ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------

ĐẶNG THỊ NGA

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG

CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------

ĐẶNG THỊ NGA

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG

CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60.22.03.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Văn Duyên

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn của TS. Dương Văn Duyên. Các số liệu được sử dụng trong luận

văn là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả trình bày

trong luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: LỐI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY

DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 8

1.1. LỐI SỐNG VÀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT

NAM HIỆN NAY ......................................................................................... 8

1.1.1. Lối sống ........................................................................................... 8

1.1.2. Xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay………….18

1.2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY .. 36

1.2.1. Gia đình Việt Nam hiện nay ......................................................... 36

1.2.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của con người Việt

Nam hiện nay ........................................................................................ 444

Tiểu kết chương 1...................................................................................... 544

CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG

CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI

PHÁP ............................................................................................................ 555

2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG

LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ...................... 555

2.1.1. Những kết quả đạt được .............................................................. 555

2.1.2 Những hạn chế của gia đình trong xây dựng lối sống của con người

Việt Nam hiện nay ................................................................................ 833

2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 922

2.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây

dựng lối sống con người Việt Nam hiện nay ........................................ 922

2.2.2. Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của các gia đình là điều kiện

quan trọng để xây dựng con người mới có lối hành xử phù hợp với tự

nhiên, với gia đình và xã hội và lối tiêu dùng văn minh ..................... 9797

2.2.3 Nâng cao chất lượng giáo dục gia đình nhằm phát huy vai trò của

nó trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay .......... 1011

Tiểu kết chương 2.................................................................................... 1066

KẾT LUẬN .............................................................................................. 10707

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 10909

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT.

STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa

CNH – HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.

CNXH Chủ nghĩa xã hội 2.

XHCN Xã hội chủ nghĩa 3.

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế năm 2014 . 61

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam năm 2014 .................................. 62

Bảng: 2.1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước những năm gần đây ...... 63

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Gia đình là tế bào của xã hội, là một thiết chế cơ bản trong cơ cấu tổ

chức xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức

quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Gia đình không chỉ là

nơi duy trì nòi giống, mà còn là chỗ dựa tinh thần hết sức quan trọng cho mỗi

thành viên. Gia đình cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường giáo dục và

hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, nhắc nhở các thành viên tôn trọng kỷ

luật lao động, tạo dựng kỹ năng sống cho các thành viên. Do vậy, giáo dục

trong gia đình là rất quan trọng, thông qua gia đình mà lối sống của mỗi con

người được định hình cụ thể trong xã hội.

Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Nói đến lối sống là

nói đến cả khía cạnh văn minh nhân loại và truyền thống của một dân tộc và

nó chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội và toàn bộ những điều

kiện sống của con người. Lối sống của con người Việt Nam được hình thành

do điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, trước hết là tâm lý và văn hóa dân tộc

Việt Nam. Do vậy, lối sống của người Việt Nam là sự hóa thân của các đặc

điểm truyền thống dân tộc mang những nét riêng bản sắc của con người và

văn hóa Việt Nam.

Gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân khi chào

đời và quá trình phát triển, liên tục được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ

các thành viên khác. Gia đình giáo dục các thành viên thông qua các mối quan

hệ đặc biệt. Đó là quan hệ ruột thịt giữa mẹ, con, quan hệ huyết thống giữa

cha, con, tình cảm của anh chị em ruột, của bố mẹ, ông bà. Quá trình xã hội

hóa cá nhân bắt đầu từ khi các thành viên xác định vị trí, vai trò của mình

trong các mối quan hệ ấy. Gia đình thông qua thái độ, tâm lý, tình cảm và mối

liên hệ thường xuyên, bền bỉ đã truyền thụ cho mỗi cá nhân những khuôn mẫu

1

và chuẩn mực xã hội để ứng xử đúng trong gia đình và ngoài xã hội. Qua mối

quan hệ đặc biệt, thái độ, tình cảm tâm lý gia đình từng bước uốn nắn những

hành vi lệch lạc, ngăn chặn những hành vi trái với chuẩn mực xã hội ở từng

thành viên. Việc giáo dục và hình thành lối sống của con người thông qua gia

đình có tính chất đặt nền móng, mang tính truyền thống gia phong, thực hiện

bước đi đầu tiên. Gia đình là xuất phát điểm và nền tảng của giáo dục con

người, là trường học đầu tiên của con người. Do vậy, việc phát huy tầm quan

trọng của gia đình trong việc hình thành lối sống mang nét đặc trưng của con

người Việt Nam “vừa hồng, vừa chuyên” hiện nay là hết sức cần thiết.

Ở nước ta, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng

và lãnh đạo là một sự nghiệp cách mạng to lớn, sâu sắc và toàn diện nhằm

mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng quan trọng nhất của quá

trình đổi mới là sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền

kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi về kinh

tế đã làm biến đổi mạnh mẽ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội.

làm thay đổi bộ mặt xã hội và nhiều thiết chế cơ sở. Là tế bào của xã hội, gia

đình Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ quá trình chuyển đổi ấy. Trước

hết, cơ sở và điều kiện kinh tế của gia đình và xã hội thay đổi và ngày càng

được nâng cao. Sự sôi động của kinh tế thị trường đã khơi dậy những tiềm

năng tiềm ẩn của các gia đình, khai thác và phát huy có hiệu quả sức sáng tạo

to lớn của các gia đình trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện để gia

đình đóng góp tích cực vào sự ổn định và phát triển chung của đất nước.

Nhưng kinh tế thị trường với những mặt trái của nó cũng tác động tiêu

cực đến gia đình. Hệ luỵ của cơ chế cạnh tranh trong kinh tế thị trường là nạn

thất nghiệp, thiếu việc làm, sự “vạn năng”của đồng tiền và gia tăng các tệ nạn

xã hội,… đã khiến cho gia đình có những xáo trộn trong việc thực hiện các

2

chức năng của mình. Phân hoá giàu nghèo cũng tạo nên những gia đình yếu

thế; sự hối hả của công việc khiến các thành viên trong gia đình dành ít thời

gian cho nhau hơn dẫn đến ít hiểu và chia sẻ với nhau dẫn tới dễ xung đột,

thậm chí là đổ vỡ.

Do đó, xây dựng một lối sống tích cực là nhu cầu khách quan và yêu

cầu ấy đặt ra vấn đề nâng cao vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống tích

cực cho mỗi con người Việt Nam hiện nay càng trở nên bức thiết.

Gia đình Việt Nam hiện nay cần xây dựng dựa trên sự kế thừa các yếu

tố của gia đình truyền thống và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị cốt lõi của gia

đình hiện đại. Để có thể làm được điều đó, cần phải củng cố thiết chế gia

đình, điều kiện khách quan để xã hội hóa cá nhân trong gia đình, thiết lập

mạng lưới giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục để hình thành

lối sống tốt đẹp cho mỗi cá nhân.

Với nhận thức đó, tôi chọn: “Vai trò của gia đình với xây dựng lối

sống của con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn

tốt nghiệp của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Vấn đề gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện

nay, từ lâu đã được các nhà Giáo dục, Tâm lý học, Xã hội học nghiên cứu tiêu

biểu là công trình của tập thể tác giả Xô Viết “Lối sống xã hội chủ nghĩa’’,

trong công trình này các tác giả đã đề cập đến nhiều khái niệm lối sống, nội

dung và bản chất của lối sống xã hội chủ nghĩa, cơ sở kinh tế chính trị của lối

sống.

Trong những năm 80 ở nước ta cũng đã xuất hiện những công trình đề

cập đến vấn đề lí luận về lối sống như tác giả Hà Xuân Trường với bài báo:

“Từng bước xây dựng nền văn hóa mới”, tác giả Vũ Khiêu với “Lối sống là

gì?”, Phong Châu và Nguyễn Trọng Thụ: “Về lối sống của chúng ta”và những

3

vấn đề về lối sống cũng được tác giả Lê Hoa trình bày trong “Bàn về lối sống

và nếp sống xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là nghiên cứu lí luận, đưa ra hệ

thống các khái niệm, các mặt nghiên cứu về lối sống ở Việt Nam theo mô

hình xã hội chủ nghĩa thời bao cấp (trước năm 1986). Tác giả Huỳnh Khái

Vinh cũng có công trình nghiên cứu của mình: “Một số vấn đề về lối sống,

đạo đức, chuẩn mực giá trị xã hội”. Trong cuốn sách này, tác giả đưa ra phạm

trù lối sống rất sâu sắc. Trong sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế,

xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, thì tác giả Trần Độ (chủ biên), Nxb Văn hóa (năm 1985),

cũng đề cập đến: “Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa”. Trong đó,

phần thứ nhất của cuốn sách bàn về nếp sống và lối sống xã hội chủ nghĩa.

Phần thứ hai, các tác giả tập trung bàn về các giải pháp xây dựng lối sống, nếp

sống xã hội chủ nghĩa.

Trong các công trình nêu trên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề cơ sở lí

luận nghiên cứu lối sống theo các quan điểm khác nhau và mới trên bình diện

lí thuyết, phương pháp luận nghiên cứu về lối sống, xây dựng về lối sống mới

xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề gia đình Việt Nam đã nhận được sự quan tâm của chủ tịch Hồ

Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong các đại hội Đảng đều có một

phần nói về gia đình.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản

Việt Nam nhấn mạnh: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng

và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình

thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.

Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên

cứu liên quan đến gia đình: “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”do GS Lê

Thi (chủ biên) Nxb KHXH, (Hà Nội, năm 1994); “Gia đình Việt Nam với

chức năng xã hội hóa”của TS Lê Ngọc Văn - Nxb Giáo dục, (Hà Nội, năm

4

1996); “Vai trò gia đình trong sự hình thành nhân cách con người Việt Nam”

của GS Lê Thi (chủ biên) - Nxb Phụ nữ, (Hà Nội, năm 1997).

Trong các tư liệu này, các tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ

những hiểu biết về gia đình, trang bị những kiến thức khoa học để nuôi dạy

con cái thành những công dân tốt có ích cho xã hội với những nội dung chăm

sóc gia đình hết sức cơ bản: Đức, trí, thể, mỹ và lao động.

Dưới góc độ chuyên ngành, có một số luận văn, luận án nghiên cứu các

vấn đề Gia đình, Phụ nữ; Gia đình - Giáo dục gia đình, Luận án T.s của Đặng

Thị Linh: “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay - Thực trạng và

giải pháp” (Hà Nội, năm 1997); Luận án T.S của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò

của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện

nay” (Hà Nội, năm 2001); Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt

Nam vai trò người phụ nữ hiện nay” (Hà Nội, năm 2003)

Các công trình này góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực

tiễn vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của con người. Tuy

nhiên, căn cứ vào sự phát triển của thời đại hiện nay thì vai trò của gia đình

trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay là một vấn đề mới,

chưa có các công trình chuyên sâu nghiên cứu mặc dù đây là một trong những

yếu tố quan trọng tạo nên sự văn minh và phát triển của xã hội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Trên cơ sở phân tích vai trò và thực trạng thực hiện vai trò

của gia đình Việt Nam trong xây dựng lối sống con người Việt Nam trong

những năm đổi mới, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn

nữa vai trò của gia đình trong hoạt động này.

- Nhiệm vụ: bao gồm:

+ Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về lối sống, vai trò giáo dục lối

sống của gia đình trong hình thành lối sống của con người Việt Nam

5

+ Nêu lên thực trạng vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của

con người Việt Nam những năm đổi mới vừa qua.

+ Đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của gia đình trong xây

dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về gia đình, gia đình

với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay.

- Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn: phương pháp luận

chung là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghỉ duy vật lịch sử. Ngoài ra,

còn sử dụng tổng hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, lôgic,

so sánh, điều tra xã hội học,…

5. Đối tƣợng và phạm vi

- Đối tượng: vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người

Việt Nam hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu: xem xét một số phương diện về vai trò của gia

đình trong xây dựng lối sống của con người việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

6. Đóng góp mới cho luận văn

- Khái quát vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người

Việt nam hiện nay.

- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả

trong việc xây dựng lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn đổi

mới.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về mặt lí luận gia đình với

xây dựng lối sống của con người Việt Nam.

6

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn

đề này.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu thành 2 chương 4 tiết.

7

CHƢƠNG 1: LỐI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY

DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. LỐI SỐNG VÀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT

NAM HIỆN NAY

1.1.1. Lối sống

1.1.1.1. Khái niệm

Lối sống là phạm trù bao quát một bình diện rộng lớn của con người và

xã hội. Do đó, có nhiều ngành khoa học nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận

khác nhau như: triết học, xã hội học, kinh tế chính trị học, văn hoá học....Một

trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “lối sống”như một khái niệm

khoa học là một học giả người Đức - Max Weber (1864- 1920).

Đến nay, mặc dù đã có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập đến khái

niệm lối sống nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về vấn đề này.

C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”có viết: “Không

nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái

sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức

hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt

động sống của họ, một phương thức sinh sống của họ”. [34, tr.30].

Như vậy, C. Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại

của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con

người, là phương thức sinh sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống.

Theo C. Mác, lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của con

người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tuy chịu sự quyết

định của phương thức sản xuất, nhưng lối sống không phải là sản phẩm thụ

động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và những điều kiện sống khác.

Bởi lẽ, phạm vi của lối sống rộng hơn phương thức sản xuất. Ngoài những

8

hoạt động vật chất, con người còn có hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật,...

Do vậy, phạm vi của lối sống tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội.

Hình thái kinh tế - xã hội gắn với hoạt động mọi mặt của con người

nhưng nó là một hiện thực khách quan, độc lập với ý thức và tình cảm con

người. Trong khi đó, lối sống phản ánh hoạt động chủ thể, bao gồm: nhận

thức, tình cảm, động cơ, hành vi, ứng xử, thể chế xã hội...và cả những mối

liên hệ giữa chúng. Nhiều mặt của lối sống có tính chất độc lập tương đối so

với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Lối sống của con người là kết quả

hoạt động và tổ chức của con người trong quá trình thích nghi và biến đổi

hoàn cảnh sống mà con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể

sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính nó. Lối sống là biểu hiện của cái xã hội

trong cái cá nhân, cho nên nó có tính linh hoạt và cơ động cao.

Có thể nói, “lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế - xã hội trong nhận

thức, tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá

nhân của con người” [52, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế -

xã hội khác nhau, sẽ có lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái

kinh - tế xã hội có giai cấp, nhất là có đối kháng giai cấp thì lối sống mang

tính giai cấp.

Theo từng cách tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt

động và tổng thể những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của những

cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội, TS. Rútkêvich cho rằng: “Lối

sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động

của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều

kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [53, tr.45]. Còn

G.Glezerman cho rằng: “Lối sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên đặc

điểm của hoạt động sống của xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế -

xã hội nhất định” [52, tr 18].

9

Dựa vào phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát tất

cả những điều kiện và những nhân tố quyết định lối sống, để xác định nội

dung lối sống, TS triết học V.I.Tônxtưkhơ có định nghĩa: “Lối sống là những

hình thức cố định, điển hình của họat động sống cá nhân và tập đoàn của con

người; những hình thức ấy nói lên đặc điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp

nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội - chính trị, sinh

hoạt và giải trí” [53, tr 17- 18].

Cùng với quan điểm xem xét lối sống là một phương thức hoạt động,

I.V.Bextugiep cho rằng: “Lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt

động sống của con người, thì điều hợp lý là lấy các hoạt động sống quan

trọng nhất làm nền tảng cho cơ cấu của lối sống, các lĩnh vực đó ta đều biết

là: lao động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã hội và văn hoá xã hội”[Trích

dẫn 18, tr.19]. Ở góc độ khác, M.N. Rutkêvich còn khẳng định, lối sống chịu

sự quyết định của phương thức sản xuất, khái niệm “lối sống”và khái niệm

“phương thức sản xuất”liên hệ chặt chẽ với nhau. Ông viết: “Lối sống là một

trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan

chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối với nó là phương thức

sản xuất của cải vật chất”[53, tr 12]. Theo hướng này, Z.Dunốp khẳng định

“lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về

mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức hành vi

hàng ngày, ổn định và điển hình của con người”[Trích dẫn 52, tr.19]. Định

nghĩa này cho thấy lối sống chịu sự quy định của điều kiện vật chất, mà nó

chính là nền tảng để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và

xã hội. Ở Việt Nam, cũng có những định nghĩa khác nhau về lối sống, “lối

sống”là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức.

Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật của con người và xã hội.

Hiện nay, nhiều từ điển Việt và Việt - Hán đã và đang lưu hành chỉ đề cập

10

khái niệm “lối sống giản dị” làm ví dụ minh hoạ cho từ “lối” và “nếp

sống”khi đề cập khái niệm “sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối sống và nếp

sống là kết quả của việc tạo từ trong ngôn ngữ tiếng Việt và là cách dùng

thuật ngữ khác nhau để dịch một thuật ngữ nước ngoài (Nga). Và “Sách cổ,

sách chữ Hán, sách chữ Nôm không có hai thuật ngữ này. Trong thời kỳ cận

đại và hiện đại (sau cách mạng tháng Tám) đã bắt đầu hình thành khái niệm

về cách thức, lề lối, nề nếp của con người trong sự sống. Các khái niệm trên

có thể mượn dịch hoặc phỏng theo từ nước ngoài” [21, tr.21]. Hiện nay khái

niệm lối sống được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: triết học, xã hội

học, tâm lý học....

Trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, khái niệm “lối sống”

được đề cập lần đầu tiên ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng.

Và tiếp tục được sử dụng trong các kỳ đại hội tiếp theo. Trong Nghị quyết

Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn

mạnh: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc,

chạy theo lối sống thực dụng... Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức,

lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có

chức, có quyền” [10, tr.46- 47]. Có thể nói, chưa bao giờ lối sống được Đảng

ta quan tâm sâu sắc như hiện nay. Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười,

Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp tổng kết, đánh giá tình hình 5

năm thực hiện Nghị quyết năm, Ban chấp hành Đảng khóa VIII, Đảng ta đã

17 lần đề cập đến khái niệm lối sống.

Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề lối sống, các đề tài nghiên cứu

cấp Nhà nước cũng bắt đầu tập trung nghiên cứu vấn đề này. Mới đây, quan

điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp Nhà nước KX.06-13 được nêu

trong Báo cáo tổng kết chương trình KX-06 (1991-1995) cũng đưa ra quan

niệm: “Lối sống, trong chừng mực nhất định, là cách ứng xử của con người

11

cụ thể, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường

là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh

hưởng đến lối sống của con người, lối sống của các nhóm xã hội và cộng

đồng dân cư”[48, tr.12]. Định nghĩa này tiếp cận lối sống như một phương

thức hoạt động thực của con người trong một môi trường nhất định. Và lối

sống tuy bị quy định khách quan bởi môi trường sống nhưng khi trở thành văn

hóa, lối sống cùng với truyền thống văn hóa cải biến môi trường tự nhiên sao

cho phù hợp với hệ thống nhu cầu sống của con người. Do vậy, ở định nghĩa

này nó có ưu điểm là làm sáng rõ mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và

môi trường.

Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lối sống,

GS Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người”đã

quan niệm lối sống theo nghĩa rộng: “Lối sống là phạm trù xã hội khái quát

toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân

trong điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên

các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa

người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá” [26, tr.514].

Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và với một hình

thái kinh tế - xã hội, GS Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống

những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập

đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã

hội nhất định” [31, tr.24]. Ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, khắc

hoạ những đặc điểm cá nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn

Văn Huyên cho rằng: “Lối sống là tổ hợp các mô hình, cách thức và phong

thái sống của con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực

hoạt động, từ sản xuất, tiêu dùng đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử

12

giữa con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với

phương tịên và mục đích sống” [24, tr 29].

GS.TS Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt

động sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất

định” [23, tr353]. Cùng với quan điểm này, TS Nguyễn Viết Chức trong

quyển: “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã định nghĩa:

“Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn

định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó, trong

sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”

[8, tr.66- 67].

GS.TS Huỳnh Khái Vinh trong bài “Kế thừa và phát triển nếp sống

thanh lịch của người Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước” cũng cho rằng: Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp.

Nó bao gồm các mối quan hệ khác nhau của con người, kể cả đặc trưng sinh

hoạt của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất

định. Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối

sống là ở chỗ, cho rằng lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống

cơ bản của con người, từ lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội - chính trị và

giải trí.

Từ đó, chúng ta có thể khái quát về lối sống ở những đặc trưng cơ bản

sau đây:

+ Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hoà các hoạt động sống ổn

định của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân

trong cộng đồng. Vì vậy có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của

dân tộc, lối sống của giai cấp (nhóm xã hội), lối sống của cá nhân.

13

+ Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các

điều kiện sống của con người.

+ Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống

là hoạt động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có

tính người trong việc sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh

thần.

+ Thứ tư, tổng hoà các khuôn mẫu ứng xử, các thể chế xã hội được vận

hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong điều kiện kinh tế xã hội nhất

định, đó chính là nội dung và phạm vi của lối sống.

+ Thứ năm, lối sống nói chung mang tính văn hoá, bởi vì trong các

hành động xã hội, các quan hệ xã hội, thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử...

trong lối sống đều mang ý nghĩa văn hoá, hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp.

Như vậy, lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống

của con người thì điều hợp lí là lấy các lĩnh vực hoạt động sống quan trọng

nhất làm nền tảng cho cơ sở của lối sống các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao

động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã hội và văn hóa - xã hội.

Từ sự phân tích ở trên, có thể khái quát một cách chung nhất như sau:

Lối sống là tổng hợp những dạng hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân

tộc, giai cấp, nhóm xã hội…) và các cá nhân, được vận hành theo những

chuẩn mực giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của

một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Khái niệm trên bao gồm mấy vấn đề cơ bản sau:

+ Một là, lối sống bao gồm tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con

người trong một xã hội nhất định, lối sống biểu hiện qua quan hệ giữa con

người với tự nhiên, con người với con người trong lao động sản xuất, trong

lĩnh vực chính trị, trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, trong ứng xử giao tiếp

hàng ngày. Lối sống là phương thức sống của con người trong một chế độ

14

nhất định được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như lao động sản

xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động hàng ngày

của con người.

+ Hai là, phương thức sản xuất và các điều kiện sống của con người

suy cho cùng nó quyết định đến lối sống của họ. Lối sống của con người trong

mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên: bao gồm

vị trí địa lí, đất đai, khí hậu, hệ động thực vật; các điều kiện kinh tế, chính trị,

văn hóa, truyền thống…Trong các yếu tố đó thì điều kiện xã hội có ý nghĩa

quyết định. Trong đó, phương thức sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối

với chính trị - xã hội và văn hóa tư tưởng của mỗi quốc gia, dân tộc. Bởi vì lối

sống là thể thống nhất biện chứng giữa tự nhiên - cá nhân và xã hội, lối sống

của con người hình thành trong quá trình con người tham gia vào các hoạt

động, mà trước tiên phải là lao động sản xuất, sau đó là hoạt động chính trị -

xã hội và các hoạt động khác… và nó bị chi phối bởi các hoạt động đó.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định mỗi phương thức sản xuất tạo

nên một cách sản xuất, cách sống tương ứng. Vì vậy, mỗi giai đoạn lịch sử

của từng dân tộc, từng địa bàn dân cư, từng cá nhân có lối sống riêng, nghĩa là

không có lối sống cho mọi thời đại, đặc biệt trong xã hội có giai cấp, bởi vậy

trong cùng một phương thức sản xuất cùng tồn tại nhiều lối sống khác nhau

thậm chí đối lập nhau. Tuy nhiên sự phụ thuộc lối sống đối với phương thức

sản xuất mang tính tương đối. Lối sống ngoài việc chịu quy sự quy định của

kinh tế còn chịu ảnh hưởng của văn hóa.

+ Thứ ba, lối sống nói chung mang giá trị văn hóa, là giá trị chung của

lịch sử nhân loại, hướng tới chân - thiện - mỹ vừa mang tính phổ quát, vừa

mang tính đặc thù. Phạm vi và nội dung của lối sống bao gồm: các khuôn mẫu

ứng xử, các thiết chế xã hội vận hành theo một bảng giá trị trong toàn bộ hoạt

động sống của dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những

15

điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và biểu hiện trong các

lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa con

người với con người trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa.

1.1.1.2. Một số khái niệm có liên quan đến lối sống là: mức sống, lẽ

sống, nếp sống.

- Mức sống là thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá nhu cầu vật chất và

tinh thần dã được thỏa mãn và có thể đo lường trực tiếp bằng số lượng.

+ Thông thường mức sống phản ánh trình độ con người đạt được trong

hoạt động sản xuất.

+ Mức sống được nâng cao là điều kiện vật chất cần thiết và có tính

khách quan để cải thiện lối sống.

+ Không đồng nhất mức sống với lối sống, vì lối sống còn chịu sự định

hướng và định tính của lẽ sống, định hướng giá trị và môi trường sống... Mặc

dù hai khái niệm này có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng mức liên hệ

ấy không phải trực tiếp, bởi vì cùng một mức sống giống nhau, lối sống có thể

khác hẳn nhau, thậm chí đối lập nhau. Điều này thể hiện rõ trong đời sống xã

hội có những người có đầy đủ điều kiện vật chất nhưng lại có lối sống thấp

kém, lệch lạc ngược lại có những người trong xã hội tuy họ không giàu về vật

chất nhưng lại giàu về tinh thần họ luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, đây là

biểu hiện của lối tốt đẹp trong xã hội.

- Lẽ sống là mặt ý thức của lối sống. Nó đề cập đến mục đích, ý nghĩa,

lý tưởng của cuộc sống, là ý chí khát vọng của con người. Lẽ sống phản ánh

mục đích của lối sống, định hướng cho cuộc sống.

Lẽ sống gắn liền với hệ tư tưởng, là thế giới quan, nhân sinh quan của

con người. Lẽ sống có vai trò “kim chỉ nam”cho cá nhân điều chỉnh hành vi

của mình, vì hạnh phúc của mỗi cá nhân, vì cộng đồng xã hội. Lẽ sống biểu

hiện ở quan điểm sống, mục đích sống, động cơ, thái độ lựa chọn các hoạt

16

động và các mối quan hệ trong cuộc sống. Một người có lẽ sống đúng đắn sẽ

góp phần hình thành lối sống tốt đẹp. Đối với giáo dục gia đình thì lẽ sống và

lối sống không bao giờ tách rời nhau. Khi các thành viên trong gia đình

hướng tới một lẽ sống cao đẹp thì có một lối sống theo hướng lành mạnh. Do

vậy có thể coi lẽ sống là mặt lý tưởng của lối sống, là nhân lõi của lối sống.

- Nếp sống là thuật ngữ rất gần gũi và gắn bó với thuật ngữ lối sống,

nếp sống có văn hóa. Trong cách nói thông thường thuật ngữ nếp sống nhiều

khi được dùng như lối sống. Tuy nhiên, nếp sống có nội dung hẹp hơn lối

sống.

Nếp sống là một bộ phận của lối sống được lặp đi lặp lại thành nề nếp,

thói quen,… Nghĩa là đã được định hình, định tính, đã được xác lập giá trị

thành một nét văn hóa, được các cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm theo và

được quy định thành điều ước (quy ước hay hương ước) hoặc luật pháp. Vì

thế, Giáo sư Vũ Khiêu có lí khi định nghĩa: “Nếp sống là toàn bộ những thói

quen được hình thành trong cuộc sống hàng ngày, những thói quen đã trở

thành nếp trong sản xuất, chiến đấu, trong mọi quan hệ xã hội và trong sinh

hoạt riêng tư của mỗi con người. Những thói quen ấy còn được gọi là tập

quán”. [26, tr.24].

Vì thế, nếp sống được hiểu là những phương thức hoạt động, hành vi

ứng xử của con người được lặp đi lặp lại thành thói quen trong sinh hoạt,

phong tục tập quán, hành vi đạo đức. Nếp sống là biểu hiện một trong những

mặt của lối sống. Lối sống của gia đình biểu hiện qua nề nếp sinh hoạt, nếp

sống hàng ngày, cách ăn nói hay chào hỏi lễ phép…

Như vậy, lối sống như một phạm trù trung tâm mà sự biểu hiện của nó

trên các mặt cụ thể đã làm thành các phạm trù khác. Mặt ý thức của lối sống

là lẽ sống, mặt ổn định của lối sống làm thành nếp sống, mặt trình độ của lối

sống làm nên mức sống. Do vậy từ góc nhìn này, xây dựng lối sống hiện nay

17

để tác động đến những mặt khác nhau của lối sống đạt đến những giá trị tốt

đẹp, tạo nên hạnh phúc và khả năng phát triển của cá nhân và cộng đồng.

Cũng từ đây cho chúng ta thấy xây dựng lối sống hiện nay thì phải xây dựng

trên nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực để có sự tác động tổng hợp đến cộng đồng

cũng như đến với gia đình và cá nhân cụ thể, từ đó giúp họ hướng tới lối sống

theo chuẩn mực tốt đẹp để hoàn thiện bản thân.

Quá trình hình thành lối sống bị quy định bởi phương thức sản xuất bởi

đặc điểm dân tộc. Lối sống một mặt chịu sự quy định của tồn tại xã hội mặt

khác tác động trở lại tồn tại xã hội. Một lối sống tích cực sẽ thúc đẩy xã hội

phát triển, ngược lại nó sẽ hạn chế và cản trở sự phát triển của xã hội.

- Lối sống có thể phân chia như sau:

+ Lối sống của một cộng đồng: dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội.

Trong xã hội có nhiều giai cấp, bên cạnh những đặc điểm chung của dân tộc

thì các giai cấp khác nhau có lối sống khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Lối

sống cá nhân vừa mang những dấu ấn của xã hội, mặt khác mang những đặc

điểm của cá nhân.

+ Lối sống có thể chia thành lối sống tích cực và lối sống tiêu cực. Lối

sống tích cực là lối sống phù hợp với yêu cầu của thời đại, thúc đẩy sự phát

triển của hình thái kinh tế - xã hội đang tồn tại phát triển. Lối sống tiêu cực là

lối sống ngăn cản, kéo lùi sự phát triển của xã hội. Tất nhiên quan niệm tích

cực và tiêu cực cũng bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thời kỳ này,

giai đoạn này có thể là tích cực nhưng ở thời kỳ khác có khi là tiêu cực.

1.1.2. Xây dựng lối sống của con ngƣời Việt Nam hiện nay

1.1.2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng lối sống

của con người Việt Nam hiện nay

+ Thứ nhất, sự tác động của nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất

nước:

18

Trong những năm gần đây, để đẩy mạnh phát triển kinh tế chúng ta

đang thúc đẩy quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các

hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng

lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động

cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên

sự phát triển và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội

cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm cho lực lượng sản xuất có bước

phát triển mới. Việc phân công lại cơ cấu sản xuất và phân công lao động xã

hội theo hướng công, nông nghiệp hiện đại đã dần khắc phục được tình trạng

lạc hậu của lực lượng sản xuất lao động thủ công, nông nghiệp manh mún.

Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nói đến một yếu tố quan trọng, đó là

khoa học và công nghệ. Với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang

diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, thì tri thức khoa học đang trở thành lực lượng

sản xuất trực tiếp. Do vậy nhu cầu học tập nâng cao trình độ khoa học kỹ

thuật, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ nhằm khai thác tiềm năng

sẵn có và phát triển sản xuất theo hướng đầu tư có hiệu quả đang là hướng

vận động phổ biến của xã hội ta hiện nay.

Sự ra đời của lực lượng sản xuất mới kéo theo sự thay đổi của quan hệ

sản xuất. Quá trình cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội đã tác động mạnh mẽ

tới việc biến đổi vị trí và các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Ở Việt

Nam hiện nay xu hướng chung vai trò của kinh tế cá thể càng được tăng lên.

Do vậy lợi ích căn bản của người lao động gắn chặt với hiệu quả sản xuất tạo

ra nhu cầu thôi thúc người lao động nâng cao trình độ hiểu biết khoa học, kỹ

thuật, đáp ứng nhu cầu của môi trường lao động mới. Sự hình thành một lực

lượng sản xuất mới về chất đem lại sự chuyển biến tích cực trong việc hình

thành lối sống công nghiệp trong xã hội hiện nay.

19

Khi bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều khó khăn nhất của

người Việt Nam là chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế tập trung quan liêu bao

cấp. Điều đó sẽ dẫn đến kém sức sáng tạo, trình độ khoa học kỹ thuật thấp, kỹ

năng, kỹ sảo trong lao động yếu.. Do yếu tố tự nhiên của sản xuất ngày càng

phức tạp, tất yếu phải đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ của người công

nhân, các cán bộ quản lý để có thể áp dụng những thành tựu đó vào sản xuất.

Không những thế cạnh tranh đang buộc chúng ta duy trì khả năng sản xuất đã

có và phải cải tạo nó theo hướng nâng cao hiệu quả. Việc này chỉ có thể thực

hiện được bởi bản thân những con người Việt Nam mang kinh nghiệm sản

xuất, kiến thức khoa học - công nghệ cao.

Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa thì diện tích nông

nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Sự dư thừa lao động phổ thông và tình trạng

thiếu việc làm đã thúc đẩy người dân không ngừng tìm kiếm các hoạt động

dịch vụ ngoài nông nghiệp. Cư dân nông thôn lên thành phố tìm đến những

công việc mới hoặc tìm cách đưa các sản phẩm nông nghiệp ra đô thị để tiêu

thụ, họ trở thành những người tiểu thương. Hiện nay luồng di chuyển từ nông

thôn ra đô thị diễn ra mạnh mẽ chưa từng có, điều này làm thay đổi cơ cấu lao

động, thay đổi nhân khẩu ở các địa phương. Do vậy, mới có tình trạng người

già và trẻ em ở lại làng, còn những người trai tráng thì ra khỏi làng để kiếm

tiền. Để thích nghi với môi trường mới, họ phải linh hoạt, nhạy bén, biết hạch

toán kinh tế, linh hoạt trong lao động sản xuất và kinh doanh. Đây cũng là sự

biến đổi lớn trong tư duy và lối sống của người dân nông thôn Việt Nam trong

thời gian qua. Quá trình đô thị hóa đang mở ra cho nông thôn nhiều vận hội

mới, cải thiện đáng kể đời sống vật chất, tinh thần cho đến môi trường vốn

bình yên của họ.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu

kinh tế - xã hội: Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng so với nông nghiệp và sản

20

xuất thủ công; dân số đô thị, nguồn lao đông công nghiệp tăng so với nông

thôn và nông nghiệp. Điều đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội và cùng

với nó là biến đổi sâu sắc lối sống trong nhân dân. Nhất là khi chúng ta hoà

mạng internet, quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá liên kết và hợp tác quốc

tế đã tạo điều kiện cho các giá trị và các lối sống của nhiều dân tộc khắp hành

tinh tác động tới lối sống từng cá nhân, gia đình và xã hội, người Việt Nam

được hướng theo lối sống công nghiệp, hình thành phong cách quan hệ có

tính sòng phẳng, thiết thực, thậm chí có khi đề cao tính thực dụng. Tâm lý tự

chủ lập thân, lập nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường tạo ra lối sống tự do

theo pháp luật, tự lo toan, làm giàu; lối tư duy táo bạo, khám phá, sáng tạo,

dám nghĩ, dám làm để nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Đó là lối sống

năng động, lấy hiệu quả làm tiêu chí và chuẩn mực.

Tổng hợp những vấn đề đó, Đảng ta đặt con người vào vị trí trung tâm

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn kiện Đại hội X

khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc

sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước”[12, tr.94 - 95], Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI

của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức

mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp

phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt

Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công

nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát

triển”[13, tr.77] .

Do vậy một trong những yếu tố mà Đảng ta quan tâm là việc xây dựng

và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật công nhân lành nghề, đội

ngũ cán bộ quản lý ở nước ta cần thông qua hệ thống giáo dục đào tạo hoàn

21

chỉnh. Đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo thành sự nghiệp của toàn dân.Vừa đầu

tư theo chiều rộng vừa đầu tư theo chiều sâu. Kết hợp giáo dục mọi mặt cho

người lao động với chế độ đãi ngộ thích đáng đối với nhân tài, tạo mọi điều

kiện cho người lao động tích cực làm việc, phát huy hết tài năng, tránh tình

trạng bị mất chất xám như các nước đang phát triển trước đây và các nước

Đông Âu trong thập kỷ 90.

Chỉ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó chúng ta mới có thể có

được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ

quản lý có năng lực. Từng bước đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu mới của

công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới

đang phát triển như vũ bão hiện nay.

+ Thứ hai, sự tác động của nền kinh tế thị trường và yêu cầu của nó.

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong

đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào”và “đầu ra”của sản xuất đều thông qua thị

trường.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho lối

sống của con người Việt Nam tất yếu phải có sự thay đổi. Đây là bước chuyển

về mặt sản xuất vật chất xã hội đã phức tạp, bước chuyển về mặt lối sống

càng phức tạp hơn. Đặc biệt, lối sống truyền thống, vốn dựa trên nền sản xuất

tiểu nông, có nhiều nhân tố không tương hợp với tính chất của kinh tế thị

trường. Từ đó, đòi hỏi ý thức của người lao động cũng cần phải có sự thay

đổi. Bất cứ lao động nào, làm việc gì, nghề gì, bằng sức lao động của mình

đem lại hiệu quả cao, bảo đảm được bản thân và gia đình. Để đạt được điều

đó buộc người lao động phải năng động, phải tự ý thức được việc mình làm,

tự họ phải xây dựng cho mình tác phong công nghiệp, cái này khác hẳn so lối

sống truyền thống trước kia là chậm chạp, vô kỉ luật trong lao động dẫn đến

hiệu quả kinh tế không cao và đây là nguyên nhân làm cho nền kinh tế không

22

phát triển. Sự biến đổi nhanh chóng của thị trường, kéo theo sự biến đổi nhu

cầu về vật chất, tinh thần của con người ngày càng phong phú trong mọi hoạt

động sản xuất đến sinh hoạt hàng ngày. Sự năng động nhạy bén của người lao

động được đền bù xứng đáng bởi kinh tế thị trường không chấp nhận lối phân

phối theo kiểu bình quân có phân biệt đẳng cấp hoặc cào bằng.

Có thể nói, ngoài mặt tích cực kinh tế thị trường cũng bộc lộ những tiêu

cực về tư duy và lối sống trong xã hội. Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa

xã hội sâu sắc, tạo sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa các ngành

nghề khác nhau ngày; làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong xã hôi. Sự tác động

của kinh tế thị trường làm phai nhạt lối sống tình nghĩa, làm rạn vỡ tinh thần

tập thể, sự ổn định gia đình, đồng thời làm nảy sinh lối sống cá nhân chủ

nghĩa, lối sống gấp, trụy lạc, vv…Do vậy việc hình thành một lối sống đẹp

trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay sẽ giữ vai trò định hướng tốt

đến việc lựa chọn hành động cũng như phương thức hoạt động của con người

trong xã hội.

+ Thứ ba, sự tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

quốc tế.

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới là quá

trình tự do hoá thương mại và đầu tư, làm cho các rào cản đối với trao đổi

thương mại và đầu tư bị loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước

tăng cường thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài,

phát triển nguồn lực bên trong. Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, có tác

động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, dân tộc và mỗi cá nhân con người. Sự tác

động đó thể hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của toàn

cầu hoá thể hiện ở những điểm sau:

23

Một là, tạo ra những cơ hội mà các nước có thể tận dụng đặc biệt về

khoa học công nghệ và tổ chức quản lý để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh

tế và nâng mức sống.

Hai là, con người có điều kiện hơn để thoả mãn những nhu cầu vật

chất, tinh thần, phát huy khả năng sáng tạo, tạo cơ hội cho các tổ chức, cá

nhân phát huy mọi năng lực sẵn có của mình;

Ba là, thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc, kích thích các

luồng và các dạng giao lưu làm cho con người trên trái đất hiểu biết nhau hơn

và khảng định mình.

Bốn là, làm đa dạng, phong phú hơn đời sống văn hoá nhờ sự tương

tác giữa các nền văn hoá, sự tiếp thu những nét mới, hiện đại và tinh tuý của

văn hoá các dân tộc khác.

Bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hoá cũng có những mặt tiêu cực, đó là:

thách thức trong việc bảo vệ nền độc lập, tự chủ. Nhiều quyền lực của Nhà

nước với tư cách là chủ thể cơ bản có chủ quyền bị xói mòn, chuyển giao sang

tay kẻ khác. Nền văn hoá dân tộc của mỗi nước có thể bị chèn ép, lấn át bởi

bởi các loại văn hoá bên ngoài; biểu hiện rõ nét nhất là xu hướng coi thường,

thậm chí phủ nhận các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đồng thời đề

cao quá mức các giá trị ngoại lai. Sự gia tăng phân hoá giàu - nghèo và các

nền văn hoá, sự tiếp thu những nét mới, hiện đại và tinh tuý của văn hoá các

dân tộc khác,...

Trước sự phát triển về phương diện kinh tế của phương Tây, một số

người tỏ thái độ sùng bái, "tâm phục, khẩu phục” mọi "giá trị” của phương

Tây mà không có sự suy ngẫm, đánh giá sáng suốt. Điều nguy hiểm là, với lối

tư duy siêu hình và quan niệm thực dụng, không ít người ấp ủ, mơ tưởng có

một "lối sống mới” hoàn toàn theo kiểu Tây, tách khỏi các giá trị văn hoá

truyền thống của dân tộc. Một số thanh niên đi du học bằng con đường tài trợ

24

học bổng hoặc tự túc, sau khi tốt nghiệp trở về nước tỏ ra xem thường tất cả

những gì mà dân tộc ta đã có và hiện có. Họ phủ nhận tất cả. Không ít người

vừa mỏng về lượng kiến thức, vừa bị ảnh hưởng của lối sống vốn xa lạ với

truyền thống dân tộc.

Trong quá trình toàn cầu hoá, sự tiếp thu văn hoá bên ngoài thiếu định

hướng lành mạnh dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân

tộc. Các văn hoá phẩm độc hại đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân

dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Bên cạnh lối sống truyền thống xuất

hiện lối sống lạnh lùng kiểu “tiền trao, cháo múc” dẫn đến một số bộ phận

xem thường thuần phong mỹ tục, xem rẻ nhân phẩm con người. Hiện tượng

sống buông thả, hưởng thụ, đánh mất những phẩm chất tốt đẹp của mình, bán

rẻ nhân phẩm con người cho những cuộc chơi xa hoa trụy lạc, bàng quan

trước cuộc sống cộng đồng ngày càng phát triển.

Trước những hệ lụy đó, chúng ta cần phải “gạn đục khơi trong”, tìm lấy

những hạt nhân hợp lý của lối sống khác đang du nhập vào Việt Nam để tích

hợp vào lối sống bản địa trên tinh thần “hòa nhập nhưng không hòa tan”,

không được phép tụt hậu, lạc hậu song cũng không lai căng quá mức đến mất

đi bản sắc dân tộc. Phát huy tinh thần chắt lọc lấy tinh hoa của lối sống ở quốc

gia khác và phổ biến vào xã hội - thứ đã được cha ông ta thực hiện thành công

trong cả nghìn năm Bắc thuộc. Trong bối cảnh như hiện nay nếu chúng ta biết

lấy tư duy trên làm kim chỉ nam cho hành động thì chắc chắn sẽ có lối sống

tích cực cho mỗi cá nhân và cộng đồng người trong xã hội.

Tóm lại, lối sống của con người Việt Nam đang được hình thành với

quy mô lớn và tốc độ nhanh; tuy nhiên còn chưa hoàn chỉnh và thiếu vững

chắc. Lối sống hiện nay của người Việt Nam đang đứng trước mâu thuẫn kế

thừa và hội nhập, bảo lưu và phát triển. Những yếu tố của lối sống cũ cần

được chắt lọc ưu điểm, khắc phục nhược điểm để có thể hình thành nên lối

25

sống mới, hiện đại và tiến bộ, đồng thời vẫn thấm nhuần bản sắc văn hóa tốt

đẹp của dân tộc. Lối sống của người Việt Nam hiện nay chịu nhiều ảnh hưởng

từ lối sống truyền thống và từ môi trường bên ngoài. Những tác động này có

cả mặt tích cực và cả mặt tiêu cực. Do đó, người dân Việt Nam cần sáng suốt

gạn lọc lấy những ưu điểm phù hợp của truyền thống để tích hợp vào đời sống

hiện đại, tiếp thu và “bản địa hóa” những điểm tiến bộ của nước ngoài, đồng

thời cũng cần có bản lĩnh nhận biết những tiêu cực tinh vi của tư duy và lối

sống du nhập để không bị cuốn theo một cách mù quáng mà quên đi bản sắc

dân tộc mình. Đây cũng là nhu cầu cần thiết để xây dựng một xã hội văn minh

và giầu đẹp.

1.1.2.2. Xây dựng lối sống con người Việt Nam hiện nay:

+ Khái niệm:

Xây dựng lối sống chính là quá trình tác động có tính định hướng đến

con người nhằm hình thành và hoàn thiện ở mỗi cá nhân những nguyên tắc,

chuẩn mực đúng đắn trong lối sống, phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước

trong tình hình mới. Do đó, khi xây dựng lối sống mới cho con người Việt

Nam không thể tách rời quan điểm lịch sử - cụ thể, đó là phải đảm bảo sự

thống nhất biện chứng giữa trước mắt và lâu dài, giữa truyền thống và hiện

đại, giữa dân tộc và nhân loại,… Mọi chính sách xây dựng lối sống mà đề cao

một trong hai yếu tố trên sẽ tạo nên một lối sống thiếu tính bản sắc và văn hoá

Việt Nam.

Để đáp ứng với nhu cầu ở trên thì cần xây dựng một lối sống phù hợp

với nhu cầu phát triển của xã hội. Xây dựng lối sống của con người Việt Nam

hiện là xây dựng những điều kiện cho những đặc trưng trên tồn tại, phát triển

và được thể hiện trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng phong

trào lao động sôi nổi với năng suất cao, chất lượng tốt. Lao động tự giác, sáng

tạo được phát huy. Những ai lao động tích cực đóng góp cho xã hội được biểu

26

dương khen thưởng, những kẻ lười biếng trong lao động phải bị lên án. Xây

dựng lối sống mới là xây dựng một lối ứng xử giữa con người với con người

là sự tôn trọng lẫn nhau, là giữ gìn đạo lý dân tộc trên kính dưới nhường, là

ứng xử văn minh lịch sự “lời nói chẳng mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa

lòng nhau”.

Xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện là sự tiếp thu văn minh

của nhân loại, lối ứng xử bình đẳng tôn trọng nhau như cha mẹ tôn trọng con

cái, con cái tôn trọng cha mẹ, vợ chồng bình đẳng; là ứng xử “Đối với mình

thì nghiêm khắc Đối với người thì khoan dung ”.

Xây dựng lối ứng xử con người phải tôn trọng tự nhiên. Xây dựng lối

sống của con người Việt Nam hiện là xây dưng một môi trường học tập, một

nền văn hóa giầu bản sắc dân tộc. Xây dựng lối sống mới là công việc của

Đảng, Nhà nước, các tổ chứng xã hội, các gia đình và sự tự rèn luyện của mỗi

người. Mỗi môi trường, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau nhưng đều

nhằm xây dựng một lối sống lành mạnh, văn minh lịch sự.

Từ sự phân tích ở trên ta có thể đưa ra khái niệm về xây dựng lối sống

của con người Việt Nam hiện nay: là hoạt động có mục đích nhằm tạo ra

những con người có lối sống lành mạnh, học tập, lao động khẩn trương có

trách nhiệm, năng suất cao, có quan hệ ứng xử thân thiện, chuẩn mực, có

quan niệm đúng đắn, phù hợp trong tiêu dùng, có trách nhiệm với gia đình,

nhà trường và xã hội.

+ Thực trạng lối sống của con người Việt Nam hiện nay:

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ở Việt nam hiện nay đang tồn tại

nhiều lối sống khác nhau. Lối sống của những người tiểu nông gắn với sản

xuất nhỏ manh mún, phân tán, lạc hậu với những đặc trưng: lối sống chậm

chạp vô kỷ luật, tư duy hạn chế, gia trưởng, tự ti. Lối sống của tiểu thương

gian dối, chộp giật. Trước đây ông cha ta có câu: “Thật thà cũng thể lái trâu,

27

yêu thương cũng thể nàng dâu mẹ chồng”hay “Đấu hàng sáo, gáo hàng dầu”.

Lối sống thác loạn của một bộ phận thanh niên với những đặc trưng lười lao

động, thích ăn ngon mặc đẹp, sống hôm nay không biết đến ngày mai. Vì vậy

trong cuộc sống họ lừa lọc, trộm cắp, buôn gian bán lậu, trong ứng xử thường

xử dụng những ngôn từ bất nhã, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mọi việc.

Lối sống đua đòi của một số quan chức, thương nhân mới nổi lên theo kiểu

“trưởng giả học làm sang”. Những người này do có những điều kiện thuận lợi

hay do cơ chế mà nổi lên cho nên họ thường lấy vật chất ra để thể hiện đẳng

cấp của mình. Họ chú trọng tới quần áo, xe cộ. “Cái túi xách phải sang, cái

đồng hồ phải xịn”. Những người này thường coi thường những người khác có

những điều kiện vật chất không bằng mình. Những người này mức độ vật chất

của họ thường tỷ lệ nghịch với trình độ văn hóa trong họ.

Lối sống mới mà Việt Nam đang xây dựng là lối sống của giai cấp công

nhân gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp, lối sống văn hóa gắn liền với

văn minh nhân loại. Mục đích xây dựng lối sống của con người Việt Nam

hiện nay nhằm tạo ra những con người đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Những đặc trưng cơ bản của lối sống con người Việt Nam hiện nay:

Khi nói về đặc trưng lối sống của con người Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí

Minh đã dẫn lời một học giả người Pháp là Đơ Puphuôcvin: “Yêu mến quê

hương, quyến luyến gia đình, thờ kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng

chính nghĩa, ham thích khoa học, yêu thương giống nòi, tôn trọng lẽ phải,

ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy

sinh” [34, tr.265]. Lối sống truyền thống của con người Việt Nam được kết

tinh từ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đó là: tinh thần yêu nước

nồng nàn, đoàn kết, cần kiệm, sáng tạo, thuỷ chung, ham học hỏi, trung thực,

quý trọng hiền tài, nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị, linh hoạt,… Những lối sống ấy

28

đã và sẽ là kết tinh, tạo nên truyền thống và sức mạnh Việt Nam trong suốt

chiều dài lịch sử dựng và giữ nước.

Quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng của Việt Nam cũng sẽ khiến các

giá trị truyền thống giao lưu, giao thoa và tiếp biến văn hoá cũng như lối

sống. Các lối sống hiện đại cũng dần được định hình và phát triển ở nước ta

như một quy luật tất yếu. Lối sống hiện đại hiện nay của người Việt chỉ có thể

phù hợp khi nó được sàng lọc bằng các giá trị truyền thống. Nói cách khác đó

vừa là lối sống tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc nhằm hướng tới phát

triển con người một cách toàn diện để phục vụ cho các nhiệm vụ trong công

cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

+ Nội dung xây dựng lối sống của con người Việt Nam:

Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam mới: là con người Việt Nam

phát triển toàn diện, có tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc, đạo

đức, lối sống có nhân cách; có nhận thức và ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp

luật; am hiểu và tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

Xây dựng con người Việt Nam năng động, sáng tạo, tự chủ, tự giác

trong học tập, trong lao động sản xuất và trong thực hiện các trách nhiệm

công dân đối với xã hội. Kinh tế thị trường và công nghiệp hoá có nhiều hệ

luỵ ngoài ý muốn, tác động, làm cho con người càng trở nên ích kỷ hơn. Do

đó, cần tạo cho con người mới những phẩm chất đủ mạnh để ứng phó và vượt

qua các tác động tiêu cực ấy.

Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các

quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn

hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của

con người Việt Nam.

Chỉ khi thực hiện được các mục tiêu trong xây dựng con người mới

như trên thì con người Việt Nam mới có đủ năm phẩm chất cơ bản về xây

29

dựng con người mới mà Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII xác định với những

phẩm chất cơ bản sau:

“Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc

hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp hoà bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung, xây dựng khối

đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân

nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ

môi trường sinh thái.

Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo,

năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

Thường xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình

độ thẩm mỹ và thể lực”[10, tr. 58 - 59].

Tại Hội nghị Trung ương 9 khoá XI, con người Việt Nam mới được xác

định ngắn gọn là: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng

đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và

khoa học” [14, tr.2].

Thứ hai, xây dựng lối sống giản dị, hoà nhã và tôn trọng mọi người.

Trong guồng quay hối hả của cuộc sống hàng ngày, người Việt Nam

hiện nay đang bị (hoặc chịu) áp lực rất lớn về công việc, danh vọng và tiền

bạc làm cho bản thân mỗi người quên (hoặc ít coi trọng) đời sống tinh thần

của mình. Sự hào nhoáng của tiền tài, danh vọng dễ cuốn con người vào tính

ích kỷ cá nhân, sự dối trá và bạc bẽo. Đồng thời, lối sống công nghiệp cũng

hình thành phong cách quan hệ có tính sòng phẳng, thiết thực trong xã hội.

Tâm lý tự chủ lập thân, lập nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường tạo ra lối

30

sống tự do theo pháp luật tự lo toan, làm giàu; lối tư duy táo bạo, khám phá,

sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Đó là

lối sống năng động, lấy hiệu quả làm tiêu chí và chuẩn mực.

Sự đan xen, va đập giữa các lối sống ấy dễ làm nảy sinh nhiều hậu quả

khó lường nếu như chúng ta không có những biện pháp điều chỉnh phù hợp và

giải pháp cho vấn đề này chính là việc hình thành một lối sống đẹp. Giản dị là

biểu hiện quan trọng nhất của lối sống đẹp bởi nó khiến con người trở nên

khiêm nhường, không kiêu ngạo, bon chen, ghen tị hay đua đòi, khoa trương

của cải vật chất. Nó làm con người dễ vị tha hơn, rộng lượng hơn và sẵn lòng

giúp đỡ người khác khi có cơ hội. Đó cũng là cơ sở để mỗi cá nhân biết tôn

trọng người khác, giữ gìn đạo lý truyền thống là kính trên nhường dưới, là

cách hành xử văn minh dựa trên việc “Lựa lời mà nói, cho vừa lòng nhau”.

Lối sống giản dị, hoà nhã và tôn trọng lẫn nhau không chỉ thể hiện

trong cách đối nhân, xử thế của con người khi ra ngoài xã hội mà nó còn và

cần được thể hiện trong mỗi gia đình. Đó là việc các thành viên trong gia đình

không chỉ yêu thương, hiếu nghĩa với nhau mà còn là sự chia sẻ, tôn trọng ý

kiến của nhau trong cuộc sống hàng ngày. Cha mẹ không chỉ nuôi dưỡng, dạy

dỗ con cái mà còn phải là tấm gương cho con cái, biết lắng nghe, biết chia sẻ

và động viên; biết tôn trọng con cái. Cha mẹ phải hiếu kính, lễ phép và phụng

dưỡng đối với ông bà. Ông bà phải biết thương yêu, dạy bảo, động viên con,

cháu. Con cái thì ngoan hiền, lễ phép đối với ông bà, cha mẹ. Sự bình đẳng và

tôn trọng lẫn nhau trong gia đình không chỉ tạo ra một môi trường sống êm

ấm, hạnh phúc mà còn có tác dụng giáo dục, có sức lan toả đối với các thế hệ

kế tiếp và với những người xung quanh. Cách hành xử đẹp ấy trong gia đình

sẽ hình thành nên lối sống đẹp, vị tha khi mỗi cá nhân bước ra và ứng xử

ngoài xã hội.

31

Thứ ba, xây dựng quan niệm tiêu dùng đúng đắn:

Tiêu dùng là hành động nhằm thoả mãn nguyện vọng, trí tưởng tượng

và các nhu cầu về tình cảm, vật chất của con người thông qua việc mua sắm

hoặc sở hữu các sản phẩm nào đó. Toàn cầu hoá là điều kiện cho việc trao đổi

xuất nhập sản phẩm của các nền sản xuất xã hội trên thế giới. Do đó, Việt

Nam dù là nơi sản xuất còn yếu cả về số lượng mặt hàng lớn chất lượng sản

phẩm, nhưng nhờ quá trình trao đổi sản phẩm trong giao lưu kinh tế mà chúng

ta có được một thị trường sản phẩm phong phú, đa dạng, chất lượng cao. Điều

đó, một mặt, do sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của xã hội tạo ra;

mặt khác, nâng cao khả năng lựa chọn tiêu dùng theo khả năng kinh tế vì sở

thích cá nhân.

Lối tiêu dùng của người Việt Nam vượt rất xa nhu cầu và sở thích trước

đây; nó được nâng lên tầm cao mới hết sức đa dạng theo tầm nhìn và thị hiếu

của xã hội công nghiệp. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, lối sống tiêu dùng

người Việt Nam chuyển mạnh từ tầm tiêu dùng của một nước nông nghiệp

nghèo sang lối sống tiêu dùng của xã hội công nghiệp. Điều đó thể hiện rõ từ

nhà ở với tiện nghi sinh hoạt hầu hết bằng đồ điện tử cho đến phương tiện đi

lại bằng xe máy, ô tô. Có thể nói, lối sống tiêu dùng của người Việt Nam ở các

thành phố lớn đang từng bước được nâng lên ở mức tiêu dùng của các nước

đang phát triển. Lối sản xuất - tiêu dùng được nâng lên cách thức và trình độ

mới kéo theo lối sinh hoạt tương ứng. Lối sinh hoạt kiểu nông nhàn giờ đây

được thay thế bởi lối sinh hoạt có nhịp điệu gấp gáp hơn. Nhịp sống sôi động

không chỉ do hoạt động của cơ chế thị trường, mà còn do nhịp điệu công

nghiệp và không khí sinh hoạt quốc tế cuốn hút. Không khí sinh hoạt và nhịp

sống quốc tế không chỉ tác động tới sinh hoạt và nhịp sống của quốc gia mà

cả đến mỗi cá nhân. Người lao động như cuốn vào mạch sống kinh tế thị

trường, kinh tế trí thức, khoa học công nghệ; học sinh, sinh viên như xoáy vào

32

nhịp độ tăng lên theo cấp số nhân của tri thức. Tác phong lao động gấp gáp

không cho phép người ta chần chừ, ỷ lại. mà phải tự vận động, chớp thời cơ,

giành giật trong môi trường sống chung của thời cuộc. Đây là điều kiện tốt

cho việc phát huy cao độ nhận thức, đánh giá, ý thức, tình cảm con người theo

tiêu chí xã hội hiện đại; làm cho người Việt Nam có điều kiện phát triển tinh

thần, thể chất, lý trí, tình cảm.

Khi khuếch trương mặt tích cực của tiêu dùng, toàn cầu hoá đồng thời

cũng phá vỡ, thậm chí huỷ hoại nhiều yếu tố của lối sống bằng chính phương

thức tiêu dùng - chuyển quan niệm tiêu dùng thành quan niệm tiêu thụ thuần

túy. Sản xuất nhiều và tốt thì cần tiêu thụ nhiều. Tiêu dùng nhiều lại kích thích

sản xuất. Tuy nhiên, tiêu dùng hiện nay, theo quan niệm của không ít người,

đã trở thành mục đích sống: chất lượng của đời sống là tiêu thụ - hưởng thụ

thuần tuý. Sự ảnh hưởng của văn hoá tiêu dùng phương Tây với những yếu tố

bất hợp lý đã hình thành lối sống duy kinh tế, duy phương tiện, tuyệt đối hoá

giá trị vật chất, qua toàn cầu hoá, đã góp phần khuếch trương mặt tiêu cực nêu

trên trong xã hội ta hiện nay. Sự lãng phí của việc chạy theo “mốt”, việc khoe

khoang của cải để xây nhà to, mua xe đẹp mà không sử dụng là sự biểu hiện

của một lối sống gấp, hưởng thụ, trọc phú và hợm hĩnh.

Những quan niệm tiêu dùng đó cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với

trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với hoàn cảnh kinh tế của gia

đình và nguồn thu nhập chính đáng của bản thân mỗi cá nhân. Thế hệ này

không thể khai thác tất cả các nguồn tài nguyên mà bao thế hệ xưa kia để lại

chỉ để thoã mãn nhu cầu tiêu dùng cho mình mà không quan tâm đến thế hệ

sau. Khi mà cả thế giới đang hướng tới sự phát triển bền vững thông qua việc

hình thành các quan niệm về tiêu dùng bền vững thì bản thân mỗi cá nhân,

mỗi gia đình Việt Nam cũng cần điều chỉnh cho tiệm cận xu hướng ấy. Tiêu

dùng bền vững không phải là tiêu dùng ít hơn mà là việc biết tiêu dùng hiệu

33

quả hơn, tốt hơn, bớt sử dụng tài nguyên. Đó là cách đáp ứng nhu cầu của

người tiêu dùng một cách thông minh nhất, tạo cơ hội để tiêu thụ sản phẩm,

dịch vụ một cách hiệu quả, có hiệu suất cao và giảm thiểu tác động tiêu cực

đến môi trường sống.

+ Chủ thể xây dựng lối sống của con người Việt Nam: bao gồm ba chủ

thể chính là: gia đình, nhà trường và xã hội.

Gia đình có vai trò quyết định đối với việc xây dựng lối sống cho mỗi

cá nhân bởi lẽ, ngoài những yếu tố sinh học và di tuyền, thì tri thức, kỹ năng

chuyên môn, niềm tin, hệ giá trị - chuẩn mực... chỉ có thể hình thành thông

qua lối sống. Đây là những tài sản mà các thế hệ trước đã thu lượm, đúc kết,

sáng tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, được các thế hệ sau lĩnh hội, biến

đổi và chuyển hoá thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên lối sống của

mình. Cũng chính gia đình vạch ra kế hoạch và phương pháp bù đắp những

thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh- di truyền hoặc hoàn cảnh gây nên,

nhằm xây dựng một lối sống hoàn thiện nhất có thể. Gia đình còn có thể phát

huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố tác động tới lối sống và uốn nắn

những sai lệch theo đúng hướng mong muốn của xã hội. Gia đình tác động lâu

dài, liên tục bằng tình thương yêu để xây dựng lối sống cho mỗi con người

Việt Nam, nên đây là môi trường lý tưởng để mỗi cá nhân tự hình thành cho

mình một lối sống phù hợp. Lối sống của mỗi cá nhân cũng sẽ tác động trực

tiếp (tích cực hoặc tiêu cực) đến lối sống của một gia đình, nó khiến gia đình

đó hạnh phúc hoặc không hạnh phúc, bền vững hoặc không bền vững trong cả

hiện tại và tương lai.

Nhà trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành lối sống

cho con người Việt Nam. Đây là nơi mà mỗi cá nhân được lĩnh hội những tri

thức thông qua việc giáo dục trong nhà trường. Những tri thức ấy giúp con

34

người nhận thức được đúng - sai, phải - trái trong lối sống của mình và tự

điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế.

Xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lối sống của con

người Việt Nam. Xã hội với những thiết chế của nó sẽ điều chỉnh các hoạt

động và các mối quan hệ của mỗi con người trong những khuôn khổ, phạm vi

cho phép. Đó cũng là nơi mà kiểm chứng mức độ phù hợp hay không phù hợp

của lối sống ở mỗi cá nhân để con người tự hoàn thiện lối sống của mình.

+ Biện pháp xây dựng lối sống của con người Việt Nam: lối sống của

con người được hình thành trong quá trình sinh sống. Thông qua giáo dục và

hoạt động thực tiễn, lối sống được hình thành, được kiểm chứng và được

(hoặc bị) điều chỉnh cho phù hợp.

Giáo dục là biện pháp quan trọng nhất trong việc hình thành lối sống

cho con người. Do đó, các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học cần được

hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam mới có thế giới quan khoa học,

vươn tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực,

bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri

thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người

Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Cần tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ

cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học -

nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm

quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.

Hoạt động thực tiễn là nơi để mỗi cá nhân thể hiện lối sống của mình

trong xã hội. Tại đây, lối sống sẽ thể hiện và (có thể) được điều chỉnh, bổ sung

cho phù hợp hoặc được ghi nhận, lan toả (lối sống đẹp) ra cộng đồng.

35

Thực tiễn hiện nay cần xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì

mọi người, mọi người vì mỗi người” trong mỗi cá nhân, con dân nước Việt;

hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến

pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân

và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình

và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng;

nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.

Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất

với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

1.2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

1.2.1. Gia đình Việt Nam hiện nay

1.2.1.1. Khái niệm gia đình:

Gia đình có vị trí, vai trò đặc biệt quan trong trong đời sống xã hội và là

đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Đến nay, khái

niệm về gia đình vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và rõ ràng,

nhưng nhiều quốc gia đồng thuận một cách chung nhất: Gia đình là đơn vị cơ

bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh

phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em (Tuyên bố của Liên hợp quốc có về

tiến bộ xã hội trong phát triển).

Theo C.Mác: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con

người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa

chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”[33, tr.41].

Theo quan điểm này thì khái niệm về gia đình được hiểu với 03 nội

dung sau:

36

Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã

hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì

đồng thời cũng tái tạo ra gia đình.

Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con

người.

Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn

nhân (chồng, vợ), quan hệ huyết thống (ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt).

Theo tổ chức Unesco của Liên hợp quốc đã thống nhất khẳng định:

“Gia đình là một yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế xã hội. Gia đình

được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được giữ gìn và

phát huy”trên tinh thần đó, Unesco đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm

người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung với các

thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi về mọi

mặt được pháp luật thừa nhận”.

Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về gia đình và đưa ra các định

nghĩa khác nhau. Xét từ góc độ Xã hội học, khái niệm gia đình được thừa

nhận là:

“Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn

nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng, các thành viên trong gia đình

gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm) giữa

họ, là những quan hệ có tính pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ,

đồng thời cũng có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm

đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình” [1, tr.190].

Xét từ góc độ tâm lý học: Gia đình là một nhóm xã hội có quan hệ gắn

bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung những giá trị vật

chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử. Gia đình là một đơn vị

37

nhỏ nhất của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội và là tấm gương phản

chiếu mọi thành tựu, cũng như mâu thuẫn xã hội.

Tổng hợp và toàn diện hơn các nội dung trên, tác giả Lê Thi cho rằng:

“Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành

trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó

và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại), gia đình

có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ

huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và

quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc bởi

tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật

Hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy

định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục

giữa các thành viên” [40, tr.20 - 21].

Về khái niệm gia đình mang tính pháp lý ở Việt nam được ghi nhận

trong Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000), Điều 8 ghi rõ: “Gia đình là tập

hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống

hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ

với nhau theo luật định”.

Từ các khái niệm trên, gia đình được nhận diện trên các khía cạnh sau:

Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên

cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết lại các cá nhân

(nam - nữ) theo quy định của pháp luật hay phong tục, nhằm để cùng sống với

nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân được biểu hiện là

một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân: đó là quan hệ vợ chồng kết

hợp với nhau để sinh sản và nuôi dạy con cái. Trong các xã hội có giai cấp,

quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp.

38

Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, là sự

tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp

dựa trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.

Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và

đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi,

nghĩa vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

Như vậy, không thể có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi

nền văn hoá, song với quan niệm như trên, chúng ta có thể thống nhất về cơ

bản: Gia đình là một cộng đồng người được xây dựng trên cơ sở hai mối quan

hệ cơ bản là hôn nhân và huyết thống, được xã hội thừa nhận.

Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng vấn đề gia đình và đã lấy ngày

28/6/2001 là “Ngày gia đình Việt Nam”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh “phát huy những giá trị

truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của

quá trình CNH - HĐH. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh

phúc và bền vững thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã

hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách

con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp tạo nguồn nhân

lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [12, tr.103].

Ngày 10/5/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số:

106/2005/QĐ - TTG về việc phê duyệt Chiến lược xây dựng gia đình Việt

Nam giai đoạn 2005 - 2010 khẳng định: “Gia đình là một trong những nhân

tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội, sự thành công

của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng chủ nghĩa

xã hội”.

1.2.1.2. Các chức năng của gia đình

39

+ Thứ nhất, chức năng tái sản xuất ra con người.

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, chức năng này đáp ứng nhu cầu

tình cảm riêng, rất tự nhiên của các cá nhân là sinh đẻ con cái, đồng thời

mang ý nghĩa chung lớn lao là cung cấp lớp người mới, đảm bảo sự phát triển

liên tục và trường tồn của xã hội loài người. Trong mỗi gia đình, việc coi

trọng chức năng này thể hiện ở việc trực tiếp quan tâm đến điều kiện vật chất

và tinh thần thuận lợi cho việc mang thai, sinh nở của các bà mẹ; việc sinh đẻ

diễn ra ở từng gia đình nhưng lại quyết định đến mật độ dân cư, số lượng,

chất lượng dân cư của mỗi quốc gia.

Tái sản xuất ra con người là một chức năng đặc biệt mà chưa có cộng

đồng xã hội nào có thể thay thế được. Hiện nay, nhờ có sự phát triển của khoa

học công nghệ nên việc sinh sản của các gia đình có nhiều thuận lợi, tạo ra

những thế hệ con người có sức khoẻ và trí lực tốt hơn so với trước kia.

Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến chính sách dân số làm sao điều

tiết để có quy mô, cơ cấu dân số hợp lý. Gia đình phải nhận thức đúng đắn

việc thực hiện chức năng “Tái sản xuất ra con người”. Hiện nay, phần đông

các gia đình khi sinh nhiều con, khó thoát khỏi sự nghèo đói, tình trạng thiếu

lương thực,… khiến trẻ em không được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục chu đáo.

Do đó, mà việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người phải theo xu

hướng “Xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh

phúc và bền vững” [15, tr.175].

+ Thứ hai, chức năng kinh tế.

Trong lịch sử phát triển của xã hội loại người, từ khi xuất hiện Nhà

nước thì gia đình luôn được xem làm một đơn vị kinh tế. Chức năng kinh tế là

chức năng cơ bản của mỗi gia đình, góp phần nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình và nó tạo điều kiện cho các chức

40

năng khác được thực hiện có hiệu quả, đồng thời nó cũng tạo ra sự đóng góp

của gia đình vào sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.

Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ, xã hội loài người tồn tại và phát triển là

do hai loại sản xuất quyết định, sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải

vật chất. Hoạt động kinh tế là chức năng của mọi gia đình, trong mọi thời đại

( tất nhiên với mức độ không giống nhau) đã làm cho gia đình không những là

đơn vị kinh tế tiêu dùng mà còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để thỏa

mãn nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình và làm giàu cho xã hội.

Ở thời kỳ đầu xã hội chủ nghĩa còn sản xuất hàng hóa, có nhiều thành

phần kinh tế và khi kinh tế tập thể và kinh tế Nhà nước chưa đáp ứng được đủ

nhu cầu đa dạng của cuộc sống con người thì kinh tế cá thể và tiểu chủ hoạt

động phần lớn dưới hình thức hộ gia đình là một bộ phận đông đảo có tiềm

năng to lớn, và có vị trí lâu dài. Do đó cần có chính sách phù hợp để thúc đẩy

kinh tế của các hộ gia đình phát triển bền vững góp vào công cuộc phát triển

của đất nước.

Thứ ba, chức năng tiêu dùng.

Việc tiêu dùng của gia đình hướng vào mua sắm sản phẩm để phục vụ

nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình. Chức năng này thường phụ thuộc

vào nhiều thu nhập và sự đóng góp chung từ kết quả lao động của các thành

viên trong gia đình trong hoạt động kinh tế của gia đình và xã hội.

Xã hội ngày càng phát triển càng thúc đẩy việc mua sắm các sản phẩm,

các thiết bị, các dụng cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của gia đình ngày

càng nhiều hơn và thuận tiện hơn. Thực tế hiện nay cho thấy việc tiêu dùng

vật chất và tinh thần ngày càng được mở rộng và đa dạng về các hình thức

dịch vụ và phúc lợi cho con người, nhưng cũng không hoàn toàn thay thế

chức năng tiêu dùng của gia đình. Tổ chức tiêu dùng về đời sống vật chất và

tinh thần của gia đình có chiều hướng đi sâu vào đáp ứng nhu cầu phong phú,

41

duy trì sắc thái và sở thích sinh hoạt riêng của từng gia đình, của các thành

viên. Do vậy việc tổ tiêu dùng trong gia đình là việc sử dụng một cách hợp lí

các khoản thu nhập của gia đình, lẫn việc tạo lập một môi trường văn hóa lành

mạnh trong gia đình, giúp cho trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên

trong gia đình được bảo đảm. Trong điều kiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa

như hiện nay với chính sách kinh tế mở, kinh tế thị trường đã tạo điều kiện

cho các gia đình có thu nhập ngày càng cao, kinh tế khá giả, nhu cầu con

người ngày càng phát triển, phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần, mỗi thành

viên trong gia đình đều đòi hỏi những nhu cầu ấy được thỏa mãn. Chính vì

vậy mà việc chi tiêu trong gia đình là rất quan trọng và càng quan trọng hơn

với các gia đình có kinh tế eo hẹp.

Thứ tư, chức năng giáo dục.

Sinh con, nuôi con, dạy bảo con cái là những hoạt động không thể tách

rời nhau trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng giáo dục

con cái, chăm lo việc học tập và phát triển lành mạnh của con cái cả về thể

chất lẫn tinh thần.

Gia đình là hạt nhân của xã hội. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã

hội. Gia đình có nhiều chức năng, nhưng trong đó có một chức năng vô cùng

quan trọng - chức năng giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn cho trẻ từ khi

chúng nhận thức được các mối quan hệ gia đình và xã hội. Hơn nữa, chức

năng này góp phần tạo ra những thế hệ công dân mới có ích cho gia đình, cho

xã hội, là lớp người kế cận lớp người đi trước, là những chủ nhân tương lai

của đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

C. Mác đã khẳng định rằng, con người là một sinh vật- xã hội. Sau khi

lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã hội, không

được hưởng chế độ giáo dục của gia đình, và của xã hội, đứa trẻ không trở

thành con người đúng nghĩa. Điều này đã được khoa học chứng minh thuyết

42

phục rồi. Bởi vậy có thể khẳng định rằng, sự phát triển của con người không

thể nằm ngoài môi trường gia đình và xã hội.

Những thành tựu khoa học ngày nay và thực tiễn cuộc sống cho thấy

việc giáo dục trong gia đình có vai trò vô cùng quan trọng, vì nó là nơi nuôi

dưỡng, giáo dục gia đình mang tính cá biệt và đậm nét giáo dục thông qua

tình cảm. Trong giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội không phân biệt giới

tính, trí tuệ, sức khỏe, đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh sống của cá nhân, thì

giáo dục gia đình lại tính đến tất cả yếu tố đó của đối tượng giáo dục, gia đình

là môi trường đầu tiên cho con người lớn lên.

Chức năng giáo dục gia đình là rất quan trọng có nội dung lớn. Nội

dung giáo dục gia đình chính là yếu tố của văn hóa gia đình và văn hóa cộng

đồng nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người như đạo đức, lối

ứng xử, tri thức lao động và tri thức khoa học giáo dục gia đình được thực

hiện ở mọi chu trình sống của con người.

Trong chủ nghĩa xã hội chức năng giáo dục gia đình thực sự góp phần

lớn lao vào việc đào tạo thế trẻ xây dựng con người mới nói chung, vào việc

duy trì và phát triển đạo đức, văn hóa dân tộc. Giáo dục gia đình là một bộ

phận của giáo dục xã hội, giáo dục trong gia đình mới đòi hỏi sự cố gắng cao

và những hiểu biết về khoa học, tâm lý của cha mẹ và mọi thành viên khác,

kết hợp chặt chẽ môi trường giáo dục ( gia đình, nhà trường, xã hội) để tiến

tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất

nước là một yêu cầu quan trọng.

Sự tác động của kinh tế thị trường, CNH - HĐH và hội nhập kinh tế

quốc và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ làm cho các bậc

cha mẹ cảm thấy lúng túng bất lực trước yêu cầu giáo dục con cái. Bởi vì

trong xã hội ngày nay lối sống của con người đã có thay đổi nhanh chóng. Để

thực hiện tốt chức năng này một mặt nhà nước và các tổ chức xã hội phải

43

không ngừng tuyên truyền, giáo dục tri thức và năng lực giáo dục con cái cho

các bậc cha mẹ, mặt khác đòi hỏi các bậc cha mẹ phải tự ý thức được điều đó,

phải là tấm gương tốt cho con cái trong lao động, ứng xử, trong sinh hoạt nói

chung.

Thứ năm, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm trong gia

đình.

Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu

thương gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh

phúc lứa đôi. Tổ ấm của gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng

thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội đồng thời cũng là niềm bao dung

an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủ ro sóng gió của cuộc đời. Càng về cuối

đời con người càng tin thấm thía và khát khao tìm về sự bình yên, thỏa mãn

nhu cầu bằng trạng thái tâm lí, trong sự chăm sóc đùm bọc của gia đình.

Như vậy, gia đình là một thiết chế đa chức năng, trên đây chỉ là những

chức năng cơ bản nhất. Thông qua việc thực hiện những chức năng này mà

gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến độ chung của xã hội.

Các chức năng trên được thực hiện trong sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Các

chức năng của gia đình đều ảnh hưởng đến lối sống của các thành viên trong

gia đình cũng như ở xã hội nói chung.

1.2.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của con ngƣời

Việt Nam hiện nay

- Thứ nhất, gia đình giáo dục trở thành những con người lao động mới.

Người lao động mới là người có sức khỏe, có tri thức, lao động có kỷ

luât, có kỹ thuật với năng suất cao, chất lượng tốt. Người lao động có sức

khỏe tốt. Đây là yêu cầu của nền sản xuất đại công nghiệp, của cuộc cách

mạng khoa học công nghệ hiện nay. Không có sức khỏe không thể hoàn thành

được nhiệm vụ. Gia đình với chức năng kinh tế tạo ra những điều kiện vật

44

chất để chăm lo cho con người, có điều vật chất thì cha mẹ mới có điều kiện

chăm lo con cái học hành để trở thành người lao động có kỹ thuật. Gia đình là

nơi xây dựng ý thức lao động, lao động có trách nhiệm. Trách nhiệm với đồng

chí, đồng nghiệp, trách nhiệm với xã hội, cán bộ công chức trách nhiệm với

công dân; trong sản xuất là trách nhiệm với người tiêu dùng, trách nhiệm

trong hoạt động dịch vụ theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Người lao

động có sức khỏe, có ý thức, có kỹ năng lao động tốt là điều kiện cho lao

động đạt năng suất cao. Gia đình còn tạo điều kiện cho các thành viên tham

gia lao động.

Bên cạnh đó gia đình xây dựng kỷ luật lao động. Xây dựng kỷ luật lao

động trong quá trình học tập, tuân thủ kỷ luật học tập, giờ nào việc ấy. Kỷ luật

học tập là cơ sở để xây dựng kỷ luật lao động. Gia đình nhắc nhở các thành

viên tôn trọng kỷ luật lao động, gia đình tạo dựng kỹ năng cho con người.

Ngay từ nhỏ gia đình cần tạo điều kiện cho con cái tham gia lao động để từng

bước hình thành kỹ năng lao động. Những gia đình có truyền thống nghề

nghiệp, cha mẹ có điều kiện bồi dưỡng truyền đạt kỹ năng lao động cho con

cái (ví dụ nghề y, nghề giáo, nghề làm gốm,...), anh truyền lại kinh nghiệm,

bồi dưỡng kỹ năng lao động cho em.

Xây dựng kỷ luật lao động là một mặt, một bộ phận cơ bản trong việc

hình thành và phát triển nhân cách của con người, là con đường vươn tới sự

thành đạt và hạnh phúc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lao động

là cơ sở của tiến bộ xã hội, là điều kiện để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh

thần của con người, là nội dung chủ yếu của hoạt động con người, là điều kiện

tối cần thiết của sự phát triển nhân cách mỗi người, là nghĩa vụ và quyền lợi

của công dân trong xã hội chủ nghĩa. Trong gia đình kỷ luật lao động giúp cho

mỗi thành viên trong gia đình có khả năng tham gia vào hoạt động thực tiễn,

vừa là phương tiện hình thành và phát triển thể lực và trí lực. Vì thế thiếu kỷ

45

luật lao động trong bất kì môi trường nào cũng dẫn tới hậu quả không tốt, trở

thành người vô ý thức kỷ luật. Bởi vậy, gia đình là nơi đầu tiên xây dựng kỷ

luật lao động cho các thành viên trong gia đình, vì nếu thiếu nó mỗi cá nhân

trong gia đình sẽ không có nhân cách hoàn thiện, nảy sinh tính lười biếng, ỷ

lại, vô cảm, con cái không biết yêu thương, chia sẻ nỗi vất vả với cha mẹ mà

chỉ biết đòi hỏi, hưởng thụ và không biết hy sinh, công hiến cho mọi người,

cộng đồng xã hội.

Việc thực hiện nội dung kỷ luật trong gia đình, cha mẹ phải là người

giáo dục con mình biết yêu lao động, tự làm công việc phù hợp với khả năng

của mình, chăm chỉ, tích cực học tập, rèn luyện bản thân để trở thành người

có ích cho gia đình và xã hội. Xây dựng kỷ luật lao động giúp cho các thành

viên trong gia đình có được kỹ năng lao động, thói quen trong lao động. Điều

này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng sâu đậm tới nhân cách của

họ sau này. Mục đích của việc xây dựng kỷ luật lao động trong gia đình là rèn

luyện kỹ năng, thói quen và tình yêu lao động cho con em của họ mà không

một môi trường nào có thể thay thế được.

Trong gia đình, việc xây dựng kỷ luật lao động các bậc cha mẹ đã

hướng dẫn ngay từ nhỏ để trẻ hình thành được kỹ năng, thói quen lao động tự

giác, đi từ thao tác đơn giản đến phức tạp như: hướng dẫn cách rửa mặt như

thế nào cho sạch, cách rửa bát sạch sẽ, không sứt mẻ, không đánh vỡ hoặc

sáng ngủ dậy phải gấp chăn gọn gàng, phẳng phiu, vuông vắn rồi đến việc tự

giác vào bàn ngồi học mà không cần cha mẹ phải nhắc nhở…Đây là những

việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại cần thiết để trẻ từ đó mà dần hoàn

thiện bản thân. Đặc biệt cha mẹ không được nuông chiều, làm thay để biến trẻ

dần trở nên lười biếng, vô cảm không biết vươn lên trong cuộc sống, ngại

khó, ngại khổ.

46

Bên cạnh đó, cha mẹ phải dạy cho con trẻ biết kính trọng người lao

động và sản phẩm lao động, thì mới có thể giáo dục tình yêu lao động cho con

cái. Đồng thời, cha mẹ giúp trẻ hiểu được tính chất phức tạp và nỗi vất vả,

nặng nhọc của người lao động để tạo ra của cải vật chất, nên phải biết trân

trọng sản phẩm lao động. Qua đó, trẻ biết yêu quý, noi gương người lao động

giỏi, sáng tạo, chăm chỉ, chuyên cần, vượt khó, vươn lên trong học tập, rèn

luyện. Trong gia đình, trẻ em là người phải được rèn luyện, giáo dục thói quen

tự phục vụ bản thân. Lao động tự phục vụ được biểu hiện thông qua sinh hoạt

và học tập cá nhân. Trẻ được giáo dục thái độ lao động tự giác, tích cực, biết

tương trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong gia đình. Gia đình còn tạo cho

trẻ thói quen lao động khoa học: có kế hoạch trong công việc, biết tiết kiệm

thời gian, hoàn thành chu đáo công việc được giao, kết hợp học với hành, lao

động chân tay với học tập khoa học.

Có thể nói rằng, xây dựng kỷ luật trong gia đình đóng vai trò vô cùng

quan trọng . Đây là môi trường đầu tiên con người được sinh ra và lớn lên. Và

ở đây các thành viên trong gia đình tự hoàn thiện được bản thân, đóng góp

sức mình vào công việc chung của gia đình, đặc biệt là con trẻ có được thói

quen, kỹ năng sinh tồn trong cuộc sống hiện đại.

- Thứ hai, gia đình giáo dục lối ứng xử văn minh lịch sự.

Trong xã hội xưa, người Việt Nam ta rất coi trọng việc giữ gìn nếp

sống, gia phong. Các thành viên trong gia đình có bổn phận coi trọng nền nếp

đó để không làm ảnh hưởng đến thanh danh, uy tín trong gia đình. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI có nội dung liên quan

công tác xây dựng gia đình “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt

Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn

hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt

đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và

47

nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha

mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết,

thương yêu nhau…”[14, tr.4]. Thực tế hiện nay gia đình có một vị trí, vai trò

rất quan trọng bởi vì:

Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò quyết định đối với sự hình

thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình

góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc: Cha

mẹ hết lòng, quên mình, hy sinh cho con, nuôi dạy con trưởng thành, “nên

người”. Con cháu yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, chăm sóc, phụng

dưỡng ông bà, cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, tàn tật. Nghe những lời

khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của

gia đình, của quê hương, của dân tộc. Vợ chồng thương yêu, quý trọng, chăm

sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,

hạnh phúc, bền vững. Anh, chị, em thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, đùm

bọc, nuôi dưỡng nhau. Ông bà nội, ngoại trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu,

đặc biệt đối với cháu mồ côi chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn

tật, không có khả năng lao động và không có khả năng để tự nuôi mình. Lên

án người có hành vi vi phạm đạo lý, đạo đức gia đình (các hành vi ngược đãi,

hành hạ, xúc phạm ông, bà, cha, mẹ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các

thành viên khác trong gia đình; không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng v.v...).

Ngày nay, trong nhiệm vụ xây dựng con người mới, gia đình Việt Nam

không những kế thừa những nếp sống truyền thống tốt đẹp của gia đình mà

còn phát huy tính tích cực của nó. Khi nói đến nếp sống gia đình, trước hết

ông, bà, cha, mẹ thường khuyên răn, dạy bảo con cháu từ thuở ấu thơ phải

biết lễ độ, chào hỏi, xin lỗi, cám ơn, phải biết “ăn xem nồi, ngồi xem

hướng”,... Trong lao động phải siêng năng, cần mẫn, chịu khó, tiết kiệm…

Gia đình có nề nếp rất khinh ghét những kẻ lười biếng trong lao động và học

48

tập, tránh xa những người ăn bám, dối trá, nghiện ngập rượu chè, cờ bạc, …

Gia đình rất quan tâm việc giáo dục nếp sống gia đình trong đó chú trọng đến

tình thương và lẽ phải, coi trọng sự hoà thuận, đoàn kết, thương yêu nhau,

kính trên dưới nhường ngoài ra còn thể hiện lòng mến khách: niềm nở tiếp

đón, chu đáo trong xử sự, tình bạn thuỷ chung, sống có tình, có nghĩa, ăn ở

như bát nước đầy.

Lối ứng xử văn minh, lịch sự của con người được thể hiện thông qua:

+ Gia đình giữ gìn phong tục tập quán. Gia đình truyền thống Việt

Nam qua đời này sang đời khác đã kết tinh văn hóa dân tộc như có hiếu với

ông bà, cha mẹ, anh em hòa thuận, vợ chồng thủy chung,… Từ đó, hình thành

nên chuẩn mực đạo đức và lối sống trở thành gia phong. Những tinh hoa ấy

được phát huy trong cuộc sống đạo đức hôm nay để trở thành liều thuốc ngăn

chặn sự xuống cấp về đạo đức, lối sống.

+ Gia đình xây dựng cách ứng xử trong quan hệ với ông bà, cha mẹ,

anh chị em. Ngay từ khi mới sinh ra, con người luôn cần phải gắn bó với tình

cảm mẹ cha, ơn sinh thành nuôi dưỡng: “Phụ tử tình thâm”, “Xương cha, da

mẹ”, “Cá chuối đắm đuối vì con”, “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ

như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu

mới là đạo con”. Những điều này đã im đậm vào kí ức của con người Việt

Nam, nó trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn xưa đến nay.

Đã là con thì phải báo hiếu với cha mẹ, từ chữ hiếu mà nâng lên thành đạo

làm con. Đạo làm con không chỉ thể hiện ở việc công thành danh toại để cha

mẹ tự hào, không chỉ là việc nuôi dưỡng cha mẹ khi về già mà còn là thờ cúng

cha mẹ đã khuất. Đó cũng là xuất phát của việc thờ cúng tổ tiên để bày tỏ tấm

lòng ghi ơn “Uống nước nhớ nguồn”. Bên cạnh đó, mối quan hệ ứng xử giữa

anh chị em ruột trong nhà cũng luôn được đề cao: “Anh em như chân, như tay.

Như chim liền cánh, như cây liền cành”, “Em thuận, anh hòa là nhà có

49

phúc”... Mối quan hệ máu mủ ấy không gì có thể sánh bằng, không gì có thể

chia cắt: “Cắt dây bầu dây bí/ Chẳng ai cắt dây chị dây em”. Cũng vì lẽ đó,

cha ông ta luôn lên án những người không giữ được tình cảm anh chị em hòa

thuận trong gia đình. Vợ chồng là duyên số nhưng về ở với nhau trong một

mái nhà thì còn là trách nhiệm, là tình nghĩa mặn nồng lúc gian khổ hay

sướng vui: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, “Đốn cây ai nỡ

dứt chồi/ Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”

Có thể nói, trong xây dựng lối ứng xử văn minh, lịch sự chịu sự ảnh

hưởng trực tiếp nhất từ cách ứng xử văn hóa trong gia đình. Nét đẹp lâu đời,

một nét đẹp truyền thống của dân tộc việt Nam: Sự hoà thuận, chung thuỷ,

tình nghĩa, lòng yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ với

cha mẹ, anh em,… là cơ sở và nguồn gốc quan trọng nhất tạo lập lối ứng xử

đẹp cho mỗi con người. Nhiều gia đình luôn biết cách tạo dựng, giữ gìn

những nét văn hóa ứng xử ấy tạo nên nề nếp gia phong. Thời nay, trong gia

đình, dù văn hóa ứng xử có thay đổi rất nhiều so với ngày xưa, nhưng những

khuôn phép của mỗi gia đình vẫn không thể thiếu được có như vậy con người

mới được phát triển toàn diện.

+ Gia đình giáo dục kỹ năng sống. Giáo dục kỹ năng sống trước hết

phải bắt đầu từ trong mỗi gia đình, từ vai trò, trách nhiệm của mỗi người làm

cha mẹ, không gì có thể thay thế được. “Dạy con từ thuở còn thơ”, “Học ăn

học nói, học gói học mở”; học chịu thương chịu khó, học kính trên nhường

dưới, học thưa gửi, học cảm ơn, xin lỗi; học lễ học nghĩa, học làm con làm

cháu, học làm anh chị, làm em, học làm người... Dạy cho trẻ những bài học đó

trước hết và tốt nhất là phải xuất phát từ gia đình. Việc hình thành kỹ năng

sống cho mỗi người là một quá trình nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất.

Mỗi gia đình, mỗi tế bào xã hội cần có sự nhận thức đúng đắn hơn nữa trong

việc giáo dục kỹ năng sống cho mỗi thành viên trong gia đình mình để cung

50

cấp cho xã hội những công dân tốt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc.

Nền giáo dục hiện nay của Việt Nam rất coi trọng việc giáo dục đạo

đức, “tiên học lễ, hậu học văn” trước là học đạo đức, học các quy tắc, nghi lễ

ứng xử sao cho đúng mực rồi sau đó mới học kiến văn, kiến thức… Còn trong

gia đình, giáo dục đạo đức là nội dung cơ bản, chủ yếu. Ở gia đình các thế hệ

ông bà, cha mẹ, luôn giáo dục con cháu rằng “Giấy rách phải giữ lấy lề”,

“Đói miếng hơn tiếng để đời”. Giữ gìn truyền thống đạo lí ngàn đời của cha

mẹ, ông bà, tổ tiên - đó là gìn giữ nhân phẩm và danh dự của một con người.

Đó cũng chính là cách ứng xử tốt đẹp, văn minh, lịch sự mà gia đình đã dày

công xây dựng cho mỗi cá nhân vững bước vào đời.

- Gia đình giáo dục ý thức tiêu dùng tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh

gia đình và điều kiện đất nước.

Gia đình bao đời nay đều được coi là một đơn vị kinh tế sản xuất và

tiêu dùng trong xã hội. Ở trong gia đình truyền thống, gia đình tự tiến hành

việc sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi… không phụ thuộc vào người khác, kể cả

việc tiêu thụ sản phẩm. Toàn bộ thu nhập trong gia đình đều do các thành viên

trong gia đình làm ra dùng để chi tiêu chung trong gia đình. Do sản xuất nông

nghiệp năng suất lao động thấp, bấp bênh buộc các gia đình phải làm việc rất

siêng năng, chăm chỉ, cần cù, chịu khó và tiết kiệm. Trong gia đình mọi thành

viên đều được sắp xếp có công ăn việc làm, có một người chỉ huy và một

người nội trợ đảm đang chăm lo việc cung cấp ăn mặc chu đáo cho các thành

viên. Trong gia đình truyền thống làm nông nghiệp có mức thu nhập thấp, chỉ

đảm bảo cho nhu cầu cần thiết cho các thành viên trong gia đình, chưa đáp

ứng được nhu cầu xã hội. Do vậy, mà việc chi tiêu trong gia đình mọi thành

viên đều phải hết sức dè sẻn, tiết kiệm một cách thái quá. Chính điều này làm

cho con người lúc nào cũng cảm thấy bị o ép, hạn chế mọi mặt, không được

51

thỏa mãn các nhu cầu khác ngoài các nhu cầu cơ bản. Cuộc sống của họ tràn

ngập những cái lo hằng ngày, không có đủ điều kiện để phát triển cá nhân;

việc nghỉ ngơi thoải mái, được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, tinh

thần,… sau những giờ làm việc là điều vô cùng hiếm hoi.

Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với chính sách kinh tế

mở, nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho các gia đình có thu nhập ngày

càng cao, kinh tế khá giả, nhu cầu con người ngày càng phát triển, phong phú

cả về vật chất và tinh thần. Bởi vậy, gia đình hiện nay không chỉ là đơn vị

kinh tế mà còn là đơn vị tiêu dùng. Các gia đình hiện nay hầu như có đầy đủ

những đồ dùng tất yếu: xe đạp, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, xe máy…để phục vụ

cho nhu cầu hàng ngày của họ. Ngoài ra, những gia đình có điều kiện hơn họ

bỏ ra một số tiền tương đối lớn để vui chơi giải trí như : đi xem phim 3D,

nghe ca nhạc, đi du lịch, spa,… các hoạt động khác phục vụ nhu cầu của họ.

Trong xu hướng phát triển hiện nay thì việc tạo điều kiện để nâng mức

sống của mỗi gia đình là việc cần thiết, nhưng cũng phải định hướng các

thành viên trong gia đình có được sự tiêu dùng lành mạnh, đúng mục đích,

tránh xa hoa, lãng phí. Tạo điều kiện tốt để kiến thức khoa học và các phương

tiện kĩ thuật đi sâu vào từng gia đình, đây là vấn đề thiết thực cho sự nghiệp

xây dựng gia đình mới. Do vậy, việc giáo dục tiêu dùng của các thành viên

trong gia đình là hết sức cần thiết dù ở trong bất kì thời đại nào.

Sự thay đổi trong ý thức tiêu dùng là tất yếu. Nhưng để sự thay đổi ấy

thực sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của gia đình, của đất nước

thì vai trò giáo dục của gia đình là vô cùng quan trọng. Ý thức và phong cách

tiêu dùng của người lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con trẻ và dần hình thành

phong cách tiêu dùng của mỗi người. Do vậy, cho dù xã hội có phát triển đến

đâu đi chăng nữa thì gia đình mà chính là ông bà, cha mẹ phải là người định

hướng cho các con, cháu có lối tiêu dùng lành mạnh, tiết kiệm, có mục đích,

52

tránh việc tiêu dùng tốn kém, lãng phí, ăn chơi đua đòi. Chỉ khi hiểu được giá

trị của đồng tiền thì mỗi cá nhân mới biết quý trọng và sử dụng nó một cách

hợp lý và đúng đắn nhất - Điều đó chỉ được tích luỹ thông qua sự giáo dục

của gia đình chứ không phải bất kỳ một chủ thể nào khác trong xã hội.

53

Tiểu kết chƣơng 1

Lối sống của con người Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối bởi rất

nhiều yếu tố. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng

tất yếu mà nước ta đang tiến hành không chỉ tạo nên sự chuyển biến căn bản,

sâu sắc và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lối sống của

người Việt. Sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hoá của các quốc gia trong

quá trình hội nhập cũng tạo nên sự va đập giữa các lối sống truyền thống của

con người Việt Nam và các quốc gia khác. Bên cạnh việc tiếp thu các giá trị

tốt đẹp, hiện đại trong lối sống ở của các quốc gia khác nhau nhằm hiện đại

hoá lối sống Việt thì lối sống truyền thống, thuần Việt cũng đang đứng trước

những thách thức không nhỏ bởi sự tác động của kinh tế thị trường, đề cao giá

trị vật chất và đồng tiền mà coi nhẹ các giá trị về nhân phẩm, nhân văn của

mỗi con người. Do đó, việc giáo dục cho mỗi người một lối sống hiện đại và

phù hợp với văn hoá và con người Việt Nam đang là một trong những đòi hỏi

vô cùng cần thiết, nó quyết định sự thành bại của quá trình xây dựng nền văn

hoá Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Gia đình và việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống

cho con người Việt Nam đóng vai trò quyết định đối với quá trình xây dựng

lối sống mới cho con người ở nước ta. Sự chuyển đổi đặc điểm của các gia

đình Việt cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của

gia đình trong giáo dục lối sống cho con người Việt Nam. Bên cạnh đó, việc

xác định rõ ràng nội dung vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống cũng

đóng vai trò quyết định đến quá trình phát huy vai trò của chủ thể này trong

giáo dục lối sống cho con người Việt Nam.

Những nội dung căn bản đó được trình bày rõ trong chương này và đây

sẽ là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng để đánh giá thực trạng vai trò của gia

đình cũng như đưa ra các giải pháp để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò

quan trọng ấy trong giáo dục lối sống cho con người Việt Nam hiện nay.

54

CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG

LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG

LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan

trọng, tạo tiền đề vững chắc để ổn định chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của người dân nói chung, của từng gia đình nói

riêng. Đây cũng là điều kiện quan trọng để gia đình tạo lập tương lai vững

chắc cho thế hệ trẻ sau này.

2.1.1. Những kết quả đạt đƣợc

2.1.1.1. Gia đình Việt nam đã xây được những người lao động mới

đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

- Những vấn đề cơ bản về xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình

mới hiện nay:

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là hai nhiệm vụ chiến

lược của cách mạng Việt Nam. V.I. Lênin - Người thầy vĩ đại của cách mạng

thế giới đã chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”.

Trải qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển

kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến

lược sống còn. Trong công cuộc đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập quốc tế

hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, được biểu hiện tập trung ở

hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau là xây dựng

CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến mới tác động lớn đến

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển là xu

thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất

55

trắc khó lường, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên,

chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp,

lật đổ, ly khai, khủng bố… có thể gia tăng. Cục diện thế giới đa cực hình

thành ngày càng rõ hơn, các nước lớn vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh,

kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục điều chỉnh

chiến lược, tập hợp lực lượng mới trong khu vực và trên thế giới.

Tình hình trong nước những năm tới, sự ổn định chính trị tiếp tục được

giữ vững, kinh tế - xã hội phát triển, nhưng đất nước sẽ phải đối mặt với

những thách thức mới. Cả bốn nguy cơ mà các Đại hội Đảng đã chỉ ra không

những vẫn tồn tại mà có những mặt còn bộc lộ rõ hơn và xuất hiện nhiều yếu

tố mới phức tạp hơn. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá ta trên tất cả các

mặt: Chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn

giáo; tranh chấp biển, đảo có thể sẽ diễn biến gay gắt, phức tạp hơn…

Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong hiện nay chính

là: bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới trước hết là bảo vệ nền độc lập,

chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là bảo vệ quyền tự quyết

thiêng liêng của dân tộc, quyền lựa chọn con đường phát triển, thể chế chính trị

của đất nước; bảo vệ nền kinh tế độc lập, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong

xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa; bảo vệ sự thống nhất của Tổ quốc, kiên

quyết đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết các

dân tộc Việt Nam; bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời,

vùng biển của Tổ quốc. Đó là bảo vệ sự toàn vẹn của hơn 331.051km2 đất liền, hơn 1 triệu km2 vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài

phán của Việt Nam trên biển Đông.

Bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có nội hàm rất quan trọng là bảo vệ

Đảng, bảo vệ Nhà nước; bảo vệ chế độ XHCN và sự nghiệp đổi mới toàn diện

đất nước theo định hướng XHCN, bảo vệ sự nghiệp đẩy mạnh CNH - HĐH.

56

Đó cũng là bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kiên quyết

đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư

tưởng văn hóa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt thông tin, “xâm lăng văn

hóa”. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới là bảo vệ môi trường hòa

bình để phát triển đất nước theo định hướng XHCN, kiên quyết đấu tranh làm

thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại trật tự, an toàn xã hội, gây hấn, gây

xung đột vũ trang, gây chiến tranh xâm lược.

Để xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới hiện nay cần phát

huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Trước hết, đó là sức mạnh tinh thần,

sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam, sức mạnh của 90 triệu người dân Việt

Nam có lòng yêu nước nồng nàn, có tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, khí phách anh

hùng của dân tộc Việt Nam, có đức hy sinh cao thượng, sẵn sàng xả thân bảo

vệ Tổ quốc. Thứ hai, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối

đại đoàn kết toàn dân tộc. Thứ ba, bảo vệ vững chắc Tổ quốc bằng sức mạnh

của nền kinh tế cường thịnh. Thứ tư, bảo vệ vững chắc Tổ quốc bằng sức

mạnh của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực

lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Thứ năm, bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của đường lối đối ngoại, độc lập, tự

chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

- Gia đình Việt Nam xây dựng được những công dân đáp ứng trực tiếp

cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Với dân số hơn 90 triệu người, cả nước ta (tính đến hết 31/12/2014) có

hơn 24,2 triệu hộ gia đình - đây chính là nguồn nhân lực để thực hiện các

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay [45].

Hàng năm, hàng vạn thanh niên sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng đến nơi

biên giới hải đảo để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Các gia đình

57

Việt Nam không chỉ đảm bảo về số lượng các công dân nhập ngũ mà còn

không ngừng nâng cao chất lượng công dân nhập ngũ. Số lượng thanh niên có

trình độ cao tham gia vào lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam gia tăng

qua các năm.

Với chủ trương hiện đại hoá nền quốc phòng để tự vệ, các công dân

Việt Nam trong các lực lượng vũ trang đã không ngừng học tập và rèn luyện

để đáp ứng điều kiện thực hiện các nhiệm vụ trong tình hình mới, sẵn sàng

đáp trả và đáp trả một cách thích đáng đối với các đối tượng làm phương hại

đến lợi ích quốc gia, đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc

Việt Nam hiện nay.

Trong vụ dàn khoan Hải dương 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ

quyền nước ta (tháng 5 - 2014), hàng trăm chiến sĩ Cảnh sát biển đã anh dũng,

mưu trí khi trực tiếp đấu tranh chống lại những hành động xâm phạm chủ

quyền lãnh hải; hàng ngàn ngư dân vẫn kiên cường bám biển để đánh bắt hải

sản ở các ngư trường truyền thống của Việt Nam, hàng trăm nhà báo đã dũng

cảm ra khơi cùng với Cảnh sát biển hoặc cùng với ngư dân để đưa tin và

những hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông. Trong thời gian

qua, các thế lực thù địch luôn có những thay đổi mới trong chiến lược toàn

cầu phản cách mạng chống phá CNXH, chống phá cách mạng Việt Nam.

Chiến lược phức hợp “diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ được

chúng thực thi một cách ráo riết vừa công khai, trắng trợn, vừa tinh vi, xảo

quyệt, vừa ngầm, vừa sâu. Chúng luôn chĩa mũi nhọn vào những vấn đề nhạy

cảm như “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”, “dân tộc” để kích

động, chia rẽ, phá hoại công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh

đạo.

Bằng các biện pháp linh hoạt và mềm dẻo, Đảng ta đã lãnh đạo toàn

dân phá tan các âm mưu của kẻ thù, phát huy được sức mạnh tổng hợp và vai

58

trò của các tổ chức, lực lượng, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Đó là những biểu hiện sinh động, phong phú và sâu sắc tính chất toàn dân,

toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đó cũng là biểu

hiện sinh động cho thấy vai trò của các gia đình Việt Nam trong việc giáo dục

ý thức bảo vệ Tổ quốc cho từng thành viên trong gia đình nhằm đáp ứng

nhiệm vụ bảo vệ đất nước trong điều kiện mới.

- Gia đình đã xây dựng được những con người mới đáp ứng nhiệm vụ

xây dựng Tổ quốc Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.

Xây dựng và đảm đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá

cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được

đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiện nay, với

các điều kiện về kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục,… của các hộ gia đình không

ngừng được cải thiện và nâng cao. Bên cạnh việc tập trung phát triển kinh tế,

các bậc cha mẹ, ông bà cũng đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục con cháu

phát triển toàn diện. Việc đầu tư cho thế hệ trẻ được tiếp cận với môi trường

giáo dục hiện đại được các bậc phụ huynh coi là ưu tiên số một trong giáo dục

con cái, chi tiêu cho giáo dục con cái chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi

phí sinh hoạt của mỗi gia đình.

Năm học 2014 - 2015, cả nước có 14.179 trường mẫu giáo với 133.500

lớp học để chăm sóc, dạy dỗ cho 3,755 triệu học sinh; có 28.922 trường trong

giáo dục phổ thông (các cấp 1, 2, 3) với 494,5 nghìn lớp học để đáp ứng nhu

cầu học tập của 15,082 triệu học sinh trên cả nước. Bên cạnh việc số lượng

các trường, lớp học ngày càng gia tăng thì chất lượng dạy và học cũng được

cải thiện thông qua việc hợp lý hoá các tỷ lệ học sinh/1lớp học; tỷ lệ giáo

viên/ học sinh ngày càng ít hơn so với trước kia [44, Tr. 623, 626, 632].

59

Công tác giáo dục dạy nghề trên cả nước cũng được cải thiện, tính đến

hết năm 2014, cả nước có 312 trường trung cấp chuyên nghiệp với hơn 349.700

học sinh theo học. Đây là các cơ sở cung cấp nguồn lao động kỹ thuật, đáp ứng

nhu cầu của nền kinh tế và phục vụ công cuộc CNH - HĐH đất nước. Bên cạnh

đó, cả nước cũng có 436 trường đại học và cao đẳng (hệ công lập và ngoài

công lập), đào tạo 2,363.900 sinh viên ở các ngành học khác nhau. Đây là

nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc

trong giai đoạn hiện nay và cả tương lai [44, Tr. 652, 659].

Chất lượng nguồn nhân lực không ngừng được cải thiện và nâng cao đã

trực tiếp là động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta

trong những năm qua theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp

và dịch vụ không ngừng tăng lên trong khi tỷ trọng ngành nông, lâm ngư

nghiệp lại giảm tương ứng. Chính sự chuyển dịch cơ cấu lao động đã thúc đẩy

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong những năm qua. Đến hết năm

2014, lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ta chiếm 47.1%

tổng số lao động có việc làm trên cả nước - tuy còn nhiều hơn so với các khu

vực kinh tế khác, nhưng nếu so sánh với những năm trước đây thì chúng ta

thấy rõ ràng tỷ lệ lao động trong ngành kinh tế này đã giảm đi khá nhiều.

60

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

100%

20.6

31.8

80%

58.8

18.8

21.1

60%

Dịch vụ (%) Công nghiệp và xây dựng (%) Nông, lâm, ngư nghiệp (%)

40%

60.6

26.7

47.1

20%

14.5

0%

Nông thôn

Cả nước

Thành thị

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế năm 2014

Năm 2014, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta chiếm 19.6% tổng

số người trong độ tuổi lao động. Trong đó, lao động có bằng cấp, chứng chỉ

chiếm khoảng 18.2% tổng số lao động có việc làm. Hàng năm, nước ta có

khoảng hơn 1 triệu lao động bổ sung cho thị trường, trong đó có hơn 70.000

lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Sự gia

tăng của tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ chính là sự gia tăng của số

lượng lao động đã được đào tạo về kiến thức và chuyên môn đã tìm được việc

làm sau khi ra trường [44 – tr.126, 127, 652, 659].

Chất lượng nguồn nhân lực nâng cao đã tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu

nền kinh tế một cách tương đối hợp lý theo hướng tích cực. Năm 2014, Khu

vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,12%; khu vực công

nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%; khu vực dịch vụ chiếm 43,38% (Cơ cấu

tương ứng của năm 2013 là: 18,38%; 38,31%; 43,31%).

61

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Nông, lâm, ngư nghiệp, 18.2%

Dịch vụ, 43.3%

Công nghiệp và xây dựng, 38.5%

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam năm 2014

Bên cạnh vai trò tích cực của giáo dục nhà trường và xã hội, thì vai trò

của gia đình trong giáo dục, định hướng nghề nghiệp cho con, cháu là cực kỳ

quan trọng và đã được phát huy. Với lợi thế về mặt kiến thức xã hội, kinh

nghiệm cuộc sống và đặc biệt hiểu rõ khả năng và tính cách con, cháu mình,

thì cha mẹ, ông bà chính là người có tác động mạnh nhất tới sự lựa chọn của

con cái trong việc định hướng nghề nghiệp. Các bậc cha mẹ, ông bà hiểu

rằng: để con, cháu họ có một công việc phù hợp, một chỗ đứng vững vàng

trong tương lai thì cần phải có sự định hướng và đầu tư ngay từ đầu. Do đó,

không chỉ ở thành phố, mà phần lớn các hộ gia đình ở nông thôn cũng nhận

thức được việc chỉ có đầu tư cho con. cháu học tập là cách duy nhất để đảm

bảo một tương lai tươi sáng hơn cho con, cháu họ.

Song song với việc định hướng nghề nghiệp, thì chính các thành viên

trong gia đình thông qua sinh hoạt và giao tiếp hằng ngày cũng góp phần hình

thành nên những con người phù hợp với thời đại. Ông bà, cha mẹ ngày nay

ngoài việc quan tâm, đầu tư, định hướng để con, cháu phát triển toàn diện và

có tương lai tươi sáng thì bản thân họ cũng phải thay đổi khi giao tiếp với giới

trẻ. Cách giáo dục của gia đình là giáo dục bằng tình thương, tình cảm - có

mềm dẻo, có cứng rắn, nhưng đó là môi trường giáo dục mở. Nơi mà các ý

62

kiến của các thành viên được lắng nghe, được trao đổi, được phân tích để tạo

sự đồng thuận, sự hoà hợp, sự đầm ấm. Do đó, mà tính bảo thủ, sự độc đoán

tồn tại trong các thế hệ trước cũng dần được thay thế để phù hợp hơn với

chính các thành viên trong gia đình.

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Tốc độ tăng so với năm trước (%) Đóng góp của các

khu vực vào tăng

Năm

trưởng năm 2014

Năm 2012 Năm 2013

2014

(Điểm phần trăm)

Bảng: 2.1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước những năm gần đây

5,25

5,42

5,98

5,98

Tổng số

2,68

2,64

3,49

0,61

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

5,75

5,43

7,14

2,75

Công nghiệp và xây dựng

5,90

6,57

5,96

2,62

Dịch vụ

Sự phù hợp của con người mới đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước ở

các lĩnh vực là xu thế tất yếu hiện nay. Điều đó được thể hiện thông qua:

+ Trong công nghiệp và dịch vụ: người lao động có ý thức kỉ luật, có kĩ

năng nghề nghiệp, có trình độ tay nghề,... Nếu như trước kia, ý thức tổ chức,

kỷ luật là một điểm yếu của lao động nước ta thì ngày nay điểm yếu đó đã dần

được khắc phục. Bản thân mỗi người lao động đã hiểu rằng: chỉ có đáp ứng

được nhu cầu công việc thì họ mới không bị đào thải bởi nguồn cung lao động

nước ta là khá dồi dào. Do đó, ngoài việc được đào tạo thì bản thân mỗi người

lao động đã có ý thức tự đào tạo, không ngừng học tập, tìm tòi, sáng tạo để

làm chủ công việc, làm chủ công nghệ và phát minh ra những công nghệ mới

trong ngành công nghiệp và xây dựng.

Về cơ bản, đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề

nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số

ngành, lĩnh vực như: bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô,

63

xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng,… Bên cạnh đó, thì các ngành

công nghiệp sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giầy da,… cũng được đáp

ứng về số lượng và chất lượng lao động. Một bộ phận không nhỏ lao động

trong ngành công nghiệp và dịch vụ hiện nay của nước ta đã dám nghĩ, dám

làm, dám chịu trách nhiệm và đã thành công với cách nghĩ cách làm của

mình. Đó là những doanh nhân người Việt đang cống hiến và làm giàu trên

chính quê hương mình. Một bộ phận khác cũng tự tin với kiến thức, kỹ năng

nghề nghiệp của mình và tìm đến con đường xuất khẩu lao động để có thu

nhập cao hơn.

Bên cạnh việc được gia đình hướng nghiệp và đầu tư cho học tập để trở

thành những người lao động đáp ứng được yêu cầu của xã hội như trên thì

một bộ phận không nhỏ giới trẻ cũng được gia đình hướng nghiệp cho làm

dịch vụ, buôn bán. Lực lượng lao động này chủ yếu nằm ở các thị xã, thành

phố. Khi gia đình các em có mặt tiền đẹp hoặc đang kinh doanh thuận lợi thì

các bậc phụ huynh thay vì để con học lên cao bằng việc định hướng cho con

“kế nghiệp” công việc kinh doanh, buôn bán của mình. Hoặc để con học lên

cao nhưng cũng hướng vào những ngành nghề trực tiếp hoặc có liên quan đến

công việc mà họ đang làm để đến khi ra trường có thể quán xuyến được công

việc của gia đình đang làm.

Chất lượng người lao động không ngừng được nâng cao đã tạo sự

chuyển biến tích cực trong phát triển công nghiệp và dịch vụ. Năm 2014,

công nghiệp và xây dựng tăng 7,14%, ngành dịch vụ tăng 5.96% so với năm

trước.

+ Trong nông, lâm, ngư nghiệp: những lao động trong ngành này đã

từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, dịch chuyển sản xuất nông, lâm,

ngư nghiệp từ tự cấp, tự túc sang cơ chế thị trường mang tính chất hàng hóa.

Nông nghiệp chuyển từ đa canh sang hướng chuyên canh, thâm canh sang các

64

loại sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao. Lâm nghiệp được chú trọng trồng

các loại lâm sản có giá trị kinh tế cao, làm nguyên liệu cho các ngành công

nghiệp chế biến xuất khẩu. Ngư nghiệp phát triển theo hướng hình thành các

chuỗi giá trị, nâng cao giá trị thủy, hải sản thay vì nâng cao số lượng các mặt

hàng này thông qua việc ứng dụng, triển khai các thành tựu khoa học vào sản

xuất, kinh doanh.

Năng suất là hiệu quả sản xuất, kinh doanh không ngừng được nâng

cao là mục tiêu của tất cả các ngành kinh tế. Nông, lâm, ngư nghiệp cũng

không ngoại lệ. Nếu tính giá trị sản phẩm thu được trên 1ha đất trồng trọt và

mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thì có thể thấy: Năm 2010 là 103,8 triệu đồng, n

đến năm 2013, con số tương ứng là 157,6 triệu đồng, năm 2014 là 177,4 triệu

đồng, tương ứng tốc độ tăng trưởng 15%/ năm là con số mà rất nhiều lĩnh vực

khác cũng mong muốn. Tốc độ tăng trưởng của toàn ngành này trong năm

2014 là 3,5% so với năm 2013, đây là con số đáng mừng bởi diện tích đất

phục vụ cho ngành này đang dần bị thu hẹp do quá trình CNH - HĐH và đô

thị hoá đang diễn ra nhanh chóng trên phạm vi cả nước [44, tr. 396].

Sự thay đổi về tính chất và phương tiện canh tác, đánh bắt trong nông,

lâm, ngư nghiệp đòi hỏi mỗi lao động làm việc trong lĩnh vực này cần thay

đổi để thích ứng. Người nông dân ngày nay không chỉ biết sản xuất giỏi mà

còn phải biết nắm bắt các nhu cầu của thị trường, biết áp dụng các công nghệ

mới vào sản xuất, dám nghĩ, dám làm thì mới thành công được. Điều này rất

dễ nhìn thấy khi mà hiện nay, phần lớn chủ các trang trại, các chủ tàu hiện

đại, các công ty hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là những

người trẻ. Họ là kết quả của quá trình được giáo dục, là kết quả của quá trình

đổi mới kinh tế toàn diện và để có được kết quả như ngày hôm này, chắc chắn

họ phải được sự ủng hộ, sự chia sẻ của gia đình, của người thân và bạn bè.

65

+ Trong lĩnh vực chính trị: Cải cách bộ máy Nhà nước đã đang cải cách

theo hướng có hiệu quả, trình độ cán bộ công chức Nhà nước đã được nâng

lên một bước, số người có trình độ đại học, trên đại học ngày càng cao. 100%

cán bộ, công chức cấp Trung ương có trình độ từ đại học trở lên và 92,4% cán

bộ, công chức cấp cơ sở đã được đào tạo ở các trình độ khác nhau. Đây là

nguồn nhân lực quan trọng để cải cách quản lý hành chính Nhà nước, nhằm

nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý hành chính Nhà

nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội [38].

Chất lượng cán bộ, công chức và đạo đức công vụ được nâng cao trong

những năm qua có sự đóng góp rất lớn của gia đình Việt Nam. Đời sống được

nâng cao cũng là lúc mà các gia đình và mỗi cá nhân trong xã hội đã đánh giá

đúng vai trò qua trọng của việc nâng cao tri thức thông qua quá trình giáo dục

và tự giáo dục. Bản thân mỗi cán bộ, công chức hiểu rằng: muốn cống hiến,

phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc tốt hơn thì cần phải không ngừng nỗ lực

học tập, rèn luyện, phải sâu sát trong các công việc của người dân, am hiểu

luật pháp và văn hoá dân tộc,… Sự ủng hộ của gia đình chính là nền tảng

vững chắc nhất để cán bộ, công chức luôn luôn trau dồi tri thức, kỹ năng, đạo

đức để ngày càng nâng cao chất lượng và hiệu quả trong thực thi công vụ, xây

dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, minh bạch và

hiệu quả trong phục vụ nhân dân.

+ Trong lĩnh vực văn hóa: khi bàn về văn hoá, có thể tóm tắt gọn bằng

câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hoá soi đường quốc dân đi”. Văn

hoá vừa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực, mục tiêu phát triển kinh

tế. Văn hoá cũng điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội, đồng thời, nó

cũng góp phần giữ vững sự ổn định đất nước. Văn hoá cũng là nhân tố quyết

định đến công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

66

Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội

trước hết vì nó là nền tảng tinh thần, động lực và thông qua mục tiêu mà nó

đặt ra cho tất cả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát

triển kinh tế, xã hội đều phải hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu

cơ bản nhất là bảo vệ con người, phục vụ con người, nâng cao chất lượng

cuộc sống con người.

Để xã hội tăng trưởng và phát triển bền vững phải có một mô hình tăng

trưởng xuất phát từ văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực

chất lượng cao. Bằng nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người,

chúng ta có thể làm chủ được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác

động vào các hoạt động và các mối quan hệ trong xã hội theo chiều sức mạnh

thúc đẩy đi lên. Văn hoá thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững của kinh

tế thông qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người

về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách,

lối sống của cá nhân và cộng đồng.

Gia đình vừa là nơi tiếp nhận, giáo dục, vừa là nơi hình thành và phát

triển dựa trên sự kết hợp giữa văn hoá truyền thống và hiện đại, qua đó trang

bị cho mỗi thành viên trong gia đình Việt những giá trị và chuẩn mực văn hoá

nhất định. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt

đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia

đình. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của mình – đó

chính là những công dân hữu ích cho xã hội. phải có trách nhiệm nuôi dưỡng

và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích. Cùng với

nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra

lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.

Việc xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá, Khu dân cư văn hoá,…

đang được triển khai ở tất cả các địa phương của nước ta hiện nay góp phần

67

thúc đẩy phong trào “Toàn dân xây dựng nếp sống văn hóa mới ở khu dân

cư”. Mỗi thành viên trong gia đình có văn hoá hay không sẽ quyết định gia

đình đó có văn hoá hay không, mỗi cá nhân có văn hoá sẽ hình thành nên một

cộng đồng, một xã hội có văn hoá tiến bộ. Do đó, việc đẩy mạnh các phong

trào này chính là quá trình hiện thực hoá việc phát huy vai trò của gia đình

trong xây dựng con người mới, lối sống mới ở nước ta hiện nay.

Trong các gia đình Việt Nam hiện nay vẫn có nhu cầu cao trong việc

gắn kết cộng đồng và gìn giữ bản sắc văn hóa làng (ở nông thôn), phát triển

các hoạt động tâm linh như đi chùa chiền, thờ cúng, hội họp giỗ cúng (ở thành

thị); những giá trị văn hóa truyền thống như: trọng người già, trọng đạo đức,

trong gia đình vẫn còn được đề cao. Bên cạnh đó, người dân cũng tiếp nhận

những giá trị văn hóa mới, có nhu cầu hưởng thụ các hoạt động văn hóa mới

(đi du lịch, chơi thể thao, tham gia các diễn đàn trực tuyến trên mạng internet,

xem phim rạp,…).

2.1.1.2.Gia đình Việt Nam đã xây dựng được những con người có lối

ứng xử phù hợp trong mối quan hệ với tự nhiên, trong xã hội.

a) Xây dựng con người có lối ứng xử phù hợp trong mối quan hệ với

thiên nhiên.

Hành tinh nơi ta đang sống ngày nay đang phải đối mặt với nhiều thảm

họa thiên nhiên: thiên tai do sự nóng dần toàn cầu; sự phá rừng; phá hoại môi

trường tự nhiên,… Nhiều thập kỷ qua, con người đã phá hoại rừng và tiêu diệt

động vật, làm ô nhiễm không khí, khai thác mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên,

phá vỡ sự cân bằng trong tự nhiên,… Nếu tiếp tục làm như vậy, địa cầu sẽ cạn

kiệt tài nguyên và động thực vật sẽ tuyệt chủng. Sự thất thoát tài nguyên môi

trường, mất tính đa dạng sinh học, nguồn nước uống không an toàn, hệ thống

vệ sinh bất cập và gia tăng số lượng nhà ổ chuột là các mối đe dọa đáng chú ý

nhất đối với hoạt động bảo vệ môi trường ngày nay.

68

Theo nghiên cứu của các tổ chức bảo vệ môi trường, ở nước ta, 70%

các dòng sông, 45% vùng ngập nước, 40% các bãi biển đã bị ô nhiễm, hủy

hoại về môi trường; 70% các làng nghề ở nông thôn đang đứng trước nguy cơ

ô nhiễm nghiêm trọng. Cùng với đó, tình trạng nước biển xâm nhập vào đất

liền; đất trống, đồi núi trọc và sự suy thoái các nguồn gien động thực vật đang

có chiều hướng gia tăng là hệ quả của việc hủy hoại môi trường. Bảo vệ môi

trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội [56].

Từng cá nhân, tổ chức ở nước ta hiện nay đều nhận thức được tầm quan

trọng của việc bảo vệ môi trường và đang có những hành động tích cực để

đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Ngày nay, đạo đức môi trường

được đề cập như là một phương diện của đạo đức chung, thể hiện và thực hiện

đạo đức của con người, trong quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trong mối

quan hệ với thiên nhiên, những người dân Việt Nam (không kể lứa tuổi, giới

tính,…) đều dần hình thành lối sống hài hoà với thiên nhiên. Lối hành xử hài

hoà với thiên nhiên được hình thành từ việc các gia đình phân loại rác, đổ rác

đúng nơi quy định, sử dụng tiết kiệm các loại năng lượng như: xăng, điện,…ở

thành phố và việc trồng cây, gây rừng, bảo vệ rừng ở nông thôn và miền núi.

Để xây dựng lối sống hài hoà với thiên nhiên, nhiều gia đình đã giáo

dục lẫn nhau bắt đầu từ những việc làm, hành động nhỏ nhất như trồng và

chăm sóc cây xanh; giữ gìn vệ sinh gia đình, vệ sinh xã hội, không xả rác bừa

bãi và vô ý thức; nhiều gia đình đã chủ động tham gia các tổ chức về bảo vệ

môi trường để xây dựng ý thức tiết kiệm năng lượng như điện và nước, sử

dụng và khuyến khích sử dụng các sản phẩm xanh, sử dụng các nguồn năng

lượng có thể tái tạo,... Các Câu lạc bộ Bảo vệ môi trường, Câu lạc bộ “5

không, 3 sạch”,… được hình thành rộng khắp trên cả nước cũng thúc đẩy và

phát huy mạnh mẽ vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống hài hoà với

thiên nhiên. Rất nhiều các chiến dịch như: “Giờ Trái đất”, “Hành tinh chuyển

69

động”, “Tháng hành động vì màu xanh học đường”, “Mái trắng - Tường

xanh”, “Làm cho thế giới sạch hơn”... được phát động để hưởng ứng sự kiện

về môi trường, biến đổi khí hậu, thông qua đó để đưa ra những hành động phù

hợp hơn với môi trường áp dụng cho từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng

đồng cụ thể.

b) Xây dựng con người có lối giao tiếp, ứng xử phù hợp trong xã hội:

- Xây dựng lối giao tiếp, ứng xử phù hợp trong gia đình. Những nét đẹp

ứng xử trong gia đình đã hình thành nên nhiều giá trị văn hoá mang tính

truyền thống của người Việt như: Sự hoà thuận, chung thuỷ, tình nghĩa, lòng

yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ với cha mẹ, anh em.

Nhiều gia đình Việt Nam xưa nhờ biết duy trì lối ứng xử có văn hoá đã tạo ra

nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng noi theo. Chính gia lễ, gia phong ấy là

cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam, gia đình và xã hội Việt

Nam một sức sống mãnh liệt và sự trong sáng trong quan hệ ứng xử.

Ngày nay, dù văn hóa ứng xử trong gia đình có thay đổi rất nhiều so với

trước kia nhưng những khuôn phép của mỗi gia đình vẫn không thể thiếu được.

Nguyên tắc ứng xử trong gia đình ngày nay được xây dựng dựa trên sự tôn

trọng; kính trên, nhường dưới; sự bình đẳng; xuất phát từ tình yêu thương; tạo

sự đoàn kết, tương thân, tương trợ lẫn nhau.

Lối giao tiếp, ứng xử phù hợp thể hiện thông qua các mối quan hệ cơ

bản trong gia đình. Đó là:

+ Thứ nhất, trong quan hệ vợ chồng: là mối quan hệ cơ bản, chủ yếu

trong việc xây dựng, gìn giữ, bồi đắp hạnh phúc gia đình. Cả hai người đều

quan trọng, “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Sự tiến bộ trong nhận thức

xã hội về quyền bình đẳng khiến cho địa vị người phụ nữ trong gia đình và

ngoài xã hội đã thay đổi rất nhiều. Người chồng đã tôn trọng, quan tâm, giúp

đỡ, chia sẻ gánh nặng công việc gia đình với vợ nhiều hơn, tạo điều kiện cho

70

vợ tham gia các hoạt động xã hội, học tập, phát triển. Vợ chồng mong muốn

thuận ý, thuận tình để “tát biển Đông cũng cạn”, nên đã thực hiện những điều

rất đáng quan tâm trong ứng xử như:

Thấu hiểu, cảm thông và hỗ trợ nhau, trong công việc cũng như đời

sống, kinh tế, quan hệ gia đình, xã hội,… nhằm giải tỏa cho nhau những áp

lực về tâm lý. Chia sẻ việc nhà để giữ gìn sức khỏe, sự thanh thản ở người bạn

đời, nhờ đó gia đình êm ấm, tránh những xung đột, đôi khi dẫn đến bạo lực

giữa vợ chồng. Thấu hiểu, cảm thông nhiều bao nhiêu thì phải sẵn lòng tha

thứ nếu có những sự cố xảy ra giữa vợ chồng: “Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười chúm chím rằng: Anh giận gì?”.

Phải kiên định, thống nhất ý kiến. Thành ngữ có câu: “Một trăm cái lý,

không bằng một tí cái tình” với ý muốn chỉ ra rằng ai cũng có lý lẽ, tuy nhiên

nếu cố chấp dễ dẫn đến đối kháng. Vợ chồng đã biết lấy sự hòa thuận để đối

xử sẽ tìm được tiếng nói chung: “Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi bớt lửa,

mấy đời cơm khê”.

Vợ, chồng đã mạnh dạn bày tỏ, biểu lộ tình yêu đối với bạn đời của

mình. Tặng một món quà, một lẵng hoa cho ngày sinh nhật, một ánh mắt, cử

chỉ yêu thương hay một không gian, thời gian riêng cho vợ chồng… thể hiện

tình yêu của mình với người bạn đời. Cuộc sống gia đình bộn bề công việc,

nỗi lo toan, tuổi tác,… tạo ra rào cản tâm lý để biểu lộ tình yêu giữa vợ chồng.

Cho nên biểu lộ tình yêu với nhau là rất cần thiết để đôi bên cảm nhận hạnh

phúc mà giữ gìn sự chung thủy với nhau ngay cả trong những hoàn cảnh ngặt

nghèo nhất.

Luôn dành cho nhau những lời ngọt ngào. Vợ chồng hạn chế những lời

nói cay nghiệt tạo sự tổn thương cho bạn đời và mất mát tình cảm, đôi khi khó

nhìn mặt nhau. Nếu có lúc nóng giận, lỡ lời hãy chân thành xin lỗi và đừng

71

bao giờ lặp lại lỗi lầm đó. Ngược lại vợ hoặc chồng cũng đã biết rộng lòng tha

thứ cho người bạn đời của mình vì tình yêu, vì gia đình hạnh phúc

Vợ, chồng cũng biết cách tôn trọng cá tính của nhau. Vợ chồng là một

đôi nhưng là hai cá thể, có khi rất tâm đầu ý hợp nhưng có khi có những khác

biệt về vốn sống, sở thích. Không vì sống chung mà buộc có sự thay đổi hoặc

lệ thuộc hoàn toàn, vì như vậy sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột và dần sẽ làm

mất mát tình cảm vợ chồng. Do đó, nhiều vợ hoặc chồng đã biết cách dành

cho nhau những phút giây, khoảng trời riêng để thỏa mãn sở thích, tâm tình

riêng bạn đời của mình.

Vợ, chồng đã biết cách chủ động giải quyết mâu thuẫn. Trong gia đình

có nhiều nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng như: cách nuôi dạy con

cái, kinh tế gia đình khó khăn, ứng xử chưa tốt với bạn đời hay cha mẹ hai

bên, không hiểu công việc, mối quan hệ xã hội của nhau, … dẫn đến bất đồng

quan điểm, ngờ vực, hiểu lầm,… Để gìn giữ tình yêu, mối quan hệ vợ chồng

tốt đẹp, gìn giữ mái ấm gia đình mà vợ chồng đã dày công xây dựng và vì con

cái bằng cách chủ động giải quyết mâu thuẫn ấy một cách nhẹ nhàng nhất.

+ Thứ hai, trong quan hệ cha mẹ và con cái. Trong tâm thức của người

Việt Nam, vốn quí giá nhất của cha mẹ chính là con cái. Cha mẹ luôn ý thức

được trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tư cách con từ tấm bé đến khi

trưởng thành. Vì vậy, quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất thiêng liêng, bao

hàm mối quan hệ sinh thành, dưỡng dục. Con cái yêu kính, hiếu nghĩa với cha

mẹ. Điều đó được thể hiện thông qua:

 Cha mẹ giao tiếp, ứng xử với con cái: Cách cư xử của cha mẹ với

con cái ngày nay cũng thay đổi nhiều. Yêu thương, tôn trọng, bao dung, độ

lượng, đối xử công bằng bình đẳng giữa các con. Dạy con thực hiện bổn phận,

trách nhiệm đối với gia đình, xã hội. Theo dõi, giúp con an toàn phát triển

72

trong tuổi vị thành niên, trở thành người lớn. Nhiều bậc cha mẹ đã biết cư xử

theo các cách như:

Tôn trọng con cái trên cơ sở quyền con người và bình đẳng giới, phát

huy năng lực cá nhân của các con. Làm “người bạn” lớn để hiểu con và

ngược lại tạo điều kiện cho con hiểu cha mẹ. Cha mẹ đã chú ý xử sự bình

đẳng giữa các con tránh những định kiến về giới; khuyến khích, khen ngợi khi

con đạt thành tích hoặc làm việc tốt. Con có lỗi, cần dùng lời lẽ chuẩn mực,

thái độ nghiêm túc, tấm lòng bao dung để phân tích, chỉ dạy.

Lắng nghe ý kiến và cho phép con tham gia phát biểu, hỏi về những

vấn đề liên quan đến bản thân và việc chung của gia đình. Giao nhiệm vụ và

tin tưởng vào khả năng, trách nhiệm của con. Hỗ trợ, giúp đỡ con giải quyết

những vấn đề liên quan. “Nhân vô thập toàn”, cha mẹ cũng có lúc làm sai,

mắc lỗi. Do vậy, nếu cha mẹ có sai cũng biết cách nhận lỗi với con cái. Ngược

lại, nếu con mắc lỗi cũng biết chân thành phân tích, góp ý và tạo cho con

những cơ hội để sửa chữa lỗi lầm bản thân.

Đối xử công bằng đối với con cái. Yêu thương các con như nhau, ưu

tiên trẻ nhỏ, chăm lo nhiều hơn đối với con cái tàn tật, khuyết tật. Dành cơ hội

như nhau cho các con. Lúc gia cảnh khó khăn, cơ hội cho các con cần phải

sắp xếp ưu tiên thì đã bàn bạc, giải thích, vận động để tìm tiếng nói chung.

Quan tâm đến tâm tư, tình cảm, các mối quan hệ bạn bè của con. Cha

mẹ ngày nay đã cân nhắc đáp ứng những mong muốn, đề nghị của con nếu

chính đáng; trao đổi giúp con hiểu rõ thông tin và quyết định đúng, nhất là

trong giai đoạn phát triển ở lứa tuổi vị thành niên. Tạo điều kiện, hướng dẫn

con tiếp cận thông tin, cơ hội phát triển, cùng con bàn bạc thực hiện kế hoạch

bản thân. Giúp con tự chủ, tế nhị tiếp sức. Động viên, thúc đẩy, nâng đỡ tinh

thần giúp con tự tin, nỗ lực khi gặp việc khó. An ủi, cùng con phân tích, tìm

nguyên nhân khi thất bại và nuôi dưỡng quyết tâm khắc phục.

73

Làm gương cho con. Trong gia đình, cha mẹ đã chú ý rèn luyện, tu

dưỡng để mình là tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách, là điểm tựa tinh

thần của con. Đó là cách cư xử vừa thuyết phục, vừa tế nhị lại sâu sắc. Nét uy

nghiêm của cha, tình cảm của mẹ mà con cái cảm nhận được là biểu lộ của

một chiều sâu cảm phục, trở thành hình ảnh lý tưởng, là thần tượng của con.

 Con cái ứng xử đối với cha mẹ: Đạo hiếu là truyền thống tốt đẹp, tự

hào của dân tộc ta. Cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục

con cái. Con được nhận nuôi dù không sinh nhưng cha mẹ có công lao dưỡng

dục. Vì vậy, làm con phải biết bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, thể hiện

lòng hiếu kính chăm sóc, phụng dưỡng suốt đời. Theo thời gian, sự biểu hiện

của đạo hiếu ít nhiều biến đổi cho phù hợp với xã hội. Chẳng hạn, xưa con có

hiếu là không được cãi lời cha mẹ, nên “Áo mặc không qua khỏi đầu”hay

“Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Nay xã hội tiến bộ, không khí dân chủ gia

đình khiến cha mẹ cũng lắng nghe con cái, con cái cũng cần thuyết phục cha

mẹ với những lí do chính đáng. Xã hội công nghiệp hiện đại, việc phụng

dưỡng ông bà cha mẹ cũng có nhiều biến đổi, chẳng hạn vì phải đi làm ăn xa,

tách hộ sống riêng và nhiều lý do khác nên khó “sớm viếng, tối thăm”. Về

phía cha mẹ, vẫn hết lòng bao dung, thấu hiểu, cảm thông bởi “nước chảy về

xuôi, lá rụng về cội”, nhưng đôi khi người cao tuổi hay tủi thân, chạnh lòng.

Con cái biết cách thực hiện bổn phận của con cái đối với cha mẹ thông

qua các hành động cụ thể như:

Kính trọng: Giữ lễ trong giao tiếp, nói năng chuẩn mực. Thường xuyên

thăm viếng, nói chuyện, hỏi han. Báo cho cha mẹ biết những việc vui mừng

trong gia đình. Hỏi ý kiến cha mẹ trong những việc lớn, coi trọng ý kiến của

cha mẹ. Mời cha mẹ chủ trì những việc quan trọng, thay mặt gia đình tiếp xúc

với ông bà, họ hàng giúp cha mẹ chăm lo hương khói tổ tiên. Tổ chức điều

kiện sống, chăm sóc tinh thần khi cha mẹ tuổi cao.

74

Hiếu thảo: khi còn bé thì phải học hành chăm chỉ, thực hiện bổn phận

trong gia đình (phụ giúp cha mẹ việc nhà, việc sinh kế - nếu gia cảnh khó

khăn, chăm sóc em út); chăm sóc, hỏi han khi cha mẹ ốm đau; anh chị em hòa

thuận để cha mẹ vui lòng; cùng cha mẹ thực hiện việc phụng dưỡng ông bà.

Khi trưởng thành phải phụng dưỡng cha mẹ khi sống chung. Hiểu những khó

khăn về sức khỏe, tâm tính của người cao tuổi như hay tủi thân, chạnh lòng,

đãng trí,… để thương yêu cha mẹ hơn. Chăm lo giấc ngủ, bữa ăn, thiết kế nơi

ở phù hợp cho cha mẹ. Nếu ở riêng nên phụ giúp cha mẹ về tiền bạc; tham gia

đóng góp công sức vào việc lớn của gia đình mà cha mẹ phải chủ trì như cưới

xin, tang, giỗ; thực hiện những điều cha mẹ mong muốn. Anh chị em trong

gia đình cần bàn bạc, tìm cách giải quyết khó khăn liên quan đến cha mẹ.

Tu dưỡng bản thân, xây dựng gia đình riêng hạnh phúc để cha mẹ tự

hào. Giữ gìn sự đoàn kết trong anh chị em, cùng dạy cháu con hiếu thảo,

thuận hòa để cha mẹ vui sống. Cùng cha mẹ chăm lo mồ mả tổ tiên, quan tâm

đến dòng họ. Cùng anh chị em chu toàn việc hậu sự khi cha mẹ qua đời.

+ Thứ ba, trong quan hệ giữa cha mẹ chồng/vợ và con dâu/rể: Ngày

nay, với sự tiến bộ xã hội về bình đẳng giới và vị thế ngày càng cao của người

phụ nữ trong nhiều lĩnh vực xã hội,… đã dẫn đến nhiều thay đổi trong quan

giữa cha mẹ vợ/chồng với con dâu hoặc con rể. Quan niệm “Dâu là con, rể là

khách” ở nhiều gia đình đã được thay đổi thông qua cách ứng xử rất tiến bộ

hơn, đó là sự tôn trọng, thương yêu, là sự đầu tư cho hạnh phúc gia đình riêng

của hai con. Nhiều gia đình cha mẹ đôi bên đã xem dâu, rể thật sự là con của

mình. Ngược lại, nhiều dâu hiền, rể thảo đã không có sự phân biệt đối xử giữa

hai bên gia đình bởi ai cũng mong muốn được tôn trọng thương yêu và được

yêu thương.

 Trong mối quan hệ giữa cha mẹ chồng và con dâu: Người đời vẫn

cho rằng mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu là quan hệ khó nhất. Vì từ

75

trong nhận thức của mẹ chồng rằng con dâu là nguyên nhân tất yếu để con trai

không còn dành hết tình cảm cho mẹ. Cũng có thể do mẹ chồng đã từng làm

dâu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, nay khi đã là mẹ chồng, bà không có cách

ứng xử nào khác. Tình cảnh đó đôi khi là một thử thách lớn. Sự chủ động cư

xử tốt với mẹ chồng của nàng dâu là rất cần thiết để tạo mối quan hệ tốt đẹp.

Các cách giao tiếp, ứng xử ngày càng nên phổ biến trong mối quan hệ này là:

Con dâu coi trong giá trị và địa vị của mẹ chồng: biết lắng nghe, xin ý

kiến và học tập những kinh nghiệm điều hành gia đình của bà. Tìm hiểu, ca

ngợi những phẩm chất tốt đẹp của mẹ trong cuộc sống, nuôi dạy con, xây

dựng và gìn giữ gia đình. Vui vẻ tiếp nhận sự giúp đỡ thiện chí của mẹ chồng.

Hiếu kính với mẹ chồng: Thể hiện tình cảm và cử chỉ chăm sóc mẹ

chồng, chia sẻ nỗi lo toan. Luôn giữ thái độ lễ phép, không nói năng vô lễ làm

tổn thương tình cảm giữa mẹ con và gia đình. Biết yêu kính mẹ chồng như mẹ

của mình.

Giữ gìn nề nếp gia đình: học tập nếp ăn, nếp ở của gia đình chồng để

xử sự phù hợp. Thể hiện sự chăm chỉ và chu toàn việc nhà, làm tốt việc xã hội

khiến mẹ chồng hãnh diện. Cùng bàn bạc, xin ý kiến mẹ về những chi tiêu

kinh tế trong gia đình.

 Trong mối quan hệ giữa cha mẹ vợ và con rể.

Ngày nay, mối quan hệ giữa cha, mẹ vợ và con rể ở nhiều gia đình rất

tốt đẹp. Cha mẹ vợ đã rất thương yêu và coi trọng chàng rể, vì đó là người

quan trọng đối với con gái mình. Về phía chàng rể, cha mẹ vợ cũng rất quan

trọng trong việc giúp đỡ, chăm sóc tinh thần đối với gia đình mình.

Về phía cha mẹ vợ: Cha mẹ vợ biết khéo léo giúp đỡ, hỗ trợ cho con

gái mình như một nhà tư vấn hướng dẫn kinh nghiệm sống, kỹ năng xây dựng

gia đình hạnh phúc, bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ, nhắc nhở dạy bảo con

mình giữ gìn đạo nghĩa vợ chồng, thuỷ chung và hiếu thảo. Cách cư xử như

76

một nhà tư vấn, trọng tài chính trực, khách quan duy trì tốt trong mối quan hệ

cha mẹ vợ với chàng rể đang được nhiều gia đình áp dụng.

Giao tiếp, ứng xử của con rể: Phải chăng thành ngữ “rể là khách” đã ăn

sâu vào tâm thức, nên quả thật dù có chủ động và được yêu quí đến đâu,

chàng rể xuất hiện ở nhà cha mẹ vợ thường giữ lễ nên vẫn không thoải mái

như nhà mình. Tuy vậy, vẫn có những cách ứng xử của rể hiền: thường xuyên

thăm hỏi gia đình cha mẹ vợ; giúp công sức khi nhà có việc; cùng vợ chăm lo

việc lễ tết cho gia đình cha mẹ; tham dự giỗ chạp tổ tiên ông bà gia đình vợ;

thống nhất cùng vợ trách nhiệm tham gia kinh phí phụ giúp cha mẹ vợ thường

xuyên hoặc hữu sự. Phụng dưỡng khi cha mẹ vợ sống chung.

+ Thứ tư, trong quan hệ ông bà - cháu: Quan hệ ông bà - cháu là mối

quan hệ có tính chất tiếp nối về huyết thống. Bên cạnh sự thương yêu, kỳ

vọng, những khác biệt về tuổi tác, quan niệm sống, đặc điểm tâm sinh lý của

lứa tuổi tạo nên giữa thế hệ ông bà với thế hệ cháu có những khác biệt nhất

định. Hoàn cảnh sống cũng tác động đối với quan hệ ông bà và cháu. Xu

hướng tách hộ, hình thành gia đình hạt nhân ngày càng mạnh và ông bà

thường ở riêng nên ít tiếp cận với con cháu. Điều này làm hạn chế sự chăm

sóc về tinh thần, hỗ trợ giáo dục lớp con cháu của ông bà. Ngược lại, sự chăm

sóc đối với ông bà của con cháu, đặc biệt là sự nâng đỡ về tinh thần cũng hạn

chế. Về đạo lý, việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, cha mẹ là bổn phận, trách

nhiệm của con cháu.

Những nét đẹp đã xuất hiện trong cách ứng xử của cháu đối với ông bà:

tôn trọng, có thái độ đúng mực, lễ phép, kính trọng, biết ơn đối với ông bà.

Thăm viếng, chăm sóc, hỏi han, thông báo về sự tiến bộ của bản thân mình để

tạo niềm vui, sự hãnh diện cho ông bà. Trực tiếp tham gia chăm sóc ông bà

khi ốm đau, bệnh tật. Đối với cháu đã thành niên, lập gia đình phải năng đưa

chắt đến thăm các cụ, tham gia tổ chức lễ mừng thọ ông bà, biếu tiền quà để

77

ông bà được vui mừng vì qua đó biết rằng con cháu ổn định, ăn nên làm ra

nhờ phúc đức tổ tiên, mà ông bà an lòng vui sống.

+ Thứ năm, trong quan hệ anh chị em: Gia đình xưa thường đông con,

các con cùng trong lứa tuổi. Trong nhà, trẻ em chơi với nhau, có tranh cãi,

giành giật đồ chơi, xung đột, hình thành phe phái đánh nhau, lại có lúc bênh

vực cho nhau,... Cha mẹ phải xử phạt, rồi dạy dỗ cho các con tình anh chị em,

cách làm anh, phận làm em. Nhờ đó trẻ được thực hiện quyền, bổn phận theo

vai trò, thứ bậc, tôn ti trật tự trong gia đình, hiểu được sự đoàn kết, tình

thương yêu, biết chia sẻ, nhường nhịn lẫn nhau.

Ngày nay, các bậc cha mẹ trẻ đã biết cách chủ động, mở ra cơ hội giao

tiếp ứng xử cho các con trong mối quan hệ anh chị em họ hàng như cây cùng

một cội. Từ đó, hình thành mạch liên lạc giao lưu, học tập, trao đổi kinh

nghiệm sống và chia sẻ, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn, là điều kiện để

tạo quan hệ tình cảm yêu thương gắn bó và xây dựng truyền thống đoàn kết

của gia đình, thân tộc. Dù là mối quan hệ huyết thống hay được nhận nuôi,

anh chị em trong gia đình, họ hàng đều cần được giáo dục cách ứng xử đoàn

kết, thân ái. Đó là:

Anh chị em đã hòa thuận, thương yêu, thấu hiểu, giáo dục lẫn nhau,

nương tựa vào nhau, không bất hòa sinh chia rẽ, góp ý, thuyết phục, lắng

nghe, thẳng thắn phê bình và tự phê bình, không gây bạo lực tinh thần, thể

chất đối với nhau, không lừa dối lẫn nhau.

Anh chị em tôn trọng nhau, em thân kính đối với anh, chị; anh chị bao

dung đối với các em; giữ gìn sự bình đẳng, coi trọng lẫn nhau giữa anh, chị,

em khác phái (nhất là ở lứa tuổi vị thành niên). Tế nhị đối với những vấn đề

riêng tư (khi anh, chị, em thành niên hoặc đã lập gia đình).

Anh chị em hợp tác, chung hợp sức để xây dựng gia đình, thân tộc,

chăm lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ, giải quyết việc chung của gia đình. Biết

78

lắng nghe, chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, kỹ năng sống, hỗ trợ lẫn nhau không

mưu lợi.

Anh chị em tương trợ, hướng dẫn nhau trong học hành, chia sẻ việc nhà

theo khả năng (lúc còn bé). Lúc hữu sự, khó khăn kịp thời phối hợp, trợ giúp,

biết nhường cơm, sẻ áo cho nhau. Đồng cảm chia sẻ nỗi đau thương, động

viên tinh thần, hun đúc ý chí lẫn nhau.

Những ứng xử phù hợp đẹp như trên đã tạo một lối sống đầm ấm, hoà

thuận, hạnh phúc, tiến bộ trong mỗi gia đình - đó cũng là 1 trong 3 tiêu chí

quan trọng để xây dựng “Gia đình văn hoá” ở nước hiện nay. Ngoài việc xây

dựng lối hành xử phù hợp thì các Câu lạc bộ “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con

cháu thảo hiền” cũng ra đời ở hầu khắp các địa phương trên cả nước. Thông

qua hoạt động của Câu lạc bộ này, các gương hiếu kính của các thế hệ con

cháu đối với cha mẹ, ông bà được ghi nhận, được tuyên dương để cộng đồng

học tập và noi theo. Ngoài ra, ở nước ta cũng đã và đang hình thành nhiều

Câu lạc bộ như: “Xây dựng gia đình phát triển bền vững”, “Phòng chống bạo

lực gia đình”, “Xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Cha mẹ nuôi, dạy con

tốt”,… để hướng tới việc xây dựng lối sống, lối ứng xử phù hợp trong các mối

quan hệ của gia đình Việt Nam hiện nay.

- Giao tiếp, ứng xử trong cộng đồng, xã hội: trong cộng đồng dân cư sự

thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, bảo vệ tài sản của nhau ngày càng phổ

biến hơn. Việc giữ hoà khí với làng xóm là điều kiện cần thiết để thiết lập mối

quan hệ “tắt lửa, tối đèn có nhau”. Giao tiếp, ứng xử lịch thiệp là cách mà

mỗi cá nhân tạo ấn tượng tốt đối với những người xung quanh. Giữ lịch sự

trong giao tiếp, ứng xử trong cộng đồng, nơi công cộng, trên đường phố,… là

điều mà mỗi cá nhân cần hướng tới bởi đó là sự thể hiện của một lối sống văn

minh, hiện đại.

79

Hiện nay, hầu hết các cá nhân đều phải tuân thủ các quy định, quy tắc

trong giao tiếp, ứng xử ở tổ chức, cơ quan mà mình học tập và làm việc; ở

làng, tổ dân phố mà mình sinh sống. Hầu hết các nhà trường, các cơ quan,

đơn vị, công ty,… đều xây dựng những quy định, quy tắc về giao tiếp, ứng xử

của riêng mình. Ở nhiều làng, nhiều tổ dân phố thì có những Quy ước, Hương

ước trong đó có những quy định về giao tiếp, ứng xử bắt buộc tất các thành

viên trong cộng đồng phải tuân thủ.

Dù tồn tại dưới hình thức nào thì các quy định về giao tiếp, ứng xử đối

với các thành viên trong cộng đồng, xã hội đều hướng tới sự đoàn kết, sự văn

minh, lịch sự, lịch thiệp, tính kỷ luật,… hướng tới xây dựng những con người

có đạo đức, có nhân cách và lối sống lành mạnh.

Biểu hiện của lối giao tiếp, ứng xử ấy là sự xuất hiện của hàng ngàn

tấm gương đẹp giữa đời thường, hàng ngàn việc đẹp trong xã hội. Đó là nữ ý

tá Trần Thị Nguyệt Lâm “dúi ” tiền cho bệnh nhân nghèo, là anh Nguyễn Tài

Dũng cứu đói cho dân vùng lũ mà bị lũ cuốn trôi, là ông Trương Văn Đổng hiến hơn 900m2 đất trị giá cả tỷ đồng để làm đường, là nhiều học sinh nhặt

được tiền rơi đem trả lại người mất,… Ngoài ra, xã hội cũng huy động được

các khoản đóng góp để xây dựng hàng chục nghìn nhà tình thương cho người

nghèo; các bữa cơm tình thương có giá 2000 đồng hay các nồi cháo tình

thương miễn phí cho bệnh nhân nghèo ở bệnh viện; các phong trào “Giúp

nhau làm kinh tế” của Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân,… cũng

được triển khai rộng khắp trên cả nước. Qua các gương điển hình, các phong

trào thiện nguyện đó mà mỗi cá nhân có dịp soi lại mình, để rồi điều chính lối

sống cho phù hợp hợp, đẹp hơn trong mắt người khác và trong công đồng.

2.1.1.3. Gia đình Việt Nam đã quan tâm xây dựng lối tiêu dùng tiết

kiệm, văn minh.

80

Xây dựng lối tiêu dùng phù hợp chỉ có thể là trách nhiệm của gia đình.

Xét cho đến cùng thì xu hướng tiêu dùng vật chất, hay cách mua sắm và nhu

cầu mua sắm của mỗi cá nhân chịu (hoặc được) sự định hướng từ chính

những người thân trong gia đình. Con cái dù có sống chung hoặc không sống

chung với cha mẹ vẫn chịu sự ảnh hưởng của bố mẹ trong quá trình mua sắm.

Vợ chồng can dự, bàn bạc với nhau trong mua sắm vật chất. Ông bà, anh chị

em đồng ý, ủng hộ hoặc không đồng ý cách mua sắm của mỗi thành viên

trong gia đình (qua thái độ khen hoặc chê) đối với sản phẩm được mua.

Theo kết quả cuộc Tổng điều tra mức sống hộ gia đình năm 2012 của

Tổng cục Thống kê công bố thì: tổng chi tiêu bình quân của 1 nhân khẩu 1

tháng của nước ta là 1.603.000đồng (ở thành thị là 2.288.000đồng và nông

thôn là 1.315.000đồng), tăng gấp hơn 5.4 lần so với 10 năm trước đó. Trong

tổng chi thì người Việt Nam đang chi tới 93.8% cho các khoản phục vụ cho

đời sống (như ăn, uống, hút, mặc, chi phí về nhà ở, điện, nước, giáo dục, y tế,

văn hoá, đi lại,…) và chi có 6.2% cho các khoản dịch vụ và đồ dùng khác.

Thu nhập được nâng cao, đời sống không ngừng được cải thiện cũng là lúc

mà mỗi hộ gia đình, mỗi cá nhân đều hướng tới xây dựng lối tiêu dùng tiết

kiệm và văn minh hơn so với trước kia [45].

- Tiêu dùng về mặt vật chất: Xu hướng văn hóa, khát vọng xã hội và

sức chi tiêu là ba yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến lối tiêu dùng của mối cá

nhân. Ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng khác nhau trong tiêu dùng vật

chất. Một số người khá tiết kiệm, số khác lại có khuynh hướng tiêu dùng rất

mạnh, thích xài hàng “xịn” để thể hiện “đẳng cấp” của mình. Cả hai hành vi

tiêu dùng ấy đều không sai, tuy nhiên để xây dựng được lối tiêu dùng “có văn

hoá”, tiết kiệm và văn minh thì mỗi cá nhân cần: xuất phát từ điều kiện kinh

tế cá nhân, gia đình, của quốc gia.

81

Căn cứ đánh giá lối tiêu dùng vật chất có tiết kiệm, văn minh hay

không cũng chính là sự so sánh mức độ phù hợp hay không phù hợp trong chi

tiêu so với mức thu nhập của mỗi cá nhân và gia đình của họ. Nói cách khác,

mẫu số chung trong tiêu dùng có văn hoá chính là sự phù hợp giữ nhu cầu tiêu

dùng vật chất và thu nhập của người mua. Thông qua mua sắm vật chất,

những người lớn trong gia đình sẽ giáo dục cho con, cháu họ hiểu về giá trị

của đồng tiền - đó cũng là giá trị của sức lao động.

Phong trào “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” hiện nay cũng là

một cách để xây dựng lối tiêu dùng văn minh, tiết kiệm. Xu hướng “sính

ngoại” đã xuất hiện mạnh mẽ trong xu hướng tiêu dùng của người Việt. Trong

khi các nhà sản xuất trong nước đang loay hoay đi tìm đầu ra cho sản phẩm

của mình ở trời “Tây” mà không quan tâm đến thị trường trong nước. Các sản

phẩm rẻ tiền, độc hại của Trung Quốc, hàng giả tràn ngập thị trường khiến

người tiêu dùng không còn tin vào các sản phẩm trên thị trường. Do đó,

phong trào này có mục tiêu xâu xa là nền sản xuất trong nước phải mang lại

giá trị tốt nhất cho đồng bào mình. Chừng nào các sản phẩm chinh phục được

người tiêu dùng trong nước thì lo gì không chinh phục nổi thị hiếu và nhu cầu

tiêu dùng của thị trường thế giới.

Tóm lại, các gia đình ngày nay cần xây dựng cho mỗi thành viên “văn

hoá tiêu dùng” dựa trên sự phù hợp, hợp lý với sức mình, vừa không quá xa

xỉ so với mức sống chung của xã hội. Hiện nay những người giàu có dẫu sử

dụng đồng tiền chi tiêu là đồng tiền "sạch" thì khi người ta chi tiêu trước cộng

đồng, sự chi tiêu ấy lại không chỉ mang ý nghĩa cá nhân mà mang ý nghĩa xã

hội. Vì nó tác động tới tâm lý tiêu dùng của người khác mà nếu không được

điều chỉnh sẽ dễ dàng đẩy tới tình trạng tiêu dùng tiêu cực, lãng phí, bừa bãi,

bất chấp hệ lụy, bất chấp sự phản cảm so với cuộc sống của số đông.

Mỗi cá nhân trong tiêu dùng cần phân biệt được giá trị và trị giá, để

không phóng chiếu bản thân qua những sản phẩm dịch vụ có trị giá cao coi đó

82

là cách để nâng cao giá trị của mình. Các gia đình nên bắt đầu giáo dục lối

tiêu dùng vật chất lành mạnh thông qua các hành động thiết thực như: tổ chức

hiếu, hỷ phải gọn gàng, tiết kiệm., tránh phô trương, xa hoa, lãng phí.

- Tiêu dùng về mặt tinh thần:

Bên cạnh việc tiêu dùng về vật chất để thỏa mãn các nhu cầu về tinh

thần như: nhiều bậc cha mẹ đã quan tâm chăm sóc đến con cái thông qua các

khoản chi tiêu cho: mua chuyện tranh, tiểu thuyết có nội dung giáo dục, bồi

dưỡng tạo dựng nhân cách tốt cho con cái, chi nhiều hơn các dịch vụ phục vụ

nhu cầu nghe, nhìn như: truyền hình cáp, điện thoại, internet,…. Các khoản

chi nhiều hơn cho việc thụ hưởng các dịch vụ như: chăm sóc sức khoẻ, làm

đẹp, du lịch, nghỉ dưỡng,… Đây là xu hướng tiêu dùng chung ở các xã hội

phát triển và người Việt Nam cũng đang dần thay đổi theo xu hướng đó.

2.1.2 Những hạn chế của gia đình trong xây dựng lối sống của con

ngƣời Việt Nam hiện nay

Bên cạnh những thành tựu cơ bản trên thì vai trò của gia đình trong xây

dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế.

Những hạn chế cơ bản đó là

2.1.2.1 Hạn chế của việc phát huy vai trò của gia đình trong xây

dựng người lao động mới

Một bộ phận không nhỏ các gia đình Việt Nam hiện nay không coi việc

xây dựng những công dân đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là trách

nhiệm của họ. Bằng tiền bạc, bằng các mối quan hệ xã hội,… các gia đình này

tìm cách để con, cháu mình thoái thác hoặc trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Theo

cách nói hiện nay thì: nếu nghĩa vụ quân sự là vinh quang thì vinh quang ấy

đang dành cho những gia đình nghèo, còn con em nhà giàu, cán bộ, công chức

thì không ai nhận - chính điều này đã tạo nên một lối sống vô trách nhiệm của

một bộ phận người trẻ đối với vận mệnh quốc gia, bàng quan với thời cuộc và

83

tạo sự bất bình đẳng trong việc thể hiện trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc

và xã hội.

Người lao động Việt Nam hiện nay còn yếu về kỹ năng, chuyên môn và

thiếu về ý thức, kỷ luật lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, lao

động phổ thông, lao động giản đơn còn chiếm đa số. Bên cạnh đó, tư duy

“làm ăn” nghĩa là làm đủ ăn còn diễn ra phổ biến ở một số vùng, miền của

nước ta. Điều đó đã triệt tiêu động lực lao động để làm giàu của người dân.

Ngoài ra, kỷ luật lao động cũng là một hạn chế không nhỏ của người lao động

nước ta. Tư duy tiểu nông “thích thì làm, không thích thì nghỉ” không chỉ tồn

tại trong lao động nông nghiệp mà còn len lỏi vào các nhà máy, xí nghiệp,

công trường làm cho lao động nước ta thiếu tính chuyên nghiệp, tính cạnh

tranh trong cơ chế thị trường và thường có thu nhập khá thấp so với các nước

trong khu vực làm trong cùng một ngành nghề. Kiểu làm việc, làm ăn theo tư

duy “chộp giật” còn phổ biến trong các ngành nghề ở nước ta. Cũng chính vì

sự hạn chế trong lối sống và tư duy tiểu nông mà còn một bộ phận không nhỏ

gia đình Việt Nam đã không đề cao đúng mức việc giáo dục ý thức, trách

nhiệm lao động cho con em mình. Thay vào việc dạy con làm người, dạy cách

chung sống thì các gia đình này đang quá ưu tiên vào việc đầu tư cho con học

văn hoá. Điều này tuy không sai, nhưng sẽ không thể tạo nên sự phát triển

toàn diện cho một con người – cả về nhân cách và lối sống.

Còn không ít gia đình Việt Nam hiện nay không coi trọng việc học

nghềmà chỉ coi trọng con vào được đại học. Do đó, số lượng gia đình ưu tiên

cho con học nghề còn ít. Điều này đã tạo nên tình trạng thừa thầy, thiếu thợ

diễn ra khá phổ biến và chậm được khắc phục từ nhiều năm qua. Chính sự

thiếu hiểu biết, thiếu định hướng của gia đình trong hướng nghiệp cho con em

mình còn khá phổ biến khiến cho việc lựa chọn nghề nghiệp của một phận

giới trẻ ngày nay còn theo cảm tính: thích học đại học hơn cao đẳng, trung

84

cấp nghề trong khi năng lực học tập còn quá yếu kém đã khiến số lượng “cử

nhân thất nghiệp” ngày càng gia tăng. Điều này là sự lãng phí kinh tế gia đình

một cách ghê gớm. Cũng chính cái tư duy thích học đại học hơn học nghề mà

một bộ phận không nhỏ các gia đình Việt Nam hiện nay sẵn sàng bỏ ra những

khoản tiền lớn để “chạy trường”, “chạy lớp”, “chạy điểm”, “chạy việc”,

“chạy chức, chạy quyền”…Điều này tạo nên cách nhìn không đúng của người

được chạy, khiến họ quá đề cao giá trị của đồng tiền hoặc bằng một cách nào

đó không minh bạch để “gỡ gạc” lại các khoản tiền đã chạy và đây chính là

mảnh đất nảy sinh tệ tham nhũng và văn hoá phong bì đang khá phổ biến ở

nước ta hiện nay.

Tình trạng lãng phí cũng còn diễn ra khá phổ biến khi các gia đình có

các sự kiện lớn như: ma chay, cưới hỏi, tâm linh,… Lối sống kiểu “con gà tức

nhau tiếng gáy” đã tạo nên những con người ưa huênh hoang, háo danh, hám

danh,… Điều này sẽ khó khắc phục được nếu những bậc người lớn trong gia

đình không tự thay đổi cách nghĩ, cách làm để con cái hiểu đúng về ý nghĩa

của những điều họ đang làm và coi đó là mục đích trong giáo dục con cái.

2.1.2.2 Hạn chế trong phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng

con người có lối ứng xử phù hợp với thiên nhiên, trong gia đình và ngoài

xã hội:

+ Đối với thiên nhiên: tuy cách hành xử của từng cá nhân, từng gia

đình đã phù hợp hơn với thiên nhiên nhưng số lượng không nhiều, một bộ

phận lớn người dân vẫn chưa có cách hành xử phù hợp với điều kiện sống.

Tình trạng vứt, xả rác thải ra nơi công cộng như: công viên, bệnh viện, trường

học, cống rãnh… còn diễn ra thường xuyên và tràn lan ở tất cả mọi nơi. Nước

thải trong sản xuất và sinh hoạt chưa qua xử lý của các gia đình đổ ra môi

trường còn phổ biến đã tạo nên sự ô nhiễm khá trầm trọng, nhất là ở các làng

nghề. Nạn chặt, phá rừng, chặt phá cây xanh còn khá phổ biến ở cả thành thị

85

và nông thôn. Các nguồn lợi thuỷ, hải sản bị khai thác một cách cạn kiệt bằng

các phương thức huỷ diệt như: xung điện, thuốc nổ vẫn diễn ra ở nông thôn.

Điều đó làm nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước ngày càng cạn kiệt.

Nhiều gia đình còn chưa coi trọng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đối

với con cái của họ mà coi đó là trách nhiệm của nhà trường và xã hội. Điều

này đã tạo nên tính thiếu tự giác trong mỗi cá nhân trong hành xử với môi

trường. Chắc sẽ nhiều người Việt Nam không khỏi xấu hổ khi sau mỗi buổi lễ

hội, rác được vô tư xả khắp mọi nơi. Trong khi đó đã có những người nước

ngoài thu dọn những rác thải do chúng ta xả ra. Chính sự thiếu gương mẫu

của người lớn đã và sẽ tạo nên lối sống thiếu hài hoà và không thân thiện với

môi trường tự nhiên trong một bộ phận giới trẻ và điều này là cực kỳ nguy

hiểm nếu không khắc phục trong thời gian tới. Thật đau lòng trong một số kì

triển lãm hoa của Nhật Bản ở Hà Nội, nhiều người trong số đó không ít nam

thanh, nữ tú và cả những người lớn tuổi bất chấp danh dự của quốc gia, nhân

cách cá nhân đã “dũng cảm” cướp hoa, gây ra những sự phản cảm trong buổi lễ.

+ Trong quan hệ gia đình: Không ít người đã phó mặc trách nhiệm

giáo dục con cho nhà trường và xã hội. Trong khi đó, giáo dục trong nhà

trường và ngoài xã hội hiện nay cũng có nhiều vấn đề bất cập. Sự quá tải

trong truyền thụ kiến thức cho học sinh và áp lực từ những đánh giá xã hội về

thành tích của các nhà trường đã làm cho các thầy cô không có đủ thời gian

chăm lo giáo dục đạo đức cho học sinh một cách cặn kẽ, khoa học để các em

có thể thấu hiểu và có những trải nghiệm, cảm xúc thật sự với những giá trị

đạo đức. Trong môi trường nhà trường, không ít em chỉ cảm nhận được

"quyền uy" của các thầy cô hơn là sự cảm thông, chia sẻ. Trong khi đó, ngoài

xã hội lại xuất hiện rất nhiều những hiện tượng tiêu cực mà các em có thể

chứng kiến hằng ngày. Những cách ứng xử thiếu văn hóa của người lớn, tệ

nạn xã hội như: nghiện hút, mại dâm, tham ô, tham nhũng, "văn hóa phong

86

bì"... cùng rất nhiều vụ án được thông tin trên báo chí làm cho thế hệ trẻ băn

khoăn về các giá trị đạo đức và lối sống chuẩn mực mà cha mẹ, thầy cô đã và

đang giảng dạy, truyền thụ cho các em và mong muốn các em tuân thủ. Nguy

hại hơn, không ít trường hợp các em có thể chứng kiến những hành vi đó ở

ngay chính cha mẹ mình - những người mà bằng lời nói vẫn luôn hướng con

đến những giá trị đạo đức tốt đẹp, khiến các em không tin vào những gì mình

được học, được nghe, và nảy sinh những tâm lý, hành vi chán nản, chống đối

với chính những người thân sinh ra mình.

Kinh tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực đến đạo đức gia

đình. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, lòng yêu thương, sự hy sinh của

cha mẹ dành cho con cái cũng biến đổi. Nhiều gia đình ít con lại có điều kiện

thường nuông chiều con quá mức, làm cho con lười lao động, ham hưởng

thụ,… Nhiều gia đình khác, cha mẹ lại bận rộng với công việc, thời gian dành

cho con cái và quản lý chúng rất ít. Một bộ phận cha mẹ coi trách nhiệm đối

với con cái chỉ đơn thuần là việc cung cấp đầy đủ vật chất, còn trách nhiệm

giáo dục là của nhà trường và xã hội. Một số gia đình khác, bố mẹ lại quản

thúc con một cách khắt khe, cách ly con khỏi bạn bè, đánh đập, chửi mắng,..

Tất cả những hành động ấy vô tình tạo cho con trẻ hoặc sợ hãi, nhút nhát,

hoặc lì lợm, bướng bỉnh, bất cần, thậm chí có những trường hợp bỏ nhà đi

lang thang và sa vào các tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, hiếu nghĩa trong đối xử

với cha mẹ của con cái cũng bị coi nhẹ. Tình trạng con cái chỉ biết đến bản

thân mà quên đi hoặc cố tình không thực hiện bổn phận báo hiếu với cha mẹ.

Không ít người về già trở nên cô đơn trong chính ngôi nhà của mình do bị con

đẻ bỏ rơi. Một bộ phận khác lại coi việc phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ như

một gánh nặng hoặc họ xem việc đóng góp tiền bạc để nuôi dưỡng bố mẹ là

cách để làm tròn bổn phận làm con.

87

Quan hệ vợ chồng với những chuẩn mực đạo đức như tình nghĩa, thuỷ

chung, hoà thuận trong một số gia đình cũng bị xáo trộn. Chủ nghĩa cá nhân,

vị kỷ phát triển trong quan hệ vợ chồng dẫn tới sự thiếu ổn định và không bền

vững của nhiều cuộc hôn nhân. Ngoài ra, xu hướng trục lợi, thực dụng trong

hôn nhân cũng xuất hiện khá nhiều. Hiện tượng đạo đức tình dục bị vi phạm,

các hành vi tình dục trước hôn nhân theo kiểu “sống thử”, “già nhân ngãi,

non vợ chồng”, tình trạng ngoại tình, đã xuất hiện nhiều hơn và được nhiều

người tán thưởng, dự luận cho qua. Tình trạng ngược đãi, bạo hành giữa vợ và

chồng cũng có xu hướng gia tăng. Gần đây không ít cảnh đau lòng xảy ra khi

những người cha, người mẹ đang tâm giết chết đứa trẻ là máu mủ của mình

sinh ra chỉ vì những mâu thuẫn nho nhỏ. Tất cả những tiêu cực đó khiến cho

số lượng các cặp vợ chồng ly thân, ly hôn đang có chiều hướng tăng mạnh.

Bên cạnh những gia đình còn giữ được những nét đẹp của nề nếp gia phong,

em kính anh, anh nhường em thì cũng có rất nhiều gia đình anh em bất hoà,

cãi vả, kiện tụng, thậm chí là chém giết lẫn trong để tranh giành lợi ích vật

chất. Trong nhiều gia đình hoà thuận được thay bằng tính thiệt hơn khi mà các

lợi ích kinh tế không tìm được tiếng nói chung trong các mối quan hệ giữa các

anh chị em với nhau.

Thực tế cho thấy trong gia đình đang tồn tại nhiều bất cập về cách

thức giáo dục con cái. Nhất là ở thành phố, phổ biến là tình trạng cha mẹ

chăm lo cho con thái quá, gánh vác mọi công việc trong xã hội cũng như

trong gia đình với hy vọng các con tập trung học tập tốt. Nhưng hệ quả là

không ít em lớn lên mà không hề nghĩ đến trách nhiệm của mình với những

thành viên khác trong gia đình, không ý thức được bổn phận của mình đối với

cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, không ít em đã trở lên vô cảm trước những

hiện tượng, sự kiện xã hội. Lẽ đương nhiên, sự thiếu trách nhiệm trong các

88

quan hệ xã hội cùng thái độ vô cảm sẽ dễ dàng đưa các em đến với những

hành vi lệch chuẩn.

Nhiều người làm cha mẹ cũng hiểu rằng họ cần phải hiểu con, tôn

trọng con... Tuy nhiên một tâm lý tiềm ẩn về tôn ti trật tự, về “quyền lực” của

người làm cha mẹ - những giá trị ứng xử từ nền giáo dục truyền thống vốn đã

thẩm thấu sâu trong con người họ làm cho không ít người làm cha mẹ có cách

hành xử cứng nhắc với con, ép con nghe theo các quyết định của mình mà

không kiên nhẫn nghe những lời giải thích của con trẻ, không cùng con chia

sẻ những vấn đề trong cuộc sống của các em... Thực tế hiện nay các trung tâm

tư vấn tâm lý thường phải tiếp nhận không ít trẻ có vấn đề trong ứng xử, từ

những hành vi lệch chuẩn, đến vi phạm pháp luật, thậm chí là tự tử, mà một

trong những nguyên nhân là do các em cảm thấy cô đơn ngay trong gia đình

mình, cảm thấy không có người chia sẻ, quan tâm.

Sự phát triển và phổ biến của công nghệ thông tin và internet đang

hình thành những giá trị “ảo”, những lối sống “ảo” trong xã hội. Tình trạng

“nghiện” vi tính, điện thoại thông minh, nghiện Facebook,… đang trở nên phổ

biến hơn trong thế hệ trẻ, vì thiếu sự quản lý, giáo dục của gia đình. Chính

cuộc sống “ảo” ấy đã khiến nhiều người trẻ có những suy nghĩ lệch lạc về bản

thân mình và có những hành động lệch chuẩn ngoài cộng đồng.

+ Trong xã hội: Quan hệ ứng xử giữa người với người có sự biến đổi

sâu sắc tác động không nhỏ đến lối sống của con người Việt Nam hiện nay.

Ông cha ta thường có quan niệm “lời chào cao hơn mâm cỗ” thì quan niệm đó

ngày nay dần bị phai mờ đi trong đời sống xã hội ở thành thị và nông thôn.

Trước đây, ở nông thôn trong làng, trong xóm hay ra ngoài đường bất kể

người đó có họ hàng hay không gặp người lớn tuổi hơn là chào hỏi lễ phép

nhưng ngày này cái đó đang bị mất dần, nó bị phai nhạt, không chỉ vậy mà

các tệ nạn xã hội cũng đã lên lỏi vào những vùng quê. Hàng xóm luôn được

89

coi là những người thân thiết với quan niệm “bán anh em xa mua láng giềng

gần”, nhưng ngày nay cái đó cũng đang có chiều hướng mất dần bởi quá trình

đô thị hóa nông thôn. Các bậc phụ huynh ngày nay không coi trọng việc giáo

dục con cái có lối sống lễ phép, hài hoà với những người xung quanh như

trước kia chính là nguyên nhân của tình trạng ấy.

Trong cuộc sống ngày nay, ta có thể bắt gặp vô vàn những biểu hiện

của căn bệnh “không cảm xúc” này, xuất phát từ cả suy nghĩ và hành động.

Nếu như trước kia, khi thấy tai nạn xảy ra ở trên đường, những người xung

quanh ngay lập tức sơ cứu và gọi xe cứu thương để đưa nạn nhân đến bệnh

viện kịp thời với mục đích nhân đạo, “cứu giúp một mạng người hơn xây bảy

tòa tháp” thì giờ đây, cũng là tai nạn giao thông đấy, chứng kiến tận mắt cảnh

nạn nhân đau đớn vì gãy tay, gãy chân, thậm chí bất tỉnh, thế nhưng người đi

đường chẳng những không cấp cứu kịp thời mà còn tụm năm, tụm ba lại xì

xào, bàn tán, thập chí là “chụp ảnh tự sướng” hoặc có những hành vi khác

phản cảm và thiếu nhân văn. Có lẽ mọi người có tâm lí ngại va chạm, bởi vì

trong thực tế đã có trường hợp cứu người không được họ cảm ơn mà lại bị

chính người nhà nan nhân chửi mắng, đánh đập. Nạn “hôi của tập thể” đã

manh nha như vụ: “Hôi bia ở Đồng Nai”, “Hôi tiền ở thành phố Hồ Chí

Minh”, “Hay không cứu giúp người ở vụ tai nạn Cầu Vượt Thái Hà”,…là biểu

hiện rất rõ của lối sống thực dụng, của chứng thờ ơ, vô cảm trong quan hệ xã

hội. Tâm lý ngại va chạm, ngại bảo vệ người yếu, bảo vệ cái đúng xuất phát

từ quan niệm cho rằng đó là hành vi “mua dây buộc mình”, “rước họa vào

thân” nên tốt nhất là coi như “không nghe, không thấy, không biết”. Đây là

hồi chuông báo động về sự xuống cấp của đạo đức trong xã hội hiện nay.

Vai trò giáo dục hành vi ứng xử phù hợp trong xã hội của gia đình

không được phát huy cũng khiến cách hành xử của giới trẻ ngày càng manh

động và dễ phạm pháp hơn. Thanh niên sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết

90

các mâu thuẫn trong cuộc sống, kể cả những mâu thuẫn nhỏ như: va chạm khi

tham gia giao thông, một lời nói, một cái nhìn bị coi là “đểu” hoặc “mời rượu

mà không uống”,…

2.1.2.3. Trong xây dựng lối tiêu dùng tiết kiệm, văn minh:

Xu hướng tiêu dùng hiện nay của một bộ phận không nhỏ người dân,

nhất là thế hệ trẻ trong xã hội bị lệch lạc. Họ luôn coi trọng giá trị vật chất mà

quên đi mất giá trị tinh thần, họ coi đồng tiền là trên hết. Xã hội xuất hiện một

bộ phận thanh niên thích ăn ngon mặc đẹp, lảng tránh trách nhiệm gia đình,

đất nước và bản thân. Một nhà văn nổi tiếng đã từng nói rằng “ hãy cho con

cái đạo đức thay vì tiền bạc” điều đó là quá đúng vì tiền bạc làm hư hỏng con

người.

Quan điểm thực dụng, văn hóa tiêu dùng gia tăng nhanh chóng trong xã

hội hiện nay. Nó có nguồn gốc sâu xa từ sự đổ vỡ các niềm tin được xây dựng

trước thời bao cấp. Cuộc sống tem phiếu khó khăn kéo dài khiến người ta có

mưu cầu cuộc sống mạnh mẽ hơn khi được giải phóng cung cách làm ăn. Tư

tưởng, tâm lý thực dụng không hoàn toàn xấu vì nó khiến cho người ta có

động lực làm việc, sáng tạo. Song nó lại đẻ ra các hành vi làm phá hoại đạo

đức truyền thống, hình thành nên kiểu sống cá nhân chủ nghĩa, “sống chết

mặc bây, tiền thầy bỏ túi”, kiểu sống hờ hững, vô tâm và ích kỷ với những

người xung quanh.

Thanh niên là tầng lớp chịu tác động quá nhiều và cũng thể hiện rất rõ

rệt lối sống phương Tây. Một bộ phận trong số họ chạy theo thứ văn hoá tiêu

dùng và lối sống “hiện đại” ấy, coi đó là “mô hình chuẩn” để đánh giá so

sánh với các nền văn hoá khác. Ai không theo “mô hình chuẩn” đó thì được

coi là không “sành điệu”, là lỗi thời, lạc hậu. Họ thích chạy theo các mốt thời

trang kiểu Tây, hở hang, phô bày cơ thể, không phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ

của dân tộc; thích uống rượu ngoại, ăn đồ ngoại hơn là sản phẩm trong nước;

91

thích xem phim bạo lực hoặc tình cảm “quá trớn” hơn là phim tâm lý xã hội

Việt Nam. Họ thực dụng, ít hoặc không quan tâm đến lý tưởng chính trị xã

hội, thích lối sống sòng phẳng hơn là nghĩa tình... Đó là những biểu hiện xa

rời lối sống truyền thống của dân tộc, xa rời bản sắc dân tộc, chạy theo lối

sống lai căng ngoại nhập vốn rất xa lạ với dân tộc Việt Nam. Nếu gia đình

không điều chỉnh được quan niệm tiêu dùng thì những tồn tại ấy vẫn còn tiếp

diễn, thậm chí còn phát triển mạnh hơn. Trong tiêu dùng, nhiều gia đình tiêu

dùng quá khả năng kinh tế của gia đình đình mình. Không ít gia đình còn hạn

chế về mức thu nhập những vẫn sẵn sàng đi vay nóng để tổ chức đám cưới

thật to, đám ma thật lớn. Hậu quả là họ phải trả nợ nhiều năm không hết từ đó

gây lên những bất hòa trong gia đình là không thể tránh khỏi.

2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Gia đình là một thể chế xã hội tồn tại bền vững trong mọi hình thái

kinh tế - xã hội, là một tế bào của xã hội, Gia đình mãi là cái nôi nuôi dưỡng,

bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn con người từ nhỏ đến lúc trưởng thành.

Trong gia đình ấy, mọi thành viên cần phải dựa vào nhau, an ủi, khuyến

khích, động viên nhau, chia sẻ với nhau mọi niềm vui và nỗi buồn. Nó cần

được xây dựng bền vững, trở thành niềm vui và hạnh phúc cho mỗi con người

bởi ở đó, các giá trị đạo đức và lối sống gia đình truyền thống tốt đẹp được

bảo tồn và phát huy. Cho dù có đi đâu về đâu thì người Việt Nam luôn muốn

hướng tới gia đình thân yêu của mình vì ở đó họ luôn luôn được bao bọc và

che chở cho họ. Có như vậy các thành viên trong gia đình mới có được lối

sống tốt đẹp với giá trị đạo đức tốt đẹp tạo điều kiện cho sự phát triển nhân

cách và giúp họ tự tin vững bước trên đường đời.

2.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong

xây dựng lối sống con ngƣời Việt Nam hiện nay

92

Nhận thức đúng mở đường cho hành động đúng. Để nâng cao vai trò

của gia đình trong xây dựng lối sống con người Việt Nam, theo tác giả cần bắt

đầu từ đổi mới nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của gia đình đối với

vấn đề này.

Gia đình là chủ thể đóng vai trò quyết định trong xây dựng lối sống con

người Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, không phải mọi thành viên trong gia đình

đều nhận thức và thực thi tốt vai trò này. Điều đó thể hiện ở chỗ, quá trình xây

dựng lối sống hiện nay được các gia đình thực hiện không đồng đều và thiếu

đồng bộ, thống nhất khiến cho vai trò của đình không được phát huy cao nhất.

Vì thế, nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng

lối sống con người Việt Nam cho toàn xã hội, bao gồm cả hệ thống chính trị,

các tổ chức thiết chế xã hội, mọi gia đình và toàn dân về vai trò của gia đình

trong xây dựng lối sống phù hợp với thực tiễn kinh tế, xã hội của đất nước

vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài.

Nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trò, vị

trí đặc biệt của gia đình đối với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng

đồng trong việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn

nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực trong gia đình, ngăn

chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính quyền

các cấp phải đưa nội dung công tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn

hóa, lối sống văn hoá vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương

trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của

toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống mới. Hiện nay,

nhận thức của một bộ phận nhân dân về vai trò của gia đình trong xây dựng

lối sống còn chưa rõ ràng và sâu sắc. Ngay cả các công trình nghiên cứu về

xây dựng lối sống cho con người Việt Nam hiện nay cũng chủ yếu nói đến ưu

93

điểm mà không nói đến nhược điểm hoặc nhược điểm nói qua loa, thiếu luận

chứng khoa học. Những ưu điểm trong lối sống cộng đồng như truyền thống

yêu nước, nhân ái, lao động cần cù,…được nhắc lặp đi, lặp lại trong khi cái

tiêu cực thì ít đề cập hoặc chỉ liệt kê không đầy đủ, qua loa,… Vai trò của gia

đình giao giáo dục con cái, trong phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục,… thì

được đề cập nhưng vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống thì chưa được

quan tâm đúng mức.

Nếu nhận thức chưa rõ rõ ràng và chưa sâu sắc về vai trò của gia đình

trong xây dựng lối sống mới thì các gia đình Việt Nam sẽ chưa chủ động thay

đổi, chưa có động thái hành động phù hợp để phát huy các ưu điểm và khắc

phục các nhược điểm trong công tác này hiện nay. Muốn có lối sống mới, phù

hợp với thời cuộc thì phải có tư duy mới, phù hợp. Đổi thay tư duy sẽ thay đổi

quan niệm về giáo dục, tuyên truyền để thông qua đó nhằm nâng cao nhận

thức về vai trò của gia đình, của từng thành viên trong gia đình trong xây

dựng lối sống hiện nay. Muốn vậy, cần phải dũng cảm thừa nhận những mặt

tồn tại trong lối sống hiện nay, đổi mới mạnh hơn nữa nghiên cứu để có nhận

thức đúng đắn và phù hợp về lối sống của con người Việt hiện nay, qua đó

tuyên truyền, giáo dục cho toàn thể người dân, giúp họ tự khắc phục, sữa chữa

những khiếm khuyết trong lối sống và tự điều chỉnh, tự thay đổi cho phù hợp

hơn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Xây dựng những khuôn mẫu trong ứng xử và tuyên truyền ra cộng

đồng để mỗi cá nhân, mỗi gia đình có thể thay đổi lối sống cho phù hợp hơn.

Đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động xây dựng “Gia đình Văn hoá”, “Làng

Văn hoá”, “Khu dân cư Văn hoá”, phát triển đa dạng các Câu lạc bộ như: Phụ

nữ giúp nhau làm kinh tế giỏi; Thanh niên giúp nhau làm kinh tế giỏi; Bảo vệ

môi trường; Nuôi con khoẻ, dạy con ngoan,… để tạo dựng sự đoàn kết trong

cộng đồng dân cư. Đồng thời, cũng thông qua các cuộc vận động, các Câu lạc

94

bộ này mà bản thân mỗi gia đình, mỗi thành viên tự nâng cao nhận thức của

mình trong việc xây dựng lối sống văn minh, lịch sự; xoá bỏ các hủ tục lạc

hậu trong ma chay, cưới hỏi, lễ hội, tệ cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan,…

Phát triển giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí sẽ góp phần nâng cao

nhận thức xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống hiện nay.

Thông qua giáo dục, các tri thức khoa học được trang bị cho mỗi thành viên

trong cộng đồng, giúp họ biết nhận thức đúng hoặc sai, biết tư duy phải hoặc

trái và biết hành động như thế nào là đẹp hoặc xấu. Thông qua đó mà những

hệ luỵ từ tư duy và lối sống tiểu nông dần được khắc phục. Cũng thông qua

giáo dục mà mỗi cá nhân nói riêng và xã hội nói chung sẽ dần hình thành

những tư duy tiến bộ, với khả năng xử lý thông tin, phân tích, tổng hợp cao để

phán đoán, dự báo chính xác những diễn biến của cuộc sống một cách khoa

học, biết đánh giá vị trí của bản thân, của gia đình trong xã hội để hình thành

lối sống phù hợp với thực tế nhất.

Tạo sự đồng thuận về những chuẩn mực tư tưởng, đạo đức lối sống cho

con người Việt Nam hiện nay là biện pháp giúp nâng cao nhận thức và phát

huy hơn nữa vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống. Sự đồng thuận về tư

tưởng, đạo đức lối sống chính là những thang giá trị mới mà mỗi công dân

Việt Nam cần phải có để từ đó xác định biện pháp định hướng, khuyến khích,

giáo dục các cá nhân và gia đình noi theo. Nội hàm của các chuẩn mực mới

cần được xem xét qua việc mỗi cá nhân phải nhận thức, ý thức được vị trí, vai

trò, trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, với xã hội, với cộng đồng, với gia

đình, với bản thân và với lao động,…bằng các tiêu chí cụ thể để mỗi con

người nhận thức được trách nhiệm của mình và bằng việc làm cụ thể để thể

hiện trách nhiệm đó trong đời sống hàng ngày. Cách làm này không những

khẳng định, tôn vinh bản sắc dân tộc qua lối sống mà còn giúp kế thừa, phát

huy những giá trị tích cực của lối sống truyền thống và kết hợp với tư duy, lối

95

sống hiện đại để hình thành một lối sống phù hợp nhất cho con người Việt

Nam, nhất là thế hệ trẻ. Cũng thông qua đó mà bản thân mỗi cá nhân trong gia

đình nhận thức và giáo dục lẫn nhau để hình thành những nề nếp đẹp, những

lối sống đẹp.

Nhận thức của xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống

cho con người Việt Nam hiện nay cũng được nâng cao khi những đặc điểm và

giá trị tích cực trong gia đình truyền thống được khơi dậy và phát huy. Tình

yêu, tình thương, trách nhiệm, sự kính trọng, sự nhường nhịn, tinh thần đoàn

kết, tinh thần cộng đồng cao, lòng yêu nước,… là những yếu tố tích cực mà

gia đình truyền thống có được và cần phát huy trong xây dựng lối sống cho

con người Việt Nam. Các giá trị đạo đức trong gia đình truyền thống ấy cũng

là điểm tựa, là màng lọc khi mỗi cá nhân tiếp thu các yếu tố, các chuẩn mực,

các giá trị sống từ bên ngoài để không ngừng bổ sung, làm phong phú hơn các

thang giá trị mới - nhân tố góp phần xây dựng nên một chuẩn mực đời sống

mới cho mỗi cá nhân và gia đình trong xã hội hiện đại.

Nhận thức đúng và tiếp nhận có chọn lọc những cái đúng, cái hay

trong lối sống của các dân tộc khác trên thế giới trên con đường hội nhập.

Thông qua giao lưu, hợp tác quốc tế mà quá trình giao lưu và tiếp biến văn

hoá sẽ diễn ra. Sự va đập giữa các nền văn hoá trong quá trình hội nhập là

điều không thể tránh khỏi, mà ở đó văn hoá truyền thống sẽ là màng lọc để

mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp thu, học hỏi một cách có chọn lọc và sáng tạo

để điều chỉnh, xây dựng dựng lối sống phù hợp cho mỗi thành viên. Đổi mới,

hội nhập là xu thế phát triển tất yếu, nhưng việc xây dựng một lối sống “dân

tộc - hiện đại” không phải là hệ quả tất yếu mà là sự nỗ lực chung của toàn xã

hội. Nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của hội nhập chính là

cách để tạo nên sự thích nghi của gia đình với sự biến đổi của thời đại để phát

huy vai trò của mình trong giáo dục lối sống.

96

2.2.2. Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của các gia đình là

điều kiện quan trọng để xây dựng con ngƣời mới có lối hành xử phù hợp

với tự nhiên, với gia đình và xã hội và lối tiêu dùng văn minh

Vật chất quyết định ý thức, gia đình giàu có, hạnh phúc mới phát huy

được vai trò to lớn của mình trong đời sống xã hội nói chung và trong xây

dựng lối sống nói riêng. Để phát triển kinh tế gia đình, trước hết cả nước cần

có một hệ thống chủ trương, chính sách phát triển kinh tế hướng tới tạo điều

kiện và hỗ trợ gia đình tự lực, tự cường vươn lên làm giàu chính đáng. Đó là

các chủ trương, chính sách về đất đai, vốn, việc làm, thu hút đầu tư, thị

trường, dịch vụ xã hội, về phát triển công, nông nghiệp và dịch vụ, phát triển

kết cấu hạ tầng, khuyến khích hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình,…Khi kinh

tế gia đình thực sự phát triển, đời sống gia đình nâng cao sẽ tạo điều kiện cho

một số lĩnh vực việc làm xã hội phát triển như: giúp việc, dịch vụ chăm sóc

trẻ em, người ốm, người già, gia sư… Những dịch vụ này đã tạo việc làm và

thu nhập chính đáng cho rất nhiều người và cũng tác động rất nhiều lên lối

sống của từng thành viên.

Hoạt động kinh tế là chức năng tự nhiên của gia đình trong mọi giai

đoạn phát triển của xã hội loài người. Do đó, khuyến khích phát triển kinh tế

hộ gia đình nhằm nâng cao mức sống là cơ sở cho việc xây dựng lối sống cho

con người Việt Nam hiện nay. Dù trong điều kiện nào thì mọi nhu cầu thiết

yếu của các thành viên trong gia đình cũng cần được thỏa mãn.

Phát triển kinh tế gia đình nhằm nâng cao mức sống, mức thu nhập là

điều kiện để các thành viên gia đình hưởng thụ văn hoá, nâng cao hiểu biết tri

thức và những chuẩn mực về tri thức, về đạo đức, về xã hội để hình thành nên

lối sống phù hợp hơn với điều kiện kinh tế của gia đình mình. Thông qua phát

triển kinh tế và mức sống được nâng lên thì bản thân mỗi cá nhân sẽ tiếp thu

hoặc tự nhận thức được những thói quen, tật xấu trong lối sống của chính

97

mình và từ bỏ hoặc thay thế nó bằng những thói quen khác phù hợp hơn. Để

phát triển kinh tế thì mỗi thành viên trong gia đình đóng một vai trò nhất định

trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tức là mỗi cá nhân sẽ có việc làm và

thông qua làm việc sẽ khắc phục được căn bệnh “Nhàn cư vi bất thiện”, gắn

con người với lao động là cách để khắc phục nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý,

các tệ nạn xã hội khác. Đồng thời, cũng qua lao động đã gắn kết các thành

viên trong gia đình, trong họ hàng, làng xóm, đất nước. Khi mỗi cá nhân nhận

thức rõ được tầm quan trọng của mình trong cuộc sống của những người khác

thì bản thân họ mới có động lực để thôi thúc làm việc, để thay đổi cách nghĩ,

cách làm, cách “đối nhân, xử thế” phù hợp

Tạo cho mỗi gia đình có điều kiện vật chất tối thiểu (gia tài), chỗ ở (gia

cư), môi trường sống (gia cảnh) làm cơ sở cho việc xây dựng lối sống (gia

đạo, gia huấn), tạo một nền nếp gia đình tốt (gia phong). Kinh tế gia đình một

khi đã “khấm khá” lên thì các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người

mới được thỏa mãn và không ngừng phát triển. Khi các cá nhân không phải lo

các nhu cầu thiết yếu (ăn, mặc, ở, đi lại, học hành) thì họ sẽ hướng tới hưởng

thụ các giá trị về văn hoá, tinh thần.

Sự tiếp xúc trong lao động và việc thoả mãn các nhu cầu về tinh thần

như: văn hoá, khoa học,…sẽ khiến mỗi cá nhân, mỗi thành viên tự nhìn nhận

lại mình và hoàn thiện mình hơn.

Hiện nay, giá trị kinh tế đang nổi lên mạnh mẽ, vấn đề việc làm tốt, thu

nhập cao, làm giàu vật chất là nhu cầu của đại đa số nhân dân. Thực tế thì vật

chất chính là nền tảng, là cơ sở xây dựng lối sống tốt đẹp hơn, trực tiếp ảnh

hưởng đến mức sống, chất lượng sống. Nếu không quan tâm đúng mức đến

tăng trưởng kinh tế thì mọi ý đồ xây dựng một lối sống đẹp trong thời đại hiện

nay có thể rơi vào ảo tưởng hoặc duy ý chí. Để phát triển kinh tế gia đình,

nâng cao mức sống của người dân cần:

98

- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH - HĐH đất nước và tăng cường hội

nhập toàn diện nhất là hội nhập kinh tế quốc tế. Lối sống của con người có

nguồn gốc sâu xa ở điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Những đặc điểm

(cả ưu điểm và nhược điểm) trong lối sống của một bộ phận người Việt Nam

hiện nay đều có nguồn gốc sâu xa ở điều kiện sinh hoạt vật chất của gia đình.

Vì vậy, để khắc phục những nhược điểm trong lối sống của một bộ phận

người Việt Nam hiện nay thì cần phải thay đổi điều kiện sinh hoạt vật chất đã

sản sinh ra những nhược điểm ấy.

Điều kiện sinh hoạt vật chất đã sản sinh ra những nhược điểm tiêu cực

trong lối sống của một bộ phận người Việt Nam hiện nay là một nền sản xuất

hàng hoá nhỏ với sản phẩm nông nghiệp thô là chủ yếu. Hiện nay, nước ta đã

và đang xây dựng được một nền kinh tế thị trường với những công cụ sản

xuất bằng máy móc hiện đại để CNH - HĐH để khắc phục được một phần

những nhược điểm trong lối sống tiểu nông của một bộ phận người Việt đã

làm cho lối sống mới ngày càng trở thành lối sống chủ đạo trong xã hội. Tuy

nhiên, sự phát triển của nước ta vẫn chưa theo kịp các nước tiên tiến và so với

những kỳ vọng của chúng ta. Vì vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của gia đình

trong xây dựng lối sống cho con người Việt Nam thì đổi mới và hội nhập

quốc tế là giải pháp cơ bản và lâu dài là tiền để để mỗi cá nhân, mỗi gia đình

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, qua

đó thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh” - đó cũng là mục tiêu công cuộc CNH - HĐH mà đất nước đang thực hiện.

- Phát triển kinh tế hộ, đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao thu nhập và

mức sống cho người dân là một vấn đề quan trọng, các địa phương trên cả

nước cần quan tâm, tạo mọi điều kiện về cơ chế, chính sách để người dân chủ

động phát triển kinh tế hộ gia đình lên một bước mới. Hiện nay,việc duy trì và

phát triển các hộ gia đình ở nông thôn như một đơn vị kinh tế đang gặp nhiều

99

khó khăn. Các hộ nông nghiệp có xu hướng thừa lao động vì diện tích đất đai

canh tác giảm. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới phải gắn với phát triển kinh tế hộ,

thực hiện đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao thu nhập, mức sống là trọng tâm.

Ngoài ra, xu hướng chuyển dịch nghề nghiệp của các gia đình nông

thôn từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề phi

nông nghiệp khác mang tính chủ đạo. Trong quá trình chuyển dịch nghề

nghiệp này, yếu tố cá nhân người lao động giữ vai trò quan trọng. Những lao

động thuộc thế hệ trẻ (dưới 40 tuổi) và có trình độ học vấn lớp 12 trở lên ở

nông thôn có xu hướng thoát ly ngày càng nhiều. Tuy nhiên, kinh tế nông

thôn chỉ được phát huy và phát triển bền vững trong điều kiện chính sách phù

hợp, kịp thời. Các hộ gia đình có thể tự phát triển kinh tế một cách độc lập,

nhưng không thể phát triển trên diện rộng và mang tính bền vững nếu không

có chính sách phù hợp của Nhà nước. Quá trình CNH - HĐH đã “thu hút”

hàng triệu lao động trẻ với học vấn phổ thông rời khỏi các hộ gia đình nông

thôn để tới làm việc ở các xí nghiệp, công ty. Tuy nhiên, quá trình xây dựng

nông thôn mới lại chính là để người dân có thể tự làm giàu trên chính mảnh

đất quê hương mình. Quá trình công nghiệp hóa đã làm giảm chức năng kinh

tế hộ gia đình, nhưng quá trình xây dựng nông thôn mới đã góp phần thúc đẩy

kinh tế hộ gia đình phát triển ở nông thôn. Vì vậy, về mặt chính sách vĩ mô,

cần giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa công nghiệp hóa và xây dựng nông

thôn mới.

Sự dịch chuyển phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng làm tiểu thủ

công nghiệp hay buôn bán, dịch vụ là một quá trình tất yếu ở nông thôn hiện

nay. Trong điều kiện đất đai canh tác ngày càng hạn chế, thu nhập lao động

nông nghiệp thấp, không thể đáp ứng được nhu cầu đời sống ngày càng cao,

việc thoát ly sản xuất nông nghiệp là không thể tránh khỏi đối với một bộ

phận lớn lao động nông thôn. Tuy nhiên, để có thể chuyển đổi nghề của một

100

hộ gia đình sang các lĩnh vực kinh tế tiểu thủ công nghiệp hay buôn bán, dịch

vụ ngay trên quê hương đều cần một lượng vốn lớn. Điều này cho thấy để

phát huy tính hiệu quả của quá trình xây dựng nông thôn mới, Nhà nước cần

quan tâm giải quyết vấn đề tín dụng cho phát triển kinh tế hộ gia đình.

Đầu tư mạnh cho giáo dục và đào tạo là một chiến lược của đa số các

hộ gia đình nhằm tạo điều kiện cho lực lượng lao động trẻ có thể thoát ly tìm

việc làm mới. Đây là vấn đề nền tảng và then chốt nhất để phát triển kinh tế

hộ gia đình bền vững, chuyển đổi mô hình sản xuất từ kinh tế hộ lên một hình

thức cao hơn. Chính vì vậy, cần đặc biệt quan tâm đầu tư cho giáo dục và đào

tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ phát triển năng lực, ngành

nghề theo hướng bền vững.

Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng đối với kinh tế hộ gia đình nông

thôn, không chỉ đối với sản xuất nông nghiệp, mà còn đối với các hoạt động

sản xuất phi nông nghiệp. Do vậy, cần tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh quá trình

dồn điền, đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, cần xây dựng chính

sách cho phép và khuyến khích tích tụ ruộng đất một cách hợp lý đối với các

hộ gia đình có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp; nghiên cứu xây dựng chính

sách trao quyền sử dụng đất đai lâu dài từ 50 năm trở lên cho các hộ gia đình

sản xuất phi nông nghiệp...

Đối với các hộ gia đình ở thành phố, các chính sách về đào tạo nghề và

giải quyết việc làm cần được ưu tiên. Ngoài ra, các chính sách khác về phát

triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần được ưu tiên và tạo điều kiện để phát

triển. Trang bị các kỹ năng và kiến thức về kinh doanh du lịch, dịch vụ, tiểu

thủ công nghiệp,… để các hộ gia đình chủ động lựa chọn mô hình phù hợp

cho sự phát triển kinh tế của mình.

2.2.3 Nâng cao chất lƣợng giáo dục gia đình nhằm phát huy vai trò

của nó trong xây dựng lối sống của con ngƣời Việt Nam hiện nay

101

Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá

trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá

trị tiên tiến của thời đại về gia đình. Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình

trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia

đình nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam.

Để nâng cao chất lượng giáo dục của gia đình nhằm phát huy vai trò

của nó trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay thì cần làm

những việc cụ thể như:

- Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững

là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục gia đình cũng như phát huy

vai trò của nó trong xây dựng lối sống cho con người Việt Nam hiện nay.

+ Một gia đình ấm no vừa phù hợp với quan niệm duy vật lịch sử và

triết lý phương Đông “Dĩ thực vi thiên”, vừa đáp ứng được nhu cầu, nguyện

vọng của mỗi thành viên trong gia đình, là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia

đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Tất nhiên, ấm no phải xuất

phát từ chính sức lao động, sự năng động, sáng tạo của mọi thành viên trong

gia đình một cách chân chính. Yêu cầu về ấm no của gia đình ngày nay không

còn dừng lại ở ăn no, mặc ấm nữa mà nó đã phát triển lên nấc thang mới, đó

là ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi hiện đại, văn minh. Đó là sự nhu cầu chính

đáng, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế xã hội, phù hợp với các quy luật

của tự nhiên và xã hội. Ngày nay, việc xây dựng gia đình ấm no phải được

Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu trong các Chiến lược, Chương trình, Kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội thông qua các chính sách như: xoá đói, giảm

nghèo; khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, kinh tế

hợp tác xã; chính sách ưu tiên, ưu đãi, trợ cấp khuyến học,…

+ Xây dựng gia đình bình đẳng với các tiêu chí như: sinh hoạt dân chủ,

tự do giữa các thành viên. Điều đó tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên bởi

102

bình đẳng là cách để cha mẹ, ông bà lắng nghe, chia sẻ với con cái những

khúc mắc trong cuộc sống, tháo gỡ những khó khăn trong học tập và lao

động. Nó cũng là tiền đề để xây dựng sự bình đẳng về giới, trước hết là bình

đẳng giữa vợ và chồng, kế đến là bình đẳng giữa các thành viên khác trong

gia đình với nhau, giữa các thế hệ trong gia đình. Bình đẳng cũng là cách để

mỗi thành viên trong gia đình thể hiện những khát vọng, đam mê, sở thích của

mình và được các thành viên khác góp ý, điều chỉnh sao cho phù hợp nhằm

hướng tới sự phát triển toàn diện về bản thân cho mỗi cá nhân cụ thể.

+ Xây dựng gia đình tiến bộ phải gắn liền với sự tiến bộ của mỗi cá

nhân và sự tiến bộ của toàn xã hội. Sự tiến bộ của gia đình phải bắt đầu bằng

sự nhận thức và sự đồng thuận của các thành viên nhằm hướng tới xây dựng

một gia đình văn hoá, trong đó thể hiện đầy đủ các tiêu chí như: ấm nó, bình

đẳng, hạnh phúc, tiến bộ và bền vững. Gia đình tiến bộ ngày nay phải gắn

chặt chẽ với việc tuân thủ các quy định của pháp luật, gắn với cuộc sống cộng

đồng trên cơ sở tương thân, tương ái. Sự tiến bộ của gia đình cũng thể hiện

thông qua việc có thể thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu không ngừng

gia tăng của mỗi thành viên trong gia đình về kinh tế, văn hoá, nghệ

thuật,…để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho việc giáo dục gia đình.

+ Việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ là cơ sở để xây

dựng gia đình hạnh phúc và bền vững, đây cũng là môi trường tốt cho việc

giáo dục gia đình và phát huy mạnh mẽ vai trò của gia đình trong xây dựng

lối sống cho con người Việt Nam hiện nay. Một gia đình hạnh phúc và bền

vững được tạo nên bởi sự đảm bảo thoả mãn mọi nhu cầu về vật chất, tinh

thần, được hưởng không khí gia đình cởi mở, đầy tình yêu thương giữa các

thành viên; sự bình đẳng giữa chồng và vợ, sự tôn trọng giữa cha mẹ và con

cái, sự quan tâm, chia sẻ giữa các thế hệ khác nhau trong gia đình,…Chỉ khi

nào có một gia đình bền vững thì khi đó xã hội mới phát triển bền vững được

103

và có như thế mới thể hiện sự phù hợp trong lối sống của người Việt Nam

trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay.

- Tăng cường sự liên kết giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội,

trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục gia đình đối với việc hình thành nhân

cách và lối sống cho con người Việt Nam. Gia đình, nhà trường và xã hội vừa

là những chủ thể và là những thiết chế có chức năng giáo dục, xã hội hoá cá

nhân cũng như xây dựng lối sống cho con người ở các khía cạnh không giống

nhau. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, vai trò của mình, các thiết

chế này cần sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Sự phối hợp giữa các

môi trường giáo dục phải được thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương

pháp và nghệ thuật, tránh phô trương, đề cao môi trường này, coi nhẹ môi

trường khác. Đồng thời, sự phối hợp ấy cũng phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục và đồng bộ, trong đó cần phát huy ưu thế của giáo dục gia

đình thông qua tình cảm yêu thương ruột thịt, có sự liên kết nhiều mặt và

mang hiệu quả cao.

- Nâng cao năng lực giáo dục con cái cho các bậc cha mẹ. Cha mẹ là

những người chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con

cái, do đó việc giáo dục con cái sẽ không đem lại kết quả mong muốn nếu

năng lực giáo dục của cha mẹ yếu kém. Từ thực tiễn cho thấy, một trong

những nguyên nhân khiến nhiều người trong đó có thế hệ trẻ có lối sống lệch

lạc dẫn tới hư hỏng, phạm tội, gia đình mâu thuẫn, trẻ em thất học,… phần

chủ yếu là do trình độ văn hoá và năng lực giáo dục của cha mẹ yếu, nội dung

và phương pháp giáo dục hạn chế và bất cập. Để khắc phục tình trạng này,

ngoài sự chủ động, tự giác của cha mẹ còn cần đến sự quan tâm của Đảng,

Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội trong chủ trương, chính sách về giáo

dục, trong đó coi việc nâng cao kiến thức văn hoá và tâm lý là tiền đề và điều

kiện quan trọng nhất, quyết định hiệu quả của việc phát huy vai trò của gia

đình trong xây dựng lối sống hiện nay.

104

- Cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ

theo hướng toàn diện hơn, tri thức hơn, dân chủ hơn nhằm phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo của thế hệ này trong học tập và sinh hoạt. Nội dung

giáo dục gia đình ngày nay ngoài giáo dục đạo đức, giữ gìn gia phong thì cần

quan tâm hơn đến các nội dung khác như: ý thức phát luật, trách nhiệm xã hội

và ý thức cộng đồng, văn hoá giao tiếp, ý thức lao động,…nhằm hướng tới

nội dung toàn diện hơn, hun đúc cho các thành viên trong gia đình, nhất là thế

hệ trẻ ước mơ và hoài bão trên con đường lập thân, lập nghiệp và xây dựng

đất nước. Ngoài nội dung, thì phương pháp giáo dục gia đình cũng cần thay

đổi, ít áp đặt, mệnh lệnh mà thay thế nó bằng phương pháp kết hợp giữa

quyền uy và tình thương, bằng sự định hướng và khích lệ; tôn trọng, lắng

nghe và chia sẻ với con cái để hiểu con hơn và dạy dỗ tốt hơn.

Giáo dục gia đình sẽ tạo nên “con nhà công, không giống lông cũng

giống cánh”; “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy”; “Cha nào con nấy”,... Do đó, chất

lượng giáo dục gia đình quyết định hiệu quả việc phát huy vai trò của chủ thể

này trong xây dựng lối sống cho con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

hiện nay.

105

Tiểu kết chƣơng 2

Nền văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức phát triển trong xu thế toàn

cầu hoá đang tạo sự thay đổi mạnh mẽ trong lối sống của người Việt Nam

hiện nay. Sự thay đổi ấy là cần thiết và đúng quy luật phát triển, cũng vì thế

mà vị trí, vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống cho con người Việt

Nam được xem trọng và phát huy.

Xuất phát từ thực tiễn việc phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng

lối sống cho con người Việt Nam trong thời gian qua, nội dung chương này

đã đi sâu phân tích những điểm mạnh, mặt yếu của gia đình trong xây dựng

lối sống, đồng thời đề xuất các giải pháp để nâng cao hơn nữa vị thế, vai trò

của gia đình đối với vấn đề này. Những giải pháp được đề cập trong chương

này sẽ là đòn bẩy, giúp phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của gia đình trong

xây dựng lối sống cho con người Việt Nam hiện nay.

106

KẾT LUẬN

Xã hội mà chúng ta đang sống đang phát triển vào giai đoạn của nền

văn minh trí tuệ, của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Hội nhập là xu thế

tất yếu của yêu cầu phát triển đất nước và để hội nhập thành công thì mỗi con

người Việt Nam cần phải đổi mới mạnh mẽ, trong đó có đổi mới về lối sống.

Nhưng để đổi mới lối sống thì chúng ta phải nhận thức đúng đắn và sâu sắc về

vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam, về

những ưu điểm để phát huy và cả những nhược điểm để khắc phục.

Mỗi người Việt Nam ngày nay có thể tự hào về những ưu điểm trong

lối sống của con người Việt Nam như lòng yêu nước nồng nàn; ý chí tự cường

dân tộc; tinh thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng

xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung; trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần

cù; sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối

sống; tinh thần lạc quan; hiếu học; coi trọng gia đình; hiếu khách; cởi mở;

mềm dẻo; linh hoạt,… Bởi vì, chính nhờ có những ưu điểm về lối sống đó mà

dân tộc ta mới tồn tại và không ngừng phát triển trong lịch sử hàng ngàn năm

đấu tranh gian khổ dựng nước và giữ nước. Bên cạnh đó, lối sống của người

Việt vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục để phát triển trong thời gian tới.

Trong luận văn này, trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã có,

tác giả đề tài đã cố gắng làm rõ thêm những vấn đề vừa có tính lý luận và thực

tiễn về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống cho người Việt Nam hiện

nay. Bằng các cách tiếp cận khác nhau trong phương pháp nghiên cứu mà đề

tài: “Vai trò của gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam

hiện nay” về cơ bản đã đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên

cứu đề ra. Kết quả nghiên cứu có thể khái quát là:

107

Một là, Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận chung về lối sống, vai trò

giáo dục lối sống của gia đình trong hình thành lối sống của con người Việt

Nam.

Hai là, nêu lên và phân tích được thực trạng vai trò của gia đình trong

giáo dục lối sống của con người Việt Nam những năm đổi mới vừa qua, bao

gồm cả những thành tựu và hạn chế của nó.

Ba là, đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của gia đình trong

xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, vấn đề phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống

của con người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là xác định được những nhược

điểm và nguyên nhân của chúng là một việc làm khá phức tạp, bởi lối sống là

một nội dung cơ bản quy định đặc điểm của con người - nói đến con người là

nói đến lối sống của họ. Để nghiên cứu lối sống của một con người thì phải

nghiên cứu tất cả các phương diện tự nhiên và xã hội của họ - đây là nhiệm vụ

nghiên cứu liên ngành của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nếu việc

nghiên cứu về lối sống của một con người phức tạp như thế nào thì việc

nghiên cứu về vai trò của gia đình trong hình thành lối sống của một con

người còn phức tạp hơn, chưa kể đó là một cộng đồng, một dân tộc vì người

với người: chẳng ai giống ai, “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Bên cạnh

đó, còn phải chỉ rõ mặt mạnh, mặt yếu của việc phát huy vai trò của gia đình

trong xây dựng lối sống hiện nay.

Do tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu như vậy nên kết quả nghiên

cứu của tác giả luận văn còn chưa đầy đủ và sâu sắc. Tác giả hy vọng rằng

công trình này sẽ góp phần nhỏ vào việc làm rõ thêm về một chủ thể trong

xây dựng lối sống của người Việt Nam chúng ta. Tác giả rất mong sự đóng

góp ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý chuyên môn và đông đảo

độc giả để có thể hoàn thiện hơn về những nội dung mà đề tài này đã đề cập ở

các công trình nghiên cứu tiếp theo./.

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chung Á – Nguyễn Đình Tấn (1996), Nghiên cứu xã hội học, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

3. Huỳnh Thanh Ân (1997), Ý kiến trao đổi về công tác xây dựng đời

sống văn hóa ở cơ sở, Nxb Hà Nội.

4. Báo Giáo dục và thời đại, số ra ngày 10-3-2009.

5. Mai Huy Bích,(1997) Lối sống gia đình ngày nay, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

6. Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002),

Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đông chủ biên) (2003), Mấy

vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện

nay,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2001), Xây dựng tư tưởng đạo đức lối

sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kì đẩy mạnh

CNH-HĐH đất nước,Viện văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V BCH

Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày

9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn

hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất

nước.

15. Trần Văn Giầu (1980), Giá trị tinh thần của truyền thống dân tộc Việt

Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Nguyễn Ngọc Hà (Chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy lối sống của con

người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

17. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2004), Tâm lí người Việt Nam đi vào

công nghiệp hóa, hiện đại hóa- Những điều cần khắc phục, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

18. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

19. Nguyễn Hùng Hậu (2001), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trước xu thế

hội nhập, toàn cầu hóa, Báo cáo tại Hội Thảo khoa học Quốc tế “ Giá

trị truyền thống trước thách thức toàn cầu hóa ”, Hà Nội.

20. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

21. Lê Như Hoa (1998), Bản lĩnh văn hóa Việt Nam- Một hướng tiếp cận,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

22. Phan Thanh Hùng (1996) Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế

thị trường hiện nay, Luận văn th.s, Hà Nội.

110

23. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trưởng văn hóa ở nước ta hiện nay nhìn

từ góc độ giá trị học,Viện văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

24. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống- nhân lõi và sức sống

của sự phát triển đất nước, dân tộc, Báo cáo tại Hội thảo truyền thống,

giá trị về sự phát triển, Hà Nội.

25. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

26. Vũ Khiêu (Chủ Biên) (2000), Văn hóa Việt Nam - Xã hội và con người,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Thế Kiệt (2006), Một số giá trị đạo đức Việt Nam: Từ truyền

thống đến Hồ Chí Minh”Tạp chí Lí luận chính trị.

28. Nguyễn Thế Kiệt (2012), “Mấy vấn đề về đạo đức học macxit và xây

dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”,

Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

29. Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (Chủ Biên) (1994), Các giá trị truyền

thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình KHCN cấp Nhà

nước KX. 07, đề tài KX 07-02, tập I, Hà Nội.

30. Nguyễn Thế Long (1999), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động.

31. Thanh Lê (Chủ biên), Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hóa,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. A.Macarencô (1978) Nói chuyện về giáo dục Gia đình, Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

33. C.Mác – Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

34. C. Mác- PhĂngghen(1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập,Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111

36. Hồ Chí Minh(2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Petrecnhicova (1977) Giáo dục trong gia đình Mác, Nxb thanh niên,

Hà Nội.

38. Tạp chí Cộng sản (2015), Yêu cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ cán

bộ thời kỳ hội nhập quốc tế

39. Lê Thi (1994) Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” Nxb KHXH, Hà

Nội.

40. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con

người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nôi.

41. Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh.

42. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa của dân

tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ

Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

43. Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc

độ văn hóa truyền thống dân tộc), Nxb Văn hóa thông tin và Viện văn

hóa, Hà Nội.

44. Tổng cục Thống kê (2015): Niên giám thống kê, Nxb Thống kê.

45. Tổng cục Thống kê: Kết quả cuộc Tổng điều tra mức sống hộ gia đình

năm 2012 (http://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=444&idmid=5 ).

46. Nguyễn Đình Tường (2002), Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị

đạo đức trong kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc

phục, Tạp chí triết học, (số 6).

47. Nguyễn Mạnh Tường (2001), Chủ nghĩa yêu nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

112

48. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, (1994), Văn hoá và

phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX - 06,

Hà Nội.

49. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) (1995), Giá trị- định hướng giá trị

nhân cách và giáo dục giá trị, Chương trình KHCN cấp Nhà nước

KX07, Đề tài KX.07-14, Hà Nội.

50. Nguyễn Ngọc Vân (1995), Giá trị truyền thống và hiện đại, Tạp chí

Thông tin khoa học xã hội, (số 11).

51. Trần Nguyên Việt (2002), Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái

phổ biến toàn nhân loại của đạo đức kinh tế thị trường, Tạp chí Triết

học, (số 5).

52. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo

đức, chuẩn mực giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Vinhi ốpsxki(1982), Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

113

54. http://hn.sieuthismartphone.vn/detail/news/soc-voi-hon-mot-phan-3-tre-

em-duoi-1-tuoi-tren-the-gioi-su-dung-thanh-thao-dien-thoa).

55.http://www.nhandan.com.vn/hangthang/doisongxahoi/van-hoa-gia-

dinh/item/13042702-.html

56. http://moitruong.hau.edu.vn/hoat-dong/viet-nam/can-giao-duc-y-thuc-bao-

ve-moi-truong-cho-hoc-sinh-sinh-vien_t12-c002002-a24-ma.html

Website:

1. http://www.baogiadinh.vn

2. http://www.cpv.org.vn

3. http://www.tapchigiadinh.org.vn

4. http://www.cuocsongviet.com.vn

5. http://www.psc.edu.vn

6. http://tuoitre.vn

7. http://hanoimoi.com.vn

8. http://www.baomoi.com

9. http://www.vietnamnet.vn

10.http://tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=32722&pr

int=true).

11.http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic

=191&subtopic=9&leader_topic=990&id=BT1261456140).

114