VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THIÊN HOÀNG

VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN

TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THIÊN HOÀNG

VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN

TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” là

công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là

trung thực. Nội dung cơ bản và những kiến nghị, đề xuất của luận văn là chưa được

công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn

học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện hàn lâm –

Viện khoa học và xã hội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện hàn lâm – Viện Khoa học và xã

hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thiên Hoàng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ

CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN .................................................................................... 6

1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ............................................... 6

1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản ........................................................................................................................................ 17

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT

NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI

SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................................................... 34

2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 34

2.2. Thực trạng các hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 51

2.3. Nhận xét, đánh giá về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng............................ 61

CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC

LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................... 66

3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 66

3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................ 70

KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đà Nẵng là thành phố lớn nhất khu vực miền Trung - Tây Nguyên, nằm

trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, đóng vai trò hạt nhân, quan trọng

trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng là một trong năm thành

phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I, trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải

Phòng và Cần Thơ. Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh

vực; với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội, công nghiệp, tài chính, du

lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ,

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước;

trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, cùng với quá

trình phát triển và thành tựu đã đạt được, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng diễn biến hết sức phức

tạp, khó lường, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đảm bảo an ninh trật tự, an toàn

xã hội và đời sống của nhân dân.

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ năm

2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố xảy ra 151 vụ án cướp giật tài sản, đã

điều tra, khám phá 92 vụ, với 120 đối tượng. Nhìn chung, số lượng các vụ án cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số vụ

phạm pháp hình sự nhưng lại có những diễn biến khá phức tạp, khó lường, tính chất,

mức độ phạm tội hết sức tinh vi, xảo quyệt, thành phần đối tượng phạm tội rất đa

dạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an tòa xã hội, gây

căm phẫn, bất bình trong quần chúng nhân dân. Mặc dù trong thời gian qua, các cơ

quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội có rất nhiều hoạt động phòng ngừa, đấu

tranh các loại tội phạm nhưng tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng vẫn đang là mối lo ngại lớn của toàn xã hội.

Có thể khẳng định, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của

các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp làm

giảm, hạn chế và từng bước loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội cướp giật tài sản nhằm hướng đến mục đích ngăn chặn, loại trừ tội cướp

1

giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội. Như vậy, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản là hoạt động rất đa dạng, phức tạp với sự tham gia của nhiều lực lượng, tổ chức

xã hội. Tuy nhiên, trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trò nòng

cốt, xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh

sát nhân dân. Những năm qua, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được thể

hiện trên nhiều phương diện, lĩnh vực, hoạt động cụ thể, kết quả đạt được rất đáng

khích lệ. Mặc dù vậy, một số nội dung hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh

sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như công tác tham mưu,

hướng dẫn; công tác tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát; công tác điều tra,

khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh

sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định cần có sự nghiên cứu thấu đáo, khoa

học và hết sức thực hiện để từng bước nâng cao hiệu quả. Với mục đích nghiên cứu

để có những hiểu biết sâu sắc về lý luận cũng như thực tiễn thể hiện vai trò của lực

lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng những năm qua, đánh giá đúng đắn toàn diện về thực trạng, trên

cơ sở đó đề xuất các giải pháp, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng

Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành tội phạm học và

phòng ngừa tội phạm.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản nói riêng, đến nay đã có một số công trình tiếp cận nghiên

cứu dưới những góc độ và khía cạnh khác nhau, tiêu biểu như:

- Nguyễn Văn Thái (2011), Điều tra tội phạm cướp giật tài sản người nước

ngoài của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Thành

phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân,

Thành phố Hồ Chí Minh [24];

- Đặng Thúy Quỳnh (2013), Đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản ở

2

nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [23];

- Phạm Văn Trung (2017), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [26] …

Có thể nhận thấy, kết quả của các công trình liên quan đến vấn đề nghiên

cứu là tương đối phong phú. Mặc dù vậy, các công trình này chỉ mới dừng lại ở việc

nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa, điều tra, hoặc các chiến thuật được áp dụng

trong quá trình điều tra đối với một loại tội phạm nhất định hay tiếp cận nghiên cứu

dưới những góc độ, khía cạnh không giống nhau xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ đã

đặt ra. Đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về Vai trò của lực

lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn áp

dụng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân

dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng, đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ:

- Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của

lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản;

- Nghiên cứu khảo sát làm rõ thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng;

- Dự báo tình hình và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng

Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng.

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

- Phạm vi chủ thể: Lực lượng Cảnh sát nhân dân.

- Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng.

- Phạm vi thời gian: Các số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ năm

2016 đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh

phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; dựa

trên những thành tựu của các ngành khoa học như: Triết học, Tội phạm học và Điều

tra tội phạm, Tâm lý học, Xã hội học, Luật học...

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để thu thập, xử lý và phân

tích số liệu về tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm

2016 đến năm 2020.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết thực tiễn các hoạt động thể hiện

vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thông qua báo cáo tổng kết, các chuyên đề về

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ các thông tin, tài liệu thu thập được,

tiến hành phân tích để làm rõ tình hình, đặc điểm đặc trưng của tội phạm cướp giật

tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020. Đánh giá thực

trạng thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có liên

quan đến đề tài nghiên cứu, phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ

thực tiễn của đề tài sẽ được đề đề cập trong chương 1.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tập trung nghiên cứu 35 bản kết luận

điều tra và 35 bản án về tội cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020.

- Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến các nhà khoa học có chuyên môn sâu

về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả Luận văn sẽ là tài liệu nghiên cứu của cán bộ, giáo viên, học viên

các cơ sở đào tạo về luật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trong thực tế, kết quả Luận văn đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của lực

lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng những năm tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận

văn được cấu trúc làm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của lực lượng Cảnh

sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân

dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

5

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA

LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

1.1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, yêu cầu và nguyên tắc phòng ngừa tình hình

tội cướp giật tài sản

1.1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Có thể khẳng định, để xây dựng được khái niệm về phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản cần xuất phát và dựa trên nền tảng tri thức về phòng ngừa tội phạm

nói chung, gắn liền với đặc trưng về loại tội phạm cướp giật tài sản. Tiếp cận nghiên

cứu các công trình khoa học đã được công bố về lĩnh vực tội phạm học và phòng

ngừa tội phạm cho thấy, đến nay xung quanh khái niệm phòng ngừa tội phạm tồn tại

một số quan niệm điển hình, chẳng hạn:

Theo GS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì: Phòng ngừa tội phạm là không để tội

phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để cho con người sống trong xã hội

phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp. Nếu một

người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu hình phạt theo

quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp thời, điều tra

khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp quản lý, giáo

dục và cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội [32].

Theo Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học CSND năm 2008 thì:

Phòng ngừa tội phạm không chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên nhân

và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả những

hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm, truy tố, xét xử

nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người phạm tội trở

thành người công dân có ích cho xã hội. Truy cứu trách nhiệm hình sự cũng là một

hình thức phòng ngừa tội phạm chủ động và có hiệu quả. Việc trừng trị người phạm

tội và ngăn chặn không cho họ thực hiện hành vi phạm tội mới còn có ý nghĩa tác

6

động đối với những người xung quanh, khiến cho họ từ bỏ ý định phạm tội, từ bỏ sự

chuẩn bị hay tiến hành một tội phạm nào đó. Việc truy tố, xét xử và buộc người

phạm tội phải chịu một hình phạt không những có ý nghĩa phòng ngừa cá biệt mà

còn có ý nghĩa phòng ngừa chung.... Tuy nhiên, phòng ngừa tội phạm còn được thể

hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, xóa bỏ các nguyên nhân và điều

kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích cực cho sự phát triển, hoàn thiện nhân

cách con người. Như vậy, phòng ngừa tội phạm không những ngăn ngừa tội phạm

xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội và giáo dục cải tạo họ thành công dân có ích

cho xã hội.

Giáo trình Tội phạm học của GS.TS Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội

phạm theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời

phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải

tạo giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không cho tội phạm xảy ra, không để cho

tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải chịu

hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong

công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội [29]. Như vậy,

theo quan niệm này công tác phòng ngừa tội phạm khác với công tác điều tra khám

phá, xử lý tội phạm.

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống

nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội

nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa

(làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội

phạm[28]. Phòng ngừa tội phạm là hoạt động được tiến hành bằng nhiều biện pháp

để phát hiện nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, nhằm xóa bỏ, hạn chế hoặc làm

mất tác dụng của nó, không để tội phạm xảy ra, tiến tới thủ tiêu hiện tượng tội phạm

trong xã hội tương lai; đồng thời cũng tức là không để tội phạm xảy ra và gây nên

những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải

chịu hình phạt. Nếu tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện xử lý để bảo đảm

cho người phạm tội không thể tránh khỏi hình phạt, không để lọt tội phạm, tiến

7

hành giáo dục và cải tạo những người phạm tội trở thành những công dân có ích cho

xã hội.

Từ việc tiếp thu những luận cứ khoa học nêu trên, xuất phát từ đặc điểm đặc

trưng của tình hình tội cướp giật tài sản, tác giả cho rằng: Phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và

mọi công dân bằng nhiều biện pháp khác nhau hướng đến loại trừ, triệt tiêu những

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nhằm ngăn chặn, hạn

chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.

1.1.1.2. Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Có thể khẳng định, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là nhiệm vụ

cấp bách, hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật

tự an toàn xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội và cuộc sống thường

ngày của người dân.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động hết sức đặc thù, bởi lẽ

nó được tiến hành đối với một loại tội phạm đặc thù, với đối tượng đặc thù và trên

địa bàn rất đặc thù.

Nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản gồm:

+ Làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, tức là

xác định cho được những hiện tượng xã hội tiêu cực làm hình thành nên động cơ

thúc đẩy một cá nhân thực hiện hành vi phạm tội và những yếu tố xã hội làm hình

thành nhu cầu lợi ích, định hướng giá trị xã hội lệch lạc cùng với những yếu tố tạo

thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Các hiện tượng xã

hội tiêu cực làm nảy sinh hoặc tạo thuận lợi cho tình hình tội cướp giật tài sản xảy

ra trong thực tế rất phức tạp, có sự đan xen vào nhau; mặt khác nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội cướp giật tài sản không thể tách rời nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm nói chung. Vì vậy, đề cập đến nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội cướp giật tài sản, có thể tiếp cận, nghiên cứu, phân tích, luận giải, xem

xét những hiện tượng xã hội tiêu cực đóng vai trò làm phát sinh tội phạm nói chung.

+ Đề xuất các phương pháp, giải pháp phòng ngừa cụ thể:

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp

8

giật tài sản thì nhiệm vụ tiếp theo của phòng ngừa tình hình tội phạm đó là soạn

thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp nhằm tác động làm mất đi các nguyên

nhân, điều kiện.

+ Tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản:

Tiếp đến là tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

bằng việc nghiên cứu nắm vững các đặc điểm, quy luật hình thành ý định, động cơ,

mục đích phạm tội, phương thức thủ đoạn hoạt động của đối tượng phạm tội; lập kế

hoạch phòng ngừa, đề xuất các biện pháp phòng ngừa gắn với xây dựng môi trường

giáo dục nhân cách, trong việc quản lý con người, quản lý đối tượng có nguy cơ

phạm tội, trong ngăn chặn tội phạm, xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa

các cấp, các đơn vị cụ thể trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; đề xuất,

kiến nghị ban hành các chủ trương, các văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả

phòng ngừa. Ở phạm vi, cấp độ chung nhất, hoạt động phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản có thể bao gồm các biện pháp như: Tăng cường giáo dục, tuyên

truyền nếp sống lành mạnh; loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của các tệ nạn xã hội; tăng

cường công tác quản lý an ninh trật tự, quản lý xã hội; giải quyết việc làm cho

những người trong độ tuổi lao động; phát động phong trào nâng cao ý thức trách

nhiệm đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản trong nhân dân; tăng

cường công tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản của các cơ

quan bảo vệ pháp luật.

+ Xây dựng được chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động:

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là chủ đề nhận được sự quan tâm

của đông đảo người dân, của toàn bộ hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở thời gian

vừa qua, hiện tại và trong những năm sắp tới. Chính vì thế, cần phải xây dựng được

chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động cụ thể, chi tiết, huy động sức

mạnh của toàn xã hội, của mỗi nhà trường, gia đình trong việc thực hiện đồng bộ các

biện pháp nhằm ngăn chặn tình hình tội cướp giật tài sản trong thực tiễn đời sống xã

hội.

1.1.1.3. Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải đặt dưới sự lãnh

9

đạo trực tiếp, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành

dưới sự chủ trì của Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, là

lực lượng chủ công, chịu trách nhiệm chính trong xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt

động phòng ngừa, đầu mối gắn kết các chủ thể khác.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành

một cách thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải có sự tham gia

phối hợp của tất cả các chủ thể, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị,

của toàn xã hội, đặc biệt là phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cần được tiến hành toàn

diện, đồng bộ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp

vụ. Đồng thời, cần được đảm bảo về nhân sự và nguồn kinh phí cũng như cơ sở

pháp lý, cơ chế phối hợp cần thiết.

1.1.1.4. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông thì, nguyên tắc là những quy định, phép

tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, làm chỗ dựa để xem xét, làm việc [36]. Như vậy, nguyên

tắc là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hoạt động của con người, chỉ đạo

mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội. Hoạt động

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản muốn đạt kết quả tốt phải được tiến hành

trên cơ sở quán triệt và tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành dựa trên cơ sở

quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,

bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, duy trì trật tự an toàn xã hội.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải chú trọng làm tốt công tác

tham mưu cho các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong

việc huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó Công an

nhân dân, Viện Kiểm sát, Tòa án giữ vai trò nòng cốt, xung kích, đi đầu.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải triệt để khai thác, phát huy

hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các

10

ban ngành đoàn thể trong đề xuất và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc tăng cường

công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, vận động quyền chúng nhân dân cùng

tham gia.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc nâng cao

hiệu quả công tác điều tra, khám phá và xử lý nghiêm khắc, nhanh chóng, kịp thời

mọi hành vi phạm tội cướp giật tài sản.

1.1.2. Chủ thể tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản không chỉ do lực lượng

Công an nhân dân đảm nhận mà đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều

cấp, nhiều lực lượng, của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ

chức quần chúng và mọi công dân. Nhưng do chức năng, nhiệm vụ, vị trí hoạt động

của từng ngành, từng cấp, từng lực lượng khác nhau nên vai trò và việc thực hiện

nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản có sự khác nhau [35]. Cụ thể:

1.1.2.1. Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân)

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà

nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện

quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và

giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh việc xây dựng và ban

hành chính sách, pháp luật về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, Quốc hội

còn tiến hành giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng chống

tội phạm.

Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn cụ

thể, các cấp ủy Đảng giữ vai trò lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tội phạm, nghe báo

cáo của các ngành, các lực lượng về tình hình tình hình tội cướp giật tài sản xảy ra

trong phạm vi lĩnh vực, địa phương của mình, đề ra chủ trương, phương hướng hoạt

động phòng ngừa có hiệu quả. Đồng thời, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng ngừa

tình hình tội cướp giật tài sản để có sự lãnh đạo kịp thời, sửa chữa, khắc phục những

11

sai lầm, thiếu sót trong quản lý xã hội, kinh doanh, sản xuất, sử dụng lao động, đảm

bảo cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đi đúng hướng, thiết

thực và đạt hiệu quả cao.

Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định

hướng đến năm 2030 đề ra các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp

tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản. Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

các cấp tại từng địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn, thời kỳ chủ

động ban hành các văn bản pháp luật phục vụ có hiệu quả công tác phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản.

Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có

thẩm quyền ra các nghị quyết chỉ đạo, tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm nói

chung cũng như hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng. Vì

vậy, Hội đồng nhân dân được coi là chủ thể quan trọng trong hoạt động phòng ngừa

tình hình tội cướp giật tài sản. Hội đồng nhân dân tham gia vào chương trình quốc

gia phòng, chống tội phạm, tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát

triển kinh tế xã hội liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm; chỉ đạo việc thực

hiện chương trình phòng ngừa tội phạm trong phạm vi địa phương mình quản lý.

Thành lập và lãnh đạo các tổ chuyên trách phòng ngừa tội phạm, hướng dẫn, tổ

chức các tập thể, quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động giáo dục, giám

sát các đối tượng có biểu hiện tiêu cực, người có tiền án, tiền sự đang sinh sống

hoặc cư trú trên địa bàn mà địa phương quản lý, kịp thời giải quyết những mâu

thuẫn trong cuộc sống của cộng đồng dân cư, ngăn chặn được các hành vi tiêu cực

dễ dẫn đến việc nảy sinh tội phạm cướp giật tài sản.

Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong hệ

thống hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan

hành chính nhà nước địa phương, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân các

cấp, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nước ở Trung ương.

12

1.1.2.2. Chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án)

Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án là những thiết chế có nhiệm vụ trực

tiếp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cướp giật tài sản, giữ gìn an ninh

chính trị, trật tự và an toàn xã hội.

Điều 67 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy

định: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo

đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm” [19].

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Trong phạm vi trách nhiệm của

mình, cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp

với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội

phạm [20]. Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không

thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi phạm tội xảy ra trong cơ

quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tổ

chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia

đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách

nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện

phạm tội, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc

phục và phòng ngừa.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân là cơ

quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp [22]. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, Tòa án nhân dân phối

hợp với cơ quan, tổ chức phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa và tạo điều kiện

thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân

dân cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp

13

luật về phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật

tự an toàn xã hội. Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định,

Tòa án nhân dân kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục

nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ

chức đó. Cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm thực hiện và trong

thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị phải thông báo cho Tòa án về kết

quả giải quyết kiến nghị.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát

nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [23]. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo

vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống

nhất. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án,

Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nước khác, Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm có

hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật; phổ

biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp

luật [18].

Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: Công an nhân dân là lực lượng

vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia,

bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp

luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [24]. Công an nhân dân có chức

năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an

toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc

gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia,

bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp

luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu,

hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an

ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

14

Xuất phát từ các cơ sở pháp lý đó, cụ thể trên thực tiễn:

+ Cơ quan Công an tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực mà mình có trách nhiệm quản lý thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát nghề,

nhân khẩu, hộ khẩu, vũ khí, phòng, chống cháy nổ…, quản lý các đối tượng có nhân

thân xấu, đối tượng hình sự “không vững vàng” trong cuộc sống để có biện pháp

phòng ngừa riêng, phối hợp, phát hiện, điều tra tội phạm đảm bảo không để lọt tội

phạm; truy nã người phạm tội bỏ trốn nhằm trốn tránh pháp luật; giám sát, giáo dục

người đang chấp hành án tại địa phương nơi người bị kết án cư trú hay tại cơ quan

chuyên môn; hướng dẫn các tổ chức tự quản ở địa phương nắm bắt các thao tác

nghiệp vụ, phương pháp thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm…. Hoạt

động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản của cơ quan Công an thực hiện chủ

yếu thông qua các hình thức cơ bản như: Tổ chức hoạt động và kế hoạch phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản tại khu vực mình phụ trách; quản lý chặt chẽ các

đối tượng hình sự, các đối tượng có tiền án, tiền sự; kịp thời truy nã các đối tượng

phạm tội còn lẩn trốn; phối hợp với các cơ quan hữu quan lên kế hoạch và thực hiện

kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; tổ chức và đào tạo hệ thống

chuyên gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản chuyên trách; phối hợp chặt

chẽ với Viện kiểm sát và Tòa án trong việc tuyên truyền, hướng dẫn và huy động

các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và Nhân dân vào hoạt động phòng ngừa, ngăn

chặn tình hình tội cướp giật tài sản.

+ Viện kiểm sát nhân dân với chức năng của mình, bên cạnh việc thực hành

quyền công tố trong các vụ án cướp giật tài sản, Viện kiểm sát còn kiểm sát việc

tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; giám sát việc thực hiện các biện

pháp và chương trình phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; kiểm tra, giám sát

công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội; phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp

luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản. Thông qua kiểm sát hoạt động điều tra cũng như trực tiếp điều tra các vụ án

cướp giật tài sản, Viện kiểm sát nhân dân xác định được nguyên nhân, điều kiện của

tình hình tình hình tội cướp giật tài sản và các đặc điểm thuộc nhân thân người

phạm tội, kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

15

+ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thông qua hoạt động xét xử và một số hoạt động khác, Tòa án góp phần

to lớn vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Vai trò của Tòa án

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thể hiện thông qua việc

xét xử các vụ án cướp giật tài sản, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội từ đó

áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục hoặc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân

khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội đó, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật

của mọi người trong xã hội, tạo điều kiện để công dân và tổ chức thực hiện các biện

pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đặc biệt, Tòa án nhân dân còn trực

tiếp đề xuất, kiến nghị với các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

các cấp về việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội liên quan đến phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

1.1.2.3. Chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Mặt

trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường)

Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, vai trò của Mặt

trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường có ý nghĩa to lớn và là nhân tố,

tiền đề để triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp, giải pháp phòng ngừa.

Điều 46 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia

bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh

hoạt công cộng” [19, tr.11].

Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy

định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà

nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng

cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo

vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan,

tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” [19,

tr.14].

Xuất phát từ đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao mà mỗi

thiết chế trong hệ thống thực hiện những công việc, phần việc cụ thể tạo thành hoạt

16

động chung nhằm hướng đến phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ở phạm vi

và mức độ khác nhau. Có thể khẳng định, trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản điều quan trọng và cần thiết là phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, thường

xuyên, liên tục giữa các chủ thể nêu trên. Việc phối hợp giữa các chủ thể để phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Một mặt

nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, tính tổ chức chặt chẽ trong

quá trình áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Mặt

khác, quá trình phối hợp cho phép tổng hợp, phân tích đánh giá toàn diện thông tin

về tình hình tội cướp giật tài sản, kết quả phòng, chống tình hình tội cướp giật tài

sản, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, sự phối

hợp giữa các chủ thể còn hướng vào việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục

sâu rộng cho quần chúng nhân dân về các quy định của Nhà nước liên quan đến

phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản để quần chúng không tham gia hoặc

tiếp tay, che giấu tình hình tội cướp giật tài sản, tích cực tham gia phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản góp phần tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước trên lĩnh

vực này.

1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản

1.2.1. Khái niệm vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ cực kỳ

quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng

phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do tính

chất rộng rãi và quan trọng của công cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ

gìn trật tự an toàn xã hội, cho nên nó đã trở thành nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng,

toàn dân, toàn quân. Tuy nhiên, trong chức năng của Nhà nước còn phải thực hiện

nhiều nhiệm vụ khác nhau như phát triển kinh tế, xây dựng quốc phòng, đối ngoại,

văn hóa, thể thao v.v... mà mỗi mặt nhiệm vụ đó đều có liên quan với nhau và liên

hệ động chạm tới quyền lợi quốc gia và quyền lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân

thành viên xã hội. Nhu cầu đó đòi hỏi Nhà nước tất yếu xây dựng củng cố những cơ

17

quan chuyên trách (hay vẫn gọi là cơ quan chức năng) và xác định cho nó những

chức năng nhiệm vụ cụ thể để đại diện Nhà nước tham gia điều hành quản lý trong

từng lĩnh vực cụ thể (tạo thành bộ máy cơ quan chuyên trách). Đối với mỗi Nhà

nước khác nhau do đặc điểm phát triển các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đặc

điểm mỗi thời kỳ khác nhau có thể được thành lập những cơ quan chuyên trách

khác nhau phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước [18].

Ở nước ta, lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là

một trong những lĩnh vực đặc biệt có những đặc trưng khác với các lĩnh vực quản lý

Nhà nước khác. Đó là một lĩnh vực tổng hợp bao hàm nhiều hoạt động khác nhau

như: hoạt động duy trì bảo vệ trật tự pháp luật (tuyên truyền pháp luật, kiểm tra

giám sát thực hiện pháp luật, điều tra xét xử các vụ án hình sự đã xảy ra...); là hoạt

động của các cơ quan tư pháp (Công an, Tòa án, Viện kiểm sát); tiến hành tổ chức

thực hiện những nhiệm vụ quản lý Nhà nước về an ninh trật tự (quản lý con người,

quản lý nghề nghiệp, phương tiện, trật tự an toàn xã hội...); là chức năng của cơ

quan hành pháp của Nhà nước, hoạt động đấu tranh chống tội phạm; trấn áp phản

cách mạng, bảo vệ biên giới v.v...; là hoạt động của cơ quan bạo lực chuyên chính

mang tính vũ trang (lực lượng vũ trang của Nhà nước). Từ những đặc trưng như

vậy, Nhà nước và Đảng ta ngay từ những ngày đầu thành lập đã giao phó trọng

trách cho lực lượng Công an nhân dân và các lực lượng chuyên chính khác thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Bác Hô đã nêu

trong Hồ Chí Minh - Giữ gìn an ninh trật tự - 10/10/1954: “Giữ gìn an ninh trật tự

trước hết là công việc của Công an, Bộ đội, Cảnh sát...”. Để xác định phân công

trách nhiệm cụ thể hơn người còn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Nói chuyện tại Hội

nghị Công an toàn quốc Lần thứ 10- 1/1956: “Nhân dân ta có hai lực lượng: Một là

quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực

lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc

chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình

thì tập luyện còn công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc có chiến tranh có

việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc. Còn chủ nghĩa đế quốc, còn giai cấp bóc lột

là còn bọn phá hoại. Chúng nhằm phá hoại các nước Xã hội chủ nghĩa... Vì vậy,

18

công việc Công an phải thường xuyên, không phải có từng đợt từng lúc”. Như vậy,

Bác Hồ và Đảng ta đã xác định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của mỗi công cụ bạo

lực: Quân đội và Công an. Khi xác định nhiệm vụ và phạm vi công tác của Công an

nhân dân Bác Hồ còn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Bài nói chuyện tại Hội nghị Cán

bộ ngành Công an 29/4/1963: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của

chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ Công an là cực kỳ quan trọng. Nó phải giữ

gìn trật tự trị an, bảo vệ cho Nhân dân ta an cư lạc nghiệp, để xây dựng thắng lợi

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất

nước nhà”.

Những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm của

Người về bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và vai trò vị trí của

ngành Công an nhân dân đã được Đảng ta quán triệt tiếp tục trong đường lối của

mình. Khi nói về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội,

trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ V (1982), Đảng ta chú trọng đến

việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân: “Để làm được nhiệm vụ đó, phải xây

dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thật sự là

công cụ sắc bén của chuyên chính vô sản, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với

Đảng, với Nhà nước và nhân dân, có lực lượng chuyên trách, chính qui hiện đại,

vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang

bị chuyên môn cần thiết, có cơ sở quần chúng rộng khắp đảm bảo hoàn thành xuất

sắc mọi nhiệm vụ… phối hợp tốt giữa các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tư pháp

trong việc tăng cường pháp chế; phối hợp tốt giữa lực lượng Công an nhân dân với

quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và lực lượng quần chúng trong việc giữ gìn an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội”. Từ những vấn đề đã nêu ra và phân tích trên

đây, có thể rút ra những kết luận như sau:

Thứ nhất: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội luôn luôn

là một lĩnh vực hoạt động quan trọng mang tính tất yếu của Đảng và Nhà nước ta,

nhằm góp phần đảm bảo thắng lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của

cách mạng Việt Nam.

Thứ hai: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã trở thành

19

một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong mỗi

giai đoạn phát triển của cách mạng, vì vậy nó đòi hỏi trách nhiệm tham gia của mọi

cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân.

Thứ ba: Nhiệm vụ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội do đặc

điểm riêng của nó là phải đấu tranh trấn áp đối với một số đối tượng ngoan cố nguy

hiểm là bọn phản cách mạng trong nước, các thế lực thù địch chống phá cách mạng

từ bên ngoài và các loại tội phạm xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội, vì vậy cần phải sử dụng đến các cơ quan bạo lực chuyên chính như: Công an,

Tòa án, Viện kiểm sát, Quân đội… Những cơ quan này là công cụ đặc biệt của

Đảng và Nhà nước trong đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn

xã hội.

Thứ tư: Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội tham gia đấu

tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thì cơ quan Công an

được Đảng và Nhà nước ta xác định là lực lượng nòng cốt xung kích, có trách

nhiệm tham mưu, hướng dẫn các lực lượng Nhà nước xã hội khác tham gia. Để thực

hiện được trọng trách đó, cơ quan Công an nhân dân phải xây dựng cho mình có lực

lượng mạnh mẽ đủ sức bảo vệ an ninh trật tự của đất nước, đồng thời cần phải phối

hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác đặc biệt là với hệ thống

cơ quan chuyên chính như: Tòa án, Viện kiểm sát và Quân đội nhân dân.

Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng trong hệ thống chuyên chính

vô sản, công cụ bạo lực trọng yếu của Nhà nước để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính

quyền nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân đã được hình

thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Xuất

thân từ những tổ chức “tự vệ đỏ”, “đội danh dự trừ gian” trước cách mạng do các tổ

chức Đảng cộng sản thành lập tổ chức, sau khi cách mạng thành công những tổ

chức này được xây dựng và củng cố ngày càng trưởng thành, hoàn thiện với quá

trình như sau: Ngày 21/02/1946 chủ tịch nước ra Sắc lệnh 23/SL thành lập Việt

Nam Công an vụ; ngày 16/02/1953 Sắc lệnh 141/SL đổi tên thành Thứ Bộ Công an;

đến tháng 8/1953 Chính phủ ra Nghị quyết thành lập Bộ Công an. Từ đó đến nay

ngành Công an luôn luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về việc

20

hoàn thiện bộ máy Công an nhân dân, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

phù hợp với tình hình thực tế của mỗi giai đoạn cách mạng. Sự quan tâm lãnh đạo,

chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an thể hiện, trước hết trong việc tổng kết

công tác đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

đề ra các chủ trương, nguyên tắc, biện pháp đấu tranh trong lĩnh vực này. Những

quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các Nghị quyết của Đảng như: Nghị

quyết 39/NQ/TW ngày 20/01/1962 về tăng cường đấu tranh chống phản cách mạng;

Nghị quyết 31/NQ/TW ngày 02/12/1980 về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội trong tình hình mới và các chỉ thị về từng mặt công tác đấu tranh

bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khác như chỉ thị về đấu tranh chống

tham nhũng, chỉ thị về đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội… Về mặt Nhà nước đã thông

qua và ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng để quy định về tổ chức, xây dựng

cơ cấu bộ máy Công an nhân dân, phân công chức năng, nhiệm vụ của ngành Công

an nhân dân. Đó là các văn bản như: Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân, pháp lệnh phòng

cháy, chữa cháy, pháp lệnh tình báo, Nghị định 32/CP, Nghị định 250/HĐBT, Nghị

định 37/1998/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ

Công an, Luật Công an nhân dân. Từ nội dung những văn bản trên đã tạo ra các cơ

sở lý luận và cơ sở pháp lý chỉ đạo hoạt động của ngành Công an nhân dân.

Như đã phân tích ở phần trên, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ

chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản. Đây là hoạt động đa dạng, phức tạp với sự tham gia đông đảo của các

lực lượng, tổ chức xã hội. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, cần

phải nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm cướp giật

tài sản; đề ra biện pháp phòng chống và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng

chống tội phạm cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản là việc sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng, nhiều biện pháp nhằm khắc phục

những sơ hở, thiếu sót không để đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có thể lợi

dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu những đặc điểm đặc trưng của tội

phạm cướp giật tài sản để thấy được những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh,

21

phát triển loại tội phạm này, từ đó khắc phục nhằm ngăn chặn không để cho chúng

có thể xảy ra. Trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trò nòng cốt,

xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh sát

nhân dân.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong sự

nghiệp bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Trong phạm vi chức năng của mình, lực lượng

Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi

phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội nhằm bảo vệ cuộc sống tự do, hạnh phúc,

lao động hoà bình của Nhân dân, tính mạng, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân, bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, tổ chức

xã hội; bảo vệ chế độ kinh tế, sở hữu xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng ý thức

tôn trọng pháp các lực lượng vũ trang khác và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã

hội và dựa vào sức mạnh của toàn dân để thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, các lực

lượng vũ trang, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân có trách nhiệm

cộng tác, giúp đỡ lực lượng Cảnh sát nhân dân làm tròn nhiệm vụ được giao.

Như vậy, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được pháp luật

quy định cho lực lượng Cảnh sát nhân dân và được triển khai tổ chức thực hiện trên

thực tế với một hệ thống tổ chức, bộ máy, trang bị phương tiện, kỹ thuật về chuyên

môn - nghiệp vụ và các phương tiện hoạt động khác nhằm loại trừ, triệt tiêu những

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản từ đó ngăn chặn, hạn

chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.

Vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình

tội cướp giật tài sản được thể hiện ở một số hoạt động cụ thể dưới đây:

- Một là, tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc xây

dựng các chủ trương, kế hoạch, biện pháp cụ thể để phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản.

- Hai là, thực hiện công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội,

tổ chức hướng dẫn và phối hợp các ngành, các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã

hội và mọi công dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

22

Nhà nước và các chương trình kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

- Ba là, trực tiếp tổ chức tiến hành các biện pháp cụ thể để phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản.

- Bốn là, tổ chức hoạt động điều tra phát hiện, làm rõ những vụ việc phạm tội

cướp giật tài sản đã xảy ra và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với

những người phạm tội; giai đoạn này so với giai đoạn trước thì mang tính đấu tranh

một cách thụ động, tức là khi có vụ việc phạm tội xảy ra mới tiến hành đấu tranh,

tuy nhiên đây cũng là hoạt động vô cùng cần thiết, không thể thiếu được, khi mà

trong điều kiện hiện nay chúng ta chưa thể xóa bỏ hoàn toàn nguyên nhân dẫn đến

phạm tội, chưa thể ngăn chặn một cách có hiệu quả tất cả các vụ việc phạm tội cướp

giật tài sản.

- Năm là, phối hợp giáo dục tổ chức vận động giữa quần chúng tham gia

trong các hoạt động phòng ngừa, điều tra khám phá tội phạm cướp giật tài sản.

- Sáu là, tiến hành công tác quản lý giáo dục, cải tạo những người phạm tội

hoặc vi phạm pháp luật khác, tạo điều kiện giúp đỡ từ bỏ con đường sai trái.

- Bảy là, phối hợp với các cơ quan tổ chức có liên quan trong phòng ngừa

tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân

dân đủ mạnh về các mặt chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, đủ điều kiện

thực hiện công tác phòng chống tội phạm cướp giật tài sản do Nhà nước giao phó.

1.2.2. Nhiệm vụ và trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Xuất phát từ yêu cầu của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, trên cơ

sở quy định của pháp luật về nhiệm vụ và trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát nhân

dân, khi thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, lực lượng

Cảnh sát nhân dân có các nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm cướp giật tài sản và các vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ

trật tự công cộng; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm cướp giật tài

sản và kiến nghị các biện pháp loại trừ những nguyên nhân, điều kiện đó.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện việc xử phạt hành chính đối với các

23

vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Cơ quan

điều tra của Lực lượng Cảnh sát nhân dân tiến hành theo các hoạt động điều tra và

đề nghị truy tố người phạm tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự

và tố tụng hình sự.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân bảo đảm thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam

đối với những người đã có quyết định tạm giữ, tạm giam; thi hành các bản án phạt

tù, trừ các bản án do các tổ chức trong Quân đội nhân dân đảm nhiệm; giáo dục, cải

tạo phạm nhân phạm tội cướp giật tài sản thành những công dân có ích cho xã hội;

quản lý, giáo dục những người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện áp giải bị can, bị cáo, bảo vệ các

phiên toà hình sự.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện các quy định của Nhà nước về quản

lý hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân; giúp Nhân dân tìm địa chỉ người thân, tìm

người bị lạc, người mất tích; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về

cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy;

đăng ký, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, trừ vũ khí, khí tài do Quân đội nhân dân quản

lý; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo quản, vận

chuyển, sử dụng chất nổ, chất dễ cháy, chất độc, chất phóng xạ; quản lý các nghề

kinh doanh đặc biệt do Chính phủ quy định.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã

hội và dựa vào sự giúp đỡ của mọi công dân để đấu tranh chống tội phạm cướp giật

tài sản, các tệ nạn xã hội, phòng ngừa tai nạn, thiên tai, dịch, họa; cứu giúp người bị

nạn; kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về giữ gìn vệ sinh công cộng, bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên, môi trường sống.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

thành viên của Mặt trận tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân ý thức tôn trọng pháp

luật, động viên và tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.

Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân khi làm nhiệm vụ được ưu tiên đi lại

bằng các phương tiện giao thông công cộng, được miễn cước phí giao thông trong

24

thành phố, thị xã; trong trường hợp cấp thiết để đuổi bắt người phạm tội quả tang

hoặc người đang có lệnh truy nã, để ngăn chặn hành động phạm tội đang được thực

hiện, cấp cứu người bị nạn, được sử dụng các phương tiện giao thông, thông tin liên

lạc của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân, kể cả người điều khiển

các phương tiện đó, trừ các phương tiện của cơ quan ngoại giao và phải hoàn trả

ngay khi tình huống cấp thiết không còn. Nếu các phương tiện bị hư hỏng hoặc bị

mất thì đơn vị Cảnh sát nhân dân hữu quan có trách nhiệm bồi thường.

Trong trường hợp cấp thiết, để thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát

nhân dân được tạm đình chỉ đi lại ở những đoạn đường nhất định và phải giải toả

ngay khi tình huống cấp thiết không còn; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ những việc làm

có hại đến trật tự, an toàn xã hội và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các

quyết định đó.

Đồng thời, phải thực hiện một số trách nhiệm sau đây:

Lực lượng Cảnh sát nhân dân chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong

khuôn khổ pháp luật.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng vũ

trang khác và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và dựa vào sức mạnh của

toàn dân để thực hiện nhiệm vụ. Các lực lượng vũ trang và cơ quan Nhà nước, tổ

chức xã hội và mỗi công dân có trách nhiệm cộng tác, giúp đỡ Lực lượng Cảnh sát

nhân dân làm tròn nhiệm vụ.

Chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân địa phương có trách nhiệm định kỳ

báo cáo với Hội đồng nhân dân và thường xuyên báo cáo với Uỷ ban nhân dân cùng

cấp về tình hình và công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, chịu sự chỉ

đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ trật tự, an

toàn xã hội ở địa phương.

Chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân địa phương có trách nhiệm báo cáo

với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về những vấn đề liên quan để phối

hợp vận động nhân dân bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời các

kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận về công tác

25

bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, về những việc làm trái pháp luật của cán bộ, chiến sĩ

Cảnh sát nhân dân.

Trong khi làm nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân phải mặc trang

phục cảnh sát, đeo số hiệu, nếu mặc thường phục phải xuất trình giấy chứng nhận

Cảnh sát nhân dân, khi có yêu cầu.

Các quyết định của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân xử lý vi phạm theo

thẩm quyền do pháp luật quy định có hiệu lực thi hành ngay. Nếu không đồng ý với

các quyết định của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, người bị xử lý có quyền

khiếu nại với chỉ huy trực tiếp của người đã ra quyết định. Khiếu nại đối với quyết

định của chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân cấp dưới được gửi đến chỉ huy Lực

lượng Cảnh sát nhân dân cấp trên. Chỉ huy Lực lượng Cảnh sát nhân dân cấp có

thẩm quyền phải giải quyết và thông báo kết quả cho người khiếu nại biết trong thời

hạn 15 ngày và nếu là trường hợp phức tạp thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi

nhận được khiếu nại.

Nếu phát hiện thấy quyết định của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân là trái

pháp luật thì chỉ huy của người đã ra quyết định phải huỷ bỏ ngay quyết định đó,

phục hồi các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm.

Trong trường hợp công dân được Lực lượng Cảnh sát nhân dân huy động

hoặc cùng Lực lượng Cảnh sát nhân dân tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội mà

bị thiệt hại về vật chất hoặc nếu cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân trong khi làm

nhiệm vụ mà gây thiệt hại về vật chất cho công dân thì người bị thiệt hại được đơn

vị Cảnh sát nhân dân hữu quan bồi thường; nếu bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe

thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ theo quy định.

1.2.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

1.2.3.1. Sự quan tâm xây dựng, lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các tổ chức

Đảng và chính quyền địa phương đối với việc thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh

sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Như đã trình bày ở trên, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng quan tâm

đến lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong mỗi thời

26

kỳ phát triển của cách mạng, coi đó là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng và

Nhà nước ta. Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước lại đặc biệt chú ý xây dựng lực

lượng Công an nhân dân (trong đó có lực lượng Cảnh sát nhân dân) về mọi mặt.

Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

Về vị trí của lực lượng Cảnh sát nhân dân đã được Đảng và Nhà nước khẳng

định là công cụ chuyên chính trọng yếu của Đảng và Nhà nước, lực lượng nòng cốt

xung kích trên mặt trận bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, là một trong

những lực lượng trọng yếu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Về cơ chế hoạt động: Lực lượng Cảnh sát nhân dân trực thuộc Bộ Công an,

đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp toàn diện về mọi mặt của Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ chính trị mà trực tiếp là Đảng ủy Công

an Trung ương và thống lĩnh của Chủ tịch nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam, trong mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng đã xác

định về phương hướng, đường lối công tác cho lực lượng Cảnh sát nhân dân, xác

định đối tượng và những chủ trương lớn trong lĩnh vực công tác của ngành. Những

vấn đề đó được đề cập trong các nghị quyết lãnh đạo đất nước nói chung và những

Nghị quyết chuyên đề về xây dựng lực lượng Công an (trong đó có lực lượng Cảnh

sát nhân dân), đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm.

Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chú ý chăm lo, củng cố lực lượng Cảnh

sát nhân dân trở thành lực lượng trong sạch, chính quy, tinh nhuệ, vững mạnh về

chính trị, tư tưởng, chuyên môn. Bác Hồ đã nói: “Đảng, Chính phủ rất chú ý đến

công tác của Công an và đến việc giáo dục cán bộ Công an, phải thấy Đảng, Chính

phủ hết sức chăm sóc đối với Công an”.

Việc lãnh đạo công tác Công an của Đảng được xác lập theo một cơ cấu chặt

chẽ từ cấp Trung ương đến các cấp cơ sở, mỗi cấp Công an đều được đặt dưới sự

lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng.

Nhà nước thường xuyên chăm lo về các điều kiện phương tiện và phục vụ

lực lượng Cảnh sát nhân dân hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đó là một trong

những điều kiện quan trọng đảm bảo cho lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện vai

trò nòng cốt của mình trong cuộc đấu tranh bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an

27

toàn xã hội nói chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.

1.2.3.2. Sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và quần

chúng nhân dân đối với việc thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Một trong những đặc điểm cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt

Nam là mang bản chất giai cấp công nhân, là con em Nhân dân, từ Nhân dân mà ra,

vì Nhân dân phục vụ. Hồ Chủ Tịch đã nhiều lần nhắc nhở “Công an là bạn dân”,

“nhiệm vụ của Công an là bảo vệ nhân dân, giữ gìn trật tự trị an…”, mặt khác, khi

lực lượng Cảnh sát nhân dân sử dụng lực lượng của mình để đấu tranh chống lại các

loại tội phạm, bảo vệ an ninh trật tự thì cũng là bảo vệ quyền lợi của Đảng, Nhà

nước và của Nhân dân.

Mọi hiện tượng tội phạm, mọi hiện tượng vi phạm pháp luật khác đang tồn

tại trong xã hội đều mang tính “tiêu cực”. Nó cản trở sự phát triển đi lên của cách

mạng, cản trở cuộc sống, hoạt động bình thường hàng ngày của Nhà nước và mỗi

người dân, vì vậy hiện tượng này thường bị Nhân dân căm ghét, lên án. Những

người dân, những cơ quan tổ chức của Nhà nước và xã hội nhận thức được điều đó,

vì vậy, trong hoạt động thực tế, họ sẽ rất nhiệt tình ủng hộ giúp đỡ lực lượng Cảnh

sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói

chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.

Trên cơ sở quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về sức mạnh to lớn

của quần chúng nhân dân, trong nhiều năm qua các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là

lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tiến hành những cuộc vận động tuyên truyền và tổ

chức Nhân dân, các ngành, các giới nhận thức đúng về vai trò của toàn dân tham gia

bảo vệ an ninh tổ quốc, tổ chức để họ biết cách tham gia đấu tranh hiệu quả trong

cuộc vận động này. Vì vậy, hiện nay ở nước ta, đã tạo được một phong trào quần

chúng rộng rãi tham gia trong công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội, phòng ngừa tội phạm. Đó là những phong trào bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa,

phong trào chống tham nhũng, phong trào phòng ngừa tệ nạn xã hội v.v… với nhiều

hình thức phong phú sinh động. Cần phải khẳng định sự tham gia tích cực của quần

chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là

28

một điều kiện thuận lợi to lớn của ngành Công an trong công tác này như Bác Hồ đã

dạy: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta hoàn toàn thì

thắng lợi hoàn toàn. Dân ta tốt, gặp trường hợp nguy hiểm, nếu Công an khéo léo

thì được dân giúp đỡ ngay”.

1.2.3.3. Hệ thống pháp luật quy định về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân

dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đầy đủ và hoàn thiện

Có thể khẳng định, việc phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là vấn đề thực sự có ý nghĩa chính

trị, xã hội, pháp lý và thực tiễn to lớn. Hoạt động này chỉ có thể thu được kết quả

nếu huy động được sức mạnh của toàn xã hội, sự tham gia và hưởng ứng tích cực

của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn, đặc biệt, phải có sự đầu tư, đãi

ngộ thích đáng về vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, kể cả đội ngũ những nhà khoa học,

chuyên gia pháp lý lẫn đội ngũ những người thực thi pháp luật và tổ chức các hoạt

động phòng ngừa. Và điều cốt yếu, phải xây dựng được hệ thống quy phạm pháp

luật thực sự đồng bộ, minh bạch, toàn diện, khả thi, cụ thể quy định và điều chỉnh

những vấn đề cơ bản trong quá trình thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân

dân nhằm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Có như vậy, vai trò của lực

lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản mới thực

sự được tiến hành với nền tảng pháp lý vững chắc, hiệu quả phòng ngừa đạt được

cao hơn, giá trị xã hội và ý nghĩa pháp lý của phòng ngừa thiết thực hơn, mọi biện

pháp phòng ngừa được tiến hành thực sự có trọng tâm, trọng điểm, có cơ sở khoa

học và thực tiễn, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra về mặt tổ chức, chủ thể, nguồn

lực, kinh phí, trang thiết bị trong quá trình phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản.

1.2.3.4. Bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ chiến sĩ Cảnh sát nhân dân vừa

hồng, vừa chuyên đáp ứng việc thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Để thực hiện và phát huy được một cách thường xuyên, liên tục vai trò của

lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, với tư

29

cách là lực lượng xung kích, nòng cốt, điều kiện tiên quyết cần phải hội đủ đó là

xây dựng được bộ máy tổ chức hợp lý, khoa học theo hướng Bộ tinh, tỉnh mạnh,

huyện toàn diện, xã bám cơ sở. Đồng thời, cần tiếp tục kế thừa và phát huy truyền

thống tốt đẹp của dân tộc, với bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân,

lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam luôn luôn trung thành tuyệt đối với Đảng,

Tổ quốc, với chính quyền cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, không

ngại hy sinh gian khổ, đoàn kết chặt chẽ, công tác tận tuỵ, chiến đấu dũng cảm, mưu

trí sáng tạo, nêu nhiều tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng hoàn

thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân và

toàn quân đánh bại nhiều loại tình báo, gián điệp, thám báo và các bọn phản động

tay sai; đập tan các âm mưu và hoạt động gây rối, gây bạo loạn, phá hoại và lật đổ

của bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác; bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia

trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do thống nhất đất nước cũng như trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải thực sự vừa

hồng, vừa chuyên, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Nhà nước, với Nhân dân.

Suốt đời hy sinh phấn đấu vì sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Luôn luôn mưu trí,

dũng cảm trong chiến đấu, công tác không quản ngại khó khăn gian khổ, hy sinh,

cảnh giác đánh thắng mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và

bọn tội phạm, có tinh thần phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang,

với các ngành và các đoàn thể quần chúng. Có phẩm chất đạo đức cách mạng trong

sáng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Có tinh thần hợp tác quốc tế, thuỷ

chung, trong sáng.

Trong mọi giai đoạn cách mạng, lực lượng Cảnh sát nhân dân luôn được

Đảng quan tâm tổ chức xây dựng thành một lực lượng tin cậy, sắc bén vững mạnh

về chính trị, tư tưởng và tổ chức; trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với

Nhân dân, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự; nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ và khoa học kỹ thuật, nắm tình hình địch và chủ động đánh

địch có hiệu quả, không ngừng nâng cao chất lượng công tác, chiến đấu. Trong mỗi

thời kỳ cách mạng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra đối với công tác

30

bảo vệ an ninh trật tự, Đảng kịp thời có những chủ trương, đường lối đúng đắn để

xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân về tổ chức cán bộ, về chính trị - tư tưởng…

giúp lực lượng Cảnh sát nhân dân có đủ những điều kiện cần thiết, tạo ra sức mạnh

tổng hợp hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đặt ra. Xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân

dân mang tính nhân dân sâu sắc, luôn dựa vào dân, tôn trọng và phát huy quyền làm

chủ tập thể của nhân dân lao động, hết lòng phục vụ nhân dân. Về tổ chức cán bộ,

được xây dựng theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả, đảm bảo về số lượng và

coi trọng về chất lượng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng và đòi hỏi của

cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia. Lựa chọn Công an trong những người trung

thành nhất với Đảng, chỉ biết còn Đảng còn mình. Bộ Công an đã thường xuyên

chăm lo, lựa chọn và bồi dưỡng từ đội ngũ cán bộ chiến sĩ đến cán bộ chỉ huy, cốt

cán trong Công an nhân dân để có đầy đủ những tiêu chí cần thiết, đặc biệt chăm lo

bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh, trình độ chính trị, tinh thần cảnh giác, cách

mạng tiến công, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ văn hoá, có tri thức

và kỹ năng nghiệp vụ, có sức khoẻ để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao

[28].

1.2.3.5. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho

thực hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản

Có thể khẳng định, hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản của

lực lượng Cảnh sát nhân dân chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong

đó, yếu tố quan trọng không thể không nhắc đến chính là điều kiện cơ sở vật chất,

trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác. Dẫu biết rằng, lực lượng Cảnh sát nhân

dân không ngại gian khổ, khó khăn, chấp nhận vất vả, thậm chí là cả tính mạng và

sức khỏe để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm và các

hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nếu có thể việc tạo

điều kiện thuận lợi hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ

cho quá trình công tác sẽ tiếp thêm động lực, sự nỗ lực, lòng quyết tâm và ý chí

vượt khó để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nói chung

và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.

31

1.2.3.6. Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản

nói riêng

Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự được thay đổi về

mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội

phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian

nhất định có tác động ảnh hưởng đến quá trình phòng ngừa tội phạm nói chung và

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng của lực lượng Cảnh sát nhân

dân. Chính vì vậy, để phát huy hiệu quả vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản việc nghiên cứu tìm hiểu, luận giải,

làm sáng tỏ bức tranh tổng thể của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội

cướp giật tài sản nói riêng trên các phương diện phần hiện của tội phạm bao gồm

thực trạng (mức độ), diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm cũng như

phần ẩn của tình hình tội phạm thực sự có ý nghĩa lý luận, chính trị, pháp lý sâu sắc

[30].

Kết luận Chương 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã tập trung hệ thống hóa, phân tích,

luận giải và đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, đề cập và

phân tích cơ sở, yêu cầu cũng như các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ rõ căn cứ phân loại và nội dung cụ thể của

các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, phân tích, chỉ rõ chủ thể

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản gồm: Chủ thể xây dựng chính sách, mục

tiêu, định hướng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng

nhân dân, Ủy ban nhân dân); chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện

hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm

sát, Tòa án); chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (mặt trận,

các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường). Đặc biệt, tác giả đã luận giải và làm

sáng tỏ khái niệm, nội dung vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, quyền và nghĩa vụ của lực lượng Cảnh sát nhân

dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, phân tích, chỉ rõ các yếu tố tác

32

động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản. Đây chính là nền tảng lý luận và pháp luật cho việc phân tích, luận

giải và đánh giá về thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng sẽ được đề cập

tại chương 2 của luận văn.

33

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN

TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng

2.1.1. Tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ

năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng xảy ra 2447 vụ phạm

pháp hình sự (Giết người: 107 vụ; Cố ý gây thương tích tích: 325 vụ; Hiếp dâm trẻ

em: 09 vụ; Cướp tài sản: 46 vụ; Cướp giật tài sản: 151 vụ; Trộm cắp tài sản: 1327

vụ; Án khác: 483 vụ), đã điều tra, khám phá 2054 vụ (chiếm tỷ lệ 83,93%), bắt giữ

3253 đối tượng [Xem bảng 2.1 – Phụ lục]. Cụ thể: Năm 2016 xảy ra 558 vụ phạm

pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 445 vụ (chiếm tỷ lệ 81,5%), bắt giữ 702 đối

tượng; Năm 2017 xảy ra 532 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 442 vụ

(chiếm tỷ lệ 83,1%), bắt giữ 677 đối tượng; Năm 2018 xảy ra 517 vụ phạm pháp

hình sự, đã điều tra, khám phá 436 vụ (chiếm tỷ lệ 84,3%), bắt giữ 695 đối tượng;

Năm 2019 xảy ra 467 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 400 vụ (chiếm

tỷ lệ 85,7%), bắt giữ 622 đối tượng; Năm 2020 xảy ra 375 vụ phạm pháp hình sự,

đã điều tra, khám phá 321 vụ (chiếm tỷ lệ 85,6%), bắt giữ 557 đối tượng; [Xem

bảng 2.2 – Phụ lục]. Như vậy, tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng có xu hướng giảm dần trong các năm về sau, nếu lấy số vụ phạm pháp

hình sự năm 2016 để làm mốc so sánh thì năm 2017 số vụ phạm pháp hình sự giảm

26 vụ, năm 2018 số vụ phạm pháp hình sự giảm 41 vụ, năm 2019 số vụ phạm pháp

hình sự giảm 91 vụ, năm 2020 số vụ phạm pháp hình sự giảm 183 vụ.

Bên cạnh đó, đối với tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

có chiều hướng phát triển, tập trung chủ yếu trong các nhà hàng, quán ăn, quán

34

Karaoke, khách sạn, quán Bar… và tổ chức hoạt động ngày càng kín đáo, tinh vi và

có hệ thống. Ngoài ra, thời gian qua xuất hiện hình thức hoạt động mại dâm qua

mạng Internet, các đối tượng môi giới và gái mại dâm sử dụng mạng xã hội như zalo,

facebook… để giới thiệu và tổ chức mua bán dâm. Tệ nạn cờ bạc diễn biến phức tạp,

chủ yếu là tệ nạn số đề, cá độ bóng đá, đá gà, đánh bài… xuất hiện hầu như ở khắp

các địa bàn, lôi kéo đủ các tầng lớp, các thành phần xã hội tham gia. Các đối tượng

lợi dụng địa điểm vắng vẻ ít người qua lại như khu du lịch, nghỉ dưỡng, xa khu dân

cư để tổ chức các ổ bài bạc lớn và thường xuyên thay đổi địa bàn hoạt động. Trong

những năm qua xuất hiện một số thủ đoạn sử dụng công nghệ cao để hoạt động phạm

tội đánh bạc tại nhiều quận, huyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với nhiều đối

tượng tham gia, thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp gây ảnh hưởng xấu đến tình

hình an ninh trật tự tại địa phương, điển hình năm 2019 và năm 2020, Công an thành

phố Đà Nẵng đã liên tiếp điều tra, khám phá, làm rõ 02 vụ cờ bạc sử dụng công nghệ

cao với số tiền lên đến hàng ngàn tỉ đồng [5]. Đặc biệt, thực tế cho thấy, tệ nạn cờ

bạc tạo môi trường phát triển thuận lợi cho hành vi cho vay lãi nặng, tín dụng đen,

bởi lẽ, để chuẩn bị chu đáo cho việc tổ chức các sòng bạc, xới bạc các đối tượng

không những chuẩn bị địa điểm kiên cố, có nhiều hàng rào bảo vệ, nhiều đối tượng

cảnh giới mà các đối tượng tổ chức còn có sự phân công vị trí, vai trò rất cụ thể, rõ

ràng, nhất là các đối tượng chuyên làm nhiệm vụ cò mồi, cho vay lãi nặng. Ở hình

thức lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết, các đối tượng cầm đầu cũng tổ chức rất kín

đáo, thành lập đường dây đòi nợ, xiết nợ gồm thành phần là những đối tượng hình sự

côn đồ, cộm cán, có nhiều tiền án, tiền sự. Bên cạnh đó, tín dụng đen hỗ trợ cho tệ

nạn cờ bạc duy trì hoạt động, bởi lẽ, bản chất của các đối tượng tổ chức đánh bạc là

lợi dụng vào các thủ đoạn gian dối, bịp bợm để được tiền từ người chơi bạc, do vậy,

nhằm thu hút các con bạc sát phạt nhau các đối tượng thường tổ chức các hoạt động

cho vay lãi nặng, tín dụng đen. Như vậy, tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng ngày càng diễn biến phức tạp, biến tướng dưới nhiều loại hình dịch vụ khác

nhau, thành phần độ tuổi của đối tượng ngày càng trẻ hóa, các đối tượng có nhiều

kinh nghiệm, thủ đoạn đối phó với các cơ quan chức năng. Từ tệ nạn xã hội dễ dàng

phát sinh, chuyển hóa sang hoạt động phạm pháp hình sự và ngược lại, ảnh hưởng

35

đến mọi mặt đời sống xã hội.

2.1.2. Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ

năm 2016 đến năm 2020

2.1.2.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ

năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng xảy ra xảy ra 151 vụ án

cướp giật tài sản, điều tra, khám phá 92 vụ với 120 đối tượng (chiếm tỷ lệ 6,17%

tổng số vụ phạm pháp hình sự). Cụ thể: Năm 2016 xảy ra 33 vụ, điều tra khám phá

20 vụ (chiếm tỉ lệ 60,6%) với 29 đối tượng; Năm 2017 xảy ra 36 vụ, điều tra khám

phá 24 vụ (chiếm tỉ lệ 66,7%) với 36 đối tượng; Năm 2018 xảy ra 33 vụ, điều tra

khám phá 19 vụ (chiếm tỉ lệ 57,6%) với 28 đối tượng; Năm 2019 xảy ra 31 vụ, điều

tra khám phá 14 vụ (chiếm tỉ lệ 45,2 %) với 17 đối tượng; Năm 2020 xảy ra 18 vụ,

điều tra khám phá 15 vụ (chiếm tỉ lệ 83,3%) với 10 đối tượng [Xem bảng 2.3 – Phụ

lục].

Nghiên cứu về tình hình bắt và xử lý tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, số vụ án bị đình chỉ hoặc

tạm đình chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số các vụ án đề nghị truy tố (92vụ, chiếm

tỷ lệ 60,9%) [Xem bảng 2.3 – Phụ lục]. Tuy nhiên, số liệu thống kê nêu trên có thể

chưa đầy đủ vì có những hành vi phạm tội cướp giật tài sản vẫn chưa được phát

hiện đưa vào thống kê hình sự bởi những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, xuất phát từ người bị hại và người làm chứng không báo tin cho cơ

quan chức năng, người bị hại còn ngại tiếp xúc với cơ quan Công an, sợ thủ tục

phiền hà, đi lại nhiều lần, tốn kém, mất thời gian. Đó là do người bị hại nhận thức

chưa đúng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm, và là do sự lơ là, chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm của một số

cán bộ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm của quần chúng nhân dân, gây

phiền hà, làm mất lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Mặt khác, do nhận thức chưa

đầy đủ của một bộ phận quần chúng nhân dân nên những vụ cướp giật tài sản mà

thiệt hại gây ra không đáng kể, người bị hại thường không khai báo. Những trường

36

hợp này, người bị hại thường có suy nghĩ nếu báo cho cơ quan Công an thì cũng

không được giải quyết, họ không tin vào khả năng tìm ra người phạm tội và tìm lại

được tài sản cho mình.

Thứ hai, các đối tượng thực hiện tội cướp giật tài sản có thủ đoạn gây án tinh

vi, có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ, thống nhất, chuẩn bị trước, tạo ra những

điều kiện, khả năng che giấu tội phạm, và tạo ra những trở ngại để tránh sự phát

hiện của cơ quan chức năng. Do đó, nhiều đối tượng phạm tội trước khi bị bắt

thường đã thực hiện rất nhiều vụ cướp giật tài sản khác mà không bị cơ quan chức

năng phát hiện, không bị tố giác, bắt giữ.

Thứ ba, bên cạnh những yếu tố tích cực từ hoạt động đấu tranh phòng, chống

tội cướp giật tài sản, tội phạm ẩn còn xuất phát từ chính các chủ thể có thẩm quyền

trong tiếp nhận thông tin tố giác tội phạm và giải quyết vụ án hình sự. Các cơ quan

này vẫn còn những biểu hiện lúng túng, thiếu tính chủ động trong tấn công tội

phạm, bị động trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Sự chủ quan, yếu kém trong

hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật là một trong các nguyên nhân dẫn đến

phần ẩn của tội cướp giật tài sản cao. Các vụ phạm tội được phát hiện chủ yếu là

nhờ nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân tố giác.

Thứ tư, một số hành vi phạm tội và người phạm tội đã bị xử lý về hình sự

nhưng không nằm trong thống kê hình sự bởi quy định của pháp luật hiện hành về

thống kê hình sự, theo đó đối với trường hợp phạm nhiều tội và bị đưa ra xét xử

cùng một lúc thì khi thống kê chỉ cần thống kê vụ án có tội danh nặng nhất. Ngoài

ra, kỹ thuật thống kê còn bị động, nhiều địa phương, cơ quan không đưa một số vụ

án vào số liệu thống kê hoặc do sai sót của cán bộ thống kê.

2.1.2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ năm

2016 đến năm 2020, tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn tăng, giảm không theo

quy luật, nhưng nhìn chung có xu hướng giảm trong các năm về sau (cả về số vụ và

số đối tượng phạm tội). Nếu lấy năm 2016 làm mốc để so sánh thì năm 2017 tăng 03

vụ, năm 2018 bằng số vụ, năm 2019 giảm 02 vụ, năm 2020 giảm 15 vụ.

37

Như vậy, trong những năm gần đây tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng đang có xu hướng giảm nhưng không bền vững, xuất phát

từ những lý do sau:

Trong những năm qua thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thành

phố Đà Nẵng đã vượt qua được nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành

tựu to lớn, bộ mặt thành phố thay đổi rõ rệt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân được cải thiệt và không ngừng nâng cao. Công an thành phố đã ban hành nhiều

chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc các

quy định của Bộ Công an, Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố

liên quan đến công tác tuần tra, phòng chống tội phạm cướp giật tài sản, duy trì chế

độ thông tin liên lạc giữa các lực lượng trong suốt quá trình hoạt động, đảm bảo mọi

thông tin được truyền tải về Trung tâm chỉ huy của Công an thành phố. Tuy nhiên,

bên cạnh những mặt tích cực mang lại thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường

cũng làm cho tội phạm phát sinh, tình hình tội phạm phức tạp, trong đó có tình hình

tội cướp giật tài sản.

Thành phố Đà Nẵng với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của khu

vực Miền trung – Tây nguyên, có nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp và khu công

nghệ cao đã thu hút một số lượng lớn nguồn nhân lực, nguồn lao động từ nông thôn

tập trung về các thành phố lớn, và từ các khu vực khác về Đà Nẵng đã tạo ra nhiều

áp lực về giải quyết việc làm, chỗ ở, điều kiện sinh hoạt... cho người dân. Cơ cấu

dân cư đa dạng, phức tạp, cùng với chính sách giải quyết việc làm cho người đang

trong độ tuổi lao động còn hạn chế dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng nhiều.

Vì vậy, các hiện tượng xã hội tiêu cực kết hợp với tình trạng thất nghiệp, thiếu việc

làm cũng là một trong những nguyên nhân khiến tình hình tội cướp giật tài sản có

chiều hướng gia tăng trong những năm tới.

Đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác phòng ngừa tội phạm cướp giật

tài sản những năm gần đây có thay đổi về mô hình tổ chức nhưng vẫn được duy trì

theo chức năng của lực lượng Cảnh sát Hình sự, được bố trí chỉ huy, cán bộ được

đào tạo bài bản, qua trường lớp, có chiều sâu về nghiệp vụ phòng chống tội phạm

nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng. Bên cạnh đó biên chế lực lượng

38

chuyên trách vẫn còn thiếu, công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự trong một

số lĩnh vực, nhất là công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu còn sơ hở, đặc biệt là

những khu vực gần các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, những

khu vực tập trung nhiều dân nhập cư, tập trung nhiều nhà hàng, khu vui chơi giải trí,

khu vực giáp ranh... đã tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm pháp sinh, phát triển,

đặc biệt là tội cướp giật tài sản [5].

2.1.2.3. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020

- Cơ cấu trong tương quan với tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020, tỷ trọng tội cướp giật tài sản chiếm

tỷ lệ không cao, cụ thể: Từ năm 2016 đến năm 2020, trong tổng số 2447 vụ phạm

pháp hình sự, có 151 vụ án cướp giật tài sản, chiếm tỷ lệ 06,17% [Xem bảng 2.3 –

Phụ lục]. Có thể khẳng định, mặc dù chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số các vụ

phạm pháp hình sự, nhưng tình hình tội phạm cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng những năm qua lại gây ra nhiều hậu quả và hệ lụy xấu trên

nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, tạo ra trạng thái tâm lý căm phẫn, bất

bình và lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến các giá trị truyền

thống, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

- Cơ cấu tình hình tội phạm cướp giật tài sản theo đơn vị hành chính cấp

quận, huyện của thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, số vụ án

cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chủ yếu tập trung vào một

số quận, huyện như: Hải Châu (chiếm 21,8%), Thanh Khê (chiếm 15,5%), Sơn Trà

(chiếm 21,8%), Ngũ Hành Sơn (chiếm 17,3%) [xem bảng 2.4 – Phụ lục]. Sở dĩ có

tình trạng này là do đây đều là những địa bàn trung tâm, tập trung đông dân cư, hoạt

động buôn bán sầm uất, tập trung nhiều khách du lịch, có nhiều tụ điểm về tệ nạn xã

hội, tiềm ẩn nhiều nhân tố và nguy cơ làm phát sinh tội cướp giật tài sản.

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo thủ đoạn phạm tội. Thủ đoạn phạm tội là cách thức

hành động mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Cướp giật tài

39

sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý một cách

công khai. Đây là trường hợp đối tượng thực hiện hành vi phạm tội một cách công

khai. Do đó, để tránh bị truy đuổi, bắt giữ các đối tượng thường thực hiện hành vi

phạm tội với các thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt, manh động để đạt được mục đích.

Người phạm tội cướp giật tài sản thường có sự chuẩn bị trước khi gây án,

như: Chuẩn bị phương tiện để đi gây án; lựa chọn “con mồi” để chiếm đoạt tài sản;

thăm dò, quan sát địa điểm, điều kiện giao thông ở những nơi sẽ gây án; quan sát và

xác định tài sản sẽ chiếm đoạt; bàn bạc kế hoạch phân công đối tượng chính giật tài

sản và các đối tượng có nhiệm vụ cản địa. Thủ đoạn phạm tội của người phạm tội

rất đa dạng, có thể kể đến một số thủ đoạn phổ biến sau:

+ Thủ đoạn hai đối tượng đi trên một xe gắn máy đi trên đường khi phát hiện

“con mồi” vừa chạy xe vừa nghe điện thoại, có dây chuyền vàng, móc túi trên ghi

đông, tay lái của xe... sơ hở trong quản lý tài sản sẽ theo dõi đến khu vực vắng

người hoặc đến nơi thuận lợi người điều khiển sẽ áp sát để người ngồi sau giật tài

sản rồi rồ ga bỏ chạy. Điển hình: Lúc 20h45, ngày 17/02/2020 chị Yim Jae Kyung,

sinh năm 1976, quốc tịch Hàn Quốc, trú tại P502 căn hộ Happy Home, số 14 An

Nhơn 15, phường An Hải Bắc, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng khi đang đi

trên đường Dương Đình Nghệ giao với đường An Nhơn 1 thì bị hai thanh niên

(không rõ lai lịch đi xe máy từ phía sau dùng vật cứng đập vào đầu, đẩy ngã xuống

đường, sau đó 01 thanh niên giật túi xách và bỏ chạy. Tài sản bị mất gồm: 01 túi

xách hiệu Luis bên trong có 60USD, 6,8 triệu đồng và một số mỹ phẩm (tổng tài

sản trị giá 11,5 triệu đồng). Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Ngũ Hành Sơn đã

tiến hành điều tra, truy xét xác định 02 đối tượng nghi vấn là Trần Văn Tiên (Sinh

năm: 1998; hộ khẩu thường trú: Thôn 3, Xã Tiên Ngọc, Huyện Tiên Phước, Tỉnh

Quảng Nam) và Lê Văn Hưng (sinh năm: 1998; hộ khẩu thường trú: Thôn 3, Xã

Tiên Ngọc, Huyện Tiên Phước, Tỉnh Quảng Nam) nên tiến hành triệu tập về làm

việc. Qua công tác đấu tranh, 02 đối tượng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

+ Nhóm đối tượng có nhiều người hoặc 2 xe trở lên, có sự bàn bạc, thống

nhất phân công đối tượng trực tiếp giật tài sản và đối tượng khác làm cản địa. Ngay

sau khi đối tượng được phân công giật tài sản của nạn nhân, các đối tượng có nhiệm

40

vụ cản địa sẽ vờ như hỏi han nạn nhân để làm phân tán sự chú ý của nạn nhân và

những người xung quanh hoặc giả đuổi theo để ngăn chặn người khác truy đuổi tạo

điều kiện cho đồng bọn trốn chạy. Điển hình: khoảng 19h00 ngày 23/9/2020, Lê

Phú Hoài Nam (sinh năm: 1991, hộ khẩu thường trú: Tổ 27, phường Vĩnh Trung,

quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) điều khiển xe Exciter, số khung: 005629, số

máy: 005637 đã thay màu sơn và biển số chở theo Phan Xuân Kha (sinh năm: 1997,

hộ khẩu thường trú: Tổ 63, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà

Nẵng) và Trần Đình Trung (sinh năm: 1991, hộ khẩu thường trú: Tổ 34, phường

Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) đi cướp giật tài sản. Khi đi trên

đường Nam Trân, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Trung phát hiện phía trước

có bà Châu thị Kiều Thanh (sinh năm: 1963, thường trú: Tổ 34, phường Thanh Khê

Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) đang đi phía trước, trên cổ có đeo sợi

dây chuyền màu vàng, lợi dụng đoạn vắng người, Trung ra hiệu cho Nam và Kha

rồi tiếp cận giả vờ hỏi đường, trong lúc bà Thanh không để ý, Nam và Kha tiếp cận

lại gần phía bên kia và dùng tay giật sợi dây chuyền trên cổ bà Thanh. Sau đó cả

qua nhanh chóng điều khiển xe tốc độ cao tẩu thoát. Qua truy xét, Đội Cảnh sát hình

sự Công an quận Liên Chiểu đã đấu tranh làm rõ, toàn bộ các đối tượng trên đã khai

nhận hành vi phạm tội. Ngoài ra, Nam và Kha còn khai nhận đã thực hiện trót, lót

28 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nạn nhân chủ yếu là phụ

nữ, trẻ em.

+ Đối tượng dùng thủ đoạn giả là khách mua hàng (tạp hóa, điện thoại, các

cơ sở kinh doanh ...) lợi dụng sơ hở của người bán hàng, cướp giật rồi bỏ chạy.

Điển hình: Khoảng 16h00, ngày 28/5/2019, hai thanh niên đi xe máy hiệu Air Blade

màu đỏ, không có biển số đi trên đường Phan Châu Chinh, quận Hải Châu, thành

phố Đà Nẵng, khi đến cửa hàng điện thoại di động Nhật Vũ, địa chỉ 267 Phan Châu

Trinh, một đối tượng ngồi sau bước xuống đi vào trong cửa hàng giả vờ mua hàng,

đối tượng còn lại ngồi ngoài xe đợi sẵn, khi đang xem chiếc điện thoại Iphone 6 thì

bất ngờ đối tượng cướp giật bỏ chạy ra ngoài và nhảy lên xe chờ sẵn và nhanh

chóng tẩu thoát. Vụ việc, Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Hải Châu thụ lý.

Như vậy, làm rõ được thủ đoạn của các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản

41

không chỉ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc xác định các tình tiết

tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà nó còn là cơ sở để các cơ quan có thẩm

quyền xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trong thời

gian tới.

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo công cụ, phương tiện phạm tội. Nghiên cứu 35 bản

án hình sự sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm

2016 đến năm 2020 cho thấy, có 31 vụ (chiếm tỷ lệ 88,6%) đối tượng sử dụng

phương tiện là xe mô tô phân khối lớn, xe gắn máy để thực hiện tội phạm và chỉ có

04 vụ (chiếm tỷ lệ 11,4%) đối tượng đi bộ hoặc sử dụng phương tiện khác để thực

hiện tội phạm. Như vậy, từ các kết quả nghiên cứu như trên có thể khẳng định xe

mô tô, gắn máy là phương tiện chủ yếu được các đối tượng sử dụng khi thực hiện

tội phạm, đây là đặc điểm đặc trưng của tội cướp giật tài sản so với các tội xâm

phạm sở hữu khác. Xác định rõ công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng để

thực hiện tội phạm sẽ cho chúng ta thấy được thủ đoạn, tính chất, mức độ và hậu

quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo thời gian và địa điểm gây án. Nghiên cứu tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy,

hành vi phạm tội cướp giật tài sản xảy ra nhiều nhất là trong khoảng thời gian từ

18h00 đến 24h00 với 73 vụ, chiếm tỷ lệ 48,3% tổng số vụ cướp giật tài sản, từ

06h00 đến 18h00 với 45 vụ, chiếm tỷ lệ 29,8% tổng số vụ cướp giật tài sản và

khoảng thời gian từ 00h00 đến 06h00 là khoảng thời gian mà tội cướp giật tài sản

ít xảy ra nhất với với 33 vụ, chiếm tỷ lệ 21,8% tổng số vụ cướp giật tài sản [xem

bảng 2.5 – Phụ lục]. Tội cướp giật tài sản xảy ra nhiều trong khoảng thời gian từ

18h00 đến 24h00 đặc biệt là thời gian từ 18h00 đến 21h00 đây có thể coi là các

khung “giờ vàng” của các đối tượng vì đây là thời gian tan tầm, mọi người tất bật

với việc tranh thủ đón con, cháu và lo việc nhà nên không cẩn thận trong việc bảo

quản tài sản, đây cũng là thời điểm các phương tiện tham gia giao thông đông, dễ

tạo điều kiện cho các đối tượng phạm tội nhanh chóng tẩu thoát, trốn tránh sự truy

42

đuổi của mọi người.

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo hình thức phạm tội. Trong tổng số 35 bản án hình

sự sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến

năm 2020 cho thấy, có 23 vụ án được thực hiện bằng hình thức có đồng phạm,

chiếm tỷ lệ 65,7%; 12 vụ án được thực hiện bằng hình thức một mình không có

đồng phạm, chiếm tỷ lệ 34,3%. Như vậy, số vụ án được thực hiện bằng hình thức

đồng phạm chiếm tỷ lệ rất lớn (65,7%), điều này cũng phù hợp với xu hướng chung

hiện nay là tội phạm hoạt động có tổ chức với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và

thường liên kết lại với nhau thành các băng nhóm, có tính chất chuyên nghiệp. Do

đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa,

quản lý, ngăn chặn kịp thời không để người phạm tội tìm đến và liên kết với nhau

hình thành lên các băng, ổ, nhóm để thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo loại tài sản bị cướp giật. Nghiên cứu về tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, có

47 vụ đối tượng cướp giật tài sản là túi xách (chiếm tỷ lệ 31,1%), 24 vụ tài sản bị

cướp giật là điện thoại di động (chiếm tỷ lệ 15,6%), 43 vụ tài sản bị cướp giật là dây

chuyền vàng (chiếm tỷ lệ 28,4%); 15 vụ tài sản bị cướp giật là laptop, Ipad, máy ảnh

(chiếm tỷ lệ 10%), 22 vụ là các loại tài sản khác (chiếm tỷ lệ 14,5%) [Xem bảng 2.6 –

Phụ lục]. Như vậy, tài sản bị cướp giật chủ yếu là các loại tài sản có giá trị cao, nhỏ

gọn, dễ lấy, dễ cất giấu và tiêu thụ như dây chuyền, bông tai , tiền, điện thoại di động,

ipad...

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo đặc điểm nhân thân người phạm tội

+ Xét theo đặc điểm giới tính của người phạm tội

Khảo sát 51 bị cáo trong tổng số 35 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng thì có tới 49 bị cáo là nam giới, chiếm tỷ lệ 96%; 12 đối tượng ngoại

tỉnh, chiếm 23,5%; 02 bị cáo là nữ giới, chiếm tỷ lệ 04%. Các đối tượng tham gia

cướp giật tài sản ở đây chủ yếu là nam giới bởi mang tính chất manh động, liều lĩnh,

43

khả năng xử lý tình huống tốt, chống trả quyết liệt..., một số ít nữ giới tham gia

cướp giật chủ yếu ngồi sau và thực hiện việc cướp giật tài sản người đi đường.

+ Xét theo đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội

Phân tích 51 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng cho thấy, độ tuổi của người phạm tội cướp giật tài sản

chiếm tỷ lệ cao nhất là độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi với 32 bị cáo, chiếm tỷ lệ 62,7%,

tiếp theo là trên 30 tuổi với 14 bị cáo, chiếm tỷ lệ 27,5%, dưới 18 tuổi với 05 bị cáo,

chiếm tỷ lệ 9,8%.

+ Xét theo đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của người phạm tội

Nghiên cứu 51 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản nhận thấy số đối tượng

không có nghề nghiệp hoặc có nghề nghiệp nhưng không ổn định (ví dụ như nghề:

Phụ hồ, chạy xe ba gác... những người làm nghề này khi có việc thì được các chủ

thầu thuê làm, khi làm xong việc thì lại ở nhà chờ người khác thuê) có 46 đối tượng,

chiếm tỷ lệ 90,1%; 05 đối tượng có nghề nghiệp ổn định (cá biệt người phạm tội là

học sinh, sinh viên), chiếm tỷ lệ 9,9%.

+ Xét theo đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội

Khảo sát 51 bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, về quan hệ gia đình: Có

31 bị cáo chưa kết hôn, chiếm tỷ lệ 60,8%; 20 bị cáo đã kết hôn, chiếm tỷ lệ 39,2%,

trong đó 08 bị cáo đã ly hôn, chiếm tỷ lệ 15,7%. Số liệu này cho thấy phần lớn

những người phạm tội cướp giật tài sản ở thành phố Đà Nẵng là những người chưa

kết hôn. Điều này cũng phù hợp với cơ cấu về độ tuổi là đa số người phạm tội nằm

trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 62,7%).

+ Xét theo đặc điểm về động cơ và mục đích phạm tội

Nghiên cứu động cơ, mục đích phạm tội của người cướp giật tài sản không

chỉ góp phần làm rõ được nguyên nhân mà họ thực hiện tội phạm mà còn giúp cho

việc đánh giá một cách chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành

vi phạm tội, nếu động cơ phạm tội càng mãnh liệt, mục đích phạm tội càng rõ ràng

thì tính chất của tội phạm càng nguy hiểm và hậu quả của tội phạm càng nghiêm

trọng. Động cơ, mục đích phạm tội thể hiện trạng thái tâm lý của người phạm tội

44

đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Động cơ phạm tội là

động lực bên trong được quyết định bởi các nhu cầu và lợi ích đã được nhận thức

thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Mục đích là quan niệm của người

phạm tội về những thay đổi trong thế giới khách quan mà người đó muốn đạt được

bằng việc thực hiện tội phạm. Kết quả nghiên cứu 35 vụ án cướp giật tài sản được

lựa chọn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với 51 bị cáo thì có 41 bị cáo phạm tội với

động cơ vụ lợi nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu cá nhân, như: Có tiền để chơi

games, mua ma túy để sử dụng, chiếm tỷ lệ 80,4%; 10 bị cáo, chiếm tỷ lệ 19,6%

phạm tội do động cơ khác, như: Động cơ cá nhân, động cơ côn đồ, thích nổi trội.

Việc xác định động cơ, mục đích phạm tội giúp cho chúng ta phân loại theo từng

nhóm đối tượng và xác định được các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả với từng

nhóm đối tượng cụ thể đó.

+ Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng đối với những người phạm tội lần đầu hay tái phạm là cơ sở để xác

định tính chất, mức độ chống đối pháp luật của người phạm tội. Thông qua đó có

những biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng loại đối tượng. Khảo sát 51 bị cáo

phạm tội cướp giật tài sản thì số người phạm tội lần đầu là 17 bị cáo, chiếm tỷ lệ

33,3%; số người tái phạm là 34 bị cáo, chiếm tỷ lệ 66,7%.. Thực tế này đặt ra cho

chúng ta khi xây dựng kế hoạch phòng ngừa phải tính đến việc mở rộng diện đối tượng

quản lý giám sát. Điều này có nghĩa là ngoài việc quản lý giám sát những người có tiền

án, tiền sự về tội cướp giật tài sản, còn phải tập trung phát hiện, quản lý, giáo dục

những đối tượng hình sự khác trên địa bàn, phải có biện pháp giáo dục, cải tạo tốt để

tránh trường hợp sau khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt lại tái phạm.

- Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

từ năm 2016 đến năm 2020 theo đặc điểm nhân thân của nạn nhân. Nghiên cứu 35

bản án, có 83 nạn nhân trong đó 57 người là nữ giới, chiếm tỷ lệ 68,7%, 26 người là

nam giới, chiếm tỷ lệ 31,3%. Có 89% nạn nhân là người mang quốc tịch Việt Nam

và 11% nạn nhân là người nước ngoài. Như vậy, có thể khẳng định nạn nhân của tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chủ yếu là nữ giới đang đi xe hoặc

đi bộ trên đường có mang theo tài sản nhưng lại sơ hở trong quản lý. Số nạn nhân là

45

người nước ngoài tương đối cao (chiếm tỷ lệ 11%), chủ yếu là khách du lịch đến

thành phố Đà Nẵng để tham quan, du lịch và làm việc. Đây là một vấn đề không chỉ

phản án tình hình an ninh trật tự của địa phương mà nó còn ảnh hưởng đến hình

ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Kết quả trên cho chúng ta thấy công

tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn được quan tâm nhưng

còn nhiều sơ hở, thiếu sót khiến người phạm tội có thể lợi dụng để thực hiện hành vi

cướp giật tài sản và che giấu hành vi phạm tội của mình. Thông qua đặc điểm trên

giúp cho cơ quan có thẩm quyền xây dựng được các biện pháp quản lý, giáo dục,

tuyên truyền hiệu quả để người dân tránh đưa mình vào tình huống trở thành nạn

nhân của tội cướp giật tài sản.

2.1.2.4. Tính chất của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020

Trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, tội cướp giật tài

sản chỉ đứng thứ hai sau tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Điều

này cũng cho thấy phần nào mức độ nghiêm trọng của tình hình tội cướp giật tài sản

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Qua khảo sát 35 vụ án cướp giật tài sản với 51 bị cáo được đưa ra xét xử sơ

thẩm cho thấy, có 31 vụ (chiếm tỷ lệ 88,6%) các đối tượng sử dụng xe gắn máy làm

phương tiện để phạm tội, người phạm tội thường lựa chọn “con mồi” vừa chạy xe

vừa nghe điện thoại, đeo vòng vàng, dây chuyền, bông tai, túi xách có giá trị nhưng

lại sơ hở trong quản lý để nhanh chóng áp sát giật tài sản rồi tẩu thoát.Tính nguy

hiểm của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn thể hiện

ở chỗ, nó không chỉ gây ra thiệt hại về tài sản mà còn gây thiệt hại đến tính mạng,

sức khỏe của người khác. Nhiều vụ án do nạn nhân bị bất ngờ, bị các đối tượng tác

động lên cơ thể, lên phương tiện đã không làm chủ được tay lái dẫn đến thương tích

cho người khác và cho chính bản thân mình, thậm chí có trường hợp dẫn đến tử

vong.

Qua trao đổi với một số cán bộ điều tra, trinh sát của Phòng Cảnh sát hình sự

Công an thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy đa số các đối

tượng phạm tội đều coi thường pháp luật, rất liều lĩnh và táo bạo khi thực hiện hành

46

vi cướp giật tài sản, có 73 vụ, chiếm tỷ lệ 48,3% tổng số vụ cướp giật tài sản xảy ra

trong khoảng thời gian từ 18h00 đến 24h00, đặc biệt là từ 18h00 đến 21h30, đây là

những khung giờ mà các tuyến đường chính trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có mật

độ người và lưu lượng xe tham gia giao thông rất lớn. Táo bạo hơn có trường hợp

người phạm tội còn xông hẳn vào nhà nạn nhân để cướp giật tài sản.

Đa số các hành vi phạm tội cướp giật tài sản thường được người phạm tội

chuẩn bị trước khi gây án, như: Chuẩn bị phương tiện để đi gây án; lựa chọn “con

mồi” để chiếm đoạt tài sản; thăm dò, quan sát địa điểm, điều kiện giao thông ở

những nơi sẽ gây án; quan sát và xác định tài sản sẽ chiếm đoạt; bàn bạc kế hoạch

phân công đối tượng chính giật tài sản và các đối tượng có nhiệm vụ cản địa. Thủ

đoạn che dấu hành vi phạm tội của người phạm tội cũng ngày càng tinh vi hơn, như:

Tháo biển số xe, lắp biển số giả, dùng băng keo để che biển số, chuẩn bị ớt bột,

gạch, đá... để trốn tránh hoặc ngăn cản sự truy bắt của nạn nhân hoặc của người

khác. Điều này cho thấy, tính chất của tình hình tội cướp giật tài sản ngày càng

nguy hiểm hơn.

Tính chất nguy hiểm của tình hình tội cướp giật tài sản còn được phản ánh

thông qua nhu cầu, sở thích, thói quen của người phạm tội. Đa số người phạm tội

cướp giật tài sản là những người nghiện chơi games, nghiện ma túy, rất manh động

thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản để có tiền tiêu sài, thỏa mãn các nhu

cầu, thói quen chơi bời, hưởng thụ của mình.

2.1.3. Thực trạng tổ chức lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa

tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến

năm 2020

Thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra

hình sự năm 2015; Luật Công an nhân dân năm 2018; Nghị định số 01/2018/NĐ-CP

ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an; Thông tư số 56/2017/TT-BCA ngày 16 tháng 11

năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về phân công Thủ trưởng, Phó Thủ

trưởng Cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra hình sự trong Công an nhân dân và

các đội điều tra thuộc Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện; Thông tư số 26/2018/TT-

47

BCA ngày 10 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số

điều của Thông tư số 56/2017/TT-BCA ngày 16 tháng 11 năm 2017 của Bộ trưởng

Bộ Công an quy định về phân công Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra,

thẩm quyền điều tra hình sự trong Công an nhân dân và các đội điều tra thuộc Cơ

quan CSĐT Công an cấp huyện; Quyết định số 2408/2019/QĐ-BCA (X01) ngày

09/4/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ

cấu tổ chức của Phòng Cảnh sát hình sự Công an cấp tỉnh; Quyết định số

25007/2019/QĐ-BCA (X01) ngày 27/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Đội Cảnh sát hình sự Công an

cấp huyện, Công an thành phố Đà Nẵng đã tổ chức triển khai công tác tổ chức và

thực hiện các quy định về công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Theo

đó, chủ thể chuyên trách trực tiếp tiến hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là lực lượng Cảnh sát hình sự.

Trong lực lượng này có 2 bộ phận tiến hành hoạt động phòng ngừa và điều tra tội

phạm cướp giật tài sản đó là lực lượng Điều tra viên và Trinh sát viên. Hiện nay, lực

lượng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Đà Nẵng được tổ chức theo mô hình mới

gồm có hai cấp: Cấp tỉnh và cấp huyện. Cấp tỉnh có Phòng Cảnh sát hình sự và cấp

huyện có Đội Cảnh sát hình sự. Ngoài ra, cấp Công an phường, xã cũng có tổ hình

sự chuyên tiếp nhận, xử lý thông tin ban đầu và truy xét các vụ việc có tính chất đơn

giản, hậu quả thiệt hại không cao.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, lực lượng Cảnh sát hình sự

có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Tổ chức công tác nắm tình hình hoạt động của tội

phạm, công tác phòng ngừa, điều tra, khám phá, bắt giam giữ, xử lý tội phạm về trật

tự xã hội; đề xuất chủ trương, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, điều tra, xử lý đối

với từng loại tội phạm theo quy định của pháp luật để cấp có thẩm quyền quyết định

và tổ chức thực hiện các quyết định đó. Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn và

trực tiếp tiến hành công tác nghiệp vụ cơ bản: Điều tra cơ bản, sưu tra và xác minh

hiềm nghi, công tác xây dựng và sử dụng cộng tác viên bí mật, đấu tranh chuyên án,

đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về trật tự xã hội theo quy định

của pháp luật và Bộ trưởng Bộ Công an. Tiến hành điều tra những vụ án hình sự về

48

những tội phạm theo thẩm quyền mà pháp luật quy định. Chủ trì việc tổ chức điều

tra tại hiện trường các vụ án về trật tự xã hội theo quy định. Tổ chức việc truy tìm

tung tích nạn nhân, vật chứng, ra quyết định truy nã và truy bắt người phạm tội về

trật tự xã hội và kiểm tra, đôn đốc, theo dõi kết quả thực hiện công tác truy nã theo

quy định. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ đối với lực lượng Cảnh sát hình

sự Công an cấp dưới tham gia công tác quản lý các đối tượng về trật tự xã hội bị

quản chế, cấm cư trú, cư trú bắt buộc, cải tạo không giam giữ, người bị phạt tù cho

hưởng án treo cư trú tại địa bàn dân cư và tham gia lập hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ

sở giáo dục, Trường giáo dưỡng, thực hiện công tác xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực trật tự xã hội theo quy định. Thông qua công tác đấu tranh chống tội

phạm về trật tự xã hội phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm để đề

xuất, kiến nghị với các ngành chủ quản, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có kế

hoạch chấn chỉnh kịp thời để phòng ngừa, đấu tranh đạt hiệu quả cao. Tổ chức sơ

kết, tổng kết công tác, đề xuất các chế độ và quy trình công tác, cải tiến chế độ làm

việc và phương pháp công tác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, chiến

đấu, góp phần xây dựng lý luận, nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát hình sự. Đề xuất

nội dung, chương trình, biên soạn giáo trình, bài giảng tập huấn nghiệp vụ cho lực

lượng Cảnh sát hình sự ở địa phương. Thực hiện công tác xây dựng lực lượng, hậu

cần của đơn vị theo quy định. Thực hiện những nhiệm vụ khác thuộc chức năng của

lực lượng Cảnh sát hình sự do Bộ trưởng Bộ Công an giao.

Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Đà Nẵng thực hiện nhiệm vụ tổ

chức phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố và điều tra khám phá các tội

phạm hình sự nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng; Đội Cảnh sát hình

sự ở cấp huyện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phòng ngừa và điều tra tội phạm

thuộc thẩm quyền mà BLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự

năm 2015 đã quy định. Các lực lượng khác thuộc Công an thành phố Đà Nẵng như:

Cảnh sát giao thông, kỹ thuật hình sự, Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Cảnh

sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Cảnh sát quản lý hành chính

về trật tự, an toàn xã hội chỉ giữ vai trò phối hợp theo yêu cầu của lực lượng Cảnh

sát hình sự. Như vậy, lực lượng Cảnh sát hình sự giữ vai trò chính, cốt yếu trong

49

việc duy trì và tổ chức mối quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản.

Từ khi được thành lập đến nay, lực lượng Cảnh sát hình sự Công an thành

phố Đà Nẵng luôn được quan tâm xây dựng và củng cố về mọi mặt nhằm đảm bảo

phục vụ có hiệu quả cho công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm hình sự.

Trong 05 năm qua (từ năm 2016 đến năm 2020), biên chế của lực lượng Cảnh sát

hình sự có sự thay đổi, điều chuyển công tác để phù hợp với tình hình thực tế và yêu

cầu thực tiễn đặt ra. Trước tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật

tài sản nói riêng có những diễn biến phức tạp, Thành ủy thành phố Đà Nẵng đã có

sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên đến công tác phòng, chống tình hình tội

cướp giật tài sản. Theo số liệu thống kê của Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành

phố Đà Nẵng, tính đến ngày 20/11/2020 biên chế của lực lượng Cảnh sát hình sự

Công an thành phố Đà Nẵng có 335 cán bộ chiến sĩ, trong đó Phòng Cảnh sát hình

sự có 93 đồng chí, các Đội Cảnh sát hình sự Công an quận, huyện có 242 đồng chí.

Trong đó, tình hình biên chế lực lượng trực tiếp tiến hành đấu tranh phòng ngừa và

chống tội phạm cướp giật tài sản được thể hiện như sau: Lực lượng Cảnh sát hình

sự Công an các quận, huyện có 74 đồng chí; Đội Phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm trên tuyến, địa bàn có 30 đồng chí. Phân tích cụ thể:

Về trình độ văn hóa: Cao học có 17 đồng chí, chiếm tỷ lệ 5,07%; Đại học có

217 đồng chí, chiếm tỷ lệ 64,8%; Cao đẳng, Trung cấp có 101 đồng chí, chiếm tỷ lệ

30,1%.

Về trình độ nghiệp vụ: Cao học có 17 đồng chí, chiếm tỷ lệ 5,07%; Đại học

có 217 đồng chí, chiếm tỷ lệ 64,8%; Cao đẳng, Trung cấp có 101 đồng chí, chiếm tỷ

lệ 30,1%.

Về trình độ chính trị: Cao cấp có 05 đồng chí, chiếm tỷ lệ 1,5%; Trung cấp

có 212 đồng chí, chiếm tỷ lệ 63,3%; Sơ cấp có 103 đồng chí, chiếm tỷ lệ 30,3%.

Ngoài ra, trong tổng số 335 cán bộ chiến sĩ có 05 Điều tra viên cao cấp,

chiếm tỷ lệ 1,5%; 29 Điều tra viên trung cấp, chiếm tỷ lệ 8,65%; 35 Điều tra viên sơ

cấp, chiếm tỷ lệ 10,4%; 27 Cán bộ điều tra, chiếm tỷ lệ 8,05%; Trinh sát viên trung

cấp có 37 đồng chí, chiếm tỷ lệ 11,04%; Trinh sát viên sơ cấp có 42 đồng chí,

50

chiếm tỷ lệ 12,53%; Cán bộ trinh sát có 117 đồng chí, chiếm tỷ lệ 34,92%.

Thực tiễn cho thấy, ở các quận, huyện thì Đội Cảnh sát hình sự được chia

làm 4 tổ: Tổ Cảnh sát hình sự đặc nhiệm, Tổ Trinh sát địa bàn, Tổ Điều tra truy xét

và Tổ Điều tra tố tụng. Trong đó: Tổ Trinh sát địa bàn hỗ trợ việc nắm đối tượng,

quản lý địa bàn; Tổ Điều tra truy xét hỗ trợ việc củng cố chứng cứ, chuyển hóa tài

liệu trinh sát thành chứng cứ, theo các vụ án, chuyên án với thời gian dài; Tổ Điều

tra tố tụng tiến hành việc khởi tố và truy tố đối tượng trước pháp luật.

Trong những năm qua, biên chế lực lượng Cảnh sát hình sự Công an thành

phố Đà Nẵng trực tiếp tiến hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản tương đối ổn định, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao, mặc dù

vậy so với số vụ phạm pháp hình sự xảy ra hàng năm thì lực lượng hiện tại còn

thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của thực tế, một số cán bộ,

chiến sỹ chưa được đào tạo theo đúng chuyên ngành. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

kiến thức, kỹ năng, tâm lý, thái độ cho đội ngũ Điều tra viên và Trinh sát viên trực

tiếp tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản còn nhiều hạn chế. Tất cả

hạn chế nêu trên đã tạo ra những khó khăn nhất định đối với quá trình hiện thức

hóa vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

2.2. Thực trạng các hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng

2.2.1. Công các tham mưu, hướng dẫn

Tham mưu cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chỉ đạo triển khai các chủ

trương, giải pháp quan trọng để đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn (trọng tâm là

Chỉ thị số 46 của Bộ Chính trị); triển khai thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày

05/01/2017, của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”; tiếp tục thực hiện hiệu quả các đề án,

kế hoạch của thành phố liên quan công tác đảm bảo an ninh trật tự, nhất là Đề án

chương trình “Thành phố 4 an”, Chương trình “5 không”, “3 có” v.v... trong đó quan

51

tâm các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội; huy động sự tham gia của các ban ngành,

đoàn thể tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản [5].

Tham mưu UBND thành phố ban hành, triển khai đến các cấp, các ngành Kế

hoạch 6782/KH-UBND ngày 29/8/2018 về triển khai thực hiện Đề án “Đấu tranh

phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật

và phòng chống bạo lực gia đình, mua bán người”, Kế hoạch 6737/KH-UBND

ngày 28/8/2018 về triển khai thực hiện Đề án“Phòng chống tội phạm có tổ chức, tội

phạm xuyên quốc gia”; chỉ đạo thực hiện Quyết định số 4967/QĐ-UBND ngày

06/9/2017 của UBNDTP về việc "Phê duyệt Đề án Chuyển hóa địa bàn trọng điểm

phức tạp về trật tự, an toàn xã hội đến năm 2020"; qua đó, chọn ra 09 địa bàn trọng

điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội để thực hiện công tác chuyển hóa [5].

Tham mưu tổ chức thi công và hoàn thành Đề án Lắp đặt, hệ thống camera

giám sát an ninh, giao thông, trật tự, thi công, đưa vào khai thác, vận hành, sử dụng

1.802/1.802 camera (đạt 100%). Phối hợp với các sở, ngành, địa phương tuyên

truyền vận động các tổ chức, doanh nghiệp, nhân dân tự lắp đặt 30.481 camera giám

sát an ninh, trật tự tại trụ sở cơ quan, doanh nghiệp, các tổ dân phố, kiệt, hẻm, nhà

riêng, cửa hàng... với tổng mức kinh phí trên 13,6 tỷ đồng. Quá trình khai thác, sử

dụng, thông tin, dữ liệu thu được qua hệ thống camera giám sát đã góp phần hỗ trợ

đắc lực cho công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh xử lý tội phạm cướp giật tài

sản, đảm bảo an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông, đô thị trên địa bàn thành

phố.

Chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp trong công tác xây dựng

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Thường xuyên phối hợp, hướng dẫn

các cơ quan, doanh nghiệp, trường học, tăng cường vận động nhân dân tích cực

tham gia phòng ngừa và trấn áp tội phạm cướp giật tài sản, đẩy lùi tệ nạn xã hội.

Thực hiện tốt công tác nắm tình hình nội bộ trong nhân dân, kịp thời phát hiện,

tham mưu giải quyết những bức xúc, không để xảy ra mâu thuẫn, khiếu kiện phức

tạp kéo dài [5].

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc

triển khai công tác xây dựng mô hình điểm phòng ngừa, quản lý, trợ giúp, giáo dục

52

người chưa thành niên vi phạm pháp luật dựa vào cộng đồng; Quyết định

138/1998/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm;

Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng

đến năm 2030; công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, cờ bạc; kế hoạch

phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản tại các địa bàn trọng

điểm và các chuyên đề khác của C02/BCA và Công an thành phố. Lực lượng Cảnh

sát hình sự Công an thành phố Đà Nẵng vừa trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện,

vừa làm tốt vai trò thường trực, theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc, chấn chỉnh,

chỉ đạo toàn lực lượng thuộc hệ tổ chức phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm

cướp giật tài sản theo các chuyên đề, đề án.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu cho Giám đốc Công an thành phố

xây dựng, triển khai các văn bản chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ chức năng, Công an

các huyện, quận tăng cường công tác phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản; chỉ

đạo tập trung tấn công trấn áp tội phạm hình sự, ma túy, tệ nạn xã hội trong dịp tết

Nguyên đán; chỉ đạo thực hiện công tác lập hồ sơ đưa người vào Trường giáo dưỡng,

Cơ sở giáo dục bắt buộc theo Luật xử lý vi phạm hành chính; thông báo đến các ban

ngành, đoàn thể trong toàn thành phố về tình hình tội phạm cướp giật tài sản cũng

như vi phạm pháp luật, phương thức, thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản của các đối

tượng để phối hợp làm tốt công tác tuyền truyền, phòng ngừa hiệu quả. Đồng thời, rút

ra những thiếu sót, tồn tại, khó khăn vướng mắc, nguyên nhân phát sinh tội phạm

cướp giật tài sản để kịp thời tham mưu, chấn chỉnh khắc phục và chủ động phòng

ngừa, đấu tranh.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu cho Giám đốc, Thủ trưởng Cơ

quan Cảnh sát điều tra ban hành Quyết định thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tình

hình tội phạm có tổ chức của Công an thành phố và triển khai kế hoạch đấu tranh

phòng, chống tội phạm có tổ chức trên địa bàn toàn thành phố.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo

cáo, thống kê tình hình, kết quả công tác của Phòng Cảnh sát hình sự và lực lượng

thuộc hệ, báo cáo tình hình kết quả thực hiện các chuyên đề, đề án phòng, chống tội

53

phạm cướp giật tài sản thuộc chức năng được giao. Lực lượng Cảnh sát hình sự

tham mưu đề xuất các kế hoạch phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, nhất là các tội

phạm nguy hiểm (trong đó có tội phạm cướp giật tài sản), các tội phạm về ma túy,

các tệ nạn mại dâm; đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố ban hành 5 văn

bản về phòng ngừa tội phạm có liên quan đến phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản;

ban hành 13 văn bản về phòng ngừa, đấu tranh với các tệ nạn xã hội; đã tham mưu và

tổ chức nhiều phong trào, nhiều kế hoạch phòng chống tội phạm, mở các đợt cao

điểm tấn công, trấn áp tội phạm, đặc biệt là đối với các loại tội phạm có tổ chức, tội

phạm giết người, cướp giật tài sản cướp tài sản, hiếp dâm, tội phạm về ma tuý.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ động tham mưu cho Ban chỉ đạo 138

thực hiện vai trò điều hành, quán triệt những nội dung cơ bản trong Quyết định số

623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc

gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2030 đến

các ngành, các cấp tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động

của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể về mục đích ý nghĩa của

chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm,

thường xuyên của các đơn vị trong và ngoài ngành Công an mà đặc biệt là nhiệm vụ

của lực lượng Cảnh sát hình sự.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tham mưu phát triển mô hình liên kết xây

dựng “vùng giáp ranh an toàn”, được thực hiện khá phổ biến và có hiệu quả ở nhiều

nơi, góp phần xóa các “điểm đen” mà đối tượng phạm tội cướp giật tài sản thường

lợi dụng để gây án, lẩn trốn, nhất là vùng giáp ranh giữa các tỉnh, giữa các quận,

huyện và giữa các xã, phường [5].

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tích cực tham mưu cho các cấp ủy Đảng,

chính quyền địa phương quan tâm thực hiện các chính sách xã hội, phát triển kinh

tế, văn hóa, giáo dục, giải quyết việc làm, bảo đảm công bằng xã hội. Tham mưu

cho Ủy ban nhân dân thành phố ban hành 8 văn bản về giải quyết việc làm cho

người lao động; phối hợp với các cơ quan đơn vị, chính quyền các cấp giải quyết

việc làm cho những người trong độ tuổi lao động. Tham mưu ký kết các nghị quyết

liên tịch giữa Công an - Quân đội; giữa Công an - Quân đội - Thanh niên - Công

54

nhân tạo ra sự phối hợp đồng bộ trong công tác bảo đảm an ninh trật tự. Chương

trình “ba giảm” (giảm phạm pháp hình sự, giảm tệ nạn mại dâm, giảm tệ nạn ma

tuý), Chương trình “năm không” (không có người mù chữ, không có người lang

thang xin ăn, không có hộ đói, không có người nghiện ma túy, không cướp của, giết

người) đã được nghiên cứu và triển khai thực hiện đạt kết quả tốt ở nhiều nơi trên

địa bàn thành phố.

2.2.2. Công tác tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tăng cường công tác tuyên truyền để người

dân nâng cao ý thức cảnh giác, hướng dẫn mọi người các phương thức tự bảo vệ

như: Hạn chế mang tài sản có giá trị theo người ra đường, hoặc đi qua khu vực hẻo

lánh; không vận chuyển tiền, vàng, bạc, đá quý trên đường nếu chưa có biện pháp

bảo quản chắc chắn; không tâm sự ở nơi vắng vẻ; các cơ sở, tiệm kinh doanh phải tổ

chức canh gác bảo vệ thường xuyên, phải trang bị hệ thống phương tiện quan sát,

báo động; cảnh giác trong tiếp xúc quan hệ với người lạ, với đối tượng xấu; bình

tĩnh xử lý giải quyết các va chạm, mâu thuẫn. Tổ chức trực ban và duy trì đường

dây nóng để tiếp nhận, xử lý tin báo, đề nghị giúp đỡ khẩn cấp của người dân.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân tập trung tổ chức phát động và duy trì phong

trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc; phối hợp với các ngành, các cấp xây dựng

các quy định nhằm thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân lao động trong lĩnh vực

bảo đảm trật tự an toàn xã hội; lập Hội đồng bảo vệ an ninh trật tự; lập quỹ bảo trợ

an ninh trật tự. Mô hình “tự phòng, tự quản, tự bảo vệ” đã được lực lượng Cảnh sát

nhân dân hướng dẫn cụ thể đến từng thôn xóm, từng hộ gia đình với mục tiêu: thôn

xóm, xã phường bình yên, gia đình hạnh phúc; xây dựng “các hộ tự phòng, nhà tự

quản”; “liên gia tự quản - an toàn”; “Công nhân tự quản”; “doanh nghiệp tự quản”...

Tăng cường phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Thường xuyên

tổ chức rà soát, đánh giá tình hình, hiệu quả hoạt động các mô hình phòng chống tội

phạm để củng cố, nhân rộng hoặc thay thế bằng các mô hình khác ưu việt hơn. Hiện

nay toàn thành phố đang quản lý, sử dụng 185 mô hình, trong đó có 24 mô hình mới

xây dựng [5].

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã triển khai làm tốt công tác vận động, tuyên

55

truyền toàn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản, đảm

bảo an ninh trật tự trong khu dân cư, tổ dân phố, doanh nghiệp, trường học với trên

3.786 lượt buổi tuyên truyền có hơn 86.500 lượt người dự; mở 92 lớp giáo dục pháp

luật cho số đối tượng hình sự, ma túy, thanh thiếu niên hư trên địa bàn với 4.721 đối

tượng tham gia; nhiều địa phương đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền với nhiều

biện pháp đa dạng, phong phú, huy động được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã duy trì phát động nhân dân vận động đối

tượng phạm tội ra tự thú; vận động nhân dân tham gia quản lý giáo dục, cảm hóa

người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư; thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, không buôn bán, sản

xuất, tàng trữ, sử dụng các chất ma túy; đấu tranh với các hành vi gây rối trật tự

công cộng, các tệ nạn xã hội; quản lý, giáo dục các đối tượng nghiện rượu, nghiện

hút, người chưa thành niên phạm pháp.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chú trọng tăng cường tuần tra kiểm soát, tổ

chức các biện pháp bảo vệ đối với các địa bàn trọng điểm; đã huấn luyện và hoạt

động có hiệu quả cho các đội dân phòng, tập trung tuần tra ở các địa bàn phức tạp

về an ninh trật tự, vào các thời điểm từ 22 giờ đến 5 giờ sáng hàng ngày. Những

biện pháp này thực tế có tác dụng triệt tiêu các sơ hở, ngăn ngừa các đối tượng có ý

định phạm tội, làm cho chúng thấy khó có thể thực hiện được hành vi phạm tội nói

chung, trong đó có tội cướp giật tài sản. Huy động được đông đảo lực lượng tham

gia như Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Công đoàn,

Hội cựu chiến binh, người có uy tín trong nhân dân, trong tôn giáo, họ tộc để giải

quyết các mâu thuẫn tại cộng đồng; đã giải quyết, hòa giải được phần lớn số vụ mâu

thuẫn, bất hòa trong nhân dân.

Công tác tuần tra kiểm soát theo Quyết định số 8394/QĐ-UBND tiếp tục

được duy trì hiệu quả, nghiêm túc ở 56/56 phường, xã trên địa bàn. Thông qua công

tác tuần tra, đã lồng ghép tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và nhắc nhở nhân dân

quản lý tài sản, nâng cao ý thức cảnh giác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội;

tích cực tham gia phát hiện và đấu tranh với tội phạm, ngăn chặn các vụ việc mâu

thuẫn trong nhân dân v.v… Trong năm 2019, đã tổ chức được 53.466 lượt tuần tra

với 269.994 lượt người tham gia. Qua đó, phát hiện và xử lý 284 vụ, 776 đối tượng

56

liên quan đến an ninh trật tự, cụ thể: 02 vụ đối tượng cướp giật tài sản, 27 vụ trộm

cắp tài sản; 04 vụ hủy hoại tài sản, 01 vụ chiếm đoạt tài sản; bắt giữ 02 vụ/03 đối

tượng chống người thi hành công vụ; 01 vụ/01 đối tượng xâm hại sức khỏe; 03 vụ

cố ý gây thương tích bắt giữ 06 vụ/07 đối tượng tàng trữ, mua bán trái phép chất ma

túy; 34 vụ/193 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy Bắt quả tang 187 vụ/576 đối

tượng đánh bạc trái phép; 01 vụ vận chuyển trái phép động vật hoang dã; 02 vụ/03

đối tượng tàng trữ vũ khí thô sơ, vật liệu nổ; ngăn chặn 08 vụ, 08 đối tượng có hành

vi bạo lực gia đình; 908 vụ đánh nhau, gây rối an ninh trật tự; giải quyết 1.633 vụ mâu

thuẫn trong nhân dân; giải tán 4.689 nhóm thanh thiếu niên tụ tập đêm khuya, uống

rượu bia nơi công cộng gây mất an ninh trật tự, cụ thể Nhắc nhở 1.708 trường hợp mở

nhạc quá lớn sau 22h đêm, 5.189 trường hợp hộ nhân dân không đóng cổng, cửa trước

khi ngủ; 1.252 hộ dân buôn bán dọc các tuyến đường để xe của khách lấn chiếm vỉa hè;

bảo vệ hiện trường 495 vụ tai nạn giao thông và 362 vụ va chạm giao thông; phát hiện,

tạm giữ 133 ô tô và xe máy vô chủ bàn giao Công an phường tiến hành xác minh trả lại

chủ sở hữu. Kịp thời biểu dương khen thưởng những gương điển hình tiên tiến trong

đấu tranh truy bắt tội phạm để thúc đẩy phong trào phát triển bền vững [5].

Để tăng cường hiệu quả phòng ngừa, nhất là kiểm soát, kiềm chế tội phạm,

vi phạm pháp luật, Công an thành phố đã triển khai và ra quân thực hiện Kế hoạch

911/KH-CATP-PTM, về tuần tra, chốt chặn kiểm soát chặt chẽ các tuyến, địa bàn,

khu vực trọng điểm, tiềm ẩn phức tạp về an ninh trật tự trên địa bàn, trong đó huy

động nhiều lực lượng như: cảnh sát hình sự, ma túy, cảnh sát giao thông và cảnh

sát cơ động (Gọi tắt là lực lượng 911). Sau 10 tháng thành lập, lực lượng 911 đã tổ

chức chốt chặn, tuần tra kiểm soát tại 231 vị trí và 138 khu vực; dừng, kiểm tra

15.291 lượt người, phương tiện tham gia giao thông có dấu hiệu nghi vấn vi phạm về

an ninh trật tự; lập hồ sơ xử lý 1.463 vụ/1.584 đối tượng vi phạm về an ninh trật tự;

góp phần quan trọng trong phòng ngừa tội phạm, kiềm chế hoạt động của các loại

đối tượng [5].

Thường xuyên tổ chức tuyên truyền các quy định của pháp luật về quản lý,

sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo, không để xảy ra tình trạng buôn

bán, tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo trong dịp

57

lễ, tết; không để xảy ra việc các đối tượng sử dụng vũ khí nóng để gây án. Tiếp

nhận, thu hồi 371 vũ khí, VLN, CCHT các loại [5].

2.2.3. Công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản

Khảo sát thực tế kết quả công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp

giật tài sản thông qua phân tích, tổng hợp các Báo cáo tổng kết công tác năm của

Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phòng Cảnh sát hình sự, Đội Điều tra tổng

hợp, Đội Cảnh sát hình sự, Báo cáo tổng kết chuyên đề đấu tranh phòng, chống tội

phạm cho thấy, từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng lực

lượng Cảnh sát nhân dân đã tiếp nhận 151 nguồn tin về tội phạm cướp giật tài sản,

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khởi tố 92 vụ án, với 120 bị can, trong đó:

Năm 2016 khởi tố 20 vụ án, với 29 bị can; Năm 2017 khởi tố 24 vụ án, với 36 bị

can; Năm 2018 khởi tố 19 vụ án, với 28 bị can; Năm 2019 khởi tố 14 vụ án, với 17

bị can; Năm 2020 khởi tố 15 vụ án, với 10 bị can; [Xem Bảng 2.3 – Phụ lục]. Hoạt

động điều tra, khám phá vụ án cướp giật tài sản đảm bảo tuân thủ các quy định của

pháp luật và nghiệp vụ của ngành Công an. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an

thành phố Đà Nẵng đã sử dụng linh hoạt, đồng bộ nhiều biện pháp điều tra tố tụng,

biện pháp nghiệp vụ, áp dụng phù hợp, hiệu quả các phương pháp và chiến thuật

hình sự. Chính vì thế, chứng cứ đã thu thập, được kiểm tra chính xác, khách quan,

có độ tin cậy cao phục vụ cho quá trình điều tra, khám phá tội phạm một cách nhanh

chóng, không phát hiện trường hợp nào làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.

Hoạt động điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản đã được Cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng tiến hành liên tục, đan xen và

xuyên suốt trong quá trình chứng minh vụ án. Chứng cứ sau khi thu thập được đều

được các chủ thể đánh giá nhằm kiểm tra tính khách quan, liên quan, hợp pháp, xác

định rõ giá trị chứng minh. Việc đánh giá tổng hợp chứng cứ, xác định mức độ liên

quan giữa chứng cứ được sử dụng với các chứng cứ khác trong vụ án; đánh giá về

số lượng, chất lượng của hệ thống chứng cứ đã thu thập được làm căn cứ đi đến kết

luận điều tra vụ án được quan tâm, chú trọng và tiến hành thường xuyên, có hiệu

quả. Chứng cứ về vụ án cướp giật tài sản sau khi được thu thập, đánh giá đều được

Cơ quan Cảnh sát điều tra sử dụng ngay để lập kế hoạch điều tra, ra các quyết định

58

tố tụng, áp dụng biện pháp ngăn chặn, phát hiện chứng cứ mới, kiểm tra các chứng

cứ đã thu thập một cách nhanh chóng, kịp thời và đảm bảo yêu cầu, nhiệm vụ chứng

minh vụ án. Thống kê số liệu về kết quả xử lý các vụ án cướp giật tài sản từ năm

2016 đến năm 2020 cho thấy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra bản kết luận điều tra

đề nghị truy tố đối với 92 vụ, với 120 bị can (chiếm tỷ lệ 4,47% số vụ án đã khởi tố

và 3,7% số bị can đã khởi tố).

2.2.4. Công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân với các lực

lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phối hợp với các cơ quan bảo vệ

pháp luật, cơ quan truyền thông, thông tin như Đài phát thanh truyền hình VTV8,

DRT, các cơ quan báo chí, Hội liên hiệp phụ nữ, Sở lao động thương binh - xã hội

và các ban, ngành, đoàn thể chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật cho nhân dân; tuyên truyền kỹ năng sống, giáo dục, quản lý trẻ em vị

thành niên; động viên hướng dẫn trẻ em, thanh, thiếu niên tham gia vào các hoạt

động vui chơi bổ ích, lành mạnh; lồng ghép vào đó việc tuyên truyền, giáo dục

nhằm nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần tham gia đấu tranh phòng, chống tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác và chủ

động phòng ngừa, trấn áp tội phạm cướp giật tài sản.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng,

các cơ quan hữu quan, đoàn thể, tổ chức xã hội như Hội Liên hiệp phụ nữ, Ủy ban

dân số, gia đình và trẻ em, ngành Giáo dục, Sở Lao động thương binh và xã hội,

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh v.v… tổ chức được 3618 cuộc họp dân,

với 36.389 lượt người tham gia, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân tích

cực tham gia phòng, chống tội phạm, trong đó có tội phạm cướp giật tài sản. Bên

cạnh đó, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, lực lượng Cảnh sát nhân

dân kịp thời thông báo phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội cướp giật tài sản

nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cho quần chúng nhân dân và phát huy tính tích cực,

tinh thần tự giác tham gia phòng, chống loại tội phạm này.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phối hợp với Viện kiểm sát, Tòa án

tiến hành các hoạt động cụ thể gắn liền với chức năng, nhiệm vụ được giao của từng

59

lực lượng phục vụ công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã tiến hành hoạt động giám

sát việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; giám sát việc thực hiện các

biện pháp và chương trình phòng ngừa phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản;

kiểm tra, giám sát công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội; tổ chức các chương

trình phối hợp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Thông

qua hoạt động giám sát điều tra cũng như trực tiếp điều tra các vụ án cướp giật tài

sản, Viện kiểm sát có cơ sở để xác định các nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố và các đặc điểm nhân thân của

người phạm tội từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này một cách

sát hợp, có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc phát hiện các sai sót trong điều tra các vụ án

cướp giật tài sản cũng là một mặt của công tác phòng ngừa tội phạm vì đó chính là

việc xóa bỏ tận gốc các nguyên nhân và điều kiện của những hạn chế, bất cập trong

quá trình điều tra, xét xử và thi hành án. Đồng thời, Tòa án nhân dân các cấp thông

qua hoạt động xét xử và một số hoạt động khác góp phần to lớn vào hoạt động

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn.

Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH Công an thành phố Đà

Nẵng thường xuyên phối hợp quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ sở, nắm tình

hình các đối tượng sưu tra, xác minh những đối tượng thuộc diện sưu tra, hiềm nghi,

truy tìm vật chứng của vụ án trên địa bàn, truy tìm bị hại, phối hợp tổ chức phát

động phong trào quần chúng tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và

tội phạm cướp giật nói riêng trong địa bàn dân cư. Việc quản lý nhân khẩu, quản lý

ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, khách sạn, nhà trọ, các cơ sở

kinh doanh dịch vụ như quán bar, karaoke, cafe, hớt tóc thanh nữ… góp phần phát

hiện những biểu hiện nghi vấn, phát hiện các đối tượng, các băng, nhóm chuẩn bị

hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật, cũng như sự xuất hiện, di biến động của

các đối tượng nghi vấn để có biện pháp phối hợp đấu tranh ngăn chặn.

Lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự Công an thành phố có vai trò

quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản. Phần lớn các

60

đối tượng phạm tội cướp giật tài sản đều sử dụng phương tiện gây án là xe mô tô,

gắn máy, gắn biển số giả, biển số mờ, làm cong biển số, xe thuê hoặc mua không

sang tên… nên trong quá trình tuần tra, kiểm soát 02 lực lượng tiến hành kiểm tra,

lập biên bản tạm giữ phương tiện… sẽ góp phần hạn chế điều kiện gây án của đối

tượng. Mặt khác, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, lực lượng

Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự còn hỗ trợ lực lượng hoặc quần chúng nhân dân

truy đuổi, bắt giữ đối tượng gây án và thu giữ tang vật vụ án.

2.3. Nhận xét, đánh giá về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.3.1. Ưu điểm

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã xác định được vị trí, vai trò, trách nhiệm

của mình trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng. Từ đó, đã có chủ trương, biện pháp hoạt động một cách chủ động và sáng tạo,

có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác trong ngành Công an và với các cơ

quan hữu quan để thực hiện phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản theo đúng

trình tự, thủ tục luật định. Thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy Đảng,

chính quyền địa phương và Giám đốc Công an thành phố chỉ đạo thực hiện có hiệu

quả công tác phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản.

Các mặt công tác phòng ngừa xã hội đối với tội phạm cướp giật tài sản đã

được lực lượng Cảnh sát nhân dân tổ chức tiến hành đi vào chiều sâu, có sự tham

gia của chính quyền, tổ chức đoàn thể và công dân. Bước đầu đã tác động tích cực

góp phần nâng cao ý thức của quần chúng trong phòng, chống tội phạm cướp giật

tài sản. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ thực hiện đúng quy định, các biện

pháp điều tra cơ bản, xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật, công tác sưu tra, xác

minh hiềm nghi nhìn chung đạt được yêu cầu nghiệp vụ, đóng góp tích cực vào hoạt

động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ động phối hợp với các ngành, các cấp,

các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội, khu dân cư đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phát động toàn dân tham gia phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

Đồng thời, lồng ghép tuyên truyền cho nhân dân biết rõ phương thức, thủ đoạn

61

phạm tội cướp giật tài sản.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ động phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ

của ngành Công an thực hiện có hiệu quả công tác tuần tra, kiểm soát ở những khu

vực công cộng, những địa bàn phức tạp về an ninh trật tự hoặc tại những nơi có mục

tiêu quan trọng cần bảo vệ, kết hợp giữa hình thức, biện pháp công tác công khai

với các biện pháp công tác bí mật nhằm phục vụ có hiệu quả cho công tác phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

2.3.2. Hạn chế, thiếu sót

Công tác lãnh đạo, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản có những thời điểm chưa nhận được sự quan tâm, kiểm tra

sâu sát; bố trí cán bộ làm công tác phòng ngừa, công tác nghiệp vụ cơ bản còn hạn

chế về chuyên môn, không chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Đồng thời, một

số cán bộ, chiến sĩ không thường xuyên xuống địa bàn cơ sở nắm tình hình, kiểm

tra, hướng dẫn về các mặt công tác nên đã không tạo được tính chủ động khi tiến

hành hoạt động phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản.

Một số công tác chuyên môn triển khai thực hiện chưa tốt, chưa đề ra chỉ tiêu

hoặc kết quả thực hiện chưa đạt chỉ tiêu, chất lượng công tác nghiệp vụ cơ bản còn

nhiều hạn chế, công tác xử lý tin báo, tố giác tội phạm và công tác điều tra giải

quyết án theo tố tụng hình sự còn chậm. Một số mặt kết quả công tác đạt được chưa

đáp ứng yêu cầu công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

Công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật phục vụ quản lý đối tượng,

kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi cướp giật tài sản còn nhiều yếu kém chưa đáp

ứng được yêu cầu thực tiễn. Công tác quản lý nhân, hộ khẩu chưa thật sự hiệu quả

nên nhiều lúc chưa kịp thời phát hiện các đối tượng nghi vấn phạm tội cướp giật tài

sản để đưa vào diện sưu tra quản lý, đôi lúc còn chưa nắm vững được các di biến

động của các đối tượng hình sự hoạt động trên địa bàn. Công tác quản lý các ngành

nghề kinh doanh có điều kiện trên địa bàn thời gian qua như: Công tác quản lý các

dịch vụ internet, dịch vụ cầm đồ v.v... còn nhiều sơ hở đã tạo điều kiện thuận lợi cho

người phạm tội cướp giật tài sản có thể dễ dàng tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.

Hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp vẫn còn những hạn chế,

62

thiếu sót, chưa đạt hiệu quả mong muốn. Một số địa phương, đơn vị còn coi nhẹ

công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, hoạt động phòng ngừa còn

mang tính hình thức, chưa có nội dung, kế hoạch cụ thể, sự phối hợp giữa các lực

lượng, các ban ngành, đoàn thể trong phòng ngừa còn thiếu đồng bộ, chưa có sự

phối hợp toàn diện. Hoạt động phòng ngừa chủ yếu diễn ra theo từng địa phương,

nên tình hình tội cướp giật tài sản tại các địa bàn giáp ranh có diễn biến hết sức

phức tạp. Công tác điều tra, khám phá hiệu quả chưa cao, công tác nghiên cứu để

tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cướp giật tài sản, nghiên

cứu để xác định quy luật hoạt động, phương thức thủ đoạn phạm tội của các đối

tượng cướp giật tài sản chưa được chú trọng.

Nhận thức về công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản và và vai

trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản của một số cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của các đoàn thể quần chúng và

của một bộ phận quần chúng nhân dân còn hạn chế, chưa thấy hết được tầm quan

trọng của công tác phòng ngừa tội phạm này trong quá trình đấu tranh với tội phạm

nói chung. Mặt khác, còn có địa phương mà ở đó chính quyền và các tổ chức, các

ban ngành đoàn thể tồn tại tâm lý việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm là của lực

lượng Công an nhân dân, của các cơ quan bảo vệ pháp luật nên đã thụ động và thiếu

sự phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót

2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan

Tình hình kinh tế, xã hội thành phố Đà Nẵng thời gian qua có những diễn

biến phức tạp, khó lường, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, tình hình dân di cư

tự do, người làm thuê, lao động tự do đi và đến địa bàn thường xuyên, hàng năm

thành phố đón nhận hàng triệu lượt chuyên gia, nhà đầu tư, khách du lịch đến làm

ăn, sinh sống, tham quan, du lịch, những ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình dịch bệnh

Covid 19 cùng với sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, tình hình tệ nạn xã hội,

cờ bạc, mại dâm có chiều hướng gia tăng tiềm ẩn nguy cơ làm nảy sinh một số hiện

tượng xã hội tiêu cực, trong đó có tình hình tội cướp giật tài sản.

Trình độ chuyên môn của cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân

63

Công an thành phố Đà Nẵng còn nhiều hạn chế, nhiều đồng chí tuyển từ ngành ngoài

vào làm công tác điều tra hình sự, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tinh thần

trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ còn ngại khó, ngại khổ, ngại làm công

tác điều tra trinh sát, nghiệp vụ cơ bản dẫn đến hiệu quả công tác phòng ngừa tội

phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng chưa cao.

Kinh phí, phương tiện, trang thiết bị cấp cho lực lượng Cảnh sát nhân dân

còn hạn chế, nhất là kinh phí công tác phí, mật phí, án phí điều tra, kinh phí hỗ trợ

đi lại cho Điều tra viên, Trinh sát viên quá ít, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm

vụ công tác đối với đặc thù địa bàn thành phố Đà Nẵng.

2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của một số đơn vị chưa nghiêm túc,

chất lượng một số báo cáo còn thấp; số liệu giữa các báo cáo chuyên đề, công tác

nghiệp vụ cơ bản, báo cáo tổng kết năm còn nhiều sai sót, mâu thuẫn với nhau; năng

lực, trình độ cán bộ, chiến sĩ làm công tác thống kê, báo cáo, tổng hợp của một số

đơn vị còn hạn chế.

Công tác tổ chức, triển khai và phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm hình

sự, tệ nạn xã hội của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an thành phố Đà Nẵng còn

chưa đồng bộ, rộng khắp. Công tác phòng ngừa xã hội còn nhiều bất cập, chưa thực

sự huy động được sức mạnh của các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân vào

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội; nhiều cơ quan, doanh

nghiệp chưa chú trọng tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản; còn tình trạng khoán

trắng trách nhiệm phòng ngừa, đấu tranh tội phạm cho lực lượng Công an.

Công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật của quần

chúng nhân dân chưa mang lại hiệu quả, đây là một trong những nguyên nhân chủ

yếu dẫn đến nhiều loại án do nguyên nhân xã hội, trong đó có tội phạm cướp giật tài

sản tiếp tục gia tăng và diễn biến phức tạp trong thời gian qua. Mặc dù thời gian

qua, tình hình tội cướp giật tài sản liên tục xảy ra ở một số địa bàn, nhưng việc

thống kê, theo dõi tình hình phạm pháp hình sự chưa sát, chưa đầy đủ, nguyên nhân

có thể do người dân không trình báo hoặc trình báo không kịp thời với cơ quan

Công an cũng có thể do lực lượng chức năng cơ sở còn sợ trách nhiệm nên giấu

64

giếm báo cáo không trung thực, đầy đủ.

Những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự như công

tác nắm hộ, nắm người, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, quản lý các ngành nghề kinh

doanh đặc biệt để phát hiện tội phạm, hỗ trợ cho công tác phòng ngừa tội phạm chưa

được thường xuyên dẫn đến nhiều mặt công tác khác không mang lại hiệu quả cao

như công tác sưu tra có thực hiện nhưng không thường xuyên liên tục, không theo dõi

chặt chẽ được diễn biến hoạt động của đối tượng, phần lớn đối tượng bị bắt đều nằm

ngoài diện sưu tra.

Kết luận Chương 2

Trong chương 2 của luận văn, bằng việc sử dụng các phương nghiên cứu như

phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu báo cáo chuyên đề, nghiên cứu điển hình,

tác giả đã tập trung phân tích, luận giải làm sáng tỏ đặc điểm tình hình phạm pháp

hình sự, tệ nạn xã hội, thực trạng, động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020, thực trạng

tổ chức lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản. Đồng thời, tác giả đã tiếp cận nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách khách

quan, toàn diện về sự thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ở các phương

diện công tác tham mưu, hướng dẫn; công tác tuyên tuyên truyền, vận động, tuần tra

kiểm soát; công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác

phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Tất nhiên các phương diện nêu trên cũng chỉ

mới là những điểm nhấn cơ bản thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

bên cạnh các mặt công tác khác. Có thể khẳng định, kết quả đạt được tại chương 2

sẽ là tiền đề để tác giả đưa ra những dự báo và đề xuất các giải pháp nâng cao vai

trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm sắp tới sẽ được đề cập tại

chương 3.

65

CHƯƠNG 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG

CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vai trò của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng

3.1.1. Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng những năm tới

Có thể khẳng định, Đà Nẵng là nơi đầu tư lý tưởng, hàng năm thu hút nhiều

nhà đầu tư, doanh nghiệp, người lao động đến đầu tư, làm ăn, sinh sống. Bên cạnh

đó, kinh tế xã hội trong những năm tới tiếp tục có bước chuyển biến vượt bậc, như

xây dựng đô thị, đầu tư cơ sở hạ tầng, giao lưu văn hóa, thương mại, dịch vụ v.v...,

đời sống nhân dân ngày được nâng cao, tài sản của nhân dân ngày càng nhiều, mức

độ lưu chuyển tài sản ngày càng tăng. Cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị

trường góp phần phát triển xã hội thì mặt trái của nó cũng đã tạo đà phân hóa xã hội

ngày càng sâu sắc. Tình trạng thất nghiệp hoặc không có nghề nghiệp ổn định kéo

dài, lối sống xa hoa trụy lạc, thói chây lười lao động, quen sống hưởng thụ, các tệ

nạn xã hội, nghiện ma túy, cờ bạc ngày càng gia tăng. Tác giả cho rằng, tình hình

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới sẽ có những đặc

điểm đặc trưng dưới đây:

Trong những năm tới, tình hình hoạt động của tội phạm cướp giật sẽ tiếp tục

diễn biến khó lường, có tăng, có giảm, với tính chất, mức độ hoạt động ngày càng tinh

vi, xảo quyệt, mạnh động, liều lĩnh. Quy mô, hình thức, xu hướng trong thời gian tới sẽ

hoạt động theo băng, nhóm, có sự phân công vai trò trách nhiệm rõ ràng, cấu kết hoạt

động chặt chẽ hơn, phạm tội chuyên nghiệp hơn, hoạt động trên nhiều địa bàn, tuyến

nơi tập trung nhiều du khách, người dân đến tham quan, du lịch, kinh doanh dịch vụ,

phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội cướp giật rất đa dạng, phức tạp, ngày

càng có kinh nghiệm hơn trong che giấu tội phạm và đối phó với cơ quan Công an,

66

xu hướng sử dụng vũ khí để chống trả khi bị truy đuổi bằng dao, gạch, đá ngày càng

tăng. Chúng cấu kết với nhau không chỉ hoạt động ở một khu vực, một địa bàn mà sẽ

hoạt động trên nhiều tuyến, nhiều địa bàn và có xu hướng hoạt động liên quận, liên tỉnh

theo các địa bàn, tuyến, có sự chuẩn bị chu đáo trước khi thực hiện hành vi phạm tội,

tiến hành gây án một cách bất ngờ, nhanh chóng, bằng cách sử dụng xe mô tô dạo

quanh các tuyến đường, địa bàn nơi tập trung đông dân cư nắm tình hình, tìm sự sơ

hở, mất cảnh giác của nạn nhân để nhanh chóng giật lấy tài sản rồi tẩu thoát, đôi lúc

tiến hành gây án táo bạo, trắng trợn, làm cho người bị hại hoảng sợ. Phương tiện

gây án chủ yếu vẫn là xe mô tô có phân khối lớn, sử dụng biển số trộm cắp, biển số

giả hoặc bẻ cong biển số, dán băng keo và thay đổi màu sơn của xe...

Tài sản các đối tượng hoạt động cướp giật nhằm vào chủ yếu vẫn là các tài

sản được quản lý dưới dạng mang theo người như: ôm, đeo, mang, cầm, nắm hoặc

được cài ở trên xe với các tài sản gọn, nhẹ, có giá trị như: dây chuyền, vòng vàng,

túi xách, điện thoại di động... Đối tượng mà tội phạm cướp giật nhằm vào thường là

phụ nữ và các du khách là người nước ngoài khi mang theo tài sản bên người.

Thành phần các đối tượng trong các vụ án cướp giật có xu hướng trẻ hóa và đa

dạng hơn. Các đối tượng phạm tội ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi ngày càng tăng, tập

trung vào những đối tượng nghiện hút ma túy, có tiền án tiền sự, các đối tượng hoạt

động lưu manh chuyên nghiệp, ngoài ra, có thêm nhiều đối tượng chưa có tiền án,

tiền sự, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định câu kết lại với nhau

thực hiện hành vi cướp giật. Đối tượng hoạt động cướp giật có cả nam, lẫn nữ, phần

lớn là người có hộ khẩu thường trú tại thành phố Đà Nẵng, nhưng chủ yếu là nam

giới, có trình độ văn hóa thấp. Điều kiện sống và hoàn cảnh gia đình của các đối

tượng thường không hoàn hảo, cá biệt, có trường hợp đối tượng phạm tội xuất phát từ

gia đình khá giả, cán bộ nhưng do tiếp thu các mặt trái của xã hội đi vào con đường

phạm tội.

Thời gian gây án cả ngày lẫn đêm. Địa bàn hoạt động phạm tội vẫn tập trung

vào các địa bàn, khu vực, tuyến có đông người dân, du khách hoạt động kinh doanh,

di lịch như tuyến đường Võ Nguyên Giáp, địa bàn quận Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ

Hành Sơn. Thông thường đối tượng phạm tội cướp giật tài sản không cần chuẩn bị

67

trước nơi tiêu thụ, các đối tượng có thể tiêu thụ tài sản cướp giật được ở các tiệm

vàng, cửa hàng điện thoại di động, tiệm cầm đồ trong và ngoài thành phố.

3.1.2. Dự báo các yếu tố thuận lợi và khó khăn tác động đến vai trò của

lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng những năm tới

3.1.2.1. Các yếu tố thuận lợi

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một trong những nhiệm vụ quan

trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu

thể hiện trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và

định hướng đến năm 2030 khẳng định: “Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa,

đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên quốc

gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về kinh tế, tham nhũng, ma túy, môi

trường, tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, tội phạm

liên quan trực tiếp đến sự suy thoái đạo đức gia đình, xã hội... Tiếp tục phát huy sức

mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong phòng ngừa, đấu tranh,

ngăn chặn tội phạm, giảm các loại trọng án, giảm tội phạm ở các địa bàn trọng

điểm, góp phần xây dựng xã hội an toàn, ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội

đất nước”. Đây chính là cơ sở để lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an thành phố

Đà Nẵng tiếp tục phát huy thành tựu đạt được để thực hiện hiệu quả công tác phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố những năm tới.

Lực lượng Cảnh sát nhân dân ngày càng được tăng cường và hoàn thiện về

cơ cấu, tổ chức. Điều tra viên, Trinh sát viên, Cán bộ điều tra được đào tạo cơ bản,

chính quy, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, cơ sở vật chất, phương

tiện được trang bị tốt hơn sẽ là cơ sở vững chắc đảm bảo hiệu quả công tác hòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

3.1.2.2. Các yếu tố khó khăn

Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng trong

những năm qua diễn biến khó lường, phức tạp và có tăng có giảm; tỷ lệ điều tra

khám phá án đối với án cướp giật tài sản còn thấp; công tác tuyên truyền giáo dục

pháp luật trong nhân dân, nhất là trong thanh, thiếu niên chưa thường xuyên liên

68

tục, trong khi số lượng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong cơ

cấu thành phần độ tuổi phạm tội; một số cấp, ngành còn thờ ơ trong việc tham gia

vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản

nói riêng; việc phối hợp trao đổi thông tin tội phạm giữa các lực lượng còn hạn chế,

chưa chủ động phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến

tình hình an ninh trật tự.

Trong những năm qua, lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng đã tập trung

nhiều biện pháp phòng ngừa và đấu tranh, tỷ lệ vụ án cướp giật khám phá ngày càng

tăng. Nhưng trong quá trình tiến hành, lực lượng Công an thành phố vẫn còn bộc lộ

nhiều tồn tại, đặc biệt là trong tổ chức hoạt động phòng ngừa xã hội cũng như

phòng ngừa nghiệp vụ. Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm cướp giật tài

sản còn thiếu, trình độ năng lực không đồng đều, các trang thiết bị còn thiếu, kinh

phí hoạt động còn hạn hẹp. Điều này đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả công

tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng nếu như không có giải pháp khắc phục hữu hiệu.

Một số cấp ủy đảng, chính quyền, sở, ban, ngành, đoàn thể tuy có quan tâm

đến công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng

nhưng chưa lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nên việc tổ chức thực hiện có lúc, có nơi

chưa thường xuyên, liên tục, có nơi chưa gắn kết chặt chẽ thực hiện chương trình,

kế hoạch phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng tại

các khu du lịch với các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác nên

kết quả đạt được còn hạn chế.

Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước liên quan đến an ninh trật tự ở

một số ngành và các đơn vị, địa phương có nơi còn bộc lộ nhiều sơ hở đã tạo điều

kiện cho bọn tội phạm gây án. Một số nơi vẫn còn tư tưởng xem trách nhiệm phòng,

chống tội phạm là của cơ quan chức năng nên chưa phát huy được sức mạnh của cả

hệ thống chính trị trong công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói

chung, tội phạm cướp giật tài sản nói riêng.

Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài

sản nói riêng của các ngành chức năng mà lực lượng Công an làm nòng cốt tuy đã

69

đạt được nhiều kết quả nhưng có nơi, có lúc chưa quyết liệt, thiếu nhạy bén kịp thời.

Công tác phối hợp tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự ban đêm chưa được

thường xuyên, liên tục, kết quả đạt được còn hạn chế. Công tác quản lý hành chính

nhà nước về an ninh trật tự còn nhiều sơ hở; Công tác quản lý đối tượng, quản lý địa

bàn chưa chặt chẽ; công tác quản lý, cảm hóa, giáo dục đối tượng và tạo điều kiện

cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng tuy có chuyển biến nhưng kết quả đạt được

còn hạn chế.

3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng

3.2.1. Đẩy mạnh tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tổ

chức chỉ đạo triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản

Tiếp tục tham mưu xây dựng chương trình hành động, tổ chức quán triệt,

thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01-12-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

“về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh

Tổ quốc trong tình hình mới”, Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22-6-2015 của Bộ Chính

trị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự

trong tình hình mới”, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26-3-2008 của Bộ Chính trị “về

tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy

trong tình hình mới”; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị

số 48-CT/TW ngày 22-10-2010 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Quyết định

623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội

phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030; Chỉ thị số 37-CT/TU

ngày 20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ

đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành

phố”; Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 10-8-2009 và Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 20-10-

2009 của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các gia đình có hoàn

cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm pháp luật” và

70

“phòng chống bạo lực gia đình”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 của

UBND thành phố về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn

dân tham gia phòng, chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”; Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày

06/9/2014 của UBND thành phố về ban hành “Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ

chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch 7104/KH-UBND ngày

03/6/2015 của UBND thành phố về “Cảm hóa, giáo dục, giúp đở thanh thiếu niên

sử dụng trái phép ma túy trên địa bàn thành phố”; Quyết định 5393/QĐ-UBND

ngày 10/8/2016 của UBND thành phố về việc Ban hành Chiến lược phòng, chống

tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng; Quyết định 6111/QĐ-UBND ngày 07/9/2016 của UBND thành phố

về việc Phê duyệt Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy không

được kiểm soát trong cộng đồng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”.

Tham mưu Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tăng cường công tác chỉ

đạo các sở, ban, ngành nâng cao vai trò đối với công tác đấu tranh phòng ngừa,

chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng, chống tệ nạn xã hội và đưa công tác

này vào nội dung chương trình công tác của đơn vị, địa phương. Củng cố và nâng

cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và

xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ từ quận đến phường nhằm nâng cao

hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng,

chống tệ nạn xã hội, trọng tâm là làm tốt công tác chuyển biến địa bàn phức tạp về

an ninh trật tự trở thành địa bàn không có tội phạm hoặc giảm đến mức thấp nhất.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham

gia phòng chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng theo Quyết định số 19/2009/QĐ/UBND của Ủy ban nhân dân

thành phố. Nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho số đối tượng có

nguy cơ cao; các đối tượng vi phạm pháp luật; các chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ,

nhà nghỉ, khách sạn, cầm đồ, karaoke; các tổ xe thồ tự quản. Tham gia quản lý, cảm

hóa, giáo dục, giúp đỡ người vi phạm tại gia đình và cộng đồng khu dân cư kết hợp

với biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường đồng thời lập hồ sơ đưa đối tượng

71

vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, trung tâm cai nghiện ma túy nhằm góp phần

hạn chế phát sinh tội phạm.

Đào tạo năng lực trách nhiệm trong quản lý Nhà nước về an ninh trật tự ở cơ sở,

nhất là quản lý khu dân cư. Tăng cường kiểm tra, quản lý các dịch vụ kinh doanh ngành

nghề có điều kiện về an ninh trật tự, công tác tuần tra, kiểm soát phòng chống tội phạm.

Quản lý chặt số đối tượng sau cai nghiện tại địa phương, số đang điều trị bằng chất

Methadone, làm giảm tỷ lệ nghiện mới, tái nghiện.

Kiện toàn, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng an ninh cơ

sở nhất là lực lượng Bảo vệ dân phố, Dân phòng theo Nghị định 38/NĐ-CP của

Chính phủ. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp tuần tra phòng

chống tội phạm theo Quyết định 8394/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 của UBND

thành phố về công tác tuần tra, chốt chặn, mật phục theo kế hoạch của thành phố và

trên địa bàn quận; Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực

lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó

có phương án bố trí lực lượng tuần tra, mật phục hợp lý để kịp thời phát hiện, ngăn

chặn tội phạm cướp giật tài sản, lộ trình tuần tra chú ý các địa bàn, tuyến trọng điểm về

an ninh trật tự.

3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức cảnh giác tự bảo

vệ tài sản cho nhân dân; ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần tham gia phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Thực tế trong công tác đấu tranh chống tội phạm cướp giật tài sản thời gian

qua cho thấy một trong những vấn đề làm nảy sinh tội phạm này là do ý thức mất

cảnh giác của người dân trong việc quản lý tài sản mang theo dẫn đến những sơ hở

để tội phạm lợi dụng cướp tài sản tại các địa bàn, khu vực, tuyến. Chính vì vậy để

phòng ngừa loại tội phạm trên, đòi hỏi lực lượng Công an thành phố cần làm tốt hơn

nữa công tác tuyên truyền đến nhân dân trên địa bàn thành phố.

Cần tập trung tuyên truyền về tình hình, phương thức thủ đoạn của tội phạm

nói chung và cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn thành phố thời gian qua; tuyên

truyền để họ nắm được phương thức, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thường xảy cướp

giật; giáo dục họ về ý thức, trách nhiệm trong việc tự bảo vệ tài sản của mình, tránh

72

sơ hở mà tội phạm có thể lợi dụng. Ngoài ra phải tuyên truyền cho mọi người cách

đối phó, giải quyết khi bị cướp (cách tri hô, cách báo tin cho cơ quan chức năng…).

Phương pháp, hình thức tuyên truyền phải đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng

cụ thể:

Đối với người nước ngoài khi tuyên truyền gặp rất nhiều khó khăn như bất

đồng ngôn ngữ, họ lại thường xuyên di chuyển và nếu không cẩn thận sẽ làm cho

người nước ngoài hoang mang lo sợ, nghĩ rằng ở Đà Nẵng không an toàn,tình hình

an ninh trật tự không đảm bảo. Do vậy, sử dụng nội dung hình thức, phương pháp

tuyên truyền phải phù hợp linh động, sáng tạo nhằm tạo cho người nước ngoài an

tâm, tin tưởng vào cơ quan chức năng, vừa nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ tài sản.

Một số hình thức tuyên truyền có thể mang lại hiệu quả cao như thông qua Sở Du

lịch để in những tờ rơi, tờ bướm nói về các thủ đoạn cướp giật, các tuyến đường,

khu vực công cộng thường xảy ra cướp giật, in một số hình ảnh về hành vi cướp

giật, số điện thoại liên lạc khi cần thiết để thông báo trực quan cho nhân dân.

Đối với quần chúng nhân dân, thực tế cho thấy nhiều vụ án cướp giật tài sản,

được sự giúp đỡ truy bắt của quần chúng đã bắt được đối tượng gây án. Nhưng để

nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của quần chúng trong công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng, lực lượng

Công an thành phố phải phối hợp với các cơ quan chức năng, các đoàn thể, tổ chức,

sử dụng linh hoạt các hình thức như:

Tổ chức các cuộc thi trên đài phát thanh, truyền hình về kiến thức pháp luật,

thủ đoạn hoạt động của tội phạm hoặc tổ chức các buổi giao lưu trực tuyến với khán

giả về chủ đề phòng ngừa tội phạm để mọi người hưởng ứng;

Tuyên truyền về thủ đoạn hoạt động của tội phạm nói chung tội phạm cướp

giật tài sản nói riêng; nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt về

tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm;

Sử dụng các tranh panô, áp phích, khẩu hiệu, tờ rơi để tuyên truyền, vận

động nhân dân phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tại các địa bàn, khu vực,

tuyến giao thông thường xảy cướp giật tài sản.

Song song với các biện pháp tuyên truyền, vận động tập trung, lực lượng Công

73

an thành phố cần chú ý khai thác các hình thức tuyên truyền cá biệt như: vận động cơ

quan, tổ chức trên địa bàn trực tiếp đảm nhận và có trách nhiệm thực hiện các nội dung

cụ thể trong việc quản lý giáo dục, tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ công ăn việc làm

cho các đối tượng đang gặp khó khăn; giải quyết những vướng mắc về gia đình, cuộc

sống và cả về tư tưởng; phối hợp với các ban ngành, đoàn thể cảm hóa, giáo dục, giúp

đở số thanh thiếu niên hư, vi phạm pháp luật, sử dụng trái phép chất ma túy nhằm phát

huy những mặt tích cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực, động viên các em phấn đấu,

lao động chân chính, không lâm vào con đường phạm tội.

Việc tổ chức tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, phối hợp giữa các

hình thức, có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế của từng địa bàn,

khu vực, tuyến giao thông, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp lãnh đạo,

tránh hình thức qua loa, không sát thực với tình hình thực tế.

3.2.3. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển

hình tiên tiến trong phòng chống tội phạm cướp giật tài sản

Việc phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình tiên tiến và

có chế độ chính sách cho những người tham gia bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở là nội

dung quan trọng trong tổ chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc,

xây dựng tổ dân phố, thôn, xóm không có tội phạm và tệ nạn xã hội, vừa là nhiệm vụ

vừa là phương thức quan trọng của công tác tư tưởng nhằm cổ động, tuyên dương kịp

thời các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, động viên mọi người cùng hành động, tự

giác, hăng hái tham gia phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm cướp giật tài sản

nói riêng, góp phần đảm bảo tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bên cạnh, các hình

thức động viên, khen thưởng, biểu dương kịp thời những gương người tốt, việc tốt,

những người tham gia bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở, các cơ quan thông tin đại

chúng cần đổi mới và đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền; có phương pháp tiếp

cận và cách viết phù hợp hơn để người đọc, người nghe có sự cảm thông và từ đó làm

theo; thông tin phải xác thực, có sự lựa chọn kỹ càng, sức lan tỏa để nhân rộng toàn

xã hội.

Qua thực tế nghiên cứu cho thấy, số đối tượng phạm tội cướp giật phần lớn

đều không có công ăn việc làm hoặc công việc làm không ổn định, không có nguồn

74

thu nhập chính đáng nên rất dễ đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, tập trung giải

quyết tốt chính sách xã hội, tạo công ăn việc làm cho những đối tượng thực sự gặp

khó khăn là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý, giáo

dục đối tượng.

Công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, quản lý giáo dục đối tượng phải gắn

với chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Do vậy, hàng năm, đều tiến hành rà

soát lên danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha, đặc xá và căn cứ vào đặc điểm

giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp v.v... để giao chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban,

ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm lỗi tiến

bộ, nhiều đối tượng được hỗ trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để tạo điều kiện cho

họ hòa nhập cộng đồng không tái phạm.

3.2.4. Thường xuyên đảm bảo công tác thông tin, báo cáo về tội phạm

Củng cố, nâng cao chất lượng công tác trao đổi, thông tin, liên lạc giữa các

lực lượng, các đơn vị, địa phương theo hướng “nhanh chóng, kịp thời, chính xác”

trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động phòng chống tội phạm nói chung,

tội phạm cướp giật tài sản nói riêng từ công tác báo cáo, trao đổi nghiệp vụ, đến

công tác xác minh thông tin vụ việc, quản lý địa bàn, đối tượng...

Tổ chức xâu chuỗi từng lực lượng trong Công an thành phố Đà Nẵng từ

thành phố, đến quận, huyện, phường, xã và cùng tham gia chỉ đạo, hướng dẫn, cùng

giải quyết đối với từng vụ án nói chung, vụ án cướp giật tài sản nói riêng theo

hướng truy kích tội phạm, không đùn đẩy trách nhiệm, giao phó cho cấp dưới, trong

đó tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp trong công tác chuyên môn giữa các đơn

vị, hệ lực lượng, xoá bỏ tác phong hành chính thay bằng hoạt động theo hướng tinh

nhuệ, sắc bén, kịp thời; tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các Kế

hoạch chuyên đề phòng, chống tội phạm của Giám đốc theo từng hệ lực lượng; duy

trì thường xuyên công tác giao ban theo hệ lực lượng theo Quyết định

721/2013/QĐ-CATP của Giám đốc về chế độ giao ban, báo cáo của các hệ lực

lượng trong Công an thành phố.

Đối với quy trình tiếp nhận và công tác phối hợp trong xác minh, xử lý tin

báo, tố giác tội phạm cần quy định rõ nội dụng, nhiệm vụ của từng lực lượng, từng

75

cấp tiến hành, trong đó:

Đối với Công an các phường, xã (Công an cơ sở): Khi nhận được tin báo, tố

giác về tội phạm cướp giật tài sản xảy ra, cán bộ tiếp nhận cần ghi rõ địa chỉ, một số

thông tin cần thiết về người báo tin và các thông tin về vụ việc, báo ngay cho lãnh

đạo Công an cơ sở và lãnh đạo cấp có thẩm quyền cử ngay lực lượng cùng phối hợp

tiến hành xác minh;

Đối với lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH các cấp (cấp quận, huyện, thành

phố): Khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm cướp giật xảy ra cần tổ chức ngay

các hoạt động điều tra, xác minh làm rõ vụ án, đồng thời trao đổi với lực lượng

Công an cơ sở biết tin và cùng phối hợp xác minh khi có yêu cầu.

Trong công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm cướp giật tài sản,

cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

Khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, cán bộ phải thể hiện sự quan tâm

chia sẻ, phải có thái độ lịch sự, hòa nhã, trấn an họ, làm cho người đến báo tin có sự

bình tĩnh, tin tưởng, từ đó khai báo đầy đủ, chính xác hơn;

Cần thiết lập, quản lý và sử dụng có hiệu quả trang Website Công an thành

phố và hệ thống các hộp thư tố giác tội phạm. Những hộp thư này phải được đặt tại

những nơi dễ nhìn thấy và thông báo cho nhân dân biết phản ánh và thường xuyên

kiểm tra, xử lý kịp thời;

Củng cố, duy trì hoạt động 24/24h hệ thống Trung tâm 113 và hệ thống Trung

tâm thông tin chỉ huy, có như vậy mới tiếp nhận thông tin về tội phạm cướp giật tài sản

kịp thời, đầy đủ, đồng thời kịp thời huy động các lực lượng phản ứng nhanh, lực lượng

công khai có mặt trên đường phố cùng tham gia công tác phòng ngừa, truy bắt đối với

loại tội phạm này. Việc duy trì và đảm bảo hoạt động của hệ thống này sẽ làm tăng

niềm tin của nhân dân vào cơ quan Công an, đảm bảo yêu cầu bí mật cho người cung

cấp tin.

Bên cạnh đó, cần ban hành văn bản quy định chặt chẽ nhiệm vụ, trách nhiệm

của cán bộ trực ban và công tác thông tin từ cấp tỉnh đến cấp huyện và đến cấp cơ

sở, đảm bảo cho lượng thông tin luôn được trao đổi nhanh chóng, kịp thời. Đồng

thời, phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc

76

xúc phạm những người báo tin. Làm được điều này sẽ đảm bảo hoạt động tiếp nhận và

xử lý tin báo, tố giác về tội phạm được tiến hành nghiêm túc, đạt hiệu quả cao, góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống tội phạm cướp giật.

3.2.5. Phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát

nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản

Xây dựng, ban hành quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống tội phạm

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có quy định quy trình,

nguyên tắc phối hợp tội phạm cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy định

rõ chế tài xử lý nghiêm đối với những cá nhân, đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng với nội dung quy định của quy chế. Đồng thời,thường xuyên tổ chức sơ

kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động phối hợp giữa các lực lượng, nhằm kịp thời

chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình

thực hiện quy chế, cũng như kịp thời khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành

tích, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện quy chế.

Lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự nắm rõ tình hình, quy luật

hoạt động của tội phạm cướp giật tài sản trên từng địa bàn, khu vực, tuyến giao

thông để có kế hoạch, phương án tổ chức tuần tra phù hợp và khoa học. Trong quá

trình tuần tra chú ý phát hiện các loại phương tiện mà đối tượng thường sử dụng để

gây án hoặc các phương tiện có nghi vấn để chủ động kiểm tra người và phương

tiện. Trường hợp phát hiện người, phương tiện có dấu hiệu nghi vấn như xe mang

biển kiểm soát giả, mờ, bẻ cong ,… nhanh chóng phối hợp, bàn giao cho lực lượng

CSHS Công an các quận, huyện, Phòng PC02 để tổ chức xác minh, làm rõ. Trong

quá trình tuần tra và điều khiển giao thông tại các khu du lịch nếu phát hiện có vụ

cướp giật thì phải truy bắt ngay, đồng thời báo ngay về Trung tâm thông tin chỉ huy

để phối hợp với các lực lượng tiến hành truy bắt.

Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH phối hợp với lực lượng

Cảnh sát khu vực, Công an phụ trách xã, Công an xã, phường để quản lý đối tượng

nằm trong diện sưu tra, nắm chắc di biến động của các đối tượng này. Thực hiện giáo

dục đối tượng tại cơ sở, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Tập trung quản

77

lý những đối tượng có tiền án, tiền sự về tội phạm trộm cắp, cướp giật tài sản... những

đối tượng nghiện ma tuý ở địa phương. Tăng cường công tác quản lý nhân khẩu, hộ

khẩu, thường xuyên kiểm tra hộ khẩu, kiểm tra lưu trú, các ngành nghề kinh doanh có

điều kiện để phát hiện những đối tượng đã gây án đang lẫn trốn, những tài sản bị

chiếm đoạt trong các vụ án cướp giật tài sản phục vụ công tác truy bắt, truy xét, truy

tìm đối tượng.

Các lực lượng Công an phường, lực lượng dân phòng, dân quân tự vệ tăng

cường công tác quản lý đối tượng tại chỗ bao gồm các đối tượng có tiền án, tiền sự,

tổ chức tuần tra khép kín tại các địa bàn, khu vực, tuyến du lịch, khu du lịch nhằm

kịp thời phát hiện đối tượng nghi vấn để giám sát, thu thập tài liệu xác minh làm rõ,

áp dụng biện pháp tác động ngăn chặn không để chúng có điều kiện gây án, hoặc bố

trí bắt quả tang khi chúng đang thực hiện hành vi gây án. Nghiên cứu, xây dựng, tổ

chức lại phương án phối hợp tuần tra, kiểm soát phù hợp với quy luật hoạt động của

tội phạm cướp giật tài sản (thời gian, tuyến, địa bàn, phương tiện...) đảm bảo không

để trống địa bàn, khi có vụ cướp giật xảy ra đều có lực lượng tiếp nhận, tiếp ứng,

giải quyết kịp thời, nhanh chóng.

Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy trong quá trình đấu tranh

triệt phá các đường dây tổ chức mua bán trái phép chất ma túy, xử lý người nghiện

cần chú ý khai thác thông tin liên quan đến tội phạm cướp giật tài sản, bởi đối tượng

phạm tội cướp giật thường là những người nghiện ma tuý, để có tiền thoả mãn cơn

nghiện chúng thường thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Ngược lại, khi đã sử dụng

ma tuý chúng thường thực hiện hành vi cướp giật liều lĩnh, quyết liệt hơn. Những

thông tin, tài liệu khai thác được, lực lượng cảnh sát ma túy chuyển giao cho lực

lượng cảnh sát hình sự để phục vụ cho phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm

cướp giật tài sản.

78

KẾT LUẬN

Có thể khẳng định, tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng thời gian qua diễn biến phức tạp, khó lường, tính chất, mức độ phạm tội tinh

vi, xảo quyệt, thành phần đối tượng phạm tội đa dạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình

hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây căm phẫn, bất bình trong quần

chúng nhân dân. Vì vậy, phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một yêu cầu cấp bách trong điều kiện

hiện tại và những năm sắp tới. Toàn bộ những phân tích, luận giải, minh chứng cụ

thể từ thực tiễn đề cập tại chương 2 của đề tài đã xác nhận cho nhận định trên, đồng

thời, tại chương 2, 3 của đề tài, tác giả đã có những nghiên cứu xác đáng, rút ra

được những kết luận khoa học, luận cứ giá trị có ý nghĩa sâu sắc đối với thực tiễn

thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Trong phạm vi nội dung nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng”, tác giả đã tập trung hệ thống hóa, phân tích, luận giải và đưa ra khái niệm

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, đề cập và phân tích cơ sở, yêu cầu cũng

như các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, tác giả

đã chỉ rõ căn cứ phân loại và nội dung cụ thể của các biện pháp phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản, phân tích, chỉ rõ chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản gồm: Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phòng ngừa

tình hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân); chủ

thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản (Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án); chủ thể tham gia phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (mặt trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà

trường). Đặc biệt, tác giả đã luận giải và làm sáng tỏ khái niệm, nội dung vai trò của

lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, quyền

và nghĩa vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản, phân tích, chỉ rõ các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đây chính là cơ sở để

khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân

79

trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

những năm qua.

Tác giả đã phân tích, trình bày kết quả nghiên cứu, khảo sát, đánh giá đúng

đắn, đầy đủ và toàn diện về đặc điểm tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội,

thực trạng, động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020, thực trạng tổ chức lực lượng

Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, tác

giả đã tiếp cận nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về

sự thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ở các phương diện công tác tham

mưu, hướng dẫn; công tác tuyên tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm soát; công

tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác phối hợp giữa lực

lượng Cảnh sát nhân dân với các lực lượng khác trong phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản. Trên cơ sở đó, rút ra những ưu điểm, những hạn chế, thiếu sót và

nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót làm cơ sở để nâng cao vai trò của lực

lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới.

Từ thực tiễn nghiên cứu, dựa trên những cơ sở khoa học, tác giả đã dự báo

tình hình tội cướp giật tài sản và các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh

sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng những năm tới. Đồng thời, tác giả đề xuất 05 nhóm giải pháp nâng cao vai

trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là những giải pháp khoa học, hoàn toàn có

thể được nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng ở mức độ nhất định đối với thực tiễn hoạt

động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng của

lực lượng Cảnh sát nhân dân.

Trên đây là những kết quả mà đề tài đạt được qua quá trình nghiên cứu về lý

luận và thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Tác giả rất mong nhận

được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và các bạn đồng

nghiệp để có thể nghiên cứu vấn đề này sâu sắc hơn trong thời gian sắp tới./.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ

Chí Minh.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về

Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,

định hướng đến năm 2020.

4. Báo cáo tình hình và kết quả công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh

Tổ quốc các năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020 của Công an thành phố Đà Nẵng.

5. Báo cáo tình hình, kết quả công tác đảm bảo an ninh trật tự các năm 2016, 2017,

2018, 2019, 2020 của Công an thành phố Đà Nẵng.

6. Mai Bộ (2007), Tội cướp giật tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.

7. Lê Cảm (2001), Nhân thân người phạm tội, một số vấn đề lý luận cơ bản, Tạp chí

Tòa án nhân dân (số 10), Hà Nội.

8. Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới”.

9. Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”.

10. Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ

đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới”.

11. Chỉ thị số 09/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình

hình mới”.

12. Nguyễn Xuân Dũng (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án cướp

giật tài sản chưa rõ thủ phạm của Công an các Quận, Huyện Thành phố Hồ Chí

Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học CSND, Thành phố Hồ Chí

Minh.

13. Trần Văn Hiệp (2014), Tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam, Luận

văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

14. Trần Văn Hiệp (2014), Tìm hiểu về cấu thành tội phạm của tội cướp giật tài

sản, Tạp chí Khoa học Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học CSND, Thành phố

Hồ Chí Minh.

15. Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những

điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất

bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

16. Dương Tuyết Miên (2005) Nạn nhân của tội phạm dưới góc độ tội phạm học,

Tạp chí Tòa án nhân dân (số 20), Hà Nội.

17. Bùi Xuân Nam (2013), Phòng Ngừa tội cướp giật tài sản do người chưa thành

niên thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Linh (2018), Vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình

sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015.

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật Hình

sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật tổ chức Tòa

án nhân dân năm 2014.

23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân năm 2014.

24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Công an nhân

dân năm 2018.

25. Lê Văn Thắng (2011), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh sát

khu vực Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường

Đại học CSND, Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Phạm Văn Trung (2017), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:

Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Đỗ Tất Minh Tuấn (2012), Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với

lực lượng CSĐTTP về TTXH trong điều tra, truy tố vụ án cướp giật tài sản trên

địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học CSND,

Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Nguyễn Văn Thái (2011), Điều tra tội phạm cướp giật tài sản người nước ngoài

của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Thành phố

Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học CSND, Thành phố Hồ

Chí Minh.

29. Đỗ Ngọc Quang (1993), Giáo trình tội phạm học đại cương, Trường Đại học

tổng hợp Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học tổng hợp, Hà Nội.

30. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam: Phần các tội phạm,

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình xã hội học pháp luật – Những vấn đề cơ bản,

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,

Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

33. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế, Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

34. Nguyễn Xuân Yêm (2005), Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời kỳ

đổi mới, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

35. Nguyễn Hải Yến (2013), Phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành

phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

36. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nhà xuất bản Giáo dục,

Hà Nội

PHỤ LỤC

BẢNG 2.1: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM ĐIỂN HÌNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ

KHÁM PHÁ TỔNG SỐ TT TỘI DANH VỤ Số vụ Tỉ lệ Số đối tượng

107 106 01 Giết người 99,1% 175

325 310 02 Cố ý gây thương tích 95,38% 604

09 09 03 Hiếp dâm trẻ em 100% 09

46 41 04 Cướp tài sản 89,13% 72

1327 1062 05 Trộm cắp tài sản 80,03% 1389

155 92 06 Cướp giật tài sản 59,35% 120

483 434 07 Án khác 89,85% 874

2447 2054 TỔNG CỘNG 83,93% 3243

Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.2: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ

KHÁM PHÁ

TT NĂM TỔNG SỐ VỤ

Tỉ lệ Số đối tượng Số vụ

2016 558 81,5% 702 445 1

2017 532 83,1% 677 442 2

2018 517 84,3% 695 436 3

2019 467 85,7% 622 400 4

2020 375 85,6% 557 321 5

TỔNG CỘNG 2447 2054 83,93% 3253

Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.3: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ

KHÁM PHÁ TỔNG SỐ VỤ TỔNG SỐ TT NĂM CƯỚP GIẬT Tỉ lệ Số đối VỤ Tỉ lệ Số vụ TÀI SẢN tượng

1 2016 558 33 5,9% 60,6% 29 20

2 2017 532 36 6,7% 66,7% 36 24

3 2018 517 33 6,4% 57,6% 28 19

4 2019 467 31 6,3% 45,2% 17 14

5 2020 375 18 4,8% 83,3% 10 15

92 TỔNG CỘNG 2447 151 6,17% 60,9% 120

Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.4: THỐNG KÊ ĐỊA BÀN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020

Quận Hải Châu Quận Thanh Khê Quận Sơn Trà Quận Liên Chiểu Quận Ngũ Hành Sơn Quận Cẩm Lệ Huyện Hòa Vang

Năm

Số vụ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tổng số vụ cướp giật tài sản

6 7 18,2% 21,2% 4 4 12,1% 2 6,1% 1 12,1% 3,0% 9 27,2% 33 2016

4 9 11,1% 25%% 3 6 16,6% 3 8,3% 3 8,3% 8,3% 8 22,2% 36 2017

5 5 15,1% 15,1% 2 8 24,2% 4 12,1% 3 6,1% 9,1% 6 18,2% 33 2018

5 6 16,1% 19,3% 3 6 19,3% 2 6,4% 2 9,7% 6,4% 7 22,5% 31 2019

3 6 16,7% 33,3% 3 2 11,1% 1 5,6% 0 16,7% 0% 3 16,7% 18 2020

151 33 21,8% 23 15,5% 33 21,8% 15 10,3% 26 17,3% 11 7,5% 10 6,8% Tổng cộng

Nguồn Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.5: THỐNG KÊ THỜI GIAN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020

Từ 00h00– 06h00 Từ 06h00 – 18h00 Từ 18h00 - 24h00 Năm Tổng số vụ cướp giật tài sản Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ

6 18,2% 11 33,3% 16 48,5% 2016 33

7 19,4% 10 27,8% 19 52,8% 2017 36

8 24,2% 8 24,2% 17 51,6% 2018 33

8 25,8% 10 32,3% 13 41,9% 2019 31

4 22,2% 6 33,3% 8 44,5% 2020 18

45 29,8% 73 48,3% Tổng cộng 151 33 21,8%

Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.6: THỐNG KÊ LOẠI TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020

Loại tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ cướp giật tài sản

Túi xách Tài sản khác Điện thoại di động Dây chuyền vàng Năm Máy tính xách tay, máy ảnh, Ipad, Tổng số vụ cướp giật tài sản

Số vụ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tỷ lệ

33 21,2 13 6 39,4 18,2 4 5 15,1 12,1 7 2016

36 13,9 14 12 38,9 33,3 2 3 8,3 55,6 5 2017

33 12,1 5 9 15,1 27,3 5 7 21,2 15,1 4 2018

31 16,1 9 29,03 11 35,5 3 3 9,7 9,7 5 2019

18 16,7 2 11,1 8 44,4 1 4 22,2 5,6 3 2020

Tổng cộng 151 24 15,6% 43 28,4% 47 31,1% 15 10% 22 14,5%

Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng