BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH ------------ ĐOÀN THỊ TỪ VI TỬ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẢM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
LUAÄN VAÊN THAÏC SYÕ KINH TEÁ
TP. HOÀ CHÍ MINH – Naêm 2008
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1. Sự cần thiết của đề tài. ............................................................................................... 1
2. Mục tiêu của đề tài. .................................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................ 2
5. Cấu trúc nội dung nghiên cứu. ................................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TRONG NỀN KINH TẾ.
1.1 Khái niệm, bản chất và chức năng của thuế GTGT. .......................................... 4
1.1.1 Khái niệm thuế GTGT. ......................................................................................... 4
1.1.2 Bản chất của thuế GTGT. ..................................................................................... 4
1.1.3 Chức năng của thuế GTGT trong nền kinh tế....................................................... 5
1.1.3.1 Chức năng tái phân phối thu nhập xã hội........................................................... 5
1.1.3.2 Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô. ..................................................................... 5
1.2 Vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế. ............................................... 6
1.2.1 Thuế GTGT tạo số thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước. .................................... 6
1.2.2 Thuế GTGT tham gia điều chỉnh kinh tế vĩ mô.................................................... 7
1.2.2.1 Thuế GTGT tác động đến cân bằng thị trường. ................................................. 8
1.2.2.2 Thuế GTGT tác động đến yếu tố sản xuất. ........................................................ 9
1.2.2.3 Thuế GTGT tác động đến ngoại thương. ......................................................... 10
1.2.3 Thuế GTGT tác động đến ý thức xã hội. ............................................................ 10
1.2.4 Thuế GTGT điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. .. 11
1.3 Các nguyên tắc cơ bản xây dựng thuế GTGT hướng vào kích thích kinh tế. 12
1.3.1 Tính minh bạch. .................................................................................................. 12
1.3.2 Tính hiệu quả....................................................................................................... 12
1.3.3 Tính công bằng.................................................................................................... 13
1.3.4 Tính linh hoạt ...................................................................................................... 14
1.3.5 Tính chắc chắn. ................................................................................................... 15
1.4 Một số mâu thuẫn nảy sinh khi sử dụng công cụ thuế trong phát triển kinh
tế................................................................................................................................... 16
1.4.1 Mâu thuẫn giữa tăng thuế để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng
và chủ động giảm thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư........................................ 16
1.4.2 Mâu thuẫn giữa chủ trương hội nhập các khối thương mại, kinh tế trong khu vực
và trên thế giới với chính sách bảo hộ sản xuất nội địa. .............................................. 16
1.4.3 Mâu thuẫn giữa chủ trương ưu đãi thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư với
chủ trương tạo hành lang thuế bình đẳng, trung lập. ................................................... 17
1.5 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi áp dụng thuế GTGT............ 17
1.5.1 Kinh nghiệm ở Thụy Điển về việc qui định áp dụng một thuế suất thuế GTGT.18
1.5.2 Kinh nghiệm của Indonesia về việc tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT theo từng
bước và mở rộng dần diện chịu thuế............................................................................ 19
1.5.3 Kinh nghiệm của Pháp về đối tượng áp dụng thuế GTGT. ................................ 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ............................................................................................. 21
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ GTGT ĐẾN ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1999 ĐẾN NAY.
2.1 Khái quát quá trình ra đời của thuế GTGT ở Việt Nam. ................................ 22
2.1.1 Tình hình thí điểm thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam năm 1993.......................... 22
2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam khi triển khai thực hiện thuế GTGT... 23
2.1.2.1 Điều kiện thuận lợi........................................................................................... 23
2.1.2.2 Yếu tố bất lợi.................................................................................................... 24
2.1.3 Sự cần thiết phải sử dụng thuế GTGT thay thế thuế Doanh thu........................ 25
2.2 Những thách thức trong quá trình sử dụng thuế GTGT. ................................ 28
2.2.1 Thách thức từ bản chất của thuế GTGT.............................................................. 28
2.2.2 Thách thức về quản lý thuế GTGT. .................................................................... 30
2.3. Tác động của thuế GTGT đến ổn định và phát triển kinh tế VN .................. 32
2.3.1 Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và ổn định của NSNN, tăng cường tài chính
quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo và củng
cố an ninh, quốc phòng. ............................................................................................... 32
2.3.2 Thuế GTGT khuyến khích hoạt động đầu tư, gia tăng sản xuất. ........................ 34
2.3.3 Thuế GTGT khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu................................. 35
2.3.4 Thuế GTGT góp phần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa hàng nhập khẩu và
hàng hóa nội địa. .......................................................................................................... 36
2.3.5 Thuế GTGT thúc đẩy tăng cường quản lý, hạch toán kinh doanh của DN, nâng
cao ý thức tự giác chấp hành thuế của các đối tượng nộp thuế.................................... 37
2.3.6 Thuế GTGT góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế Việt Nam.............. 38
2.4. Những hiệu ứng tiêu cực do sử dụng thuế GTGT. .......................................... 38
2.4.1 Xuất hiện hàng loạt “DN ma”. ........................................................................... 38
2.4.2 Hình thành “Thị trường mua bán hóa đơn”. ..................................................... 39
2.4.3 Thực hiện các giao dịch ảo để rút tiền Nhà nước. ............................................. 39
2.4.4 Hiện tượng gian lận, không trung thực trong kinh doanh. ................................ 40
2.5. Những hạn chế về chính sách, quản lý và tổ chức thu thuế ảnh hưởng đến vai
trò kích thích kinh tế của thuế GTGT...................................................................... 42
2.5.1 Hạn chế về chính sách thuế................................................................................. 42
2.5.1.1 Chính sách thuế GTGT chưa ổn định, thiếu nhất quán.................................... 42
2.5.1.2 Quy định nhiều đối tượng không chịu thuế GTGT......................................... 42
2.5.1.3 Đa thuế suất...................................................................................................... 43
2.5.1.4 Phương pháp tính thuế GTGT phải nộp chưa đồng nhất. ............................... 45
2.5.1.5 Quy định về hoàn thuế GTGT thiếu chặt chẽ .................................................. 46
2.5.2 Công tác quản lý và tổ chức thu thuế còn hạn chế............................................. 47
2.5.2.1 Công tác tuyên truyền và hướng dẫn pháp luật về thuế chưa sâu rộng. .......... 47
2.5.2.2 Công tác kiểm tra, thanh tra thuế kém hiệu quả. ............................................. 48
2.5.2.3 Tin học hoá ngành thuế chưa được thực hiện. ................................................. 48
2.5.2.4 Quy trình và tổ chức bộ máy ngành thuế còn chồng chéo.............................. 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG II............................................................................................ 50
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THUẾ GTGT TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.
3.1 Quan điểm nâng cao vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế tại Việt
Nam.............................................................................................................................. 51
3.1.1 Định hướng hệ thống thuế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.......................... 51
3.1.2 Chính sách thuế phải đặt mục tiêu động viên NSNN lên vị trí hàng đầu. .......... 51
3.1.3 Tăng thu trên cơ sở nâng cao hiệu quả của chính sách thuế, hạn chế gian lận thuế
hơn là tăng thuế suất..................................................................................................... 52
3.1.4 Sự phối hợp rộng rãi các ngành lĩnh vực trong nền kinh tế xã hội. .................... 52
3.2 Giải pháp về chính sách thuế GTGT.................................................................. 52
3.2.1 Thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT. ...................................................... 52
3.2.2 Dùng một thuế suất thuế GTGT......................................................................... 54
3.2.3 Sử dụng một phương pháp tính thuế GTGT. ..................................................... 56
3.2.4 Áp dụng ngưỡng chịu thuế GTGT. ..................................................................... 56
3.2.5 Quy định đầy đủ về khấu trừ và hoàn thuế GTGT............................................. 57
3.2.6 Xóa bỏ tình trạng bảo hộ sản xuất nội địa qua giá tính thuế hàng nhập khẩu. .. 58
3.3 Giải pháp nâng cao năng lực Bộ máy quản lý thuế. ........................................ 59
3.3.1 Quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế.59
3.3.2 Hình thành hệ thống thuế qua mạng vi tính. ...................................................... 59
3.3.3 Nâng cao chất lượng hỗ trợ ĐTNT của cơ quan thuế. ........................................ 61
3.3.4 Nâng cao công tác thanh tra kiểm tra thuế......................................................... 62
3.3.5 Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng hữu quan...... 64
3.3.6 Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế................................................................................ 64
3.4 Các giải pháp hỗ trợ............................................................................................ 65
3.4.1 Thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thuế GTGT. ............. 65
3.4.2 Hoàn thiện luật Doanh nghiệp. ........................................................................... 66
3.4.3 Cần thực hiện nghiêm chỉnh việc niêm yết giá................................................... 67
3.4.4 Khuyến khích thanh toán qua hệ thống ngân hàng. ........................................... 67
3.4.5 Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức công dân về nghĩa vụ nộp
thuế, khi mua hàng phải lấy hóa đơn. .......................................................................... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG III. ......................................................................................... 69
KẾT LUẬN. ................................................................................................................ 70
PHỤ LỤC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trước áp lực hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các quy định của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập
khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ 17,4% xuống còn 13,4% với lộ
trình thực hiện sau 5 năm đến 7 năm. Đến thời điểm đầu tháng 1/2008, Việt Nam đã
thực hiện cắt giảm 1.800 dòng thuế, đạt khoảng 17% kế hoạch. Việc cắt giảm thuế
nhập khẩu - một trong những loại thuế quan trọng, đang đặt ra những thách thức mới
cho việc xây dựng hệ thống chính sách thuế, đó là làm sao tiếp tục bảo hộ sản xuất
trong nước, tối đa hoá nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, không ảnh hưởng tới tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế.
Hiện nay, nước ta có số thu thuế GTGT chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu
thuế và phí. Đây là nguồn bù đắp cho việc giảm thu từ thuế nhập khẩu. Mức độ bù trừ
này phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và chính sách thuế của quốc gia. Tuy
nhiên, thuế GTGT không đơn thuần là công cụ thu ngân sách của nhà nước mà còn
chứa đựng nội dung kinh tế và chính trị, xã hội sâu sắc như tương quan giữa số thu
hiện tại và số thu tương lai, ảnh hưởng của thuế GTGT đến hành vi kinh doanh và động
thái tiêu dùng của xã hội, đến thu hút vốn đầu tư và thông lệ quốc tế, đến tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội …
Với mục đích dùng thuế GTGT như một công cụ kinh tế hữu hiệu, hoàn chỉnh
các quy định pháp luật về thuế GTGT nhằm đưa thuế GTGT ngày càng tiếp cận với
thực tiễn, theo kịp tiến trình hội nhập, khai thác tối đa vai trò của thuế GTGT để kích
thích kinh tế phát triển, tác giả chọn đề tài: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG ỔN ĐỊNH VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM.
2. Mục tiêu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau:
Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về thuế GTGT và vai trò của thuế GTGT
trong phát triển kinh tế.
2
Nêu lên một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam từ thực tiễn
áp dụng thuế GTGT ở một số nước trên thế giới.
Đánh giá tình hình sử dụng thuế GTGT trong phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Rút ra những hạn chế cả về mặt chính sách lẫn công tác hành thu ảnh hưởng đến
vai trò kích thích kinh tế của thuế GTGT.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của thuế GTGT trong
phát triển kinh tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế, những
tác động của thuế GTGT đối với phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam, những hạn chế
cả về mặt chính sách lẫn công tác hành thu ảnh hưởng đến vai trò kích thích kinh tế của
thuế GTGT.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu phân tích ảnh hưởng của một số quy định pháp
luật hiện hành về thuế GTGT gây tác động đến hoạt động kinh tế-xã hội Việt Nam từ
khi Luật thuế GTGT được thực hiện giai đoạn 1999-2007 và không đi quá sâu vào
nghiệp vụ cụ thể (vì thuộc chuyên ngành Tài Chính Nhà Nước). Tuy nhiên, để phản
ánh toàn diện, đề tài còn đề cập đến một số thay đổi của chính sách thuế đã thực hiện
trước đây. Ngoài ra, do thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng không thuần túy mang
tính kinh tế, tài chính mà còn có ảnh hưởng xã hội rất sâu sắc, nên các giải pháp đề ra
cũng chú ý đến khía cạnh xã hội của thuế GTGT.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được xây dựng dựa vào dữ liệu công bố chính thức của Bộ Tài chính, Tổng
cục Thống kê, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế, của các các Bộ, cơ quan khác và từ
báo chuyên ngành kinh tế, tài chính, thuế. Do đó, dù hết sức cố gắng, đề tài cũng
không thể giảm bớt tính góc cạnh của số liệu từ những nguồn nói trên. Ngoài ra, các
định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nước ta đến năm 2010 và chiến lược tài
chính quốc gia đến năm 2010 cũng được sử dụng làm cơ sở lý luận và định hướng cho
các giải pháp nêu trong đề tài.
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh…, có sự kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn.
3
5. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Trình bày khái niệm, bản chất, chức năng và vai trò của thuế GTGT
trong ổn định và phát triển kinh tế. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng thuế GTGT hướng
vào kích thích kinh tế. Một số mâu thuẫn nảy sinh khi sử dụng công cụ thuế trong phát
triển kinh tế. Kinh nghiệm sử dụng thuế GTGT tác động đến ổn định và phát triển kinh
tế ở một số nước trên thế giới.
Chương 2: Khái quát quá trình ra đời của thuế GTGT ở Việt Nam. Sự cần thiết
phải sử dụng thuế GTGT thay thế thuế Doanh thu. Những thách thức trong quá trình sử
dụng thuế GTGT. Đánh giá tác động của thuế GTGT đến ổn định và phát triển kinh tế
Việt Nam từ năm 1999 đến nay. Những hạn chế về chính sách, quản lý và tổ chức thu
thuế ảnh hưởng đến vai trò kích thích kinh tế của thuế GTGT.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao vai trò của thuế GTGT trong ổn
định và phát triển kinh tế Việt Nam. Trong đó, chủ yếu các giải pháp về chính sách
thuế GTGT, giải pháp về nâng cao năng lực Bộ máy quản lý thuế và một số giải pháp
hỗ trợ.
4
1.1. Khái niệm, bản chất và chức năng của thuế GTGT.
1.1.1. Khái niệm thuế GTGT.
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (tiếng Pháp là: Taxe sur la valeur Ajoutéc – TVA,
tiếng Anh là: Value Added Tax – VAT) là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm đối với một sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ
do cơ sở sản xuất, chế biến, buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào nguyên, vật liệu thô
hay hàng hóa mua vào, làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Hay nói cách khác, đây là
số chênh lệch giữa “giá đầu ra” với “giá đầu vào” do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá
trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. (Nguồn: Tài liệu tham khảo số 4).
1.1.2. Bản chất của thuế GTGT.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu, được thu theo phân đoạn trong quá trình sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, thì khép kín
một chu kỳ kinh tế. Đến cuối chu kỳ, tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp
với số thuế tính cho người tiêu dùng cuối cùng. Do đó, các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
dù qua nhiều khâu hay ít khâu trong quá trình kinh doanh đều chịu thuế như nhau. Số
thuế này sẽ do các tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ (gọi chung là người
tiêu dùng) chịu thuế dưới dạng trả tiền mua hàng hóa, dịch vụ. Tiêu dùng hiểu theo
nghĩa rộng chung của xã hội bao gồm dùng cho sản xuất, kinh doanh, dùng cho các
hoạt động không kinh doanh và tiêu dùng cá nhân.
Trái lại, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được đánh
thuế, gọi chung là cơ sở kinh doanh (CSKD) phải nộp thuế GTGT thông qua việc mua
hàng hóa, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh. Thực chất chỉ là việc trả (nộp) trước
thuế GTGT, khoản thuế này sẽ được chuyển tiếp tới người tiêu dùng. Vì vậy, CSKD
đóng vai trò là người thu và nộp thuế GTGT vào NSNN thay cho người tiêu dùng.
Thuế GTGT có tính trung lập cao. Tính trung lập thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Một là, thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người
nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp hộ khoản
thuế này vào NSNN. Do vậy, thuế GTGT không phải là yếu tố chi phí sản xuất mà chỉ
đơn thuần là một khoản thu được cộng vào giá bán của người cung cấp hàng hóa, dịch
vụ.
5
+ Thứ hai, thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia
quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số thuế
tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.
1.1.3. Chức năng của thuế GTGT trong nền kinh tế.
1.1.3.1. Chức năng tái phân phối thu nhập xã hội.
Xuất phát từ bản chất, chức năng hàng đầu của thuế là tái phân phối thu nhập xã
hội – còn gọi là chức năng thu ngân sách. Thông qua chức năng này, thuế động viên
một phần thu nhập của khu vực tư tạo nên thu nhập nhà nước. Tính cần thiết của quá
trình này được minh chứng qua thực tiễn là khu vực tư không thể cung cấp hoặc cung
cấp kém hiệu quả những sản phẩm công cộng bởi hoạt động sản suất và trao đổi sản
phẩm giữa doanh nghiệp và hộ gia đình diễn ra theo cơ chế thị trường. Do đó, trong
nền kinh tế thị trường, nếu thiếu vắng hoạt động của chính phủ thì các cá nhân và hộ
gia đình thu nhập thấp không có cơ hội thụ hưởng lợi ích tối thiểu của đời sống cộng
đồng. Một mặt, nhà nước cung cấp các dich vụ phúc lợi công cộng như : y tế, giáo dục,
trợ cấp xã hội, hưu bổng...Mặt khác, bằng nhiều chính sách, nhà nước can thiệp trực
tiếp vào kinh tế nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động hữu hiệu của khu vực
tư. Nguồn vật chất dồi dào, chắc chắn và thường xuyên để tài trợ cho các họat động
này chỉ có thể đến bằng cách đánh thuế vào khu vực tư .
1.1.3.2. Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô.
Cũng trong bối cảnh kinh tế thị trường, chức năng thứ nhất – tái phân phối, của
thuế mở đường chức năng thứ hai: điều tiết kinh tế vĩ mô. Khi đó thuế trở thành một
tác nhân của quá trình tái sản xuất xã hội. Trước hết, thuế tác động vào tổng cầu, làm
thay đổi thu nhập khả dụng tại khu vực tư, qua đó gián tiếp tác động đến tổng cung
(GDP). Ngoài ra thuế còn tác động đến tốc độ tăng trưởng GPD và các nhân tố sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu GDP, điều tiết xuất nhập khẩu và chính sách kinh tế đối ngoại,
thu hút đầu tư trong và ngoài nước,…
Chức năng tái phân phối thu nhập chỉ ra chiều hướng vận động thu nhập từ khu
vực tư đến khu vực công. Chức năng điều tiết kinh tế cho thấy hướng tác động bằng
công cụ thuế từ nhà nước xuống doanh nghiệp và hộ gia đình. Chức năng thứ nhất tạo
điều kiện thực hiện chức năng thứ hai. Tuy nhiên, ở những giai đoạn kinh tế phát triển
nhất định, lạm dụng chức năng tái phân phối thu nhập theo hướng chỉ có lợi cho nhà
6
nước sẽ đần thủ tiêu động lực kích thích phát triển của khu vực tư, và đồng nghĩa với
việc vô hiệu hóa chức năng điều chỉnh kinh tế của thuế. Mặt khác, thực tế cũng cho
thấy, nếu dùng thuế điều tiết kinh tế bằng việc ấn định thuế suất phân biệt quá mức
giữa các ngành, nghề thì có thể dẫn đến hành vi đầu tư kém hiệu quả chỉ vì lựa chọn
thuế suất thấp. Do đó, quá trình vận dụng hai chức năng trên đòi hỏi phải thích ứng
từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội.
1.2. Vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế.
1.2.1. Thuế GTGT tạo số thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước.
Với mục đích tìm nguồn vật chất tài trợ công chi, chính phủ có thể sử dụng nhiều
phương thức ngoài thuế, như: quyên góp dân chúng, xin viện trợ từ nước ngoài, vay
trong và ngoài nước, cho thuê công sản, bán tài nguyên thiên nhiên khai thác được, đầu
tư kinh doanh,phát hành tiên,…. Song chúng không thể tạo ra số thu vừa dồi dào, bền
vững vừa kịp thời cho nhà nước. Chỉ duy nhất thuế tạo được nguồn thu như vậy. Từ đó
khẳng định, tạo nguồn thu chủ yếu cho nhà nước là vai trò độc tôn của thuế.
Để thật sự giữ đúng vai trò tạo số thu quan trọng nhất vào ngân sách nhà nước,
thuế phải bao quát mọi hoạt động kinh doanh: chế biến, sữa chữa, chế tạo, khai thác,
xây dựng, vận tải, buôn bán, ăn uống, dịch vụ…, mọi nguồn thu nhập: thường xuyên,
không thường xuyên, và mọi hoạt động tiêu dùng xã hội. Một nền tài chính quốc gia
chỉ lành mạnh khi dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ nền kinh tế. Nguồn thu đó chính
là thu nhập quốc dân nội địa. Mọi sự trông cậy, dựa vào bên ngoài điều mang lại những
hậu quả xấu và kéo dài.
Nhằm đảm bảo nguồn vật chất cung ứng kịp thời cho nhu cầu chi thường xuyên,
ngay cả khi nền kinh tế có những biến động không thuận lợi, thuế gián thu cần luôn
được coi trọng, bởi tính ổn định của nó tốt hơn tính ổn định của thuế trực thu. Thuế
gián thu dựa trên cơ sở tiêu dùng xã hội mà xã hội thì không thể ngừng tiêu dùng cho
dù nền kinh tế bị khủng hoảng. Việc coi trọng thuế gián thu còn xuất phát từ nguyên
lý: đánh thế vào những gì mà người chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ có tác dụng tốt hơn
là đánh vào những gì mà đối tượng chịu thuế nhập vào cho xã hội. Hơn nữa, do cơ chế
đánh thuế lồng vào giá bán nên thuế gián thu sẽ được người chịu thuế dễ dàng chấp
nhận, đôi khi còn ‘kiêu hãnh’ khi trả giá cho sự tiêu dùng cao cấp của mình. Thuế
GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức,
7
cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa, hoặc được dung ứng dịch vụ, nên có thể tạo
được nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội được động viên để hình thành
ngân sách nhà nước. Tuy nhiên nếu nhà nước dùng sức mạnh để tái phân phối quá mức
GDP thì phần thuộc về doanh nghiệp và gia đình giảm xuống. Họ sẽ cảm thấy công sức
bỏ vào kinh doanh ngầm nhằm trốn thuế hoặc chấm dứt kinh doanh. Nói cách khác,
nếu nhà nước ngày càng tăng áp lực thu, người nộp thuế càng bị thôi thúc trốn thuế bởi
một mãnh lực vô hình. Do đó, khi tái phân phối thu nhập xã hội bằng thuế phải chú ý
đến khả năng thụ thuế của từng doanh nghiệp và cá nhân.
Khả năng thụ thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà doanh nghiệp và người dân sẵn
sàng trích ra để trả thuế mà không làm thay đổi hoạt động vốn của họ. Đứng ở góc độ
nền kinh tế quốc dân, khả năng thụ thuế của một đất nước cho thấy tỷ phần bình quân
của thu nhập xã hội được động viên thông qua thuế.
Khả năng thụ thuế tùy thuộc vào bản chất và trạng thái kinh tế, truyền thống của
mỗi quốc gia, sự hiểu biết và thái độ của dân chúng đối với các chương trình hành
động và sức mạnh quyền lực của nhà nước. Khả năng thụ thuế là một khái niệm lý
thuyết được dùng để phân định ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa khu
vực công và khu vực tư. Nếu nhà nước động viên thuế chưa đạt giới hạn khả năng thụ
thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay nhà nước chưa thật đầy đủ. Nếu nhà nước
động viên vượt giới hạn khả năng thụ thuế thì sẽ bào mòn khả năng tích lũy tái sản
xuất mở rộng tại doanh nghiệp và làm giảm sút số thu tương lai.
1.2.2. Thuế GTGT tham gia điều chỉnh kinh tế vĩ mô.
Bất kỳ loại thuế nào khi được ban hành đều ảnh hưởng đến các hành vi của doanh
nghiệp và người tiêu dùng, bởi nó động viên một phần thu nhập của những người này
vào tay nhà nước. Ngoài ra, thuế tác động trực tiếp đến các thành tố chính của kinh tế
vi mô như: tổng sản lượng kinh tế (GDP hoặc GNP), giá cả, lãi suất, thặng dư hoặc
thâm hụt ngoại thương,… Thuế còn giữ một vị trí quan trọng trong các chính sách lớn
của chính phủ: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tạo việc làm, chính
sách ngoại thương, chính sách tiêu dùng – tiết kiệm – đầu tư xã hội…
Như vậy, thuế không chỉ tạo khoản thu chủ yếu cho Nhà nước mà còn được dùng
như một công cụ điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô. Có thể nói, thông qua thuế
8
chính phủ bày tỏ quan điểm, chủ trương và hành động của mình đối với chương trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Tác động của thuế lên hoạt động kinh tế những đặc trưng:
- Phạm vi rộng: thuế bao trùm lên mọi hành vi kinh doanh trên toàn lãnh thổ;
- Trực tiếp: Thuế tác động thẳng vào chi phí, giá cả và thu nhập;
- Nhạy cảm: Thuế tác động vừa tức thời vừa lâu dài đến động thái kinh doanh,
hành vi đầu tư và tiêu dùng.
Vai trò kích thích kinh tế của thuế thể hiện đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Ở đây chỉ
trình bày một số tác động cơ bản của thuế đến hoạt động kinh tế và hành vi của người
tiêu dùng.
1.2.2.1. Thuế GTGT tác động đến cân bằng thị trường.
Khi chính phủ đánh thuế, ngay lập tức, một áp lực xuất hiện và chi phối doanh
nghiệp và dân chúng, khiến họ ít nhiều thay đổi hành vi của mình. Tác động này ảnh hưởng đến cân bằng thị trường như sau. Gọi PS là giá cung – giá mà người bán nhận được, Pd là giá cầu – giá mà người mua trả cho người bán. Việc đặt ra các loại thuế như
thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ tạo ra một khoảng chênh lệch giữa giá cung và giá
cầu. Giả sử ta xét thuế GTGT và gọi t là thuế suất thì quan hệ giữa giá cung và giá cầu
như Hình 1.1
Pd = PS + t.PS = PS + T Hoặc Pd = PS(1+t)
Hình 1.1 Tác động của thuế đến cân bằng thị trường.
Thuế(T)
(S1)=(S0)+T
1
A (S0)
C B
Giá Pd P0 Ps1
E
Lượng
(D)
Q1 Q0
Trước khi đánh, cân bằng thị trường tại B (Qo, Po). Sau khi đánh thuế, đường
cung dịch chuyển lên một đoạn đúng bằng số tiền thuế.
9
1). Sản lượng được mua, bán giảm một lượng Q. giá mà người mua thanh toán cho người bán tăng từ P0 lên Pd
1.
1. Giá mà người bán nhận được giảm từ P0 xuống Ps
1 = Ps
1 + T (T là số tiền thuế: T = t.P)
1PS
1E.
(S1) = (S0) + T Cân bằng mới trên thị trường được thiết lập tại A (Q1, Pd
1E. Phần
Ta vẫn có: Pd Tổng số thuế Nhà nước thu là diện tích hình chữ nhật APd Phần gánh chịu thuế (tax incidence) bởi người bán là diện tích CP0Ps
1P0C. Người này hoặc người kia gánh
gánh chịu thuế bởi người mua là diện tích APd
chịu thuế nhiều hay ít phụ thuộc nhiều vào độ co giãn của cầu và cung theo giá.
Thặng dư của người tiêu dùng (consumer surplus) bị giảm là diện tích ABC.
Thặng dư của người sản xuất (producer surplus) bị giảm là diện tích BCE. Tổng thặng
dư của hai người bị mất đi hoàn toàn không thuộc về ai cả, gọi là phần bị mất trắng
(deadweight loss) hay mất mát xã hội (social loss). Phấn mất trắng do thuế gây ra là
diện tích ABE. Độ lớn của phần mất trắng cũng phụ thuộc vòa độ co giãn của cầu vào
cung theo giá.
Trong thuế gián thu, người chịu ảnh hưởng đầu tiên là các doanh nghiệp, sau đó
thuế được chuyển qua nhiều bậc đến người tiêu dùng, tạo hiện tượng chuyển thuế.
Chuyển thuế xảy ra theo một trong ba trường hợp. một là, doanh nghiệp chuyển hết
thuế vào người tiêu dùng bằng cách cộng thuế vào giá bán và người tiêu dùng mua với
giá cao hơn. Trường hợp này gọi là thuận chuyển. Hai là, doanh nghiệp chuyển một
phần thuế vào người tiêu dùng, nghĩa là gánh nặng thuế được san sẽ giữa hai người. Ba
là, doanh nghiệp chịu toàn bộ gánh nặng thuế, tức là người mua chuyển tất cả số thuế
ngược lại cho người bán bằng cách mua giá thấp. Trường hợp này gọi là nghịch
chuyển. Ranh giới giữa chuyển thuế nghịch và chuyển thuế thuận không phải lúc nào
cũng mang ý nghĩa tuyệt đối mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác (độ co giãn của
cung, cầu théo giá, cơ chế đánh thuế,…). (Nguồn: Tài liệu tham khảo số 5).
1.2.2.2. Thuế GTGT tác động đến yếu tố sản xuất.
Thuế GTGT tác động trực tiếp đến việc sử dụng tư liệu lao động, nhất là tài sản
cố định. So với tài sản lưu động, tài sản cố định đóng vai trò nền tảng của sản xuất, có
giá trị đầu tư lớn nên chậm luân chuyển và kém linh hoạt. Do đó, để khuyến khích các
10
doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa công nghệ, nghiên cứu ứng dụng
thành tựu mới của khoa học – kỹ thuật,... các quốc gia thường dùng chính sách thuế ưu
đãi trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với tài sản cố định
nhập khẩu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được hoặc các loại vật tư hình thành
nên tài sản cố định; miễn thuế GTGT cho các hoạt động của quỹ đầu tư, hoạt động cho
thuê tài chính, qua đó khuyến khích đổi mới công nghệ tại các đơn vị sản xuất.
Cùng với tài sản cố định, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất cũng được hưởng
nhiều ưu đãi hoặc bảo hộ bằng thuế của Nhà nước, như miễn thuế GTGT đối với các
nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; nếu nguyên liệu sản xuất được
trong nước thì Nhà nước cho hưởng chính sách bảo hộ. Tuy nhiên, cũng cần chú ý mặt
tiêu cực khi bảo hộ quá mức: làm suy giảm tính cạnh tranh và có thể gây ra tình trạng
độc quyền.
Thuế cũng tác động đến quá trình cung cấp một yếu tố đầu vào khác rất quan
trọng cho nền kinh tế, đó là vốn. Để khuyến khích quá trình cung ứng vốn, các quốc
gia thường miễn thuế GTGT đánh vào dịch vụ tài chính, tín dụng, quỹ đầu tư, cho thuê
tài chính và chuyển nhượng vốn góp…
Việc khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện
đại hóa, chuyên môn hóa sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá
thành sản phẩm.
Thuế GTGT tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền
kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, qua đó kích thích đầu tư.
1.2.2.3. Thuế GTGT tác động đến ngoại thương.
Với thuế suất 0% cho hàng hóa xuất khẩu, toàn bộ thuế GTGT đầu vào được
hoàn trả lại đơn vị xuất khẩu, có tác dụng giảm chi phí, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều
kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. Đây là một
động lực mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu mà không một sắc thuế nào có thể tạo
ra.
Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn với hàng nhập khẩu,
có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa.
1.2.3. Thuế GTGT tác động đến ý thức xã hội.
11
Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp
thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện
cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Từ đó, tạo được
tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vụ kinh doanh không phải hiệp thương, thỏa thuận về
mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt
thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu giữ chứng từ, hóa đơn đầy
đủ, nên việc thu thuế tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu
trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hóa đơn mua vào đã thúc đẩy người mua
phải đòi hỏi người bán xuất hóa đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán; khắc
phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. Ở
khâu bán lẻ, thường xảy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hóa đơn, vì
đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế.Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá
trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều.
1.2.4. Thuế GTGT điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân
phối.
Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, việc phân phối của cải và thu nhập mang
tính tập trung rất cao, tạo hai cực đối lập: cực thứ nhất gồm thiểu số người giàu một
cách nhanh chóng; cực kia là những người còn lại không đạt được mức tiến bộ nào
đáng kể về mức sống. Tình hình trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công
bằng xã hội mà còn tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư,
làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế, sự phát triển mọi
mặt của một đất nước là kết quả của nỗ lực cộng đồng; mỗi thành viên xã hội đều có
những đóng góp nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi
người thì rõ ràng thiếu công bằng. Do vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào
quá trình phân phối thu nhập, của cải xã hội. Một công cụ tác động trực tiếp vào quá
trình này là chính sách thuế.
Thuế GTGT góp phần điều hòa thu nhập xã hội được thực hiện. Tuy nhiên do đặc
tính lũy thóai nên nhà nước can thiệp vào bằng cách quy định về đối tượng chịu thuế
và đối tượng không chịu thuế, chế độ miễn giảm, thuế suất …. nhằm thực hiện công
bằng xã hội.
12
Nhìn chung, trong các sắc thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp
thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao về vai trò trong phát triển kinh tế.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng thuế GTGT hướng vào kích thích kinh tế.
1.3.1. Tính minh bạch.
Về mặt xã hội nguyên tắc này đòi hỏi các quy định về thuế phải rõ ràng và mang
tính đại chúng nhằm ngăn ngừa hiện tượng lạm dụng đối với người nộp, ngăn ngừa
hiện tượng tham ô và biển lận thuế ở nhân viên thuế, đồng thời cho thấy thái độ tôn
trọng người nộp thuế của chính phủ. Trong kinh doanh, thuế là một khỏan chi phí
(nghĩa vụ) nhưng cũng có thể là một khoản ưu đãi (quyền lợi). Do đó, sự rõ ràng của
thuế giúp các chủ thể kinh doanh hoạch định chính xác mọi chi phí về thuế và đánh
giá đầy đủ ưu đãi của thuế. Từ đó, họ cảm thấy yên tâm sản xuất, kinh doanh và mạnh
dạn đầu tư lâu dài.
Nguyên tắc minh bạch thể hiện cụ thể qua các điểm sau:
- Thuế phải được xây dựng theo một trình tự pháp lý nghiêm ngặt.
- Nhà nước và các cơ quan hành thu phải tạo điều kiện để doanh nghiệp và dân
chúng thực hiện quyền được biết một cách minh bạch số tiền thuế phải nộp, thủ tục
thu, nộp thuế, ưu đãi về thuế, …
- Những quy định về thuế phải phổ thông và nhất quán; tính toán thuế phải đơn
giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra. Điều mà bất kỳ người nào cũng nhận thức được là để
chấp nhận được một sắc thuế, người nộp thuế phải hiểu được nó. Khi mà tính phức tạp
của sắc thuế mới gia tăng so với sắc thuế cũ thì sự hiểu biết của quần chúng giảm
xuống, kết quả tất yếu là cản sự tăng của số thu.
- Thuế thu phải thuận tiện cho người nộp theo thời gian và không gian.
1.3.2. Tính hiệu quả.
Nguyên tắc hiệu quả yêu cầu đối xử thuế như một công cụ kinh tế nhằm tăng
cường vai trò của thuế đối với các hoạt động kinh tế-xã hội.
Một hệ thống thuế gọi là hiệu quả khi được phát huy tối đa mọi tác dụng. Tác
dụng của thuế ngày nay không chỉ giới hạn ở chỗ tạo khoản thu chủ yếu cho nhà nước,
mà còn được sử dụng để tác động vào mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội.
Nói khác đi, thuế là một công cụ thuộc chính sách tài chính vĩ mô chứa đựng nhiều
mục tiêu: tạo số thu ngân sách nhà nước, tăng cường quản lý các hoạt động kinh tế-xã
13
hội, điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
toàn diện, tạo hành lang cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, khuyến khích
đầu tư và tiết kiệm bên trong nền kinh tế, điều tiết hợp lý thu nhập của các doanh
nghiệp và mọi tầng lớp dân cư,…. Tính đa mục tiêu không đòi hỏi mỗi sắc thuế phải
được xây dựng theo hướng đa mục tiêu bởi như thế sẽ cồng kềnh và kém hiệu quả, mà
trái lại, cần phải chuyên biệt hóa mục tiêu cho từng sắc thuế.
Thêm nữa, hiệu quả của hệ thống thuế còn thể hiện thông qua chi phí hành thu
thấp. Chi phí này khác nhau ở mỗi sắc thuế, nhưng bình quân không nên vượt 1% số
thuế thu được. Tiết giảm chi phí thu thuế liên quan nhiều đến phương pháp hành thu.
Phương pháp tương đối tiết kiệm chi phí là để người nộp thuế tự khai, tự tính và nộp
thuế.
Trên phương diện nền kinh tế, phải tính vào chi phí thu thuế những chi phí mà xã
hội mất đi cho một đồng thuế thu được vào ngân sách nhà nước. Đó là chi phí thời gian
và công sức mà đối tượng nộp thuế phải bỏ ra để nghiên cứu thực thi thuế, là chi phí
sắp xếp quá trình kinh doanh phù hợp những quy định thuế mới.
1.3.3. Tính công bằng.
Trên phương diện kinh tế, nguyên tắc công bằng đòi hỏi thuế tái phân phối thu
nhập xã hội theo khả năng tài chính của người chịu thuế. Về mặt xã hội, nguyên tắc
công bằng đòi hỏi thuế không được phân biệt đối xử đối tượng nộp thuế và thuế phải
góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Nguyên tắc công bằng có liên quan đến nguyên tắc thuế trung lập. Nguyên tắc
thuế trung lập đòi hỏi nhà nước không được nhân cơ hội đánh thuế để làm thay đổi
tương quan thu nhập giữa các doanh nghiệp hoặc tình trạng kinh tế của mỗi công dân.
Thuế chỉ nên làm số thu nhập thường xuyên của tư nhân giảm xuống, rồi đến khi chi
tiêu, nhà nước hoàn lại cho cá nhân bằng lợi ích của các dịch vụ do chính phủ cung
cấp.
Không chỉ hành thu thuế sao cho công bằng, mà ngay cả động viên bao nhiêu
phần trăm GDP qua thuế cũng là một vấn đề thuộc lĩnh vực công bằng. Nhà nước nắm
quyền lực lượng công cộng, nên chiếm ưu thuế khi phân chia thu nhập với doanh
nghiệp và dân cư. Nếu nhà nước thu thuế vượt qua khả năng thụ thuế của doanh nghiệp
và dân cư thì không những chi phí để thu một đồng thuế sẽ vượt quá lợi ích do đồng
14
thuế mang lại mà còn gây căng thẳng trong phân chia thu nhập giữa khu vực tư và khu
vực công. Điều này chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ đến bầu không khí kinh doanh
trên phạm vi cả nước.
Thuế GTGT là một loại thuế có tính chất lũy thoái và như vậy, tính công bằng
của thuế GTGT được đề ra khó có thể được đáp ứng đầy đủ. Ở đây, cần nên hiểu tiêu
chuẩn này đối với thuế GTGT trên nghĩa hẹp là: các doanh nghiệp trong hoàn cảnh như
nhau phải chịu thuế như nhau và các doanh nghiệp có khả năng thanh toán khác nhau
phải bị đánh thuế khác nhau khi chịu thuế GTGT.
1.3.4. Tính linh hoạt.
Nguyên tắc linh hoạt đòi hỏi thuế gắn chặt hoạt động kinh tế, phản ánh thực sự
những thăng trầm kinh tế và những biến động chính trị, xã hội. Tính linh hoạt thể hiện
qua độ nổi và độ co giãn của thuế (tax bouyancy and tax eláticity).
+ Độ nổi của thuế là tỷ số giữa phần trăm thay đổi tổng số thuế thu được với phần trăm thay đổi GDP. Gọi % T là phần trăm thay đổi của tổng thu thuế năm nay so với
năm trước và % Y là phần trăm thay đổi GDP năm nay so với năm trước, thì độ nổi
của thuế được tính như sau:
Độ nổi của thuế = % T / % Y
Chẳng hạn, = % T là 7%và % Y là 5% thì độ nổi của thuế là 1,4. Điều này có
nghĩa là cứ 1% tăng GDP thì tổng thu thuế tăng 1,4%. Khi đó ta nói hệ thống thuế
mang tính nổi: thuế được coi như chiếc lá trên mặt nước là nền kinh tế. Nếu những
thay đổi về cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả hai khiến tổng thu thuế tăng theo nhịp độ
bằng hoặc lớn hơn nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế thì khi đó chiếc lá – thuế sẽ nổi
trên bề mặt của nền kinh tế. Nếu những thay đổi về cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả
hai không làm tổng thu thuế gia tăng hoặc tăng không kịp GDP thì chiếc lá – thuế không nổi được ( độ nổi 1 ). Như vậy, độ nổi phản ánh độ quyện chặt của thuế vào
hoạt động kinh tế.
Miễn, giảm thuế sẽ gây ảnh hưởng nguy hiểm đến độ nổi của thuế. Tức là, nếu
căn bản thuế bị sói mòn do quy định này thì số thuế thu được không thể tăng cùng một
tỷ lệ GDP. Hơn nữa, sự lạm dụng chính sách đó sẽ làm suy yếu tính cưỡng chế của
thuế và gây ra trạng thái bất bình đẳng thuế.
15
+ Độ co giãn của thuế là tỷ số giữa phần trăm thay đổi tổng thu thuế với phần
trăm thay đổi GDP. Tổng thu thuế dùng để tính độ co giãn không được bao gồm các
khoản thu do thay đổi cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả hai. Độ co giãn của thuế là một số đo nhạy cảm của thuế trước những thay đổi của nền kinh tế. Gọi % T* là phần
=
trăm thay đổi tổng thu thuế không tính đến thay đổi cơ sở thuế hoặc thuế suất hoặc cả hai và % Y là phần trăm thay đổi GDP, độ co giãn của thuế được tính như sau.
Δ *% T Δ Y %
Độ co giãn của thuế =
Độ co giãn thuế khó tính hơn độ nổi của thuế bởi phải loại trừ thay đổi cơ sơ thuế
hoặc thuế suất hoặc cả hai. Độ co giãn thuế thường nhỏ dưới độ nổi của thuế.
Như vậy, tình trạng không nổi được hoặc nổi quá mức của thuế phản ánh tình
trạng thuế thoát ly hoạt động kinh tế. Khi đó không thể bàn đến vai trò kích thích kinh
tế của thuế.
Ngoài độ nổi và độ co giãn, nguyên tắc linh hoạt còn đòi hỏi khi đưa ra các quy
định, pháp luật thuế phải tiên liệu mọi phát sinh hay thay đổi của căn bản thuế, khi đó
thuế sẽ đạt một độ ổn định trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy chính sự
linh hoạt của thuế làm cho những quy định về thuế ổn định. Điều này, không chỉ giúp
nhà nước tiết kiệm chi phí hành thu mà còn giúp các doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể
thời gian và công sức cho việc thực thi thuế.
1.3.5. Tính chắc chắn.
Tiêu chuẩn này đòi hỏi thuế GTGT phải ổn định tương đối, có thể dự kiến trước
được để cho người nộp thuế - bao gồm các thể nhân và pháp nhân- không phải do đối
phó thường xuyên với nhà nước về việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế mà có thể tập
trung vào các hoạt động nhằm thăng tiến hoạt động kinh doanh hoặc cá nhân. Một mô
hình thuế GTGT đáp ứng được tiêu chuẩn chắc chắn này phải có những đặc điểm sau:
Thuế suất phải được ổn định cho một khoảng thời gian dài ít nhất là 5 năm.
Thời hạn này trong nhiều trường hợp có thể là yên tâm các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả và đó cũng là khoảng thời gian tương đối vừa đủ cho các doanh nghiệp hoạt
động kém phải cảnh giác với tương lai phá sản đang tới.
Tính chất ổn định và rõ ràng, tuy vậy cũng không nên đối lập hẳn với tính linh
hoạt của hệ thống thuế. Bởi nền kinh tế là một thể thống nhất, luôn luôn vận động và
16
tạo ra những môi trường mới cho việc cải cách thuế. Cả hai tính chất chắc chắn và linh
hoạt cần được cân đối với nhau. Tính linh hoạt được đặt ra bởi các lý do về mặt kinh tế
và cả về mặt chính trị quyết định. Nếu một chính sách về thuế GTGT được sử dụng để
ổn định nền kinh tế thì nó phải có được khả năng làm thay đổi thuế suất và nguồn thu
nhằm điều chỉnh được thu nhập hiện tại cũng như tác động đến tổng mức cầu.
1.4. Một số mâu thuẫn nảy sinh khi sử dụng công cụ thuế trong phát triển kinh
tế.
1.4.1. Mâu thuẫn giữa tăng thuế để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên ngày càng
tăng và chủ động giảm thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư.
Mặc dù thuế mang tính cưỡng chế song không thể gia tăng vô hạn áp lực thuế lên
các DN và cá nhân bởi điều này sẽ làm họ trốn tránh kinh doanh công khai và chuyển
sang kinh doanh ngầm. Rõ là, tác động gia tăng thu nhập từ tăng thuế không bù đắp
được những thiệt hại do đã làm DN và nhà đầu tư nản chí. Cho nên tổng thu thuế vào
ngân sách không tăng. Trái lại, trong nhiều trường hợp, cắt giảm thuế sẽ có tác dụng
kích cầu, kéo theo là sự gia tăng đầu tư ở khu vực tư và kích thích GDP tăng trưởng.
Hơn nữa, nếu áp lực thuế giảm xuống thì người nộp thuế sẽ dễ chấp nhận hơn và
không tìm cách trốn thuế nữa bởi chi phí cơ hội của hành vi trốn thuế quá cao. Từ đó,
họ “tự nguyện” nộp thuế, tức là họ hành động theo lý tính.
Một khi chế độ thuế khiến người nộp thuế hành động theo lý tính, thì mâu thuẫn
nói trên sẽ được hóa giải.
1.4.2. Mâu thuẫn giữa chủ trương hội nhập các khối thương mại, kinh tế trong
khu vực và trên thế giới với chính sách bảo hộ sản xuất nội địa.
Mỗi nước đối với cộng đồng vừa là người bán vừa là người mua, nên sự tồn tại
của các nước cần thiết cho nhau. Mỗi nước không thể phát triển mạnh mẽ và bền vững
nếu dựa trên các quan hệ kinh tế bất bình đẳng, xâm hại lợi ích của nhau. Khi hiểu tính
liên kết để tồn tại là một tất yếu, chúng ta sẽ thấy rằng chính sách thuế đương nhiên là
những bước dẫn nhập đầu tiên cho quá trình hội nhập. Trong quá trình này thuế tạo sân
chơi bình đẳng cho cả DN nội địa lẫn nước ngoài và không phân biệt đối xử hàng trong
nước hay hàng nhập khẩu. Muốn tồn tại, các DN chỉ còn một cách duy nhất là cạnh
tranh đúng luật bằng chính nội lực của mình, chứ không thể trông chờ Nhà nước bảo
hộ bằng thuế như trước.
17
Đồng thời, nếu không có chính sách bảo hộ sản xuất nội địa thì các ngành công
nghiệp non trẻ của quốc gia (như: công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học, công
nghiệp vật liệu mới, công nghiệp thông tin, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng) khó
đứng vững trước những đợt cạnh tranh gay gắt từ nước ngoài. Nhưng nếu dùng thuế để
bảo hộ lâu dài, một quốc gia sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài và chắc chắn bị tụt hậu.
Mâu thuẫn này được khắc phục bằng cách thay đổi cơ cấu thuế theo hướng nội
địa hóa nguồn thu, tức là từng bước giảm thấp tỷ trọng thuế xuất – nhập khẩu trong
tổng thuế.
1.4.3. Mâu thuẫn giữa chủ trương ưu đãi thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư
với chủ trương tạo hành lang thuế bình đẳng, trung lập.
Chính sách thuế ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng tích cực
đến thu hút đầu tư vào các quốc gia. Nhưng càng về sau, bất kể Chính phủ tăng nhiều
biện pháp ưu đãi như: kéo dài thời gian giảm thuế, mở rộng diện miễn thuế nhập
khẩu,… tình hình đầu tư nước ngoài vẫn không nhộn nhịp như giai đoạn trước. Tình
hình trên cho phép nhận định rằng, nếu chỉ chú trọng đến thuế mà bỏ qua các công cụ
kinh tế mà hành chính khác thì không những chưa đủ hiệu lực để lôi kéo trở lại nhà đầu
tư nước ngoài mà còn cản trở sự phát triển của đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nội địa
bị đối xử bất bình đẳng lâu dài ngay trên đất nước của mình là một nghịch lý khó biện
minh. Vậy giải quyết như thế nào giữa ưu đãi thuế để thu hút đầu tư nước ngoài và
bình đẳng thuế để khơi nguồn vốn nội địa?
Ba mâu thuẫn nói trên thực chất xuất phát từ mâu thuẫn giữa tính hiệu quả và tính
công bằng (efficiency vs equity) trong quá trình sử dụng thuế. Chúng đòi hỏi phải chọn
lựa và bắt buộc chấp nhận đánh đổi. Cơ sở lý luận cho sự đánh đổi những phân tích về
hiệu quả (chứ không phải kết quả) và chi phí của một biện pháp thuế đưa ra.
1.5. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới khi áp dụng thuế GTGT.
Người đầu tiên nghĩ ra thuế GTGT là ông Carl Friedrich Von Siemens (người
Đức, là thành viên của gia đình sáng lập Công ty Siemens A.G), tuy nhiên, ông không
thuyết phục được chính phủ Đức lúc bấy giờ (1918) thực thi loại thuế này, mà mãi đến
năm 1968 thuế GTGT mới được áp dụng ở Đức.
Trên thực tế, thuế GTGT được khai sinh từ nước Pháp. Vào năm 1954, chính
phủ Pháp đã ban hành một loại thuế mới với tên gọi là thuế GTGT để thay thế cho thuế
18
doanh thu hiện hành (phát hiện sự cần thiết đưa thuế GTGT vào hệ thống thuế Pháp là
ông Maurice Laure, một cán bộ thuế).
Tính đến nay đã có trên 120 quốc gia trên thế giới đã áp dụng sắc thuế này. Tuy
nhiên, về tên gọi ở một số nước có thể không giống nhau, chẳng hạn như: các nước
Pháp, Anh, Thụy Điển…. thì gọi là thuế GTGT, một số nước gọi là thuế hàng hóa và
dịch vụ như: Canada, Niu di lân…, ở Phần Lan, Áo, Đức…. vẫn dùng tên gọi cũ là
thuế doanh thu cũ, chỉ thay đổi nội dung và biện pháp thu.
Khi nói đến kinh nghiệm là phải dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nhưng tổng
kết kinh nghiệm áp dụng thuế GTGT của các nước là việc khó thực hiện. Trong nội
dung phần này, đề tài cũng chỉ nêu lên những nét cơ bản của Luật thuế GTGT được áp
dụng ở một số nước trên thế giới, qua đó rút ra những điểm cơ bản về nội dung có thể
vận dụng vào điều kiện của Việt Nam hiện nay.
1.5.1. Kinh nghiệm ở Thụy Điển về việc qui định áp dụng một thuế suất.
Ngay từ khi áp dụng thuế GTGT (01/01/1960), Thụy Điển đã áp dụng một thuế
suất là 4%, sau đó lại mở rộng áp dụng ba mức thuế suất là 4%, 12%, 20%. Nhưng kể
từ ngày 01/01/1991 cho đến nay, Thụy Điển áp dụng một thuế suất duy nhất là 25%,
đánh vào tất cả các hàng hóa, dịch vụ (trừ những loại ngành hàng và dịch vụ qui định
được miễn thuế GTGT như giáo dục, dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hội họa,
mỹ thuật, sách báo, tạp chí, dịch vụ tang lễ…).
Như vậy, xu hướng thuế suất của Thụy Điển là ngày càng cao và ít thuế suất,
không phân biệt ngành hàng, mặt hàng. Tuy nhiên, điều kiện áp dụng của Thụy Điển là
hệ thống thuế của họ đã có từ lâu đời, được tổ chức tập trung, thống nhất và việc thu
thuế đã trở thành nề nếp, áp dụng kỹ thuật hiện đại. Hơn nữa, Thụy Điển là một nước
có nền kinh tế phát triển cao, nhân dân Thụy Điển đã quen với sự quản lý nhà nước
bằng Pháp luật, tinh thần tự giác chấp hành luật thuế rất cao, các cơ sở nộp thuế GTGT
luôn chấp hành tốt chế độ kê khai và mở sổ sách kế toán, sử dụng hóa đơn đầy đủ.
Ở Việt Nam, hiện nay với một nền kinh tế phát triển chưa cao, ý thức chấp hành
pháp luật còn thấp. Do đó, khi rút kinh nghiệm cần quan tâm đến các nội dung:
- Nếu quy định nhiều mức thuế suất thì việc áp dụng sẽ rất phức tạp, khó thực
hiện. Vì vậy cần hướng đến một thuế suất GTGT duy nhất và mức thuế suất điều chỉnh
cần hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
19
- Cần phải quan tâm đến công tác tuyên truyền về pháp luật, nhất là pháp luật về
thuế để nâng cao ý thức chấp hành về thuế trong nhân dân khi triển khai thực hịên. Có
như thế thì mới thực hiện thuế GTGT một cách có hiệu quả.
1.5.2. Kinh nghiệm của Indonesia về việc tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT theo
từng bước và mở rộng dần diện chịu thuế.
Trước khi áp dụng thuế GTGT, Indonesia cũng đã vận dụng kinh nghiệm của
những nước đi trước nhưng họ luôn coi trọng đặc điểm kinh tế xã hội ở nước mình để
từng bước thực hiện sao cho phù hợp. Thuế GTGT của Indonesia tương đối đơn giản,
áp dụng ít thuế suất, với thuế suất thấp và các qui định miễn giảm chặt chẽ. Luật thuế
chỉ qui định hai thuế suất: 0% áp dụng đối với xuất khẩu, còn đối với tất cả các loại
hàng, hóa, dịch vụ khác áp dụng thuế suất 10%. Những hàng hóa, dịch vụ miễn giảm
được qui định rất cụ thể.
Thời gian đầu thực hiện triển khai Luật thuế GTGT, do trình độ quản lý của cán
bộ thuế chưa cao và nhận thức của người nộp thuế còn nhiều hạn chế nên để phù hợp
với khả năng nhận thức, Chính phủ Indonesia đã có kế hoạch tổ chức thực hiện thuế
GTGT theo từng bước. Thời gian áp dụng thuế GTGT cho từng đối tượng cụ thể như
sau:
- Năm 1985 áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, dịch vụ và
người nhập khẩu, sau đó mở rộng đến các Tổng địa lý bao tiêu sản phẩm, dịch vụ.
- Năm 1989 áp dụng đến các Địa lý bán buôn.
- Năm 1992 áp dụng đến các cửa hang bán lẻ và người tiêu dùng.
Tóm lại, ở Indonesia đã tổ chức thực hiện luật thuế GTGT theo từng bước và mở
rộng dần diện chịu thuế GTGT, trong thời gian cụ thể sẽ có những đối tượng không áp
dụng thuế GTGT. Có như vậy, cán bộ thuế có đủ thời gian thích nghi với luật thuế mới,
có điều kiện nghiên cứu bổ sung hoàn chỉnh luật thuế phù hợp với thực tế. Tuy nhiên,
điểm yếu của việc điều chỉnh dần đối tượng chịu thuế theo cách triển khai này là dễ
gây ra thất thu cho ngân sách, không đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế.
1.5.3. Kinh nghiệm của Pháp về đối tượng áp dụng thuế GTGT.
Thời gian đầu áp dụng, Luật thuế GTGT áp dụng tại Pháp có 04 thuế suất: 9%,
20%, 25% và 33%, đến nay nhằm phù hợp với thuế suất theo cộng đồng Châu Âu,
Pháp áp dụng còn 02 mức thuế suất là 18,6% đánh vào tất cả các hàng hóa, dịch vụ và
20
5,5% đánh vào các sản phẩm hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa dịch vụ hoặc gia công theo
qui định cụ thể, hàng xuất khẩu sẽ được miễn thuế GTGT. Các đối tượng thuộc diện
nộp thuế GTGT phải thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách, chứng từ hóa đơn đúng qui định,
phải có nghĩa vụ khai báo và nộp thuế cho cơ quan thuế. Ngoài ra, tại Pháp cũng qui
định về thuế khoán thu thuế với mức ấn định áp dụng đối với những cơ sở kinh doanh
thuộc lại vừa và nhỏ có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng chịu thuế GTGT mà
nhà nước qui định.
Như vậy, rút kinh nghiệm từ Pháp, khi thực hiện Luật thuế GTGT, Việt Nam
cần xem xét các vấn đề:
- Chỉ áp dụng thuế GTGT đối với những cơ sở kinh doanh lớn, mở sổ sách kế
toán và sử dụng hóa đơn chứng từ đúng qui định của Luật.
- Đối với những hộ vừa và nhỏ có doanh thu hàng năm thấp không đạt đến
ngưỡng phải đưa vào diện chịu thuế GTGT hoặc vi phạm về chế độ kế toán chứng từ
hóa đơn thì chuyển sang diện thu thuế khoán theo tỉ lệ ấn định trên doanh thu nhằm
tránh việc thất thu đối với các hộ này. Nhà nước phải qui định cụ thể ngưỡng doanh thu
chịu thuế GTGT áp dụng phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh và trình độ phát
triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn.
Từ sự phân tích về những bài học kinh nghiệm của một số nước khi áp dụng
thuế GTGT, chúng ta có thể rút ra những nhận xét chung và có thể coi đó là những bài
học cơ bản để đảm bảo sự thành công của luật thuế GTGT.
Thứ nhất, phải áp dụng thuế GTGT trên phạm vi rộng từ sản xuất, lưu thông
cho đến tiêu dùng không phân biệt hàng hóa sản xuất trong nước hay nhập khẩu. Tuy
nhiên, đối với những cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ có doanh thu hàng năm phát sinh
thấp thì vẫn áp dụng hình thức ấn định thuế không nên đưa vào diện nộp thuế GTGT vì
điều này sẽ dẫn đến hiệu quả quản lý thuế thấp và chưa tập trung.
Thứ hai, chỉ nên áp dụng một hoặc hai thuế suất và trong hai thuế suất đó có
một thuế suất là 0% nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các cơ sở kinh doanh, đảm bảo
được tính đơn giản của Luật thuế và dễ áp dụng.
Thứ ba, phải chú trọng đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về thuế
và nhất là thuế GTGT nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người công dân.
21
Đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện, chúng ta cần phải có kế hoạch cụ thể,
chi tiết phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thứ tư, tăng cường quản lý chặt chẽ hóa đơn, sổ sách kế toán làm cơ sở cho
việc khấu trừ thuế được chính xác, tránh tình trạng gian lận tiền thuế trong khấu trừ và
hoàn thuế GTGT.
Cuối cùng, ngành thuế phải chủ động xây dựng qui trình quản lý thuế khoa học
trên cơ sở sử dụng các công nghệ thông tin hiện đại. Đồng thời, tăng cường công tác
đào tạo huấn luyện các bộ thuế thực hiện thuế GTGT.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Những nghiên cứu về lý thuyết đã chỉ ra rằng thuế GTGT là một sắc thuế tiên
tiến có nhiều chức năng và vai trò quan trọng. Trong đó, xuất phát từ bản chất, chức
năng hàng đầu của thuế là tái phân phối thu nhập xã hội – còn gọi là chức năng thu
ngân sách và chức năng thứ hai: điều tiết kinh tế vĩ mô.
Xu thế các nước chuyển sang áp dụng thuế GTGT ngày càng nhiều, từ những
nước có nền kinh tế phát triển đến những nước kém phát triển như là một minh chứng
cho những ưu việt mà sắc thuế này mang lại cho nền kinh tế cũng như ngân sách nhà
nước.
Tuy nhiên, để phát huy hết ưu điểm này cần phải xây dựng chính sách thuế
GTGT hướng vào kích thích kinh tế dựa trên các nguyên tắc quan trọng là tính minh
bạch, tính hiệu quả, tính linh hoạt, tính công bằng, tính chắc chắn.
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập, thuế GTGT nói riêng và chính sách thuế nói
chung không thể tách khỏi hoạt động kinh tế. Từ một công cụ tài chính – công cụ thu
ngân sách nhà nước; thuế GTGT được sử dụng để trở thành một công cụ kinh tế với
những đặc trưng: toàn diện, trực tiếp và nhạy cảm. Điều này đang được xã hội đón
nhận như một thành tố khách quan của thực tiễn kinh tế.
22
2.1. Khái quát quá trình ra đời của thuế GTGT ở Việt Nam.
2.1.1. Tình hình thí điểm thuế GTGT ở Việt Nam năm 1993.
Căn cứ Nghị quyết của Quốc Hội khóa IX, kỳ họp thứ hai ngày 23/12/1992.
Thuế GTGT được thực hiện thí điểm từ tháng 9/1993. Bước đầu chỉ chọn áp dụng ở
một số DN quốc doanh thuộc các ngành sản xuất có quá trình luân chuyển từ sản xuất
tới tiêu thụ sản phẩm thường phải qua nhiều công đoạn, thuế doanh thu thường tính
trùng lắp, cụ thể là các ngành: Sản xuất xi măng; Sản xuất sợi, dệt; Sản xuất đường;
đối với 11 DN gồm: Cty dệt kim Đông Xuân; Cty dệt vải công nghiệp; Cty dệt Hà
Đông; Nhà máy dệt Đông Phương; Nhà máy dệt Phước Long; Nhà máy dệt Đông Á;
Nhà máy đường Khánh Hội; Nhà máy đường Biên Hòa; Nhà máy đường La Ngà; Nhà
máy đường Lam Sơn; Nhà máy xi măng Bỉm Sơn.
Qua kết quả thực hiện thí điểm thuế GTGT năm 1993, Chính phủ đã rút ra được
một số kết luận sau:
- Thuế GTGT làm thí điểm trong phạm vi hẹp ở một số ít DN đã không thành
công, không phát huy được các ưu điểm và tác dụng của chính sách thuế này vì:
+ Hoạt động sản xuất – kinh doanh của các DN trong nền kinh tế có quan hệ và
tác động lẫn nhau, từ quá trình cung cấp nguyên, vật liệu tới sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm. Nếu cắt khúc làm thí điểm thuế GTGT ở một số ngành hay một số ít DN, sẽ làm
cho việc thực hiện chính sách này không đồng nhất và tất yếu dẫn tới những bất lợi cho
các DN làm thí điểm.
+ Chưa có tác động thúc đẩy các DN thực hiện tốt việc mua, bán có hóa đơn,
chứng từ, thiếu cơ sở tính toán khấu trừ thuế. Do làm thí điểm trong phạm vi hẹp nên
trên các hóa đơn chưa phản ánh rõ khoản thuế làm cơ sở xác định số thuế phải nộp và
số thuế được khấu trừ; mặt khác, các đơn vị không áp dụng thuế GTGT mua sản phẩm
của các đơn vị làm thí điểm thuế GTGT cũng không quan tâm tới việc có ghi hay
không ghi số thuế GTGT trên hóa đơn, vì họ cũng không được tính khấu trừ khoản
thuế này.
- Áp dụng thí điểm thuế GTGT ở ít DN nên không ảnh hưởng tới số thu ngân
sách, giá cả và công tác quản lý thu của ngành thuế, đồng thời cũng hạn chế các tác
động tích cực của thuế GTGT như:
23
+ Do chưa áp dụng thí điểm đối với khâu nhập khẩu và thuế suất 0% đối với
hàng xuất khẩu, nên chưa thấy được mặt tích cực của chính sách thuế này là tập trung
thu ngay từ khâu đầu, hạn chế thất thu, đảm bảo tính công bằng của thuế GTGT, đồng
thời, chưa khuyến khích đối với hoạt động xuất khẩu.
+ Chưa đòi hỏi phải xem xét sửa đổi các chính sách thuế liên quan như thuế xuất
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, chưa xây dựng hệ thống chính sách thuế phù hợp, có
hiệu quả hơn.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam khi triển khai và thực hiện thuế
GTGT.
Sau nhiều lần hoàn chỉnh dự thảo thông qua ý kiến đóng góp của các Tổng Cty,
Cty kiểm toán và cơ quan nghiên cứu, dự thảo Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9 được
trình Quốc hội và đã được thông qua tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX ngày
10/5/1997, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay cho Luật thuế doanh thu.
Đến ngày 17/6/2003 Luật thuế GTGT số 07/2003/QH11 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2004) sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 1997 ra đời.
2.1.2.1. Điều kiện thuận lợi.
- Chúng ta có thể rút ra nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở
các nước, mà đặc biệt là ở những nước trong khu vực, là những nước có điều kiện kinh
tế - chính trị, xã hội tương tự như nước ta.
- Trong cuộc cải cách thuế Bước 1, nước ta đã chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh
tế không có thuế sang cơ chế quản lý kinh tế bằng công cụ thuế là chủ yếu, đặc biệt là
việc ban hành các Luật thuế doanh thu, Luật thuế lợi tức và Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
đã làm cho các DN cần thiết phải nâng cao trình độ quản lý tài chính tại đơn vị mình,
từ đó góp phần tạo thói quen trong việc quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ và ứng
dụng công nghệ tin học trong công tác hạch toán kế toán.
- Nền kinh tế từng bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đi vào thế ổn định.
+ GDP tăng trưởng, mặc dù không nhanh như giai đoạn 1992 – 1995 song
vẫn thuộc loại trung bình của Khu vực và bắt đầu tăng trưởng trở lại từ năm 2000;
+ Công nghiệp đã có bước nhảy vọt với tốc độ phát triển hai chữ số suốt
mười năm (từ năm 1991 đến 2000), trở thành lĩnh vực năng động nhất, đóng góp nhiều
24
nhất cho sự tăng trưởng GDP và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: dịch
vụ - công nghiệp – nông nghiệp;
+ Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được Nhà nước đặc biệt chú trọng,
nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tàng kinh tế, tỷ lệ đầu tư so vớ GDP đạt xấp xỉ 28,7%,
khá cao so với các quốc gia nội vực, trong đó, phải kể đến ảnh hưởng to lớn của vốn từ
các hình thức đầu tư nước ngoài;
+ Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã phát triển rất mạnh.
- Tình hình chính trị nước ta luôn ổn định; lòng tin của dân chúng vào các chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ngày càng bền chắc. Trên lĩnh vực tài chính,
Chính phủ quan tâm thực sự đến cải cách thuế, xem đây là một công cụ chính sách sắc
bén, tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh. Toàn xã hội cũng quan tâm đến
thuế; ý niệm thuế dần hình thành trong mỗi công dân.
2.1.2.2. Yếu tố bất lợi.
- Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đã làm cho tốc
độ phát triển kinh tế chậm lại trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT. Tỉ lệ tăng
trưởng GDP giảm sút liên tục từ năm 1995 đến cuối năm 1999. Nếu như tỉ lệ tăng
trưởng GDP năm 1995 là 9,5% thì năm 1998 giảm xuống 5,8% và chỉ còn 4,8% năm
1999. Năng lực cạnh tranh quốc gia kém. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEL) thì Việt Nam đứng thứ 49 trong 53 nước được xếp hạng trong năm 1997; thứ
39/53 trong năm 1998; thứ 53/59 trong năm 1999; thứ 62/72 trong năm 2001 và thứ
65/80 trong năm 2002.
- Môi trường pháp luật của chúng ta tuy đã được quan tâm và ngày càng hoàn
thiện nhưng hệ thống văn bản pháp luật chưa được đồng bộ, còn chống chéo, phức tạp
mà lại thiếu những chế tài theo luật định. Ví dụ như: Luật doanh nghịêp qui định về
điều kiện đăng ký kinh doanh hết sức thông thoáng nhưng Luật hình sự hiện nay lại
quá lạc hậu đã không điều chỉnh hết các hành vi vi phạm mới về mua bán, sử dụng hóa
đơn không hợp pháp… Điều này, đã tạo rất nhiều kẽ hở để lợi dụng trốn thuế, nhưng
khi phát hiện lại thiếu những chế tài xử lý để ngăn chặn.
- Tăng trưởng về tiêu dùng không ổn định, việc mở rộng tiêu dùng hết sức khó
khăn. Đây là kết quả của việc gởi tiết kiệm, đầu tư nhiều, thu nhập thấp từ lâu cho đến
nay, cụ thể năm 80 tỷ lệ đầu tư 35,3% năm 1993 – 1998 tăng lên 40,2% và tỷ lệ tiêu
25
dùng cuối cùng cũng từ 65,1% xuống 58,2%. Điều này đã làm cho nhu cầu về tiêu
dùng của nước ta suy giảm, quy mô tiêu dùng thì nhỏ, lẻ với thói quen tiêu dùng hoặc
mua bán trao đổi hàng hóa không dùng hóa đơn, chứng từ.
- Trình độ thanh toán của nền kinh tế còn rất lạc hậu, chủ yếu là dùng phương
thức thanh toán bằng tiền mặt. Phương thức thanh toán thông qua Ngân hàng vẫn chưa
được xem là phương thức thông dụng và hiệu quả đối với đa số người dân. Theo báo
cáo ước tính của ngành ngân hàng, hiện nay vẫn có đến 40% khối lượng thanh toán còn
được thực hiện bằng tiền mặt, trong khi các nước trên thế giới tỷ lệ này chỉ từ 10 –
15%.
- Hoạt động kế toán và kiểm toán hiện đang còn thiếu khuôn khổ về môi trường
pháp lý. (Luật kế toán vừa mới được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2004). Các chế độ chuẩn mực kế toán còn chưa đầy đủ (chỉ mới có 10 chuẩn
mực). Chất lượng thông tin kế toán chưa cao, chưa theo kịp các qui định trong quản lý
thuế hiện đại và của một số nước đầu tư vào Việt Nam.
- Trình độ nhận thức của người dân về thuế và ý thức tuân thủ pháp luật thuế
chưa cao. Việc trốn thuế, vi phạm pháp luật về thuế vẫn chưa được lên án mạnh mẽ và
nghiêm trị. Người nộp thuế luôn nhấn mạnh “nghĩa vụ” nộp thuế mà không biết hoặc
không quan tâm đến “quyền” nộp thuế. Hơn nữa, việc trang bị kỹ thuật, trình độ cán bộ
thuế còn thiếu và yếu đã làm cho trình độ bộ máy quản lý thuế chưa đáp ứng được yêu
cầu trong quản lý thuế hiện đại.
2.1.3. Sự cần thiết phải sử dụng thuế GTGT thay thế thuế Doanh thu.
Luật thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ
thu nộp thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh cuả sản
phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản
phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng
thêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng
lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp
lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Công thức tính thuế doanh thu như sau:
Thuế doanh thu = Doanh thu tính thuế x Thuế suất doanh thu
26
Doanh thu tính thuế là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp có được khi bán hàng
hóa hoặc cung cấp dịch vụ. Doanh thu tính thuế có ba đặc điểm cơ bản: chưa trừ bất kỳ
một khoản chi phí nào, kể cả thuế doanh thu; đã hạch toán vào kết quả kinh doanh
trong kỳ; và không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Tùy theo từng
hoạt động kinh doanh cụ thể mà doanh thu tính thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia
công, tiền cước vận tải, tiền hoa hồng, tổng giá trị công trình xây lắp, hoặc tiền dịch vụ
(kể cả phụ thu).
Thuế suất của thuế doanh thu áp dụng chung cho các doanh nghiệp theo ngành
nghề như sau (thuế suất cuối cùng trước khi chuyển sang thuế giá trị gia tăng).
- Thuế suất của ngành sản xuất gồm: 0%, 0,5%, 1%, 2%, 4%, 6%, 8% và 10%;
- Thuế suất của ngành vận tải: 0%, 0,5%, 1%, 2%, và 4%;
- Thuế suất của ngành xây dựng: 4% và 6%;
- Thuế suất của ngành thương nghiệp: 1%, 2%, 4%, 10% và 15%;
- Thuế suất của ngành ăn uống: 6% và 10%
- Thuế suất của ngành dịch vụ: 0%, 0,5%, 1%, 2%, 4%, 6%, 8%, 10%, 15%, 20%
và 30%.
Qua thời gian sử dụng lâu dài, thuế doanh thu đã bộc lộ những bất hợp lý không
thể chấp nhận được nền kinh tế đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đó là:
- Thứ nhất, dù đơn giản nhưng phương pháp tính bất hợp lý đã gây ra tình trạng
trùng thuế biểu hiện qua ba góc độ: thuế đánh lên chính nó, thuế khâu sau đánh lên
thuế khâu trước và thuế khâu sau đánh lên phần giá trị đã chịu thuế. Nguyên nhân
trùng thuế là cơ sở tính thuế bao gồm mọi khoản phí tổn kể các thuế doanh thu. Hậu
quả là tạo cảm giác nặng nề cho cả người nộp lẫn người chịu thuế.
- Thứ hai, mặc dù chồng lên nhau ở các khâu, nhưng thuế thu một cách độc lập
giữa các khâu, khiến quá trình hành thu kém hiệu quả: vừa tốn nhiều thời gian, chi phí
vừa tạo nhiều kẽ hở trốn thuế do thiếu áp lực kiểm soát của xã hội.
- Thứ ba¸đa mục tiêu nên đa thuế suất, dẫn đến kém công bằng. Do chứa đựng
nhiều mục tiêu: vừa tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước vừa thực hiện chính sách
xã hội và điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nên thuế suất của thuế doanh thu gồm nhiều mức và
phân biệt đối với từng ngành nghề kinh doanh, từng sản phẩm. Điều này khiến thuế
doanh thu mất vai trò trung lập và thực thi kém hiệu quả các mục tiêu đặt ra. Thêm
27
nữa, chế độ miễn thuế, giảm thuế, mặc dù Luật không đặt ra, song trên thực tế lại xét
duyệt tương đối dễ, đã làm suy giảm tính pháp lý của thuế doanh thu và gây bất bình
đẳng về nghĩa vụ thuế.
- Thứ tư, thuế doanh thu vẫn phát sinh bất kể doanh nghiệp bán thấp dưới giá
vốn.
- Thứ năm, kích thích chưa thỏa đáng một số hoạt động kinh tế như hoạt động
xuất khẩu và sản xuất, lưu thông các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và không đánh vào
hàng nhập khẩu.
Như vậy, mặc dù được áp dụng thống nhất trên toàn nền kinh tế và bước đầu tạo
được môi trường thuế bình đẳng giữa các doanh nghiệp, song với thuế doanh thu còn
gây nhiều sai lệch đối với hoạt động kinh tế.
Việc sử dụng thuế giá trị gia tăng đã khắc phục những hạn chế của thuế doanh
thu và tiếp tục cải thiện môi trường thuế, thể hiện ở các điểm sau:
- Hệ thống thuế suất của thuế GTGT đơn giản hệ thống thuế suất thuế doanh thu
nên góp phần gia tăng tính trung lập của thuế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sắp
xếp sản xuất theo hướng chuyên môn hóa.
- Diện khấu trừ thuế GTGT đầu vào ngày càng mở rộng, đã tạo hành lang liên
thông giữa mọi doanh nghiệp;
- Cơ chế vận hành của thuế GTGT tạo ra tiềm năng chống trốn thuế: những
doanh nghiệp nào trước đây trốn thuế do kẽ hở của thuế doanh thu thì nay không còn
cơ hội đó nữa. Như vậy nghĩa vụ nộp thuế được thực thi đồng đều hơn, hay nói cách
khác, các điểm rò rỉ thuế được bít kín hơn. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện
căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá
đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán; khắc phục được tình trạng thông đồng
giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế.
- Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu xem
xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ cuả các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản
lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu.
- Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế GTGT mà còn được
khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào nên có tác dụng giảm chi phí, hạ
28
giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh
tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
- Thuế GTGT cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập
khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.
- Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cuả người
nộp thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều
kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế. Từ đó, tạo tâm lý
và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương, thoả thuận về mức
doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi
vì đã buộc người mua, người bán phải nộp và lưu giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên
việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh doanh từ đó tập trung được nguồn thu
thuế GTGT vào ngân sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn
kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có
hoá đơn chứng từ; việc tính thuế đầu ra được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào là biện
pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện tốt hơn chế
độ hoá đơn, chứng từ.
- Việc khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện
đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ
giá thành sản phẩm.
2.2. Những thách thức khi sử dụng thuế GTGT.
2.2.1. Thách thức từ bản chất của thuế GTGT.
Thuế GTGT trong quá trình sử dụng ở các nước đã thể hiện các nhược điểm chủ
yếu ở các mặt sau:
- Chi phí về quản lý, thu thuế GTGT rất tốn kém. Để thực hiện tốt thuế GTGT,
công tác ghi chép hóa đơn, sổ sách kế toàn của người nộp thuế phải rõ ràng, minh
bạch. Trên thực tế, không phải tất cả các doanh nghịêp vừa và lớn thuộc mọi thành
phần kinh tế đều làm tốt công tác này. Do đó, hầu hết các nước đang thực hiện thuế
GTGT đều phải sử dụng máy vi tính để bảo đảm chống thất thu thuế đạt hiệu quả và
quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi, quản lý thuế chặt chẽ, dễ xảy ra
tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế.
29
- Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp
thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính lũy thoái. Tỷ lệ động viên qua thuế
GTGT với người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động việc đối với người có thu nhập
cao, thuế không bảo đảm yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người
nghèo và người giàu.
- Giữa lý luận và thực tế, thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán.
Thuế GTGT đánh trên phần trị giá tăng thêm nhưng đối với một số ngành dịch vụ (như
phục vụ, sửa chữa, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học), cách đánh thuế và khấu
trừ thuế GTGT như thế nào là hợp lý? Đối với tài sản cố định, mức khấu trừ thuế đã
nộp ở đầu vào thế nào là thỏa đáng… Những vấn đề này là nội dung tranh luận trong
nhiều cuộc hội thảo trên thế giới, nhưng đến nay ở nhiều nước vẫn có những quan điểm
và cách xử lý rất khác nhau.
- Thuế GTGT có ưu điểm về tính trung lập rất cao. Đồng thời cũng lại có nhược
điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo, không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu
chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Từ những nhược điểm trên, thuế GTGT đã bị phản ứng và không được chấp
nhận một cách dễ dàng. Ví dụ: ở Nhật Bản, thuế GTGT đã thành đề tài tranh luận gay
gắt trong quá trình nghiên cứu, thậm chí còn bị phê phán kịch liệt, nên mặc dù đã có đề
xuất ban hành từ năm 1955, nhưng cho đến năm 1988 mới được Quốc Hội Nhật Bản
thông qua. Ở Úc và Niu Di Lân, thuế GTGT cũng đã bị bác bỏ tại các cuộc tranh luận
trong nhiều năm đầu thập kỷ 80. Khi gia nhập khối Cộng đồng Châu Âu năm 1981, Hy
Lạp đã đồng ý ban hành thuế GTGT, nhưng lại tìm nhiều lý do để trì hoãn cho đến năm
1987 mới chính thức ban hành. Đến nay, thuế GTGT vẫn còn gặp nhiều phản ứng của
một số nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Úc … Vấn đề nổi lên ở đây là tính lũy
thoái của thuế GTGT. Ở Mỹ, người ta đã tính thử, với thuế suất đồng loại là 10% thì
người nghèo phải nộp thuế này đến 14,20% thu nhập, còn người giàu chỉ nộp thuế này
có 3% - 4% thu nhập… Để khắc phục phần nào nhược điểm về tính lũy thoái của thuế
GTGT, một số nước không đánh thuế hoặc đánh thuế với thuế suất thấp đối với mặt
hàng hoặc dịch vụ thiết yếu cho đời sống nhân dân như: lương thực, thực phẩm, thuốc
thông thường, quần áo, đồ dùng học tập…
30
Trong các nước phát triển hiện nay, chỉ còn 2 nước chưa áp dụng thuế GTGT là
Thụy Sĩ - Quốc gia có chính sách kinh tế độc lập và Hoa Kỳ - Quốc gia phát triển
hàng đầu thế giới chưa áp dụng thuế GTGT. Sở dĩ, tại Hoa Kỳ không áp dụng thuế
GTGT, bởi vì, Quốc gia này là có bộ máy quản lý hành chính theo Bang, các Bang và
Liên Bang có cơ chế quản lý hành chính độc lập, có quyền ban hành Luật thuế riêng và
có quyền sử dụng nguồn thu từ thuế cho sự phát triển văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng của
Bang mình. Mỗi Bang có Luật thuế doanh thu đánh vào hàng hóa bàn lẻ (Retail sales
tax) riêng. Thuế này khác với thuế doanh thu (Sales tax) là chỉ thu một lần vào hàng
bán lẻ chứ không thu ở từng khâu bán hàng, do đó, loại trừ được việc thu trùng.
Trường hợp một doanh nghiệp vừa bán buôn, vừa bán lẻ thì phân biệt doanh thu phải
chịu thuế và doanh thu không chịu thuế chỉ bằng cách mở sổ sách kế toán, vì trong sổ
sách kế toán nếu là bán buôn thì phải ghi rõ địa chỉ người mua và mã số kinh doanh,
còn nếu bán lẻ thì không cần phải ghi. Mặt khác, Hoa Kỳ đã phát triển hệ thống máy vi
tính hoàn hảo, nó cho phép đối chiếu một cách chính xác doanh số bán buôn và doanh
số bán lẻ. Tất cả các cửa hàng bán lẻ, dù lớn hay nhỏ, đều dùng máy tính tiền, trong đó
có cài đặt tỷ lệ thuế phải đóng và tổng số tiền phải trả, cá nhân mua hàng, dù muốn lấy
hóa đơn hay không thì máy vẫn cứ in ra hóa đơn. Trên thực tế, tâm lý mọi người dân
Hoa Kỳ khi mua hàng đều muốn có hóa đơn để kiểm tra số lượng hàng đã mua, minh
chứng thời gian mua hàng, địa điểm mua hàng và quan trọng hơn là để mang trả lại
hoặc đổi hàng khi thấy không vừa ý hoặc khi cần, đồng thời nó cũng là chứng từ để kê
khai trừ thuế thu nhập. Nói chung, việc lấy hóa đơn sau khi mua hàng đã trở thành thói
quen của mọi người dân Mỹ. Mục đích áp dụng thuế GTGT là tránh đánh thuế trùng
thì thuế doanh thu đánh vào hàng bán lẻ ở Hoa Kỳ đã đạt được mục đích đó. Mặt khác,
thuế đánh vào người tiêu dùng thuộc Bang nào thì để lại cho chính quyền Bang đó sử
dụng. Vì vậy, Quốc hội Hoa Kỳ cũng đã từng đưa ra ý kiến áp dụng thuế GTGT song
không được thông qua.
2.2.2. Thách thức về quản lý thuế GTGT.
Ðể áp dụng thuế GTGT đúng đắn, công bằng, có hiệu quả, đáp ứng được chủ
trương "góp phần thúc đẩy sản xuất, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân,
động viên một phần thu nhập cuả người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước", cần phải
giải quyết trước hết một số vấn đề sau:
31
- Các hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ lớn
và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ hợp lệ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở
kinh doanh.
- Công tác kế toán doanh nghiệp, nhất là kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải được hướng dẫn thực hiện thật tốt, đảm bảo được giá thành sản
phẩm phản ảnh trung thực các chi phí thực tế phát sinh đã cấu tạo ra sản phẩm lưu
thông trên thị trường đến tay người tiêu dùng. Hệ thống bán lẽ (các cửa hàng, cửa hiệu,
các siêu thị) cũng được hướng dẫn chế độ sổ sách kế toán hợp lệ, thực hiện nghiêm
chỉnh và được kiểm tra chặt chẽ. Chỉ số giá cả lên xuống từng thời kỳ phải được quy
định rõ để tiến hành điều chỉnh giá bán lẽ, đảm bảo giá trị tăng thêm hợp lý.
- Trình độ cán bộ quản lý thu thuế phải được nâng cao về chế độ hoá đơn, chứng
từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế giá trị
gia tăng. Hơn nữa, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì vai trò cuả người thu thuế đồng
thời cũng là người trả thuế (thoái thu) và vai trò cuả người nộp thuế cũng là người thu
thuế (được cơ quan thuế khấu trừ hoặc hoàn lại). Người thu thuế phải có khả năng tính
được mức thuế phải thu, mức thuế khấu trừ cho đúng, đũ, kịp thời. Về khả năng thì có
thể đào tạo được, nhưng vấn đề quan trọng nhất là người thu thuế nếu kém phẩm chất
sẽ có điều kiện để tiêu cực, đó là việc tính mức khấu trừ, mức thoái thu cao hơn mức
chính xác, làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước hoặc khấu trừ không đủ, hoàn thuế
chậm trễ làm thiệt hại cho các chủ thể đã chịu thuế trong quá trình sản xuất, kinh
doanh. Ðối với người nộp thuế, tất nhiên ngoài khả năng tính toán đầy đủ số thuế mình
còn phải nộp sau khi được khấu trừ, còn phải có đầy đủ phẩm chất cuả một nhà kinh
doanh lương thiện xem việc nộp thuế đầy đủ, kịp thời là một nghĩa vụ hợp lý và công
bằng.
- Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân
hàng, tạo điều kiện cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính
thuế được chính xác. Việc quy định căn cứ khấu trừ thuế là hoá đơn GTGT mua hàng
hoá, dịch vụ mà không quy định chứng từ chứng minh hàng hoá, dịch vụ mua bán đã
thực tế thanh toán. Quy định này tuy phù hợp với thực tiễn thanh toán phổ biến bằng
tiền mặt nhưng tạo kẽ hở cho một số DN lợi dụng sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn ghi
32
chép không trung thực và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu
trừ, hoàn thuế GTGT không những gây thất thu cho NSNN mà còn ảnh hưởng tới môi
trường đầu tư, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế.
- Ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế cuả các doanh nghiệp từng
bước được nâng lên, gắn liền với việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về thuế.
- Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và đưa dần việc thực hiện pháp luật
vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế.
2.3. Tác động của thuế GTGT đến ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam từ 1999
đến nay.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội có rất nhiều khó khăn, nhưng Nhà nước đã sử
dụng thuế GTGT trong phát triển kinh tế mang lại nhiều kết quả khả quan. Cụ thể:
2.3.1. Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và ổn định của NSNN, tăng cường tài
chính quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm
nghèo và củng cố an ninh, quốc phòng.
Thuế GTGT dồi dào, tăng đều, ổn định và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu
thuế và phí. Phạm vi áp dụng thuế GTGT thực hiện thu rộng rãi hầu hết tất cả đối với
mọi tổ chức, cá nhân, ngành nghề kinh doanh, các hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng tại Việt
Nam. Số thu được tập trung ở khâu sản xuất, khâu nhập khẩu hàng hóa, từ đó tạo
nguồn thu lớn, góp phần bù đắp số giảm thu về thuế nhập khẩu do phải thực hiện cắt
giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế. Số thu thuế GTGT năm sau luôn cao
hơn năm trước; năm 2007 tăng gấp 4.13 lần năm 1999.
Số thu thuế GTGT ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu thuế, phí và
lệ phí. Năm 1999 chỉ chiếm 26.67%, đến năm 2007 đã chiếm 35.58%.
Thuế GTGT tăng đều và ổn định. Tốc độ tăng số thu thuế GTGT bình quân giai
đoạn 1999-2007 đạt bình quân 19.61%.
33
Bảng 2.1 Số thu NSNN từ thuế GTGT ở Việt Nam giai đoạn 1999-2007
ĐVT: Tỷ VNĐ
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Năm
Tổng thu thuế GTGT
19 855 22 429
25 827
31 318
37 599
49 234
59 475
74 675
82 022
13 952
16 280
20 061
25 058
30 194
40 049
44 145
8 162 10 716
11 875
15 038
17 538
24 176
29 281
34 626
37 877
+Thu từ nội địa 11 693 11 713 +Thu từ hàng NK Tổng thu từ thuế, phí, lệ phí 74 444 86 867
98 950 112 700 125 400 134 500 189 920 212 934
230 514
78 489 90 749 103 888 123 680 141 930 166 900 210 400 237 900
251 900
26,67
25,82
26,10
27,79
29,98
36,61
31,32
35,07
35,58
Tổng thu NSNN Tỷ lệ thu thuế GTGT sv Tổng thu từ thuế, phí, Tỷ lệ thu thuế GTGT sv Tổng thu NSNN(%)
25,30
24,72
24,86
25,32
26,49
29,50
28,27
31,39
32,56
Nguồn: Tổng cục thuế
Hình 2.2 Tỷ trọng thuế GTGT trong tổng số thu thuế
Khác 5%
Khác 14%
TNDN 26%
TNDN 24%
XNK 20%
TNCN 3%
TNCN 5%
TTĐB 8%
XNK 28%
GTGT 21%
GTGT 36%
TTĐB 10%
Năm 1998
Năm 2007
Nguồn: Tổng cục thuế
34
2.3.2. Thuế GTGT khuyến khích hoạt động đầu tư, gia tăng sản xuất.
Với tính ưu điểm cuả thuế GTGT là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị
tăng thêm cuả các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với
toàn bộ doanh thu phát sinh như mô hình thuế doanh thu. Nếu như không có các sự
kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm suất, yếu kém, kinh tế
suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế
doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả
càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế.
Theo nghiên cứu và thống kê cuả ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) thì phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng thuế GTGT,
giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay đổi một tỷ lệ không
đáng kể và mức sản xuất cuả các doanh nghiệp, mức tiêu dùng cuả dân chúng không
sút giảm, hay chỉ suất giảm một tỷ lệ nhỏ trong thời gian đầu, kể cả các trường hợp
tăng thuế suất thuế GTGT đối với một số mặt hàng trong định kỳ điều chỉnh. Như vậy
ta có thể kết luận rằng thuế GTGT không phải là một nhân tố gây ra lạm phát, gây khó
khăn trở ngại cho việc phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá mà trái lại, việc áp dụng
thuế GTGT đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hoá, góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu.
Thuế GTGT là một loại thuế phù hợp nền kinh tế thị trường mang tính chuyên
môn hóa cao. Việc khấu trừ thuế đầu vào và xét hoàn theo từng quý đối với thuế
GTGT đầu vào của tài sản đầu tư có giá trị lớn hơn 200 triệu đồng trở lên có tác dụng
khuyến khích Hiện đại hóa – Chuyên môn hóa sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang
thiệt bị mới để hạ giá thành sản phẩm.
Ngoài ra, nhằm khuyến khích đầu tư vào tài sản cố định và đổi mới công nghệ
để gia tăng chủng loại, chất lượng sản phẩm và giảm giá thành sản xuất. Thuế GTGT
quy định thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền
công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu
để tạo tài sản cố định, thì không thuộc diện chịu thuế GTGT.
Theo kết quả khảo sát của Tổng cục thuế năm 2005, hơn 60% số thuế GTGT mà
doanh nghiệp được xét hoàn đã sử dụng lại để tiếp tục đầu tư vào đầu tư vào tài sản cố
định và đổi mới công nghệ để gia tăng chủng loại, chất lượng sản phẩm và hơn 90% số
35
thuế GTGT mà doanh nghiệp được xét hoàn đã sử dụng lại để gia tăng sản lượng sản
xuất.
Tính đến thời điểm năm 2002, tổng DN tăng gần gấp 2 lần so với thời điểm năm
1999. Hệ thống chính sách thuế mới cũng đã xóa bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế
giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị
trường.
Bảng 2.2 Cơ sở kinh tế có đến năm 2002.
Chỉ tiêu Năm 2002
A. DN 56.737
1. DN vốn trong nước 54.723
- DN Nhà nước 5.231
- DN tập thể (HTX) 3.853
- DN tư nhân 24.903
- Cty hợp danh 14
- Cty TNHH 18.733
- Cty cổ phần 1.989
2.014 2. DN có vốn đầu tư nước ngoài
B. Cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể 2.625.744
Nguồn: Ban chỉ đạo cuộc Tổng điều tra Trung ương lần 2
Đến cuối năm 2006, theo số liệu thống kê, tổng số doanh nghiệp và tổ chức kê
khai nộp thuế là 172.273 đơn vị tăng hơn 3 lần so với năm 2002. Với thể chế kinh tế thị
trường và chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà
nước, hàng năm sẽ có thêm hàng chục nghìn doanh nghiệp và hộ kinh doanh ra đời.
2.3.3. Thuế GTGT khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu.
Với thuế suất 0% cho hàng hóa xuất khẩu, toàn bộ thuế GTGT đầu vào được
hoàn trả đơn vị xuất khẩu. Đây là một động lực mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu
mà không một sắc thuế nào có thể tạo ra. Chính vì vậy, năm 1999 – năm đầu tiên thực
thi thuế GTGT, với khoảng 2.740 tỷ đồng trên tổng số 3.200 tỷ đồng thuế hoàn cho
người xuất khẩu, chiếm 15,7% tổng thu từ thuế GTGT của năm, thuế GTGT đã góp
một phần quan trọng thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng 23,18%, gấp gần 4 lần chỉ tiêu
36
do Quốc hội đề ra. Năm 2006, số thuế GTGT hoàn cho DN là 18.037 tỷ đồng trên tổng
số 23.400 tỷ đồng đề nghị, chiếm 32,7% tổng thu từ thuế GTGT của năm, thúc đẩy kim
ngạch xuất khẩu tăng 26,74%. Sang năm 2007, số thuế GTGT hoàn cho DN là 24.650
tỷ đồng trên tổng số 27.800 tỷ đồng đề nghị, chiếm 34,2% tổng thu từ thuế GTGT của
năm, thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng 21,5%.
Bảng 2.4 Số thuế hoàn qua giai đoạn 1999-2007
ĐVT: Nghìn Tỷ VNĐ
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Số hồ sơ
3,566
3,675
4,179
4,577
4,725
5,543
6,291
7,092
7,450
Số thuế GTGT hoàn
2.70
4.26
5.51
6.43
7.65
12.43
14.83
18.04
24.65
Nguồn: Tổng cục thuế
Hình 2.3 Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng
ĐVT: Triệu USD
60000
0.35
0.314457293
0.3
48387
50000
0.254917252
0.25
39826
0.23
40000
0.2251085520.227417019
0.214960076
0.206093619
32447
0.2
30000
26485
0.15
20149
20000
0.11158427
16706
15029
0.1
14483
11541
10000
0.05
0.037699372
0
0
1999
2001
2003
2005
2007
1999
2001
2003
2005
2007
Nguồn: Tổng cục Thống kê
2.3.4. Thuế GTGT góp phần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa hàng nhập
khẩu và hàng hóa nội địa.
Thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu (điều mà thuế doanh thu không thực hiện
được) đã tạo ba khả năng quan trọng. Một là góp phần khuyến khích và bảo hộ hợp lý
sản xuất nội địa. Hai là mở ra cơ hội để giảm thuế nhập khẩu, thúc đầy tiến trình Việt
Nam hội nhập kinh tế với thế giới. Ba là góp phần chuyển dịch cơ cấu thuế theo hướng
nội địa hóa nguồn thu. Thu cả vào hàng nhập khẩu, phù hợp với thông lệ Quốc tế, tạo
điều kiện hạ thấp thuế suất thuế nhập khẩu Do hàng hóa nhập khẩu vừa phải chịu thuế
37
nhập khẩu vừa phải chịu thuế GTGT nên giá vốn hàng nhập khẩu tăng lên nhiều, thuế
GTGT tác động tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa.
Theo số liệu tại Hội nghị sơ kết một năm các Luật thuế mới, ngày 24 và 25 tháng
4 năm 2000 tại Hà Nội, thuế GTGT của hàng nội địa và hàng nhập khẩu cả năm 1999
chỉ riêng thuế GTGT hàng nhập khẩu đã thu 8.162 tỷ đồng và tổng thu về thuế GTGT
cả năm khoảng 19.855 tỷ đồng vượt qua thuế xuất, nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt
hàng nhập khẩu để trở thành loại thuế có số thu cao nhất trong tổng thuế và phí. Sang
năm 2007, chỉ riêng thuế GTGT hàng nhập khẩu đã thu 37.877 tỷ đồng và tổng thu về
thuế GTGT cả năm khoảng 82.022 tỷ đồng.
Bảng 2.4 Thuế GTGT hàng Nhập khẩu
ĐVT: Nghìn Tỷ VNĐ
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Thuế GTGT hàng NK 8,162 10,716 11,875 15,038 17,538 24,176 29,281 34,626 37,877
Tốc độ tăng (%)
31.29
10.82
26.64
18.25
9.39
16.62
37.85 21.12 Nguồn: Tổng cục thuế
2.3.5. Thuế GTGT thúc đẩy tăng cường quản lý, hạch toán kinh doanh của DN,
nâng cao ý thức tự giác chấp hành thuế của các đối tượng nộp thuế:
Tính đến năm 2003, theo báo cáo của Tổng Cục Thuế, cả nước đã có 190.537
CSKD sử dụng hóa đơn trong mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thu tiền; đến năm
2007, đã có 475.893 CSKD sử dụng hóa đơn trong mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ thu tiền. Như vậy, khi áp dụng thuế GTGT đòi hỏi DN thực hiện tốt việc mua bán
hàng hóa, dịch vụ phải có hóa đơn, chấn chỉnh lại công tác hạch toán kế toán, nâng cao
năng lực quản trị DN. Từ đó tạo điều kiện cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà
nước kiểm tra, giám sát được hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, làm cho các hoạt
động kinh tế được lành mạnh hơn, chống thất thu cho NSNN.
Thuế GTGT ở khâu sau được khấu trừ ở khâu trước trên cơ sở hóa đơn, chứng
từ rõ ràng là phương pháp tiên tiến nhất của loại thuế này. Ở mỗi khâu tiêu thụ hàng
hóa, thuế GTGT được tính trên toàn bộ giá trị hàng hóa bán ra, nhưng được khấu trừ số
thuế GTGT đã tính ở khâu trước đó. Đồng thời, thuế được thu ở từng khâu sản xuất
kinh doanh, lưu chuyển hàng hóa trên cơ sở giá trị tăng thêm nên phần lớn số thuế
38
được thu tập trung ở khâu đầu. Điều này khiến cho toàn bộ quá trình quản lý thuế tốt
hơn. DN chấp hành việc mua bán hàng hóa có hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán, tổ
chức hạch toán chặt chẽ và chính xác. Phương pháp hành thu liên hoàn làm cho thuế
chặt chẽ và tạo cơ chế tự kiểm soát giữa những người nộp thuế. DN không dám lập hóa
đơn, chứng từ cao hơn giá trị tăng thêm vì một trong hai bên DN sẽ phải chịu thuế
nặng hơn thay cho bên kia. Do đó, việc áp dụng thuế GTGT nâng cao hiệu quả công
tác chống thất thu, giúp chính phủ ngăn chặn hiện tường gian lận thuế. Qua đó đảm bảo
công bằng giữa các đơn vị kinh doanh trong việc nộp thuế cho Nhà nước.
2.3.6. Thuế GTGT góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế Việt Nam.
- Hợp lý hơn bởi người chịu thuế là người tiêu dùng trong nước. Toàn bộ thuế
GTGT của hàng hóa xuất khẩu được trừ khỏi giá xuất khẩu, trong khi hàng nhập khẩu
phải chịu thuế, khiến cho thuế chỉ phát sinh bên trong lãnh thổ Việt Nam mà không
điều tiết vào thu nhập của người tiêu dùng ngoài nước.
- Tôn trọng người chịu thuế - người tiêu dùng. Tính cách biểu lộ trên hóa đơn bán
hàng của thuế cho thấy thái độ tôn trọng của chính phủ đối với người chịu thuế. Lưu ý
người tiêu dùng cẩn trọng trong chi tiêu; đồng thời hình thành thói quen quan tâm đến
thuế của người dân và nâng dần ý thức xã hội về kiểm soát thuế GTGT cũng như các
sắc thuế khác.
Áp dụng thuế GTGT góp phần hoàn thiện chính sách thuế của nước ta, phù hợp
với việc xây dựng hệ thống thể chế của nền kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, và thu hút nguồn tài chính có lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta.
2.4. Những hiệu ứng tiêu cực do sử dụng thuế GTGT.
2.4.1. Xuất hiện hàng loạt “DN ma”.
Lợi dụng quy trình, thủ tục thành lập DN theo Luật Doanh nghiệp thông thoáng:
chỉ cần đơn xin thành lập DN kèm theo CMND, hộ khẩu photocopy. Vốn điều lệ và trụ
sở kinh doanh do DN tự khai báo, cơ quan chức năng không kiểm tra, xác minh. Bọn
tội phạm đã thuê các đối tượng có trình độ học vấn thấp, như: thợ hồ, chạy xe ôm, đầu
bếp, thậm chí có trường hợp nghiện ma túy, người đang ở tù, tâm thần, người già yếu
bệnh tật....đứng tên làm giám đốc hàng loạt Cty, DN.
39
Khi làm thủ tục thành lập Cty, DN “ma”, những giám đốc “ma” được trả từ 5
đến 10 triệu đồng/tháng, sau đó giao lại toàn bộ tư cách pháp nhân để bọn chúng thực
hiện việc mua bán hóa đơn GTGT, câu kết với các Cty, DN ở địa phương khác lập hồ
sơ khống để tham ô, lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Thành lập DN nhưng năng
lực tài chính của DN lại không đảm bảo, không có kho hàng, bến bãi; trụ sở thì thuê
mướn nhưng hàng tháng báo cáo kê khai thuế với doanh số bán hàng rất lớn, thậm chí
có những hóa đơn GTGT xuất trị giá tới hàng chục tỉ đồng.
Đồng thời, các Cty, DN này tạo dựng nguồn hàng khống đầu vào với thủ đoạn
lập nhiều hợp đồng kinh tế “ma”, phiếu thu, phiếu chi với nhiều công đoạn, nhiều Cty,
DN với phương thức thanh toán trực tiếp không qua ngân hàng nhằm tạo đầu vào với
số thuế GTGT lớn và âm liên tục trong nhiều tháng để được hoàn thuế. Sau đó, các
Cty, DN này tự di chuyển đi nơi khác, mang theo toàn bộ hoá đơn mà không khai báo
với cơ quan chức năng quản lý.
Tính từ đầu năm 1999 đến ngày 31/12/2007, cả nước có 9.373 đơn vị kinh
doanh bỏ trốn khỏi địa bàn.
2.4.2. Hình thành “Thị trường mua bán hóa đơn”.
Hóa đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý ban đầu để quản lý vật tư, tiền vốn và thể
hiện chất lượng hạch toán kế toán của Nhà nước và CSKD. Từ khi Luật thuế GTGT có
hiệu lực thi hành thì hóa đơn, chứng từ lại càng quan trọng, thể hiện quy mô, chi phí,
tiền thuế mà người tiêu dùng đã đóng góp vào NSNN và là cơ sở để Cty, DN được
khấu trừ thuế và hoàn thuế.
Trên thực tế, hóa đơn gian lận thể hiện đa dạng, nhiều hình thức, rất tinh vi và
phức tạp như: ghi hóa đơn không đúng thực tế phát sinh; ghi khống hóa đơn; sử dụng
hóa đơn của DN đã bỏ trốn, ghi các liên khác nhau; xuất hóa đơn qua nhiều DN để
khấu trừ; làm mất mát, hư hỏng hóa đơn (báo mất nhưng vẫn sử dụng liên 2 để bán
hàng trốn thuế); sử dụng hóa đơn tự in chưa được phép; quay vòng; sử dụng hóa đơn
giả. Hiện nay, hành vi mua bán hoá đơn diễn ra tràn lan khắp cả nước.
2.4.3. Thực hiện các giao dịch ảo để rút tiền Nhà nước.
Lợi dụng quy định khấu trừ thuế GTGT đầu vào là 0% đối với hàng nông - lâm
- thủy sản để tháo gỡ khó khăn cho người trực tiếp sản xuất. DN thường tạo ra hiện
tượng "lỗ giả, lãi thật" bằng nhiều cách để được khấu trừ, hoàn thuế như bán hàng
40
không ra hóa đơn; lập bảng kê khống; mua hàng tự kê khai giá rồi ghi địa chỉ vùng sâu,
vùng xa;
Nhiều DN lập bảng kê mua trực tiếp nhưng thực chất lại mua thông qua đại lý
hoặc lập bảng kê khống (không có địa chỉ người bán). Sau đó lập hóa đơn luân chuyển
và tiêu thụ lòng vòng giữa DN trong nước để được khấu trừ thuế đầu vào. Do lượng
hóa đơn phải kiểm tra quá nhiều nên ngành thuế luôn gặp khó khăn trong việc quản lý
và đó cũng chính là lý do nhiều DN thực hiện thành công các giao dịch ảo để rút tiền
Nhà nước thông qua con đường hoàn thuế.
2.4.4. Hiện tượng gian lận, không trung thực trong kinh doanh.
Thuế GTGT là một loại thuế mới, nhưng công nghệ quản lý thu thuế GTGT
chưa thể hiện đầy đủ tính tiên tiến, hiện đại. Từ đây đã tạo ra nhiều khe hở cho các chủ
thể kinh doanh trốn thuế, lậu thuế, bóp méo hành vi kinh doanh chân chính. Theo báo
cáo của Tổng cục thuế, chỉ trong 2 năm 2005, 2006, cơ quan thuế với công an đã phối
hợp điều tra, khám phá 1.259 vụ với 1.579 đối tượng vi phạm, trong đó đã kết thúc
điều tra 1.013 vụ với 1.338 đối tượng, xử lý hình sự 133 vụ với 149 đối tượng, xử lý
hành chính 947 vụ với 1.141 đối tượng với tổng số thuế truy thu là 110,34 tỷ đồng.
Trốn thuế, gian lận thuế nếu gia tăng cũng sẽ dẫn theo nạn buôn lậu tăng nhanh,
gây ô nhiễm môi trường đầu tư, rối loạn sản xuất kinh doanh, triệt tiêu cạnh tranh lành
mạnh. Mặt khác, nếu không sớm được khắc phục sẽ làm vô hịêu hóa hệ thống quản lý
nhà nước và đánh mất lòng tin của nhân dân. Các thủ đoạn mà DN đã sử dụng khá phổ
biến đó là:
- Hợp thức hóa chứng từ mua bán hàng hóa, hàng nhập lậu: Các Cty, DN cần có
hóa đơn hợp thức hóa chứng từ đầu vào đã chi từ 2% đến 5% trên giá trị hàng hóa ghi
trên hóa đơn để mua hóa đơn từ các Cty, DN “ma”. Nội dung các hóa đơn này được
ghi khống về mặt hàng, số lượng, thuế GTGT theo yêu cầu. Sau đó, các Cty, DN này
đưa các tờ hóa đơn vào hồ sơ chứng từ mua hàng, chứng minh Cty, DN có chi tiền ra
mua số hàng hóa đó để lập hồ sơ hoàn thuế và quyết toán thuế.
- Hợp thức hóa hồ sơ xuất khẩu khống để được hoàn thuế GTGT: Để khuyến
khích xuất khẩu, Luật thuế GTGT quy định hoàn thuế đối với hàng hóa xuất khẩu.
Điều này có nghĩa là tất cả thuế GTGT đầu vào cấu thành trong hàng hóa xuất khẩu sẽ
41
được hoàn lại. Khai thác điểm này bọn tội phạm lập hồ sơ xuất khẩu khống để xin hoàn
thuế GTGT.
- Hợp thức hóa tỷ lệ nội địa hóa: Khi nhà nước có chính sách khuyến khích sản
xuất trong nước thông qua việc quy định tỷ lệ nội địa hóa; tỷ lệ nội địa hóa càng cao thì
thuế nhập khẩu càng giảm. Cụ thể như, xe gắn máy nhập khẩu nguyên chiếc thuế nhập
khẩu 40%; nếu nhập linh kiện để lắp ráp với tỷ lệ nội địa hóa 40% thì thuế nhập khẩu
giảm chỉ còn 5%. Bọn làm ăn phi pháp đã khai thác điểm này, lập ra các Cty “ma” tạo
các hợp đồng cung cấp các linh kiện sản xuất trong nước rồi xuất hóa đơn bán hàng
cho các Cty nhập khẩu xe gắn máy.
- Hợp thức hóa việc tăng chi phí các công trình sử dụng vốn NSNN để rút tiền
NSNN: Đây là thủ đoạn lấy tiền NSNN thông qua việc thực hiện các công trình sử
dụng vốn NSNN, bọn tội phạm này đã cấu kết thành một hệ thống từ trong ra ngoài; từ
việc đấu thầu, hợp đồng đơn vị thi công, giám sát công trình, nghiệm thu. Chúng đã lập
ra nhiều Cty “ma”, sử dụng các Cty này ký hợp đồng mua bán cung ứng vật tư, thiết bị.
Một mặt chúng nâng giá lên, một mặt chúng xuất khống vật tư cho công trình, thông
qua các hợp đồng bán vật tư và các tờ hóa đơn; cuối cùng các hợp đồng, các tờ hóa đơn
này là những chứng từ hợp pháp để quyết toán lấy tiền NSNN.
- Hạch toán, ghi chép sổ sách, chứng từ hoá đơn không đầy đủ, không trung
thực, không phát hành hoá đơn GTGT cho khách hàng. Bằng các thủ thuật tinh vi như
hạch toán, ghi chép sổ sách, chứng từ hoá đơn không đầy đủ, không trung thực, không
mở sổ theo dõi, bỏ ngoài sổ sách kế toán hoạt động, các Cty, DN đã trốn thuế gây thất
thu cho NSNN. Trường hợp này diễn ra rất phổ biến với các Cty, DN thương mại, dịch
vụ. Bởi người tiêu dùng cuối cùng thường không muốn nhận hoá đơn GTGT. Nhiều
DN thương mại dịch vụ nhất là kinh doanh Karaoke, Nhà hàng, khách sạn, ăn uống…
không cấp ngay hoá đơn GTGT theo yêu cầu của khách hàng mà thường cấp sau theo
địa chỉ của khách. Thực chất của vấn đề là tìm cách trì hoãn việc cấp hoá đơn GTGT
cũng như làm nản lòng người yêu cầu được cấp hóa đơn. Việc bán hàng không xuất
hoá đơn GTGT, DN đã che dấu doanh số bán ra, làm cho thuế GTGT đầu ra giảm dẫn
đến DN nộp thuế ít hơn, thậm chí không nộp thuế mà còn được hoàn thuế GTGT.
Trong nhiều trường hợp người bán hàng chỉ ghi nội dung bán hàng ở liên giao cho
42
khách hàng (liên 2) của hoá đơn GTGT, những liên khác thì không ghi. Rõ ràng đây là
trường hợp gian lận thuế GTGT mặc dù vẫn cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng.
2.5. Những hạn chế về chính sách, quản lý và tổ chức thu thuế ảnh hưởng đến vai
trò kích thích kinh tế của thuế GTGT.
2.5.1. Hạn chế về chính sách thuế.
2.5.1.1. Chính sách thuế GTGT chưa ổn định, thiếu nhất quán.
Thuế GTGT được thể hiện tại 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế GTGT số
02/1997/QH9 ngày 10/5/1997 (có hiệu lực thi hành ngày 01/01/1999), Luật thuế
GTGT số 07/2003/QH11 ngày 17/6/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
GTGT năm 1997 (có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2004), Luật số 57/2005/QH11 ngày
29/11/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT và Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt. Các văn bản pháp lý đi kèm để hỗ trợ thực hiện Luật thuế này thời gian qua ban
hành gồm Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài Chính, các Quyết định và
văn bản hướng dẫn thi hành của Tổng Cục Thuế, Cục thuế các Tỉnh, Chi Cục thuế
Quận, huyện...Mặt khác, năm 2006, Luật Quản lý thuế (có hiệu lực từ 01/7/2007) được
Quốc hội thông qua đã bãi bỏ các quy định về quản lý thuế như đăng ký, kê khai, nộp
thuế, xử lý vi phạm...của các luật, pháp lệnh thuế hiện hành trong đó có Luật thuế
GTGT. Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi
cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật. Những quy định hướng dẫn thi hành chính sách
thuế GTGT chưa ổn định, chưa đồng nhất, không đầy đủ và thiếu rõ ràng gây khó khăn
cho cơ quan thuế và cho cả người nộp thuế.
2.5.1.2. Quy định nhiều đối tượng không chịu thuế GTGT.
Trước đây, Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9 ngày 10/5/1997 quy định 26
trường hợp không thuộc diện chịu thuế GTGT. Hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thuế GTGT số 07/2003/QH11 ngày 17/6/2003 quy định 28 trường hợp
không thuộc diện chịu thuế GTGT.
Đối tượng không chịu thuế theo quy định hiện hành quá rộng và chưa phù hợp
với quá trình luân chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa các khâu, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, điều này sẽ gây khó khăn cho việc tính thuế GTGT ở khâu sau và hạn chế phần
nào động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh cụ thể như sau:
43
- Việc xác định máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải làm tài sản cố định của
DN, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được để làm căn cứ xác định đối tượng
không chịu thuế ở khâu nhập khẩu trên thực tế rất khó và không kịp thời. Quy định này
chưa tạo điều kiện cho các DN trong nước chú trọng đầu tư vào hoạt động nghiên cứu -
phát triển, sản xuất ra những máy móc, thiết bị, vật tư mới cung cấp cho nền kinh tế và
từng bước chiếm lĩnh thị trường trong, ngoài nước.
- Vận tải quốc tế; hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế thuộc
diện không chịu thuế GTGT chưa góp phần tạo điều kiện các DN vận tải Việt Nam
cạnh tranh với các hãng vận tải nước ngoài do các DN vận tải không được khấu trừ
thuế GTGT đầu vào làm tăng chi phí; việc xác định hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực
tiếp cho vận tải quốc tế trên thực tế rất khó khăn, dễ bị lợi dụng làm sai lệch mục tiêu
của chính sách, gây thất thu thuế.
- Trong những năm qua và thời gian tới, Nhà nước đang chuyển đổi các đơn vị
hoạt động điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản của
Nhà nước sang hoạt động theo mô hình DN với sự tham gia của các thành phần kinh tế
theo phương thức nhà nước đặt hàng. Việc quy định các việc đưa các dịch vụ này thuộc
đối tượng không chịu thuế sẽ không đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT, DN không
được kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào phải tính vào chi phí, từ đó ảnh hưởng tới
hiệu quả kinh doanh của DN.
Gần đây, thị trường tài chính đang hình thành và phát triển, kéo theo sự xuất
hiện một số dịch vụ tài chính mới như dịch vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn mua, bán
ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển
nhượng vốn xuất hiện ngày càng nhiều. Theo thông lệ quốc tế, các dịch vụ tài chính
thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Hiện nay, Luật thuế GTGT mới chỉ quy định
không chịu thuế đối với một số dịch vụ tài chính như tín dụng, bảo hiểm nhân thọ... mà
chưa có dịch vụ tài chính phái sinh, chuyển nhượng vốn.
2.5.1.3. Đa thuế suất.
Thuế suất là linh hồn của thuế, là yếu tố quan trọng nhất của một chính sách
thuế bởi nó phản ánh quan hệ giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Qui
định mức thuế suất hợp lý sẽ kích thích sản xuất phát triển, tăng thu NSNN, tác động
tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội. Việc qui định số lượng các mức thuế suất
44
nhiều hay ít, cao hay thấp có tính quyết định đến sự áp dụng thành công hay thất bại
của một chính sách thuế. Nếu số lượng mức thuế suất quá ít; Nhà nước khó thực hiện
được những chính sách xã hội nhưng có ưu điểm đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu dễ áp
dụng, hạn chế tình trạng thất thu thuế. Nếu số lượng mức thuế suất quá nhiều sẽ làm
cho chính sách thuế phức tạp, khó quản lý, dễ bị vận dụng tùy tiện, bị lợi dụng để lách
thuế, trốn thuế gây thất thu cho NSNN nhưng lại có ưu điểm thể hiện được khả năng
điều tiết linh hoạt của nhà nước trong những trường hợp cần thiết tùy thuộc vào điều
kiện tình hình kinh tế - xã hội.
Một trong những điểm thay đổi quan trọng của Luật sửa đổi một số điều về thuế
GTGT là rút gọn từ 4 mức thuế suất thuế GTGT trước đây (0%, 5%, 10%, 20%) xuống
còn 3 mức (0%, 5%, 10%). Thuế suất 0% áp dụng cho hàng hóa dịch vụ xuất khẩu và
02 mức thuế còn lại là 5%, 10%, trong đó thuế suất phổ thông là 10%. Chính thay đổi
này làm cho việc áp dụng thuế suất đã dễ dàng hơn trước. Tuy thế, hiện tại vẫn còn
vướng mắc từ việc vận dụng thuế suất thuế GTGT mà nguyên nhân cũng xuất phát từ
chỗ còn quy định nhiều mức thuế suất.
- Áp dụng 03 mức thuế suất như hiện hành không đảm bảo mục tiêu cải cách
chính sách như: công bằng giữa các DN, đơn giản, đảm bảo nguồn thu, việc xác định
thuế đầu ra, đầu vào được khấu trừ đối với DN và ngay cả cơ quan thuế cũng rất phức
tạp.
- Việc mở rộng đối tượng hàng hóa, dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 5% (ví dụ sản
phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; khuôn đúc các loại; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông
công nghiệp,...) đã làm mất đi tính phổ thông của nhóm thuế suất 10%, dẫn đến rất
phức tạp trong quá trình phân biệt giữa nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5% và
10% nên thực hiện không thống nhất.
- Tiêu chí phân định một số hàng hoá, dịch vụ chưa rõ ràng trong việc áp dụng
các mức thuế suất 5%, 10%: Việc xác định mức thuế suất vừa theo sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ vừa theo công dụng sản phẩm, vừa theo tính chất lý hoá của sản phẩm. Ví
dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì áp dụng thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu
sản xuất là 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí không thể phân định được rõ
ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
45
- Việc phân loại nhóm mặt hàng theo biểu thuế suất thuế GTGT và danh mục
hàng hóa nhập khẩu theo thông lệ quốc tế không thống nhất, làm cho việc thu thuế
GTGT gặp rất nhiều khó khăn, dễ nhầm lẫn và áp dụng thuế suất sai. Cụ thể với mặt
hàng mật rỉ, phế liệu thu hồi từ công nghiệp chế biến đường, khi bán ra được áp dụng
thuế suất theo mặt hàng đường là 10%. Tuy nhiên, biểu thuế suất GTGT theo danh
mục hàng hóa nhập khẩu thì lại quy định thuế suất 5% áp dụng đối với mặt hàng là phế
liệu, phế thải thu hồi từ ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
Ngoài ra, mỗi năm, cơ quan quản lý thuế các cấp đã phải phát hành hàng chục
nghìn công văn hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của các DN về thuế suất thuế GTGT, tốn
kém cả về nhân lực và vật lực.
2.5.1.4. Phương pháp tính thuế GTGT phải nộp chưa đồng nhất .
Do điều kiện nước ta đang trong giai đoạn đầu chuyển đổi sang kinh tế thị
trường nên trình độ quản lý kinh tế, hạch toán kế toán còn hạn chế, vẫn còn thói quen
mua bán nhỏ lẻ, nhất là khối ngoài quốc doanh. Nên khi triển khai thực hiện thuế
GTGT đã áp dụng đồng thời hai phương pháp tính thuế: phương pháp khấu trừ thuế và
phương pháp trực tiếp tính trên GTGT nhằm tạo điều kiện cho các DN có thể ổn định
kinh doanh, tiếp cận làm quen với cơ chế thuế mới. Tuy nhiên, hai phương pháp tính
thuế với hai chế độ tính thuế, nộp thuế riêng đã tạo ra “hai sân chơi” không bình đẳng
từ đó chia cắt thị trường thành hai khu vực riêng biệt, cản trở việc giao lưu hàng hóa
giữa hai khu vực.
Riêng phương pháp trực tiếp tính trên GTGT, tùy theo mức độ thực hiện hóa
đơn chứng từ của hộ kinh doanh mà áp dụng một trong 3 cách tính: trực tiếp trên
GTGT, trực tiếp trên doanh số kê khai hoặc ấn định doanh số (doanh số khoán). Đến
nay, việc quy định này đã phát sinh những tồn tại nhất định như:
- Cách tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT đối với đối tượng nộp thuế thực
hiện chưa đầy đủ chế độ kế toán, chứng từ theo công thức xác định GTGT bằng tỉ lệ
GTGT là không chính xác, dễ gây tiêu cực trong việc ấn định tỉ lệ GTGT, xác định
doanh thu, hơn thế nữa, nó sẽ tạo kẽ hở cho những kẻ cơ hội, lợi dụng để gian lận tiền
của Nhà nước.
- Cách tính thuế GTGT trực tiếp trên doanh số kê khai gây ra thất thu thuế do:
46
+ Thực tế các hộ chỉ kê khai nộp thuế phần doanh số bán hàng hoặc cung cấp
dịch vụ phản ánh trên hóa đơn thực xuất cho những khách hàng có nhu cầu sử dụng
hoá đơn; phần doanh số bán lẻ hoặc bán cho những đối tượng không cần hóa đơn
(thường là rất lớn) đều không lập bảng kê bán lẻ, bỏ ngoài sổ sách, không kê khai nộp
thuế.
+ Xuất hoá đơn khống cho những cán bộ, công chức thuộc các đơn vị hành
chính sự nghiệp có nhu cầu cần chứng từ để hợp lý hoá các khoản chi không đúng chế
độ quy định, những khoản “tiêu cực phí” hoặc để thanh toán những khoản mà thực tế
không phát sinh. Muốn có hoá đơn, những cán bộ công chức này phải chi cho hộ kinh
doanh một số tiền theo một tỷ lệ (%) nhất định trên giá trị hóa đơn đã xuất để đủ nộp
thuế và còn dư một ít lợi nhuận từ dịch vụ xuất hóa đơn. Trong trường hợp này thì cả
hộ kinh doanh và công chức có nhu cầu về hóa đơn đều “đôi bên cùng có lợi”, chỉ có
NSNN là bị thiệt.
+ Xuất hoá đơn khống vật tư, nguyên liệu, dịch vụ cho các DN có nhu cầu hóa
đơn để hợp thức hóa chứng từ đầu vào, dĩ nhiên là cơ sở KD cũng được trả một khoản
tiền để đủ nộp thuế và có lợi nhuận. Trường hợp này xét về cục bộ thì cơ quan thuế nơi
quản lý hộ kinh doanh có thêm số thu, nhưng xét về tổng thể thì Nhà nước sẽ thất thu
do cơ quan thuế nơi quản lý DN có nhu cầu hóa đơn sẽ không thu được phần thuế thu
nhập DN của phần khai tăng chi phí.
2.5.1.5. Quy định về hoàn thuế thiếu chặt chẽ.
Hoàn thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong chính sách thuế GTGT nhưng thời
gian qua, cơ chế này đang bộc lộ mặt trái của nó, cụ thể như:
- Việc quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ chưa tốt, mua bán, thanh toán bằng
tiền mặt còn phổ biến dẫn đến nhiều kẽ hở bị lợi dụng trong việc kê khai, lập hồ sơ
hoàn thuế khống, rút tiền của NSNN. Theo số liệu tổng hợp không chính thức, số tiền
thất thoát qua hoàn thuế đã kiểm tra phát hiện và thu hồi vào NSNN năm 2006 gần 700
tỷ đồng, trong đó ngành thuế thu 324 tỷ, ngành công an thu hồi khoảng 376 tỷ đồng.
- Những quy định về đối tượng, điều kiện được hoàn thuế, cũng như thời gian
hoàn thuế chưa phù hợp như: đối tượng xét hoàn thuế quá rộng, điều kiện thủ tục lập
hồ sơ hoàn thuế lại đơn giản, thời gian xét hoàn thuế (15 ngày) và thời gian xử lý tối đa
(30 ngày) quá ngắn, do đó cơ quan thuế không đủ thời gian để kiểm tra, thẩm định hồ
47
sơ hoàn thuế từ đó không phát hiện những sai phạm hoặc những lợi dụng của DN. Tính
đến cuối năm 2007, các DN trong cả nước có hồ sơ đề nghị hoàn thuế GTGT là 17
nghìn tỷ, qua kiểm tra về thủ tục pháp lý ban đầu, có đối chiếu xác minh điển hình một
số hóa đơn có nghi vấn, đã loại trừ không chấp nhận hoàn thuế 12% số hóa đơn và hồ
sơ không hợp lệ, tương ứng với số tiền thuế gần 3 nghìn tỷ.
Đồng thời, trong quá trình thực hiện hoàn thuế còn một số điểm chưa thống
nhất, chưa đầy đủ và chặt chẽ, quy định còn phân tán ở nhiều văn bản khác nhau (quy
định về hoàn thuế cho dự án ODA)... dẫn đến khi thực hiện còn mang tính chủ quan,
không thống nhất, vừa gây tâm lý phiền hà cho DN và cũng có thể có nhiều rủi ro cho
cán bộ khi xử lý.
2.5.2. Công tác quản lý và tổ chức thu thuế còn hạn chế.
2.5.2.1. Công tác tuyên truyền và hướng dẫn pháp luật về thuế chưa sâu rộng.
Chưa xây dựng được kế hoạch dài hạn cho công tác tuyên truyền thuế từ trung
ương đến địa phương. Công tác này chỉ mới dừng lại ở các hình thức tuyên truyền có
tính chất phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, chưa quan tâm đến việc
nâng cao chất lượng và đầu tư cho công tác tuyên truyền theo chiều sâu.
Công tác tuyên truyền chủ yếu nhằm phổ biến văn bản mới và rút kinh nghiệm
quản lý thu thuế của nội bộ ngành, chứ chưa nhận thức được công tác tuyên truyền
thuế là phải nhằm vào đối tượng nộp thuế, vào các tầng lớp dân cư để họ có nhận thức
đúng về luật, chế độ chính sách thuế mà từ đó thực hiện một cách tự nguyện.
Các hình thức sử dụng phương tiện hiện đại cho công tác tuyên truyền như hệ
thống điện thoại tự động, hệ thống thư tín điện tử để đối tượng nộp thuế có thể tìm hiểu
về thuế một cách nhanh nhất và thuận tiện nhất đến nay ngành thuế chưa có điều kiện
triển khai.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thuế của những người làm công tác tuyên
truyền hỗ trợ chưa được quan tâm đúng mực. Khi trả lời trực tiếp cho ĐTNT thường
lúng túng, thiếu chính xác do chưa nắm vững chính sách, chế độ. Từ đó, gây nên tâm
lý không tin tưởng, bất mãn từ ĐTNT đối với cơ quan thuế. Do vậy, khi có vướng mắc
trong chính sách thuế, thông thường ĐTNT sẽ gửi văn bản hỏi để có bút tích của cơ
quan thuế. Để khi thực hiện theo văn bản, nếu có sai sót ĐTNT sẽ không chịu trách
nhiệm.
48
Mặt khác, việc nắm bắt một cách đầy đủ các quy định thuế hiện hành trở thành
nỗi lo lắng lớn đối với các DN. Do vậy, trong nhiều trường hợp, DN nhờ vào sự hướng
dẫn gần như hoàn toàn của cán bộ thuế. Điều này dẫn đến nhiều hậu quả: các chính
sách của Chính phủ không xuống đến CSKD, tạo thói cửa quyền nơi cán bộ thuế, nảy
sinh sự thông đồng giữa cán bộ thuế và ĐTNT để trốn thuế, thất thu lớn cho ngân sách.
2.5.2.2. Công tác kiểm tra, thanh tra kém hiệu quả.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm thuế chưa được đặt đúng tầm, chưa
phù hợp với thực trạng nước ta. Nhiều trường hợp trốn thuế, lậu thuế, gian lận thuế
GTGT nhưng chưa được kiểm tra, phát hiện xử lý kịp thời.
Việc kiểm tra, thanh tra thuế tại các DN chủ yếu dựa trên phương pháp thủ
công, đối chiếu xác minh bằng văn thư, chưa áp dụng được công nghệ tin học hiện đại.
Việc điều tra, khởi tố các vụ vi phạm nghiêm trọng về thuế; chế tài xử phạt vi phạm về
thuế chưa rõ ràng, các hình thức xử phạt còn quá nhẹ, chưa đủ mức ngăn chặn các hành
vi gian lận thuế…
Cán bộ thanh tra, kiểm tra nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế, không hiểu về
môi trường kinh doanh nói chung, về tình hình hoạt động đặc thù, trọng yếu trong sản
xuất kinh doanh của đơn vị được thanh tra, kiểm tra. Đồng thời, có nhiều trường hợp
cán bộ thanh tra, kiểm tra thiếu tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị đã gây ra nhiều
khó khăn cho Cty, DN làm ăn chân chính, nhưng lại nhận tiền để những Cty, DN làm
ăn bất chính hoạt động công khai, gây bất bình trong xã hội và thất thu thuế cho
NSNN.
Theo thanh tra Bộ Tài Chính, trong 2 năm 2004, 2005 ngành thuế đã tiến hành
thanh tra, kiểm tra hơn 266.000 đối tượng nộp thuế, qua đó phát hiện và truy thu vào
NSNN số thuế ẩn lậu hơn 2.140 tỷ đồng. Tuy nhiên sai phạm của cán bộ nhân viên
ngành thuế cũng không nhỏ, qua kiểm tra, ngành thuế cũng đã phát hiện và xử lý 345
cán bộ có vi phạm. Sai phạm của cán bộ thuế phổ biến là thực hiện chính sách ưu đãi,
miễn giảm thuế cho đối tượng không đúng chế độ.
2.5.2.3. Tin học hoá ngành thuế chưa được thực hiện.
Công nghệ thông tin đã tham gia xử lý các phần việc thuộc Ngành Thuế như:
lưu trữ danh sách toàn bộ đối tượng nộp thuế đã được cấp mã số; chuyển nhập số thuế
nợ đọng tính đến cuối tháng 12 năm 1998; nhập và kiểm tra tính thuế trên tờ khai; xử
49
lý số liệu thuế miễn, giảm, hoàn, phạt và quyết toán; theo dõi số thuế nộp; nhận giấy
nộp tiền từ kho bạc, chứng từ hoàn thuế; truy xuất nhật ký thu, báo cáo nhanh và các
báo cáo khác theo quy định. Tuy nhiên, việc áp dụng máy tính trong quản lý thu thuế
chưa đồng bộ trên phạm vi cả nước. Do đó công tác phối hợp và kiểm tra chéo để kiểm
soát đối tượng nộp thuế vẫn bị bỏ ngỏ. Mặc dù trang WEB ngành thuế đã được xây
dựng nhưng các văn bản chính sách, chế độ thuế, cung cấp thông tin tham khảo cho đối
tượng nộp thuế vẫn chưa cập nhật kịp thời.
Về hạ tầng kỹ thuật hiện nay, tuy đã được tăng cường trang thiết bị tin học
nhiều hơn so với các năm trước đây, nhưng so với nhu cầu quản lý thuế thì còn thiếu
rất nhiều, chưa đủ sức để có thể hiện đại hóa ngành thuế để kết nối với hệ thống tin học
tài chính quốc gia hiện đại sau này.
2.5.2.4. Quy trình và tổ chức bộ máy ngành thuế còn chồng chéo.
Hiện nay, bộ máy ngành thuế được tổ chức thành 03 bộ phận độc lập: bộ phận
đăng ký thuế và kiểm tra tờ khai; bộ phận tính thuế và đôn đốc thu nộp; bộ phận thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, từ đó hạn chế được tiêu cực, từng bước thực hiện
chuyên môn hóa quản lý theo chức năng. Tuy nhiên vẫn còn hạn chế do phân công
trách nhiệm quản lý ĐTNT theo vị trí địa lý hành chính trong khi phạm vi giao dịch
thương mại của các DN diễn ra khắp cả nước và mở rộng ra nước ngoài. Do vậy, việc
theo dõi, kiểm tra có nhiều hạn chế.
Qui trình chưa hướng dẫn cụ thể các quy chế phối hợp giữa các bộ phận, không
dự kiến hết các tình huống thực tế, nên trong khi áp dụng gặp nhiều trở ngại, lúng túng
cho cả cơ quan thuế lẫn đối tượng nộp thuế. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các
bộ phận còn chồng chéo, chưa cụ thể.
Bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý chưa đáp ứng được nhu cầu hiện đại hóa
công tác quản lý thuế nhất là trong công tác thanh tra, kiểm tra và công tác xử lý thông
tin.
Cơ chế tổ chức và phối hợp giữa các bộ phận thu NSNN chưa phù hợp. Tổ chức
phối hợp, trao đổi thông tin giữa Ngành Thuế với các ngành khác như Hải quan, Ngân
hàng, Kho bạc… chưa chặt chẽ, đồng bộ, nên việc theo dõi, nắm bắt tình hình kinh
doanh của các Cty, DN, cũng như việc thực hiện các biện pháp giải quyết nợ đọng
thuế,… chưa triệt để.
50
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Qua gần 10 năm thực hiện, thuế GTGT đi vào cuộc sống đã tác động tích cực đến
nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước và vai trò kích thích kinh tế phát triển của thuế
GTGT hình thành rõ nét và bắt đầu phát huy tác dụng đạt được mục tiêu đề ra của nhà
nước. Tuy nhiên qua thực tế thực hiện, Luật thuế GTGT đã phát sinh một số nội dung
còn chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập và cần
thiết phải sửa đổi.
Bối cảnh hội nhập đã tạo rất nhiều thuận lợi để môi trường đầu tư và thị trường
trong nước được cải thiện và phát triển; theo đó, thị trường hàng hoá đã được mở rộng
theo các cam kết WTO; thị trường tiền tệ, vốn, chứng khoán được hình thành và đã có
bước phát triển mạnh mẽ, thị trường bất động sản đang nóng lên… Thêm vào đó, nhu
cầu chi ngân sách tiếp tục tăng cao khi Nhà nước đang đẩy mạnh cải cách trong lĩnh
vực văn hoá giáo dục, đào tạo, cải cách hành chính và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Để đảm bảo các cân đối vĩ mô, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh,
thuế GTGT cần sửa đổi về cả chính sách và công tác hành thu. Những khuyến khích ưu
đãi sẽ công bằng và có tính khả thi cao, trên cơ sở đó thúc đẩy thị trường phát triển,
kinh tế tăng trưởng đồng bộ và bền vững, tạo ra quy mô nền kinh tế lớn hơn, lưu
chuyển hàng hoá nhiều hơn, đồng thời cũng tạo ra cơ hội để tăng nguồn thu.
51
3.1. Quan điểm nâng cao vai trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế tại Việt
Nam.
Việc đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò của thuế GTGT trong phát triển
kinh tế dựa trên những quan điểm sau:
3.1.1. Định hướng hệ thống thuế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
- Thuế xuất nhập khẩu trong hệ thống thuế chỉ còn nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ
thực hiện các chính sách kinh tế đối ngoại của đất nước.
- Nhiệm vụ chủ yếu của thuế GTGT phải đảm bảo nguồn thu ổn định quan trọng
cho NSNN một cách thường xuyên, liên tục.
- Nhiệm vụ chính của thuế thu nhập DN phải là kích thích phát triển kinh tế và
thúc đẩy chuyển dịch kinh tế Việt Nam theo xu hướng phát triển mới.
- Thuế Thu nhập cá nhân trở thành một loại thuế quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong tổng số thuế và đảm nhận chức năng thực hiện công bằng xã hội.
- Thuế môi trường, thuế tài sản cũng hình thành và trở thành một trong những nét
mới của hệ thống thuế.
- Các loại thuế khác như thuế đối với lĩnh vực nông nghiệp, thuế tài nguyên, thuế
tiêu thụ đặc biệt… có phạm vi tác dụng hẹp, giới hạn trong tác dụng khuyến khích hay
hạn chế các hoạt động thuộc diện thuế điều chỉnh.
3.1.2. Chính sách thuế GTGT phải đặt mục tiêu động viên NSNN lên vị trí hàng
đầu.
Một trong hai mục tiêu cơ bản của các sắc thuế là động viên ngân sách và
khuyến khích sản xuất kinh doanh, chính sách thuế GTGT phải đặt mục tiêu động viên
NSNN lên vị trí hàng đầu. Một luật thuế hiệu quả, công bằng và rõ ràng chỉ có thể đạt
được khi mục tiêu động viên NSNN được coi trọng hơn các mục tiêu khác. Trong
trường hợp này thuế không nên gây tình trạng tận thu mà còn góp phần nuôi dưỡng
nguồn thu. Một chính sách thuế hiệu quả thì chỉ với thuế suất tương đối cũng sẽ đạt
được số thu ngang bằng với số thu của một chính sách thuế có thuế suất cao nhưng
không hiệu quả. Mặt khác khi số thu được đảm bảo, Nhà nước có thể dùng số tiền này
để kích thích sản xuất thông qua nhiều hình thức khác nhau chứ không phải chỉ giảm
thuế như cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ xuất khẩu, thực hiện các chính
sách xã hội cũng như tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
52
3.1.3. Tăng thu trên cơ sở nâng cao hiệu quả của chính sách thuế, hạn chế gian lận
thuế hơn là tăng thuế suất.
Một chính sách thuế hiệu quả và bộ máy tổ chức hành thu hiệu quả sẽ cho phép
tăng thu mà không cần tăng thuế suất. Điều này góp phần giảm áp lực từ phía nhà nước
phải tăng thuế súât để bù vào khoản thiếu hụt do tình trạng thất thu thuế và gian lận
thuế-hệ quả của một chính sách thuế không hiệu quả. Vì vậy một trong những vấn đề
quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách thuế hiện nay là làm sao nâng cao hiệu quả
của chính sách thuế và tổ chức hành thu.
3.1.4. Sự phối hợp rộng rãi các ngành lĩnh vực trong nền kinh tế xã hội.
Để chính sách thuế GTGT thực sự mang lại hiệu quả và mang tính khả thi đòi
hỏi phải có sự phối hợp rộng rãi các ngành lĩnh vực trong nền kinh tế xã hội chứ không
phải riêng ngành thuế. Thuế ảnh hưởng đến mọi họat động của đời sống kinh tế xã hội.
Sự thành công của chính sách thuế vì vậy phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: trình độ dân
trí, mức sống dân cư, quy mô và trình độ sản xuất, mức độ hiện đại hóa các phương
tiện thanh toán và thói quen trong thanh toán của người dân…Song song với việc hoàn
thiện chính sách thuế đòi hỏi các ngành, các lĩnh vực phải đạt được trình độ phát triển
nhất định theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ các quan điểm nêu trên, việc đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò
của thuế GTGT trong phát triển kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu sau:
+ Thứ nhất đảm bảo thuế GTGT thực sự là sắc thuế GTGT nghĩa là thuế GTGT
phải đảm bảo những bản chất vốn có của nó.
+ Thứ hai góp phần nâng cao hiệu quả hành thu, chống thất thu cũng như giảm
phí tổn cho các DN trong việc quản lý và nộp thuế.
+ Thứ ba tạo sự công bằng trong hoạt động kinh doanh của các DN.
3.2. Giải pháp về chính sách thuế GTGT.
3.2.1. Thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT.
Do thuế GTGT có đặc tính lũy thoái, nên việc áp dụng các trường hợp không chịu
thuế GTGT là điều không tránh khỏi nhằm hạn chế tính lũy thoái của nó. Tuy nhiên đối
với các hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT, thật ra cũng không thoát khỏi tác
động của thuế GTGT hoàn toàn vì giá trị của chúng không được phép khấu trừ khi tính
thuế GTGT, từ đó tạo ra sự đánh chồng thuế và các sự biến động không dự kiến được
53
về thuế suất đối với thuế GTGT vốn được thiết kế để khắc phục tình trạng đánh chồng
thuế. Điều này cho thấy việc mở rộng quá mức hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không
chịu thuế GTGT có thể tạo ra những lệch lạc quan trọng. Cần đánh thuế GTGT lên tất
cả hoạt động kinh doanh vì chúng đều sáng tạo GTGT theo những cách khác nhau;
đồng thời thu hẹp các hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế.
Do đó, trong thời gian tới, việc điều chỉnh đối tượng chịu thuế, đối tượng không
chịu thuế là thực sự cần thiết và kiến nghị điều chỉnh theo hướng sau đây:
Một là, vẫn tiếp tục áp dụng không thu thuế GTGT đối với các loại hình dịch vụ
liên quan tới tài chính như: tín dụng, quỹ đầu tư, hoạt động kinh doanh, chứng khoán…
nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính và đảm bảo phù hợp với
thông lệ của các nước trên thế giới. Đối với tất cả các loại hình dịch vụ bảo hiểm bao
gồm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh và các loại hình bảo hiểm khác điều không
thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Đồng thời, cần bổ sung vào diện không chịu thuế
GTGT đối với: “Các dịch vụ tài chính phái sinh” do Luật thuế GTGT chưa có dịch vụ
tài chính phái sinh, chuyển nhượng vốn.
Hai là, Để phù hợp với chủ trương của Nhà nước và tạo điều kiện cho các DN
trong nước cạnh trạnh và từng bước chiếm lĩnh thị trường trong, ngoài nước và qua
thời gian thực hiện cho thấy việc không đánh thuế GTGT chỉ giải quyết giúp đỡ được
nhà đầu tư ở chỗ không phải ứng vốn để trả trước tiền thuế. Về vấn đề này, hoàn toàn
chúng ta có thể khắc phục được bằng các giải pháp kỹ thuật mà cơ chế vận hành của
thuế GTGT có thể giải quyết được như cho khấu trừ và giải quyết hoàn thuế nhanh cho
các nhà đầu tư. Do vậy, đề nghị chuyển sang đối tượng chịu thuế GTGT đối với:
- Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công
nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước không sản xuất được cần nhập khẩu để
tạo tài sản cố định của DN.
- Điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản của
Nhà nước.
- Vận tải quốc tế; Hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế.
Ba là, việc các hàng hóa, dịch vụ khác hiện vẫn chưa có tên trong danh sách
chịu thuế GTGT như: dịch vụ y tế công cộng, hoạt động dạy học, dạy nghề; dịch vụ
tưới tiêu thủy lợi; hoạt động văn hóa; xuất bản báo chí; phát thanh; truyền hình; các
54
dịch vụ công ích; dịch vụ quốc phòng an ninh; chuyển quyền sử dụng nhà đất; nhà của
nhà nước bán cho người tiêu dùng….là chưa thật sự công bằng đối với tất cả các hàng
hóa. Hướng sắp tới cần phải tiến hành đưa vào danh mục chịu thuế GTGT, tạo sự công
bằng và hợp lý.
3.2.2. Dùng một thuế suất thuế GTGT.
Theo quy luật co giản nghịch đảo (inverse elasticity rule) và tính hiệu quả của
thuế theo qui luật Ramsey, khi đánh thuế tiêu dùng cao vào một hàng hóa nào đó thì sự
thay đổi hành vi của người tiêu dùng có thể gây tác động tiêu cực về kinh tế, đó là phần
“mất trắng” do việc đánh thuế gây ra. Để hạn chế tối đa tác động tiêu cực này, thuế
suất thuế tiêu dùng phải được thiết kế tỷ lệ nghịch với độ co giản của cầu hàng hóa đó
trên thị trường. Nghĩa là phải đánh thuế suất cao đối với hàng hóa thiết yếu, những
hàng hóa mà khi giá tăng do đánh thuế xã hội không có khả năng thay đổi hành vi tiêu
dùng, đồng thời đánh thuế suất thấp hơn đối với những mặt hàng cao cấp, những mặt
hàng nhu cầu rất nhạy cảm với những biến động nhỏ về giá. Nhưng khi xét về mức độ
công bằng, thì sự tăng giá đối với nhóm hàng thiết yếu do tăng thuế sẽ làm giảm lợi ích
toàn xã hội nhiều hơn sự tăng giá đối với nhóm hàng hóa cao cấp. Do vậy, trên phương
diện này, nhà nước lại áp dụng thuế suất cao đối với mặt hàng cao cấp, điều này hoàn
toàn ngược với quan điểm về hiệu quả kinh tế. Như vậy qua mâu thuẩn giữa hai quan
điểm trên, thuế GTGT, là một loại thuế đánh vào tiêu dùng, nên chỉ có một hay ít thuế
suất.
Ở nước ta, chế độ đa thuế suất đang làm méo mó phần nào tác dụng của thuế
GTGT, dẫn đến làm hạn chế tác dụng điều tiết vĩ mô của cả hệ thống chính sách thuế
đối với nền kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện kinh tế nước ta đòi hỏi phải
đặt nhiều mục tiêu khác nhau, trong đó có cả mục tiêu thực hiện chính sách xã hội, dẫn
đến làm hạn chế mục tiêu chính sách của thuế GTGT là nhằm động viên công bằng vào
mọi hàng hóa, dịch vụ.
Trong thuế GTGT, đánh thuế với thuế suất 0% tốt gấp hai lần miễn thuế. Thuế
suất 0% gây ra hai tác dụng chính đồng thời: một là miễn thuế và một là hoàn thuế, và
một tác dụng phụ: duy trì tính thông suốt của quá trình hành thu. Vì vậy, danh mục
hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT và danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
GTGT với thuế suất 0% phải được xem xét kỹ lưỡng.
55
Đề tài kiến nghị ngoài thuế suất 0% áp dụng một cách lâu dài cần có thuế suất
0% áp dụng ngắn hạn, từ 3 đến 5 năm, đối với những hàng hóa, dịch vụ chiến lược cần
tài trợ bằng thuế. Do đó, mỗi giai đoạn phát triển cần chọn một số hàng hóa, dịch vụ
mang tính chiến lược cho hưởng thuế suất 0%, rồi thay đổi sang mặt hàng khác. Đây là
ưu đãi đặc biệt nên phải công bố trước và minh bạch để không tạo tâm lý phân biệt đối
xử giữa các DN.
Ngoài thuế suất 0% đang áp dụng, nên thống nhất áp dụng một mức thuế suất là
10% cho tất cả hàng hóa dịch vụ. Điều này hoàn toàn hợp lý và khả thi xuất phát từ
những luận cứ khoa học sau:
Một là, thuế GTGT với đặc tính là một loại thuế thực, là loại thuế không dựa
vào khả năng của người nộp thuế nghĩa là không đặt ra khoản miễn trừ của người nộp
thuế khi khả năng người nộp thuế có sự thay đổi theo khả năng, hoàn cảnh của người
nộp thuế. Do vậy, việc đặt nhiều loại thuế suất khác nhau trong thuế GTGT, nhằm điều
tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư là không cần thiết, bởi mục tiêu này nên thực
hiện bằng các loại thuế khác sẽ hợp lý hơn, như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập
DN, thuế tiêu thụ đặc biệt…
Hai là, xét về đại lượng giá trị tăng thêm cấu thành trong giá trị sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ của một ngành nghề nào đó ứng với một mức chi phí được xã hội chấp
nhận trong mối quan hệ cân đối giữa các ngành sản xuất kinh doanh nhưng lại phải
chịu thuế GTGT với các mức thuế suất khác nhau là không hợp lý.
Ba là, xét theo đặc điểm của thuế GTGT là loại thuế đánh vào mức tiêu dùng,
tức là căn cứ vào giá trị của hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng, chứ không phải căn cứ
vào loại hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng để phân chia theo các mức thuế suất khác
nhau.
Bốn là, trong điều kiện nước ta khi chưa có kinh nghiệm nhiều về việc áp dụng
thuế GTGT nên cơ cấu thuế suất cần phải đơn giản, thường thì các cơ sở thương mại,
kinh doanh rất nhiều mặt hàng phải chịu nhiều mức thuế suất khác nhau (thường bị áp
dụng lẫn lộn giữa hai mức thuế suất 5% và 10%), để công tác quản lý thu nộp thuế
GTGT đỡ phức tạp và có hịêu quả hơn, nên áp dụng một thuế suất đơn nhất.
Năm là, theo xu hướng chung của các nước trong việc xây dựng chính sách thuế
GTGT hiện nay là đơn giản hóa thuế suất thuế GTGT để đảm bảo tính trung lập và tính
56
hiệu quả của thuế GTGT. Hiện trong số khoảng trên 120 nước đang áp dụng thuế
GTGT có đến 70 nước chỉ áp dụng một mức thuế suất đơn nhất (ngoài thuế suất 0%)
như Inđônêxia là 10%, Nhật Bản là 5%m Philipin là 10%, Singapore là 3%, Thái Lan
10%, Chi Lê 18%, Na Uy 23%.... do vậy việc hướng tới áp dụng một mức thuế suất
đơn nhất trong thuế GTGT ở nước ta cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng của các
nước trên thế giới hiện nay.
3.2.3. Sử dụng một phương pháp tính thuế GTGT.
Việc tồn tại 2 phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ và phương
pháp tính trực tiếp trên GTGT sẽ tạo ra sân chơi không bình đẳng, công bằng giữa các
cơ sở sản xuất kinh doanh.
Nhằm bảo vệ công bằng về thuế, khắc phục những tiêu cực, lợi dụng trong việc
ấn định thuế theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. Đồng thời nâng cao trình
độ hạch toán kế toán của người nộp thuế, trước hết là việc lập hóa đơn, mở sổ sách kế
toàn và kê khai nộp thuế GTGT, đề nghị sửa đổi qui định về phương pháp tính thuế
như sau:
Nhà nước nên dứt khoát hơn về các phương pháp nộp thuế: hoặc nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ hoặc là nộp thuế khoán, bỏ qua hai dạng trung gian là nộp thuế
theo phương pháp trực tiếp trên GTGT và nộp thuế trực tiếp trên doanh thu.
Nếu chỉ còn hai hình thức nộp thuế (phương pháp khấu trừ và nộp thuế khoán),
cơ quan quản lý sẽ tập trung thời gian và nhân lực để quản lý các đối tượng nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ, còn trường hợp nộp thuế khoán nên dựa vào đặc điểm,
ngành, nghề kinh doanh để ấn định số thuế phải nộp, như vậy công tác quản lý sẽ trở
nên đơn giản hơn và giảm được gian lận thuế. Ở nước ta nên quy định doanh thu hàng
năm khoảng bao nhiêu để được đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Các hộ
nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT nếu xét đủ điều kiện thì chuyển sang
nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, số còn lại không đáp ứng đủ yêu cầu phải nộp
thuế khoán.
3.2.4. Áp dụng ngưỡng chịu thuế GTGT.
Nhằm thu hẹp đối tượng nộp thuế GTGT, đảm bảo quản lý thuế có hiệu quả, tập
trung quản lý thu đối với các DN vừa và lớn, các hộ kinh doanh nếu có mức doanh thu
dưới ngưỡng tính thuế thì không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT, áp dụng nộp thuế
57
theo mức ấn định trên doanh thu. Bởi lẽ trình độ quản lý của ngành thuế còn nhiều hạn
chế và khả năng chấp hành của một bộ phận lớn người dân có hạn. Các hộ kinh doanh
có doanh số hàng năm “nằm” dưới ngưỡng chịu thuế sẽ điều chỉnh sang đối tượng
không chịu thuế GTGT và nên áp dụng một loại thuế tương tự như thuế doanh thu
trước đây nhưng phải đơn giản hóa tối đa số lượng thuế suất và khi thu nên áp dụng
chế độ “khoán” doanh thu.
Trong thời gian tới, đề tài kiến nghị bổ sung qui định: hàng hóa do các hộ kinh
doanh có doanh số hàng năm dưới ngưỡng chịu thuế (ngành thương nghiệp, dịch vụ là
500 triệu đồng; các ngành còn lại là 300 triệu đồng) được miễn thuế GTGT, không
phải tính thuế trên giá bán và không kê khai nộp thuế GTGT. Các đối tượng này sẽ
được chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức ấn định theo tỉ lệ % trên doanh thu, với
mức thu khoảng 2% trên doanh số. Mức thu này cũng tương đương với mức thuế suất
tính trên doanh thu hiện nay của một số nước ở khu vực Châu Á đang áp dụng.
3.2.5. Quy định về khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
Để khắc phục những hiệu ứng tiêu cực do sử dụng hoá đơn GTGT trong khấu
trừ, hoàn thuế. Chính sách thuế cần có quy định việc mua bán hàng hoá, dịch vụ phải
thanh toán qua ngân hàng đối với tất cả các DN khi xét hoàn thuế. Đồng thời, để phù
hợp với thực tiễn hiện nay, cần thiết quy định việc mua bán hàng hoá, dịch vụ đến một
mức tiền nào đó bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng thì CSKD mới được kê khai
khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đặc biệt kiểm tra chặt chẽ đối với các hoạt động dịch vụ,
thương mại và quy định cụ thể về mức tỷ lệ hoá đơn GTGT đã được xác minh khi hoàn
thuế. Tuy nhiên cần ràng buộc cụ thể về trách nhiệm xác minh của cơ quan thuế trong
thời gian phù hợp để kịp thời hoàn thuế cho DN tạo điều kiện kinh doanh được thuận
lợi.
- Bỏ quy định thời hạn tối đa kê khai thuế GTGT đầu vào 3 tháng kể từ tháng
phát sinh mà thay đổi thành trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế,
thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế, người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã
nộp có sai sót gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì được khai bổ sung hồ sơ khai
thuế. Qua đây, giúp DN được khấu trừ đúng số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đã
mua vào cho sản xuất kinh doanh.
58
- Bổ sung quy định thuế đầu vào của tài sản cố định dùng đồng thời cho sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì
được khấu trừ toàn bộ. Quy định này vừa nhằm khắc phục tồn tại của Luật hiện hành
do không xác định được số thuế khấu trừ của tài sản cố định trong trường hợp sử dụng
chung và vừa khuyến khích DN đầu tư.
3.2.6. Xóa bỏ tình trạng bảo hộ sản xuất nội địa qua giá tính thuế hàng nhập
khẩu.
Theo Luật thuế GTGT, giá tính thuế GTGT của hàng nhập khẩu gồm hai thành
phần: giá tính thuế của thuế nhập khẩu và thuế nhập khẩu. Hai mặt hàng nhập khẩu có
giá tính thuế nhập khẩu như nhau, có thuế suất thuế GTGT như nhau nhưng nếu thuế
suất của thuế nhập khẩu khác nhau thì chắc chắn không chỉ thuế nhập khẩu khác nhau
mà thuế GTGT cũng khác nhau. Không nên xem thuế nhập khẩu là một bộ phận cấu
thành giá trị sản phẩm và càng không thể là giá trị tăng thêm từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh do DN tạo ra. Thuế nói chung là một số tiền Nhà nước ấn định trên đối
tượng tính thuế cho dù cấu thành giá trị sản phẩm song đó chỉ là một cách do DN hạch
toán để thu lại số thuế đã nộp.
Việc đưa thuế nhập khẩu vào giá tính thuế của thuế GTGT không chỉ thiếu căn
cứ về mặt lý luận và còn thiếu căn cứ thực tiễn. Mọi ưu việt của lợi thế tương đối trong
thương mại quốc tế hoàn toàn bị thủ tiêu và người chịu thiệt đầu tiên không ai khác
người tiêu dùng, sau đó là toàn nền kinh tế, bởi trên phương diện kinh tế vĩ mô, giá cả
hàng hóa tăng lên sẽ hạn chế tiêu dùng và dẫn đến sự sụt giảm tổng cung (GDP).
Luật thuế GTGT quy định giá tính thuế GTGT là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc
biệt. Tuy nhiên, Đề tài kiến nghị cần đánh thuế GTGT vào các hàng hóa, dịch vụ thuộc
diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ngay tại khâu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Giá tính thuế
GTGT nên loại trừ thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế suất của thuế GTGT ở khâu này cũng
tương tự như tất cả khâu khác. Động tác này nhằm các mục đích:
+ Loại bỏ sự chồng thuế GTGT lên thuế tiêu thụ đặc biệt;
+ Phân định rõ chức năng của thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế hướng dẫn
sản xuất và điều tiết tiêu dùng;
+ Không làm gián đoạn quá trình vận hành của thuế GTGT.
59
3.3. Giải pháp nâng cao năng lực Bộ máy quản lý thuế.
3.3.1. Quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý
thuế.
Kiện toàn Tổ chức bộ máy Tổng cục thuế theo các nguyên tắc:
+ Thứ nhất, phản ánh đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ
quan quản lý thuế theo quy định của Luật quản lý thuế, có phân công, phân cấp rõ
ràng.
+ Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lý thuế thống nhất tại tất cả cơ quan thuế các cấp
chủ yếu theo mô hình chức năng, phù hợp với cơ chế tự khai tự nộp thuế. Mỗi chức
năng quản lý thuế như tuyên truyền-hỗ trợ; xử lý tờ khai thuế; quản lý thu nợ và cưỡng
chế thuế; kiểm tra thanh tra thuế có một bộ phận chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ
quản lý.
+ Thứ ba, cơ cấu bộ máy cơ quan thuế hợp lý; chức năng, nhiệm vụ của từng bộ
phận phải đầy đủ, rõ ràng, không chồng chéo, không bỏ sót. Quy mô của từng bộ phận
cơ cấu phải hợp lý, tương xứng với khối lượng công việc được phân công và đáp ứng
yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn mới.
+ Thứ tư, tổ chức bộ máy tổng cục thuế phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam về
quản lý hành chính, kinh tế, ngân sách, về trình độ của người nộp thuế… trong giai
đoạn hiện nay và khả năng chuyển đổi trong giai đoạn sắp tới; đáp ứng hội nhập quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với thế giới và
các nước trong khu vực.
3.3.2. Hình thành hệ thống thuế qua mạng vi tính.
Để khắc phục tình trạng gian lận thuế GTGT liên quan đến hoá đơn GTGT,
không cách nào khác hơn là phải tăng cường công tác kiểm tra hoá đơn GTGT lưu
hành trên thị trường. Số lượng hóa đơn GTGT được xác minh, kiểm tra, đối chiếu càng
nhiều thì sẽ càng hạn chế việc gian lận thuế GTGT. Đây là biện pháp mang tính kinh
điển. Vấn đề là phải thay đổi phương pháp thực hiện để phù hợp với tình hình mới.
Trên thực tế việc gian lận thuế GTGT thông qua hoá đơn GTGT là hoàn toàn có thể
khắc phục được nếu chúng ta áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế, kiểm tra thuế
GTGT và hệ thống mạng máy tính ngành Thuế được hoàn thiện trên phạm vi cả nước.
60
Trong ngắn hạn biện pháp này khó có khả năng thực hiện bởi vì hiện nay mạng máy
tính vẫn chưa được hoàn thiện. Tuy nhiên trong dài hạn thì đây là giải pháp chủ yếu.
Đề tài kiến nghị áp dụng mô hình thuế điện tử trong giai đoạn tới được xây
dựng gồm 03 phần chính:
- Cơ quan thuế sẽ cung cấp nhiều dịch vụ điện tử hơn cho ĐTNT như kết nối
cổng điện tử với ĐTNT, cung cấp các dịch vụ kê khai thuế qua mạng, tiến tới nộp thuế
qua mạng, cung cấp đầy đủ văn bản, chính sách, thủ tục về thuế trên mạng Internet.
Ngành thuế cũng sẽ xây dựng trung tâm Hỗ trợ ĐTNT (với hệ thống trả lời điện thoại
tự động, tư vấn và trả lời trực tiếp) và Trung tâm xử lý dữ liệu (hệ thống thư điện tử,
fax…).
- Kiểm soát thu thuế bao gồm tất cả các chức năng mà cơ quan thuế phải thực
hiện: xác định ĐTNT, xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế; kế toán thuế, dự báo số thu và
xác định các khoản phải thu; quản lý sự tuân thủ và xử lý các trường hợp vi phạm.
- Toàn bộ dữ liệu từ các bộ phận tác nghiệp cũng như từ các cơ quan thứ ba sẽ
được đưa vào các kho cơ sở dữ liệu điện tử để phục vụ công tác phân tích, đánh giá
trong quá trình thanh tra, kiểm tra ĐTNT.
Trong mô hình quản lý thuế điện tử này, các tính năng điện tử sẽ được xây dựng
như tự động hóa theo từng chức năng, tính năng tích hợp giữa các chức năng nghiệp vụ
và dữ liệu lưu giữ trong hệ thống. Bên cạnh đó, các chức năng và quy trình xử lý chuẩn
sẽ được sử dụng chung đối với tất cả các loại thuế, đồng thời mô hình này cũng có khả
năng dễ dàng bổ sung các loại thuế mới, hỗ trợ những thay đổi về mặt pháp lý và chính
sách. ĐTNT sẽ được tập trung phục vụ chủ yếu của ngành thuế thông qua việc vừa hỗ
trợ ĐTNT tích hợp đa kênh (nộp hồ sơ qua mạng, trả lời tự động…), vừa tăng tính tuân
thủ và quản lý chặt chẽ các trường hợp vi phạm. Cuối cùng là mô hình này sẵn sàng
giao dịch điện tử với các cơ quan chính phủ và các tổ chức tư nhân như ngân hàng, Cty
tư vấn thuế…trong một chính phủ điện tử, xã hội điện tử tương lai.
Thông qua mô hình quản lý này, hệ thống thuế điện tử sẽ làm cho ĐTNT hài
lòng hơn với việc giải quyết triệt để thủ tục “một cửa”, tính thuế nhanh chóng, chính
xác. Ngoài ra, ĐTNT có thể được hoàn thuế ngay, chi phí thực hiện nghĩa vụ thuế
cũng giảm và họ có thể truy cập hệ thống dịch vụ thuế dễ dàng mọi lúc mọi nơi. Với cơ
quan thuế, hệ thống thuế điện tử sẽ góp phần giảm chi phí quản lý, hạn chế tối đa công
61
việc giấy tờ. Hoạt động xử lý thuế cũng sẽ được tự động hóa với mức độ cao cùng với
tính hiệu quả, tính chính xác của công tác quản lý thuế. Ý thức tuân thủ pháp luật thuế
của ĐTNT cũng sẽ được nâng lên và tình trạng nợ thuế sẽ được giảm nhiều.
Ngoài ra, khi thực hiện được mô hình này tất cả hóa đơn thuế đầu vào thể hiện
thuế đầu ra của DN nào đó trên phạm vi cả nước; ngược lại, hóa đơn đầu ra của DN là
thuế đầu vào của một DN khác. Cơ quan thuế có thể tra cứu được những nội dung cần
biết từ phía đối tác qua mạng. Hệ thống mạng quản lý hóa đơn sẽ xác minh được tính
hợp lý, hợp pháp của hóa đơn, chứng từ, kiểm soát số thuế đầu ra đầu vào của DN để
chống gian lận, tiện lợi, nhanh chóng trong việc quản lý hóa đơn, chứng từ. Do vậy, sự
phối hợp xác minh hóa đơn bằng văn bản như hiện nay giữa các cơ quan thuế địa
phương mất rất nhiều thời gian. Đó là lý do tại sao mỗi đia phương khi cần sự cộng tác
của các cơ quan khác đều ca thán rằng không có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Từ đó,
sẽ không còn một số gian lận như:
- Chương trình máy tính quản lý cả hai đầu: đầu vào và đầu ra. Nếu đối tượng
mua hàng kê khai thuế đầu vào thì bên đối tượng bán phải kê khai thuế đầu ra và ngược
lại. Nếu DN xuất hóa đơn mà không kê khai, chương trình máy tính sẽ không chấp
nhận và báo kết quả không tìm thấy đối tác, bên mua hàng sẽ không được khấu trừ
thuế đầu vào. Trường hợp xuất khống hóa đơn, nếu bên mua được khấu trừ thuế đầu
vào, bên bán phải nộp thuế đầu ra đúng bằng số đầu vào của bên mua.
- Hiện tượng xuất hóa đơn qua nhiều đơn vị cũng không còn. Mục đích của
trường hợp xuất hóa đơn qua nhiều địa phương khác nhau là do DN khai thác được
nhược điểm việc xác minh hóa đơn qua các tỉnh, thành phố của cơ quan thuế. Nhưng
với chương trình máy tính, chỉ trong một thời gian ngắn sẽ phát hiện được hiện tượng
này.
- Hóa đơn “trên trâu dưới nghé” (ghi các liên khác nhau) cũng không còn.
- Tác dụng đến công tác hoàn thuế. Ở khâu khấu trừ đã thực hiện việc xác minh
hóa đơn trên mạng máy tính, nên gánh nặng công việc ở khâu hoàn thuế sẽ giảm đi rất
nhiều.
3.3.3. Nâng cao chất lượng hỗ trợ ĐTNT của cơ quan thuế.
Hiện nay việc hỗ trợ ĐTNT do cơ quan thuế (bộ phận tuyên truyền hỗ trợ) thực
hiện dưới các hình thức như trả lời điện thoại, trả lời bằng văn bản, tư vấn tại cơ quan
62
thuế, tổ chức hội nghị, hội thảo. Trong đó, hình thức trả lời bằng điện thoại có tần suất
nhiều nhất, thứ đến là tư vấn tại cơ quan thuế, rồi đến hội nghị, hội thảo. Tuy nhiên, có
thể nói đây là những hình thức hỗ trợ tư vấn phổ biến nhưng tính pháp lý không cao,
khó lưu giữ chứng cứ pháp lý. Đối với người nộp thuế, sự hướng dẫn, tư vấn của cơ
quan thuế là đúng đắn, là chân lý, cứ thực hiện và yên trí sẽ không có rắc rối xảy ra.
Tuy nhiên thực tế đã xuất hiện các trường hợp cùng một nội dung nhưng cách giải
thích và hướng dẫn của từng cán bộ thuế lại khác nhau; giải thích, hướng dẫn, hỗ trợ
đối tượng nộp thuế ở các địa bàn, địa phương khác nhau cũng có thể khác nhau. Đây là
các tình huống có liên quan đến trách nhiệm của các bên khi xảy ra trường hợp tranh
chấp hoặc vi phạm pháp luật. Có những trường hợp DN vi phạm luật nhưng đỗ lỗi sự
hướng dẫn, tư vấn của cơ quan thuế. Có những trường hợp DN không làm theo sự
hướng dẫn, giải thích của cơ quan thuế nhưng cơ quan thuế cũng không có bằng chứng
xác thực để chứng minh sự hướng dẫn, tư vấn của mình. Vì thế, vấn đề ranh giới trách
nhiệm giữa cơ quan thuế và ĐTNT trong các trường hợp vi phạm (dù vô tình hay cố ý)
cũng cần phải được quy định một cách chặt chẽ.
Bên cạnh đó, cần bố trí nguồn nhân lực chuyên nghiệp và giỏi nghiệp vụ cho
việc cung cấp các dịch vụ ban đầu cho ĐTNT như việc trả lời điện thoại và các cuộc
tiếp xúc cá nhân. Việc bố trí cán bộ thuế giỏi nhất, chuyên nghiệp nhất có thể trả lời
được các câu hỏi của ĐTNT một cách nhanh chóng và chính xác nhất. Từ đó, cơ quan
thuế đảm bảo được chất lượng hỗ trợ, tránh trường hợp sai sót cho ĐTNT trong việc
thực hiện và chi phí kiểm tra giám sát sẽ giảm đáng kể nếu các CSKD nhận thức đúng
đắn và tính toán được chính xác số thuế cần nộp.
Việc cung cấp các ấn phẩm, tài liệu thuế cần được mở rộng hơn, có thể có sẵn ở
các bưu điện, các quầy sách báo, trung tâm văn hóa, nơi công cộng thay vì để ở các tủ
sách miễn phí tại cơ quan thuế như hiện nay để mọi người dễ tiếp cận tìm hiểu về thuế
và các chính sách thuế.
3.3.4. Nâng cao công tác thanh tra kiểm tra.
Trong công tác thanh tra cần thiết phải phân loại đối tượng để thanh tra, nhằm
tránh gây phiền hà cho người nộp thuế, và từ đó có thể làm cho các đối tượng nộp thuế
chấp hành nghiêm chỉnh chính sách thuế, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan bảo
vệ pháp luật, phát hiện và xử lý kịp thời hành vi vi phạm chính sách thuế. Việc phân
63
loại đối tượng nộp thuế phải bảo đảm khách quan, công bằng, trên cơ sở các tiêu thức
rõ ràng và công khai, cụ thể dựa trên cấp độ vi phạm của từng đối tượng nộp thuế trong
việc thực hiện các Luật Thuế, Luật kế toán và chế độ quản lý sử dụng hóa đơn, chứng
từ…Dựa trên danh sách phân loại đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế tiến hành xây dựng
kế hoạch thanh tra, kiểm tra và công khai rộng rãi đến từng đối tượng nộp thuế, trên
các phương tiện thông tin. Ví dụ:
* DN loại A: là những DN chấp hành nghiêm chỉnh chính sách thuế. Đối với
các DN loại này thì tối thiểu trong 5 năm phải kiểm tra 1 lần.
* DN loại B: là những DN đã có vi phạm nhưng không thường xuyên và mức
độ không nghiêm trọng. trong trường hợp này thì tối thiểu trong 2 năm phải kiểm tra 1
lần.
* DN loại C: là những DN vi phạm thường xuyên chính sách thuế. Đối với các
DN loại này thì cần thiết phải kiểm tra thường xuyên mỗi năm 1 lần.
Để việc thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả cao thì công tác đào tạo, trang bị kiến
thức, đạo đức nghề nghiệp trước và trong quá trình thực thi công vụ của các thanh tra
viên thuế cần đưa lên hàng đầu. Cụ thể:
+ Phải nắm vững các quy định pháp luật về luật thuế, kế toán tài chính, thanh
tra… và các quy định pháp luật khác.
+ Nắm vững và xử lý khoa học các trường hợp thanh tra. Đó chính là kinh
nghiệm kỹ năng của thanh tra viên thuế. Kỹ năng này được hình thành từ thực tiễn
thanh tra kiểm tra tại DN của chính thanh tra viên đó và được tích lũy từ quá trình đào
tạo, trang bị của ngành; kinh nghiệm của các đồng nghiệp và kinh nghiệm từ các nước
trong khu vực và quốc tế. Đây được xem như chất xám của ngành. Chất xám này là
những kinh nghiệm thực sự hữu ích đối với mỗi thnh tra viên. Việc động viên, trao đổi
kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh tra thuế giữa các đồng nghiệp là việc làm cần được
ngành thuế khuyến khích, nhân rộng.
+ Tuân thủ các quy định, quy chuẩn của ngành, đạo đức cán bộ, công chức nói
chung và ngành thuế nói riêng. Thanh tra thuế là người mà các lợi ích: Nhà nước - tập
thể - cá nhân có sự đan xen rõ rệt khi tiến hành thanh tra kiểm tra DN. Nếu không có
bản lĩnh rèn luyện và tự rèn luyện phẩm chất, chính trị, tư cách đạo đức trong sáng sẽ
khó đạt được mục đích mà cuộc thanh tra đề ra. Vì vậy việc rèn luyện về phẩm chất,
64
đạo đức thanh tra viên trong thanh tra kiểm tra luôn phải là một trong những vấn đề
hàng đầu của công tác quản lý cán bộ
+ Phải hiểu biết về DN được thanh tra kiểm tra. Ngoài việc hiểu về môi trường
kinh doanh nói chung, về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị dự kiến
tiến hành thanh tra kiểm tra.
+ Phải nắm bắt được những vấn đề đặc thù, trong yếu của DN được thanh tra
kiểm tra. Nắm bắt được các vấn đề này, các thanh tra viên sẽ hạn chế được thời gian
kiểm tra
3.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng hữu quan.
Đó là thuế - hải quan, thuế - kho bạc, thuế - ngân hàng, đáng chú ý nhất là mối
quan hệ giữa ngành Thuế với ngành Hải quan. Hiện nay giữa hai ngành này vẫn còn
một số vấn đề chưa ăn khớp trong hành thu thuế GTGT, chẳng hạn như chưa thống
nhất về thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng nhập khẩu thuộc diện chịu thuế
GTGT, sự thiếu phối hợp trong xét hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu, …
Sự liên kết giữa những cơ quan, ban ngành hiện nay vẫn đang được thực hiện
nhưng chưa có kết quả như mong muốn, sự phối hợp này đòi hỏi mang lại những kết
quả và thông tin nhanh chóng, kịp thời và có chế độ tin cậy cao. Do vậy cần tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan thuế các cấp, giữa các cơ quan chức năng trong
trao đổi thông tin, thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm các quy định trong
kê khai, nộp thuế, hoàn thuế và quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ.
3.3.6. Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế.
Sự thành công hoặc thất bại của thuế phụ thuộc không nhỏ vào chất lượng đội
ngũ cán bộ, nhân viên thuế. Họ là người đại diện Nhà nước trực tiếp thu thuế và đóng
vai trò người chuyển tải tinh thần thuế đến từng đối tượng nộp thuế. Việc nâng cao
trình độ của cán bộ thuế ngòai việc tránh những sai sót trong hành thu, chống thất thoát
các khoản thu NSNN, còn góp phần đáng kể cho công tác phổ biến, tuyên truyền thuế
xuống tận CSKD. Do đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ một cách
thường xuyên dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Đối với nhân viên mới, bắt buộc phải tốt nghiệp từ Đại học về kinh tế hoặc Đại
học pháp lý trở lên.
65
- Đối với công chức đã được đào tạo chuyên ngành Thuế, có chế độ khuyến khích
vật chất để họ theo học các ngành khác như: pháp lý, kế toán, ngoại ngữ, vi tính,…
- Hàng năm, cơ quan thuế phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên
môn, lý luận chính trị cho cán bộ nhân viên. Cần định kỳ tổ chức đợt sinh hoạt chuyên
đề về tình hình kinh tế, chính trị và xã hội trong và ngoài nước.
- Thường xuyên sát hạch trong nội bộ ngành và kiểm tra chéo về nghiệp vụ thu
thuế. Cá nhân nào không đạt sẽ bị trừ thu nhập. Nếu nhiều lần không đạt thì chuyển
sang công tác văn phòng hoặc cho thôi việc. Bên cạnh đó, Ngành thuế cần xây dựng
chiến lược đào tạo cán bộ cho quá trình cải cách thuế.
- Cần đãi ngộ xứng đáng về tiền lương, tiền thưởng và trang bị hợp lý phương
tiện làm việc cho cán bộ thuế.
Bên cạnh nâng cao nghiệp vụ chuyên môn là thường xuyên rèn luyện tư cách
đạo đức cho cán bộ và nhân viên thuế. Xem tư cách đạo đức là một trong những chuẩn
mực hàng đầu khi bổ nhiệm hoặc sắp xếp, bố trí nhân sự. Chúng ta phải nâng cao ý
thức về thuế cho chính cán bộ thuế. Điều này góp phần không nhỏ vào bồi dưỡng đạo
đức cán bộ - yếu tố quyết định cho việc quét sạch hiện tượng thông đồng với DN, hiện
tượng cửa quyền để trục lợi cá nhân, hiện tượng biển thủ, gian lận tiền thuế,… Nâng
cao ý thức thuế để thấy được những bất hợp lý trong hành thu (bất hợp lý về giá, thuế
suất, thủ tục, thời hạn,…) và đề đạt lên cấp trên tháo gỡ cho DN. Tại sao có những bất
hợp lý mà DN đã phản ánh rất nhiều, nhưng chậm sửa đổi? Một phần do cán bộ thuế
ngại đề xuất ý kiến, bởi vì chưa chắc đã được cấp có thẩm quyền lắng nghe; phần khác
là do chưa quan tâm đúng mức đến những bức xúc của DN.
3.4. Các giải pháp hỗ trợ.
3.4.1. Thống nhất áp dụng văn bản quy phạm pháp luật quy định về thuế GTGT.
Triệt để không ban hành các công văn “siêu luật”, dùng công văn để điều chỉnh
chính sách thuế GTGT. Không thể chấp nhận công văn cấp Cục thuế, Chi cục thuế
chứa đựng các quy phạm mới, bởi điều này dẫn đến cam kết của Việt Nam với WTO
về vấn đề minh bạch hóa có thể bị vi phạm nghiêm trọng. Cách quản lý, điều hành
“trọng công văn hơn trọng pháp” còn gây thiệt thòi nghiêm trọng cho các DN. Bởi
thông tin ở dạng công văn thì DN rất khó có thể tiếp cận, vì nó không được xây dựng,
ban hành theo một quy trình công khai nào. Về mặt pháp lý, công văn cũng không phải
66
là một hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Hầu hết các công văn đều chỉ lưu hành
trong nội bộ giữa cơ quan Nhà nước với nhau trong khi chúng lại có liên quan mật
thiết, thậm chí có thể quyết định số phận của cả DN.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp cho thấy, chính việc chưa hoàn thiện của hệ thống
pháp luật đã làm phát sinh các công văn để lấp vào chỗ trống. Hàng loạt vấn đề trong
quá trình quản lý, điều hành do chưa có pháp luật điều chỉnh đã buộc cơ quan thuế phải
dùng công văn như một biện pháp tạm thời thay thế. Do vậy, khi ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về thuế GTGT, Nhà nước cần lấy ý kiến của tất cả thành phần, lĩnh
vực, ngành nghề và kinh nghiệm của các nước để phù hợp, không để thiếu sót trong
quản lý thực hiện.
3.4.2. Hoàn thiện luật DN.
Cần sửa đổi một số nội dung về các điều kiện khi đăng ký kinh doanh của Luật
DN như: về lý lịch tư pháp đối với người đứng đầu DN; về việc thẩm định hồ sơ trước
khi cấp giấy phép kinh doanh (phải kiểm tra năng lực pháp luật, năng lực hành vi, khả
năng tài chính, khả năng quản lý DN của các đối tượng đăng ký, thành lập DN), để góp
thêm biện pháp tăng cường hiệu lực của thuế GTGT.
Thứ nhất, Thủ tục thành lập DN phải kèm thêm lý lịch tư pháp:
Điều tiên quyết cần phải thẩm định rõ ràng lý lịch tư pháp, và kiểm tra năng lực
hành vi đối với người đứng đầu DN, để cơ quan cấp phép nắm được lý lịch tư pháp của
người được cấp giấy phép, phải gắn liền trách nhiệm cá nhân của họ với mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của DN, để khi họ cố ý làm sai thì Luật pháp có đủ định chế để
điều chỉnh các hành vi đó, có như thế thì một cá nhân nào đó có ý thành lập DN để
kinh doanh hóa đơn, rồi bỏ trốn thì cơ quan chức năng vẫn có đủ cơ sở để tìm được cá
nhân này. Thực ra làm việc này cũng không gây ra nhiều phức tạp, đối với thủ tục
thành lập DN hay gây khó khăn cho đối tượng xin thành lập DN, bởi nếu ai kinh doanh
chân chính sẽ sẳn sàng cung cấp lý lịch bản thân cho cơ quan chức năng.
Thứ hai, Nên quy định lại vốn pháp định cho tất cả các ngành nghề, và quy định
DN phải mở tài khoản ngân hàng trên tiền vốn pháp định.
Theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến, người ta rất quan tâm đến xác định
vốn của các DN. Điều này có lý của nó, nếu không có vốn thì không thể hoạt động
kinh doanh được. Luật DN Việt Nam nên quy định vốn pháp định cho tất cả các ngành
67
nghề, kinh doanh và số tiền vốn pháp định đó phải được thể hiện ở tài khoản ngân
hàng. Hiện nay, thủ tục mở tài khoản tại ngân hàng có sự thông thoáng và đơn giản.
hơn nữa, mở tài khoản tại ngân hàng là điều kiện tốt để DN giao dịch, khi đi vào hoạt
động. Đóng tiền vốn pháp định còn thể hiện được tư cách pháp nhân, như quy định tại
điều 94 Bộ Luật dân sự về điều kiện công nhận pháp nhân. Vì vậy, DN mới ra đời
không chỉ có con dấu, mà phải chứng tỏ mình có năng lực có năng lực kinh doanh thể
hiện qua vốn ở tài khoản ngân hàng cũng như trên sổ sách kế toán. Một DN không có
vốn hoạt động là dấu hiệu của DN “ma”.
3.4.3. Cần thực hiện nghiêm chỉnh việc niêm yết giá.
Thực hiện nghiêm chỉnh việc niêm yết giá quy định tại Điều 29 pháp lệnh giá
ngày 8/5/2002, theo đó các tổ chức, cá nhân phải niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ tại cửa
hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Cơ quan thuế có thể thông
qua giá cả được niêm yết tại các điểm mua, bán hàng hóa của thương nhân, từ đó có
thể đối chiếu với bảng kê trên tờ khai thuế hàng tháng, từ đó có thể phát hiện được
những hành vi gian lận, trốn thuế do giá trên hóa đơn thấp hơn giá bán thực tế. bên
cạnh việc khuyến khích niêm yết giá, phải có chế tài đối với những đơn vị không thực
hiện niêm yết.
3.4.4. Khuyến khích thanh toán qua hệ thống ngân hàng.
Có thể nói thanh toán qua ngân hàng là công cụ quản lý kinh tế hiệu quả nhất.
Dựa vào tài khoản ngân hàng, cơ quan thuế có cơ sở kiểm tra giao dịch của các DN, có
thực hay không cũng như kiểm tra được nguồn vốn kinh doanh, khả năng tài chính của
DN, giảm gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế.
Việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng sẽ hạn chế rất nhiều tình trạng trốn lậu
thuế. Bởi đầu ra, đầu vào và các nguồn thu nhập của các tổ chức, cá nhân có sử dụng
tài khoản giao dịch được kiểm soát một cách chặt chẽ. Nhà nước cần quy định mọi
giao dịch đến một giá trị nhất định nào, thì phải thực hiện qua ngân hàng. Khi nào
thanh toán qua ngân hàng trở thành thói quen của người dân, thì nền kinh tế mới thực
sự khởi sắc. Hiện nay, thanh toán ở nước ta chủ yếu bằng tiền mặt do quy mô nền kinh
tế còn nhỏ bé.
Muốn vậy, nhà nước có thể tài trợ phí mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, nhằm
thu hút đông đảo các tổ chức cá nhân tham gia. Đồng thời phải cải tiến các thủ tục, và
68
cung cách phục vụ của ngân hàng theo hướng nhanh, gọn, tiện lợi để đáp ứng mọi nhu
cầu của khách hàng một cách tốt nhất, và trước mắt Nhà nước cần ban hành những văn
bản, quy định các DN phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Để tạo thói quen
không dùng tiền mặt, nên có quy định bắt buộc mở tài khoản đối một số đối tượng như:
- Người nước ngoài cư trú và làm việc tại Việt Nam.
- Các chủ DN, các nhân viên quản lý và điều hành DN.
- Các cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Tất cả nhân viên các cơ quan quản lý Nhà Nước.
- Các đối tượng hành nghề độc lập.
3.4.5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức công dân về nghĩa vụ
nộp thuế, khi mua hàng phải lấy hóa đơn.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục, cơ quan quản
lý thu và bằng nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền, giáo dục các đối tượng nộp
thuế, biết đầy đủ chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật để nâng cao ý thức, tự giác
chấp hành nghiêm chỉnh Luật thuế đã ban hành.
Hình thành và phát triển mạng lưới tư vấn thuế công cộng, phát triển mạnh mẽ
các dịch vụ tư vấn thuế, kế toán thuế nhằm hướng dẫn đầy đủ kịp thời các thủ tục kê
khai, tính thuế, quyết toán thuế, đồng thời hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện tốt
công tác kế toán, quản lý chặt chẽ hóa đơn chứng từ, từ đó giảm thiểu những sai sót
không cố ý, bảo đảm hạch toán đúng kết quả kinh doanh, xác định đúng nghĩa vụ nộp
thuế với Nhà Nước.
Cần loại bỏ quan điểm cho rằng dân chúng biết càng nhiều về thuế càng khó
thu. Hiểu biết về thuế không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của người dân. Hệ
thống thuế dù hoàn hảo nhưng không ai biết và hiểu thì cũng không thể được thực thi
hiệu quả. Chính sự hiểu biết tường tận của dân chúng về thuế càng tạo mối thông cảm
giữa người thu thuế và người nộp thuế, thức là hành thu thuế càng dễ dàng, và góp
phần ngăn chặn hiệu quả mọi hiện tượng nhũng nhiễu của cán bộ thuế.
Đưa giáo dục thuế vào phần giáo dục ý thức công dân ở bậc phổ thông với bản
chất thuế là tiền do dân đóng góp để phục vụ lợi ích cộng đồng. Ví dụ: một trong các
tiêu chuẩn cơ bản để trở thành công dân tốt là phải hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ nộp
thuế cho Nhà nước; trốn thuế là gian dối, không tốt;.v.v…
69
Thông qua các chương trình truyền hình có thể được phát sóng dưới dạng quảng
cáo ngắn, hoặc các trò chơi truyền hình được phát trên các kênh có đông lượng khán
giả, có thể được phát sóng rải rác trong năm hoặc tập trung vào một thời gian nhất
định, hoặc vào đầu mỗi tháng đến kỳ nộp tờ khai thuế.
Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức chấp hành chế
độ quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ trong nhân dân, tạo ra một tập quán tốt giúp
họ nhận thức được quyền lợi, và nghĩa vụ của mình trong việc đòi hỏi nhận hóa đơn
khi mua hàng hóa, dịch vụ. Thực tế hiện nay đại đa số người dân đi mua hàng hóa, dịch
vụ tiêu dùng không nhận hóa đơn, hoặc nhận hóa đơn với giá trị phản ánh trên hóa đơn
thấp hơn với số tiền thực trả, mà dễ nhận thấy nhất là các trường hợp mua xe gắn máy,
hàng gia dụng, điện tử…Bởi vì, theo nhận thức của người dân thì việc nhận hay không
nhận hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ có lợi gì cho Nhà nước, cho nền kinh tế và
chính bản thân họ. Thói quen tránh né, trốn thuế, không lấy hóa đơn đã ăn sâu vào suy
nghĩ của mọi người dân, việc xoá bỏ rào cản này không phải là vấn đề đơn giản, mà
cần phải kết hợp nhiều biện pháp, chính sách chỉ đạo của Nhà nước, sự phối hợp của
các cơ quan chức năng và các phương tiện truyền thông đại chúng (báo, đài, truyền
hình,…).
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Nhận thức đúng đắn về thuế GTGT về vai trò kích thích kinh tế và sử dụng thuế
GTGT trong thực tiễn là những vấn đề không đơn giản. Thu thuế GTGT cần đáp ứng
mục tiêu tăng thu ngân sách và mục tiêu kích cầu để khuyến khích đầu tư, thoạt tiên có
vẻ đối lập nhau, thế nhưng xét cho cùng chúng lại hỗ trợ nhau. Thu ngân sách tăng lên
mới có điều kiện vật chất để kích thích đầu tư; ngược lại, khi đầu tư được khuyến
khích, căn bản của thuế được mở rộng sẽ tạo điều kiện tăng nguồn thu ngân sách.
Vì vậy, nhận thức về thuế GTGT và sử dụng thuế GTGT cũng phải linh hoạt, nếu
không thuế sẽ không hề kích thích mà cản trở kinh tế phát triển. Khi đó thuế GTGT là
một gánh nặng thực sự đối với nền kinh tế và dân chúng.
70
KẾT LUẬN
Thuế là một trong nhiều công cụ kinh tế - tài chính của Nhà nước chứ không phải
là công cụ duy nhất. Tuy nhiên, thuế giữ một vị thế độc lập tương đối và có ảnh hưởng
đến cũng như nhận ảnh hưởng của nhiều khâu, bộ phận khác. So với các công cụ khác,
thuế là một công cụ nhạy cảm, tác động trực tiếp trên diện rộng. Do đó, ngoài việc tạo
thu, thuế còn được Nhà nước sử dụng nhằm điều chỉnh hoạt động kinh tế. Vai trò của
thuế đối với nền kinh tế tích cực hay tiêu cực phụ thuộc nhiều vào sự nhận thức và
năng lực vận dụng của Nhà nước. Nếu thuế được nhận thức đúng đắn và được đối xử
hợp quy luật thì nó kích thích kinh tế phát triển. Ngược lại, thuế sẽ gây căng thẳng
trong phân phối thu nhập giữa Nhà nước và khu vực tư, khuyến khích kinh doanh gian
lậu, gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, mà hậu quả cuối cùng là kìm hãm kinh
tế.
Trong hệ thống thuế, thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu, có
phương pháp thu khoa học và tiên tiến nhất hiện nay, đang được nhiều nước trên thế
giới áp dụng. Ở Việt Nam, thuế GTGT đã trở thành sắc thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng
cao và ổn định nhất trong thu ngân sách Nhà Nước từ thuế. Nhà nước đang tiến hành
cải cách để hoàn chỉnh các quy định pháp luật về thuế GTGT nhằm đưa thuế GTGT
ngày càng tiếp cận với thực tiễn, theo kịp tiến trình hội nhập, khai thác tối đa vai trò
của thuế GTGT để kích thích kinh tế phát triển.
Trên cơ sở đánh giá tình hình sử dụng thuế GTGT trong phát triển kinh tế ở nước
ta trong thời gian qua kết hợp với kinh nghiệm các nước, bối cảnh quốc tế và định
hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian tới, cùng với những kiến
thức thu thập được trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như trong công tác thực tế.
Đề tài đã đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai
trò của thuế GTGT trong phát triển kinh tế tại Việt Nam, được tổ hợp thành 3 nhóm
giải pháp lớn, đó là:
- Hoàn thiện chính sách thuế GTGT.
- Đổi mới công tác quản lý thu thuế GTGT.
- Các giải pháp hỗ trợ.
71
Tuy nhiên, thuế GTGT là loại thuế có phạm vi điều chỉnh rất rộng. Do đó, công
tác quản lý thu thuế GTGT, từ việc xây dựng chính sách thuế cho đến việc tổ chức
hành thu, là công tác mang tính chất tổng hợp liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế -
chính trị - xã hội. Đồng thời, do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quý thầy cô, anh chị và các bạn đóng góp,
bổ sung thêm.
Một số vấn đề sau đây chưa đề cập trong Đề tài, Tác giả sẽ nghiên cứu tiếp tục:
- Phân tích hiệu quả - chi phí của chính sách thuế GTGT làm cơ sở cho quá trình hoàn
thiện vai trò kinh tế của thuế GTGT.