ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
NGUYỄN THỊ TUYẾT
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo,
huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
NGUYỄN THỊ TUYẾT
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo,
huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN AN LỊCH
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác
xã hội với người cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị
trấn Neo - huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang) dƣới sự hƣớng dẫn của thầy
PGS.TS Nguyễn An Lịch là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai, tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Tuyết
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ thầy
giáo hướng dẫn và các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, từ Hội người cao tuổi Thị trấn Neo, từ Ủy ban
nhân dân Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nơi tôi đã thực hiện
nghiên cứu, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của gia đình và bạn bè thân hữu.
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý thầy PGS.TS
Nguyễn An Lịch. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tâm chỉ dẫn, giúp đỡ và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Tôi
cũng bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến các hội viên người cao tuổi trong
Hội Người cao tuổi Thị trấn Neo, đã hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình điều
tra, phỏng vấn để thu thập thông tin hoàn thiện luận văn, và lời cảm ơn đến các
cơ quan đoàn thể Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè thân hữu và
đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tinh thần và tạo điều kiện trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Do trình độ bản thân vẫn còn nhiều hạn chế nên luận văn khó tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự quan tâm, đánh giá, góp ý của
các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến vấn đề này để tôi có
thể rút kinh nghiệm và hoàn thiện tốt hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu đó!
Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Tuyết
MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 4
3. Ý nghĩa của nghiên cứu ............................................................................... 17
4. Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................... 18
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 19
6. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................. 20
7. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu ............................................................ 20
8. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 21
9. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 23
Phần 2. NỘI DUNG CHÍNH ........................................................................ 24
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 24
1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................. 24
1.1.1 Khái niệm vai trò .................................................................................... 24
1.1.2 Khái niệm người cao tuổi ....................................................................... 25
1.1.3 Khái niệm cộng đồng ............................................................................. 27
1.1.4 Khái niệm công tác xã hội ...................................................................... 28
1.1.5 Khái niệm nhân viên công tác xã hội ..................................................... 30
1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................ 31
1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow .............................................................. 34
1.2.3. Lý thuyết vai trò xã hội.......................................................................... 36
1.3. Tổng quan chính sách của Đảng, nhà nƣớc về ngƣời cao tuổi ................ 37
1.3.1. Những chủ trương của Đảng ................................................................ 37
1.3.2. Luật pháp và chính sách của nhà nước ................................................ 39
1.4. Đặc điểm địa bàn thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang. ..... 42
1.4.1. Vị trí địa lý............................................................................................. 42
1.4.2. Tổ chức dân cư ...................................................................................... 42
1.4.3. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội ...................................................... 43
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 44
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHĂM SÓC VÀ NHU CẦU HỖ TRỢ CỦA
NGƢỜI CAO TUỔI TẠI THỊ TRẤN NEO – HUYỆN YÊN DŨNG –
TỈNH BẮC GIANG ....................................................................................... 46
2.1. Đặc điểm chung ngƣời cao tuổi trong mẫu nghiên cứu ........................... 46
2.1.1. Cơ cấu người cao tuổi chia theo giới tính ............................................ 46
2.1.2. Cơ cấu người cao tuổi chia theo nhóm tuổi .......................................... 46
2.1.3. Tình trạng hôn nhân .............................................................................. 47
2.1.4. Mô hình gia đình người cao tuổi ........................................................... 47
2.1.5. Trình độ học vấn ................................................................................... 48
2.1.6. Cơ cấu người cao tuổi phân theo trình độ chuyên môn........................ 48
2.2. Đánh giá thực trạng chất lƣợng chăm sóc và nhu cầu hỗ trợ của ngƣời cao
tuổi tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang. ........................... 49
2.2.1. Sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ............... 49
2.2.2. Hoạt động lao động và nhu cầu lao động của người cao tuổi ............. 60
2.2.3. Quan hệ xã hội và nhu cầu được quan tâm, tôn trọng ......................... 67
2.2.4. Hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của người cao tuổi ........... 77
2.2.5. Hỗ trợ người cao tuổi của cán bộ xã hội và chính quyền địa phương ........... 82
2.2.6. Phát huy vị trí, vai trò của người cao tuổi ............................................ 91
2.2.7. Mong muốn, nguyện vọng của người cao tuổi ...................................... 96
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 100
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ
HỘI VÀ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ
NHÂN TRONG TRỢ GIÚP NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG 102
3.1 Vai trò của nhân viên công tác xã hội ..................................................... 102
3.1.1. Người giáo dục .................................................................................... 103
3.1.2. Người tạo khả năng ............................................................................. 103
3.1.3. Người điều phối - kết nối dịch vụ ........................................................ 104
3.1.4. Người biện hộ ...................................................................................... 105
3.1.5. Người tạo môi trường thuận lợi .......................................................... 107
3.1.6. Người đánh giá và giám sát ................................................................ 108
3.2. Vận dụng phƣơng pháp công tác xã hội cá nhân trong trợ giúp ngƣời cao
tuổi tại cộng đồng. ......................................................................................... 108
3.2.1. Hồ sơ thân chủ .................................................................................... 109
3.2.2. Kế hoạch tác nghiệp ............................................................................ 112
3.2.3. Tiến trình trợ giúp ............................................................................... 113
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 124
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 134
PHỤC LỤC .................................................................................................. 141
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH Công tác xã hội
NCT Ngƣời cao tuổi
NXB Nhà xuất bản
PVS Phỏng vấn sâu
TDTT Thể dục thể thao
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT ......................................................... 50
Bảng 2.2. Số lần khám sức khỏe định kỳ trong một năm của NCT ............... 52
Bảng 2.3. Việc thƣờng làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật ............................. 53
Bảng 2.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT ..................................... 55
Bảng 2.5. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe của các
thành viên trong gia đình................................................................................. 59
Bảng 2.6. Hoạt động kinh tế của NCT ............................................................ 60
Bảng 2.7. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT ............................. 62
Bảng 2.8. Thời gian dành cho công việc của NCT ......................................... 63
Bảng 2.9. Nguồn thu nhập chính của NCT ..................................................... 64
Bảng 2.10. Mức thu nhập trung bình/tháng .................................................... 66
Bảng 2.11. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm và đƣợc
họ hàng/bạn bè/hàng xóm tới thăm ................................................................. 68
Bảng 2.12. Số lƣợng bạn tri ân, tri kỷ của NCT ............................................. 70
Bảng 2.13. Đối tƣợng trò chuyện tâm sự của NCT ........................................ 71
Bảng 2.14. Tâm trạng hàng ngày của NCT .................................................... 75
Bảng 2.15. Các công việc thƣờng làm lúc rảnh của NCT .............................. 78
Bảng 2.16. Số lƣợng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ NCT tham gia ........................ 79
Bảng 2.17. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội .......................................... 82
Bảng 2.18. Hỗ trợ của chính quyền địa phƣơng ............................................. 83
Bảng 2.19. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe........................... 85
Bảng 2.20. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội .................................................... 87
Bảng 2.21. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội ................................................... 88
Bảng 2.22. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng ......... 89
Bảng 2.23. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính
quyền địa phƣơng ............................................................................................ 90
Bảng 2.24. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình .......................................... 91
Bảng 2.25. Hoạt động xã hội của NCT ........................................................... 95
Bảng 2.26. Mong muốn/nguyện vọng của NCT ............................................. 97
DANH MỤC SƠ ĐỒ - BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Abraham Maslow .......................... 34
Biểu đồ 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT chia theo nhóm tuổi ................... 51
Biểu đồ 2.2. Mức độ quan tâm của ngƣời thân đối với NCT ......................... 58
Biểu đồ 2.3. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng ...................... 67
Biểu đồ 2.4. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ ................................. 81
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Liên Hợp Quốc đã dự báo, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ già hóa. Dự báo cho
thấy, tỷ lệ NCT trên thế giới là 9% (1995) sau 30 năm tăng lên 14,9% (2025)
[21, tr1]. Già hóa dân số, một hiện tƣợng mang tính toàn cầu xảy ra ở khắp
nơi và ảnh hƣởng đến mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế
giới đã và đang quan tâm đến vấn đề già hóa dân số. Ở Việt Nam, theo nhƣ số
liệu của Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1979, 1989, 1999
và Điều tra Biến động Dân số – Kế hoạch hóa Gia đình, 2010 NCT Việt Nam
tăng nhanh cả về số lƣợng và tỷ trọng. Cụ thể, năm 1979 tổng dân số Việt
Nam là 53,74 triệu ngƣời trong đó, NCT (từ 60 tuổi trở lên) là 3,71 triệu
ngƣời chiếm 6,9% dân số. Năm 2010, tổng dân số Việt Nam là 86,75 triệu
ngƣời trong đó, NCT là 8,15 triệu ngƣời chiếm 9,4% dân số. Theo dự báo của
Tổng cục Thống kê về dự báo tỷ trọng dân số theo nhóm tuổi, Việt Nam giai
đoạn 2009 – 2049 thì NCT Việt Nam sẽ đạt 10% tổng dân số vào năm 2017
và sau 20 năm (2017 – 2037), Việt Nam sẽ có Dân số già (tỷ trọng ngƣời từ
60 tuổi trở lên lớn hơn hoặc bằng 20% tổng dân số). Tuy nhiên, theo nhận
định của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa Gia đình, Bộ Y tế thì đến năm
2011, NCT Việt Nam đã đạt trên 10% dân số và thời gian Việt Nam trở thành
quốc gia có dân số già sẽ giảm xuống khoảng 17 năm chứ không phải 20 năm
nhƣ nhận định ban đầu [22].
Hiện tƣợng này bắt đầu xuất hiện trong thế kỷ XX và đƣợc dự báo là sẽ
tiếp tục trong thế kỷ XXI với mức độ ngày càng gia tăng. Già hóa dân số phản
ánh thành công trong quá trình phát triển con ngƣời, là thƣớc đo quan trọng
của trình độ phát triển kinh tế - xã hội và là thành tựu quan trọng của nhân
loại. Tuy nhiên, già hóa dân số có ảnh hƣởng sâu rộng đến mọi phƣơng diện
của cuộc sống con ngƣời. “Trong lĩnh vực kinh tế, già hóa dân số tác động
1
đến tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, thị trường lao động,
lương hưu, tiền thuế và sự chuyển giao giữa các thế hệ. Trong lĩnh vực xã
hội, già hóa dân số ảnh hưởng đến y tế và chăm sóc sức khỏe, cấu trúc gia
đình và thu xếp cuộc sống, nhà ở và di cư. Về mặt chính trị, già hóa dân số có
thể tác động đến việc bầu cử và người đại diện” [31, tr.17 – tr.18]. Chƣơng
trình hành động quốc tế về NCT đƣợc thông qua tại Đại hội đồng thế giới về
NCT lần đầu tiên tại Vienna năm 1992. Chƣơng trình tập trung chủ yếu vào
tình trạng già hóa dân số ở các nƣớc phát triển dƣới góc độ phúc lợi xã hội.
Tháng 4/2002 tại Madrid, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã triệu tập Hội nghị
thế giới lần thứ 2 về già hóa dân số. Đại hội đồng đã xem xét kết quả đạt đƣợc
20 năm qua, 159 quốc gia đã ký vào Chƣơng trình hành động quốc tế về NCT
nhằm hƣớng dẫn các hoạt động chính sách về NCT trong thế kỷ XXI. Cam
kết sẽ lồng ghép vấn đề già hóa dân số vào chƣơng trình phát triển kinh tế -
xã hội và cũng cam kết giảm một nửa tỷ lệ nghèo của NCT. Tại nhiều quốc
gia trên thế giới, dân số cao tuổi đã đƣợc hoạch định trong chiến lƣợc phát
triển kinh tế - xã hội theo cam kết đã ký trong chƣơng trình hành động quốc tế
về NCT, phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nhƣng tháng 4/2007,
Tổ chức NCT Quốc tế (HAI) đã đƣa ra cảnh báo “Các chính phủ không chuẩn
bị cho vấn đề già hóa dân số”. Cảnh báo cũng nêu rõ “...NCT là những ngƣời
nghèo nhất và dễ bị tổn thƣơng nhất trong nhiều xã hội, bởi vì Chính phủ
không chuẩn bị cho sự già hóa dân số nhanh trên toàn cầu” [21, tr.1 – tr.2]
Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, dân số già hóa nhanh tạo
áp lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, hệ thống dịch vụ sức khỏe, giao
thông đi lại, hệ thống hƣu trí cho NCT cũng nhƣ quan hệ gia đình, tâm lý, lối
sống, chăm sóc NCT và đảm bảo chất lƣợng cuộc sống NCT.... chắc chắn sẽ
làm cho những vấn đề kinh tế - xã hội, môi trƣờng thêm trầm trọng và có
nhiều biến động không thể lƣờng trƣớc. Từ đó tạo ra những khó khăn, thách
thức đối với nhà nƣớc, xã hội, gia đình với NCT. Để thích ứng với già hóa
2
dân số, việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để đáp ứng nhu cầu của dân số
già là một thách thức lớn đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính
sách khi Việt Nam đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các dịch vụ y tế trong môi
trƣờng cuộc sống của nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc và
định hƣớng xã hội chủ nghĩa [21, tr.2].
Tại Việt Nam, NCT hiện tại phần lớn là lớp ngƣời có nhiều đóng góp to
lớn vào công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Bề dầy kinh nghiệm,
bản lĩnh cách mạng kiên cƣờng, lòng nhân hậu và sự nhiệt tình đóng góp vào
sự nghiệp đổi mới đất nƣớc... là những phẩm chất cao quý của lớp NCT luôn
luôn là chỗ dựa tin cậy cho Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta. Nhƣ vậy, xét từ
góc độ này, NCT chƣa hẳn là gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Những
năm gần đây Đảng ta đặc biệt quan tâm chăm sóc NCT nhất là NCT có công
với đất nƣớc, ngƣời về hƣu, NCT không nơi nƣơng tựa thông qua việc ban
hành chính sách, văn bản, quy phạm pháp luật, quy định chăm sóc NCT và mới
đây nhất là Luật NCT đã đƣợc ban hành tạo cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc và toàn
xã hội quan tâm đầy đủ, đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của NCT
trong đời sống xã hội. Ngày 5/8/2004, Ủy ban Quốc gia về NCT là cơ quan quản
lý hành chính Nhà nƣớc trong lĩnh vực NCT đƣợc thành lập theo Quyết định số
141/2004/QĐ-TTG của Thủ thủ tƣớng chính phủ [21, tr.2 - tr.3].
Tuy nhiên, Việt Nam là đất nƣớc đang phát triển, còn nhiều hạn chế và
tồn tại nhƣ: thu nhập quốc dân còn thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, trình độ
khoa học thấp,... đời sống NCT còn nhiều khó khăn, mức trợ cấp của Nhà
nƣớc còn thấp, nhất là Việt Nam mới bắt đầu chuyển sang cơ cấu “Già hóa
dân số” do đó các chƣơng trình, dự án liên quan đến NCT còn nhiều hạn chế,
hƣớng dẫn cho NCT và gia đình có NCT đang đƣợc thực hiện bƣớc đầu và
còn hạn chế; CTXH về NCT chƣa đƣợc đào tạo và còn nhiều hạn chế về ý
thức, nhận thức của xã hội....[21, tr.3].
Từ thực tế xã hội Việt Nam, thực trạng cuộc sống và hoạt động của
3
NCT cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần đƣợc quan tâm: Vị trí, vai trò của
NCT Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nƣớc và quá trình hội nhập quốc
tế; Mối quan hệ giữa cống hiến và thụ hƣởng của NCT Việt Nam; Ngƣời cao
tuổi Việt Nam trong hệ thống các quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình và
cộng đồng xã hội; Các quyền cơ bản của NCT trong giai đoạn hiện nay; Sự
công bằng bình đẳng, dân chủ với NCT Việt Nam; Chăm sóc bồi dƣỡng sức
khỏe, bảo vệ NCT, nhất là những NCT nghèo cô đơn ở những vùng dân tộc
[36, tr.248]. Vậy nhân viên CTXH có vai trò gì trong quá trình giải quyết
những vấn đề của NCT? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả nghiên cứu lựa
chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác xã hội với người
cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo - huyện
Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang).
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Có thể nói rằng vấn đề về NCT luôn đƣợc quan tâm chú ý. Chính vì
thế, các nghiên cứu về NCT cũng xuất hiện rất sớm. Ở Châu Âu, những
nghiên cứu về NCT đƣợc tiến hành từ những năm 1800 với những đề tài nhƣ:
“Quà tặng các cụ già, bàn về biện pháp để kéo dài cuộc sống” của M.J.Tenon
(1815); “Bàn về tuổi thọ loài người và về lượng sống trên thế giới” của
P.Fluorons (1860); “Tuổi già xanh tươi”, của Alexando (1919). Những
nghiên cứu này đã điều tra thực trạng sống của NCT cũng nhƣ tình trạng sức
khỏe của họ, từ đó đƣa ra những biện pháp chăm sóc sức khỏe cho NCT để
kéo dài tuổi thọ cũng nhƣ giúp cho NCT có đƣợc cuộc sống thoải mái hơn.
Xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của NCT càng đƣợc quan tâm
và những chƣơng trình nghiên cứu về NCT cũng ngày càng đƣợc triển khai
rộng rãi và dƣới nhiều góc độ khác nhau. Dƣới đây, chúng ta có thể điểm qua
một số nghiên cứu đáng lƣu ý liên quan đến chủ đề này:
Nghiên cứu “Khảo sát quốc gia về Tự Chăm sóc và Tuổi già” – “The
4
National Survey of Self-Care and Aging” của Đại học Bắc Carolina tại Chapel Hill
năm 1991 – 1990 với 3.485 ngƣời 65 tuổi trở lên, đã đƣợc lựa chọn từ các hồ sơ mô
tả những thói quen tự chăm sóc ở cộng đồng NCT. Phân tích đầu tiên của những dữ
liệu đƣợc tập trung vào một phạm vi cụ thể của các hoạt động có mục đích, trong
đó NCT tham gia và thông qua đó họ bù đắp cho suy giảm thể chất, chức năng nhận
thức hoặc tâm thần có thể làm giảm chất lƣợng của cuộc sống. Tập trung chủ yếu
thứ hai của cuộc điều tra quốc tế về tự chăm sóc và tuổi già là các loại hành vi hạn
chế suy giảm sức khỏe phòng ngừa và tăng cƣờng sức khỏe, thực hành lối sống
lành mạnh. Một trong những tính năng độc đáo của nghiên cứu quốc gia này là các
hạng mục mô tả mô hình hành vi tự chăm sóc y tế.
Có thể nói rằng công trình quan trọng không thể không kể đến trong
lĩnh vực nghiên cứu này là ấn phẩm “Người già và sức khỏe: Người cao tuổi
Mỹ đến từ Châu Á và Thái Bình Dương” - “Aging and health: Asian and
Pacific Islander American Elders” của các tác giả Melen R.McBride, Nancy
Morioka.Douglas and Gwen Veo. Trong cuốn sách này, nhóm tác giả đã chỉ
ra sự đa dạng văn hóa, hệ thống niềm tin, cấu trúc gia đình ảnh hƣởng đến
việc chăm sóc sức khỏe của những NCT đến từ các nƣớc khác nhau thuộc khu
vực Châu Á và Thái Bình Dƣơng hiện tại đang sống ở Mỹ. Từ đó, các tác giả
đánh giá nhu cầu, xác định những thuận lợi, rào cản trong việc chăm sóc sức
khỏe tạo điều kiện để những NCT có thể thể hiện đƣợc mong muốn, nhu cầu
của bản thân một cách tự nhiên nhất [62].
Nghiên cứu “Những rào cản trong chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi
và nhận thức về chúng” - “Barriers to Health Care Access Among the Elderly
and Who Perceives Them” của Annette L. Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton
S. Cooper, Diane G. Ives, MPH, and John A. Robbins (Đại học Washington,
Đại học Johns, Đại học Puttsburgh, Đại học California – Davis, và Đại học
Wake Forest). Nghiên cứu này đƣợc tiến hành từ năm 1993 – 1994 tại Viện
nghiên cứu sức khỏe tim mạch bằng phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng với
5
5888 đàn ông và phụ nữ từ 65 tuổi trở lên. Mẫu này đƣợc chọn ngẫu nhiên từ
danh sách đủ điều kiện chăm sóc y tế ở 4 cộng đồng: Quận Foryth, quận
Sacramento, quận Washington và quận Allgheny. Kết quả nghiên cứu cho
thấy các rào cản tâm lý và thể chất khác....[59]. Nghiên cứu này khái quát
thực trạng chăm sóc sức khỏe đối với NCT, những rào cản tác động tới việc
NCT nhận đƣợc sự quan tâm, chăm sóc của riêng nƣớc Mỹ. Từ những phát
hiện của nghiên cứu này, chúng ta có thể liên hệ tới những rào cản tƣơng tự
trong xã hội Việt Nam. Chúng ta có thể thấy hệ thống chăm sóc sức khỏe của
nƣớc ta còn nhiều bất cập, chẳng hạn nhƣ cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đặc
biệt là các cơ sở y tế cộng đồng. Điều này khiến cho việc tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe của NCT nói riêng và ngƣời dân nói chung còn gặp nhiều
khó khăn. Thực trạng đó đặt ra mối quan tâm lớn với những ngƣời làm nghiên
cứu nói riêng và những nhà hoạch định chính sách của nƣớc ta nói chung.
Một công trình khác trong khu vực Đông Nam Á cần đƣợc nêu ra ở đây
là nghiên cứu “Xây dựng mô hình quản lý chăm sóc sức khỏe cho NCT có sự
tham gia của cộng đồng tại Isan” - “Developing Model of Health Care
Management for the Elderly by Community Participation in Isan” của
Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon and Paiboon Boonchai. Nghiên
cứu này đƣợc tiến hành từ 02 - 08/2008 tại 7 tỉnh Đông Bắc Thái Lan là
Mahasarakham, Roi-et, Sakon Nakhon, Nakhon Ratchasiam, Buriram, Surin
và Khon Kaen bằng phƣơng pháp nghiên cứu định tính. Nghiên cứu đã tiến
hành phân tích các vấn đề liên quan đến việc quản lý chăm sóc sức khỏe NCT
về thể chất lẫn tinh thần. Các tác giả của nghiên cứu này đã tiến hành phân
tích sự phát triển của việc chăm sóc sức khỏe NCT có sự tham gia của cộng
đồng ở Isan. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc quản lý của tổ chức cộng
đồng trong chăm sóc sức khỏe NCT là phƣơng pháp hiệu quả. Tất cả công
dân cao tuổi đều đồng ý rằng việc chăm sóc ý tế đƣợc cung cấp bởi các tổ
6
chức cộng đồng giúp họ thoải mái và ấm áp hơn [60].
Nghiên cứu “Đánh giá một dự án nghiên cứu có sự tham gia của cộng
đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần NCT ở nông thôn Mỹ” - “Evaluating a
community-based participatory research project for elderly mental healthcare
in rural America” của Dean Blevins, Bridget Morton, and Rene McGovern
cũng là nghiên cứu cần lƣu ý. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết mọi ngƣời
cảm thấy hài lòng với vai trò của họ và mức độ thành công của chƣơng trình.
Từ đó, các tác giả cũng đề xuất những phƣơng pháp để cải thiện hơn nữa dịch
vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cho NCT tại nông thôn. Kết quả nghiên cứu
này đƣợc công bố vào năm 2008 [61]. Đây cũng chính là một trong những mô
hình chăm sóc sức khỏe cho NCT mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu. Mô
hình này giúp chúng ta thấy đƣợc cách chăm sóc sức khỏe tinh thần cho NCT
ngay tại cộng đồng của Hoa Kỳ nhƣ thế nào. Điều này sữ giúp chúng ta có
thêm những ý tƣởng cho việc xây dựng các mô hình phù hợp ở nƣớc ta.
Một nghiên cứu đáng lƣu ý khác là công trình: “Già hóa trong thế kỷ
21: Thành tựu và thách thức” dó Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), và
Tổ chức Hỗ trợ NCT quốc tế (HelpAge International), xuất bản năm 2012.
Báo cáo phân tích thực trạng và rà soát tiến độ thực hiện chính sách và hành
động của chính phủ và các cơ quan liên quan kể từ khi Hội nghị Thế giới lần
thứ 2 về NCT về thực hiện kế hoạch hành động quốc tế Madrid về NCT nhằm
đáp ứng những cơ hội và thách thức của một thế giới đang già hóa. Báo cáo
đƣa ra nhiều ví dụ minh họa sinh động về các chƣơng trình đổi mới đã đáp
ứng thành công các mối quan tâm của NCT. Đồng thời báo cáo cũng đƣa ra
các khuyến nghị về định hƣớng tƣơng lai nhằm đảm bảo mọi ngƣời ở mọi lứa
tuổi trong xã hội bao gồm cả NCT và giới trẻ đều có cơ hội góp phần xây
dựng xã hội cũng nhƣ cùng đƣợc hƣởng các phúc lợi xã hội đó [44].
Nhìn một cách tổng thể, có thể nói rằng các công trình nghiên cứu, các
ấn phẩm nói trên đã tìm hiểu về thực trạng đời sống của NCT, những vấn đề
7
họ gặp phải trong cuộc sống, những rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc trợ giúp NCT. Đây là cơ sở khoa học quan trọng cho việc hỗ trợ
nghiên cứu đề tài.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc đang phát triển trên thế giới, vấn đề
NCT là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là
các nhà lập chính sách. Cho đến nay các ấn phẩm về NCT khá đa dạng, bao
gồm các kết quả nghiên cứu thực nghiệm dƣới dạng sách, bài tạp chí chuyên
ngành, báo cáo nghiên cứu, dạng bài tham luận, cho đến bài viết trên báo
chí… Rất nhiều nghiên cứu đƣợc là kết quả của các chƣơng trình và khảo sát
xã hội học có quy mô lớn về NCT do các Viện nghiên cứu, các tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nƣớc tiến hành.
Sự già hóa sẽ mang đến những thách thức mới về kinh tế và xã hội, đặc
biệt là vấn đề an sinh xã hội. Các nghiên cứu ở Việt Nam về NCT thƣờng tiếp
cận theo hƣớng coi họ là nhóm yếu thế hoặc nhóm xã hội phụ thuộc. Với cách
tiếp cận này với chủ đề nổi bật trong các nghiên cứu về NCT là: vấn đề sức
khỏe, chính sách cho NCT, rộng hơn là vấn đề an sinh xã hội và tìm hiểu các
đặc trƣng xã hội cơ bản của nhóm dân số già. Các hƣớng phân tích đƣợc triển
khai theo nhiều khía cạnh nhƣ: mô tả đặc trƣng xã hội cơ bản của nhóm NCT,
đánh giá và đo lƣờng các yếu tố tác động… Và trọng tâm nghiên cứu cũng tùy
thuộc vào lĩnh vực hoạt động của từng ngành. Ví dụ, đối với ngành lão khoa
chú trọng nhiều đến vấn đề sức khỏa và bệnh tật. Tƣơng tự, Bộ Y tế tập trung
nhiều khía cạnh sức khỏe và tâm sinh lý NCT, đặc biệt ở khu vực nông thôn.
Bộ Lao động, Thƣơng binh và xã hội tiến hành các cuộc điều tra nhằm phục
vụ cho việc lập chính sách NCT. Cuối cùng, đối với nhà nghiên cứu khoa học
xã hội nhƣ xã hội học, tâm lý học, dân tộc học,… lại xem xét vấn đề NCT từ
những đặc trƣng xã hội cơ bản và đặt nó trong mối tƣơng quan với các yếu tố
8
kinh tế - xã hội, chỉ ra những khác biệt vùng, miền, tộc ngƣời,…
Có thể nói sự nghèo khổ, bệnh tật, không ngƣời chăm sóc là những vấn
đề mà NCT nói chung đang phải đối mặt. Ở Việt Nam, việc chăm sóc NCT
trong gia đình đƣợc duy trì qua nhiều thế hệ, tuy nhiên truyền thống này đã có
nhiều thay đổi do gia đình nhiều thế hệ ngày càng thu hẹp, trong khi gia đình
hạt nhân tăng lên. Một tỷ lệ lớn NCT do những hoàn cảnh khác nhau sẽ không
sống cùng con cháu trong gia đình nhiều thế hệ. Chính vì vậy mà các chủ đề
về nguồn lực vật chất và vấn đề chăm sóc sức khỏe là hƣớng nghiên cứu chủ
yếu và từ đó đƣa ra các kiến nghị về mặt chính sách an ninh cho NCT.
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu kể trên đƣợc rút ra từ các dữ liệu
nghiên cứu định tính, định lƣợng, phạm vi nghiên cứu là khá đa dạng, đại diện
cho một xã, một vùng (ví dụ: Nghiên cứu của Viện Xã hội học về ngƣời già ở
đồng bằng sông Hồng; Nghiên cứu của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam…),
mẫu đại diện quốc gia nhƣ Điều tra gia đình Việt Nam (2006), hoặc dữ liệu từ
các điều tra lớn của Tổng cục thống kê… Phƣơng pháp phân tích hoặc chỉ sử
dụng định lƣợng hoặc định tính, hoặc kết hợp định lƣợng và định tính.
Mỗi phƣơng pháp phân tích có những điểm hạn chế và ƣu điểm riêng,
một số nghiên cứu ít bàn luận sâu về số liệu và phƣơng pháp phân tích. Và
điểm dễ nhận thấy là ở các nghiên cứu định lƣợng, phƣơng pháp phân tích
chủ yếu là mô tả tần suất và tƣơng quan hai biến. Có một số nghiên cứu đã sử
dụng phƣơng pháp đa biến để xem xét các yếu tố tác động đến quan hệ giữa
NCT và con cháu trong gia đình nhƣ nghiên cứu của Lê Ngọc Lân và các tác
giả (2011). Nhƣ vậy, có thể nói rằng các công trình về NCT cho đến nay đã
góp phần mang lại những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của NCT ở Việt
Nam, song các nghiên cứu về CTXH với NCT hiện nay còn khá khiêm tốn, có
thể kể đến một số nghiên cứu sau:
Trƣớc hết cần kể đến nghiên cứu “Công tác xã hội với người cao tuổi
bị bạo lực gia đình” - Nghiên cứu tại xã An Tƣờng, thành phố Tuyên Quang,
9
tỉnh Tuyên Quang, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả Phùng
Thanh Thảo (2014). Kết quả nghiên cứu cho thấy bạo lực gia đình với NCT
xảy ra ở khắp mọi nơi, không kể địa vị gia đình, trình độ dân trí. Đó là thực
trạng về bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần và bạo lực kinh tế. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, tuy nhiên có 4 yếu tố chủ
yếu là: rƣợu, bia và các chất kích thích; yếu tố kinh tế; yếu tố nhận thức; yếu
tố giới tính. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số biện pháp đã áp dụng tại địa
phƣơng nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực NCT trong gia đình, đồng thời đề
xuất một số biện pháp can thiệp. Và xây dựng mô hình CTXH nhằm hỗ trợ
cũng nhƣ nâng cao công tác phòng chống bạo lực gia đình nói chung và bạo
lực gia đình với NCT nói riêng.
Nghiên cứu “Chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở nông thôn Việt
Nam hiện nay và hoạt động của công tác xã hội” - Nghiên cứu tại xã Quỳnh
Bá – Quỳnh Lƣu – Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả
Trƣơng Thị Điểm (2014). Nghiên cứu cho thấy rằng tỉ lệ NCT tại địa bàn
nghiên cứu đang có xu hƣớng gia tăng và tỉ lệ NCT là nữ giới nhiều hơn nam
giới. Ngƣời cao tuổi ở những độ tuổi khác nhau họ vẫn tham gia lao động tạo
thu nhập, hỗ trợ con cháu về vật chất và công việc nhà. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy gia đình không còn giữ vai trò chính trong việc chăm sóc
NCT mà dần đƣợc chuyển sang nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, dịch vụ y tế
tƣ nhân, dịch vụ thị trƣờng. Đồng thời đề tài cũng đã nêu lên những triển
vọng và hoạt động của CTXH trong việc chăm sóc sức khỏe cho NCT, giúp
nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với việc chăm sóc sức khỏe cho
NCT và đảm bảo quyền lợi cho NCT.
Nghiên cứu “Trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi tại cộng đồng” -
Nghiên cứu tại xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, Luận văn
Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả Đồng Thị Minh Phúc (2014). Kết quả
nghiên cứu cho thấy, trong tất cả sự trợ giúp xã hội trong các mối quan hệ của
10
NCT thì hầu hết NCT đánh giá cao mối quan hệ với con cháu trong gia đình,
họ coi gia đình là chỗ dựa an toàn nhất, quan trọng nhất. Việc trợ giúp xã hội
đối với NCT tuy đã đƣợc sự quan tâm của chính quyền, cộng đồng nhƣng chỉ
là chung chung và chƣa thực sự thiết yếu đối với NCT. Kết quả nghiên cứu
cũng chỉ ra những tác động vào việc thực hiện chính sách liên quan đến trợ
giúp xã hội đối với NCT tại xã Trực Tuấn cũng nhƣ một số các giải pháp
áp dụng trong CTXH đối với NCT tại cộng đồng.
Bên cạnh đó là một số nghiên cứu khác tìm hiểu về an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội; thực trạng NCT; mô hình dành cho NCT… Dƣới đây, chúng ta sẽ
đề cập đến một số nghiên cứu nổi bật.
♦ Những nghiên cứu về NCT và an sinh xã hội
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội dành cho NCT luôn là vấn đề nhận
đƣợc sự quan tâm của các nhà khoa học. Vì vậy, cho đến nay, có nhiều công
trình nghiên cứu theo hƣớng này đã đƣợc triển khai. Liên quan đến hƣớng
nghiên cứu này chúng ta sẽ điểm qua một số nghiên cứu đáng lƣu ý sau đây:
Trong hai năm 1991 đến 1992 Viện Xã hội học đã triển khai đề tài
“Người cao tuổi và an sinh xã hội" đƣợc sự tài trợ cũa quỹ Toyota/Tƣơng lai
của nhóm tác giả Trịnh Duy Luân, Lê Truyền, Bùi Thế Cƣờng, Trần Thị
Vinh, Vũ Hoa Thạch, Đỗ Thịnh. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu
về đời sống của NCT ở nông thôn và thành thị nƣớc ta từ góc độ xã hội học
(lao động, thu nhập, hoàn cảnh kinh tế, tình hình nhà ở và tiện nghi, vấn đề
sức khỏe và chăm sóc sức khỏe, việc tham gia CTXH sau nghỉ hƣu, hệ thống
an sinh xã hội và tác động của nó vào hoàn cảnh sống của NCT…) [53].
Trong nghiên cứu “Hệ thống an sinh xã hội đối với người cao tuổi” của
Bùi Thế Cƣờng đã nêu vai trò quan trọng của hệ thống An sinh xã hội trong
quá trình chăm sóc NCT ở nƣớc ta. An sinh xã hội cho nhóm NCT là một
nhiệm vụ quan trọng. Chăm lo các điều kiện An sinh xã hội cho nhóm NCT,
11
giúp họ đảm nhiệm các vai trò xã hội mới, đó là công việc có ý nghĩa to lớn
đối với phát triển xã hội. Vì không chỉ trong xã hội truyền thống nơi mà NCT
thực sự đƣợc tôn kính do họ nắm vững kho tri thức kinh nghiệm sản xuất, lƣu
giữ các giá trị truyền thống nơi mà ngay cả trong xã hội hiện đại NCT vẫn là
một tài nguyên xã hội theo mọi nghĩa [40, tr.4].
Bài viết “Nghiên cứu phúc lợi xã hội: Nhìn lại một chặng đường”
(Trƣờng hợp một chƣơng trình nghiên cứu và triển khai) của tác giả Bùi Thế
Cƣờng (2005) thuộc Chương trình nghiên cứu phúc lợi xã hội của Viện xã hội
học là một nghiên cứu đáng lƣu ý. Bài viết đề cập đến nghiên cứu phúc lợi xã
hội đối với NCT đƣợc tiến hành nghiên cứu từ năm 1991 và tổng kết lại
những nghiên cứu về NCT trong suốt thời gian dài. Từ kết quả của những
nghiên cứu đó tác giả bài viết cũng có những đề xuất, khuyến nghị nhằm nâng
cao hơn nữa về việc chăm sóc cho NCT ở nƣớc ta.
Có thể nói rằng những nghiên cứu liên quan đến NCT và an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội đã tìm hiểu vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội giành
cho NCT trong những thời kỳ khác nhau ở trên các nƣớc cũng nhƣ khu vực
nhằm đƣa ra những cái nhìn chung nhất về vấn đề này. Bên cạnh đó, những
nghiên cứu trên cũng chỉ ra những điểm hạn chế cần khắc phục cũng nhƣ đề
xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách an sinh cũng nhƣ phúc lợi dành
cho NCT để cuộc sống của NCT đƣợc đảm bảo hơn. Dƣới một góc nhìn nhất
định, những nghiên cứu này đã mở rộng sự hiểu biết đối với các chƣơng trình
phúc lợi, anh sinh xã hội giành cho NCT ở nƣớc ta trong thời gian vừa qua.
♦ Những nghiên cứu về thực trạng NCT
Trong thực tiễn đời sống xã hội, nếu muốn nâng cao đƣợc chất lƣợng,
cải thiện đƣợc dịch vụ thì việc điều tra nghiên cứu về thực trạng là một trong
những vấn đề mấu chốt. Đối với lĩnh vực NCT cũng vậy, để nâng cao đƣợc
chất lƣợng chăm sóc cho NCT thì cần phải tìm hiểu thực trạng đời sống của
họ nhƣ thế nào. Chính vì thế mà đây cũng là một trong những mảng nghiên
12
cứu cần quan tâm. Chúng ta có thể kể đến một vài nghiên cứu nổi bật sau đây:
Nghiên cứu “Thực trạng người cao tuổi Hà Tây” năm 2003 của Ủy
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em Hà Tây. Nghiên cứu này đƣợc triển khai tại 3
xã, phƣờng: Xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai đại diện cho khu vực nông
nghiệp; xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên đại diện cho khu vực làng nghề;
phƣờng Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện cho khu vực thành thị. Kết quả
nghiên cứu này đã chỉ ra đƣợc vai trò của NCT trong các hoạt động sống hằng
ngày, nhu cầu của họ cả về vật chất lẫn tinh thần, sức khỏe... và từ đó đƣa ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho NCT [46].
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Cƣờng và Lê Trung Sơn (2003) về
“Thực trạng người cao tuổi và giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc
người cao tuổi ở Hà Tây” cho thấy NCT Hà Tây thỏa mãn tinh thần chủ yếu
là vui chơi cùng con cháu (81,4%). NCT ở nông thôn sinh hoạt cùng con cháu
thƣờng xuyên hơn NCT ở thành thị (83,5% so với 77,4%). NCT thành thị tiếp
cận thông tin, tham quan, du lịch, thể dục thể thao và sinh hoạt đoàn thể một
cách thƣờng xuyên hơn NCT nông thôn. Tỷ lệ các cụ ở thành thị tham gia các
hoạt động Đảng, chính quyền cao hơn nông thôn. Các cụ ông tham gia nhiều
hơn các cụ bà [13].
Nghiên cứu “Thực trạng đời sống của người cao tuổi dân tộc và già
làng trong phát triển bền vững Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Thế Huệ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đƣợc vai trò to lớn của NCT, già làng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị... ở Tây Nguyên. Đồng
thời kết quả nghiên cứu còn cho thấy đƣợc vai trò to lớn của NCT, già làng
trong tất cả các hoạt động tại cộng đồng. Điều đó góp phần khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của NCT trong cuộc sống. Nghiên cứu này đƣợc biên soạn
và xuất bản năm 2008 [27].
Những nghiên cứu thực trạng này cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng
quan về đời sống của NCT tại những địa phƣơng khác nhau. Trong các nghiên
13
cứu này các giả đã tiến hành tìm hiểu về cả đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần
của NCT và tìm hiểu đƣợc vai trò của NCT đối với gia đình và cộng đồng mình.
Từ thực trạng đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đời sống của NCT vẫn chƣa
thực sự đƣợc quan tâm đúng mức.
♦ Nghiên cứu về các mô hình giành cho người cao tuổi
Bên cạnh những nghiên cứu về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và thực
trạng đời sống của NCT thì các mô hình chăm sóc sức khỏe dành cho NCT
cũng nhận đƣợc sự quan tâm, chú ý. Có thể kể đến một vài nghiên cứu nhƣ:
Đề tài: “Tìm hiểu đời sống người cao tuổi tại Mái ấm tình thương chùa
Diệu Pháp” đƣợc triển khai nghiên cứu để tìm hiểu thực trạng đời sống về
chế độ dinh dƣỡng, sinh hoạt, đời sống tinh thần của NCT trong Mái ấm tình
thƣơng chùa Diệu Pháp và từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm cải thiện đời
sống cho NCT tại đây. Đây cũng là một trong những mô hình chăm sóc sức
khỏe cho NCT có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nƣơng tựa tập trung giống
nhƣ các trung tâm chăm sóc NCT [42, tr.12 – tr.13].
Trong đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao
tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc người cao tuổi đang áp dụng”
của Đặng Vũ Cảnh Linh (2009) đã đƣa ra một số vấn đề về NCT: Thứ nhất,
điều kiện sống ngày một tăng góp phần tích cực vào việc nâng cao sức khỏe
của NCT. Thứ hai, công tác chăm sóc sức khỏe NCT đã đƣợc quan tâm. Thứ
ba, công tác tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng
còn ít, tại nhiều địa bàn khảo sát tình trạng NCT hoạt động đơn lẻ, tự phát phổ
biến. Thứ tƣ, điều kiện sống của NCT đang dần đƣợc cải thiện cùng với cuộc
sống của toàn xã hội. Một số mô hình chăm sóc NCT hiện nay bƣớc đầu đã
giải quyết đƣợc những vấn đề của xã hội. Các mô hình này ít nhiều đã giúp
NCT có đƣợc cuộc sống thanh thản và nhận đƣợc sự quan tâm chăm sóc
chu đáo [38].
Hiện tại, ở nƣớc ta có nhiều mô hình trợ giúp NCT khác nhau, có
14
những mô hình trong các trung tâm trợ giúp, các cơ sở chăm sóc nuôi dƣỡng
cũng có những mô hình tại cộng đồng. Những nghiên cứu trên đã bàn về một
vài mô hình, và đánh giá các hoạt động triển khai tại các mô hình này. Từ các
nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng, những mô hình này đã góp phần quan
trọng vào việc cải thiện, nâng cao chất lƣợng cuộc sống NCT tại các trung
tâm cơ sở nuôi dƣỡng tập trung cũng nhƣ tại cộng đồng.
♦ Một vài nghiên cứu khác
Ngoài những hƣớng nghiên cứu đã đƣợc đề cập đến ở trên, lĩnh vực
ngƣời cao tuổi cũng có nhiều nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau của đời
sống xã hội.
Nghiên cứu về “Sự tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi ở
đồng bằng sông Hồng” của tác giả Dƣơng Chí Thiện (1999). Kết quả của
cuộc nghiên cứu trên đã đề cập đến sự tham gia vào các hoạt động xã hội của
NCT và qua đó đánh giá những yếu tố tác động đến sự tham gia hoạt động xã
hội của NCT ở vùng đồng bằng sông Hồng. Kết quả cho thấy tỷ lệ NCT tham
gia vào các hoạt động xã hội ở các tổ chức phi chính thức cao hơn rất nhiều so
với các tổ chức chính thức. Các yếu tố nhƣ khu vực cƣ trú, giới tính, độ tuổi,
mức độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh và điều kiện sống, tình trạng sức
khỏe… đều có ảnh hƣởng đến giao tiếp của NCT [48].
Nghiên cứu “Động cơ tiếp tục hoạt động lao động của người nghỉ hưu
ở Hà Nội” của tác giả Hoàng Mộc Lan (2006) đƣợc tiến hành trên 600 ngƣời
về hƣu ở HN, cho thấy hơn 50% ngƣời nghỉ hƣu vẫn muốn tiếp tục duy trì lao
động nghề nghiệp do lƣơng hƣu thấp, thói quen làm việc và mong muốn giao
tiếp với mọi ngƣời trong cơ quan, cơ sở mà họ đã sống, gắn bó nhiều năm
[57, tr.14 – tr.15].
Một công trình khác cần kể đến ở đây là đề tài: “Nâng cao chất lượng
hoạt động của Hội người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ mới” đã đƣợc Viện
nghiên cứu NCT Việt Nam trực tiếp triển khai ở hai tỉnh Quảng Ngãi và
15
Quảng Ninh với sự phối hợp của Ban Tổ chức, Ban phong trào, Ban xã hội –
Sức khỏe, Văn phòng trung ƣơng Hội và Ban đại diện Hội NCT hai tỉnh trên.
Đề tài tiến hành nghiên cứu về hoạt động của Hội NCT. Thực trạng hoạt động
chăm sóc NCT. Hoạt động phát huy vai trò của NCT. Một số hạn chế, nguyên
nhân, bài học về hoạt động và tổ chức của Hội NCT, đồng thời đƣa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội NCT tại địa phƣơng. Đề tài
này cũng đƣợc biên tập thành sách bởi hai tác giả Đinh Văn Tƣ, Nguyễn Thế
Huệ và đƣợc xuất bản năm 2010 [32].
Trong nghiên cứu “Một số vấn đề chăm sóc sức khỏe người già hiện
nay” của tác giả Dƣơng Chí Thiện, đã đề cập đến các vai trò của gia đình, của
tổ chức xã hội và hệ thống y tế đối với vấn đề chăm sóc NCT:
Vai trò của gia đình trong chăm sóc NCT: Gia đình có vai trò rất to lớn
trong đảm bảo mọi mặt cho toàn bộ cuộc sống của NCT. Tuy nhiên một vấn
đề đang đƣợc đặt ra hiện nay là số lƣợng NCT phải sống cô đơn ngày càng
tăng mặc dù con cái của họ đang sống (vì nhiều lý do không thể chăm sóc các
cụ) hoặc họ không có con cái khi ốm đau già yếu.
Vai trò của các tổ chức xã hội trong chăm sóc NCT: Cùng với việc coi
gia đình nhƣ một cơ sở quan trọng trong hệ thống ASXH đối với NCT thì các
tổ chức xã hội, các nhóm xã hội đóng một vai trò không nhỏ trong việc chăm
sóc NCT và thỏa mãn nhiều nhu cầu đặt ra trong đời sống của NCT.
Vai trò của hệ thống y tế đối với sức khỏe NCT: Với việc thực hiện chế
độ bảo hiểm y tế cho NCT, tuy mới chỉ là bƣớc đầu, nhƣng đó là bƣớc tiến
quan trọng và cơ bản của nƣớc ta trên con đƣờng thực hiện một hệ thống
chăm sóc sức khỏe NCT phù hợp với quá trình phát triển của xã hội hiện nay
[40, tr.3 – tr.4].
Cuối cùng một công trình nghiên cứu về NCT không thể bỏ qua là Báo
cáo “Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và
một số khuyến nghị chính sách” (Tháng7/2011) đƣợc Quỹ Dân số Liên hợp
16
quốc (UNFPA) khởi xƣớng trong khuôn khổ chƣơng trình Kế hoạch Một Liên
hợp quốc. Báo cáo đã trình bày về một số đặc điểm của già hóa dân số và
NCT ở Việt Nam với những phân tích cụ thể về xu hƣớng và mức độ già hóa
dân số ở Việt Nam trong thời gian tới cùng với thực trạng về cuộc sống gia
đình, sức khỏe, hoạt động kinh tế... Bên cạnh đó báo cáo cũng phân tích về hệ
thống hƣu trí, trợ cấp và chăm sóc sức khỏe cho NCT ở Việt Nam trong thời
gian gần đây cũng nhƣ các chiến lƣợc quốc gia trong thời gian tới nhằm giải
quyết những vấn đề của già hóa dân số. Từ đó báo cáo đƣa ra khuyến nghị
chính sách ngƣời NCT Việt Nam khỏe mạnh, tích cực trong các hoạt động xã
hội và năng động trong các hoạt động chân tay và trí óc [44].
Qua những nghiên cứu kể trên, tác giả nhận thấy có nhiều ngƣời nghiên
cứu về NCT, từ thực trạng đời sống, những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống,
những vấn đề về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cũng nhƣ các mô hình chăm
sóc dành cho NCT nƣớc ta. Có thể nói rằng các nghiên cứu kể trên là cơ sở
quan trọng để tác giả nghiên cứu “Vai trò của nhân viên công tác xã hội với
người cao tuổi tại cộng đồng” - (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo -
huyện Yên Dũng – Tỉnh Bắc Giang).
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài vận dụng lý thuyết, phƣơng pháp xã hội học và CTXH vào giải
quyết một số vấn đề thực tiễn thông qua việc tìm hiểu thực trạng công tác
chăm sóc NCT và phát huy vị trí, vai trò to lớn của NCT trong gia đình và xã
hội; nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng –
tỉnh Bắc Giang. Đồng thời thông qua đó làm sáng tỏ và góp phần bổ sung một
số khía cạnh về mặt khái niệm, nội dung cho một số lý thuyết trên.
Là nguồn tƣ liệu tham khảo cho các nghiên cứu về sau trong lĩnh vực
NCT nói chung và CTXH với NCT nói riêng.
Đề tài đóng góp thêm một góc nhìn mới, một quan điểm, một cách tiếp
17
cận khác trong những lĩnh vực nghiên cứu về NCT thông qua việc đánh giá
tầm quan trọng về NCT với NCT nói chung và vai trò của nhân viên NCT nói
riêng trong trợ giúp NCT.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thứ nhất, từ những kết quả nghiên cứu thực tế tác giả nghiên cứu đề tài
sẽ phát hiện ra đƣợc những điểm mạnh, điểm yếu trong nghiên cứu thực trạng
công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình và xã
hội; những nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT tại cộng đồng. Giúp cho các cán
bộ làm công tác với NCT có những biện pháp thiết thực thúc đẩy công tác
chăm sóc NCT ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, đề xuất vai trò của nhân viên CTXH trong việc trợ giúp NCT
và kiến nghị cho các cấp chính quyền, gia đình, cộng đồng nhằm thực hiện tốt
hơn công tác hỗ trợ, chăm sóc NCT. Đồng thời góp phần đảm bảo môi trƣờng
xã hội, môi trƣờng văn hóa, văn minh cho các cụ, thực hiện quyền cơ bản của
NCT – một trong những nội dung của quyền cơ bản.
Thông qua các vai trò, hoạt động của nhân viên CTXH đang đƣợc thực
hiện ẩn dƣới các tổ chức, hội, đoàn thể trong việc trợ giúp NCT tác giả mong
muốn giúp nhân viên CTXH chuyên cũng nhƣ không chuyên hoạt động về
CTXH có cái nhìn tổng thể, và nắm rõ đƣợc các vai trò của mình khi làm việc
với NCT để đạt đƣợc kết quả cao nhất của sự trợ giúp.
Thứ ba, nghiên cứu làm cơ sở để đánh giá tính hiệu quả về vai trò của
nhân viên CTXH trong vấn đề trợ giúp NCT tại cộng đồng.
Thứ tư, bổ sung thêm tài liệu tham khảo về ngành CTXH trong CTXH
với NCT cho các tổ chức, cá nhân hoạt động và quan tâm.
Thứ 5, trong quá trình thực hiện đề tài góp phần tích lũy kinh nghiệm
cho bản thân, giúp bản thân nâng cao một số kĩ năng của nhân viên NCT.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài, kết quả nghiên cứu hƣớng
18
tới trả lời các câu hỏi sau:
Thực trạng công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT tại
Thị trấn Neo hiện nay đang diễn ra nhƣ thế nào?
NCT tại Thị trấn Neo có những nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng nào
và đã đƣợc đáp ứng chƣa?
Vai trò của nhân viên CTXH (cán bộ xã hội) trong trợ giúp NCT tại địa
thị trấn hiện nay nhƣ thế nào? Những khó khăn, trở ngại và giải pháp để thực
hiện tốt các vai trò trợ giúp?
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng công tác chăm sóc và phát
huy vị trí, vai trò của NCT; nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT tại Thị trấn Neo
– huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
Trên cơ sở đó đƣa ra những kiến nghị, đề xuất những vai trò nhân viên
CTXH trong việc trợ giúp NCT tại Thị trấn Neo để NCT sống vui, sống khỏe,
sống có ích và hƣớng tới vận dụng các hệ thống lý thuyết, kỹ năng, phƣơng
pháp can thiệp CTXH trong việc hỗ trợ NCT tại công đồng.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu vai trò của
nhân viên CTXH với NCT tại cộng đồng.
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng chăm sóc và phát huy vị trí,
vai trò của NCT tại thị trấn.
Tìm hiểu, đánh giá, phân tích những quan điểm, nhu cầu hỗ trợ của
NCT tại thị trấn. Từ đó hiểu rõ hơn về những mong muốn của họ để có kiến
nghị, đề xuất những biện pháp cụ thể, thực tế hơn.
Đề xuất các vai trò của nhân viên CTXH trong việc trợ giúp NCT tại
Thị trấn Neo. Đồng thời hƣớng tới hƣớng tới vận dụng các hệ thống lý thuyết,
19
kỹ năng, phƣơng pháp can thiệp CTXH trong việc hỗ trợ NCT tại công đồng.
6. Giả thuyết nghiên cứu
NCT trên địa bàn khảo sát vẫn gặp nhiều khó khăn về chăm sóc sức
khỏe, đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần. NCT ở đây chƣa có điều kiện
đƣợc tiếp cận với các dịch vụ từ cộng đồng xã hội nhƣ: chăm sóc sức khỏe
tâm thần; khám chữa bệnh; hoạt động vui chơi giải trí; hỗ trợ hòa nhập cộng
đồng; dịch vụ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm,…
NCT đã và đang nhận đƣợc sự quan tâm từ phía gia đình, cộng đồng và
xã hội. Tuy nhiên vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản của NCT.
Vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ, chăm sóc NCT và phát
huy vị trí, vai trò của NCT trên địa bàn thị trấn còn khá mờ nhạt và thiếu kiến
thức, kỹ năng, phƣơng pháp CTXH. Nhân viên CTXH chƣa phát huy đƣợc
vai trò của mình trong việc trợ giúp NCT.
7. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
7.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của nhân viên CTXH với NCT tại cộng đồng – Nghiên cứu
trƣờng hợp tại Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang làm nội dung
nghiên cứu.
7.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài đƣợc xác định bao gồm các thành phần sau:
+ Ngƣời cao tuổi tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
+ Ngƣời thân trong gia đình (con, cháu...) của NCT đang chung sống
trong một hộ gia đình.
+ Chính quyền địa phƣơng
+ Hội NCT Thị trấn Neo
+ Chi hội NCT tại các tiểu khu
+ Hội Cựu chiến binh
20
+ Cán bộ xã hội
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
8.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nhiều tài liệu báo cáo, sách, tạp chí chuyên ngành trên tƣ liệu sách báo,
internet và các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề “Người
cao tuổi”, “Công tác xã hội với người cao tuổi” đƣợc tác giả thu thập. Các tài
liệu này đƣợc tổng hợp, phân tích giúp cho tác giả có đƣợc cái nhìn tổng quan về
những nghiên cứu đi trƣớc trong lĩnh vực này. Những công trình nghiên cứu này
bao gồm cả tài liệu trong nƣớc và cả tài liệu nƣớc ngoài. Việc phân tích đó sẽ
giúp cho chúng tôi có thể kế thừa có chọn lọc và so sánh các phân tích kết quả
của những nghiên cứu này với những kết quả nghiên cứu của luận văn.
Bên cạnh đó phƣơng pháp này còn đƣợc sử dụng để thu thập, phân tích
những số liệu thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội; Báo cáo hoạt động
tổng kết hàng năm của Ủy ban nhân dân Thị trấn Neo, Báo cáo của Hội NCT
thị trấn Neo,... Việc thu thập, phân tích này sẽ hỗ trợ cho việc giải thích dữ
liệu điều tra, đồng thời giúp cho tác giả có đƣợc cái nhìn tổng quan về Hội với
cách thức tổ chức hoạt động, kết quả đạt đƣợc gì, những điểm nào cần phát
huy, điểm nào hạn chế cần khắc phục.
8.2. Phương pháp quan sát
Quan sát thực tế hoạt động trong công tác chăm sóc và phát huy vị trí,
vai trò của NCT tại địa phƣơng, hoạt động của Hội NCT tại địa bàn Thị trấn
Neo, tiếp xúc trực tiếp với Ban lãnh đạo chính quyền địa phƣơng, Chủ tịch
Hội NCT, Chi hội trƣởng Hội NCT, Cán bộ xã hội. Giai đoạn quan sát thực tế
đƣợc tiến hành trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài. Cách thức quan sát đƣợc kết hợp giữa quan sát tham dự
và quan sát không tham dự.
8.3. Phương pháp nghiên cứu điều tra bảng hỏi
Tiến hành điều tra bảng hỏi với 150 NCT hiện đang sống tại địa bàn
21
Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang. Việc chọn mẫu đƣợc tiến
hành theo phƣơng pháp ngẫu nhiên hệ thống. (1) Rà soát danh sách tất cả
NCT hiện đang sống tại tại địa bàn Thị trấn Neo (Độ tuổi từ 60 – 80 tuổi, trừ
NCT không có khả năng giao tiếp trực tiếp). (2) Đánh số thứ tự NCT trong
danh sách. Lấy ngẫu nhiên một trong hai ngƣời đầu tiên. Tiếp đó cứ cách một
ngƣời trong danh sách lại chọn một ngƣời cho đến khi đủ cỡ mẫu 150 ngƣời.
- Nội dung điều tra bảng hỏi bao gồm:
+ Một số thông tin chung về NCT;
+ Một số thông tin về sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe;
+ Một số thông tin về hoạt động lao động, nhu cầu lao động;
+ Quan hệ xã hội và nhu cầu đƣợc quan tâm, tôn trọng;
+ Một số thông tin về hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của
NCT;
+ Một số thông tin về hỗ trợ NCT của cán bộ xã hội và chính quyền địa
phƣơng;
+ Phát huy vị trí, vai trò của NCT;
+ Mong muốn/nguyện vọng của NCT.
8.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
Tiến hành 15 cuộc phỏng vấn sâu trực tiếp đối với: Lãnh đạo Thị trấn
Neo (01); Chủ tịch Hội Ngƣời cao tuổi (01); Bản thân NCT (10), Đại diện
thành viên hộ gia đình có NCT (04); Nhân viên CTXH – Cán bộ xã hội (01).
Mục đích của phƣơng pháp phỏng vấn sâu:
Nội dung cốt lõi của các cuộc phỏng vấn sâu tập trung vào những vấn
đề sau: (1) Đánh giá thực trạng công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò
của NCT trong gia đình và xã hội; (2) Nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ, chăm sóc của
NCT hiện nay; (3) Đánh giá nhận thức và vai trò của gia đình, cộng đồng xã
hội trong chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT; (4) Đánh giá vai trò
nhân viên CTXH (những khó khăn, trở ngại và nhận thức của nhân viên
22
CTXH về vai trò của mình).
Phỏng vấn sâu không nhằm đo lƣờng tần số, tỷ lệ hay mối quan hệ liên
quan giữa các biến số mà chỉ giúp góp phần xác định lại và bổ sung thêm
thông tin trong phần nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi.
8.5. Phương pháp phân tích và thống kê xã hội học
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý kết quả điều tra.
9. Phạm vi nghiên cứu
9.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng chăm sóc
và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình và xã hội; nhu cầu cần đƣợc
hỗ trợ của NCT và vai trò trợ giúp NCT của nhân viên CTXH tại Thị trấn Neo
– huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
9.2. Phạm vi không gian
Không gian nghiên cứu: Thị trấn Neo - huyện Yên Dũng – Tỉnh Bắc
Giang.
9.3. Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu đƣợc triển khai trong khoảng thời gian từ 04/2014 –
23
4/2015.
Phần 2. NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC THỰC TIỄN
CỦA NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1 Khái niệm vai trò
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm vai trò:
Theo Từ điển XHH Oxford, vai trò là một khái niệm then chốt trong lý
thuyết XHH. Nó nhấn mạnh những kỳ vọng trong xã hội gắn với những vị thế
hay vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích sự vận hành của những kỳ vọng ấy [12, tr.589]. Đây là khái niệm vốn bắt nguồn từ vai diễn trên sân khấu
sau đó đƣợc các nhà Tâm lý học, Xã hội học sử dụng để lý giải quá trình
“đóng vai” của con ngƣời trong những bối cảnh nhất định. Vai trò là mô hình
hành vi đƣợc xác lập một cách khách quan, căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối
với từng vị thế nhất định để thực hiện những quyền lợi và nghĩa vụ tƣơng ứng
với vị thế đó.
Theo Ralph Linton (1893 - 1953) nhà nhân học văn hóa ngƣời Mỹ, đã
đƣa ra khái niệm vai trò: “Vai trò là những lối ứng xử đã được quy định sẵn
và áp đặt tương ứng với những vị trí cụ thể nhất định. Mỗi “vị thế” đều có
“vai trò” của nó, “chức năng” của nó trong xã hội”. Thuyết chức năng công
nhận là vai trò thƣờng đƣợc xác định trong mối quan hệ với các vai trò khác,
nhƣng họ phủ nhận rằng có thể thay đổi hoặc tạo ra vai trò mới. Bởi lẽ vai trò
đƣợc quy định bởi những chuẩn mực xã hội. Nhƣ vậy, trong cuộc sống con
ngƣời luôn phải đối mặt với các vai trò xã hội khác nhau, đôi khi đóng vai trò
ở cùng một thời điểm và trong những tình huống xã hội cụ thể.
Có quan điểm cho rằng: “Một vai trò là tập hợp các mong đợi, các
quyền và những nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Những sự mong đợi
24
này xác định các hành vi của con người được xem như là phù hợp và không
phù hợp đối với người chiếm giữ một địa vị” [14, tr.212]. Theo quan điểm
này tƣơng ứng với từng địa vị cụ thể sẽ có những vai trò đƣợc đƣa ra. Những
quyền và nghĩa vụ này giúp phân biệt đƣợc vai trò của cá nhân trong từng địa
vị khác nhau.
Ứng dụng vào trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ vừa tìm hiểu vai
trò của NCT trong gia đình và xã hội từ các đóng góp của NCT thông qua các
hoạt động trong đời sống văn hóa – kinh tế - chính trị - xã hội của họ còn gọi
là vai trò cụ thể thì trong nghiên cứu này vai trò chung (trừu tƣợng), của NCT
đƣợc hiểu là vai trò chủ gia đình, vai trò trong giáo dục bảo lƣu các giá trị văn
hóa gia đình và cộng đồng… Đồng thời, luận văn cũng tìm hiểu vai trò của
gia đình và cộng đồng cũng nhƣ tìm hiểu về vai trò của nhân viên CTXH
trong việc hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình
và xã hội tại địa phƣơng. Với những thay đổi về tâm sinh lý cũng nhƣ xã hội,
NCT dễ gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Các vấn đề đề này làm cho
việc thực hiện các chức năng xã hội của họ bị cản trở và làm cho họ trở thành
nhóm đối tƣợng yếu thế cần đƣợc giúp đỡ chuyên nghiệp. Khi làm việc trong
lĩnh vực trợ giúp NCT, nhân viên CTXH phải tìm hiểu, phân tích, đánh giá
cũng nhƣ giúp NCT giải quyết các vấn đề cụ thể của bản thân, từ đó giúp họ
phục hồi và phát triển các chức năng xã hội để hòa nhập với xã hội, tiếp tục
đóng góp sức lực, trí tuệ và kinh nghiệm để phát triển địa phƣơng, đất nƣớc.
1.1.2 Khái niệm người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau, cách nhìn khác nhau về NCT. Trƣớc
đây, ngƣời ta thƣờng dùng thuật ngữ “Người già” để chỉ những ngƣời có tuổi.
Hiện nay, thuật ngữ “Người cao tuổi” ngày càng đƣợc sử dụng nhiều hơn. Hai
thuật ngữ này tuy không khác nhau về mặt khoa học song về tâm lý, “Người cao
tuổi” là thuật ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm Y học: Ngƣời cao tuổi là ngƣời đang ở giai đoạn già
hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể. Quan điểm Y học
25
nhìn nhận NCT ở khía cạnh thể chất của con ngƣời.
Một cách phân chia khác đƣợc xác định dựa trên độ tuổi. Tuy nhiên, độ
tuổi này mang tính tƣơng đối, có sự khác biệt theo thời gian và các vùng lãnh
thổ. Ngƣời cao tuổi là ngƣời thuộc độ tuổi nhất định nào đó đƣợc thừa nhận
bởi các thành viên trong xã hội. Một số quốc gia có tuổi thọ trung bình cao
nhƣ Nhật Bản, Pháp, Đức, Thụy Điển... một ngƣời đƣợc xem là ngƣời già khi
họ 65 tuổi. Ở một số nƣớc khác nhƣ Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ... những
ngƣời từ 60 tuổi trở lên đƣợc coi là NCT. Quy định ở mỗi nƣớc có sự khác
biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của ngƣời dân ở
các nƣớc khác nhau. Những nƣớc có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì
tuổi thọ và sức khỏe của ngƣời dân cũng đƣợc nâng cao. Do đó, các biểu hiện
của tuổi già thƣờng đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nƣớc đó
cũng khác nhau.
Việc xác định độ tuổi cao tuổi còn phụ thuộc vào chính sách cũng nhƣ
nguồn lực để thực hiện các chính sách của mỗi quốc gia. Vì lý do đó, nhiều ý
kiến cho rằng, NCT Việt Nam đƣợc xác định từ 80 tuổi trở lên, vì trong hệ
thống chính sách Việt Nam, NCT từ 80 trở lên mới đƣợc hƣởng các dịch vụ
và trợ giúp xã hội.
Trên phạm vi toàn thế giới, năm 1992 Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã
thống nhất quy định những công dân từ 60 tuổi trở lên đƣợc tính là ngƣời già.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Ngƣời cao tuổi phải từ 65 tuổi trở lên.
Ở Việt Nam, Luật Người cao tuổi đƣợc Quốc hội thông qua vào tháng
11 năm 2009 và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01 tháng 07 năm 2010 quy định
tại điều 2: Ngƣời cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Nhƣ vậy, mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực lại có những quan niệm khác
nhau về NCT. Công tác xã hội nhìn nhận NCT theo pháp luật, chính sách. Đồng
thời, với cách thức đặc thù: NCT với những thay đổi tâm sinh lý, lao động – thu
nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó,
NCT là một trong những nhóm dễ bị tổn thƣơng và có nhu cầu cần sự trợ giúp
26
của CTXH nói chung và của nhân viên CTXH nói riêng [20, tr.8].
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tiến hành nghiên cứu với những
NCT ở các lứa tuổi khác nhau từ 60 đến 80 tuổi, nghề nghiệp khác nhau tại
cộng đồng để từ đó tác giả có thể đánh giá đƣợc đƣợc những nhu cầu cơ bản;
vị trí, vai trò, những lĩnh vực hoạt động sống của NCT... Đồng thời khai thác
thế mạnh của NCT để phát huy vị trí, vai trò của NCT tiếp tục cống hiến cho
gia đình và xã hội, cho sự nghiệp phát triển của đất nƣớc.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về cộng đồng. Theo Từ điển XHH
1.1.3 Khái niệm cộng đồng
Oxford, cộng đồng là một tập hợp những mối quan hệ được thiết lập một cách
đặc thù dựa trên những cái mà các thành viên cùng có chung – thường là một
cảm quan chung về bản sắc [12, tr.113].
Theo Redo – Trƣờng Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng
Philippins định nghĩa: “Cộng đồng là một đơn vị hành chính, lãnh thổ trong
đó mọi người có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chia sẻ các nền tảng chung
như văn hóa, tôn giáo, chủng tộc… Họ chia sẻ mối quan tâm chung về những
vấn đề cụ thể về những vấn đề cụ thể như nghèo đói, tệ nạn xã hội, trẻ em lao
động sớm, tai nạn thương tích trẻ em, thất học, bệnh tật, họ có nghĩa vụ và
trách nhiệm chung”.
Theo tác giả Trịnh Văn Tùng thì “Cộng đồng là một nhóm người có sự
liên hệ chặt chẽ với nhau, có nhiều thuộc tính giống nhau tạo thành bản sắc.
Cộng đồng ấy không nhất thiết cùng sống trong một đơn vị hành chính lãnh
thổ. Họ cùng nhau chia sẻ những mối quan tâm về những vấn đề cụ thể (thiếu
hụt chức năng xã hội, bị kì thị, bị loại trừ xã hội, khó khăn trong việc tiếp cận
các nguồn lực đồng thời có nghĩa vụ và trách nhiệm chung” [55].
Thƣờng thì mỗi cộng đồng xác định cho mình một hệ giá trị chuẩn mực
riêng với tính chất là các định chế xã hội quy định các nhận thức và hành vi
của các thành viên trong cộng đồng. Cụ thể, quy định các thành viên trong
27
cộng đồng phải làm gì? Làm nhƣ thế nào? Các quy chế khen thƣởng, xử phạt
ra sao? Khi các thành viên tuân theo các giá trị chuẩn mực của cộng đồng
thì sẽ đảm bảo sự thống nhất và đoàn kết trong cộng đồng. Hệ giá trị chuẩn
mực của cộng đồng đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở nhận thức, quan niệm và
tập quán của từng cộng đồng, vì vậy có những quan niệm cộng đồng này
coi là hay và tuân theo nhƣng ở cộng đồng khác lại thấy không chấp nhận
đƣợc [41, tr.2].
Luận văn sẽ triển khai nghiên cứu tại địa bàn Thị trấn Neo – huyện Yên
Dũng – tỉnh Bắc Giang, thông qua đó giúp cho tác giả nghiên cứu đề tài có cái
nhìn tổng quan về thực trạng công tác hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí vai
trò của NCT; nhu cầu của NCT; vai trò của nhân viên CTXH tại địa bàn thị
trấn. Đồng thời đánh giá các nguồn lực của cộng đồng trong việc trợ giúp
NCT. Từ đó có thể đƣa ra đƣợc những giải pháp tối ƣu trong trợ giúp NCT,
đáng ứng đƣợc những mong muốn, nguyện vọng của NCT giúp cho NCT
sống vui, sống khỏe, sống có ích trở tài sản, vốn quý của gia đình và xã hội.
1.1.4 Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội là gì? Đây là câu hỏi có nhiều khó khăn và quan điểm
khác nhau khi trả lời câu hỏi này mặc dù CTXH đã trải qua hàng trăm năm.
Theo Liên đoàn Nhân viên CTXH quốc tế (IFSW) và Hiệp hội các
trƣờng CTXH quốc tế (IASSW) (tại Hội liên hiệp quốc tế của Liên đoàn
Nhân viên CTXH quốc tế (IFSW) và Hiệp hội các trƣờng CTXH quốc tế
(IASSW) tổ chức tại Montreal, Canada, 7/2000): “Công tác xã hội chuyên
nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong các mối quan hệ
của con người, tăng quyền lực và giải phóng cho người dân nhằm đem lại
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ
thống xã hội, CTXH can thiệp vào những điểm tương tác giữa con người và
môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là nguyên tắc căn bản
28
của nghề nghiệp CTXH” [36, tr.48].
Theo từ điển CTXH The Social work Dictionary – 5th edition do
Robert L.Barker biên soạn: “Công tác xã hội là sự ứng dụng khoa học vào
việc giúp đỡ (con người) người dân thực hiện chức năng xã hội của mình có
hiệu quả và tạo ra sự thay đổi xã hội nhằm tăng cường chất lượng cuộc sống
của tất cả mọi người” [64].
Theo từ điển Bách khoa toàn thƣ ngành CTXH xuất bản lần thứ 19:
“Công tác xã hội là một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt
động của con người, tạo ra những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh
xã hội cho người dân trong xã hội” [36, tr.49].
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh: “Công tác xã hội là một hoạt động
thực tiễn mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo những nguyên tắc và
phương pháp nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải
quyết các vấn đề đời sống của họ. Qua đó, CTXH theo đuổi mục tiêu vì phúc
lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội” [47, tr.5 – tr.6].
Mặc dù có nhiều quan điểm, nhiều định nghĩa về CTXH còn khác nhau,
nhƣng chúng đều thống nhất về mục tiêu, mục đích, chức năng và phƣơng
pháp, về kiến thức, kỹ năng và giá trị của CTXH, đều dựa trên cơ sở khoa học
và kỹ năng nghề nghiệp CTXH.
Nhƣ vậy, CTXH là một khoa học, một nghề chuyên môn nhằm trợ giúp
các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi và phát triển các chức năng xã hội bị
suy giảm thông qua việc tăng cường năng lực và thay đổi môi trường xung
quanh, giúp cá nhân, nhóm, cộng đồng đó tự vươn lên, giải quyết các vấn đề
tồn tại, hòa nhập và sự phát triển chung của xã hội [20, tr.73].
Với những đặc trƣng của giai đoạn cuối, NCT đƣợc xếp vào nhóm yếu
thế cần sự trợ giúp. Công tác xã hội với NCT là công việc cần thiết, vừa thể
hiện truyền thống “trọng lão” của dân tộc, vừa trợ giúp hiệu quả cho NCT để
họ khắc phục những khó khăn, phát huy các tiềm năng của bản thân cũng nhƣ
29
khai thác nguồn lực bên ngoài để phục hồi, hòa nhập và cống hiến cho xã hội.
1.1.5 Khái niệm nhân viên công tác xã hội
Trong giáo dục đào tạo cũng nhƣ trong hoạt động thực tiễn ngành
CTXH, khái niệm nhân viên CTXH thƣờng đƣợc sử dụng khác nhau: cán bộ
xã hội, nhân viên xã hội, nhân viên công tác xã hội. Thuật ngữ cán bộ xã hội,
nhân viên xã hội dễ nhầm lẫn với những cán bộ, những nhân viên làm việc
trên các lĩnh vực xã hội khác nhau.
Theo Hiệp hội quốc tế nhân viên công tác xã hội IASSW thì nhân viên
CTXH: “Nhân viên công tác xã hội là những người được đào tạo và trang bị
các kiến thức và kỹ năng trong công tác xã hội, họ có nhiệm vụ trợ giúp các
đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc
sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết thúc đẩy
sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường, tạo ảnh hưởng
tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, trong tác phẩm “Đổi mới Công tác
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Lý luận và thực
tiễn”, xuất bản năm 2013, đã viết “Nhân viên Công tác xã hội được hiểu là
những người làm việc liên quan đến các hoạt động Công tác xã hội tại các tổ
chức, đơn vị của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và các ngành như
ý tế, giáo dục, đoàn thể... từ cấp trung ương tới địa phương”.
Tóm lại, nhân viên CTXH là người được đào tạo một cách bài bản về
mặt chuyên môn và các kỹ năng làm việc chuyên nghiệp. Nhân viên CTXH
không chỉ hướng vào các nhóm đối tượng yếu thế mà còn xây dựng những
chương trình, những giải pháp chiến lược nhằm bảo vệ cả cộng đồng dân cư.
Họ luôn đặt lợi ích của thân chủ lên cao nhất và cố gắng giúp đỡ thân chủ
đạt được mục tiêu mà họ đặt ra. Tuy nhiên, nhân viên CTXH chỉ là người
cùng thảo luận và giải thích các phương án có điểm nào tốt, điểm nào hạn
chế, còn quyết định cuối cùng vẫn thuộc về thân chủ chứ nhân viên CTXH
30
không làm hộ làm thay.
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả đi tìm hiểu, phân tích và đánh
giá vai trò, những thuận lợi và khó khăn, trở ngại trong việc thực hiện vai trò
của nhân viên CTXH trong hoạt động hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí, vai
trò của NCT trong gia đình và xã hội tại địa bàn Thị trấn Neo.
1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái
Đây là một trong những lý thuyết quan trọng đƣợc sử dụng trong
CTXH, đặc biệt khi tìm hiểu, đánh giá về hệ thống xung quanh NCT. Nó cho
nhân viên CTXH biết rằng NCT đang thiếu những gì và những hệ thống mà
họ có thể tham gia và tiếp cận bởi trọng tâm của hệ thống là hƣớng đến những
cái tổng thể và mang tính hòa nhập. Đồng thời mục đích của lý thuyết này
nhằm hỗ trợ nhân viên CTXH duy trì trọng tâm vào những tƣơng tác giữa
thân chủ và môi trƣờng của họ.
Nội dung của thuyết hệ thống sinh thái chú ý tới vị trí của cá nhân trong
môi trƣờng sống. Hệ thống sinh thái cho rằng con ngƣời ảnh hƣởng lẫn nhau
và ảnh hƣởng tới môi trƣờng. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì con ngƣời
không sống biệt lập mà luôn luôn sống trong cộng đồng. Tác động qua lại
giữa các hệ thống con ngƣời và môi trƣờng có ảnh hƣởng rất lớn đến an sinh
của cá nhân và của xã hội. Nhƣ vậy, thuyết hệ thống sinh thái nhấn mạnh vào
sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng sinh thái của mình. Vì vậy, nhiệm
vụ của nhân viên CTXH là giúp thân chủ nhận biết và sử dụng các hệ thống;
xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân và các hệ thống nguồn lực của họ.
Thuyết hệ thống sinh thái đƣa ra một mô hình đƣợc ứng dụng nhiều
trong CTXH: Mô hình đời sống (của Germain – Gitterman – 1980) là một mô
hình chính trong lý thuyết hệ thống sinh thái. Mô hình này nhìn nhận cá nhân
phải thƣờng xuyên trao đổi và thích ứng với môi trƣờng sống của họ để có thể
tồn tại và phát triển. Nhƣng trong thực tế con ngƣời luôn phải đối mặt với
31
những vấn đề nảy sinh, bao gồm các vấn đề xã hội. Chúng làm giảm khả năng
thích ứng của con ngƣời và cuộc sống của họ. Vì vậy, để duy trì sự tồn tại và
phát triển này, các cá nhân, nhóm và cộng đồng cần có một đầu vào thích hợp.
Để đạt đƣợc sự cân bằng trong việc thích ứng với môi trƣờng, con
ngƣời phải chịu các áp lực (liên quan đến các yếu tố: nhu cầu – khả năng –
môi trƣờng):
Những áp lực môi trƣờng
● Bất bình đẳng ● Thiên tai ●...
Các tiến trình liên cá nhân ● Việc khám phá, kỳ vọng trái ngƣợc nhau
Sự chuyển đổi cuộc sống ● Các giai đoạn phát triển ● Biến đổi vị thế, vai trò ● Thay đổi không gian sống
Cốt lõi của thuyết này nhấn mạnh đến tầm quan trọng là khả năng thích
ứng, kiểm soát, nhận thức môi trƣờng bên ngoài của mỗi cá nhân. Có ba
trƣờng hợp thiếu hài hòa giữa cá nhân và môi trƣờng.
- Môi trƣờng có tài nguyên và phƣơng pháp phân phối hợp lý nhƣng cá
nhân không sử dụng, có thể vì thiếu kiến thức hay không có ý chí sử dụng.
- Môi trƣờng có tài nguyên nhƣng không có phƣơng pháp phân phối
công bằng, hợp lý.
- Môi trƣờng không có tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân.
Công cụ của lý thuyết hệ thống sinh thái đƣợc sử dụng nhiều trong
phân tích CTXH là sơ đồ sinh thái nhằm mục đích phân tích mối quan hệ của
thân chủ với các nguồn lực hệ thống xung quanh. Từ đó chỉ ra nguyên nhân
32
cũng nhƣ hƣớng can thiệp đối với thân chủ.
Ghi chú:
Không liên hệ:
Có liên hệ:
Liên hệ một chiều:
Liên hệ mật thiết:
Mâu thuẫn:
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống sinh thái
Nhƣ vậy nhiệm vụ của nhân viên CTXH khi ứng dụng lý thuyết hệ
thống sinh thái trong trợ giúp NCT bao gồm:
- Giúp các cá nhân sử dụng và tăng cƣờng khả năng của bản thân họ
nhằm giải quyết đƣợc mọi vấn đề.
- Xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân và hệ thống.
- Giúp đỡ hoặc bổ trợ những tƣơng tác giữa các cá nhân và các hệ
thống nguồn lực.
- Giúp đỡ việc phát triển hay thay đổi chính sách.
- Đƣa ra những sự trợ giúp về thực hành.
- Thực hiện vai trò tác nhân kiểm soát xã hội [20, tr.83 – tr86].
Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu đề tài ứng dụng lý thuyết hệ
thống sinh thái trong nghiên cứu để có một cái nhìn toàn diện về vấn đề của
NCT từ đó có thể giúp đỡ họ một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, ứng dụng
lý thuyết này tác giả có thể xác định rõ những yếu tố, nguồn lực quan trọng
trong hệ thống sinh thái để từ đó có thể đánh giá đƣợc các yếu tố nguồn lực
33
này giúp cho quá trình can thiệp, trợ giúp đạt đƣợc kết quả cao hơn.
1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Tiếp cận theo lý thuyết nhu cầu là một trong những hƣớng tiếp cận
thuộc trƣờng phái hiện sinh. Theo quan điểm này, con ngƣời đƣợc nhìn nhận
và đánh giá cao về khả năng của họ, bản thân họ có thể tự quyết định đƣợc
cuộc sống của mình. Đối với cách tiếp cận của lý thuyết nhu cầu của Maslow,
con ngƣời cần đƣợc đáp ứng những nhu cầu theo từng thang bậc từ thấp đến
cao mà trƣớc hết là những nhu cầu cơ bản. Việc đáp ứng nhu cầu có có ý
nghĩa rất quan trọng đối với từng cá nhân thân chủ, bởi nhu cầu chi phối
mạnh mẽ đến tâm lý và hành vi con ngƣời. Nếu nhu cầu không đƣợc đáp ứng,
ắt sẽ nảy sinh những vấn đề liên quan đến sự tồn tại của cá nhân đó cũng nhƣ
những cá nhân khác xung quanh [40, tr.86].
Cho đến nay thuyết nhu cầu của Maslow vẫn có giá trị ứng dụng rất lớn
trong nghiên cứu cũng nhƣ trong thực hành CTXH. Abraham Maslow đã đƣa
Nhu cầu tự hoàn thiện
Nhu cầu đƣợc tôn trọng
Nhu cầu giao lƣu, tình cảm
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu thể chất
ra bậc thang nhu cầu của con ngƣời gồm 5 bậc đó là:
Sơ đồ 1.1. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Abraham Maslow
- Nhu cầu thể chất – nhu cầu cơ bản cho sự tồn tại của cá nhân: Nhu
cầu này còn đƣợc gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý
(physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con ngƣời nhƣ thức ăn
34
đầy đủ, không khí để thở, nƣớc uống, sƣởi ấm, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết,
thở, nghỉ ngơi, các nhu cầu làm cho con ngƣời thoải mái về cơ thể. Đây là
những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con ngƣời [16, tr.111].
- Nhu cầu an toàn – an ninh (safe needs): Nhu cầu này đƣợc khẳng
định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, đƣợc yên tâm
về các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hƣu, đƣợc sống trong các
khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật,... Tóm lại, cá nhân cần có
cảm giác yên tâm khi đƣợc an toàn thân thể, đƣợc đảm bảo việc làm, đƣợc
hƣởng các dịch vụ y tế và xã hội và tài sản cá nhân đƣợc bảo vệ [16, tr.112].
- Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging
needs): Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp nhƣ việc tìm kiếm, kết
bạn, tìm ngƣời yêu, lập gia đình, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm....
Maslow cho rằng nếu nhu cầu này không đƣợc thỏa mãn, đáp ứng, nó có thể
gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. [16, tr.113].
- Nhu cầu được tôn trọng (esteem needs): Nhu cầu này còn đƣợc gọi là
nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện mong muốn đƣợc ngƣời
khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, về sự cảm
nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự coi
trọng khả năng của bản thân. [16, tr.113].
- Nhu cầu tự hoàn thiện – cơ hội thể hiện bản thân (self actualization
needs): Bậc cuối cùng và cao nhất trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của
Maslow có sự tác động lớn nhất đến sự hoàn chỉnh nhân cách. Đó là nhu cầu
đƣợc tự khẳng định mình, nhu cầu cho sự trƣởng thành cá nhân, cơ hội của sự
phát triển và học hỏi cá nhân để tự hoàn thiện mình. Nhu cầu này thể hiện ở
việc muốn đƣợc sáng tạo, đƣợc thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, đƣợc
trình diện mình và đƣợc công nhận thành đạt [16, tr.113 – tr.114].
Dựa trên những nội dung về nhu cầu của Maslow, ứng dụng với lứa
tuổi NCT. Cũng nhƣ mọi lứa tuổi, NCT cần phải đƣợc đáp ứng những nhu
cầu vật chất và tinh thần cần thiết. Song bên cạnh đó còn có những nhu cầu
35
đặc biệt cần quan tâm hơn nhƣ:
Nhu cầu về chế độ ăn uống, ở phù hợp thuận tiện,... [47, tr.106].
Nhu cầu an toàn cho cuộc sống: Đây là nhu cầu quan trọng của NCT
lúc này họ đang trong giai đoạn cuối của cuộc đời. Giai đoạn của sự thoái hóa
tự nhiên của con ngƣời. Sự thoái hóa này không những chỉ ảnh hƣởng về mặt
thể chất mà cả về mặt tâm lý. Vì vậy đối với những NCT, việc chăm sóc sức
khỏe là vô cùng cần thiết. Từ chế độ ăn uống, sinh hoạt, khám chữa bệnh, phòng
bệnh đến môi trƣờng sống lành mạnh, ít căng thẳng... [47, tr.106].
Một nhu cầu cơ bản và quan trọng nhất ở NCT là đƣợc tôn trọng và
đƣợc chấp nhận, quý mến. Cho dù họ không còn trực tiếp đóng góp cho gia
đình và xã hội nữa nhƣng họ vẫn cần có sự chấp nhận của xã hội, của gia đình
về những kinh nghiệm trong quá khứ của họ, về khả năng và tính tự lập rằng,
họ không phải là những ngƣời thừa vô ích trong xã hội mà ngƣợc lại, họ vẫn
còn quan trọng đối với xã hội, nhất là đối với những ngƣời thân [47, tr.106].
Hơn bao giờ hết, NCT rất cần mối quan hệ mật thiết với những ngƣời
thân trong gia đình nhƣ: con, cháu, vợ chồng.... và với xã hội và bạn bè (nhu
cầu xã hội – nhu cầu giao lƣu tình cảm). Nếu thiếu những mối quan hệ này,
ngƣời già dễ nảy sinh cảm giác cô đơn và đôi khi có thể tăng thêm trong quá
trình lão hóa [47, tr.106].
Nhƣ vậy, tác giả nghiên cứu đề tài khi làm việc với NCT tại cộng đồng
cần biết đánh giá những nhu cầu của NCT để có thể cung cấp dịch vụ đáp ứng
một cách phù hợp và hiệu quả nhất.
1.2.3. Lý thuyết vai trò xã hội
Mỗi một xã hội có cơ cấu phức tạp bao gồm các vị trí, vai trò xã hội
khác nhau. Lý thuyết vị trí – vai trò xã hội cho rằng, mỗi cá nhân có một vị trí
xã hội là vị trí tƣơng đối trong cơ cấu xã hội, hệ thống quan hệ xã hội. Nó
đƣợc xác định trong sự đối chiếu so sánh với các vị trí xã hội khác. Vị thế xã
hội là vị trí xã hội gắn với những trách nhiệm và những quyền hạn kèm theo.
36
Vị thế chính “là bất kỳ một vị trí ổn định nào trong một hệ thống xã hội với
những kỳ vọng quyền hạn và nghĩa vụ đặc thù”. Các quyền và nghĩa vụ này
thƣờng tƣơng ứng với nhau. Vai trò xã hội của cá nhân đƣợc xác định trên cơ sở
các vị thế xã hội tƣơng ứng. Nó chính là mặt động của vị thế xã hội, vì luôn biến
đổi trong các xã hội khác nhau, qua các nhóm xã hội khác nhau. Tƣơng ứng với
từng vị thế sẽ có một mô hình hành vi đƣợc xã hội mong đợi. Mô hình hành vi
này chính là vai trò tƣơng ứng của vị thế xã hội [47, tr.48 – tr.49].
Theo thuyết này, trong CTXH việc tìm hiểu những nhận thức cũng nhƣ
hành động của cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng phụ thuộc nhiều vào chính vị
trí mà họ đƣợc thừa nhận trong gia đình và xã hội. Nếu nhƣ họ đƣợc coi
trọng, đƣợc có tiếng nói riêng của mình, đƣợc bình đẳng nhƣ mọi ngƣời trong
gia đình và ngoài xã hội thì họ sẽ làm tốt hơn vai trò của mình, đáp ứng đƣợc
nhiều hơn những mong đợi của mọi ngƣời và ngƣợc lại [47, tr.48 – tr.49].
Lý thuyết vai trò xã hội là một trong những lý thuyết cơ bản đƣợc sử
dụng trong nghiên cứu xã hội học và có ứng dụng mạnh mẽ trong thực hành
công tác xã hội. Ngƣời cao tuổi với những thiếu hụt trong quá trình thực hiện
vai trò xã hội của mình thì việc áp dụng lý thuyết này trong can thiệp cũng
mang lại nhiều hiệu quả. Trong luận văn này chúng tôi tiến hành tìm hiểu vị
trí, vai trò của NCT đối với gia đình và xã hội để thấy đƣợc NCT có vị trí nhƣ
thế nào và có những vai trò gì và NCT đã thực hiện những vai trò đó nhƣ thế
nào. Đồng thời chúng tôi cũng đi tìm hiểu vai trò của nhân viên CTXH trong
việc trợ giúp NCT, từ đó đánh giá đƣợc vai trò của nhân viên CTXH đã đƣợc
thực hiện nhƣ thế nào tại địa phƣơng. Ngoài ra chúng ta còn có thể tìm hiểu
về vai trò của gia đình, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong công tác chăm
sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT trong gia đình và xã hội. Qua đó chúng
ta có thể thấy đƣợc mối tƣơng quan giữa chúng.
1.3. Tổng quan chính sách của Đảng, nhà nƣớc về ngƣời cao tuổi
1.3.1. Những chủ trương của Đảng
Sau khi Hội NCT Việt Nam đƣợc thành lập (10/5/1995), Ban Bí thƣ
37
TW đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định:
“Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách
nhiệm của Đảng, nhà nước và toàn xã hội. Hội người cao tuổi Việt Nam mới
được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt
động ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân
dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong
việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy người cao
tuổi phục vụ công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội
nghiên cứu, rà soát các chính sách luật pháp hiện hành, đề xuất những văn
bản pháp quy của nhà nước nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy người cao
tuổi. “Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó
có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Trước hết cần quan tâm chăm sóc những
người cao tuổi có công, cô đơn không nơi nương tựa, tàn tật và bất hạnh,
nhanh chóng xoá bỏ tình trạng người già lang thang trên đường phố, ngõ
xóm. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ Hội người cao tuổi Việt Nam về kinh phí và
điều kiện hoạt động”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão
thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu,
những người cao tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức
khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng
nhu cầu thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất
nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt, giáo dục lí tưởng và truyền
thống cách mạng cho thanh niên, thiếu niên…”.
Thông báo số 12-TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội
NCT Việt Nam là tổ chức xã hội của NCT, có các nhiệm vụ đã đƣợc quy định
cụ thể tại Pháp lệnh NCT; Hội có Ban đại diện ở cấp tỉnh và cấp huyện; Cấp
38
tỉnh có từ 2 đến 3, cấp huyện có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách đồng thời
khẳng định: “Nhà nước tiếp tục trợ cấp kinh phí hoạt động cho Hội. Các cơ
quan có chức năng của Nhà nước tạo thuận lợi, bảo đảm cấp kinh phí kịp thời
cho Hội”.
Trong bài phát biểu tại cuộc gặp mặt nhân ngày quốc tế NCT (01-10-
2002) do TW Hội NCT Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, Tổng Bí thƣ Nông Đức
Mạnh đã nói: “…Chưa bao giờ lực lượng người cao tuổi nước ta lại đông đảo
như hiện nay. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tự hào về lớp người cao tuổi
nước ta. Với uy tín cao, sự mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối
sống cùng với vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng lao động và nghiệp vụ phong
phú, đa dạng của mình, người cao tuổi thực sự là một bộ phận hợp thành
nguồn lực nội sinh quý giá của cả dân tộc. Chúng ta tôn trọng, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực ấy”…
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân
tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão
thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã
hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những
người già cô đơn, không nơi nương tựa…”.
Nhƣ vậy, từ Chỉ thị 59, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số 12
của Ban bí thƣ TW Đảng đều khẳng định: Người cao tuổi là nền tảng của gia
đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội, vì thế,
Chăm sóc và phát huy tốt vai trò NCT là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ
ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
[5, tr. 13 – tr.14].
1.3.2. Luật pháp và chính sách của nhà nước
1.3.2.1. Luật pháp liên quan đến người cao tuổi
Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ đƣợc thể hiện trong Hiến pháp
39
năm 1946, Điều 14 quy định: “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm
được việc thì được giúp đỡ”. Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ
người già, người đau yếu và tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức
khoẻ và cứu trợ xã hội…”. Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ
có trách nhiệm nuôi dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm
sóc ông bà, cha mẹ… ”. Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn
tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được nhà nước và xã hội giúp đỡ”.
Luật Ngƣời cao tuổi, chƣơng 1 Điều 1 quy định: “Luật này quy định về
quyền và nghĩa vụ của người cao tuổi; trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và
xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi;
Hội người cao tuổi Việt Nam”.
Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 36 quy định: “Con có nghĩa
vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già
yếu, tàn tật…Và khoản 2 Điều 47 Luật này quy định: “Cháu có bổn phận…
chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ngoại”.
Luật bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã dành một chƣơng riêng:
Bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi … trong đó, khoản 1 Điều 41 của Luật này
quy định: “người cao tuổi … được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh, được tạo
điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình”.
Luật Lao động quy định tại Điều 124: “Người sử dụng lao động có
trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không
được sử dụng người lao động cao tuổi làm việc nặng nhọc, nguy hiểm… ảnh
hưởng sức khoẻ”.
Điều 151 của Bộ luật hình sự quy định: “Tội ngược đãi hoặc hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” và
Điều 152 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Bên
cạnh đó, luật cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ khi “người phạm tội là
người già” [5, tr.14 - tr.15].
1.3.2.2. Chính sách của nhà nước Việt Nam về người cao tuổi
Năm 1996, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Chỉ thị 117/CP “Về chăm
40
sóc người cao tuổi và hỗ trợ hoạt động cho Hội người cao tuổi Việt Nam”.
Chỉ thị khẳng định: “Kính lão đắc thọ” là truyền thống tốt đẹp của nhân dân
ta, Đảng và nhà nƣớc ta coi việc quan tâm, chăm sóc đời sống vật chất và tinh
thần của NCT là đạo lý của dân tộc, là tình cảm và trách nhiệm của toàn đảng,
toàn dân. Các cấp chính quyền đã đề ra nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm
thiết thực đối với NCT.
Pháp lệnh Ngƣời cao tuổi của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội đƣợc ban
hành năm 2000. Pháp lệnh NCT ra đời là bƣớc đi thích hợp để chăm sóc NCT.
Pháp lệnh NCT đã dành chƣơng 2: Phụng dƣỡng, chăm sóc NCT (14 Điều) tập
trung đề cập trách nhiệm của gia đình, Nhà nƣớc, các tổ chức, cá nhân trong việc
phụng dƣỡng chăm sóc NCT trong đó chính sách chăm sóc sức khoẻ đƣợc quan
tâm khá toàn diện. Điều này đƣợc minh chứng ở khoản 2 Điều 10; (khoản 2
Điều 12); (Điều 13); (khoản 1, 2 Điều 14); (Điều 15); (Điều 16).
Nghị định số 30/CP của Chính phủ ban hành năm 2002 “Quy định và
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh người cao tuổi”.
Năm 2004, Bộ Y tế đã ban hành Thông tƣ-số 02/2004/TT-BYT hƣớng
dẫn thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ NCT trong đó quy định: NCT đƣợc
… chăm sóc sức khoẻ; đƣợc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đƣợc ƣu tiên khám,
chữa bệnh tại các cơ sở y tế…; Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đảm
bảo chế độ chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại địa phƣơng. Ngành y tế chịu trách
nhiệm về chuyên môn, kỹ thuật trong chăm sóc sức khoẻ NCT… Tổ chức
mạng lƣới tình nguyện viên chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại nhà.
Ngƣời cao tuổi từ 90 tuổi trở lên đƣợc hƣởng các chế độ bảo hiểm y tế
theo quy định tại Thông tƣ-số 24/2003 ngày 6/11/2003 của Bộ Lao động –
Thƣơng binh và Xã hội hƣớng dẫn thi hành Nghị định số 120/2003/NĐ-CP
ngày 20/10/2003 của Chính phủ. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong
nƣớc và nƣớc ngoài, gia đình của NCT mua thẻ BHYT cho NCT.
Nghị định 67/CP, năm 2007 của Chính phủ “Về chính sách trợ giúp các
đối tượng bảo trợ xã hội”, trong đó có đối tƣợng là ngƣời từ 85 tuổi trở lên
41
không có lƣơng hƣu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội, đƣợc hƣởng 120.000 đ/tháng.
Gần đây nhất là Luật Ngƣời cao tuổi đã đƣợc ban hành và có hiệu lực
từ ngày 1/7/2010. Đây là văn bản pháp lý có tính chất định hƣớng, thể hiện sự
quan tâm của Đảng, Chính phủ, các bộ, ban ngành đối với NCT.
Như vậy, ngoài nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, chăm sóc của gia
đình, người thân, nhà nước, có những cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp và
sẽ bổ sung, tăng dần theo xu thế đà tăng trưởng của nền kinh tế để đảm bảo
chăm sóc và phát huy vai trò của NCT [5, tr.15 - tr.17].
1.4. Đặc điểm địa bàn thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
1.4.1. Vị trí địa lý
Thị trấn Neo huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang là trung tâm kinh tế -
chính trị, văn hóa – xã hội của huyện Yên Dũng, nằm ở trung tâm của huyện,
cách thành phố Bắc Giang khoảng 16km về phía Đông Nam.
Ranh giới cụ thể đƣợc giới hạn nhƣ sau: Phía Đông giáp xã Cảnh Thụy,
Tiến Dũng; Phía Tây giáp xã Tân Liễu và xã Nham Sơn; Phía Bắc giáp xã Xuân
Phú; Phía Nam giáp xã Tƣ Mại. Tổng diện tích của Thị trấn Neo là 585.4 ha.
1.4.2. Tổ chức dân cư
Cách đây hơn 20 năm Thủ tƣớng chính phủ đã ban hành Nghị định số
103/NĐ-TTg ngày 29/8/1994 về việc thành lập Thị trấn Neo thuộc huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở hợp nhất 3 thôn của 3 xã: thôn Tân An – xã
Cảnh Thụy, thôn Phấn Lôi – xã Nham Sơn, thôn Bên Đám – xã Tân Liễu. Là
thị trấn miền núi với tổng diện tích là 585,4 ha với tổng dân số là 6.388 ngƣời,
với 1654 hộ với số nhân khẩu là 6.455 nhân khẩu trong đó nữ giới là 3125
ngƣời (chiếm 48,9%), nam giới là 3.263 ngƣời (chiếm 51%) (Theo Báo cáo
Tình hình thực hiện công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình 10 tháng đầu
năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ cuối năm).
Theo Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ
6 tháng cuối năm 2014 của Hội Ngƣời cao tuổi hiện nay tổng số hội viên là
42
1.350 hội viên (chiếm 21,1% trên tổng số dân), trong đó tỷ lệ NCT nam chiếm
39,3% (531/1.350), NCT nữ chiếm 60,6% (819/1.350). Tỷ lệ NCT đƣợc
hƣởng trợ cấp xã hội thƣờng xuyên là 5,4% (72 cụ) và 1,2% NCT đƣợc hƣởng
chế độ tàn tật và cô đơn (16 cụ). Số hội viên từ 80 tuổi trở lên chiếm 8,9%
(120 cụ). Tỷ lệ NCT đƣợc cấp thẻ Bảo hiểm y tế chiếm 68,3% (921 cụ) và
6,3% (85 cụ) đƣợc khám sức khỏe định kỳ.
1.4.3. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội
a. Kinh tế
Từ một thị trấn miền núi xuất phát điểm kinh tế phát triển những năm
đầu thấp, cho đến nay, giai đoạn 2010 – 2013 tốc độ tăng trƣởng kinh tế về
công nghiệp tiểu thủ công nghiệp đạt 30%; dịch vụ 18%; ngành nghề khác
15%; nông nghiệp giảm còn 35%, thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt
19.500.000đ/ngƣời/năm; tổng thu ngân sách đạt 12.542.347.734đ.
Nông nghiệp tiếp tục có bƣớc phát triển khá theo hƣớng sản xuất hàng
hóa dựa trên các loại giống cây con có giá trị kinh tế cao, tính đến giai đoạn
2010 – 2013 tổng thu nhập sản lƣợng lƣơng thực đạt 1.964,4 tấn/năm.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh – dịch vụ sớm có bƣớc
đi tích cực, trong đó tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ phát triển cả về
quy mô và loại hình với 606 hộ kinh doanh dịch vụ, trong đó có 14 doanh
nghiệp với tổng thu nhập từ tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ đạt 29,4
tỷ năm 2013.
b. Các lĩnh vực văn hoá - xã hội
- Công tác Giáo dục - Đào tạo
Tính đến năm học 2013 – 2014 giáo dục ở cả ba bậc học tiếp tục đƣợc
quan tâm đầu tƣ, có bƣớc phát triển toàn diện. Kết quả tỷ lệ học sinh giỏi đạt
63,9%, học sinh đạt danh hiệu tiên tiến đạt 29,7%, học sinh đạt giải cấp huyện
là 216 học sinh, cấp tỉnh là 80 học sinh, cấp quốc gia là 4 học sinh. Trƣờng
mầm non kết quả trẻ nuôi bán trú là 60/60 đạt 100% (đối với nhà trẻ); mẫu
giáo 212/212 đạt 100%; chất lƣợng giáo dục 100% nhóm trẻ đƣợc dạy theo
43
chƣơng trình giáo dục mầm non mới. Giáo dục toàn diện đạt kết quả cao và
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc huyện đánh giá là tốp đứng đầu về công
tác giáo dục trong huyện và đƣợc công nhận chuẩn quốc gia cả 3 bậc học.
- Công tác Y tế - kế hoạch hóa gia đình
Đƣợc sự quan tâm, đầu tƣ trang thiết bị, cùng với sự nỗ lực của Đảng
ủy, UBND thị trấn quan tâm đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất khang trang đảm
bảo cho nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác tuyên truyền các
chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng, pháp luật, nhà nƣớc đƣợc làm thƣờng xuyên
rộng khắp do đó đã có bƣớc chuyển biến một cách mạnh mẽ. Công tác chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân đƣợc đảm bảo kịp thời từng bƣớc đáp ứng đƣợc
nhu cầu của nhân dân đến nay đã đƣợc công nhận thị trấn chuẩn quốc gia về y
tế mức độ 2, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt dƣới 1%.
- Về thực hiện chính sách
Công tác chăm sóc và thực hiện chính sách xã hội luôn đƣợc quan tâm
đảm bảo đúng quy định đối với gia đình liệt sĩ, thƣơng bệnh binh, ngƣời đƣợc
hƣởng nhƣ thƣơng binh, gia đình có công với đất nƣớc, đối tƣợng nhiễm chất
độc da cam và các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, tính đến nay toàn thị trấn
tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn 4,5 % vào năm 2013; phong trào xây dựng nếp
sống văn hóa trên địa bàn dân cƣ đã có bƣớc phát triển mạnh tỷ lệ gia đình
văn hóa những năm 2010 – 2013 đạt 87%.
- Về công tác quốc phòng an ninh
Quốc phòng an ninh đƣợc tăng cƣờng, chính trị xã hội luôn giữ vững
ổn định, trật tự an toàn xã hội đƣợc đảm bảo, khu vực phòng thủ đƣợc xây
dựng vững chắc gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân,
công tác huấn luyện cũng nhƣ chỉ tiêu giao quân hàng năm đều đảm bảo đạt
và vƣợt chỉ tiêu kế hoạch đƣợc giao, công tác phối hợp và mối quan hệ giữa
các xã bạn luôn đƣợc duy trì phát triển tốt đẹp.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Già hóa dân số song hành cùng phát triển, đây là xu thế chung và
44
không thể đảo ngƣợc trong quá trình phát triển của mọi quốc gia. Chính sách
xã hội đối với NCT là một chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách
của nhà nƣớc Việt Nam. Quan điểm chính sách về NCT của Đảng, nhà nƣớc
về NCT không chỉ mang tính an sinh xã hội mà còn đƣợc tiếp cận theo hƣớng
phát huy vai trò của NCT nhƣ một nguồn lực của quốc gia.
Bên cạnh các chủ chƣơng và chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về vấn
đề NCT sẽ là cơ sở lý luận đóng vai trò định hƣớng cho các phân tích trong
luận văn này, thì một số cách tiếp cận về lý thuyết và một số khái niệm cơ bản
liên quan sẽ đƣợc sử dụng để giải thích dữ liệu nghiên cứu và cũng nhƣ có sự
45
phân tích thống nhất trong nội dung nghiên cứu của luận văn này
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHĂM SÓC VÀ NHU CẦU HỖ TRỢ CỦA
NGƢỜI CAO TUỔI TẠI THỊ TRẤN NEO – HUYỆN YÊN DŨNG –
TỈNH BẮC GIANG
2.1. Đặc điểm chung NCT trong mẫu nghiên cứu
2.1.1. Cơ cấu NCT chia theo giới tính
Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ số giới tính nghiêng về nữ giới, cụ thể cụ
ông chiếm 47,3% và cụ bà chiếm 52,7%. Đây cũng là xu hƣớng chung của
Việt Nam và trên thế giới. Nguyên nhân có thể lý giải cho xu hƣớng này là
nam giới cao tuổi thƣờng có tỷ suất chết cao hơn nữ giới cao tuổi ở cùng
nhóm tuổi [40]. Do tỷ lệ phụ nữ trong dân số cao tuổi ngày càng tăng (còn gọi
là xu hƣớng “nữ hóa” dân số cao tuổi) nên đòi hỏi phải có các chính sách
chăm sóc NCT thích ứng với xu hƣớng này vì phụ nữ cao tuổi thƣờng dễ tổn
thƣơng hơn với các cú sốc kinh tế và xã hội. Trên thực tế, chỉ số (nữ >nam)
này không liên quan nhiều đến cán cân giới tính của NCT trong dân số nói
chung nhƣng lại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phân tích và so sánh
sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới trên các nội dung khác nhau.
2.1.2. Cơ cấu NCT chia theo nhóm tuổi
Theo kết quả mẫu khảo sát, độ tuổi tập trung cao nhất của NCT ở nhóm
tuổi 60 – 69 (chiếm 58,0%) trong tổng số NCT trong mẫu nghiên cứu và cũng
là nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, đây đƣợc coi nhƣ là nhóm “Trẻ nhất” của
lớp NCT. Đồng thời cũng là nhóm tuổi vừa mới về hƣu, vừa mới kết thúc quá
trình làm việc tại cơ quan đơn vị do nhà nƣớc quản lý, họ vẫn đủ sức lao
động, tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất hàng ngày. Còn lại nhóm tuổi
70 – 79 chiếm 38,0% và 4,0% là tuổi 80. Nhìn chung, cơ cấu phân nhóm tuổi
của mẫu khảo sát có độ tập trung cao và tƣơng đối gần gũi với cơ cấu độ tuổi
của NCT tại cộng đồng. Bên cạnh đó kết quả khảo sát cũng cho thấy nhóm
46
ngƣời có tuổi thọ cao trong cộng đồng đã chiếm một tỷ lệ đáng kể.
2.1.3. Tình trạng hôn nhân
Đời sống gia đình, văn hóa và tinh thần cho biết nhiều hàm ý về phúc
lợi của NCT bởi nó đƣợc thể hiện qua tình trạng hôn nhân; việc sống cùng
hay không sống cùng với con, cháu; điều kiện sống khác; văn hóa và tinh
thần. Trong các yếu tố thể hiện đời sống của NCT thì tình trạng hôn nhân là
yếu tố quan trọng nhất vì vợ/chồng của NCT có thể là nguồn hỗ trợ và chia sẻ
chủ yếu về vật chất, tinh thần nhƣ chăm sóc khi đau ốm hoặc dễ tổn thƣơng.
Nói cách khác, đối với NCT thì sống với vợ/chồng sẽ có nhiều tác động tích
cực [44, tr.21]. Số liệu cho thấy phần lớn NCT Thị trấn Neo đang sống với
vợ/chồng (chiếm 64,7%), tiếp đó là góa vợ/chồng (29,3%), còn các tình trạng
ly hôn/ly thân (chiếm 4,0%); không vợ/chồng chiếm tỷ lệ nhỏ (chiếm 2,0%).
Nhìn chung, hôn nhân phổ biến của NCT là sống cùng bạn đời của mình
(chiếm gần 3/4 mẫu khảo sát), góa vợ/chồng (chiếm hơn ¼ tổng mẫu khảo
sát), các tình trạng khác chiếm tỷ lệ nhỏ và không phổ biến. Tuy nhiên, chúng
ta cũng cần lƣu ý đến nhóm NCT góa vợ/chồng, ly hôn/ly thân hoặc không
vợ/chồng khi trợ giúp cho NCT bởi họ rất dễ rơi vào tình trạng bị cô đơn.
2.1.4. Mô hình gia đình NCT
Một câu hỏi cũng rất quan trọng khi bàn về sắp xếp cuộc sống của NCT
là “Hiện nay ông/bà đang sống cùng với ai?”. Theo nhƣ số liệu điều tra mô
hình gia đình của NCT tại Thị trấn Neo phổ biến là hai vợ chồng NCT sống
cùng con cháu chiếm 53,3%, hai vợ chồng cao tuổi sống với nhau chiếm
18,0%, NCT sống với con cháu 22,0%, tỷ lệ NCT NCT sống cô đơn một
mình chiếm tỷ lệ nhỏ (chiếm 6,7%). Mô hình gia đình hiện nay đang đƣợc
nhiều ngƣời khuyến khích, duy trì song việc dung hòa về lối sống, suy nghĩa
giữa các thế hệ trong một gia đình luôn là vấn đề quan trọng. Tìm hiểu lý do
một số cụ hiện đang phải sống cô đơn một mình không có ai phụng dƣỡng
chăm sóc thì lý do chủ yếu của NCT là muốn tự do thoải mái, không hợp với
47
ngƣời thân trong gia đình, quen sống riêng. Tình trạng nhà ở chật chội, kinh tế
con cháu khó khăn cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các cụ phải sống
cô đơn. Một nguyên nhân đáng lƣu ý ở đây là lý do con cái không muốn sống
chung. Tuy nguyên nhân này chiếm tỷ lệ không nhiều nhƣng cũng cần phải
cảnh báo nhằm hạn chế và chấm dứt tình trạng này nhất là khi cơ chế thị
trƣờng đang có những ảnh hƣởng sâu sắc đến gia đình, đảm bảo cuộc sống gia
đình cho NCT.
2.1.5. Trình độ học vấn
Mặc dù trình độ chuyên môn của NCT đang ngày càng đƣợc nâng lên
theo thời gian nhƣng thực tế cho thấy vẫn còn một số lƣợng không nhỏ các cụ
vẫn còn mù chữ. Theo kết quả xử lý số liệu cho thấy, tỷ lệ các cụ không biết
chữ là 10,0%, đây cũng là đặc điểm chung của NCT Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay vì NCT là những con ngƣời thuộc các thế hệ trƣớc đây nhiều chục
năm, điều kiện học tập thời đó còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, lại bị hai
cuộc chiến tranh làm gián đoạn nên đã hạn chế nhiều đến cơ hội nâng cao
trình độ chuyên môn. Cũng theo kết quả điều tra, có 20,7% NCT chƣa tốt
nghiệp cấp 1, 30,0% NCT tốt nghiệp tiểu học, 22,0% NCT tốt nghiệp trung
học cơ sở, 8,7% NCT tốt nghiệp trung học phổ thông, 6,7% NCT tốt nghiệp
trung cấp/cao đẳng/đại học, trên ĐH là 2,0%. Tuy vẫn còn tồn tại một số cụ
mù chữ hoặc tái mù chữ nhƣng nhìn chung các cụ đều có trình độ nhất định,
các cụ là những ngƣời có chuyên môn nghiệp vụ giỏi trong các lĩnh vực khoa
học - kỹ thuật; kinh tế - xã hội, có uy tín với cộng đồng đƣợc Đảng và nhà
nƣớc tín nhiệm đã và đang phát huy sự hiểu biết của mình trong mọi lĩnh vực
đời sống ở địa phƣơng.
2.1.6. Cơ cấu người cao tuổi phân theo trình độ chuyên môn
Phần lớn NCT trong mẫu kháo sát đã hoặc đang tham gia vào hoạt
động sản xuất nông nghiệp, nhóm nghề nghiệp này chiếm tỷ lệ cao nhất với
49,3%; buôn bán, dịch vụ 18,0%, công nhân viên chức 13,3%, công nhân
48
10,7%, nội trợ 3,3%, khác 5,3%. Nhƣ vậy, với gần ½ số NCT trong mẫu điều
tra đã và đang trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, số ít là
công nhân viên chức. Thực tiễn cho thấy, nhiều ngƣời đã về hƣu nhƣng vẫn
tiếp tục làm việc và đóng góp sức mình nhằm giúp đỡ gia đình cũng nhƣ cho
sự phát triển chung của toàn xã hội. Hơn nữa nhu cầu vừa đƣợc làm việc, tiếp
tục cống hiến cho gia đình và xã hội lại vừa phù hợp với sức khỏe và điều
kiện của NCT luôn là mong muốn của các vị cao niên[24]. Việc chủ động về
nguồn tài chính sẽ giúp bản thân trang trải các nhu cầu cơ bản cũng nhƣ hỗ
trợ con cái mƣu sinh. Mặt khác con số này cho thấy cuộc sống NCT trên địa
bàn khảo sát vẫn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, tuy tuổi đã cao nhƣng các cụ
vẫn hăng say làm việc để phát triển kinh tế tăng thu nhập cho gia đình. Nhƣ
vậy, số liệu đã phản ánh đúng đƣợc tình trạng thực tế, đảm bảo đƣợc tính
tƣơng đối đại diện trong chọn mẫu.
2.2. Đánh giá thực trạng chất lƣợng chăm sóc và nhu cầu hỗ trợ của NCT
tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
2.2.1. Sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT
Sức khỏe là tiêu chí quan trọng nhất khi phân tích thực trạng về phúc
lợi của NCT. Thực tế cho thấy, quá trình già hóa không chỉ liên quan tới rủi
ro tử vong ngày càng cao do những biến đổi về mặt sinh học mà còn liên quan
tới hạn chế về chức năng hoặc nguy cơ với đau ốm kinh niên ngày càng tăng.
Sức khỏe ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của NCT. Phân tích
của Sidell (1995) (theo trích dẫn của Sim, 2001) cho thấy ốm đau sẽ dẫn đến
mất tự chủ và độc lập trong cuộc sống, làm giảm sự năng động, mất sự tôn
trọng và sự tự tin. Nói cách khác, với NCT, sự tổn thƣơng về tinh thần do sức
khỏe yếu còn nghiêm trọng hơn hao tổn vật chất. Chính vì lý do này mà việc
phân tích tình trạng sức khỏe và chăm sóc sức khỏe của dân số cao tuổi cho
chúng ta biết về chất lƣợng sống của NCT, nhu cầu về y tế và các dịch vụ có
liên quan đối với hệ thống y tế nói chung cũng nhƣ việc chăm sóc sức khỏe
49
tại gia đình và cộng đồng [44, tr.25].
2.2.1.1. Tình trạng sức khỏe của NCT
Trong thời gian vừa qua, do đời sống vật chất và tinh thần đƣợc cải
thiện cùng với những tiến bộ nhất định của hệ thống y tế, sức khỏe của NCT
Việt Nam nhìn chung đƣợc cải thiện, trong đó tỷ lệ NCT có tình trạng sức
khỏe khá/tốt tăng lên, trong khi NCT có tình trạng sức khỏe yếu giảm đi
(Đàm Hữu Đắc và cộng sự, 2010) [44, tr.25].
Bảng 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT
Tình trạng sức khỏe Tần số
Tốt 25
Trung bình 92
Kém 33
%
16,7
61,3
22,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Khi tự đánh giá về sức khỏe của bản thân thì có 16,7% các cụ cho rằng
sức khỏe tốt, 61,3% cho rằng sức khỏe trung bình, 22,0% cho rằng sức khỏe
hiện nay kém. Nhƣ vậy, vẫn còn tỷ lệ và số lƣợng không nhỏ NCT có sức
khỏe yếu. Những nghiên cứu sức khỏe NCT trong thời gian qua cho thấy: có
hai nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Thứ nhất, phần lớn NCT hiện nay
vẫn phải lao động quá sức để kiếm sống. Nếu NCT lao động vừa phải, công
việc phù hợp với NCT làm việc trong điều kiện tƣ tƣởng thoải mái, tự
nguyện, không bị gò bó thì có tác dụng tăng cƣờng sức khỏe. Nhƣng ở đây,
NCT phải lao động quá sức, hiệu quả đem lại cũng thấp. Không đủ để tái sản
xuất giản đơn sức lao động, sức khỏe giảm đi nhanh chóng. Thứ hai, do hậu
quả tất yếu của cả quá trình dài thiếu thốn dinh dƣỡng lại gian lao vất vả trong
công việc hiện tại nên sinh nhiều bệnh tật [34].
Tình trạng sức khỏe nói chung phụ thuộc rất nhiều vào tuổi tác, theo
quy luật tự nhiên thì tuổi càng cao sức khỏe càng kém. Khi so sánh tình trạng
giữa các nhóm tuổi thì nhóm tuổi từ 60 – 69 tuổi là nhóm tuổi là nhóm tuổi có
tình trạng sức khỏe còn tốt hơn so với các nhóm tuổi khác (chiếm 64,0%) –
(Biểu đồ 2.1). Do vậy, việc phát huy tài tài năng trí tuệ trong thời kỳ già hóa
50
dân số sẽ tập trung vào nhóm các cụ từ 60 – 69 tuổi. Đây là nhóm tuổi có độ
chín về trí tuệ và có đầy đủ kinh nghiệm trong cuộc sống, sản xuất,… và là
một nguồn lực dồi dào cần đƣợc phát huy để cống hiến cho gia đình và xã hội.
Biểu đồ 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT chia theo nhóm tuổi
2.2.1.2. Nhu cầu khám sức khỏe định kỳ
Khám sức khỏe định kỳ hay còn gọi là kiểm tra sức khỏe định kỳ, là
việc kiểm tra sức khỏe để đánh giá tổng quan tình trạng sức khỏe của mỗi
ngƣời dân theo khoảng thời gian ấn định 6 tháng/lần, 1 lần/năm, 2 lần/năm.
Khám sức khẻ định kỳ nhằm phát hiện các vấn đề bất thƣờng về sức khỏe nếu
có trƣớc khi chuyển thành bệnh hoặc phát hiện bệnh ở vào giai đoạn sớm khi
chƣa có biểu hiện ra bên ngoài để điều trị hiệu quả hơn, khả năng lành bệnh
hơn, tiết kiệm đƣợc thời gian, tiền bạc và tránh đƣợc các biến chứng do bệnh
gây ra, kéo dài tuổi thọ. Ngoài ra khám sức khỏe định kỳ đều đặn giúp chúng
ta có những điều chỉnh hợp lý hơn về chế độ dinh dƣỡng, chế độ làm việc,
điều chỉnh lối sống nhằm nâng cao năng suất lao động và cải thiện chất
lƣợng cuộc sống. Nhƣ vậy, việc khám sức khỏe định kỳ là một việc làm
vô cùng quan trọng đối với mỗi con ngƣời nói chung và NCT nói riêng.
51
Tuy nhiên vấn đề này lại không đƣợc NCT và gia đình nhận thức đúng.
Bảng 2.2. Số lần khám sức khỏe định kỳ trong một năm của NCT
Số lần khám trong 1 năm 1 lần 2 lần > 3 lần Không cần thiết Khác Tổng
Tần số 9 41 70 22 8 150
% 6,0 27,3 46,7 14,7 5,3 100,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Khi hỏi về nhu cầu khám sức khỏe định kỳ trong năm có tới 46,7% các
cụ cho rằng cần khám 3 lần/năm, 27,3% các cụ cần khám 2 lần/năm và 6,0%
cho rằng khám 1 lần/năm là đủ. Điều đặc biệt 20,0% còn lại trong số các cụ
cho rằng việc khám sức khỏe định kỳ hàng năm là không cần thiết hoặc là chỉ
đi khám khi gặp những vấn đề về sức khỏe. Các lý do NCT không đi khám
sức khỏe định kỳ: không có nhu cầu, không có tiền, sợ tốn kém, phát hiện
bệnh hoặc ngại khổ con cháu trông nom… NCT kiểm tra sức khỏe định kỳ
chủ yếu là khám theo BHYT đã đƣợc cấp, tuy nhiên BHYT do có mức độ nên
nếu khám số lƣợng thuốc phát cũng hạn chế. Lý giải cho vấn đề này một NCT
chia sẻ: “Tôi có bệnh về huyết áp, nhưng không muốn đi khám bởi tôi ngại
làm phiền đến con cháu và nghĩ đi khám bệnh có khi lại phát hiện ra thêm
bệnh gì, tự dưng mua thêm lo nghĩ vào người. Đang khoẻ thế này, chỉ có mỗi
tăng huyết áp giờ đi khám mà phát hiện bệnh nan y thì có phải là mua lo vào
người không. Hơn nữa, mình thì già rồi, bệnh có chữa khỏi được thì lại có
bệnh khác, đi khám chỉ tốn tiền. Con cái lại đều bận rộn nên tôi cũng ngại
nhờ con đưa đi khám” (PVS, NCT, nữ giới, 70 tuổi).
Đối với NCT, cơ thể bị lão hóa nên việc khám chữa bệnh thƣờng xuyên
là điều kiện tốt để theo dõi và điều trị thời các bệnh. Tuy nhiên, hiện nay vấn
đề đảm bảo cho NCT đƣợc đi khám chữa bệnh thƣờng xuyên tại địa phƣơng
còn chƣa đƣợc quan tâm, chỉ có nhóm NCT về hƣu, hƣởng các chế độ ngƣời
52
có công, thƣơng, bệnh binh mới đƣợc khám chữa bệnh tốt hơn so với các
nhóm khác thông qua sự hỗ trợ của nhà nƣớc. Gần đây nhóm NCT cô đơn
không nơi nƣơng tựa, NCT nghèo ở địa phƣơng đƣợc cấp phát thẻ khám và
chữa bệnh miễn phí hoặc thẻ bảo hiểm y tế. Nhƣng số NCT đƣợc hƣởng chế
độ này còn rất ít và hiệu quả của việc khám, chữa bệnh cho NCT rất hạn chế.
Nhƣ vậy, nhìn chung nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở nhóm NCT này hiện còn
lớn và phần đông chƣa đƣợc đáp ứng. Nguyên nhân chủ yếu là hệ thống cơ sở
còn yếu và thiếu, cụ thể là thiếu thuốc men và các trang thiết bị khám chữa
bệnh. Mặc dù, với chủ trƣơng xã hội hóa công tác y tế tạo điều kiện cho mọi
thành phần tổ chức xã hội có năng lực tham gia phát triển y tế cộng đồng
trong đó có y tế cho NCT. Nhƣng hiện nay y tế tƣ nhân mới bƣớc đầu phát
triển, chi phí khám chữa bệnh còn cao, NCT do thu nhập thấp khó tiếp cận
đến với các dịch vụ y tế này.
Nhƣ vậy, từ phân tích trên cho thấy có phần không nhỏ NCT chƣa có
thói quen khám sức khỏe định kỳ, vì vậy khi phát hiện bệnh thƣờng ở giai
đoạn muộn khiến việc chữa trị đặc biệt khó khăn. Xuất phát từ thực tế đòi hỏi
nhân viên CTXH cần phải nâng cao nhận thức, bổ sung kiến thức cũng nhƣ
kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe cho NCT trên địa bàn thị trấn là vô cùng quan
trọng và có tính cấp thiết.
2.2.1.3. Việc thường làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật
Bảng 2.3. Việc thƣờng làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật
Việc thƣờng làm khi ốm/đau bệnh tật
Tần số
%
Mua thuốc điều trị tại nhà
52
34,7
Chữa bằng phƣơng pháp dân gian, truyền thống
12
8,0
Trạm xá, bệnh viện
86
57,3
150
100,0
Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Theo kết quả khảo sát cho thấy, việc thƣờng làm của NCT khi ốm đau,
bệnh tật có tới 57,3% NCT cho rằng cần đến trạm xá/bệnh viện. Tuy nhiên,
53
điều đáng lƣu ý ở đây, trong số những NCT đƣợc hỏi về việc đi khám và điều
trị bệnh thì một điều đáng ngạc nhiên là có 34,7% NCT không đi khám mà tự
mua thuốc điều trị tại nhà hoặc bằng phƣơng pháp dân gian, truyền thống
(chiếm 8,0%). Lý giải cho sự lựa chọn trên, một NCT chia sẻ: “Việc này còn
tùy thuộc vào mức độ bệnh tật mà tôi mắc phải. Ví dụ như nếu tôi chỉ bị sốt
bình thường thôi thì có thể mua thuốc chữa cảm uống, cũng có thể rang cám
để đánh cảm, cạo gió là được. Trường hợp nếu tôi bị bệnh nặng hơn hoặc
bệnh khác mà mình không biết thì mới đi khám và điều trị tại trạm xá hoặc
bệnh viện” (PVS, NCT, nữ giới, 68 tuổi). Thực tế cho thấy, có rất nhiều lý do
khiến NCT không đến hoặc không thể đến những cơ sở y tế khám chữa bệnh
mỗi khi ốm đau, chủ yếu là do điều kiện kinh tế có hạn không cho phép; ngại
đi khám bệnh viện hoặc tại các cơ sở ý tế… nên dẫn tới kiểu khám bệnh tại
các cửa hàng thuốc nghĩa là chỉ việc miêu tả bệnh cho ngƣời bán thuốc rồi sau
đó mua thuốc theo chỉ dẫn của những ngƣời bán thuốc đó. Hoặc có nhiều
trƣờng hợp mua thuốc theo kinh nghiệm vì tuổi già bệnh trở nên mãn tính gặp
thƣờng xuyên mỗi khi trái nắng trở trời mỗi khi có bệnh, ngƣời bệnh không đi
khám mà tự ý mua thuốc giống nhƣ loại thuốc lần trƣớc mua với cùng triệu
trứng bệnh tƣơng tự nhƣ lần trƣớc. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm
nhất là đối với NCT, khi dùng thuốc cần có kiến thức và hiểu biết chúng do
vậy đã có nhiều trƣờng hợp ngƣời bệnh phải nhập viện, điều trị khá tốn kém
do dùng sai thuốc và liều lƣợng sử dụng.
2.2.1.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT
NCT hiện nay chủ yếu là sống tại gia đình cùng con cháu. Các
phong trào vận động “Ông bà, cha mẹ, con cháu hiếu thảo”, xây dựng
“Gia đình văn hóa” và “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư”… tại địa phƣơng đã góp phần quan trọng trong giáo dục lòng
tôn kính và sự quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, giữ gìn đạo đức gia
phong của các thế hệ con cháu, tạo cho NCT có cuộc sống vui vẻ, lạc
54
quan trong gia đình và cộng đồng. Mối quan hệ khăng khít là điều kiện
thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình, đặc
biệt là NCT. Gia đình là nơi có ảnh hƣởng lớn nhất và gần gũi nhất đối
với sự quy giảm hay ổn định sức khỏe của NCT.
Bảng 2.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT
Ngƣời chăm sóc
Vợ/ chồng
Anh/ chị em
Hoàn toàn tự phục vụ
Con cháu giúp đỡ
Bạn bè đồng nghiệp
Hàng xóm, láng giềng
Tổ chức xã hội khác
Chính quyền các cấp
Các hội/đoàn thể địa phƣơng 1
Tần số
8
87
94
8
0
0
%
58,0
62,7
5,3
5,3
0,7
0,0
11 7,4
3 2,0
0,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Qua điều tra cho thấy, NCT nhận đƣợc sự hỗ trợ, chăm sóc chủ yếu từ
vợ hay chồng (chiếm 62,7%). Cụ ông 72 tuổi, cho biết “Tôi có 5 đứa con, có
đứa đi dựng vợ gả chồng. Còn thằng con út, chưa lấy vợ. Tuy nhiên, con cái
còn phải lo chuyện của chúng nó, còn ông còn bà thì ông bà chăm sóc cho
nhau, chứ nhiều khi như thế lại không làm phiền đến con cháu nhiều. Dù sao
thì vợ chồng, bao nhiêu năm nay cũng hiểu tính của nhau hơn con cái, ông
thích ăn gì thì bà mua. Nắm hôm trái nắng trở trời bà ý mất ngủ, xương khớp
đau nhức “dự báo thời tiết” thế nào ngày hôm sau tôi cũng phải mua thuốc”.
Nhƣ vậy, có thể thấy ngƣời bạn đời là những ngƣời gần gũi nhất trong quãng
đời còn lại của NCT, do đó khi ốm đau bệnh tật là những lúc cần sự chăm sóc,
chia sẻ của ngƣời chồng hay ngƣời vợ và không phải tự nhiên lại có câu “Con
chăm cha không bằng bà chăm ông”.
Tiếp theo đó là nguồn trợ giúp của con cháu (chiếm 58,0%). Càng về
già, NCT càng cần đƣợc chăm sóc chu đáo hơn vì thế những ngƣời con trong
gia đình là một phần quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe NCT. Gia đình
là nơi có ảnh hƣởng lớn nhất và gần gũi nhất đối với sự suy giảm hay ổn định
sức khỏe của NCT, cụ bà 65 tuổi cho biết “Tôi sống với chồng và hai vợ
chồng con trai cả nên khi ốm đau các con, các cháu đều có cả, nên cũng đỡ
55
lo…”. Hơn nữa, chính vì trong gia đình NCT tìm đƣợc cảm giác bình yên, sự
thảo mãn, vui vẻ, đặc biệt cảm giác có ích là cảm giác trực tiếp làm cho NCT
cảm thấy sảng khoái hay u uất. Các quan hệ trong gia đình nhƣ quan hệ giữa
cụ ông và cụ bà, giữa con cái hoặc giữa con cái với cháu chắt có ảnh hƣởng
rất lớn tới tình cảm, tâm trạng, nguồn trợ giúp những lúc các cụ khỏe mạnh,
ốm đau hay bệnh tật. Sự đầm ấm, hạnh phúc trong gia đình khiến tinh thần
các cụ thêm phấn chấn và giảm bớt đi sự mặc cảm tuổi già cũng nhƣ lão hóa
rõ rệt. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng thì việc
chăm sóc sức khỏe cha mẹ thƣờng xuyên cũng bị hạn chế, chỉ những lúc đau
ốm hay bệnh tật thì NCT mới đƣợc sự trợ giúp của con cháu. Hơn thế nữa,
hiện nay NCT đang là ngƣời chăm sóc con cháu trong gia đình.
Sự giúp đỡ về mặt sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật không chỉ có những
ngƣời thân trong gia đình mà cò có anh chị em (chiếm 7,4%). Những mối
quan hệ dòng tộc trong gia đình cũng góp một phần vào khi NCT đau ốm, có
nhiều gia đình anh chị em sống gần nhau nên thuận tiện cho việc thăm hỏi hay
trông nom khi NCT đau ốm. Nhƣ cụ bà 69 tuổi chia sẻ “Anh chị em sống gần
nhau, nhà có mỗi thằng con trai mà đi làm ăn suốt nên đau ốm các chị em tới
thăm rồi trông nom thường xuyên…”.
Ngoài những nguồn trợ giúp sức khỏe của những ngƣời thân trong gia
đình hay dòng họ thì NCT nhận đƣợc nguồn trợ giúp quan trọng bên ngoài gia
đình là hàng xóm, láng giềng (chiếm 5,3%). Ông bà ta có câu “Hàng xóm tối
lửa tắt đèn có nhau”, hay “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” nhất là với
NCT thì những ngƣời hàng xóm, láng giềng có một vị trí khá quan trọng, gần
gũi, họ có thể giúp đỡ nhau bất cứ lúc nào, hay khi ốm “Chỉ cần một, hai ngày
không thấy tôi sang chơi nhà cụ T là cụ đã chạy sang thăm hỏi xem bị bệnh gì
không mà không thấy sang chơi” (PVS, NCT, nam giới, 76 tuổi) hay một chia
sẻ khác “Con cái ở xa, bà sống ở đây có một mình nên nhờ cậy hàng xóm là
chủ yếu, ốm đau ới một tiếng là họ chạy sang giúp mình rồi…”. Sự giúp đỡ
này thể hiện tình làng nghĩa xóm và ăn sâu vào tâm trí con ngƣời Việt Nam từ
56
ngàn đời xƣa.
Bên cạnh đó trong tổng số 150 cụ đƣợc hỏi có 2,0% nhận đƣợc sự giúp
đỡ từ bạn bè đồng nghiệp; 0,7% từ hội, đoàn thể địa phƣơng. Tỷ lệ các cụ tự
phục vụ chiếm 5,3%. Nhƣ vậy, có thể thấy đối tƣợng thƣờng xuyên giúp đỡ,
chăm sóc NCT khi ốm đau chủ yếu là ngƣời thân trong gia đình. Nếu giới hạn
sự giúp đỡ của các thành viên trong gia đình đơn thuần không phải là hoạt
động của xã hội nói chung thì việc các tổ chức xã hội, các cơ quan đoàn thể
thực sự chƣa vào cuộc, việc chăm sóc và phát huy tài năng trí tuệ của NCT
vẫn còn bị coi nhẹ. Hình thức giúp đỡ của họ hiện nay chƣa thực chất, thăm
hỏi động viên là chủ yếu hay có sự giúp đỡ về vật chất nhƣng chỉ chiếm một
tỷ lệ nhỏ. Nhƣ vậy, NCT có thể hòa nhập vào cộng đồng thông qua những
hoạt động sinh hoạt tập thể, các tổ chức xã hội, các loại hình Câu lạc bộ đƣợc
coi là yếu tố tích cực nhằm ổn định và củng cố sức khỏe theo hƣớng tốt nhất.
Những tổ chức này nối liền hoạt động của NCT trong gia đình với xã hội, nơi
mà sau này sau khi hết tuổi lao động họ dƣờng nhƣ phần nào bị tách rời.
Có thể thấy đƣợc sự trợ giúp từ xã hội đối với NCT trong việc chăm
sóc sức khỏe có ý nghĩa vô cùng to lớn. Các mối quan hệ trong gia đình và
ngoài xã hội tạo nên một mạng lƣới giúp đỡ về mặt sức khỏe cho NCT.
Những NCT lúc khỏe mạnh cũng luôn ở tâm trạng lo sợ, cô đơn, khi bị ốm
đau hay bệnh tật thì điều đó càng làm cho NCT suy giảm cả mặt sức khỏe và
tinh thần, vì vậy mà sự hỗ trợ, chăm sóc NCT khi ốm đau, bệnh tật không chỉ
gia đình mà còn ngoài gia đình là liều thuốc quý giúp NCT chiến thắng bệnh
tật. Chính vì vậy, chính quyền địa phƣơng cần có những chủ chƣơng, chính
sách đẩy mạnh công tác hỗ trợ, chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT.
2.2.1.5. Mức độ quan tâm của người thân đối với NCT.
NCT là lớp ngƣời có quá trình cống hiến lâu dài cho gia đình, xã hội và
đất nƣớc và đƣợc coi là thế hệ duy trì tính liên tục phát triển của nhân loại. Họ
không chỉ là lớp ngƣời nhiều tri thức và kinh nghiệm sống mà còn tích lũy
đƣợc vốn liếng vật chất và giá trị văn về văn hóa tinh thần để truyền lại cho
57
thế hệ tiếp theo, nên khi về già việc phụng dƣỡng chăm sóc sức khỏe cho họ
là nghĩa vụ của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận không nhỏ NCT
chƣa đƣợc quan tâm chăm sóc một cách đúng nghĩa.
Biểu đồ 2.2. Mức độ quan tâm của ngƣời thân đối với NCT
Qua điều tra cho thấy, có 60,0% trong số các cụ cho rằng con cháu
thƣờng xuyên quan tâm, 26,0% rất thƣờng xuyên và 14,0% còn lại cho rằng
con cháu thỉnh thoảng quan tâm đến mình. Sự quan tâm của con cháu đến
NCT cũng là nguồn động viên lớn đối với NCT đặc biệt là khi ốm đau, bệnh
tật. Tuy nhiên, một xu hƣớng của xã hội hiện đại khi mô hình con cháu sống
xa NCT ngày càng tăng, sự hỗ trợ quan tâm chăm sóc của con cháu có chiều
hƣớng giảm. Các lý do dẫn đến việc thiếu chu đáo với NCT gồm: Con cháu
quá quá nghèo, bất hòa trong gia đình,… Lý giải vấn đề này một chia sẻ của
NCT: “Chị bảo chúng tôi lúc trẻ lúc khỏe phải nuôi con, bây giờ già yếu phải
dựa vào con, vào cháu. Các cụ trước có câu “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Lúc
bình thường thì ông bà quan tâm đến con cháu, lúc ốm đau thì con cháu phải
có trách nhiệm chăm sóc mình. Nói chung, trong cuộc sống hàng ngày các
cháu cũng quan tâm, thăm hỏi động viên kịp thời” (PVS, NCT, nữ giới, 71
tuổi). Đạo lý “Kính già”, “Đạo hiếu” cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
đƣợc coi là một trong những thang bậc giá trị cơ bản và quan trọng của dân tộc
Việt Nam, song trên thực tế do lao động và kiếm sống đã và đang chiếm phần
58
lớn thời gian của gia đình nên việc thực hiện đạo lý ấy đang bị sao nhãng và ít
đƣợc quan tâm nhƣ trƣớc. Nhiều nghiên cứu cho thấy, có không ít những NCT
ở nƣớc ta đang phải sống trong những hoàn cảnh thiếu thốn về kinh tế, phải
tiếp tục lao động kiếm sống, thậm chí là những công việc vất vả, nặng nhọc.
Nhiều NCT cô đơn, không nơi nƣơng tựa. Sự suy giảm sức khỏe, thể lực, sự
thiếu thốn về tinh thần, tình cảm, sự quan tâm chăm sóc của gia đình và xã hội
đối với NCT đang trở thành những hiện tƣợng khá phổ biến…. Chƣa kể đến
những trƣờng hợp NCT bị phân biệt đối xử, ngƣợc đãi, bị bạo hành [38, tr.6].
2.2.1.6. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe của các thành
viên trong gia đình.
Bảng 2.5. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe
của các thành viên trong gia đình.
Mức độ
Tần số
%
Rất hài lòng
46
30,7
Hài lòng
93
62,0
Không hài lòng
11
7,3
Tổng
150
100,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Khi hỏi về mức độ hài lòng của các cụ với việc quan tâm, chăm sóc của
con cháu, có 30,7% các cụ rất hài lòng, 62,0% các cụ hài lòng và 7,3% còn lại
chƣa hài lòng. Nhƣ vậy, còn không ít trong số những NCT khảo sát chƣa hài
lòng về sự quan tâm của gia đình, họ hàng đối với bản thân mình. Họ chƣa
nhận đƣợc sự quan tâm kịp thời từ phía gia đình, do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau: Không có con cháu, con cháu ở xa, không hòa hợp với con cháu...
Điều này ảnh hƣởng rất nhiều đến tâm lý của NCT trong cuộc sống hàng
ngày. Một chia sẻ của NCT: “Nhà tôi hiện nay có 6 người, tôi ở với các cháu
ngày các cháu đi làm tối về, nhìn chung vì ở với con cháu nên được con cái
quan tâm nhiều hơn. Lắm khi bố mẹ nó đi làm, nhưng thằng cháu nội năm
nay nó học cấp 3 nó cũng lớn rồi nên thương bà, lắm lúc ốm nó chở lên trạm
59
xá hay mua thuốc cho tôi. Bố mẹ nó công chức nhà nước nên đi suốt, chỉ có
buổi tối về ăn cơm cùng. Tôi còn được may mắn chứ cô, như nhà bà L khu
đằng kia mang tiếng đông con, nhiều cháu nhưng chúng nó ở xa hết, lấy ai
mà quan tâm thường xuyên được” (PVS, NCT, nam, 78 tuổi). Nhƣ vậy, để
giúp NCT có đƣợc tâm lý thoải mái hơn ngoài việc tuyên truyền vận động,
giáo dục các thành viên trong gia đình về nghĩa vụ và trách nhiệm của con cái
đối với ông bà, cha mẹ những ngƣời làm CTXH cần vận động NCT tích cực
tham gia vào các hoạt động xã hội để họ có thêm cơ hội chia sẻ, giao lƣu, để
có thêm quan tâm từ cộng đồng và xã hội.
2.2.2. Hoạt động lao động và nhu cầu lao động của NCT
2.2.2.1. Hoạt động kinh tế của NCT
Nhu cầu đƣợc làm việc, tiếp tục cống hiến cho gia đình và xã hội phù
hợp với sức khỏe và điều kiện của từng NCT cũng là một yêu cầu của các vị
cao niên. Đến hết tuổi lao động thì hƣởng chế độ nghỉ hƣu song nhiều NCT
vẫn có nhu cầu làm việc để có thêm thu nhập, để đƣợc sống có ích, ngoài việc
tự mỗi ngƣời phấn đấu để có sự cống hiến, nhiều vị cao niên vẫn muốn đƣợc
gia đình và xã hội quan tâm giải quyết và tạo điều kiện thuận lợi. Một số cơ
quan và Nhà nƣớc đã và đang nghiên cứu để sử dụng chất xám, khả năng của
những vị cao niên, nhất là những vị vừa mới rời khỏi dây chuyền sản xuất và
công tác, vẫn còn trí tuệ, kinh nghiệm và sức khỏe nhằm phát huy một cách
phù hợp sự cống hiến của họ. Đƣợc làm việc, đƣợc cống hiến tạo ra niềm vui
cho cuộc sống, do đó có tác dụng làm cho trí não và thân thể khỏe mạnh. Đây
còn là một quyền của NCT mà nhiều quốc gia đang quan tâm [34].
Bảng 2.6. Hoạt động kinh tế của NCT
Hoạt động kinh tế
Khác
Công nghiệp
Nông nghiệp
Thƣơng mại/dịch vụ
Tiểu thủ công nghiệp
Tần số %
56 37,3
16 10,7
2 1,3
2 1,3
30 20,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Do trình độ chuyên môn của NCT còn thấp nên các hoạt động kinh tế
đơn giản là chủ yếu. Hoạt động kinh tế của NCT tập chung ở khu vực sản
60
xuất nông nghiệp (chiếm 37,3% ). Các khu vực sản xuất công nghiệp; thƣơng
mại/dịch vụ; tiểu thủ công nghiệp và hoạt động kinh tế khác chiếm tỷ lệ nhỏ
(10,7% tham gia các hoạt động thƣơng mại và dịch vụ; 1,3% là tham gia tiểu
thủ công nghiệp và 20,0% vào các hoạt động kinh tế khác). Theo nhƣ khảo sát
tại địa phƣơng, hoạt động kinh tế của NCT mang tính chất lao động cá thể
trong phạm vi hộ gia đình. Đây là mô hình kinh tế phù hợp với NCT và năng
lực quản lý, sức khỏe và trình độ kỹ thuật của NCT. Thành phần kinh tế tập
thể cũng có tƣơng đối lớn số lƣợng NCT tham gia. Đây là mô hình hoạt động
kinh tế có số lƣợng nhiều, ƣu thế trong việc hỗ trợ NCT hoạt động kinh tế.
Theo nhƣ kết quả khảo sát có một số lƣợng nhỏ không NCT không
tham gia vào bất kỳ hoạt động kinh tế nào (chiếm 29,3%), nhƣng họ cũng có
vai trò không nhỏ đối với gia đình họ có thể giúp con cháu các công việc gia
đình. Công việc gia đình đƣợc NCT Thị trấn Neo gọi là “Việc vặt trong nhà
và là những việc không tên và phù hợp với NCT” và dĩ nhiên là những công
việc này không có thu nhập. Đa số ngƣời NCT có sức khoẻ hiện đang tham
gia công việc gia đình; một số ít NCT mặc dù sức khoẻ rất yếu những vẫn làm
việc các công việc gia đình. Phần lớn ngƣời già trong mẫu nghiên cứu hiện
đang sống chung, ăn chung với con cháu (chiếm 53,3,%). Thống kê sơ bộ thời
gian biểu tham gia hoạt động của NCT trong một ngày cho thấy công việc nhà
chiếm ít thời gian nhất là từ 30 - 60 phút là những loại việc nhà nhƣ: cho cháu
ăn, đƣa đón cháu đi học, chuẩn bị bữa sáng cho gia đình... Hoạt động liên
quan đến việc nhà chiếm nhiều thời gian nhất (từ 3h – 5h), bao gồm cả việc
trông cháu, hƣớng dẫn cháu học, nội trợ... Mặc dù công việc gia đình là chủ
yếu là việc “Việc vặt, việc không tên và phù hợp với người già” nhƣng tốn
không ít thời gian và sức lực, nhƣng thực tế giá trị của những “việc vặt” này
khó có thể tính toán chính xác đƣợc mức độ đóng góp vào kinh tế gia đình.
2.2.2.2. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT
Nói tới hoạt động kinh tế của NCT nói chung, trƣớc hết là nói tới việc
tạo thu nhập, một yếu tố quan trọng có ảnh hƣởng quyết định tới việc NCT ở
61
đâu, độc lập hay hoàn toàn bị phụ thuộc vào gia đình, vào trợ cấp của xã hội.
Bảng 2.7. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT
Mục đích
Tần số
%
Nâng cao thu nhập Rèn luyện sức khỏe Giúp tinh thần thoải mái Tiếp tục phát huy tài năng trí tuệ
Gồm các ý 1, 2, 3, 4
92 12 22 11 10
61,3 8,0 14,7 7,3 6,7
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Trong số NCT tham gia các hoạt động kinh tế, có tới 61,3% tham gia vì
mục đích nâng cao thu nhập, 14,7% tham gia với mục đích giúp cho tinh thần
thoải mái và 7,3% tham gia với mục đích tiếp tục phát huy tài năng và trí tuệ,
8,0% còn lại là để rèn luyện sức khỏe và tất cả ý kiến trên chiếm 6,7%. Một
chia sẻ của một cụ Nam, 68 tuổi:“Chị bảo như tuổi chúng tôi tuổi đã cao rồi,
nhưng còn nhiều khoản phải chi tiêu lắm! Con cái cũng khó khăn, nó cũng
phải lo cho con chúng nó nữa. Chị tính hàng tháng vẫn phải mất tiền đi lấy
thuốc đau khớp, hai cái chân này cứ thay đổi thời tiết lại sưng lên, nay ốm
mai đau. Hơn nữa nhà quê chúng tôi nhiều cỗ bàn. Một năm trong họ không
biết bao nhiêu là giỗ, tết. Rồi là hàng xóm láng giềng, trước đây họ đến nhà
mình giờ mình phải đến nhà người ta. Đứa nào dựng vợ gả chồng thì phải có
mấy hào cho chúng nó... thế chẳng nhẽ đi đâu cũng chìa tay ra xin tiền con,
xin tiền cháu à? Nên tôi cũng phải kiếm thêm đồng ra đồng vào”. Đƣợc tiếp
tục làm việc và cống hiến cho gia đình, xã hội phù hợp với sức khỏe, điều
kiện hoàn cảnh của mình là nhu cầu cơ bản của NCT, việc phát huy vai trò
NCT trong gia đình và xã hội không những tạo thu nhập đảm bảo cuộc sống
mà còn tạo niềm vui trong cuộc sống, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của
NCT. Nhƣ vậy phát huy vai trò NCT là cách chăm sóc tích cực đối với NCT.
Tóm lại, chúng ta thấy kinh tế vẫn là một gánh nặng, kinh tế vẫn là mục tiêu
chính của việc tham gia vào các hoạt động sản xuất của NCT trên địa bàn thị
62
trấn. NCT vẫn có nhu cầu đƣợc tiếp tục làm việc, có thu nhập đóng góp thêm
cho con cháu. Mặt khác họ muốn khẳng định vai trò của mình đối với gia đình
và xã hội.
2.2.2.3. Thời gian tham gia hoạt động kinh tế của NCT
Bảng 2.8. Thời gian dành cho công việc của NCT
Thời gian dành cho công việc
Tần số
%
Dƣới 5 giờ
29
27,4
Từ 5 – 8 giờ
70
66,0
Từ 8h – 10h
5
4,7
Trên 10h
2
1,9
106
100,0
Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Cƣờng độ làm việc của NCT khá cao và phụ thuộc vào tính chất công
việc mà NCT đang làm. Thời gian làm việc trung bình một ngày dƣới 5 giờ
chiếm 27,4%; thời gian dành cho công việc từ 5h – 8h, tƣơng đƣơng với thời
gian làm việc của một ngƣời trong độ tuổi lao động chiếm 66,0%. Ngoài ra
vẫn còn có 4,7% NCT làm việc từ 8h – 10h và 1,9% NCT làm việc trên 10h.
Tính chất công việc là yếu tố quan trọng chi phối thời gian làm việc của NCT.
Đối với những công việc có tính chất lao động giản đơn thì thời gian lao động
của NCT ít hơn, còn công việc đòi hỏi khả năng tƣ duy cao thì thời gian lao
động nhiều hơn (Ví dụ: kinh tế trang trại, nghệ nhân... chiếm phần lớn thời
gian của NCT/ngày). Chính cuộc sống của NCT hiện nay còn nhiều khó khăn
và phần lớn trong số họ phải dựa vào sức lực của chính bản thân mình để
kiếm sống cho mình và gia đình, khi họ không có nguồn lực vật chất nào khác
hoặc những nguồn lực hiện có không đủ chi dùng cho sinh hoạt.
2.2.2.4. Nguồn thu nhập chính của NCT
Xét theo cơ cấu thu nhập hộ gia đình NCT, số liệu từ Điều tra mức
sống hộ gia đình năm 2008 cho thấy thu nhập sản xuất nông nghiệp và từ tiền
công lao động là thu nhập chủ yếu của hộ gia đình cao tuổi. Tuy nhiên, những
khoản thu nhập có tính đảm bảo cuộc sống khi không còn đủ sức lao động
63
nhƣ tiết kiệm, hƣu trí và các khoản bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội khác lại
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của hộ gia đình cao tuổi. Nghiên
cứu của Pfau và Giang (2010) cho thấy thu nhập từ các khoản an sinh xã hội
này thậm chí còn thấp hơn nhiều thu nhập từ các khoản tiền gửi về trong nƣớc
và kiều hối. Có thể thấy rõ là hai nguồn thu nhập này chiếm tỷ lệ nhỏ so với
tổng chi tiêu của hộ gia đình cao tuổi. Khi tuổi càng tăng lên thì nguồn thu
nhập từ sản xuất, kinh doanh của NCT càng giảm do khả năng lao động ngày
càng thấp. Vì thế, nếu các nguồn thu nhập có tính dự phòng nhƣ hƣu trí hoặc
có tính chống và khắc phục rủi ro nhƣ trợ cấp xã hội… quá thấp sẽ khiến cho
việc đảm bảo mức sống của NCT trở nên càng khó khăn hơn [44]. Thu nhập
là một trong tiêu chí cơ bản để đánh giá mức sống của con ngƣời nói chung và
NCT nói riêng. Thu nhập của NCT có thể từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó
có hoạt động tích lũy cho tuổi già.
Bảng 2.9. Nguồn thu nhập chính của NCT
Khác
Trợ giúp anh em, con cháu
Nguồn thu chính
Lao động sản xuất của bản thân
Trợ cấp xã hội
Trợ cấp mất sức
Tiết kiệm từ trƣớc
Lƣơng hƣu
Tần số
90
11
24
77
51,3
60,0
7,3
4 2,7
79 52,7
18 12,0
16,0 % (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Nói tới hoạt động kinh tế của NCT, theo chúng tôi, trƣớc hết là nói tới
việc tạo thu nhập, một yếu tố quan trọng có ảnh hƣởng quyết định tới việc
NCT ở đâu, độc lập hay hoàn toàn bị phụ thuộc vào gia đình, vào trợ cấp của
xã hội [34]. Nguồn thu nhập chính của NCT tại Thị trấn Neo khá đa dạng.
Theo nhƣ điều tra, nguồn sống của NCT chủ yếu xuất phát từ lao động sản
xuất hàng ngày (chiếm 60,0%). Mặc dù NCT không còn nhiều sức khỏe nhƣ
trƣớc nhƣng về mặt tâm lý học, việc họ còn có thể làm việc, kiếm thêm thu
nhập đỡ đần cho con cái là một sự khích lệ, động viên đối với bản thân mỗi
cụ. Mặt khác, do điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn. Vì vậy, mặc dù tuổi
đã cao song nhiều NCT vẫn có nhu cầu làm việc để có thêm thu nhập, phụ
giúp con cái, đồng thời để chính họ thấy rằng mình sống có ích. Việc chủ
64
động về nguồn tài chính sẽ giúp bản thân trang trải các nhu cầu cơ bản cũng
nhƣ hỗ trợ con cái mƣu sinh. Một chia sẻ của NCT: “Năm trước đây tôi vẫn
nuôi vài con gà, trồng mấy luống rau thỉnh thoảng đi bán, có đồng ra đồng
vào. Còn sức khỏe còn phải làm, làm cho vui chân vui tay nữa cô ạ. Nhưng từ
đầu năm trở lại đây, ông nhà tôi mất hơn nữa không còn khỏe như xưa các
con không cho làm nữa. Giờ chủ yếu là ở nhà trông nhà trông cửa cho các
cháu. Tôi được trợ cấp người già, mỗi tháng nhà nước cũng cho 270.000đ,
thỉnh thoảng con cháu cho vài đồng tiêu vặt” (PVS, NCT, nữ giới, 80 tuổi).
Tiếp sau đó là là tích lũy từ lao động của NCT lúc còn trẻ dƣới dạng
bảo hiểm hƣu trí, tiết kiệm hoặc vật chất khác (chiếm 52,7%). Ngoài nguồn
thu nhập tự bản thân làm ra, tích lũy từ trƣớc NCT có nhận sự hỗ trợ của
ngƣời thân trong gia đình là anh em, con cháu (chiếm 51,7%). Nhƣ vậy, tài
chính do anh em, con cháu trợ cấp vẫn đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên sự
hỗ trợ đó cũng không thƣờng xuyên bởi tâm lý của các cụ luôn ngại phiền con
cháu và ngƣời thân, do đó ít nhiều ảnh hƣởng đến nguồn thu nhập cũng nhƣ
chi tiêu hằng ngày dẫn đến không đảm bảo về chất lƣợng cuộc sống.
Ngoài ra còn có các khoản thu nhập khác nhau nhƣ: Từ lƣơng hƣu là
16,0%, trợ cấp xã hội 7,3%; trợ cấp mất sức 2,7%; thu nhập từ nguồn khác là
20,0%. Thông thƣờng, NCT sẽ có thêm một khoản thu nhập từ lƣơng hƣu
hoặc đƣợc hỗ trợ từ chính quyền hay hƣởng theo chính sách Nhà nƣớc. Tuy
nhiên, NCT tại địa phƣơng phần lớn là lao động nông thôn nên khoản lƣơng
hƣu hầu nhƣ không có. Họ cũng không thƣờng xuyên nhận đƣợc các khoản
hỗ trợ theo chính sách của Nhà nƣớc dành cho NCT hoặc từ nguồn ngân sách
của địa phƣơng. Chỉ khi gia đình đƣợc công nhận là hộ nghèo hoặc NCT từ
đủ 80 tuổi trở lên.
Như vậy, có thể thấy thu nhập của NCT có thể bắt nguồn từ 3 nguồn cơ
bản sau đây: Từ lao động sản xuất hàng ngày của ngƣời cao tuổi; Tích lũy từ
lao động của ngƣời cao tuổi lúc còn trẻ dƣới dạng bảo hiểm hƣu trí, tiết kiệm
hoặc vật chất khác; Từ nguồn trợ cấp của anh em, con cái hoặc trợ cấp của
65
Nhà nƣớc (cho các cụ già cô đơn không nơi nƣơng tựa).
2.2.2.5. Mức thu nhập trung bình/tháng của NCT
Bảng 2.10. Mức thu nhập trung bình/tháng
Mức thu nhập trung bình/tháng
Tần số
%
<500 nghìn đồng
37
24,6
Từ 500 - 1 triệu đồng
61
40,7
Từ 1 triệu - 1,5 triệu đồng
25
16,7
Từ 1,5 triệu - 2 triệu đồng
12
8,0
>2triệu đồng
15
10,0
150
100,0
Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Tuy một tỷ lệ lớn NCT đang tham gia hoạt động kinh tế song thu nhập
của NCT hiện nay còn thấp dƣới 500 nghìn đồng (chiếm 24,6%), 40,7% NCT
có khoản thu nhập khoản thu nhập từ 500 - 1 triệu/tháng, 16,7% có khoản thu
nhập từ 1triệu – 1,5triệu/tháng, 8,0% có khoảng thu nhập từ 1,5 triệu – 2
triệu/tháng và tỷ lệ NCT có thu nhập trên 2 triệu đồng/tháng chiếm 10,0%.
Nhƣ vậy, thu nhập bình quân của NCT trên địa bàn thị trấn tƣơng đối ổn định,
đã phần nào đảm bảo đƣợc cuộc sống tối thiểu hàng ngày của các cụ. Tuy
nhiên, đa số NCT hiện nay trên địa bàn nghiên cứu là thế hệ sinh ra trong thời
kỳ thuộc địa phong kiến, nhiều ngƣời tham gia các cuộc đấu tranh giữ nƣớc,
xây dựng đất nƣớc, đƣợc trƣởng thành, thử thách, tôi luyện trong các cuộc
kháng chiến. Do sinh ra và trƣởng thành trong điều kiện hết sức khó khăn, vì
vậy, họ không có điều kiện bảo sức khỏe và tích lũy vất chất cho họ chính vì
vậy khi đất nƣớc chuyển đổi sang cơ chế thị trƣờng, họ là những ngƣời đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc thích nghi với nhiều thay đổi chƣa
từng có trƣớc đây. Chăm sóc đời sống vật chất nói chung và ổn định thu nhập
cho NCT nói riêng không chỉ là trách nhiệm của NCT, gia đình mà còn là
trách nhiệm của toàn xã hội. Vì vậy, trong quá trình hỗ trợ cho NCT nhân
viên CTXH cần lƣu ý ổn định mức thu nhập cho NCT ngoài các nguồn thu
66
nhập hiện có thông qua các hình thức khác nhau nhƣ: tạo việc làm cho NCT,
cung cấp kiến thức kinh tế hộ gia đình, tiếp cận với các nguồn tín dụng... phát
triển kinh tế, nâng cao thu nhập để NCT đảm bảo cho cuộc sống của mình.
2.2.2.6. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng
Biểu đồ 2.3. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng
Đi sâu nghiên cứu, đa số NCT tại địa phƣơng đều có nhu cầu đƣợc làm
việc để tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên, thu nhập hiện nay của họ đều rất thấp,
đời sống của họ còn nhiều khó khăn. Nếu đánh giá chung về đời sống của
NCT, theo kết quả khảo sát có 9,3% NCTcho rằng mức độ chi phí của NCT
từ thu nhập hàng tháng rất đủ, 72,0% cho rằng đủ, 18,0% cho rằng không đủ.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể nhận thấy NCT trên địa bàn Thị trấn Neo có mức
thu nhập trung bình so với mặt bằng chung thu nhập chung. Với mức thu nhập
đó đối với NCT chỉ đủ chi trả cuộc sống khá đắt đỏ nơi đô thị, nhiều NCT
phải tìm đến sự trợ giúp của con cháu hoặc vẫn phải làm việc để có thể chi trả
cuộc sống hàng ngày. Đây có thể đƣợc coi là một trong những khó khăn của
NCT tại địa bàn Thị trấn nói riêng và NCT nói chung. 2.2.3. Quan hệ xã hội và nhu cầu được quan tâm, tôn trọng
Theo quan niệm về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới muốn tăng
cƣờng sự thoải mái về mặt tâm lý và thể chất thì việc duy trì các quan hệ xã
hội trong quãng đời của tuổi xế chiều có tính chất vô cùng quan trọng. Ngƣời
67
ta nhận thấy việc giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội gắn liền với sự giảm
nguy cơ bệnh tim - mạch, nguy cơ suy giảm chức năng và tử vong. Tình cảm
bạn bè và tƣơng tác xã hội góp phần làm cho cảm xúc đƣợc phong phú, mang
lại sự thoải mái và niềm hạnh phúc cho con ngƣời. Nhiều nghiên cứu cho thấy
các NCT có nhiều mối dây liên lạc xã hội dƣờng nhƣ ít bị suy giảm khả năng
cơ thể và nhận thức sau khi đã đƣợc điều chỉnh tình trạng sức khỏe và chức
năng. Một số nghiên cứu khác cũng nhận thấy những ngƣời có màng lƣới
quan hệ xã hội rộng lớn và thƣờng xuyên tiếp xúc với các thành viên trong
màng lƣới đó thƣờng có tốc độ suy giảm chức năng chậm hơn cũng nhƣ có
thể sống lâu hơn. Nhƣ vậy mức độ thấp trong hòa nhập xã hội, ví dụ cách biệt
với cộng đồng có thể là một yếu tố nguy cơ lớn đối với tử vong; đây là yếu tố
độc lập đối với các yếu tố nguy cơ khác về mặt y - sinh học và ứng xử. Tất
nhiên các mối quan hệ xã hội nói chung phần lớn mang tính tích cực nhƣng
cũng có khi gây tác động khó dự đoán đối với một số NCT. Có ba mặt của
quan hệ xã hội đã đƣợc xác định là hỗ trợ cơ cấu, hỗ trợ xã hội và hỗ trợ tiêu
cực. Đây là điều cần cân nhắc trƣớc từng trƣờng hợp, hoàn cảnh cụ thể, căn
cứ vào việc lƣợng giá đúng thực trạng của từng đối tƣợng NCT [19].
2.2.3.1. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm
Bảng 2.11. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm và
đƣợc họ hàng/bạn bè/hàng xóm tới thăm
Tổng
Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm Tần số %
Gặp gỡ hàng ngày 68 45,3
Một vài lần/tuần 62 41,3
Một vài lần/tháng 18 12,0
Không gặp gỡ/thăm hỏi 2 1,4
150 100,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Việc thăm hỏi họ hàng, bạn bè, hàng xóm và đƣợc họ tới thăm không
ngoài mục đích quan trọng là hỏi thăm hay chia sẻ. Thông qua việc trò chuyện
hàng ngày tạo nên sợi dây gắn kết, hỗ trợ về mặt tinh thần đối với NCT. Theo
68
kết quả điều tra, có 45,3% gặp gỡ hàng ngày; 41,3% gặp gỡ một vài lần/tuần;
12,0% gặp gỡ một vài lần/tháng. Tuy nhiên, cũng có một tỷ lệ nhỏ NCT có
mối quan hệ hẹp (chiếm 1,4%). Một xu hƣớng của đại đa số NCT là tìm lại
chính mình trong hoài niệm. Để giải tỏa những ƣu phiền thƣờng nhật trong
cuộc sống hiện tại, NCT thƣờng thích hội họp, tìm lại bạn cũ, cảnh xƣa, tham
gia Hội Cựu chiến binh... Họ thích ôn lại chuyện cũ, viết hồi ký, tái hiện kinh
nghiệm sống cũng nhƣ hƣớng về cội nguồn: viếng mộ tổ tiên, sƣu tầm cổ vật.
NCT thích sống trong cộng đồng: làng xóm, bạn bè, đồng môn, đồng đội. Họ
không muốn bị lạc lõng, đứng ngoài lề xã hội Việt Nam, họ còn mong đƣợc
góp ý kiến với Đảng và Chính phủ về những vấn đề thời sự nóng bỏng,… Họ
thƣờng nhắc đến quá khứ nhiều hơn hiện tại, tự hào về kinh nghiệm sống của
mình. Tuy nhiên, họ nhạy bén với cái mới, với sự biến động của lịch sử hay
các sự kiện diễn ra hàng ngày. Thông qua những mối quan hệ bạn bè, thông
qua trò truyện họ đƣợc thể hiện mình, tìm đƣợc những ngƣời bạn “tâm giao”,
tâm sự làm giải tỏa những tâm lý mặc cảm, tự ti của vấn đề lão hóa. Từ đó
làm cho NCT an tâm hơn để sống và tham gia vào các hoạt động xã hội. Và
đây cũng là một cách thức hiệu quả khi hỗ trợ xã hội về mặt tinh thần với
NCT. Đây là một đặc điểm tâm lý quan trọng mà nhân viên CTXH, các cơ
quan đoàn thể và gia đình NCT cần nắm đƣợc và có cách ứng xử phù hợp.
2.2.3.2. Số lượng bạn tri ân, tri kỷ của NCT
Giống nhƣ lúc mới sinh và trong thời thơ ấu, NCT không còn tham
vọng vật chất và cảm thấy cô đơn rất nhiều. Do vậy khi về già tìm đƣợc
những ngƣời bạn tri kỷ là điều rất an ủi và hỗ trợ tinh thần rất tốt cho NCT.
Vƣợt qua những tham vọng, buồn vui trong cuộc sống, thậm chí là những mất
mát đau thƣơng còn lại trong NCT là cái tình giữa ngƣời với ngƣời. Có những
ngƣời bạn tâm đầu ý hợp về quan điểm, sở thích là điều đáng quý, nhất là tình
bạn khi tuổi đã cao. Trong đời sống hàng ngày với nhiều biến cố và suy nghĩ
tuổi già, tình bằng hữu giúp cho con ngƣời bớt cô đơn hơn. Một tình bạn chân
69
thành giúp cho chúng ta có thể chia sẻ và giãi bày những điều thầm kín và
trăn trở nhất. Mối tâm giao giữa tình bạn già cho con ngƣời thấy cuộc sống
tuổi hƣu ấm áp và có ý nghĩa hơn. Nhiều vị tuổi cao cũng có ý nghĩ rằng khi
về già, ngoài việc có một sức khỏe tốt, một gia đình êm ấm, thì tình bạn lâu
năm là một hành trang quý giá mà họ đã mang theo đƣợc cho tới giai đoạn
cuối của cuộc đời.
Bảng 2.12. Số lƣợng bạn tri ân, tri kỷ của NCT
Số lƣợng bạn tri ân, tri kỷ của NCT
Tần số
%
>5 ngƣời
48
32,0
3-4 ngƣời
32
21,3
1-2 ngƣời
23
15,3
Không có
47
31,4
150
100,0
Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Khi đƣợc hỏi về “Số lượng bạn tri ân, tri kỷ” có 32,0% trong số các cụ
có từ trên 5 ngƣời bạn, 21,3% có từ 3 - 4 ngƣời, 15,3% có 1 – 2 ngƣời bạn.
Nỗi sợ lớn nhất đối với con ngƣời, nhất là NCT, đó là sự cô đơn. Ngƣời cao
tuổi ít có điều kiện tham gia hoạt động xã hội nhƣ lúc còn trẻ. Hơn nữa mâu
thuẫn thế hệ nhiều khi đẩy con cái và bố mẹ đến sự xa cách, làm cho NCT
cảm thấy cô đơn, cảm thấy mình nhƣ ngƣời thừa trong gia đình. Ngƣời cao
tuổi sống bằng kí ức, bằng kỉ niệm, song con cái khó chia sẻ với cha mẹ
những điều NCT đã trải qua trƣớc đây. Các câu lạc bộ NCT cũng chỉ thoả
mãn phần nào nhu cầu tâm lý của các cụ. Chính những điều này khiến NCT
mong muốn có một ngƣời bạn đời, bạn tri kỉ để sống vui vẻ hơn trong nửa sau NCT không có bạn của cuộc đời. Tuy nhiên, một điều đáng lƣu ý là có gần 1/3
thân. Lý do là một số NCT do tuổi tác đã cao, sức khỏe yếu đi lại khó khăn
hoặc do đời sống thấp, kinh tế quá khó khăn nên họ phải tiếp tục lao động,
70
không có nhiều thời gian nghỉ ngơi, gặp gỡ, giao lƣu với ngƣời khác.
2.2.3.3. Đối tượng NCT trò chuyện tâm sự
Trò chuyện chia sẻ với NCT có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống
tinh thần và tình cảm của NCT, thêm vào đó mỗi cuộc trò chuyện là một bài
tập luyện cho não bộ cực kỳ hiệu quả. Nó kích thích vùng não bộ hoạt động,
đặc biệt là vùng não kiểm soát ngôn ngữ và trí nhớ, đồng thời chống lại sự trì
trệ của não bộ, đẩy lùi quá trình lão hóa. Việc trò chuyện giống nhƣ một bài
tập kỹ năng giao tiếp cho NCT. Nó buộc não bộ phải hoạt động thƣờng
xuyên, tiếp nhận thông tin liên tục. Ngoài ra các cơ mặt cũng hoạt động tích
cực khi nói chuyện, đặc biệt khi cƣời, điều đó giúp tinh thần thƣ giãn và rất có
lợi cho sức khỏe NCT. Đó chính là vũ khí hiệu quả giúp cho NCT chống lại
sự lão hóa và suy giảm trí nhớ. “Sự im lặng giống như một dịch bệnh làm hạn
chế nhận thức của người già. Đó là con đường nhanh nhất dẫn tơi suy giảm
và mất trí nhớ” – Tiến sĩ Martin, Đại học Zurich – Đức.
Bảng 2.13. Đối tƣợng trò chuyện tâm sự của NCT
Tần số 44 52 32 9 5 8 0 0 150
% 29,3 34,7 21,3 6,0 3,3 5,4 0,0 0,0 100,0
Đối tƣợng trò chuyện tâm sự của NCT Con trai Vợ/chồng Con gái Con dâu/rể Bạn bè/đồng nghiệp Hàng xóm, láng giềng Ngƣời khác Không tâm sự, chia sẻ Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Theo nhƣ kết quả điều tra cho thấy, ngƣời đầu tiên đƣợc NCT kể đến
34,7%). Tuổi xế chiều, tình yêu chồng vợ đậm đà theo năm tháng, họ vẫn
thƣờng xuyên hỏi han, trò chuyện, chia sẻ nhất là ngƣời bạn đời (chiếm
thuộc về nhau, hiểu biết và chiều nhau sau bao tháng ngày cùng chung sống,
71
cảm thông và chia sẻ. Ngƣời vợ và ngƣời chồng cũng thể tha thứ, thông cảm
cho nhau những điều chƣa vừa ý và thẳng thắn, khéo léo chia sẻ với nhau
những gì có thể đƣợc. Khi còn trẻ, ngƣời vợ chăm chồng, ngọt ngào, chia sẻ
khó khăn thiếu thốn với ngƣời chồng thì khi xế chiều, ngƣời vợ vẫn là chỗ
dựa vô cùng âu yếm của chồng vì ngƣời chồng về già thƣờng trái tính trái nết
hơn ngƣời vợ và dễ suy giảm sức khoẻ hơn nếu tình cảm và tinh thần của các
ông bị biến động, các ông rất khó chịu đựng đƣợc nỗi cô đơn... Bà mà mải với
con cháu, quên mất ông, để ông lẻ loi , đơn chiếc thì ông dễ ốm đau, bệnh tật,
ông nào sức khoẻ tốt, vật chất đầy đủ lại dễ tìm thú vui nơi ngoài tình vợ
chồng. Các ông thì, cũng hiểu vợ mình hơn nữa, nhớ những kỷ niệm đẹp đẽ
của vợ chồng mà thể tất cho các bà có lúc làm trái ý các ông, cho cửa nhà êm
ấm, đỡ phải “Chia nồi” khi có trục trặc, mâu thuẫn.
Tiếp theo là quá trình giao tiếp với ngƣời con trai (chiếm 29,3%), thứ
ba ngƣời con gái (chiếm 21,3%). Cũng dễ hiểu với những con số đƣợc kể
trên, vì NCT Việt Nam thƣờng sống với ngƣời con trai nên thƣờng xuyên trò
chuyện với ngƣời con trai là tất yếu, nhƣng kề sau đó là ngƣời con gái, với xu
thế ngày một hiện đại con gái đã kết hôn cũng thƣờng xuyên qua thăm hỏi, trò
chuyện với bố mẹ nên mức độ trò chuyện giữa NCT với con gái cũng ngày
một tăng lên. Ngoài ra, con dâu, con rể cũng đƣợc NCT nhắc đến (chiếm
6,0%). Nội dung các cuộc trò chuyện của con cháu với NCT xoay quanh
những câu chuyện vui, hỏi thăm sức khỏe, ăn uống, chi tiêu trong gia đình,
chuyện hàng xóm láng giềng, chuyện họ hàng.... Và đó cũng là dịp để NCT
hỏi thăm tình hình sức khỏe, học hành của con cháu cũng nhƣ bộc lộ những
mong muốn, nguyện vọng của mình, tìm đƣợc sự đồng cảm với con cháu và
72
phần nào thu hẹo khoảng cách già và trẻ, nhất là giữa ông bà và cháu.
Ngoài gia đình thì những ngƣời hàng xóm là những ngƣời gần nhất với
NCT, một số NCT góa bụa và không sống chung với con cái đối với họ có
hàng xóm là ngƣời gần gũi nhất để họ trò chuyện, tâm sự, chia sẻ (chiếm
5,4%), theo cụ bà 73 tuổi: “Sống một mình, nên chỉ có tâm sựu, trò chuyện với
hàng xóm, ngày nào hai bà cũng tâm sự, chia sẻ những câu chuyện hàng
ngày, già rồi nên cần người nói chuyện cho khuây khỏa...”. Thông tin phỏng
vấn sâu cho thấy, nội dung các cuộc trò chuyện của NCT với hàng xóm, láng
giềng của cụ ông, cụ bà cùng hƣớng tới những vấn đề chung, những sự việc
xung quanh những con ngƣời tại nơi ở, hay những vấn đề thời sự, kinh tế,
chính trị, xã hội mà các cụ thăm dò đƣợc thông qua những phƣơng tiện thông
tin đại chúng, nhƣ báo, đài, tivi, internet... Một chia sẻ của cụ ông, 74 tuổi
“Ông đọc báo hàng ngày, rồi lại bàn luận chính trị với mấy ông hàng xóm,
giờ nhiều tin lắm cháu à”. Và theo những gì thu thập đƣợc từ phỏng vấn thì
trò chuyện của cụ ông khác với cụ bà, những cụ ông thƣờng trò chuyện với
nhau về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội hay ôn lại những kỉ niệm
thời chiến tranh...., đối với các cụ bà thì xoay quanh các câu chuyện gia đình,
thăm hỏi sức khỏe, trao dổi kinh nghiệm trong chuyện chăm sóc cháu, nội trợ,
quần áo... Nhƣng nhìn chung, những cuộc trò chuyện thƣờng làm cho tinh
thần NCT cảm thấy đƣợc sảng khoái và yêu cuộc đời hơn.
So với việc trò chuyện với con cháu và những ngƣời hàng xóm thì hoạt
động trò chuyện với bạn bè, đồng nghiệp của NCT có tần suất thấp hơn
(chiếm 3,3%). Nguyên nhân do việc gặp gỡ giữa NCT với bạn bè, đồng
nghiệp cũ không thƣờng xuyên nên mức độ trò chuyện cũng ít hơn, hơn thế
73
nữa NCT càng già thì các quan hệ xã hội càng giảm do tuổi già, sức yếu. Mặc
dù vậy thì những cuộc trò chuyện, gặp gỡ bạn bè làm cho NCT thảo mãn nhu
cầu giao tiếp bạn bè, đƣợc tâm sự, chia sẻ với những ngƣời có chung đặc
điểm nghề nghiệp, văn hóa xã hội, các vấn đề sức khỏe, gia đình, tin tức về
những ngƣời bạn cũ,... Ngoài ra, trò chuyện giúp cho NCT biết đƣợc những
thông tin mới mẻ trong đời sống xã hội, làm tăng thêm vốn hiểu biết cho họ.
Nhƣ vậy, hoạt động trò chuyện, thăm hỏi hay chia sẻ những vấn đề
quan trọng trong cuộc sống giữa NCT với các thành viên trong gia đình và
ngoài gia đình là hoạt động có ý nghĩa quan trọng về mặt tinh thần. Thông
qua việc trò chuyện hàng ngày tạo nên sợi dây gắn kết, hỗ trợ về mặt tinh thần
đối với NCT.
2.2.3.4. Tâm trạng hàng ngày của NCT
Đối với NCT đời sống tinh thần luôn đƣợc đặt lên hàng đầu, trong cuộc
sống của NCT có nhiều yếu tố gia đình và cá nhân tác động đến đời sống tinh
thần của NCT, trong đó yếu tố quan trọng nhất là sự hỗ trợ của cha mẹ với
con cháu và tình cảm của NCT đối với con cháu và với vợ/chồng mình.
Ngƣời Việt Nam luôn có truyền thống hiếu thảo với ông bà cha mẹ, coi việc
phụng dƣỡng, hiếu thảo để đền đáp công lao sinh thành dƣỡng dục của ông bà
cha mẹ là trách nhiệm, bổn phận của con cháu. Do truyền thống tốt đẹp đó mà
gia đình trở thành đơn vị gốc của xã hội, đơn vị đó tồn tại qua nhiều cuộc xáo
trộn kinh tế, chính trị của xã hội. NCT có một chỗ dựa nào đó trong cái đơn vị
gốc này. Với những ngƣời thiếu may mắn, không con cái, thì vẫn có thể nhờ
cậy vào bà con nội ngoại. Cũng do truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà cuộc
sống chung giữa NCT và ngƣời trẻ dƣới mái ấm một gia đình thƣờng rất hài
74
hòa và ổn định. Điều đó nó có ảnh hƣởng rất lớn đến tâm trạng NCT.
Bảng 2.14. Tâm trạng hàng ngày của NCT
Vui vẻ, thoải mái
Tâm trạng bình thƣờng
Thƣờng xuyên thấy lo lắng
Cô đơn
Tâm trạng hàng ngày của NCT
Tổng
Tần số
53
21
5
80
1
Sống trong gia đình nhiều thế hệ
Mô hình gia đình của NCT
%
66,2%
26,2%
6,3%
1,3% 100,0%
Sống với vợ chồng Tần số
14
10
3
27
0
%
51,9%
37,0%
11,1%
0,0% 100,0%
14
8
Sống với con cháu Tần số
9
33
2
%
27,3%
42,4%
24,2%
6,1% 100,0%
0
3
Sống một mình
Tần số
0
10
7
%
0,0%
0,0%
30,0%
70,0% 100,0%
Tần số
76
45
19
150
9
Tổng
%
51,0%
30,2%
12,8%
6,0% 100,0%
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Qua bảng số liệu cho thấy 51,0% NCT nói chung cảm thấy luôn vui vẻ
và thoải mái, 30,2% cho rằng cuộc sống bình thƣờng và 12,8% cảm thấy
thƣờng xuyên lo âu/suy nghĩ, 6,0% còn lại cảm thấy luôn bị cô đơn. Chúng ta
có thể thấy rằng đa số (chiếm 66,2%) NCT cảm thấy tinh thần luôn vui vẻ
thoải mái sống chung với vợ chồng, con cháu, và ngƣợc lại trong những
ngƣời luôn có cảm giác cuộc sống cô đơn thì tập trung phần lớn (chiếm
70,0%) vào những cụ đang sống một mình. Âm hƣởng chủ đạo trong tâm
trạng của ngƣời ngƣời có tuổi Việt Nam là “lo”: lo mọi thứ, lo cho con cháu,
bản thân, xã hội; lo ngày hôm nay và lo ngày mai; lo “tuổi già sẽ đi về đâu”.
Nhìn chung dù ở tầng lớp nào và ở độ tuổi nào, NCT đều có những nỗi lo lắng
giống nhau. Bên cạnh đó, cũng thấy có những biểu hiện ít khác nhau giữa
những ngƣời có hoàn cảnh và vị thế kinh tế - xã hội khá giả với ngƣời nghèo
hơn, giữa đô thị và nông thôn, giữa nhóm sắp già (50 - 59 tuổi) và nhóm NCT (60+) [10]. Khi tìm hiểu xem NCT Thị trấn Neo lo lắng gì nhiều nhất, NCT lo
cho nghề nghiệp con cháu không ổn định; công việc vất vả; nhiều tệ nạn xã
75
hội; con cháu thiếu kinh nghiệm sống; ý thức về quê hƣơng của họ chƣa tốt;
con cháu quá coi trọng đồng tiền; con cháu thiếu kiến thức, kỹ năng ứng xử
gia đình... Nhƣ vậy, có thể thấy những NCT hiện nay vẫn là lớp ngƣời lo toan
cho gia đình, con cháu và ít nghĩ đến bản thân mình. Phần lớn những suy nghĩ
của họ đặt trong các vấn đề giải quyết khó khăn về kinh tế trong gia đình của
con cháu họ cùng với những lo lắng về những cạm bẫy xã hội, tệ nạn xã hội
ảnh hƣởng đến công việc của con cháu và gia đình họ. Ngƣời cao tuổi Việt
Nam hiện nay vẫn mang đậm những nét văn hóa truyền thống cả trong suy
nghĩ và hành động. Thực tế trên thế giới không có nhiều nơi trên thế giới mà
cha mẹ lại băn khoăn, trăn trở cho con cái nhiều nhƣ cộng đồng ngƣời Việt.
Mặc dù đã ra khỏi lực lƣợng lao động, nghỉ ngơi sau những ngày tháng làm
việc vất vả cực nhọc nhƣng mối quan tâm hàng đầu của NCT hiện nay không
phải là sức khỏe, không phải là sự nghỉ ngơi thƣ dãn mà là những khó khăn,
trăn trở của con cái mình. Đó là đức hi sinh lớn mà chúng ta hiếm thấy có
đƣợc trong nền văn hóa các nƣớc phƣơng Tây [38].
Tuy nhiên, một điều đáng lƣu ý theo nhƣ khảo sát thực tế tại địa
phƣơng, ở đây vẫn còn tình trạng con cháu ngƣợc đãi ông bà, cha mẹ hoặc
thiếu sự quan tâm chăm sóc, bỏ mặc lang thang kiếm sống. Điều này ảnh
hƣởng rất lớn đến tâm trạng của NCT. Một số NCT bị ngƣợc đãi do tâm lý
mặc cảm, hổ thẹn, cam chịu nên không muốn tố cáo hay nhờ sự can thiệp của
cơ quan pháp luật hoặc cộng đồng, trong khi đó chính quyền các cấp cơ sở
cũng chỉ can thiệp đến những hành vi nguy hại đến tính mạng của NCT, còn
áp lực về tinh thần, tình cảm ít đƣợc quan tâm. Do vậy, không có thông tin về
vân đề về ngƣợc đãi, bỏ rơi NCT tại gia đình của NCT mà chỉ có ý kiến xác
định có vấn đề ngƣợc đãi, bỏ rơi NCT. Một chia sẻ của NCT:
“Như trường hợp của ông N, cụ bị khiếm thị do ảnh hưởng của chất
độc màu da cam, ông có 3 người con, 2 nam và một nữ, con gái ông ấy là Phó
Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ huyện, hai anh con trai buôn bán, cả ba người
76
con đều rất giàu có nhưng sau khi vợ ông ấy mất, vợ ông ấy mất cách đây một
năm thì không ai chịu đón ông về nhà mình chăm sóc cho ông ấy. Ông ấy khổ
lắm, mọi sinh hoạt đều tự lo, may còn được bà con hàng xóm láng giềng
thương còn quan tâm, giúp đỡ ông ấy trong sinh hoạt hàng ngày. Trước kia
anh con trai thứ hai của ông ấy, còn thi thoảng sang thăm ông ấy nhưng sau
khi vợ anh ta biết anh ta không sang nữa. Nhìn cụ ai cũng thương xót, may
được mọi người giúp mua hộ ông ấy cái này cái kia để ăn, những hôm không
có ai giúp ông ấy ăn mì tôm sống vì không nhìn thấy gì để nấu nướng. Chính
quyền địa phương, hội, tổ chức xã hội cũng đã có hỗ trợ, động viên ông ấy
vào Trung tâm Công tác Xã hộ tỉnh Bắc Giang (trước là Trung tâm Bảo trợ
Xã hội tỉnh Bắc Giang), nhưng ông ấy không đi bảo như vậy xấu mặt cho cả
mình lẫn con cái...” (PVS, NCT, nam giới, 63 tuổi).
Nhƣ vậy, có thể kết luận rằng con cháu, vợ chồng vẫn là chỗ dựa tinh
thần lớn nhất của NCT trên địa bàn thị trấn. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy
rõ, sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng cùng với quá trình mở rộng đô thị
hóa đang làm nới lỏng dần các mối quan hệ có tính truyền thống giữa gia
đình, họ hàng, làng xóm, bạn bè làm nảy sinh những mâu thuẫn cũng nhƣ
xung đột trong đời sống xã hội đã và đang ảnh hƣởng xấu đến tâm lý NCT.
Bên cạnh đó vẫn còn có những trƣờng hợp NCT bị con cháu ngƣợc đãi, thiếu
sự quan tâm chăm sóc. Chính vì vậy, trong hệ thống chính sách ASXH cần
đặc biệt chú ý đến việc khơi dậy các truyền thống văn hóa “Kính trên,
nhường dưới”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”...
2.2.4. Hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của NCT
Sự tham gia các hoạt động xã hội là một nhu cầu tự nhiên của NCT, nó
giúp họ mở rộng mối quan tâm tới các giá trị hiện hữu của xã hội. Họ không
cảm thấy mình già nua và lạc hậu với thời thế. Bởi vậy trên thực tế, rất nhiều
NCT đã thực hiện theo câu nói “Tuổi cao trí càng cao”, đóng góp rất tích cực
77
vào các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phƣơng, cộng đồng, xã, phƣờng, thị
trấn. Bên cạnh đó, hoạt động xã hội cũng trở thành liều thuốc bổ quen thuộc
có thể khiến NCT trẻ chung và khỏe mạnh hơn.
2.2.4.1. Các công việc thường làm lúc rảnh của NCT
Bảng 2.15. Các công việc thƣờng làm lúc rảnh của NCT
Tham quan du lịch
Các công việc thƣờng làm
Chơi với con cháu, bạn bè, hàng xóm
Nghe đài, xem ti vi, đọc báo
Sinh hoạt đoàn thể, câu lạc bộ
Sinh hoạt tôn giáo
Tham gia CTXH
Hoạt động khác
83
117
90
32
9
35
28
Tần số
78,0
21,3
60,7
55,4
23,4
6,0
18,7
% (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, những hoạt động sinh hoạt,
vui chơi, giải trí, tham gia CTXH đã, đang và ngày càng đóng một vai trò hết
sức quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Tuy
nhiên thực tế cho thấy mỗi ngƣời dân trong xã hội đều có những biểu hiện đặc
thù của những hoạt động thƣờng ngày này, nó phụ thuộc vào nhu cầu, sở thích
và ngay cả những điều kiện, hoàn cảnh gia đình.
Ngƣời cao tuổi cùng với những biểu hiện về đặc điểm tâm lý lứa tuổi
đặc thù, họ cũng là một trong những đối tƣợng có nhu cầu riêng của mình
trong các vấn đề sinh hoạt, vui chơi giải trí, kết quả điều tra cho thấy việc
thƣờng xuyên tiếp cận với các phƣơng tiện thông tin đại chúng (nghe đài, đọc
báo, xem ti vi) là loại hình hoạt động đặc thù của NCT, chiếm tỷ lệ cao nhất
so với các hoạt động khác (chiếm 78,0%). Điều này có thể giải thích một mặt
khi NCT nghỉ hƣu, họ có nhiều quỹ thời gian nhiều hơn dành cho việc xem
tivi, nghe đài, đọc báo và đây cũng là loại hình giải trí mà NCT có thể tiếp cận
một cách dễ dàng và thuận tiện nhất. Mặt khác, có thể thấy nhu cầu thông tin
cũng khá quan trọng đối với NCT, nó đƣợc coi đó là một trong những hình
thức quan trọng để NCT duy trì sự giao tiếp với xã hội.
Một yếu tố thể hiện tính tích cực trong hoạt động và sử dụng thời gian
78
rỗi của NCT với một tỷ lệ cũng khá cao NCT tham gia sinh hoạt đoàn thể, câu
lạc bộ (chiếm 60,7%) và trực tiếp tham gia các hoạt động CTXH (chiếm
23,4%). Quan sát thực tế tại địa phƣơng thấy có nhiều hội viên Hội NCT tham
gia vào công tác Đảng, công tác chính quyền, các ngành đoàn thể, từ thị trấn
đến các tiểu khu với số lƣợng đông. Nhiều hội viên đảm nhận vai trò trọng
trách, chủ chốt trong công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Nhƣ vậy, nhờ quỹ
thời gian, lòng nhiệt tình trong công việc, họ đã đóng góp khá nhiều vào các
hoạt động phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và tổ chức nhiều hoạt động có ý
nghĩa khác nhau tại địa phƣơng.
Những hoạt động mang tính sở thích liên quan đến văn hóa và đời sống
tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho NCT có một cuộc
sống vui vẻ, lành mạnh. Theo số liệu điều tra, có 55,4% đi chơi, thăm hỏi con
cháu, bạn bè, hàng xóm; 21,3% NCT tham gia các hoạt động tôn giáo (đi lễ
chùa, thiền viện, nhà thờ); 6,0% NCT tham quan du lịch và 18,7% tham gia
các hoạt động khác (ví dụ nhƣ: trồng cây, nuôi cá, chim...). Đây đều là các
hoạt động bổ ích, lành mạnh, tích cực, tuy nhiên lại chƣa đƣợc nhiều nhiều
NCT tham gia tích cực. Vì vậy trên thực tế, chúng ta cần có hình thức khuyến
khích hoạt động tập thể của NCT, tạo điều kiện để họ giao lƣu bạn bè, tham
gia các hoạt động của cộng đồng. Nó khiến NCT cảm thấy mình có ý chí,
sống vui vẻ và thoải mái hơn.
2.2.4.2. Số lượng hội, đoàn thể, câu lạc bộ NCT tham gia ở địa phương
Bảng 2.16. Số lƣợng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ NCT tham gia
Tần số 0 112 27 11 150
% 0,0 74,7 18,0 7,3 100,0
Số lƣợng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ Không tham gia Từ 1 - 2 Từ 2-3 >3 Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Bên cạnh cuộc sống gia đình, các cụ còn có đời sống tinh thần khá
79
phong phú. Thông qua việc sinh hoạt Hội Ngƣời cao tuổi và các hoạt động
khác nhƣ: Hội Bảo thọ, Hội Cựu chiến binh, Hội Chữ thập đỏ, Hội khuyến
học, Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, Câu lạc bộ thể dục thể thao... đã thu hút
hầu hết NCT tham gia. Theo nhƣ kết quả điều tra về số lƣợng hội, đoàn thể,
câu lạc bộ mà NCT tham gia có 74,7% NCT tham gia từ 1 – 2 hội, đoàn thể,
câu lạc bộ; 18,0% NCT tham gia từ 2 – 3 hội, đoàn thể, câu lạc bộ và 7,3%
NCT tham gia từ trên 3 hội, đoàn thể, câu lạc bộ. Thực tế tại địa phƣơng cho
thấy trong các hoạt động sinh hoạt NCT hội, đoàn thể, câu lạc bộ của NCT
hiện nay Hội NCT là tổ chức gắn bó mật thiết nhất. Lý giải cho vấn đề này,
trƣớc hết vì Hội đáp ứng đƣợc những nhu cầu cơ bản của NCT: nhận diện bản
sắc văn hóa và cơ cấu nhóm, đoàn kết nhóm, nâng cao vị thế và vai trò của
nhóm trong cộng đồng và xã hội, là nơi giao tiếp nhóm. Một chia sẻ của NCT:
“Hàng quý các cụ trong hội NCT đều đóng quỹ hội, nguồn quỹ hội còn có một
số bên họ ủng hộ. Ví dụ: nhà ai có con cháu làm ăn khá giả, các cháu nó
cũng ủng hộ. Ngoài ra như chúng tôi cũng phải đóng góp, nên có quỹ. Mỗi
lần trong hội có người đau ốm hay nằm viện hoặc qua đời, mỗi lần như thế là
300.000 đ. Tuy nó không nhiều nhưng nó rất quan trọng thể hiện tình cảm,
chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau. Một miếng khi đói là một gói khi no cô ạ, tối lửa tắt
đèn có nhau. Hội tham mưu cho UBND thị trấn bổ trợ kinh phí để thăm các
cụ từ 90 tuổi trở lên, mỗi cụ được hỗ trợ 100.000đ/tháng. Hội cũng hỗ trợ
kinh phí và tổ chức mững thọ cho NCT. Những ngày lễ, tết Hội tổ chức thăm
hỏi, động viên các cụ tuổi cao sức yếu, gia đình khó khăn... Ngoài việc thăm
hỏi động viên, Hội đã phối hợp với trạm y tế thị trấn khám bệnh, cấp thuốc,
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NCT. Hội cũng phối hợp với gia đình, các hội
đoàn thể trong địa phương tổ chức tang lễ cho NCT qua đời” (PVS, NCT,
nam giới, 75 tuổi). Vì vậy, trong quá trình định hƣớng những hoạt động chăm
sóc NCT, nhân viên CTXH cần chú ý nhiều hơn tới việc định hƣớng các hoạt
động xã hội cho NCT. Cho đến nay chúng ta vẫn chƣa có sự đánh giá một
80
cách đún đắn vè vai trò của NCT trong các hoạt động xã hội tại cộng đồng
dân cƣ đặc biệt là hƣớng cho các hoạt động xã hội đó vào mục đích chăm sóc
nâng cao sức khỏe tinh thần cho NCT. Các hoạt động này không chỉ dừng lại
ở mức độ giao lƣu tình cảm chia sẻ sự “đồng cảm” giữa nhƣng NCT với nhau
mà còn cần trở thành hoạt động mang tính thức tế. Muốn làm đƣợc điều đó
chúng ta không thể không phát huy vai trò phối kết hợp của các cấp và tổ
chức đoàn thể từ trung ƣơng đến địa phƣơng nhằm xây dựng mô hình hoạt
động phù hợp với khả năng, sức khỏe và những đặc trƣng tâm lý của NCT.
2.2.4.3. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ
Biểu đồ 2.4. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ
Tuy cuộc sống vật chất của NCT tại địa phƣơng còn nhiều khó khăn
nhƣ đã phân tích ở trên, song hiện nay đời sống văn hóa tinh thần của NCT
hiện nay khá đa dạng và thƣờng xuyên đƣợc cải thiện. Hầu hết NCT tham gia
các hoạt động văn hóa xã hội, trong đó có 12,0% NCT rất thƣờng xuyên;
36,0% thƣờng xuyên; 48,7% thỉnh thoảng và chỉ có 3,3% không bao giờ tham
gia. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc tham gia vào các hoạt động xã
hội, NCT trên địa bàn thị trấn có xu hƣớng tham gia các các hoạt động nhiều
hơn với mức độ thƣờng xuyên hơn. Tuy nhiên, mức độ tham gia các hoạt
động xã hội của NCT phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau nhƣ hoàn cảnh
81
sống, công việc cũng nhƣ điều kiện sức khỏe.
2.2.4.4. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội
Việc tham gia các hoạt động văn hóa - xã hội có tác dụng tích cực đối
với NCT. Một mặt nó đem lại cho NCT tinh thần thoải mái, sống vui sống
khỏe, mặt khác phát huy tài năng, trí tuệ cho NCT phục vụ cho xã hội. Các
hoạt động văn hóa của NCT hiện nay khá đa dạng. Tham gia các hoạt động
văn hóa – xã hội sẽ tạo điều kiện cho NCT đƣợc quan tâm, giúp đỡ (chiếm
45,3%); sống khỏe, sống lạc quan yêu đời (chiếm 53,3%); nâng cao hiểu biết
xã hội (chiếm 6,0%) và tất cả các ý kiến trên chiếm 37,3% (Bảng 2.17). Vì
vậy, cần nâng cao nhận thức trong công tác tổ chức sinh hoạt văn hóa – xã hội
cho NCT tại địa phƣơng, xây dựng các loại hình sinh hoạt đa dạng, quan tâm
nhiều hơn đến nhóm NCT nghèo, tàn tật cô đơn không nơi nƣơng tựa.
Bảng 2.17. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội
Lợi ích tham gia Được quan tâm/giúp đỡ
68 45,3
Sống khỏe/sống lạc quan/yêu đời 80 53,3
Nâng cao hiểu biết 9 6,0
Gồm các ý trên 56 37,3
Tần số % (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Nhƣ vậy chúng ta thấy, việc tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội
của NCT mang nhiều mục đích khác nhau, thông qua những hoạt động sinh
hoạt tập thể NCT có thể hòa nhập vào cộng đồng thông qua các tổ chức xã
hội, các loại hình câu lạc bộ... Đây là hoạt động tích cực nhằm ổn định và
củng cố sức khỏe theo hƣớng tốt nhất. Những tổ chức này có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc nối liền hoạt động của NCT trong gia đình với xã hội. 2.2.5. Hỗ trợ NCT của cán bộ xã hội và chính quyền địa phương 2.2.5.1. Hỗ trợ của chính quyền địa phương
Chăm sóc NCT là một trong những sự ƣu tiên đặc biệt của Đảng và
Chính quyền Thị trấn Neo. Sự quan tâm dó đƣợc cụ thể hóa bằng những chỉ
thị, nghị quyết.... Hƣởng ứng những chủ trƣơng đúng đắn đó, các tổ chức
đoàn thể, chính trị xã hội cùng toàn xã hội đã có nhiều việc thiết thực góp
82
phần chăm sóc, giúp đỡ NCT trong cuộc sống có hiệu quả nhƣ xây dựng gia
đình văn hóa, ông bà gƣơng mẫu, con cháu hiếu thảo, chúc tết, chúc thọ nhân
dịp tuổi thọ vàng, kỷ niệm ngày NCT....
Bảng 2.18. Hỗ trợ của chính quyền địa phƣơng
Khác
Hỗ trợ của chính quyền địa phƣơng
Tư vấn/KCB định kỳ/cấp phát thuốc miễn phí
Cấp thẻ BHYT miễn phí
Thăm hỏi động viên
Giúp đỡ về vật chất
Tổ chức tham quan du lịch
Tổ chức lễ mừng thọ /Tặng quà lễ, tết
Tần số
138
15
147
12
77
145
57
%
92,0
10,0
98,0
8,0
51,3
96,6
38,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Qua kết quả khảo sát thực tế cho thấy, có 92,0% NCT đƣợc tƣ vấn,
khám chữa bệnh định kỳ, cấp phát thuốc miễn phí. Tổ chức khám chữa bệnh
và cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho NCT là một hoạt động thƣờng
niên và quan trọng trong công tác chăm sóc NCT. Hàng năm chính quyền địa
phƣơng kết hợp với ngành y để tổ chức khám và điều trị miễn phí cho ngƣời
cao tuổi. Kỷ niệm ngày 1/10 hàng năm, Ngành thể dục thể thao đã trực tiếp
hƣớng dẫn một số chi hội tập thể dục dƣỡng sinh và các hoạt động thể thao để
nhằm rèn luyện sức khỏe cho các cụ. Tuy việc tổ chức khám chữa bệnh cho
NCT nhƣ vậy có thể là chƣa đáp ứng đƣợc hết nhu cầu, nguyện vọng của
NCT nhƣng hoạt động đó của chính quyền địa phƣơng đã thể hiện sự quan
tâm, nhiệt tình với công tác chăm sóc NCT. Mặt khác việc tổ chức khám
chữa bệnh cho NCT còn thể hiện chính sách, sự chỉ đạo đúng đắn và tích
cực của chính quyền địa phƣơng. Bên cạnh đó, chính quyền địa phƣơng còn
tổ chức triển khai, phối hợp với Hội NCT để xem xét và cấp phát thẻ bảo
hiểm y tế miễn phí cho NCT theo quy định của Luật NCT (chiếm 10,0%).
Không chỉ quan tâm về mặt sức khỏe, các cấp ủy Đảng và chính quyền
cùng toàn thể xã hội thƣờng xuyên có những việc làm cụ thể nhƣ quan tâm
chăm sóc động viên giúp đỡ NCT (chiếm 98,0%). Đã có1.210 NCT đƣợc
thăm hỏi, tặng quà, phúng viếng... Các quỹ huy động từ xã hội chăm sóc giúp
83
đỡ NCT gồm quỹ cao tuổi, quỹ toàn dân chăm sóc NCT, quỹ phụng dƣỡng
ông bà cha mẹ. Đối với các trƣờng hợp khó khăn, các cụ đều đƣợc trợ cấp
bằng nhiều hình thức nhƣ trợ cấp thƣờng xuyên, trợ cấp không thƣờng xuyên.
Các tổ chức xã hội nhƣ Hội chữ thập đỏ, Hội bảo thọ... cũng giúp đỡ các cụ
có hoàn cảnh khó khăn dƣới các hình thức chủ yếu bằng vật chất, tinh thần,
chăm sóc động viên lúc ốm đau [2]. Tuy nhiên, việc giúp đỡ vật chất chiếm tỷ
lệ nhỏ (chiếm 8,0%). Việc quan tâm, giúp đỡ của chính quyền địa phƣơng và
các tổ chức đoàn thể còn căn cứ vào điều kiện thực tế của từng gia đình, của
từng trƣờng hợp cụ thể để xem xét giúp đỡ bằng vật chất hay động viên tinh
thần, do đó việc nhận thức về sự giúp đỡ cũng khác nhau, có ngƣời đƣợc trợ
giúp bằng tiền hay vật chất cụ thể, có ngƣời đƣợc tổ chức đoàn thể động viên
tham gia vào các tổ chức đoàn thể xã hội giúp tinh thần thoải mái đó cũng là
một cách giúp đỡ mà phần đông mọi ngƣời chƣa nhận thấy.
Tổ chức lễ mừng thọ cho NCT là một hoạt động quen thuộc và thƣờng
thấy, bởi tuổi càng cao thì càng quý và trọng lão là truyền thống tốt đẹp và lâu
đời, đƣợc gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bên cạnh việc đƣợc con
cháu trong gia đình tổ chức mừng thọ và chúc mừng, NCT tại địa phƣơng còn
đƣợc chính quyền tổ chức lễ mừng thọ và gửi tặng quà cho NCT trong các dịp
lễ, tết (chiếm 96,6%). Vào dịp 1/10 hàng năm hoặc lễ Tết nguyên đán chính
quyền địa phƣơng tổ chức mừng thọ và quà cho các cụ từ 70 tuổi trở lên tập
trung tại Hội trƣờng UBND Thị trấn Neo.
Bên cạnh đó, có 51,3% NCT trên địa bàn thị trấn khẳng định rằng hàng
năm vẫn đƣợc chính quyền địa phƣơng tổ chức đi tham quan du lịch. Ngoài ra
có 38% NCT nhận đƣợc các hoạt động hỗ trợ khác từ phía chính quyền địa
phƣơng: phúng viếng khi qua đời, chúc mừng khi gia đình có việc hỉ,...
Nhìn chung, NCT trên địa bàn Thị trấn Neo hiện nay nhận đƣợc nhiều
sự quan tâm chăm sóc từ phía chính quyền địa phƣơng. Đây là những hoạt
động vô cùng thiết thực, cần đƣợc phát huy và làm tốt hơn nữa giúp cho đời
84
sống tinh thần của NCT vui vẻ và lạc quan hơn. “Về vấn đề hỗ trợ của chính
quyền địa phương với NCT, với quyền hạn cũng như nhiệm vụ của chính
quyền cấp cơ sở, chúng tôi cũng cố gắng hết sức thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với NCT, hàng năm cấp thẻ BHYT cho các cụ đủ tiêu
chuẩn, mời các đoàn về tư vấn, khám chữa bệnh. Ngoài ra, về phía chính
quyền còn có các hoạt động thăm hỏi động viên trong những lúc khó khăn,
ốm đau, hiếu hỷ. Thăm hỏi tặng quà trong những ngày lễ, tết. Tuy nhiên, kinh
phí cấp cơ sở của chúng tôi còn hạn hẹp, nên có nhiều hoạt động chúng tôi
không thể làm một cách đầy đủ được. Nhiều hoạt động không có ngân sách
hoặc cũng không huy động được sự đóng góp từ phía nhân dân thì hầu hết
chúng tôi lồng ghép với các chương trình hoạt động khác” (PVS, ông NVH –
PCT UBND Thị trấn Neo). Tuy nhiên, nhiều NCT trên địa bàn thị trấn vẫn
còn mơ hồ, chƣa nắm đƣợc đầy đủ các chủ trƣơng chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc đối với NCT, hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến Luật NCT
chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, việc tuyên truyền còn bó hẹp trong phạm vi tổ
chức Hội ở cơ sở. Do vậy, để những chính sách ƣu đãi của Đảng và Nhà
Nƣớc đối với NCT thực sự đi vào cuộc sống, thì cần có sự quan tâm hơn nữa
của cán bộ thị trấn trong công tác tuyên truyền, phối hợp giải quyết các chế độ
cho NCT. Các tổ chức Hội NCT ở cở sở cần tập trung tuyên truyền phổ biến
Luật NCT tại cộng đồng, vận động NCT tham gia vào tổ chức hội để nắm
đƣợc những quyền lợi của Đảng và Nhà nƣớc dành cho NCT.
2.2.5.2. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe
Bảng 2.19. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe
Cung cấp dịch vụ tại nhà
Không hỗ trợ
Hỗ trợ cán bộ xã hội
Tư vấn CSSK, chế độ dinh dưỡng
Tư vấn KCB
Tổ chức lớp TDTT
Tần số
27
0
0
0
123
%
18,0
0,0
0,0
82,0
0,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc đời, do ảnh hƣởng của quá trình lão
85
hóa, NCT bị suy giảm sức khỏe một cách rõ nét. Đây cũng là thời kỳ khởi
phát của nhiều bệnh: tim mạch, phổi, huyết áp… Vấn đề sức khỏe là vấn đề
quan trọng, có ảnh hƣởng lớn đến cuộc sống của NCT. Khi có sức khỏe tốt,
NCT sẽ có điều kiện tốt hơn trong các hoạt động vui chơi – giải trí, các hoạt
động xã hội tại địa phƣơng. Một điều đáng lƣu ý NCT có tâm lý giấu bệnh tật
và các vấn đề sức khỏe của mình do đó cần phải quan tâm thƣờng xuyên, liên
tục để có sự hỗ trợ phát hiện và điều trị bệnh kịp thời cho NCT. Hơn nữa,
nhận thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe của NCT và gia đình còn nhiều hạn
chế. Vì vậy, để hỗ trợ cho NCT trong việc chăm sóc sức khỏe nhân viên
CTXH có một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này ở địa phƣơng
còn hạn chế, chỉ dừng lại ở hoạt động tƣ vấn kiến thức chăm sóc sức khỏe và
chế độ dinh dƣỡng (chiếm 18,0%). Vẫn còn một tỷ lệ rấy lớn NCT chƣa nhận
đƣợc sự hỗ trợ của nhân viên CTXH. Mặc dù một số hoạt động hỗ trợ rất
quan trọng nhƣ tƣ vấn cách thức khám chữa bệnh; tổ chức các lớp thể dục thể
thao… tại địa phƣơng để NCT hoạt động và tăng cƣờng sức khỏe; phối hợp
với ngành Y tế tổ chức các cuộc khám chữa bệnh định kỳ tại địa phƣơng để
giúp phát hiện các bệnh nói riêng và các vấn đề sức khỏe nói chung của NCT;
cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ chăm sóc để NCT có khả năng sống độc lập
ngay cả khi họ bị hạn chế về điều kiện sức khỏe chƣa đƣợc cán bộ xã hội thực
hiện trong trợ giúp NCT trong công tác chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, trên
thực tế, không chỉ riêng Thị trấn, mà ở nƣớc ta, các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho NCT hiện chƣa theo kịp nhu cầu phát triển xã hội cũng nhƣ nhu cầu
của chính nhóm đối tƣợng NCT. Điều này bao gồm cả nguyên nhân từ phía
cơ sở hạ tầng thấp kém, loại hình dịch vụ nghèo nàn đến vấn để tâm lý xã hội,
nhân viên CTXH tại địa phƣơng chƣa đƣợc đào tạo CTXH chuyên nghiệp mà
mới thông qua hình thức tập huấn CTXH theo Đề án phát triển nghề CTXH
giai đoạn 2010 – 2020 (Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ số 32/2010/QĐ-
TTg ngày 25 tháng 03 năm 2010 Phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã
86
hội giai đoạn 2010 – 2020).
Xuất phát từ tình hình thực tế cho thấy, vai trò của cán bộ xã hội trong
việc chăm sóc sức khỏe cho NCT trên địa bàn thị trấn còn nhiều hạn chế,
chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn. Chính vì vậy, cần có chiến lƣợc đào
tạo tập huấn cho cán bộ xã hội để họ thực sự trở thành những nhân viên
CTXH chuyên nghiệp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe NCT.
2.2.5.3. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội
Bảng 2.20. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội
Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội Tần số %
Lắng nghe trò chuyện 5 3,3
Tham vấn tâm lý 0 0,0
Kết nối với CLB 0 0,0
Nâng cao nhận thức của GĐ và cộng đồng 0 0,0
Không hỗ trợ 145 96,7
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Cùng với quá trình lão hóa, quá trình thay đổi về sinh lý, tâm lý con
ngƣời trong giai đoạn cao tuổi cũng có rất nhiều vấn đề nổi bật. Ngƣời cao
tuổi có thể cảm thấy cô độc, hƣớng về quá khứ, hay giận dỗi,… những vấn đề
đó làm cho tâm lý NCT có nhiều thay đổi. Hơn nữa vấn đề tâm lý có ảnh
hƣởng lớn đến cuộc sống của NCT. Khi tâm lý ổn định, vui vẻ, NCT sẽ thấy
khỏe khoắn hơn, sẽ hoạt động nhiều hơn. Tuy nhiên, do sự thay đổi vai trò
của bản thân, nhiều NCT cảm thấy mình không còn có ích, không còn đƣợc
sự tôn trọng của mọi ngƣời, ảnh hƣởng của “Hội chứng về hưu”, nhiều NCT
do những sai lầm trong quá khứ thì thƣờng than trách bản thân… trong khi đó
họ rất khó chia sẻ với con cháu hay những ngƣời thân. Chính vì vậy, sự trợ
giúp tâm lý cho NCT của nhân viên CTXH có ý nghĩa rất quan trọng. Thông
qua các hoạt động hỗ trợ của nhân viên CTXH sẽ giúp cho NCT trấn an, động
viên NCT có cái nhìn tích cực hơn, chuẩn bị tâm lý tốt hơn để vƣợt qua khủng
hoảng, lạc quan đón nhận tuổi già nhƣ một yếu tố tự nhiên của cuộc sống.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra trên địa bàn nghiên cứu việc hỗ trợ tâm lý
của cán bộ địa phƣơng với NCT chỉ đơn giản là hoạt động lắng nghe trò
87
chuyện và chiếm một tỷ lệ nhỏ (chiếm 3,3%). Nhƣ vậy, vai trò nhân viên
CTXH tại địa phƣơng còn khá mờ nhạt, trong khi có một tỷ lệ rất lớn NCT
cần sự hỗ trợ về tâm lý. Qua thực tế điều tra cho thấy, việc hỗ trợ tâm lý cho
NCT tại thị trấn còn gặp nhiều khó khăn, họ chỉ làm theo kinh nghiệm và
chƣa thực sự hiệu quả vì nhân viên CTXH địa phƣơng gặp một số vấn đề:
thiếu kiến thức chuyên môn, kỹ năng, phƣơng pháp CTXH.
2.2.5.4. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội
Bảng 2.21. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội
Không hỗ trợ
Hưởng chế độ chính sách của nhà nước
Cung cấp các kiến thức về kinh tế hộ gia đình
Tiếp cận với các nguồn tín dụng, ưu đãi
Kết nối với các dịch vụ, việc làm 0 0,0
11 7,4
0 0,0
0 0,0
Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội 129 Tần số 92,6 % (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Bƣớc vào giai đoạn cao tuổi đồng nghĩa là con ngƣời bƣớc vào giai
đoạn nghỉ ngơi. Tuy nhiên chỉ có một số ít NCT có điều kiện kinh tế khá giả:
cán bộ, viên chức nhà nƣớc nghỉ hƣu, sự hỗ trợ của con cháu… Còn lại đa số
NCT, nhất là những ngƣời neo đơn đều gặp phải những khó khăn về kinh tế
do sự suy giảm của thu nhập. Nhu cầu của NCT, nhất là khám chữa bệnh hay
chế độ dinh dƣỡng đòi hỏi những chi phí nhất định. Nhƣ vậy, vấn đề kinh tế
cũng ảnh hƣởng đến các vấn đề khác trong cuộc sống của NCT: tâm lý, sức
khỏe…. Thông qua sự hỗ trợ của nhân viên CTXH với các hình thức nhƣ:
giúp NCT hƣởng các chính sách hỗ trợ của nhà nƣớc (nếu có); cung cấp các
kiến thức về kinh tế hộ gia đình: tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm, tham quan,
học tập mô hình…; kết nối NCT còn sức khỏe và có nhu cầu làm việc với các
công việc phù hợp tại địa phƣơng để tăng thêm thu nhập, giúp NCT và gia
đình tiếp cận các nguồn tín dụng ƣu đãi để phát triển kinh tế góp phần giúp
cho các hộ gia đình NCT nhất là các hộ gia đình NCT khó khăn có thể phát
triển kinh tế, tăng thêm thu nhập đảm bảo đƣợc cuộc sống tối thiểu của họ.
88
Tuy nhiên, theo nhƣ kết quả khảo sát chỉ có 7,4% nhận đƣợc hỗ trợ của cán
bộ trong việc hoàn thiện hồ sơ, giấy tờ để đƣợc hƣởng các chế độ chính sách
do nhà nƣớc quy định. Nhƣ vậy, chỉ có một tỷ lệ nhỏ NCT nhận đƣợc sự hỗ
trợ này từ phía cán bộ xã hội địa phƣơng trong khi đó còn rất nhiều NCT khó
khăn về kinh tế chƣa đƣợc hỗ trợ.
2.2.5.5. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phương
Bảng 2.22. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng
Mức độ hỗ trợ
Rất thường xuyên Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ
Tần số %
16 10,7
121 80,6
1 0,7
12 8,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Khi hỏi về mức độ thƣờng xuyên quan tâm của chính quyền địa phƣơng
nói chung đối với NCT trên địa bàn thị trấn. Ở mức độ rất thƣờng xuyên có
0,7%, thƣờng xuyên 10,7%, thỉnh thoảng 80,6% và 8,0% NCT chƣa nhận
đƣợc sự hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng. Nhìn chung, vấn
đề chăm sóc sức khỏe và đời sống vật chất, tinh thần của NCT trên địa bàn
trong những năm qua đã nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm từ phía chính quyền
địa phƣơng và cán bộ xã hội. Tuy nhiên, cần phải quan tâm động viên thƣờng
xuyên hơn nữa, kịp thời hơn nữa đến cuộc sống NCT với những hƣớng ƣu
tiên cơ bản nhƣ: Tạo các cơ hội phù hợp để NCT tham gia vào các hoạt động
kinh tế - xã hội, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển chung của quốc gia; Tăng
cƣờng sức khỏe và cải thiện cuộc sống về vật chất và tinh thần của NCT; Đảm
bảo môi trƣờng thuận lợi và các dịch vụ thiết yếu hỗ trợ đời sống của NCT.
2.2.5.6. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền
địa phương
Với sự thay đổi về tâm sinh lý cũng nhƣ xã hội, NCT dễ gặp các vấn đề
khó khăn trong cuộc sống. Các vấn đề này làm cho việc thực hiện các chức
năng xã hội của họ bị cản trở và làm cho họ trở thành nhóm đối tƣợng yếu thế
cần đƣợc giúp đỡ chuyên nghiệp của nhân viên CTXH và các tổ chức, đoàn
89
thể. Tuy nhiên, đánh giá vai trò của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng
nhƣ thế nào lại phụ thuộc vào nhận thức và quan điểm của bản thân mỗi NCT.
Thăm dò ý kiến NCT về sự hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phƣơng,
chỉ có 3,3% cho rằng rất quan trọng, 10,7% cho rằng là quan trọng, 68,0%
cho rằng bình thƣờng và 18,0% cho rằng không quan trọng (Bảng 2.23). Nhƣ
vậy, một số NCT trên địa bàn thị trấn cũng chƣa nhận thức đúng đắn vai trò
của chính quyền địa phƣơng và cán bộ xã hội trong việc hỗ trợ cho nhóm
ngƣời yếu thế nói chung và NCT nói riêng. Vì vậy, nhân viên CTXH tại địa
phƣơng trong quá trình trợ giúp NCT không chỉ nâng cao nhận thức cho NCT,
mà cả gia đình NCT và cộng đồng. Việc chăm sóc, phụng dƣỡng NCT không
chỉ đƣợc hiểu đơn thuần là trách nhiệm của gia đình trong chăm lo về sức
khỏe, thể chất (ăn uống, nghỉ ngơi, chữa bệnh...) cho NCT mà nó còn bao
hàm cả sự chăm sóc về nhu cầu tinh thần, duy trì, củng cố các mối quan hệ
tâm lý, tình cảm, giao tiếp trong gia đình và xã hội đối với NCT. Để đáp ứng
đƣợc nhu cầu đó, các thành viên cần ý thức tạo ra môi trƣờng sống tốt đẹp
ngay trong cả gia đình, đồng thời kết hợp với sự quan tâm của các tổ chức
đoàn thể xã hội, tạo điều kiện cho NCT tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc và
có cơ hội phát huy vai trò của mình trong các hoạt động có ích trong xã hội.
Có nhƣ vậy, NCT mới sống vui, sống khỏe đúng với những tiêu chí về phát
triển con ngƣời, tránh đƣợc tâm thế mặc cảm là nhóm ngƣời sống thừa, sống
bám vào các thế hệ con cháu.
Bảng 2.23. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính
quyền địa phƣơng
Tổng
Rất quan trọng Quan trọng
Không quan trọng
Vai trò hỗ trợ của CBXH/CQĐP Tần số %
5 3,3
16 10,7
Bình thường 102 68,0
150 100,0
27 18,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
90
2.2.6. Phát huy vị trí, vai trò của NCT
2.2.6.1. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình
Bảng 2.24. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình
Quyết định
Giáo dục/chăm sóc con cháu
Nội trợ và các công việc khác
Vị trí, vai trò của NCT Tần số
Tạo thu nhập 49
Cấp vốn 37
86
Chia sẻ kinh nghiệm 112
148
57
%
32,7
38,0
24,7
57,4
98,7
74,7 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014) NCT có vị trí rất quan trọng trong gia đình Việt Nam, NCT luôn đƣợc coi
là trụ cột tinh thần, đạo dức của gia đình, dòng họ. Ngoài việc giáo dục con cháu,
dòng họ văn hóa, ứng xử, NCT còn hỗ trợ con cháu về vật chất, về công việc dạy
dỗ con cháu… NCT coi đó là niệm vui, trách nhiệm và qua đó cảm nhận mình là
ngƣời có ích cho con cháu. Theo kết quả điều tra trên địa bàn Thị trấn có 98,7%
NCT cho rằng NCT có vai trò quan trọng trong việc giáo dục chăm sóc con
cháu. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, NCT có vị trí, vai trò quan trọng trong quá
trình kiến tạo gia đình. Gia đình, dòng họ có con cháu trƣởng thành, phát đạt đều
do sự rèn giũa, giáo dục của ông bà, cha mẹ và kế thừa, phát huy truyền thống tốt
đẹp của gia đình, dòng họ. Do vậy, lớp NCT có công đầu trong nuôi dƣỡng, giáo
dục con cháu trong gia đình, dòng họ từ biết yêu thƣơng, kính trọng ông bà, cha
mẹ, anh chị em trong gia đình, dòng họ đến yêu quê hƣơng, đất nƣớc, yêu
thƣơng con ngƣời, yêu thiên nhiên [75]. Đặc biệt, trong xây dựng gia đình thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, NCT có vị trí, vai trò hết
sức quan trọng. Quá trình đó tạo nhiều cơ hội và điều kiện đồng thời cũng đặt gia
đình và công tác gia đình trƣớc nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế
thị trƣờng và lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền
thống và lối sống lành mạnh. Sự phân hóa giàu nghèo sẽ tác động vào số đông
các gia đình. Nhiều gia đình nếu không đƣợc hỗ trợ, không đƣợc chuẩn bị đầy đủ
năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế, xã hội sẽ không
làm tròn chức năng vốn có của gia đình.
Cũng từ gia đình, NCT đã dày công truyền thụ kỹ năng, kinh nghiệm,
91
kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ và các ngành nghề
truyền thống cho con cháu, cho thế hệ trẻ; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ; tích cực tham gia các
phong trào khuyến học khuyến tài, hỗ trợ giáo dục, đào tạo, bồi dƣỡng ngƣời
có đức, có tài (chiếm 74,7%). Trong phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm
nghèo làm giầu hợp pháp, NCT càng có vị trí, vai trò quan trọng. Với kinh
nghiệm của mình NCT Thị trấn Neo đã và đang phát huy, khai thác tiềm năng
kinh tế đa dạng trong sản xuất kinh doanh, phấn đấu vƣơn lên làm giầu chính
đáng, nhiều NCT còn sức khỏe trực tiếp sản xuất kinh doanh, NCT sức yếu
thì chỉ đạo truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu phát triển kinh tế nâng cao
mức thu nhập gia đình, làm giàu góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế của
gia đình và xã hội (chiếm 32,7%). Đây là một nhân tố quyết định đạt đƣợc
mục tiêu gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Theo nhƣ Theo Báo
cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm
2014, toàn Thị trấn có 185 hộ gia đình NCT trực tiếp làm kinh tế, có thu nhập
từ 50 đến 200 triệu đồng.
Sự trợ giúp về tài sản và tinh thần của cha mẹ đối với con cái là rất quan
trọng. NCT rất coi trọng trách nhiệm về tƣơng lai của con cái. NCT Thị trấn
không những tiếp tục tham gia sản xuất – kinh doanh tạo thu nhập mà họ còn
cấp vốn cho con cái họ làm kinh tế (chiếm 24,7%). Những NCT cho biết họ
đều có những hình thức khác nhau trong việc trợ giúp vật chất cho con cháu.
NCT có hình thức trợ giúp thấp nhất là khen thƣởng cho cháu học giỏi, hàng
năm cho cháu tiền mua sách vở đóng tiền học… cho đến những trợ giúp bằng
tài sản lớn hơn nhƣ mua xe máy, mua đất, đầu tƣ cho các con kinh doanh.
Việc trợ giúp con cái không phải thƣờng xuyên và chỉ khi có việc cần thiết.
Sự trợ giúp vật chất của NCT đối với con cháu cũng đƣợc con cái thừa nhận
nhƣ một nguồn lực quan trọng đặc biệt đối với gia đình trẻ. “Ông có lương
hưu, trợ cấp hàng tháng, ông dùng để giúp đỡ con cái. Ví dụ như cho cháu
đóng học phí hoặc mua sách vở, chi phí cho ăn uống hàng ngày… Khi con cái
nó làm việc gì lớn như mua xe, làm nhà, mua đất … tiền ông tiết kiệm được
92
ông lại cho. Như thằng cả vừa rồi xây nhà ông dành được mấy chục triệu,
ông cho vợ chồng nó”. (PVS, NCT, nam giới, 70 tuổi). Nhƣ vậy, thu nhập của
NCT đã trở thành nguồn lực quan trọng cho hoạt động kinh tế của các thành
viên khác trong hộ gia đình, nhất là khi nó diễn ra trong bối cảnh kinh tế thị
trƣờng nhƣ hiện nay. Mặt khác trong sự vận hành của đời sống kinh tế hộ gia
đình ở nông thôn không thể thiếu vai trò của NCT bởi kinh tế hộ gia đình với
mô hình sản xuất nông nghiệp chủ đạo thì cách thức phát triển không thể
thành công nếu không có sự trợ giúp về vốn. Việc hỗ trợ con cháu bằng cách
tạo thu nhập đã chứng tỏ vị thế NCT trong việc thể hiện năng lực kinh tế, mặt
khác thể hiện trách nhiệm của cha mẹ trong việc giúp đỡ con cái. Điều này
giúp cho NCT duy trì đƣợc vị thế, uy tín và mối quan hệ với con cháu. Nhờ
đó, NCT sẽ không còn mặc cảm phụ thuộc và thắt chặt thêm mối dậy liên hệ
về tình cảm giữa các thế hệ, nâng cao vị thế và uy tín của NCT.
Trong cuộc sống gia đình, truyền thống trọng lão luôn đƣợc duy trì, NCT
luôn có vị trí cao nhất trong gia đình. Họ luôn đƣợc kính trọng, tiếng nói của
họ luôn có ảnh hƣởng quyết định đến các hoạt động của gia đình. Kết quả
điều tra cho thấy, 57,4% cụ cho rằng ý kiến của mình có ý nghĩa quyết định
trong gia đình, các cụ luôn là ngƣời ra quyết định mọi vấn đề quan trọng trong
gia đình. Vai trò chủ gia đình của NCT không hoàn toàn giống nhau ở các gia
đình. Qua quan sát và những thông tin phỏng vấn sâu cho thấy, trong số
những gia đình những ngƣời nam giới cao tuổi hiện vẫn giữ vai trò chủ gia
đình một cách tuyệt đối, nghĩa là mọi việc đều do bản thân họ quyết định.
“Những công việc lớn trong gia đình, tôi vẫn quyết định hết. Ví dụ như xây
dựng cái gì đấy, làm thêm cái gì đấy, mua bán cái gì có giá trị lớn, chia tài
sản… thì tôi quyết định. Như cưới con trai, con gái tôi quyết định hoàn toàn,
khách của con bao nhiêu người, bao nhiêu mâm, cho bố biết để bố dự kiến”
(PVS, NCT, nam giới, 73 tuổi). Nhƣng cũng có một số trƣờng hợp NCT vẫn
đóng vai trò chủ hộ, nhƣng đã diễn ra sự trao đổi với con cái trong công việc
để đi đến các quyết định cuối cùng. Một số ít khác đã ít nhiều trao quyền hoàn
toàn cho con cái nhƣng có đƣa ra những góp ý. Đối với ngƣời dân ở Thị trấn,
93
thì việc hỏi ý kiến NCT là một truyền thống của ngƣời Việt Nam. Theo lời kể
của một cụ ông 71 tuổi: “Sống trong gia đình 3 thế hệ, cho dù ông không phải
là người đứng tên chủ gia đình trong hộ khẩu nhưng là người chủ gia đình
trên thực tế, là người quyết định “việc lớn, việc nhỏ” có bàn bạc với con cái.
Đặc biệt là đối với các “công việc chính” như cưới xin, xây dựng, đất đai…
thì con cái vẫn phải hỏi ý kiến bố mẹ”. Nhƣ vậy, có thể thấy tại Thị trấn mô
hình ngƣời đàn ông cao tuổi (là ngƣời chồng, ngƣời cha) nắm vai trò chủ gia
đình là khá phổ biến. Đây đƣợc coi là sự tiếp tục truyền thống, tập tục của địa
phƣơng, là sự tiếp nối của mô hình ngƣời chủ gia đình trong truyền thống của
ngƣời Việt Nam. Nó cũng phản ánh vai trò thực tế của ngƣời đàn ông vốn tồn
tại từ trƣớc đến nay. Xu hƣớng chuyển gia vai trò chủ hộ và quyền quyết định
công việc quan trọng từ ngƣời đàn ông cao tuổi (ngƣời bố) sang cho con trai
đang diễn ra trong từng gia đình, tùy từng công việc, thƣờng là những việc
nhỏ cho đến những việc lớn. Đây là quá trình xã hội hóa vai trò, cho thấy một
sự thay thế và chuyển giao về mặt địa vị và vai trò từ NCT sang những ngƣời
trẻ tuổi nhằm đảm bảo một sự ổn định và phát triển liên tục trong gia đình và
xã hội.
Cùng với việc NCT chuyển từ giai đoạn “chƣa thật già” đến giai đoạn
“thật già”, họ vẫn giúp đƣợc một lƣợng công việc nhà rất đáng kể để con cháu
tập trung vào công tác, học tập (chiếm tỷ lệ 38,0%). Trong hoàn cảnh mà thế
hệ trẻ thƣờng đi tìm việc làm xa nhà theo mùa vụ, vai trò của NCT trong việc
duy trì sự ổn định của gia đình càng trở nên quan trọng, đặc biệt là đối với trẻ
nhỏ. Ngƣời cao tuổi thực ra vẫn còn là chỗ dựa cho gia đình về tinh thần và
làm những công việc lặt vặt không tên hàng ngày. Thực tế nhiều gia đình, khi
con cháu đều bận làm việc, học hành, cha mẹ già thƣờng trông nhà, giữ cháu,
làm việc nội trợ và các công việc khác.
Như vậy, qua nhiều thế hệ, sự phát triển của gia đình và toàn bộ xã hội
không thể thiếu đƣợc những đóng góp lớn lao của các bậc sinh thành, đó
chính là NCT. Họ giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng gia đình thông
94
qua các hoạt động giáo dục, rèn luyện chuyên môn, kỹ năng cũng nhƣ truyền
thụ các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, cộng đồng, quê
hƣơng nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2.6.2. Phát huy vị trí, vai trò của NCT trong các hoạt động xã hội tại địa phương
Bác Hồ chỉ rõ: “Trách nhiệm của các cụ phụ lão chúng ta đối với
nhiệm vụ đất nước thật là trọng đại. Đất nước hưng thịnh do phụ lão gây
dựng. Đất nước tồn tại do phụ lão giúp sức. Nước mất phụ lão cứu, nước suy
sụp phụ lão phù trì". Trong năm qua, Hội NCT Thị trấn Neo đã phát huy vai
trò, vị trí trong tập hợp hội viên, đẩy mạnh phong trào thi đua, chăm sóc và
phát huy vai trò NCT, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở trong
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh; xứng đáng là “Cây cao - bóng cả” đƣợc cấp ủy, chính
quyền ghi nhận và đánh giá cao.
Bảng 2.25. Hoạt động xã hội của NCT
Tham gia hoạt động xã hội tại địa phƣơng
Không tham gia
Xây dựng GĐ văn hóa và Khu dân cư văn minh 122 81,4
Tham gia khuyến học, khuyến tài 88 58,7
Tham gia tổ hòa giải/an ninh 19 12,6
Tham gia công tác lãnh đạo 8 5,4
Số lƣợng Tỷ lệ (%)
0 0,0
Tham gia hoạt động của Hội NCT và các tổ chức đoàn thể 119 79,4 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Theo kết quả điều tra cho thấy số hội viên tham gia vào công tác Đảng,
công tác chính quyền, các ngành đoàn thể từ Thị trấn đến các tiểu khu có số
lƣợng đông. Nhiều hội viên còn đảm nhiệm vai trò trọng trách chủ chốt trong
công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể đều hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao,
cụ thể trong tham gia công tác lãnh đạo chiếm 5,4%; tham gia tổ hòa giải, tổ
an ninh chiếm 12,6% và 79,4% tham gia hoạt động của Hội NCT, các tổ chức
đoàn thể. Bên cạnh đó các hội viên luôn nêu cao gƣơng sáng trong việc thực
hiện chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc,
hƣởng ứng tích cực các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
95
văn hóa ở khu dân cư”, “Tuổi cao gương sáng” và phong trào thi đua “Ông
bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”, kết quả điều tra cho thấy có 81,4% hội
viên tham gia phong trào vận động xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cƣ
văn minh, không những các hội viên tích cực tham gia mà còn vận động gia
đình con cháu và các gia đình trong khu dân cƣ cùng thực hiện tốt trong cuộc
vận động thể hiện trong việc chúc mừng thọ, trong việc cƣới, việc tang trang
trọng, lịch sự và tiết kiệm... Tham gia công tác khuyến học, khuyến tài là một
trong những nội dung mà các hội viên NCT quan tâm (chiếm 58,7%). Theo
Theo Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ 6
tháng cuối năm 2014, Hội NCT vận động các dòng họ, dòng tộc gây quỹ
khuyến học đƣợc trên 1 tỷ đồng, số hộ có quỹ nhiều nhất là chi hội 4 trên 100
hộ, và chi hội 6 trên 20 hộ có quỹ từ 10 triệu đồng trở lên. Tiêu biểu họ
Nguyễn và ông Quỳ chi hội 3, ông Trụ bà Hiên ông Nghị chi hội 4, họ
Nguyễn Trần chi hội 6. Ngƣời cao tuổi là những ngƣời tâm huyết với khuyến
khích tinh thần hiếu học của con cháu trong gia đình và dòng họ, chính vì vậy
mà nhiều dòng họ tại địa phƣơng cũng có truyền thống lập quỹ họ để khen
thƣởng con cháu trong dòng họ thi đỗ đại học, đạt danh hiệu học sinh giỏi, đạt
giải trong các kỳ thi cấp trƣờng, huyện, tỉnh, quốc gia tại các trƣờng phổ
thông, giúp đỡ các gia đình có con em vƣợt khó học giỏi; đồng thời ôn lại
truyền thống hiếu học của dòng họ, nhắc nhỏ con cháu thế hệ nối tiếp rèn
luyện đức tài để hoàn thiện bản thân, những hoạt động có vai trò không nhỏ
của NCT. Đây là một trong những hình thức khuyến khích đức tính ham học
của thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh xã hội đổi mới hiện nay rất cần lớp
ngƣời trẻ có học vấn để xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc.
2.2.7. Mong muốn, nguyện vọng của NCT
Trong cuộc sống, con ngƣời ở nhóm nào cũng có những nhu cầu chung
và nhu cầu đặc thù để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống cá nhân, nhóm
hoặc cộng đồng phù hợp theo các đặc trƣng giới tính và độ tuổi của họ. Có rất
96
nhiều loại nhu cầu khác nhau của con ngƣời nhƣng nhìn chung, đối với NCT
nhu cầu đƣợc chăm sóc sức khỏe, nhu cầu về vật chất và tinh thần là ba loại
nhu cầu rất quan trọng.
Bảng 2.26. Mong muốn/nguyện vọng của NCT
Tổng
STT
Mong muốn của NCT
Tần số
%
1 Đƣợc chăm sóc sức khỏe
125
83,4
119 62 48 46 45 41 24 21 19 18 16 7 0
79,3 2 Đƣợc khám chữa bệnh định kỳ 41,3 3 Đƣợc tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội 32,0 4 Đƣợc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất – tinh thần 30,7 5 Hỗ trợ kinh tế, tạo việc làm 30,0 6 Giao tiếp 27,4 7 Tham gia sinh hoạt câc câu lạc bộ 16,0 8 Bổ sung chế độ chính sách 14,0 9 Tham gia công tác phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng 12,7 10 Đƣợc tôn trọng 12,0 11 Tâm linh 10,6 12 Tham quan, du lịch 4,6 13 Đƣợc sống trong các trung tâm dƣỡng lão 14 Khác 0,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng NCT, TT. Neo – Yên Dũng – Bắc Giang, 8 – 2014)
Qua những nhu cầu đƣợc lựa chọn nhiều nhất có thể thấy vấn đề nổi bật
là chăm sóc sức khỏe (chiếm 83,4%) và khám sức khỏe định kỳ (chiếm
79,3%). NCT là nhóm đặc thù và việc họ phải đổi mặt với tình trạng sức khỏe
không ổn định là vấn đề mang tính thời sự hàng ngày. Trong việc tự chăm sóc
sức khỏe của NCT, khám sức khỏe định kỳ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng,
khám sức khỏe định kỳ giúp chuẩn đoán sớm bệnh tật, nhất là các bệnh mà
NCT có nguy cơ mắc phải nhƣ: tiểu đƣờng, xơ gan, ung thƣ, cao huyết áp,
suy thận, các bệnh về tim mạch, rối loạn nội tiết, rối loạn thần kinh… để có
chiến lƣợc kịp thời. Hoạt động chăm sóc sức khỏe và rèn luyện sức khỏe ở
NCT là hết sức cần thiết, nhằm làm cho sức khỏe dẻo dai, mặt khác hạn chế
bệnh tật. Một trong những biện pháp tốt nhất để giữ gìn sức khỏe, tăng cƣờng
sức đề kháng, có tác dụng phòng và chữa bệnh tốt nhất là tập thể dục. Tập thể
97
dục đúng cách điều độ, khoa học có tác dụng duy trì và củng cố sức khỏe,
giúp NCT sống khỏe và kéo dài tuổi thọ hơn nhƣng với NCT nhiều khi sức
khỏe và điều kiện không cho phép họ tập thể dục. Hình thức tập thể dục rất đa
dạng: Thể dục buổi sáng, dƣỡng sinh, đi bộ,... NCT cần lựa chọn bài tập hợp
dựa trên điều kiện thời gian, dụng cụ, sân tập, trang phục... Chính vì vậy,
chính quyền địa phƣơng, gia đình và xã hội cần quan tâm nỗ lực triển khai
nhiều giải pháp để tăng cƣờng, cải thiện chất lƣợng chăm sóc sức khỏe và y tế
đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT.
Tiếp theo là nhu cầu đƣợc tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội của
NCT (chiếm 41,3%). Việc tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội có tác dụng
tích cực đối với NCT. Một mặt nó đem lại tinh thần thoải mái, sống vui, sống
khỏe, mặt khác phát huy tài năng trí tuệ của NCT phục vụ cho xã hội. Tham
gia các hoạt động văn hóa – xã hội sẽ tạo điều kiện cho các cụ đƣợc thăm hỏi
động viên lúc ốm đau, thoải mái hơn về tinh thần, nâng cao hiểu biết xã hội,
có điều kiện trao đổi kinh nghiệm làm ăn, có điều kiện chăm sóc, giáo dục
con cái tốt hơn. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức trong công việc tổ chức sinh
hoạt văn hóa – xã hội cho NCT tại địa phƣơng, xây dựng các loại hình văn
hóa đa dạng phong phú, quan tâm nhiều hơn đến nhóm NCT nghèo, tàn tật, cô
đơn, không nơi nƣơng tựa.
Trong những nhu cầu của NCT, hai nhu cầu đáng quan tâm là nhu cầu
nhu cầu đƣợc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất – tinh thần (chiếm 32,0%)
và nhu cầu hỗ trợ kinh tế, tạo việc làm (chiếm 30,7%). Điều này phản ánh
thực tế còn quá nhiều NCT hiện nay đang sống trong các hoàn cảnh khó khăn,
cần sự trợ giúp ngay cả khi họ bƣớc vào những giai đoạn cuối của cuộc đời.
Ngoài những nhu cầu đƣợc nhiều NCT lựa chọn, cũng có những nhu
cầu không nhận đƣợc sự quan tâm của NCT. Tỷ lệ thấp nhất, đó là nhu cầu
đƣợc sống trong các trung tâm nuôi dƣỡng là 4,6%. Nhu cầu đƣợc tham quan,
du lịch là10,6%, nhu cầu tâm linh là 12,0%, nhu cầu đƣợc tôn trọng là 12,7%,
nhu cầu tham gia công tác phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng là 14,0%,
98
nhu cầu đƣợc bổ sung chế độ chính sách là 16,0%.
Qua bảng số liệu điều tra, nhu cầu đƣợc sống sống trong các trung tâm
nuôi dƣỡng ít nhận đƣợc sự quan tâm của NCT. Trên thực tế, chỉ những
trƣờng hợp đặc biệt, còn tâm lý NCT, ai cũng muốn đƣợc bên cạnh con cháu,
đƣợc con cháu chăm sóc nhƣ mô hình gia đình Việt Nam truyền thống. Trong
trƣờng hợp con cháu quá bận rộn công việc thì một số NCT cũng chỉ cho rằng
chỉ nên vào nhà dƣỡng lão một thời gian chứ không phải sống hết cuộc đời tại
đó. Nhìn chung, dƣ luận của đa số NCT hiện nay chƣa đồng tình với việc con
cháu đƣa cha mẹ vào trung tâm dƣỡng lão sống. Cũng có trƣờng hợp các cụ
phản đối quyết liệt và cho rằng đó là một việc làm bất hiếu, vô trách nhiệm
đối với bố mẹ và không hiểu tâm lý NCT.
Ngày nay đời sống kinh tế và xã hội đã có những bƣớc tiến trên nhiều
lĩnh vực. Bên cạnh đời sống xã hội đang diễn ra thực tại ngƣời ta còn hƣớng
cả tới thế giới tâm linh. Kết quả khảo sát cho thấy có 12,0% NCT cho rằng họ
có nhu cầu tâm linh. Một nhu cầu cơ bản và quan trọng ở NCT là đƣợc tôn
trọng và đƣợc mọi ngƣời chấp nhận, quý mến. Do sự giảm sút năng lực và trí
tuệ có phần thiếu minh mẫn, một số NCT cảm thấy mất quyền tự chủ. Dù
không còn trực tiếp tham gia hoạt động đóng góp cho xã hội, nhƣng họ vẫn
cần đƣợc sự công nhận những giá trị, những thành quả mà họ đã đạt đƣợc. Họ
vẫn cần đƣợc khẳng định, rằng họ không phải là ngƣời thừa, ngƣời vô ích mà
ngƣợc lại họ vẫn là ngƣời có ích, là ngƣời quan trọng trong xã hội và trong
gia đình. Vì vậy, các thành viên trong gia đình cũng cần khuyến khích, động
viên ông bà cha mẹ mình tham gia các hoạt động mang tính xã hội, đồng thời
cũng thƣờng xuyên ghi nhận công lao của họ thông qua những hoạt động
trong gia đình và ngoài xã hội. Một số nhu cầu khác cũng cần đƣợc chú ý là
nhu cầu tham quan du lịch, nhu cầu tham gia công tác phát triển kinh tế - xã
hội địa phƣơng, nhu cầu đƣợc bổ sung chế độ chính sách.
Qua việc phân tích một số nhu cầu chung của NCT có thể thấy chăm
99
sóc NCT cần có các hoạt động hƣớng vào đời sống tình cảm, tâm lý của NCT,
chú ý cả những sinh hoạt tâm linh, phù hợp với văn hóa, tín ngƣỡng của
ngƣời Việt Nam. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần cải thiện các hình thức sinh
hoạt giao lƣu thông qua hoạt động của các đoàn thể và câu lạc bộ, tạo điều
kiện và môi trƣờng thuận lợi cho NCT đƣợc giao lƣu, kết bạn và gần gũi với
nhau. Thiết nghĩ, đây là việc làm mang ý nghĩa lớn về mặt tinh thần cho NCT.
Tạo môi trƣờng “Sống vui, sống khỏe và sống có ích” là trách nhiệm không
chỉ các cấp, đoàn thể mà của cả bản thân các gia đình có NCT.
Tiểu kết chƣơng 2
Nhìn chung, kết quả điều tra của luận văn đã chỉ ra đƣợc thực trạng
chăm sóc và phát huy vai trò của NCT trên địa bàn thành thị trấn. Bản thân
một số NCT cũng chƣa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc giữ
gìn, khám sức khỏe định kỳ. Phía gia đình cũng chƣa nhận thức làm tốt nghĩa
vụ chăm sóc và nuôi dƣỡng NCT, một số ít các cụ vẫn có cảm giác thƣờng
xuyên lo lắng, cô đơn thậm chí bị bỏ rơi; việc quan tâm của của các thành
viên trong gia đình vẫn chƣa kịp thời, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về
phía chính quyền địa phƣơng, bên cạnh việc thực hiện chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc còn thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ bằng nhiều hình thức
khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế sự hỗ trợ của chính quyền và cán bộ xã hội,
chƣa đảm bảo đƣợc nhu cầu cơ bản của NCT, đôi khi mang tính hình thức,
phong trào.
Nói tóm lại, kết quả khảo sát của đề tài luận văn đã góp phần trả lời cho
hai câu hỏi: Thực trạng công tác chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT
tại Thị trấn Neo hiện nay đang diễn ra nhƣ thế nào? NCT tại Thị trấn Neo có
những nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng nào và đã đƣợc đáp ứng chƣa?
Vai trò của nhân viên CTXH (cán bộ xã hội), hoạt động CTXH (các hội, đoàn
thể, tổ chức…) trong trợ giúp NCT tại địa thị trấn hiện nay nhƣ thế nào?
Những khó khăn, trở ngại và giải pháp để thực hiện tốt các vai trò trợ giúp?
100
Đồng thời khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết nghiên cứu đƣa ra rằng:
NCT trên địa bàn khảo sát vẫn gặp nhiều khó khăn về vật chất cũng nhƣ tinh
thần. NCT ở đây chƣa có điều kiện đƣợc tiếp cận với các dịch vụ từ cộng
đồng xã hội nhƣ: chăm sóc sức khỏe tâm thần; khám chữa bệnh; hoạt động
vui chơi giải trí; hỗ trợ hòa nhập cộng đồng; dịch vụ đào tạo nghề và giới
thiệu việc làm, dịch vị chăm sóc sức khỏe tại nhà… NCT đã và đang nhận
đƣợc sự quan tâm từ phía gia đình, cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên vẫn chƣa
đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản của NCT; Vai trò của nhân viên CTXH trong
việc hỗ trợ, chăm sóc NCT và phát huy vị trí, vai trò của NCT trên địa bàn thị
trấn còn khá mờ nhạt và thiếu kiến thức, kỹ năng, phƣơng pháp CTXH. Nhân
101
viên CTXH chƣa phát huy đƣợc vai trò của mình trong việc trợ giúp NCT.
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN
CTXH VÀ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP CTXH CÁ NHÂN TRONG
TRỢ GIÚP NCT TẠI CỘNG ĐỒNG
Công tác xã hội thƣờng hƣớng đến giúp đỡ và hỗ trợ cho các đối tƣợng
yếu thế trong xã hội để họ tự vƣơn lên, tự khẳng định mình và hòa nhập xã
hội. Công tác xã hội hƣớng đến sự bình đẳng với tất cả mọi ngƣời, mong
muốn một xã hội mà mọi cá nhân đƣợc hòa nhập.
Công tác xã hội với NCT là công việc cần thiết, vừa thể hiện truyền
thống “Trọng lão” của dân tộc vừa trợ giúp hiệu quả cho NCT để họ khắc
phục những khó khăn phát huy các tiềm năng của bản thân cũng nhƣ khai thác
các nguồn lực bên ngoài để phục hồi, hòa nhập và cống hiến cho xã hội.
Hiện nay, tại các cộng đồng NCT vẫn còn thiếu vai trò của nhân viên
CTXH chuyên nghiệp. Chính vì thế các cán bộ địa phƣơng đảm nhiệm luôn
vai trò của nhân viên CTXH, chính vì vậy mà chức năng thực hiện của họ vẫn
còn nhiều hạn chế.
Nhìn chung, những công việc mà cán bộ xã hội trên địa bàn Thị trấn
đảm nhiệm hiện nay không hoàn toàn đúng với nhiệm vụ chuyên môn của họ
theo lý thuyết và định hƣớng phát triển trong công tác xã hội
3.1 Vai trò của nhân viên CTXH
Với những thay đổi trong tâm sinh lý, trong lao động – thu nhập và cả
trong những mối quan hệ, NCT bị hạn chế và mất thăng bằng trong việc thực
hiện một số chức năng xã hội của mình. Ngƣời cao tuổi trở thành một đối
tƣợng yếu thế, dễ bị tổn thƣơng và cần sự hỗ trợ của công tác xã hội.
Với đặc thù là nghề trợ giúp xã hội, CTXH hƣớng trọng tâm nghề
nghiệp đến việc giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi, phát triển
các chức năng và đạt đƣợc những giá trị phù hợp trong xã hội. Các chức năng
của CTXH đƣợc thực hiện thông qua việc thực hiện các vai trò của nhân viên
102
CTXH trong tiến trình làm việc với các thân chủ.
Mỗi đối tƣợng khác nhau lại có những vấn đề cụ thể khác nhau. Vì thế
vai trò của nhân viên CTXH trong tiến trình trợ giúp mỗi đối tƣợng cụ thể
cũng có sự khác nhau. Trong công tác xã hội với NCT, nhân viên CTXH cần
thực hiện tốt các vai trò sau:
3.1.1. Người giáo dục
Ngƣời cao tuổi phải đối mặt với rất nhiều những thay đổi về tâm sinh lý
cũng nhƣ các chức năng xã hội. Do đó, để thích ứng với cuộc sống, NCT cần
phải có thêm nhiều kiến thức, kỹ năng về chế độ dinh dƣỡng, chăm sóc bản
thân, các kỹ năng xã hội… Nhân viên CTXH hỗ trợ NCT những kiến thức và
kỹ năng đó thông qua vai trò là ngƣời giáo dục. Hình thức giáo dục có thể qua
việc cung cấp tài liệu, các lớp tập huấn, hoặc đƣợc lồng ghép trong tiến trình
trợ giúp. Thông qua giáo dục, nhân viên xã hội sẽ giúp NCT có thêm những
kiến thức, kỹ năng để phòng ngừa, chữa trị, phục hồi hay cũng nhƣ phát triển
các chức năng xã hội phù hợp. Việc cung cấp cho NCT những kiến thức, kỹ
năng chăm sóc bản thân nhƣ chế độ dinh dƣỡng, các hoạt động thể chất, các
cách thức phòng bệnh, chữa bệnh… khoa học và phù hợp sẽ giúp NCT có
cuộc sống mạnh khỏe và an toàn hơn. Không chỉ quan tâm đến cá nhân NCT,
CTXH còn hƣớng đến giáo dục, tham vấn cho gia đình NCT. Nhân viên
CTXH cung cấp thông tin, hƣớng dẫn cụ thể, tham vấn cho gia đình NCT
những cách thức chăm sóc, ứng xử với NCT … Cung cấp những kiến thức,
hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý, xã hội, những nhu cầu… của NCT để gia
đình chăm sóc, hỗ trợ NCT tốt hơn [20, tr.74 – tr.75].
3.1.2. Người tạo khả năng
Trọng tâm nghề nghiệp của CTXH hƣớng đến việc trợ giúp các đối
tƣợng khai thác những tiềm năng của bản thân để tự lực vƣơn lên, giải quyết
các vấn đề cụ thể của bản thân. Nhân viên CTXH không làm hộ, làm thay
thân chủ mà chỉ giúp thân chủ nhận thức đƣợc những khả năng của mình, phát
103
huy những khả năng đó để giải quyết vấn đề của mình. Đối với NCT, nhân
viên CTXH cần giúp họ nhận thấy các khả năng của mình: Chuyên môn, kinh
nghiệm sống, sức khỏe, tay nghề… Cần động viên, cổ vũ để NCT tin tƣởng
vào bản thân mình, tin tƣởng rằng mình vẫn còn hữu ích với gia đình, xã hội
từ đó thúc đẩy NCT hoạt động để tiếp tục đóng góp cho gia đình, xã hội. Qua
những hoạt động đó, NCT không những giải quyết đƣợc các vấn đề của bản
thân mà còn có thể góp sức vào sự phát triển của gia đình, xã hội. Ngƣời cao
tuổi có quá trình lao động lâu dài vì thế kinh nghiệm thực tế của họ là rất
phong phú và rất có giá trị. Sau khi về hƣu, không đƣợc tiếp tục cống hiến, họ
trở nên chán nản và coi mình là ngƣời bỏ đi từ đó gây ra nhiều vấn đề nhất là
các vấn đề tâm lý cho bản thân. Đồng thời, việc không nhận thức và khai thác
những kiến thức và kinh nghiệm của NCT là sự lãng phí rất lớn của xã hội.
Do đó, nhân viên xã hội cần giúp NCT nhận thức đƣợc giá trị của mình để họ
tiếp tục lao động với cách thức phù hợp. Thông qua lao động, các vấn đề của
NCT: Tâm sinh lý, thu nhập, quan hệ… sẽ đƣợc giải quyết. Thêm vào đó, khi
huy động đƣợc NCT vào đội ngũ lao động, xã hội sẽ có thêm nguồn kinh
nghiệm và trí thức quý giá để phát triển nhanh hơn và bền vững hơn [20, tr.73
– tr.74].
3.1.3. Người điều phối - kết nối dịch vụ
Một trong những công việc quan trọng của nhân viên CTXH là vận
động chính sách, tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, triển khai các
chính sách… Đồng thời, hỗ trợ tìm kiếm và kết nối các chính sách, các dịch
vụ xã hội trong những điều kiện sống khác nhau cho NCT. Tuy nhiên, tại thị
trấn hiện nay thì những công việc này đƣợc cán bộ xã hội đảm nhiệm chƣa
thực sự hiệu quả.
Giúp NCT có đƣợc hoàn cảnh thuận lợi cho hoạt động của họ thông
qua những hỗ trợ khác nhau. Nhân viên CTXH cũng có vai trò cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ cho NCT nhƣ làm công tác hỗ trợ, tham vấn về mặt tâm lý, lo
104
lắng về cái chết cho những ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cô đơn…,
Nhân viên CTXH là cầu nối quan hệ giữa NCT và gia đình, khuyến khích sự
thăm hỏi của gia đình và đóng góp vào các hoạt động chung của cộng đồng.
Một vai trò quan trọng của nhân viên CTXH tại cộng đồng chính là việc tổ
chức các câu lạc bộ dành riêng cho NCT, để tại đây họ có thể cùng chung
sống, sinh hoạt, giải trí, mở rộng giao lƣu xã hội, có thể trò chuyện, choa sẻ
với ngƣời khác…Tuy nhiên do chƣa có nhân viên CTXH thực sự chuyên
nghiệp, hơn nữa cán bộ xã hội kiêm nghiệm nhiều việc nên khi thực hiện vai
trò này cũng còn nhiều hạn chế.
Ngoài ra nhân viên CTXH thông qua đánh giá, chẩn đoán các vấn đề và
nguồn lực của NCT để điều phối, cung cấp các dịch vụ phù hợp. Với những
NCT bị hạn chế khả năng phục vụ bản thân trong sinh hoạt hàng ngày, nhân
viên xã hội có thể giới thiệu và cung cấp cho NCT những dịch vụ hỗ trợ tại
nhà nhƣ ngƣời giúp việc, ngƣời chăm sóc y tế. Với những NCT neo đơn,
không nơi nƣơng tựa, nhân viên CTXH có thể giới thiệu, làm thủ tục để NCT
vào sinh sống trong các trung tâm bảo trợ phù hợp. Nhân viên CTXH cần giới
thiệu cho NCT các câu lạc bộ phù hợp để NCT sinh hoạt. Việc sinh hoạt ở các
câu lạc bộ NCT: Câu lạc bộ văn thơ, cựu chiến binh, dƣỡng sinh… sẽ giúp
NCT đáp ứng các nhu cầu về quan hệ xã hội cho NCT [20, tr.74].
3.1.4. Người biện hộ
Khi làm việc với NCT, nhân viên CTXH cần đánh giá, phân tích những
nhu cầu, mong muốn cũng nhƣ những nguồn lực của NCT. Nhân viên CTXH
phải bảo vệ những nhu cầu chính đáng của NCT. Do những thay đổi và sự
không ổn định về tâm sinh lý, một số NCT có thể có những hành động, hành
vi khác thƣờng. Nhân viên CTXH cần tìm hiểu nguyên nhân của các hành vi
đó và lý giải để mọi ngƣời xung quanh nhất là gia đình hiểu và thông cảm cho
họ. Trong xã hội Việt Nam, do đặc thù của văn hóa, nhu cầu tình dục của
NCT chƣa đƣợc chú ý đúng mức, thậm chí là một hành vi bị lên án. Những
105
NCT kết hôn luôn chịu sự bàn tán, đánh giá của gia đình, của những ngƣời
xung quanh. Đây là một nhạy cảm văn hóa mà nhân viên xã hội cần hết sức
chú ý. Cần làm cho bản thân NCT cũng nhƣ gia đình và những ngƣời xung
quanh hiểu và tôn trọng nhu cầu đó của NCT bởi tình dục cũng nhƣ ăn, uống,
… là những nhu cầu cơ bản nhất của con ngƣời. Ngƣời cao tuổi suy giảm nhu
cầu tình dục chứ không phải là hoàn toàn không có nhu cầu đó [20, tr.75].
Hiện nay, ở nƣớc ta ngày càng có nhiều chính sách dành cho NCT,
tuy nhiên không phải ai cũng biết các chính sách ấy ra sao, thực hiện nhƣ
thế nào, quyền lợi của NCT trong những chính sách ấy. Chính vì thế nhân
viên CTXH sẽ đóng vai trò là ngƣời tƣ vấn chính sách, kết nối NCT với
những chính sách ấy. Tại địa bàn thị trấn vai trò của nhân viên CTXH
thƣờng đƣợc cán bộ xã hội thực hiện. Tuy nhiên họ luôn có hạn chế nhất
định, xét về khía cạnh nào đó họ mới chỉ thực hiện đƣợc vai trò nghiên cứu
chính sách.
Bên cạnh việc tìm hiểu, đánh giá nhu cầu và kết nối các dịch vụ phù
hợp để hỗ trợ cho NCT, nhân viên CTXH còn là ngƣời – trong những trƣờng
hợp nhất định – sẽ mang tính đại diện, nói lên tiếng nói và biện hộ cho quyền
lợi của NCT, đặc biệt là vấn đề thực hiện chính sách cho họ có đƣợc đảm bảo
thực hiện tại địa phƣơng, cơ sở một cách nghiêm chỉnh và thích đáng hay
không và kiểm định xem khi thực hiện có thực sự phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của NCT ở mức nào? Trả lời cho các câu hỏi này chính là trả lời
cho vai trò của nhân viên CTXH với NCT trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của
NCT, việc này không chỉ là việc đòi hỏi một cánh chính đáng những ƣu sách
đƣợc thực hiện dành cho NCT mà nó còn là cả thái độ làm việc, cách cƣ xử
đầy quan tâm, tinh thần trách nhiệm và sự tôn trọng của họ với NCT.
Nhìn chung trên địa bàn thị trấn việc thực hiện vai trò biện hộ cho NCT
chƣa thực sự tốt. Họ chƣa thể là ngƣời đại diện cho NCT, biện hộ cho NCT về
106
những chính sách của mình. Tại địa bàn thị trấn, việc thực hiện chính sách
chủ yếu do cán bộ lao động xã hội, trực tiếp xử lý. Tuy nhiên, họ chỉ mang
tính chất thay thế NCT thực hiện việc hƣởng chính sách, chƣa thể là ngƣời đại
diện và biện hộ cho quyền lợi của NCT.
3.1.5. Người tạo môi trường thuận lợi
Mỗi cá nhân là một hệ thống chịu ảnh hƣởng và sự tác động từ những
hệ thống xung quanh. Công tác xã hội chú ý đến mối quan hệ giữa con ngƣời
với các hệ thống xung quanh. Tạo môi trƣờng thuận lợi trong CTXH đƣợc
thực hiện qua việc cải thiện và nâng cao chất lƣợng trong mối quan hệ giữa
con ngƣời và hệ thống xung quanh. Ngƣời cao tuổi cũng tƣơng tác và chịu
ảnh hƣởng mạnh mẽ từ gia đình, các tổ chức xã hội. Vì thế, trong tiến trình
CTXH với NCT cần chú ý đến các hệ thống xung quanh NCT: Gia đình, hội
hƣu trí, các câu lạc bộ CTXH… Nhân viên CTXH cần tác động và làm thay
đổi các hệ thống đó để tạo ra môi trƣờng thuận lợi nhất phục vụ NCT giải
quyết các vấn đề của bản thân cũng nhƣ những hoạt động phù hợp với nhu
cầu của bản thân và sự mong đợi của xã hội.
Gia đình là một thiết chế quan trọng đối với mọi cá nhân trong đó có
NCT. Ngày nay, do ảnh hƣởng của sự thay đổi điều kiện kinh tế – xã hội, gia
đình cũng có sự biến đổi về nhiều mặt nhƣ cấu trúc, quy mô, văn hóa… và sự
thay đổi đó có ảnh hƣởng sâu sắc đến NCT. Nhịp sống công nghiệp làm cho
con ngƣời ít quan tâm đến nhau, sự thiếu quan tâm của con cháu, sự mâu
thuẫn và xung đột về tƣ tƣởng giữa các thế hệ… làm cho NCT cảm thấy bị cô
lập, cảm giác không đƣợc quan tâm. Đó là nguyên nhân nảy sinh nhiều vấn đề
tiêu cực ở NCT. Chính vì thế, trong tiến trình CTXH với NCT, nhân viên
CTXH cần quan tâm đến việc huy động các nguồn lực hỗ trợ từ gia đình
thông qua cải thiện các mối quan hệ, thúc đẩy sự quan tâm của các cá nhân
trong gia đình NCT… để NCT có thêm các nguồn lực hỗ trợ, có thêm các
điều kiện thuận lợi để tự lực vƣơn lên, giải quyết triệt để các vấn đề của cá
107
nhân và đạt đƣợc những giá trị xã hội nhƣ mong đợi của họ [20, tr.75].
3.1.6. Người đánh giá và giám sát
Nhân viên xã hội là ngƣời trực tiếp đánh giá, chẩn đoán những vấn đề
của NCT trong cuộc sống hàng ngày. Những vấn đề của NCT rất đa dạng: Có
thể về sinh lý, tâm lý, lao động – thu nhập hay các vấn đề về quan hệ xã hội.
Bƣớc sang giai đoạn cuối của cuộc đời, do sự suy giảm hoạt động và sự già
hóa của các cơ quan, hệ thống sinh học mà ngƣời già phải đối mặt với nhiều
bệnh tật: Tai biến mạch máu não do huyết áp cao, bệnh về tim mạch, hô
hấp… tâm lý của NCT cũng có nhiều nét đặc biệt nhất là trong việc suy nghĩ
và đối phó với cái chết. Nhiều ngƣời luôn suy nghĩ về cái chết và muốn chuẩn
bị hậu sự cho mình, một số khác lại sợ hãi và tránh nói về cái chết. Cái chết
của những bạn bè, những ngƣời thân thiết của NCT gây ra rất nhiều vấn đề
tâm lý. Nếu ngƣời chết là bạn bè, sẽ hình thành nên sự trầm cảm, lo lắng mình
sẽ là ngƣời tiếp theo; nếu ngƣời chết là ngƣời bạn đời sẽ gây cho NCT cảm
giác chán nản thậm chí không muốn sống, muốn “chết theo” bạn đời của
mình… Do đó, nhân viên xã hội phải có vai trò chẩn đoán, đánh giá về các
vấn đề, về các yếu tố nguy cơ đòi hỏi sự can thiệp: Tự vẫn, cô lập bản thân,
thiếu môi trƣờng an toàn, thiếu sự trợ giúp…
Trong tiến trình trợ giúp NCT, nhân viên xã hội thực hiện việc đánh giá
và giám sát các hoạt động của NCT, kết quả của tiến trình. Sự đánh giá và
giám sát của nhân viên xã hội một cách thƣờng xuyên, liên tục sẽ góp phần
vào việc phát hiện sớm, nâng cao hiệu quả can thiệp… với NCT. Trong tiến
trình CTXH với NCT, tùy vào điều kiện thực tế cũng nhƣ những vấn đề cụ
thể ở NCT mà các vai trò của nhân viên CTXH thực hiện có sự khác biệt.
Nhân viên CTXH thông qua việc thực hiện các vai trò cụ thể của mình để
hƣớng đến mục tiêu phòng ngừa, chữa trị, phục hồi ... cho NCT [20, tr.76].
3.2. Vận dụng phƣơng pháp công tác xã hội cá nhân trong trợ giúp NCT
tại cộng đồng.
(Điển cứu một trường hợp NCT có hòa cảnh đặc biệt khó khăn tại Tiểu
108
khu 4 – Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang)
3.2.1. Hồ sơ thân chủ
3.2.1.1. Thông tin cá nhân
Họ và tên: Nguyễn Văn Hùng
Giới tính: Nam
Ngày tháng năm sinh: 1950
Nơi sinh: Xã Nham Sơn – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang
Nơi ở hiện tại: Tiểu khu 4 – Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc
Giang
Trình độ học vấn: Tốt nghiệp cấp 2
Nghề nghiệp: Nông nghiệp
Tình trạng sức khỏe thể chất: Bị bệnh gan
Tình trạng sức khỏe tâm thần: Ám ảnh về hình ảnh dì ghẻ
Các vấn đề khác: Thƣờng xuyên say rƣợu, bác hát và mắng chửi mọi
ngƣời xung quanh.
3.2.1.2. Thông tin về gia đình, người thân
- Vợ là Trần Thị Mai, 60 tuổi; nghề nghiệp: nông nghiệp; trình độ học
vấn: tốt nghiệp cấp 1.
- Bác Hùng hiện nay không còn ai thân thích. Bố mẹ đều đã mất từ khi
bác còn nhỏ.
- Hai vợ chồng bác có một ngƣời con trai, nhƣng anh đã mất do một tai
109
nạn giao thông khi anh 22 tuổi.
Sơ đồ phả hệ:
Bố
Dì ghẻ
Mẹ
Em gái
Chồng
Thân chủ
Con trai
Chú thích: Em gái, dì ghẻ: Không có thông tin
Bố, mẹ, con trai: Đã mất
3.2.1.3. Môi trường sống hiện tại:
- Bác Hùng sống cùng vợ trong 1 căn nhà cấp 4.
- Do mâu thuẫn với hàng xóm nên bác thƣờng tránh tiếp xúc, không
thƣờng xuyên tham gia các hoạt động của Chi Hội NCT, của thôn xóm.
Mô hình sinh thái:
Họ hàng
Hàng Xóm
Vợ
Thân chủ
Chính quyền
Hội NCT
110
Chú thích:
Không liên hệ:
Ít liên hệ:
Gắn kết:
3.2.1.4. Khái quát chung về thân chủ.
Bác Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1950, là chồng bác Trần Thị Mai.
Hai vợ chồng không có ngƣời thân, nƣơng tựa vào nhau sống. Bác Hùng bị
nguyên là trƣởng thôn, sau vì mâu thuẫn về quyền lợi trong việc chia đền bù đất, hỗ
trợ ngƣời dân có đất bị thu hồi xây dựng đô thị - công nghiệp, dịch vụ thƣơng mại
nên bác xin nghỉ. Bác Mai vợ bác hàng ngày đi chợ. Thu nhập bình quân hàng
bệnh gan cách đây 6 năm, hiện tại sức khỏe bác cũng không tốt. Bác Hùng
tháng của gia đình khoảng từ 1,5tr – 2tr. Thu nhập thấp, cộng thêm tiền thuốc
cho bác Hùng nên cuộc sống của của hai vợ chồng bác rất khó khăn. Bác rất
tốt tính, thƣơng vợ, thƣơng con nhƣng từ khi ngƣời con trai mất, bác luôn lo
lắng, suy nghĩ, chán nản, ƣu phiền, hay tự dằn vặt mình nên thƣờng xuyên
uống rƣợu, đi lang thang mắng, chửi khắp nơi nên mọi ngƣời trong xóm đều
rất khó chịu thêm vào đó sau khi bị mắc bệnh gan bác luôn cảm thấy bất mãn
mọi ngƣời trong thôn nên thƣờng xuyên uống rƣợu rồi hát, chửi mọi ngƣời xung
với cuộc sống, buồn phiền nhiều hơn. Bác rất tốt tính nhƣng do mâu thuẫn với
quanh. Hiện tại ở thôn gia đình bác bị mọi ngƣời cô lập. Hai bác tránh tiếp
111
xúc và hầu nhƣ không tham gia các hoạt động của thôn, của hội.
3.2.2. Kế hoạch tác nghiệp
Thời gian
Nội dung cụ thể
Ghi chú
Mục tiêu công việc đạt đƣợc
Đối tƣợng tác nghiệp
Địa điểm thực hiện
Thân chủ
Nhà thân chủ
Nói chuyện cùng thân chủ để hiểu rõ hơn hoàn cảnh của thân chủ
Từ ngày 1/9 – 8/9/2014
Tiếp xúc với vợ thân chủ
Mục tiêu là tạo niềm tin ở thân chủ vào nhân viên xã hội; hiểu đƣợc một cách đầy đủ hoàn cảnh của thân chủ Nhận diện đầy đủ hoàn cảnh của thân chủ
Vợ thân chủ
Nhà thân chủ
Từ ngày 9/9 – 12/9/2014
Tiếp xúc với cả hai vợ chồng thân chủ
Nhà thân chủ
Tổng hợp đƣợc đầy đủ, chính xác các thông tin và vấn đề của thân chủ
Có sự nhất trí của thân chủ
Từ ngày 13/9 - 16/9/2014
Vợ chồng thân chủ
Thân chủ
Nhà thân chủ
Từ ngày 17/9 – 24/10/2014
chủ thân Cùng phân tích đầy đủ, chính xác hoàn cảnh, những vấn đề của thân chủ và các giải pháp Tiến hành trị liệu cho thân chủ
Nhà thân chủ
Từ ngày 24/10 – 24/12/2014
Thân chủ và vợ
Vợ thân chủ là tác nhân quan trọng trong tiến trình giúp đỡ thân chủ giải quyết các vấn đề
Giúp thân chủ hiểu rõ hoàn cảnh của mình. Thân chủ tự lựa chọn các giải pháp dƣới sự hỗ trợ của nhân viên xã hội thân chủ giải Giúp quyết các vấn đề gặp phải: nghiện rƣợu, mâu thuẫn với hàng xóm; trang bị cho thân chủ thêm những kỹ năng, hiểu biết về cách chăm sóc sức khỏe, đề phòng các bệnh truyền nhiễm…
Lƣợng giá
Nhà thân chủ
Từ ngày 25/12/2014 – 2/1/2015
Thân chủ và vợ
Đánh giá hiệu quả của quá trình trị liệu; đạt đƣợc những gì và chƣa đạt những gì…
112
3.2.3. Tiến trình trợ giúp
3.2.3.1. Bước 1: Tiếp cận thân chủ
Trong qua quá trình nghiên cứu đề tài với những trăn trở của bản thân,
tôi quyết định chọn bác Hùng làm thân chủ, mong áp dụng một phần những
kiến thức đã học đƣợc để giúp đỡ thân chủ giải quyết một số vấn đề và có thể
có một cuộc sống tốt hơn. Chính vì thế, tôi đã chủ động gặp gỡ bác Hùng,
trình bày những suy nghĩ của mình. Cảm nhận đƣợc sự chân thành nên bác
Hùng rất vui vẻ, nhận lời hợp tác cùng tôi. Tuy nhiên do sự mâu thuẫn với các
hộ dân xung quanh của bác nên việc tới thăm gia đình bác của tôi luôn gặp
phải con mắt soi mói của các hộ dân khác trong xóm. Rất nhiều ngƣời khuyên
tôi không nên nghe những gì bác Hùng nói. Tuy nhiên, với suy nghĩ và lập
trƣờng riêng của mình, tôi vẫn giữ quyết định của mình. Chứng kiến cảnh
hàng xóm và những khó khăn của tôi, bác Hùng có lúc đã lảng tránh và nói
không muốn gây khó dễ cho công việc của tôi. Nhiều lúc thấy tôi tới, bác lại
lấy cớ đi làm. Sau nhiều lần thuyết phục, thậm chí nhờ vợ bác tác động, bác
đã tiếp tục công việc cùng tôi. Quan hệ của tôi và bác Hùng ngày càng tốt lên.
3.2.3.2. Bước 2: Nhận diện vấn đề
Qua những lần tiếp xúc, tôi nhận thấy bác Hùng là một ngƣời tốt bụng,
giàu tình thƣơng. Cuộc sống đã cƣớp đi của bác gia đình từ khi còn rất nhỏ,
hơn nữa cũng đã cƣớp đi đứa con duy nhất của hai vợ chồng bác. Và những
lần say rƣợu của bác Hùng là do sự chán nản và mất phƣơng hƣớng về cuộc
sống. Còn việc mắng chửi mọi ngƣời thì do bị ức chế. Một vấn đề nữa là bác
đã bị ám ảnh bởi hình ảnh dì ghẻ. Sự căm thù dì ghẻ của bác thể hiện rõ nhất
trong những lúc bác say, trong những bài cải lƣơng bác hát.
Sau quá trình tiếp xúc và gặp gỡ, nhận thấy thân chủ có các vấn đề sau:
- Thƣờng xuyên uống rƣợu và có các hành vi không đúng mực
- Mâu thuẫn sâu sắc với mọi ngƣời trong thôn
113
- Chán nản và mất niềm tin ở cuộc sống
- Bị ám ảnh bởi hình ảnh dì ghẻ do bản thân bị dì ghẻ hành hạ cả về thể
chất lẫn tinh thần trong quá khứ.
Thân chủ chính trong quá trình can thiệp chính là bác Hùng; đồng thời
phải tranh thủ sự tác động của bác Mai – tác nhân quan trọng trong tiến trình
giúp đỡ bác Hùng giải quyết các vấn đề của mình. Cần tiếp cận và tác động
chính quyền, ở đây cụ thể là trƣởng thôn, phó trƣởng thôn, chi Hội NCT, để
giải quyết hiểu lầm, mâu thuẫn giữa vợ chồng bác Hùng và hàng xóm. Các
vấn đề này sẽ đƣợc giải quyết lần lƣợt trong tiến trình trợ giúp thân chủ.
Xác định các yếu tố liên quan:
Yếu tố bảo vệ:
- Sự quan tâm và yêu thƣơng hết mực của vợ.
- Sự quan tâm của các cá nhân, các tổ chức đặc biệt Hội NCT. Đây là
một kênh quan trọng để bác chia sẻ những tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của
mình.
Yếu tố nguy cơ:
- Sự thiếu quan tâm của chính quyền.
- Sự mâu thuẫn và không hòa hợp của thôn xóm và thân chủ.
- Con trai mất và không có họ hàng thân thích.
- Hoàn cảnh nghèo khổ lại chịu ánh nhìn soi mói của những ngƣời xung
quanh.
Rào cản:
- Tâm lý mặc cảm, tƣ ti, buông xuôi và mất niềm tin của thân chủ với
cuộc sống.
- Bị ám ảnh bởi hình ảnh dì ghẻ trong quá khứ vì thế luôn cảm thấy bất
an và bất ổn tâm lý.
- Cái nhìn không thiện cảm của cộng đồng làng xóm với gia đình và
114
thân chủ nói riêng.
Phản ứng phòng vệ:
- Tự ti, khép mình với mọi ngƣời và xã hội xung quanh
- Uống rƣợu, hát, chửi mọi ngƣời để che giấu tâm sự và giải tỏa uất ức.
3.2.3.3. Bước 3: Thu thập thông tin
Sau khi nhận diện bƣớc đầu các vấn đề thân chủ gặp phải, tôi đã chủ
động gặp gỡ các hộ dân khác để thu thập và kiểm chứng các nguồn thông tin.
Tôi cũng tranh thủ gặp gỡ riêng bác Mai để có những hiểu biết sâu sắc hơn về
bác Hùng. Đồng thời, tôi cũng gặp gỡ bác Quang Chi hội trƣởng Hội NCT;
bác Đức và chú Chờ, trƣởng thôn và phó trƣởng thôn tiểu khu 4 để tìm hiểu
các thông tin và nhận xét của họ về thân chủ. Việc lấy thông tin từ nhiều
nguồn đã giúp thôi có cái nhìn toàn cảnh, đa chiều về thân chủ, gia đình thân
chủ. Từ đó có thể đề ra các kế hoạch trợ giúp phù hợp.
- Thân chủ: Bác Hùng – 65 tuổi, ở tiểu khu 4 và làm nông nghiệp. Bác
Hùng nghiện rƣợu, thuốc lào và hiện tại bác đang bị bệnh gan vì thế sức khỏe
không thực sự tốt. Bác bị ám ảnh khá nặng nề bởi sự hành hạ của dì ghẻ trong
quá khứ.
- Gia đình: Bác Hùng quê ở xã Nham Sơn – huyện Yên Dũng – tỉnh
Bắc Giang. Mẹ bác mất sớm. Bố lấy vợ hai. Dì ghẻ là một ngƣời tàn ác,
thƣờng hành hạ bác. Khi bố mất, bác đã bỏ nhà đi. Hiện nay bác sống cùng vợ
là bác Mai ở tiểu khu 4. Hai bác không có một ngƣời con trai, anh đã mất và
không có bất cứ ngƣời thân nào.
- Chính quyền địa phƣơng: Bác Hùng có ác cảm với một số ngƣời quản
lý ở tiểu khu. Tuy chịu sự quản lý của Thị trấn Neo, song gia đình bác Hùng
không đƣợc hƣởng bất kì chính sách nào của địa phƣơng.
- Bạn bè: Bác Hùng mâu thuẫn với thôn xóm vì thế bác thƣờng tránh
chuyện cùng một số hội viên trong hội.
115
tiếp xúc. Khi tham gia các hoạt động của chi Hội NCT có tiếp xúc và trò
3.2.3.4. Bước 4: Chẩn đoán
Qua việc phân tích các thông tin thu đƣợc, nhận thấy thân chủ có nhiều
vấn đề cần đƣợc giải quyết.
Đánh giá thân chủ:
Thân chủ là một ngƣời nhân hậu, tốt bụng, yêu thƣơng mọi ngƣời và
khát khao một cuộc sống gia đình hạnh phúc, khát khao tình phụ tử. Các vấn
đề của thân chủ xuất phát từ cuộc sống nghèo khổ, từ những vết thƣơng trong
quá khứ và sự đơn độc trong cuộc sống hàng ngày. Thân chủ tìm đến rƣợu để
quên đi hiện thực, quên đi cuộc sống thực tại. Nếu thực sự quyết tâm, thân
chủ hoàn toàn có thể tự giải quyết các vấn đề của mình.
Các vấn đề cần giải quyết của thân chủ:
- Cai rƣợu
- Giảm dần, tiến tới xóa bỏ ám ảnh của thân chủ về quá khứ, về sự hành
hạ của dì ghẻ thông qua tham vấn tâm lý.
- Giải quyết hiểu lầm và mâu thuẫn với ngƣời dân trong thôn
- Giảm những suy nghĩ tiêu cực, nhìn nhận tốt hơn về cuộc sống
- Cải thiện thu nhập của thân chủ
Việc cần và phải làm ngay là giúp thân chủ cai rƣợu. Việc thân chủ
thƣờng xuyên uống rƣợu là do sự chán nản về cuộc sống chứ không phải là
nghiện rƣợu thông thƣờng. Việc uống rƣợu này không chỉ gây ảnh hƣởng đến
sức khỏe thân chủ mà còn làm mất đoàn kết trong thôn; càng làm mọi ngƣời
cô lập thân chủ và vợ.
Việc giảm dần và tiến tới giải quyết triệt để sự ám ảnh về hình ảnh dì
ghẻ đòi hỏi nhiều thời gian và những kỹ năng khá chuyên nghiệp. Cần để thân
chủ nói ra những suy nghĩ, ám ảnh đó. Việc này là không hề đơn giản. Nó phụ
thuộc vào mức độ thân thiết, sự tin tƣởng lẫn nhau giữa thân chủ và nhân viên
CTXH; phụ thuộc vào trình độ và sự thuần thục của các kỹ năng, các kế
116
hoạch tác nghiệp tiến hành của nhân viên CTXH. Sự ám ảnh này tuy không
hiện hình nhƣng có tác động rất lớn đến sự bất ổn tâm lý của thân chủ, biểu
hiện qua thái độ chán nản, bi quan, qua cách nhìn cuộc sống của thân chủ. Chỉ
khi thoát khỏi ám ảnh này thân chủ mới có cuộc sống yên bình thực sự.
Thu nhập thấp, cuộc sống nghèo khổ, khốn khó là một trong những
nguyên nhân hình thành tâm lý chán nản, mất niềm tin vào cuộc sống. Bác
Hùng rất nghèo nhƣng việc cải thiện thu nhập là việc có thể làm đƣợc. Để
giúp thân chủ cải thiện thu nhập, phát triển kinh tế tôi tiến hành nhƣ sau:
+ Hƣớng dẫn thủ tục hành chính cho gia đình thân chủ hƣởng chính
sách hộ nghèo và vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội huyện Yên Dũng
phát triển kinh tế hộ gia đình.
+ Để cải thiện thu nhập tƣ vấn phát triển kinh tế cho gia đình thân chủ
thông qua hình thức chăn nuôi lợn: cách lựa chọn giống, thức ăn, kỹ thuật cho
ăn (số lƣợng thức ăn, cách cho ăn), kỹ thuật chăm sóc (chuồng trại, vệ sinh,
phòng bệnh…)…
Việc giúp thân chủ và mọi ngƣời xóa đi hiểu lầm và mâu thuẫn là rất
khó vì đây là mâu thuẫn quyền lợi. Tuy nhiên nếu có sự hỗ trợ của chính
quyền, khu dân cƣ thì có thể giải quyết đƣợc. Nếu giải quyết đƣợc mâu thuẫn
với các hộ dân khác, bác Hùng sẽ có thêm mối quan hệ với mọi ngƣời trong
thôn, có nơi tâm sự…
Trong việc giải quyết các vấn đề của thân chủ, khó khăn là các yếu
tố chủ đạo. Tuy nhiên, thuận lợi là sự hợp tác giữa thân chủ và nhân viên xã
hội; tiến trình can thiệp nhận đƣợc sự ủng hộ của vợ thân chủ. Sự tâm huyết
và ham học hỏi về chuyên môn của nhân viên xã hội cũng là một lợi thế.
Thân chủ hoàn toàn có khả năng nâng cao thu nhập; cai rƣợu, giảm
thiểu sự ảnh hƣởng từ quá khứ và cải thiện mối quan hệ với mọi ngƣời
3.2.3.5. Bước 5: Kế hoạch trị liệu
Sau khi chẩn đoán các vấn đề cũng nhƣ khả năng giải quyết các vấn đề
117
của thân chủ, tôi cùng thân chủ và vợ ngồi lại, cùng thống nhất kế hoạch can
thiệp. Kế hoạch đƣợc xây dựng bởi tôi và thân chủ, có sự nhất trí của vợ thân
chủ.
Vấn đề cần Mục tiêu Hoạt động
giải quyết
- Tâm lý tự ti, - Giúp thân chủ có cái nhìn - Trò chuyện cùng thân chủ,
chán nản và tích cực về cuộc sống, bớt chia sẻ với thân chủ để thân
mất niềm tin mặc cảm, tự ti, tích cực tham chủ cảm nhận thấy mình
vào cuộc sống gia các hoạt động tập thể, xã vẫn còn có ích, cảm nhận
hội mình vẫn đƣợc mọi ngƣời
quan tâm.
- Thuyết phục thân chủ
tham gia vào một số hoạt
của Chi hội NCT, của Hội
NCT, của thôn ở cộng đồng.
Mâu thuẫn với - Thân chủ có thể cùng - Gặp gỡ Chi hội trƣởng
thôn xóm ngƣời dân trong thôn giải Hội NCT, trƣởng thôn và
quyết mâu thuẫn. phó trƣởng thôn để có biện
- Thân chủ tiếp tục tham gia pháp can thiệp.
vào các hoạt động chung của - Nói chuyện cùng các hộ
của Chi hội NCT, của Hội dân để xóa bỏ hiểu lầm
NCT, của thôn ở cộng đồng.
Thu nhập thấp Tăng thu nhập cho gia đình + Hƣớng dẫn thủ tục hành
thân chủ chính cho gia đình thân chủ
hƣởng chính sách hộ nghèo
và vay vốn từ Ngân hàng
chính sách phát triển kinh tế
118
hộ gia đình.
+ Để cải thiện thu nhập tƣ
vấn phát triển kinh tế cho
gia đình thân chủ thông qua
hình thức chăn nuôi lợn:
cách lựa chọn giống, thức
ăn, kỹ thuật cho ăn, kỹ thuật
chăm sóc …
Ám ảnh bởi - Thân chủ dám đối diện với - Tham vấn tâm lý. Áp dụng
hình ảnh dì ghẻ quá khứ, nói về quá khứ. cơ chế lý thuyết phóng
trong quá khứ - Giảm dần, xóa bỏ ám ảnh chiếu của S. Freu
- Khuyến khích thân chủ
tham gia các hoạt động của
hội của Chi hội NCT, của
Hội NCT.
Lạm dụng rƣợu - Không hát, chửi hàng xóm - Giúp thân chủ hiểu tác hại
khi uống rƣợu. của rƣợu với cơ thể .
- Ít lạm dụng rƣợu mỗi khi - Giúp thân chủ biết các
chán nản hành vi mình thƣờng làm
khi say rƣợu và tác hại.
3.2.3.6. Bước 6: Kế hoạch trị liệu
Sau khi cùng thân chủ lên kế hoạch trị liệu, tôi từng bƣớc tiến hành các
hoạt động can thiệp.
Các hoạt động đã đƣợc tiến hành:
- Nói chuyện với bác Hùng và vợ về việc cách thức hoàn thiện thủ tục
hành chính hƣởng chính sách hộ nghèo, vay vốn từ ngân hàng chính sách,
119
chăn nuôi lợn; phân tích khía cạnh kinh tế từ chăn nuôi lợn thịt.
- Tổ chức họp khu dân cƣ, mời bác Hùng và bác Mai tham gia. Cùng
bác phó trƣởng thôn đi các hộ gia đình trong thôn để tìm hiểu và tác động để
hạn chế mâu thuẫn, hiểu lầm.
- Tƣ vấn cho bác Hùng các tác hại của rƣợu, tác động của các hành vi
lệch chuẩn khi say.
- Tiến hành các buổi trò chuyện riêng với bác Hùng về chuyện gia đình,
mong muốn của bác… Việc chia sẻ của tôi với thân chủ những nỗi niềm, tâm
tƣ; giúp thân chủ tin tƣởng vào tôi. Gợi ý tế nhị để bác Hùng nói về quá khứ,
nói về cuộc đời mình. Khuyến khích bác trò truyện, tham gia sinh hoạt của
Chi hội NCT.
3.2.3.7. Bước 7: Lượng giá
Tiến trình giúp đỡ thân chủ đƣợc tính từ khi tiếp xúc và đề cập vấn đề
cùng thân chủ đến khi kết thúc can thiệp đƣợc tôi và thân chủ thực hiện trong
khoảng thời gian từ 1/9/2014 – 2/1/2015. Từ ngày 25/12/2014 – 2/1/2015
dành cho lƣợng giá; đánh giá những gì đạt đƣợc và những gì chƣa đạt đƣợc;
tìm hiểu nguyên nhân và có các giải pháp khắc phục. Trong buổi này tôi đã
ngồi lại cùng thân chủ, vợ thân chủ để cùng đánh giá về tất cả yếu tố của quá
trình làm việc giữa tôi và thân chủ.
- Lƣợng giá về mục tiêu, mục đích:
Mục tiêu đề ra Kết quả Miêu tả cụ thể Nguyên nhân
Giúp thân chủ Bác Hùng đã nhận - Mục tiêu đề ra phù
có cái nhìn tích lời tham gia cùng các hợp với nguồn lực
cực về cuộc sống, hội viên trong Chi và thực tế.
bớt mặc cảm, tự Hội NCT trong nhiều - Tôi giúp thân chủ Đạt ti, tích cực tham hoạt động. Qua tiếp nhận ra sự giúp đữ
gia các hoạt động xúc với các hội viên, của mình và mọi
tập thể, xã hội bác có thêm nguồn ngƣời; để thân chủ
120
động viên, có nơi chia thấy mình có ích và
sẻ tâm tƣ, tình cảm do đƣợc trân trọng.
đó bớt đi nỗi mặc
cảm, tự ti
- Mâu thuẫn với mọi - Sự hợp tác của - Thân chủ có
ngƣời có dấu hiệu khu dân cƣ và sự thể cùng ngƣời
thuyên giảm. giúp đỡ của chính dân giải quyết
quyền địa phƣơng. mâu thuẫn.
- Thân chủ tiếp Đạt
tục tham gia vào
các hoạt động
chung của Chi
Hội NCT
Tăng thu nhập - Thân chủ đã xuất - Thân chủ có kỹ
cho thân chủ chuồng 3 con heo thịt, thuật chăn nuôi chu
tổng trọng lƣợng 2,1 đáo, đúng quy trình
kg (bình quân kỹ thuật, chăm sóc
Đạt 70kg/con), với giá công phu.
50.000đ/kg, tổng thu
10,5 triệu đồng, trừ
chi phí ông còn lãi 2,3
triệu đồng.
- Thân chủ dám - Thân chủ đã kể về - Nhân viên CTXH
đối diện với quá quá khứ của mình, có kỹ năng, phƣơng
khứ, nói về quá dám đối mặt. pháp, kinh nghiệm Đạt khứ. - Giảm bớt đƣợc giải quyết các
- Giảm dần, xóa những ám ảnh của trƣờng hợp thân chủ
121
bỏ ám ảnh thân chủ về quá khứ có vấn đề về tâm lý
- Thân chủ đã giảm - Sự hợp tác của Thân chủ đã
uống rƣợu. thân chủ với nhân giảm uống rƣợu,
- Thân chủ và vợ đã viên CTXH, sự gúp nhận đƣợc sự
nhận đƣợc sự giúp đỡ đỡ của chính quyền thấu hiểu, đồng
của chính quyền địa địa phƣơng, của mọi cảm của mọi
phƣơng, mọi ngƣời ngƣời trong khu dân ngƣời trong thôn,
trong khu dân cƣ. Đặc cƣ. tích cực tham gia Đạt biệt gia đình thân chủ vào hoạt động
văn hóa – xã hội nhận đƣợc sự cảm
của Chi Hội NCT thông của mọi ngƣời.
- Tham gia các hoạt
động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể
thao… của Chi Hội 4
- Lƣợng giá về hoạt động và mức độ tham gia:
Kết Đối tượng Nguyên Hoạt động Miêu tả cụ thể quả tham gia nhân
- Giới thiệu bác Hùng - Bác Hùng, đại - Chi Hội 4, đồng Đạt với Chi Hội NCT diện Chi NCT ý tiếp nhận.
Hƣớng dẫn thủ Vợ chồng Gia đình thân
tục hành chính cho thân chủ, cán chủ thuộc diện
gia đình thân chủ bộ xã hội, chính sách hộ
hƣởng chính sách Nhân viên giao nghèo và đƣợc vay
hộ nghèo và vay dịch Ngân Đạt vốn phát triển kinh
vốn từ Ngân hàng hàng chính tế hộ gia đình.
chính sách phát sách xã hội
triển kinh tế hộ gia huyện Yên
122
đình. Dũng
Để cải thiện thu Vợ chồng thân Xuất chuồng đợt
nhập tƣ vấn phát chủ 1: 3 con heo thịt,
triển kinh tế cho lãi 2,3 triệu đồng Đạt gia đình thân chủ
thông qua hình
thức chăn nuôi lợn
Tổ chức họp dân cƣ Ngƣời dân ở Mục đích họp để
Tiểu khu 4 giải quyết hiểu
lầm, mâu thuẫn mà Đạt
là nói xấu, mất
đoàn kết.
Tƣ vấn cho bác Thân chủ - Thân chủ đã
Hùng tác hại của Đạt giảm uống rƣợu.
rƣợu; cách bỏ rƣợu
Tham vấn tâm lý; Thân chủ - Thân chủ sống
xóa bỏ ám ảnh về vui vẻ, hòa đồng
123
Đạt quá khứ với mọi ngƣời.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Sự già hóa dân cƣ đang trở thành một trong những vấn đề chủ yếu nhất
của các cộng đồng, quốc gia và toàn cầu. Nhƣng ngƣời có tuổi vẫn là một
nhóm bị bỏ quên, bị vô hình trƣớc những ngƣời làm công tác phát triển.
Ngƣời cao tuổi thƣờng bị coi là phụ thuộc và thụ động về mặt kinh tế. Trong
trƣờng hợp tốt nhất, họ bị xem là ít quan trọng đối với sự phát triển, còn trong
trƣờng hợp tồi tệ nhất , họ bị xem là gây bất lợi cho phát triển. Ngƣời cao tuổi
chỉ nhận đƣợc phần nhỏ nguồn lực mà họ cần, trong khi những đóng góp tiếp
tục của họ cho xã hội lại không đƣợc thừa nhận. Nhiều NCT bị phân biệt đối
xử, bị loại trừ, thậm chí bị ngƣợc đãi, bị bạo hành [10, tr.2]. Trong bối cảnh
đó nghiên cứu về vai trò của nhân viên CTXH với NCT tại cộng đồng là rất
cần thiết. Mục đích của luận văn hƣớng đến nghiên cứu, phân tích, đánh giá
thực trạng chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT tại Thị trấn Neo –
huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang; Nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của NCT. Trên
cơ sở đó đƣa ra những kiến nghị, đề xuất những vai trò của nhân viên CTXH
trong việc trợ giúp NCT tại Thị trấn Neo để NCT sống vui, sống khỏe, sống
có ích và hƣớng tới vận dụng một số biện pháp can thiệp công tác xã hội
trong việc hỗ trợ NCT tại cộng đồng. Những phân tích trong luận văn này góp
phần làm rõ mục đích nghiên cứu và là nguồn tƣ liệu bổ sung khoảng trống về
chủ đề nghiên cứu này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy số NCT từ 60 – 69 chiếm tỷ lệ cao nhất, tỷ
lệ giới tính của nhóm NCT nghiêng về phía các cụ bà, đặc điểm này thể hiện
rõ ở các nhóm tuổi cao hơn. Mặc dù trình độ học vấn hay chuyên môn của
NCT đang ngày càng đƣợc nâng lên theo thời gian nhƣng trên thực tế vẫn còn
một nhóm nhỏ các cụ vẫn còn mù chữ. Chính hạn chế này sẽ gây nhiều khó
khăn cho NCT khi tham gia vào các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế gia
124
đình. Việc nâng cao trình độ học vấn của các cụ tại địa phƣơng chƣa có.
Hiện nay nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT ngày càng tăng. Nhu
cầu khám và điều trị chƣa đƣợc đáp ứng. Hiện nay chỉ có nhóm ngƣời về hƣu
đƣợc khám chữa bệnh tốt hơn các nhóm khác, nhờ Nhà nƣớc bỏ tiền để mua
bảo hiểm y tế cho họ. Gần đây nhóm ngƣời già cô đơn không nơi nƣơng tựa,
ngƣời cao tuổi nghèo ở địa phƣơng đƣợc cấp phát thẻ khám và chữa bệnh
miễn phí hoặc thẻ bảo hiểm y tế. Nhìn chung số NCT đƣợc hƣởng chế độ này
còn rất ít và hiệu quả của việc khám, chữa bệnh cho NCT rất hạn chế. Tuy sức
khỏe của NCT những năm gần đây có khá hơn trƣớc nhƣng hiện tại sức khỏe
ngƣời cao tuổi vẫn còn rất kém. Do hậu quả của chế độ cũ, chiến tranh hầu
hết trình độ học vấn của NCT rất thấp, những hiểu biết về y học thƣờng thức,
các biện pháp luyện tập, dự phòng và điều trị các bệnh thông thƣờng của
ngƣời cao tuổi còn rất nhiều hạn chế. Việc chăm sóc NCT tại các gia đình
đang ngày càng gặp nhiều khó khăn do điều kiện kinh tế, công việc của con
cái, quan hệ truyền thống giữa các thế hệ đang có sự sa sút. Mặt khác điều
kiện tiếp cận nhanh chóng của NCT với các cơ sở khám chữa bệnh còn nhiều
hạn chế.
Nhu cầu đƣợc làm việc, tiếp tục cống hiến cho gia đình và xã hội phù
hợp với sức khỏe và điều kiện của từng NCT cũng là một yêu cầu của các vị
cao niên. Đến hết tuổi lao động thì hƣởng chế độ nghỉ hƣu song nhiều NCT vẫn
có nhu cầu làm việc để có thêm thu nhập, để đƣợc sống có ích, ngoài việc tự mỗi
ngƣời phấn đấu để có sự cống hiến, nhiều vị cao niên vẫn muốn đƣợc gia đình
và xã hội quan tâm giải quyết và tạo điều kiện thuận lợi. Theo kết quả điều tra
cho thấy, có tới 70,7% những NCT vẫn còn phải lao động để kiếm sống. Họ phải
lo cho cuộc sống của chính họ và con cái. Trong tình hình lao động dƣa thừa nhƣ
hiện nay và trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế đều đòi hỏi có trình độ chuyên
môn cao thì tìm kiếm đƣợc một việc làm thích hợp với NCT là cực kỳ khó khăn.
Mong muốn có việc làm ở NCT hiện nay trƣớc hết là do họ không có nguồn
125
thu nhập, hoặc có nhƣng quá ít ỏi, không đủ sống.
Qua các số liệu điều tra cho ta thấy, hoạt động xã hội của NCT hiện nay
co lại trong phạm vi gia đình, thân tộc nhiều hơn. Các hoạt động xã hội rộng
lớn, mang tính cộng đồng làng, xã còn rất nghèo nàn. Nếu tình trạng này kéo
dài sẽ dẫn đến lạc hậu về thời cuộc và cô đơn trong cuộc sống của NCT. Từ
những đánh giá của chính bản thân những NCT, có thể sơ bộ rút ra một số
nhận xét: phần lớn NCT ở hiện nay có cuộc sống ổn định, tâm trạng lớn nhất
của họ là muốn gắn bó với gia đình, hòa nhập với xã hội để sống cho mình và
sống vì con cháu. Điều này khẳng định rằng: truyền thống đạo đức xã hội, gia
đình Việt Nam, lẽ sống của con ngƣời Việt Nam, thuần phong mĩ tục của con
ngƣời Việt Nam vẫn đƣợc bảo tồn và trụ vững. Tuy vậy, không phải không có
những xao xuyến, một số NCT có sự khủng hoảng về tâm lý. Họ bị con cháu
đối xử tệ bạc, cuộc sống của họ bị quẫn bách cả về vật chất và tinh thần, các
chuẩn mực về đạo đức, lối sống với gia đình của họ bị đảo lộn. Sự phát triển
của nền kinh tế thị trƣờng cùng với quá trình đô thị hóa đang làm nới lỏng dần
các mối liên hệ có tính truyền thống giữa gia đình, họ hàng, làng xóm… làm
xuất hiện những mâu thuẫn mới trong đời sống xã hội tác động xấu đến đời
sống tâm lý của lớp NCT. Đặc biệt là về chỗ dựa tinh thần truyền thống “Trẻ
cậy cha, già cậy con”, “Gia đình là chỗ dựa đầu tiên và là cứu cánh cuối
cùng”, “Kính lão trọng thọ”…
Do điều kiện kinh tế - xã hội ngày một phát triển, NCT tại địa phƣơng có
cuộc sống tâm lý, tinh thần tƣơng đối thỏa mái. Tuy cuộc sống còn nhiều khó
khăn song đời sống văn hóa tinh thần của NCT hiện khá đa dạng và thƣờng
xuyên đƣợc cải thiện. Hoạt động văn hóa phổ biến của NCT là đọc sách báo,
nghe đài, xem ti vi, đây là những hoạt động văn hóa thông tin thƣờng ngày của
NCT và là những hoạt động thích hợp với các cụ (chiếm 78,0%). Tuy nhiên hiện
nay các hoạt động này còn mang tính tự phát và đơn lẻ không có tổ chức. Việc
tham gia các hoạt động văn hóa xã hội có tác dụng tích cực đối với NCT. Một
mặt nó đem lại cho các cụ tinh thần thỏa mái sống, vui sống khỏe, mặt khác
126
phát huy tài năng trí tuệ của NCT phục vụ cho xã hội.
Bên cạnh những việc đã làm đƣợc dành cho NCT, công tác chăm sóc
NCT vẫn còn những khó khăn, bất cập, làm ảnh hƣởng đến hiệu quả công tác
chăm sóc NCT ở địa phƣơng trong thời gian qua. Nhìn chung các mô hình,
các loại hình chăm sóc chƣa đồng bộ và chƣa toàn diện, có nhiều yếu tố cản
trở về nguồn lực để duy trì phát triển rộng và bền vững ở cộng đồng. Chính
sách ban hành còn thiếu văn bản, hƣớng dẫn, triển khai cụ thể đến đối tƣợng.
Cán bộ quản lý công tác chăm sóc các cụ còn mang tính kiêm nhiệm, thiếu sự
quan tâm; không dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu và nâng cao kiến
thức về công tác trên. Hoạt động kiểm tra công tác chăm sóc còn chƣa sâu,
chƣa sát với tình hình thực tế, chƣa năm đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng của NCT
để điều chỉnh công tác chăm sóc NCT tốt hơn. Nhƣ vậy, có thể thấy vấn đề
chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng cũng có nhiều khó khăn. Kiến thức,
kỹ năng của các gia đình trong chăm sõ NCT hiện nay là khá yếu. Các mô
hình của các tổ chức xã hội ở cộng đồng họat động còn khá nhỏ lẻ chủ yếu là
hình thức của câu lạc bộ tự nguyện. Những hoạt động hỗ trợ các gia đình
NCT khó khăn ở cộng đồng còn chƣa đƣợc đẩy mạnh do những hạn chế về
nguồn lực tài chính, kiến thức, kỹ năng, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ cơ sở cùng những hạn chế, chính sách liên quan. Mặt khác vấn đề phát huy
vai trò của NCT còn đƣợc hiểu một cách khá chung chung và trừu tƣợng,
chƣa chú trọng vào các vấn đề thực tế, nên chúng ta vẫn còn lãng phí khá
nhiều lực về con ngƣời và chất xám của NCT trong việc phát triển kinh tế xã
hội ở các địa phƣơng nói riêng và cả nƣớc nói chung.
NCT đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong xã hội. Trong chính trị, NCT
là chỗ dựa quan trọng đối với Đảng, Nhà nƣớc và xã hội. Nhiều NCT còn sức
khoẻ vẫn tham gia tổ chức Đảng, đoàn thể, chính quyền ở cấp xã, ở thôn,
xóm, làng. Trong kinh tế, NCT là ngƣời đóng tích luỹ cho sự phát triển kinh
tế của đất nƣớc, tạo vốn đầu tƣ trong quá khứ. Đến khi tuổi đã cao, một bộ
127
phận NCT, đặc biệt là lao động có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm, vốn xã
hội… vẫn đang tham gia vào hoạt động kinh tế. Họ tham gia sản xuất, kinh
doanh vừa để tạo thu nhập, nâng cao chất lƣợng cuộc sống, góp phần xóa đói,
giảm nghèo và làm gƣơng để thế hệ trẻ noi theo. Trong văn hóa - giáo dục,
NCT là kho tàng kinh nghiệm quý giá vừa là cầu nối giữa quá khứ với hiện
tại, là ngƣời định hƣớng cho những ngƣời trẻ. Trong nghiên cứu khoa học,
ngoài việc khuyên dạy con cháu, dòng họ và mọi ngƣời áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
nâng cao chất lƣợng cuộc sống… góp phần không nhỏ vào công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Trong xã hội, NCT tham gia rất nhiều hoạt
động ở các lĩnh vực có những đặc điểm đặc thù, chỉ NCT mới đảm nhiệm
đƣợc nhƣ: Tham gia vào tổ hòa giải, tổ dân phố, hội khuyến học, hoạt động từ
thiện; Tuyên truyền phòng chống tội phạm, xây dựng gia đình văn hóa
NCT… Từ những thành quả đã đạt đƣợc có thể thấy NCT ngày càng đóng vai
trò to lớn trong việc phát triển văn hóa xã hội. Trong gia đình, NCT có vị trí
rất quan trọng trong gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam. NCT luôn
đƣợc coi là trụ cột tinh thần, đạo đức của gia đình dòng họ. Có vai trò quan
trọng trong việc giáo dục con cháu xây dựng gia đình văn hoá, dòng họ văn
hoá, thực hiện phong trào “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”.
Có 81,4% NCT tham gia vào các phong trào xây dựng gia đình văn hoá, khu
dân cƣ văn minh, tỷ lệ hộ có NCT đạt danh hiệu gia đình văn hoá cao hơn tỷ
lệ chung.
2. KIẾN NGHỊ
Từ những kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên chúng tôi xin nêu một
số đề xuất và kiến nghị sau:
2.1. Đối với chính quyền, tổ chức, đoàn thể tai địa phƣơng
Quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trƣơng của Đảng, các quy
128
định pháp luật của Nhà nƣớc về NCT trong cán bộ, nhân dân trong công tác
chăm sóc và phát huy NCT. Nhất là việc chăm sóc giúp đỡ NCT, hộ gia đình
NCT có hoàn cảnh đặc.
Lồng ghép vấn đề NCT vào các chƣơng trình phát triển kinh tế – văn
hóa – xã hội tại địa phƣơng.
Đẩy mạnh truyền thông và giáo dục truyền thống tốt đẹp, đạo lý tôn
trọng NCT để ngƣời dân hiểu đúng và thực hiện đúng và đủ công tác chăm
sóc và phát huy vai vai trò NCT.
Bố trí đúng và đủ ngân sách, nguồn lực cho các hoạt động chăm sóc
NCT.
Triển khai xây dựng Quỹ chăm sóc NCT theo quy định của Luật NCT
trên cơ sở đó hỗ trợ nâng cao chất lƣợng chăm sóc đời sống vật chất của
NCT.
Hỗ trợ, nhân rộng mô hình các trung tâm, câu lạc bộ của NCT. Kịp thời
nêu gƣơng và biểu dƣơng NCT có thành tích, phát huy tốt vai trò ở địa
phƣơng, các tổ chức cá nhân có thành tích, sáng kiến tốt trong trong chăm sóc
và phát huy vai trò NCT tại cơ sở.
Tăng cƣờng việc theo dõi, giám sát, đánh giá trong các hoạt động chăm
sóc NCT tại cơ sở.
Thực hiện nghiêm chỉnh và thƣờng xuyên công tác sơ kết, tổng kết
công tác NCT.
Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, và có sự bảo đảm cho các đối tƣợng
chính sách, các đối tƣợng diện hỗ trợ xã hội.
Tăng cƣờng việc đào tạo cán bộ xã hội có chuyên môn và phẩm chất
đạo đức. Tăng cƣờng công tác biên soạn tài liệu, truyền thông cho cán bộ,
công đồng, biên soạn tài liệu hƣớng dẫn NCT tự chăm sóc và chăm sóc NCT
tại gia đình và cộng đồng.
Hội NCT cần tích cực đẩy mạnh phong trào “Thi đua yêu nước”, “Tuổi
129
cao gương sáng” với những hoạt động thiết thực, phát huy vai trò của NCT
trong nhiều lĩnh vực, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới, phát triển
kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, khuyến học,
khuyến tài…
Hội tích cực, chủ động tham gia vận động hội viên tham gia bảo hiểm y
tế toàn dân.
Hội làm tốt vai trò nòng cốt trong phong trào “Toàn dân chăm sóc,
phụng dưỡng, phát huy vai trò của người cao tuổi”.
Hội phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện
chính sách bảo trợ xã hội cho NCT theo Luật NCT. Làm tốt công tác chúc
thọ, mừng thọ, ngày lễ, ngày kỷ niệm…
Hội cần phối hợp với các cấp, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp,
các nhà hảo tâm chung tay chăm lo cho NCT nghèo, NCT khuyết tật, cô đơn,
không nơi nƣơng tựa, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các gia đình chính sách.
Hội phối hợp với các cơ quan chức năng hỗ trợ xây dựng xây dựng nhà
đọa đoàn kết cho NCT hộ nghèo.
Hội NCT tại địa phƣơng phối hợp với các đoàn thể tại địa phƣơng tạo
điều kiện cho NCT tham gia hoạt động kinh tế để tăng thu nhập, những công
việc đó phải phù hợp với khả năng và thế lực của NCT.
Hội NCT có trách nhiệm là chỗ dựa vững chắc và ổn định cho NCT
ngoài gia đình, để họ có thể gửi gắm tâm tƣ, nguyện vọng, tham gia đóng góp
ý kiến của mình vào sự phát triển của đất nƣớc.
2.2. Đối với gia đình
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của con, cháu trong việc chăm sóc cha
mẹ, ông bà. Tạo một môi trƣờng gia đình hạnh phúc, tình thƣơng yêu và hiểu
biết lẫn nhau. Tôn trọng truyền thống kính già, yêu trẻ.
Nâng cao trách nhiệm của cha mẹ, ông bà trong việc chăm sóc con,
cháu, tạo môi trƣờng để phát triển toàn diện và hài hòa mọi khả năng của mỗi
130
thành viên trong gia đình.
Tổ chức nhiều hình thức giáo dục tuyên truyền phát huy những chuẩn
mực đạo đức xã hội trong ứng xử với NCT, phù hợp với truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tiến trình phát triển của đất nƣớc.
Cần tăng cƣờng học hỏi những kiến thức và kỹ năng chăm sóc NCT
thông qua các lớp tập huấn, tìm hiểu các kênh thông tin để có sự quan tâm
chăm sóc chu đáo, phù hợp với những đặc thù riêng của NCT.
Có chính sách ƣu đãi, khuyến khích các gia đình sống cùng NCT và tự
nguyện chăm sóc NCT tại nhà. Tăng cƣờng tổ chức các hoạt động giao lƣu
giữa các gia đình trong chăm sóc NCT gắn với văn hóa và các thiết chế xã hội
tại địa phƣơng.
Củng cố và tăng cƣờng thiết gia đình, dòng họ, tăng cƣờng xây dựng
gia đình văn hóa đấu tranh với những thói hƣ, tật xấu, những biểu hiện tiêu
cực trong gia đình. Củng cố vấn đề giáo dục và truyền thông về các giá trị văn
hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong gia đình, mà ở đó chính sự khẳng
định vai trò của NCT đối với gia đình và xã hội.
Huy động sự đóng góp các gia đình thành lập quỹ hỗ trợ NCT tại cộng đồng.
Động viên, khuyến khích NCT tham gia vào các hoạt động đoàn thể,
các hoạt động xã hội, văn hóa, văn nghệ của địa phƣơng.
2.3. Đối với nhân viên CTXH
Cần trao dồi, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm từ thực tế nhiều hơn. Đi
sâu, đi sát vào thực tế cuộc sống của NCT để thấy họ thực sự cần gì, mong
muốn gì. Tăng cƣờng tham gia lớp tập huấn kỹ năng và năng lực chuyên môn
do ngành tổ chức. Luôn học hỏi kinh nghiệm, trao đổi với đồng nghiệp những
ngƣời đi trƣớc hoạt động cùng lĩnh vực khi gặp vấn đề khó khăn để đạt kết
quả cao trong quá trình trợ giúp NCT.
Sau mỗi mô hình trợ giúp cần có đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm
thành công, thất bại tìm ra những nguyên nhân và phƣơng pháp trợ giúp hiệu
131
quả hơn.
Cần vận dụng triệt để các kỹ năng, phƣơng pháp đã đƣợc học và kỹ
năng trong cuộc sống hàng ngày. Các phƣơng pháp: phƣơng pháp CTXH cá
nhân, phƣơng pháp CTXH nhóm. Các kỹ năng nhƣ: Kỹ năng quan sát (quan
sát trong CTXH cá nhân, quan sát trong CTXH nhóm với nhóm NCT); kỹ
năng lắng nghe; kỹ năng xử lý sự im lặng; kỹ năng thấu cảm; kỹ năng đặt câu
hỏi; kỹ năng tự bộc lộ; kỹ năng vận động và kết nối nguồn lực; kỹ năng điều
phối… Khi giải quyết một số vấn đề, một tình huống các kỹ năng không phải
sử dụng đơn lẻ mà cần có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn, đan xen lẫn
nhau nhằm đem đến sự giúp đỡ tối ƣu nhất cho thân chủ.
Trong quá trình trợ giúp NCT để làm tốt vai trò nhân viên CTXH ngoài
trình độ chuyên môn, năng lực còn đòi hỏi nhân viên CTXH phải có phẩm
chất đạo đức tốt:
Thứ nhất là tính hòa đồng: Muốn tiếp cận cộng đồng, nhân viên CTXH
phải có phong cách hòa đồng, cùng ăn cùng ở cùng làm với ngƣời NCT nói
riêng và ngƣời dân nói chung. Lắng nghe, đồng cảm, chấp nhận họ, điều này
sẽ giúp nhân viên CTXH trở nên hòa đồng hơn.
Thứ hai là tính trung thực: Nhân viên CTXH phải luôn trung thực với
ngƣời dân và với chính mình. Nhân viên CTXH luôn ý thức về chính bản thân
mình, chấp nhận những yếu kém nếu có, không nên tự cao tự đại, tỏ ra là
ngƣời hiểu biết trong khi năng lực quá kém, luôn luôn học hỏi để trao rồi kiến
thức từ chính cộng đồng, ngƣời dân và các đồng nghiệp cũng hợp tác với
mình. Sự ba hoa, hứa hẹn, tạo uy tín bằng chính cái mình không có, không
thuộc về phẩm chất của tác viên cộng đồng.
Thứ ba là tính kiên nhẫn, nhẫn lại: Nhân viên CTXH mới vào nghề
thƣờng hay nóng vội, muốn thấy thành tích ngay nên hay áp đặt ý kiến, cách
nghĩ của mình. Họ dễ ngả lòng khi dân không thực hiện điều mong muốn của
họ. Sự thay đổi trong thái độ và hành vi của ngƣời dân không thể diễn ra một
132
sớm, một chiều. Do vậy, nhân viên CTXH phải biết kiên trì và nhẫn lại.
Thứ tư là tính khiêm tốn, biết học hỏi nơi người dân: Trong phát triền
cộng đồng học hỏi không chỉ có một chiều từ nhân viên CTXH đến ngƣời dân
mà nhân viên CTXH học rất nhiều từ sự hiểu biết, kinh nghiệm cuộc sống của
dân. Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp cho nhân viên CTXH lắng nghe, đón nhận
ý kiến từ dân. Chấp nhận sự đóng góp của ngƣời dân giúp cho nhân viên
CTXH phát triền toàn diện hơn.
Thứ năm là tính khách quan, vô tư: Tinh thần khách quan, vô tƣ giúp
nhân viên CTXH giải quyết những mâu thuẫn trong cộng đồng và làm tốt vai
trò liên kết các thành viên, các nhóm.
Để công việc đạt hiệu quả nhất trong sự trợ giúp yêu cầu nhân viên CTXH
phải có đạo đức phù hợp với giá trị, chuẩn mực của xã hội và đƣợc mọi ngƣời
133
chấp nhận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đặng Nguyên Anh (1998), Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới
kinh tế - xã hội đất nước, Tạp chí Xã hội học, số 1 (61)
2. Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 – Phƣơng hƣớng nhiệm vụ 6 tháng
cuối năm 2014 của Hội Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng –
tỉnh Bắc Giang
3. Chu Vĩnh Bình (2010), Cuộc sống người cao tuổi, NXB Thế giới, Hà Nội.
4. Bộ Tƣ pháp (2010), Luật người cao tuổi, NXB Tƣ Pháp, Hà Nội.
5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Gia đình với người cao tuổi, Tài liệu
giáo dục đời sống gia đình.
6. Bộ Văn hoá, Thể Thao và Du lịch, UNICEF, Tổng cục Thống kê, Viện
Gia đình và Giới (2008), Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006,
Hà Nội
7. Nguyễn Đình Cao (2007), Chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, NXB Hà Nội.
8. Kim Chi, Tình trạng già hóa dân số thế giới 1950-2050, trích dịch từ
United ations, World Population Aging 1950-2050, Dân số và phát triển
số 10-2002.
9. Phạm Khắc Chƣơng (1996), Người già – tiềm năng to lớn trong giáo dục
gia đình.
10. Bùi Thế Cƣờng (2005), Trong miền anh sinh xã hội: Nghiên cứu về tuổi
già Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Bùi Thế Cƣờng (2005), Nghiên cứu phúc lợi xã hội: Nhìn lại một chặng
đường - (Trƣờng hợp một chƣơng trình nghiên cứu và triển khai) thuộc
Chƣơng trình nghiên cứu phúc lợi xã hội của Viện xã hội học, Tạp chí Xã
hội học, số 4 (92), tr.13 – 25.
12. Bùi Thế Cƣờng, Đặng Thị Việt Phƣơng, Trịnh Huy Hóa dịch (2012), Từ
134
điển XHH Oxford, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Nguyễn Xuân Cƣờng, Lê Trung Sơn (2003), Thực trạng người cao tuổi
và giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi ở Hà Tây, Tạp
chí dân số và phát triển, số 3, 2004, tr. 30 – 36.
14. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
15. Đàm Hữu Đắc, Phạm Huy Thụ, Hoàng Thị Việt Phƣơng (2013), Tài liệu
tập huấn công tác Hội Người cao tuổi năm 2013, NXB Lao động.
16. Trần Thị Minh Đức, Giáo trình tham vấn tâm lý, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội.
17. Nguyễn Ý Đức, Vấn đề người cao tuổi, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
18. Trƣơng Thị Khánh Hà (2013), Giáo trình tâm lý học phát triển, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Lê Đức Hinh - Chủ tịch Hội Thần kinh học Việt Nam, Vấn đề tâm lý xã
hội của tuổi già.
20. Nguyễn Thị Kim Hoa (Chủ biên, 2013), Giáo trình công tác xã hội với
người cao tuổi, Hà Nội.
21. Phạm Vũ Hoàng (2013), Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc
người cao tuổi Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế.
22. Hội thảo “Già hóa dân số và định hướng xây dựng Chương trình Hành
động Quốc gia vì Người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020”,
20/9/2011.
23. Tô Duy Hợp, Lƣơng Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng Lý thuyết
và vận dụng, NXB Văn hóa thông tin, Hà nội
24. Tô Duy Hợp, Nguyễn Lâm Tuấn Anh (2008), Giáo trình Xã hội học nông
thôn, Khoa Xã hội học - Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn –
135
Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Nguyễn Thế Huệ (2008), Thực trạng người cao tuổi tại Hải Dương,
Quảng Bình và Đắc Lắk, Tạp chí Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, số
10/2004, website Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.
26. Nguyễn Thế Huệ (2007), Người cao tuổi và bạo lực gia đình, NXB Tƣ
Pháp, Hà Nội.
27. Nguyễn Thế Huệ (2008), Người cao tuổi và già làng trong phát triển bền
vững Tây Nguyên, NXB Thông Tấn, Hà Nội.
28. Nguyễn Thế Huệ (2010), Thực trạng đời sống của người cao tuổi từ 80
trở lên, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
29. Nguyễn Thế Huệ (2013), Cẩm nang chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi ở
cơ sở, NXB Chính trị Quốc gia; Bách khoa Hà Nội.
30. Nguyễn Thế Huệ, Lê Văn Nhẫn (2005), Thực trạng thu nhập và mức sống
của người cao tuổi Việt Nam, Hà Nội.
31. Nguyễn Thế Huệ, Lê Văn Nhẫn (2004), Người cao tuổi Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Khoa học Xã hội.
32. Nguyễn Thế Huệ, Đinh Văn Tƣ (2010), Nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội người cao tuổi Việt Nam thời kỳ mới, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
33. Nguyễn Thế Huệ, Nguyễn Tấn Trịnh (2005), Hệ thống các văn bản chính
sách của Đảng và Nhà nước về người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, NXBThống kê.
34. Hoàng Mộc Lan, Đời sống tinh thần của người cao tuổi Việt Nam hiện
nay, Khoa Tâm lý học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
35. Nguyễn Kim Lân (2006), Ứng xử với người cao tuổi trong gia đình, NXB
Phụ nữ, Hà Nội.
36. Nguyễn An Lịch (Chủ biên, 2013), Giáo trình nhập môn công tác xã hội,
136
NXB Lao động, Hà Nội.
37. Nguyễn Kim Liên (2008), Giáo trình phát triển cộng đồng, NXB Lao
động, Hà Nội.
38. Đặng Vũ Cảnh Linh (2009), Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao
tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc NCT đang áp dụng, NXB
Dân trí, Hà Nội.
39. Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo (2005), Bách khoa người cao tuổi, NXB
Từ điển Bách khoa.
40. Trịnh Thị Nguyệt (2014), Tìm hiểu hoạt động chăm sóc, hỗ trợ cho người
cao tuổi tại các trung tâm chăm sóc tập trung trên địa bàn Hà Nội -
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại Trung tâm bảo trợ xã hội 3 và Trung tâm chăm
sóc ngƣời cao tuổi Thiên Đức), Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội.
41. Nguyễn Hữu Nhân (2004), Phát triển cộng đồng, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2013), “Vai trò của câu lạc bộ giáo dục chăm
sóc sức khỏe dành cho người cao tuổi tại cộng đồng” - (Nghiên cứu
trƣờng hợp Chi hội giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Đông A- Nam
Định), Luận văn Thạc sĩ Xã hội học.
43. Nguyễn Văn Nhƣơng (2004), Cẩm nang chăm sóc sức khoẻ người cao
tuổi, NXB Thanh Niên.
44. Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), Già hóa dân số và người cao tuổi
ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách,
7/2011.
45. Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), New York và Tổ chức Hỗ trợ
Ngƣời cao tuổi quốc tế (HelpAge International), Già hóa trong Thế kỷ 21:
Thành tựu và Thách thức, 2012.
46. Lê Thanh Sơn, Phan Lê Thu Hằng (2004), Thực trạng người cao tuổi tại
Hà Tây 2003, Tạp chí Dân số và Phát triển, số 10/2004, website Tổng cục
137
Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.
47. Mai Thị Kim Thanh (2011), Giáo trình nhập môn Công tác xã hội, NXB
Giáo dục Việt Nam.
48. Dƣơng Chí Thiện (1999), Sự tham gia hoạt động xã hội của người cao
tuổi ở đồng bằng sông Hồng, Tạp chí Xã hội học, số 2 (66), tr.62 – tr.65.
49. Hà Văn Thuật (2013), Chính sách của Đảng, Nhà nước về chăm sóc,
phụng dưỡng và phát huy vai trò của người cao tuổi: Hỏi và đáp, NXB
Chính trị Quốc gia.
50. Hà Thị Thƣ (2007), Giáo trình tâm lý học phát triển, NXB Lao động Xã
hội, Hà Nội.
51. Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (2009), Tổng quan kết quả
nghiên cứu, điều tra về cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, Hà Nội.
52. Trung tâm Từ điển học (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đằ Nẵng, Đà
Nẵng.
53. Lê Truyền, Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cƣờng, Trần Thị Vinh, Vũ Hoa
Thạch, Đỗ Thịnh (1994), Người cao tuổi và an sinh xã hội: Đề tài "người
cao tuổi và an sinh xã hội" được sự tài trợ cũa quỹ Toyota/Tương lai,
NXB Khoa học Xã hội.
54. Trần Đình Tuấn (2010), Công tác xã hội: Lý thuyết và thực hành, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
55. Trịnh Văn Tùng, Tóm tắt từ Piene Ansart và Andre Aknoun, Từ điển Xã
hội học, Paris, Nhà xuất bản Le Robert và Seuil, 1999
56. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (2006), Nghiên cứu một số đặc trưng
của người cao tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc người cao
tuổi đang áp dụng, Tạp chí Dân số và Phát triển (số 5/2006),website Tổng
cục Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.
57. Hoàng Thúy Vi (2014), Nhận thức về tự chăm sóc sức khỏe của người
138
cao tuổi ở Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học.
58. Viện nghiên cứu Ngƣời cao tuổi Việt Nam, Thực trạng người cao tuổi
Việt Nam nhằm phát huy tài năng và trí tuệ của họ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa 2002-2003.
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
59. Annette L. Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton S. Cooper, Diane G. Ives,
MPH, and John A. Robbins, Barriers to Health Care Access Among the
Elderly and Who Perceives Them, US National Library of Medicine
National Institutes of Health, 10/2004.
60. Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon and Paiboon Boonchai,
Developing Model of Health Care Management for the Elderly by
Community Participation in Isan.
61. Dean Blevins, Bridget Morton, and Rene McGovern, Evaluating a
community-based participatory research project for elderly mental
healthcare in rural America, US National Library of Medicine National
Institutes of Health.
62. Melen R.McBride, Nancy Morioka.Douglas and Gwen Veo, Aging and
health: Asian and Pacific Islander American Elders, Stanford Geriatric
Education center.
63. M.A. Suppes, C.C. Wells (1994), The social work experience: An
introduction to the profession, McGraw-Hill, Inc.
64. Robert L. Barker, The Social work dictionary, 5th Edition NASW PRESS
Website
65. http://quynguoicaotuoinghean.vn/vi/news/Suc-Khoe-Nguoi-Cao-
Tuoi/Phat-huy-vai-tro-nguoi-cao-tuoi-trong-giao-duc-doi-song-gia-dinh-o-
Viet-Nam-80/
66. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2682385/, 9/2008.
139
67. http://hoithankinhhocvietnam.com.vn/van-de-tam-ly-xa-hoi-cua-tuoi-gia/
68. http://www.socialwork.vn/d%E1%BB%9Di-s%E1%BB%91ng-tinh-
th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cao-
tu%E1%BB%95i-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam-
hi%E1%BB%87n-nay/
69. http://www.socialwork.vn/t%E1%BB%95ng-quan-chinh-sach-
c%E1%BB%A7a-d%E1%BA%A3ng-nha-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-
v%E1%BB%81-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cao-tu%E1%BB%95i/
70. http://www.socialwork.vn/h%E1%BB%99i-th%E1%BA%A3o-gia-hoa-
dan-s%E1%BB%91-va-d%E1%BB%8Bnh-h%C6%B0%E1%BB%9Bng-
xay-d%E1%BB%B1ng-ch%C6%B0%C6%A1ng-trinh-hanh-
d%E1%BB%99ng-qu%E1%BB%91c-gia-vi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-
cao-tu/
71. http://vietnam.unfpa.org/webdav/site/vietnam/shared/Publications%20201
1/Ageing%20report_VIE_27.07.pdf
72. http://www.socialwork.vn/t%E1%BB%95ng-quan-chinh-sach-
c%E1%BB%A7a-d%E1%BA%A3ng-nha-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-
v%E1%BB%81-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cao-tu%E1%BB%95i/
73. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1448535/
74. http://medwelljournals.com/fulltext/?doi=sscience.2009.439.442
tro-nguoi-cao-tuoi-trong-giao-duc-doi-song-gia-dinh-o-Viet-Nam-80/
140
75. http://quynguoicaotuoinghean.vn/vi/news/Suc-Khoe-Nguoi-Cao-Tuoi/Phat-huy-vai-
PHỤC LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
Mã số
Thƣa ông/bà,
Để thực hiện nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nhân viên công tác xã
hội với người cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn
Neo - huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang), nhằm tìm hiểu về thực trạng chăm
sóc, nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ của ngƣời cao tuổi tại cộng đồng. Trên cơ sở đó
đánh giá đƣợc tầm quan trọng về vai trò của nhân viên công tác xã hội trong
việc hỗ trợ ngƣời cao tuổi tại cộng đồng. Đƣợc sự đồng ý của chính quyền
Thị trấn Neo, cháu rất mong nhận đƣợc sự tham gia, đóng góp ý kiến của
ông/bà.
Thông tin do ông/bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu và
tuyệt đối đƣợc đảm bảo giữ bí mật thông tin. Ông/bà hoàn toàn có thể từ chối
trả lời bất cứ câu hỏi nào trong bộ phiếu hỏi.
Xin ông/bà vui lòng hãy khoanh tròn vào các con số tƣơng ứng với câu
trả lời hoặc đƣa ra ý kiến trả lời vào phần “...” ở dƣới đây.
CÂU HỎI
TRẢ LỜI
ST T
MÃ SỐ
GHI CHÚ
Một số thông tin chung về ngƣời cao tuổi
1
Tuổi (hoặc năm sinh)
....................
2
Giới tính
Nam Nữ
1 2
3
Tình trạng hôn nhân hiện tại của ông/bà?
Có vợ/chồng Không vợ/chồng
1 2
Li hôn/li thân Góa
3 4
141
4
Hiện nay ông/bà sống cùng với ai?
Sống trong gia đình nhiều thế hệ Sống với vợ/chồng
1 2
Sống với con/cháu Sống một mình
3 4
5
Trình độ học vấn cao
Không biết chữ
1
nhất mà ông/bà đã đạt đƣợc là gì?
Chƣa tốt nghiệp cấp 1 Tốt nghiệp cấp 1 Tốt nghiệp cấp 2
2 3 4
Tốt nghiệp cấp 3 Trung cấp/Cao đẳng/ Đại học
5 6
Trên Đại học
7
6
Nghề nghiệp trƣớc đây của ông/bà là gì?
Công chức, viên chức Công nhân
1 2
Nông dân Dịch vụ/Buôn bán Nội trợ
3 4 5
Khác
6
Một số thông tin về sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
7
Tình trạng sức khỏe của ông/bà hiện nay
Tốt Trung bình
1 2
nhƣ thế nào?
Kém
3
8
Theo ông/bà ngƣời cao tuổi một năm cần khám
1 lần 2 lần
1 2
sức khỏe định kỳ mấy lần?
Trên 3 lần Không cần thiết
3 4
5
Ý kiến khác (Ghi rõ).................................. ……………………………………………
9
Ông/bà thƣờng làm khi
Mua thuốc điều trị tại nhà
1
ốm, bệnh tật?
Chữa bằng phƣơng pháp dân gian, truyền thống
2
Trạm xá, bệnh viện Bác sĩ đến nhà Ý kiến khác (Ghi rõ)..................................
3 4 5
…………………………………………..
142
10 Ai là ngƣời chăm sóc và hỗ trợ khi ông/bà
Hoàn toàn tự phục vụ Con/cháu giúp đỡ
Có thể chọn
1 2
ốm đau/bệnh tật
Vợ/ chồng Anh/chị/em
nhiều phương án
3 4
5 6
Bạn bè, đồng nghiệp Hàng xóm, láng giềng
7 8
Chính quyền các cấp Các hội/đoàn thể địa phƣơng
9
Tổ chức xã hội khác
1
11 Các thành viên trong
Rất thƣờng xuyên
2 3
gia đình có quan tâm tới sức khỏe của ông/bà
Thƣờng xuyên Thỉnh thoảng
4
không?
Không bao giờ
1
12 Ông/bà có cảm thấy hài
Rất hài lòng
2 3
lòng trƣớc sự quan tâm, chăm sóc của các thành
Hài lòng Không hài lòng
viên trong gia đình không?
Một số thông tin về hoạt động lao động, nhu cầu lao động
1 2
Nếu có chuyển
13 Hiện nay ông/ bà có tham gia hoạt động
Không tham gia Nông nghiệp
kinh tế nào hay không?
3 4
xuống câu 14, 15
Công nghiệp Thƣơng mại/dịch vụ
5 6
Tiểu thủ công nghiệp Khác
1 2
Có thể chọn
14 Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của
Nâng cao thu nhập Rèn luyện sức khỏe
ông/bà là gì?
3 4
nhiều phương án
Giúp tinh thần thoải mái Tiếp tục phát huy tài năng trí tuệ
5 6
Gồm các ý 1, 2, 3, 4 Ý kiến khác (Ghi rõ).....................
.......................................................
1
15
Thời gian làm việc của
Dƣới 5 giờ
2 3
ông/bà trong một ngày là bao nhiêu giờ?
Từ 5 – 8 giờ Từ 8h – 10h
4
Trên 10h
143
16 Nguồn thu nhập chính của ông/bà từ đâu?
Từ lao động sản xuất của bản thân Trợ cấp xã hội
Có thể chọn
1 2
nhiều phương án
Lƣơng hƣu Trợ cấp mất sức
3 4
Trợ giúp của anh/chị/em, con/cháu Sổ tiết kiệm/Tích lũy từ trƣớc
5 6
Không có nguồn thu nhập Nguồn khác
7 8
17 Tổng thu nhập hàng
Dƣới 500.000 đồng Từ 500.000 – 1000.000 đồng
tháng của ông/bà là bao
1 2
nhiêu?
Từ 1000.000 – 1500.000 đồng Từ 1500.000 – 2000.000 đồng
3 4
Trên 2000.000 đồng
5
18 Thu nhập hàng tháng
Rất Đủ
1
hiện tại có đủ chi trả cho cuộc sống tối thiểu
Đủ chi tiêu Không đủ
2 3
của ông/bà không?
Quan hệ xã hội và nhu cầu đƣợc quan tâm, tôn trọng
19 Xin ông/bà cho biết
thời gian ông/bà dành
Gặp gỡ hàng ngày Một vài lần/tuần
1 2
để đi thăm họ hàng, bạn bè?
Một vài lần/tháng Không gặp gỡ/thăm hỏi
3 4
20 Ông/bà có những ngƣời bạn cố tri ân để tâm sự, chia sẻ và giúp đỡ lẫn
Có trên 5 ngƣời Có 3 – 4 ngƣời Có 1 – 2 ngƣời
1 2 3
nhau ?
Không có bạn thân
4
21
Ai là ngƣời mà ông/bà thƣờng tâm sự, chia sẻ?
Con trai Vợ/chồng
1 2
Có thể chọn
Con gái Con dâu/rể
3 4
nhiều phương án
Bạn bè/đồng nghiệp Hàng xóm, láng giềng
5 6
Không tâm sự, chia sẻ Ngƣời khác
7 8
144
22 Tâm trạng của ông/bà trong cuộc sống hàng
Vui vẻ, thoải mái Tâm trạng bình thƣờng
1 2
ngày nhƣ thế nào?
Thƣờng xuyên thấy lo lắng Cô đơn
3 4
Một số thông tin về hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của
ngƣời cao tuổi
23 Ông/bà thƣờng làm gì
Chơi với cháu/bạn bè/hàng xóm
Có thể
1
khi có thời gian rảnh
Nghe đài, xem ti vi, đọc báo Sinh hoạt đoàn thể/câu lạc bộ
chọn nhiều
2 3
Sinh hoạt tôn giáo Tham quan du lịch
phương án
4 5
Tham gia công tác xã hội Hoạt động khác
6 7
24 Số lƣợng hội/ đoàn
Không tham gia tổ chức nào Từ 1 - 2
thể/câu lạc bộ ông/bà
1 2
tham gia ở địa phƣơng?
Từ 2 - 3 Trên 3
3 4
25 Xin ông/bà cho biết
Rất thƣờng xuyên Thƣờng xuyên
mức độ tham gia?
1 2
Thỉnh thoảng Không bao giờ
3 4
26 Ông/bà cho biết lợi ích
khi tham gia các hoạt
Đƣợc quan tâm, giúp đỡ Sống khỏe, lạc quan, yêu đời Nâng cao
Có thể chọn
1 2
động văn hóa – xã hội?
hiểu biết Gồm các ý 1, 2, 3
nhiều phương án
3 4
Ý kiến khác (Ghi rõ)................... .....................................................
5
Một số thông tin về hỗ trợ ngƣời cao tuổi của cán bộ xã hội và chính quyền địa phƣơng.
145
27 Chính quyền địa
phƣơng có chƣơng
Tổ chức tƣ vấn, khám chữa bệnh định kỳ và cấp thuốc miễn phí
Có thể chọn
1
trình, chính sách gì hỗ trợ chăm sóc ngƣời cao
Cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí Thăm hỏi động viên và quan tâm, chăm
nhiều phương án
2 3
tuổi không?
sóc lúc ốm đau Giúp đỡ về vật chất khó khăn
4
5 6
Tổ chức tham quan du lịch Tổ chức lễ mừng thọ, tặng quà trong các
7
dịp lễ, tết Ý kiến khác (Ghi rõ).................................
28 Cán bộ xã hội địa
phƣơng có hỗ trợ gì
1
Tƣ vấn hình thức chăm sóc sức khỏe, chế độ dinh dƣỡng phù hợp
Có thể chọn
cho ông/bà về chăm sóc sức khỏe?
2 3
Tƣ vấn khám chữa bệnh Tổ chức các lớp thể dục thể thao
nhiều phương án
4 5
Cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ tại nhà Không hỗ trợ
6
Ý kiến khác (Ghi rõ).................... ......................................................
29 Hỗ trợ tâm lý của cán
Lắng nghe, trò chuyện
1
Có thể
bộ xã hội cho ông/bà?
2 3
Tham vấn tâm lý Kết nối ngƣời cao tuổi với các câu lạc bộ phù hợp
chọn nhiều phương án
4
Nâng cao nhận thức của gia đình và cộng đồng
5 6
Không hỗ trợ Ý kiến khác (Ghi rõ)....................
......................................................
1
Có thể chọn
30 Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội cho ông/bà?
Hƣởng các chế độ chính sách của nhà nƣớc (nếu có)
2 3
Cung cấp kiến thức về kinh tế hộ gia đình Tiếp cận với các nguồn tín dụng/ƣu đãi
nhiều phương án
4 5
Kết nối dịch vụ việc làm Không hỗ trợ
6
Ý kiến khác (Ghi rõ).................... ......................................................
146
31 Ông/bà có thƣờng
xuyên nhận đƣợc sự hỗ
Rất thƣờng xuyên Thƣờng xuyên
1 2
trợ từ phía cán bộ xã hội, chính quyền địa
Thỉnh thoảng Không bao giờ
3 4
phƣơng không?
32 Ông/bà đánh giá nhƣ
Rất quan trọng
1
thế nào về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội,
Quan trọng Bình thƣờng
2 3
Không quan trọng
4
chính quyền địa phƣơng?
Phát huy vị trí, vai trò của ngƣời cao tuổi
33 Theo ông/bà ngƣời cao tuổi có thể hỗ trợ gì cho
Tạo thu nhập Cấp vốn
Có thể chọn
1 2
con/cháu?
Quyết định Chia sẻ kinh nghiệm
nhiều phương án
3 4
Giáo dục/chăm sóc con cháu Nội trợ và các công việc khác
5 6
Ý kiến khác (Ghi rõ)................... ...................................................
7
34 Hoạt động công tác xã hội tại địa phƣơng của
Tham gia công tác lãnh đạo Tham gia tổ hòa giải và tổ an ninh
Có thể chọn
1 2
ông/bà?
Tham gia hoạt động Hội ngƣời cao tuổi và các tổ chức đoàn thể
nhiều phương án
3
Xây dựng gia đình văn hóa và khu dân cƣ văn minh
4
5 6
Không tham gia Ý kiến khác (Ghi rõ)................... ....................................................
Mong muốn/nguyện vọng của ngƣời cao tuổi
147
35 Ông/bà cho biết những
mong muốn, nguyện
Nhu cầu đƣợc chăm sóc sức khỏe Nhu cầu đƣợc khám chữa bệnh
Có thể chọn
1 2
vọng?
nhiều phương án
3 4
Nhu cầu tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ Nhu cầu hỗ trợ kinh tế, tạo việc làm
5
Nhu cầu tham gia công tác phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng
6 7
Nhu cầu đƣợc tôn trọng Nhu cầu đƣợc tham gia các hoạt động văn
8
hóa – xã hội Nhu cầu đƣợc sống trong các trung tâm
9
nuôi dƣỡng Nhu cầu đƣợc bổ sung chế độ chính sách
10
Nhu cầu đƣợc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất – tinh thần
11 12
Nhu cầu tâm linh Nhu cầu đƣợc tham quan, du lịch
13 14
Nhu cầu giao tiếp Khác (Ghi rõ)..............................
....................................................
148
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN SỰ HỢP TÁC CỦA ÔNG/BÀ
Phụ lục 2
HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU NGƢỜI CAO TUỔI
1. Mục tiêu
Qua phỏng vấn sâu NCT nhằm tìm hiểu thểm về: Thực trạng chăm sóc
và phát huy vị trí, vai trò của NCT tại địa phƣơng; Nhu cầu, nguyện vọng của
NCT; Vai trò của NCT trong gia đình và cộng đồng và những thuận lợi và
khó khăn trong việc thực hiện vai trò của mình.
2. Phƣơng pháp
- Phỏng vấn sâu theo chủ đề
- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn
- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép
3. Đối tƣợng phỏng vấn
Ngƣời cao tuổi Nam và nữ; Độ tuổi từ 60 - 80; Thông tin cá nhân (Họ
và tên, tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng sức
khỏe, việc đang làm, con cái, hiện tại sống với ai…)
4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút
5. Địa điểm
Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
6. Nội dung
- Đánh giá của Ông/bà về tình hình chăm sóc NCT tại gia đình và địa
phƣơng?
- Ông/bà có phải là ngƣời quyết định những vấn đề quan trọng trong
gia đình không? Tại sao?
- Những loại công việc trƣớc đây (khi còn ở tuổi lao động) ông/bà đã
từng làm gì? Từ khi ở vào độ tuổi 60 trở đi, ông/bà thƣờng làm những công
149
việc gì để có thêm thu nhập? Vì sao lại chọn loại công việc đó?
- Tình hình việc làm hiện nay? (Nếu không, vì sao?). Trong gia đình,
hằng ngày ông/bà thƣờng làm những công việc gia đình? Những loại việc này
có phù hợp với sức khỏe, khả năng của ông/bà ở mức độ nào?
- Các nguồn thu nhập của ông/bà hiện nay là gì? Nguồn thu nhập có đủ
đảm bảo chi tiêu trong sinh hoạt hàng ngày và chữa bệnh không? Ông/bà có
nguồn tích lũy kinh tế nào không? Nếu có thì đƣợc sử dụng khi nào và cho
việc gì?
- Mối quan hệ giữa ông bà và các con cháu hiện nay trong gia đình nhƣ
thế nào?
- Ông/bà thƣờng giúp đỡ con cháu ở những mặt nào?
- Ông/bà có tham gia các tổ chức đoàn thể nào không? Lý do không
tham gia (nếu có)? Những tổ chức này mang lại lợi ích gì cho NCT?
- Ông/bà đánh giá thế nào về những hoạt động, về vai trò của Hội NCT
ở địa phƣơng? Để Hội NCT có vai trò tích cực hơn đối với cộng đồng cần
phải thay đổi những gì? Nhƣ thế nào?
- Chính quyền xã/phƣờng và cộng đồng dân cƣ đã có những hình thức
hỗ trợ nhƣ thế nào cho các hoạt động của NCT? Nếu có, ông/bà đánh giá về
sự hỗ trợ/tạo điều kiện này nhƣ thế nào?
- Hiện nay NCT có gặp khó khăn gì trong việc thể hiện vai trò của
mình. Làm thế nào để khắc phục những khó khăn này?
- Nguyện vọng của ông/bà hiện nay là gì? Ông/bà có thể giải thích rõ
hơn về ý kiến/sự lựa chọn này không?
- Chính sách của nhà nƣớc về NCT cần phải thay đổi và bổ xung những
điểm gì để đáp ứng đƣợc nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích và quyền của NCT?
- Để NCT phát huy tốt hơn những khả năng của mình, có vai trò tích
cực hơn nữa trong gia đình và xã hội, theo ông/bà cần phải làm gì? Thay đổi
những gì?
150
Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/B
HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU ĐẠI DIỆN THÀNH VIÊN HỘ GIA
ĐÌNH CÓ NCT
1. Mục tiêu
Qua phỏng vấn sâu đại diện thành viên hộ gia đình có NCT nhằm tìm
hiểu thểm về: Cuộc sống của NCT trong gia đình, vai trò của NCT trong gia
đình và xã hội, nhận xét và đánh giá của nhóm đại diện này về vai trò của
NCT trong gia đình, trong cộng đồng.
2. Phƣơng pháp
- Phỏng vấn sâu theo chủ đề
- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn
- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép
3. Đối tƣợng phỏng vấn
Nam và nữ là các thành viên đại diện hộ gia đình hiện có NCT đang
sống chung. Số lƣợng mẫu: 4 trƣờng hợp chia theo giới tính
4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút
5. Địa điểm
Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.
6. Nội dung
6.1. Gia đình và đời sống của NCT.
- Ông/bà cho biết đôi nét về hoàn cảnh gia đình hiện nay (kinh tế,
nguồn thu nhập, con cái, cha mẹ…)?
- Trong gia đình ông/bà, ai là chủ gia đình? Vì sao? Ngƣời cao tuổi có
phải là ngƣời quyết định/tham gia quyết định những việc quan trọng của gia
đình không? Tại sao? (Thƣờng là những công việc gì, mức độ tham gia nhƣ
thế nào?)
- Hiện nay các cụ còn tham gia các hoạt động kinh tế, đóng góp thu
151
nhập (từ các nguồn) cho gia đình không?
- Các loại công việc (công việc gia đình) mà các cụ tham gia trong gia
đình ông/bà hiện nay nhƣ thế nào? Ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về vai trò của
các cụ trong gia đình hiện nay? Loại công việc gì mà ông/bà cho rằng sự đóng
góp của các cụ là phù hợp với sức khỏe, khả năng của NCT?
6.2. Người cao tuổi với cộng đồng
- Các cụ trong gia đình của ông/bà có tham gia các tổ chức đoàn thể xã
hội nào không? Mặt tích cực, hạn chế khi tham gia hoạt động ở các đoàn thể,
tổ chức này ở địa phƣơng?
- Ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về những hoạt động, về vai trò của Hội
NCT ở địa phƣơng?
6.3. Những thách thức và nguyện vọng của NCT
- Hiện nay NCT gặp những khó khăn gì trong việc thực hiện vai trò của
mình. Làm thế nào để khắc phục những khó khăn này?
- Chính sách của nhà nƣớc về NCT cần phải đƣợc thay đổi và bổ sung
những điểm gì để đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích và quyền của
NCT?
- Việc thực hiện chính sách đối với NCT tại địa phƣơng của ông/bà nhƣ
thế nào? Tốt hay không tốt? Tại sao?
- Để NCT phát huy tốt hơn khả năng của mình, có vai trò tích cực hơn
nữa trong gia đình và xã hội, theo ông/bà, cần phải làm gì?
- Theo ông/bà, NCT đƣợc đánh giá là ngƣời có “vai trò” trong gia đình
phải là ngƣời nhƣ thế nào?
152
Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/Bà
HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU CÁN BỘ XÃ HỘI
1. Mục tiêu
Qua phỏng vấn sâu cán bộ xã hội nhằm tìm hiểu về: Đào tạo, tập huấn
nâng cao về kỹ thuật nghiệp vụ; Khó khăn và thuận lợi trong quá trình hỗ trợ,
chăm sóc NCT;
2. Phƣơng pháp
- Phỏng vấn sâu theo chủ đề
- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn
- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép
3. Đối tƣợng phỏng vấn
Cán bộ xã hội
4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút
5. Địa điểm phỏng vấn
Tại Ủy Ban nhân dân Thị trấn Neo
6. Nội dung phỏng vấn
- Hàng năm, việc đào tạo lại tập huấn nâng cao về kỹ thuật nghiệp vụ
đƣợc tổ chức không? Và hình thức nội dung tổ chức nhƣ thế nào?
- Các khó khăn và thuận lợi trong chăm sóc sức khỏe NCT tại cộng
đồng? (Chế độ chăm sóc sức khỏe và khám định kỳ cho các cụ nhƣ thế nào?
Các bài tập thể dục đƣợc thực hiện nhƣ thế nào? Có bài tập chuẩn không? Với
các cụ không tập theo tập thể thì tập luyện nhƣ thế nào? Điều kiện cơ sở vật
chất trang thiết bị đƣợc trang bị có đáp ứng đủ nhu cầu về chăm sóc sức khỏe
NCT?...)
- Các khó khăn và thuận lợi trong chăm sóc đời sống vật chất cho NCT
tại cộng đồng? (Việc chăm sóc đời sống vật chất cho NCT tại cộng đồng đƣợc
153
tiến hành dƣới các hình thức nào?...)
- Các khó khăn và thuận lợi trong chăm sóc tinh thần cho NCT tại cộng
đồng? (Việc chăm sóc tinh thần cho NCT tại cộng đồng đƣợc tiến hành dƣới
các hình thức nào? Nhu cầu tâm sự của NCT tại cộng đồng? …)
- Sự phối hợp với các tổ chức khác trong chăm sóc sức khỏe - y tế và
chăm sóc đời sống vật chất tinh thần cho NCT sống tại cộng đồng (Trong
nƣớc: các bệnh viện, các tổ chức về NCT…; Nƣớc ngoài: Giao lƣu, hội thảo,
đào tạo, chuyển giao công nghệ…)?
154
Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/Bà
HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU CHỦ TỊCH HỘI NCT/CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO THỊ TRẤN NEO
1. Mục tiêu
Qua phỏng vấn sâu Chủ tịch Hội NCT, cán bộ lãnh đạo Thị trấn Neo
nhằm tìm hiểu thểm về: Chế độ chính sách của Nhà nƣớc và địa phƣơng trong
chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT; Cơ cấu tổ chức và hình thức
hoạt động; Khó khăn và thuận lợi trong quá trình hoạt động cũng nhƣ các kiến
nghị để duy trì và phát triển Hội.
2. Phƣơng pháp
- Phỏng vấn sâu theo chủ đề
- Nghiên cứu viên là ngƣời phỏng vấn
- Công cụ hỗ trợ: Máy ghi âm, sổ ghi chép
3. Đối tƣợng phỏng vấn
Chủ tịch Hội NCT , cán bộ lãnh đạo Thị trấn Neo
4. Thời gian phỏng vấn: 60 phút
5. Địa điểm phỏng vấn
Tại Ủy Ban nhân dân Thị trấn Neo
6. Nội dung phỏng vấn
- Ông/bà có thể cho biết đôi nét về tình hình NCT trong phạm vi địa
phƣơng/công tác mình phụ trách? (Một số đặc điểm về các nhóm NCT ở địa
phƣơng? (Nhóm hưu trí, nhóm nghèo/nhóm tích cực tham gia các hoạt động
văn hóa – xã hội…)
- Chế độ chính sách và các quy định của Nhà nƣớc và địa phƣơng trong
chăm sóc và phát huy vị trí, vai trò của NCT. Viêc thực hiện trên thực tế?
- Ông/bà nêu khái quát một số hoạt động chính của NCT hiện nay?
155
(Các hoạt động kinh tế? Hoạt động chính trị? Các hoạt động văn hóa - xã hội?
- Hoạt động của Hội/chi hội NCT? Đánh giá vai trò của Hội đối với các
hoạt động cộng đồng, xã hội: hòa giải, xây dựng khu dân cƣ văn hóa, các
phong trào ở địa phƣơng...
- Theo đánh giá của ông/bà, mặt mạnh trong hoạt động của NCT, của
Hội NCT ở địa phƣơng là gì? Mặt nào còn hạn chế? Tại sao? Có thể làm gì để
phát huy hơn nữa tiềm năng của NCT ở địa phƣơng?
- NCT hiện nay có còn là ngƣời chủ (không phải chủ hộ) gia đình
không? Vì sao? Vai trò của NCT trong quyết định những công việc quan
trọng của gia đình nhƣ thế nào?
- Có khoảng bao nhiêu % NCT đang tham gia hoạt động kinh tế tạo thu
nhập cho gia đình. Những loại việc nào mà ông/bà thấy NCT đóng góp có
hiệu quả và phù hợp nhất?
- Những công việc nào mà NCT thƣờng làm để có thêm thu nhập?
- Những công việc mà NCT có thể tham gia/giúp đỡ con cháu và có khả
năng đóng góp cho gia đình nhiều nhất? Tâm trạng khi thực hiện các hoạt
động này (tự nguyện/bắt buộc?...).
- Nhận xét về vai trò của NCT trong gia đình?
- Theo ông/bà một NCT đƣợc đánh giá là ngƣời có “vai trò” trong GĐ
và cộng đồng dân cƣ phải là ngƣời nhƣ thế nào? (Phẩm chất gì và các hoạt
động...)
156
Xin chân thành cảm ơn hợp tác của Ông/Bà!
Phụ lục 3
Tiểu khu 4 - Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc
BÁO CÁO THAM VẤN
Địa điểm
Giang
Nguyễn Văn Hùng
Thân chủ
Từ ngày 24/10 – 2/11/2014
Thời gian
Mục đích buổi tham vấn Giúp thân chủ nhận ra tác hại của rƣợu và quyết tâm không
lạm dụng rƣợu
Tƣờng thuật
Nhân viên CTXH thông báo mục đích của buổi tham vấn với thân chủ và xin sự đồng ý của thân chủ cho sự có mặt của
vợ thân chủ. Nhân viên CTXH hỏi thân chủ thƣờng uống rƣợu khi nào;
uống ở đâu; tiểu lƣợng. Sau đó hỏi thân chủ có biết những gì mình làm sau khi say.
Sau đó nhân viên CTXH miêu tả lại các hành động mà nhân viên CTXH chứng kiến khi thân chủ say. Nhân viên
CTXH giữ thái độ nghiêm túc, tỏ rõ sự chân thành và thông cảm cùng thân chủ.
Nhân viên CTXH để vợ thân chủ nói về những suy nghĩ,
cảm nhận của mình khi thấy thân chủ say.
Sau đó nhân viên CTXH để thân chủ chia sẻ những suy
nghĩ và cảm nhận của mình.
Sau khi thân chủ chia sẻ, nhân viên CTXH cung cấp cho thân chủ những tác hại của rƣợu đến sức khỏe; cho thấy tác
động của những hành vi của thân chủ sau khi say với cuộc sống của gia đình thân chủ và khu dân cƣ.
Thân chủ lúc đầu còn lảng tránh sau rất ân hận và cho biết mình không hề biết những điều mà mình làm trong lúc say.
Thân chủ tỏ quyết tâm sẽ không lạm dụng rƣợu khi buồn.
- Thân chủ nhận ra tác hại của việc uống rƣợu.
Những điểm thống nhất
- Thân chủ ý thức đƣợc hành vi chửi mọi ngƣời trong lúc
say là sai.
- Thân chủ quyết tâm không lạm dụng rƣợu trong những
lần sau nữa.
Tƣ vấn cho thân chủ các cách hạn chế việc lạm dụng rƣợu
Buổi tham vấn tiếp theo
157
Phụ lục 4
158
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN YÊN DŨNG
Phục lục 5
159
ẢNH MINH HỌA
160
Ảnh 2.1. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với các hoạt động kinh tế
161
Ảnh 2.2. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục – thể thao
162
Ảnh 2.3. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với công việc nội trợ
163
Ảnh 2.4. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với hoạt động nông nghiệp
164
Ảnh 2.4. Ngƣời cao tuổi Thị trấn Neo với nghề phụ