BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tường Vi

YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN

TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tường Vi

YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN

TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã ngành : 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong luận văn này chưa từng được công bố ở trong bất kì công trình

nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tường Vi

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin kính gửi đến PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp lời cảm ơn sâu sắc

và tình cảm trân trọng đối với cô. Cảm ơn cô đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn,

động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin cảm ơn tới Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Thư viện Trường

Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi

cho tôi học tập và hoàn thành luận văn. Cảm ơn Ban Lãnh đạo, tập thể Trường

THPT Nguyễn Hữu Huân đã hỗ trợ tôi trong suốt thời gian học tập.

Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn

động viên và ủng hộ tôi trong thời gian qua.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tường Vi

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU

..................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ

NHÀ VĂN NAM BỘ BÌNH NGUYÊN LỘC ....................... 10

1.1. Giới thuyết các khái niệm .................................................................. 10

1.1.1. Khái niệm văn hóa ...................................................................... 10

1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian ........................................................ 12

1.1.3. Các yếu tố văn hóa dân gian ....................................................... 14

1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết .......................... 17

1.2.1. Mối quan hệ văn hóa và văn học ................................................. 17

1.2.2. Văn hóa dân gian và văn học viết ............................................... 20

1.3. Bình Nguyên Lộc – nhà văn Nam Bộ ................................................ 26

1.3.1. Tiểu sử ......................................................................................... 26

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ...................................................................... 27

1.3.3. Bình Nguyên Lộc – bút lực dồi dào của văn học Nam Bộ ........ 29

Chương 2. YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CỦA

BÌNH NGUYÊN LỘC NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI

DUNG ....................................................................................... 38

2.1. Phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian ....................................... 38

2.1.1. Phong tục tập quán dân gian ....................................................... 38

2.1.2. Tín ngưỡng dân gian ........................................................................ 53

2.2. Nghệ thuật dân gian và lễ hội dân gian .............................................. 58

2.2.1. Nghệ thuật dân gian .................................................................... 58

2.2.2. Lễ hội dân gian ............................................................................ 65

2.3. Tri thức dân gian và ngữ văn dân gian ............................................... 67

2.3.1. Tri thức dân gian ......................................................................... 67

2.3.2. Ngữ văn dân gian ....................................................................... 72

Chương 3. YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CỦA

BÌNH NGUYÊN LỘC NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ

THUẬT .................................................................................... 80

3.1. Vai trò của các yếu tố văn hóa dân gian trong xây dựng nhân vật .... 81

3.1.1. Nhân vật hướng về “nguồn cội” .................................................. 81

3.1.2. Nhân vật của đời sống thường ngày ............................................ 87

3.2. Vai trò của yếu tố văn hóa dân gian trong tái hiện không gian văn hóa

Nam Bộ .............................................................................................. 92

3.2.1. Không gian sinh hoạt .................................................................. 92

3.2.2. Không gian tâm linh .................................................................... 98

3.3. Vai trò yếu tố văn hóa dân gian trong tổ chức giọng điệu và kết cấu

tác phẩm ........................................................................................... 107

3.3.1. Tổ chức giọng điệu .................................................................... 107

3.3.2. Tổ chức kết cấu ......................................................................... 111

KẾT LUẬN ................................................................................................ 118

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 121

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Mỗi dân tộc có mỗi nền văn hóa độc đáo, riêng biệt. Nền văn hóa ấy đã làm nên

bản sắc riêng của mỗi quốc gia. Nền văn hóa ấy cũng chính là nguồn mạch nuôi dưỡng

văn hóa dân gian trong suốt tiến trình lịch sử của mỗi dân tộc. Việt Nam xuất phát

điểm là một nước có nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Việt Nam cũng là đất

nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến. Đây là những tiền đề cơ bản để Việt Nam trở

thành một nước có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, giàu có vốn văn hóa dân gian.

Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, văn hóa dân gian dường như đã trở thành

nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng văn học viết. Văn học viết cũng đã bám “sâu rễ bền gốc”

vào nguồn mạch ấy, khởi nguồn cho việc vận dụng, khám phá và sáng tạo.

Văn hóa dân gian đang được quan tâm và là xu hướng nghiên cứu ở Việt Nam

cũng như trên thế giới. Việc quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam với bề

dày nền văn hóa dân gian truyền thống đặc sắc của dân tộc là thật sự cần thiết. Đó cũng

là mục tiêu mà chúng ta đang hướng tới “xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ V - Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa VIII. Mặt khác, nghiên cứu văn học viết trong quan hệ với văn

hóa dân gian là hướng nghiên cứu tất yếu của nghiên cứu khoa học hiện đại. Hướng

nghiên cứu này giúp các nhà nghiên cứu có nhiều lựa chọn, nhiều phương pháp hơn

trong quá trình tiếp cận, lý giải thấu đáo tác phẩm hay phong cách tác giả. Đồng thời,

hướng nghiên cứu này tạo điều kiện cho văn học và văn hóa tương tác qua lại và ngày

càng phát triển hoàn thiện.

Bình Nguyên Lộc là một trong những nhà văn lớn của Nam Bộ. Ông là một

trong ba “tam kiệt” của phương Nam (Bình Nguyên Lộc, Hồ Biểu Chánh và Lê Văn

Trương). Ông là một trong những tác giả có khối lượng sáng tác nhiều nhất nước vào

thời bấy giờ. Văn chương của Bình Nguyên Lộc thấm đẫm chất Nam Bộ, nồng nàn

tình yêu quê cha đất mẹ. Sự diễn đạt tình ý trong mỗi tác phẩm thật giản dị, mộc mạc,

chân chất nhưng cũng rất tinh tế và sáng tạo. Những điều đó cho ta thấy tấm lòng tươi

2

son, bền chặt của ông đối với quê hương, với nơi “chôn nhau cắt rún”. Tấm lòng ông

cũng như những loại cổ thụ cắm rễ sâu xuống mảnh đất ân tình nồng hậu này.

Là nhà văn của Nam Bộ, của mảnh đất quê hương yêu dấu, trang văn Bình

Nguyên Lộc gợi nhắc đến cả một nền văn hóa cội nguồn. Chính những yếu tố văn hóa

dân gian trong các sáng tác của ông đã làm cho tác phẩm dễ đi sâu vào lòng dân tộc.

Yếu tố văn hóa dân gian được ông vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo đã góp phần

làm cho nền văn hóa dân gian Việt ngày càng trở nên tỏ rõ sự năng động, phát triển

mạnh mẽ và có sức sống lâu bền.

Bình Nguyên Lộc là nhà văn Nam Bộ được giới phê bình, nghiên cứu quan tâm.

Nhiều công trình nghiên cứu đi sâu vào văn hóa Nam Bộ, con người Nam Bộ trong

các sáng tác của ông. Bên cạnh đó, từ ngữ, đặc điểm nghệ thuật, đặc điểm văn xuôi

cũng được chú ý. Tuy nhiên, người viết qua quá trình khảo sát chưa thấy có công trình

nào nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu về văn hóa dân gian trong sáng tác của ông. Như

vậy, việc nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác Bình Nguyên Lộc sẽ giúp

cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về các tác phẩm của nhà văn mang đậm hồn

cốt Nam Bộ này. Đồng thời, chúng ta cũng ghi nhận sự đóng góp của ông trong tiếp

nhận và sáng tạo các yếu tố văn hóa dân gian của dân tộc, làm cho kho tàng văn hóa

dân gian thêm sinh động, đa dạng và ngày càng phong phú hơn. Vì thế, người viết

quyết định chọn “Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc” làm

đề tài nghiên cứu cho luận văn.

2. Lịch sử vấn đề

Bình Nguyên Lộc là một tác giả lớn của văn học Nam Bộ nói riêng và của cả

nền văn học Việt Nam nói chung. Sự nghiệp sáng tác của ông khởi đầu từ những năm

30 của thế kỉ XX. Bình Nguyên Lộc đã để lại một di sản văn học đồ sộ, đặc biệt là

truyện ngắn. Ông là tác giả có giọng văn đặc chất Nam Bộ. Trong các sáng tác của ông

có cả một nền văn hóa dân gian thấm đẫm trên từng trang văn.

Bình Nguyên Lộc dời quê hương Tân Uyên để chuyển về Sài Gòn sinh sống từ

năm 1948. Ông chủ yếu sống bằng nghề viết báo. Ông phụ trách trang văn nghệ báo

Tiếng Chuông và tham gia viết bài cho các tờ báo như Lẽ Sống, Đời Mới, Tin Mới, tạp

chí Bách Khoa, Văn Hóa Ngày Nay. Tên tuổi Bình Nguyên Lộc bắt đầu xuất hiện

3

nhiều trên các trang báo. Ông chuyên viết feuilleton và sức viết rất dồi dào, có ngày

viết cho cả 11 nhật báo. Bình Nguyên Lộc được giới nghiên cứu bắt đầu quan tâm vào

những năm 60 của thế kỷ XX. Trong phần lịch sử vấn đề này, người viết giới thiệu

theo hai mảng gồm: các công trình nghiên cứu trên sách, báo, tạp chí, trang web và

các công trình luận văn, luận án.

2.1. Các công trình nghiên cứu trên sách, báo, tạp chí, trang web

Bình Nguyên Lộc sáng tác nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, thơ, tạp

bút...Với lực viết dồi dào, Bình Nguyên Lộc trở thành nhà văn được giới nghiên cứu

Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Nguyễn Nam Anh lần lượt có bài Phỏng vấn nhà

văn Bình - Nguyên Lộc (1961, 1965, 1972) đăng trên Bách Khoa, Tin Sách, Văn.

Bàng Bá Lân bày tỏ sự ngưỡng mộ qua bài Bình - Nguyên Lộc (1963), Sơn Nam

viết Đọc tác phẩm đầu tay của Bình Nguyên Lộc (1972). Tuy nhiên các tác giả

mới chủ yếu bàn về khối lượng tác phẩm đồ sộ, cường độ làm việc hơn người và

quan điểm sáng tác của nhà văn.

(Phạm Thị Thu Thủy, 2017)

quan tâm sớm:

Năm 1985, Ngọc Thủy Ba viết bài Bình Nguyên Lộc nhà văn tài ba của vùng

đất Tân Uyên. Tác giả bài báo đề cao ý nghĩa tác phẩm Rừng mắm trong việc lay động,

thức tỉnh và nâng cao đời sống tâm hồn, tình cảm, tinh thần của con người. Sau khi

Bình Nguyên Lộc mất vào năm 1987, giới nghiên cứu đánh giá cao sự nghiệp sáng tác

của ông và xếp ông vào một trong ba cây bút có sức viết lớn của mảnh đất Nam Bộ.

Năm 1988, Viễn Phương viết Thương một nhành mai thể hiện tình cảm của Viễn

Phương với cố nhà văn. Trong giới nghiên cứu về văn chương Bình Nguyên Lộc,

Nguyễn Q. Thắng được xem là người nghiên cứu và tìm hiểu về Bình Nguyên Lộc

một cách bao quát và hệ thống. Trong Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam (1999), ông

trình bày khá rõ nét cuộc đời, sự nghiệp sáng tác Bình Nguyên Lộc. Trong Tuyển tập

Bình Nguyên Lộc (2002), ông giới thiệu Bình Nguyên Lộc một bút lực lớn và tập hợp

trong bốn tập sách các sáng tác tiêu biểu của Bình Nguyên Lộc. Trong Từ điển nhân

4

vật lịch sử Việt Nam (2006), Nguyễn Q. Thắng giới thiệu Bình Nguyên Lộc như nhân

vật lịch sử miền Nam, nhà văn, nhà nghiên cứu hiện đại. Với Văn học Việt Nam nơi

miền đất mới (Tập 2, 2007), ông cũng giới thiệu Bình Nguyên Lộc là nhà văn lớn Việt

Nam về cả số lượng và chất lượng tác phẩm. Nguyễn Q. Thắng trong Bình Nguyên

Lộc một bút lực lớn đã nhận định vị trí quan trọng của Bình Nguyên Lộc trong văn học

dân tộc “Tác phẩm của ông là một phần không nhỏ của tiến trình văn học Việt Nam;

nhất là làm sống dậy và lớn lên cái tinh thần chiến đấu hăng say, lạc quan của nhân

dân ta nơi vùng đất mới này” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Trên trang http://www.binhnguyenloc.de, trân trọng những đóng góp của Bình

Nguyên Lộc, nhóm tri thức Việt Kiều đã sưu tầm các tác phẩm và các bài viết của Bình

Nguyên Lộc giới thiệu đến bạn đọc yêu thích các sáng tác của ông. Võ Phiến (2007)

trong Bình Nguyên Lộc – Một nhân sĩ trong làng văn đã đi vào các mối bận tâm của

Bình Nguyên Lộc về vùng đất, về nguồn gốc và về dân tộc. Trần Phỏng Diều (2007)

trong Con Tám cù lần của Bình Nguyên Lộc: người thành thị hoài niệm về chốn thôn

quê đánh giá cao về vị trí và những nét thành công về phương diện nội dung truyện

ngắn Bình Nguyên Lộc. Đặc biệt theo Trần Phỏng Diều nỗi nhớ quê của con Tám trở

thành nỗi ám ảnh day dứt trong tác phẩm và trở thành phát ngôn cho tư tưởng của Bình

Nguyên Lộc. Vinh Lan (2007) trong Nhân phẩm và nhân tính trong Ký thác đã khẳng

định việc bảo vệ nhân phẩm, nhân vị trong con người của tác giả. Thụy Khê (2007)

trong Bình Nguyên Lộc (1914 - 1987) Đất nước và con người đã giới thiệu về cuộc

đời, tác phẩm cũng như những nội dung chủ đạo trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc.

Nguyễn Vy Khanh (2007) trong bài Bình Nguyên Lộc và tình đất, Nguyễn Thị Thu

Trang (2007) với Con người và văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc

hay Phạm Phú Phong (2007) viết Văn chương Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn văn hóa

đều bàn về tác phẩm của Bình Nguyên Lộc trên phương diện nội dung. Nổi bật lên

trong nội dung các tác phẩm của ông là chất văn hóa Nam Bộ, tình yêu quê hương đất

nước thấm đượm trên mỗi trang văn. Ngoài ra, Nguyễn Mạnh Trinh (2007) trong Bình

Nguyên Lộc nhìn từ con người và tác phẩm (2007), Đỗ Hữu Phương (2011) trong Nhà

văn Bình Nguyên Lộc (1914-1987) đánh giá cao sự nghiệp sáng tác của Bình Nguyên

Lộc. Phạm Thanh Hùng trong Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc (2011), Trần

5

Kiêm Đoàn trong Vẻ đẹp của ngôn ngữ miền Nam trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc

lại chú ý đến đặc điểm viết truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc. Hồ Trường An (2014)

trong Tổng quan văn chương vùng đất Đồng Nai thể hiện cảm nhận của ông về tình

đất và ngôn ngữ miền Nam trong văn Bình Nguyên Lộc. Bài viết Bình Nguyên Lộc và

những sáng tác hướng tới đại chúng (Khảo sát qua truyện có yếu tố kinh dị của Bình

Nguyên Lộc) của Lê Hải Anh và Nguyễn Thị Minh Thương (2017) trên trang Nghiên

cứu của Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, đã thể hiện hướng khám mới về ông

ở các truyện kinh dị. Tác giả bài viết cũng nhấn mạnh xu thế viết phù hợp với thời đại

của tác giả: “Trong bối cảnh văn hóa xã hội miền Nam, tác phẩm của Bình Nguyên

Lộc có thể dung hợp được cả yếu tố đặc tuyển và đại chúng vừa phù hợp với xu thế

phát triển của thời đại, vừa là sự sáng tạo và khám phá mới tạo động lực phát triển

cho văn học”.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này khuynh hướng chung là hướng đến

nội dung, nghệ thuật trong các sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Trong đó, con người

văn hóa Nam Bộ, ngôn ngữ miền Nam được các nhà nghiên cứu chú ý nhiều.

2.2. Các công trình nghiên cứu như luận văn, luận án

Các công trình luận văn, luận án về Bình Nguyên Lộc cũng thường tập trung

vào văn hóa Nam Bộ, ngôn ngữ và đặc điểm văn xuôi trong các sáng tác của ông. Một

số công trình nghiên cứu như: Nguyễn Lương Hải Khôi (2004) chọn Đặc trưng văn

xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc, luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh, làm đề tài nghiên cứu. Nguyễn Lương Hải Khôi đã đi sâu vào các đặc trưng

cơ bản trong văn xuôi của Bình Nguyên Lộc như quan niệm về con người, ngôn từ

nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật. Nguyễn Thị Thu Trang (2008) nghiên

cứu Con người và những giá trị văn hóa truyền thống trong văn xuôi đô thị miền Nam

giai đoạn 1954 - 1975, luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn. Nguyễn Thị Thu Trang đi vào nghiên cứu các giá trị văn hóa nổi bật trong dòng

văn xuôi đô thị miền Nam. Trong đó, tác giả chủ yếu nhấn mạnh vào bản sắc văn hóa

con người Nam Bộ. Trần Thị Thúy Hằng (2012) nghiên cứu về Từ ngữ địa phương

trong sáng tác Bình Nguyên Lộc, luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh. Nghiên cứu chính của Trần Thị Thúy Hằng về sáng tác của Bình Nguyên

6

Lộc là lớp từ ngữ địa phương và đặc điểm ngôn ngữ trong tương quan với tác giả khác.

Ngoài ra, sáng tác của Bình Nguyên Lộc được các nhà nghiên cứu chú ý rất

nhiều về mặt văn hóa như Nguyễn Văn Đông (2012) với Truyện ngắn Sơn Nam và

Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn văn hóa học, luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn. Nguyễn Thị Thu Trang năm 2015 xuất bản sách Văn xuôi đô thị Miền

Nam giai đoạn 1954-1975 nhìn từ các giá trị văn hóa truyền thống. Nguyễn Thị Thu

Trang nghiên cứu Bình Nguyên Lộc và nhiều tác giả văn học miền Nam giai đoạn

1954 -1975 về các giá trị văn hóa truyền thống mà đặc biệt là con người văn hóa Nam

Bộ. Công trình này là sự tiếp nối từ luận án của tác giả nghiên cứu trước đó. Nguyễn

Thị Mai Phương (2015), Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc dưới góc nhìn văn hóa, khóa

luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm Hà Nội, đã nghiên cứu thời gian văn hóa, không

gian văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Phạm Thị

Thu Thủy (2017) viết luận án Con người Nam Bộ trong sáng tác văn xuôi của Hồ Biểu

Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Nguyễn Ngọc Tư, Đại học Sư phạm Hà Nội.

Phạm Thị Thu Thủy cũng đi vào tìm hiểu con người mở đất trong sáng tác của Bình

Nguyên Lộc. Các công trình nghiên cứu này thường chú ý vào giá trị văn hóa trong

sáng tác của các nhà văn. Trong đó, con người văn hóa với các nét đặc trưng gắn liền

với điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử vùng đất.

Như vậy, qua các bài viết và công trình nghiên cứu về tác giả Bình Nguyên

Lộc, chúng ta cũng thấy đa phần các tác giả nghiên cứu văn hóa trong các sáng tác của

ông. Trong đó, yếu tố văn hóa dân gian đôi khi có nhắc tới nhưng hiện chưa có công

trình nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề này. Vì vậy, với vấn đề “Yếu tố văn hóa dân

gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc”, người viết muốn góp phần giúp người đọc

có thêm cái nhìn mới, sâu sắc về phong cách sáng tác, giá trị các tác phẩm của Bình

Nguyên Lộc; thấy được sự ảnh hưởng, tác động qua lại của các yếu tố văn hóa dân

gian và văn học viết. Đặc biệt, người viết muốn đóng góp công sức trong việc phổ

biến, bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong luận văn này người viết tập trung nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong

sáng tác của Bình Nguyên Lộc từ hai phương diện: nội dung và hình thức nghệ thuật.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong quá trình khảo sát, người viết tiếp cận tác phẩm qua ba nguồn tài liệu

chính gồm Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc, Nxb Trẻ; trang http://binhnguyenloc.de;

Tuyển tập Bình Nguyên Lộc gồm 4 tập của Nguyễn Q. Thắng, Nxb Văn học, 2002.

Tuy nhiên, nghiên cứu đề tài này, người viết tập trung khai thác nguồn tư liệu từ Tuyển

tập Bình Nguyên Lộc do Nguyễn Q. Thắng tuyển chọn và giới thiệu. Lí do người viết

chọn tuyển tập này vì Nguyễn Q. Thắng đã lựa chọn và giới thiệu cho bạn đọc những

tác phẩm tiêu biểu nhất gồm truyện ngắn, tạp văn và tiểu thuyết, được đánh giá cao

trong giới phê bình và bạn đọc của Bình Nguyên Lộc. Truyện ngắn gồm Thầm lặng

(15 tác phẩm), Nhốt gió (13 tác phẩm), Mưa thu nhớ tằm (17 tác phẩm), Ký thác (16

tác phẩm), Những bước lang thang trên phố của gã Bình Nguyên Lộc (17 tác phẩm),

Cuống rún chưa lìa (17 tác phẩm), Ma rừng (9 tác phẩm). Tiểu thuyết gồm Đò dọc,

Khi Từ Thức về trần, Gieo gió gặt bão, Tì vết tâm linh, Xô ngã bức tường rêu. Đây là

những tác phẩm tiêu biểu vừa mang đậm phong cách viết văn của ông vừa phong phú

các yếu tố văn hóa dân gian.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, người viết sử dụng một số phương pháp sau:

Phương pháp nghiên cứu văn hóa – văn học

Sử dụng phương pháp này vì đề tài luận văn tiếp cận tác phẩm của Bình Nguyên

Lộc trong quan hệ với văn hóa dân gian. Đây là cách tìm hiểu xem các sáng tác của

ông đã tiếp thu, vận dụng những yếu tố văn hóa dân gian nào. Sự sáng tạo trong cách

tiếp thu, vận dụng đó ra sao; sự tác động, ảnh hưởng của văn chương Bình Nguyên

Lộc trở lại với văn hóa dân gian ra như thế nào. Từ đó, chúng ta sẽ có cách đánh giá

toàn diện, sâu sắc hơn về các sáng tác của ông.

Phương pháp thi pháp học

Phương pháp này giúp người viết nghiên cứu các phương tiện hình thức nghệ

thuật trong quan hệ với nội dung tác phẩm của Bình Nguyên Lộc.

8

Phương pháp thống kê

Phương pháp này dùng để khảo sát tần số xuất hiện các yếu tố văn hóa dân gian

trong các sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Từ đó, người viết khái quát lên đặc điểm vận

dụng các yếu tố văn hóa dân gian về mặt nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm

của ông.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Đây là phương pháp hỗ trợ để giúp có tư liệu từ văn học, địa – văn hóa, lịch sử

từ đó có căn cứ tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học cũng như

những ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của tác giả.

Phương pháp phân tích, tổng hợp

Phương pháp này hướng đến việc phân tích các yếu tố văn hóa dân gian trong

sáng tác của Bình Nguyên Lộc ở các khía cạnh, phương diện, từ đó đưa ra những đánh

giá, nhận định khái quát về nét riêng của ông trong việc vận dụng các yếu tố văn hóa

dân gian đó.

5. Đóng góp của luận văn

- Phát hiện, khảo sát, miêu tả, lí giải, phân tích một cách hệ thống, khách quan

về các yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc.

- Khẳng định sự sáng tạo và đóng góp to lớn của Bình Nguyên Lộc trong việc

vận dụng, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền của cha ông ta để lại. Đồng

thời, chúng ta hiểu thêm về phong cách tác giả, quan điểm sáng tác và giá trị văn

chương của ông.

- Thấy được sự vận động, tác động qua lại của văn hóa dân gian và văn học

trong quá trình phát triển của văn học dân tộc.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

văn được cấu trúc thành ba chương:

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ NHÀ

VĂN NAM BỘ BÌNH NGUYÊN LỘC

Trong Chương 1, người viết giới thuyết về các khái niệm văn hóa, văn hóa dân

gian, các thành tố của văn hóa dân gian; chỉ ra mối quan hệ giữa văn học và văn hóa

9

cũng như mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết; giới thiệu về nhà văn

Nam Bộ Bình Nguyên Lộc.

Chương 2. YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH

NGUYÊN LỘC NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

Trong Chương 2, người viết tập trung nghiên cứu các yếu tố văn hóa dân gian

trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc như phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật,

lễ hội, tri thức và ngữ văn dân gian; khảo sát sự vận dụng cũng như sự sáng tạo, hiệu

quả các yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc.

Chương 3. YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH

NGUYÊN LỘC NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Với Chương 3, người viết nghiên cứu vai trò của các yếu tố văn hóa dân gian

trong xây dựng nhân vật, không gian văn hóa; vai trò trong tổ chức giọng điệu và kết

cấu truyện; sự sáng tạo, hiệu quả trong nghệ thuật vận dụng các yếu tố dân gian của

Bình Nguyên Lộc.

Ngoài ra, luận văn còn có ba phụ lục. Bảng phụ lục 1 thống kê các yếu tố văn

hóa dân gian dựa trên sự khảo sát tần số và bối cảnh yếu tố văn hóa dân gian được sử

dụng. Bảng phụ lục 2 gồm hai bảng thống kê tần số vận dụng các yếu tố văn hóa dân

gian trong tác phẩm của nhà văn. Phụ lục 3 là hình ảnh chân dung nhà văn và một số

tập truyện, tiểu thuyết tiêu biểu của ông.

10

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DÂN GIAN

VÀ NHÀ VĂN NAM BỘ BÌNH NGUYÊN LỘC

1.1. Giới thuyết các khái niệm

1.1.1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, là nền tảng tinh thần của xã hội.

Văn hóa có từ lâu đời và là sự kết tinh của những mối quan hệ giữa con người với thế

giới tự nhiên, con người với xã hội. Tuy nhiên, những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ

XX, văn hóa mới được quan tâm và tiến hành nghiên cứu một cách khoa học. Từ năm

1952, hai nhà văn hóa bác học Hoa Kì là A.Kroeber và C.Kluckholn đã thống kê được

164 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa (A.A.Radugin, 2002). Con số đó hiện

nay đã tăng lên khoảng trên 500 định nghĩa. Như vậy, chúng ta có thể thấy quan niệm

về văn hóa không phải vấn đề đơn giản và có sức hấp dẫn nhiều thế hệ nghiên cứu.

Dựa vào nhiều cách hiểu khác nhau và những đặc trưng của văn hóa, các nhà

nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm này. Trong phạm vi nghiên

cứu của luận văn, người viết chỉ đưa ra một số khái niệm tiêu biểu. Năm 1871 nhà

nhân học văn hóa người Anh E. B Taylor (1832- 1917) là người đầu tiên đưa ra một

quan niệm khá hoàn chỉnh mang tính “bách khoa toàn thư”. Ông đã liệt kê các sáng

tạo của con người về văn hóa. Ông cho rằng văn hóa là “một tổng thể phức tạp bao

gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những

khả năng và thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã

hội” (Dẫn theo Chu Xuân Diên, 2001). Năm 1970, Tổng giám đốc UNESCO Federico

Mayor đã đưa ra ý kiến bàn luận về văn hóa “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao

gồm những kiệt tác trong lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn

hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản

phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao

động” (Dẫn theo Lê Văn Chưởng, 1999). Cách hiểu thứ hai của ông Federico Mayor

làm cho văn hóa trở thành đối tượng đích thực của văn hóa học. Năm 1994, UNESCO

tiếp tục đưa ra định nghĩa về văn hóa. Hiểu theo nghĩa rộng:

11

Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và thể chất,

trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người

trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những

quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.

Theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu)

chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù

riêng” (Dẫn theo Lê Minh Hạnh, 2006). Tuy nhiên, hai cách hiểu đều hướng đến tính

đặc trưng của mỗi cộng đồng.

Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Phan

Ngọc đã thống kê có khoảng 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát

minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ

thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức

sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và văn minh đó tức là văn hóa”.

(Dẫn theo Lê Minh Hạnh, 2006)

Minh cho rằng:

Giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định: “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm

hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và

tập quán khác nhau mà con người có được với tư cách là một thành viên xã hội” (Trần

Quốc Vượng, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Ngọc Dung, Trần Thúy Anh,

2004). Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm thì định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống các

giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn

thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội” (Trần Ngọc Thêm, 1999).

Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa là do con người sáng

tạo ra, là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần. Văn hóa trở thành nền tảng cho

sự phát triển của xã hội loài người. Vì là phương diện rộng của đời sống, văn hóa

không có khái niệm duy nhất. Nó ngày càng được mở rộng khái niệm hoặc hiểu theo

12

khuynh hướng của các nhà nghiên cứu. Xuất phát từ tình hình thực tế nghiên cứu, Chu

Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng của con người mới có. Hoạt động

sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người: đời

sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần. Thành tựu của những hoạt

động sáng tạo ấy là giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa được truyền từ thế hệ này

sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục. Văn hóa mỗi cộng đồng người có

những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân biệt cộng đồng người này

với cộng đồng người khác.

(Chu Xuân Diên, 2009).

Xuân Diên đã khái quát văn hóa với những nét cơ bản như :

Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu về yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác

của một tác giả văn học, người viết chủ yếu đi vào những giá trị thuộc về văn hóa tinh

thần, biểu hiện cụ thể ở những thành tố đặc trưng của văn hóa.

1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian

Văn hóa dân gian chính là “văn hóa gốc”, “văn hóa mẹ”, “văn hóa cội nguồn

của mọi nền văn hóa. Văn hóa dân gian (folklore) là thuật ngữ có nghĩa ghép. Folk:

nhân dân, lore: trí tuệ, trí khôn, tri thức. Văn hóa dân gian trở thành một bộ phận quan

trọng của văn hóa, là kho tri thức, trí tuệ được nhân dân lưu giữ và thực hành qua nhiều

thế hệ.

Thuật ngữ văn hóa dân gian được nhà khoa học người Anh, William J. Thomas

đề cập lần đầu tiên trên tạp chí “The Atheneum” năm 1846. Ngày nay, thuật ngữ này

vẫn còn gây tranh cãi về nội hàm của nó. Ở phương Tây, khái niệm folklore được hiểu

rất rộng. Từ điển bách khoa của Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất

của những tín ngưỡng, truyền thống, thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian.

Những câu truyện cổ, những bản tình ca, dân ca và những câu tục ngữ đều nằm trong

khái niệm này…, nó bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật chất mà ban đầu nó không

tính đến” (Dẫn theo Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), 2000). Bonas Buleys thì lại cho rằng:

“Folklore bao gồm những sáng tác truyền thống của dân tộc cả nguyên thủy và văn

13

minh. Những dạng sáng tác này có được bằng cách sử dụng âm thanh và từ ngữ dưới

dạng thơ và văn xuôi. Chúng bao gồm cả các tín ngưỡng dân gian hay mê tín, phong

tục và hội diễn các điệu múa và các trò chơi” (Dẫn theo GN.Poxpelop, 1998). Trong

khi đó, học giả người Mỹ George Hervey quan niệm “Folklore bao gồm những phương

tiện văn học và tri thức của văn hóa được giữ gìn vĩnh viễn chủ yếu bằng truyền miệng:

huyền thoại, truyện cổ dân gian và những hình thức khác của văn học truyền miệng

truyền thống” (Dẫn theo GN.Poxpelop, 1998). Những quan niệm của phương Tây đã

nêu lên những cách hiểu khác nhau về văn hóa dân gian. Từ điển bách khoa của Anh

định nghĩa tương đối rộng về văn hóa. Trong đó, các nhà nghiên cứu khác đang mới

chỉ đề cập folklore như là các sáng tác truyền thống, phương tiện văn học, tri thức văn

hóa… Họ chưa đề cập đến bộ phận khác nhau về văn hóa dân gian: lối sống, đạo đức,

văn hóa vật thể, kiến trúc… làm nên nét đặc sắc của văn hóa dân gian của các dân tộc.

Ở Liên Xô, folklore được hiểu theo hai hướng. Hướng thứ nhất, folklore được

hiểu theo cách như của phương Tây. Hướng thứ hai, folklore được cho rằng về cơ bản

là “nghệ thuật ngôn từ”. Ở đây, folklore có thể đồng nhất với văn học truyền miệng.

Tuy nhiên, càng về sau này, quan niệm bó hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ không

còn nhiều. Tổng bách khoa toàn thư Xô Viết xuất bản năm 1974 quan niệm rằng:

“Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của dân gian lao động. Đó là

thơ ca, âm nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội

họa được nhân gian sáng tạo ra và sống trong nhân dân.” (Dẫn theo Bùi Mạnh Nhị

(chủ biên), 2000). Folklore đã được giới nghiên cứu mở rộng ra bao gồm những yếu

tố như ngôn từ, tạo hình, diễn xướng, phong tục, tín ngưỡng… Các yếu tố gắn kết lại

với nhau thành một chỉnh thể nguyên hợp.

Ở Việt Nam, văn hóa dân gian là cơ sở, nền tảng rất quan trọng chi phối đời

sống văn hóa trên mọi phương diện. Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng quan niệm

văn hóa dân gian theo cách hiểu rộng. Giáo sư Đinh Gia Khánh, người mở đường

ngành văn hóa dân gian ở Việt Nam quan niệm “Văn hóa dân gian gồm toàn bộ văn

hóa tinh thần của nhân dân được tiếp nhận dưới giác độ thẩm mĩ” (Đinh Gia Khánh,

2009). Đề xuất cách tiếp cận văn hóa dân gian như là một kiểu “văn hóa nghệ thuật”,

tác giả cho rằng trình độ thẩm mĩ của con người sẽ khác ở mỗi thời kì lịch sử nhất

14

định. Vũ Ngọc Khánh thì định nghĩa “Văn hóa dân gian là sáng tạo của dân, từ dân

mà ra và phục vụ cho cuộc sống của dân” (Vũ Ngọc Khánh, 2007). Định nghĩa này

thiên về chủ thể sáng tạo văn hóa dân gian và đối tượng văn hóa dân gian hướng đến.

Trần Quốc Vượng lại cho rằng văn hóa dân gian Việt Nam là “…tổng thể mọi sáng

tạo, mọi thành tựu văn hóa dân gian ở mọi nơi, trong mọi thời và mọi thành phần dân

tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam”. Ông cũng đã mở rộng thành tố của văn hóa

dân gian khi cho rằng: “Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống từ đời sống

làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến đời sống vui chơi buông xả (thể thao dân

gian, võ vật, đánh cầu, đánh phết), hát hò (hát hò đưa, hát giã gạo, đúm, ví, xoan,

ghẹo) đến đời sống tâm linh (giỗ, lễ tế, hội).” (Dẫn theo Bùi Mạnh Nhị (chủ biên)

Theo đúng nghĩa văn hóa dân gian là nền văn hóa của dân chúng. Văn hóa này

bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần… Nội hàm của nó có vấn đề

phương thức sản xuất ra của cải, có phong tục tập quán, sinh hoạt tinh thần, tri

thức tự nhiên và xã hội, quan niệm đạo đức, nhận thức và tình cảm về thế giới và

nhân sinh.

(Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ, 2002).

2000). Sách Từ điển văn hóa dân gian cũng khẳng định:

Cả hai định nghĩa trên thể hiện cách nhìn rộng về văn hóa dân gian bao trùm cả đời

sống vật chất và tinh thần của con người.

Như vậy, theo đa số các nhà nghiên cứu hiện nay, văn hóa dân gian có rất nhiều

thành tố đặc trưng, bao gồm tất cả những yếu tố vật chất và tinh thần được hình thành

và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong nhân dân. Văn hóa dân gian

biểu hiện trong nhiều lĩnh vực, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, đặc biệt là

ngành thi pháp folklore. Văn hóa dân gian làm nên nét đặc trưng độc đáo của mỗi dân

tộc, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và là nền tảng của sự phát triển văn hóa.

1.1.3. Các yếu tố văn hóa dân gian

Văn hóa dân gian mang nhiều yếu tố đặc trưng. Mỗi yếu tố dân gian gắn bó

chặt chẽ với nhau tạo nên một chỉnh thể toàn vẹn. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân

gian Việt Nam dựa trên những thành tố của văn hóa dân gian, các tiêu chí về phương

15

thức lưu truyền, đặc trưng ngôn ngữ, chất liệu cấu tạo đã chỉ rõ các yếu tố cơ bản của

nó. Chu Xuân Diên (2001) cho rằng Folklore bao gồm những thành tố là những sáng

tạo nghệ thuật có ý thức như các tác phẩm văn học dân gian, âm nhạc và múa dân gian,

hội họa dân gian. Trong đó có cả những thành tố là những sản phẩm vừa mang tính

ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ (kiến trúc, đồ thủ công mĩ nghệ…), những thành tố

là những giá trị văn hóa không bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích thực của

nó (văn hóa ẩm thực, những tri thức về môi trường tự nhiên..). Cách chia này của ông

cũng khá rộng về các yếu tố của văn hóa dân gian có trong những sản phẩm ích dụng,

những sáng tạo nghệ thuật và các giá trị văn hóa về ẩm thực, thiên nhiên...

Tuy thế, trong phần giới thuyết về các yếu tố văn hóa dân gian, người viết xin trình

bày hai cách phân chia các yếu tố dân gian của hai nhà nghiên cứu là Lê Ngọc Canh và

Ngô Đức Thịnh. Đây có thể coi là hai cách phân chia tương đối rõ ràng và phù hợp với

lựa chọn nghiên cứu của người viết. Khi nói tới các yếu tố là nói đến các bộ phận cấu

thành nên chỉnh thể. Văn hóa dân gian có nhiều yếu tố tạo nên tính chỉnh thể nguyên hợp

của nó. Nghiên cứu văn hóa dân gian là xem xét nó trong mối quan hệ tổng thể liên ngành,

đa chiều, quan hệ gắn bó. Các yếu tố của văn hóa dân gian tồn tại, phát triển, sáng tạo

cùng văn hóa và vẫn giữ nét đặc trưng cơ bản của mình.

Trước tiên là nhà nghiên cứu Lê Ngọc Canh. Lê Ngọc Canh (1999) cho rằng

văn hóa dân gian là tất cả những di sản văn hóa, sáng tạo văn hóa của quần chúng nhân

dân được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Vì thế, văn hóa tinh thần và văn hóa vật

chất là do nhân dân sáng tạo ra, trở thành văn hóa truyền thống của dân tộc. Theo Lê

Ngọc Canh, văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) là văn, thơ, hát, múa, nhạc, sân

khấu, diễn xướng, điêu khắc, kiến trúc, hội họa, nghề mỹ nghệ thủ công, lễ hội trò chơi

nghệ thuật… Cùng với các loại hình trên là phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng,

Tết, lễ, luật tục, những hương ước, định ước và tri thức dân gian. Những hoạt động

của các loại hình nghệ thuật này đem lại nguồn cảm hứng lớn cho nhiều phương diện

đời sống. Văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) là đền, chùa, đình, miếu, điện, tháp, lăng

tẩm, những loại y phục, những chiếc thuyền, những công cụ, những đạo cụ để phục vụ

cho nhu cầu đời sống của con người và xã hội. Chúng có ý nghĩa thực dụng trong thờ

cúng, lễ hội, sinh hoạt văn hóa… của nhân dân. Ông đã chỉ ra mười yếu tố cơ bản của

16

văn hóa dân gian, bao gồm: 1. Âm nhạc dân gian, 2. Múa dân gian, 3. Sân khẩu dân

gian, 4. Tạo hình dân gian, 5. Diễn xướng dân gian, 6. Ngôn từ, 7. Hát dân gian, 8. Lễ

hội dân gian, 9. Trò chơi nghệ thuật dân gian, 10. Tri thức dân gian. Còn theo Ngô

Đức Thịnh (2007), văn hóa dân gian bao gồm bốn yếu tố như: ngữ văn dân gian; nghệ

thuật dân gian; tri thức dân gian; tín ngưỡng dân gian, phong tục dân gian và lễ hội

dân gian.

Các nhà nghiên cứu Việt Nam hiện nay đã triển khai công tác sưu tầm, nghiên

cứu văn hóa dân gian dựa trên sự phân chia cụ thể như sau: Ngữ văn dân gian bao gồm

các loại hình như tự sự dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, vè, ngụ

ngôn, sử thi, truyện thơ); trữ tình dân gian (ca dao, dân ca); câu nói dân gian: (thành ngữ,

tục ngữ, câu đố dân gian). Nghệ thuật dân gian bao gồm: nghệ thuật tạo hình dân gian

(kiến trúc dân gian, đền, chùa, miếu, tháp…), nghệ thuật hội họa dân gian (như làng tranh

Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng); nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc,

múa dân gian và các trò chơi, trò diễn dân gian như múa rối nước, chèo, tuồng). Tri thức

dân gian bao gồm: tri thức môi trường tự nhiên (địa lí, thời tiết, khí hậu); tri thức về con

người (bản thân); y học và dưỡng sinh dân gian; tri thức ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân

và ứng xử cộng đồng); trí thức sản xuất (kĩ thuật và công cụ sản xuất). Cuối cùng là tín

ngưỡng, phong tục và lễ hội. Lễ hội là nơi tụ các loại hình văn hóa khác nhau, phản ánh

những khía cạnh khác nhau nhưng đều là sáng tạo tinh thần, niềm tin, tín ngưỡng của nhân

dân lao động. Tín ngưỡng hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là “tin theo một tôn giáo nào đó”.

Nó liên quan đến phong tục thờ cúng, niềm tin tâm linh của nhân dân. Phong tục là toàn

bộ những hoạt động sống được hình thành theo thời gian, trong quá trình lịch sử và trở

thành nề nếp của con người. Phong tục ổn định được truyền từ thế hệ này sang thế hệ

khác. Phong tục độc đáo riêng theo vùng miền, dân tộc. Tín ngưỡng, phong tục và lễ hội

là những yếu văn hóa dân gian quan trọng góp phần hình thành bản sắc của dân tộc.

Như vậy, văn hóa dân gian có thể chia thành các yếu tố cơ bản sau: tín ngưỡng,

phong tục tập quán, lễ hội, nghệ thuật, tri thức, ngữ văn. Tuy nhiên, trên thực tế, văn

hóa dân gian hình thành, tồn tại và phát triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp.

Hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực hành, hưởng thụ trong đời sống, lao động của

nhân dân còn chưa phân định rạch ròi. Các giá trị của văn hóa dân gian luôn có sự đan

17

xen vào nhau, khó có thể bóc tách. Chính vì vậy, phân chia ra các yếu tố văn hóa dân

gian như trên chỉ mang tính tương đối và thuận lợi cho vấn đề nghiên cứu. Trong luận

văn này, người viết đi theo cách phân chia của Ngô Đức Thịnh để khảo sát các yếu tố

văn hóa dân gian.

Văn học không chỉ là một bộ phận của văn hóa, chịu ảnh hưởng văn hóa mà

còn là phương tiện bảo lưu văn hóa. Việc khảo sát các yếu tố văn hóa dân gian trong

sáng tác của Bình Nguyên Lộc trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật sẽ giúp

người đọc thấy rõ quan hệ tác động qua lại giữa văn hóa dân gian và văn học viết. Các

yếu tố văn hóa dân gian trong tác phẩm văn học làm cho văn hóa dân gian ngày càng

tỏ rõ tính năng động, phong phú.

1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết

1.2.1. Mối quan hệ văn hóa và văn học

Văn hóa là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Văn học là một trong những bộ

phận cấu thành nên những mối quan hệ đó. Vì thế, văn hóa và văn học có mối quan hệ

gắn bó với nhau. Mikhail Bakhtin, giáo sư văn học người Nga, một trong những người

mở đường cho xu hướng tiếp nhận văn học từ góc độ văn hóa, đã nhận định về mối

quan hệ văn học và văn hóa trong bài như sau: “Khoa học nghiên cứu văn học phải

gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hóa. Văn học là một bộ phận không thể tách rời của

Cần phải nghiên cứu văn học và tác phẩm văn học như những hệ thống chỉnh thể

ở hai cấp liên đới… Không thể tách rời văn học ra khỏi hệ thống văn hóa và

“vượt mặt” văn hóa liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội.

Những nhân tố ấy tác động trực tiếp đến văn hóa trong chỉnh thể của nó và chỉ

thông qua nó mà ảnh hưởng đến văn học.

(Dẫn theo Chu Xuân Diên, 2008).

văn hóa” (Dẫn theo Vương Trí Nhàn, 2014). Ông cũng khẳng định:

Như vậy, mối quan hệ giữa văn học và văn khóa là mối liên hệ chặt chẽ khó

tách rời nhau. Giá trị văn học được khởi nguồn từ môi trường văn hóa, đời sống văn

hóa nhất định.

18

Huỳnh Như Phương trong bài viết văn học và văn hóa truyền thống cũng đã

nói về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa như sau: văn học, nghệ thuật cùng với

triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục… là những bộ phận hợp thành của

toàn thể cấu trúc văn hóa. Vì vậy, văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con

người trước thế giới. Trong khi đó, văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó

một cách sinh động nhất. Văn hóa phải trải qua nhiều chặng đường thăng trầm tìm

kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn

học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình

thành. Văn hóa chính là tiếng bằ ng ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học. Như vậy, ông

khẳng định giữa văn hóa và văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gần gũi. Cả văn

học và văn hóa đều chịu sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. Văn học là một

bộ phận văn hóa, biểu hiện các giá trị văn hóa, bị chi phối bởi văn hóa. Trong tập

truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, người đọc có thể biết được vẻ đẹp của

những thú vui tao nhã của người xưa, vẻ đẹp của một nền văn hóa cổ truyền dân tộc.

Khi văn hóa phát triển thì yêu cầu tất yếu của lịch sử là văn học cũng phải đổi mới đề

tài, khuynh hướng sáng tác. Khi dân tộc ta chống giặc ngoại xâm, văn học yêu nước

phát triển mạnh mẽ thành dòng văn học chủ lưu (như giai đoạn văn học những năm

1945-1975). Khi hòa bình, con người trở về với cuộc sống đời thường thì văn học đi

sâu vào khám phá đời sống, đặc biệt là đời sống cá nhân của con người (văn học từ

sau 1975 đến nay). Nhà văn cũng như người đọc, sống trong xã hội, chịu sự chi phối

của văn hóa xã hội đó nên quan niệm sáng tác, tiếp nhận cũng chịu sự chi phối bởi môi

trường văn hóa mà họ đang sống.

Tuy nhiên, văn học cũng có sự tác động trở lại đối với văn hóa. Đỗ Thị Minh

Thúy đã viết về vị trí của văn học trong văn hóa có tính hai mặt: “Thứ nhất, bản thân

văn học trong văn hóa là một bộ phận của văn hóa, nó chịu sự chi phối mang tính

quyết định của văn hóa. Thứ hai là nói đến tính đại diện cho văn hóa của văn học, sự

tác động tích cực trở lại của văn học đối với văn hóa” (Đỗ Thị Minh Thúy, 1997).

Huỳnh Như Phương cũng cho rằng: “Văn học là một bộ phận hợp thành của văn hóa,

có mối quan hệ hữu cơ với các bộ phận khác, vừa tác động đến cấu trúc chỉnh thể của

văn hóa, lại vừa chịu ảnh hưởng của cấu trúc ấy” (Huỳnh Như Phương, 2010). Qua

19

hai ý kiến trên, chúng ta có thể thấy văn học vừa đại diện cho văn hóa, vừa tác động

đến cấu trúc chỉnh thể của văn hóa. Hơn thế, văn học lại có vai trò sáng tạo văn hóa.

Đinh Gia Khánh đã nói rằng : “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn

học đối với đời sống xã hội là góp phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc”

(Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), 2000). Đồng thời qua văn học, những phạm trù có giá trị

của văn hóa được bảo lưu và phát triển. Trần Đình Sử (2013) lại khẳng định vai trò

sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện của

con người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy hết vai trò sáng tạo

những mô hình nhân cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”… Văn học có vẻ

thích”nói ngược” nhưng chính nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể nhận ra cái cũ,

cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có vai trò lựa chọn văn hóa…Văn học cung cấp

một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu cầu làm giàu đời sống tâm hồn và trí

tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần gũi và thiết thực đối với

con người. 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là một bộ phận quan trọng

của văn hóa, sự giàu có của văn học về nội dung và hình thức sẽ trực tiếp làm giàu cho

văn hóa.

Như đã nêu rõ ở trên, khi văn học tác động tới văn hóa, nó có sức mạnh đặc biệt

đối với đời sống con người. Trong những năm tháng kháng chiến chống ngoại xâm,

những áng văn giàu lòng yêu nước, giàu tính chiến đấu đã cổ vũ mạnh mẽ khích lệ tinh

thần dân tộc như lời hịch vang dậy núi sông trong Hịch tướng sĩ của vua Trần Quốc

Tuấn: “…dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa,

ta cũng cam lòng” hay những câu văn “dậy sóng” của Phan Bội Châu trong Văn tế

Phan Chu Trinh:“Ba tấc lưỡi vừa gươm vừa súng, nhà cầm quyền trông gió cũng gai

ghê/ Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm rạng chói”

Ngoài ra, văn học còn có tác dụng to lớn trong việc bồi dương tâm hồn con người. Nhà

văn ở một góc độ nào đó cũng là một nhà văn hóa. Họ đem đến cho người đọc những

hiểu biết văn hóa qua tác phẩm của mình như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu,

Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh…

Như vậy, không chỉ có quan hệ mật thiết với các thành phần của văn hóa, mối

quan hệ giữa văn học và văn hóa là mối quan hệ khăng khít, hai chiều, hữu cơ với

20

nhau. Sự phát triển của văn hóa tạo điều kiện cho văn học phát triển. Văn học lại là

một thành tố quan trọng của văn hóa, vừa chịu ảnh hưởng của văn hóa, vừa bảo lưu

vừa tác động đến sự phát triển của văn hóa dân tộc. Nội dung và hình thức của một tác

phẩm văn học được cắt nghĩa từ các yếu tố văn hóa sẽ giúp người đọc có cái nhìn sâu

sắc hơn, đánh giá toàn diện hơn.

Mặt khác, văn học lại luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát triển.

Vì vậy, khi văn học tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một ngưỡng nào đó, yếu tố

văn học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa. Nó thậm chí còn chống lại

hệ thống, làm cho hệ thống phải thay đổi cùng với nó. Như khi văn học trung đại Việt

Nam dưới sự ảnh hưởng của văn hóa đô thị, ý thức cá nhân thức tỉnh, nó đã làm rạn

nứt hệ thống văn hóa trung đại. Văn học đã góp phần chuyển đổi văn hóa trung đại

sang văn hóa hiện đại. Lịch sử văn hóa chính là lịch sử của thay đổi các hệ thống văn

hóa, hay thời đại văn hóa.

Ở Việt Nam, nghiên cứu, phê bình văn học từ văn hóa cũng đã xuất hiện từ lâu.

Trần Trọng Kim nghiên cứu Truyện Kiều từ quan điểm Phật giáo. Hoài Thanh khảo

sát Một thời đại trong thi ca (Thi nhân Việt Nam) từ sự ảnh hưởng của văn hóa phương

Tây… Tuy nhiên, họ chỉ nghiên cứu và vận dụng một số kiến thức văn hóa để đọc văn

học chứ chưa phải là đọc, nghiên cứu tác phẩm văn học bằng văn hóa. Khi UNESCO

phát động những thập kỷ phát triển văn hóa, khi bộ môn Văn hóa học và Nhân học văn

hóa xuất hiện ở Việt Nam thì văn hóa bắt đầu được coi như một nhân tố chi phối văn

học. Tiêu biểu cho các công trình như Trần Đình Hượu với Nho giáo và văn học Việt

Nam trung cận đại; Trần Ngọc Vương trong Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam; Đỗ

Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực; Trần Nho Thìn trong Văn học

trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hóa … Hướng đi này ngày càng được giới nghiên

cứu quan tâm và đối tượng nghiên cứu cũng trở nên phong phú.

1.2.2. Văn hóa dân gian và văn học viết

Khi văn học viết hình thành, bộ phận văn học này đã mở ra một thời kì lịch sử

mới. Đó là kết tinh của nền văn học dân tộc, là kết quả của phân định văn - sử - triết

và là văn học của giới tri thức, quý tộc. Thời kỳ đầu của văn học viết, ba dòng tư tưởng

Nho - Phật - Lão đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo. Bên cạnh đó, thiên nhiên cũng

21

là thi liệu quen thuộc trong thi ca với nhiều chất liệu cao nhã. Khi chữ Nôm được sử

dụng rộng rãi vào cuối thế kỷ XVIII thì văn học viết bắt đầu thâm nhập sâu vào cuộc

sống đời thường. Xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến

những vần thơ chân chất, mộc mạc. Khi chữ quốc ngữ ra đời, văn học viết chịu ảnh

hưởng của văn hóa Đông – Tây. Văn học hiện đại hóa từ hình thức, thể loại đến tư

tưởng, nội dung sáng tác. Sau hơn mười thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu và hòa nhập với văn học thế giới. Trong tiến

trình lịch sử như vậy, văn hóa và văn học viết luôn gắn bó mật thiết với nhau. Mối

quan hệ biện chứng, hai chiều tương tác qua lại của văn hóa và văn học đã làm giàu

thêm cho văn học, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Đồng

thời, nó là mối quan hệ sáng tạo có tính qui luật, diễn ra hết sức độc đáo và là cơ sở để

cắt nghĩa một số hiện tượng văn học cụ thể.

Trong lịch sử phát triển văn học dân tộc, văn hóa dân gian chính là cội nguồn

nuôi dưỡng văn học viết. Chính vì có lịch sử lâu đời, sự ảnh hưởng rộng lớn, văn hóa

dân gian trở thành nguồn tư liệu phong phú của văn học. Với vai trò là môi trường của

văn học viết, nó đã tác động sâu sắc đến chủ đề, đề tài, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ…

cho đến các biện pháp nghệ thuật cấu thành nên tác phẩm. Thậm chí, văn hóa dân gian

còn ảnh hưởng đến phong cách tác giả và quá trình tiếp nhận văn học viết. Tác giả,

vốn được xem là chủ thể sáng tạo trong văn học, cũng là một sản phẩm văn hóa. Các

hiện tượng văn học như sách Nam dược thần diệu của Tuệ Tĩnh, Truyện Kiều của

Nguyễn Du, thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến, Tú Xương

thể hiện rất rõ sự tác động đó. Ngoài ra, sự dung hợp về các thể loại khác nhau trong

cùng văn bản là phương pháp mà các tác giả văn học muốn tạo sự đa dạng, độ mở, tính

chất liên văn bản như sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Võ Thị

Hảo…Văn hóa dân gian thậm chí tham gia vào quá trình định hình phong cách cá nhân

tác giả khi quy trình vận dụng được lặp lại với tần suất cao như Tố Hữu, Nguyễn Bính,

Kim Lân, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc… Chúng ta thấy rằng khi tác giả có sự gắn kết

mạnh mẽ với văn hóa truyền thống thì ngay trong lúc hình thành ý thức sáng tác đã

chịu sự quy định của văn hóa, tạo thành thế giới quan trong sáng tạo văn học.

22

Điểm qua một số giai đoạn văn học tiêu biểu, chúng ta sẽ thấy sự ảnh hưởng

sâu sắc của văn hóa dân gian trong suốt tiến trình lịch sử của văn học viết. Thời kì văn

học Lý Trần, nguồn cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc giữ vai trò chủ đạo. Thơ

văn thời kỳ này thường nóng bừng nhiệt huyết đấu tranh xây dựng đất nước tự chủ, tự

cường như Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Thế

nhưng, những vần thơ mộc mạc, quê mùa vẫn thấm đẫm nỗi lòng của người con xa xứ.

Lão tang diệp lạc tàm phương tận

Tảo đạo hoa hương giải chính phì

Kiến thiết tại gia bần diệc hảo

Giang Nam tuy lạc bất như quy

(Quy Hứng - Nguyễn Trung Ngạn)

Dâu già, lá rụng, tằm vừa chín

Lúa sớm, bông thơm, cua béo ghê

Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt

Dẫu vui đất khách chẳng bằng về.

(Hứng trở về - bản dịch Hoàng Việt)

Hình ảnh quen thuộc của tuổi thơ trong kí ức tác giả hiện lên với cây dâu già lá rụng,

nong tằm vừa chín, lúa trổ bông thơm, cua béo… Đó là tình yêu với quê hương, bản

quán mà ta từng gặp trong câu ca dao quen thuộc.

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

(Ca dao)

Sang thế kỷ XV, với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã sử dụng ngôn ngữ dân

tộc, lời ăn tiếng nói hằng ngày, thành ngữ, tục ngữ làm cho thơ ông trở nên bình dị,

gần gũi. Những thành ngữ, tục ngữ như: ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Ở gần nhà giàu

đau răng ăn cốm/Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn được ông vận dụng khéo léo. Dường

23

như, nếp sống, tập quán truyền thống, lời giáo huấn của cha ông đã đi vào thơ ông thật

dung dị, tự nhiên mà rất sâu sắc.

Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,

Xấu tốt đều thì rắp khuôn.

Lân cận nhà giàu no bữa cám,

Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.

(Báo kính cảnh giới, 21)

Ở thế kỷ XVIII, nhiều tác giả văn học trong giai đoạn này cũng chịu ảnh hưởng

của văn hóa dân gian. Truyện Kiều là một tác phẩm tiêu biểu. Truyện Kiều của Nguyễn

Du là tác phẩm được “dân gian hóa” độc đáo. Những hiện tượng văn hóa phổ biến từ

Truyện Kiều như tập Kiều, bói Kiều đến ngày nay vẫn còn phổ biến. Với tác phẩm

này, thể thơ lục bát của dân tộc đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Vì thế, nhiều câu thơ đã

trở thành mẫu mực về nghệ thuật. Giáo sư Mai Quốc Liên từng nói Kiều là “kì quan

của nền văn hóa Việt Nam”. Truyện Kiều của Nguyễn Du là sự kết tinh của thơ ca dân

gian, của nếp sống, lối nghĩ mang đậm chất dân gian Việt Nam.

Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy cả bức tranh văn hóa dân gian trong thơ Nôm

của Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu đố, trò chơi…), một nếp sống làng quê nhiều phong

tục tập quán trong thơ Nguyễn Khuyến, những thành ngữ, tục ngữ sáng tạo trong thơ

Tú Xương…

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.

Trai co gối hạc khom khom cật,

Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng.

(Đánh đu – Hồ Xuân Hương)

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,

Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

24

(Thú quê – Nguyễn Khuyến)

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

(Thương Vợ - Trần Tế Xương)

Sự ảnh hưởng, tác động của văn hóa dân gian vẫn diễn ra sâu sắc kể cả khi văn

học Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn học, văn hóa phương Tây. Ngay trong phong

trào Thơ mới, bên cạnh những nhà văn, nhà thơ có những cách tân táo bạo như Xuân

Diệu, Hàn Mặc Tử… vẫn có những tác giả chịu ảnh hưởng rõ nét từ nền văn hóa dân

gian như Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ. Những cánh đồng, lũy tre, cây đa,

bến nước, cánh cò; những phong tục cưới xin, lễ tết, hội làng hay những đặc trưng của

lối sống sinh hoạt, ngôn ngữ làng quê… được tái hiện chân thật, sinh động trong thơ

của các tác giả:

Quanh bếp ấm, nồi bánh chưng sùng sục

Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn,

Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nhức,

Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm.

(Đêm ba mươi tết – Anh Thơ)

Hôm nay xác pháo đầy đường

Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng

Chuyến này chị bước sang ngang

Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây.

Mùa xuân ấy ông tôi lên tận tỉnh

(Lỡ bước sang ngang – Nguyễn Bính)

Đón tôi về xem hội ở làng bên

Suốt ngày đêm chiêng trống đánh vang rền.

(Đám hội – Đoàn Văn Cừ)

Như vậy, nước ta mặc dù phải trải qua nhiều biến cố, nhiều sự tiếp biến văn hóa

ngoại lai thì văn học viết vẫn ảnh hưởng sâu đậm từ văn hóa dân gian. Mối quan hệ

giữa văn hóa dân gian và văn học viết là mối quan hệ mang tính quy luật, rộng khắp,

biện chứng, có sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Văn học là một thành tố quan trọng

25

của văn hóa, vừa chịu sự tác động của văn hóa dân tộc vừa tác động trở lại đối với văn

hóa. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hóa đồng thời là chủ thể sáng tạo, nhà văn chính

là người lưu trữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn hóa dân tộc và văn

hóa dân tộc là nơi ươm mầm những tài năng văn học sau này. Huỳnh Như Phương

trong Văn học và văn hóa đã khẳng định: “Có thể nói nhà văn đích thực là nhà hoạt

động văn hóa, tác phẩm văn học là sản phẩm của văn hóa và người đọc là người thụ

hưởng văn hóa”.

Khi văn hóa dân gian xâm nhập và ảnh hưởng đến văn học viết thì bản thân văn

học viết cũng tác động đến sự tồn tại và phát triển của văn hóa dân gian. Có khi chúng

được chuyển tải thành những hình tượng văn học đặc sắc, vừa lưu giữ nét dân gian

vừa đậm hơi thở của cuộc sống hiện đại. Trong truyện ngắn Trương Chi của Nguyễn

Huy Thiệp, nhân vật Trương Chi không mang tính lý tưởng, có tình yêu thủy chung,

tâm trạng tuyệt vọng với nàng Mỵ Nương nữa. Thay vào đó, hình ảnh Trương Chi

mang tâm thức thời hiện đại. Đó là hình ảnh con người tự đối diện với nỗi cô đơn của

chính mình, mang nỗi mặc cảm, sự hoài nghi đối với thân phận, tình yêu. Nhân vật

Mỵ Nương trong Sự tích những ngày đẹp trời của Hòa Vang lại có một tình cảm kì lạ

với Thủy Tinh. Thủy Tinh ở đây lại là một chàng trai biết suy nghĩ, có một trái tim

nồng ấm, chân thành. Sự sáng tạo này làm cho các nhân vật dân gian trở nên sinh động

và có sức sống lâu bền trong tâm thức người dân Việt.

Một trong những quy luật chi phối quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học là

quy luật kế thừa và sáng tạo. Là thành viên của cộng đồng văn hóa, nhà văn tiếp nhận

những giá trị, lối tư duy, nếp nghĩ, ứng xử… của văn hóa truyền thống. Vì thế, dù sáng

tạo đến đâu thì trong tác phẩm vẫn thể hiện tâm thái văn hóa của dân tộc mình. Văn

học nghệ thuật cách tân và sáng tạo nếu được nảy nở trên nền của truyền thống văn

hóa thì sẽ trường tồn theo thời gian và tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của

dân tộc mình. Quá trình kế thừa đó làm cho văn học phát triển mà vẫn không đứt đoạn

với truyền thống, làm nên truyền thống văn học của từng dân tộc. Những tín ngưỡng,

phong tục dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo

mẫu, tín ngưỡng phồn thực, tục thờ thần Chó đá, thần Cây đa, thần Thành hoàng, cảnh

26

lên đồng, hát chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…) đã làm nên bản sắc văn hóa

Việt trong sáng tác của ông.

Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết còn thể hiện qua sự xâm

nhập lẫn nhau. Có khi một tác phẩm văn học của một tác giả cụ thể được yêu thích và

lưu hành rộng rãi trong nhân dân theo phương thức truyền miệng. Qua nhiều thời gian,

tác phẩm văn học viết trở thành gia tài chung của nhân dân như bài thơ Trong đầm gì

đẹp bằng sen của Bảo Định Giang, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa..của các

nhà nho tài tử. Nhiều tác phẩm văn học viết đã len lỏi vào nếp sống, tập quán, ăn sâu

vào tâm hồn những người nông dân và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của

nhân dân lao động.

Tóm lại, mối quan hệ giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian với

văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Văn học và văn hóa

là hai mặt tồn tại song song của hình thái ý thức xã hội. Văn học chẳng những là một

bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa mà còn là một

trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa hữu hiệu nhất. Văn học vốn chịu

sự chi phối ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và môi trường văn hóa của dân tộc.

Chính vì điều đó, văn hóa và văn học không nằm ngoài quỹ đạo chung là hướng tới sự

phát triển một cách toàn diện, có môi trường sống năng động, lâu bền trong suốt tiến

trình dài của lịch sử.

1.3. Bình Nguyên Lộc – nhà văn Nam Bộ

1.3.1. Tiểu sử

Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 07/3/1914 (giấy tờ ghi

1915) tại làng Tân Uyên, Tổng chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc huyện Vĩnh

Cửu, tỉnh Đồng Nai). Ông mất ngày 07/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento,

California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Ông sinh trưởng

trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên. Cha là Tô Phương Sâm làm

nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ. Ông học

tiểu học ở trường làng; trung học (1928 - 1934) ở Pétrus Ký, Sài Gòn. Ông rời trường

không bằng cấp. Năm 1934, ông kết hôn với cô Dương Thị Thiệt. Năm 1935, ông vào

làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. Năm 1936, Ông đổi về Sài Gòn làm kế toán

27

viên ở Tổng Nha Ngân khố. Tháng 8/1945, Ông bỏ việc, tham gia kháng chiến. Năm

1946, ông hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn, làm báo.

Năm 1950, ông in tập truyện ngắn Nhốt gió. Năm 1958, ông chủ trương tuần báo

Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. Ông cộng tác với các báo Lẽ Sống, Đời Mới, Tin

Mới, tạp chí Bách Khoa, Văn Hóa Ngày Nay; phụ trách trang văn nghệ của báo Tiếng

Chuông; làm chủ báo Tin Sớm... Từ 1965 - 1975, Bình Nguyên Lộc chuyên viết

feuilleton cho các nhật báo, có ngày ông viết cho 11 nhật báo. Năm 1975, ông ngừng

cầm bút vì bệnh nặng. Năm 1985, ông di cư sang Hoa Kỳ và hai năm sau thì mất.

Trước khi qua đời, ông vẫn đau đáu trong lòng nhớ quê, nhớ nước.

1.3.2 Sự nghiệp sáng tác

Bình Nguyên Lộc sáng tác với khối lượng lớn. Các bản thảo bị thất lạc cũng

nhiều. Phần lớn in trên các báo. Nhiều tác phẩm chưa xuất bản thành sách. Thống kê

các sáng tác dưới đây dựa vào thống kê trên trang của http://www.thuykhe.free.fr,

http://www.binhnguyenloc.de và Bình Nguyên Lộc – một bút lực lớn trong Tuyển tập

Bình Nguyên Lộc tập 1.

Các tác phẩm đã in:

Thơ: Thơ tay trái, Việt sử trường ca và Thơ ba Mén (tiểu thuyết thơ).

Sưu tầm, chú giải được công bố trước 1975: Thổ ngơi Đồng Nai (ca dao miền

Nam, và chú giải cổ văn, viết chung với Nguiễn Ngu Í), Văn tế chiêu hồn (Nguyễn

Du), Tiếc thay duyên Tấn phận Tần (Nguyễn Du), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ

lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận), Tỳ bà hành và Trường hận ca (TRQ).

Dân tộc học và ngôn ngữ học: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt

Nam (1971), Lột trần Việt ngữ (1972), Từ vựng đối chiếu 10 ngàn từ (1971)…

Truyện ngắn: Nhốt gió (Thời thế, 1950), Ký thác (Bến Nghé, 1960), Tân liêu

trai (Bến Nghé, 1960), Tâm trạng hồng (Sống Mới, 1963). Mưa thu nhớ tằm (Phù Sa,

1965), Tình đất (Thời Mới, 1966), Cuống rún chưa lìa (Lá Bối,1969), Nụ cười nước

mắt học trò (Trương gia, 1967)...

Tạp bút: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (Thịnh

Ký, 1966).

28

Truyện dài: Đò dọc (Bến Nghé, 1959), Gieo gió gặt bão (Bến Nghé, 1960), Ái

ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (Thế Kỷ, 1963), Mối tình cuối cùng (Thế Kỷ,

1963), Bóng ai qua ngoài song cửa (Thế Kỷ, 1963), Bí mật của nàng (Thế Kỷ, 1963),

Hoa hậu Bồ Đào (Sống Mới, 1963), Xô ngã bức tường rêu (Sống Mới, 1963), Nhện chờ

mối ai (Nam Cường, 1963), Nửa đêm Trãng sụp (Nam Cường, 1963), Đừng hỏi tại

sao (Tia Sáng, 1965), Uống lộn thuốc tiên (Miền Nam, 1965), Quán tai heo (Văn

Xương, 1967), Một nàng hai chàng (1967), Thầm lặng (Thụy Hương, 1967), Trăm nhớ

ngàn thương (Miền Nam, 1967), Đèn Cần Giờ (1968), Diễm Phương (1968), Sau đêm

bố ráp (Thịnh Kí, 1968), Khi Từ Thức về trần (1969), Nhìn xuân người khác (Tiến Bộ,

1969), Món nợ thiêng liêng (Ánh sáng, 1969), Tỳ vết tâm linh (Nam Cường, 1973), Lữ

đoàn mông đen (Xuân Thu, Hoa Kỳ, 2001).

Truyện dài chưa in: Ngụy Khôi, Đôi giày cũ chữ Phạn, Thuyền trưởng sông Lô,

Mà vẫn chưa nguôi hình bóng cũ, Người săn ảo ảnh, Suối đổi lốt, Trữ La bến cũ, Bọn

xé rào, Cô sáu Nam Vang, Một chuyến ra khơi, Trọng Thủy - Mị Đường, Sở đoản của

đàn ông, Luật rừng, Trai cưới gái nào, Cuồng ca thế kỷ, Bóng ma dĩ vãng, Gái mẹ,

Món nợ thiêng liêng, Khi chim lìa tổ lạnh, Ngõ 25, Hột cơm Ngô chúa, Lưỡi dao cùn,

Con khỉ đột trò xiếc, Con quỷ ban trưa, Quật mồ người đẹp, Nguời đẹp bến Ninh Kiều,

Bưởi Biên Hòa, Giấu tận đáy lòng, Quang Trung du Bắc, Xóm Đề bô, Hai kiếp nhả

tơ, Muôn triệu năm xưa, Hổ phách thời gian,... Đến ngày 31/5/1966 Bình Nguyên Lộc

đã viết: 820 truyện ngắn (in năm tập), 52 tiểu thuyết (in 11 quyển).

Qua khối lượng sáng tác của Bình Nguyên Lộc nêu trên, ông đúng là nhà văn có

bút lực lớn với khối lượng sáng tác đồ sộ. Nguyễn Q. Thắng - người dành nhiều công

sức tuyển chọn và giới thiệu sáng tác tiêu biểu của Bình Nguyên Lộc qua bộ Tuyển

tập Bình Nguyên Lộc gồm 4 tập do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, năm 2002 đã có

tổng kết khá xác đáng: “Trong từng trang viết, ông làm sống dậy trong tâm thức người

đọc cái hồn nhiên dung dị, chân chất mà đầy tình nghĩa của con người sinh trưởng

tại miền đất mới...” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Đây là vẻ đẹp con người và

mảnh đất Nam Bộ trong văn chương Bình Nguyên Lộc. Như vậy, Bình Nguyên Lộc

không chỉ là “tam kiệt” của văn học Nam Bộ mà tác phẩm của ông còn là bức tranh

chân thực của vùng đất mới này. Thế giới thiên nhiên, con người hiện lên giàu chất

29

Nam Bộ trong tính cách, trong nếp sống sinh hoạt, ngôn ngữ, giọng điệu…Bình

Nguyên Lộc là một trong những tác giả có công đóng góp lớn và vị trí quan trọng cho

sự định hình văn học miền Nam.

1.3.3. Bình Nguyên Lộc – bút lực dồi dào của văn học Nam Bộ

Gia đình Bình Nguyên Lộc đã mười đời sống vùng đất Tân Uyên. Nơi ông sống

được bồi đắp phù sa bởi con sông Đồng Nai. Vì thế, ông hay viết về thổ ngơi của vùng

đất cũng như luôn có ý thức truy tìm nguồn gốc tổ tiên đã khai hoang, mở đất trước

đó. Theo Nguyễn Vy Khanh trong Bình Nguyên Lộc và tình đất, tập truyện và tùy bút

đầu tay Hương gió Đồng Nai viết xong năm 1942 (khởi từ 1935) và tập truyện dài Phù

sa (viết năm 1942) “là những gửi gắm tâm sự của ông - ông muốn làm sống lại cuộc

Nam tiến vĩ đại của đồng bào Nam - Ngãi để mở mang bờ cõi miền lục tỉnh, qua

chuyện những người tiên phương đã khai phá làng Tân Uyên bên bờ sông Đồng Nai

cũng là quê hương của ông” (Nguyễn Vy Khanh, 2007).

Nam Bộ, vùng đất mà ông sinh trưởng, là nơi mới được khai phá từ thế kỉ XVII.

Đây là nơi có điều kiện tự nhiên và xã hội hết sức đặc biệt. Thiên nhiên Nam Bộ hoang

sơ, khắc nghiệt nhưng cũng rất màu mỡ, phì nhiêu. Địa hình vùng đất mới khá đa dạng

nhiều sông ngòi, kênh rạch. Đất thường là đất đỏ bazan, đất phù sa cổ và phù sa mới.

Vùng cũng có nhiều cù lao, dải bờ biển, vạt đất ven sông, giồng cát ven biển. Sông

ngòi, kênh rạch dày đặc. Các tiền nhân đã cần cù, kiên trì, nhẫn nại để có thể giữ rừng,

lấn biển, hạn chế xói lở, chống gió bão, chống nạn cát bay. Họ định canh, định cư rồi

canh tác và khai thác các nguồn lợi thực vật, động vật. Họ lập nên các xóm các ấp, các

làng... Hình ảnh này được tái hiện trong Rừng mắm. Ông nội với tía thằng Cộc đốt

rừng tràm lấy đất trồng lúa. Họ đổ mồ hôi nước mắt để thuần hóa vùng đất này. Họ

trở thành chủ nhân và đem theo ước mơ một tương lai tươi đẹp “ta làm ba mươi công,

và sẽ gọi dân cấy gặt ở xa tới để phụ lực... rồi thiên hạ sẽ bắt chước tràn tới đây mà

phá rừng, vùng Ô Heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu” (Bình Nguyên Lộc (tập 2),

2002). Đây là hình ảnh những con người mở đất. Thành quả của những con người tiên

phong này đem lại là sự phong phú của hệ sinh thái quần thể thực vật, động vật phong

phú “rừng tràm dày mịt, chằng chịt những dây bòng bong, dây choại bò từ thân cây

này sang thân cây khác”, “rùa nhiều như kiến. Đốt rừng rồi đón trên đầu gió một cái

30

là chúng nó lạch cạch chạy trốn, bắt không kịp lận”, “chim cao cẳng đủ loại đáp đầy

trong cỏ” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002).

Họ biết ứng phó, tận dụng và làm chủ mọi diễn biến phức tạp của thời tiết Nam

Bộ với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Cả nhà thằng Cộc (Rừng mắm) uống nước đọng trên

lung, trên rừng. Họ “đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba chơn... Trên

mỗi giá đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất mà tía nó mang từ xa về”.

Để phục vụ cuộc sống, họ trồng các loại gia vị như “Hành, ớt, rau răm, rau mồ om

được trồng trong mấy cái vườn cao cẳng đó.”. Những loại rau và vật dụng ấy lại có

lợi ích thú vị như: “món gia vị nào để ăn cá” và “Bốn miếng vườn cao cẳng và tí hon

lại là chiếc đồng hồ của nhà này vào mùa khô. Cứ xem bề dài của bóng giá là tính

giờ được ngay và khi bóng nồi tròn vụm che mất bóng giá là đúng ngọ ngay bon”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Những việc đơn giản như vậy nhưng nó đã rèn bản

lĩnh sống cho các lưu dân.

Với tác phẩm đầu tay là truyện ngắn Phù sa, ông đã ý thức việc dựng lại hình

ảnh những người phương Nam đi mở cõi. Hình ảnh này về sau còn được xuất hiện

trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của ông. Bình Nguyên Lộc viết chân thực, sinh

động về những ứng xử đầu tiên của con người với tự nhiên trong công cuộc mở đất.

Họ chiến đấu với thiên nhiên, thú dữ, muỗi mòng, rắn, đỉa... để cải tạo cuộc sống. Ô

Heo “muỗi mòng quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy” (Bình Nguyên Lộc

(tập 2), 2002). Trong cuốn tạp văn Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình

Nguyên Lộc in trên ngay trang đầu của báo Thời thế, ông có vẽ hình con nai. Đó chính

là chữ kí đặc biệt của Bình Nguyên Lộc. Đồng Nai là nơi ông có nhiều tình cảm sâu

nặng. Đồng Nai đã trở thành đề tài, nguồn cảm hứng trong các sáng tác, nghiên cứu

của ông. Bình Nguyên Lộc đã dày công sưu tầm, chú giải hàng ngàn câu ca dao, dân

ca và tập hợp trong Thổ ngơi Đồng Nai. Bài thơ Dâng má thương mở đầu đã nói lên

tình cảm, cảm xúc chân thành, cảm động về quê hương, đất nước, văn hóa dân tộc.

Từ đáy thời gian, dậy tiếng ru,

Ầu ơ lời má, giọng trầm phù.

Má ơi, hồn đất bao năm thiếp,

Bỗng chốc trưa nay vẳng, tít mù

31

... Ngược dòng năm tháng mấy dòng này,

Những áng tuyết xưa gợi lại đây

Gởi cả muôn thương cùng vạn nhớ.

Tân Uyên đất má, thảm vơi đầy.

(Bình Nguyên lộc (tập 1), 2002)

Từ xưa đến nay, các nhà văn, nhà thơ luôn nặng tình với quê hương nhưng ít ai

nặng lòng với nơi “chôn nhau cắt rún” của mình như Bình Nguyên Lộc. Dù có xa quê,

lưu lạc nơi đất khách quê người thì thường trực ở trong trái tim ông là quê hương, là

nơi lưu giữ hồn cốt. Tình cảm này thể hiện ngay ở bút danh Bình Nguyên Lộc. Nhà

văn Nam Bộ Sơn Nam đã giải thích ý nghĩa bút danh của tác giả như sau: “bình

nguyên” là cánh đồng, “lộc” là nai. “Bình Nguyên Lộc” là Đồng Nai. Tên quê hương

đã trở thành tên bút danh của chính nhà văn.

Đọc tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, người đọc như đang được sống trong không

gian văn hóa Nam Bộ xưa. Hình ảnh những con người đi mở cõi, khai phá vùng đất

tái hiện cả một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Nam Bộ là nơi cộng cư của nhiều tộc

người nên đa dạng về văn hóa. Con người Nam Bộ đến từ nhiều miền đất khác nhau.

Người Trung Hoa, Ngũ Quảng đến sinh sống lập nghiệp. Nhiều người từ trên châu thổ

sông Mekong di chuyển dần xuống vùng hạ lưu châu thổ. Người thì từ Campuchia trở

về định cư ở vùng ven biên giới... Các tộc người Việt, Hoa, Khmer, Chăm này sống

xen kẽ nhau. Họ đến vùng đất này có thể bởi nhu cầu cuộc sống cơm áo, lưu lạc tha

hương… Thời gian đầu, các tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm họ có thể chưa dung hòa

được lối sống, nếp nghĩ như chú Yều trong Lò chén chòm sao vẫn khăng khăng phân

biệt người Minh Hương với người An Nam: “Như sao được, Triều Châu khác, An

Nam khác chớ” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Thế nhưng, công cuộc khẩn hoang,

đối diện với nhiều gian truân, họ hiểu ra cần có tinh thần hợp tác, tương trợ để sinh

tồn và phát triển. Bình Nguyên Lộc thấy ở người Chăm, người Khmer, người Hoa tinh

thần hòa hợp và mong muốn lập nghiệp tại miền đất này nên họ “không nguy hại cho

an ninh và nền kinh tế của ta chút nào cả... chỉ mong được chén cơm hàng ngày”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Những người đi mở đất này vô cùng quả cảm, năng

động, kiên trì, sáng tạo… Họ quan hệ, ứng xử linh hoạt với môi trường tự nhiên, xã

32

hội, gia đình và với chính bản thân. Bình Nguyên Lộc viết về người Trung Hoa khá

nhiều như Xô ngã bức tường rêu, Lữ Bất Vi nguyên tử, Lò chén chòm sao… Các tác

phẩm của ông thể hiện tinh thần hòa hợp dân tộc, lối sống cởi mở của con người Nam

Bộ.

Trong sáng tác Bình Nguyên Lộc, những người đi mở cõi sớm tự ý thức về thân

phận mình. Họ nhận ra ý nghĩa tồn tại của bản thân. Cuộc sống ở miền đất mới hình

thành ở họ những phẩm chất, cá tính đáng quý. Họ nghèo khổ, ít học tự biết mình là

ai như con Dừa (Cây đào lộn hột) nhận thức mình là “đứa con gái xấu xí nhất xóm,

mà có lẽ xấu xí nhất nước Việt Nam” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Họ mưu sinh

cực nhọc dưới lòng cống ngầm thành phố Sài Gòn trong Người chuột cống. Ở đây đầy

những hiểm nguy mất mát, cay đắng cho thân phận chuột cống của họ. Những ám ảnh,

xót xa, bi phẫn về kiếp người của họ trăn trở trên mỗi trang văn Bình Nguyên Lộc.

Công cuộc mở cõi của họ có khi phải đánh đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt.

Nhiều khi những nhọc nhằn của cuộc sống khiến họ dễ cảm thấy nhụt chí, nản lòng.

Thằng Cộc (Rừng mắm) “thèm người vô cùng, thèm còn hơn thèm một trái xoài ngọt,

một trái khế chua mà từ năm năm nay nó không được nếm”. Nó từng muốn bỏ đi, “đi

đâu cũng được, miễn ở đó có làng xóm, có người ta” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002).

Có khi, họ mang nỗi đau phải lìa xa quê cũ. Gia đình Sáu Nhánh (Phân nửa con người)

khi ở quê nhà thì luôn cúng giỗ vào sáu giờ sáng để “khách khứa ăn giỗ xong còn ra

đồng làm lụng”. Giờ sống trên thuyền ông già anh Sáu Nhánh muốn cúng chính ngọ,

lúc “thuyền nào cũng bị kẹt tại vàm này và như thế mới có khách ” (Bình Nguyên Lộc

(tập 2), 2002). Họ sống trong nỗi sầu xa xứ, lạc loài. Người thiếu phụ trong Chiêu hồn

nước của Bình Nguyên Lộc đã trang hoàng căn buồng thuê “nào tranh gà, tranh lợn,

tranh Tàu trên vách, đặc biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên chiếc bàn con với gần

đủ đồ thờ, bình hương, độc bình, đèn, nhang” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Chị

trang trí nhà cửa, cúng kiếng để làm vơi bớt nỗi nhớ buồn xa quê, nhớ tổ tiên ông bà

và làm dịu đi cảm giác cô đơn.

Thế nhưng, vượt lên trên hết, họ có khát vọng dấn thân, chấp nhận mạo hiểm.

Người Việt vốn có xu hướng sống liên kết chặt chẽ với nhau theo quan hệ huyết thống

và quan hệ làng xã. Vì vậy, nhiều người có tâm lí an phận, ngại thay đổi, dựa dẫm, ỷ

33

lại; hay có thái độ phân biệt vùng miền... Người Nam Bộ đã khắc phục được điều này.

Đến vùng đất mới này, họ luôn có ý chí, chấp nhận dấn bước để vươn lên. Mặc dù họ

không thể quên mặc cảm lưu lạc, tha hương, sự lo lắng, bất an về tương lai nhưng họ

vẫn kiên trì, nhẫn nại xác định sứ mệnh tiên phong của mình. Gia đình thằng Cộc

(Rừng mắm) đang sống với làng cũ hàng trăm ngôi nhà, có vườn cây trái, có nước

ngọt quanh năm, nhưng một hôm gia đình bán chiếc chòi lá “…kéo nhau xuống một

chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con, rồi họ đi

lang thang từ rạch hoang vắng này đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc dừng bước nơi

cái xó không người này mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô Heo” (Bình Nguyên Lộc (tập

2), 2002). Họ cũng luôn trân quý, giữ gìn, phát huy những thành quả của ông cha. Ông

Sáu (Nỗi buồn của người sắp chết) nhắm mắt không yên vì chưa dạy được nghề đóng

cối xay cho thằng con út.

Ảnh hưởng từ nhà văn Nam Bộ Hồ Biểu Chánh, con người Nam Bộ trong sáng

tác của Bình Nguyên Lộc luôn coi trọng tình nghĩa, thẳng thắn, cương trực, quý bạn

bè, hàng xóm, khinh bọn người sống không có trước sau. Họ thường nhìn lại bản thân,

đấu tranh, tự nhận thức để hoàn thiện mình. Họ tạo nên con người Nam Bộ vừa truyền

thống vừa hiện đại. Họ có tâm hồn tinh tế, tình yêu cội nguồn. Bình Nguyên Lộc say

mê làm gã “lang thang” trên hè phố để nhìn ngắm Sài Gòn. Một Sài Gòn với những

con kênh, những chiếc ghe lênh đênh. Người Sài Gòn mê mẩn với những thức quà quê

… thân cây đều đặn, không cao lỏng khỏng như dầu, không lùn tịt như sanh, đẹp

với vỏ cây cằn cỗi gợi nhớ những cội tùng già bên chùa cổ trên một sườn non, với

rêu xanh mơn mởn bám trên vỏ sạm đen, đẹp như non bộ dày sương dạn gió, với

tàn không thưa, không sơ rơ như tàn sầu riêng, không dày mịt như măng cụt, vốn

nó đã đẹp ở ngoài thiên nhiên rồi, mà trồng trên vỉa hè đa, bên cạnh những ngôi

nhà xi măng cốt sắt, khô, nóng và buồn thì nó còn đẹp hơn biết bao.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002).

dân dã, những hàng me dọc đường phố Sài Gòn:

34

Trong cuộc sống còn nhọc nhằn, họ rất quan tâm đến niềm vui tinh thần. Họ coi việc

cất lên lời ca, tiếng hát giữa cảnh rừng âm u là không thể thiếu để họ thêm nghị lực,

sức mạnh tinh thần vượt lên khó khăn. Những câu ca giản dị, tự nhiên được cất lên từ

ông nội thằng Cộc (Rừng mắm): “Hò ơ… Rồng chầu ngoài Huế,/Ngựa tế Đồng

Nai,/Nước sông trong sao cứ chảy hoài,/ Thương người xa xứ lạc loài đến đây.”. (Bình

Nguyên Lộc (tập 3), 2002).

Nam Bộ là nơi con người sống đầy nhân nghĩa. Đó là những người tản cư về

thôn quê do chiến tranh (Đò dọc); những người có cuộc sống mưu sinh cực nhọc (Má

ơi, má!, Người chuột cống, Không một tiếng vang) nhưng giàu tình giàu nghĩa. Màu

sắc Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc còn ở việc tái hiện lại những phong

tục tập quán của người Nam Bộ (Lửa tết, Hương hành kho). Lễ hỏi, lễ cưới, lễ hội (Đò

dọc, Đồng đội)... đều được nhà văn kể lại khá tỉ mỉ đưa người đọc về hoài niệm xa xưa

mà xã hội hiện đại đã làm phôi pha dấu tích. Điều này đã tạo ra hệ “miễn dịch” trước

sự xâm lăng của văn hóa phương Tây. Người dân Nam Bộ cả đời không bước chân ra

khỏi làng dù cuộc sống nghèo khó tiêu điều, xơ xác. Họ không chịu bán ngôi nhà cổ

lấy tiền giúp đỡ con cái dù rất mực thương con (Bán ngôi nhà cổ) “Tao quyết bám níu

vào đất này, nhứt định bỏ xương ở đây, không ai xô đẩy tao đi đâu được hết” (Bình

Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Họ vẫn bám đất bám làng dù có bị mua chuộc mười ngàn

đồng (Những ngôi mả tổ) “Bà con tôi ở đây đã bảy đời rồi, mồ ông mả cha của bà con

đều nằm ở đây. Chúng tôi thương yêu cái gò cỏ cháy này quá rồi, không làm sao mà

dứt ra đi đâu được hết, cho dẫu là đi ở cách đây vài dặm hú” (Bình Nguyên Lộc (tập

2), 2002). Và dù có lưu tán, phiêu dạt ở phương nào, họ vẫn xúc động nhớ về “những

nếp nhà chứng kiến bao nước mắt, bao nụ cười của bao thế hệ trong dòng họ”, “những

con đường mòn bò quanh quẩn trong làng mà mỗi phiến đá bên lề biết kể lể một câu

chuyện đau thương hay ngồ ngộ”, “những vuông ruộng sau nhà mà nơi lưỡi cày của

tổ tiên ta đã lặn hụp từ mấy ngàn năm” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Họ chăm

những cây chanh, cây khế, cây mít, cây dừa... trồng rau răm, hành hương, ớt… để nhìn

thấy hình bóng quê hương. Họ nhớ tiếng rao quà mỗi đêm, tiếng chim kêu, tiếng

chuông chùa ngân nga; thèm hương bưởi, mùi bùn non, mùi nước mắm, đặc biệt thèm

mùi của đất, “mãnh liệt như nỗi thèm mùi khói thuốc phiện của những con thằn lằn,

35

những con chuột lắt sống trong buồng của những kẻ hút thuốc phiện... y như là đào

hát thèm và nhớ sân khấu, vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và như cá thèm và nhớ nước”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Chính ý thức sâu sắc về căn cốt, gốc rễ, quê hương

trở thành điểm tựa, sợi dây níu giữ giúp họ đủ khả năng đề kháng với sức mạnh xâm

lăng của văn hóa ngoại lai. Trong Khai từ tập sưu khảo Thổ ngơi Đồng Nai (đăng trên

tạp chí Bách Khoa, 15-1-1959), Bình Nguyên Lộc đã kí thác tâm sự: “Mùi đất nước

ruộng bùn phảng phất/ Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu/ Năm năm bao cuộc bể dâu/

Phút giây in lại như hầu hôm qua” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Bình Nguyên Lộc sống và viết chủ yếu ở giai đoạn miền Nam phải chịu những

thăng trầm lịch sử. Sau hiệp định Giơneve 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền kéo

theo sự xáo trộn về dân cư. Cuộc di dân lớn nhất vào Nam đã ảnh hưởng sâu sắc đến

nếp sinh hoạt và tư tưởng người dân. Sự dung hợp vùng miền, giao hòa, ảnh hưởng,

chuyển hóa đã làm cho đời sống của họ trở nên phong phú. Thế nhưng, sự chia cắt do

chiến tranh khiến cho nỗi nhớ quê trở thành những tâm tư trĩu nặng, day dứt khôn

nguôi trong tâm hồn họ. Mặt khác đế quốc Mĩ đã ráo riết hỗ trợ bộ máy chính quyền

Việt Nam cộng hòa từ trung ương đến địa phương. Chúng vừa kiểm soát chặt chẽ tự

do của người dân, vừa rót viện trợ ào ạt nên sinh ra sự dao động, biến chất, coi tiền là

mục đích sống của một bộ phận dân chúng. Trong bối cảnh xã hội như thế, Bình

Nguyên Lộc vẫn đứng vững qua thời đại đầy biến động. Bằng cách tái hiện con người

trong trang văn, Bình Nguyên Lộc cũng như các nhà văn khác cùng thời vừa tránh

được sự kiểm duyệt gắt gao của nhà cầm quyền vừa giúp “người Sài Gòn, người miền

Nam hiểu thêm về vùng đất mình đang sống, góp phần tạo sự gắn bó máu thịt giữa

đất và người, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và hướng về cách mạng của không ít

thanh niên trong lòng đô thị miền Nam trước giải phóng” (Sơn Nam, 2009). Các nhà

văn miền Nam thường hướng ngòi bút của mình phản ánh con người với số phận, tính

cách mang dấu ấn của một vùng văn hóa sông nước, miệt vườn, của một miền đất trẻ

trung giàu sức sống.

Giai đoạn văn học này, thị trường báo chí sôi động nên đã thu hút các nhà văn

chuyên nghiệp nhập cuộc. Đây là điều kiện thuận lợi để các tác phẩm đạt năng suất

cao và đến với rộng rãi công chúng văn học, đặc biệt vùng đô thị. Bình Nguyên Lộc

36

vào thời điểm năm 1957 cũng mỗi ngày viết đến 11 feuilleton. Chính vì sức viết như

thế nên ông có khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Ông thành công ở cả hai thể loại truyện

ngắn và tiểu thuyết. Trong các sáng tác, ông lấy cảm hứng chủ đạo là vẻ đẹp của thiên

nhiên, con người Nam Bộ với tình cảm yêu mến chân thành. Nhà văn tìm về với đặc

điểm địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, nếp nghĩ của quê hương, đất nước. Ông viết

về những con người trong cơn biến động lịch sử ấy tuy có đau đớn, bi phẫn, mất mát,

vất vả, nhọc nhằn nhưng họ vẫn hoài vọng quá khứ mở đất oai hùng của cha ông; vẫn

cố gắng gìn giữ những thành quả mà tiền nhân đã dựng xây; vẫn sống với những nếp

sống, phong tục, tập quán nghìn đời; vẫn mang trong mình niềm tin vào tương lai của

dân tộc. Người ta ví ông như chuyến “Đò dọc” chở nặng nghĩa tình với quê hương,

đất nước. Bình Nguyên Lộc không chỉ là nhà văn viết nhiều, viết nhanh, với khối

lượng đồ sộ sáng tác của mình mà quan trọng hơn còn là một cây bút Nam Bộ thuần

chất, đã “gắn sinh mệnh tác phẩm văn chương của mình đối với đất nước, non sông”.

Trong các sáng tác của mình, ông đã gửi cả “muôn thương cùng vạn nhớ” trong đó.

Mảnh đất miền Nam cũng là nơi sản sinh ra nhiều nhà văn tên tuổi, từ những

“khai quốc công thần” như: Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh

Chiếu... đến những tác giả như Hồ Biểu Chánh, Đông Hồ, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc,

Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng... được giới nghiên cứu văn học quan tâm

và xuất hiện trong nhiều công trình văn học sử. Thành tựu của văn xuôi quốc ngữ Nam

Bộ đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng đến quan niệm nghệ thuật của các thế hệ nhà văn sau

1945 như Trần Bạch Đằng, Lý Văn Sâm, Sơn Nam, trong đó có cả Bình Nguyên Lộc.

Họ có nội lực văn chương sung mãn, tình yêu, sự am hiểu, cái nhìn đa diện về thiên

nhiên, con người miền đất Nam Bộ này. Họ vừa tiếp nối, vừa cách tân để tạo ra một

diện mạo mới cho văn học Nam Bộ sau 1945.

Bình Nguyên Lộc luôn trăn trở về “nguồn cội”. Vì thế, trong sự nghiệp sáng

tác, văn phong của ông có nhiều màu sắc biên khảo và những khía cạnh lịch sử, văn

hóa được ưu tiên khám phá. Qua bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống ở Nam

Bộ này dường như cảm thấy chính Bình Nguyên Lộc là người trong cuộc mở đất ấy.

Từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, cho đến các công trình nghiên cứu, người đọc đều

cảm nhận được tấm lòng sâu nặng của ông dành cho quê hương, dân tộc. Dẫu có xa

37

quê hương, xa đất nước, xa những người thân yêu, Bình Nguyên Lộc vẫn luôn là con

đò dọc hướng về nguồn cội. Ông luôn mong muốn tìm về với quê hương, với nơi ông

từng gắn bó sâu nặng, nghĩa tình. Ngòi bút của ông là sự kết tinh văn hóa Nam Bộ,

văn hóa của những thế hệ người đi khai khẩn, mở mang, đã gìn giữ và phát triển miền

đất mới ngày một tươi đẹp, trù phú. Cuộc đời và văn nghiệp của Bình Nguyên Lộc

như một huyền thoại nhưng điều khiến Bình Nguyên Lộc trở thành nhà văn lớn nhất

đất Nam Bộ còn là ở nhân cách của ông.

Tiểu kết

Văn hóa giữ một vai trò quan trọng trong đời sống, bao trùm mọi mặt từ đời

sống vật chất đến đời sống tinh thần. Nghiên cứu văn hóa hiện đang được các nhà

nghiên cứu quan tâm từ thế kỉ XIX trở lại đây. Trong đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa

văn hóa và văn học cũng là xu hướng phổ biến trong nghiên cứu phê bình văn học.

Văn học và văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Văn hóa dân gian

nằm trong văn hóa và chính là văn hóa “cội nguồn”. Vì vậy, văn hóa dân gian giữ vai

trò nền tảng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân gian

có sự tác động mạnh mẽ đến văn học và văn học cũng tác động trở lại đối với văn hóa

dân gian. Điều này làm cho nền văn hóa “mẹ” phát huy và tỏ rõ tính năng động của

mình. Văn hóa dân gian làm cho văn học vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa kế thừa,

vừa phát huy tạo nên bức tranh đa màu sắc của văn học dân tộc. Như vậy, văn học,

văn hóa dân gian có mối quan hệ tác động, ảnh hưởng và tương tác nhau làm cho văn

học, văn hóa dân gian trở nên sâu sắc, toàn diện và sinh động.

Trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, nhiều tác giả có phong cách sáng tác mang

đậm chất văn hóa dân gian. Bình Nguyên Lộc là một tác giả Nam Bộ mà dấu ấn dân

gian in đậm trên những trang văn. Sống vào giai đoạn những cơn biến động của lịch

sử, ông đã gửi gắm vào các sáng tác của mình tất cả tình yêu thương nồng nàn với bản

quán, với những con người tình nghĩa, với cội nguồn dân tộc. Những “muôn thương

cùng vạn nhớ” ông “Ký thác” vào khối lượng sáng tác đồ sộ của mình. Tác phẩm của

ông là bức tranh sống động về thiên nhiên, cuộc sống con người ở Nam Bộ. Các yếu

tố văn hóa dân gian của tác giả “Cuống rún chưa lìa” trở đi trở lại trong tác phẩm trở

thành niềm cảm hứng và đặc điểm văn phong của ông. Với những đóng góp về khối

38

lượng và chất lượng, các sáng tác của nhà văn Nam Bộ này xứng đáng để chúng ta

nghiên cứu sâu rộng hơn nữa.

Chương 2. YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG SÁNG

TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

Về với văn hóa dân gian là sự trở về với cội nguồn của dân tộc, trở về với truyền

thống hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông. Nơi chúng ta đã sinh ra

và lớn lên từ những lời ru của mẹ, câu chuyện cổ tích của bà. Nơi mà những phong tục

tập quán, tín ngưỡng, tri thức… của dân gian đã ăn sâu trong đời sống tinh thần, trong

nếp sống nếp nghĩ ngàn đời của những người con đất Việt.

Tình yêu quê hương, yêu bản quán dường như trở thành nỗi niềm trăn trở, day

dứt của biết bao thế hệ cầm bút trong những biến thiên của lịch sử dân tộc. Cơn biến

động dữ dội của miền Nam Việt Nam, một miền đất mới của sự cộng sinh nhiều tộc

người với cuộc di dân lớn trong lịch sử, đã làm cho nhà văn của “Cuống rún chưa lìa”

khắc khoải tìm về với cội nguồn dân tộc. Sự xuất hiện phong phú với tần suất nhiều

các yếu tố văn hóa dân gian trên trang văn của Bình Nguyên Lộc là cách nhà văn “gửi

cả muôn thương cùng vạn nhớ” đến mảnh đất quê hương yêu dấu của mình.

2.1. Phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian

2.1.1. Phong tục tập quán dân gian

Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã viết:

39

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

(Nguyễn Trãi)

Đây là lời Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam

dựa trên các mặt như văn hiến, ranh giới lãnh thổ, phong tục vùng miền… Một trong

những yếu tố quan trọng được nhắc tới để phân định ranh giới các quốc gia dân tộc

với nhau đó chính là phong tục tập quán. Phong tục tập quán là phạm trù dùng để chỉ

những thói quen trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của con người. Thói quen này

mang những nét đặc trưng của một vùng miền, địa phương, dân tộc, đất nước được

hình thành từ các điều kiện về địa lý tự nhiên, lịch sử, văn hóa, kinh tế… Ngay trong

một đất nước, mỗi vùng miền cũng có phong tục riêng làm nên bức tranh đời sống đa

dạng, phong phú, độc đáo. Khi nói đến nền văn hóa của một quốc gia, một dân tộc,

người ta thường hay nói đến phong tục tập quán. Phong tục tập quán là những thói

quen, có những thói quen từ lâu đời đến thói quen mới hình thành, nên nó rất gần gũi

với tất cả mọi người, mọi thế hệ. Phong tục tập quán chi phối nhiều mặt của đời sống

như lao động, sinh hoạt, tín ngưỡng. Và khi trở thành phong tục tập quán, nó trở nên

bền vững.

Phong tục tập quán tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Lê Nguyên Cẩn từng khẳng

định nếu chúng ta “…đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc đồng nghĩa với việc đánh

mất hay thủ tiêu dân tộc, thủ tiêu cộng đồng” (Lê Nguyên Cẩn, 2014). Vì thế, phong

tục là cái cần bảo vệ, gìn giữ, phát huy. Người xưa thường nói “phép vua thua lệ làng”

cũng bởi một phần phong tục tập quán đã trở thành thói quen trong cách hành xử của

con người và họ thường làm theo. Tuy nhiên, phong tục tập quán cũng như một thực

thể sống. Huỳnh Như Phương trong Văn học và văn hóa truyền thống đã nhấn mạnh

“Trong cấu trúc văn hóa, phong tục là yếu tố thường xuyên biến đổi. Phong tục quy

định cách ứng xử của con người nhưng chính con người lại làm ra phong tục”. Phong

tục không đứng yên mà luôn vận động, thay đổi theo thời gian, theo từng thời kì lịch

sử, các điều kiện sống, tâm lí, quá trình giao lưu hội nhập văn hóa của con người có

40

sự thay đổi. Phong tục tập quán cùng với tiến trình lịch sử sẽ vừa loại bỏ cái không

phù hợp, kế thừa những cái tốt đẹp, vừa phát huy và hình thành thói quen mới phù

hợp với thời đại. Trong quá trình ấy, cái gì là hủ tục thì sẽ loại bỏ, cái gì là thuần phong

mĩ tục thì sẽ giữ gìn, bổ sung thêm. Phong tục rất phong phú và đa dạng. Việt Nam có

54 dân tộc anh em. Mỗi cộng đồng dân tộc mang trong mình bản sắc văn hóa vừa

chung vừa riêng tạo nên sự đa dạng cho bản màu văn hóa dân tộc Việt. Các nhà nghiên

cứu đã đưa ra một số cách phân loại cơ bản về phong tục trong các lĩnh vực như sau:

lao động, nghề nghiệp, sinh hoạt, hoạt động xã hội, tín ngưỡng… Phong tục tập quán

thể hiện tín ngưỡng và quan niệm sống của nhân dân ta trong quá trình sống và lao

động sản xuất.

Phong tục tập quán của Nam Bộ được Bình Nguyên Lộc khám phá nhiều mặt

trong các tác phẩm. Các phong tục tập quán như cưới hỏi, Tết, giỗ, cúng rằm, phong

tục gia đình, sinh hoạt làng xã, tập quán vùng miền… được ông thể hiện chân thực,

sinh động. Chính vì lẽ này, các tác phẩm truyện của ông được xem như truyện phong

tục. Yếu tố phong tục tập quán trong tác phẩm đã tạo nên không gian văn hóa Nam Bộ

- nơi lưu dấu thời gian và nếp sinh hoạt, thói quen của nhân dân.

Tục cưới hỏi là nét đẹp trong văn hóa của người Việt. Người Việt rất quan

trọng chuyện cưới hỏi vì đây là một trong ba điều hệ trọng của một đời người “Tậu

trâu, cưới vợ, làm nhà”. Tùy vào tập quán của từng vùng miền mà cách thức tổ chức

vừa mang nét chung vừa mang đặc trưng riêng. Trong tác phẩm Đò dọc, gia đình ông

Nam Thành có bốn cô con gái là Hương, Hồng, Hoa và Quá. Từ ngày gia đình ông

chuyển về Thủ Đức, cuộc sống nông thôn buồn tẻ, thiếu điều kiện giao tiếp khiến bốn

cô con gái có khả năng ế chồng. Ông đã nhờ Bằng làm mai mối cho Quá, đứa con út

của ông, bởi ông nghĩ dù sao Quá cũng trẻ nhất và dễ lấy chồng hơn. Tục cưới hỏi

trong Đò dọc chỉ đề cập đến lễ dạm ngõ của hai bên gia đình còn lễ cưới chỉ được nhắc

qua. Tuy nhiên, lễ dạm ngõ này được chia làm hai bước. Bước một là nhà trai đến xem

mắt và đặt vấn đề. Đoàn Văn Cừ trong bài Tục làng cũng đã miêu tả cảnh này: “Nhà

có con trai mới vấn danh/Sang chơi nhà gái kết thân tình”. Lần đầu đến chạm ngõ,

bên nhà trai có “Một ông cụ râu bạc trắng, một cụ nữa cao niên hơn ông Nam Thành

lối năm bảy tuổi, và một bà cụ trạc tuổi bà Nam Thành”. Trong lần này họ chỉ “đánh

41

tiếng”, “làm quen” và “xem mắt” cô gái. Bà Nam Thành chủ động gọi Quá “đem nước”,

“thêm vôi” và hỏi con “gà nuôi” có số lượng nhiêu để khách có dịp quan sát Quá.

Chuyện coi mắt này được mấy cô vui miệng ví như “Các chú lái đi coi heo”. Tuy

nhiên, trong lời nói này hàm chứa sự mỉa mai, tủi phận của họ. Lần gặp đầu tiên này

cũng kéo khá dài “Khách ra về thì đồng hồ đã điểm mười hai giờ trưa. Ớn chưa cho

sự kéo dài của cuộc thăm viếng đầu! Hèn chi lời tục bảo “cà kê, dê ngỗng, như nói

chuyện làm sui”. Bước kế tiếp, gia đình đi xem mắt đến lần hai. Lần này đôi bạn sẽ

được gặp nhau, trò chuyện tìm hiểu. Lễ cưới được tổ chức sau đó một thời gian khi

Quá trải qua biến cố. Qua tục lệ này, tác giả có đề cập đến quan niệm của ông cha ta

trong việc dựng vợ gã chồng như “con nhà đồng địa vị”, “con gái chỉ nên để ý đến tài

đức con trai” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002). Như vậy, nghi thức dạm ngõ tuy đơn

giản nhưng hai bên gia đình chuẩn bị và tiến hành khá chu đáo. Điều này vừa thể hiện

hoàn cảnh sống của gia đình ông Nam Thành lúc bấy giờ, vừa thể hiện hiểu biết về tập

tục cưới hỏi truyền thống của nhân dân ta.

Phong tục trong dịp Tết, rằm hay giỗ đều là phong tục truyền thống lâu đời của

dân tộc Việt. Tết là thời điểm đặc biệt trong năm, kết thúc năm cũ mở ra năm mới với

nhiều hi vọng, mong mỏi. Kiều Thu Hoạch trong Văn hóa dân người Việt góc nhìn so

sánh đã khẳng định “Tết Việt là hồn Việt” (Kiều Thu Hoạch, 2014). Trong Quyển gia

phổ, gia đình Tồn vẫn giữ truyền thống của Tết xưa như dựng nêu, lên bùa để trừ tà

ma và gói bánh chưng ngày tết. Kiều Thu Hoạch cũng đã đề cập phong tục truyền

thống người Việt này như sau:

trên có treo lá dứa, cành đa và mấy cái khánh bằng đất nung để khi gió thổi

có tiếng kêu lanh canh. Dân gian có câu hát:

Cành đa lá dứa treo nêu

Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà

Quỷ vào thì quỷ lại ra

Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm…

Ngày 30 Tết, ở Việt Nam có tục trồng nêu. Nêu là một cây tre dài có cả ngọn,

42

(Kiều Thu Hoạch, 2014)

Cây nêu được biết đến từ câu chuyện cổ tích Sự tích cây nêu. Trong truyện, con

người đã khôn ngoan và nhạy bén đẩy lùi lũ quỷ để có đất canh tác, sinh sống. Tục

trồng nêu có lẽ bắt nguồn từ việc trừ khử tà ma, xua đuổi quỷ dữ. Trên cây nêu thường

hay treo nhiều bùa, chuông hay khánh để phát ra âm thanh. Cây nêu thường được dân

ta trồng vào ngày cuối năm. Gia đình Tồn vẫn giữ nếp cũ trồng nêu ngày Tết vì đó là

điều linh thiêng mà họ tin sẽ giúp trừ tà và đem lại cuộc sống may mắn. Gia đình Tồn

cũng giữ lại tục gói bánh chưng của người miền Bắc trong khi người miền Nam thì gói

bánh tét. Chiếc bánh hình vuông biểu tượng cho đất đai mùa màng bội thu gợi nhắc

nhớ đến vua Hùng và sự tích bánh chưng bánh dầy của dân tộc Việt. Câu đối dân gian

mà người hàng xóm ngâm nga khi qua nhà Tồn, để gửi vào nồi nấu mấy đòn bánh tét,

đã thể hiện truyền thống lâu đời của dân tộc trong mấy ngày Tết: “Thịt mỡ, dưa hành,

câu đối đỏ/ Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Đây là những món ăn, và những

tục lệ trong ngày Tết. Trong tâm thức người Việt thì đêm ba mươi tết là đêm được

mong chờ nhất trong năm. Vào những đêm này, mọi người luôn tập trung ở nhà bếp,

vì nơi đây nhen nhúm lửa cả ngày lẫn đêm. Bên nồi bánh chưng sôi sùng sục, họ “tống

cựu nghinh tân”, họ tâm sự, chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, công việc thường

nhật. Anh Thơ trong Đêm ba mươi tết cũng đã miêu tả sinh động không khí chào đón

giao thừa “Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục/ Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn/

Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nhức/ Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm” (thivien.net).

Trong một tác phẩm khác của Bình Nguyên Lộc, ông cũng nhắc đến vai trò của lửa

…thí dụ như lửa Tết, lửa đêm ba mươi nấu bánh tét, quanh lò lửa lớn ấy có mặt

đông đủ cả nhà, ai đi mần ăn xa ở đâu, cũng phải về, đông đủ cả nhà mà đôi khi

đông đủ cả họ nữa, vì có những bà con nghèo, không gia đình, không nhà cửa, họ

xin hưởng ké sự ấm cúng của bất cứ người nào trong họ mà có được một bếp

lửa….Cả nhà họp mặt đông đủ thì vui, nấu nướng suốt đêm các món ăn ngon, kể

cho nhau nghe chuyện mần ăn của mình ở xa, nhắc lại chuyện ăn Tết ngày xưa

của ông bà tổ tiên. Đêm cuối năm gió lạnh lắm, mà quây quần quanh bếp lửa, ấm

Tết:

43

ghê đi. Nhà có nhúm lửa, nghe như là sung túc, mà nhúm những bếp lửa lớn, nghe

càng sung túc hơn. Đó rồi thì ngày mai lại, lửa cháy trong bếp suốt ba ngày ba

đêm, không được hạ ngọn phút nào hết, cho nó vui. Ở làng, người ta cất nhà lớn,

nhưng cả nhà đều ở sau bếp, không phải sợ nhà trên mòn mà không dám ở, mà vì

nhà bếp vui hơn, mà vui hơn là nhờ lửa.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Bếp lửa ngày Tết trở thành nơi hội ngộ, đoàn viên, nơi ngọn lửa cháy suốt ngày

đêm mang lại ấm áp, hạnh phúc, vui tươi... Có thể vì thế mà lửa trở thành biểu tượng

của cổ mẫu gắn liền với tâm thức cội nguồn và xuất hiện trong nhiều sáng tác văn học

như Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp… Chính vì nếp

sống còn giữ nguyên bản sắc truyền thống dân tộc của gia đình Tồn nên bác Thụ

thường đến nhà anh để có thể hưởng không khí Tết “Ăn Tết trong gia đình này, tôi

thấy như về về gần quê tôi hơn là ăn Tết trong bất kỳ gia đình nào khác ở đây” (Bình

Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Điều này còn giúp những người con xa quê hương vơi đi

cảm thức lưu lạc. Giao thừa, gia đình Tồn cũng làm “một cỗ nhỏ” cúng tổ tiên, ông bà

để tổ tiên, ông bà chứng giám, phù hộ cho lòng thành tâm của con, cháu. Bàn thờ gia

tiên quyện trong hương khói, lời khấn nguyện cầu thành tâm hi vọng cho một năm sau

tốt đẹp hơn trở nên thiêng liêng thành kính. Trong tác phẩm Bảo mật, tác giả có nhắc

đến tục cúng rằm tháng bảy của dân làng Bình Thới. Theo truyền thống của dân tộc

Việt Nam thì rằm tháng bảy là một trong những rằm lớn trong năm. Đây còn là ngày

lễ Vu lan báo hiếu. Vào ngày này, tục lệ của dân làng Bình Thới là “Sáng cúng mặn,

tối cúng chè”. Điểm đặc biệt của món chè ở đây là nấu bằng đường phổi, món đường

thuộc về gia truyền và được dân làng “bảo mật” rất kỹ.

Thờ cúng là tập tục, là ứng xử văn hóa có từ lâu đời và rất bền vững. Dân tộc

Việt Nam rất coi trọng việc thờ cúng nhất là các ngày giỗ ông bà. Đây là sự kết nối

các thế hệ và sự tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên của mình. Dân ta thường

nói “Con cháu được ngày giỗ ông” nên giỗ thường cúng lớn và “mâm cao cỗ đầy”.

Tuy nhiên, cúng lớn nhưng không mang ý nghĩa phô trương mà là lòng thành của con

cháu và là dịp thắt chặt nghĩa xóm tình làng. Ông già của anh Sáu Nhánh (Phân nửa

44

con người) dù cuộc sống còn chật hẹp, vẫn làm “bữa giỗ to” để mời các ghe hàng xóm

sang dự. Ông cụ thấy niềm vui và hạnh phúc và ông chỉ ngồi “chấm mút” bởi “Ông đã

no tới cổ, no hạnh phúc được ngửi mùi đất liền qua cái bữa cỗ gợi nhớ làng mạc này”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Cảnh mọi người bên nhau vui vẻ trong ngày giỗ của

những người sống trên ghe đã gợi lại không khí thôn quê, nhắc nhớ quê hương và làm

thắm tình hàng xóm. Cảnh này cũng giúp ông cụ thấy an ủi phần nào cho cuộc sống

lưu lạc của mình. Còn trong gia đình ông Nam Thành (Đò dọc), cuộc sống có thay đổi

như thế nào đi nữa thì việc cúng giỗ vẫn được giữ gìn, tiếp nối. Mặc dù mới đến, giao

thiệp chưa rộng, hàng xóm chưa biết nhiều nhưng bà Nam Thành vẫn muốn mâm cỗ

ngày giỗ chỉnh chu, tươm tất như khi còn ở quê. Món ăn truyền thống vào ngày giỗ

được làm là bánh tét và bánh ít, đúng kiểu cách của dân miền Nam. Để con không

quên tục cúng giỗ, bà Nam Thành yêu cầu các cô con gái “làm bánh trái lu bù”. Bà

muốn “cho con nó học” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002) để không quên truyền thống

của gia đình, quê hương. Bình Nguyên Lộc cũng viết về phong tục cúng giỗ của cả

một dòng tộc. Gia tộc họ Tôn (Tre phải tàn) mỗi khi cúng giỗ thì con cháu trong chi

chính phải tề tựu đông đủ. Trong nhà có trưởng tộc, đây thường là người cao niên nhất

và có uy quyền nhất trong tộc. Sau trưởng tộc là ông Cả rồi tới các cấp bậc phía dưới.

Mỗi lần cúng giỗ là gia tộc bốn thế hệ con cháu có mặt đông đủ. Họ thấy đó là trách

nhiệm đối với dòng họ và tự hào vì truyền thống cũng như bề dày của gia tộc “Cánh

họ Tôn này rất quý trọng sự lâu đời của nhà họ và cố giữ trọn truyền thống cũ đã có

cớ mà tự hào. Thành ra ngày giỗ nào con cháu cũng tựu về đông đúc như vậy cả”

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Phong tục tập quán thể hiện không chỉ ở những bữa giỗ, những ngày cúng rằm,

ngày Tết…mà còn ngay trong nếp nhà. Nếp nhà là cái họ luôn muốn duy trì. Đó là

“nói chuyện sau bữa cơm… nhất là những buổi cơm đêm, dưới đèn, quanh bếp lửa”

vì bữa cơm gia đình là nơi gắn kết các thế hệ (Tì vết tâm linh). Đó là hình ảnh bếp lửa

luôn nóng ấm “nhà mà có nhúm lửa, nghe như là sung túc” để giữ không khí gia đình

luôn ấm cúng (Lửa Tết). Họ muốn con cháu đời sau có thể tiếp nối nghề gia truyền của

dòng họ. Trong Nỗi buồn của người sắp chết, ông Sáu muốn con mình, thằng út, nối

tiếp nghề đóng cối xay của gia đình. Thế nhưng, con ông lại thờ ơ nên ông rất đau

45

buồn vì điều này. Ông Hương Quản (Bảo mật) vì không muốn nghề gia truyền làm

đường phổi bị lọt ra ngoài, không muốn con gái trốn theo bạn trai, đã tự tay làm xấu

đi nhan sắc của con gái mình. Đây có thể là hành động cực đoan và còn mang tư tưởng

cổ hủ nhưng cốt lõi là do văn hóa làng nghề đã ăn sâu vào suy nghĩ của họ. Việt Nam

là một nước nông nghiệp. Chính vì thế, đặc tính của nền văn hóa nông nghiệp là lấy

gia tộc làm cơ sở nền tảng. Ông nội thằng Cộc (Rừng mắm) xuống U Minh khai phá

đất để sinh sống và coi trách nhiệm của người đi tiên phương là gầy dựng cho đời con

cháu đời sau. Ông nói “Tổ tiên ta ngày xưa từ miền Trung tràn vào đây đều chịu số

phận của cây mắm cả, từ xứ Đồng Nai nước ngọt tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả. Họ

đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc này để lót đường cho con cháu” (Bình

Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Sự hy sinh của cha mẹ, ông bà dành cho con cái là truyền

thống của dân tộc Việt Nam. Các thế hệ con cháu cũng phải có trách nhiệm “Gánh vác

phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu chuyện mai sau” (Nguyễn Khoa Điềm).

Gia đình còn là cái nôi nuôi dưỡng và nơi con người thấy hạnh phúc khi trở về. Kẹo

trong Lại mẹ tôi tái giá vì giận mẹ tái giá nên bỏ nhà đi lang thang khắp nơi. Cảnh ngộ

đói khổ, tù tội và trải nghiệm từ cuộc sống bên ngoài đã làm Kẹo thấy giá trị của gia

đình, tình thương của mẹ và thấu hiểu cho mẹ mình. Con Nhộng (Má ơi, má!) coi má

nó là tất cả. Vì vậy, nó tuy mù nhưng vẫn đi trèo cau để đổi chút gạo lo cho má nó.

Ngay đến khi nó chết, vì bị rơi từ trên cây cau xuống, nó vẫn gọi tên má nó trong sự

lo lắng, yêu thương.

Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ phong tục, tập quán. Đây còn là nơi lưu giữ

lịch sử đời người, gia đình, dòng tộc. Gia đình Tồn (Quyển gia phổ) còn lưu giữ quyển

sổ “ghi chép dòng họ cổ nhất miền Nam”. Dòng họ Tôn (Tre phải tàn) thì ghi gia phả

mười hai đời. Đây là cách họ tự hào về truyền thống gia đình, về dòng họ lâu đời có

bề dày lịch sử. Con người gắn bó với gia đình bởi gia đình là cội nguồn, là điểm tựa

tinh thần trong cuộc sống nhiều ồn ào, xô bồ:

hệ trong dòng họ ta, những nếp nhà mà mỗi món đồ (từ thếp đèn xưa gây chơn,

đến cây ngạch của mòn lẵn dưới bàn chơn của những người thân yêu) đều là bầu

bạn của ngày buồn lẫn ngày vui của ta... Phải có những vuông ruộng sau nhà mà

nơi đỏ lưỡi cày của tổ tiên ta đã lặn hụp từ mấy nghìn năm. Phải có gương mặt

… Phải có những nếp nhà đã chứng kiến bao nước mắt, bao nụ cười của bao thế

46

một từ lâu nghiêng xuống bên tai ta mà rót vào đỏ những câu ru ta không hiểu

mà ta thích nghe. Hoặc nhỏ to kể những câu chuyện đời xưa cảm động hay hãi

hùng. Phải có những cái ấy. Chúng lẩn lút trong người ta, ràng buộc ta mãi mãi

với quê hương. Khi, vì nghịch cảnh, lòng tin ta bị lung lay tận gốc, ta nghiêng

mình xuống đáy lòng múc đầy hy vọng và sức mạnh mới.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Những nếp nhà, những vuông ruộng, những lời ru, những câu chuyện… trở

thành những kỉ niệm nhắc nhớ. Họ bỗng “thèm thuồng” những gì gắn với kí ức của

họ. Nó trở thành niềm tin, hi vọng để những đứa con của đất mẹ đi xa mấy vẫn khao

khát trở về.

Miền Nam Việt Nam giai đoạn này đang có nhiều xáo trộn về chính trị. Cơ cấu

kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi. Nếp sinh hoạt, tập quán cũ thay đổi. Con người dễ

rơi vào trạng thái bơ vơ, thiếu điểm tựa tinh thần. Bức tranh đô thị miền Nam với

những biến động dữ dội về hệ giá trị đạo đức được phản ánh chân thực trong sáng tác

của Túy Hồng như Những sợi sắc không, trong sáng tác của Minh Đức Hoài Trinh như

Sám hối. Họ là những nhân vật nổi loạn, đi ngược lại nền tảng đạo đức xã hội, của quan

niệm thuần phong mỹ tục. Sự va chạm của văn hóa phương Đông với văn hóa phương

Tây khiến nhiều người băn khoăn, lo lắng. Chính vì thế trong tâm thức của họ luôn

hướng về gia đình, quê hương, cội nguồn. Hoàng (Đất không chết) sẵn sàng bỏ phố về

nhà, về với ký ức tuổi thơ và gia đình. Bà Hai (Bán ngôi nhà cổ) kiên quyết giữ lại ngôi

nhà không chịu bán vì có kỷ niệm và linh hồn người thân. Những người dân xóm Sỏi

(Những ngôi mả cổ) nghèo khó nhưng không chịu bán mảnh đất vì ở đó có những ngôi

mả tổ của dòng họ. Trong bối cảnh xã hội phức tạp và nhiều biến động, bất an thì chỗ

dựa tinh thần để tìm về chính là gia đình.

Miền Nam sau 1954 có nhiều thay đổi xáo trộn trong đời sống văn hóa. Con

người vì thế hay tìm về với những đặc điểm địa lý, lịch sử, phong tục. Tác giả đã đưa

người đọc tới nơi có các làng mạc, hẻo lánh, hoang sơ như Những ngôi mả tổ, Hai buổi

giậm cù; tới nơi có núi thấp, gò đồi như Bám níu, Bà mọi hú; nơi có sông nước, kênh

47

rạch như Câu dầm, Thí một con tốt hốt một con xe, Phân nửa con người, Không một

tiếng vang, Lại mẹ tôi tái giá…; có rừng rậm hoang vu như Rừng mắm, Mẹ tôi tái giá.

Trong đó, các tác phẩm viết về sông nước khá nhiều bởi đây là đặc điểm địa lý tự nhiên

của vùng đất Nam Bộ. Đặc điểm vùng đất sẽ hình thành các nếp sinh hoạt, nếp sống,

tập quán canh tác, giữ gìn làng nghề truyền thống. Các tục lệ như dân được ghi tên

tráng đinh vào trong sổ của làng (Tiếng vang trễ muộn); người chết thì sẽ thuê người

khóc đám ma (Bí mật của chàng); sinh nở thì có bà mụ vườn (Má ơi, má!, Lương tâm

kẻ trộm). Trong Đò dọc, nhiều tục lệ được đề cập. Đặt tên con cũng phải có luật lệ.

Tên con đặt liền với tên cha như “…cha tên Sang thì con phải tên Trọng, cha tên Phú

thì con phải tên Quí, cha tên Sâm thì con phải tên Nhung”; hoặc đặt tên liền nhau như

“…bốn đứa thì đặt: Nết, Na, Đằm, Thắm; Năm đứa thì đặt: Cửu, Hạn, Phùng, Cam,

Võ”. Đây là cách đặt tên khá “ngộ nghĩnh” của người miền Nam. Hàng xóm láng giềng

thì phải “có nhậu” mới dễ đi tới đi lui. Bình Nguyên Lộc cũng giúp người đọc phân

biệt cách gọi như miền Bắc gọi con đầu là con cả, miền Nam gọi con đầu là chị hai.

Chàng hiu thì hay nhảy lên cổ và miền Bắc gọi nó là chẫu chuộc. Khi chuyển từ Sài

Gòn về Thủ Đức, gia đình ông Nam Thành cũng hiểu nếp sống nông thôn nên “cả nhà

gom y phục trắng và màu để nhuộm đen”; bà Nam Thành chỉ con cách kéo nước ở

giếng “cầm dây mà thòng xuống lần lần”; các cô con gái ông Nam Thành hay vào làng

chơi để làm quen mọi người và tổ chức chơi trò chơi, hát hợp ca để cho hàng xóm đến

cho đông vui…(Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002).

Đặc biệt, văn hóa làng xã hiện lên sinh động trong lời chửi của người bình dân

mỗi khi xảy ra việc mất mát trong nhà hay mâu thuẫn, tranh chấp. Lời chửi rất sinh

động, rất logic, thâm thúy và khá dài. Hàng xóm nghe chửi cũng được bữa đinh tai

nhức óc. Thế nhưng, họ ít can thiệp hay càu nhàu hàng xóm vì họ thông cảm cho những

mất mát đó. Mợ Tư trong Ma ném đá rất bức xúc khi có kẻ lén lút ném đá lên ngói nhà

mình khiến mọi người trong làng hoang mang và làm hư hỏng ngói nhà của chị. Lời

Mẹ tiên nhơn cha, dòng họ cha nó! Đẻ con hổng biết dạy thì đóng trang mà thờ…

Tiên tằng cố tổ bà nội cha bây, ăn no rồi ở không phá làng phá xóm! Mai này bây

chửi của chị rất có thứ tự từ “cha, dòng họ cha” mới đến “tiên tằng cố tổ bà nội cha”:

48

rước ông bà bây về, tao còn chưởi nữa, tao chưởi cho ông bà bây ngồi không yên

trên bàn thờ…

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Thím Tư trong Đò dọc khi bị mất trộm gà cũng làm một bài chửi rất văn vẻ và

dài. Sau khi “tằng hắng” vài tiếng như khởi động, một bài tuôn ra như một bản ghi âm

Xóm trên, xóm dưới, xóm ngoài, xóm trong, mở lỗ tai mà nghe đây nè: Gà của

tao còn ràng ràng hồi trưa, mà quân nào đã ăn tươi nuốt sống rồi… Mẹ! Giường

thờ chiếu trải chân cha bây, bây có thèm thịt và cá thì nuôi lấy mà ăn, chớ chi

như vầy, ông bà ông vãi bây ngồi trên giường thờ sao cho yên nè!... Mẹ! Cao tằng

cố tổ tiên nhơn cha bây, cả họ mẹ bây, rán mà ngoái lỗ tai để nghe tao chửi…

Quân tham lam bây ăn thịt gà mắc xương nghẹt họng bây, bây ăn rồi bây ngã ra

giãy tê tê rồi chết toi, chết dịch.

(Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002)

có sẵn phát ra “thao thao bất tuyệt”:

Qua ngôn ngữ chửi của người bình dân, người đọc thấy một vốn văn hóa sinh

động, đa dạng, gần gũi. Bình Nguyên Lộc đã tái hiện trên trang văn của ông sự đa dạng

trong phong tục của dân tộc. Lời mắng vốn của người bình dân tuy có tính “ngoa

ngoắt” nhưng không có tính tục. Đây chỉ là cách giải tỏa những uất ức của đời sống

lao động nghèo khổ, cơ cực. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến thói la làng của người

bình dân. Mẹ Kẹo (Lại mẹ tôi tái giá) rượt theo Kẹo la làng để nó sợ mà lên ghe về.

Bình Nguyên Lộc đã lồng vào câu chuyện lời nhận xét về thói quen này của người

bình dân và tâm lý khi họ rơi vào tình thế như vậy: “La làng là lối kêu cứu ở thôn quê

và mẹo làm to chuyện mỗi khi muốn dư luận đả đảo ai. La làng làm người bị la sợ. Đó

là nỗi sợ di truyền của nông dân lương thiện. Họ sẽ xuống nước đầu hàng ngay.”

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Không chỉ đi vào khai thác lối sống, sinh hoạt của người bình dân, Bình Nguyên

Lộc còn cho ta thấy phong tục của làng nghề truyền thống. Trong Bảo mật, để giữ bí

mật nghề làm đường phổi của làng, trai làng này thì không được cưới gái làng khác.

49

Gái trong làng cũng không được lấy chồng xa để giữ bí mật của nghề. Các tập quán

canh tác vùng miền cũng được nhà văn chú ý. Bình Nguyên Lộc ít miêu tả các vườn

cây trái như nhiều nhà văn khác. Ông thường chú ý các vựa trái cây được bày bán như

dưa hấu, sam-bô-chê… (Lại mẹ tôi tái giá, Thí một con chốt hốt một con xe, Bớt đi

một trái). Tập quán trồng trọt như “cau thành các sở to; cây cau này mọc cách cây cau

kia độ một thước sáu tấc” (Má ơi, má!).

Bình Nguyên Lộc cũng dành nguyên tập Những bước lang thang trên hè phố

của gã Bình Nguyên Lộc để bàn về Sài Gòn, bàn về “Thủ đô” của miền Nam. Ông

từng nhận xét trong Sông Ông Lãnh: “Thủ đô miền Nam là một thành phố mới. Cây,

đá, nhà, phố, phong tục, đều chưa mang được cái vẻ cổ kính, chưa biết kể lể những kỷ

niệm cảm động để quyến luyến con nguời.” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Đây

chính là chất liệu phong phú cho tác giả tạo nên văn hóa Nam Bộ trên trang văn của

ông. Tình yêu tha thiết, nồng hậu của ông đối với quê hương như cây cổ thụ cắm chặt

“sâu rễ bền gốc” xuống mảnh đất, được mảnh đất nuôi dưỡng ngày càng vững chãi.

Bằng ngòi bút giàu chất trữ tình, ông đã tái hiện trong Những bước lang thang của gã

Bình Nguyên Lộc một không gian của Sài Gòn xưa và nay. Sài Gòn nay đang chịu sự

thay đổi dần của thời gian, của lối sống văn hóa mới đang du nhập vào. Ông viết về

Sài Gòn với góc nhìn phong phú, đa dạng và có sự bao quát nhiều mặt từ thiên nhiên

đến đời sống xã hội, văn hóa, tâm linh. Tất cả đều hiện lên đầy suy tư, trăn trở, giàu

xúc cảm. Bình Nguyên Lộc đã “lang thang trên hè phố” để mở rộng lòng mình đón

nhận mọi đặc trưng, tính nết của Sài Gòn. Cảnh vật Sài Gòn, con người Sài Gòn, đời

sống Sài Gòn hiện lên sinh động, gần gũi. Những câu thành ngữ, tục ngữ, những bài

ca dao xuất hiện trên bước đường “lang thang” của ông đã làm Sài Gòn lung linh sắc

màu văn hóa truyền thống trong nhịp chảy hối hả của cuộc sống hiện đại.

Khi Bình Nguyên Lộc tái hiện lại không gian Sài Gòn xưa, ta bắt gặp những

bài ca dao đã lưu giữ trong kí ức của biết bao thế hệ người dân nơi đây về một vùng

đất giàu tình nghĩa. Ông đã thật sự nhập thân vào đời sống tinh thần của cư dân Sài

Gòn, nhập thân vào mảnh đất có nhiều sự thay đổi để cảm nhận tinh tế, chân thật

những cung bậc cảm xúc của Sài Gòn. Đời sống vật chất có thể còn nhiều lo toan

nhưng đời sống tinh thần của họ thật giàu có. Nơi này có những câu ca dao gắn liền

50

với sự gợi nhớ đến đặc điểm vùng đất: “Nhà Bè nước chảy chia hai/Ai vào Bến Nghé,

Đồng Nai thì vào” (Ca dao). Nơi này con sông Ông Lãnh đã trở thành bản sắc của Sài

Gòn. Con sông “thân mật”, con sông “gợi tình”, con sông chở nặng phù sa. Con sông

nồng vị mồ hôi, đậm đà tình nghĩa. Con sông trở đi trở lại trong tác phẩm của ông như

một người tình tri kỉ mà đã hiểu rõ tính nết, đặc điểm của nhau. Ở đó cũng là những

câu ca dao gợi nhắc đến quá khứ cái tình của người Sài Gòn gắn chặt với nơi họ sinh

sống: “Bắp non mà nướng lửa lò,/Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm” (Bình Nguyên

Lộc (tập 2), 2002). Cô lái đò ở bến Thủ Thiêm ấy chắc phải đẹp lắm, đoan chính lắm

nên các chàng trai Sài Gòn mới thách đố nhau như thế. Rồi những lời thề nguyền yêu

thương, hẹn hò của người Sài Gòn gắn liền với cuộc sống của họ: “Bao giờ cầu nọ hết

quay,/Thì qua với bậu mới đứt dây can thường.” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002).

Chiếc cầu sắt nối đường Võ Di Nguy và Trịnh Minh Thế trở thành nơi đôi lứa hẹn thề

với nhau. Chỉ ở những nơi như Sài Gòn, những sự vật thô ráp như thế mới vào ca dao

thay cho cầu mồng tơi, cầu dải yếm, cầu cành hồng thường thấy trong lối ví von dân

gian. Thế nhưng tình yêu sâu nặng của họ cũng gặp không ít những khó khăn, ngăn

trở do hoàn cảnh, do cha mẹ... “Rạp hát bóng chào rào chộn rộn,/Sở đồ hình ngồi

đứng chỉnh tề./ Thăm em một chút anh về,/Chơi khuya lính bắt khó bề phân bua.”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Thế nhưng, bên cạnh một Sài Gòn tình nghĩa, còn

một Sài Gòn đang thay đổi. Sài Gòn mà ông gọi là “đàng điếm”, “lăng nhăng”. Tình

cảm con người mà đặc biệt là tình yêu cũng bị phai nhạt, có khi trở nên lạnh lùng, sòng

phẳng. Cuộc sống vật chất, đồng tiền chi phối đời sống sinh hoạt của họ “Cây đa trốc

gốc trôi rồi,/Đò đưa bến khác bậu ngồi trông ai…”. Quá trình đô thị hóa cũng khiến

Sài Gòn có nhiều đổi thay về địa điểm, phải di dời, tranh giành đất kinh doanh “Ba

Hình nay đã đổi dời/ Bớ này bạn ơi, bấy lâu gắn chặt rã rời từ đây.” (Bình Nguyên

Lộc (tập 2), 2002).

Về góc cạnh kinh doanh ở Sài Gòn, nơi chợ Lạc-son Tây (Lọ sứ cổ), đồ cũ hay

mới, quý giá hay bình dân đều bị bỏ lộn xộn với nhau. Những đồ vật có giá trị nghệ

thuật, quý giá nhưng do hoàn cảnh mà bị đưa đẩy tới đây. Tác giả không khỏi xót xa

trước hiện thực cuộc sống bởi theo quy luật “mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Thế rồi, bên cạnh một Sài Gòn xa hoa, ta còn thấy

51

một Sài Gòn mà con người ở đấy luôn làm việc, luôn cần cù nhẫn nại “chân lắm (lấm)

tay bùn”, luôn trân trọng những gì đang có “bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Sài Gòn còn là nơi của những tiếng rao, nơi của

những thức quà dân dã trên sông Ông Lãnh. Những thức quà dân dã như cháo cá, chè

đậu trắng, xu xoa mật đường hạ, bánh canh, trà… được người lao động làm nên nhờ

sự khéo léo và tinh tế trong chế biến đã đem lại dư vị khó quên mà ai đi xa cũng phải

Không, món bánh canh phải nấu bằng cá rô, hay tệ lắm bằng cá lóc. Cũng không

được phép gia vị bằng hành tây. Chỉ có hành hương (tên là hương mà lại trồng ở

thôn quê) mới bốc hương lên khi được thả trôi trên nước bánh canh sôi ùng ục.

Bánh canh của cô hàng hai chèo là một món quà “thống nhứt”: nước, bánh, cá,

hành, tiêu, cả bốn thứ đoàn kết với nhau để biến thành một khối duy nhất có mùi

vị riêng biệt khác với mùi của từng thành phần, các mùi vị ấy nương tựa lẫn nhau;

thiếu một cái, không xong, đồng đội xung phong lên công kích các hạch nước

miếng của khách đêm.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

nhớ. Ẩm thực ấy thật đậm đà hương vị:

Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc đã giúp tác giả

đưa người đọc trở về với đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư vùng đất Sài Gòn

vào khoảng giữa thế kỷ XX. Chứng kiến những cảnh xô bồ, thay đổi khác đi so với

một Sài Gòn trước đó, ông luôn nuối tiếc những giá trị truyền thống đang ngày một

phôi phai, giờ chỉ còn hoài niệm. Tấm lòng của ông luôn hướng về cội nguồn, ký thác

vào đó tình yêu đối với đất nước, quê hương.

Sài Gòn còn hiện lên rõ nét trong các tập tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc. Sài

Gòn độc đáo với những con đường mang tên các nhân vật lịch sử như Phạm Ngũ Lão,

Phan Thanh Giản, tên gắn liền với tập quán trồng trọt như đường Vườn Chuối. Điểm

đặc biệt là trong tiểu thuyết Khi từ Thức về trần, Bình Nguyên Lộc thường miêu tả

nhiều con đường. Người đọc sẽ có cảm giác như ông là người chỉ đường cẩn thận để

giúp cho ta không bị lạc giữa Sài Gòn hoa lệ “Chạy một vòng Chợ Lớn ngõ Hồng Thập

52

Tự, Hùng Vương… góc đường Mạc Đỉnh Chi, cạnh sở Canh nông… băng ngang qua

đại lộ Trần Hưng Đạo đâm vào đường Nguyễn Khắc Nhu...” (Bình Nguyên Lộc (tập

4), 2002). Tuy nhiên trong các tập tiểu thuyết, khuynh hướng chủ yếu là miêu tả một

Sài Gòn trong nhịp sống mới xô bồ, ồn ào, hối hả. Tình cảm con người cũng gặp nhiều

biến động trước một nền văn hóa ngoại lai. Con người bị đời sống vật chất chi phối

nên dễ thay lòng đổi dạ như gia đình Sở trong Khi Từ Thức về trần, gia đình ông Nho

trong Gieo gió gặt bão.

Trong bối cảnh nhiều xung đột trong xã hội miền Nam, tìm về với phong tục

tập quán của dân tộc, Bình Nguyên Lộc đã đáp ứng được nhu cầu nhận thức bản quán,

dân tộc trước áp lực xâm nhập của văn hóa phương Tây. Xíu Tin (Xô ngã bức tường

rêu) sống ở Việt Nam, mặc dù là người Triều Châu, cô cũng cảm nhận sâu sắc rằng

“Có những người, những vật xung quanh ta mang màu sắc, hình thù, âm thanh như

dính liền với đời ta, quen quá đi rồi đến không thương cũng bắt thương, không sao

khác được” (Bình Nguyên Lộc (tập 4), 2002). Sự hòa hợp dân tộc này cũng bắt nguồn

do “…dân tộc Việt Nam ít thành kiến hơn bất kì dân tộc có văn hóa nào trên quả địa

cầu này” (Bình Nguyên Lộc (tập 4), 2002).

Đọc những tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, người đọc thấy một vốn hiểu biết

phong phú về phong tục tập quán độc đáo của Nam Bộ. Có thể sau này, sự phát triển

tiến bộ của xã hội, con người không thể nhìn thấy những cuốn gia phả, ngôi nhà cổ,

cái cối xay băng tre, kiểu câu dầm, bắt ốc gạo hay những làng nghề gia truyền nhưng

vẫn hiểu biết về nó trên trang văn đậm chất phong tục của Bình Nguyên Lộc. Các nhà

văn Nam Bộ thời kỳ này thường hướng tới những giá trị tinh thần của dân tộc như đạo

đức, gia đình, quê hương hay phong tục, tập quán. Bình Nguyên Lộc cũng nằm trong

xu hướng đó. Con người trong sáng tác Bình Nguyên Lộc hấp thu tự nhiên tinh thần

dân tộc qua môi trường sống, tập quán sinh hoạt gia đình. Những nhân vật như thằng

Bò, thằng Nóp, thằng Kẹo, con Tám Cù Lần, ông Bảy Rựa… là những con người mang

vẻ đẹp tự nhiên, chân chất của làng quê Việt Nam. “Thổ ngơi, mùi vị, cuộc sống, nếp

sinh hoạt của vùng đồng bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long… là để tài, là nguồn

cảm hứng dường như không bao giờ cạn cho những trang viết của Bình Nguyên Lộc”

(Nguyễn Thị Thu Trang, 2015).

53

1. 2.1.2. Tín ngưỡng dân gian

Trong Hệ giá trị trong văn hóa truyền thống của người Việt, Chu Xuân Diên

nhấn mạnh: “...Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, người Việt phụ thuộc

vào tự nhiên, nương nhờ tự nhiên hơn là chiếm lĩnh, làm chủ tự nhiên. Khuynh hướng

đó trong ý thức thể hiện thành sự tôn trọng, sùng bái tự nhiên…” (Chu Xuân Diên,

1999). Vì thế, trong lịch sử di dân vào phương Nam của dân tộc Việt “Từ thuở mang

gươm đi mở cõi,/Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ), hành

trang người Việt mang theo là tục thờ cúng tổ tiên, là những tập quán nghìn đời đã ăn

sâu vào tâm thức. Con người trong cuộc “cộng sinh” ở môi trường mới luôn sống với

tinh thần cởi mở, chịu khó tiếp thu và học hỏi. Đặc biệt, họ có khả năng chung sống

với nhiều tôn giáo mới. Người Nam Bộ coi các thần thánh đều linh thiêng, tốt bụng

và luôn sẵn sàng giúp đỡ. Họ khai thác thiên nhiên và thờ cúng nhiều con vật họ cho

là linh thiêng như rắn, hổ… Điều họ làm là mang đến cho vùng đất phương Nam này

sự đa dạng về tín ngưỡng.

Cũng như phong tục tập quán, tín ngưỡng là một yếu tố của văn hóa dân gian.

Tín ngưỡng dân gian khá phong phú, đa dạng. Tín ngưỡng chính là niềm tin, sự ngưỡng

mộ với một đối tượng siêu nhiên, những điều linh thiêng hoặc những sức mạnh huyền

bí, vĩ đại nào đó. Các tín ngưỡng đa dạng như tôn sùng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng,

nước, mưa, gió, sấm, chớp…), tôn sùng các loại cây trồng và vật nuôi (bầu, bí, lúa,

ngô, đậu, trâu, bò, lợn…), tôn sùng vật tổ (vật tổ chim, cá, cây…), tôn sùng tổ tiên

(Quốc tổ, Thành hoàng, tổ tiên, ông bà…), tôn sùng Mẫu (các nữ thần, Bà chúa xứ…),

tôn sùng các anh hùng lao động, người anh hùng dân tộc, người có công với nước

(Thánh Gióng, Bà Trưng…). Tín ngưỡng có sự ảnh hưởng, chi phối đến đời sống tinh

thần, đời sống sinh hoạt của con người. Như vậy, tín ngưỡng thể hiện rõ nét mối quan

hệ giữa con người với đối tượng được thờ cúng. Tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam

chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và sự ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với tiền nhân.

Từ tâm thức sùng bái, tín ngưỡng, cộng đồng hình thành các phong tục tập quán, nghi

lễ thờ cúng gắn liền với thói quen, nếp sống sinh hoạt của nơi họ cư trú.

Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng của dân tộc Việt. Theo A.A.

Radugin (2002) trong Từ điển Bách khoa Văn hóa học thì “tín ngưỡng thờ cúng tổ

54

tiên, một trong những tín ngưỡng lâu đời nhất của nhân loại”. Ông cha ta quan niệm

“Sống Tết chết giỗ”. Vì thế, Tết và giỗ trở thành những dịp đặc biệt quan trọng trong

gia đình. Các gia đình thường hay cúng kiếng và tập hợp các thành viên vào những

dịp này. Thờ cúng tổ tiên không chỉ trở thành phong tục truyền thống của gia đình

người Việt mà còn trở thành tín ngưỡng quan trọng trong đời sống tâm linh. Những

ngày Tết đến, giỗ chạp, cưới hỏi, rằm… trong mỗi gia đình lại nghi ngút khói hương

với mâm cơm thịnh soạn trên bàn thờ gia tiên. Người Việt luôn quan niệm ông bà tổ

tiên luôn linh thiêng và ngầm giúp đỡ con cháu vượt qua những khó khăn, trắc trở

trong cuộc sống. Từ thờ cúng Quốc tổ đến gia tiên đều được tiến hành với nghi thức

trang trọng, thành kính trong không khí thiêng liêng. Tín ngưỡng dân gian trong sáng

tác của Bình Nguyên Lộc cũng thể hiện rõ qua việc thờ cúng tổ tiên. Trước hết là trong

các dịp Tết cổ truyền. Tết cổ truyền trở thành ngày lễ quan trọng trong năm và in sâu

vào tâm thức của dân tộc Việt. Tết là dịp để con cháu nhớ về tổ tiên, nguồn cội. Đây

cũng là dịp gia đình sum họp, hàn huyên, chia sẻ, chiêm nghiệm về những điều trong

cuộc sống. Chiều ba mươi Tết, không khí thiêng liêng và mâm cơm cúng gia tiên của

gia đình Tồn (Cuốn gia phổ) đã làm cho cái Tết trở nên ấm cúng. Khoa cũng nhận

thấy rằng “Con người hay bám níu vào những hình ảnh, những màu sắc, những mùi

vị quen thuộc lắm, bám víu vào rồi thấy nó là thiêng liêng không rời được nữa. Đất,

mồ mả, gia đình, cái gì cũng thiêng liêng tuốt.” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Cũng chính vì “bám níu” quê hương, người đàn bà trong Chiêu hồn nước vất vả nghìn

dặm về Việt Nam chỉ để hưởng chút không khí đêm ba mươi. Thời gian ở lại không

có là bao nhưng cô vẫn chuẩn bị một không khí tết tươm tất tại căn phòng nhỏ thuê tại

chung cư Cửu Long. Cô đã “...trang hoàng như một căn nhà bình dân với nào tranh

gà, tranh lợn, tranh Tàu trên vách, đặc biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên chiếc

bàn con với gần đủ đồ thờ, bình hương, độc bình, đèn, nhang.” (Bình Nguyên Lộc (tập

Nàng nhìn vào khoảng không, rồi say sưa nói to lên một mình: “Mai thui... ba

chặt cành mai vào giữa tháng chạp, ba thui cành ấy nơi bị chặt, ba chặt lá, rồi

ba cắm trong độc bình có chứa nước...”.

Thế rồi hăm lăm hoa ra nụ và tối ba mươi nó âm thầm nở. Sáng mồng một là bàn

2), 2002). Cô vẫn luôn hoài niệm về Tết xưa:

55

thờ vàng óng. Nó bền và đẹp hơn hoa nở sẵn trên cành bị cắt ngang, rồi... rồi

ba...

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Rõ ràng, người đàn bà này dù đi đâu, làm gì, dù sống ở phương trời nào…

nhưng những cái thuộc về hồn cốt dân tộc thì không thể thay thế.

Ngày giỗ của ông bà, tổ tiên được người Việt chuẩn bị cũng rất chu đáo. Ông

cụ anh Sáu Nhánh (Phân nửa con người) dù lưu lạc trên ghe thương hồ vẫn muốn cúng

giỗ to để mời các ghe hàng xóm đến dự cho có không khí làng mạc, quê hương. Ông

cụ thèm cái mùi của đất liền, của tình chòm xóm vào những ngày có giỗ gia tiên. Dòng

họ Tôn (Tre phải tàn) mỗi dịp có giỗ là con cháu dòng họ bốn đời tề tựu đông đủ về

nhà thờ họ để thực hiện các lễ nghi thờ cúng theo truyền thống dòng họ.

Tổ tiên và tục thờ cúng tổ tiên không chỉ ở mối quan hệ huyết thống gia tộc. Tổ

tiên của người Việt còn ở các tiền nhân, thần thánh và các lực lượng siêu nhiên có liên

quan đến cội nguồn và có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Các nghi

lễ thờ cúng này thường diễn ra trong chùa của làng. Đó là những nghi lễ rất trang trọng

và linh thiêng. Đặc điểm của làng xóm Việt Nam có kết cấu chặt chẽ. Mỗi làng có vị

Thành hoàng riêng gắn với lịch sử vùng đất. Thờ cúng tổ tiên là ý thức hướng về nguồn

cội “chim có tổ, người có tông” của gia đình, dòng họ. Trong khi đó, thờ cúng Thành

hoàng gắn liền với những công sức mà vị thần ấy đem lại cho làng thể hiện đạo lý

“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Trong Mẹ tôi tái giá, lời Tư Hậu nói với Xi-

lăng-ba thể hiện con người rất tin vào thế lực thiên nhiên che chở cho họ “Anh ta nghĩ

rằng rừng thiêng ắt hẳn phải được thần rừng bảo vệ, mà Tây Tà ngang ngược, phá

rừng mà không cúng vái tạ lễ thì thần rừng đâu có dung tha, họ phá hại sự trồng tỉa,

đó là họ nhẹ tay lắm đa, thường thì họ vật chết toi kẻ cả gan dám xúc phạm đến địa

hạt của họ”. Và ở làng họ sống có một miễu “Ông”. Đây là đình thờ Thành hoàng làng

Chánh Hưng. Vị Thành hoàng này là “…dân địa phương biết tên họ, chức tước, chớ

không phải như những ông Thần nặc danh của bao nhiêu đình làng khác”. Thành

hoàng làng này là “một danh tướng Nam-kỳ đã quyết liệt kháng Pháp trong thời ta bị

chinh phục. Thua trận mãi, vị danh tướng ấy triệt thối về cái làng cuối cùng nầy để

kiên thủ, nhưng rồi Pháp cũng truy kích ông, và ông tử tiết nơi đây” (Bình Nguyên

56

Lộc (tập 1), 2002). Có lẽ vì niềm tin tâm linh về tín ngưỡng, Tư Hậu cho rằng sở dĩ

cây cao su mới trồng được mấy ngày thì vài ba hôm sau cây rũ ra mà chết cũng do

làng có Thành hoàng che chở. Cho dù, lão Xi-lăng-ba có tốn kém nhiều tiền bạc để

thuê các nhà khoa học nghiên cứu về thổ nhưỡng, khí hậu hay trồng thay cây giống thì

cây không sống được. Dân làng ở đây tin chính vì Thành hoàng ghét Tây, che chở cho

dân làng nên lão Xi-lăng-ba thất bại trên đất của họ.

Ngoài tôn sùng tổ tiên thì tín ngưỡng còn ở tôn sùng tự nhiên như đất, nước,

lửa. Đây là ba hình ảnh gắn liền với tâm thức của người Việt. Việt Nam là đất nước

gắn liền với nền văn minh nông nghiệp lúa nước và lấy gia tộc làm nền tảng. Chính vì

vậy đối với họ ba yếu tố này đặc biệt quan trọng liên quan đến nguồn cội, đến sự sống

và giúp con người được “thanh lọc”. Đất là hình ảnh được nhắc đến trong nhiều tác

phẩm của Bình Nguyên Lộc ,như: Phân nửa con người, Lửa Tết, Thèm mùi đất, Đất

không chết. Đất gắn liền với đời sống của người nông dân. Đất khiến họ thèm, khiến

họ khát khao trở về. Cha anh Sáu Nhánh (Phân nửa con người) nhất quyết phải về nhà

“Tao nhớ đất muốn chết đi lận, nhớ còn hơn nhớ má mầy trong mấy năm đầu tang khó

của bà ấy”. Người thợ nông nghiệp (Thèm mùi đất) thì “quen ngửi cho đến ghiền, thiếu

thì họ thèm”. Bởi đối với họ, đất rất quan trọng. Đất có hồn và “hồn mầy luôn gần gũi

với hồn đất” (Phân nửa con người). Họ yêu đất và “yêu cho tới mãn kiếp” (Thèm mùi

đất).

Ngoài đất, Lửa cũng giữ vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người. Nhà

văn đã đề cập đến vai trò của lửa và bếp lửa trong việc đem lại niềm vui, đoàn tụ gia

đình, sự ấm áp và hạnh phúc. Má vợ Minh sống ở thành thị với con nên “nhớ lửa lắm,

thèm lửa lắm”. Lửa trở thành “lửa thiêng” và lửa ấy phải thơm mùi của thảo thụ, “có

linh hồn” và “gợi nhớ sự sống”. Nơi mà ngọn “lửa thiêng” ấy ngự trị trong bếp ăn gia

đình. Bếp có than củi lửa thì luôn “ấm cúng”. Trong Quyển gia phổ, lửa thì “bao giờ

cũng vui, tiết ra nhiều sinh khí”. Vì vai trò quan trọng của lửa trong đời sống mà dân

tộc Việt rất coi trọng cái bếp của gia đình. Nơi ấy, khi bếp lửa thắp lên, họ quây quần

trò chuyện, kể cho nhau nghe về công việc, cuộc sống.

Hình ảnh nước trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc gắn liền với những câu

chuyện huyễn hoặc, ma mị. Tác phẩm Câu dầm đã gợi lên một thế giới hoang sơ tù

đọng của vùng sông nước. Những người đi câu dầm hay gặp ma như việc có người

57

cõng giúp một bà già tội nghiệp thì sau đó bà biến thành “cỗ hòm lâu đời, mục nát, hôi

tanh”; thằng nhỏ xin theo xách giỏ thì thấy ếch trong giỏ bị mất đầu còn miệng thằng

nhỏ thì “dính máu tèm lem, túa lụa, còn lưỡi nó thì le ra dài tới rún”. Họ còn gặp Thần

Cá Bóng. Thần ban cho con chan chan có ngọc để làm của rồi tự nhiên khá lên và

khuyên không nên sát cá… Những cảnh sinh hoạt của người lao động gắn với vùng

sông nước (Hai buổi giậm cù, Rừng mắm, Người đẹp ven sông, Không một tiếng vang).

Đất và nước có mối quan hệ với nhau “Đất uống nước thấy mà thèm…Những bờ đất

nhuộm xanh mau trông thấy” (Đất không chết). Đất và nước đem lại cuộc sống tốt tươi

cho những người gắn bó “nước và đất kết hợp thành hoa màu để nuôi dưỡng những

đứa con biết yêu thương nó” (Hai buổi giậm cù). Con người thật sự tin vào đất, vào

nước, vào lửa và giá trị sự sống mà nó mang lại.

Tín ngưỡng thờ cúng ở chùa chiền, đền miếu đã gắn liền với nếp sống, nếp

sinh hoạt, phong tục lâu đời của người bình dân. Trong Bà mọi hú, tác giả có nhận xét

“Người Á Đông tin rằng ở rừng núi chùa mới linh. Các tín đồ ở tận ngoài sông cách

đó bảy tám cây số, các sư cũng tìm cách mang vôi gạch đến để cất linh tự.” (Bình

Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Niềm tin vào sự linh thiêng của chùa chiền sẽ làm con

người có thêm động lực tinh thần để cố gắng. Thể hiện rõ nhất tín ngưỡng mang tính

tôn giáo này là tập Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc. Hai

tác phẩm Thần thánh Sài Gòn và Chùa chiền, đền miếu chủ yếu được miêu tả ghi chép

dưới con mắt của kẻ “lang thang”. Con người Sài Gòn dù cuộc sống còn nhiều lo toan

nhưng đối với họ thần thánh “chắc chắn là còn nguyên vẹn trong lòng của những

người này cho đến lúc họ xuống mồ”. Họ luôn “giành cho thần thánh một cái bến nho

nhỏ gọi là tỏ chút tâm thành”. Người Sài Gòn dù cộng cư của nhiều nơi đến và dù

cuộc sống của họ còn nhiều khó khăn nhưng do đặc tính “Dân tộc Việt Nam khoan

hồng tín ngưỡng, không tôn giáo nào là không có đền thờ ở Sài Gòn” (Bình Nguyên

Lộc (tập 2), 2002). Sự đa dạng của chùa như: Ngọc Hoàng, Tam Tông, Kỳ Viên, Xá

Lợi, Linh Sơn, Bà Đầm, Bà Đen, Bà La Môn, chùa Bắc, chùa ở đường Hồ Huấn

Nghiệp, đạo Baha’I. Văn Miếu Y Tổ (thật ra là cái miễu). Các miễu ở dưới gốc đa

trong vườn Tao Đàn tại cửa đường Trương Định, bệnh viện Bình Dân, trên cháng hai

của cây vông bên kia đường trước rạp Thành Xương, treo trên lan can bao lơn một dãy

58

lầu trên đại lộ Trần Hưng Đạo, bàn thờ trong tòa soạn. Sài Gòn trở thành bức tranh

của khu đô thị vừa hiện đại bậc nhất miền Nam lúc bấy giờ, vừa có đời sống tâm linh,

tinh thần phong phú đa dạng. Đây là nơi họ tìm đến để cầu tài, cầu hết bịnh, cầu bình

an. Điểm đặc biệt là họ thờ cúng ai thì đó là “chùa”. Đến chùa là cách mà con người

tìm được sự thanh thản, bình yên và mong mỏi sự an lành.

Lịch sử khẩn hoang của vùng đất phương Nam là lịch sử đươc viết nên bởi

những tiền nhân đi mở cõi. Họ đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, máu xương để tạo

nên vùng đất Nam Bộ. Thế nhưng họ cũng tin rằng, vong linh những thế hệ cha anh,

của những người đã khuất sẽ theo chân lớp con cháu mà hỗ trợ để tiếp tục cuộc hành

trình chinh phục và xây dựng miền đất mới này. Tín ngưỡng đã trở thành chỗ dựa tinh

thần cho họ trong cuộc sống.

Như vậy, phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian xuất hiện khá nhiều trong

sáng tác của Bình Nguyện Lộc. Nó trở thành linh hồn cho các sáng tác của “Nhà văn

cội nguồn”. Nó bồi đắp niềm tin, tinh thần, tâm linh cho con người trong cuộc sống.

Nó giúp con người thêm nghị lực vượt qua khó khăn, vượt lên hoàn cảnh của mình.

Trong truyện, Bình Nguyên Lộc tuy có đề cập đến tín ngưỡng nhưng theo ông tư tưởng

hay tinh thần của con người phải luôn vận động theo sự phát triển của xã hội. Tạo

(Nhốt gió) đã hiểu hơn suy nghĩ mới của thế hệ con mình. Thầy giáo Lầu (Rung cây

dừa) sau thời gian bỏ quê về vùng Củ Tron cổ sơ đã quyết tâm trở về làng vì nhận ra

rằng không thích hợp. Thầy Mười Sảng (Nắng chiều) đã thấy mình lãng phí thời gian

làm một việc vô bổ. Ân (Tre phải tàn) đã bỏ chế tạo chất trường sinh vì nhận thức quy

luật của đời người. Cuộc sống luôn thay đổi và buộc con người phải thay đổi. Vì thế,

mối liên hệ, ứng xử của người Nam Bộ với tín ngưỡng cũng linh hoạt và phù hợp với

điều kiện sống. Họ kế thừa, lưu giữ, bổ sung, phát huy và tạo ra những giá trị mới phù

hợp hơn.

2.2. Nghệ thuật dân gian và lễ hội dân gian

2.2.1. Nghệ thuật dân gian

Nghệ thuật dân gian là những loại hình nghệ thuật mang tính truyền thống. Nghệ

thuật dân gian gồm nghệ thuật tạo hình dân gian (kiến trúc, hội họa, trang trí…) và

nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc, múa, sân khấu, trò diễn…). Về nghệ thuật tạo

59

hình dân gian, khi xã hội còn đang ở thời kì nguyên sơ, con người tạo nên các trang

sức bằng đá, vỏ trai, vỏ ốc, gỗ… Khi xã hội phát triển hơn họ biết dùng giấy làm chất

liệu để tạo hình và cây cỏ làm màu sắc cho các bức tranh sinh động như tranh Đông

Hồ, Hàng Trống… Về sau, họ biết dùng vỏ trai, gỗ, đồng… làm tranh như sơn mài,

khảm trai hay làm tượng gỗ, đồng… Đặc biệt các am, đền, miếu, chùa… thể hiện trình

độ ngày càng cao trong tạo hình nghệ thuật dân gian. Về nghệ thuật biểu diễn dân

gian, âm nhạc lúc đầu chỉ là tiếng hò, hô, hát rồi vỗ tay, dậm chân và các vật đập vào

nhau tạo nên âm thanh, nhịp điệu. Về sau, tiếng hô, tiếng hò kết hợp điệu bộ động tác

và có sự chỉ huy thống nhất. Múa dân gian theo đặc trưng của vùng có sự khéo léo,

khả năng cách điệu, tạo hình và mang tính tượng trưng, khái quát. Sân khấu dân gian

là nơi trình diễn các tích truyện để bày tỏ ước mơ, tâm tư, tình cảm của người lao

động. Trò chơi là loại hoạt động của tư duy, sáng tạo. Người bình dân xưa hay tổ chức

các trò chơi tập thể để giải trí, giao lưu và tăng cường đoàn kết cộng đồng.

Nghệ thuật dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc không thấy nhắc đến

khía cạnh nghệ thuật tạo hình dân gian. Nghệ thuật dân gian xuất hiện chủ yếu là nghệ

thuật biểu diễn dân gian. Trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc xuất hiện khá nhiều

các bài hò lao động, hát nối, đối đáp dân gian, trò chơi dân gian. Trò chơi dân gian là

một loại hình nghệ thuật dân gian khá phổ biến trong đời sống sinh hoạt hằng ngày

của người lao động. Sau một ngày lao động vất vả “một nắng hai sương”, con người

có nhu cầu nghỉ ngơi, thư giãn thoải mái tinh thần, để lấy lại niềm vui, hăng say trong

cuộc sống lao động. Chính từ nhu cầu đó mà nảy sinh các trò chơi dân gian. Trên trang

văn của Bình Nguyên Lộc, người đọc thấy thế giới tuổi thơ được tái hiện lại. Ai trong

chúng ta cũng có một thời thơ ấu khó quên bởi những trò chơi dân gian có sức lôi cuốn,

hấp lực khó cưỡng lại. Trong tác phẩm Qua lối cũ, Nhâm đang ngồi viết văn thì nghe

bọn trẻ kêu la inh ỏi và chơi các trò chơi quen thuộc của chúng như thầy bắt rắn, chùm

nụm, cút bắt. Nhâm cũng không ngờ trò chơi của bọn trẻ làm anh phân tâm và cũng

góp phần tham gia chơi chung với lũ trẻ. Đầu tiên là Nhâm bị lôi kéo vào trò “thầy bắt

Nhâm cúi xuống tiếp tục viết thì nghe ngoài trước, chúng nó hè nhau mà la inh

ỏi: “Mạnh thầy, thầy ăn, mạnh rắn, rắn ăn nè…è…è… Chúng nối đuôi nhau, đứa

rắn” khi con anh sợ quá vì nó phải làm đuôi.

60

này víu vạt áo sau đứa kia, chơi cái trò thầy bắt rắn… Ông thầy chụp bên trái,

chụp bên phải. Rắn né, tránh tùy theo hướng tấn công của thầy. Có khi thầy cứ

chụp một bên liên tiếp, thành ra rắn cứ phải tránh bên đó. Rắn và thầy xây tròn y

như là con chó muốn táp đuôi mà không được, cứ xàng quây mãi.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Thầy bắt rắn, gần giống như trò Rồng rắn lên mây ngày nay, được tác giả miêu

tả cụ thể cách thức chơi từ thầy cho đến rắn. Trò chơi này lũ trẻ con mà đặc biệt trẻ

con nông thôn rất thích. Trò chơi giúp rèn luyện cho người chơi nhiều kĩ năng quan

trọng như tạo sự gắn kết, độ nhanh nhạy chính xác, khả năng đóng vai, đối đáp. Ngoài

ra trò chơi này còn rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ, phát triển nhận thức, cộng hưởng cảm

xúc và xác định vai trò của mình trong đồng đội. Không gian thường rộng để cho trẻ

con thỏa sức vui chơi và phát triển trí lực. Cùng tham gia với lũ trẻ, Nhâm chợt nhận

ra rằng “Cái quê hương cũ ấy, chàng có cảm tưởng rằng chỉ được sang chơi một lần,

một lần này thôi, rồi không bao giờ nữa chàng có hi vọng trở về” (Bình Nguyên Lộc

(tập 1), 2002). Nhâm cảm thấy “quặn thắt như kẻ bị đày xa xứ”. Có lẽ, nỗi nhớ những

“chân trời quen thuộc” khiến Nhâm tiếc nuối.

Trò chơi thứ hai được miêu tả là trò chơi chùm nụm. Với trò chơi này là những

người tham gia phải nắm tay lại, xếp xen kẽ với tay người khác. Người để tay đầu tiên

chỉ để một tay còn một tay dùng để đếm. Mỗi từ trong bài hát tương ứng với một nắm

tay. Hát tới từ cuối rơi vào ai người đó rút tay ra. Người thứ hai sau khi được rút một

tay có trách nhiệm thay người thứ nhất bắt đầu hát và đếm đến khi chỉ còn một nắm

tay thì người cuối thua. Lời bài đồng dao này cũng rất nhịp nhàng “Chùm nụm, chùm

niệu, tay bí, tay tiên, đồng tiền chiếc đũa…Con rắn, con rít, bò qua tay này…” (Bình

Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Trò thầy bắt rắn và trò chùm nụm hay xuất hiện hình ảnh

con rắn cũng bởi đây là con vật theo phương Đông là rất linh thiêng và trở thành vật

biểu tượng trong thờ cúng nhiều nơi.

Trò cút bắt còn gọi là chơi năm mười. Đây là trò chơi dân gian vận động hấp

dẫn người chơi. Trò chơi sẽ tập cho các thành viên tham gia tính gan dạ, biết lựa chọn

điểm trốn. Trò chơi còn rèn luyện thính giác khi nghe đếm, luyện đôi chân nhanh nhạy,

61

luyện sự bình tĩnh và khả năng phán đoán. Tham gia trò chơi này, Nhâm thật sự được

sống lại với những kỉ niệm, đặc biệt là mối tình tuổi thơ của anh. Trong tác phẩm

Đò dọc của Bình Nguyên Lộc có một trò chơi được nhắc qua là trò “tập tầm vông”:

“Tập tầm vông,/Chị lấy chồng/Em ở góa;/Chị ăn cá,/Em ăn xương;/Chị nằm

giường,/Em nằm đất;/Chị húp mật,/Em liếm ve…Trò chơi này lời hát nhại âm trống

“tầm vông”. Trò chơi sẽ tạo không khí vui vẻ. Lời bài hát dễ nhớ dễ thuộc. Đây là trò

đố đối phương tìm được cái mình đang giấu là ở tay nào. Trò chơi thử thách tài quan

sát và óc phán đoán của đối phương. Bài hát này xuất hiện nhưng không phải với vai

trò trò chơi. Đây là lời Hoa hát mỉa mai tình cảnh của Hồng, sau khi Hồng phát hiện

Hoa đi nói hết bí mật của mình cho Long. Sau khi hát, Hoa và Hồng đã có cuộc ẩu đả

khiến ông bà Nam Thành lo lắng.

Đặc điểm chung của các trò chơi dân gian là giàu hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu.

Do tính chất gieo vần liền kề nhau mà tạo ra tính nhịp nhàng giúp người chơi dễ phối

hợp. Đặc biệt, Alessandro Falassi trong bài viết về Lễ hội cũng đã khẳng định “…các

loại trò chơi này có thể coi như sự biểu thị và khích kệ các kỹ năng như sức mạnh, sự

dẻo dai và sự chính xác…” (Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan, 2014). Chúng ta thấy

những trò chơi dân gian là một phần của đời sống tinh thần, gắn kết mọi người lại với

nhau bởi tính cộng đồng của nó. Nó giúp người bình dân rèn luyện sức khỏe, sự khéo

léo, nhanh nhẹn, thông minh trong xử trí khi tham gia. Cách miêu tả của Bình Nguyên

Lộc qua các trò chơi dân gian cũng đủ khẳng định ông có một vốn liếng phong phú về

các trò chơi này. Đây cũng là kí ức của biết bao thế hệ người Việt đã được trải nghiệm

và vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay. Những trò chơi này xúng đáng trở thành di sản

văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn.

Nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng được nhắc tới qua diễn xướng dân gian

trong cuộc sống sinh hoạt đời thường. Trong đó, hò lao động, hát nối gắn liền với đời

sống lao động, sinh hoạt, tình cảm của người bình dân. Trong tác phẩm Rừng mắm,

người đọc được biết đến điệu hò của miền sông nước Nam Bộ. Đầu tiên là câu hò của

cặp đôi trai gái ở đâu đến khu rừng vắng này làm thằng Cộc thấy mong mỏi của nó

được thỏa mãn:

62

Nó vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng tràm, rồi tiếp

theo đó là tiếng chèo khua nước:

Hò ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,

Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.

Mũi xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch, và trên xuồng, chồng chèo

lái, vợ ngồi không trước mũi mà hò… Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là tiếng hát,

Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục đường từ nơi xa mang về.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Rồi câu hò của mẹ thằng Cộc cũng vang lên giữa rừng mắm như nhớ lại thời còn trên

Bà ta tằng hắng rồi cất tiếng hò:

Hò... ơ... tiếng anh ăn học làu thông,

Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường ?

Hò xong câu đố ấy, bà lắng đợi chồng bà hò đáp. Nhưng tía thằng Cộc cứ làm

thinh mà gặt, khiến bà đâm ngượng nên cười rồi cự chồng cho đỡ mắc cỡ.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

đất liền:

Ông nội thằng Cộc thấy vui vì những công sức lao động được đền bù xứng đáng nên

Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên

phương đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát

nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:

Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế,

Ngựa tế Ðồng Nai.

Nước sông trong sao cứ chảy hoài,

Thương người xa xứ lạc loài đến đây.

vui vẻ hò:

63

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Trong Thí một con chốt hốt một con xe, ông Tư muốn các ghe đi theo ông tập

trung ở một chợ nhỏ còn ghe khác của ông Tư bí mật đi các chợ khác để bán cho đắt

hàng. Vì thế, ông đã thuê cô Út dùng nhan sắc và giọng hò để thu hút và dụ các ghe

Cô út ngồi trên mui để làm đích cho họ nhắm vào mà chèo theo. Cô không ca

vọng cổ nữa mà lại hò như ngày xưa:

“Hò …ơ… Nước xuôi chạy gió buồm mền,

Muốn vô làm bé biết có bền hay không ?”

Các anh lái trẻ mà đã có vợ con, mê chết đi vì lời hò nầy. Bây giờ mà có ai đặt

thủy lôi chận sông, họ cũng cứ chèo tới.

Một chú lái bắt bồ liền, hò đáp:

“Hò. . . ơ. . . Áo vá quàng viền đàng chỉ đỏ,

Gẫm sự đời, vợ nhỏ cưng hơn.”

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

thương hồ chở dưa hấu đi theo thuyền ông Tư đến chợ Ông Hàm.

Đặc điểm của hò là thường có tiếng “hò… ơ…” làm tiếng đệm trước khi hò.

Mỗi khi ai đó cất lên tiếng hò thì thường phải kéo hơi dài chữ “hò” và “ơ”. Đây có thể

coi là giai đoạn lấy hơi và độ tập trung cho người hò đáp. Quan sát các ngữ liệu trên,

ta thấy hò đối đáp của Nam Bộ thường gắn bó với môi trường sông nước. Chính vì thế

làn điệu của những câu hò Nam Bộ thường mênh mông gợi lên không gian bao la, bát

ngát của vùng đất này. Người Nam Bộ thường gửi gắm tâm tư tình cảm, những lo toan,

vất vả của cuộc sống hằng ngày và những ước mơ đơn giản về ngày mai. Bên cạnh đó,

họ cũng có những điệu hò ghẹo giúp cho không khí vui vẻ, hứng khởi và tạo niềm vui

trong cuộc sống lao động còn nhiều vất vả, lo toan.

Một loại hình nghệ thuật dân gian nữa là hát nối. Đặc điểm của hát nối là dùng

lối hiệp vần, điệp từ và điệp cấu trúc để tạo tính nhịp nhàng và thuận lợi cho việc nối

từ hay nối cấu trúc câu. Trong Đò dọc, Hương nhớ cảnh hái chanh, hái me nên hát bài

Con chim manh manh. Sau đó, Hương đã đố các em mình hát nối được câu chót nối

64

lại câu đầu giống như bài mình vừa hát. Hai bài hát nối dân gian làm không khí gia

đình vui vẻ hẳn lên. Bài Con chim manh manh của Hương chỉ mang tính chất như trò

đố vui: “Con chim manh manh/ Nó đậu cành chanh,/ Tôi lấy miếng sành,/ Tôi chọi

chết giãy;/ Tôi làm bảy mâm,/ Tôi dưng ông ăn;/ Tôi nói manh manh/ Nó đậu cành

chanh,/ Tôi vác ….”. Quá đối lại một cách “ranh mãnh” và mỉa mai cảnh muộn chồng

của các chị: “Bậu lỡ thời như ớt chín cây,/ Ớt chín cây người ta còn hái;/ Bậu lỡ thời

như nhái lột da,/ Nhái lột da người ta còn bắt;/ Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,/ Giặc

Hà Tiên người ta còn đánh;/Bậu lỡ thời như bánh trôi sông,/Bánh trôi sông người ta

còn vớt;/ Bậu lỡ thời như ớt chín cây,/ Ớt chín cây người ta còn hái;/ Bậu lỡ thời

như…” Và đúng như luật chơi, bài của Hương là có hai cặp câu đầu “Con chim manh

manh/Nó đậu cành chanh,” và hai câu cuối nối nhau “Tôi nói manh manh/ Nó đậu

cành chanh”. Bài của Quá thì lặp “Bậu lỡ thời như ớt chín cây/ Ớt chín cây người ta

còn hái”. Sau khi lặp lại câu nối, họ có thể tiếp tục nói về sự việc khác theo kết cấu

như vậy. Hát nối ngoài giàu nhịp điệu thì còn đem đến cho người nghe một thế giới

phong phú về sự vật, sự việc. Có thể, các vấn đề có tính thống nhất như bài Con chim

manh manh. Nhưng cũng có khi vấn đề đó không liên quan, rời rạc nhưng miễn hiệp

vần và phục vụ cho mục đích mà bài hát nối muốn hướng tới như bài Bậu lỡ thời.

Ngoài ra, ở tác phẩm còn xuất hiện điệu hát ru con của bà Nam Thành khi thấy cảnh

các cô con gái kéo nước dưới giếng sâu: “Lấy chồng về miệt Tân Ninh,/ Kéo giếng ba

dọc, cách đặt tên con của ông Nam Thành theo điệu nhạc Bình ván. Đây vốn là bản nhạc trong

đờn ca tài tử Nam Bộ. Điều này chứng minh ông rất sành về nhạc tài tử của Nam Bộ và thể

hiện rõ ngay trong sáng tác.

mươi sải, thất kinh ông bà” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002). Ngoài ra, trong tác phẩm Đò

Như vậy, nghệ thuật dân gian xuất hiện trên trang văn của Bình Nguyên Lộc

không nhiều. Nhưng những trò chơi dân gian, những câu hò, điệu hát nối thật sự rất

sống động. Tác gỉa đã đem đến cho người đọc cả khung trời kí ức gắn liền với những

nếp sinh hoạt thân thuộc dân dã. Có lẽ, trong tâm thức hướng về cội nguồn của mình,

tác giả luôn “bám níu”, luôn mang theo tất cả bên mình những gì thuộc về bản quán

và ông trân trọng giữ gìn.

65

2.2.2. Lễ hội dân gian

Lễ hội - nhìn từ lí thuyết folkore Đông Á, Kiều Thu Hoạch đã nhận định lễ hội

“…là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp/ phức hợp có tính chu kỳ và

tính phong tục của một cộng đồng người” (Kiều Thu Hoạch, 2014). Beverly J.Stoeltje

trong Lễ hội đã định nghĩa “Lễ hội là những hiện tượng có tính tập thể và phục vụ cho

những mục đích đã ăn sâu vào cuộc sống…”. Các thành viên khi tham gia lễ hội đều

…sự thể hiện các cam kết tôn giáo, sự phô diễn hoặc sự đạt được uy tín xã hội, sự

phát biểu công khai các tình cảm chính trị, sự tham gia vào các cuộc thi tranh tài

hoặc sự thể hiện những kĩ năng đặc biệt, và để thực hiện các mối tương tác xã hội

mà sẽ trợ giúp việc thăm dò và thương lượng nhiều mối quan hệ.

(Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan, 2005).

có mục đích và động lực. Động lực cho sự tham gia đó là:

Như vậy, có thể hiểu lễ hội là một hoạt động kỉ niệm định kì, có tính tập thể, có

mục đích thể hiện thế giới quan của một nền văn hóa vùng hoặc quốc gia. Các hoạt

động hành lễ, diễn xướng, nghi lễ và trò chơi truyền thống trở thành hoạt động chủ

yếu của lễ hội.

Lễ hội là một trong những yếu tố của văn hóa dân gian, thể hiện văn hóa tinh

thần, văn hóa cộng đồng của dân tộc. Lễ hội gồm hai phần “lễ” và “hội”. Lễ hội có vai

trò nuôi dưỡng đời sống tinh thần, duy trì truyền thống văn hóa cộng đồng. Lễ thuộc

phần nghi thức nên rất thiêng liêng, trang trọng. Hội là các hoạt động, trò chơi nên

nhộn nhịp, tưng bừng. Lễ hội vừa là nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng vừa để gắn kết

cộng đồng. Trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc, ông chỉ giới thiệu một lễ hội đua

ghe bơi trên sông Đồng Nai, khúc sông trước chợ Biên Hòa. Đó là cuộc thi tài được tổ

chức hằng năm.

Trong tác phẩm Đồng đội, tác giả không miêu tả phần lễ mà chủ yếu đi vào

phần hội. Nơi tổ chức hội là con sông Đồng Nai. Người đứng ra tổ chức hội đua ghe

là ông Tỉnh trưởng, đảng viên của một Đảng trụ cột của Đệ Tam Cộng hòa Pháp. Ông

tổ chức “ăn lễ Cát-to-ru-dết thật rình rang”(Cát-to-ru-dết: Quốc khánh nước Pháp).

Vì thế, ông yêu cầu ghe làng nào cũng phải tham gia bất kể làng ấy trong năm có bội

66

thu hay thất mùa, làng yên ổn hay bị bịnh truyền nhiễm. Cách tổ chức hội đua ghe

cũng rất bài bản. Một không gian rực rỡ sắc màu lễ hội văn hóa, gợi nhắc triều đại nhà

Đứng ở bờ sông trước dinh ông Chánh mà ngó lên Cồn Gáo, người xem có cảm

giác như lạc vào miền lạ nào. Màu sắc hực hỡ của mấy mươi chiếc ghe mới sơn,

với đầu rồng, đầu phụng của nó gợi hình ảnh cuộc nam du của vua nhà Tùy, nhắc

nhở những thuyền rồng vua Lê, những hành cung của chúa Trịnh.

Những đuôi rồng, đuôi phụng cong quớt lên, lại gợi hình ảnh xứ Thái, xứ Miên

với những chiếc ghe hình rắn Na-Ta.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Tùy, vua Lê, Chúa Trịnh, xứ Thái, xứ Miên.

Hội được tiến hành theo các bước quy định sẵn. Đầu tiên, một hồi trống mấy

mươi chiếc ghe “chuyển mình, lượn tới” để xếp hàng. Tiếp sau, một tiếng súng, mấy

mươi chiếc phèn la “đánh lên một lượt”, mấy trăm tiếng người cũng “hô lên một lượt”

để ra hiệu khởi hành. Để về tới đích, dân bơi thường dùng “giầm” mà chém vào tay

nhau. Trận thủy chiến này có thể làm cả hai bên đều bị chậm lại phía sau. Vào đợt đua

nước rút, cuộc đua càng hào hứng. Kết thúc cuộc đua, ghe thắng sẽ đưa ba mươi chiếc

giầm sơn đỏ lên một lượt để chào quan khách và “Khán giả có ấn tượng như thấy một

con rít tới đó rồi ngã lăn đùng ra, đưa mấy trăm chân lên trời.”. Dân tham gia hội đua

đứng hai bên bờ sông hò la vang dậy như lời khen và chúc mừng chiến thắng.

Điểm chú ý của hội đua ghe là âm thanh “hè” và “phèng”. Tiếng phèng la dùng

để “chỉ định thời gian hạ giầm”. Tiếng hè xác định rõ thêm thời gian hạ giầm. Việc

làm này giúp dân đua ghe hạ giầm ăn rập với nhau, mấy mươi người đều cúi rạp xuống

cùng một lúc và bơi “giống hệt như người gỗ được cột dính với nhau”. Trong truyện,

tác giả có nhiều liên hệ thú vị từ hình dáng như “Mấy mươi chiếc ghe bơi, trông đàng

xa, như mấy mươi con thủy quái thời tiền sử”, hoạt động “Chúng trườn tới trên mặt

sóng như những con giao long hồ Động Đình”, màu sắc “Xanh, trắng, đỏ, vàng pha

trộn với nhau trên màu bạc của mặt nước phản chiếu ánh mai, lóng lánh như cá ngũ

sắc trong một chiếc bồn khổng lồ”.

67

Hội đua ghe là hội truyền thống của các làng ven sông Đồng Nai. Đây là cơ hội

cho các làng thể hiện sức khỏe dẻo dai, độ khéo léo, khả năng phối hợp đồng đội và

sức mạnh của tập thể. Ghe nào thắng trong cuộc đua ghe sẽ đem lại niềm tự hào về sức

mạnh của làng mình. Đây cũng là dịp cho các làng gặp gỡ nhau, thể hiện tinh thần

cộng đồng.

Như vậy, yếu tố về nghệ thuật dân gian và lễ hội dân gian trong các sáng tác

của Bình Nguyên Lộc tuy chưa phong phú và đa dạng trên nhiều mặt nhưng cũng giữ

vai trò quan trọng trong việc tái hiện nét văn hóa đặc sắc của nghệ thuật dân gian và lễ

hội dân gian của dân tộc, lưu giữ nét văn hóa truyền thống của cộng đồng.

2.3. Tri thức dân gian và ngữ văn dân gian

2.3.1. Tri thức dân gian

Văn hóa dân gian là kho tri thức về đời sống của nhân dân được lưu truyền từ

thế hệ này sang thế hệ khác. Thời còn cổ sơ, con người đã tận dụng những cái có sẵn

trong tự nhiên để phục vụ cuộc sống. Các vỏ cây, lá cây dùng làm trang phục. Các

hang động, khe đá để ở và sinh hoạt. Họ dùng cây để đâm cá, đá ném chim, tìm trái

rừng… để ăn. Khi tư duy con người phát triển hơn, họ biết sử dụng các điều kiện sẵn

có trong tự nhiên làm vật liệu phục vụ cuộc sống, đối phó với thiên tai, xây dựng nhà

cửa, mở mang đường xá… Tri thức dân gian từ đó được tích lũy dần qua quá trình lao

động sản xuất, quá trình thích nghi với thế giới tự nhiên và ứng xử trong các mối quan

hệ xã hội.

Trong các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, tri thức dân gian được thể hiện qua

kinh nghiệm. Từ kinh nghiệm truyền đời, họ xử trí các vấn đề trong cuộc sống, tích

lũy các kinh nghiệm trong lao động, sản xuất, các kinh nghiệm về thế giới tự nhiên.

Những kinh nghiệm mà dân gian có được trong quá trình sống, trải nghiệm và quan

sát thế giới xung quanh đã giúp người bình dân có nhiều vốn sống dựa trên quy luật

tái diễn nhiều lần. Vốn sống đó, xét về mặt khoa học, có thể đúng hoặc sai nhưng đều

được dân gian truyền miệng nhau để có tri thức xử lý các sự việc tương tự. Trong Đôi

bạn mắc hoa vông, ổ chó của nhà hàng xóm ông ngoại cô Tư bị trấn nước chết. Lí do

là vì sinh vào tháng giêng, tháng hoa vông trổ. Chó sinh vào tháng này hay bị bệnh dại

nên họ gọi “bệnh dại là chứng bệnh mắc hoa vông” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002).

68

Nguyên nhân chính chó dại là do tháng giêng thời tiết rất nắng. Vì thế, bất kì con chó

nào sinh vào tháng này chưa cần biết có bị bệnh hay không, họ đều trấn nước cho chết.

Những người đi săn bắt cọp (Săn cọp Đồng Nai) để biết cọp có gần mình không họ

dựa vào kinh nghiệm dân gian truyền lại như sự thính mũi của bò hay sự xuất hiện của

Mùi khét của cọp tỏa ra rất rộng. Bằng như mũi của ta quá kém thì bò nó sẽ báo

động cho ta, vì bò thính hơi cọp hơn ta, hễ đánh hơi được cọp là nó sợ, nhất định

không kéo xe đi tới nữa, đánh nó bao nhiêu nó cũng sẽ bất kể. Bằng như chính bò

cũng mắc chứng nghẹt mũi như con người thì sẽ có một tình báo khác thông tin

cho thợ săn biết rằng quanh họ, đang có cọp đi chơi đêm.

Có một loài chim mà lâm dân người mình gọi là chim từ quy. Nó chỉ là con chim

đỗ quyên chứ chẳng có gì lạ. Người thợ dân miền Nam gọi đùa con chim từ quy

là chim “xỉa răng cọp”. Nó đi theo cọp suốt ngày đêm, đợi khi cọp nằm nghỉ, há

miệng ra để nó ăn thịt thúi ở các kẻ răng cọp. Cọp rất khoái từ quy, vì thuê chuyên

viên xỉa răng khỏi tốn tiền mà! Hễ vào đâu mà nghe đỗ quyên kêu thê thảm là

chắc chắn gặp ông ba mươi rồi.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

chim đỗ quyên. Đây là những dấu hiệu cho thấy cọp rất gần đây.

Cô Tư (Lá rụng về…ngọn) sau khi cho con biết sự thật về cha đã trở nên có

khoảng cách với con. Chi muốn được rút vào người mẹ thì cô Tư lại lách mình ra xa.

Kiểu ứng xử này Bình Nguyên Lộc ví như kiểu gà mẹ và gà con “Khi gà mẹ và gà con

vừa mặc áo lá: mẹ cắn đuôi con để rã bầy, con luyến tiếc mẹ mà chẳng dám chạy

theo” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Cách liên tưởng, so sánh dân gian này, chúng

ta còn thấy trong nhiều tác phẩm khác của Bình Nguyên Lộc như “chạy vòng vòng

quanh nhà như gà mắc đẻ” (Đôi bạn mắc hoa vông), “Chạy như giông” (Săn cọp Đồng

Nai), “lặn giỏi như con rái”, “mạnh như con trâu cổ” (Không một tiếng vang), “chó

cái cứ dẫn đực cả bầy về nhà làm rùm như chó tháng bảy” (Chó điên)… Qua đây,

69

người đọc thấy một vốn liếng kinh nghiệm về lối so sánh dân gian khá phong phú của

Bình Nguyên Lộc.

Trong quá trình sinh sống, tri thức dân gian sẽ có vai trò quan trọng trong lao

động sản xuất, đời sống sinh hoạt của con người. Để nói về việc nuôi tằm, Bình Nguyên

Lộc thể hiện một vốn hiểu biết sâu rộng về nghề truyền thống này. Tác giả đã miêu tả

tới quá trình nuôi tằm lớn đến khi nhả tơ rất sinh động. Trong Mưa thu nhớ tằm, nhân

vật tôi ghé thăm bác Y. Bác kể cho nghe quá trình tằm chín trong nỗi nhớ tằm của

Thầy có thấy tằm “hén” chín đỏ bao giờ chưa? Trời, nó khéo và nó dễ thương

làm sao! Hén ngủ “thức lớn” rồi hén thức chơi với mình suốt bảy ngày, rồi hén

“chộ”. Xong là hén chín. Ban đầu một vài con, rồi cả nong đều chín đỏ như

người bạn trung thành đang đau khổ dồn hết bao nhiêu máu huyết lại để chuẩn

bị nhả tơ cho ta dùng. Thương biết bao nhiêu.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

mình.

Trong Người đàn ông đẻ, công việc nuôi và chăm sóc tằm được miêu tả chi tiết.

Các bước vòng đời của tằm được tác giả đặt trong câu chuyện hoàng hậu Ái Mỹ đi cắt

dâu và mang một con tằm đen về nuôi. Tằm sợ nước và cần được chăm sóc kĩ. Nó lớn

sáu ngày thì ngủ giấc ăn mốt, hôm thứ tám dậy ăn dâu. Tằm ăn bốn ngày thì chiều thứ

tư ngủ giấc ăn hai. Ngủ một ngày một đêm rồi dậy ăn bốn ngày rồi ngủ ăn ba. Tằm

thức bốn ngày rồi ngủ giấc lớn. Sau đó, tằm thức bảy ngày đến ngày thứ bảy đỏ ối,

ngày thứ tám toàn thân đỏ, phóng uế rồi nhả tơ. Tằm đã trải những đau khổ qua bao

ngày để nhả tơ quý cho đời. Bình Nguyện Lộc đi sâu vào miêu tả nghề truyền thống

dệt lụa tơ tằm của dân tộc Việt. Cách miêu tả cụ thể, sinh động việc chăm sóc cho tằm

nhả tơ khiến người đọc hiểu biết sâu hơn về quá trình nuôi tằm. Đồng thời, ta thấy trân

quý sự cần mẫn, chăm chỉ, khéo léo của người nuôi tằm để có những tấm lụa đẹp.

Bình Nguyên Lộc còn đem đến cả kho tri thức thú vị, những kinh nghiệm quý

về trị bệnh như “Phúc thống phục nhơn sâm… tắc tử” (Tre phải tàn). Cứu người chết

đuối bằng cách “xốc nước” (Không một tiếng vang, Tiếng vang trễ muộn). Ngày xưa,

70

ai bị chết đuối đều được người làng cấp cứu bằng cách này. Những tên ăn trộm chó thì

“không bao giờ dám ăn thịt chó”. Bởi theo kinh nghiệm thì ai ăn thịt chó đi ngang qua

sẽ bị sủa vì chó đánh hơi rất nhạy. Bên cạnh đó có cả những hiểu biết thú vị về ẩm

thực như “lòng chó đùm lá bạc hà”, “chem chép đùm lá chuối” (Chó điên). Theo kinh

nghiệm dân gian, những thứ đó kết hợp với nhau mới tạo nên được hương vị và độ

ngon của món ăn. Trong tác phẩm này, tác giả còn đề cập đến kinh nghiệm nhìn người

“Người uống rượu càng uống càng xanh người như thế sâu hiểm lắm”. Đây là cách

người bình dân “nhìn mặt mà bắt hình dong”, nhìn bề ngoài để đánh giá tính cách con

người. Tác giả còn thể hiện vốn hiểu biết về kĩ thuật đi ăn trộm của mấy tên trộm đêm.

Thông qua lời nói của ông Nam Thành (Đò dọc), Bình Nguyên Lộc miêu tả kinh

Gắn cây đèn cầy cháy trên lưng con cua rồi thả con cua vào nhà. Cua bò qua lại

trong nhà soi sáng cả mọi vật… Dùng một que tre thật nhỏ, thật dài để quơ trước

mặt. Que đụng phải cột, báo chúng biết để tránh mà không khua động… Hốt gạo

có sẵn trong túi mà ném tứ tung ra. Gạo chạm vào đồ đồng, đồ thau kêu leng keng

nho nhỏ, dẫn dắt chúng lại chỗ cất đồ quý.

(Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002)

nghiệm đi ăn trộm ở vùng quê thật độc đáo và đúng chất người bình dân xưa:

Cách họ đi ăn trộm cũng mang tính đặc thù của nông thôn Việt Nam. Họ dùng

cua, dùng que, dùng gạo là những vật dụng có sẵn trong nhà để làm dụng cụ hành

nghề. Những kinh nghiệm hành nghề ăn trộm này được người bình dân tích lũy và

truyền tai nhau. Dân trong nghề dùng đi ăn trộm còn dân bị trộm để họ biết cách phòng

chống.

Không chỉ là kinh nghiệm đi ăn trộm mà Bình Nguyên Lộc cũng chỉ ra cách đi

bắt trộm bò của dân làng. Nóp (Đành cam vào khám với tình… bò) vì thương con bò

bị ông Cả đem bán nên đã lần theo đường mà người mua bò đi mua hồi chiều. Khi vào

nhà ông Muôn, chui vào chuồng bò và gặp hai con bò của mình. Thế nhưng, Nóp bị

bắt. Trong tác phẩm, Bình Nguyên Lộc đã miêu tả cảnh bắt tên trộm bò của người

nông dân.

71

Người nông dân nghe động, nhứt là ngoài chuồng bò, họ lặng lẽ mở cửa để đi

rình, chớ không thắp đèn đi rọi mà nó biết thật nguy để mà giông.

Vì thế mà khi ông Muôn hô lên một tiếng thì cả nhà đã vây quanh chuồng bò đâu

từ hồi nào, và nó mà có cánh cũng không bay thoát được.

Bấy giờ người ta mới đốt đuốc lên, và chó mới ráp nhau mà sủa. Hàng xóm cũng

đốt đuốc chạy tới vì nghe ồn, biết có biến: họ hành động đúng như tình đoàn kết

ở thôn quê.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Người nông dân rất có kinh nghiệm trong việc đi bắt những tên trộm bò đêm.

Họ hành động cẩn thận, lặng lẽ và không thắp đèn. Chỉ khi đến sát bên, họ mới hô lên,

áp sát tên trộm. Trộm lúc này mọc cánh cũng không thể thoát được. Đặc biệt, kinh

nghiệm bắt kẻ ăn trộm bò này gợi lên không gian văn hóa làng xã, tính cố kết cộng

đồng cao. Tâm lý của người nông dân khi hàng xóm có chuyện là họ kéo qua để hỗ trợ

và giúp đỡ theo nếp sống “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”.

Tri thức dân gian thể hiện ở các quan niệm như gia đình nào có “mã chửa

hoang” (Lá rụng về… ngọn) thì truyền đời sẽ có người bị như thế; con gái tuổi dần thì

sát chồng (Đôi bạn mắc hoa vông) và vì thế con gái tuổi này thường rất khó lấy được

chồng; khi chọn vợ thì phải để ý dòng giống “mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng”

(Tì vết tâm linh); gái một con thì thường rất đẹp (Gieo gió gặt bão); con trai sinh năm

Nhâm Dần, tháng Nhâm Dần, ngày Nhâm Dần, giờ Nhâm Dần sau này sẽ làm vua (Lữ

bất vi nguyên tử). Chính những tri thức đúc kết từ thực tiễn như vậy nên người bình

dân dễ rơi vào đời sống tâm linh và suy nghĩ, làm theo những điều ông cha cho là

đúng. Những quan niệm như khi trẻ con mếu trong lúc ngủ là do “Bà mụ đánh, ai biểu

làm biếng học” (Gieo gió gặt bão), hay “Đừng đùa giỡn với bóng, khuya ngủ, nó dồi

chết” (Đò dọc) trong lời bà Nam Thanh mắng con gái út khi đêm mà vẫn còn giỡn lại

là sự lí giải thế giới xung quanh bằng các liên tưởng thú vị của người bình dân xưa.

Như vậy, tri thức dân gian là vốn kinh nghiệm của ông cha ta được lưu truyền

qua nhiều thế hệ. Trong sáng tác của mình, Bình Nguyên Lộc thể hiện vốn hiểu biết

72

phong phú về kho tàng tri thức dân gian và góp phần lưu giữ vốn tri thức của ông cha

để lại cho thế hệ sau.

2.3.2. Ngữ văn dân gian

Trong các yếu tố văn hóa dân gian thì yếu tố ngữ văn dân gian được tác giả sử

dụng với tần số nhiều nhất. Ngữ văn dân gian được xem là một bộ phận quan trọng của

văn hóa dân gian. Ngữ văn dân gian là kho tri thức về tự nhiên, xã hội; là đời sống vật

chất và tinh thần; là tiếng lòng, tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Ngữ văn dân gian gồm

có các thể loại như thần thoại, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ,

thành ngữ, ca dao, dân ca… Ngoài ra, ngữ văn dân gian còn có mối quan hệ gắn bó với

phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật… và sinh hoạt trong đời sống xã hội.

Bình Nguyên Lộc sử dụng các yếu tố ngữ văn dân gian trong các sáng tác như là cách

để ông trở với cội nguồn văn hóa dân tộc, trở về với sợi dây kết nối giữa truyền thống

và hiện tại. Nguyễn Q. Thắng, người bỏ ra nhiều công sức sưu tầm, tuyển chọn các tác

phẩm của Bình Nguyên Lộc đã khẳng định: “Ông có công sưu tầm được hàng chục

nghìn câu ca dao và có chú thích về từng đặc trưng của nó” (Nguyễn Q. Thắng, 1999).

Các yếu tố ngữ văn dân gian trở thành nguồn mạch chuyên chở tình nghĩa sâu nặng, tha

thiết của ông với quê hương.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã thống kê tần số xuất hiện yếu tố ngữ văn

dân gian trong bốn tập tuyển chọn và giới thiệu của Nguyễn Q. Thắng về Bình Nguyên

Lộc như sau:

Thể loại Tần số xuất hiện các yếu tố ngữ văn dân gian

Tiểu thuyết 89

Truyện ngắn 95

Tạp văn 33

Tổng cộng 217

Bảng thống kê các yếu tố ngữ văn dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc

Các tiểu thuyết Đò dọc, Khi Từ Thức về trần, Xô ngã bức tường rêu, Gieo gió

gặt bão, Tì vết tâm linh có 89 chất liệu ngữ văn dân gian. Trong truyện ngắn, 87 tác

phẩm khảo sát với 95 chất liệu ngữ văn dân gian được sử dụng. Trong tạp văn Những

bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, 17 tác phẩm khảo sát với 33

73

chất liệu ngữ văn dân gian được sử dụng. Như vậy, xét trên yếu tố này, người đọc sẽ

thấy việc sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân từ tục ngữ, thành ngữ, ca dao… trở

thành chất liệu không thể thiếu trên trang văn của Bình Nguyên Lộc. Trong ngữ văn

dân gian thì thành ngữ, tục ngữ, ca dao chiếm phần lớn. Đó là những đúc rút kinh

nghiệm gắn liền với cuộc sống, với các tín ngưỡng, phong tục tập quán, sinh hoạt dân

gian… Ngoài ra, sự xuất hiện của những tri thức dân gian và những câu chuyện cổ tích

trong tác phẩm của ông đã đem đến cho người đọc vốn hiểu biết phong phú, thú vị về

văn hóa dân tộc.

Trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc, về mặt tự sự dân gian và câu nói dân

gian, ông chủ yếu sử dụng thành ngữ, tục ngữ và một số các tích truyện. Thành ngữ

và tục ngữ được sử dụng nhiều trong lời ăn tiếng nói của dân tộc Việt, nhất là người

bình dân. Họ “Rất ưa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón; hoặc để

diễn đạt cho sinh động”, bởi vì “Khẩu ngữ ít nhiều “phóng túng” về mặt chuẩn tắc”

(Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, 2000). Khảo sát đặc điểm sử

dụng chất liệu thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc, tác giả thấy

thường nội dung thường quy về các vấn đề chính như thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá

hay bộc lộ thái độ, tình cảm của các nhân vật trong các mối quan hệ xã hội; sự đánh

giá của tác giả (người kể chuyện) trước sự vật, hiện tượng hay tính cách nhân vật.

Chính vì ưa dùng cách nói chuyện bằng ngôn ngữ bình dân, Bình Nguyên Lộc đã sử

dụng thành ngữ và tục ngữ với số lượng khá nhiều và bối cảnh vận dụng khá linh hoạt.

Trong truyện ngắn và tạp văn, Bình Nguyên Lộc sử dụng khoảng 69 câu thành

ngữ, tục ngữ. Mỗi thành ngữ, tục ngữ được vận dụng linh hoạt khéo léo để thể hiện

những triết lý hay những khái quát về cuộc sống. Khi Dừa (Cây đào lộn hột) có bầu với

văn sĩ Thanh, nó nhất định không chịu khai ra ai là chủ nhân của bào thai trong bụng

mình. Dừa bị ba má nó đánh. Các thành ngữ liên tục được nhắc đến để nói tình cảnh

Dừa bị đánh “nhất sanh nhứt tử” vì cái tội mà ba má mắng nó là “hư thân mất nết”. Ba

nó nói má nó “Con hư tại mẹ”, má nó lại nói nó tính y như ba nó “rau nào sâu nấy”, và

mình đã vất vả “mang nặng đẻ đau”. Hồng (Đứa con đủ tháng) xinh đẹp mà phải đi lấy

một bang già người Triều Châu. Vợ chồng nhân vật tôi thấy tình cảnh Hồng như “bông

hoa lài cắm bãi… c… trâu”. Trong Lá rụng về… ngọn , cô Tư hay suy nghĩ về việc con

74

gái sẽ quay về với cha của mình theo đạo lý xưa nay “lá rụng về cội”. Câu tục ngữ này

được nhắc tới bốn lần, ba lần là nguyên bản, còn nhan đề thì có biến đổi từ cuối. Sự xuất

hiện nhiều lần của câu tục ngữ trong tác phẩm thể hiện sự lo lắng “chín ruột chín gan”

của cô Tư về viễn cảnh sau này mà cô bất lực không làm gì được. Cô thấy con gái cô

giống y như cha nó “rau nào sâu nấy”, cái người “mặt chai mày đá”, đã “bát nước đổ

đi” với cô giờ lại về đòi con. Nhưng cuối cùng thì “Lá rụng về … ngọn” bởi tình yêu

thương mới là cốt lõi của đời sống tâm hồn con người Việt Nam. Trong tác phẩm Cái

nết đánh chết cái đẹp, tục ngữ “cái nết đánh chết cái đẹp” được nhắc tới bốn lần. Đây

là lời kết luận của Sanh sau khi bỏ Mai theo Dung, vì Dung nhan sắc, giờ lại trở về với

Mai. Cuối cùng, Sanh mới thấy cái quan trọng nhất là cái nết bên trong con người chứ

không phải hình thức bên ngoài.

Trong bốn quyển tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc, số lượng thành ngữ, tục ngữ

sử dụng khá nhiều, khoảng 74 chất liệu. Nội dung cơ bản của các thành ngữ, tục ngữ

Bình Nguyên Lộc vận dụng trong tiểu thuyết xoay quanh các vấn đề của cuộc sống.

Trong Đò dọc, thành ngữ, tục ngữ vận dụng trong nhiều khía cạnh. Sau khi chuyển về

Sài Gòn, gia đình ông Nam Thành không ngờ vẫn có tiếng súng đạn nên thành ra “chạy

ô mồ mắc ô mã”. Gia đình ông chuyển về vùng quê Thủ Đức để sinh sống. Long gặp

tai nạn ở dưỡng thương tại nhà ông Nam Thành. Khi Long và Hồng yêu nhau, Long

đã khẳng định tình cảm của mình đối với Hồng sẽ không thay đổi dù “vật đổi sao dời”.

Long cũng thấy Hoa em Hồng “núc ních trật chín, trật mười”, vì tình cảm bản thân

tiết lộ bí mật của chị. Trong tiểu thuyết Gieo gió gặt bão ngay tựa đề là tác giả đã dùng

tục ngữ để khẳng định triết lý của cuộc sống “gieo nhân nào gặt quả ấy” của ông cha

ta. Trong suốt tiểu thuyết, thành ngữ, tục ngữ sử dụng chủ yếu để miêu tả những thay

đổi trong tình cảm và xáo trộn trong gia đình ông Nho. Bà Nho vì muốn đạt mục đích

có đứa con cho chồng đã dùng mưu làm cho chồng thích Liên, cháu bà Nho. Sau những

mưu toan phải “cắn răng bóp bụng”, “trăm mưu ngàn kế”, “táng tận lương tâm”, bà

Nho đã đạt được mục đích ông Nho và Liên có con với nhau. Nhưng cuối cùng bà lại

mất tất cả, chồng bà bị Liên buộc phải về ở chung sau khi biết âm mưu của bà và những

“trăm đắng ngàn cay” mà cô phải chịu đựng. Tuy nhiên, kết thúc truyện Bình Nguyên

Lộc cũng theo lối ứng xử của người bình dân nhân hậu, biết tha thứ. Cả ba người cuối

75

cùng cũng dung hòa được với nhau. Liên trả Nho về cho Hảo và hứa thỉnh thoảng cho

đứa bé qua chơi. Trong Xô ngã bức tường rêu, thành ngữ, tục ngữ lại được tác giả vận

dụng vào mối quan hệ giữa Tâm và gia đình Xíu Tin, gia đình gốc Trung Hoa. Vì thế,

tác phẩm xuất hiện thành ngữ mới của miền Nam như “chệt chìm tàu” nói về những

biến cố của người Trung Hoa. Các thành ngữ thể hiện tình cảnh của Tâm khi yêu Xíu

Tin mà chàng phải trải qua như “chia sẻ ngọt bùi” với anh Xíu Tin, phải “ngậm đắng

nuốt cay” đi dạy học để có tiền giúp đỡ anh trai nàng. Tiểu thuyết Khi Từ Thức về trần

nói về việc Sở bị mất trí sau một lần tai nạn. Sau thời gian lưu lạc, Sở trở về nhà thì

mọi thứ đều thay đổi. Nhan đề có gợi lên câu chuyện cổ tích về chàng Từ Thức trở lại

trần gian, sau thời gian sống ở động Đào Nguyên đẹp như tiên cảnh. Mọi thứ trở nên

xa lạ, thay đổi không nhận ra được. Sở đã trở nên lạ lẫm trong chính ngôi nhà của

mình. Con sợ bố “giục hưỡn cầu mưu” (kéo dài thời gian để tìm mưu kế), vợ thì đã đi

bước nữa. Sở quyết định ra đi cho “ba vuông bảy tròn”. Từ nhan đề đến diễn biến câu

chuyện của Sở như câu chuyện cổ tích tái diễn giữa đời thường. Câu chuyện tình yêu

của Tâm và Liễu trong Tì vết tâm linh cũng là một tình yêu gặp trắc trở. Liễu bị di

truyền từ dòng họ căn bệnh Cynisme mà tạm dịch là “mặt dạn mày dày” (dạn dĩ trong

vấn đề quan hệ nam nữ và thích phơi bày thèm khát của bản thân). Vì thế, Liễu dù có

“khuê môn bất khuất” thì cũng không thoát khỏi yếu tố di truyền này. Lưu biết được

sự thật về gia đình Liễu qua quyển nhật ký cướp chồng bạn của bà nội nàng và những

khát khao thèm muốn về quan hệ thân xác. Chàng cũng nhận thấy yếu tố di truyền

trong con người nàng qua nhiều lần quan hệ. Khi Liễu cũng đọc được nhật ký này nàng

đã bị điên và phải vào điều trị tại bệnh viện tâm thần. Lưu đã được bác sĩ Cần khuyên

không nên tiếp tục mối quan hệ này bởi “mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng” để

tránh vấn đề về sau.

Những khái quát hiện thực khách quan, những kinh nghiệm trong quá trình chinh

phục tự nhiên, lao động sản xuất và sinh hoạt của người bình dân được nhà văn tái

hiện sống động, chân thực. Những câu thành ngữ, tục ngữ được vận dụng trong sinh

hoạt, trong những trải nghiệm của bản thân các nhân vật làm cho văn hóa dân gian

gần gũi với đời sống cần lao hơn bao giờ hết. Chân dung nhân vật được vẽ lên từ ngôn

ngữ đời thường giàu tính chân thực, biểu cảm. Trong tình huống cụ thể nào đó, con

76

người Nam Bộ sẽ rút ra được bài học, kinh nghiệm ý nghĩa cuộc sống phù hợp với

hoàn cảnh cụ thể của riêng mình.

Trên trang văn của Bình Nguyên Lộc, một số câu chuyện cổ tích đã được tái hiện

sinh động. Ngoài tác phẩm Khi Từ Thức về trần như đã nêu ở trên, câu chuyện được

gợi ra từ cuộc sống của thầy giáo trong Rung cây dừa cũng được ví như cuộc hành

trình trở về của Từ Thức. Thầy giáo sau khi bỏ làng đi vì bị phụ tình đã mới nhận thức

mình “chạy ô mồ mắc ô mã”. Lối sống mới khó dung hòa nơi đảo Củ Tron y như tình

cảnh Từ Thức trở về trong bơ vơ, lạc lõng. Trong Câu dầm, một thế giới sông nước

hoang sơ hiện lên với nhiều câu chuyện huyễn hoặc thách thức sự dũng cảm những kẻ

đi câu. Câu dầm được “Viết theo một chuyện cổ tích của làng Tân Uyên để tặng những

đứa con yêu mến của Tân Uyên đã xiêu bạt khắp mọi nơi sau mùa tiêu thổ 1945”. Câu

chuyện về Thần Cù, Cặp Cá Bóng tu dưới chùa ông, Cặp cù gáy cháy chợ đã làm sống

lại không khí huyền thoại cho tác phẩm. Các câu chuyện thêu dệt nên thế giới hoang

Rõ ràng là một vương phủ. Dinh cất bằng đá cẩm thạch, cột chạm rồng cẩn ốc xà

cừ, ngói bằng vảy đồi mồi, lâu năm lên nước đẹp chưa từng thấy. Ngai của Thần

Cá Bóng đặt ngay trước thềm bằng san hô và huyền ráp mối lại rất khéo léo.

Thần Cá Bóng ngự trên ngai, bên hữu có Thần Bà, bên tả một vị thần còn trẻ,

đứng chớ không ngồi. Vị thần trẻ nầy trên môi mang một vết thương còn mới ràng

ràng. Trước sân, binh tôm, tướng cá hầu hạ đông không biết bao nhiêu mà kể.

Còn hương trầm thì phưởng phất thơm, nhạc thần vẳng nghe đâu đó.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

đường nơi có Thần, có vương phủ, có ngai, có thần, có binh tướng :

Thế giới sông nước này là nơi con người đặt niềm tin vào tính hướng thiện, tin

vào thế giới tâm linh có sức cảm hóa lớn. Câu chuyện dân gian về “chàng niên” trong

tác phẩm Thèm người là sự lý giải cho hiện tượng nhiều người sau thời gian lạc vào

chốn rừng sâu thâm sơn cùng cốc đã bị thay đổi hình dạng. Câu chuyện về những

người sử dụng ngải và nửa đêm ngậm ngải đi tìm trầm và bị biến thành chàng niên

Thứ ngải đó mạnh lắm… hễ ngậm nó vô miệng thì nó làm cho mình mạnh thêm…

được dân làng truyền tai nhau.

77

Trái lại ngải nó thấm nó làm mắt đỏ ngầu, tóc dửng lên, miệng bành ra, con gì

thấy cũng phải khiếp sợ. Mà điều hễ gần sáng, về tới nhà, gõ cửa, vợ con phải

vác chổi chà mà đập lên đầu dã cho dã ngải không thôi thì nó lậm vô, hóa chàng

niên chạy trở lại rừng.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Chàng niên trong câu chuyện này là người đàn ông tên Khoa. Khi thấy vợ mình

gặp mặt người yêu cũ, Khoa đã ghen và lôi vợ vào rừng định bắn hoặc đâm chết. Thế

nhưng, Khoa không làm được nên hóa điên chạy vào rừng bị khỉ cái bắt. Sau thời gian

sống trong rừng, Khoa khao khát trở về nhà. Khoa đã xuất hiện ngay trước nhà anh

chín Rắc khiến mọi người hoảng sợ tưởng anh là chàng niên. Câu chuyện chàng niên

họ đem ra kể với nhau gợi nên cuộc sống còn hoang sơ và niềm tin hồn nhiên vào

những câu chuyện dân gian được kể lại.

Người đàn bà trong truyện Xác không chôn rơi vào cảnh “đá vọng phu” khi đã

khỏi bệnh tâm thần nhưng không được về nhà. Quy định của bệnh viện muốn được ra

viện là phải có chồng vào đón. Người đàn bà cứ thế chờ đợi trong vô vọng. Tác giả

dùng tên tích truyện để nói lên tình cảnh bơ vơ, chờ đợi mỏi mòn để được về nhà của

những bệnh nhân đã khỏi bệnh nhưng vì lí do bí mật nào đó họ không được đón cũng

như không được biết.

Chất tự sự dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc được vận dụng khá

sinh động và thể hiện nét văn hóa của người Nam Bộ trong lối sống, ứng xử đậm tính

truyền thống và bản sắc. Bên cạnh đó, ca dao thuộc trữ tình dân gian lại đi sâu vào

miêu tả thế giới tình cảm của người bình dân, những đặc điểm vùng miền trong quá

trình lịch sử gắn liền với đời sống xã hội. Đời sống tình cảm của người dân Nam Bộ

chân chất mộc mạc trong những câu ca dao đầy yêu thương tình nghĩa. Đó là tình cảm

say đắm của anh Tư Được (Người đẹp ven sông) với cô gái trên bảng quảng cáo ven

sông “Sông dài cá lội biệt tăm/ Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ”. Đó cũng

là tình cảm nhớ cảnh cũ người xưa khi trở về nhà của ông Sở (Tì vết tâm linh) “Ghe

lui khỏi bến còn giầm/ Người thương xa vắng chỗ nằm còn đây”. Để thể hiện tình cảm

của các nhân vật, tác giả đôi khi dùng lối nói “nghe câu hát ru” ở đâu vọng lại như

78

thay lời muốn nói của người trong cuộc. Thân và Lam ngồi nói chuyện trước khi chia

tay Thân lên Sài Gòn làm việc. Tiếng hát của chị hàng xóm vang lên đúng tình cảnh

của cả hai người “Nắng bấy lâu dây bầu không héo/ Mưa sụt sùi bầu lại héo dây”

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Ca dao còn được dùng để thể hiện đời sống xã hội và đặc trưng vùng miền.

Trong Đò dọc, người đọc thấy đặc điểm của miệt Tân Ninh “Lấy chồng về miệt Tân

Ninh,/ Kéo dây giếng ba mươi sải, thất kinh ông bà”. Trong Quyển gia phổ, người đọc

thấy văn hóa ẩm thực người phương Bắc của các lưu dân “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối

đỏ/ Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Trong Mưa thu nhớ tằm, người đọc thấy

đặc điểm nghề nuôi tằm “Thương tằm cởi áo bọc dâu/Ngỡ tằm có nghĩa hay đâu bạc

tình” hay “Em tôi buồn ngủ buồn nghê/ Con tằm đỏ chín, con dê đỏ mùi”. Trong Xe

lửa Mỹ bung vành, người đọc thấy tình cảm con người gắn bó tha thiết với nơi họ từng

có thời gian dài qua lại “Ù… ơ… Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành/ Tàu Tây lủng đáy

anh mới đành xa em”. Người đọc cũng thấy một Sài Gòn với nhiều đặc trưng của một

thủ phủ miền Nam. Đặc biệt đời sống tình cảm con người Sài Gòn gắn liền với những

câu ca dao như: “Bắp non mà nướng lửa lò/ Đố ai ve đặng con đò Thủ Thiêm” (Quà

đêm trên sông Ông Lãnh). Hình ảnh bắp non nướng và con đò Thủ Thiêm chắc gắn

chặt với tình cảm các chàng trai dành cho cô lái đò xinh đẹp và vì thế nên “Cái hương

vị bắp non được nướng lửa đượm trong lò có thơm mãi, thơm mãi trong miệng rồi

trong hồn, thì mới gắn con người với con đò và cái tên Thủ Thiêm…” (Đoàn Lê Giang,

2001).

Những câu ca dao cũng thể hiện những thay đổi trong đời sống sinh hoạt, đời

sống tình cảm. Trong tác phẩm Vắng bia đá thì hỏi bia miệng, Bình Nguyên Lộc mô

phỏng cuộc đối thoại của một người với bia miệng Sài Gòn theo kiểu kết cấu hát đối

đáp trong ca dao. Theo Cao Huy Đỉnh thì lối đối đáp này thuộc kiểu cấu tứ “hỏi, đố

nhau” (Cao Huy Đỉnh, 1999) và đây là kiểu của “sinh hoạt tập thể, có thể diễn ra khi

lao động, vui chơi, hội hè…” (Nguyễn Thị Ngọc Điệp, 2015). Trong tác phẩm, tác giả

đã vận dụng linh hoạt kết cấu đối đáp này để tái hiện lại Sài Gòn. Trong cuộc dạo chơi

của một vị khách đang tìm hiểu về vùng đất, sau mỗi câu hỏi của khách và câu trả lời

của bia miệng, người đọc thấy Sài Gòn hiện lên là bức tranh hiện thực của một xã hội

79

đang có sự xâm lấn ồ ạt của văn hóa phương Tây. Ngôn ngữ đặc trưng của nền văn

hóa đang bị ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai với nhiều hoài nghi “Bạc lê (nói) vẽ sứa,

em giận đứa măng tơ (nói láo)/ Thằng gì mà nghi ngại bá vơ/ Sài thành em dạo cảnh,

nó nghi ngờ em bán duyên” kéo theo nhiều sự thay đổi “Chợ cũ nay đã tan tành/ Sài

Gòn em ở lại, Bắc Thành anh dời chơn”, “Cây đa chợ Đũi/ Nay đà trụi lũi/ Trốc gốc

mất tàn/ Tình xưa còn đó/ Ngỡ ngàng phồn hoa” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002).

Việc sử dụng yếu tố ngữ văn dân gian trong sáng tác không phải là đặc điểm

riêng trong phong cách sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Thế nhưng, cái đáng ghi nhận

của ông đó là sự kết hợp hài hòa giữa chất dân gian trong lối viết văn hiện đại. Trong

toàn bộ các sáng tác của mình, việc dẫn chất liệu ngữ văn dân gian của ông rất tự

nhiên, giản dị như chính đời sống thuần hậu của con người vùng đất mới này. Chất

dân gian tạo nên bản sắc văn hóa vùng Nam Bộ và ông đã góp phần công sức của

mình trong lưu trữ kho tàng văn học dân gian phong phú của dân tộc.

Tiểu kết

Miền Nam Việt Nam giai đoạn này ở trong cơn biến động dữ dội của lịch sử.

Vùng đất Nam Bộ vừa là có sự cộng sinh, nhập cư của nhiều dân tộc vừa phải chịu sự

xâm nhập của văn hóa phương Tây. Khi các hệ giá trị, văn hóa, xã hội đang có nhiều

thay đổi, khi nhiều nhà văn vùng tạm chiếm thường phản ánh đời sống xã hội với

những đổ vỡ, mất mát, Bình Nguyên Lộc tìm về với văn hóa cội nguồn. Hình ảnh con

người Nam Bộ luôn gắn liền với các giá trị văn hóa. Các phong tục, tập quán hàng

ngày của cư dân nông nghiệp lúa nước, các tri thức, tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật dân

gian được tái hiện sinh động, đa dạng trên trang văn của Bình Nguyên Lộc. Chất liệu

ngữ văn được vận dụng linh hoạt giàu giá trị thẩm mỹ. Qua các yếu tố văn hóa dân

gian, người đọc thấy được chân dung những con người đời thường, bình dân giản dị.

Con người gắn bó với quê hương, bản quán, ý thức cội nguồn như những “Cuống rún

chưa lìa”. Họ mang theo những giá trị văn hóa bền vững gắn liền với tình yêu quê

hương, đất đai, cội nguồn. Họ có vẻ đẹp chân phương, mộc mạc, mang nặng kí ức mở

cõi, khát khao xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp cho con cháu đời sau. Qua con người

Nam Bộ, người đọc có thể cảm nhận nền văn hóa độc đáo, giàu bản sắc dân tộc.

80

Bình Nguyên Lộc là một trong những tác giả văn xuôi thuộc khuynh hướng

khẳng định giá trị truyền thống. Ông đã có những đóng góp quan trọng cho văn học

giai đoạn 1954 - 1975 về quan niệm sáng tác cũng như lưu giữ kho tàng văn hóa dân

gian trên trang văn của mình. Đồng thời, qua sáng tác của mình, ông cũng góp phần lí

giải cho sức sống vững bền, bản lĩnh dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập và giữ

vững bản sắc văn hóa.

Chương 3. YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG SÁNG

TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Yếu tố văn hóa dân gian không chỉ được thể hiện trên phương diện nội dung mà

còn có vai trò quan trọng tạo nên hiệu quả nghệ thuật cho tác phẩm. Yếu tố văn hóa

dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc đã giúp nhà văn tạo dựng nên một không

gian văn hóa Nam Bộ trên trang văn của mình. Trên nền không gian văn hóa ấy, các

nhân vật được xây dựng chân thực, sinh động mang những nét tính cách cơ bản, đặc

trưng của người dân Nam Bộ.

81

Yếu tố văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo, uyển chuyển đã góp

phần làm nên vẻ độc đáo trong cách tổ chức giọng điệu và kết cấu của tác phẩm. Có

thể nói, tình yêu với quê hương xứ sở, với cội nguồn văn hóa dân tộc đã đem lại cảm

hứng sáng tạo nghệ thuật cho Bình Nguyên Lộc. Ông cùng các nhà văn Nam Bộ khác

đem lại cho vùng đất mới Nam Bộ vẻ đẹp chân thực, độc đáo và đa dạng.

3.1. Vai trò của các yếu tố văn hóa dân gian trong xây dựng nhân vật

3.1.1. Nhân vật hướng về “nguồn cội”

Nam Bộ là vùng đất với các đặc điểm thú vị về tự nhiên, thổ ngơi, con người.

Nơi đây đã trở thành đề tài được nhiều thế hệ nhà văn khám phá, khắc họa trong các

sáng tác của mình như Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Anh

Đức, Nguyễn Mạnh Tuấn... Những hình tượng con người ở vùng đất mới này đã trở

thành những “mẫu” người điển hình cho tính cách đa dạng, đặc trưng của Nam Bộ.

Họ là những con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp của thế hệ tiên phong trong công

cuộc khẩn hoang và làm kinh tế mới. Họ đem đến cho vùng đất mới những giá trị vật

chất, tinh thần vừa giàu tính nhân văn, thẩm mĩ vừa tạo nên bản sắc văn hóa, phong

tục riêng biệt. Cả cuộc đời Bình Nguyên Lộc gắn liền với vùng đất Nam Bộ. Vì vậy,

viết về con người ở vùng đất Nam Bộ như là nhu cầu tự thân của ông. Nguyễn Thị Thu

Trang khi nghiên cứu về Con người và văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Bình

Nguyên Lộc đã nhấn mạnh Bình Nguyên Lộc “hay viết về người nông dân nghèo gắn

bó mật thiết với mảnh đất, căn nhà lâu đời của mình”. Họ là nơi để ông ký thác vào

đó “cuộc sống đa dạng, phong phú” và “quan niệm đạo đức xã hội” (Nguyễn Thị Thu

Trang, 2007).

Nhân vật là yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học. Qua nhân vật, tác giả

miêu tả thế giới và tái hiện lại thế giới ấy trong các sáng tác của mình. Trần Đình Sử

(2010) khẳng định “Nhân vật là phương tiện tư duy về hiện thực và định hướng giá trị

con người”. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc đã góp phần giúp

ông thể hiện triết lý, trạng thái nhân sinh, tư tưởng, quan điểm của ông về cuộc sống.

Nó tạo nên “đặc điểm nhân vật, khuynh hướng ý chí và là quy luật hành động của nhân

vật” (Trần Đình Sử, 2010). Nhân vật trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc đậm chất

văn hóa dân gian từ cách sinh hoạt, lời ăn tiếng nói, ứng xử, nếp sống.

82

Miêu tả phong tục tập quán, tín ngưỡng của con người miền đất Nam Bộ là

cách để nhà văn xây dựng nên chân dung những nhân vật có đời sống tình cảm, tâm

hồn gắn với tâm thức cộng đồng, với cội nguồn dân tộc. Đó chính là lối sống “Uống

nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” trong truyền thống của dân tộc Việt.

Các nhân vật với chân dung của những con người biết tri ân tiền nhân, có lối sống

giàu tình nghĩa với quê, với người. Trong đó, tri ân tiền nhân, tri ân những người đi

mở cõi, giáo dục con cháu đời sau đạo lý sống đã trở thành nét đẹp văn hóa trong các

sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Ông nội thằng Cộc trong Rừng mắm giảng giải cho

Cộc hiểu đức hi sinh của thế hệ đi trước khi dời xa quê đến nơi “sơn lam chướng khí”

rằng: “Ông với lại tía con đây là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm,

chân vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là

xoài, mít, dừa, cau. Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt

trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng”. Khi thằng Cộc đòi trở

về quê vì không chịu nổi cuộc sống thiếu vắng tiếng người, ông nội nó đã giúp nó hiểu

rằng “Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi” và sống thì cần phải biết

nghĩ cho thế hệ sau “Vả lại con không thích hi sinh chút ít cho con cháu của con

hưởng sao” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Lịch sử bao giờ cũng cần những lớp

người tiên phong như thế. Họ góp phần công sức tạo dựng nên đất nước và thế hệ con

cháu cũng phải tiếp nối truyền thống quý báu này. Trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn

Khoa Điềm, nhà thơ cũng đã khẳng định tầm quan trọng của những thế hệ tiên phương

này trong công cuộc mở đất “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng/ Họ truyền lửa

qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi/ Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói/ Họ

gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân/ Họ đắp đập be bờ cho người sau

trồng cây hái trái” (Nguyễn Khoa Điềm, 1974). Nhân vật Năm Hên của Sơn Nam

(Bắt sấu rừng U Minh Hạ) cũng cất tiếng hát “Hồn ở đâu đây/ Hồn ơi! Hồn hỡi/Xa

cây xa cối/ Đầu bãi cuối gành/ Hùm tha, sấu bắt/ Bởi vì thắt ngặt/ Manh áo chén cơm/

U Minh đỏ ngòm/ Rừng tràm xanh biếc/ Ta thương, ta tiếc/ Lập đàn giải oan... ” (Sơn

Nam, 2011) trong nỗi niềm thương nhớ tổ tiên, bạn bè, những người đã bỏ thây trong

công cuộc chinh phục miền đất mới. Niềm kiêu hãnh của người mang sứ mệnh khai

mở đất đai, lòng biết ơn tổ tiên đã trở thành phong tục, thành đặc trưng văn hóa của

83

người Nam Bộ.

Lớp người đi tiên phong mở đất họ phải lìa xa quê hương. Họ coi trọng tín

ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thần phật, Thần hoàng...Chính vì vậy, xây dựng những

nhân vật sống với tâm linh tín ngưỡng và luôn hướng về cội nguồn là điểm nổi bật

trong các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Gia đình Sáu Nhánh (Phân nửa con người)

cúng vào sáu giờ sáng để “khách khứa ăn giỗ xong còn ra đồng làm lụng” hoặc vào

chính ngọ, lúc “thuyền nào cũng bị kẹt tại vàm này và như thế mới có khách” (Bình

Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Người thiếu phụ trong Chiêu hồn nước của Bình Nguyên

Lộc đã trang hoàng căn buồng thuê “nào tranh gà, tranh lợn, tranh Tàu trên vách,

đặc biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên chiếc bàn con với gần đủ đồ thờ, bình hương,

độc bình, đèn, nhang” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002) mặc dù chỉ về thăm quê được

vài ngày Tết. Chị nhớ tổ tiên, cảm giác đơn côi, lạc loài nên cần chút gì để vơi đi nỗi

sầu xa xứ. Gia đình ông Nam Thành (Đò dọc) tới nơi ở mới nhưng vẫn “lu bù” làm

bánh tét, bánh ít cúng giỗ. Dân làng Chánh Hưng (Mẹ tôi tái giá) lập miễu “Ông” để

Thần hoàng linh thiêng phù hộ cho dân làng.

Nhân vật của Bình Nguyên Lộc trong tâm thức luôn khắc khoải về cội nguồn

của mình. Những con người yêu nước, nhớ đất, nhớ quê, thiết tha với quê hương xứ

sở, gia đình trở thành cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của ông. Để dựng nên chân

dung những con người đó, Bình Nguyên Lộc đã tái hiện những phong tục tập quán

trong cuộc sống sinh hoạt, trong nếp nghĩ luôn hướng về truyền thống của họ. Ông

Hương Quản (Bảo mật) hủy dung nhan con gái để con không ra khỏi làng nhằm giữ

tục “gái trong làng chẳng được lấy chồng xa” và bảo vệ nghề gia truyền làm đường

phổi. Ông Sáu trong Nỗi buồn của người sắp chết nhắm mắt không yên vì chưa dạy

được nghề đóng cối xay gia truyền cho thằng con út. Mấy người dân xóm Sỏi (Những

ngôi mả cổ) nhất định không dời nơi họ sinh sống lâu đời dù cho bọn người khai thác

đá có dùng nhiều tiền để mua chuộc. Họ không quên cội nguồn, không quên truyền

thống văn hóa làng xã đã ăn sâu vào tâm thức của cộng đồng, dân tộc trong suốt tiến

trình lịch sử mấy nghìn năm dựng nước, giữ làng. Nhân vật Hoàng sau một thời gian

dời xa làng nay cũng khao khát trở về vì nỗi nhớ quê. Họ yêu nếp nhà “chứng kiến

bao nước mắt, bao nụ cười của bao thế hệ trong dòng họ”. Họ muốn gắn bó với

84

“những vuông ruộng sau nhà mà nơi đó lưỡi cày của tổ tiên ta đã lặn hụp từ mấy ngàn

năm” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Vì thế Hoàng trong Đất không chết kiên quyết

từ bỏ đô thành xô bồ, ồn ào, lạc lỏng để trở về với đất, trở về với khát vọng cải tạo đất,

bảo vệ đất để đất không bị lãng quên, hoang hóa. Họ cần cù, nhẫn nại, bám đất, giữ

làng, giữ nghề gia truyền của gia đình, quê hương.

Nhân vật trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc cũng luôn coi trọng gia đình,

dòng họ, tổ tiên của mình. Gia đình anh Mun thợ mộc vì đời sống khó khăn phải đi

nơi khác kiếm sống nhưng vẫn âm thầm quật mồ và mang mồ mả ông bà đi theo trong

Mấy vụ quật mồ bí mật. Con Nhộng trong Má ơi, má! cho đến khi chết vẫn lo cho má

nó, gọi “má ơi! má” rồi tắt hơi thở cuối cùng. Cô Tư trong Lá rụng về ...ngọn luôn lo

lắng con gái sẽ trở về với cha của nó nhưng cuối cùng thì đứa con ấy vẫn mong muốn

được ở bên bà “Con mong ước được trở về với má” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Trong tiểu thuyết Đò dọc, gia đình ông Nam Thành chuyển về vùng quê sống. Nơi này

cuộc sống tuy khác với Sài Gòn nhưng gia đình ông vẫn giữ nếp nhà trong mỗi buổi

sinh hoạt gia đình, vẫn “Nỗi nhớ xứ, nhớ nhà mênh mông như là họ đã lìa khỏi quê

cha đất tổ” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002). Gia tộc họ Tôn (Tre phải tàn) vẫn giữ

nhà thờ họ và mỗi lần giỗ con cháu có trách nhiệm quy tụ về nhà thờ họ này. Gia đình

anh Tồn trong Quyển gia phổ vẫn lưu giữ quyển sổ ghi chép “…dòng họ cổ nhứt miền

Nam… mồ mả những mười hai đời và gia phổ chép đến mười lăm đời” (Bình Nguyên

Lộc (tập 1), 2002).

Những tri thức dân gian, những kinh nghiệm truyền đời, những lời răn dạy con

cháu bằng tục ngữ, thành ngữ mà các nhân vật sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày được

Bình Nguyên Lộc tái hiện trên trang văn của mình. Đây cũng là cách để nhà văn khắc

họa chân dung nhân vật “nguồn cội” của ông. Ông Nam Thành (Đò dọc) đã miêu tả tỉ

mỉ cách ăn trộm của người nông dân như “gắn đèn cầy trên lưng con cua”, “dùng que

thật nhỏ thật dài để quơ”, “ném gạo tứ tung”. Thằng Nóp (Đành cam vào khám với

tình… bò) bị dân làng bắt trong chuồng bò cũng vì người dân có kinh nghiệm bắt trộm

bò đêm “họ lặng lẽ mở cửa đi rình”, và khi áp sát họ mới hô lên một tiếng và “vây

quanh” khiến trộm khó thoát được. Họ cứu người chết đưới bằng xốc nước (Tiếng

vang trễ muộn, Không một tiếng vang). Kinh nghiệm lựa chọn vợ của họ là “mua heo

85

chọn nái, cưới gái chọn dòng” (Tì vết tâm linh)…Những tri thức dân gian mà các nhân

vật ứng dụng trong cuộc sống một cách nằm lòng bởi họ là con người của truyền thống

văn hóa, của “cuống rún chưa lìa” luôn hướng về nguồn cội. Ngoài ra, họ hay sử dụng

những thành ngữ, tục ngữ để răn dạy con cháu về những đạo lý của dân tộc. Khi con

Dừa (Cây đào lộn hột) không chồng mà chửa. Thím Đán đã kéo nó lại và nói “Cả dòng

họ tôi, bên nội bên ngoại có ai mà hư thân mất nết như vầy hay không nè”. Lời nói

của thím Đán chính là lời đánh giá hành động sai trái nông nổi của con Dừa. Câu nói

của cô Tư (Lá rụng về… ngọn) với con gái về người đàn ông phụ bạc mình “Con người

sao mà mặt chai mày đá. Có ai bát nước đổ đi rồi vòn hốt lại được đâu” là cách nhìn

nhận đánh giá về con người tệ bạc đó. Ông Nam Thành (Đò dọc) đã nói với vợ con về

việc phải về quê vì “tọa thục sơn băng” (miệng ăn núi lở) và “tấn về nội, thối về ngoại”

để nói cho con hiểu cuộc sống phải thay đổi phù hợp với hoàn cảnh. Má của nhân vật

tôi (Tình thơ dại) đã mắng chú Thuận “hư thân mất nết” vì cứ quan tâm đến mấy cô

đào hát. Lời nói có tính nhắc nhở hành động chú Thuận là không phù hợp.

Bình Nguyên Lộc đã khai thác sâu đời sống sinh hoạt, tập quán sinh hoạt để

thấy được sợi dây liên hệ giữa người với người trong cộng đồng ấy chính là nghĩa tình,

dù họ là ai. Có lẽ, mỗi cá nhân, nhất là khi đứng trước những thử thách của đời sống

hiện tại luôn được đặt vào tình thế phải ứng xử cho hợp lẽ đời và tình người. Giai đoạn

này Sơn Nam quan tâm đến “lịch sử khẩn hoang miền Nam”, Bình Nguyên Lộc tìm

về với cảm hứng “nguồn cội” và ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc

về đề tài này. Đặc điểm tính cách này đã được Nguyễn Thị Thu Trang nhận xét như

sau:

nhận mạo hiểm. Người Việt vốn có xu hướng sống liên kết chặt chẽ với nhau theo

quan hệ huyết thống và quan hệ làng xã, dẫn đến mặt trái là tâm lí an phận thủ

thường, ngại thay đổi; thói dựa dẫm, ỷ lại; thái độ phân biệt dân chính cư và ngụ

cư... Lưu dân ở Nam Bộ đã khắc phục được điều này. Từ nhiều nguyên cớ khác

nhau, số phận đã đưa đẩy họ đến phương Nam xa lạ. Ý chí sinh tồn buộc họ thành

Điều đáng nể ở các nhân vật trên hành trình mở đất là khát vọng dấn thân, chấp

86

người đi chinh phục miền đất mới. Họ chấp nhận dấn bước, để vượt thoát sự truy

đuổi của đói nghèo, của cường quyền, dù họ không thể giũ bỏ mặc cảm lưu lạc,

tha hương, sự lo lắng, bất an về tương lai vô định.

(Nguyễn Thị Thu Trang, 2015)

Nam Bộ vào khoảng những năm giữa thế kỷ XX là nơi đang diễn ra sự hội

nhập, giao lưu và phát triển. Vì thế, con người Nam Bộ không thuần nhất mà họ đến

từ nhiều vùng đất khác nhau, cộng cư của nhiều tộc người khác nhau. Trong cuộc sống

mưu sinh còn nhiều khó khăn, vất vả, con người vùng đất này vừa học hỏi, vừa dung

hòa các mối quan hệ để sinh tồn và phát triển. Các nhân vật trong sáng tác của Bình

Nguyên Lộc hiện lên là những người dân Nam Bộ sống nghĩa tình, vị tha, luôn hướng

về nguồn cội.

Những sinh hoạt trò chơi truyền thống cũng là yếu tố văn hóa dân gian quan

trọng mà Bình Nguyên Lộc sử dụng để thể hiện tình cảm hoài niệm với quá khứ của

nhân vật. Trong tác phẩm Qua lối cũ, Nhâm khi tham gia các trò chơi trẻ thơ như thầy

bắt rắn “mạnh thầy thầy ăn, mạnh rắn rắn ăn nè…è…è”, trò chùm nụm “chùm nụm,

chùm niệu, tay bí, tay tiên…” đã chợt nhận ra rằng “Cái quê hương cũ ấy, chàng có

cảm tưởng rằng chỉ được sang chơi một lần, một lần này thôi, rồi không bao giờ nữa

chàng có hi vọng trở về” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Cái quê hương trong tâm

trí của Nhâm có hình bóng của người thương cũ, có tuổi thơ mà Nhâm khao khát tìm

về. Nhâm thấy “quặn thắt như kẻ bị đày xa xứ” trong sự tìm kiếm quá khứ đã qua. Có

lẽ, những “chân trời quen thuộc” của nỗi nhớ khiến Nhâm tiếc nuối. Cách nhà văn

Bình Nguyên Lộc đặt nhân vật của mình vào kí ức của những trò chơi, những câu hò

là để đi vào đời sống chân thực bên trong con người mà cuộc sống thường nhật đã che

khuất đi khó nhìn thấy được.

Như vậy, với việc vận dụng các yếu tố văn hóa dân gian như phong tục tập

quán, tín ngưỡng, nghệ thuật, Bình Nguyên Lộc đã xây dựng thành công chân dung

nhân vật với tâm thức luôn hướng về những giá trị truyền thống của dân tộc. Họ luôn

trân quý nguồn cội, luôn coi trọng tình nghĩa, luôn sống nhân hậu, vị tha và giàu đức

hi sinh. Qua nhân vật, các phong tục, tín ngưỡng trở nên đặc sắc và mang đậm dấu ấn

87

văn hóa Nam Bộ.

3.1.2. Nhân vật của đời sống thường ngày

Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam nhận

xét về tính cách chung của người Nam Bộ: “Hoàn cảnh tự nhiên và lịch sử khai thác

vùng Nam Bộ cũng đã tôi luyện con người ở đây những tính cách, cá tính tiêu biểu, đó

là tính cách Nam Bộ: dũng cảm, hiên ngang, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, phóng

khoáng, mến khách, bộc trực, nhạy cảm với cái mới” (Ngô Đức Thịnh, 2004). Các

nhân vật trong các sáng tác của Bình Nguyên Lộc vừa mang những nét chung của tính

cách Nam Bộ như các nhân vật trong sáng tác của Sơn Nam, Hồ Biểu Chánh, Đoàn

Giỏi… vừa mang những nét độc đáo riêng. Trước Bình Nguyên Lộc, người đọc thấy

hình ảnh con gười đạo lí xuất hiện trong thơ văn của cụ Đồ Chiểu, trong tiểu thuyết

của Hồ Biểu Chánh. Cùng thời với Bình Nguyên Lộc, người đọc thấy hình ảnh con

người mở đất trong sáng tác Sơn Nam. Các nhân vật trong sáng tác của Bình Nguyên

Lộc vừa là sự kế thừa, tiếp nối vừa là tấm gương phản ánh chân thật con người vùng

đất mới Nam Bộ.

Để thể hiện khía cạnh về đời sống tình cảm của con người Nam Bộ, Bình

Nguyên Lộc đã gắn họ với những lễ hội truyền thống, những sinh hoạt văn hóa như hò

đối đáp, hát đố, các trò chơi dân gian… Nam Bộ vốn là vùng đất khá đa dạng về thổ

nhưỡng: đất đỏ bazan, đất phù sa cổ, phù sa mới, vạt đất ven sông, giồng cát ven biển.

Sông ngòi, kênh rạch dày đặc... Họ sống gần gũi thiên nhiên. Họ chiến đấu với thú dữ,

với muỗi mòng, đối mặt với những khó khăn, trở ngại. Họ luôn kiên trì, nhẫn nại vượt

qua để tạo dựng cuộc sống. Chính điều đó mà các nhân vật trong tác phẩm của ông là

những người có đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm phong phú. Họ luôn yêu thương

gắn bó sâu nặng với quê hương, ruộng vườn, gia đình, bạn bè, cuộc sống. Họ hướng

về giá trị truyền thống của dân tộc, gắn liền với cuộc sống lao động giản dị hằng ngày.

Trong Rừng mắm, cuộc sống tuy còn nhiều vất vả nhưng đời sống tinh thần luôn hăng

say, tích cực. Giữa không gian rừng mắm câu hò vẫn cất lên để vơi đi bao nhọc nhằn

của thế hệ tiên phương đi mở đất. Đó là câu hò của đôi vợ chồng trong rừng vắng: “Hò

ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,/Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.”. Câu hò khiến

cho không gian bớt hiu quạnh và làm “Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục

88

đường từ nơi xa mang về.” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Mẹ thằng Cộc cũng cất

lên câu hò giữa rừng mắm khi nhớ về cố hương của mình, nhớ những sinh hoạt quen

thuộc mà từ khi về đây đã không còn nữa “Hò... ơ... tiếng anh ăn học làu thông,/Lại

đây em hỏi khăn lông mấy đường (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Cuộc sống dù phải

đối mặt với bao vất vả nơi vùng đất mới đến định cư thì nhân vật của Bình Nguyên

Lộc vẫn tìm được niềm vui, tinh thần lạc quan trong cuộc sống. Những cô con gái ông

Nam Thành (Đò dọc) đã gọi những đứa trẻ trong xóm đến ca hát làm cho không khí

cuộc sống thôn quê bình lặng bỗng sôi nổi hẳn lên. Các cô còn thách đố hát nối các

chữ với nhau để cuộc sống không đơn điệu và nhàm chán “Bậu lỡ thời như ớt chín

cây,/ Ớt chín cây người ta còn hái/ Bậu lỡ thời như nhái lột da…” (Bình Nguyên Lộc

(tập 2), 2002).

Ngôn ngữ nhân vật cũng là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện tính

cách nhân vật. Ngôn ngữ, theo Từ điển thuật ngữ văn học, vốn là “yếu tố quan trọng

thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” (Lê Bá Hán, Trần Đình

Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2006). Ngôn ngữ trong các sáng tác của Bình Nguyên Lộc là

thứ ngôn ngữ chân chất, bình dị, trong sáng của người bình dân Nam Bộ. Với văn

phong hồn nhiên dí dỏm, ông đã góp thêm một nét phác họa dấu ấn vừa riêng vừa đậm

chất Nam Bộ cho nhân vật của mình. Con người xuề xòa, bộc trực, lối sống tình nghĩa

bao dung là tính cách tiêu biểu được thể hiện dưới lớp ngôn từ mộc mạc, ý tình đơn

giản của Bình Nguyên Lộc.

Ngôn ngữ Nam Bộ vốn rất đa dạng và phong phú. Không chỉ đến Bình Nguyên

Lộc chúng ta mới thấy kho tàng ngôn ngữ giàu có của vùng đất này. Trước đó, người

đọc bắt gặp màu sắc Nam Bộ trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Sau này, các nhà

văn như Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Bình Nguyên Lộc… đã góp phần làm cho màu sắc

Nam Bộ này càng trở nên tinh tế, uyển chuyển và đầy sáng tạo khi được qua tay các

nghệ sĩ ngôn từ. Từ điển Bách khoa Văn hóa học đã nhấn mạnh “Là phương thức

truyền đạt thông tin, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất của văn hóa, thực hiện việc

truyền kinh nghiêm, phong tục, truyền thống của mỗi dân tộc từ thế hệ này sang thế

hệ khác, xác định một kiểu lịch sử - văn hóa độc đáo” (A.A.Radugin, 2002). Với vai

trò quan trọng của mình, ngôn ngữ giữ chức năng kết nối từ truyền thống đến hiện tại.

89

Ngôn ngữ trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc giàu truyền thống văn hóa, đặc biệt

văn hóa dân gian. Sách Từ điển Văn học bộ mới nhận định về đặc điểm văn chương

Bình Nguyên Lộc: “Xuất thân từ miền Nam nhưng đối với những nhà văn gốc Nam.

Bình Nguyên Lộc giữ một địa vị đặc biệt, không theo Bắc hoàn toàn như Đông Hồ, và

cũng không giữ nguyên đặc chất Nam kỳ như Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sến...

Bình Nguyên Lộc biểu hiện sự giao lưu văn hóa Nam - Bắc trong truyền thống lịch sử

và trong ngôn ngữ” (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tiểu, Trần Hữu Tá

(chủ biên), 2004). Không những thể hiện sự giao lưu văn hóa Nam – Bắc trong ngôn

ngữ, Trần Kiêm Đoàn trong bài Vẻ đẹp của ngôn ngữ miền Nam trong tác phẩm Bình

Nguyên Lộc đánh giá: “Ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc là ngôn ngữ đặc trưng của

văn chương và cuộc sống của miền Nam ”, nó “hơi rề rà và thiên về trực giác cùng

cảm tính hơn là đôi co lí luận hơn thua, nhưng lại dễ đi thẳng vào lòng người.” (Trần

Kiêm Đoàn, 2007). Vì vậy, ngôn ngữ mộc mạc, “chân quê” trong cách viết của Bình

Nguyên Lộc, đặc biệt là lối vận dụng các yếu tố văn hóa dân gian đã gợi lên đặc trưng

văn hóa và lịch sử, xã hội ở vùng đất Nam Bộ. Ông đã làm mới những giá trị ngôn

ngữ, góp phần làm đa dạng và phong phú thêm hệ ngôn ngữ nơi đây.

Trong văn Bình Nguyên Lộc, chúng ta sẽ thấy ông thiên về ngôn ngữ đối thoại

để xây dựng chân dung nhân vật. Từ điển thuật ngữ văn học đã khẳng định ngôn ngữ

nhân vật là “một trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm

thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật” (Lê Bá Hán et al., 2006). Trong giao tiếp, tác

giả thường để cho các nhân vật dùng những biến âm như chửi/chưởi, chân/chơn, đàn

/ đờn, tôi/ tui, bảo/ biểu, giật / giựt, những từ ngữ giàu cảm xúc như giỡn, hoài, quẹo,

hôn, lẹ,... để tạo nên sắc thái địa phương cho nhân vật. Tuy nhiên, trong giao tiếp hằng

ngày, tác giả cũng đặc biệt hay dùng các quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ. Trong Cơ sở

ngôn ngữ học và Tiếng Việt, các tác giả đã đề cập việc khi sử dụng khẩu ngữ họ “Rất

ưa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón; hoặc để diễn đạt cho sinh

động” (Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, 2000). Trong đoạn hội

thoại của tác phẩm Cây đào lộn hột, người đọc sẽ thấy rõ đặc điểm của lối giao tiếp

này

- Đồ dịch, đồ quỷ, đồ ngựa bà. Rõ ràng là có thai nghén đây chớ còn gì.

90

Mày lấy ai hữ con khốn kia?

Con Dừa cứ đứng làm thinh rồi toan bỏ đi. Má nó lại chụp nó lại một lần

nữa và chưởi:

- Đồ con báo đời, đồ con trời đánh, mày định để vậy đặng bêu xấu tao với

ba mày hả? Trời đất quỷ thần ơi ngó xuống mà coi. Cả dòng cả họ tôi, bên

nội bên ngoại có ai mà hư thân mất nết như vầy không nè!

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Trong Lá rụng về… ngọn, một câu giao tiếp có khi tới hai thành ngữ “Hừ, má

nghĩ cũng buồn cười. Con người sao lại mặt chai mày đá. Có ai bát nước đổ đi rồi

còn hốt lại được đâu.” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Qua hai đoạn trích trên,

người đọc như đang chứng kiến cuộc đối thoại sinh động, hồn nhiên, mộc mạc của

con người Nam Bộ. Câu thành ngữ “hư thân mất nết” trong lời của má Dừa chính là

sự đánh giá việc làm sai trái mà Dừa gây ra. Hay câu “mặt chai mày đá”, “bát nước

đổ đi” là sự khẳng định cách sống tệ bạc của kẻ đã từng lừa gạt cô Tư. Đúng như Ngô

Đức Thịnh khẳng định trong Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, văn

học miền Nam giai đoạn này là ranh giới giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ văn học có

sự “thâm nhập” mạnh mẽ và “nhận ra dấu vết rõ ràng giữa ngôn ngữ nói trong ngôn

ngữ văn học và ngược lại” (Ngô Đức Thịnh, 2004). Điều này chứng tỏ một vốn liếng

ngôn ngữ dân gian giàu có của Bình Nguyên Lộc. Điều này cũng chứng tỏ mối quan

hệ gần gũi gắn bó của ông với nhân dân lao động, nhất là lao động nghèo.

Nhân vật của Bình Nguyên Lộc là nhân vật của giao tiếp, đối thoại. Đối thoại

thể hiện tính cách, tâm hồn của các nhân vật. Chính vì vậy các thành ngữ, tục ngữ xuất

hiện trong câu nói của các nhân vật là những kinh nghiệm, nếp nghĩ, đạo lý và thói

quen của họ trong cuộc sống. Từ đó, chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động

hơn. Trong Thám hiểm lòng người qua cách nói của cô hai Thiền và cô Năm, người

đọc cũng nhận thấy tính cách nóng nảy, hời hợt của cô hai Thiền. Còn cô Năm lại là

người suy nghĩ thấu đáo trước sau và rất trượng nghĩa, giúp kẻ gặp nạn. Cô giúp họ

91

- Thương người? Vậy ra người bậy cũng thương nữa sao?

- Người bậy cũng thương để họ cảm mến mà “cải ác tùng thiện”. Vả lại tội nào

mà không có trường hợp giảm khinh.

có cơ hội “cải ác tùng thiện” như lời cô nói.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Trong Lá rụng về…ngọn, câu tục ngữ “lá rụng về cội” xuất hiện ba lần, hai lần

“Lá rụng về cội”

Cái tiếng “giống” của Chi làm cho cô nhớ lại câu tục ngữ trên đây rồi lấy làm lo

lắm.

(…) Cô Tư ngần ngại lâu lắm mới nói:

- Con có biết câu tục ngữ “Lá rụng về cội” hay chăng?

(…) Cô Tư như không còn sức để giận, để khẩn cầu, để giải thích nữa. Cô lẩm

bẩm: “Thôi quả lời tục nói không sai: lá rụng về cội, kinh nghiệm của bao vạn

kiếp người cố nhiên là đúng hơn mong mỏi hão huyền của mình…”.

trong suy nghĩ của cô Tư và một lần trong lời cô hỏi con gái mình:

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Những lo lắng, muộn phiền, cay đắng của cô Tư trong hoàn cảnh con gái có

thể bỏ mình trở về với cha được thể hiện chân thực qua lối sử dụng tục ngữ của tác

giả. Trong Cái nết đánh chết cái đẹp, lời của Sanh nói với Mai sau khi bỏ Mai theo

Dung là sự đánh giá chân lý sau chính những trải nghiệm của bản thân mình. Sanh đã

phải thừa nhận với Mai đúng là “cái nết đánh chết cái đẹp”, con người nên coi trọng

vẻ đẹp của tâm hồn. Trong Đò dọc, gia đình ông Nam Thành mỗi khi nói về hoàn cảnh

sống của mình cũng rất hay dùng thành ngữ tục ngữ. Đó là lời than của bà Nam Thành

khi về Sài Gòn mà vẫn còn nghe tiếng bom đạn nên thành ra “chạy ô mồ mắc ô mã”;

lời ông Nam Thành khi muốn về quê khi kinh tế gia đình không thể đảm bảo vì “tọa

thục sơn băng”. Ông an ủi vợ con “tấn về nội, thối về ngoại”, sống phải theo hoàn

cảnh. Đó cũng là lời khẳng định tình cảm của Long dành cho Hồng sẽ thủy chung dù

92

“vật đổi sao dời”.

Miền Nam là vùng đất có nhiều sự giao thoa. Người miền Nam cũng lại không

quá kiểu cách, cầu kì từ lời ăn tiếng nói đến lối sống sinh hoạt. Sinh ra và lớn lên ở

miền Nam, Bình Nguyên Lộc đã đem đến cho văn học nước nhà kho từ vựng phong

phú của vùng đất mới. Ngôn ngữ của họ thấm đẫm bầu khí quyển vùng sông nước,

miệt vườn với sự cộng sinh của nhiều tộc người. Nhân vật trong sáng tác của Bình

Nguyên Lộc phần lớn cũng là người bình dân gắn liền với cuộc sống nơi thôn quê. Họ

hiện lên chân thật, giản dị, gần gũi trên trang văn của ông. Các nhân vật từ hành vi,

cách ứng xử văn hóa có tính truyền thống đến lời ăn tiếng nói, khí chất, ngoại

hình…đều đậm chất bình dân của người dân Nam Bộ. Qua đó, người đọc thấy được

mối liên hệ gắn bó giữa họ với quê hương, xứ sở.

Như vậy, những ứng xử mang tính truyền thống giữa con người với thiên nhiên,

con người với xã hội và con người với chính bản thân làm cho nhân vật trong sáng tác

của Bình Nguyên Lộc luôn tự ý thức nhìn nhận lại chính mình để sống tốt, sống đúng

với đạo lý dân tộc. Họ là hiện thân của con người Nam Bộ luôn gắn bó với quê hương,

bản quán với cội nguồn. Họ cũng là hiện thân của những con người Nam Bộ chất

phác, bình dị, đời thường. Tính cách Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, trọng nghĩa khí,

giản dị, giàu tình nghĩa, đức hi sinh và lòng vị tha được phản ánh chân thật, sinh động

trên trang văn của Bình Nguyên Lộc.

3.2. Vai trò của yếu tố văn hóa dân gian trong tái hiện không gian văn hóa Nam Bộ

3.2.1. Không gian sinh hoạt

Không gian trong các sáng tác của Bình Nguyên Lộc không xuất hiện cây đa,

bến nước, con đò…như trong ca dao xưa. Không gian ở đây là những hình ảnh thân

thuộc gắn với cuộc sống của những người bình dân. Đấy chính là những “chân trời

quen thuộc” mà ông nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong tác phẩm của mình. Trong

Những mảnh ghép văn hóa, R. Aileau đã nhận định rằng “…mỗi nền văn hóa phải

thích nghi với một môi trường tự nhiên nhất định, theo một truyền thống riêng hợp với

các điều kiện sinh tồn riêng biệt của nền văn hóa ấy.” (Đoàn Văn Chúc (dịch), 2016).

Sinh ra và trưởng thành ở miền Nam nên Bình Nguyên Lộc luôn dành nhiều tình yêu

và sự bận tâm cho vùng đất này. Thụy Khuê đã khẳng định tình cảm sâu nặng của Bình

93

Nguyên Lộc với vùng đất là ông đã “…trình bày một diện mạo rất lạ về vùng đất mới,

bằng cái nhìn “ngây thơ” vào đời, cái nhìn “biết người biết ta” của thằng nhỏ năm

tuổi, cái nhìn khôi nguyên của một nhà thơ vừa khám phá ra vũ trụ: đất nước và con

người” (Thụy Khuê, 2007). Võ Phiến thì cho rằng Bình Nguyên Lộc luôn quan tâm

đến “mảnh đất và con người Nam Bộ” (Võ Phiến, 2007). Từ những mối bận tâm ấy,

sáng tác của Bình Nguyên Lộc luôn hướng tới một “chân trời quen thuộc” nơi mà ông

gửi gắm “muôn thương cùng vạn nhớ”, gửi gắm tình yêu với cội nguồn dân tộc qua

những hình ảnh đã trở nên gần gũi, thân thuộc không thể lìa xa của những người lao

động “chân lấm tay bùn”.

Nam Bộ chính là nơi cư trú đa dạng, phong phú của các quần thể thực vật như

mắm, đước, tràm...; động vật như cá, tôm, rùa, rắn, chim… Vùng đất từng đi vào ca

dao Việt Nam với nhiều đặc sản, nguồn lợi tự nhiên vùng miền “Ai ơi về miệt Tháp

Mười/ Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn”, “Bến tre nước ngọt lắm dừa,/Ruộng vườn

màu mỡ, biển thừa cá tôm”, “Biên Hoà bưởi chẳng đắng the/Ăn vào ngọt lịm như chè

đậu xanh ”, “Cám ơn hạt lúa nàng co/ Nợ nần trả hết, lại no tấm lòng”, “Cần Thơ

gạo trắng nước trong/ Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời” (Bảo Định Giang, Nguyễn

Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị, 1984). Trong tác phẩm Rừng mắm, Bình

Nguyên Lộc cũng miêu tả sự trù phú này như “rừng tràm dày mịt, chằng chịt những

dây bòng bong, dây choại bò từ thân cây này sang thân cây khác”, “rùa nhiều như

kiến”, “chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002).

Đây là nơi có điều kiện tự nhiên ưu đãi cả về nguồn lợi động thực vật và khí hậu ôn

hòa. Những con người đi tiên phong đã chinh phục, cải tạo môi trường tự nhiên vừa

hoang sơ khắc nghiệt, vừa phì nhiêu màu mỡ để sinh tồn, phát triển. Nhà nghiên cứu

văn hóa Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có

thể xảy ra hai khả năng: những gì có lợi cho mình thì con người hết sức tranh thủ tận

dụng, còn những gì có hại thì con người phải ra sức ứng phó” (Trần Ngọc Thêm,

1997). Những con người ở vùng đất khẩn hoang này đã linh hoạt ứng xử và ứng phó

với môi trường tự nhiên, với các mối quan hệ xã hội để góp công sức của mình tạo

nên vùng đất Nam Bộ trù phú với nhiều bản sắc văn hóa độc đáo. Nguyễn Q. Thắng,

người có công tuyển chọn và giới thiệu về Bình Nguyên Lộc, đã nhận định:

94

Trong từng trang viết, ông làm sống dậy trong tâm thức người đọc cái hồn nhiên

dung dị, chân chất mà đầy tình nghĩa của con người sinh trưởng tại miền đất

mới... Tác phẩm của ông là một phần không nhỏ của tiến trình văn học Việt Nam;

nhất là làm sống dậy và lớn lên cái tinh thần chiến đấu hăng say, lạc quan của

nhân dân ta nơi vùng đất mới này”

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002).

Và để tái hiện cái tinh thần lạc quan ấy, tác giả đã dựng lên không gian sinh

hoạt với những lễ hội, trò chơi dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian. Người miền

Nam rất thích hò, hát ru. Vì thế, trong các tác phẩm, Bình Nguyên Lộc hay miêu tả

thói quen gắn với đời sống lao động của người bình dân. Đó là câu hò của ông nội

thằng Cộc (Rừng mắm) mở ra cả lịch sử khai khoang vùng đất mới “Hò... ơ... Rồng

chầu ngoài Huế,/ Ngựa tế Ðồng Nai./ Nước sông trong sao cứ chảy hoài,/ Thương

người xa xứ lạc loài đến đây.” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Đó cũng là câu hò

vang vọng của cô Út (Thí một con chốt hốt một con xe) “Hò…ơ…Nước xuôi chạy gió

buồm mềm/Muốn vô làm bé, biết có bền hay không” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

gợi lên cuộc sống kinh doanh của những ghe thương hồ ở vùng sông nước. Đó là câu

hát ru của bà Nam Thành (Đò dọc) khi thấy cảnh các con về nông thôn kéo nước giếng

chưa quen “Lấy chồng ở miệt Tân Ninh,/ Kéo dây giếng ba mươi sải, thất kinh ông

bà” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002). Đó cũng là tiếng hát ru ở đâu đó vọng lại khiến

nhiều người khách trên chuyến xe lửa cuối cùng thấy nao nao “Ù…ơ…Đại mộc lưu

giang bất đắc hồi cố dã/ Cây ngã trôi sông/Đâu còn mong trở lại/Anh thuận gió xuôi

buồm…” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Ngoài ra, lễ hội đua ghe (Đồng đội) trên

sông Đồng Nai khu trước chợ Biên Hòa cũng gợi ra cả không gian sinh hoạt đặc trưng

vùng sông nước. Từ màu sắc rực rỡ của mấy mươi chiếc ghe “Xanh, trắng, đỏ, vàng

pha trộn với nhau trên màu bạc của mặt nước phản chiếu ánh mai, lóng lánh như cá

ngũ sắc trong một chiếc bồn khổng lồ nào.” đến nhịp hô “hè…phèng…” rồi “mấy mươi

người dân bơi giống hệt như người gỗ được cột dính với nhau, rồi một bàn tay bí mật

vô hình nào đó giựt dây cho họ cử động” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Các ghe

95

đua nhau về nhất để giành giải thưởng và khẳng định sức mạnh của làng mình. Cuộc

đua ghe hằng năm trở thành sinh hoạt văn hóa truyền thống, vui chơi, thi tài của các

làng sau mỗi năm làm việc vất vả. Các trò chơi dân gian như hát nối (Đò dọc) “Bậu lỡ

thời như ớt chín cây,/ Ớt chín cây người ta còn hái;/ Bậu lỡ thời như nhái lột da,/Nhái

lột da người ta còn bắt;…” ; trò cút bắt, trò chùm nụm “chùm nụm, chùm niệu, tay bí,

tay tiên, đồng tiền, chiếc đũa…”, trò thầy bắt rắn “Mạnh thầy thầy ăn, mạnh rắn rắn

ăn nè..è..è” (Qua lối cũ) cũng đã tái hiện sinh động, phong phú không gian sinh hoạt,

vui chơi của con người Nam Bộ.

Không gian sinh hoạt hằng ngày cũng được tái hiện qua những đặc trưng vùng

đất, những tập tục làng xã, những kinh nghiệm trong cuộc sống, lao động sản xuất. Đó

là tục ghi tên tráng đinh ở làng (Tiếng vang trễ muộn); tục la làng của thôn quê (Lại

mẹ tôi tái giá); tục con trai không được cưới gái làng khác (Bảo mật); tục thuê người

khóc mướn đám ma (Bí mật của chàng); tục lên bùa dựng nêu ngày Tết (Quyển gia

phổ); tục ghi chép gia phả dòng họ (Tre phải tàn); tục chửi mất trộm ở thôn quê (Ma

ném đá, Đò dọc)… Đây là những tập tục mang nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt.

Không những thế, những kinh nghiệm trong bắt trộm bò đêm (Đành cam vào khám

với tình… bò), đi ăn trộm vào ban đêm (Đò dọc), cứu người chết đuối bằng xốc nước

(Không một tiếng vang, Tiếng vang trễ muộn) vừa thể hiện vốn kinh nghiệm phong

phú của người Việt vừa tái hiện không gian sống của người lao động.

Trong ca dao xưa, khi nói về nỗi nhớ nhà họ thường gắn với những thói quen,

hương vị quen thuộc trong tập quán ăn uống của vùng miền, với những con người mà

đi đến đâu họ cũng mang theo cả tình yêu và nỗi nhớ bản quán: “Anh đi anh nhớ quê

nhà/ Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dải nắng dầm sương/Nhớ ai tát

nước bên đường hôm nao” (Ca dao). Quê hương trong ông là gắn liền với những kí ức

lưu dấu những nếp sống quen thuộc, mùi vị ẩm thực và những cảnh vật quen thuộc có

sức gợi nhớ. Nguyễn Thị Thu Trang trong Con người và văn hóa Nam Bộ trong truyện

ngắn của Bình Nguyên Lộc đã nhận xét “Bình Nguyên Lộc tái hiện những con người

mộc mạc gắn liền với đất đai quê kiểng, gắn với tự nhiên hoang sơ và tập quán nông

nghiệp lâu đời cùng với sự tồn tại của những giá trị tinh thần, truyền thống văn hóa

mang tính căn bản và truyền thống” (Nguyễn Thị Thu Trang, 2007). Đó là không gian

96

của bữa cơm gia đình quyện mùi của hương hành kho (Hương hành kho) trong nỗi

nhớ của Côn “Mùi đặc biệt của hương hành lá pha với mùi nước mắm của một trách

cá kho nào vừa sôi” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002) khiến ông Vĩnh Xương thấy

chàng xứng đáng trở thành con rễ của mình. Người phụ nữ trong Chiêu hồn nước nhớ

bản quán đến nỗi “… thèm khát quê hương… Thèm như thèm một món cá nướng chấm

mắm nêm. Thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn,

thèm cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Minh (Lửa tết)

lại nhớ khôn nguôi một thuở được ngửi hương thơm cây cỏ tiết ra từ khói bếp, được

nghe tiếng nổ lách tách trong lò. Con Tám Cù Lần (Con Tám Cù Lần) nhớ quay quắt

mùa ốc gạo, những bữa cơm gia đình. Chị Mùi (Về làng cũ) muốn về làng để được

gần với ruộng, với trâu bò, được trồng rau, gần mồ mả ông bà. Đó là không gian đời

sống của những “chân trời quen thuộc”, nơi “màu sắc, âm thanh, mùi vị mà tuổi thơ

quen thấy, quen nếm, quen nghe” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Quê hương ấy

cũng có những vựa trái cây đặc sản của quê hương như thúng sa – bô – chê của cô gái

trong Lại mẹ tôi tái giá, các ghe kinh doanh, các chợ buôn bán dưa hấu trong Thí một

con chốt hốt một con xe… Đây là không gian sống, không gian sinh hoạt gắn liền với

nếp sống, tập quán, phong tục của người bình dân Nam Bộ.

Vũ Hạnh đã từng nhận xét: “Với Bình Nguyên Lộc chúng ta có dịp trở về với

ruộng đồng miền Nam, chui qua cái ngõ ngách của đô thành, tìm đến những hàng

quán cũ, chứng kiến những mẩu sống, những thói tục và những con người không thể

tìm thấy ở bất cứ một nơi nào khác” (Nguyễn Thị Thu Trang, 2015). Trong tác phẩm

của Bình Nguyên Lộc, ông luôn nhớ về một Sài Gòn với “Thổ ngơi thơm phức hồn ma

cũ” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Tất cả những gì về Sài Gòn được tái hiện rõ nét

nhất trong Những bước lang thang của gã Bình Nguyên Lộc. Tạp văn này được xem

như là tạp văn viết về phong tục của người Sài Gòn. Sài Gòn thời điểm bấy giờ là trung

tâm của bức tranh toàn cảnh miền Nam những năm giữa thế kỷ XX. Sài Gòn đã có lịch

sử hơn 300 năm. Theo truyện Cái Bách-xê, Bình Nguyên Lộc có đề cập đến dân số Sài

Gòn lúc ấy “được công bố là một triệu rưỡi” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Đây

chính là nơi chứng kiến nhiều biến thiên của lịch sử, trở thành sợi dây nối liền quá khứ

với hiện tại. Sài Gòn lúc này là “hòn ngọc Viễn Đông” xa hoa, xô bồ, náo nhiệt.

97

Tình yêu với mảnh đất Tân Uyên, với thổ ngơi sông Đồng Nai, đã làm cho “gã”

Bình Nguyên Lộc phải “lang thang” trên đường phố Sài Gòn tìm chút hương quê còn

lẩn khuất đâu đó. Đó là tập tùy bút hồn nhiên, tươi tắn, đậm chất phong vị Sài Gòn.

Ông đã ghi lại mối cảm hoài của mình về những hàng me “Sài Gòn được dịu đi vài

phần khi nhìn những hàng me Nguyễn Du và Hồng Thập Tự ngả màu rồi lại thắm

màu”; là món xu xoa mật đường hạ “cứ nghe như là phảng phất đâu đây mùi đồng

áng, mùi lò đường tiểu công nghệ với những đêm dài nổi lửa đốt lò”; là những xác

diều “không biết nhớ đất hay sao mà cứ thỉnh thoảng chúi mũi toan đâm đầu xuống”;

là những hàng sách của Xóm Củi khiến “bạn ngạc nhiên biết bao mà nghe từ dưới ấy

thở lên những làn hơi lành mạnh nó như đưa bạn về những làng xa yên tĩnh, hay về

những thời xưa bình dị nào” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Ở đó, Sài Gòn còn có

cả những mả cũ, hui nhị tì, chùa chiền, đền miếu và của các địa điểm đã bị đổi dời theo

thời gian. Những bài ca dao về Sài Gòn cũng giúp khắc họa rõ nét bức tranh của thủ

phủ miền Nam lúc bấy giờ với một Sài Gòn ảnh hưởng theo lối sống phương Tây, lòng

người nhiều thay đổi “Gái Đàng Mới xem tường không mới,/ Trai Bến Thành xét lại

chẳng thành/ Ngày ngày qua lại em, anh,/ Có xu có túi mới thành ngỡi nhân.”, nhiều

hoài nghi “Bạc lê (nói) vẽ sứa, em giận đứa măng tơ (nói láo)/ Thằng gì mà nghi ngại

bá vơ,/ Sài thành em dạo cảnh, nó nghi ngờ em bán duyên.”. Sài Gòn với những cuộc

tranh giành đất kinh doanh “Chợ cũ nay đã tan tành,/ Sài Gòn em ở lại, Bắc thành anh

dời chơn.”, những hoạt động hằng ngày “Mười giờ tàu lại Bến Thành/ Xúp lê vội thổi,

bộ hành xôn xao.”; những con phố gắn liền với đặc điểm kinh doanh “Thượng thơ bán

giấy/ Thủ Ngữ treo cờ”.

Bức tranh toàn cảnh Sài Gòn hiện lên rõ nét trong tập Những bước lang thang

trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc. Nguyễn Q.Thắng từng nhận định “Những bước

lang thang… là một tập tùy bút thành công nhất của ông về đường phố Sài Gòn, về quà

đêm trên sông Ông Lãnh, về cảnh lũ trẻ đi bắn chim với cái giàn thun, với hồn ma cũ

của buổi hôm qua” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Đây có thể xem là tập tùy bút thể

hiện văn hóa – phong tục của Sài Gòn vào những năm giữa thế kỷ XX thật sinh động và

in đậm dấu ấn văn hóa dân gian cả về nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện.

98

Một không gian đời sống văn hóa của con người Nam Bộ được tái hiện chân

thực trong các sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Nam Bộ hiện lên vừa mang bản sắc

chung của dân tộc vừa mang những nét riêng biệt của vùng đất mới.

3.2.2. Không gian tâm linh

Trong các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, con người luôn được đặt trong mối

quan hệ với tự nhiên. Ngoài những kí ức về hình ảnh quê hương trong tâm thức của

những người xa quê thì khá nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc miêu tả cuộc sống

dân dã của người lao động. Là nhà văn của “Cuống rún chưa lìa”, ông luôn gắn bó với

con người và cuộc sống lao động nghèo khổ. Những hình ảnh quen thuộc như kênh

rạch, ruộng đồng xuất hiện nhiều trên trang văn của ông. Đoàn Giỏi trong Đất rừng

phương Nam đã miêu tả tự nhiên hoang sơ, phì nhiêu được cảm nhận khá tinh tế. Con

người như thưởng ngoạn núi rừng“ Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió

đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm ươn mình

phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng

hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... ”. Các loài thì đông đúc, náo nhiệt: “Từ chỗ vệt rừng

đen xa tít đó, chim cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ lòng quả đất chui

ra, bò li ti đen ngòm lên da trời.” (Đoàn Giỏi, 2015). Tự nhiên trong Rừng mắm của

Bình Nguyên Lộc lại là tự nhiên còn hoang sơ, khắc nghiệt và con người đang trong

hành trình khám phá, cải tạo. Nơi mà gia đình Cộc đang ra sức cải tạo bằng cách đốt

Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng, và lửa,

như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt xanh um của biển rừng tràm

nầy. Thành ra ruộng nhà nó mang một hình tròn kì dị, không tròn đều đặn vì

không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mắt của ngọn lửa.

(…)Lúc ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống, để lòi trăm ngàn gốc tràm

lên, trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ

sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng Cộc đành cấy

lúa giữa những gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía nó nói

rừng tràm và cấy lúa vào gốc cây

99

mười năm nữa, tràm chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vầy.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Bản sắc văn hóa riêng của địa phương đã được thể hiện chân thực qua hình ảnh

gần gũi gắn liền với những “chân trời quen thuộc” của người bình dân. Qua bản sắc

văn hóa của người dân Nam Bộ, tác giả bộc lộ tình yêu quê hương chân thành, tha thiết

về vùng đất ông đã sinh ra, lớn lên, gắn bó và trưởng thành. Trên cái nền không gian

ấy, Bình Nguyên Lộc đã tái hiện một không gian tâm linh gắn liền với tín ngưỡng và

tập quán sinh sống của người Nam Bộ.

Những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên cũng gợi lên

không gian tâm linh của người dân Nam Bộ. Mặc dù là vùng đất mới nhưng họ vẫn

duy trì nếp sống cũ trong các ngày Tết như gói bánh chưng, bánh tét, chuẩn bị mâm

cổ cúng gia tiên (Quyển gia phổ), dù lênh đênh trên ghe thương hồ nhưng cha anh Sáu

Nhánh vẫn muốn cúng giỗ mời hàng xóm để vơi bớt nhớ quê, nhớ đất (Phân nửa con

người). Dòng tộc họ Tôn (Tre phải tàn) mối lần giỗ là con cháu bốn đời về làm giỗ tại

nhà thờ họ. Đây là lúc mọi người trong đại gia đình gặp nhau trò chuyện vui vẻ, kể

chuyện làm ăn và hỏi han cuộc sống của nhau. Nhà ông Nam Thành (Đò dọc) vẫn

cúng giỗ, rằm để duy trì truyền thống cho thế hệ sau.

Trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc, khi nói về tình quê, về cội nguồn, ông

hay sử dụng hình ảnh đất, nước và lửa. Đất, nước, lửa là một trong năm yếu tố của ngũ

hành gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đây cũng là hình ảnh biểu tượng cho những cổ

mẫu, cho văn hóa tín ngưỡng dân gian. Hình ảnh biểu tượng này xuất hiện nhiều trong

các sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Theo Từ điển Bách khoa văn hóa học thì biểu

tượng văn hóa được xem “là một loại kí hiệu đặc biệt, thể hiện nội dung thực tế của

một điều nào đó. Biểu tượng văn hóa khác kí hiệu thông thường ở chỗ chứa đựng mối

liên hệ tâm lý với tồn tại mà nó biểu trưng” (A.A.Radugin, 2002). Trong Từ điển thuật

ngữ văn học thì biểu tượng “Là hiện tượng lịch sử, biểu tượng chịu sự chi phối của

ngôn ngữ, tâm lý, quan niệm của dân tộc và thời đại” (Lê Bá Hán et al.,2006). Như

vậy, biểu tượng là nơi các nhà văn thể hiện quan niệm, và có chứa mối liên hệ tâm lý

giữa nhà văn với vấn được đề cập. Đất, nước, lửa là ba biểu tượng hay xuất hiện trong

100

sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Qua ba biểu tượng này, ông làm sống lại không gian

văn hóa tâm linh, tín ngưỡng và sống lại tâm thức cội nguồn của dân tộc.

Đất là hình ảnh xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm. Từ điển biểu tượng văn

hóa thế giới đã khẳng định “Khi một nhóm người muốn tự tái sinh về tinh thần, thì nó

thực hành một thứ trở về với quê cha đất tổ” (Jean Chevalier - Alian Gheerbrant, 2016).

Bình Nguyên Lộc trước sau vẫn luôn nhất quán với quan điểm quê hương, bản quán

đối với con người là phần quan trọng không thể tách rời. Đó là nơi nuôi dưỡng tâm

hồn họ, trở thành cội nguồn, thành nhu cầu tự nhiên như “cuống rún chưa lìa”. Đó

cũng là nơi họ “ký thác” thế giới tinh thần, tình cảm của mình. Bình Nguyên Lộc đã

miêu tả về đất để cảm nhận, thể hiện tình cảm của người nông dân “yêu đất”, và họ

“thèm mùi đất” khi họ phải đi xa. Có lẽ vì yêu đất, ông nội thằng Cộc (Rừng mắm) đã

đến xóm Ô Heo, vùng U Minh nơi rừng còn hoang, nước còn nhiễm mặn để có đất

canh tác. Họ đốt rừng, làm ruộng trên vùng đất mặn này. Họ cải tạo lại đất và có niềm

tin là đất sẽ được thuần hóa, tin vào các thế hệ tương lai sẽ tiếp tục truyền thống ông

cha kiên trì, nhẫn nại biến đất thành nơi an cư lạc nghiệp. Trong tác phẩm Thèm mùi

đất, Bình Nguyên Lộc cho rằng:

ngửi cho đến ghiền, thiếu thì họ nghe thèm. Họ thấy rằng họ hạnh phúc vì họ

được thỏa mãn tình cảm. Tình nhớ xứ, nhớ nhà gồm nhiều yếu tố, mà nỗi thèm

mùi đất là một yếu tố quan trọng. Nỗi thèm này có khi mãnh liệt như nỗi thèm

mùi thuốc phiện của những con thằn lằn, những con chuột lắt sống trong buồng

của những kẻ hút thuốc phiện, họ thèm và nhớ mùi đất y như đào hát thèm và nhớ

sân khấu, vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và y như cá thèm và nhớ nước.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

... Đất có mùi thật sự, nhứt là đất mới xới, một mùi rất đặc biệt mà mũi họ quen

Đất ở đây có mùi có vị và khiến họ thèm, họ nghiện, họ nhớ da diết, khắc khoải.

Họ “… yêu đất, yêu mùi đất và họ được yêu cho tới mãn kiếp”. Họ nhất quyết giữ lại

ngôi nhà cũng bởi cái mùi “tao nhớ gốc cây đa đằng miếu, tao nhớ con rạch sau nhà,

tao nhớ... tao nhớ đến cái mùi đất ở đây... Không, tao không đi đâu hết” (Bình Nguyên

101

Lộc (tập 2), 2002). Mùi của đất còn quện trong “thơm hương đồng áng” (Diễm

Phượng), xông lên sau “đám mưa đầu hè” (Lửa tết) , bám níu con người ở lại “Họ bám

níu vào mảnh đất cằn cỗi nầy mà họ rất cực khổ, không biết để làm gì. Chắc họ thương

làng quá, đi không đành.” (Bám níu) (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Đất còn là nỗi

- Tao nhớ làng, nhớ đất quá!

(...)- Tao không cần gì hết, miễn được về đất. Cho phải ăn chợ ngủ đình tao cũng

vui.

(...) - Ừ, đất, đất bạn mà tao chạy nhảy trên đó hồi còn thơ ấu, tao thương nó lắm.

Tao ghiền hửi mùi đất xông lên sau mấy trận mưa đầu mùa, tao ghiền hửi mùi

lúa chín, tao ghiền mùi phân chuồng. Tao muốn hưởng mùi đất vài năm trước khi

theo về với ông bà.

(…) - Không có gì là kỳ cục. Rồi ngày kia mầy sẽ nghe rằng đất có hồn và hồn

mầy rất gần gũi với hồn đất. Tao nhớ đất muốn chết đi lận, nhớ còn hơn là nhớ

má mầy trong mấy năm đầu tang khó của bà ấy, bởi vì vợ chồng không thân thiết

với nhau hơn là mình với đất.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

mong ngóng của kẻ xa quê nhớ về như cha anh Sáu Nhánh (Phân nửa con người):

Qua những lời đối thoại của ông cụ nói với anh Sáu Nhánh, ta thấy một nỗi khát

khao mãnh liệt được sống với đất của ông cụ. Cuộc sống lang thang trên sông nước

khiến ông cụ luôn khắc khoải, hoài niệm. Ông cụ nghiền mùi vị quê nhà, nhớ khung

cảnh quen thuộc, nhớ đất còn hơn nhớ vợ mới mất, nhớ tới mức muốn “chết đi lận”.

Sự trở về của những đứa con sau thời gian xa quê hương trong Đất không chết đã làm

đất được tái sinh “Đất uống nước thấy mà thèm. Và cái hơi nóng ấp ủ từ bao lâu trong

lòng, nay đất nhả ra, bay lên nghi ngút” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Đất thật sự

giữ vai trò quan trọng đối với những con người sống gắn bó với đất. Đất đã được linh

thiêng hóa lên trở thành tâm thức của cộng đồng. Đất chính là quê hương, là bản quán.

Đất chi phối đến đời sống tình cảm, hành động, lối sống sinh hoạt của con người. Con

102

người khi gắn bó với cội nguồn dân tộc thì điều đó trở thành phẩm chất cơ bản và giá

trị của họ. Chính tình yêu với “ thổ ngơi thơm phức” đã giúp họ “tái sinh tinh thần”.

Họ yêu quý đất và gắn bó bền chặt hơn với quê hương, bản quán của mình.

Nước cũng là một hình ảnh mang nhiều ý nghĩa quan trọng khi nói về quê

hương, về cội nguồn, về nếp sống sinh hoạt. Đào Vũ Hòa An trong bài viết Mẫu gốc

như là thành phần tạo nghĩa trong truyện kể (Khảo sát qua mẫu gốc Lửa và Nước

trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo) đã khẳng định “Trong các biểu tượng văn hóa của

nhân loại, Nước được biết như một siêu mẫu có giá trị phổ quát nhất trong hầu khắp

các nền văn hóa của các dân tộc. Những ý nghĩa tượng trưng của Nước có thể quy về

ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh.” (Trần

Đình Sử (chủ biên),2008). Vì vai trò quan trọng này nên khi nói về sự hình thành Đất

Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phân hợp khái niệm cả Đất và Nước để định nghĩa trọn

vẹn nhất về Đất Nước: “Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm/Đất Nước là

nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…” (Nguyễn

Khoa Điềm, 1974). Trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc thì đất và nước cũng là hai

thành tố quan trọng để gắn kết con người với cội nguồn, trở thành nguồn sống, tái sinh

của những người lao động. Truyện Rừng mắm là chuyện lấn biển, mở đất của gia đình

thằng Cộc nhằm thể hiện khát vọng mở cõi của con người Nam Bộ. Người đàn bà

trong Bà Mọi hú quyết giữ đất, giữ nước đến hơi thở cuối cùng. Tiếng hú tuyệt vọng,

bi thương của người đàn bà gọi nước khiến cho người đọc không khỏi ám ảnh, day

dứt trước tình yêu của bà dành cho đất, cho nước. Đất và nước luôn gắn với cuộc sống

sinh hoạt, trong nếp nghĩ, tập quán lao động của con người. Chính vì thế họ luôn nhớ

đến đất đến nước. Bình Nguyên Lộc hay tả những con sông rộng, dài, những con kênh

chở nặng vị cần lao. Sông Đồng Nai, sông Hậu giang, sông Ông Lãnh… những con

sông quen thuộc trở thành tình cảm lưu luyến khó dời xa. Trong Hai buổi giậm cù, tác

giả đã miêu tả cụ thể mối quan hệ mật thiết của đất và nước trong đời sống con người.

Khi “Mặt nước và mặt đất xấp xỉ nhau” Huấn nghĩ nước sẽ tràn ngập, ruộng thành

Nước ở đây hiền lắm. Nước với đất là bạn nhau đó. Đất không phải là chướng

ngại vật của nước. Nước dịu dàng len lỏi theo đất. Nước mang phù sa mà bồi đất.

biển. Thế nhưng Trung đã khẳng định rằng:

103

Đất ấp ủ nước trong lòng nó như âu yếm tình nhân. Rồi đời đời, kiếp kiếp, nước

và đất kết hợp thành hoa màu để nuôi dưỡng những đứa con biết thương yêu nó.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Những người lao động gắn bó với sông nước như vợ chồng anh Nhánh (Không

một tiếng vang) thì cuộc sống họ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn lợi của môi trường

sống này. Sống trên cái ghe nhỏ, gia đình anh Nhánh kiếm miếng ăn đắp đổi qua ngày

với đủ thứ nghề như mò cây dưới đáy sông, xúc cá cho một tiệm cháo. Sau này sợ sát

sinh, gia đình anh chuyển sang xúc cát ở một cồn ngầm sâu. Gia đình thằng Kẹo (Lại

mẹ tôi tái giá), gia đình anh Sáu Nhánh (Phân nửa con người) cuộc sống quanh năm

suốt tháng gắn liền với sông nước. Họ chơi cây cảnh non bộ, trồng rau răm, hành, ớt,

Không có gì thú vị đối với kẻ sống trên đất liền cho bằng ngắm đời sống thân mật

của những người quanh năm suốt tháng sống trôi nổi bình bồng trên ghe thuyền

thương hồ. Chiếc thuyền là cái nhà của họ, và những gì tầm thường trong nhà

của ta, lại trông rất ngộ nghĩnh trên cái nhà nổi của họ…

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

nuôi heo gà… Và nếp sống của họ tạo nên văn hóa của một vùng sông nước.

Sông nước Hậu Giang cũng gắn liền với mối tình thơ mộng của anh tư Được

với cô gái trên bảng quảng cáo kem đánh răng Perkol. Nơi mà “Đứng ở bên bờ, trông

qua bên kia, chỉ thấy mù mù. Nơi bờ mình đứng thì chiếc cầu bắc đen thui, những cái

quán lụp xụp, những ngôi nhà quản trị buồn như kho hàng” (Bình Nguyên Lộc (tập

1), 2002). Bỗng một ngày, vùng sông nước “minh mông” đó trở nên sinh động khi có

sự xuất hiện của tấm bảng quảng cáo có hình cô gái. Sông nước cũng gắn liền với

buôn bán cạnh tranh. Trong Thí một con chốt hốt một con xe, các ghe buôn cũng phải

luôn tính toán con đường kinh doanh như thế nào để không lỗ khi “Tết năm nay dưa

hấu được mùa. Các sông rạch chật ních ghe buôn hàng Tết mà phần lớn là ghe dưa

hấu” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002). Đặc điểm của vùng đất Nam Bộ là nhiều sông

ngòi, kênh rạch. Vì thế, người Nam Bộ thường sinh sống ở mé sông hoặc ngay trên

các ghe xuồng. Họ sống lang thang nay đây mai đó vì công cuộc mưu sinh còn lắm

104

vất vả, nhọc nhằn.

Hình ảnh sông nước xuất hiện trong những lễ hội đua ghe truyền thống hàng

năm của người dân. “Khúc sông Đồng Nai, trước chợ Biên Hòa, rộng như một cái hồ

to, thế mà ghe bơi năm đó thả lềnh bềnh gần chật sông” là nơi tổ chức cuộc thi đua

ghe. Không gian lễ hội thể hiện rõ đặc trưng văn hóa vùng đất Nam Bộ và gợi nhắc

những tích xưa cũ:

giác như lạc vào miền lạ nào. Màu sắc hực hỡ của mấy mươi chiếc ghe mới sơn,

với đầu rồng, đầu phụng của nó gợi hình ảnh cuộc nam du của vua nhà Tùy, nhắc

nhở những thuyền rồng vua Lê, những hành cung của chúa Trịnh.

Những đuôi rồng, đuôi phụng cong quớt lên, lại gợi hình ảnh xứ Thái, xứ Miên

với những chiếc ghe hình rắn Na-Ta.

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Đứng ở bờ sông trước dinh ông Chánh mà ngó lên Cồn Gáo, người xem có cảm

Đây là nơi để các ghe thử tài, thử trí và khẳng định sức mạnh, bản lĩnh của làng

mình. Nơi họ có sự gắn kết với đồng đội, tạo nên sức mạnh đoàn kết tập thể để đem

lại chiến thắng.

Nước ở đây còn xuất hiện trong một không gian huyễn hoặc của vùng sông

nước. Không gian này đã nuôi dưỡng nhiều câu chuyện được truyền tai nhau của người

dân sinh sống ở đây. Trong tác phẩm Câu dầm nhân vật tôi đi câu cá đêm với ông Ba.

Không gian sông nước ở đây thích hợp cho những câu chuyện “hãi hùng, rùng rợn”.

Chuyện người đi câu dầm gặp và cõng một bà già tội nghiệp nhưng sau đó ngoái lại

chỉ thấy một “cổ hòm lâu đời mục nát, hôi tanh”. Chuyện anh chàng đi soi ếch gặp

một thằng nhỏ xin đi theo nhưng sau đó thấy miệng thằng nhỏ “tèm lem” máu, “lưỡi

le” dài tới rốn. Rồi những câu chuyện về các thần, về hang thần… khiến cho dân trong

nghề phải khiếp sợ. Nước ở sông này như hiểu ý tình nên ở “trước chợ vận thành xoáy

khu ốc, như cố ý dừng lại trước một địa thế linh thiêng”. Chính từ những câu chuyện

huyễn hoặc này đã có tác dụng “thanh tẩy” tâm hồn của họ để họ sống tốt hơn. Ông

Ba trong truyện cũng vì sát cá mà vợ con “nối tiếp nhau mà chết” (Bình Nguyên Lộc

105

(tập 2), 2002). Từ đó, ông bỏ luôn chỉ dám đi câu cắm. Những câu chuyện huyễn hoặc

được thêu dệt, nuôi dưỡng bằng trí tưởng tượng của người lao động. Các thế hệ sau

nghe những câu chuyện tuy có chất hư cấu này nhưng cũng đủ nuôi dưỡng tâm hồn

biết sống thiện, sống tốt hơn.

Hình ảnh của lửa cũng là biểu tượng của tâm thức cội nguồn dân tộc. Theo Đào

Vũ Hòa An “Từ xưa đến nay các phương diện biểu hiện ý nghĩa của mẫu gốc Lửa chủ

yếu là: tẩy uế, tái sinh, nhiệt huyết…” (Trần Đình Sử (chủ biên), 2008). Lửa không xuất

hiện nhiều trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Thế nhưng, hình ảnh lửa hễ xuất hiện

là đều có dụng ý của tác giả trong việc nhắc nhở truyền thống cội nguồn. Cuộc sống

hiện đại đang khiến mọi thứ thay đổi. Một nếp nhà, một góc bếp, một mùi hương quen

thuộc của quê hương đang dần mất đi. Minh trong Lửa Tết sau chuyến đi dã ngoại với

vợ con đã “gặp một nếp nhà tranh vừa cất xong, chưa ở… Giữa gian nhà giữa, trên nền

đất, một lò lửa đã tàn lụn nhưng than còn ngún trên tro…”. Đấy chính là tục lệ thôn quê

trước khi họ vào nhà mới để ở. Lò lửa, lu nước và khạp gạo đầy là “những món tượng

trưng cho sự đầm ấm và sung túc” và để cầu “một đời ấm no và vui vẻ”. Có thể nói, như

nhan đề, tác phẩm xoay quanh bàn luận các vấn đề về lửa. Minh và mẹ vợ nhất định

mua bếp than về nấu, dù có đắt, mặc cho vợ Minh cản và thấy không nên trong thời buổi

hiện đại bấy giờ. Lửa trong tác phẩm được bàn luận từ khởi nguồn đến những vai trò

Trước khi loài người “ở lổ” họ rày đây mai đó. Họ không có đời sống gia đình.

Khi họ phát kiến ra Lửa rồi thì họ mới định cư lại, chưa biết cất nhà thì họ tìm

hang mà ở, lập gia đình, rồi đêm ngày nhen nhúm lửa thiêng, đời đời kiếp kiếp

nuôi nấng lửa để ấm hang, nuôi nấng tình gia đình để ấm lòng… khi ta bắt gặp

nếp nhà tranh mới cất và chủ nhà nguyện cầu, thề bồi bằng nước, lửa và gạo,

nguyện cầu được no ấm, thề bồi nỗ lực cho gia đình được no ấm.

Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

quan trọng, linh thiêng của nó:

Lửa đem lại cuộc sống no ấm, đem lại niềm vui. Vui vì khi bên bếp lửa cả nhà

đông đủ quây quần. Chính vì thế họ thích nhất ở nhà bếp. Họ nấu nướng các món ngon

106

suốt đêm, kể chuyện nhau nghe về công việc làm ăn, về tổ tiên. Đặc biệt vào những

đêm cuối năm “gió lạnh lắm, mà quây quần quanh bếp lửa, ấm ghê đi”. Lửa phải cháy

suốt đêm bởi “Nhà có nhúm lửa, nghe như là sung túc, mà nhúm những bếp lửa lớn,

nghe càng sung túc hơn”. Ngay cả lửa cũng không phải đốt từ loại nào cũng được mà

“lửa thiêng của gia đình phải thơm, thơm mùi thảo thụ” (Bình Nguyên Lộc (tập 2),

2002). Lửa trở thành linh hồn của gia đình, là nơi gắn kết các thành viên, nhắc nhở về

truyền thống gia đình và truyền cho nhau những kinh nghiệm làm ăn.

Trong Quyển gia phổ và Con Tám Cù Lần, lửa cũng được nhắc như là một điều

linh thiêng đem lại niềm vui tinh thần cho con người khi họ đi xa. Con Tám Cù Lần

muốn về nhà. Bởi với nó về quê có lửa. Lửa đem lại niềm vui như “Muốn nấu cơm

phải nhúm lửa, mà lửa thì vui”, lạnh có “lửa ấm thì vui”, ăn cơm chiều mùa mưa ở nhà

bếp quanh lò lửa “đông đủ cả nhà, vui lắm”, mùa gió bấc lửa ngủ rơm cũng vui’, “đốt

rơm lên, vui chơi, hò hát, vui lắm” (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Trong Quyển gia

phổ, Bình Nguyên Lộc cũng khẳng định khởi nguồn và vai trò của lửa trong đời sống

tinh thần của con người, đặc biệt là những đêm giỗ tiên đường hay những đêm cuối

Lửa bao giờ cũng vui, tiết ra nhiều sinh khí. Ánh lửa đỏ phủ màu mơ hồ huyền

hoặc lên năm gương mặt hân hoan vì ấm lòng và ấm da bên cạnh cái lò, trong

hơi lạnh thừa của tháng chạp còn chần chờ ở nán lại vài ngày đầu năm. Ngoài

kia bóng tối dày đặc, ngửa bàn tay lên không trông thấy, cứ lăm lăm rình, chực

chờ lửa hấp hối để tràn ùa vào.

Đó là hình ảnh xa xôi của một thời tiền sử, loài người còn ở lổ ăn lông, tối lại

nhúm đống lửa ngoài cửa hang để hơ ấm trong những đêm đông giá lạnh, hoặc

để đuổi xua thú dữ.

“Hồi đó, hồi thuở đời xưa, trời sai ông Táo xuống làm thần giữ lửa...”.

Đó là tin tưởng của dân ta qua truyện cổ tích và cũng vẫn còn là tin tưởng của

dân ta hiện nay trong những giờ buồn tê tái. Thường thì ta quên lửa đi, cuối năm

năm.

107

ta chỉ còn đưa ông Táo vì thói quen thôi, bởi vì ta đã thu nhốt được lửa trong một

cái hộp nhỏ, chỉ phát ra một cử chỉ nhẹ là có lửa rồi. Vị thần tôn lên trong một

thời tối lạnh để giữ của báu bã bị bạc đãi từ lâu.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Qua hình ảnh về lửa, Bình Nguyên Lộc khẳng định vai trò quan trọng của lửa

trong đời sống tinh thần con người. Lửa tham dự vào cuộc sống của họ như một phần

không thể thiếu mà đi xa họ luôn nhớ, luôn khát khao tìm về. Những câu chuyện về

khởi nguồn của lửa, những niềm vui mà lửa đem lại đã làm cho lửa trở nên thiêng liêng

hơn trong đời sống con người, nhất là những người luôn gắn bó với lửa trong sinh hoạt

thường ngày.

Hình ảnh đất, nước, lửa trở thành biểu tượng cho cuộc sống của người Việt. Đó

cũng chính là hồn thiêng của dân tộc Việt, một dân tộc vốn xuất phát điểm là nền nông

nghiệp lúa nước. Hình ảnh đất, nước, lửa gợi lên nếp sống, suy nghĩ, nhận thức, tình yêu

đối với bản quán và tâm hồn luôn hướng về cội nguồn dân tộc của nhân dân ta.

Như vậy, không gian văn hóa Nam Bộ được tái hiện sinh động trên trang văn của

Bình Nguyên Lộc. Từ phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nhà văn đã xây dựng nên không

gian sinh hoạt và không gian tâm linh đặc trưng của đời sống con người Nam Bộ.

3.3. Vai trò yếu tố văn hóa dân gian trong tổ chức giọng điệu và kết cấu tác phẩm

3.3.1. Tổ chức giọng điệu

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư

tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn

quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm” (Lê Bá Hán et al., 2006).

Bình Nguyên Lộc viết văn bằng cái giọng điệu trong sáng, giản dị, dí dỏm như tính

hồn nhiên, khả ái của người bình dân. Hồ Trường An trong Bình Nguyên Lộc - Tổng

quan văn chương vùng đất Đồng Nai (Tập bút khảo Náo nức hội trăng rằm) đã nhận

định rằng “Bình Nguyên Lộc viết văn bằng cái trong sáng của thiên lương. Anh không

làm dáng trong bút pháp và văn phong nhiều (trừ những cuộc đối thoại của những kẻ

tân học)”. Hồ Trường An nhận ra rằng Bình Nguyên Lộc không muốn bày trò rắc rối

tối tăm trong cách cấu trúc tác phẩm và cách dàn xếp nội dung của nó. Chính vì thế

108

khi viết Bình Nguyên Lộc thường “phóng bút tới tấp”, “giải thích tuồn tuột” đầy hào

hứng. Không ý tình thâm trầm, không tạo cái mênh mông thăm thẳm, truyện Bình

Nguyên Lộc viết giản dị phản ánh đúng tính cách hồn nhiên khả ái, bộc trực của người

Nam Kỳ. Lối hành văn này khiến giọng văn trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc luôn

trôi chảy, tự nhiên, mộc mạc. Trong Thám hiểm lòng người, ông phóng bút theo sự

… Ông nhìn mãi cô hai Thiền mà cười chúm chím, khiến cô nầy khó chịu và tức

mình lắm. Chắc ông phán đang nói thầm trong bụng : “Cô em ơi, có bị như vậy

cũng đáng kiếp cho cái tánh nhí nhảnh của cô. “Trống không, ai dám đánh

kiện và lối ngẫu hứng của nhân vật.

thùng, bậu không, ai dám dở mùng chun vô”. Nhưng ông cũng an ủi một câu :

- Cũng đáng tiếc thật đó, nhưng nghĩ lại chưa có gì hại lắm thì cũng

may, thôi thì cô bỏ qua đi cho rồi.

- Bỏ qua làm sao được, cô hai Thiền xon xỏn cãi, tức lắm mà ! Làm như vầy ai

mà còn ở yên đây được. Tôi phải làm cho ra lẽ nội đêm nay tôi mới nghe cho ….

Câu nói của cô Hai chưa dứt thì ngoài trước bọn đờn ông rục rịch lên tiếng hỏi

“Gì đó ? Gì đó?

(…) Ông phán Ca kể đầu đuôi câu chuyện cho họ nghe một cách vắn tắt mà đầy

đủ bằng câu hát mà khi họ chưa đến ông đã hát một vế :

“Đêm khuya gà gáy ó o.

Hỡi người quân tử vậy chớ mò đi đâu ?”

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

Đây là đoạn văn bản nói về sự kiện cô hai Thiền đang ngủ thì bị kẻ nào đó chui

vào giường mà mò. Sau khi cô la lên, mọi người hoảng hốt thức dậy và các sự việc cứ

thế diễn ra nhanh chóng trong sự nóng giận của cô hai Thiền. Đặc biệt, hai câu ca dao

xuất hiện trong đoạn trích thể hiện rõ cái thâm thúy của ông Ca khi nhìn nhận sự việc

109

đang diễn ra. Và cách vay mượn ca dao để nói hộ thâm ý của mình là nét đặc trưng

cho tính cách ưa dí dỏm của con người Nam Bộ.

Trong tác phẩm Đò dọc, Hồng và Hoa đánh nhau vì Hoa đã tiết lộ bí mật của

Hồng cho Long nghe. Sự việc này được Bình Nguyên Lộc miêu tả khá thú vị. Trong

Không thể chối cãi được nữa, cũng như chẳng có lý lẽ nào để đưa ra cho

giảm tội được, Hoa làm mặt lì cự lại

-Mắc cỡ cho em? Chị làm xấu mà em lại mắc cỡ? Có phải “tập tầm vông

của trẻ nhỏ đâu.

Rồi nàng mỉa mai hát

Tập tầm vông,

Chị lấy chồng,

Em ở góa;

Chị ăn cá,

Em mút xương;

Chị nằm giường,

Em nằm đất;

Chị húp mật,

Em liếm ve;…

Tức lắm Hồng sừng sộ hỏi

- Chị làm gì mà em cho là làm xấu?

- Tốt lắm à? Con gái có mèo mà tốt lắm à?

(Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002)

khi cãi nhau, Hoa đã diễn xướng ngay bài hát “tập tầm vông” như trêu tức Hồng:

Trong Cô Hời bán thuốc, sau khi nghe Sanh hỏi có bán thuốc cúm không, cô

Hời đã nói Sanh hãy đọc thần chú thì sẽ hết bệnh. Câu thần chú dí dỏm “Trăm lạy ông

Cúm, bà Co/ Ông ở xứ Nghệ ông mò vào đây./ Có thiêng xin hưởng của này/ Giúp cho

110

tín chủ khỏi ngay tức thì” (Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002) đã khiến cho Sanh cười

ngất. Bà Nam Thành (Đò dọc) thấy con kéo nước giếng sâu chưa quen bèn hát ngay

điệu hát ru “Lấy chồng ở miệt Tân Ninh/ Kéo dây giếng ba mươi sải, thất kinh ông bà”

(Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002). Trong khi mọi người đang thất vọng vì cô gái hay

đi chung xe lửa có chồng (Xe lửa Mỹ bung vành) thì bác xếp ngâm nga câu ca “Ra

đường thiếp hãy còn son/ Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng” như chia sẻ nỗi lòng

với họ (Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002). Bà Nho (Gieo gió gặt bão) trong khi nói

chuyện với chồng đã ngâm câu hát ru em để chọc ông Nho “Chuối non giú ép chát

ngầm,/ Trai tơ đòi vợ khóc thầm thâu đêm” (Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002). Cách

lồng ghép diễn xướng dân gian, hay ca dao trong cuộc đối thoại khiến giọng điệu tác

phẩm trở nên sinh động vừa thể hiện tính cách bộc trực của người Nam Bộ vừa tạo sự

lôi cuốn, thu hút người đọc.

Văn chương Bình Nguyên Lộc là văn chương hướng về cội nguồn, về bản sắc

văn hóa dân tộc. Vì thế, thái độ tình cảm, lập trường tư tưởng đạo đức của ông hướng

về những con người chân chất của vùng đất Nam Bộ. Trong bối cảnh di dân, cộng sinh

của các tộc người trên miền đất mới, ông đã ghi nhận sự đóng góp của những con

người ở vùng đất này. Đối với người lao động trong cuộc mưu sinh, trong đời sống

tình cảm, giọng điệu chủ đạo là sự thương cảm, trăn trở. Vì thế, trong khi kể chuyện,

ông hay lồng ghép các thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong lời nhận định của ông về sự

vật hay sự việc để đánh giá. Vợ chồng anh chín Rắc (Thèm người) sống lâu trong rừng,

giao tiếp ít nên nói năng cụt lủn như “Dùi đục chấm mắm nêm”. Thằng Nóp (Đành

cam vào khám với tình… bò) nghèo khó đi làm công thuê bị ông Cả đánh “nhứt sinh

nhứt tử” vì để mất trộm trâu. Câu hát vẳng đưa đến tai cô Tư (Đôi bạn mắc hoa vông)

“Xưa kia ai cấm duyên bà/ Bây giờ bà già bà cấm duyên tôi” khiến cô nghĩ tới con chó

Ma – Lên của mình mà mở cửa cho nó đi tìm bạn. Sở (Khi Từ Thức về trần) trở về nhà

sau khi mất trí nhớ. Quan sát ngôi nhà của mình, Sở thấy mọi cái thay đổi khiến anh

nghĩ ngay đến câu ca dao “Ghe lui khỏi bến còn giầm,/Người thương xa vắng chỗ nằm

còn đây”; “Chết ba năm sống lại một giờ/ Để xem con bạn phụng thờ làm sao”. Đây

chính là nỗi lòng của “Từ Thức” khi thấy lạc lõng ngay trong chính ngôi nhà của

mình… Người đọc có thể thấy những câu thành ngữ tục ngữ, những bài ca dao xuất

111

hiện trong tác phẩm thường gắn liền với cuộc sống hàng ngày của người bình dân. Đó

chính là cách thể hiện những cảm nhận chân thực trước hiện thực và tình yêu sâu sắc

của nhà văn đối với con người cũng như mảnh đất Nam Bộ.

Các yếu tố văn hóa dân gian mà đặc biệt là ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân

gian đã giúp nhà văn tạo nên giọng điệu độc đáo cho tác phẩm của Bình Nguyên Lộc.

Giọng điệu trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc đậm chất Nam Bộ vừa hồn nhiên, dí

dỏm vừa giàu thương cảm. Đây không phải là giọng điệu văn chương bác học mà là

của văn chương bình dân; là chất liệu, công cụ để tác giả thể hiện những suy tư, chiêm

nghiệm, triết lý trước cuộc sống. Bình Nguyên Lộc đã nối kết văn chương với đời sống

sinh hoạt hằng ngày, xây dựng nên hình ảnh con người văn hóa Nam Bộ, góp phần tạo

cầu nối cho tính truyền thống và hiện đại trong văn học.

3.3.2. Tổ chức kết cấu

Trong Lí luận văn học (tập 2) do Trần Đình Sử chủ biên có đưa ra khái niệm

kết cấu như sau: “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng

nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn đặt ra cho mình.” (Trần Đình

Sử et al., 2010). Kết cấu truyện của Bình Nguyên Lộc nhìn chung là đơn giản, linh

hoạt, theo trình tự thời gian như các câu chuyện trong tự sự dân gian. Điểm nhìn của

người kể chuyện chủ yếu ở ngôi thứ ba để dễ dàng bao quát tất cả các sự kiện, tình tiết,

nhân vật. Đặc điểm này cũng do tính truyền thống của văn xuôi Nam Bộ và văn hóa

vùng miền này. Văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ phát triển sớm nhưng lối viết còn ưa dài

dòng. Trước 1954, xu hướng chính là viết các bộ tiểu thuyết dài như Hồ Biểu Chánh,

Phú Đức, Lê Hoằng Mưu. Sau 1954, xu hướng viết ngắn nổi lên và có chất lượng nghệ

thuật cao hơn giai đoạn trước. Sự thay đổi này đã đem đến màu sắc mới cho văn xuôi

Nam Bộ. Tuy nhiên, lối viết đơn giản, hồn nhiên, dung dị vẫn là điểm nổi bật của văn

xuôi nghệ thuật vùng đất này. Bình Nguyên Lộc là một trong những tác gia lớn với 52

quyển tiểu thuyết, xuất bản 20 quyển nhưng viết không dài. Ông cũng sáng tác khoảng

1.000 truyện ngắn, trong đó có nhiều truyện rất ngắn như truyện Má ơi, má!, Không

một tiếng vang, Nhốt gió, Người chuột cống, Mưa thu nhớ tằm… Những câu văn của

ông tuy ngắn gọn nhưng vẫn đậm chất “dân gian”. Cốt truyện đơn giản, nội dung quen

112

thuộc nhưng cách đặt vấn đề và kết truyện lạ, bất ngờ, nên vẫn tạo được sự kết hợp

khá tốt giữa truyền thống và hiện đại.

Điểm nổi bật trong kết cấu của Bình Nguyên Lộc là sử dụng nhiều chất liệu ngữ

văn dân gian. Từ cách đặt nhan đề đến nội dung văn bản tác phẩm, tác giả sử dụng

chất liệu ngữ văn dân gian đa dạng trên nhiều góc độ, bình diện. Đây cũng là một trong

những đặc điểm nổi bật trong cách tổ chức sự kiện, cốt truyện của tác phẩm. Một số

nhan đề được đặt từ những câu tục ngữ như Gieo gió gặt bão, Cái nết đánh chết cái

đẹp, Lá rụng về… ngọn. Có nhan đề được gợi lên từ câu chuyện cổ tích Từ Thức về

trần đó là tiểu thuyết Khi Từ Thức về trần. Đặc điểm chung của hầu hết các nhan đề

này là thâu tóm nội dung và tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Bà Nho (Gieo gió gặt

bão) vì gieo gió vào gia đình mình nên cuối cùng gặt lấy kết quả cay đắng khi mất

chồng, đứa cháu mà bà trăm mưu ngàn kế gài bẫy khi biết sự thật đã trả thù lại bà. Sở

(Khi Từ Thức về trần) sau khi hồi phục trí nhớ trở về nhà thì ông đã trở nên xa lạ ngay

trong chính gia đình của mình. Lá cuối cùng không trở về cội mà trở về với ngọn, về

với tình cảm yêu thương của tình mẫu tử (Lá rụng về… ngọn). Cái nết lúc nào cũng

hơn cái đẹp và Sanh (Cái nết đánh chết cái đẹp) đã rút ra được bài học sau những trải

nghiệm cay đắng của chính mình trong tình yêu. Cách đặt nhan đề này đã mang lại

hiệu quả nghệ thuật khá thú vị. Người đọc vừa được sống trong không khí dân gian,

vừa hiểu được ý tình cũng như nội dung tác giả muốn hướng tới, vừa cảm thấy được

khơi gợi cảm xúc và sự tò mò.

Về nội dung văn bản, người viết nhận thấy ở thể loại tiểu thuyết, năm tác phẩm

Đò dọc, Khi Từ Thức về trần, Xô ngã bức tường rêu, Gieo gió gặt bão, Tì vết tâm linh

có 89 chất liệu ngữ văn dân gian được sử dụng. Ở thể loại truyện ngắn, tác giả vận dụng

yếu tố ngữ văn dân gian cũng nổi trội hơn so với các yếu tố khác. Từ 7 tập truyện ngắn

với 104 tác phẩm, tác giả đã thu được kết quả đáng chú ý như sau:

STT TẬP TRUYỆN

Số lượng Tác phẩm có yếu tố văn hóa Tác phẩm có yếu tố ngữ văn dân

dân gian

tác phẩm gian/ tác phẩm có yếu tố văn hóa

dân gian

113

1 Thầm lặng 15 11/15 6/11

2 Nhốt gió 13 9/13 6/9

3 Mưa Thu nhớ tằm 17 13/17 11/13

4 Ký thác 16 9/16 8/9

5 Những bước lang 17 13/17 9/13

thang trên hè phố của

gã Bình Nguyên Lộc

6 Cuống rún chưa lìa 17 17/17 7/17

7 Ma rừng 9 5/9 2/5

104 78/104 49/77 TỔNG CỘNG

Bảng thống kê yếu tố ngữ văn dân gian

trong các tập truyện ngắn, tạp văn của Bình Nguyên Lộc

Qua bảng thống kê, tác giả nhận thấy các yếu tố văn hóa dân gian xuất hiện khá

nhiều trong các truyện ngắn, tạp văn của Bình Nguyên Lộc. Trong 78/104 tác phẩm

có yếu tố văn hóa dân gian thì 49/78 có yếu tố ngữ văn dân gian với 128 chất liệu ngữ

văn dân gian được sử dụng. Việc sử dụng chất liệu ngữ văn dân gian thể hiện mục đích

hướng tới của Bình Nguyên Lộc là sự nhất quán trong việc khẳng định giá trị văn hóa

truyền thống. Văn hóa dân tộc, văn hóa cội nguồn là điểm nổi bật trong các sáng tác

của ông. Để khẳng định giá trị văn hóa truyền thống, bên cạnh các thủ pháp nghệ thuật

dùng để khắc họa hiện thực đời sống, các yếu tố ngữ văn dân gian được vận dụng nhằm

thể hiện mối quan hệ giữa con người với văn hóa dân gian.

Trong tác phẩm, yếu tố ngữ văn dân gian như là ca dao thường gắn với hình

thức diễn xướng như câu hò của đôi nam nữ trong rừng mắm “Hò ơ… tháng ba cơm

gói ra hòn / Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.”, câu hát ru cao hứng của ông

Nam Thành (Đò dọc) khi nhặt xác mấy con côn trùng “Đời người như kiếp phù du,/

Sớm còn tối mất công phu lỡ làng”. Có khi, câu ca dao chỉ xuất hiện trong suy nghĩ

của nhân vật như anh Tư Được (Người đẹp ven sông). Khi nhìn thấy tấm hình cô gái

trên biển hiệu quảng cáo, anh đã đối thoại với tấm ảnh “Sông dài cá lội biệt tăm/ Phải

duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ”. Trong Những bước lang thang trên hè phố của

gã Bình Nguyên Lộc, các bài ca dao xuất hiện khá nhiều trong hai tác phẩm Âm thanh

bí mật, Vắng bia đá thì hỏi bia miệng. Đặc biệt tác phẩm Vắng bia đá thì hỏi bia miệng

114

xây dựng trên khung kết cấu đối đáp giữa kẻ lang thang và bia miệng Sài Gòn để tái

hiện lại bức tranh đô thị miền Nam đương thời và những địa danh quen thuộc lưu dấu

tích trong ca dao “Bắp non mà nướng lửa lò,/ Đố ai ve đặng con đò Thủ Thiêm”. Mỗi

câu hò, câu hát ru xuất hiện ở các vị trí khác nhau, sự kiện khác nhau trong các tác

phẩm khiến tác phẩm mang màu sắc, âm điệu dân gian.

Các yếu tố ngữ văn dân gian như thành ngữ, tục ngữ xen vào lời nói nhân vật

hay người kể chuyện thì đều được sử dụng để thể hiện cách nhìn nhận đánh giá của

người kể chuyện về sự việc, tính cách nhân vật (Gieo gió gặt bão, Mấy vụ quật mồ bí

mật, Rung cây dừa), cách các nhân vật bộc lộ tình cảm, suy nghĩ, thế giới nội tâm hay

nhìn nhận, đánh giá người khác (Đò dọc, Tì vết tâm linh, Lá rụng về ngọn…). Trong

tác phẩm ngoài lời của nhân vật thì lời của người kể chuyện cũng đan xen các câu

thành ngữ, tục ngữ để thể hiện quan điểm của mình về các quan niệm, triết lý trong

cuộc sống. Trong Ba con cáo, ngưỡi dẫn chuyện đã nhận xét về Sáu Sửu, một tay giang

hồ về ở ẩn trốn chính quyền, là một tên “bán trời không mời thiên lôi”. Sáu Sửu vốn

dĩ không sợ ai nhưng giờ lại sợ trước không gian tối tăm, tù đọng, lạnh lẽo của nghĩa

địa nơi hắn chọn để lẩn trốn.

Trong truyện ngắn, cấu trúc tác phẩm thường đơn giản, các sự kiện không nhiều,

rất ít tình tiết có tính cao trào cho nên người đọc dễ hiểu ý nghĩa thâm trầm bên trong.

Điều này do tác giả ảnh hưởng từ cái tánh hồn nhiên khả ái, phóng khoáng, bộc trực của

người Nam Kỳ. Chính tính cách này đã ảnh hưởng đến nhiều cây bút gốc Nam Kỳ chứ

không riêng gì Bình Nguyên Lộc. Tình tiết truyện đơn giản. Tác phẩm cũng không tập

trung miêu tả sâu tính cách hay số phận nhân vật. Tác giả thường đi vào những đặc điểm

phong tục tập quán văn hóa vùng miền gắn liền với lịch sử di dân đến miền đất mới.

Trong tiểu thuyết Đò dọc, ông Nam Thành đưa cả gia đình về quê sinh sống. Cuộc sống

ban đầu khó hòa nhập với thôn quê khiến họ thấy lạc lõng nhưng rồi họ cũng dần thích

nghi với lối sống làng quê, với các trò chơi, các phong tục của “tình làng nghĩa xóm”.

Trong tác phẩm, người đọc thấy vừa có diễn xướng hát ru trong sinh hoạt gia đình, vừa

có tri thức thực tiễn về ăn trộm ở quê, vừa dùng thành ngữ, tục ngữ trong giao tiếp, vừa

giữ những tục lệ như cúng giỗ…

Trong kết cấu truyện, Bình Nguyên Lộc hay “chêm xen” vào mạch truyện một

cách ngẫu hứng khi ông muốn giải thích phong tục, tín ngưỡng hay tri thức dân gian

115

nào đấy. Đây là đặc điểm lối nói ưa rề rà của người Nam Bộ vừa thể hiện phong cách

nghệ thuật của nhà văn. Ông thường không coi trọng giới hạn của thể loại. Truyện của

ông luôn tự nhiên, sống động, chân chất như con người và vùng đất Nam Bộ. Như

trong Đò dọc, nhà văn viết xen vào trong đoạn gia đình ông Nam Thành đang dùng

Người miền Nam ta có nhiều lối đặt tên con rất ngộ nghĩnh. Có lối đặt

liền với tên cha, hễ cha tên Sang thì con phải tên Trọng, cha tên Phú thì con

phải tên Quí, cha tên Sâm thì con phải tên Nhung. Có lối đặt liền với nhau. Thí

dụ bốn đứa thì đặt: Nết, Na, Đằm, Thắm, năm đứa thì đặt: Cửu, Hạn, Phùng,

Cam, Võ. Ông Nam Thành đặt tên con một cách đặc biệt hơn ai cả, ông dựa

theo năm chữ nhạc đầu trong điệu Bình bán vắn mà quyết định giọng của chữ

tên của con ông: Hương, Hồng, Hoa, Quá, Thơm. Ý ông muốn nói: cái hương

của hoa hồng thơm quá ! Mà nói bằng điệu câu Bình Bán vắn câu đầu. Cứ theo

ý chí đó thì ông mà có đặt như vầy cũng vẫn ổn.Con, Cò, Ma, Ốm, Thay! Hoặc:

Tao, Mầy, Đi, Tắm, Chơi !

(Bình Nguyên Lộc (tập 3), 2002)

cơm là đoạn giải thích tục đặt tên con của người miền Nam.

Trong Bảo mật, tác giả cũng dừng lại để giải thích về nghề làm đường phổi gia

Đường phổi không phải là đường. Thật ra nó chỉ là một thứ quà ngọt chế tạo bằng

đường cát trắng, tròng trắng trứng gà và một vài chất khác mà nhà nghề giữu kín

cho đến mãi ngày nay. Miếng đường phổi mang hình dạng một lá phổi mà bên

trong nó có hang, lỗ y như phổi người. Đó là lễ phẩm người dân Đồng Nai dùng

cúng tổ tiên ngày Tết. Thành phần hóa học của đường phổi, và cách chế tạo nó,

những nhà nghề trên ấy thọ lãnh của tổ tiên ngoài Quảng Ngãi, Quảng Nam khi

bỏ làng di cư vào Đồng Nai, cách đây trên ba trăm năm.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

truyền của làng Bình Thới:

116

Trong Tiếng vang trễ muộn, tác giả ra khỏi mạch truyện đang diễn để miêu tả

Xốc nước là một công việc rất mệt nhọc, phải khỏe mạnh như trâu mới làm nổi.

Người xốc nước cõng ngược kẻ chết đuối trên lưng họ, đầu kẻ này lộn xuống đất

cho nước ở bụng họ dễ chảy ra miệng họ, cõng như vậy mà chạy khắp làng năm

bảy vòng, để sự nhồi lắc làm cho nước thoát ra.

(Bình Nguyên Lộc (tập 1), 2002)

kinh nghiệm dân gian trong cứu người bằng xốc nước.

Trong Đôi bạn mắc hoa vông, tác giả đang kể chuyện cô Tư xin nuôi con Ma-

Lên. Con Ma-Lên vì sợ nó bị mắc hoa vông mà chủ định nó trấn nước cho nó chết.

Ở nhà quê, chó tháng giêng hay hóa dại vì thời tiết nóng quá. Nhơn tháng ấy là

tháng hoa vông trổ, người ta lầm lẫn sự trùng phùng ấy với nguyên nhơn bệnh

dại, nên gọi bệnh dại ấy là bệnh mắc hoa-vông. Chó lớn thì họ còn để sống vì còn

cần, chớ chó mới đẻ là họ trấn nước chết hết kẻo chúng nó mắc hoa-vông mà

khốn!

(Bình Nguyên Lộc (tập 2), 2002)

Tác giả đang kể thì dừng lại lí giải nguyên nhân của căn bệnh hoa vông này.

Những đoạn văn mở rộng, những liên tưởng ngẫu hứng có thể làm cấu trúc và

nội dung tác phẩm thiếu tính nhất quán. Thế nhưng, cuộc sống người dân Nam Bộ

được lí giải sâu sắc ở mọi mặt, từ cuộc sống đời thường đến các phong tục, tập quán,

kinh nghiệm sống.

Chính vì các yếu tố ngữ văn dân gian nói riêng và yếu tố văn hóa dân gian nói

chung khiến tác phẩm Bình Nguyên Lộc được xem như truyện phong tục. Điểm nhìn

từ hiện thực nhưng các mối quan hệ xã hội, mâu thuẫn trong cuộc sống được tác giả

soi chiếu từ kinh nghiệm, vốn sống hay tập quán lâu đời của dân tộc. Điều này tạo nên

chất văn hóa truyền thống đậm nét trong sáng tác của ông.

Như vậy, kết cấu truyện đơn giản, thể hiện rõ nét chân dung của con người văn

hóa thông qua việc xây dựng tình huống, sự kiện đậm chất “cảm hoài” gắn với phong

117

tục trong cuộc sống của người lao động. Lối kết cấu độc đáo vận dụng nhiều yếu tố

ngữ văn dân gian trong lời thoại, trong sinh hoạt, trong cách đánh giá của tác giả góp

phần làm cho tác phẩm giàu chất văn hóa, đậm tính dân tộc.

Tiểu kết

Nhìn từ phương diện nghệ thuật, yếu tố văn hóa dân gian có vai trò quan trọng

trong cách xây dựng nhân vật, tổ chức giọng điệu, kết cấu của tác phẩm, tái hiện không

gian văn hóa Nam Bộ. Đây là ba khía cạnh cơ bản, nổi bật mà nhà văn Bình Nguyên

Lộc dùng để thể hiện phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng tác hướng về “nguồn

cội” của mình. Trước tiên, về mặt xây dựng nhân vật, các yếu tố văn hóa dân gian đã

giúp khắc họa rõ hơn chân dung của những con người mang bản sắc văn hóa Nam Bộ.

Ở họ từ tính cách, khí chất, ngoại hình đều toát lên vẻ đẹp của một vùng đất mới với

lịch sử còn non trẻ. Các nhân vật trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc là hiện thân của

những phẩm chất, tính cách, khí tiết con người Nam Bộ. Đó là những con người gắn

với cội nguồn tâm thức cộng đồng; con người kiên trì, bộc trực, lạc quan tích cực.

Yếu tố văn hóa dân gian còn có vai trò quan trọng trong tái hiện lại không gian

văn hóa Nam Bộ. Văn chương của Bình Nguyên Lộc gắn liền với đời sống sinh hoạt

hằng ngày của những người lao động cần lao. Chính vì thế, hình ảnh trên các trang văn

của ông thường thuộc về “chân trời quen thuộc” mà ông từng sống và gắn bó. Đặc biệt

là hững hình ảnh gắn liền với tâm thức cộng đồng như lửa, đất, nước vừa gợi về “hồn

nước” vừa nhắc nhở cội rễ của dân tộc.

Tác phẩm của Bình Nguyên Lộc luôn đậm chất vùng miền. Đó là giọng điệu tự

nhiên, chân chất, giản dị, mộc mạc như con người và vùng đất Nam Bộ. Về kết cấu

truyện thường đơn giản, ít sự kiện và tình huống cao trào. Sự kiện hay tình huống xây

dựng dựa trên sự cộng hưởng với yếu tố văn hóa dân gian để hướng vào làm rõ chân

dung nhân vật hoặc làm rõ tâm lý nhớ quê hương, bản quán. Điểm nổi bật là truyện có

nhiều chất liệu của ngữ văn dân gian làm cho tác phẩm trở nên gần gũi, sinh động và

hấp dẫn người đọc.

118

KẾT LUẬN

Bình Nguyên Lộc là nhà văn Nam Bộ. Qua sáng tác của ông, người đọc không

khỏi ngỡ ngàng trước một vốn liếng văn hóa dân gian phong phú, đa dang được ông

vận dụng thành công trong các tác phẩm. Với vị trí “tam kiệt”, Bình Nguyên Lộc đã

khẳng định được chỗ đứng của mình trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954

- 1975. Đối chiếu trong lịch sử phát triển của văn xuôi hiện đại thế kỷ XX, tác phẩm

của Bình Nguyên Lộc đã đến với người đọc bằng một giọng văn đặc sệt Nam Bộ: hồn

nhiên, dân dã. Giọng điệu ấy cùng với hình ảnh cuộc sống và con người vùng đất

phương Nam, ông đã làm phong phú diễn đàn văn học miền Nam lúc bấy giờ vốn chủ

yếu là giọng Bắc.

Văn hóa và văn học có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với nhau. Trong

văn hóa, văn hóa dân gian là văn hóa “cội nguồn”, thể hiện rõ nét và có tính liên tục

sự ảnh hưởng sâu sắc của mình trong suốt tiến trình dài của lịch sử văn học dân tộc.

Vì vậy, khi đánh giá giá trị tác phẩm văn học hay vị trí của tác giả, chúng ta không thể

đánh giá dựa trên việc vận dụng các yếu tố văn hóa dân gian. Nhưng xem xét văn học

từ góc độ này, chúng ta sẽ thấy tác phẩm có nhiều giá trị sâu rộng, vừa mang tính

truyền thống vừa mang tính hiện đại.

Bình Nguyên Lộc là một trong những tác giả văn xuôi thuộc khuynh hướng

khẳng định giá trị truyền thống. Chính vì vậy, đối với nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên

Lộc, văn hóa dân gian trở thành nguồn cảm hứng và là chất liệu quý cho văn chương.

Trong bối cảnh xã hội miền Nam với nhiều biến động, xáo trộn của những cuộc di dân

và cộng sinh của nhiều tộc người, trang văn của ông vẫn hướng về nơi “Cuống rún

chưa lìa”, vẫn thấm đẫm “cội nguồn” văn hóa dân tộc. Nhà văn tìm về với văn hóa

dân tộc như một điều tất yếu của con người luôn nặng tình với quê hương, với bản

quán. Yếu tố văn hóa dân gian dường như đã trở thành nguồn mạch nuôi dưỡng sức

sống cho tác phẩm văn chương của ông. Văn chương của ông cũng đã làm cho các yếu

tố văn hóa dân gian trở thành các thực thể hiện hữu và sống động. Các yếu tố như

phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật, lễ hội, tri thức và ngữ văn dân gian được

119

ông tái hiện sinh động, tự nhiên. Sự vận dụng hài hòa yếu tố văn hóa dân gian vào lối

viết văn hiện đại đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm thú vị khi đến với nền

văn hóa truyền thống của dân tộc. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học nước nhà

quan niệm sáng tác văn chương gắn với cội nguồn dân tộc. Ông cũng đã lưu giữ trên

trang văn của mình kho tàng văn hóa dân gian đa dạng, độc đáo của dân tộc Việt. Đồng

thời, ông cũng khẳng định sức sống bền bỉ của văn hóa dân gian, văn học dân tộc trong

suốt quá trình đấu tranh giữ nước và dựng nước.

Các yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc cũng có vai

trò lớn trong việc giúp nhà văn khắc họa chân dung những con người Nam Bộ. Đó là

những con người Nam Bộ với tâm lý và tính cách tiêu biểu như chân chất, giản dị, hồn

nhiên, khả ái, giàu tình nghĩa, vị tha, thẳng thắn. Đó cũng là nhân vật với đời sống tâm

linh luôn hướng về cội nguồn, khát khao được trở về với quê hương, bản quán của

mình. Yếu tố văn hóa dân gian còn giúp tái hiện lại không gian văn hóa Nam Bộ lúc

bấy giờ. Không gian sinh hoạt với những “chân trời quen thuộc” hằng ngày nơi những

con người lao động sống, làm việc cần cù, nhẫn nại, vất vả trong công cuộc mưu sinh.

Không gian tâm linh với những nghi lễ thờ cúng, những hình ảnh gợi tâm thức cộng

đồng. Nó như hành trình giúp các nhân vật về với cội rễ của dân tộc. Cách tổ chức kết

cấu, giọng điệu linh hoạt từ sự kết hợp khéo léo các yếu tố văn hóa dân gian khiến tác

phẩm của Bình Nguyên Lộc tạo được nhiều ấn tượng, đem đến hiệu quả nghệ thuật

thú vị. Nó khiến tác phẩm của Bình Nguyên Lộc vừa gần gũi, mộc mạc vừa sinh động,

hấp dẫn người đọc.

Nghiên cứu về Bình Nguyên Lộc người ta thường chỉ nghiên cứu tới sự nghiệp

văn chương, sự nghiệp biên khảo và các giá trị văn hóa truyền thống về vùng đất và

con người Nam Bộ. Nghiên cứu về sự ảnh hưởng, vai trò của các yếu tố văn hóa dân

gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc hiện chưa có công trình nào chuyên sâu về

vấn đề này. Tuy nhiên, mảnh đất Nam Bộ với nhiều phong tục, tập quán, tín ngưỡng…

Con người Nam Bộ với tính cách, nếp sống, nếp nghĩ thể hiện trong tác phẩm đã góp

phần chứng minh cho mối quan hệ gắn bó của văn học và văn hóa dân gian. Văn hóa

dân gian đã ảnh hưởng sâu rộng đến trang văn của Bình Nguyên Lộc. Đồng thời, văn

học thông qua nhà văn, vừa là chủ thể tiếp nhận vừa là chủ thể sáng tạo, cũng tác động

120

trở lại đối với việc bảo lưu, giữ gìn và phát triển văn hóa dân gian của dân tộc. Bình

Nguyên Lộc đã lưu giữ cả một nền văn hóa dân gian Nam Bộ trong sáng tác của mình.

Nếu đọc Nguyễn Tuân, Vũ Bằng để biết văn hóa miền Bắc, đọc Võ Hồng, Vũ

Hạnh để biết văn hóa miền Trung thì đọc Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc để hiểu biết sâu

sắc về văn hóa miền Nam. Với cảm hứng về nền văn hóa “cội nguồn”, Bình Nguyên

Lộc đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các yếu tố văn hóa dân gian. Sáng tác của Bình

Nguyên Lộc vừa là sự kế thừa văn học giai đoạn trước vừa là sự sáng tạo dựa trên xu

hướng cách tân nghệ thuật của văn xuôi hiện đại giai đoạn này. Hình thức tác phẩm

ngắn gọn, linh hoạt vừa xây dựng được các nhân vật văn hóa vừa làm giàu ngôn ngữ

văn hóa, hình ảnh văn hóa... Các nhà văn giai đoạn này đã thực hiện xuất sắc trọng

trách lịch sử giao cho mình trong việc vừa bảo lưu vừa làm mới các giá trị truyền

thống.

Việc nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc

chắc chắn sẽ còn nhiều hướng đi mới mẻ và có những phát hiện thú vị hơn. Trong

phạm vi nghiên cứu của mình, người viết cũng xin đóng góp chút công sức vào việc

khẳng định vị trí của Bình Nguyên Lộc trong bối cảnh văn học miền Nam giữa thế kỷ

XX; trân trọng những thành quả trong lao động, sáng tạo nghệ thuật của nhà văn; trân

trọng những giá trị văn hóa mà ông đem đến cho văn học miền Nam cũng như văn học

dân tộc./.

121

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách tham khảo

A.A.Radugin (Người dịch Vũ Đình Phòng). (2002). Từ điển Bách khoa Văn hóa học.

Nxb Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật.

GN. Poxpelop (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch). (1998). Dẫn luận

nghiên cứu văn học. Hà Nội. Nxb Giáo dục.

Jean Chevalier, Alian Gheerbrant. (2016). Từ điển Biểu tượng Văn hóa Thế giới. Đà

Nẵng: Nxb Đà Nẵng.

R. Aileau, E.Fromm, C.Le’vi – strauss, J. Baudrillard, J. Cazenneuve (Đoàn Văn Chúc

dịch). (2016). Những mảnh ghép văn hóa. Hà Nội. Nxb Hội nhà văn.

Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị. (1984), Ca dao –

dân ca Nam Bộ, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

Bình Nguyên Lộc. (2002). Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (tập 1). Hà Nội: Nxb

Văn học.

Bình Nguyên Lộc. (2002). Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (tập 2). Hà Nội: Nxb

Văn học.

Bình Nguyên Lộc. (2002). Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (tập 3). Hà Nội: Nxb

Văn học.

Bình Nguyên Lộc. (2002). Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (tập 4). Hà Nội: Nxb

Văn học.

Bùi Mạnh Nhị (chủ biên). (1999). Văn học dân gian – những công trình nghiên cứu.

Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh.

Chu Xuân Diên. (1999). Cơ sở văn hóa Việt Nam. TP.Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Chu Xuân Diên. (2001). Văn hóa dân gian: mấy ấn đề về phương pháp luận và nghiên

cứu thể loại. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Chu Xuân Diên. (2009). Cơ sở văn hóa Việt Nam. TP.Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học

Xã hội và Nhân văn.

Đinh Gia Khánh. (2009). Văn học dân gian Việt Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục

Việt Nam.

122

Đoàn Giỏi. (2015). Đất rừng phương Nam, Cá bống mú, Hoa hướng dương. Hà Nội:

Nxb Hội Nhà văn.

Đoàn Lê Giang. (2001). Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc.

Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

Đỗ Thị Minh Thúy. (1997). Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Hà Nội: Nxb Văn

hóa Thông tin.

Huỳnh Như Phương. (2010). Lý luận văn học (nhập môn). Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Đại

học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Kiều Thu Hoạch. (2014). Văn hóa dân gian người Việt góc nhìn so sánh. Hà Nội: Nxb

Khoa học Xã hội.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (2006). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà

Nội: Nxb Giáo dục.

Lê Ngọc Canh. (1999). Văn hóa dân gian những thành tố. Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông

tin.

Lê Nguyên Cẩn. (2014). Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa. Hà Nội: Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Lê Văn Chưởng. (1999). Cơ sở văn hóa Việt Nam. TP.Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

Lê Văn Hạnh. (2006). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb Khoa học và Kĩ thuật.

Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. (2000). Cơ sở ngôn ngữ học và

tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Ngô Đức Thịnh. (2004). Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb

Trẻ.

Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan. (2005). Folklore thế giới, một số công trình nghiên

cứu cơ bản. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

Nguyễn Khoa Điềm. (1974). Mặt đường khát vọng. Nxb Văn nghệ Giải phóng.

Nguyễn Q. Thắng. (1999). Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn hóa –

Thông tin.

Nguyễn Thị Kim Ngân. (2017). Folklore và văn học viết. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

123

Nguyễn Thị Ngọc Điệp. (2015). Các dạng thức đối thoại trong hát đối đáp nam nữ

người Việt. Tp.Hồ Chí Minh: Nxb Văn học.

Nguyễn Thị Thu Trang. (2015). Văn xuôi đô thị Miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 nhìn

từ các giá trị văn hóa truyền thống. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh.

Phan Cự Đệ (Chủ biên). (2004). Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Hà Nội: Nxb

Giáo dục.

Sơn Nam. (2001). Hương rừng Cà Mau tập 1. Tp.Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

Sơn Nam. (2009). Từ U Minh đến Cần Thơ, ở chiến khu 9, 20 năm giữa lòng đô thị,

Bình An. TP. Hồ Chí Minh. Nxb Trẻ.

Trần Đình Sử. (2008). Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, tập 2. Hà Nội: Nxb

Đại học Sư phạm.

Trần Đình Sử (Chủ biên). (2010). Lí luận văn học tập 2: tác phẩm và thể loại văn học.

Hà Nội Nxb Đại học Sư phạm.

Trần Ngọc Thêm. (1999). Tìm về bản sắc văn hóa Việt nam. Tp. Hồ chí Minh: Nxb

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

Trần Ngọc Thêm. (1997). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Trần Quốc Vượng (chủ biên). (2014). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục

Việt Nam.

Viện Văn học. (1999). Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học 1960 – 1999. TP. Hồ Chí

Minh: Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ. (2002). Từ điển văn hóa dân gian.

Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin.

Vũ Ngọc Khánh. (2007). Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam. Hà Nội: Nxb

Giáo dục.

Luận văn, luận án

Nguyễn Lương Hải Khôi. (2004). Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc.

Luận văn thạc sĩ. Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Thu Trang. (2008). Con người và những giá trị văn hóa truyền thống

trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Luận án tiến sĩ Ngữ văn.

124

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí

Minh. Tp. Hồ Chí Minh.

Phạm Thị Thu Thủy (2017), Con người Nam bộ trong sáng tác văn xuôi của Hồ Biểu

Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Nguyễn Ngọc Tư. Luận án tiến sĩ. Đại học

Sư phạm Hà Nội. Hà Nội.

Trần Thị Thúy Hằng. (2012). Từ ngữ địa phương trong sáng tác Bình Nguyên Lộc.

Luận văn thạc sĩ. Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh.

Trang web

Bàng Bá Lân. (2007). Bình-Nguyên Lộc. Truy cập từ trang http:

//www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/BangBaLan/BangBaLan_BNL.htm.

Cao Huy Khanh. (2008). Bình-nguyên Lộc, nhà văn của đời sống tâm lý hằng ngày.

Truy cập từ trang http: //www.binhnguyenloc.de /pages/BaiViet /CaoHuyKhanh/

CaoHuyKhanh_BinhNguyenLoc.htm.

Đỗ Hữu Phương. (2011). Nhà văn Bình-Nguyên Lộc (1914-1987). Truy cập từ trang

https://www.aihuubienhoa.com/p120a291/nha-van-binh-nguyen-loc-1914-

1987-do-huu-phuong.

Đỗ Lai Thúy (2006), Quan hệ văn hóa và văn học từ cái nhìn hệ thống. Truy cập từ

trang https://phebinhvanhoc.com.vn/tiep-can-van-hoc-tu-he-thong-van-hoa/.

Hoàng Anh. (2012). Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc và câu chuyện những người đi

mở cõi, Truy cập từ trang https://trinhhoaiduc.wordpress.com/2012/06/05/rung-

mam-cua-binh-nguyen-loc-va-cau-chuyen-nhung-nguoi-di-mo-coi/amp/.

Hồ Trường An. (2014). Bình Nguyên Lộc tổng quan văn chương vùng đất Đồng Nai.

Truy cập từ trang https://vantuyen.net/2014/05/27/binh-nguyen-loc-tong-quan-

van-chuong-vung-dat-dong-nai-ho-truong-an/.

Huỳnh Như Phương. Văn học và văn hóa. Truy cập từ trang

http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/van-hoc-

va-van-hoa-huynh-nhu-phuong.html.

Huỳnh Hoàng Anh. Tình quê hương trong tác phẩm nhà văn Bình Nguyên Lộc. Truy

cập từ trang http://trinhhoaiduc.netfirms.com/binhnguyenloc.html.

Lê Phương Chi. (2007). Phỏng vấn nhà văn Bình-Nguyên Lộc. Truy cập từ trang

125

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/LePhuongChi/LePuongChi_Phon

gVanBNL_VersionTinSach.htm.

Ngô Đức Thịnh. (2007). Văn hóa dân gian và văn hóa học. Truy cập từ trang

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2007/2441/Van-

hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.aspx.

Nguyễn Mạnh Trinh. (2007). Bình Nguyên Lộc nhìn từ con người và tác phẩm. Truy

cập từ trang http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=35278.

Nguyễn Thị Thu Trang. (2007). Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Truy cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/NTThuTrang/NTThuTrang_Truye

nNganBinhNguyenLoc.htm.

Nguyễn Vy Khanh. (2007). Bình Nguyên Lộc và tình đất. Truy cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/NGVyKhanh/BinhNgLocNVK%2

0Final.pdf.

Phạm Thanh Hùng. (2011). Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Truy cập từ

trang http://thanhhungagu.blogspot.com/2011/02/phong-cach-truyen-ngan-

binh-nguyen-loc.html?m=1.

Sơn Nam. (2008). Đọc tác phẩm đầu tay của Bình-Nguyên Lộc. Truy cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/SonNam/SonNam_DocTacPham

DauTay.htm.

Thụy Khuê. (2007). Bình Nguyên Lộc (1914-1987), đất nước và con người. Truy cập

từ trang http: //www.binhnguyenloc.de /pages/

BaiViet/ThuyKhe/Thuy%20Khue_BNL-DatNuocVaConNguoi.htm

Trần Cao Lĩnh. (2007). Chúng ta đã mất Bình Nguyên Lộc. Truy cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/TranCaoLinh/TranCaoLinh_Chun

gTaDaMatBNL.htm

Trần Đình Sử. (2013). Vai trò của văn học trong sáng tạo văn hóa. Truy cập từ trang

https://trandinhsu.wordpress.com/2013/08/27/vai-tro-cua-van-hoc-trong-sang-

tao-van-hoa/

126

Trần Đình Sử. (2017). Giá trị văn hóa của Văn học Việt Nam. Truy cập từ trang

https://trandinhsu.wordpress.com/2017/03/06/gia-tri-van-hoa-cua-van-hoc-viet-

nam/

Trần Kiêm Đoàn. Vẻ đẹp của ngôn ngữ miền Nam trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc.

Truy cập từ trang http://www.art2all.net/butluan/ngonngumiennam.html

Trần Ngọc Thêm (2008), Tính cách người Việt ở Nam Bộ như một hệ thống. Truy cập

từ trang http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-

bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-hoa-nguoi-viet-nam-bo.html

Trần Phỏng Diều. (2007). “Con Tám cù lần” của Bình-Nguyên Lộc: Người thành thị

hoài niệm về chốn thôn quê. Truy cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/TranPhongDieu/TranPhongDieu_

ConTamCuLan.pdf

Vinh Lan. (2010). Những nắm-níu của quê-hương trong “Cuống rún chưa lìa”. Truy

cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/TruyenNgan/KyThac/VinhLan_NhanTinh-

NhanPham.htm

Võ Phiến. (2007). Bình Nguyên Lộc – một nhân sĩ trong làng văn. Truy cập từ trang

http://www.binhnguyenloc.de/pages/BaiViet/VoPhien/VoPhien_BNLMotNhan

SiTrongLangVan.htm

Vương Trí Nhàn. (2014). M.Bakhtin – Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý

khi nghiên cứu văn học quá khứ. Truy cập từ trang

https://vuongtrinhan.blogspot.com/2014/05/m-bakhtin-mot-so-van-e-can-luu-y-

khi.html

Thơ Nguyễn Trãi, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ Nguyễn Trung Ngạn, Thơ Trần Tế

Xương, Thơ Đoàn Văn Cừ, Thơ Nguyễn Bính, Thơ Anh Thơ.

https://thivien.net

LỜI MỞ ĐẦU PHỤ LỤC

Văn hóa dân gian là cội nguồn của văn hóa dân tộc. Sự xuất hiện của văn hóa

dân gian trên các trang văn làm cho tác phẩm giàu vừa mang tính hiện đại vừa vừa

giàu tính dân tộc. Bảng phụ lục dưới đây là bảng thống kê các yếu tố văn hóa dân gian

mà người viết thực hiện trong quá trình khảo sát tác phẩm. Bình Nguyên Lộc là một

trong những tác giả văn học lớn của Nam Bộ, một trong ba “tam kiệt”. Vì thế, bảng

thống kê chỉ khảo sát trong phạm vi bốn tập được Nguyễn Q. Thắng tuyển chọn và

giới thiệu để phục vụ đề tài. Đây là những tác phẩm tiêu biểu giàu chất văn hóa dân

gian trong sáng tác của ông.

Nội dung thống kê trong phụ lục gồm hai phần. Phụ lục 1 là sáu yếu tố văn hóa

dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc gồm phong tục tập quán, tín ngưỡng,

nghệ thuật, lễ hội, tri thức và ngữ văn dân gian. Phụ lục 2 bao gồm hai bảng thống kê

số liệu các yếu tố ngữ văn dân gian trong tác phẩm đã được người viết trình bày trong

phần chính văn. Phụ lục 3 là hình ảnh chân dung và các sáng tác tiêu biểu của nhà văn.

Mục đích của bảng thống kê là giúp người đọc có thông tin về các yếu tố văn hóa dân

gian, tần số các yếu tố này xuất hiện trong các bối cảnh cụ thể của tác phẩm. Ngoài ra,

người đọc thông qua bảng phụ lục này sẽ hiểu hơn phần chính văn của luận văn.

Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát, người viết nhận thấy thống kê cũng chỉ

mang tính tương đối vì: một số tác phẩm có một vài thành ngữ, tục ngữ khó hiểu thấu

đáo do từ cổ, từ địa phương; các loại hình nghệ thuật dân gian phần lời thì thuộc về

ngữ văn dân gian nhưng diễn xướng lại xếp vào nghệ thuật dân gian; có nhiều yếu tố

văn hóa dân gian vừa là phong tục dân gian vừa là tín ngưỡng dân gian; nhiều ngữ liệu

nguời viết dẫn trung thành với văn bản gốc từ địa phương của Bình Nguyên Lộc.

MỤC LỤC PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1 ............................................................................................... PL 1

PHỤ LỤC 2 ............................................................................................. PL 48

PHỤ LỤC 3 ............................................................................................. PL 50

PL1

PHỤ LỤC 1

BẢNG THỐNG KÊ YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN

TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

1. Phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian

STT TÁC PHẨM PHONG TỤC – TẬP QUÁN – TÍN NGƯỠNG BỐI CẢNH SỬ DỤNG

1 Má ơi, má! - Các bà mụ vườn - Con Nhộng mù từ lọt lòng do sự dốt

(Thầm lặng) nghề của bà mụ vườn mà ra.

- Trồng cau - Cau trồng thành từng sở to; cây cau

này mọc cách cây cau kia độ một thước

sáu tấc.

2 Tiếng vang trễ muộn Tục lệ ghi tên tráng đinh ở làng - ông Đại Hương Cả Mộc đọc tên số

(Thầm lặng) lượng tráng đinh trong làng. Họ cho

thằng Bò không phải người thật sự.

3 Nỗi buồn của người Truyền nghề đóng cối xay Chú Sáu muốn truyền nghề đóng cối

xay lại cho thằng Út nhưng nó không sắp chết

chịu học. Tìm thanh niên trong vùng (Thầm lặng)

truyền lại cũng không ai chịu học. Chú

Sáu buồn và lo lắng cho cái biết mà

không ai chịu học.

PL2

4 Bảo mật - Nghề gia truyền làm đường phổi - Bí mật gia truyền của nghề làm đường

(Thầm lặng) - Đường phổi dùng cúng tổ tiên ngày Tết phổi và phong tục cúng Tết, rằm ở làng

- Cúng rằm tháng bảy (sáng cúng mặn, tối cúng Bình Thới.

chè)

- Tục lệ trai làng không được cưới gái làng khác,

gái trong làng chẳng được lấy chồng xa để giữ bí

mật của nghề.

5 Bí mật của chàng Tục thuê người khóc mướn đám ma. Thi sĩ Quỳnh Giao chết, bạn bè góp tiền

(Thầm lặng) thuê bọn khóc mướn đám ma.

6 Hai buổi giậm cù Nước và đất Trung giải thích với Huấn về nước và

(Nhốt gió) đất ở vùng đồng ruộng miệt Hậu Giang

7 Quyển gia phổ - Quyển gia phổ - Quyển sổ của gia đình Tồn lưu giữ ghi

(Mưa thu nhớ tằm) chép dòng họ cổ nhất Miền Nam

- Lên bùa dựng miếu - Bác Thu đến nhà Tồn để hưởng cái

- Nhà bếp là nơi vui vẻ nhất vào những đêm giỗ không khí tết và những phong tục Tết ở

tiên đường, vào những đêm ba mươi tháng Chạp đây.

- Nhen nhúm lửa cả ngày lẫn đêm

- Lửa – khởi nguyên của lửa

- Gói bánh chưng ngày tết

PL3

-Ăn tết với dưa hấu và đường phổi

8 Mẹ tôi tái giá Miễu “Ông” – đình thờ Thần hoàng làng Chánh Lão Xi – lăng – ba trồng cao su ở làng

(Mưa thu nhớ tằm) Hưng Chánh Hưng nhưng cây đang mọc tốt

thì rũ xuống chết. Tám Hậu cho rằng do

không cúng vái vì miễu ông linh và ông

ghét Tây.

9 Lại mẹ tôi tái giá La làng là lối kêu cứu ở thôn quê và mẹo làm to Mẹ Kẹo rượt theo nó cầm roi la làng để

(Mưa thu nhớ tằm) chuyện mỗi khi muốn dư luận đả đảo ai. La làng nó sợ mà lên ghe.

làm người bị la sợ. Đó là nỗi sợ di truyền của nông

dân lương thiện. Họ sẽ xuống nước đầu hàng ngay.

10 Tre phải tàn - Nhà thờ họ Ân về quê ăn giỗ đồng thời thông báo

(Mưa thu nhớ tằm) - Trưởng tộc cho dòng họ mình sắp cưới vợ. Ân

- Cúng giỗ con cháu quy tụ về nhà thờ họ chứng kiến nhiều tục lệ của gia đình.

- Ghi gia phổ 12 đời

11 Quà đêm trên sông - Các món quà trên sông Ông Lãnh: cháo cá, chè Tác giả giới thiệu về những thức quà và

tiếng rao quà đã trở thành nét đặc trưng Ông Lãnh đậu trắng, xu xoa mật đường hạ, bánh canh, trà.

của Sài Gòn - Tiếng rao

PL4

(Những bước lang

thang trên hè phố của

gã Bình Nguyên Lộc)

12 Thần thánh Sài Gòn Miễu để thờ cúng cầu tài, cầu hết bịnh, xin an lành Sài Gòn có nhiều miễu

- Miễu dưới gốc đa trong vườn Tao Đàn (Những bước lang

tại cửa đường Trương Định thang trên hè phố của

- Miễu bệnh viện Bình Dân gã Bình Nguyên Lộc)

- Miễu trên cháng 2 của cây vông bên

kia đường trước rạp Thành Xương

-Miễu treo trên lan can bap lơn một dãy

lầu trên đại lộ Trần Hưng Đạo

-Bàn thờ trong tòa soạn

13 Chùa chiền, đền miếu Sài Gòn nhiều chùa, miễu - Chùa : Ngọc Hoàng, Tam Tông, Kỳ

Viên, Xá Lợi, Linh Sơn, Bà Đầm, Bà (Những bước lang Dân tộc Việt Nam khoan hồng tín ngưỡng, không

Đen, Bà La Môn, chùa Bắc, chùa ở thang trên hè phố của tôn giáo nào là không có đền thờ ở Sài Gòn

đường Hồ Huấn Nghiệp, đạo Baha’i gã Bình Nguyên Lộc)

- Văn Miếu Y Tổ (thật ra là cái miễu)

14 Bà mọi hú Ở rừng núi, chùa chiền mới linh Người Á Đông tin rằng ở rừng núi chùa

(Cuống rún chưa lìa) mới linh. Các tín đồ ở tận ngoài sông

PL5

cách đó bảy tám cây số, các sư cũng tìm

cách mang vôi gạch đến để cất linh tự.

15 Lửa Tết - Giữa gian nhà tranh mới cất xong, trên nền đất, Gia đình Minh đi picnic. Họ đi qua một

một lò lửa đã tàn lun nhưng than còn ngún. Hai bên (Cuống rún chưa lìa) cái ấp lớn và thấy một nếp nhà tranh vừa

là lu nước đầy gần tràn và khạp gạo đầy nhóc. mới cất lên giữ nhà có lò lửa, lu nước và

Người ta bày giữa nhà mới hăm bốn tiếng đồng hồ khạp gạo đầy.

trước khi vào ở để cầu một đời ấm no và vui vẻ về

sau. - Minh diễn thuyết cho cả nhà nghe về -Lửa Tết và nguồn gốc của lửa nguồn gốc và vai trò của lửa

16 Ma ném đá -Chửi mất gà Tục chửi của người nhà quê. Đây là lời

Mẹ tiên nhơn cha, dòng họ cha nó! Đẻ con hổng (Cuống rún chưa lìa) chửi của mợ Tư khi bị ném đá lên ngói

biết dạy thì đóng trang mà thờ…Tiên tằng cố tổ bà nhà.

nội cha bây, ăn no rồi ở không phá làng phá xóm!

Mai này bây rước ông bà bây về, tao còn chưởi

nữa, tao chưởi cho ông bà bây ngồi không yên trên

bàn thờ…

17 Câu dầm - Thần Cá Bóng linh, hiền từ, nhân đức phù hộ cho Ông Ba kể những câu chuyện của dân

(Cuống rún chưa lìa) làng. làng về vùng sông nước ở khu chợ Tân

Uyên

PL6

- Thần Cù hung ác, tham lam nên làng lập đàn chay

để tế và bố thí cô hồn, các đẳng

18 Con Tám Cù Lần - Ở nhà bếp, quanh lò lửa, đông vui cả nhà; luôn Con Tám Cù Lần kể cho thằng Công

(Cuống rún chưa lìa) nhúm lửa chứ không để tắt trên bếp; ngủ lửa rơm nghe về thú vui ở quê

cũng vui

- Nước vui, nước lên tới thềm là vui, thấy như là

mình sung túc; ngoài đồng, bờ nước cũng vui

19 Thèm mùi đất - Yêu đất, yêu mùi đất, thèm mùi đất Người thợ nông nghiệp hạnh phúc khi

(Cuống rún chưa lìa) với đất họ được thỏa mãn tình cảm

20 Phân nửa con người Nhớ đất, ghiền hửi mùi đất, đất có hồn Ông cụ anh Sáu Nhánh lý giải cho con

(Cuống rún chưa lìa) về nỗi nhớ đất và mong muốn trở về quê

21 Hương hành kho Mùi đặc biệt của hương hành lá pha với mùi nước Ông Vĩnh Xương và Côn đều ngửi thấy

(Cuống rún chưa lìa) mắm của một trách cá kho nào vừa sôi…món ăn mùi hương của món ăn thân thuộc dân

thôn dã quen thuộc dã và gợi nhắc quê hương

PL7

22 Đò dọc Cách đặt tên con - Cách đặt tên con ngộ nghĩnh của người

- Tiểu thuyết - - Liền với tên cha Miền Nam.

- Đặt liền nhau

- Phụ nữ nhẫn nại chịu số phận và làm tròn phận - Phe phụ nữ trong gia đình ông Nam

Thành không ai thích về quê nhưng ai sự

cũng phải chuẩn bị ráo riết.

- Có nhậu mới có tới lui với xóm giềng được - Lời ông Nam Thành nói với vợ về việc

chuẩn bị đồ ăn sẵn trong nhà và tục ở

quê.

- Chửi mất gà - Thím Tư mất gà. Sau khi uống nước

Xóm trên, xóm dưới, xóm ngoài, xóm trong, mở lỗ xong, thím Tư ra sân tằng hắng vài

tai mà nghe đây nè: Gà của tao còn ràng ràng hồi tiếng, rồi người ta nghe như mở radio,

trưa, mà quân nào đã ăn tươi nuốt sống rồi… thao thao bất tuyệt.

..Mẹ! Giường thờ chiếu trải chân cha bây, bây có

thèm thịt và cá thì nuôi lấy mà ăn, chớ chi như vầy,

ông bà ông vãi bây ngồi trên giường thờ sao cho

yên nè!

…Mẹ! Cao tằng cố tổ tiên nhưn cha bây, cả kiếng

họ mẹ bây, rán mà ngoái lỗ tai để nghe tao chửi…

PL8

…Quân tham lam bây ăn thịt gà mắc xương nghẹt

họng bây, bây ăn rồi bây ngã ra giãy tê tê rồi chết

toi, chết dịch.

- Gả con đồng địa vị - Lời ông Nam Thành nói với vợ về việc

gả chồng cho con.

- Gói bánh tét, bánh ít để cúng giỗ - Bà Nam Thành nhớ lệ cũ nên làm bánh

trái cúng giỗ.

- Coi mắt - Ông bà Nam Thành nhờ người mai

mối cho con.

- Con gái không được khen con trai đẹp. - Bà Nam Thành không hài lòng vì lời

Con gái chỉ nên để ý đến tài đức của con trai ngợi khen của Quá bà coi là trái đạo và

khuyên chỉ nên quan tâm đến tài đức

của con trai.

- Chàng hiu hót cổ. Miền Bắc gọi là chẫu chuộc - Chàng hiu nhảy lên cổ Hoa rồi sang cổ

- Miền Bắc kêu con đầu là con cả. Miền Nam kêu Quá làm gia đình ông Nam Thành

con đầu là chị hai quýnh qíu. Họ nói về chàng hiu, về cách

gọi con đầu trong gia đình ở hai miền.

PL9

23 Ti vết tâm linh Nói chuyện sau bữa cơm Truyền thống dân tộc, gia đình được từ

- Tiểu thuyết - Nhất là những buổi cơm đêm, dưới đèn, quanh bếp thế hệ này đến thế hệ khác trong những

lửa. bữa cơm gia đình.

2. Nghệ thuật dân gian và lễ hội dân gian

STT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT - LỄ HỘI DÂN GIAN BỐI CẢNH SỬ DỤNG

1 Qua lối cũ - Thầy bắt rắn Lũ trẻ hè nhau mà la inh ỏi “Mạnh thầy

( Nhốt gió) thầy ăn, mạnh rắn rắn ăn nè..è..è” ngoài

trước nhà Nhâm.

- Trò cút bắt - Thăng Tâm muốn ba nó chơi trò cút bắt.

- Chọn người bị ngủ trong trò cút bắt nên

- Trò chùm nụm lũ trẻ chơi chùm nụm “chùm nụm, chùm

niệu, tay bí, tay tiên, đồng tiền, chiếc

đũa…” rồi “con rắn, con rít, bò qua tay

này”

2 Đồng đội - Ghe làng nào cũng phải có mặt dự cuộc đua bơi. Cuộc đua ghe bơi trên sông Đồng Nai,

(Ký thác) -Màu sắc rực rỡ của mấy mươi chiếc ghe mới sơn, khúc sông trước chợ Biên Hòa

với đầu rồng, đầu phụng.

PL10

- Một hồi trống mấy mươi chiếc ghe chuyển mình

lượn tới xếp hàng.

- Một tiếng súng mấy mươi cái phèng la đánh lên

một lượt, mấy trăm người hô lên một lượt

- Dân bơi bên này dùng giầm mà chém vào tay dân

bơi bên kia để vượt lên. Ghe nào đến trước thắng.

3 Rừng mắm Hò đối đáp - Má thằng Cộc hò xong, bà lắng đợi

(Ký thác) - Hò ơ…tháng ba cơm gói ra hòn chồng bà hò đáp. Bà nhớ thú vui thuở

Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai. còn con gái khi còn ở làng.

- Hò ơ…Tiếng anh ăn học lảu thông

Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường.

- Hò ơ…Rồng chầu ngoài Huế, - Ông Nội thằng Cộc hò một cách vui vẻ

Ngựa tế Đồng Nai, sau khi thấy công sức lao động được bù

Nước sông trong sao cứ chảy hoài, đắp.

Thương người xa xứ lạc loài đến đây.

4 Thí một con chốt hốt - Hò …ơ…Nước xuôi chạy gió buồm mềm Cô Út hò để dụ cho các ghe chở dưa đi

một con xe “Muốn vô làm bé, biết có bền hay không?” theo thuyền ông Tư đến chợ Ông Hàm

(Mưa thu nhớ tằm) -Hò…ơ…Áo vá quàng viền đàng chỉ đỏ

PL11

“ Gẫm sự đời vợ nhỏ cưng hơn”

4 Đò dọc -Hát nối - Hương hát và đố các em hát bài hát có

- Tiểu thuyết - Con chim manh manh câu chót nối lại câu đầu

Nó đậu cành chanh,

Tôi lấy miếng sàng,

Tôi chọi chết giãy;

Tôi làm bảy mâm,

Tôi dưng ông ăn;

Tôi nói manh manh

Nó đậu cành chanh,

Tôi vác ….

- Bậu lỡ thời như ớt chín cây,

Ớt chín cây người ta còn hái;

Bậu lỡ thời như nhái lột da,

Nhái lột da người ta còn bắt;

Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,

Giặc Hà Tiên người ta còn đánh;

Bậu lỡ thời nhue bánh trôi sông,

Bánh trôi song người ta còn vớt;

PL12

Bậu lỡ thời như ớt chín cây,

Ớt chín cây người ta còn hái;

Bậu lỡ thời như….

- Tập tầm vông -Trò chơi trẻ con mà Hoa hát để mỉa mai

Tập tầm vông, Hồng.

Chị lấy chồng

Em ở góa;

Chị ăn cá,

Em ăn xương;

Chị nằm giường,

Em nằm đất;

Chị húp mật,

Em liếm ve…

3. Tri thức dân gian và ngữ văn dân gian

Tri thức dân gian

STT TÁC PHẨM TRI THỨC DÂN GIAN BỐI CẢNH SỬ DỤNG

PL13

1 Lá rụng về …ngọn - Gà mẹ và gà con vừa mặc áo lá: mẹ cắn đuổi con - Sau khi biết sự thật về cha mình, Chi và

(Thầm lặng) để rã bầy, con luyến tiếc mẹ mà chẳng dám chạy cô Tư trở nên có khoảng cách. Chi muốn

theo. rúc vào nách nách mẹ nhưng cô Tư lách

mình nằm ra xa.

- Mã chửa hoang - Lá thư chi viết cho mẹ nói việc tới cô là

đời thứ ba sinh con không cha. Theo miệng

thế sẽ cho là nhà có mã chửa hoang.

2 Tiếng vang trễ muộn Cấp cứu xác chết bằng xốc nước Thằng Mận bị chết đuối. Dân làng không

biết hô hấp nhân tạo mà chỉ cấp cứu bằng (Thầm lặng)

xốc nước.

3 Đành cam vào khám Cách bắt những tên trộm bò đêm - Dân bắt trộm bò đêm khi nghe động họ

lặng lẽ mở cửa đi rình, không thắp đèn rọi. với tình …bò

Khi ông Muôn hô lên một tiếng thì cả nhà (Thầm lặng)

đã vây quanh chuồng bò nên Nóp có cánh

cũng không bay được.

4 Chó điên - Kẻ ăn thịt chó hôi mùi chó đi đến đâu chó nó đánh - Nhân vật tôi đi qua xóm bị chó sủa.

(Nhốt gió) hơi sủa theo đó Người dân tin vào những kinh nghiệm

- Ăn trộm không bao giờ dám ăn thịt chó truyền lại.

PL14

- Người uống rượu càng uống càng xanh người như - Đột Một càng uống rượu mặt càng xanh.

vậy sâu hiểm lắm. Người ta nghĩ uống mặt càng xanh là sâu

hiểm.

- Lòng chó đùm lá bạc hà - Lời nói của ông Ba khi nói về món đùm

- Chem chép đùm lá chuối làm từ lòng chó.

5 Lữ bất vi nguyên tử Con trai sinh năm Nhâm Dần, tháng Nhâm Dần, Mái chín Dãnh thuê Điền vào nhà hộ sanh

(Mưa thu nhớ tằm) ngày Nhâm Dần, giờ Nhâm Dần ngày sau được dặn mấy bà mụ, hễ ai đẻ con vào ngày đó,

làm vua giờ đó thì se mua về nuôi

6 Tre phải tàn Phúc thống phục nhơn sâm … tắc tử Ông cụ trưởng tộc hỏi Ân về câu chuyện

(Mưa thu nhớ tằm) bốc thuốc.

7 Mưa thu nhớ tằm Tằm “hén” chín đỏ sau khi ngủ “thức lớn”, chơi 7 Bác Y kể cho nhân vật tôi nghe qúa trình

(Mưa thu nhớ tằm) ngày rồi “chộ” xong là hén chín đỏ dồn hết máu tằm chín.

huyết để nhả tơ

8 Người đờn ông đẻ Tằm Câu truyện về hoàng hậu Ái Mỹ đi cắt dâu

và mang một con tằm đem về nuôi. Toàn (Ký thác) - Sợ nước

bộ quá trình của Tằm trước khi nhả tơ cho - Lớn 6 ngày thì ngủ giấc ăn mốt

mọi người. -Hôm thứ 8 dậy ăn dâu

-Ăn 4 ngày, chiều thứ 4 ngủ giấc ăn hai

-1 ngày 1 đêm dậy ăn 4 ngày rồi ngủ ăn ba

PL15

-Thức 4 ngày rồi ngủ giấc lớn

-Thức 7 ngày ngày thứ 7 đỏ ối

-Ngày thứ 8 toàn thân đỏ, phóng uế rồi nhả tơ

9 Đôi bạn mắc hoa vông - Ở nhà quê, chó tháng giêng hay hóa dại vì thời -Cô Tư xin con chó tốt nhất trong ổ chó mà

nhà bên cạnh nhà ông ngoại cô trấn nước (Ký thác) tiết nắng quá. Tháng ấy là tháng hoa vông trổ,

cho chết vì cho rằng nó mắc bệnh hoa tháng của bệnh dại nên gọi bệnh dại là chứng bệnh

vông. mắc hoa vông. Chó đẻ tháng này họ trấn nước chết

hết vì sợ chúng mắc hoa vông - Cô Tư 43 tuổi, tuổi Dần và chưa có - Con gái tuổi dần thì sát chồng chồng. Trai đời xa lánh cô vì sợ con gái

tuổi Dần sát chồng.

10 Săn cọp Đồng Nai - Bò thính đánh hơi thấy cọp nhất định không kéo Kinh nghiệm đi săn bắt cọp

(Ma rừng) xe tới

- Chim đỗ quyên kêu thê thảm là chắc chắn gặp

ông ba mươi

11 Đò dọc -Lời của ông Nam Thành kể cho vợ con về - Cách ăn trộm

- Tiểu thuyết - - Gắn cây đèn cầy cháy trên lưng con cua rồi câu chuyện ăn trộm đi trộm.

thả con cua vào nhà. Cua bò qua lại trong

nhà soi sáng cả mọi vật.

PL16

- Dùng một que tre thật nhỏ, thật dài để quơ

trước mặt. Que đụng phải cột, báo trúng biết

để tránh mà không khua động.

- Hối gạo có sẵn trong túi mà ném tứ tung ra.

Gạo chạm vào đồ đồng, đồ thau kêu leng

keng nho nhỏ, dẫn dắt chúng lại chỗ cất đồ

quý. - Lời bà Nam Thành mắng con gái út.

- Đừng đùa giỡn bóng, khuya ngủ, nó dồi chết

11 Gieo gió gặt bão - Bà mụ đánh, ai biểu làm biếng học - Lời Liên khi thằng bé mếu một cái.

- Liên sinh xong càng đep. Lời tục nói ít - Tiểu thuyết - - Nhứt gái một con..

sai vài vì đó là kết tinh hàng ngàn thế hệ

quan sát

12 Tì vết tâm linh - Mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng Cần nói về kinh nghiệm của ông cha trong

chọn vợ. - Tiểu thuyết -

Ngữ văn dân gian

STT TÁC PHẨM NGỮ VĂN DÂN GIAN BỐI CẢNH SỬ DỤNG

1 Cây đào lộn hột - Hư thân mất nết Dừa có bầu với văn sĩ Thanh nhưng giấu

ba má. Đến khi cái bầu lớn, ba má đánh (Thầm lặng) - Con hư tại mẹ

bắt nó khai nhưng nó nhất định không chịu - Nhất sanh nhứt tử

PL17

- Mang nặng đẻ đau khai. Lời tục của ba má Dừa nói khi đánh

nó. - Rau nào sâu nấy

2 Đành cam vào khám -Trong mo ngoài đất sét -Nóp nói chuyện với bò sau khi cho bò ăn

no ngoài ruộng về với tình… bò

- Ông Cả bị mất trộm trâu đánh nó một trận -Nhứt sinh nhứt tử (Thầm lặng)

3 Đứa con đủ tháng Bông hoa lài cắm bãi …c…trâu Cô Hồng báo tin lấy chồng cắc chú, một

bang già người Tiều Châu, chủ vựa đường. (Thầm lặng)

Vợ chồng nhân vật tôi cho là không xứng.

4 Người đẹp ven sông - Sông dài cá lội biệt tăm - Anh tư Được làm phu trên phà máy thích

(Thầm lặng) Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ một cô gái trên tấm bảng quảng cáo cho

kem đánh răn Perkol ven sông. Anh nhìn

tấm ảnh quảng cáo có cô gái và tự đối thoại

với tấm ảnh.

- Cái con nhạn đành kêu sương nơi biển Bắc ơ..ơ. - Lên Sài Gòn kiếm người đẹp trong tấm

Còn cái con én cam ..khóc hạn ông trời ảnh, anh phải học luật đi đường và anh

Nam…Thảm thay Ngưu Nữ…. thấy vọng cổ dễ nhớ hơn

5 Lương tâm kẻ trộm - Mẹ tròn con vuông -Ba Khện ăn trộm xe bò bị người trong

(Thầm lặng) điếm canh hỏi. Hắn nói đi rước mụ đỡ cho

PL18

vợ nên được cho đi và người trong điếm

- Ngủm cù đeo gửi lời chúc.

- Gã rước thầy về trị rắn cắn cho mụ đỡ đã

chặn xe ba Khện lại nhờ giúp. Hắn nói với

ba Khện nếu không rước kịp thầy thì mụ

sẽ chết.

- Lời nói cô Tư nói với con khi không hài 6 Lá rụng về…ngọn - Mặt chai mày đá

lòng việc người đàn ông phụ bạc cô giờ (Thầm lặng) - Bát nước đổ đi

quay lại đòi nhận con.

- Lá rụng về cội - Khi nghe con gái hỏi có giống ba không,

cô Tư nhớ lại câu tục ngữ này.

-Cô Tư hỏi con gái về câu tục ngữ vì cô ám

-Lá rụng về cội ảnh sợ con về với cha mà bỏ cô.

- Cô Tư lẩm bẩm về lời tục khi con gái cô

muốn về ở với cha.

- Cô Tư viết thư cho người đàn ông phụ - Lá rụng về cội

bạc mình về nhận con và nói về cha con

- Rau nào sâu nấy ông.

PL19

- Chín ruột chín gan - Trong lá thư Chi gửi về cho mẹ sau

những biến cố xảy ra ở nhà cha mình.

- Họ giàu họ nghinh hôn giá thú - Thư Chi gửi cho mẹ nói việc cô nghe câu

Đôi ta nghèo thì rủ nhau đi. hát ru của hàng xóm và cô nghĩ đến việc

- Thương em, lấy cẳng anh quèo cưới hỏi hay những kẻ thường làm xấu.

Thiên hạ bắt được, nói bạn nghèo với nhau.

7 Chó điên -Khôn, dại tại tâm Ông Ba hỏi có ai dám ăn chó điên không.

(Nhốt gió) Đột Một nói ghê quá. Ông Ba đưa lời tục

ra trấn an.

8 Đất không chết - Thâm căn cố đế Cách sử dụng những từ địa phương của

(Nhốt gió) anh Thuần làm người ta kinh ngạc không

biết có phải là Việt ngữ không.

9 Hai buổi giậm cù Trả báo nhãn tiền Tuấn và Trung về quê Trung bắt chuột.

(Nhốt gió) Đang bắt thì thấy máy bay tới. Hai bạn lật

đật cởi quần áo, nằm dài trên đóng rơm.

Huấn cười và nói Việt đi bố chuột thì bị

máy bay bố lại.

10 Vướng bận Chở củi về rừng Bút lên Sài Gòn làm việc. Vợ Bút chuẩn bị

(Nhốt gió) chu đáo, kĩ lưỡng. Bút nói vợ chuẩn bị

PL20

nhiều quá trong khi Sài Gòn cái gì cũng

có.

11 Thèm người -Dùi đục chấm mắm nêm -Vợ chồng anh chín Rắc sống trong rừng

(Nhốt gió) ít giao tiếp với con người nên cách nói

chuyện cụt ngủn và xẳng.

- Chuyện dân gian về chàng niên -Vợ chồng chín Rắc thấy chàng niên qua

đống lửa. Đứa con khóc thét lên. Anh nạt

con. Nó sợ quăng cây củi lửa vào nhà rồi

chạy biến mất. Vợ anh thắc mắc về chàng

niên và anh kể lại câu chuyện dân gian mà

ông ngoại từng kể.

12 Còn yêu - Nắng bấy lâu dây bầu không héo - Thân và Lam ngồi nói chuyện với nhau

(Nhốt gió) Mưa sụt gió sùi bầu lại héo dây. trước khi Thân lên Sài Gòn làm. Đang nói

chuyện, họ nghe tiếng ai hát ngoài trước

dưới giàn bầu.

- Mưa lâm râm trên núi mưa về - Chị chủ nhà đang rải nước lên mấy nọc

Ướt cây, ướt lá, không dè ướt em trầu. Lam hỏi Thân về câu hò, câu hát ai

đặt ra mà hay vậy.

PL21

13 Quyển gia phổ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Khoa nhìn chị hàng xóm thả hai đòn bánh

(Mưa thu nhớ tằm) Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh tét vào nồi bánh chưng đang luộc miệng

đọc hai câu đối cổ.

14 Tham hiểm lòng - Trống không, ai dám đánh thùng - Cô hai Thiền đang ngủ thì bị một người

người Bậu không, ai dám dở mùng chun (chui) vô. đàn ông vào phòng mò. Cô la lên làm cả

(Mưa thu nhớ tằm) nhà thức giấc. Ông Ca nghĩ thầm câu ca

trong bụng.

- Đêm khuya gà gáy ó o… - Khi cả nhà tỉnh giấc bởi tiếng la của cô

Hỡi người quân tử vậy chớ chớ mò đi đâu. hai Thiền, ông Ca kể lại sự việc vắn tắt và

đầy đủ bằng câu hát.

-Núc ních trật chín trật mười - Lời tục dùng để đánh giá về anh sáu Bê

vì anh hiền và nhát.

-Đập thùng, đập trống - Lời của cô hai Thiền quyết làm to chuyện

cho bọn họ mang tiếng xấu.

- Cải ác tùng thiện -Lời cô Năm khuyên hai Thiền nên bỏ qua

để họ phục thiện.

Rừng me bị toán phu chặt phá trồng cao 15 Mẹ tôi tái giá Ma thiêng nước độc

(Mưa thu nhớ tằm)

su. Mín không bảo vệ được rừng nên cuốn gói về làng cũ và nghẹn ngào kể việc bỏ

làng lên chốn ma thiêng nước độc.

PL22

16 Lại mẹ tôi tái giá Đầu bạc răng long Kẹo bỏ nhà đi và có tình cảm với cô gái

(Mưa thu nhớ tằm) bán sa-bô-chê. Từ chuyện tình cảm này,

Kẹo hiểu vì sao mẹ kẹo lại tái giá. Kẹo suy

nghĩ về tình cảm vợ chồng gắn bó.

17 Tre phải tàn Đầu bạc răng long Ân là bác sĩ và đang nghiên cứu sự già nua

(Mưa thu nhớ tằm) của con người để tìm thuốc trường sinh.

Ân tin sẽ thành công vì người khác thường

khi già mới bắt đầu nghiên cứu nên không

thành.

18 Mưa thu nhớ tằm - Thương tằm cởi áo bọc dâu - Lời dẫn của tác giả trước khi vào truyện.

(Mưa thu nhớ tằm) Ngỡ tằm có nghĩa hay dâu bạc tình. -Bác Y và nhân vật tôi nghe tiếng hát ru

-Vì…ơ…Em tôi buồn ngủ buồn nghê con từ nhà ai ngoài sau. Bác nói với nhân

Con tằm đỏ chín, con dê đỏ mùi. vật tôi về tằm “hén” chín đỏ.

- Bác Y đọc và yêu cầu nhân vật tôi chép

câu ca dao lại.

- Thương tằm cởi áo bọc dâu

Ngỡ tằm có nghĩa hay dâu bạc tình.

PL23

19 Xác không chôn - Đá vọng phu -Dùng tích truyện để nói việc những người

bị mắc bệnh tâm thần đã khỏi nhưng (Mưa thu nhớ tằm)

không được về nhà. Vì một lí do bí mật

nào đó, họ không được rõ và chỉ biết chờ

đợi.

-Phượng nghi ông bác sĩ trẻ muốn ăn hối -Lột mặt nạ lộ mà không cho cô về nên muốn vạch mặt

ông.

20 Cô Hời bán thuốc Trăm lạy ông Cúm, bà Co Sanh hỏi cô Hời có bán thuốc cúm không.

Cô Hời nói đọc thần chú là hết. (Mưa thu nhớ tằm) Ông ở xứ Nghệ ông mò vào đây.

Có thiêng xin hưởng của này

Giúp cho tín chủ khỏi ngay tức thì.

21 Cái nết đánh chết cái - Cái nết đánh chết cái đẹp - Nhan đề

-Sanh sau khi bỏ Mai để quen Dung bạn đẹp - Cái nết đánh chết cái đẹp

Mai xinh đẹp hơn. Câu tục ngữ dẫn ra khi (Mưa thu nhớ tằm)

Sanh thấy không đúng trong trường hợp

này.

- Lời Sanh nói vơi Mai sau khi trải qua - Cái nết đánh chết cái đẹp cuộc tình đầy cay đắng với Dung.

PL24

22 Ngõ hẻm vợ bé - Khuê môn bất xuất - Người đàn bà trẻ, sang trọng, độ hăm lăm

(Mưa thu nhớ tằm) tuổi chuyển đến sống trong ngõ hẻm. Cả

ngày cô đóng kín mít cửa không ra ngoài.

- Ngõ hẻm ngày càng nhiều những người

- Đồng hội đồng thuyền tới thuê và đưa vợ bé của họ đến sống ở

đây. Họ quen biết và thương mến nhau do

cùng hoàn cảnh.

23 Thí một con chốt hốt - Trời đất ơi, em nghĩ cái thân em như chiếc Cô Út ca vọng cổ và hò để dụ cho các ghe

một con xe thuyền nan, may gặp bến trong thì nhờ, rủi gặp chở dưa đi theo thuyền ông Tư đến chợ

(Mưa thu nhớ tằm) bến đục thì phải chịu, còn biết kêu khóc với ai bây Ông Hàm

giờ?...ơ

- Hò …ơ…Nước xuôi chạy gió buồm mềm

“Muốn vô làm bé, biết có bền hay không?”

- Hò…ơ…Áo vá quàng viền đàng chỉ đỏ

“ Gẫm sự đời vợ nhỏ cưng hơn”

25 Rừng mắm - Hò ơ…tháng ba cơm gói ra hòn -Cộc và gia đình đến vùng đất mới ở mà

(Ký thác) Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai. ông nội Cộc đặt tên là Ô Heo. Cộc đang

thèm người thì nghe tiếng hò của ai trong

rừng tràm.

PL25

- Hò ơ…Tiếng anh ăn học lảu (làu) thông - Má Cộc lội sình lội nước. Bà vui vẻ tằng

Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường. hắng rồi cất tiếng hò.

- Hò ơ…Rồng chầu ngoài Huế, - Ông nội Cộc ra lịnh nhổ sào về cho kịp

Ngựa tế Đồng Nai, con nước. Ông sực nhớ lại câu hò của thế

Nước sông trong sao cứ chảy hoài, hệ tiên phong đi khai hoang ở Miền Nam.

Thương người xa xứ lạc loài đến đây. Ông cất giọng hò.

26 Ba con cáo Bán trời không mời thiên lôi Nhận định của người viết về Sáu Sửu. Mậc

(Ký thác) dù không sợ ai nhưng Sáu Sửu vẫn rờn rợn

khi nhìn ra nghĩa địa.

27 Người đờn ông đẻ - Cha nào con nấy -Hoàng hậu Ái Mỹ ra thăm lại cây dâu,

- Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh thấy những trứng vàng của con bướm mốc (Ký thác)

hôm trước nở ra những con sâu lông dài

màu đen. Hoàng hậu nhớ lại con bướm

mốc nên nhận xét về những con sâu.

- Mấy cung nữ ngâm bài ca mỉa mai Tằm - Ai ơi chớ lấy thằng Tằm,

khi Tằm chỉ ăn và ngủ. Ăn rồi nằm lại ngủ hai ba…

Lời tục dẫn ra khi văn sĩ Quỳnh nắm lấy 28 Lầu 3 phòng 7 Mang nặng đẻ đau

cằm bạn, nhìn thẳng vào mắt nàng và nói (Ký thác)

PL26

thầm về việc nàng không chịu khổ cực mà

lại muốn có tác phẩm hay .

29 Kẻ chiến bại Nước non nghìn dặm ra đi… Thành nói với Mạnh việc mỗi lần khi xem

( Ký thác) Mượn màu son phấn đền nợ Ô, Lý tranh ảnh Huế thì luôn ngâm bài Nam

bường.

28 Rung cây dừa - Một người làm đĩ, xấu danh đờn bà - Lời tục dùng để nói về việc một thày giáo

(Ký thác) bị phụ tình mà oán tất cả đàn bà, rồi oán

luôn cả loài người.

-Năm hồ bốn biển - Cảnh trên đảo Củ Tron gợi nhắc thú vui

đi chu du của người xưa.

- Có làm mới có ăn -Lời tục được nhắc khi nói về lối sống của

cư dân trên đảo Củ Tron.

-Chạy ô mồ mắc ô mả - Thầy giáo thấy không thể sống ở đảo

muốn về đất liền nhưng thấy ở đâu cũng

khó sống.

30 Đồng đội Cắm đầu cắm cổ Lời tục dẫn ra khi các thành viên trên ghe

(Ký thác) đua An Thịt đều tập trung để bơi tới đích.

PL27

31 Đôi bạn mắc hoa vông - Mỹ tục thuần phong - Lời tục dẫn ra khi nói về cảnh những con

(Ký thác) - Nguồn ân bể ái chó đi tìm bạn tình và cảnh chúng ân ái với

nhau.

- Khuê môn bất xuất - Những chú chó xui xẻo không tìm được

- Kín cổng cao tường bạn tình chia nhau đi từng nhà tìm mà rủ

ren nhưng các nàng đều bị chủ cấm và

nhốt không cho ra ngoài.

- Xưa kia ai cấm duyên bà - Cô Tư nghe văng vẳng ai hát câu ca và

Bây giờ bà già bà cấm duyên tôi suy nghĩ về cuộc đời mình. Sau đó, cô

quyết định mở cửa cho Ma – Lên ra ngoài

tìm bạn.

32 Sông Ông Lãnh Nhà Bè nước chảy chia hai Bài ca dao xuất hiện khi tác giả nói về con

(Những bước lang Ai vào Bến Nghé, Đồng Nai thì vào. sông ông Lãnh của Sài Gòn.

thang trên hè phố của

gã Bình Nguyên Lộc)

33 Quà đêm trên sông Bắp non mà nướng lửa lò, Nghe tiếng rao “Ai chè đậu…cháo cá…

Ông Lãnh Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm. hông” thì câu ca dao bất giác tái hiện lại

PL28

(Những bước lang lời tỏ tình gián tiếp của ai đó với cô gái

thang trên hè phố của chèo thuyền trên sông.

gã Bình Nguyên Lộc)

34 Mả cũ bên đường - Thượng thơ bán giấy, Tình đất của người Sài gòn xưa trong các

(Những bước lang Thủ ngữ treo cờ câu ca dao, thuở còn nê địa và những cô

thang trên hè phố của - Bắp non mà nướng lửa lò, lái đò trên sông.

gã Bình Nguyên Lộc) Đố ai ve đặng con đò Thủ Thiêm.

35 Lọ sứ cổ - Dạn mặt dày mày -Lời tục dẫn ra để chỉ cảnh các lọ sứ cổ bị

(Những bước lang phơi ra, trưng lộn xộn với các đồ sứ mới,

thang trên hè phố của cũ hư ở chợ Lạc-son Tây.

gã Bình Nguyên Lộc) - Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời! - Lời tục dẫn ra để nói về việc của cải xoay

vần

36 Âm thanh bí mật - Đậu này nó nóng như Trương Phi, - Tiếng ra của chị mù bán đậu rang

(Những bước lang Giòn như pháo nổ, mua đi các bà

thang trên hè phố của - Cây đa trốc gốc trôi rồi, - Sài Gòn được ví như cô nhân tình hát ru

gã Bình Nguyên Lộc) Đò đưa bến khác bậu ngồi trông ai… vào buổi trưa.

- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc

Dốc nào trượng bằng dốc Nam Vang.

Một tiếng anh than hai hàng lệ nhỏ.

PL29

Ngặt còn chút mẹ già, biết bỏ cho ai.

- Đèn nào cao …

Một tiếng em than, ba bốn đôi vàng anh không

tiếc.

Lấy được vòng vàng em chẳng thèm biết tới anh. - Âm thanh của tiếng chim vịt kêu thương

- Vẳng nghe chim vịt kêu chiều gợi nhắc đến câu ca dao.

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

37 Nước tàu muôn thuở - Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu Lời tục dẫn ra để nhận xét ngoài một Sài Gòn

(Những bước lang - Chơn lắm tay bùn xa hoa còn một Sài Gòn làm việc. Người Sài

thang trên hè phố của - Thức khuya dậy sớm Gòn cần cù, nhẫn nại.

gã Bình Nguyên Lộc)

38 Hui nhị tỳ I - Bước lên xe kiếng đi viếng mã chồng Câu ca dao dẫn ra nhằm nói cảnh người

(Những bước lang Cỏ non chưa mọc trong lòng thọ thai. chết bị an trí ở một xó nào đó để họ rảnh

thang trên hè phố của nợ mà họ trở về với guồng sống quay

gã Bình Nguyên Lộc) cuồng.

PL30

39 Thần thánh Sài Gòn Cây đa trước miễu cây đa tàn Khách đi qua miễu dưới gốc đa trong vườn

(Những bước lang Bao nhiêu lá rụng thương nàng bấy nhiêu. Tao Đàn tại cửa đường Trương Định

thang trên hè phố của thường nghe câu hát ru này.

gã Bình Nguyên Lộc)

40 Vắng bóng bia đá thì - Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ - Nói về bia miệng ở Sài Gòn

hỏi bia miệng - Bắp non mà nướng lửa lò - Lí giải việc ra đời của câu ca dao. Khách

(Những bước lang Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm. bộ hành chờ đợi chuyến đò ngang và cô lái

thang trên hè phố của đò xinh đẹp nên trai Sài Gòn mới thách đố

gã Bình Nguyên Lộc) nhau.

- Bao giờ cầu nọ hết quay, - Bia miệng kể về lời thề hẹn của đôi lứa.

Thì qua với bậu mới đứt dây can (cang) thường. - Bia miệng kể về việc dời tượng đồng ba

- Ba hình nay đã đổi dời võ nhơn Pháp về dinh Độc Lập nên hẹn thề

Bớ này bạn ơi, bấy lâu gắn chặt rã rời từ đây. của chàng và nàng cũng rã rời keo son.

- Gái Đàng Mới xem tường không mới, - Bia miệng kể về một Sài Gòn “điếm

Trai Bến Thành xét lại chẳng thành đàng” trọng đồng tiền.

Ngày ngày qua lại em, anh,

Có xu có túi mới thành ngỡi nhân.

- Bạc lê (nói) vẽ sứa, em giận đứa măng tơ (nói

láo)

PL31

Thằng gì mà nghi ngại bá vơ,

Sài thành em dạo cảnh, nó nghi ngờ em bán

duyên.

- Chợ cũ nay đã tan tành, - Bia miệng kể chuyện tranh đất kinh

Sài Gòn em ở lại, Bắc thành anh dời chơn. doanh với Ba Tàu.

- Mười giờ tàu lại Bến Thành - Bia miệng kể chuyện tàu vào chợ Bến

Xúp lê vội thổi, bộ hành xôn xao. Thành cũ.

- Rạp hát bóng chào rào chộn rộn, - Bia miệng kể về những cuộc tình dưới

Sở đồ hình ngồi đứng chỉnh tề. gốc me bị cảnh sát bố gắt, những cuộc tình

Thăm em một chút anh về, đắng cay, những cuộc tình éo le vì cha mẹ,

Chơi khuya lính bắt khó bề phân bua. những cuộc tình “ba lăng nhăng”.

- Thượng thơ bán giấy

Thủ Ngữ treo cờ

Nào khi núp bụi núp bờ

Mủ đi đánh dạo

Bây giờ lại bỏ em.

- Đàng Ô Ma hai đứa ta nói chuyện

Lúc giã từ còn quyến nhau hoài

Về nhà anh cậy mối mai

PL32

Mẹ cha em khó hỏi hoài không xong.

- Chợ Bến Thành mới

Kẻ lui người tới

Xem tứ diện rất xinh

Thấy em tốt dạng tốt hình

Chẳng hay em có chốn dươn tình hay chưa?

- Anh hỏi em về việc dươn tình,

Em đà có chốn gửi mình cho Thanh

- Căn dươn đâu mà hỏi bên Tàu,

Họa chăng e thấy chú lững giàu em ham.

- Bước lên xe kiếng đi viếng mã chồng

Cỏ non chưa mọc, trong lòng thọ thai - Bia miệng nói về tình quê đối với Sài

- Cây đa chợ Đũi Gòn cũ.

Nay đà trụi lũi

Trốc gốc mất tàn.

Tình xưa còn đó

Ngỡ ngàng phồn hoa.

- Mai sau dù có thế nào,

Đốt lò hương ấy đọc ca dao này.

PL33

41 Lửa Tết Ăn lông ở lỗ Minh dùng thành ngữ để hỏi vợ nhằm lí

(Cuống rún chưa lìa) giải về ngọn nguồn của lửa.

42 Thèm mùi đất Chơn ướt chơn ráo Lời tục dẫn ra trong câu nói của ông Hội

(Cuống rún chưa lìa) trưởng khi xác nhận chỉ những người nông

dân mới ra thành phố mới chịu đi làm nghề

chăm sóc nghĩa trang.

43 Câu dầm - Cá không ăn câu, mồ cha con cá dại - Nhân vật tôi đi câu và biết mình nặng

(Cuống rún chưa lìa) Cần câu anh cầm, nghĩ lại con cá khôn. bóng vía khó câu được cá.

- Chuyện Thần Cù - Những câu chuyện dân gian mà ông Ba

- Chuyện Cặp Cá Bóng tu dưới chùa Ông kể cho nhân vật tôi khi đi câu dầm

- Chuyện Cặp cù gáy cháy chợ

44 Phân nửa con người Già sanh tật, đất sanh cỏ Lời của chị Nhánh nói với chồng khi ông

(Cuống rún chưa lìa) già của anh Nhánh muốn cúng giỗ giờ ngọ

khác với mọi năm.

45 Mấy vụ quật mồ bí - Xương tàn cốt rụi - Lời tục dẫn ra khi làng phát hiện những

mật ngôi mộ bị quật mà không thấy xương cốt

(Cuống rún chưa lìa) đâu.

PL34

- Tửu hậu trà dư - Lời tục dẫn cho việc dân làng thường hay

bàn tán lâu về những biến cố nhưng người

làng Phú Thạnh lại quên nhanh. Vì nghèo

sát đất khiến họ không có thói quen này.

- Lời tục dẫn ra nói về hoàn cảnh Tuấn đi 46 Những đứa con - Chạy ô mồ mắc ô mã

nghỉ mát bị phu xe đưa tới thuê một nơi ở thương của đất mẹ

bê bối. Anh chấp nhận vì sợ tìm anh phu (Cuống rún chưa lìa)

khác có khi lưu manh hơn.

- Mấy cô me tây nói cho Tuấn việc chồng

Tây của họ ghen nếu Tuấn nhìn thấy nhan - Cá đắm nhạn sa sắc của họ.

- Ông Vĩnh Xương nhận xét về vợ mình. 47 Hương hành kho - Khuê môn bất xuất

- Lời bà Vĩnh Xương nhận xét về chàng (Cuống rún chưa lìa)

trai từ bên Xiêm qua. - Dọc ngang trời biển

48 Ma rừng - Ba chân bốn cẳng - Cảnh những người Lào chạy đi tìm bò

(Ma rừng) của mình.

- Cày sâu cuốc bẫm - Những người nuôi bò không nỡ bán cho

lò thịt một người bạn lâu năm của họ.

- Lời ông Cả khoe bò của mình sẽ to khỏe

- Cải lão hoàn đồng ra.

PL35

- Nói việc bò ông cả ở khắp mọi nơi

- Hang cùng ngõ hẻm - Lời quan chức trong tỉnh khen ông Cả.

- Nói việc ông đã thay đổi nhưng lại bị

- Cải tà quy chánh Thống đốc Nam Kỳ “đặc biệt chú ý”

- Cải tà quy chánh

50 Xe lửa Mỹ bung vành - Ù…ơ…Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành Khi qua khỏi Trung Lương, xe ngừng lại

(Ma rừng) Tàu Tây lủng đáy anh mới đành xa em. tại trạm cây đa bến lòng của Hoạt. Từ một

-Ù…ơ…Đại mộc lưu giang bất đắc hồi cố dã ngôi nhà lá lụp xụp có tiếng ai hát ru con.

Cây ngã trôi sông

Đâu còn mong trở lại

Anh thuận gió xuôi buồm… - Mọi người thất vọng khi biết cô gái hay

- Ra đường thiếp hãy còn son đi chung xe lửa đã có chồng. Bác xếp

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng ngâm câu ca dao.

51 Tình thơ dại - Hư thân mất nết - Má của nhân vật tôi mắng chú Thuận vì

(Ma rừng) cứ mãi hỏi về mấy cô đào hát sắp về.

- Nhân vật tôi thấy xót cho cô Ba trong

- Lòng sắt dạ đá cảnh tuồng cô bị xô ngã.

PL36

52 Đò dọc - Chạy ô mồ mắc ô mã -Lời ông bà Nam Thành vì nghĩ về Sìa

- Tiểu thuyết - Gòn yên bình ai ngờ vẫn nghe súng đạn.

- Tọa thục sơn băng ( Miệng ăn núi lở) - Lời ông Nam Thành khẳng định việc sẽ

mua đất, cất nhà ở quê.

- Tấn về nội, thối về ngoại - Lời ông Nam Thành an ủi vợ con về việc

gia đình về quê khi hoàn cảnh sống thay

đổi.

- Đời người như kiếp phù du, - Ở quê nhiều côn trùng. Ánh sáng đèn làm

Sớm còn tối mất công phu lỡ làng. chúng bay vào nhà. Ông Nam Thành lượm

- Canh khuya thắp chút dầu dư xác chúng rồi ngâm và cao hứng hát ru.

Kim loan chảy lụn, sầu tư một mình. - Xa ánh đèn Sài Gòn gia đình ông Nam

- Quê cha đất tổ Thành nhớ y như nhớ quê hương của

mình.

- Hoa đi kéo nước dưới giếng. Bà Nam

- Lấy chồng về miệt Tân Ninh, Thành chỉ con cách thả thùng và hát điệu

Kéo dây giếng ba mươi sải, thất kinh ông bà. ru con.

- Hương nhớ lại cảnh hái me, hái chanh rất

vui hồi trưa nên hát bài hát nhà quê. - Con chim manh manh

Nó đậu cành chanh,

PL37

Tôi lấy miếng sàng,

Tôi chọi chết giãy;

Tôi làm bảy mâm,

Tôi dưng ông ăn;

Tôi nói manh manh

Nó đậu cành chanh,

Tôi vác …. - Hương đố các em hát bài hát câu chót mà

- Bậu lỡ thời như ớt chín cây, nối câu đầu. Quá hát và mỉa cảnh muộn

Ớt chín cây người ta còn hái; chồng của các chị.

Bậu lỡ thời như nhái lột da,

Nhái lột da người ta còn bắt;

Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,

Giặc Hà Tiên người ta còn đánh;

Bậu lỡ thời nhue bánh trôi sông,

Bánh trôi song người ta còn vớt;

Bậu lỡ thời như ớt chín cây,

Ớt chín cây người ta còn hái;

Bậu lỡ thời như…. - Lời tục dẫn ra khi gia đình ông Nam

- Tháng năm chưa nằm đã sáng Thành thấy ngày quá dài.

PL38

- Ông Nam Thành sau khi kê điếu thuốc

- Canh khuya thắp dĩa dầu đầy, vô đầu trên của chiếc ống khói đèn, bập

Dĩa dầu vơi hết, nước mắt này không vơi. bập, đoạn lấy thuốc ra rồi ngâm.

- Lời tục dẫn ra khi thời gian khách đến

coi mắt kéo dài.

- Cà kê, dê ngỗng, như nói chuyện làm sui - Anh coi trai đến hỏi Quá choáng váng vì

những lời lẽ thẳng thắn, dạn dày của cô.

- Mặt dày mày dạn - Anh con trai than phiền mất công đi

xuống đi lên. Quá đọc gần như hát bài hát

- Tiếc công đi xuống đi lên ru em.

Mòn đường, nát cỏ, chẳng nên… - Lời nhận xét của Long về Hoa khi thấy

cô vì tình cảm của mình mà nhẫn tâm tiết

- Núc ních trật chín, trật mười lộ bí mật của chị.

- Long thấy Quá thẳng thắn, lương thiện

trong tình yêu. Long nghĩ tình yêu ai tìm

- Chim trời cá nước được thì người ấy có.

- Biết Hồng biết chuyện mình đã lộ bí mật

của Hồng cho Long. Hoa mỉa mai hát.

- Tập tầm vông,

PL39

Chị lấy chồng

Em ở góa;

Chị ăn cá,

Em ăn xương;

Chị nằm giường,

- Hồng dùng lời tục để nói với Long việc Em nằm đất;

Long có thể đổi ý nhưng xin sao đừng dời. Chị húp mật,

- Long dùng lời tục để khẳng định tình Em liếm ve…

cảm của mình với Hồng. - Vật đổi sao dời

- Lời bà Nam Thành mếu máo, kể lễ khi

thấy các cô con gái không chịu lấy chồng.

- Long quay về tìm Hồng. Long thấy cảm - Vật đổi sao dời

giác không như trước, tiếng lòng thờ ơ. Từ

- Lộn nài tháo ống xóm trên vẳng đưa tiếng hát ru con.

- Long buồn rầu vì việc càng bàn cãi, càng

- Ghe lui khỏi bến, còn dằm, xét kỹ, càng rõ rệt chuyện không còn tình

Người thương đi mất chỗ nằm còn đây. cảm với Hồng.

- Rầu chín cả ruột gan

PL40

53 Gieo gió gặt bão - Gieo gió gặt bão - Nhan đề

- Tiểu thuyết - - Chuối non giú ép chát ngầm, - Bà Nho ngâm câu hát ru em để chọc ông

Trai tơ đòi vợ khóc thầm thâu đêm. Nho.

- Trai ba mươi tuổi còn xinh, - Bà Nho thấy ông Nho đứng nói chuyện

Gái ba mươi tuổi như chình mắm nêm. với Liên nên nghĩ người ta nói như vậy là

phải lắm.

- Biết người biết ta, trăm trận đều thắng. - Lời tục dẫn ra khi ông Nho rất băn khoăn

trước thâm ý và thái độ của vợ.

- Cắn răng bóp bụng - Lời tục dẫn ra khi bà Nho để thực hiện

mưu sâu phải chịu đựng cảnh cho ông Nho

đi yêu người khác.

- Yêu trộm nhớ thầm - Ông Nho tính mưu kế để có thể nói lên

tình yêu của mình với Liên, không để mối

tình câm lặng nữa.

- Ốc mượn hồn - Lời nói của bà Nho khi thấy thái độ khác

lạ của Liên.

- Ốc mượn hồn

PL41

- Liên giật nẩy mình khi nghe bà Nho nói

- Ốc mượn hồn và tự thấy mình đúng như thế.

- Sâu mượn xác - Lời ông Nho nói vào để đánh trống lấp

- Chín ruột chín gan câu chuyện.

-Lời tục dẫn ra khi ông Nho thay vì lo lắng

lại vui mừng khi đọc thư của ba má Liên.

Ông biết Liên vẫn chưa khai gì hết.

- Ông Nho nghĩ về tình cảnh lúc này của

- Hai vợ nằm chuồng heo ông khi mọi việc đã rõ ràng.

- Lời Liên nói với ông Nho về việc do ông

- Bụng làm thì dạ phải chịu tự gây ra.

- Sau khi ông Nho khuên Liên đừng chế

dầu thì Liên nói ông Nho phải làm như thế.

- Hảo nói với Nho về việc giờ Liên đã - Chế dầu vào lửa

khác.

- Lột da cởi lốt - Hảo khóc khi rơi vào lòng chồng sau khi

bị ông Nho kéo tới.

- Bù non bù nước

PL42

- Sóng êm gió lặng - Lời tục dẫn ra khi Nho giật mình với

tiếng réo giựt của vợ sau khi được yên ổn

tháng rưỡi.

- Hết hồn hết vía - Biết không phải Liên tự vẫn mà Liên

chuyển bụng nên Nho mừng.

- Dạo đàng dạo xá - Hảo nói về việc việc chuyển dạ của Liên.

- Liên càng cứng cáp, càng đỏ ra thắm thịt

- Nhứt gái một con… như lời tục nói.

- Lời nhận xét của Liên về âm mưu tàn

- Tán tận lương tâm nhẫn cảu Hảo.

- Lời tục dẫn ra cảnh Hảo khó khăn trong

- Mò kim đáy bể việc đi tìm kiếm Nho và Liên.

- Liên nói với Nho về bọn bắt cóc con của

- Đi đêm có ngày gặp ma mình.

- Lời nhận định của ông Nho trước mưu kế

của đàn bà, mà đây là của cả Liên và Hảo.

- Trăm mưu ngàn kế - Con Lầu có tiền nên nó sực nhớ đến ái

tình và muốn tìm bạn trai.

- Đói cơm rách áo tèm lem,

PL43

No cơm ấm áo lại thèm nọ kia. - Liên nói với Nho người chịu khổ không

- Trăm đắng ngàn cay phải là Hảo nên chết cũng không ai

- Thắng về nội, thối về ngoại thương.

- Lời tục dẫn ra nói về Mô Rít, bạn trai của

Lầu, là con lai Tây nay thối bước nên về

sống ở Việt Nam.

54 Xô ngã bức tường rêu - Ghe lui khỏi bến còn giầm - Tâm quyết lân la nhà họ Hứa mỗi ngày

- Tiểu thuyết - Người thương đi vắng chỗ nằm còn hơi. hai bận để tìm hơi hướng người yêu.

-Lời nói của xíu tin khẳng định mình là - Hư thân mất nết

con gia đình nổi tiếng trong sạch gia

phong.

- Lời nhận định về người Trung Hoa -Cứng đầu cứng cổ

-Lời của ông Vĩnh Xương khi đưa nhận - Ếch nằm đáy giếng

xét về Việt Nam của Lý Huệ Đường nói

với Xừng Hêi.

- Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời - Lời tục dẫn ra khi bàn về thịnh suy vận

nước cũng như gia đình.

- Chia sẻ ngọt bùi

PL44

- Lời Tâm nói sau khi Xừng Hêi ngại phiền

- Chệt chìm tàu anh

- Tâm nhớ thành ngữ bông đùa của miền

Nam trước việc nằm nhà thương của ông

Hứa Phú Hòa bị ông và bạn ông coi là biến

-Dục tốc bất đạt cố quan trọng.

- Lời của Xừng Hêi nói với Tâm phải biết

- Mặt dạn mày dày chờ đợi.

- Tâm phải làm đủ mọi cách để tranh giành

khách hàng. - Tốt đôi tốt chỗ

- Xíu Tin có nơi tốt hỏi cưới. Tâm tỏ ra lo - Xứng đôi vừa lứa

lắng về việc này - Chết lần chết mòn

- Đầu tắt mặt tối

- Lời tục dẫn ra để nói về sự cần cù của

- Vật đổi sao dời người Trung Hoa.

- Lời nói khẳng định tình yêu của Tâm với

- Dọc ngang trời biển Xíu Tin.

- Lời Xừng Hêi hỏi cha về công việc bốc

- Ngậm đắng nuốt cay thuốc của ông.

PL45

- Lời tục dẫn ra để nói về việc Tâm đi dạy

học ở các tư gia.

55 Khi Từ Thức về trần - Ven trời góc bể - Sở đau xót trước tình trạng mất hết kí ức

- Tiểu thuyết - của mình

- Thay hồn đổi xác - Sở bị trật chân rơi vào dòng nước. Khi

tỉnh đậy Sở không nhớ gì về quá khứ của

mình. Chàng nghĩ mình không bị thay hồn

đổi xác mà là bị chứng kiện vong.

- Ghe lui khỏi bến còn giầm, - Sở sau khi hồi phục trí nhớ, trở về, quan

Người thương xa vắng chỗ nằm còn đây. sát ngôi nhà cũ của mình, thấy mọi cái thay

- Chết ba năm sống lại một giờ đổi. Ông nghĩ đến câu ca dao.

Để xem con bạn phụng thờ làm sao.

- Đạp gai lấy gai mà lễ - Lời của bà Sở lí giải cho việc vì sao gã

con gái cho nhà Hai Hoài. Mặc dù, Hai

Hoài có mối thù với gia đình.

-Ba vuông bảy tròn - Sở nghĩ việc ông ra đi thì bà Sở cũng trọn

vẹn với hạnh phúc hiện giờ của bà.

- Giục hưởn (hưỡn) cầu mưu

PL46

(kéo dài thời gian để tìm mưu kế) - Tập sợ bố mình có mưu kế gì đấy nên

không an lòng.

56 Tì vết tâm linh - Bảy nổi ba chìm - Lời tục dẫn ra khi nói về thức giác lặn

- Tiểu thuyết - hụp của những người bị bệnh thần kinh.

- Năm châu, bốn bể - Ông Cây Chuối trích ý của Thạch Lam

- Phiêu bạt giang hồ để minh họa cho việc bắt học trò vẽ mãi

cây chuối.

- Buôn hương bán phấn - Lời tục dẫn ra khi nói về những nhà có ai

lỡ bước phong trần thì họ sợ bị họa buôn

hương bán phấn đe dọa.

- Nhắm mắt đưa chân - Lời tục đẫn ra nói về những kẻ liều vì

yêu.

- Thêu phụng vẽ rồng - Lưu và Liễu thấy cảnh thơ mộng hùng

biện hơn các lời hoa mĩ.

- Chân mỏi gối dùn - Ông nội Liễu già không leo cầu thang

được nữa.

-Nhứt gái một con - Quan niệm thẫm mĩ của ta về vẻ đẹp

- Gái một con trông mòn con mắt người phụ nữ giống Âu châu.

-Khuê môn bất xuất - Lời nhận định của Liễu về Bích.

PL47

- Buôn hương bán phấn - Lưu cảm thấy Liễu không phải là hạng

gái như chàng giả thuyết của chàng.

- Liễu thề sẽ tuyệt tình vơi Lưu nhưng

-Bán sống bán chết hàng đêm vẫn đợi.

- Cần khuyên Lưu không nên chọn Liễu để

- Mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng lấy.

- Ông Long bắt con gái phải sống khép kín

-Khuê môn bất xuất để cứu con.

- Cần nói Lưu cân nhắc những lời Cần nói.

- Khuôn vàng thước ngọc - Căn bệnh của bà nội Liễu. Chứng nhẹ

tiếng Pháp gọi là Cynisme mà ta dịch tạm

- Mặt dạn mày dày là “ Mặt dạn mày dày”; chứng nặng là phơi

- Mặt dạn mày dày bày thèm khát cho bạn hữu nghe là mặt

dạn mày dày rồi.

PL48

PHỤ LỤC 2

BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN

TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

Bảng 1

Thể loại Tần số xuất hiện các yếu tố ngữ văn dân gian

89 Tiểu thuyết

95 Truyện ngắn

33 Tạp văn

217 Tổng cộng

Bảng thống kê các yếu tố ngữ văn dân gian trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc

PL49

Bảng 2

STT TẬP TRUYỆN Số Tác phẩm có Tác phẩm có yếu tố ngữ văn dân gian/ tác phẩm có yếu

lượng yếu tố văn hóa tố văn hóa dân gian

tác dân gian

phẩm

1 Thầm lặng 15 11/15 6/11

2 Nhốt gió 13 9/13 6/9

3 Mưa Thu nhớ tằm 17 13/17 11/13

4 Ký thác 16 9/16 8/9

5 Những bước lang 17 13/17 9/13

thang trên hè phố của

gã Bình Nguyên Lộc

6 Cuống rún chưa lìa 17 18/17 7/17

7 Ma rừng 9 5/9 2/5

TỔNG CỘNG 104 78/104 49/77

Bảng thống kê yếu tố ngữ văn dân gian trong các tập truyện ngắn, tạp văn của Bình Nguyên Lộc

PL50

PHỤ LỤC 3

PL51

PL52

PL53

PL54