ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ THANH HOA

VAI TRÕ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI

VIỆC THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ XÓA BỎ

MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC (CERD)

CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ THANH HOA

VAI TRÕ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI

VIỆC THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ XÓA BỎ

MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC (CERD)

CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Quốc tế

Mã số: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Bá Diến

Hà Nội, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài

chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

i

Hoàng Thị Thanh Hoa

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... v

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................ 13

1.1. Khái niệm giám sát của Quốc hội ...................................................................... 13

1.2. Điều ước quốc tế và những quy định liên quan ................................................. 14

1.2.1. Điều ước quốc tế ............................................................................................. 14

1.2.2. Khái niệm “Thực hiện điều quốc tế” ............................................................... 14

1.3. Chủng tộc, người dân tộc thiểu số, người bản địa - các khái niệm liên quan .............. 16

1.3.1. Chủng tộc ........................................................................................................ 16

1.3.2. Dân tộc, dân tộc thiểu số (national/ethnic minorities) .................................... 19

1.3.3. Dân tộc bản địa ................................................................................................ 21

1.3.4. Khái niệm “Bình đẳng” và “Phân biệt đối xử” ............................................... 21

1.4. Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (Công ước ICERD) và

sự tham gia của Việt Nam ......................................................................................... 27

1.4.1. Sự ra đời của Công ước ................................................................................... 28

1.4.2. Công ước ICERD. ........................................................................................... 29

1.4.3. Thực trạng thực thi công ước ICERD và những khó khăn, thách thức .......... 35

1.4.4. Vấn đề “phân biệt chủng tộc” ở Việt Nam ..................................................... 40

CHƢƠNG 2. GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN

CÔNG ƢỚC ICERD CỦA VIỆT NAM, KINH NGHIỆM GIÁM SÁT CỦA

QUỐC HỘI MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI ................................................ 42

2.1. Giám sát thực hiện Điều ước quốc tế của Quốc hội Việt Nam theo pháp luật

hiện hành ................................................................................................................... 42

2.1.1. Vai trò và ý nghĩa của việc giám sát thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội ..... 42

2.1.2. Thẩm quyền giám sát thực hiện Điều ước quốc tế của Quốc hội ................... 45

ii

2.1.3. Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội và các thiết chế giám sát

của Quốc hội đối với thực hiện các điều ước quốc tế ............................................... 47

2.1.4. Việc giám sát của Quốc hội Việt Nam trong thực hiện Công ước ICERD .... 50

2.2. Giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế của một số quốc gia trên thế giới về

vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số ................................................................................ 55

2.1.1. Ban hành luật chuyên ngành về lĩnh vực dân tộc thiểu số trong thực thi Công

ước ICERD ................................................................................................................ 55

2.2.2. Các quốc gia không có luật chuyên ngành về lĩnh vực dân tộc thiểu số ........ 60

CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI

VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ................................................................ 67

3.1. Cơ chế thực hiện Công ước ICERD ................................................................... 67

3.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ............................................................ 67

3.1.2. Thiết chế .......................................................................................................... 70

3.2.2. Các chương trình mục tiêu quốc gia ban hành theo Nghị quyết của Quốc hội ...... 71

3.2.3. Chính phủ ban hành các chính sách triển khai các Nghị quyết của Quốc hội ....... 74

3.2.4. Kết quả thực hiện ............................................................................................ 74

3.3. Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam về việc thực hiện Công ước

ICERD ....................................................................................................................... 76

3.3.1. Các hình thức giám sát .................................................................................... 76

3.3.2. Giám sát thực hiện nghĩa vụ thành viên của Công ước ICERD ..................... 83

3.3.3. Giám sát thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội .. 84

3.3.4. Giám sát thực hiện các kiến nghị của Ủy ban CERD ..................................... 87

3.3.5. Kết luận ........................................................................................................... 90

3.4. Kiến nghị giải pháp nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội trong việc thực

hiện các quy định của Công ước ICERD .................................................................. 92

3.4.1. Nâng cao hiệu lực của Công ước ICERD bằng việc giãn thời gian thực hiện

báo cáo quốc gia ........................................................................................................ 93

3.4.2. Hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động giám sát ........................................... 95

3.4.3. Tăng cường tổ chức hoạt động giám sát thực hiện các điều ước quốc tế về

iii

quyền con người trong đó có Công ước ICERD ....................................................... 97

3.4.4. Rõ ràng, minh bạch trong tổ chức thực hiện giám sát thực hiện Công ước

ICERD ..................................................................................................................... 100

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 104

iv

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Dân tộc thiểu số

TT Cụm từ viết tắt Nguyên nghĩa

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

1 DTTS

Ủy ban Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

2 UBTVQH

International Convention of Elimination of All Forms of

ICERD

3 CERD

Racial Discrimination

LGBT

lesbian, guy, bisexual and transgender

4

Ilo

International Labour Organization

5

v

6

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện vào

tất cả các lĩnh vực của cộng đồng quốc tế, chủ động tích cực đóng góp có trách nhiệm

vào những lợi ích chung của cộng đồng nhằm “Thực hiện nhất quán đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa

quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có

trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt

Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.

Phân biệt chủng tộc là chất độc làm suy giảm sự đa dạng và đoàn kết xã hội,

gia tăng bất bình đẳng, và châm ngòi cho sự giận dữ, đau khổ, bạo lực. Vì vậy, việc

cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, sắc tộc đã được quy định trong nhiều điều

ước quốc tế đặc biệt là Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng

tộc của Liên hợp quốc (tên tiếng Anh: International Convention on the Elimination

of All forms of Racial Discrimination, sau đây gọi tắt là Công ước, là một công ước

của tổ chức Liên hợp quốc. Công ước này được viết tắt phổ biến là CERD hoặc

ICERD. Tuy nhiên, để phân biệt Công ước và Ủy ban chuyên môn của Công ước và

để giữ được đầy đủ nội hàm của Công ước theo tiếng Anh, tác giả sẽ sử dụng cụm

viết tắt ICERD thống nhất trong phần nội dung của Luận văn. Công ước ICERD có

hiệu lực từ năm 1969 và tính đến ngày 17/12/2019 đã có 88 bên ký kết và 182 bên

tham gia. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước này năm 1982.

Trên cơ sở kế thừa tinh thần đoàn kết truyền thống, phù hợp với các quy định

về không phân biệt chủng tộc của Công ước, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, giúp

nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, Việt Nam đã chuyển hóa các giá trị này vào

Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đồng thời triển khai thực

hiện trong thực tiễn thông qua nhiều chính sách, chương trình quốc gia nhằm tạo

điều kiện thuận lợi cho các nhóm dân tộc thiểu số có điều kiện phát triển bình đẳng

1

trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ví dụ như Chương trình 135 thuộc

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã và đang được triển khai

thực hiện hơn 20 năm qua; Chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân

tộc thiểu số và miền núi; Chính sách phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số;

và nhiều chương trình, đề án, kế hoạch phát triển khác.

Quá trình triển khai thực hiện những chường trình, kế hoạch trên cần phải có

sự giám sát tối cao của Quốc hội để đảm bảo các cơ quan hữu quan tuân thủ các

nguyên tắc pháp luật trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cũng như bảo đảm

hiệu quả của các chính sách, pháp luật. Là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,

cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề

quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Thẩm quyền của Quốc hội được thực hiện có hiệu quả ra sao trên thực

tế, đặc biệt là trong giám sát thực hiện Công ước ICERD, mặt khác, cũng cần có

những tổng kết, đánh giá kịp thời để từ đó rút ra những bài học, đưa ra những kiến

nghị, giúp hoàn thiện hệ thống các quy định về vai trò giám sát của Quốc hội trong

thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đem lại những hiệu quả phát

triển tích cực cho xã hội nói chung và đời sống người dân nói riêng, đáp ứng yêu

cầu của người dân khi họ tin tưởng bỏ lá phiếu bầu ra người đại diện cho mình.

Xét tổng thể những yêu cầu, đòi hỏi của thực tế quốc tế, trong nước và thẩm

quyền hiến định của Quốc hội, trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Báo cáo

quốc gia định kỳ về tình hình thực hiện Công ước giai đoạn 2012-2018, tiến tới nộp

báo cáo năm 2020 và bảo vệ báo cáo sau đó, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:

“Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện Công ước quốc tế xóa bỏ mọi

hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD) ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học.

Luận văn sẽ tập trung tìm hiểu thực tiễn vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam

trong việc thực hiện Công ước và quá trình xây dựng Báo cáo Quốc gia định kỳ; tìm

hiểu tham vấn quy định pháp luật về vai trò giám sát thực hiện Điều ước quốc tế của

quốc hội, nghị viện một số nước trên thế giới, từ đó, đóng góp phần nào điều chỉnh

những mặt hạn chế trong quy định của pháp luật Việt Nam về triển khai giám sát

2

của Quốc hội đối với thực hiện Công ước ICERD.

2. Tình hình nghiên cứu

Quyền giám sát theo Hiến định của Quốc hội có thay đổi theo từng thời kỳ

để phù hợp với bối cảnh lịch sử riêng. Nghiên cứu về thẩm quyền, vai trò giám sát

của cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam trong việc tham gia, ký kết, thực hiện

Điều ước quốc tế trước đây ở nhiều góc nhìn khác nhau, cụ thể như sau:

Kỷ yếu Hội thảo hoạt động giám sát của Quốc hội - Viện nghiên cứu Lập

pháp – gồm những phân tích, đánh giá việc sử dụng các công cụ giám sát, kinh

nghiệm tổ chức điều trần tại các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam và nêu những kinh

nghiệm tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội Hoa kỳ và một số nước trên thế

giới năm 2013;

Tiếp tục đổi mới hoạt động của quốc hội từ thực tiễn hoạt động của Quốc hội

khóa XII – TS. Đinh Xuân Thảo đưa ra đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động

của Quốc hội sau gần 25 năm đổi mới năm 2013;

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Kế thừa, đổi mới và

phát triển – Viện nghiên cứu lập pháp, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, xuất bản

năm 2016 - gồm khái quát những kết quả quan trọng của nhiệm kỳ Quốc hội khóa

XIII và những hoạt động đang được tiếp tục kế thừa ở Quốc hội khóa XIV, nêu lên

bài học kinh nghiệm và những vấn đề còn để ngỏ để Quốc hội khóa tiếp theo tiếp

tục đổi mới và hoàn thiện;

Giáo trình Công pháp quốc tế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb

Đại học quốc gia, Hà Nội, 2013 do PGS.TS Nguyễn Bá Diến làm chủ biên đề cập

đến vấn đề điều ước quốc tế;

Kỷ yếu Hội thảo “Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội đối với các

điều ước Quốc tế về quyền con người” năm 2015 - Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội

đã phân tích đặc điểm giám sát của quốc hội đối với các điều ước quốc tế trong so

sánh với hoạt động giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và việc thực hiện

pháp luật trong nước;

Luận văn thạc sỹ luật học của Chu Thị Thanh Hương về “Vai trò giám sát của

Quốc hội trong ký kết và thực hiện Điều ước Quốc tế ở Việt Nam” năm 2017;

3

Luận văn thạc sỹ luật học của Ngô Thùy Linh về “Việc nâng cao vai trò của

Quốc hội trong giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế ở

Việt Nam và kinh nghiệm nước ngoài”, năm 2014;

Luận văn thạc sỹ luật học của Trịnh Văn Chiến về “Vai trò giám sát của

Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các

điều ước quốc tế” năm 2013;

Bên cạnh đó, một số bài viết, bài phát biểu về nhiều khía cạnh liên quan đến hoạt

động giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện điều ước quốc tế như:

Tham luận Hội thảo (năm 2015) “Chức năng giám sát của quốc hội Việt

Nam và vấn đề giám sát thực hiện các điều ước quốc tế về nhân quyền” – GS. TS.

Nguyễn Đăng Dung, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tham luận “Một vài suy nghĩ về vai trò giám sát của quốc hội đối với việc

thực thi pháp luật về quyền con người tại Việt Nam” – TS. GVC Nguyễn Lan

Nguyên, Đại học Quốc gia Hà Nội tại Hội thảo năm 2015 của Ủy ban Đối ngoại của

Quốc hội khóa XIII về “Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội đối với các Điều

ước quốc tế về quyền con người”.

“Vai trò của Nghị viện các nước trong việc giám sát việc ký kết thực hiện các

điều ước quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam” – TS. Nguyễn Tiến Vinh, Tài liệu

phục Hội thảo “Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội đối với các điều ước quốc

tế về quyền con người” năm 2015.

Tham luận “Cơ sở lý luận về vai trò giám sát của quốc hội trong việc thực hiện

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên” – TS. Phạm Lan Dung năm 2015.

“Thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội trong giám sát

việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”, Ths. Phạm Hồng

Hạnh năm 2015;

“Nội dung hoạt động giám sát của quốc hội đối với việc thực hiện các điều

ước quốc tế”, tài liệu Hội thảo nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với

việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên – Nguyễn Bá Bình và

Nguyễn Hùng Cường năm 2015.

Những nghiên cứu nêu trên đều có giá trị lịch sử riêng theo từng khía cạnh

4

nghiên cứu của công trình. Tuy nhiên, bản thân mỗi công trình nghiên cứu, bài viết

đều mang trong đó những hạn chế nhất định về tính thời sự của nó.

Thêm vào đó, các nghiên cứu ấy tập trung phân tích nhiều về hoạt động giám sát

thực hiện các điều ước quốc tế nói chung mà Việt Nam là thành viên mà chưa có hướng

cụ thể một công ước nào như Công ước xóa bỏ mọi hình thức chống phân biệt chủng tộc

ICERD mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982.

Thế giới vẫn đang thay đổi từng ngày. Các quan hệ đa phương được ràng buộc,

điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế. Việt Nam cũng có rất nhiều những biến đổi hệ

thuộc của tình hình chung và trở thành thành viên của hàng nghìn điều ước quốc tế.

Việc nghiên cứu phân tích hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực thi Công ước

ICERD trên cơ sở phân tích những quy định pháp luật trong nước và tình hình thực

hiện Công ước thực tiễn, đưa ra những ý kiến xác thực để góp phần giúp nâng cao năng

lực của Quốc hội trong việc thực hiện quyền hiến định, đóng góp vào quá trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Việt Nam đạt được hiệu quả hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Luận văn hướng tới việc đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động giám sát của Quốc hội trên cơ sở phân tích cơ sở pháp lý và hoạt động

thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội đối với đối tượng giám sát trong việc ban

hành và thực hiện chính sách đối với người dân tộc thiểu.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về giám sát Quốc hội; nêu

và phân tích thực trạng giám sát Quốc hội trong thực hiện Công ước ICERD của

Việt Nam; nêu và phân tích một số quy định nội luật hóa các quy định của Công

ước ICERD trong quá trình thực hiện của một số quốc gia trên thế giới để so sánh,

đối chiếu và đưa ra những kiến nghị tích cực cho việc ban hành quy định về giám

sát Quốc hội của Việt Nam trong việc thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên nói chung và Công ước ICERD nói riêng.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

- Pháp luật về quyền giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện các điều ước

quốc tế nói chung và Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

của Việt Nam nói riêng;

- Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề chủng tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam.

- Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện Công ước của

Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu: Thẩm quyền được trao cho Quốc hội trong hoạt

động giám sát ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt nam

- Thời gian nghiên cứu: tính từ khi Việt Nam chuẩn bị, gia nhập Công ước cho

tới nay, đặc biệt sau khi Việt Nam bảo vệ năm 2012 báo cáo quốc gia định

kỳ gần đây nhất (giai đoạn 2001 -2009) về tình hình thực hiện Công ước.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp tổng hợp, phân tích, diễn giải được sử dụng khi đánh giá, bình

luận các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của

Quốc hội trong giám sát việc thực hiện Công ước của Việt Nam để làm cơ sở

cho những kết luận khoa học. Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá

trình thực hiện đề tài nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh luật học, được sử dụng khi phân tích, đánh giá các quy

định trong mối tương quan với các quy định pháp luật của nước ngoài nhằm

sáng tỏ những điểm chung, sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp

luật nước ngoài về thẩm quyền của Quốc hội trong hoạt động giám sát thực

hiện các điều ước quốc tế.

- Phương pháp phân tích logic quy phạm, được sử dụng khi đánh giá thực

trạng pháp luật, xem xét về tính thống nhất pháp luật về thực hiện quyền

giám sát của Quốc hội.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn

* Ý nghĩa khoa học

Luận văn là công trình nghiên cứu pháp luật về thẩm quyền được giao cho

6

Quốc hội trong việc thực hiện giám sát tối cao đối với đối tượng giám sát, góp phần

hoàn thiện khung pháp lý về vai trò giám sát tối cao của Quốc hội, đồng thời nâng

cao năng lực của cơ quan dân biểu này thông qua những tổng kết, đánh giá quá trình

hoạt động giám sát đối với một Công ước cụ thể mà Việt Nam là thành viên.

* Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là tài liệu nghiên cứu có ý nghĩa tham khảo, giúp nâng cao hiệu

quả hoạt động giám sát của Quốc hội trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của

luận án gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận

Chương 2: Giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện Công ước ICERD của

Việt Nam, kinh nghiệm giám sát của Quốc hội của một số nước trên thế giới.

Chương 3: Thực hiện công ước ICERD và hoạt động giám sát của Quốc hội

7

Việt Nam - các ý kiến tham vấn.

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm giám sát của Quốc hội

Theo cuốn Từ điển Việt Nam (NXB Thời thế năm 1958), giám sát có nghĩa

là “xem xét và đàn hặc”, tức là: “coi mà xét kỹ lưỡng” [1, tr.1470] và “chỉ trích tội

lỗi của quan lại” [1, tr.378]. Tuy nhiên, cách nhìn nhận về hoạt động giám sát như

vậy chưa bao quát được toàn bộ nội hàm của từ trong bối cảnh đời sống pháp luật

hiện nay.

Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Tư pháp năm 2006 nêu khái niệm “Giám

sát” là sự “theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của cơ quan, tổ

chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát và sự tác

động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ

đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm

cho Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh”.

Khái niệm “giám sát” được luật hóa cụ thể trong Luật hoạt động giám sát của

Quốc hội năm 2015: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá

hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến

pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm

quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.”

Như vậy, nếu xét trên phương diện chung, giám sát được hiểu là việc thực

hiện xem xét, đánh giá toàn diện hoạt động của chủ thể thuộc phạm vi thẩm quyền

giám sát theo những quy tắc, quy phạm nhất định nhằm bảo đảm việc hoạt động đó

được tiến hành đúng yêu cầu và/hoặc chấn chỉnh, xử lý hành vi vi phạm của chủ thể

chịu sự giám sát.

Giám sát của Quốc hội, trong mối liên hệ các khái niệm về “giám sát” nêu

trên, có thể hiểu như sau: Quốc hội bằng việc sử dụng các phương tiện và công cụ

của mình để tìm hiểu, thu thập thông tin về việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật

trong các hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội, qua đó, đưa ra

13

đánh giá và nhận định hoạt động nào trong đó là đúng hay sai so với những điều đã

được quy định. Trên cơ sở những đánh giá và nhận định về tính hợp hiến, hợp pháp

trong hoạt động của chủ thể chịu sự giám sát, Quốc hội có thể biểu dương hoặc phê

phán các chủ thể đó. Trong một số trường hợp, Quốc hội bày tỏ tín nhiệm đối với

chủ thể chịu sự giám sát đó. Việc thực hiện giám sát của Quốc hội được tổ chức một

cách chủ động và thường xuyên trên cơ sở luật định cụ thể nhằm mục đích bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của cử tri.

Hoạt động giám sát của Quốc hội cần phải được phân biệt với các hoạt động

kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan chức năng khác thuộc nhánh quyền tư pháp trên

cơ sở xác định thẩm quyền, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện và

hệ quả pháp lý.

1.2. Điều ƣớc quốc tế và những quy định liên quan

1.2.1. Điều ước quốc tế

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 1 Công ước Viên 1969 về Luật điều ước

quốc tế: “Điều ước quốc tế là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản

giữa các quốc gia và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa

thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc hai hay nhiều văn kiện có

quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi của các văn kiện đó”.

Luật Điều ước Quốc tế của Việt Nam năm 2016 quy định: “Điều ước quốc

tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát

sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công

ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi

hoặc văn kiện có tên gọi khác.

1.2.2. Khái niệm “Thực hiện điều quốc tế”

Khi điều ước quốc tế có hiệu lực, các quốc gia thực thi điều ước quốc tế

theo ba phương thức như: áp dụng trực tiếp không đặt ra chuyển hóa; áp dụng gián

tiếp các điều ước quốc tế sau khi đã được nội luật hóa (quá trình chuyển hóa luật

14

thông qua chức năng hoạt động của các cơ quan lập pháp); và vừa trực tiếp, vừa

gián tiếp áp dụng thực hiện các điều ước quốc tế, tức là các quốc gia có thể trực tiếp

áp dụng các quy định của điều ước quốc tế để thực hiện của điều ước quốc tế, đồng

thời cũng áp dụng quy phạm pháp luật trong nước liên quan đến vấn đề này và coi

là một văn bản nội luật hóa quy phạm của điều ước quốc tế.

Để có cơ sở áp dụng điều ước quốc tế, yêu cầu quan trọng nhất là xác định vị

trí pháp lý của điều ước quốc tế đối với pháp luật quốc gia. Thế giới hiện nay tồn tại

hai trường phái quan điểm về vị trí pháp lý của điều ước quốc tế. Cộng hòa liên

bang Đức là một trong số những quốc gia điển hình coi các điều ước quốc tế mang

thứ bậc ngang với luật bình thường, không phải là đạo luật sửa đổi hiến pháp và áp

dụng trực tiếp điều ước quốc tế trong đời sống pháp luật.

Đối với Việt Nam, dưới góc độ pháp lý thì tới năm 1989, Nhà nước ta mới

ban hành Pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Đây là văn bản pháp luật

đầu tiên và có tính chuyên ngành của Việt Nam quy định các vấn đề cơ bản trong

lĩnh vực này [13, tr.1470]. Nhưng đến ba năm sau 1992, Hội đồng Bộ trưởng mới

có Nghị định quy định chi tiết thực hiện về Pháp lệnh.

Sau gần mười năm ban hành và triển khai, Pháp lệnh về ký kết và thực hiện

điều ước quốc tế 1998 đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành thay thế cho

Pháp lệnh năm 1989. Đến năm 2005 Pháp lệnh 1998 được phát triển thành Luật ký

kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.

Nhìn chung việc thực hiện các điều ước quốc tế của các văn bản quy phạm

pháp luật nêu trên đều thể hiện tinh thần: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế mà mình đã ký kết, đồng thời đòi hỏi

các bên ký kết khác cũng nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế đã được ký kết

với nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [17, Điều 23].

Năm 2016, Việt Nam ban hành Luật Điều ước quốc tế quy định rõ ràng

những thứ tự ưu tiên thực hiện các quy định pháp lý đó là: “Trường hợp văn bản

quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định

15

của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp” [18, Điều 6]. Bằng quy định này, Việt Nam

đã khẳng định giá trị cốt lõi của các quy định pháp lý của Hiến pháp hiện hành,

đồng thời thực hiện cam kết tôn trọng việc áp dụng những quy định của các điều

ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

1.3. Chủng tộc, ngƣời dân tộc thiểu số, ngƣời bản địa - các khái niệm liên quan

1.3.1. Chủng tộc

Để hiểu rõ chủ nghĩa chủng tộc cần hiểu thế nào là chủng tộc (tiếng Anh là

“race”) và phân biệt khái niệm chủng tộc và tộc người (ethic group/ethnicity)

Chủng tộc

Đến nay, có hai cách nhìn chủ yếu về chủng tộc, đó là cách nhìn của sinh học

(Biology) - thuộc khoa học tự nhiên, và của nhân học (Anthropology) - thuộc khoa

học xã hội.

Với góc độ sinh học, các nhà nhân chủng học cho rằng “chủng tộc” là một

quần thể hay tập hợp quần thể hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ nhất định

có một số đặc điểm chung trên cơ thể mang tính chất di truyền. Theo đó, các nhóm

người này có nguồn gốc hình thành gắn liền với một vùng địa vực nhất định và

mang những đặc trưng di truyền về hình thái, sinh lý có thể là về nhiễm sắc thể

(theo Rieger, Michaelis and Green, 1968) và sinh học thể chất (theo Morris (Ed),

1992). Nhắc lại rằng, chủng tộc ở đây xét trên quan điểm sinh học thuần túy mà

không xét yếu tố xã hội. Chủng tộc và quốc gia là hai phạm trù không đồng nhất.

Một chủng tộc người có thể phân định trên khu vực nhiều quốc gia.

Để phân loại chủng tộc, có quan điểm xác định loài người thuộc ba đại chủng

tộc, đó là Đại chủng Xích đạo hay Úc - Phi (Negro-Australoid), Đại chủng Âu

(Oproloid) hay Âu - Á (Oradien), và Đại chủng Á (Mogoloid) [8, tr48-561].

Quan điểm khác cho rằng, loài người thuộc bốn chủng tộc: Trắng (người

Caucas - Caucasian); Đen (người châu Phi - African); Vàng (người châu Á - Asian);

và Đỏ (thổ dân Mỹ - Native American).

Sự phân loại theo quan điểm nào nêu trên cũng chủ yếu dựa trên 12 yếu tố:

màu da, dạng tóc, mức độ của lớp lông thứ ba trên cơ thể, khuôn mặt, hình dạng

16

mắt, mũi, môi, đầu, vóc dáng, tỷ lệ thân hình, răng, vân tay.

Cách phân biệt chủng tộc dựa trên các đặc điểm sinh học không còn nhận

được sự ủng hộ mạnh mẽ trong thời đại ngày nay.

Quan điểm thứ hai hiện nay, quan điểm nhân học xem xét chủng tộc trong

mối quan hệ có sự tác động của các yếu tố mang tính xã hội hay còn gọi là “chủng

tộc xã hội”. Có thể nhìn thấy, ở Mỹ, “chủng tộc” theo các sắc thái màu da không

phải dựa trên quan điểm theo sinh học hay khoa học thuần túy nào hoặc theo các

cấp quản lý của nhà cầm quyền nào mà nó là sự lựa chọn dựa trên yếu tố văn hóa

được xã hội dán nhãn. Ví dụ, một trẻ được sinh ra bởi người cha da trắng và người

mẹ da đen, đứa trẻ đó sẽ được coi là thuộc chủng tộc người da đen (nhóm bị coi là

thiểu số trong xã hội).

Trên giác độ của quan điểm thứ hai, tác giả Phan Ngọc Chiến thuộc Viện

Phát triển bền vững vùng Nam bộ nhận định: “Ba yếu tố thường được xem là những

chỉ báo về thành phần dân tộc gồm ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa, và ý thức tự giác

dân tộc” [43, tr.1]. Đây là những yếu tố được chọn làm tiêu chí xác định thành phần

dân tộc ở Việt Nam, và cũng thường là những yếu tố phân biệt thành phần dân tộc

theo tri thức phổ thông của số đông người trong các xã hội”. Tuy nhiên, theo nghiên

cứu của tác giả này, các chỉ báo trên đều mang “tính tương đối”. Ví dụ, xét theo chỉ

báo về ngôn ngữ, những cộng đồng người sống gần nhau có thể nói ngôn ngữ tương

đồng nhau, đôi khi sự tương đồng lớn đến mức người ta có thể nói các cộng đồng

người khác nhau đó đang nói cùng một ngôn ngữ như người K’ho và người Mạ ở tỉnh

Lâm Đồng, Việt Nam. Hoặc việc dùng chỉ báo về đặc điểm văn hóa trong việc xác

định thành phần dân tộc cũng không phải luôn chính xác. Trong nghiên cứu của mình

về người Kachin ở Myanmar, Edmund Leach, một nhà nghiên cứu người Anh đã chỉ ra

rằng những nhóm người trong tộc người Kachin nói nhiều ngôn ngữ khác nhau và giữa

họ có rất nhiều khác biệt về văn hóa – “This population speaks a number of different

languages and dialects and there are wide differences of cultures between one part of

the area and another” [56, tr.1]..

Trên giác độ sinh học và khu vực địa lý phân bố để nhận dạng chủng tộc thì

Việt Nam tồn tại chủng tộc Mongoloid, Australoid và loại hình trung gian chuyển

17

tiếp mang hỗn hợp các đặc điểm của nhiều loại chủng tộc.

Chủng tộc Mongoloid phân bố ở sát biên giới Việt Nam - Trung Quốc, có

đặc điểm da sáng hơi vàng, tóc đen thẳng và cứng, tầm vóc trung bình 1,60m ở nam

và 1,50m ở nữ, đầu tròn, mặt rộng bẹt, mắt một mí chiếm đa số, mũi rộng tẹt, môi

dày trung bình. Những đặc điểm này khá phổ biến ở các tộc người thiểu số sống

phía Bắc và tây Bắc Việt Nam, ví dụ tộc người Tày, Nùng, Thái… Chủng tộc người

Australoid ở vùng cao nguyên Trung bộ có đặc điểm như người tầm thước, da ngăm

ngăm đen, tóc uốn làn sóng hoặc quăn, đầu dài hoặc rất dài, môi dày, hàm trên vẩu,

mũi rộng ở phần cánh mũi và đặc biệt là phần sống mũi bị gãy ở chỗ gốc mũi; gồm

các dân tộc Tây Nguyên sống ở cao nguyên Trung bộ mà đại diện là các dân tộc

Thượng, Bru - Vân Kiều…

Loại hình trung gian chuyển tiếp mang hỗn hợp các đặc điểm của nhiều loại

chủng tộc, điển hình người Việt (hay còn gọi là người Kinh).

Do sự phát triển, tiến hóa thích nghi nên đặc điềm hình thái, sinh lý của

những tộc người này có thể thay đổi đôi chút so với chủng tộc tương ứng thời Đá

mới điển hình như sự hình thành người Việt hiện nay.

Mặt khác, trên giác độ của các nhà xã hội ở Việt Nam, theo nghiên cứu của

Henri Maitre về các “bộ lạc hỗn hợp” ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, người

Krung, Chur, Mdhur, Blao là những “bộ lạc hỗn hợp” giữa Ê-đê và Gia-rai vì họ nói

ngôn ngữ nửa Ê-đê, nửa Gia-rai.

Từ những phân tích liên quan đến khái niệm “chủng tộc”, có thể thấy, hiện

nay, trên thế giới đang tồn tại các quan điểm về phương thức phân biệt các chủng

tộc mà ở đó còn nhiều ý kiến phản biện. Nhưng dù xét trên quan điểm của các nhà

sinh học hay các nhà xã hội học, thì các “chủng tộc” ở Việt Nam cũng đã và đang

tiếp tục chuyển hóa, giao thoa, đặc biệt trong xu thế chung của thế giới khi sự di cư

ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Những luận điểm này phần nào khẳng định sự đúng

đắn trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về một Việt Nam

không có sự phân biệt chủng tộc. Nước Việt Nam gồm nhiều các dân tộc anh em

cùng sinh sống (trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số) và có sự cư trú đan xen trên

nhiều địa bàn và Đảng và Nhà nước Việt Nam nhất quán thực hiện nguyên tắc “các

18

dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”.

1.3.2. Dân tộc, dân tộc thiểu số (national/ethnic minorities)

Về khái niệm “dân tộc” và “người thiểu số” chưa được chính thức xác nhận

trong bất cứ văn kiện quốc tế nào của Liên hợp quốc. Các nhóm thiểu số hay được

đề cập đến là thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ.

Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về người thiểu số, Điều 1 có viết: người thiểu

số được xét trên các khía cạnh về dân tộc/tộc người, văn hóa, tín ngưỡng và ngôn

ngữ và khuyến nghị các quốc gia thành viên bảo vệ những tồn tại này. Tuy nhiên,

đây không phải định nghĩa chính thức về vấn đề “người thiểu số” được thế giới

công nhận.

Hệ thống quyền con người của Liên hợp quốc quan niệm “người thiểu số”

được xét về khía cạnh dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ và điều này phù hợp với Tuyên

bố của Liên hợp quốc về Dân tộc thiểu số năm 1992. Các quốc gia có thể có một

hoặc nhiều nhóm người dân tộc thiểu số trong lãnh thổ của mình và mang các đặc

điểm dân tộc, văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng khác so với dân tộc chiếm đa số

trong tổng số dân.

Tòa án Công lý quốc tế thường trực (PCIJ) đưa ra định nghĩa về dân tộc thiểu

số: dân tộc thiểu số là một nhóm người sống trên một quốc gia hoặc một địa phương

nhất định, có những đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ và

truyền thống, có sự giúp đỡ lẫn nhau và có quan điểm thống nhất trong việc bảo lưu

những yếu tố truyền thống, duy trì tôn giáo, tín ngưỡng và hướng dẫn, giáo dục trẻ

em trong cộng đồng theo tinh thần và truyền thống của chủng tộc họ.

Năm 1977, Francesco Capotorti, một Cao ủy của Ủy ban Bảo vệ và Chống

phân biệt người thiểu số đã đưa ra một định nghĩa về “Người thiểu số” là một nhóm

người, về mặt số lượng, ít so với phần dân cư còn lại của một quốc gia, có vị thế

yếu trong xã hội, là một công dân của quốc gia nhưng có những đặc tính riêng về

mặt chủng tộc, tín ngưỡng hoặc ngôn ngữ và cho thấy những dấu chỉ mong muốn

đoàn kết bảo tồn những nét văn hóa, truyền thống, tôn giáo hay ngôn ngữ của họ.

Năm 1995, Liên Hiệp Âu Châu đưa ra khái niệm về dân tộc thiểu số trong

19

“Công ước của Liên Hiệp Âu Châu về dân tộc thiểu số”, rất gần gũi với khái niệm

của Liên Hiệp Quốc biểu quyết vào năm 1992: “Dân tộc thiểu số ám chỉ một nhóm

người từ một quốc gia khác đến cư trú trên lãnh thổ của quốc gia thuộc Liên Hiệp

Âu Châu và có quốc tịch của khối Âu Châu”.

Một định nghĩa khác về người thiểu số, đó là một nhóm công dân của một

quốc gia, ít về mặt số lượng và yếu về vị thế trong quốc gia đó, mang những đặc

trưng về chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ mà tạo sự khác biệt so với nhóm dân cư

đa số, có một ý thức thống nhất, một động cơ rõ rệt trong việc sử dụng ý chí tập thể

để tồn tại và đạt được mục tiêu bình đẳng với nhóm dân cư đa số, cả trên phương

diện pháp luật và thực tiễn.

Như vậy, các khái niệm đưa ra không hoàn toàn giống nhau, điều này cho

thấy tính chất phức tạp của vấn đề người thiểu số trên thế giới. Tổng hợp những

thuộc tính được nêu ra từ các định nghĩa trên và nội dung các văn kiện quốc tế có

liên quan về vấn đề người thiểu số, có thể thấy, về mặt khách quan, người thiểu số

có những đặc điểm (1) số lượng ít (so sánh với nhóm đa số cùng sinh sống trên lãnh

thổ); (2) yếu thế trong xã hội (thể hiện ở tiềm lực, vai trò ảnh hưởng của nhóm tới

đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở lãnh thổ nơi họ sinh sống); (3) có bản sắc riêng

(về mặt chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục, tập quán); (4) địa vị pháp lý (có

thể là công dân hoặc kiều dân của quốc gia nơi họ đang sinh sống); (5) về mặt chủ

quan, nhóm cộng đồng này có ý thức bảo tồn truyền thống văn hóa của mình.

Phù hợp với các nghiên cứu trên, tại Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính

phủ về công tác dân tộc, khoản 1 Điều 4 có quy định “dân tộc thiểu số” là “những

dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.Theo đó, yếu tố số lượng được Nhà nước Việt Nam lấy

làm đặc điểm quan trọng cốt lõi để xác định một dân tộc là dân tộc thiểu số. Điểm

quan trọng cần chú ý nữa là về thuật ngữ “dân tộc” ở đây cần được hiểu là “tộc

người” (ethnic) chứ không phải là chủng tộc (race/nation). Từ cách tiếp cận như

trên, Việt Nam xác định không có sự phân biệt chủng tộc trên đất nước này và luôn

luôn khẳng định Việt Nam là một quốc gia gồm cộng đồng các dân tộc thống nhất,

20

bình đẳng, hỗ trợ nhau cùng phát triển.

1.3.3. Dân tộc bản địa

Cũng giống như thuật ngữ “người thiểu số”, trên thế giới hiện nay, cộng

đồng quốc tế hiện chưa thống nhất được một khái niệm chung về “dân tộc bản địa”.

Tuy nhiên, từ thực tế hoạt động của mình, dựa trên những điều khoản quy định của

Công ước số 169 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và nội dung trong Tuyên bố

của Liên hợp quốc về quyền của người bản địa, trong cuốn Minority rights:

International standards and Guidance for Implementation (tạm dịch là: Quyền của

Người thiểu số: Tiêu chuẩn quốc tế và Hướng dẫn thực hiện) của Tổ chức Nhân

quyền thế giới năm 2010, Nhóm hoạt động về những dân tộc bản địa đã nêu ra một

số điểm về dân tộc bản địa gồm những đặc điểm như (i) là những người có tổ tiên

định cư trên một vùng đất hay vùng lãnh thổ trước khi có sự đô hộ hoặc hình thành

biên giới quốc gia; (ii) người bản địa có hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, ngôn

ngữ, văn hóa và tôn giáo riêng và quyết tâm gìn giữ và phát triển những đặc trưng

riêng biệt đó; (iii) người bản địa có mong muốn mạnh mẽ gắn bó với vùng đất tổ

tiên của họ, những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên vùng đất đó; (iv) họ có thể là

nhóm người có vị thế yếu trong xã hội và tự nhận diện mình là người bản địa.

1.3.4. Khái niệm “Bình đẳng” và “Phân biệt đối xử”

Sử dụng pháp luật để dần hạn chế, rồi sau đó xóa bỏ sự bất bình đẳng trong

xã hội là hệ sự quan trọng của mỗi nhà nước nhằm đảm bảo các quyền và phẩm giá

của mỗi công dân, đảm bảo xã hội được gắn kết, đặc biệt tăng cường sự gắn kết đến

từ các cá nhân, nhóm dễ bị tổn thương và nhóm thiểu số trong các lĩnh vực chính

trị, kinh tế và đời sống xã hội.

Giải quyết vấn đề phân biệt đối xử nói chung và phân biệt đối xử với người

dân tộc thiểu số cần hiểu được bản chất của sự phân biệt đối xử, khái niệm sự bình

đẳng và phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số từ quan điểm xã hội, kinh tế và

pháp lý.

Bình đẳng, theo Giáo sư Sandra Fredman, khoa Luật của Đại học Oxford

trong bài viết “Discrimination Law” trên tạp chí Clarendon năm 2002, ở cấp độ khái

niệm có ba khía cạnh riêng biệt.

21

Thứ nhất, bình đẳng là một nguyên tắc phổ quát. Theo ý tưởng này thì tất cả

mọi người đều xứng đáng được hưởng một cách đối xử nhất định bởi sự đức hạnh

trong nhân tính và tư cách thành viên loài người của họ.

Thứ hai, bình đẳng là giống nhau, tức là được đối xử giống nhau. Điều này

phù hợp với công bằng trong luật pháp và công lý cá nhân đòi hỏi người phân xử

không nên tùy tiện phân biệt giữa các trường hợp hoặc tính đến các yếu tố không

chắc chắn trong khi đi đến quyết định.

Thứ ba, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả. Liên quan đến khái

niệm này, hai luồng quan điểm nổi bật cho rằng đó là bình đẳng trong pháp lật thủ

tục hoặc pháp luật nội dung về cơ hội.

Ở góc nhìn pháp luật thủ tục, bình đẳng về cơ hội yêu cầu loại bỏ các chướng

ngại đối với sự tiến bộ của phụ nữ hoặc các nhóm thiểu số, nhưng không đảm bảo

rằng điều này sẽ dẫn tới kết quả là sự công bằng hơn về pháp luật nội dung. Đối lập

với đó, một cảm thức mang tính pháp luật nội dung về bình đẳng trong cơ hội đòi

hỏi những biện pháp nhằm bảo đảm mọi người từ mọi tầng lớp xã hội có cơ hội

bình đẳng có thể đáp ứng các tiêu chí để tiếp cận một lợi ích xã hội cụ thể. Điều này

đòi hỏi các biện pháp tích cực như giáo dục, đào tạo và các biện pháp thân thiện với

gia đình, thậm chí nó có thể đi xa hơn và thách thức bản thân các tiêu chí tiếp cận

do những tiêu chí công nhận đang tồn tại có thể tự phản ánh và củng cố các kiểu

mẫu bất lợi hiện có.

Fredman tiếp tục phân biệt bình đẳng về cơ hội với bình đẳng về kết quả mà

bà viết là “mối quan tâm chính đối với việc phân phối lợi ích công bằng hơn; trong

khi bình đẳng chính thức dựa trên một hạt nhân của công bằng trong pháp luật thủ

tục bắt nguồn từ sự đối xử nhất quán”. Tuy nhiên, sự chú trọng tới kết quả được

khuyến khích bởi ý tưởng này về bình đẳng có thể gây hiểu lầm. Nó có thể khuyến

khích việc giám sát kết quả với một góc nhìn nhằm đạt được sự ngang hàng hơn

hơn là nhắm tới nguồn gốc gây ra những bất lợi mang tính cấu trúc. Hơn nữa, chú

trọng tới “bình đẳng” về kết quả có thể dẫn tới các mô hình đồng bộ hóa, bỏ qua sự

khác biệt có liên quan mà bản thân chúng có thể là một nguyên nhân tiềm ẩn về lợi

22

thế mang tính cấu trúc.

Phân biệt đối xử, theo Bruce G. Link and Jo C. Phelan, là hợp phần thứ năm

trong quá trình hình thành sự kỳ thị gồm: Dán nhãn, định khuôn (mẫu), chia rẽ, mất

địa vị, và phân biệt đối xử. Khi một nhóm người theo khả năng tiếp cận quyền lực

xã hội, kinh tế, chính trị cho phép định nghĩa sự khác biệt, định hình thành các

khuôn mẫu, phân dạng vào các loại khác nhau và cuối cùng là dẫn tới sự bị chối bỏ,

bác bỏ, loại trừ và phân biệt đối xử [69, tr. 363-385].

Phân biệt đối xử được định nghĩa bởi Từ điền Cambridge là “đối xử một

người hoặc một nhóm người nhất định một cách khác biệt, đặc biệt là theo cách tệ

hơn so với cách mà anh thường đối đãi với người khác, bởi màu da, giới tính, xu

hướng tính dục, vân vân”. Khái niệm này được định nghĩa trong các công ước quốc

tế khác nhau của Liên hợp quốc như Điều 1 của Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi

hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD), Điều 1 Công ước Quốc tế về Xóa bỏ mọi

hình thức phân biệt đối với phụ nữ (CEDAW), Điều 2 của Công ước về quyền của

người khuyết tật (CRPD), điều 1 của Công ước liên quan tới Phân biệt đối xử trong

việc làm và nghề nghiệp, 1958 (Công ước 111 của ILO) và Điều 1 của Công ước

chống phân biệt đối xử trong giáo dục (CADE).

Ví dụ, Công ước xóa bỏ mọi hình thức về phân biệt chủng tộc (ICERD) đã

định nghĩa “phân biệt chủng tộc” có nghĩa là “bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế

hoặc ưu đãi nào dựa trên chủng tộc, màu da, gốc gác, xuất thân quốc gia hay dân tộc

có mục đích hoặc làm ảnh hưởng đến việc vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu sự công

nhận, hưởng thụ hoặc thực hành, trên cơ sở bình đẳng về nhân quyền và tự do cơ

bản trong chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa hay bất cứ lĩnh vực nào khác của đời

sống công chúng”.

Điều 1, Công ước đã đưa ra một khái niệm về “phân biệt chủng tộc” nghĩa là

bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế hoặc ưu đãi nào dựa trên cơ sở chủng tộc, màu

da, dòng dõi, nguồn gốc dân tộc hoặc sắc tộc, với mục đích hoặc có tác dụng vô

hiệu hóa hay làm giảm sự thừa nhận, hưởng thụ hoặc thực hành, trên cơ sở bình

đẳng, các quyền và tự do cơ bản của con người về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa

23

hoặc về bất kỳ lĩnh vực nào khác của đời sống công cộng.

Sự phân biệt, loại trừ, hạn chế hoặc ưu đãi thực hiện dựa trên quyền công dân

(nghĩa là giữa công dân và người không phải công dân của quốc gia đó) không bao

gồm trong định nghĩa này cũng như những chính sách hay các biện pháp phân biệt

khác được thực nhiện nhằm khắc phục những thiên lệch và thúc đẩy sự bình đẳng.

Định nghĩa này phân định sự phân biệt trên cơ sở yếu tố tộc người và chủng tộc,

một phần bởi còn những tranh cãi khác nhau trong giới nhân học về các yếu tố này.

Sự phân biệt về dòng dõi đặc biệt nhấn tới địa vị hay các hình thức kế

vị khác.

Sự phân biệt không nhất thiết phải dựa theo yếu tố tộc người hay chủng tộc

mà một hành động hay một chính sách đó bị phán quyết là gây phân biệt.

Phân biệt đối xử biểu hiện dưới một số hình thức chủ yếu như phân biệt đối

xử trực tiếp, phân biệt đối xử gián tiếp, và sách nhiễu, hành động ngược đãi, hành

động bảo đảm và ngoại lệ.

Phân biệt đối xử trực tiếp là sự đối xử thường không thuận lợi với một nhóm

được bảo vệ. Ví dụ như sa thải một ai đó bởi tư cách thành viên của họ thuộc về

một nhóm được bảo vệ, quyết định không tuyển dụng họ, từ chối việc đào tạo, phủ

nhận cơ hội thăng tiến, hoặc đưa ra các điều kiện bất lợi bởi một đặc điểm được bảo

vệ. Định nghĩa về phân biệt đối xử trực tiếp được bao hàm trong các đạo luật, ví dụ,

đạo luật Phân biệt đối xử giới tính của Vương quốc Anh (SDA 75) khẳng định rằng:

“một người phân biệt đối xử với một phụ nữ dưới bất cứ hoàn cảnh nào liên quan

tới mục đích của đạo luật này nếu - (a) dựa trên giới tính của người phụ nữ mà đối

xử với người này kém thuận lợi hơn đối xử với một nam giới”. Điều này cũng có

thể áp dụng với chủng tộc, dân tộc, xu hướng tính dục và bản dạng giới hay tình

trạng khuyết tật.

Phân biệt đối xử gián tiếp diễn ra khi người sử dụng lao động hoặc thực hành

chính sách hay quy trình của một số tổ chức có ảnh hưởng tới những người bị bất

lợi chia sẻ những đặc điểm cần được bảo vệ nhất định. Điều này có nghĩa các yêu

cầu có vẻ trung lập nhưng lại có tác động không cân xứng lên nhóm người được bảo

24

vệ. Ví dụ, đối xử ưu đãi với lao động toàn thời gian dựa trên sự trả giá của lao động

bán thời gian có thể tạo thành sự kỳ thị gián tiếp đối với phụ nữ bởi phụ nữ có xu

hướng làm việc bán thời gian hơn nam giới, một phần bởi các hình mẫu xã hội hiện

tại có xu hướng khiến phụ nữ đảm đương trách nhiêm chăm sóc con cái lớn hơn.

Sách nhiễu, hành vi không mong muốn có liên quan tới một đặc điểm được

bảo vệ (bao gồm chủng tộc, niềm tin tôn giáo, màu da, giới tính, tình trạng khuyết

tật thể chất hoặc tâm thần, tuổi tác, tổ tiên, nơi xuất thân, tình trạng hôn nhân, nguồn

thu nhập, tình trạng gia đình hay xu hướng tính dục và bản dạng giới) xâm phạm

đến phẩm giá của một ai đó hoặc tạo ra một môi trường khó chịu với họ. Sách nhiễu

có thể là một sự vụ riêng lẻ hoặc một chuỗi sự vụ và có thể xuất hiện trong giờ làm

việc hoặc không. Sách nhiễu có thể liên quan đến các cá nhân hoặc nhóm và có thể

bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh hoặc các dạng vật chất và bao gồm quấy rối tình

dục. Sách nhiễu cá nhân có nghĩa là những bình luận, hành vi hay truyền đạt không

được chào đón hướng trực tiếp tới một cá nhân hoặc nhóm mà ở đó có sử dụng sai trái,

lạm dụng quyền lực tạo ra ảnh hưởng hoặc có mục đích lạm dụng, đe dọa, hạ thấp hoặc

gây hấn nghiêm trọng với cá nhân hoặc một nhóm cá nhân; các hành động có mục đích

hoặc ảnh hưởng gây trở ngại đến công việc, thành tích học tập; các hành động gây hấn,

gây khó chịu hoặc xúc phạm môi trường làm việc và giáo dục.

Ngược đãi là đối xử với ai đó không công bằng, thúc ép hoặc đe dọa trừng

phạt một ai đó bởi họ phàn nàn về sự phân biệt đối xử hoặc sách nhiễu, khẳng định

quyền của họ theo luật cơ hội bình đẳng khiếu nại, giúp ai đó khiếu nại, hoặc từ

chối làm một điều gì đó vì đó là hành vi phân biệt đối xử, quấy rối tình dục hoặc

ngược đãi. Ngược đãi đối với người dân tộc thiểu số có thể trong xây dựng vị trí

công việc như làm việc lao động giản đơn, nặng nhọc trong môi trường độc hại,

nguy hiểm, ít cơ hội thăng tiến.

Hành động bảo đảm, nghĩa là cần có những ưu đãi đặc biệt cho các nhóm

được bảo vệ như phụ nữ, LGBT, người thiểu số và người khuyết tật để vượt qua

những bất lợi và sự loại trừ xã hội gây ra bởi sự phân biệt về thể chế hoặc cơ cấu

(trong quá khứ và hiện tại). Ví dụ về các hành động tích cực bảo gồm các cơ hội

25

giáo dục cho người dân tộc thiểu số hoặc các mục thiếu hạn ngạch để bảo đảm sự

đại diện chính trị của phụ nữ trong hệ thống chính trị [5, tr.12]. Những hành động

đảm bảo không thể bị coi là sự phân biệt đối xử, bởi đây được coi là nhằm khắc

phục những bất lợi cho chủ thể được hưởng sự bảo đảm đó từ lịch sử, tâm lý xã hội

để lại.

Mặt khác ở Anh, một số trường hợp ngoại lệ có thể được cho phép nếu họ

cần thiết cho cách tổ chức hoạt động vì bản chất vốn có của tổ chức, ví dụ như một

trường Công giáo ở La Mã hạn chế đơn xin tiếp nhận học sinh chỉ có người công

giáo hoặc chỉ sử dụng phụ nữ trong một số trung tâm y tế cho phụ nữ Hồi giáo.

Điều này cũng được ghi tại Điều 1, Công ước ILO 111 vì “bất kỳ sự phân biệt, loại

trừ hay ưu tiên nào đối với một công việc cụ thể dựa trên các yêu cầu vốn có của nó

sẽ không bị coi là phân biệt đối xử”.

Phân biệt đối xử đối với người dân tộc thiểu số

Phân biệt đối xử đối với người dân tộc thiểu số là cách tiếp cận tiến hóa đơn

tính đối với văn hóa và phát triển đã làm cho người dân tộc thiểu số bị loại trừ về

mặt xã hội và bị lề hóa về khía cạnh kinh tế. Các khuôn mẫu tiêu cực và hành vi

phân biệt đã được diễn dịch thành sự tiếp cận bổ trợ trong các chính sách, báo chí

và thậm chí các chương trình phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số [5, tr.19]

Ví dụ, như một nghiên cứu của Phạm Quỳnh Phương và cộng sự, kỳ thị phân

biệt đối xử ảnh hưởng đến người dân tộc thiểu số về kết quả giáo dục. Trình độ học

vấn thấp dẫn đến thiếu cơ hội việc làm được trả lương. Nghiên cứu đã chỉ ra sự

vắng mặt của người Dao trong đội ngũ giáo viên người hoặc các cán bộ địa phương

trong địa bàn nghiên cứu. Trong số 20 cán bộ của xã Yên Đĩnh, huyện Chợ Mới,

tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam chỉ có một người Dao mặc dù dân tộc Dao chiếm đa số

trong dân cư của khu vực này.

Bên cạnh các nguyên nhân nội tại của giáo dục chính quy hạn chế, người dân

tộc thiểu số cũng phải đối mặt với những trở ngại về tâm lý để tiếp cận các cơ hội

việc làm. Con em trong gia đình nông dân bình thường không có khả năng tìm được

việc làm được trả lương sau khi tốt nghiệp là một rào cản về tâm lý ngăn cản cả học

26

sinh và phụ huynh theo đuổi giáo dục đại học. Nguyên nhân chính cho sự bất bình

đẳng về cơ hội này là hậu quả của sự kỳ thị đối với các nhóm dân tộc nhỏ và yếu

hơn, những người bị các nhóm khác hoặc chính bản thân họ cho là lạc hậu và chậm

học hỏi.

Trong nghiên cứu của Phạm Quỳnh Phương và cộng sự, ông Lê Viết Thắng,

Giám đốc Sahabak, một nhà máy với 200 công nhân xác nhận rằng không có một

công nhân người Dao nào trong lực lượng lao động của mình. Ông nói, công ty có

chính sách tuyển dụng bình đẳng. Họ đã gửi các quảng cáo tuyển dụng đến các xã

và sau đó đến tất cả các bản làng, bất kể dân tộc của dân cư ở đó. Tuy nhiên, người

quản lý nguồn nhân lực của công ty ông là một người dân tộc Tày và tất cả nhân

viên của ông thuộc hai nhóm người Tày hoặc Kinh. Gám đốc xác nhận rằng chính

sách của ông là công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên, ông không thể kiểm soát suy

nghĩ trong đầu của cán bộ nhân sự khi họ lọc đơn xin việc và phỏng vấn người lao

động và loại rào cản nào được đưa ra để ngăn chặn một số nhóm dân tộc nhất định

được tuyển dụng.

Theo Kim Ngân trong bài Bất cập trong đào tạo nguồn nhân lực miền núi

năm 2012, tỷ lệ lao động không có tay nghề ở các cộng đồng dân tộc thiểu số là rất

cao, chiếm 87,21% tổng số lực lượng lao động người dân tộc thiểu số [5, tr.20]. Đây

là rào cản lớn nhất để loại trừ các người dân tộc thiểu số ra khỏi thị trường lao động,

đặc biệt là việc làm trong các khu đô thị và khu công nghiệp. Cùng với sự khác biệt

về văn hóa, người dân tộc thiểu số phải đối mặt với những rào cản kép. Trong

nghiên cứu của Lê Quang Bình, người dân tộc thiểu số bị người sử dụng lao động

coi là “những người lạc hậu và có học vấn thấp…, thường làm việc trong các công

trình xây dựng, nhà hàng hoặc các công việc khác đòi hỏi sức mạnh thể chất”.

Những biểu hiện dán nhãn của xã hội như vậy, lâu dân sẽ trở thành những định

dạng khuôn mẫu gây chia rẽ, mất địa vị và phát triển thành hiện tượng phân biệt đối

xử đối với người dân tộc thiểu số.

1.4. Công ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (Công ƣớc ICERD)

và sự tham gia của Việt Nam

Công ước ICERD à một công cụ về quyền con người, ràng buộc các nước

27

thành viên xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các dân tộc -

[49, Điều 2.1]. Công ước này cũng đồi hỏi các bên nghiêm cấm luận điệu thù địch và

hình sự hóa tư cách thành viên tham gia các tổ chức phân biệt chủng tộc - Điều 4.

Việc quy định cơ chế khiếu nại các nhân khiến Công ước có hiệu lực thực thi

hơn đối với các nước tham gia. Điều này giúp tăng cường hệ thống pháp luật còn

yếu trong việc giải thích và thực hiện Công ước.

Công ước được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và để ngỏ cho các

nước tham gia ký kết tại Nghị quyết số 2106, ngày 21 tháng 12 năm 1965 và có

hiệu lực ngày 04 tháng 01 năm 1969. Tính đến ngày 17/12/2019 đã có 88 bên ký kết

và 182 bên tham gia.

1.4.1. Sự ra đời của Công ước

Cụ thể hóa vấn đề của công ước vào những năm 1960 không phải là sự trùng

hợp ngẫu nhiên mà là kết quả của việc thay đổi cân bằng quyền lực trên thế giới.

Mặc dù tập trung vào phân biệt chủng tộc, Công ước thực sự là một nỗ lực nhằm

chấm dứt cả sự phân biệt chủng tộc và tôn giáo - hai vấn đề đan xen do hậu quả của

những cuộc tàn sát và bạo lực. Áp lực cho ra đời một công ước vào giữa những năm

1960 bắt nguồn từ hai điểm nhấn. Thứ nhất, cuối những năm 1950 và đầu những

năm 1960 đã trải qua một sự gia tăng mới trong các sự kiện chống chủ nghĩa bài Do

Thái trên khắp thế giới, dẫn đến kêu gọi Đại hội đồng đưa ra một công ước lên án

sự phân biệt tôn giáo và chủng tộc. Thứ hai, bối cảnh chính trị của thế giới đã thay

đổi vào cuối những năm 1950 và 1960 do sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. Nhiều

quốc gia châu Á và châu Phi mới độc lập đã thay đổi sự cân bằng quyền lực tại Liên

hợp quốc khi họ bắt đầu tham gia và gây ảnh hưởng đến tổ chức này.

Tháng 12 năm 1960 sau những diễn biến các hoạt động bài xích chủ nghĩa

Do Thái ở một số nơi trên thế giới, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua một

nghị quyết lên án “mọi biểu hiện và hành vi của thù hận chủng tộc, tôn giáo và dân

tộc” và coi đó là những vi phạm Hiến Chương Liên hợp quốc cũng như Tuyên bố

Nhân quyền thế giới đồng thời kêu gọi chính phủ các quốc gia “tiến hành những

biện pháp cần thiết để ngăn chặn mọi biểu hiện của sự thù hận chủng tộc, tôn giáo

28

và dân tộc” [44, phần IV]. Ủy ban về Kinh tế và Xã hội đã soạn thảo một nghị quyết

về các biểu hiện của sự thiên lệch chủng tộc và sự kỳ thị dân tộc, tôn giáo, kêu gọi

các chính phủ giáo dục công dân chống lại sự kỳ thị và xóa bỏ những đạo luật gây

phân biệt chủng tộc [45, mục XVII].

Trong giai đoạn thảo luận ban đầu về nghị quyết, các quốc gia Châu Phi, dẫn

đầu là các nước Cộng hòa Trung Phi, Chad và Guine cùng các nước khác đã thúc

đẩy hành động mạnh mẽ hơn để có một công ước quốc tế riêng về chống phân biệt

chủng tộc. Động thái này được sự ủng hộ từ các quốc gia Arab, những người cũng

mong chờ một công ước như vậy do cuộc khủng hoảng kéo dài giữa người Arab và

người Israel và các quốc gia Đông Âu có tư tưởng vô thần. Kết quả là Ủy ban về

quyền con người đã soạn ra tuyên bố đính kèm là một công ước thuần túy về chống

phân biệt chủng tộc [62, đoạn 2].

Việc hình sự hóa hành động kích động phân biệt chủng tộc gây nhiều tranh

cãi trong giai đoạn soạn thảo công ước. Lúc này, Hoa kỳ và Liên ban Xô viết cùng

Ba Lan đệ trình hai bản dự thảo công ước. Trong bản dự thảo của mình, Hoa Kỳ

cho rằng chỉ những hành động kích động “gây ra hoặc sẽ gây ra bạo lực” thì cần

cấm, trong khi đó, Liên bang Xô viết muốn “ngăn cấm và chặn đứng những kẻ phân

biệt chủng tộc, phát xít và các tổ chức hoạt động hoặc kích động phân biệt chủng

tộc”. Các quốc gia Bắc Âu đề xuất một giải pháp là thêm vào mệnh đề cụm từ “phù

hợp với” các quyền trong Tuyên bố thế giới về quyền con người khi xét đến tính

hình sự hóa phát ngôn thù địch.

1.4.2. Công ước ICERD.

Hiến chương Liên hợp quốc 1945 được coi là văn kiện nền tảng của luật

quốc tế về quyền con người. Với những quy định cụ thể về việc tôn trọng, thúc đẩy

và bảo vệ con người, Hiến chương đã khẳng định đây là một trong những mục tiêu

hoạt động của Liên hợp quốc. Liên hợp quốc xác định sẽ theo đuổi việc “thúc đẩy

và khuyến khích sự tôn trọng quyền con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi

người” [47, tr. 1].

Trên cơ sở Hiến chương, nhiều công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người

29

trong các lĩnh vực được xây dựng, phát triển thành các “bộ luật” quốc tế về quyền

con người như: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948; Công ước quốc

tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 và Công ước quốc tế về các quyền

dân sự và chính trị 1966. Bên cạnh đó, các văn kiện quốc tế cơ bản khác về quyền

con người được tổ chức Liên hợp quốc phát triển, hoàn thiện và được nhiều quốc

gia công nhận, gia nhập như Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

chủng tộc 1965; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ

nữ 1979; Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác vô

nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm 1984; Công ước về quyền trẻ em 1989; Công ước

quốc tế về bảo vệ quyền cả tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia

đình họ 1990; Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích

2006; Công ước về quyền của người khuyết tật 2007.

Công ước xóa bỏ mọi hình thức về phân biệt chủng tộc (ICERD) là sự phát

triển, cụ thể các mục tiêu của Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên bố quốc tế về

quyền con người 1948 trên quan điểm tiếp tục khẳng định sự tôn trọng và bình đẳng

trước pháp luật.

*) Nội dung chính

Các quốc gia thành viên cam kết sẽ cấm và xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc

dưới mọi hình thức và đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi

người, không phân biệt chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hay sắc tộc, đặc biệt

trong việc hưởng những quyền sau đây:

a) Quyền được đối xử bình đẳng trước các toà án cũng như trước các cơ quan

tài phán khác;

b) Quyền an ninh cá nhân và được nhà nước bảo vệ chống lại những hành vi

bạo lực hoặc gây xâm hại đến thân thể do các nhân viên nhà nước gây ra hoặc do

bất cứ cá nhân, nhóm người hoặc cơ quan nào gây ra;

c) Những quyền về chính trị, đặc biệt là quyền về bầu cử - được đi bầu và

được ứng cử - trên cơ sở phổ thông đầu phiếu, quyền được tham gia vào chính phủ

cũng như các hoạt động công cộng khác ở mọi cấp và được bình đẳng trong tiếp cận

30

với các dịch vụ công cộng;

d) Các quyền dân sự khác, đặc biệt là:

(i) Quyền tự do đi lại và cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia;

(ii) Quyền được xuất cảnh khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả nước mình, và

được quay trở lại nước mình;

(iii) Quyền có quốc tịch;

(iv) Quyền được kết hôn và được tự do lựa chọn người phối ngẫu;

(v) Quyền sở hữu tài sản riêng cũng như sở hữu chung với người khác;

(vi) Quyền thừa kế;

(vii) Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo;

(viii) Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí;

(ix) Quyền tự do hội họp và lập hội một cách hoà bình;

e) Các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, cụ thể là:

(i) Quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm và được có các điều kiện

làm việc công bằng, thuận lợi, được bảo vệ chống thất nghiệp, được trả lương bình

đẳng cho những công việc tương đương, được trả công công bằng và thích đáng;

(ii) Quyền được thành lập và tham gia các nghiệp đoàn;

(iii) Quyền có nhà ở;

(iv) Quyền được tiếp cận với y tế công cộng, chăm sóc sức khoẻ, an sinh xã

hội và dịch vụ xã hội;

(v) Quyền được giáo dục và đào tạo;

(vi) Quyền được tham gia bình đẳng vào các hoạt động văn hoá.

f) Quyền được tiếp cận với bất kỳ địa điểm và dịch vụ công cộng nào, ví dụ

như các phương tiện giao thông vận tải, khách sạn, nhà hàng, các quán giải khát,

nhà hát, công viên.

*) Các nguyên tắc, quy định chính của Công ƣớc CERD

Lên án nạn phân biệt chủng tộc và cam kết sẽ theo đuổi những biện pháp cần

thiết nhằm loại trừ nạn phân biệt chủng tộc dưới bất cứ hình thức nào và khuyến

khích sự hiểu biết giữa những chủng tộc.

31

Có những biện pháp đặc biệt và đúng đắn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,

văn hoá ... để đảm bảo sự phát triển phù hợp và bảo vệ các nhóm chủng tộc nhằm

đảm bảo cho họ được hưởng các quyền con người và quyền tự do cơ bản.

Lên án mọi sự tuyên truyền và tổ chức dựa trên ý tưởng học thuyết về tính

trội hơn của một chủng tộc hoặc một nhóm người hay nguồn gốc; học thuyết

khuyến khích sự hận thù chủng tộc, sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào.

Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của mỗi người không phân biệt

chủng tộc, màu da, dân tộc hay nguồn gốc dân tộc.

Bảo vệ mọi công dân chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử, vi phạm

quyền con người và các quyền tự do cơ bản; Đảm bảo được mưu cầu xét xử công

bằng và được đền bù xứng đáng những thiệt hại do nạn phân biệt chủng tộc gây ra.

Thông qua các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục nhằm chống lại các định

kiến có thể dẫn tới phân biệt chủng tộc.

*) Định nghĩa về phân biệt chủng tộc, đối tƣợng và phạm vi điều chỉnh

của Công ƣớc

Điều 1, phần I Công ước chống phân biệt chủng tộc của Liên hợp quốc đã

nêu rõ, thuật ngữ “phân biệt chủng tộc” nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, xua đuổi, hạn

chế hoặc ưu đãi nào dựa trên cơ sở chủng tộc, màu da, nguồn gốc, dân tộc hoặc

người gốc thiểu số với mục đích hoặc nỗ lực để vô hiệu hoá hay làm giảm giá trị

thừa nhận, sự hưởng thụ và thực hành trên một địa vị bình đẳng các quyền con

người và tự do cơ bản trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá hay bất cứ

lĩnh vực nào khác.

Công ước này sẽ không áp dụng đối với những sự phân biệt, loại trừ, hạn chế

hoặc ưu đãi mà một quốc gia thành viên Công ước áp dụng giữa những người là

công dân quốc gia đó và những người không là công dân quốc gia đó.

Theo công ước này, những biện pháp thực thi với mục tiêu duy nhất là đảm

bảo sự phát triển phù hợp của một số chủng tộc hoặc nhóm dân tộc cũng như một

nhóm cá nhân yêu cầu những sự bảo trợ tương tự như vậy có thể sẽ cần thiết nhằm

đảm bảo cho các nhóm hoặc các cá nhân đó được thừa hưởng các quyền con người

32

và các quyền tự do cơ bản sẽ không bị coi như phân biệt chủng tộc, mặt khác sẽ quy

định rằng những biện pháp đó sẽ không dẫn tới việc duy trì những đặc quyền riêng

cho những nhóm chủng tộc riêng và những biện pháp đó sẽ không được tiếp tục

thực hiện khi mục tiêu đặt ra đã đạt được.

*) Cơ chế hoạt động Uỷ ban Công ƣớc CERD

Thành lập một Uỷ ban Xoá bỏ phân biệt chủng tộc (Gọi tắt là Uỷ ban Công

ước CERD) gồm 18 chuyên gia có đạo đức tốt và được công nhận là công bằng, do

các quốc gia thành viên bầu ra một cách độc lập từ các công dân của các quốc gia

thành viên, có cân nhắc đến sự sắp xếp cân bằng về mặt địa lý và tính đại diện của

những nền văn minh khác nhau cũng như những hệ thống luật pháp chủ yếu; các

thành viên của Uỷ ban sẽ được bầu ra bằng phiếu kín; việc bầu cử các thành viên

của Uỷ ban sẽ được thực hiện tại phiên họp toàn thể của các quốc gia thành viên do

Tổng thư ký triệu tập tại trụ sở chính của Liên hợp quốc; các thành viên của Uỷ ban

sẽ phục vụ với nhiệm kỳ 4 năm. Ban Thư ký Uỷ ban sẽ do Tổng thư ký Liên hợp

quốc chỉ định.

Cam kết trình lên Tổng Thư ký Liên hợp quốc một báo cáo về các biện pháp

lập pháp, hành chính, tư pháp cũng như các biện pháp khác đảm bảo các điều khoản

của công ước có hiệu lực. Uỷ ban phải gửi báo cáo hàng năm, thông qua Tổng thư

ký, đến Đại hội đồng Liên hợp quốc về các hoạt động của mình, đồng thời có thể

đưa ra những bình luận và khuyến nghị chung trên cơ sở xem xét các báo cáo và

thông tin gửi đến từ các quốc gia thành viên.

Nếu một quốc gia thành viên cho rằng một nước thành viên khác không thực

hiện đầy đủ các điều khoản của Công ước này thể có thể khiếu nại ra trước Uỷ ban.

Quốc gia nhận được khiếu nại phải có văn bản gửi đến Uỷ ban giải trình về vấn đề,

và đưa ra các giải pháp, nếu có, mà quốc gia này dự định sẽ áp dụng để giải quyết

vấn đề. Nếu các vấn đề đưa ra không làm hai bên thoả mãn, một tiểu ban hoà giải

tạm thời sẽ được thành lập nhằm giải quyết các tranh chấp, hòa giải những vấn đề

phát sinh giữa các quốc gia trong quá trình thực hiện Công ước. Thủ tục này đã

được áp dụng trong vụ việc ngày 8 tháng 3 năm 2018 khi Qatar đệ đơn khiếu nại

33

Arabia Saudi.

Việc mở rộng cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên

quan đến việc giải thích và áp dụng những nội dung của Công ước bằng Tòa án

Công lý Quốc tế cũng được nhắc đến tại Điều 22 của Công ước này. Theo quy định

này, khi có tranh chấp mà các bên không giải quyết được bằng thỏa thuận, một bên

có thể đưa vụ việc ra trước Tòa án Công lý để giải quyết.

Công ước cũng đưa ra một cơ chế khiếu nại cá nhân tương tự như Nghị định

thư không bắt buộc đầu tiên của ICCPR, Nghị định thư không bắt buộc trong Công

ước về quyền của người khuyết tật và Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối

xử với phụ nữ. Các bên có thể bất kỳ khi nào yêu cầu Ủy ban xóa bỏ phân biệt

chủng tộc xem xét các khiếu nại của cá nhân hay nhóm người có khiếu nại về việc

quyền theo Công ước của họ bị vi phạm. Các bên này có thể thành lập những cơ

quan địa phương để nghe khiếu nại trước khi họ chuyển tiếp. Những người khiếu

nại cần phải sử dụng mọi phương thức nội bộ, với những khiếu nại nặc danh và

khiếu nại tham chiếu đến các sự việc xảy ra trước khi nước đó quan tâm, trở thành

thành viên của Nghị định thư không bắt buộc thì không được công nhận.

Cơ chế khiếu nại cá nhân được áp dụng năm 1982 kể từ khi có 10 quốc gia

công nhận.

*) Sự tham gia của các quốc gia

Công ước này để ngỏ cho các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc cũng

như thành viên của bất kỳ tổ chức chuyên môn nào của Liên hợp quốc ký.

Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày Tổng thư ký Liên hợp

quốc lưu chiểu văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập.

Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ nhận và chuyển cho các quốc gia là thành viên

của Công ước những điều khoản bảo lưu của các quốc gia thành viên đưa ra vào

thời điểm phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước. Một nước thành viên có thể rút lại sự

bảo lưu bất cứ lúc nào bằng cách thông báo cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.

Một quốc gia thành viên có thể tuyên bố rút khỏi Công ước này bằng một

thông báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Việc bội ước này sẽ có

34

hiệu lực một năm sau khi Tổng thư ký Liên hợp quốc nhận được thông báo đó.

Bất cứ tranh chấp nào giữa hai hay nhiều quốc gia thành viên liên quan đến

việc giải thích và áp dụng Công ước này mà không dàn xếp được bằng con đường

đàm phán hoặc bằng các thủ tục được quy định tại Công ước này, sẽ được chuyển

đến Toà án Công lý quốc tế để giải quyết.

Các quốc gia thành viên có thể yêu cầu xem xét lại Công ước này bất cứ lúc

nào bằng một văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.

Bản dự thảo Tuyên bố về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc được

Đại hội đồng thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1963.

1.4.3. Thực trạng thực thi công ước ICERD và những khó khăn, thách thức

a) Thực trạng thực thi Công ƣớc ICERD

Công ước dường như tạo được sự chấp thuận nhờ cơ chế thực thi của nó

được thành lập, một công cụ về quyền con người mạnh nhất của Liên hợp quốc lúc

bấy giờ. Các cơ chế này bao gồm một cơ quan của Công ước có tên là Ủy ban về

loại bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc, theo dõi và thúc đẩy việc thực thi

công ước. Ủy ban thực hiện điều này thông qua việc các quốc gia nộp báo cáo định

kỳ về tình trạng phân biệt chủng tộc tại quốc gia mình và thông qua cơ chế khiếu

nại cá nhân, nghĩa là, cho phép các cá nhân gửi khiếu nại lên Ủy ban CERD nếu

thấy quyền của họ bị xâm phạm.

Ngoài ra, công ước cũng nhận được sự chấp thuận là do hy vọng nhằm loại

bỏ hoàn toàn phân biệt chủng tộc, thay vào đó chỉ nhằm mục đích đơn giản là giảm

bớt tình trạng đó. Công ước ước này còn quy định các điều về sự lên án, ví dụ như

những bài phát biểu gây thù hận và chủ nghĩa Apartheid.

Công ước cũng là một trong những điều ước quốc tế được Liên hợp quốc

thông qua nhanh nhất, đây còn được xem là bằng chứng về tầm quan trọng mà tổ

chức này và các quốc gia thành viên giành cho vấn đề này. Đại hội đồng đã chấp

nhận bản dự thảo công ước vào giữa năm 1964 và nó bắt đầu có hiệu lực sau 5 năm

vào năm 1969, một tốc độ chưa từng thấy tại Liên hợp quốc tại thời điểm đó hay về

sau. Nhìn chung, lộ trình của công ước dường như phản ánh một ý chí mạnh mẽ

35

giữa các quốc gia thành viên Liên hợp quốc để chấm dứt phân biệt chủng tộc.

Nhưng ICERD đã thành công như thế nào trong việc đạt được mục tiêu trong 50

năm tồn tại?

Những bước phát triển tích cực về phạm vi áp dụng Công ước ICERD

Những năm gần đây, có nhiều quan điểm cho rằng, sau sự sụp đổ của Chủ

nghĩa Apartheid ở Nam Phi, Công ước không còn giá trị khởi nguồn của nó. Đúng

là khi được soạn thảo vào năm 1965, Công ước đã nhắm chủ yếu vào việc xóa bỏ sự

phân biệt chủng tộc, và đặc biệt là chủ nghĩa Apartheid, được đề cập cả trong phần

mở đầu và riêng tại điều 3 của Công ước. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ lại định nghĩa

về phân biệt chủng tộc tại điều 1 của Công ước, chúng ta sẽ thấy phạm vi điều chỉnh

của Công ước vượt xa hơn rất nhiều chứ không chỉ đơn thuần một vấn đề xóa bỏ

chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid. Theo Lions Alexander Sicilians, Giáo sư

tại đại học Athens, báo cáo viên của Ủy ban CERD năm 2002: “Công ước về xóa bỏ

phân biệt chủng tộc ngày nay cần thiết có hơn bao giờ hết. Nó điều chỉnh phạm vi

rộng lớn hàng loạt các hoạt động phân biệt đối xử liên quan đến hàng trăm triệu

người trên toàn cầu. Các hoạt động phân biệt đối xử, kích động bạo lực, xung đột vũ

trang, tội phạm chống người dân tộc thiểu số, thậm chí là diệt chủng ngày càng gia

tăng như một ví dụ điển hình tại Uganda và Nam Tư cũ” [61, đoạn 12].

Ngoài những sự kiện bi thảm tại Uganda và Nam Tư cũ, các hình thức phân

biệt chủng tộc hoặc sắc tộc khác và sự bất dung nạp ảnh hưởng đến các nhóm lớn

những người không phải là công dân, người tị nạn, người di cư, người không quốc

tịch, người bản địa thiểu số, vân vân. Hầu hết những hình thức vừa nêu đã được nêu

trong Tuyên bố Durbin năm 2001 tại Hội nghị thế giới chống chủ nghĩa phân biệt

chủng tộc và sự phân biệt chủng tộc.

Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có công nhận quan điểm hạn chế hay

quan điểm mở về khái niệm phân biệt chủng tộc điều chỉnh tất cả các nhóm đó hay

không. Xu hướng chung trong thực tiễn hoạt động của Ủy ban xóa bỏ phân biệt

chủng tộc là tăng dần phạm vi áp dụng Công ước bằng cách giải thích định nghĩa

trong Điều 1. Điều này được cảm nhận xuyên suốt trong các kết luận quan sát, dựa

trên các báo cáo gửi về Ủy ban của các quốc gia thành viên và các khuyến nghị

36

chung của Ủy ban này.

Ví dụ vào những năm 90 thế kỷ trước, Ủy ban đã thông qua hai khuyến nghị

chung liên quan điều 1 của Công ước như Khuyến nghị chung số XXII (năm 1996)

về khả năng áp dụng Công ước với người tị nạn và người di cư; Khuyến nghị số

XXIII về khả năng áp dụng Công ước đối với người bản địa (năm 1997) đã khẳng

định rõ ràng rằng sự phân biệt đối xử đối với người bản địa nội dung quan trọng

thuộc phạm vi áp dụng của Công ước. Cách tiếp cận này đã được thể hiện trong một

loạt các kết luận quan sát liên quan đến các quốc gia Bắc Âu, các quốc gia Mỹ

Latinh, Úc, New Zealand và một số quốc gia khác.

Khuyến nghị chung về sự phân biệt đối xử với người Roma và người dân tộc

thiểu số khác được thông qua vào năm 2000. Khuyến nghị này được áp dụng rộng

rãi ngày nay mà chưa từng bị phủ nhận rằng các hình thức phân biệt đối xử với

người Roma khác là những hình thức phân biệt chủng tộc dựa trên yếu tố dân tộc là

trái với quy định tại Điều 1 của Công ước.

Khuyến nghị chung XXX có các điều khoản xã hội liên quan đến các biện

pháp chống khủng bố và tác động đó đối với người không có công dân.

Khuyến nghị chung 31 được thông qua vào năm 2005 về phân biệt đối xử

trong quản lý tư pháp hình sự tái khẳng định khả năng áp dụng công ước đối với

người thiểu số, người không phải công dân, người tị nạn, người di cư vân vân.

Bằng các khuyến nghị của mình, Ủy ban về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

chủng tộc đã dần dần mở rộng phạm vi áp dụng của Công ước một cách có hệ thống.

Việc giải thích mở rộng phạm vi nội dung điều chỉnh tại Điều 1 của Công ước đã nhấn

mạnh tiềm năng và sự quan trọng của Công ước trong thế giới đương đại.

Trong những năm gần đây, Ủy ban xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc

đã có nhiều thay đổi tiến bộ về quy trình thủ tục và phương thức hoạt động của

mình. Mục đích thay đổi lớn nhất nhằm hài hòa hóa các phương thức hoạt động của

Ủy ban này bằng tạo ra một hệ thống bộ hiệp ước chỉnh thể. Một nhiệm vụ quan

trọng của Ủy ban CERD là thực hiện công tác kiểm duyệt các báo cáo quốc gia của

các quốc gia thành viên. Do vậy, Ủy ban CERD cũng hài hóa các cách thức làm

37

việc của họ và xây dựng được một quy trình báo cáo thống nhất hơn.

Một vấn đề quan trọng mà tất cả các nhiệm kỳ Ủy ban xóa bỏ mọi hình thức

phân biệt chủng tộc gặp phải là tình trạng các quốc gia không gửi báo cáo thường kỳ.

Để giải quyết vấn đề này, Ủy ban CERD đã đề ra một quy trình rà soát đó là kiểm tra

tình hình của bất kỳ một quốc gia không có báo cáo chính thức trên cơ sở các nguồn

thông tin từ các cơ quan khác của Liên hợp quốc như các tổ chức phi chính phủ, các cơ

quan nhân quyền quốc gia, vân vân. Bằng quy trình này, Ủy ban có thể đưa ra các báo

cáo kết luận và mật gửi tới quốc gia liên quan. Quốc gia liên quan, trong trường hợp

này sẽ được kiến nghị gửi báo cáo chính thức và họ thường sẽ thực hiện. Trường hợp

họ không gửi báo cáo chính thức, bản báo cáo kết luận của Ủy ban như đã đề cập trở

thành bản báo cáo cuối cùng và được đưa lên công báo.

Trong quá trình thẩm tra báo cáo quốc gia, điểm quan trọng cần có sự hợp

tác của toàn bộ Ủy ban và các cơ quan hữu quan của quốc gia đó ví dụ như cơ quan

nhân quyền, tổ chức phi chính phủ, cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền

con người là những đơn vị liên quan mật thiết nhất về nội dung liên quan. Ví dụ,

năm 2005, trong quá trình thẩm tra báo cáo của Ai-len, Ủy ban quốc gia về quyền

con người của Ai-len lần đầu tiên được độc lập trong cuộc họp chính thức để giải

đáp trực tiếp các câu hỏi của Ủy ban.

Việc cải cách các phương thức làm việc của Ủy ban cũng làm tăng hiệu quả

hoạt động của nó. Ủy ban tiếp tục đưa ra quy trình hậu báo cáo kết luận gồm các

kiến nghị đối với các báo cáo quốc gia và cử ra một ủy viên Ủy ban để kiểm soát

những thay đổi thông tin mà quốc gia liên quan đệ trình đồng thời cũng theo sát

những quan điểm theo kênh truyền thông cá nhân. Mục đích của quy trình theo dõi

sát sao nhằm duy trì đối thoại không liên tục với quốc gia liên quan.

Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (hay còn gọi là UPR) được xây dựng trên cơ

sở các nghiên cứu, báo cáo kết luận của nhiều ủy ban khác nhau. Trong trường hợp

này, Ủy ban cần sự hợp tác của các chuyên gia độc lập và các cơ quan liên chính

phủ giống như Hội đồng về quyền con người vậy.

Cơ chế cảnh báo khẩn cấp sớm cũng được tăng cường thúc đẩy hơn sau thời

38

gian bị bỏ ngỏ kể từ khi được lập ra năm 1993. Năm 2005 Ủy ban đã nhất trí đưa ra

những điều khoản tham chiếu cho thủ tục này và áp dụng trong nhiều vụ việc, vấn

đề đặc biệt liên quan đến quyền của người bản địa.

Ủy ban CERD cũng đề xuất thành lập một cơ quan chuyên xử lý về mảng

thông tin cá nhân nhằm nâng cao khả năng nhìn nhận và tiếp cận của toàn bộ hệ

thống cơ quan của Liên hợp quốc.

Có thể nói khả năng áp dụng ICERD ngày nay được mở rộng hơn một cách có

hệ thống, thông qua các kiến nghị chung của Ủy ban xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

chủng tộc liên quan đến những điều khoản thực chất về nghĩa vụ của các quốc gia và

quyền đáng có của các cá nhân. Quy trình, thủ tục hoạt động của Ủy ban này, hệ thống

nhân quyền của Liên hợp quốc được cải cách cùng với cơ chế rà soát định kỳ phổ quát

của Hội đồng nhân quyền được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hoạt động của Ủy ban

xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc ngày một được nâng cao hơn.

b) Những khó khăn, thách thức trong thực thi Công ƣớc ICERD

Hiệu quả của một điều ước quốc tế có thể được đo dựa trên hai cách: sự công

nhận và thực hiện của các bên tham gia.

Như trên đã nêu, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc hiện đã

có 182 các bên tham gia với hầu hết các quốc gia lớn cũng đã chấp nhận cơ chế

khiếu nại cá nhân của Công ước. Điều này cho thấy một mong muốn mạnh mẽ về

hiệu lực điều chỉnh của các quy định trong Công ước.

Công ước đã có tác động đáng kể đến luật pháp của các bên tham gia có quy

định phân biệt chủng tộc là vi phạm pháp luật, tại nơi làm việc hay trong việc cung

cấp các dịch vụ như nhà ở và giáo dục. Những quy định như vậy có thể là dân sự

hoặc hình sự, ví dụ như Đạo luật Dân quyền 1964 (Hoa Kỳ), Đạo luật Quan hệ

Chủng tộc 1971 (New Zealand), Đạo luật Phân biệt chủng tộc 1975 (Úc), Đạo luật

Quan hệ Chủng tộc 1976 (Anh) và Đạo luật Nhân quyền Canada 1977 (Canada) hay

các biện pháp hình sự được sử dụng ở Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Ý, Na Uy và Bồ Đào

Nha. Mặc dù bảo lưu Công ước, hầu hết các quốc gia Tây Âu đã hình sự hóa việc

kích động hận thù chủng tộc.

39

Tuy nhiên, như phân tích ở trên, Công ước ICERD đã và đang phải đối mặt với

các vấn đề nan giải với việc báo cáo kể từ khi thành lập. Các bên thường không báo cáo

đầy đủ hoặc thậm chí là không nộp báo cáo. Tính đến năm 2018, hơn mười nước thành

viên đã không có báo cáo trong hơn hai mươi năm và bốn mươi lăm nước thành viên

không báo cáo hơn mười năm, cá biệt như Sierra Leone không có báo cáo từ năm 1976,

Liberia không có báo cáo từ năm 1977. Tình trạng các quốc gia không có hoặc chậm báo

cáo cần được coi là một vấn đề làm giảm tính hiệu lực của Công ước ICERD và thiếu

hiệu quả hoạt động của Ủy ban CERD. Tuy nhiên, hệ thống báo cáo này cũng được

đánh giá cao đã tạo “động lực thúc đẩy từng quốc gia ban hành luật chống phân biệt

chủng tộc hoặc sửa đổi luật hiện hành khi cần thiết."

1.4.4. Vấn đề “phân biệt chủng tộc” ở Việt Nam

Việt Nam gia nhập Công ước năm 1982, nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ

bắt buộc liên quan đến xây dựng và đệ trình báo cáo quốc gia bốn lần nộp báo cáo

theo quy định tại Điều 9 của Công ước (năm 1983, 1993, 2000 và 2012). Với chính

sách nhất quán về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, coi trọng và nghiêm túc

triển khai các khuyến nghị của Ủy ban CERD, Việt Nam đã và đang trong quá trình

xây dựng báo cáo lần thứ năm, giai đoạn 2012 đến 2018 với sự đóng góp ý kiến của

các chuyên gia của Ủy ban ICERD.

Có thể nhận thấy rõ ràng trong báo cáo Việt Nam khẳng định đường lối,

chính sách quốc gia về vấn đề dân tộc thể hiện thống nhất Việt Nam thực hiện chính

sách bình đẳng, đoàn kết và tương trợ lẫn nhau giữa các cộng đồng dân tộc và ngăn

cấm mọi hành động phân biệt chủng tộc và chia rẽ dân tộc. Đối với người Việt Nam,

phân biệt chủng tộc là vấn đề xa lạ và không tồn tại ở đất nước này. Từ lâu đời nay,

các tộc người cùng tồn tại hòa bình mà không có xung đột hay phân biệt chủng tộc

[55, đoạn 1, 23].

Với tộc người, các khái niệm “dân tộc đa số”, “dân tộc thiểu số”, “dân tộc

thiểu số rất ít người” trở thành phổ biến trong các văn kiện của Nhà nước như Nghị

định 05/2011/NĐ-CP trong đó tại Điều 4 về giải thích từ ngữ. Theo đó “Dân tộc

thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh

40

thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - khoản 2; “Dân tộc đa số” là dân tộc

có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia -

khoản 3; và “Dân tộc thiểu số rất ít người” là dân tộc có số dân dưới 10.000 người -

khoản 5.

Về vấn đề “Dân tộc bản địa”, theo các quy định của Liên hợp quốc, “Dân tộc

bản địa hay còn gọi là thổ dân là nhóm người đã từng có mặt trên một lĩnh vực đất

đai, trước ngày di dân của nhóm dân tộc khác vào lãnh thổ của họ”, ví dụ thổ dân

của châu Úc, họ đã sinh sống lâu đời ở châu Úc trước khi thực dân Anh đưa quân

đội và dân đến chiếm đóng, thống trị và cai quản; những người da đỏ ở Hoa Kỳ là

những thổ dân đã sống lâu đời trên đất Hoa Kỳ, trước khi quân đội và người da

trắng đến chiếm đóng. Năm 2007, Việt Nam đã ký vào Tuyên ngôn về quyền bản

địa, song Nhà nước không thừa nhận ở Việt nam có dân tộc bản địa do những đặc

thù lịch sử tồn tại và phát triển của các nhóm tộc người trên mảnh đất này.

Việt Nam vẫn đã và đang tiếp tục thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ liên

quan của một nước là thành viên của Công ước thông qua chính sách dân tộc nhất

quán nhằm bình đẳng hóa giữa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này

cũng tạo điều kiện cho các nhóm phát huy nội lực và thúc đẩy sự phát triển xã hội,

kinh tế, văn hóa bảo đảm các quyền bình đẳng giữa các nhóm. Việt Nam ưu tiên

nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt là phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội để cải thiện

41

điều kiện sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.

CHƢƠNG 2.

GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC

ICERD CỦA VIỆT NAM, KINH NGHIỆM GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI

MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI

2.1. Giám sát thực hiện Điều ƣớc quốc tế của Quốc hội Việt Nam theo pháp

luật hiện hành

2.1.1. Vai trò và ý nghĩa của việc giám sát thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội

Việc quy định Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao bắt nguồn từ Hiến pháp

1980 và được kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp sau này nhằm đảm bảo “sự kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp” [13, Điều 2]. Trên cơ sở khái niệm giám sát của Quốc hội đã nêu ở phần trước,

Giám sát tối cao được Quốc hội thực hiện tại kỳ họp của Quốc hội nhằm theo dõi, xem

xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân

theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ

quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động giám sát tập

trung, đặc trưng nhất, quan trọng nhất, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong các hoạt động

giám sát của Quốc hội. Hoạt động giám sát tối cao đối với việc thực hiện điều ước quốc

tế nhằm bảo vệ lợi ích của đất nước và đảm bảo sự tôn trọng đối với các vấn đề thẩm

quyền của Quốc hội.

Các hoạt động giám sát khác của các thiết chế của Quốc hội gồm giám sát

của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn

đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.

Tính cao nhất của quyền lực giám sát thể hiện ở hệ quả pháp lý cao nhất mà

Quốc hội thực hiện đối với những người, cơ quan cao nhất trong bộ máy nhà nước

theo từng hệ thống, đó là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên của

Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Mỗi đối tượng chịu sự giám của Quốc hội có vị trí pháp lý, cơ cấu tổ chức,

42

chức năng nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, do vậy, khi Quốc hội thực hiền quyền

giám sát sẽ phát sinh trách nhiệm và hệ quả pháp lý khác nhau đối với từng đối

tượng chịu sự giám sát. Trên cơ sở đánh giá việc tuân thủ pháp luật, chất lượng,

hiệu qủa hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát nêu trên, Quốc hội cũng đánh giá

được hiệu quả hoạt động của chính mình.

Hoạt động giám sát thực hiện các điều ước quốc tế của Quốc hội mang ý nghĩa

bảo đảm uy tín quốc gia của Việt Nam với tư cách thành viên của Công ước ICERD:

Một là, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật quốc tế, Công ước Viên năm 1969

về Luật điều ước quốc tế: Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ, Toà án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là những cơ quan có trách nhiệm triển

khai các biện pháp cần thiết do luật định để đưa các quy phạm của điều ước quốc tế

có hiệu lực vào đời sống xã hội nhằm đảm bảo quyền con người trên phương diện

pháp lý và trên thực tế.

Hai là, dảm bảo điều ước quốc tế được thực thi theo các nguyên tắc Hiến

định: Theo quy định, việc thực hiện điều ước quốc tế phải bảo đảm các nguyên tắc

căn bản, đó là: (1) Không trái với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam; (2) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không sử dụng

hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình

đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế; (3) Bảo

đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (4) Tuân thủ điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

Ba là, bảo đảm quá trình thực hiện điều ước quốc tế được tiến hành theo kế

hoạch: Kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế cần bao gồm lộ trình thực hiện, dự kiến

phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước; các nội dung dự kiến cần sửa đổi,

bổ sung, bãi bỏ trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hoặc ban hành văn

bản quy phạm pháp luật mới; các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện

pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; và tuyên truyền, phổ biến điều

ước quốc tế đó.;

Bốn là, bảo đảm việc quản lý công tác thực thi điều ước quốc té theo đúng

43

pháp luật về tài chính, kinh tế: Việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn; chấm dứt hiệu lực, từ

bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ được thực hiện trên theo quy định của Công ước và các

bên có thẩm quyền tham gia bởi đó là văn bản có tính ràng buộc chung và các bên

tham gia có nghĩa vụ tuân thủ, không thể có những hoạt động trên một cách tùy tiện.

Giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chi cho công tác tổ chức thực hiện Điều ước quốc

tế từ mua, thu thập tài liệu, xây dựng kế hoạch, đề án thực hiện điều ước; công tác

tuyên truyền, phổi biến điều ước; công tác dịch thuật, niên liễm theo nghĩa vụ của

quốc gia thành viên của điều ước; công tác tổ chức hội thảo, hội nghị ở Việt Nam

hay tham gia Hội nghị ở nước ngoài để thực hiện điều ước quốc tế; chi triển khai

nhiệm vụ của các cơ quan Trung ương để thực hiện điều ước quốc tế theo phân

công của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ; công tác xây dựng báo cáo thực hiện

điều ước; công tác tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện điều ước… sẽ góp

phần đảm bảo việc thực hiện đúng chính sách tài chính, kinh tế trong công tác quản

lý, thực hiện một điều ước quốc tế.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 cũng

nêu rõ phạm vi, phương thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của

Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội gồm: (i) xem xét báo cáo công

tác của các chủ thể chịu sự giám sát, báo cáo giám sát chuyên đề, văn bản quy phạm

pháp luật, báo cáo của Ủy ban lâm thời do Quốc hội thành lập để điều tra về một vấn

đề nhất định; (ii) chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn; (iii) lấy phiếu tín nhiệm, bỏ

phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn

Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến chương trình giám sát hằng năm của

Quốc hội, quyết định chương trình giám sát của mình trên cơ sở đề nghị của Hội

đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Ủy

ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước,

trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp giữa năm của năm trước.

Chậm nhất là ngày 01 tháng 3 của năm trước, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban

của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam gửi đề nghị, kiến nghị về nội dung giám sát của Quốc hội

44

đến Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tổng thư ký Quốc hội tổ chức tập hợp, tổng hợp đề nghị, kiến nghị giám sát

và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận và

lập dự kiến chương trình giám sát của Quốc hội để trình Quốc hội. Đối với chương

trình giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội

quyết định.

Nội dung giám sát phải đảm bảo được cân đối với các nội dung tiến hành

giám sát trong năm năm gần nhất.

2.1.2. Thẩm quyền giám sát thực hiện Điều ước quốc tế của Quốc hội

Nghĩa vụ “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…” [13, Điều 12]. Tuy nhiên,

Hiến pháp lại không quy định trực tiếp vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc

thực hiện Điều ước quốc tế, trong đó bao gồm Công ước ICERD. Hoạt động giám

sát của Quốc hội trong việc thực hiện các điều ước quốc tế được coi là một phần của

hoạt động giám sát chung của cơ quan này hoặc trên cơ sở các nội dung kiến nghị

giám sát từ Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội,

đại biểu quốc hội.

Qua theo dõi nội dung các chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội

khóa XIV, tác giả nhận thấy năm 2020, lần đầu tiên Ủy ban thường vụ Quốc hội có

một nghị quyết về triển khai giám sát thực hiện một điều ước quốc tế mà Việt Nam

là thành viên đó là “Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt

Nam là thành viên” và giao Ủy ban Đối ngoại làm chủ trì. Điều này cho thấy yêu

cầu cấp thiết, khách quan Việt Nam phải có những đánh giá hiệu quả thực tế khi

tham gia các điều ước quốc tế.

Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế 2005 quy định: “Quốc

hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn

đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có trách nhiệm giám sát hoạt động ký kết,

gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của cơ quan, tổ chức, các nhân chịu sự giám

sát” [17, Điều 100]. Quy định này cho thấy chủ thể tiến hành giám sát thực hiện

45

điều ước quốc tế được trao cho Quốc hội và tất cả thiết chế của cơ quan này. Đặc

biệt, khi Quốc hội là chủ thể giám sát thì quyền giám sát tối cao sẽ phát huy tối đa

hiệu lực của nó khi được áp dụng.

Tuy nhiên, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã không còn quy định cụ thể về

vai trò giám sát của Quốc hội và các thiết chế khác của Quốc hội đối với toàn bộ

quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước. Điều 7 của Luật này chỉ đưa vào

một điều khoản chung quy định rằng: “Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội

đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc

hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động ký kết và thực

hiện điều ước quốc tế”. Việc thiếu vắng những quy định cụ thể như vậy có thể dẫn

tới sự không phù hợp với những đòi hỏi về sự nhìn nhận, đánh giá lại những hiệu

quả tham gia các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt, khi số

lượng các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia ngày càng nhiều và sâu rộng hơn.

Bên cạnh đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội là:

“…giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận

quốc tế, …” [20, Điều 78].

Như vậy, xét từng nội dung cụ thể theo quy định, Ủy ban Đối ngoại có thẩm

quyền tiến hành các hoạt động giám sát việc thực hiện Điều ước quốc tế nói chung

và có sự phối hợp giám sát với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban chuyên môn của

Quốc hội để tiến giám sát thực hiện các điều ước quốc tế theo lĩnh vực. Nhìn về mặt

tích cực, đây là dấu hiệu chuyên môn hóa chức năng nhiệm vụ trong các cơ quan

của Quốc hội. Tuy nhiên, nếu nhiệm vụ giám sát toàn bộ quá trình ký kết, gia nhập

và thực hiện điều ước quốc tế được giao trọn cho Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội

thì hình thức giám sát tối cao của Quốc hội đối với nội dung này có thể được nhìn

nhận như thế nào. Điều này có thể làm giảm tính hiệu lực hiệu quả của hoạt động

giám sát đối với việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hay

không là vấn đề cần quan tâm.

Thực tế, như đã nói trên hoạt động giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế

nói chung và thực hiện Công ước ICERD không được tiến hành chuyên biệt mà

46

được tiến hành đan xen với những nội dung khác. Do đó, giám sát tối cao của Quốc

hội, giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu

quốc hội đối với một nội dung liên quan việc thực hiện điều ước quốc tế nào đó,

thông qua hình thức xem xét báo cáo công tác hàng năm, chất vấn, lấy phiếu tín

nhiệm các chủ thể chịu sự giám sát theo chương trình giám sát của Quốc hội được

xây dựng như đã nêu ở trên.

Có thể nói, Quốc hội thực hiện quyền giám sát như một chức năng, nhiệm vụ

quan trọng được quy định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 70), Luật tổ chức Quốc

hội (Điều 1), Luật tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân

năm 2015 (Điều 4) và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Quốc hội ở

đây bao gồm tất cả các thiết chế như: toàn thể Quốc hội tại kỳ họp, Ủy ban thường

vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội

và đại biểu Quốc hội. Hoạt động giám sát của một thiết chế hoàn chỉnh, nhưng đôi

khi cũng là một chủ thể độc lập này nhằm theo dõi kiểm tra tính hợp hiến, hợp

pháp, tính thống nhất, đồng bộ của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật

do các cơ quan nhà nước ban hành, bảo đảm việc thực hiện các cơ quan hữu quan

thực hiện đúng và hiệu quả. Chức năng này cũng cho thấy việc thi hành cơ chế kiểm

soát quyền lực trong bộ máy nhà nước giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư

pháp vì một bộ máy nhà nước hoạt động đúng hướng và hiệu quả.

2.1.3. Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội và các thiết chế giám

sát của Quốc hội đối với thực hiện các điều ước quốc tế

Sau hoạt động giám sát, hệ quả pháp lý, tùy thuộc các chủ thể thực hiện giám

sát Quốc hội được thể hiện cụ thể bằng các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường

vụ Quốc hội và các yêu cầu, kiến nghị của các chủ thể giám sát khác đối với các chủ

thể chịu sự giám sát.

Theo quy định chung tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng

nhân dân năm 2015, hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội và các

thiết chế khác của Quốc hội đối với các vấn đề nói chung thuộc thẩm quyền gồm

sáu nội dung chính:

(i) yêu cầu chủ thể chịu sự giám sát ban hành văn bản quy định chi tiết Hiến

47

pháp, luật, nghị quyết, các văn bản quy phạm pháp luật;

(ii) bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của chủ thể

chịu sự giám sát; của nghị quyết liên tịch thuộc thẩm quyền giám sát,

(iii) miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh; phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm,

cách chức các chức danh thuộc thẩm quyền của chủ thể giám sát;

(iv) bỏ phiếu tín nhiệm;

(v) yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc

cách chức, xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng;

(vi) ra nghị quyết về chất vấn hoặc về kết quả giám sát chuyên đề và các nội

dung thuộc thẩm quyền của chủ thể giám sát.

Theo Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, hệ quả

pháp lý của hoạt động giám sát của từng chủ thể giám sát của Quốc hội được quy

định rất rõ ràng tại Điều 103 về thẩm quyền xem xét kết quả giám sát. Cụ thể:

i) Hệ quả pháp lý hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội (khoản 1)

Sau xem xét kết quả giám sát, Quốc hội sẽ ban hành nghị quyết về kết quả

xem xét báo cáo giám sát, theo đó Quốc hội: (1) yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc

hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện điều ước quốc tế; (2) yêu cầu

Chính phủ quyết định hoặc Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định về việc sửa

đổi, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một

phần điều ước quốc tế có dấu hiệu trái với Hiến pháp; trong trường hợp quyết định

này thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định;

(3) ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn trong

trường hợp cần thiết.

ii) Hệ quả pháp lý hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội

(khoản 2)

Sau hoạt động giám sát, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết: (1) yêu

cầu Chính phủ quyết định hoặc Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định về việc

sửa đổi, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một

48

phần điều ước quốc tế có dấu hiệu trái với Hiến pháp; trong trường hợp quyết định

này thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định;

(2) yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp

thời chấm dứt hành vi vi phạm điều ước quốc tế tại Việt Nam; yêu cầu Chính phủ

quyết định hoặc Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định về việc chấm dứt hiệu

lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế

trong trường hợp phát hiện hành vi vi phạm điều ước quốc tế của bên ký kết nước

ngoài gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân; trong trường hợp quyết định này thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì Chủ tịch

nước trình Quốc hội quyết định; (3) ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách

nhiệm của người bị chất vấn trong trường hợp cần thiết.

iii) Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy

ban của Quốc hội (khoản 3)

Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát mà chủ thể giám sát là Hội đồng Dân

tộc và các Ủy ban của Quốc hội gồm: (1) kiến nghị, yêu cầu Chính phủ, cơ quan

nhà nước có thẩm quyền đề xuất hoặc quyết định về việc sửa đổi, chấm dứt hiệu

lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế

do Chính phủ quyết định ký kết hoặc gia nhập có dấu hiệu trái với Hiến pháp; (2)

yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời

chấm dứt hành vi vi phạm điều ước quốc tế tại Việt Nam; yêu cầu Chính phủ quyết

định hoặc trình Chủ tịch nước quyết định về việc chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi,

tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế trong trường hợp

phát hiện hành vi vi phạm điều ước quốc tế của bên ký kết nước ngoài gây thiệt hại

đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; trong trường

hợp quyết định này thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì Chủ tịch nước trình Quốc

hội quyết định.

iv) Hệ quả pháp lý hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và đại

biểu quốc hội (khoản 4)

Đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc hội có thẩm quyền: (1) kiến nghị,

49

yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi

hành, bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật thực hiện điều ước

quốc tế; (2) kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết

các vấn đề có liên quan đến chính sách, pháp luật của Nhà nước về hoạt động ký

kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; (3) yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm điều

ước quốc tế tại địa phương.

Những quy định về thẩm quyền xem xét kết quả giám sát trong Luật ký kết,

gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 không được thừa kế trong Luật điều

ước quốc tế 2016. Luật Điều ước quốc tế 2016 chỉ quy định tại Điều 7 là Quốc hội,

trong phạm vi nhiệm vụ , quyền hạn của mình giám sát hoạt động ký kết và thực

hiện điều ước quốc tế theo trình tự, thủ tục được pháp luật về hoạt động giám sát

của Quốc hội quy định.

Kết luận

Hoạt động giám sát và hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội

có ý nghĩa tác động lớn đối với đời sống pháp luật và dân sinh hướng tới những

mục đích tốt đẹp về một xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Nghị quyết của Quốc hội,

Ủy ban thường vụ Quốc hội và các yêu cầu, kiến nghị của các chủ thể giám sát có

tác động trực tiếp đến các hoạt động của chủ thể bị giám sát để có những hành động

tích cực vì một xã hội tốt đẹp. Việc chưa quy định rõ chủ thể giám sát và thẩm

quyền xem xét kết quả giám sát thực hiện các điều ước quốc tế trong pháp luật hiện

hành của Việt Nam sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện các điều ước, tác động trực

tiếp đến quá trình phát triển đất nước ta trong bối cảnh hội nhập. Những vướng mắc

này, tác giả xin phân tích kỹ hơn và có những đề xuất giải pháp ở phần sau.

2.1.4. Việc giám sát của Quốc hội Việt Nam trong thực hiện Công ước ICERD

Ngày nay, quyền con người được xã hội công nhận rộng rãi. Quá trình giám

sát thực hiện Công ước ICERD của Quốc hội và các chủ thể giám sát của Quốc hội

cần đảm bảo: hiệu lực của Công ước ICERD trong sự hài hòa với các nguyên tắc

Hiến định, theo kế hoạch cụ thể và dưới sự điều chỉnh của pháp luật tài chính, kinh

50

tế trong quản lý. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát thực hiện Công ước ICERD cũng

cần bảo đảm các chính sách và hoạt động của nhánh hành pháp tuân thủ các chuẩn

mực quốc tế về quyền con người.

Hằng năm Quốc hội đều có các chương trình giám sát chung của Quốc hội và

chương trình giám sát của các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng dân tộc, các Ủy

ban). Các Đoàn đại biểu và các đại biểu Quốc hội thực hiện sự giám sát theo

chương trình chung và thực hiện giám sát trong quá trình hoạt động như là chức

năng, nhiệm vụ của cơ quan, đại dân cử, cơ quan quyền lực nhà nước.

i) Chủ thể thực hiện quyền giám sát đối với việc thực hiện Công ước ICERD

Theo quy định Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các

Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động ký kết và thực hiện điều

ước quốc tế [18, Điều 7].

Bên cạnh đó, có thể thấy, quan điểm nhất quán thể hiện trong báo cáo thực

hiện Công ước ICERD của Việt Nam gửi tới Ủy ban CERD là Việt Nam không có

tình trạng phân biệt chủng tộc. Do vậy, kết quả thực hiện Công ước ICERD chính là

thực hiện các quyền về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân tộc

thiểu số.

Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 có quy định Hội đồng dân tộc có nhiệm

vụ, quyền hạn trong việc: (i) Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh về chính sách

dân tộc; thẩm tra các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao;

thẩm tra việc bảo đảm chính sách dân tộc trong các dự án luật, pháp lệnh trước khi

trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; (ii) Tham gia ý kiến về việc ban hành

quy định thực hiện chính sách dân tộc của Chính phủ; (iii) Giám sát việc thực hiện

luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc

hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình,

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; (iv)

Giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ

quan ngang bộ có liên quan đến công tác dân tộc; (v) Trình dự án luật trước Quốc

51

hội, dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực Hội đồng dân

tộc phụ trách; (vi) Kiến nghị các vấn đề về chính sách dân tộc của Nhà nước, các

vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và về những vấn

đề khác có liên quan đến công tác dân tộc.

Mặt khác, Luật tổ chức Quốc hội cũng trao thẩm quyền cho Ủy ban Đối

ngoại thực hiện: “giám sát các hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước

quốc tế, thỏa thuận quốc tế”. Như vậy, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội và Hội đồng

Dân tộc của Quốc hội là hai chủ thể trực tiếp, chủ yếu được pháp luật trao quyền

giám sát đối với việc thực hiện Công ước ICERD.

Thực tế cho thấy, vai trò thực hiện giám sát những nội dung liên quan đến

việc thực hiện chính sách dân tộc và các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã

hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, được xem là nội dung thực hiện Công ước

ICERD của Việt Nam do Hội đồng Dân tộc triển khai, thực hiện là theo đúng chức

năng và quyền hạn của Hội đồng.

Như vậy, Ủy ban Đối ngoại và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, bằng sáu

cách thức được nêu trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân

dân năm 2015, là chủ thể được trao quyền tiến hành các hoạt động giám sát việc

thực hiện Công ước ICERD, mà thực chất là giám sát việc thực hiện chính sách dân

tộc của Việt Nam, đảm bảo các nguyên tắc của pháp luật quốc gia và phù hợp với

các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.

ii) Nội dung giám sát thực hiện Công ước ICERD của Việt Nam

Đặc điểm, tình hình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Nước ta có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với 3,04 triệu hộ, 13,38 triệu người

(chiếm 14,6% dân số cả nước), cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548

huyện, 5266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới (tiếp giáp với

Trung Quốc, Lào và Cam Pu Chia). Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây

Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.

Đây là vùng có nhiều tài nguyên khoáng sản giá trị như: vàng, nhôm, thiếc, than,

ăng ti mon…; có hệ sinh thái động, thực vật đa dạng; nơi có 14.415.381 ha rừng, là

52

đầu nguồn sinh thủy, gắn với các công trình thủy điện quốc gia như: Hòa Bình, Sơn

La, Lai Châu, Tuyên Quang, Trung Sơn (Thanh Hóa), Hàm Thuận - Đa Mi (Bình

Thuận), Yaly (Gia Lai), Ba Hạ (Phú Yên)…; vừa cung cấp điện, vừa cung cấp nước

sản xuất, sinh hoạt cho vùng hạ du và khu vực đồng bằng [26, tr.7].

Các nhóm dân tộc thiểu số, đặc biệt các nhóm có dân số thấp, tập trung chủ

yếu ở vùng cao và miền núi, có hạn chế tiếp cận với cơ sở hạ tầng, chăm sóc sức

khoẻ và giáo dục (World Bank, 2009; Phùng và Đỗ, 2014). Mặc dù tăng trưởng

kinh tế cao trong hai thập kỷ qua, tỷ lệ đói nghèo vẫn còn rất cao ở vùng núi và

vùng cao, nơi có nhiều dân tộc thiểu số. Dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số

Việt Nam nhưng tới 50% dân số nghèo (World Bank. 2013).

Sau nhiều nỗ lực của Chính phủ thông qua các Chương trình mục tiêu quốc

gia: Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững 2012-2015 và hiện nay

đang triển khai Chương trình này cho giai đoạn 2016-2020; Chương trình Mục tiêu

Quốc gia về xây dựng nông thông mới giai đoạn 2010-2020 và nhiều chương trình

dự án nhằm hỗ trợ đồng bào DTTS được thực hiện bởi các tổ chức trong nước và

quốc tế.

Việt Nam đã thu được một số những thành tựu trong đời sống của người dân

tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam cũng còn

phải làm nhiều hơn nữa để giải quyết các vướng mắc trong lĩnh vực này thông qua

Đề án tổng thể “Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi và

vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn Giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030”

được Quốc hội thông qua bằng Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019.

Thực hiện Khoản 5 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013 về việc “Quốc hội

quyết định các chính sách dân tộc của Nhà nước”, Quốc hội tiến hành thể chế hóa

chủ trương, đường lối của Đảng về lĩnh vực dân tộc và công tác dân tộc vào hệ

thống các văn bản luật, pháp lệnh; quyết định các chính sách cơ bản của Nhà nước

và một số chương trình, dự án chính sách lớn cụ thể liên quan đến dân tộc thiểu số

và vùng dân tộc thiểu số; quyết định các chỉ tiêu phát triển cơ bản của dân tộc thiểu

số 5 năm, 10 năm và cụ thể hóa các chỉ tiêu vào trong kế hoạch 5 năm và chiến lược

53

phát triển kinh tế xã hội 10 năm của đất nước; quyết định ngân sách thực hiện chính

sách dân tộc, quyết định danh mục và thành phần các dân tộc Việt Nam, và trên cơ

sở những nội dung đã nêu, Quốc hội quyết định các nội dung giám sát việc thực

hiện chính sách dân tộc.

Liên hệ với việc thực hiện Công ước ICERD, việc tiến hành giám sát của

Quốc hội cần đồng thời đáp ứng những nghĩa vụ của quốc gia thành viên và trách

nhiệm trong thực hiện chức năng hiến định. Quốc hội quyết định các chính sách dân

tộc của đất nước. Do vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện

Công ước ICERD giai đoạn hiện nay cần đảm bảo theo quy định của pháp luật quốc

tế và pháp luật trong nước về giám sát hướng tới bảo đảm các quyền con người cơ

bản cho người dân tộc thiểu số. Nội dung giám sát cần tập trung hai phần chủ đạo là

(i) giám sát nội dung xây dựng báo cáo quốc gia trong mối tương tác với các

khuyến nghị của Ủy ban CERD trong báo cáo quốc gia kỳ trước và (ii) giám sát

việc thực hiện chính sách dân tộc, các chương trình, dự án lớn liên quan đến dân tộc

thiểu số và vùng dân tộc thiểu số mà Quốc hội đã đưa ra.

Công tác giám sát của Quốc hội cần tham chiếu quy định tại Điều 1 của

Công ước nhằm đảm bảo không có bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế hoặc ưu đãi

nào dựa trên yế tố dân tộc vì mục đích hoặc có tác dụng vô hiệu hóa hay làm giảm

sự thừa nhận, hưởng thụ hoặc thực hành trên cơ sở bình đẳng, các quyền về tự do cơ

bản của con người về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc về vất kỳ lĩnh vực nào

của đời sống công cộng.

Việc giám sát của Quốc hội và các thiết chế của Quốc hội cùng với đó phải

đảm bảo các quan điểm, đường lối của Đảng đã được thể chế hóa trong hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật được giữ đúng chuẩn mực, không bị sai lệch.

Trên cơ sở kết quả của giám sát của mình Quốc hội sẽ tiến hành rà soát

những quy định, ban hành những nghị quyết cần thiết về chính sách, ngân sách hoạt

động, điều chỉnh các chỉ số phát triển liên quan đến người thiều số và các vùng dân

tộc thiểu số. Cụ thể thực trạng hoạt động giám sát và hệ quả pháp lý của các hoạt

54

động này, tác giả xin phân tích rõ nét hơn trong chương tiếp theo.

2.2. Giám sát việc thực hiện điều ƣớc quốc tế của một số quốc gia trên thế giới

về vấn đề dân tộc, dân tộc thiểu số

Việc công nhận, thực hiện điều ước quốc tế mà quốc gia mình đã ký kết, gia

nhập, phê chuẩn ở các quốc gia không giống nhau do những quy định đặc thù của

từng nước về mặt truyền thống pháp lý, đặc điểm thể chế và tổ chức bộ máy nhà

nước. Những yếu tố vừa nêu cũng sẽ tác động đa dạng đến vai trò của cơ quan lập

pháp của từng nước trong việc tiến hành công tác giám sát việc thực hiện hiến pháp,

pháp luật và các điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên.

Trong phần này, liên quan đến chính sách pháp luật về vấn đề dân tộc của

các nước, tác giả xin đề cập đến hai nhóm quốc gia gồm các quốc gia chưa ban hành

hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành và các quốc gia đã ban hành hệ thống

pháp luật chuyên ngành về vấn đề dân tộc, dân tộc tiểu số. Phụ thuộc quan điểm của

nhà lập pháp của mỗi hệ thống các quốc gia, cơ quan ban hành luật sẽ thực hiện các

hoạt động giám sát của mình theo những căn cứ và cách thức không giống nhau

trong đó có việc giám sát việc thực hiện Công ước ICERD.

2.1.1. Ban hành luật chuyên ngành về lĩnh vực dân tộc thiểu số trong thực thi

Công ước ICERD

Cộng hòa Séc

Cộng hòa Séc là quốc gia đa dân tộc với 95% dân số là người Séc, còn lại gồm

người Slovakia, Đức, Balan, Hungary, Việt Nam…được coi là dân tộc thiểu số.

Pháp luật Cộng hòa Séc quy định quyền của người dân tộc thiểu số được

đảm bảo bằng pháp luật quốc tế, hiến pháp và luật quốc gia. Hiến pháp Cộng hòa

Séc quy định giá trị pháp lý của các điều ước quốc tế về nhân quyền mà nước này là

thành viên, tham gia ký kết cao hơn pháp luật quốc gia.

Năm 2001 Cộng hòa Séc ban hành Luật về Dân tộc thiểu số quy định quyền

của người dân tộc thiểu số và thẩm quyền của các bộ, cơ quan hành chính và cơ

quan hành chính tự trị đối với việc bảo đảm những quyền này. Luật dân tộc thiểu số

đưa ra định nghĩa về dân tộc thiểu số và người dân tộc thiểu số: Dân tộc thiểu số là

55

những cộng đồng dân cư, sống trên vùng lãnh thổ của Cộng hòa Séc, khác với các

cộng đồng dân cư chung của Cộng hòa Séc về nguồn gốc dân tộc, ngôn ngữ, văn

hóa và truyền thống.Người dân tộc thiểu số là công dân của Cộng hòa Séc có nguồn

gốc không phải là người Séc, mong muốn trở thành người dân tộc thiểu số để cùng

với những người khác bảo vệ cội nguồn dân tộc mình.

Luật Dân tộc thiểu số quy định thành lập một Hội đồng cho người dân tộc

thiểu số như là cơ quan tư vấn do một thành viên của Chính phủ đứng đầu. Tuy

nhiên, Luật này không được đánh giá mang lại hiệu quả trong việc bảo vệ người dân

tộc thiểu số do thiếu các điều khoản cụ thể, chi tiết để bảo vệ người dân tộc thiểu số

khỏi sự phân biệt đối xử.

Croatia

Croatia có nhiều dân tộc sinh sống trên lãnh thổ gồm người Serbia, Séc,

Slovakia, Italy, Hungary, Do Thái, Đức, Áo, Ukraina, Litvia. Croatia ban hành Luật

về quyền của người dân tộc thiểu số năm 2002, Luật về giáo dục bằng ngôn ngữ của

các dân tộc thiểu số năm 2000. Các đạo luật này đều tuyên bố quyền bình đẳng về

mọi mặt giữa các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Croatia và mọi hành vi vi phạm

quyền bình đẳng đều bị cấm.

Điều 2, Luật về quyền của người dân tộc thiểu số ghi nhận việc không phân

biệt đối xử về giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo và chính trị giữa các

dân tộc trên cơ sở đảm bảo bình đẳng về các quyền con người, quyền tự do được

ghi nhận bởi Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Croatia là thành viên. Nhà nước

Croatia nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối với người dân tộc thiểu số và quy

định người dân tộc thiểu số được bảo đảm bình đẳng trước pháp luật. Các dân tộc

thiểu số có quyền có ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo riêng; quyền được giáo dục và có

họ tên bằng ngôn ngữ của dân tộc mình và Nhà nước tạo điều kiện cần thiết cho

việc bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và truyền thống văn

hóa của các dân tộc thiểu số.

Luật cũng quy định sự tham gia và xác định tỉ lệ đại diện của các dân tộc

thiểu số trong các cơ quan hành chính địa phương và khu vực; điều chỉnh việc thành

56

lập và hoạt động của Hội đồng dân tộc thiểu số (cơ quan bảo đảm cho sự tham gia

của người dân tộc thiểu số vào đời sống công cộng của nước này có chức năng thảo

luận, đề xuất, điều chỉnh và giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện

các quyền và tự do của dân tộc thiểu số.

Ukraina

Dân số Ukraina có cơ cấu gồm 73,6% người Ukraina, 20% người Nga, còn

lại là người Do Thái, Belarus và người Hungary. Tuy không có nhiều dân tộc thiểu

số, Ukraina vẫn ban hành luật riêng, điều chỉnh vấn đề dân tộc thiểu số năm 1992.

Điều 1 của Luật Dân tộc thiểu số Ukraina quy định nguyên tắc: mọi công dân

không phân biệt nguồn gốc dân tộc đều bình đẳng về chính trị, có các quyền và tự

do về kinh tế, văn hóa. Nhà nước cũng đảm bảo các quyền của dân tộc thiểu số

trong việc gìn giữ, phát triển văn hóa, sử dụng ngôn ngữ riêng trong giáo dục, thực

hành các nghi lễ, tôn giáo của dân tộc; đáp ứng các nhu cầu của dân tộc thiểu số về

giáo dục, văn hóa, thông tin truyền thông … các di sản văn hóa của dân tộc được

pháp luật và nhà nước bảo vệ.

Bất kỳ hành động trực tiếp hay gián tiếp ngăn cản công dân thực hiện các quyền

được pháp luật ghi nhận vì lý do dân tộc của họ đều bị nghiêm cấm và trừng phạt.

Người dân tộc thiểu số được tự do lựa chọn các biện pháp và cách thực để

thực hiện quyền tự do pháp luật quy định hoặc thành lập các hiệp hội: Nhà nước

thúc đẩy các hoạt động của các hiệp hội dân tộc và các hiệp hội này có quyền giới

thiệu thành viên của mình để bầu vào cơ quan quyền lực nhà nước theo quy định

của Hiến pháp và luật bầu cử đại biểu nhân dân và hội đồng nhân dân địa phương.

Luật cũng quy định việc dành một phần ngân sách nhà nước cho việc phát

triển các dân tộc thiểu số.

Người dân tộc thiểu số có quyền tự do quan hệ với công dân thuộc quốc gia

khác có chung nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ với họ.

Ba lan

Luật về quốc gia, dân tộc thiểu số và ngôn ngữ khu vực năm 2005 của Ba

Lan quy định các vấn đề kết nối, duy trì và phát triển bản sắc, văn hóa riêng của các

57

dân tộc thiểu số, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ khu vực; việc chấp hành các

nguyên tắc đối xử bình đẳng của các cá nhân, không phân biệt nguồn gốc dân tộc;

xác định các nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước và chính

quyền địa phương trong vấn đề dân tộc.

Luật này công nhận 13 dân tộc thiểu số gồm: Belarusia, Séc, Lithuania, Đức,

Armenia, Nga, Slovakia, Do Thái, Krum, Lemko, Roma, Tatar do: (i) có số lượng

dân số ít hơn so với người Ba Lan; (ii) có sự khác nhau đáng kể về ngôn ngữ, văn

hóa/ truyền thống; (iii) có bản sắc riêng và cố gắng để bảo tồn ngôn ngữ, văn hóa/

truyền thống của mình; (iv) tổ tiên của dân tộc đó đã sống trên lãnh thổ hiện tại của

nước Cộng hòa Ba Lan ít nhất 100 năm.

Người dân tộc thiểu số tại nước này có quyền tự do quyết định về việc xác

định dân tộc, không có nghĩa vụ tiết lộ thông tin về việc mình thuộc về một thiểu số

nào, nguồn gốc, ngôn ngữ dân tộc tôn giáo của họ; nghiêm cấm các hành vi sử dụng

các biện pháp nhằm đồng hóa người dân tộc tiểu số, làm thay đổi tỉ lệ quốc gia, dân

tộc trên lãnh thổ; quy định người dân tộc thiểu số được sử dụng ngôn ngữ của dân

tộc trong đặt tên, trao đổi thông tin trong đời sống cộng đồng và cá nhân, giáo dục

bằng tiếng dân tộc để giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc thiểu số đó. Các cấp

chính quyền cần phải có các biện pháp thích hợp để hỗ trợ các hoạt động bảo vệ,

duy trì và phát triển bản sắc văn hóa của người dân tộc thiểu số, đặc biệt là sự hỗ trợ

tài chính.

Hungary

Ở Hungary, ngoài dân bản địa còn có người Bulgary, du mục, Hy Lạp,

Croatia, Ba La, Đức, Acmenia, Rumania, Litvia, Serbia, Slovakia, Slovenia, và

Ukraina. Quyền bình đẳng của các dân tộc tại Hungary được quy định trong Hiến

pháp, Luật bảo vệ di sản văn hóa, bảo tàng, dịch vụ thư viện và giáo dục văn hóa.

Năm 1993, Hungary ban hành Luật về quyền quốc gia và dân tộc thiểu số,

được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực năm 2005. Điều 3 Luật này quy định: “bất kỳ

hình thức phân biệt đối xử chống lại người thiểu số đều bị cấm”. Điều 4 quy định

Cộng hòa Hungary cấm các chính sách khủng bố dân tộc thiểu số hoặc người dân

58

tộc thiểu số vì lý do dân tộc của họ các hành động làm cho cuộc sống người dân tộc

thiểu số khó khăn hơn hoặc ngăn cản họ thực hiện các quyền được luật pháp quy

định hay các chính sách có mục đích đồng hóa người dân tộc thiểu số, nhằm thay

đổi điều kiện, môi trường sống của họ.

Người dân tộc thiểu số bình đẳng về chính trị và văn hóa. Nhà nước có biện

pháp thúc đẩy họ thực hiện các quyền này một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, Luật cho

phép người dân tộc thiểu số thành lập các hội, đảng phái hay tổ chức dân sự để thể hiện

và bảo vệ lợi ích của họ; công nhận việc thành lập các khu tự trị của dân tộc thiểu số và

đại diện chính quyền của khu tự trị có quyền nêu ý kiến, đề xuất các vấn đề liên quan

đến dân tộc thiểu số, hợp tác với các cơ quan nhà nước trong đánh giá các nhu cầu của

người dân tộc thiểu số; quyền sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc thiểu số trong

giáo dục, quyền giữ gìn, bảo tồn bản sắc, văn hóa, tôn giáo (được coi là quyền con

người phổ quát) cũng như nghĩa vụ của Nhà nước trong việc phát triển văn hóa, tôn

giáo, ngôn ngữ của dân tộc thiểu số; quyền duy trì quan hệ, liên lạc với các dân tộc có

chung bản sắc, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ ở quốc gia khác.

Người dân tộc thiểu số không có đặc quyền gì riêng vì lý do họ là thiểu số so

với người đa số mà sự ra đời của Luật là dựa trên sự tôn trọng đối với các quyền tự

do của mỗi cá nhân trong sự hài hòa xã hội. Việc bảo tồn, duy trì, phát triển quyền

của người dân tộc thiểu số không phải chỉ để bảo vệ người dân tộc thiểu số mà vì

lợi ích quốc gia Hungary với hàm nghĩa là cộng đồng quốc gia dân tộc.

Philippines

Quốc đảo Philippines có dân tộc đa số là Malayo-Polynesian. Nước này có

khoảng 11,8 triêu người dân tộc thiêu số được pháp luật bảo vệ theo Đạo luật số

8371 năm 1997, được coi là Đạo luật về dân tộc thiểu số được ban hành sớm nhất ở

Đông Nam Á. Luật này cho phép các dân tộc thiểu số được công nhận và cấp quyền

sở hữu đối với vùng sinh tồn tổ tiên, vùng đất tổ tiên, quyền tự quản cộng đồng đối

với tài nguyên, duy trì tiếng nói, chữ viết, bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà nước công

nhận và đảm bảo các quyền và sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số, của Hội

đồng văn hóa dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế và các dịch

59

vụ xã hội khác.

Cộng đồng dân tộc thiểu số có quyền sử dụng hệ thống tư pháp cộng động

của riêng mình, các thiết chế giải quyết tranh chấp, cơ chế hòa giải và luật tập quán

và tục lệ trong phạm vi cộng đồng của mình ở mức độ phù hợp với hệ thống pháp

luật quốc gia và trong phạm vi nhân quyền được quốc tế công nhận.

Nhà nước công nhận vai trò của các tổ chức phi chính phủ được thành lập vì

mục đích cung cấp các loại dịch vụ xã hội cho cộng đồng dân tộc thiểu số theo

nguyên tắc hiệu quả và được sự chấp nhận của cộng đồng.

Ủy ban Quốc gia về Dân tộc thiểu số giải quyết các vấn đề liên quan tới dân

tộc thiểu số theo Hiến pháp và Luật số 8371 năm 1997.

2.2.2. Các quốc gia không có luật chuyên ngành về lĩnh vực dân tộc thiểu số

Trung Quốc

Trung Quốc có chính thể Nhà nước. Bộ máy Nhà nước được tổ chức, hoạt

động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Năm 1981, Trung Quốc đã phê chuẩn ra

nhập Công ước ICERD trước khi bản Hiến pháp 1982 của nước này ra đời và có

hiệu lực. Tuy vậy, điều này không làm ảnh hưởng đến hiệu lực tư cách thành viên

Công ước ICERD của họ.

Cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc có đặc thù là của quốc gia đa dân tộc

và dân tộc Hán là dân tộc đa số trong số 56 dân tộc sinh sống trên đất nước này.

Hiến pháp 1982, của Trung Quốc đó là quy định riêng một điều về chính sách dân

tộc trong bản Hiến pháp này: “Các dân tộc đang sinh sống trên đất nước Cộng hoà

nhân dân Trung Hoa hoàn toàn bình đẳng. Nhà nước bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của các dân tộc thiểu số, bảo vệ và phát triển sự bình đẳng, đoàn kết, tương

trợ lẫn nhau giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị và áp bức dân tộc

thiểu số, nghiêm cấm hành vi phá hoại sự đoàn kết, gây chia rẽ các dân tộc. Nhà

nước dựa vào đặc điểm và yêu cầu của các dân tộc thiểu số, giúp đỡ các khu vực

dân tộc thiểu số nhanh chóng phát triển kinh tế và văn hoá. Địa phương tập trung

các dân tộc thiểu số sinh sống thực hiện chế độ khu tự trị, xây dựng cơ quan tự trị,

thi hành quyền tự trị. Địa phương tự trị các dân tộc là bộ phận không thể tách rời

60

của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Các dân tộc đều có quyền tự do sử dụng

và phát triển tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, có quyền tự do giữ gìn hoặc thay

đổi phong tục tập quán của mình” [53, Điều 4].

Nhà nước Trung Quốc áp dụng chính sách đại khai phá miền Tây, khu vực có

đông đồng bào dân tộc sinh sống; thực hiện chính sách tự trị khu vực dân tộc và

không công nhận tồn tại dân tộc bản địa, giải quyết vấn đề dân tộc dựa vào các yếu

tố lịch sử, văn hóa, mối quan hệ dân tộc… để phù hợp với lợi ích chung của dân tộc

thiểu số và các dân tộc trong cả nước.

Trong Hiến pháp năm 1982 và Luật tự trị năm 1984 có quy định về quyền tự

trị dân tộc, được xem như một luật chuyên về các vấn đề dân tộc thiểu số cũng là

luật chung về về dân tộc thiểu số tạo khuôn khổ pháp lý chung cho các loại văn bản

pháp luật, pháp quy về dân tộc thiểu số của các Vùng tự trị. Quyền tự trị được thể

hiện qua các quyền cơ bản, đó là: (i) tự chủ quản lý khu vực dân tộc thiểu số với các

chức danh chủ chốt là người dân tộc thiểu số tại chỗ; (ii) hưởng thẩm quyền xây

dựng văn các văn bản, điều lệ tự trị khác nhau; (iii) tôn trọng tự do tín ngưỡng, văn

hóa, tập quán tốt đẹp của dân tộc thiểu số; (iv) kiên trì thực hiện tốt việc kết hợp

thống nhất đất nước và quyền tự trị dân tộc, đây là vấn đề cơ bản nhất.

“Tự chủ quản lý khu vực dân tộc thiểu số, hưởng thẩm quyền xây dựng các

văn bản điểu lệ tự trị khác nhau” nghĩa là trên cơ sở những văn bản pháp luật khung

về dân tộc thiểu số, việc ban hành những văn bản như “Pháp quy địa phương”,

“Điều lệ tự trị”, “Điều lệ đơn lẻ” được gọi chung là những quy định linh hoạt theo

đó, với sự cho phép của luật cơ bản, luật khung hoặc căn cứ vào đặc điểm chính trị,

kinh tế, văn hóa của dân tộc thiểu số cụ thể ở địa phương được trú trọng xây dựng,

ban hành và có giá trị pháp lý để giải quyết vấn đề có tính đặc thù của vùng, khu,

châu, huyện tự trị.

Trong lần sửa đổi gần đây nhất năm 2018, Hiến pháp Trung Quốc đã quy định

trong Chương 3 về nội dung liên quan đến hệ thống Ủy ban giám sát. Điều 123

khẳng định đây là cơ quan giám sát nhà nước, được tổ chức ở các cấp khác nhau.

Ủy ban giám sát nhà nước (State supervision Commission) là cơ quan cao nhất

61

trong hệ thống này và chịu trách nhiệm trước Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc,

Ủy ban Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc. Ủy ban giám sát cấp địa phương do cơ

quan quyền lực đại phương lập ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực đại

phương đồng thời chịu trách nhiệm với Ủy ban giám sát cấp trên. Các Ủy ban giám

sát thực hiền quyền giám sát độc lập, tuân theo pháp luật và không bị can thiệp bởi

bất cứ cơ quan hành chính, tổ chức xã hội hay cá nhân nào. Ủy ban Dân tộc của Đại

hội nhân biểu nhân dân toàn quốc có thẩm quyền giám sát thực hiện chính sách dân

tộc theo quy định Điều 4 của Hiến pháp.

Trong thực hiện nhiệm vụ giám sát liên quan đến các cơ quan công vụ, Ủy ban

giám sát nhà nước vừa kết hợp lại vừa hạn chế các cơ quan tư pháp, kiểm sát và

thực thi pháp luật. Hệ thống Ủy ban giám sát có tổ chức và hoạt động được điều

chỉnh theo quy định của Luật giám sát 2018 của Trung Quốc.

Như vậy, có thể hiểu việc thành lập Ủy ban giám sát quốc gia đã cho thấy sự tăng

cường quyền lực của Quốc hội nói chung trong việc thực hiện quyền giám. Ở phạm vi

thực hiện công tác điều tra, giám sát và xử lý các vụ việc tham nhũng liên quan đến

Điều 4 của Hiến pháp Trung Quốc, Quốc hội và các cơ quan liên quan của Quốc hội có

thẩm quyền can thiệp sâu, rộng hơn việc thực hiện chính sách dân tộc, dân tộc thiểu số

của nước này. Điều này rất có thể gây ra một số quan điểm và hành động không tích

cực đến các quyền cơ bản của con người nêu trong Công ước ICERD.

Australia

Australia là quốc gia đa sắc tộc. Hầu hết cư dân của Australia có nguồn gốc từ

Anh, Scotland, Ireland, xứ Wales, châu Á. Dân tộc bản địa chỉ chiếm khoảng 1%

trong cơ cấu dân số của Australia. Do là nước đa chủng tộc, nhiều cộng đồng nhập

cư, vấn đề đặc thù về dân tộc thiểu số của nước Austrlia được cho là những tệ nạn

phân biệt chủng tộc. Nước này đã ban hành một đạo luật riêng để giải quyết vấn đề

này đó là Luật về xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc và các tệ nạn khác năm 1975. Bên

cạnh đó, việc bảo vệ quyền của dân tộc thiểu số cũng được quy định tại một số đạo

luật chung về nhân quyền như: Đạo luật Ủy ban Nhân quyền 1981, Đạo luật về Ủy

ban Nhân quyền và bình đẳng năm 1986, Luật về quyền cá nhân năm 1988; Luật tội

62

phạm năm 1988.

Luật về xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc năm 1975 là đạo luật cơ bản điều chỉnh

những vấn đề liên quan đến chủng tộc, dân tộc trong một quốc gia đa sắc tộc, chủng

tộc như Australia. Điều 9 Luật này quy định: Phân biệt chủng tộc là: “bất hợp pháp

khi bất cứ ai có hành động phân biệt, gạt bỏ, hạn chế hoặc thiên vị, dựa trên chủng

tộc, màu da, dòng dõi hoặc nguồn gốc dân tộc hoặc chủng tộc, nhằm mục đích

hoặc gây ảnh tác động làm vô hiệu hóa hoặc làm sai việc công nhận, thụ hưởng

hoặc được thực hiện trên cơ sở bình đẳng các nhân quyền hoặc quyền tự do cơ bản

trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc bất cứ lĩnh vực nào khác của

đời sống chung”. Có thể nói, định nghĩa về Phân biệt chủng tộc trong luật pháp của

Australia khá tương thích với định nghĩa về thuật ngữ này tại Điều 1 của Công ước

ICERD. Để đảm bảo các quy định được thực thi, Luật này còn quy định về việc

điều tra, xét xử đối với các hành vi bị coi là phân biệt chủng tộc, người có hành vi

phân biệt củng tộc sẽ bị buộc tội và có trách nhiệm phải bồi thường tùy mức độ

hành vi cũng như hậu quả của hành vi gây ra. Ủy ban Nhân quyền và bình đẳng giải

quyết các khiếu nại, tố cáo về hành vi phân biệt chủng tộc, thực hiện các hoạt động

điều tra, thu thập thông tin, tài liệu và tiến hành hòa giải các bên trong trường hợp

không hòa giải được thì Ủy ban có quyền ra quyết định.

Ngoài ra, Luật về quyền cá nhân 1988, Luật tội phạm năm 1988 cũng có chứa

dựng các quy định về quyền của người dân tộc thiểu số. Chính phủ Australia cũng

ban hành một số quy định chống phân biệt đối xử phù hợp với các cam kết quốc tế

của Australia trong lĩnh vực nhân quyền.

Pakistan

Pakistan có trên 50 dân tộc, trong đó có 5 chủng tộc lớn là người Punjab,

Sidhi, Pashtun (còn gọi là người Pathan), Muhajirs (những người di cư tà Ấn Độ

sang trong thời gian phân tách và trước đó), người Baloch có số lượng đông hơn cả.

Vấn đề đặc thù của Pakistan là sự xung đột sắc tộc và tôn giáo diễn ra khá gay gắt

nên Nhà nước Pakistan tập trung giải quyết vấn đề này trong quá trình xây dựng

Hiến pháp và một số luật chuyên ngành. Tuy nhiên, Pakistan không có luật chuyên

ngành quy định về vấn đề dân tộc thiểu số. Vấn đề dân tộc thiểu số được quy định

63

rải rác trong nhiều bộ luật và luật chuyên ngành.

Ấn Độ

Ấn Độ cũng là một quốc gia đa dân tộc, ngôn ngữ và tốn giáo, trong đó đa số

người dân sống ở đất nước này là người Ấn Độ. Theo Điều 29 của Hiến pháp Ấn

Độ, bất kỳ nhóm người nào sinh sống trên lãnh thổ của Ấn Độ được bảo tồn và phát

huy ngôn ngữ, chữ viết và văn hóa riêng. Cùng với đó, năm 1955, Ấn Độ ban hành

Luật bảo vệ quyền công dân, theo đó Ấn Độ nghiêm cấm việc phân biệt tầng lớp

“quý tộc” và “tiện dân”. Đến năm 1989, Ấn Độ ban hành Luật về đẳng cấp và bộ

tộc, trong đó cấm những hành vi tàn bạo với lý do đẳng cấp, dân tộc. Bên cạnh đó,

nước này cũng có nhiều văn bản pháp luật khác điều chỉnh về vấn đề tôn giáo, dân

tộc, sắc tộc nhằm giải quyết việc bảo vệ quyền của người thuộc các đẳng cấp dưới

trong xã hội và của những bộ tộc thiểu số, sặc tộc tôn giáo chống lại những hành vi

tàn bạo phát sinh từ những tập quán tín ngưỡng, phân chia đẳng cấp. Luật bảo vệ

quyền công dân năm 1977 của nước này bao gồm những quy định về hành vi vi

phạm sự bình đẳng giữa các công dân và chế tài kèm theo, bao gồm những quy định

đảm bạo sự bình đẳng giữa các cá nhân thuộc các sắc tộc tôn giáo chống lại sự phân

biệt giữa “tiện nhân” và “công dân”.

Mỹ

Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc, dân tộc, sắc tộc (người bản địa và thổ dân

Alaska, người Mỹ gốc Mexico, người gốc phí, người gốc Á, người Trung Đông Ả

rập, người gốc đảo Hawaii hay đảo khác ở Thái Bình Dương…) và cũng đa dạng về

tôn giáo (Thiên chú giáo, Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo). Trước những năm

1862-1983, ở Mỹ tồn tại các quy định của pháp luật về phân biệt chủng tộc mà đặc

trưng cơ bản nhất là phân biệt đối xử giữa những người tự do và nô lệ (chủ yếu là

người da đen). Sau tuyên bố của Tổng thống Abraham Lincol về xóa bỏ nô lệ, trong

tất cả các đạo luật của Mỹ, từ Hiến pháp đến các đạo luật khác đều tuyên bố về

quyền bình đẳng với mọi người sinh sống trên lãnh thổ Mỹ.

Ngành lập pháp của Mỹ, theo lịch sử phát triển, đã phải giải quyết những vấn

đề phát sinh từ đặc thù đa chủng tộc, đa ngôn ngữ (người bản địa; các chủng tộc

64

nhập cư từ các quốc gia khác), đa sắc mầu da (người da trắng, da đen, da vàng); và

vấn đề về nô lệ. Mỹ không có đạo luật về dân tộc thiểu số. Để giải quyết những

xung đột về vấn đề dân tộc, chính quyền của từng tiểu ban ban hành lồng ghép quy

định về dân tộc vào trong một số luật chuyên ngành.

Cho đến nay, luật pháp và thể chế của Mỹ được cho là đã giải quyết thành

công những vấn đề đặc thù của xã hội Mỹ như: (i) đảm bảo thực hiện quyền có

tiếng nói và chữ viết, văn hóa của các cộng đồng dân tộc thiểu số trên cơ sở tự

nguyện; (ii) “không phân biệt chủng tộc” đã trở thành một nếp sống thường nhật

trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội; (iii) người thuộc dân tộc

thiểu số, cộng đồng dân tộc thiểu số đều được hưởng các cơ hội phát triển bình đẳng

với tư cách là công dân Mỹ.

Mỹ không có đạo luật về dân tộc thiểu số song có “hai thành tựu vĩ đại trong

chính sách dân tộc của Mỹ: một mặt sáng tạo quyền tự quản và mặt khác về ngôn

ngữ, với chính sách thực thi thận trọng và đồng thời hoàn toàn thực dụng, chứ

không phải là kết quả này sinh ra do sự tư duy theo quá trình phát triển của hệ thống

luật lệ cho những người định cư khai phá và cho những người nhập cư sau này”.

Kết luận

Các quốc gia có sự hiện diện của sự đa dạng các dân tộc tiểu số, bằng với

Hiến pháp và luật chuyên ngành hoặc với luật về dân tộc thiểu số nói riêng đều

mong muốn đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, chống phân biệt đối xử và

kỳ thị dân tộc; giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền người dân tộc thiểu số,

dân tộc bản địa đời sống của các dân tộc thiểu.

Với những quốc gia xây dựng thành đạo luật riêng về dân tộc thiểu số, chính

sách đối với dân tộc thiểu số được đề cập một cách tổng thể, toàn diện theo hướng

công nhận và đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội.

Những quốc gia không có đạo luật riêng về các dân tộc thiểu số, chính sách

đối với dân tộc thiểu số được xác định nhằm giải quyết một mặt cụ thể của đời sống

xã hội, sắc tộc, tôn giáo ví dụ như Australia hướng tới giải quyết vấn đề kỳ thị, phân

biệt chủng tộc; Mỹ tập trung giải quyết sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, phân biệt

65

chủng tộc…

Hệ thống pháp luật về dân tộc thiểu số có thể giải quyết được quyền chung

về nhân quyền và quyền riêng của dân tộc thiểu số khi đáp ứng được một cơ chế

xây dựng Luật theo hướng kết hợp giữa Luật khung về dân tộc thiểu số và Luật

riêng (gồm cả pháp quy địa phương), đặc thù áp dụng cụ thể của từng vùng dân tộc,

cộng đồng dân tộc/ sắc tộc như ở Trung Quốc và Philippines.

Căn cứ vào nội dung của luật, các quốc gia có luật riêng về dân tộc thiểu số

đều sử dụng tên gọi của luật gắn liền với khái niệm dân tộc thiểu số như: “Luật về

các dân tộc thiểu số”, “Luật về các quyền của dân tộc thiểu số”; “Luật về quyền của

người dân tộc thiểu số”,… như vậy, tên gọi của Luật phù hợp với nội dung và chủ

thể điều chỉnh.

Một số quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Croatia…) có quy định cụ thể về

không gian địa lý áp dụng Luật (vùng, khu, châu, huyện tự trị…), đối tượng điều

chỉnh của Luật (bộ lạc, sắc tộc…), không gian điều chỉnh (đất tổ tiên…), và xác

định rõ khái nhiệm tên gọi của cộng đồng dân tộc thiểu số (Cộng đồng dân tộc thiểu

số, Cộng đồng văn hóa dân tộc thiểu số…)

Công tác về dân tộc thiểu số được trao cho một thiết chế của Chính phủ

(Trung Quốc, Philippines, Ukraine, …) với chức năng hoạch định, thực thi chính

sách và phối hợp với các bộ ngành trong việc thực thi các chiến lược, kế hoạch phát

triển vì dân tộc thiểu số).

Việc huy động phân bổ, sử dụng vốn, ngân sách dành cho dân tộc thiểu số

được tập trung và điều tiết và giám sát bởi một đầu mối là cơ quan của chính phủ có

thẩm quyền phụ trách công tác về dân tộc thiểu số như Trung Quốc, Ấn Độ…

Các quốc gia đều ghi nhận những quyền của người thuộc dân tộc thiểu số trên

cơ sở các quyền và tự do cơ bản của chế định nhân quyền quốc tế, ghi nhận nguyên tắc

bình đẳng, chống phân biệt đối xử và trách nhiệm của nhà nước đảm bảo việc thực thi

các quyền này đối với cộng đồng, người dân tộc thiểu số. Một số quốc gia quy định chi

tiết về quyền và phương thức thực hiện quyền cụ thể trong từng lĩnh vực của đời sống

66

của cộng đồng và người dân tộc thiểu số như Trung Quốc, Ấn Độ…

CHƢƠNG 3.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI

VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ

3.1. Cơ chế thực hiện Công ƣớc ICERD

3.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Với tư cách là thành viên của Công ước ICERD và từ khi thực hiện chính

sách Đổi mới, trên cơ sở các nghị quyết của Đảng đã ban hành, Quốc hội, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật

nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về lĩnh vực dân tộc. Những

quy định này cơ bản đảm bảo đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng mọi quyền và

nghĩa vụ theo quy định của luật pháp như mọi công dân khác. Tuy nhiên, do những

yếu tố đặc thù về trình độ phát triển chủ quan, khách quan và đặc điểm kinh tế - văn

hóa, Quốc hội còn quy định thêm những chính sách có liên quan nhằm bảo đảm cơ

chế để đồng bào dân tộc thiếu số có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các quyền về kinh

tế, chính trị, văn hóa cũng như hỗ trợ phát triển khác.

Qua thống kê, đến nay Quốc hội đã ban hành được 104 luật, 18 Nghị quyết

có nội dung đề cập đến lĩnh vực dân tộc thiểu số và địa bàn miền núi, vùng đặc biệt

khó khăn.

 Quốc hội ban hành luật:

(i) Về lĩnh vực dân sự, hình sự: Có 20 luật ban hành liên quan quy định cụ thể

quyền bình đẳng và tạo cơ hội thúc đẩy sự bình đẳng cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Các nội dung chủ yếu tập trung vào các quyền dân sự như: mọi công dân không

phân biệt thành phần dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật; quyền có quốc tịch;

quyền xác định thành phần dân tộc, quyền kết hôn, quyền được trợ giúp pháp lý,

quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết dân tộc mình trong tố tụng hình sự;

(ii) Về lĩnh vực chính trị: có 18 luật liên quan. Nội dung chủ yếu về quyền

bầu cử, ứng cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân; các quy định về bảo đảm sự tham

chính của đại diện dân tộc thiểu số trong tổ chức Hội đồng nhân dân, Mặt trân Tổ

67

quốc, trưng cầu ý dân, và trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

(iii) Quyền kinh tế, đất đai, nhà ở: Quốc hội ban hành 25 luật liên quan đến

các quyền về đất đai, nhà ở; chính sách hỗ trợ và thúc đẩy tạo việc làm cho đồng

bào dân tộc thiểu số; chính sách quản lý đất đai, bảo vệ rừng, chính sách đầu tư,

ngân sách nhà nước, chuyển giao công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

vùng dân tộc, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.

(iv) Quyền văn hóa – thông tin: có 13 luật đề cập đến dân tộc thiểu số, trong

đó tập trung quy định các vấn đề về bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống, bản sắc

văn hóa dân tộc thiểu số; xuất bản các ấn phẩm liên quan đến dân tộc thiểu số; tăng

cường tiếp cận thông tin; phổ biến giáo dục pháp luật cho vùng đồng bào dân tộc.

(v) Trong giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nâng cao dân trí có 6

luật liên quan đến dân tộc thiểu số như phổ cập giáo dục tiểu học; giáo dục trẻ em

vùng khó khăn sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong giáo dục; các chính sách ưu

tiên trong giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực dân tộc thiểu số như cộng điểm xét

tuyển đại học, cao đẳng, cử tuyển; ưu tiên xây dựng hệ thống các trường dân tộc

nội trú, bán trú, dự bị đại học.

(vi) Về y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân có 10 luật quy định tập trung vào:

thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình; nâng cao chất lượng dân số

vùng dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số rất ít người; ưu tiên thực hiện các

chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số, phòng

chống bệnh nguy hiểm; các vấn đề về bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo hiểm y tế,

khám bệnh, chữa bệnh, hành nghề y, dược tư nhân.

(vii) Về môi trường có 4 luật liên quan chủ yếu tập trung vào các chính sách

bảo vệ môi trường, bảo đảm nguồn nước cho người dân, nhất là vùng miền núi,

vùng đặc biệt khó khăn; đảm bảo cuộc sống cho người dân ở vùng đệm các khu bảo

tồn, vườn quốc gia.

(viii) Quy định về công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị: có 2 luật,

chủ yếu gồm các quy định liên quan đến chế độ thu hút, ưu tiên trong tuyển dụng,

bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ, công chức công tác ở vùng miền núi, hải đảo, và vùng

68

đặc biệt khó khăn

(ix) Trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, bảo đảm trạt tự an toàn xã hội trong

vùng dân tộc thiểu số, với 6 luật tập trung vào các nội dung như giáo dục quốc phòng

và an ninh; bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biên giới và vùng dân tộc thiểu số.

 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết

Từ năm 2001 đến nay Quốc hội đã ra 19 Nghị quyết, tập trung vào các nội dung:

- Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 trong đó sửa đổi

bổ sung “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp

tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức và các

cá nhân tiêu biểu trong các dân tộc, tôn giáo” và sửa đổi bổ sung Điều 30 về

Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc.

- Các nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội chung hàng năm và từng giai

đoạn trong đó tập trung thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, chống

tái nghèo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng khó khăn; đầu tư cơ sở hạ

tầng và phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi,

nâng cao hiệu quả việc thực hiện Chương trình 135 đã được lồng ghép với

các dự án có liên quan; nâng cao chất lượng trường phổ thông dân tộc nội

trú, tổ chức dạy nghề cho học sinh tốt nghiệp trường dân tộc nội trú; hỗ trợ

đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người ở vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, hải đảo, biên giới; xây dựng nền

văn hóa truyền thống của các dân tộc, trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt,

dạy nghề và đào tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; thực hiện

đồng bộ, hiệu quả các chính sách đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số

và miền núi theo các chính sách, đề án đã được phê duyệt; ưu tiên nguồn

nhân lực phát triển vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng

thiên tai.

- Nghị quyết về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm

2020, Nghị quyết đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế,

69

tiến tới bảo hiểm toàn dân và Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiểu

quả việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp.

Như vậy, có thể thấy, Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện

khung pháp lý cho việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền cũng như chính sách hỗ trợ

phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số.

3.1.2. Thiết chế

Trong cơ cấu của Nhà nước có Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu ra, có

nhiệm vụ kiến nghị các vấn đề về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc

thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội miền

núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hội đồng dân tộc được tham gia ý kiến về

việc ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc của Chính phủ.

Trong Chính phủ, Ủy ban dân tộc là cơ quan ngang bộ của Chính phủ có

chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm vi cả nước,

xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về dân tộc; tổ chức chỉ đạo

thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, công bằng xã hội giữa các dân tộc, chống

mọi hành vi kỳ thị chia rẽ dân tộc, thực hiện các chính sách cụ thể, biện pháp ưu

tiên phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng

vùng dân tộc thiểu số và miền núi; thực hiện ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng, các chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội, phát triển kinh tế hang hóa

đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.

Các tỉnh, thành phố có đông người dân tộc thiểu số sinh sống có Ban dân tộc

là cơ quan chuyên trách công tác dân tộc, giúp chính quyền địa phương thực thi

chính sách dân tộc, bảo đảm quyền lợi của người dân tộc thiểu số theo quy định của

pháp luật.

Tham vấn ý kiến của tổ chức, cá nhân đối với việc lập đề nghị, soạn thảo và

ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội đều phải tham

khảo ý kiến của đối tượng bị tác động. Đối với chính sách pháp luật liên quan đến

cộng đồng người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc

cư trú đều phải lấy ý kiến trực tiếp của họ hoặc thông qua ý kiến của tổ chức chính

70

quyền địa phương.

3.2. Chính phủ triển khai, thực hiện các chính sách trong mối liên hệ với Công ƣớc ICERD

3.2.1. Xây dựng, nộp báo cáo quốc gia theo Điều 9, Công ước ICERD

Thực hiện nghĩa vụ báo cáo thường kỳ là nghĩa vụ quan trọng của mỗi quốc

gia thanh viên của Công ước ICERD. Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ báo cáo đến

kỳ 14 (đến năm 2009) và được đánh giá có sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, đúng

quy trình, đầy đủ nội dung theo đúng hướng dẫn yêu cầu của Ủy ban CERD. Ủy ban

CERD cũng đã ghi nhận Báo cáo của Việt Nam đã thể hiện chính sách xây dựng

hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với người dân tộc thiểu số và đã đạt

được những thành tựu đáng khích lệ, đã xác định được những khó khăn, tồn tại

trong quá trình thực hiện Công ước ICERD trong giai đoạn và đề xuất các giải pháp

chính sách đối với người dân tộc thiểu số trong thời gian tiếp theo.

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ nộp báo cáo thường kỳ, Việt Nam

đang tiến hành xây dựng báo cáo giai đoạn 2012-2018 và bảo vệ báo cáo năm 2020.

Quá trình xây dựng báo cáo thực hiện Công ước ICERD do Ủy ban Dân tộc của

Chính phủ Việt Nam chủ trì bao gồm: rà soát các khuyến nghị và phản hồi của Việt

Nam liên quan đến Báo cáo gửi Ủy ban CERD 2012; soạn thảo đề cương Báo cáo;

soạn thảo và hoàn thiện Báo cáo. Trong các bước kể trên, đón vị chủ trì xây dựng

báo cáo, Ủy ban Dân tộc của Chính phủ sẽ tiến hành lấy ý kiến đóng góp của các cơ

quan hữu quan như Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, các bộ, ngành, tổ chức quốc tế

và chuyên gia của Ủy ban CERD.

3.2.2. Các chương trình mục tiêu quốc gia ban hành theo Nghị quyết của Quốc hội

*) Chương trình mục tiêu quốc gia theo Nghị quyết số 13/2011/QH13 ngày

09/11/2011 cho giai đoạn 2011-2015

Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn này được quyết nghị trên nền tảng

của Hiến pháp 1992, sửa đổi và bổ sung năm 2001, Luật tổ chức Quốc hội và một

số văn bản pháp quy liên quan gồm 16 Chương trình cụ thể được nêu tại Điều 1 của

Nghị quyết số 13/2001/QH13 như sau:

(i) Chương trình mục tiêu quốc gia Việc làm và dạy nghề;

71

(ii) Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững;

(iii) Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường

nông thôn;

(iv) Chương trình mục tiêu quốc gia Y tế;

(v) Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và kế hoạch hoá gia đình;

(vi) Chương trình mục tiêu quốc gia Vệ sinh an toàn thực phẩm;

(vii) Chương trình mục tiêu quốc gia Văn hoá;

(viii) Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và đào tạo;

(ix) Chương trình mục tiêu quốc gia Phòng, chống ma tuý;

(x) Chương trình mục tiêu quốc gia Phòng, chống tội phạm;

(xi) Chương trình mục tiêu quốc gia Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả;

(xii) Chương trình mục tiêu quốc gia Ứng phó với biển đổi khí hậu;

(xiii) Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới;

(xiv) Chương trình mục tiêu quốc gia Phòng chống HIV/AIDS;

(xv) Chương trình mục tiêu quốc gia Đưa thông tin về cơ sở miền núi,

vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo;

(xvi) Chương trình mục tiêu quốc gia Khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.

Tổng mức kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn

2011 - 2015 không quá 276.372 tỷ đồng, trong đó nguồn kinh phí từ ngân sách

trung ương là 105.392 tỷ đồng (chưa bao gồm số đã phân bổ cho Chương trình 135

giai đoạn 3 và Chương trình 30a trong năm 2011), ngân sách địa phương là

61.542,5 tỷ đồng, nguồn vốn ngoài nước là 19.987,5 tỷ đồng, nguồn vốn tín dụng là

39.815 tỷ đồng và nguồn vốn huy động khác là 49.635 tỷ đồng.

Chính phủ có nhiệm vụ rà soát mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian thực hiện và

nguồn lực cụ thể của các dự án thành phần thuộc từng chương trình mục tiêu quốc gia

trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi thực hiện; đồng thời có giải

pháp nâng cao chất lượng quản lý, thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện, việc sử

dụng nguồn lực để bảo đảm hiệu quả của các chương trình mục tiêu quốc gia.

Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Hội đồng Dân

72

tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu

Quốc hội theo chức năng, nhiệm vụ, giám sát việc thực hiện các chương trình mục

tiêu quốc gia tại các bộ, ngành và địa phương.

*) Chương trình mục tiêu quốc gia theo Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày

12/11/2015

Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn này được quyết nghị theo tinh thần

Hiến pháp năm 2013, Luật đầu tư công 2014 và một số văn bản pháp luật khác gồm

02 Chương trình cụ thể được nêu tại Điều 1 như sau:

(i) Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới với mục tiêu

tổng quát là: “Xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh

tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với

công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn

dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh

thái được bảo vệ; an ninh, trật tự được giữ vững”; và mục tiêu cụ thể: “Đến

năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%; không còn xã đạt

dưới 5 tiêu chí”. Tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước tối thiểu là

193.155,6 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương là 63.155,6 tỷ đồng; ngân

sách địa phương: 130.000 tỷ đồng.

(ii) Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững với mục tiêu

tổng quát: “Thực hiện giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần

tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh

thần, tăng thu nhập của người nghèo giai đoạn 2016-2020”; và mục tiêu cụ

thể: “Góp phần giảm tỷ lệ nghèo cả nước bình quân 1,0%-1,5%/năm; riêng

các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo

quốc gia giai đoạn 2016-2020”. Tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà

nước tối thiểu là 46.161 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương: 41.449 tỷ

đồng; ngân sách địa phương: 4.712 tỷ đồng.

Trong quá trình điều hành, Chính phủ tiếp tục cân đối ngân sách trung ương

để có thể hỗ trợ thêm cho các Chương trình và có giải pháp huy động hợp lý mọi

73

nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện.

Chính phủ tiếp tục rà soát 21 chương trình mục tiêu được ban hành theo

Nghị quyết số 1023/NQ-UBTVQH13 ngày 28 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát

triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020; loại bỏ các mục tiêu, nhiệm

vụ của các chương trình mục tiêu trùng lặp với mục tiêu, nhiệm vụ của Chương

trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia

giảm nghèo bền vững.

3.2.3. Chính phủ ban hành các chính sách triển khai các Nghị quyết của Quốc hội

Triển khai công tác dân tộc theo các Nghị quyết của Quốc hội về các

Chương trình mục tiêu quốc gia, hiện nay, Chính phủ đã ban hành 41 văn bản đề

cập đến văn bản đề cập đến chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân

tộc thiểu số, trong đó, có 15 đề án, chính sách trực tiếp được thể hiện bằng các

quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đáng chú ý là Chương trình 30a theo Nghị

quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền

vững đối với 61 huyện nghèo; Thủ tướng Chính phủ ban hành khoảng 118 văn bản

về phát triển kinh tế và xã hội theo vùng, về hỗ trợ phát triển sản xuất nông lâm

nghiệp, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, giáo dục, y tế, văn hóa…trong đó đáng chú ý là

Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các

xã đặc biệt khó khăn, biên giới, an toàn khu, thôn, bản đặc biệt khó khăn vẫn đang

tiếp tục được triển khai trên cả nước…

3.2.4. Kết quả thực hiện

Sau những nỗ lực thực hiện đường lối của Đảng, chính sách dân tộc của Nhà

nước do Quốc hội quyết định đặc biệt sau nghị quyết 22-NQ/TƯ ngày 27/11/1989

của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội

miền núi, có thể nói hệ thống chính sách triển khai thực hiện của Chính phủ đã được

ban hành khá đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã

hội, giáo dục, đào tạo, quốc phòng, an ninh và được sửa đổi, bổ sung để phù hợp

trong áp dụng với thực tiễn đã có những tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế -

74

xã hội vùng dân tộc miền núi, có sự tăng trưởng và phát triển đáng kể. Hệ thống

chính sách đã tập trung nguồn lực đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt

khó khăn, hỗ trợ dân tộc thiểu số nghèo, cộng đồng dân tộc thiểu số có hoàn cảnh

đặc biệt khó khăn với mức vốn huy động từ nhiều nguồn tăng lên trong đó vốn từ

ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và tăng dần hàng năm; cùng với đó là sự

nghiêm túc triển khai thực hiện chính sách đã nêu của các bộ nghành địa phương

nhằm phát triển toàn diện những vùng dân tộc thiểu số.

Có thể nhận thấy, tình hình miền núi và các vùng dân tộc thiếu số có bước

chuyển tốt. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được Hiến pháp, luật xác định và thể

hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được

củng cố; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tộc thểu số được cải thiện rõ

rệt; công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt, số hộ nghèo giảm; hệ

thống cơ sở vật chất được hình thành và cải thiện, các xã đặc biệt khó khăn có

đường ô tô đến trung tâm xã; mạng lưới điện quốc gia về các xã được đầu tư phát

triển; hệ thống thủy lợi và nước sạch sinh hoạt đã được chú trọng đầu tư phục vụ

sản xuất và đời sống; hoàn thành xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học tiến tới

phổ cập giáo dục trung học cơ sở; các huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa có trường

phổ thông dân tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi; thực hiện chế độ cử tuyển nên

hàng vạn con em các dân tộc thiểu số được đào tạo có trình độ đại học, cao đẳng và

trung học chuyên nghiệp; người nghèo được cấp bảo hiểm y tế, miễn phí khám chữa

bệnh, có trung tâm y tế ở các huyện vùng dân tộc, trạm y tế ở các xã và cán bộ y tế

cơ sở.

Tuy nhiên, qua tổng kết đánh giá từ các hoạt động giám sát của Quốc hội và

các cơ quan của Quốc hội, nhiều khó khăn, thách thức vẫn đặt ra rất nhiều đối với

Việt Nam trong lĩnh vực này. Theo Đề án Tổng thể phát triển kinh tế, xã hội vùng

đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, theo tờ trình số

473/TTr-CP ngày 11/10/2019 của Chính phủ, vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn

là những vùng “lõi nghèo” của cả nước. Một số vấn đề bức xúc trong đời sống của

người dân tộc thiểu số như: Di cư tự phát, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt,

75

... giải quyết chưa hiệu quả.

Thu nhập bình quân của hộ người dân tộc thiểu số ở nhiều nơi chỉ bằng 40-

50% bình quân thu nhập trong khu vực; tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số chiếm 14,6%

nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước; có 10 tỉnh tỷ lệ hộ dân

tộc thiểu số nghèo chiếm trên 90% hộ nghèo của cả tỉnh.

Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số so với mặt bằng

chung vẫn thấp, khó tiếp cận các dịch vụ, khoảng 21% người dân tộc thiểu số trên 15

tuổi chưa đọc thông, viết thạo tiếng Việt;

Tỷ lệ được cấp thẻ BHYT cao nhưng tỷ lệ khám, chữa bệnh thấp. Phòng

khám đa khoa khu vực của các tỉnh miền núi chưa được điều trị nội trú và thanh

toán BHYT; tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám định kỳ mới đạt 71%; tỷ lệ sinh con

tại nhà là 36,3%; trẻ em suy dinh dưỡng là 32%.

Số người không biết nói tiếng dân tộc của mình ngày càng tăng; dân ca, dân

vũ, nhạc cụ truyền thống của nhiều dân tộc thiểu số chỉ được phục dựng khi lễ hội,

ít được diễn ra trong đời sống hàng ngày.

Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số trong cơ quan

nhà nước các cấp có xu hướng giảm.

3.3. Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam về việc thực hiện Công ƣớc

ICERD

3.3.1. Các hình thức giám sát

Khi tiến hành giám sát thực hiện Công ước ICERD với nội dung Việt Nam

tập trung các vấn đề pháp luật về dân tộc thiểu số và việc bảo đảm các quyền của

người dân tộc thiểu số, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội sử dụng năm hình

thức giám sát chủ yếu bao gồm:

i) Quốc hội nghe và xem xét báo cáo của Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối

cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan Quốc hội bầu ra về vấn đề dân

tộc, dân tộc thiểu số. Quốc hội nghe và xem xét báo cáo của Chính phủ về đánh giá

việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ

phát triển kinh tế giai đoạn tiếp theo là nội dung cơ bản trong các chương trình làm

76

việc. Căn cứ vào kết quả xem xét, thẩm định các báo cáo của Chính phủ, Quốc hội

sẽ có cơ sở đưa ra các quyết nghị về việc vấn đề Chính phủ cần tập trung điều chỉnh

thực hiện; về điều chỉnh phân bổ ngân sách nhà nước kịp thời, hợp lý, phục vụ mục

tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam.

ii) Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện chất vấn tại các phiên

họp của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Hoạt động chất vấn tại kỳ họp của Quốc hội liên quan đến dân tộc thiểu số,

phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là một bước tiến dân chủ trong thực hiện

quyền lực của Quốc hội. Qua hoạt động chất vấn, giải trình, Quốc hội, Ủy ban Thường

vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc đánh giá được tình hình Chính phủ thực hiện các Nghị

quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội như thế nào, trách nhiệm của các chủ

thể chịu chất vấn ra sao, có phương hướng giải quyết những vướng mắc trong giai đoạn

tiếp là gì, vân vân. Hoạt động chất vấn tại nghị trường được tổ chức, thực hiện thường

xuyên hơn trong khoảng thời gian từ hai đến ba ngày làm việc mỗi kỳ họp nay đã đi

vào nền nếp, có lịch trình cụ thể nên đối tượng chịu sự chất vấn của Quốc hội sẽ thấy rõ

hơn trách nhiệm của mình trên mỗi cương vị của mình. Trong khóa XIV, Quốc hội đã

tiến hành các phiên chất vấn với các nội dung đa dạng như giáo dục; y tế; an ninh, trận

tự, an toàn xã hội; văn hóa, thể thao và du lịch; môi trường, tín dụng. Nội dung chất

vấn có tính bao hàm các mặt của đời sống xã hội nói chung, đồng thời cũng có tác động

mạnh mẽ đến dân tộc thiểu số.

Giữa hai kỳ họp thường kỳ mỗi năm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc

hội cũng tiến hành hoạt động chất vấn tại một số phiên họp thường kỳ.

Trong nhiệm kỳ Khóa XIII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã tiến hành

năm phiên chất vấn tại phiên họp thường kỳ, chiếm tổng số 10% số phiên họp của

Ủy ban. Nội dung của các phiên chất vấn tập trung và các vấn đề nổi lên trong đời

sống kinh tế - xã hội của người dân nói chung và người dân tộc thiểu số nói riêng

như y tế, lao động - việc làm, đổi mới - cải cách giáo dục bệnh thành tích trong

ngành giáo dục, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc khai thác tài

nguyên, thiên nhiên để đảm bảo môi trường và trong việc cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất đai gây lãng phí dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo và công tác

77

giải quyết khiếu nại, tố cáo của ngành tư pháp.

iii) Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tổ chức các phiên

giải trình về việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

liên quan đến công tác dân tộc nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng. Đây cũng được

coi là một bước tiến dân chủ trong thực hiện quyền lực của Quốc hội.

Để đảm bảo chính sách dân tộc bảo đảm các quyền cơ bản cho người dân tộc

thiểu số, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Hội đồng Dân tộc cũng đã tổ chức

nhiều các phiên giải trình, các hội nghị, hội thảo có sự tham gia của các Bộ, ban,

ngành liên quan để nắm tình hình thực hiện pháp luật, các nghị quyết của Quốc hội

liên quan, đồng thời tiếp nhận những ý kiến phản hồi từ các cơ quan thực hiện pháp

luật, góp phần hoàn thiện các quy định hiện hành còn thiếu sót, hoặc khó triển khai

trong thực tế. Từ kết quả của hoạt động nghe giải trình, Quốc hội, các cơ quan của

Quốc hội sẽ có những báo cáo đưa ra các kiến nghị giúp hoàn thiện khung pháp lý

tạo điều kiện thuận lợi trong triển khai các chính sách phát triển người dân tộc thiểu

số. Ví dụ, trong khóa XIII, Hội đồng Dân tộc đã tổ chức chủ trì thành công các

phiên giải trình về “Thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với

các dân tộc rất ít người; thực trạng và giải pháp cho giai đoạn 2012-2020” năm

2013. Sau phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc đã có báo cáo trong đó nêu rõ những

bất cập, tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã

hội đối với dân tộc rất ít người; đồng thời đưa ra ba nhóm kiến nghị gửi đến Quốc

hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội (hai kiến nghị), Chính phủ và các Bộ ngành

trung ương (mười hai kiến nghị và đối với các tỉnh có dân tộc rất ít người (năm kiến

nghị) để tiếp thu, điều chỉnh trong quá trình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện

chính sách liên quan đến dân tộc thiểu số. Các bộ, ngành trung ương và địa phương

đã tập trung chỉ đạo đối với công tác quản lý, tổ chức thực hiện chính sách và đề

xuất xây dựng chính sách dân tộc cho giai đoạn tiếp theo. Công tác giao kế hoạch

vốn để thực hiện các chính sách dân tộc đã được thực hiện tạo điều kiện cho Ủy ban

Dân tộc và tổ chức thực hiện các chính sách, địa phương đẩy nhanh tiến độ triển

khai chính sách.

Từ kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện

78

chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc

thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018”, theo đề nghị của Đoàn giám sát của

UBTVQH, ngày 30/8/2019, HĐDT đã tổ chức Phiên giải trình về “Việc thực hiện

chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số

nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 – 2018” .

Phiên giải trình nhằm đánh giá kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế trong việc

thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân

tộc thiểu số và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2018;

xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương; trên cơ sở đó

kiến nghị, đề xuất giải pháp trong giai đoạn tiếp theo. Kết quả phiên giải trình góp

phần hoàn thiện báo cáo giám sát chuyên đề của UBTVQH. Đồng thời, cung cấp

thêm thông tin, những luận chứng làm cơ sở cho thành viên HĐDT thực hiện thẩm

tra “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi” do

Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, khóa XIV.

iv) Triển khai các hoạt động khảo sát tại các địa phương có dân tộc thiểu số.

Hoạt động khảo sát được tổ chức hàng năm đến các địa phương có người dân

tộc thiểu số. Sau khảo sát, Hội đồng Dân tộc sẽ có báo cáo và các kiến nghị hoàn thiện

khung pháp luật để việc thực thi chính sách về phát triển và bảo đảm các quyền của

người dân tộc thiểu số được hiệu quả hơn. Ví dụ, trong khuôn khổ hoạt động hợp tác

giữa HĐDT với Bộ Giáo dục – Đào tạo và Unicef Việt Nam năm 2019, từ ngày 3-

8/3/2019, HĐDT đã tiến hành khảo sát tại các địa phương Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái,

Tuyên Quang để thu thập, nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện chương trình chính

sách liên quan đến phân luồng giáo dục trung học cơ sở tại các địa phương nhằm cung

cấp tình hình thực tế để hoàn chỉnh báo cáo đánh giá.

v) Tiếp nhận đơn thư về khiếu nại, tố cáo của nhân dân là những hình thức

giám sát được Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội thực hiện thường xuyên.

Thường trực HĐDT phối hợp với Ban Dân nguyện trong công tác tiếp nhận,

xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng báo cáo “Sơ kết 05 năm

thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 26/5/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường sự

79

lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”.

Trong năm 2019, HĐDT tiếp nhận 72 đơn thư thông qua các cuộc tiếp xúc

cử tri, từ phía công dân gửi qua đường bưu điện đến Hội đồng Dân tộc. Căn cứ chức

năng, nhiệm vụ được giao, các đơn thư gửi đến đều được Thường trực HĐDT chỉ

đạo nghiên cứu, xử lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Công tác xem xét báo cáo tình hình tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu

nại, tố cáo của cử tri là nội dung giám sát thường xuyên của Quốc hội và Ủy ban

Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban.

Ở cấp giám sát tối cao, qua nghe và xem xét báo cáo, đặc biệt là với nội dung

giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể

ban hành nghị quyết thành lập đoàn giám sát đối với những nội dung theo quy định

của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật khiếu nại

tố cáo, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tiếp nhận,

nghiên cứu, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc giải quyết khiếu

nại tố cáo.

Theo lĩnh vực, Hội đồng Dân tộc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo qua các

đợt tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp của Đại biểu thành viên Hội đồng Dân

tộc, qua các đợt giám sát, khảo sát triển khai tại các vùng dân tộc thiểu số. Trên cơ

sở các nội dung đơn, ý kiến của người dân, Vụ Dân tộc theo sự chỉ đạo của Hội

đồng Dân tộc phân loại, nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết và chuyển đơn thư

đến Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan liên quan.

Đồng thời theo sát, thường xuyên các cơ quan liên quan trong công tác xây dựng,

ban hành và tổ chức, thực hiện chính sách dân tộc đảm bảo đúng chủ trương, đường

lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, mang lại hiệu quả thiết thực

trong phát triển kinh tế, xã hội của đồng bào.

Qua tổng kết thực tiễn, Hội đồng Dân tộc cũng đưa nhiều kiến nghị liên quan

đến tình trạng công dân gửi đơn thư vượt cấp hoặc cùng một vấn đề mà gửi nhiều

cơ quan, đơn vị, thậm chí là cho các lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Điều này gây ra

những vướng mắc về thẩm quyền tiếp nhận và xử lý đơn. Tuy nhiên, Hội đồng nhận

80

thấy, những đơn, thư khiếu nại của cử tri người dân tộc thiểu số cần có sự quan tâm

giải quyết các vụ việc có tính bức xúc một cách khẩn trương, cụ thể và dứt điểm,

tránh tình trạng kéo dài dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Đồng thời, Hội đồng kiến nghị cần

tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng và các Ủy ban của Quốc hội về công

tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; các cơ quan, ban, ngành cần quan tâm hơn

đến vấn đề này.

Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là Hội đồng Dân tộc, với tư

cách là cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm liên quan chính tới vấn đề dân tộc

thiểu số của Quốc hội bằng những cách thức thực hiện giám sát luật định đã có

những đánh giá tiệm cận các vấn đề còn tồn đọng như:

- Quy trình xây dựng các chính sách dân tộc còn nhiều bất cập trong các khâu

phát hiện vấn đề, nắm bắt nhu cầu thu thập thông tin, phương pháp xây dựng nội

dung chính sách, sự kiểm nghiệm, điều chỉnh, ban hành, nguồn lực đầu tư; thời gian

xây dựng ngắn, nhân lực và kinh phí thu thập thông tin, khảo sát thực tế còn hạn

chế, thiếu cơ chế huy động các chuyên gia có kinh nghiệm trong các lĩnh vực và

người dân tham gia xây dựng chính sách… do đó, hệ thống chính sách có tính ổn

định không cao, chưa quy định cơ chế tài chính đảm bảo thực hiện, (ví dụ: trong

nông nghiệp, thiếu hành lang pháp lý quản lý sử dụng đất đái, rừng gắn với việc sử

dụng đất, rừng truyền thống của vùng cao, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, hiệu

lực pháp lý thấp; một số chính sách không phù hợp với miền núi (ví dụ: một số nội

dung sách giáo khoa chưa thật sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, trình độ tiếng

Việt của học sinh vùng dân tộc thiểu số) nên chưa tạo ra cơ chế hữu hiệu để triển

khai thực hiện chính sách dân tộc có hiệu quả; chưa bảo đảo quy trình áp dụng

chung, thống nhất trong quá trình chỉ đạo điều hành của các cơ quan nhà nước;

- Hệ thống chính sách dân tộc mang tính ngắn hạn, chủ yếu giải quyết tình

thế, thiếu định hướng trung hạn, chưa có cơ chế khuyến khích xã hội hóa đầu tư,

chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết

việc làm và các chính sách tạo điều kiện để phát huy nội lực của cộng đồng các dân

tộc thiểu số; chưa có sự kết nối giữa chính sách đối với vùng miền và chính sách đối

81

với nhóm dan tộc, từng dân tộc;

- Các mục tiêu của các chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách lớn nhưng

kinh phí đầu tư hạn chế chưa đáp ứng được do chưa coi trọng đầu tư cho vùng dân tộc

thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển của quốc gia, trong khi chỉ dựa vào nguồn

vốn của trung ương phân bổ mà không thể huy động nguồn vốn tại địa phương nên

hiệu quả đạt được không cao, bình quân chỉ từ 40% - 60% kế hoạch.

- Chưa có chế độ, chính sách phù hợp trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi

dưỡng sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đối

vớ từng vùng, miền, địa phương;

- Chưa có cơ chế đảm bảo để công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các chính

sách dân tộc được thực hiện đường xuyên hiệu quả.

Những nhận định từ kết quả giám sát thực hiện chính sách dân tộc thiểu số

giúp hệ thống chính trị phải cải tiến mạnh mẽ trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung để

có hành lang pháp lý phù hợp; xây dựng, triển khai các chương trình, đề án có tính

tập trung, mang tính khả thi hơn, đem lại hiệu quả như mục tiêu đề ra thay vì xây

dựng nhiều chương trình, kế hoạch mà lại không thể bảo đảm nguồn vốn, gây chồng

chéo về mặt quản lý nhà nước. Cụ thể, năm 2015, Quốc hội khóa XIII đã ra Nghị

quyết số 100/NQ-QH13 ngày 12/11/2015 về Chương trình mục tiêu Quốc gia giai

đoạn 2016-2020 với số lượng chỉ là hai chương trình thay vì 16 chương trình phát

triển như trong Nghị quyết số 13/2011/QH13 ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Quốc

hội nhằm tập trung, thống nhất trong quản lý nhà nước và trong thực hiện.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, hoạt động giám sát của cơ quan quyền

lực cao nhất trong hệ thống chính trị của Việt Nam trong thực hiện các chính sách

phát triển vùng dân tộc thiểu số đã đóng góp chung vào sự hoàn thiện hệ thống pháp

lý, tác động vĩ mô và quá trình phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống tinh thần

người dân khu vực này. Song với góc nhìn tổng thể hơn trong mối liên hệ với Công

ước ICERD, Quốc hội chưa có một chương trình giám sát chuyên biệt về việc thực

hiện Công ước này của Việt Nam. Điều này một phần do khẳng định của Nhà nước

về việc không có tình trạng phân biệt chủng tộc nên những biểu hiện thực hiện

82

Công ước ICERD là việc xây dựng, ban hành, và thực hiện các chính sách phát triển

vùng dân tộc thiểu số, vùng miền núi để đảm bảo sự bình đẳng về các quyền chính

trị, kinh tế, … của người dân tộc thiểu số.

Từ các hoạt động giám sát, Quốc hội và các thiết chế của Quốc hội có thể

đánh giá được hiệu quả hoạt động của chính mình trong việc thực hiện chức năng

lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đồng thời, giúp

những đối tượng chịu sự giám sát có các động thái chuyển biến tích cực, hiệu quả

hơn trong hoạt động của mình. Mục đích nhằm bảo đảm chính sách dân tộc thiểu số

được giữ đúng theo định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường dân

chủ, sự bình đẳng về quyền của người dân tộc thiểu số trong đời sống chính trị, kinh

tế, văn hóa và tinh thần giúp ổn định cuộc sống, góp phần quan trọng cho hòa bình,

ổn định của đất nước.

3.3.2. Giám sát thực hiện nghĩa vụ thành viên của Công ước ICERD

Nộp báo cáo đúng kỳ, có chất lượng là một trong số nghĩa vụ quan trọng nhất

của quốc gia thành viên của Công ước ICERD. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đại

diện Quốc hội đã luôn đồng hành, tham gia đóng góp ý kiến, thực hiện chức năng

của mình để đảm bảo Báo cáo đáp ứng đầy đủ yêu cầu về chất lượng, thời hạn theo

quy định của Công ước ICERD và không vi phạm Hiến pháp của Việt Nam.

Báo cáo giai đoạn liền trước do Đoàn bảo vệ Báo cáo của Việt Nam trình bày

và bảo vệ tại Liên hợp quốc được Ủy ban CERD đánh giá: ngắn gọn, đầy đủ nội

dung. Báo cáo của Đoàn Việt Nam đã nhận được nhiều tình cảm tốt đẹp. Nhiều

thành viên của Ủy ban Công ước bày tỏ khâm phục, ngưỡng mộ về lịch sử đất nước,

về đoàn kết dân tộc, vui mừng với thắng lợi của Việt Nam trong đấu tranh chống

ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và chúc mừng các thành tựu

Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới, nhất là tăng trưởng kinh tế, xóa đói

giảm nghèo, nhất là đối với các dân tộc thiểu số.

Hiện nay, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đã và tiếp tục có những đóng góp

ý kiến chất lượng, đảm bảo nội dung của Báo cáo giai đoạn mới (2012-2018): rà

soát lại các khuyến nghị và phản hồi của Việt Nam liên quan đến Báo cáo liền

83

trước; soạn thảo đề cương báo cáo; soạn thảo, xem xét báo cáo hoàn thiện. Hội đồng

Dân tộc với tư cách là cơ quan giám sát của Quốc hội đã tham gia góp ý bằng văn

bản hoặc trực tiếp tham gia các hội thảo xin ý kiến xây dựng Báo cáo.

3.3.3. Giám sát thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Các hoạt động giám sát về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Ủy

ban Thường vụ Quốc hội được triển khai theo kế hoạch hằng năm thông qua sự

đóng góp ý kiến của các thiết chế của Quốc hội.

Những nội dung chính sách phát triển kinh tế, xã hội đối với người dân tộc

thiểu số và vùng dân tộc thiểu số nhằm hướng tới sự bình quyền của người dân tộc

thiểu số, người dân tộc thiểu số rất ít người trong xã hội; đảm bảo họ được hưởng

đầy đủ các quyền về chính trị, kinh tế-xã hội và các quyền dân sự.

i) Hoạt động giám sát với bảo đảm quyền chính trị cho người dân tộc thiểu số

Hiến pháp năm 2013 được đánh giá là sự phát triển đột phá trong tư duy,

đường lối, chính sách của Việt Nam bằng việc dành riêng Chương II quy định về

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, “Công dân đủ

mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền

ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân”. Điều này khẳng định rằng, mọi công

dân Việt Nam, không phân biệt thành phần xã hội, giới tính, xuất thân, nguồn gốc,

dân tộc đều có quyền bầu cử khi đủ 18 tuổi và có quyền ứng cử khi đủ 21 tuổi’’ [13,

Điều 17]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng đất nước Việt

Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng.

Năm 2016 Việt Nam tiến hành đợt bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng

nhân dân các cấp đầu tiên, thực hiện những quy định đã đề ra trong bản Hiến pháp

mới có hiệu lực năm 2013 có hiệu lực được hơn một năm. Khi đó, Ủy ban Thường

vụ Quốc hội khóa XII đã Nghị quyết số 1135/2016/UBTVQH13 dự kiến số lượng,

cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội khóa XIV. Nghị quyết có nêu: Đại biểu là

người dân tộc thiểu số phải có ít nhất là 162 người, tức 18% tổng số người trong

danh sách ứng cử; và ít nhất 90 đại biểu, bằng 18% tổng số đại biểu Quốc hội trúng

cử. Nội dung quy định định hướng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho

84

người dân tộc thiểu số có được sự công bằng về cơ hội trong việc tham gia vào các

hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng tại cơ quan quyền

lực cao nhất của đất nước.

Cùng với việc ban hành Nghị quyết 1135, để đảm bảo cuộc bầu cử diễn ra tốt

đẹp, bảo đảm dân chủ, công bằng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành

Kế hoạch số 1054/KH-UBTVQH13 ngày 05/03/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc

hội giám sát, kiểm tra công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại

biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, trong đó có nêu nội dung làm

việc của các Đoàn giám sát cần đảm bảo là yếu tố “thỏa thuận cơ cấu” trong các kết

quả hiệp thương, giới thiệu đại biểu ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng

nhân dân các cấp và công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bầu cử,

thực hiện quyền và nghĩa vụ chính trị hiến định của mình.

Kết quả cuộc bầu cử với 99,35% cử tri cả nước tham gia bầu cử. Trong đó,

đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số chiếm 17,3%, cơ bản đạt mục tiêu đề ra

theo Kế hoạch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII.

Có thể nói, Kế hoạch dự kiến số lượng đại biểu quốc hội và Hội đồng nhân

dân các cấp, đặc biệt về yếu tố cơ cấu thành phần đại biểu người dân tộc thiểu số và

Kế hoạch hoạt động giám sát của Quốc hội trong công tác tổ chức bầu cử đại biểu

Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có ý nghĩa không nhỏ trong việc

đảm bảo cơ hội công bằng cho người dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống các cơ

quan dân cử của Việt Nam.

ii) Hoạt động giám sát của Quốc hội các quyền dân sự của người dân tộc

thiểu số

Trong thời gian qua, quan điểm định hướng của Đảng về “Khuyến khích làm

giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá

đáng về mức sống và trình độ phát triển dân cư” đã được cụ thể hóa bằng hệ thống

văn bản pháp luật về cơ chế chính sách, các chương trình dự án cho việc thực hiện

công tác giảm nghèo nói chung, đặc biệt là đối vói đối tượng là người dân tộc thiểu

số nói riêng.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, những quy

85

định, chính sách pháp luật quy định tại Hiến pháp và nội dung những khuyến nghị

của Ủy ban CERD, Hội đồng Khóa XIII và Khóa XIV đã cụ thể hóa, lồng ghép vào

các chương trình hoạt động giám sát của mình liên quan đến vấn đề dân tộc, dân tộc

thiểu số.

Trong nhiệm kỳ Khóa XII của Quốc hội, Hội đồng dân tộc đã tổ chức 06

cuộc giám sát, thành lập 33 Đoàn đến 56 tỉnh và hàng trăm đơn vị huyện, thị xã, xã,

thị trấn. Hầu hết các Đoàn giám sát đều trực tiếp đến giám sát tại địa bàn thôn, bản

để có được những kết quả thực tế, sinh động, chính xác của vùng miền núi, vùng

dân tộc thiểu số, khu vực biên giới, đặc biệt khó khăn. Để các cuộc giám sát có hiệu

quả, Hội đồng dân tộc đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch, gửi kế hoạch, nội dung, yêu

cầu giám sát đến các cơ quan, bộ, ngành, địa phương. Hội đồng dân tộc thực hiện

quy trình giám sát đối với các bộ, ngành liên quan trước khi tổ chức giám sát tại địa

phương; khi giám sát tại cơ sở, ngoài việc nghe báo cáo, còn tiến hành xét xét trực

tiếp kết quả, gặp gỡ trực tiếp với người dân, đối tượng thụ hưởng. Do đảm bảo công

tác nghiên cứu, chuẩn bị tốt về chương trình, nội dung giám sát, chủ động phối hợp

chặt chẽ với địa phương nên các đợt giám sát luôn đạt kết quả, đảm bảo tiến độ kế

hoạch đề ra.

Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và sự chỉ đạo điều hòa của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội, trong khóa XIII và khóa XIV hiện nay, Hội đồng Dân tộc đã

tổ chức thực hiện các đợt giám sát chuyên đề liên quan đến lĩnh vực thuộc trách

nhiệm và thẩm quyền của mình như: chủ trì phối hợp giám sát tối cao của Quốc hội

khóa XIII; làm đầu mối tổ chức thực hiện giám sát chuyên đề. Kết quả của các đợt

giám sát đã chỉ ra những vấn đề bất cập, tồn tại trong thực hiện chính sách pháp luật

về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, bổ sung trong quá trình sửa

đổi, bổ sung, hoàn thiện một bước về chính sách đất đai tại Luật đất đai năm 2013,

được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao và ban hành Nghị quyết về kết quả

giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào

dân tộc thiểu số”.

Kế tiếp các hoạt động giám sát của Khóa XIII và với tinh thần tiếp tục đổi

86

mới, bổ sung, phát triển trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Hội đồng

Dân tộc đã triển khai giám sát chuyên đề (cụ thể xem phần Phụ lục). Trên cơ sở báo

cáo của các Đoàn giám sát và báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, Thường trực

HĐDT xây dựng dự thảo báo cáo kết quả giám sát chuyên đề, lấy ý kiến các thành

viên HĐDT tại các phiên họp toàn thể; tiếp thu ý kiến thành viên, Thường trực

HĐDT ban hành báo cáo kết quả giám sát, gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các

Đại biểu Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành, cơ quan liên quan.

Hiện nay, Hội đồng Dân tộc đang tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số

538/2018/UBTVQH14 ngày 19/7/2018 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về Chương

trình giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội năm 2019 về “Việc thực hiện chính

sách, pháp luật về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên

địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018”, Hội đồng Dân tộc của

Quốc hội đã được giao chủ trì thực hiện nội dung này trong năm 2019.

Hình ảnh đăng trên Cổng thông tin điện tử của HĐDTcủa Quốc hội ngày 30/8/2019

3.3.4. Giám sát thực hiện các kiến nghị của Ủy ban CERD

Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của quốc gia thành viên, Việt Nam không

thể không quan tâm tới các khuyến nghị của Uỷ ban Công ước CERD đưa ra sau

Báo cáo và phiên bảo vệ Báo cáo lần thứ 10 - 14 của Việt Nam với các nội dung cơ

87

bản như:

- Lồng ghép nội dung Công ước vào nội luật, thông qua một đạo luật hoàn

chỉnh về chống phân biệt chủng tộc và bao hàm toàn bộ các quyền được bảo vệ của

Công ước. Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang tiếp tục tích cực nội luật hóa

nội dung các công ước quốc tế về nhân quyền nói chung và Công ước ICERD nói

riêng. Tuy nhiên, đến nay, các chính sách, hỗ trợ sự phát triển đối với dân tộc thiểu

số quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau mà chưa có luật

riêng nào. Do đó, Quốc hội mà chủ thể được trao quyền cụ thể là Hội đồng Dân tộc

của Quốc hội khóa XIV và Ủy ban Dân tộc của Chính phủ đang hướng tới xây dựng

một dự án luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các nội dung

chính như: (1) Chính sách giảm nghèo, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất,

thương mại, ứng dụng kỹ thuật, khoa học - công nghệ; (2) Chính sách hỗ trợ bảo tồn

và phát triển văn hóa, y tế, dân số, bình đẳng giới, giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân

cận huyết thống; (3) Chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục, đào tạo, dạy nghề, giải

quyết việc làm; (4) Hỗ trợ nguồn nhân lực, hỗ trợ đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số các cấp; (5) Hỗ trợ thông tin truyền thông, tuyên truyền và vận động, phổ

biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý; (6) Hỗ trợ bảo vệ môi trường sinh thái,

phát triển du lịch, thể thao; (7) và một số chính sách đặc thù như quy định về đại hội

đại biểu các dân tộc thiểu số; chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân

tộc thiểu số, vân vân.

- Việc ban hành Luật này giúp tăng cường nỗ lực tuyên truyền phổ biến kiến

thức về nội dung các công ước quốc tế về nhân quyền và đặc biệt Công ước ICERD

với nội dung tập trung nhiều bảo vệ các quyền của người dân tộc thiểu số trên phạm

vi rộng rãi.

- Qua rà soát đánh giá tính minh bạch của công tác khiếu nại và xây dựng cơ

chế xử lý đơn thư khiếu nại độc lập và hiệu quả, Hội đồng Dân tộc đã có những

kiến nghị tới thủ trưởng các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần quan tâm, chỉ

đạo sát sao hơn công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nghiêm

túc, hiệu quả hơn.

- Tiếp tục triển khai các điều khoản chống phân biệt hiện hành, điều tra và

88

xét xử nghiêm minh các hành vi vi phạm có động cơ chủng tộc; rà soát các văn bản

pháp luật hiện hành, phát huy các hiệu lực của văn bản này phù hợp với nội dung

Công ước; xem xét sửa đổi Bộ Luật hình sự nhằm bảo vệ người dân tộc thiểu số có

thể là đối tượng phân biệt chủng tộc.

- Những đóng góp ý kiến bổ sung sửa đổi luật, pháp lệnh liên quan đến nội

dung về dân tộc thiểu số, qua đợt giám sát chuyên đề của Hội đồng Dân tộc về

các nội dung đa dạng, bảo đảm chính sách nhằm nỗ lực chống đói nghèo, các

nhóm thiểu số được thụ hưởng các quyền văn hoá - xã hội và kinh tế; thụ hưởng

bình đẳng về giáo dục như áp các chương trình giáo dục song ngữ cho trẻ em dân

tộc ít người và đào tạo giáo viên người Kinh bằng tiếng địa phương, cho phép

dạy và sử dụng tiếng dân tộc làm phương tiện giảng dạy; đảm bảo đất ở và đất

sản xuất cho người dân tộc thiểu số;

- Đến nay, Quốc hội Việt Nam đã xem xét phê chuẩn, gia nhập nhiều công

ước quốc tế quan trọng liên quan đến dân tộc thiểu số như: Hiến Chương Liên hợp

quốc 1945 (Việt Nam là thành viên của LHQ tháng 9 năm 1977); Công ước quốc tế

về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982); Công ước

quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (VN gia nhập năm 1982);

Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (VN phê chuẩn năm 1990); Công ước về xóa

bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (Việt Nam gia nhập năm 1981);

Công ước chống phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp năm 1958 (Việt

Nam gia nhập năm 1997); Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ

nữ (CEDAW) năm 1981 (Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký tham gia

vào năm 1980) và đặc biêt gần đây nhất là Công ước số 98 (ILO) về Quyền tổ chức

và thương lượng tập thể năm 1949 (đây là một trong những công ước cơ bản của Tổ

chức lao động thế giới vàViệt Nam phê chuẩn tháng 6/2019).

Bên cạnh đó, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc và ASEAN, Việt

Nam cũng cam kết những nội dung liên quan nhân quyền cho công dân nói chung

và dân tộc thiểu số nói riêng như Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc năm

1948; Tuyên bố về quyền của những người thuộc dân tộc thiểu số hoặc chủng tộc,

89

tôn giáo và ngôn ngữ thiểu số năm 1992 (Nghị quyết Đại hội đồng Liên hợp quốc

số 47/135, 18/12/1992); Tuyên ngôn về đa dạng văn hóa năm 2001 (Nghị quyết của

UNESCO); Hiến chương ASEAN 2007, Tuyên ngôn nhân quyền 2012. Việc ký gia

nhập, gia nhập, phê chuẩn của Việt Nam đối với các Công ước quốc tế nói trên thể

hiện chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam muốn làm bạn với các nước trên

thế giới đồng thời cũng khẳng định quyết tâm thực hiện những chính sách phát triển

cho dân tộc thiểu số nhằm bảo đảo quyền và lợi ích của họ.

- Việc xây dựng báo cáo định kỳ 2012-2018, đơn vị chủ trì xây dựng báo cáo

là Ủy ban Dân tộc của Chính phủ đã tổ chức các hội thảo xin ý kiến tham vấn đóng

góp của ngoài các cơ quan hữu quan của các bộ, ban, ngành còn có sự tham gia của

tổ chức hoạt động về nhân quyền ở Việt Nam như Tổ chức CARE quốc tế, Tổ chức

Action Aids …

Theo những khuyến nghị của Ủy ban CERD trên cơ sở báo cáo của Việt

Nam về tình hình thực hiện Công ước ICERD, hệ thống thể chế, các thiết chế thực

hiện, các chính sách ban hành và được thực hiện nghiêm túc nhằm bảo đảm bình

đẳng đối với người dân tộc thiểu số trước tòa án và các cơ quan xét xử, quyền chính

trị, quyền kinh tế, xã hội và các quyền dân sự khác, cơ bản đáp ứng với các yêu cầu

nêu trong khuyến nghị. Tuy nhiên, qua hoạt động giám sát của Quốc hội đối với

việc thực hiện chính sách phát triển mọi mặt của đời sống mà Việt Nam triển khai,

thực hiện đối với dân tộc thiểu số hiện này còn cho thấy nhiều vướng mắc cần tiếp

tục có những biện pháp giải quyết.

3.3.5. Kết luận

Lĩnh vực dân tộc có tính đặc thù là liên ngành, đa lĩnh vực chi phối nội dung

của chính sách dân tộc, các chính sách dân tộc liên quan đến nhiều vấn đề mà nhu

cầu phát triển của cộng đồng đặt ra về kinh tế, văn hóa, xã hội, con người … nên

gặp nhiều khó khăn trong hoạch định, xây dựng chính sách. Bên cạnh đó, có nhiều

đạo luật chuyên ngành, đến nay là 66 luật gồm: Luật đất đai, Luật bảo vệ và phát

triển rừng, Luật bảo hiểm y tế, Luật di sản văn hóa, Luật giáo dục, Luật chăm sóc

sức khỏe và bảo vệ trẻ em…; hơn 200 văn bản dưới luật tham gia điều chỉnh đối với

90

vùng dân tộc thiểu số và vùng miền núi nhưng không có một văn bản nào quy định

một cách toàn diện, đầy đủ, đồng bộ các chính sách dân tộc nên không tránh khỏi sự

chồng chéo và mâu thuẫn.

Vậy có nên chăng việc Việt Nam cũng có một ủy ban giám sát chuyên trách

quốc gia thuộc Quốc hội Việt Nam như một số nước trên thế giới (hoặc một cơ

quan thanh tra của Quốc hội hay còn gọi là Ombudsman)?

Triển khai các hoạt động về thực hiện chính sách dân tộc thiểu số, vốn là vấn

đề được nêu chủ đạo trong các Báo cáo thường kỳ của Việt Nam gửi Ủy ban ICERD

là nội dung thuộc thẩm quyền của Hội đồng Dân tộc phụ trách. Nhưng theo quy định

của Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, thẩm quyền giám sát thực thi điều ước quốc tế

lại được giao cho Ủy ban Đối ngoại như một cách thức chuyên môn hóa hoạt động của

các cơ quan của Quốc hội. Chính sách phát triển dân tộc thiểu số, vùng miền núi bao

gồm về văn hóa, xã hội, y tế, bình đẳng giới… lại thuộc thẩm quyền của Ủy ban Văn

hóa và Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát hay vấn

đề đầu tư cơ sở hạ tầng, phân bổ, giám sát nguồn vốn thực hiện lại do Ủy ban Tài chính

- Ngân sách của Quốc hội thực hiên… Rõ ràng nhận ra rằng, khi triển khai hoạt động

giám sát về nội dung thuộc thẩm quyền, Hội đồng Dân tộc không thể không có những

sự phối hợp, mời tham gia các Ủy ban hữu quan dẫn tới thiếu tính chủ động trong triển

khai thực hiện chức năng giám sát của mình.

Theo quy định của việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên, như đã nêu ở những phần trên, việc xây dựng kế hoạch thực hiện là khâu quan

trọng không thể thiếu. Nhưng cho đến nay, một kế hoạch thực hiện Công ước

ICERD riêng chưa được các cơ quan chức năng tổ chức xây dựng dẫn đến các hoạt

động giám sát thực hiện Công ước này của Hội đồng Dân tộc chỉ có thể tập trung

tiến hành giám sát việc ban hành, tổ chức thực hiện các chương trình, đề án phát

triển vùng dân tộc thiểu số, vùng miền núi của cơ quan hành pháp trong việc ban

hành. Do vậy, Quốc hội và các thiết chế của Quốc hội khó có thể hoặc trực tiếp hợp

tác tiến hành giám sát hoặc lập ra một Ủy ban lâm thời thực hiện giám sát việc thực

hiện Công ước ICERD. Đây cũng là một khó khăn, vướng mắc chung trong việc

thực hiện và giám sát thực hiện các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

91

Tất nhiên, tình trạng thiếu kế hoạch thực hiện một điều ước cụ thể mà Việt Nam đã

và đang là thành viên trong nhiều năm nay cũng do thiếu vắng sự tập trung quan

tâm của Quốc hội và các cơ quan của mình.

Bên cạnh đó, hàng năm các thiết chế của Quốc hội thường căn cứ theo

chương trình, nội dung giám sát theo Nghị quyết của Quốc hội để xây dựng các hoạt

động giám sát của mình. Điều này không có tác động tích cực tới tính chủ động

trong nội dung giám sát của cơ quan chuyên môn trong việc xác định nội dung giám

sát; xây dựng, ban hành và thực hiện kế hoạch giám sát. Ngày nay, khi chức năng

giám sát của Quốc hội được cho là cần đẩy mạnh, tăng cường, nâng cao hiệu quả thì

cơ chế về tài chính để thực hiện các hoạt động giám sát của Quốc hội và cơ quan

của Quốc hội chưa được quy định rõ ràng. Nguồn kinh phí chi cho hoạt động giám

sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội vẫn hòa chung nguồn xây dựng pháp

luật. Qua quan sát thực tiễn hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội, các cơ

quan của Quốc hội, nguồn kinh phí phân bổ cho toàn bộ một chương trình giám sát

theo kế hoạch theo nhiệm kỳ hoặc theo từng năm là không có mà chỉ dừng lại ở chỗ

từng cuộc, đợt giám sát diễn ra, thực hiện hết bao nhiêu kinh phí thì đưa vào nguồn

hoạt động lập pháp của Quốc hội hoặc của các cơ quan của Quốc hội. Điều này

khiến cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của các thiết chế này mang

tính trìu tượng, chung chung.

Việc giám sát của Quốc hội hiện nay mới chỉ dừng ở mức nghe báo cáo của

Chủ tịch nước, Chính phủ hàng năm về việc đàm phán, ký, gia nhập điều ước quốc

tế nói chung hoặc nghe Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đọc báo cáo thẩm tra về

việc ký kết, gia nhập thực hiện hoặc như ở trên đã phân tích, Quốc hội và các thiết

chế của Quốc hội chỉ thực hiện giám sát thực hiện nội dung liên quan đến Công ước

mang tính vấn đề quốc gia chứ chú ý nhiều là vai trò của một quốc gia thành viên

khi triển khai thực hiện Công ước.

3.4. Kiến nghị giải pháp nâng cao chất lƣợng giám sát của Quốc hội trong việc

thực hiện các quy định của Công ƣớc ICERD

Tăng cường chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện

điều ước quốc tế về nhân quyền trong đó có Công ước ICERD là đòi hỏi khách

92

quan trong bối cảnh hội nhập quốc tế khi Việt Nam với chính sách hội nhập sâu,

rộng đã, đang và sẽ tiếp tục ký kết các điều ước quốc tế. Giám sát của Quốc hội là

hoạt động đặc biệt quan trọng để có thể đưa ra những nhận định sau cùng về hiệu

quả thực tiễn thực hiện bất kỳ điều ước nào. Trên cơ sở đó, Quốc hội mới có thể rà

soát, hoàn thiện thể chế phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên đồng thời bảo đảm ba yếu tố: độc lập, tự chủ mà vẫn hội nhập của Việt Nam;

xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì

dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của điều ước quốc tế.

Tăng cường năng lực giám sát của Quốc hội trong thực hiện Công ước

ICERD bên cạnh việc phải đảm bảo các đòi hỏi nêu trên. Ngoài ra, sự giám sát của

Quốc hội về trong lĩnh vực các quyền cho người dân tộc thiểu số còn đòi hỏi Quốc

hội và các cơ quan được trao quyền thực hiện chức năng giám sát của mình phải

đảm bảo giữ vững được sự hòa hợp, thống nhất của các dân tộc thiểu số vì sự ổn

định, công bằng của các dân tộc thiểu số và rộng hơn là nền hòa bình và phát triển

của đất nước.

Xét thực trạng tình hình thực hiện Công ước của một số quốc gia trên thế

giới và của Việt Nam, thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam về

việc thực hiện Công ước này, tác giả xin nêu một số khuyến nghị nhằm nâng cao

hiệu lực của Công ước ICERD và hiệu quả hoạt động của Quốc hội như sau:

3.4.1. Nâng cao hiệu lực của Công ước ICERD bằng việc giãn thời gian thực

hiện báo cáo quốc gia

Theo quy định tại khoản b, Điều 9 của Công ước ICERD: “Các Quốc gia

thành viên cam kết sẽ trình lên Tổng Thư ký Liên hợp quốc một báo cáo về các biện

pháp lập pháp, hành chính, tư pháp, cũng như các biện pháp khác mà họ đó thông

qua nhằm thực hiện các điều khoản của Công ước này để Ủy ban đánh giá: (b) Sau

mỗi giai đoạn hai năm và bất cứ khi nào Ủy ban yêu cầu. Ủy ban cũng có thể yêu

cầu các Quốc gia thành viên cung cấp thêm các thông tin khác có liên quan” (States

Parties undertake to submit to the Secretary-General of the United Nations, for

consideration by the Committee, a report on the legislative, judicial, administrative

or other measures which they have adopted and which give effect to the provisions

93

of this Convention: (b) thereafter every two years and whenever the Committee so

requests. The Committee may request further information from the States Partie”

[49, Điều 9].

Xét về mặt quy định, sau mỗi hai năm, quốc gia thành viên có nghĩa vụ nộp

báo cáo để Ủy ban CERD và cao hơn là cơ quan của Liên hợp quốc về quyền con

người có thể nắm được thông tin cập nhật, chính thống từ phía các quốc gia thành

viên, nâng cao hiệu lực của Công ước và hiệu quả hoạt động của Ủy ban CERD.

Tuy nhiên, theo ba báo cáo gần đây nhất số A/72/18, A/73/18 và A/74/18 từ

tháng 8/2016 đến tháng 05/2019 của Ủy ban CERD, số quốc gia thành viên chậm

báo cáo từ 05 năm trở lên luôn chiếm tỷ lệ ngày càng cao ở mức trên 30% tổng số

181 thành viên của Công ước ICERD, cụ thể như sau:

Bảng tổng hợp báo cáo quá hạn

46

50

44

39

40

30

22

18

17

20

10

0

A/72/18

A/73/18

A/74/18

Số quốc gia quá hạn báo cáo từ 10 năm trở lên

Số quốc gia quá hạn báo cáo từ 05 năm trở lên

Bên cạnh đó, đối với các nước thực hiện nghĩa vụ báo cáo thường xuyên hơn

cũng rất hiếm quốc gia, vùng lãnh thổ thành viên nào có thể xây dựng báo cáo

thường kỳ đều với thời gian hai năm một lần. Phần lớn các quốc gia lồng ghép

nhiều kỳ vào một một bản báo cáo, có nước ghép tới bảy giai đoạn vào một báo cáo,

ví dụ như Latvia năm 2017 có báo cáo gộp lần thứ 6 đến 12 về tình hình thực hiện

Công ước ICERD. Với Việt Nam, qua theo dõi của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội,

ngoài báo cáo ban đầu theo quy định của khoản a Điều 9 của Công ước, thì thường

cũng gộp bốn đến năm kỳ trong một báo cáo nộp Ủy ban CERD (Việt Nam nộp báo

94

cáo các năm 1983, 1993, 2000, 2012) và đang chuẩn bị báo cáo bốn kỳ tiếp theo để

dự kiến nộp và bảo vệ báo cáo năm 2020.

Để nâng cao hiệu lực của Công ước ICERD trong thực hiện cơ chế định kỳ

phổ quát, tác giả xin nêu ra những kiến nghị liên quan như:

Một là, giãn thời gian xây dựng, nộp báo cáo thường kỳ. Việc kéo dài thời

gian xây dựng báo cáo giúp các thành viên Công ước có nhiều điều kiện thuận lợi

hơn về mặt thời gian, kinh phí để xây dựng báo cáo, đồng thời cũng làm tăng hiệu

lực của các quy định về thời hạn báo của Công ước ICERD.

Hai là, xây dựng hệ thống chế tài hành chính đối với những trường hợp nộp

báo cáo muộn hoặc không nộp báo cáo

Theo nguyên tắc Pacta Sunt Servanda, các quốc gia và vùng lãnh thổ phải tự

nguyện tuân thủ luật pháp quốc tế mà cụ thể là quy định trong điều ước quốc tế họ

là thành viên. Hội nhập quốc tế đồng thời mang lại lợi ích và trách nhiệm đối với

mỗi quốc gia. Không thể có thành viên nào tham gia một điều ước quốc tế mà chỉ

được hưởng lợi mà không có nghĩa vụ. Việc các quốc gia thành viên của Công ước

ICERD không tuân thủ nghĩa vụ nộp báo cáo tình hình thực hiện của quốc gia mình

là điều gây ra sự thiếu công bằng trong hoạt động của diễn đàn. Do vậy, các nhà

điều hành, cụ thể là Ủy ban CERD cần có những nghiên cứu, giải pháp ban hành

những chế tài hành chính đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên không

làm tròn nghĩa vụ báo cáo hoạt động.

3.4.2. Hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động giám sát

Rà soát những quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức quốc hội năm 2014,

Luật giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Điều ước Quốc

tế 2016, Nội quy hoạt động của các thiết chế được trao quyền thực hiện giám sát

của Quốc hội về việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền người, đặc biệt liên quan

đến quyền của dân tộc thiểu số và người dân tộc thiểu số. Do hiện nay, Việt Nam

chưa có luật riêng điều chỉnh về vấn đề này nên thẩm quyền thực hiện giám sát của

các cơ quan của Quốc hội trong lĩnh vực này là chưa rõ ràng về mức độ tham gia

hoạt động giám sát. Ví dụ như, liên quan đến việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều

95

ước quốc tế sẽ thuộc sự giám sát thực hiện của Ủy ban Đối ngoại, trong khi Công

ước ICERD điều chỉnh quan hệ giữa các chủng tộc người, giữa các dân tộc, đặc biệt

là các chính sách đối với dân tộc thiểu số là nội dung được luật hiện hành trao cho

Hội đồng Dân tộc. Mặt khác, như đã nói, vấn đề dân tộc thiểu số sẽ bao trùm mọi

mặt của đời sống như phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, lao

động… thì liên quan đến nhiều Ủy ban khác của Quốc hội. Do vậy, việc thực hiện

giám sát thực hiện điều ước quốc tế trong một lĩnh vực cụ thể như Công ước

ICERD là chưa rõ ràng về mức độ tham gia của từng cơ quan trong khi triển khai

hoạt động giám sát.

Trên cơ sở rà soát các quy định hiện có, Quốc hội cần có quy chế phối hợp

cụ thể, phân vai rõ ràng giữa các cơ quan của Quốc hội khi triển khai các hoạt động

giám sát thực hiện các công ước về nhân quyền nói chung và Công ước ICERD.

Yêu cầu này thực sự rất cần thiết khi nội dung bảo đảm quyền con người ngày nay

được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm nhiều.

Theo các quy định hiện nay, như đã phân tích ở phần trước, Luật Điều ước

quốc tế 2016 không quy định về trình tự, thủ tục giám sát hoạt động thực hiện điều

ước quốc tế mà dẫn chiếu sang Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng

nhân dân năm 2015. Tuy nhiên, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng

nhân dân năm 2015 cũng chỉ quy định chung chung về hoạt động giám sát việc tuân

thủ hiến pháp, pháp luật quốc gia mà chưa đề cập đến hoạt động giám sát các quy

định của luật pháp quốc tế.

Điều đáng bàn ở đây là vai trò của các cơ quan của Quốc hội trong giám sát

thực hiện điều ước quốc tế lại được quy định cụ thể, rõ ràng từ Điều 100 đến Điều

104 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. Như vậy, theo

tác giả, các nhà làm luật nên kế thừa nội dung quy định này của Luật ký kết gia

nhập và thực hiện điều ước 2005 vào Luật Điều ước quốc tế.

Do vậy, xác định rõ vai trò giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong từng

giai đoạn trước và sau ký kết một điều ước quốc tế là nhiệm vụ cần tập trung trong

thời gian tới đây.

96

Song song với đó, cũng cần nghiên cứu, ban hành những quy định về quy

trình, thủ tục xây dựng kế hoạch và thực hiện các điều ước quốc tế để tạo cơ sở thực

hiện các hoạt động giám sát của Quốc hội, góp phần đánh giá hiệu quả thực hiện

điều ước quốc tế của Việt Nam, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và các

thiết chế của mình một cách định lượng hơn.

Ngoài ra, Quốc hội có thể cân nhắc việc xây dựng một bộ luật chuyên ngành

điều chỉnh các vấn đề liên quan đến dân tộc thiểu số để đảm bảo tính thống nhất

trong quản lý nhà nước, giảm thiểu những chồng chéo do vấn đề được quy định,

điều chỉnh tản mạn bởi nhiều văn bản luật khác nhau của hiện nay, qua đó, đáp ứng

yêu cầu nội luật hóa nội dung Công ước ICERD mà Việt Nam đã công nhận với tư

cách là thành viên.

3.4.3. Tăng cường tổ chức hoạt động giám sát thực hiện các điều ước quốc tế về

quyền con người trong đó có Công ước ICERD

Thực hiện các điều ước quốc tế nói chung về quyền con người trong đó có

Công ước ICERD là đòi hỏi khách quan trong giai đoạn hiện nay nhằm thực thi

Hiến pháp và tiếp tục hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Do đó, Đảng ta đã

xác định: “Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong

việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân

trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội”. Tuy nhiên, nếu chỉ

chú trọng tới việc ký kết, gia nhập mà không tổ chức tốt công tác thực thi, giám sát

thì việc tham gia các điều ước chỉ mang tính hình thức hoặc đem lại giá trị thực tiễn

không cao trong đời sống xã hội.

Góp phần nâng cao hiệu quả giám sát thực hiện các điều ước quốc tế của

Việt Nam nói chung và việc thực hiện Công ước ICERD nói riêng, tác giả xin mạnh

dạn kiến nghị một số nhóm giải pháp gồm:

i) Tập trung tăng cường năng lực giám sát của Hội đồng dân tộc và các

Ủy ban của Quốc hội, đại biểu quốc hội.

Quyết định của Quốc hội ngày càng mang tính chuyên môn sâu và không đại

97

biểu nào có thể am hiểu, tham gia thực hiện quyền ở mọi mặt. Do đó, hoạt động của

Hội đồng dân tộc, Ủy ban là mang tính chuyên môn sẽ giúp hoạt động giám sát hiệu

quả hơn. Đặc biệt, tăng cường các hoạt động giám sát chuyên đề, tập trung nhiều

vào lĩnh vực cụ thể theo nội dung của Công ước ICERD và các kiến nghị của Ủy

ban CERD.

Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào, yếu tố con người vẫn là trung tâm, cốt lõi quyết

định sự thành bại của một chính sách. Đại biểu quốc hội là người có quyền đề xuất,

góp ý xây dựng văn bản luật. Họ cũng là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của

nhân dân, vì lợi ích của người dân là mục đích làm việc của người đại biểu. Do đó,

những đề xuất, góp ý xây dựng luật của đại biểu quốc hội có mang lại giá trị thiết

thực phục vụ dân hay không phục thuộc rất nhiều vào trình độ và phẩm chất chuyên

môn của họ.

Như đã nói trên, pháp luật Việt Nam quy định số đại biểu chuyên trách của

Quốc hội phải giữ một tỉ lệ tối thiểu là 35% tổng số đại biểu quốc hội. Số lượng đại

biểu chuyên trách của Quốc hội khóa XIV đạt khoảng 34% (đại biểu trung ương là

105 người, đại biểu địa phương là 63 người trên tổng số 494 đại biểu quốc hội hiện

có). Tỉ lệ này đang ít hơn so với quy định hiện hành của pháp luật. Điều này sẽ ảnh

hưởng không tích cực tới hiệu quả hoạt động của đại biểu quốc hội. Tỉ lệ đại biểu

hoạt động chuyên trách cần được tăng lên theo lộ trình cụ thể, có quy định về nhiệm

vụ rõ ràng, đồng bộ tránh tăng đột ngột số lượng đại biểu chuyên dẫn tới việc đại

biểu không có việc gì mà làm.

Song song với việc tăng tỉ lệ đại biểu quốc hội hoạt động chuyên trách, Quốc

hội cần giảm dần dẫn đến không còn đại biểu không chuyên trách. Thực tế hiện nay

cho thấy, nhiều vị trí quản lý trong hệ thống các cơ quan hành pháp quan trọng như

bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh là đại biểu quốc hội. Đại biểu quốc hội

đóng góp ý kiến xây dựng luật. Bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh thi hành

luật. Câu hỏi đặt ra là văn bản pháp luật đó sẽ được xây dựng theo hướng mang lại

giá trị thặng dư cho ai và quyền giám sát của đại biểu quốc hội sẽ thực hiện như thế

nào cho khách quan? Đại biểu kiêm nhiệm vị trí lãnh đạo quan trọng trong hệ thống

98

cơ quan hành pháp, khi phải dành một phần ba thời gian thực hiện vai trò người đại

biểu, sẽ ảnh hưởng ra sao đến công tác điều hành công việc hang ngày? Câu trả lời

rất rõ ràng rằng sự kiêm nhiệm sẽ không mang lại hiệu quả tối đa mà mỗi vị trí công

việc yêu cầu, đòi hỏi. Vì vậy, Quốc hội cần giảm mạnh tỉ lệ đại biểu hoạt động

không chuyên trách hoặc tiến tới không còn đại biểu quốc hội không chuyên trách.

Hiến pháp năm 2013 cũng quy định về các tỉ lệ cần bảo đảm trong cơ cấu đại

biểu quốc hội theo giới tính, theo thành phần dân tộc và theo vùng nên yếu tố chất

lượng đại biểu nhiều khi không được đảm bảo. Đây cũng là một vấn đề khó cần giải

quyết của Quốc hội trong nhiều năm qua trong việc cân bằng yếu tố chất lượng đại

biểu và việc bảo đảm cơ cấu thành phần đại biểu. Để cân bằng được những vướng

mắc trên Việt Nam cần có chính sách khuyến khích giáo dục, đào tạo, tái đào tạo

cho người dân tộc thiểu số có trình độ, đặc biệt, khuyến khích đào tạo song ngữ

(quốc ngữ và ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số).

Bên cạnh những biện pháp lâu dài, Quốc hội cần phát triển hệ thống thông tin

chính tắc để đại biểu quốc hội có thể tiếp cận, cập nhật thông tin chính xác và có chiều

sâu. Trong hệ thống thông tin của Quốc hội hiện nay gồm: Truyền hình Quốc hội, Tạp

chí nghiên cứu lập pháp, Báo đại biểu nhân dân và Thư viện Quốc hội là những nguồn

thông tin chính thức của đại biểu quốc hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nội dung cung

cấp của các đơn vị truyền thông, thông tin thường bị trùng lặp, chủ yếu tập trung đưa

tin các hoạt động của Quốc hội. Những thông tin tuyên truyền về các điều ước quốc tế

nói chung, về nhân quyền nói riêng trong đó có Công ước ICERD hầu như thể tìm

thấy. Câu hỏi đặt ra là đại biểu quốc hội sẽ thực hiện quyền giám sát như thế nào nếu

họ không có thông tin vệ tinh? Do đó, xây dựng bộ cơ sở dữ liệu phục vụ đại biểu quốc

hội thực hiện các quyền giám sát của họ là điều hết sức khẩn trương trong thời đại công

nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay.

ii) Tăng cường giám sát chuyên đề về thực hiện Công ước ICERD

Cần có ít nhất một chương trình giám sát chuyên đề mỗi trong một giai đoạn

xây dựng Báo cáo thường kỳ của Việt Nam đối với việc thực hiện Công ước

ICERD thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội để đáp ứng

nhu cầu hội nhập, hợp tác quốc tế và bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo

99

Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan.

Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, các cơ quan của

Chính phủ báo cáo về kết quả, những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong

quá trình thực hiện Công ước ICERD, đặc biệt là các quyền đối với dân tộc thiểu số

gắn với các lĩnh vực lao động, việc làm, y tế, giáo dục, an sinh xã hội, trợ giúp xã

hội, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… Các báo cáo phải rà soát các văn bản

pháp luật hiện hành trong mối liên hệ Công ước ICERD, tìm ra những điểm phù

hợp, chưa phù hợp trong áp dụng, vận dụng pháp luật, từ đó có những biện pháp

theo pháp luật, đồng thời xem xét điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện

hành; nội luật hóa những quy định liên quan đến quyền con người trong Công ước

ICERD; thậm chí điều chỉnh nguồn ngân sách cho việc thực hiện Công ước ICERD

cho phù hợp với mục đích và hoạt động thực tế.

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tổng Liên đoàn lao động

Việt Nam thực hiện chức năng giám sát theo luật định đối với việc triển khai thực

hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước ICERD; tập

hợp kết quả giám sát báo cáo Quốc hội. Việc giám sát của tổ chức liên minh chính

trị xã hội này được coi là một kênh giám sát đánh giá về mặt xã hội giúp cho Quốc

hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đòng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội có

thể nhìn nhận đầy đủ việc triển khai thực hiện Công ước ICERD.

3.4.4. Rõ ràng, minh bạch trong tổ chức thực hiện giám sát thực hiện Công

ước ICERD

Thực tế cho thấy, Công ước ICERD không phổ biến với đại chúng ở Việt

nam. Điều này dẫn đến những ảnh hưởng thiếu tích cực đối với việc thực thi Công

ước như làm giảm ý nghĩa việc gia nhập công ước của Việt Nam, giảm sự công

nhận những giá trị phổ quát của Công ước đối với các quyền con người nói chung

và người dân tộc thiểu số nói riêng, dẫn đến khó khăn trong triển khai tập trung thực

hiện Công ước và hệ quả là Quốc hội cũng khó có cơ sở để triển khai hoạt động

giám sát liên quan nội dung này.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giúp cử tri, báo chí, truyền

100

thông quan tâm theo dõi, giám sát việc thực hiện liên quan Công ước ICERD, phát

hiện những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả thực thi điều ước

trong các hoạt động áp dụng, vận dụng, xây dựng pháp luật liên quan.

Xây dựng, ban hành công khai các kế hoạch, quy trình, mức kinh phí thực

hiện các điều ước quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công ước ICERD trên cơ sở

các quy định của Việt Nam; quy định trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong

việc báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện Công ước để Quốc hội có thể các hoạt

động giám sát, điều chỉnh sự cần thiết phê chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế

trong thời gian tiếp theo.

Để nâng cao hoạt động giám sát của Quốc hội và các thiết chế, không chỉ

riêng đối với việc thực thi Công ước ICERD mà với các hoạt động giám sát nói

chung, Quốc hội cần xác định mức kinh phí riêng cho hoạt động giám sát theo khóa.

Đây sẽ là cơ sở để triển khai các hoạt động tiếp theo một cách cụ thể, chi tiết, đồng

thời có thể đánh giá hiệu suất của hoạt động giám sát đem lại có tính định lượng rõ

101

ràng hơn.

KẾT LUẬN

Hội nhập và phát triển là xu thế trong chính sách đối ngoại của nhiều nước

trên thế giới hiện nay. Kết quả của hội nhập được thể hiện bằng pháp lý khi các

nước ký, phê chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế có giá trị phổ quát như Hiến

chương Liên hợp quốc, các điều ước quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc. Ở

mỗi nước sẽ có quan điểm cách thức riêng trong việc thực hiện các nghĩa vụ và

quyền của mình được nêu trong điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên trên cơ

sở tuân thủ nguyên tắc Pacta sunt servanda, nguyên tắc về sự tự nguyện, tận tâm,

thiện chí khi tham gia điều ước quốc tế.

Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc ra đời trong bối

cảnh khi mà chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid gây ra những vi phạm nghiêm

trọng về quyền con người ở Nam Phi như một tiếng nói đồng lòng của cộng đồng

quốc tế lên án những hành vi, chính sách và tư tưởng của chủ nghĩa phân biệt chủng

tộc, đồng thời cho thấy quyết tâm xóa bỏ những quan điểm bạo lực và sai trái trong

đời sống cộng đồng. Quyết tâm càng thể hiện rõ hơn khi thông qua Công ước với

tên gọi hướng tới sự xóa bỏ hoàn toàn chứ không phải đẩy lùi chủ nghĩa phân biệt

chủng tộc, phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, nguồn gốc dân tộc, chủng tộc, màu da.

Phát triển theo thời gian, Công ước ICERD đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và

được khẳng định mạnh mẽ hơn trong bối cảnh nạn phân biệt đối xử, phân biệt

chủng tộc còn đang tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.

Việt Nam là thành viên tham gia Công ước ICERD năm 1982, đã và đang

tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ theo quy định. Khẳng định không có sự phân biệt

chủng tộc và Việt Nam coi việc thực hiện các chính sách bảo đảm quyền chính trị,

xã hội, phát triển kinh tế và các chính sách khác nhằm bảo đảm cho dân tộc thiểu

số, người dân tộc thiểu số được bình đẳng trong mọi quyền công dân là nội thực

hiện Công ước ICERD. Những chương trình, kế hoạch này được hoạch định chung

trong các chính sách phát triển kinh tế cả nước, do vậy rất khó để phân định nội

102

dung nào đang thực hiện nghĩa vụ của một quốc gia thành viên của Công ước. Việc

giám sát của Quốc hội và các thể chế được trao quyền cũng chỉ có thể tiến hành

giám sát theo từng chính sách, kế hoạch cụ thể chứ chưa mang tính bao quát chung.

Bằng nghiên cứu một số cách thức nội luật hóa Công ước ICERD của một

số quốc gia trên thế giới sẽ góp phần giúp các nhà làm luật có các góc nhìn đa chiều

trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này. Từ

đó, người nghiên cứu có khuyến nghị có chăng Việt Nam xây dựng một đạo luật

riêng điều chỉnh vấn đề liên quan quyền của dân tộc thiểu số, bao gồm việc thể hiện

đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam thông qua một khái niệm về

phân biệt chủng tộc trong sự phù hợp với định nghĩa tại Điều 1 Công ước ICERD.

Hoạt động rà soát, hoàn thiện khung pháp lý để nâng cao hiệu quả thực

hiện chức năng giám sát của Quốc hội cần được tập trung vì mục tiêu xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công khai, minh bạch; tránh sự chồng chéo

trong thực hiện chức năng giám sát của cơ quan quyền lực, đại diện ý chí của dân.

Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội và các chủ thể giám sát được trao

quyền đối với việc thực hiện điều ước quốc tế không sát với thực tế nếu Chính phủ,

các cơ quan thực hiện Công ước không xây dựng một kế hoạch triển khai cụ thể.

Điều này sẽ làm mất đi ý nghĩa của việc tham gia điều ước quốc tế của Việt Nam.

Trên đây là kết quả nghiên cứu của Luận văn. Do điều kiện nghiên cứu còn

nhiều hạn chế về nhiều mặt, Luật văn có thể còn nhiều điểm chưa hoàn thiện nhưng

đề tài có thể đem lại những đóng góp phần nhỏ nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả

giám sát của Quốc hội Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước quốc tế nói

103

chung và Công ước ICERD nói riêng./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt 1. Nhà xuất bản Thời Thế (1958), Từ điển Việt Nam;

2. Báo cáo việc thực hiện Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc của

Việt Nam các năm 1983, 1993, 2000, 2011;

3. Báo cáo hoạt động thường niên của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa XIV

2016, 2017, 2018, 2019;

4. Nguyễn Bá Bình và Nguyễn Hùng Cường (2015), “Nội dung hoạt động giám

sát của quốc hội đối với việc thực hiện các điều ước quốc tế”, tài liệu Hội thảo

nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện điều ước quốc

tế mà Việt Nam là thành viên;

5. Lê Quang Bình (2017), Báo cáo Tình trạng phân biệt đối xử ở nơi làm việc của

ILO Việt Nam;

6. Trịnh Văn Chiến (2013), “Vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá

trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế” Luận văn

thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội;

7. Nguyễn Bá Diến (2013), Công pháp quốc tế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội;

8. Lê Sĩ Giáo (1995), Giáo trình Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục; 9. Nguyễn Đăng Dung (2015), Chức năng giám sát của quốc hội Việt Nam và vấn

đề giám sát thực hiện các điều ước quốc tế về nhân quyền Tham luận Hội thảo.

10. Phạm Hồng Hạnh (2015), “Thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban thường vụ

Quốc hội trong giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên”;

11. Chu Thị Thanh Hương (2017), “Vai trò giám sát của Quốc hội trong ký kế và

thực hiện Điều ước Quốc tế ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật

Đại học quốc gia Hà Nội;

12. Đậu Công Hiệp (2018), Hệ thống Ủy ban Giám sát trong Hiến pháp Trung

104

Quốc sửa đổi năm 2018, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2018;

13. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; 14. Hoàng Thị Lan (2008), “Việt Nam với việc thực thi Điều ước quốc tế” Luận

văn Thạc sĩ Luật học;

15. Nguyễn Lan Nguyên (2015), Tham luận Một vài suy nghĩ về vai trò giám sát

của quốc hội đối với việc thực thi pháp luật về quyền con người tại Việt Nam – ,

Đại học Quốc gia Hà Nội tại Hội thảo năm 2015 của Ủy ban Đối ngoại của

Quốc hội khóa XIII về “Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội đối với các

Điều ước quốc tế về quyền con người”;

16. Ngô Thùy Linh (2014), “Việc nâng cao vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt

động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam và kinh nghiệm

nước ngoài”, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội;

17. Pháp lệnh ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế 2005;

18. Luật Điều ước quốc tế năm 2016;

19. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014;

20. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2015;

21. Ủy ban Đối ngoại (2015), Báo cáo nghiên cứu Tăng cường vai trò giám sát của

Quốc hội đối với các điều ước quốc tế về quyền con người;

22. Ủy ban Dân tộc tổ chức tại tỉnh Hòa Bình (2018), Báo cáo trình bày tại Hội thảo

Tập huấn kỹ năng xây dựng và đối thoại báo cáo Công ước Quốc tế về Xóa bỏ mọi

hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD) theo quy định của Liên hợp quốc.

23. Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2005 ngày 24/5/2005 về chiến lược

xay dựng và hoàn thiện hệ thống luật Việt Nam năm 2010 định hướng đến năm 2020;

24. Nghị quyết số 22-NQ/TƯ ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc

tế, Hà Nội;

25. Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 thông qua “Đề án tổng thể “Đầu

tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi và vùng kinh tế -

xã hội đặc biệt khó khăn Giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030”;

26. Nghị quyết số 738/NQ-UBTVQH14 ngày 30/7/2019 về Chương trình giám sát

105

của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2020 và Kế hoạch 441/KH-UBTVQH14

ngày 18/9/2019 về triển khai thực hiện chương trình giám sát của Quốc hội và

Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2020;

27. Nghị quyết số 13/2011/QH13 ngày 09/11/2011 thông qua Chương trình mục

tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015;

28. Nghị quyết số 1023/NQ-UBTVQH13 ngày 28 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư

phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020;

29. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc;

30. Thông báo số 440/TB-VPCP ngày 28/12/2016;

31. Viện nghiên cứu Lập pháp (2013), Kỷ yếu Hội thảo hoạt động giám sát của

Quốc hội;

32. Đinh Xuân Thảo (2013), Tiếp tục đổi mới hoạt động của quốc hội từ thực tiễn

hoạt động của Quốc hội khóa XII;

33. Viện nghiên cứu lập pháp (2016), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam – Kế thừa, đổi mới và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật.

34. Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới (2011), Văn phòng Quốc hội,

Hà Nội;

35. Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội (2015), Kỷ yếu Hội thảo “Tăng cường vai trò

giám sát của Quốc hội đối với các điều ước Quốc tế về quyền con người”.

36. Kỷ yếu Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa XIII, năm 2017;

37. Nguyễn Tiến Vinh (2015) “Vai trò của Nghị viện các nước trong việc giám sát

việc ký kết thực hiện các điều ước quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tài

liệu phục Hội thảo “Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội đối với các điều

ước quốc tế về quyền con người” năm 2015;

38. Phạm Lan Dung (2015), Tham luận cơ sở lý luận về vai trò giám sát của quốc

hội trong việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

39. Lưu Bình Nhưỡng (2015), Giám sát của Quốc hội đối với thực hiện Điều ước

Quốc tế về quyền con người, Hội thảo Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội

106

đối với các điều ước quốc tế về quyền con người. Ủy ban Đối ngoại Quốc hội XIII;

40. Bài viết “Bất cập trong đào tạo nguồn nhân lực miền núi” đăng trên Tạp chí

Con số và Sự kiện số 12/2012;

41. Tài liệu “Một số văn bản pháp luật về dân tộc thiểu số của nước ngoài” phục vụ

cho hoạt động soạn thảo luật của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, năm 2000

42. Ủy ban Dân tộc (2017). Báo cáo tình hình chuẩn bị dự án Luật hỗ trợ phát

triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi;

43. “Những quan điểm lý thuyết nhân học về vấn đề dân tộc” của Phan Ngọc

Chiến, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, website:

http://nhanhoc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=00e1eec2-1117-4d01-89e5-

7fbacbaf8a66

44. Phần XV Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên hợp quốc thống qua ngày 12 tháng

12 năm 1960;

45. Mục XVII Nghị quyết số 1799 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, tháng 12 năm 1962;

46. Mục XVIII, Nghị quyết 1904 của Ủy ban CERD;

II. Tài liệu tham khảo tiếng Anh 47. Charter of the United Nations (1945);

48. (United Nations) Vienna Convention on Treaties 1969;

49. (United Nations) International Convention on Elimination of All Forms of

Racial Discrimination (ICERD) (1965);

50. Website: https://treaties.un.org/

51. (EU) The Framework Convention for the Protection of National Minorities

(1998);

52. Constitution of the People’s Republic of China (1982);

53. Constitution of the People’s Republic of China 1982 (amended 2018);

54. (CERD) Reports submitted by states parties under article 9 of the Convention –

CERD/C/204/Add.1, CERD/C/357/Add.2 (2000);

55. (CERD) Reports submitted by states parties under article 9 of the Convention

107

CERD/C/VNM/10-14, (2011).

56. E.R. Leach (1954) Political system of Highland Burma – A Study of Kachin

Social Culture, Pletcher and Son Ltd.;

57. (UN OHCHR) ICERD General Recommendation No. 29: Art.1, par.1 of the

Convention (Descent) 2002;

58. (CERD) CERD/C/204/Add.1, 1993;

59. (UN OHCHR) ICERD General Recommendation No. 14: Definition of

discrimination (Art.1, par.1)" 1993.

60. (CERD) “Report (A/73/18)” 2018; UN General Assembly

61. Pro. Lions Alexander Sicilians, (2002), “The Application of the United Nations

Convention on the Elimination of All Forms of Racial Discrimination:

Challenges Ahead” UN Audiovisual Library of International Law;

(2018), “Can a convention elimination racial

62. Pipsa Sopenpara

discrimination?” The Colour Line Press;

63. Mary Coussey (2002), "Home Office Research Study 238: Tackling racial

equality: international comparisons" UK Home Office;

64. (UN OHCHR) "ICERD General Recommendation No. 04: Demographic

composition of the population" 1973;

65. (UN OHCHR) "ICERD General Recommendation No. 06: Overdue reports"

1982;

66. (CERD) Report A/73/18 to UN General Assembly 2018.

67. Lérner, Natán (2003), “Group rights and discrimination in international law

(second edition)” - The Hague: Kluwer Law International;

68. D. Christopher Decker (2010), “Enhancing minority governance in Romania

status on national minorities legal digest: A thematic look at five national laws”

– Published by Peter Lang;

69. Link, B.Gi., & Phelan, J.C. (2001), Conceptualizing stigma - Annu Rev Sociol;

70. website: http://www.ucalgary.ca/hr/harassment_def.

108

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I

CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC

QUỐC HỘI KHÓA XIII, XIV

Ghi chú

Thực hiện tháng 06/2018 do UBTVQH chủ trì

A Chủ trì phối hợp giám sát tối cao 1 Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai tại các nông trường, lâm trường quốc doanh giai đoạn 2004-2014 B Phối hợp tổ chức chất vấn 1 Việc thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục-đào tạo, y tế…), hạ tầng xã hội, hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm; công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

C Đầu mối tổ chức thực hiện giám sát chuyên đề 1 Giám sát thực hiện chính sách tuyển sinh, đào tạo và Năm 2011

sử dụng cán bộ theo hình thức cử tuyển

2 Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản Năm 2012

Năm 2013 3

xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số Tình hình đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số

4 Việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động Năm 2013

nông thôn vùng dân tộc thiểu số

5 Việc thực hiện chính sách pháp luật trong đào tạo, sử Năm 2014

Năm 2014 6

dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đến năm 2013 Tình hình triển khai và kết quả thực hiện việc bố trí dân cư các vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, dân cư trú trong rừng đặc dụng

7 Việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, sử Năm 2015

Năm 2016 8

dụng đất đai tại các nông, lâm trường quốc doanh giai đoạn 2004-2014 Thực hiện Nghị quyết của UBTVQH về việc thực hiện di dân, tái định cư công trình thủy điện Sơn La

Năm 2017

9 Việc thực hiện chính sách, pháp luật về giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư, hộ gia đình vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2006 - 2016

Năm 2018

10 Việc thực hiện Nghị quyết số 112/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác sử dụng

Thực hiện từ năm 2019

11 Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018

D Tổ chức phiên giải trình 1 Chính sách hỗ trợ phát triển kinh kế - xã hội với các Thực hiện năm 2012

dân tộc ít người – Thực trạng và giải pháp cho giai đoạn 2013-2020

2 Hội nghị giải trình về Tình hình, kết quả thực hiện Thực hiện năm 2016

chính sách sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

3 Việc thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất,

Thực hiện tháng 8/2019

nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2018

PHỤ LỤC II

TUYÊN BỐ CỦA VIỆT NAM VỚI CÔNG ƯỚC ICERD

Declaration:

(1) The Government of the Socialist Republic of Viet Nam declares that the

provisions of article 17 (1) and of article 18 (1) of the Convention whereby a number

of States are deprived of the opportunity of becoming Parties to the said Convention

are of a discriminatory nature and it considers that, in accordance with the principle of

the sovereign equality of States, the Convention should be open to participation by all

States without discrimination or restriction of any kind.

Reservation:

(2) The Government of the Socialist Republic of Viet Nam does not consider itself

bound by the provisions of article 22 of the Convention and holds that, for any dispute

with regard to the interpretation or application of the Convention to be brought before

the International Court of Justice, the consent of all parties to the dispute is

necessary. (The reservation was circulated by the Secretary-General on 10 August

1982.)