ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾT

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI

VỚI NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG

(Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo,

huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾT

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI

VỚI NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG

(Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo,

huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)

Chuyên ngành: Công tác xã hội

Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. NGUYỄN AN LỊCH

Hà Nội – 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác

xã hội với người cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị

trấn Neo - huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang) dƣới sự hƣớng dẫn của thầy

PGS.TS Nguyễn An Lịch là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai

công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai, tôi xin

hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2015

Tác giả

Nguyễn Thị Tuyết

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ thầy

giáo hướng dẫn và các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, từ Hội người cao tuổi Thị trấn Neo, từ Ủy ban

nhân dân Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nơi tôi đã thực hiện

nghiên cứu, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của gia đình và bạn bè thân hữu.

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý thầy PGS.TS

Nguyễn An Lịch. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tâm chỉ dẫn, giúp đỡ và

tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Tôi

cũng bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trường Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến các hội viên người cao tuổi trong

Hội Người cao tuổi Thị trấn Neo, đã hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình điều

tra, phỏng vấn để thu thập thông tin hoàn thiện luận văn, và lời cảm ơn đến các

cơ quan đoàn thể Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè thân hữu và

đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tinh thần và tạo điều kiện trong suốt quá

trình nghiên cứu.

Do trình độ bản thân vẫn còn nhiều hạn chế nên luận văn khó tránh

khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự quan tâm, đánh giá, góp ý của

các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến vấn đề này để tôi có

thể rút kinh nghiệm và hoàn thiện tốt hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu đó!

Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2015

Tác giả

Nguyễn Thị Tuyết

MỤC LỤC

Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 4

3. Ý nghĩa của nghiên cứu ............................................................................... 17

4. Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................... 18

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 19

6. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................. 20

7. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu ............................................................ 20

8. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 21

9. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 23

Phần 2. NỘI DUNG CHÍNH ........................................................................ 24

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN

CỨU ................................................................................................................ 24

1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................. 24

1.1.1 Khái niệm vai trò .................................................................................... 24

1.1.2 Khái niệm người cao tuổi ....................................................................... 25

1.1.3 Khái niệm cộng đồng ............................................................................. 27

1.1.4 Khái niệm công tác xã hội ...................................................................... 28

1.1.5 Khái niệm nhân viên công tác xã hội ..................................................... 30

1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................ 31

1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow .............................................................. 34

1.2.3. Lý thuyết vai trò xã hội.......................................................................... 36

1.3. Tổng quan chính sách của Đảng, nhà nƣớc về ngƣời cao tuổi ................ 37

1.3.1. Những chủ trương của Đảng ................................................................ 37

1.3.2. Luật pháp và chính sách của nhà nước ................................................ 39

1.4. Đặc điểm địa bàn thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang. ..... 42

1.4.1. Vị trí địa lý............................................................................................. 42

1.4.2. Tổ chức dân cư ...................................................................................... 42

1.4.3. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội ...................................................... 43

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 44

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHĂM SÓC VÀ NHU CẦU HỖ TRỢ CỦA

NGƢỜI CAO TUỔI TẠI THỊ TRẤN NEO – HUYỆN YÊN DŨNG –

TỈNH BẮC GIANG ....................................................................................... 46

2.1. Đặc điểm chung ngƣời cao tuổi trong mẫu nghiên cứu ........................... 46

2.1.1. Cơ cấu người cao tuổi chia theo giới tính ............................................ 46

2.1.2. Cơ cấu người cao tuổi chia theo nhóm tuổi .......................................... 46

2.1.3. Tình trạng hôn nhân .............................................................................. 47

2.1.4. Mô hình gia đình người cao tuổi ........................................................... 47

2.1.5. Trình độ học vấn ................................................................................... 48

2.1.6. Cơ cấu người cao tuổi phân theo trình độ chuyên môn........................ 48

2.2. Đánh giá thực trạng chất lƣợng chăm sóc và nhu cầu hỗ trợ của ngƣời cao

tuổi tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang. ........................... 49

2.2.1. Sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ............... 49

2.2.2. Hoạt động lao động và nhu cầu lao động của người cao tuổi ............. 60

2.2.3. Quan hệ xã hội và nhu cầu được quan tâm, tôn trọng ......................... 67

2.2.4. Hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của người cao tuổi ........... 77

2.2.5. Hỗ trợ người cao tuổi của cán bộ xã hội và chính quyền địa phương ........... 82

2.2.6. Phát huy vị trí, vai trò của người cao tuổi ............................................ 91

2.2.7. Mong muốn, nguyện vọng của người cao tuổi ...................................... 96

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 100

Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ

HỘI VÀ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ

NHÂN TRONG TRỢ GIÚP NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG 102

3.1 Vai trò của nhân viên công tác xã hội ..................................................... 102

3.1.1. Người giáo dục .................................................................................... 103

3.1.2. Người tạo khả năng ............................................................................. 103

3.1.3. Người điều phối - kết nối dịch vụ ........................................................ 104

3.1.4. Người biện hộ ...................................................................................... 105

3.1.5. Người tạo môi trường thuận lợi .......................................................... 107

3.1.6. Người đánh giá và giám sát ................................................................ 108

3.2. Vận dụng phƣơng pháp công tác xã hội cá nhân trong trợ giúp ngƣời cao

tuổi tại cộng đồng. ......................................................................................... 108

3.2.1. Hồ sơ thân chủ .................................................................................... 109

3.2.2. Kế hoạch tác nghiệp ............................................................................ 112

3.2.3. Tiến trình trợ giúp ............................................................................... 113

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 124

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 134

PHỤC LỤC .................................................................................................. 141

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CTXH Công tác xã hội

NCT Ngƣời cao tuổi

NXB Nhà xuất bản

PVS Phỏng vấn sâu

TDTT Thể dục thể thao

UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT ......................................................... 50

Bảng 2.2. Số lần khám sức khỏe định kỳ trong một năm của NCT ............... 52

Bảng 2.3. Việc thƣờng làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật ............................. 53

Bảng 2.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT ..................................... 55

Bảng 2.5. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe của các

thành viên trong gia đình................................................................................. 59

Bảng 2.6. Hoạt động kinh tế của NCT ............................................................ 60

Bảng 2.7. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT ............................. 62

Bảng 2.8. Thời gian dành cho công việc của NCT ......................................... 63

Bảng 2.9. Nguồn thu nhập chính của NCT ..................................................... 64

Bảng 2.10. Mức thu nhập trung bình/tháng .................................................... 66

Bảng 2.11. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm và đƣợc

họ hàng/bạn bè/hàng xóm tới thăm ................................................................. 68

Bảng 2.12. Số lƣợng bạn tri ân, tri kỷ của NCT ............................................. 70

Bảng 2.13. Đối tƣợng trò chuyện tâm sự của NCT ........................................ 71

Bảng 2.14. Tâm trạng hàng ngày của NCT .................................................... 75

Bảng 2.15. Các công việc thƣờng làm lúc rảnh của NCT .............................. 78

Bảng 2.16. Số lƣợng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ NCT tham gia ........................ 79

Bảng 2.17. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội .......................................... 82

Bảng 2.18. Hỗ trợ của chính quyền địa phƣơng ............................................. 83

Bảng 2.19. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe........................... 85

Bảng 2.20. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội .................................................... 87

Bảng 2.21. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội ................................................... 88

Bảng 2.22. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng ......... 89

Bảng 2.23. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính

quyền địa phƣơng ............................................................................................ 90

Bảng 2.24. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình .......................................... 91

Bảng 2.25. Hoạt động xã hội của NCT ........................................................... 95

Bảng 2.26. Mong muốn/nguyện vọng của NCT ............................................. 97

DANH MỤC SƠ ĐỒ - BIỂU ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Abraham Maslow .......................... 34

Biểu đồ 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT chia theo nhóm tuổi ................... 51

Biểu đồ 2.2. Mức độ quan tâm của ngƣời thân đối với NCT ......................... 58

Biểu đồ 2.3. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng ...................... 67

Biểu đồ 2.4. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ ................................. 81

Phần 1. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Liên Hợp Quốc đã dự báo, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ già hóa. Dự báo cho

thấy, tỷ lệ NCT trên thế giới là 9% (1995) sau 30 năm tăng lên 14,9% (2025)

[21, tr1]. Già hóa dân số, một hiện tƣợng mang tính toàn cầu xảy ra ở khắp

nơi và ảnh hƣởng đến mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế

giới đã và đang quan tâm đến vấn đề già hóa dân số. Ở Việt Nam, theo nhƣ số

liệu của Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1979, 1989, 1999

và Điều tra Biến động Dân số – Kế hoạch hóa Gia đình, 2010 NCT Việt Nam

tăng nhanh cả về số lƣợng và tỷ trọng. Cụ thể, năm 1979 tổng dân số Việt

Nam là 53,74 triệu ngƣời trong đó, NCT (từ 60 tuổi trở lên) là 3,71 triệu

ngƣời chiếm 6,9% dân số. Năm 2010, tổng dân số Việt Nam là 86,75 triệu

ngƣời trong đó, NCT là 8,15 triệu ngƣời chiếm 9,4% dân số. Theo dự báo của

Tổng cục Thống kê về dự báo tỷ trọng dân số theo nhóm tuổi, Việt Nam giai

đoạn 2009 – 2049 thì NCT Việt Nam sẽ đạt 10% tổng dân số vào năm 2017

và sau 20 năm (2017 – 2037), Việt Nam sẽ có Dân số già (tỷ trọng ngƣời từ

60 tuổi trở lên lớn hơn hoặc bằng 20% tổng dân số). Tuy nhiên, theo nhận

định của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa Gia đình, Bộ Y tế thì đến năm

2011, NCT Việt Nam đã đạt trên 10% dân số và thời gian Việt Nam trở thành

quốc gia có dân số già sẽ giảm xuống khoảng 17 năm chứ không phải 20 năm

nhƣ nhận định ban đầu [22].

Hiện tƣợng này bắt đầu xuất hiện trong thế kỷ XX và đƣợc dự báo là sẽ

tiếp tục trong thế kỷ XXI với mức độ ngày càng gia tăng. Già hóa dân số phản

ánh thành công trong quá trình phát triển con ngƣời, là thƣớc đo quan trọng

của trình độ phát triển kinh tế - xã hội và là thành tựu quan trọng của nhân

loại. Tuy nhiên, già hóa dân số có ảnh hƣởng sâu rộng đến mọi phƣơng diện

của cuộc sống con ngƣời. “Trong lĩnh vực kinh tế, già hóa dân số tác động

1

đến tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, thị trường lao động,

lương hưu, tiền thuế và sự chuyển giao giữa các thế hệ. Trong lĩnh vực xã

hội, già hóa dân số ảnh hưởng đến y tế và chăm sóc sức khỏe, cấu trúc gia

đình và thu xếp cuộc sống, nhà ở và di cư. Về mặt chính trị, già hóa dân số có

thể tác động đến việc bầu cử và người đại diện” [31, tr.17 – tr.18]. Chƣơng

trình hành động quốc tế về NCT đƣợc thông qua tại Đại hội đồng thế giới về

NCT lần đầu tiên tại Vienna năm 1992. Chƣơng trình tập trung chủ yếu vào

tình trạng già hóa dân số ở các nƣớc phát triển dƣới góc độ phúc lợi xã hội.

Tháng 4/2002 tại Madrid, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã triệu tập Hội nghị

thế giới lần thứ 2 về già hóa dân số. Đại hội đồng đã xem xét kết quả đạt đƣợc

20 năm qua, 159 quốc gia đã ký vào Chƣơng trình hành động quốc tế về NCT

nhằm hƣớng dẫn các hoạt động chính sách về NCT trong thế kỷ XXI. Cam

kết sẽ lồng ghép vấn đề già hóa dân số vào chƣơng trình phát triển kinh tế -

xã hội và cũng cam kết giảm một nửa tỷ lệ nghèo của NCT. Tại nhiều quốc

gia trên thế giới, dân số cao tuổi đã đƣợc hoạch định trong chiến lƣợc phát

triển kinh tế - xã hội theo cam kết đã ký trong chƣơng trình hành động quốc tế

về NCT, phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nhƣng tháng 4/2007,

Tổ chức NCT Quốc tế (HAI) đã đƣa ra cảnh báo “Các chính phủ không chuẩn

bị cho vấn đề già hóa dân số”. Cảnh báo cũng nêu rõ “...NCT là những ngƣời

nghèo nhất và dễ bị tổn thƣơng nhất trong nhiều xã hội, bởi vì Chính phủ

không chuẩn bị cho sự già hóa dân số nhanh trên toàn cầu” [21, tr.1 – tr.2]

Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, dân số già hóa nhanh tạo

áp lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, hệ thống dịch vụ sức khỏe, giao

thông đi lại, hệ thống hƣu trí cho NCT cũng nhƣ quan hệ gia đình, tâm lý, lối

sống, chăm sóc NCT và đảm bảo chất lƣợng cuộc sống NCT.... chắc chắn sẽ

làm cho những vấn đề kinh tế - xã hội, môi trƣờng thêm trầm trọng và có

nhiều biến động không thể lƣờng trƣớc. Từ đó tạo ra những khó khăn, thách

thức đối với nhà nƣớc, xã hội, gia đình với NCT. Để thích ứng với già hóa

2

dân số, việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để đáp ứng nhu cầu của dân số

già là một thách thức lớn đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính

sách khi Việt Nam đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các dịch vụ y tế trong môi

trƣờng cuộc sống của nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc và

định hƣớng xã hội chủ nghĩa [21, tr.2].

Tại Việt Nam, NCT hiện tại phần lớn là lớp ngƣời có nhiều đóng góp to

lớn vào công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Bề dầy kinh nghiệm,

bản lĩnh cách mạng kiên cƣờng, lòng nhân hậu và sự nhiệt tình đóng góp vào

sự nghiệp đổi mới đất nƣớc... là những phẩm chất cao quý của lớp NCT luôn

luôn là chỗ dựa tin cậy cho Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta. Nhƣ vậy, xét từ

góc độ này, NCT chƣa hẳn là gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Những

năm gần đây Đảng ta đặc biệt quan tâm chăm sóc NCT nhất là NCT có công

với đất nƣớc, ngƣời về hƣu, NCT không nơi nƣơng tựa thông qua việc ban

hành chính sách, văn bản, quy phạm pháp luật, quy định chăm sóc NCT và mới

đây nhất là Luật NCT đã đƣợc ban hành tạo cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc và toàn

xã hội quan tâm đầy đủ, đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của NCT

trong đời sống xã hội. Ngày 5/8/2004, Ủy ban Quốc gia về NCT là cơ quan quản

lý hành chính Nhà nƣớc trong lĩnh vực NCT đƣợc thành lập theo Quyết định số

141/2004/QĐ-TTG của Thủ thủ tƣớng chính phủ [21, tr.2 - tr.3].

Tuy nhiên, Việt Nam là đất nƣớc đang phát triển, còn nhiều hạn chế và

tồn tại nhƣ: thu nhập quốc dân còn thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, trình độ

khoa học thấp,... đời sống NCT còn nhiều khó khăn, mức trợ cấp của Nhà

nƣớc còn thấp, nhất là Việt Nam mới bắt đầu chuyển sang cơ cấu “Già hóa

dân số” do đó các chƣơng trình, dự án liên quan đến NCT còn nhiều hạn chế,

hƣớng dẫn cho NCT và gia đình có NCT đang đƣợc thực hiện bƣớc đầu và

còn hạn chế; CTXH về NCT chƣa đƣợc đào tạo và còn nhiều hạn chế về ý

thức, nhận thức của xã hội....[21, tr.3].

Từ thực tế xã hội Việt Nam, thực trạng cuộc sống và hoạt động của

3

NCT cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần đƣợc quan tâm: Vị trí, vai trò của

NCT Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nƣớc và quá trình hội nhập quốc

tế; Mối quan hệ giữa cống hiến và thụ hƣởng của NCT Việt Nam; Ngƣời cao

tuổi Việt Nam trong hệ thống các quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình và

cộng đồng xã hội; Các quyền cơ bản của NCT trong giai đoạn hiện nay; Sự

công bằng bình đẳng, dân chủ với NCT Việt Nam; Chăm sóc bồi dƣỡng sức

khỏe, bảo vệ NCT, nhất là những NCT nghèo cô đơn ở những vùng dân tộc

[36, tr.248]. Vậy nhân viên CTXH có vai trò gì trong quá trình giải quyết

những vấn đề của NCT? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả nghiên cứu lựa

chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác xã hội với người

cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo - huyện

Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang).

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Có thể nói rằng vấn đề về NCT luôn đƣợc quan tâm chú ý. Chính vì

thế, các nghiên cứu về NCT cũng xuất hiện rất sớm. Ở Châu Âu, những

nghiên cứu về NCT đƣợc tiến hành từ những năm 1800 với những đề tài nhƣ:

“Quà tặng các cụ già, bàn về biện pháp để kéo dài cuộc sống” của M.J.Tenon

(1815); “Bàn về tuổi thọ loài người và về lượng sống trên thế giới” của

P.Fluorons (1860); “Tuổi già xanh tươi”, của Alexando (1919). Những

nghiên cứu này đã điều tra thực trạng sống của NCT cũng nhƣ tình trạng sức

khỏe của họ, từ đó đƣa ra những biện pháp chăm sóc sức khỏe cho NCT để

kéo dài tuổi thọ cũng nhƣ giúp cho NCT có đƣợc cuộc sống thoải mái hơn.

Xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của NCT càng đƣợc quan tâm

và những chƣơng trình nghiên cứu về NCT cũng ngày càng đƣợc triển khai

rộng rãi và dƣới nhiều góc độ khác nhau. Dƣới đây, chúng ta có thể điểm qua

một số nghiên cứu đáng lƣu ý liên quan đến chủ đề này:

Nghiên cứu “Khảo sát quốc gia về Tự Chăm sóc và Tuổi già” – “The

4

National Survey of Self-Care and Aging” của Đại học Bắc Carolina tại Chapel Hill

năm 1991 – 1990 với 3.485 ngƣời 65 tuổi trở lên, đã đƣợc lựa chọn từ các hồ sơ mô

tả những thói quen tự chăm sóc ở cộng đồng NCT. Phân tích đầu tiên của những dữ

liệu đƣợc tập trung vào một phạm vi cụ thể của các hoạt động có mục đích, trong

đó NCT tham gia và thông qua đó họ bù đắp cho suy giảm thể chất, chức năng nhận

thức hoặc tâm thần có thể làm giảm chất lƣợng của cuộc sống. Tập trung chủ yếu

thứ hai của cuộc điều tra quốc tế về tự chăm sóc và tuổi già là các loại hành vi hạn

chế suy giảm sức khỏe phòng ngừa và tăng cƣờng sức khỏe, thực hành lối sống

lành mạnh. Một trong những tính năng độc đáo của nghiên cứu quốc gia này là các

hạng mục mô tả mô hình hành vi tự chăm sóc y tế.

Có thể nói rằng công trình quan trọng không thể không kể đến trong

lĩnh vực nghiên cứu này là ấn phẩm “Người già và sức khỏe: Người cao tuổi

Mỹ đến từ Châu Á và Thái Bình Dương” - “Aging and health: Asian and

Pacific Islander American Elders” của các tác giả Melen R.McBride, Nancy

Morioka.Douglas and Gwen Veo. Trong cuốn sách này, nhóm tác giả đã chỉ

ra sự đa dạng văn hóa, hệ thống niềm tin, cấu trúc gia đình ảnh hƣởng đến

việc chăm sóc sức khỏe của những NCT đến từ các nƣớc khác nhau thuộc khu

vực Châu Á và Thái Bình Dƣơng hiện tại đang sống ở Mỹ. Từ đó, các tác giả

đánh giá nhu cầu, xác định những thuận lợi, rào cản trong việc chăm sóc sức

khỏe tạo điều kiện để những NCT có thể thể hiện đƣợc mong muốn, nhu cầu

của bản thân một cách tự nhiên nhất [62].

Nghiên cứu “Những rào cản trong chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi

và nhận thức về chúng” - “Barriers to Health Care Access Among the Elderly

and Who Perceives Them” của Annette L. Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton

S. Cooper, Diane G. Ives, MPH, and John A. Robbins (Đại học Washington,

Đại học Johns, Đại học Puttsburgh, Đại học California – Davis, và Đại học

Wake Forest). Nghiên cứu này đƣợc tiến hành từ năm 1993 – 1994 tại Viện

nghiên cứu sức khỏe tim mạch bằng phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng với

5

5888 đàn ông và phụ nữ từ 65 tuổi trở lên. Mẫu này đƣợc chọn ngẫu nhiên từ

danh sách đủ điều kiện chăm sóc y tế ở 4 cộng đồng: Quận Foryth, quận

Sacramento, quận Washington và quận Allgheny. Kết quả nghiên cứu cho

thấy các rào cản tâm lý và thể chất khác....[59]. Nghiên cứu này khái quát

thực trạng chăm sóc sức khỏe đối với NCT, những rào cản tác động tới việc

NCT nhận đƣợc sự quan tâm, chăm sóc của riêng nƣớc Mỹ. Từ những phát

hiện của nghiên cứu này, chúng ta có thể liên hệ tới những rào cản tƣơng tự

trong xã hội Việt Nam. Chúng ta có thể thấy hệ thống chăm sóc sức khỏe của

nƣớc ta còn nhiều bất cập, chẳng hạn nhƣ cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đặc

biệt là các cơ sở y tế cộng đồng. Điều này khiến cho việc tiếp cận các dịch vụ

chăm sóc sức khỏe của NCT nói riêng và ngƣời dân nói chung còn gặp nhiều

khó khăn. Thực trạng đó đặt ra mối quan tâm lớn với những ngƣời làm nghiên

cứu nói riêng và những nhà hoạch định chính sách của nƣớc ta nói chung.

Một công trình khác trong khu vực Đông Nam Á cần đƣợc nêu ra ở đây

là nghiên cứu “Xây dựng mô hình quản lý chăm sóc sức khỏe cho NCT có sự

tham gia của cộng đồng tại Isan” - “Developing Model of Health Care

Management for the Elderly by Community Participation in Isan” của

Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon and Paiboon Boonchai. Nghiên

cứu này đƣợc tiến hành từ 02 - 08/2008 tại 7 tỉnh Đông Bắc Thái Lan là

Mahasarakham, Roi-et, Sakon Nakhon, Nakhon Ratchasiam, Buriram, Surin

và Khon Kaen bằng phƣơng pháp nghiên cứu định tính. Nghiên cứu đã tiến

hành phân tích các vấn đề liên quan đến việc quản lý chăm sóc sức khỏe NCT

về thể chất lẫn tinh thần. Các tác giả của nghiên cứu này đã tiến hành phân

tích sự phát triển của việc chăm sóc sức khỏe NCT có sự tham gia của cộng

đồng ở Isan. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc quản lý của tổ chức cộng

đồng trong chăm sóc sức khỏe NCT là phƣơng pháp hiệu quả. Tất cả công

dân cao tuổi đều đồng ý rằng việc chăm sóc ý tế đƣợc cung cấp bởi các tổ

6

chức cộng đồng giúp họ thoải mái và ấm áp hơn [60].

Nghiên cứu “Đánh giá một dự án nghiên cứu có sự tham gia của cộng

đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần NCT ở nông thôn Mỹ” - “Evaluating a

community-based participatory research project for elderly mental healthcare

in rural America” của Dean Blevins, Bridget Morton, and Rene McGovern

cũng là nghiên cứu cần lƣu ý. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết mọi ngƣời

cảm thấy hài lòng với vai trò của họ và mức độ thành công của chƣơng trình.

Từ đó, các tác giả cũng đề xuất những phƣơng pháp để cải thiện hơn nữa dịch

vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cho NCT tại nông thôn. Kết quả nghiên cứu

này đƣợc công bố vào năm 2008 [61]. Đây cũng chính là một trong những mô

hình chăm sóc sức khỏe cho NCT mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu. Mô

hình này giúp chúng ta thấy đƣợc cách chăm sóc sức khỏe tinh thần cho NCT

ngay tại cộng đồng của Hoa Kỳ nhƣ thế nào. Điều này sữ giúp chúng ta có

thêm những ý tƣởng cho việc xây dựng các mô hình phù hợp ở nƣớc ta.

Một nghiên cứu đáng lƣu ý khác là công trình: “Già hóa trong thế kỷ

21: Thành tựu và thách thức” dó Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), và

Tổ chức Hỗ trợ NCT quốc tế (HelpAge International), xuất bản năm 2012.

Báo cáo phân tích thực trạng và rà soát tiến độ thực hiện chính sách và hành

động của chính phủ và các cơ quan liên quan kể từ khi Hội nghị Thế giới lần

thứ 2 về NCT về thực hiện kế hoạch hành động quốc tế Madrid về NCT nhằm

đáp ứng những cơ hội và thách thức của một thế giới đang già hóa. Báo cáo

đƣa ra nhiều ví dụ minh họa sinh động về các chƣơng trình đổi mới đã đáp

ứng thành công các mối quan tâm của NCT. Đồng thời báo cáo cũng đƣa ra

các khuyến nghị về định hƣớng tƣơng lai nhằm đảm bảo mọi ngƣời ở mọi lứa

tuổi trong xã hội bao gồm cả NCT và giới trẻ đều có cơ hội góp phần xây

dựng xã hội cũng nhƣ cùng đƣợc hƣởng các phúc lợi xã hội đó [44].

Nhìn một cách tổng thể, có thể nói rằng các công trình nghiên cứu, các

ấn phẩm nói trên đã tìm hiểu về thực trạng đời sống của NCT, những vấn đề

7

họ gặp phải trong cuộc sống, những rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ

chăm sóc trợ giúp NCT. Đây là cơ sở khoa học quan trọng cho việc hỗ trợ

nghiên cứu đề tài.

2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam

Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc đang phát triển trên thế giới, vấn đề

NCT là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là

các nhà lập chính sách. Cho đến nay các ấn phẩm về NCT khá đa dạng, bao

gồm các kết quả nghiên cứu thực nghiệm dƣới dạng sách, bài tạp chí chuyên

ngành, báo cáo nghiên cứu, dạng bài tham luận, cho đến bài viết trên báo

chí… Rất nhiều nghiên cứu đƣợc là kết quả của các chƣơng trình và khảo sát

xã hội học có quy mô lớn về NCT do các Viện nghiên cứu, các tổ chức và cá

nhân trong và ngoài nƣớc tiến hành.

Sự già hóa sẽ mang đến những thách thức mới về kinh tế và xã hội, đặc

biệt là vấn đề an sinh xã hội. Các nghiên cứu ở Việt Nam về NCT thƣờng tiếp

cận theo hƣớng coi họ là nhóm yếu thế hoặc nhóm xã hội phụ thuộc. Với cách

tiếp cận này với chủ đề nổi bật trong các nghiên cứu về NCT là: vấn đề sức

khỏe, chính sách cho NCT, rộng hơn là vấn đề an sinh xã hội và tìm hiểu các

đặc trƣng xã hội cơ bản của nhóm dân số già. Các hƣớng phân tích đƣợc triển

khai theo nhiều khía cạnh nhƣ: mô tả đặc trƣng xã hội cơ bản của nhóm NCT,

đánh giá và đo lƣờng các yếu tố tác động… Và trọng tâm nghiên cứu cũng tùy

thuộc vào lĩnh vực hoạt động của từng ngành. Ví dụ, đối với ngành lão khoa

chú trọng nhiều đến vấn đề sức khỏa và bệnh tật. Tƣơng tự, Bộ Y tế tập trung

nhiều khía cạnh sức khỏe và tâm sinh lý NCT, đặc biệt ở khu vực nông thôn.

Bộ Lao động, Thƣơng binh và xã hội tiến hành các cuộc điều tra nhằm phục

vụ cho việc lập chính sách NCT. Cuối cùng, đối với nhà nghiên cứu khoa học

xã hội nhƣ xã hội học, tâm lý học, dân tộc học,… lại xem xét vấn đề NCT từ

những đặc trƣng xã hội cơ bản và đặt nó trong mối tƣơng quan với các yếu tố

8

kinh tế - xã hội, chỉ ra những khác biệt vùng, miền, tộc ngƣời,…

Có thể nói sự nghèo khổ, bệnh tật, không ngƣời chăm sóc là những vấn

đề mà NCT nói chung đang phải đối mặt. Ở Việt Nam, việc chăm sóc NCT

trong gia đình đƣợc duy trì qua nhiều thế hệ, tuy nhiên truyền thống này đã có

nhiều thay đổi do gia đình nhiều thế hệ ngày càng thu hẹp, trong khi gia đình

hạt nhân tăng lên. Một tỷ lệ lớn NCT do những hoàn cảnh khác nhau sẽ không

sống cùng con cháu trong gia đình nhiều thế hệ. Chính vì vậy mà các chủ đề

về nguồn lực vật chất và vấn đề chăm sóc sức khỏe là hƣớng nghiên cứu chủ

yếu và từ đó đƣa ra các kiến nghị về mặt chính sách an ninh cho NCT.

Nhìn chung các kết quả nghiên cứu kể trên đƣợc rút ra từ các dữ liệu

nghiên cứu định tính, định lƣợng, phạm vi nghiên cứu là khá đa dạng, đại diện

cho một xã, một vùng (ví dụ: Nghiên cứu của Viện Xã hội học về ngƣời già ở

đồng bằng sông Hồng; Nghiên cứu của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam…),

mẫu đại diện quốc gia nhƣ Điều tra gia đình Việt Nam (2006), hoặc dữ liệu từ

các điều tra lớn của Tổng cục thống kê… Phƣơng pháp phân tích hoặc chỉ sử

dụng định lƣợng hoặc định tính, hoặc kết hợp định lƣợng và định tính.

Mỗi phƣơng pháp phân tích có những điểm hạn chế và ƣu điểm riêng,

một số nghiên cứu ít bàn luận sâu về số liệu và phƣơng pháp phân tích. Và

điểm dễ nhận thấy là ở các nghiên cứu định lƣợng, phƣơng pháp phân tích

chủ yếu là mô tả tần suất và tƣơng quan hai biến. Có một số nghiên cứu đã sử

dụng phƣơng pháp đa biến để xem xét các yếu tố tác động đến quan hệ giữa

NCT và con cháu trong gia đình nhƣ nghiên cứu của Lê Ngọc Lân và các tác

giả (2011). Nhƣ vậy, có thể nói rằng các công trình về NCT cho đến nay đã

góp phần mang lại những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của NCT ở Việt

Nam, song các nghiên cứu về CTXH với NCT hiện nay còn khá khiêm tốn, có

thể kể đến một số nghiên cứu sau:

Trƣớc hết cần kể đến nghiên cứu “Công tác xã hội với người cao tuổi

bị bạo lực gia đình” - Nghiên cứu tại xã An Tƣờng, thành phố Tuyên Quang,

9

tỉnh Tuyên Quang, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả Phùng

Thanh Thảo (2014). Kết quả nghiên cứu cho thấy bạo lực gia đình với NCT

xảy ra ở khắp mọi nơi, không kể địa vị gia đình, trình độ dân trí. Đó là thực

trạng về bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần và bạo lực kinh tế. Có rất nhiều

nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, tuy nhiên có 4 yếu tố chủ

yếu là: rƣợu, bia và các chất kích thích; yếu tố kinh tế; yếu tố nhận thức; yếu

tố giới tính. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số biện pháp đã áp dụng tại địa

phƣơng nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực NCT trong gia đình, đồng thời đề

xuất một số biện pháp can thiệp. Và xây dựng mô hình CTXH nhằm hỗ trợ

cũng nhƣ nâng cao công tác phòng chống bạo lực gia đình nói chung và bạo

lực gia đình với NCT nói riêng.

Nghiên cứu “Chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở nông thôn Việt

Nam hiện nay và hoạt động của công tác xã hội” - Nghiên cứu tại xã Quỳnh

Bá – Quỳnh Lƣu – Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả

Trƣơng Thị Điểm (2014). Nghiên cứu cho thấy rằng tỉ lệ NCT tại địa bàn

nghiên cứu đang có xu hƣớng gia tăng và tỉ lệ NCT là nữ giới nhiều hơn nam

giới. Ngƣời cao tuổi ở những độ tuổi khác nhau họ vẫn tham gia lao động tạo

thu nhập, hỗ trợ con cháu về vật chất và công việc nhà. Kết quả nghiên cứu

cũng cho thấy gia đình không còn giữ vai trò chính trong việc chăm sóc

NCT mà dần đƣợc chuyển sang nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, dịch vụ y tế

tƣ nhân, dịch vụ thị trƣờng. Đồng thời đề tài cũng đã nêu lên những triển

vọng và hoạt động của CTXH trong việc chăm sóc sức khỏe cho NCT, giúp

nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với việc chăm sóc sức khỏe cho

NCT và đảm bảo quyền lợi cho NCT.

Nghiên cứu “Trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi tại cộng đồng” -

Nghiên cứu tại xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, Luận văn

Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả Đồng Thị Minh Phúc (2014). Kết quả

nghiên cứu cho thấy, trong tất cả sự trợ giúp xã hội trong các mối quan hệ của

10

NCT thì hầu hết NCT đánh giá cao mối quan hệ với con cháu trong gia đình,

họ coi gia đình là chỗ dựa an toàn nhất, quan trọng nhất. Việc trợ giúp xã hội

đối với NCT tuy đã đƣợc sự quan tâm của chính quyền, cộng đồng nhƣng chỉ

là chung chung và chƣa thực sự thiết yếu đối với NCT. Kết quả nghiên cứu

cũng chỉ ra những tác động vào việc thực hiện chính sách liên quan đến trợ

giúp xã hội đối với NCT tại xã Trực Tuấn cũng nhƣ một số các giải pháp

áp dụng trong CTXH đối với NCT tại cộng đồng.

Bên cạnh đó là một số nghiên cứu khác tìm hiểu về an sinh xã hội, phúc

lợi xã hội; thực trạng NCT; mô hình dành cho NCT… Dƣới đây, chúng ta sẽ

đề cập đến một số nghiên cứu nổi bật.

♦ Những nghiên cứu về NCT và an sinh xã hội

An sinh xã hội và phúc lợi xã hội dành cho NCT luôn là vấn đề nhận

đƣợc sự quan tâm của các nhà khoa học. Vì vậy, cho đến nay, có nhiều công

trình nghiên cứu theo hƣớng này đã đƣợc triển khai. Liên quan đến hƣớng

nghiên cứu này chúng ta sẽ điểm qua một số nghiên cứu đáng lƣu ý sau đây:

Trong hai năm 1991 đến 1992 Viện Xã hội học đã triển khai đề tài

“Người cao tuổi và an sinh xã hội" đƣợc sự tài trợ cũa quỹ Toyota/Tƣơng lai

của nhóm tác giả Trịnh Duy Luân, Lê Truyền, Bùi Thế Cƣờng, Trần Thị

Vinh, Vũ Hoa Thạch, Đỗ Thịnh. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu

về đời sống của NCT ở nông thôn và thành thị nƣớc ta từ góc độ xã hội học

(lao động, thu nhập, hoàn cảnh kinh tế, tình hình nhà ở và tiện nghi, vấn đề

sức khỏe và chăm sóc sức khỏe, việc tham gia CTXH sau nghỉ hƣu, hệ thống

an sinh xã hội và tác động của nó vào hoàn cảnh sống của NCT…) [53].

Trong nghiên cứu “Hệ thống an sinh xã hội đối với người cao tuổi” của

Bùi Thế Cƣờng đã nêu vai trò quan trọng của hệ thống An sinh xã hội trong

quá trình chăm sóc NCT ở nƣớc ta. An sinh xã hội cho nhóm NCT là một

nhiệm vụ quan trọng. Chăm lo các điều kiện An sinh xã hội cho nhóm NCT,

11

giúp họ đảm nhiệm các vai trò xã hội mới, đó là công việc có ý nghĩa to lớn

đối với phát triển xã hội. Vì không chỉ trong xã hội truyền thống nơi mà NCT

thực sự đƣợc tôn kính do họ nắm vững kho tri thức kinh nghiệm sản xuất, lƣu

giữ các giá trị truyền thống nơi mà ngay cả trong xã hội hiện đại NCT vẫn là

một tài nguyên xã hội theo mọi nghĩa [40, tr.4].

Bài viết “Nghiên cứu phúc lợi xã hội: Nhìn lại một chặng đường”

(Trƣờng hợp một chƣơng trình nghiên cứu và triển khai) của tác giả Bùi Thế

Cƣờng (2005) thuộc Chương trình nghiên cứu phúc lợi xã hội của Viện xã hội

học là một nghiên cứu đáng lƣu ý. Bài viết đề cập đến nghiên cứu phúc lợi xã

hội đối với NCT đƣợc tiến hành nghiên cứu từ năm 1991 và tổng kết lại

những nghiên cứu về NCT trong suốt thời gian dài. Từ kết quả của những

nghiên cứu đó tác giả bài viết cũng có những đề xuất, khuyến nghị nhằm nâng

cao hơn nữa về việc chăm sóc cho NCT ở nƣớc ta.

Có thể nói rằng những nghiên cứu liên quan đến NCT và an sinh xã

hội, phúc lợi xã hội đã tìm hiểu vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội giành

cho NCT trong những thời kỳ khác nhau ở trên các nƣớc cũng nhƣ khu vực

nhằm đƣa ra những cái nhìn chung nhất về vấn đề này. Bên cạnh đó, những

nghiên cứu trên cũng chỉ ra những điểm hạn chế cần khắc phục cũng nhƣ đề

xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách an sinh cũng nhƣ phúc lợi dành

cho NCT để cuộc sống của NCT đƣợc đảm bảo hơn. Dƣới một góc nhìn nhất

định, những nghiên cứu này đã mở rộng sự hiểu biết đối với các chƣơng trình

phúc lợi, anh sinh xã hội giành cho NCT ở nƣớc ta trong thời gian vừa qua.

♦ Những nghiên cứu về thực trạng NCT

Trong thực tiễn đời sống xã hội, nếu muốn nâng cao đƣợc chất lƣợng,

cải thiện đƣợc dịch vụ thì việc điều tra nghiên cứu về thực trạng là một trong

những vấn đề mấu chốt. Đối với lĩnh vực NCT cũng vậy, để nâng cao đƣợc

chất lƣợng chăm sóc cho NCT thì cần phải tìm hiểu thực trạng đời sống của

họ nhƣ thế nào. Chính vì thế mà đây cũng là một trong những mảng nghiên

12

cứu cần quan tâm. Chúng ta có thể kể đến một vài nghiên cứu nổi bật sau đây:

Nghiên cứu “Thực trạng người cao tuổi Hà Tây” năm 2003 của Ủy

ban Dân số, Gia đình và Trẻ em Hà Tây. Nghiên cứu này đƣợc triển khai tại 3

xã, phƣờng: Xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai đại diện cho khu vực nông

nghiệp; xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên đại diện cho khu vực làng nghề;

phƣờng Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện cho khu vực thành thị. Kết quả

nghiên cứu này đã chỉ ra đƣợc vai trò của NCT trong các hoạt động sống hằng

ngày, nhu cầu của họ cả về vật chất lẫn tinh thần, sức khỏe... và từ đó đƣa ra

những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho NCT [46].

Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Cƣờng và Lê Trung Sơn (2003) về

“Thực trạng người cao tuổi và giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc

người cao tuổi ở Hà Tây” cho thấy NCT Hà Tây thỏa mãn tinh thần chủ yếu

là vui chơi cùng con cháu (81,4%). NCT ở nông thôn sinh hoạt cùng con cháu

thƣờng xuyên hơn NCT ở thành thị (83,5% so với 77,4%). NCT thành thị tiếp

cận thông tin, tham quan, du lịch, thể dục thể thao và sinh hoạt đoàn thể một

cách thƣờng xuyên hơn NCT nông thôn. Tỷ lệ các cụ ở thành thị tham gia các

hoạt động Đảng, chính quyền cao hơn nông thôn. Các cụ ông tham gia nhiều

hơn các cụ bà [13].

Nghiên cứu “Thực trạng đời sống của người cao tuổi dân tộc và già

làng trong phát triển bền vững Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Thế Huệ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy đƣợc vai trò to lớn của NCT, già làng trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị... ở Tây Nguyên. Đồng

thời kết quả nghiên cứu còn cho thấy đƣợc vai trò to lớn của NCT, già làng

trong tất cả các hoạt động tại cộng đồng. Điều đó góp phần khẳng định vị trí,

vai trò quan trọng của NCT trong cuộc sống. Nghiên cứu này đƣợc biên soạn

và xuất bản năm 2008 [27].

Những nghiên cứu thực trạng này cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng

quan về đời sống của NCT tại những địa phƣơng khác nhau. Trong các nghiên

13

cứu này các giả đã tiến hành tìm hiểu về cả đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần

của NCT và tìm hiểu đƣợc vai trò của NCT đối với gia đình và cộng đồng mình.

Từ thực trạng đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đời sống của NCT vẫn chƣa

thực sự đƣợc quan tâm đúng mức.

♦ Nghiên cứu về các mô hình giành cho người cao tuổi

Bên cạnh những nghiên cứu về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và thực

trạng đời sống của NCT thì các mô hình chăm sóc sức khỏe dành cho NCT

cũng nhận đƣợc sự quan tâm, chú ý. Có thể kể đến một vài nghiên cứu nhƣ:

Đề tài: “Tìm hiểu đời sống người cao tuổi tại Mái ấm tình thương chùa

Diệu Pháp” đƣợc triển khai nghiên cứu để tìm hiểu thực trạng đời sống về

chế độ dinh dƣỡng, sinh hoạt, đời sống tinh thần của NCT trong Mái ấm tình

thƣơng chùa Diệu Pháp và từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm cải thiện đời

sống cho NCT tại đây. Đây cũng là một trong những mô hình chăm sóc sức

khỏe cho NCT có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nƣơng tựa tập trung giống

nhƣ các trung tâm chăm sóc NCT [42, tr.12 – tr.13].

Trong đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao

tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc người cao tuổi đang áp dụng”

của Đặng Vũ Cảnh Linh (2009) đã đƣa ra một số vấn đề về NCT: Thứ nhất,

điều kiện sống ngày một tăng góp phần tích cực vào việc nâng cao sức khỏe

của NCT. Thứ hai, công tác chăm sóc sức khỏe NCT đã đƣợc quan tâm. Thứ

ba, công tác tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng

còn ít, tại nhiều địa bàn khảo sát tình trạng NCT hoạt động đơn lẻ, tự phát phổ

biến. Thứ tƣ, điều kiện sống của NCT đang dần đƣợc cải thiện cùng với cuộc

sống của toàn xã hội. Một số mô hình chăm sóc NCT hiện nay bƣớc đầu đã

giải quyết đƣợc những vấn đề của xã hội. Các mô hình này ít nhiều đã giúp

NCT có đƣợc cuộc sống thanh thản và nhận đƣợc sự quan tâm chăm sóc

chu đáo [38].

Hiện tại, ở nƣớc ta có nhiều mô hình trợ giúp NCT khác nhau, có

14

những mô hình trong các trung tâm trợ giúp, các cơ sở chăm sóc nuôi dƣỡng

cũng có những mô hình tại cộng đồng. Những nghiên cứu trên đã bàn về một

vài mô hình, và đánh giá các hoạt động triển khai tại các mô hình này. Từ các

nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng, những mô hình này đã góp phần quan

trọng vào việc cải thiện, nâng cao chất lƣợng cuộc sống NCT tại các trung

tâm cơ sở nuôi dƣỡng tập trung cũng nhƣ tại cộng đồng.

♦ Một vài nghiên cứu khác

Ngoài những hƣớng nghiên cứu đã đƣợc đề cập đến ở trên, lĩnh vực

ngƣời cao tuổi cũng có nhiều nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau của đời

sống xã hội.

Nghiên cứu về “Sự tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi ở

đồng bằng sông Hồng” của tác giả Dƣơng Chí Thiện (1999). Kết quả của

cuộc nghiên cứu trên đã đề cập đến sự tham gia vào các hoạt động xã hội của

NCT và qua đó đánh giá những yếu tố tác động đến sự tham gia hoạt động xã

hội của NCT ở vùng đồng bằng sông Hồng. Kết quả cho thấy tỷ lệ NCT tham

gia vào các hoạt động xã hội ở các tổ chức phi chính thức cao hơn rất nhiều so

với các tổ chức chính thức. Các yếu tố nhƣ khu vực cƣ trú, giới tính, độ tuổi,

mức độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh và điều kiện sống, tình trạng sức

khỏe… đều có ảnh hƣởng đến giao tiếp của NCT [48].

Nghiên cứu “Động cơ tiếp tục hoạt động lao động của người nghỉ hưu

ở Hà Nội” của tác giả Hoàng Mộc Lan (2006) đƣợc tiến hành trên 600 ngƣời

về hƣu ở HN, cho thấy hơn 50% ngƣời nghỉ hƣu vẫn muốn tiếp tục duy trì lao

động nghề nghiệp do lƣơng hƣu thấp, thói quen làm việc và mong muốn giao

tiếp với mọi ngƣời trong cơ quan, cơ sở mà họ đã sống, gắn bó nhiều năm

[57, tr.14 – tr.15].

Một công trình khác cần kể đến ở đây là đề tài: “Nâng cao chất lượng

hoạt động của Hội người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ mới” đã đƣợc Viện

nghiên cứu NCT Việt Nam trực tiếp triển khai ở hai tỉnh Quảng Ngãi và

15

Quảng Ninh với sự phối hợp của Ban Tổ chức, Ban phong trào, Ban xã hội –

Sức khỏe, Văn phòng trung ƣơng Hội và Ban đại diện Hội NCT hai tỉnh trên.

Đề tài tiến hành nghiên cứu về hoạt động của Hội NCT. Thực trạng hoạt động

chăm sóc NCT. Hoạt động phát huy vai trò của NCT. Một số hạn chế, nguyên

nhân, bài học về hoạt động và tổ chức của Hội NCT, đồng thời đƣa ra các giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội NCT tại địa phƣơng. Đề tài

này cũng đƣợc biên tập thành sách bởi hai tác giả Đinh Văn Tƣ, Nguyễn Thế

Huệ và đƣợc xuất bản năm 2010 [32].

Trong nghiên cứu “Một số vấn đề chăm sóc sức khỏe người già hiện

nay” của tác giả Dƣơng Chí Thiện, đã đề cập đến các vai trò của gia đình, của

tổ chức xã hội và hệ thống y tế đối với vấn đề chăm sóc NCT:

Vai trò của gia đình trong chăm sóc NCT: Gia đình có vai trò rất to lớn

trong đảm bảo mọi mặt cho toàn bộ cuộc sống của NCT. Tuy nhiên một vấn

đề đang đƣợc đặt ra hiện nay là số lƣợng NCT phải sống cô đơn ngày càng

tăng mặc dù con cái của họ đang sống (vì nhiều lý do không thể chăm sóc các

cụ) hoặc họ không có con cái khi ốm đau già yếu.

Vai trò của các tổ chức xã hội trong chăm sóc NCT: Cùng với việc coi

gia đình nhƣ một cơ sở quan trọng trong hệ thống ASXH đối với NCT thì các

tổ chức xã hội, các nhóm xã hội đóng một vai trò không nhỏ trong việc chăm

sóc NCT và thỏa mãn nhiều nhu cầu đặt ra trong đời sống của NCT.

Vai trò của hệ thống y tế đối với sức khỏe NCT: Với việc thực hiện chế

độ bảo hiểm y tế cho NCT, tuy mới chỉ là bƣớc đầu, nhƣng đó là bƣớc tiến

quan trọng và cơ bản của nƣớc ta trên con đƣờng thực hiện một hệ thống

chăm sóc sức khỏe NCT phù hợp với quá trình phát triển của xã hội hiện nay

[40, tr.3 – tr.4].

Cuối cùng một công trình nghiên cứu về NCT không thể bỏ qua là Báo

cáo “Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và

một số khuyến nghị chính sách” (Tháng7/2011) đƣợc Quỹ Dân số Liên hợp

16

quốc (UNFPA) khởi xƣớng trong khuôn khổ chƣơng trình Kế hoạch Một Liên

hợp quốc. Báo cáo đã trình bày về một số đặc điểm của già hóa dân số và

NCT ở Việt Nam với những phân tích cụ thể về xu hƣớng và mức độ già hóa

dân số ở Việt Nam trong thời gian tới cùng với thực trạng về cuộc sống gia

đình, sức khỏe, hoạt động kinh tế... Bên cạnh đó báo cáo cũng phân tích về hệ

thống hƣu trí, trợ cấp và chăm sóc sức khỏe cho NCT ở Việt Nam trong thời

gian gần đây cũng nhƣ các chiến lƣợc quốc gia trong thời gian tới nhằm giải

quyết những vấn đề của già hóa dân số. Từ đó báo cáo đƣa ra khuyến nghị

chính sách ngƣời NCT Việt Nam khỏe mạnh, tích cực trong các hoạt động xã

hội và năng động trong các hoạt động chân tay và trí óc [44].

Qua những nghiên cứu kể trên, tác giả nhận thấy có nhiều ngƣời nghiên

cứu về NCT, từ thực trạng đời sống, những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống,

những vấn đề về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cũng nhƣ các mô hình chăm

sóc dành cho NCT nƣớc ta. Có thể nói rằng các nghiên cứu kể trên là cơ sở

quan trọng để tác giả nghiên cứu “Vai trò của nhân viên công tác xã hội với

người cao tuổi tại cộng đồng” - (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo -

huyện Yên Dũng – Tỉnh Bắc Giang).

3. Ý nghĩa của nghiên cứu

3.1. Ý nghĩa khoa học

Đề tài vận dụng lý thuyết, phƣơng pháp xã hội học và CTXH vào giải

quyết một số vấn đề thực tiễn thông qua việc tìm hiểu thực trạng công tác

chăm sóc NCT và phát huy vị trí, vai trò to lớn của NCT trong gia đình và xã

hội; nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng –

tỉnh Bắc Giang. Đồng thời thông qua đó làm sáng tỏ và góp phần bổ sung một

số khía cạnh về mặt khái niệm, nội dung cho một số lý thuyết trên.

Là nguồn tƣ liệu tham khảo cho các nghiên cứu về sau trong lĩnh vực

NCT nói chung và CTXH với NCT nói riêng.

Đề tài đóng góp thêm một góc nhìn mới, một quan điểm, một cách tiếp

17

cận khác trong những lĩnh vực nghiên cứu về NCT thông qua việc đánh giá

tầm quan trọng về NCT với NCT nói chung và vai trò của nhân viên NCT nói

riêng trong trợ giúp NCT.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thứ nhất, từ những kết quả nghiên cứu thực tế tác giả nghiên cứu đề tài

sẽ phát hiện ra đƣợc những điểm mạnh, điểm yếu trong nghiên cứu thực trạng

công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình và xã

hội; những nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT tại cộng đồng. Giúp cho các cán

bộ làm công tác với NCT có những biện pháp thiết thực thúc đẩy công tác

chăm sóc NCT ngày càng tốt hơn.

Thứ hai, đề xuất vai trò của nhân viên CTXH trong việc trợ giúp NCT

và kiến nghị cho các cấp chính quyền, gia đình, cộng đồng nhằm thực hiện tốt

hơn công tác hỗ trợ, chăm sóc NCT. Đồng thời góp phần đảm bảo môi trƣờng

xã hội, môi trƣờng văn hóa, văn minh cho các cụ, thực hiện quyền cơ bản của

NCT – một trong những nội dung của quyền cơ bản.

Thông qua các vai trò, hoạt động của nhân viên CTXH đang đƣợc thực

hiện ẩn dƣới các tổ chức, hội, đoàn thể trong việc trợ giúp NCT tác giả mong

muốn giúp nhân viên CTXH chuyên cũng nhƣ không chuyên hoạt động về

CTXH có cái nhìn tổng thể, và nắm rõ đƣợc các vai trò của mình khi làm việc

với NCT để đạt đƣợc kết quả cao nhất của sự trợ giúp.

Thứ ba, nghiên cứu làm cơ sở để đánh giá tính hiệu quả về vai trò của

nhân viên CTXH trong vấn đề trợ giúp NCT tại cộng đồng.

Thứ tư, bổ sung thêm tài liệu tham khảo về ngành CTXH trong CTXH

với NCT cho các tổ chức, cá nhân hoạt động và quan tâm.

Thứ 5, trong quá trình thực hiện đề tài góp phần tích lũy kinh nghiệm

cho bản thân, giúp bản thân nâng cao một số kĩ năng của nhân viên NCT.

4. Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài, kết quả nghiên cứu hƣớng

18

tới trả lời các câu hỏi sau:

Thực trạng công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT tại

Thị trấn Neo hiện nay đang diễn ra nhƣ thế nào?

NCT tại Thị trấn Neo có những nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng nào

và đã đƣợc đáp ứng chƣa?

Vai trò của nhân viên CTXH (cán bộ xã hội) trong trợ giúp NCT tại địa

thị trấn hiện nay nhƣ thế nào? Những khó khăn, trở ngại và giải pháp để thực

hiện tốt các vai trò trợ giúp?

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng công tác chăm sóc và phát

huy vị trí, vai trò của NCT; nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT tại Thị trấn Neo

– huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

Trên cơ sở đó đƣa ra những kiến nghị, đề xuất những vai trò nhân viên

CTXH trong việc trợ giúp NCT tại Thị trấn Neo để NCT sống vui, sống khỏe,

sống có ích và hƣớng tới vận dụng các hệ thống lý thuyết, kỹ năng, phƣơng

pháp can thiệp CTXH trong việc hỗ trợ NCT tại công đồng.

5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu vai trò của

nhân viên CTXH với NCT tại cộng đồng.

Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng chăm sóc và phát huy vị trí,

vai trò của NCT tại thị trấn.

Tìm hiểu, đánh giá, phân tích những quan điểm, nhu cầu hỗ trợ của

NCT tại thị trấn. Từ đó hiểu rõ hơn về những mong muốn của họ để có kiến

nghị, đề xuất những biện pháp cụ thể, thực tế hơn.

Đề xuất các vai trò của nhân viên CTXH trong việc trợ giúp NCT tại

Thị trấn Neo. Đồng thời hƣớng tới hƣớng tới vận dụng các hệ thống lý thuyết,

19

kỹ năng, phƣơng pháp can thiệp CTXH trong việc hỗ trợ NCT tại công đồng.

6. Giả thuyết nghiên cứu

NCT trên địa bàn khảo sát vẫn gặp nhiều khó khăn về chăm sóc sức

khỏe, đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần. NCT ở đây chƣa có điều kiện

đƣợc tiếp cận với các dịch vụ từ cộng đồng xã hội nhƣ: chăm sóc sức khỏe

tâm thần; khám chữa bệnh; hoạt động vui chơi giải trí; hỗ trợ hòa nhập cộng

đồng; dịch vụ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm,…

NCT đã và đang nhận đƣợc sự quan tâm từ phía gia đình, cộng đồng và

xã hội. Tuy nhiên vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản của NCT.

Vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ, chăm sóc NCT và phát

huy vị trí, vai trò của NCT trên địa bàn thị trấn còn khá mờ nhạt và thiếu kiến

thức, kỹ năng, phƣơng pháp CTXH. Nhân viên CTXH chƣa phát huy đƣợc

vai trò của mình trong việc trợ giúp NCT.

7. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu

7.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của nhân viên CTXH với NCT tại cộng đồng – Nghiên cứu

trƣờng hợp tại Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang làm nội dung

nghiên cứu.

7.2. Khách thể nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu của đề tài đƣợc xác định bao gồm các thành phần sau:

+ Ngƣời cao tuổi tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

+ Ngƣời thân trong gia đình (con, cháu...) của NCT đang chung sống

trong một hộ gia đình.

+ Chính quyền địa phƣơng

+ Hội NCT Thị trấn Neo

+ Chi hội NCT tại các tiểu khu

+ Hội Cựu chiến binh

20

+ Cán bộ xã hội

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

8.1. Phương pháp phân tích tài liệu

Nhiều tài liệu báo cáo, sách, tạp chí chuyên ngành trên tƣ liệu sách báo,

internet và các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề “Người

cao tuổi”, “Công tác xã hội với người cao tuổi” đƣợc tác giả thu thập. Các tài

liệu này đƣợc tổng hợp, phân tích giúp cho tác giả có đƣợc cái nhìn tổng quan về

những nghiên cứu đi trƣớc trong lĩnh vực này. Những công trình nghiên cứu này

bao gồm cả tài liệu trong nƣớc và cả tài liệu nƣớc ngoài. Việc phân tích đó sẽ

giúp cho chúng tôi có thể kế thừa có chọn lọc và so sánh các phân tích kết quả

của những nghiên cứu này với những kết quả nghiên cứu của luận văn.

Bên cạnh đó phƣơng pháp này còn đƣợc sử dụng để thu thập, phân tích

những số liệu thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội; Báo cáo hoạt động

tổng kết hàng năm của Ủy ban nhân dân Thị trấn Neo, Báo cáo của Hội NCT

thị trấn Neo,... Việc thu thập, phân tích này sẽ hỗ trợ cho việc giải thích dữ

liệu điều tra, đồng thời giúp cho tác giả có đƣợc cái nhìn tổng quan về Hội với

cách thức tổ chức hoạt động, kết quả đạt đƣợc gì, những điểm nào cần phát

huy, điểm nào hạn chế cần khắc phục.

8.2. Phương pháp quan sát

Quan sát thực tế hoạt động trong công tác chăm sóc và phát huy vị trí,

vai trò của NCT tại địa phƣơng, hoạt động của Hội NCT tại địa bàn Thị trấn

Neo, tiếp xúc trực tiếp với Ban lãnh đạo chính quyền địa phƣơng, Chủ tịch

Hội NCT, Chi hội trƣởng Hội NCT, Cán bộ xã hội. Giai đoạn quan sát thực tế

đƣợc tiến hành trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ

nghiên cứu của đề tài. Cách thức quan sát đƣợc kết hợp giữa quan sát tham dự

và quan sát không tham dự.

8.3. Phương pháp nghiên cứu điều tra bảng hỏi

Tiến hành điều tra bảng hỏi với 150 NCT hiện đang sống tại địa bàn

21

Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang. Việc chọn mẫu đƣợc tiến

hành theo phƣơng pháp ngẫu nhiên hệ thống. (1) Rà soát danh sách tất cả

NCT hiện đang sống tại tại địa bàn Thị trấn Neo (Độ tuổi từ 60 – 80 tuổi, trừ

NCT không có khả năng giao tiếp trực tiếp). (2) Đánh số thứ tự NCT trong

danh sách. Lấy ngẫu nhiên một trong hai ngƣời đầu tiên. Tiếp đó cứ cách một

ngƣời trong danh sách lại chọn một ngƣời cho đến khi đủ cỡ mẫu 150 ngƣời.

- Nội dung điều tra bảng hỏi bao gồm:

+ Một số thông tin chung về NCT;

+ Một số thông tin về sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe;

+ Một số thông tin về hoạt động lao động, nhu cầu lao động;

+ Quan hệ xã hội và nhu cầu đƣợc quan tâm, tôn trọng;

+ Một số thông tin về hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của

NCT;

+ Một số thông tin về hỗ trợ NCT của cán bộ xã hội và chính quyền địa

phƣơng;

+ Phát huy vị trí, vai trò của NCT;

+ Mong muốn/nguyện vọng của NCT.

8.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

Tiến hành 15 cuộc phỏng vấn sâu trực tiếp đối với: Lãnh đạo Thị trấn

Neo (01); Chủ tịch Hội Ngƣời cao tuổi (01); Bản thân NCT (10), Đại diện

thành viên hộ gia đình có NCT (04); Nhân viên CTXH – Cán bộ xã hội (01).

Mục đích của phƣơng pháp phỏng vấn sâu:

Nội dung cốt lõi của các cuộc phỏng vấn sâu tập trung vào những vấn

đề sau: (1) Đánh giá thực trạng công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò

của NCT trong gia đình và xã hội; (2) Nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ, chăm sóc của

NCT hiện nay; (3) Đánh giá nhận thức và vai trò của gia đình, cộng đồng xã

hội trong chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT; (4) Đánh giá vai trò

nhân viên CTXH (những khó khăn, trở ngại và nhận thức của nhân viên

22

CTXH về vai trò của mình).

Phỏng vấn sâu không nhằm đo lƣờng tần số, tỷ lệ hay mối quan hệ liên

quan giữa các biến số mà chỉ giúp góp phần xác định lại và bổ sung thêm

thông tin trong phần nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi.

8.5. Phương pháp phân tích và thống kê xã hội học

Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý kết quả điều tra.

9. Phạm vi nghiên cứu

9.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng chăm sóc

và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình và xã hội; nhu cầu cần đƣợc

hỗ trợ của NCT và vai trò trợ giúp NCT của nhân viên CTXH tại Thị trấn Neo

– huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

9.2. Phạm vi không gian

Không gian nghiên cứu: Thị trấn Neo - huyện Yên Dũng – Tỉnh Bắc

Giang.

9.3. Phạm vi thời gian

Đề tài nghiên cứu đƣợc triển khai trong khoảng thời gian từ 04/2014 –

23

4/2015.

Phần 2. NỘI DUNG CHÍNH

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC THỰC TIỄN

CỦA NGHIÊN CỨU

1.1. Các khái niệm công cụ

1.1.1 Khái niệm vai trò

Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm vai trò:

Theo Từ điển XHH Oxford, vai trò là một khái niệm then chốt trong lý

thuyết XHH. Nó nhấn mạnh những kỳ vọng trong xã hội gắn với những vị thế

hay vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích sự vận hành của những kỳ vọng ấy [12, tr.589]. Đây là khái niệm vốn bắt nguồn từ vai diễn trên sân khấu

sau đó đƣợc các nhà Tâm lý học, Xã hội học sử dụng để lý giải quá trình

“đóng vai” của con ngƣời trong những bối cảnh nhất định. Vai trò là mô hình

hành vi đƣợc xác lập một cách khách quan, căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối

với từng vị thế nhất định để thực hiện những quyền lợi và nghĩa vụ tƣơng ứng

với vị thế đó.

Theo Ralph Linton (1893 - 1953) nhà nhân học văn hóa ngƣời Mỹ, đã

đƣa ra khái niệm vai trò: “Vai trò là những lối ứng xử đã được quy định sẵn

và áp đặt tương ứng với những vị trí cụ thể nhất định. Mỗi “vị thế” đều có

“vai trò” của nó, “chức năng” của nó trong xã hội”. Thuyết chức năng công

nhận là vai trò thƣờng đƣợc xác định trong mối quan hệ với các vai trò khác,

nhƣng họ phủ nhận rằng có thể thay đổi hoặc tạo ra vai trò mới. Bởi lẽ vai trò

đƣợc quy định bởi những chuẩn mực xã hội. Nhƣ vậy, trong cuộc sống con

ngƣời luôn phải đối mặt với các vai trò xã hội khác nhau, đôi khi đóng vai trò

ở cùng một thời điểm và trong những tình huống xã hội cụ thể.

Có quan điểm cho rằng: “Một vai trò là tập hợp các mong đợi, các

quyền và những nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Những sự mong đợi

24

này xác định các hành vi của con người được xem như là phù hợp và không

phù hợp đối với người chiếm giữ một địa vị” [14, tr.212]. Theo quan điểm

này tƣơng ứng với từng địa vị cụ thể sẽ có những vai trò đƣợc đƣa ra. Những

quyền và nghĩa vụ này giúp phân biệt đƣợc vai trò của cá nhân trong từng địa

vị khác nhau.

Ứng dụng vào trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ vừa tìm hiểu vai

trò của NCT trong gia đình và xã hội từ các đóng góp của NCT thông qua các

hoạt động trong đời sống văn hóa – kinh tế - chính trị - xã hội của họ còn gọi

là vai trò cụ thể thì trong nghiên cứu này vai trò chung (trừu tƣợng), của NCT

đƣợc hiểu là vai trò chủ gia đình, vai trò trong giáo dục bảo lƣu các giá trị văn

hóa gia đình và cộng đồng… Đồng thời, luận văn cũng tìm hiểu vai trò của

gia đình và cộng đồng cũng nhƣ tìm hiểu về vai trò của nhân viên CTXH

trong việc hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình

và xã hội tại địa phƣơng. Với những thay đổi về tâm sinh lý cũng nhƣ xã hội,

NCT dễ gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Các vấn đề đề này làm cho

việc thực hiện các chức năng xã hội của họ bị cản trở và làm cho họ trở thành

nhóm đối tƣợng yếu thế cần đƣợc giúp đỡ chuyên nghiệp. Khi làm việc trong

lĩnh vực trợ giúp NCT, nhân viên CTXH phải tìm hiểu, phân tích, đánh giá

cũng nhƣ giúp NCT giải quyết các vấn đề cụ thể của bản thân, từ đó giúp họ

phục hồi và phát triển các chức năng xã hội để hòa nhập với xã hội, tiếp tục

đóng góp sức lực, trí tuệ và kinh nghiệm để phát triển địa phƣơng, đất nƣớc.

1.1.2 Khái niệm người cao tuổi

Có rất nhiều khái niệm khác nhau, cách nhìn khác nhau về NCT. Trƣớc

đây, ngƣời ta thƣờng dùng thuật ngữ “Người già” để chỉ những ngƣời có tuổi.

Hiện nay, thuật ngữ “Người cao tuổi” ngày càng đƣợc sử dụng nhiều hơn. Hai

thuật ngữ này tuy không khác nhau về mặt khoa học song về tâm lý, “Người cao

tuổi” là thuật ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng.

Theo quan điểm Y học: Ngƣời cao tuổi là ngƣời đang ở giai đoạn già

hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể. Quan điểm Y học

25

nhìn nhận NCT ở khía cạnh thể chất của con ngƣời.

Một cách phân chia khác đƣợc xác định dựa trên độ tuổi. Tuy nhiên, độ

tuổi này mang tính tƣơng đối, có sự khác biệt theo thời gian và các vùng lãnh

thổ. Ngƣời cao tuổi là ngƣời thuộc độ tuổi nhất định nào đó đƣợc thừa nhận

bởi các thành viên trong xã hội. Một số quốc gia có tuổi thọ trung bình cao

nhƣ Nhật Bản, Pháp, Đức, Thụy Điển... một ngƣời đƣợc xem là ngƣời già khi

họ 65 tuổi. Ở một số nƣớc khác nhƣ Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ... những

ngƣời từ 60 tuổi trở lên đƣợc coi là NCT. Quy định ở mỗi nƣớc có sự khác

biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của ngƣời dân ở

các nƣớc khác nhau. Những nƣớc có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì

tuổi thọ và sức khỏe của ngƣời dân cũng đƣợc nâng cao. Do đó, các biểu hiện

của tuổi già thƣờng đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nƣớc đó

cũng khác nhau.

Việc xác định độ tuổi cao tuổi còn phụ thuộc vào chính sách cũng nhƣ

nguồn lực để thực hiện các chính sách của mỗi quốc gia. Vì lý do đó, nhiều ý

kiến cho rằng, NCT Việt Nam đƣợc xác định từ 80 tuổi trở lên, vì trong hệ

thống chính sách Việt Nam, NCT từ 80 trở lên mới đƣợc hƣởng các dịch vụ

và trợ giúp xã hội.

Trên phạm vi toàn thế giới, năm 1992 Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã

thống nhất quy định những công dân từ 60 tuổi trở lên đƣợc tính là ngƣời già.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Ngƣời cao tuổi phải từ 65 tuổi trở lên.

Ở Việt Nam, Luật Người cao tuổi đƣợc Quốc hội thông qua vào tháng

11 năm 2009 và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01 tháng 07 năm 2010 quy định

tại điều 2: Ngƣời cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.

Nhƣ vậy, mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực lại có những quan niệm khác

nhau về NCT. Công tác xã hội nhìn nhận NCT theo pháp luật, chính sách. Đồng

thời, với cách thức đặc thù: NCT với những thay đổi tâm sinh lý, lao động – thu

nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó,

NCT là một trong những nhóm dễ bị tổn thƣơng và có nhu cầu cần sự trợ giúp

26

của CTXH nói chung và của nhân viên CTXH nói riêng [20, tr.8].

Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tiến hành nghiên cứu với những

NCT ở các lứa tuổi khác nhau từ 60 đến 80 tuổi, nghề nghiệp khác nhau tại

cộng đồng để từ đó tác giả có thể đánh giá đƣợc đƣợc những nhu cầu cơ bản;

vị trí, vai trò, những lĩnh vực hoạt động sống của NCT... Đồng thời khai thác

thế mạnh của NCT để phát huy vị trí, vai trò của NCT tiếp tục cống hiến cho

gia đình và xã hội, cho sự nghiệp phát triển của đất nƣớc.

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về cộng đồng. Theo Từ điển XHH

1.1.3 Khái niệm cộng đồng

Oxford, cộng đồng là một tập hợp những mối quan hệ được thiết lập một cách

đặc thù dựa trên những cái mà các thành viên cùng có chung – thường là một

cảm quan chung về bản sắc [12, tr.113].

Theo Redo – Trƣờng Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng

Philippins định nghĩa: “Cộng đồng là một đơn vị hành chính, lãnh thổ trong

đó mọi người có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chia sẻ các nền tảng chung

như văn hóa, tôn giáo, chủng tộc… Họ chia sẻ mối quan tâm chung về những

vấn đề cụ thể về những vấn đề cụ thể như nghèo đói, tệ nạn xã hội, trẻ em lao

động sớm, tai nạn thương tích trẻ em, thất học, bệnh tật, họ có nghĩa vụ và

trách nhiệm chung”.

Theo tác giả Trịnh Văn Tùng thì “Cộng đồng là một nhóm người có sự

liên hệ chặt chẽ với nhau, có nhiều thuộc tính giống nhau tạo thành bản sắc.

Cộng đồng ấy không nhất thiết cùng sống trong một đơn vị hành chính lãnh

thổ. Họ cùng nhau chia sẻ những mối quan tâm về những vấn đề cụ thể (thiếu

hụt chức năng xã hội, bị kì thị, bị loại trừ xã hội, khó khăn trong việc tiếp cận

các nguồn lực đồng thời có nghĩa vụ và trách nhiệm chung” [55].

Thƣờng thì mỗi cộng đồng xác định cho mình một hệ giá trị chuẩn mực

riêng với tính chất là các định chế xã hội quy định các nhận thức và hành vi

của các thành viên trong cộng đồng. Cụ thể, quy định các thành viên trong

27

cộng đồng phải làm gì? Làm nhƣ thế nào? Các quy chế khen thƣởng, xử phạt

ra sao? Khi các thành viên tuân theo các giá trị chuẩn mực của cộng đồng

thì sẽ đảm bảo sự thống nhất và đoàn kết trong cộng đồng. Hệ giá trị chuẩn

mực của cộng đồng đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở nhận thức, quan niệm và

tập quán của từng cộng đồng, vì vậy có những quan niệm cộng đồng này

coi là hay và tuân theo nhƣng ở cộng đồng khác lại thấy không chấp nhận

đƣợc [41, tr.2].

Luận văn sẽ triển khai nghiên cứu tại địa bàn Thị trấn Neo – huyện Yên

Dũng – tỉnh Bắc Giang, thông qua đó giúp cho tác giả nghiên cứu đề tài có cái

nhìn tổng quan về thực trạng công tác hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí vai

trò của NCT; nhu cầu của NCT; vai trò của nhân viên CTXH tại địa bàn thị

trấn. Đồng thời đánh giá các nguồn lực của cộng đồng trong việc trợ giúp

NCT. Từ đó có thể đƣa ra đƣợc những giải pháp tối ƣu trong trợ giúp NCT,

đáng ứng đƣợc những mong muốn, nguyện vọng của NCT giúp cho NCT

sống vui, sống khỏe, sống có ích trở tài sản, vốn quý của gia đình và xã hội.

1.1.4 Khái niệm công tác xã hội

Công tác xã hội là gì? Đây là câu hỏi có nhiều khó khăn và quan điểm

khác nhau khi trả lời câu hỏi này mặc dù CTXH đã trải qua hàng trăm năm.

Theo Liên đoàn Nhân viên CTXH quốc tế (IFSW) và Hiệp hội các

trƣờng CTXH quốc tế (IASSW) (tại Hội liên hiệp quốc tế của Liên đoàn

Nhân viên CTXH quốc tế (IFSW) và Hiệp hội các trƣờng CTXH quốc tế

(IASSW) tổ chức tại Montreal, Canada, 7/2000): “Công tác xã hội chuyên

nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong các mối quan hệ

của con người, tăng quyền lực và giải phóng cho người dân nhằm đem lại

một cuộc sống tốt đẹp hơn. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ

thống xã hội, CTXH can thiệp vào những điểm tương tác giữa con người và

môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là nguyên tắc căn bản

28

của nghề nghiệp CTXH” [36, tr.48].

Theo từ điển CTXH The Social work Dictionary – 5th edition do

Robert L.Barker biên soạn: “Công tác xã hội là sự ứng dụng khoa học vào

việc giúp đỡ (con người) người dân thực hiện chức năng xã hội của mình có

hiệu quả và tạo ra sự thay đổi xã hội nhằm tăng cường chất lượng cuộc sống

của tất cả mọi người” [64].

Theo từ điển Bách khoa toàn thƣ ngành CTXH xuất bản lần thứ 19:

“Công tác xã hội là một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt

động của con người, tạo ra những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh

xã hội cho người dân trong xã hội” [36, tr.49].

Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh: “Công tác xã hội là một hoạt động

thực tiễn mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo những nguyên tắc và

phương pháp nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải

quyết các vấn đề đời sống của họ. Qua đó, CTXH theo đuổi mục tiêu vì phúc

lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội” [47, tr.5 – tr.6].

Mặc dù có nhiều quan điểm, nhiều định nghĩa về CTXH còn khác nhau,

nhƣng chúng đều thống nhất về mục tiêu, mục đích, chức năng và phƣơng

pháp, về kiến thức, kỹ năng và giá trị của CTXH, đều dựa trên cơ sở khoa học

và kỹ năng nghề nghiệp CTXH.

Nhƣ vậy, CTXH là một khoa học, một nghề chuyên môn nhằm trợ giúp

các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi và phát triển các chức năng xã hội bị

suy giảm thông qua việc tăng cường năng lực và thay đổi môi trường xung

quanh, giúp cá nhân, nhóm, cộng đồng đó tự vươn lên, giải quyết các vấn đề

tồn tại, hòa nhập và sự phát triển chung của xã hội [20, tr.73].

Với những đặc trƣng của giai đoạn cuối, NCT đƣợc xếp vào nhóm yếu

thế cần sự trợ giúp. Công tác xã hội với NCT là công việc cần thiết, vừa thể

hiện truyền thống “trọng lão” của dân tộc, vừa trợ giúp hiệu quả cho NCT để

họ khắc phục những khó khăn, phát huy các tiềm năng của bản thân cũng nhƣ

29

khai thác nguồn lực bên ngoài để phục hồi, hòa nhập và cống hiến cho xã hội.

1.1.5 Khái niệm nhân viên công tác xã hội

Trong giáo dục đào tạo cũng nhƣ trong hoạt động thực tiễn ngành

CTXH, khái niệm nhân viên CTXH thƣờng đƣợc sử dụng khác nhau: cán bộ

xã hội, nhân viên xã hội, nhân viên công tác xã hội. Thuật ngữ cán bộ xã hội,

nhân viên xã hội dễ nhầm lẫn với những cán bộ, những nhân viên làm việc

trên các lĩnh vực xã hội khác nhau.

Theo Hiệp hội quốc tế nhân viên công tác xã hội IASSW thì nhân viên

CTXH: “Nhân viên công tác xã hội là những người được đào tạo và trang bị

các kiến thức và kỹ năng trong công tác xã hội, họ có nhiệm vụ trợ giúp các

đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc

sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết thúc đẩy

sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường, tạo ảnh hưởng

tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình,

nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn”.

Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, trong tác phẩm “Đổi mới Công tác

xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Lý luận và thực

tiễn”, xuất bản năm 2013, đã viết “Nhân viên Công tác xã hội được hiểu là

những người làm việc liên quan đến các hoạt động Công tác xã hội tại các tổ

chức, đơn vị của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và các ngành như

ý tế, giáo dục, đoàn thể... từ cấp trung ương tới địa phương”.

Tóm lại, nhân viên CTXH là người được đào tạo một cách bài bản về

mặt chuyên môn và các kỹ năng làm việc chuyên nghiệp. Nhân viên CTXH

không chỉ hướng vào các nhóm đối tượng yếu thế mà còn xây dựng những

chương trình, những giải pháp chiến lược nhằm bảo vệ cả cộng đồng dân cư.

Họ luôn đặt lợi ích của thân chủ lên cao nhất và cố gắng giúp đỡ thân chủ

đạt được mục tiêu mà họ đặt ra. Tuy nhiên, nhân viên CTXH chỉ là người

cùng thảo luận và giải thích các phương án có điểm nào tốt, điểm nào hạn

chế, còn quyết định cuối cùng vẫn thuộc về thân chủ chứ nhân viên CTXH

30

không làm hộ làm thay.

Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả đi tìm hiểu, phân tích và đánh

giá vai trò, những thuận lợi và khó khăn, trở ngại trong việc thực hiện vai trò

của nhân viên CTXH trong hoạt động hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí, vai

trò của NCT trong gia đình và xã hội tại địa bàn Thị trấn Neo.

1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu

1.2.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái

Đây là một trong những lý thuyết quan trọng đƣợc sử dụng trong

CTXH, đặc biệt khi tìm hiểu, đánh giá về hệ thống xung quanh NCT. Nó cho

nhân viên CTXH biết rằng NCT đang thiếu những gì và những hệ thống mà

họ có thể tham gia và tiếp cận bởi trọng tâm của hệ thống là hƣớng đến những

cái tổng thể và mang tính hòa nhập. Đồng thời mục đích của lý thuyết này

nhằm hỗ trợ nhân viên CTXH duy trì trọng tâm vào những tƣơng tác giữa

thân chủ và môi trƣờng của họ.

Nội dung của thuyết hệ thống sinh thái chú ý tới vị trí của cá nhân trong

môi trƣờng sống. Hệ thống sinh thái cho rằng con ngƣời ảnh hƣởng lẫn nhau

và ảnh hƣởng tới môi trƣờng. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì con ngƣời

không sống biệt lập mà luôn luôn sống trong cộng đồng. Tác động qua lại

giữa các hệ thống con ngƣời và môi trƣờng có ảnh hƣởng rất lớn đến an sinh

của cá nhân và của xã hội. Nhƣ vậy, thuyết hệ thống sinh thái nhấn mạnh vào

sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng sinh thái của mình. Vì vậy, nhiệm

vụ của nhân viên CTXH là giúp thân chủ nhận biết và sử dụng các hệ thống;

xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân và các hệ thống nguồn lực của họ.

Thuyết hệ thống sinh thái đƣa ra một mô hình đƣợc ứng dụng nhiều

trong CTXH: Mô hình đời sống (của Germain – Gitterman – 1980) là một mô

hình chính trong lý thuyết hệ thống sinh thái. Mô hình này nhìn nhận cá nhân

phải thƣờng xuyên trao đổi và thích ứng với môi trƣờng sống của họ để có thể

tồn tại và phát triển. Nhƣng trong thực tế con ngƣời luôn phải đối mặt với

31

những vấn đề nảy sinh, bao gồm các vấn đề xã hội. Chúng làm giảm khả năng

thích ứng của con ngƣời và cuộc sống của họ. Vì vậy, để duy trì sự tồn tại và

phát triển này, các cá nhân, nhóm và cộng đồng cần có một đầu vào thích hợp.

Để đạt đƣợc sự cân bằng trong việc thích ứng với môi trƣờng, con

ngƣời phải chịu các áp lực (liên quan đến các yếu tố: nhu cầu – khả năng –

môi trƣờng):

Những áp lực môi trƣờng

● Bất bình đẳng ● Thiên tai ●...

Các tiến trình liên cá nhân ● Việc khám phá, kỳ vọng trái ngƣợc nhau

Sự chuyển đổi cuộc sống ● Các giai đoạn phát triển ● Biến đổi vị thế, vai trò ● Thay đổi không gian sống

Cốt lõi của thuyết này nhấn mạnh đến tầm quan trọng là khả năng thích

ứng, kiểm soát, nhận thức môi trƣờng bên ngoài của mỗi cá nhân. Có ba

trƣờng hợp thiếu hài hòa giữa cá nhân và môi trƣờng.

- Môi trƣờng có tài nguyên và phƣơng pháp phân phối hợp lý nhƣng cá

nhân không sử dụng, có thể vì thiếu kiến thức hay không có ý chí sử dụng.

- Môi trƣờng có tài nguyên nhƣng không có phƣơng pháp phân phối

công bằng, hợp lý.

- Môi trƣờng không có tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân.

Công cụ của lý thuyết hệ thống sinh thái đƣợc sử dụng nhiều trong

phân tích CTXH là sơ đồ sinh thái nhằm mục đích phân tích mối quan hệ của

thân chủ với các nguồn lực hệ thống xung quanh. Từ đó chỉ ra nguyên nhân

32

cũng nhƣ hƣớng can thiệp đối với thân chủ.

Ghi chú:

Không liên hệ:

Có liên hệ:

Liên hệ một chiều:

Liên hệ mật thiết:

Mâu thuẫn:

Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống sinh thái

Nhƣ vậy nhiệm vụ của nhân viên CTXH khi ứng dụng lý thuyết hệ

thống sinh thái trong trợ giúp NCT bao gồm:

- Giúp các cá nhân sử dụng và tăng cƣờng khả năng của bản thân họ

nhằm giải quyết đƣợc mọi vấn đề.

- Xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân và hệ thống.

- Giúp đỡ hoặc bổ trợ những tƣơng tác giữa các cá nhân và các hệ

thống nguồn lực.

- Giúp đỡ việc phát triển hay thay đổi chính sách.

- Đƣa ra những sự trợ giúp về thực hành.

- Thực hiện vai trò tác nhân kiểm soát xã hội [20, tr.83 – tr86].

Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu đề tài ứng dụng lý thuyết hệ

thống sinh thái trong nghiên cứu để có một cái nhìn toàn diện về vấn đề của

NCT từ đó có thể giúp đỡ họ một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, ứng dụng

lý thuyết này tác giả có thể xác định rõ những yếu tố, nguồn lực quan trọng

trong hệ thống sinh thái để từ đó có thể đánh giá đƣợc các yếu tố nguồn lực

33

này giúp cho quá trình can thiệp, trợ giúp đạt đƣợc kết quả cao hơn.

1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow

Tiếp cận theo lý thuyết nhu cầu là một trong những hƣớng tiếp cận

thuộc trƣờng phái hiện sinh. Theo quan điểm này, con ngƣời đƣợc nhìn nhận

và đánh giá cao về khả năng của họ, bản thân họ có thể tự quyết định đƣợc

cuộc sống của mình. Đối với cách tiếp cận của lý thuyết nhu cầu của Maslow,

con ngƣời cần đƣợc đáp ứng những nhu cầu theo từng thang bậc từ thấp đến

cao mà trƣớc hết là những nhu cầu cơ bản. Việc đáp ứng nhu cầu có có ý

nghĩa rất quan trọng đối với từng cá nhân thân chủ, bởi nhu cầu chi phối

mạnh mẽ đến tâm lý và hành vi con ngƣời. Nếu nhu cầu không đƣợc đáp ứng,

ắt sẽ nảy sinh những vấn đề liên quan đến sự tồn tại của cá nhân đó cũng nhƣ

những cá nhân khác xung quanh [40, tr.86].

Cho đến nay thuyết nhu cầu của Maslow vẫn có giá trị ứng dụng rất lớn

trong nghiên cứu cũng nhƣ trong thực hành CTXH. Abraham Maslow đã đƣa

Nhu cầu tự hoàn thiện

Nhu cầu đƣợc tôn trọng

Nhu cầu giao lƣu, tình cảm

Nhu cầu an toàn

Nhu cầu thể chất

ra bậc thang nhu cầu của con ngƣời gồm 5 bậc đó là:

Sơ đồ 1.1. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Abraham Maslow

- Nhu cầu thể chất – nhu cầu cơ bản cho sự tồn tại của cá nhân: Nhu

cầu này còn đƣợc gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý

(physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con ngƣời nhƣ thức ăn

34

đầy đủ, không khí để thở, nƣớc uống, sƣởi ấm, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết,

thở, nghỉ ngơi, các nhu cầu làm cho con ngƣời thoải mái về cơ thể. Đây là

những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con ngƣời [16, tr.111].

- Nhu cầu an toàn – an ninh (safe needs): Nhu cầu này đƣợc khẳng

định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, đƣợc yên tâm

về các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hƣu, đƣợc sống trong các

khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật,... Tóm lại, cá nhân cần có

cảm giác yên tâm khi đƣợc an toàn thân thể, đƣợc đảm bảo việc làm, đƣợc

hƣởng các dịch vụ y tế và xã hội và tài sản cá nhân đƣợc bảo vệ [16, tr.112].

- Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging

needs): Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp nhƣ việc tìm kiếm, kết

bạn, tìm ngƣời yêu, lập gia đình, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm....

Maslow cho rằng nếu nhu cầu này không đƣợc thỏa mãn, đáp ứng, nó có thể

gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. [16, tr.113].

- Nhu cầu được tôn trọng (esteem needs): Nhu cầu này còn đƣợc gọi là

nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện mong muốn đƣợc ngƣời

khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, về sự cảm

nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự coi

trọng khả năng của bản thân. [16, tr.113].

- Nhu cầu tự hoàn thiện – cơ hội thể hiện bản thân (self actualization

needs): Bậc cuối cùng và cao nhất trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của

Maslow có sự tác động lớn nhất đến sự hoàn chỉnh nhân cách. Đó là nhu cầu

đƣợc tự khẳng định mình, nhu cầu cho sự trƣởng thành cá nhân, cơ hội của sự

phát triển và học hỏi cá nhân để tự hoàn thiện mình. Nhu cầu này thể hiện ở

việc muốn đƣợc sáng tạo, đƣợc thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, đƣợc

trình diện mình và đƣợc công nhận thành đạt [16, tr.113 – tr.114].

Dựa trên những nội dung về nhu cầu của Maslow, ứng dụng với lứa

tuổi NCT. Cũng nhƣ mọi lứa tuổi, NCT cần phải đƣợc đáp ứng những nhu

cầu vật chất và tinh thần cần thiết. Song bên cạnh đó còn có những nhu cầu

35

đặc biệt cần quan tâm hơn nhƣ:

Nhu cầu về chế độ ăn uống, ở phù hợp thuận tiện,... [47, tr.106].

Nhu cầu an toàn cho cuộc sống: Đây là nhu cầu quan trọng của NCT

lúc này họ đang trong giai đoạn cuối của cuộc đời. Giai đoạn của sự thoái hóa

tự nhiên của con ngƣời. Sự thoái hóa này không những chỉ ảnh hƣởng về mặt

thể chất mà cả về mặt tâm lý. Vì vậy đối với những NCT, việc chăm sóc sức

khỏe là vô cùng cần thiết. Từ chế độ ăn uống, sinh hoạt, khám chữa bệnh, phòng

bệnh đến môi trƣờng sống lành mạnh, ít căng thẳng... [47, tr.106].

Một nhu cầu cơ bản và quan trọng nhất ở NCT là đƣợc tôn trọng và

đƣợc chấp nhận, quý mến. Cho dù họ không còn trực tiếp đóng góp cho gia

đình và xã hội nữa nhƣng họ vẫn cần có sự chấp nhận của xã hội, của gia đình

về những kinh nghiệm trong quá khứ của họ, về khả năng và tính tự lập rằng,

họ không phải là những ngƣời thừa vô ích trong xã hội mà ngƣợc lại, họ vẫn

còn quan trọng đối với xã hội, nhất là đối với những ngƣời thân [47, tr.106].

Hơn bao giờ hết, NCT rất cần mối quan hệ mật thiết với những ngƣời

thân trong gia đình nhƣ: con, cháu, vợ chồng.... và với xã hội và bạn bè (nhu

cầu xã hội – nhu cầu giao lƣu tình cảm). Nếu thiếu những mối quan hệ này,

ngƣời già dễ nảy sinh cảm giác cô đơn và đôi khi có thể tăng thêm trong quá

trình lão hóa [47, tr.106].

Nhƣ vậy, tác giả nghiên cứu đề tài khi làm việc với NCT tại cộng đồng

cần biết đánh giá những nhu cầu của NCT để có thể cung cấp dịch vụ đáp ứng

một cách phù hợp và hiệu quả nhất.

1.2.3. Lý thuyết vai trò xã hội

Mỗi một xã hội có cơ cấu phức tạp bao gồm các vị trí, vai trò xã hội

khác nhau. Lý thuyết vị trí – vai trò xã hội cho rằng, mỗi cá nhân có một vị trí

xã hội là vị trí tƣơng đối trong cơ cấu xã hội, hệ thống quan hệ xã hội. Nó

đƣợc xác định trong sự đối chiếu so sánh với các vị trí xã hội khác. Vị thế xã

hội là vị trí xã hội gắn với những trách nhiệm và những quyền hạn kèm theo.

36

Vị thế chính “là bất kỳ một vị trí ổn định nào trong một hệ thống xã hội với

những kỳ vọng quyền hạn và nghĩa vụ đặc thù”. Các quyền và nghĩa vụ này

thƣờng tƣơng ứng với nhau. Vai trò xã hội của cá nhân đƣợc xác định trên cơ sở

các vị thế xã hội tƣơng ứng. Nó chính là mặt động của vị thế xã hội, vì luôn biến

đổi trong các xã hội khác nhau, qua các nhóm xã hội khác nhau. Tƣơng ứng với

từng vị thế sẽ có một mô hình hành vi đƣợc xã hội mong đợi. Mô hình hành vi

này chính là vai trò tƣơng ứng của vị thế xã hội [47, tr.48 – tr.49].

Theo thuyết này, trong CTXH việc tìm hiểu những nhận thức cũng nhƣ

hành động của cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng phụ thuộc nhiều vào chính vị

trí mà họ đƣợc thừa nhận trong gia đình và xã hội. Nếu nhƣ họ đƣợc coi

trọng, đƣợc có tiếng nói riêng của mình, đƣợc bình đẳng nhƣ mọi ngƣời trong

gia đình và ngoài xã hội thì họ sẽ làm tốt hơn vai trò của mình, đáp ứng đƣợc

nhiều hơn những mong đợi của mọi ngƣời và ngƣợc lại [47, tr.48 – tr.49].

Lý thuyết vai trò xã hội là một trong những lý thuyết cơ bản đƣợc sử

dụng trong nghiên cứu xã hội học và có ứng dụng mạnh mẽ trong thực hành

công tác xã hội. Ngƣời cao tuổi với những thiếu hụt trong quá trình thực hiện

vai trò xã hội của mình thì việc áp dụng lý thuyết này trong can thiệp cũng

mang lại nhiều hiệu quả. Trong luận văn này chúng tôi tiến hành tìm hiểu vị

trí, vai trò của NCT đối với gia đình và xã hội để thấy đƣợc NCT có vị trí nhƣ

thế nào và có những vai trò gì và NCT đã thực hiện những vai trò đó nhƣ thế

nào. Đồng thời chúng tôi cũng đi tìm hiểu vai trò của nhân viên CTXH trong

việc trợ giúp NCT, từ đó đánh giá đƣợc vai trò của nhân viên CTXH đã đƣợc

thực hiện nhƣ thế nào tại địa phƣơng. Ngoài ra chúng ta còn có thể tìm hiểu

về vai trò của gia đình, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong công tác chăm

sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình và xã hội. Qua đó chúng

ta có thể thấy đƣợc mối tƣơng quan giữa chúng.

1.3. Tổng quan chính sách của Đảng, nhà nƣớc về ngƣời cao tuổi

1.3.1. Những chủ trương của Đảng

Sau khi Hội NCT Việt Nam đƣợc thành lập (10/5/1995), Ban Bí thƣ

37

TW đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định:

“Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách

nhiệm của Đảng, nhà nước và toàn xã hội. Hội người cao tuổi Việt Nam mới

được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt

động ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân

dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong

việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy người cao

tuổi phục vụ công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, các ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ

Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội

nghiên cứu, rà soát các chính sách luật pháp hiện hành, đề xuất những văn

bản pháp quy của nhà nước nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy người cao

tuổi. “Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó

có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Trước hết cần quan tâm chăm sóc những

người cao tuổi có công, cô đơn không nơi nương tựa, tàn tật và bất hạnh,

nhanh chóng xoá bỏ tình trạng người già lang thang trên đường phố, ngõ

xóm. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ Hội người cao tuổi Việt Nam về kinh phí và

điều kiện hoạt động”.

Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão

thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu,

những người cao tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức

khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng

nhu cầu thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất

nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt, giáo dục lí tưởng và truyền

thống cách mạng cho thanh niên, thiếu niên…”.

Thông báo số 12-TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội

NCT Việt Nam là tổ chức xã hội của NCT, có các nhiệm vụ đã đƣợc quy định

cụ thể tại Pháp lệnh NCT; Hội có Ban đại diện ở cấp tỉnh và cấp huyện; Cấp

38

tỉnh có từ 2 đến 3, cấp huyện có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách đồng thời

khẳng định: “Nhà nước tiếp tục trợ cấp kinh phí hoạt động cho Hội. Các cơ

quan có chức năng của Nhà nước tạo thuận lợi, bảo đảm cấp kinh phí kịp thời

cho Hội”.

Trong bài phát biểu tại cuộc gặp mặt nhân ngày quốc tế NCT (01-10-

2002) do TW Hội NCT Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, Tổng Bí thƣ Nông Đức

Mạnh đã nói: “…Chưa bao giờ lực lượng người cao tuổi nước ta lại đông đảo

như hiện nay. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tự hào về lớp người cao tuổi

nước ta. Với uy tín cao, sự mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối

sống cùng với vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng lao động và nghiệp vụ phong

phú, đa dạng của mình, người cao tuổi thực sự là một bộ phận hợp thành

nguồn lực nội sinh quý giá của cả dân tộc. Chúng ta tôn trọng, bồi dưỡng và

phát huy nguồn lực ấy”…

Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân

tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão

thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã

hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những

người già cô đơn, không nơi nương tựa…”.

Nhƣ vậy, từ Chỉ thị 59, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số 12

của Ban bí thƣ TW Đảng đều khẳng định: Người cao tuổi là nền tảng của gia

đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội, vì thế,

Chăm sóc và phát huy tốt vai trò NCT là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ

ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn

dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

[5, tr. 13 – tr.14].

1.3.2. Luật pháp và chính sách của nhà nước

1.3.2.1. Luật pháp liên quan đến người cao tuổi

Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ đƣợc thể hiện trong Hiến pháp

39

năm 1946, Điều 14 quy định: “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm

được việc thì được giúp đỡ”. Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ

ngư­ời già, người đau yếu và tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức

khoẻ và cứu trợ xã hội…”. Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ

có trách nhiệm nuôi dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm

sóc ông bà, cha mẹ… ”. Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn

tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được nhà nước và xã hội giúp đỡ”.

Luật Ngƣời cao tuổi, chƣơng 1 Điều 1 quy định: “Luật này quy định về

quyền và nghĩa vụ của người cao tuổi; trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và

xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi;

Hội người cao tuổi Việt Nam”.

Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 36 quy định: “Con có nghĩa

vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già

yếu, tàn tật…Và khoản 2 Điều 47 Luật này quy định: “Cháu có bổn phận…

chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ngoại”.

Luật bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã dành một chƣơng riêng:

Bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi … trong đó, khoản 1 Điều 41 của Luật này

quy định: “người cao tuổi … được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh, được tạo

điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình”.

Luật Lao động quy định tại Điều 124: “Người sử dụng lao động có

trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không

được sử dụng người lao động cao tuổi làm việc nặng nhọc, nguy hiểm… ảnh

hưởng sức khoẻ”.

Điều 151 của Bộ luật hình sự quy định: “Tội ngược đãi hoặc hành hạ

ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” và

Điều 152 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Bên

cạnh đó, luật cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ khi “người phạm tội là

người già” [5, tr.14 - tr.15].

1.3.2.2. Chính sách của nhà nước Việt Nam về người cao tuổi

Năm 1996, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Chỉ thị 117/CP “Về chăm

40

sóc người cao tuổi và hỗ trợ hoạt động cho Hội người cao tuổi Việt Nam”.

Chỉ thị khẳng định: “Kính lão đắc thọ” là truyền thống tốt đẹp của nhân dân

ta, Đảng và nhà nƣớc ta coi việc quan tâm, chăm sóc đời sống vật chất và tinh

thần của NCT là đạo lý của dân tộc, là tình cảm và trách nhiệm của toàn đảng,

toàn dân. Các cấp chính quyền đã đề ra nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm

thiết thực đối với NCT.

Pháp lệnh Ngƣời cao tuổi của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội đƣợc ban

hành năm 2000. Pháp lệnh NCT ra đời là bƣớc đi thích hợp để chăm sóc NCT.

Pháp lệnh NCT đã dành chƣơng 2: Phụng dƣỡng, chăm sóc NCT (14 Điều) tập

trung đề cập trách nhiệm của gia đình, Nhà nƣớc, các tổ chức, cá nhân trong việc

phụng dƣỡng chăm sóc NCT trong đó chính sách chăm sóc sức khoẻ đƣợc quan

tâm khá toàn diện. Điều này đƣợc minh chứng ở khoản 2 Điều 10; (khoản 2

Điều 12); (Điều 13); (khoản 1, 2 Điều 14); (Điều 15); (Điều 16).

Nghị định số 30/CP của Chính phủ ban hành năm 2002 “Quy định và

hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh người cao tuổi”.

Năm 2004, Bộ Y tế đã ban hành Thông tƣ-số 02/2004/TT-BYT hƣớng

dẫn thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ NCT trong đó quy định: NCT đƣợc

… chăm sóc sức khoẻ; đƣợc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đƣợc ƣu tiên khám,

chữa bệnh tại các cơ sở y tế…; Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đảm

bảo chế độ chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại địa phƣơng. Ngành y tế chịu trách

nhiệm về chuyên môn, kỹ thuật trong chăm sóc sức khoẻ NCT… Tổ chức

mạng lƣới tình nguyện viên chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại nhà.

Ngƣời cao tuổi từ 90 tuổi trở lên đƣợc hƣởng các chế độ bảo hiểm y tế

theo quy định tại Thông tƣ-số 24/2003 ngày 6/11/2003 của Bộ Lao động –

Thƣơng binh và Xã hội hƣớng dẫn thi hành Nghị định số 120/2003/NĐ-CP

ngày 20/10/2003 của Chính phủ. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong

nƣớc và nƣớc ngoài, gia đình của NCT mua thẻ BHYT cho NCT.

Nghị định 67/CP, năm 2007 của Chính phủ “Về chính sách trợ giúp các

đối tượng bảo trợ xã hội”, trong đó có đối tƣợng là ngƣời từ 85 tuổi trở lên

41

không có lƣơng hƣu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội, đƣợc hƣởng 120.000 đ/tháng.

Gần đây nhất là Luật Ngƣời cao tuổi đã đƣợc ban hành và có hiệu lực

từ ngày 1/7/2010. Đây là văn bản pháp lý có tính chất định hƣớng, thể hiện sự

quan tâm của Đảng, Chính phủ, các bộ, ban ngành đối với NCT.

Như vậy, ngoài nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, chăm sóc của gia

đình, người thân, nhà nước, có những cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp và

sẽ bổ sung, tăng dần theo xu thế đà tăng trưởng của nền kinh tế để đảm bảo

chăm sóc và phát huy vai trò của NCT [5, tr.15 - tr.17].

1.4. Đặc điểm địa bàn thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

1.4.1. Vị trí địa lý

Thị trấn Neo huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang là trung tâm kinh tế -

chính trị, văn hóa – xã hội của huyện Yên Dũng, nằm ở trung tâm của huyện,

cách thành phố Bắc Giang khoảng 16km về phía Đông Nam.

Ranh giới cụ thể đƣợc giới hạn nhƣ sau: Phía Đông giáp xã Cảnh Thụy,

Tiến Dũng; Phía Tây giáp xã Tân Liễu và xã Nham Sơn; Phía Bắc giáp xã Xuân

Phú; Phía Nam giáp xã Tƣ Mại. Tổng diện tích của Thị trấn Neo là 585.4 ha.

1.4.2. Tổ chức dân cư

Cách đây hơn 20 năm Thủ tƣớng chính phủ đã ban hành Nghị định số

103/NĐ-TTg ngày 29/8/1994 về việc thành lập Thị trấn Neo thuộc huyện Yên

Dũng, tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở hợp nhất 3 thôn của 3 xã: thôn Tân An – xã

Cảnh Thụy, thôn Phấn Lôi – xã Nham Sơn, thôn Bên Đám – xã Tân Liễu. Là

thị trấn miền núi với tổng diện tích là 585,4 ha với tổng dân số là 6.388 ngƣời,

với 1654 hộ với số nhân khẩu là 6.455 nhân khẩu trong đó nữ giới là 3125

ngƣời (chiếm 48,9%), nam giới là 3.263 ngƣời (chiếm 51%) (Theo Báo cáo

Tình hình thực hiện công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình 10 tháng đầu

năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ cuối năm).

Theo Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ

6 tháng cuối năm 2014 của Hội Ngƣời cao tuổi hiện nay tổng số hội viên là

42

1.350 hội viên (chiếm 21,1% trên tổng số dân), trong đó tỷ lệ NCT nam chiếm

39,3% (531/1.350), NCT nữ chiếm 60,6% (819/1.350). Tỷ lệ NCT đƣợc

hƣởng trợ cấp xã hội thƣờng xuyên là 5,4% (72 cụ) và 1,2% NCT đƣợc hƣởng

chế độ tàn tật và cô đơn (16 cụ). Số hội viên từ 80 tuổi trở lên chiếm 8,9%

(120 cụ). Tỷ lệ NCT đƣợc cấp thẻ Bảo hiểm y tế chiếm 68,3% (921 cụ) và

6,3% (85 cụ) đƣợc khám sức khỏe định kỳ.

1.4.3. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội

a. Kinh tế

Từ một thị trấn miền núi xuất phát điểm kinh tế phát triển những năm

đầu thấp, cho đến nay, giai đoạn 2010 – 2013 tốc độ tăng trƣởng kinh tế về

công nghiệp tiểu thủ công nghiệp đạt 30%; dịch vụ 18%; ngành nghề khác

15%; nông nghiệp giảm còn 35%, thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt

19.500.000đ/ngƣời/năm; tổng thu ngân sách đạt 12.542.347.734đ.

Nông nghiệp tiếp tục có bƣớc phát triển khá theo hƣớng sản xuất hàng

hóa dựa trên các loại giống cây con có giá trị kinh tế cao, tính đến giai đoạn

2010 – 2013 tổng thu nhập sản lƣợng lƣơng thực đạt 1.964,4 tấn/năm.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh – dịch vụ sớm có bƣớc

đi tích cực, trong đó tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ phát triển cả về

quy mô và loại hình với 606 hộ kinh doanh dịch vụ, trong đó có 14 doanh

nghiệp với tổng thu nhập từ tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ đạt 29,4

tỷ năm 2013.

b. Các lĩnh vực văn hoá - xã hội

- Công tác Giáo dục - Đào tạo

Tính đến năm học 2013 – 2014 giáo dục ở cả ba bậc học tiếp tục đƣợc

quan tâm đầu tƣ, có bƣớc phát triển toàn diện. Kết quả tỷ lệ học sinh giỏi đạt

63,9%, học sinh đạt danh hiệu tiên tiến đạt 29,7%, học sinh đạt giải cấp huyện

là 216 học sinh, cấp tỉnh là 80 học sinh, cấp quốc gia là 4 học sinh. Trƣờng

mầm non kết quả trẻ nuôi bán trú là 60/60 đạt 100% (đối với nhà trẻ); mẫu

giáo 212/212 đạt 100%; chất lƣợng giáo dục 100% nhóm trẻ đƣợc dạy theo

43

chƣơng trình giáo dục mầm non mới. Giáo dục toàn diện đạt kết quả cao và

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc huyện đánh giá là tốp đứng đầu về công

tác giáo dục trong huyện và đƣợc công nhận chuẩn quốc gia cả 3 bậc học.

- Công tác Y tế - kế hoạch hóa gia đình

Đƣợc sự quan tâm, đầu tƣ trang thiết bị, cùng với sự nỗ lực của Đảng

ủy, UBND thị trấn quan tâm đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất khang trang đảm

bảo cho nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác tuyên truyền các

chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng, pháp luật, nhà nƣớc đƣợc làm thƣờng xuyên

rộng khắp do đó đã có bƣớc chuyển biến một cách mạnh mẽ. Công tác chăm

sóc sức khỏe cho nhân dân đƣợc đảm bảo kịp thời từng bƣớc đáp ứng đƣợc

nhu cầu của nhân dân đến nay đã đƣợc công nhận thị trấn chuẩn quốc gia về y

tế mức độ 2, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt dƣới 1%.

- Về thực hiện chính sách

Công tác chăm sóc và thực hiện chính sách xã hội luôn đƣợc quan tâm

đảm bảo đúng quy định đối với gia đình liệt sĩ, thƣơng bệnh binh, ngƣời đƣợc

hƣởng nhƣ thƣơng binh, gia đình có công với đất nƣớc, đối tƣợng nhiễm chất

độc da cam và các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, tính đến nay toàn thị trấn

tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn 4,5 % vào năm 2013; phong trào xây dựng nếp

sống văn hóa trên địa bàn dân cƣ đã có bƣớc phát triển mạnh tỷ lệ gia đình

văn hóa những năm 2010 – 2013 đạt 87%.

- Về công tác quốc phòng an ninh

Quốc phòng an ninh đƣợc tăng cƣờng, chính trị xã hội luôn giữ vững

ổn định, trật tự an toàn xã hội đƣợc đảm bảo, khu vực phòng thủ đƣợc xây

dựng vững chắc gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân,

công tác huấn luyện cũng nhƣ chỉ tiêu giao quân hàng năm đều đảm bảo đạt

và vƣợt chỉ tiêu kế hoạch đƣợc giao, công tác phối hợp và mối quan hệ giữa

các xã bạn luôn đƣợc duy trì phát triển tốt đẹp.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Già hóa dân số song hành cùng phát triển, đây là xu thế chung và

44

không thể đảo ngƣợc trong quá trình phát triển của mọi quốc gia. Chính sách

xã hội đối với NCT là một chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách

của nhà nƣớc Việt Nam. Quan điểm chính sách về NCT của Đảng, nhà nƣớc

về NCT không chỉ mang tính an sinh xã hội mà còn đƣợc tiếp cận theo hƣớng

phát huy vai trò của NCT nhƣ một nguồn lực của quốc gia.

Bên cạnh các chủ chƣơng và chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về vấn

đề NCT sẽ là cơ sở lý luận đóng vai trò định hƣớng cho các phân tích trong

luận văn này, thì một số cách tiếp cận về lý thuyết và một số khái niệm cơ bản

liên quan sẽ đƣợc sử dụng để giải thích dữ liệu nghiên cứu và cũng nhƣ có sự

45

phân tích thống nhất trong nội dung nghiên cứu của luận văn này

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHĂM SÓC VÀ NHU CẦU HỖ TRỢ CỦA

NGƢỜI CAO TUỔI TẠI THỊ TRẤN NEO – HUYỆN YÊN DŨNG –

TỈNH BẮC GIANG

2.1. Đặc điểm chung NCT trong mẫu nghiên cứu

2.1.1. Cơ cấu NCT chia theo giới tính

Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ số giới tính nghiêng về nữ giới, cụ thể cụ

ông chiếm 47,3% và cụ bà chiếm 52,7%. Đây cũng là xu hƣớng chung của

Việt Nam và trên thế giới. Nguyên nhân có thể lý giải cho xu hƣớng này là

nam giới cao tuổi thƣờng có tỷ suất chết cao hơn nữ giới cao tuổi ở cùng

nhóm tuổi [40]. Do tỷ lệ phụ nữ trong dân số cao tuổi ngày càng tăng (còn gọi

là xu hƣớng “nữ hóa” dân số cao tuổi) nên đòi hỏi phải có các chính sách

chăm sóc NCT thích ứng với xu hƣớng này vì phụ nữ cao tuổi thƣờng dễ tổn

thƣơng hơn với các cú sốc kinh tế và xã hội. Trên thực tế, chỉ số (nữ >nam)

này không liên quan nhiều đến cán cân giới tính của NCT trong dân số nói

chung nhƣng lại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phân tích và so sánh

sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới trên các nội dung khác nhau.

2.1.2. Cơ cấu NCT chia theo nhóm tuổi

Theo kết quả mẫu khảo sát, độ tuổi tập trung cao nhất của NCT ở nhóm

tuổi 60 – 69 (chiếm 58,0%) trong tổng số NCT trong mẫu nghiên cứu và cũng

là nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, đây đƣợc coi nhƣ là nhóm “Trẻ nhất” của

lớp NCT. Đồng thời cũng là nhóm tuổi vừa mới về hƣu, vừa mới kết thúc quá

trình làm việc tại cơ quan đơn vị do nhà nƣớc quản lý, họ vẫn đủ sức lao

động, tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất hàng ngày. Còn lại nhóm tuổi

70 – 79 chiếm 38,0% và 4,0% là tuổi 80. Nhìn chung, cơ cấu phân nhóm tuổi

của mẫu khảo sát có độ tập trung cao và tƣơng đối gần gũi với cơ cấu độ tuổi

của NCT tại cộng đồng. Bên cạnh đó kết quả khảo sát cũng cho thấy nhóm

46

ngƣời có tuổi thọ cao trong cộng đồng đã chiếm một tỷ lệ đáng kể.

2.1.3. Tình trạng hôn nhân

Đời sống gia đình, văn hóa và tinh thần cho biết nhiều hàm ý về phúc

lợi của NCT bởi nó đƣợc thể hiện qua tình trạng hôn nhân; việc sống cùng

hay không sống cùng với con, cháu; điều kiện sống khác; văn hóa và tinh

thần. Trong các yếu tố thể hiện đời sống của NCT thì tình trạng hôn nhân là

yếu tố quan trọng nhất vì vợ/chồng của NCT có thể là nguồn hỗ trợ và chia sẻ

chủ yếu về vật chất, tinh thần nhƣ chăm sóc khi đau ốm hoặc dễ tổn thƣơng.

Nói cách khác, đối với NCT thì sống với vợ/chồng sẽ có nhiều tác động tích

cực [44, tr.21]. Số liệu cho thấy phần lớn NCT Thị trấn Neo đang sống với

vợ/chồng (chiếm 64,7%), tiếp đó là góa vợ/chồng (29,3%), còn các tình trạng

ly hôn/ly thân (chiếm 4,0%); không vợ/chồng chiếm tỷ lệ nhỏ (chiếm 2,0%).

Nhìn chung, hôn nhân phổ biến của NCT là sống cùng bạn đời của mình

(chiếm gần 3/4 mẫu khảo sát), góa vợ/chồng (chiếm hơn ¼ tổng mẫu khảo

sát), các tình trạng khác chiếm tỷ lệ nhỏ và không phổ biến. Tuy nhiên, chúng

ta cũng cần lƣu ý đến nhóm NCT góa vợ/chồng, ly hôn/ly thân hoặc không

vợ/chồng khi trợ giúp cho NCT bởi họ rất dễ rơi vào tình trạng bị cô đơn.

2.1.4. Mô hình gia đình NCT

Một câu hỏi cũng rất quan trọng khi bàn về sắp xếp cuộc sống của NCT

là “Hiện nay ông/bà đang sống cùng với ai?”. Theo nhƣ số liệu điều tra mô

hình gia đình của NCT tại Thị trấn Neo phổ biến là hai vợ chồng NCT sống

cùng con cháu chiếm 53,3%, hai vợ chồng cao tuổi sống với nhau chiếm

18,0%, NCT sống với con cháu 22,0%, tỷ lệ NCT NCT sống cô đơn một

mình chiếm tỷ lệ nhỏ (chiếm 6,7%). Mô hình gia đình hiện nay đang đƣợc

nhiều ngƣời khuyến khích, duy trì song việc dung hòa về lối sống, suy nghĩa

giữa các thế hệ trong một gia đình luôn là vấn đề quan trọng. Tìm hiểu lý do

một số cụ hiện đang phải sống cô đơn một mình không có ai phụng dƣỡng

chăm sóc thì lý do chủ yếu của NCT là muốn tự do thoải mái, không hợp với

47

ngƣời thân trong gia đình, quen sống riêng. Tình trạng nhà ở chật chội, kinh tế

con cháu khó khăn cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các cụ phải sống

cô đơn. Một nguyên nhân đáng lƣu ý ở đây là lý do con cái không muốn sống

chung. Tuy nguyên nhân này chiếm tỷ lệ không nhiều nhƣng cũng cần phải

cảnh báo nhằm hạn chế và chấm dứt tình trạng này nhất là khi cơ chế thị

trƣờng đang có những ảnh hƣởng sâu sắc đến gia đình, đảm bảo cuộc sống gia

đình cho NCT.

2.1.5. Trình độ học vấn

Mặc dù trình độ chuyên môn của NCT đang ngày càng đƣợc nâng lên

theo thời gian nhƣng thực tế cho thấy vẫn còn một số lƣợng không nhỏ các cụ

vẫn còn mù chữ. Theo kết quả xử lý số liệu cho thấy, tỷ lệ các cụ không biết

chữ là 10,0%, đây cũng là đặc điểm chung của NCT Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay vì NCT là những con ngƣời thuộc các thế hệ trƣớc đây nhiều chục

năm, điều kiện học tập thời đó còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, lại bị hai

cuộc chiến tranh làm gián đoạn nên đã hạn chế nhiều đến cơ hội nâng cao

trình độ chuyên môn. Cũng theo kết quả điều tra, có 20,7% NCT chƣa tốt

nghiệp cấp 1, 30,0% NCT tốt nghiệp tiểu học, 22,0% NCT tốt nghiệp trung

học cơ sở, 8,7% NCT tốt nghiệp trung học phổ thông, 6,7% NCT tốt nghiệp

trung cấp/cao đẳng/đại học, trên ĐH là 2,0%. Tuy vẫn còn tồn tại một số cụ

mù chữ hoặc tái mù chữ nhƣng nhìn chung các cụ đều có trình độ nhất định,

các cụ là những ngƣời có chuyên môn nghiệp vụ giỏi trong các lĩnh vực khoa

học - kỹ thuật; kinh tế - xã hội, có uy tín với cộng đồng đƣợc Đảng và nhà

nƣớc tín nhiệm đã và đang phát huy sự hiểu biết của mình trong mọi lĩnh vực

đời sống ở địa phƣơng.

2.1.6. Cơ cấu người cao tuổi phân theo trình độ chuyên môn

Phần lớn NCT trong mẫu kháo sát đã hoặc đang tham gia vào hoạt

động sản xuất nông nghiệp, nhóm nghề nghiệp này chiếm tỷ lệ cao nhất với

49,3%; buôn bán, dịch vụ 18,0%, công nhân viên chức 13,3%, công nhân

48

10,7%, nội trợ 3,3%, khác 5,3%. Nhƣ vậy, với gần ½ số NCT trong mẫu điều

tra đã và đang trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, số ít là

công nhân viên chức. Thực tiễn cho thấy, nhiều ngƣời đã về hƣu nhƣng vẫn

tiếp tục làm việc và đóng góp sức mình nhằm giúp đỡ gia đình cũng nhƣ cho

sự phát triển chung của toàn xã hội. Hơn nữa nhu cầu vừa đƣợc làm việc, tiếp

tục cống hiến cho gia đình và xã hội lại vừa phù hợp với sức khỏe và điều

kiện của NCT luôn là mong muốn của các vị cao niên[24]. Việc chủ động về

nguồn tài chính sẽ giúp bản thân trang trải các nhu cầu cơ bản cũng nhƣ hỗ

trợ con cái mƣu sinh. Mặt khác con số này cho thấy cuộc sống NCT trên địa

bàn khảo sát vẫn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, tuy tuổi đã cao nhƣng các cụ

vẫn hăng say làm việc để phát triển kinh tế tăng thu nhập cho gia đình. Nhƣ

vậy, số liệu đã phản ánh đúng đƣợc tình trạng thực tế, đảm bảo đƣợc tính

tƣơng đối đại diện trong chọn mẫu.

2.2. Đánh giá thực trạng chất lƣợng chăm sóc và nhu cầu hỗ trợ của NCT

tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

2.2.1. Sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT

Sức khỏe là tiêu chí quan trọng nhất khi phân tích thực trạng về phúc

lợi của NCT. Thực tế cho thấy, quá trình già hóa không chỉ liên quan tới rủi

ro tử vong ngày càng cao do những biến đổi về mặt sinh học mà còn liên quan

tới hạn chế về chức năng hoặc nguy cơ với đau ốm kinh niên ngày càng tăng.

Sức khỏe ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của NCT. Phân tích

của Sidell (1995) (theo trích dẫn của Sim, 2001) cho thấy ốm đau sẽ dẫn đến

mất tự chủ và độc lập trong cuộc sống, làm giảm sự năng động, mất sự tôn

trọng và sự tự tin. Nói cách khác, với NCT, sự tổn thƣơng về tinh thần do sức

khỏe yếu còn nghiêm trọng hơn hao tổn vật chất. Chính vì lý do này mà việc

phân tích tình trạng sức khỏe và chăm sóc sức khỏe của dân số cao tuổi cho

chúng ta biết về chất lƣợng sống của NCT, nhu cầu về y tế và các dịch vụ có

liên quan đối với hệ thống y tế nói chung cũng nhƣ việc chăm sóc sức khỏe

49

tại gia đình và cộng đồng [44, tr.25].

2.2.1.1. Tình trạng sức khỏe của NCT

Trong thời gian vừa qua, do đời sống vật chất và tinh thần đƣợc cải

thiện cùng với những tiến bộ nhất định của hệ thống y tế, sức khỏe của NCT

Việt Nam nhìn chung đƣợc cải thiện, trong đó tỷ lệ NCT có tình trạng sức

khỏe khá/tốt tăng lên, trong khi NCT có tình trạng sức khỏe yếu giảm đi

(Đàm Hữu Đắc và cộng sự, 2010) [44, tr.25].

Bảng 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT

Tình trạng sức khỏe Tần số

Tốt 25

Trung bình 92

Kém 33

%

16,7

61,3

22,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Khi tự đánh giá về sức khỏe của bản thân thì có 16,7% các cụ cho rằng

sức khỏe tốt, 61,3% cho rằng sức khỏe trung bình, 22,0% cho rằng sức khỏe

hiện nay kém. Nhƣ vậy, vẫn còn tỷ lệ và số lƣợng không nhỏ NCT có sức

khỏe yếu. Những nghiên cứu sức khỏe NCT trong thời gian qua cho thấy: có

hai nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Thứ nhất, phần lớn NCT hiện nay

vẫn phải lao động quá sức để kiếm sống. Nếu NCT lao động vừa phải, công

việc phù hợp với NCT làm việc trong điều kiện tƣ tƣởng thoải mái, tự

nguyện, không bị gò bó thì có tác dụng tăng cƣờng sức khỏe. Nhƣng ở đây,

NCT phải lao động quá sức, hiệu quả đem lại cũng thấp. Không đủ để tái sản

xuất giản đơn sức lao động, sức khỏe giảm đi nhanh chóng. Thứ hai, do hậu

quả tất yếu của cả quá trình dài thiếu thốn dinh dƣỡng lại gian lao vất vả trong

công việc hiện tại nên sinh nhiều bệnh tật [34].

Tình trạng sức khỏe nói chung phụ thuộc rất nhiều vào tuổi tác, theo

quy luật tự nhiên thì tuổi càng cao sức khỏe càng kém. Khi so sánh tình trạng

giữa các nhóm tuổi thì nhóm tuổi từ 60 – 69 tuổi là nhóm tuổi là nhóm tuổi có

tình trạng sức khỏe còn tốt hơn so với các nhóm tuổi khác (chiếm 64,0%) –

(Biểu đồ 2.1). Do vậy, việc phát huy tài tài năng trí tuệ trong thời kỳ già hóa

50

dân số sẽ tập trung vào nhóm các cụ từ 60 – 69 tuổi. Đây là nhóm tuổi có độ

chín về trí tuệ và có đầy đủ kinh nghiệm trong cuộc sống, sản xuất,… và là

một nguồn lực dồi dào cần đƣợc phát huy để cống hiến cho gia đình và xã hội.

Biểu đồ 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT chia theo nhóm tuổi

2.2.1.2. Nhu cầu khám sức khỏe định kỳ

Khám sức khỏe định kỳ hay còn gọi là kiểm tra sức khỏe định kỳ, là

việc kiểm tra sức khỏe để đánh giá tổng quan tình trạng sức khỏe của mỗi

ngƣời dân theo khoảng thời gian ấn định 6 tháng/lần, 1 lần/năm, 2 lần/năm.

Khám sức khẻ định kỳ nhằm phát hiện các vấn đề bất thƣờng về sức khỏe nếu

có trƣớc khi chuyển thành bệnh hoặc phát hiện bệnh ở vào giai đoạn sớm khi

chƣa có biểu hiện ra bên ngoài để điều trị hiệu quả hơn, khả năng lành bệnh

hơn, tiết kiệm đƣợc thời gian, tiền bạc và tránh đƣợc các biến chứng do bệnh

gây ra, kéo dài tuổi thọ. Ngoài ra khám sức khỏe định kỳ đều đặn giúp chúng

ta có những điều chỉnh hợp lý hơn về chế độ dinh dƣỡng, chế độ làm việc,

điều chỉnh lối sống nhằm nâng cao năng suất lao động và cải thiện chất

lƣợng cuộc sống. Nhƣ vậy, việc khám sức khỏe định kỳ là một việc làm

vô cùng quan trọng đối với mỗi con ngƣời nói chung và NCT nói riêng.

51

Tuy nhiên vấn đề này lại không đƣợc NCT và gia đình nhận thức đúng.

Bảng 2.2. Số lần khám sức khỏe định kỳ trong một năm của NCT

Số lần khám trong 1 năm 1 lần 2 lần > 3 lần Không cần thiết Khác Tổng

Tần số 9 41 70 22 8 150

% 6,0 27,3 46,7 14,7 5,3 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Khi hỏi về nhu cầu khám sức khỏe định kỳ trong năm có tới 46,7% các

cụ cho rằng cần khám 3 lần/năm, 27,3% các cụ cần khám 2 lần/năm và 6,0%

cho rằng khám 1 lần/năm là đủ. Điều đặc biệt 20,0% còn lại trong số các cụ

cho rằng việc khám sức khỏe định kỳ hàng năm là không cần thiết hoặc là chỉ

đi khám khi gặp những vấn đề về sức khỏe. Các lý do NCT không đi khám

sức khỏe định kỳ: không có nhu cầu, không có tiền, sợ tốn kém, phát hiện

bệnh hoặc ngại khổ con cháu trông nom… NCT kiểm tra sức khỏe định kỳ

chủ yếu là khám theo BHYT đã đƣợc cấp, tuy nhiên BHYT do có mức độ nên

nếu khám số lƣợng thuốc phát cũng hạn chế. Lý giải cho vấn đề này một NCT

chia sẻ: “Tôi có bệnh về huyết áp, nhưng không muốn đi khám bởi tôi ngại

làm phiền đến con cháu và nghĩ đi khám bệnh có khi lại phát hiện ra thêm

bệnh gì, tự dưng mua thêm lo nghĩ vào người. Đang khoẻ thế này, chỉ có mỗi

tăng huyết áp giờ đi khám mà phát hiện bệnh nan y thì có phải là mua lo vào

người không. Hơn nữa, mình thì già rồi, bệnh có chữa khỏi được thì lại có

bệnh khác, đi khám chỉ tốn tiền. Con cái lại đều bận rộn nên tôi cũng ngại

nhờ con đưa đi khám” (PVS, NCT, nữ giới, 70 tuổi).

Đối với NCT, cơ thể bị lão hóa nên việc khám chữa bệnh thƣờng xuyên

là điều kiện tốt để theo dõi và điều trị thời các bệnh. Tuy nhiên, hiện nay vấn

đề đảm bảo cho NCT đƣợc đi khám chữa bệnh thƣờng xuyên tại địa phƣơng

còn chƣa đƣợc quan tâm, chỉ có nhóm NCT về hƣu, hƣởng các chế độ ngƣời

52

có công, thƣơng, bệnh binh mới đƣợc khám chữa bệnh tốt hơn so với các

nhóm khác thông qua sự hỗ trợ của nhà nƣớc. Gần đây nhóm NCT cô đơn

không nơi nƣơng tựa, NCT nghèo ở địa phƣơng đƣợc cấp phát thẻ khám và

chữa bệnh miễn phí hoặc thẻ bảo hiểm y tế. Nhƣng số NCT đƣợc hƣởng chế

độ này còn rất ít và hiệu quả của việc khám, chữa bệnh cho NCT rất hạn chế.

Nhƣ vậy, nhìn chung nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở nhóm NCT này hiện còn

lớn và phần đông chƣa đƣợc đáp ứng. Nguyên nhân chủ yếu là hệ thống cơ sở

còn yếu và thiếu, cụ thể là thiếu thuốc men và các trang thiết bị khám chữa

bệnh. Mặc dù, với chủ trƣơng xã hội hóa công tác y tế tạo điều kiện cho mọi

thành phần tổ chức xã hội có năng lực tham gia phát triển y tế cộng đồng

trong đó có y tế cho NCT. Nhƣng hiện nay y tế tƣ nhân mới bƣớc đầu phát

triển, chi phí khám chữa bệnh còn cao, NCT do thu nhập thấp khó tiếp cận

đến với các dịch vụ y tế này.

Nhƣ vậy, từ phân tích trên cho thấy có phần không nhỏ NCT chƣa có

thói quen khám sức khỏe định kỳ, vì vậy khi phát hiện bệnh thƣờng ở giai

đoạn muộn khiến việc chữa trị đặc biệt khó khăn. Xuất phát từ thực tế đòi hỏi

nhân viên CTXH cần phải nâng cao nhận thức, bổ sung kiến thức cũng nhƣ

kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe cho NCT trên địa bàn thị trấn là vô cùng quan

trọng và có tính cấp thiết.

2.2.1.3. Việc thường làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật

Bảng 2.3. Việc thƣờng làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật

Việc thƣờng làm khi ốm/đau bệnh tật

Tần số

%

Mua thuốc điều trị tại nhà

52

34,7

Chữa bằng phƣơng pháp dân gian, truyền thống

12

8,0

Trạm xá, bệnh viện

86

57,3

150

100,0

Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Theo kết quả khảo sát cho thấy, việc thƣờng làm của NCT khi ốm đau,

bệnh tật có tới 57,3% NCT cho rằng cần đến trạm xá/bệnh viện. Tuy nhiên,

53

điều đáng lƣu ý ở đây, trong số những NCT đƣợc hỏi về việc đi khám và điều

trị bệnh thì một điều đáng ngạc nhiên là có 34,7% NCT không đi khám mà tự

mua thuốc điều trị tại nhà hoặc bằng phƣơng pháp dân gian, truyền thống

(chiếm 8,0%). Lý giải cho sự lựa chọn trên, một NCT chia sẻ: “Việc này còn

tùy thuộc vào mức độ bệnh tật mà tôi mắc phải. Ví dụ như nếu tôi chỉ bị sốt

bình thường thôi thì có thể mua thuốc chữa cảm uống, cũng có thể rang cám

để đánh cảm, cạo gió là được. Trường hợp nếu tôi bị bệnh nặng hơn hoặc

bệnh khác mà mình không biết thì mới đi khám và điều trị tại trạm xá hoặc

bệnh viện” (PVS, NCT, nữ giới, 68 tuổi). Thực tế cho thấy, có rất nhiều lý do

khiến NCT không đến hoặc không thể đến những cơ sở y tế khám chữa bệnh

mỗi khi ốm đau, chủ yếu là do điều kiện kinh tế có hạn không cho phép; ngại

đi khám bệnh viện hoặc tại các cơ sở ý tế… nên dẫn tới kiểu khám bệnh tại

các cửa hàng thuốc nghĩa là chỉ việc miêu tả bệnh cho ngƣời bán thuốc rồi sau

đó mua thuốc theo chỉ dẫn của những ngƣời bán thuốc đó. Hoặc có nhiều

trƣờng hợp mua thuốc theo kinh nghiệm vì tuổi già bệnh trở nên mãn tính gặp

thƣờng xuyên mỗi khi trái nắng trở trời mỗi khi có bệnh, ngƣời bệnh không đi

khám mà tự ý mua thuốc giống nhƣ loại thuốc lần trƣớc mua với cùng triệu

trứng bệnh tƣơng tự nhƣ lần trƣớc. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm

nhất là đối với NCT, khi dùng thuốc cần có kiến thức và hiểu biết chúng do

vậy đã có nhiều trƣờng hợp ngƣời bệnh phải nhập viện, điều trị khá tốn kém

do dùng sai thuốc và liều lƣợng sử dụng.

2.2.1.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT

NCT hiện nay chủ yếu là sống tại gia đình cùng con cháu. Các

phong trào vận động “Ông bà, cha mẹ, con cháu hiếu thảo”, xây dựng

“Gia đình văn hóa” và “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư”… tại địa phƣơng đã góp phần quan trọng trong giáo dục lòng

tôn kính và sự quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, giữ gìn đạo đức gia

phong của các thế hệ con cháu, tạo cho NCT có cuộc sống vui vẻ, lạc

54

quan trong gia đình và cộng đồng. Mối quan hệ khăng khít là điều kiện

thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình, đặc

biệt là NCT. Gia đình là nơi có ảnh hƣởng lớn nhất và gần gũi nhất đối

với sự quy giảm hay ổn định sức khỏe của NCT.

Bảng 2.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT

Ngƣời chăm sóc

Vợ/ chồng

Anh/ chị em

Hoàn toàn tự phục vụ

Con cháu giúp đỡ

Bạn bè đồng nghiệp

Hàng xóm, láng giềng

Tổ chức xã hội khác

Chính quyền các cấp

Các hội/đoàn thể địa phƣơng 1

Tần số

8

87

94

8

0

0

%

58,0

62,7

5,3

5,3

0,7

0,0

11 7,4

3 2,0

0,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Qua điều tra cho thấy, NCT nhận đƣợc sự hỗ trợ, chăm sóc chủ yếu từ

vợ hay chồng (chiếm 62,7%). Cụ ông 72 tuổi, cho biết “Tôi có 5 đứa con, có

đứa đi dựng vợ gả chồng. Còn thằng con út, chưa lấy vợ. Tuy nhiên, con cái

còn phải lo chuyện của chúng nó, còn ông còn bà thì ông bà chăm sóc cho

nhau, chứ nhiều khi như thế lại không làm phiền đến con cháu nhiều. Dù sao

thì vợ chồng, bao nhiêu năm nay cũng hiểu tính của nhau hơn con cái, ông

thích ăn gì thì bà mua. Nắm hôm trái nắng trở trời bà ý mất ngủ, xương khớp

đau nhức “dự báo thời tiết” thế nào ngày hôm sau tôi cũng phải mua thuốc”.

Nhƣ vậy, có thể thấy ngƣời bạn đời là những ngƣời gần gũi nhất trong quãng

đời còn lại của NCT, do đó khi ốm đau bệnh tật là những lúc cần sự chăm sóc,

chia sẻ của ngƣời chồng hay ngƣời vợ và không phải tự nhiên lại có câu “Con

chăm cha không bằng bà chăm ông”.

Tiếp theo đó là nguồn trợ giúp của con cháu (chiếm 58,0%). Càng về

già, NCT càng cần đƣợc chăm sóc chu đáo hơn vì thế những ngƣời con trong

gia đình là một phần quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe NCT. Gia đình

là nơi có ảnh hƣởng lớn nhất và gần gũi nhất đối với sự suy giảm hay ổn định

sức khỏe của NCT, cụ bà 65 tuổi cho biết “Tôi sống với chồng và hai vợ

chồng con trai cả nên khi ốm đau các con, các cháu đều có cả, nên cũng đỡ

55

lo…”. Hơn nữa, chính vì trong gia đình NCT tìm đƣợc cảm giác bình yên, sự

thảo mãn, vui vẻ, đặc biệt cảm giác có ích là cảm giác trực tiếp làm cho NCT

cảm thấy sảng khoái hay u uất. Các quan hệ trong gia đình nhƣ quan hệ giữa

cụ ông và cụ bà, giữa con cái hoặc giữa con cái với cháu chắt có ảnh hƣởng

rất lớn tới tình cảm, tâm trạng, nguồn trợ giúp những lúc các cụ khỏe mạnh,

ốm đau hay bệnh tật. Sự đầm ấm, hạnh phúc trong gia đình khiến tinh thần

các cụ thêm phấn chấn và giảm bớt đi sự mặc cảm tuổi già cũng nhƣ lão hóa

rõ rệt. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng thì việc

chăm sóc sức khỏe cha mẹ thƣờng xuyên cũng bị hạn chế, chỉ những lúc đau

ốm hay bệnh tật thì NCT mới đƣợc sự trợ giúp của con cháu. Hơn thế nữa,

hiện nay NCT đang là ngƣời chăm sóc con cháu trong gia đình.

Sự giúp đỡ về mặt sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật không chỉ có những

ngƣời thân trong gia đình mà cò có anh chị em (chiếm 7,4%). Những mối

quan hệ dòng tộc trong gia đình cũng góp một phần vào khi NCT đau ốm, có

nhiều gia đình anh chị em sống gần nhau nên thuận tiện cho việc thăm hỏi hay

trông nom khi NCT đau ốm. Nhƣ cụ bà 69 tuổi chia sẻ “Anh chị em sống gần

nhau, nhà có mỗi thằng con trai mà đi làm ăn suốt nên đau ốm các chị em tới

thăm rồi trông nom thường xuyên…”.

Ngoài những nguồn trợ giúp sức khỏe của những ngƣời thân trong gia

đình hay dòng họ thì NCT nhận đƣợc nguồn trợ giúp quan trọng bên ngoài gia

đình là hàng xóm, láng giềng (chiếm 5,3%). Ông bà ta có câu “Hàng xóm tối

lửa tắt đèn có nhau”, hay “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” nhất là với

NCT thì những ngƣời hàng xóm, láng giềng có một vị trí khá quan trọng, gần

gũi, họ có thể giúp đỡ nhau bất cứ lúc nào, hay khi ốm “Chỉ cần một, hai ngày

không thấy tôi sang chơi nhà cụ T là cụ đã chạy sang thăm hỏi xem bị bệnh gì

không mà không thấy sang chơi” (PVS, NCT, nam giới, 76 tuổi) hay một chia

sẻ khác “Con cái ở xa, bà sống ở đây có một mình nên nhờ cậy hàng xóm là

chủ yếu, ốm đau ới một tiếng là họ chạy sang giúp mình rồi…”. Sự giúp đỡ

này thể hiện tình làng nghĩa xóm và ăn sâu vào tâm trí con ngƣời Việt Nam từ

56

ngàn đời xƣa.

Bên cạnh đó trong tổng số 150 cụ đƣợc hỏi có 2,0% nhận đƣợc sự giúp

đỡ từ bạn bè đồng nghiệp; 0,7% từ hội, đoàn thể địa phƣơng. Tỷ lệ các cụ tự

phục vụ chiếm 5,3%. Nhƣ vậy, có thể thấy đối tƣợng thƣờng xuyên giúp đỡ,

chăm sóc NCT khi ốm đau chủ yếu là ngƣời thân trong gia đình. Nếu giới hạn

sự giúp đỡ của các thành viên trong gia đình đơn thuần không phải là hoạt

động của xã hội nói chung thì việc các tổ chức xã hội, các cơ quan đoàn thể

thực sự chƣa vào cuộc, việc chăm sóc và phát huy tài năng trí tuệ của NCT

vẫn còn bị coi nhẹ. Hình thức giúp đỡ của họ hiện nay chƣa thực chất, thăm

hỏi động viên là chủ yếu hay có sự giúp đỡ về vật chất nhƣng chỉ chiếm một

tỷ lệ nhỏ. Nhƣ vậy, NCT có thể hòa nhập vào cộng đồng thông qua những

hoạt động sinh hoạt tập thể, các tổ chức xã hội, các loại hình Câu lạc bộ đƣợc

coi là yếu tố tích cực nhằm ổn định và củng cố sức khỏe theo hƣớng tốt nhất.

Những tổ chức này nối liền hoạt động của NCT trong gia đình với xã hội, nơi

mà sau này sau khi hết tuổi lao động họ dƣờng nhƣ phần nào bị tách rời.

Có thể thấy đƣợc sự trợ giúp từ xã hội đối với NCT trong việc chăm

sóc sức khỏe có ý nghĩa vô cùng to lớn. Các mối quan hệ trong gia đình và

ngoài xã hội tạo nên một mạng lƣới giúp đỡ về mặt sức khỏe cho NCT.

Những NCT lúc khỏe mạnh cũng luôn ở tâm trạng lo sợ, cô đơn, khi bị ốm

đau hay bệnh tật thì điều đó càng làm cho NCT suy giảm cả mặt sức khỏe và

tinh thần, vì vậy mà sự hỗ trợ, chăm sóc NCT khi ốm đau, bệnh tật không chỉ

gia đình mà còn ngoài gia đình là liều thuốc quý giúp NCT chiến thắng bệnh

tật. Chính vì vậy, chính quyền địa phƣơng cần có những chủ chƣơng, chính

sách đẩy mạnh công tác hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT.

2.2.1.5. Mức độ quan tâm của người thân đối với NCT.

NCT là lớp ngƣời có quá trình cống hiến lâu dài cho gia đình, xã hội và

đất nƣớc và đƣợc coi là thế hệ duy trì tính liên tục phát triển của nhân loại. Họ

không chỉ là lớp ngƣời nhiều tri thức và kinh nghiệm sống mà còn tích lũy

đƣợc vốn liếng vật chất và giá trị văn về văn hóa tinh thần để truyền lại cho

57

thế hệ tiếp theo, nên khi về già việc phụng dƣỡng chăm sóc sức khỏe cho họ

là nghĩa vụ của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận không nhỏ NCT

chƣa đƣợc quan tâm chăm sóc một cách đúng nghĩa.

Biểu đồ 2.2. Mức độ quan tâm của ngƣời thân đối với NCT

Qua điều tra cho thấy, có 60,0% trong số các cụ cho rằng con cháu

thƣờng xuyên quan tâm, 26,0% rất thƣờng xuyên và 14,0% còn lại cho rằng

con cháu thỉnh thoảng quan tâm đến mình. Sự quan tâm của con cháu đến

NCT cũng là nguồn động viên lớn đối với NCT đặc biệt là khi ốm đau, bệnh

tật. Tuy nhiên, một xu hƣớng của xã hội hiện đại khi mô hình con cháu sống

xa NCT ngày càng tăng, sự hỗ trợ quan tâm chăm sóc của con cháu có chiều

hƣớng giảm. Các lý do dẫn đến việc thiếu chu đáo với NCT gồm: Con cháu

quá quá nghèo, bất hòa trong gia đình,… Lý giải vấn đề này một chia sẻ của

NCT: “Chị bảo chúng tôi lúc trẻ lúc khỏe phải nuôi con, bây giờ già yếu phải

dựa vào con, vào cháu. Các cụ trước có câu “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Lúc

bình thường thì ông bà quan tâm đến con cháu, lúc ốm đau thì con cháu phải

có trách nhiệm chăm sóc mình. Nói chung, trong cuộc sống hàng ngày các

cháu cũng quan tâm, thăm hỏi động viên kịp thời” (PVS, NCT, nữ giới, 71

tuổi). Đạo lý “Kính già”, “Đạo hiếu” cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị,

đƣợc coi là một trong những thang bậc giá trị cơ bản và quan trọng của dân tộc

Việt Nam, song trên thực tế do lao động và kiếm sống đã và đang chiếm phần

58

lớn thời gian của gia đình nên việc thực hiện đạo lý ấy đang bị sao nhãng và ít

đƣợc quan tâm nhƣ trƣớc. Nhiều nghiên cứu cho thấy, có không ít những NCT

ở nƣớc ta đang phải sống trong những hoàn cảnh thiếu thốn về kinh tế, phải

tiếp tục lao động kiếm sống, thậm chí là những công việc vất vả, nặng nhọc.

Nhiều NCT cô đơn, không nơi nƣơng tựa. Sự suy giảm sức khỏe, thể lực, sự

thiếu thốn về tinh thần, tình cảm, sự quan tâm chăm sóc của gia đình và xã hội

đối với NCT đang trở thành những hiện tƣợng khá phổ biến…. Chƣa kể đến

những trƣờng hợp NCT bị phân biệt đối xử, ngƣợc đãi, bị bạo hành [38, tr.6].

2.2.1.6. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe của các thành

viên trong gia đình.

Bảng 2.5. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe

của các thành viên trong gia đình.

Mức độ

Tần số

%

Rất hài lòng

46

30,7

Hài lòng

93

62,0

Không hài lòng

11

7,3

Tổng

150

100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Khi hỏi về mức độ hài lòng của các cụ với việc quan tâm, chăm sóc của

con cháu, có 30,7% các cụ rất hài lòng, 62,0% các cụ hài lòng và 7,3% còn lại

chƣa hài lòng. Nhƣ vậy, còn không ít trong số những NCT khảo sát chƣa hài

lòng về sự quan tâm của gia đình, họ hàng đối với bản thân mình. Họ chƣa

nhận đƣợc sự quan tâm kịp thời từ phía gia đình, do rất nhiều nguyên nhân

khác nhau: Không có con cháu, con cháu ở xa, không hòa hợp với con cháu...

Điều này ảnh hƣởng rất nhiều đến tâm lý của NCT trong cuộc sống hàng

ngày. Một chia sẻ của NCT: “Nhà tôi hiện nay có 6 người, tôi ở với các cháu

ngày các cháu đi làm tối về, nhìn chung vì ở với con cháu nên được con cái

quan tâm nhiều hơn. Lắm khi bố mẹ nó đi làm, nhưng thằng cháu nội năm

nay nó học cấp 3 nó cũng lớn rồi nên thương bà, lắm lúc ốm nó chở lên trạm

59

xá hay mua thuốc cho tôi. Bố mẹ nó công chức nhà nước nên đi suốt, chỉ có

buổi tối về ăn cơm cùng. Tôi còn được may mắn chứ cô, như nhà bà L khu

đằng kia mang tiếng đông con, nhiều cháu nhưng chúng nó ở xa hết, lấy ai

mà quan tâm thường xuyên được” (PVS, NCT, nam, 78 tuổi). Nhƣ vậy, để

giúp NCT có đƣợc tâm lý thoải mái hơn ngoài việc tuyên truyền vận động,

giáo dục các thành viên trong gia đình về nghĩa vụ và trách nhiệm của con cái

đối với ông bà, cha mẹ những ngƣời làm CTXH cần vận động NCT tích cực

tham gia vào các hoạt động xã hội để họ có thêm cơ hội chia sẻ, giao lƣu, để

có thêm quan tâm từ cộng đồng và xã hội.

2.2.2. Hoạt động lao động và nhu cầu lao động của NCT

2.2.2.1. Hoạt động kinh tế của NCT

Nhu cầu đƣợc làm việc, tiếp tục cống hiến cho gia đình và xã hội phù

hợp với sức khỏe và điều kiện của từng NCT cũng là một yêu cầu của các vị

cao niên. Đến hết tuổi lao động thì hƣởng chế độ nghỉ hƣu song nhiều NCT

vẫn có nhu cầu làm việc để có thêm thu nhập, để đƣợc sống có ích, ngoài việc

tự mỗi ngƣời phấn đấu để có sự cống hiến, nhiều vị cao niên vẫn muốn đƣợc

gia đình và xã hội quan tâm giải quyết và tạo điều kiện thuận lợi. Một số cơ

quan và Nhà nƣớc đã và đang nghiên cứu để sử dụng chất xám, khả năng của

những vị cao niên, nhất là những vị vừa mới rời khỏi dây chuyền sản xuất và

công tác, vẫn còn trí tuệ, kinh nghiệm và sức khỏe nhằm phát huy một cách

phù hợp sự cống hiến của họ. Đƣợc làm việc, đƣợc cống hiến tạo ra niềm vui

cho cuộc sống, do đó có tác dụng làm cho trí não và thân thể khỏe mạnh. Đây

còn là một quyền của NCT mà nhiều quốc gia đang quan tâm [34].

Bảng 2.6. Hoạt động kinh tế của NCT

Hoạt động kinh tế

Khác

Công nghiệp

Nông nghiệp

Thƣơng mại/dịch vụ

Tiểu thủ công nghiệp

Tần số %

56 37,3

16 10,7

2 1,3

2 1,3

30 20,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Do trình độ chuyên môn của NCT còn thấp nên các hoạt động kinh tế

đơn giản là chủ yếu. Hoạt động kinh tế của NCT tập chung ở khu vực sản

60

xuất nông nghiệp (chiếm 37,3% ). Các khu vực sản xuất công nghiệp; thƣơng

mại/dịch vụ; tiểu thủ công nghiệp và hoạt động kinh tế khác chiếm tỷ lệ nhỏ

(10,7% tham gia các hoạt động thƣơng mại và dịch vụ; 1,3% là tham gia tiểu

thủ công nghiệp và 20,0% vào các hoạt động kinh tế khác). Theo nhƣ khảo sát

tại địa phƣơng, hoạt động kinh tế của NCT mang tính chất lao động cá thể

trong phạm vi hộ gia đình. Đây là mô hình kinh tế phù hợp với NCT và năng

lực quản lý, sức khỏe và trình độ kỹ thuật của NCT. Thành phần kinh tế tập

thể cũng có tƣơng đối lớn số lƣợng NCT tham gia. Đây là mô hình hoạt động

kinh tế có số lƣợng nhiều, ƣu thế trong việc hỗ trợ NCT hoạt động kinh tế.

Theo nhƣ kết quả khảo sát có một số lƣợng nhỏ không NCT không

tham gia vào bất kỳ hoạt động kinh tế nào (chiếm 29,3%), nhƣng họ cũng có

vai trò không nhỏ đối với gia đình họ có thể giúp con cháu các công việc gia

đình. Công việc gia đình đƣợc NCT Thị trấn Neo gọi là “Việc vặt trong nhà

và là những việc không tên và phù hợp với NCT” và dĩ nhiên là những công

việc này không có thu nhập. Đa số ngƣời NCT có sức khoẻ hiện đang tham

gia công việc gia đình; một số ít NCT mặc dù sức khoẻ rất yếu những vẫn làm

việc các công việc gia đình. Phần lớn ngƣời già trong mẫu nghiên cứu hiện

đang sống chung, ăn chung với con cháu (chiếm 53,3,%). Thống kê sơ bộ thời

gian biểu tham gia hoạt động của NCT trong một ngày cho thấy công việc nhà

chiếm ít thời gian nhất là từ 30 - 60 phút là những loại việc nhà nhƣ: cho cháu

ăn, đƣa đón cháu đi học, chuẩn bị bữa sáng cho gia đình... Hoạt động liên

quan đến việc nhà chiếm nhiều thời gian nhất (từ 3h – 5h), bao gồm cả việc

trông cháu, hƣớng dẫn cháu học, nội trợ... Mặc dù công việc gia đình là chủ

yếu là việc “Việc vặt, việc không tên và phù hợp với người già” nhƣng tốn

không ít thời gian và sức lực, nhƣng thực tế giá trị của những “việc vặt” này

khó có thể tính toán chính xác đƣợc mức độ đóng góp vào kinh tế gia đình.

2.2.2.2. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT

Nói tới hoạt động kinh tế của NCT nói chung, trƣớc hết là nói tới việc

tạo thu nhập, một yếu tố quan trọng có ảnh hƣởng quyết định tới việc NCT ở

61

đâu, độc lập hay hoàn toàn bị phụ thuộc vào gia đình, vào trợ cấp của xã hội.

Bảng 2.7. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT

Mục đích

Tần số

%

Nâng cao thu nhập Rèn luyện sức khỏe Giúp tinh thần thoải mái Tiếp tục phát huy tài năng trí tuệ

Gồm các ý 1, 2, 3, 4

92 12 22 11 10

61,3 8,0 14,7 7,3 6,7

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Trong số NCT tham gia các hoạt động kinh tế, có tới 61,3% tham gia vì

mục đích nâng cao thu nhập, 14,7% tham gia với mục đích giúp cho tinh thần

thoải mái và 7,3% tham gia với mục đích tiếp tục phát huy tài năng và trí tuệ,

8,0% còn lại là để rèn luyện sức khỏe và tất cả ý kiến trên chiếm 6,7%. Một

chia sẻ của một cụ Nam, 68 tuổi:“Chị bảo như tuổi chúng tôi tuổi đã cao rồi,

nhưng còn nhiều khoản phải chi tiêu lắm! Con cái cũng khó khăn, nó cũng

phải lo cho con chúng nó nữa. Chị tính hàng tháng vẫn phải mất tiền đi lấy

thuốc đau khớp, hai cái chân này cứ thay đổi thời tiết lại sưng lên, nay ốm

mai đau. Hơn nữa nhà quê chúng tôi nhiều cỗ bàn. Một năm trong họ không

biết bao nhiêu là giỗ, tết. Rồi là hàng xóm láng giềng, trước đây họ đến nhà

mình giờ mình phải đến nhà người ta. Đứa nào dựng vợ gả chồng thì phải có

mấy hào cho chúng nó... thế chẳng nhẽ đi đâu cũng chìa tay ra xin tiền con,

xin tiền cháu à? Nên tôi cũng phải kiếm thêm đồng ra đồng vào”. Đƣợc tiếp

tục làm việc và cống hiến cho gia đình, xã hội phù hợp với sức khỏe, điều

kiện hoàn cảnh của mình là nhu cầu cơ bản của NCT, việc phát huy vai trò

NCT trong gia đình và xã hội không những tạo thu nhập đảm bảo cuộc sống

mà còn tạo niềm vui trong cuộc sống, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của

NCT. Nhƣ vậy phát huy vai trò NCT là cách chăm sóc tích cực đối với NCT.

Tóm lại, chúng ta thấy kinh tế vẫn là một gánh nặng, kinh tế vẫn là mục tiêu

chính của việc tham gia vào các hoạt động sản xuất của NCT trên địa bàn thị

62

trấn. NCT vẫn có nhu cầu đƣợc tiếp tục làm việc, có thu nhập đóng góp thêm

cho con cháu. Mặt khác họ muốn khẳng định vai trò của mình đối với gia đình

và xã hội.

2.2.2.3. Thời gian tham gia hoạt động kinh tế của NCT

Bảng 2.8. Thời gian dành cho công việc của NCT

Thời gian dành cho công việc

Tần số

%

Dƣới 5 giờ

29

27,4

Từ 5 – 8 giờ

70

66,0

Từ 8h – 10h

5

4,7

Trên 10h

2

1,9

106

100,0

Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Cƣờng độ làm việc của NCT khá cao và phụ thuộc vào tính chất công

việc mà NCT đang làm. Thời gian làm việc trung bình một ngày dƣới 5 giờ

chiếm 27,4%; thời gian dành cho công việc từ 5h – 8h, tƣơng đƣơng với thời

gian làm việc của một ngƣời trong độ tuổi lao động chiếm 66,0%. Ngoài ra

vẫn còn có 4,7% NCT làm việc từ 8h – 10h và 1,9% NCT làm việc trên 10h.

Tính chất công việc là yếu tố quan trọng chi phối thời gian làm việc của NCT.

Đối với những công việc có tính chất lao động giản đơn thì thời gian lao động

của NCT ít hơn, còn công việc đòi hỏi khả năng tƣ duy cao thì thời gian lao

động nhiều hơn (Ví dụ: kinh tế trang trại, nghệ nhân... chiếm phần lớn thời

gian của NCT/ngày). Chính cuộc sống của NCT hiện nay còn nhiều khó khăn

và phần lớn trong số họ phải dựa vào sức lực của chính bản thân mình để

kiếm sống cho mình và gia đình, khi họ không có nguồn lực vật chất nào khác

hoặc những nguồn lực hiện có không đủ chi dùng cho sinh hoạt.

2.2.2.4. Nguồn thu nhập chính của NCT

Xét theo cơ cấu thu nhập hộ gia đình NCT, số liệu từ Điều tra mức

sống hộ gia đình năm 2008 cho thấy thu nhập sản xuất nông nghiệp và từ tiền

công lao động là thu nhập chủ yếu của hộ gia đình cao tuổi. Tuy nhiên, những

khoản thu nhập có tính đảm bảo cuộc sống khi không còn đủ sức lao động

63

nhƣ tiết kiệm, hƣu trí và các khoản bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội khác lại

chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của hộ gia đình cao tuổi. Nghiên

cứu của Pfau và Giang (2010) cho thấy thu nhập từ các khoản an sinh xã hội

này thậm chí còn thấp hơn nhiều thu nhập từ các khoản tiền gửi về trong nƣớc

và kiều hối. Có thể thấy rõ là hai nguồn thu nhập này chiếm tỷ lệ nhỏ so với

tổng chi tiêu của hộ gia đình cao tuổi. Khi tuổi càng tăng lên thì nguồn thu

nhập từ sản xuất, kinh doanh của NCT càng giảm do khả năng lao động ngày

càng thấp. Vì thế, nếu các nguồn thu nhập có tính dự phòng nhƣ hƣu trí hoặc

có tính chống và khắc phục rủi ro nhƣ trợ cấp xã hội… quá thấp sẽ khiến cho

việc đảm bảo mức sống của NCT trở nên càng khó khăn hơn [44]. Thu nhập

là một trong tiêu chí cơ bản để đánh giá mức sống của con ngƣời nói chung và

NCT nói riêng. Thu nhập của NCT có thể từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó

có hoạt động tích lũy cho tuổi già.

Bảng 2.9. Nguồn thu nhập chính của NCT

Khác

Trợ giúp anh em, con cháu

Nguồn thu chính

Lao động sản xuất của bản thân

Trợ cấp xã hội

Trợ cấp mất sức

Tiết kiệm từ trƣớc

Lƣơng hƣu

Tần số

90

11

24

77

51,3

60,0

7,3

4 2,7

79 52,7

18 12,0

16,0 % (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Nói tới hoạt động kinh tế của NCT, theo chúng tôi, trƣớc hết là nói tới

việc tạo thu nhập, một yếu tố quan trọng có ảnh hƣởng quyết định tới việc

NCT ở đâu, độc lập hay hoàn toàn bị phụ thuộc vào gia đình, vào trợ cấp của

xã hội [34]. Nguồn thu nhập chính của NCT tại Thị trấn Neo khá đa dạng.

Theo nhƣ điều tra, nguồn sống của NCT chủ yếu xuất phát từ lao động sản

xuất hàng ngày (chiếm 60,0%). Mặc dù NCT không còn nhiều sức khỏe nhƣ

trƣớc nhƣng về mặt tâm lý học, việc họ còn có thể làm việc, kiếm thêm thu

nhập đỡ đần cho con cái là một sự khích lệ, động viên đối với bản thân mỗi

cụ. Mặt khác, do điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn. Vì vậy, mặc dù tuổi

đã cao song nhiều NCT vẫn có nhu cầu làm việc để có thêm thu nhập, phụ

giúp con cái, đồng thời để chính họ thấy rằng mình sống có ích. Việc chủ

64

động về nguồn tài chính sẽ giúp bản thân trang trải các nhu cầu cơ bản cũng

nhƣ hỗ trợ con cái mƣu sinh. Một chia sẻ của NCT: “Năm trước đây tôi vẫn

nuôi vài con gà, trồng mấy luống rau thỉnh thoảng đi bán, có đồng ra đồng

vào. Còn sức khỏe còn phải làm, làm cho vui chân vui tay nữa cô ạ. Nhưng từ

đầu năm trở lại đây, ông nhà tôi mất hơn nữa không còn khỏe như xưa các

con không cho làm nữa. Giờ chủ yếu là ở nhà trông nhà trông cửa cho các

cháu. Tôi được trợ cấp người già, mỗi tháng nhà nước cũng cho 270.000đ,

thỉnh thoảng con cháu cho vài đồng tiêu vặt” (PVS, NCT, nữ giới, 80 tuổi).

Tiếp sau đó là là tích lũy từ lao động của NCT lúc còn trẻ dƣới dạng

bảo hiểm hƣu trí, tiết kiệm hoặc vật chất khác (chiếm 52,7%). Ngoài nguồn

thu nhập tự bản thân làm ra, tích lũy từ trƣớc NCT có nhận sự hỗ trợ của

ngƣời thân trong gia đình là anh em, con cháu (chiếm 51,7%). Nhƣ vậy, tài

chính do anh em, con cháu trợ cấp vẫn đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên sự

hỗ trợ đó cũng không thƣờng xuyên bởi tâm lý của các cụ luôn ngại phiền con

cháu và ngƣời thân, do đó ít nhiều ảnh hƣởng đến nguồn thu nhập cũng nhƣ

chi tiêu hằng ngày dẫn đến không đảm bảo về chất lƣợng cuộc sống.

Ngoài ra còn có các khoản thu nhập khác nhau nhƣ: Từ lƣơng hƣu là

16,0%, trợ cấp xã hội 7,3%; trợ cấp mất sức 2,7%; thu nhập từ nguồn khác là

20,0%. Thông thƣờng, NCT sẽ có thêm một khoản thu nhập từ lƣơng hƣu

hoặc đƣợc hỗ trợ từ chính quyền hay hƣởng theo chính sách Nhà nƣớc. Tuy

nhiên, NCT tại địa phƣơng phần lớn là lao động nông thôn nên khoản lƣơng

hƣu hầu nhƣ không có. Họ cũng không thƣờng xuyên nhận đƣợc các khoản

hỗ trợ theo chính sách của Nhà nƣớc dành cho NCT hoặc từ nguồn ngân sách

của địa phƣơng. Chỉ khi gia đình đƣợc công nhận là hộ nghèo hoặc NCT từ

đủ 80 tuổi trở lên.

Như vậy, có thể thấy thu nhập của NCT có thể bắt nguồn từ 3 nguồn cơ

bản sau đây: Từ lao động sản xuất hàng ngày của ngƣời cao tuổi; Tích lũy từ

lao động của ngƣời cao tuổi lúc còn trẻ dƣới dạng bảo hiểm hƣu trí, tiết kiệm

hoặc vật chất khác; Từ nguồn trợ cấp của anh em, con cái hoặc trợ cấp của

65

Nhà nƣớc (cho các cụ già cô đơn không nơi nƣơng tựa).

2.2.2.5. Mức thu nhập trung bình/tháng của NCT

Bảng 2.10. Mức thu nhập trung bình/tháng

Mức thu nhập trung bình/tháng

Tần số

%

<500 nghìn đồng

37

24,6

Từ 500 - 1 triệu đồng

61

40,7

Từ 1 triệu - 1,5 triệu đồng

25

16,7

Từ 1,5 triệu - 2 triệu đồng

12

8,0

>2triệu đồng

15

10,0

150

100,0

Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Tuy một tỷ lệ lớn NCT đang tham gia hoạt động kinh tế song thu nhập

của NCT hiện nay còn thấp dƣới 500 nghìn đồng (chiếm 24,6%), 40,7% NCT

có khoản thu nhập khoản thu nhập từ 500 - 1 triệu/tháng, 16,7% có khoản thu

nhập từ 1triệu – 1,5triệu/tháng, 8,0% có khoảng thu nhập từ 1,5 triệu – 2

triệu/tháng và tỷ lệ NCT có thu nhập trên 2 triệu đồng/tháng chiếm 10,0%.

Nhƣ vậy, thu nhập bình quân của NCT trên địa bàn thị trấn tƣơng đối ổn định,

đã phần nào đảm bảo đƣợc cuộc sống tối thiểu hàng ngày của các cụ. Tuy

nhiên, đa số NCT hiện nay trên địa bàn nghiên cứu là thế hệ sinh ra trong thời

kỳ thuộc địa phong kiến, nhiều ngƣời tham gia các cuộc đấu tranh giữ nƣớc,

xây dựng đất nƣớc, đƣợc trƣởng thành, thử thách, tôi luyện trong các cuộc

kháng chiến. Do sinh ra và trƣởng thành trong điều kiện hết sức khó khăn, vì

vậy, họ không có điều kiện bảo sức khỏe và tích lũy vất chất cho họ chính vì

vậy khi đất nƣớc chuyển đổi sang cơ chế thị trƣờng, họ là những ngƣời đang

phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc thích nghi với nhiều thay đổi chƣa

từng có trƣớc đây. Chăm sóc đời sống vật chất nói chung và ổn định thu nhập

cho NCT nói riêng không chỉ là trách nhiệm của NCT, gia đình mà còn là

trách nhiệm của toàn xã hội. Vì vậy, trong quá trình hỗ trợ cho NCT nhân

viên CTXH cần lƣu ý ổn định mức thu nhập cho NCT ngoài các nguồn thu

66

nhập hiện có thông qua các hình thức khác nhau nhƣ: tạo việc làm cho NCT,

cung cấp kiến thức kinh tế hộ gia đình, tiếp cận với các nguồn tín dụng... phát

triển kinh tế, nâng cao thu nhập để NCT đảm bảo cho cuộc sống của mình.

2.2.2.6. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng

Biểu đồ 2.3. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng

Đi sâu nghiên cứu, đa số NCT tại địa phƣơng đều có nhu cầu đƣợc làm

việc để tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên, thu nhập hiện nay của họ đều rất thấp,

đời sống của họ còn nhiều khó khăn. Nếu đánh giá chung về đời sống của

NCT, theo kết quả khảo sát có 9,3% NCTcho rằng mức độ chi phí của NCT

từ thu nhập hàng tháng rất đủ, 72,0% cho rằng đủ, 18,0% cho rằng không đủ.

Nhƣ vậy, chúng ta có thể nhận thấy NCT trên địa bàn Thị trấn Neo có mức

thu nhập trung bình so với mặt bằng chung thu nhập chung. Với mức thu nhập

đó đối với NCT chỉ đủ chi trả cuộc sống khá đắt đỏ nơi đô thị, nhiều NCT

phải tìm đến sự trợ giúp của con cháu hoặc vẫn phải làm việc để có thể chi trả

cuộc sống hàng ngày. Đây có thể đƣợc coi là một trong những khó khăn của

NCT tại địa bàn Thị trấn nói riêng và NCT nói chung. 2.2.3. Quan hệ xã hội và nhu cầu được quan tâm, tôn trọng

Theo quan niệm về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới muốn tăng

cƣờng sự thoải mái về mặt tâm lý và thể chất thì việc duy trì các quan hệ xã

hội trong quãng đời của tuổi xế chiều có tính chất vô cùng quan trọng. Ngƣời

67

ta nhận thấy việc giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội gắn liền với sự giảm

nguy cơ bệnh tim - mạch, nguy cơ suy giảm chức năng và tử vong. Tình cảm

bạn bè và tƣơng tác xã hội góp phần làm cho cảm xúc đƣợc phong phú, mang

lại sự thoải mái và niềm hạnh phúc cho con ngƣời. Nhiều nghiên cứu cho thấy

các NCT có nhiều mối dây liên lạc xã hội dƣờng nhƣ ít bị suy giảm khả năng

cơ thể và nhận thức sau khi đã đƣợc điều chỉnh tình trạng sức khỏe và chức

năng. Một số nghiên cứu khác cũng nhận thấy những ngƣời có màng lƣới

quan hệ xã hội rộng lớn và thƣờng xuyên tiếp xúc với các thành viên trong

màng lƣới đó thƣờng có tốc độ suy giảm chức năng chậm hơn cũng nhƣ có

thể sống lâu hơn. Nhƣ vậy mức độ thấp trong hòa nhập xã hội, ví dụ cách biệt

với cộng đồng có thể là một yếu tố nguy cơ lớn đối với tử vong; đây là yếu tố

độc lập đối với các yếu tố nguy cơ khác về mặt y - sinh học và ứng xử. Tất

nhiên các mối quan hệ xã hội nói chung phần lớn mang tính tích cực nhƣng

cũng có khi gây tác động khó dự đoán đối với một số NCT. Có ba mặt của

quan hệ xã hội đã đƣợc xác định là hỗ trợ cơ cấu, hỗ trợ xã hội và hỗ trợ tiêu

cực. Đây là điều cần cân nhắc trƣớc từng trƣờng hợp, hoàn cảnh cụ thể, căn

cứ vào việc lƣợng giá đúng thực trạng của từng đối tƣợng NCT [19].

2.2.3.1. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm

Bảng 2.11. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm và

đƣợc họ hàng/bạn bè/hàng xóm tới thăm

Tổng

Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm Tần số %

Gặp gỡ hàng ngày 68 45,3

Một vài lần/tuần 62 41,3

Một vài lần/tháng 18 12,0

Không gặp gỡ/thăm hỏi 2 1,4

150 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Việc thăm hỏi họ hàng, bạn bè, hàng xóm và đƣợc họ tới thăm không

ngoài mục đích quan trọng là hỏi thăm hay chia sẻ. Thông qua việc trò chuyện

hàng ngày tạo nên sợi dây gắn kết, hỗ trợ về mặt tinh thần đối với NCT. Theo

68

kết quả điều tra, có 45,3% gặp gỡ hàng ngày; 41,3% gặp gỡ một vài lần/tuần;

12,0% gặp gỡ một vài lần/tháng. Tuy nhiên, cũng có một tỷ lệ nhỏ NCT có

mối quan hệ hẹp (chiếm 1,4%). Một xu hƣớng của đại đa số NCT là tìm lại

chính mình trong hoài niệm. Để giải tỏa những ƣu phiền thƣờng nhật trong

cuộc sống hiện tại, NCT thƣờng thích hội họp, tìm lại bạn cũ, cảnh xƣa, tham

gia Hội Cựu chiến binh... Họ thích ôn lại chuyện cũ, viết hồi ký, tái hiện kinh

nghiệm sống cũng nhƣ hƣớng về cội nguồn: viếng mộ tổ tiên, sƣu tầm cổ vật.

NCT thích sống trong cộng đồng: làng xóm, bạn bè, đồng môn, đồng đội. Họ

không muốn bị lạc lõng, đứng ngoài lề xã hội Việt Nam, họ còn mong đƣợc

góp ý kiến với Đảng và Chính phủ về những vấn đề thời sự nóng bỏng,… Họ

thƣờng nhắc đến quá khứ nhiều hơn hiện tại, tự hào về kinh nghiệm sống của

mình. Tuy nhiên, họ nhạy bén với cái mới, với sự biến động của lịch sử hay

các sự kiện diễn ra hàng ngày. Thông qua những mối quan hệ bạn bè, thông

qua trò truyện họ đƣợc thể hiện mình, tìm đƣợc những ngƣời bạn “tâm giao”,

tâm sự làm giải tỏa những tâm lý mặc cảm, tự ti của vấn đề lão hóa. Từ đó

làm cho NCT an tâm hơn để sống và tham gia vào các hoạt động xã hội. Và

đây cũng là một cách thức hiệu quả khi hỗ trợ xã hội về mặt tinh thần với

NCT. Đây là một đặc điểm tâm lý quan trọng mà nhân viên CTXH, các cơ

quan đoàn thể và gia đình NCT cần nắm đƣợc và có cách ứng xử phù hợp.

2.2.3.2. Số lượng bạn tri ân, tri kỷ của NCT

Giống nhƣ lúc mới sinh và trong thời thơ ấu, NCT không còn tham

vọng vật chất và cảm thấy cô đơn rất nhiều. Do vậy khi về già tìm đƣợc

những ngƣời bạn tri kỷ là điều rất an ủi và hỗ trợ tinh thần rất tốt cho NCT.

Vƣợt qua những tham vọng, buồn vui trong cuộc sống, thậm chí là những mất

mát đau thƣơng còn lại trong NCT là cái tình giữa ngƣời với ngƣời. Có những

ngƣời bạn tâm đầu ý hợp về quan điểm, sở thích là điều đáng quý, nhất là tình

bạn khi tuổi đã cao. Trong đời sống hàng ngày với nhiều biến cố và suy nghĩ

tuổi già, tình bằng hữu giúp cho con ngƣời bớt cô đơn hơn. Một tình bạn chân

69

thành giúp cho chúng ta có thể chia sẻ và giãi bày những điều thầm kín và

trăn trở nhất. Mối tâm giao giữa tình bạn già cho con ngƣời thấy cuộc sống

tuổi hƣu ấm áp và có ý nghĩa hơn. Nhiều vị tuổi cao cũng có ý nghĩ rằng khi

về già, ngoài việc có một sức khỏe tốt, một gia đình êm ấm, thì tình bạn lâu

năm là một hành trang quý giá mà họ đã mang theo đƣợc cho tới giai đoạn

cuối của cuộc đời.

Bảng 2.12. Số lƣợng bạn tri ân, tri kỷ của NCT

Số lƣợng bạn tri ân, tri kỷ của NCT

Tần số

%

>5 ngƣời

48

32,0

3-4 ngƣời

32

21,3

1-2 ngƣời

23

15,3

Không có

47

31,4

150

100,0

Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Khi đƣợc hỏi về “Số lượng bạn tri ân, tri kỷ” có 32,0% trong số các cụ

có từ trên 5 ngƣời bạn, 21,3% có từ 3 - 4 ngƣời, 15,3% có 1 – 2 ngƣời bạn.

Nỗi sợ lớn nhất đối với con ngƣời, nhất là NCT, đó là sự cô đơn. Ngƣời cao

tuổi ít có điều kiện tham gia hoạt động xã hội nhƣ lúc còn trẻ. Hơn nữa mâu

thuẫn thế hệ nhiều khi đẩy con cái và bố mẹ đến sự xa cách, làm cho NCT

cảm thấy cô đơn, cảm thấy mình nhƣ ngƣời thừa trong gia đình. Ngƣời cao

tuổi sống bằng kí ức, bằng kỉ niệm, song con cái khó chia sẻ với cha mẹ

những điều NCT đã trải qua trƣớc đây. Các câu lạc bộ NCT cũng chỉ thoả

mãn phần nào nhu cầu tâm lý của các cụ. Chính những điều này khiến NCT

mong muốn có một ngƣời bạn đời, bạn tri kỉ để sống vui vẻ hơn trong nửa sau NCT không có bạn của cuộc đời. Tuy nhiên, một điều đáng lƣu ý là có gần 1/3

thân. Lý do là một số NCT do tuổi tác đã cao, sức khỏe yếu đi lại khó khăn

hoặc do đời sống thấp, kinh tế quá khó khăn nên họ phải tiếp tục lao động,

70

không có nhiều thời gian nghỉ ngơi, gặp gỡ, giao lƣu với ngƣời khác.

2.2.3.3. Đối tượng NCT trò chuyện tâm sự

Trò chuyện chia sẻ với NCT có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống

tinh thần và tình cảm của NCT, thêm vào đó mỗi cuộc trò chuyện là một bài

tập luyện cho não bộ cực kỳ hiệu quả. Nó kích thích vùng não bộ hoạt động,

đặc biệt là vùng não kiểm soát ngôn ngữ và trí nhớ, đồng thời chống lại sự trì

trệ của não bộ, đẩy lùi quá trình lão hóa. Việc trò chuyện giống nhƣ một bài

tập kỹ năng giao tiếp cho NCT. Nó buộc não bộ phải hoạt động thƣờng

xuyên, tiếp nhận thông tin liên tục. Ngoài ra các cơ mặt cũng hoạt động tích

cực khi nói chuyện, đặc biệt khi cƣời, điều đó giúp tinh thần thƣ giãn và rất có

lợi cho sức khỏe NCT. Đó chính là vũ khí hiệu quả giúp cho NCT chống lại

sự lão hóa và suy giảm trí nhớ. “Sự im lặng giống như một dịch bệnh làm hạn

chế nhận thức của người già. Đó là con đường nhanh nhất dẫn tơi suy giảm

và mất trí nhớ” – Tiến sĩ Martin, Đại học Zurich – Đức.

Bảng 2.13. Đối tƣợng trò chuyện tâm sự của NCT

Tần số 44 52 32 9 5 8 0 0 150

% 29,3 34,7 21,3 6,0 3,3 5,4 0,0 0,0 100,0

Đối tƣợng trò chuyện tâm sự của NCT Con trai Vợ/chồng Con gái Con dâu/rể Bạn bè/đồng nghiệp Hàng xóm, láng giềng Ngƣời khác Không tâm sự, chia sẻ Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Theo nhƣ kết quả điều tra cho thấy, ngƣời đầu tiên đƣợc NCT kể đến

34,7%). Tuổi xế chiều, tình yêu chồng vợ đậm đà theo năm tháng, họ vẫn

thƣờng xuyên hỏi han, trò chuyện, chia sẻ nhất là ngƣời bạn đời (chiếm

thuộc về nhau, hiểu biết và chiều nhau sau bao tháng ngày cùng chung sống,

71

cảm thông và chia sẻ. Ngƣời vợ và ngƣời chồng cũng thể tha thứ, thông cảm

cho nhau những điều chƣa vừa ý và thẳng thắn, khéo léo chia sẻ với nhau

những gì có thể đƣợc. Khi còn trẻ, ngƣời vợ chăm chồng, ngọt ngào, chia sẻ

khó khăn thiếu thốn với ngƣời chồng thì khi xế chiều, ngƣời vợ vẫn là chỗ

dựa vô cùng âu yếm của chồng vì ngƣời chồng về già thƣờng trái tính trái nết

hơn ngƣời vợ và dễ suy giảm sức khoẻ hơn nếu tình cảm và tinh thần của các

ông bị biến động, các ông rất khó chịu đựng đƣợc nỗi cô đơn... Bà mà mải với

con cháu, quên mất ông, để ông lẻ loi , đơn chiếc thì ông dễ ốm đau, bệnh tật,

ông nào sức khoẻ tốt, vật chất đầy đủ lại dễ tìm thú vui nơi ngoài tình vợ

chồng. Các ông thì, cũng hiểu vợ mình hơn nữa, nhớ những kỷ niệm đẹp đẽ

của vợ chồng mà thể tất cho các bà có lúc làm trái ý các ông, cho cửa nhà êm

ấm, đỡ phải “Chia nồi” khi có trục trặc, mâu thuẫn.

Tiếp theo là quá trình giao tiếp với ngƣời con trai (chiếm 29,3%), thứ

ba ngƣời con gái (chiếm 21,3%). Cũng dễ hiểu với những con số đƣợc kể

trên, vì NCT Việt Nam thƣờng sống với ngƣời con trai nên thƣờng xuyên trò

chuyện với ngƣời con trai là tất yếu, nhƣng kề sau đó là ngƣời con gái, với xu

thế ngày một hiện đại con gái đã kết hôn cũng thƣờng xuyên qua thăm hỏi, trò

chuyện với bố mẹ nên mức độ trò chuyện giữa NCT với con gái cũng ngày

một tăng lên. Ngoài ra, con dâu, con rể cũng đƣợc NCT nhắc đến (chiếm

6,0%). Nội dung các cuộc trò chuyện của con cháu với NCT xoay quanh

những câu chuyện vui, hỏi thăm sức khỏe, ăn uống, chi tiêu trong gia đình,

chuyện hàng xóm láng giềng, chuyện họ hàng.... Và đó cũng là dịp để NCT

hỏi thăm tình hình sức khỏe, học hành của con cháu cũng nhƣ bộc lộ những

mong muốn, nguyện vọng của mình, tìm đƣợc sự đồng cảm với con cháu và

72

phần nào thu hẹo khoảng cách già và trẻ, nhất là giữa ông bà và cháu.

Ngoài gia đình thì những ngƣời hàng xóm là những ngƣời gần nhất với

NCT, một số NCT góa bụa và không sống chung với con cái đối với họ có

hàng xóm là ngƣời gần gũi nhất để họ trò chuyện, tâm sự, chia sẻ (chiếm

5,4%), theo cụ bà 73 tuổi: “Sống một mình, nên chỉ có tâm sựu, trò chuyện với

hàng xóm, ngày nào hai bà cũng tâm sự, chia sẻ những câu chuyện hàng

ngày, già rồi nên cần người nói chuyện cho khuây khỏa...”. Thông tin phỏng

vấn sâu cho thấy, nội dung các cuộc trò chuyện của NCT với hàng xóm, láng

giềng của cụ ông, cụ bà cùng hƣớng tới những vấn đề chung, những sự việc

xung quanh những con ngƣời tại nơi ở, hay những vấn đề thời sự, kinh tế,

chính trị, xã hội mà các cụ thăm dò đƣợc thông qua những phƣơng tiện thông

tin đại chúng, nhƣ báo, đài, tivi, internet... Một chia sẻ của cụ ông, 74 tuổi

“Ông đọc báo hàng ngày, rồi lại bàn luận chính trị với mấy ông hàng xóm,

giờ nhiều tin lắm cháu à”. Và theo những gì thu thập đƣợc từ phỏng vấn thì

trò chuyện của cụ ông khác với cụ bà, những cụ ông thƣờng trò chuyện với

nhau về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội hay ôn lại những kỉ niệm

thời chiến tranh...., đối với các cụ bà thì xoay quanh các câu chuyện gia đình,

thăm hỏi sức khỏe, trao dổi kinh nghiệm trong chuyện chăm sóc cháu, nội trợ,

quần áo... Nhƣng nhìn chung, những cuộc trò chuyện thƣờng làm cho tinh

thần NCT cảm thấy đƣợc sảng khoái và yêu cuộc đời hơn.

So với việc trò chuyện với con cháu và những ngƣời hàng xóm thì hoạt

động trò chuyện với bạn bè, đồng nghiệp của NCT có tần suất thấp hơn

(chiếm 3,3%). Nguyên nhân do việc gặp gỡ giữa NCT với bạn bè, đồng

nghiệp cũ không thƣờng xuyên nên mức độ trò chuyện cũng ít hơn, hơn thế

73

nữa NCT càng già thì các quan hệ xã hội càng giảm do tuổi già, sức yếu. Mặc

dù vậy thì những cuộc trò chuyện, gặp gỡ bạn bè làm cho NCT thảo mãn nhu

cầu giao tiếp bạn bè, đƣợc tâm sự, chia sẻ với những ngƣời có chung đặc

điểm nghề nghiệp, văn hóa xã hội, các vấn đề sức khỏe, gia đình, tin tức về

những ngƣời bạn cũ,... Ngoài ra, trò chuyện giúp cho NCT biết đƣợc những

thông tin mới mẻ trong đời sống xã hội, làm tăng thêm vốn hiểu biết cho họ.

Nhƣ vậy, hoạt động trò chuyện, thăm hỏi hay chia sẻ những vấn đề

quan trọng trong cuộc sống giữa NCT với các thành viên trong gia đình và

ngoài gia đình là hoạt động có ý nghĩa quan trọng về mặt tinh thần. Thông

qua việc trò chuyện hàng ngày tạo nên sợi dây gắn kết, hỗ trợ về mặt tinh thần

đối với NCT.

2.2.3.4. Tâm trạng hàng ngày của NCT

Đối với NCT đời sống tinh thần luôn đƣợc đặt lên hàng đầu, trong cuộc

sống của NCT có nhiều yếu tố gia đình và cá nhân tác động đến đời sống tinh

thần của NCT, trong đó yếu tố quan trọng nhất là sự hỗ trợ của cha mẹ với

con cháu và tình cảm của NCT đối với con cháu và với vợ/chồng mình.

Ngƣời Việt Nam luôn có truyền thống hiếu thảo với ông bà cha mẹ, coi việc

phụng dƣỡng, hiếu thảo để đền đáp công lao sinh thành dƣỡng dục của ông bà

cha mẹ là trách nhiệm, bổn phận của con cháu. Do truyền thống tốt đẹp đó mà

gia đình trở thành đơn vị gốc của xã hội, đơn vị đó tồn tại qua nhiều cuộc xáo

trộn kinh tế, chính trị của xã hội. NCT có một chỗ dựa nào đó trong cái đơn vị

gốc này. Với những ngƣời thiếu may mắn, không con cái, thì vẫn có thể nhờ

cậy vào bà con nội ngoại. Cũng do truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà cuộc

sống chung giữa NCT và ngƣời trẻ dƣới mái ấm một gia đình thƣờng rất hài

74

hòa và ổn định. Điều đó nó có ảnh hƣởng rất lớn đến tâm trạng NCT.

Bảng 2.14. Tâm trạng hàng ngày của NCT

Vui vẻ, thoải mái

Tâm trạng bình thƣờng

Thƣờng xuyên thấy lo lắng

Cô đơn

Tâm trạng hàng ngày của NCT

Tổng

Tần số

53

21

5

80

1

Sống trong gia đình nhiều thế hệ

Mô hình gia đình của NCT

%

66,2%

26,2%

6,3%

1,3% 100,0%

Sống với vợ chồng Tần số

14

10

3

27

0

%

51,9%

37,0%

11,1%

0,0% 100,0%

14

8

Sống với con cháu Tần số

9

33

2

%

27,3%

42,4%

24,2%

6,1% 100,0%

0

3

Sống một mình

Tần số

0

10

7

%

0,0%

0,0%

30,0%

70,0% 100,0%

Tần số

76

45

19

150

9

Tổng

%

51,0%

30,2%

12,8%

6,0% 100,0%

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Qua bảng số liệu cho thấy 51,0% NCT nói chung cảm thấy luôn vui vẻ

và thoải mái, 30,2% cho rằng cuộc sống bình thƣờng và 12,8% cảm thấy

thƣờng xuyên lo âu/suy nghĩ, 6,0% còn lại cảm thấy luôn bị cô đơn. Chúng ta

có thể thấy rằng đa số (chiếm 66,2%) NCT cảm thấy tinh thần luôn vui vẻ

thoải mái sống chung với vợ chồng, con cháu, và ngƣợc lại trong những

ngƣời luôn có cảm giác cuộc sống cô đơn thì tập trung phần lớn (chiếm

70,0%) vào những cụ đang sống một mình. Âm hƣởng chủ đạo trong tâm

trạng của ngƣời ngƣời có tuổi Việt Nam là “lo”: lo mọi thứ, lo cho con cháu,

bản thân, xã hội; lo ngày hôm nay và lo ngày mai; lo “tuổi già sẽ đi về đâu”.

Nhìn chung dù ở tầng lớp nào và ở độ tuổi nào, NCT đều có những nỗi lo lắng

giống nhau. Bên cạnh đó, cũng thấy có những biểu hiện ít khác nhau giữa

những ngƣời có hoàn cảnh và vị thế kinh tế - xã hội khá giả với ngƣời nghèo

hơn, giữa đô thị và nông thôn, giữa nhóm sắp già (50 - 59 tuổi) và nhóm NCT (60+) [10]. Khi tìm hiểu xem NCT Thị trấn Neo lo lắng gì nhiều nhất, NCT lo

cho nghề nghiệp con cháu không ổn định; công việc vất vả; nhiều tệ nạn xã

75

hội; con cháu thiếu kinh nghiệm sống; ý thức về quê hƣơng của họ chƣa tốt;

con cháu quá coi trọng đồng tiền; con cháu thiếu kiến thức, kỹ năng ứng xử

gia đình... Nhƣ vậy, có thể thấy những NCT hiện nay vẫn là lớp ngƣời lo toan

cho gia đình, con cháu và ít nghĩ đến bản thân mình. Phần lớn những suy nghĩ

của họ đặt trong các vấn đề giải quyết khó khăn về kinh tế trong gia đình của

con cháu họ cùng với những lo lắng về những cạm bẫy xã hội, tệ nạn xã hội

ảnh hƣởng đến công việc của con cháu và gia đình họ. Ngƣời cao tuổi Việt

Nam hiện nay vẫn mang đậm những nét văn hóa truyền thống cả trong suy

nghĩ và hành động. Thực tế trên thế giới không có nhiều nơi trên thế giới mà

cha mẹ lại băn khoăn, trăn trở cho con cái nhiều nhƣ cộng đồng ngƣời Việt.

Mặc dù đã ra khỏi lực lƣợng lao động, nghỉ ngơi sau những ngày tháng làm

việc vất vả cực nhọc nhƣng mối quan tâm hàng đầu của NCT hiện nay không

phải là sức khỏe, không phải là sự nghỉ ngơi thƣ dãn mà là những khó khăn,

trăn trở của con cái mình. Đó là đức hi sinh lớn mà chúng ta hiếm thấy có

đƣợc trong nền văn hóa các nƣớc phƣơng Tây [38].

Tuy nhiên, một điều đáng lƣu ý theo nhƣ khảo sát thực tế tại địa

phƣơng, ở đây vẫn còn tình trạng con cháu ngƣợc đãi ông bà, cha mẹ hoặc

thiếu sự quan tâm chăm sóc, bỏ mặc lang thang kiếm sống. Điều này ảnh

hƣởng rất lớn đến tâm trạng của NCT. Một số NCT bị ngƣợc đãi do tâm lý

mặc cảm, hổ thẹn, cam chịu nên không muốn tố cáo hay nhờ sự can thiệp của

cơ quan pháp luật hoặc cộng đồng, trong khi đó chính quyền các cấp cơ sở

cũng chỉ can thiệp đến những hành vi nguy hại đến tính mạng của NCT, còn

áp lực về tinh thần, tình cảm ít đƣợc quan tâm. Do vậy, không có thông tin về

vân đề về ngƣợc đãi, bỏ rơi NCT tại gia đình của NCT mà chỉ có ý kiến xác

định có vấn đề ngƣợc đãi, bỏ rơi NCT. Một chia sẻ của NCT:

“Như trường hợp của ông N, cụ bị khiếm thị do ảnh hưởng của chất

độc màu da cam, ông có 3 người con, 2 nam và một nữ, con gái ông ấy là Phó

Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ huyện, hai anh con trai buôn bán, cả ba người

76

con đều rất giàu có nhưng sau khi vợ ông ấy mất, vợ ông ấy mất cách đây một

năm thì không ai chịu đón ông về nhà mình chăm sóc cho ông ấy. Ông ấy khổ

lắm, mọi sinh hoạt đều tự lo, may còn được bà con hàng xóm láng giềng

thương còn quan tâm, giúp đỡ ông ấy trong sinh hoạt hàng ngày. Trước kia

anh con trai thứ hai của ông ấy, còn thi thoảng sang thăm ông ấy nhưng sau

khi vợ anh ta biết anh ta không sang nữa. Nhìn cụ ai cũng thương xót, may

được mọi người giúp mua hộ ông ấy cái này cái kia để ăn, những hôm không

có ai giúp ông ấy ăn mì tôm sống vì không nhìn thấy gì để nấu nướng. Chính

quyền địa phương, hội, tổ chức xã hội cũng đã có hỗ trợ, động viên ông ấy

vào Trung tâm Công tác Xã hộ tỉnh Bắc Giang (trước là Trung tâm Bảo trợ

Xã hội tỉnh Bắc Giang), nhưng ông ấy không đi bảo như vậy xấu mặt cho cả

mình lẫn con cái...” (PVS, NCT, nam giới, 63 tuổi).

Nhƣ vậy, có thể kết luận rằng con cháu, vợ chồng vẫn là chỗ dựa tinh

thần lớn nhất của NCT trên địa bàn thị trấn. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy

rõ, sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng cùng với quá trình mở rộng đô thị

hóa đang làm nới lỏng dần các mối quan hệ có tính truyền thống giữa gia

đình, họ hàng, làng xóm, bạn bè làm nảy sinh những mâu thuẫn cũng nhƣ

xung đột trong đời sống xã hội đã và đang ảnh hƣởng xấu đến tâm lý NCT.

Bên cạnh đó vẫn còn có những trƣờng hợp NCT bị con cháu ngƣợc đãi, thiếu

sự quan tâm chăm sóc. Chính vì vậy, trong hệ thống chính sách ASXH cần

đặc biệt chú ý đến việc khơi dậy các truyền thống văn hóa “Kính trên,

nhường dưới”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”...

2.2.4. Hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của NCT

Sự tham gia các hoạt động xã hội là một nhu cầu tự nhiên của NCT, nó

giúp họ mở rộng mối quan tâm tới các giá trị hiện hữu của xã hội. Họ không

cảm thấy mình già nua và lạc hậu với thời thế. Bởi vậy trên thực tế, rất nhiều

NCT đã thực hiện theo câu nói “Tuổi cao trí càng cao”, đóng góp rất tích cực

77

vào các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phƣơng, cộng đồng, xã, phƣờng, thị

trấn. Bên cạnh đó, hoạt động xã hội cũng trở thành liều thuốc bổ quen thuộc

có thể khiến NCT trẻ chung và khỏe mạnh hơn.

2.2.4.1. Các công việc thường làm lúc rảnh của NCT

Bảng 2.15. Các công việc thƣờng làm lúc rảnh của NCT

Tham quan du lịch

Các công việc thƣờng làm

Chơi với con cháu, bạn bè, hàng xóm

Nghe đài, xem ti vi, đọc báo

Sinh hoạt đoàn thể, câu lạc bộ

Sinh hoạt tôn giáo

Tham gia CTXH

Hoạt động khác

83

117

90

32

9

35

28

Tần số

78,0

21,3

60,7

55,4

23,4

6,0

18,7

% (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, những hoạt động sinh hoạt,

vui chơi, giải trí, tham gia CTXH đã, đang và ngày càng đóng một vai trò hết

sức quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Tuy

nhiên thực tế cho thấy mỗi ngƣời dân trong xã hội đều có những biểu hiện đặc

thù của những hoạt động thƣờng ngày này, nó phụ thuộc vào nhu cầu, sở thích

và ngay cả những điều kiện, hoàn cảnh gia đình.

Ngƣời cao tuổi cùng với những biểu hiện về đặc điểm tâm lý lứa tuổi

đặc thù, họ cũng là một trong những đối tƣợng có nhu cầu riêng của mình

trong các vấn đề sinh hoạt, vui chơi giải trí, kết quả điều tra cho thấy việc

thƣờng xuyên tiếp cận với các phƣơng tiện thông tin đại chúng (nghe đài, đọc

báo, xem ti vi) là loại hình hoạt động đặc thù của NCT, chiếm tỷ lệ cao nhất

so với các hoạt động khác (chiếm 78,0%). Điều này có thể giải thích một mặt

khi NCT nghỉ hƣu, họ có nhiều quỹ thời gian nhiều hơn dành cho việc xem

tivi, nghe đài, đọc báo và đây cũng là loại hình giải trí mà NCT có thể tiếp cận

một cách dễ dàng và thuận tiện nhất. Mặt khác, có thể thấy nhu cầu thông tin

cũng khá quan trọng đối với NCT, nó đƣợc coi đó là một trong những hình

thức quan trọng để NCT duy trì sự giao tiếp với xã hội.

Một yếu tố thể hiện tính tích cực trong hoạt động và sử dụng thời gian

78

rỗi của NCT với một tỷ lệ cũng khá cao NCT tham gia sinh hoạt đoàn thể, câu

lạc bộ (chiếm 60,7%) và trực tiếp tham gia các hoạt động CTXH (chiếm

23,4%). Quan sát thực tế tại địa phƣơng thấy có nhiều hội viên Hội NCT tham

gia vào công tác Đảng, công tác chính quyền, các ngành đoàn thể, từ thị trấn

đến các tiểu khu với số lƣợng đông. Nhiều hội viên đảm nhận vai trò trọng

trách, chủ chốt trong công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Nhƣ vậy, nhờ quỹ

thời gian, lòng nhiệt tình trong công việc, họ đã đóng góp khá nhiều vào các

hoạt động phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và tổ chức nhiều hoạt động có ý

nghĩa khác nhau tại địa phƣơng.

Những hoạt động mang tính sở thích liên quan đến văn hóa và đời sống

tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho NCT có một cuộc

sống vui vẻ, lành mạnh. Theo số liệu điều tra, có 55,4% đi chơi, thăm hỏi con

cháu, bạn bè, hàng xóm; 21,3% NCT tham gia các hoạt động tôn giáo (đi lễ

chùa, thiền viện, nhà thờ); 6,0% NCT tham quan du lịch và 18,7% tham gia

các hoạt động khác (ví dụ nhƣ: trồng cây, nuôi cá, chim...). Đây đều là các

hoạt động bổ ích, lành mạnh, tích cực, tuy nhiên lại chƣa đƣợc nhiều nhiều

NCT tham gia tích cực. Vì vậy trên thực tế, chúng ta cần có hình thức khuyến

khích hoạt động tập thể của NCT, tạo điều kiện để họ giao lƣu bạn bè, tham

gia các hoạt động của cộng đồng. Nó khiến NCT cảm thấy mình có ý chí,

sống vui vẻ và thoải mái hơn.

2.2.4.2. Số lượng hội, đoàn thể, câu lạc bộ NCT tham gia ở địa phương

Bảng 2.16. Số lƣợng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ NCT tham gia

Tần số 0 112 27 11 150

% 0,0 74,7 18,0 7,3 100,0

Số lƣợng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ Không tham gia Từ 1 - 2 Từ 2-3 >3 Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Bên cạnh cuộc sống gia đình, các cụ còn có đời sống tinh thần khá

79

phong phú. Thông qua việc sinh hoạt Hội Ngƣời cao tuổi và các hoạt động

khác nhƣ: Hội Bảo thọ, Hội Cựu chiến binh, Hội Chữ thập đỏ, Hội khuyến

học, Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, Câu lạc bộ thể dục thể thao... đã thu hút

hầu hết NCT tham gia. Theo nhƣ kết quả điều tra về số lƣợng hội, đoàn thể,

câu lạc bộ mà NCT tham gia có 74,7% NCT tham gia từ 1 – 2 hội, đoàn thể,

câu lạc bộ; 18,0% NCT tham gia từ 2 – 3 hội, đoàn thể, câu lạc bộ và 7,3%

NCT tham gia từ trên 3 hội, đoàn thể, câu lạc bộ. Thực tế tại địa phƣơng cho

thấy trong các hoạt động sinh hoạt NCT hội, đoàn thể, câu lạc bộ của NCT

hiện nay Hội NCT là tổ chức gắn bó mật thiết nhất. Lý giải cho vấn đề này,

trƣớc hết vì Hội đáp ứng đƣợc những nhu cầu cơ bản của NCT: nhận diện bản

sắc văn hóa và cơ cấu nhóm, đoàn kết nhóm, nâng cao vị thế và vai trò của

nhóm trong cộng đồng và xã hội, là nơi giao tiếp nhóm. Một chia sẻ của NCT:

“Hàng quý các cụ trong hội NCT đều đóng quỹ hội, nguồn quỹ hội còn có một

số bên họ ủng hộ. Ví dụ: nhà ai có con cháu làm ăn khá giả, các cháu nó

cũng ủng hộ. Ngoài ra như chúng tôi cũng phải đóng góp, nên có quỹ. Mỗi

lần trong hội có người đau ốm hay nằm viện hoặc qua đời, mỗi lần như thế là

300.000 đ. Tuy nó không nhiều nhưng nó rất quan trọng thể hiện tình cảm,

chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau. Một miếng khi đói là một gói khi no cô ạ, tối lửa tắt

đèn có nhau. Hội tham mưu cho UBND thị trấn bổ trợ kinh phí để thăm các

cụ từ 90 tuổi trở lên, mỗi cụ được hỗ trợ 100.000đ/tháng. Hội cũng hỗ trợ

kinh phí và tổ chức mững thọ cho NCT. Những ngày lễ, tết Hội tổ chức thăm

hỏi, động viên các cụ tuổi cao sức yếu, gia đình khó khăn... Ngoài việc thăm

hỏi động viên, Hội đã phối hợp với trạm y tế thị trấn khám bệnh, cấp thuốc,

chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NCT. Hội cũng phối hợp với gia đình, các hội

đoàn thể trong địa phương tổ chức tang lễ cho NCT qua đời” (PVS, NCT,

nam giới, 75 tuổi). Vì vậy, trong quá trình định hƣớng những hoạt động chăm

sóc NCT, nhân viên CTXH cần chú ý nhiều hơn tới việc định hƣớng các hoạt

động xã hội cho NCT. Cho đến nay chúng ta vẫn chƣa có sự đánh giá một

80

cách đún đắn vè vai trò của NCT trong các hoạt động xã hội tại cộng đồng

dân cƣ đặc biệt là hƣớng cho các hoạt động xã hội đó vào mục đích chăm sóc

nâng cao sức khỏe tinh thần cho NCT. Các hoạt động này không chỉ dừng lại

ở mức độ giao lƣu tình cảm chia sẻ sự “đồng cảm” giữa nhƣng NCT với nhau

mà còn cần trở thành hoạt động mang tính thức tế. Muốn làm đƣợc điều đó

chúng ta không thể không phát huy vai trò phối kết hợp của các cấp và tổ

chức đoàn thể từ trung ƣơng đến địa phƣơng nhằm xây dựng mô hình hoạt

động phù hợp với khả năng, sức khỏe và những đặc trƣng tâm lý của NCT.

2.2.4.3. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ

Biểu đồ 2.4. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ

Tuy cuộc sống vật chất của NCT tại địa phƣơng còn nhiều khó khăn

nhƣ đã phân tích ở trên, song hiện nay đời sống văn hóa tinh thần của NCT

hiện nay khá đa dạng và thƣờng xuyên đƣợc cải thiện. Hầu hết NCT tham gia

các hoạt động văn hóa xã hội, trong đó có 12,0% NCT rất thƣờng xuyên;

36,0% thƣờng xuyên; 48,7% thỉnh thoảng và chỉ có 3,3% không bao giờ tham

gia. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc tham gia vào các hoạt động xã

hội, NCT trên địa bàn thị trấn có xu hƣớng tham gia các các hoạt động nhiều

hơn với mức độ thƣờng xuyên hơn. Tuy nhiên, mức độ tham gia các hoạt

động xã hội của NCT phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau nhƣ hoàn cảnh

81

sống, công việc cũng nhƣ điều kiện sức khỏe.

2.2.4.4. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội

Việc tham gia các hoạt động văn hóa - xã hội có tác dụng tích cực đối

với NCT. Một mặt nó đem lại cho NCT tinh thần thoải mái, sống vui sống

khỏe, mặt khác phát huy tài năng, trí tuệ cho NCT phục vụ cho xã hội. Các

hoạt động văn hóa của NCT hiện nay khá đa dạng. Tham gia các hoạt động

văn hóa – xã hội sẽ tạo điều kiện cho NCT đƣợc quan tâm, giúp đỡ (chiếm

45,3%); sống khỏe, sống lạc quan yêu đời (chiếm 53,3%); nâng cao hiểu biết

xã hội (chiếm 6,0%) và tất cả các ý kiến trên chiếm 37,3% (Bảng 2.17). Vì

vậy, cần nâng cao nhận thức trong công tác tổ chức sinh hoạt văn hóa – xã hội

cho NCT tại địa phƣơng, xây dựng các loại hình sinh hoạt đa dạng, quan tâm

nhiều hơn đến nhóm NCT nghèo, tàn tật cô đơn không nơi nƣơng tựa.

Bảng 2.17. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội

Lợi ích tham gia Được quan tâm/giúp đỡ

68 45,3

Sống khỏe/sống lạc quan/yêu đời 80 53,3

Nâng cao hiểu biết 9 6,0

Gồm các ý trên 56 37,3

Tần số % (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Nhƣ vậy chúng ta thấy, việc tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội

của NCT mang nhiều mục đích khác nhau, thông qua những hoạt động sinh

hoạt tập thể NCT có thể hòa nhập vào cộng đồng thông qua các tổ chức xã

hội, các loại hình câu lạc bộ... Đây là hoạt động tích cực nhằm ổn định và

củng cố sức khỏe theo hƣớng tốt nhất. Những tổ chức này có vai trò vô cùng

quan trọng trong việc nối liền hoạt động của NCT trong gia đình với xã hội. 2.2.5. Hỗ trợ NCT của cán bộ xã hội và chính quyền địa phương 2.2.5.1. Hỗ trợ của chính quyền địa phương

Chăm sóc NCT là một trong những sự ƣu tiên đặc biệt của Đảng và

Chính quyền Thị trấn Neo. Sự quan tâm dó đƣợc cụ thể hóa bằng những chỉ

thị, nghị quyết.... Hƣởng ứng những chủ trƣơng đúng đắn đó, các tổ chức

đoàn thể, chính trị xã hội cùng toàn xã hội đã có nhiều việc thiết thực góp

82

phần chăm sóc, giúp đỡ NCT trong cuộc sống có hiệu quả nhƣ xây dựng gia

đình văn hóa, ông bà gƣơng mẫu, con cháu hiếu thảo, chúc tết, chúc thọ nhân

dịp tuổi thọ vàng, kỷ niệm ngày NCT....

Bảng 2.18. Hỗ trợ của chính quyền địa phƣơng

Khác

Hỗ trợ của chính quyền địa phƣơng

Tư vấn/KCB định kỳ/cấp phát thuốc miễn phí

Cấp thẻ BHYT miễn phí

Thăm hỏi động viên

Giúp đỡ về vật chất

Tổ chức tham quan du lịch

Tổ chức lễ mừng thọ /Tặng quà lễ, tết

Tần số

138

15

147

12

77

145

57

%

92,0

10,0

98,0

8,0

51,3

96,6

38,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Qua kết quả khảo sát thực tế cho thấy, có 92,0% NCT đƣợc tƣ vấn,

khám chữa bệnh định kỳ, cấp phát thuốc miễn phí. Tổ chức khám chữa bệnh

và cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho NCT là một hoạt động thƣờng

niên và quan trọng trong công tác chăm sóc NCT. Hàng năm chính quyền địa

phƣơng kết hợp với ngành y để tổ chức khám và điều trị miễn phí cho ngƣời

cao tuổi. Kỷ niệm ngày 1/10 hàng năm, Ngành thể dục thể thao đã trực tiếp

hƣớng dẫn một số chi hội tập thể dục dƣỡng sinh và các hoạt động thể thao để

nhằm rèn luyện sức khỏe cho các cụ. Tuy việc tổ chức khám chữa bệnh cho

NCT nhƣ vậy có thể là chƣa đáp ứng đƣợc hết nhu cầu, nguyện vọng của

NCT nhƣng hoạt động đó của chính quyền địa phƣơng đã thể hiện sự quan

tâm, nhiệt tình với công tác chăm sóc NCT. Mặt khác việc tổ chức khám

chữa bệnh cho NCT còn thể hiện chính sách, sự chỉ đạo đúng đắn và tích

cực của chính quyền địa phƣơng. Bên cạnh đó, chính quyền địa phƣơng còn

tổ chức triển khai, phối hợp với Hội NCT để xem xét và cấp phát thẻ bảo

hiểm y tế miễn phí cho NCT theo quy định của Luật NCT (chiếm 10,0%).

Không chỉ quan tâm về mặt sức khỏe, các cấp ủy Đảng và chính quyền

cùng toàn thể xã hội thƣờng xuyên có những việc làm cụ thể nhƣ quan tâm

chăm sóc động viên giúp đỡ NCT (chiếm 98,0%). Đã có1.210 NCT đƣợc

thăm hỏi, tặng quà, phúng viếng... Các quỹ huy động từ xã hội chăm sóc giúp

83

đỡ NCT gồm quỹ cao tuổi, quỹ toàn dân chăm sóc NCT, quỹ phụng dƣỡng

ông bà cha mẹ. Đối với các trƣờng hợp khó khăn, các cụ đều đƣợc trợ cấp

bằng nhiều hình thức nhƣ trợ cấp thƣờng xuyên, trợ cấp không thƣờng xuyên.

Các tổ chức xã hội nhƣ Hội chữ thập đỏ, Hội bảo thọ... cũng giúp đỡ các cụ

có hoàn cảnh khó khăn dƣới các hình thức chủ yếu bằng vật chất, tinh thần,

chăm sóc động viên lúc ốm đau [2]. Tuy nhiên, việc giúp đỡ vật chất chiếm tỷ

lệ nhỏ (chiếm 8,0%). Việc quan tâm, giúp đỡ của chính quyền địa phƣơng và

các tổ chức đoàn thể còn căn cứ vào điều kiện thực tế của từng gia đình, của

từng trƣờng hợp cụ thể để xem xét giúp đỡ bằng vật chất hay động viên tinh

thần, do đó việc nhận thức về sự giúp đỡ cũng khác nhau, có ngƣời đƣợc trợ

giúp bằng tiền hay vật chất cụ thể, có ngƣời đƣợc tổ chức đoàn thể động viên

tham gia vào các tổ chức đoàn thể xã hội giúp tinh thần thoải mái đó cũng là

một cách giúp đỡ mà phần đông mọi ngƣời chƣa nhận thấy.

Tổ chức lễ mừng thọ cho NCT là một hoạt động quen thuộc và thƣờng

thấy, bởi tuổi càng cao thì càng quý và trọng lão là truyền thống tốt đẹp và lâu

đời, đƣợc gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bên cạnh việc đƣợc con

cháu trong gia đình tổ chức mừng thọ và chúc mừng, NCT tại địa phƣơng còn

đƣợc chính quyền tổ chức lễ mừng thọ và gửi tặng quà cho NCT trong các dịp

lễ, tết (chiếm 96,6%). Vào dịp 1/10 hàng năm hoặc lễ Tết nguyên đán chính

quyền địa phƣơng tổ chức mừng thọ và quà cho các cụ từ 70 tuổi trở lên tập

trung tại Hội trƣờng UBND Thị trấn Neo.

Bên cạnh đó, có 51,3% NCT trên địa bàn thị trấn khẳng định rằng hàng

năm vẫn đƣợc chính quyền địa phƣơng tổ chức đi tham quan du lịch. Ngoài ra

có 38% NCT nhận đƣợc các hoạt động hỗ trợ khác từ phía chính quyền địa

phƣơng: phúng viếng khi qua đời, chúc mừng khi gia đình có việc hỉ,...

Nhìn chung, NCT trên địa bàn Thị trấn Neo hiện nay nhận đƣợc nhiều

sự quan tâm chăm sóc từ phía chính quyền địa phƣơng. Đây là những hoạt

động vô cùng thiết thực, cần đƣợc phát huy và làm tốt hơn nữa giúp cho đời

84

sống tinh thần của NCT vui vẻ và lạc quan hơn. “Về vấn đề hỗ trợ của chính

quyền địa phương với NCT, với quyền hạn cũng như nhiệm vụ của chính

quyền cấp cơ sở, chúng tôi cũng cố gắng hết sức thực hiện chính sách của

Đảng và Nhà nước đối với NCT, hàng năm cấp thẻ BHYT cho các cụ đủ tiêu

chuẩn, mời các đoàn về tư vấn, khám chữa bệnh. Ngoài ra, về phía chính

quyền còn có các hoạt động thăm hỏi động viên trong những lúc khó khăn,

ốm đau, hiếu hỷ. Thăm hỏi tặng quà trong những ngày lễ, tết. Tuy nhiên, kinh

phí cấp cơ sở của chúng tôi còn hạn hẹp, nên có nhiều hoạt động chúng tôi

không thể làm một cách đầy đủ được. Nhiều hoạt động không có ngân sách

hoặc cũng không huy động được sự đóng góp từ phía nhân dân thì hầu hết

chúng tôi lồng ghép với các chương trình hoạt động khác” (PVS, ông NVH –

PCT UBND Thị trấn Neo). Tuy nhiên, nhiều NCT trên địa bàn thị trấn vẫn

còn mơ hồ, chƣa nắm đƣợc đầy đủ các chủ trƣơng chính sách của Đảng và

Nhà nƣớc đối với NCT, hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến Luật NCT

chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, việc tuyên truyền còn bó hẹp trong phạm vi tổ

chức Hội ở cơ sở. Do vậy, để những chính sách ƣu đãi của Đảng và Nhà

Nƣớc đối với NCT thực sự đi vào cuộc sống, thì cần có sự quan tâm hơn nữa

của cán bộ thị trấn trong công tác tuyên truyền, phối hợp giải quyết các chế độ

cho NCT. Các tổ chức Hội NCT ở cở sở cần tập trung tuyên truyền phổ biến

Luật NCT tại cộng đồng, vận động NCT tham gia vào tổ chức hội để nắm

đƣợc những quyền lợi của Đảng và Nhà nƣớc dành cho NCT.

2.2.5.2. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe

Bảng 2.19. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe

Cung cấp dịch vụ tại nhà

Không hỗ trợ

Hỗ trợ cán bộ xã hội

Tư vấn CSSK, chế độ dinh dưỡng

Tư vấn KCB

Tổ chức lớp TDTT

Tần số

27

0

0

0

123

%

18,0

0,0

0,0

82,0

0,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc đời, do ảnh hƣởng của quá trình lão

85

hóa, NCT bị suy giảm sức khỏe một cách rõ nét. Đây cũng là thời kỳ khởi

phát của nhiều bệnh: tim mạch, phổi, huyết áp… Vấn đề sức khỏe là vấn đề

quan trọng, có ảnh hƣởng lớn đến cuộc sống của NCT. Khi có sức khỏe tốt,

NCT sẽ có điều kiện tốt hơn trong các hoạt động vui chơi – giải trí, các hoạt

động xã hội tại địa phƣơng. Một điều đáng lƣu ý NCT có tâm lý giấu bệnh tật

và các vấn đề sức khỏe của mình do đó cần phải quan tâm thƣờng xuyên, liên

tục để có sự hỗ trợ phát hiện và điều trị bệnh kịp thời cho NCT. Hơn nữa,

nhận thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe của NCT và gia đình còn nhiều hạn

chế. Vì vậy, để hỗ trợ cho NCT trong việc chăm sóc sức khỏe nhân viên

CTXH có một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này ở địa phƣơng

còn hạn chế, chỉ dừng lại ở hoạt động tƣ vấn kiến thức chăm sóc sức khỏe và

chế độ dinh dƣỡng (chiếm 18,0%). Vẫn còn một tỷ lệ rấy lớn NCT chƣa nhận

đƣợc sự hỗ trợ của nhân viên CTXH. Mặc dù một số hoạt động hỗ trợ rất

quan trọng nhƣ tƣ vấn cách thức khám chữa bệnh; tổ chức các lớp thể dục thể

thao… tại địa phƣơng để NCT hoạt động và tăng cƣờng sức khỏe; phối hợp

với ngành Y tế tổ chức các cuộc khám chữa bệnh định kỳ tại địa phƣơng để

giúp phát hiện các bệnh nói riêng và các vấn đề sức khỏe nói chung của NCT;

cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ chăm sóc để NCT có khả năng sống độc lập

ngay cả khi họ bị hạn chế về điều kiện sức khỏe chƣa đƣợc cán bộ xã hội thực

hiện trong trợ giúp NCT trong công tác chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, trên

thực tế, không chỉ riêng Thị trấn, mà ở nƣớc ta, các dịch vụ chăm sóc sức

khỏe cho NCT hiện chƣa theo kịp nhu cầu phát triển xã hội cũng nhƣ nhu cầu

của chính nhóm đối tƣợng NCT. Điều này bao gồm cả nguyên nhân từ phía

cơ sở hạ tầng thấp kém, loại hình dịch vụ nghèo nàn đến vấn để tâm lý xã hội,

nhân viên CTXH tại địa phƣơng chƣa đƣợc đào tạo CTXH chuyên nghiệp mà

mới thông qua hình thức tập huấn CTXH theo Đề án phát triển nghề CTXH

giai đoạn 2010 – 2020 (Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ số 32/2010/QĐ-

TTg ngày 25 tháng 03 năm 2010 Phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã

86

hội giai đoạn 2010 – 2020).

Xuất phát từ tình hình thực tế cho thấy, vai trò của cán bộ xã hội trong

việc chăm sóc sức khỏe cho NCT trên địa bàn thị trấn còn nhiều hạn chế,

chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn. Chính vì vậy, cần có chiến lƣợc đào

tạo tập huấn cho cán bộ xã hội để họ thực sự trở thành những nhân viên

CTXH chuyên nghiệp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe NCT.

2.2.5.3. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội

Bảng 2.20. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội

Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội Tần số %

Lắng nghe trò chuyện 5 3,3

Tham vấn tâm lý 0 0,0

Kết nối với CLB 0 0,0

Nâng cao nhận thức của GĐ và cộng đồng 0 0,0

Không hỗ trợ 145 96,7

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Cùng với quá trình lão hóa, quá trình thay đổi về sinh lý, tâm lý con

ngƣời trong giai đoạn cao tuổi cũng có rất nhiều vấn đề nổi bật. Ngƣời cao

tuổi có thể cảm thấy cô độc, hƣớng về quá khứ, hay giận dỗi,… những vấn đề

đó làm cho tâm lý NCT có nhiều thay đổi. Hơn nữa vấn đề tâm lý có ảnh

hƣởng lớn đến cuộc sống của NCT. Khi tâm lý ổn định, vui vẻ, NCT sẽ thấy

khỏe khoắn hơn, sẽ hoạt động nhiều hơn. Tuy nhiên, do sự thay đổi vai trò

của bản thân, nhiều NCT cảm thấy mình không còn có ích, không còn đƣợc

sự tôn trọng của mọi ngƣời, ảnh hƣởng của “Hội chứng về hưu”, nhiều NCT

do những sai lầm trong quá khứ thì thƣờng than trách bản thân… trong khi đó

họ rất khó chia sẻ với con cháu hay những ngƣời thân. Chính vì vậy, sự trợ

giúp tâm lý cho NCT của nhân viên CTXH có ý nghĩa rất quan trọng. Thông

qua các hoạt động hỗ trợ của nhân viên CTXH sẽ giúp cho NCT trấn an, động

viên NCT có cái nhìn tích cực hơn, chuẩn bị tâm lý tốt hơn để vƣợt qua khủng

hoảng, lạc quan đón nhận tuổi già nhƣ một yếu tố tự nhiên của cuộc sống.

Tuy nhiên, theo kết quả điều tra trên địa bàn nghiên cứu việc hỗ trợ tâm lý

của cán bộ địa phƣơng với NCT chỉ đơn giản là hoạt động lắng nghe trò

87

chuyện và chiếm một tỷ lệ nhỏ (chiếm 3,3%). Nhƣ vậy, vai trò nhân viên

CTXH tại địa phƣơng còn khá mờ nhạt, trong khi có một tỷ lệ rất lớn NCT

cần sự hỗ trợ về tâm lý. Qua thực tế điều tra cho thấy, việc hỗ trợ tâm lý cho

NCT tại thị trấn còn gặp nhiều khó khăn, họ chỉ làm theo kinh nghiệm và

chƣa thực sự hiệu quả vì nhân viên CTXH địa phƣơng gặp một số vấn đề:

thiếu kiến thức chuyên môn, kỹ năng, phƣơng pháp CTXH.

2.2.5.4. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội

Bảng 2.21. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội

Không hỗ trợ

Hưởng chế độ chính sách của nhà nước

Cung cấp các kiến thức về kinh tế hộ gia đình

Tiếp cận với các nguồn tín dụng, ưu đãi

Kết nối với các dịch vụ, việc làm 0 0,0

11 7,4

0 0,0

0 0,0

Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội 129 Tần số 92,6 % (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Bƣớc vào giai đoạn cao tuổi đồng nghĩa là con ngƣời bƣớc vào giai

đoạn nghỉ ngơi. Tuy nhiên chỉ có một số ít NCT có điều kiện kinh tế khá giả:

cán bộ, viên chức nhà nƣớc nghỉ hƣu, sự hỗ trợ của con cháu… Còn lại đa số

NCT, nhất là những ngƣời neo đơn đều gặp phải những khó khăn về kinh tế

do sự suy giảm của thu nhập. Nhu cầu của NCT, nhất là khám chữa bệnh hay

chế độ dinh dƣỡng đòi hỏi những chi phí nhất định. Nhƣ vậy, vấn đề kinh tế

cũng ảnh hƣởng đến các vấn đề khác trong cuộc sống của NCT: tâm lý, sức

khỏe…. Thông qua sự hỗ trợ của nhân viên CTXH với các hình thức nhƣ:

giúp NCT hƣởng các chính sách hỗ trợ của nhà nƣớc (nếu có); cung cấp các

kiến thức về kinh tế hộ gia đình: tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm, tham quan,

học tập mô hình…; kết nối NCT còn sức khỏe và có nhu cầu làm việc với các

công việc phù hợp tại địa phƣơng để tăng thêm thu nhập, giúp NCT và gia

đình tiếp cận các nguồn tín dụng ƣu đãi để phát triển kinh tế góp phần giúp

cho các hộ gia đình NCT nhất là các hộ gia đình NCT khó khăn có thể phát

triển kinh tế, tăng thêm thu nhập đảm bảo đƣợc cuộc sống tối thiểu của họ.

88

Tuy nhiên, theo nhƣ kết quả khảo sát chỉ có 7,4% nhận đƣợc hỗ trợ của cán

bộ trong việc hoàn thiện hồ sơ, giấy tờ để đƣợc hƣởng các chế độ chính sách

do nhà nƣớc quy định. Nhƣ vậy, chỉ có một tỷ lệ nhỏ NCT nhận đƣợc sự hỗ

trợ này từ phía cán bộ xã hội địa phƣơng trong khi đó còn rất nhiều NCT khó

khăn về kinh tế chƣa đƣợc hỗ trợ.

2.2.5.5. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phương

Bảng 2.22. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng

Mức độ hỗ trợ

Rất thường xuyên Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

Tần số %

16 10,7

121 80,6

1 0,7

12 8,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Khi hỏi về mức độ thƣờng xuyên quan tâm của chính quyền địa phƣơng

nói chung đối với NCT trên địa bàn thị trấn. Ở mức độ rất thƣờng xuyên có

0,7%, thƣờng xuyên 10,7%, thỉnh thoảng 80,6% và 8,0% NCT chƣa nhận

đƣợc sự hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng. Nhìn chung, vấn

đề chăm sóc sức khỏe và đời sống vật chất, tinh thần của NCT trên địa bàn

trong những năm qua đã nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm từ phía chính quyền

địa phƣơng và cán bộ xã hội. Tuy nhiên, cần phải quan tâm động viên thƣờng

xuyên hơn nữa, kịp thời hơn nữa đến cuộc sống NCT với những hƣớng ƣu

tiên cơ bản nhƣ: Tạo các cơ hội phù hợp để NCT tham gia vào các hoạt động

kinh tế - xã hội, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển chung của quốc gia; Tăng

cƣờng sức khỏe và cải thiện cuộc sống về vật chất và tinh thần của NCT; Đảm

bảo môi trƣờng thuận lợi và các dịch vụ thiết yếu hỗ trợ đời sống của NCT.

2.2.5.6. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền

địa phương

Với sự thay đổi về tâm sinh lý cũng nhƣ xã hội, NCT dễ gặp các vấn đề

khó khăn trong cuộc sống. Các vấn đề này làm cho việc thực hiện các chức

năng xã hội của họ bị cản trở và làm cho họ trở thành nhóm đối tƣợng yếu thế

cần đƣợc giúp đỡ chuyên nghiệp của nhân viên CTXH và các tổ chức, đoàn

89

thể. Tuy nhiên, đánh giá vai trò của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng

nhƣ thế nào lại phụ thuộc vào nhận thức và quan điểm của bản thân mỗi NCT.

Thăm dò ý kiến NCT về sự hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng,

chỉ có 3,3% cho rằng rất quan trọng, 10,7% cho rằng là quan trọng, 68,0%

cho rằng bình thƣờng và 18,0% cho rằng không quan trọng (Bảng 2.23). Nhƣ

vậy, một số NCT trên địa bàn thị trấn cũng chƣa nhận thức đúng đắn vai trò

của chính quyền địa phƣơng và cán bộ xã hội trong việc hỗ trợ cho nhóm

ngƣời yếu thế nói chung và NCT nói riêng. Vì vậy, nhân viên CTXH tại địa

phƣơng trong quá trình trợ giúp NCT không chỉ nâng cao nhận thức cho NCT,

mà cả gia đình NCT và cộng đồng. Việc chăm sóc, phụng dƣỡng NCT không

chỉ đƣợc hiểu đơn thuần là trách nhiệm của gia đình trong chăm lo về sức

khỏe, thể chất (ăn uống, nghỉ ngơi, chữa bệnh...) cho NCT mà nó còn bao

hàm cả sự chăm sóc về nhu cầu tinh thần, duy trì, củng cố các mối quan hệ

tâm lý, tình cảm, giao tiếp trong gia đình và xã hội đối với NCT. Để đáp ứng

đƣợc nhu cầu đó, các thành viên cần ý thức tạo ra môi trƣờng sống tốt đẹp

ngay trong cả gia đình, đồng thời kết hợp với sự quan tâm của các tổ chức

đoàn thể xã hội, tạo điều kiện cho NCT tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc và

có cơ hội phát huy vai trò của mình trong các hoạt động có ích trong xã hội.

Có nhƣ vậy, NCT mới sống vui, sống khỏe đúng với những tiêu chí về phát

triển con ngƣời, tránh đƣợc tâm thế mặc cảm là nhóm ngƣời sống thừa, sống

bám vào các thế hệ con cháu.

Bảng 2.23. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính

quyền địa phƣơng

Tổng

Rất quan trọng Quan trọng

Không quan trọng

Vai trò hỗ trợ của CBXH/CQĐP Tần số %

5 3,3

16 10,7

Bình thường 102 68,0

150 100,0

27 18,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

90

2.2.6. Phát huy vị trí, vai trò của NCT

2.2.6.1. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình

Bảng 2.24. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình

Quyết định

Giáo dục/chăm sóc con cháu

Nội trợ và các công việc khác

Vị trí, vai trò của NCT Tần số

Tạo thu nhập 49

Cấp vốn 37

86

Chia sẻ kinh nghiệm 112

148

57

%

32,7

38,0

24,7

57,4

98,7

74,7 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014) NCT có vị trí rất quan trọng trong gia đình Việt Nam, NCT luôn đƣợc coi

là trụ cột tinh thần, đạo dức của gia đình, dòng họ. Ngoài việc giáo dục con cháu,

dòng họ văn hóa, ứng xử, NCT còn hỗ trợ con cháu về vật chất, về công việc dạy

dỗ con cháu… NCT coi đó là niệm vui, trách nhiệm và qua đó cảm nhận mình là

ngƣời có ích cho con cháu. Theo kết quả điều tra trên địa bàn Thị trấn có 98,7%

NCT cho rằng NCT có vai trò quan trọng trong việc giáo dục chăm sóc con

cháu. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, NCT có vị trí, vai trò quan trọng trong quá

trình kiến tạo gia đình. Gia đình, dòng họ có con cháu trƣởng thành, phát đạt đều

do sự rèn giũa, giáo dục của ông bà, cha mẹ và kế thừa, phát huy truyền thống tốt

đẹp của gia đình, dòng họ. Do vậy, lớp NCT có công đầu trong nuôi dƣỡng, giáo

dục con cháu trong gia đình, dòng họ từ biết yêu thƣơng, kính trọng ông bà, cha

mẹ, anh chị em trong gia đình, dòng họ đến yêu quê hƣơng, đất nƣớc, yêu

thƣơng con ngƣời, yêu thiên nhiên [75]. Đặc biệt, trong xây dựng gia đình thời

kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, NCT có vị trí, vai trò hết

sức quan trọng. Quá trình đó tạo nhiều cơ hội và điều kiện đồng thời cũng đặt gia

đình và công tác gia đình trƣớc nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế

thị trƣờng và lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền

thống và lối sống lành mạnh. Sự phân hóa giàu nghèo sẽ tác động vào số đông

các gia đình. Nhiều gia đình nếu không đƣợc hỗ trợ, không đƣợc chuẩn bị đầy đủ

năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế, xã hội sẽ không

làm tròn chức năng vốn có của gia đình.

Cũng từ gia đình, NCT đã dày công truyền thụ kỹ năng, kinh nghiệm,

91

kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ và các ngành nghề

truyền thống cho con cháu, cho thế hệ trẻ; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa

của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ; tích cực tham gia các

phong trào khuyến học khuyến tài, hỗ trợ giáo dục, đào tạo, bồi dƣỡng ngƣời

có đức, có tài (chiếm 74,7%). Trong phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm

nghèo làm giầu hợp pháp, NCT càng có vị trí, vai trò quan trọng. Với kinh

nghiệm của mình NCT Thị trấn Neo đã và đang phát huy, khai thác tiềm năng

kinh tế đa dạng trong sản xuất kinh doanh, phấn đấu vƣơn lên làm giầu chính

đáng, nhiều NCT còn sức khỏe trực tiếp sản xuất kinh doanh, NCT sức yếu

thì chỉ đạo truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu phát triển kinh tế nâng cao

mức thu nhập gia đình, làm giàu góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế của

gia đình và xã hội (chiếm 32,7%). Đây là một nhân tố quyết định đạt đƣợc

mục tiêu gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Theo nhƣ Theo Báo

cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm

2014, toàn Thị trấn có 185 hộ gia đình NCT trực tiếp làm kinh tế, có thu nhập

từ 50 đến 200 triệu đồng.

Sự trợ giúp về tài sản và tinh thần của cha mẹ đối với con cái là rất quan

trọng. NCT rất coi trọng trách nhiệm về tƣơng lai của con cái. NCT Thị trấn

không những tiếp tục tham gia sản xuất – kinh doanh tạo thu nhập mà họ còn

cấp vốn cho con cái họ làm kinh tế (chiếm 24,7%). Những NCT cho biết họ

đều có những hình thức khác nhau trong việc trợ giúp vật chất cho con cháu.

NCT có hình thức trợ giúp thấp nhất là khen thƣởng cho cháu học giỏi, hàng

năm cho cháu tiền mua sách vở đóng tiền học… cho đến những trợ giúp bằng

tài sản lớn hơn nhƣ mua xe máy, mua đất, đầu tƣ cho các con kinh doanh.

Việc trợ giúp con cái không phải thƣờng xuyên và chỉ khi có việc cần thiết.

Sự trợ giúp vật chất của NCT đối với con cháu cũng đƣợc con cái thừa nhận

nhƣ một nguồn lực quan trọng đặc biệt đối với gia đình trẻ. “Ông có lương

hưu, trợ cấp hàng tháng, ông dùng để giúp đỡ con cái. Ví dụ như cho cháu

đóng học phí hoặc mua sách vở, chi phí cho ăn uống hàng ngày… Khi con cái

nó làm việc gì lớn như mua xe, làm nhà, mua đất … tiền ông tiết kiệm được

92

ông lại cho. Như thằng cả vừa rồi xây nhà ông dành được mấy chục triệu,

ông cho vợ chồng nó”. (PVS, NCT, nam giới, 70 tuổi). Nhƣ vậy, thu nhập của

NCT đã trở thành nguồn lực quan trọng cho hoạt động kinh tế của các thành

viên khác trong hộ gia đình, nhất là khi nó diễn ra trong bối cảnh kinh tế thị

trƣờng nhƣ hiện nay. Mặt khác trong sự vận hành của đời sống kinh tế hộ gia

đình ở nông thôn không thể thiếu vai trò của NCT bởi kinh tế hộ gia đình với

mô hình sản xuất nông nghiệp chủ đạo thì cách thức phát triển không thể

thành công nếu không có sự trợ giúp về vốn. Việc hỗ trợ con cháu bằng cách

tạo thu nhập đã chứng tỏ vị thế NCT trong việc thể hiện năng lực kinh tế, mặt

khác thể hiện trách nhiệm của cha mẹ trong việc giúp đỡ con cái. Điều này

giúp cho NCT duy trì đƣợc vị thế, uy tín và mối quan hệ với con cháu. Nhờ

đó, NCT sẽ không còn mặc cảm phụ thuộc và thắt chặt thêm mối dậy liên hệ

về tình cảm giữa các thế hệ, nâng cao vị thế và uy tín của NCT.

Trong cuộc sống gia đình, truyền thống trọng lão luôn đƣợc duy trì, NCT

luôn có vị trí cao nhất trong gia đình. Họ luôn đƣợc kính trọng, tiếng nói của

họ luôn có ảnh hƣởng quyết định đến các hoạt động của gia đình. Kết quả

điều tra cho thấy, 57,4% cụ cho rằng ý kiến của mình có ý nghĩa quyết định

trong gia đình, các cụ luôn là ngƣời ra quyết định mọi vấn đề quan trọng trong

gia đình. Vai trò chủ gia đình của NCT không hoàn toàn giống nhau ở các gia

đình. Qua quan sát và những thông tin phỏng vấn sâu cho thấy, trong số

những gia đình những ngƣời nam giới cao tuổi hiện vẫn giữ vai trò chủ gia

đình một cách tuyệt đối, nghĩa là mọi việc đều do bản thân họ quyết định.

“Những công việc lớn trong gia đình, tôi vẫn quyết định hết. Ví dụ như xây

dựng cái gì đấy, làm thêm cái gì đấy, mua bán cái gì có giá trị lớn, chia tài

sản… thì tôi quyết định. Như cưới con trai, con gái tôi quyết định hoàn toàn,

khách của con bao nhiêu người, bao nhiêu mâm, cho bố biết để bố dự kiến”

(PVS, NCT, nam giới, 73 tuổi). Nhƣng cũng có một số trƣờng hợp NCT vẫn

đóng vai trò chủ hộ, nhƣng đã diễn ra sự trao đổi với con cái trong công việc

để đi đến các quyết định cuối cùng. Một số ít khác đã ít nhiều trao quyền hoàn

toàn cho con cái nhƣng có đƣa ra những góp ý. Đối với ngƣời dân ở Thị trấn,

93

thì việc hỏi ý kiến NCT là một truyền thống của ngƣời Việt Nam. Theo lời kể

của một cụ ông 71 tuổi: “Sống trong gia đình 3 thế hệ, cho dù ông không phải

là người đứng tên chủ gia đình trong hộ khẩu nhưng là người chủ gia đình

trên thực tế, là người quyết định “việc lớn, việc nhỏ” có bàn bạc với con cái.

Đặc biệt là đối với các “công việc chính” như cưới xin, xây dựng, đất đai…

thì con cái vẫn phải hỏi ý kiến bố mẹ”. Nhƣ vậy, có thể thấy tại Thị trấn mô

hình ngƣời đàn ông cao tuổi (là ngƣời chồng, ngƣời cha) nắm vai trò chủ gia

đình là khá phổ biến. Đây đƣợc coi là sự tiếp tục truyền thống, tập tục của địa

phƣơng, là sự tiếp nối của mô hình ngƣời chủ gia đình trong truyền thống của

ngƣời Việt Nam. Nó cũng phản ánh vai trò thực tế của ngƣời đàn ông vốn tồn

tại từ trƣớc đến nay. Xu hƣớng chuyển gia vai trò chủ hộ và quyền quyết định

công việc quan trọng từ ngƣời đàn ông cao tuổi (ngƣời bố) sang cho con trai

đang diễn ra trong từng gia đình, tùy từng công việc, thƣờng là những việc

nhỏ cho đến những việc lớn. Đây là quá trình xã hội hóa vai trò, cho thấy một

sự thay thế và chuyển giao về mặt địa vị và vai trò từ NCT sang những ngƣời

trẻ tuổi nhằm đảm bảo một sự ổn định và phát triển liên tục trong gia đình và

xã hội.

Cùng với việc NCT chuyển từ giai đoạn “chƣa thật già” đến giai đoạn

“thật già”, họ vẫn giúp đƣợc một lƣợng công việc nhà rất đáng kể để con cháu

tập trung vào công tác, học tập (chiếm tỷ lệ 38,0%). Trong hoàn cảnh mà thế

hệ trẻ thƣờng đi tìm việc làm xa nhà theo mùa vụ, vai trò của NCT trong việc

duy trì sự ổn định của gia đình càng trở nên quan trọng, đặc biệt là đối với trẻ

nhỏ. Ngƣời cao tuổi thực ra vẫn còn là chỗ dựa cho gia đình về tinh thần và

làm những công việc lặt vặt không tên hàng ngày. Thực tế nhiều gia đình, khi

con cháu đều bận làm việc, học hành, cha mẹ già thƣờng trông nhà, giữ cháu,

làm việc nội trợ và các công việc khác.

Như vậy, qua nhiều thế hệ, sự phát triển của gia đình và toàn bộ xã hội

không thể thiếu đƣợc những đóng góp lớn lao của các bậc sinh thành, đó

chính là NCT. Họ giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng gia đình thông

94

qua các hoạt động giáo dục, rèn luyện chuyên môn, kỹ năng cũng nhƣ truyền

thụ các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, cộng đồng, quê

hƣơng nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

2.2.6.2. Phát huy vị trí, vai trò của NCT trong các hoạt động xã hội tại địa phương

Bác Hồ chỉ rõ: “Trách nhiệm của các cụ phụ lão chúng ta đối với

nhiệm vụ đất nước thật là trọng đại. Đất nước hưng thịnh do phụ lão gây

dựng. Đất nước tồn tại do phụ lão giúp sức. Nước mất phụ lão cứu, nước suy

sụp phụ lão phù trì". Trong năm qua, Hội NCT Thị trấn Neo đã phát huy vai

trò, vị trí trong tập hợp hội viên, đẩy mạnh phong trào thi đua, chăm sóc và

phát huy vai trò NCT, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở trong

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, xây dựng hệ thống

chính trị vững mạnh; xứng đáng là “Cây cao - bóng cả” đƣợc cấp ủy, chính

quyền ghi nhận và đánh giá cao.

Bảng 2.25. Hoạt động xã hội của NCT

Tham gia hoạt động xã hội tại địa phƣơng

Không tham gia

Xây dựng GĐ văn hóa và Khu dân cư văn minh 122 81,4

Tham gia khuyến học, khuyến tài 88 58,7

Tham gia tổ hòa giải/an ninh 19 12,6

Tham gia công tác lãnh đạo 8 5,4

Số lƣợng Tỷ lệ (%)

0 0,0

Tham gia hoạt động của Hội NCT và các tổ chức đoàn thể 119 79,4 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Theo kết quả điều tra cho thấy số hội viên tham gia vào công tác Đảng,

công tác chính quyền, các ngành đoàn thể từ Thị trấn đến các tiểu khu có số

lƣợng đông. Nhiều hội viên còn đảm nhiệm vai trò trọng trách chủ chốt trong

công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể đều hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao,

cụ thể trong tham gia công tác lãnh đạo chiếm 5,4%; tham gia tổ hòa giải, tổ

an ninh chiếm 12,6% và 79,4% tham gia hoạt động của Hội NCT, các tổ chức

đoàn thể. Bên cạnh đó các hội viên luôn nêu cao gƣơng sáng trong việc thực

hiện chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc,

hƣởng ứng tích cực các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

95

văn hóa ở khu dân cư”, “Tuổi cao gương sáng” và phong trào thi đua “Ông

bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”, kết quả điều tra cho thấy có 81,4% hội

viên tham gia phong trào vận động xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cƣ

văn minh, không những các hội viên tích cực tham gia mà còn vận động gia

đình con cháu và các gia đình trong khu dân cƣ cùng thực hiện tốt trong cuộc

vận động thể hiện trong việc chúc mừng thọ, trong việc cƣới, việc tang trang

trọng, lịch sự và tiết kiệm... Tham gia công tác khuyến học, khuyến tài là một

trong những nội dung mà các hội viên NCT quan tâm (chiếm 58,7%). Theo

Theo Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ 6

tháng cuối năm 2014, Hội NCT vận động các dòng họ, dòng tộc gây quỹ

khuyến học đƣợc trên 1 tỷ đồng, số hộ có quỹ nhiều nhất là chi hội 4 trên 100

hộ, và chi hội 6 trên 20 hộ có quỹ từ 10 triệu đồng trở lên. Tiêu biểu họ

Nguyễn và ông Quỳ chi hội 3, ông Trụ bà Hiên ông Nghị chi hội 4, họ

Nguyễn Trần chi hội 6. Ngƣời cao tuổi là những ngƣời tâm huyết với khuyến

khích tinh thần hiếu học của con cháu trong gia đình và dòng họ, chính vì vậy

mà nhiều dòng họ tại địa phƣơng cũng có truyền thống lập quỹ họ để khen

thƣởng con cháu trong dòng họ thi đỗ đại học, đạt danh hiệu học sinh giỏi, đạt

giải trong các kỳ thi cấp trƣờng, huyện, tỉnh, quốc gia tại các trƣờng phổ

thông, giúp đỡ các gia đình có con em vƣợt khó học giỏi; đồng thời ôn lại

truyền thống hiếu học của dòng họ, nhắc nhỏ con cháu thế hệ nối tiếp rèn

luyện đức tài để hoàn thiện bản thân, những hoạt động có vai trò không nhỏ

của NCT. Đây là một trong những hình thức khuyến khích đức tính ham học

của thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh xã hội đổi mới hiện nay rất cần lớp

ngƣời trẻ có học vấn để xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc.

2.2.7. Mong muốn, nguyện vọng của NCT

Trong cuộc sống, con ngƣời ở nhóm nào cũng có những nhu cầu chung

và nhu cầu đặc thù để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống cá nhân, nhóm

hoặc cộng đồng phù hợp theo các đặc trƣng giới tính và độ tuổi của họ. Có rất

96

nhiều loại nhu cầu khác nhau của con ngƣời nhƣng nhìn chung, đối với NCT

nhu cầu đƣợc chăm sóc sức khỏe, nhu cầu về vật chất và tinh thần là ba loại

nhu cầu rất quan trọng.

Bảng 2.26. Mong muốn/nguyện vọng của NCT

Tổng

STT

Mong muốn của NCT

Tần số

%

1 Đƣợc chăm sóc sức khỏe

125

83,4

119 62 48 46 45 41 24 21 19 18 16 7 0

79,3 2 Đƣợc khám chữa bệnh định kỳ 41,3 3 Đƣợc tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội 32,0 4 Đƣợc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất – tinh thần 30,7 5 Hỗ trợ kinh tế, tạo việc làm 30,0 6 Giao tiếp 27,4 7 Tham gia sinh hoạt câc câu lạc bộ 16,0 8 Bổ sung chế độ chính sách 14,0 9 Tham gia công tác phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng 12,7 10 Đƣợc tôn trọng 12,0 11 Tâm linh 10,6 12 Tham quan, du lịch 4,6 13 Đƣợc sống trong các trung tâm dƣỡng lão 14 Khác 0,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)

Qua những nhu cầu đƣợc lựa chọn nhiều nhất có thể thấy vấn đề nổi bật

là chăm sóc sức khỏe (chiếm 83,4%) và khám sức khỏe định kỳ (chiếm

79,3%). NCT là nhóm đặc thù và việc họ phải đổi mặt với tình trạng sức khỏe

không ổn định là vấn đề mang tính thời sự hàng ngày. Trong việc tự chăm sóc

sức khỏe của NCT, khám sức khỏe định kỳ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng,

khám sức khỏe định kỳ giúp chuẩn đoán sớm bệnh tật, nhất là các bệnh mà

NCT có nguy cơ mắc phải nhƣ: tiểu đƣờng, xơ gan, ung thƣ, cao huyết áp,

suy thận, các bệnh về tim mạch, rối loạn nội tiết, rối loạn thần kinh… để có

chiến lƣợc kịp thời. Hoạt động chăm sóc sức khỏe và rèn luyện sức khỏe ở

NCT là hết sức cần thiết, nhằm làm cho sức khỏe dẻo dai, mặt khác hạn chế

bệnh tật. Một trong những biện pháp tốt nhất để giữ gìn sức khỏe, tăng cƣờng

sức đề kháng, có tác dụng phòng và chữa bệnh tốt nhất là tập thể dục. Tập thể

97

dục đúng cách điều độ, khoa học có tác dụng duy trì và củng cố sức khỏe,

giúp NCT sống khỏe và kéo dài tuổi thọ hơn nhƣng với NCT nhiều khi sức

khỏe và điều kiện không cho phép họ tập thể dục. Hình thức tập thể dục rất đa

dạng: Thể dục buổi sáng, dƣỡng sinh, đi bộ,... NCT cần lựa chọn bài tập hợp

dựa trên điều kiện thời gian, dụng cụ, sân tập, trang phục... Chính vì vậy,

chính quyền địa phƣơng, gia đình và xã hội cần quan tâm nỗ lực triển khai

nhiều giải pháp để tăng cƣờng, cải thiện chất lƣợng chăm sóc sức khỏe và y tế

đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT.

Tiếp theo là nhu cầu đƣợc tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội của

NCT (chiếm 41,3%). Việc tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội có tác dụng

tích cực đối với NCT. Một mặt nó đem lại tinh thần thoải mái, sống vui, sống

khỏe, mặt khác phát huy tài năng trí tuệ của NCT phục vụ cho xã hội. Tham

gia các hoạt động văn hóa – xã hội sẽ tạo điều kiện cho các cụ đƣợc thăm hỏi

động viên lúc ốm đau, thoải mái hơn về tinh thần, nâng cao hiểu biết xã hội,

có điều kiện trao đổi kinh nghiệm làm ăn, có điều kiện chăm sóc, giáo dục

con cái tốt hơn. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức trong công việc tổ chức sinh

hoạt văn hóa – xã hội cho NCT tại địa phƣơng, xây dựng các loại hình văn

hóa đa dạng phong phú, quan tâm nhiều hơn đến nhóm NCT nghèo, tàn tật, cô

đơn, không nơi nƣơng tựa.

Trong những nhu cầu của NCT, hai nhu cầu đáng quan tâm là nhu cầu

nhu cầu đƣợc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất – tinh thần (chiếm 32,0%)

và nhu cầu hỗ trợ kinh tế, tạo việc làm (chiếm 30,7%). Điều này phản ánh

thực tế còn quá nhiều NCT hiện nay đang sống trong các hoàn cảnh khó khăn,

cần sự trợ giúp ngay cả khi họ bƣớc vào những giai đoạn cuối của cuộc đời.

Ngoài những nhu cầu đƣợc nhiều NCT lựa chọn, cũng có những nhu

cầu không nhận đƣợc sự quan tâm của NCT. Tỷ lệ thấp nhất, đó là nhu cầu

đƣợc sống trong các trung tâm nuôi dƣỡng là 4,6%. Nhu cầu đƣợc tham quan,

du lịch là10,6%, nhu cầu tâm linh là 12,0%, nhu cầu đƣợc tôn trọng là 12,7%,

nhu cầu tham gia công tác phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng là 14,0%,

98

nhu cầu đƣợc bổ sung chế độ chính sách là 16,0%.

Qua bảng số liệu điều tra, nhu cầu đƣợc sống sống trong các trung tâm

nuôi dƣỡng ít nhận đƣợc sự quan tâm của NCT. Trên thực tế, chỉ những

trƣờng hợp đặc biệt, còn tâm lý NCT, ai cũng muốn đƣợc bên cạnh con cháu,

đƣợc con cháu chăm sóc nhƣ mô hình gia đình Việt Nam truyền thống. Trong

trƣờng hợp con cháu quá bận rộn công việc thì một số NCT cũng chỉ cho rằng

chỉ nên vào nhà dƣỡng lão một thời gian chứ không phải sống hết cuộc đời tại

đó. Nhìn chung, dƣ luận của đa số NCT hiện nay chƣa đồng tình với việc con

cháu đƣa cha mẹ vào trung tâm dƣỡng lão sống. Cũng có trƣờng hợp các cụ

phản đối quyết liệt và cho rằng đó là một việc làm bất hiếu, vô trách nhiệm

đối với bố mẹ và không hiểu tâm lý NCT.

Ngày nay đời sống kinh tế và xã hội đã có những bƣớc tiến trên nhiều

lĩnh vực. Bên cạnh đời sống xã hội đang diễn ra thực tại ngƣời ta còn hƣớng

cả tới thế giới tâm linh. Kết quả khảo sát cho thấy có 12,0% NCT cho rằng họ

có nhu cầu tâm linh. Một nhu cầu cơ bản và quan trọng ở NCT là đƣợc tôn

trọng và đƣợc mọi ngƣời chấp nhận, quý mến. Do sự giảm sút năng lực và trí

tuệ có phần thiếu minh mẫn, một số NCT cảm thấy mất quyền tự chủ. Dù

không còn trực tiếp tham gia hoạt động đóng góp cho xã hội, nhƣng họ vẫn

cần đƣợc sự công nhận những giá trị, những thành quả mà họ đã đạt đƣợc. Họ

vẫn cần đƣợc khẳng định, rằng họ không phải là ngƣời thừa, ngƣời vô ích mà

ngƣợc lại họ vẫn là ngƣời có ích, là ngƣời quan trọng trong xã hội và trong

gia đình. Vì vậy, các thành viên trong gia đình cũng cần khuyến khích, động

viên ông bà cha mẹ mình tham gia các hoạt động mang tính xã hội, đồng thời

cũng thƣờng xuyên ghi nhận công lao của họ thông qua những hoạt động

trong gia đình và ngoài xã hội. Một số nhu cầu khác cũng cần đƣợc chú ý là

nhu cầu tham quan du lịch, nhu cầu tham gia công tác phát triển kinh tế - xã

hội địa phƣơng, nhu cầu đƣợc bổ sung chế độ chính sách.

Qua việc phân tích một số nhu cầu chung của NCT có thể thấy chăm

99

sóc NCT cần có các hoạt động hƣớng vào đời sống tình cảm, tâm lý của NCT,

chú ý cả những sinh hoạt tâm linh, phù hợp với văn hóa, tín ngƣỡng của

ngƣời Việt Nam. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần cải thiện các hình thức sinh

hoạt giao lƣu thông qua hoạt động của các đoàn thể và câu lạc bộ, tạo điều

kiện và môi trƣờng thuận lợi cho NCT đƣợc giao lƣu, kết bạn và gần gũi với

nhau. Thiết nghĩ, đây là việc làm mang ý nghĩa lớn về mặt tinh thần cho NCT.

Tạo môi trƣờng “Sống vui, sống khỏe và sống có ích” là trách nhiệm không

chỉ các cấp, đoàn thể mà của cả bản thân các gia đình có NCT.

Tiểu kết chƣơng 2

Nhìn chung, kết quả điều tra của luận văn đã chỉ ra đƣợc thực trạng

chăm sóc và phát huy vai trò của NCT trên địa bàn thành thị trấn. Bản thân

một số NCT cũng chƣa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc giữ

gìn, khám sức khỏe định kỳ. Phía gia đình cũng chƣa nhận thức làm tốt nghĩa

vụ chăm sóc và nuôi dƣỡng NCT, một số ít các cụ vẫn có cảm giác thƣờng

xuyên lo lắng, cô đơn thậm chí bị bỏ rơi; việc quan tâm của của các thành

viên trong gia đình vẫn chƣa kịp thời, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về

phía chính quyền địa phƣơng, bên cạnh việc thực hiện chủ trƣơng, chính sách

của Đảng và Nhà nƣớc còn thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ bằng nhiều hình thức

khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế sự hỗ trợ của chính quyền và cán bộ xã hội,

chƣa đảm bảo đƣợc nhu cầu cơ bản của NCT, đôi khi mang tính hình thức,

phong trào.

Nói tóm lại, kết quả khảo sát của đề tài luận văn đã góp phần trả lời cho

hai câu hỏi: Thực trạng công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT

tại Thị trấn Neo hiện nay đang diễn ra nhƣ thế nào? NCT tại Thị trấn Neo có

những nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng nào và đã đƣợc đáp ứng chƣa?

Vai trò của nhân viên CTXH (cán bộ xã hội), hoạt động CTXH (các hội, đoàn

thể, tổ chức…) trong trợ giúp NCT tại địa thị trấn hiện nay nhƣ thế nào?

Những khó khăn, trở ngại và giải pháp để thực hiện tốt các vai trò trợ giúp?

100

Đồng thời khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết nghiên cứu đƣa ra rằng:

NCT trên địa bàn khảo sát vẫn gặp nhiều khó khăn về vật chất cũng nhƣ tinh

thần. NCT ở đây chƣa có điều kiện đƣợc tiếp cận với các dịch vụ từ cộng

đồng xã hội nhƣ: chăm sóc sức khỏe tâm thần; khám chữa bệnh; hoạt động

vui chơi giải trí; hỗ trợ hòa nhập cộng đồng; dịch vụ đào tạo nghề và giới

thiệu việc làm, dịch vị chăm sóc sức khỏe tại nhà… NCT đã và đang nhận

đƣợc sự quan tâm từ phía gia đình, cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên vẫn chƣa

đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản của NCT; Vai trò của nhân viên CTXH trong

việc hỗ trợ, chăm sóc NCT và phát huy vị trí, vai trò của NCT trên địa bàn thị

trấn còn khá mờ nhạt và thiếu kiến thức, kỹ năng, phƣơng pháp CTXH. Nhân

101

viên CTXH chƣa phát huy đƣợc vai trò của mình trong việc trợ giúp NCT.

Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN

CTXH VÀ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP CTXH CÁ NHÂN TRONG

TRỢ GIÚP NCT TẠI CỘNG ĐỒNG

Công tác xã hội thƣờng hƣớng đến giúp đỡ và hỗ trợ cho các đối tƣợng

yếu thế trong xã hội để họ tự vƣơn lên, tự khẳng định mình và hòa nhập xã

hội. Công tác xã hội hƣớng đến sự bình đẳng với tất cả mọi ngƣời, mong

muốn một xã hội mà mọi cá nhân đƣợc hòa nhập.

Công tác xã hội với NCT là công việc cần thiết, vừa thể hiện truyền

thống “Trọng lão” của dân tộc vừa trợ giúp hiệu quả cho NCT để họ khắc

phục những khó khăn phát huy các tiềm năng của bản thân cũng nhƣ khai thác

các nguồn lực bên ngoài để phục hồi, hòa nhập và cống hiến cho xã hội.

Hiện nay, tại các cộng đồng NCT vẫn còn thiếu vai trò của nhân viên

CTXH chuyên nghiệp. Chính vì thế các cán bộ địa phƣơng đảm nhiệm luôn

vai trò của nhân viên CTXH, chính vì vậy mà chức năng thực hiện của họ vẫn

còn nhiều hạn chế.

Nhìn chung, những công việc mà cán bộ xã hội trên địa bàn Thị trấn

đảm nhiệm hiện nay không hoàn toàn đúng với nhiệm vụ chuyên môn của họ

theo lý thuyết và định hƣớng phát triển trong công tác xã hội

3.1 Vai trò của nhân viên CTXH

Với những thay đổi trong tâm sinh lý, trong lao động – thu nhập và cả

trong những mối quan hệ, NCT bị hạn chế và mất thăng bằng trong việc thực

hiện một số chức năng xã hội của mình. Ngƣời cao tuổi trở thành một đối

tƣợng yếu thế, dễ bị tổn thƣơng và cần sự hỗ trợ của công tác xã hội.

Với đặc thù là nghề trợ giúp xã hội, CTXH hƣớng trọng tâm nghề

nghiệp đến việc giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi, phát triển

các chức năng và đạt đƣợc những giá trị phù hợp trong xã hội. Các chức năng

của CTXH đƣợc thực hiện thông qua việc thực hiện các vai trò của nhân viên

102

CTXH trong tiến trình làm việc với các thân chủ.

Mỗi đối tƣợng khác nhau lại có những vấn đề cụ thể khác nhau. Vì thế

vai trò của nhân viên CTXH trong tiến trình trợ giúp mỗi đối tƣợng cụ thể

cũng có sự khác nhau. Trong công tác xã hội với NCT, nhân viên CTXH cần

thực hiện tốt các vai trò sau:

3.1.1. Người giáo dục

Ngƣời cao tuổi phải đối mặt với rất nhiều những thay đổi về tâm sinh lý

cũng nhƣ các chức năng xã hội. Do đó, để thích ứng với cuộc sống, NCT cần

phải có thêm nhiều kiến thức, kỹ năng về chế độ dinh dƣỡng, chăm sóc bản

thân, các kỹ năng xã hội… Nhân viên CTXH hỗ trợ NCT những kiến thức và

kỹ năng đó thông qua vai trò là ngƣời giáo dục. Hình thức giáo dục có thể qua

việc cung cấp tài liệu, các lớp tập huấn, hoặc đƣợc lồng ghép trong tiến trình

trợ giúp. Thông qua giáo dục, nhân viên xã hội sẽ giúp NCT có thêm những

kiến thức, kỹ năng để phòng ngừa, chữa trị, phục hồi hay cũng nhƣ phát triển

các chức năng xã hội phù hợp. Việc cung cấp cho NCT những kiến thức, kỹ

năng chăm sóc bản thân nhƣ chế độ dinh dƣỡng, các hoạt động thể chất, các

cách thức phòng bệnh, chữa bệnh… khoa học và phù hợp sẽ giúp NCT có

cuộc sống mạnh khỏe và an toàn hơn. Không chỉ quan tâm đến cá nhân NCT,

CTXH còn hƣớng đến giáo dục, tham vấn cho gia đình NCT. Nhân viên

CTXH cung cấp thông tin, hƣớng dẫn cụ thể, tham vấn cho gia đình NCT

những cách thức chăm sóc, ứng xử với NCT … Cung cấp những kiến thức,

hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý, xã hội, những nhu cầu… của NCT để gia

đình chăm sóc, hỗ trợ NCT tốt hơn [20, tr.74 – tr.75].

3.1.2. Người tạo khả năng

Trọng tâm nghề nghiệp của CTXH hƣớng đến việc trợ giúp các đối

tƣợng khai thác những tiềm năng của bản thân để tự lực vƣơn lên, giải quyết

các vấn đề cụ thể của bản thân. Nhân viên CTXH không làm hộ, làm thay

thân chủ mà chỉ giúp thân chủ nhận thức đƣợc những khả năng của mình, phát

103

huy những khả năng đó để giải quyết vấn đề của mình. Đối với NCT, nhân

viên CTXH cần giúp họ nhận thấy các khả năng của mình: Chuyên môn, kinh

nghiệm sống, sức khỏe, tay nghề… Cần động viên, cổ vũ để NCT tin tƣởng

vào bản thân mình, tin tƣởng rằng mình vẫn còn hữu ích với gia đình, xã hội

từ đó thúc đẩy NCT hoạt động để tiếp tục đóng góp cho gia đình, xã hội. Qua

những hoạt động đó, NCT không những giải quyết đƣợc các vấn đề của bản

thân mà còn có thể góp sức vào sự phát triển của gia đình, xã hội. Ngƣời cao

tuổi có quá trình lao động lâu dài vì thế kinh nghiệm thực tế của họ là rất

phong phú và rất có giá trị. Sau khi về hƣu, không đƣợc tiếp tục cống hiến, họ

trở nên chán nản và coi mình là ngƣời bỏ đi từ đó gây ra nhiều vấn đề nhất là

các vấn đề tâm lý cho bản thân. Đồng thời, việc không nhận thức và khai thác

những kiến thức và kinh nghiệm của NCT là sự lãng phí rất lớn của xã hội.

Do đó, nhân viên xã hội cần giúp NCT nhận thức đƣợc giá trị của mình để họ

tiếp tục lao động với cách thức phù hợp. Thông qua lao động, các vấn đề của

NCT: Tâm sinh lý, thu nhập, quan hệ… sẽ đƣợc giải quyết. Thêm vào đó, khi

huy động đƣợc NCT vào đội ngũ lao động, xã hội sẽ có thêm nguồn kinh

nghiệm và trí thức quý giá để phát triển nhanh hơn và bền vững hơn [20, tr.73

– tr.74].

3.1.3. Người điều phối - kết nối dịch vụ

Một trong những công việc quan trọng của nhân viên CTXH là vận

động chính sách, tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, triển khai các

chính sách… Đồng thời, hỗ trợ tìm kiếm và kết nối các chính sách, các dịch

vụ xã hội trong những điều kiện sống khác nhau cho NCT. Tuy nhiên, tại thị

trấn hiện nay thì những công việc này đƣợc cán bộ xã hội đảm nhiệm chƣa

thực sự hiệu quả.

Giúp NCT có đƣợc hoàn cảnh thuận lợi cho hoạt động của họ thông

qua những hỗ trợ khác nhau. Nhân viên CTXH cũng có vai trò cung cấp các

dịch vụ hỗ trợ cho NCT nhƣ làm công tác hỗ trợ, tham vấn về mặt tâm lý, lo

104

lắng về cái chết cho những ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cô đơn…,

Nhân viên CTXH là cầu nối quan hệ giữa NCT và gia đình, khuyến khích sự

thăm hỏi của gia đình và đóng góp vào các hoạt động chung của cộng đồng.

Một vai trò quan trọng của nhân viên CTXH tại cộng đồng chính là việc tổ

chức các câu lạc bộ dành riêng cho NCT, để tại đây họ có thể cùng chung

sống, sinh hoạt, giải trí, mở rộng giao lƣu xã hội, có thể trò chuyện, choa sẻ

với ngƣời khác…Tuy nhiên do chƣa có nhân viên CTXH thực sự chuyên

nghiệp, hơn nữa cán bộ xã hội kiêm nghiệm nhiều việc nên khi thực hiện vai

trò này cũng còn nhiều hạn chế.

Ngoài ra nhân viên CTXH thông qua đánh giá, chẩn đoán các vấn đề và

nguồn lực của NCT để điều phối, cung cấp các dịch vụ phù hợp. Với những

NCT bị hạn chế khả năng phục vụ bản thân trong sinh hoạt hàng ngày, nhân

viên xã hội có thể giới thiệu và cung cấp cho NCT những dịch vụ hỗ trợ tại

nhà nhƣ ngƣời giúp việc, ngƣời chăm sóc y tế. Với những NCT neo đơn,

không nơi nƣơng tựa, nhân viên CTXH có thể giới thiệu, làm thủ tục để NCT

vào sinh sống trong các trung tâm bảo trợ phù hợp. Nhân viên CTXH cần giới

thiệu cho NCT các câu lạc bộ phù hợp để NCT sinh hoạt. Việc sinh hoạt ở các

câu lạc bộ NCT: Câu lạc bộ văn thơ, cựu chiến binh, dƣỡng sinh… sẽ giúp

NCT đáp ứng các nhu cầu về quan hệ xã hội cho NCT [20, tr.74].

3.1.4. Người biện hộ

Khi làm việc với NCT, nhân viên CTXH cần đánh giá, phân tích những

nhu cầu, mong muốn cũng nhƣ những nguồn lực của NCT. Nhân viên CTXH

phải bảo vệ những nhu cầu chính đáng của NCT. Do những thay đổi và sự

không ổn định về tâm sinh lý, một số NCT có thể có những hành động, hành

vi khác thƣờng. Nhân viên CTXH cần tìm hiểu nguyên nhân của các hành vi

đó và lý giải để mọi ngƣời xung quanh nhất là gia đình hiểu và thông cảm cho

họ. Trong xã hội Việt Nam, do đặc thù của văn hóa, nhu cầu tình dục của

NCT chƣa đƣợc chú ý đúng mức, thậm chí là một hành vi bị lên án. Những

105

NCT kết hôn luôn chịu sự bàn tán, đánh giá của gia đình, của những ngƣời

xung quanh. Đây là một nhạy cảm văn hóa mà nhân viên xã hội cần hết sức

chú ý. Cần làm cho bản thân NCT cũng nhƣ gia đình và những ngƣời xung

quanh hiểu và tôn trọng nhu cầu đó của NCT bởi tình dục cũng nhƣ ăn, uống,

… là những nhu cầu cơ bản nhất của con ngƣời. Ngƣời cao tuổi suy giảm nhu

cầu tình dục chứ không phải là hoàn toàn không có nhu cầu đó [20, tr.75].

Hiện nay, ở nƣớc ta ngày càng có nhiều chính sách dành cho NCT,

tuy nhiên không phải ai cũng biết các chính sách ấy ra sao, thực hiện nhƣ

thế nào, quyền lợi của NCT trong những chính sách ấy. Chính vì thế nhân

viên CTXH sẽ đóng vai trò là ngƣời tƣ vấn chính sách, kết nối NCT với

những chính sách ấy. Tại địa bàn thị trấn vai trò của nhân viên CTXH

thƣờng đƣợc cán bộ xã hội thực hiện. Tuy nhiên họ luôn có hạn chế nhất

định, xét về khía cạnh nào đó họ mới chỉ thực hiện đƣợc vai trò nghiên cứu

chính sách.

Bên cạnh việc tìm hiểu, đánh giá nhu cầu và kết nối các dịch vụ phù

hợp để hỗ trợ cho NCT, nhân viên CTXH còn là ngƣời – trong những trƣờng

hợp nhất định – sẽ mang tính đại diện, nói lên tiếng nói và biện hộ cho quyền

lợi của NCT, đặc biệt là vấn đề thực hiện chính sách cho họ có đƣợc đảm bảo

thực hiện tại địa phƣơng, cơ sở một cách nghiêm chỉnh và thích đáng hay

không và kiểm định xem khi thực hiện có thực sự phù hợp với nhu cầu và

nguyện vọng của NCT ở mức nào? Trả lời cho các câu hỏi này chính là trả lời

cho vai trò của nhân viên CTXH với NCT trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của

NCT, việc này không chỉ là việc đòi hỏi một cánh chính đáng những ƣu sách

đƣợc thực hiện dành cho NCT mà nó còn là cả thái độ làm việc, cách cƣ xử

đầy quan tâm, tinh thần trách nhiệm và sự tôn trọng của họ với NCT.

Nhìn chung trên địa bàn thị trấn việc thực hiện vai trò biện hộ cho NCT

chƣa thực sự tốt. Họ chƣa thể là ngƣời đại diện cho NCT, biện hộ cho NCT về

106

những chính sách của mình. Tại địa bàn thị trấn, việc thực hiện chính sách

chủ yếu do cán bộ lao động xã hội, trực tiếp xử lý. Tuy nhiên, họ chỉ mang

tính chất thay thế NCT thực hiện việc hƣởng chính sách, chƣa thể là ngƣời đại

diện và biện hộ cho quyền lợi của NCT.

3.1.5. Người tạo môi trường thuận lợi

Mỗi cá nhân là một hệ thống chịu ảnh hƣởng và sự tác động từ những

hệ thống xung quanh. Công tác xã hội chú ý đến mối quan hệ giữa con ngƣời

với các hệ thống xung quanh. Tạo môi trƣờng thuận lợi trong CTXH đƣợc

thực hiện qua việc cải thiện và nâng cao chất lƣợng trong mối quan hệ giữa

con ngƣời và hệ thống xung quanh. Ngƣời cao tuổi cũng tƣơng tác và chịu

ảnh hƣởng mạnh mẽ từ gia đình, các tổ chức xã hội. Vì thế, trong tiến trình

CTXH với NCT cần chú ý đến các hệ thống xung quanh NCT: Gia đình, hội

hƣu trí, các câu lạc bộ CTXH… Nhân viên CTXH cần tác động và làm thay

đổi các hệ thống đó để tạo ra môi trƣờng thuận lợi nhất phục vụ NCT giải

quyết các vấn đề của bản thân cũng nhƣ những hoạt động phù hợp với nhu

cầu của bản thân và sự mong đợi của xã hội.

Gia đình là một thiết chế quan trọng đối với mọi cá nhân trong đó có

NCT. Ngày nay, do ảnh hƣởng của sự thay đổi điều kiện kinh tế – xã hội, gia

đình cũng có sự biến đổi về nhiều mặt nhƣ cấu trúc, quy mô, văn hóa… và sự

thay đổi đó có ảnh hƣởng sâu sắc đến NCT. Nhịp sống công nghiệp làm cho

con ngƣời ít quan tâm đến nhau, sự thiếu quan tâm của con cháu, sự mâu

thuẫn và xung đột về tƣ tƣởng giữa các thế hệ… làm cho NCT cảm thấy bị cô

lập, cảm giác không đƣợc quan tâm. Đó là nguyên nhân nảy sinh nhiều vấn đề

tiêu cực ở NCT. Chính vì thế, trong tiến trình CTXH với NCT, nhân viên

CTXH cần quan tâm đến việc huy động các nguồn lực hỗ trợ từ gia đình

thông qua cải thiện các mối quan hệ, thúc đẩy sự quan tâm của các cá nhân

trong gia đình NCT… để NCT có thêm các nguồn lực hỗ trợ, có thêm các

điều kiện thuận lợi để tự lực vƣơn lên, giải quyết triệt để các vấn đề của cá

107

nhân và đạt đƣợc những giá trị xã hội nhƣ mong đợi của họ [20, tr.75].

3.1.6. Người đánh giá và giám sát

Nhân viên xã hội là ngƣời trực tiếp đánh giá, chẩn đoán những vấn đề

của NCT trong cuộc sống hàng ngày. Những vấn đề của NCT rất đa dạng: Có

thể về sinh lý, tâm lý, lao động – thu nhập hay các vấn đề về quan hệ xã hội.

Bƣớc sang giai đoạn cuối của cuộc đời, do sự suy giảm hoạt động và sự già

hóa của các cơ quan, hệ thống sinh học mà ngƣời già phải đối mặt với nhiều

bệnh tật: Tai biến mạch máu não do huyết áp cao, bệnh về tim mạch, hô

hấp… tâm lý của NCT cũng có nhiều nét đặc biệt nhất là trong việc suy nghĩ

và đối phó với cái chết. Nhiều ngƣời luôn suy nghĩ về cái chết và muốn chuẩn

bị hậu sự cho mình, một số khác lại sợ hãi và tránh nói về cái chết. Cái chết

của những bạn bè, những ngƣời thân thiết của NCT gây ra rất nhiều vấn đề

tâm lý. Nếu ngƣời chết là bạn bè, sẽ hình thành nên sự trầm cảm, lo lắng mình

sẽ là ngƣời tiếp theo; nếu ngƣời chết là ngƣời bạn đời sẽ gây cho NCT cảm

giác chán nản thậm chí không muốn sống, muốn “chết theo” bạn đời của

mình… Do đó, nhân viên xã hội phải có vai trò chẩn đoán, đánh giá về các

vấn đề, về các yếu tố nguy cơ đòi hỏi sự can thiệp: Tự vẫn, cô lập bản thân,

thiếu môi trƣờng an toàn, thiếu sự trợ giúp…

Trong tiến trình trợ giúp NCT, nhân viên xã hội thực hiện việc đánh giá

và giám sát các hoạt động của NCT, kết quả của tiến trình. Sự đánh giá và

giám sát của nhân viên xã hội một cách thƣờng xuyên, liên tục sẽ góp phần

vào việc phát hiện sớm, nâng cao hiệu quả can thiệp… với NCT. Trong tiến

trình CTXH với NCT, tùy vào điều kiện thực tế cũng nhƣ những vấn đề cụ

thể ở NCT mà các vai trò của nhân viên CTXH thực hiện có sự khác biệt.

Nhân viên CTXH thông qua việc thực hiện các vai trò cụ thể của mình để

hƣớng đến mục tiêu phòng ngừa, chữa trị, phục hồi ... cho NCT [20, tr.76].

3.2. Vận dụng phƣơng pháp công tác xã hội cá nhân trong trợ giúp NCT

tại cộng đồng.

(Điển cứu một trường hợp NCT có hòa cảnh đặc biệt khó khăn tại Tiểu

108

khu 4 – Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang)

3.2.1. Hồ sơ thân chủ

3.2.1.1. Thông tin cá nhân

Họ và tên: Nguyễn Văn Hùng

Giới tính: Nam

Ngày tháng năm sinh: 1950

Nơi sinh: Xã Nham Sơn – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang

Nơi ở hiện tại: Tiểu khu 4 – Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc

Giang

Trình độ học vấn: Tốt nghiệp cấp 2

Nghề nghiệp: Nông nghiệp

Tình trạng sức khỏe thể chất: Bị bệnh gan

Tình trạng sức khỏe tâm thần: Ám ảnh về hình ảnh dì ghẻ

Các vấn đề khác: Thƣờng xuyên say rƣợu, bác hát và mắng chửi mọi

ngƣời xung quanh.

3.2.1.2. Thông tin về gia đình, người thân

- Vợ là Trần Thị Mai, 60 tuổi; nghề nghiệp: nông nghiệp; trình độ học

vấn: tốt nghiệp cấp 1.

- Bác Hùng hiện nay không còn ai thân thích. Bố mẹ đều đã mất từ khi

bác còn nhỏ.

- Hai vợ chồng bác có một ngƣời con trai, nhƣng anh đã mất do một tai

109

nạn giao thông khi anh 22 tuổi.

Sơ đồ phả hệ:

Bố

Dì ghẻ

Mẹ

Em gái

Chồng

Thân chủ

Con trai

Chú thích: Em gái, dì ghẻ: Không có thông tin

Bố, mẹ, con trai: Đã mất

3.2.1.3. Môi trường sống hiện tại:

- Bác Hùng sống cùng vợ trong 1 căn nhà cấp 4.

- Do mâu thuẫn với hàng xóm nên bác thƣờng tránh tiếp xúc, không

thƣờng xuyên tham gia các hoạt động của Chi Hội NCT, của thôn xóm.

Mô hình sinh thái:

Họ hàng

Hàng Xóm

Vợ

Thân chủ

Chính quyền

Hội NCT

110

Chú thích:

Không liên hệ:

Ít liên hệ:

Gắn kết:

3.2.1.4. Khái quát chung về thân chủ.

Bác Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1950, là chồng bác Trần Thị Mai.

Hai vợ chồng không có ngƣời thân, nƣơng tựa vào nhau sống. Bác Hùng bị

nguyên là trƣởng thôn, sau vì mâu thuẫn về quyền lợi trong việc chia đền bù đất, hỗ

trợ ngƣời dân có đất bị thu hồi xây dựng đô thị - công nghiệp, dịch vụ thƣơng mại

nên bác xin nghỉ. Bác Mai vợ bác hàng ngày đi chợ. Thu nhập bình quân hàng

bệnh gan cách đây 6 năm, hiện tại sức khỏe bác cũng không tốt. Bác Hùng

tháng của gia đình khoảng từ 1,5tr – 2tr. Thu nhập thấp, cộng thêm tiền thuốc

cho bác Hùng nên cuộc sống của của hai vợ chồng bác rất khó khăn. Bác rất

tốt tính, thƣơng vợ, thƣơng con nhƣng từ khi ngƣời con trai mất, bác luôn lo

lắng, suy nghĩ, chán nản, ƣu phiền, hay tự dằn vặt mình nên thƣờng xuyên

uống rƣợu, đi lang thang mắng, chửi khắp nơi nên mọi ngƣời trong xóm đều

rất khó chịu thêm vào đó sau khi bị mắc bệnh gan bác luôn cảm thấy bất mãn

mọi ngƣời trong thôn nên thƣờng xuyên uống rƣợu rồi hát, chửi mọi ngƣời xung

với cuộc sống, buồn phiền nhiều hơn. Bác rất tốt tính nhƣng do mâu thuẫn với

quanh. Hiện tại ở thôn gia đình bác bị mọi ngƣời cô lập. Hai bác tránh tiếp

111

xúc và hầu nhƣ không tham gia các hoạt động của thôn, của hội.

3.2.2. Kế hoạch tác nghiệp

Thời gian

Nội dung cụ thể

Ghi chú

Mục tiêu công việc đạt đƣợc

Đối tƣợng tác nghiệp

Địa điểm thực hiện

Thân chủ

Nhà thân chủ

Nói chuyện cùng thân chủ để hiểu rõ hơn hoàn cảnh của thân chủ

Từ ngày 1/9 – 8/9/2014

Tiếp xúc với vợ thân chủ

Mục tiêu là tạo niềm tin ở thân chủ vào nhân viên xã hội; hiểu đƣợc một cách đầy đủ hoàn cảnh của thân chủ Nhận diện đầy đủ hoàn cảnh của thân chủ

Vợ thân chủ

Nhà thân chủ

Từ ngày 9/9 – 12/9/2014

Tiếp xúc với cả hai vợ chồng thân chủ

Nhà thân chủ

Tổng hợp đƣợc đầy đủ, chính xác các thông tin và vấn đề của thân chủ

Có sự nhất trí của thân chủ

Từ ngày 13/9 - 16/9/2014

Vợ chồng thân chủ

Thân chủ

Nhà thân chủ

Từ ngày 17/9 – 24/10/2014

chủ thân Cùng phân tích đầy đủ, chính xác hoàn cảnh, những vấn đề của thân chủ và các giải pháp Tiến hành trị liệu cho thân chủ

Nhà thân chủ

Từ ngày 24/10 – 24/12/2014

Thân chủ và vợ

Vợ thân chủ là tác nhân quan trọng trong tiến trình giúp đỡ thân chủ giải quyết các vấn đề

Giúp thân chủ hiểu rõ hoàn cảnh của mình. Thân chủ tự lựa chọn các giải pháp dƣới sự hỗ trợ của nhân viên xã hội thân chủ giải Giúp quyết các vấn đề gặp phải: nghiện rƣợu, mâu thuẫn với hàng xóm; trang bị cho thân chủ thêm những kỹ năng, hiểu biết về cách chăm sóc sức khỏe, đề phòng các bệnh truyền nhiễm…

Lƣợng giá

Nhà thân chủ

Từ ngày 25/12/2014 – 2/1/2015

Thân chủ và vợ

Đánh giá hiệu quả của quá trình trị liệu; đạt đƣợc những gì và chƣa đạt những gì…

112

3.2.3. Tiến trình trợ giúp

3.2.3.1. Bước 1: Tiếp cận thân chủ

Trong qua quá trình nghiên cứu đề tài với những trăn trở của bản thân,

tôi quyết định chọn bác Hùng làm thân chủ, mong áp dụng một phần những

kiến thức đã học đƣợc để giúp đỡ thân chủ giải quyết một số vấn đề và có thể

có một cuộc sống tốt hơn. Chính vì thế, tôi đã chủ động gặp gỡ bác Hùng,

trình bày những suy nghĩ của mình. Cảm nhận đƣợc sự chân thành nên bác

Hùng rất vui vẻ, nhận lời hợp tác cùng tôi. Tuy nhiên do sự mâu thuẫn với các

hộ dân xung quanh của bác nên việc tới thăm gia đình bác của tôi luôn gặp

phải con mắt soi mói của các hộ dân khác trong xóm. Rất nhiều ngƣời khuyên

tôi không nên nghe những gì bác Hùng nói. Tuy nhiên, với suy nghĩ và lập

trƣờng riêng của mình, tôi vẫn giữ quyết định của mình. Chứng kiến cảnh

hàng xóm và những khó khăn của tôi, bác Hùng có lúc đã lảng tránh và nói

không muốn gây khó dễ cho công việc của tôi. Nhiều lúc thấy tôi tới, bác lại

lấy cớ đi làm. Sau nhiều lần thuyết phục, thậm chí nhờ vợ bác tác động, bác

đã tiếp tục công việc cùng tôi. Quan hệ của tôi và bác Hùng ngày càng tốt lên.

3.2.3.2. Bước 2: Nhận diện vấn đề

Qua những lần tiếp xúc, tôi nhận thấy bác Hùng là một ngƣời tốt bụng,

giàu tình thƣơng. Cuộc sống đã cƣớp đi của bác gia đình từ khi còn rất nhỏ,

hơn nữa cũng đã cƣớp đi đứa con duy nhất của hai vợ chồng bác. Và những

lần say rƣợu của bác Hùng là do sự chán nản và mất phƣơng hƣớng về cuộc

sống. Còn việc mắng chửi mọi ngƣời thì do bị ức chế. Một vấn đề nữa là bác

đã bị ám ảnh bởi hình ảnh dì ghẻ. Sự căm thù dì ghẻ của bác thể hiện rõ nhất

trong những lúc bác say, trong những bài cải lƣơng bác hát.

Sau quá trình tiếp xúc và gặp gỡ, nhận thấy thân chủ có các vấn đề sau:

- Thƣờng xuyên uống rƣợu và có các hành vi không đúng mực

- Mâu thuẫn sâu sắc với mọi ngƣời trong thôn

113

- Chán nản và mất niềm tin ở cuộc sống

- Bị ám ảnh bởi hình ảnh dì ghẻ do bản thân bị dì ghẻ hành hạ cả về thể

chất lẫn tinh thần trong quá khứ.

Thân chủ chính trong quá trình can thiệp chính là bác Hùng; đồng thời

phải tranh thủ sự tác động của bác Mai – tác nhân quan trọng trong tiến trình

giúp đỡ bác Hùng giải quyết các vấn đề của mình. Cần tiếp cận và tác động

chính quyền, ở đây cụ thể là trƣởng thôn, phó trƣởng thôn, chi Hội NCT, để

giải quyết hiểu lầm, mâu thuẫn giữa vợ chồng bác Hùng và hàng xóm. Các

vấn đề này sẽ đƣợc giải quyết lần lƣợt trong tiến trình trợ giúp thân chủ.

Xác định các yếu tố liên quan:

Yếu tố bảo vệ:

- Sự quan tâm và yêu thƣơng hết mực của vợ.

- Sự quan tâm của các cá nhân, các tổ chức đặc biệt Hội NCT. Đây là

một kênh quan trọng để bác chia sẻ những tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của

mình.

Yếu tố nguy cơ:

- Sự thiếu quan tâm của chính quyền.

- Sự mâu thuẫn và không hòa hợp của thôn xóm và thân chủ.

- Con trai mất và không có họ hàng thân thích.

- Hoàn cảnh nghèo khổ lại chịu ánh nhìn soi mói của những ngƣời xung

quanh.

Rào cản:

- Tâm lý mặc cảm, tƣ ti, buông xuôi và mất niềm tin của thân chủ với

cuộc sống.

- Bị ám ảnh bởi hình ảnh dì ghẻ trong quá khứ vì thế luôn cảm thấy bất

an và bất ổn tâm lý.

- Cái nhìn không thiện cảm của cộng đồng làng xóm với gia đình và

114

thân chủ nói riêng.

Phản ứng phòng vệ:

- Tự ti, khép mình với mọi ngƣời và xã hội xung quanh

- Uống rƣợu, hát, chửi mọi ngƣời để che giấu tâm sự và giải tỏa uất ức.

3.2.3.3. Bước 3: Thu thập thông tin

Sau khi nhận diện bƣớc đầu các vấn đề thân chủ gặp phải, tôi đã chủ

động gặp gỡ các hộ dân khác để thu thập và kiểm chứng các nguồn thông tin.

Tôi cũng tranh thủ gặp gỡ riêng bác Mai để có những hiểu biết sâu sắc hơn về

bác Hùng. Đồng thời, tôi cũng gặp gỡ bác Quang Chi hội trƣởng Hội NCT;

bác Đức và chú Chờ, trƣởng thôn và phó trƣởng thôn tiểu khu 4 để tìm hiểu

các thông tin và nhận xét của họ về thân chủ. Việc lấy thông tin từ nhiều

nguồn đã giúp thôi có cái nhìn toàn cảnh, đa chiều về thân chủ, gia đình thân

chủ. Từ đó có thể đề ra các kế hoạch trợ giúp phù hợp.

- Thân chủ: Bác Hùng – 65 tuổi, ở tiểu khu 4 và làm nông nghiệp. Bác

Hùng nghiện rƣợu, thuốc lào và hiện tại bác đang bị bệnh gan vì thế sức khỏe

không thực sự tốt. Bác bị ám ảnh khá nặng nề bởi sự hành hạ của dì ghẻ trong

quá khứ.

- Gia đình: Bác Hùng quê ở xã Nham Sơn – huyện Yên Dũng – tỉnh

Bắc Giang. Mẹ bác mất sớm. Bố lấy vợ hai. Dì ghẻ là một ngƣời tàn ác,

thƣờng hành hạ bác. Khi bố mất, bác đã bỏ nhà đi. Hiện nay bác sống cùng vợ

là bác Mai ở tiểu khu 4. Hai bác không có một ngƣời con trai, anh đã mất và

không có bất cứ ngƣời thân nào.

- Chính quyền địa phƣơng: Bác Hùng có ác cảm với một số ngƣời quản

lý ở tiểu khu. Tuy chịu sự quản lý của Thị trấn Neo, song gia đình bác Hùng

không đƣợc hƣởng bất kì chính sách nào của địa phƣơng.

- Bạn bè: Bác Hùng mâu thuẫn với thôn xóm vì thế bác thƣờng tránh

chuyện cùng một số hội viên trong hội.

115

tiếp xúc. Khi tham gia các hoạt động của chi Hội NCT có tiếp xúc và trò

3.2.3.4. Bước 4: Chẩn đoán

Qua việc phân tích các thông tin thu đƣợc, nhận thấy thân chủ có nhiều

vấn đề cần đƣợc giải quyết.

Đánh giá thân chủ:

Thân chủ là một ngƣời nhân hậu, tốt bụng, yêu thƣơng mọi ngƣời và

khát khao một cuộc sống gia đình hạnh phúc, khát khao tình phụ tử. Các vấn

đề của thân chủ xuất phát từ cuộc sống nghèo khổ, từ những vết thƣơng trong

quá khứ và sự đơn độc trong cuộc sống hàng ngày. Thân chủ tìm đến rƣợu để

quên đi hiện thực, quên đi cuộc sống thực tại. Nếu thực sự quyết tâm, thân

chủ hoàn toàn có thể tự giải quyết các vấn đề của mình.

Các vấn đề cần giải quyết của thân chủ:

- Cai rƣợu

- Giảm dần, tiến tới xóa bỏ ám ảnh của thân chủ về quá khứ, về sự hành

hạ của dì ghẻ thông qua tham vấn tâm lý.

- Giải quyết hiểu lầm và mâu thuẫn với ngƣời dân trong thôn

- Giảm những suy nghĩ tiêu cực, nhìn nhận tốt hơn về cuộc sống

- Cải thiện thu nhập của thân chủ

Việc cần và phải làm ngay là giúp thân chủ cai rƣợu. Việc thân chủ

thƣờng xuyên uống rƣợu là do sự chán nản về cuộc sống chứ không phải là

nghiện rƣợu thông thƣờng. Việc uống rƣợu này không chỉ gây ảnh hƣởng đến

sức khỏe thân chủ mà còn làm mất đoàn kết trong thôn; càng làm mọi ngƣời

cô lập thân chủ và vợ.

Việc giảm dần và tiến tới giải quyết triệt để sự ám ảnh về hình ảnh dì

ghẻ đòi hỏi nhiều thời gian và những kỹ năng khá chuyên nghiệp. Cần để thân

chủ nói ra những suy nghĩ, ám ảnh đó. Việc này là không hề đơn giản. Nó phụ

thuộc vào mức độ thân thiết, sự tin tƣởng lẫn nhau giữa thân chủ và nhân viên

CTXH; phụ thuộc vào trình độ và sự thuần thục của các kỹ năng, các kế

116

hoạch tác nghiệp tiến hành của nhân viên CTXH. Sự ám ảnh này tuy không

hiện hình nhƣng có tác động rất lớn đến sự bất ổn tâm lý của thân chủ, biểu

hiện qua thái độ chán nản, bi quan, qua cách nhìn cuộc sống của thân chủ. Chỉ

khi thoát khỏi ám ảnh này thân chủ mới có cuộc sống yên bình thực sự.

Thu nhập thấp, cuộc sống nghèo khổ, khốn khó là một trong những

nguyên nhân hình thành tâm lý chán nản, mất niềm tin vào cuộc sống. Bác

Hùng rất nghèo nhƣng việc cải thiện thu nhập là việc có thể làm đƣợc. Để

giúp thân chủ cải thiện thu nhập, phát triển kinh tế tôi tiến hành nhƣ sau:

+ Hƣớng dẫn thủ tục hành chính cho gia đình thân chủ hƣởng chính

sách hộ nghèo và vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội huyện Yên Dũng

phát triển kinh tế hộ gia đình.

+ Để cải thiện thu nhập tƣ vấn phát triển kinh tế cho gia đình thân chủ

thông qua hình thức chăn nuôi lợn: cách lựa chọn giống, thức ăn, kỹ thuật cho

ăn (số lƣợng thức ăn, cách cho ăn), kỹ thuật chăm sóc (chuồng trại, vệ sinh,

phòng bệnh…)…

Việc giúp thân chủ và mọi ngƣời xóa đi hiểu lầm và mâu thuẫn là rất

khó vì đây là mâu thuẫn quyền lợi. Tuy nhiên nếu có sự hỗ trợ của chính

quyền, khu dân cƣ thì có thể giải quyết đƣợc. Nếu giải quyết đƣợc mâu thuẫn

với các hộ dân khác, bác Hùng sẽ có thêm mối quan hệ với mọi ngƣời trong

thôn, có nơi tâm sự…

Trong việc giải quyết các vấn đề của thân chủ, khó khăn là các yếu

tố chủ đạo. Tuy nhiên, thuận lợi là sự hợp tác giữa thân chủ và nhân viên xã

hội; tiến trình can thiệp nhận đƣợc sự ủng hộ của vợ thân chủ. Sự tâm huyết

và ham học hỏi về chuyên môn của nhân viên xã hội cũng là một lợi thế.

Thân chủ hoàn toàn có khả năng nâng cao thu nhập; cai rƣợu, giảm

thiểu sự ảnh hƣởng từ quá khứ và cải thiện mối quan hệ với mọi ngƣời

3.2.3.5. Bước 5: Kế hoạch trị liệu

Sau khi chẩn đoán các vấn đề cũng nhƣ khả năng giải quyết các vấn đề

117

của thân chủ, tôi cùng thân chủ và vợ ngồi lại, cùng thống nhất kế hoạch can

thiệp. Kế hoạch đƣợc xây dựng bởi tôi và thân chủ, có sự nhất trí của vợ thân

chủ.

Vấn đề cần Mục tiêu Hoạt động

giải quyết

- Tâm lý tự ti, - Giúp thân chủ có cái nhìn - Trò chuyện cùng thân chủ,

chán nản và tích cực về cuộc sống, bớt chia sẻ với thân chủ để thân

mất niềm tin mặc cảm, tự ti, tích cực tham chủ cảm nhận thấy mình

vào cuộc sống gia các hoạt động tập thể, xã vẫn còn có ích, cảm nhận

hội mình vẫn đƣợc mọi ngƣời

quan tâm.

- Thuyết phục thân chủ

tham gia vào một số hoạt

của Chi hội NCT, của Hội

NCT, của thôn ở cộng đồng.

Mâu thuẫn với - Thân chủ có thể cùng - Gặp gỡ Chi hội trƣởng

thôn xóm ngƣời dân trong thôn giải Hội NCT, trƣởng thôn và

quyết mâu thuẫn. phó trƣởng thôn để có biện

- Thân chủ tiếp tục tham gia pháp can thiệp.

vào các hoạt động chung của - Nói chuyện cùng các hộ

của Chi hội NCT, của Hội dân để xóa bỏ hiểu lầm

NCT, của thôn ở cộng đồng.

Thu nhập thấp Tăng thu nhập cho gia đình + Hƣớng dẫn thủ tục hành

thân chủ chính cho gia đình thân chủ

hƣởng chính sách hộ nghèo

và vay vốn từ Ngân hàng

chính sách phát triển kinh tế

118

hộ gia đình.

+ Để cải thiện thu nhập tƣ

vấn phát triển kinh tế cho

gia đình thân chủ thông qua

hình thức chăn nuôi lợn:

cách lựa chọn giống, thức

ăn, kỹ thuật cho ăn, kỹ thuật

chăm sóc …

Ám ảnh bởi - Thân chủ dám đối diện với - Tham vấn tâm lý. Áp dụng

hình ảnh dì ghẻ quá khứ, nói về quá khứ. cơ chế lý thuyết phóng

trong quá khứ - Giảm dần, xóa bỏ ám ảnh chiếu của S. Freu

- Khuyến khích thân chủ

tham gia các hoạt động của

hội của Chi hội NCT, của

Hội NCT.

Lạm dụng rƣợu - Không hát, chửi hàng xóm - Giúp thân chủ hiểu tác hại

khi uống rƣợu. của rƣợu với cơ thể .

- Ít lạm dụng rƣợu mỗi khi - Giúp thân chủ biết các

chán nản hành vi mình thƣờng làm

khi say rƣợu và tác hại.

3.2.3.6. Bước 6: Kế hoạch trị liệu

Sau khi cùng thân chủ lên kế hoạch trị liệu, tôi từng bƣớc tiến hành các

hoạt động can thiệp.

Các hoạt động đã đƣợc tiến hành:

- Nói chuyện với bác Hùng và vợ về việc cách thức hoàn thiện thủ tục

hành chính hƣởng chính sách hộ nghèo, vay vốn từ ngân hàng chính sách,

119

chăn nuôi lợn; phân tích khía cạnh kinh tế từ chăn nuôi lợn thịt.

- Tổ chức họp khu dân cƣ, mời bác Hùng và bác Mai tham gia. Cùng

bác phó trƣởng thôn đi các hộ gia đình trong thôn để tìm hiểu và tác động để

hạn chế mâu thuẫn, hiểu lầm.

- Tƣ vấn cho bác Hùng các tác hại của rƣợu, tác động của các hành vi

lệch chuẩn khi say.

- Tiến hành các buổi trò chuyện riêng với bác Hùng về chuyện gia đình,

mong muốn của bác… Việc chia sẻ của tôi với thân chủ những nỗi niềm, tâm

tƣ; giúp thân chủ tin tƣởng vào tôi. Gợi ý tế nhị để bác Hùng nói về quá khứ,

nói về cuộc đời mình. Khuyến khích bác trò truyện, tham gia sinh hoạt của

Chi hội NCT.

3.2.3.7. Bước 7: Lượng giá

Tiến trình giúp đỡ thân chủ đƣợc tính từ khi tiếp xúc và đề cập vấn đề

cùng thân chủ đến khi kết thúc can thiệp đƣợc tôi và thân chủ thực hiện trong

khoảng thời gian từ 1/9/2014 – 2/1/2015. Từ ngày 25/12/2014 – 2/1/2015

dành cho lƣợng giá; đánh giá những gì đạt đƣợc và những gì chƣa đạt đƣợc;

tìm hiểu nguyên nhân và có các giải pháp khắc phục. Trong buổi này tôi đã

ngồi lại cùng thân chủ, vợ thân chủ để cùng đánh giá về tất cả yếu tố của quá

trình làm việc giữa tôi và thân chủ.

- Lƣợng giá về mục tiêu, mục đích:

Mục tiêu đề ra Kết quả Miêu tả cụ thể Nguyên nhân

Giúp thân chủ Bác Hùng đã nhận - Mục tiêu đề ra phù

có cái nhìn tích lời tham gia cùng các hợp với nguồn lực

cực về cuộc sống, hội viên trong Chi và thực tế.

bớt mặc cảm, tự Hội NCT trong nhiều - Tôi giúp thân chủ Đạt ti, tích cực tham hoạt động. Qua tiếp nhận ra sự giúp đữ

gia các hoạt động xúc với các hội viên, của mình và mọi

tập thể, xã hội bác có thêm nguồn ngƣời; để thân chủ

120

động viên, có nơi chia thấy mình có ích và

sẻ tâm tƣ, tình cảm do đƣợc trân trọng.

đó bớt đi nỗi mặc

cảm, tự ti

- Mâu thuẫn với mọi - Sự hợp tác của - Thân chủ có

ngƣời có dấu hiệu khu dân cƣ và sự thể cùng ngƣời

thuyên giảm. giúp đỡ của chính dân giải quyết

quyền địa phƣơng. mâu thuẫn.

- Thân chủ tiếp Đạt

tục tham gia vào

các hoạt động

chung của Chi

Hội NCT

Tăng thu nhập - Thân chủ đã xuất - Thân chủ có kỹ

cho thân chủ chuồng 3 con heo thịt, thuật chăn nuôi chu

tổng trọng lƣợng 2,1 đáo, đúng quy trình

kg (bình quân kỹ thuật, chăm sóc

Đạt 70kg/con), với giá công phu.

50.000đ/kg, tổng thu

10,5 triệu đồng, trừ

chi phí ông còn lãi 2,3

triệu đồng.

- Thân chủ dám - Thân chủ đã kể về - Nhân viên CTXH

đối diện với quá quá khứ của mình, có kỹ năng, phƣơng

khứ, nói về quá dám đối mặt. pháp, kinh nghiệm Đạt khứ. - Giảm bớt đƣợc giải quyết các

- Giảm dần, xóa những ám ảnh của trƣờng hợp thân chủ

121

bỏ ám ảnh thân chủ về quá khứ có vấn đề về tâm lý

- Thân chủ đã giảm - Sự hợp tác của Thân chủ đã

uống rƣợu. thân chủ với nhân giảm uống rƣợu,

- Thân chủ và vợ đã viên CTXH, sự gúp nhận đƣợc sự

nhận đƣợc sự giúp đỡ đỡ của chính quyền thấu hiểu, đồng

của chính quyền địa địa phƣơng, của mọi cảm của mọi

phƣơng, mọi ngƣời ngƣời trong khu dân ngƣời trong thôn,

trong khu dân cƣ. Đặc cƣ. tích cực tham gia Đạt biệt gia đình thân chủ vào hoạt động

văn hóa – xã hội nhận đƣợc sự cảm

của Chi Hội NCT thông của mọi ngƣời.

- Tham gia các hoạt

động văn hóa, văn

nghệ, thể dục thể

thao… của Chi Hội 4

- Lƣợng giá về hoạt động và mức độ tham gia:

Kết Đối tượng Nguyên Hoạt động Miêu tả cụ thể quả tham gia nhân

- Giới thiệu bác Hùng - Bác Hùng, đại - Chi Hội 4, đồng Đạt với Chi Hội NCT diện Chi NCT ý tiếp nhận.

Hƣớng dẫn thủ Vợ chồng Gia đình thân

tục hành chính cho thân chủ, cán chủ thuộc diện

gia đình thân chủ bộ xã hội, chính sách hộ

hƣởng chính sách Nhân viên giao nghèo và đƣợc vay

hộ nghèo và vay dịch Ngân Đạt vốn phát triển kinh

vốn từ Ngân hàng hàng chính tế hộ gia đình.

chính sách phát sách xã hội

triển kinh tế hộ gia huyện Yên

122

đình. Dũng

Để cải thiện thu Vợ chồng thân Xuất chuồng đợt

nhập tƣ vấn phát chủ 1: 3 con heo thịt,

triển kinh tế cho lãi 2,3 triệu đồng Đạt gia đình thân chủ

thông qua hình

thức chăn nuôi lợn

Tổ chức họp dân cƣ Ngƣời dân ở Mục đích họp để

Tiểu khu 4 giải quyết hiểu

lầm, mâu thuẫn mà Đạt

là nói xấu, mất

đoàn kết.

Tƣ vấn cho bác Thân chủ - Thân chủ đã

Hùng tác hại của Đạt giảm uống rƣợu.

rƣợu; cách bỏ rƣợu

Tham vấn tâm lý; Thân chủ - Thân chủ sống

xóa bỏ ám ảnh về vui vẻ, hòa đồng

123

Đạt quá khứ với mọi ngƣời.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN

Sự già hóa dân cƣ đang trở thành một trong những vấn đề chủ yếu nhất

của các cộng đồng, quốc gia và toàn cầu. Nhƣng ngƣời có tuổi vẫn là một

nhóm bị bỏ quên, bị vô hình trƣớc những ngƣời làm công tác phát triển.

Ngƣời cao tuổi thƣờng bị coi là phụ thuộc và thụ động về mặt kinh tế. Trong

trƣờng hợp tốt nhất, họ bị xem là ít quan trọng đối với sự phát triển, còn trong

trƣờng hợp tồi tệ nhất , họ bị xem là gây bất lợi cho phát triển. Ngƣời cao tuổi

chỉ nhận đƣợc phần nhỏ nguồn lực mà họ cần, trong khi những đóng góp tiếp

tục của họ cho xã hội lại không đƣợc thừa nhận. Nhiều NCT bị phân biệt đối

xử, bị loại trừ, thậm chí bị ngƣợc đãi, bị bạo hành [10, tr.2]. Trong bối cảnh

đó nghiên cứu về vai trò của nhân viên CTXH với NCT tại cộng đồng là rất

cần thiết. Mục đích của luận văn hƣớng đến nghiên cứu, phân tích, đánh giá

thực trạng chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT tại Thị trấn Neo –

huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang; Nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT. Trên

cơ sở đó đƣa ra những kiến nghị, đề xuất những vai trò của nhân viên CTXH

trong việc trợ giúp NCT tại Thị trấn Neo để NCT sống vui, sống khỏe, sống

có ích và hƣớng tới vận dụng một số biện pháp can thiệp công tác xã hội

trong việc hỗ trợ NCT tại cộng đồng. Những phân tích trong luận văn này góp

phần làm rõ mục đích nghiên cứu và là nguồn tƣ liệu bổ sung khoảng trống về

chủ đề nghiên cứu này.

Kết quả nghiên cứu cho thấy số NCT từ 60 – 69 chiếm tỷ lệ cao nhất, tỷ

lệ giới tính của nhóm NCT nghiêng về phía các cụ bà, đặc điểm này thể hiện

rõ ở các nhóm tuổi cao hơn. Mặc dù trình độ học vấn hay chuyên môn của

NCT đang ngày càng đƣợc nâng lên theo thời gian nhƣng trên thực tế vẫn còn

một nhóm nhỏ các cụ vẫn còn mù chữ. Chính hạn chế này sẽ gây nhiều khó

khăn cho NCT khi tham gia vào các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế gia

124

đình. Việc nâng cao trình độ học vấn của các cụ tại địa phƣơng chƣa có.

Hiện nay nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT ngày càng tăng. Nhu

cầu khám và điều trị chƣa đƣợc đáp ứng. Hiện nay chỉ có nhóm ngƣời về hƣu

đƣợc khám chữa bệnh tốt hơn các nhóm khác, nhờ Nhà nƣớc bỏ tiền để mua

bảo hiểm y tế cho họ. Gần đây nhóm ngƣời già cô đơn không nơi nƣơng tựa,

ngƣời cao tuổi nghèo ở địa phƣơng đƣợc cấp phát thẻ khám và chữa bệnh

miễn phí hoặc thẻ bảo hiểm y tế. Nhìn chung số NCT đƣợc hƣởng chế độ này

còn rất ít và hiệu quả của việc khám, chữa bệnh cho NCT rất hạn chế. Tuy sức

khỏe của NCT những năm gần đây có khá hơn trƣớc nhƣng hiện tại sức khỏe

ngƣời cao tuổi vẫn còn rất kém. Do hậu quả của chế độ cũ, chiến tranh hầu

hết trình độ học vấn của NCT rất thấp, những hiểu biết về y học thƣờng thức,

các biện pháp luyện tập, dự phòng và điều trị các bệnh thông thƣờng của

ngƣời cao tuổi còn rất nhiều hạn chế. Việc chăm sóc NCT tại các gia đình

đang ngày càng gặp nhiều khó khăn do điều kiện kinh tế, công việc của con

cái, quan hệ truyền thống giữa các thế hệ đang có sự sa sút. Mặt khác điều

kiện tiếp cận nhanh chóng của NCT với các cơ sở khám chữa bệnh còn nhiều

hạn chế.

Nhu cầu đƣợc làm việc, tiếp tục cống hiến cho gia đình và xã hội phù

hợp với sức khỏe và điều kiện của từng NCT cũng là một yêu cầu của các vị

cao niên. Đến hết tuổi lao động thì hƣởng chế độ nghỉ hƣu song nhiều NCT vẫn

có nhu cầu làm việc để có thêm thu nhập, để đƣợc sống có ích, ngoài việc tự mỗi

ngƣời phấn đấu để có sự cống hiến, nhiều vị cao niên vẫn muốn đƣợc gia đình

và xã hội quan tâm giải quyết và tạo điều kiện thuận lợi. Theo kết quả điều tra

cho thấy, có tới 70,7% những NCT vẫn còn phải lao động để kiếm sống. Họ phải

lo cho cuộc sống của chính họ và con cái. Trong tình hình lao động dƣa thừa nhƣ

hiện nay và trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế đều đòi hỏi có trình độ chuyên

môn cao thì tìm kiếm đƣợc một việc làm thích hợp với NCT là cực kỳ khó khăn.

Mong muốn có việc làm ở NCT hiện nay trƣớc hết là do họ không có nguồn

125

thu nhập, hoặc có nhƣng quá ít ỏi, không đủ sống.

Qua các số liệu điều tra cho ta thấy, hoạt động xã hội của NCT hiện nay

co lại trong phạm vi gia đình, thân tộc nhiều hơn. Các hoạt động xã hội rộng

lớn, mang tính cộng đồng làng, xã còn rất nghèo nàn. Nếu tình trạng này kéo

dài sẽ dẫn đến lạc hậu về thời cuộc và cô đơn trong cuộc sống của NCT. Từ

những đánh giá của chính bản thân những NCT, có thể sơ bộ rút ra một số

nhận xét: phần lớn NCT ở hiện nay có cuộc sống ổn định, tâm trạng lớn nhất

của họ là muốn gắn bó với gia đình, hòa nhập với xã hội để sống cho mình và

sống vì con cháu. Điều này khẳng định rằng: truyền thống đạo đức xã hội, gia

đình Việt Nam, lẽ sống của con ngƣời Việt Nam, thuần phong mĩ tục của con

ngƣời Việt Nam vẫn đƣợc bảo tồn và trụ vững. Tuy vậy, không phải không có

những xao xuyến, một số NCT có sự khủng hoảng về tâm lý. Họ bị con cháu

đối xử tệ bạc, cuộc sống của họ bị quẫn bách cả về vật chất và tinh thần, các

chuẩn mực về đạo đức, lối sống với gia đình của họ bị đảo lộn. Sự phát triển

của nền kinh tế thị trƣờng cùng với quá trình đô thị hóa đang làm nới lỏng dần

các mối liên hệ có tính truyền thống giữa gia đình, họ hàng, làng xóm… làm

xuất hiện những mâu thuẫn mới trong đời sống xã hội tác động xấu đến đời

sống tâm lý của lớp NCT. Đặc biệt là về chỗ dựa tinh thần truyền thống “Trẻ

cậy cha, già cậy con”, “Gia đình là chỗ dựa đầu tiên và là cứu cánh cuối

cùng”, “Kính lão trọng thọ”…

Do điều kiện kinh tế - xã hội ngày một phát triển, NCT tại địa phƣơng có

cuộc sống tâm lý, tinh thần tƣơng đối thỏa mái. Tuy cuộc sống còn nhiều khó

khăn song đời sống văn hóa tinh thần của NCT hiện khá đa dạng và thƣờng

xuyên đƣợc cải thiện. Hoạt động văn hóa phổ biến của NCT là đọc sách báo,

nghe đài, xem ti vi, đây là những hoạt động văn hóa thông tin thƣờng ngày của

NCT và là những hoạt động thích hợp với các cụ (chiếm 78,0%). Tuy nhiên hiện

nay các hoạt động này còn mang tính tự phát và đơn lẻ không có tổ chức. Việc

tham gia các hoạt động văn hóa xã hội có tác dụng tích cực đối với NCT. Một

mặt nó đem lại cho các cụ tinh thần thỏa mái sống, vui sống khỏe, mặt khác

126

phát huy tài năng trí tuệ của NCT phục vụ cho xã hội.

Bên cạnh những việc đã làm đƣợc dành cho NCT, công tác chăm sóc

NCT vẫn còn những khó khăn, bất cập, làm ảnh hƣởng đến hiệu quả công tác

chăm sóc NCT ở địa phƣơng trong thời gian qua. Nhìn chung các mô hình,

các loại hình chăm sóc chƣa đồng bộ và chƣa toàn diện, có nhiều yếu tố cản

trở về nguồn lực để duy trì phát triển rộng và bền vững ở cộng đồng. Chính

sách ban hành còn thiếu văn bản, hƣớng dẫn, triển khai cụ thể đến đối tƣợng.

Cán bộ quản lý công tác chăm sóc các cụ còn mang tính kiêm nhiệm, thiếu sự

quan tâm; không dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu và nâng cao kiến

thức về công tác trên. Hoạt động kiểm tra công tác chăm sóc còn chƣa sâu,

chƣa sát với tình hình thực tế, chƣa năm đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng của NCT

để điều chỉnh công tác chăm sóc NCT tốt hơn. Nhƣ vậy, có thể thấy vấn đề

chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng cũng có nhiều khó khăn. Kiến thức,

kỹ năng của các gia đình trong chăm sõ NCT hiện nay là khá yếu. Các mô

hình của các tổ chức xã hội ở cộng đồng họat động còn khá nhỏ lẻ chủ yếu là

hình thức của câu lạc bộ tự nguyện. Những hoạt động hỗ trợ các gia đình

NCT khó khăn ở cộng đồng còn chƣa đƣợc đẩy mạnh do những hạn chế về

nguồn lực tài chính, kiến thức, kỹ năng, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán

bộ cơ sở cùng những hạn chế, chính sách liên quan. Mặt khác vấn đề phát huy

vai trò của NCT còn đƣợc hiểu một cách khá chung chung và trừu tƣợng,

chƣa chú trọng vào các vấn đề thực tế, nên chúng ta vẫn còn lãng phí khá

nhiều lực về con ngƣời và chất xám của NCT trong việc phát triển kinh tế xã

hội ở các địa phƣơng nói riêng và cả nƣớc nói chung.

NCT đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong xã hội. Trong chính trị, NCT

là chỗ dựa quan trọng đối với Đảng, Nhà nƣớc và xã hội. Nhiều NCT còn sức

khoẻ vẫn tham gia tổ chức Đảng, đoàn thể, chính quyền ở cấp xã, ở thôn,

xóm, làng. Trong kinh tế, NCT là ngƣời đóng tích luỹ cho sự phát triển kinh

tế của đất nƣớc, tạo vốn đầu tƣ trong quá khứ. Đến khi tuổi đã cao, một bộ

127

phận NCT, đặc biệt là lao động có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm, vốn xã

hội… vẫn đang tham gia vào hoạt động kinh tế. Họ tham gia sản xuất, kinh

doanh vừa để tạo thu nhập, nâng cao chất lƣợng cuộc sống, góp phần xóa đói,

giảm nghèo và làm gƣơng để thế hệ trẻ noi theo. Trong văn hóa - giáo dục,

NCT là kho tàng kinh nghiệm quý giá vừa là cầu nối giữa quá khứ với hiện

tại, là ngƣời định hƣớng cho những ngƣời trẻ. Trong nghiên cứu khoa học,

ngoài việc khuyên dạy con cháu, dòng họ và mọi ngƣời áp dụng các tiến bộ

khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân,

nâng cao chất lƣợng cuộc sống… góp phần không nhỏ vào công cuộc công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Trong xã hội, NCT tham gia rất nhiều hoạt

động ở các lĩnh vực có những đặc điểm đặc thù, chỉ NCT mới đảm nhiệm

đƣợc nhƣ: Tham gia vào tổ hòa giải, tổ dân phố, hội khuyến học, hoạt động từ

thiện; Tuyên truyền phòng chống tội phạm, xây dựng gia đình văn hóa

NCT… Từ những thành quả đã đạt đƣợc có thể thấy NCT ngày càng đóng vai

trò to lớn trong việc phát triển văn hóa xã hội. Trong gia đình, NCT có vị trí

rất quan trọng trong gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam. NCT luôn

đƣợc coi là trụ cột tinh thần, đạo đức của gia đình dòng họ. Có vai trò quan

trọng trong việc giáo dục con cháu xây dựng gia đình văn hoá, dòng họ văn

hoá, thực hiện phong trào “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”.

Có 81,4% NCT tham gia vào các phong trào xây dựng gia đình văn hoá, khu

dân cƣ văn minh, tỷ lệ hộ có NCT đạt danh hiệu gia đình văn hoá cao hơn tỷ

lệ chung.

2. KIẾN NGHỊ

Từ những kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên chúng tôi xin nêu một

số đề xuất và kiến nghị sau:

2.1. Đối với chính quyền, tổ chức, đoàn thể tai địa phƣơng

Quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trƣơng của Đảng, các quy

128

định pháp luật của Nhà nƣớc về NCT trong cán bộ, nhân dân trong công tác

chăm sóc và phát huy NCT. Nhất là việc chăm sóc giúp đỡ NCT, hộ gia đình

NCT có hoàn cảnh đặc.

Lồng ghép vấn đề NCT vào các chƣơng trình phát triển kinh tế – văn

hóa – xã hội tại địa phƣơng.

Đẩy mạnh truyền thông và giáo dục truyền thống tốt đẹp, đạo lý tôn

trọng NCT để ngƣời dân hiểu đúng và thực hiện đúng và đủ công tác chăm

sóc và phát huy vai vai trò NCT.

Bố trí đúng và đủ ngân sách, nguồn lực cho các hoạt động chăm sóc

NCT.

Triển khai xây dựng Quỹ chăm sóc NCT theo quy định của Luật NCT

trên cơ sở đó hỗ trợ nâng cao chất lƣợng chăm sóc đời sống vật chất của

NCT.

Hỗ trợ, nhân rộng mô hình các trung tâm, câu lạc bộ của NCT. Kịp thời

nêu gƣơng và biểu dƣơng NCT có thành tích, phát huy tốt vai trò ở địa

phƣơng, các tổ chức cá nhân có thành tích, sáng kiến tốt trong trong chăm sóc

và phát huy vai trò NCT tại cơ sở.

Tăng cƣờng việc theo dõi, giám sát, đánh giá trong các hoạt động chăm

sóc NCT tại cơ sở.

Thực hiện nghiêm chỉnh và thƣờng xuyên công tác sơ kết, tổng kết

công tác NCT.

Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, và có sự bảo đảm cho các đối tƣợng

chính sách, các đối tƣợng diện hỗ trợ xã hội.

Tăng cƣờng việc đào tạo cán bộ xã hội có chuyên môn và phẩm chất

đạo đức. Tăng cƣờng công tác biên soạn tài liệu, truyền thông cho cán bộ,

công đồng, biên soạn tài liệu hƣớng dẫn NCT tự chăm sóc và chăm sóc NCT

tại gia đình và cộng đồng.

Hội NCT cần tích cực đẩy mạnh phong trào “Thi đua yêu nước”, “Tuổi

129

cao gương sáng” với những hoạt động thiết thực, phát huy vai trò của NCT

trong nhiều lĩnh vực, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới, phát triển

kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, khuyến học,

khuyến tài…

Hội tích cực, chủ động tham gia vận động hội viên tham gia bảo hiểm y

tế toàn dân.

Hội làm tốt vai trò nòng cốt trong phong trào “Toàn dân chăm sóc,

phụng dưỡng, phát huy vai trò của người cao tuổi”.

Hội phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện

chính sách bảo trợ xã hội cho NCT theo Luật NCT. Làm tốt công tác chúc

thọ, mừng thọ, ngày lễ, ngày kỷ niệm…

Hội cần phối hợp với các cấp, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp,

các nhà hảo tâm chung tay chăm lo cho NCT nghèo, NCT khuyết tật, cô đơn,

không nơi nƣơng tựa, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các gia đình chính sách.

Hội phối hợp với các cơ quan chức năng hỗ trợ xây dựng xây dựng nhà

đọa đoàn kết cho NCT hộ nghèo.

Hội NCT tại địa phƣơng phối hợp với các đoàn thể tại địa phƣơng tạo

điều kiện cho NCT tham gia hoạt động kinh tế để tăng thu nhập, những công

việc đó phải phù hợp với khả năng và thế lực của NCT.

Hội NCT có trách nhiệm là chỗ dựa vững chắc và ổn định cho NCT

ngoài gia đình, để họ có thể gửi gắm tâm tƣ, nguyện vọng, tham gia đóng góp

ý kiến của mình vào sự phát triển của đất nƣớc.

2.2. Đối với gia đình

Nâng cao tinh thần trách nhiệm của con, cháu trong việc chăm sóc cha

mẹ, ông bà. Tạo một môi trƣờng gia đình hạnh phúc, tình thƣơng yêu và hiểu

biết lẫn nhau. Tôn trọng truyền thống kính già, yêu trẻ.

Nâng cao trách nhiệm của cha mẹ, ông bà trong việc chăm sóc con,

cháu, tạo môi trƣờng để phát triển toàn diện và hài hòa mọi khả năng của mỗi

130

thành viên trong gia đình.

Tổ chức nhiều hình thức giáo dục tuyên truyền phát huy những chuẩn

mực đạo đức xã hội trong ứng xử với NCT, phù hợp với truyền thống tốt đẹp

của dân tộc và tiến trình phát triển của đất nƣớc.

Cần tăng cƣờng học hỏi những kiến thức và kỹ năng chăm sóc NCT

thông qua các lớp tập huấn, tìm hiểu các kênh thông tin để có sự quan tâm

chăm sóc chu đáo, phù hợp với những đặc thù riêng của NCT.

Có chính sách ƣu đãi, khuyến khích các gia đình sống cùng NCT và tự

nguyện chăm sóc NCT tại nhà. Tăng cƣờng tổ chức các hoạt động giao lƣu

giữa các gia đình trong chăm sóc NCT gắn với văn hóa và các thiết chế xã hội

tại địa phƣơng.

Củng cố và tăng cƣờng thiết gia đình, dòng họ, tăng cƣờng xây dựng

gia đình văn hóa đấu tranh với những thói hƣ, tật xấu, những biểu hiện tiêu

cực trong gia đình. Củng cố vấn đề giáo dục và truyền thông về các giá trị văn

hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong gia đình, mà ở đó chính sự khẳng

định vai trò của NCT đối với gia đình và xã hội.

Huy động sự đóng góp các gia đình thành lập quỹ hỗ trợ NCT tại cộng đồng.

Động viên, khuyến khích NCT tham gia vào các hoạt động đoàn thể,

các hoạt động xã hội, văn hóa, văn nghệ của địa phƣơng.

2.3. Đối với nhân viên CTXH

Cần trao dồi, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm từ thực tế nhiều hơn. Đi

sâu, đi sát vào thực tế cuộc sống của NCT để thấy họ thực sự cần gì, mong

muốn gì. Tăng cƣờng tham gia lớp tập huấn kỹ năng và năng lực chuyên môn

do ngành tổ chức. Luôn học hỏi kinh nghiệm, trao đổi với đồng nghiệp những

ngƣời đi trƣớc hoạt động cùng lĩnh vực khi gặp vấn đề khó khăn để đạt kết

quả cao trong quá trình trợ giúp NCT.

Sau mỗi mô hình trợ giúp cần có đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm

thành công, thất bại tìm ra những nguyên nhân và phƣơng pháp trợ giúp hiệu

131

quả hơn.

Cần vận dụng triệt để các kỹ năng, phƣơng pháp đã đƣợc học và kỹ

năng trong cuộc sống hàng ngày. Các phƣơng pháp: phƣơng pháp CTXH cá

nhân, phƣơng pháp CTXH nhóm. Các kỹ năng nhƣ: Kỹ năng quan sát (quan

sát trong CTXH cá nhân, quan sát trong CTXH nhóm với nhóm NCT); kỹ

năng lắng nghe; kỹ năng xử lý sự im lặng; kỹ năng thấu cảm; kỹ năng đặt câu

hỏi; kỹ năng tự bộc lộ; kỹ năng vận động và kết nối nguồn lực; kỹ năng điều

phối… Khi giải quyết một số vấn đề, một tình huống các kỹ năng không phải

sử dụng đơn lẻ mà cần có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn, đan xen lẫn

nhau nhằm đem đến sự giúp đỡ tối ƣu nhất cho thân chủ.

Trong quá trình trợ giúp NCT để làm tốt vai trò nhân viên CTXH ngoài

trình độ chuyên môn, năng lực còn đòi hỏi nhân viên CTXH phải có phẩm

chất đạo đức tốt:

Thứ nhất là tính hòa đồng: Muốn tiếp cận cộng đồng, nhân viên CTXH

phải có phong cách hòa đồng, cùng ăn cùng ở cùng làm với ngƣời NCT nói

riêng và ngƣời dân nói chung. Lắng nghe, đồng cảm, chấp nhận họ, điều này

sẽ giúp nhân viên CTXH trở nên hòa đồng hơn.

Thứ hai là tính trung thực: Nhân viên CTXH phải luôn trung thực với

ngƣời dân và với chính mình. Nhân viên CTXH luôn ý thức về chính bản thân

mình, chấp nhận những yếu kém nếu có, không nên tự cao tự đại, tỏ ra là

ngƣời hiểu biết trong khi năng lực quá kém, luôn luôn học hỏi để trao rồi kiến

thức từ chính cộng đồng, ngƣời dân và các đồng nghiệp cũng hợp tác với

mình. Sự ba hoa, hứa hẹn, tạo uy tín bằng chính cái mình không có, không

thuộc về phẩm chất của tác viên cộng đồng.

Thứ ba là tính kiên nhẫn, nhẫn lại: Nhân viên CTXH mới vào nghề

thƣờng hay nóng vội, muốn thấy thành tích ngay nên hay áp đặt ý kiến, cách

nghĩ của mình. Họ dễ ngả lòng khi dân không thực hiện điều mong muốn của

họ. Sự thay đổi trong thái độ và hành vi của ngƣời dân không thể diễn ra một

132

sớm, một chiều. Do vậy, nhân viên CTXH phải biết kiên trì và nhẫn lại.

Thứ tư là tính khiêm tốn, biết học hỏi nơi người dân: Trong phát triền

cộng đồng học hỏi không chỉ có một chiều từ nhân viên CTXH đến ngƣời dân

mà nhân viên CTXH học rất nhiều từ sự hiểu biết, kinh nghiệm cuộc sống của

dân. Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp cho nhân viên CTXH lắng nghe, đón nhận

ý kiến từ dân. Chấp nhận sự đóng góp của ngƣời dân giúp cho nhân viên

CTXH phát triền toàn diện hơn.

Thứ năm là tính khách quan, vô tư: Tinh thần khách quan, vô tƣ giúp

nhân viên CTXH giải quyết những mâu thuẫn trong cộng đồng và làm tốt vai

trò liên kết các thành viên, các nhóm.

Để công việc đạt hiệu quả nhất trong sự trợ giúp yêu cầu nhân viên CTXH

phải có đạo đức phù hợp với giá trị, chuẩn mực của xã hội và đƣợc mọi ngƣời

133

chấp nhận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đặng Nguyên Anh (1998), Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới

kinh tế - xã hội đất nước, Tạp chí Xã hội học, số 1 (61)

2. Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ 6 tháng

cuối năm 2014 của Hội Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng –

tỉnh Bắc Giang

3. Chu Vĩnh Bình (2010), Cuộc sống người cao tuổi, NXB Thế giới, Hà Nội.

4. Bộ Tƣ pháp (2010), Luật người cao tuổi, NXB Tƣ Pháp, Hà Nội.

5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Gia đình với người cao tuổi, Tài liệu

giáo dục đời sống gia đình.

6. Bộ Văn hoá, Thể Thao và Du lịch, UNICEF, Tổng cục Thống kê, Viện

Gia đình và Giới (2008), Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006,

Hà Nội

7. Nguyễn Đình Cao (2007), Chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, NXB Hà Nội.

8. Kim Chi, Tình trạng già hóa dân số thế giới 1950-2050, trích dịch từ

United ations, World Population Aging 1950-2050, Dân số và phát triển

số 10-2002.

9. Phạm Khắc Chƣơng (1996), Người già – tiềm năng to lớn trong giáo dục

gia đình.

10. Bùi Thế Cƣờng (2005), Trong miền anh sinh xã hội: Nghiên cứu về tuổi

già Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Bùi Thế Cƣờng (2005), Nghiên cứu phúc lợi xã hội: Nhìn lại một chặng

đường - (Trƣờng hợp một chƣơng trình nghiên cứu và triển khai) thuộc

Chƣơng trình nghiên cứu phúc lợi xã hội của Viện xã hội học, Tạp chí Xã

hội học, số 4 (92), tr.13 – 25.

12. Bùi Thế Cƣờng, Đặng Thị Việt Phƣơng, Trịnh Huy Hóa dịch (2012), Từ

134

điển XHH Oxford, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Nguyễn Xuân Cƣờng, Lê Trung Sơn (2003), Thực trạng người cao tuổi

và giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi ở Hà Tây, Tạp

chí dân số và phát triển, số 3, 2004, tr. 30 – 36.

14. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

15. Đàm Hữu Đắc, Phạm Huy Thụ, Hoàng Thị Việt Phƣơng (2013), Tài liệu

tập huấn công tác Hội Người cao tuổi năm 2013, NXB Lao động.

16. Trần Thị Minh Đức, Giáo trình tham vấn tâm lý, NXB Đại học quốc gia

Hà Nội.

17. Nguyễn Ý Đức, Vấn đề người cao tuổi, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

18. Trƣơng Thị Khánh Hà (2013), Giáo trình tâm lý học phát triển, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Lê Đức Hinh - Chủ tịch Hội Thần kinh học Việt Nam, Vấn đề tâm lý xã

hội của tuổi già.

20. Nguyễn Thị Kim Hoa (Chủ biên, 2013), Giáo trình công tác xã hội với

người cao tuổi, Hà Nội.

21. Phạm Vũ Hoàng (2013), Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc

người cao tuổi Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế.

22. Hội thảo “Già hóa dân số và định hướng xây dựng Chương trình Hành

động Quốc gia vì Người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020”,

20/9/2011.

23. Tô Duy Hợp, Lƣơng Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng Lý thuyết

và vận dụng, NXB Văn hóa thông tin, Hà nội

24. Tô Duy Hợp, Nguyễn Lâm Tuấn Anh (2008), Giáo trình Xã hội học nông

thôn, Khoa Xã hội học - Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn –

135

Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Nguyễn Thế Huệ (2008), Thực trạng người cao tuổi tại Hải Dương,

Quảng Bình và Đắc Lắk, Tạp chí Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, số

10/2004, website Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.

26. Nguyễn Thế Huệ (2007), Người cao tuổi và bạo lực gia đình, NXB Tƣ

Pháp, Hà Nội.

27. Nguyễn Thế Huệ (2008), Người cao tuổi và già làng trong phát triển bền

vững Tây Nguyên, NXB Thông Tấn, Hà Nội.

28. Nguyễn Thế Huệ (2010), Thực trạng đời sống của người cao tuổi từ 80

trở lên, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

29. Nguyễn Thế Huệ (2013), Cẩm nang chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi ở

cơ sở, NXB Chính trị Quốc gia; Bách khoa Hà Nội.

30. Nguyễn Thế Huệ, Lê Văn Nhẫn (2005), Thực trạng thu nhập và mức sống

của người cao tuổi Việt Nam, Hà Nội.

31. Nguyễn Thế Huệ, Lê Văn Nhẫn (2004), Người cao tuổi Việt Nam trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Khoa học Xã hội.

32. Nguyễn Thế Huệ, Đinh Văn Tƣ (2010), Nâng cao chất lượng hoạt động

của Hội người cao tuổi Việt Nam thời kỳ mới, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

33. Nguyễn Thế Huệ, Nguyễn Tấn Trịnh (2005), Hệ thống các văn bản chính

sách của Đảng và Nhà nước về người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới, NXBThống kê.

34. Hoàng Mộc Lan, Đời sống tinh thần của người cao tuổi Việt Nam hiện

nay, Khoa Tâm lý học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

35. Nguyễn Kim Lân (2006), Ứng xử với người cao tuổi trong gia đình, NXB

Phụ nữ, Hà Nội.

36. Nguyễn An Lịch (Chủ biên, 2013), Giáo trình nhập môn công tác xã hội,

136

NXB Lao động, Hà Nội.

37. Nguyễn Kim Liên (2008), Giáo trình phát triển cộng đồng, NXB Lao

động, Hà Nội.

38. Đặng Vũ Cảnh Linh (2009), Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao

tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc NCT đang áp dụng, NXB

Dân trí, Hà Nội.

39. Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo (2005), Bách khoa người cao tuổi, NXB

Từ điển Bách khoa.

40. Trịnh Thị Nguyệt (2014), Tìm hiểu hoạt động chăm sóc, hỗ trợ cho người

cao tuổi tại các trung tâm chăm sóc tập trung trên địa bàn Hà Nội -

(Nghiên cứu trƣờng hợp tại Trung tâm bảo trợ xã hội 3 và Trung tâm chăm

sóc ngƣời cao tuổi Thiên Đức), Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội.

41. Nguyễn Hữu Nhân (2004), Phát triển cộng đồng, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2013), “Vai trò của câu lạc bộ giáo dục chăm

sóc sức khỏe dành cho người cao tuổi tại cộng đồng” - (Nghiên cứu

trƣờng hợp Chi hội giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Đông A- Nam

Định), Luận văn Thạc sĩ Xã hội học.

43. Nguyễn Văn Nhƣơng (2004), Cẩm nang chăm sóc sức khoẻ người cao

tuổi, NXB Thanh Niên.

44. Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), Già hóa dân số và người cao tuổi

ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách,

7/2011.

45. Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), New York và Tổ chức Hỗ trợ

Ngƣời cao tuổi quốc tế (HelpAge International), Già hóa trong Thế kỷ 21:

Thành tựu và Thách thức, 2012.

46. Lê Thanh Sơn, Phan Lê Thu Hằng (2004), Thực trạng người cao tuổi tại

Hà Tây 2003, Tạp chí Dân số và Phát triển, số 10/2004, website Tổng cục

137

Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.

47. Mai Thị Kim Thanh (2011), Giáo trình nhập môn Công tác xã hội, NXB

Giáo dục Việt Nam.

48. Dƣơng Chí Thiện (1999), Sự tham gia hoạt động xã hội của người cao

tuổi ở đồng bằng sông Hồng, Tạp chí Xã hội học, số 2 (66), tr.62 – tr.65.

49. Hà Văn Thuật (2013), Chính sách của Đảng, Nhà nước về chăm sóc,

phụng dưỡng và phát huy vai trò của người cao tuổi: Hỏi và đáp, NXB

Chính trị Quốc gia.

50. Hà Thị Thƣ (2007), Giáo trình tâm lý học phát triển, NXB Lao động Xã

hội, Hà Nội.

51. Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (2009), Tổng quan kết quả

nghiên cứu, điều tra về cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, Hà Nội.

52. Trung tâm Từ điển học (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đằ Nẵng, Đà

Nẵng.

53. Lê Truyền, Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cƣờng, Trần Thị Vinh, Vũ Hoa

Thạch, Đỗ Thịnh (1994), Người cao tuổi và an sinh xã hội: Đề tài "người

cao tuổi và an sinh xã hội" được sự tài trợ cũa quỹ Toyota/Tương lai,

NXB Khoa học Xã hội.

54. Trần Đình Tuấn (2010), Công tác xã hội: Lý thuyết và thực hành, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

55. Trịnh Văn Tùng, Tóm tắt từ Piene Ansart và Andre Aknoun, Từ điển Xã

hội học, Paris, Nhà xuất bản Le Robert và Seuil, 1999

56. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (2006), Nghiên cứu một số đặc trưng

của người cao tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc người cao

tuổi đang áp dụng, Tạp chí Dân số và Phát triển (số 5/2006),website Tổng

cục Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.

57. Hoàng Thúy Vi (2014), Nhận thức về tự chăm sóc sức khỏe của người

138

cao tuổi ở Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học.

58. Viện nghiên cứu Ngƣời cao tuổi Việt Nam, Thực trạng người cao tuổi

Việt Nam nhằm phát huy tài năng và trí tuệ của họ trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa 2002-2003.

Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

59. Annette L. Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton S. Cooper, Diane G. Ives,

MPH, and John A. Robbins, Barriers to Health Care Access Among the

Elderly and Who Perceives Them, US National Library of Medicine

National Institutes of Health, 10/2004.

60. Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon and Paiboon Boonchai,

Developing Model of Health Care Management for the Elderly by

Community Participation in Isan.

61. Dean Blevins, Bridget Morton, and Rene McGovern, Evaluating a

community-based participatory research project for elderly mental

healthcare in rural America, US National Library of Medicine National

Institutes of Health.

62. Melen R.McBride, Nancy Morioka.Douglas and Gwen Veo, Aging and

health: Asian and Pacific Islander American Elders, Stanford Geriatric

Education center.

63. M.A. Suppes, C.C. Wells (1994), The social work experience: An

introduction to the profession, McGraw-Hill, Inc.

64. Robert L. Barker, The Social work dictionary, 5th Edition NASW PRESS

Website

65. http://quynguoicaotuoinghean.vn/vi/news/Suc-Khoe-Nguoi-Cao-

Tuoi/Phat-huy-vai-tro-nguoi-cao-tuoi-trong-giao-duc-doi-song-gia-dinh-o-

Viet-Nam-80/

66. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2682385/, 9/2008.

139

67. http://hoithankinhhocvietnam.com.vn/van-de-tam-ly-xa-hoi-cua-tuoi-gia/

68. http://www.socialwork.vn/d%E1%BB%9Di-s%E1%BB%91ng-tinh-

th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cao-

tu%E1%BB%95i-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam-

hi%E1%BB%87n-nay/

69. http://www.socialwork.vn/t%E1%BB%95ng-quan-chinh-sach-

c%E1%BB%A7a-d%E1%BA%A3ng-nha-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-

v%E1%BB%81-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cao-tu%E1%BB%95i/

70. http://www.socialwork.vn/h%E1%BB%99i-th%E1%BA%A3o-gia-hoa-

dan-s%E1%BB%91-va-d%E1%BB%8Bnh-h%C6%B0%E1%BB%9Bng-

xay-d%E1%BB%B1ng-ch%C6%B0%C6%A1ng-trinh-hanh-

d%E1%BB%99ng-qu%E1%BB%91c-gia-vi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-

cao-tu/

71. http://vietnam.unfpa.org/webdav/site/vietnam/shared/Publications%20201

1/Ageing%20report_VIE_27.07.pdf

72. http://www.socialwork.vn/t%E1%BB%95ng-quan-chinh-sach-

c%E1%BB%A7a-d%E1%BA%A3ng-nha-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-

v%E1%BB%81-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cao-tu%E1%BB%95i/

73. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1448535/

74. http://medwelljournals.com/fulltext/?doi=sscience.2009.439.442

tro-nguoi-cao-tuoi-trong-giao-duc-doi-song-gia-dinh-o-Viet-Nam-80/

140

75. http://quynguoicaotuoinghean.vn/vi/news/Suc-Khoe-Nguoi-Cao-Tuoi/Phat-huy-vai-

PHỤC LỤC

Phụ lục 1

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

Mã số

Thƣa ông/bà,

Để thực hiện nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nhân viên công tác xã

hội với người cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn

Neo - huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang), nhằm tìm hiểu về thực trạng chăm

sóc, nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của ngƣời cao tuổi tại cộng đồng. Trên cơ sở đó

đánh giá đƣợc tầm quan trọng về vai trò của nhân viên công tác xã hội trong

việc hỗ trợ ngƣời cao tuổi tại cộng đồng. Đƣợc sự đồng ý của chính quyền

Thị trấn Neo, cháu rất mong nhận đƣợc sự tham gia, đóng góp ý kiến của

ông/bà.

Thông tin do ông/bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu và

tuyệt đối đƣợc đảm bảo giữ bí mật thông tin. Ông/bà hoàn toàn có thể từ chối

trả lời bất cứ câu hỏi nào trong bộ phiếu hỏi.

Xin ông/bà vui lòng hãy khoanh tròn vào các con số tƣơng ứng với câu

trả lời hoặc đƣa ra ý kiến trả lời vào phần “...” ở dƣới đây.

CÂU HỎI

TRẢ LỜI

ST T

MÃ SỐ

GHI CHÚ

Một số thông tin chung về ngƣời cao tuổi

1

Tuổi (hoặc năm sinh)

....................

2

Giới tính

Nam Nữ

1 2

3

Tình trạng hôn nhân hiện tại của ông/bà?

Có vợ/chồng Không vợ/chồng

1 2

Li hôn/li thân Góa

3 4

141

4

Hiện nay ông/bà sống cùng với ai?

Sống trong gia đình nhiều thế hệ Sống với vợ/chồng

1 2

Sống với con/cháu Sống một mình

3 4

5

Trình độ học vấn cao

Không biết chữ

1

nhất mà ông/bà đã đạt đƣợc là gì?

Chƣa tốt nghiệp cấp 1 Tốt nghiệp cấp 1 Tốt nghiệp cấp 2

2 3 4

Tốt nghiệp cấp 3 Trung cấp/Cao đẳng/ Đại học

5 6

Trên Đại học

7

6

Nghề nghiệp trƣớc đây của ông/bà là gì?

Công chức, viên chức Công nhân

1 2

Nông dân Dịch vụ/Buôn bán Nội trợ

3 4 5

Khác

6

Một số thông tin về sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe

7

Tình trạng sức khỏe của ông/bà hiện nay

Tốt Trung bình

1 2

nhƣ thế nào?

Kém

3

8

Theo ông/bà ngƣời cao tuổi một năm cần khám

1 lần 2 lần

1 2

sức khỏe định kỳ mấy lần?

Trên 3 lần Không cần thiết

3 4

5

Ý kiến khác (Ghi rõ).................................. ……………………………………………

9

Ông/bà thƣờng làm khi

Mua thuốc điều trị tại nhà

1

ốm, bệnh tật?

Chữa bằng phƣơng pháp dân gian, truyền thống

2

Trạm xá, bệnh viện Bác sĩ đến nhà Ý kiến khác (Ghi rõ)..................................

3 4 5

…………………………………………..

142

10 Ai là ngƣời chăm sóc và hỗ trợ khi ông/bà

Hoàn toàn tự phục vụ Con/cháu giúp đỡ

Có thể chọn

1 2

ốm đau/bệnh tật

Vợ/ chồng Anh/chị/em

nhiều phương án

3 4

5 6

Bạn bè, đồng nghiệp Hàng xóm, láng giềng

7 8

Chính quyền các cấp Các hội/đoàn thể địa phƣơng

9

Tổ chức xã hội khác

1

11 Các thành viên trong

Rất thƣờng xuyên

2 3

gia đình có quan tâm tới sức khỏe của ông/bà

Thƣờng xuyên Thỉnh thoảng

4

không?

Không bao giờ

1

12 Ông/bà có cảm thấy hài

Rất hài lòng

2 3

lòng trƣớc sự quan tâm, chăm sóc của các thành

Hài lòng Không hài lòng

viên trong gia đình không?

Một số thông tin về hoạt động lao động, nhu cầu lao động

1 2

Nếu có chuyển

13 Hiện nay ông/ bà có tham gia hoạt động

Không tham gia Nông nghiệp

kinh tế nào hay không?

3 4

xuống câu 14, 15

Công nghiệp Thƣơng mại/dịch vụ

5 6

Tiểu thủ công nghiệp Khác

1 2

Có thể chọn

14 Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của

Nâng cao thu nhập Rèn luyện sức khỏe

ông/bà là gì?

3 4

nhiều phương án

Giúp tinh thần thoải mái Tiếp tục phát huy tài năng trí tuệ

5 6

Gồm các ý 1, 2, 3, 4 Ý kiến khác (Ghi rõ).....................

.......................................................

1

15

Thời gian làm việc của

Dƣới 5 giờ

2 3

ông/bà trong một ngày là bao nhiêu giờ?

Từ 5 – 8 giờ Từ 8h – 10h

4

Trên 10h

143

16 Nguồn thu nhập chính của ông/bà từ đâu?

Từ lao động sản xuất của bản thân Trợ cấp xã hội

Có thể chọn

1 2

nhiều phương án

Lƣơng hƣu Trợ cấp mất sức

3 4

Trợ giúp của anh/chị/em, con/cháu Sổ tiết kiệm/Tích lũy từ trƣớc

5 6

Không có nguồn thu nhập Nguồn khác

7 8

17 Tổng thu nhập hàng

Dƣới 500.000 đồng Từ 500.000 – 1000.000 đồng

tháng của ông/bà là bao

1 2

nhiêu?

Từ 1000.000 – 1500.000 đồng Từ 1500.000 – 2000.000 đồng

3 4

Trên 2000.000 đồng

5

18 Thu nhập hàng tháng

Rất Đủ

1

hiện tại có đủ chi trả cho cuộc sống tối thiểu

Đủ chi tiêu Không đủ

2 3

của ông/bà không?

Quan hệ xã hội và nhu cầu đƣợc quan tâm, tôn trọng

19 Xin ông/bà cho biết

thời gian ông/bà dành

Gặp gỡ hàng ngày Một vài lần/tuần

1 2

để đi thăm họ hàng, bạn bè?

Một vài lần/tháng Không gặp gỡ/thăm hỏi

3 4

20 Ông/bà có những ngƣời bạn cố tri ân để tâm sự, chia sẻ và giúp đỡ lẫn

Có trên 5 ngƣời Có 3 – 4 ngƣời Có 1 – 2 ngƣời

1 2 3

nhau ?

Không có bạn thân

4

21

Ai là ngƣời mà ông/bà thƣờng tâm sự, chia sẻ?

Con trai Vợ/chồng

1 2

Có thể chọn

Con gái Con dâu/rể

3 4

nhiều phương án

Bạn bè/đồng nghiệp Hàng xóm, láng giềng

5 6

Không tâm sự, chia sẻ Ngƣời khác

7 8

144

22 Tâm trạng của ông/bà trong cuộc sống hàng

Vui vẻ, thoải mái Tâm trạng bình thƣờng

1 2

ngày nhƣ thế nào?

Thƣờng xuyên thấy lo lắng Cô đơn

3 4

Một số thông tin về hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của

ngƣời cao tuổi

23 Ông/bà thƣờng làm gì

Chơi với cháu/bạn bè/hàng xóm

Có thể

1

khi có thời gian rảnh

Nghe đài, xem ti vi, đọc báo Sinh hoạt đoàn thể/câu lạc bộ

chọn nhiều

2 3

Sinh hoạt tôn giáo Tham quan du lịch

phương án

4 5

Tham gia công tác xã hội Hoạt động khác

6 7

24 Số lƣợng hội/ đoàn

Không tham gia tổ chức nào Từ 1 - 2

thể/câu lạc bộ ông/bà

1 2

tham gia ở địa phƣơng?

Từ 2 - 3 Trên 3

3 4

25 Xin ông/bà cho biết

Rất thƣờng xuyên Thƣờng xuyên

mức độ tham gia?

1 2

Thỉnh thoảng Không bao giờ

3 4

26 Ông/bà cho biết lợi ích

khi tham gia các hoạt

Đƣợc quan tâm, giúp đỡ Sống khỏe, lạc quan, yêu đời Nâng cao

Có thể chọn

1 2

động văn hóa – xã hội?

hiểu biết Gồm các ý 1, 2, 3

nhiều phương án

3 4

Ý kiến khác (Ghi rõ)................... .....................................................

5

Một số thông tin về hỗ trợ ngƣời cao tuổi của cán bộ xã hội và chính quyền địa phƣơng.

145

27 Chính quyền địa

phƣơng có chƣơng

Tổ chức tƣ vấn, khám chữa bệnh định kỳ và cấp thuốc miễn phí

Có thể chọn

1

trình, chính sách gì hỗ trợ chăm sóc ngƣời cao

Cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí Thăm hỏi động viên và quan tâm, chăm

nhiều phương án

2 3

tuổi không?

sóc lúc ốm đau Giúp đỡ về vật chất khó khăn

4

5 6

Tổ chức tham quan du lịch Tổ chức lễ mừng thọ, tặng quà trong các

7

dịp lễ, tết Ý kiến khác (Ghi rõ).................................

28 Cán bộ xã hội địa

phƣơng có hỗ trợ gì

1

Tƣ vấn hình thức chăm sóc sức khỏe, chế độ dinh dƣỡng phù hợp

Có thể chọn

cho ông/bà về chăm sóc sức khỏe?

2 3

Tƣ vấn khám chữa bệnh Tổ chức các lớp thể dục thể thao

nhiều phương án

4 5

Cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ tại nhà Không hỗ trợ

6

Ý kiến khác (Ghi rõ).................... ......................................................

29 Hỗ trợ tâm lý của cán

Lắng nghe, trò chuyện

1

Có thể

bộ xã hội cho ông/bà?

2 3

Tham vấn tâm lý Kết nối ngƣời cao tuổi với các câu lạc bộ phù hợp

chọn nhiều phương án

4

Nâng cao nhận thức của gia đình và cộng đồng

5 6

Không hỗ trợ Ý kiến khác (Ghi rõ)....................

......................................................

1

Có thể chọn

30 Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội cho ông/bà?

Hƣởng các chế độ chính sách của nhà nƣớc (nếu có)

2 3

Cung cấp kiến thức về kinh tế hộ gia đình Tiếp cận với các nguồn tín dụng/ƣu đãi

nhiều phương án

4 5

Kết nối dịch vụ việc làm Không hỗ trợ

6

Ý kiến khác (Ghi rõ).................... ......................................................

146

31 Ông/bà có thƣờng

xuyên nhận đƣợc sự hỗ

Rất thƣờng xuyên Thƣờng xuyên

1 2

trợ từ phía cán bộ xã hội, chính quyền địa

Thỉnh thoảng Không bao giờ

3 4

phƣơng không?

32 Ông/bà đánh giá nhƣ

Rất quan trọng

1

thế nào về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội,

Quan trọng Bình thƣờng

2 3

Không quan trọng

4

chính quyền địa phƣơng?

Phát huy vị trí, vai trò của ngƣời cao tuổi

33 Theo ông/bà ngƣời cao tuổi có thể hỗ trợ gì cho

Tạo thu nhập Cấp vốn

Có thể chọn

1 2

con/cháu?

Quyết định Chia sẻ kinh nghiệm

nhiều phương án

3 4

Giáo dục/chăm sóc con cháu Nội trợ và các công việc khác

5 6

Ý kiến khác (Ghi rõ)................... ...................................................

7

34 Hoạt động công tác xã hội tại địa phƣơng của

Tham gia công tác lãnh đạo Tham gia tổ hòa giải và tổ an ninh

Có thể chọn

1 2

ông/bà?

Tham gia hoạt động Hội ngƣời cao tuổi và các tổ chức đoàn thể

nhiều phương án

3

Xây dựng gia đình văn hóa và khu dân cƣ văn minh

4

5 6

Không tham gia Ý kiến khác (Ghi rõ)................... ....................................................

Mong muốn/nguyện vọng của ngƣời cao tuổi

147

35 Ông/bà cho biết những

mong muốn, nguyện

Nhu cầu đƣợc chăm sóc sức khỏe Nhu cầu đƣợc khám chữa bệnh

Có thể chọn

1 2

vọng?

nhiều phương án

3 4

Nhu cầu tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ Nhu cầu hỗ trợ kinh tế, tạo việc làm

5

Nhu cầu tham gia công tác phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng

6 7

Nhu cầu đƣợc tôn trọng Nhu cầu đƣợc tham gia các hoạt động văn

8

hóa – xã hội Nhu cầu đƣợc sống trong các trung tâm

9

nuôi dƣỡng Nhu cầu đƣợc bổ sung chế độ chính sách

10

Nhu cầu đƣợc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất – tinh thần

11 12

Nhu cầu tâm linh Nhu cầu đƣợc tham quan, du lịch

13 14

Nhu cầu giao tiếp Khác (Ghi rõ)..............................

....................................................

148

XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN SỰ HỢP TÁC CỦA ÔNG/BÀ

Phụ lục 2

HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU NGƢỜI CAO TUỔI

1. Mục tiêu

Qua phỏng vấn sâu NCT nhằm tìm hiểu thểm về: Thực trạng chăm sóc

và phát huy vị trí, vai trò của NCT tại địa phƣơng; Nhu cầu, nguyện vọng của

NCT; Vai trò của NCT trong gia đình và cộng đồng và những thuận lợi và

khó khăn trong việc thực hiện vai trò của mình.

2. Phƣơng pháp

- Phỏng vấn sâu theo chủ đề

- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn

- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép

3. Đối tƣợng phỏng vấn

Ngƣời cao tuổi Nam và nữ; Độ tuổi từ 60 - 80; Thông tin cá nhân (Họ

và tên, tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng sức

khỏe, việc đang làm, con cái, hiện tại sống với ai…)

4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút

5. Địa điểm

Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

6. Nội dung

- Đánh giá của Ông/bà về tình hình chăm sóc NCT tại gia đình và địa

phƣơng?

- Ông/bà có phải là ngƣời quyết định những vấn đề quan trọng trong

gia đình không? Tại sao?

- Những loại công việc trƣớc đây (khi còn ở tuổi lao động) ông/bà đã

từng làm gì? Từ khi ở vào độ tuổi 60 trở đi, ông/bà thƣờng làm những công

149

việc gì để có thêm thu nhập? Vì sao lại chọn loại công việc đó?

- Tình hình việc làm hiện nay? (Nếu không, vì sao?). Trong gia đình,

hằng ngày ông/bà thƣờng làm những công việc gia đình? Những loại việc này

có phù hợp với sức khỏe, khả năng của ông/bà ở mức độ nào?

- Các nguồn thu nhập của ông/bà hiện nay là gì? Nguồn thu nhập có đủ

đảm bảo chi tiêu trong sinh hoạt hàng ngày và chữa bệnh không? Ông/bà có

nguồn tích lũy kinh tế nào không? Nếu có thì đƣợc sử dụng khi nào và cho

việc gì?

- Mối quan hệ giữa ông bà và các con cháu hiện nay trong gia đình nhƣ

thế nào?

- Ông/bà thƣờng giúp đỡ con cháu ở những mặt nào?

- Ông/bà có tham gia các tổ chức đoàn thể nào không? Lý do không

tham gia (nếu có)? Những tổ chức này mang lại lợi ích gì cho NCT?

- Ông/bà đánh giá thế nào về những hoạt động, về vai trò của Hội NCT

ở địa phƣơng? Để Hội NCT có vai trò tích cực hơn đối với cộng đồng cần

phải thay đổi những gì? Nhƣ thế nào?

- Chính quyền xã/phƣờng và cộng đồng dân cƣ đã có những hình thức

hỗ trợ nhƣ thế nào cho các hoạt động của NCT? Nếu có, ông/bà đánh giá về

sự hỗ trợ/tạo điều kiện này nhƣ thế nào?

- Hiện nay NCT có gặp khó khăn gì trong việc thể hiện vai trò của

mình. Làm thế nào để khắc phục những khó khăn này?

- Nguyện vọng của ông/bà hiện nay là gì? Ông/bà có thể giải thích rõ

hơn về ý kiến/sự lựa chọn này không?

- Chính sách của nhà nƣớc về NCT cần phải thay đổi và bổ xung những

điểm gì để đáp ứng đƣợc nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích và quyền của NCT?

- Để NCT phát huy tốt hơn những khả năng của mình, có vai trò tích

cực hơn nữa trong gia đình và xã hội, theo ông/bà cần phải làm gì? Thay đổi

những gì?

150

Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/B

HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU ĐẠI DIỆN THÀNH VIÊN HỘ GIA

ĐÌNH CÓ NCT

1. Mục tiêu

Qua phỏng vấn sâu đại diện thành viên hộ gia đình có NCT nhằm tìm

hiểu thểm về: Cuộc sống của NCT trong gia đình, vai trò của NCT trong gia

đình và xã hội, nhận xét và đánh giá của nhóm đại diện này về vai trò của

NCT trong gia đình, trong cộng đồng.

2. Phƣơng pháp

- Phỏng vấn sâu theo chủ đề

- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn

- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép

3. Đối tƣợng phỏng vấn

Nam và nữ là các thành viên đại diện hộ gia đình hiện có NCT đang

sống chung. Số lƣợng mẫu: 4 trƣờng hợp chia theo giới tính

4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút

5. Địa điểm

Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.

6. Nội dung

6.1. Gia đình và đời sống của NCT.

- Ông/bà cho biết đôi nét về hoàn cảnh gia đình hiện nay (kinh tế,

nguồn thu nhập, con cái, cha mẹ…)?

- Trong gia đình ông/bà, ai là chủ gia đình? Vì sao? Ngƣời cao tuổi có

phải là ngƣời quyết định/tham gia quyết định những việc quan trọng của gia

đình không? Tại sao? (Thƣờng là những công việc gì, mức độ tham gia nhƣ

thế nào?)

- Hiện nay các cụ còn tham gia các hoạt động kinh tế, đóng góp thu

151

nhập (từ các nguồn) cho gia đình không?

- Các loại công việc (công việc gia đình) mà các cụ tham gia trong gia

đình ông/bà hiện nay nhƣ thế nào? Ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về vai trò của

các cụ trong gia đình hiện nay? Loại công việc gì mà ông/bà cho rằng sự đóng

góp của các cụ là phù hợp với sức khỏe, khả năng của NCT?

6.2. Người cao tuổi với cộng đồng

- Các cụ trong gia đình của ông/bà có tham gia các tổ chức đoàn thể xã

hội nào không? Mặt tích cực, hạn chế khi tham gia hoạt động ở các đoàn thể,

tổ chức này ở địa phƣơng?

- Ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về những hoạt động, về vai trò của Hội

NCT ở địa phƣơng?

6.3. Những thách thức và nguyện vọng của NCT

- Hiện nay NCT gặp những khó khăn gì trong việc thực hiện vai trò của

mình. Làm thế nào để khắc phục những khó khăn này?

- Chính sách của nhà nƣớc về NCT cần phải đƣợc thay đổi và bổ sung

những điểm gì để đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích và quyền của

NCT?

- Việc thực hiện chính sách đối với NCT tại địa phƣơng của ông/bà nhƣ

thế nào? Tốt hay không tốt? Tại sao?

- Để NCT phát huy tốt hơn khả năng của mình, có vai trò tích cực hơn

nữa trong gia đình và xã hội, theo ông/bà, cần phải làm gì?

- Theo ông/bà, NCT đƣợc đánh giá là ngƣời có “vai trò” trong gia đình

phải là ngƣời nhƣ thế nào?

152

Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/Bà

HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU CÁN BỘ XÃ HỘI

1. Mục tiêu

Qua phỏng vấn sâu cán bộ xã hội nhằm tìm hiểu về: Đào tạo, tập huấn

nâng cao về kỹ thuật nghiệp vụ; Khó khăn và thuận lợi trong quá trình hỗ trợ,

chăm sóc NCT;

2. Phƣơng pháp

- Phỏng vấn sâu theo chủ đề

- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn

- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép

3. Đối tƣợng phỏng vấn

Cán bộ xã hội

4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút

5. Địa điểm phỏng vấn

Tại Ủy Ban nhân dân Thị trấn Neo

6. Nội dung phỏng vấn

- Hàng năm, việc đào tạo lại tập huấn nâng cao về kỹ thuật nghiệp vụ

đƣợc tổ chức không? Và hình thức nội dung tổ chức nhƣ thế nào?

- Các khó khăn và thuận lợi trong chăm sóc sức khỏe NCT tại cộng

đồng? (Chế độ chăm sóc sức khỏe và khám định kỳ cho các cụ nhƣ thế nào?

Các bài tập thể dục đƣợc thực hiện nhƣ thế nào? Có bài tập chuẩn không? Với

các cụ không tập theo tập thể thì tập luyện nhƣ thế nào? Điều kiện cơ sở vật

chất trang thiết bị đƣợc trang bị có đáp ứng đủ nhu cầu về chăm sóc sức khỏe

NCT?...)

- Các khó khăn và thuận lợi trong chăm sóc đời sống vật chất cho NCT

tại cộng đồng? (Việc chăm sóc đời sống vật chất cho NCT tại cộng đồng đƣợc

153

tiến hành dƣới các hình thức nào?...)

- Các khó khăn và thuận lợi trong chăm sóc tinh thần cho NCT tại cộng

đồng? (Việc chăm sóc tinh thần cho NCT tại cộng đồng đƣợc tiến hành dƣới

các hình thức nào? Nhu cầu tâm sự của NCT tại cộng đồng? …)

- Sự phối hợp với các tổ chức khác trong chăm sóc sức khỏe - y tế và

chăm sóc đời sống vật chất tinh thần cho NCT sống tại cộng đồng (Trong

nƣớc: các bệnh viện, các tổ chức về NCT…; Nƣớc ngoài: Giao lƣu, hội thảo,

đào tạo, chuyển giao công nghệ…)?

154

Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/Bà

HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU CHỦ TỊCH HỘI NCT/CÁN BỘ

LÃNH ĐẠO THỊ TRẤN NEO

1. Mục tiêu

Qua phỏng vấn sâu Chủ tịch Hội NCT, cán bộ lãnh đạo Thị trấn Neo

nhằm tìm hiểu thểm về: Chế độ chính sách của Nhà nƣớc và địa phƣơng trong

chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT; Cơ cấu tổ chức và hình thức

hoạt động; Khó khăn và thuận lợi trong quá trình hoạt động cũng nhƣ các kiến

nghị để duy trì và phát triển Hội.

2. Phƣơng pháp

- Phỏng vấn sâu theo chủ đề

- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn

- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép

3. Đối tƣợng phỏng vấn

Chủ tịch Hội NCT , cán bộ lãnh đạo Thị trấn Neo

4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút

5. Địa điểm phỏng vấn

Tại Ủy Ban nhân dân Thị trấn Neo

6. Nội dung phỏng vấn

- Ông/bà có thể cho biết đôi nét về tình hình NCT trong phạm vi địa

phƣơng/công tác mình phụ trách? (Một số đặc điểm về các nhóm NCT ở địa

phƣơng? (Nhóm hưu trí, nhóm nghèo/nhóm tích cực tham gia các hoạt động

văn hóa – xã hội…)

- Chế độ chính sách và các quy định của Nhà nƣớc và địa phƣơng trong

chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT. Viêc thực hiện trên thực tế?

- Ông/bà nêu khái quát một số hoạt động chính của NCT hiện nay?

155

(Các hoạt động kinh tế? Hoạt động chính trị? Các hoạt động văn hóa - xã hội?

- Hoạt động của Hội/chi hội NCT? Đánh giá vai trò của Hội đối với các

hoạt động cộng đồng, xã hội: hòa giải, xây dựng khu dân cƣ văn hóa, các

phong trào ở địa phƣơng...

- Theo đánh giá của ông/bà, mặt mạnh trong hoạt động của NCT, của

Hội NCT ở địa phƣơng là gì? Mặt nào còn hạn chế? Tại sao? Có thể làm gì để

phát huy hơn nữa tiềm năng của NCT ở địa phƣơng?

- NCT hiện nay có còn là ngƣời chủ (không phải chủ hộ) gia đình

không? Vì sao? Vai trò của NCT trong quyết định những công việc quan

trọng của gia đình nhƣ thế nào?

- Có khoảng bao nhiêu % NCT đang tham gia hoạt động kinh tế tạo thu

nhập cho gia đình. Những loại việc nào mà ông/bà thấy NCT đóng góp có

hiệu quả và phù hợp nhất?

- Những công việc nào mà NCT thƣờng làm để có thêm thu nhập?

- Những công việc mà NCT có thể tham gia/giúp đỡ con cháu và có khả

năng đóng góp cho gia đình nhiều nhất? Tâm trạng khi thực hiện các hoạt

động này (tự nguyện/bắt buộc?...).

- Nhận xét về vai trò của NCT trong gia đình?

- Theo ông/bà một NCT đƣợc đánh giá là ngƣời có “vai trò” trong GĐ

và cộng đồng dân cƣ phải là ngƣời nhƣ thế nào? (Phẩm chất gì và các hoạt

động...)

156

Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/Bà!

Phụ lục 3

Tiểu khu 4 - Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc

BÁO CÁO THAM VẤN

Địa điểm

Giang

Nguyễn Văn Hùng

Thân chủ

Từ ngày 24/10 – 2/11/2014

Thời gian

Mục đích buổi tham vấn Giúp thân chủ nhận ra tác hại của rƣợu và quyết tâm không

lạm dụng rƣợu

Tƣờng thuật

Nhân viên CTXH thông báo mục đích của buổi tham vấn với thân chủ và xin sự đồng ý của thân chủ cho sự có mặt của

vợ thân chủ. Nhân viên CTXH hỏi thân chủ thƣờng uống rƣợu khi nào;

uống ở đâu; tiểu lƣợng. Sau đó hỏi thân chủ có biết những gì mình làm sau khi say.

Sau đó nhân viên CTXH miêu tả lại các hành động mà nhân viên CTXH chứng kiến khi thân chủ say. Nhân viên

CTXH giữ thái độ nghiêm túc, tỏ rõ sự chân thành và thông cảm cùng thân chủ.

Nhân viên CTXH để vợ thân chủ nói về những suy nghĩ,

cảm nhận của mình khi thấy thân chủ say.

Sau đó nhân viên CTXH để thân chủ chia sẻ những suy

nghĩ và cảm nhận của mình.

Sau khi thân chủ chia sẻ, nhân viên CTXH cung cấp cho thân chủ những tác hại của rƣợu đến sức khỏe; cho thấy tác

động của những hành vi của thân chủ sau khi say với cuộc sống của gia đình thân chủ và khu dân cƣ.

Thân chủ lúc đầu còn lảng tránh sau rất ân hận và cho biết mình không hề biết những điều mà mình làm trong lúc say.

Thân chủ tỏ quyết tâm sẽ không lạm dụng rƣợu khi buồn.

- Thân chủ nhận ra tác hại của việc uống rƣợu.

Những điểm thống nhất

- Thân chủ ý thức đƣợc hành vi chửi mọi ngƣời trong lúc

say là sai.

- Thân chủ quyết tâm không lạm dụng rƣợu trong những

lần sau nữa.

Tƣ vấn cho thân chủ các cách hạn chế việc lạm dụng rƣợu

Buổi tham vấn tiếp theo

157

Phụ lục 4

158

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN YÊN DŨNG

Phục lục 5

159

ẢNH MINH HỌA

160

Ảnh 2.1. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với các hoạt động kinh tế

161

Ảnh 2.2. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục – thể thao

162

Ảnh 2.3. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với công việc nội trợ

163

Ảnh 2.4. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với hoạt động nông nghiệp

164

Ảnh 2.4. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với nghề phụ