ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------
ĐẶNG THỊ NGA
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------
ĐẶNG THỊ NGA
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Văn Duyên
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Dương Văn Duyên. Các số liệu được sử dụng trong luận
văn là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả trình bày
trong luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: LỐI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY
DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 8
1.1. LỐI SỐNG VÀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY ......................................................................................... 8
1.1.1. Lối sống ........................................................................................... 8
1.1.2. Xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay………….18
1.2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY .. 36
1.2.1. Gia đình Việt Nam hiện nay ......................................................... 36
1.2.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của con người Việt
Nam hiện nay ........................................................................................ 444
Tiểu kết chương 1...................................................................................... 544
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP ............................................................................................................ 555
2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG
LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ...................... 555
2.1.1. Những kết quả đạt được .............................................................. 555
2.1.2 Những hạn chế của gia đình trong xây dựng lối sống của con người
Việt Nam hiện nay ................................................................................ 833
2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 922
2.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây
dựng lối sống con người Việt Nam hiện nay ........................................ 922
2.2.2. Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của các gia đình là điều kiện
quan trọng để xây dựng con người mới có lối hành xử phù hợp với tự
nhiên, với gia đình và xã hội và lối tiêu dùng văn minh ..................... 9797
2.2.3 Nâng cao chất lượng giáo dục gia đình nhằm phát huy vai trò của
nó trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay .......... 1011
Tiểu kết chương 2.................................................................................... 1066
KẾT LUẬN .............................................................................................. 10707
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 10909
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT.
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
CNH – HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.
CNXH Chủ nghĩa xã hội 2.
XHCN Xã hội chủ nghĩa 3.
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế năm 2014 . 61
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam năm 2014 .................................. 62
Bảng: 2.1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước những năm gần đây ...... 63
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là một thiết chế cơ bản trong cơ cấu tổ
chức xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức
quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Gia đình không chỉ là
nơi duy trì nòi giống, mà còn là chỗ dựa tinh thần hết sức quan trọng cho mỗi
thành viên. Gia đình cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường giáo dục và
hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, nhắc nhở các thành viên tôn trọng kỷ
luật lao động, tạo dựng kỹ năng sống cho các thành viên. Do vậy, giáo dục
trong gia đình là rất quan trọng, thông qua gia đình mà lối sống của mỗi con
người được định hình cụ thể trong xã hội.
Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Nói đến lối sống là
nói đến cả khía cạnh văn minh nhân loại và truyền thống của một dân tộc và
nó chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội và toàn bộ những điều
kiện sống của con người. Lối sống của con người Việt Nam được hình thành
do điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, trước hết là tâm lý và văn hóa dân tộc
Việt Nam. Do vậy, lối sống của người Việt Nam là sự hóa thân của các đặc
điểm truyền thống dân tộc mang những nét riêng bản sắc của con người và
văn hóa Việt Nam.
Gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân khi chào
đời và quá trình phát triển, liên tục được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ
các thành viên khác. Gia đình giáo dục các thành viên thông qua các mối quan
hệ đặc biệt. Đó là quan hệ ruột thịt giữa mẹ, con, quan hệ huyết thống giữa
cha, con, tình cảm của anh chị em ruột, của bố mẹ, ông bà. Quá trình xã hội
hóa cá nhân bắt đầu từ khi các thành viên xác định vị trí, vai trò của mình
trong các mối quan hệ ấy. Gia đình thông qua thái độ, tâm lý, tình cảm và mối
liên hệ thường xuyên, bền bỉ đã truyền thụ cho mỗi cá nhân những khuôn mẫu
1
và chuẩn mực xã hội để ứng xử đúng trong gia đình và ngoài xã hội. Qua mối
quan hệ đặc biệt, thái độ, tình cảm tâm lý gia đình từng bước uốn nắn những
hành vi lệch lạc, ngăn chặn những hành vi trái với chuẩn mực xã hội ở từng
thành viên. Việc giáo dục và hình thành lối sống của con người thông qua gia
đình có tính chất đặt nền móng, mang tính truyền thống gia phong, thực hiện
bước đi đầu tiên. Gia đình là xuất phát điểm và nền tảng của giáo dục con
người, là trường học đầu tiên của con người. Do vậy, việc phát huy tầm quan
trọng của gia đình trong việc hình thành lối sống mang nét đặc trưng của con
người Việt Nam “vừa hồng, vừa chuyên” hiện nay là hết sức cần thiết.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo là một sự nghiệp cách mạng to lớn, sâu sắc và toàn diện nhằm
mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng quan trọng nhất của quá
trình đổi mới là sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi về kinh
tế đã làm biến đổi mạnh mẽ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội.
làm thay đổi bộ mặt xã hội và nhiều thiết chế cơ sở. Là tế bào của xã hội, gia
đình Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ quá trình chuyển đổi ấy. Trước
hết, cơ sở và điều kiện kinh tế của gia đình và xã hội thay đổi và ngày càng
được nâng cao. Sự sôi động của kinh tế thị trường đã khơi dậy những tiềm
năng tiềm ẩn của các gia đình, khai thác và phát huy có hiệu quả sức sáng tạo
to lớn của các gia đình trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện để gia
đình đóng góp tích cực vào sự ổn định và phát triển chung của đất nước.
Nhưng kinh tế thị trường với những mặt trái của nó cũng tác động tiêu
cực đến gia đình. Hệ luỵ của cơ chế cạnh tranh trong kinh tế thị trường là nạn
thất nghiệp, thiếu việc làm, sự “vạn năng”của đồng tiền và gia tăng các tệ nạn
xã hội,… đã khiến cho gia đình có những xáo trộn trong việc thực hiện các
2
chức năng của mình. Phân hoá giàu nghèo cũng tạo nên những gia đình yếu
thế; sự hối hả của công việc khiến các thành viên trong gia đình dành ít thời
gian cho nhau hơn dẫn đến ít hiểu và chia sẻ với nhau dẫn tới dễ xung đột,
thậm chí là đổ vỡ.
Do đó, xây dựng một lối sống tích cực là nhu cầu khách quan và yêu
cầu ấy đặt ra vấn đề nâng cao vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống tích
cực cho mỗi con người Việt Nam hiện nay càng trở nên bức thiết.
Gia đình Việt Nam hiện nay cần xây dựng dựa trên sự kế thừa các yếu
tố của gia đình truyền thống và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị cốt lõi của gia
đình hiện đại. Để có thể làm được điều đó, cần phải củng cố thiết chế gia
đình, điều kiện khách quan để xã hội hóa cá nhân trong gia đình, thiết lập
mạng lưới giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục để hình thành
lối sống tốt đẹp cho mỗi cá nhân.
Với nhận thức đó, tôi chọn: “Vai trò của gia đình với xây dựng lối
sống của con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện
nay, từ lâu đã được các nhà Giáo dục, Tâm lý học, Xã hội học nghiên cứu tiêu
biểu là công trình của tập thể tác giả Xô Viết “Lối sống xã hội chủ nghĩa’’,
trong công trình này các tác giả đã đề cập đến nhiều khái niệm lối sống, nội
dung và bản chất của lối sống xã hội chủ nghĩa, cơ sở kinh tế chính trị của lối
sống.
Trong những năm 80 ở nước ta cũng đã xuất hiện những công trình đề
cập đến vấn đề lí luận về lối sống như tác giả Hà Xuân Trường với bài báo:
“Từng bước xây dựng nền văn hóa mới”, tác giả Vũ Khiêu với “Lối sống là
gì?”, Phong Châu và Nguyễn Trọng Thụ: “Về lối sống của chúng ta”và những
3
vấn đề về lối sống cũng được tác giả Lê Hoa trình bày trong “Bàn về lối sống
và nếp sống xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là nghiên cứu lí luận, đưa ra hệ
thống các khái niệm, các mặt nghiên cứu về lối sống ở Việt Nam theo mô
hình xã hội chủ nghĩa thời bao cấp (trước năm 1986). Tác giả Huỳnh Khái
Vinh cũng có công trình nghiên cứu của mình: “Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn mực giá trị xã hội”. Trong cuốn sách này, tác giả đưa ra phạm
trù lối sống rất sâu sắc. Trong sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế,
xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thì tác giả Trần Độ (chủ biên), Nxb Văn hóa (năm 1985),
cũng đề cập đến: “Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa”. Trong đó,
phần thứ nhất của cuốn sách bàn về nếp sống và lối sống xã hội chủ nghĩa.
Phần thứ hai, các tác giả tập trung bàn về các giải pháp xây dựng lối sống, nếp
sống xã hội chủ nghĩa.
Trong các công trình nêu trên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề cơ sở lí
luận nghiên cứu lối sống theo các quan điểm khác nhau và mới trên bình diện
lí thuyết, phương pháp luận nghiên cứu về lối sống, xây dựng về lối sống mới
xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề gia đình Việt Nam đã nhận được sự quan tâm của chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong các đại hội Đảng đều có một
phần nói về gia đình.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản
Việt Nam nhấn mạnh: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng
và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình
thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên
cứu liên quan đến gia đình: “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”do GS Lê
Thi (chủ biên) Nxb KHXH, (Hà Nội, năm 1994); “Gia đình Việt Nam với
chức năng xã hội hóa”của TS Lê Ngọc Văn - Nxb Giáo dục, (Hà Nội, năm
4
1996); “Vai trò gia đình trong sự hình thành nhân cách con người Việt Nam”
của GS Lê Thi (chủ biên) - Nxb Phụ nữ, (Hà Nội, năm 1997).
Trong các tư liệu này, các tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ
những hiểu biết về gia đình, trang bị những kiến thức khoa học để nuôi dạy
con cái thành những công dân tốt có ích cho xã hội với những nội dung chăm
sóc gia đình hết sức cơ bản: Đức, trí, thể, mỹ và lao động.
Dưới góc độ chuyên ngành, có một số luận văn, luận án nghiên cứu các
vấn đề Gia đình, Phụ nữ; Gia đình - Giáo dục gia đình, Luận án T.s của Đặng
Thị Linh: “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay - Thực trạng và
giải pháp” (Hà Nội, năm 1997); Luận án T.S của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò
của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện
nay” (Hà Nội, năm 2001); Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt
Nam vai trò người phụ nữ hiện nay” (Hà Nội, năm 2003)
Các công trình này góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực
tiễn vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của con người. Tuy
nhiên, căn cứ vào sự phát triển của thời đại hiện nay thì vai trò của gia đình
trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay là một vấn đề mới,
chưa có các công trình chuyên sâu nghiên cứu mặc dù đây là một trong những
yếu tố quan trọng tạo nên sự văn minh và phát triển của xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích vai trò và thực trạng thực hiện vai trò
của gia đình Việt Nam trong xây dựng lối sống con người Việt Nam trong
những năm đổi mới, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn
nữa vai trò của gia đình trong hoạt động này.
- Nhiệm vụ: bao gồm:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về lối sống, vai trò giáo dục lối
sống của gia đình trong hình thành lối sống của con người Việt Nam
5
+ Nêu lên thực trạng vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của
con người Việt Nam những năm đổi mới vừa qua.
+ Đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của gia đình trong xây
dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về gia đình, gia đình
với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn: phương pháp luận
chung là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghỉ duy vật lịch sử. Ngoài ra,
còn sử dụng tổng hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, lôgic,
so sánh, điều tra xã hội học,…
5. Đối tƣợng và phạm vi
- Đối tượng: vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người
Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: xem xét một số phương diện về vai trò của gia
đình trong xây dựng lối sống của con người việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
6. Đóng góp mới cho luận văn
- Khái quát vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người
Việt nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả
trong việc xây dựng lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn đổi
mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về mặt lí luận gia đình với
xây dựng lối sống của con người Việt Nam.
6
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn
đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương 4 tiết.
7
CHƢƠNG 1: LỐI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY
DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. LỐI SỐNG VÀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.1.1. Lối sống
1.1.1.1. Khái niệm
Lối sống là phạm trù bao quát một bình diện rộng lớn của con người và
xã hội. Do đó, có nhiều ngành khoa học nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận
khác nhau như: triết học, xã hội học, kinh tế chính trị học, văn hoá học....Một
trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “lối sống”như một khái niệm
khoa học là một học giả người Đức - Max Weber (1864- 1920).
Đến nay, mặc dù đã có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập đến khái
niệm lối sống nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về vấn đề này.
C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”có viết: “Không
nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái
sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức
hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt
động sống của họ, một phương thức sinh sống của họ”. [34, tr.30].
Như vậy, C. Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại
của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con
người, là phương thức sinh sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống.
Theo C. Mác, lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của con
người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tuy chịu sự quyết
định của phương thức sản xuất, nhưng lối sống không phải là sản phẩm thụ
động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và những điều kiện sống khác.
Bởi lẽ, phạm vi của lối sống rộng hơn phương thức sản xuất. Ngoài những
8
hoạt động vật chất, con người còn có hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật,...
Do vậy, phạm vi của lối sống tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội gắn với hoạt động mọi mặt của con người
nhưng nó là một hiện thực khách quan, độc lập với ý thức và tình cảm con
người. Trong khi đó, lối sống phản ánh hoạt động chủ thể, bao gồm: nhận
thức, tình cảm, động cơ, hành vi, ứng xử, thể chế xã hội...và cả những mối
liên hệ giữa chúng. Nhiều mặt của lối sống có tính chất độc lập tương đối so
với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Lối sống của con người là kết quả
hoạt động và tổ chức của con người trong quá trình thích nghi và biến đổi
hoàn cảnh sống mà con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể
sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính nó. Lối sống là biểu hiện của cái xã hội
trong cái cá nhân, cho nên nó có tính linh hoạt và cơ động cao.
Có thể nói, “lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế - xã hội trong nhận
thức, tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá
nhân của con người” [52, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế -
xã hội khác nhau, sẽ có lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái
kinh - tế xã hội có giai cấp, nhất là có đối kháng giai cấp thì lối sống mang
tính giai cấp.
Theo từng cách tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt
động và tổng thể những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của những
cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội, TS. Rútkêvich cho rằng: “Lối
sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động
của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều
kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [53, tr.45]. Còn
G.Glezerman cho rằng: “Lối sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên đặc
điểm của hoạt động sống của xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế -
xã hội nhất định” [52, tr 18].
9
Dựa vào phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát tất
cả những điều kiện và những nhân tố quyết định lối sống, để xác định nội
dung lối sống, TS triết học V.I.Tônxtưkhơ có định nghĩa: “Lối sống là những
hình thức cố định, điển hình của họat động sống cá nhân và tập đoàn của con
người; những hình thức ấy nói lên đặc điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp
nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội - chính trị, sinh
hoạt và giải trí” [53, tr 17- 18].
Cùng với quan điểm xem xét lối sống là một phương thức hoạt động,
I.V.Bextugiep cho rằng: “Lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt
động sống của con người, thì điều hợp lý là lấy các hoạt động sống quan
trọng nhất làm nền tảng cho cơ cấu của lối sống, các lĩnh vực đó ta đều biết
là: lao động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã hội và văn hoá xã hội”[Trích
dẫn 18, tr.19]. Ở góc độ khác, M.N. Rutkêvich còn khẳng định, lối sống chịu
sự quyết định của phương thức sản xuất, khái niệm “lối sống”và khái niệm
“phương thức sản xuất”liên hệ chặt chẽ với nhau. Ông viết: “Lối sống là một
trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan
chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối với nó là phương thức
sản xuất của cải vật chất”[53, tr 12]. Theo hướng này, Z.Dunốp khẳng định
“lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về
mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức hành vi
hàng ngày, ổn định và điển hình của con người”[Trích dẫn 52, tr.19]. Định
nghĩa này cho thấy lối sống chịu sự quy định của điều kiện vật chất, mà nó
chính là nền tảng để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và
xã hội. Ở Việt Nam, cũng có những định nghĩa khác nhau về lối sống, “lối
sống”là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức.
Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật của con người và xã hội.
Hiện nay, nhiều từ điển Việt và Việt - Hán đã và đang lưu hành chỉ đề cập
10
khái niệm “lối sống giản dị” làm ví dụ minh hoạ cho từ “lối” và “nếp
sống”khi đề cập khái niệm “sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối sống và nếp
sống là kết quả của việc tạo từ trong ngôn ngữ tiếng Việt và là cách dùng
thuật ngữ khác nhau để dịch một thuật ngữ nước ngoài (Nga). Và “Sách cổ,
sách chữ Hán, sách chữ Nôm không có hai thuật ngữ này. Trong thời kỳ cận
đại và hiện đại (sau cách mạng tháng Tám) đã bắt đầu hình thành khái niệm
về cách thức, lề lối, nề nếp của con người trong sự sống. Các khái niệm trên
có thể mượn dịch hoặc phỏng theo từ nước ngoài” [21, tr.21]. Hiện nay khái
niệm lối sống được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: triết học, xã hội
học, tâm lý học....
Trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, khái niệm “lối sống”
được đề cập lần đầu tiên ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng.
Và tiếp tục được sử dụng trong các kỳ đại hội tiếp theo. Trong Nghị quyết
Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn
mạnh: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc,
chạy theo lối sống thực dụng... Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức,
lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có
chức, có quyền” [10, tr.46- 47]. Có thể nói, chưa bao giờ lối sống được Đảng
ta quan tâm sâu sắc như hiện nay. Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười,
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp tổng kết, đánh giá tình hình 5
năm thực hiện Nghị quyết năm, Ban chấp hành Đảng khóa VIII, Đảng ta đã
17 lần đề cập đến khái niệm lối sống.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề lối sống, các đề tài nghiên cứu
cấp Nhà nước cũng bắt đầu tập trung nghiên cứu vấn đề này. Mới đây, quan
điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp Nhà nước KX.06-13 được nêu
trong Báo cáo tổng kết chương trình KX-06 (1991-1995) cũng đưa ra quan
niệm: “Lối sống, trong chừng mực nhất định, là cách ứng xử của con người
11
cụ thể, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường
là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh
hưởng đến lối sống của con người, lối sống của các nhóm xã hội và cộng
đồng dân cư”[48, tr.12]. Định nghĩa này tiếp cận lối sống như một phương
thức hoạt động thực của con người trong một môi trường nhất định. Và lối
sống tuy bị quy định khách quan bởi môi trường sống nhưng khi trở thành văn
hóa, lối sống cùng với truyền thống văn hóa cải biến môi trường tự nhiên sao
cho phù hợp với hệ thống nhu cầu sống của con người. Do vậy, ở định nghĩa
này nó có ưu điểm là làm sáng rõ mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và
môi trường.
Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lối sống,
GS Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người”đã
quan niệm lối sống theo nghĩa rộng: “Lối sống là phạm trù xã hội khái quát
toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân
trong điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên
các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa
người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá” [26, tr.514].
Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và với một hình
thái kinh tế - xã hội, GS Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống
những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập
đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định” [31, tr.24]. Ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, khắc
hoạ những đặc điểm cá nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn
Văn Huyên cho rằng: “Lối sống là tổ hợp các mô hình, cách thức và phong
thái sống của con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực
hoạt động, từ sản xuất, tiêu dùng đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử
12
giữa con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với
phương tịên và mục đích sống” [24, tr 29].
GS.TS Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt
động sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất
định” [23, tr353]. Cùng với quan điểm này, TS Nguyễn Viết Chức trong
quyển: “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã định nghĩa:
“Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn
định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó, trong
sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”
[8, tr.66- 67].
GS.TS Huỳnh Khái Vinh trong bài “Kế thừa và phát triển nếp sống
thanh lịch của người Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” cũng cho rằng: Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp.
Nó bao gồm các mối quan hệ khác nhau của con người, kể cả đặc trưng sinh
hoạt của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định. Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối
sống là ở chỗ, cho rằng lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống
cơ bản của con người, từ lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội - chính trị và
giải trí.
Từ đó, chúng ta có thể khái quát về lối sống ở những đặc trưng cơ bản
sau đây:
+ Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hoà các hoạt động sống ổn
định của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân
trong cộng đồng. Vì vậy có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của
dân tộc, lối sống của giai cấp (nhóm xã hội), lối sống của cá nhân.
13
+ Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các
điều kiện sống của con người.
+ Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống
là hoạt động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có
tính người trong việc sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh
thần.
+ Thứ tư, tổng hoà các khuôn mẫu ứng xử, các thể chế xã hội được vận
hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong điều kiện kinh tế xã hội nhất
định, đó chính là nội dung và phạm vi của lối sống.
+ Thứ năm, lối sống nói chung mang tính văn hoá, bởi vì trong các
hành động xã hội, các quan hệ xã hội, thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử...
trong lối sống đều mang ý nghĩa văn hoá, hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp.
Như vậy, lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống
của con người thì điều hợp lí là lấy các lĩnh vực hoạt động sống quan trọng
nhất làm nền tảng cho cơ sở của lối sống các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao
động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã hội và văn hóa - xã hội.
Từ sự phân tích ở trên, có thể khái quát một cách chung nhất như sau:
Lối sống là tổng hợp những dạng hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân
tộc, giai cấp, nhóm xã hội…) và các cá nhân, được vận hành theo những
chuẩn mực giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Khái niệm trên bao gồm mấy vấn đề cơ bản sau:
+ Một là, lối sống bao gồm tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con
người trong một xã hội nhất định, lối sống biểu hiện qua quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với con người trong lao động sản xuất, trong
lĩnh vực chính trị, trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, trong ứng xử giao tiếp
hàng ngày. Lối sống là phương thức sống của con người trong một chế độ
14
nhất định được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như lao động sản
xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động hàng ngày
của con người.
+ Hai là, phương thức sản xuất và các điều kiện sống của con người
suy cho cùng nó quyết định đến lối sống của họ. Lối sống của con người trong
mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên: bao gồm
vị trí địa lí, đất đai, khí hậu, hệ động thực vật; các điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa, truyền thống…Trong các yếu tố đó thì điều kiện xã hội có ý nghĩa
quyết định. Trong đó, phương thức sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối
với chính trị - xã hội và văn hóa tư tưởng của mỗi quốc gia, dân tộc. Bởi vì lối
sống là thể thống nhất biện chứng giữa tự nhiên - cá nhân và xã hội, lối sống
của con người hình thành trong quá trình con người tham gia vào các hoạt
động, mà trước tiên phải là lao động sản xuất, sau đó là hoạt động chính trị -
xã hội và các hoạt động khác… và nó bị chi phối bởi các hoạt động đó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định mỗi phương thức sản xuất tạo
nên một cách sản xuất, cách sống tương ứng. Vì vậy, mỗi giai đoạn lịch sử
của từng dân tộc, từng địa bàn dân cư, từng cá nhân có lối sống riêng, nghĩa là
không có lối sống cho mọi thời đại, đặc biệt trong xã hội có giai cấp, bởi vậy
trong cùng một phương thức sản xuất cùng tồn tại nhiều lối sống khác nhau
thậm chí đối lập nhau. Tuy nhiên sự phụ thuộc lối sống đối với phương thức
sản xuất mang tính tương đối. Lối sống ngoài việc chịu quy sự quy định của
kinh tế còn chịu ảnh hưởng của văn hóa.
+ Thứ ba, lối sống nói chung mang giá trị văn hóa, là giá trị chung của
lịch sử nhân loại, hướng tới chân - thiện - mỹ vừa mang tính phổ quát, vừa
mang tính đặc thù. Phạm vi và nội dung của lối sống bao gồm: các khuôn mẫu
ứng xử, các thiết chế xã hội vận hành theo một bảng giá trị trong toàn bộ hoạt
động sống của dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những
15
điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và biểu hiện trong các
lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa con
người với con người trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa.
1.1.1.2. Một số khái niệm có liên quan đến lối sống là: mức sống, lẽ
sống, nếp sống.
- Mức sống là thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá nhu cầu vật chất và
tinh thần dã được thỏa mãn và có thể đo lường trực tiếp bằng số lượng.
+ Thông thường mức sống phản ánh trình độ con người đạt được trong
hoạt động sản xuất.
+ Mức sống được nâng cao là điều kiện vật chất cần thiết và có tính
khách quan để cải thiện lối sống.
+ Không đồng nhất mức sống với lối sống, vì lối sống còn chịu sự định
hướng và định tính của lẽ sống, định hướng giá trị và môi trường sống... Mặc
dù hai khái niệm này có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng mức liên hệ
ấy không phải trực tiếp, bởi vì cùng một mức sống giống nhau, lối sống có thể
khác hẳn nhau, thậm chí đối lập nhau. Điều này thể hiện rõ trong đời sống xã
hội có những người có đầy đủ điều kiện vật chất nhưng lại có lối sống thấp
kém, lệch lạc ngược lại có những người trong xã hội tuy họ không giàu về vật
chất nhưng lại giàu về tinh thần họ luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, đây là
biểu hiện của lối tốt đẹp trong xã hội.
- Lẽ sống là mặt ý thức của lối sống. Nó đề cập đến mục đích, ý nghĩa,
lý tưởng của cuộc sống, là ý chí khát vọng của con người. Lẽ sống phản ánh
mục đích của lối sống, định hướng cho cuộc sống.
Lẽ sống gắn liền với hệ tư tưởng, là thế giới quan, nhân sinh quan của
con người. Lẽ sống có vai trò “kim chỉ nam”cho cá nhân điều chỉnh hành vi
của mình, vì hạnh phúc của mỗi cá nhân, vì cộng đồng xã hội. Lẽ sống biểu
hiện ở quan điểm sống, mục đích sống, động cơ, thái độ lựa chọn các hoạt
16
động và các mối quan hệ trong cuộc sống. Một người có lẽ sống đúng đắn sẽ
góp phần hình thành lối sống tốt đẹp. Đối với giáo dục gia đình thì lẽ sống và
lối sống không bao giờ tách rời nhau. Khi các thành viên trong gia đình
hướng tới một lẽ sống cao đẹp thì có một lối sống theo hướng lành mạnh. Do
vậy có thể coi lẽ sống là mặt lý tưởng của lối sống, là nhân lõi của lối sống.
- Nếp sống là thuật ngữ rất gần gũi và gắn bó với thuật ngữ lối sống,
nếp sống có văn hóa. Trong cách nói thông thường thuật ngữ nếp sống nhiều
khi được dùng như lối sống. Tuy nhiên, nếp sống có nội dung hẹp hơn lối
sống.
Nếp sống là một bộ phận của lối sống được lặp đi lặp lại thành nề nếp,
thói quen,… Nghĩa là đã được định hình, định tính, đã được xác lập giá trị
thành một nét văn hóa, được các cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm theo và
được quy định thành điều ước (quy ước hay hương ước) hoặc luật pháp. Vì
thế, Giáo sư Vũ Khiêu có lí khi định nghĩa: “Nếp sống là toàn bộ những thói
quen được hình thành trong cuộc sống hàng ngày, những thói quen đã trở
thành nếp trong sản xuất, chiến đấu, trong mọi quan hệ xã hội và trong sinh
hoạt riêng tư của mỗi con người. Những thói quen ấy còn được gọi là tập
quán”. [26, tr.24].
Vì thế, nếp sống được hiểu là những phương thức hoạt động, hành vi
ứng xử của con người được lặp đi lặp lại thành thói quen trong sinh hoạt,
phong tục tập quán, hành vi đạo đức. Nếp sống là biểu hiện một trong những
mặt của lối sống. Lối sống của gia đình biểu hiện qua nề nếp sinh hoạt, nếp
sống hàng ngày, cách ăn nói hay chào hỏi lễ phép…
Như vậy, lối sống như một phạm trù trung tâm mà sự biểu hiện của nó
trên các mặt cụ thể đã làm thành các phạm trù khác. Mặt ý thức của lối sống
là lẽ sống, mặt ổn định của lối sống làm thành nếp sống, mặt trình độ của lối
sống làm nên mức sống. Do vậy từ góc nhìn này, xây dựng lối sống hiện nay
17
để tác động đến những mặt khác nhau của lối sống đạt đến những giá trị tốt
đẹp, tạo nên hạnh phúc và khả năng phát triển của cá nhân và cộng đồng.
Cũng từ đây cho chúng ta thấy xây dựng lối sống hiện nay thì phải xây dựng
trên nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực để có sự tác động tổng hợp đến cộng đồng
cũng như đến với gia đình và cá nhân cụ thể, từ đó giúp họ hướng tới lối sống
theo chuẩn mực tốt đẹp để hoàn thiện bản thân.
Quá trình hình thành lối sống bị quy định bởi phương thức sản xuất bởi
đặc điểm dân tộc. Lối sống một mặt chịu sự quy định của tồn tại xã hội mặt
khác tác động trở lại tồn tại xã hội. Một lối sống tích cực sẽ thúc đẩy xã hội
phát triển, ngược lại nó sẽ hạn chế và cản trở sự phát triển của xã hội.
- Lối sống có thể phân chia như sau:
+ Lối sống của một cộng đồng: dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội.
Trong xã hội có nhiều giai cấp, bên cạnh những đặc điểm chung của dân tộc
thì các giai cấp khác nhau có lối sống khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Lối
sống cá nhân vừa mang những dấu ấn của xã hội, mặt khác mang những đặc
điểm của cá nhân.
+ Lối sống có thể chia thành lối sống tích cực và lối sống tiêu cực. Lối
sống tích cực là lối sống phù hợp với yêu cầu của thời đại, thúc đẩy sự phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội đang tồn tại phát triển. Lối sống tiêu cực là
lối sống ngăn cản, kéo lùi sự phát triển của xã hội. Tất nhiên quan niệm tích
cực và tiêu cực cũng bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thời kỳ này,
giai đoạn này có thể là tích cực nhưng ở thời kỳ khác có khi là tiêu cực.
1.1.2. Xây dựng lối sống của con ngƣời Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng lối sống
của con người Việt Nam hiện nay
+ Thứ nhất, sự tác động của nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước:
18
Trong những năm gần đây, để đẩy mạnh phát triển kinh tế chúng ta
đang thúc đẩy quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm cho lực lượng sản xuất có bước
phát triển mới. Việc phân công lại cơ cấu sản xuất và phân công lao động xã
hội theo hướng công, nông nghiệp hiện đại đã dần khắc phục được tình trạng
lạc hậu của lực lượng sản xuất lao động thủ công, nông nghiệp manh mún.
Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nói đến một yếu tố quan trọng, đó là
khoa học và công nghệ. Với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, thì tri thức khoa học đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Do vậy nhu cầu học tập nâng cao trình độ khoa học kỹ
thuật, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ nhằm khai thác tiềm năng
sẵn có và phát triển sản xuất theo hướng đầu tư có hiệu quả đang là hướng
vận động phổ biến của xã hội ta hiện nay.
Sự ra đời của lực lượng sản xuất mới kéo theo sự thay đổi của quan hệ
sản xuất. Quá trình cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội đã tác động mạnh mẽ
tới việc biến đổi vị trí và các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Ở Việt
Nam hiện nay xu hướng chung vai trò của kinh tế cá thể càng được tăng lên.
Do vậy lợi ích căn bản của người lao động gắn chặt với hiệu quả sản xuất tạo
ra nhu cầu thôi thúc người lao động nâng cao trình độ hiểu biết khoa học, kỹ
thuật, đáp ứng nhu cầu của môi trường lao động mới. Sự hình thành một lực
lượng sản xuất mới về chất đem lại sự chuyển biến tích cực trong việc hình
thành lối sống công nghiệp trong xã hội hiện nay.
19
Khi bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều khó khăn nhất của
người Việt Nam là chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Điều đó sẽ dẫn đến kém sức sáng tạo, trình độ khoa học kỹ thuật thấp, kỹ
năng, kỹ sảo trong lao động yếu.. Do yếu tố tự nhiên của sản xuất ngày càng
phức tạp, tất yếu phải đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ của người công
nhân, các cán bộ quản lý để có thể áp dụng những thành tựu đó vào sản xuất.
Không những thế cạnh tranh đang buộc chúng ta duy trì khả năng sản xuất đã
có và phải cải tạo nó theo hướng nâng cao hiệu quả. Việc này chỉ có thể thực
hiện được bởi bản thân những con người Việt Nam mang kinh nghiệm sản
xuất, kiến thức khoa học - công nghệ cao.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa thì diện tích nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Sự dư thừa lao động phổ thông và tình trạng
thiếu việc làm đã thúc đẩy người dân không ngừng tìm kiếm các hoạt động
dịch vụ ngoài nông nghiệp. Cư dân nông thôn lên thành phố tìm đến những
công việc mới hoặc tìm cách đưa các sản phẩm nông nghiệp ra đô thị để tiêu
thụ, họ trở thành những người tiểu thương. Hiện nay luồng di chuyển từ nông
thôn ra đô thị diễn ra mạnh mẽ chưa từng có, điều này làm thay đổi cơ cấu lao
động, thay đổi nhân khẩu ở các địa phương. Do vậy, mới có tình trạng người
già và trẻ em ở lại làng, còn những người trai tráng thì ra khỏi làng để kiếm
tiền. Để thích nghi với môi trường mới, họ phải linh hoạt, nhạy bén, biết hạch
toán kinh tế, linh hoạt trong lao động sản xuất và kinh doanh. Đây cũng là sự
biến đổi lớn trong tư duy và lối sống của người dân nông thôn Việt Nam trong
thời gian qua. Quá trình đô thị hóa đang mở ra cho nông thôn nhiều vận hội
mới, cải thiện đáng kể đời sống vật chất, tinh thần cho đến môi trường vốn
bình yên của họ.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế - xã hội: Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng so với nông nghiệp và sản
20
xuất thủ công; dân số đô thị, nguồn lao đông công nghiệp tăng so với nông
thôn và nông nghiệp. Điều đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội và cùng
với nó là biến đổi sâu sắc lối sống trong nhân dân. Nhất là khi chúng ta hoà
mạng internet, quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá liên kết và hợp tác quốc
tế đã tạo điều kiện cho các giá trị và các lối sống của nhiều dân tộc khắp hành
tinh tác động tới lối sống từng cá nhân, gia đình và xã hội, người Việt Nam
được hướng theo lối sống công nghiệp, hình thành phong cách quan hệ có
tính sòng phẳng, thiết thực, thậm chí có khi đề cao tính thực dụng. Tâm lý tự
chủ lập thân, lập nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường tạo ra lối sống tự do
theo pháp luật, tự lo toan, làm giàu; lối tư duy táo bạo, khám phá, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm để nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Đó là lối sống
năng động, lấy hiệu quả làm tiêu chí và chuẩn mực.
Tổng hợp những vấn đề đó, Đảng ta đặt con người vào vị trí trung tâm
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn kiện Đại hội X
khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”[12, tr.94 - 95], Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI
của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức
mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt
Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển”[13, tr.77] .
Do vậy một trong những yếu tố mà Đảng ta quan tâm là việc xây dựng
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật công nhân lành nghề, đội
ngũ cán bộ quản lý ở nước ta cần thông qua hệ thống giáo dục đào tạo hoàn
21
chỉnh. Đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo thành sự nghiệp của toàn dân.Vừa đầu
tư theo chiều rộng vừa đầu tư theo chiều sâu. Kết hợp giáo dục mọi mặt cho
người lao động với chế độ đãi ngộ thích đáng đối với nhân tài, tạo mọi điều
kiện cho người lao động tích cực làm việc, phát huy hết tài năng, tránh tình
trạng bị mất chất xám như các nước đang phát triển trước đây và các nước
Đông Âu trong thập kỷ 90.
Chỉ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó chúng ta mới có thể có
được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ
quản lý có năng lực. Từng bước đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu mới của
công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới
đang phát triển như vũ bão hiện nay.
+ Thứ hai, sự tác động của nền kinh tế thị trường và yêu cầu của nó.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong
đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào”và “đầu ra”của sản xuất đều thông qua thị
trường.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho lối
sống của con người Việt Nam tất yếu phải có sự thay đổi. Đây là bước chuyển
về mặt sản xuất vật chất xã hội đã phức tạp, bước chuyển về mặt lối sống
càng phức tạp hơn. Đặc biệt, lối sống truyền thống, vốn dựa trên nền sản xuất
tiểu nông, có nhiều nhân tố không tương hợp với tính chất của kinh tế thị
trường. Từ đó, đòi hỏi ý thức của người lao động cũng cần phải có sự thay
đổi. Bất cứ lao động nào, làm việc gì, nghề gì, bằng sức lao động của mình
đem lại hiệu quả cao, bảo đảm được bản thân và gia đình. Để đạt được điều
đó buộc người lao động phải năng động, phải tự ý thức được việc mình làm,
tự họ phải xây dựng cho mình tác phong công nghiệp, cái này khác hẳn so lối
sống truyền thống trước kia là chậm chạp, vô kỉ luật trong lao động dẫn đến
hiệu quả kinh tế không cao và đây là nguyên nhân làm cho nền kinh tế không
22
phát triển. Sự biến đổi nhanh chóng của thị trường, kéo theo sự biến đổi nhu
cầu về vật chất, tinh thần của con người ngày càng phong phú trong mọi hoạt
động sản xuất đến sinh hoạt hàng ngày. Sự năng động nhạy bén của người lao
động được đền bù xứng đáng bởi kinh tế thị trường không chấp nhận lối phân
phối theo kiểu bình quân có phân biệt đẳng cấp hoặc cào bằng.
Có thể nói, ngoài mặt tích cực kinh tế thị trường cũng bộc lộ những tiêu
cực về tư duy và lối sống trong xã hội. Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa
xã hội sâu sắc, tạo sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa các ngành
nghề khác nhau ngày; làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong xã hôi. Sự tác động
của kinh tế thị trường làm phai nhạt lối sống tình nghĩa, làm rạn vỡ tinh thần
tập thể, sự ổn định gia đình, đồng thời làm nảy sinh lối sống cá nhân chủ
nghĩa, lối sống gấp, trụy lạc, vv…Do vậy việc hình thành một lối sống đẹp
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay sẽ giữ vai trò định hướng tốt
đến việc lựa chọn hành động cũng như phương thức hoạt động của con người
trong xã hội.
+ Thứ ba, sự tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới là quá
trình tự do hoá thương mại và đầu tư, làm cho các rào cản đối với trao đổi
thương mại và đầu tư bị loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước
tăng cường thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài,
phát triển nguồn lực bên trong. Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, có tác
động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, dân tộc và mỗi cá nhân con người. Sự tác
động đó thể hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của toàn
cầu hoá thể hiện ở những điểm sau:
23
Một là, tạo ra những cơ hội mà các nước có thể tận dụng đặc biệt về
khoa học công nghệ và tổ chức quản lý để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế và nâng mức sống.
Hai là, con người có điều kiện hơn để thoả mãn những nhu cầu vật
chất, tinh thần, phát huy khả năng sáng tạo, tạo cơ hội cho các tổ chức, cá
nhân phát huy mọi năng lực sẵn có của mình;
Ba là, thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc, kích thích các
luồng và các dạng giao lưu làm cho con người trên trái đất hiểu biết nhau hơn
và khảng định mình.
Bốn là, làm đa dạng, phong phú hơn đời sống văn hoá nhờ sự tương
tác giữa các nền văn hoá, sự tiếp thu những nét mới, hiện đại và tinh tuý của
văn hoá các dân tộc khác.
Bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hoá cũng có những mặt tiêu cực, đó là:
thách thức trong việc bảo vệ nền độc lập, tự chủ. Nhiều quyền lực của Nhà
nước với tư cách là chủ thể cơ bản có chủ quyền bị xói mòn, chuyển giao sang
tay kẻ khác. Nền văn hoá dân tộc của mỗi nước có thể bị chèn ép, lấn át bởi
bởi các loại văn hoá bên ngoài; biểu hiện rõ nét nhất là xu hướng coi thường,
thậm chí phủ nhận các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đồng thời đề
cao quá mức các giá trị ngoại lai. Sự gia tăng phân hoá giàu - nghèo và các
nền văn hoá, sự tiếp thu những nét mới, hiện đại và tinh tuý của văn hoá các
dân tộc khác,...
Trước sự phát triển về phương diện kinh tế của phương Tây, một số
người tỏ thái độ sùng bái, "tâm phục, khẩu phục” mọi "giá trị” của phương
Tây mà không có sự suy ngẫm, đánh giá sáng suốt. Điều nguy hiểm là, với lối
tư duy siêu hình và quan niệm thực dụng, không ít người ấp ủ, mơ tưởng có
một "lối sống mới” hoàn toàn theo kiểu Tây, tách khỏi các giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc. Một số thanh niên đi du học bằng con đường tài trợ
24
học bổng hoặc tự túc, sau khi tốt nghiệp trở về nước tỏ ra xem thường tất cả
những gì mà dân tộc ta đã có và hiện có. Họ phủ nhận tất cả. Không ít người
vừa mỏng về lượng kiến thức, vừa bị ảnh hưởng của lối sống vốn xa lạ với
truyền thống dân tộc.
Trong quá trình toàn cầu hoá, sự tiếp thu văn hoá bên ngoài thiếu định
hướng lành mạnh dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân
tộc. Các văn hoá phẩm độc hại đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân
dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Bên cạnh lối sống truyền thống xuất
hiện lối sống lạnh lùng kiểu “tiền trao, cháo múc” dẫn đến một số bộ phận
xem thường thuần phong mỹ tục, xem rẻ nhân phẩm con người. Hiện tượng
sống buông thả, hưởng thụ, đánh mất những phẩm chất tốt đẹp của mình, bán
rẻ nhân phẩm con người cho những cuộc chơi xa hoa trụy lạc, bàng quan
trước cuộc sống cộng đồng ngày càng phát triển.
Trước những hệ lụy đó, chúng ta cần phải “gạn đục khơi trong”, tìm lấy
những hạt nhân hợp lý của lối sống khác đang du nhập vào Việt Nam để tích
hợp vào lối sống bản địa trên tinh thần “hòa nhập nhưng không hòa tan”,
không được phép tụt hậu, lạc hậu song cũng không lai căng quá mức đến mất
đi bản sắc dân tộc. Phát huy tinh thần chắt lọc lấy tinh hoa của lối sống ở quốc
gia khác và phổ biến vào xã hội - thứ đã được cha ông ta thực hiện thành công
trong cả nghìn năm Bắc thuộc. Trong bối cảnh như hiện nay nếu chúng ta biết
lấy tư duy trên làm kim chỉ nam cho hành động thì chắc chắn sẽ có lối sống
tích cực cho mỗi cá nhân và cộng đồng người trong xã hội.
Tóm lại, lối sống của con người Việt Nam đang được hình thành với
quy mô lớn và tốc độ nhanh; tuy nhiên còn chưa hoàn chỉnh và thiếu vững
chắc. Lối sống hiện nay của người Việt Nam đang đứng trước mâu thuẫn kế
thừa và hội nhập, bảo lưu và phát triển. Những yếu tố của lối sống cũ cần
được chắt lọc ưu điểm, khắc phục nhược điểm để có thể hình thành nên lối
25
sống mới, hiện đại và tiến bộ, đồng thời vẫn thấm nhuần bản sắc văn hóa tốt
đẹp của dân tộc. Lối sống của người Việt Nam hiện nay chịu nhiều ảnh hưởng
từ lối sống truyền thống và từ môi trường bên ngoài. Những tác động này có
cả mặt tích cực và cả mặt tiêu cực. Do đó, người dân Việt Nam cần sáng suốt
gạn lọc lấy những ưu điểm phù hợp của truyền thống để tích hợp vào đời sống
hiện đại, tiếp thu và “bản địa hóa” những điểm tiến bộ của nước ngoài, đồng
thời cũng cần có bản lĩnh nhận biết những tiêu cực tinh vi của tư duy và lối
sống du nhập để không bị cuốn theo một cách mù quáng mà quên đi bản sắc
dân tộc mình. Đây cũng là nhu cầu cần thiết để xây dựng một xã hội văn minh
và giầu đẹp.
1.1.2.2. Xây dựng lối sống con người Việt Nam hiện nay:
+ Khái niệm:
Xây dựng lối sống chính là quá trình tác động có tính định hướng đến
con người nhằm hình thành và hoàn thiện ở mỗi cá nhân những nguyên tắc,
chuẩn mực đúng đắn trong lối sống, phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước
trong tình hình mới. Do đó, khi xây dựng lối sống mới cho con người Việt
Nam không thể tách rời quan điểm lịch sử - cụ thể, đó là phải đảm bảo sự
thống nhất biện chứng giữa trước mắt và lâu dài, giữa truyền thống và hiện
đại, giữa dân tộc và nhân loại,… Mọi chính sách xây dựng lối sống mà đề cao
một trong hai yếu tố trên sẽ tạo nên một lối sống thiếu tính bản sắc và văn hoá
Việt Nam.
Để đáp ứng với nhu cầu ở trên thì cần xây dựng một lối sống phù hợp
với nhu cầu phát triển của xã hội. Xây dựng lối sống của con người Việt Nam
hiện là xây dựng những điều kiện cho những đặc trưng trên tồn tại, phát triển
và được thể hiện trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng phong
trào lao động sôi nổi với năng suất cao, chất lượng tốt. Lao động tự giác, sáng
tạo được phát huy. Những ai lao động tích cực đóng góp cho xã hội được biểu
26
dương khen thưởng, những kẻ lười biếng trong lao động phải bị lên án. Xây
dựng lối sống mới là xây dựng một lối ứng xử giữa con người với con người
là sự tôn trọng lẫn nhau, là giữ gìn đạo lý dân tộc trên kính dưới nhường, là
ứng xử văn minh lịch sự “lời nói chẳng mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau”.
Xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện là sự tiếp thu văn minh
của nhân loại, lối ứng xử bình đẳng tôn trọng nhau như cha mẹ tôn trọng con
cái, con cái tôn trọng cha mẹ, vợ chồng bình đẳng; là ứng xử “Đối với mình
thì nghiêm khắc Đối với người thì khoan dung ”.
Xây dựng lối ứng xử con người phải tôn trọng tự nhiên. Xây dựng lối
sống của con người Việt Nam hiện là xây dưng một môi trường học tập, một
nền văn hóa giầu bản sắc dân tộc. Xây dựng lối sống mới là công việc của
Đảng, Nhà nước, các tổ chứng xã hội, các gia đình và sự tự rèn luyện của mỗi
người. Mỗi môi trường, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau nhưng đều
nhằm xây dựng một lối sống lành mạnh, văn minh lịch sự.
Từ sự phân tích ở trên ta có thể đưa ra khái niệm về xây dựng lối sống
của con người Việt Nam hiện nay: là hoạt động có mục đích nhằm tạo ra
những con người có lối sống lành mạnh, học tập, lao động khẩn trương có
trách nhiệm, năng suất cao, có quan hệ ứng xử thân thiện, chuẩn mực, có
quan niệm đúng đắn, phù hợp trong tiêu dùng, có trách nhiệm với gia đình,
nhà trường và xã hội.
+ Thực trạng lối sống của con người Việt Nam hiện nay:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ở Việt nam hiện nay đang tồn tại
nhiều lối sống khác nhau. Lối sống của những người tiểu nông gắn với sản
xuất nhỏ manh mún, phân tán, lạc hậu với những đặc trưng: lối sống chậm
chạp vô kỷ luật, tư duy hạn chế, gia trưởng, tự ti. Lối sống của tiểu thương
gian dối, chộp giật. Trước đây ông cha ta có câu: “Thật thà cũng thể lái trâu,
27
yêu thương cũng thể nàng dâu mẹ chồng”hay “Đấu hàng sáo, gáo hàng dầu”.
Lối sống thác loạn của một bộ phận thanh niên với những đặc trưng lười lao
động, thích ăn ngon mặc đẹp, sống hôm nay không biết đến ngày mai. Vì vậy
trong cuộc sống họ lừa lọc, trộm cắp, buôn gian bán lậu, trong ứng xử thường
xử dụng những ngôn từ bất nhã, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mọi việc.
Lối sống đua đòi của một số quan chức, thương nhân mới nổi lên theo kiểu
“trưởng giả học làm sang”. Những người này do có những điều kiện thuận lợi
hay do cơ chế mà nổi lên cho nên họ thường lấy vật chất ra để thể hiện đẳng
cấp của mình. Họ chú trọng tới quần áo, xe cộ. “Cái túi xách phải sang, cái
đồng hồ phải xịn”. Những người này thường coi thường những người khác có
những điều kiện vật chất không bằng mình. Những người này mức độ vật chất
của họ thường tỷ lệ nghịch với trình độ văn hóa trong họ.
Lối sống mới mà Việt Nam đang xây dựng là lối sống của giai cấp công
nhân gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp, lối sống văn hóa gắn liền với
văn minh nhân loại. Mục đích xây dựng lối sống của con người Việt Nam
hiện nay nhằm tạo ra những con người đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Những đặc trưng cơ bản của lối sống con người Việt Nam hiện nay:
Khi nói về đặc trưng lối sống của con người Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dẫn lời một học giả người Pháp là Đơ Puphuôcvin: “Yêu mến quê
hương, quyến luyến gia đình, thờ kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng
chính nghĩa, ham thích khoa học, yêu thương giống nòi, tôn trọng lẽ phải,
ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy
sinh” [34, tr.265]. Lối sống truyền thống của con người Việt Nam được kết
tinh từ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đó là: tinh thần yêu nước
nồng nàn, đoàn kết, cần kiệm, sáng tạo, thuỷ chung, ham học hỏi, trung thực,
quý trọng hiền tài, nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị, linh hoạt,… Những lối sống ấy
28
đã và sẽ là kết tinh, tạo nên truyền thống và sức mạnh Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử dựng và giữ nước.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng của Việt Nam cũng sẽ khiến các
giá trị truyền thống giao lưu, giao thoa và tiếp biến văn hoá cũng như lối
sống. Các lối sống hiện đại cũng dần được định hình và phát triển ở nước ta
như một quy luật tất yếu. Lối sống hiện đại hiện nay của người Việt chỉ có thể
phù hợp khi nó được sàng lọc bằng các giá trị truyền thống. Nói cách khác đó
vừa là lối sống tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc nhằm hướng tới phát
triển con người một cách toàn diện để phục vụ cho các nhiệm vụ trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
+ Nội dung xây dựng lối sống của con người Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam mới: là con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc, đạo
đức, lối sống có nhân cách; có nhận thức và ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp
luật; am hiểu và tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Xây dựng con người Việt Nam năng động, sáng tạo, tự chủ, tự giác
trong học tập, trong lao động sản xuất và trong thực hiện các trách nhiệm
công dân đối với xã hội. Kinh tế thị trường và công nghiệp hoá có nhiều hệ
luỵ ngoài ý muốn, tác động, làm cho con người càng trở nên ích kỷ hơn. Do
đó, cần tạo cho con người mới những phẩm chất đủ mạnh để ứng phó và vượt
qua các tác động tiêu cực ấy.
Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các
quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn
hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của
con người Việt Nam.
Chỉ khi thực hiện được các mục tiêu trong xây dựng con người mới
như trên thì con người Việt Nam mới có đủ năm phẩm chất cơ bản về xây
29
dựng con người mới mà Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII xác định với những
phẩm chất cơ bản sau:
“Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung, xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ
môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo,
năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực”[10, tr. 58 - 59].
Tại Hội nghị Trung ương 9 khoá XI, con người Việt Nam mới được xác
định ngắn gọn là: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học” [14, tr.2].
Thứ hai, xây dựng lối sống giản dị, hoà nhã và tôn trọng mọi người.
Trong guồng quay hối hả của cuộc sống hàng ngày, người Việt Nam
hiện nay đang bị (hoặc chịu) áp lực rất lớn về công việc, danh vọng và tiền
bạc làm cho bản thân mỗi người quên (hoặc ít coi trọng) đời sống tinh thần
của mình. Sự hào nhoáng của tiền tài, danh vọng dễ cuốn con người vào tính
ích kỷ cá nhân, sự dối trá và bạc bẽo. Đồng thời, lối sống công nghiệp cũng
hình thành phong cách quan hệ có tính sòng phẳng, thiết thực trong xã hội.
Tâm lý tự chủ lập thân, lập nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường tạo ra lối
30
sống tự do theo pháp luật tự lo toan, làm giàu; lối tư duy táo bạo, khám phá,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Đó là
lối sống năng động, lấy hiệu quả làm tiêu chí và chuẩn mực.
Sự đan xen, va đập giữa các lối sống ấy dễ làm nảy sinh nhiều hậu quả
khó lường nếu như chúng ta không có những biện pháp điều chỉnh phù hợp và
giải pháp cho vấn đề này chính là việc hình thành một lối sống đẹp. Giản dị là
biểu hiện quan trọng nhất của lối sống đẹp bởi nó khiến con người trở nên
khiêm nhường, không kiêu ngạo, bon chen, ghen tị hay đua đòi, khoa trương
của cải vật chất. Nó làm con người dễ vị tha hơn, rộng lượng hơn và sẵn lòng
giúp đỡ người khác khi có cơ hội. Đó cũng là cơ sở để mỗi cá nhân biết tôn
trọng người khác, giữ gìn đạo lý truyền thống là kính trên nhường dưới, là
cách hành xử văn minh dựa trên việc “Lựa lời mà nói, cho vừa lòng nhau”.
Lối sống giản dị, hoà nhã và tôn trọng lẫn nhau không chỉ thể hiện
trong cách đối nhân, xử thế của con người khi ra ngoài xã hội mà nó còn và
cần được thể hiện trong mỗi gia đình. Đó là việc các thành viên trong gia đình
không chỉ yêu thương, hiếu nghĩa với nhau mà còn là sự chia sẻ, tôn trọng ý
kiến của nhau trong cuộc sống hàng ngày. Cha mẹ không chỉ nuôi dưỡng, dạy
dỗ con cái mà còn phải là tấm gương cho con cái, biết lắng nghe, biết chia sẻ
và động viên; biết tôn trọng con cái. Cha mẹ phải hiếu kính, lễ phép và phụng
dưỡng đối với ông bà. Ông bà phải biết thương yêu, dạy bảo, động viên con,
cháu. Con cái thì ngoan hiền, lễ phép đối với ông bà, cha mẹ. Sự bình đẳng và
tôn trọng lẫn nhau trong gia đình không chỉ tạo ra một môi trường sống êm
ấm, hạnh phúc mà còn có tác dụng giáo dục, có sức lan toả đối với các thế hệ
kế tiếp và với những người xung quanh. Cách hành xử đẹp ấy trong gia đình
sẽ hình thành nên lối sống đẹp, vị tha khi mỗi cá nhân bước ra và ứng xử
ngoài xã hội.
31
Thứ ba, xây dựng quan niệm tiêu dùng đúng đắn:
Tiêu dùng là hành động nhằm thoả mãn nguyện vọng, trí tưởng tượng
và các nhu cầu về tình cảm, vật chất của con người thông qua việc mua sắm
hoặc sở hữu các sản phẩm nào đó. Toàn cầu hoá là điều kiện cho việc trao đổi
xuất nhập sản phẩm của các nền sản xuất xã hội trên thế giới. Do đó, Việt
Nam dù là nơi sản xuất còn yếu cả về số lượng mặt hàng lớn chất lượng sản
phẩm, nhưng nhờ quá trình trao đổi sản phẩm trong giao lưu kinh tế mà chúng
ta có được một thị trường sản phẩm phong phú, đa dạng, chất lượng cao. Điều
đó, một mặt, do sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của xã hội tạo ra;
mặt khác, nâng cao khả năng lựa chọn tiêu dùng theo khả năng kinh tế vì sở
thích cá nhân.
Lối tiêu dùng của người Việt Nam vượt rất xa nhu cầu và sở thích trước
đây; nó được nâng lên tầm cao mới hết sức đa dạng theo tầm nhìn và thị hiếu
của xã hội công nghiệp. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, lối sống tiêu dùng
người Việt Nam chuyển mạnh từ tầm tiêu dùng của một nước nông nghiệp
nghèo sang lối sống tiêu dùng của xã hội công nghiệp. Điều đó thể hiện rõ từ
nhà ở với tiện nghi sinh hoạt hầu hết bằng đồ điện tử cho đến phương tiện đi
lại bằng xe máy, ô tô. Có thể nói, lối sống tiêu dùng của người Việt Nam ở các
thành phố lớn đang từng bước được nâng lên ở mức tiêu dùng của các nước
đang phát triển. Lối sản xuất - tiêu dùng được nâng lên cách thức và trình độ
mới kéo theo lối sinh hoạt tương ứng. Lối sinh hoạt kiểu nông nhàn giờ đây
được thay thế bởi lối sinh hoạt có nhịp điệu gấp gáp hơn. Nhịp sống sôi động
không chỉ do hoạt động của cơ chế thị trường, mà còn do nhịp điệu công
nghiệp và không khí sinh hoạt quốc tế cuốn hút. Không khí sinh hoạt và nhịp
sống quốc tế không chỉ tác động tới sinh hoạt và nhịp sống của quốc gia mà
cả đến mỗi cá nhân. Người lao động như cuốn vào mạch sống kinh tế thị
trường, kinh tế trí thức, khoa học công nghệ; học sinh, sinh viên như xoáy vào
32
nhịp độ tăng lên theo cấp số nhân của tri thức. Tác phong lao động gấp gáp
không cho phép người ta chần chừ, ỷ lại. mà phải tự vận động, chớp thời cơ,
giành giật trong môi trường sống chung của thời cuộc. Đây là điều kiện tốt
cho việc phát huy cao độ nhận thức, đánh giá, ý thức, tình cảm con người theo
tiêu chí xã hội hiện đại; làm cho người Việt Nam có điều kiện phát triển tinh
thần, thể chất, lý trí, tình cảm.
Khi khuếch trương mặt tích cực của tiêu dùng, toàn cầu hoá đồng thời
cũng phá vỡ, thậm chí huỷ hoại nhiều yếu tố của lối sống bằng chính phương
thức tiêu dùng - chuyển quan niệm tiêu dùng thành quan niệm tiêu thụ thuần
túy. Sản xuất nhiều và tốt thì cần tiêu thụ nhiều. Tiêu dùng nhiều lại kích thích
sản xuất. Tuy nhiên, tiêu dùng hiện nay, theo quan niệm của không ít người,
đã trở thành mục đích sống: chất lượng của đời sống là tiêu thụ - hưởng thụ
thuần tuý. Sự ảnh hưởng của văn hoá tiêu dùng phương Tây với những yếu tố
bất hợp lý đã hình thành lối sống duy kinh tế, duy phương tiện, tuyệt đối hoá
giá trị vật chất, qua toàn cầu hoá, đã góp phần khuếch trương mặt tiêu cực nêu
trên trong xã hội ta hiện nay. Sự lãng phí của việc chạy theo “mốt”, việc khoe
khoang của cải để xây nhà to, mua xe đẹp mà không sử dụng là sự biểu hiện
của một lối sống gấp, hưởng thụ, trọc phú và hợm hĩnh.
Những quan niệm tiêu dùng đó cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với hoàn cảnh kinh tế của gia
đình và nguồn thu nhập chính đáng của bản thân mỗi cá nhân. Thế hệ này
không thể khai thác tất cả các nguồn tài nguyên mà bao thế hệ xưa kia để lại
chỉ để thoã mãn nhu cầu tiêu dùng cho mình mà không quan tâm đến thế hệ
sau. Khi mà cả thế giới đang hướng tới sự phát triển bền vững thông qua việc
hình thành các quan niệm về tiêu dùng bền vững thì bản thân mỗi cá nhân,
mỗi gia đình Việt Nam cũng cần điều chỉnh cho tiệm cận xu hướng ấy. Tiêu
dùng bền vững không phải là tiêu dùng ít hơn mà là việc biết tiêu dùng hiệu
33
quả hơn, tốt hơn, bớt sử dụng tài nguyên. Đó là cách đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng một cách thông minh nhất, tạo cơ hội để tiêu thụ sản phẩm,
dịch vụ một cách hiệu quả, có hiệu suất cao và giảm thiểu tác động tiêu cực
đến môi trường sống.
+ Chủ thể xây dựng lối sống của con người Việt Nam: bao gồm ba chủ
thể chính là: gia đình, nhà trường và xã hội.
Gia đình có vai trò quyết định đối với việc xây dựng lối sống cho mỗi
cá nhân bởi lẽ, ngoài những yếu tố sinh học và di tuyền, thì tri thức, kỹ năng
chuyên môn, niềm tin, hệ giá trị - chuẩn mực... chỉ có thể hình thành thông
qua lối sống. Đây là những tài sản mà các thế hệ trước đã thu lượm, đúc kết,
sáng tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, được các thế hệ sau lĩnh hội, biến
đổi và chuyển hoá thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên lối sống của
mình. Cũng chính gia đình vạch ra kế hoạch và phương pháp bù đắp những
thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh- di truyền hoặc hoàn cảnh gây nên,
nhằm xây dựng một lối sống hoàn thiện nhất có thể. Gia đình còn có thể phát
huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố tác động tới lối sống và uốn nắn
những sai lệch theo đúng hướng mong muốn của xã hội. Gia đình tác động lâu
dài, liên tục bằng tình thương yêu để xây dựng lối sống cho mỗi con người
Việt Nam, nên đây là môi trường lý tưởng để mỗi cá nhân tự hình thành cho
mình một lối sống phù hợp. Lối sống của mỗi cá nhân cũng sẽ tác động trực
tiếp (tích cực hoặc tiêu cực) đến lối sống của một gia đình, nó khiến gia đình
đó hạnh phúc hoặc không hạnh phúc, bền vững hoặc không bền vững trong cả
hiện tại và tương lai.
Nhà trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành lối sống
cho con người Việt Nam. Đây là nơi mà mỗi cá nhân được lĩnh hội những tri
thức thông qua việc giáo dục trong nhà trường. Những tri thức ấy giúp con
34
người nhận thức được đúng - sai, phải - trái trong lối sống của mình và tự
điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế.
Xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lối sống của con
người Việt Nam. Xã hội với những thiết chế của nó sẽ điều chỉnh các hoạt
động và các mối quan hệ của mỗi con người trong những khuôn khổ, phạm vi
cho phép. Đó cũng là nơi mà kiểm chứng mức độ phù hợp hay không phù hợp
của lối sống ở mỗi cá nhân để con người tự hoàn thiện lối sống của mình.
+ Biện pháp xây dựng lối sống của con người Việt Nam: lối sống của
con người được hình thành trong quá trình sinh sống. Thông qua giáo dục và
hoạt động thực tiễn, lối sống được hình thành, được kiểm chứng và được
(hoặc bị) điều chỉnh cho phù hợp.
Giáo dục là biện pháp quan trọng nhất trong việc hình thành lối sống
cho con người. Do đó, các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học cần được
hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam mới có thế giới quan khoa học,
vươn tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực,
bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri
thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Cần tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ
cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học -
nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm
quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn là nơi để mỗi cá nhân thể hiện lối sống của mình
trong xã hội. Tại đây, lối sống sẽ thể hiện và (có thể) được điều chỉnh, bổ sung
cho phù hợp hoặc được ghi nhận, lan toả (lối sống đẹp) ra cộng đồng.
35
Thực tiễn hiện nay cần xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì
mọi người, mọi người vì mỗi người” trong mỗi cá nhân, con dân nước Việt;
hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân
và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình
và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng;
nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất
với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
1.2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
1.2.1. Gia đình Việt Nam hiện nay
1.2.1.1. Khái niệm gia đình:
Gia đình có vị trí, vai trò đặc biệt quan trong trong đời sống xã hội và là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Đến nay, khái
niệm về gia đình vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và rõ ràng,
nhưng nhiều quốc gia đồng thuận một cách chung nhất: Gia đình là đơn vị cơ
bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh
phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em (Tuyên bố của Liên hợp quốc có về
tiến bộ xã hội trong phát triển).
Theo C.Mác: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con
người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”[33, tr.41].
Theo quan điểm này thì khái niệm về gia đình được hiểu với 03 nội
dung sau:
36
Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã
hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì
đồng thời cũng tái tạo ra gia đình.
Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con
người.
Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn
nhân (chồng, vợ), quan hệ huyết thống (ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt).
Theo tổ chức Unesco của Liên hợp quốc đã thống nhất khẳng định:
“Gia đình là một yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế xã hội. Gia đình
được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được giữ gìn và
phát huy”trên tinh thần đó, Unesco đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm
người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung với các
thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi về mọi
mặt được pháp luật thừa nhận”.
Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về gia đình và đưa ra các định
nghĩa khác nhau. Xét từ góc độ Xã hội học, khái niệm gia đình được thừa
nhận là:
“Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng, các thành viên trong gia đình
gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm) giữa
họ, là những quan hệ có tính pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ,
đồng thời cũng có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm
đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình” [1, tr.190].
Xét từ góc độ tâm lý học: Gia đình là một nhóm xã hội có quan hệ gắn
bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung những giá trị vật
chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử. Gia đình là một đơn vị
37
nhỏ nhất của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội và là tấm gương phản
chiếu mọi thành tựu, cũng như mâu thuẫn xã hội.
Tổng hợp và toàn diện hơn các nội dung trên, tác giả Lê Thi cho rằng:
“Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành
trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó
và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại), gia đình
có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ
huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và
quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc bởi
tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật
Hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy
định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục
giữa các thành viên” [40, tr.20 - 21].
Về khái niệm gia đình mang tính pháp lý ở Việt nam được ghi nhận
trong Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000), Điều 8 ghi rõ: “Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ
với nhau theo luật định”.
Từ các khái niệm trên, gia đình được nhận diện trên các khía cạnh sau:
Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên
cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết lại các cá nhân
(nam - nữ) theo quy định của pháp luật hay phong tục, nhằm để cùng sống với
nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân được biểu hiện là
một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân: đó là quan hệ vợ chồng kết
hợp với nhau để sinh sản và nuôi dạy con cái. Trong các xã hội có giai cấp,
quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp.
38
Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, là sự
tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp
dựa trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và
đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi,
nghĩa vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Như vậy, không thể có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi
nền văn hoá, song với quan niệm như trên, chúng ta có thể thống nhất về cơ
bản: Gia đình là một cộng đồng người được xây dựng trên cơ sở hai mối quan
hệ cơ bản là hôn nhân và huyết thống, được xã hội thừa nhận.
Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng vấn đề gia đình và đã lấy ngày
28/6/2001 là “Ngày gia đình Việt Nam”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh “phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của
quá trình CNH - HĐH. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh
phúc và bền vững thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp tạo nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [12, tr.103].
Ngày 10/5/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số:
106/2005/QĐ - TTG về việc phê duyệt Chiến lược xây dựng gia đình Việt
Nam giai đoạn 2005 - 2010 khẳng định: “Gia đình là một trong những nhân
tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội, sự thành công
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng chủ nghĩa
xã hội”.
1.2.1.2. Các chức năng của gia đình
39
+ Thứ nhất, chức năng tái sản xuất ra con người.
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, chức năng này đáp ứng nhu cầu
tình cảm riêng, rất tự nhiên của các cá nhân là sinh đẻ con cái, đồng thời
mang ý nghĩa chung lớn lao là cung cấp lớp người mới, đảm bảo sự phát triển
liên tục và trường tồn của xã hội loài người. Trong mỗi gia đình, việc coi
trọng chức năng này thể hiện ở việc trực tiếp quan tâm đến điều kiện vật chất
và tinh thần thuận lợi cho việc mang thai, sinh nở của các bà mẹ; việc sinh đẻ
diễn ra ở từng gia đình nhưng lại quyết định đến mật độ dân cư, số lượng,
chất lượng dân cư của mỗi quốc gia.
Tái sản xuất ra con người là một chức năng đặc biệt mà chưa có cộng
đồng xã hội nào có thể thay thế được. Hiện nay, nhờ có sự phát triển của khoa
học công nghệ nên việc sinh sản của các gia đình có nhiều thuận lợi, tạo ra
những thế hệ con người có sức khoẻ và trí lực tốt hơn so với trước kia.
Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến chính sách dân số làm sao điều
tiết để có quy mô, cơ cấu dân số hợp lý. Gia đình phải nhận thức đúng đắn
việc thực hiện chức năng “Tái sản xuất ra con người”. Hiện nay, phần đông
các gia đình khi sinh nhiều con, khó thoát khỏi sự nghèo đói, tình trạng thiếu
lương thực,… khiến trẻ em không được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục chu đáo.
Do đó, mà việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người phải theo xu
hướng “Xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc và bền vững” [15, tr.175].
+ Thứ hai, chức năng kinh tế.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loại người, từ khi xuất hiện Nhà
nước thì gia đình luôn được xem làm một đơn vị kinh tế. Chức năng kinh tế là
chức năng cơ bản của mỗi gia đình, góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình và nó tạo điều kiện cho các chức
40
năng khác được thực hiện có hiệu quả, đồng thời nó cũng tạo ra sự đóng góp
của gia đình vào sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ, xã hội loài người tồn tại và phát triển là
do hai loại sản xuất quyết định, sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải
vật chất. Hoạt động kinh tế là chức năng của mọi gia đình, trong mọi thời đại
( tất nhiên với mức độ không giống nhau) đã làm cho gia đình không những là
đơn vị kinh tế tiêu dùng mà còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để thỏa
mãn nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình và làm giàu cho xã hội.
Ở thời kỳ đầu xã hội chủ nghĩa còn sản xuất hàng hóa, có nhiều thành
phần kinh tế và khi kinh tế tập thể và kinh tế Nhà nước chưa đáp ứng được đủ
nhu cầu đa dạng của cuộc sống con người thì kinh tế cá thể và tiểu chủ hoạt
động phần lớn dưới hình thức hộ gia đình là một bộ phận đông đảo có tiềm
năng to lớn, và có vị trí lâu dài. Do đó cần có chính sách phù hợp để thúc đẩy
kinh tế của các hộ gia đình phát triển bền vững góp vào công cuộc phát triển
của đất nước.
Thứ ba, chức năng tiêu dùng.
Việc tiêu dùng của gia đình hướng vào mua sắm sản phẩm để phục vụ
nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình. Chức năng này thường phụ thuộc
vào nhiều thu nhập và sự đóng góp chung từ kết quả lao động của các thành
viên trong gia đình trong hoạt động kinh tế của gia đình và xã hội.
Xã hội ngày càng phát triển càng thúc đẩy việc mua sắm các sản phẩm,
các thiết bị, các dụng cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của gia đình ngày
càng nhiều hơn và thuận tiện hơn. Thực tế hiện nay cho thấy việc tiêu dùng
vật chất và tinh thần ngày càng được mở rộng và đa dạng về các hình thức
dịch vụ và phúc lợi cho con người, nhưng cũng không hoàn toàn thay thế
chức năng tiêu dùng của gia đình. Tổ chức tiêu dùng về đời sống vật chất và
tinh thần của gia đình có chiều hướng đi sâu vào đáp ứng nhu cầu phong phú,
41
duy trì sắc thái và sở thích sinh hoạt riêng của từng gia đình, của các thành
viên. Do vậy việc tổ tiêu dùng trong gia đình là việc sử dụng một cách hợp lí
các khoản thu nhập của gia đình, lẫn việc tạo lập một môi trường văn hóa lành
mạnh trong gia đình, giúp cho trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên
trong gia đình được bảo đảm. Trong điều kiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa
như hiện nay với chính sách kinh tế mở, kinh tế thị trường đã tạo điều kiện
cho các gia đình có thu nhập ngày càng cao, kinh tế khá giả, nhu cầu con
người ngày càng phát triển, phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần, mỗi thành
viên trong gia đình đều đòi hỏi những nhu cầu ấy được thỏa mãn. Chính vì
vậy mà việc chi tiêu trong gia đình là rất quan trọng và càng quan trọng hơn
với các gia đình có kinh tế eo hẹp.
Thứ tư, chức năng giáo dục.
Sinh con, nuôi con, dạy bảo con cái là những hoạt động không thể tách
rời nhau trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng giáo dục
con cái, chăm lo việc học tập và phát triển lành mạnh của con cái cả về thể
chất lẫn tinh thần.
Gia đình là hạt nhân của xã hội. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã
hội. Gia đình có nhiều chức năng, nhưng trong đó có một chức năng vô cùng
quan trọng - chức năng giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn cho trẻ từ khi
chúng nhận thức được các mối quan hệ gia đình và xã hội. Hơn nữa, chức
năng này góp phần tạo ra những thế hệ công dân mới có ích cho gia đình, cho
xã hội, là lớp người kế cận lớp người đi trước, là những chủ nhân tương lai
của đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
C. Mác đã khẳng định rằng, con người là một sinh vật- xã hội. Sau khi
lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã hội, không
được hưởng chế độ giáo dục của gia đình, và của xã hội, đứa trẻ không trở
thành con người đúng nghĩa. Điều này đã được khoa học chứng minh thuyết
42
phục rồi. Bởi vậy có thể khẳng định rằng, sự phát triển của con người không
thể nằm ngoài môi trường gia đình và xã hội.
Những thành tựu khoa học ngày nay và thực tiễn cuộc sống cho thấy
việc giáo dục trong gia đình có vai trò vô cùng quan trọng, vì nó là nơi nuôi
dưỡng, giáo dục gia đình mang tính cá biệt và đậm nét giáo dục thông qua
tình cảm. Trong giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội không phân biệt giới
tính, trí tuệ, sức khỏe, đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh sống của cá nhân, thì
giáo dục gia đình lại tính đến tất cả yếu tố đó của đối tượng giáo dục, gia đình
là môi trường đầu tiên cho con người lớn lên.
Chức năng giáo dục gia đình là rất quan trọng có nội dung lớn. Nội
dung giáo dục gia đình chính là yếu tố của văn hóa gia đình và văn hóa cộng
đồng nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người như đạo đức, lối
ứng xử, tri thức lao động và tri thức khoa học giáo dục gia đình được thực
hiện ở mọi chu trình sống của con người.
Trong chủ nghĩa xã hội chức năng giáo dục gia đình thực sự góp phần
lớn lao vào việc đào tạo thế trẻ xây dựng con người mới nói chung, vào việc
duy trì và phát triển đạo đức, văn hóa dân tộc. Giáo dục gia đình là một bộ
phận của giáo dục xã hội, giáo dục trong gia đình mới đòi hỏi sự cố gắng cao
và những hiểu biết về khoa học, tâm lý của cha mẹ và mọi thành viên khác,
kết hợp chặt chẽ môi trường giáo dục ( gia đình, nhà trường, xã hội) để tiến
tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước là một yêu cầu quan trọng.
Sự tác động của kinh tế thị trường, CNH - HĐH và hội nhập kinh tế
quốc và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ làm cho các bậc
cha mẹ cảm thấy lúng túng bất lực trước yêu cầu giáo dục con cái. Bởi vì
trong xã hội ngày nay lối sống của con người đã có thay đổi nhanh chóng. Để
thực hiện tốt chức năng này một mặt nhà nước và các tổ chức xã hội phải
43
không ngừng tuyên truyền, giáo dục tri thức và năng lực giáo dục con cái cho
các bậc cha mẹ, mặt khác đòi hỏi các bậc cha mẹ phải tự ý thức được điều đó,
phải là tấm gương tốt cho con cái trong lao động, ứng xử, trong sinh hoạt nói
chung.
Thứ năm, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm trong gia
đình.
Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu
thương gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh
phúc lứa đôi. Tổ ấm của gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng
thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội đồng thời cũng là niềm bao dung
an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủ ro sóng gió của cuộc đời. Càng về cuối
đời con người càng tin thấm thía và khát khao tìm về sự bình yên, thỏa mãn
nhu cầu bằng trạng thái tâm lí, trong sự chăm sóc đùm bọc của gia đình.
Như vậy, gia đình là một thiết chế đa chức năng, trên đây chỉ là những
chức năng cơ bản nhất. Thông qua việc thực hiện những chức năng này mà
gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến độ chung của xã hội.
Các chức năng trên được thực hiện trong sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Các
chức năng của gia đình đều ảnh hưởng đến lối sống của các thành viên trong
gia đình cũng như ở xã hội nói chung.
1.2.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của con ngƣời
Việt Nam hiện nay
- Thứ nhất, gia đình giáo dục trở thành những con người lao động mới.
Người lao động mới là người có sức khỏe, có tri thức, lao động có kỷ
luât, có kỹ thuật với năng suất cao, chất lượng tốt. Người lao động có sức
khỏe tốt. Đây là yêu cầu của nền sản xuất đại công nghiệp, của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện nay. Không có sức khỏe không thể hoàn thành
được nhiệm vụ. Gia đình với chức năng kinh tế tạo ra những điều kiện vật
44
chất để chăm lo cho con người, có điều vật chất thì cha mẹ mới có điều kiện
chăm lo con cái học hành để trở thành người lao động có kỹ thuật. Gia đình là
nơi xây dựng ý thức lao động, lao động có trách nhiệm. Trách nhiệm với đồng
chí, đồng nghiệp, trách nhiệm với xã hội, cán bộ công chức trách nhiệm với
công dân; trong sản xuất là trách nhiệm với người tiêu dùng, trách nhiệm
trong hoạt động dịch vụ theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Người lao
động có sức khỏe, có ý thức, có kỹ năng lao động tốt là điều kiện cho lao
động đạt năng suất cao. Gia đình còn tạo điều kiện cho các thành viên tham
gia lao động.
Bên cạnh đó gia đình xây dựng kỷ luật lao động. Xây dựng kỷ luật lao
động trong quá trình học tập, tuân thủ kỷ luật học tập, giờ nào việc ấy. Kỷ luật
học tập là cơ sở để xây dựng kỷ luật lao động. Gia đình nhắc nhở các thành
viên tôn trọng kỷ luật lao động, gia đình tạo dựng kỹ năng cho con người.
Ngay từ nhỏ gia đình cần tạo điều kiện cho con cái tham gia lao động để từng
bước hình thành kỹ năng lao động. Những gia đình có truyền thống nghề
nghiệp, cha mẹ có điều kiện bồi dưỡng truyền đạt kỹ năng lao động cho con
cái (ví dụ nghề y, nghề giáo, nghề làm gốm,...), anh truyền lại kinh nghiệm,
bồi dưỡng kỹ năng lao động cho em.
Xây dựng kỷ luật lao động là một mặt, một bộ phận cơ bản trong việc
hình thành và phát triển nhân cách của con người, là con đường vươn tới sự
thành đạt và hạnh phúc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lao động
là cơ sở của tiến bộ xã hội, là điều kiện để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người, là nội dung chủ yếu của hoạt động con người, là điều kiện
tối cần thiết của sự phát triển nhân cách mỗi người, là nghĩa vụ và quyền lợi
của công dân trong xã hội chủ nghĩa. Trong gia đình kỷ luật lao động giúp cho
mỗi thành viên trong gia đình có khả năng tham gia vào hoạt động thực tiễn,
vừa là phương tiện hình thành và phát triển thể lực và trí lực. Vì thế thiếu kỷ
45
luật lao động trong bất kì môi trường nào cũng dẫn tới hậu quả không tốt, trở
thành người vô ý thức kỷ luật. Bởi vậy, gia đình là nơi đầu tiên xây dựng kỷ
luật lao động cho các thành viên trong gia đình, vì nếu thiếu nó mỗi cá nhân
trong gia đình sẽ không có nhân cách hoàn thiện, nảy sinh tính lười biếng, ỷ
lại, vô cảm, con cái không biết yêu thương, chia sẻ nỗi vất vả với cha mẹ mà
chỉ biết đòi hỏi, hưởng thụ và không biết hy sinh, công hiến cho mọi người,
cộng đồng xã hội.
Việc thực hiện nội dung kỷ luật trong gia đình, cha mẹ phải là người
giáo dục con mình biết yêu lao động, tự làm công việc phù hợp với khả năng
của mình, chăm chỉ, tích cực học tập, rèn luyện bản thân để trở thành người
có ích cho gia đình và xã hội. Xây dựng kỷ luật lao động giúp cho các thành
viên trong gia đình có được kỹ năng lao động, thói quen trong lao động. Điều
này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng sâu đậm tới nhân cách của
họ sau này. Mục đích của việc xây dựng kỷ luật lao động trong gia đình là rèn
luyện kỹ năng, thói quen và tình yêu lao động cho con em của họ mà không
một môi trường nào có thể thay thế được.
Trong gia đình, việc xây dựng kỷ luật lao động các bậc cha mẹ đã
hướng dẫn ngay từ nhỏ để trẻ hình thành được kỹ năng, thói quen lao động tự
giác, đi từ thao tác đơn giản đến phức tạp như: hướng dẫn cách rửa mặt như
thế nào cho sạch, cách rửa bát sạch sẽ, không sứt mẻ, không đánh vỡ hoặc
sáng ngủ dậy phải gấp chăn gọn gàng, phẳng phiu, vuông vắn rồi đến việc tự
giác vào bàn ngồi học mà không cần cha mẹ phải nhắc nhở…Đây là những
việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại cần thiết để trẻ từ đó mà dần hoàn
thiện bản thân. Đặc biệt cha mẹ không được nuông chiều, làm thay để biến trẻ
dần trở nên lười biếng, vô cảm không biết vươn lên trong cuộc sống, ngại
khó, ngại khổ.
46
Bên cạnh đó, cha mẹ phải dạy cho con trẻ biết kính trọng người lao
động và sản phẩm lao động, thì mới có thể giáo dục tình yêu lao động cho con
cái. Đồng thời, cha mẹ giúp trẻ hiểu được tính chất phức tạp và nỗi vất vả,
nặng nhọc của người lao động để tạo ra của cải vật chất, nên phải biết trân
trọng sản phẩm lao động. Qua đó, trẻ biết yêu quý, noi gương người lao động
giỏi, sáng tạo, chăm chỉ, chuyên cần, vượt khó, vươn lên trong học tập, rèn
luyện. Trong gia đình, trẻ em là người phải được rèn luyện, giáo dục thói quen
tự phục vụ bản thân. Lao động tự phục vụ được biểu hiện thông qua sinh hoạt
và học tập cá nhân. Trẻ được giáo dục thái độ lao động tự giác, tích cực, biết
tương trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong gia đình. Gia đình còn tạo cho
trẻ thói quen lao động khoa học: có kế hoạch trong công việc, biết tiết kiệm
thời gian, hoàn thành chu đáo công việc được giao, kết hợp học với hành, lao
động chân tay với học tập khoa học.
Có thể nói rằng, xây dựng kỷ luật trong gia đình đóng vai trò vô cùng
quan trọng . Đây là môi trường đầu tiên con người được sinh ra và lớn lên. Và
ở đây các thành viên trong gia đình tự hoàn thiện được bản thân, đóng góp
sức mình vào công việc chung của gia đình, đặc biệt là con trẻ có được thói
quen, kỹ năng sinh tồn trong cuộc sống hiện đại.
- Thứ hai, gia đình giáo dục lối ứng xử văn minh lịch sự.
Trong xã hội xưa, người Việt Nam ta rất coi trọng việc giữ gìn nếp
sống, gia phong. Các thành viên trong gia đình có bổn phận coi trọng nền nếp
đó để không làm ảnh hưởng đến thanh danh, uy tín trong gia đình. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI có nội dung liên quan
công tác xây dựng gia đình “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn
hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt
đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và
47
nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha
mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết,
thương yêu nhau…”[14, tr.4]. Thực tế hiện nay gia đình có một vị trí, vai trò
rất quan trọng bởi vì:
Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình
góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc: Cha
mẹ hết lòng, quên mình, hy sinh cho con, nuôi dạy con trưởng thành, “nên
người”. Con cháu yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, chăm sóc, phụng
dưỡng ông bà, cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, tàn tật. Nghe những lời
khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của
gia đình, của quê hương, của dân tộc. Vợ chồng thương yêu, quý trọng, chăm
sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững. Anh, chị, em thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, đùm
bọc, nuôi dưỡng nhau. Ông bà nội, ngoại trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu,
đặc biệt đối với cháu mồ côi chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn
tật, không có khả năng lao động và không có khả năng để tự nuôi mình. Lên
án người có hành vi vi phạm đạo lý, đạo đức gia đình (các hành vi ngược đãi,
hành hạ, xúc phạm ông, bà, cha, mẹ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các
thành viên khác trong gia đình; không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng v.v...).
Ngày nay, trong nhiệm vụ xây dựng con người mới, gia đình Việt Nam
không những kế thừa những nếp sống truyền thống tốt đẹp của gia đình mà
còn phát huy tính tích cực của nó. Khi nói đến nếp sống gia đình, trước hết
ông, bà, cha, mẹ thường khuyên răn, dạy bảo con cháu từ thuở ấu thơ phải
biết lễ độ, chào hỏi, xin lỗi, cám ơn, phải biết “ăn xem nồi, ngồi xem
hướng”,... Trong lao động phải siêng năng, cần mẫn, chịu khó, tiết kiệm…
Gia đình có nề nếp rất khinh ghét những kẻ lười biếng trong lao động và học
48
tập, tránh xa những người ăn bám, dối trá, nghiện ngập rượu chè, cờ bạc, …
Gia đình rất quan tâm việc giáo dục nếp sống gia đình trong đó chú trọng đến
tình thương và lẽ phải, coi trọng sự hoà thuận, đoàn kết, thương yêu nhau,
kính trên dưới nhường ngoài ra còn thể hiện lòng mến khách: niềm nở tiếp
đón, chu đáo trong xử sự, tình bạn thuỷ chung, sống có tình, có nghĩa, ăn ở
như bát nước đầy.
Lối ứng xử văn minh, lịch sự của con người được thể hiện thông qua:
+ Gia đình giữ gìn phong tục tập quán. Gia đình truyền thống Việt
Nam qua đời này sang đời khác đã kết tinh văn hóa dân tộc như có hiếu với
ông bà, cha mẹ, anh em hòa thuận, vợ chồng thủy chung,… Từ đó, hình thành
nên chuẩn mực đạo đức và lối sống trở thành gia phong. Những tinh hoa ấy
được phát huy trong cuộc sống đạo đức hôm nay để trở thành liều thuốc ngăn
chặn sự xuống cấp về đạo đức, lối sống.
+ Gia đình xây dựng cách ứng xử trong quan hệ với ông bà, cha mẹ,
anh chị em. Ngay từ khi mới sinh ra, con người luôn cần phải gắn bó với tình
cảm mẹ cha, ơn sinh thành nuôi dưỡng: “Phụ tử tình thâm”, “Xương cha, da
mẹ”, “Cá chuối đắm đuối vì con”, “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu
mới là đạo con”. Những điều này đã im đậm vào kí ức của con người Việt
Nam, nó trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn xưa đến nay.
Đã là con thì phải báo hiếu với cha mẹ, từ chữ hiếu mà nâng lên thành đạo
làm con. Đạo làm con không chỉ thể hiện ở việc công thành danh toại để cha
mẹ tự hào, không chỉ là việc nuôi dưỡng cha mẹ khi về già mà còn là thờ cúng
cha mẹ đã khuất. Đó cũng là xuất phát của việc thờ cúng tổ tiên để bày tỏ tấm
lòng ghi ơn “Uống nước nhớ nguồn”. Bên cạnh đó, mối quan hệ ứng xử giữa
anh chị em ruột trong nhà cũng luôn được đề cao: “Anh em như chân, như tay.
Như chim liền cánh, như cây liền cành”, “Em thuận, anh hòa là nhà có
49
phúc”... Mối quan hệ máu mủ ấy không gì có thể sánh bằng, không gì có thể
chia cắt: “Cắt dây bầu dây bí/ Chẳng ai cắt dây chị dây em”. Cũng vì lẽ đó,
cha ông ta luôn lên án những người không giữ được tình cảm anh chị em hòa
thuận trong gia đình. Vợ chồng là duyên số nhưng về ở với nhau trong một
mái nhà thì còn là trách nhiệm, là tình nghĩa mặn nồng lúc gian khổ hay
sướng vui: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, “Đốn cây ai nỡ
dứt chồi/ Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”
Có thể nói, trong xây dựng lối ứng xử văn minh, lịch sự chịu sự ảnh
hưởng trực tiếp nhất từ cách ứng xử văn hóa trong gia đình. Nét đẹp lâu đời,
một nét đẹp truyền thống của dân tộc việt Nam: Sự hoà thuận, chung thuỷ,
tình nghĩa, lòng yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ với
cha mẹ, anh em,… là cơ sở và nguồn gốc quan trọng nhất tạo lập lối ứng xử
đẹp cho mỗi con người. Nhiều gia đình luôn biết cách tạo dựng, giữ gìn
những nét văn hóa ứng xử ấy tạo nên nề nếp gia phong. Thời nay, trong gia
đình, dù văn hóa ứng xử có thay đổi rất nhiều so với ngày xưa, nhưng những
khuôn phép của mỗi gia đình vẫn không thể thiếu được có như vậy con người
mới được phát triển toàn diện.
+ Gia đình giáo dục kỹ năng sống. Giáo dục kỹ năng sống trước hết
phải bắt đầu từ trong mỗi gia đình, từ vai trò, trách nhiệm của mỗi người làm
cha mẹ, không gì có thể thay thế được. “Dạy con từ thuở còn thơ”, “Học ăn
học nói, học gói học mở”; học chịu thương chịu khó, học kính trên nhường
dưới, học thưa gửi, học cảm ơn, xin lỗi; học lễ học nghĩa, học làm con làm
cháu, học làm anh chị, làm em, học làm người... Dạy cho trẻ những bài học đó
trước hết và tốt nhất là phải xuất phát từ gia đình. Việc hình thành kỹ năng
sống cho mỗi người là một quá trình nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất.
Mỗi gia đình, mỗi tế bào xã hội cần có sự nhận thức đúng đắn hơn nữa trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho mỗi thành viên trong gia đình mình để cung
50
cấp cho xã hội những công dân tốt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Nền giáo dục hiện nay của Việt Nam rất coi trọng việc giáo dục đạo
đức, “tiên học lễ, hậu học văn” trước là học đạo đức, học các quy tắc, nghi lễ
ứng xử sao cho đúng mực rồi sau đó mới học kiến văn, kiến thức… Còn trong
gia đình, giáo dục đạo đức là nội dung cơ bản, chủ yếu. Ở gia đình các thế hệ
ông bà, cha mẹ, luôn giáo dục con cháu rằng “Giấy rách phải giữ lấy lề”,
“Đói miếng hơn tiếng để đời”. Giữ gìn truyền thống đạo lí ngàn đời của cha
mẹ, ông bà, tổ tiên - đó là gìn giữ nhân phẩm và danh dự của một con người.
Đó cũng chính là cách ứng xử tốt đẹp, văn minh, lịch sự mà gia đình đã dày
công xây dựng cho mỗi cá nhân vững bước vào đời.
- Gia đình giáo dục ý thức tiêu dùng tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh
gia đình và điều kiện đất nước.
Gia đình bao đời nay đều được coi là một đơn vị kinh tế sản xuất và
tiêu dùng trong xã hội. Ở trong gia đình truyền thống, gia đình tự tiến hành
việc sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi… không phụ thuộc vào người khác, kể cả
việc tiêu thụ sản phẩm. Toàn bộ thu nhập trong gia đình đều do các thành viên
trong gia đình làm ra dùng để chi tiêu chung trong gia đình. Do sản xuất nông
nghiệp năng suất lao động thấp, bấp bênh buộc các gia đình phải làm việc rất
siêng năng, chăm chỉ, cần cù, chịu khó và tiết kiệm. Trong gia đình mọi thành
viên đều được sắp xếp có công ăn việc làm, có một người chỉ huy và một
người nội trợ đảm đang chăm lo việc cung cấp ăn mặc chu đáo cho các thành
viên. Trong gia đình truyền thống làm nông nghiệp có mức thu nhập thấp, chỉ
đảm bảo cho nhu cầu cần thiết cho các thành viên trong gia đình, chưa đáp
ứng được nhu cầu xã hội. Do vậy, mà việc chi tiêu trong gia đình mọi thành
viên đều phải hết sức dè sẻn, tiết kiệm một cách thái quá. Chính điều này làm
cho con người lúc nào cũng cảm thấy bị o ép, hạn chế mọi mặt, không được
51
thỏa mãn các nhu cầu khác ngoài các nhu cầu cơ bản. Cuộc sống của họ tràn
ngập những cái lo hằng ngày, không có đủ điều kiện để phát triển cá nhân;
việc nghỉ ngơi thoải mái, được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, tinh
thần,… sau những giờ làm việc là điều vô cùng hiếm hoi.
Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với chính sách kinh tế
mở, nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho các gia đình có thu nhập ngày
càng cao, kinh tế khá giả, nhu cầu con người ngày càng phát triển, phong phú
cả về vật chất và tinh thần. Bởi vậy, gia đình hiện nay không chỉ là đơn vị
kinh tế mà còn là đơn vị tiêu dùng. Các gia đình hiện nay hầu như có đầy đủ
những đồ dùng tất yếu: xe đạp, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, xe máy…để phục vụ
cho nhu cầu hàng ngày của họ. Ngoài ra, những gia đình có điều kiện hơn họ
bỏ ra một số tiền tương đối lớn để vui chơi giải trí như : đi xem phim 3D,
nghe ca nhạc, đi du lịch, spa,… các hoạt động khác phục vụ nhu cầu của họ.
Trong xu hướng phát triển hiện nay thì việc tạo điều kiện để nâng mức
sống của mỗi gia đình là việc cần thiết, nhưng cũng phải định hướng các
thành viên trong gia đình có được sự tiêu dùng lành mạnh, đúng mục đích,
tránh xa hoa, lãng phí. Tạo điều kiện tốt để kiến thức khoa học và các phương
tiện kĩ thuật đi sâu vào từng gia đình, đây là vấn đề thiết thực cho sự nghiệp
xây dựng gia đình mới. Do vậy, việc giáo dục tiêu dùng của các thành viên
trong gia đình là hết sức cần thiết dù ở trong bất kì thời đại nào.
Sự thay đổi trong ý thức tiêu dùng là tất yếu. Nhưng để sự thay đổi ấy
thực sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của gia đình, của đất nước
thì vai trò giáo dục của gia đình là vô cùng quan trọng. Ý thức và phong cách
tiêu dùng của người lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con trẻ và dần hình thành
phong cách tiêu dùng của mỗi người. Do vậy, cho dù xã hội có phát triển đến
đâu đi chăng nữa thì gia đình mà chính là ông bà, cha mẹ phải là người định
hướng cho các con, cháu có lối tiêu dùng lành mạnh, tiết kiệm, có mục đích,
52
tránh việc tiêu dùng tốn kém, lãng phí, ăn chơi đua đòi. Chỉ khi hiểu được giá
trị của đồng tiền thì mỗi cá nhân mới biết quý trọng và sử dụng nó một cách
hợp lý và đúng đắn nhất - Điều đó chỉ được tích luỹ thông qua sự giáo dục
của gia đình chứ không phải bất kỳ một chủ thể nào khác trong xã hội.
53
Tiểu kết chƣơng 1
Lối sống của con người Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối bởi rất
nhiều yếu tố. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng
tất yếu mà nước ta đang tiến hành không chỉ tạo nên sự chuyển biến căn bản,
sâu sắc và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lối sống của
người Việt. Sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hoá của các quốc gia trong
quá trình hội nhập cũng tạo nên sự va đập giữa các lối sống truyền thống của
con người Việt Nam và các quốc gia khác. Bên cạnh việc tiếp thu các giá trị
tốt đẹp, hiện đại trong lối sống ở của các quốc gia khác nhau nhằm hiện đại
hoá lối sống Việt thì lối sống truyền thống, thuần Việt cũng đang đứng trước
những thách thức không nhỏ bởi sự tác động của kinh tế thị trường, đề cao giá
trị vật chất và đồng tiền mà coi nhẹ các giá trị về nhân phẩm, nhân văn của
mỗi con người. Do đó, việc giáo dục cho mỗi người một lối sống hiện đại và
phù hợp với văn hoá và con người Việt Nam đang là một trong những đòi hỏi
vô cùng cần thiết, nó quyết định sự thành bại của quá trình xây dựng nền văn
hoá Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Gia đình và việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống
cho con người Việt Nam đóng vai trò quyết định đối với quá trình xây dựng
lối sống mới cho con người ở nước ta. Sự chuyển đổi đặc điểm của các gia
đình Việt cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của
gia đình trong giáo dục lối sống cho con người Việt Nam. Bên cạnh đó, việc
xác định rõ ràng nội dung vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống cũng
đóng vai trò quyết định đến quá trình phát huy vai trò của chủ thể này trong
giáo dục lối sống cho con người Việt Nam.
Những nội dung căn bản đó được trình bày rõ trong chương này và đây
sẽ là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng để đánh giá thực trạng vai trò của gia
đình cũng như đưa ra các giải pháp để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò
quan trọng ấy trong giáo dục lối sống cho con người Việt Nam hiện nay.
54
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG
LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG
LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, tạo tiền đề vững chắc để ổn định chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của người dân nói chung, của từng gia đình nói
riêng. Đây cũng là điều kiện quan trọng để gia đình tạo lập tương lai vững
chắc cho thế hệ trẻ sau này.
2.1.1. Những kết quả đạt đƣợc
2.1.1.1. Gia đình Việt nam đã xây được những người lao động mới
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
- Những vấn đề cơ bản về xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình
mới hiện nay:
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. V.I. Lênin - Người thầy vĩ đại của cách mạng
thế giới đã chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”.
Trải qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến
lược sống còn. Trong công cuộc đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập quốc tế
hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, được biểu hiện tập trung ở
hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau là xây dựng
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến mới tác động lớn đến
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển là xu
thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất
55
trắc khó lường, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên,
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp,
lật đổ, ly khai, khủng bố… có thể gia tăng. Cục diện thế giới đa cực hình
thành ngày càng rõ hơn, các nước lớn vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh,
kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục điều chỉnh
chiến lược, tập hợp lực lượng mới trong khu vực và trên thế giới.
Tình hình trong nước những năm tới, sự ổn định chính trị tiếp tục được
giữ vững, kinh tế - xã hội phát triển, nhưng đất nước sẽ phải đối mặt với
những thách thức mới. Cả bốn nguy cơ mà các Đại hội Đảng đã chỉ ra không
những vẫn tồn tại mà có những mặt còn bộc lộ rõ hơn và xuất hiện nhiều yếu
tố mới phức tạp hơn. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá ta trên tất cả các
mặt: Chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn
giáo; tranh chấp biển, đảo có thể sẽ diễn biến gay gắt, phức tạp hơn…
Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong hiện nay chính
là: bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới trước hết là bảo vệ nền độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là bảo vệ quyền tự quyết
thiêng liêng của dân tộc, quyền lựa chọn con đường phát triển, thể chế chính trị
của đất nước; bảo vệ nền kinh tế độc lập, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong
xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa; bảo vệ sự thống nhất của Tổ quốc, kiên
quyết đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết các
dân tộc Việt Nam; bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời,
vùng biển của Tổ quốc. Đó là bảo vệ sự toàn vẹn của hơn 331.051km2 đất liền, hơn 1 triệu km2 vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của Việt Nam trên biển Đông.
Bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có nội hàm rất quan trọng là bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước; bảo vệ chế độ XHCN và sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước theo định hướng XHCN, bảo vệ sự nghiệp đẩy mạnh CNH - HĐH.
56
Đó cũng là bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kiên quyết
đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư
tưởng văn hóa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt thông tin, “xâm lăng văn
hóa”. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới là bảo vệ môi trường hòa
bình để phát triển đất nước theo định hướng XHCN, kiên quyết đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại trật tự, an toàn xã hội, gây hấn, gây
xung đột vũ trang, gây chiến tranh xâm lược.
Để xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới hiện nay cần phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Trước hết, đó là sức mạnh tinh thần,
sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam, sức mạnh của 90 triệu người dân Việt
Nam có lòng yêu nước nồng nàn, có tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, khí phách anh
hùng của dân tộc Việt Nam, có đức hy sinh cao thượng, sẵn sàng xả thân bảo
vệ Tổ quốc. Thứ hai, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Thứ ba, bảo vệ vững chắc Tổ quốc bằng sức mạnh
của nền kinh tế cường thịnh. Thứ tư, bảo vệ vững chắc Tổ quốc bằng sức
mạnh của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Thứ năm, bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của đường lối đối ngoại, độc lập, tự
chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Gia đình Việt Nam xây dựng được những công dân đáp ứng trực tiếp
cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Với dân số hơn 90 triệu người, cả nước ta (tính đến hết 31/12/2014) có
hơn 24,2 triệu hộ gia đình - đây chính là nguồn nhân lực để thực hiện các
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay [45].
Hàng năm, hàng vạn thanh niên sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng đến nơi
biên giới hải đảo để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Các gia đình
57
Việt Nam không chỉ đảm bảo về số lượng các công dân nhập ngũ mà còn
không ngừng nâng cao chất lượng công dân nhập ngũ. Số lượng thanh niên có
trình độ cao tham gia vào lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam gia tăng
qua các năm.
Với chủ trương hiện đại hoá nền quốc phòng để tự vệ, các công dân
Việt Nam trong các lực lượng vũ trang đã không ngừng học tập và rèn luyện
để đáp ứng điều kiện thực hiện các nhiệm vụ trong tình hình mới, sẵn sàng
đáp trả và đáp trả một cách thích đáng đối với các đối tượng làm phương hại
đến lợi ích quốc gia, đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc
Việt Nam hiện nay.
Trong vụ dàn khoan Hải dương 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ
quyền nước ta (tháng 5 - 2014), hàng trăm chiến sĩ Cảnh sát biển đã anh dũng,
mưu trí khi trực tiếp đấu tranh chống lại những hành động xâm phạm chủ
quyền lãnh hải; hàng ngàn ngư dân vẫn kiên cường bám biển để đánh bắt hải
sản ở các ngư trường truyền thống của Việt Nam, hàng trăm nhà báo đã dũng
cảm ra khơi cùng với Cảnh sát biển hoặc cùng với ngư dân để đưa tin và
những hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông. Trong thời gian
qua, các thế lực thù địch luôn có những thay đổi mới trong chiến lược toàn
cầu phản cách mạng chống phá CNXH, chống phá cách mạng Việt Nam.
Chiến lược phức hợp “diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ được
chúng thực thi một cách ráo riết vừa công khai, trắng trợn, vừa tinh vi, xảo
quyệt, vừa ngầm, vừa sâu. Chúng luôn chĩa mũi nhọn vào những vấn đề nhạy
cảm như “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”, “dân tộc” để kích
động, chia rẽ, phá hoại công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo.
Bằng các biện pháp linh hoạt và mềm dẻo, Đảng ta đã lãnh đạo toàn
dân phá tan các âm mưu của kẻ thù, phát huy được sức mạnh tổng hợp và vai
58
trò của các tổ chức, lực lượng, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đó là những biểu hiện sinh động, phong phú và sâu sắc tính chất toàn dân,
toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đó cũng là biểu
hiện sinh động cho thấy vai trò của các gia đình Việt Nam trong việc giáo dục
ý thức bảo vệ Tổ quốc cho từng thành viên trong gia đình nhằm đáp ứng
nhiệm vụ bảo vệ đất nước trong điều kiện mới.
- Gia đình đã xây dựng được những con người mới đáp ứng nhiệm vụ
xây dựng Tổ quốc Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.
Xây dựng và đảm đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được
đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiện nay, với
các điều kiện về kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục,… của các hộ gia đình không
ngừng được cải thiện và nâng cao. Bên cạnh việc tập trung phát triển kinh tế,
các bậc cha mẹ, ông bà cũng đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục con cháu
phát triển toàn diện. Việc đầu tư cho thế hệ trẻ được tiếp cận với môi trường
giáo dục hiện đại được các bậc phụ huynh coi là ưu tiên số một trong giáo dục
con cái, chi tiêu cho giáo dục con cái chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi
phí sinh hoạt của mỗi gia đình.
Năm học 2014 - 2015, cả nước có 14.179 trường mẫu giáo với 133.500
lớp học để chăm sóc, dạy dỗ cho 3,755 triệu học sinh; có 28.922 trường trong
giáo dục phổ thông (các cấp 1, 2, 3) với 494,5 nghìn lớp học để đáp ứng nhu
cầu học tập của 15,082 triệu học sinh trên cả nước. Bên cạnh việc số lượng
các trường, lớp học ngày càng gia tăng thì chất lượng dạy và học cũng được
cải thiện thông qua việc hợp lý hoá các tỷ lệ học sinh/1lớp học; tỷ lệ giáo
viên/ học sinh ngày càng ít hơn so với trước kia [44, Tr. 623, 626, 632].
59
Công tác giáo dục dạy nghề trên cả nước cũng được cải thiện, tính đến
hết năm 2014, cả nước có 312 trường trung cấp chuyên nghiệp với hơn 349.700
học sinh theo học. Đây là các cơ sở cung cấp nguồn lao động kỹ thuật, đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế và phục vụ công cuộc CNH - HĐH đất nước. Bên cạnh
đó, cả nước cũng có 436 trường đại học và cao đẳng (hệ công lập và ngoài
công lập), đào tạo 2,363.900 sinh viên ở các ngành học khác nhau. Đây là
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay và cả tương lai [44, Tr. 652, 659].
Chất lượng nguồn nhân lực không ngừng được cải thiện và nâng cao đã
trực tiếp là động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta
trong những năm qua theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ không ngừng tăng lên trong khi tỷ trọng ngành nông, lâm ngư
nghiệp lại giảm tương ứng. Chính sự chuyển dịch cơ cấu lao động đã thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong những năm qua. Đến hết năm
2014, lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ta chiếm 47.1%
tổng số lao động có việc làm trên cả nước - tuy còn nhiều hơn so với các khu
vực kinh tế khác, nhưng nếu so sánh với những năm trước đây thì chúng ta
thấy rõ ràng tỷ lệ lao động trong ngành kinh tế này đã giảm đi khá nhiều.
60
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
100%
20.6
31.8
80%
58.8
18.8
21.1
60%
Dịch vụ (%) Công nghiệp và xây dựng (%) Nông, lâm, ngư nghiệp (%)
40%
60.6
26.7
47.1
20%
14.5
0%
Nông thôn
Cả nước
Thành thị
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế năm 2014
Năm 2014, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta chiếm 19.6% tổng
số người trong độ tuổi lao động. Trong đó, lao động có bằng cấp, chứng chỉ
chiếm khoảng 18.2% tổng số lao động có việc làm. Hàng năm, nước ta có
khoảng hơn 1 triệu lao động bổ sung cho thị trường, trong đó có hơn 70.000
lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Sự gia
tăng của tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ chính là sự gia tăng của số
lượng lao động đã được đào tạo về kiến thức và chuyên môn đã tìm được việc
làm sau khi ra trường [44 – tr.126, 127, 652, 659].
Chất lượng nguồn nhân lực nâng cao đã tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế một cách tương đối hợp lý theo hướng tích cực. Năm 2014, Khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,12%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%; khu vực dịch vụ chiếm 43,38% (Cơ cấu
tương ứng của năm 2013 là: 18,38%; 38,31%; 43,31%).
61
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Nông, lâm, ngư nghiệp, 18.2%
Dịch vụ, 43.3%
Công nghiệp và xây dựng, 38.5%
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam năm 2014
Bên cạnh vai trò tích cực của giáo dục nhà trường và xã hội, thì vai trò
của gia đình trong giáo dục, định hướng nghề nghiệp cho con, cháu là cực kỳ
quan trọng và đã được phát huy. Với lợi thế về mặt kiến thức xã hội, kinh
nghiệm cuộc sống và đặc biệt hiểu rõ khả năng và tính cách con, cháu mình,
thì cha mẹ, ông bà chính là người có tác động mạnh nhất tới sự lựa chọn của
con cái trong việc định hướng nghề nghiệp. Các bậc cha mẹ, ông bà hiểu
rằng: để con, cháu họ có một công việc phù hợp, một chỗ đứng vững vàng
trong tương lai thì cần phải có sự định hướng và đầu tư ngay từ đầu. Do đó,
không chỉ ở thành phố, mà phần lớn các hộ gia đình ở nông thôn cũng nhận
thức được việc chỉ có đầu tư cho con. cháu học tập là cách duy nhất để đảm
bảo một tương lai tươi sáng hơn cho con, cháu họ.
Song song với việc định hướng nghề nghiệp, thì chính các thành viên
trong gia đình thông qua sinh hoạt và giao tiếp hằng ngày cũng góp phần hình
thành nên những con người phù hợp với thời đại. Ông bà, cha mẹ ngày nay
ngoài việc quan tâm, đầu tư, định hướng để con, cháu phát triển toàn diện và
có tương lai tươi sáng thì bản thân họ cũng phải thay đổi khi giao tiếp với giới
trẻ. Cách giáo dục của gia đình là giáo dục bằng tình thương, tình cảm - có
mềm dẻo, có cứng rắn, nhưng đó là môi trường giáo dục mở. Nơi mà các ý
62
kiến của các thành viên được lắng nghe, được trao đổi, được phân tích để tạo
sự đồng thuận, sự hoà hợp, sự đầm ấm. Do đó, mà tính bảo thủ, sự độc đoán
tồn tại trong các thế hệ trước cũng dần được thay thế để phù hợp hơn với
chính các thành viên trong gia đình.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Tốc độ tăng so với năm trước (%) Đóng góp của các
khu vực vào tăng
Năm
trưởng năm 2014
Năm 2012 Năm 2013
2014
(Điểm phần trăm)
Bảng: 2.1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước những năm gần đây
5,25
5,42
5,98
5,98
Tổng số
2,68
2,64
3,49
0,61
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
5,75
5,43
7,14
2,75
Công nghiệp và xây dựng
5,90
6,57
5,96
2,62
Dịch vụ
Sự phù hợp của con người mới đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước ở
các lĩnh vực là xu thế tất yếu hiện nay. Điều đó được thể hiện thông qua:
+ Trong công nghiệp và dịch vụ: người lao động có ý thức kỉ luật, có kĩ
năng nghề nghiệp, có trình độ tay nghề,... Nếu như trước kia, ý thức tổ chức,
kỷ luật là một điểm yếu của lao động nước ta thì ngày nay điểm yếu đó đã dần
được khắc phục. Bản thân mỗi người lao động đã hiểu rằng: chỉ có đáp ứng
được nhu cầu công việc thì họ mới không bị đào thải bởi nguồn cung lao động
nước ta là khá dồi dào. Do đó, ngoài việc được đào tạo thì bản thân mỗi người
lao động đã có ý thức tự đào tạo, không ngừng học tập, tìm tòi, sáng tạo để
làm chủ công việc, làm chủ công nghệ và phát minh ra những công nghệ mới
trong ngành công nghiệp và xây dựng.
Về cơ bản, đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số
ngành, lĩnh vực như: bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô,
63
xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng,… Bên cạnh đó, thì các ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giầy da,… cũng được đáp
ứng về số lượng và chất lượng lao động. Một bộ phận không nhỏ lao động
trong ngành công nghiệp và dịch vụ hiện nay của nước ta đã dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm và đã thành công với cách nghĩ cách làm của
mình. Đó là những doanh nhân người Việt đang cống hiến và làm giàu trên
chính quê hương mình. Một bộ phận khác cũng tự tin với kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp của mình và tìm đến con đường xuất khẩu lao động để có thu
nhập cao hơn.
Bên cạnh việc được gia đình hướng nghiệp và đầu tư cho học tập để trở
thành những người lao động đáp ứng được yêu cầu của xã hội như trên thì
một bộ phận không nhỏ giới trẻ cũng được gia đình hướng nghiệp cho làm
dịch vụ, buôn bán. Lực lượng lao động này chủ yếu nằm ở các thị xã, thành
phố. Khi gia đình các em có mặt tiền đẹp hoặc đang kinh doanh thuận lợi thì
các bậc phụ huynh thay vì để con học lên cao bằng việc định hướng cho con
“kế nghiệp” công việc kinh doanh, buôn bán của mình. Hoặc để con học lên
cao nhưng cũng hướng vào những ngành nghề trực tiếp hoặc có liên quan đến
công việc mà họ đang làm để đến khi ra trường có thể quán xuyến được công
việc của gia đình đang làm.
Chất lượng người lao động không ngừng được nâng cao đã tạo sự
chuyển biến tích cực trong phát triển công nghiệp và dịch vụ. Năm 2014,
công nghiệp và xây dựng tăng 7,14%, ngành dịch vụ tăng 5.96% so với năm
trước.
+ Trong nông, lâm, ngư nghiệp: những lao động trong ngành này đã
từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, dịch chuyển sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp từ tự cấp, tự túc sang cơ chế thị trường mang tính chất hàng hóa.
Nông nghiệp chuyển từ đa canh sang hướng chuyên canh, thâm canh sang các
64
loại sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao. Lâm nghiệp được chú trọng trồng
các loại lâm sản có giá trị kinh tế cao, làm nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp chế biến xuất khẩu. Ngư nghiệp phát triển theo hướng hình thành các
chuỗi giá trị, nâng cao giá trị thủy, hải sản thay vì nâng cao số lượng các mặt
hàng này thông qua việc ứng dụng, triển khai các thành tựu khoa học vào sản
xuất, kinh doanh.
Năng suất là hiệu quả sản xuất, kinh doanh không ngừng được nâng
cao là mục tiêu của tất cả các ngành kinh tế. Nông, lâm, ngư nghiệp cũng
không ngoại lệ. Nếu tính giá trị sản phẩm thu được trên 1ha đất trồng trọt và
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thì có thể thấy: Năm 2010 là 103,8 triệu đồng, n
đến năm 2013, con số tương ứng là 157,6 triệu đồng, năm 2014 là 177,4 triệu
đồng, tương ứng tốc độ tăng trưởng 15%/ năm là con số mà rất nhiều lĩnh vực
khác cũng mong muốn. Tốc độ tăng trưởng của toàn ngành này trong năm
2014 là 3,5% so với năm 2013, đây là con số đáng mừng bởi diện tích đất
phục vụ cho ngành này đang dần bị thu hẹp do quá trình CNH - HĐH và đô
thị hoá đang diễn ra nhanh chóng trên phạm vi cả nước [44, tr. 396].
Sự thay đổi về tính chất và phương tiện canh tác, đánh bắt trong nông,
lâm, ngư nghiệp đòi hỏi mỗi lao động làm việc trong lĩnh vực này cần thay
đổi để thích ứng. Người nông dân ngày nay không chỉ biết sản xuất giỏi mà
còn phải biết nắm bắt các nhu cầu của thị trường, biết áp dụng các công nghệ
mới vào sản xuất, dám nghĩ, dám làm thì mới thành công được. Điều này rất
dễ nhìn thấy khi mà hiện nay, phần lớn chủ các trang trại, các chủ tàu hiện
đại, các công ty hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là những
người trẻ. Họ là kết quả của quá trình được giáo dục, là kết quả của quá trình
đổi mới kinh tế toàn diện và để có được kết quả như ngày hôm này, chắc chắn
họ phải được sự ủng hộ, sự chia sẻ của gia đình, của người thân và bạn bè.
65
+ Trong lĩnh vực chính trị: Cải cách bộ máy Nhà nước đã đang cải cách
theo hướng có hiệu quả, trình độ cán bộ công chức Nhà nước đã được nâng
lên một bước, số người có trình độ đại học, trên đại học ngày càng cao. 100%
cán bộ, công chức cấp Trung ương có trình độ từ đại học trở lên và 92,4% cán
bộ, công chức cấp cơ sở đã được đào tạo ở các trình độ khác nhau. Đây là
nguồn nhân lực quan trọng để cải cách quản lý hành chính Nhà nước, nhằm
nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý hành chính Nhà
nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội [38].
Chất lượng cán bộ, công chức và đạo đức công vụ được nâng cao trong
những năm qua có sự đóng góp rất lớn của gia đình Việt Nam. Đời sống được
nâng cao cũng là lúc mà các gia đình và mỗi cá nhân trong xã hội đã đánh giá
đúng vai trò qua trọng của việc nâng cao tri thức thông qua quá trình giáo dục
và tự giáo dục. Bản thân mỗi cán bộ, công chức hiểu rằng: muốn cống hiến,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc tốt hơn thì cần phải không ngừng nỗ lực
học tập, rèn luyện, phải sâu sát trong các công việc của người dân, am hiểu
luật pháp và văn hoá dân tộc,… Sự ủng hộ của gia đình chính là nền tảng
vững chắc nhất để cán bộ, công chức luôn luôn trau dồi tri thức, kỹ năng, đạo
đức để ngày càng nâng cao chất lượng và hiệu quả trong thực thi công vụ, xây
dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, minh bạch và
hiệu quả trong phục vụ nhân dân.
+ Trong lĩnh vực văn hóa: khi bàn về văn hoá, có thể tóm tắt gọn bằng
câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hoá soi đường quốc dân đi”. Văn
hoá vừa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực, mục tiêu phát triển kinh
tế. Văn hoá cũng điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội, đồng thời, nó
cũng góp phần giữ vững sự ổn định đất nước. Văn hoá cũng là nhân tố quyết
định đến công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
66
Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội
trước hết vì nó là nền tảng tinh thần, động lực và thông qua mục tiêu mà nó
đặt ra cho tất cả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội đều phải hướng đến mục tiêu cao nhất là đảm bảo yêu cầu
cơ bản nhất là bảo vệ con người, phục vụ con người, nâng cao chất lượng
cuộc sống con người.
Để xã hội tăng trưởng và phát triển bền vững phải có một mô hình tăng
trưởng xuất phát từ văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực
chất lượng cao. Bằng nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người,
chúng ta có thể làm chủ được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác
động vào các hoạt động và các mối quan hệ trong xã hội theo chiều sức mạnh
thúc đẩy đi lên. Văn hoá thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững của kinh
tế thông qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người
về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách,
lối sống của cá nhân và cộng đồng.
Gia đình vừa là nơi tiếp nhận, giáo dục, vừa là nơi hình thành và phát
triển dựa trên sự kết hợp giữa văn hoá truyền thống và hiện đại, qua đó trang
bị cho mỗi thành viên trong gia đình Việt những giá trị và chuẩn mực văn hoá
nhất định. Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt
đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia
đình. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của mình – đó
chính là những công dân hữu ích cho xã hội. phải có trách nhiệm nuôi dưỡng
và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích. Cùng với
nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra
lực lượng lao động tương lai có chất lượng cao.
Việc xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá, Khu dân cư văn hoá,…
đang được triển khai ở tất cả các địa phương của nước ta hiện nay góp phần
67
thúc đẩy phong trào “Toàn dân xây dựng nếp sống văn hóa mới ở khu dân
cư”. Mỗi thành viên trong gia đình có văn hoá hay không sẽ quyết định gia
đình đó có văn hoá hay không, mỗi cá nhân có văn hoá sẽ hình thành nên một
cộng đồng, một xã hội có văn hoá tiến bộ. Do đó, việc đẩy mạnh các phong
trào này chính là quá trình hiện thực hoá việc phát huy vai trò của gia đình
trong xây dựng con người mới, lối sống mới ở nước ta hiện nay.
Trong các gia đình Việt Nam hiện nay vẫn có nhu cầu cao trong việc
gắn kết cộng đồng và gìn giữ bản sắc văn hóa làng (ở nông thôn), phát triển
các hoạt động tâm linh như đi chùa chiền, thờ cúng, hội họp giỗ cúng (ở thành
thị); những giá trị văn hóa truyền thống như: trọng người già, trọng đạo đức,
trong gia đình vẫn còn được đề cao. Bên cạnh đó, người dân cũng tiếp nhận
những giá trị văn hóa mới, có nhu cầu hưởng thụ các hoạt động văn hóa mới
(đi du lịch, chơi thể thao, tham gia các diễn đàn trực tuyến trên mạng internet,
xem phim rạp,…).
2.1.1.2.Gia đình Việt Nam đã xây dựng được những con người có lối
ứng xử phù hợp trong mối quan hệ với tự nhiên, trong xã hội.
a) Xây dựng con người có lối ứng xử phù hợp trong mối quan hệ với
thiên nhiên.
Hành tinh nơi ta đang sống ngày nay đang phải đối mặt với nhiều thảm
họa thiên nhiên: thiên tai do sự nóng dần toàn cầu; sự phá rừng; phá hoại môi
trường tự nhiên,… Nhiều thập kỷ qua, con người đã phá hoại rừng và tiêu diệt
động vật, làm ô nhiễm không khí, khai thác mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên,
phá vỡ sự cân bằng trong tự nhiên,… Nếu tiếp tục làm như vậy, địa cầu sẽ cạn
kiệt tài nguyên và động thực vật sẽ tuyệt chủng. Sự thất thoát tài nguyên môi
trường, mất tính đa dạng sinh học, nguồn nước uống không an toàn, hệ thống
vệ sinh bất cập và gia tăng số lượng nhà ổ chuột là các mối đe dọa đáng chú ý
nhất đối với hoạt động bảo vệ môi trường ngày nay.
68
Theo nghiên cứu của các tổ chức bảo vệ môi trường, ở nước ta, 70%
các dòng sông, 45% vùng ngập nước, 40% các bãi biển đã bị ô nhiễm, hủy
hoại về môi trường; 70% các làng nghề ở nông thôn đang đứng trước nguy cơ
ô nhiễm nghiêm trọng. Cùng với đó, tình trạng nước biển xâm nhập vào đất
liền; đất trống, đồi núi trọc và sự suy thoái các nguồn gien động thực vật đang
có chiều hướng gia tăng là hệ quả của việc hủy hoại môi trường. Bảo vệ môi
trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội [56].
Từng cá nhân, tổ chức ở nước ta hiện nay đều nhận thức được tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trường và đang có những hành động tích cực để
đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Ngày nay, đạo đức môi trường
được đề cập như là một phương diện của đạo đức chung, thể hiện và thực hiện
đạo đức của con người, trong quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trong mối
quan hệ với thiên nhiên, những người dân Việt Nam (không kể lứa tuổi, giới
tính,…) đều dần hình thành lối sống hài hoà với thiên nhiên. Lối hành xử hài
hoà với thiên nhiên được hình thành từ việc các gia đình phân loại rác, đổ rác
đúng nơi quy định, sử dụng tiết kiệm các loại năng lượng như: xăng, điện,…ở
thành phố và việc trồng cây, gây rừng, bảo vệ rừng ở nông thôn và miền núi.
Để xây dựng lối sống hài hoà với thiên nhiên, nhiều gia đình đã giáo
dục lẫn nhau bắt đầu từ những việc làm, hành động nhỏ nhất như trồng và
chăm sóc cây xanh; giữ gìn vệ sinh gia đình, vệ sinh xã hội, không xả rác bừa
bãi và vô ý thức; nhiều gia đình đã chủ động tham gia các tổ chức về bảo vệ
môi trường để xây dựng ý thức tiết kiệm năng lượng như điện và nước, sử
dụng và khuyến khích sử dụng các sản phẩm xanh, sử dụng các nguồn năng
lượng có thể tái tạo,... Các Câu lạc bộ Bảo vệ môi trường, Câu lạc bộ “5
không, 3 sạch”,… được hình thành rộng khắp trên cả nước cũng thúc đẩy và
phát huy mạnh mẽ vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống hài hoà với
thiên nhiên. Rất nhiều các chiến dịch như: “Giờ Trái đất”, “Hành tinh chuyển
69
động”, “Tháng hành động vì màu xanh học đường”, “Mái trắng - Tường
xanh”, “Làm cho thế giới sạch hơn”... được phát động để hưởng ứng sự kiện
về môi trường, biến đổi khí hậu, thông qua đó để đưa ra những hành động phù
hợp hơn với môi trường áp dụng cho từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng
đồng cụ thể.
b) Xây dựng con người có lối giao tiếp, ứng xử phù hợp trong xã hội:
- Xây dựng lối giao tiếp, ứng xử phù hợp trong gia đình. Những nét đẹp
ứng xử trong gia đình đã hình thành nên nhiều giá trị văn hoá mang tính
truyền thống của người Việt như: Sự hoà thuận, chung thuỷ, tình nghĩa, lòng
yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ với cha mẹ, anh em.
Nhiều gia đình Việt Nam xưa nhờ biết duy trì lối ứng xử có văn hoá đã tạo ra
nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng noi theo. Chính gia lễ, gia phong ấy là
cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam, gia đình và xã hội Việt
Nam một sức sống mãnh liệt và sự trong sáng trong quan hệ ứng xử.
Ngày nay, dù văn hóa ứng xử trong gia đình có thay đổi rất nhiều so với
trước kia nhưng những khuôn phép của mỗi gia đình vẫn không thể thiếu được.
Nguyên tắc ứng xử trong gia đình ngày nay được xây dựng dựa trên sự tôn
trọng; kính trên, nhường dưới; sự bình đẳng; xuất phát từ tình yêu thương; tạo
sự đoàn kết, tương thân, tương trợ lẫn nhau.
Lối giao tiếp, ứng xử phù hợp thể hiện thông qua các mối quan hệ cơ
bản trong gia đình. Đó là:
+ Thứ nhất, trong quan hệ vợ chồng: là mối quan hệ cơ bản, chủ yếu
trong việc xây dựng, gìn giữ, bồi đắp hạnh phúc gia đình. Cả hai người đều
quan trọng, “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Sự tiến bộ trong nhận thức
xã hội về quyền bình đẳng khiến cho địa vị người phụ nữ trong gia đình và
ngoài xã hội đã thay đổi rất nhiều. Người chồng đã tôn trọng, quan tâm, giúp
đỡ, chia sẻ gánh nặng công việc gia đình với vợ nhiều hơn, tạo điều kiện cho
70
vợ tham gia các hoạt động xã hội, học tập, phát triển. Vợ chồng mong muốn
thuận ý, thuận tình để “tát biển Đông cũng cạn”, nên đã thực hiện những điều
rất đáng quan tâm trong ứng xử như:
Thấu hiểu, cảm thông và hỗ trợ nhau, trong công việc cũng như đời
sống, kinh tế, quan hệ gia đình, xã hội,… nhằm giải tỏa cho nhau những áp
lực về tâm lý. Chia sẻ việc nhà để giữ gìn sức khỏe, sự thanh thản ở người bạn
đời, nhờ đó gia đình êm ấm, tránh những xung đột, đôi khi dẫn đến bạo lực
giữa vợ chồng. Thấu hiểu, cảm thông nhiều bao nhiêu thì phải sẵn lòng tha
thứ nếu có những sự cố xảy ra giữa vợ chồng: “Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười chúm chím rằng: Anh giận gì?”.
Phải kiên định, thống nhất ý kiến. Thành ngữ có câu: “Một trăm cái lý,
không bằng một tí cái tình” với ý muốn chỉ ra rằng ai cũng có lý lẽ, tuy nhiên
nếu cố chấp dễ dẫn đến đối kháng. Vợ chồng đã biết lấy sự hòa thuận để đối
xử sẽ tìm được tiếng nói chung: “Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi bớt lửa,
mấy đời cơm khê”.
Vợ, chồng đã mạnh dạn bày tỏ, biểu lộ tình yêu đối với bạn đời của
mình. Tặng một món quà, một lẵng hoa cho ngày sinh nhật, một ánh mắt, cử
chỉ yêu thương hay một không gian, thời gian riêng cho vợ chồng… thể hiện
tình yêu của mình với người bạn đời. Cuộc sống gia đình bộn bề công việc,
nỗi lo toan, tuổi tác,… tạo ra rào cản tâm lý để biểu lộ tình yêu giữa vợ chồng.
Cho nên biểu lộ tình yêu với nhau là rất cần thiết để đôi bên cảm nhận hạnh
phúc mà giữ gìn sự chung thủy với nhau ngay cả trong những hoàn cảnh ngặt
nghèo nhất.
Luôn dành cho nhau những lời ngọt ngào. Vợ chồng hạn chế những lời
nói cay nghiệt tạo sự tổn thương cho bạn đời và mất mát tình cảm, đôi khi khó
nhìn mặt nhau. Nếu có lúc nóng giận, lỡ lời hãy chân thành xin lỗi và đừng
71
bao giờ lặp lại lỗi lầm đó. Ngược lại vợ hoặc chồng cũng đã biết rộng lòng tha
thứ cho người bạn đời của mình vì tình yêu, vì gia đình hạnh phúc
Vợ, chồng cũng biết cách tôn trọng cá tính của nhau. Vợ chồng là một
đôi nhưng là hai cá thể, có khi rất tâm đầu ý hợp nhưng có khi có những khác
biệt về vốn sống, sở thích. Không vì sống chung mà buộc có sự thay đổi hoặc
lệ thuộc hoàn toàn, vì như vậy sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột và dần sẽ làm
mất mát tình cảm vợ chồng. Do đó, nhiều vợ hoặc chồng đã biết cách dành
cho nhau những phút giây, khoảng trời riêng để thỏa mãn sở thích, tâm tình
riêng bạn đời của mình.
Vợ, chồng đã biết cách chủ động giải quyết mâu thuẫn. Trong gia đình
có nhiều nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng như: cách nuôi dạy con
cái, kinh tế gia đình khó khăn, ứng xử chưa tốt với bạn đời hay cha mẹ hai
bên, không hiểu công việc, mối quan hệ xã hội của nhau, … dẫn đến bất đồng
quan điểm, ngờ vực, hiểu lầm,… Để gìn giữ tình yêu, mối quan hệ vợ chồng
tốt đẹp, gìn giữ mái ấm gia đình mà vợ chồng đã dày công xây dựng và vì con
cái bằng cách chủ động giải quyết mâu thuẫn ấy một cách nhẹ nhàng nhất.
+ Thứ hai, trong quan hệ cha mẹ và con cái. Trong tâm thức của người
Việt Nam, vốn quí giá nhất của cha mẹ chính là con cái. Cha mẹ luôn ý thức
được trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tư cách con từ tấm bé đến khi
trưởng thành. Vì vậy, quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất thiêng liêng, bao
hàm mối quan hệ sinh thành, dưỡng dục. Con cái yêu kính, hiếu nghĩa với cha
mẹ. Điều đó được thể hiện thông qua:
Cha mẹ giao tiếp, ứng xử với con cái: Cách cư xử của cha mẹ với
con cái ngày nay cũng thay đổi nhiều. Yêu thương, tôn trọng, bao dung, độ
lượng, đối xử công bằng bình đẳng giữa các con. Dạy con thực hiện bổn phận,
trách nhiệm đối với gia đình, xã hội. Theo dõi, giúp con an toàn phát triển
72
trong tuổi vị thành niên, trở thành người lớn. Nhiều bậc cha mẹ đã biết cư xử
theo các cách như:
Tôn trọng con cái trên cơ sở quyền con người và bình đẳng giới, phát
huy năng lực cá nhân của các con. Làm “người bạn” lớn để hiểu con và
ngược lại tạo điều kiện cho con hiểu cha mẹ. Cha mẹ đã chú ý xử sự bình
đẳng giữa các con tránh những định kiến về giới; khuyến khích, khen ngợi khi
con đạt thành tích hoặc làm việc tốt. Con có lỗi, cần dùng lời lẽ chuẩn mực,
thái độ nghiêm túc, tấm lòng bao dung để phân tích, chỉ dạy.
Lắng nghe ý kiến và cho phép con tham gia phát biểu, hỏi về những
vấn đề liên quan đến bản thân và việc chung của gia đình. Giao nhiệm vụ và
tin tưởng vào khả năng, trách nhiệm của con. Hỗ trợ, giúp đỡ con giải quyết
những vấn đề liên quan. “Nhân vô thập toàn”, cha mẹ cũng có lúc làm sai,
mắc lỗi. Do vậy, nếu cha mẹ có sai cũng biết cách nhận lỗi với con cái. Ngược
lại, nếu con mắc lỗi cũng biết chân thành phân tích, góp ý và tạo cho con
những cơ hội để sửa chữa lỗi lầm bản thân.
Đối xử công bằng đối với con cái. Yêu thương các con như nhau, ưu
tiên trẻ nhỏ, chăm lo nhiều hơn đối với con cái tàn tật, khuyết tật. Dành cơ hội
như nhau cho các con. Lúc gia cảnh khó khăn, cơ hội cho các con cần phải
sắp xếp ưu tiên thì đã bàn bạc, giải thích, vận động để tìm tiếng nói chung.
Quan tâm đến tâm tư, tình cảm, các mối quan hệ bạn bè của con. Cha
mẹ ngày nay đã cân nhắc đáp ứng những mong muốn, đề nghị của con nếu
chính đáng; trao đổi giúp con hiểu rõ thông tin và quyết định đúng, nhất là
trong giai đoạn phát triển ở lứa tuổi vị thành niên. Tạo điều kiện, hướng dẫn
con tiếp cận thông tin, cơ hội phát triển, cùng con bàn bạc thực hiện kế hoạch
bản thân. Giúp con tự chủ, tế nhị tiếp sức. Động viên, thúc đẩy, nâng đỡ tinh
thần giúp con tự tin, nỗ lực khi gặp việc khó. An ủi, cùng con phân tích, tìm
nguyên nhân khi thất bại và nuôi dưỡng quyết tâm khắc phục.
73
Làm gương cho con. Trong gia đình, cha mẹ đã chú ý rèn luyện, tu
dưỡng để mình là tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách, là điểm tựa tinh
thần của con. Đó là cách cư xử vừa thuyết phục, vừa tế nhị lại sâu sắc. Nét uy
nghiêm của cha, tình cảm của mẹ mà con cái cảm nhận được là biểu lộ của
một chiều sâu cảm phục, trở thành hình ảnh lý tưởng, là thần tượng của con.
Con cái ứng xử đối với cha mẹ: Đạo hiếu là truyền thống tốt đẹp, tự
hào của dân tộc ta. Cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục
con cái. Con được nhận nuôi dù không sinh nhưng cha mẹ có công lao dưỡng
dục. Vì vậy, làm con phải biết bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, thể hiện
lòng hiếu kính chăm sóc, phụng dưỡng suốt đời. Theo thời gian, sự biểu hiện
của đạo hiếu ít nhiều biến đổi cho phù hợp với xã hội. Chẳng hạn, xưa con có
hiếu là không được cãi lời cha mẹ, nên “Áo mặc không qua khỏi đầu”hay
“Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Nay xã hội tiến bộ, không khí dân chủ gia
đình khiến cha mẹ cũng lắng nghe con cái, con cái cũng cần thuyết phục cha
mẹ với những lí do chính đáng. Xã hội công nghiệp hiện đại, việc phụng
dưỡng ông bà cha mẹ cũng có nhiều biến đổi, chẳng hạn vì phải đi làm ăn xa,
tách hộ sống riêng và nhiều lý do khác nên khó “sớm viếng, tối thăm”. Về
phía cha mẹ, vẫn hết lòng bao dung, thấu hiểu, cảm thông bởi “nước chảy về
xuôi, lá rụng về cội”, nhưng đôi khi người cao tuổi hay tủi thân, chạnh lòng.
Con cái biết cách thực hiện bổn phận của con cái đối với cha mẹ thông
qua các hành động cụ thể như:
Kính trọng: Giữ lễ trong giao tiếp, nói năng chuẩn mực. Thường xuyên
thăm viếng, nói chuyện, hỏi han. Báo cho cha mẹ biết những việc vui mừng
trong gia đình. Hỏi ý kiến cha mẹ trong những việc lớn, coi trọng ý kiến của
cha mẹ. Mời cha mẹ chủ trì những việc quan trọng, thay mặt gia đình tiếp xúc
với ông bà, họ hàng giúp cha mẹ chăm lo hương khói tổ tiên. Tổ chức điều
kiện sống, chăm sóc tinh thần khi cha mẹ tuổi cao.
74
Hiếu thảo: khi còn bé thì phải học hành chăm chỉ, thực hiện bổn phận
trong gia đình (phụ giúp cha mẹ việc nhà, việc sinh kế - nếu gia cảnh khó
khăn, chăm sóc em út); chăm sóc, hỏi han khi cha mẹ ốm đau; anh chị em hòa
thuận để cha mẹ vui lòng; cùng cha mẹ thực hiện việc phụng dưỡng ông bà.
Khi trưởng thành phải phụng dưỡng cha mẹ khi sống chung. Hiểu những khó
khăn về sức khỏe, tâm tính của người cao tuổi như hay tủi thân, chạnh lòng,
đãng trí,… để thương yêu cha mẹ hơn. Chăm lo giấc ngủ, bữa ăn, thiết kế nơi
ở phù hợp cho cha mẹ. Nếu ở riêng nên phụ giúp cha mẹ về tiền bạc; tham gia
đóng góp công sức vào việc lớn của gia đình mà cha mẹ phải chủ trì như cưới
xin, tang, giỗ; thực hiện những điều cha mẹ mong muốn. Anh chị em trong
gia đình cần bàn bạc, tìm cách giải quyết khó khăn liên quan đến cha mẹ.
Tu dưỡng bản thân, xây dựng gia đình riêng hạnh phúc để cha mẹ tự
hào. Giữ gìn sự đoàn kết trong anh chị em, cùng dạy cháu con hiếu thảo,
thuận hòa để cha mẹ vui sống. Cùng cha mẹ chăm lo mồ mả tổ tiên, quan tâm
đến dòng họ. Cùng anh chị em chu toàn việc hậu sự khi cha mẹ qua đời.
+ Thứ ba, trong quan hệ giữa cha mẹ chồng/vợ và con dâu/rể: Ngày
nay, với sự tiến bộ xã hội về bình đẳng giới và vị thế ngày càng cao của người
phụ nữ trong nhiều lĩnh vực xã hội,… đã dẫn đến nhiều thay đổi trong quan
giữa cha mẹ vợ/chồng với con dâu hoặc con rể. Quan niệm “Dâu là con, rể là
khách” ở nhiều gia đình đã được thay đổi thông qua cách ứng xử rất tiến bộ
hơn, đó là sự tôn trọng, thương yêu, là sự đầu tư cho hạnh phúc gia đình riêng
của hai con. Nhiều gia đình cha mẹ đôi bên đã xem dâu, rể thật sự là con của
mình. Ngược lại, nhiều dâu hiền, rể thảo đã không có sự phân biệt đối xử giữa
hai bên gia đình bởi ai cũng mong muốn được tôn trọng thương yêu và được
yêu thương.
Trong mối quan hệ giữa cha mẹ chồng và con dâu: Người đời vẫn
cho rằng mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu là quan hệ khó nhất. Vì từ
75
trong nhận thức của mẹ chồng rằng con dâu là nguyên nhân tất yếu để con trai
không còn dành hết tình cảm cho mẹ. Cũng có thể do mẹ chồng đã từng làm
dâu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, nay khi đã là mẹ chồng, bà không có cách
ứng xử nào khác. Tình cảnh đó đôi khi là một thử thách lớn. Sự chủ động cư
xử tốt với mẹ chồng của nàng dâu là rất cần thiết để tạo mối quan hệ tốt đẹp.
Các cách giao tiếp, ứng xử ngày càng nên phổ biến trong mối quan hệ này là:
Con dâu coi trong giá trị và địa vị của mẹ chồng: biết lắng nghe, xin ý
kiến và học tập những kinh nghiệm điều hành gia đình của bà. Tìm hiểu, ca
ngợi những phẩm chất tốt đẹp của mẹ trong cuộc sống, nuôi dạy con, xây
dựng và gìn giữ gia đình. Vui vẻ tiếp nhận sự giúp đỡ thiện chí của mẹ chồng.
Hiếu kính với mẹ chồng: Thể hiện tình cảm và cử chỉ chăm sóc mẹ
chồng, chia sẻ nỗi lo toan. Luôn giữ thái độ lễ phép, không nói năng vô lễ làm
tổn thương tình cảm giữa mẹ con và gia đình. Biết yêu kính mẹ chồng như mẹ
của mình.
Giữ gìn nề nếp gia đình: học tập nếp ăn, nếp ở của gia đình chồng để
xử sự phù hợp. Thể hiện sự chăm chỉ và chu toàn việc nhà, làm tốt việc xã hội
khiến mẹ chồng hãnh diện. Cùng bàn bạc, xin ý kiến mẹ về những chi tiêu
kinh tế trong gia đình.
Trong mối quan hệ giữa cha mẹ vợ và con rể.
Ngày nay, mối quan hệ giữa cha, mẹ vợ và con rể ở nhiều gia đình rất
tốt đẹp. Cha mẹ vợ đã rất thương yêu và coi trọng chàng rể, vì đó là người
quan trọng đối với con gái mình. Về phía chàng rể, cha mẹ vợ cũng rất quan
trọng trong việc giúp đỡ, chăm sóc tinh thần đối với gia đình mình.
Về phía cha mẹ vợ: Cha mẹ vợ biết khéo léo giúp đỡ, hỗ trợ cho con
gái mình như một nhà tư vấn hướng dẫn kinh nghiệm sống, kỹ năng xây dựng
gia đình hạnh phúc, bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ, nhắc nhở dạy bảo con
mình giữ gìn đạo nghĩa vợ chồng, thuỷ chung và hiếu thảo. Cách cư xử như
76
một nhà tư vấn, trọng tài chính trực, khách quan duy trì tốt trong mối quan hệ
cha mẹ vợ với chàng rể đang được nhiều gia đình áp dụng.
Giao tiếp, ứng xử của con rể: Phải chăng thành ngữ “rể là khách” đã ăn
sâu vào tâm thức, nên quả thật dù có chủ động và được yêu quí đến đâu,
chàng rể xuất hiện ở nhà cha mẹ vợ thường giữ lễ nên vẫn không thoải mái
như nhà mình. Tuy vậy, vẫn có những cách ứng xử của rể hiền: thường xuyên
thăm hỏi gia đình cha mẹ vợ; giúp công sức khi nhà có việc; cùng vợ chăm lo
việc lễ tết cho gia đình cha mẹ; tham dự giỗ chạp tổ tiên ông bà gia đình vợ;
thống nhất cùng vợ trách nhiệm tham gia kinh phí phụ giúp cha mẹ vợ thường
xuyên hoặc hữu sự. Phụng dưỡng khi cha mẹ vợ sống chung.
+ Thứ tư, trong quan hệ ông bà - cháu: Quan hệ ông bà - cháu là mối
quan hệ có tính chất tiếp nối về huyết thống. Bên cạnh sự thương yêu, kỳ
vọng, những khác biệt về tuổi tác, quan niệm sống, đặc điểm tâm sinh lý của
lứa tuổi tạo nên giữa thế hệ ông bà với thế hệ cháu có những khác biệt nhất
định. Hoàn cảnh sống cũng tác động đối với quan hệ ông bà và cháu. Xu
hướng tách hộ, hình thành gia đình hạt nhân ngày càng mạnh và ông bà
thường ở riêng nên ít tiếp cận với con cháu. Điều này làm hạn chế sự chăm
sóc về tinh thần, hỗ trợ giáo dục lớp con cháu của ông bà. Ngược lại, sự chăm
sóc đối với ông bà của con cháu, đặc biệt là sự nâng đỡ về tinh thần cũng hạn
chế. Về đạo lý, việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, cha mẹ là bổn phận, trách
nhiệm của con cháu.
Những nét đẹp đã xuất hiện trong cách ứng xử của cháu đối với ông bà:
tôn trọng, có thái độ đúng mực, lễ phép, kính trọng, biết ơn đối với ông bà.
Thăm viếng, chăm sóc, hỏi han, thông báo về sự tiến bộ của bản thân mình để
tạo niềm vui, sự hãnh diện cho ông bà. Trực tiếp tham gia chăm sóc ông bà
khi ốm đau, bệnh tật. Đối với cháu đã thành niên, lập gia đình phải năng đưa
chắt đến thăm các cụ, tham gia tổ chức lễ mừng thọ ông bà, biếu tiền quà để
77
ông bà được vui mừng vì qua đó biết rằng con cháu ổn định, ăn nên làm ra
nhờ phúc đức tổ tiên, mà ông bà an lòng vui sống.
+ Thứ năm, trong quan hệ anh chị em: Gia đình xưa thường đông con,
các con cùng trong lứa tuổi. Trong nhà, trẻ em chơi với nhau, có tranh cãi,
giành giật đồ chơi, xung đột, hình thành phe phái đánh nhau, lại có lúc bênh
vực cho nhau,... Cha mẹ phải xử phạt, rồi dạy dỗ cho các con tình anh chị em,
cách làm anh, phận làm em. Nhờ đó trẻ được thực hiện quyền, bổn phận theo
vai trò, thứ bậc, tôn ti trật tự trong gia đình, hiểu được sự đoàn kết, tình
thương yêu, biết chia sẻ, nhường nhịn lẫn nhau.
Ngày nay, các bậc cha mẹ trẻ đã biết cách chủ động, mở ra cơ hội giao
tiếp ứng xử cho các con trong mối quan hệ anh chị em họ hàng như cây cùng
một cội. Từ đó, hình thành mạch liên lạc giao lưu, học tập, trao đổi kinh
nghiệm sống và chia sẻ, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn, là điều kiện để
tạo quan hệ tình cảm yêu thương gắn bó và xây dựng truyền thống đoàn kết
của gia đình, thân tộc. Dù là mối quan hệ huyết thống hay được nhận nuôi,
anh chị em trong gia đình, họ hàng đều cần được giáo dục cách ứng xử đoàn
kết, thân ái. Đó là:
Anh chị em đã hòa thuận, thương yêu, thấu hiểu, giáo dục lẫn nhau,
nương tựa vào nhau, không bất hòa sinh chia rẽ, góp ý, thuyết phục, lắng
nghe, thẳng thắn phê bình và tự phê bình, không gây bạo lực tinh thần, thể
chất đối với nhau, không lừa dối lẫn nhau.
Anh chị em tôn trọng nhau, em thân kính đối với anh, chị; anh chị bao
dung đối với các em; giữ gìn sự bình đẳng, coi trọng lẫn nhau giữa anh, chị,
em khác phái (nhất là ở lứa tuổi vị thành niên). Tế nhị đối với những vấn đề
riêng tư (khi anh, chị, em thành niên hoặc đã lập gia đình).
Anh chị em hợp tác, chung hợp sức để xây dựng gia đình, thân tộc,
chăm lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ, giải quyết việc chung của gia đình. Biết
78
lắng nghe, chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, kỹ năng sống, hỗ trợ lẫn nhau không
mưu lợi.
Anh chị em tương trợ, hướng dẫn nhau trong học hành, chia sẻ việc nhà
theo khả năng (lúc còn bé). Lúc hữu sự, khó khăn kịp thời phối hợp, trợ giúp,
biết nhường cơm, sẻ áo cho nhau. Đồng cảm chia sẻ nỗi đau thương, động
viên tinh thần, hun đúc ý chí lẫn nhau.
Những ứng xử phù hợp đẹp như trên đã tạo một lối sống đầm ấm, hoà
thuận, hạnh phúc, tiến bộ trong mỗi gia đình - đó cũng là 1 trong 3 tiêu chí
quan trọng để xây dựng “Gia đình văn hoá” ở nước hiện nay. Ngoài việc xây
dựng lối hành xử phù hợp thì các Câu lạc bộ “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền” cũng ra đời ở hầu khắp các địa phương trên cả nước. Thông
qua hoạt động của Câu lạc bộ này, các gương hiếu kính của các thế hệ con
cháu đối với cha mẹ, ông bà được ghi nhận, được tuyên dương để cộng đồng
học tập và noi theo. Ngoài ra, ở nước ta cũng đã và đang hình thành nhiều
Câu lạc bộ như: “Xây dựng gia đình phát triển bền vững”, “Phòng chống bạo
lực gia đình”, “Xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Cha mẹ nuôi, dạy con
tốt”,… để hướng tới việc xây dựng lối sống, lối ứng xử phù hợp trong các mối
quan hệ của gia đình Việt Nam hiện nay.
- Giao tiếp, ứng xử trong cộng đồng, xã hội: trong cộng đồng dân cư sự
thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, bảo vệ tài sản của nhau ngày càng phổ
biến hơn. Việc giữ hoà khí với làng xóm là điều kiện cần thiết để thiết lập mối
quan hệ “tắt lửa, tối đèn có nhau”. Giao tiếp, ứng xử lịch thiệp là cách mà
mỗi cá nhân tạo ấn tượng tốt đối với những người xung quanh. Giữ lịch sự
trong giao tiếp, ứng xử trong cộng đồng, nơi công cộng, trên đường phố,… là
điều mà mỗi cá nhân cần hướng tới bởi đó là sự thể hiện của một lối sống văn
minh, hiện đại.
79
Hiện nay, hầu hết các cá nhân đều phải tuân thủ các quy định, quy tắc
trong giao tiếp, ứng xử ở tổ chức, cơ quan mà mình học tập và làm việc; ở
làng, tổ dân phố mà mình sinh sống. Hầu hết các nhà trường, các cơ quan,
đơn vị, công ty,… đều xây dựng những quy định, quy tắc về giao tiếp, ứng xử
của riêng mình. Ở nhiều làng, nhiều tổ dân phố thì có những Quy ước, Hương
ước trong đó có những quy định về giao tiếp, ứng xử bắt buộc tất các thành
viên trong cộng đồng phải tuân thủ.
Dù tồn tại dưới hình thức nào thì các quy định về giao tiếp, ứng xử đối
với các thành viên trong cộng đồng, xã hội đều hướng tới sự đoàn kết, sự văn
minh, lịch sự, lịch thiệp, tính kỷ luật,… hướng tới xây dựng những con người
có đạo đức, có nhân cách và lối sống lành mạnh.
Biểu hiện của lối giao tiếp, ứng xử ấy là sự xuất hiện của hàng ngàn
tấm gương đẹp giữa đời thường, hàng ngàn việc đẹp trong xã hội. Đó là nữ ý
tá Trần Thị Nguyệt Lâm “dúi ” tiền cho bệnh nhân nghèo, là anh Nguyễn Tài
Dũng cứu đói cho dân vùng lũ mà bị lũ cuốn trôi, là ông Trương Văn Đổng hiến hơn 900m2 đất trị giá cả tỷ đồng để làm đường, là nhiều học sinh nhặt
được tiền rơi đem trả lại người mất,… Ngoài ra, xã hội cũng huy động được
các khoản đóng góp để xây dựng hàng chục nghìn nhà tình thương cho người
nghèo; các bữa cơm tình thương có giá 2000 đồng hay các nồi cháo tình
thương miễn phí cho bệnh nhân nghèo ở bệnh viện; các phong trào “Giúp
nhau làm kinh tế” của Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân,… cũng
được triển khai rộng khắp trên cả nước. Qua các gương điển hình, các phong
trào thiện nguyện đó mà mỗi cá nhân có dịp soi lại mình, để rồi điều chính lối
sống cho phù hợp hợp, đẹp hơn trong mắt người khác và trong công đồng.
2.1.1.3. Gia đình Việt Nam đã quan tâm xây dựng lối tiêu dùng tiết
kiệm, văn minh.
80
Xây dựng lối tiêu dùng phù hợp chỉ có thể là trách nhiệm của gia đình.
Xét cho đến cùng thì xu hướng tiêu dùng vật chất, hay cách mua sắm và nhu
cầu mua sắm của mỗi cá nhân chịu (hoặc được) sự định hướng từ chính
những người thân trong gia đình. Con cái dù có sống chung hoặc không sống
chung với cha mẹ vẫn chịu sự ảnh hưởng của bố mẹ trong quá trình mua sắm.
Vợ chồng can dự, bàn bạc với nhau trong mua sắm vật chất. Ông bà, anh chị
em đồng ý, ủng hộ hoặc không đồng ý cách mua sắm của mỗi thành viên
trong gia đình (qua thái độ khen hoặc chê) đối với sản phẩm được mua.
Theo kết quả cuộc Tổng điều tra mức sống hộ gia đình năm 2012 của
Tổng cục Thống kê công bố thì: tổng chi tiêu bình quân của 1 nhân khẩu 1
tháng của nước ta là 1.603.000đồng (ở thành thị là 2.288.000đồng và nông
thôn là 1.315.000đồng), tăng gấp hơn 5.4 lần so với 10 năm trước đó. Trong
tổng chi thì người Việt Nam đang chi tới 93.8% cho các khoản phục vụ cho
đời sống (như ăn, uống, hút, mặc, chi phí về nhà ở, điện, nước, giáo dục, y tế,
văn hoá, đi lại,…) và chi có 6.2% cho các khoản dịch vụ và đồ dùng khác.
Thu nhập được nâng cao, đời sống không ngừng được cải thiện cũng là lúc
mà mỗi hộ gia đình, mỗi cá nhân đều hướng tới xây dựng lối tiêu dùng tiết
kiệm và văn minh hơn so với trước kia [45].
- Tiêu dùng về mặt vật chất: Xu hướng văn hóa, khát vọng xã hội và
sức chi tiêu là ba yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến lối tiêu dùng của mối cá
nhân. Ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng khác nhau trong tiêu dùng vật
chất. Một số người khá tiết kiệm, số khác lại có khuynh hướng tiêu dùng rất
mạnh, thích xài hàng “xịn” để thể hiện “đẳng cấp” của mình. Cả hai hành vi
tiêu dùng ấy đều không sai, tuy nhiên để xây dựng được lối tiêu dùng “có văn
hoá”, tiết kiệm và văn minh thì mỗi cá nhân cần: xuất phát từ điều kiện kinh
tế cá nhân, gia đình, của quốc gia.
81
Căn cứ đánh giá lối tiêu dùng vật chất có tiết kiệm, văn minh hay
không cũng chính là sự so sánh mức độ phù hợp hay không phù hợp trong chi
tiêu so với mức thu nhập của mỗi cá nhân và gia đình của họ. Nói cách khác,
mẫu số chung trong tiêu dùng có văn hoá chính là sự phù hợp giữ nhu cầu tiêu
dùng vật chất và thu nhập của người mua. Thông qua mua sắm vật chất,
những người lớn trong gia đình sẽ giáo dục cho con, cháu họ hiểu về giá trị
của đồng tiền - đó cũng là giá trị của sức lao động.
Phong trào “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” hiện nay cũng là
một cách để xây dựng lối tiêu dùng văn minh, tiết kiệm. Xu hướng “sính
ngoại” đã xuất hiện mạnh mẽ trong xu hướng tiêu dùng của người Việt. Trong
khi các nhà sản xuất trong nước đang loay hoay đi tìm đầu ra cho sản phẩm
của mình ở trời “Tây” mà không quan tâm đến thị trường trong nước. Các sản
phẩm rẻ tiền, độc hại của Trung Quốc, hàng giả tràn ngập thị trường khiến
người tiêu dùng không còn tin vào các sản phẩm trên thị trường. Do đó,
phong trào này có mục tiêu xâu xa là nền sản xuất trong nước phải mang lại
giá trị tốt nhất cho đồng bào mình. Chừng nào các sản phẩm chinh phục được
người tiêu dùng trong nước thì lo gì không chinh phục nổi thị hiếu và nhu cầu
tiêu dùng của thị trường thế giới.
Tóm lại, các gia đình ngày nay cần xây dựng cho mỗi thành viên “văn
hoá tiêu dùng” dựa trên sự phù hợp, hợp lý với sức mình, vừa không quá xa
xỉ so với mức sống chung của xã hội. Hiện nay những người giàu có dẫu sử
dụng đồng tiền chi tiêu là đồng tiền "sạch" thì khi người ta chi tiêu trước cộng
đồng, sự chi tiêu ấy lại không chỉ mang ý nghĩa cá nhân mà mang ý nghĩa xã
hội. Vì nó tác động tới tâm lý tiêu dùng của người khác mà nếu không được
điều chỉnh sẽ dễ dàng đẩy tới tình trạng tiêu dùng tiêu cực, lãng phí, bừa bãi,
bất chấp hệ lụy, bất chấp sự phản cảm so với cuộc sống của số đông.
Mỗi cá nhân trong tiêu dùng cần phân biệt được giá trị và trị giá, để
không phóng chiếu bản thân qua những sản phẩm dịch vụ có trị giá cao coi đó
82
là cách để nâng cao giá trị của mình. Các gia đình nên bắt đầu giáo dục lối
tiêu dùng vật chất lành mạnh thông qua các hành động thiết thực như: tổ chức
hiếu, hỷ phải gọn gàng, tiết kiệm., tránh phô trương, xa hoa, lãng phí.
- Tiêu dùng về mặt tinh thần:
Bên cạnh việc tiêu dùng về vật chất để thỏa mãn các nhu cầu về tinh
thần như: nhiều bậc cha mẹ đã quan tâm chăm sóc đến con cái thông qua các
khoản chi tiêu cho: mua chuyện tranh, tiểu thuyết có nội dung giáo dục, bồi
dưỡng tạo dựng nhân cách tốt cho con cái, chi nhiều hơn các dịch vụ phục vụ
nhu cầu nghe, nhìn như: truyền hình cáp, điện thoại, internet,…. Các khoản
chi nhiều hơn cho việc thụ hưởng các dịch vụ như: chăm sóc sức khoẻ, làm
đẹp, du lịch, nghỉ dưỡng,… Đây là xu hướng tiêu dùng chung ở các xã hội
phát triển và người Việt Nam cũng đang dần thay đổi theo xu hướng đó.
2.1.2 Những hạn chế của gia đình trong xây dựng lối sống của con
ngƣời Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thành tựu cơ bản trên thì vai trò của gia đình trong xây
dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế.
Những hạn chế cơ bản đó là
2.1.2.1 Hạn chế của việc phát huy vai trò của gia đình trong xây
dựng người lao động mới
Một bộ phận không nhỏ các gia đình Việt Nam hiện nay không coi việc
xây dựng những công dân đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là trách
nhiệm của họ. Bằng tiền bạc, bằng các mối quan hệ xã hội,… các gia đình này
tìm cách để con, cháu mình thoái thác hoặc trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Theo
cách nói hiện nay thì: nếu nghĩa vụ quân sự là vinh quang thì vinh quang ấy
đang dành cho những gia đình nghèo, còn con em nhà giàu, cán bộ, công chức
thì không ai nhận - chính điều này đã tạo nên một lối sống vô trách nhiệm của
một bộ phận người trẻ đối với vận mệnh quốc gia, bàng quan với thời cuộc và
83
tạo sự bất bình đẳng trong việc thể hiện trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc
và xã hội.
Người lao động Việt Nam hiện nay còn yếu về kỹ năng, chuyên môn và
thiếu về ý thức, kỷ luật lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, lao
động phổ thông, lao động giản đơn còn chiếm đa số. Bên cạnh đó, tư duy
“làm ăn” nghĩa là làm đủ ăn còn diễn ra phổ biến ở một số vùng, miền của
nước ta. Điều đó đã triệt tiêu động lực lao động để làm giàu của người dân.
Ngoài ra, kỷ luật lao động cũng là một hạn chế không nhỏ của người lao động
nước ta. Tư duy tiểu nông “thích thì làm, không thích thì nghỉ” không chỉ tồn
tại trong lao động nông nghiệp mà còn len lỏi vào các nhà máy, xí nghiệp,
công trường làm cho lao động nước ta thiếu tính chuyên nghiệp, tính cạnh
tranh trong cơ chế thị trường và thường có thu nhập khá thấp so với các nước
trong khu vực làm trong cùng một ngành nghề. Kiểu làm việc, làm ăn theo tư
duy “chộp giật” còn phổ biến trong các ngành nghề ở nước ta. Cũng chính vì
sự hạn chế trong lối sống và tư duy tiểu nông mà còn một bộ phận không nhỏ
gia đình Việt Nam đã không đề cao đúng mức việc giáo dục ý thức, trách
nhiệm lao động cho con em mình. Thay vào việc dạy con làm người, dạy cách
chung sống thì các gia đình này đang quá ưu tiên vào việc đầu tư cho con học
văn hoá. Điều này tuy không sai, nhưng sẽ không thể tạo nên sự phát triển
toàn diện cho một con người – cả về nhân cách và lối sống.
Còn không ít gia đình Việt Nam hiện nay không coi trọng việc học
nghềmà chỉ coi trọng con vào được đại học. Do đó, số lượng gia đình ưu tiên
cho con học nghề còn ít. Điều này đã tạo nên tình trạng thừa thầy, thiếu thợ
diễn ra khá phổ biến và chậm được khắc phục từ nhiều năm qua. Chính sự
thiếu hiểu biết, thiếu định hướng của gia đình trong hướng nghiệp cho con em
mình còn khá phổ biến khiến cho việc lựa chọn nghề nghiệp của một phận
giới trẻ ngày nay còn theo cảm tính: thích học đại học hơn cao đẳng, trung
84
cấp nghề trong khi năng lực học tập còn quá yếu kém đã khiến số lượng “cử
nhân thất nghiệp” ngày càng gia tăng. Điều này là sự lãng phí kinh tế gia đình
một cách ghê gớm. Cũng chính cái tư duy thích học đại học hơn học nghề mà
một bộ phận không nhỏ các gia đình Việt Nam hiện nay sẵn sàng bỏ ra những
khoản tiền lớn để “chạy trường”, “chạy lớp”, “chạy điểm”, “chạy việc”,
“chạy chức, chạy quyền”…Điều này tạo nên cách nhìn không đúng của người
được chạy, khiến họ quá đề cao giá trị của đồng tiền hoặc bằng một cách nào
đó không minh bạch để “gỡ gạc” lại các khoản tiền đã chạy và đây chính là
mảnh đất nảy sinh tệ tham nhũng và văn hoá phong bì đang khá phổ biến ở
nước ta hiện nay.
Tình trạng lãng phí cũng còn diễn ra khá phổ biến khi các gia đình có
các sự kiện lớn như: ma chay, cưới hỏi, tâm linh,… Lối sống kiểu “con gà tức
nhau tiếng gáy” đã tạo nên những con người ưa huênh hoang, háo danh, hám
danh,… Điều này sẽ khó khắc phục được nếu những bậc người lớn trong gia
đình không tự thay đổi cách nghĩ, cách làm để con cái hiểu đúng về ý nghĩa
của những điều họ đang làm và coi đó là mục đích trong giáo dục con cái.
2.1.2.2 Hạn chế trong phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng
con người có lối ứng xử phù hợp với thiên nhiên, trong gia đình và ngoài
xã hội:
+ Đối với thiên nhiên: tuy cách hành xử của từng cá nhân, từng gia
đình đã phù hợp hơn với thiên nhiên nhưng số lượng không nhiều, một bộ
phận lớn người dân vẫn chưa có cách hành xử phù hợp với điều kiện sống.
Tình trạng vứt, xả rác thải ra nơi công cộng như: công viên, bệnh viện, trường
học, cống rãnh… còn diễn ra thường xuyên và tràn lan ở tất cả mọi nơi. Nước
thải trong sản xuất và sinh hoạt chưa qua xử lý của các gia đình đổ ra môi
trường còn phổ biến đã tạo nên sự ô nhiễm khá trầm trọng, nhất là ở các làng
nghề. Nạn chặt, phá rừng, chặt phá cây xanh còn khá phổ biến ở cả thành thị
85
và nông thôn. Các nguồn lợi thuỷ, hải sản bị khai thác một cách cạn kiệt bằng
các phương thức huỷ diệt như: xung điện, thuốc nổ vẫn diễn ra ở nông thôn.
Điều đó làm nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước ngày càng cạn kiệt.
Nhiều gia đình còn chưa coi trọng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đối
với con cái của họ mà coi đó là trách nhiệm của nhà trường và xã hội. Điều
này đã tạo nên tính thiếu tự giác trong mỗi cá nhân trong hành xử với môi
trường. Chắc sẽ nhiều người Việt Nam không khỏi xấu hổ khi sau mỗi buổi lễ
hội, rác được vô tư xả khắp mọi nơi. Trong khi đó đã có những người nước
ngoài thu dọn những rác thải do chúng ta xả ra. Chính sự thiếu gương mẫu
của người lớn đã và sẽ tạo nên lối sống thiếu hài hoà và không thân thiện với
môi trường tự nhiên trong một bộ phận giới trẻ và điều này là cực kỳ nguy
hiểm nếu không khắc phục trong thời gian tới. Thật đau lòng trong một số kì
triển lãm hoa của Nhật Bản ở Hà Nội, nhiều người trong số đó không ít nam
thanh, nữ tú và cả những người lớn tuổi bất chấp danh dự của quốc gia, nhân
cách cá nhân đã “dũng cảm” cướp hoa, gây ra những sự phản cảm trong buổi lễ.
+ Trong quan hệ gia đình: Không ít người đã phó mặc trách nhiệm
giáo dục con cho nhà trường và xã hội. Trong khi đó, giáo dục trong nhà
trường và ngoài xã hội hiện nay cũng có nhiều vấn đề bất cập. Sự quá tải
trong truyền thụ kiến thức cho học sinh và áp lực từ những đánh giá xã hội về
thành tích của các nhà trường đã làm cho các thầy cô không có đủ thời gian
chăm lo giáo dục đạo đức cho học sinh một cách cặn kẽ, khoa học để các em
có thể thấu hiểu và có những trải nghiệm, cảm xúc thật sự với những giá trị
đạo đức. Trong môi trường nhà trường, không ít em chỉ cảm nhận được
"quyền uy" của các thầy cô hơn là sự cảm thông, chia sẻ. Trong khi đó, ngoài
xã hội lại xuất hiện rất nhiều những hiện tượng tiêu cực mà các em có thể
chứng kiến hằng ngày. Những cách ứng xử thiếu văn hóa của người lớn, tệ
nạn xã hội như: nghiện hút, mại dâm, tham ô, tham nhũng, "văn hóa phong
86
bì"... cùng rất nhiều vụ án được thông tin trên báo chí làm cho thế hệ trẻ băn
khoăn về các giá trị đạo đức và lối sống chuẩn mực mà cha mẹ, thầy cô đã và
đang giảng dạy, truyền thụ cho các em và mong muốn các em tuân thủ. Nguy
hại hơn, không ít trường hợp các em có thể chứng kiến những hành vi đó ở
ngay chính cha mẹ mình - những người mà bằng lời nói vẫn luôn hướng con
đến những giá trị đạo đức tốt đẹp, khiến các em không tin vào những gì mình
được học, được nghe, và nảy sinh những tâm lý, hành vi chán nản, chống đối
với chính những người thân sinh ra mình.
Kinh tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực đến đạo đức gia
đình. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, lòng yêu thương, sự hy sinh của
cha mẹ dành cho con cái cũng biến đổi. Nhiều gia đình ít con lại có điều kiện
thường nuông chiều con quá mức, làm cho con lười lao động, ham hưởng
thụ,… Nhiều gia đình khác, cha mẹ lại bận rộng với công việc, thời gian dành
cho con cái và quản lý chúng rất ít. Một bộ phận cha mẹ coi trách nhiệm đối
với con cái chỉ đơn thuần là việc cung cấp đầy đủ vật chất, còn trách nhiệm
giáo dục là của nhà trường và xã hội. Một số gia đình khác, bố mẹ lại quản
thúc con một cách khắt khe, cách ly con khỏi bạn bè, đánh đập, chửi mắng,..
Tất cả những hành động ấy vô tình tạo cho con trẻ hoặc sợ hãi, nhút nhát,
hoặc lì lợm, bướng bỉnh, bất cần, thậm chí có những trường hợp bỏ nhà đi
lang thang và sa vào các tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, hiếu nghĩa trong đối xử
với cha mẹ của con cái cũng bị coi nhẹ. Tình trạng con cái chỉ biết đến bản
thân mà quên đi hoặc cố tình không thực hiện bổn phận báo hiếu với cha mẹ.
Không ít người về già trở nên cô đơn trong chính ngôi nhà của mình do bị con
đẻ bỏ rơi. Một bộ phận khác lại coi việc phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ như
một gánh nặng hoặc họ xem việc đóng góp tiền bạc để nuôi dưỡng bố mẹ là
cách để làm tròn bổn phận làm con.
87
Quan hệ vợ chồng với những chuẩn mực đạo đức như tình nghĩa, thuỷ
chung, hoà thuận trong một số gia đình cũng bị xáo trộn. Chủ nghĩa cá nhân,
vị kỷ phát triển trong quan hệ vợ chồng dẫn tới sự thiếu ổn định và không bền
vững của nhiều cuộc hôn nhân. Ngoài ra, xu hướng trục lợi, thực dụng trong
hôn nhân cũng xuất hiện khá nhiều. Hiện tượng đạo đức tình dục bị vi phạm,
các hành vi tình dục trước hôn nhân theo kiểu “sống thử”, “già nhân ngãi,
non vợ chồng”, tình trạng ngoại tình, đã xuất hiện nhiều hơn và được nhiều
người tán thưởng, dự luận cho qua. Tình trạng ngược đãi, bạo hành giữa vợ và
chồng cũng có xu hướng gia tăng. Gần đây không ít cảnh đau lòng xảy ra khi
những người cha, người mẹ đang tâm giết chết đứa trẻ là máu mủ của mình
sinh ra chỉ vì những mâu thuẫn nho nhỏ. Tất cả những tiêu cực đó khiến cho
số lượng các cặp vợ chồng ly thân, ly hôn đang có chiều hướng tăng mạnh.
Bên cạnh những gia đình còn giữ được những nét đẹp của nề nếp gia phong,
em kính anh, anh nhường em thì cũng có rất nhiều gia đình anh em bất hoà,
cãi vả, kiện tụng, thậm chí là chém giết lẫn trong để tranh giành lợi ích vật
chất. Trong nhiều gia đình hoà thuận được thay bằng tính thiệt hơn khi mà các
lợi ích kinh tế không tìm được tiếng nói chung trong các mối quan hệ giữa các
anh chị em với nhau.
Thực tế cho thấy trong gia đình đang tồn tại nhiều bất cập về cách
thức giáo dục con cái. Nhất là ở thành phố, phổ biến là tình trạng cha mẹ
chăm lo cho con thái quá, gánh vác mọi công việc trong xã hội cũng như
trong gia đình với hy vọng các con tập trung học tập tốt. Nhưng hệ quả là
không ít em lớn lên mà không hề nghĩ đến trách nhiệm của mình với những
thành viên khác trong gia đình, không ý thức được bổn phận của mình đối với
cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, không ít em đã trở lên vô cảm trước những
hiện tượng, sự kiện xã hội. Lẽ đương nhiên, sự thiếu trách nhiệm trong các
88
quan hệ xã hội cùng thái độ vô cảm sẽ dễ dàng đưa các em đến với những
hành vi lệch chuẩn.
Nhiều người làm cha mẹ cũng hiểu rằng họ cần phải hiểu con, tôn
trọng con... Tuy nhiên một tâm lý tiềm ẩn về tôn ti trật tự, về “quyền lực” của
người làm cha mẹ - những giá trị ứng xử từ nền giáo dục truyền thống vốn đã
thẩm thấu sâu trong con người họ làm cho không ít người làm cha mẹ có cách
hành xử cứng nhắc với con, ép con nghe theo các quyết định của mình mà
không kiên nhẫn nghe những lời giải thích của con trẻ, không cùng con chia
sẻ những vấn đề trong cuộc sống của các em... Thực tế hiện nay các trung tâm
tư vấn tâm lý thường phải tiếp nhận không ít trẻ có vấn đề trong ứng xử, từ
những hành vi lệch chuẩn, đến vi phạm pháp luật, thậm chí là tự tử, mà một
trong những nguyên nhân là do các em cảm thấy cô đơn ngay trong gia đình
mình, cảm thấy không có người chia sẻ, quan tâm.
Sự phát triển và phổ biến của công nghệ thông tin và internet đang
hình thành những giá trị “ảo”, những lối sống “ảo” trong xã hội. Tình trạng
“nghiện” vi tính, điện thoại thông minh, nghiện Facebook,… đang trở nên phổ
biến hơn trong thế hệ trẻ, vì thiếu sự quản lý, giáo dục của gia đình. Chính
cuộc sống “ảo” ấy đã khiến nhiều người trẻ có những suy nghĩ lệch lạc về bản
thân mình và có những hành động lệch chuẩn ngoài cộng đồng.
+ Trong xã hội: Quan hệ ứng xử giữa người với người có sự biến đổi
sâu sắc tác động không nhỏ đến lối sống của con người Việt Nam hiện nay.
Ông cha ta thường có quan niệm “lời chào cao hơn mâm cỗ” thì quan niệm đó
ngày nay dần bị phai mờ đi trong đời sống xã hội ở thành thị và nông thôn.
Trước đây, ở nông thôn trong làng, trong xóm hay ra ngoài đường bất kể
người đó có họ hàng hay không gặp người lớn tuổi hơn là chào hỏi lễ phép
nhưng ngày này cái đó đang bị mất dần, nó bị phai nhạt, không chỉ vậy mà
các tệ nạn xã hội cũng đã lên lỏi vào những vùng quê. Hàng xóm luôn được
89
coi là những người thân thiết với quan niệm “bán anh em xa mua láng giềng
gần”, nhưng ngày nay cái đó cũng đang có chiều hướng mất dần bởi quá trình
đô thị hóa nông thôn. Các bậc phụ huynh ngày nay không coi trọng việc giáo
dục con cái có lối sống lễ phép, hài hoà với những người xung quanh như
trước kia chính là nguyên nhân của tình trạng ấy.
Trong cuộc sống ngày nay, ta có thể bắt gặp vô vàn những biểu hiện
của căn bệnh “không cảm xúc” này, xuất phát từ cả suy nghĩ và hành động.
Nếu như trước kia, khi thấy tai nạn xảy ra ở trên đường, những người xung
quanh ngay lập tức sơ cứu và gọi xe cứu thương để đưa nạn nhân đến bệnh
viện kịp thời với mục đích nhân đạo, “cứu giúp một mạng người hơn xây bảy
tòa tháp” thì giờ đây, cũng là tai nạn giao thông đấy, chứng kiến tận mắt cảnh
nạn nhân đau đớn vì gãy tay, gãy chân, thậm chí bất tỉnh, thế nhưng người đi
đường chẳng những không cấp cứu kịp thời mà còn tụm năm, tụm ba lại xì
xào, bàn tán, thập chí là “chụp ảnh tự sướng” hoặc có những hành vi khác
phản cảm và thiếu nhân văn. Có lẽ mọi người có tâm lí ngại va chạm, bởi vì
trong thực tế đã có trường hợp cứu người không được họ cảm ơn mà lại bị
chính người nhà nan nhân chửi mắng, đánh đập. Nạn “hôi của tập thể” đã
manh nha như vụ: “Hôi bia ở Đồng Nai”, “Hôi tiền ở thành phố Hồ Chí
Minh”, “Hay không cứu giúp người ở vụ tai nạn Cầu Vượt Thái Hà”,…là biểu
hiện rất rõ của lối sống thực dụng, của chứng thờ ơ, vô cảm trong quan hệ xã
hội. Tâm lý ngại va chạm, ngại bảo vệ người yếu, bảo vệ cái đúng xuất phát
từ quan niệm cho rằng đó là hành vi “mua dây buộc mình”, “rước họa vào
thân” nên tốt nhất là coi như “không nghe, không thấy, không biết”. Đây là
hồi chuông báo động về sự xuống cấp của đạo đức trong xã hội hiện nay.
Vai trò giáo dục hành vi ứng xử phù hợp trong xã hội của gia đình
không được phát huy cũng khiến cách hành xử của giới trẻ ngày càng manh
động và dễ phạm pháp hơn. Thanh niên sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết
90
các mâu thuẫn trong cuộc sống, kể cả những mâu thuẫn nhỏ như: va chạm khi
tham gia giao thông, một lời nói, một cái nhìn bị coi là “đểu” hoặc “mời rượu
mà không uống”,…
2.1.2.3. Trong xây dựng lối tiêu dùng tiết kiệm, văn minh:
Xu hướng tiêu dùng hiện nay của một bộ phận không nhỏ người dân,
nhất là thế hệ trẻ trong xã hội bị lệch lạc. Họ luôn coi trọng giá trị vật chất mà
quên đi mất giá trị tinh thần, họ coi đồng tiền là trên hết. Xã hội xuất hiện một
bộ phận thanh niên thích ăn ngon mặc đẹp, lảng tránh trách nhiệm gia đình,
đất nước và bản thân. Một nhà văn nổi tiếng đã từng nói rằng “ hãy cho con
cái đạo đức thay vì tiền bạc” điều đó là quá đúng vì tiền bạc làm hư hỏng con
người.
Quan điểm thực dụng, văn hóa tiêu dùng gia tăng nhanh chóng trong xã
hội hiện nay. Nó có nguồn gốc sâu xa từ sự đổ vỡ các niềm tin được xây dựng
trước thời bao cấp. Cuộc sống tem phiếu khó khăn kéo dài khiến người ta có
mưu cầu cuộc sống mạnh mẽ hơn khi được giải phóng cung cách làm ăn. Tư
tưởng, tâm lý thực dụng không hoàn toàn xấu vì nó khiến cho người ta có
động lực làm việc, sáng tạo. Song nó lại đẻ ra các hành vi làm phá hoại đạo
đức truyền thống, hình thành nên kiểu sống cá nhân chủ nghĩa, “sống chết
mặc bây, tiền thầy bỏ túi”, kiểu sống hờ hững, vô tâm và ích kỷ với những
người xung quanh.
Thanh niên là tầng lớp chịu tác động quá nhiều và cũng thể hiện rất rõ
rệt lối sống phương Tây. Một bộ phận trong số họ chạy theo thứ văn hoá tiêu
dùng và lối sống “hiện đại” ấy, coi đó là “mô hình chuẩn” để đánh giá so
sánh với các nền văn hoá khác. Ai không theo “mô hình chuẩn” đó thì được
coi là không “sành điệu”, là lỗi thời, lạc hậu. Họ thích chạy theo các mốt thời
trang kiểu Tây, hở hang, phô bày cơ thể, không phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ
của dân tộc; thích uống rượu ngoại, ăn đồ ngoại hơn là sản phẩm trong nước;
91
thích xem phim bạo lực hoặc tình cảm “quá trớn” hơn là phim tâm lý xã hội
Việt Nam. Họ thực dụng, ít hoặc không quan tâm đến lý tưởng chính trị xã
hội, thích lối sống sòng phẳng hơn là nghĩa tình... Đó là những biểu hiện xa
rời lối sống truyền thống của dân tộc, xa rời bản sắc dân tộc, chạy theo lối
sống lai căng ngoại nhập vốn rất xa lạ với dân tộc Việt Nam. Nếu gia đình
không điều chỉnh được quan niệm tiêu dùng thì những tồn tại ấy vẫn còn tiếp
diễn, thậm chí còn phát triển mạnh hơn. Trong tiêu dùng, nhiều gia đình tiêu
dùng quá khả năng kinh tế của gia đình đình mình. Không ít gia đình còn hạn
chế về mức thu nhập những vẫn sẵn sàng đi vay nóng để tổ chức đám cưới
thật to, đám ma thật lớn. Hậu quả là họ phải trả nợ nhiều năm không hết từ đó
gây lên những bất hòa trong gia đình là không thể tránh khỏi.
2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Gia đình là một thể chế xã hội tồn tại bền vững trong mọi hình thái
kinh tế - xã hội, là một tế bào của xã hội, Gia đình mãi là cái nôi nuôi dưỡng,
bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn con người từ nhỏ đến lúc trưởng thành.
Trong gia đình ấy, mọi thành viên cần phải dựa vào nhau, an ủi, khuyến
khích, động viên nhau, chia sẻ với nhau mọi niềm vui và nỗi buồn. Nó cần
được xây dựng bền vững, trở thành niềm vui và hạnh phúc cho mỗi con người
bởi ở đó, các giá trị đạo đức và lối sống gia đình truyền thống tốt đẹp được
bảo tồn và phát huy. Cho dù có đi đâu về đâu thì người Việt Nam luôn muốn
hướng tới gia đình thân yêu của mình vì ở đó họ luôn luôn được bao bọc và
che chở cho họ. Có như vậy các thành viên trong gia đình mới có được lối
sống tốt đẹp với giá trị đạo đức tốt đẹp tạo điều kiện cho sự phát triển nhân
cách và giúp họ tự tin vững bước trên đường đời.
2.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong
xây dựng lối sống con ngƣời Việt Nam hiện nay
92
Nhận thức đúng mở đường cho hành động đúng. Để nâng cao vai trò
của gia đình trong xây dựng lối sống con người Việt Nam, theo tác giả cần bắt
đầu từ đổi mới nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của gia đình đối với
vấn đề này.
Gia đình là chủ thể đóng vai trò quyết định trong xây dựng lối sống con
người Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, không phải mọi thành viên trong gia đình
đều nhận thức và thực thi tốt vai trò này. Điều đó thể hiện ở chỗ, quá trình xây
dựng lối sống hiện nay được các gia đình thực hiện không đồng đều và thiếu
đồng bộ, thống nhất khiến cho vai trò của đình không được phát huy cao nhất.
Vì thế, nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng
lối sống con người Việt Nam cho toàn xã hội, bao gồm cả hệ thống chính trị,
các tổ chức thiết chế xã hội, mọi gia đình và toàn dân về vai trò của gia đình
trong xây dựng lối sống phù hợp với thực tiễn kinh tế, xã hội của đất nước
vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài.
Nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trò, vị
trí đặc biệt của gia đình đối với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng
đồng trong việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn
nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực trong gia đình, ngăn
chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính quyền
các cấp phải đưa nội dung công tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn
hóa, lối sống văn hoá vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương
trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của
toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống mới. Hiện nay,
nhận thức của một bộ phận nhân dân về vai trò của gia đình trong xây dựng
lối sống còn chưa rõ ràng và sâu sắc. Ngay cả các công trình nghiên cứu về
xây dựng lối sống cho con người Việt Nam hiện nay cũng chủ yếu nói đến ưu
93
điểm mà không nói đến nhược điểm hoặc nhược điểm nói qua loa, thiếu luận
chứng khoa học. Những ưu điểm trong lối sống cộng đồng như truyền thống
yêu nước, nhân ái, lao động cần cù,…được nhắc lặp đi, lặp lại trong khi cái
tiêu cực thì ít đề cập hoặc chỉ liệt kê không đầy đủ, qua loa,… Vai trò của gia
đình giao giáo dục con cái, trong phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục,… thì
được đề cập nhưng vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống thì chưa được
quan tâm đúng mức.
Nếu nhận thức chưa rõ rõ ràng và chưa sâu sắc về vai trò của gia đình
trong xây dựng lối sống mới thì các gia đình Việt Nam sẽ chưa chủ động thay
đổi, chưa có động thái hành động phù hợp để phát huy các ưu điểm và khắc
phục các nhược điểm trong công tác này hiện nay. Muốn có lối sống mới, phù
hợp với thời cuộc thì phải có tư duy mới, phù hợp. Đổi thay tư duy sẽ thay đổi
quan niệm về giáo dục, tuyên truyền để thông qua đó nhằm nâng cao nhận
thức về vai trò của gia đình, của từng thành viên trong gia đình trong xây
dựng lối sống hiện nay. Muốn vậy, cần phải dũng cảm thừa nhận những mặt
tồn tại trong lối sống hiện nay, đổi mới mạnh hơn nữa nghiên cứu để có nhận
thức đúng đắn và phù hợp về lối sống của con người Việt hiện nay, qua đó
tuyên truyền, giáo dục cho toàn thể người dân, giúp họ tự khắc phục, sữa chữa
những khiếm khuyết trong lối sống và tự điều chỉnh, tự thay đổi cho phù hợp
hơn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xây dựng những khuôn mẫu trong ứng xử và tuyên truyền ra cộng
đồng để mỗi cá nhân, mỗi gia đình có thể thay đổi lối sống cho phù hợp hơn.
Đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động xây dựng “Gia đình Văn hoá”, “Làng
Văn hoá”, “Khu dân cư Văn hoá”, phát triển đa dạng các Câu lạc bộ như: Phụ
nữ giúp nhau làm kinh tế giỏi; Thanh niên giúp nhau làm kinh tế giỏi; Bảo vệ
môi trường; Nuôi con khoẻ, dạy con ngoan,… để tạo dựng sự đoàn kết trong
cộng đồng dân cư. Đồng thời, cũng thông qua các cuộc vận động, các Câu lạc
94
bộ này mà bản thân mỗi gia đình, mỗi thành viên tự nâng cao nhận thức của
mình trong việc xây dựng lối sống văn minh, lịch sự; xoá bỏ các hủ tục lạc
hậu trong ma chay, cưới hỏi, lễ hội, tệ cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan,…
Phát triển giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí sẽ góp phần nâng cao
nhận thức xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống hiện nay.
Thông qua giáo dục, các tri thức khoa học được trang bị cho mỗi thành viên
trong cộng đồng, giúp họ biết nhận thức đúng hoặc sai, biết tư duy phải hoặc
trái và biết hành động như thế nào là đẹp hoặc xấu. Thông qua đó mà những
hệ luỵ từ tư duy và lối sống tiểu nông dần được khắc phục. Cũng thông qua
giáo dục mà mỗi cá nhân nói riêng và xã hội nói chung sẽ dần hình thành
những tư duy tiến bộ, với khả năng xử lý thông tin, phân tích, tổng hợp cao để
phán đoán, dự báo chính xác những diễn biến của cuộc sống một cách khoa
học, biết đánh giá vị trí của bản thân, của gia đình trong xã hội để hình thành
lối sống phù hợp với thực tế nhất.
Tạo sự đồng thuận về những chuẩn mực tư tưởng, đạo đức lối sống cho
con người Việt Nam hiện nay là biện pháp giúp nâng cao nhận thức và phát
huy hơn nữa vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống. Sự đồng thuận về tư
tưởng, đạo đức lối sống chính là những thang giá trị mới mà mỗi công dân
Việt Nam cần phải có để từ đó xác định biện pháp định hướng, khuyến khích,
giáo dục các cá nhân và gia đình noi theo. Nội hàm của các chuẩn mực mới
cần được xem xét qua việc mỗi cá nhân phải nhận thức, ý thức được vị trí, vai
trò, trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, với xã hội, với cộng đồng, với gia
đình, với bản thân và với lao động,…bằng các tiêu chí cụ thể để mỗi con
người nhận thức được trách nhiệm của mình và bằng việc làm cụ thể để thể
hiện trách nhiệm đó trong đời sống hàng ngày. Cách làm này không những
khẳng định, tôn vinh bản sắc dân tộc qua lối sống mà còn giúp kế thừa, phát
huy những giá trị tích cực của lối sống truyền thống và kết hợp với tư duy, lối
95
sống hiện đại để hình thành một lối sống phù hợp nhất cho con người Việt
Nam, nhất là thế hệ trẻ. Cũng thông qua đó mà bản thân mỗi cá nhân trong gia
đình nhận thức và giáo dục lẫn nhau để hình thành những nề nếp đẹp, những
lối sống đẹp.
Nhận thức của xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống
cho con người Việt Nam hiện nay cũng được nâng cao khi những đặc điểm và
giá trị tích cực trong gia đình truyền thống được khơi dậy và phát huy. Tình
yêu, tình thương, trách nhiệm, sự kính trọng, sự nhường nhịn, tinh thần đoàn
kết, tinh thần cộng đồng cao, lòng yêu nước,… là những yếu tố tích cực mà
gia đình truyền thống có được và cần phát huy trong xây dựng lối sống cho
con người Việt Nam. Các giá trị đạo đức trong gia đình truyền thống ấy cũng
là điểm tựa, là màng lọc khi mỗi cá nhân tiếp thu các yếu tố, các chuẩn mực,
các giá trị sống từ bên ngoài để không ngừng bổ sung, làm phong phú hơn các
thang giá trị mới - nhân tố góp phần xây dựng nên một chuẩn mực đời sống
mới cho mỗi cá nhân và gia đình trong xã hội hiện đại.
Nhận thức đúng và tiếp nhận có chọn lọc những cái đúng, cái hay
trong lối sống của các dân tộc khác trên thế giới trên con đường hội nhập.
Thông qua giao lưu, hợp tác quốc tế mà quá trình giao lưu và tiếp biến văn
hoá sẽ diễn ra. Sự va đập giữa các nền văn hoá trong quá trình hội nhập là
điều không thể tránh khỏi, mà ở đó văn hoá truyền thống sẽ là màng lọc để
mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp thu, học hỏi một cách có chọn lọc và sáng tạo
để điều chỉnh, xây dựng dựng lối sống phù hợp cho mỗi thành viên. Đổi mới,
hội nhập là xu thế phát triển tất yếu, nhưng việc xây dựng một lối sống “dân
tộc - hiện đại” không phải là hệ quả tất yếu mà là sự nỗ lực chung của toàn xã
hội. Nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của hội nhập chính là
cách để tạo nên sự thích nghi của gia đình với sự biến đổi của thời đại để phát
huy vai trò của mình trong giáo dục lối sống.
96
2.2.2. Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của các gia đình là
điều kiện quan trọng để xây dựng con ngƣời mới có lối hành xử phù hợp
với tự nhiên, với gia đình và xã hội và lối tiêu dùng văn minh
Vật chất quyết định ý thức, gia đình giàu có, hạnh phúc mới phát huy
được vai trò to lớn của mình trong đời sống xã hội nói chung và trong xây
dựng lối sống nói riêng. Để phát triển kinh tế gia đình, trước hết cả nước cần
có một hệ thống chủ trương, chính sách phát triển kinh tế hướng tới tạo điều
kiện và hỗ trợ gia đình tự lực, tự cường vươn lên làm giàu chính đáng. Đó là
các chủ trương, chính sách về đất đai, vốn, việc làm, thu hút đầu tư, thị
trường, dịch vụ xã hội, về phát triển công, nông nghiệp và dịch vụ, phát triển
kết cấu hạ tầng, khuyến khích hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình,…Khi kinh
tế gia đình thực sự phát triển, đời sống gia đình nâng cao sẽ tạo điều kiện cho
một số lĩnh vực việc làm xã hội phát triển như: giúp việc, dịch vụ chăm sóc
trẻ em, người ốm, người già, gia sư… Những dịch vụ này đã tạo việc làm và
thu nhập chính đáng cho rất nhiều người và cũng tác động rất nhiều lên lối
sống của từng thành viên.
Hoạt động kinh tế là chức năng tự nhiên của gia đình trong mọi giai
đoạn phát triển của xã hội loài người. Do đó, khuyến khích phát triển kinh tế
hộ gia đình nhằm nâng cao mức sống là cơ sở cho việc xây dựng lối sống cho
con người Việt Nam hiện nay. Dù trong điều kiện nào thì mọi nhu cầu thiết
yếu của các thành viên trong gia đình cũng cần được thỏa mãn.
Phát triển kinh tế gia đình nhằm nâng cao mức sống, mức thu nhập là
điều kiện để các thành viên gia đình hưởng thụ văn hoá, nâng cao hiểu biết tri
thức và những chuẩn mực về tri thức, về đạo đức, về xã hội để hình thành nên
lối sống phù hợp hơn với điều kiện kinh tế của gia đình mình. Thông qua phát
triển kinh tế và mức sống được nâng lên thì bản thân mỗi cá nhân sẽ tiếp thu
hoặc tự nhận thức được những thói quen, tật xấu trong lối sống của chính
97
mình và từ bỏ hoặc thay thế nó bằng những thói quen khác phù hợp hơn. Để
phát triển kinh tế thì mỗi thành viên trong gia đình đóng một vai trò nhất định
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tức là mỗi cá nhân sẽ có việc làm và
thông qua làm việc sẽ khắc phục được căn bệnh “Nhàn cư vi bất thiện”, gắn
con người với lao động là cách để khắc phục nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý,
các tệ nạn xã hội khác. Đồng thời, cũng qua lao động đã gắn kết các thành
viên trong gia đình, trong họ hàng, làng xóm, đất nước. Khi mỗi cá nhân nhận
thức rõ được tầm quan trọng của mình trong cuộc sống của những người khác
thì bản thân họ mới có động lực để thôi thúc làm việc, để thay đổi cách nghĩ,
cách làm, cách “đối nhân, xử thế” phù hợp
Tạo cho mỗi gia đình có điều kiện vật chất tối thiểu (gia tài), chỗ ở (gia
cư), môi trường sống (gia cảnh) làm cơ sở cho việc xây dựng lối sống (gia
đạo, gia huấn), tạo một nền nếp gia đình tốt (gia phong). Kinh tế gia đình một
khi đã “khấm khá” lên thì các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người
mới được thỏa mãn và không ngừng phát triển. Khi các cá nhân không phải lo
các nhu cầu thiết yếu (ăn, mặc, ở, đi lại, học hành) thì họ sẽ hướng tới hưởng
thụ các giá trị về văn hoá, tinh thần.
Sự tiếp xúc trong lao động và việc thoả mãn các nhu cầu về tinh thần
như: văn hoá, khoa học,…sẽ khiến mỗi cá nhân, mỗi thành viên tự nhìn nhận
lại mình và hoàn thiện mình hơn.
Hiện nay, giá trị kinh tế đang nổi lên mạnh mẽ, vấn đề việc làm tốt, thu
nhập cao, làm giàu vật chất là nhu cầu của đại đa số nhân dân. Thực tế thì vật
chất chính là nền tảng, là cơ sở xây dựng lối sống tốt đẹp hơn, trực tiếp ảnh
hưởng đến mức sống, chất lượng sống. Nếu không quan tâm đúng mức đến
tăng trưởng kinh tế thì mọi ý đồ xây dựng một lối sống đẹp trong thời đại hiện
nay có thể rơi vào ảo tưởng hoặc duy ý chí. Để phát triển kinh tế gia đình,
nâng cao mức sống của người dân cần:
98
- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH - HĐH đất nước và tăng cường hội
nhập toàn diện nhất là hội nhập kinh tế quốc tế. Lối sống của con người có
nguồn gốc sâu xa ở điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Những đặc điểm
(cả ưu điểm và nhược điểm) trong lối sống của một bộ phận người Việt Nam
hiện nay đều có nguồn gốc sâu xa ở điều kiện sinh hoạt vật chất của gia đình.
Vì vậy, để khắc phục những nhược điểm trong lối sống của một bộ phận
người Việt Nam hiện nay thì cần phải thay đổi điều kiện sinh hoạt vật chất đã
sản sinh ra những nhược điểm ấy.
Điều kiện sinh hoạt vật chất đã sản sinh ra những nhược điểm tiêu cực
trong lối sống của một bộ phận người Việt Nam hiện nay là một nền sản xuất
hàng hoá nhỏ với sản phẩm nông nghiệp thô là chủ yếu. Hiện nay, nước ta đã
và đang xây dựng được một nền kinh tế thị trường với những công cụ sản
xuất bằng máy móc hiện đại để CNH - HĐH để khắc phục được một phần
những nhược điểm trong lối sống tiểu nông của một bộ phận người Việt đã
làm cho lối sống mới ngày càng trở thành lối sống chủ đạo trong xã hội. Tuy
nhiên, sự phát triển của nước ta vẫn chưa theo kịp các nước tiên tiến và so với
những kỳ vọng của chúng ta. Vì vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của gia đình
trong xây dựng lối sống cho con người Việt Nam thì đổi mới và hội nhập
quốc tế là giải pháp cơ bản và lâu dài là tiền để để mỗi cá nhân, mỗi gia đình
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, qua
đó thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh” - đó cũng là mục tiêu công cuộc CNH - HĐH mà đất nước đang thực hiện.
- Phát triển kinh tế hộ, đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao thu nhập và
mức sống cho người dân là một vấn đề quan trọng, các địa phương trên cả
nước cần quan tâm, tạo mọi điều kiện về cơ chế, chính sách để người dân chủ
động phát triển kinh tế hộ gia đình lên một bước mới. Hiện nay,việc duy trì và
phát triển các hộ gia đình ở nông thôn như một đơn vị kinh tế đang gặp nhiều
99
khó khăn. Các hộ nông nghiệp có xu hướng thừa lao động vì diện tích đất đai
canh tác giảm. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới phải gắn với phát triển kinh tế hộ,
thực hiện đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao thu nhập, mức sống là trọng tâm.
Ngoài ra, xu hướng chuyển dịch nghề nghiệp của các gia đình nông
thôn từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề phi
nông nghiệp khác mang tính chủ đạo. Trong quá trình chuyển dịch nghề
nghiệp này, yếu tố cá nhân người lao động giữ vai trò quan trọng. Những lao
động thuộc thế hệ trẻ (dưới 40 tuổi) và có trình độ học vấn lớp 12 trở lên ở
nông thôn có xu hướng thoát ly ngày càng nhiều. Tuy nhiên, kinh tế nông
thôn chỉ được phát huy và phát triển bền vững trong điều kiện chính sách phù
hợp, kịp thời. Các hộ gia đình có thể tự phát triển kinh tế một cách độc lập,
nhưng không thể phát triển trên diện rộng và mang tính bền vững nếu không
có chính sách phù hợp của Nhà nước. Quá trình CNH - HĐH đã “thu hút”
hàng triệu lao động trẻ với học vấn phổ thông rời khỏi các hộ gia đình nông
thôn để tới làm việc ở các xí nghiệp, công ty. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
nông thôn mới lại chính là để người dân có thể tự làm giàu trên chính mảnh
đất quê hương mình. Quá trình công nghiệp hóa đã làm giảm chức năng kinh
tế hộ gia đình, nhưng quá trình xây dựng nông thôn mới đã góp phần thúc đẩy
kinh tế hộ gia đình phát triển ở nông thôn. Vì vậy, về mặt chính sách vĩ mô,
cần giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa công nghiệp hóa và xây dựng nông
thôn mới.
Sự dịch chuyển phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng làm tiểu thủ
công nghiệp hay buôn bán, dịch vụ là một quá trình tất yếu ở nông thôn hiện
nay. Trong điều kiện đất đai canh tác ngày càng hạn chế, thu nhập lao động
nông nghiệp thấp, không thể đáp ứng được nhu cầu đời sống ngày càng cao,
việc thoát ly sản xuất nông nghiệp là không thể tránh khỏi đối với một bộ
phận lớn lao động nông thôn. Tuy nhiên, để có thể chuyển đổi nghề của một
100
hộ gia đình sang các lĩnh vực kinh tế tiểu thủ công nghiệp hay buôn bán, dịch
vụ ngay trên quê hương đều cần một lượng vốn lớn. Điều này cho thấy để
phát huy tính hiệu quả của quá trình xây dựng nông thôn mới, Nhà nước cần
quan tâm giải quyết vấn đề tín dụng cho phát triển kinh tế hộ gia đình.
Đầu tư mạnh cho giáo dục và đào tạo là một chiến lược của đa số các
hộ gia đình nhằm tạo điều kiện cho lực lượng lao động trẻ có thể thoát ly tìm
việc làm mới. Đây là vấn đề nền tảng và then chốt nhất để phát triển kinh tế
hộ gia đình bền vững, chuyển đổi mô hình sản xuất từ kinh tế hộ lên một hình
thức cao hơn. Chính vì vậy, cần đặc biệt quan tâm đầu tư cho giáo dục và đào
tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ phát triển năng lực, ngành
nghề theo hướng bền vững.
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng đối với kinh tế hộ gia đình nông
thôn, không chỉ đối với sản xuất nông nghiệp, mà còn đối với các hoạt động
sản xuất phi nông nghiệp. Do vậy, cần tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh quá trình
dồn điền, đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, cần xây dựng chính
sách cho phép và khuyến khích tích tụ ruộng đất một cách hợp lý đối với các
hộ gia đình có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp; nghiên cứu xây dựng chính
sách trao quyền sử dụng đất đai lâu dài từ 50 năm trở lên cho các hộ gia đình
sản xuất phi nông nghiệp...
Đối với các hộ gia đình ở thành phố, các chính sách về đào tạo nghề và
giải quyết việc làm cần được ưu tiên. Ngoài ra, các chính sách khác về phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần được ưu tiên và tạo điều kiện để phát
triển. Trang bị các kỹ năng và kiến thức về kinh doanh du lịch, dịch vụ, tiểu
thủ công nghiệp,… để các hộ gia đình chủ động lựa chọn mô hình phù hợp
cho sự phát triển kinh tế của mình.
2.2.3 Nâng cao chất lƣợng giáo dục gia đình nhằm phát huy vai trò
của nó trong xây dựng lối sống của con ngƣời Việt Nam hiện nay
101
Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá
trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá
trị tiên tiến của thời đại về gia đình. Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình
trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia
đình nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam.
Để nâng cao chất lượng giáo dục của gia đình nhằm phát huy vai trò
của nó trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay thì cần làm
những việc cụ thể như:
- Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững
là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục gia đình cũng như phát huy
vai trò của nó trong xây dựng lối sống cho con người Việt Nam hiện nay.
+ Một gia đình ấm no vừa phù hợp với quan niệm duy vật lịch sử và
triết lý phương Đông “Dĩ thực vi thiên”, vừa đáp ứng được nhu cầu, nguyện
vọng của mỗi thành viên trong gia đình, là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia
đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Tất nhiên, ấm no phải xuất
phát từ chính sức lao động, sự năng động, sáng tạo của mọi thành viên trong
gia đình một cách chân chính. Yêu cầu về ấm no của gia đình ngày nay không
còn dừng lại ở ăn no, mặc ấm nữa mà nó đã phát triển lên nấc thang mới, đó
là ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi hiện đại, văn minh. Đó là sự nhu cầu chính
đáng, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế xã hội, phù hợp với các quy luật
của tự nhiên và xã hội. Ngày nay, việc xây dựng gia đình ấm no phải được
Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu trong các Chiến lược, Chương trình, Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội thông qua các chính sách như: xoá đói, giảm
nghèo; khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, kinh tế
hợp tác xã; chính sách ưu tiên, ưu đãi, trợ cấp khuyến học,…
+ Xây dựng gia đình bình đẳng với các tiêu chí như: sinh hoạt dân chủ,
tự do giữa các thành viên. Điều đó tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên bởi
102
bình đẳng là cách để cha mẹ, ông bà lắng nghe, chia sẻ với con cái những
khúc mắc trong cuộc sống, tháo gỡ những khó khăn trong học tập và lao
động. Nó cũng là tiền đề để xây dựng sự bình đẳng về giới, trước hết là bình
đẳng giữa vợ và chồng, kế đến là bình đẳng giữa các thành viên khác trong
gia đình với nhau, giữa các thế hệ trong gia đình. Bình đẳng cũng là cách để
mỗi thành viên trong gia đình thể hiện những khát vọng, đam mê, sở thích của
mình và được các thành viên khác góp ý, điều chỉnh sao cho phù hợp nhằm
hướng tới sự phát triển toàn diện về bản thân cho mỗi cá nhân cụ thể.
+ Xây dựng gia đình tiến bộ phải gắn liền với sự tiến bộ của mỗi cá
nhân và sự tiến bộ của toàn xã hội. Sự tiến bộ của gia đình phải bắt đầu bằng
sự nhận thức và sự đồng thuận của các thành viên nhằm hướng tới xây dựng
một gia đình văn hoá, trong đó thể hiện đầy đủ các tiêu chí như: ấm nó, bình
đẳng, hạnh phúc, tiến bộ và bền vững. Gia đình tiến bộ ngày nay phải gắn
chặt chẽ với việc tuân thủ các quy định của pháp luật, gắn với cuộc sống cộng
đồng trên cơ sở tương thân, tương ái. Sự tiến bộ của gia đình cũng thể hiện
thông qua việc có thể thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu không ngừng
gia tăng của mỗi thành viên trong gia đình về kinh tế, văn hoá, nghệ
thuật,…để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho việc giáo dục gia đình.
+ Việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ là cơ sở để xây
dựng gia đình hạnh phúc và bền vững, đây cũng là môi trường tốt cho việc
giáo dục gia đình và phát huy mạnh mẽ vai trò của gia đình trong xây dựng
lối sống cho con người Việt Nam hiện nay. Một gia đình hạnh phúc và bền
vững được tạo nên bởi sự đảm bảo thoả mãn mọi nhu cầu về vật chất, tinh
thần, được hưởng không khí gia đình cởi mở, đầy tình yêu thương giữa các
thành viên; sự bình đẳng giữa chồng và vợ, sự tôn trọng giữa cha mẹ và con
cái, sự quan tâm, chia sẻ giữa các thế hệ khác nhau trong gia đình,…Chỉ khi
nào có một gia đình bền vững thì khi đó xã hội mới phát triển bền vững được
103
và có như thế mới thể hiện sự phù hợp trong lối sống của người Việt Nam
trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay.
- Tăng cường sự liên kết giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội,
trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục gia đình đối với việc hình thành nhân
cách và lối sống cho con người Việt Nam. Gia đình, nhà trường và xã hội vừa
là những chủ thể và là những thiết chế có chức năng giáo dục, xã hội hoá cá
nhân cũng như xây dựng lối sống cho con người ở các khía cạnh không giống
nhau. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, vai trò của mình, các thiết
chế này cần sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Sự phối hợp giữa các
môi trường giáo dục phải được thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương
pháp và nghệ thuật, tránh phô trương, đề cao môi trường này, coi nhẹ môi
trường khác. Đồng thời, sự phối hợp ấy cũng phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục và đồng bộ, trong đó cần phát huy ưu thế của giáo dục gia
đình thông qua tình cảm yêu thương ruột thịt, có sự liên kết nhiều mặt và
mang hiệu quả cao.
- Nâng cao năng lực giáo dục con cái cho các bậc cha mẹ. Cha mẹ là
những người chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con
cái, do đó việc giáo dục con cái sẽ không đem lại kết quả mong muốn nếu
năng lực giáo dục của cha mẹ yếu kém. Từ thực tiễn cho thấy, một trong
những nguyên nhân khiến nhiều người trong đó có thế hệ trẻ có lối sống lệch
lạc dẫn tới hư hỏng, phạm tội, gia đình mâu thuẫn, trẻ em thất học,… phần
chủ yếu là do trình độ văn hoá và năng lực giáo dục của cha mẹ yếu, nội dung
và phương pháp giáo dục hạn chế và bất cập. Để khắc phục tình trạng này,
ngoài sự chủ động, tự giác của cha mẹ còn cần đến sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội trong chủ trương, chính sách về giáo
dục, trong đó coi việc nâng cao kiến thức văn hoá và tâm lý là tiền đề và điều
kiện quan trọng nhất, quyết định hiệu quả của việc phát huy vai trò của gia
đình trong xây dựng lối sống hiện nay.
104
- Cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ
theo hướng toàn diện hơn, tri thức hơn, dân chủ hơn nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của thế hệ này trong học tập và sinh hoạt. Nội dung
giáo dục gia đình ngày nay ngoài giáo dục đạo đức, giữ gìn gia phong thì cần
quan tâm hơn đến các nội dung khác như: ý thức phát luật, trách nhiệm xã hội
và ý thức cộng đồng, văn hoá giao tiếp, ý thức lao động,…nhằm hướng tới
nội dung toàn diện hơn, hun đúc cho các thành viên trong gia đình, nhất là thế
hệ trẻ ước mơ và hoài bão trên con đường lập thân, lập nghiệp và xây dựng
đất nước. Ngoài nội dung, thì phương pháp giáo dục gia đình cũng cần thay
đổi, ít áp đặt, mệnh lệnh mà thay thế nó bằng phương pháp kết hợp giữa
quyền uy và tình thương, bằng sự định hướng và khích lệ; tôn trọng, lắng
nghe và chia sẻ với con cái để hiểu con hơn và dạy dỗ tốt hơn.
Giáo dục gia đình sẽ tạo nên “con nhà công, không giống lông cũng
giống cánh”; “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy”; “Cha nào con nấy”,... Do đó, chất
lượng giáo dục gia đình quyết định hiệu quả việc phát huy vai trò của chủ thể
này trong xây dựng lối sống cho con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
hiện nay.
105
Tiểu kết chƣơng 2
Nền văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức phát triển trong xu thế toàn
cầu hoá đang tạo sự thay đổi mạnh mẽ trong lối sống của người Việt Nam
hiện nay. Sự thay đổi ấy là cần thiết và đúng quy luật phát triển, cũng vì thế
mà vị trí, vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống cho con người Việt
Nam được xem trọng và phát huy.
Xuất phát từ thực tiễn việc phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng
lối sống cho con người Việt Nam trong thời gian qua, nội dung chương này
đã đi sâu phân tích những điểm mạnh, mặt yếu của gia đình trong xây dựng
lối sống, đồng thời đề xuất các giải pháp để nâng cao hơn nữa vị thế, vai trò
của gia đình đối với vấn đề này. Những giải pháp được đề cập trong chương
này sẽ là đòn bẩy, giúp phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của gia đình trong
xây dựng lối sống cho con người Việt Nam hiện nay.
106
KẾT LUẬN
Xã hội mà chúng ta đang sống đang phát triển vào giai đoạn của nền
văn minh trí tuệ, của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Hội nhập là xu thế
tất yếu của yêu cầu phát triển đất nước và để hội nhập thành công thì mỗi con
người Việt Nam cần phải đổi mới mạnh mẽ, trong đó có đổi mới về lối sống.
Nhưng để đổi mới lối sống thì chúng ta phải nhận thức đúng đắn và sâu sắc về
vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam, về
những ưu điểm để phát huy và cả những nhược điểm để khắc phục.
Mỗi người Việt Nam ngày nay có thể tự hào về những ưu điểm trong
lối sống của con người Việt Nam như lòng yêu nước nồng nàn; ý chí tự cường
dân tộc; tinh thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng
xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung; trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần
cù; sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối
sống; tinh thần lạc quan; hiếu học; coi trọng gia đình; hiếu khách; cởi mở;
mềm dẻo; linh hoạt,… Bởi vì, chính nhờ có những ưu điểm về lối sống đó mà
dân tộc ta mới tồn tại và không ngừng phát triển trong lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh gian khổ dựng nước và giữ nước. Bên cạnh đó, lối sống của người
Việt vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục để phát triển trong thời gian tới.
Trong luận văn này, trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã có,
tác giả đề tài đã cố gắng làm rõ thêm những vấn đề vừa có tính lý luận và thực
tiễn về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống cho người Việt Nam hiện
nay. Bằng các cách tiếp cận khác nhau trong phương pháp nghiên cứu mà đề
tài: “Vai trò của gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam
hiện nay” về cơ bản đã đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên
cứu đề ra. Kết quả nghiên cứu có thể khái quát là:
107
Một là, Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận chung về lối sống, vai trò
giáo dục lối sống của gia đình trong hình thành lối sống của con người Việt
Nam.
Hai là, nêu lên và phân tích được thực trạng vai trò của gia đình trong
giáo dục lối sống của con người Việt Nam những năm đổi mới vừa qua, bao
gồm cả những thành tựu và hạn chế của nó.
Ba là, đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của gia đình trong
xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, vấn đề phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống
của con người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là xác định được những nhược
điểm và nguyên nhân của chúng là một việc làm khá phức tạp, bởi lối sống là
một nội dung cơ bản quy định đặc điểm của con người - nói đến con người là
nói đến lối sống của họ. Để nghiên cứu lối sống của một con người thì phải
nghiên cứu tất cả các phương diện tự nhiên và xã hội của họ - đây là nhiệm vụ
nghiên cứu liên ngành của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nếu việc
nghiên cứu về lối sống của một con người phức tạp như thế nào thì việc
nghiên cứu về vai trò của gia đình trong hình thành lối sống của một con
người còn phức tạp hơn, chưa kể đó là một cộng đồng, một dân tộc vì người
với người: chẳng ai giống ai, “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Bên cạnh
đó, còn phải chỉ rõ mặt mạnh, mặt yếu của việc phát huy vai trò của gia đình
trong xây dựng lối sống hiện nay.
Do tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu như vậy nên kết quả nghiên
cứu của tác giả luận văn còn chưa đầy đủ và sâu sắc. Tác giả hy vọng rằng
công trình này sẽ góp phần nhỏ vào việc làm rõ thêm về một chủ thể trong
xây dựng lối sống của người Việt Nam chúng ta. Tác giả rất mong sự đóng
góp ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý chuyên môn và đông đảo
độc giả để có thể hoàn thiện hơn về những nội dung mà đề tài này đã đề cập ở
các công trình nghiên cứu tiếp theo./.
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung Á – Nguyễn Đình Tấn (1996), Nghiên cứu xã hội học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Huỳnh Thanh Ân (1997), Ý kiến trao đổi về công tác xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, Nxb Hà Nội.
4. Báo Giáo dục và thời đại, số ra ngày 10-3-2009.
5. Mai Huy Bích,(1997) Lối sống gia đình ngày nay, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002),
Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đông chủ biên) (2003), Mấy
vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2001), Xây dựng tư tưởng đạo đức lối
sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kì đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước,Viện văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V BCH
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước.
15. Trần Văn Giầu (1980), Giá trị tinh thần của truyền thống dân tộc Việt
Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Hà (Chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy lối sống của con
người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
17. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2004), Tâm lí người Việt Nam đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa- Những điều cần khắc phục, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
18. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
19. Nguyễn Hùng Hậu (2001), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trước xu thế
hội nhập, toàn cầu hóa, Báo cáo tại Hội Thảo khoa học Quốc tế “ Giá
trị truyền thống trước thách thức toàn cầu hóa ”, Hà Nội.
20. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
21. Lê Như Hoa (1998), Bản lĩnh văn hóa Việt Nam- Một hướng tiếp cận,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
22. Phan Thanh Hùng (1996) Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế
thị trường hiện nay, Luận văn th.s, Hà Nội.
110
23. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trưởng văn hóa ở nước ta hiện nay nhìn
từ góc độ giá trị học,Viện văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống- nhân lõi và sức sống
của sự phát triển đất nước, dân tộc, Báo cáo tại Hội thảo truyền thống,
giá trị về sự phát triển, Hà Nội.
25. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
26. Vũ Khiêu (Chủ Biên) (2000), Văn hóa Việt Nam - Xã hội và con người,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Thế Kiệt (2006), Một số giá trị đạo đức Việt Nam: Từ truyền
thống đến Hồ Chí Minh”Tạp chí Lí luận chính trị.
28. Nguyễn Thế Kiệt (2012), “Mấy vấn đề về đạo đức học macxit và xây
dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
29. Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (Chủ Biên) (1994), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình KHCN cấp Nhà
nước KX. 07, đề tài KX 07-02, tập I, Hà Nội.
30. Nguyễn Thế Long (1999), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động.
31. Thanh Lê (Chủ biên), Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hóa,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. A.Macarencô (1978) Nói chuyện về giáo dục Gia đình, Nxb Kim Đồng,
Hà Nội.
33. C.Mác – Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
34. C. Mác- PhĂngghen(1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập,Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111
36. Hồ Chí Minh(2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Petrecnhicova (1977) Giáo dục trong gia đình Mác, Nxb thanh niên,
Hà Nội.
38. Tạp chí Cộng sản (2015), Yêu cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ thời kỳ hội nhập quốc tế
39. Lê Thi (1994) Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” Nxb KHXH, Hà
Nội.
40. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nôi.
41. Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
42. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa của dân
tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
43. Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc
độ văn hóa truyền thống dân tộc), Nxb Văn hóa thông tin và Viện văn
hóa, Hà Nội.
44. Tổng cục Thống kê (2015): Niên giám thống kê, Nxb Thống kê.
45. Tổng cục Thống kê: Kết quả cuộc Tổng điều tra mức sống hộ gia đình
năm 2012 (http://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=444&idmid=5 ).
46. Nguyễn Đình Tường (2002), Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị
đạo đức trong kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục, Tạp chí triết học, (số 6).
47. Nguyễn Mạnh Tường (2001), Chủ nghĩa yêu nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
112
48. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, (1994), Văn hoá và
phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX - 06,
Hà Nội.
49. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) (1995), Giá trị- định hướng giá trị
nhân cách và giáo dục giá trị, Chương trình KHCN cấp Nhà nước
KX07, Đề tài KX.07-14, Hà Nội.
50. Nguyễn Ngọc Vân (1995), Giá trị truyền thống và hiện đại, Tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, (số 11).
51. Trần Nguyên Việt (2002), Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái
phổ biến toàn nhân loại của đạo đức kinh tế thị trường, Tạp chí Triết
học, (số 5).
52. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn mực giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Vinhi ốpsxki(1982), Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
113
54. http://hn.sieuthismartphone.vn/detail/news/soc-voi-hon-mot-phan-3-tre-
em-duoi-1-tuoi-tren-the-gioi-su-dung-thanh-thao-dien-thoa).
55.http://www.nhandan.com.vn/hangthang/doisongxahoi/van-hoa-gia-
dinh/item/13042702-.html
56. http://moitruong.hau.edu.vn/hoat-dong/viet-nam/can-giao-duc-y-thuc-bao-
ve-moi-truong-cho-hoc-sinh-sinh-vien_t12-c002002-a24-ma.html
Website:
1. http://www.baogiadinh.vn
2. http://www.cpv.org.vn
3. http://www.tapchigiadinh.org.vn
4. http://www.cuocsongviet.com.vn
5. http://www.psc.edu.vn
6. http://tuoitre.vn
7. http://hanoimoi.com.vn
8. http://www.baomoi.com
9. http://www.vietnamnet.vn
10.http://tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=32722&pr
int=true).
11.http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic
=191&subtopic=9&leader_topic=990&id=BT1261456140).
114