VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THIÊN HOÀNG
VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THIÊN HOÀNG
VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực. Nội dung cơ bản và những kiến nghị, đề xuất của luận văn là chưa được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện hàn lâm –
Viện khoa học và xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện hàn lâm – Viện Khoa học và xã
hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thiên Hoàng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN .................................................................................... 6
1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ............................................... 6
1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản ........................................................................................................................................ 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................................................... 34
2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 34
2.2. Thực trạng các hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 51
2.3. Nhận xét, đánh giá về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng............................ 61
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................... 66
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 66
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................ 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đà Nẵng là thành phố lớn nhất khu vực miền Trung - Tây Nguyên, nằm
trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, đóng vai trò hạt nhân, quan trọng
trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng là một trong năm thành
phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I, trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải
Phòng và Cần Thơ. Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh
vực; với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội, công nghiệp, tài chính, du
lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ,
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước;
trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, cùng với quá
trình phát triển và thành tựu đã đạt được, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng diễn biến hết sức phức
tạp, khó lường, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đảm bảo an ninh trật tự, an toàn
xã hội và đời sống của nhân dân.
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ năm
2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố xảy ra 151 vụ án cướp giật tài sản, đã
điều tra, khám phá 92 vụ, với 120 đối tượng. Nhìn chung, số lượng các vụ án cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số vụ
phạm pháp hình sự nhưng lại có những diễn biến khá phức tạp, khó lường, tính chất,
mức độ phạm tội hết sức tinh vi, xảo quyệt, thành phần đối tượng phạm tội rất đa
dạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an tòa xã hội, gây
căm phẫn, bất bình trong quần chúng nhân dân. Mặc dù trong thời gian qua, các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội có rất nhiều hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh các loại tội phạm nhưng tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng vẫn đang là mối lo ngại lớn của toàn xã hội.
Có thể khẳng định, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp làm
giảm, hạn chế và từng bước loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản nhằm hướng đến mục đích ngăn chặn, loại trừ tội cướp
1
giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội. Như vậy, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản là hoạt động rất đa dạng, phức tạp với sự tham gia của nhiều lực lượng, tổ chức
xã hội. Tuy nhiên, trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trò nòng
cốt, xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh
sát nhân dân. Những năm qua, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được thể
hiện trên nhiều phương diện, lĩnh vực, hoạt động cụ thể, kết quả đạt được rất đáng
khích lệ. Mặc dù vậy, một số nội dung hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh
sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như công tác tham mưu,
hướng dẫn; công tác tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát; công tác điều tra,
khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh
sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định cần có sự nghiên cứu thấu đáo, khoa
học và hết sức thực hiện để từng bước nâng cao hiệu quả. Với mục đích nghiên cứu
để có những hiểu biết sâu sắc về lý luận cũng như thực tiễn thể hiện vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng những năm qua, đánh giá đúng đắn toàn diện về thực trạng, trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản nói riêng, đến nay đã có một số công trình tiếp cận nghiên
cứu dưới những góc độ và khía cạnh khác nhau, tiêu biểu như:
- Nguyễn Văn Thái (2011), Điều tra tội phạm cướp giật tài sản người nước
ngoài của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân,
Thành phố Hồ Chí Minh [24];
- Đặng Thúy Quỳnh (2013), Đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản ở
2
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [23];
- Phạm Văn Trung (2017), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông
Nam Bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [26] …
Có thể nhận thấy, kết quả của các công trình liên quan đến vấn đề nghiên
cứu là tương đối phong phú. Mặc dù vậy, các công trình này chỉ mới dừng lại ở việc
nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa, điều tra, hoặc các chiến thuật được áp dụng
trong quá trình điều tra đối với một loại tội phạm nhất định hay tiếp cận nghiên cứu
dưới những góc độ, khía cạnh không giống nhau xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ đã
đặt ra. Đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về Vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn áp
dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản;
- Nghiên cứu khảo sát làm rõ thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng;
- Dự báo tình hình và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
- Phạm vi chủ thể: Lực lượng Cảnh sát nhân dân.
- Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Các số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ năm
2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; dựa
trên những thành tựu của các ngành khoa học như: Triết học, Tội phạm học và Điều
tra tội phạm, Tâm lý học, Xã hội học, Luật học...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để thu thập, xử lý và phân
tích số liệu về tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm
2016 đến năm 2020.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết thực tiễn các hoạt động thể hiện
vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thông qua báo cáo tổng kết, các chuyên đề về
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ các thông tin, tài liệu thu thập được,
tiến hành phân tích để làm rõ tình hình, đặc điểm đặc trưng của tội phạm cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020. Đánh giá thực
trạng thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có liên
quan đến đề tài nghiên cứu, phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ
thực tiễn của đề tài sẽ được đề đề cập trong chương 1.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tập trung nghiên cứu 35 bản kết luận
điều tra và 35 bản án về tội cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020.
- Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến các nhà khoa học có chuyên môn sâu
về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả Luận văn sẽ là tài liệu nghiên cứu của cán bộ, giáo viên, học viên
các cơ sở đào tạo về luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong thực tế, kết quả Luận văn đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được cấu trúc làm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của lực lượng Cảnh
sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA
LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, yêu cầu và nguyên tắc phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản
1.1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Có thể khẳng định, để xây dựng được khái niệm về phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản cần xuất phát và dựa trên nền tảng tri thức về phòng ngừa tội phạm
nói chung, gắn liền với đặc trưng về loại tội phạm cướp giật tài sản. Tiếp cận nghiên
cứu các công trình khoa học đã được công bố về lĩnh vực tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm cho thấy, đến nay xung quanh khái niệm phòng ngừa tội phạm tồn tại
một số quan niệm điển hình, chẳng hạn:
Theo GS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì: Phòng ngừa tội phạm là không để tội
phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để cho con người sống trong xã hội
phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp. Nếu một
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu hình phạt theo
quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp thời, điều tra
khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp quản lý, giáo
dục và cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội [32].
Theo Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học CSND năm 2008 thì:
Phòng ngừa tội phạm không chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả những
hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm, truy tố, xét xử
nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người phạm tội trở
thành người công dân có ích cho xã hội. Truy cứu trách nhiệm hình sự cũng là một
hình thức phòng ngừa tội phạm chủ động và có hiệu quả. Việc trừng trị người phạm
tội và ngăn chặn không cho họ thực hiện hành vi phạm tội mới còn có ý nghĩa tác
6
động đối với những người xung quanh, khiến cho họ từ bỏ ý định phạm tội, từ bỏ sự
chuẩn bị hay tiến hành một tội phạm nào đó. Việc truy tố, xét xử và buộc người
phạm tội phải chịu một hình phạt không những có ý nghĩa phòng ngừa cá biệt mà
còn có ý nghĩa phòng ngừa chung.... Tuy nhiên, phòng ngừa tội phạm còn được thể
hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, xóa bỏ các nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích cực cho sự phát triển, hoàn thiện nhân
cách con người. Như vậy, phòng ngừa tội phạm không những ngăn ngừa tội phạm
xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội và giáo dục cải tạo họ thành công dân có ích
cho xã hội.
Giáo trình Tội phạm học của GS.TS Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội
phạm theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời
phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải
tạo giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không cho tội phạm xảy ra, không để cho
tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải chịu
hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội [29]. Như vậy,
theo quan niệm này công tác phòng ngừa tội phạm khác với công tác điều tra khám
phá, xử lý tội phạm.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống
nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội
nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa
(làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội
phạm[28]. Phòng ngừa tội phạm là hoạt động được tiến hành bằng nhiều biện pháp
để phát hiện nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, nhằm xóa bỏ, hạn chế hoặc làm
mất tác dụng của nó, không để tội phạm xảy ra, tiến tới thủ tiêu hiện tượng tội phạm
trong xã hội tương lai; đồng thời cũng tức là không để tội phạm xảy ra và gây nên
những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải
chịu hình phạt. Nếu tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện xử lý để bảo đảm
cho người phạm tội không thể tránh khỏi hình phạt, không để lọt tội phạm, tiến
7
hành giáo dục và cải tạo những người phạm tội trở thành những công dân có ích cho
xã hội.
Từ việc tiếp thu những luận cứ khoa học nêu trên, xuất phát từ đặc điểm đặc
trưng của tình hình tội cướp giật tài sản, tác giả cho rằng: Phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và
mọi công dân bằng nhiều biện pháp khác nhau hướng đến loại trừ, triệt tiêu những
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nhằm ngăn chặn, hạn
chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
1.1.1.2. Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Có thể khẳng định, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là nhiệm vụ
cấp bách, hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội và cuộc sống thường
ngày của người dân.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động hết sức đặc thù, bởi lẽ
nó được tiến hành đối với một loại tội phạm đặc thù, với đối tượng đặc thù và trên
địa bàn rất đặc thù.
Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản gồm:
+ Làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, tức là
xác định cho được những hiện tượng xã hội tiêu cực làm hình thành nên động cơ
thúc đẩy một cá nhân thực hiện hành vi phạm tội và những yếu tố xã hội làm hình
thành nhu cầu lợi ích, định hướng giá trị xã hội lệch lạc cùng với những yếu tố tạo
thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Các hiện tượng xã
hội tiêu cực làm nảy sinh hoặc tạo thuận lợi cho tình hình tội cướp giật tài sản xảy
ra trong thực tế rất phức tạp, có sự đan xen vào nhau; mặt khác nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội cướp giật tài sản không thể tách rời nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm nói chung. Vì vậy, đề cập đến nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản, có thể tiếp cận, nghiên cứu, phân tích, luận giải, xem
xét những hiện tượng xã hội tiêu cực đóng vai trò làm phát sinh tội phạm nói chung.
+ Đề xuất các phương pháp, giải pháp phòng ngừa cụ thể:
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp
8
giật tài sản thì nhiệm vụ tiếp theo của phòng ngừa tình hình tội phạm đó là soạn
thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp nhằm tác động làm mất đi các nguyên
nhân, điều kiện.
+ Tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản:
Tiếp đến là tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
bằng việc nghiên cứu nắm vững các đặc điểm, quy luật hình thành ý định, động cơ,
mục đích phạm tội, phương thức thủ đoạn hoạt động của đối tượng phạm tội; lập kế
hoạch phòng ngừa, đề xuất các biện pháp phòng ngừa gắn với xây dựng môi trường
giáo dục nhân cách, trong việc quản lý con người, quản lý đối tượng có nguy cơ
phạm tội, trong ngăn chặn tội phạm, xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa
các cấp, các đơn vị cụ thể trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; đề xuất,
kiến nghị ban hành các chủ trương, các văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả
phòng ngừa. Ở phạm vi, cấp độ chung nhất, hoạt động phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản có thể bao gồm các biện pháp như: Tăng cường giáo dục, tuyên
truyền nếp sống lành mạnh; loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của các tệ nạn xã hội; tăng
cường công tác quản lý an ninh trật tự, quản lý xã hội; giải quyết việc làm cho
những người trong độ tuổi lao động; phát động phong trào nâng cao ý thức trách
nhiệm đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản trong nhân dân; tăng
cường công tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản của các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
+ Xây dựng được chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động:
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là chủ đề nhận được sự quan tâm
của đông đảo người dân, của toàn bộ hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở thời gian
vừa qua, hiện tại và trong những năm sắp tới. Chính vì thế, cần phải xây dựng được
chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động cụ thể, chi tiết, huy động sức
mạnh của toàn xã hội, của mỗi nhà trường, gia đình trong việc thực hiện đồng bộ các
biện pháp nhằm ngăn chặn tình hình tội cướp giật tài sản trong thực tiễn đời sống xã
hội.
1.1.1.3. Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải đặt dưới sự lãnh
9
đạo trực tiếp, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành
dưới sự chủ trì của Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, là
lực lượng chủ công, chịu trách nhiệm chính trong xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt
động phòng ngừa, đầu mối gắn kết các chủ thể khác.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành
một cách thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải có sự tham gia
phối hợp của tất cả các chủ thể, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị,
của toàn xã hội, đặc biệt là phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cần được tiến hành toàn
diện, đồng bộ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp
vụ. Đồng thời, cần được đảm bảo về nhân sự và nguồn kinh phí cũng như cơ sở
pháp lý, cơ chế phối hợp cần thiết.
1.1.1.4. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông thì, nguyên tắc là những quy định, phép
tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, làm chỗ dựa để xem xét, làm việc [36]. Như vậy, nguyên
tắc là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hoạt động của con người, chỉ đạo
mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội. Hoạt động
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản muốn đạt kết quả tốt phải được tiến hành
trên cơ sở quán triệt và tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành dựa trên cơ sở
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, duy trì trật tự an toàn xã hội.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải chú trọng làm tốt công tác
tham mưu cho các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong
việc huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó Công an
nhân dân, Viện Kiểm sát, Tòa án giữ vai trò nòng cốt, xung kích, đi đầu.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải triệt để khai thác, phát huy
hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các
10
ban ngành đoàn thể trong đề xuất và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc tăng cường
công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, vận động quyền chúng nhân dân cùng
tham gia.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc nâng cao
hiệu quả công tác điều tra, khám phá và xử lý nghiêm khắc, nhanh chóng, kịp thời
mọi hành vi phạm tội cướp giật tài sản.
1.1.2. Chủ thể tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản không chỉ do lực lượng
Công an nhân dân đảm nhận mà đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều
cấp, nhiều lực lượng, của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ
chức quần chúng và mọi công dân. Nhưng do chức năng, nhiệm vụ, vị trí hoạt động
của từng ngành, từng cấp, từng lực lượng khác nhau nên vai trò và việc thực hiện
nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản có sự khác nhau [35]. Cụ thể:
1.1.2.1. Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân)
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh việc xây dựng và ban
hành chính sách, pháp luật về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, Quốc hội
còn tiến hành giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng chống
tội phạm.
Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn cụ
thể, các cấp ủy Đảng giữ vai trò lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tội phạm, nghe báo
cáo của các ngành, các lực lượng về tình hình tình hình tội cướp giật tài sản xảy ra
trong phạm vi lĩnh vực, địa phương của mình, đề ra chủ trương, phương hướng hoạt
động phòng ngừa có hiệu quả. Đồng thời, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản để có sự lãnh đạo kịp thời, sửa chữa, khắc phục những
11
sai lầm, thiếu sót trong quản lý xã hội, kinh doanh, sản xuất, sử dụng lao động, đảm
bảo cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đi đúng hướng, thiết
thực và đạt hiệu quả cao.
Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định
hướng đến năm 2030 đề ra các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản. Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
các cấp tại từng địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn, thời kỳ chủ
động ban hành các văn bản pháp luật phục vụ có hiệu quả công tác phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản.
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có
thẩm quyền ra các nghị quyết chỉ đạo, tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm nói
chung cũng như hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng. Vì
vậy, Hội đồng nhân dân được coi là chủ thể quan trọng trong hoạt động phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản. Hội đồng nhân dân tham gia vào chương trình quốc
gia phòng, chống tội phạm, tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm; chỉ đạo việc thực
hiện chương trình phòng ngừa tội phạm trong phạm vi địa phương mình quản lý.
Thành lập và lãnh đạo các tổ chuyên trách phòng ngừa tội phạm, hướng dẫn, tổ
chức các tập thể, quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động giáo dục, giám
sát các đối tượng có biểu hiện tiêu cực, người có tiền án, tiền sự đang sinh sống
hoặc cư trú trên địa bàn mà địa phương quản lý, kịp thời giải quyết những mâu
thuẫn trong cuộc sống của cộng đồng dân cư, ngăn chặn được các hành vi tiêu cực
dễ dẫn đến việc nảy sinh tội phạm cướp giật tài sản.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong hệ
thống hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan
hành chính nhà nước địa phương, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân các
cấp, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nước ở Trung ương.
12
1.1.2.2. Chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án)
Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án là những thiết chế có nhiệm vụ trực
tiếp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cướp giật tài sản, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
Điều 67 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm” [19].
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Trong phạm vi trách nhiệm của
mình, cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp
với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm [20]. Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không
thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi phạm tội xảy ra trong cơ
quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tổ
chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và phòng ngừa.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp [22]. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, Tòa án nhân dân phối
hợp với cơ quan, tổ chức phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân
dân cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp
13
luật về phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội. Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định,
Tòa án nhân dân kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục
nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ
chức đó. Cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm thực hiện và trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị phải thông báo cho Tòa án về kết
quả giải quyết kiến nghị.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát
nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [23]. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án,
Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nước khác, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm có
hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật; phổ
biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp
luật [18].
Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: Công an nhân dân là lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [24]. Công an nhân dân có chức
năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu,
hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
14
Xuất phát từ các cơ sở pháp lý đó, cụ thể trên thực tiễn:
+ Cơ quan Công an tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực mà mình có trách nhiệm quản lý thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát nghề,
nhân khẩu, hộ khẩu, vũ khí, phòng, chống cháy nổ…, quản lý các đối tượng có nhân
thân xấu, đối tượng hình sự “không vững vàng” trong cuộc sống để có biện pháp
phòng ngừa riêng, phối hợp, phát hiện, điều tra tội phạm đảm bảo không để lọt tội
phạm; truy nã người phạm tội bỏ trốn nhằm trốn tránh pháp luật; giám sát, giáo dục
người đang chấp hành án tại địa phương nơi người bị kết án cư trú hay tại cơ quan
chuyên môn; hướng dẫn các tổ chức tự quản ở địa phương nắm bắt các thao tác
nghiệp vụ, phương pháp thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm…. Hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản của cơ quan Công an thực hiện chủ
yếu thông qua các hình thức cơ bản như: Tổ chức hoạt động và kế hoạch phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản tại khu vực mình phụ trách; quản lý chặt chẽ các
đối tượng hình sự, các đối tượng có tiền án, tiền sự; kịp thời truy nã các đối tượng
phạm tội còn lẩn trốn; phối hợp với các cơ quan hữu quan lên kế hoạch và thực hiện
kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; tổ chức và đào tạo hệ thống
chuyên gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản chuyên trách; phối hợp chặt
chẽ với Viện kiểm sát và Tòa án trong việc tuyên truyền, hướng dẫn và huy động
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và Nhân dân vào hoạt động phòng ngừa, ngăn
chặn tình hình tội cướp giật tài sản.
+ Viện kiểm sát nhân dân với chức năng của mình, bên cạnh việc thực hành
quyền công tố trong các vụ án cướp giật tài sản, Viện kiểm sát còn kiểm sát việc
tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; giám sát việc thực hiện các biện
pháp và chương trình phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; kiểm tra, giám sát
công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội; phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp
luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản. Thông qua kiểm sát hoạt động điều tra cũng như trực tiếp điều tra các vụ án
cướp giật tài sản, Viện kiểm sát nhân dân xác định được nguyên nhân, điều kiện của
tình hình tình hình tội cướp giật tài sản và các đặc điểm thuộc nhân thân người
phạm tội, kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
15
+ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thông qua hoạt động xét xử và một số hoạt động khác, Tòa án góp phần
to lớn vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Vai trò của Tòa án
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thể hiện thông qua việc
xét xử các vụ án cướp giật tài sản, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội từ đó
áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục hoặc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội đó, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật
của mọi người trong xã hội, tạo điều kiện để công dân và tổ chức thực hiện các biện
pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đặc biệt, Tòa án nhân dân còn trực
tiếp đề xuất, kiến nghị với các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
các cấp về việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội liên quan đến phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
1.1.2.3. Chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Mặt
trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường)
Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, vai trò của Mặt
trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường có ý nghĩa to lớn và là nhân tố,
tiền đề để triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp, giải pháp phòng ngừa.
Điều 46 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh
hoạt công cộng” [19, tr.11].
Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà
nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng
cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan,
tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” [19,
tr.14].
Xuất phát từ đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao mà mỗi
thiết chế trong hệ thống thực hiện những công việc, phần việc cụ thể tạo thành hoạt
16
động chung nhằm hướng đến phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ở phạm vi
và mức độ khác nhau. Có thể khẳng định, trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản điều quan trọng và cần thiết là phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, thường
xuyên, liên tục giữa các chủ thể nêu trên. Việc phối hợp giữa các chủ thể để phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Một mặt
nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, tính tổ chức chặt chẽ trong
quá trình áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Mặt
khác, quá trình phối hợp cho phép tổng hợp, phân tích đánh giá toàn diện thông tin
về tình hình tội cướp giật tài sản, kết quả phòng, chống tình hình tội cướp giật tài
sản, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, sự phối
hợp giữa các chủ thể còn hướng vào việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
sâu rộng cho quần chúng nhân dân về các quy định của Nhà nước liên quan đến
phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản để quần chúng không tham gia hoặc
tiếp tay, che giấu tình hình tội cướp giật tài sản, tích cực tham gia phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản góp phần tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước trên lĩnh
vực này.
1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản
1.2.1. Khái niệm vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do tính
chất rộng rãi và quan trọng của công cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ
gìn trật tự an toàn xã hội, cho nên nó đã trở thành nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân. Tuy nhiên, trong chức năng của Nhà nước còn phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ khác nhau như phát triển kinh tế, xây dựng quốc phòng, đối ngoại,
văn hóa, thể thao v.v... mà mỗi mặt nhiệm vụ đó đều có liên quan với nhau và liên
hệ động chạm tới quyền lợi quốc gia và quyền lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thành viên xã hội. Nhu cầu đó đòi hỏi Nhà nước tất yếu xây dựng củng cố những cơ
17
quan chuyên trách (hay vẫn gọi là cơ quan chức năng) và xác định cho nó những
chức năng nhiệm vụ cụ thể để đại diện Nhà nước tham gia điều hành quản lý trong
từng lĩnh vực cụ thể (tạo thành bộ máy cơ quan chuyên trách). Đối với mỗi Nhà
nước khác nhau do đặc điểm phát triển các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đặc
điểm mỗi thời kỳ khác nhau có thể được thành lập những cơ quan chuyên trách
khác nhau phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước [18].
Ở nước ta, lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là
một trong những lĩnh vực đặc biệt có những đặc trưng khác với các lĩnh vực quản lý
Nhà nước khác. Đó là một lĩnh vực tổng hợp bao hàm nhiều hoạt động khác nhau
như: hoạt động duy trì bảo vệ trật tự pháp luật (tuyên truyền pháp luật, kiểm tra
giám sát thực hiện pháp luật, điều tra xét xử các vụ án hình sự đã xảy ra...); là hoạt
động của các cơ quan tư pháp (Công an, Tòa án, Viện kiểm sát); tiến hành tổ chức
thực hiện những nhiệm vụ quản lý Nhà nước về an ninh trật tự (quản lý con người,
quản lý nghề nghiệp, phương tiện, trật tự an toàn xã hội...); là chức năng của cơ
quan hành pháp của Nhà nước, hoạt động đấu tranh chống tội phạm; trấn áp phản
cách mạng, bảo vệ biên giới v.v...; là hoạt động của cơ quan bạo lực chuyên chính
mang tính vũ trang (lực lượng vũ trang của Nhà nước). Từ những đặc trưng như
vậy, Nhà nước và Đảng ta ngay từ những ngày đầu thành lập đã giao phó trọng
trách cho lực lượng Công an nhân dân và các lực lượng chuyên chính khác thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Bác Hô đã nêu
trong Hồ Chí Minh - Giữ gìn an ninh trật tự - 10/10/1954: “Giữ gìn an ninh trật tự
trước hết là công việc của Công an, Bộ đội, Cảnh sát...”. Để xác định phân công
trách nhiệm cụ thể hơn người còn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Nói chuyện tại Hội
nghị Công an toàn quốc Lần thứ 10- 1/1956: “Nhân dân ta có hai lực lượng: Một là
quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực
lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc
chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình
thì tập luyện còn công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc có chiến tranh có
việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc. Còn chủ nghĩa đế quốc, còn giai cấp bóc lột
là còn bọn phá hoại. Chúng nhằm phá hoại các nước Xã hội chủ nghĩa... Vì vậy,
18
công việc Công an phải thường xuyên, không phải có từng đợt từng lúc”. Như vậy,
Bác Hồ và Đảng ta đã xác định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của mỗi công cụ bạo
lực: Quân đội và Công an. Khi xác định nhiệm vụ và phạm vi công tác của Công an
nhân dân Bác Hồ còn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Bài nói chuyện tại Hội nghị Cán
bộ ngành Công an 29/4/1963: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của
chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ Công an là cực kỳ quan trọng. Nó phải giữ
gìn trật tự trị an, bảo vệ cho Nhân dân ta an cư lạc nghiệp, để xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà”.
Những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm của
Người về bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và vai trò vị trí của
ngành Công an nhân dân đã được Đảng ta quán triệt tiếp tục trong đường lối của
mình. Khi nói về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội,
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ V (1982), Đảng ta chú trọng đến
việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân: “Để làm được nhiệm vụ đó, phải xây
dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thật sự là
công cụ sắc bén của chuyên chính vô sản, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, với Nhà nước và nhân dân, có lực lượng chuyên trách, chính qui hiện đại,
vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang
bị chuyên môn cần thiết, có cơ sở quần chúng rộng khắp đảm bảo hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ… phối hợp tốt giữa các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tư pháp
trong việc tăng cường pháp chế; phối hợp tốt giữa lực lượng Công an nhân dân với
quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và lực lượng quần chúng trong việc giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội”. Từ những vấn đề đã nêu ra và phân tích trên
đây, có thể rút ra những kết luận như sau:
Thứ nhất: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội luôn luôn
là một lĩnh vực hoạt động quan trọng mang tính tất yếu của Đảng và Nhà nước ta,
nhằm góp phần đảm bảo thắng lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của
cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã trở thành
19
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong mỗi
giai đoạn phát triển của cách mạng, vì vậy nó đòi hỏi trách nhiệm tham gia của mọi
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân.
Thứ ba: Nhiệm vụ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội do đặc
điểm riêng của nó là phải đấu tranh trấn áp đối với một số đối tượng ngoan cố nguy
hiểm là bọn phản cách mạng trong nước, các thế lực thù địch chống phá cách mạng
từ bên ngoài và các loại tội phạm xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, vì vậy cần phải sử dụng đến các cơ quan bạo lực chuyên chính như: Công an,
Tòa án, Viện kiểm sát, Quân đội… Những cơ quan này là công cụ đặc biệt của
Đảng và Nhà nước trong đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn
xã hội.
Thứ tư: Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội tham gia đấu
tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thì cơ quan Công an
được Đảng và Nhà nước ta xác định là lực lượng nòng cốt xung kích, có trách
nhiệm tham mưu, hướng dẫn các lực lượng Nhà nước xã hội khác tham gia. Để thực
hiện được trọng trách đó, cơ quan Công an nhân dân phải xây dựng cho mình có lực
lượng mạnh mẽ đủ sức bảo vệ an ninh trật tự của đất nước, đồng thời cần phải phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác đặc biệt là với hệ thống
cơ quan chuyên chính như: Tòa án, Viện kiểm sát và Quân đội nhân dân.
Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng trong hệ thống chuyên chính
vô sản, công cụ bạo lực trọng yếu của Nhà nước để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân đã được hình
thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Xuất
thân từ những tổ chức “tự vệ đỏ”, “đội danh dự trừ gian” trước cách mạng do các tổ
chức Đảng cộng sản thành lập tổ chức, sau khi cách mạng thành công những tổ
chức này được xây dựng và củng cố ngày càng trưởng thành, hoàn thiện với quá
trình như sau: Ngày 21/02/1946 chủ tịch nước ra Sắc lệnh 23/SL thành lập Việt
Nam Công an vụ; ngày 16/02/1953 Sắc lệnh 141/SL đổi tên thành Thứ Bộ Công an;
đến tháng 8/1953 Chính phủ ra Nghị quyết thành lập Bộ Công an. Từ đó đến nay
ngành Công an luôn luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về việc
20
hoàn thiện bộ máy Công an nhân dân, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
phù hợp với tình hình thực tế của mỗi giai đoạn cách mạng. Sự quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an thể hiện, trước hết trong việc tổng kết
công tác đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
đề ra các chủ trương, nguyên tắc, biện pháp đấu tranh trong lĩnh vực này. Những
quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các Nghị quyết của Đảng như: Nghị
quyết 39/NQ/TW ngày 20/01/1962 về tăng cường đấu tranh chống phản cách mạng;
Nghị quyết 31/NQ/TW ngày 02/12/1980 về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trong tình hình mới và các chỉ thị về từng mặt công tác đấu tranh
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khác như chỉ thị về đấu tranh chống
tham nhũng, chỉ thị về đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội… Về mặt Nhà nước đã thông
qua và ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng để quy định về tổ chức, xây dựng
cơ cấu bộ máy Công an nhân dân, phân công chức năng, nhiệm vụ của ngành Công
an nhân dân. Đó là các văn bản như: Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân, pháp lệnh phòng
cháy, chữa cháy, pháp lệnh tình báo, Nghị định 32/CP, Nghị định 250/HĐBT, Nghị
định 37/1998/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ
Công an, Luật Công an nhân dân. Từ nội dung những văn bản trên đã tạo ra các cơ
sở lý luận và cơ sở pháp lý chỉ đạo hoạt động của ngành Công an nhân dân.
Như đã phân tích ở phần trên, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản. Đây là hoạt động đa dạng, phức tạp với sự tham gia đông đảo của các
lực lượng, tổ chức xã hội. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, cần
phải nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm cướp giật
tài sản; đề ra biện pháp phòng chống và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng
chống tội phạm cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản là việc sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng, nhiều biện pháp nhằm khắc phục
những sơ hở, thiếu sót không để đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có thể lợi
dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu những đặc điểm đặc trưng của tội
phạm cướp giật tài sản để thấy được những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh,
21
phát triển loại tội phạm này, từ đó khắc phục nhằm ngăn chặn không để cho chúng
có thể xảy ra. Trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trò nòng cốt,
xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh sát
nhân dân.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong sự
nghiệp bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Trong phạm vi chức năng của mình, lực lượng
Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi
phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội nhằm bảo vệ cuộc sống tự do, hạnh phúc,
lao động hoà bình của Nhân dân, tính mạng, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội; bảo vệ chế độ kinh tế, sở hữu xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng ý thức
tôn trọng pháp các lực lượng vũ trang khác và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội và dựa vào sức mạnh của toàn dân để thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, các lực
lượng vũ trang, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân có trách nhiệm
cộng tác, giúp đỡ lực lượng Cảnh sát nhân dân làm tròn nhiệm vụ được giao.
Như vậy, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được pháp luật
quy định cho lực lượng Cảnh sát nhân dân và được triển khai tổ chức thực hiện trên
thực tế với một hệ thống tổ chức, bộ máy, trang bị phương tiện, kỹ thuật về chuyên
môn - nghiệp vụ và các phương tiện hoạt động khác nhằm loại trừ, triệt tiêu những
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản từ đó ngăn chặn, hạn
chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
Vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản được thể hiện ở một số hoạt động cụ thể dưới đây:
- Một là, tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc xây
dựng các chủ trương, kế hoạch, biện pháp cụ thể để phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản.
- Hai là, thực hiện công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội,
tổ chức hướng dẫn và phối hợp các ngành, các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội và mọi công dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
22
Nhà nước và các chương trình kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
- Ba là, trực tiếp tổ chức tiến hành các biện pháp cụ thể để phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản.
- Bốn là, tổ chức hoạt động điều tra phát hiện, làm rõ những vụ việc phạm tội
cướp giật tài sản đã xảy ra và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với
những người phạm tội; giai đoạn này so với giai đoạn trước thì mang tính đấu tranh
một cách thụ động, tức là khi có vụ việc phạm tội xảy ra mới tiến hành đấu tranh,
tuy nhiên đây cũng là hoạt động vô cùng cần thiết, không thể thiếu được, khi mà
trong điều kiện hiện nay chúng ta chưa thể xóa bỏ hoàn toàn nguyên nhân dẫn đến
phạm tội, chưa thể ngăn chặn một cách có hiệu quả tất cả các vụ việc phạm tội cướp
giật tài sản.
- Năm là, phối hợp giáo dục tổ chức vận động giữa quần chúng tham gia
trong các hoạt động phòng ngừa, điều tra khám phá tội phạm cướp giật tài sản.
- Sáu là, tiến hành công tác quản lý giáo dục, cải tạo những người phạm tội
hoặc vi phạm pháp luật khác, tạo điều kiện giúp đỡ từ bỏ con đường sai trái.
- Bảy là, phối hợp với các cơ quan tổ chức có liên quan trong phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân
dân đủ mạnh về các mặt chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, đủ điều kiện
thực hiện công tác phòng chống tội phạm cướp giật tài sản do Nhà nước giao phó.
1.2.2. Nhiệm vụ và trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Xuất phát từ yêu cầu của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, trên cơ
sở quy định của pháp luật về nhiệm vụ và trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát nhân
dân, khi thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, lực lượng
Cảnh sát nhân dân có các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm cướp giật tài sản và các vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
trật tự công cộng; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm cướp giật tài
sản và kiến nghị các biện pháp loại trừ những nguyên nhân, điều kiện đó.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện việc xử phạt hành chính đối với các
23
vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Cơ quan
điều tra của Lực lượng Cảnh sát nhân dân tiến hành theo các hoạt động điều tra và
đề nghị truy tố người phạm tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân bảo đảm thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam
đối với những người đã có quyết định tạm giữ, tạm giam; thi hành các bản án phạt
tù, trừ các bản án do các tổ chức trong Quân đội nhân dân đảm nhiệm; giáo dục, cải
tạo phạm nhân phạm tội cướp giật tài sản thành những công dân có ích cho xã hội;
quản lý, giáo dục những người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện áp giải bị can, bị cáo, bảo vệ các
phiên toà hình sự.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện các quy định của Nhà nước về quản
lý hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân; giúp Nhân dân tìm địa chỉ người thân, tìm
người bị lạc, người mất tích; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về
cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy;
đăng ký, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, trừ vũ khí, khí tài do Quân đội nhân dân quản
lý; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo quản, vận
chuyển, sử dụng chất nổ, chất dễ cháy, chất độc, chất phóng xạ; quản lý các nghề
kinh doanh đặc biệt do Chính phủ quy định.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội và dựa vào sự giúp đỡ của mọi công dân để đấu tranh chống tội phạm cướp giật
tài sản, các tệ nạn xã hội, phòng ngừa tai nạn, thiên tai, dịch, họa; cứu giúp người bị
nạn; kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về giữ gìn vệ sinh công cộng, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, môi trường sống.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
thành viên của Mặt trận tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân ý thức tôn trọng pháp
luật, động viên và tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.
Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân khi làm nhiệm vụ được ưu tiên đi lại
bằng các phương tiện giao thông công cộng, được miễn cước phí giao thông trong
24
thành phố, thị xã; trong trường hợp cấp thiết để đuổi bắt người phạm tội quả tang
hoặc người đang có lệnh truy nã, để ngăn chặn hành động phạm tội đang được thực
hiện, cấp cứu người bị nạn, được sử dụng các phương tiện giao thông, thông tin liên
lạc của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân, kể cả người điều khiển
các phương tiện đó, trừ các phương tiện của cơ quan ngoại giao và phải hoàn trả
ngay khi tình huống cấp thiết không còn. Nếu các phương tiện bị hư hỏng hoặc bị
mất thì đơn vị Cảnh sát nhân dân hữu quan có trách nhiệm bồi thường.
Trong trường hợp cấp thiết, để thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát
nhân dân được tạm đình chỉ đi lại ở những đoạn đường nhất định và phải giải toả
ngay khi tình huống cấp thiết không còn; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ những việc làm
có hại đến trật tự, an toàn xã hội và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các
quyết định đó.
Đồng thời, phải thực hiện một số trách nhiệm sau đây:
Lực lượng Cảnh sát nhân dân chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng vũ
trang khác và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và dựa vào sức mạnh của
toàn dân để thực hiện nhiệm vụ. Các lực lượng vũ trang và cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội và mỗi công dân có trách nhiệm cộng tác, giúp đỡ Lực lượng Cảnh sát
nhân dân làm tròn nhiệm vụ.
Chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân địa phương có trách nhiệm định kỳ
báo cáo với Hội đồng nhân dân và thường xuyên báo cáo với Uỷ ban nhân dân cùng
cấp về tình hình và công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, chịu sự chỉ
đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ trật tự, an
toàn xã hội ở địa phương.
Chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân địa phương có trách nhiệm báo cáo
với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về những vấn đề liên quan để phối
hợp vận động nhân dân bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời các
kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận về công tác
25
bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, về những việc làm trái pháp luật của cán bộ, chiến sĩ
Cảnh sát nhân dân.
Trong khi làm nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân phải mặc trang
phục cảnh sát, đeo số hiệu, nếu mặc thường phục phải xuất trình giấy chứng nhận
Cảnh sát nhân dân, khi có yêu cầu.
Các quyết định của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân xử lý vi phạm theo
thẩm quyền do pháp luật quy định có hiệu lực thi hành ngay. Nếu không đồng ý với
các quyết định của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, người bị xử lý có quyền
khiếu nại với chỉ huy trực tiếp của người đã ra quyết định. Khiếu nại đối với quyết
định của chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân cấp dưới được gửi đến chỉ huy Lực
lượng Cảnh sát nhân dân cấp trên. Chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân cấp có
thẩm quyền phải giải quyết và thông báo kết quả cho người khiếu nại biết trong thời
hạn 15 ngày và nếu là trường hợp phức tạp thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi
nhận được khiếu nại.
Nếu phát hiện thấy quyết định của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân là trái
pháp luật thì chỉ huy của người đã ra quyết định phải huỷ bỏ ngay quyết định đó,
phục hồi các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm.
Trong trường hợp công dân được Lực lượng Cảnh sát nhân dân huy động
hoặc cùng Lực lượng Cảnh sát nhân dân tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội mà
bị thiệt hại về vật chất hoặc nếu cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân trong khi làm
nhiệm vụ mà gây thiệt hại về vật chất cho công dân thì người bị thiệt hại được đơn
vị Cảnh sát nhân dân hữu quan bồi thường; nếu bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ theo quy định.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
1.2.3.1. Sự quan tâm xây dựng, lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các tổ chức
Đảng và chính quyền địa phương đối với việc thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh
sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Như đã trình bày ở trên, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng quan tâm
đến lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong mỗi thời
26
kỳ phát triển của cách mạng, coi đó là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta. Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước lại đặc biệt chú ý xây dựng lực
lượng Công an nhân dân (trong đó có lực lượng Cảnh sát nhân dân) về mọi mặt.
Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Về vị trí của lực lượng Cảnh sát nhân dân đã được Đảng và Nhà nước khẳng
định là công cụ chuyên chính trọng yếu của Đảng và Nhà nước, lực lượng nòng cốt
xung kích trên mặt trận bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, là một trong
những lực lượng trọng yếu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về cơ chế hoạt động: Lực lượng Cảnh sát nhân dân trực thuộc Bộ Công an,
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp toàn diện về mọi mặt của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ chính trị mà trực tiếp là Đảng ủy Công
an Trung ương và thống lĩnh của Chủ tịch nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng đã xác
định về phương hướng, đường lối công tác cho lực lượng Cảnh sát nhân dân, xác
định đối tượng và những chủ trương lớn trong lĩnh vực công tác của ngành. Những
vấn đề đó được đề cập trong các nghị quyết lãnh đạo đất nước nói chung và những
Nghị quyết chuyên đề về xây dựng lực lượng Công an (trong đó có lực lượng Cảnh
sát nhân dân), đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm.
Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chú ý chăm lo, củng cố lực lượng Cảnh
sát nhân dân trở thành lực lượng trong sạch, chính quy, tinh nhuệ, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, chuyên môn. Bác Hồ đã nói: “Đảng, Chính phủ rất chú ý đến
công tác của Công an và đến việc giáo dục cán bộ Công an, phải thấy Đảng, Chính
phủ hết sức chăm sóc đối với Công an”.
Việc lãnh đạo công tác Công an của Đảng được xác lập theo một cơ cấu chặt
chẽ từ cấp Trung ương đến các cấp cơ sở, mỗi cấp Công an đều được đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng.
Nhà nước thường xuyên chăm lo về các điều kiện phương tiện và phục vụ
lực lượng Cảnh sát nhân dân hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đó là một trong
những điều kiện quan trọng đảm bảo cho lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện vai
trò nòng cốt của mình trong cuộc đấu tranh bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an
27
toàn xã hội nói chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.
1.2.3.2. Sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và quần
chúng nhân dân đối với việc thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Một trong những đặc điểm cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt
Nam là mang bản chất giai cấp công nhân, là con em Nhân dân, từ Nhân dân mà ra,
vì Nhân dân phục vụ. Hồ Chủ Tịch đã nhiều lần nhắc nhở “Công an là bạn dân”,
“nhiệm vụ của Công an là bảo vệ nhân dân, giữ gìn trật tự trị an…”, mặt khác, khi
lực lượng Cảnh sát nhân dân sử dụng lực lượng của mình để đấu tranh chống lại các
loại tội phạm, bảo vệ an ninh trật tự thì cũng là bảo vệ quyền lợi của Đảng, Nhà
nước và của Nhân dân.
Mọi hiện tượng tội phạm, mọi hiện tượng vi phạm pháp luật khác đang tồn
tại trong xã hội đều mang tính “tiêu cực”. Nó cản trở sự phát triển đi lên của cách
mạng, cản trở cuộc sống, hoạt động bình thường hàng ngày của Nhà nước và mỗi
người dân, vì vậy hiện tượng này thường bị Nhân dân căm ghét, lên án. Những
người dân, những cơ quan tổ chức của Nhà nước và xã hội nhận thức được điều đó,
vì vậy, trong hoạt động thực tế, họ sẽ rất nhiệt tình ủng hộ giúp đỡ lực lượng Cảnh
sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói
chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.
Trên cơ sở quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về sức mạnh to lớn
của quần chúng nhân dân, trong nhiều năm qua các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là
lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tiến hành những cuộc vận động tuyên truyền và tổ
chức Nhân dân, các ngành, các giới nhận thức đúng về vai trò của toàn dân tham gia
bảo vệ an ninh tổ quốc, tổ chức để họ biết cách tham gia đấu tranh hiệu quả trong
cuộc vận động này. Vì vậy, hiện nay ở nước ta, đã tạo được một phong trào quần
chúng rộng rãi tham gia trong công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, phòng ngừa tội phạm. Đó là những phong trào bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa,
phong trào chống tham nhũng, phong trào phòng ngừa tệ nạn xã hội v.v… với nhiều
hình thức phong phú sinh động. Cần phải khẳng định sự tham gia tích cực của quần
chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là
28
một điều kiện thuận lợi to lớn của ngành Công an trong công tác này như Bác Hồ đã
dạy: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta hoàn toàn thì
thắng lợi hoàn toàn. Dân ta tốt, gặp trường hợp nguy hiểm, nếu Công an khéo léo
thì được dân giúp đỡ ngay”.
1.2.3.3. Hệ thống pháp luật quy định về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đầy đủ và hoàn thiện
Có thể khẳng định, việc phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là vấn đề thực sự có ý nghĩa chính
trị, xã hội, pháp lý và thực tiễn to lớn. Hoạt động này chỉ có thể thu được kết quả
nếu huy động được sức mạnh của toàn xã hội, sự tham gia và hưởng ứng tích cực
của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn, đặc biệt, phải có sự đầu tư, đãi
ngộ thích đáng về vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, kể cả đội ngũ những nhà khoa học,
chuyên gia pháp lý lẫn đội ngũ những người thực thi pháp luật và tổ chức các hoạt
động phòng ngừa. Và điều cốt yếu, phải xây dựng được hệ thống quy phạm pháp
luật thực sự đồng bộ, minh bạch, toàn diện, khả thi, cụ thể quy định và điều chỉnh
những vấn đề cơ bản trong quá trình thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân nhằm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Có như vậy, vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản mới thực
sự được tiến hành với nền tảng pháp lý vững chắc, hiệu quả phòng ngừa đạt được
cao hơn, giá trị xã hội và ý nghĩa pháp lý của phòng ngừa thiết thực hơn, mọi biện
pháp phòng ngừa được tiến hành thực sự có trọng tâm, trọng điểm, có cơ sở khoa
học và thực tiễn, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra về mặt tổ chức, chủ thể, nguồn
lực, kinh phí, trang thiết bị trong quá trình phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản.
1.2.3.4. Bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ chiến sĩ Cảnh sát nhân dân vừa
hồng, vừa chuyên đáp ứng việc thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Để thực hiện và phát huy được một cách thường xuyên, liên tục vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, với tư
29
cách là lực lượng xung kích, nòng cốt, điều kiện tiên quyết cần phải hội đủ đó là
xây dựng được bộ máy tổ chức hợp lý, khoa học theo hướng Bộ tinh, tỉnh mạnh,
huyện toàn diện, xã bám cơ sở. Đồng thời, cần tiếp tục kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, với bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân,
lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam luôn luôn trung thành tuyệt đối với Đảng,
Tổ quốc, với chính quyền cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, không
ngại hy sinh gian khổ, đoàn kết chặt chẽ, công tác tận tuỵ, chiến đấu dũng cảm, mưu
trí sáng tạo, nêu nhiều tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân đánh bại nhiều loại tình báo, gián điệp, thám báo và các bọn phản động
tay sai; đập tan các âm mưu và hoạt động gây rối, gây bạo loạn, phá hoại và lật đổ
của bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác; bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do thống nhất đất nước cũng như trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải thực sự vừa
hồng, vừa chuyên, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Nhà nước, với Nhân dân.
Suốt đời hy sinh phấn đấu vì sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Luôn luôn mưu trí,
dũng cảm trong chiến đấu, công tác không quản ngại khó khăn gian khổ, hy sinh,
cảnh giác đánh thắng mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và
bọn tội phạm, có tinh thần phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang,
với các ngành và các đoàn thể quần chúng. Có phẩm chất đạo đức cách mạng trong
sáng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Có tinh thần hợp tác quốc tế, thuỷ
chung, trong sáng.
Trong mọi giai đoạn cách mạng, lực lượng Cảnh sát nhân dân luôn được
Đảng quan tâm tổ chức xây dựng thành một lực lượng tin cậy, sắc bén vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức; trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với
Nhân dân, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự; nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và khoa học kỹ thuật, nắm tình hình địch và chủ động đánh
địch có hiệu quả, không ngừng nâng cao chất lượng công tác, chiến đấu. Trong mỗi
thời kỳ cách mạng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra đối với công tác
30
bảo vệ an ninh trật tự, Đảng kịp thời có những chủ trương, đường lối đúng đắn để
xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân về tổ chức cán bộ, về chính trị - tư tưởng…
giúp lực lượng Cảnh sát nhân dân có đủ những điều kiện cần thiết, tạo ra sức mạnh
tổng hợp hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đặt ra. Xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân
dân mang tính nhân dân sâu sắc, luôn dựa vào dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, hết lòng phục vụ nhân dân. Về tổ chức cán bộ,
được xây dựng theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả, đảm bảo về số lượng và
coi trọng về chất lượng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng và đòi hỏi của
cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia. Lựa chọn Công an trong những người trung
thành nhất với Đảng, chỉ biết còn Đảng còn mình. Bộ Công an đã thường xuyên
chăm lo, lựa chọn và bồi dưỡng từ đội ngũ cán bộ chiến sĩ đến cán bộ chỉ huy, cốt
cán trong Công an nhân dân để có đầy đủ những tiêu chí cần thiết, đặc biệt chăm lo
bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh, trình độ chính trị, tinh thần cảnh giác, cách
mạng tiến công, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ văn hoá, có tri thức
và kỹ năng nghiệp vụ, có sức khoẻ để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao
[28].
1.2.3.5. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho
thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản
Có thể khẳng định, hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản của
lực lượng Cảnh sát nhân dân chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong
đó, yếu tố quan trọng không thể không nhắc đến chính là điều kiện cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác. Dẫu biết rằng, lực lượng Cảnh sát nhân
dân không ngại gian khổ, khó khăn, chấp nhận vất vả, thậm chí là cả tính mạng và
sức khỏe để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm và các
hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nếu có thể việc tạo
điều kiện thuận lợi hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ
cho quá trình công tác sẽ tiếp thêm động lực, sự nỗ lực, lòng quyết tâm và ý chí
vượt khó để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nói chung
và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.
31
1.2.3.6. Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản
nói riêng
Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự được thay đổi về
mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội
phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian
nhất định có tác động ảnh hưởng đến quá trình phòng ngừa tội phạm nói chung và
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng của lực lượng Cảnh sát nhân
dân. Chính vì vậy, để phát huy hiệu quả vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản việc nghiên cứu tìm hiểu, luận giải,
làm sáng tỏ bức tranh tổng thể của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội
cướp giật tài sản nói riêng trên các phương diện phần hiện của tội phạm bao gồm
thực trạng (mức độ), diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm cũng như
phần ẩn của tình hình tội phạm thực sự có ý nghĩa lý luận, chính trị, pháp lý sâu sắc
[30].
Kết luận Chương 1
Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã tập trung hệ thống hóa, phân tích,
luận giải và đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, đề cập và
phân tích cơ sở, yêu cầu cũng như các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ rõ căn cứ phân loại và nội dung cụ thể của
các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, phân tích, chỉ rõ chủ thể
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản gồm: Chủ thể xây dựng chính sách, mục
tiêu, định hướng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân); chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện
hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm
sát, Tòa án); chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (mặt trận,
các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường). Đặc biệt, tác giả đã luận giải và làm
sáng tỏ khái niệm, nội dung vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, quyền và nghĩa vụ của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, phân tích, chỉ rõ các yếu tố tác
32
động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản. Đây chính là nền tảng lý luận và pháp luật cho việc phân tích, luận
giải và đánh giá về thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng sẽ được đề cập
tại chương 2 của luận văn.
33
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
2.1.1. Tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ
năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng xảy ra 2447 vụ phạm
pháp hình sự (Giết người: 107 vụ; Cố ý gây thương tích tích: 325 vụ; Hiếp dâm trẻ
em: 09 vụ; Cướp tài sản: 46 vụ; Cướp giật tài sản: 151 vụ; Trộm cắp tài sản: 1327
vụ; Án khác: 483 vụ), đã điều tra, khám phá 2054 vụ (chiếm tỷ lệ 83,93%), bắt giữ
3253 đối tượng [Xem bảng 2.1 – Phụ lục]. Cụ thể: Năm 2016 xảy ra 558 vụ phạm
pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 445 vụ (chiếm tỷ lệ 81,5%), bắt giữ 702 đối
tượng; Năm 2017 xảy ra 532 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 442 vụ
(chiếm tỷ lệ 83,1%), bắt giữ 677 đối tượng; Năm 2018 xảy ra 517 vụ phạm pháp
hình sự, đã điều tra, khám phá 436 vụ (chiếm tỷ lệ 84,3%), bắt giữ 695 đối tượng;
Năm 2019 xảy ra 467 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 400 vụ (chiếm
tỷ lệ 85,7%), bắt giữ 622 đối tượng; Năm 2020 xảy ra 375 vụ phạm pháp hình sự,
đã điều tra, khám phá 321 vụ (chiếm tỷ lệ 85,6%), bắt giữ 557 đối tượng; [Xem
bảng 2.2 – Phụ lục]. Như vậy, tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng có xu hướng giảm dần trong các năm về sau, nếu lấy số vụ phạm pháp
hình sự năm 2016 để làm mốc so sánh thì năm 2017 số vụ phạm pháp hình sự giảm
26 vụ, năm 2018 số vụ phạm pháp hình sự giảm 41 vụ, năm 2019 số vụ phạm pháp
hình sự giảm 91 vụ, năm 2020 số vụ phạm pháp hình sự giảm 183 vụ.
Bên cạnh đó, đối với tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
có chiều hướng phát triển, tập trung chủ yếu trong các nhà hàng, quán ăn, quán
34
Karaoke, khách sạn, quán Bar… và tổ chức hoạt động ngày càng kín đáo, tinh vi và
có hệ thống. Ngoài ra, thời gian qua xuất hiện hình thức hoạt động mại dâm qua
mạng Internet, các đối tượng môi giới và gái mại dâm sử dụng mạng xã hội như zalo,
facebook… để giới thiệu và tổ chức mua bán dâm. Tệ nạn cờ bạc diễn biến phức tạp,
chủ yếu là tệ nạn số đề, cá độ bóng đá, đá gà, đánh bài… xuất hiện hầu như ở khắp
các địa bàn, lôi kéo đủ các tầng lớp, các thành phần xã hội tham gia. Các đối tượng
lợi dụng địa điểm vắng vẻ ít người qua lại như khu du lịch, nghỉ dưỡng, xa khu dân
cư để tổ chức các ổ bài bạc lớn và thường xuyên thay đổi địa bàn hoạt động. Trong
những năm qua xuất hiện một số thủ đoạn sử dụng công nghệ cao để hoạt động phạm
tội đánh bạc tại nhiều quận, huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với nhiều đối
tượng tham gia, thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp gây ảnh hưởng xấu đến tình
hình an ninh trật tự tại địa phương, điển hình năm 2019 và năm 2020, Công an thành
phố Đà Nẵng đã liên tiếp điều tra, khám phá, làm rõ 02 vụ cờ bạc sử dụng công nghệ
cao với số tiền lên đến hàng ngàn tỉ đồng [5]. Đặc biệt, thực tế cho thấy, tệ nạn cờ
bạc tạo môi trường phát triển thuận lợi cho hành vi cho vay lãi nặng, tín dụng đen,
bởi lẽ, để chuẩn bị chu đáo cho việc tổ chức các sòng bạc, xới bạc các đối tượng
không những chuẩn bị địa điểm kiên cố, có nhiều hàng rào bảo vệ, nhiều đối tượng
cảnh giới mà các đối tượng tổ chức còn có sự phân công vị trí, vai trò rất cụ thể, rõ
ràng, nhất là các đối tượng chuyên làm nhiệm vụ cò mồi, cho vay lãi nặng. Ở hình
thức lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết, các đối tượng cầm đầu cũng tổ chức rất kín
đáo, thành lập đường dây đòi nợ, xiết nợ gồm thành phần là những đối tượng hình sự
côn đồ, cộm cán, có nhiều tiền án, tiền sự. Bên cạnh đó, tín dụng đen hỗ trợ cho tệ
nạn cờ bạc duy trì hoạt động, bởi lẽ, bản chất của các đối tượng tổ chức đánh bạc là
lợi dụng vào các thủ đoạn gian dối, bịp bợm để được tiền từ người chơi bạc, do vậy,
nhằm thu hút các con bạc sát phạt nhau các đối tượng thường tổ chức các hoạt động
cho vay lãi nặng, tín dụng đen. Như vậy, tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng ngày càng diễn biến phức tạp, biến tướng dưới nhiều loại hình dịch vụ khác
nhau, thành phần độ tuổi của đối tượng ngày càng trẻ hóa, các đối tượng có nhiều
kinh nghiệm, thủ đoạn đối phó với các cơ quan chức năng. Từ tệ nạn xã hội dễ dàng
phát sinh, chuyển hóa sang hoạt động phạm pháp hình sự và ngược lại, ảnh hưởng
35
đến mọi mặt đời sống xã hội.
2.1.2. Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ
năm 2016 đến năm 2020
2.1.2.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ
năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng xảy ra xảy ra 151 vụ án
cướp giật tài sản, điều tra, khám phá 92 vụ với 120 đối tượng (chiếm tỷ lệ 6,17%
tổng số vụ phạm pháp hình sự). Cụ thể: Năm 2016 xảy ra 33 vụ, điều tra khám phá
20 vụ (chiếm tỉ lệ 60,6%) với 29 đối tượng; Năm 2017 xảy ra 36 vụ, điều tra khám
phá 24 vụ (chiếm tỉ lệ 66,7%) với 36 đối tượng; Năm 2018 xảy ra 33 vụ, điều tra
khám phá 19 vụ (chiếm tỉ lệ 57,6%) với 28 đối tượng; Năm 2019 xảy ra 31 vụ, điều
tra khám phá 14 vụ (chiếm tỉ lệ 45,2 %) với 17 đối tượng; Năm 2020 xảy ra 18 vụ,
điều tra khám phá 15 vụ (chiếm tỉ lệ 83,3%) với 10 đối tượng [Xem bảng 2.3 – Phụ
lục].
Nghiên cứu về tình hình bắt và xử lý tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, số vụ án bị đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số các vụ án đề nghị truy tố (92vụ, chiếm
tỷ lệ 60,9%) [Xem bảng 2.3 – Phụ lục]. Tuy nhiên, số liệu thống kê nêu trên có thể
chưa đầy đủ vì có những hành vi phạm tội cướp giật tài sản vẫn chưa được phát
hiện đưa vào thống kê hình sự bởi những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, xuất phát từ người bị hại và người làm chứng không báo tin cho cơ
quan chức năng, người bị hại còn ngại tiếp xúc với cơ quan Công an, sợ thủ tục
phiền hà, đi lại nhiều lần, tốn kém, mất thời gian. Đó là do người bị hại nhận thức
chưa đúng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, và là do sự lơ là, chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm của một số
cán bộ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm của quần chúng nhân dân, gây
phiền hà, làm mất lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Mặt khác, do nhận thức chưa
đầy đủ của một bộ phận quần chúng nhân dân nên những vụ cướp giật tài sản mà
thiệt hại gây ra không đáng kể, người bị hại thường không khai báo. Những trường
36
hợp này, người bị hại thường có suy nghĩ nếu báo cho cơ quan Công an thì cũng
không được giải quyết, họ không tin vào khả năng tìm ra người phạm tội và tìm lại
được tài sản cho mình.
Thứ hai, các đối tượng thực hiện tội cướp giật tài sản có thủ đoạn gây án tinh
vi, có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ, thống nhất, chuẩn bị trước, tạo ra những
điều kiện, khả năng che giấu tội phạm, và tạo ra những trở ngại để tránh sự phát
hiện của cơ quan chức năng. Do đó, nhiều đối tượng phạm tội trước khi bị bắt
thường đã thực hiện rất nhiều vụ cướp giật tài sản khác mà không bị cơ quan chức
năng phát hiện, không bị tố giác, bắt giữ.
Thứ ba, bên cạnh những yếu tố tích cực từ hoạt động đấu tranh phòng, chống
tội cướp giật tài sản, tội phạm ẩn còn xuất phát từ chính các chủ thể có thẩm quyền
trong tiếp nhận thông tin tố giác tội phạm và giải quyết vụ án hình sự. Các cơ quan
này vẫn còn những biểu hiện lúng túng, thiếu tính chủ động trong tấn công tội
phạm, bị động trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Sự chủ quan, yếu kém trong
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật là một trong các nguyên nhân dẫn đến
phần ẩn của tội cướp giật tài sản cao. Các vụ phạm tội được phát hiện chủ yếu là
nhờ nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân tố giác.
Thứ tư, một số hành vi phạm tội và người phạm tội đã bị xử lý về hình sự
nhưng không nằm trong thống kê hình sự bởi quy định của pháp luật hiện hành về
thống kê hình sự, theo đó đối với trường hợp phạm nhiều tội và bị đưa ra xét xử
cùng một lúc thì khi thống kê chỉ cần thống kê vụ án có tội danh nặng nhất. Ngoài
ra, kỹ thuật thống kê còn bị động, nhiều địa phương, cơ quan không đưa một số vụ
án vào số liệu thống kê hoặc do sai sót của cán bộ thống kê.
2.1.2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ năm
2016 đến năm 2020, tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn tăng, giảm không theo
quy luật, nhưng nhìn chung có xu hướng giảm trong các năm về sau (cả về số vụ và
số đối tượng phạm tội). Nếu lấy năm 2016 làm mốc để so sánh thì năm 2017 tăng 03
vụ, năm 2018 bằng số vụ, năm 2019 giảm 02 vụ, năm 2020 giảm 15 vụ.
37
Như vậy, trong những năm gần đây tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đang có xu hướng giảm nhưng không bền vững, xuất phát
từ những lý do sau:
Trong những năm qua thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thành
phố Đà Nẵng đã vượt qua được nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành
tựu to lớn, bộ mặt thành phố thay đổi rõ rệt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiệt và không ngừng nâng cao. Công an thành phố đã ban hành nhiều
chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc các
quy định của Bộ Công an, Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố
liên quan đến công tác tuần tra, phòng chống tội phạm cướp giật tài sản, duy trì chế
độ thông tin liên lạc giữa các lực lượng trong suốt quá trình hoạt động, đảm bảo mọi
thông tin được truyền tải về Trung tâm chỉ huy của Công an thành phố. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực mang lại thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng làm cho tội phạm phát sinh, tình hình tội phạm phức tạp, trong đó có tình hình
tội cướp giật tài sản.
Thành phố Đà Nẵng với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của khu
vực Miền trung – Tây nguyên, có nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp và khu công
nghệ cao đã thu hút một số lượng lớn nguồn nhân lực, nguồn lao động từ nông thôn
tập trung về các thành phố lớn, và từ các khu vực khác về Đà Nẵng đã tạo ra nhiều
áp lực về giải quyết việc làm, chỗ ở, điều kiện sinh hoạt... cho người dân. Cơ cấu
dân cư đa dạng, phức tạp, cùng với chính sách giải quyết việc làm cho người đang
trong độ tuổi lao động còn hạn chế dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng nhiều.
Vì vậy, các hiện tượng xã hội tiêu cực kết hợp với tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm cũng là một trong những nguyên nhân khiến tình hình tội cướp giật tài sản có
chiều hướng gia tăng trong những năm tới.
Đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác phòng ngừa tội phạm cướp giật
tài sản những năm gần đây có thay đổi về mô hình tổ chức nhưng vẫn được duy trì
theo chức năng của lực lượng Cảnh sát Hình sự, được bố trí chỉ huy, cán bộ được
đào tạo bài bản, qua trường lớp, có chiều sâu về nghiệp vụ phòng chống tội phạm
nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng. Bên cạnh đó biên chế lực lượng
38
chuyên trách vẫn còn thiếu, công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự trong một
số lĩnh vực, nhất là công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu còn sơ hở, đặc biệt là
những khu vực gần các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, những
khu vực tập trung nhiều dân nhập cư, tập trung nhiều nhà hàng, khu vui chơi giải trí,
khu vực giáp ranh... đã tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm pháp sinh, phát triển,
đặc biệt là tội cướp giật tài sản [5].
2.1.2.3. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020
- Cơ cấu trong tương quan với tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020, tỷ trọng tội cướp giật tài sản chiếm
tỷ lệ không cao, cụ thể: Từ năm 2016 đến năm 2020, trong tổng số 2447 vụ phạm
pháp hình sự, có 151 vụ án cướp giật tài sản, chiếm tỷ lệ 06,17% [Xem bảng 2.3 –
Phụ lục]. Có thể khẳng định, mặc dù chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số các vụ
phạm pháp hình sự, nhưng tình hình tội phạm cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng những năm qua lại gây ra nhiều hậu quả và hệ lụy xấu trên
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, tạo ra trạng thái tâm lý căm phẫn, bất
bình và lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến các giá trị truyền
thống, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Cơ cấu tình hình tội phạm cướp giật tài sản theo đơn vị hành chính cấp
quận, huyện của thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, số vụ án
cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chủ yếu tập trung vào một
số quận, huyện như: Hải Châu (chiếm 21,8%), Thanh Khê (chiếm 15,5%), Sơn Trà
(chiếm 21,8%), Ngũ Hành Sơn (chiếm 17,3%) [xem bảng 2.4 – Phụ lục]. Sở dĩ có
tình trạng này là do đây đều là những địa bàn trung tâm, tập trung đông dân cư, hoạt
động buôn bán sầm uất, tập trung nhiều khách du lịch, có nhiều tụ điểm về tệ nạn xã
hội, tiềm ẩn nhiều nhân tố và nguy cơ làm phát sinh tội cướp giật tài sản.
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo thủ đoạn phạm tội. Thủ đoạn phạm tội là cách thức
hành động mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Cướp giật tài
39
sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý một cách
công khai. Đây là trường hợp đối tượng thực hiện hành vi phạm tội một cách công
khai. Do đó, để tránh bị truy đuổi, bắt giữ các đối tượng thường thực hiện hành vi
phạm tội với các thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt, manh động để đạt được mục đích.
Người phạm tội cướp giật tài sản thường có sự chuẩn bị trước khi gây án,
như: Chuẩn bị phương tiện để đi gây án; lựa chọn “con mồi” để chiếm đoạt tài sản;
thăm dò, quan sát địa điểm, điều kiện giao thông ở những nơi sẽ gây án; quan sát và
xác định tài sản sẽ chiếm đoạt; bàn bạc kế hoạch phân công đối tượng chính giật tài
sản và các đối tượng có nhiệm vụ cản địa. Thủ đoạn phạm tội của người phạm tội
rất đa dạng, có thể kể đến một số thủ đoạn phổ biến sau:
+ Thủ đoạn hai đối tượng đi trên một xe gắn máy đi trên đường khi phát hiện
“con mồi” vừa chạy xe vừa nghe điện thoại, có dây chuyền vàng, móc túi trên ghi
đông, tay lái của xe... sơ hở trong quản lý tài sản sẽ theo dõi đến khu vực vắng
người hoặc đến nơi thuận lợi người điều khiển sẽ áp sát để người ngồi sau giật tài
sản rồi rồ ga bỏ chạy. Điển hình: Lúc 20h45, ngày 17/02/2020 chị Yim Jae Kyung,
sinh năm 1976, quốc tịch Hàn Quốc, trú tại P502 căn hộ Happy Home, số 14 An
Nhơn 15, phường An Hải Bắc, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng khi đang đi
trên đường Dương Đình Nghệ giao với đường An Nhơn 1 thì bị hai thanh niên
(không rõ lai lịch đi xe máy từ phía sau dùng vật cứng đập vào đầu, đẩy ngã xuống
đường, sau đó 01 thanh niên giật túi xách và bỏ chạy. Tài sản bị mất gồm: 01 túi
xách hiệu Luis bên trong có 60USD, 6,8 triệu đồng và một số mỹ phẩm (tổng tài
sản trị giá 11,5 triệu đồng). Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Ngũ Hành Sơn đã
tiến hành điều tra, truy xét xác định 02 đối tượng nghi vấn là Trần Văn Tiên (Sinh
năm: 1998; hộ khẩu thường trú: Thôn 3, Xã Tiên Ngọc, Huyện Tiên Phước, Tỉnh
Quảng Nam) và Lê Văn Hưng (sinh năm: 1998; hộ khẩu thường trú: Thôn 3, Xã
Tiên Ngọc, Huyện Tiên Phước, Tỉnh Quảng Nam) nên tiến hành triệu tập về làm
việc. Qua công tác đấu tranh, 02 đối tượng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
+ Nhóm đối tượng có nhiều người hoặc 2 xe trở lên, có sự bàn bạc, thống
nhất phân công đối tượng trực tiếp giật tài sản và đối tượng khác làm cản địa. Ngay
sau khi đối tượng được phân công giật tài sản của nạn nhân, các đối tượng có nhiệm
40
vụ cản địa sẽ vờ như hỏi han nạn nhân để làm phân tán sự chú ý của nạn nhân và
những người xung quanh hoặc giả đuổi theo để ngăn chặn người khác truy đuổi tạo
điều kiện cho đồng bọn trốn chạy. Điển hình: khoảng 19h00 ngày 23/9/2020, Lê
Phú Hoài Nam (sinh năm: 1991, hộ khẩu thường trú: Tổ 27, phường Vĩnh Trung,
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) điều khiển xe Exciter, số khung: 005629, số
máy: 005637 đã thay màu sơn và biển số chở theo Phan Xuân Kha (sinh năm: 1997,
hộ khẩu thường trú: Tổ 63, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng) và Trần Đình Trung (sinh năm: 1991, hộ khẩu thường trú: Tổ 34, phường
Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) đi cướp giật tài sản. Khi đi trên
đường Nam Trân, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Trung phát hiện phía trước
có bà Châu thị Kiều Thanh (sinh năm: 1963, thường trú: Tổ 34, phường Thanh Khê
Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) đang đi phía trước, trên cổ có đeo sợi
dây chuyền màu vàng, lợi dụng đoạn vắng người, Trung ra hiệu cho Nam và Kha
rồi tiếp cận giả vờ hỏi đường, trong lúc bà Thanh không để ý, Nam và Kha tiếp cận
lại gần phía bên kia và dùng tay giật sợi dây chuyền trên cổ bà Thanh. Sau đó cả
qua nhanh chóng điều khiển xe tốc độ cao tẩu thoát. Qua truy xét, Đội Cảnh sát hình
sự Công an quận Liên Chiểu đã đấu tranh làm rõ, toàn bộ các đối tượng trên đã khai
nhận hành vi phạm tội. Ngoài ra, Nam và Kha còn khai nhận đã thực hiện trót, lót
28 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nạn nhân chủ yếu là phụ
nữ, trẻ em.
+ Đối tượng dùng thủ đoạn giả là khách mua hàng (tạp hóa, điện thoại, các
cơ sở kinh doanh ...) lợi dụng sơ hở của người bán hàng, cướp giật rồi bỏ chạy.
Điển hình: Khoảng 16h00, ngày 28/5/2019, hai thanh niên đi xe máy hiệu Air Blade
màu đỏ, không có biển số đi trên đường Phan Châu Chinh, quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng, khi đến cửa hàng điện thoại di động Nhật Vũ, địa chỉ 267 Phan Châu
Trinh, một đối tượng ngồi sau bước xuống đi vào trong cửa hàng giả vờ mua hàng,
đối tượng còn lại ngồi ngoài xe đợi sẵn, khi đang xem chiếc điện thoại Iphone 6 thì
bất ngờ đối tượng cướp giật bỏ chạy ra ngoài và nhảy lên xe chờ sẵn và nhanh
chóng tẩu thoát. Vụ việc, Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Hải Châu thụ lý.
Như vậy, làm rõ được thủ đoạn của các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản
41
không chỉ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc xác định các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà nó còn là cơ sở để các cơ quan có thẩm
quyền xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trong thời
gian tới.
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo công cụ, phương tiện phạm tội. Nghiên cứu 35 bản
án hình sự sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm
2016 đến năm 2020 cho thấy, có 31 vụ (chiếm tỷ lệ 88,6%) đối tượng sử dụng
phương tiện là xe mô tô phân khối lớn, xe gắn máy để thực hiện tội phạm và chỉ có
04 vụ (chiếm tỷ lệ 11,4%) đối tượng đi bộ hoặc sử dụng phương tiện khác để thực
hiện tội phạm. Như vậy, từ các kết quả nghiên cứu như trên có thể khẳng định xe
mô tô, gắn máy là phương tiện chủ yếu được các đối tượng sử dụng khi thực hiện
tội phạm, đây là đặc điểm đặc trưng của tội cướp giật tài sản so với các tội xâm
phạm sở hữu khác. Xác định rõ công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng để
thực hiện tội phạm sẽ cho chúng ta thấy được thủ đoạn, tính chất, mức độ và hậu
quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo thời gian và địa điểm gây án. Nghiên cứu tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy,
hành vi phạm tội cướp giật tài sản xảy ra nhiều nhất là trong khoảng thời gian từ
18h00 đến 24h00 với 73 vụ, chiếm tỷ lệ 48,3% tổng số vụ cướp giật tài sản, từ
06h00 đến 18h00 với 45 vụ, chiếm tỷ lệ 29,8% tổng số vụ cướp giật tài sản và
khoảng thời gian từ 00h00 đến 06h00 là khoảng thời gian mà tội cướp giật tài sản
ít xảy ra nhất với với 33 vụ, chiếm tỷ lệ 21,8% tổng số vụ cướp giật tài sản [xem
bảng 2.5 – Phụ lục]. Tội cướp giật tài sản xảy ra nhiều trong khoảng thời gian từ
18h00 đến 24h00 đặc biệt là thời gian từ 18h00 đến 21h00 đây có thể coi là các
khung “giờ vàng” của các đối tượng vì đây là thời gian tan tầm, mọi người tất bật
với việc tranh thủ đón con, cháu và lo việc nhà nên không cẩn thận trong việc bảo
quản tài sản, đây cũng là thời điểm các phương tiện tham gia giao thông đông, dễ
tạo điều kiện cho các đối tượng phạm tội nhanh chóng tẩu thoát, trốn tránh sự truy
42
đuổi của mọi người.
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo hình thức phạm tội. Trong tổng số 35 bản án hình
sự sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến
năm 2020 cho thấy, có 23 vụ án được thực hiện bằng hình thức có đồng phạm,
chiếm tỷ lệ 65,7%; 12 vụ án được thực hiện bằng hình thức một mình không có
đồng phạm, chiếm tỷ lệ 34,3%. Như vậy, số vụ án được thực hiện bằng hình thức
đồng phạm chiếm tỷ lệ rất lớn (65,7%), điều này cũng phù hợp với xu hướng chung
hiện nay là tội phạm hoạt động có tổ chức với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và
thường liên kết lại với nhau thành các băng nhóm, có tính chất chuyên nghiệp. Do
đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa,
quản lý, ngăn chặn kịp thời không để người phạm tội tìm đến và liên kết với nhau
hình thành lên các băng, ổ, nhóm để thực hiện hành vi cướp giật tài sản.
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo loại tài sản bị cướp giật. Nghiên cứu về tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, có
47 vụ đối tượng cướp giật tài sản là túi xách (chiếm tỷ lệ 31,1%), 24 vụ tài sản bị
cướp giật là điện thoại di động (chiếm tỷ lệ 15,6%), 43 vụ tài sản bị cướp giật là dây
chuyền vàng (chiếm tỷ lệ 28,4%); 15 vụ tài sản bị cướp giật là laptop, Ipad, máy ảnh
(chiếm tỷ lệ 10%), 22 vụ là các loại tài sản khác (chiếm tỷ lệ 14,5%) [Xem bảng 2.6 –
Phụ lục]. Như vậy, tài sản bị cướp giật chủ yếu là các loại tài sản có giá trị cao, nhỏ
gọn, dễ lấy, dễ cất giấu và tiêu thụ như dây chuyền, bông tai , tiền, điện thoại di động,
ipad...
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo đặc điểm nhân thân người phạm tội
+ Xét theo đặc điểm giới tính của người phạm tội
Khảo sát 51 bị cáo trong tổng số 35 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng thì có tới 49 bị cáo là nam giới, chiếm tỷ lệ 96%; 12 đối tượng ngoại
tỉnh, chiếm 23,5%; 02 bị cáo là nữ giới, chiếm tỷ lệ 04%. Các đối tượng tham gia
cướp giật tài sản ở đây chủ yếu là nam giới bởi mang tính chất manh động, liều lĩnh,
43
khả năng xử lý tình huống tốt, chống trả quyết liệt..., một số ít nữ giới tham gia
cướp giật chủ yếu ngồi sau và thực hiện việc cướp giật tài sản người đi đường.
+ Xét theo đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội
Phân tích 51 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng cho thấy, độ tuổi của người phạm tội cướp giật tài sản
chiếm tỷ lệ cao nhất là độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi với 32 bị cáo, chiếm tỷ lệ 62,7%,
tiếp theo là trên 30 tuổi với 14 bị cáo, chiếm tỷ lệ 27,5%, dưới 18 tuổi với 05 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 9,8%.
+ Xét theo đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của người phạm tội
Nghiên cứu 51 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản nhận thấy số đối tượng
không có nghề nghiệp hoặc có nghề nghiệp nhưng không ổn định (ví dụ như nghề:
Phụ hồ, chạy xe ba gác... những người làm nghề này khi có việc thì được các chủ
thầu thuê làm, khi làm xong việc thì lại ở nhà chờ người khác thuê) có 46 đối tượng,
chiếm tỷ lệ 90,1%; 05 đối tượng có nghề nghiệp ổn định (cá biệt người phạm tội là
học sinh, sinh viên), chiếm tỷ lệ 9,9%.
+ Xét theo đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội
Khảo sát 51 bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, về quan hệ gia đình: Có
31 bị cáo chưa kết hôn, chiếm tỷ lệ 60,8%; 20 bị cáo đã kết hôn, chiếm tỷ lệ 39,2%,
trong đó 08 bị cáo đã ly hôn, chiếm tỷ lệ 15,7%. Số liệu này cho thấy phần lớn
những người phạm tội cướp giật tài sản ở thành phố Đà Nẵng là những người chưa
kết hôn. Điều này cũng phù hợp với cơ cấu về độ tuổi là đa số người phạm tội nằm
trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 62,7%).
+ Xét theo đặc điểm về động cơ và mục đích phạm tội
Nghiên cứu động cơ, mục đích phạm tội của người cướp giật tài sản không
chỉ góp phần làm rõ được nguyên nhân mà họ thực hiện tội phạm mà còn giúp cho
việc đánh giá một cách chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nếu động cơ phạm tội càng mãnh liệt, mục đích phạm tội càng rõ ràng
thì tính chất của tội phạm càng nguy hiểm và hậu quả của tội phạm càng nghiêm
trọng. Động cơ, mục đích phạm tội thể hiện trạng thái tâm lý của người phạm tội
44
đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Động cơ phạm tội là
động lực bên trong được quyết định bởi các nhu cầu và lợi ích đã được nhận thức
thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Mục đích là quan niệm của người
phạm tội về những thay đổi trong thế giới khách quan mà người đó muốn đạt được
bằng việc thực hiện tội phạm. Kết quả nghiên cứu 35 vụ án cướp giật tài sản được
lựa chọn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với 51 bị cáo thì có 41 bị cáo phạm tội với
động cơ vụ lợi nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu cá nhân, như: Có tiền để chơi
games, mua ma túy để sử dụng, chiếm tỷ lệ 80,4%; 10 bị cáo, chiếm tỷ lệ 19,6%
phạm tội do động cơ khác, như: Động cơ cá nhân, động cơ côn đồ, thích nổi trội.
Việc xác định động cơ, mục đích phạm tội giúp cho chúng ta phân loại theo từng
nhóm đối tượng và xác định được các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả với từng
nhóm đối tượng cụ thể đó.
+ Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng đối với những người phạm tội lần đầu hay tái phạm là cơ sở để xác
định tính chất, mức độ chống đối pháp luật của người phạm tội. Thông qua đó có
những biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng loại đối tượng. Khảo sát 51 bị cáo
phạm tội cướp giật tài sản thì số người phạm tội lần đầu là 17 bị cáo, chiếm tỷ lệ
33,3%; số người tái phạm là 34 bị cáo, chiếm tỷ lệ 66,7%.. Thực tế này đặt ra cho
chúng ta khi xây dựng kế hoạch phòng ngừa phải tính đến việc mở rộng diện đối tượng
quản lý giám sát. Điều này có nghĩa là ngoài việc quản lý giám sát những người có tiền
án, tiền sự về tội cướp giật tài sản, còn phải tập trung phát hiện, quản lý, giáo dục
những đối tượng hình sự khác trên địa bàn, phải có biện pháp giáo dục, cải tạo tốt để
tránh trường hợp sau khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt lại tái phạm.
- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020 theo đặc điểm nhân thân của nạn nhân. Nghiên cứu 35
bản án, có 83 nạn nhân trong đó 57 người là nữ giới, chiếm tỷ lệ 68,7%, 26 người là
nam giới, chiếm tỷ lệ 31,3%. Có 89% nạn nhân là người mang quốc tịch Việt Nam
và 11% nạn nhân là người nước ngoài. Như vậy, có thể khẳng định nạn nhân của tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chủ yếu là nữ giới đang đi xe hoặc
đi bộ trên đường có mang theo tài sản nhưng lại sơ hở trong quản lý. Số nạn nhân là
45
người nước ngoài tương đối cao (chiếm tỷ lệ 11%), chủ yếu là khách du lịch đến
thành phố Đà Nẵng để tham quan, du lịch và làm việc. Đây là một vấn đề không chỉ
phản án tình hình an ninh trật tự của địa phương mà nó còn ảnh hưởng đến hình
ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Kết quả trên cho chúng ta thấy công
tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn được quan tâm nhưng
còn nhiều sơ hở, thiếu sót khiến người phạm tội có thể lợi dụng để thực hiện hành vi
cướp giật tài sản và che giấu hành vi phạm tội của mình. Thông qua đặc điểm trên
giúp cho cơ quan có thẩm quyền xây dựng được các biện pháp quản lý, giáo dục,
tuyên truyền hiệu quả để người dân tránh đưa mình vào tình huống trở thành nạn
nhân của tội cướp giật tài sản.
2.1.2.4. Tính chất của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020
Trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, tội cướp giật tài
sản chỉ đứng thứ hai sau tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Điều
này cũng cho thấy phần nào mức độ nghiêm trọng của tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Qua khảo sát 35 vụ án cướp giật tài sản với 51 bị cáo được đưa ra xét xử sơ
thẩm cho thấy, có 31 vụ (chiếm tỷ lệ 88,6%) các đối tượng sử dụng xe gắn máy làm
phương tiện để phạm tội, người phạm tội thường lựa chọn “con mồi” vừa chạy xe
vừa nghe điện thoại, đeo vòng vàng, dây chuyền, bông tai, túi xách có giá trị nhưng
lại sơ hở trong quản lý để nhanh chóng áp sát giật tài sản rồi tẩu thoát.Tính nguy
hiểm của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn thể hiện
ở chỗ, nó không chỉ gây ra thiệt hại về tài sản mà còn gây thiệt hại đến tính mạng,
sức khỏe của người khác. Nhiều vụ án do nạn nhân bị bất ngờ, bị các đối tượng tác
động lên cơ thể, lên phương tiện đã không làm chủ được tay lái dẫn đến thương tích
cho người khác và cho chính bản thân mình, thậm chí có trường hợp dẫn đến tử
vong.
Qua trao đổi với một số cán bộ điều tra, trinh sát của Phòng Cảnh sát hình sự
Công an thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy đa số các đối
tượng phạm tội đều coi thường pháp luật, rất liều lĩnh và táo bạo khi thực hiện hành
46
vi cướp giật tài sản, có 73 vụ, chiếm tỷ lệ 48,3% tổng số vụ cướp giật tài sản xảy ra
trong khoảng thời gian từ 18h00 đến 24h00, đặc biệt là từ 18h00 đến 21h30, đây là
những khung giờ mà các tuyến đường chính trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có mật
độ người và lưu lượng xe tham gia giao thông rất lớn. Táo bạo hơn có trường hợp
người phạm tội còn xông hẳn vào nhà nạn nhân để cướp giật tài sản.
Đa số các hành vi phạm tội cướp giật tài sản thường được người phạm tội
chuẩn bị trước khi gây án, như: Chuẩn bị phương tiện để đi gây án; lựa chọn “con
mồi” để chiếm đoạt tài sản; thăm dò, quan sát địa điểm, điều kiện giao thông ở
những nơi sẽ gây án; quan sát và xác định tài sản sẽ chiếm đoạt; bàn bạc kế hoạch
phân công đối tượng chính giật tài sản và các đối tượng có nhiệm vụ cản địa. Thủ
đoạn che dấu hành vi phạm tội của người phạm tội cũng ngày càng tinh vi hơn, như:
Tháo biển số xe, lắp biển số giả, dùng băng keo để che biển số, chuẩn bị ớt bột,
gạch, đá... để trốn tránh hoặc ngăn cản sự truy bắt của nạn nhân hoặc của người
khác. Điều này cho thấy, tính chất của tình hình tội cướp giật tài sản ngày càng
nguy hiểm hơn.
Tính chất nguy hiểm của tình hình tội cướp giật tài sản còn được phản ánh
thông qua nhu cầu, sở thích, thói quen của người phạm tội. Đa số người phạm tội
cướp giật tài sản là những người nghiện chơi games, nghiện ma túy, rất manh động
thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản để có tiền tiêu sài, thỏa mãn các nhu
cầu, thói quen chơi bời, hưởng thụ của mình.
2.1.3. Thực trạng tổ chức lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến
năm 2020
Thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự năm 2015; Luật Công an nhân dân năm 2018; Nghị định số 01/2018/NĐ-CP
ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an; Thông tư số 56/2017/TT-BCA ngày 16 tháng 11
năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về phân công Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra hình sự trong Công an nhân dân và
các đội điều tra thuộc Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện; Thông tư số 26/2018/TT-
47
BCA ngày 10 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư số 56/2017/TT-BCA ngày 16 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng
Bộ Công an quy định về phân công Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
thẩm quyền điều tra hình sự trong Công an nhân dân và các đội điều tra thuộc Cơ
quan CSĐT Công an cấp huyện; Quyết định số 2408/2019/QĐ-BCA (X01) ngày
09/4/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ
cấu tổ chức của Phòng Cảnh sát hình sự Công an cấp tỉnh; Quyết định số
25007/2019/QĐ-BCA (X01) ngày 27/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Đội Cảnh sát hình sự Công an
cấp huyện, Công an thành phố Đà Nẵng đã tổ chức triển khai công tác tổ chức và
thực hiện các quy định về công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Theo
đó, chủ thể chuyên trách trực tiếp tiến hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là lực lượng Cảnh sát hình sự.
Trong lực lượng này có 2 bộ phận tiến hành hoạt động phòng ngừa và điều tra tội
phạm cướp giật tài sản đó là lực lượng Điều tra viên và Trinh sát viên. Hiện nay, lực
lượng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Đà Nẵng được tổ chức theo mô hình mới
gồm có hai cấp: Cấp tỉnh và cấp huyện. Cấp tỉnh có Phòng Cảnh sát hình sự và cấp
huyện có Đội Cảnh sát hình sự. Ngoài ra, cấp Công an phường, xã cũng có tổ hình
sự chuyên tiếp nhận, xử lý thông tin ban đầu và truy xét các vụ việc có tính chất đơn
giản, hậu quả thiệt hại không cao.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, lực lượng Cảnh sát hình sự
có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Tổ chức công tác nắm tình hình hoạt động của tội
phạm, công tác phòng ngừa, điều tra, khám phá, bắt giam giữ, xử lý tội phạm về trật
tự xã hội; đề xuất chủ trương, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, điều tra, xử lý đối
với từng loại tội phạm theo quy định của pháp luật để cấp có thẩm quyền quyết định
và tổ chức thực hiện các quyết định đó. Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn và
trực tiếp tiến hành công tác nghiệp vụ cơ bản: Điều tra cơ bản, sưu tra và xác minh
hiềm nghi, công tác xây dựng và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án,
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về trật tự xã hội theo quy định
của pháp luật và Bộ trưởng Bộ Công an. Tiến hành điều tra những vụ án hình sự về
48
những tội phạm theo thẩm quyền mà pháp luật quy định. Chủ trì việc tổ chức điều
tra tại hiện trường các vụ án về trật tự xã hội theo quy định. Tổ chức việc truy tìm
tung tích nạn nhân, vật chứng, ra quyết định truy nã và truy bắt người phạm tội về
trật tự xã hội và kiểm tra, đôn đốc, theo dõi kết quả thực hiện công tác truy nã theo
quy định. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ đối với lực lượng Cảnh sát hình
sự Công an cấp dưới tham gia công tác quản lý các đối tượng về trật tự xã hội bị
quản chế, cấm cư trú, cư trú bắt buộc, cải tạo không giam giữ, người bị phạt tù cho
hưởng án treo cư trú tại địa bàn dân cư và tham gia lập hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ
sở giáo dục, Trường giáo dưỡng, thực hiện công tác xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực trật tự xã hội theo quy định. Thông qua công tác đấu tranh chống tội
phạm về trật tự xã hội phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm để đề
xuất, kiến nghị với các ngành chủ quản, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có kế
hoạch chấn chỉnh kịp thời để phòng ngừa, đấu tranh đạt hiệu quả cao. Tổ chức sơ
kết, tổng kết công tác, đề xuất các chế độ và quy trình công tác, cải tiến chế độ làm
việc và phương pháp công tác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, chiến
đấu, góp phần xây dựng lý luận, nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát hình sự. Đề xuất
nội dung, chương trình, biên soạn giáo trình, bài giảng tập huấn nghiệp vụ cho lực
lượng Cảnh sát hình sự ở địa phương. Thực hiện công tác xây dựng lực lượng, hậu
cần của đơn vị theo quy định. Thực hiện những nhiệm vụ khác thuộc chức năng của
lực lượng Cảnh sát hình sự do Bộ trưởng Bộ Công an giao.
Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Đà Nẵng thực hiện nhiệm vụ tổ
chức phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố và điều tra khám phá các tội
phạm hình sự nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng; Đội Cảnh sát hình
sự ở cấp huyện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phòng ngừa và điều tra tội phạm
thuộc thẩm quyền mà BLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự
năm 2015 đã quy định. Các lực lượng khác thuộc Công an thành phố Đà Nẵng như:
Cảnh sát giao thông, kỹ thuật hình sự, Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Cảnh
sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự, an toàn xã hội chỉ giữ vai trò phối hợp theo yêu cầu của lực lượng Cảnh
sát hình sự. Như vậy, lực lượng Cảnh sát hình sự giữ vai trò chính, cốt yếu trong
49
việc duy trì và tổ chức mối quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản.
Từ khi được thành lập đến nay, lực lượng Cảnh sát hình sự Công an thành
phố Đà Nẵng luôn được quan tâm xây dựng và củng cố về mọi mặt nhằm đảm bảo
phục vụ có hiệu quả cho công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm hình sự.
Trong 05 năm qua (từ năm 2016 đến năm 2020), biên chế của lực lượng Cảnh sát
hình sự có sự thay đổi, điều chuyển công tác để phù hợp với tình hình thực tế và yêu
cầu thực tiễn đặt ra. Trước tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật
tài sản nói riêng có những diễn biến phức tạp, Thành ủy thành phố Đà Nẵng đã có
sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên đến công tác phòng, chống tình hình tội
cướp giật tài sản. Theo số liệu thống kê của Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành
phố Đà Nẵng, tính đến ngày 20/11/2020 biên chế của lực lượng Cảnh sát hình sự
Công an thành phố Đà Nẵng có 335 cán bộ chiến sĩ, trong đó Phòng Cảnh sát hình
sự có 93 đồng chí, các Đội Cảnh sát hình sự Công an quận, huyện có 242 đồng chí.
Trong đó, tình hình biên chế lực lượng trực tiếp tiến hành đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm cướp giật tài sản được thể hiện như sau: Lực lượng Cảnh sát hình
sự Công an các quận, huyện có 74 đồng chí; Đội Phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm trên tuyến, địa bàn có 30 đồng chí. Phân tích cụ thể:
Về trình độ văn hóa: Cao học có 17 đồng chí, chiếm tỷ lệ 5,07%; Đại học có
217 đồng chí, chiếm tỷ lệ 64,8%; Cao đẳng, Trung cấp có 101 đồng chí, chiếm tỷ lệ
30,1%.
Về trình độ nghiệp vụ: Cao học có 17 đồng chí, chiếm tỷ lệ 5,07%; Đại học
có 217 đồng chí, chiếm tỷ lệ 64,8%; Cao đẳng, Trung cấp có 101 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 30,1%.
Về trình độ chính trị: Cao cấp có 05 đồng chí, chiếm tỷ lệ 1,5%; Trung cấp
có 212 đồng chí, chiếm tỷ lệ 63,3%; Sơ cấp có 103 đồng chí, chiếm tỷ lệ 30,3%.
Ngoài ra, trong tổng số 335 cán bộ chiến sĩ có 05 Điều tra viên cao cấp,
chiếm tỷ lệ 1,5%; 29 Điều tra viên trung cấp, chiếm tỷ lệ 8,65%; 35 Điều tra viên sơ
cấp, chiếm tỷ lệ 10,4%; 27 Cán bộ điều tra, chiếm tỷ lệ 8,05%; Trinh sát viên trung
cấp có 37 đồng chí, chiếm tỷ lệ 11,04%; Trinh sát viên sơ cấp có 42 đồng chí,
50
chiếm tỷ lệ 12,53%; Cán bộ trinh sát có 117 đồng chí, chiếm tỷ lệ 34,92%.
Thực tiễn cho thấy, ở các quận, huyện thì Đội Cảnh sát hình sự được chia
làm 4 tổ: Tổ Cảnh sát hình sự đặc nhiệm, Tổ Trinh sát địa bàn, Tổ Điều tra truy xét
và Tổ Điều tra tố tụng. Trong đó: Tổ Trinh sát địa bàn hỗ trợ việc nắm đối tượng,
quản lý địa bàn; Tổ Điều tra truy xét hỗ trợ việc củng cố chứng cứ, chuyển hóa tài
liệu trinh sát thành chứng cứ, theo các vụ án, chuyên án với thời gian dài; Tổ Điều
tra tố tụng tiến hành việc khởi tố và truy tố đối tượng trước pháp luật.
Trong những năm qua, biên chế lực lượng Cảnh sát hình sự Công an thành
phố Đà Nẵng trực tiếp tiến hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản tương đối ổn định, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao, mặc dù
vậy so với số vụ phạm pháp hình sự xảy ra hàng năm thì lực lượng hiện tại còn
thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của thực tế, một số cán bộ,
chiến sỹ chưa được đào tạo theo đúng chuyên ngành. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng, tâm lý, thái độ cho đội ngũ Điều tra viên và Trinh sát viên trực
tiếp tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản còn nhiều hạn chế. Tất cả
hạn chế nêu trên đã tạo ra những khó khăn nhất định đối với quá trình hiện thức
hóa vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
2.2. Thực trạng các hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
2.2.1. Công các tham mưu, hướng dẫn
Tham mưu cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chỉ đạo triển khai các chủ
trương, giải pháp quan trọng để đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn (trọng tâm là
Chỉ thị số 46 của Bộ Chính trị); triển khai thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày
05/01/2017, của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”; tiếp tục thực hiện hiệu quả các đề án,
kế hoạch của thành phố liên quan công tác đảm bảo an ninh trật tự, nhất là Đề án
chương trình “Thành phố 4 an”, Chương trình “5 không”, “3 có” v.v... trong đó quan
51
tâm các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội; huy động sự tham gia của các ban ngành,
đoàn thể tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản [5].
Tham mưu UBND thành phố ban hành, triển khai đến các cấp, các ngành Kế
hoạch 6782/KH-UBND ngày 29/8/2018 về triển khai thực hiện Đề án “Đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật
và phòng chống bạo lực gia đình, mua bán người”, Kế hoạch 6737/KH-UBND
ngày 28/8/2018 về triển khai thực hiện Đề án“Phòng chống tội phạm có tổ chức, tội
phạm xuyên quốc gia”; chỉ đạo thực hiện Quyết định số 4967/QĐ-UBND ngày
06/9/2017 của UBNDTP về việc "Phê duyệt Đề án Chuyển hóa địa bàn trọng điểm
phức tạp về trật tự, an toàn xã hội đến năm 2020"; qua đó, chọn ra 09 địa bàn trọng
điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội để thực hiện công tác chuyển hóa [5].
Tham mưu tổ chức thi công và hoàn thành Đề án Lắp đặt, hệ thống camera
giám sát an ninh, giao thông, trật tự, thi công, đưa vào khai thác, vận hành, sử dụng
1.802/1.802 camera (đạt 100%). Phối hợp với các sở, ngành, địa phương tuyên
truyền vận động các tổ chức, doanh nghiệp, nhân dân tự lắp đặt 30.481 camera giám
sát an ninh, trật tự tại trụ sở cơ quan, doanh nghiệp, các tổ dân phố, kiệt, hẻm, nhà
riêng, cửa hàng... với tổng mức kinh phí trên 13,6 tỷ đồng. Quá trình khai thác, sử
dụng, thông tin, dữ liệu thu được qua hệ thống camera giám sát đã góp phần hỗ trợ
đắc lực cho công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh xử lý tội phạm cướp giật tài
sản, đảm bảo an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông, đô thị trên địa bàn thành
phố.
Chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp trong công tác xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Thường xuyên phối hợp, hướng dẫn
các cơ quan, doanh nghiệp, trường học, tăng cường vận động nhân dân tích cực
tham gia phòng ngừa và trấn áp tội phạm cướp giật tài sản, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Thực hiện tốt công tác nắm tình hình nội bộ trong nhân dân, kịp thời phát hiện,
tham mưu giải quyết những bức xúc, không để xảy ra mâu thuẫn, khiếu kiện phức
tạp kéo dài [5].
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc
triển khai công tác xây dựng mô hình điểm phòng ngừa, quản lý, trợ giúp, giáo dục
52
người chưa thành niên vi phạm pháp luật dựa vào cộng đồng; Quyết định
138/1998/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm;
Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng
đến năm 2030; công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, cờ bạc; kế hoạch
phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản tại các địa bàn trọng
điểm và các chuyên đề khác của C02/BCA và Công an thành phố. Lực lượng Cảnh
sát hình sự Công an thành phố Đà Nẵng vừa trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện,
vừa làm tốt vai trò thường trực, theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc, chấn chỉnh,
chỉ đạo toàn lực lượng thuộc hệ tổ chức phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
cướp giật tài sản theo các chuyên đề, đề án.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu cho Giám đốc Công an thành phố
xây dựng, triển khai các văn bản chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ chức năng, Công an
các huyện, quận tăng cường công tác phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản; chỉ
đạo tập trung tấn công trấn áp tội phạm hình sự, ma túy, tệ nạn xã hội trong dịp tết
Nguyên đán; chỉ đạo thực hiện công tác lập hồ sơ đưa người vào Trường giáo dưỡng,
Cơ sở giáo dục bắt buộc theo Luật xử lý vi phạm hành chính; thông báo đến các ban
ngành, đoàn thể trong toàn thành phố về tình hình tội phạm cướp giật tài sản cũng
như vi phạm pháp luật, phương thức, thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản của các đối
tượng để phối hợp làm tốt công tác tuyền truyền, phòng ngừa hiệu quả. Đồng thời, rút
ra những thiếu sót, tồn tại, khó khăn vướng mắc, nguyên nhân phát sinh tội phạm
cướp giật tài sản để kịp thời tham mưu, chấn chỉnh khắc phục và chủ động phòng
ngừa, đấu tranh.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu cho Giám đốc, Thủ trưởng Cơ
quan Cảnh sát điều tra ban hành Quyết định thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tình
hình tội phạm có tổ chức của Công an thành phố và triển khai kế hoạch đấu tranh
phòng, chống tội phạm có tổ chức trên địa bàn toàn thành phố.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo
cáo, thống kê tình hình, kết quả công tác của Phòng Cảnh sát hình sự và lực lượng
thuộc hệ, báo cáo tình hình kết quả thực hiện các chuyên đề, đề án phòng, chống tội
53
phạm cướp giật tài sản thuộc chức năng được giao. Lực lượng Cảnh sát hình sự
tham mưu đề xuất các kế hoạch phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, nhất là các tội
phạm nguy hiểm (trong đó có tội phạm cướp giật tài sản), các tội phạm về ma túy,
các tệ nạn mại dâm; đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố ban hành 5 văn
bản về phòng ngừa tội phạm có liên quan đến phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản;
ban hành 13 văn bản về phòng ngừa, đấu tranh với các tệ nạn xã hội; đã tham mưu và
tổ chức nhiều phong trào, nhiều kế hoạch phòng chống tội phạm, mở các đợt cao
điểm tấn công, trấn áp tội phạm, đặc biệt là đối với các loại tội phạm có tổ chức, tội
phạm giết người, cướp giật tài sản cướp tài sản, hiếp dâm, tội phạm về ma tuý.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ động tham mưu cho Ban chỉ đạo 138
thực hiện vai trò điều hành, quán triệt những nội dung cơ bản trong Quyết định số
623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc
gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2030 đến
các ngành, các cấp tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể về mục đích ý nghĩa của
chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm,
thường xuyên của các đơn vị trong và ngoài ngành Công an mà đặc biệt là nhiệm vụ
của lực lượng Cảnh sát hình sự.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu phát triển mô hình liên kết xây
dựng “vùng giáp ranh an toàn”, được thực hiện khá phổ biến và có hiệu quả ở nhiều
nơi, góp phần xóa các “điểm đen” mà đối tượng phạm tội cướp giật tài sản thường
lợi dụng để gây án, lẩn trốn, nhất là vùng giáp ranh giữa các tỉnh, giữa các quận,
huyện và giữa các xã, phường [5].
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tích cực tham mưu cho các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương quan tâm thực hiện các chính sách xã hội, phát triển kinh
tế, văn hóa, giáo dục, giải quyết việc làm, bảo đảm công bằng xã hội. Tham mưu
cho Ủy ban nhân dân thành phố ban hành 8 văn bản về giải quyết việc làm cho
người lao động; phối hợp với các cơ quan đơn vị, chính quyền các cấp giải quyết
việc làm cho những người trong độ tuổi lao động. Tham mưu ký kết các nghị quyết
liên tịch giữa Công an - Quân đội; giữa Công an - Quân đội - Thanh niên - Công
54
nhân tạo ra sự phối hợp đồng bộ trong công tác bảo đảm an ninh trật tự. Chương
trình “ba giảm” (giảm phạm pháp hình sự, giảm tệ nạn mại dâm, giảm tệ nạn ma
tuý), Chương trình “năm không” (không có người mù chữ, không có người lang
thang xin ăn, không có hộ đói, không có người nghiện ma túy, không cướp của, giết
người) đã được nghiên cứu và triển khai thực hiện đạt kết quả tốt ở nhiều nơi trên
địa bàn thành phố.
2.2.2. Công tác tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tăng cường công tác tuyên truyền để người
dân nâng cao ý thức cảnh giác, hướng dẫn mọi người các phương thức tự bảo vệ
như: Hạn chế mang tài sản có giá trị theo người ra đường, hoặc đi qua khu vực hẻo
lánh; không vận chuyển tiền, vàng, bạc, đá quý trên đường nếu chưa có biện pháp
bảo quản chắc chắn; không tâm sự ở nơi vắng vẻ; các cơ sở, tiệm kinh doanh phải tổ
chức canh gác bảo vệ thường xuyên, phải trang bị hệ thống phương tiện quan sát,
báo động; cảnh giác trong tiếp xúc quan hệ với người lạ, với đối tượng xấu; bình
tĩnh xử lý giải quyết các va chạm, mâu thuẫn. Tổ chức trực ban và duy trì đường
dây nóng để tiếp nhận, xử lý tin báo, đề nghị giúp đỡ khẩn cấp của người dân.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân tập trung tổ chức phát động và duy trì phong
trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc; phối hợp với các ngành, các cấp xây dựng
các quy định nhằm thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân lao động trong lĩnh vực
bảo đảm trật tự an toàn xã hội; lập Hội đồng bảo vệ an ninh trật tự; lập quỹ bảo trợ
an ninh trật tự. Mô hình “tự phòng, tự quản, tự bảo vệ” đã được lực lượng Cảnh sát
nhân dân hướng dẫn cụ thể đến từng thôn xóm, từng hộ gia đình với mục tiêu: thôn
xóm, xã phường bình yên, gia đình hạnh phúc; xây dựng “các hộ tự phòng, nhà tự
quản”; “liên gia tự quản - an toàn”; “Công nhân tự quản”; “doanh nghiệp tự quản”...
Tăng cường phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Thường xuyên
tổ chức rà soát, đánh giá tình hình, hiệu quả hoạt động các mô hình phòng chống tội
phạm để củng cố, nhân rộng hoặc thay thế bằng các mô hình khác ưu việt hơn. Hiện
nay toàn thành phố đang quản lý, sử dụng 185 mô hình, trong đó có 24 mô hình mới
xây dựng [5].
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã triển khai làm tốt công tác vận động, tuyên
55
truyền toàn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản, đảm
bảo an ninh trật tự trong khu dân cư, tổ dân phố, doanh nghiệp, trường học với trên
3.786 lượt buổi tuyên truyền có hơn 86.500 lượt người dự; mở 92 lớp giáo dục pháp
luật cho số đối tượng hình sự, ma túy, thanh thiếu niên hư trên địa bàn với 4.721 đối
tượng tham gia; nhiều địa phương đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền với nhiều
biện pháp đa dạng, phong phú, huy động được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã duy trì phát động nhân dân vận động đối
tượng phạm tội ra tự thú; vận động nhân dân tham gia quản lý giáo dục, cảm hóa
người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư; thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, không buôn bán, sản
xuất, tàng trữ, sử dụng các chất ma túy; đấu tranh với các hành vi gây rối trật tự
công cộng, các tệ nạn xã hội; quản lý, giáo dục các đối tượng nghiện rượu, nghiện
hút, người chưa thành niên phạm pháp.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chú trọng tăng cường tuần tra kiểm soát, tổ
chức các biện pháp bảo vệ đối với các địa bàn trọng điểm; đã huấn luyện và hoạt
động có hiệu quả cho các đội dân phòng, tập trung tuần tra ở các địa bàn phức tạp
về an ninh trật tự, vào các thời điểm từ 22 giờ đến 5 giờ sáng hàng ngày. Những
biện pháp này thực tế có tác dụng triệt tiêu các sơ hở, ngăn ngừa các đối tượng có ý
định phạm tội, làm cho chúng thấy khó có thể thực hiện được hành vi phạm tội nói
chung, trong đó có tội cướp giật tài sản. Huy động được đông đảo lực lượng tham
gia như Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Công đoàn,
Hội cựu chiến binh, người có uy tín trong nhân dân, trong tôn giáo, họ tộc để giải
quyết các mâu thuẫn tại cộng đồng; đã giải quyết, hòa giải được phần lớn số vụ mâu
thuẫn, bất hòa trong nhân dân.
Công tác tuần tra kiểm soát theo Quyết định số 8394/QĐ-UBND tiếp tục
được duy trì hiệu quả, nghiêm túc ở 56/56 phường, xã trên địa bàn. Thông qua công
tác tuần tra, đã lồng ghép tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và nhắc nhở nhân dân
quản lý tài sản, nâng cao ý thức cảnh giác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội;
tích cực tham gia phát hiện và đấu tranh với tội phạm, ngăn chặn các vụ việc mâu
thuẫn trong nhân dân v.v… Trong năm 2019, đã tổ chức được 53.466 lượt tuần tra
với 269.994 lượt người tham gia. Qua đó, phát hiện và xử lý 284 vụ, 776 đối tượng
56
liên quan đến an ninh trật tự, cụ thể: 02 vụ đối tượng cướp giật tài sản, 27 vụ trộm
cắp tài sản; 04 vụ hủy hoại tài sản, 01 vụ chiếm đoạt tài sản; bắt giữ 02 vụ/03 đối
tượng chống người thi hành công vụ; 01 vụ/01 đối tượng xâm hại sức khỏe; 03 vụ
cố ý gây thương tích bắt giữ 06 vụ/07 đối tượng tàng trữ, mua bán trái phép chất ma
túy; 34 vụ/193 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy Bắt quả tang 187 vụ/576 đối
tượng đánh bạc trái phép; 01 vụ vận chuyển trái phép động vật hoang dã; 02 vụ/03
đối tượng tàng trữ vũ khí thô sơ, vật liệu nổ; ngăn chặn 08 vụ, 08 đối tượng có hành
vi bạo lực gia đình; 908 vụ đánh nhau, gây rối an ninh trật tự; giải quyết 1.633 vụ mâu
thuẫn trong nhân dân; giải tán 4.689 nhóm thanh thiếu niên tụ tập đêm khuya, uống
rượu bia nơi công cộng gây mất an ninh trật tự, cụ thể Nhắc nhở 1.708 trường hợp mở
nhạc quá lớn sau 22h đêm, 5.189 trường hợp hộ nhân dân không đóng cổng, cửa trước
khi ngủ; 1.252 hộ dân buôn bán dọc các tuyến đường để xe của khách lấn chiếm vỉa hè;
bảo vệ hiện trường 495 vụ tai nạn giao thông và 362 vụ va chạm giao thông; phát hiện,
tạm giữ 133 ô tô và xe máy vô chủ bàn giao Công an phường tiến hành xác minh trả lại
chủ sở hữu. Kịp thời biểu dương khen thưởng những gương điển hình tiên tiến trong
đấu tranh truy bắt tội phạm để thúc đẩy phong trào phát triển bền vững [5].
Để tăng cường hiệu quả phòng ngừa, nhất là kiểm soát, kiềm chế tội phạm,
vi phạm pháp luật, Công an thành phố đã triển khai và ra quân thực hiện Kế hoạch
911/KH-CATP-PTM, về tuần tra, chốt chặn kiểm soát chặt chẽ các tuyến, địa bàn,
khu vực trọng điểm, tiềm ẩn phức tạp về an ninh trật tự trên địa bàn, trong đó huy
động nhiều lực lượng như: cảnh sát hình sự, ma túy, cảnh sát giao thông và cảnh
sát cơ động (Gọi tắt là lực lượng 911). Sau 10 tháng thành lập, lực lượng 911 đã tổ
chức chốt chặn, tuần tra kiểm soát tại 231 vị trí và 138 khu vực; dừng, kiểm tra
15.291 lượt người, phương tiện tham gia giao thông có dấu hiệu nghi vấn vi phạm về
an ninh trật tự; lập hồ sơ xử lý 1.463 vụ/1.584 đối tượng vi phạm về an ninh trật tự;
góp phần quan trọng trong phòng ngừa tội phạm, kiềm chế hoạt động của các loại
đối tượng [5].
Thường xuyên tổ chức tuyên truyền các quy định của pháp luật về quản lý,
sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo, không để xảy ra tình trạng buôn
bán, tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo trong dịp
57
lễ, tết; không để xảy ra việc các đối tượng sử dụng vũ khí nóng để gây án. Tiếp
nhận, thu hồi 371 vũ khí, VLN, CCHT các loại [5].
2.2.3. Công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản
Khảo sát thực tế kết quả công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp
giật tài sản thông qua phân tích, tổng hợp các Báo cáo tổng kết công tác năm của
Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phòng Cảnh sát hình sự, Đội Điều tra tổng
hợp, Đội Cảnh sát hình sự, Báo cáo tổng kết chuyên đề đấu tranh phòng, chống tội
phạm cho thấy, từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng lực
lượng Cảnh sát nhân dân đã tiếp nhận 151 nguồn tin về tội phạm cướp giật tài sản,
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khởi tố 92 vụ án, với 120 bị can, trong đó:
Năm 2016 khởi tố 20 vụ án, với 29 bị can; Năm 2017 khởi tố 24 vụ án, với 36 bị
can; Năm 2018 khởi tố 19 vụ án, với 28 bị can; Năm 2019 khởi tố 14 vụ án, với 17
bị can; Năm 2020 khởi tố 15 vụ án, với 10 bị can; [Xem Bảng 2.3 – Phụ lục]. Hoạt
động điều tra, khám phá vụ án cướp giật tài sản đảm bảo tuân thủ các quy định của
pháp luật và nghiệp vụ của ngành Công an. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
thành phố Đà Nẵng đã sử dụng linh hoạt, đồng bộ nhiều biện pháp điều tra tố tụng,
biện pháp nghiệp vụ, áp dụng phù hợp, hiệu quả các phương pháp và chiến thuật
hình sự. Chính vì thế, chứng cứ đã thu thập, được kiểm tra chính xác, khách quan,
có độ tin cậy cao phục vụ cho quá trình điều tra, khám phá tội phạm một cách nhanh
chóng, không phát hiện trường hợp nào làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Hoạt động điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản đã được Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng tiến hành liên tục, đan xen và
xuyên suốt trong quá trình chứng minh vụ án. Chứng cứ sau khi thu thập được đều
được các chủ thể đánh giá nhằm kiểm tra tính khách quan, liên quan, hợp pháp, xác
định rõ giá trị chứng minh. Việc đánh giá tổng hợp chứng cứ, xác định mức độ liên
quan giữa chứng cứ được sử dụng với các chứng cứ khác trong vụ án; đánh giá về
số lượng, chất lượng của hệ thống chứng cứ đã thu thập được làm căn cứ đi đến kết
luận điều tra vụ án được quan tâm, chú trọng và tiến hành thường xuyên, có hiệu
quả. Chứng cứ về vụ án cướp giật tài sản sau khi được thu thập, đánh giá đều được
Cơ quan Cảnh sát điều tra sử dụng ngay để lập kế hoạch điều tra, ra các quyết định
58
tố tụng, áp dụng biện pháp ngăn chặn, phát hiện chứng cứ mới, kiểm tra các chứng
cứ đã thu thập một cách nhanh chóng, kịp thời và đảm bảo yêu cầu, nhiệm vụ chứng
minh vụ án. Thống kê số liệu về kết quả xử lý các vụ án cướp giật tài sản từ năm
2016 đến năm 2020 cho thấy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố đối với 92 vụ, với 120 bị can (chiếm tỷ lệ 4,47% số vụ án đã khởi tố
và 3,7% số bị can đã khởi tố).
2.2.4. Công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân với các lực
lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phối hợp với các cơ quan bảo vệ
pháp luật, cơ quan truyền thông, thông tin như Đài phát thanh truyền hình VTV8,
DRT, các cơ quan báo chí, Hội liên hiệp phụ nữ, Sở lao động thương binh - xã hội
và các ban, ngành, đoàn thể chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho nhân dân; tuyên truyền kỹ năng sống, giáo dục, quản lý trẻ em vị
thành niên; động viên hướng dẫn trẻ em, thanh, thiếu niên tham gia vào các hoạt
động vui chơi bổ ích, lành mạnh; lồng ghép vào đó việc tuyên truyền, giáo dục
nhằm nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần tham gia đấu tranh phòng, chống tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác và chủ
động phòng ngừa, trấn áp tội phạm cướp giật tài sản.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng,
các cơ quan hữu quan, đoàn thể, tổ chức xã hội như Hội Liên hiệp phụ nữ, Ủy ban
dân số, gia đình và trẻ em, ngành Giáo dục, Sở Lao động thương binh và xã hội,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh v.v… tổ chức được 3618 cuộc họp dân,
với 36.389 lượt người tham gia, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân tích
cực tham gia phòng, chống tội phạm, trong đó có tội phạm cướp giật tài sản. Bên
cạnh đó, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, lực lượng Cảnh sát nhân
dân kịp thời thông báo phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội cướp giật tài sản
nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cho quần chúng nhân dân và phát huy tính tích cực,
tinh thần tự giác tham gia phòng, chống loại tội phạm này.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phối hợp với Viện kiểm sát, Tòa án
tiến hành các hoạt động cụ thể gắn liền với chức năng, nhiệm vụ được giao của từng
59
lực lượng phục vụ công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã tiến hành hoạt động giám
sát việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; giám sát việc thực hiện các
biện pháp và chương trình phòng ngừa phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản;
kiểm tra, giám sát công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội; tổ chức các chương
trình phối hợp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Thông
qua hoạt động giám sát điều tra cũng như trực tiếp điều tra các vụ án cướp giật tài
sản, Viện kiểm sát có cơ sở để xác định các nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố và các đặc điểm nhân thân của
người phạm tội từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này một cách
sát hợp, có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc phát hiện các sai sót trong điều tra các vụ án
cướp giật tài sản cũng là một mặt của công tác phòng ngừa tội phạm vì đó chính là
việc xóa bỏ tận gốc các nguyên nhân và điều kiện của những hạn chế, bất cập trong
quá trình điều tra, xét xử và thi hành án. Đồng thời, Tòa án nhân dân các cấp thông
qua hoạt động xét xử và một số hoạt động khác góp phần to lớn vào hoạt động
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn.
Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH Công an thành phố Đà
Nẵng thường xuyên phối hợp quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ sở, nắm tình
hình các đối tượng sưu tra, xác minh những đối tượng thuộc diện sưu tra, hiềm nghi,
truy tìm vật chứng của vụ án trên địa bàn, truy tìm bị hại, phối hợp tổ chức phát
động phong trào quần chúng tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và
tội phạm cướp giật nói riêng trong địa bàn dân cư. Việc quản lý nhân khẩu, quản lý
ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, khách sạn, nhà trọ, các cơ sở
kinh doanh dịch vụ như quán bar, karaoke, cafe, hớt tóc thanh nữ… góp phần phát
hiện những biểu hiện nghi vấn, phát hiện các đối tượng, các băng, nhóm chuẩn bị
hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật, cũng như sự xuất hiện, di biến động của
các đối tượng nghi vấn để có biện pháp phối hợp đấu tranh ngăn chặn.
Lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự Công an thành phố có vai trò
quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản. Phần lớn các
60
đối tượng phạm tội cướp giật tài sản đều sử dụng phương tiện gây án là xe mô tô,
gắn máy, gắn biển số giả, biển số mờ, làm cong biển số, xe thuê hoặc mua không
sang tên… nên trong quá trình tuần tra, kiểm soát 02 lực lượng tiến hành kiểm tra,
lập biên bản tạm giữ phương tiện… sẽ góp phần hạn chế điều kiện gây án của đối
tượng. Mặt khác, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, lực lượng
Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự còn hỗ trợ lực lượng hoặc quần chúng nhân dân
truy đuổi, bắt giữ đối tượng gây án và thu giữ tang vật vụ án.
2.3. Nhận xét, đánh giá về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Ưu điểm
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã xác định được vị trí, vai trò, trách nhiệm
của mình trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Từ đó, đã có chủ trương, biện pháp hoạt động một cách chủ động và sáng tạo,
có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác trong ngành Công an và với các cơ
quan hữu quan để thực hiện phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản theo đúng
trình tự, thủ tục luật định. Thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương và Giám đốc Công an thành phố chỉ đạo thực hiện có hiệu
quả công tác phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản.
Các mặt công tác phòng ngừa xã hội đối với tội phạm cướp giật tài sản đã
được lực lượng Cảnh sát nhân dân tổ chức tiến hành đi vào chiều sâu, có sự tham
gia của chính quyền, tổ chức đoàn thể và công dân. Bước đầu đã tác động tích cực
góp phần nâng cao ý thức của quần chúng trong phòng, chống tội phạm cướp giật
tài sản. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ thực hiện đúng quy định, các biện
pháp điều tra cơ bản, xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật, công tác sưu tra, xác
minh hiềm nghi nhìn chung đạt được yêu cầu nghiệp vụ, đóng góp tích cực vào hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ động phối hợp với các ngành, các cấp,
các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội, khu dân cư đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phát động toàn dân tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
Đồng thời, lồng ghép tuyên truyền cho nhân dân biết rõ phương thức, thủ đoạn
61
phạm tội cướp giật tài sản.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ động phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ
của ngành Công an thực hiện có hiệu quả công tác tuần tra, kiểm soát ở những khu
vực công cộng, những địa bàn phức tạp về an ninh trật tự hoặc tại những nơi có mục
tiêu quan trọng cần bảo vệ, kết hợp giữa hình thức, biện pháp công tác công khai
với các biện pháp công tác bí mật nhằm phục vụ có hiệu quả cho công tác phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
2.3.2. Hạn chế, thiếu sót
Công tác lãnh đạo, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản có những thời điểm chưa nhận được sự quan tâm, kiểm tra
sâu sát; bố trí cán bộ làm công tác phòng ngừa, công tác nghiệp vụ cơ bản còn hạn
chế về chuyên môn, không chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Đồng thời, một
số cán bộ, chiến sĩ không thường xuyên xuống địa bàn cơ sở nắm tình hình, kiểm
tra, hướng dẫn về các mặt công tác nên đã không tạo được tính chủ động khi tiến
hành hoạt động phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản.
Một số công tác chuyên môn triển khai thực hiện chưa tốt, chưa đề ra chỉ tiêu
hoặc kết quả thực hiện chưa đạt chỉ tiêu, chất lượng công tác nghiệp vụ cơ bản còn
nhiều hạn chế, công tác xử lý tin báo, tố giác tội phạm và công tác điều tra giải
quyết án theo tố tụng hình sự còn chậm. Một số mặt kết quả công tác đạt được chưa
đáp ứng yêu cầu công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
Công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật phục vụ quản lý đối tượng,
kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi cướp giật tài sản còn nhiều yếu kém chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn. Công tác quản lý nhân, hộ khẩu chưa thật sự hiệu quả
nên nhiều lúc chưa kịp thời phát hiện các đối tượng nghi vấn phạm tội cướp giật tài
sản để đưa vào diện sưu tra quản lý, đôi lúc còn chưa nắm vững được các di biến
động của các đối tượng hình sự hoạt động trên địa bàn. Công tác quản lý các ngành
nghề kinh doanh có điều kiện trên địa bàn thời gian qua như: Công tác quản lý các
dịch vụ internet, dịch vụ cầm đồ v.v... còn nhiều sơ hở đã tạo điều kiện thuận lợi cho
người phạm tội cướp giật tài sản có thể dễ dàng tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.
Hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp vẫn còn những hạn chế,
62
thiếu sót, chưa đạt hiệu quả mong muốn. Một số địa phương, đơn vị còn coi nhẹ
công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, hoạt động phòng ngừa còn
mang tính hình thức, chưa có nội dung, kế hoạch cụ thể, sự phối hợp giữa các lực
lượng, các ban ngành, đoàn thể trong phòng ngừa còn thiếu đồng bộ, chưa có sự
phối hợp toàn diện. Hoạt động phòng ngừa chủ yếu diễn ra theo từng địa phương,
nên tình hình tội cướp giật tài sản tại các địa bàn giáp ranh có diễn biến hết sức
phức tạp. Công tác điều tra, khám phá hiệu quả chưa cao, công tác nghiên cứu để
tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cướp giật tài sản, nghiên
cứu để xác định quy luật hoạt động, phương thức thủ đoạn phạm tội của các đối
tượng cướp giật tài sản chưa được chú trọng.
Nhận thức về công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản và và vai
trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản của một số cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của các đoàn thể quần chúng và
của một bộ phận quần chúng nhân dân còn hạn chế, chưa thấy hết được tầm quan
trọng của công tác phòng ngừa tội phạm này trong quá trình đấu tranh với tội phạm
nói chung. Mặt khác, còn có địa phương mà ở đó chính quyền và các tổ chức, các
ban ngành đoàn thể tồn tại tâm lý việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm là của lực
lượng Công an nhân dân, của các cơ quan bảo vệ pháp luật nên đã thụ động và thiếu
sự phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Tình hình kinh tế, xã hội thành phố Đà Nẵng thời gian qua có những diễn
biến phức tạp, khó lường, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, tình hình dân di cư
tự do, người làm thuê, lao động tự do đi và đến địa bàn thường xuyên, hàng năm
thành phố đón nhận hàng triệu lượt chuyên gia, nhà đầu tư, khách du lịch đến làm
ăn, sinh sống, tham quan, du lịch, những ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình dịch bệnh
Covid 19 cùng với sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, tình hình tệ nạn xã hội,
cờ bạc, mại dâm có chiều hướng gia tăng tiềm ẩn nguy cơ làm nảy sinh một số hiện
tượng xã hội tiêu cực, trong đó có tình hình tội cướp giật tài sản.
Trình độ chuyên môn của cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân
63
Công an thành phố Đà Nẵng còn nhiều hạn chế, nhiều đồng chí tuyển từ ngành ngoài
vào làm công tác điều tra hình sự, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tinh thần
trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ còn ngại khó, ngại khổ, ngại làm công
tác điều tra trinh sát, nghiệp vụ cơ bản dẫn đến hiệu quả công tác phòng ngừa tội
phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng chưa cao.
Kinh phí, phương tiện, trang thiết bị cấp cho lực lượng Cảnh sát nhân dân
còn hạn chế, nhất là kinh phí công tác phí, mật phí, án phí điều tra, kinh phí hỗ trợ
đi lại cho Điều tra viên, Trinh sát viên quá ít, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ công tác đối với đặc thù địa bàn thành phố Đà Nẵng.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của một số đơn vị chưa nghiêm túc,
chất lượng một số báo cáo còn thấp; số liệu giữa các báo cáo chuyên đề, công tác
nghiệp vụ cơ bản, báo cáo tổng kết năm còn nhiều sai sót, mâu thuẫn với nhau; năng
lực, trình độ cán bộ, chiến sĩ làm công tác thống kê, báo cáo, tổng hợp của một số
đơn vị còn hạn chế.
Công tác tổ chức, triển khai và phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm hình
sự, tệ nạn xã hội của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an thành phố Đà Nẵng còn
chưa đồng bộ, rộng khắp. Công tác phòng ngừa xã hội còn nhiều bất cập, chưa thực
sự huy động được sức mạnh của các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội; nhiều cơ quan, doanh
nghiệp chưa chú trọng tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản; còn tình trạng khoán
trắng trách nhiệm phòng ngừa, đấu tranh tội phạm cho lực lượng Công an.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật của quần
chúng nhân dân chưa mang lại hiệu quả, đây là một trong những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến nhiều loại án do nguyên nhân xã hội, trong đó có tội phạm cướp giật tài
sản tiếp tục gia tăng và diễn biến phức tạp trong thời gian qua. Mặc dù thời gian
qua, tình hình tội cướp giật tài sản liên tục xảy ra ở một số địa bàn, nhưng việc
thống kê, theo dõi tình hình phạm pháp hình sự chưa sát, chưa đầy đủ, nguyên nhân
có thể do người dân không trình báo hoặc trình báo không kịp thời với cơ quan
Công an cũng có thể do lực lượng chức năng cơ sở còn sợ trách nhiệm nên giấu
64
giếm báo cáo không trung thực, đầy đủ.
Những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự như công
tác nắm hộ, nắm người, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, quản lý các ngành nghề kinh
doanh đặc biệt để phát hiện tội phạm, hỗ trợ cho công tác phòng ngừa tội phạm chưa
được thường xuyên dẫn đến nhiều mặt công tác khác không mang lại hiệu quả cao
như công tác sưu tra có thực hiện nhưng không thường xuyên liên tục, không theo dõi
chặt chẽ được diễn biến hoạt động của đối tượng, phần lớn đối tượng bị bắt đều nằm
ngoài diện sưu tra.
Kết luận Chương 2
Trong chương 2 của luận văn, bằng việc sử dụng các phương nghiên cứu như
phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu báo cáo chuyên đề, nghiên cứu điển hình,
tác giả đã tập trung phân tích, luận giải làm sáng tỏ đặc điểm tình hình phạm pháp
hình sự, tệ nạn xã hội, thực trạng, động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020, thực trạng
tổ chức lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản. Đồng thời, tác giả đã tiếp cận nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách khách
quan, toàn diện về sự thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ở các phương
diện công tác tham mưu, hướng dẫn; công tác tuyên tuyên truyền, vận động, tuần tra
kiểm soát; công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác
phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Tất nhiên các phương diện nêu trên cũng chỉ
mới là những điểm nhấn cơ bản thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
bên cạnh các mặt công tác khác. Có thể khẳng định, kết quả đạt được tại chương 2
sẽ là tiền đề để tác giả đưa ra những dự báo và đề xuất các giải pháp nâng cao vai
trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm sắp tới sẽ được đề cập tại
chương 3.
65
CHƯƠNG 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
3.1.1. Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng những năm tới
Có thể khẳng định, Đà Nẵng là nơi đầu tư lý tưởng, hàng năm thu hút nhiều
nhà đầu tư, doanh nghiệp, người lao động đến đầu tư, làm ăn, sinh sống. Bên cạnh
đó, kinh tế xã hội trong những năm tới tiếp tục có bước chuyển biến vượt bậc, như
xây dựng đô thị, đầu tư cơ sở hạ tầng, giao lưu văn hóa, thương mại, dịch vụ v.v...,
đời sống nhân dân ngày được nâng cao, tài sản của nhân dân ngày càng nhiều, mức
độ lưu chuyển tài sản ngày càng tăng. Cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị
trường góp phần phát triển xã hội thì mặt trái của nó cũng đã tạo đà phân hóa xã hội
ngày càng sâu sắc. Tình trạng thất nghiệp hoặc không có nghề nghiệp ổn định kéo
dài, lối sống xa hoa trụy lạc, thói chây lười lao động, quen sống hưởng thụ, các tệ
nạn xã hội, nghiện ma túy, cờ bạc ngày càng gia tăng. Tác giả cho rằng, tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới sẽ có những đặc
điểm đặc trưng dưới đây:
Trong những năm tới, tình hình hoạt động của tội phạm cướp giật sẽ tiếp tục
diễn biến khó lường, có tăng, có giảm, với tính chất, mức độ hoạt động ngày càng tinh
vi, xảo quyệt, mạnh động, liều lĩnh. Quy mô, hình thức, xu hướng trong thời gian tới sẽ
hoạt động theo băng, nhóm, có sự phân công vai trò trách nhiệm rõ ràng, cấu kết hoạt
động chặt chẽ hơn, phạm tội chuyên nghiệp hơn, hoạt động trên nhiều địa bàn, tuyến
nơi tập trung nhiều du khách, người dân đến tham quan, du lịch, kinh doanh dịch vụ,
phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội cướp giật rất đa dạng, phức tạp, ngày
càng có kinh nghiệm hơn trong che giấu tội phạm và đối phó với cơ quan Công an,
66
xu hướng sử dụng vũ khí để chống trả khi bị truy đuổi bằng dao, gạch, đá ngày càng
tăng. Chúng cấu kết với nhau không chỉ hoạt động ở một khu vực, một địa bàn mà sẽ
hoạt động trên nhiều tuyến, nhiều địa bàn và có xu hướng hoạt động liên quận, liên tỉnh
theo các địa bàn, tuyến, có sự chuẩn bị chu đáo trước khi thực hiện hành vi phạm tội,
tiến hành gây án một cách bất ngờ, nhanh chóng, bằng cách sử dụng xe mô tô dạo
quanh các tuyến đường, địa bàn nơi tập trung đông dân cư nắm tình hình, tìm sự sơ
hở, mất cảnh giác của nạn nhân để nhanh chóng giật lấy tài sản rồi tẩu thoát, đôi lúc
tiến hành gây án táo bạo, trắng trợn, làm cho người bị hại hoảng sợ. Phương tiện
gây án chủ yếu vẫn là xe mô tô có phân khối lớn, sử dụng biển số trộm cắp, biển số
giả hoặc bẻ cong biển số, dán băng keo và thay đổi màu sơn của xe...
Tài sản các đối tượng hoạt động cướp giật nhằm vào chủ yếu vẫn là các tài
sản được quản lý dưới dạng mang theo người như: ôm, đeo, mang, cầm, nắm hoặc
được cài ở trên xe với các tài sản gọn, nhẹ, có giá trị như: dây chuyền, vòng vàng,
túi xách, điện thoại di động... Đối tượng mà tội phạm cướp giật nhằm vào thường là
phụ nữ và các du khách là người nước ngoài khi mang theo tài sản bên người.
Thành phần các đối tượng trong các vụ án cướp giật có xu hướng trẻ hóa và đa
dạng hơn. Các đối tượng phạm tội ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi ngày càng tăng, tập
trung vào những đối tượng nghiện hút ma túy, có tiền án tiền sự, các đối tượng hoạt
động lưu manh chuyên nghiệp, ngoài ra, có thêm nhiều đối tượng chưa có tiền án,
tiền sự, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định câu kết lại với nhau
thực hiện hành vi cướp giật. Đối tượng hoạt động cướp giật có cả nam, lẫn nữ, phần
lớn là người có hộ khẩu thường trú tại thành phố Đà Nẵng, nhưng chủ yếu là nam
giới, có trình độ văn hóa thấp. Điều kiện sống và hoàn cảnh gia đình của các đối
tượng thường không hoàn hảo, cá biệt, có trường hợp đối tượng phạm tội xuất phát từ
gia đình khá giả, cán bộ nhưng do tiếp thu các mặt trái của xã hội đi vào con đường
phạm tội.
Thời gian gây án cả ngày lẫn đêm. Địa bàn hoạt động phạm tội vẫn tập trung
vào các địa bàn, khu vực, tuyến có đông người dân, du khách hoạt động kinh doanh,
di lịch như tuyến đường Võ Nguyên Giáp, địa bàn quận Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ
Hành Sơn. Thông thường đối tượng phạm tội cướp giật tài sản không cần chuẩn bị
67
trước nơi tiêu thụ, các đối tượng có thể tiêu thụ tài sản cướp giật được ở các tiệm
vàng, cửa hàng điện thoại di động, tiệm cầm đồ trong và ngoài thành phố.
3.1.2. Dự báo các yếu tố thuận lợi và khó khăn tác động đến vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng những năm tới
3.1.2.1. Các yếu tố thuận lợi
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một trong những nhiệm vụ quan
trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu
thể hiện trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và
định hướng đến năm 2030 khẳng định: “Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa,
đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về kinh tế, tham nhũng, ma túy, môi
trường, tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, tội phạm
liên quan trực tiếp đến sự suy thoái đạo đức gia đình, xã hội... Tiếp tục phát huy sức
mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong phòng ngừa, đấu tranh,
ngăn chặn tội phạm, giảm các loại trọng án, giảm tội phạm ở các địa bàn trọng
điểm, góp phần xây dựng xã hội an toàn, ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
đất nước”. Đây chính là cơ sở để lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an thành phố
Đà Nẵng tiếp tục phát huy thành tựu đạt được để thực hiện hiệu quả công tác phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố những năm tới.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân ngày càng được tăng cường và hoàn thiện về
cơ cấu, tổ chức. Điều tra viên, Trinh sát viên, Cán bộ điều tra được đào tạo cơ bản,
chính quy, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, cơ sở vật chất, phương
tiện được trang bị tốt hơn sẽ là cơ sở vững chắc đảm bảo hiệu quả công tác hòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
3.1.2.2. Các yếu tố khó khăn
Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng trong
những năm qua diễn biến khó lường, phức tạp và có tăng có giảm; tỷ lệ điều tra
khám phá án đối với án cướp giật tài sản còn thấp; công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật trong nhân dân, nhất là trong thanh, thiếu niên chưa thường xuyên liên
68
tục, trong khi số lượng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong cơ
cấu thành phần độ tuổi phạm tội; một số cấp, ngành còn thờ ơ trong việc tham gia
vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản
nói riêng; việc phối hợp trao đổi thông tin tội phạm giữa các lực lượng còn hạn chế,
chưa chủ động phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến
tình hình an ninh trật tự.
Trong những năm qua, lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng đã tập trung
nhiều biện pháp phòng ngừa và đấu tranh, tỷ lệ vụ án cướp giật khám phá ngày càng
tăng. Nhưng trong quá trình tiến hành, lực lượng Công an thành phố vẫn còn bộc lộ
nhiều tồn tại, đặc biệt là trong tổ chức hoạt động phòng ngừa xã hội cũng như
phòng ngừa nghiệp vụ. Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm cướp giật tài
sản còn thiếu, trình độ năng lực không đồng đều, các trang thiết bị còn thiếu, kinh
phí hoạt động còn hạn hẹp. Điều này đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả công
tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng nếu như không có giải pháp khắc phục hữu hiệu.
Một số cấp ủy đảng, chính quyền, sở, ban, ngành, đoàn thể tuy có quan tâm
đến công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng
nhưng chưa lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nên việc tổ chức thực hiện có lúc, có nơi
chưa thường xuyên, liên tục, có nơi chưa gắn kết chặt chẽ thực hiện chương trình,
kế hoạch phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng tại
các khu du lịch với các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác nên
kết quả đạt được còn hạn chế.
Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước liên quan đến an ninh trật tự ở
một số ngành và các đơn vị, địa phương có nơi còn bộc lộ nhiều sơ hở đã tạo điều
kiện cho bọn tội phạm gây án. Một số nơi vẫn còn tư tưởng xem trách nhiệm phòng,
chống tội phạm là của cơ quan chức năng nên chưa phát huy được sức mạnh của cả
hệ thống chính trị trong công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng.
Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài
sản nói riêng của các ngành chức năng mà lực lượng Công an làm nòng cốt tuy đã
69
đạt được nhiều kết quả nhưng có nơi, có lúc chưa quyết liệt, thiếu nhạy bén kịp thời.
Công tác phối hợp tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự ban đêm chưa được
thường xuyên, liên tục, kết quả đạt được còn hạn chế. Công tác quản lý hành chính
nhà nước về an ninh trật tự còn nhiều sơ hở; Công tác quản lý đối tượng, quản lý địa
bàn chưa chặt chẽ; công tác quản lý, cảm hóa, giáo dục đối tượng và tạo điều kiện
cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng tuy có chuyển biến nhưng kết quả đạt được
còn hạn chế.
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng
3.2.1. Đẩy mạnh tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tổ
chức chỉ đạo triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản
Tiếp tục tham mưu xây dựng chương trình hành động, tổ chức quán triệt,
thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01-12-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
“về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc trong tình hình mới”, Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22-6-2015 của Bộ Chính
trị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự
trong tình hình mới”, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26-3-2008 của Bộ Chính trị “về
tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy
trong tình hình mới”; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị
số 48-CT/TW ngày 22-10-2010 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Quyết định
623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội
phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030; Chỉ thị số 37-CT/TU
ngày 20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành
phố”; Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 10-8-2009 và Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 20-10-
2009 của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các gia đình có hoàn
cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm pháp luật” và
70
“phòng chống bạo lực gia đình”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 của
UBND thành phố về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn
dân tham gia phòng, chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”; Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày
06/9/2014 của UBND thành phố về ban hành “Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ
chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch 7104/KH-UBND ngày
03/6/2015 của UBND thành phố về “Cảm hóa, giáo dục, giúp đở thanh thiếu niên
sử dụng trái phép ma túy trên địa bàn thành phố”; Quyết định 5393/QĐ-UBND
ngày 10/8/2016 của UBND thành phố về việc Ban hành Chiến lược phòng, chống
tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng; Quyết định 6111/QĐ-UBND ngày 07/9/2016 của UBND thành phố
về việc Phê duyệt Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy không
được kiểm soát trong cộng đồng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”.
Tham mưu Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tăng cường công tác chỉ
đạo các sở, ban, ngành nâng cao vai trò đối với công tác đấu tranh phòng ngừa,
chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng, chống tệ nạn xã hội và đưa công tác
này vào nội dung chương trình công tác của đơn vị, địa phương. Củng cố và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và
xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ từ quận đến phường nhằm nâng cao
hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng,
chống tệ nạn xã hội, trọng tâm là làm tốt công tác chuyển biến địa bàn phức tạp về
an ninh trật tự trở thành địa bàn không có tội phạm hoặc giảm đến mức thấp nhất.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham
gia phòng chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng theo Quyết định số 19/2009/QĐ/UBND của Ủy ban nhân dân
thành phố. Nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho số đối tượng có
nguy cơ cao; các đối tượng vi phạm pháp luật; các chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ,
nhà nghỉ, khách sạn, cầm đồ, karaoke; các tổ xe thồ tự quản. Tham gia quản lý, cảm
hóa, giáo dục, giúp đỡ người vi phạm tại gia đình và cộng đồng khu dân cư kết hợp
với biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường đồng thời lập hồ sơ đưa đối tượng
71
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, trung tâm cai nghiện ma túy nhằm góp phần
hạn chế phát sinh tội phạm.
Đào tạo năng lực trách nhiệm trong quản lý Nhà nước về an ninh trật tự ở cơ sở,
nhất là quản lý khu dân cư. Tăng cường kiểm tra, quản lý các dịch vụ kinh doanh ngành
nghề có điều kiện về an ninh trật tự, công tác tuần tra, kiểm soát phòng chống tội phạm.
Quản lý chặt số đối tượng sau cai nghiện tại địa phương, số đang điều trị bằng chất
Methadone, làm giảm tỷ lệ nghiện mới, tái nghiện.
Kiện toàn, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng an ninh cơ
sở nhất là lực lượng Bảo vệ dân phố, Dân phòng theo Nghị định 38/NĐ-CP của
Chính phủ. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp tuần tra phòng
chống tội phạm theo Quyết định 8394/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 của UBND
thành phố về công tác tuần tra, chốt chặn, mật phục theo kế hoạch của thành phố và
trên địa bàn quận; Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực
lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó
có phương án bố trí lực lượng tuần tra, mật phục hợp lý để kịp thời phát hiện, ngăn
chặn tội phạm cướp giật tài sản, lộ trình tuần tra chú ý các địa bàn, tuyến trọng điểm về
an ninh trật tự.
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức cảnh giác tự bảo
vệ tài sản cho nhân dân; ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần tham gia phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Thực tế trong công tác đấu tranh chống tội phạm cướp giật tài sản thời gian
qua cho thấy một trong những vấn đề làm nảy sinh tội phạm này là do ý thức mất
cảnh giác của người dân trong việc quản lý tài sản mang theo dẫn đến những sơ hở
để tội phạm lợi dụng cướp tài sản tại các địa bàn, khu vực, tuyến. Chính vì vậy để
phòng ngừa loại tội phạm trên, đòi hỏi lực lượng Công an thành phố cần làm tốt hơn
nữa công tác tuyên truyền đến nhân dân trên địa bàn thành phố.
Cần tập trung tuyên truyền về tình hình, phương thức thủ đoạn của tội phạm
nói chung và cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn thành phố thời gian qua; tuyên
truyền để họ nắm được phương thức, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thường xảy cướp
giật; giáo dục họ về ý thức, trách nhiệm trong việc tự bảo vệ tài sản của mình, tránh
72
sơ hở mà tội phạm có thể lợi dụng. Ngoài ra phải tuyên truyền cho mọi người cách
đối phó, giải quyết khi bị cướp (cách tri hô, cách báo tin cho cơ quan chức năng…).
Phương pháp, hình thức tuyên truyền phải đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng
cụ thể:
Đối với người nước ngoài khi tuyên truyền gặp rất nhiều khó khăn như bất
đồng ngôn ngữ, họ lại thường xuyên di chuyển và nếu không cẩn thận sẽ làm cho
người nước ngoài hoang mang lo sợ, nghĩ rằng ở Đà Nẵng không an toàn,tình hình
an ninh trật tự không đảm bảo. Do vậy, sử dụng nội dung hình thức, phương pháp
tuyên truyền phải phù hợp linh động, sáng tạo nhằm tạo cho người nước ngoài an
tâm, tin tưởng vào cơ quan chức năng, vừa nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ tài sản.
Một số hình thức tuyên truyền có thể mang lại hiệu quả cao như thông qua Sở Du
lịch để in những tờ rơi, tờ bướm nói về các thủ đoạn cướp giật, các tuyến đường,
khu vực công cộng thường xảy ra cướp giật, in một số hình ảnh về hành vi cướp
giật, số điện thoại liên lạc khi cần thiết để thông báo trực quan cho nhân dân.
Đối với quần chúng nhân dân, thực tế cho thấy nhiều vụ án cướp giật tài sản,
được sự giúp đỡ truy bắt của quần chúng đã bắt được đối tượng gây án. Nhưng để
nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của quần chúng trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng, lực lượng
Công an thành phố phải phối hợp với các cơ quan chức năng, các đoàn thể, tổ chức,
sử dụng linh hoạt các hình thức như:
Tổ chức các cuộc thi trên đài phát thanh, truyền hình về kiến thức pháp luật,
thủ đoạn hoạt động của tội phạm hoặc tổ chức các buổi giao lưu trực tuyến với khán
giả về chủ đề phòng ngừa tội phạm để mọi người hưởng ứng;
Tuyên truyền về thủ đoạn hoạt động của tội phạm nói chung tội phạm cướp
giật tài sản nói riêng; nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt về
tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm;
Sử dụng các tranh panô, áp phích, khẩu hiệu, tờ rơi để tuyên truyền, vận
động nhân dân phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tại các địa bàn, khu vực,
tuyến giao thông thường xảy cướp giật tài sản.
Song song với các biện pháp tuyên truyền, vận động tập trung, lực lượng Công
73
an thành phố cần chú ý khai thác các hình thức tuyên truyền cá biệt như: vận động cơ
quan, tổ chức trên địa bàn trực tiếp đảm nhận và có trách nhiệm thực hiện các nội dung
cụ thể trong việc quản lý giáo dục, tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ công ăn việc làm
cho các đối tượng đang gặp khó khăn; giải quyết những vướng mắc về gia đình, cuộc
sống và cả về tư tưởng; phối hợp với các ban ngành, đoàn thể cảm hóa, giáo dục, giúp
đở số thanh thiếu niên hư, vi phạm pháp luật, sử dụng trái phép chất ma túy nhằm phát
huy những mặt tích cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực, động viên các em phấn đấu,
lao động chân chính, không lâm vào con đường phạm tội.
Việc tổ chức tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, phối hợp giữa các
hình thức, có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế của từng địa bàn,
khu vực, tuyến giao thông, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp lãnh đạo,
tránh hình thức qua loa, không sát thực với tình hình thực tế.
3.2.3. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển
hình tiên tiến trong phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
Việc phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình tiên tiến và
có chế độ chính sách cho những người tham gia bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở là nội
dung quan trọng trong tổ chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc,
xây dựng tổ dân phố, thôn, xóm không có tội phạm và tệ nạn xã hội, vừa là nhiệm vụ
vừa là phương thức quan trọng của công tác tư tưởng nhằm cổ động, tuyên dương kịp
thời các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, động viên mọi người cùng hành động, tự
giác, hăng hái tham gia phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản
nói riêng, góp phần đảm bảo tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bên cạnh, các hình
thức động viên, khen thưởng, biểu dương kịp thời những gương người tốt, việc tốt,
những người tham gia bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở, các cơ quan thông tin đại
chúng cần đổi mới và đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền; có phương pháp tiếp
cận và cách viết phù hợp hơn để người đọc, người nghe có sự cảm thông và từ đó làm
theo; thông tin phải xác thực, có sự lựa chọn kỹ càng, sức lan tỏa để nhân rộng toàn
xã hội.
Qua thực tế nghiên cứu cho thấy, số đối tượng phạm tội cướp giật phần lớn
đều không có công ăn việc làm hoặc công việc làm không ổn định, không có nguồn
74
thu nhập chính đáng nên rất dễ đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, tập trung giải
quyết tốt chính sách xã hội, tạo công ăn việc làm cho những đối tượng thực sự gặp
khó khăn là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý, giáo
dục đối tượng.
Công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, quản lý giáo dục đối tượng phải gắn
với chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Do vậy, hàng năm, đều tiến hành rà
soát lên danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha, đặc xá và căn cứ vào đặc điểm
giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp v.v... để giao chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban,
ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm lỗi tiến
bộ, nhiều đối tượng được hỗ trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để tạo điều kiện cho
họ hòa nhập cộng đồng không tái phạm.
3.2.4. Thường xuyên đảm bảo công tác thông tin, báo cáo về tội phạm
Củng cố, nâng cao chất lượng công tác trao đổi, thông tin, liên lạc giữa các
lực lượng, các đơn vị, địa phương theo hướng “nhanh chóng, kịp thời, chính xác”
trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động phòng chống tội phạm nói chung,
tội phạm cướp giật tài sản nói riêng từ công tác báo cáo, trao đổi nghiệp vụ, đến
công tác xác minh thông tin vụ việc, quản lý địa bàn, đối tượng...
Tổ chức xâu chuỗi từng lực lượng trong Công an thành phố Đà Nẵng từ
thành phố, đến quận, huyện, phường, xã và cùng tham gia chỉ đạo, hướng dẫn, cùng
giải quyết đối với từng vụ án nói chung, vụ án cướp giật tài sản nói riêng theo
hướng truy kích tội phạm, không đùn đẩy trách nhiệm, giao phó cho cấp dưới, trong
đó tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp trong công tác chuyên môn giữa các đơn
vị, hệ lực lượng, xoá bỏ tác phong hành chính thay bằng hoạt động theo hướng tinh
nhuệ, sắc bén, kịp thời; tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các Kế
hoạch chuyên đề phòng, chống tội phạm của Giám đốc theo từng hệ lực lượng; duy
trì thường xuyên công tác giao ban theo hệ lực lượng theo Quyết định
721/2013/QĐ-CATP của Giám đốc về chế độ giao ban, báo cáo của các hệ lực
lượng trong Công an thành phố.
Đối với quy trình tiếp nhận và công tác phối hợp trong xác minh, xử lý tin
báo, tố giác tội phạm cần quy định rõ nội dụng, nhiệm vụ của từng lực lượng, từng
75
cấp tiến hành, trong đó:
Đối với Công an các phường, xã (Công an cơ sở): Khi nhận được tin báo, tố
giác về tội phạm cướp giật tài sản xảy ra, cán bộ tiếp nhận cần ghi rõ địa chỉ, một số
thông tin cần thiết về người báo tin và các thông tin về vụ việc, báo ngay cho lãnh
đạo Công an cơ sở và lãnh đạo cấp có thẩm quyền cử ngay lực lượng cùng phối hợp
tiến hành xác minh;
Đối với lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH các cấp (cấp quận, huyện, thành
phố): Khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm cướp giật xảy ra cần tổ chức ngay
các hoạt động điều tra, xác minh làm rõ vụ án, đồng thời trao đổi với lực lượng
Công an cơ sở biết tin và cùng phối hợp xác minh khi có yêu cầu.
Trong công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm cướp giật tài sản,
cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
Khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, cán bộ phải thể hiện sự quan tâm
chia sẻ, phải có thái độ lịch sự, hòa nhã, trấn an họ, làm cho người đến báo tin có sự
bình tĩnh, tin tưởng, từ đó khai báo đầy đủ, chính xác hơn;
Cần thiết lập, quản lý và sử dụng có hiệu quả trang Website Công an thành
phố và hệ thống các hộp thư tố giác tội phạm. Những hộp thư này phải được đặt tại
những nơi dễ nhìn thấy và thông báo cho nhân dân biết phản ánh và thường xuyên
kiểm tra, xử lý kịp thời;
Củng cố, duy trì hoạt động 24/24h hệ thống Trung tâm 113 và hệ thống Trung
tâm thông tin chỉ huy, có như vậy mới tiếp nhận thông tin về tội phạm cướp giật tài sản
kịp thời, đầy đủ, đồng thời kịp thời huy động các lực lượng phản ứng nhanh, lực lượng
công khai có mặt trên đường phố cùng tham gia công tác phòng ngừa, truy bắt đối với
loại tội phạm này. Việc duy trì và đảm bảo hoạt động của hệ thống này sẽ làm tăng
niềm tin của nhân dân vào cơ quan Công an, đảm bảo yêu cầu bí mật cho người cung
cấp tin.
Bên cạnh đó, cần ban hành văn bản quy định chặt chẽ nhiệm vụ, trách nhiệm
của cán bộ trực ban và công tác thông tin từ cấp tỉnh đến cấp huyện và đến cấp cơ
sở, đảm bảo cho lượng thông tin luôn được trao đổi nhanh chóng, kịp thời. Đồng
thời, phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc
76
xúc phạm những người báo tin. Làm được điều này sẽ đảm bảo hoạt động tiếp nhận và
xử lý tin báo, tố giác về tội phạm được tiến hành nghiêm túc, đạt hiệu quả cao, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống tội phạm cướp giật.
3.2.5. Phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát
nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản
Xây dựng, ban hành quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống tội phạm
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có quy định quy trình,
nguyên tắc phối hợp tội phạm cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy định
rõ chế tài xử lý nghiêm đối với những cá nhân, đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng với nội dung quy định của quy chế. Đồng thời,thường xuyên tổ chức sơ
kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động phối hợp giữa các lực lượng, nhằm kịp thời
chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình
thực hiện quy chế, cũng như kịp thời khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành
tích, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện quy chế.
Lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự nắm rõ tình hình, quy luật
hoạt động của tội phạm cướp giật tài sản trên từng địa bàn, khu vực, tuyến giao
thông để có kế hoạch, phương án tổ chức tuần tra phù hợp và khoa học. Trong quá
trình tuần tra chú ý phát hiện các loại phương tiện mà đối tượng thường sử dụng để
gây án hoặc các phương tiện có nghi vấn để chủ động kiểm tra người và phương
tiện. Trường hợp phát hiện người, phương tiện có dấu hiệu nghi vấn như xe mang
biển kiểm soát giả, mờ, bẻ cong ,… nhanh chóng phối hợp, bàn giao cho lực lượng
CSHS Công an các quận, huyện, Phòng PC02 để tổ chức xác minh, làm rõ. Trong
quá trình tuần tra và điều khiển giao thông tại các khu du lịch nếu phát hiện có vụ
cướp giật thì phải truy bắt ngay, đồng thời báo ngay về Trung tâm thông tin chỉ huy
để phối hợp với các lực lượng tiến hành truy bắt.
Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH phối hợp với lực lượng
Cảnh sát khu vực, Công an phụ trách xã, Công an xã, phường để quản lý đối tượng
nằm trong diện sưu tra, nắm chắc di biến động của các đối tượng này. Thực hiện giáo
dục đối tượng tại cơ sở, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Tập trung quản
77
lý những đối tượng có tiền án, tiền sự về tội phạm trộm cắp, cướp giật tài sản... những
đối tượng nghiện ma tuý ở địa phương. Tăng cường công tác quản lý nhân khẩu, hộ
khẩu, thường xuyên kiểm tra hộ khẩu, kiểm tra lưu trú, các ngành nghề kinh doanh có
điều kiện để phát hiện những đối tượng đã gây án đang lẫn trốn, những tài sản bị
chiếm đoạt trong các vụ án cướp giật tài sản phục vụ công tác truy bắt, truy xét, truy
tìm đối tượng.
Các lực lượng Công an phường, lực lượng dân phòng, dân quân tự vệ tăng
cường công tác quản lý đối tượng tại chỗ bao gồm các đối tượng có tiền án, tiền sự,
tổ chức tuần tra khép kín tại các địa bàn, khu vực, tuyến du lịch, khu du lịch nhằm
kịp thời phát hiện đối tượng nghi vấn để giám sát, thu thập tài liệu xác minh làm rõ,
áp dụng biện pháp tác động ngăn chặn không để chúng có điều kiện gây án, hoặc bố
trí bắt quả tang khi chúng đang thực hiện hành vi gây án. Nghiên cứu, xây dựng, tổ
chức lại phương án phối hợp tuần tra, kiểm soát phù hợp với quy luật hoạt động của
tội phạm cướp giật tài sản (thời gian, tuyến, địa bàn, phương tiện...) đảm bảo không
để trống địa bàn, khi có vụ cướp giật xảy ra đều có lực lượng tiếp nhận, tiếp ứng,
giải quyết kịp thời, nhanh chóng.
Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy trong quá trình đấu tranh
triệt phá các đường dây tổ chức mua bán trái phép chất ma túy, xử lý người nghiện
cần chú ý khai thác thông tin liên quan đến tội phạm cướp giật tài sản, bởi đối tượng
phạm tội cướp giật thường là những người nghiện ma tuý, để có tiền thoả mãn cơn
nghiện chúng thường thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Ngược lại, khi đã sử dụng
ma tuý chúng thường thực hiện hành vi cướp giật liều lĩnh, quyết liệt hơn. Những
thông tin, tài liệu khai thác được, lực lượng cảnh sát ma túy chuyển giao cho lực
lượng cảnh sát hình sự để phục vụ cho phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
cướp giật tài sản.
78
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng thời gian qua diễn biến phức tạp, khó lường, tính chất, mức độ phạm tội tinh
vi, xảo quyệt, thành phần đối tượng phạm tội đa dạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình
hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây căm phẫn, bất bình trong quần
chúng nhân dân. Vì vậy, phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một yêu cầu cấp bách trong điều kiện
hiện tại và những năm sắp tới. Toàn bộ những phân tích, luận giải, minh chứng cụ
thể từ thực tiễn đề cập tại chương 2 của đề tài đã xác nhận cho nhận định trên, đồng
thời, tại chương 2, 3 của đề tài, tác giả đã có những nghiên cứu xác đáng, rút ra
được những kết luận khoa học, luận cứ giá trị có ý nghĩa sâu sắc đối với thực tiễn
thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng”, tác giả đã tập trung hệ thống hóa, phân tích, luận giải và đưa ra khái niệm
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, đề cập và phân tích cơ sở, yêu cầu cũng
như các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, tác giả
đã chỉ rõ căn cứ phân loại và nội dung cụ thể của các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản, phân tích, chỉ rõ chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản gồm: Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân); chủ
thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án); chủ thể tham gia phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (mặt trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà
trường). Đặc biệt, tác giả đã luận giải và làm sáng tỏ khái niệm, nội dung vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, quyền
và nghĩa vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản, phân tích, chỉ rõ các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đây chính là cơ sở để
khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
79
trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
những năm qua.
Tác giả đã phân tích, trình bày kết quả nghiên cứu, khảo sát, đánh giá đúng
đắn, đầy đủ và toàn diện về đặc điểm tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội,
thực trạng, động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020, thực trạng tổ chức lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, tác
giả đã tiếp cận nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về
sự thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ở các phương diện công tác tham
mưu, hướng dẫn; công tác tuyên tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát; công
tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác phối hợp giữa lực
lượng Cảnh sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản. Trên cơ sở đó, rút ra những ưu điểm, những hạn chế, thiếu sót và
nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót làm cơ sở để nâng cao vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới.
Từ thực tiễn nghiên cứu, dựa trên những cơ sở khoa học, tác giả đã dự báo
tình hình tội cướp giật tài sản và các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh
sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng những năm tới. Đồng thời, tác giả đề xuất 05 nhóm giải pháp nâng cao vai
trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là những giải pháp khoa học, hoàn toàn có
thể được nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng ở mức độ nhất định đối với thực tiễn hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng của
lực lượng Cảnh sát nhân dân.
Trên đây là những kết quả mà đề tài đạt được qua quá trình nghiên cứu về lý
luận và thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Tác giả rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và các bạn đồng
nghiệp để có thể nghiên cứu vấn đề này sâu sắc hơn trong thời gian sắp tới./.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020.
4. Báo cáo tình hình và kết quả công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc các năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020 của Công an thành phố Đà Nẵng.
5. Báo cáo tình hình, kết quả công tác đảm bảo an ninh trật tự các năm 2016, 2017,
2018, 2019, 2020 của Công an thành phố Đà Nẵng.
6. Mai Bộ (2007), Tội cướp giật tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
7. Lê Cảm (2001), Nhân thân người phạm tội, một số vấn đề lý luận cơ bản, Tạp chí
Tòa án nhân dân (số 10), Hà Nội.
8. Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới”.
9. Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”.
10. Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới”.
11. Chỉ thị số 09/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới”.
12. Nguyễn Xuân Dũng (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án cướp
giật tài sản chưa rõ thủ phạm của Công an các Quận, Huyện Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học CSND, Thành phố Hồ Chí
Minh.
13. Trần Văn Hiệp (2014), Tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Trần Văn Hiệp (2014), Tìm hiểu về cấu thành tội phạm của tội cướp giật tài
sản, Tạp chí Khoa học Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học CSND, Thành phố
Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những
điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất
bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Dương Tuyết Miên (2005) Nạn nhân của tội phạm dưới góc độ tội phạm học,
Tạp chí Tòa án nhân dân (số 20), Hà Nội.
17. Bùi Xuân Nam (2013), Phòng Ngừa tội cướp giật tài sản do người chưa thành
niên thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Linh (2018), Vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình
sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014.
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014.
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Công an nhân
dân năm 2018.
25. Lê Văn Thắng (2011), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh sát
khu vực Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học CSND, Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Phạm Văn Trung (2017), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:
Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Đỗ Tất Minh Tuấn (2012), Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với
lực lượng CSĐTTP về TTXH trong điều tra, truy tố vụ án cướp giật tài sản trên
địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học CSND,
Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Nguyễn Văn Thái (2011), Điều tra tội phạm cướp giật tài sản người nước ngoài
của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Thành phố
Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học CSND, Thành phố Hồ
Chí Minh.
29. Đỗ Ngọc Quang (1993), Giáo trình tội phạm học đại cương, Trường Đại học
tổng hợp Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học tổng hợp, Hà Nội.
30. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam: Phần các tội phạm,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình xã hội học pháp luật – Những vấn đề cơ bản,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
33. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Nguyễn Xuân Yêm (2005), Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Nguyễn Hải Yến (2013), Phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành
phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
36. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội
PHỤ LỤC
BẢNG 2.1: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM ĐIỂN HÌNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ
KHÁM PHÁ TỔNG SỐ TT TỘI DANH VỤ Số vụ Tỉ lệ Số đối tượng
107 106 01 Giết người 99,1% 175
325 310 02 Cố ý gây thương tích 95,38% 604
09 09 03 Hiếp dâm trẻ em 100% 09
46 41 04 Cướp tài sản 89,13% 72
1327 1062 05 Trộm cắp tài sản 80,03% 1389
155 92 06 Cướp giật tài sản 59,35% 120
483 434 07 Án khác 89,85% 874
2447 2054 TỔNG CỘNG 83,93% 3243
Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.2: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ
KHÁM PHÁ
TT NĂM TỔNG SỐ VỤ
Tỉ lệ Số đối tượng Số vụ
2016 558 81,5% 702 445 1
2017 532 83,1% 677 442 2
2018 517 84,3% 695 436 3
2019 467 85,7% 622 400 4
2020 375 85,6% 557 321 5
TỔNG CỘNG 2447 2054 83,93% 3253
Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.3: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ
KHÁM PHÁ TỔNG SỐ VỤ TỔNG SỐ TT NĂM CƯỚP GIẬT Tỉ lệ Số đối VỤ Tỉ lệ Số vụ TÀI SẢN tượng
1 2016 558 33 5,9% 60,6% 29 20
2 2017 532 36 6,7% 66,7% 36 24
3 2018 517 33 6,4% 57,6% 28 19
4 2019 467 31 6,3% 45,2% 17 14
5 2020 375 18 4,8% 83,3% 10 15
92 TỔNG CỘNG 2447 151 6,17% 60,9% 120
Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.4: THỐNG KÊ ĐỊA BÀN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Quận Hải Châu Quận Thanh Khê Quận Sơn Trà Quận Liên Chiểu Quận Ngũ Hành Sơn Quận Cẩm Lệ Huyện Hòa Vang
Năm
Số vụ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tổng số vụ cướp giật tài sản
6 7 18,2% 21,2% 4 4 12,1% 2 6,1% 1 12,1% 3,0% 9 27,2% 33 2016
4 9 11,1% 25%% 3 6 16,6% 3 8,3% 3 8,3% 8,3% 8 22,2% 36 2017
5 5 15,1% 15,1% 2 8 24,2% 4 12,1% 3 6,1% 9,1% 6 18,2% 33 2018
5 6 16,1% 19,3% 3 6 19,3% 2 6,4% 2 9,7% 6,4% 7 22,5% 31 2019
3 6 16,7% 33,3% 3 2 11,1% 1 5,6% 0 16,7% 0% 3 16,7% 18 2020
151 33 21,8% 23 15,5% 33 21,8% 15 10,3% 26 17,3% 11 7,5% 10 6,8% Tổng cộng
Nguồn Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.5: THỐNG KÊ THỜI GIAN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Từ 00h00– 06h00 Từ 06h00 – 18h00 Từ 18h00 - 24h00 Năm Tổng số vụ cướp giật tài sản Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ
6 18,2% 11 33,3% 16 48,5% 2016 33
7 19,4% 10 27,8% 19 52,8% 2017 36
8 24,2% 8 24,2% 17 51,6% 2018 33
8 25,8% 10 32,3% 13 41,9% 2019 31
4 22,2% 6 33,3% 8 44,5% 2020 18
45 29,8% 73 48,3% Tổng cộng 151 33 21,8%
Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.6: THỐNG KÊ LOẠI TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Loại tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ cướp giật tài sản
Túi xách Tài sản khác Điện thoại di động Dây chuyền vàng Năm Máy tính xách tay, máy ảnh, Ipad, Tổng số vụ cướp giật tài sản
Số vụ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tỷ lệ
33 21,2 13 6 39,4 18,2 4 5 15,1 12,1 7 2016
36 13,9 14 12 38,9 33,3 2 3 8,3 55,6 5 2017
33 12,1 5 9 15,1 27,3 5 7 21,2 15,1 4 2018
31 16,1 9 29,03 11 35,5 3 3 9,7 9,7 5 2019
18 16,7 2 11,1 8 44,4 1 4 22,2 5,6 3 2020
Tổng cộng 151 24 15,6% 43 28,4% 47 31,1% 15 10% 22 14,5%
Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng