ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRƢƠNG THỊ THUẬN
VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA THÙY DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRƢƠNG THỊ THUẬN
VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA THÙY DƢƠNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trƣơng Thị Thuận
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tôt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Ban chủ nhiệm, Quý thầy cô giáo khoa Ngữ
văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và Quý thầy cô giáo đã trực tiếp
giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Tác giả xin chân thành cảm ơn nhà văn Thùy Dương đã cung cấp tư
liệu và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn
khoa học PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu, cô đã nhiệt tình, tận tâm giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp trường
THPT Hòa Phú, Sở GD&ĐT Tuyên Quang cùng những người thân yêu đã
động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá
học này.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trƣơng Thị Thuận
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn ........................................................................................................... i
Lời cam đoan ....................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .............................................................................. 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 10
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 11
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 11
NỘI DUNG ....................................................................................................... 12
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ GIỚI TRONG VĂN HỌC NỮ
VIỆT NAM VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THÙY DƢƠNG ........ 12
1.1. Những vấn đề chung về giới .................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm giới ......................................................................................... 12
1.1.2. Quá trình nghiên cứu, sáng tác về giới trên thế giới ............................... 15
1.1.3. Nghiên cứu về giới trong văn học nữ Việt Nam ..................................... 17
1.2. Hành trình sáng tác của Thùy Dƣơng .................................................... 20
1.2.1. Nhà văn Thùy Dương .............................................................................. 20
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác: ................................................................................. 20
Chƣơng 2. VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THÙY DƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ...................................................... 24
2.1. Vấn đề giới đƣợc thể hiện qua bi kịch của ngƣời phụ nữ .................... 24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.1.1. Bi kịch chiến tranh .................................................................................. 24
iii
2.1.2. Bi kịch đời thường .................................................................................. 29
2.1.2.1. Bi kịch trong cuộc sống ....................................................................... 29
2.1.2.2. Bi kịch trong tình yêu, hôn nhân .......................................................... 34
2.2. Vấn đề giới qua vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ ............................................. 41
2.2.1. Vẻ đẹp hình thức ..................................................................................... 41
2.2.2. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất ..................................................................... 45
2.3. Vấn đề giới với khát vọng của ngƣời phụ nữ ........................................ 49
2.3.1. Khát vọng hạnh phúc .............................................................................. 49
2.3.2. Khát vọng bình đẳng giới ........................................................................ 51
Chƣơng 3. VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THÙY DƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............................................... 63
3.1. Nghệ thuật xây dựng, khắc họa nhân vật trong tiểu thuyết của
Thùy Dƣơng .......................................................................................... 63
3.1.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................. 63
3.1.2. Các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện nhân vật trong tiểu
thuyết của Thùy Dương ..................................................................................... 64
3.1.2.1. Nhân vật cô đơn ................................................................................... 64
3.1.2.2. Nhân vật tự ý thức ................................................................................ 68
3.1.2.3. Nhân vật tâm linh ................................................................................. 71
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy Dƣơng ..... 76
3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................. 76
3.2.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương ......................................... 77
3.2.2.1. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường ........................................... 77
3.2.2.2. Ngôn ngữ mang đậm chất trữ tình ....................................................... 78
3.2.2.3. Ngôn ngữ mới lạ, hiện đại .................................................................... 82
3.3. Các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết của Thùy Dƣơng ................. 83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.3.1. Khái niệm giọng điệu .............................................................................. 83
iv
3.2.2. Giọng điệu trong tiểu thuyết của Thùy Dương ....................................... 85
3.2.2.1. Giọng mỉa mai, châm biếm .................................................................. 85
3.2.2.2. Giọng điệu đồng cảm, xót xa ............................................................... 86
3.2.2.3. Giọng điệu dí dỏm, hài hước ................................................................ 88
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 93
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển xã hội loài người từ thời công xã nguyên thủy đến xã
hội hiện đại đã có sự phân chia về giới nam và nữ. Vai trò của nữ giới bị coi
là vai trò lệ thuộc và bị chi phối bởi nam quyền. Đặc biệt trong cái nhìn lịch
sử, phái nam gần như giữ vai trò thống trị tuyệt đối. Tuy nhiên cuộc chiến đấu
giành lại vị thế đã mất của nữ giới vốn âm ỉ rất lâu trong lịch sử đã dần phát triển
mạnh mẽ với tên gọi là nữ quyền luận (chủ nghĩa nữ quyền - feminism). Phong
trào này xuất phát từ ý thức về bản thân mình của giới nữ, được manh nha vào
thời kỳ khai sáng và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX đến nay.
Sự phát triển của chủ nghĩa nữ quyền đã nhanh chóng ảnh hưởng đến
đời sống xã hội hiện đại nói chung và văn học nói riêng. Với tư cách là một
trường phái phê bình chính trị, xã hội đã phát triển hết sức mạnh mẽ, phê bình
nữ quyền (feministcritisism) được mở rộng, chia thành nhiều nhánh và mang
nhiều sắc thái khác nhau. Cùng với những thay đổi to lớn, âm hưởng nữ
quyền đã ngấm sâu vào văn học, tạo thành một tiếng nói, một bản sắc độc đáo
trong văn học hiện đại và hậu hiện đại. Đặc biệt ở Phương Tây ảnh hưởng của
văn chương phái nữ rất mạnh mẽ, đến mức phê bình văn học nữ quyền đã trở
thành một môn học trong các trường đại học.
Ở các nước phương Đông (trong đó có Việt Nam) có thể nói, tôn ti trật
tự và thái độ trọng nam khinh nữ ảnh hưởng khá rõ trong đời sống xã hội
cũng như nhiều hoạt động tinh thần khác. Trong sáng tạo văn học thì công
việc này được coi là đặc quyền của đàn ông. Những buổi đàm đạo về văn
chương cũng chỉ diễn ra giữa những người đàn ông với nhau chứ nó không có
chỗ cho nữ giới. Trong văn học Trung đại, về cơ bản người cầm bút vẫn thuộc
về đàn ông, song trong vòng cương tỏa của tư tưởng nam quyền đã bắt đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuất hiện những tài danh văn học là nữ giới như Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện
1
Thanh Quan và đặc biệt là Hồ Xuân Hương. Bước sang xã hội hiện đại, khi
dân trí được nâng cao thì cán cân công bằng về giới bắt đầu được thực hiện.
Vai trò của phụ nữ được đề cao với sự ra đời của Hội Phụ nữ Việt Nam. Tuy
nhiên phải đến năm 1986, sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và những nỗ
lực của các cấp ngành đã tạo nên sự bình đẳng giới. Đây là những tiền đề cơ
bản giúp người đàn bà thoát khỏi áp chế của người đàn ông, khiến cho họ có
khả năng tồn tại độc lập và có khả năng tự quyết định số phận của mình.
Nhưng quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu vào ý thức
của đội ngũ người cầm bút và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học. Sự
hiện diện của văn học nữ tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam
là một bước phát triển thực sự của văn học theo khuynh hướng dân chủ hóa.
Ở Việt Nam, những năm gần đây, ảnh hưởng của văn học nữ quyền
ngày càng lớn trong sáng tác của các nhà văn nữ. Hàng loạt các cây bút nữ
xuất hiện đã khuấy động văn đàn từ giữa thập niên 90 của thế kỷ trước cho
đến nay: Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Vi Thùy
Linh, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thị Ngọc Tư, Di Ly, Phong Điệp, ...
Bên cạnh các cây bút nữ kể trên là sự góp mặt của Thùy Dương với các
tiểu thuyết: Ngụ cư (2005), Thức giấc (2007), Nhân gian (2009). Các tác phẩm
của Thùy Dương ngay từ khi nhập tịch làng văn đã thu hút được sự chú ý của
độc giả và giới nghiên cứu phê bình. Có thể nói, Thùy Dương là một trong số ít
các cây bút nữ mà cả ba tiểu thuyết của chị đều đoạt được những giải thưởng
danh giá: Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết do Hội Nhà văn tổ chức năm (2002-
2004) Ngụ cư, năm (2008-2010) Thức giấc và đỉnh cao là giải thưởng Hội Nhà
văn Hà Nội năm 2011 với tiểu thuyết Nhân gian. Nét đặc sắc trong tiểu thuyết
Thùy Dương nổi bật ở tính nữ, ở phận người được thể hiện bằng giọng văn trữ
tình sâu lắng, vừa dịu dàng vừa trầm tư, hài hước, thấm đẫm thời cuộc nhân sinh
cùng những trạng thái tâm linh hư ảo. Không khó nhận ra những vấn đề về giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đậm đặc trong các trang tiểu thuyết của Thùy Dương. Nhưng những khía cạnh
2
đó vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đặn trong một chuyên
luận khoa học cụ thể. Đó chính là lý do khiến chúng tôi tiếp cận và lựa chọn đề
tài: Vấn đề giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lý luận về giới trên thế giới
Ngay từ thế kỷ XIX, trên thế giới đã xuất hiện các công trình nghiên
cứu về vấn đề giới, cụ thể như:
Năm 1929, Virginia Woolf đã cho ra mắt tiểu luận Một căn phòng cho
riêng mình, đây được coi là "sách vỡ lòng" của phê bình nữ quyền.
Năm 1949, Simon de Beauvoir viết cuốn The second sex bàn về giới
nữ như một giới thứ hai. Đây được coi là tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền.
Bản "tuyên ngôn nữ quyền" này đưa ra những lý luận triết học về phụ nữ,
luận giải về những đặc tính của nữ giới và tiến đến giải phóng phụ nữ.
Gill Plain và Susan sellers trong quyển Một lịch sử của phê bình văn
học nữ quyền (NXB Đại học Cambridge, 2007) đã tổng kết và xác lập ba giai
đoạn phát triển lý thuyết phê bình nữ quyền.
2.2. Các bài nghiên cứu về văn học nữ trong nước
Đầu thế kỷ XX là một giai đoạn sôi nổi của tư tưởng nữ quyền Việt
Nam trong đó, Phan Khôi là nhà lý luận phê bình đã có công khai mở. Những
khai mở của ông có giá trị rất lớn đối với nền phê bình, nghiên cứu theo
khuynh hướng này. Ngay từ số báo đầu tiên, Phan Khôi đã khẳng định ý
nghĩa, vai trò và tiềm năng của nền văn học nữ lưu. Ông cho rằng nguyên
nhân gây nên tình trạng rỗng và lép của văn học nữ trong lịch sử văn chương
Việt Nam quá khứ là họ không được hưởng một nền học vấn như nam giới.
Đây là thiệt thòi lớn nhất của nữ giới. Vì vậy, Phan Khôi đã cổ vũ mạnh mẽ
việc đào tạo học vấn cho người phụ nữ để họ thoát khỏi sự đói nghèo thi ca và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tri thức, nghĩa là giải quyết triệt để cội rễ sinh ra sự bất bình đẳng của phụ nữ
3
trong đời sống nói chung và trong lĩnh vực văn hóa nói riêng. Tuy nhiên đóng
góp lớn lao và sâu sắc nhất trong tư tưởng của Phan Khôi đối với văn học nữ
lưu là ông bênh vực mạnh mẽ quyền của phụ nữ, lên án những tội ác của lễ
giáo phong kiến. Xét về phương diện lý luận, có thể thấy rằng Phan Khôi đã
tạo tiền đề cho lý thuyết nữ quyền trong văn học Việt Nam, mặc dù đó chỉ là
những phác họa sơ lược. Loạt bài Về văn học của phụ nữ Việt Nam (Phụ nữ
tân văn, số 1, 2/5/1929), Văn học với nữ tánh (Phụ nữ tân văn, số 2,
9/5/1929), Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh (Phụ nữ tân
văn, số 3, 16/5/1929), Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ
nữ nước ta (Phụ nữ tân văn, từ số 5 đến số 18, năm 1929)... đã thể hiện tầm
nhìn và tấm lòng của một bậc thức giả thông tuệ.
Bên cạnh Phan Khôi, còn có nhiều cây bút nữ: Manh Manh nữ sĩ, Vân
Hương nữ sĩ, Nguyễn Thị Hồng Đăng, Lệ Hương, Phan Thị Bạch Vân, Bùi
Thị Út... và các gương mặt nam giới khá quen thuộc: Trần Trọng Kim, Phan
Văn Trường, Nguyễn Văn Bá, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội
Châu, Diệp Văn Kỳ...Tất cả đều bộc lộ quan điểm và tìm tòi về các vấn đề nữ
quyền nhằm trao đổi và tranh luận với nhau. Có thể thấy rằng, phê bình nữ
quyền Việt Nam thời kỳ này còn ở dạng sơ khai, phác thảo và có tính xã hội
nhiều hơn.
Trên Tạp chí văn học số 6 năm 1996 có bài tường thuật buổi tọa đàm
Phụ nữ và sáng tác văn chương, trong đó có nhiều ý kiến của nhiều nhà phê
bình, các nhà thơ, các cây bút nữ. Hầu hết các ý kiến đều khẳng định vai trò
của các cây bút nữ, tiềm năng to lớn mà các cây bút nữ có thể đạt được.
Trong lời giới thiệu Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ,
năm 2011, các cây bút nữ thế kỷ XX được đánh giá "Trên những trang viết
của họ ta tiếp nhận được một nữ tính phức tạp hơn nhưng đồng thời cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phong phú hơn những gì ta vẫn quan niệm trong quá khứ" [32].
4
Nổi bật trong số các bài phê bình nghiên cứu về văn học nữ là các bài
viết của Bích Thu như Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975
qua hệ thống mô típ chủ đề (Tạp chí Văn học, số 4/1995), Những thành tựu
của truyện ngắn sau 1975 (Tạp chí văn học, số 9/1996), Văn xuôi của phái
đẹp (Tạp chí Sông Hương) đã đánh giá cao sáng tác của các nữ nhà văn trẻ.
Bên cạnh đó là Bùi Việt Thắng với bài viết Tản mạn về truyện ngắn
của những cây bút nữ trẻ (Báo văn nghệ, số 43, ngày 23/10/1993) đã khẳng
định sự đóng góp không nhỏ của những cây bút nữ trên thi đàn văn học; đến bài
viết Một giọng nữ trầm trong văn chương, ông cũng cho rằng "văn chương Việt
Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mang gương mặt phụ nữ" [34].
Năm 2008, Hồ Khánh Vân trong luận văn Từ lý thuyết phê bình nữ
quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam
từ 1990 đến nay đã bước đầu giới thiệu một khuynh hướng phê bình và vận
dụng để khảo sát một bộ phận văn học nữ trong nước. Cũng tác giả Hồ Khánh
Vân với bài viết Phê bình văn học nữ quyền cũng khẳng định "nghiên cứu
văn học từ cái nhìn của phê bình nữ quyền, hay rộng hơn là từ cái nhìn về
giới đang dần thu hút sự quan tâm của những người làm công tác văn học ở
Việt Nam" [46].
Nguyễn Giáng Hương trong bài Văn học của phái nữ và một vài xu
hướng văn chương nữ quyền Pháp thế kỷ XX đã chỉ ra những đặc điểm của
văn học nữ và một vài xu hướng văn chương nữ quyền ở nước ngoài [17].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài Vấn đề phái tính và âm
hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại đã chỉ ra đặc điểm của
văn học nữ "sự hiện diện của văn học nữ tính và âm hưởng nữ quyền trong
văn học Việt Nam có thể coi là một bước phát triển thực sự của văn học theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hướng dân chủ hóa"[12].
5
Trong bài Phê bình văn học nữ quyền, nhà văn Lý Lan đã chỉ ra
những thực trạng của phê bình văn học nữ ở nước ta "học thuyết nữ quyền có
ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn nhất đến phê bình văn học, đã làm thay đổi
lớn lao cách đọc văn bản, việc bình giảng văn chương, sự định giá kinh điển
trong nhà trường, ảnh hưởng đến cảm thụ văn học của công chúng và chyển
đổi cả ngành xuất bản" (Báo Tia Sáng, ngày 15-3-2009).
Cùng trong không khí ấy, nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa
học của các nghiên cứu viên trẻ, nhận diện - lý giải một hiện tượng văn học
nổi bật trong đời sống văn chương những năm gần đây, Viện văn học đã tổ
chức Tọa đàm Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương đại
(tháng 11 năm 2012). Đến với buổi tọa đàm, Ban tổ chức đã thu hút được gần
30 tham luận, tập trung bàn thảo một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác
văn học nữ đương đại. Các tham luận nhằm hướng tới nội dung như: Vấn đề
nữ quyền cần được đặt ra; Lý thuyết phê bình nữ quyền cần phải là lý thuyết
lịch sử; Từ thập kỷ 90 trở đi, văn xuôi nữ đã thực sự chiếm ưu thế trên văn
đàn; Truyện ngắn nữ đã dần có "thương hiệu"…(Báo Văn nghệ trẻ, số 48,
ngày 25/11/2012).
Ngoài những công trình kể trên còn có khá nhiều những luận văn thạc
sĩ nghiên cứu về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn đương
đại như: Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo của Trần Thị Bích Vân,
Đại học Sư phạm Thái Nguyên, bước đầu đã chỉ ra những đặc điểm và âm
hưởng của chủ nghĩa nữ quyền. Hay luận văn Nhân vật nữ trong sáng tác
của ba nhà văn nữ: Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, của Nguyễn
Thị Hoa, Đại học Sư phạm Hà Nội đã cung cấp một cái nhìn khá đầy đủ về
các dạng nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ. Rồi luận văn Vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giới trong sáng tác của Y Ban, Lý Lan, Đỗ Hoàng Diệu, của Bùi Thị Thùy,
6
Đại học Sư phạm Hà Nội 2; Luận văn Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y
Ban của Trần Thu Hà, Đại học Sư phạm Thái Nguyên cũng chỉ rõ đặc sắc về
văn học nữ tính thời đương đại. Đến luận văn Thiên tính nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương của Trần Thị Lệ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, một lần nữa
khẳng định vai trò của giới nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ. Cùng với
các luận văn trên còn có khá nhiều luận văn tốt nghiệp đại học cũng nghiên
cứu, tìm hiểu về vấn đề này.
2.3. Đánh giá chung về sáng tác của Thùy Dương
Thùy Dương là một cây viết trẻ nhưng tên tuổi của chị được biết đến
nhiều nhất với ba tiểu thuyết Ngụ cư, Thức giấc và Nhân gian. Đọc tiểu
thuyết của Thùy Dương, người đọc nhận ra một thế giới riêng, không thể trộn
lẫn. Đó là thế giới của cuộc đời thực phức tạp xen lẫn với thế giới tâm linh lẩn
khuất, thế giới cõi âm chưa từng biết đến và thế giới của dòng ý thức, của sự
đồng cảm. Thế giới ấy được chị dày công tạo dựng từ đức tin, từ cảm hứng về
những con người, cuộc đời gần gũi quanh chị. Nhận xét về Ngụ cư - tiểu
thuyết được giải B Hội nhà văn Việt Nam năm 2002 - 2005của Thùy Dương,
tác giả Cẩm Thúy cho rằng đây là "bước tiến mới của Thùy Dương". Tác giả
khẳng định giọng văn của Thùy Dương "vẫn nhẹ nhàng, chải chuốt câu chữ,
vẫn bảng lảng tình quê" và nhận định "đã có một bước chuyển, một sự trải
nghiệm già dặn trong cách nhìn và cảm nhận về cuộc đời, về con người của
tác giả" [39]. Nhà thơ Hữu Thỉnh trong báo cáo tổng kết cuộc thi tiểu thuyết
2002-2004 đã nhấn mạnh đến: “Một thành công khác là mảng tiểu thuyết tiếp
cận đời sống ngày nay với sự quan tâm chung về chủ đề đạo đức xã
hội…"Ngụ cư" của Thùy Dương, "Tường thành" của Võ Thị Xuân Hà đề cập
đến cuộc sống đô thị trong đó nhiều giá trị mới đang được hình thành nhưng
cũng ngầm chứa biết bao nhiêu hiểm họa” (Báo Văn Nghệ số 37; 10-9-2005).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Là thành viên trong Ban Giám khảo cuộc thi tiểu thuyết nói trên, nhà phê bình
7
Phong Lê nhận thấy: “Trong "Ngụ cư", Thùy Dương đã làm rõ lên một mảng
sống đô thị, với dấu ấn đặc trưng của nó, khiến ai là dân cư đô thị hôm nay đọc
vào cũng cứ thấy như là chuyện của mình và những người quanh mình” [21].
Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “ "Thức giấc" đọc hấp dẫn và
xúc động như một lối kể linh hoạt mà điềm đạm, nhờ một giọng điệu văn
chương gợi được xúc cảm và trầm tưởng, nhờ tính nữ và tính mẫu thấm đẫm
bên trong. Thức giấc sau một cơn mê ngủ. Thức giấc sau một thời lầm lạc.
Thức giấc sau những dối lừa, giả trá. Thức giấc sau những khổ đau. Thức
giấc sau những hạnh phúc. Thức giấc để biết mình còn biết đau, buồn, giận
dữ và yêu thương. Thức giấc để sống như một con người bình thường” [25]
Đó chính là thông điệp mà Thùy Dương muốn gửi đến người đọc trong cuốn
tiểu thuyết thứ hai của chị.
Theo Tô Hoàng - nhà văn TP HCM nhận xét: “Tình yêu non sông xứ sở,
tấm lòng nhân hậu, óc liên tưởng và trí tưởng mãnh liệt đã giúp cho ngòi bút
Thùy Dương viết nên những trang sách chân thực, đầy sức truyền cảm mà
đọc chúng, rất nhiều anh em cựu binh khi biết tôi quen với nữ nhà văn, đã
nhờ tôi chuyển tới chị lòng biết ơn sâu sắc”! Đọc tiểu thuyết Nhân gian của
Thùy Dương, vẫn nhận ra "một thế mạnh rất riêng, một dòng cảm xúc không
phải người viết nào cũng khơi nguồn được, một điều gì như một mảng hiện
thực đầy ám ảnh- dù ngổn ngang, bề bộn trăm điều phải quan tâm trong cuộc
sống hôm nay - nữ nhà văn cũng không thể gạt bỏ sang một bên" [16].
Bên cạnh đó Nhà văn Lê Minh Khuê cũng đánh giá: "Trong khi lối viết
của Y Ban là kể nhiều hơn tả, tỷ lệ chênh lệch giữa động từ và tính từ trong
tác phẩm của chị hẳn phải cao hơn nhiều so với bất cứ tác giả nào khác thì
lối viết của Thùy Dương nghiêng về phía nhẹ nhàng, trữ tình, từ trong giọng
kể đến từng câu văn. Tiểu thuyết "Nhân gian" của chị là câu chuyện đan xen
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giữa chiến tranh và thời bình; là những giọng kể luân phiên giữa người sống
8
và người chết, là những cảm xúc vừa giận hờn, trách móc vừa thông cảm đau
xót với cuộc đi tìm mộ của người em sinh đôi đã hy sinh" [19].
Với Nhân gian cuốn tiểu thuyết thứ ba của Thùy Dương, cũng từ
Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, trong khi thẩm định
những tiểu thuyết vào vòng chung khảo giải thưởng của Hội đã nhận ra trên
những trang viết của nữ tác giả xinh đẹp và tài hoa này: “Văn Thùy Dương
nhẹ nhàng nhưng không nhẹ nhõm, chị gây được cuốn hút cho người đọc qua
sự phối hợp ba giọng kể khéo léo, nghệ thuật. Hòa điệu ba giọng kể là giọng
tác giả - một giọng văn trữ tình chiều sâu” [25].
Những ý kiến, nhận định của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã
phần nào giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về sáng tác của Thùy Dương.
Tuy nhiên, các ý kiến còn chung chung, chưa cụ thể và chưa thành hệ thống.
Các ý kiến ấy chưa được tìm hiểu và nghiên cứu cho xứng với những thành
tựu đã đạt được của nhà văn. Sáng tác của chị vẫn còn những khoảng trống để
tiếp cận và khám phá. Vì vậy, cần có những công trình nghiên cứu cụ thể, trọn
vẹn, có hệ thống về giá trị nội dung cũng như đặc sắc nghệ thuật trong tiểu
thuyết của nhà văn nhằm giúp bạn đọc có cơ hội tiếp cận, tìm hiểu và yêu
mến cây bút này hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát những đặc điểm về giới thể hiện trong tiểu
thuyết của nhà văn Thùy Dương, qua đó giúp ta có một cách tiếp cận đối
với dòng văn học nữ nói chung và yếu tố nữ trong sáng tác của Thùy
Dương nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Những vấn đề chung về giới, quá trình nghiên cứu về giới trong văn học trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thế giới và ở Việt Nam.
9
- Những phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện vấn đề giới trong tiểu
thuyết của Thùy Dương.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là Vấn đề giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương
- Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát 3 cuốn tiểu thuyết đạt giải của nhà
văn Thùy Dương và bước đầu tiếp cận cuốn tiểu thuyết sắp xuất bản, đó là:
Ngụ cư (2005), NXB Hội nhà văn
Thức giấc(2007), NXB Hội nhà văn
Nhân gian(2009), NXB Hội Nhà Văn và Công ty Hà Thế ấn hành
Chân trần (2013)
Ngoài ra chúng tôi cũng khảo sát thêm các tác phẩm của một số nhà văn nữ
khác để có thêm cái nhìn so sánh và tổng quát.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống được vận dụng để xem xét các chi tiết, các vấn
đề, các phương diện của tác phẩm văn học trong tính chỉnh thể của nó. Vận
dụng phương pháp này, người viết sẽ xem xét được sáng tác của Thùy Dương
với những biểu hiện của vấn đề giới một cách hệ thống chứ không phải là
những vấn đề riêng biệt, lẻ tẻ.
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp này giúp người viết thấy được những đặc điểm riêng biệt
trong sáng tác của Thùy Dương so với các cây bút nữ Việt Nam đương đại khác.
5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản,
phân tích trực tiếp những tác phẩm của Thùy Dương, từ đó khái quát, tổng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hợp những kết luận mang ý nghĩa khoa học.
10
5.4. Phương pháp liên ngành
Nhờ phương pháp này, người viết có thể vận dụng các thành tựu của
các môn khoa học khác như: sinh học, tâm lý học, xã hội học…để kiến giải
một cách thuyết phục những biểu hiện, những ưu thế phái tính thể hiện trong
sáng tác của Thùy Dương .
6. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu vấn đề giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương trên cả phương
diện nội dung và nghệ thuật, trên cơ sở đó ghi nhận dấu ấn của Thùy Dương
trong bức tranh chung của văn xuôi nữ giới nói riêng và của văn xuôi đương
đại nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề về giới trong văn học nữ Việt Nam và hành
trình sáng tác của Thùy Dương
Chƣơng 2: Vấn đề giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương nhìn từ
phương diện nội dung
Chƣơng 3: Vấn đề giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương nhìn từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phương diện nghệ thuật
11
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ GIỚI TRONG VĂN HỌC NỮ VIỆT NAM
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THÙY DƢƠNG
1.1. Những vấn đề chung về giới
1.1.1. Khái niệm giới
Dưới góc nhìn sinh học, giới tính là thuật ngữ dùng để phân biệt sự
khác biệt về hình thể giữa hai mô hình cấu trúc: giới nam và giới nữ. Giới tính
là bẩm sinh và đồng nhất (nam và nữ khắp nơi trên thế giới đều có chức năng,
cơ quan sinh sản giống nhau) và không thể thay đổi được (giữa nam và nữ),
do các yếu tố sinh học quyết định. Chúng ta sinh ra là đàn ông hay đàn bà:
chúng ta không thể lựa chọn và không dễ thay đổi được điều đó. Tuy nhiên sự
khác biệt về hai giới có thể nhận thấy qua vóc dáng, hình thể, đặc biệt qua các
đặc điểm sinh học bên trong như về nhiễm sắc thể, cơ quan sinh dục và cấu
trúc não bộ.
Trong cuộc sống, nam và nữ đều tham gia vào mọi hoạt động của đời
sống xã hội. Tuy nhiên mức độ tham gia của nam và nữ trong các loại công
việc là khác nhau do những quan niệm, các chuẩn mực xã hội quy định. Căn
cứ vào đặc điểm về mặt sinh học thì cấu trúc não bộ thường được đề cập đến
như một nguyên nhân chủ yếu. Theo các nhà khoa học, não bộ của nam giới
lớn hơn não bộ của nữ giới đến 8%. Mặc dù cấu tạo như vậy song kích thước
này không ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của hai giới. Não của nam giới
lớn hơn tương ứng với vóc dáng to lớn của họ. Đặc biệt ở nam giới não trái
thường làm việc tích cực và phát triển hơn, còn ở nữ giới là não phải. Vì vậy,
khả năng phân tích, khái quát vấn đề được xem là điểm mạnh của nam giới.
Còn ở nữ giới với chức năng đảm nhiệm của não phải thì họ lại ghi nhớ được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những việc lẻ tẻ, chi tiết và thiên về cảm xúc. Khi tiếp nhận tín hiệu từ một
12
đối tượng, đại não nam giới thường chịu tác động một mặt còn nữ giới là hai
mặt. Chính những đặc điểm này khiến nữ giới có thể làm nhiều việc một lúc
còn nam giới thì làm việc tập trung hơn. Vì vậy nam giới thường làm việc ở
những vị trí cần sự khái quát, phân tích, còn phụ nữ ưu tiên với những công
việc tỉ mỉ và khéo léo. Điều này cũng thấy rất rõ trong sáng tác văn học, với
các nhà văn nam thường liên tưởng đến những sáng tác thiên về lý trí, tổng
hợp hiện thực khách quan còn sáng tác của các nhà văn nữ thường có xu
hướng tự truyện, thiên về cái chủ quan, giàu cảm xúc.
Bên cạnh góc nhìn sinh học, giới còn được soi chiếu từ các ngành
khoa học khác. Trong tâm lý học đã hình thành cả một chuyên ngành nghiên
cứu về giới, đó là tâm lý học giới. Tâm lý học về giới khắc phục những quan
điểm phiến diện cho sự thống trị của nam giới là do những điều kiện tự nhiên
quyết định và chỉ ra nguồn gốc của sự khác biệt giới trong xã hội là do hoàn
cảnh gia đình, môi trường sống, điều kiện văn hóa, xã hội…
Xã hội học cũng quan tâm đến vấn về giới, từ đó chỉ ra các nhân tố xã
hội đã tác động đến sự phân chia giới và sự bất bình đẳng giới. Trong xã hội
học, ta tìm thấy những đặc điểm khác biệt giữa nam và nữ về gia đình, xã hội,
phân công lao động xã hội…những yếu tố tác động đến sự phân biệt giữa hai
giới trong xã hội. Từ đây, nguồn gốc của bất bình đẳng giới bắt nguồn từ sự
phân công lao động xã hội. Trong lịch sử, dưới chế độ nguyên thủy, cuộc
sống của con người được tổ chức theo bầy đàn, quan hệ huyết thống giữ vai
trò chi phối hoạt động của tổ chức xã hội này. Do đó người giữ vai trò nuôi
dưỡng, duy trì quan hệ huyết thống trở thành người có địa vị cao nhất. Trong
cuộc sống quần hôn, địa vị đó thuộc về người phụ nữ cùng sự hình thành tổ
chức xã hội mẫu quyền. Tuy nhiên, khi lao động phát triển cần đến sức vóc
của đàn ông, lúc này vai trò của người đàn ông được nâng cao đã chuyển chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
độ xã hội trở thành xã hội phụ quyền. Từ đây, địa vị thống trị của người đàn
13
ông được giữ nguyên cho tới xã hội hiện đại. Việc giữ địa vị độc tôn đã dẫn
đến sự bất bình đẳng trong phân công lao động xã hội. Theo điều tra về thực
trạng bình đẳng giới ở Việt Nam (dẫn theo Sổ tay tuyên truyền luật bình đẳng
giới), tỷ lệ người phụ nữ đứng tên chủ hộ trong gia đình chỉ bằng 1/3, điều đó
đồng nghĩa với việc phụ nữ có rất ít cơ hội để tham gia các hoạt động cộng
đồng. Trong phân công lao động gia đình có tới 65,5% ý kiến khẳng định,
công việc nội trợ và chăm sóc con cái hoàn toàn do phụ nữ đảm nhiệm. Người
đàn ông được dành thời gian để lo những việc chính, tham gia công tác xã
hội…Sở dĩ có sự bất bình đẳng này là do việc nam giới luôn được ưu tiên cho
việc học tập cũng như tham gia các hoạt động xã hội.
Như vậy tâm lý học và xã hội học đã chỉ ra rằng sự khác biệt về giới có
nguồn gốc từ những quan niệm, văn hóa, xã hội và môi trường sống. Quan
điểm này được các nhà nữ quyền luận hưởng ứng. Simone de Beauvoir cho
rằng "Người ta không sinh ra là đàn bà, người ta trở thành đàn bà dưới ảnh
hưởng giáo dục phụ quyền chế". Bourdieu cho rằng điều đó cũng đúng cho
đàn ông "Người ta không sinh ra là đàn ông, người ta trở thành đàn ông" và
xuyên qua cả một nền giáo dục, người đàn ông đã đảm được chức năng chế
ngự xã hội. Chức năng chế ngự này còn được thể hiện ở trong lĩnh vực văn
hóa tinh thần mà văn học là một hình thái ý thức xã hội tiêu biểu.
Khi nói về giới trong sáng tác văn học là nói tới một khái niệm không
đồng nhất với văn học nữ quyền. Văn học nữ quyền (chủ nghĩa nữ quyền) "là
suy nghĩ về sự bình đẳng của hai phái trong xã hội và sự phản đối có tổ chức
đối với chế độ gia trưởng và phân biệt đối xử giống phái. Chủ nghĩa nữ quyền
không thừa nhận mẫu văn hóa chia khả năng của con người thành đặc điểm
nam tính và nữ tính và tìm cách xóa bỏ sự bất lợi trong xã hội mà phái nữ
thường gặp". Nói như vậy, văn học nữ quyền được hiểu như một dòng văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học dấn thân, đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ và viết lên cũng vì phụ nữ.
14
Còn khi nói về giới trong sáng tác văn học là đề cập đến một vấn đề rộng hơn
vấn đề nữ quyền, đó là sự tương quan giữa giới nam và nữ trong sáng tác văn
chương, những ưu thế của từng giới trong sáng tác. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển, lịch sử đã ghi nhận sáng tác của nam giới, còn sáng tác của nữ giới
chưa được xem xét, chưa được ghi nhận một cách thỏa đáng. Bởi vậy, khi nói
tới vấn đề giới trong văn học, đặc biệt là văn học Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay là chủ yếu nói tới sáng tác của các cây bút nữ trong quá trình tự
khẳng định mình, khẳng định bản sắc riêng của giới mình.
1.1.2. Quá trình nghiên cứu, sáng tác về giới trên thế giới
Trong lịch sử loài người, đã có thời kỳ quyền lực trong xã hội thuộc về
người phụ nữ, đó là thời kỳ xã hội mẫu quyền. Sau đó, bằng sự thay đổi vai
trò của mình trong sản xuất, nam giới đã khẳng định địa vị của mình trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và văn chương không nằm ngoài lĩnh vực
đó. Vốn được coi là công việc cao quý, văn học đã sớm trở thành một đặc
quyền của nam giới. Trong lịch sử văn học, tác giả của những bộ sử thi vĩ đại
thường gắn với huyền thoại về một tác giả nam nào đó. Những tác gia văn học
lớn trong thời kỳ văn học phục hưng, cổ điển…đa phần đều là các tác giả nam.
Các tác giả nữ khi muốn xuất hiện thì thường phải lấy bút danh giả mạo là
nam. Họ đã phải che dấu giới tính của mình để các tác phẩm được xuất hiện
trước độc giả. Như vậy, chỉ có một giới tính duy nhất tồn tại trong văn học, chỉ
có một cách nhìn nhận duy nhất về thế giới khách quan, đó là cái nhìn của nam
giới. Các tác giả nữ phải tự biến mình thành đàn ông, có cách suy nghĩ, nhìn
nhận theo cách của đàn ông. Bởi cái nhìn của nam giới được coi là chân lý.
Dưới sự thống trị của nam giới, nữ giới đã đấu tranh giành lại vị thế đã
mất của mình. Cuộc đấu tranh này nhanh chóng trở thành cao trào dưới thời
chủ nghĩa Khai sáng. Tuy nhiên trong lịch sử, tư tưởng nữ quyền đã xuất hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sớm hơn. Đầu tiên là vào thế kỷ XV bằng tiếng nói phản kháng của Christine
15
de Pisan, một nữ khoa học gia người Pháp. Bà đã cảnh báo tình trạng phân
biệt đối xử nam và nữ trong xã hội. Đến thế kỷ XVII, với chủ nghia Khai sáng,
tư tưởng nữ quyền đã phát triển thêm một bước. Người được coi là tổ mẫu
của chủ nghĩa nữ quyền là Mary Wollstonecraft với tác phẩm A vindiccation
or the Right of Women (Một biện minh cho quyền của phụ nữ) ra đời năm
1972. Đây là một trong những công trình đầu tiên của triết học nữ quyền.
Trong đó, Wollstonecraft lập luận rằng phụ nữ nên có một nền giáo dục tương
xứng với vị trí của họ trong xã hội. Phụ nữ là rất cần thiết cho quốc gia bởi vì
họ giáo dục con của họ và họ có thể đồng hành cùng với chồng. Như vậy, phụ
nữ xứng đáng được hưởng các quyền cơ bản như nam giới. Tiếp đến là
Virgina Woolf (1882 - 1991) với tập bút ký Căn phòng riêng (A room of
one's own, 1929), bà được xem là cây bút đầu tiên chạm đến vấn đề nữ quyền
trong văn học. Theo bà, một phụ nữ muốn sáng tác phải có một căn phòng
cho riêng mình và không bị phụ thuộc vào nam giới.
Với quyển sách vĩ đại Giới nữ còn được dịch là Giới thứ hai (The
second sex), xuất bản 1949, thì Simone de Beauvoir (1908 - 1986) đã tiến
hành một cuộc cách mạng lớn: đặt phụ nữ trong tất cả các phương diện: văn
hóa, lịch sử, tôn giáo... để phơi bày đời sống của phụ nữ đã bị uốn nắn sao
cho phù hợp với khuôn mẫu mà xã hội nam quyền đặt ra. Bà kết luận rằng vấn
đề bất bình đẳng nam nữ không do tự nhiên quyết định mà là một vấn đề văn
hóa: "Không phải với cơ thể sinh học, mà với cơ thể sinh học gắn chặt với
những điều cấm kị, những luật lệ mà chủ thể ý thức về bản thân và tự hoàn
thiện: chính dựa trên những giá trị mà cá nhân nâng cao phẩm cách" Vì vậy
mà " Người ta sinh ra không phải là phụ nữ mà trở thành phụ nữ" [17].
Đến những thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, văn học nữ quyền bắt đầu
khẳng định vị thế của mình. Từ giữa thập niên 1970, những công trình nghiên
cứu mang tính lý luận về giới đã đem lại một định nghĩa cho thuật ngữ phê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bình văn học Nữ quyền. Trên thế giới xuất hiện hàng loạt các tên tuổi lớn của
16
phê bình văn học nữ quyền như: Mary Jacobus, Rosalind Coward của Anh,
hay Hélène Cixous và Julia Kristéva của Pháp. Lúc này đời sống văn chương
thế giới cũng xôn xao hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tác giả nữ.
Văn học nữ cũng nở rộ bằng tất cả sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo của nó.
Điều đáng chú ý là ở giai đoạn này là cuốn sách đạt giải nobel văn học năm 2010
The golden notebook (Máy tính xách tay vàng) của Doris lessing, cuốn sách
được coi là kinh thánh của văn học nữ quyền. Với cuốn sách này, tác giả đã góp
phần vào việc chứng minh sức sáng tạo của phái nữ trong sáng tác văn chương.
Ở các quốc gia phương Đông, văn học nữ quyền phát triển theo một
hướng riêng biệt. Do những đặc trưng về văn hóa, lịch sử…ý thức nữ quyền
trong văn học ở đây chưa cao. Tuy nhiên, sau Đại hội phụ nữ thế giới 1995 tổ
chức ở Bắc Kinh thì văn học nữ ở phương Đông mới có bước chuyển mình
mạnh mẽ. Nhiều tác phẩm lý luận văn học nữ quyền ở phương Tây được dịch
và truyền bá rộng rãi. Phong trào nghiên cứu văn học nữ ngày càng phát triển.
Đặc biệt ở Trung Quốc, vốn đã bị ảnh hưởng tư tưởng nam quyền từ rất lâu
song văn học nữ của họ đã thể hiện sự thức tỉnh về giới tính, ý thức về giá trị
của bản thân. Vì vậy mới xuất hiện hàng loạt những cây bút trẻ như Vệ Tuệ,
Sơn Táp, Cửu Đan,...với những tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, với
những điểm nhìn khai thác chỉ có ở phụ nữ. Ở một số quốc gia khác như Việt
Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc,... những năm gần đây văn học nữ đã đạt được
nhiều thành tựu và là một vấn đề "nóng" được xã hội quan tâm.
1.1.3. Nghiên cứu về giới trong văn học nữ Việt Nam
Là một quốc gia thuộc phương Đông, Việt Nam chịu ảnh hưởng không
nhỏ bởi tư tưởng văn hóa của đạo Nho, nơi mà tư tưởng trọng nam khinh nữ
đã ăn sâu vào gốc rễ và chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, công
cuộc giải phóng phụ nữ, đòi lại sự công bằng cho phụ nữ gặp muôn vàn khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khăn và phức tạp.Văn chương vốn là một thú vui tao nhã, nơi thể hiện trình
17
độ học vấn cũng như tài năng của bậc chính nhân quân tử chứ không phải là
lĩnh vực dành cho phụ nữ. Từ văn học dân gian đến văn học Trung đại, địa vị
độc tôn trong sáng tác văn chương luôn là của nam giới. Hình ảnh của những
người phụ nữ dù có xinh đẹp, giỏi giang nhưng thân phận luôn bị phụ thuộc
vào nam giới. Thân phận người phụ nữ với số kiếp đáng thương được trở đi
trở lại trong ca dao, truyện cổ tích hay những tác phẩm lớn như Truyện Kiều,
Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc,…đã cho thấy thân phận bé nhỏ,
lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội. Ở thời kỳ này, vấn đề giới chưa có cơ
hội để xuất hiện dù đã tồn tại một hiện tượng hiếm hoi như Hồ Xuân Hương với
ý thức khẳng định tài năng, chống lại định kiến của xã hội. Hồ Xuân Hương đã
không ngần ngại khi chế giễu đàn ông rồi khẳng định tài năng của mình:
"Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?"
Câu thơ trên cho thấy tác giả khát vọng làm nên một sự nghiệp lớn, khát vọng
muốn thay đổi thân phận, địa vị xã hội để thi thố tài năng, lập nên sự nghiệp
anh hùng. Hồ Xuân Hương đã ý thức được về quyền lợi và khả năng của nữ
giới đặt ra trong sự tương quan so với nam giới. Tác giả ý thức được vậy,
song đây vẫn là một lời chấp nhận đầy chua chát: chỉ có đàn ông mới làm nên
sự nghiệp anh hùng.
Vốn âm ỉ đã lâu, nhưng phải đến đầu thế kỷ XX, dưới sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của văn học phương Tây, ý thức về giới mới được manh nha ở một
bộ phận sáng tác nữ. Đây được đánh giá là giai đoạn nữ quyền Việt Nam phát
triển tương đối sôi nổi mà tiêu biểu là Phan Khôi và Nguyễn Thị Khiêm. Sự
xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ những năm ba mươi của thế kỷ XX đã
đưa phong trào của nữ quyền Việt Nam trỗi dậy. Các cây bút nữ xuất hiện với
nhiều dáng vẻ, nhiều giọng điệu khác nhau. Họ góp gương mặt mình trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các lĩnh vực sáng tác thơ ca và tiểu thuyết, nắm bắt nhịp phát triển mới mẻ,
18
sôi nổi và tràn đầy sức sống của thời đại. Về lượng, theo thống kê của Bằng
Giang, " tính đến năm 1930, văn học quốc ngữ Nam kỳ có hơn 20 tác giả nữ
còn để lại tác phẩm in thành sách". Sự góp mặt của những cây bút nữ trong
lĩnh vực văn xuôi quốc ngữ có thể kể đến: Phan Thị Bạch Vân, Huỳnh Thị
Bảo Hòa, Huỳnh Anh Thị, Ái Lan… Bên cạnh đó, thi ca Việt Nam đầu thế kỷ
XX cũng nổi bật với các tác giả: Nguyễn Thị Manh Manh, Đạm Phương
Mộng Tuyết, Trần Ngọc Lầu, Anh Thơ, Ngân Giang, Hằng Phương… Họ
xuất hiện và đứng cạnh những cây bút nam trong thời đại thơ Mới và tô thêm
vào bức tranh thời đại thi ca ấy giọng thơ riêng với sắc màu nữ tính mềm mại,
uyển chuyển: "Một Anh Thơ chân tình mộc mạc, một Mộng Tuyết trong trẻo,
hồn nhiên, một Ngân Giang tài hoa, cổ kính, một Hằng Phương đằm thắm,
ngọt ngào, một Vân Đài duyên dáng, dịu nhẹ…và bấy nhiêu thôi cũng đủ góp
phần cho cung đàn thơ ca Việt Nam thêm đa dạng về âm sắc và giọng điệu"
[47]. Mặc dù vậy, những đóng góp của văn chương nữ lưu thời kỳ này mới
chỉ là mặt bằng chung chứ chưa có những đỉnh cao. Họ xuất hiện khá đông và
ít nhiều đã có bản lĩnh, song họ chưa thể đủ nội lực để làm nên một bộ phận
thơ ca cho riêng giới của mình. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những cây bút nữ
đã góp phần phá vỡ thế độc tôn của văn học nam giới suốt nhiều thế kỷ,
khẳng định tiếng nói của nữ giới trên văn đàn.
Cùng với thời gian, những người phụ nữ viết văn, làm thơ ngày càng
đông với ý thức nữ quyền sâu sắc. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1942),
Hoài Thanh đã giới thiệu bảy nhà thơ nữ trên tổng số 46 nhà thơ. Sau 1945, ở
miền Bắc, số lượng các cây bút nữ tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, giai đoạn
văn học chứng kiến sự lên ngôi của văn học nữ chính là những năm cuối thế
kỷ XX, đó là sự xuất hiện của những cây bút như tài năng như: Y Ban, Lý
Lan, Võ Thị Hảo, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư,… đã tạo nên một thời
kỳ âm thịnh dương suy trong văn học. Sự xuất hiện đông đảo ấy chứng tỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sáng tác của các cây bút nữ được tự tin lộ diện, họ tự hào khẳng định về giới
19
của mình. Người phụ nữ trong tác phẩm văn học hiện lên như một chủ thể tự
ý thức, tự khẳng định chứ không hề bó hẹp trong cái nhìn của tư tưởng nam
quyền nữa.Với sự ý thức sâu sắc ấy, các tác giả nữ đã không ngần ngại đi sâu
vào những lĩnh vực vốn chỉ dành cho nam giới như lịch sử, văn hóa, tính dục. Từ
đây, vấn đề giới trong văn học mới được quan tâm một cách đầy đủ và sâu sắc.
1.2. Hành trình sáng tác của Thùy Dƣơng
1.2.1. Nhà văn Thùy Dương
Nhà văn Thùy Dương sinh năm 1960, quê Hải Dương. Chị xuất thân
trong một gia đình có ba anh chị em, cha là một kiến trúc sư, mẹ công tác
trong ngành Y học. Thùy Dương đã từng mơ ước được học ngành Y và được
mặc những chiếc áo blu màu trắng để khám chữa bệnh cho mọi người. Tốt
nghiệp phổ thông năm 1977, Thùy Dương phải từ bỏ mơ ước làm bác sĩ của
mình. Chị thi đỗ và học khoa Văn Sử trường Cao đẳng Sư phạm Hải Dương
với mong ước trở thành cô giáo. Nhưng rồi mong ước ấy lại không đến với
chị. Năm 1989, Thùy Dương tiếp tục thi vào trường viết văn Nguyễn Du. Đến
năm 1992, tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du khóa IV. Từ đây, Thùy
Dương đã đến với cuộc sống đích thực của mình "trở thành một nhà văn" để
được viết, được chiêm nghiệm những điều kỳ diệu trong thế giới muôn vàn
sắc màu này.
Hiện tại, Thùy Dương là Phó Tổng biên tập Báo diễn đàn Doanh
Nghiệp, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Thương gia và là thành viên của Hội nhà
văn Việt Nam (kết nạp năm 2001).
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác:
Thùy Dương có số lượng sáng tác khá dày dặn và phong phú. Các sáng
tác của chị bao gồm cả nguyện ngắn và tiểu thuyết: sáu tập truyện ngắn và
bốn tiểu thuyết đã được xuất bản. Truyện ngắn là những sáng tác đầu tay của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thùy Dương. Các tập truyện ngắn gồm: Trong hộp kẹo - 1987, Hạnh phúc
20
mong manh - 1994, Nước mắt chàng khổng lồ - 1994, Mưa thiếu nữ - 1997,
Những người đàn bà đang sống - 2000 và Truyện ngắn Thùy Dương - 2003.
Khi đã đọc truyện ngắn, hẳn bạn đọc còn nhớ những truyện ngắn độc
đáo, đặc sắc Thùy Dương viết về những chuyến ra đi để chấp nhận không bao
giờ trở lại của người lính thời chống Mỹ, về hậu phương của anh em với sự
chịu đựng, đức hy sinh không gì đong đo được của những bà mẹ, những
người vợ trẻ, của những cô gái mãi mãi mang trong lòng nỗi ân hận vì nhiều
lẽ không dám dâng hiến cho người tình những giây phút đam mê... Đó là các
truyện Cô tôi, Trinh nữ, Làng bên sông, Biển không chỉ có sóng… Vào những
năm chiến tranh, đã từng có rất nhiều truyện ngắn hay viết về người lính, về
những vấn đề hậu phương của các anh như các tác phẩm của các cây bút Đỗ
Chu, Lê Lựu, Triệu Bôn, Lê Minh Khuê… Truyện ngắn của Thùy Dương
xuất hiện muộn hơn rất nhiều, sau đó đến hơn 20 năm. Xuất hiện vào cái thời
buổi dường như viết về đề tài này mà viết theo cảm hứng ngợi ca, ấm áp tình
người, người viết hình như nơm nớp lo sợ bị quy chụp là không thoát khỏi
vòng văn chương minh họa; là né tránh sự thật; là không đổi mới...Với truyện
ngắn, chị đã có nhiều giải thưởng cho thể loại này:
- Giải Ba cuộc thi truyện ngắn Báo phụ nữ TP HCM 1997
- Giải C cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ 1999 - 2001
- Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn Báo Thiếu Niên Tiền Phong 2001
Nhưng với Thùy Dương, truyện ngắn chưa phải là cái đích cuối cùng.
Truyện ngắn chỉ là bước đệm để nhà văn đến với một thể loại khác là tiểu
thuyết. Tiểu thuyết mới là thể loại tạo nên "thương hiệu" Thùy Dương. Với
tiểu thuyết, không chỉ được bạn đọc ghi nhận mà bản thân nhà văn cũng tâm
huyết với thể loại này. Các tiểu thuyết đã xuất bản, bao gồm: tiểu thuyết Tam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giác muôn đời - 1992, tiểu thuyết Ngụ cư - 2004, tiểu thuyết Thức giấc - 2007,
21
tiểu thuyết Nhân gian - 2009 và gần đây nhất chị ra mắt bạn đọc cuốn tiểu
thuyết mới có tên là Chân trần- 2013.
Tìm hiểu sâu hơn về nội dung của các tiểu thuyết, ta nhận thấy sự
phong phú, đa dạng của cuộc sống được phản ánh rõ rệt qua mỗi tiểu thuyết
của chị. Ngụ cư là cuộc sống ở ráp gianh giữa hai thế kỷ 20 và 21 - Một nữ
nhà báo trong một cái ngõ nhỏ chủ yếu là dân ngụ cư. Cuộc sống của họ bươn
chải, lặn ngụp, đầy âu lo, nhưng cũng đầy hy vọng của cái thời mở cửa. Tác
giả Lê Thanh Nga trong bài Ngụ cư và thân phận người phụ nữ đã nhận xét
"những người phụ nữ ấy đều đã chọn lối sống vì mình, nhưng chưa hẳn là của
mình, vì thế họ gặp ngay những bi hài kịch - những tấn trò đời của cuộc đời
họ" [24]. Chọn phụ nữ là nhân vật chính trong tác phẩm của mình, Thùy
Dương kể tiếp cuộc đời của những người đàn bà Việt Nam từng chịu nhiều
thiệt thòi trong chiến tranh cũng như trong cuộc sống thời bình. Vẫn tiếp tục
viết về người phụ nữ, Thức giấc cũng vẫn là chuyện đời, chuyện nhân thế từ
thời bao cấp đến thời kinh tế thị trường qua hai hình ảnh người bà và người
cháu gái. Cái khí chất mạnh mẽ, can trường của những người đàn bà Việt
Nam - những người gìn giữ ngọn lửa để trao truyền cho các thế hệ sau. Tiểu
thuyết Thức giấc được Thạch Thảo nhận xét là "một cuốn sách nóng về thời
gian và dịu dàng tâm cảm", "Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết khá rộng dài về
không gian và thời gian, từ một làng quê Bắc Bộ đến Hà Nội và những thành
phố lớn, từ trước ngày giải phóng miền Bắc năm 1954 đầy không khí mơ
màng của lễ nghi và bổn phận, đến hôm nay với sự sôi động của thị trường
chứng khoán…" [33]. Còn với Nhân gian là cuộc sống ở cõi trần, cõi âm và
ranh giới giữa hai cõi ấy - là những số phận được soi chiếu suốt một khoảng
dài thời gian và đôi khi bị chi phối bởi những ràng buộc định mệnh. Ba nhân
vật của ba thế hệ với những hạnh phúc và cả những bi kịch của mỗi thời: con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người không thể vứt bỏ quá khứ cũng như không thể từ chối tương lai. Tiểu
22
thuyết mới nhất của Thùy Dương: Chân trần (2013) - Kể về câu chuyện của
một gia đình sống trong xã hội phong kiến, người chồng làm bác sĩ có những
năm bà vợ. Thế nhưng chỉ có người vợ thứ ba (cụ Ca) là người nhìn nhận
được phải trái, đúng sai; là người sống biết trước biết sau và có trách nhiệm
với gia đình của mình. Mọi suy nghĩ, cách nhìn nhận của cụ Ca như một
người từng trải và cũng giống lời của một tiên tri. Hình ảnh của cụ và cô cháu
gái có sự phân thân trong cách cảm, cách nghĩ. Qua Chân trần, bạn đọc sẽ
nhận thấy một xã hội từ thời phong kiến với những hủ tục lạc hậu đến xã hội
thời hiện đại với những đổi thay chóng mặt. Tất cả hiện lên một cuộc sống
phong phú, sinh động và đầy cám dỗ.
Có thể thấy, tiểu thuyết của Thùy Dương đã ghi một dấu ấn đặc biệt
trên văn đàn Văn học Việt Nam đương đại. Với thể loại này đã đem đến cho
chị thành công xuất sắc, đạt được nhiều giải thưởng do Hội Nhà văn Việt
Nam trao tặng: Giải B cho “Ngụ cư”- cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt
Nam 2001 - 2004, Giải C cho Tiểu thuyết “Thức giấc”- Cuộc thi tiểu thuyết
Hội Nhà văn Việt Nam 2007 - 2010, Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho Tiểu thuyết “Nhân gian”.
23
Chƣơng 2
VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THÙY DƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Vấn đề giới đƣợc thể hiện qua bi kịch của ngƣời phụ nữ
2.1.1. Bi kịch chiến tranh
Chiến tranh bao giờ cũng mang lại nỗi đau cho con người trong và sau
khi nó diễn ra. Nhà văn Thùy Dương sinh ra và lớn lên trong thời chiến, "trải
qua cả tuổi thơ ở nơi sơ tán" với cảnh chạy loạn, cảnh nhà tan tác chia ly,
người còn người mất… Những ký ức đau thương ấy được chị biến thành
nguồn tư liệu quý giá cho những trang viết của mình. Trước chị, đã có nhiều
nhà văn viết về chiến tranh như Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng, Trung Trung
Đỉnh với Lính trận, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh…Họ viết về chiến
tranh bằng cảm xúc của người trong cuộc - những người lính đã đi qua cuộc
chiến tranh. Bởi thế, các trang viết của họ tái hiện rất chân thực bộ mặt tàn
khốc của chiến tranh. Khác với những nhà văn cầm súng kể trên, Thùy Dương
không mặc áo lính ra trận, nhưng cũng như bao người khác, chị sống trong
không khí của người hậu phương, chứng kiến những gian khó và khổ đau của
những người ở phía sau cuộc chiến, ở hậu phương thời chiến. Vì vậy, những
trang viết về chiến tranh của chị chiếm số lượng không nhiều nhưng lại mang
một sức gợi ghê gớm về sự hy sinh và mất mát.
Viết về chiến tranh, Thùy Dương đã viết bằng cảm hứng của một thế hệ
nhà văn mang tinh thần "không thể viết như cũ được nữa" (Lê Lựu). Trong
Ngụ cư, nhân vật bác tổ trưởng khi nhớ lại ký ức chiến tranh không phải với
cảm giác tự hào mà là cảm giác ghê sợ " Chỉ một phát đạn. Chiến tranh - tất
cả đều có thể. Chiến tranh cho phép con người thả buông thú tính" [6, 129].
Còn ở Thức giấc, tình yêu của một cô thôn nữ với một cán bộ cách mạng đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
có gia đình được nảy nở trong hoàn cảnh "…giặc giã như thế, biết sống chết
24
thế nào. Con người cũng có phút thả lòng mình" [7, 172]. Phần tối của chiến
tranh hiếm khi được nhắc tới trong văn học sử thi, bây giờ đây hiển hiện trong
tiểu thuyết của Thùy Dương và một số cây bút khác như một lời cảnh tỉnh về
nhân cách của con người trong bom đạn. Chiến tranh cho phép con người coi
thường mạng sống của đối phương, cho phép con người vượt qua giới hạn của
đạo đức? Bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của người phụ nữ, Thùy Dương
không nhìn cuộc chiến từ những tấm huy chương mà từ phía đau thương với
"những cái chết nhìn thấy mà không cứu được" [6,130]. Chị còn nhìn thấy
một sự thật "…chiến tranh có kiêng nể gì ai. Người ra tiền tuyến có khi trở về
mà người ở hậu phương lại dính bom bi bom miếng" [8, 19]. Dù ở thời đại
nào, chiến tranh cũng có sức tàn phá khủng khiếp đối với đời sống vật chất
lẫn tinh thần con người ở tiền phương hay hậu phương.
Trong tiểu thuyết của Thùy Dương, chiến tranh hiện ra chỉ qua một vài
phác họa tưởng như sơ sài, nhưng lại có sức ảm ảnh ghê gớm với người đọc.
Trong Ngụ cư, hình ảnh của cuộc tấn công vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm
2001 hiện ra thật kinh hoàng "Từng đoàn người nháo nhào tháo chạy. Già trẻ,
nam nữ, tơi tả, tan tác, tóc tai rũ rượi, máu me bê bết trong khói lửa cuồn
cuộn. Những gương mặt khiếp đảm, hoảng loạn. Khóc lóc, kêu gào…Thảm
cảnh chiến tranh hiện ra rõ mồn một, bằng xương bằng thịt" [6,130], nhân vật
tôi sống lại ký ức của những ngày sơ tán "…hàng phở chỉ còn là một cái hố
sâu hoắm. Chiếc nồi quân dụng mà nhà hàng vẫn ninh nước dùng bị quăng
lên bờ méo xèo xẹo. Không tìm được ai nguyên vẹn. Xương trâu xương bò lẫn
với những mảnh thi thể người…"[6,133]. Không chỉ nhìn cuộc chiến tranh
như đã từng thấy, Thùy Dương còn mang vào trong những trang viết về chiến
tranh những nỗi đau không thể nguôi ngoai.
Chiến tranh không chỉ thấy nơi tiền tuyến mà còn hiện hữu nơi hậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phương. Đó là bi kịch của các gia đình vì chiến tranh mà ly tán: mẹ xa con, vợ
25
xa chồng, con không biết mặt bố… Biết bao cặp vợ chồng mới cưới, sống với
nhau chỉ được vài ngày là chồng đã phải ra mặt trận, để lại hậu phương những
người vợ mòn mỏi đợi chờ. Trong thời chiến, có một bài vè về tình yêu rất
phổ biến:
Cây tre xanh không bao giờ héo ngọn
Thời buổi này kén chọn làm chi
Hòa ơi cứ lấy Cầm đi
Bao giờ Cầm đẻ Hòa về bế con
Chúc anh Hòa lên đường mạnh khỏe
Chúc chị Cầm ở nhà đẻ đứa con giai…
[6, 58]
Có thể bắt gặp ở bất kỳ đâu kiểu gia đình mà cả mẹ chồng và con dâu
(nhân vật chị Thỏa và Thúy trong câu chuyện của bác tổ trưởng) đều có chồng
ra trận. Những mong ước đơn sơ nhất của cuộc sống vợ chồng cũng không thể
có được "đàn bà đang tuổi xuân sắc…mà vắng chồng đến bốn năm năm"
[6,56]. Khi không còn chịu đựng nổi cuộc sống vò võ chờ đợi, người phụ nữ
(chị Thỏa) phải vùng ra khỏi khuôn phép, đi tìm hạnh phúc cho mình. Cô con
dâu (Thúy) viết thư cho anh chiến sĩ đã từng ở trọ nhà mình thổn thức "Mẹ bỏ
đi rồi. Chỉ còn mỗi mình em ở nhà chờ bố và chồng em. Bao giờ mới hết
chiến tranh hả anh?" [6, 56]. Người ta còn thấy "các bà các chị xa chồng đêm
đêm cứ lượn lờ, có người ra cả cánh đồng. Họ cứ đi như thế mà vẫn cứ ngủ,
người nọ gặp người kia mà chẳng nhận ra nhau…" [6, 61]. Trong chiến tranh,
người phụ nữ là người can trường nhất và cũng chịu nhiều đau khổ nhất. Thùy
Dương đã đồng cảm với số phận nhân vật nữ của mình. Và ngay cả khi họ
"sống cho mình", Thùy Dương cũng nhất quyết bênh vực cho họ. Không chỉ
vậy, bi kịch nơi hậu phương còn dành cho nhiều bà mẹ có con hy sinh "đêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đêm về sáng bà mới khóc thầm, ruột như đứt ra từng khúc" hay những con
26
người phải chứng kiến nỗi đau chiến tranh như ông chủ tịch xã "Đây là lần
thứ năm mươi mốt ông phải đọc giấy báo tử thế này. Ông gần như đã thuộc
lòng. Ông sẽ còn phải đọc thêm ba mươi mốt lần như thế cho đến khi tóc ông
bạc trắng hẳn. Sau đó vào năm 1979, ông còn đọc thêm chín tờ giấy như vậy
nữa. Cả xã chỉ có ba thôn lớn và một ấp nhỏ, tổng cộng có hơn một ngàn
nhân khẩu thì có gần một trăm liệt sĩ" [8, 33].Trong cảm xúc của mình, Thùy
Dương như muốn nhân lên: sự hy sinh ngoài mặt trận càng nhiều thì sự đau
đớn âm thầm của những con người nơi hậu phương càng lớn hơn.
Chiến tranh đã kết thúc, nhưng nỗi đau mà nó để lại vẫn còn âm ỉ cho
tới tận hôm nay. Nhà văn Thùy Dương đã phơi bày vấn đề ấy trong tác phẩm
của mình: Đó là nỗi đau của bà mẹ liệt sỹ "gần hai mươi năm qua, vào lúc
đêm về sáng, lúc bà nghẹn ngào thầm hời tôi…". Đó là lời bộc bạch của hồn
ma nhân vật trung đội trưởng Thành khi nhập vào Thảo "Mấy chục năm trôi
qua rồi. Người ta đã quên hết rồi, cả chúng tôi cũng bị lãng quên rồi…Còn có
những người mà chúng tôi nằm xuống xanh cỏ để cho họ đỏ ngực, đủ danh
lợi thì có nghĩ gì đến chúng tôi đâu. Nếu họ nghĩ ngay đến chúng tôi sau khi
hòa bình vừa lập lại thì…đâu phải ngậm ngùi nơi rừng xanh lạnh lẽo thế này"
[8, 175-176] chứa đựng nỗi xót xa khi sự cống hiến của những người "xương
thịt trộn với đất rừng" ghi công cho một ai đó bị chìm vào trong quên lãng.
Thùy Dương còn thấy thân phận con người trôi dạt sau chiến tranh ở cả phe ta
và phe "địch". Anh lính ngụy "bị ép đi lính, mẹ già con nhỏ khóc hết nước
mắt. Vợ tóc xổ tung chạy theo chiếc xe chân trần lầm bụi cát…có lần trốn về
thăm nhà bị bắt lại bị nhốt trong hầm bỏ đói" [8,191], anh lính "ta" "chỉ muốn
ở quê cưới một cô gái làng khỏe mạnh, đẻ liền tù tì bốn năm đứa nhóc"
[8,191] nào có khác gì nhau; nhưng chiến tranh làm con người trở nên tàn
nhẫn, lạnh lùng và đáng sợ. Chiến tranh không phân biệt người tốt kẻ xấu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
súng đạn không ngoại trừ ta - địch, chỉ có người sống và kẻ chết. Trưởng
27
thành trong thời hậu chiến, Thùy Dương cũng như nhiều nhà văn khác đã nhìn
nhận lại cuộc chiến tranh một cách khách quan trên tinh thần nhân văn chủ
nghĩa, bởi "không phải chỉ có một sự thật, mà có nhiều sự thật, về chiến tranh
Việt Nam và về bất cứ sự kiện nào xảy ra trong cuộc chiến ấy" [45].
Cảm hứng bi kịch về chiến tranh trong tiểu thuyết của Thùy Dương
được tiếp nối từ cảm xúc trong truyện ngắn của chị. Nhiều truyện ngắn của
chị về chiến tranh như Cô tôi, Trinh nữ, phận đàn bà, Họ có ba người, Hai
người đàn bà, Bóng chiều sắp qua, Đường trần…thẫm đẫm khổ đau của con
người trải qua bom đạn. Họ quay về mang theo vết thương hậu chiến, hoặc là
hòa nhập vào cuộc sống rồi quên đi ký ức đau buồn, hoặc là sống mãi với
hoài niệm về tình người trong chiến tranh. Sẽ còn mãi hình ảnh "chín cô gái
thanh niên xung phong bị sức ép của bom chết mà trên người không còn
mảnh vải. Áo quần cũng bị xé nát…Bố bế trên tay từng cô trắng, mềm và
thầm khấn nếu còn sống về với vợ con xin đẻ toàn con gái để các cô có chốn
mà trở về dương gian" [10, 395]. Đọc những trang viết về chiến tranh của
Thùy Dương, trái tim người đọc cứ trĩu xuống, thổn thức theo nỗi đau của
nhân vật và liên tưởng tới Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Ký ức trong
Nỗi buồn chiến tranh lần lượt hiện về trong tâm hồn nhân vật Kiên suốt cuộc
hành trình trở lại chiến trường xưa. Ký ức đau thương ở truông Gọi Hồn cứ ẩn
hiện cào xé như nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với
những cái chết kinh hoàng của đồng đội hiện lên trong Kiên như một thước
phim quay chậm ở mọi góc cạnh. Cảm giác của Kiên cũng như của những
nhân vật trong tiểu thuyết của Thùy Dương về chiến tranh đều thật hãi hùng.
Bi kịch của họ là bi kịch của con người bước qua chiến tranh; nếu hy sinh thì
đau đớn vì cống hiến của mình bị lãng quên, nếu may mắn sống sót thì hoặc
mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động về tinh thần không thể hòa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhập được với cuộc sống. Chiến tranh xuất hiện trong tiểu thuyết của Thùy
28
Dương tuy không nhiều nhưng thật ám ảnh. Đằng sau đó, nhà văn muốn gửi
gắm một thông điệp về tình người, giống như sự cứu rỗi cho tâm hồn con
người khi nhìn về tương lai bằng lăng kính quá khứ.
2.1.2. Bi kịch đời thường
2.1.2.1. Bi kịch trong cuộc sống
Sau năm 1975, đất nước được thống nhất, một giai đoạn lịch sử mới
của dân tộc được mở ra: nhân dân bước vào xây dựng cuộc sống mới ấm no,
hạnh phúc. Bi kịch đã xuất hiện từ cuộc sống mới này. Thùy Dương nhận
thấy "Bước ra từ một cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, dường như chúng ta
rơi vào cái bẫy của chính mình mà không biết. Sự ngổn ngang rạn vỡ bày ra
trên nhiều phương diện. Nỗi bất an thường trực trong cuộc sống và tính
người đang đứng trước sự thách thức cũng như những cám dỗ chết người" [5].
Chị quan tâm tới số phận con người trong thời kinh tế thị trường, đến tình yêu
- hôn nhân khi bị chi phối bởi đồng tiền, tham vọng…và chị đã thể hiện chúng
trong tiểu thuyết theo cách rất riêng mà chị cảm nhận.
Trước hết, Thùy Dương đề cập tới bi kịch trong cuộc sống thời mở cửa.
"Mở cửa" là từ người ta quen dùng khi nói về cuộc sống thời kinh tế thị
trường với những cái mới từ bên ngoài vào. Nhưng cái mới vào quá nhanh,
quá ồ ạt, cái cũ vẫn sừng sững thì sự tồn tại đồng thời ắt dẫn đến sự va đập
(tích cực hoặc tiêu cực). Sự va đập mang tới kết quả tiêu cực là bi kịch mà
chính con người trong thời đại ấy, xã hội ấy phải chịu. Ở thời kỳ này, tiểu
thuyết đã "thể hiện sự nhạy bén về tư duy nghệ thuật trong việc nhận thức tối
đa thực trạng suy thoái, băng hoại về mặt đạo đức, nhân cách của con người"
[29]. Thùy Dương đã tái hiện một cách chân thực bi kịch cuộc sống thời mở
cửa và gióng lên hồi chuông về sự "tan rữa ra" (chữ dùng của Thùy Dương)
trong các mối quan hệ của con người - tất thảy đều chịu sự chi phối của quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lực, tiền bạc và dục vọng.
29
Trong cuộc sống của mỗi gia đình, nhà văn đề cập tới sự rạn nứt mối
quan hệ cha mẹ - con cái khi tất cả đều lao vào vòng xoáy tham vọng. Đây là
bi kịch gia đình nhưng là tiền đề cho bi kịch lớn của xã hội. Hơn một lần chị
xót xa cho bi kịch gia đình. Con trai của ông T có "quyền nghiêng thành phố"
bị nghiện hút, được đưa về quê cai nghiện, không chịu nổi phải tự vẫn. Đến
lúc ấy, người mẹ mới bừng tỉnh, hối hận thì đã muộn "Mẹ không biết mẹ để
tuột con từ lúc nào. Từ khi bố con lên chức? Từ khi tiền cứ chảy vào nhà mình
theo nhiều hướng? Từ khi mẹ còn bận rộn sắm sửa, toan tính?" [7,349].
Người mẹ ấy khóc thương con, trách mình rồi tự hỏi "Cái gì đã khiến con đi
lạc đường? Cái gì đã đẩy con đến nông nỗi này?". Điều khiến cậu bé lạc
đường là thiếu sự chăm sóc của người mẹ và sự dạy dỗ của người cha - những
người luôn bận toan tính. Cậu bé non nớt được thả ra giữa xã hội đầy cạm
bẫy; nghiện hút, tệ nạn xã hội chẳng sớm thì muộn sẽ tìm tới cậu. Những đứa
trẻ ấy không chỉ hủy hoại bản thân mà còn hủy hoại luôn cả người thân của
chúng trong những phút giây nông nổi. Người đọc bị ám ảnh bởi nhân vật
thằng bé mê chơi điện tử "…về nhà cạy tủ lấy tiền, ông bố đi vào mắng chửi
té tát. Ông vừa quay lưng nó vung dao chém ngang, chém dọc. Ông bố đổ
xuống, nó kéo vào một góc buồng phủ tạm tấm chăn lên. Hai giờ suy tính, nó
đạp xe mua về ba chiếc thùng xốp, lôi chiếc cưa sau nhà mà bố nó hay dùng
cưa củi, đóng kín cửa, vặn nhạc Rap to lên và cưa ông bố xấu số ra làm ba
khúc. Lèn vào ba chiếc hộp xốp dán băng dính cẩn thận, chằng buộc sau xe
đạp đưa ra sông thảy xuống đúng ba lần" [8, 292]. Chính gia đình ấy, chính
ông bố xấu số ấy đã đẩy đứa con trai tội nghiệp vào con đường phạm tội.
Cuộc sống gia đình không làm cho nó hạnh phúc, khiến nó phải đi tìm niềm
vui trong một thế giới ảo "hành hiệp giang hồ so tài cao thấp, chém giết nhau
như rắn với ngóe…một thế giới không thật mà có sức cuốn hút hơn cả thật"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[8, 291]. Khi hết tiền để chìm đắm trong thế giới ấy, nó quay về nhà cạy tủ lấy
30
tiền. Người cha bắt gặp hành động của con, không cần quan tâm sao con mình
lại làm thế, chỉ "mắng chửi té tát". Và cậu bé trong lúc nóng giận, không phân
biệt được thế giới thực - ảo, chỉ thấy rằng mình bị xúc phạm nên đã hành
động như một "anh hùng hành tẩu trên giang hồ". Đến khi bị công an bắt, nó
vẫn không ý thức được hết về hành động của mình. Tất cả những lỗi lầm ấy
là do thiếu sự chăm lo, dạy dỗ của người lớn. Cuối cùng, đứa con dứt ruột đẻ
ra của họ phải chịu bi kịch mà do chính họ gây ra.
Cũng chính vì sự ích kỷ cá nhân của những người làm cha làm mẹ đã
khiến cho cháu nội, ngoại của mình không thể ra đời. Nhân vật cô gái trẻ
trong Nhân gian đã gào lên trong tuyệt vọng "Mẹ nỡ giết con của con, cháu
của mẹ sao?" [8,248] và "Sao mẹ không lo cho con mà chỉ lo cho thanh danh
thế?" [8, 241] khi cô gái có thai với người yêu là bác sỹ tình nguyện người
Mỹ. Gia đình cô gái không chấp nhận tình yêu của cô và tìm cách phá bỏ cái
thai - đứa cháu ngoại của mình. Tất cả việc làm ấy chỉ vì bố cô là Phó chủ tịch
tỉnh và sắp được đề bạt lên Chủ tịch. Bi kịch lên tới đỉnh điểm khi cô quyết
định "…bố chưa về hưu, con hứa sẽ không có tờ giấy kết hôn nào hết, sẽ
chẳng có đứa cháu ngoại nào của ông bà có mặt trên đời!" [8, 296] để được
sống với người mình yêu. Nhân vật Yên Thao trong Thức giấc cũng từng đau
đớn khi nghe mẹ của người yêu mình nói "Nếu cháu có chuyện gì, cứ đến đây
tìm bác. Bạn bác là bác sĩ sản khoa viện C. Bác hứa sẽ lo cho cháu. Kín đáo.
Bác phải có trách nhiệm" [7, 115]. Tất cả đều tàn nhẫn, bỉ ổi dưới sức nóng
của địa vị, của tiền bạc. Con người quên mất tình cảm gia đình và những giá
trị đạo đức. Kết quả là chính họ, con cái họ phải nhận bi kịch không thể giải
quyết được.
Bên cạnh bi kịch gia đình, Thùy Dương còn nhìn thấy bi kịch xã hội
cũng xuất phát từ tiền bạc và dục vọng của con người. Đó là sự "xuống cấp"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
về nhân cách con người, về đạo đức nghề nghiệp; đó là sự đánh mất bản sắc
31
văn hóa truyền thống của dân tộc; đó là bảo thủ, lạc hậu, trì trệ của một lối
mòn trong xã hội và trên hết là sự đảo điên của xã hội đồng tiền.
Nói về sự "xuống cấp" của nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, nhà văn đã
thể hiện theo muôn hình vạn trạng: mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân
biệt kẻ có học hay không…Ai làm nghề gì thì "ăn" nghề ấy. Ngay cả vị lãnh
đạo đứng đầu đất nước cũng không tránh khỏi sa ngã thường tình. Thật buồn
khi thấy tình trạng "…cũng vị lãnh đạo ấy về địa phương nào thì cũng là bài
ca quen thuộc phải suy nghĩ, suy nghĩ thật thấu đáo để xác định rõ chúng ta
phải trồng cây gì, nuôi con gì…Cái bọn doanh nghiệp mới nổi, nhân dịp đục
nước béo cò…thì xúm vào các quan chức "trồng cây gì nuôi con gì" để kiếm
chút lộc thừa chính trị" [7, 182-183]. Chẳng thế mà nhà văn đã tổng kết "Giờ
đây chúng ta chỉ có các nhà lãnh đạo mà không có lãnh tụ" [7, 282]. Đến
những người có học hàm học vị như Giáo sư Tiến sĩ khi liên quan đến tiền
bạc thì cũng ngã giá như ai "Tôi muốn biết thù lao cho mỗi bài báo như thế là
bao nhiêu - trả cho Giáo sư Tiến sĩ là phải khác với bình thường đấy chứ?" [6,
6]. Rồi đến tầng lớp trí thức như nhà báo, giáo viên, bác sỹ, cán bộ hành
chính…cũng "trượt dài" trên con đường tha hóa nhân cách. Nhà báo - người
đại diện cho công lý cũng buông xuôi trước thực tế cuộc sống "em thấy tởm
cả mình khi ngửa tay nhận những cái phong bì như thế…Tặc lưỡi cho qua.
Nhủ thầm ai ai cũng thế cả. Ít nhất mình không cướp của ai" [6, 126]. Đúng
là họ không "cướp của ai" nhưng tự họ đã cướp đi nhân cách, đạo đức nghề
nghiệp của mình. Giáo viên - người kỹ sư tâm hồn, người đào tạo ra các thế
hệ tương lai cho đất nước thì mắc bệnh thành tích "…sợ thằng bé kéo thành
tích của lớp cô chủ nhiệm đi xuống. Mà cô thì hơn chục năm nay luôn vào ở
tốp giáo viên dạy giỏi của quận…Cô có vẻ không quan tâm, cũng chẳng biết
gì về những thay đổi của nó" [6, 110-111] và thực dụng "cô giáo không thích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tặng hoa rác nhà. Cô cười tươi lắm khi được nhận quà và phong bì" [7, 256].
32
Ngay cả đứa trẻ cũng nhận ra điều ấy thì không biết chúng có còn coi trọng
lời dạy bảo của thầy cô mình nữa không. Đến thầy thuốc - bác sỹ cũng không
tránh được vòng xoáy của cơ chế thị trường. Sự tận tâm của các "lương y như
từ mẫu" được đo đếm bằng giá trị đồng tiền họ nhận được. Vì thế mà bệnh
nhân người trước rỉ tai cho người sau biết đường mà bồi dưỡng "những người
đến trước mách em…bác sỹ thăm bệnh, y tá tiêm, truyền em đều bồi dưỡng"
[6, 138]. Nhất là các cán bộ hành chính - người nắm quyền sinh quyền sát
trong tay, họ hiện ra thật chân thực và sinh động "…bà con muốn làm nhanh
xin đổ tí dầu bôi trơn là máy chạy phăng phăng…Máy đây là bộ máy hành
chính ấy chứ…Chị đứng chính chủ tòa nhà hàng tỉ bạc, cho thằng em xin viên
gạch sứt…" [6, 119]. Có thời nào như cái thời này khi người ta nói chuyện ăn
hối lộ, gợi ý hối lộ một cách thẳng thắn và trơ trẽn đến vậy. Đối với nhân dân
thì hạch sách, còn đối với cấp trên thì những cán bộ này ra sức bợ đỡ. Khả
năng bợ đỡ "sếp" của các vị này được gọi với cái tên thật ấn tượng "năng lực
nô tài" - "thứ năng lực mới được phát hiện của cán bộ ta" [8, 59] và "đang
được trọng dụng" [8, 109]. Nhà văn nêu ra dẫn chứng cụ thể về một ông tổng
giám đốc "Anh ta đã từng khom lưng nặn mụn ở mông cho ông tổng kia thời
ông ta mới còn là Phó. Còn việc xách nước cho ông ấy tắm thì là cơm
bữa…Thế rồi ông Phó lên Tổng, anh ta được cất nhắc theo. Giờ lên chức khi
quan thầy về hưu, anh ta quan cách khệnh khạng hơn cả thầy khi trước" [8,
90-91]. Vì địa vị, tiền bạc người ta có thể hạ mình, thậm chí bản rẻ nhân cách.
Điều này còn đúng với một bộ phận thanh niên hiện nay chỉ muốn hưởng thụ
mà không phải lao động vất vả. Đó là "cậu phóng viên trẻ trong thời gian thử
việc ở đâu chạy về, mặt xám ngoét, giọng hổn hển đầy kích động: Em có bài
đinh đây rồi. Một em bé chưa đầy hai tuổi bị chính thằng chú họ hiếp dâm.
Em phỏng vấn được bố mẹ cháu ở bệnh viện. Chụp được cả ảnh nữa" [6, 80];
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khi được yêu cầu đưa ảnh lên báo, cậu ta "vênh mặt": "không có tấm ảnh thì
33
mất nửa giá trị" [6, 80]. Đó là những cô "người mẫu chân dài vậy mà cần
mẫn làm việc trên bụng đàn ông như một ả gái điếm hạng bét" [8, 76]. Tất cả
đều hướng tới danh lợi, địa vị, tiền bạc và sẵn sàng làm mọi việc để đạt được
điều mình muốn.
Như vậy, bi kịch đời thường đã cho ta thấy rõ một xã hội đang có nhiều
thay đổi mà sự thay đổi lớn nhất là sự xuống cấp của đạo đức con người. Con
người ngày càng tha hóa trong suy nghĩ và việc làm của mình. Thay cho nhận
định của mình, nhà văn viện dẫn lời của một triết gia người Phổ F.Nietzsche
về con người như sau: "các ngươi đã vượt qua con đường dẫn từ loài sâu bọ
đến loài người nhưng về nhiều phương diện, các ngươi vẫn là loài sâu bọ.
Xưa kia các người đã là loài khỉ và bây giờ nữa, con người còn khỉ hơn bất
luận con khỉ nào" [8, 150]. Đặc biệt, nhà văn nhận thấy “sự tử tế, có học đã
bỏ qua chúng ta lâu lắm rồi” [9, 128] và khẳng định “Thời này là thời của lũ
sâu bọ nhảy lên làm người” [9, 47].
2.1.2.2. Bi kịch trong tình yêu, hôn nhân
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tình yêu và hôn nhân cũng
mang những sắc thái mới. Mỗi nhà văn đều có cách cảm nhận và lý giải riêng,
đặc biệt là các nhà văn nữ - đối tượng gần gũi với cuộc sống gia đình. Nhà
văn Thùy Dương - với một tâm hồn dịu dàng, sâu lắng đã để lại trên trang viết
của mình một sự xót xa cho tình đời, tình người giữa cuộc mưu sinh quay
cuồng đầy cạm bẫy.
Thùy Dương nhìn tình yêu với con mắt của một người đàn bà, hạnh
phúc tràn đầy và nước mắt cũng tràn đầy. Tình yêu xuất hiện trong tiểu thuyết
của chị đều dở dang và khó đạt được hạnh phúc tròn đầy. Trong Thức giấc,
Yên Thao là một cô gái có đời sống nội tâm phong phú. Yên Thao đến với
Trung bằng tất cả tình yêu và sự tin tưởng tuyệt đối. Thậm chí, cô đã trao thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho người mình yêu và ảo tưởng "đây chính là người đàn ông dành cho tôi.
34
Với anh và chắc chắn chỉ với anh, tôi mới có được nỗi sung sướng và hạnh
phúc nhường này" [6, 107]. Khi gặp sự ngăn cản của mẹ Trung, ngọn lửa tình
yêu của Yên Thao bị dội một gáo nước lạnh và tắt ngấm. Trung vội vã ra
nước ngoài, bỏ lại sau lưng tình yêu sâu đậm của Yên Thao và một khoảng
trống không thể bù đáp trong tâm hồn cô. Trong phút giây nông nổi của tuổi
trẻ, Yên Thao "mong mình tắt kinh, có chửa", "chắc chắn nó sẽ là con
trai…Trong khi rất có thể họ chỉ có cháu gái mà chẳng có cháu trai" [7, 117]
mong muốn trả thù lại những người đã gây đau đớn cho mình. Và cuối cùng,
Yên Thao nhận ra chính cô "là kẻ tự cào xước trái tim mình" [7, 121]. Bi kịch
tình yêu của Yên Thao là bi kịch của một cô gái yêu hết mình, dâng hiến hết
mình - cả thể xác và tâm hồn, nhưng kết cục mà cô nhận được là sự hèn nhát,
chạy trốn khỏi tình yêu của người cô yêu và yêu cô. Thất bại trong tình yêu đã
khiến cho Yên Thao mạnh mẽ và độc lập hơn. Đó là một cách nhìn đầy tính
nhân bản của Thùy Dương về bi kịch của con người.
Cũng giống như Yên Thao, nhân vật cô gái trẻ trong tiểu thuyết Nhân
gian cũng gặp trắc trở trong tình yêu. Nhân vật cô gái trẻ là con gái út trong
một gia đình làm chính trị, có bố làm Phó chủ tịch tỉnh. Vốn đã quen sống
trong nhung lụa, được sự bao bọc của cha mẹ, khi gặp Rush - một bác sỹ
người Mỹ tình nguyện sang Việt Nam làm "phẫu thuật nụ cười", cô đã đem
lòng yêu. Tình yêu ấy chưa kịp công khai đã bị vùi dập trong đau đớn. Cả gia
đình lo ngại rằng cô có quan hệ với người Mỹ sẽ ảnh hưởng tới con đường
công danh sự nghiệp của bố cô, nên ra sức cấm đoán. Thậm chí khi biết con
gái mình có thai, mẹ cô đã tìm mọi cách phá bỏ cái bào thai như phá bỏ kết
quả tình yêu giữa hai dòng máu và phá bỏ vật cản trên con đường thăng tiến
của bố cô. Trong Thức giấc, Yên Thao khi biết tình yêu của mình bị chối bỏ
đau đớn một phần, thì ở Nhân gian, nhân vật cô gái trẻ khi thấy kết quả tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yêu của mình bị hủy hoại đau đớn mười phần. Có gì đau đớn hơn khi người
35
hủy hoại tình yêu ấy chính là những người ruột thịt với mình. Đau đớn, giận
dữ mà không thể chối bỏ máu mủ. Cô đã phải trốn chạy khỏi cái nơi bao bọc
mình để được sống với tình yêu, với điều mình tin tưởng. Tình yêu trong cảm
nhận của Thùy Dương thật mong manh và đầy bất trắc.
Cảm hứng về cuộc sống hôn nhân trong tiểu thuyết của Thùy Dương
cũng hiếm khi nào hoàn hảo trọn vẹn. Không phải vì cuộc sống riêng của
Thùy Dương ngoài đời gặp trắc trở, mà đó là sự thật cuộc sống hiện hữu
quanh chị. Bi kịch của cuộc sống hôn nhân trong tiểu thuyết được nhìn chủ
yếu từ hai phương diện là trên cơ sở đồng tiền và trên cơ sở tình yêu.
Trong nhiều truyện ngắn của Đoàn Lê, không ít lần nhà văn khẳng định
"cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể cố gắng yêu"
(Trái táo nham nhở). Điều này được Thùy Dương khẳng định một lần nữa
qua bi kịch của những cuộc hôn nhân chỉ vì một thứ duy nhất - tiền bạc, danh
lợi, dục vọng. Trong Ngụ cư, Thùy Dương kể về "nhà số tám" của Hoa - em
gái người bạn thân của nhân vật tôi với một bi kịch như thế. Hoa ngày nhỏ
sống trong một ngôi nhà chật chội, mỗi lần ra vào "giống như hai con dê qua
cầu". Khi lớn lên, đi học đại học, chỉ vì không muốn quay lại nơi tối tăm ấy,
Hoa đã chấp nhận lấy người mà cô không yêu nhưng có tương lai ở lại Hà
Nội và có một việc làm. Một người vì mưu sinh mà phải "hạ mình" lấy người
không tương xứng với mình và nhất là không có tình yêu, luôn thấy mình chịu
nhiều thiệt thòi. Người kia cũng tự nhận thức được về mình, sau khi kiếm
được nhiều tiền thì quay ra ngoại tình để "trả thù đời". Hoa đã rơi vào bi kịch
mà chính cô đã gây ra cho mình. Một mặt, cô muốn làm rõ ràng mọi chuyện
"để rồi em tính sổ với nó. Hay là em cũng có bồ cho nó biết tay" [6, 78]; mặt
khác, cô lại chắc chắn chồng mình sẽ không dám ly hôn "không bao giờ có
chuyện đó. Em biết rõ nó quá mà. Ở địa vị của nó mà để chuyện nhà của tan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoang thì còn đâu uy tín" [6, 112]. Hơn nữa, cô lại đặt tình cảm sau tiền bạc
36
và tham vọng. Cứ thế, họ sống và dằn vặt nhau mà không sao thoát ra được.
Kết cục, đau khổ thuộc về người phụ nữ. Trong tiểu thuyết Thức giấc, Thùy
Dương lại đề cập đến kiểu bi kịch này trong số phận của nhân vật Thúy. Thúy
là dân ngoại tỉnh, lên Hà Nội học, vì muốn ở lại nên đã "nhắm mắt túm bừa
một kẻ. Không may người đàn ông không còn trẻ ấy đã qua một đời vợ, tính
vũ phu, cục cằn…Thúy đánh đổi đời con gái của mình chỉ để lấy một căn nhà
tập thể hơn ba chục mét vuông trên tầng ba và một trang trong cuốn sổ hộ
khẩu" [7, 117]. Bi kịch của Thúy cũng giống Hoa; nhưng Thúy còn khổ hơn
Hoa vì cô nghĩ rằng sau khi ở lại Hà Nội sẽ có tương lai, hóa ra chẳng có gì cả
- cả tiền lẫn tình yêu. Qua số phận của Hoa và Thúy, có thể thấy Thùy Dương
có một cái nhìn sâu sắc về những cuộc hôn nhân vì tiền. Họ không chỉ đến với
nhau vì tiền, mà chia tay nhau cũng vì tiền, dục vọng. Kỳ Thanh trong tiểu
thuyết Nhân gian từng có một gia đình hạnh phúc với chồng và con trai mười
lăm tuổi. Nhưng chồng đã phản bội để đi theo bạn học của cô "buôn bán giàu
có nổi tiếng và đã bỏ chồng. Nó xấu và trong đầu lúc nào cũng tính toán tiền
nong…" vì ham cái gia tài kếch sù "ba căn nhà mặt phố, một công ty thương
mại, một biệt thự ngoại ô, một chiếc Lexus giá trị bằng cả một gia tài…" [8,
48]. Kỳ Thanh chia tay chồng trong căm hận. Trong cô luôn chất chứa nỗi
đau hạnh phúc tan vỡ - ly dị chồng, con đi học xa. Đằng sau vẻ phớt đời của
Kỳ Thanh là nỗi cô đơn cùng cực, là khao khát "cứ phải đè chặt từng đêm,
từng đêm" [8, 278]. Cô mở quán cà phê để lẩn trốn đau khổ, nhưng đau khổ
lại tìm tới. Người chồng cũ đến và thường xuyên ngồi uống nước ở quán của
Kỳ Thanh như muốn cố gắng tìm lại tình yêu. Có lẽ anh ta không tìm được
hạnh phúc bên người vợ mới và gia tài kếch sù kia. Trong một phút cả Kỳ
Thanh và chồng cũ đều không tự chủ được, họ đã trở lại những giây phút êm
đềm như "từ mười tám năm trước" [8, 18]. Và "khi ý thức trở về thì cả sự bẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bàng tủi hổ cả căm hận về theo", Kỳ Thanh đã làm mọi cách để khiến cho
37
người chồng cũ phải chịu "một chút thống khổ" mà cô đã trải qua. Không chỉ
làm cho người chồng cũ tưởng rằng chuyện diễn ra giữa hai người là mua -
bán sòng phẳng, cô còn thuê Hạnh - "một đứa thực sự chọn nghề ấy làm
thêm" để lột mặt nạ của kẻ đã khiến cô rơi vào bi kịch này. Cô mong "nó có
thể phản bội được một lần thì rất dễ dàng có lần thứ hai" để củng cố căm hận
trong lòng và xóa nốt những gì còn lại của tình yêu nơi cô. Nhưng khi đối
diện với sự thật "góc quán một người đàn ông có gương mặt thanh tú điển
trai ngồi im lìm bên cốc cà phê đã vơi đi một nửa" [8, 279] thì Kỳ Thanh ngỡ
ngàng. Với cuộc sống hôn nhân của Kỳ Thanh, nhà văn một lần nữa khẳng
định nhân tính của con người. Đồng tiền có thể chi phối quyết định của con
người trong một phút nhưng không thể mua được tình yêu.
Bên cạnh đó, nhà văn còn cảnh tỉnh cả những cuộc hôn nhân được
dựng xây bằng tình yêu chân chính. Lối sống công nghiệp chóng mặt làm cho
con người không còn thời gian để gần gũi nhau. Đây chính là nguyên nhân
khiến cho bi kịch đổ vỡ. Ngoài ra, sự đối lập về tính cách, quan điểm sống
cũng khiến cho hôn nhân khó giữ được bình yên. Thêm nữa, họ tìm thấy điểm
tốt, đáng yêu của người khác - bù đắp lại những gì không có được ở người
bạn đời. Thùy Dương nhìn thấy bi kịch hôn nhân có thể diễn ra ở mọi gia đình,
không kể giàu hay nghèo, trí thức hay lao động chân tay. Ngay như gia đình
Tuyết [Ngụ cư] quanh năm làm nghề chở xe bò thuê kiếm sống mà cũng
không thoát khỏi cảnh tan vỡ. Khi cuộc sống cuốn họ theo những đổi thay thì
hạnh phúc đơn sơ "vợ chồng nhà này cơm no, cho bò ăn, dỗ con ngủ xong là
quần nhau" [6, 28] đã trở thành dĩ vãng. Sự đổi thay của gia đình Tuyết bắt
đầu khi cô ca-ve đến ở thuê phòng tấng hai. Cô ca-ve đến mang một thế giới
mới khác hẳn cuộc sống vợ chồng của Tuyết. Điều này khiến chồng Tuyết -
một người vốn cục mịch, siêng năng giờ bị choáng ngợp trước đổi thay của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc sống. Anh ta và cô ca-ve cùng lao vào tình yêu lén lút nhưng cuồng
38
nhiệt, thậm chí còn tính chuyện sống lâu dài với nhau. Khi Tuyết phát hiện ra
cũng là lúc bi kịch đổ vỡ thực sự. Tuyết đau khổ khi sự vun vén, chăm lo của
mình bao lâu nay bị phản bội. Anh chồng thì bị giằng xé giữa tình cảm và
trách nhiệm - sống với cô ca-ve nhưng không thể bỏ mặc hai đứa con. Còn cô
ca-ve cũng chẳng sung sướng gì khi "muốn kiếm cho mình một thằng đàn ông
thì lại phải giật của ai đó" [6, 149]. Nhưng có lẽ đau khổ nhất vẫn là Tuyết.
Sau khi chồng cô chết vì tai nạn, cả Tuyết và cô ca-ve vẫn không thoát khỏi bi
kịch, họ vẫn phải dựa vào nhau để tồn tại, chăm sóc cho hài nhi vô tội kia.
Gia đình vợ chồng Lam [Ngụ cư] cũng gặp bi kịch dù cô và chồng - một ông
Tây tốt tính đã vượt qua ngăn cản của gia đình và xã hội để đến với nhau.
Giữa Lam và chồng vốn đã có sự khác biệt giữa tính cách Á Đông quen có sự
quan tâm, chăm sóc và tính cách phương Tây độc lập, thẳng thắn. Vì vậy, khi
có một người thấu hiểu suy nghĩ, quan tâm đến Lam thì "tình yêu với chồng
bay đâu sạch" [6, 109]. Lam rơi vào tình trạng "khi đã hết yêu không thể giả
vờ. Như vậy không chỉ làm tổn hại đến người ta mà còn làm tổn hại chính
mình" [6, 109]. Cô chia tay với chồng nhưng không chắc chắn sẽ sống với
người mình yêu vì "Anh ấy cũng có gia đình rồi. Lại chưa dám nghĩ đến
chuyện bỏ vợ" [6, 109]. Hơn nữa, cô thú nhận "đàn bà mà kiếm tiền giỏi hơn
chồng thì không còn sự tôn trọng cần thiết nữa. Rạn nứt cũng từ đây ra" [6,
117]. Bi kịch hôn nhân của Lam là bi kịch của một người phụ nữ thành đạt,
không bằng lòng với tình yêu đã có nhưng cũng không dám đến với tình yêu
muốn có. Cả Lam và Tuyết - dù bị chồng bỏ hay bỏ chồng - đều là những
người phụ nữ bất hạnh. Họ sống toàn tâm toàn ý với cuộc sống nhưng phải
nhận lại sự đau đớn, giày vò. Yên Thao trong Thức giấc gặp bi kịch hôn nhân
một phần vì sự có mặt của người thứ ba, nhưng nguyên nhân chính lại là tình
yêu của họ không được làm mới thường xuyên. Cô là một người phụ nữ mạnh
mẽ và thông minh, có niềm say mê trong công việc. Còn chồng cô - Nghi - một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiến trúc sư tài hoa và lãng mạn, luôn theo đuổi sáng tạo trong thiết kế. Giữa
39
họ tồn tại một sự đam mê cả thể xác lẫn tâm hồn. Cuộc hôn nhân cứ diễn ra
một cách tự nhiên, không cần bất cứ một sự cố gắng, nỗ lực nào. Đã có lúc,
Yên Thao giật mình nhận ra "không có tôi, núi lửa của anh trào dâng đi đâu?
Biển đêm trong tôi sẽ không thôi gào thét nếu không có nham thạch nóng rực
cuộn trào và trút đầy" [6, 238]. Khi bắt gặp chồng mình ngoại tình với một cô
gái khác, cô đã rơi vào trạng thái đổ vỡ. Cô thấy tất cả những việc đã làm đều
vô nghĩa - tiền nhiều, thành đạt để làm gì khi hạnh phúc của mình lại thuộc về
người khác. Bi kịch hơn nữa khi Yên Thao luôn nghi ngờ nhưng cả hai đều
không dám đối mặt với sự thật vì sợ làm tan vỡ một gia đình. Có điều, họ vẫn
còn yêu nhau và vẫn muốn duy trì một gia đình cho những đứa con.
Trong cảm hứng bi kịch về hôn nhân, Thùy Dương luôn hướng về giá
trị truyền thống - dù tình yêu không còn nhưng họ vẫn còn trách nhiệm với
nhau và với con cái. Nhân vật tôi và người chồng [Ngụ cư] dù có cuộc sống
hôn nhân không như ý nhưng luôn đặt hạnh phúc của con cái lên trên hết. Bi
kịch của họ là bi kịch của những tính cách, quan điểm sống trái ngược nhau.
Nhân vật tôi là một phóng viên "muốn sống, muốn đẫm mình trong cuộc sống
thực này, dù ai gọi nó là xa hoa và phù phiếm" [6, 27]; còn người chồng "chỉ
muốn yên ổn chẳng phải gắng gỏi bon chen, tầm thường như những kẻ khác"
[6,8]. Họ đã từng có thời yêu nhau say đắm. Nhân vật tôi linh cảm "càng ngày
anh ta càng trở nên xa lạ với tôi. Khoảng cách giữa chúng tôi ngày một dài
ra" [6, 26] và nhận ra nếu họ chung sống thì "sự va đập sẽ đến ngay và tất cả
chúng tôi sẽ tan ra từng mảnh" [6, 72]. Chỉ có đứa con gái luôn buồn lòng vì
hạnh phúc của cha mẹ. Nó đã từng ao ước "giá bố mẹ cứ cãi nhau, thậm chí
đánh nhau như bố mẹ đứa bạn con nhưng rồi vẫn cứ ở với nhau, ngủ cùng
nhau…" [6, 72]. Đôi khi, cuộc sống gia đình không hạnh phúc không hẳn vì
cơm áo gạo tiền, mà lớn hơn là sự khác biệt trong tính cách mỗi con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Họ không thể tìm thấy tiếng nói chung cho cuộc sống hôn nhân.
40
Có thể thấy, bi kịch về tình yêu, hôn nhân của Thùy Dương mang tới
cho người đọc cảm giác sợ hãi, mong manh trước hạnh phúc của con người.
Đằng sau bi kịch trong cuộc sống riêng của mỗi cá nhân, nhà văn muốn cảnh
báo về sự tan vỡ của các mối quan hệ trong xã hội mà khởi đầu chính là quan
hệ hôn nhân.
Tóm lại, khi viết về bi kịch, dù bi kịch đời thường hay bi kịch trong
tình yêu hôn nhân, Thùy Dương đã cho ta thấy một cuộc sống càng hiện đại,
càng văn minh thì con người càng đánh mất đi cái tôi của chính mình. Cảm
nhận được sự nhỏ bé, mong manh và đầy bất trắc ấy, nhà văn đã khẳng định "
mỗi cuộc đời là một bi kịch nhỏ và mỗi thời đại biết đâu lại chẳng chứa đựng
những bi kịch lớn" [7, 85]. Quả thực, dù sống trong thời đại nào con người
luôn chịu tác động của những bi kịch mà bi kịch ấy lại do chính họ gây ra.
2.2. Vấn đề giới qua vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ
2.2.1. Vẻ đẹp hình thức
Từ xưa đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về vẻ đẹp hình thể
của người phụ nữ. Người xưa xem vẻ đẹp của người phụ nữ, đặc biệt là cơ thể
của họ là nguồn gốc của tội lỗi, tai họa. Đến thời kỳ văn học Trung đại thì
một số tác giả như Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương… đã đề cập
đến vẻ đẹp của người phụ nữ và ca ngợi vẻ đẹp của họ một cách rất riêng, rất
đáng được trân trọng. Hồ Xuân Hương miêu tả vẻ đẹp hình thức của người
phụ nữ thật độc đáo, thật ấn tượng. Bà đặc biệt chú ý những bộ phận thân thể
được giấu kín của con người thì nay được "phô" ra với vẻ đẹp mà tạo hóa ưu
ái ban cho họ. Bà miêu tả cơ thể đẹp của người phụ nữ giữa ban ngày, vào
một buổi trưa hè gió mát:
"Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Thiếu nữ ngủ ngày)
41
Chẳng biết vô tình hay hữu ý, cô gái "đương xuân thì" quá giấc nồng để
rồi hiện ra giữa thanh thiên bạch nhật thân thể trinh nguyên của mình với "đôi
gò bồng đảo", "một lạch Đào Nguyên". Rõ ràng Hồ Xuân Hương muốn ca ngợi
một cơ thể đẹp - một vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp thanh tân của cơ thể thiếu nữ.
Khác với Hồ Xuân Hương và một số cây bút khác, Thùy Dương cảm
nhận về vẻ đẹp người phụ nữ thật dịu dàng, hiền thục nhưng cũng đằm thắm,
mặn mà. Vẻ đẹp người phụ nữ được cảm nhận từ những cô gái vùng quê,
chân lấm tay bùn đến những người phụ nữ thành thị sống trong cung cách của
nhà giàu có. Trong Ngụ cư, nhân vật Huê được miêu tả "Cô Huê vợ một ông ở
Bộ N có dáng hình: người trắng trẻo, nhẹ nhõm dễ ưa" và "…đôi mắt Huê mơ
màng, má ửng hồng" [6, 11]; vẻ đẹp của Huê là vẻ đẹp người phụ nữ nông
thôn, đã có chồng mà cứ như còn xuân sắc của cô gái mười tám, đôi mươi
"Huê kéo chiếc quần đen, lộ bắp chân trần, cái gót trước rám vàng giờ nhạt
màu hẳn. Chỉ vài ba tháng nữa là trắng hồng cho coi" [6, 20]. Không chỉ vậy,
nhân vật Cầm cũng có vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm của người con gái thôn quê
"Chị Cầm da trắng, tóc dài, dáng óng ả". Vẻ đẹp của Cầm, ai gặp lần đầu
cũng khó mà quên được. "…anh cái Nga gặp một lần rồi về nằng nặc bắt
thầy u lên xin cưới dù đã bỏ trầu ở nhà một cô khác cùng thôn". Vẻ đẹp ấy
khiến anh Hòa (anh của Nga) - một người lính sắp phải ra chiến trường, thậm
chí đã chạm ngõ nhà người ta cũng đành muối mặt từ chối, để rồi chính anh
đã quyết định "một là lấy Cầm, hai là không lấy ai" [6, 58]. Hình ảnh cô gái
thôn quê được tác giả cảm nhận rất riêng và rất ấn tượng “Con gái quê mông
tròn, vú nở, da dẻ đỏ đắn, mặt mũi cũng dễ coi” [9, 5], “cô bé có mái tóc
buông dài đen óng, gương mặt bầu trắng mịn. Mắt đen mi lót. Mũi thanh. Một
gương mặt mặt đẹp cổ điển” [9, 21]. Tất cả những chi tiết ấy khiến nhân vật
nữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương không giống với các nhân vật nữ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sáng tác của một số tác giả khác. Nhân vật nữ của chị là nhân vật phải xinh
42
đẹp, phải thật ấn tượng khi gặp lần đầu. Bản chất là những người phụ nữ xuất
thân từ nông thôn nhưng lại sống chốn đô thị, nên vẻ đẹp của họ có sự nhuốm
màu của cuộc sống mưu sinh: "Tuyết tên thế nhưng đen, mặt lại rám, gò má
cao, mắt bình thường thì lờ đờ nhưng lúc long lên, đanh đá vô cùng". Cũng
chính vì đặc điểm "gò má cao" mà Tuyết phải chung chồng với cô ca ve ở trọ
ngay nhà mình. Còn cô ca ve - một cô gái từng trải và có cái gì đó theo xu
hướng của cuộc sống hiện đại "Một đứa con gái không còn trẻ nhưng trắng
trẻo, mỡ màng, hay mặc váy ngắn trên đầu gối. Ngang qua thoang thoảng
mùi nước hoa rẻ tiền, nhưng vẫn cứ là nước hoa" [6, 29]. Vì "mùi nước hoa
rẻ tiền" ấy mà chồng Tuyết đã bị cuốn theo những cuộc tình của cô. Rõ ràng,
vẻ đẹp cô ca ve đã mang hơi hướng của cuộc sống đô thị, là vẻ đẹp của cô gái
hiện đại (mặc váy ngắn, dùng nước hoa) chứ không còn là vẻ đẹp thôn nữ
giống như Huê và Cầm.
Vẻ đẹp người phụ nữ thật duyên dáng và ấn tượng. Dù trải qua thời
gian nhưng không thể phai mờ trong tiềm thức của mỗi chàng trai khi yêu -
ngay cả khi họ chết đi rồi. Đó là lời kể của (linh hồn) Hoàng về vẻ đẹp của
Ngần - người yêu của Quân "…Ngần mười bảy tuổi, học hết cấp hai ở nhà
giúp mẹ đồng áng. Ngần da trắng tóc dài, người nây nây, hai má lúc nào
cũng đỏ căng. Mắt đen lúng la lúng liếng…"[8, 84]. Có thể khẳng định vẻ đẹp
của người phụ nữ thôn quê là vẻ đẹp tự nhiên mà tạo hóa đã ban tặng cho họ.
Họ biết quý trọng vẻ đẹp trời phú ấy để rồi trong cuộc sống hiện đại, họ lại
biết làm đẹp hơn cho bản thân mình và cho xã hội.
Từ vẻ đẹp những cô thôn nữ đến vẻ đẹp những cô gái Hà Thành, Thùy
Dương có cách nhìn nhận thật tinh tế, sâu sắc khiến vẻ đẹp ấy không thể lẫn
với bất cứ người con gái nào. Trong Thức giấc, hình ảnh bà nội Yên Thao
được miêu tả là một người biết quý trọng vẻ đẹp phụ nữ, biết gìn giữ cho vẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đẹp để nó trở nên sang trọng, quý phái "Ai cũng bảo bà tôi đẹp, dáng cao
43
sang quý phái. Tôi thấy điều ấy thật đúng. Ở bà cái gì cũng ưa nhìn. Nước da,
đôi mắt, cái mũi, dáng người và đến cái cách bà đưa tay lên vén tóc hay
quàng khăn…. Bà thì ngoài năm mươi tuổi rồi, ra đường dù quần áo chẳng
có gì đặc biệt nhưng khoác lên người bà chúng lại có vẻ gì đó khác hẳn
những người khác, khiến cho khối người đi ngang cũng phải dừng mắt nhìn"
[7,12]. Vẻ đẹp bà nội Yên Thao là vẻ đẹp của con người được hưởng cuộc
sống giàu sang phú quý. Mặc dù bà đã có tuổi nhưng dáng vẻ, cách ăn mặc,
cử chỉ… thì không phải ai cũng làm được như bà. Mẹ Yên Thao (con dâu bà)
cũng nhận thấy mẹ chồng mình "bà nội bọn trẻ - trong nhà túng chết đi được-
vậy mà ra ngoài vẫn thong dong, chải chuốt như ai" [7, 8]. Cái nghèo, cái đói
không làm người phụ nữ xấu đi, mà trái lại càng tôn thêm vẻ đẹp hình dáng
cũng như tâm hồn của họ. Dù trong hoàn cảnh nào họ cũng luôn giữ được vẻ
đẹp của mình. Vẻ đẹp hình thể người phụ nữ còn được Thùy Dương nhìn
nhận qua sự chăm sóc chồng con. Đó là những người với dáng vẻ "thắt đáy
lưng ong". Trong Nhân gian, khi Thảo xuống thăm con trai ở Hà Nội, lần đầu
nhìn thấy Kỳ Thanh cũng nhận thấy vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ "Ngực
nây nẩy dáng óng ả thắt đáy lưng ong, cái gì ra cái đấy. Người thế chắc vừa
khéo chiều chồng lại khéo nuôi con" và trang phục của cô ấy là "váy đen, áo
đen, một chiếc khăn bông bay rực rỡ (theo cách gọi ngày xưa) quàng hờ hững,
nhưng mà thật là ấn tượng, hút ngay ánh mắt người ta" [8, 41]. Ở Kỳ Thanh
là vẻ đẹp một người phụ nữ vừa truyền thống vừa hiện đại. Vẻ đẹp truyền
thống thể hiện trong cách chăm sóc gia đình và hiện đại trong cách ăn mặc,
trong cách nhìn nhận, suy nghĩ. Vì vậy mà cậu em trai của Yên Thao phải thốt
lên "Người đâu mà đẹp thế, trắng thế. Giọng Hà Nội nghe hay quá…là con
gái Hà thành không trộn lẫn vào đâu được" [7, 134].
Tóm lại, vẻ đẹp hình thức là vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Tuy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác giả không tả chi tiết nhưng mỗi nhân vật phụ nữ hiện lên rất nhiều gợi cảm.
44
Mỗi người mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại
hình riêng biệt, tất cả đều khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp thân thể của người
phụ nữ. Dù là người phụ nữ thôn quê hay người phụ nữ Hà Thành, họ luôn
xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và rất mực quan tâm đến mọi người.
Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp từ ngoại hình đến phẩm chất, tính cách. Họ tiêu biểu
cho những người phụ nữ Việt Nam từ xa xưa đến hiện tại.
2.2.2. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất
Viết về những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, ta bắt
gặp hình ảnh người phụ nữ với truyền thống giàu đức hi sinh, yêu chồng,
thương con, đảm đang, tháo vát…Thùy Dương có cái nhìn xuyên suốt hình
ảnh người phụ nữ từ truyền thống đến hiện đại. Nhân vật nữ trong sáng tác
của chị vừa gẫn gũi với cuộc sống đời thường vừa nhân hậu, cao quý trong
cuộc sống mới hôm nay. Nhân vật nữ của chị khi là một người phụ nữ nông
dân thuần phác, khi lại là một người có học vấn cao, khi lại là một người phụ
nữ kinh doanh giỏi… Dù họ là ai và làm nghề gì thì bản thân họ luôn biết đặt
hạnh phúc gia đình lên trên tất cả và biết vượt lên hoàn cảnh sống éo le.
Người phụ nữ với tấm lòng thủy chung, son sắt, yêu chồng, thương
con là nét nổi bật trong sáng tác của Thùy Dương khi viết về hình tượng các
nhân vật nữ. Trong Thức giấc, hình ảnh một người mẹ sống một mình nuôi
con, chỉ mong sao con mình khôn lớn và cảm thấy không hổ thẹn với cha nó.
Đó là hình tượng nhân vật người mẹ anh Cả. Bà là một người mẹ nông dân
thuần phác, đôn hậu, rất mực yêu chồng, thương con. Chẳng vậy mà khi Yên
Thao biết chồng mình có người khác, trong đau khổ và tuyệt vọng, cô đã cùng
anh cả về quê thăm bà. Bà đã giúp Yên Thao nhìn nhận cuộc sống với nhiều
hy vọng để cô vượt qua lúc đau buồn này. Cả cuộc đời của bà sống vì chồng
"không muốn làm ảnh hưởng đến danh tiếng ông ấy" [7, 247] và sống với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
niềm tin "U chẳng lấy ai chỉ để chờ một ông già về nói với u mấy câu thông
45
cảm!" [7, 246] nên Yên Thao càng cảm phục và trân trọng người mẹ này. Với
bà "một ngày tựa mạn thuyền rồng còn hơn chín kiếp nằm trong thuyền chài"
[7, 246]. Tất cả tình cảm, cuộc sống của bà khiến Yên Thao xúc động "Tôi
khóc vì bà, vì tôi hay vì tất cả những mối tình lỡ dở" [7, 247]. Hay trong Nhân
gian, hình ảnh người mẹ của liệt sỹ Hoàng là một người hết lòng vì con cái.
Khi Hoàng đã hy sinh cũng là lúc đau thương lớn nhất đối với bà. Lúc người
ta đọc giấy báo tử mà bà vẫn khẳng định "Các ông các bà nhầm rồi. Con tôi
còn sống. Rồi nó sẽ về…". [8, 33]. Hơn hai mươi năm trôi đi, người mẹ già
"vẫn không tin tôi đã chết, vẫn mong cái ngày tôi quay về" [8, 33] ngóng đợi
tin con. Nỗi đau mất con của người mẹ khiến (linh hồn) Hoàng rõi theo và
cảm nhận được "Đêm đêm về sáng bà mới khóc thầm, ruột như đứt ra từng
khúc" [8, 33]. Tình thương con của bà là vô bờ, là cả cuộc đời dành cho con
ngay cả khi đứa con ấy không còn nữa "U chẳng biết ở được bao năm nữa,
canh cánh mỗi việc này thôi" [8, 143]. Đó là việc anh trai Hoàng đang đi tìm
mộ của Hoàng. Người mẹ hy vọng sẽ tìm được mộ của con để khi về nơi chín
suối bà mới được thanh thản. Trong Chân trần, hình ảnh cụ Ca – một người
mẹ, người vợ trong một gia đình danh tiếng thời phong kiến đã xót thương
những đứa con riêng của chồng mình khi chúng bị bà cả cho làm con nuôi.
Mặc dù không phải con của mình nhưng cụ nghĩ “Không rứt ruột đẻ ra chúng
nó nhưng khác chi con ruột, có chăng tình cảm sớt đi một chút thôi. Dòng
máu của ông ấy, dòng tộc nhà này…” [9, 55]. Vì tình thương, tình máu mủ,
cụ đã tìm mọi cách để chuộc lại hai đứa con riêng mà trước đây chúng đã bị
cho một gia đình nông dân làm con nuôi. Có thể thấy tình cảm của cụ dành
cho hai đứa trẻ (Huệ, Huy – con bà hai) là tình cảm thương yêu của người mẹ
dành cho con mình chứ không phải thứ tình cảm mà xã hội vẫn nghĩ là “dì
ghẻ con chồng”.
Trong chiến tranh, cùng nỗi đau mất con là nỗi đau mất chồng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người phụ nữ. Người vợ anh lính ngụy trong Nhân gian cũng vậy. Là một phụ
46
nữ thôn quê, chồng chết vì chiến tranh, chị tần tảo gánh đồ khô góc chợ nuôi
con với mẹ chồng già yếu. Có rất nhiều người làm mối cho chị đi bước nữa
nhưng chị không nghĩ đến bởi "lấy chồng mới rồi, cái việc bình thường hóa
ra khó khăn cản trở thì sao"[8, 189]. Chị ở vậy nuôi con với ước muốn "mong
con lớn gom góp được chút vốn làm lộ phí đi tìm nắm xương của chồng" [8,
189]. Với chị, tình yêu thương chồng con là trên hết, sẵn sàng hy sinh bản
thân vì gia đình. Ở chị toát lên tấm lòng son sắt, thủy chung của người phụ nữ
trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Bên cạnh tấm lòng thủy chung, son sắt, hết lòng vì chồng con, người
phụ nữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương còn được biết đến với Sự đảm
đang, tháo vát, nghị lực phi thường vượt lên hoàn cảnh và số phận. Trở đi
trở lại trong sáng tác của chị là hình ảnh những thân phận đàn bà không nghề
nghiệp nghèo túng, bất hạnh; những người công chức nhà nước phải bươn trải
để có công việc ổn định và những người rất giỏi kinh doanh …nhưng không
mấy khi, ta thấy họ gục ngã và đầu hàng số phận. Từ một bà mẹ nghèo nuôi
bảy đứa con (gia đình bà Thơm trong Ngụ cư) đến cô gái trẻ (Yên Thao trong
Thức giấc), tất cả họ đều vượt lên chính mình và vững tin vào tương lai tươi
sáng. Hình ảnh người mẹ tần tảo nhọc nhằn cơm cháo nuôi con là bà Thơm
[Ngụ cư]. Chồng mất sớm, một mình bà với ba cậu con trai, bốn cô con gái.
Khi con cái lớn tưởng lúc ấy bà được nghỉ ngơi, nhưng bà vẫn bươn trải, tự
mình lo cho cuộc sống. Công việc hằng ngày của bà là gánh quà rong bán
ngay đầu ngõ: sáng cháo, chiều khoai sắn. Là thứ quà quê nhưng cũng đắt
hàng. Có người còn nói "già rồi còn phải nai lưng làm nuôi con nuôi cháu" [6,
67], thực tế vì cậu út có tính đơ đơ, bà thương con nên vẫn làm lụng, chăm
chút cho con. Người con cả của bà không muốn bà làm công việc tầm thường
ấy vì nó "xấu hổ" cho anh. Nhưng chính vợ anh cũng thấy "Buôn thúng bán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mẹt thì có gì xấu mà phải sĩ diện"[6, 69]. Bà bỏ qua mọi lời của con cái và
47
những người xung quanh, vẫn tần tảo sớm hôm với gánh hàng của mình. Các
con bà đâu biết rằng, chính gánh hàng của bà mà chúng mới được khôn lớn
như ngày hôm nay. Đến Thức giấc, hình ảnh cô gái trẻ Yên Thao phấn đấu
trên con đường sự nghiệp của mình cũng là nhờ có bà nội - một người nề nếp,
gia phong, biết lo toan cho cuộc sống của gia đình. Với bà "Đời nào chẳng
thế. Việc to việc lớn, bà không lo thì ai lo. Lo hết đời bố mẹ chúng mày, đời
chúng mày rồi đến đời con cháu, chút chít chúng mày chứ..." [7, 68]. Bà
không chỉ lo cho miếng cơm manh áo hằng ngày mà còn lo những công việc
trọng đại như: việc bà quan hệ với người có quyền lực để có cơ hội cho Yên
Thao vào học trường nào, chu cất mọi việc trong đám tang của cậu em đến
việc lo duy trì nòi giống cho dòng tộc… Cùng với sự chu đáo ấy, bà là một
người đầy bản lĩnh và nghị lực. Sống trong thời bao cấp, gia đình khó khăn bà
làm mọi việc để con cháu đỡ khổ. Bà đi buôn từ những cân thịt theo tem
phiếu, nuôi lợn để cải thiện cuộc sống, rồi mở lò làm bánh quy, vừa có thu
nhập lại tạo được công ăn việc làm cho những người họ hàng ở quê. Đặc biệt,
những việc làm của bà đều gom được những "mụn vá" trong chiếc áo bông
mà sau này khi cần tiền, chính những "mụn vá - những chiếc nhẫn vàng" đã
giúp cả gia đình qua đợt khó khăn. Đến khi bà có tuổi, bà bị tai biến nhưng
vẫn không chịu ngồi yên. Bà mở quán nước đế có thêm đồng ra đồng vào phụ
giúp con cháu. Thành công trên con đường sự nghiệp của Yên Thao chính là
nhờ có một người bà, người mẹ như vậy, Tình cảm dành cho bà được Yên
Thao nhắc đến với niềm tự hào "Mẹ tao thương tao đơn thuần như mọi bà mẹ
khác. Còn bà - như một người mẹ đặc biệt" [7, 65].
Kế tiếp truyền thống của bà nội, Yên Thao - một cô gái trẻ đã biết trang
bị cho mình những kiến thức cơ bản học được từ chính người bà. Ngay từ lúc
còn là một đứa trẻ, cô đã theo bà đi buôn; đến khi bà mở lò bánh, chính Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thao làm kế toán cho bà. Điều này khiến cô không chỉ thành đạt trong công
48
việc mà còn rất giỏi kinh doanh. Khi Yên Thao học đại học, cuộc sống sinh
viên khó khăn, Yên Thao cùng bạn mình là Thu Ba đã biết buôn hàng ngoại
từ Hải Phòng về Hà Nội bán. Chẳng biết từ khi nào, cô thấy mình cứ xoáy
theo vòng xoáy của thị trường. Cô thích ngắm những ngôi nhà đẹp, thích thiết
kế cho nó những không gian bắt mắt. Vì điều này, Yên Thao đã làm “môi
giới” bất động sản. Khi thì cô mua được mảnh đất đẹp rồi lại bán, miễn là có
lãi. Khi thì cô lại mua đất và nhờ cậu xây cho những ngôi nhà đẹp, ai thích cô
cũng bán. Cứ như vậy, từ mảnh đất này đến ngôi nhà khác không biết bao lần
cô mua rồi lại chuyển nhượng. Năm hai mươi bảy tuổi, Yên Thao đã có một
gia tài trong tay (có nhà, có công việc ổn định và thành lập công ty riêng tại
Hà Nội). Từ một cô sinh viên còn chưa quen đất Hà Nội, Yên Thao đã vượt
lên hoàn cảnh cá nhân để tạo dựng cho mình một cuộc sống đầy đủ và ổn định.
Yên Thao là điển hình cho tuýp người phụ nữ đảm đang, tháo vát, có năng lực
và có ý chí vượt lên hoàn cảnh, vượt lên số phận. Chính niềm tin, nghị lực đã
giúp Yên Thao và nhiều người phụ nữ khác đững vững được trong cuộc đời
đầy sóng gió và thử thách này.
Là hình tượng trung tâm, xuyên suốt quá trình sáng tác, người phụ nữ
trong tiểu thuyết của Thùy Dương hiện lên thật toàn diện, sâu sắc từ vẻ đẹp
hình thể đến tính cách, tâm hồn. Thế giới phụ nữ trong trang viết của chị có
đủ các kiểu người vừa phong phú vừa bí ẩn. Mỗi người là một hoàn cảnh, một
số phận với những mâu thuẫn về nội tâm và tiềm thức. Song vượt lên trên hết
là những chân dung phụ nữ đời thường mà sống động. Ở họ là sự tiếp nối từ
truyền thống đến hiện đại, tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
với các chuẩn mực công, dung, ngôn, hạnh phù hợp trong thời đại mới.
2.3. Vấn đề giới với khát vọng của ngƣời phụ nữ
2.3.1. Khát vọng hạnh phúc
Trong các tiểu thuyết của Thùy Dương, người đọc dễ nhận ra một nỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
niềm trăn trở, một khát vọng thường trực trong mỗi nhân vật của chị. Đó là
49
khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ. Hạnh phúc trong con mắt của Thùy
Dương giống như lời của một nhà văn nào đó "Hạnh phúc như một cái chăn
hẹp - người này kéo thì kẻ khác hở" [8, 95]. Quan niệm ấy thật nhỏ bé và có gì
đó ích kỷ. Trong cuộc sống, Thùy Dương đã nhìn thấy hạnh phúc hiếm khi
được viên mãn, tròn đầy. Bởi lẽ, niềm vui của người này sẽ là khổ đau của
người khác "con người là tập hợp của những nghịch lý. Ai cũng mong muốn
sống tốt đẹp yên bình" [6, 76]. Hơn thế, họ là người hiểu hơn ai hết bản chất
của tình yêu: hạnh phúc đấy nhưng cũng cay đắng ấy. Vậy mà chẳng ai từ
chối được tình yêu và cuộc sống hôn nhân.
Tình yêu là cứu cánh có thể đưa người ta ra khỏi khổ đau, cũng có thể
dìm người ta trong đáy sâu của tuyệt vọng. Bà nội Yên Thao đã từng dặn cháu
gái mình "Đàn bà hay lụy tình lắm…Đừng có bao giờ đặt hết lòng tin vào một
ai đó thì sẽ khỏi phải thất vọng" [7, 69]. Nhiều lúc, người đàn bà rơi vào thực
tế đáng thương "Đàn bà nhẹ dạ, cứ tưởng đàn ông nó mê mình vì cái dáng vẻ
bên ngoài" [6, 31] khi luôn phải chạy theo, đuổi theo tình yêu tuyệt vọng. Tác
giả còn lý giải sâu sắc hơn khi nói về sự tan vỡ của tình yêu "Vấp phải đời
thường con thuyền tình vỡ tan" [6, 50]. Sự tan vỡ ấy xảy ra vì nhiều lẽ: có khi
đổ tội cho chính tình yêu "khi người ta hết yêu nếu buộc phải sống bên nhau
sẽ kinh khủng thế nào" [6, 72], có khi lại vịn cớ vào thời gian xa cách "thời
gian và sự xa cách có sức phá hủy ghê gớm" [7, 121]. Nhưng dù thế nào, tình
yêu cũng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người. Để
có được hạnh phúc trong tình yêu, con người phải trải qua rất nhiều khó khăn ,
thậm chí còn cay đắng nữa. Chính vì vậy, khi tình yêu không còn cũng là lúc
con người cảm thấy đau đớn, tuyệt vọng và khát vọng mãnh liệt để được yêu
và được sống cho tình yêu ấy. Nhân vật cô gái trẻ trong Nhân gian là một
người như vậy. Khi cô đã hiểu thế nào là tình yêu đích thực, hạnh phúc đích
thực thì cô quyết định xa gia đình để sống với người mình yêu. Cô đã vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nam sống với niềm hạnh phúc mà cô từng mong đợi.
50
Trong tiểu thuyết của Thùy Dương, bên cạnh khát vọng hạnh phúc
trong tình yêu, ta còn thấy cả khát vọng trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
Bất cứ một người phụ nữ nào khi có gia đình, họ không mong gì hơn là được
sống đầm ấm trong chính gia đình của mình. Vậy mà, những thân phận đàn bà
trong tiểu thuyết của Thùy Dương lại luôn nhận về mình những thiệt thòi để
giữ hạnh phúc gia đình. Thiệt thòi của họ đến từ nhiều phía. Khi dành hết tình
yêu cho một người nào đó, họ cũng không tránh khỏi bất hạnh "khi yêu người
ta thường cực đoan. Đặc biệt là đàn bà" [6, 109]; có khi một người phụ nữ
giỏi giang cũng gặp bất trắc trong cuộc sống hôn nhân "đàn bà giỏi giang quá
làm tranh phần đàn ông rồi thì khổ" [7, 179] và "đàn bà mà kiếm tiền giỏi
hơn chồng thì không còn sự tôn trọng cần thiết nữa" [6, 117]. Nhưng trên hết,
cuộc sống hôn nhân bị đe dọa từ nhiều phía, nào là bồ bịch "bây giờ bồ bịch
như bệnh dịch, lây lan khắp nơi mà người ta cũng chẳng sợ" [6, 112], nào là
cạm bẫy xung quanh "người ta thả lỏng cho thú tính chạy rông khắp nơi…Sự
bầy đàn trong cả những phần tăm tối xấu xa của con người" [8, 239], thậm
chí chấp nhận “đằng nào thì cũng chịu cảnh chồng chung rồi” [9, 36]… Tình
yêu và hôn nhân được xây dựng bằng sự gắn kết của hai người, nhưng khi sự
gắn kết ấy bị chi phối bởi quyền lực, tiền bạc, dục vọng hay những thứ khác
thì không sớm thì muộn cũng dẫn đến sự tan vỡ, chia lìa. Bởi vậy, khát vọng
hạnh phúc trong tình yêu, trong hôn nhân là điều gần gũi, thiết thực với cuộc
đời mỗi con người. Đây cũng là nỗi trăn trở của tác giả về nhân thế, về xã hội
ngày càng giàu có về vật chất nhưng lại nghèo nàn về nhân cách, đạo đức.
Điều này khiến cho tiểu thuyết của Thùy Dương càng thêm sâu sắc và thấm
đượm tính nhân văn..
2.3.2. Khát vọng bình đẳng giới
* Tình dục như một phương diện khẳng định sự bình đẳng giới
Tập trung vào hình tượng người phụ nữ và hướng nhiều về vấn đề giới,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hầu hết các cây bút nữ đều đều dũng cảm xông vào "lãnh địa" vốn trước đây
51
bị coi là cấm kỵ: vấn đề tình dục. Họ cho rằng từ khát vọng mạnh mẽ trong
tình yêu và hôn nhân, thì người phụ nữ hiện đại hướng đến tự do và chủ động
trong đời sống tình dục. Họ coi đây là lĩnh vực thể hiện sự vươn dậy mạnh mẽ
nhất của giới nữ trên con đường đấu tranh cho bình đẳng và quyền sống của
một nửa nhân loại. Trong dòng chảy ấy, Thùy Dương là một trong những
người tiên phong đề cập tới khía cạnh nhu cầu bản năng của người phụ nữ
trong văn học sau đổi mới từ những truyện ngắn như Cô tôi, Trinh nữ, Cưới
đêm… Với chị "không có gì của con người xa lạ với văn chương. Bởi thế, sex
là nhu cầu tự thân của văn học" [48]. Trong mỗi người phụ nữ, đằng sau vẻ
dịu dàng thâm trầm hay mạnh mẽ quyết liệt hoặc năng động hiện đại là những
khát khao, ham muốn tình dục hết sức bản năng và chính đáng. Bởi họ cũng
là con người với sinh lý tự nhiên như bao người khác. Ở Ngụ cư, nhân vật tôi
đã ý thức được nhu cầu và ham muốn của mình "tôi biết rằng tôi không phải
là một người đàn bà lãnh cảm…tôi thèm muốn đến độ run rẩy, đến gai hết cả
người. Ngực tôi cương lên. Rồi người ấy đi vào tôi. Tôi được buông thả, được
nếm trải đủ đầy đến kiệt lực rã rời…" [6, 103]. Nhân vật tôi đã dũng cảm
nhìn thẳng vào tâm hồn mình ở góc sâu kín nhất, nói lên những khao khát
chân thành nhất từ đáy lòng mình - điều mà hiếm khi nào người phụ nữ lại
dám bộc bạch ra. Đến Thức giấc, nhân vật Yên Thao khẳng định sex là một
phần không thể thiếu trong cuộc sống muôn điệu của cô. Những gì không thể
diễn tả bằng lời được Yên Thao thể hiện trong ham muốn nhục cảm của mình
thật mãnh liệt. Chính cô thừa nhận "Chỉ có anh mới làm tôi thỏa mãn và nhận
ra một điều - hình như có những khi ý nghĩa của cuộc sống là thế này! Có thể
là đốn mạt - nhưng quả thực lúc đó - ý nghĩa rõ ràng nhất của cuộc sống là
thế!" [7, 321]. Còn với nhân vật cô gái trẻ trong Nhân gian, sex là sự thăng
hoa của tình yêu nồng cháy. Tự cô suy nghĩ "yêu hết mình, không có gì gìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giữ" [8, 184] và đón nhận sex hết sức tự nhiên như cuộc sống vốn thế. Có lẽ
52
vì thế mà cô có được tận hưởng trọn vẹn "cảm nhận được ranh giới của thiên
đường, thêm một lần được trọn vẹn sống trong cơ thể cũng như linh hồn
người con trai tôi yêu" [8, 186]. Với mỗi người phụ nữ, sex mang một ý nghĩa
riêng, nhưng điều đó là ý thức sống cho mình, sống vì mình của họ. Họ không
cần phải giữ cái vỏ bọc đoan trang, đức hạnh để có thể sống thật với chính
mình, vì cá nhân mình.
Cùng viết về tình dục, nếu như “văn Y Ban tràn ngập yếu tố sex, thẳng
thừng và bạo liệt” [18] thì cách viết về tình dục trong tiểu thuyết của Thùy
Dương lại rất khác. Từ việc miêu tả tình dục một cách tự nhiên như phần tất yếu
của cuộc sống, nhà văn viết về tình dục một cách dịu dàng mà mãnh liệt, đằm
thắm mà táo bạo đòi hỏi chủ động được yêu, được chiếm lĩnh, được tôn trọng.
Nhân vật cô gái trong Nhân gian đã khao khát được yêu, tự ý thức để
đến với tình yêu "Đến với em đi, không thể chờ đợi hơn được nữa", rồi chủ
động để được chiếm lĩnh tình yêu ấy "Tôi lật người, tự động giang hai chân
và kéo ghì anh xuống. Rush như nuốt lấy tôi. Bắt đầu chầm chậm sau nhanh
dần mạnh dần, thật mạnh rồi nuốt gọn. Mồ hôi từ tôi, từ anh toát ra đầm đìa.
Lá sen, cánh sen, nhị sen, tất cả tứ tung, tơi bời. Nhưng tất cả dường như
không còn tồn tại. Chỉ có tôi và anh cùng nỗi hân hoan thống thiết được hòa
nhập tuyệt đối, được ở trong nhau, vào trong nhau thật sâu, thật say sưa và
cuồng loạn" [8, 185]. Tình yêu của cô gái [Nhân gian] giống như những con
sóng dào dạt nơi biển cả, hết đợt sóng này lại tiếp đợt sóng khác, liên tục, luân
hồi. Những cuộc ái ân trong trang viết của Thùy Dương cũng vậy, cứ khao
khát và cứ mãi dâng trào " Lưỡi anh sục tìm lưỡi tôi. Hai bầu vú tôi lại căng ứ
lên, đầu vú như chũm hoa thây lẩy. Phía dưới chưa kịp ngơi nghỉ đã căng
mọng ướt" [8, 185-186]. Còn với Yên Thao, cô khao khát được yêu, khao
khát được hòa chung nhịp đập với trái tim của người mình yêu " Khi bờ môi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
anh, khi hàm răng anh chạm vào núm thịt nhỏ nâu hồng thì tôi rùng mình.
53
Rùng mình từ đỉnh đầu tới gót, tới những tế bào nhỏ li ti trong sâu thẳm".
Tình yêu của cô lúc nào cũng phải viên mãn, phải đến đỉnh điểm, để rồi "Thốt
lên một tiếng rên khe khẽ. Hình như chính tiếng rên ấy đánh thức anh, kích
động anh. Hối hả và buông thả, anh để môi mình lướt xuống…Tôi vẫn nhắm
nghiền mắt. Vẫn cảm thấy thân mình chỗ nào đó căng ra, chỗ nào đó mềm
sũng xuống. Nước ở đâu đó tràn về. Như một con lạch nhỏ rậm rạp cỏ và ăm
ắp nước. Người tôi khẽ cong cứng lên khi anh chạm phải nơi ấy. Và không
sao kìm được, tiếng rên thổn thức ngạc nhiên bật ra từ tôi - từ một con thú cái
nhỏ. Sóng rội lên. Tôi được nâng cao lên, cao lên mãi" [7, 103]. Có thể thấy,
những cuộc ái ân như vậy là sự “thăng hoa” trong đời sống tình dục – điều mà
không phải cuộc ái ân nào cũng có được. Trong Xuân Từ Chiều của Y Ban, ta
thấy nhân vật Từ bày tỏ những băn khoăn và lý giải về vấn đề này: Tại sao có
nhiều người đàn bà “không bao giờ được thăng hoa, cả đời ngủ với chồng mà
không được sướng bao giờ. Như vậy cũng có nghĩa là, trong số chị em có
chồng, nhiều chị em chưa bao giờ chạm vào điểm G” [2, 242]. Vì suy nghĩ
như vậy, Từ đã có ý thức giải đáp cho mình và phụ nữ nói chung những “rắc
rối” ấy. Từ mạnh mẽ khẳng định: “chị em phụ nữ thay vì ngồi than thở…, hãy
tự biết cách khai mở mình đi” [2, 243] rồi chính Từ cũng tìm ra khớp N trên
cơ thể mình để đạt tới sự “sung sướng” khi quan hệ với chồng. Nếu Từ [Xuân
Từ Chiều] ý thức được như vậy thì Thảo [Nhân gian] cũng nhận ra sự cần
thiết của “cảm xúc tình dục” trong đời sống vợ chồng. Với Thảo, khát khao
được yêu, được chiếm lĩnh là hơn cả, thậm chí bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu,
ngay cả khi đang tắm: “Cái của đàn ông dựng đứng lên. Nếu hứng anh sẽ đẩy
cửa gọi. Tôi sẽ lột bỏ áo quần, trần truồng bước vào cùng anh. Bọt xà phòng
có tác dụng gây cảm giác khiêu khích. Đùa giỡn mơn man nhau chán, anh sẽ
xả nước. Thậm chí đúng lúc nước làm trôi trượt bọt xà phòng cái của anh sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đi vào tôi. Cứng như thép, nóng rẫy và ướt nhoẹt” [8, 15]. Và cô khẳng định:
54
“Trong những cuộc ấy, không nên chỉ đơn điệu một kiểu và mặc định ở một
chỗ. Không được để nó nhàm chán và tẻ nhạt” [8, 15]. Rõ ràng, không chỉ
nhân vật Từ [Xuân Từ Chiều], Yên Thao [Thức giấc] hay cô gái và Thảo
[Nhân gian] mới cảm nhận được sự sung sướng trong quan hệ tình dục, mà tất
cả phụ nữ để đạt được sự “thăng hoa” trong quan hệ tình dục, người phụ nữ
đã chủ động để được yêu, được chiếm lĩnh tình yêu ấy trong niềm hạnh phúc
viên mãn.
Cùng tận hưởng hương vị ngọt ngào của tình yêu, Thắm (bạn của Yên
Thao) - một cô gái là sinh viên đã kể lại mối tình của mình trong niềm hạnh
phúc của người đang yêu "Anh ấy cúi xuống, tao khẽ kiễng chân ngửa cổ. Một
cái gì ướt ướt mềm mềm đặt lên mũi, rồi lên má, rồi lên môi. Không dám cựa
mạnh - Một cánh tay đỡ gáy, nột cánh tay ôm ngang lưng, ghì chặt" [7, 57].
Nhân vật tôi trong Ngụ cư lại có niềm hạnh phúc của một người mới cưới:
"Vào đêm tân hôn anh hăm hở đè lên tôi, cuống cuồng đi vào trong tôi thật
sâu, thật sâu. Đau đớn khiến tôi trào nước mắt" [6, 42]. Đến Chân trần, nhân
vật cô gái lại khao khát được chồng mình yêu bằng cảm xúc mãnh liệt: “ Bàn
tay đàn ông cứng như thép và mát lạnh lùa vào giữa đống chăn áo, bóp vú và
quờ vào giữa hai đùi. Tôi cong người vờ phản ứng nhưng thực ra như mời gọi,
thách thức. Chồng tôi nghẹo đầu sang một bên. Gương mặt giãn đần ra, no
đủ, thỏa mãn” [9, 3]… Những cuộc ái ân như vậy, trong cách miêu tả của
Thùy Dương, chị không hề e ngại, giấu giếm vì vốn dĩ bản năng của người
phụ nữ là vậy. Chị chỉ muốn "nói hộ" những khát khao đích thực của con
người mà thiếu nó thì không còn là tình yêu, hạnh phúc nữa.
Trong cuộc sống vợ chồng, tình dục như một sợi dây gắn kết hai con
người với nhau. Sự gắn kết ấy luôn là bản năng, nhu cầu cần có trong quan hệ
chồng vợ. Vậy mà, có những cuộc ái ân vợ chồng, người phụ nữ lại cảm thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đó là một sự ép buộc, vì sự “thô lỗ” của chính chồng mình. Nhân vật Thúy
55
trong Thức giấc cảm thấy ghê sợ chính người chồng của mình khi yêu một
cách thô bạo: "Chẳng nói chẳng rằng, hắn vùng dậy, lột tuột cái quần hoa
Thúy đang mặc vứt xuống đất, giật tung cái áo mỏng rồi cứ thế kéo dạng
chân Thúy, giúi cái của hắn vào thật sâu" và "Thúy vùng lên không chịu. Hắn
đang cơn, giập Thúy xuống giường, mồm cắn vào cổ Thúy rồi rên lên ư
ử…Hắn đè chặt hai tay Thúy, giập thêm mấy cái nữa rồi mới vật sang một
bên. Ngủ." [7, 118]. Những cuộc ái ân như vậy không còn là hạnh phúc nữa
mà nó là "nhục dục", là sự bất hạnh của phụ nữ khi có lão chồng vũ phu, thô
thiển. Trong Nhân gian, nhân vật Khắc thương cho người vợ của mình, đi
bước nữa mà không được hạnh phúc "Đêm cô ấy đi lấy chồng, cái thằng đốn
mạt lột phắt quần vứt vào xó giường, kéo dạng hai chân cô ấy ra rồi hùng hục
đẩy cái của hắn vào. Chẳng khác gì trâu húc mả! Rồi hắn vật ra ngủ, đầu
ngoẹo về một bên, ngáy như có cục gì chẹn cổ.Cô ấy ngửa mặt lên đình màn,
hai mắt mở chong chong. Nước rịn ở cả hai kẽ mắt…" [8, 137]. Sự thụ động
trong quan hệ tình dục đã không mang lại khoái cảm cho người phụ nữ. Như
nhân vật Thúy [Thức giấc] và người vợ Khắc [Nhân gian] “lên giường với
chồng” chỉ để “thực hiện nhiệm vụ” cho xong chứ đâu có xúc cảm gì, thậm
chí “cắn răng chịu sự nhẫn nhục” mặc cho chồng dày vò tấm thân mình mà
không có sự hợp tác. Đó là sự đau khổ, bất hạnh cho những người phụ nữ
cũng là vợ mà chưa bao giờ biết đến sự sung sướng, hạnh phúc trong quan hệ
chồng vợ là gì. Không thấy hạnh phúc, không thấy niềm vui khi biết chồng
mình không chỉ duy nhất là của mình. Đây là sự phản bội trong quan hệ vợ
chồng. Chồng của Mùi là một người như vậy. Khi Mùi đi làm xa, chồng của
chị ở nhà đi cặp bồ. Biết sự việc ấy, Mùi rất bực tức đã nói ra một câu rất
"thô" nhưng đó lại là sự thật cho những ông chồng không chung thủy "Cu của
thằng đàn ông như cây gậy của thằng ăn mày, gặp đâu nó cũng chọc, trúng
đâu thì trúng" [7, 251]. Còn với Thu Ba, cô biết được công việc của chồng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những lúc căng thẳng thì người chồng không có tâm trí nào để hạnh phúc, ái
56
ân bên vợ được "Dạo này lo nghĩ quá lão ấy sì-trét. Tịt luôn. Không sao mà
dựng lên được. Quấy quá cho xong chả bõ gãi ngứa. Khác gì đuôi chuột
ngoáy lọ mỡ. Thà nhịn luôn. Đỡ tức" [7, 269]. Thu Ba có vẻ cảm thông nhưng
cũng thấy trong lòng không được thoải mái. Song vì hạnh phúc gia đình, vì sự
thấu hiểu của người vợ, những lúc thế này, người đàn ông cũng cần được sự
chia sẻ và cảm thông từ chính người bạn đời của mình.
Có thể thấy, vấn đề "tình dục" trong sáng tác của Thùy Dương hết sức
đa dạng và mang nhiều ý nghĩa. Vấn đề ấy được đề cập ở nhiều góc cạnh khác
nhau: tình dục như một nhu cầu tự do, khát khao được chiếm lĩnh, được dâng
hiến; tình dục như muôn vàn nỗi khổ đau và nhẫn nhục… Tất cả đều thể hiện
sự trăn trở, suy tư của nhà văn trong việc đi đến một sự giải phóng tình dục,
giải phóng cái tôi cá nhân để đạt đến hạnh phúc tròn đầy trong cuộc sống hiện
tại của người phụ nữ.
* Khẳng định vị thế, tài năng của người phụ nữ
Xuất phát từ vấn đề giới và khẳng định vai trò của giới, Thùy Dương
luôn chú ý đến tài năng và trí tuệ của người phụ nữ trong sáng tác của mình.
Trong mỗi tiểu thuyết của chị, hình ảnh người phụ nữ truyền thống hay hiện
đại thì họ vẫn có một vai trò nhất định với một tài năng thiên bẩm trong cuộc
sống gia đình cũng như ngoài xã hội.
Trước tiên, với tư cách là một người phụ nữ của gia đình, các nhân vật
nữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương luôn thấy mình phải gánh trọng trách
lớn lao bởi bổn phận của một người mẹ, người vợ trong cuộc sống của gia
đình mình. Họ phải có trách nhiệm nuôi dạy con cái nên người. Bà nội của
Yên Thao là một phụ nữ như vậy. Cách giáo dục con của bà đã cho thấy đây
là sức vóc của người đàn ông chứ không phải là phụ nữ nữa. Bà dạy con trai
mình "Giống nòi nhà anh trông vào mấy chục lương cán bộ của anh hẳn? Tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tính kỹ rồi. Anh chị cứ lo phần phấn đấu. Tôi lo việc tôi - Việc ai người ấy
57
làm. Đừng có lệ thuộc quá mà hỏng việc. Quân tử muốn thành công phải biết
nhịn nhục…" [7, 35]. Với cô cháu gái Yên Thao, cô đang ở tuổi ăn tuổi lớn,
bà bảo cô phải biết giữ gìn sức vóc, phẩm hạnh của người phụ nữ. Bà bảo:
"Đàn bà phải đỏ da thắm thịt. Sau này còn có sức vóc truyền cho con…Các
cụ nói cấm có sai bao giờ - lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Giống má
không tốt lấy đâu ra cây khỏe quả chắc" [7, 67- 68]. Người mẹ có vai trò đặc
biệt trong việc giáo dục đối với con mình. Các cụ xưa vẫn có câu "con hư tại
mẹ, cháu hư tại bà". Nói vậy không có nghĩa phủ nhận vai trò giáo dục của
người cha, nhưng phần lớn là con cái gần gũi với người mẹ. Bởi vậy sự ảnh
hưởng của người mẹ là vô cùng quan trọng. Con có thành tài, có nên người
hay không phần nhiều là do sự giáo dục của người mẹ. Khẳng định điều đó,
nhà văn đã để hình tượng nhân vật bà nội Yên Thao nói thay lời của mình:
"Phúc đức tại mẫu. Người mẹ là quan trọng lắm. Phúc lớn đức dày hay thế
nào đều từ người mẹ mà ra cả" [7, 68]. Trong Thức giấc, người vợ anh Cả
cũng từng nói với Yên Thao " Phúc đức tại mẫu. Phải thế nào thì chồng con
mới được nhờ chứ" [7, 172]. Khi Yên Thao rơi vào nỗi đau của hạnh phúc gia
đình, chồng cô vào sống ở trong Nam. Lúc này chỉ có cô với đứa con gái, cô
nhận thấy sự cần thiết của con cô phải có cả cha lẫn mẹ nhưng người mẹ là
quan trọng "Em vẫn nói rằng quan trọng là người mẹ kia mà - Người mẹ sẽ
truyền dạy cho con những gốc gác tổ tiên…" [7, 336]. Như vậy, con cái chịu
sự ảnh hưởng rất lớn của người mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục chúng nên
người. Ở thời nào cũng vậy, vai trò của người mẹ là quan trọng, cần thiết
trong cuộc sống của mỗi gia đình.
Cùng với trọng trách nuôi dạy con cái, người phụ nữ còn có vai trò duy
trì nòi giống, lo sự kế tục dòng dõi cho gia đình, tổ tiên. Trọng trách này thật
cao cả, vĩ đại và không đơn giản chút nào. Bà của Yên Thao là người phụ nữ
làm được những công việc to lớn này, thậm chí làm rất giỏi. Điều này được cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cháu gái Yên Thao cảm nhận "Bà không chỉ giống các bà nội ngoại khác - lo
58
từng li từng tí, từng miếng ăn miếng uống cho con cháu - mà còn lo công ăn
việc làm và cả những chuyện trọng đại như nòi giống - Những việc thường là
của đàn ông" [7, 69] và bà dặn "...Đàn bà phải lo lấy nghiệp nhà, lo truyền
đời con ạ" [7, 68]. Thùy Dương đã để cho hình tượng nhân vật nữ của mình
hiện lên rất sinh động, tài năng cùng với trách nhiệm lớn lao nhưng thật vẻ
vang. Tất cả những công việc trọng đại ấy nó không hề khó khăn gì với bản
năng và nghị lực phi thường của người phụ nữ. Họ đã làm rất tốt và được mọi
người cảm phục, trân trọng. Sống có trách nhiệm với gia đình và những người
thân, bà nội Yên Thao còn giỏi giang với những công to việc lớn của gia đình,
dòng tộc. Khi nghe tin em trai của mình mất, bà giấu đi niềm đau xót, đứng ra
chu cất mọi công việc của gia đình "Nỗi đau xót được bà giấu xuống đáy lòng
từ bao giờ. Bà - bỗng chốc như người chỉ huy, đứng ra cắt đặt mọi việc" và ai
cũng nhận thấy "Từ khi có bà em gái về đứng ra lo toan, ông trưởng, bỗng
chốc già sụm xuống, cứ ngồi một chỗ khóc thút thít như một đứa trẻ" [7, 82].
Một người phụ nữ như bà thật mẫu mực, vẹn toàn. Lúc còn sống, người em
ruột của bà cũng dành sự kính phục của mình cho chị "Bà nội cháu là người
đáng kính trọng. Trong đời ông chưa từng thấy người phụ nữ nào can đảm như
chị ấy. Chị ấy thương ông như mẹ thương con vậy. Nhưng chị ấy còn đặt bổn
phận lên trên. Ông xấu hổ vì chưa làm được như chị ấy bao giờ" [7, 79].
Người phụ nữ truyền thống đã vậy, người phụ nữ trong xã hội hiện đại
càng phải biết khéo léo và giỏi kinh doanh hơn. Đó là những biệt tài của mỗi
người phụ nữ trên con đường mưu sinh của mình. Sự khéo léo ở đây được thể
hiện trong mọi lĩnh vực. Trước hết là sự cảm nhận của nhân vật cô gái – một
nữ nhà báo trong Chân trần khi nói về sự khéo léo trong nghề truyền thống
của một vùng quê “con gái đằng ấy khéo léo dịu dàng có tiếng. Chẳng đua
chen kèn cựa với ai chỉ giỏi nấu nướng, may vá thêu thùa. Họ cứ như những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người phụ nữ rơi rớt từ thế kỷ trước lại” [9, 120]. Đây chính là sự khéo léo
59
trong cách may vá, thêu thùa của những người làm nghề Thêu – một nghề
truyền thống được các cô gái yêu thích. Cùng với sự khéo léo trong công việc
là sự khéo léo trong cuộc sống gia đình. Sống trong xã hội cũ nhưng cách
nhìn nhận rất hiện đại, đó là mẹ chồng của Yên Thao - một người phụ nữ hết
lòng vì chồng vì con, cũng bảo con dâu mình: "Con có biết người ta chọn vợ
thế nào không? Sang trong phòng khách - khéo trong bếp và đĩ trên giường.
Đấy, các cụ đúc kết từ xửa từ xưa rồi đấy. Cứ bảo Á Đông cổ hủ đi. Có mà
Tây cũng theo chán" [7, 229]. Đến Nhân gian, nhân vật Mai Vĩ là một người
con gái hiện đại và rất giỏi trong kinh doanh, chính cô cũng cảm nhận được
khả năng của mình "…tao lại thấy mình có năng khiếu ngoại giao mới chết
chứ. Cửa nào đi cũng lọt. Thấy tao đến là tay bắt mặt mừng - Các anh các
chú ấy - nên mọi việc trơn tru trót lọt. Bố tao bảo - con làm tốt, cứ thế mà
phát huy" [8, 112]. Tài năng của Mai Vĩ như thiên tính bẩm sinh của người
phụ nữ: nhạy bén, tinh tế, giải quyết công việc nhanh chóng. Vì vậy, cô làm
việc gì cũng nhanh chóng và thành công. Đây cũng là nét tính cách nổi trội
của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Họ tự tin vào khả năng và bản lĩnh
của mình. Chẳng vậy mà nhân vật Yên [Nhân gian] khi gặp công to việc lớn,
cần sức vóc của đàn ông giúp thì cô lại thất vọng trước thái độ của họ
"…những lúc khó khăn mới lộ cái hèn của lão ta. Mà cái lũ đàn ông chết
giẫm ở cái nhà máy này, biết bọn nó sai phạm như thế mà cứ nhắm mắt làm
ngơ, không thằng nào dám đứng ra đấu tranh. Đàn ông giờ còn không hay
chết hết cả rồi, còn toàn một lũ đàn ông mặc váy hở giời?" [8, 127] và chính
Yên cũng ước muốn "…giá tôi là đàn ông thì hay hơn. Đổi cho lão chồng làm
vợ…" [8, 195]. Điều này chính Thảo - bạn của cô cũng đánh giá tài năng của
cô "…Xin cậu đi, làm đàn bà như cậu lại hay hơn đấy…Đàn bà có thế của
đàn bà chứ, chấp gì mấy thằng đàn ông chỉ giỏi mưu mô xảo trá chứ óc bé
như con ruồi" [8, 195]. Và tài năng của Yên cũng được Kỳ Thanh khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
"…bạn chị dạo này làm ăn phát đạt lắm, giao du rộng, nhiều người giúp
60
đỡ…" và Thảo cũng thấy"…chen được chân về Hà Nội đã giỏi lại còn trèo
vào được giới làm ăn tai mắt của thủ đô, nơi mà toàn những kẻ ghê gớm chỉ
muốn trèo lên đầu lên cổ thiên hạ thì quả là quá giỏi giang còn gì" Kỳ Thanh
gật đầu "công nhận là giỏi. Em còn nhờ chị ấy kéo khách cho nữa cơ đấy" [8,
275-276]. Người mẹ của cô gái trong Nhân gian cũng thừa nhận vị trí, vai trò
của phụ nữ, đặc biệt là những người phụ nữ có chồng làm "Sếp": "…bà vợ
nào cũng được coi là quân sư cho chồng". Xã hội càng tân tiến, càng hiện đại,
người phụ nữ càng phải biết phát huy vai trò của mình trong công việc cũng
như trong cuộc sống gia đình. Với bản lĩnh và tài năng của mình, họ luôn có
vị trí quan trọng trong mọi thời đại.
Đề cao vai trò của nữ giới, Thùy Dương không mấy quan tâm đến vị trí
của người đàn ông. Bởi trong xã hội phong kiến, người đàn ông đã chiếm hết
vị trí quan trọng, giữ vai trò trụ cột trong gia đình cũng như các mối quan hệ
ngoài xã hội. Giờ là lúc người phụ nữ được thể hiện tài năng của mình. Nếu
nói đến vị trí của nam giới, nhân vật cô gái trẻ trong Nhân gian còn được
nghe một người bạn ở Mỹ xếp thứ tự "đàn ông xứ này xếp hạng năm trong
bảng xếp hạng, sau cả con chó…Ưu tiên thứ nhất là con trẻ, thứ hai đến
người già, thứ ba là phụ nữ, thứ tư là vật cưng như chó- mèo, thứ năm mới
đến đàn ông" [8, 130]. Như lời của cô gái nói, rõ ràng là đàn ông đứng vị trí
cuối cùng trong bảng xếp hạng. Vị trí độc tôn giờ dành cho người phụ nữ. Cô
gái trẻ trong Chân trần cũng từng so sánh rồi khẳng định “ nói gì thì nói đàn
ông vượt cả đàn bà ngay trong lĩnh vực làm đẹp hay nấu bếp (nghề mà đàn
bà đáng ra chúa tể). Nhưng … tôi vẫn nghĩ nếu không phải gánh cái thiên
chức làm vợ làm mẹ thì biết đâu chưa hẳn thế. Đàn bà không thiếu người giỏi
giang và tính khí trượng phu hơn khối kẻ “trượng phu” ấy chứ” [9, 12]. Rõ
ràng, vừa phải mang thiên chức làm mẹ, làm vợ nhưng người phụ nữ luôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khẳng định được tài năng của mình trong mọi lĩnh vực.
61
Người phụ nữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương dù có đẹp đến đâu, tài
năng giỏi giang đến đâu song chính họ không tránh khỏi những bất hạnh trong
cuộc sống cũng như trong hạnh phúc gia đình. Họ có một băn khoăn đầy nữ
tính "khi yêu người ta thường cực đoan. Đặc biệt là đàn bà. Đàn ông thì khác.
Họ có thể vẫn có vợ và vẫn cần người tình. Đàn bà thì ngược lại. Người ta
muốn chung sống chính thức với người mình yêu. Bất hạnh cho đàn bà là ở
chỗ đó" [6, 109]. Đặc biệt, người phụ nữ có tài thì thường vất vả và chịu
nhiều thiệt thòi hơn "đàn bà giỏi giang quá làm tranh phần đàn ông rồi thì
khổ" [7, 179]. Cái khó của người phụ nữ là vừa phải làm tròn trọng trách của
người mẹ, người vợ trong cuộc sống gia đình, vừa phải phấn đấu thật tốt cho
công tác ngoài xã hội. Điều này khiến cho một số nam giới cảm thấy bị tổn
thương khi mình không bằng nữ giới "đàn bà mà kiếm tiền giỏi hơn chồng thì
không còn sự tôn trọng cần thiết nữa" [6, 117]. Đây gián tiếp là một trong
những nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Bởi nói gì thì nói, đàn
ông vẫn có sự sĩ diện của họ. Ở họ "cần người vợ dịu hiền chứ không cần bà
tướng" [7, 179].
Như vậy, khẳng định vị thế và tài năng của người phụ nữ, Thùy Dương
đã dành cho các nhân vật nữ của mình những tình cảm ưu ái lẫn cảm phục. Vượt
qua thời gian, họ luôn khẳng định được bản lĩnh, trí tuệ cùng với tài năng thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bẩm của mình.
62
Chƣơng 3
VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THÙY DƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Nghệ thuật xây dựng, khắc họa nhân vật trong tiểu thuyết của
Thùy Dƣơng
3.1.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật văn học là một phần quan trọng không thể thiếu của một tác
phẩm văn học. Qua nhân vật nhà văn thể hiện được suy nghĩ, cách nhìn của
mình về con người và xã hội; còn độc giả sẽ cảm nhận được những gì nhà văn
truyền tải qua cách lý giải của mình. Nhân vật văn học vừa là đối tượng
nghiên cứu của Lý luận văn học, vừa là phương tiện để tiếp cận quan niệm
nghệ thuật về con người của Thi pháp học.
Nhân vật văn học được hiểu là "con người cụ thể trong tác phẩm văn
học… Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể
đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống " [6, 235]. Về cơ bản, nhân
vật văn học chính là khái quát của tính cách người - kết tinh của môi trường
sống; vì thế nhân vật văn học sẽ "dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác
nhau của đời sống" trong từng tác phẩm cụ thể. Nhân vật văn học còn là chỉnh
thể vận động, có tính cách bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính
chất quá trình, được miêu tả qua các biến cố, xung đột và mọi chi tiết. Do đó,
nhân vật chính là hình thức thể hiện con người trong văn học.
Trong Thi pháp học, nhân vật là phương tiện biểu hiện của quan niệm
nghệ thuật về con người. Đó là "sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người
đã được hóa thân thành các nguyên tắc phương tiện, biện pháp hình thức thể
hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình tượng nhân vật đó" [31, 55]. Trước đây, người ta chỉ chú ý phương diện
63
nội dung và tính khách thể của nhân vật mà quên đi những cảm thụ chủ quan
về hình tượng, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất sáng tạo của nhà văn. Tìm hiểu
quan niệm nghệ thuật về con người chính là "khám phá, phát hiện cách cảm
thụ và biểu hiện chủ quan, sáng tạo của chủ thể" [31, 56] - đối tượng quan
tâm chính của Thi pháp học. Đây là một hướng đi mới khám phá về hình thức
bên trong của văn học. "Nhân vật văn học là mô hình về con người của tác
giả" (L.Ghindơbua), nhưng nhân vật văn học và quan niệm nghệ thuật về con
người không phải là một. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người bao
quát hơn, rộng hơn khái niệm nhân vật, vì một quan niệm về con người có thể
được thể hiện qua nhiều nhân vật.
Có thể thấy, văn học đổi mới trước hết là ở quan niệm nghệ thuật về
con người qua cách xây dựng hình tượng nhân vật. Nó "không chỉ thể hiện
đời sống và phẩm chất của con người, không chỉ đặt ra và giải quyết những
vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa con người và con người, giữa con người
với tự nhiên, mà quan trọng hơn là tìm hiểu, khám phá và phát hiện ra những
bí ẩn nằm trong chiều sâu, những chiều kích khác nhau của con người" [43]. Tìm
hiểu về nhân vật văn học chính là khám phá hình thức bên trong của tác phẩm nghệ
thuật - một phạm trù quan trọng của quan niệm nghệ thuật về con người.
3.1.2. Các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện nhân vật trong tiểu
thuyết của Thùy Dương
3.1.2.1. Nhân vật cô đơn
Văn học thời kỳ đổi mới xuất hiện ngày càng nhiều kiểu nhân vật cô
đơn bởi "khi ý thức hệ, những trào lưu ý tưởng, những trò thời thượng và
những trò điên khùng đang ngự trị khắp nơi, thì chính sự cô đơn khẳng định
sự tự do của mỗi người" [20]. Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, thế giới nội
tâm của mỗi cá nhân chứa đầy bí ẩn và bất ngờ. Con người cô đơn không phải
khi ở một mình, mà còn cô đơn ngay chính trong gia đình mình khi không tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấy sự đồng cảm, không tìm được tiếng nói chung.
64
Nhân vật trong tiểu thuyết của Thùy Dương là con người đa diện. Cô
đơn là một phương diện tiêu biểu trong tính cách phức tạp đó. Dưới ngòi bút
tinh tế và sắc sảo của chị, nỗi cô đơn của nhân vật cũng thật đa dạng: từ nỗi
cô đơn của phụ nữ đến nỗi cô đơn của nam giới, từ nỗi cô đơn trong lý
tưởng đến nỗi cô đơn trong tình cảm… Cô đơn là trạng thái thường thấy ở
người phụ nữ, nhưng những người đàn ông dù mạnh mẽ đến mấy cũng có lúc
cô đơn. Nhân vật người chồng của tôi trong Ngụ cư và nhân vật bố Yên Thao
trong Thức giấc có nỗi cô đơn thật riêng của đàn ông. Họ đều muốn cống hiến
hết mình cho sự nghiệp nhưng thực tế phũ phàng đã cản đường họ. Trong Ngụ
cư, nhân vật chồng tôi khi quyết tâm theo đuổi nghệ thuật đã rời xa gia đình,
điều đó khiến những người thân yêu nhất cũng không thể hiểu nổi anh. Là
một họa sĩ có tài, anh ta "chờ đợi và mong muốn sự đồng cảm cho những
khám phá mới" [6, 94]; nhưng đáp lại mong muốn của anh lại là một sự im
lặng "không một dòng nào cho những bức tranh của tôi" [6, 95]. Nỗi cô đơn
của anh bị đấy tới cùng cực khi anh biết "Điều tôi thấy rõ nhất là không ai
hiểu tôi, không ai nhận ra tôi" [6, 95], vì những bức tranh anh tâm huyết nhất
lại không được chú ý đến. Với nhân vật bố Yên Thao lại khác, khi đứng trước
sự lựa chọn lý tưởng và gia đình, anh đã chấp nhận sự sắp đặt của mẹ mình -
sống gần gia đình nhưng không có được sự say mê trong nghề nghiệp. Bố của
Yên Thao tuy không nói ra điều ấy nhưng nỗi cô đơn cứ âm ỉ diễn ra trong
lòng vì "nói bà cũng chẳng hiểu" [7, 22]. Ta có thể nhận thấy, những người
đàn ông dù lựa chọn vì lý tưởng hay vì gia đình thì vẫn không tránh khỏi nỗi
cô đơn. Khác với đàn ông, nỗi cô đơn của phụ nữ thường gắn với tình cảm.
Trong tình yêu và cuộc sống hôn nhân, người phụ nữ thường chịu bất hạnh và
cô đơn hơn vì sự nhạy cảm và mềm yếu bản năng. Nhân vật Hoa, Lam, tôi
trong Ngụ cư, Yên Thao trong Thức giấc hay Kỳ Thanh trong Nhân gian tuy
mỗi người có một hoàn cảnh nhưng mỗi người đều mang một nỗi cô đơn bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể. Nhân vật Hoa [Ngụ cư] cô đơn vì sự lựa chọn, tính toán của mình. Cô
65
muốn ở lại Hà Nội, chấp nhận lấy chồng không tương xứng; khi biết chồng
ngoại tình, lòng Hoa chới với và mất đi niềm tin vào chính bản thân mình
nhưng không muốn buông tay. Cô rơi vào bi kịch do chính mình tạo nên và
chìm trong nỗi cô đơn không người chia sẻ. Còn Lam [Ngụ cư] nhận ra tình
yêu đôi lúc không cần nói ra cũng hiểu nhau và phụ nữ kiếm được nhiều tiền
hơn chồng thì đôi lúc đã nhìn chồng bằng đôi mắt khác. Cô chia tay chồng
nhưng cũng không dám đến với người mình yêu, một mình sống với nỗi cô
đơn của chính mình. Nhân vật tôi trong Ngụ cư và Yên Thao trong Thức giấc
đều rơi vào trạng thái cô đơn vì không tìm được sự đồng cảm trong cuộc sống
hôn nhân. Nhân vật tôi - một nhà báo "muốn sống, đẫm mình trong cuộc sống
thực này, dù ai gọi nó là xa hoa và phù phiếm" [6, 16-17], còn chồng cô - một
họa sĩ "luôn luôn cảm thấy không vừa lòng với hiện tại" [6, 81]. Yên Thao
"không thể chấp nhận sự tương đối được", còn Nghi - chồng Yên Thao lại
cho rằng "cái gì cũng có ý nghĩa tương đối" [7, 238]. Kỳ Thanh trong Nhân
gian phải chịu cuộc sống cô đơn vì chồng cô yêu tiền bạc hơn tình cảm vợ
chồng. Sau này cũng chính anh ta cũng gặp phải sự cô đơn trong lựa chọn của
mình. Đi sâu và thế giới nội tâm của người phụ nữ, Thùy Dương còn nhận
thấy sự cô đơn của họ khi không có điểm nương tựa về tinh thần. Đó là tâm
trạng của bà nội Yên Thao, mẹ chồng Yên Thao, mẹ anh Cả trong Thức giấc.
Họ là những người phụ nữ cùng thế hệ, cùng có cách nhìn nhận và cách suy
nghĩ. Nếu như bà nội Yên Thao cố gắng lấp đầy sự cô đơn bằng "chữ nghĩa
và bổ phận", thì mẹ chồng Yên Thao lại cô đơn trong chính bổn phận ấy.
"Đàn bà Việt Nam lấy chồng con là chính. Quên cả bản thân mình" [7, 205]
nhưng chồng bà quá say mê nghiên cứu Toán học; còn con trai lại thích sống
độc lập; nên sự "quên mình" của bà không được nhìn thấy và biến thành tâm
trạng cô đơn. Còn mẹ anh Cả lại kiên quyết sống cô đơn để giữ tình yêu và
bổn phận của mình. Yêu người đã có gia đình nhưng mẹ anh Cả vẫn ở vậy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nuôi con một mình. Tình yêu của bà thật "dai dẳng và lạ lùng" vì bà "chẳng
66
chịu lấy ai chỉ để chờ một ông già về nói mấy câu thông cảm" [7, 246]. Trong
con người bà, tình yêu và sự cô đơn luôn song hành, nhưng đó là cô đơn trong
kiêu hãnh. Ở những người đàn bà này, cô đơn không chỉ là tâm trạng khi thiếu
vắng chỗ dựa tinh thần, mà nó còn thể hiện sự chịu đựng, can trường của một
thế hệ phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt ở tiểu thuyết Nhân gian, Thùy Dương còn
đề cập tới một kiểu nhân vật cô đơn rất phổ biến trong cuộc sống thời mở cửa.
Đó là con người cô đơn trong chính ngôi nhà của mình qua nhân vật cô gái
trẻ. Vốn là một cô gái hiện đại, năng động, hiểu biết nhưng trong cuộc sống
bao bọc của cha mẹ, nhân vật cô gái trẻ không tìm được sự thấu hiểu và cảm
thông. Cha mẹ yêu cầu cô sống vì sự nghiệp chính trị đang thăng tiến của bố
cô mà không hề biết đến đời sống tình cảm của cô. Đây cũng chính là tâm
trạng phổ biến của con người trong xã hội hiện đại khi con người thiếu sự
quan tâm đến nhau. Đặc biệt, nhân vật Kỳ Thanh sống trong cảnh "khi người
ta cô đơn người ta phải bầu bạn với con vật" [8, 38]. Kỳ Thanh chia tay
chồng, sống xa con trai, một mình chỉ biết bầu bạn với “một con chó phốc nâu
vàng bé xíu, mắt to thô lố, hai tai vểnh ngược” [8, 37] mà cậu con trai trước
khi ra nước ngoài đã bảo mẹ mình nuôi cho đỡ buồn. Với chị, con vật ấy “nó
sống với em lâu rồi khác gì người thân” [8, 45], thậm chí “con vật thật nhưng
nó sống với mình tình nghĩa khác gì người, hơn khối người là khác” [8, 45].
Rõ ràng, khi con người bị cô lập trong một cuộc sống, cô đơn đã trở thành nỗi
ám ảnh của họ. Họ cô đơn vì không tìm được sự đồng cảm, sẻ chia; cô đơn
ngay giữa đám đông: "họ buồn và cô đơn giữa thành phố rộng lớn, giữa toàn
người là người đấy sao" [8, 38].
Để khắc họa được các nhân vật cô đơn trong tiểu thuyết của mình,
Thùy Dương đã sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm với nhiều hình thức như
tự bạch [7, 247, 248, 264]; [8, 249, 250], đối thoại với người vắng mặt [7, 120,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
121, 297], đan xen giữa ý thức và tiềm thức [6, 172], [7, 236, 253, 254] khơi
67
sâu vào nỗi đau có tính dồn nén của nhân vật cô đơn. Chị còn thể hiện tâm
trạng cô đơn bằng thời gian đồng hiện, thời gian tâm trạng. Đó là sự đối lập
giữa hồi ức và tưởng tượng, quá khứ và hiện tại. Từ đó nhà văn có điều kiện
khai thác và khám phá tận cùng cõi cô đơn của con người cũng như số phận
và tinh thần của họ. Ngoài ra, nhà văn còn dùng thủ pháp dịch chuyển không
gian (hòa bình sang chiến tranh trong Ngụ cư, trần thế sang cõi âm trong
Nhân gian, thời mở cửa sang thời bao cấp trong Thức giấc…) kết hợp với
lồng ghép, dồn nén, mở rộng không gian để tô đậm tâm trạng cô đơn. Một
cách thể hiện nhân vật cô đơn của riêng Thùy Dương là sử dụng đối thoại một
chiều như một cách nói về tâm trạng của nhân vật. Chị để nhân vật thể hiện
nỗi cô đơn sâu kín của mình với người khác, nhưng không thấy sự đáp lời của
người nghe. Nói cách khác, Thùy Dương đã ngoại hiện tâm trạng của nhân
vật nhằm khẳng định sự mới mẻ trong suy nghĩ về nhân vật, đặc biệt là nhân
vật nữ.
Tóm lại, Thùy Dương đã thể hiện nỗi cô đơn trong tâm hồn vốn muôn
màu đa dạng của con người bằng những thủ pháp độc đáo. Khám phá nhân
vật cô đơn, chị giúp người đọc hiểu bản thân mình hơn, hiểu rõ hơn những
tình cảm sâu kín thuộc về con người.
3.1.2.2. Nhân vật tự ý thức
Nhân vật tự ý thức là kiểu nhân vật điển hình của văn học hiện thực; là
con người được nhìn từ bên trong, tự nhận thức về chính mình, có năng lực
phản tỉnh (đánh giá tốt - xấu của bản thân) nhằm hoàn thiện nhân cách. Con
người tự ý thức bộc lộ chiều sâu mới trong quan niệm nghệ thuật về con
người, gắn với sự thức tỉnh của nhà văn về giá trị cá nhân. Nhân vật từ nhận
thức về thế giới bên ngoài đã quay về tự khám phá, quan sát nội tâm của mình.
Và văn học từ chỗ miêu tả quá trình nhận thức đã tiến đến miêu tả quá trình tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhận thức của con người.
68
Nhân vật tự ý thức bắt đầu xuất hiện từ những tác phẩm của Nam Cao
(Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn…) trong trào lưu văn học hiện thực phê
phán 1930 - 1945. Đó là những con người luôn dằn vặt với chính mình về sự
hèn hạ của nhân cách, sự giằng xé giữa phần con và phần người trong hoàn
cảnh xã hội đảo điên lúc bấy giờ. Sau năm 1975, văn học phát triển với sự
bùng nổ của ý thức cá nhân. Quá trình tự ý thức của con người trở thành
nguồn cảm hứng hấp dẫn cho văn học. Cũng trong xu hướng xây dựng nhân
vật tự ý thức, nếu trước đây các nhà văn chỉ qua tâm đến các nhân vật tự ý
thức là nam thì Thùy Dương lại quan tâm tới quá trình tự ý thức của nữ giới.
Họ là những người đàn bà nhạy cảm, mềm yếu, mạnh mẽ, ích kỷ, bao
dung…hiện lên trong tiểu thuyết của Thùy Dương với sự tự ý thức về cuộc
sống, về chính họ. Từ đó, họ sống thật với chính mình hơn, sống nhân hậu với
cuộc đời hơn.
Nhân vật nữ của Thùy Dương cũng như nhiều người đàn bà khác trong
thời mở cửa có điều kiện nhìn ngắm tâm hồn mình một cách thẳng thắn. Đó là
sự ích kỷ không muốn ai hơn mình: nhân vật tôi - một nhà báo trong Ngụ cư
thấy ghen tị khi Huê "một con bé nhà quê, tiếng Việt viết còn chưa thạo, tiếng
Anh nửa chữ cắn đôi không biết, nhìn bản đồ chẳng biết là mình đang đứng ở
chỗ nào…" [6, 143] được đi hết Hàn Quốc lại sang Anh; nhân vật Yên Thao
trong Thức giấc cho chị hàng xóm vay tiền dù không có nhiều chỉ để "thỏa
mãn cái sự hiềm tị trong mình" [7, 135]; còn nhân vật Thảo trong Nhân gian
lại "nhói chút ghen tị" [8, 194] khi Yên mua được nhà Hà Nội - mơ ước xa
vời của Thảo… Những góc riêng tư của mỗi người đàn bà đều được Thùy
Dương nhìn thấu. Đó là sự thỏa hiệp với cuộc sống. Họ nhìn thấy những việc
không đúng nhưng không dám lên tiếng, không dám đấu tranh đến cùng. Cả
tôi và Yên Thao đều biết việc đưa và nhận phong bì là không nên nhưng
không thể làm khác được với cả xã hội như thế. Thảo khi biết Yên muốn làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rõ chuyện chồng mình bị đẩy ra khỏi chức Phó Tổng chỉ vì không chịu ăn tiền
69
đã nói "xã hội bây giờ thế tất. Chỗ nào cũng có đường dây hết cả chằng chịt
và rằng rịt với nhau…chẳng khác gì những cái vòi bạch tuộc. Chặt vòi này
lập tức có vòi khác thế chỗ ngay" [8, 107]. Biết rõ điều đó nhưng người phụ
nữ chưa dám và chưa thể vượt qua chính mình để đấu tranh với cái xấu, cái
không hợp thời. Mặc dầu vậy nhưng không có nghĩa là họ không có ý thức
phấn đấu trong sự nghiệp. Nhân vật tôi từng "nổi máu nhà báo" [8, 44] muốn
giúp bà Bưởi làm cho rõ việc xây nhà tình nghĩa của phường, đã có lúc "tự
hào về cái nghề của mình - Rằng nó tự do không phụ thuộc, là chỗ gửi gắm
những điều mình tin, cho sự công bằng!", nhưng cũng có lúc "cảm thấy có lỗi,
cảm thấy mình vô dụng và hèn nhát chạy trốn khỏi nỗi đau của người khác"
[6, 154]. Thậm chí, Yên Thao còn thấy "làm cây cao bao giờ cũng đầy bất
trắc" và "không phải bất cứ ai cũng đủ lớn để nhìn thẳng vào sự lớn của
mình" [7, 367]. Cô tự ý thức được "việc lớn" mình đang làm và chấp nhận rủi
ro, bất trắc mà công việc ấy mang lại. Còn cô gái trẻ trong Nhân gian lại
muốn tạo dựng sự nghiệp cho mình vì "đã hiểu rõ mình sẽ đi đâu - làm gì -
làm như thế nào" [8, 78]. Dù biểu hiện của sự tự ý thức có thể khác nhau
nhưng đều thể hiện ý chí, nghị lực của người phụ nữ hiện đại.
Nhân vật nữ của Thùy Dương còn tự thức tỉnh về hôn nhân và hạnh
phúc gia đình của mình. Họ từng bước ý thức được vị trí của mình trong gia
đình thời hiện đại - có thể làm nên hạnh phúc, cũng có thể làm tan vỡ một gia
đình. Trong Ngụ cư, nhân vật tôi ý thức được sự rạn nứt trong gia đình một
phần do lỗi của cô. Tình yêu cô dành cho chồng không còn khi "nhìn cái dáng
thất tha thất thểu với cái túi đeo cáu bẩn đứng trước cửa nhà" [6, 72] hay khi
cô gặp những người (mà cô cho là) giỏi giang hơn chồng mình. Vết nứt của
gia đình xuất hiện từ sự khác biệt về quan niệm sống giữa cô và chồng.
Ngược lại, Yên Thao nhận thức được tình yêu của mình dành cho chồng
nhưng cái tôi quá lớn khiến cô không thể nhún mình làm hòa để giữ hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phúc gia đình. Chỉ đến khi chồng cô bỏ vào Nam làm việc, cô mới bừng tỉnh
70
khát vọng yêu và được yêu, tìm mọi cách níu giữ đam mê nơi chồng. Còn cô
gái trẻ trong Nhân gian, tuy chưa có gia đình nhưng lại ý thức rất rõ về tình
yêu và hạnh phúc. Cô đón nhận tình yêu của Rush với sự trân trọng "em biết
dù em giàu hay nghèo, dù em đẹp lên hay xấu đi, dù em có thế nào thì anh
vẫn cứ yêu em. Yêu con người thật của em. Yêu chính em chứ chẳng phải gì
khác" và vì tình yêu ấy cô "có thể chịu đựng được mọi điều" [8, 227]. Có thể
thấy, người phụ nữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương đã ý thức được về tình
yêu và hạnh phúc của mình với tâm trạng khác nhau. Điều đó một lần nữa
chứng tỏ sự tự khẳng định mình của người phụ nữ trong mọi hoàn cảnh, mọi
thời đại.
Tóm lại, sự tự ý thức của nhân vật nữ trong tiểu thuyết Thùy Dương là
một đột phá. Quá trình tự ý thức ấy thường được Thùy Dương thể hiện theo
thời gian tâm trạng. Nhà văn đã sử dụng "dòng ý thức" như một thủ pháp chủ
yếu khi nói về sự thức tỉnh của người phụ nữ. Lại có khi, tác giả để cho người
phụ nữ trực tiếp nói lên ý nghĩ của mình. Nhờ vậy, nhà văn có thể tiến sâu vào
thế giới nội tâm vốn rất kín đáo của người phụ nữ và để lại dấu ấn riêng của
mình trên văn đàn về sự thức tỉnh của người phụ nữ hiện đại.
3.1.2.3. Nhân vật tâm linh
Từ sau năm 1986, văn học Việt Nam xuất hiện thêm một xu hướng hiện
thực mới - "hiện thực huyền ảo" (hiện thực huyền thoại, hiện thực thần kỳ).
Việc sử dụng các yếu tố kỳ ảo trong văn chương đã có từ lâu và đã góp phần
làm phong phú thêm cho cách diễn đạt nghệ thuật. Tuy nhiên sau 1986, yếu tố
kỳ ảo mới xuất hiện với tần suất cao và trở thành một dòng riêng với các tên
tuổi: Nguyễn Huy Thiệp, Lưu Minh Sơn, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị
Hảo…Thủ pháp huyền ảo mở ra khả năng mới trong việc khám phá góc tối và
chiếm lĩnh bề sâu trong tâm hồn con người và đời sống. Các tác phẩm hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thực huyền ảo "mô tả thế giới thực của những người mà đời sống thực tại của
71
họ khác với đời sống thực tại của chúng ta" [49]. Hệ thống nhân vật có vẻ
không thật, hoang đường nhưng lại bổ sung cho cách nhìn nhân vật trong
cuộc đời thực, khắc họa đậm nét hơn, nhiều chiều kích hơn thế giới con người.
Trong tiểu thuyết của Thùy Dương, xu hướng "hiện thực huyền ảo"
manh nha qua Ngụ cư và Thức giấc và chiếm lĩnh ở Nhân gian. Kiểu nhân vật
được Thùy Dương lựa chọn trong xu hướng này là nhân vật tâm linh (xuất
hiện từ thế giới của tâm linh, tiềm thức, của những điều không lý giải được). Tuy
nhiên, hiện thực vẫn là chỗ dựa cho tâm linh sống dậy. Yếu tố kỳ ảo trong
trường hợp này có tác dụng làm lạ hóa hiện thực, thay đổi góc nhìn hiện thực.
Trong Ngụ cư, yếu tố huyền ảo phảng phất xuất hiện qua lời của bà
thầy bói và nhân vật Thư. Với bà bói, đó là những lời phán về hiện thực và sẽ
diễn ra trong cuộc sống của Hoa "Cô rất giàu có. Giàu đến mức nhiều khi cô
không thể tin nổi. Cái giàu cứ đến dửng dưng…Cẩn thận nếu không sẽ có con
khác dòng…"[6, 84-85] và của nhân vật tôi "Cô có một số phận không bình
thường. Người được thương thì cũng chính là người phải chịu nhiều thử
thách…Đi về phía núi - núi sẽ cho cô sức mạnh. Nhưng cần phải đến với biển
- nó sẽ cho cô sự bao dung và mênh mông…" [6, 85]. Còn với nhân vật Thư,
thủ pháp huyền ảo xuất hiện qua lời nói và hành động của cô đồng khi gọi hồn
"…tôi không chết đuối, không chết ngã. Tôi được gọi về. Cô đồng vén ống
quần lên gãi sồn sột rồi vê vê trên mấy ngón tay, búng một phát ra xa. Chị
thằng Thư rú lên, cúi rạp xuống lạy. Nó bảo tiếp - âm binh bây giờ nhiều lắm
- cần có người trấn giữ cai quản. Quan ngài đòi tôi rồi…Tôi được thăng quan
rồi đấy…" [6, 99]. Khi sử dụng những chi tiết này, mục đích của tác giả làm
tăng thêm cấp độ hấp dẫn cho sự kiện.
Đến Thức giấc, chị tiếp tục đưa các chi tiết kỳ ảo vào cốt truyện với lý
do: khám phá thêm góc khuất của cuộc đời nhân vật. Nhà văn muốn báo trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
số mệnh của Yên Thao qua lời của ông nội Thu Ba "Cả khu đất có mảnh đất
72
này đẹp nhất. Khí vượng lắm tụ cả vào đây. Cô hợp với đất này. Rồi từ đây cô
sẽ có rất nhiều đất đai…thoắt cái ông già đã đi như gió, mất hút ở đâu đó đầu
ngõ"[7, 156-157] vừa thực lại vừa ảo. Tiếp tục nói về vận mệnh của Yên
Thao, tác giả đã để cho "thầy" phán rằng "Có thằng cu cứ bám lẵng nhẵng ở
bên. Cô bỏ nó nhưng nó không giận, vẫn theo phù hộ đấy. Đấy, thằng cu đang
toét miệng cười. Đẹp quá. Cứ như con tiên con phật ấy" [7, 266]. Có thể thấy
các phương diện của đời sống con người không thể nhìn thấy một cách trực
tiếp mà phải nhìn bằng con mắt tâm linh - một thủ pháp huyền ảo mang đến
sự tưởng tượng phong phú và sự biểu hiện đa chiều.
Nếu như ở Thức giấc và Ngụ cư yếu tố huyền ảo mới chỉ là sự khởi đầu,
thì đến Nhân gian thực sự là một "hiện thực huyền ảo". Tác giả đã xây dựng
cả một cõi âm sinh động song hành cùng với cõi dương trần thế bằng trí
tưởng tượng, hư cấu và sức sáng tạo đáng kinh ngạc. Kiểu nhân vật tâm linh
mà Thùy Dương tập trung thể hiện là (linh hồn) Hoàng - một chiến sĩ giải
phóng quân đã hy sinh. (Linh hồn) Hoàng hiện ra qua nhiều hình ảnh, chi tiết,
ngôn ngữ về cõi âm. Chính (linh hồn) Hoàng đã tự kể lại cái chết của mình
"Lúc tôi bị pháo dập, dính tới hơn chục mảnh đạn, chỉ kịp kêu hai tiếng mẹ ơi
rồi thấy mình nhẹ bỗng bốc thẳng lên cao. Một làn khói nhẹ nâng hai chân
tôi" [8, 101]. Cuộc sống của linh hồn sau khi chết có nhiều khác lạ với người
trần từ hình dáng "tôi ngồi ngay trên cành cây trứng gà, dưới hình dạng một
con đom đóm" [8, 163] đến hành động "ban ngày chúng tôi di chuyển không
nhanh như ban đêm…nhẹ bỗng, lướt tà tà,êm ru" [8, 30]. Điều này chỉ tồn tại
giữa người âm với nhau chứ người trần mắt thịt khó mà thấy được, vì tất cả
đều diễn ra trong tâm linh. Thùy Dương đã đưa người đọc vào thế giới của
những linh hồn chiến sĩ - tuy chết nhưng họ luôn dõi theo cuộc sống trần thế.
Chẳng thế mà Hoàng đã từng nghĩ "Cứ bảo linh hồn nhẹ nhõm, thanh thản là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không đúng. Vẫn có ân hận, ăn năn và ước muốn" [8, 165]. Chính anh nói ra
73
điều này sau nhiều lần tạt về thăm nhà, thăm mẹ "tôi có hôm ngồi chồm hổm
ngay bên cạnh, nghe trong ngực bà gọi con ơi, mà muốn đứt ruột. Tôi níu vai
bà, ôm lưng bà…Hôm sau nghe bà than đau lưng và sã cả vai, nhận ra hơi
lạnh của mình…đôi khi sự gần gũi quá của mình cũng không tốt lắm cho
người sống đâu" [8, 136]. Dù biết vậy nhưng lúc nào Hoàng cũng nghĩ về
những người thân yêu. Bên cạnh cuộc sống (linh hồn) của nhân vật Hoàng là
linh hồn các chiến sĩ cũng có cuộc sống riêng nơi cõi âm. Ở đó, những anh
lính giải phóng quân vẫn sinh hoạt chính trị theo tiểu đội hàng tuần và thảo
luận với việc nói chuyện với nhà ngoại cảm để cho "người về đánh động nhân
gian" [8, 251], "cử người đi dự đại lễ cầu siêu"…Người đọc cảm nhận được
một lễ cầu siêu thành kính, thiêng liêng "linh hồn mình nhẹ bỗng, lơ lửng
giữa thinh không …Không còn thân thể với bộ quân phục xanh, không còn
những gương mặt xám xanh hốc hác, những vết thương ngưng đọng chưa
lành. Tất cả chỉ còn những đốm linh hồn sáng xanh" [8, 101]. Đặc biệt ấn
tượng qua lời kể của Hoàng, người đọc có thể tưởng tượng ra một lễ cưới mà
người trần tổ chức cho người âm (Quân - Ngần) thật xúc động "người ta bày
một bó hoa cưới tết bằng hoa giấy. Lay ơn trắng lá xanh bọc nilông trong
suốt. Bánh kẹo, trà thuốc thật…Quân dắt tay Ngần. Bộ trang phục mới và
chiếc áo dài quần trắng cháy đến mảnh cuối cùng thì bay đến phủ lên hai
người. Cả hai xúng xính trong bộ đồ mới…Chúng tôi vỗ tay rầm trời…Cả
khối lính ngồi nhấp nhô xanh xanh kín vạt rừng khẽ rung động" [8, 168]. Một
lễ cầu siêu, một đám cưới - tất cả nghi lễ tâm linh ấy làm cho hiện thực trở
nên lung linh, huyền ảo và đầy bí ẩn.
Trong Nhân gian, bên cạnh nhân vật Hoàng, yếu tố tâm linh kỳ ảo được
Thùy Dương gia tăng ở nhân vật Thảo. Thảo có vai trò như một chiếc cầu nối
giữa cõi âm và cõi dương. Không ít lần cô cảm nhận bằng tâm linh sự hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hữu của linh hồn Hoàng, sự gửi gắm, nhắn nhủ một thông điệp với dương
74
gian. Chính vì điều này mà các liệt sỹ quyết định "nhập hồn" vào Thảo để
"nói chuyện" với người sống [8, 175-176-177]. Họ nói về sự hy sinh và cống
hiến, nói về sự trở về và nỗi buồn bị lãng quên "nếu chỉ có mấy anh em chúng
tôi về còn ngàn ngạt người xương thịt trộn với đất rừng thế này liệu chúng tôi
có đành tâm?". Linh hồn Hoàng cũng xuất hiện "tôi rùng mình một cái - cái
giọng oai vệ không còn nữa. Là một giọng khác cao hơn, trẻ hơn đầy hấp tấp
- Anh Hải ơi, em đây mà. Lần nào anh vào em cũng biết hết. Thương mẹ và
thương anh chị lắm…" [8, 176]. Cuộc đối thoại âm - dương đã chứng tỏ "Con
người chết không có nghĩa là chấm hết…nếu có thế giới bên kia thật thì cái
chết không đến nỗi đáng sợ lắm. Mọi thứ sẽ nhẹ nhàng hơn" [8, 197]. Thực tế
cho thấy, cõi âm vẫn tồn tại và cùng song hành với dương gian như người đời
vẫn nghĩ "trần sao âm vậy". Sự kết hợp ấy khiến câu chuyện trở nên hư - thực
lẫn lộn và làm cho câu chuyện gần hơn với thực tế đời sống hôm nay.
Với kiểu nhân vật tâm linh, Thùy Dương đã dấn ngòi bút của mình vào
sâu lãnh địa của văn học hậu hiện đại. Hiện thực vừa là trung tâm vừa không
phải là trung tâm trong tác phẩm. Điều quan trọng là nó nói đúng bản chất của
con người dù trong ý thức hay tiềm thức. Cũng từ đây, quan niệm nghệ thuật
về con người của nhà văn có một bước chuyển mới - thoát dần khung nghệ
thuật truyền thống.
Tóm lại: Con người trong tiểu thuyết của Thùy Dương là những con
người đi ra từ cuộc sống và nó mang bi kịch của cuộc sống hiện đại. Thế giới
nhân vật của chị khá phong phú: nhân vật cô đơn, nhân vật tự ý thức, nhân
vật tâm linh…Mỗi kiểu nhân vật được xây dựng bằng nhiều phương thức
khác nhau song đều thể hiện sự nhất quán trong quan niệm nghệ thuật về con
người của Thùy Dương. Đặc biệt, kiểu nhân vật tâm linh không chỉ giúp nhà
văn mở rộng bình diện khám phá con người, khám phá hiện thực cuộc sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
độc đáo, chân thực mà còn đánh thẳng vào tâm lý, suy nghĩ của con người về
75
sự tồn tại của cõi âm, về sự đồng cảm cần có dành cho những linh hồn nơi cõi
âm. Tìm hiểu thế giới nhân vật của Thùy Dương, người đọc sẽ hình dung đầy
đủ về dòng chảy của cuộc sống hiện đại cũng như tâm lý, tính cách, số phận
con người trong cuộc sống hôm nay.
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy Dƣơng
3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học
được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Đúng như M. Gorki khẳng định:
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ mang
tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này
có ý nghĩa rộng hơn, nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ
được dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chí,
đài phát thanh, trong văn học và khoa học” [15,185].
Ngôn ngữ nghệ thuật “là một hệ thống các phương thức, phương tiện tạo
hình, biểu hiện, hệ thống các quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mỹ của
một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta có thể nói đến ngôn ngữ ba lê,
ngôn ngữ chèo, ngôn ngữ điện ảnh. Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật
của sáng tác văn học trên cấp độ đó” [23, 6].
Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học vừa là phương tiện biểu đạt
nội dung vừa là sự phản ánh ngôn ngữ đời sống. Nó thể hiện trí tuệ, sức sáng
tạo, cá tính, tài năng… của nhà văn. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ
không đơn thuần là phương tiện biểu đạt mà còn là hình thức mang tính nội
dung. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật là một phương diện quan trọng trong
việc nghiên cứu tác giả với tư cách là nghệ sĩ của một loại hình nghệ thuật.
Qua việc tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Thùy Dương,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người đọc có thể thấy dấu ấn tài năng của tác giả.
76
3.2.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương
3.2.2.1. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường
Ngôn ngữ trong dòng văn học nữ bao giờ cũng là ngôn ngữ thể hiện
chính những trải nghiệm cá nhân của giới nữ. Điều này rất đúng với nhà văn
Thùy Dương. Vốn là một phụ nữ bình dị, lớn lên từ gốc rạ, bờ tre bên những
người dân quê hiền lành, chát phác, bản thân Thùy Dương lại là một người
viết văn đầy trải nghiệm, cộng với một "kho" văn hóa dung dị, chất liệu cuộc
sống đời thường đã đi vào sáng tác của chị một cách tự nhiên mà chân thật. Ở
rất nhiều tác phẩm, các từ ngữ đời sống được nhà văn vận dụng linh hoạt để
tạo ra một thế giới thực trong văn chương. Tuy nhiên, đây không phải là sự
sao chép máy móc, mà được Thùy Dương sáng tạo theo cảm nhận tinh tế của
chị. Người đọc sẽ gặp giọng điệu của nhiều kiểu người trong tiểu thuyết của
Thùy Dương: "Em là em không muốn lên. Nhưng cơ mà nhà em không chịu,
nói không theo nếu tôi thế nào đừng trách…" [6, 11] là giọng của cô Huê -
người nhà quê mới ra phố; "…bà thích làm việc, buôn dưa lê với khách. Anh
định cùm bà ở nhà cho rách việc à. Buôn thúng bán mẹt có gì xấu mà phải sĩ
diện. Tôi với anh ở bên kia chẳng ngày ngày phơi mặt lê chân bán hàng ở chợ
là gì. Sĩ diện" [6, 69] là lời của vợ cậu cả - người chi ly tính toán tiền nong;
hay là lời của cánh nhà báo: "Làm báo mà cứ hai chân đút gầm bàn ấy à - là
loại báo hại. Muốn viết được hay thì phải biết sống hay" [6, 73]…
Bên cạnh cách nói dân dã, đời thường, Thùy Dương còn sử dụng thành
ngữ, tục ngữ, ca dao, những câu nói, bài hát ru, hát vè… là "ngữ liệu" được
chị đưa vào đối thoại nhằm gia tăng tính thuyết phục cho lời nói và làm mới
cho ngôn ngữ dân gian truyền thống. Một loạt thành ngữ như: "ăn trắng mặc
trơn", "rổ rá cạp lại", "có đi có lại mới toại lòng nhau", "há miệng mắc
quai" , "lo bò trắng răng" [6]; "cái sảy nảy cái ung", "hỏng cả chì lẫn chài",
"tan cửa nát nhà", "vơ đũa cả nắm", "án binh bất động", "được đằng chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lân đằng đầu", "một cái lạ bằng tạ cái quen" [7]; nào là "ông mất chân giò bà
77
thò chai rượu", "ngậm bồ hòn làm ngọt", "cá không ăn muối cá ươn", "ăn đời
ở kiếp", "sẻ đàn tan nghé" [8]… Đến các câu ca dao dù không xa lạ với độc
giả nhưng lại rất ấn tượng: "Xã viên làm việc bằng hai, Để cho chủ nhiệm xây
nhà, xây sân, Xã viên làm việc chuyên cần, Để cho chủ nhiệm xây sân, xây
nhà" [6]; "Trời mưa bong bóng phập phồng, Mẹ đi lấy chồng con ở với ai" [7,
242]; "Đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan" [7, 195];
"Sông sâu cá lội biệt tăm, Phải duyên chồng vợ ngàn năm vẫn chờ"[8, 269];
"Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần" [7, 310]… Các câu Tục ngữ được
vận dụng cũng rất phong phú: "Đi một ngày đàng học một sàng khôn" [6];
"Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào" [8, 146]; "con không chê cha mẹ khó, chó
không chê chủ nghèo" [8, 241] … Rồi đến những câu hát, câu vè: "Tập tầm
vông con công nó múa nó múa làm sao nó chụm chân vào nó xòe cánh ra, a
chị em chúng ta nhún chân cho dẻo dẻo vẫy tay cho khéo khéo…" [6];
hay"…Mẹ đi cấy đồng sâu lâu về - bắt được con trắm con trê - cầm cổ lôi về
nấu nướng cho cái ngủ ăn - cái ngủ không ăn để dành đến Tết - Mèo già ăn -
vụng mèo ốm phải đòn - mèo con phải vạ - con quạ đứt đuôi - con ruồi đứt
cánh - đòn gánh mất mấu - củ ấu mất sừng - bánh chưng mất lá - con cá mất
vây - ông thầy mất sách - Thợ mạch mất dao - thợ rào mất búa - xay lúa mất
giằng - đầu làng mất cổng - cuối làng mất cái ao to…" [8, 125]…Có thể
khẳng định, với ngôn ngữ đời thường, đậm chất dân gian, Thùy Dương đã
phác họa trong văn của mình không chỉ nét sinh động, gần gũi của cuộc sống
đời thường, mà qua đó còn biểu hiện một thế giới quan khá ấn tượng qua cách
nói năng, so sánh, ví von, sử dụng nhiều ca dao, tục ngữ, những câu hát, câu
vè…đó là kiểu ngôn ngữ riêng của phái nữ và cũng là cách tư duy, lý giải sự
việc thường chỉ có ở người phụ nữ mà thôi.
3.2.2.2. Ngôn ngữ mang đậm chất trữ tình
Rung cảm trước cuộc sống và tình người, Thùy Dương đã thể hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong văn mình những trang sách mượt mà, giàu chất thơ, chất nhạc. Chất trữ
78
tình trong tiểu thuyết của chị được nhìn nhận chủ yếu qua hồi ức và những
trải nghiệm thực tế của nhân vật. Nhân vật trong sáng tác của Thùy Dương đã
tự phơi bày thế giới bên trong phức tạp của mình với vị trí của người kể
chuyện xưng “tôi”, cũng có lúc tác giả nhập thân vào nhân vật để cất lên tiếng
nói giãi bày, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình.
Xét theo ngôi kể, đây là lời kể theo ngôi thứ nhất của người kể chuyện
xưng "tôi". Kiểu lời này có điểm nhìn mang quan niệm nhất quán cho câu
chuyện, cho phép người kể chuyện "dông dài" trong phạm vi vấn đề được
quan tâm và có sự đánh giá, phân tích. Đó có thể là lời của một nhà báo ngay
thẳng, trung thực nhưng không dám tách mình ra khỏi xã hội phức tạp để
đánh giá con người [Ngụ cư]. Đó có thể là lời của một nữ doanh nhân nhìn
nhận về sự nghiệp và cuộc sống tình cảm cá nhân một cách bản năng và
nhạy bén [Thức giấc]. Đó cũng có thể là lời của nhiều thế hệ về những
chuyện khác nhau của Nhân gian. Như vậy, ngôi kể đóng vai trò quyết định
đến trường nhìn và điểm nhìn của nhân vật. Lời kể ngôi thứ nhất của Thùy
Dương và của Thạch Lam có điểm tương đồng ở chất trữ tình, khả năng tự
bộc bạch.
Trong Ngụ cư, nhân vật tôi thấy được cảnh sắc thiên nhiên thật bình yên,
tươi sáng và tràn đầy sức sống khi về thăm quê cậu Cả “Cổng làng xám mốc
bên cây xà cừ đổ lá. Giếng làng với những bậc đá xanh. Bèo ong dày xít một
góc, những chiếc phễu xinh xinh đựng đầy thứ nước trắng bạc. Mấy cô gái
té nước rửa chân, bắp chân trắng ngời. Một con gà mái mơ lông mượt ngơ
ngác đi ngang qua. Trời đã chạng vạng. Bóng những người tay dắt trâu, vai
vác bừa từ cánh đồng về. Mùi bùn, mùi phân trâu, mùi rạ dầm nước ngai
ngái, nồng nồng. Tiếng một con chim chìa vôi bay vụt qua rơi xuống lẻ
loi…” [6, 89]. Những câu văn thơ mộng ấy giúp bạn đọc nhận ra một miền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quê quen thuộc của vùng đồng bằng Bắc bộ với những cổng làng, giếng
79
nước, ao bèo; hơn nữa là sự gắn bó thân thiết của những người nông dân với
hình ảnh “tay dắt trâu, vai vác bừa”… Đó còn là bức tranh muôn vàn sắc
màu khác nhau khi nhân vật tôi [Ngụ cư] nhớ về quá khứ của mình “Tôi giụi
cả mặt vào bó hoa. Lòng chùng xuống. Xa xưa ngày nào đó tôi và người ấy
dắt nhau đi bên triền sông Hồng. Hoa cải vàng như mơ phơ phất trong gió.
Hoa thìa là vàng sậm, hoa mùi li ti trắng, hạt tròn mẩy thơm xanh…” [6, 45].
Thảo [Nhân gian] luôn bâng khuâng, lưu luyến khi nghĩ về tuổi thơ của
mình “…Chợt nhớ đến ánh mắt của chàng trai nhà bên. Anh ấy lần đầu tiên
viết thư cho cô bé mười bảy tuổi, nhắc hoài một cô bé áo hoa xanh tóc buộc
vểnh như đuôi ngựa luôn bận rộn với xâu lá bàng mùa đông nhặt về đun bếp,
lăng xăng bên những khóm hoa, rình rập chờ cây hạt cườm chín để xỏ vòng
đeo chân. Những hạt cườm tách từ bẹ lá trắng ngà như ngọc trai, đúng hơn
như ngọc của sữa cây lắng lại…Chàng trai ngày ấy viết rằng sẽ chẳng bao giờ
quên nổi cái cô bé đáng yêu, có nụ cười sáng rỡ với cặp mắt đen và hàng mi
cong vút nghịch ngợm để cả que diêm lên mà chẳng sợ rơi…” [8, 221]. Yên
Thao lại có xúc cảm riêng khi hòa mình trước thiên nhiên rộng lớn của sông
Hồng “Nhưng bờ cỏ sông Hồng là nơi tôi thích nhất. Cỏ mềm và thơm hăng.
Cơ thể tôi cũng mềm và thơm như cỏ. Phía trên cao kia là trời đen thẫm.
Những ánh sao nhấp nháy xa xa như đồng lõa, như hứa hẹn…” [7, 104]; còn
(linh hồn) Hoàng lại thấy thiên nhiên lúc về đêm thật ấn tượng “Trăng
thượng tuần sáng bàng bạc, gió nam hây hẩy và sóng lúa rì rào. Hơi cỏ, hơi
lúa và hơi gió ngọt thoảng” [8, 65]; rồi cảm nhận của cô gái [Nhân gian] khi
đến một miền đất lạ “Rừng thông, rừng hoa trôi qua đâu đó rồi. Cả màn
sương bàng bạc phủ, cả cái lạnh bảng lảng, cả những cô gái mặt hoa da
phấn của xứ cao nguyên, cả cơ man nào là khăn áo rực rỡ…” [8, 225] cũng
thấy thiên nhiên có sức hấp dẫn và đáng yêu làm sao… Những cảm nhận rất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
riêng của mỗi nhân vật trong tiểu thuyết Thùy Dương được diễn tả với ngôn
80
ngữ hết sức gần gũi, giản dị nhưng thấm đượm chất nhạc, chất thơ. Nhịp
điệu trong mỗi câu cứ đều đều, nhẹ nhàng như những nốt nhạc du dương.
Kết hợp với cách sử dụng kiểu câu: câu ngắn, câu dài đan xen, tác giả đã tạo
cho bạn đọc một tâm thế thật thoải mái để chiêm nghiệm những lời tự bạch
về cảm xúc, sự trải nghiệm của nhân vật trong cuộc sống thường ngày.
Bên cạnh đó, điểm nhấn ngôn từ của Thùy Dương nằm ở ngôn ngữ độc
thoại nội tâm - "phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực
tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của
con người trong dòng chảy trực tiếp của nó" [15, 122] với hai loại chủ đạo
là lời nửa trực tiếp và lời của dòng ý thức. Trong văn xuôi, đặc biệt là tiểu
thuyết, độc thoại nội tâm là biện pháp bộc lộ ý nghĩ thầm kín ưu thế hơn lời
trực tiếp của nhân vật. Nó cho phép người đọc thâm nhập vào mọi ngóc ngách
của tâm trạng con người (cả những điều tế nhị nhất). Thùy Dương đã tận dụng
tối đa ưu thế của biện pháp này và thể hiện với các dạng khác nhau một cách
sinh động.
Lời nửa trực tiếp là lời "tác giả nhân danh mình, nhưng lại nắm bắt từ
ngữ và ngữ điệu của nhân vật" [28, 219]. Theo T. Môtưliôva, lời nửa trực
tiếp thuộc phạm vi của độc thoại nội tâm, vì trong đó "tiếng nói nhân vật
dường như được tách ra làm hai tiếng nói tranh cãi nhau" [28, 219]. Trong
tiểu thuyết của Thùy Dương, lời nửa trực tiếp xuất hiện hai dạng rõ rệt: đầu
tiên là lời đối thoại; sau đó là sự xuất hiện của ý nghĩ. Với lời nửa trực tiếp,
tính cách, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật được bộc lộ; đồng thời nó mang
lại hiệu quả đặc biệt cho tiểu thuyết của Thùy Dương. Việc nhân vật độc
thoại nội tâm bằng lời nửa trực tiếp là điểm xoáy trên cái nền đều đều, nhẹ
nhàng của giọng văn trữ tình. Thủ pháp độc thoại nội tâm của Thùy Dương
gợi nhớ tới L.Toxntoi với "Chiến tranh và hòa bình" khi Andrey chìm vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thế giới nội tâm bằng "Hai tâm trạng" để nhìn nhận lại cuộc đời mình.
81
Tồn tại dưới dạng lời nửa trực tiếp, độc thoại nội tâm còn một dạng tồn
tại nữa là lời của dòng ý thức. Theo Edoward Dujardin, độc thoại nội tâm
dưới dòng ý thức là "nó được trình bày dưới hình thức hỗn độn, chủ quan, nó
tái hiện cái dòng liên tục của ý nghĩ xuất hiện trong tâm hồn nhân vật theo
trật tự mà nó xuất hiện. Nó vẫn chưa được lựa chọn, nhưng không phải theo
logic của ý trí" [31, 219]. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với kiểu độc
thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Thùy Dương. Ở đây, kỹ thuật dòng ý thức
đã được cụ thể hóa thành lời nói của tâm trạng. Đó là gợi dẫn về ký ức trong
khứ hoặc ẩn ức được nhân vật giấu kín trong lòng. Nhân vật Yên Thao trong
Thức giấc đã có lúc rơi vào tâm trạng như vậy: "Ngày yêu Nghi tôi không
giấu mối tình đầu, không giấu cả việc không còn là con gái…Ngày xa xưa ấy
tôi chậm kinh ngay sau khi người kia vội vã ra nước ngoài như chạy
trốn…Gần hai mươi ngày sau khi tôi bắt đầu ngấm nỗi sợ hãi của Thu Ba, thì
tôi ục ra…Lúc lấy chồng rồi, một ngày nào đó, chợt nhớ ra tôi hoảng hốt -
người ta bảo nếu bị xảy một lần dễ quen dạ…" [7, 266].
Có thể thấy, với dạng tồn tại của lời nửa trực tiếp và lời của dòng ý
thức thuộc độc thoại nội tâm, ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương
mang đậm chất trữ tình thiết tha, sâu lắng. Mỗi câu văn, đoạn văn trong tiểu
thuyết của chị như lắng lại trong tâm trí bạn đọc những khúc nhạc du dương,
dịu nhẹ và ngân vang mãi mãi.
3.2.2.3. Ngôn ngữ mới lạ, hiện đại
Bên cạnh ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường và đậm chất trữ tình,
ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy Dương còn thể hiện nét mới lạ, hiện đại.
Để có yếu tố này, chị đã kết hợp sử dụng khẩu ngữ của đời sống hiện đại như
một cách mang lại sự mới mẻ cho ngôn ngữ: "tiền nhiều như quân Nguyên",
"chọc tổ ong bầu", "bó tay chấm com", "nhỏ như con thỏ", "ăn Bắc mặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nam", "ngứa con mắt bên phải, đỏ con mắt bên trái", "dính chưởng", "chân
82
tươi chân héo"… Ngoài ra, Thùy Dương còn đưa vào một hệ thống từ nước
ngoài là tên các thương hiệu hàng hóa và hoạt động của đời sống tiêu dùng
hiện đại: Ellgy, Comfort, Electrolux, Dimah, Louis Vuiton, Spa, Catwalk,
Packson, Highland, Coffee, Capucino, Escada, Gucci, Jimmy Choo, Microsoft,
Qiagen, Luscote, Dior, Chivas regal, Envy, Chanel, "Sex in the city", Web,
comment, Internet, list, Lexus, Hermes, Valentino, Kenzo, Bubberry, Amani,
Metropoll, Prada, L'Oreal, Daewoo… Hệ thống từ này vừa thể hiện sự pha
trộn văn hóa tiêu dùng của Việt Nam và nước ngoài, vừa phản ánh những cái
nhìn trái chiều về việc lạm dụng "hàng ngoại". Việc kết hợp ngôn ngữ hiện
đại, song không lạm dụng đã khiến cho ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thùy
Dương có nét độc đáo, mới lạ không thể lẫn với bất cứ tác giả nào. Đây chính
là biệt tài của tác giả trong việc vận dụng ngôn ngữ truyền thống và hiện đại.
Tóm lại, việc tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Thùy
Dương, cho thấy thực chất sáng tạo về phương diện ngôn từ và những đóng
góp của chị cho ngôn từ nghệ thuật của văn học Việt Nam đương đại. Thông
qua hệ thống ngôn ngữ văn học mà chị xây dựng, người đọc không chỉ hiểu
thêm về thực tại cuộc sống mà còn có thể thâm nhập vào đời sống nội tâm của
nhân vật và của chính mình ở những tầng bậc mới đầy bí ẩn. Tiểu thuyết của
Thùy Dương đã góp phần làm phong phú thêm thế giới ngôn ngữ của văn học
thời kỳ đổi mới.
3.3. Các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết của Thùy Dƣơng
3.3.1. Khái niệm giọng điệu
Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu (voice) là một yếu tố cơ bản, phản
ánh quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ của người sáng tạo. Giọng điệu là “âm thanh
được xét ở tấm lòng, biểu hiện thái độ: buồn, vui, giận, hờ hững” [15, 67]. Nó
khác giọng, bởi giọng là “âm thanh được xác định ở góc độ vật lí như cường độ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trường độ, cách phối âm và âm lượng”. Còn “Giọng điệu là thái độ, tình
83
cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được
miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc
điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi
ca hay châm biếm…” [15, 112].
Giọng điệu chịu sự chi phối trực tiếp của nhà văn, phụ thuộc chặt chẽ
vào yếu tố chủ thể như thái độ, tình cảm, điểm nhìn, quan hệ của chủ thể đối
với đối tượng được tái hiện trong tác phẩm. Trong đó, điểm nhìn và thái độ sẽ
quy định tính chất của giọng điệu.
Trong sáng tác, mỗi nhà văn có sự đổi mới trong nghệ thuật trần thuật.
Nhà văn đã rất quan tâm tới việc làm mới giọng điệu để góp phần cách tân
nghệ thuật trần thuật. Nhiều tác giả đã khẳng định mình qua giọng điệu trần
thuật như Nguyễn Khải, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Lê Lựu, Chu
Lai… Khảo sát giọng điệu trần thuật chính là cách để xác định khuôn mặt
nhà văn. Bởi giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng để khu biệt
phong cách tác giả, là “một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong
tác phẩm”. Nó là yếu tố có vai trò chủ đạo cấu thành hình thức nghệ thuật
của tác phẩm. Giọng điệu “vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau,
làm cho chúng mang một âm hưởng nào đó, cùng chung một khuynh hướng
nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và
định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó trong chính giọng ấy
mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy đủ hơn, thậm chí mới mẻ hơn” [41,152].
Mỗi nhà văn có phong cách đều tạo cho mình một kiểu giọng điệu riêng.
Nếu như trong đời sống, giọng nói giúp ta nhận ra con người thì trong văn
học, giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả. Nếu như giọng điệu của Nam Cao
“là giọng cay đắng, chua chát trước những bi kịch của con người” thì
“giọng điệu của Nguyên Hồng là giọng cảm thương thống thiết trước sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thống khổ của con người” [29,72]…
84
Vậy, làm thế nào để xác định giọng điệu của một tác phẩm, một nhà
văn? Đây là một vấn đề không đơn giản bởi không phải là phép cộng của câu
chữ mà nó là sự cộng hưởng, kết hợp hài hòa của nhiều yếu tố cùng sự thăng
hoa cảm xúc của chủ thể sáng tạo. Do vậy, mỗi nhà văn đã tạo được một hệ
thống giọng điệu phù hợp với cảm hứng chủ đạo, tư tưởng, nhân vật… trong
sáng tác của mình.
3.2.2. Giọng điệu trong tiểu thuyết của Thùy Dương
3.2.2.1. Giọng mỉa mai, châm biếm
Trong mỗi sáng tác của mình, Thùy Dương không chỉ nhìn thấy thực
trạng nhức nhối của cuộc sống hiển hiện trước mắt mà còn tìm thấy hơi ấm
của tình yêu thương và sự chia sẻ giữa con người với nhau. Vì lẽ đó, hình
tượng tác giả luôn tồn tại nhiều giọng kể. Tuy nhiên, nhìn tác phẩm của Thùy
Dương từ góc độ khái quát, người đọc sẽ nhận ra một giọng riêng của nhà
văn: nhẹ nhàng, đôn hậu, đối thoại với cuộc sống và với chính mình.
Giọng điệu mỉa mai, châm biếm thường xuất hiện trong tình huống trớ
trêu, dở khóc dở cười. Thùy Dương sử dụng giọng điệu này để nói về bi kịch
của cá nhân hay của cả thời đại. Có đôi lúc, giọng châm biếm xuất hiện ngay
trong những triết lý. Trong Nhân gian, có một ông quan đã đúc kết "Kỹ nữ và
làm quan là hai nghề nghiệp giống nhau nhất!" [8,13]. Hay ở Thức giấc,
giọng điệu vừa giễu nhại vừa xót xa khi nối về quan chức "phải suy nghĩ, suy
nghĩ thật thấu đáo để xác định rõ chúng ta phải trồng cây gì, nuôi con
gì?...Rõ là một cuộc tư vấn vĩ đại" [7, 183], thậm chí ông tổ trưởng [Nhân
gian] sợ tổ mình không đạt danh hiệu “một trăm phần trăm gia đình văn hóa”
nên đã “bênh vực mấy nhà có con nghiện – toàn gia đình cán bộ tử tế, chẳng
may có thằng con ra xã hội rồi nghiện ngập. Nó là tệ nạn xã hội đấy chứ. Mà
nó mới chỉ lấy trộm đồ nhà chứ chưa lấy đồ hàng xóm. Ta mà loại họ ra khỏi
gia đình văn hóa thì tổ ta chỉ được chưa đầy tám mươi phần trăm – kém nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khu à?”. Ông tổ trưởng lý lẽ như thế “Vậy mà cả tổ im lặng. Ai cũng thấy sờ
85
sợ rằng biết đâu một ngày nào đó cái tệ nạn xã hội ấy nó nhảy vào nhà
mình… Tốt nhất là im. Và im lặng thì cũng có nghĩa là đồng ý. Vậy là cả tổ
dân phố chúng tôi được công nhận một trăm phần trăm gia đình văn hóa” [8,
50]. Đứng trước sự việc như vậy, từ ông tổ trưởng đến những người có liên
quan trong tổ dân phố không một ai dám nhìn thẳng vào sự thật, không một ai
dám đứng lên bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý cho chính mình. Đó là cách nói
của Thùy Dương rất nhẹ nhàng nhưng rất thâm thúy, sâu cay. Đặc biệt sự mỉa
mai, châm biếm khi nói đến học hàm, học vị các nhà lãnh đạo, nhân vật Yên
Thao cảm thấy "buồn nôn" khi phần giới thiệu quan chức của ta - liên tục như
súng liên thanh: "tiến sĩ A - Chủ tịch…tiến sĩ B - Phó chủ tịch…tiến sĩ C - Phó
chủ tịch - Tiến sĩ D - Tiến sĩ E…Tôi đếm có chín quan chức thì đúng tám ông
tiến sĩ, mà toàn loại tiến sĩ những ngành khoa học chéo ngoe!" [7, 184]. Rõ
ràng, sức lôi cuốn của đoạn văn không phải vì chức danh của các vị quan
chức mà ở chính sự thật về bằng cấp và năng lực của họ. Viết về sự thật ấy,
nhà văn không có ý miệt thị hay nhạo báng họ, mà nhà văn chỉ muốn mỗi
chúng ta hãy dũng cảm mà nhìn thẳng vào sự thật để sống, làm việc có ý thức
và trách nhiệm hơn trong cơ chế mới của một giai đoạn lịch sử mới.
Bên cạnh đó, nhà văn còn sử dụng ngữ điệu kết hợp cùng để tăng hiệu
quả nghệ thuật. Chị thường lên giọng, thậm chí sử dụng từ ngữ nhấn mạnh
"rõ là...", "này là..." với tần suất liên tục. Tuy vậy, ở tiểu thuyết của Thùy
Dương không có những châm biếm đả kích sâu cay như trong Số đỏ, Giông tố
của Vũ Trọng Phụng mà giễu nhại nhẹ nhàng nhưng thâm trầm sâu sắc. Chính
yếu tố này làm cho hình tượng tác giả thực hơn, đời hơn. Sau mỗi tiếng cười,
mỗi bạn đọc đều cảm nhận rõ sự băn khoăn trăn trở của tác giả trước những
điều bất cập trong cuộc sống hôm nay.
3.2.2.2. Giọng điệu đồng cảm, xót xa
Trong tiểu thuyết của Thùy Dương, ngoài giọng điệu mỉa mai châm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biếm còn xuất hiện giọng đồng cảm, xót xa - giọng văn nổi trội của nhà văn.
86
Trước ngang trái, dở dang của cuộc sống, chị thường có cảm xúc mạnh mẽ.
Trước hết, chị đồng cảm với những người cùng mang thân phận phụ nữ. Bởi
chị hiểu hơn ai hết những nỗi khổ của đàn bà: sinh con, vun vén hạnh phúc, lo
toan cho cuộc sống của gia đình…Nhân vật tôi khi sinh cô con gái đầu lòng
đã nghĩ "Rồi con sẽ mang đủ nỗi đau của mẹ - của một người đàn bà, khổ
thân con tôi" " [6, 105]. Trong Ngụ cư, ta bắt gặp một giọng đồng cảm, xót xa
của nhà văn được phát triển theo quá trình. Trước sự tan vỡ của gia đình
Tuyết, nhà văn trần thuật bằng giọng khách quan, hầu như không tỏ thái độ gì.
Nhưng rồi đến lượt Hoa, Lam cũng gặp trắc trở trong cuộc sông gia đình thì
sự nhạy cảm của chị đến một cách tự nhiên. Cảm xúc của nhà văn ban đầu chỉ
dừng lại ở mức độ cảm thông, sau đó là đồng cảm, xót xa. Thùy Dương
thương cho kiếp người phụ nữ - dù sống ở hoàn cảnh nào cũng không tránh
khỏi bất hạnh, khổ đau. Chứng kiến cái chết và đám tang của chồng Tuyết,
nhân vật tôi tự nói với mình "Có khi là tôi khóc cho tôi, cho tất cả những
người đứng quanh đây" [6, 140]. Người chết ra đi thanh thản, để lại cho
người sống biết bao đau đớn, lo lắng. Còn Tuyết và hai đứa con thơ dại, còn
cô ca-ve và đứa con đang nằm trong bụng cô sẽ ra sao? Nhân vật tôi (hay
chính nhà văn) cứ trăn trở suy nghĩ ấy, cuộc sống của người khác mà như
chính mình là người trong cuộc vậy. Sang Thức giấc, nhân vật Yên Thao lại
đồng cảm với tình yêu của mẹ anh Cả " Tôi khóc vì bà, vì tôi hay vì tất cả
những mối tình lỡ dở?" " [7, 247]. Đứng trước tình huống ấy, tác giả không
chỉ đồng cảm với nhân vật mà còn thương cho cả "tôi" và "tất cả". Tác giả
còn đồng cảm với những cuộc đời, số phận không may mắn: cảm thông với
hoàn cảnh của bà Bưởi, xót xa với những bà mẹ luôn lo lắng cho hạnh phúc
của con gái mình (mẹ "tôi", mẹ Lam…) trong Ngụ cư. Đó còn là sự xót xa
của một cô bé Yên Thao [Thức giấc] chưa đầy chục tuổi trước cuộc sống của
những em bé là con bệnh nhân "hủi" ở làng Nhân Ái - nơi cha cô làm việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
"Giọng cái Hiền như giọng của ai. Xa xôi đều đều…Tôi thấy mắt mình cay
87
cay. Lại buồn nữa. Tôi thấy thương cái Hiền quá. Cả bố mẹ, em nó…mà
chẳng biết bảo sao" [7, 28]. Còn ở Nhân gian là sự xót xa của Thảo khi
"những ông tướng đi qua cuộc chiến tranh vẫn còn có ngôi nhà cũ giá thị
trường tính hành triệu đô la, thời gian rảnh rỗi viết sách và trồng rau. Những
người lính trẻ như Hoàng đến nắm xương tàn giờ vẫn chưa tìm thấy, linh hồn
vất vưởng chẳng có chốn đi về!" [8, 217], là sự thương cảm cho Kỳ Thanh
"còn yêu nên còn hận, và còn khổ" [8, 278]… Ngữ điệu mà Thùy Dương kết
hợp với giọng đồng cảm xót xa là những câu văn ngắn dài đan xen, cũng có
khi lại là nhiều câu văn dài nối nhau liên tiếp như "Chị hấp tấp đứng dậy, mở
vali gỗ lục tìm cái gì đó rồi lại đóng lại. Rồi mở ra, đóng lại. Phải đến chục
lần…Chị không nói được anh nữa. Chị về nhà mẹ đẻ thôi. Rồi chị quay bước.
Thấy chị không về nhà mà đi ra hướng đê, tôi gọi. Chị Cầm quay lại. Những
sợi tóc mai loăn xoăn, vàng tơ dính trên trán, gương mặt thon trắng và hoảng
hốt" [6, 65], hay "Giọng thằng bé đầy cay cú. Tôi thở dài. Biết nói gì giúp nó.
Chỉ mong nó đừng oán trách cha mẹ là được. Mong cái câu các cụ nói "con
không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo" là đúng" [8, 241]… Chính
kiểu ngữ điệu này làm cho giọng văn của Thùy Dương mang âm hưởng trầm,
buồn nhưng không hề bi quan. Mặt khác, nó còn góp phần thể hiện giá trị
nhân văn sâu sắc trong mỗi sáng tác của nhà văn.
3.2.2.3. Giọng điệu dí dỏm, hài hước
Khác với tiếng cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán những cái xấu
xa, giả dối của xã hội phong kiến thực dân, tiếng cười trong tiểu thuyết của
Thùy Dương thể hiện ở sắc thái giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh, tươi vui.
Tiếng cười ở đây toát lên từ những câu chuyện bất bình thường trong cuộc
sống bình thường. Với con mắt tinh nhạy và tấm lòng gắn bó tha thiết với
cuộc sống đời thường, nhà văn đã chuyển tải mọi buồn vui, hay dở của cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống sinh hoạt để cảm nhận vẻ đẹp tự nhiên, đáng yêu của nó.
88
Trong cuộc sống, tiếng cười được tạo ra ở mọi tình huống, lời nói hay
cử chỉ. Trước câu nói của chàng trai "mẹ trẻ muốn lên nóc tủ buôn hoa quả
à?" [8, 95], nhân vật cô gái trẻ [Nhân gian] vừa tức nhưng cũng vừa buồn
cười vì cách hành ngôn của anh ta. Quả thực, trong lúc bị nước ngập khiến làn
xe không thể di chuyển được mà cô gái lại cố cho xe của mình vượt lên, đây
có phải là sự nguy hiểm hay không? Yếu tố gây cười trong lời nói của anh
chàng chính là cụm từ " lên nóc tủ buôn hoa quả" - đồng nghĩa với cái chết
khi cô cố tình vượt ẩu. Cũng chính vì bị ngập nước nên cô không phải đi làm.
Ở trong nhà một mình, cô nghe một ca khúc với tiếng hát của anh chàng ca sĩ
nghiệp dư mà cô cho là "cảm động và tha thiết quá": "Hà Nội mùa này phố
cũng như sông - cái rét đầu đông, chân em thâm thâm trong nước lạnh - Hoa
sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố - Đường cổ ngư xưa, ngập tràn
nước sông Hồng…Hà Nội mùa này chiều không có nắng - Phố vắng nước lên
thành con sông - Quán cóc nước dâng ngập qua mông - Hồ Tây, giờ không
thấy bờ - Hà nội mùa này lòng bao đau đớn…" [8, 97-98]. Rõ ràng, bài hát
"Hà Nội mùa vắng những cơn mưa" không có lời như vậy. Lời bài hát đã
được thay hoàn toàn, chỉ còn nhạc điệu là giống mà thôi. Đây là sự "nhại lời"
bài hát mà Thùy Dương đưa vào tác phẩm của mình. Sự thay đổi ấy tạo nên
yếu tố hài hước, dí dỏm, đầy ngộ nghĩnh. Với Nhân gian, cách nói của (linh
hồn) nhân vật Hoàng về sự thay đổi của làng xóm với một giọng hồ hởi, phấn
khởi nhưng đầy hài hước "Cả làng như đổi đời. Nhà nhà chia đất cho con xây
lên tầng hết lượt, ngõ nhỏ đổ bê tông cứ y như phố làng, trẻ con phóng xe
máy vèo vèo đâm chết bốn, năm người đi bộ không kịp tránh. Nam thanh nữ
tú đua nhau sắm di động, chưa ra khỏi nhà đã a lố a lô rộn cả tai. Chủ tịch
huyện có biệt thự to đùng ngay sau khi dự án vừa khởi công, con trai cũng tấp
tểnh ra nước ngoài nhưng học đến hai năm chưa xong dự bị đại học" [8, 253].
Dù là cảm nhận của người âm nhưng ta cũng thấy được sự khôi hài trong cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói, trong sự nhìn nhận. Tác giả để cho nhân vật tự lên tiếng, từ đó yếu tố hài
89
tự xuất hiện. Cái đáng nói ở đây là giữa việc làm và kết quả của việc làm ấy
tạo nên sự bi hài cho người đọc.
Trong tiểu thuyết Chân trần, người đọc còn biết đến một bức thư mà
người vợ "ít chữ" gửi cho chồng đi bộ đội với tất cả tình cảm và tấm lòng
chân thật "…Từ ngày anh đi mấy mẹ con em ở nhà vẫn khỏe, con chó vện nhà
mình vừa đẻ được năm con, mặt con nào con nấy tròn vạnh như mặt anh vậy.
Anh về chơi cả mẹ cả con, cả nhà cả chó đều mừng. Thôi thư ngắn tình dài,
chúc anh giấc ngủ ngàn thu" [9, 89]. Với những câu văn như vậy, người đọc
như thấy mình được cười thoải mái, cười vì nội dung bức thư ngắn kia có sự
đồng nhất giữa người và vật nuôi. Nhưng cũng thương thay vì sự nhận thức
chưa đầy đủ của những người nhà quê không có điều kiện học hành đầy đủ.
Tóm lại, các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết của Thùy Dương
được quy định bởi những quan niệm về hiện thực và con người của tác giả.
Các giọng điệu (châm biếm mỉa mai, đồng cảm xót xa, dí dỏm hài hước) còn
được thể hiện qua hệ thống từ ngữ đặc sắc, câu văn giàu ngữ điệu, hình ảnh
sinh động, gần gũi…Giọng điệu ấy vừa là phương tiện thẩm mĩ quan trọng
trong cấu thành tác phẩm văn chương, vừa bày tỏ trách nhiệm của tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trước con người và cuộc sống.
90
KẾT LUẬN
1. Văn học Việt Nam từ sau 1975 chứng kiến nhiều thay đổi từ quan
niệm sáng tác, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn đến tư duy thể loại. Cùng
chung dòng chảy ấy, vấn đề giới trong văn học trở thành một vấn đề được
giới nghiên cứu và sáng tác văn học Việt Nam quan tâm. Từ sau thời kỳ đổi
mới, văn học nữ quyền ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Có được thành tựu đó, không thể không kể
tới sự góp mặt của các nhà văn nữ ngày càng đông đảo trên văn đàn. Trong số
đó, Thùy Dương được biết đến như một cây bút tiểu thuyết có phong cách và
sáng tạo của văn học Việt Nam đương đại. Với sự bền bỉ, dẻo dai của một cây
bút giàu nội lực, nhà văn đã tạo cho mình những sắc diện mới mẻ, độc đáo
trong hành trình kiếm tìm sự tự do và bình đẳng cho phụ nữ.
2. Trong số rất nhiều nhà văn nữ đương đại, Thùy Dương đã tạo được
dấu ấn của riêng mình trong công cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới. Qua các
tác phẩm, Thùy Dương thể hiện hết sức đa dạng vấn đề giới qua đề tài, cốt
truyện, ngôn ngữ, đặc biệt qua hình tượng nhân vật trung tâm là người phụ nữ.
Nhà văn trăn trở đi vào những ngõ ngách sâu kín của tâm hồn họ, phát hiện ra
một thế giới huyền bí, mà ở đó những bi kịch, những khát vọng và những hồi
ức luôn song hành giữa cái được và cái mất. Nhưng hơn hết, sự mất mát đau
thương là lớn nhất, không gì bù đắp được cho những người phụ nữ mà tâm
hồn họ đã bị nhiều tổn thương. Vẫn là những vấn đề phát sinh từ cuộc sống
(chiến tranh, tình yêu, hôn nhân…) nhưng dưới cái nhìn của nhà văn mang
một ý nghĩa mới: người phụ nữ đi đến tận cùng của bản thể, vươn đến độ sâu
nhất của thiên tính nữ. Chị còn xây dựng thế giới nhân vật với nhiều kiểu
nhân vật khác nhau (nhân vật cô đơn, nhân vật tự ý thức, nhân vật tâm linh)
nhằm đi sâu khám phá và lý giải về con người trong thời hiện đại, đặc biệt là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người phụ nữ. Nhà văn đã tạo ra những phương diện nghệ thuật độc đáo với
91
các kiểu ngôn ngữ (Ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường, Ngôn ngữ
mang đậm chất trữ tình, Ngôn ngữ mới lạ, hiện đại) và nhiều giọng điệu khác
nhau (Giọng mỉa mai, châm biếm, Giọng điệu đồng cảm, xót xa, Giọng điệu
dí dỏm, hài hước). Tất cả đều tạo nên: ý thức nữ quyền của các nhà văn nữ.
Họ đấu tranh để có được quyền lợi của người phụ nữ, hơn nữa là hướng đến
vấn đề làm sao cho cuộc sống của người phụ nữ có chất lượng hơn và giàu
tính nhân bản hơn.
3. Với đề tài Vấn đề giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương, người viết
đã nêu ra những nét riêng trong sáng tác của nhà văn Thùy Dương so với các
nhà văn nữ khác. Chúng tôi hy vọng vấn đề giới trong tiểu thuyết của chị
được nhìn nhận từ phương diện nội dung đến phương diện nghệ thuật sẽ giúp
bạn đọc và các nhà nghiên cứu có cơ sở để mở rộng bình diện khám phá các
tác phẩm văn học, đặc biệt là những tiểu thuyết có hình tượng nhân vật trung
tâm là phụ nữ.
4. Những trình bày nêu trên mới chỉ là bước đầu để tìm hiểu về Vấn đề
giới trong tiểu thuyết của Thùy Dương trên cả phương diện nội dung và nghệ
thuật. Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi có thể có những cách
hiểu, cách lý giải chưa đầy đủ và không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi
rất mong được sự chỉ bảo, khích lệ, động viên của các thầy cô giáo và bạn đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để chúng tôi được hoàn thiện hơn trên con đường nghiên cứu khoa học.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2000), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội.
2. Y Ban (2008), Xuân Từ Chiều, NXB Phụ nữ, Hà Nội
3. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn học nghệ thuật hiện
đại”, Văn học (số 9).
4. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995, những đổi mới
cơ bản, NXB Giáo dục, Hà Nội
5. Thùy Dương (2010), tham luận Đại hội VIII Hội nhà văn Việt Nam
"Giao kèo của nhà văn", nguồn: www.phiendasau.multiply.com
6. Thùy Dương (2005), Ngụ cư, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
7. Thùy Dương (2007), Thức giấc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
8. Thùy Dương (2009), Nhân gian, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
9. Thùy Dương (2013), Chân trần,
10. Thùy Dương (1998), Truyện ngắn Thùy Dương, NXB Văn học
11. Phan Cự Đệ (Chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Đăng Điệp "Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học
Việt Nam đương đại", vienvanhoc.org.
13. Hà Minh Đức (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Bùi Như Hải, Văn học Việt Nam sau 1975 với nhu cầu đạo đức tối đa,
nguồn: www.vovanhoaqt.vnweblogs.com
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000) - Từ điển Thuật ngữ
văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
16. Tô Hoàng (25/12/2010), Nhà văn Thùy Dương và nỗi lòng biết ơn của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cựu binh, http//nhavantphcm.com.vn
93
17. Nguyễn Giáng Hương, Văn học phái nữ và một vài xu hướng văn chương
nữ quyền Pháp thế kỷ XX, http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
18. Thu Hương (2003), Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc,
http:/vietbao.vn, ngày 25/2/2003
19. Lê Minh Khuê Y Ban, Thùy Dương cùng nhau ra sách mới, Báo đời sống
văn nghệ, Thứ bảy, 30/01/2010.
20. Cao Hành Kiện, Sự cần thiết của cô đơn (Hoàng Ngọc Tuấn dịch),
nguồn: www.tienve.org
21. Phong Lê, "Từ cuộc thi tiểu thuyết 2002-2004 của Hội nhà văn Việt
Nam" , Báo Văn nghệ số 38, 17/9/2005.
22. Trần Thị Lệ (2012), Thiên tính nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, Luận văn
Thạc sĩ Ngữ văn , ĐHSP Thái Nguyên.
23. Lê Hồng My (2006), Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Lê Thanh Nga (2005), Ngụ cư và thân phận người phụ nữ, Tạp chí Tài
hoa trẻ số 21
25. Phạm Xuân Nguyên, Lời giới thiệu, Bìa 4 cuốn Nhân gian; Nxb HNV; 2010
26. Vương Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí Văn
học số 6
27. Trần Thị Mai Nhân, Quan niệm về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam
trong giai đoạn 1986, nguồn: www.hocvui.net
28. Nhiều tác giả (1999), Những vấn đề lý luận và lịc sử văn học, Viện văn
học Hà Nội
29. Mai Thị Nhung (2008), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết sau năm
1975 của Ma Văn Kháng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Đại học
Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30. Hoàng Phê (Chủ biên, 2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
94
31. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
32. Tập thể tác giả (2001), Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ, Hà Nội
33. Thạch Thảo (2007), Thức giấc, tiểu thuyết mới của nhà văn nữ Thùy
Dương, báo Nhân dân số 15
34. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội
35. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tính dục trong văn học hôm nay, http://vietbao.vn
36. Hữu Thỉnh, Báo cáo tổng kết cuộc thi tiểu thuyết 2002- 2004 của Hội nhà
văn Việt Nam, Báo Văn nghệ (số 37), 10/9/2005.
37. Nguyễn Bích Thu, Một hướng tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới, nguồn www.vienvanhoc.org.vn
38. Bùi Thị Thùy (2011) "Vấn đề giới trong sáng tác của Y Ban, Lý Lan, Đỗ
Hoàng Diệu", Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn , ĐHSP Hà Nội.
39. Cẩm Thúy (2008), Bước tiến mới của Thùy Dương, báo Phụ nữ số 41
40. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn, NXB Tri thức
41. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, NXB Trẻ TPHCM.
42. Nguyễn Mạnh Trinh, Tình dục và văn chương nữ giới trong nước, nguồn:
www.phunucali.com, ngày 4/12/2007.
43. Phạm Quang Trung, Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, nguồn:
www.khoavanhoc-ngon ngu.edu.vn
44. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên, 2009), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong
văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
45. Hoàng Ngọc Tuấn, Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu sáng
tạo bút pháp mới, nguồn: www.tienve.org.
46. Hồ Khánh Vân, Phê bình văn học nữ quyền, Tạp chí Văn nghệ trẻ (số 48)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày 25/11/2012
95
47. Hồ Khánh Vân, Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn học
nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX,
nguồn: http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
48. Vẻ đẹp dâng hiến, nguồn: www.dddn.com.vn
49. B.H. Rogers, Thực ra, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ là gì? ,
nguồn: ww.tienve.org
50. M.B khrapchenko (2002), (Nhiều tác giả, Trần Đình Sử tuyển chọn và
giới thiệu), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
96