ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG MẠNH CƯỜNG
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG MẠNH CƯỜNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN Ngành: LL&PPDH Bộ môn Lý luận Chính trị Mã số: 8.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KHƯƠNG THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS.GVC Nguyễn Thị Khương, khoa Giáo dục Chính trị,
trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, thông tin
trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả
Hoàng Mạnh Cường
XÁC NHẬN
XÁC NHẬN
CỦA KHOA CHUYÊN MÔN
CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Thị Khương
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này hoàn thành và bảo vệ thành công, ngoài sự nỗ lực cố gắng
của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo trong
trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, đặc biệt là các thầy, cô giáo
khoa Giáo dục Chính trị cùng gia đình, bạn bè, người thân.
Em xin được dành lời cảm ơn chân thành, lòng biết ơn sâu sắc đến:
- TS Nguyễn Thị Khương - người đã dành nhiều thời gian, công sức
hướng dẫn em làm luận văn và dành cho em nhiều tình cảm, động viên để em
có thể hoàn thành luận văn đúng tiến độ.
- Các nhà khoa học trong Hội đồng đánh giá luận văn, đã góp ý, chỉ ra
những ưu, khuyết điểm để em chỉnh sửa, hoàn thiện luận văn. Các thầy, cô
giáo trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo khoa
Giáo dục Chính trị cùng các thầy, cô giáo giảng dạy lớp cao học K26 chuyên
ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Lý luận chính trị đã tận tình
truyền đạt cho em những kiến thức quý báu giúp em có nền tảng kiến thức để
thực hiện luận văn.
- Quý trường THPT Lương Ngọc Quyến, trường THPT Thái Nguyên
Thành phố Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong
quá trình khảo sát, điều tra và thực nghiệm làm luận văn.
- Xin được trân trọng biết ơn bố mẹ, anh chị em trong gia đình và cảm
ơn bạn bè đã luôn động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi, giúp
tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả
Hoàng Mạnh Cường
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... vii
DANH MỤC CÁC BẢNG..................................................................... viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ.................................................... ix
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ....................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ........................... 4
5. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài .............................................. 5
6. Kết cấu của đề tài .................................................................................. 6
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN ................................... 7
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề ............................................................ 7
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học ............................................................................................. 7
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học môn Giáo dục Công dân ở trường Trung học phổ thông . 10
1.2. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ
thông Thành phố Thái Nguyên ............................................................... 12
1.2.1. Khái niệm về phương pháp nghiên cứu trường hợp ..................... 12
iii
1.2.2. Vai trò của phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn
Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố
Thái Nguyên ............................................................................................ 16
1.2.3. Chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 hiện hành .............. 18
1.3. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp nghiên cứu trường
hợp trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường Trung học
phổ thông Thành phố Thái Nguyên ........................................................ 24
1.3.1. Khái quát chung về các trường Trung học phổ thông ở Thành phố
Thái Nguyên ............................................................................................ 24
1.3.2. Đặc điểm học sinh và thực trạng việc dạy học môn Giáo dục Công dân
lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên hiện
nay......................................................................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................ 33
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ QUY TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN......................................... 34
2.1. Thực trạng vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy
học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông
Thành phố Thái Nguyên hiện nay ........................................................... 34
2.2. Quy trình sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học
môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành
phố Thái Nguyên ..................................................................................... 38
2.2.1. Các nguyên tắc xây dựng quy trình .............................................. 38
2.2.2. Quy trình thiết kế bài dạy và thực hiện bài dạy bằng phương pháp
nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên ........................... 41
2.2.3. Quy trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với giờ
dạy theo phương pháp nghiên cứu trường hợp ....................................... 50
iv
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................ 55
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐẢM BẢO THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN ........................... 57
3.1. Thực nghiệm sư phạm ...................................................................... 57
3.1.1. Khái quát chung về thực nghiệm sư phạm .................................... 57
3.1.2. Thực nghiệm sư phạm vận dụng phương pháp nghiên cứu trường
hợp trong dạy học trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên ........................... 62
3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu quả việc vận dụng phương
pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học trong dạy học môn Giáo dục
Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái
Nguyên .................................................................................................... 78
3.2.1. Nâng cao vai trò chỉ đạo, điều hành, quản lý giờ dạy có vận dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn Giáo
dục công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái
Nguyên của các cấp quản lý .................................................................... 78
3.2.2. Nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Giáo dục
công dân lớp 10 để có thể thực hiện dạy học bằng phương pháp nghiên
cứu trường hợp ........................................................................................ 80
3.2.3. Nâng cao tính tích cực tự giác học tập của học sinh ..................... 81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................ 83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................... 85
1. Kết luận ............................................................................................... 85
2. Khuyến nghị ........................................................................................ 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 87
v
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐC : Đối chứng
ĐG : Đánh giá
GDCD : Giáo dục công dân
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
KT: : Kiểm tra
KT, ĐG : Kiểm tra, đánh giá
NCTH : Nghiên cứu trường hợp
NCTHĐH : Nghiên cứu trường hợp điển hình
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học
môn GDCD cấp THPT ở Thành phố Thái Nguyên ...................... 35
Bảng 2.2: Những khó khăn khi vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường THPT Thành
phố Thái Nguyên ........................................................................... 37
Bảng 3.1: Các lớp tham gia thực nghiệm ...................................................... 58
Bảng 3.2: Số lượng GV dạy môn GDCD ở trường thực nghiệm ................. 58
Bảng 3.3: Điểm kiểm tra 15 phút của lớp TN và ĐC ở trường THPT Lương
Ngọc Quyến .................................................................................. 73
Bảng 3.4: Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp TN và ĐC trường THPT Thái Nguyên .... 74
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Điểm kiểm tra 15 phút của lớp TN và ĐC trường THPT Lương
Ngọc Quyến ............................................................................. 74
Biểu đồ 3.2: Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp TN và ĐC trường THPT Thái Nguyên ... 75
ix
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoảng thời gian trước và sau khi đổi mới, chúng ta đã chứng kiến
sự thay đổi với tốc độ “chóng mặt” của nhiều nền giáo dục trên thế giới. Đại đa
số các quốc gia phát triển là các quốc gia biết lựa chọn và lấy việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho thế hệ trẻ vốn kiến thức, nền tảng văn
hóa và năng lực thích ứng cao làm yếu tố mở đầu cho sự đổi mới và phát triển.
Điều đó cho thấy, đổi mới toàn diện giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết và
là xu thế mang tính toàn cầu trên thế giới hiện nay.
Ở Việt Nam, trong những năm qua nhất là những năm gần đây, ngành
giáo dục cũng đã có nhiều nỗ lực, cố gắng thay đổi căn bản và toàn diện giáo
dục theo quan điểm của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI, Nghị
Quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Điều đó đã đem
lại những chuyển biến sâu sắc trong giáo dục. Từng bước đưa giáo dục Việt
Nam phát triển, có thể hội nhập với khu vực và thế giới.
Chương trình phổ thông tổng thể năm 2018 ra đời đánh dấu bước phát
triển về chất trong giáo dục phổ thông ở nước ta. Với quan điểm toàn diện,
Chương trình nêu rõ quan điểm giáo dục phổ thông hiện nay là dạy học phải
hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh dựa trên sự tổ chức và
định hướng của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập sáng tạo, góp phần
hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo
niềm tin và niềm vui trong học tập cho học sinh. Quan điểm này có tính phổ
biến cho tất cả các môn học và hoạt động giáo dục ở nhà trường phổ thông
trong những năm tới đây.
Cùng với các môn học khác ở trường trung học phổ thông, môn Giáo
dục công dân (GDCD) có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành tri thức và
1
hành vi của người công dân. Thông qua các bài học về đạo đức, pháp luật,
kinh tế, môn GDCD góp phần bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ
yếu và năng lực cốt lõi của người công dân, đặc biệt là tình cảm, nhận thức,
niềm tin, cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp
luật, có kĩ năng sống và bản lĩnh đề học tập, làm việc và sẵn sàng thực hiện
trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập
quốc tế.
Để có thể giáo dục đầy đủ các phẩm chất và năng lực cốt lõi trong môn
GDCD, đòi hỏi người dạy phải “chú trọng tổ chức, hướng dẫn các hoạt động
để học sinh khám phá, phân tích, khai thác thông tin, xử lý tình huống thực
tiễn, trường hợp điển hình tăng cường sử dụng các thông tin tình huống,
trường hợp của thực tế cuộc sống xung quanh gần gũi với đời sống học sinh
trong việc phân tích, đối chiếu minh hoạ để các bài học vừa có sức hấp dẫn,
vừa nhe nhàng hiệu quả; coi trọng tổ chức các hoạt động trải nghiệm để học
sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới, phát triển kĩ năng và thái độ
tích cực, trên cơ sở đó hình thành, phát triển phầm chất và năng lực của người
công dân tương lai”. “Kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học truyền thông
với các phương pháp dạy học hiện đại theo hướng tích cực hoá hoạt động của
người học; tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù của môn
học như giải quyết vấn đề, phân tích trường hợp điển hình kết hợp nêu những
tấm gương công dân tiêu biểu xử lý tình huống có tính thời sự về đạo đức,
pháp luật và kinh tế trong cuộc sống hằng ngày, thảo luận nhóm đóng vai, dự
án” [45].
Những năm qua, chương trình hành động đổi mới phương pháp dạy học
môn GDCD nói chung và GDCD lớp 10 nói riêng đã được đội ngũ GV ở các
trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên triển khai tích cực. Tuy
nhiên, việc dạy và học môn GDCD trên thực tế chưa được quan tâm đúng
mức; các phương pháp hiện đại trong đó có phương pháp nghiên cứu trường
2
hợp (NCTH) chưa được vận dụng một cách khoa học và hiệu quả. Điều này
làm cho việc dạy và học môn GDCD học trở nên khiên cưỡng, gò ép, khó
hiểu, vất vả, đem đến tâm trạng nhàm chán; ngại học, ngại dạy đổi với cả thầy
và trò.
Thực tiễn nêu trên đã đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học GDCD
10 ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên theo hướng tiếp cận
năng lực, phát huy được sự chủ động, tích cực của HS khi tiếp nhận kiến thức.
Trong đó, vận dụng phương pháp NCTH đã trở thành nhu cầu nội tại để nâng
cao chất lượng giảng dạy môn GDCD nói riêng cũng như chất lượng giáo dục
nói chung ở Thành phố Thái Nguyên.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Vận dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục Công
dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên” để
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng vận dụng phương pháp
nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT
Thành phố Thái Nguyên, đề tài đề xuất quy trình và một số biện pháp nhằm
vận dụng có hiệu quả phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn
Giáo dục Công dân lớp 10 trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn hướng vào giải quyết các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Một là: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp
nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên.
3
Hai là: Phân tích thực trạng và đề xuất quy trình dạy học môn Giáo dục
Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên.
Ba là: Thực nghiệm sư phạm và nêu một số giải pháp nhằm đảm bảo thực
hiện có hiệu quả vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học
môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố
Thái Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục Công
dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực trạng vận dụng phương pháp nghiên
cứu trường hợp vào dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung
học phổ thông Thành phố Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Đề tài dựa trên:
- Các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử -
cụ thể...
- Cơ sở lý luận về phương pháp dạy học, phương pháp dạy học hiện đại
trên thế giới và trong nước.
- Kế thừa các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học, phương
pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học cũng như trong dạy học môn giáo
dục công dân ở nhà trường phổ thông.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
mà luận văn đặt ra, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
như sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết, gồm các phương pháp:
+ Phương pháp lịch sử và lôgic
+ Phân tích và tổng hợp tài liệu
+ Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
+ Phương pháp so sánh...
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp trên để tìm hiểu, nghiên
cứu, từ đó phân tích làm rõ những nội dung lý thuyết của đề tài nằm trong
chương 1 và một phần nằm ở chương 2, chương 3. Nhóm các phương pháp
trên cũng được sử dụng để nghiên cứu một số nội dung có tính thực tiễn nằm
ở một phần của chương 1 và toàn bộ chương 2, chương 3 của đề tài,
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp phỏng vấn;
+ Phương pháp điều tra xã hội học;
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm;
+ Phương pháp quan sát;
+ Sử dụng toán thống kê...
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn được tác giả luận văn sử dụng
để nghiên cứu những nội dung có tính thực tiễn nằm ở một phần trong của
chương 1 và toàn bộ chương 2, chương 3 của đề tài.
5. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
- Trên cơ sở làm rõ những vấn đề nghiên cứu, luận văn góp phần làm
rõ hơn việc vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn
Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái
Nguyên
5
- Các kết quả nghiên cứu trong luận văn còn góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ
thông Thành phố Thái Nguyên và môn Giáo dục công dân lớp 10 ở tỉnh Thái
Nguyên nói chung.
- Ngoài ra, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, học
viên cao học chuyên ngành Giáo dục chính trị, các thầy cô giáo dạy học môn
Giáo dục công dân và những người quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của đề
tài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học
Trên thế giới, trong dạy học, nghiên cứu trường hợp còn được gọi là
nghiên cứu trường hợp điển hình được sử dụng như một phương pháp dạy học
ở cả cấp độ cá nhân lẫn cấp độ nhóm nghiên cứu. Trường Đại học Harvard
(Hoa Kỳ) là nơi tiên phong trong việc sử dụng các vấn đề, tình huống thực tế
vào cho sinh viên thảo luận trong các môn học. Thậm chí, có trường đại học
như Đại học Buffalo còn thành lập cả một trung tâm chuyên nghiên cứu phương
pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học với niềm tin đó là phương pháp chủ
đạo, phát huy được tối đa các năng lực của sinh viên, giúp sinh viên tiếp xúc
và có năng lực nghiên cứu thực tiễn, phục vụ cho công việc của sinh viên sau
này. Các công trình liên quan đến phương pháp nghiên cứu trường hợp trên thế
giới được ghi nhận ở các công trình tiêu biểu như: “Nghiên cứu trường hợp
điển hình trong Chính phủ Mỹ: Chương trình trường hợp liên đại học” của các
tác giả Bock Edwin A và Alan K. Campbell; “Các bậc tự do” và nghiên cứu
điển hình” của tác giả Campbell Donald T; Công trình: “Nghiên cứu điển hình
và tổng quát hóa” của các tác giả Roger Gomm, Martyn Hammerlsay, Peter
Foster; Công trình: “Nghiên cứu điển hình trong tư tưởng phương pháp học của
Mỹ” của tác giả Platt Jennifer...
Các công trình trên đã đề cập đến phương pháp NCTH ở các góc độ
khác nhau và đã phân tích những vấn đề như trình bày bản chất, đặc điểm của
7
phương pháp NCTH; chỉ ra tính hiệu quả của việc vận dụng phương pháp
NCTH trong các lĩnh vực giáo dục học, chính trị học.... Về vai trò của phương
pháp này trong dạy học, các nghiên cứu đều cho thấy phương pháp NCTH
không chỉ kích thích tính tư duy phân tích, tính năng động, sáng tạo, tư duy
phản biện cho người học, mà còn giúp tăng kiến thức thực tiễn cũng như kỹ
năng giải quyết vấn đề cho người dạy.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên sẽ giúp tác giả luận văn hiểu
rõ hơn về phương pháp NCTH, vai trò của phương pháp này và đề xuất quy
trình vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
Ở Việt Nam, phương pháp NCTH được các nhà giáo dục áp dụng phổ
biến ở nhiều môn học khác nhau. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu đó.
Tác giả Nguyễn Khải Hoàn trong bài viết “Đặc điểm và nguyên tắc dạy
học nghiệp vụ sư phạm dựa vào nghiên cứu trường hợp trong đào tạo giáo
viên tiểu học” đăng trên tạp chí Giáo dục (2016) đã trình bày những đặc điểm
của dạy học nghiệp vụ sư phạm dựa vào nghiên cứu trường hợp trong đào tạo
giáo viên về các phương diện: nội dung học tập; mục tiêu học tập; phương
thức học tập; rèn luyện và trải nghiệm qua thực hành. Tiếp đó, tác giả trình
bày các nguyên tắc dạy học nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên tiểu học dựa
vào nghiên cứu trường hợp: tính tương thích của trường hợp đối với nội dung
đào tạo; tính tích hợp liên môn, xuyên môn; học tập qua nghiên cứu độc lập,
nghiên cứu theo nhóm; tính thực tiễn sinh động; môi trường hợp tập hợp tác,
giàu trải nghiệm [25].
Tác giả Nguyễn Thị Linh Huyền trong bài viết “Một số phương pháp
dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức kinh doanh cho
học sinh trung học phổ thông”, trên cơ sở nhấn mạnh một số phương pháp
dạy học tích cực, đã bàn luận đến phương pháp nghiên cứu trường hợp. Theo
tác giả, trường hợp được rút ra từ thực tiễn dạy học hoặc phản ánh một tình
8
huống thực tiễn dạy học, nên trường hợp thường mang tính phức hợp. Mục
đích hàng đầu của phương pháp trường hợp không phải là việc truyền thụ tri
thức lí thuyết mà là việc vận dụng tri thức vào việc giải quyết vấn đề trong
những tình huống cụ thể. Học sinh đặt trước những tình huống cần quyết định,
họ cần xây dựng các phương án giải quyết vấn đề cũng như đánh giá các
phương án đó, để quyết định phương án giải quyết vấn đề và cần xác định
những phương hướng hành động có ý nghĩa quyết định... [26].
Tác giả Khuất Thị Thanh Vân trong bài báo “Vận dụng dạy học nghiên
cứu trường hợp trong dạy Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
phần Lí luận về chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển năng lực tự học của sinh viên”
đăng trên tạp chí Giáo dục (2017) cho rằng: Dạy học nghiên cứu trường hợp là
phương pháp dạy học mà trọng tâm là phân tích và giải quyết các vấn đề của
trường hợp (tình huống) mà người dạy hoặc người học đặt ra nhằm gắn lí thuyết
với thực tiễn. Mục tiêu này hoàn toàn phù hợp với đặc thù của hệ thống tri thức
mở, gắn liền với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của phần Lí luận về chủ
nghĩa xã hội trong chương trình môn học Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Nghiên cứu trường hợp yêu cầu có sự cộng tác làm việc và thảo
luận nhóm nên củng cố, phát triển năng lực giao tiếp xã hội và hợp tác cho sinh
viên. Tạo điều kiện phát triển các kĩ năng tư duy độc lập, sáng tạo, phát hiện và
giải quyết vấn đề, giúp sinh viên biết liên hệ giữa lí luận với thực tiễn, phát
triển năng lực tự học [37].
Tác giả Nguyễn Bá Đạt trong bài viết “Phương pháp NCTHĐH trong
khoa học xã hội và tâm lý học” đăng trên Tạp chí Tâm lý học số 10 có giải
thích cho tiết việc áp dụng phương pháp NCTH trong khoa học tâm lý học
và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NCTH trong khoa học
xã hội nói chung và tâm lý học nói riêng [19].
9
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học môn Giáo dục Công dân ở trường Trung học phổ thông
Trong quá trình tìm hiểu, thu thập tài liệu viết luận văn, tác giả nhận
thấy gần như không có công trình nào nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu
trường hợp trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở trường Trung học
phổ thông. Chỉ có một số rất ít công trình nghiên cứu về phương pháp nghiên
cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục Công dân, như:
Tác giả Vũ Đình Bảy, trong cuốn sách “Phương pháp dạy học môn
GDCD ở trường THPT” đã chỉ dẫn những ưu điểm, nhược điểm của phương
pháp nghiên cứu trường hợp và khẳng định việc vận dụng phương pháp này
vào dạy học môn GDCD sẽ đem lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn GDCD ở nước ta [2].
Tác giả Phạm Thị Dinh trong báo cáo sáng kiến kinh nghiệm “Vận
dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn Giáo
dục công dân lớp 12” trình bày về: khái niệm phương pháp nghiên cứu trường
hợp điển hình, những đặc điểm của phương pháp nghiên cứu trường hợp điển
hình và các dạng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình; phân tích
những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu trường hợp điển
hình; những yêu cầu cơ bản của việc vận dụng nghiên cứu trường hợp điển
hình vào môn Giáo dục công dân lớp 12 [14].
Tác giả Nguyễn Thị Mai trong công trình “Vận dụng phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn Giáo dục Công dân ở
các trường THPT huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh”. Trên cơ sở phân tích
khái niệm, đặc trưng và các hình thức của phương pháp NCTHĐH; ưu điểm
và nhược điểm của phương pháp NCTHĐH trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT; đã đề xuất quy trình vận dụng phương pháp NCTHĐH trong
dạy học môn GDCD ở các trường THPT huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh;
chỉ ra những vấn đề đặt ra trong vận dụng phương pháp NCTHĐH trong dạy
10
học môn GDCD ở các trường THPT huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh; phân
tích nguyên tắc và đề xuất biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận
dụng phương pháp NCTHĐH trong dạy học môn GDCD ở các trường THPT
huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh [28].
Tác giả Hoàng Thị Thanh trong công trình “Sử dụng phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở các
trường THPT huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang” trình bày các vấn đề: cơ sở
lý luận của việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở các trường THPT huyện Bắc Quang,
tỉnh Hà Giang; thực trạng sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển
hình trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở các trường THPT trong
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; đề xuất quy trình và một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy
học môn GDCD ở các trường THPT huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang [34].
Tóm lại, những công trình đã mặc dù không nghiên cứu về phương
pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn GDCD lớp 10
nhưng đã cung cấp những luận cứ quan trọng như cơ sở lý luận, quy trình vận
dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp, đề xuất các biện pháp… để tác giả
luận văn hoàn thiện hướng nghiên cứu của mình.
Dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã có liên quan đến đề tài, đề tài tiếp
tục nghiên cứu để làm rõ những nội dung sau:
- Củng cố khái niệm đã có về phương pháp nghiên cứu trường hợp trong
dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường phổ thông.
- Đề xuất quy trình dạy học bằng phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố
Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bằng
11
phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT
Thành phố Thái Nguyên.
1.2. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học
phổ thông Thành phố Thái Nguyên
1.2.1. Khái niệm về phương pháp nghiên cứu trường hợp
* Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học
Trong cuộc sống, để làm tốt công việc của mình, con người cần phải thực
hiện theo những cách thức nhất định. Cách thức đó chính là phương pháp làm
việc. “Phương pháp” là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là
“methodos” với hàm ý là con đường, công cụ để nhận thức thế giới.
Trong từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê quan niệm phương pháp
“là cách thức để làm một việc gì sau khi nghiên cứu kỹ: làm việc có phương
pháp” [29, tr 24]. Còn các tác giả Song Dương, Quang Thông lại quan niệm,
phương pháp được hiểu bao gồm hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là “Trình tự cần
theo trong những bước có quan hệ với nhau khi tiến hành một việc có mục
đích nhất định” và nghĩa thứ hai, phương pháp được coi là “Toàn thể những
bước đi mà tư duy tiến hành theo một trình tự hợp lý luận, nhằm tìm ra chân
lý trong khoa học” [15, tr 394].
Dạy học được coi là một quá trình sư phạm mà ở đó người dạy giữ vai
trò là người truyền đạt những kiến thức, đồng thời là người thiết lập các chỉ
báo, phương pháp để phát triển năng lực, phẩm chất, thái độ cho người học.
Trong dạy học, để đạt được mục tiêu đặt ra của bài học, người giáo viên luôn
phải lựa chọn cho mình một cách thức dạy học phù hợp với nội dung bài học,
được gọi là phương pháp dạy học. Cho đến nay, có khá nhiều cách hiểu khác
nhau về phương pháp dạy học.
“Phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm
giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình
12
dạy học” [20, tr 46]. Theo quan điểm này, phương pháp dạy học phải có nhiệm
vụ giáo dục và giáo dưỡng học sinh.
“Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự
phối hợp thống nhất dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm làm cho trò tự giác, tích
cực tự lực đạt tới mục đích dạy học” [24, tr 45].
Phương pháp dạy học “là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của
giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ
đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học”
[38, tr 204].
“Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của
GV và HS trong những môi trường dạy học được tổ chức, nhằm lĩnh hội tri
thức, kỹ năng, thái độ, phát triển năng lực và phẩm chất” [3, tr.98].
Phương pháp là cách thức mà giáo viên đặt ra trong quá trình lên lớp
giúp học sinh hiểu được kiến thức bài học và qua đó hình thành kĩ năng, năng
lực và thái độ cho học sinh [34, tr.13]
Có thể thấy các quan điểm trên tương đối tích cực vì đã đạt đến nguyên
lý dạy học lấy người học làm trung tâm. Theo quan niệm này, dạy không phải
là truyền thụ kiến thức một chiều, càng không phải cung cấp thông tin đơn
thuần, mà chủ yếu là giúp cho người học tự mình chiếm lĩnh kiến thức, kỹ
năng, bồi dưỡng cảm xúc và hình thành thái độ.
Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố như: mục đích và nhiệm vụ
dạy học, phương pháp và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò
với hoạt động học, kết quả dạy học… Quá trình này diễn ra và tác động qua
lại với nhau để đạt được mục đích giáo dục. Nói đến phương pháp dạy học là
đề cập đến các hoạt động dạy và học. Hai hoạt động dạy và học có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Trong quá trình dạy học chúng được tiến hành đồng
thời, tạo ra hai phương pháp có sự tác động qua lại với nhau là phương pháp
dạy và phương pháp học; trong đó phương pháp dạy của giáo viên giữ vai trò
13
chủ đạo và phương pháp học của học sinh giữ vai trò chủ động. Kết quả cuối
cùng của quá trình dạy học là hình thành ở người học các nhu cầu thường
xuyên học tập, tìm tòi tri thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích năng lực tư duy
sáng tạo và tính tích cực tự giác trong học tập.
Như vậy, phương pháp dạy học là một khái niệm được hiểu ở nhiều cấp
độ rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên, những định nghĩa, quan niệm đã có đều
thống nhất ở điểm chung, đó là: nói đến phương pháp dạy học là nói đến là
cách thức tổ chức hoạt động dạy và học của GV và HS nhằm tối ưu mục tiêu
và các nhiệm vụ dạy học. Trong đề tài này, tác giả tiếp cận khái niệm phương
pháp dạy học với nghĩa là phương pháp dạy học cụ thể. Theo đó, phương pháp
dạy học là cách thức thực hiện hành động của GV tác động đến học sinh để
đạt được mục tiêu dạy học đề ra. Theo cách tiếp cận này, có thể kể đến các
phương pháp dạy học cụ thể như: thảo luận nhóm, nêu vấn đề, nghiên cứu
trường hợp, đóng vai, dự án…
* Khái niệm về phương pháp nghiên cứu trường hợp
Trong thực tế cuộc sống, người ta thường sử dụng những tấm gương
người thật, việc thật để giáo dục hay dạy bảo nhau những điều tốt đẹp. Với
nghĩa đó, nghiên cứu trường hợp là một phương pháp hành động thực tiễn.
Song, hiểu trên phương diện là một phương pháp dạy học thì nghiên cứu
trường hợp không chỉ là phương pháp hành động thực tiễn mà hơn nữa còn là
phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau,
các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan niệm khác nhau về phương pháp
nghiên cứu trường hợp
Nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học, trong đó người
học tự lực nghiên cứu tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình
huống đặt ra, hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm. Phương pháp
nghiên cứu trường hợp đề cập đến một tình huống từ thực tiễn cuộc sống, đã
xảy ra hoặc có thể xảy ra trong thực tiễn, những tình huống chứa đựng vấn đề
14
cần giải quyết. Để giải quyết vấn đề đó đòi hỏi phải có những quyết định dựa
trên cơ sở lập luận. Do đó, thực hiện dạy học nghiên cứu trường hợp, bên cạnh
việc mô tả trường hợp cần có lí giải, phân tích về mặt lý luận dưới dạng những
định hướng, trợ giúp cho việc dạy học phù hợp với mục đích đặt ra [37,
tr.213].
Hiểu trường hợp trong nghiên cứu trường hợp với nghĩa là trường hợp
điển hình, tác giả Hoàng Thị Thanh cho rằng phương pháp NCTHĐH là
phương pháp được áp dụng trong quá trình dạy học bộ môn, mà ở đó người
giáo viên sử dụng những tình huống có tính tiêu biểu nhất, biểu hiện tập trung,
rõ nhất về bản chất của một sự vật, hiện tượng hoặc một nhóm sự vật, hiện
tượng có thực trong thực tiễn để đưa vào bài học, qua đó hướng học sinh vào
quá trình tự học, phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh. Những tình
huống thực tế đó cũng có thể do người học tự phát hiện ra và trình bày trước
lớp dưới sự dẫn dắt hoặc yêu cầu từ phía giáo viên [34, tr.13-14]. Từ đây, tác
giả quan niệm phương pháp NCTHĐH trong dạy học môn Giáo dục công dân
là phương pháp mà giáo viên sử dụng các tình huống điển hình xảy ra trong
thực tiễn để giúp học sinh nghiên cứu, làm rõ một đơn vị kiến thức hoặc một
bài học nào đó có trong chương trình môn GDCD [34, tr.14].
Như vậy, có thể thấy vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học là vận
dụng những tình huống cụ thể có thực trong thực tiễn vào phân tích và giải
quyết nội dung bài học. Phương pháp này thường đặt ra những tình huống có
sẵn yêu cầu học sinh đưa ra các phương án giải quyết, từ đó hướng người học
vào giải quyết nội dung bài học. Việc dạy học bằng phương pháp NCTH, do
đó đã thực hiện được nguyên lý thống nhất giữa việc kiến tạo tri thức mới với
phát triển tư duy phản biện, tư duy lôgic, tư duy sáng tạo cho người học. Điểm
có ý nghĩa tích cực trong việc vận dụng phương pháp dạy học NCTH là không
những giúp học sinh học được cách khám phá tri thức, rèn luyện năng lực tiếp
cận và giải quyết vấn đề một cách khoa học; mà còn thúc đẩy việc hình thành
15
các năng lực so sánh, đánh giá vấn đề và qua đó bồi dưỡng phẩm chất tích
cực, chủ động, sáng tạo cho người học. Với nghĩa đó, dạy học bằng phương
pháp NCTH sẽ thúc đẩy việc hình thành các năng lực của học sinh.
1.2.2. Vai trò của phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn
Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố
Thái Nguyên
Trong chương trình môn Giáo dục công dân mới 2018, đề cập đến
phương pháp giáo dục, chương trình nhấn mạnh: “Chú trọng tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động để học sinh khám phá, phân tích, khai thác thông tin, xử lí
tình huống thực tiễn, trường hợp điển hình; tăng cường sử dụng các thông tin,
tình huống, trường hợp của thực tế cuộc sống xung quanh, gần gũi với đời
sống học sinh trong việc phân tích, đối chiếu, minh hoạ để bài học vừa có sức
hấp dẫn, vừa nhẹ nhàng, hiệu quả; coi trọng tổ chức các hoạt động trải nghiệm
để học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới, phát triển kĩ năng và
thái độ tích cực, trên cơ sơ đó tự hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực
của người công dân tương lai”; “Kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học
truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại theo hướng tích cực hoá
hoạt động của người học; tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học đặc
thù của môn học như: giải quyết vấn đề, phân tích trường hợp điển hình kết
hợp nêu những tấm gương công dân tiêu biểu, xử lí tình huống có tính thời sự
về đạo đức, pháp luật và kinh tế trong cuộc sống hằng ngày, thảo luận nhóm,
đóng vai, dự án,...” [9, tr.53].
Đây là định hướng quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn
GDCD. Đồng thời, khẳng định vai trò không thể thiếu của phương pháp
nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên hiện nay.
16
Luật Giáo dục năm 2019 nêu yêu cầu: phương pháp giáo dục phải khoa
học, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học và hợp tác, khả năng thực hành,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên [32]. Xuất phát từ đây cho thấy chính
yêu cầu tất yếu của việc thay đổi phương pháp dạy học trong môn GDCD lớp
10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên và việc giáo
viên vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học cũng có nghĩa là giáo viên đã
đưa luật Giáo dục 2019 vào thực tiễn giáo dục. Phương pháp này vừa trang bị
cho học sinh những kiến thức đã có trong sách giáo khoa, vừa hình thành ở
học sinh tính năng động, tư duy sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng
hợp tác với nhau... Đặc biệt là, thông qua việc nghiên cứu các trường hợp thực
tiễn liên quan đến bài học, học sinh sẽ say mê học tập và có ý chí vươn lên
trong cuộc sống. Tất nhiên, để đạt được điều ấy, trong quá trình dạy học, giáo
viên phải đưa ra được các tình huống có vấn đề, có ý nghĩa thực tiễn thời đại.
Như vậy, có thể thấy, việc vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên
chứa đựng những ưu điểm, có tính tích cực như: khắc phục những hạn chế
thuộc về tâm lý, thái độ thiếu chủ động, không tích cực trong học tập của học
sinh; giúp học sinh liên hệ, vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn cuộc sống,
qua đó hình thành phẩm chất đạo đức và phát triển năng lực cho học sinh.
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, ở lớp 10, môn
GDCD gồm hai phần kiến thức là triết học và đạo đức. Trong khi phần triết
học tương đối trừu tượng thì phần đạo đức lại rất cụ thể. Tuy nhiên, việc áp
dụng phương pháp NCTH đều phù hợp với cả hai mạch nội dung đó. Đối với
phần triết học, khi giáo viên sử dụng các tình huống, trường hợp điển hình
đưa vào bài dạy, sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn, giờ học sẽ sinh động, không
còn là lý thuyết trừu tượng, khô khan nữa. Còn đối với phần đạo đức, việc sử
dụng các trường hợp điển hình sẽ giúp học sinh biết gắn lý thuyết với thực
17
tiễn, đặc biệt là biết liên hệ với thực tiễn để làm phong phú thêm nội dung
kiến thức đã được học.
Ngoài ra, khi áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp còn làm cho
giờ giảng môn GDCD lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố
Thái Nguyên sẽ trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa hơn. Khi giáo viên
vận dụng phương pháp NCTH vào giờ học, đôi khi không phải giáo viêm mà
chính học sinh lại là người phát hiện ra những tình huống hay, có vấn đề như
những tình huống xuất phát từ trải nghiệm thực tế, từ cuộc sống của học sinh,
từ gia đình học sinh hay những tình huống mà học sinh học được trong thực
tế.
Việc áp dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên còn giúp người học
thấy được vai trò quan trọng của mình trong giờ học. “Các em thấy rằng
mình “được học” chứ không “bị học”, thậm chí họ còn tưởng tượng ra mình
đang là chuyên gia, là nhà khoa học, là bậc thầy trong giải quyết tình huống.
Người học không những được chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình mà
họ còn học hỏi được những kiến thức, kinh nghiệm của các bạn trong lớp.
Được học, được sáng tạo, được thể hiện, được khai phá tiềm năng của mình
và hạnh phúc tràn đầy khi thầy cô khen thưởng/cho điểm cao. Đó chính là
động lực thôi thúc người học tích cực, năng động, sáng tạo trong giờ học” [34,
tr.21].
Như vậy, với các vai trò trên, việc đưa phương pháp NCHT vào dạy
học môn GDCD lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái
Nguyên là tất yếu và cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD
nói chung hiện nay ở nước ta.
1.2.3. Chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 hiện hành
Nội dung chương trình môn GDCD ở trường THPT được cấu trúc thành
5 phần chính như sau:
18
- Phần I: Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp
luận khoa học.
- Phần II: Công dân với đạo đức.
- Phần III: Công dân với kinh tế.
- Phần IV: Công dân với các vấn đề chính trị- xã hội.
- Phần V: Công dân với pháp luật.
Các thành phần đó có quan hệ chặt chẽ với nhau theo nguyên tắc đồng
tâm, phát triển. Môn “Giáo dục công dân” giữ vai trò hết sức quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Đó là môn học góp phần
hình thành những quan niệm đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan;
những tri thức, niềm tin đạo đức; những quan niệm sống… từ đó hình thành
nên các hành vi, động cơ đạo đức trong sáng, lành mạnh; biết tôn trọng bản
thân và tôn trọng người khác; biết sống trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, biết
yêu thương và vị tha; biết “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Kiến thức mà môn Giáo dục công dân trang bị cho học sinh còn giúp hình
thành ở học sinh những kỹ năng sống cơ bản để vững vàng bước vào đời: biết
tôn trọng ý thức tổ chức kỷ luật, có niềm tin và thái độ đúng đắn trong việc
nhận thức, chấp hành pháp luật.
Đối với môn GDCD lớp 10 hiện hành, nội dung được cấu trúc thành 2
phần: Phần thứ nhất là “Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương
pháp luận khoa học” và Phần thứ hai “Công dân với đạo đức”. Chương trình
được thực hiện với thời lượng 35 tiết dạy học trong 37 tuần:
+ Học kỳ I: 18 tiết dạy học trong 19 tuần gồm các bài từ bài 1 đến hết
bài 9 trong đó bao gồm cả 1 tiết kiểm tra định kỳ và 1 tiết kiểm tra cuối học
kỳ I.
+ Học kỳ II: 17 tiết dạy học trong 18 tuần gồm các bài từ bài 10 đến
bài 16 trong đó bao gồm cả 1 tiết kiểm tra định kỳ và 1 tiết kiểm tra cuối học
kỳ II.
19
Nội dung cụ thể của từng phần như sau:
Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học. Phần này gồm các bài sau:
Bài 1: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng: Nội dung
của bài này nói về vai trò của thế giới quan và phương pháp luận Triết học.
Bài 2: Thế giới vật chất tồn tại khách quan. Bài học cung cấp các kiến thức
về khái niệm thế giới vật chất; những thuộc tính cơ bản của thế giới vật chất
Bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Bài học này giúp
học sinh hiểu được khái niệm vận động, biết được vận động là phương thức
tồn tại của các sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan; hiểu được thế
nào là phát triển, giải thích được phát triển là khuynh hướng tất yếu của quá
trình vận động của sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan.
Bài 4: Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Bài
bao gồm các nội dung nói về mâu thuẫn, đấu tranh giữa các mặt đối lập của
mâu thuẫn là nguồn gốc khách quan của mọi sự vận động, phát triển của sự
vật và hiện tượng.
Bài 5: Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. Nội
dung của bài này nói về chất và lượng của sự vật và hiện tượng; cách thức vận
động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng. Bài này nói
về phủ định và phủ định biện chứng cũng như khuynh hướng phát triển của
sự vật và hiện tượng.
Bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Nội dung
của bài nói về nhận thức, thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Bài 8: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Bài này cung cấp các kiến thức
về khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội và mối quan hệ biện chứng giữa hai
yếu tố này.
20
Bài 9. Con người là chủ thể của lịch sử, là mục tiêu phát triển của xã
hội. Nội dung của bài giúp học sinh hiểu được con người là chủ thể của lịch
sử, sáng tạo ra lịch sử; hiểu được con người là mục tiêu của sự phát triển xã
hội; chứng minh được mọi giá trị của vật chất và tinh thần của xã hội là do
con người tạo ra.
Sau khi học xong phần này, HS cần đạt được những mục tiêu cụ thể về
kiến thức, kỹ năng và thái độ như sau:
Về kiến thức:
+ Nhận biết được nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng.
+ Hiểu được bản chất của thế giới là vật chất; nhận thức rõ sự vận động
và phát triển theo quy luật khách quan là thuộc tính vốn có của thế giới vật
chất và con người có thể nhận thức và vận dụng được những quy luật ấy.
+ Nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể với khách thể
nhận thức thế giới qua các mối quan hệ: thực tiễn với nhận thức, tồn tại xã hội
với ý thức xã hội, con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển
của xã hội.
Về kỹ năng:
+ Có kỹ năng phân tích biện chứng, duy vật các hiện tượng tự nhiên,
xã hội thông thường và các hiện tượng đạo đức, kinh tế, nhà nước, pháp luật…
nảy sinh trong đời sống xã hội.
+ Hình thành kỹ năng lập luận, giải quyết vấn đề một cách khoa học
21
Về thái độ:
+ Tôn trọng những quy luật khách quan của tự nhiên và đời sống xã hội,
khắc phục những hiện tượng duy tâm trong cuộc sống hàng ngày, phê phán các
hiện tượng mê tín, dị đoan và những tư tưởng lành mạnh trong xã hội.
+ Có thái độ khách quan, biện chứng, phát triển, ủng hộ và làm theo cái
mới, cái tiến bộ, tham gia tích cực và có trách nhiệm với các hoạt động đồng.
Phần thứ hai: Công dân với đạo đức, phần này gồm các bài sau:
Bài 10: Quan niệm về đạo đức. Nội dung của bài bao gồm khái niệm
đạo đức; sự giống và khác nhau giữa đạo đức với pháp luật và phong tục, tập
quán; vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội.
Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học. Bài bao gồm các nội dung
nói về các phạm trù nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc
Bài 12: Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình. Nội dung của bài
giúp học sinh được những hiểu biết cơ bản về tình yêu, tình yêu chân chính,
hôn nhân và gia đình; biết được các đặc trưng tốt đẹp, tiến bộ để chế độ hôn
nhân và gia đình nước ta hiện nay và các chức năng của gia đình; biết yêu quý
gia đình và có trách nhiệm trong tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Bài 13: Công dân với cộng đồng. Bài này gồm các nội dung nói về
trách nhiệm đạo đức của công dân trong mối quan hệ với cộng đồng nơi ở và
tập thể lớp học, trường học.
Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung
của bài bao gồm khái niệm lòng yêu nước, truyền thống yêu nước của dân tộc
Việt Nam và các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước Việt Nam; trách nhiệm
của công dân, đặc biệt là học sinh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. Nội dung
của bài giúp học sinh biết được một số vấn đề cấp thiết của nhân loại, hiện
nay như: ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, các dịch bệnh hiểm nghèo;
22
hiểu được trách nhiệm của công dân nói chung và học sinh nói riêng trong
việc tham ra giải quyết một số vấn đề cấp thiết của nhân loại hiện nay.
Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân. Nội dung của bài bao gồm thế nào là
tự hoàn thiện bản thân, sự cần thiết phải tự hoàn thiện bản thân theo các chuẩn
mực đạo đức xã hội; tự nhận thức bản thân đối chiếu với các yêu cầu đạo đức
xã hội.
Những mục tiêu cụ thể về kiến thức, kỹ năng và thái độ mà học sinh
cần đạt được sau khi học xong phần này là:
Về kiến thức:
- Hiểu được các quan niệm về đạo đức, hiểu được thế nào là nghĩa vụ,
lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hiểu rõ những yêu cầu, nhiệm vụ mà đạo
đức xã hội đặt ra cho công dân.
- Hiểu được thế nào các quan niệm về tình yêu chân chính, về tự hoàn thiện
bản thân, về lòng yêu nước, về những vấn đề cấp thiết mà nhân loại đặt ra.
Về kỹ năng:
- Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi, đạo đức
trong đời sống hàng ngày, ở trường và ở ngoài xã hội.
- Có kỹ năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện bản thân theo các yêu cầu đạo
đức xã hội.
- Có kỹ năng vận dụng các kiến thức đã học để nhận xét, lý giải, phê
phán những quan niệm sai trái về chủ nghĩa yêu nước, về nhận thức những
vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Về thái độ:
- Tin tưởng vào các giá trị đạo đức xã hội. Có tình cảm, niềm tin đối
với các quan điểm, thái độ hành vi đúng đắn và có thái độ phê phán đối với
các quan điểm, thái độ hành vi lệch chuẩn xã hội.
- Có thái độ yêu quý, gắn bó, trách nhiệm với tập thể, quê hương, đất
nước. Có ý thức rèn luyện để bảo vệ quê hương, đất nước.
23
- Có thái độ và hành động phù hợp để góp phần giải quyết những vấn
đề cấp thiết mà nhân loại đặt ra.
Với cấu trúc và đặc điểm trên, việc vận dụng phương pháp NCTH vào
dạy môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT trong Thành phố Thái Nguyên là
phù hợp và chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao hơn so với dạy học bằng phương
pháp truyền thống.
1.3. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp nghiên cứu trường
hợp trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường Trung
học phổ thông Thành phố Thái Nguyên
1.3.1. Khái quát chung về các trường Trung học phổ thông ở Thành phố
Thái Nguyên
Thành phố Thái Nguyên được thành lập từ năm 1962, được coi là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh Thái Nguyên và vùng núi khu
Việt Bắc. Thành phố Thái Nguyên là đầu mối giao thông trực tiếp với Thủ Đô
Hà Nội, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km. Là cửa ngõ đi các tỉnh miền núi
phía Bắc như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn...
Thành phố Thái Nguyên giữ vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh
tế - xã hội không những của tỉnh Thái Nguyên, mà còn cho các tỉnh miền núi
phía Bắc. Với vị thế quan trọng đó, bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh
tế, việc xây dựng và phát triển giáo dục đào tạo - đào tạo được coi là vấn đề
then chốt của thành phố Thái Nguyên. Địa bàn Thành phố Thái Nguyên còn
là nơi đóng quân của Đại học Thái Nguyên - một trong những đại học vùng
nổi tiếng trong nước. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện sứ mệnh
giáo dục phổ thông của Thành phố.
Hiện nay, trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên có 9 trường THPT:
THPT Chuyên; THPT Lương Ngọc Quyến; THPT Ngô Quyền; THPT Chu
Văn An; THPT Thái Nguyên; THPT Gang Thép; THPT Dương Tự Minh;
THPT Khánh Hòa; THPT Đào Duy Từ. Hầu hết các trường THPT Thành phố
24
Thái Nguyên đều có bề dày truyền thống và thành tích cao. Trường có lịch sử
lâu đời nhất là trường THPT Lương Ngọc Quyến, được thành lập cách đây hơn
70 năm. Trường có lịch sử ngắn nhất là trường THPT Đào Duy Từ, mới được
thành lập cách đây chưa lâu. Các trường THPT ở Thành phố Thái Nguyên luôn
chiếm số lượng học sinh đông nhất trong tỉnh Thái Nguyên.
Nhìn chung, chất lượng dạy và học của các trường THPT ở Thành phố
Thái Nguyên luôn đạt hiệu quả cao nhất trong tỉnh. Hàng năm, các trường đều
có học sinh tham gia các kỳ thi học sinh giỏi các cấp và đều đạt thành tích cao
ở các môn học, trong đó có môn GDCD. Với phương châm đề cao chất lượng,
hiệu quả dạy và học, các trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên
không ngừng nỗ lực cải tiến chất lượng và đã đạt được những chuyển biến
tích cực. Kết quả đào tạo thường xuyên ở các trường cho thấy tỷ lệ lên lớp
hàng năm đạt từ 98,0 đến 99%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp hàng năm từ 97 đến
100%; tỷ lệ học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng hàng năm cao từ 70% trở
lên ở các trường THPT Lương Ngọc Quyến, THPT Chu Văn An, THPT Năng
khiếu...
Ở Thành phố Thái Nguyên, chất lượng đội ngũ giáo viên của các trường
THPT cũng được coi là mạnh nhất trong tỉnh. Các trường THPT trong Thành
phố luôn thực hiện đúng phương châm đi tắt, đón đầu trong việc nâng cao
chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Ban Giám
hiệu các nhà trường hết sức quan tâm, tạo mọi điều kiện để đội ngũ giáo viên,
cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, trình độ lý luận chính trị. Cho đến nay, 100% GV trong các trường THPT
đã đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Kết quả xét thi
đua hàng năm cho thấy, nhiều GV có đạt thành tích cao trong dạy học và giáo
dục học sinh như nhiều năm liền. Giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi
cấp tỉnh, cấp thành phố, lao động tiến tiến, chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, được
tặng Bằng khen và giấy khen của các cấp bộ, ngành ở các trường THPT Thành
25
phố Thái Nguyên cũng cao hơn ở các huyện, thành phố khác trong tỉnh. Giáo
viên ở các trường hầu hết có độ tuổi trẻ. Họ luôn năng nổ, nhiệt tình, tích cực,
có trách nhiệm với giáo dục; có chí tiến thủ và tình yêu đối với nghề nghiệp.
Đặc biệt, giáo viên đều có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, luôn nỗ lực, không
ngừng học tập, nâng cao trình độ, tiếp thu những phương pháp giáo dục mới,
đáp ứng tốt những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới giáo dục đào
tạo của đất nước.
Về phía người học, Thành phố Thái Nguyên là nơi tập trung đông dân
cư nhất trong tỉnh Thái Nguyên. Điều đó làm cho lượng học sinh THPT ở đây
cũng cao hơn các khu vực còn lại, đồng thời chất lượng học tập của học sinh
cũng cao hơn. Giống như học sinh các trường THPT ở các huyện, học sinh
THPT ở Thành phố Thái Nguyên cũng có những đặc điểm chung về tâm sinh
lý, nhận thức lứa tuổi. Ở các em có sự phát triển mạnh mẽ về mặt thể chất và
tinh thần. Nhận thức cảm tính thay đổi theo chiều hướng tinh tế hơn, óc quan
sát nhạy bén và trí nhớ có chủ đích hơn. Nhận thức lý tính phát triển về tư duy
tưởng tượng, tư duy lí luận cùng với các thao tác trí tuệ như phân tích, so sánh,
trừu tượng hóa, khái quát hóa... Bên cạnh các điểm chung đó, học sinh THPT
ở Thành phố Thái Nguyên có những đặc điểm khác biệt so với học sinh THPT
ở các huyện, như: các em có tính cách mạnh mẽ hơn; khả năng tham gia vào
đời sống xã hội sôi động hơn; các biểu hiện năng động, sáng tạo, nhiệt tình
trong học tập và cuộc sống cũng trở nên rõ nét hơn; các em cũng có sự đầu
tư, quan tâm nhiều hơn cho học tập; ước mơ, hoài bão cũng đa dạng hơn...
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị của các nhà trường cũng được trang bị
tương đối tốt. Các trường đều có hệ thống phòng học khang trang, bàn ghế
sạch sẽ, đầy đủ, đảm bảo về ánh sáng và chỗ ngồi cho học sinh học tập. Trong
những năm gần đây, để đảm bảo yêu cầu dạy học theo hướng phát triển năng
lực và phẩm chất người học, các nhà trường đều được đầu tư và xây dựng hệ
thống các phòng học thực hành, thí nghiệm cho các môn học như Lý, Hóa,
26
Sinh, Tin học... Đến thời điểm hiện tại, tất cả các trường đều có hệ thống
phòng học có máy chiếu phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học. Hệ thống thư viện phục vụ học tập cũng được các trường xây dựng,
sửa chữa, đảm bảo nhu cầu dạy và học.
Nhờ sự nỗ lực cố gắng của bản thân các nhà trường và sự chỉ đạo của
Sở Giáo dục và đào tạo Thái Nguyên, trong nhiều năm qua, các nhà trường
THPT đã thực hiện tốt các phong trào thi đua như “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo chỉ thị số 06/CT-TW của Bộ
Chính trị, “Mỗi thày cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”,
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”... Đó là những tiền đề
quan trọng để các trường phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai.
1.3.2. Đặc điểm học sinh và thực trạng việc dạy học môn Giáo dục Công
dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên
hiện nay
* Đặc điểm học sinh lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành
phố Thái Nguyên hiện nay
- Đặc điểm về tâm lý:
Học sinh lớp 10 ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái
Nguyên nhìn chung cũng mang những đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi như
học sinh lớp 10 ở các vùng khác.
Học lớp 10 đồng nghĩa với việc các em bắt đầu có sự thay đổi rõ rệt với
xu hướng thích làm “người lớn” hơn. Tuy vậy, do còn trong độ tuổi dậy thì
nên các em vẫn ở trong giai đoạn “khủng hoảng tuổi dậy thì”, có sự thay đổi
thất thường về tâm lý, sinh lý, nhận thức như có những cảm xúc mới, thường
dễ kích động, nóng tính, hay lo âu, phiền muộn, suy nghĩ vẩn vơ…
Về mặt thể chất, các em nam và nữ có sự khác nhau rõ rệt. Xu hướng ở
các em nữ là phát triển mạnh về chiều cao, cân nặng, mặt nổi nhiều mụn; trong
khi đó các em nam thì có sự thay đổi về giọng nói, chiều cao, ra nhiều mồ
27
hôi... Các em học sinh nữ ở lứa tuổi học sinh lớp 10 thường cho thấy sự
trưởng thành, chín chắn hơn so với các em học sinh nam, các em cũng bắt đầu
biết rung động khi đối với các bạn khác giới, đã biết e thẹn, bẽn lẽn, cử chỉ và
xử sự từ tốn, nhẹ nhàng. Đối với các học sinh nam tính cách muốn thể hiện
bản thân, thích học làm người lớn, thể hiện sự ga lăng… trở nên mãnh liệt
hơn… Tất cả những điều đó đòi hỏi giáo viên phải hết sức tinh tế và tế nhị để
rèn dũa và giáo dục học sinh.
- Đặc điểm về nhận thức:
So với học sinh lớp 10 ở các huyện trong tỉnh Thái Nguyên, học sinh
lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên có sự phát triển hơn hẳn về nhận thức, đặc
biệt là các năng lực trí tuệ. Các yếu tố về cảm giác, tri giác, khả năng quan sát
mặc dù phát triển hơn so với lớp 9 nhưng chưa thật sự sâu sắc. Óc quan sát,
tư duy nhận thức vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện, chưa đi sâu sát vào
thực tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc nghiên cứu những trường hợp
điển hình được giao trong bài học.
Điểm khả quan trong nhận thức của học sinh lớp 10 ở các trường THPT
Thành phố Thái Nguyên là sự phát triển rõ rệt của trí nhớ. Nhờ đó, khi học
với các trường hợp điển hình, các em đã biết sắp xếp, tổ chức lại các chi tiết,
tư liệu theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Khi
nghiên cứu nhân vật, sự kiện… các em đã biết rút ra những chi tiết chính,
trọng tâm; từ đó, đối chiếu, so sánh, liên hệ thực tế với bản thân. Tất nhiên,
không tránh khỏi trường hợp có một số em còn ghi nhớ một cách đại khái,
chung chung hoặc ghi nhớ máy móc
Hoạt động tư duy của học sinh lớp 10 THPT ở Thành phố Thái Nguyên
có sự phát triển tương đối mạnh mẽ. Một số em có khả năng tư duy lý luận,
tư duy trừu tượng cao. Bên cạnh đó, năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh…
cũng phát triển, tạo cho các em có cái nhìn tương đối chính xác khi nghiên
cứu bài học.
28
Nhìn chung tư duy của học sinh lớp 10 THPT ở Thành phố Thái
Nguyên đã và đang phát triển hoàn thiện, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy
bén, giúp các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách nhanh
nhạy. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn yếu điểm là chưa phát huy hết
năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn suy nghĩ theo cảm tính. Vì vậy,
khi dạy học với phương pháp NCTH, giáo viên GDCD lớp 10 cần có những
định hướng, giúp đỡ để các em biết tư duy một cách tích cực, độc lập; biết
phân tích, đánh giá sự việc, sự vật, con người và biết tự rút ra kết luận cuối
cùng và học tập thành công.
Học sinh lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên đã ý thức được vị trí, vai
trò của mình hơn, nhất là trong việc định hướng nghề nghiệp. Thái độ, hứng
thú học tập của các em đối với môn học trở nên có chọn lựa hơn do định
hướng nghề nghiệp chi phối. Ngay từ khi vào học lớp 10 nhiều HS rất tích
cực học những môn mà các em cho là quan trọng giúp các em vào học trường
đại học mà các em thích, trong khi đó, các em lại sao nhãng những môn học
khác vì cho rằng nó không thực sự cần thiết cho nghề nghiệp sau này của
mình.
Ở một mức độ nhất định, HS lớp 10 trên địa bàn Thành phố Thái
Nguyên đã bắt đầu quan tâm đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước
và trên thế giới, trao đổi với nhau, nhận xét, đánh giá và tỏ thái độ của mình
về vấn đề đó. Đặc điểm này qui định tính cần thiết phải vận dụng phương
pháp NCTH trong dạy học GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái
Nguyên.
29
* Thực trạng việc dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường
Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên hiện nay
Cũng giống như các môn học khác trong hệ thống giáo dục cấp THPT,
môn GDCD hiện vẫn là môn học bắt buộc ở tất cả các lớp, từ lớp 10 đến lớp
12. Mặc dù thời lượng chỉ có 1 tiết/1 tuần, nhưng môn học này vẫn có chỗ
đứng quan trọng, do nó giữ vai trò giáo dục cho học sinh ý thức, hành vi người
công dân, góp phần trang bị cho học sinh năng lực phát triển bản thân trong
xã hội hiện đại. Tuy nhiên, lâu nay, vấn đề dạy và học môn GDCD, trong đó
có môn GDCD lớp 10 trong nhà trường THPT trên cả nước nói chung và ở
thành phố Thái Nguyên nói riêng, bên cạnh những mặt mạnh vẫn còn những
yếu điểm cần được khắc phục:
* Mặt mạnh:
Nhận thức của giáo viên và học sinh về môn GDCD nói chung và môn
GDCD lớp 10 nói riêng có sự thay đổi rõ rệt so với trước đây. Cả giáo viên
và học sinh, nếu trước đây vẫn coi môn GDCD là môn phụ, thì hiện tại họ đã
chú trọng đầu tư thời gian và công sức cho môn học nhiều hơn. Việc thay đổi
tư duy này do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu nhất là bắt nguồn
từ việc thay đổi các môn thi tốt nghiệp THPT. Theo đó, trong năm năm qua,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có sự điều chỉnh nội dung và cách thức thi tốt
nghiệp THPT. Môn GDCD được được đưa vào bài thi tổ hợp môn Khoa học
xã hội. Những năm đầu kiến thức thi môn GDCD của bài thi Khoa học xã hội
chỉ tập trung vào chương trình giáo dục công dân lớp 12; nhưng, những năm
sau đã được chuyển dần sang phạm vi kiến thức của lớp 11 và một phần kiến
thức của lớp 10. So với các môn khác như Vật lý, Hóa học, Sinh học... thì
môn GDCD có kiến thức dễ học hơn, học sinh chỉ cần ghi nhớ, học thuộc là
có thể làm được. Do đó, nhiều học sinh và phụ huynh đã lựa chọn môn GDCD
để thi tốt nghiệp THPT. Theo thống kế của Sở Giáo dục và đào tạo Thái
Nguyên thì hàng năm số lượng thí sinh đăng ký thi tốt nghiệp môn GDCD
30
vào khoảng 65% đến 70%. Ở một khía cạnh nào đó thì việc này đã đem lại
cách nhìn nhận mới về vị trí, vai trò của môn GDCD trong đó có GDCD lớp
10, mà kết quả để lại là chất lượng dạy và học môn GDCD được nâng cao.
Do xu thế đổi mới giáo dục trên thế giới và trong nước ảnh hưởng mạnh
mẽ đến nhận thức của giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD lớp 10 ở các trường
THPT trong Thành phố Thái Nguyên. Để đem lại sự thành công trong dạy
học, đa số giáo viên giảng dạy môn GDCD đã nỗ lực, cố gắng thay đổi phương
pháp, bổ sung vào nội dung bài dạy những dữ kiện thực tế, như tích hợp giáo
dục kỹ năng sống vào một số nội dung của chương trình GDCD; áp dụng
phương pháp dạy học mới gắn nội dung kiến thức trong chuyên đề với thực
tiễn đời sống thông qua những tình huống hay, những bối cảnh cụ thể… Nhờ
đó, giờ giảng môn GDCD lớp 10 trở nên sinh động hơn, thu hút học sinh học
tập môn học. Trong kỳ thi chọn học sinh giỏi tỉnh, nhiều học sinh đã lựa chọn
môn GDCD để đi thi và đã đạt giải cao.
* Mặt yếu:
Bên cạnh những mặt mạnh nêu trên, việc dạy học môn Giáo dục Công
dân lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên hiện nay còn có những
mặt yếu còn tồn tại:
Những hạn chế về nội dung, chương trình của môn học như một số đơn
vị kiến thức về triết học Mác - Lênin còn khá trừu tượng, khó hiểu đối với học
sinh phổ thông. Hơn nữa, kết quả việc đổi mới phương pháp dạy học trong
môn GDCD lớp 10 chưa được khắc phục triệt để. Đa số giáo viên vẫn dạy
theo lối thuyết trình, phụ thuộc nhiều vào sách giáo khoa và tài liệu hướng
dẫn giảng dạy, thiếu sáng tạo trong tổ chức các hoạt động dạy học. Điều này
làm cho giờ học môn Giáo dục công dân chưa thật sự đem lại hứng thú cho
học sinh.
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập còn nặng về hình thức, phổ biến
vẫn là kiểm tra kiến thức, chưa chú trọng kiểm tra đánh giá năng lực, phẩm chất
31
của học sinh. Bên cạnh đó, chất lượng giáo viên môn GDCD cũng chưa đồng
đều. Công tác bồi dưỡng giáo viên được tiến hành thường xuyên nhưng chưa
thiết thực, hiệu quả. Mặc dù được Ban Giám hiệu các nhà trường động viên,
khuyến khích nhưng một số giáo viên vẫn có tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đi học
nâng cao trình độ. Cho đến nay chỉ có khoảng 1/3 giáo viên dạy môn GDCD cấp
THPT ở Thành phố Thái Nguyên có trình độ thạc sỹ.
Vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh không mấy mặn mà với môn
Giáo dục công dân lớp 10, vẫn coi đó là môn phụ do lượng kiến thức lớp 10
trong bài thi môn GDCD trong tổ hợp Khoa học xã hội chỉ có khoảng 10%.
Trong lớp học học sinh ít tìm tòi, suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức sau mỗi
bài học.
Do chương trình nặng về kiến thức mà lại phải đảm bảo về thời lượng
dạy, hơn nữa kiến thức thi không nhiều, nên một số giáo viên dạy GDCD chỉ
đầu tư cho chương trình GDCD lớp 12 để giúp học sinh thi tốt nghiệp THPT
còn chương trình GDCD lớp 10 họ chưa thật đầu tư công sức. Việc dạy học
mang nặng tính “cưỡi ngựa xem hoa”, “dạy cho xong”, dạy “cho hết chương
trình”… cũng là một thực tế đang hiện hữu trong dạy học môn GDCD ở Thành
phố Thái Nguyên hiện nay.
Nhìn chung, chất lượng dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT
trên địa Thành phố Thái Nguyên đã và đang được nâng cao, ý thức của HS có
chuyển biến tích cực, đa số HS ngoan, có ý thức trong học tập và rèn luyện.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận nhỏ HS chưa nhận thức đúng tầm quan trọng
của việc học nên còn sao nhãng, thiếu tích cực, chủ động trong tiếp thu tri
thức, tu dưỡng, rèn luyện và phát triển nhân cách.
Thực tế này cùng với những đặc trưng tâm lý, ý thức nêu trên của HS
THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên là cơ sở, tiền đề cần thiết để đổi
mới trong tư duy, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học môn GDCD để quá
32
trình dạy và học môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái
Nguyên đạt hiệu quả và có chất lượng cao.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học tích cực được hình
thành từ rất sớm trong lịch sử giáo dục Việt Nam cũng như trên thế giới nhằm
hướng đến việc phát huy cao độ tính tự giác, độc lập, sáng tạo của người học
và tạo ra môi trường học tập tích cực.
Trong chương 1, luận văn đã khái quát các công trình nghiên cứu đã có
về phương pháp NCTH. Từ đó chỉ ra về mặt lý luận của việc vận dụng phương
pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT trong
Thành phố Thái Nguyên.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, luận văn khẳng định việc giáo viên sử
dụng đa dạng các phương pháp dạy học tích cực, trong đó có phương pháp
NCTH để nâng cao chất lượng là rất cần thiết. Phương pháp NCTH khi được
vận dụng kết hợp cùng với các phương pháp dạy học khác sẽ góp phần tích
cực hoá hoạt động của HS nhằm phát triển tri thức, kỹ năng, năng lực tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho học sinh.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ QUY TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
2.1. Thực trạng vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy
học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông
Thành phố Thái Nguyên hiện nay
Tại Hội thảo Quốc gia về giáo dục đạo đức - công dân trong giáo dục
phổ thông Việt Nam diễn ra tại Hà Nội vào ngày 16 tháng 8 năm 2016, nguyên
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển đã chỉ ra những hạn
chế trong dạy học môn GDCD.
Theo đó, nội dung, chương trình của môn học GDCD còn nhiều điều
chưa hợp lý, nặng giáo dục chính trị, nhẹ giáo dục kỹ năng sống, coi trọng lý
thuyết, chưa chú ý vận dụng, thực hành, chưa yêu cầu thể hiện qua việc làm
và hành vi cụ thể trong đời sống. Nhiều bài học trong sách giáo khoa môn
GDCD còn khô khan, gượng ép, chưa phù hợp với đặc điểm tâm lí, tình cảm
của học sinh. Mặt khác, một số kiến thức triết học, kinh tế, chính trị, chủ nghĩa
xã hội khoa học... còn khá trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh phổ thông,
chưa chú ý đúng mức tính liên thông, tích hợp nội dung dạy học môn GDCD
với các môn học khác. Bên cạnh đó, kết quả việc đổi mới phương pháp dạy
học và kiểm tra đánh giá chưa rõ, chủ yếu vẫn dạy chay, thuyết trình, đọc
chép, độc thoại một chiều; rao giảng đạo lý; lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa
và tài liệu hướng dẫn giảng dạy, thiếu sáng tạo trong tổ chức các hoạt động
dạy học. Không những thế, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập còn nặng
về hình thức, phổ biến vẫn là kiểm tra kiến thức, chưa chú trọng kiểm tra đánh
giá năng lực, phẩm chất của học sinh. Chất lượng giáo viên môn GDCD cũng
chưa đồng đều. Chương trình và phương thức đào tạo trong các trường sư
34
phạm chậm đổi mới, chất lượng đào tạo còn thấp. Công tác bồi dưỡng giáo
viên được tiến hành thường xuyên nhưng chưa thiết thực, hiệu quả... Và hệ
quả của những hạn chế đó là đa số học sinh chưa hứng thú học GDCD. Những
hạn chế được nêu ra ở đây hoàn toàn chính xác đối với thực trạng dạy và học
môn GDCD trên phạm vi cả nước cũng như ở Thành phố Thái Nguyên trong
những năm qua.
Nhận thức được những hạn chế trên là rào cản đối với xu thế đổi mới
của giáo dục, đặc biệt là sự chỉ đạo đổi mới chương trình phổ thông của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, trong hai năm qua, giáo viên giảng dạy môn GDCD cấp
THPT ở Thành phố Thái Nguyên đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác của
người học.
Những phương pháp dạy học tích cực được giáo viên sử dụng chủ yếu
để phát triển các kỹ năng cho học sinh là thảo luận nhóm, nêu và giải quyết
vấn đề, sử dụng tình huống. Còn các phương pháp như đóng vai, NCTH, dự
án giáo viên đã áp dụng vào dạy học nhưng tần suất sử dụng không nhiều.
Điều này được phản ánh ở bảng số liệu điều tra 20 giáo viên dạy môn Giáo
dục công dân cấp THPT ở Thành phố Thái Nguyên về tình hình sử dụng
phương pháp dạy học tích cực trong dạy học:
Bảng 2.1: Tình hình sử dụng phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học môn GDCD cấp THPT ở Thành phố Thái Nguyên
STT
Phương pháp 1 Thuyết trình tích cực 2 Nêu và giải quyết vấn đề 3 Thảo luận nhóm 4 Tình huống 5 Nghiên cứu trường hợp 6 Đóng vai 7 Dự án
Thường xuyên Thỉnh thoảng Không sử dụng 0/20 0/20 0/20 8/20 15/20 20/20 0/20
20/20 20/20 20/20 12/20 5/20 0/20 0/20
0/20 0/20 0/20 0/20 0/20 0/20 20/20 Nguồn: Tài liệu điều tra về dạy học môn GDCD ở TP Thái Nguyên
35
Kết quả trên cho thấy tuyệt đa số giáo viên dạy học môn GDCD cấp
THPT ở Thành phố Thái Nguyên đã áp dụng các phương pháp mới vào dạy
học bộ môn trong đó có áp dụng phương pháp NCTH. Song, so với yêu cầu
đổi mới dạy học môn GDCD thì việc áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực của giáo viên môn GDCD vẫn chưa trở thành yếu tố thường xuyên và có
hệ thống.
Khi chúng tôi phỏng vấn về vai trò của phương pháp NCTH trong dạy
học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên thì đa
phần giáo viên tham gia phỏng vấn đều khẳng định, đây là phương pháp không
chỉ giúp HS lĩnh hội tri thức mới, mà còn có tác dụng ôn tập và củng cố kiến
thức cho học sinh. Ngoài ra còn giúp HS khái quát và hệ thống hoá kiến thức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo và làm cho học sinh viết liên hệ kiến thức với thực
tiễn. Trên cơ sở này tất cả các giáo viên tham gia phỏng vấn đề khẳng định
NCTH là phương pháp sẽ mang lại hiệu quả cao khi được vận dụng bởi giáo
viên. Tuy nhiên, khi chúng tôi hỏi giáo viên có thường xuyên sử dụng phương
pháp NCTH vào dạy học môn GDCD ở lớp 10 hay không thì phần đa giáo
viên được hỏi đều trả lời là không thường xuyên.
Lý giải cho mâu thuẫn này, chung tôi đã đi sâu tìm hiểu và nhận được
câu trả lời từ phía giáo viên về các nguyên nhân cản trở việc họ áp dụng
NCTH. Đó là các nguyên nhân như cơ sở vật chất chưa đầy đủ, giáo viên luôn
quá tải về các nhiệm vụ giảng dạy, chủ nhiệm lớp nên không có nhiều thời
gian tìm tòi các trường hợp điển hình phục vụ cho bài học, học sinh chưa thật
sự chủ động học tập... Trong đó có nguyên nhân chủ yếu mà hầu hết các giáo
viên đưa ra là do họ còn lúng túng về quy trình dạy học bằng phương pháp
NCTH, việc chuyển hình thức kiểm tra sang đánh giá năng lực cũng mất nhiều
thời gian.
Ngoài ra, khi vận dụng phương pháp NCTH, giáo viên cũng gặp không
ít khó khăn. Một kết quả điều tra với các giáo viên thường xuyên vận dụng
36
phương pháp NCTH, cho thấy có những khó khăn nhất định ảnh hưởng đến
việc vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học môn GDCD lớp 10 ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên. Thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.2: Những khó khăn khi vận dụng phương pháp nghiên cứu
trường hợp trong dạy học Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường
THPT Thành phố Thái Nguyên
Những khó khăn khi vận dụng phương pháp Số Tỉ lệ
nghiên cứu trường hợp lượng %
Hạn chế về kỹ năng làm việc theo nhóm của HS 5 100
Số lượng HS trong một lớp đông 5 100
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học 4 80
Năng lực tổ chức dạy học của GV còn hạn chế 4 80
Việc thường xuyên vận dụng các phương pháp dạy 5 100 học truyền thống
Quy trình dạy học NCTH chưa khoa học, chưa có 5 100
Nguồn: Tài liệu điều tra về dạy học môn GDCD ở TP Thái Nguyên
Với những khó khăn trên công với chưa có một quy trình dạy học phù
hợp hoặc chưa có quy trình day học bằng phương pháp NCTH dẫn đến hiện
trạng khi giáo viên vận dụng phương pháp NCTH trong dạy môn GDCD chất
lượng bài học chưa cao, chưa có tác dụng lôi cuốn học sinh.
Như vậy, có thể thấy việc vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học
môn GDCD lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên đã được giáo viên bộ môn
GDCD thực hiện. Cái khó khăn nhất làm cho nó chưa trở thành phương pháp
dạy học thường xuyên đã được chỉ ra. Chúng tôi hi vọng, với việc đề xuất quy
trình cho vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
Thành phố Thái Nguyên đưa ra ở chương 2 sẽ giúp cho giáo viên tháo gỡ
37
được vướng mắc và thường xuyên áp dụng phương pháp này để nâng cao chất
lượng dạy học.
2.2. Quy trình sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy
học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông
Thành phố Thái Nguyên
2.2.1. Các nguyên tắc xây dựng quy trình
Quy trình dạy học bằng phương pháp NCTH trong quá trình dạy học
môn GDCD lớp 10 là trình tự các bước, các giai đoạn được sắp xếp có tổ chức
và có mục đích liên tiếp nhau theo một chu trình khép kín nhằm đạt được mục
tiêu dạy học đề ra. Để thực hiện được quy trình đó, khi xây dựng quy trình
cần tuân theo các nguyên tắc nhất định. Cụ thể là các nguyên tắc đảm bảo tính
hệ thống và đồng bộ, tính thực tiễn và tính hiệu quả.
* Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và toàn diện
Hệ thống là tập hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động
chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một chỉnh thể. Đảm
bảo tính hệ thống là đảm bảo cho các yếu tố, các phần tử trong hệ thống được
diễn ra như nhau, gắn kết với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Tính toàn
diện là tính đảm bảo cho tất cả các bước, các khâu, thành tố, yếu tố được tiến
hành đầy đủ trong cùng một thời gian, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp
giữa các bước, các khâu, các giai đoạn, thành tố đó.
Quy trình dạy học vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên được liên kết với
nhau theo một lô gic chặt chẽ, gồm nhiều bước, nhiều khâu khác nhau. Do
vậy, đảm bảo tính hệ thống và toàn diện trong quy trình là đảm bảo cho các
bước, các khâu được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau, hoạt động cùng
một thời gian, thời điểm, thống nhất theo đúng nguyên tắc, quy luật. Bước
đầu tiên phải là điều kiện, tiền đề để thực hiện chức năng của các bước đứng
sau nó. Đồng thời, các bước sau như là sự kế tục, hiện thực hóa các bước đứng
38
trước và các bước phải tiến hành trong thời gian giảng dạy cũng như học tập
của cả giáo viên lẫn học sinh. Tất cả các bước đều phải được tiến hành đầy
đủ, không được bỏ sót bước nào.
Yêu cầu đặt ra trong đảm bảo tính hệ thống và toàn diện luôn đòi hỏi
khi thực hiện các bước, thao tác sư phạm của giáo viên phải phù hợp với thao
tác học tập của học sinh và ngược lại. Sự phù hợp đó tạo thành sự thống nhất
toàn vẹn của quy trình và làm cho nó trở thành chỉnh thể hợp lý. Để đảm bảo
tính hệ thống, trong quá trình xây dựng quy trình, cần quán triệt các vấn đề
sau:
Một là: các bước của quy trình phải chặt chẽ, lôgic nhau, không nhiều
bước và cũng không quá ít bước. Số lượng các bước vừa đủ để thực hiện quy
trình có hiệu quả.
Hai là: Nội dung các bước phải đơn giản, cả giáo viên và học sinh đều
dễ thực hiện, không quá phức tạp, rườm rà, đảm bảo rằng trong một thời gian
học quy định phải tiến hành xong tất cả các bước.
Ba là: Các bước phải sắp xếp theo một cấu trúc lôgic, kế tục nhau,
không được chồng chéo nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thực
hiện bước này, thì bước kế tiếp sẽ khó thực hiện được.
Đảm bảo tính hệ thống, toàn diện sẽ tránh được sự tuỳ tiện cắt xén nội
dung hay các giai đoạn quan trọng hoặc bổ sung các bước không quan trọng
vào quy trình dạy học; hoặc tránh được sự đảo lộn trình tự lôgic các bước cần
thực hiện.
* Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Tính thực tiễn yêu cầu khi xây dựng quy trình dạy học và kiểm tra đánh
giá kết quả học tập phải dựa vào điều kiện thực tế của quá trình dạy học, phù
hợp với thực tiễn của nhà trường, điều kiện, trình độ, năng lực của giáo viên
và học sinh.
39
Tính hệ thống chỉ ra quy trình vận dụng phương pháp NCTH trong dạy
học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên gồm
nhiều bước khác nhau. Tuy nhiên, việc thiết kế quy trình gồm những bước
nào phải dựa vào điều kiện thực tiễn ở các trường THPT. Cụ thể:
- Phải phù hợp với đặc điểm nội dung, chương trình môn GDCD lớp 10.
Có thể thấy, nội dung, chương trình môn GDCD lớp 10 rất phù hợp cho áp dụng
phương pháp NCTH vào dạy học để phát huy các năng lực của học sinh.
- Phải phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên. Chẳng hạn, với trường THPT Lương
Ngọc Quyến, một trường có bề dày truyền thống, cơ sở vật chất khá đầy đủ.
Song, với một số trường có quy mô nhỏ, điều kiện cơ sở vật chất lâu năm
không được đầu tư thì việc áp dụng phương pháp NCTH vào dạy học có nhiều
khó khăn hơn.
- Phải phù hợp với trình độ năng lực chuyên môn của giáo viên và đặc
điểm tâm lý, trình độ nhận thức của học sinh THPT, tính vừa sức của học sinh
hiện đang tham gia dạy và học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành
phố Thái Nguyên. Với nguyên tắc này, có thể khẳng định, việc áp dụng
phương pháp NCTH là khá phù hợp và sẽ đạt hiệu quả như mong đợi.
* Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Nguyên tắc này yêu cầu việc thực hiện nhuần nhuyễn các bước trong
vận dụng phương pháp NCHT vào dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường
THPT Thành phố Thái Nguyên phải đáp ứng được hiện trạng nâng cao chất
lượng dạy và học, có nhiều ưu điểm hơn hẳn so với các phương pháp dạy học
truyền thống. Nó vừa có thể ứng dụng rộng rãi, đồng thời góp phần nâng cao
hiệu quả chất lượng dạy học môn GDCD lớp 10 trong trường THPT hiện nay.
Việc vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học không những phải đảm
bảo cho HS lĩnh hội được tri thức cơ bản, đầy đủ mà còn phải góp phần hình
thành cho HS kỹ năng nhận thức, giao tiếp và có thái độ đúng đắn trong cuộc
40
sống. Trong giờ học, khi giáo viên tổ chức cho học sinh nghiên cứu tình huống
cần thiết phải tăng cường sự chủ động và linh hoạt trong các hoạt động của học
sinh. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả yêu cầu khi vận dụng phương pháp
NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT trên địa bàn TP
Thái Nguyên, việc xây dựng quy trình phải chú ý những đặc điểm sau:
Một là: phải đảm bảo rằng các bước đưa ra trong quy trình là dễ thực
hiện đối với cả giáo viên và học sinh, không gây áp lực cao về các điều kiện
như trình độ, cơ sở vật chất…
Hai là: các bước trong quy trình phải giúp giáo viên và học sinh phải
thấy hứng thú, vui vẻ trong quá trình thực hiện.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên, trong qua trình quy trình xây dựng
dạy học bằng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10, còn phải
lưu ý đến tính khách quan, đồng bộ, tính lịch sử - cụ thể… Trên cơ sở đó, việc
xây dựng và thực hiện quy trình vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học
mới thành công.
2.2.2. Quy trình thiết kế bài dạy và thực hiện bài dạy bằng phương pháp
nghiên cứu trường hợp trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên
2.2.2.1. Quy trình thiết kế bài dạy bằng phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ
thông Thành phố Thái Nguyên
Thiết kế bài dạy là hoạt động giữ vai trò quan trọng trong quá trình dạy
học của giáo viên. Cho dù có giỏi đến mấy đi chăng nữa, nhưng nếu không
thiết kế bài dạy trước, giờ học của giáo viên cũng không thể thành công. Quy
trình thiết kế bài dạy theo phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên, theo tác giả luận văn gồm có
các bước sau:
* Bước 1: Lựa chọn bài học/đơn vị kiến thức phù hợp
41
Việc lựa chọn được bài học/đơn vị kiến thức phù hợp sẽ quyết định
thành công của giờ học có sử dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên
Toàn bộ nội dung kiến thức của môn GDCD lớp 10 đều có vận dụng
phương pháp NCTH để dạy cho tất cả các bài học. Tuy nhiên, không có giáo
viên nào làm được điều đó. Vì không có phương pháp dạy học vạn năng và
nếu chỉ thực hiện một phương pháp NCTH sẽ gây nhàm chán, mệt mỏi cho
cả giáo viên và học sinh. Để phát huy tính hiệu quả của phương pháp NCTH
trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái
Nguyên, giáo viên cần phải nghiên cứu, rà soát cấu trúc, nội dung chương
trình sách giáo khoa để lựa chọn những bài học/đơn vị kiến thức hợp lý để
vận dụng phương pháp NCTH.
Những bài học/đơn vị kiến thức hợp lý cho vận dụng phương pháp
NCTH phải là những bài học/đơn vị kiến thức chứa đựng những mâu thuẫn
cần giải quyết và có tính thực tiễn cao, phù hợp với lựa chọn các tình huống,
trường hợp điển hình ngoài đời sống để đưa vào bài học. Chẳng hạn ở các bài
như: Các phạm trù cơ bản của đạo đức (bài 11); Công dân với tình yêu hôn
nhân và gia đình (bài 12); Công dân với cộng đồng (bài 13); Công dân với
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (bài 14)...
Bước 2: Xác định mục tiêu bài học
Trong dạy học, dạy nội dung gì, như thế nào, với phương pháp, phương
tiện gì… đều phải dựa trên cơ sở của mục tiêu bài học. chính vì vậy, xác định
đúng mục tiêu bài học giảng viên sẽ đề xuất phương pháp dạy học phù hợp
để đạt được mục tiêu đề ra.
Để xác định đúng mục tiêu bài học trong chương trình GDCD lớp 10 ở
các trường THPT Thành phố Thái Nguyên, giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài
học, nghiên cứu đặc điểm HS, điều kiện dạy học của nhà trường… Trước đây,
mục tiêu bài học được đánh giá qua các chuẩn về kiến thức, kỹ năng và thái
42
độ. Nhưng bây giờ, với xu hướng giáo dục mới, mục tiêu bài học thường
hướng vào việc hình thành phẩm chất và năng lực cho người học, tất nhiên là
vẫn đảm bảo mục tiêu về kiến thức, vì có kiến thức mới có năng lực.
* Bước 3: Xác định phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện và
tài liệu học tập
Việc xác định đúng phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện và tài
liệu học tập quyết định tính hiệu quả của bài dạy. Giáo viên cần thiết phải căn
cứ vào nội dung cụ thể của từng bài học, vào đặc điểm học sinh và vào điều
kiện của nhà trường để lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện
dạy học phù hợp:
- Phương pháp dạy học được sử dụng trong bài học phải được dựa trên
mục tiêu, nội dung, đặc điểm của người học và các yếu tố trang thiết bi vật
chất đi kèm. Trong chương trình GDCD lớp 10 hiện hành, phần Đạo đức là
những kiến thức đạo đức tối thiểu có tính thức tiễn cao, phù hợp với việc sử
dụng phương pháp NCTH. Tuy vậy, để nâng cao hiệu quả, giáo viên cần kết
hợp linh hoạt với các PPDH khác như thảo luận nhóm, tình huống, nêu vấn
đề…
- Hình thức tổ chức dạy học giữ vai trò quyết định sự vận dụng PPDH
phù hợp. Khi vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học môn GDCD lớp 10
nói chung thì hình thức dạy học được cho là phù hợp nhất, theo tôi là dạy học
theo nhóm, đặc biệt là nhóm nhỏ tối đa 10 học sinh. Tất nhiên, giáo viên cũng
có thể sử dụng hình thức dạy học cá nhân hoặc dạy học theo nhóm lớn, thậm
chí cả lớp, song tính hiệu quả không cao, sẽ không phát triển được các năng
lực như hợp tác, tự học, sáng tạo, tự chủ… của học sinh.
- Phương tiện dạy học được coi là “nối dài” các giác quan cho cả người
dạy và người học. Khi vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD chúng tôi khuyến khích giáo viên sử dụng đa dạng các phương tiện
43
dạy học khác nhau để tăng tính hiệu quả của quá trình dạy học như máy tính,
máy chiếu, giấy, bút vẽ…
- Ngoài phương tiện dạy học, các học liệu cần có để thực hiện vận dụng
phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD mà giáo viên và học sinh cần
chuẩn bị bao gồm: sách giáo khoa; sách giáo viên, bài báo, các vidio clip, sách
tham khảo… Trong đó bài báo, vidio clip có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, có
tính khoa học, giáo dục, thực tiễn là tài liệu cơ bản nhất phục vụ cho việc vận
dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường
THPT Thành phố Thái Nguyên hiện nay.
* Bước 4: Xác định các hoạt động dạy học
Việc xác định các hoạt động dạy học đối với môn GDCD lớp 10 ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên được thực hiện chủ động ở từng trường
và phù hợp với thực tế giảng dạy của giáo viên. Bên cạnh việc tuân thủ tổ
chức các hoạt động dạy học được thực hiện theo công văn 5555/BGDĐT-
GDTrH “Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học
và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn của
trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng” ban hành ngày
8/10/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (với các hoạt động: khởi động; hình
thành kiến thức; luyện tập/củng cố; vận dụng/ ứng dụng; tìm tòi mở rộng) thì
tùy theo tính chủ động và chương trình cụ thể của từng nhà trường mà mỗi
trường có thể giảm bớt các hoạt động cuối cho phù hợp với đối tượng học
sinh. Theo phương pháp dạy học hiện đại bây giờ, chúng tôi đề xuất có các
hoạt động dưới đây được coi là phù hợp khi vận dụng phương pháp NCTH
vào dạy học môn GDCD lớp 10 các trường THPT Thành phố Thái Nguyên.
Hoạt động khởi động: Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế và
hứng thú học tập cho HS, giúp HS ý thức được nhiệm vụ học tập. Hoạt động
này cũng giúp huy động kiến thức, kinh nghiệm của HS có liên quan đến vấn
đề trong bài học, làm bộc lộ được "cái" HS đã biết, bổ khuyết những gì HS
44
còn thiếu và giúp HS nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt
động này để HS suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp
tìm hiểu, học tập.
Yêu cầu cho hoạt động khởi động là các câu hỏi/nhiệm vụ của tình
huống xuất phát là những câu hỏi/vấn đề mở, không cần có câu trả lời hoàn
chỉnh. GV không chốt về nội dung kiến thức mà chỉ giúp HS phát biểu được
vấn đề để HS chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ sung hình thành
những kiến thức, kĩ năng mới.
Hoạt động khám phá và hình thành kiến thức:
Hoạt động khám phá ở đây được hiểu là thông qua hoạt động chủ động
nghiên cứu trường hợp được giao, học sinh tiến hành thảo luận, giải quyết
mâu thuẫn, tình huống, vấn đề phát sinh trong trường hợp, từ đó chiếm lĩnh
được kiến thức, kỹ năng mới và đưa các kiến thức, kỹ năng mới vào hệ thống
kiến thức, kỹ năng của bản thân.
Hoạt động hình thành kiến thức chỉ diễn ra khi học sinh xây dựng được
những kiến thức mới thông qua các hoạt động nghiên cứu trường hợp. Kết
thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của HS thể hiện ở các
sản phẩm học tập mà HS hoàn thành, GV cần chốt kiến thức mới để HS chính
thức ghi nhận và vận dụng.
Hoạt động luyện tập: Mục đích của hoạt động luyện tập là củng cố,
hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được. Do đó, trong hoạt động này,
HS được yêu cầu áp dụng trực tiếp kiến thức vào giải quyết các câu hỏi/bài
tập/tình huống/vấn đề trong học tập. HS làm theo yêu cầu của sách giáo khoa
hoặc yêu cầu của giáo viên như học cá nhân, học tương tác, ghi vở, báo cáo
kết quả…
Hoạt động vận dụng, mở rộng (có thể là hoạt động thực hành): Nội
dung chủ đạo của hoạt động vận dụng/thực hành là qua sự hỗ trợ, định hướng
của GV, học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, qua đó
45
hình thành kỹ năng, năng lực và phẩm chất cần đạt được tương ứng với mục
tiêu bài học đặt ra. Mục đích của hoạt động vận dụng/thực hành là củng cố
kiến thức, kỹ năng và năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống
của người học. Do đó ở hoạt động này, HS sẽ vận dụng các kiến thức, kĩ năng
đã học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề trong cuộc sống ở gia
đình, địa phương. Ở hoạt động này, giáo viên cần gợi ý cho HS về những hoạt
động, sự vật, hiện tượng cần quan sát trong cuộc sống hàng ngày, mô tả yêu
cầu về sản phẩm mà HS cần hoàn thành để HS quan tâm thực hiện.
Việc tiến hành các hoạt động trên như thế nào cho đạt hiệu quả là nhờ
vào năng lực tổ chức các hoạt động đó có nhuần nhuyễn hay không của giáo
viên. Chính vì vậy, mà năng lực dạy học của giáo viên có ý nghĩa quyết định
tới việc thành công của giờ dạy có vận dụng phương pháp NCTH trong dạy
học môn GDCD lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên.
2.2.2.2. Quy trình thực hiện giờ học/đơn vị kiến thức có vận dụng phương
pháp nghiên cứu trường điển hình trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên
Thực hiện bài học trên lớp bằng phương pháp NCTH trong một tiết học
môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên là quá trình
giáo viên chuyển tải lý luận thành thực tiễn, tức là chuyển nội dung của bài
dạy đã thiết kế ở nhà sang giờ dạy trực tiếp trên lớp. Trong quá trình đó, giáo
viên là người tổ chức, điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh.
Còn học sinh giữ vai trò chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động dạy của
giáo viên để tự mình chiếm lĩnh tri thức và hình thành các năng lực cần thiết
cho bản thân.
Quy trình thực hiện giờ học/đơn vị kiến thức có sử dụng phương pháp
nghiên cứu trường điển hình trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường
THPT Thành phố Thái Nguyên, theo tác giả luận văn gồm các bước sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm vụ NCTH cho học sinh
46
Việc chia nhóm và giao nhiệm vụ cho học sinh rất quan trọng để thực
hiện thành công giờ dạy. Ở bước này giáo viên có thể thực hiện vào đầu giờ
học hoặc sau khi kết thúc tiết học trước GV giao nhiệm vụ học tập cho HS.
Chúng tôi khuyến khích giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh từ tiết học
trước. Vì khi đến lớp, học sinh có thêm thời gian tìm tòi, phân tích trường
hợp. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả dạy học, giáo viên nên kết hợp với thảo
luận nhóm. Ở bước này, giáo viên nên thực hiện các thao tác sau:
+ Giáo viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ
+ Giao nhiệm vụ nghiên cứu các trường hợp điển hình và các nhiệm vụ
cho từng nhóm học sinh. Ở đây, giáo viên có thể cho mỗi nhóm nghiên cứu
một trường hợp hoặc tất cả các nhóm đều nghiên cứu chung một trường hợp
nhưng nhiệm vụ thực hiện nên khác nhau.
Bước 2: Học sinh thực hiện phân tích trường hợp
Trong bước 2, học sinh sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Tiến hành nghiên cứu trường hợp: phân tích, thảo luận trường hợp,
trả lời các câu hỏi…
+ Giải quyết các nhiệm vụ học tập khác được giáo viên giao
+ Chuẩn bị thêm các câu hỏi, tình huống phát sinh.
Để nâng cao tính hiệu quả, sự tham gia của tất cả học sinh trong nhóm
vào công việc chung, đồng thời kích thích tính chủ động, sáng tạo của học
sinh, ở bước này giáo viên nên yêu cầu học sinh sử dụng các kỹ thuật dạy học
hiện đại như bể cá, khăn phủ bàn, XYZ, lược đồ tư duy…để thực hiện trong
nhóm. Ngoài ra, giáo viên cần đến từng nhóm, hỗ trợ những khó khăn xảy ra
trong quá trình học sinh thảo luận, nghiên cứu trường hợp.
Bước 3: Báo cáo nhiệm vụ, giải quyết mâu thuẫn và phát hiện kiến thức
mới
Ở bước này, các công đoạn cần thực hiện như sau:
47
+ Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm học sinh lên phân tích, trình
bày, thuyết trình… nhiệm vụ được giao khi nghiên cứu tình huống.
+ Cả lớp cùng quan sát, phát hiện những mâu thuẫn, vấn đề trong nhóm
trình bày để cùng tranh luận, thảo luận, đánh giá.
+ Các nhóm đưa ra các câu hỏi phản biện, tranh luận, đề xuất kiến thức
mới hướng vào nội dung trọng tâm bài học.
+ Giáo viên tham gia vào hoạt động học của học sinh với tư cách là
trọng tài, giải đáp thắc mắc, nêu câu hỏi, đánh giá… cho các nhóm.
+ Khi các nhóm học sinh trình bày xong nhiệm vụ của mình, GV sẽ
tiến hành nhận xét nhóm. Nội dung nhận xét cần bao gồm cả kết quả giải
quyết vấn đề và sự tham gia của các thành viên trong quá trình đó. Trong quá
trình nhận xét không cần thiết nêu tên HS nhưng những thông tin phản hồi
càng cụ thể càng tốt. GV có thể cho cá nhân HS nhận xét kết quả, hoặc tinh
thần làm việc của nhóm mình; cũng có thể GV quan sát một vài nhóm HS
thảo luận, sau khi báo cáo kết quả xong rồi, GV mới thực hiện việc nhận xét
nhóm.
Khi thực hiện bước này, để phát triển năng lực chung cho học sinh như
năng lực giải quyết vấn đề, thuyết trình… giáo viên cần khéo léo động viên,
yêu cầu tất cả mọi học sinh cùng tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học
tập.
Việc chốt lại kiến thức và nhận xét đánh giá cuối cùng của GV trong
quá trình thảo luận là rất cần thiết. Khi thực hiện công việc này, GV cần khéo
léo rèn cho HS những kĩ năng khám phá, vận dụng tri thức. Khi nhận xét đánh
giá, GV nên hướng HS rút ra những bài học có tính chất khái quát. Giáo viên
cũng cần động viên, khuyến khích học sinh bằng cách cho điểm, khen ngợi…
các nhóm, cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Bước 4: Kết luận, rút ra bài học nhận thức, kỹ năng và thực hành bài học
48
Trong bước này, giáo viên trên cơ sở đánh giá nội dung, ý nghĩa và năng
lực thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh ở bước 3 để cùng học sinh rút ra các
bài học nhận thức và thực hành bài học dưới sự hướng dẫn của GV.
Sự thành công của một giờ học có vận dụng phương pháp NCTH trong
dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên phụ
thuộc vào năng lực sư phạm của GV, trình độ hiểu biết của học sinh, khả năng
hợp tác giữa các HS, giữa GV và HS… Trong đó, sự chủ động, linh hoạt, sáng
tạo của cả GV và HS quyết định sự thành công của giờ học. Như vậy, có thể
thấy, để có một giờ dạy học đạt hiệu quả, trách nhiệm đặt lên vai người GV
thực sự nặng nề. Ngoài năng lực, người GV phải thực sự có tâm huyết với
nghề nghiệp, phải có sự đầu tư công phu đối với từng hoạt động trong suốt
tiến trình HS thảo luận.
Dạy học bằng sự vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên hợp tác đòi hỏi
tính sáng tạo và tự giác cao của cả GV và HS. Do đó, quy trình dạy học hợp
tác không nên cứng nhắc theo từng bước trên. Mỗi bài học, nội dung học còn
có thể phải kết hợp với các phương pháp dạy học khác nên GV sẽ tùy theo nội
dung bài học mà sử dụng các bước trên cho phù hợp. Song, dù ở điều kiện và
hoàn cảnh nào, sự chuẩn bị chu đáo từng bước theo các quy trình đã gợi ý bên
trên đều đem lại những giờ học thành công.
49
2.2.3. Quy trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với giờ
dạy theo phương pháp nghiên cứu trường hợp
Trong quá trình dạy học, KTĐG là một hoạt động tất yếu, không thể
thiếu. Trong đó KT là hoạt động thu thập thông tin về mức độ thực hiện mục
tiêu, từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động dạy và học. Căn cứ vào mục tiêu dạy
học để quyết định nội dung và hình thức KTĐG.
Kiểm tra là quá trình xác định mục đích, nội dung, lựa chọn phương
pháp, tập hợp số liệu, chứng cứ để xác định mức độ đạt được của người học
trong học tập, rèn luyện, phát triển các năng lực cần thiết của bản thân [35,
tr.137].
Đánh giá là xác định mức độ đạt được trong việc thực hiện mục tiêu
dạy học; đánh giá đúng hay chưa phụ thuộc vào mức độ khách quan, chính
xác của KT; Kiểm tra và đánh giá là 2 khâu trong một quá trình thống nhất
nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học, trong đó KT là khâu đi
trước (không có KT thì không có căn cứ đánh giá);
Kiểm tra, đánh giá phải căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu giáo
dục, cụ thể là căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, năng lực của người học
được quy định trong chương trình dạy học. Kết quả KTĐG là căn cứ để quyết
định giải pháp cải thiện thực trạng nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học và
giáo dục thông qua việc đổi mới tối ưu hoá phương pháp dạy học của GV và
hướng dẫn HS biết tự đánh giá để tối ưu hoá phương pháp học tập của mình.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với giờ dạy theo
phương pháp nghiên cứu trường điển hình của các trường THPT cần đảm bảo
các yêu cầu sau:
Đảm bảo tính toàn diện: Đánh giá được các mặt kiến thức, kĩ năng,
năng lực, ý thức, thái độ, hành vi của học sinh.
50
Đảm bảo độ tin cậy: Tính chính xác, trung thực, minh bạch, khách quan,
công bằng trong đánh giá, phản ánh được chất lượng thực của học sinh, của
các cơ sở giáo dục.
Đảm bảo tính khả thi: Nội dung, hình thức, cách thức, phương tiện tổ
chức kiểm tra, đánh giá phải phù hợp với điều kiện học sinh, cơ sở giáo dục,
đặc biệt là phù hợp với mục tiêu theo từng môn học.
Đảm bảo yêu cầu phân hoá: Phân loại được chính xác trình độ, mức độ,
năng lực nhận thức của học sinh, cơ sở giáo dục; cần đảm bảo dải phân hoá
rộng đủ cho phân loại đối tượng.
Đảm bảo hiệu quả: đánh giá được tất cả các lĩnh vực cần đánh giá học
sinh, cơ sở giáo dục, thực hiện được đầy đủ các mục tiêu đề ra.
Một số phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
đối với giờ dạy theo phương pháp nghiên cứu trường điển hình của các trường
THPT được sử dụng bao gồm:
- Kiểm tra
Các hình thức kiểm tra
+ Kiểm tra thường xuyên: giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh hoạt động
dạy học của thầy giáo và học sinh; thúc đẩy học sinh cố gắng tích cực làm
việc một cách liên tục, có hệ thống; Tạo điều kiện vững chắc để quá trình dạy
học chuyển dần sang những bước mới.
Kiểm tra thường xuyên được tiến hành qua quan sát hoạt động của lớp,
của mỗi học sinh có tính hệ thống; qua quá trình học bài mới; qua việc ôn tập,
củng cố bài cũ; qua việc vận dụng tri thức vào thực tiễn.
+ Kiểm tra định kỳ: Giúp thầy trò nhìn nhận lại kết quả hoạt động sau
một thời gian nhất định; Đánh giá được việc nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
của học sinh sau một thời hạn nhất định; Giúp cho học sinh củng cố, mở rộng
tri thức đã học…
51
Kiểm tra định kỳ thường được tiến hàng sau khi: học xong một số
chương; học xong một phần chương trình; học xong một học kỳ
Do kiểm tra sau một số bài, chương, học kỳ của một môn học nên khối
lượng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nằm trong phạm vi kiểm tra là tương đối lớn.
+ Kiểm tra tổng kết: được thực hiện vào cuối giáo trình, cuối môn học,
cuối năm. Có tác dụng: đánh giá kết quả chung; củng cố, mở rộng toàn bộ tri
thức đã học từ đầu năm, đầu môn học; tạo điều kiện để học sinh chuyển sang
học môn học mới, năm học mới.
- Các phương pháp kiểm tra: Các hình thức kiểm tra nêu trên được thực
hiện bằng các phương pháp kiểm tra: Kiểm tra miệng; Kiểm tra viết; Kiểm tra
thực hành.
- Đánh giá
Các bước đánh giá gồm: Đo; nhận xét; đánh giá, ra quyết định
Các loại đánh giá: Đánh giá chẩn đoán; đánh giá từng phần; đánh giá
tổng kết.
Từ việc nghiên cứu thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập ở môn GDCD lớp 10 các trường THPT ở Thành phố Thái Nguyên, chúng
tôi đề xuất quy trình kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu kiểm tra - đánh giá:
Xác định đúng mục tiêu kiểm tra, đánh giá giúp GV lựa chọn các hình
thức KTĐG và xây dựng công cụ KTĐG cho phù hợp với thực tiễn quá trình
dạy học bằng phương pháp NCTH.
Khi xác định mục tiêu đánh giá GV cần phải phân loại rõ từng loại tiêu
chí đánh giá, đảm bảo kết quả kiểm tra, đánh giá được công bằng, khách quan
đối với tất cả HS. Đối với các đề kiểm tra, đánh giá chẵn, lẻ hoặc loại trắc
nghiệm khách quan giáo viên đặc biệt lưu ý về độ tương đồng giữa các đề với
nhau, đảm bảo các đề có độ khó, dễ như nhau, thang điểm, biểu điểm chấm
52
phải giống nhau. Các câu hỏi được thiết kế với tỷ lệ các câu nhận biết, thông
hiểu, vận dụng cao, vận dụng thấp phải.
Bước 2: Lựa chọn đơn vị kiến thức cần kiểm tra, đánh giá và thiết kế
công cụ kiểm tra, đánh giá
Việc thiết kế công cụ kiểm tra, đánh giá môn GDCD lớp 10 các trường
THPT ở Thành phố Thái Nguyên cần phải được tiến hành một cách thận trọng,
tỉ mỉ, có công cụ KTĐG phù hợp. Nếu công cụ kiểm tra - đánh giá không phù
hợp sẽ dẫn tới hạn chế hoặc là chỉ đánh giá được tri thức mà không đánh giá
được toàn bộ kỹ năng của HS, hoặc chỉ thiên về kỹ năng mà không đánh giá
được tri thức mà HS cần phải đạt được.
Việc thiết kế hệ thống câu hỏi kiểm tra - đánh giá môn GDCD lớp 10
các trường THPT ở Thành phố Thái Nguyên có thể sử dụng nhiều dạng thức
câu hỏi khác nhau. Tác giả chỉ giới thiệu một dạng thức đề kiểm tra, đánh giá
được cho là phù hợp nhất đối với việc dạy học môn GDCD lớp 10 các trường
THPT ở Thành phố Thái Nguyên bằng phương pháp NCTH, đó là kết hợp
giữa trắc nghiệm khách quan và tự luận theo hướng mở. Trong đó, phần trắc
nghiệm khách quan sẽ đánh giá được việc tái hiện và hiểu kiến thức bài học.
Còn phần tự luận theo hướng mở sẽ đánh giá được khả năng giải quyết, vận
dụng các tình huống điển hình có trong cuộc sống. Với mỗi phần của đề kiểm
tra, đánh giá, cần phải có những lưu ý khác nhau. Đối với phần trắc nghiệm
khách quan, khi xây dựng, GV cần lưu ý kỹ thuật biên soạn các câu hỏi trắc
nghiệm như đảm bảo độ tin cậy, độ giá trị; độ nhiễu giữa các phương án; độ
dài như nhau ở các chỗ trống điền từ; câu hỏi và câu trả lời phải trong sáng,
súc tích, dễ hiểu…
Với những dạng thức đề tự luận mở đánh giá dạy học bằng phương
pháp NCTH, GV cùng cần chú ý: phải xác định rõ mục tiêu bài học để lựa
chọn trường hợp điển hình cho câu hỏi tự luận phù hợp với đối tượng học
53
sinh; những trường hợp điển hình dành cho phần đề tự luận mở phải được xây
dựng trên cơ sở phát triển được các năng lực, phẩm chất của học sinh...
Bước 3: Tổ chức kiểm tra, đánh giá
Hiện nay, để phù hợp với đổi mới giáo dục, thường KTĐG học sinh ở
hai dạng thức là đánh giá trình độ nhận thức kiến thức, kỹ năng vận dụng lý
thuyết. Dạng thức này thường áp dụng hình thức kiểm tra viết hoặc vấn đáp.
Đối với các hình thức kiểm tra này khi tổ chức kiểm tra phải đảm bảo tính
nghiêm túc, khách quan, đúng quy chế.
Còn đối với dạng thức KTĐG năng lực của người học, có nhiều cách
thức KTĐT khác nhau phù hợp với KTĐG từng năng lực khác nhau. Chẳng
hạn, để đánh giá năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của HS, GV có thể
đánh giá qua các kỹ năng thuyết trình trên lớp, qua bài kiểm tra… Để đánh
giá năng lực tự học của HS, GV có thể quan sát việc học của học sinh hàng
ngày… Việc đánh giá năng lực không dễ dàng, do đó giáo viên phải tùy vào
điều kiện để đánh giá cho phù hợp, nhằm đem lại hiệu quả cao.
Bước 4: Chấm bài kiểm tra
Đây là bước quan trọng nhằm kiểm chứng hiệu quả của quá trình dạy
học. Khi chấm bài kiểm tra, GV cần phải thực sự khách quan, công bằng tuyệt
đối. Muốn vậy, việc chấm bài kiểm tra phải diễn ra trong trạng thái hoàn toàn
tỉnh táo, vui vẻ, không chủ quan. Để công tâm, chính xác, giáo viên có thể
nhờ GV khác trong bộ môn chấm lại lần hai.
Bài kiểm tra phải được chấm theo biểu điểm và đáp án, đảm bảo đúng
quy chế, không sai sót trong cộng điểm, vào điểm và phải có những nhận xét
hữu ích để HS nhận ra được lỗi sai, lần sau không mắc phải.
Bước 5: Trả bài kiểm tra, rút kinh nghiệm sau kiểm tra
Bước tiếp nối sau khi chấm xong là GV cần phân tích kết quả bài kiểm
tra của HS, xếp loại theo từng mức độ: giỏi, khá, trung bình, yếu. Sau đó cần
54
đối chiếu kết quả với mục tiêu chung của bài học để có những nhận xét và rút
ra những kinh nghiệm cần thiết.
Khi trả bài, giáo viên cần chữa bài trước khi trả. Nhận xét bài làm của
học sinh, nhất là với những bài có điểm yếu. Giáo viên cũng cần có những lời
nói động viên khuyến khích cả học sinh có điểm giỏi và học sinh có điểm yếu
để tạo động lực cho học sinh học tập bài tốt hơn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bằng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, chương 2 luận văn đã chỉ
rõ, trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên, phương pháp
NCTH đã được giáo viên sử dụng, song mới ở mức thử nghiệm tại một số
trường và ở một vài tiết giảng, mà chưa trở thành một phương pháp dạy học
phổ biến. Kết quả nghiên cứu của chương 2 còn cho thấy, để sử dụng phương
pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên có
hiệu quả, đòi hỏi GV phải có những hiểu biết đầy đủ về phương pháp này,
nắm vững quy trình và các yêu cầu khi sử dụng. Đồng thời, phải có sự hỗ trợ
từ phía các nhà trường THPT về cơ sở vật chất, thời gian… Đặc biệt là sự trợ
giúp tích cực trong giờ học của học sinh là nhân tố đảm bảo thành công cho
giáo viên khi vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở Thành phố Thái Nguyên.
Trong chương 2, dựa trên cơ sở phân tích thực trạng sử dụng phương
pháp NCTH ở GDCD lớp 10 các trường THPT ở Thành phố Thái Nguyên, tác
giả đã đề xuất quy trình dạy học bằng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD bao gồm: Quy trình thiết kế bài dạy; Quy trình thực hiện giờ học/đơn
vị kiến thức có sử dụng phương pháp nghiên cứu trường điển hình; Quy trình
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với giờ dạy theo phương
pháp nghiên cứu trường; Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh đối với giờ dạy theo phương pháp nghiên cứu trường điển hình. Các quy
55
trình này là chủ ý của tác giả, được tác giả rút ta từ thực tiễn của bản thân. Do
đó, nó cần được bổ sung để hoàn thiện hơn. Để kiểm chứng tính đúng đắn và
mức độ phù hợp của phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10
các trường THPT ở Thành phố Thái Nguyên thì các quy trình này phải được
diễn ra đồng thời trong quá trình thực nghiệm sư phạm.
56
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
3.1. Thực nghiệm sư phạm
3.1.1. Khái quát chung về thực nghiệm sư phạm
3.1.1.1. Giới thiệu về lớp và giáo viên dạy thực nghiệm
* Lớp thực nghiệm
Như trên đã phân tích, chương trình GDCD lớp 10 gồm 2 phần. Tuy
nhiên, để phù hợp với mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, thời gian
nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm ở phần “Công dân với
đạo đức”.
Đối với trường, lớp và giáo viên thực nghiệm chúng tôi cũng chỉ tiến
hành thực nghiệm ở hai trường THPT Lương Ngọc Quyến và THPT Thái
Nguyên. Do, giáo viên và học sinh ở hai trường này đồng đều về trình độ.
Điểm thi tuyển vào lớp 10 ở mức trung bình. Có số lượng lớp học vừa đủ cho
thực nghiệm. Giáo viên đảm nhiệm giảng dạy thực nghiệm là những giáo viên
dạy môn GDCD được đào tạo bài bản ở khoa Giáo dục chính trị - trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên nên có chất lượng chuyên môn và
phương pháp sư phạm tốt. Điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật của các trường
khá thuận lợi, đảm bảo cho giờ dạy thực nghiệm thành công.
Lớp thực nghiệm được tiến hành ở những trường có số học sinh tương
đối ổn định về sĩ số. Chất lượng học tập của học sinh tương đối đồng đều ở
mức trung bình và khá. Các lớp tham gia thực nghiệm như sau:
57
Bảng 3.1: Các lớp tham gia thực nghiệm
Tên lớp thực
STT
Tên trường
Tên lớp đối chứng
nghiệm
1 THPT Lương Ngọc Quyến
10A15 (40 HS)
10A9 (47 HS)
2 THPT Thái Nguyên
10A1 (27 HS)
10A2 (28 HS)
Tiến hành nghiên cứu về lớp thực nghiệp, chúng tôi có những nhận xét
như sau:
- Học lực học môn GDCD của lớp TN và ĐC tương đương nhau, chênh
lệch ít. Số lượng sinh viên hai lớp cũng tương đương nhau
- Kĩ năng làm bài của các lớp tương đối tốt, đạt 100% trung bình trở
lên, không có yếu kém.
Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi áp dụng bảng hỏi, phỏng vấn
giáo viên và học sinh các lớp thực nghiệm, đối chứng để đánh giá, rút ra kết
luận của việc vận dụng phương pháp NCTH vào dạy học GDCD lớp 10.
* Giáo viên tham gia quá trình thực nghiệm
Giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân ở các trường THPT trên
Thành phố Thái Nguyên nhìn chung có trình độ đạt chuẩn về chuyên môn
nghiệp vụ. Đa số đều tâm huyết với nghề; độ tuổi tương đối trẻ, dao động
trong khoảng từ 26 đến 45 tuổi. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng giáo sinh
thực tập để tham gia cùng vào buổi dạy thực nghiệm sư phạm.
Bảng 3.2: Số lượng GV dạy môn GDCD ở trường thực nghiệm
Trình độ
Tổng
STT
Tên trường
số
Tiến sỹ Thạc sỹ Cử nhân
THPT Lương Ngọc Quyến
0
1
2
1
3
THPT Thái Nguyên
2
2
1
2
5
Về mặt chất lượng, hầu hết giáo viên dạy môn Giáo dục công dân ở các
trường THPT trên địa bàn thành phố Thái Nguyên là giáo viên dạy giỏi các
58
cấp nhiều năm liên tục. Các GV đều tâm huyết với nghề, thường xuyên được
đi bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Các giáo
viên ở trường THPT Thái Nguyên đồng thời cũng là giảng viên của trường
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. Các giáo viên trường THPT Lương
Ngọc Quyến luôn có giữ mối liên hệ mật thiết với giảng viên khoa Giáo dục
Chính trị - trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên trong việc hướng
dẫn sinh viên thực tập cũng như trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ, về
phương pháp dạy học mới... Chính vì vậy, năng lực sư phạm và tri thức của
GV được đánh giá cao.
Tuy nhiên, cũng còn có số ít GV còn hạn chế về khả năng tiếp cận với
phương pháp dạy học mới, ít có thời gian trau dồi chuyên môn nghiệp vụ,
chưa đầu tư thích đáng cho việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Tất
nhiên, những hạn chế này không ảnh hưởng nhiều tới quá trình thực nghiệp
sư phạm của chúng tôi.
3.1.1.2. Mục đích thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm nhằm xác định tính khách quan, chính xác
và công bằng về tính hiệu quả của việc sử dụng phương pháp NCTH trong
dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông
Thành phố Thái Nguyên.
Giúp tác giả rút ra ưu điểm, nhược điểm của phương pháp NCTH khi
vận dụng vào dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học
phổ thông Thành phố Thái Nguyên
Từ đó, giúp các GV dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên lựa chọn phương pháp
dạy học cho phù hợp với từng bài lên lớp nhằm thay đổi chất lượng giờ học
môn GDCD ở lớp 10.
59
3.1.1.3. Giả thuyết và phương pháp thực nghiệm
* Giả thuyết thực nghiệm
Thực nghiệm việc sử dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái
Nguyên, ở hai nhóm TN và ĐC, chúng tôi sẽ thu được kết quả như sau:
Ở lớp thực nghiệm, việc sử dụng phương pháp NCTH thu hút được sự
chú ý của học sinh. Học sinh hứng thú trong giờ học, tham gia thảo luận, xử
lý tình huống; tự giác, chủ động đánh giá nội dung, lĩnh hội kiến thức; biết
vận dụng bài học vào thực tiễn cuộc sống.
Ở lớp đối chứng, do sử dụng phương pháp dạy học truyền thống, GV
chủ yếu thuyết trình nội dung bài học; HS thụ động tiếp nhận tri thức, chăm
chú lắng nghe và ghi chép. Giờ học không có sự tham gia sáng tạo của học
sinh. HS không hứng thú trong giờ học.
* Phương pháp thực nghiệm
Để bảo đảm tính chính xác và hiệu quả của việc vận dụng phương pháp
NCTH vào dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái
Nguyên, tác giả sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu và khảo sát.
Ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được dạy cùng một nội dung bài học.
Giờ dạy của lớp đối chứng tiến hành dạy trước, giờ dạy lớp thực nghiệm dạy
sau. Các phương pháp thực nghiệm gồm cả phương pháp định lượng và
phương pháp định tính.
Phương pháp định lượng: Phương pháp này nhằm đo lường, ghi nhận
những thành công, không thành công của HS sau một quá trình học tập theo
những mục tiêu đã đề ra. Đây là loại phương pháp đánh giá có tính chất truyền
thống. Loại đánh giá này thường được tiến hành vào cuối những giai đoạn học
tập lớn như kiểm tra hay thi hết môn học nhằm tổng hợp kết quả và căn cứ
vào kết quả đó để xếp loại cho HS sau mỗi giai đoạn học tập và giúp GV rút
ra được những kinh nghiệm từ bài dạy hoặc bổ sung những thiếu sót nếu HS
chưa đạt yêu cầu khi kết thúc một khóa học.
60
Với phương pháp này, chúng tôi đánh giá dựa trên cơ sở so sánh giữa kết
quả kiểm tra và kết quả bài viết cuối kỳ ở học kỳ I, học kỳ II của lớp TN và ĐC
(đề kiểm tra học kỳ I do chúng tôi ra đề, còn đề kiểm tra kỳ II do các GV dạy bộ
môn ra đề. Đề được duyệt bởi các thầy cô tổ trưởng tổ chuyên môn)
Phương pháp định lượng rất quan trọng, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây
thì chưa có đủ cơ sở để đánh giá người học về trình độ; kết quả nghiên cứu sẽ
thiếu độ chính xác, không đảm bảo tính khoa học. Do đó, ngoài phương pháp
định lượng, trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi còn đánh giá HS theo
phương pháp định tính.
Phương pháp định tính: Phương pháp này giúp phát hiện những sai sót,
những lỗi thường mắc hoặc có thể mắc phải của HS trong quá trình học tập.
Qua đó, tìm cách khắc phục, cải thiện quá trình dạy và học cũng như các hoạt
động giáo dục có liên quan. Phương pháp định tính được đánh giá thường
xuyên trong quá trình dạy học nhằm xem xét xem các hình thức tổ chức dạy
học, cách thức đánh giá có phù hợp với nội dung đào tạo, điều kiện vật chất
và đối tượng người học hay không... Các thông tin thu được sẽ góp phần điều
chỉnh quá trình dạy và học ngay trong chính thời điểm đó. Phương pháp định
tính được sử dụng dựa trên sự quan sát tinh thần, thái độ học tập của HS, tiến
trình dạy của GV, khảo sát ý kiến GV và HS.
Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi vừa phải đồng thời quan sát HS
trên lớp để tìm hiểu tinh thần, thái độ học tập của các em; vừa phải đánh giá
sản phẩm học của HS được thể hiện cụ thể qua phiếu bài tập, bài kiểm tra...
Đánh giá học sinh chính xác, công bằng không những khuyến khích tinh thần
học tập của người học, tạo nên sự nghiêm túc trong quá trình học mà còn giúp
GV tự nhìn nhận lại việc giảng dạy của mình để thay đổi, chỉnh sửa, nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong dạy học.
Trong quá trình thực nghiệm chúng tôi còn triển khai kiểm tra đánh giá
kết quả dạy học. Qua tổng hợp, phân tích số liệu thu thập sau quá trình dạy
61
thực nghiệm, chúng tôi rút ra kết luận về hiệu quả của phương pháp NCTH
trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái
Nguyên.
3.1.2. Thực nghiệm sư phạm vận dụng phương pháp nghiên cứu trường
hợp trong dạy học trong dạy học môn Giáo dục Công dân lớp 10 ở các
trường Trung học phổ thông Thành phố Thái Nguyên
3.1.2.1. Nội dung thực nghiệm
* Lựa chọn đơn vị kiến thức thực nghiệm
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ lựa chọn một số đơn vị kiến
thức để tiến hành dạy thực nghiệm và đối chứng (không tiến hành thực nghiệm
đối với những tiết học thực hành, ngoại khóa, các tiết đọc thêm, các tiết làm
bài kiểm tra). Cụ thể như sau:
BÀI 14: CÔNG DÂN VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC
TIẾT 1: LÒNG YÊU NƯỚC VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Mục 1. Lòng yêu nước
- Lòng yêu nước là gì?
Lòng yêu nước là tình yêu quê hương đất nước và tinh thần sẵn sàng
đem hết khả năng của mình phục vụ lợi ích Tổ quốc.
- Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
- Yêu nước là truyền thống đạo đức cao quý và thiêng liêng của dân tộc
Việt Nam, là cội nguồn của hàng loạt giá trị truyền thống khác của dân tộc.
- Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ở:
+ Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước.
+ Tình yêu thương đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc.
+ Lòng tự hào dân tộc chính đáng.
+ Đoàn kết, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm.
62
+ Cần cù và sáng tạo trong lao động.
Tiết 2: Nội dung chính:
Mục 2. Trách nhiệm xây dựng Tổ quốc
- Chăm chỉ, sáng tạo trong học tập, lao động; có mục đích, động cơ học
tập đúng đắn.
- Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh với lối sống thực dụng, xa rời các giá trị văn
hóa - đạo đức truyền thống dân tộc.
- Quan tâm đến đời sống chính trị, xã hội của địa phương, của đất nước.
- Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương, đất nước
- Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc
gia, dân tộc.
Mục 3. Trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc
- Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Cảnh giác
trước mọi âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán đấu
tranh với những thái độ, việc làm gây thiệt hại đến an ninh quốc gia, xâm
phạm độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
- Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh, bảo vệ sức khỏe.
- Tham gia đăng ký nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi, sẵn sàng lên đường
làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương;
tham gia công tác đền ơn, đáp nghĩa.
- Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc
* Thiết kế kế hoạch thực nghiệm:
Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
I. Mục tiêu
- Về kiến thức
63
+ Học sinh nêu được khái niệm là lòng yêu nước, truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam và các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước của dân
tộc Việt Nam.
+ Trình bày được nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân, đặc biệt là học
sinh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Về kỹ năng:
+ Biết tham gia các hoạt động xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước
phù hợp với lứa tuổi.
- Về thái độ:
+ Yêu quê hương đất nước; tự hào truyền thống yêu nước của dân tộc;
Có ý thức học tập, rèn luyện để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
quê hương đất nước.
+ Có các phẩm chất nhân ái, trung thực, trách nhiệm,…
- Các năng lực hướng tới hình thành và phát triển ở học sinh
+ Các năng lực chung: Tự học, sáng tạo; giải quyết vấn đề,…
+ Các năng lực riêng: tư duy phản biện, sáng tạo, điều chỉnh hành vi,…
II. Chuẩn bị
- Đối với giáo viên
+ Sách giáo khoa, sách giáo viên Giáo dục công dân lớp 10 và tài liệu
tham khảo khác
+ Các dụng cụ dạy học: tranh ảnh, máy chiếu, bảng phụ, bút dạ….
- Đối với học sinh
+ Sách giáo khoa lớp 10 và tài liệu tham khảo khác
+ Dụng cụ học tập, bảng phụ, bút dạ, vở ghi….
III. Tổ chức dạy học bài mới
- Hoạt động khởi động:
+ Mục tiêu: Tạo tâm thế cho học sinh vào bài mới
+ Cách tiến hành:
64
- Hoạt động của giáo viên: cho học sinh xem video về hoạt động tuyển
thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự [43] và đặt câu hỏi cho học sinh: Em
hãy nêu cảm nhận của mình khi xem xong đoạn video trên?
GV nhận xét câu trả lời của HS và giới thiệu bài mới
Hoạt động của học sinh: Xem video, trao đổi với bạn ngồi bên cạnh và
trả lời câu hỏi.
- Hoạt động hình thành kiến thức
Hoạt động 1: Tìm hiểu khái niệm lòng yêu nước
Mục tiêu: Hiểu được nội dung lòng yêu nước là gì?
Cách tiến hành:
- Hoạt động của giáo viên:
- Giáo viên cho học sinh đọc các trường hợp điển hình dưới đây:
Trường hợp 1:
Thực hiện kế hoạch tuyển chọn, khám sơ tuyển gọi công dân nhập ngũ
năm 2020, sáng ngày 25/10/2019, tại Trạm Y tế Công ty Than Thống Nhất -
TKV, Phòng BVQS đã phối hợp với bộ phân Y tế tổ chức khám sơ tuyển sức
khỏe nghĩa vụ quân sự nguồn công dân chuẩn bị nhập ngũ năm 2020 tại các
đơn vị trong Công ty. Theo đó, 31 nam thanh niên đủ điều kiện, hiện đang
làm việc tại các đơn vị trong Công ty được triệu tập, gọi khám sơ tuyển sức
khỏe, khám sàng lọc các bước gồm: đo chiều cao, cân nặng, chỉ số vòng ngực,
đo huyết áp, nhịp tim mạch, dị tật, dị dạng, tìm hiểu và khai thác những tiền
sử bệnh tật… Nhờ thực hiện tốt công tác tuyên truyền về Luật nghĩa vụ quân
sự, công tác chuẩn bị, đồng thời thực hiện tốt khâu sơ tuyển nên 100% thanh
niên đã đến đúng thời gian quy định, thái độ hợp tác và chấp hành đúng theo
yêu cầu khám tuyển.
Nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân, tuân thủ đúng
Luật Nghĩa vụ Quân sự và các Thông tư của Bộ Quốc phòng, Công ty Than
Thống Nhất - TKV quyết tâm lựa chọn những thanh niên đủ tiêu chuẩn, đúng
65
độ tuổi, có sức khỏe và phẩm chất đạo đức chính trị tốt để làm cơ sở cho việc
tuyển chọn gọi công nhân nhập ngũ năm 2020 [40].
Trường hợp 2:
Chiều 24/6, lãnh đạo Công an tỉnh Khánh Hòa thông tin, Cơ quan
ANĐT Công an tỉnh đã thực hiện lệnh bắt tạm giam đối tượng Nguyễn Thị
Cẩm Thúy, nguyên giáo viên, (SN 1976), trú thôn Tân Quý, xã Cam Thành
Bắc, huyện Cam Lâm, Khánh Hòa. Nguyễn Thị Cẩm Thúy bị bắt tạm giam
để điều tra về hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền chống Nhà nước
CHXHCN Việt Nam, quy định tại Điều 117 BLHS.
Theo điều tra ban đầu, từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, tại nhà riêng,
Thúy cùng một số đối tượng đã đăng tải, phát tán trên mạng xã hội với nội
dung xuyên tạc Đảng, Nhà nước, chế độ, 2 lần có hành vi đốt cờ Tổ quốc, đốt
cờ Đảng, cắt xé, đốt ảnh Bác Hồ. Từ những chứng cứ, tài liệu thu thập được,
trung tuần tháng 6, Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Khánh Hòa đã khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Cẩm Thúy về tội “làm, tàng trữ,
phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [39].
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, đặt câu hỏi cho các nhóm thảo luận:
Nhóm 1. Em hãy đọc trường hợp 1 và nêu nhận xét của em về trường
hợp này.
Nhóm 2. Em hãy đọc trường hợp 2 và nêu nhận xét của em về trường
hợp này.
Nhóm 3: Em hiểu thế nào là lòng yêu nước? Lấy ví dụ minh họa.
Nhóm 4: Theo em thì lòng yêu nước được bắt nguồn từ đâu? Lấy ví dụ
chứng minh.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: Giáo viên nhận xét kết
quả thảo luận và định hướng cho học sinh:
66
+ Truyền thống yêu nước trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc:
+ GV nêu một số sự kiện lịch sử, như: Hội nghị Diên Hồng; Trần Hưng
Đạo ba lần đánh tan quân Nguyên; Chiến thắng Điện Biên Phủ; Chiến thắng
30/4, giải phóng Miền Nam…
- Giáo viên yêu cầu học sinh lấy ví dụ về các câu ca dao tục ngữ về
lòng yêu nước và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
+ Chốt kiến thức cần ghi nhớ cho học sinh
- Hoạt động của học sinh:
+ Học sinh thảo luận nhóm để tìm hiểu nội dung giáo viên nêu
+ Báo cáo kết quả và thảo luận:
+ Các nhóm đánh giá, nhận xét, bổ sung (nếu có) nội dung thảo luận
của nhau.
+ Ghi chép bài học
Ghi nhớ kiến thức:
- Khái niệm lòng yêu nước: Lòng yêu nước là tình yêu quê hương đất
nước và tinh thần sẵn sàng đem hết khả năng của mình phục vụ lợi ích tổ quốc.
Hoạt động 2: Tìm hiểu nội dung truyền thống yêu nước của dân tộc
Việt Nam
- Hoạt động của giáo viên:
+ Cho học sinh thảo luận cặp đôi tìm hiểu về nội dung truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam.
+ Đặt câu hỏi: Theo em nội dung truyền thống yêu nước của dân tộc
Việt Nam thể hiện cụ thể như thế nào?
+ Gọi học sinh trả lời
+ Nhận xét câu hỏi của học sinh và chốt kiến thức trọng tâm
- Hoạt động của học sinh:
67
+ Thảo luận cặp đôi theo bàn
+ Trả lời câu hỏi
+ Đặt câu hỏi hoặc phản biện câu trả lời của các bạn
+ Ghi chép bài học
Ghi nhớ kiến thức:
- Yêu nước là truyền thống đạo đức cao quý và thiêng liêng của dân
tộc Việt Nam, là cội nguồn của hàng loạt giá trị truyền thống khác của dân
tộc.
- Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ở:
+ Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước.
+ Tình yêu thương đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc.
+ Lòng tự hào dân tộc chính đáng.
+ Đoàn kết, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm.
+ Cần cù và sáng tạo trong lao động.
- Hoạt động luyện tập
* Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố kiến thức
* Cách tiến hành: Yêu cầu học sinh làm bài tập theo các cấp độ tư duy
Hoạt động của giáo viên:
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài trên phiếu học tập
Thu phiếu học tập và chữa bài làm của một số học sinh
Đánh giá và cho điểm (nếu cần) hoạt động của học sinh:
Làm bài tập trên phiếu
Trả lời câu hỏi nếu giáo viên yêu cầu
TIẾT 2: TRÁCH NHIỆM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Hoạt động 3: Tìm hiểu nội dung trách nhiệm xây dựng Tổ quốc
Mục tiêu: Hiểu được nội dung trách nhiệm xây dựng Tổ quốc
Cách tiến hành
68
- Hoạt động của giáo viên:
- Cho học sinh xem video: Chuyên đề kinh tế: Góp sức xây dựng quê
hương đất nước [44].
- Tổ chức thảo luận tự do với các câu hỏi:
Câu hỏi 1: Em cho biết đoạn phóng sự trên nói về điều gì?
Câu hỏi 2: Theo em học sinh có trách nhiệm gì với việc xây dựng đất nước?
- Nhận xét câu trả lời của học sinh và chốt kiến thức
- Hoạt động của học sinh:
+ Xem video, nghiên cứu, thảo luận, trao đổi tự do với nhau
+ Trả lời câu hỏi cá nhân; nhận xét, bổ sung góp ý cho câu hỏi của bạn
+ Ghi chép bài học
Ghi nhớ kiến thức: Trách nhiệm của học sinh trong xây dựng Tổ quốc
- Chăm học, chăm làm; sáng tạo trong học tập, lao động; có mục đích,
động cơ học tập đúng đắn
- Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; sống lành mạnh, tránh xa các
tệ nạn xã hội; biết đấu tranh với các biểu hiện của lối sống sai trái.
- Quan tâm đến đời sống chính trị, xã hội của địa phương, của đất nước.
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước
- Tích cực tham gia xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết
thực, phù hợp
- Đấu tranh, phê phán những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc
Hoạt động 4: Tìm hiểu nội dung trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc
Mục tiêu: Hiểu được nội dung trách nhiệm xây dựng Tổ quốc
Cách tiến hành
- Hoạt động của giáo viên
69
+ Giáo viên nêu trường hợp: Vị thuyền trưởng anh hùng trong trận Gạc
Ma 1988 [Thông tin tại Phụ lục 1]
+ Đặt câu hỏi cho HS:
Câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về trận chiến của các chiến sỹ bộ đội tại
đảo Gạc Ma
Câu hỏi 2: Là những học sinh, chúng ta cần phải làm gì để góp phần
bảo vệ Tổ quốc
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh và chốt
kiến thức trọng tâm.
- Hoạt động của học sinh:
+ Học sinh nghe trường hợp giáo viên kể, trả lời câu hỏi của giáo viên
+ Trao đổi với bạn và đặt câu hỏi cho bạn nếu có
+ Ghi chép bài học
- Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Cảnh giác
trước mọi âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch…
- Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh, bảo vệ sức khỏe.
- Tham gia đăng ký nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi, sẵn sàng lên đường
làm nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc.
- Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương…
- Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc
* Hoạt động luyện tập
Mục tiêu: Tạo cơ hội cho HS luyện tập kiến thức đã học, rèn luyện kỹ năng
Cách tiến hành
- Hoạt động của giáo viên:
+ Yêu cầu học sinh nghiên cứu và trả lời ý kiến cá nhân về bài 2 (Trang
101 SGK Giáo dục công dân 10): Xử lí các tình huống sau:
Tình huống 1: Anh trai Hùng có giấy gọi nhập ngũ. Bố mẹ Hùng không
muốn cho con đi nên đã bàn nhau tìm cách xin cho anh ở lại.
70
Theo em, Hùng nên làm gì khi biết ý định của bố mẹ? Vì sao?
Tình huống 2: Thanh được địa phương cử và cấp kinh phí cho đi học
để sau này trở về phục vụ quê hương. Nhưng sau khi học xong, Thanh đã tìm
mọi cách để được ở lại thành phố.
Nếu là bạn của Thanh, em có thể làm gì?
- Hoạt động của học sinh
+ Nghiên cứu tình huống và trả lời câu hỏi
+ Bổ sung câu hỏi, góp ý, phản biện câu trả lời của bạn
+ Ghi chép bài học
* Hoạt động vận dụng (thực hiện ở nhà)
- Hoạt động của giáo viên
+ Cho học sinh sưu tầm hoặc vẽ tranh cổ động về trách nhiệm của học
sinh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+ Chia lớp thành 4 nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm:
Nhiệm vụ 1: Mỗi nhóm sưu tầm các bức tranh hoặc vẽ tranh cổ động
về trách nhiệm của học sinh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
Nhiệm vụ 2: Viết bài thuyết trình cho bức tranh;
Nhiệm vụ 3: Trưng bày sản phẩm và thuyết minh tranh vào giờ học
thực hành của tuần sau;
- Hoạt động của học sinh:
Nhận nhiệm vụ giáo viên giao, phân công nhiệm vụ theo yêu cầu của
giáo viên và nộp sản phẩm đúng hạn.
Dạy thực nghiệm
Do thời điểm dạy thực nghiệm ở nước ta xuất hiện dịch bệnh Covid -
19, các trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên phải cho học sinh
nghỉ học một thời gian dài, sau đó chuyển sang học trực tuyến, nên tác giả
không thể tiến hành thực nghiệm toàn thời gian ở trường THPT được mà kết
hợp với giáo viên bộ môn ở trường THPT Thái Nguyên và sinh viên thực tập
71
ở trường THPT Lương Ngọc Quyến để hoàn thành kế hoạch thực nghiệm.
Mặc dù gặp khó khăn, nhưng tác giả khẳng định việc dạy thực nghiệm vẫn
được triển khai một cách nghiêm túc và không ảnh hưởng nhiều đến kết quả
thực nghiệm cũng như những kết luận khoa học được rút ra trong luận văn.
Quá trình dạy thực nghiệm được tiến hành từ tuần thứ 32 đến tuần thứ
34 của học kỳ 2 năm học 2019 - 2020.
Cả hai lớp đối chứng và thực nghiệm chúng tôi đều đề xuất các hoạt
động dạy học như nhau: hoạt động khởi động; khám phá và hình thành kiến
thức mới; thực hành và vận dụng kiến thức đã học. Tuy nhiên, phương pháp
dạy học có khác nhau. Ở lớp đối chứng, các phương pháp dạy học được sử
dụng gồm: thuyết trình, thảo luận nhóm, nêu và giải quyết vấn đề. Còn ở lớp
thực nghiệm, phương pháp dạy học chính được sử dụng là NCTH, ngoài ra
có kết hợp với thuyết trình, thảo luận nhóm, nêu và giải quyết vấn đề ở các
mức độ khác nhau phụ thuộc vào hoạt động dạy học của giáo viên.
Kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm:
Ngay sau khi kết thúc giờ dạy, chúng tôi tiến hành kiểm tra trình độ
nhận thức của học sinh ở cả hai lớp ĐC và TN nhằm so sánh mức độ nhận
thức và kết quả học tập cả học sinh ở cả hai lớp.
Ở trường THPT Lương Ngọc Quyến, chúng tôi cho HS làm bài kiểm
tra 15 phút. Còn ở trường THPT Thái Nguyên, HS làm bài kiểm tra 1 tiết (45
phút). Đề bài bao gồm 2 phần: tự luận và trắc nghiệm. Cả hai lớp TN và ĐC
làm chung một đề, đánh giá theo thang điểm như nhau.
Song song với việc cho học sinh làm bài kiểm tra, chúng tôi phát phiếu
điều tra (phiếu điều tra chỉ sử dụng cho lớp thực nghiệm) nhằm đánh giá
những biểu hiện của HS trong giờ học theo phương pháp NCTH.
Cách kiểm tra và xử lý kết quả thực nghiệm được chúng tôi tiến hành
theo các bước sau đây:
Bước 1: Soạn câu hỏi kiểm tra theo mục tiêu bài dạy
72
Bước 2: Cho học sinh làm bài kiểm tra, trả lời phiếu điều tra
Bước 3: Chấm bài kiểm tra của hai lớp thực nghiệm và đối chứng
Bước 4: Xử lý kết quả kiểm tra, số liệu điều tra để rút ra kết luận.
Để đánh giá khả năng nắm bắt tri thức của học sinh, chúng tôi sử dụng
thang điểm 10 theo quy định về đánh giá HS THPT. Các điểm số được phân
làm bốn mức độ sau:
- Loại giỏi: Điểm 9 đến 10
- Loại khá: Điểm 7 đến 8
- Loại trung bình: Điểm 5 đến 6
- Loại yếu kém: Các điểm dưới 5
Dưới đây là kết quả kiểm tra của lớp ĐC và lớp TN
+ Điểm kiểm tra 15 phút của lớp TN và ĐC ở trường THPT Lương
Ngọc Quyến.
Bảng 3.3: Điểm kiểm tra 15 phút của lớp TN và ĐC
ở trường THPT Lương Ngọc Quyến
Phân loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Tên lớp
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
Lớp ĐC (47 HS)
10
21,2
21
44,7
16
34
0
0
Lớp TN (40)
19
47,5
9
22,5
12
30
0
0
Nguồn: Kết quả kiểm tra 15 phút môn GDCD
Dựa vào số liệu trong bảng 1, chúng tôi có biểu đồ minh họa kết quả kiểm
tra 15 phút của lớp TN và ĐC trường THPT Lương Ngọc Quyến như sau:
73
ĐC
TN
50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
Khá
Trung bình
Giỏi
Yếu
Biểu đồ 3.1: Điểm kiểm tra 15 phút của lớp TN và ĐC
trường THPT Lương Ngọc Quyến
Nghiên cứu kết quả bài kiểm tra ở hai nhóm lớp ĐC và TN ở trường
THPT Lương Ngọc Quyến cho thấy, kết quả học tập ở lớp TN và lớp ĐC có
sự khác biệt hẳn. Ở lớp TN, số lượng HS đạt điểm giỏi nhiều gấp hơn 2 lần
so với lớp đối chứng, số điểm khá và trung bình đều ít hơn lớp ĐC. Ở cả hai
lớp không có điểm dưới trung bình.
+ Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp TN và ĐC trường THPT Thái Nguyên
Bảng 3.4: Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp TN và ĐC
trường THPT Thái Nguyên
Phân loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Tên lớp
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
Lớp ĐC (28)
16
57
11
40
1
3
0
0
Lớp TN (27)
20
74
6
22
1
4
0
0
Nguồn: Kết quả kiểm tra 1 tiết môn GDCD
74
Dựa vào số liệu trong bảng trên, chúng tôi có biểu đồ minh họa kết quả
kiểm tra 1 tiết của học sinh lớp TN và ĐC ở trường THPT Thái Nguyên như
sau:
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Khá
Trung bình
Giỏi
Yếu
10A1
10A2
Biểu đồ 3.2: Điểm kiểm tra 1 tiết của lớp TN và ĐC
trường THPT Thái Nguyên
Kết quả thể hiện ở bảng số liệu trên cho thấy, ở nội dung kiểm tra 1 tiết
của học sinh trường THPT Thái Nguyên ở hai lớp TN và ĐC có sự chênh lệch
rõ ràng ở các mức độ khá, giỏi; điểm trung bình là tương đương nhau. Ở lớp
đối chứng, HS có điểm giỏi ít hơn nhiều so lớp thực nghiệm; trong khi đó
điểm khá ở lớp đối chứng lại nhiều hơn so với lớp thực nghiệm. Điều đó cho
thấy rằng, việc áp dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT là cần thiết.
Kết quả điều tra xã hội học với học sinh sau giờ học thực nghiệm:
Sau giờ học thực nghiệm, chúng tôi không chỉ tổ chức cho học sinh làm
bài kiểm tra mà còn phát phiếu điều tra để tìm hiểu tinh thần, thái độ, hứng
thú của học sinh về giờ học có vận dụng phương pháp NCTH. Kết quả thu
được như sau:
75
Một là: Nhận thức của phần lớn HS về giờ học có vận dụng phương
pháp NCTH là tích cực. Kết quả điều tra những học sinh được học với phương
pháp NCTH cho thấy, 88% số học sinh tham gia học thực nghiệm khẳng định
khi giảng viên sử dụng các tấm gương điển hình có thật trong thực tiễn cuộc
sống để dạy các bài học đạo đức giúp các em hiểu rõ hơn các phạm trù đạo
đức, biết rút ra những bài học đạo đức cho bản thân.
Hai là: Hứng thú của học sinh trong giờ học: 92% được hỏi đều nhận
thấy khi giáo viên yêu cầu học sinh giải quyết các tình huống buộc các em
phải tư duy nhiều hơn. Khả năng hợp tác, tư duy phản biện xuất hiện với tần
xuất thường xuyên, giờ học trở nên có ý nghĩa hơn, sôi nổi hơn, nhất là đối
với những trường hợp chứa đựng nhiều mâu thuẫn, gây tranh luận nhiều giữa
các nhóm học sinh.
Ba là: Giờ học có vận dụng phương pháp NCTH thúc đẩy tinh thần, thái
độ làm việc nhóm của học sinh, giúp học sinh gắn kết với nhau hơn: Kết quả
điều tra đã khẳng định, khi giáo viên yêu cầu làm việc nhóm để giải quyết các
trường hợp điển hình còn giúp học sinh gắn kết với nhau hơn. Đại đa số học
sinh đều cho biết, mỗi khi giáo viên thiết lập nhóm để học tập, các em thấy
mình có trách nhiệm hơn trong nhóm. Quá trình học nhóm giúp các em hiểu
tính cách của nhau hơn, có ý thức trợ giúp nhau trong học tập. Thực tế này đã
chứng minh nếu giáo viên thường xuyên sử dụng kết hợp phương pháp thảo
luận nhóm với phương pháp NCTH vào dạy học sẽ phát triển được các năng
lực chung cho học sinh như năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp...
Bốn là: hạn chế và yêu cầu của học sinh đặt ra trong giờ học có vận
dụng phương pháp NCTH: Bên cạnh những ưu điểm, học sinh cũng đã nhận
ra những hạn chế của giờ học và yêu cầu cần có những biện pháp khắc phục:
Một là: Khi giáo viên giao thảo luận nhóm một số học sinh còn ỷ lại
vào bạn, không chịu tham gia hoạt động. Vì vậy các em cho rằng giáo viên
phải có những giải pháp hữu hiệu đối với các bạn học sinh này.
76
Hai là: Khi giáo viên cho học sinh đọc các trường hợp điển hình học
sinh cảm thấy không thích thú bằng cho xem một đoạn video ngắn về trường
hợp đó nên yêu cầu giáo viên thường xuyên cho các em xem video thay bằng
việc đọc trên phiếu học tập.
Như vậy, không chỉ nhận ra được những ưu điểm mà học sinh còn chỉ
ra được những hạn chế khi giáo viên vận dụng phương pháp NCTH. Những
hạn chế và yêu cầu học sinh nêu ra trên đây đòi hỏi giáo viên phải cân nhắc
và có những biện pháp khắc phục. Trên cơ sở đó, từng bước nâng cao chất
lượng môn học.
3.1.2.2. Kết luận thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm là một bước không thể thiếu trong quá trình
nghiên cứu đề tài khoa học giáo dục. Thông qua quá trình thực nghiệm, giả
thuyết mà đề tài đặt ra mới được kiểm chứng và khẳng định tính hiệu quả, khả
thi của việc sử dụng một phương pháp dạy học nào đó.
Tiến hành thực nghiệm phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD
ở một số trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên cho thấy, nếu sử
dụng thường xuyên phương pháp này vào dạy môn GDCD lớp 10 nói riêng
và các nội dung khác trong chương trình GDCD cấp THPT nói chung sẽ giúp
học sinh chủ động hơn, tích cực hơn, say mê và hứng thú hơn nhiều trong quá
trình học tập. Đó là đòn bẩy quyết định đến chất lượng và hiệu quả học tập
của môn học.
Như vậy, việc sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học môn
GDCD ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên là hoàn toàn có thể thực
hiện được nhằm cải thiện tình trạng dạy và nâng cao chất lượng môn học.
Tổng kết lại quá trình thực nghiệm sư phạm ở các trường THPT của
Thành phố Thái Nguyên, đã chứng minh rằng khi GV vận dụng phương pháp
NCTH trong dạy học môn GDCD, chất lượng dạy học cao hơn so với dạy
bằng PP truyền thống. Số lượng học sinh đạt điểm khá, giỏi ở các lớp TN cao
77
hơn hẳn so với các lớp đối chứng. Ngược lại, số học sinh đạt điểm trung bình
ở lớp ĐC lại nhiều hơn ở lớp TN. Bên cạnh đó, khi học với phương pháp
NCTH, học sinh cũng đã hiểu bài hơn, các bài học đạo đức trở nên hay hơn
trong mắt học sinh. Tính tích cực, tự giác, hứng thú và các năng lực chung
của học sinh được phát huy.
Điều đó đã giúp chúng tôi chứng minh được giả thuyết đưa ra trong đề
tài là chính xác: Việc vận dụng phương pháp NCTH vào trong quá trình dạy
học đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD ở các trường THPT
trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu quả việc vận dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp trong dạy học trong dạy học môn
Giáo dục Công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố
Thái Nguyên
3.2.1. Nâng cao vai trò chỉ đạo, điều hành, quản lý giờ dạy có vận dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn Giáo
dục công dân lớp 10 ở các trường Trung học phổ thông Thành phố Thái
Nguyên của các cấp quản lý
Kết quả thực nghiệm sư phạm ở một số trường THPT trên địa bàn
Thành phố Thái Nguyên cho thấy rằng, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu
trường hợp điển hình trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên có tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, để có
thể đạt được hiệu quả cao hơn nữa thì vai trò của các cấp quản lý như Bộ, Sở
Giáo dục và Đào tạo; đặc biệt là Ban Giám hiệu các nhà trường, tổ chuyên
môn trong chỉ đạo, điều hành, quản lý giờ dạy có sử dụng phương pháp nghiên
cứu trường hợp điển hình trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên là vô cùng cần thiết và quan trọng.
Thực tế cho thấy rằng, giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân nói
chung và giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân cấp THPT ở Thành phố
78
Thái Nguyên nói riêng rất tâm huyết với nghề nghiệp và môn học mình đảm
nhiệm. Tuy nhiên, muốn đổi mới phương pháp dạy học trong đó có phương
pháp nghiên cứu trường hợp nhưng, lại có những lý do khiến họ e dè. Chẳng
hạn: để đổi mới phương pháp phải đổi mới kiểm tra, đánh giá. Nhưng đổi mới
kiểm tra, đánh giá lại là vấn đề mà giáo viên không thể tự quyết và tự làm
được mà phải có sự hướng dẫn của Bộ, Sở… Như vậy, rất cần có sự chỉ đạo,
điều hành, quản lý một cách đồng bộ từ các cấp trong ngành giáo dục.
Về phía cơ quan chủ quản cao nhất - Bộ Giáo dục và đào tạo - đã luôn
tạo ra những tiền đề cần thiết cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học.
Trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Giáo dục công dân năm 2018
do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-
BGDĐT ngày 28 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có ghi rõ:
“Môn Giáo dục công dân hình thành phát triển ở học sinh các phẩm chất và
năng lực của người công dân thông qua các bài học về lối sống, đạo đức, pháp
luật, kinh tế, nghĩa là chuyển các giá trị văn hóa, đạo đức, các kiến thức pháp
luật, kinh tế thành ý thức và hành vi của người công dân. Do vậy, giáo viên
phải có phương pháp giáo dục phù hợp cụ thể là: 1. Chú trọng tổ chức hướng
dẫn các hoạt động để học sinh khám phá, phân tích, khai thác thông tin, xử lý
tình huống thực tiễn, trường hợp điển hình; tăng cường sử dụng các thông tin,
tình huống, trường hợp của thực tế cuộc sống xung quanh gần gũi với đời
sống học sinh trong việc phân tích, đối chiếu, minh họa để các bài học vừa có
sức hấp dẫn, vừa nhẹ nhàng hiệu quả; coi trọng tổ chức hoạt động trải nghiệm
để học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới, phát triển kỹ năng và
thái độ tích cực, trên cơ sở đó hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực
người công dân tương lai” [9, tr.52-53]. Có thể nói đây không chỉ là sự quan
tâm mà còn tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để Sở Giáo dục và Đào tạo Thái
Nguyên tổ chức các hội thảo, hội nghị; mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn về
79
chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp NCTH cho giáo viên GDCD ở tỉnh
Thái Nguyên nói chung.
Để có thể giúp giáo viên môn GDCD ở Thành phố Thái Nguyên vận
dụng thành công phương pháp NCTH vào dạy học bộ môn, các cấp cần thực
hiện những nội dung sau:
- Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên cần đề xuất với Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Ủy ban nhân dân Thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tăng
cường hỗ trợ về cơ sở vật chất cho các trường THPT trong thành phố, gồm
các hạng mục như như xây dựng, sửa mới phòng học; mua sắm trang thiết bị
như sách tham khảo, dụng cụ dạy học… phục vụ đổi mới dạy học môn GDCD.
- Ban Giám hiệu các trường THPT trong Thành phố Thái Nguyên phải
có những chỉ đạo kịp thời cùng với tăng cường các cơ chế thi đua, khen thưởng
nhằm khuyến khích, động viên kịp thời những giáo viên thường xuyên thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học và áp dụng phương pháp NCTH trong dạy
học môn GDCD.
- Ban Giám hiệu các trường Thành phố Thái Nguyên còn cần phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên đi học tập, tập huấn, hội thảo về đổi
mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tiên tiến, hiện đại. Qua đó, giảng
viên có thêm kinh nghiệm để áp dụng phương pháp NCTH vào dạy học môn
GDCD.
3.2.2. Nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Giáo dục
công dân lớp 10 để có thể thực hiện dạy học bằng phương pháp nghiên cứu
trường hợp
Dạy học bằng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở
Thành phố Thái Nguyên tưởng rất dễ nhưng có thể sẽ gặp khó khăn nếu giáo
viên không có trình độ chuyên môn cũng như năng lực dạy học bằng phương
pháp này. Trình độ chuyên môn sẽ giúp giáo viên tìm kiếm được những trường
hợp điển hình tốt để đưa vào bài học sao cho phù hợp với từng bài. Còn năng
80
lực dạy học tốt sẽ giúp giáo viên thực hiện tốt quy trình dạy học bằng phương
pháp NCTH và giờ học, do vậy, sẽ đạt hiệu quả cao. Để nâng cao năng lực
chuyên môn và năng lực dạy học cho giáo viên GDCD ở các trường THPT
Thành phố Thái Nguyên, theo tôi cần thực hiện những việc sau:
- Trên cơ sở tự nhận thức được sự cần thiết của việc học tập, nâng cao
trình độ, giáo viên phải thường xuyên tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; để qua đó, có đủ tri thức để tìm tòi các trường hợp
điển hình phù hợp với từng bài học.
- “Tiếp cận và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với từng bài, từng tiết, thậm chí từng đơn vị kiến thức. Đây là giải pháp
hữu hiệu để giáo viên áp dụng thành công phương pháp NCTHĐH trong dạy
học môn GDCD” [34, tr.74 ]. Đây là điều cần thiết, vì lẽ, trong dạy học GDCD
lớp 10 nói chung sẽ không có một phương pháp dạy học tối ưu cho tất cả các
bài học. Nếu giáo viên cứ mặc định là phải sử dụng phương pháp NCTH vào
dạy tất cả các bài sẽ dẫn đến sự khiên cưỡng, thất bại. Do vậy, giáo viên cần
“Kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống với các phương
pháp dạy học hiện đại theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học; tăng
cường sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù của môn học như: giải quyết
vấn đề, phân tích trường hợp điển hình kết hợp nêu những tấm gương công
dân tiêu biểu; xử lý tình huống có tính thời sự về đạo đức, pháp luật và kinh
tế trong cuộc sống hàng ngày; thảo luận nhóm, đóng vai, dự án…” [9, tr.56]
để từ đó nâng cao năng lực dạy học bằng phương pháp NCTH cho bản thân.
- Giáo viên cần sử dụng thường xuyên phương pháp NCTH vào dạy
học môn GDCD lớp 10 và đặc biệt là cần kết hợp giữa phương pháp này với
các phương pháp dạy học tích cực khác phù hợp với bài học như phương pháp
nêu vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm… để phát triển các năng lực cho
học sinh.
3.2.3. Nâng cao tính tích cực tự giác học tập của học sinh
81
Dạy học lấy học sinh là trung tâm là quan điểm dạy học tiên tiến được
các giáo viên dạy GDCD nói chung ở Thành phố Thái Nguyên áp dụng thường
xuyên trong quá trình dạy học bộ môn. Phương pháp dạy học NCTH khi đặt
trên quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm đòi hỏi ở học sinh tính tự
giác, tích cực, chủ động cao. Bởi lẽ, nếu không có tính tích cực, tự giác, chủ
động trong học tập, học sinh sẽ không hoàn thành các nhiệm vụ mà giáo viên
nêu ra.
Như đã phân tích ở trên, học sinh lớp 10 ở Thành phố Thái Nguyên đại
đa số đều có học lực từ trung bình trở lên. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách
quan tác động nên không phải học sinh nào cũng có ý thức tự giác, tích cực,
chủ động trong học tập. Để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học
sinh lớp 10 trong học tập môn GDCD khi giáo viên dạy học bằng phương pháp
NCTH điển hình, cần phải có những biện pháp hữu hiệu, như:
- Vai trò của giáo viên trong việc lựa chọn các nhân vật điển hình có
tác dụng lôi cuốn học sinh. Đối với học sinh lớp 10, tính tò mò của các em
vẫn rất cao. Nếu giáo viên biết tìm ra những trường hợp điển hình, mà trong
đó có những tình huống có vấn đề, sẽ khơi gợi tính tò mò của học sinh. Từ
đó, học sinh sẽ tích cực, chủ động, khám phá kiến thức mới.
- Để học sinh thực sự tự giác, chủ động tham gia vào giờ học ngoài
phương pháp nghiên cứu trường hợp, giáo viên phải kết hợp với các phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học khác, như: dạy học theo nhóm, dạy học
cặp đôi, phương pháp đóng vai, phương pháp nêu vấn đề… Các phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học này sẽ sẽ bổ trợ cho phương pháp nghiên cứu
trường hợp, làm cho giờ học có sử dụng phương pháp NCTH hay hơn, hấp
dẫn hơn, có sức cuốn hút học sinh tham gia và học tập nhiều hơn.
- Trong giờ học để kích thích học sinh tích cực, tự giác, sáng tạo trong
học tập, giáo viên bộ môn Giáo dục công dân phải biết sử dụng đa dạng các
hình thức kiểm tra, đánh giá. Kết hợp đánh giá định kỳ với đánh giá thường
82
xuyên, đánh giá kiến thức với đánh giá năng lực của người học. Khi học sinh
thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập trong giờ học NCTH, giáo viên cần tổ chức
đánh giá bằng các cách khác nhau có tác dụng thúc đẩy học sinh học tập như
khen ngợi, cho điểm khuyến khích…
- Học sinh là nhân tố chủ động trong học tập. Do vậy, bản thân mỗi học
sinh cần phải nỗ lực tự giác cố gắng trong học tập. Ngoài ra, sự động viên từ
phía gia đình, cha mẹ học sinh… cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy tính tích
cực, tự giác, sáng tạo của học sinh trong học tập môn GDCD. Đã từ lâu nhiều
phụ huynh học sinh luôn quan niệm GDCD là môn học phụ, vì thế, nhiều khi
họ không quan tâm đến việc khuyến khích học sinh nỗ lực học môn học này.
Khắc phục tình trạng này bằng cách giáo viên bộ môn GDCD cần liên hệ
thường xuyên với phụ huynh học sinh, phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để
yêu cầu phụ huynh quản lý, giám sát quá trình học tập ở nhà của học sinh đối
với môn GDCD.
- Bên cạnh những yếu tố trên thì sự tham gia của Nhà trường, Đoàn
Thanh niên cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc khác thúc đẩy
học sinh trong học tập. Giáo viên bộ môn Giáo dục công dân cần nắm bắt cơ
hội, thường xuyên trao đổi với Ban giám hiệu, Đoàn Thanh niên về tình hình
học tập của học sinh trong học tập môn GDCD để có những biện pháp kịp
thời giáo dục học sinh phát huy tinh thần tích cực, tự giác, chủ động trong học
tập môn học.
Các giải pháp nêu trên tuy chưa đủ nhưng có ý nghĩa quyết định trong
việc vận dụng thành công phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp
10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên. Tất nhiên, việc tiến hành các
biện pháp này phải trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc toàn diện, lịch sử - cụ
thể, khách quan... Nghĩa là phụ thuộc vào thực tế của từng trường học, từng
lớp học mà chú trọng tới giải pháp trước tiên để đạt hiệu quả như mong đợi.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
83
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với việc nghiên cứu quy trình
dạy học bằng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các
trường THPT Thành phố Thái Nguyên, trong chương 3 tác giả đã tiến hành
thực nghiệm sư phạm việc vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên. Việc thực nghiệm
đã giúp tác giả khẳng định chắc chắn rằng, quy trình dạy học môn GDCD lớp
10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên bằng phương pháp NCTH là
phù hợp và mang lại hiệu quả cao.
Cũng trong chương 3, tác giả đã đề xuất ba giải pháp cơ bản nhằm đảm
bảo thực hiện có hiệu quả việc vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học
môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên. Theo chủ ý
của tác giả thì các giải pháp này cần phải được coi trọng như nhau và cần phải
tiến hành đồng thời mới có thể đạt được sản phẩm như mong đợi.
84
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Như chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018 môn Giáo dục công
dân đã chỉ rõ, cần phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa
tính chủ động, sáng tạo và phát huy năng lực của người học thì việc vận dụng
phương pháp NCTH vào dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT
Thành phố Thái Nguyên là hướng đi đúng đắn và phù hợp với định hướng của
chương trình môn GDCD trong chương trình môn học môn GDCD 2018 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong nhiều năm qua, giáo viên dạy học môn GDCD nói chung và giáo
viên dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên
nói riêng đã nỗ lực đổi mới PPDH, thay đổi cách truyền đạt truyền thống bằng
những phương pháp dạy học mới, trong đó có phương pháp NCTH. Nhưng
việc áp dụng các phương pháp này còn tồn tại rất nhiều hạn chế, mà nguyên
nhân chủ yếu là chưa có được quy trình dạy học phù hợp.
Luận văn, với tinh thần giúp cho giáo viên dạy học môn GDCD lớp 10
ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên có được quy trình dạy học bằng
phương pháp NCTH đúng đắn, đã mô tả thực trạng, đề xuất quy trình, tiến
hành thực nghiệm kiểm chứng tính đúng đắn và đề xuất nhưng giải pháp cần
thiết để áp dụng thành công phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD
lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên.
Với điều kiện thực tế hiện tại, tác giả nghiên cứu luận văn bước đầu
khẳng định rằng việc vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên là có thể thực hiện
được và nếu được giáo viên vận dụng thành công sẽ có tác dụng trong việc
phát huy các năng lực của người học như năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo, năng lực tự chủ, năng lực tư duy phản biện… của người học.
85
Song, cũng phải khẳng định rằng, dù có tích cực đến đâu, phương pháp
NCTH cũng không thể trở thành một phương pháp dạy học vạn năng, chiếm
vị trí độc tôn trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành
phố Thái Nguyên. Sử dụng phương pháp này cũng còn có những khó khăn và
giới hạn riêng của nó, để vượt qua được giới hạn đó giáo viên cần có sự kết
hợp khéo léo với các phương pháp dạy học khác và điều này đòi hỏi một nghệ
thuật sư phạm cao và sự cống hiến ở tất cả các giáo viên.
2. Khuyến nghị
Để nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành phố Thái Nguyên trong
thời gian tới, tác giả xin đưa ra các kiến nghị như sau:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Thái
Nguyên có những chỉ đạo cụ thể cũng như tạo các tiền đề về vật chất và tinh thần
cho các trường THPT trong Thành phố Thái Nguyên chỉ đạo giáo viên dạy bộ
môn GDCD vận dụng tốt phương pháp NCTH vào dạy học GDCD lớp 10.
2. Các trường THPT trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên cần tạo điều
kiện cho giáo viên GDCD nói chung và giáo viên dạy môn GDCD lớp 10 nói
riêng thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp NCTH.
Chú trọng tới việc tổ chức các buổi seminar, các cuộc thi, các phong trào GV đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học. Có như
vậy, việc vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn GDCD lớp 10 mới
trở thành thói quen, trở thành nhu cầu của GV và HS.
3. Trong quá trình vận dụng phương pháp NCTH trong dạy học môn
GDCD lớp 10, GV bộ môn cần lưu ý đến việc phát triển các năng lực cho học
sinh thông qua phương pháp dạy học của mình. Chỉ có như vậy, việc vận dụng
phương pháp NCTH vào dạy học môn GDCD ở các trường THPT Thành phố
Thái Nguyên mới trở nên bền vững và đạt hiệu quả như mong đợi, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học cấp THPT ở Thành phố Thái Nguyên trong bối
cảnh đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay ở nước ta.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát huy tính tích cực tự lực của học sinh trong
quá trình dạy học, NXB Giáo dục, Bộ giáo dục - đào tạo, Vụ giáo viên.
2. Vũ Đình Bẩy, Phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT
3. Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường, Lý luận dạy học hiện đại: Cơ sở đổi mới
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, Nxb Đại học Sư phạm, tr.98
4. Nguyễn Lăng Bình (2010), Dạy và học tích cực, Dự án Việt - Bỉ, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Sách giáo khoa GDCD lớp 10, NXB Giáo
dục.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Sách giáo viên GDCD lớp 10, NXB Giáo
dục.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Tài liệu bồi dưỡng GV dạy sách giáo
khoa lớp 10 môn GDCD, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Thông tư 20/2018/TT-BGDĐT về Quy
định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình Giáo dục Phổ thông môn Giáo dục
công dân, Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 28
tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
10. Bock Edwin A và Alan K. Campbell (1962), “Nghiên cứu trường hợp điển
hình trong Chính phủ Mỹ: Chương trình trường hợp liên đại học”,
Prentice-Hall, Englewood Cliffs, NJ.
11. Campbell Donald T (1975), “Các bậc tự do và nghiên cứu điển hình”, tạp
chí Nghiên cứu chính trị so sánh, số 8.
12. Nguyễn Văn Cường (2005), Phát triển năng lực thông qua phương pháp
và phương tiện dạy học mới, Tài liệu hội thảo tập huấn, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Dự án phát triển giáo dục THPT, Hà Nội.
87
13. Nguyễn Văn Cường; Bernd Meier (2007), Một số vấn đề chung về phương
pháp dạy học ở trường trung học; “Dự án phát triển giáo dục trung học
phổ thông” của Bộ Giáo dục và đào tạo.
14. Phạm Thị Dinh, Vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12,
https://123doc.org/document/ 330254-van-dung-phuong-phap-nghien-
cuu-truong-hop-dien-hinh-trong-day-hoc-mon-gdcd-lop-12.htm; Thời
gian truy cập: 15h ngày 20 tháng 3 năm 2019
15. Song Dương, Quang Thông biên soạn (2012), Nhà xuất bản Văn hóa -
Thông tin, Từ điển Tiếng Việt.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29 của ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa 11 về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và
đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế”.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng.
18. Nguyễn Bá Đạt (2005), “Phương pháp NCTHĐH trong khoa học xã hội
và tâm lý học”, Tạp chí Tâm lý học số 10.
19. Nguyễn Bá Đạt (2015), Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
trong khoa học xã hội và tâm lý học, Tạp chí Tâm lý học.
20. Phạm Văn Đông (1994), "Phương pháp phát huy tính tích cực - một
phương pháp vô cùng quý báu", Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 271.
21. Dương Minh Đức (2006), Phương pháp giảng dạy GDCD, Hà Nội.
22. Đinh Văn Đức - Dương Thị Thuý Nga (2011), Phương pháp dạy học
GDCD ở trường THPT, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
23. Đinh Văn Đức - Dương Thị Thuý Nga (2011), Phương pháp dạy học
GDCD ở trường THPT, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
88
24. Nguyễn Thị Hạnh, Sử dụng phương pháp NCTHĐH trong dạy học môn
Giáo dục công dân ở các trường Trung học phổ thông huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh, luận văn thạc sỹ.
25. Nguyễn Khải Hoàn, Đặc điểm và nguyên tắc dạy học nghiệp vụ sư phạm
dựa vào nghiên cứu trường hợp trong đào tạo giáo viên tiểu học, Tạp chí
Giáo dục số 357, kỳ 1-2/2016.
26. Nguyễn Thị Linh Huyền, Một số phương pháp dạy học tích cực nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức kinh doanh cho học sinh trung học
phổ thông, http://fpt.utb.edu.vn/index.php/tin-bai-anh/
27. Nguyễn Kỳ (1995), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm
trung tâm, NXB Giáo dục.
28. Nguyễn Thị Mai, Vận dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
trong dạy học môn Giáo dục Công dân ở các trường THPT huyện Lương
Tài, tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ 2018, trường ĐHSP - ĐHTN
29. Hoàng Phê (1992). Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
30. Trần Thị Mai Phương (2007), Dạy học GDCD theo phương pháp tích cực,
Hà Nội.
31. Platt Jennifer (1992), "Nghiên cứu điển hình trong tư tưởng phương pháp
học của Mỹ", Tạp chí xã hội học hiện đại, 40 (1).
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật Giáo
dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Roger Gomm, Martyn Hammerlsay, Peter Foster (2000), Nghiên cứu điển
hình và tổng quát hóa, Sage, Thousand Oaks, CA.
34. Hoàng Thị Thanh, Sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển
hình trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở các trường THPT huyện Bắc
Quang, tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học sư phạm - Đại
học Thái Nguyên, 2019.
89
35. Lê Đình Trung (Chủ biên), Dạy học theo định hướng hình thành và phát
triển năng lực người học ở trường phổ thông, Nxb ĐH Sư phạm, 2018.
36. Từ điển Triết học, Nhà xuất bản Sự thật biên dịch, Hà Nội năm 1957.
37. Khuất Thị Thanh Vân, Vận dụng dạy học nghiên cứu trường hợp trong
dạy Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phần Lí luận về
chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển năng lực tự học của sinh viên, Tạp chí
Giáo dục, số đặc biệt, tháng 5/2017.
38. Phan Thị Hồng Vinh (2007), PPDH Giáo dục học, NXB Đại học Sư phạm
Hà Nội.
39. Website:https://baovephapluat.vn/cong-to-kiem-sat-tu-phap/an-ninh-trat-
tu/bat-tam-giam-doi-tuong-dot-co-to-quoc-tuyen-truyen-chong-pha-nha-
nuoc-90275.html. Thời gian truy cập 20h35 ngày 21 tháng 9 năm 2020.
40. Website:https://www.thanthongnhat.vn/tin-san-xuat/kham-so-tuyen-goi-
cong-dan-nhap-ngu-nam-2020-5588.html. Thời gian truy cập 20h15 ngày
21 tháng 9 năm 2020.
41. Website: tin-tuc-su-kien/233-mot-so-phuong-phap-day-hoc-tich- cuc-
nham-nang-cao-hieu-qua-giao-duc-dao-duc-kinh-doanh-cho- hoc -sinh-
trung-hoc-pho-thong
42. Website:https://zingnews.vn/vi-thuyen-truong-anh-hung-trong-tran-gac-ma-
1988-post520135.html; Thời gian truy cập 22h ngày 21 tháng 9 năm 2020.
43. Website: https:// www.youtube.com/ watch?v=9W76zujobZ0. Thời gian
truy cập 20h ngày 21 tháng 9 năm 2020.
44. Website: https://www.youtube.com/watch?v=3lrYdQ0qCn8. Thời gian
truy cập 21h10 ngày 21 tháng 9 năm 2020
45. Website:https://data.moet.gov.vn/index.php/s/Jf6LwbnDihZna46#pdfvie
wer. Thời gian truy cập: 13h30 ngày 22 tháng 9 năm 2020
90
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. PHIẾU HỌC TẬP
Bài số 1: Em hãy khoanh tròn vào các đáp án mà em cho là đúng ở các câu
hỏi dưới đây
Câu 1. Lòng yêu nước là tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng
đem hết khả năng của mình
A. Phục vụ lợi ích của Tổ quốc.
B. Chăm lo cho bản thân mình.
C. Xây dựng gia đình.
D. Phục vụ cho công việc của bản thân.
Câu 2. Tình cảm nào dưới đây là biểu hiện của lòng yêu nước?
A. Yêu quê hương đất nước.
B. Yêu công việc đang làm.
C. Yêu thích bản thân.
D. Yêu thích mọi người xung quanh.
Câu 3. Biểu hiện nào dưới đây không nói về lòng yêu nước?
A. Yêu gia đình, người thân.
B. Yêu nơi mình sinh ra, lớn lên.
C. Tích cực lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
D. Yêu xóm làng, khu dân cư của mình.
Câu 4. Lòng yêu nước bắt nguồn từ những tình cảm bình dị và gần gũi nhất
đối với con người như:
A. Yêu quý bạn bè, bản thân.
B. Yêu quý người thân thiết với mình.
C. Yêu thích hoạt động của chính mình.
D. Yêu thích quê hương, nơi mình sinh ra.
Câu 5. Biểu hiện nào dưới đây là nội dung của lòng yêu nước?
A. Tình cảm gắn bó với thiên nhiên.
B. Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước.
C. Yêu quý các di sản văn hóa của dân tộc.
D. Yêu quý lao động.
Câu 6. Đức tính nào dưới đây của dân tộc Việt nam thể hiện lòng yêu nước?
A. Đoàn kết với nhân dân các nước.
B. Đoàn kết, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm.
C. Sống thân thiết với mọi người trong cộng đồng.
D. Không phân biệt dân tộc, tôn giáo.
Câu 7. Lòng yêu của dân tộc Việt Nam không bao gồm nội dung nào dưới đây?
A. Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước.
B. Đề cao dân tộc mình hơn dân tộc khác.
C. Lòng tự hào dân tộc chính đáng.
D. Cần cù và sáng tạo trong lao động.
Bài số 2: Em hãy nêu tên một số nhân vật anh hùng mà em biết biểu hiện
cho lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Em học được những đức tính
gì về lòng yêu nước từ các vị anh hùng ấy?
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
PHỤ LỤC 2
Vị thuyền trưởng anh hùng trong trận Gạc Ma 1988
Trong buổi sáng đầu năm mưa phùn lất phất, những chiến sĩ của con tàu
Anh hùng HQ 505 năm xưa từ khắp nơi tề tựu trong căn phòng nhỏ, ấm cúng ở
thành phố Hải Phòng. Chỉ một cái nắm tay, khoác vai nhắc lại chuyện cũ, cả một
thời quân ngũ lại ùa về với những người lính biển năm nào. Ngày 14/3/1988, nhiều
đồng đội của họ đã hy sinh anh dũng khi bảo vệ nhóm đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len
Đao (thuộc huyện đảo Trường Sa, Khánh Hòa).
Buổi gặp mặt do vị Trưởng ban truyền thống Hội tàu HQ 505, Anh
hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, đại tá Vũ Huy Lễ tổ chức. Không hẹn mà
gặp, nhiều Ban liên lạc Bộ đội Trường Sa ở các tỉnh, thành khác cũng chọn
ngày này sum họp, tri ân những đồng đội cũ. Những đồng đội, thân nhân của
những chiến sĩ đã nằm lại với lòng biển quê hương có dịp ôn lạị trận hải chiến
Trường Sa. Đó là câu chuyện trung úy Trần Văn Phương dù hy sinh vẫn quyết
giữ lá cờ trên đảo Gạc Ma và để lại câu nói: “Thà hy sinh chứ không chịu mất
đảo”. Khi trung úy Trần Văn Phương hy sinh, trung sĩ Nguyễn Văn Lanh thay
thế giữ lá cờ, bị đạn xuyên qua bả vai, mất đà nhào xuống nước… 64 chiến sĩ
nằm lại lòng biển quê hương. Đại tá Vũ Huy Lễ - thuyền trưởng mưu trí của
tàu HQ 505 là nhân chứng trong cuộc chiến ấy. Trong thời khắc quyết định,
ông dứt khoát chỉ huy đưa bằng được tàu lao thẳng lên đảo Cô Lin. Nhờ thế,
đảo được giữ, nhiều đồng đội bị thương trong trận hải chiến được cứu thoát.
Dù đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua nhưng khi được hỏi về trận chiến
ngày 14/3/1988, vị đại tá 70 tuổi vẫn bồi hồi. Phải mất một lúc lâu ông mới
cất lên lời. Theo thuyền trưởng Lễ, khi đó, tàu HQ 505 đang thực thi nhiệm
vụ đưa bộ đội công binh và vật tư công trình đến đảo Đá Lớn. Vừa hoàn thành
công việc thì sáng 13/3/1988, tàu nhận được lệnh đến đảo Cô Lin. Thực hiện
nhiệm vụ đóng giữ, bảo vệ đảo Gạc Ma và Cô Lin, 9h ngày 13/3, tàu HQ 604
do đại úy Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng và tàu HQ 505 do thiếu tá Vũ Huy
Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin.
6h30 sáng 14/3/1988, sau khi tàu HQ 604 bị bắn chìm, 3 tàu chiến Trung
Quốc liên tục nã pháo vào HQ 505. Tàu bị trúng đạn vào buồng máy bên phải,
hỏng máy trôi ra xa đảo Cô Lin gần 1 hải lý. Tất cả các khoang máy đều bốc
cháy dữ dội, điện tắt tối om, nước tràn, dầu lênh láng. Tàu có xu hướng
nghiêng, khả năng chìm trên vùng biển sâu 1.000 m. Trong thời khắc sinh tử,
ông Lễ nhận định, nếu tàu HQ 505 chìm, cán bộ chiến sĩ hy sinh, tàu mất, đảo
không giữ được. Vì thế, ông quyết định bằng mọi giá phải giữ được tàu. Chỉ
trong vòng 3-4 phút, ông yêu cầu anh em kỹ thuật tập trung sửa máy tàu. Khi
sửa xong, ông lệnh chạy cả 2 máy, một tiến, một lùi để mũi tàu hướng về đảo
Cô Lin. Gần đến Cô Lin, ông hạ lệnh mở hết tốc lực, cho tàu HQ 505 phi
thẳng lên đảo. Lúc này tàu HQ 505 nằm gác 1/3 thân trên đảo và trở thành
pháo đài kiên cố giữ đảo. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ lập tức lên kế hoạch, nếu
đối phương đánh tàu, chiếm đảo, bộ đội sẽ dùng súng bộ binh để chiến đấu.
Sau khi đưa 5 chiến sĩ trên tàu bị thương lên đảo Cô Lin để cấp cứu, thuyền
trưởng Lễ cùng nhiều đồng đội khác đưa xuồng cứu sinh quay lại đảo Gạc Ma
để cứu vớt đồng đội. Bị lính Trung Quốc dùng súng AK bắn trước mũi xuồng
ngăn cản nhưng thuyền trưởng Vũ Huy Lễ vẫn cùng đồng đội kiên cường cứu
trợ đồng đội. Suốt buổi sáng hôm ấy, họ vớt được 44 thương binh và tử sĩ rồi
đưa về đảo Sinh Tồn để cứu chữa, mai táng.
Đến tối 14/3/1988, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ cùng 9 người nữa ở lại
tàu, giữ đảo và luôn trong trạng thái chiến đấu. Không chỉ thiếu thốn thực
phẩm, tiếp tế khó khăn, các chiến sĩ giữ đảo Cô Lin luôn phải đối diện với
căng thẳng về tinh thần. Ngày nào đối phương cũng quấy nhiễu, cho tàu chiến
đến đe dọa, kêu gọi đầu hàng. “Anh em càng quyết tâm bảo vệ đảo”, ông kể.
Dù có thể rút về đảo Sinh Tồn nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe nhưng thuyền
trưởng Lễ và đồng đội đã bám trụ lại đảo Cô Lin đến tháng 6/1988. Khi các
hành động khiêu khích của hải quân Trung Quốc đã giảm và chủ quyền trên
đảo Cô Lin được giữ vững.
Quyết định dùng chính con tàu dài gần 100 m, rộng 38 m làm pháo đài
giữ đảo Cô Lin sau này được đánh giá là quyết định trọng đại, táo bạo và chính
xác của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ. Năm 1989, Tập thể tàu HQ 505 và thuyền
trưởng Vũ Huy Lễ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân. Nhiều chiến sĩ khác được thưởng huân chương chiến công các
hạng. Nhắc lại trận hải chiến năm xưa, vị thuyền trưởng con tàu anh hùng HQ
505 chia sẻ: “Chúng tôi muốn các thế hệ mai sau không bao giờ quên ngày
14/3/1988, không bao giờ quên những người đã ngã xuống vì quê hương, không
bao giờ quên Gạc Ma, một phần máu thịt của Tổ quốc”.
[Thông tin thêm: Ngày 14/3/1988, quân đội Trung Quốc đã dùng vũ
lực cưỡng chiếm đảo Gạc Ma thuộc chủ quyền Việt Nam. Lực lượng hải quân
Việt Nam đã anh dũng chiến đấu bảo vệ lãnh thổ và chịu nhiều tổn thất, hy
sinh. Trong trận chiến, thiệt hại của Việt Nam bao gồm ba tàu bị bắn cháy và
chìm, ba người hi sinh, 11 người khác bị thương, 70 người mất tích. Sau này,
Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 10 người bị bắt, 64 người vẫn mất
tích và được xem là đã hy sinh [42]
PHỤ LỤC 3
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Để góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp nghiên cứu
trường hợp (NCTH) trong dạy học GDCD lớp 10 ở các trường THPT Thành
phố Thái Nguyên, xin thầy/cô vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách
đánh dấu (X) vào ô trống mà mình cho là thích hợp.
Câu 1: Thầy/cô đánh giá phương pháp NCHT cần thiết trong dạy học
GDCD ở mức độ nào?
a. Cần thiết
b. Rất cần thiết
c. Không cần thiết
d. Bình thường
Câu 2: Trong quá trình dạy học, thầy/cô sử dụng các phương pháp dạy
học sau đây ở mức độ nào?
Thường Thỉnh STT Phương pháp Không sử dụng xuyên thoảng
1 Thuyết trình tích cực
2 Nêu và giải quyết vấn đề
3 Thảo luận nhóm
4 Tình huống
5 Nghiên cứu trường hợp
6 Đóng vai
7 Dự án
Câu 3: Theo thầy/cô, sử dụng phương pháp NCTH trong dạy học nhằm
mục đích gì?
a. Giúp HS lĩnh hội tri thức mới
b. Giúp HS ôn tập và củng cố kiến thức
c. Giúp HS khái quát và hệ thống hoá kiến thức
d. Giúp HS hình thành kỹ năng, kỹ xảo
e. Giúp HS liên hệ kiến thức với thực tiễn
Câu 4: Khi vận dụng phương pháp NCTH vào quá trình dạy học,
thầy/cô thường gặp những khó khăn, trở ngại nào?
a. Thói quen sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống
b. Kỹ năng làm việc theo nhóm của HS còn hạn chế
c. Số lượng HS quá đông trong một lớp
d. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu học tập
e. Năng lực tổ chức của GV còn hạn chế
g. Chưa có quy trình dạy học NCTH khoa học, hợp lý
Câu 5: Thầy/cô, phương pháp NCTH mang lại hiệu quả như thế nào?
.............................................................................................................
.............................................................................................................
.............................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của thầy cô!