơi mỗi lần thanh

toán thế chấp là một phần được sử dụng để thanh toán các khoản vay gốc và một

phần dùng để trả lãi trên nó. Hai thành phần này có thể được tách ra để tạo ra các

SMB, trong đó có hai tiểu loại: IO- interest-only stripped mortgage-backed

security và PO - principal-only stripped mortgage-backed security.

Có nhiều lý do để các tổ chức thế chấp tài trợ cho hoạt động của họ bằng cách

phát hành MBS.

1. Chuyển đổi những tài sản kém thanh khoản, tài sản cá nhân trở nên

thanh khoản và có thể giao dịch các công cụ này trên thị trường vốn.

2. Cho phép tổ chức bổ sung nguồn vốn của họ, mà sau đó có thể được

sử dụng cho các hoạt động khác.

3. Tìm kiếm lợi nhuận.

4. Đây thường là một nguồn thay thế có chi phí thấp hơn so với tài trợ

của ngân hàng khác và thị trường vốn.

5. Cho phép công ty phát hành để đa dạng hóa các nguồn tài trợ của họ.

6. Cho phép công ty phát hành để loại bỏ tài sản từ bảng cân đối của họ,

mà có thể giúp cải thiện tỷ lệ khác nhau về tài chính, vốn sử dụng hiệu quả hơn và

phù hợp với tiêu chuẩn vốn dựa trên rủi ro.