ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------

ĐẶNG THỊ HOÀI LÊ

ĐẶC ĐIỂM CỦA TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

ĐẶNG THỊ HOÀI LÊ

ĐẶC ĐIỂM CỦA TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8229030.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả

quá trình nghiên cứu của bản thân tôi. Những thành quả khoa học của những tác

giả trước mà tôi sử dụng trong luận văn để làm sáng tỏ thêm vấn đề đều được trích

dẫn rõ ràng, cụ thể. Không có bất cứ sự không trung thực nào trong các kết quả

nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên Đặng Thị Hoài Lê

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý

báu của các tập thể và cá nhân.

Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu, các thầy giáo, cô giáo

Phòng Đào tạo sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, cùng tất cả các thầy giáo, cô

giáo trong khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ bảo,

cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập và thực hiện luận

văn.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS Hà

Văn Đức – người Thầy trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo và luôn động

viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Sự chỉ bảo tận tâm của thầy đã

mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp, kiến thức cũng như kĩ năng hết sức quý

báu để có thể hoàn thiện luận văn một cách tốt nhất.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến những người thân, gia đình, bạn

bè đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện

thành công luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên

Đặng Thị Hoài Lê

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 3

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 4

3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 8

4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 8

5. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9

CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA – VĂN HỌC. TẠP VĂN

NGUYỄN NGỌC TIẾN

1.1 Khái lƣợc về mối quan hệ văn hóa - văn học. ................................................. 10

1.1.1 Văn hóa ............................................................................................................ 10

1.1.2 Văn học ............................................................................................................. 13

1.1.3 Mỗi quan hệ giữa văn hóa và văn học ............................................................. 14

1.1.4 Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học .............................. 17

1.2 Thể loại tạp văn trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại ............................. 20

1.2.1 Khái niệm tạp văn ........................................................................................... 20

1.2.2 Sự khác biệt của tạp văn với các thể loại khác ................................................ 22

1.2.3 Sự nở rộ của thể loại tạp văn trong văn học Việt Nam hiện nay ..................... 25

1.3 Nguyễn Ngọc Tiến – nhà văn của Hà Nội ngàn năm văn hiến ...................... 30

1.3.1 Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến ............................................................. 30

1.3.2 Nguyễn Ngọc Tiến với thể loại tạp văn ............................................................ 30

1.3.3. Đề tài Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến .................................... 32

1.4 Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................. 35

CHƢƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN

NGUYỄN NGỌC TIẾN

2.1 Không gian từ góc nhìn văn hóa ...................................................................... 37

2.1.1 Không gian Hà Nội nghìn năm văn hiến .......................................................... 37

2.1.2 Không gian cuộc sống và những phong tục sinh hoạt văn hóa Hà Nội .......... 40

2.2 Thời gian từ góc nhìn văn hóa ......................................................................... 55

1

2.2.1 Thời gian sự kiện trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến ........................................ 55

2.2.2 Thời gian sinh hoạt trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến ..................................... 58

2.3 Ngƣời Hà Nội nhìn từ phƣơng diện văn hóa .................................................. 62

2.3.1 Những nét đẹp của người Hà Nội .................................................................... 62

2.3.2 Những góc khuất của người Hà Nội ................................................................ 70

2.4 Tiểu kết chƣơng 2.................... .......... ................................................................73

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC

TIẾN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

3.1 Biểu tƣợng văn hóa ........................................................................................... 75

3.1.1 Khái niệm về biểu tượng văn hóa .................................................................... 75

3.1.2.Một số biểu tượng văn hóa Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến... ......... 77

3.2 Ngôn ngữ nghệ thuật. ....................................................................................... 83

3.2.1 Ngôn ngữ mang tính chất khảo cứu. ................................................................ 84

3.2.2 Ngôn ngữ báo chí. ............................................................................................ 88

3.2.3 Ngôn ngữ giản dị, đời thường. ......................................................................... 90

3.3 Giọng điệu.. ........................................................................................................ 93

3.3.1 Giọng điệu ca ngợi, tự hào............................................................................... 95

3.3.2 Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm ..................................................................... 96

3.3.3 Giọng điệu thong thả, chậm rãi. ...................................................................... 97

3.3.4 Giọng điệu hồi tưởng tiếc nuối. ........... ............................................................99

3.3.5 Giọng điệu tranh biện, đối thoại .......... ..........................................................100

3.4 Tiểu kết chƣơng 3.......................... .......... ........................................................102

KẾT LUẬN............................................. .......... .....................................................104

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................ .......... ..................................................106

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Mỗi một quốc gia, một dân tộc, một vùng miền trên thế giới đều có những

đặc trưng văn hóa riêng biệt không giống với những quốc gia, dân tộc, vùng miền

khác. Văn học không những là một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự chi

phối, ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà văn học còn có khả năng nhận thức, phản

ánh, là phương tiện truyền tải, lưu giữ, bảo tồn, kiến tạo các giá trị văn hóa và nâng

văn hóa lên tầm cao mới.

Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học vừa là vấn đề có tính lí luận, vừa có ý

nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu văn hóa, văn học. Việc nghiên cứu văn học từ góc

nhìn văn hóa là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã được vận

dụng ở Việt Nam khá phổ biến. Vậy nên, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa

giúp chúng ta không những hiểu bản chất của văn học, lý giải văn học mà ta còn

nhận diện được bối cảnh văn hóa dân tộc và thời đại, có cái nhìn sâu sắc về đời sống

văn hóa của cả một dân tộc…

Đầu thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và

nhịp sống hiện đại thì thể loại tạp văn trở nên có ưu thế bởi tính chất ngắn gọn,linh

hoạt, đa dạng, phản ánh một cách nhanh nhạy, kịp thời một vấn đề nào đó nên đã

được nhiều nhà văn quan tâm, thử sức và mang dấu ấn cá nhân của tác giả.

Trong những năm gần đây, khi nhắc về các cây bút viết tạp văn nổi tiếng

không thể không kể đến Nguyễn Ngọc Tiến. Bốn cuốn tạp văn: 5678 bước chân

quanh hồ Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội liên tiếp được

xuất bản đã thể hiện suy tư sâu sắc, trải nghiệm phong phú, lối viết tự nhiên, linh

hoạt, sức sáng tạo dồi dào mạnh mẽ của nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến về Hà Nội, đã

được công chúng đặc biệt chú ý và đón nhận. Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội là

hai cuốn sách đã mang lại Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội cho

Nguyễn Ngọc Tiến năm 2012 đã phần nào khẳng định tài năng và tình yêu với Hà

Nội của Nguyễn Ngọc Tiến.

3

Cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về tạp

văn Nguyễn Ngọc Tiến nhưng nghiên cứu tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn

văn hóa vẫn chưa nhiều, chưa thực sự trở thành công trình, hệ thống và cũng rất ít

công trình tiếp cận được sâu bản chất vấn đề. Trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến

có nhiều vấn đề văn hóa cần được khai thác và tìm hiểu. Đặc biệt việc nghiên cứu đặc

điểm tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa là việc làm thiết thực, khả

quan, hứa hẹn mang lại nhiều điều thú vị, giúp người đọc thấy được rõ hơn văn hóa

Hà Nội ngàn năm văn hiến. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi

quyết định lựa chọn đề tài: “Đặc điểm của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn

văn hóa” để nghiên cứu, với mong muốn góp thêm một cách nhìn nhận mới, nhận ra

những giá trị văn hóa tiềm ẩn dưới những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận văn học từ văn hóa đã xuất hiện từ lâu nhưng đến

những năm đầu của thế kỉ XX, hướng tiếp cận này mới được nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm, tìm hiểu và đạt được một số thành tựu nhất định như các công trình nghiên

cứu của: Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh… Phan Ngọc trong công trình

Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985) đã vận dụng những yếu tố

văn hóa - xã hội để tìm ra những đặc trưng của phong cách Nguyễn Du. Sau đó đến

năm 1994, ông đã đưa ra những quan điểm về văn hóa, cách tiếp cận văn hóa trong

văn học và đã gợi mở ra nhiều hướng nghiên cứu cho các nhà nghiên cứu sau này.

Năm 1995, công trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại của Trần Đình

Hựu đã chỉ ra đặc điểm văn học Việt Nam dưới ảnh hưởng của Nho giáo giai đoạn

cuối thời Lê đầu thời Nguyễn. Đến năm 1995, công trình Nhà nho tài tử và văn học

Việt Nam của Trần Ngọc Vương bằng cái nhìn loại hình học cũng đã làm rõ hơn điều

này. Tác giả Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực, Văn học

trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn đã đạt được thành

công khi nghiên cứu văn học trung đại dưới góc nhìn văn hóa.

Hiện nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều tác giả áp dụng phương pháp nghiên

cứu văn học từ góc nhìn văn hóa cho các công trình nghiên cứu của mình và rất

4

nhiều công trình đạt được nhiều thành tựu nhất định như: Văn học trung đại Việt

Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn, Nhà xuất bản (Nxb) Giáo dục, 2003);

Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học (Nguyễn Bá Thành, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2004); Nguyễn Bính – hành trình sáng tạo thi ca (Đoàn Đức Phương, Nxb

Giáo dục, 2005); Thơ Mới từ góc độ văn hóa – văn học (Luận án Tiến sĩ, Hoàng Thị

Huế, Học Viện Khoa học Xã hội, 2007); Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa

(Lê Nguyên Cẩn, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2011);… Như vậy, có thể khẳng

định rằng hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đã, đang và vẫn là một

hướng đi đúng đắn, khoa học.

2.2. Cho đến nay, Nguyễn Ngọc Tiến đã cho ra đời bốn cuốn tạp văn viết về những

gì gần gũi, thân thuộc của Hà Nội từ xưa đến nay và đã được rất được lòng công

chúng yêu văn học, yêu Hà Nội. Hiện nay đã có nhiều bài viết, bài báo viết về tạp

văn của Nguyễn Ngọc Tiến tuy nhiên đó mới chỉ là những trang viết chỉ dừng lại ở

nhận xét khái quát, sơ bộ, bộc bạch ấn tượng, cảm xúc về một cuốn sách hay một

bài tạp văn cụ thể nào đó chứ chưa hề có một luận án hay luận văn nào nghiên cứu

sâu về đặc điểm tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa và chỉ ra được dấu

ấn riêng của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.

Về các bài viết trên báo, tạp chí cũng đã có nhiều tác giả đã dành những đánh

giá sâu sắc về tác giả Nguyễn Ngọc Tiến cũng như tạp văn viết về Hà Nội của ông.

Trong bài viết Đi dọc Hà Nội khám phá chiều sâu của văn hóa thủ đô,

(http://vnexpress.net, 8/2012), tác giả Thanh Huyền đã nhận xét: “Trong cuốn sách

mới này, Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục triển khai góc nhìn mới về một số vấn đề - sự

kiện, giúp người đọc biết về “người Tràng An thanh lịch” qua thú chơi hoa, qua

lịch sử cầu Thê Húc, qua thuốc phiện và rượu lậu của một thời… Tất cả đều được

xây dựng trên nền tảng con người, mà nổi trội là những người Hà Nội rất bình

thường. Họ là người trồng hoa ở làng Ngọc Hà, là chị công nhân đã có mấy chục

năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ Hồ, và xa nữa về thời

gian là những anh chị, cô bác bán hàng rong, người hát xẩm… cùng với các câu vè,

5

lời rao hàng sinh động và lý thú. Đó là những con người đã góp phần làm nên một

diện mạo khác của Hà Nội, khác xa với những “dân chơi” của đất kinh kỳ…”

Tác giả Xuân Phong với bài viết Nguyễn Ngọc Tiến: Lãng từ đi dọc, ngang

Hà Nội trên (https://baotintuc.vn) tháng 9/2012 đã phát hiện ra: “Những trang viết

của anh rất thú vị, có nhiều thứ để đọc, để tìm hiểu và người ta nhận ra rằng anh

viết rất nghiêm túc, viết có trách nhiệm, một thứ trách nhiệm không ai ràng buộc

nhưng lại chặt chẽ hơn tất thảy mọi thứ luật định nào, một thứ ràng buộc cá nhân

với mỗi con chữ được đưa ra”. Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa người đọc tìm hiểu,

khám phá đất và người Thăng Long-Hà Nội, giúp họ càng thêm yêu mảnh đất kinh

kỳ ngàn năm văn hiến này.

Nhà xuất bản trẻ trong một bài viết Những tác phẩm về Hà Nội của Nguyễn

Ngọc Tiến (7/2017) của tác giả Tú Duyên đã có những nhận xét khái quát về các tác

phẩm của ông: “Bộ sách khảo cứu về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến, là một cuộc

phiêu lưu vô cùng đặc biệt mà tác giả đã tạo ra cho những ai yêu mến Hà Nội. Mỗi

một tác phẩm, lại có nét riêng biệt cùng với đó là những câu chuyện về con người,

xã hội, văn hóa, lịch sử,… được tác giả tái hiện lại vô cùng đặc sắc”. Tất cả những

câu chuyện dung dị về Hà Nội giúp chúng ta hình dung ra một Hà nội cổ kính

nhưng luôn có những nét riêng biệt, độc đáo.

Trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tiến – một sử nhân của Hà Nội” trên Báo

Người Hà Nội (7/2018) tác giả Thu Hằng với nhiều năm cùng làm việc với Nguyễn

Ngọc Tiến và đọc các tác phẩm của ông đã nêu lên nhận xét: “Đọc các ký sự - khảo

cứu công phu của Nguyễn Ngọc Tiến thấy ông rất yêu Hà Nội, yêu một cách cụ thể,

chi tiết. Những câu chuyện về phở, bia hơi vỉa hè, phố cổ, tiếng chuông tàu điện

leng keng, những ngày đầu khi Hà Nội bắt đầu có đèn giao thông, cầu Long Biên

được khởi dựng ra sao, nhà vệ sinh công cộng đầu tiên ở đâu... hay những câu

chuyện thú vị về những con người bình dị: cô bán hàng rong, người hát xẩm, chị

công nhân đã có mấy chục năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu

điện Bờ Hồ, rồi thú chơi hoa, chơi cá cảnh, đi hát cô đầu… của người Hà Nội xưa,

tất cả được tái hiện một cách tự nhiên, dung dị để người đọc có thể hình dung ra

6

một Hà Nội cổ kính, đôi khi lại xô bồ nhưng vẫn luôn là một Hà Nội riêng biệt và

độc đáo”. Qua đó thấy được một Nguyễn Ngọc Tiến nhẹ nhàng, tỉ mỉ, chính xác,

cẩn trọng đến từng chi tiết nhưng cũng hết sức dí dỏm, hài hước.

Nhà phê bình Nguyễn Hòa đã dành nhiều lời khen cho cuốn Đi dọc Hà Nội:

"Sau khi đọc hết cuốn sách thú vị này, bạn đọc nào đó có thể còn thấy „thòm thèm‟,

thậm chí chưa vừa ý, nhưng dẫu sao, vẫn cần phải cảm ơn tác giả. Vì khi mà ngay

tại Hà Nội này, cuộc mưu sinh đang kéo nhiều người trong chúng ta vào vòng xoáy

của các lợi ích cho hiện tại và tương lai, không có thời gian, thậm chí lơ đễnh khi

nhìn về quá khứ, thì ngòi bút tài hoa của Nguyễn Ngọc Tiến vẫn cần mẫn và kỳ

công, để viết nên những trang sách không dễ viết. Đó cũng là những trang sách có

thể giúp chúng ta hiểu thêm về quá khứ, về dòng chảy văn hóa và dấu ấn của nhiều

thế hệ ở Hà Thành, đồng thời nhắc nhở chúng ta rằng, hiện tại và tương lai không

đến từ hư vô, mà đến từ quá khứ”. (Đi dọc Hà Nội để thấy một Hà Nội rất khác,

http://vdantri.com.vn, Bình Yên)

Nhà phê bình Nguyễn Trương Quý nhận xét về cuốn Đi xuyên Hà Nội có

nói: “Giọng văn thong thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm làm tăng thêm cảm giác

“truyền kỳ” của những câu chuyện lạ, nhất là những điều gợi nên suy ngẫm về

khoảng cách giữa văn minh và u tối ở một đô thị vừa già cỗi lại vừa lắm nỗi ngây

thơ... Nhiều chỗ tác giả chỉ đưa ra những con số và sự kiện mà người đọc cũng

nghẹn ngào. Vì nỗi thương mình đã sống trong hoàn cảnh đó, hay thương một xã

hội đô thị nhiều dâu bể? Trong cuốn sách này, tính chuyển động, sự trôi dạt nổi lên

như một yếu tố chính. Rất nhiều lần Nguyễn Ngọc Tiến nhấn mạnh tới tính động

của dòng chảy đời sống Hà Nội. Nó vừa bảng lảng lại vừa trần trụi. Nó đẫm đầy

chất tiểu thuyết” [21, tr.6-tr.7].

Như vậy, đã có nhiều bài viết, bài báo viết về tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến

tuy nhiên đó mới chỉ là những trang viết chỉ dừng lại ở nhận xét khái quát, sơ bộ,

bộc bạch ấn tượng, cảm xúc về một cuốn sách hay một bài tạp văn cụ thể nào đó.

Tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến vẫn cần thêm những công trình nghiên cứu chuyên sâu

7

để chỉ ra được dấu ấn riêng của tác giả. Đây cũng là lý do để chúng tôi lựa chọn tạp

văn Nguyễn Ngọc Tiến làm đề tài luận văn.

3. Đối tƣợng, mục đích và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến và các giá trị văn hóa biểu hiện trong các tác

phẩm của ông.

3.2 Mục đích nghiên cứu

Đề tài “Đặc điểm của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa” được

triển khai nhằm những mục đích chính sau:

- Khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa văn hóa và văn học, những

phương thức biểu đạt của văn hóa trong văn học.

- Làm rõ căn nguyên tồn tại của chất văn hóa trong sáng tác của Nguyễn

Ngọc Tiến.

- Khẳng định nét độc đáo về tư tưởng, nội dung, nghệ thuật sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tiến soi chiếu từ góc độ văn hóa.

3.3 Phạm vi nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài luận văn, người thực hiện đã khảo sát, nghiên cứu bốn

cuốn tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến gồm:

- Đi xuyên Hà Nội, Nxb Trẻ, T.P.Hồ Chí Minh, 2015

- 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Nxb Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 2016

- Đi dọc Hà Nội, Nxb Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 2017

- Đi ngang Hà Nội, Nxb Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 2017

Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến nổi bật với nhiều mảng đề tài liên quan đến

văn hóa, lịch sử, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn chỉ tập

trung làm nổi bật những giá trị thuộc về văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.

Những giá trị khác trong tạp văn sẽ được đề cập trong những lần nghiên cứu sau.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

8

- Phương pháp tiếp cận văn hóa – văn học: Phân tích không gian văn hóa, thời

gian văn hóa, quan niệm văn hóa, cảm quan văn hóa về con người để giải mã

văn hóa các hiện tượng văn học.

- Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu các đặc trưng

của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và

ra quyết định.

- Phương pháp so sánh: So sánh một hiện tượng văn học với các hiện tượng

cùng loại hay các hiện tượng đối lập để làm nổi bật bản chất của hiện tượng

đem ra so sánh.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích thành từng bộ phận các tài liệu

để tìm hiểu sâu sắc về các đối tượng rồi tổng hợp các thông tin đã được phân

tích thành một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và bám sát hơn vào đối tượng

nghiên cứu.

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc 03

chương như sau:

Chương 1: Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.

Chương 2: Những giá trị văn hóa Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.

Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn

văn hóa.

9

CHƢƠNG 1

MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA – VĂN HỌC

TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN

1.1 Khái lƣợc về mối quan hệ văn hóa - văn học

1.1.1 Văn hóa

Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu về văn hóa,

các phương diện của văn hóa, đưa ra khái niệm về văn hóa… đã được các nhà

nghiên cứu của nhiều ngành khoa học quan tâm tìm hiểu từ rất lâu.

Văn hóa là nền tảng cho mọi ngành khoa học nên từ thế kỉ XIX văn hóa đã

trở thành đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học như dân tộc học, văn hóa

học, văn học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Nhưng cho đến nay các nhà

nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một định nghĩa nhất quán về văn hóa.

Văn hóa khái niệm có nội hàm rất rộng với rất nhiều cách hiểu, cách lí giải

và tiếp cận khác nhau liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con

người. Văn hóa có thể hiểu như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng nhiều

nhà nghiên cứu lại hiểu văn hóa như là lối sống, thái độ ứng xử hay văn hóa có lúc

được hiểu như một trình độ học vấn.

Khi nói về vấn đề văn hóa, mỗi nhà nghiên cứu lại có một quan điểm khác

nhau. Trong cuộc sống hàng này, văn hóa được hiểu là phong cách sống của con

người, nghĩa là các hoạt động ăn, ở, đi đứng, cách ứng xử (với đồng loại, môi

trường, với bản thân) và cả phong tục, tập quán, tín ngưỡng, đức tin,… của con

người, dân tộc và quốc gia.

UNESCO cho rằng : “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần

và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm

người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,

những quyền cơ bản của con người, những hệ thống và giá trị, tập tục và tín

ngưỡng” [19, tr.10]

10

Edouard Herriot cũng đưa ra các hiểu về văn hóa như sau: “Văn hoa là cái

còn lại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả” (Dẫn

theo Nguyễn Thị Hải Hà) [8, tr.1]

Văn hóa được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt là “Tổng thể nói chung

những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch

sử” [31, tr.1079].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách hiểu về văn hóa như sau: “Vì lẽ

sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra

ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật,

những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng.

Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [12, tr.55]. Theo cách

hiểu này, văn hóa bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh

vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên

nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá

trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng

và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu

cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh cộng đồng dân tộc, sức đề

kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [25, tr.3]. Với cách

hiểu này, văn hóa là hệ thống những giá trị do con người sáng tạo nên từ tư tưởng,

tình cảm, đạo đức, phẩm chất, trí tuệ, tài năng đến ý thức bảo vệ, sức đề kháng và

sức chiến đấu của mỗi người, mỗi dân tộc và đối lập hoàn toàn với thiên nhiên.

Trong tác phẩm Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt

Nam, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động

thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”

[18, tr.24]. Như vậy, theo định nghĩa này thì nội hàm của khái niệm văn hóa bao

gồm: Thứ nhất, đó là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra

nhằm mục đích vì con người. Thứ hai, những giá trị mà con người sáng tạo ra phải

11

mang tính nhân tính. Tóm lại có thể hiểu rằng, có những giá trị do con người sáng

tạo ra nhưng nó không phải là văn hóa bởi vì nó không mang tính nhân tính, nó chỉ

phục vụ một số những mục đích các cá nhân hay tổ chức nào đó, nó hủy hoại cuộc

sống của con người do đó nó không được cộng đồng chấp nhận như: vũ khí hạt

nhân, các vũ khí giết người, chạy đua vũ trang, chủ nghĩa khủng bố…

Như vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa hay khái niệm về văn hóa. Dựa

trên những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, dựa trên những cách tiếp cận khác nhau

phục vụ cho mục đích nghiên cứu khác nhau mà các nhà khoa học, nhà nghiên cứu

có thể lựa chọn một định nghĩa hay khái niệm có nội hàm gần nhất với vấn đề

nghiên cứu của mình. Tuy vậy, các định nghĩa về văn hóa đều thống nhất ở một

điểm, coi văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra và chỉ có ở con người. Văn

hóa thuộc về con người là đặc trưng căn bản để phân biệt con người với động vật,

cũng là tiêu chí để phân biệt sản phẩm tự nhiên với sản phẩm nhân tạo.

Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của con người, văn hóa được tạo ra và phát

triển trong quan hệ qua lại giữa con người với xã hội và chính văn hóa tiếp tục tham

gia vào việc tạo thế giới vật chất, tinh thần của con người để duy trì sự bền vững và

trật tự xã hội.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI, Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã

khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều

sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh nhưng giá trị tốt đẹp nhất

trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó là một động

lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vừa là một trong những mục tiêu của chúng

ta” [20, tr.2]. Như vậy, chính sách về văn hóa của Đảng đã khẳng định: văn hóa là

nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ của dân tộc, văn hóa vừa là mục tiêu

vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Vậy nên, Đảng và Nhà nước ta

đã và đang chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc.

12

1.1.2 Văn học

Văn học theo nghĩa rộng được hiểu đồng nghĩa với văn hóa: “Gọi chung mọi

hành vi ngôn ngữ nói – viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Nó bao gồm các tác phẩm

mà ngày nay có thể xếp vào loại chính trị, triết học, tôn giáo” [27, tr.2]. Văn học

theo nghĩa hẹp là tác phẩm văn chương, bao gồm các tác phẩm ngôn từ có tính chất

được sáng tác bằng hư cấu, tưởng tượng và không bao gồm các tác phẩm chính trị,

triết học, tôn giáo. Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một

quan điểm, lập trường của người sáng tác đối với đời sống nhưng văn học lại không

phản ánh hiện thực trong ý nghĩa khách quan, phổ quát của sự vật mà nó quan tâm

đến một con người kết tinh trong sự vật mà nó nói đến. Ví dụ, khi nói đến thuyền và

bến, văn học không chỉ phản ánh thuyền là một phương tiện đi lại của con người

hay bến là một hiện tượng tự nhiên bình thường mà nói đến chúng là nói đến những

người yêu nhau mà phải xa cách, thể hiện một cách sâu sắc nỗi nhớ thương đợi chờ,

tấm lòng son sắt thuỷ chung của người ở nhà đối với người đi xa chưa về “Thuyền

ơi có nhớ bến chăng/Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” (Ca dao); Văn học

nói đến trăng không phải với tư cách là sự vĩnh hằng ngoài vũ trụ mà nhìn trăng

như một con người, coi trăng là người chứng giám cho lời nguyện ước, cho tình yêu

đẹp của Thúy Kiều – Kim Trọng “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/Đinh ninh hai

miệng, một lời song song”(Truyện Kiều, Nguyễn Du)…

Văn học không chỉ là hoạt động sáng tạo nhà văn mà đồng thời cả người tiếp nhận,

thưởng thức văn học cũng mang những chức năng có ý nghĩa xã hội rộng lớn bởi

“chức năng là sự biểu hiện ra thế giới bên ngoài các đặc tính của một khách thể

nào đó trong một hệ thống các quan hệ nhất định” [33, tr.3]. Tác phẩm văn học là

sự biểu hiện sâu sắc nhất về năng lực, trình độ, phẩm chất tinh thần của nhà văn,

phản ánh hiện thực đời sống khách quan, xã hội, con người và dựng nên hình ảnh

chủ quan của thế giới khách quan nên chức năng của văn học là phản ánh hiện thực.

Văn học với hình thức nghệ thuật ngôn đã biểu hiện cái quan hệ mang tính người

của loài người vô cùng phong phú, nhiều cung bậc, nhiều hình thái bởi sự vận động

không ngừng và bất tận. Văn học giúp người đọc hiểu nội dung, hình thức, cái hay,

13

cái đẹp mà nhà văn muốn nói đến đồng thời văn học cũng giúp người đọc thư giãn

tâm hồn, tạo trạng thái cân bằng tâm lí, tinh thần. Vì vậy, có thể khẳng định văn học

có chức năng thưởng thức, thư giãn, giải trí. Văn học trau dồi mặt tình cảm, hiểu

biết cho con người, và tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, tâm lí, tình cảm

của họ. Văn học có vô vàn chức năng: “văn dĩ tải đạo”, văn học làm vũ khí chiến

đấu, giáo dục, nhận thức, chức năng thẩm mĩ, giải trí… Chức năng văn học chỉ là

cái biểu hiện ra bên ngoài của chỉnh thể, giá trị toàn vẹn lại thuộc thế giới nghệ

thuật trong những sự tiếp nhận nghệ thuật khác nhau của mỗi người. Chức năng của

văn học có nhiều hay ít tùy thuộc vào cách nhìn, cách lí giải của từng người.

1.1.3 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

1.1.3.1 Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa

Văn hóa ngày càng phát triển và ảnh hưởng trực tiếp vào tất cả các ngành

khoa học khác nhau trong đó có văn học. Như vậy, có thể khẳng định văn hóa và

văn học không thể tách rời. Văn học đã góp phần to lớn trong việc nhận thức về vai

trò của văn hóa trong việc sáng tạo và tiếp nhận văn học trong đời sống xã hội. Văn

học là bộ phận của văn hóa, nghiên cứu văn học luôn luôn phải đặt trong mối quan

hệ với văn hóa với tư cách là toàn bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của con người.

Như vậy, văn học luôn luôn bộc lộ rõ nét nhất bản chất văn hóa của một dân tộc,

một đất nước và những tác phẩm văn học luôn mang trong mình những biểu hiện

đặc trưng văn hóa của một vùng quê, một dân tộc, một đất nước, mặc dù chủ thể

sáng tác có hay không ý thức cần phải truyền tải văn hóa vào sáng tác của mình. Vì

văn học là sự biểu đạt văn hóa một cách hiển nhiên.

Trần Lê Bảo trong Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học cho rằng: “Văn

học chẳng những là bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của

văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và giao lưu văn hóa. Văn học

chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa thời đại và truyền thống văn hóa

đọc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lí văn hóa độc đáo của

một thời đại và một cộng đồng dân tộc. Cùng với hệ thống giá trị văn hóa là những

mô thức văn hóa riêng của một cộng đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và

thể hiện những giá trị và mô thức mà cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ” [1, tr.5].

14

Trong văn học luôn luôn có văn hóa. Nhà văn tiếp nhận văn hóa và tái hiện

lại thông qua những tác phẩm của mình. Trong từng tác phẩm văn học Việt Nam thì

những nét văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền, mỗi dân tộc trên đất nước được

thể hiện rất rõ. Ta bắt gặp bức tranh văn hóa dân gian đa dạng sắc màu trong thể thơ

lục bát thuần túy của dân tộc trong Truyện Kiều với việc Nguyễn Du đã chắt lọc văn

hóa dân gian tinh tú của dân như ca dao, thành ngữ, tục ngữ. Trong suốt nhiều thế

kỉ, ngôn từ trong Truyện Kiều được sử dụng rộng rãi trong các sinh hoạt văn hóa

của mọi tầng lớp nhân dân như ngâm Kiều, vịnh Kiều, bình Kiều, lẩy Kiều, bói

Kiều… Những nét đẹp của văn hóa truyền thống trong các sáng tác của Nguyễn

Tuân: nghệ thuật thưởng trà, ngắm hoa, viết thư pháp,… hay văn hóa Hà Nội trong

các sáng tác của Thạch Lam trong Hà Nội băm sáu phố phường, Nắng trong vườn,

Ngày mai…; trong văn chương Vũ Bằng với Miếng ngon Hà Nội, Miếng lạ miền

Nam, Thương nhớ mười hai,… Tác phẩm văn học không chỉ biểu hiện văn hóa mà

còn giúp người đọc tìm hiểu những giá trị ẩn tàng của văn hóa, tìm hiểu tâm lí con

người, tư tưởng thời đại, tư tưởng nhà văn, giúp lí giải những bi kịch trong cuộc

sống như các tác phẩm: Kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ,

Nguyễn Huy Tưởng với kịch Vũ Như Tô, truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, Cha

con ngĩa nặng của Hồ Biểu Chánh…

Văn hóa tác động đến văn học ở mọi mặt. Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm

cũng như nhà văn là một sản phẩm văn hóa. Người đọc khi hướng đến tác phẩm văn

học chính là hướng đến văn hóa. Không gian văn hóa chi phối đề tài, chủ đề, nhân

vật, các thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác và tiếp nhận. Một nền văn

hóa cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy,

văn học chính là thước đo trình độ văn hóa của một dân tộc, đất nước trong một thời

kì lịch sử nhất định.

Trần Nho Thìn cho rằng văn hóa là một hệ thống mở “nhân học văn hóa”,

“nhân chủng học văn hóa”. Văn hóa Việt Nam còn là sản phẩm của sự ảnh hưởng,

giao lưu, tiếp biến văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ… Bất kì một giá trị văn học nào

cũng đều bắt nguồn từ một môi trường văn hóa, từ một đời sống văn hóa nhất định.

15

Nhà văn với vốn văn hóa, vốn sống luôn nắm vững tinh thần thời đại đã hình

thành tư tưởng thẩm mỹ để sáng tác văn chương. Văn học thành công hay không

chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa . Vì vậy, nghiên cứu tác phẩm văn chương từ

góc nhìn văn hóa học trong sẽ giúp chúng ta khám phá được chân lí nghệ thuật một

cách đúng đắn và đúng hướng hơn.

1.1.3.2 Văn học là sự kiến tạo và kết tinh các giá trị văn hóa

Theo Trần Đình Sử: “Văn học là bộ phận quan trọng của văn hóa, sự giàu

có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn hóa” [16, tr.1]. Ông

cũng khẳng định việc sáng tạo ra khúc ngâm, truyện Nôm, hát nói, thơ Mới, kịch

nói, truyện ngắn, tiểu thuyết… được xem “là những hiện tượng sáng tạo văn hóa

lớn lao của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX” [16, tr.3].

Văn hóa chính là những ứng xử văn hóa, quy chuẩn đạo đức làm cho con

người hoàn toàn khác với loài vật. Các giá trị văn hóa ấy thông qua văn học được

đúc kết thành giá trị đạo lí, nâng nó lên tầm tư tưởng và giáo dục cho các thế hệ mai

sau. Ví dụ như đạo làm con được đúc kết trong bài ca dao: “Công cha như núi ngất

trời/ Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông/Núi cao biển rộng mênh mông/Cù

lao chín chữ ghi lòng con ơi”, những câu ca dao, tục ngữ nói về tình cảm gia đình,

thầy cô, đạo lí làm người: “Ơn cha nặng lắm ai ơi/Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng

cưu mang”; “Trời cao, biển rộng, đất dày/ Ơn cha nghĩa mẹ, ơn thầy chớ quên”;

“Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”, “Uống nước nhớ

nguồn”; “Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa”…. Qua tác phẩm Những đứa con

trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi, người đọc có thể cảm nhận được nét đẹp

văn hóa Nam Bộ với nhiều khía cạnh hơn và sâu rộng hơn qua hai nhân vật chính

Việt và Chiến với tình cảm, truyền thống gia đình, lòng yêu nước, yêu cách mạng.

Những vẻ đẹp của con người nơi đây được đã được nâng lên một tầm cao mới khi

đi vào những trang viết của Nguyễn Thi, đó là tầm cao của tinh hoa nghệ thuật,

khiến cho người đọc cảm thấy mến yêu con người và mảnh đất Nam Bộ. Như vây,

khi người đọc tiếp nhận các tác phẩm văn học thì không chỉ cảm nhận giá trị nội

dung và nghệ thuật của tác phẩm đó mà còn là cảm nhận văn hóa của mỗi vùng

16

miền, dân tộc, đất nước. Vì thế có thể khẳng định thông qua văn học mà văn hóa

mỗi vùng miền, dân tộc, quốc gia được kiến tạo, kết tinh, truyền tải và phát triển.

Trong văn học mà cụ thể hơn là các tác phẩm văn học, người ta thấy được sự

đan xen văn hóa, tiếp biến văn hóa: “Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho

cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp

thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường của sự

giao lưu văn hóa thì văn học có thể là nơi hòa giải của những xung đột tinh thần,

nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người” [15, tr.4]. Ví dụ

như cuộc xung đột giữa hai luồng tư tưởng: nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật

vị nhân sinh trong văn học nước ta những năm 30 của thế kỉ XX. Văn học nước ta

hấp thụ và chịu sự ảnh hưởng rất lớn của văn hóa phương Đông, đặc biệt là văn hóa

Trung Hoa. Văn học cũng ảnh hưởng và hấp thụ văn hóa dân tộc như: văn hóa tộc

người (Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh,

Nguyên Ngọc với Đất nước đứng lên,… ta thấy được những nét văn hóa đặc sắc của

các dân tộc ở Tây Nguyên đồng thời thể hiện lòng yêu nước, hết lòng với cách

mạng, với Đảng của người dân nơi đây), văn hóa vùng miền (các sáng tác của các

tác giả miền Nam như Hồ Biểu Chánh với Cha con nghĩa nặng, Những đứa con

trong gia đình, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi,… mang đậm nét văn hóa Nam

Bộ từ quan điểm sống, cách ứng sử, giọng điệu,… của con người). Trong Văn học

và văn hóa truyền thống, Huỳnh Như Phương đã khẳng định: “Những vùng văn hóa

giao nhau sẽ tạo ra những nét chung trong văn học của từng cùng, đồng thời nó vẫn

giữ lại những nét riêng làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn

hóa, từ đó phân biệt “lãnh thổ” trên bản đồ văn học” [15, tr.4].

1.1.4 Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học

1.1.4.1 Các cách tiếp cận trong nghiên cứu văn học

Văn học đã trải qua quá trình lịch sử nghiên cứu lâu đời với nhiều thành tựu

ở nhiều phương pháp và các quan điểm khác nhau. Phương pháp nghiên cứu theo

phân tâm học Feurd chỉ tập trung khám phá, lí giải những ẩn ức tâm lí, ẩn ức tình

dục ẩn tàng trong tác phẩm nhưng lại không để tâm đến thành tựu về nghệ thuật.

17

Chủ nghĩa cấu trúc luôn quan tâm phân tích hình thức mà bỏ qua nội dung. Chủ

nghĩa ấn tượng lại chỉ quan tâm khám phá ấn tượng trong phút đầu cảm nhận mà

không đi sâu khám phá bản chất hiện thực… Như vậy, mỗi phương pháp nghiên

cứu đều có những ưu thế, nhược điểm và bất cập của nó. Vậy nên, người nghiên

cứu muốn đi sâu vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm thì phải tìm ra được phương

pháp có thể bao quát nhiều phương pháp khác nhau. Trong xu thế hội nhập hiện

nay, cùng với sự phát triển và tiến bộ của nghiên cứu văn học và thời đại, với những

cải tổ và cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có cái nhìn và cách

đánh giá mới, hữu hiệu, chuẩn xác, khoa học hơn về tác phẩm văn chương.

M.Bakhtin là một trong những người khởi xướng cho xu hướng nghiên cứu

văn học thông qua văn hóa học. Đây là quan điểm đề cao vai trò của văn hóa.

Những nghiên cứu văn học của M.Bakhtin là những bước khởi đầu cho một phương

pháp mà rất có ưu thế hiện nay: phương pháp tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn

hóa. Phương pháp này là không chỉ đi tìm ảnh hưởng của văn hóa đương thời đối

với văn học mà còn truy tìm đến cả các truyền thống văn hóa xa xưa của dân tộc,

đất nước.

Phương pháp tiếp cận văn học lấy con người làm trung tâm đã xây dựng con

người với tư cách là một thực thể văn hóa luôn luôn tồn tại trong ba mối quan hệ

căn bản: quan hệ với môi trường tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính

bản thân mình. Trong tiến trình phát triển, con người không ngừng tìm kiếm, xác

lập các nguyên tắc ứng xử cho ba mối quan hệ này. Các mối quan hệ ứng xử ấy

luôn chi phối nhà văn trong quá trình sáng tạo một tác phẩm văn học trong việc

chọn lựa các phương diện thi pháp. Vậy nên, nghiên cứu văn học theo quan điểm

văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu

tố thi pháp của tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là phương pháp tiếp cận

liên ngành, nơi yêu cầu vận dụng tổng hợp các tri thức về lịch sử, tôn giáo, nhân

học, khảo cổ,… để giải mã các hiện tượng thi pháp học tác phẩm văn học.

1.1.4.2 Đặc điểm và ưu thế của phương pháp tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn

hóa

18

Văn hóa là một khái niệm rất rộng với nhiều cách hiểu khác nhau và có

những độ chênh khác nhau nhưng khi đem soi chiếu vào văn học thì văn hóa lại

càng có “độ mờ” nhất định. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong những năm gần đây việc

tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa đã có những thành tựu nhất định qua một số

công trình: Từ góc nhìn văn hóa, Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực của Đỗ

Lai Thúy; Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn;

Giải mã văn học từ mã văn hóa của Trần Lê Bảo; Bản sắc văn hóa Việt Nam qua

giao lưu văn học của Nguyễn Bá Thành,… Mỗi tác giả, căn cứ vào đối tượng

nghiên cứu cụ thể đã tiến hành xây dựng một bộ khái niệm công cụ phù hợp và hiệu

quả để khám phá đối tượng được nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã đạt

được những kết quả đáng ghi nhận.

Văn học là bộ phận quan trọng của văn hóa và hiện thân của nền văn hóa.

Trong Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Đỗ Thị Ngọc Chi đã cụ thể hóa

những yêu cầu đó như sau: “1) Phải đặt văn học trông bối cảnh rộng lớn của văn

hóa xã hội hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với các hiện tượng văn

hóa khác; 2) Xem văn học là bộ phận của văn hóa thì văn bản văn học cũng là sản

phẩm văn hóa vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hóa; 3) Văn học là một

trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới mạch ngầm sâu

thẳm của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ” [3,

tr.17].

Văn học và văn hóa có mối quan hệ không thể tách rời nên việc nghiên cứu

văn học dưới góc nhìn văn hóa là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cách tiếp

cận văn học dưới góc nhìn văn hóa giúp chúng ta lí giải trọn vẹn tác phẩm nghệ

thuật cùng với hệ thống văn hóa được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hóa

liên quan đến thiên nhiên, lịch sử, địa lí, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, ngôn

ngữ,… có thể vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của

tác phẩm và góp phần lí giải tâm lí sáng tác, thị hiếu đọc giả và con đường phát

triển của văn học.

19

Cách tiếp cận văn hóa học chính là đặt văn học trong không gian văn hóa với

những đặc trưng của nó đã thâm nhập vào thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.

Những giá trị văn hóa truyền thống đã thẩm thấu vào thế giới hình tượng và ngôn từ

của tác phẩm văn học mà đôi khi nhà văn không ý thức một cách tự giác. Mặt khác,

những giá trị văn hóa mới hình thành cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình sáng tạo

của nhà văn.

1.1.4.3 Biểu hiện của văn hóa trong văn học

Trong tác phẩm văn học, từng hình tượng, chi tiết luôn luôn có sự thẩm thấu

của văn hóa mà nhiều khi người sáng tạo cũng không ý thức được sự truyền tải văn

hóa trong các tác phẩm của mình, nên luôn phải cần đến sự tìm tòi, phát hiện của

những người đọc, người nghiên cứu văn chương. Trong các tác phẩm văn học thì hệ

thống Chủ đề, đề tài, sự kiện, nhân vật, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,.. luôn bị

văn hóa chi phối. Tuy nhiên, ở mỗi tác phẩm khác nhau thì giá trị văn hóa được thể

hiện rõ hơn ở mặt này hay mặt khác.

Trường hợp cụ thể tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến mà luận văn nghiên cứu, văn

hóa biểu hiện qua nhiều khía cạnh trong tác phẩm. Đặc biệt, những giá trị văn hóa

trong tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc bởi phông văn hóa của nhà văn Nguyễn Ngọc

Tiến. Nguyễn Ngọc Tiến là người con của Hà Nội, vì vậy những yếu tố mang nét

văn hóa Hà Nội được thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm của ông. Những điểm nổi

bật của văn hóa trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến thể hiện ở không gian, thời

gian, con người với những giá trị về nét văn hóa trong sinh hoạt, văn hóa ứng xử, ở

những biểu tượng văn hóa được hình thành mang ý nghĩa nghệ thuật, cách xây dựng

các chủ đề, đề tài về Hà Nội ở ngôn ngữ, giọng điệu trong tác phẩm.

1.2 Thể loại tạp văn trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại.

1.2.1. Khái niệm tạp văn

Xét về phương diện sáng tác và tiếp nhận thì cả người sáng tác và người đọc

đều không xa lạ với thể loại tạp văn nữa. Tạp văn xuất hiện dày đặc trên các tờ báo

với nhiều tác giả. Hiện nay, đã có không ít những tác phẩm đã xác định hẳn tên thể

loại là “tạp văn”.

20

Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về thể loại này một cách nghiêm túc, cụ thể

nhưng định nghĩa về tạp văn thực sự đa dạng phong phú và có nhiều ý kiến khác

nhau.

Đỗ Hải Ninh xếp tạp văn là một dạng nhỏ của tản văn: “chúng tôi quan niệm

tản văn là loại văn ngắn gọn, hàm súc, với khả năng khám phá đời sống bất ngờ thể

hiện trực tiếp tư duy, tình cảm tác giả, bao gồm cả tạp văn, tuỳ bút, văn tiểu phẩm.”

[13, tr.3].

Hoàng Phê cũng xác định: “Tạp văn bao gồm nhiều đề tài linh hoạt và có

tên gọi khác nhau như: đoản binh, tiểu phẩm, tùy bút” [14, tr.887].

Tạp văn được định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học như sau: “Tạp văn

được xem là những áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị , có tác dụng chiến đấu

mạnh mẽ. Đó là thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén vừa có tính nghệ thuật cô

đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội” [9, tr.294-295].

Nguyễn Như Ý giải thích: Tạp văn gồm nhiều thể đề tài linh hoạt như đoản

thiên, tiểu phẩm, tùy bút” [40, tr.1495].

Trong cuốn sách Năm bài giảng về thể loại: Kí – Bi kịch – Trường ca – Anh

hùng ca – Tiểu thuyết, Hoàng Ngọc Hiến lại coi tạp văn là một tiểu loại của thể loại

kí: “Trong nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại, kí là một loại thuật ngữ dùng

để gọi tên một thể loại văn học bao gồm nhiều tiểu loại, bút kí , hồi kí, du kí, chính

luận, phóng sự, tùy bút, tản văn, tạp văn, tiểu phẩm,...” [10, tr.5].

Dương Ngọc Dũng trong Tạp văn đã nhận định: “Tạp văn chỉ là những đoản

văn đọc cho vui, ngắn gọn, dễ hiểu, hơi gây sốt một chút nếu cần, không phải là

những chuyên luận đăng trên tạp chí chuyên ngành. Chủ đề thì không có gì nhất

định, lan man từ những mẩu chuyện vụn vặt có thật trong đời sống xã hội Mỹ, đến

một sản phẩm tưởng tượng hoàn toàn, hay những bình luận thoáng qua về

Shakespeare, cổ sử Trung Quốc. Độc giả có thể mở sách ra, thích đâu đọc đấy,

không cần phải bận tâm về “độ chính xác” hay hàm lượng thông tin của bài viết”

[4, tr.2].

21

Trong khí đó lại có một số tác giả đưa ra quan điểm tạp văn nằm trong thể

loại tản văn. Trong cuốn Khái niệm và thuật ngữ lí luận văn học Trung Quốc

(Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học), Phạm Thị Hảo cho rằng: “Tạp

văn là một loại tản văn, bao gồm nhiều hình thức: tạp cảm, tạp đàm, tạp luận,...”

Như vậy, đã có rất nhiều định nghĩa được đưa ra nhưng thực tế là các nhà

nghiên cứu hay cả người sáng tác đều chưa thể định nghĩa bao quát nhất cho thể

loại này. Từ các ý kiến đưa ra có thể khái quát được các đặc điểm chung của tạp văn

như sau: Tạp văn là một tiểu loại ngắn gọn, hàm súc, linh loạt phù hợp với nhu cầu

thưởng thức của đa số độc giả hiện nay. Trong tạp văn nhân vật chính có thể là tác

giả, tác giả thể hiện, trình bày suy nghĩ, quan điểm, tâm tư, tình cảm, tiếng nói của

bản thân mình trước mọi vấn đề của cuộc sống. Nội dung của tạp văn rộng lớn,

không bị gò bó bởi hình thức, người đọc có thể có cơ hội ngắm nhìn cuộc sống hàng

ngày hay đời sống nội tâm, tâm tình của từng tác giả.

1.2.2 Sự khác biệt của tạp văn với thể loại khác

Ở Việt Nam, các khái niệm giữa tản văn, tạp văn, tạp bút, tùy bút, bút kí...

luôn có sự mập mờ, chưa thể phân định rõ ràng. Chính vì vậy việc phân biệt tạp văn

với các thể loại gần gũi là điều cần thiết.

1.2.2.1 Phân biệt với tản văn

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng), Hoàng Phê đã xác định tản

văn có hai nghĩa: “(1) Văn xuôi; (2) Loại văn gồm các thể kí, tùy bút...

Trần Quang Vinh cho rằng: “Giới nghiên cứu lại có người cho tản văn là

một loại ký, lại có người cho rằng ký chỉ bao gồm một phạm vi hẹp hơn tản văn. Có

hai ý kiến như trên bởi khái niệm tản văn được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa

hẹp. Theo nghĩa rộng, tản văn là văn xuôi, đối lập với vận văn (văn vần). Theo

nghĩa hẹp, tản văn là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, giàu khả năng khơi gợi

với kết cấu có sự kết hợp linh hoạt tất cả các phương thức, phương tiện biểu hiện

nghệ thuật, nội dung thường thể hiện đời sống theo kiểu chấm phá và đặc trưng

quan trọng nhất là nó thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân của người cầm bút.” [34,

tr.7-8].

22

Từ điển thuật ngữ văn học đã xác định tản văn ngoài nghĩa là văn xuôi thì

còn có đặc trưng riêng biệt: “Nghĩa đen là văn xuôi, nhưng hiện nay tản văn được

dùng để chỉ một phạm vi xác định, không hoàn toàn khớp với thuật ngữ văn xuôi.

Nếu văn xuôi theo nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần và trong nghĩa hẹp

chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu

thuyết, truyện vừa, truyện ngăn, kí, tiểu phẩm, chính luận thì tản văn chỉ phạm vi

văn xuôi hẹp hơn, không bao gồm các thể loại truyện hư cấu” [9, tr.293]. Điểm

khác biệt của tản văn so với các thể loại khác cũng được nhắc đến trong cuốn sách:

“Tản văn là thể văn xuôi gọn nhẹ, hàm súc, có thể tự sự, trữ tình, nghị luận, miêu tả

phong cách, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện của tản văn mang tính chấm phá,

không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu

tứ độc đáo, có giọng điệu cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được

nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa

mang đậm bản sác cá tính của tác giả” [9, tr.294].

Ở Việt Nam, khoảng thập niên 20 của thế kỷ XX, tản văn phát triển mạnh mẽ

vào với các sáng tác của Tản Đà như: Khối tình – 1918, Tản Đà tùng văn –

1922, Tản Đà nhàn tưởng – 1929, Lời người Man di hiện đại - Nhời đàn bà của

Nguyễn Văn Vĩnh là tập hợp những bài báo của ông trên các tờ Đăng cổ tùng báo,

Đông Dương tạp chí và Nước Nam mới từ 1907 đến 1935, Nguyễn Bá Trác, Đạm

Phượng, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tất Tố... Trong đó, Tản Đà đã bứt phá ra mọi

khuôn khổ của hệ thống thể loại gò bó cũ, là người tiên phong đặt nền móng cho tản

văn Việt Nam.

Giới trẻ sáng tác văn chương hiện nay quan niệm về tản văn khoáng đạt hơn,

phù hợp với xu hướng dân chủ hóa trong đời sống văn chương cũng như sự phát

triển của các thể loại. Như vậy, tản văn không chỉ dành riêng cho các cây bút lão

luyện mà còn là nơi để những người viết trẻ viết về các vấn đề đang diễn ra trong

thực tế xã hội để trình bày các quan điểm của mình một cách ngắn ngọn, thoải mái

hay đưa ra các triết lí nhân sinh trong các mối liên hệ của đời sống xã hội.

23

Tóm lại, tản văn là một thể loại văn xuôi khá năng động, có thể nắm bắt kịp

thời và phản hồi thông tin trực tiếp về những vần đề trong đời sống xã hội. Nhìn

chung tản văn thường ngắn gọn, hàm súc và cũng có ít nhiều sự hư cấu nhất định,

tác động trực tiếp tới tình cảm và nhận thức của người đọc thông qua các yếu tố tự

sự, trữ tình, chính luận nhưng sức hấp dẫn của nó chủ yếu xuất phát từ dấu ấn riêng

của từng tác giả.

Từ nhiều ý kiến đưa ra, có thể thấy được khái niệm tạp văn đôi khi được

dùng như tản văn. Tuy nhiên, tạp văn nghiêng nhiều về vấn đề xã hội và thể hiện

các quan điểm riêng của tác giả trước mọi vấn đề đời sống.

1.2.2.2 Phân biệt với tùy bút

Theo Wikipedia Tiếng Việt: “Tùy bút là một thể của ký, tùy bút nghiêng hẳn

về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà

văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét,

đánh giá, trình bày v.v. Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái

cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá.” [35, tr.2]

Nguyễn Tuân cũng đã nhận định rằng: “Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy

bút là không nguyên tắc gì cả”. Nhiều tác giả cũng có chung quan điểm rằng: Tùy

bút là những trang văn xuôi mà ở đó người viết tùy cảm hứng, tùy cảnh, tùy ngòi

bút mà đưa đẩy. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu như trên sẽ dẫn đến việc lẫn lộn giữa lối

viết phóng khoáng, tự do với lối viết tản mạn, bịa đặt, tùy tiện, đồng thời cũng

không chỉ ra được bản chất quan trọng của tùy bút.

Trần Văn Minh trong Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam 1930 đến

1975 đã nhận định rằng:“Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể

không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt

chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong

của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể

thẩm mỹ vẫn phải chân thực” [11, tr.188]

Trong Hán Việt từ điển giản yếu Đào Duy Anh giải thích rằng “tùy bút” là

“tùy thời mà biên chép” và bút ngoài dùng để viết có thêm nghĩa là biên chép.

24

Nghĩa là người viết không chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của mình mà còn phải chịu

sự chi phối của hoàn cảnh khách quan.

Đỗ Hải Ninh trong bài viết Ký trên hành trình đổi mới, Hoàng Phê trong

cuốn Đại Từ điển Hán Việt xếp tạp văn là một thể loại nhỏ của tản văn.

Hiện nay, hầu như ở báo, tạp chí nào cũng có mục tạp văn hay tạp bút. Tùy

theo phong cách của mỗi tờ báo, tạp chí mà tạp văn có những biến đổi linh hoạt

khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy được, tạp văn cơ bản gần giống với báo chí hơn là

văn chương.

Khi nhắc đến những cây bút viết tạp văn hiện nay ở Việt Nam, không thể

không nhắc đến Nguyễn Ngọc Tiến. Sức hút trong các trang viết của ông chính là

ông đã khắc ghi dấu ấn của riêng mình khi viết về trái tim thủ đô – mảnh đất ngàn

năm văn hiến cùng thái độ sống của chính ông được thể hiện qua giọng văn mộc

mạc mà đầy cảm xúc.

1.2.3 Sự nở rộ của thể loại tạp văn hiện nay

1.2.3.1 Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

Thứ nhất, do chủ chương đổi mới của Đảng và dân chủ hóa trong mọi mặt

đời sống xã hội.

Mỗi thể loại văn học ra đời đều xuất phát từ những yêu cầu nhất định của xã

hội. Việt Nam khi bước vào thời kì đổi mới đến nay đã có rất nhiều biến động tích

cực với bầu không khí dân chủ, nhất là ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, tư tưởng. Môi

trường ấy đã tạo điều kiện cho những người cầm bút tự do được bày tỏ quan điểm

của mình về những vấn đề xung quanh để tự khẳng định bản thân và tài năng của

mình. Tạp văn với tư cách là một tiểu loại kết hợp những đặc điểm của báo chí và

văn chương cho phép người viết dễ dàng, linh hoạt truyền tải thông tin và trình bày,

bày tỏ quan điểm những ý kiến của mình đến độc giả.

Cùng với nhịp sống hối hả hiện nay, người viết đến với tản văn như để lắng

lòng, chia sẻ những khoảnh khắc giá trị trong cuộc sống hối hả, nhộn nhịp với mọi

người và người đọc cũng từ ấy mà thấy hiểu cùng người viết.

Thứ hai là xuất phát từ ý thức, trách nhiệm của nhà văn đối với xã hội.

25

Dựa vào những đặc tính cũng như ưu thế của tạp văn, các nhà văn đã chọn

tạp văn như một vũ khí để đấu tranh trên chiến trường ngôn luận trong hoàn cảnh

đất nước ta những thập niên đầu thế kỉ XX. Các tác giả tiêu biểu như Huỳnh Thúc

Kháng, Ngô Đức Kế, Ngô Tất Tố,… Sự lựa chọn thể loại tạp văn để làm vũ khí để

đấu tranh ngôn luận với thực dân Pháp lúc bấy giờ vừa rút ngắn được thời gian cho

nhà văn, vừa giúp công chúng dễ tiếp nhận thông tin.

Tạp văn là một thể loại có thể phục vụ được chính nhu cầu bày tỏ quan điểm,

chính kiến của người viết trước mọi mặt của đời sống trong thời đại dân chủ nên sự

ra đời của tạp văn là điều tất yếu.

Văn học trong từng giai đoạn phát triển luôn luôn hướng đến triết lí sâu xa

và với những giá trị vĩnh hằng và tạp văn cũng không nằm ngoài đó. Tạp văn có

cơ hội đi sâu vào những vấn đề trong cuộc sống một cách cụ thể, trực tiếp, ngắn

gọn, linh hoạt, hàm súc và nhanh hơn các thể loại khác. Yêu cầu cao nhất đối với

các tác giả là phải có tầm nhìn văn hóa, tầm hiểu biết sâu rộng và trải nghiệm

phong phú để có thể hướng độc giả tới chân, thiện, mỹ và góp phần giúp họ hiểu

muôn mặt của đời sống để hoàn thiện nhân cách bản thân.

Thứ ba, do sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và công nghệ thông tin

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, công nghệ thông tin, nhịp sống

hiện đại, thể loại tạp văn trở thành loại văn bản có ưu thế. Có nhiều tờ báo dành

riêng mục để đăng tạp văn, tản văn, cho nên tạp văn gắn chặt với đời sống xã hội

hiện nay. Tạp văn là thể loại gần gũi với cuộc sống hàng ngày, gắn liền với hoạt

động báo chí nên tác động trực tiếp tới đời sống tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ của

người đọc. Đã có nhiều tạp văn được in thành sách. Như vậy, tạp văn đã dần khẳng

định vị trí của mình trọng nền văn học hiện đại Việt Nam so với các thể loại khác.

Thứ tư là do nhịp sống hối hả hiện đại, con người cần nắm bắt những thông

tin nhanh nhạy, ngắn gọn, chính xác.

Ngày nay, cuộc sống hiện đại hơn, tiện nghi hơn, sôi động hơn, nhịp sống đô

thị diễn ra quá nhanh, con người dần dần bị cuốn vào guồng quay của cuộc sống,

công việc,... nên việc muốn nắm bắt thông tin nhanh nhạy, chính xác, ngắn gọn là

26

điều cần thiết. Ngày nay, các tờ báo dành nhiều mục để in các tạp văn hay người

đọc có thể dùng điện thoại thông minh, máy tính bảng, internet để truy cập các trang

báo mạng để nắm bắt thông tin một cách nhanh nhất. Vì vậy, tạp văn là ưu tiên hàng

đầu vì có thể đi sâu vào đời sống xã hội cùng với đặc điểm ngắn gọn, nhanh nhạy,

chuẩn xác đã đáp ứng nhu cầu của người đọc hiện nay.

Đã có rất nhiều tác giả đã khẳng định dấu ấn riêng của mình với thể loại tạp

văn như: Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh,

Nguyễn Trương Qúy…

Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến viết về Hà Nội vừa có sự kế thừa của các

bậc tiền bối vừa là sự trải nghiệm, chiêm nghiệm từ những khám phá đặc sắc của

riêng ông về mảnh đất ngàn năm văn hiến trong mối liên hệ với đời sống xã hội

đương đại. Thông qua đó ông luôn hướng đến những giá trị cuộc sống tốt đẹp của

đất và người Thăng Long xưa.

1.2.3.2 Tạp văn trong nền văn học Việt Nam đương đại

Cùng với sự vận động và phát triển của các thể loại văn học, tạp văn góp

phần đáng kể cho nền văn học nước nhà. Nếu từ 1900 đến 1986 chỉ là quá trình

hình thành và phát triển của tạp văn thì sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI

của Đảng (12/1986) đến nay thực sự tạp văn có những bước phát triển vượt trội.

Ngày nay, báo chí, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ cùng nhịp sống hiện đại

thì tạp văn, tản văn là loại văn bản chiếm ưu thế. Đặc biệt có rất nhiều tờ báo dành

riêng mục để đăng tạp văn, tản văn thường kì như: Tuổi trẻ, Thanh niên, Văn nghệ,

Người lao động, Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn tiếp thị,… Không chỉ

xuất hiện liên tục và dày đặc trên những mặt báo, các trang mạng xã hội mà những

năm gần đây tạp văn, tản văn được xuất bản khá nhiều, nội dung chất lượng và được

độc giả đón nhận nồng nhiệt.

Viết tạp văn là viết những chuyện nhỏ bé, dung dị, đời thường nhưng lại đề

cập đến những vấn đề của thời đại, nói chuyện đời thường mà chạm đến những

vấn đề thời thế vô cùng sâu sắc. Tại Việt Nam, trong những năm của sự hình

27

thành và phát triển mạnh mẽ của thể loại này đã xuất hiện rất nhiều tác giả với

nhiều cuốn tạp văn gây được tiếng vang và để lại dấu ấn của riêng mình.

Nguyễn Nhật Ánh trong lời tựa viết cho cuốn tạp văn Nghiêng tai dưới gió

của Lê Giang đã nhận xét: “Tôi đọc, lại nghĩ mình đang đọc tự truyện”. Đọc giả sẽ

cùng chung nhận xét với Nguyễn Nhật Ánh khi bắt gặp nhiều mẩu chuyện như

những lời tâm tình, tự sự của chính tác giả kể về sinh hoạt đời thường, những tháng

ngày vất vả lội núi, băng đồng, những tình bạn chân thành và ấm áp trong những

ngày kháng chiến. Qua đó cũng giúp bạn đọc thấy được cảnh sống thanh bạch và

giản dị của đôi vợ chồng nghệ sĩ trọn đời gắn bó với dân ca.

Tạp văn của Nguyễn Khải đề cập của yếu đến vấn đề đạo đức và lối sống.

Nội dung chủ yếu là tự truyện, những câu chuyện liên quan đến các khía cạnh của

đời sống hiện thực xoay quanh những vấn đề nghề văn và cuộc đời.

Tạp văn mang đậm không khí của đất và người Tây Nguyên của Nguyên

Ngọc đã gây được tiếng vang lớn trong làng văn học. Qua các sáng tác của mình,

ông đã làm hiện lên một Tây Nguyên với nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, tạp

văn Nguyên Ngọc đề cập khá nhiều đến bức tranh toàn cảnh nền giáo dục và văn

học Việt Nam bằng việc chỉ ra những sao lầm yếu kém của giáo dục và văn học

nước ta, đồng thời ông cũng chỉ ra những giải pháp và phương hướng khác phục.

Những nét riêng của con người Nam Bộ đã được Nguyễn Ngọc Tư mang vào

những trang tạp văn của bà đã được Thanh Vân nhận xét: “Thủng thảng, nhỏ nhẹ như

người con gái quê đang vừa hái rau muống vừa kể chuyện, những câu chuyện lúc thì

da diết lúc lại hóm hỉnh, tưng tửng, vui vui, tạp văn Nguyễn Ngọc Tư có sự kết hợp rõ

nét giữa văn và báo. Nếu như ở truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư chưa chạm nhiều đến

“kinh tế, chính trị” thì trong tạp văn chị bộc lộ cái nhìn của mình về chuyện lúa chết

non, tôm chết làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, chuyện giữ đất hay bán

đất, chuyện quan lại nhũng nhiễu, hạch sách người dân” [29, tr.5]. Tạp văn Nguyễn

Ngọc Tư là những lời giãi bày tâm sự hết sức chân thành, giản dị nhưng chất chứa

nhiều day dứt trong Tạp văn (2005), Sống chậm thời @ (2006), Ngày mai của những

ngày mai (2007), Biển của mỗi người (2008), Yêu người ngóng núi (2009)

28

Phan Thị Vàng Anh đến với tạp văn khi chị đã được độc giả quen thuộc với

thể loại truyện ngắn. Cuốn Tạp văn Phan Thị Vàng Anh (5/2011), Nxb Trẻ, TP. Hồ

Chí Minh là tập tài liệu tập hợp các bài viết đã đăng trên các báo Thể thao - Văn

hóa; Đại biểu Nhân dân; Tuổi trẻ; Tia sáng; Thời báo Kinh tế Sài Gòn... từ năm

1988 đến 2010 của chị. Các bài viết đề cập trong Tạp văn Phan Thị Vàng Anh là các

vấn đề về đất nước, con người Việt Nam với cái nhìn của một công dân có trách

nhiệm, từ chuyện tiểu tiết đến các vấn đề thời sự nóng hổi, từ chuyện vi mô đến

chuyện vĩ mô. Dù viết về vấn đề gì thì sau mỗi bài viết đều đọng lại trong lòng

người đọc những câu hỏi dạng câu lớn...

Cùng với việc được độc giả đón nhận nồng nhiệt trong thể loại tiểu thuyết thì

Nguyễn Việt Hà khi đến với tạp văn đã mang một dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc

cùng những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam đương đại.

Tạ Duy Anh trong những trang tạp văn của mình lại đưa người đọc về miền

kí ức tuổi thơ ngọt ngào nhưng đầy sự trầm tư cùng những lo lắng và băn khoăn

trước hiện thực cuộc sống hiện tại.

Tạp văn Nguyễn Trương Qúy để lại ấn tượng trong lòng độc giả với giọng

giễu nhại. Tạp văn Lê Giang lại có cách viết mới lại về những điều dung dị quanh

mình. Nhà văn Nguyễn Quang Lập lại là giọng văn dí dỏm, hài hước. Hay nhà văn

Lý Lan được độc giả Việt Nam mê đắm với các bản dịch Harry Porter bằng tiếng

Việt và khi nói lên tiếng lòng của mình qua tạp văn cũng đã để lại dấu ấn riêng và

được độc giả ghi nhận….

Hiện nay, có rất nhiều người viết tạp văn nhưng không phải ai cũng cố thể

ghi được dấu ấn riêng mình như ở các thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn. Đội ngũ

sáng tác chủ yếu đều là những nhà văn, nhà thơ, các bậc lão làng có tên tuổi như:

Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Việt Hà, Lý

Lan, Lê Giang,…

Nguyễn Ngọc Tiến đã khẳng định được tên tuổi của mình qua bốn cuốn tạp

văn tiêu biểu. Nét nổi bật trong tạp văn ông là giọng điệu chính luận nhưng lại giản

dị, đời thường khi bàn về những các vấn đề lịch sử, văn hóa và con người Hà Nội.

29

Đọc tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến, độc giả như cảm nhận được cuộc sống giản dị,

gần gũi, đời thường ở Hà Nội qua giọng văn tự nhiên, mộc mạc nhưng đầy xúc cảm,

chiêm nghiệm.

1.3 Nguyễn Ngọc Tiến – nhà văn của Hà Nội ngàn năm văn hiến.

1.3.1 Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến.

Nguyễn Ngọc Tiến sinh ra và lớn lên ở khu phố Vọng, quận Hai Bà Trưng,

Hà Nội. Vì thế, khi viết về Hà Nội giống như ông đang kể về những kí ức tuổi thơ,

hành trình lớn lên cùng những chiêm nghiệm sâu sắc của mình trên mảnh đất ngàn

năm văn hiến này.

Ông từng là lính chiến đấu tại chiến trường biên giới Tây Nam (Lộc Ninh,

sông Bé). Sau 6 năm đi bộ đội, ông thi đỗ Đại học Sân khấu Điện ảnh và tốt nghiệp

ngành Lý luận - Biên kịch khi tuổi đã ngoài 30. Năm 1990, Nguyễn Ngọc Tiến đi

làm báo và luôn gắn bó với nghề. Hiện nay, ông làm phóng viên cho ban Phóng sự -

Điều tra của Báo Hà Nội mới

Gần 30 năm công tác ở Báo Hà Nội mới, ông có nhiều bài viết về văn hóa,

đoạt nhiều giải thưởng báo chí cho những phóng sự điều tra… nhưng có lẽ khi viết

về Hà Nội thì ngòi bút của ông có những dấu ân sâu đậm nhất.

Nguyễn Ngọc Tiến đang được biết đến là một trong những tác giả viết về Hà

Nội nhiều nhất hiện nay. Bên cạnh những cuốn khảo cứu 5678 bước chân quanh Hồ

Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội, những cuốn sách khác

của ông như: Mong manh, Me Tư Hồng, Lính Hà… cũng đầy ắp những chuyện cũ,

chuyện mới về Hà Nội.

Nguyễn Ngọc Tiến đến với nghề báo vì thích sự tự do còn viết sách thì do

bức bối về những điều xung quanh, trải nghiệm của bản thân và có nhiều chuyện

chưa ai chạm tới.

1.3.2 Nguyễn Ngọc Tiến với thể loại tạp văn

Nguyễn Ngọc Tiến gắn bó sâu đậm với Hà Nội và có rất nhiều các cuốn sách

viết về Hà Nội từ những khám phá, tìm tòi và kinh nghiệm của bản thân. Cho đến

nay Nguyễn Ngọc Tiến đã cho ra đời 4 cuốn tạp văn viết về Hà Nội. Dường như sự

30

tò mò của bạn đọc và những lần tái bản liên tiếp của 5678 bước chân quanh Hồ

Gươm đã đưa Nguyễn Ngọc Tiến dấn thân cho đề tài Hà Nội. Liên tiếp ông cho ra

mắt cuốn Đi ngang Hà Nội (2012) và Đi dọc Hà Nội (2012), tiếp sau đó là Đi xuyên

Hà Nội (2015), tạo nên một bộ sách khảo cứu về Hà Nội vô cùng thú vị.

Năm 2008, Nguyễn Ngọc Tiến trình làng cuốn khảo cứu về Hà Nội đầu tiên -

5678 bước chân quanh Hồ Gươm. Đây như là một cuộc dạo chơi của chính tác giả

tại hồ Gươm. Qua từng bước chân là những câu chuyện xoay quanh địa điểm này

cùng những đặc sắc văn hóa thú vị và riêng biệt của Hà Nội. Ông đã tái hiện lại

cuộc dạo chơi vô cùng thoải mái, tự nhiên bắt đầu từ tượng đài Lý Thái Tổ men

xung quanh hồ Gươm đến nhiều địa điểm qua các dấu mốc lịch sử cùng con người

nơi đây. Người đọc như được quay ngược thời gian về quá khứ để cùng Nguyễn

Ngọc Tiến đi quanh hồ Gươm, thấy được những đổi thay tại nơi đây cùng thăng

trầm của lịch sử qua các công trình kiến trúc ven hồ, những di tích, những câu

chuyện, những nét văn hóa của riêng người Hà Nội xoay quanh hồ Gươm… Tất cả

đều được ông tái hiện vô cùng sinh động cùng với lời văn giản dị, mộc mạc đã mở

ra một không gian văn hóa, lịch sử riêng biệt chỉ có ở Hà Nội.

Đi ngang Hà Nội với 31 câu chuyện đủ ngóc ngách đời sống lịch sử Hà Nội

mang lại cho bạn đọc yêu Hà Nội cảm xúc bâng khuâng về Hà Nội qua những câu

chuyện, cuộc đời của người Hà Nội theo chiều dài lịch sử. Trong cuốn tạp văn này,

đã có rất nhiều vấn đề mà trước nay chưa có người đề cập đến hay dù có đề cập thì

cũng chưa đi sâu như: Đĩ điếm ở Hà Hội, Tư sản ở Hà Nội, cô đầu ở Khâm Thiên,

xẩm bờ hồ, xe đạp… Những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến vì thế rất thú vị, có

nhiều thứ để đọc, để tìm hiểu và làm sống dậy những điều tưởng chừng đã đi vào dĩ

vãng ở mảnh đất này đồng thời mang lại cho bạn đọc những cảm xúc thú vị và thêm

hiểu biết về nơi đây qua những câu chuyện mà ông kể.

Đi dọc Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục triển khai góc nhìn mới về một số

vấn đề - sự kiện, giúp người đọc biết về "người Tràng An thanh lịch" qua thú chơi

hoa, qua lịch sử cầu Thê Húc, qua thuốc phiện và rượu lậu của một thời. . . Và các

vấn đề - sự kiện ấy luôn được tác giả xây dựng trên nền tảng con người, mà nổi trội

31

là những người Hà Nội rất bình thường cùng với các câu vè, lời rao hàng sinh động

và lý thú. Đó là những con người đã góp phần làm nên một diện mạo khác của Hà

Nội, khác xa với những "dân chơi" của đất kinh kỳ. . . Những trang văn trong Đi

dọc Hà Nội có thể giúp chúng ta hiểu thêm về quá khứ, về dòng chảy văn hóa và

dấu ấn của nhiều thế hệ ở Hà Thành, đồng thời nhắc nhở chúng ta rằng, hiện tại và

tương lai không đến từ hư vô, mà đến từ quá khứ.

Trong Đi xuyên Hà Nội, Hà Nội hiện lên qua nhiều góc cạnh: những bước

hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập bên cạnh những phố

Hàng của Kẻ Chợ, những thú chơi hay phong tục của thời trước, những thăng trầm

lịch sử. Có khi là câu chuyện nhiều ngổn ngang trong thân phận những ngôi biệt thự

cũ giờ cái còn cái mất. Có khi là những phận đời nổi trôi theo thời cuộc: những nhà

nho thất thế, một ông Tây say mê văn hóa bản địa và thành nhà Hà Nội học, những

người con trai con gái của một thời yêu nhau trong sáng… Những chuyện nho nhỏ

thú vị về thời điểm giao thông Hà Nội bắt đầu có đèn tín hiệu giao thông, cầu Long

Biên khởi dựng ra sao, ăn mày Hà Nội hay chợ búa thế nào… Hay những dấu mốc

lịch sử của những cuộc chiến tranh diễn ra trên mảnh đất Hà Nội, mỗi lần đi qua là

để lại những tác động nghiệt ngã lên dấu tích vật chất lẫn văn hóa sống của con

người. Nguyễn Ngọc Tiến đã tập trung viết vào bản chất của đô thị ở khía cạnh

khoa học nhân văn gần gũi, có sự khảo cứu sâu rộng các nguồn tư liệu, nên độ hấp

dẫn nằm ở chính sự sống động ấy. Tất cả dựng nên một cách tự nhiên chân dung

một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà luôn đầy chất đương đại.

Năm 2012, hai cuốn Đi ngang Hà Nội và Đi dọc Hà Nội của Nguyễn Ngọc

Tiến đã nhận được giải thưởng Vì tình yêu Hà Nội là một ghi nhận xứng đáng cho

những đóng góp thầm lặng của một người con của Hà Nội luôn nặng lòng với mảnh

đất quê hương như ông.

1.3.3. Đề tài Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến.

Nguyễn Ngọc Tiến là người con của Hà Nội và là tác giả viết về Hà Nội

nhiều nhất hiện nay, ông được độc giả yêu mến gọi là nhà “Hà Nội học” thời hiện

đại. Những cuốn sách của ông như: 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Đi ngang

32

Hà Nội, Đi dọc Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội, Mong Manh, Me Tư Hồng,… đã được

bạn đọc có cái nhìn mới hơn về mảnh đất ngàn năm văn hiến.

Trong các cuốn tản văn của mình, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa người đọc vào

một cuộc phiêu lưu vô cùng đặc biệt mà tác giả đã tạo ra cho những ai yêu mến Hà

Nội. Mỗi một tác phẩm, lại có nét riêng biệt cùng với đó là những câu chuyện về

con người, xã hội, văn hóa, lịch sử,… được tác giả tái hiện lại vô cùng đặc sắc.

Nguyễn Ngọc Tiến đã từng nói rằng: “Hà Nội là vùng đất có nhiều kỉ niệm,

kí ức nhất đối với tôi. Không những là nơi sinh ra tôi mà Hà Nội còn nuôi tôi bằng

cái nôi văn hóa. Tình yêu của tôi với Hà Nội là sự thẩm thấu dần dần, cứ thế, yêu là

yêu thôi…”. Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tiến, những hình ảnh, những câu

chuyện xảy ra tại nơi đây hiện lên rất rõ nét, cụ thể và sinh động. Một Hà Nội với

phở, phố cổ, tiếng chuông tàu điện leng keng,.. hay nhưng câu chuyện thú vị về: thú

chơi cá cảnh, những bài văn vần về Hà Thành, nhà vệ sinh công cộng đầu tiên, đi

hát cô đầu,… đều được ông ghi chép và kể lại vô cùng lôi cuốn. Với góc nhìn mới

lạ, độc đáo, tác giả kể lại những câu chuyện vô cùng thú vị như: lịch sử của cầu Thê

Húc, “người Tràng An” với thú chơi hoa vô cùng thanh lịch; hay những câu chuyện

về những con người bình dị: cô bán hàng rong, người hát xẩm, chị công nhân đã có

mấy chục năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ Hồ,… Đó

chính là những câu chuyện và những con người đã cho ta thấy một nét riêng biệt ở

mảnh đất kinh kỳ. Hay Câu chuyện về những ngày đầu khi Hà Nội bắt đầu có đèn

giao thông, cầu Long Biên được khởi dựng ra sao, những thành phố kiểu phương

Tây do người Pháp lập nên như thế nào,… những câu chuyện về những năm tháng

khó khăn trong thời kì chiến tranh. Bên cạnh đó, là những câu chuyện về tình yêu

trong sáng của những chàng trai cô gái,... cũng dành được sự yêu thích người đọc.

Không những thế, Nguyễn Ngọc Tiến còn bỏ rất nhiều công sức và tâm

huyết để thu lượm các thông tin qua nhiều cuốn sách lịch sử, sách viết về Hà Nội

của rất nhiều các tác giả người nước ngoài hay những cuốn sách viết về Thăng Long

– Hà Nội của các bậc tiền bối như: Nguyễn Trãi, Phạm Đình Hổ, Đặng Huy Trứ hay

những câu chuyện, bài viết nhỏ của các nhà nghiên cứu sau này như: Vũ Ngọc

33

Phan, Nguyễn Văn Uẩn, Trần Quốc Vượng, , Nguyễn Thừa Hỷ, … chính là những

tài liệu quý giá giúp ông có một cái nhìn hệ thống, rõ nét, khái quát về mảnh đất

ông yêu.

Với nghề làm báo của mình, ông có nhiều cơ hội đi nhiều, gặp gỡ, trò chuyện

với các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ, các bậc cao niên gắn bó với Hà Nội nên

ông đã thu thập được nhiều thông tin, tích lũy được nhiều kiến thức về mọi mặt của

Hà Nội để đưa vào các tác phẩm của mình. Nguyễn Ngọc Tiến từng chia sẻ rằng:

“Có nhiều người không làm báo nhưng họ vẫn khảo cứu và viết về Hà Nội rất sinh

động ăm ắp tư liệu. Vấn đề có thích hay không thích thôi. Song đúng là làm báo

giúp tôi có cơ hộ tiếp xúc dễ dàng với nhiều người và ghi chép được nhiều điều, Hà

Nội dưới các góc độ khác nhau từ đó để viết ra những điều như nó vốn có trong

cuộc sống”.

Đề tài Hà Nội là đề tài hấp dẫn nhiều cây bút ở nhiều thể loại như tiểu

thuyết, truyện ngắn, thơ, kí, tản văn, tạp văn …với nhiều tác giả và tác phẩm gây

được tiếng vang lớn như: Chuyện cũ Hà Nội, Người ven đô (Tô Hoài) Hà Nội băm

sáu phố phường (Thạch Lam), Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Một chuyến

đi, Hà Nội đánh Mỹ giỏi (Nguyễn Tuân), Thương nhớ mười hai (Vũ Bằng), Thú ăn

chơi người Hà Nội (Băng Sơn), Con giai phố cổ, Đàn bà uống rượu (Nguyễn Việt

Hà )… Thạch Lam đã giúp người đọc hình dung ra một khuôn mặt của một Hà Nội

phồn hoa đô hội nhưng cũng thật cổ kính tôn nghiêm, thanh cao với giọng văn tâm

tình trong Hà Nội băm sáu phố phường. Hà Nội trong sáng tác của Vũ Bằng chính

là nỗi nỗi thương nhớ quê hương, cảnh sắc, con người, tình yêu thương dành cho

người vợ hiền tần tảo, thủy chung bằng giọng văn trữ tình sâu lắng kết hợp với vốn

sống, vốn hiểu biết phong phú về đời sống văn hóa, phong tục của người Hà Nội

qua Thương nhớ mười hai. Với cách nhìn đa diện, đa chiều, Đỗ Phấn viết về hiện

thực đô thị Hà Nội là một thành phố trẻ trung, năng động nhưng cũng đang chông

chênh trên con đường hiện đại hóa với muôn màu muôn vẻ phức tạp của cuộc sống

đời thường nhưng cũng hết sức nhân văn cao đẹp. Nguyễn Việt Hà viết văn mà

giọng văn trước sau đều không giống ai đã kể những câu chuyện đầy thú vị về Hà

34

Nội. Ông đã dựng nên chân dung thành phố ngàn năm văn hiến mang hơi thở náo

nhiệt đương đại nhưng cũng giữ được các nét xưa qua Con giai phố cổ, Mặt của

đàn ông, Đàn bà uống rượu… nhưng với Nguyễn Ngọc Tiến thì bất kể đề tài nào

liên quan đến Thủ đô đều khiến ônghào hứng. Ông tự nhận, so với bề dày cả nghìn

năm của Hà Nội, thì dù đã “đi dọc”, “đi ngang”, “đi xuyên” và cả “đi quanh” Hà

Nội, ông cũng chưa thể nói hết về thành phố này. Con người và văn hóa Thăng

Long luôn chứa đựng nhiều điều bí hiểm mà việc tìm hiểu và lý giải đã trở thành

một nhu cầu của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu, các nhà văn, nhà thơ. Viết bao

nhiêu về Hà Nội cũng chưa đủ. Luôn coi mình chỉ là người đi sau so với rất nhiều

cây đa cây đề nghiên cứu về Hà Nội nên Nguyễn Ngọc Tiến cố gắng chọn cho mình

một lối đi riêng với những khám phá thú vị, mới mẻ về Hà Nội. Vì thế, khi viết về

đề tài Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến đã chọn những chủ đề được ít các tác giả đi trước

chọn đó là những câu chuyện thường ngày của Hà Nội và cuộc sống thường ngày

của người dân. Các tác phẩm của ông viết về Hà Nội thiên về mảng đời sống thị

dân, những thay đổi hiện nay của người Hà Nội chứ không phải là các tác phẩm

khảo cứu lịch sử. Nguyễn Ngọc Tiến không nhìn Hà Nội theo con mắt đạo đức mà

theo hiện thực xã hội, Hà Nội với ông là những thứ gần gũi và thân thương.

1.4 Tiểu kết chƣơng 1

Trong nền văn học Việt Nam đương đại, tạp văn là thể loại phát triển mạnh

mẽ. Thuật ngữ này trước đây được hiểu là thể loại văn xuôi nói chung nhưng trong

thực tế sáng tế hiện nay có thể nhận thấy rằng nhưng đặc trưng riêng biệt của thể

loại này. Tạp văn là thể loại ngắn gọn, hàm xúc, linh hoạt, vận dụng kết hợp các

hình thức tự sự, trữ tình hoặc nghị luận để tác giả có thể tái hiện và bày tỏ quan

điểm, trình bày suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, tiếng nói của bản thân mình trước mọi

vấn đề của cuộc sống. Tạp văn hiện nay phát triển mạnh mẽ phục vụ nhu cầu của cả

người đọc và người viết. Với thể loại tạp văn, có rất nhiều tác giả đã khẳng định

được tên tuổi, định hình được phong cách và có những đứa con tinh thần được độc

giả yêu mến.

35

Nguyễn Ngọc Tiến là gương mặt nhà văn tiêu biểu chuyên viết về đề tài Hà

Nội với ba thể loại chính: Kịch, tiểu thuyết và tạp văn. Trong đó, các tác phẩm gây

được tiếng vang và được lòng đa số các độc giả với cách thể hiện một cách nhìn,

cách khai thác mới mẻ, sâu sắc về Hà Nội của riêng Nguyễn Ngọc Tiến phải kể đến

bốn cuốn tạp văn vô cùng đặc sắc của ông: 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Đi

dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội.

36

CHƢƠNG 2

NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN

NGUYỄN NGỌC TIẾN

2.1 Không gian từ góc nhìn văn hóa

2.1.1 Không gian Hà Nội ngàn năm văn hiến

Từ bao nhiêu thế kỉ nay, vùng đất kinh kì Thăng Long - Hà Nội luôn được

mệnh danh là vùng đất của thơ ca nhạc hoạ. Chính tại nơi đây đã sinh ra nhiều nghệ

sĩ tài năng, và cũng chính nơi đây đã gợi nên cảm hứng sáng tác cho bao thế hệ

nghệ sĩ. Không biết bao nhiêu bài thơ, áng văn, bao nhiêu ca khúc, bức tranh có đề

tài về cảnh vật, con người của vùng đất ngàn năm văn vật này. Đề tài Hà Nội đã đi

vào kho tàng đồ sộ của văn học dân gian, những khảo cứu phong tục tập quán cho

đến những truyện ngắn, kí sự của Thạch Lam, Tô Hoài, Nguyễn Tuân… về văn hóa,

nếp sống của con người, những thú chơi tao nhã của người Thăng Long – Hà

Nội…. Tác giả Nguyễn Ngọc Tiến được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, nơi giàu

truyền thống văn hóa, văn vật với các tập tục lễ hội, âm nhạc, văn hóa dân

gian…nên có thể nói, ông được ấp ủ, nuôi dưỡng giữa cái nôi văn hóa nơi đây. Vì

vậy, Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến là cảnh sắc và con người hiện

lên là những dung dị đời thường với những biến đổi và phát triển qua các giai đoạn

lịch sử ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau.

Hàng ngàn năm, đồng hành với bao thăng trầm của lịch sử dân tộc, Thăng

Long - Hà Nội nhiều lần bị tàn phá bởi giặc ngoại xâm nhưng vẫn hiên ngang trụ

vững “Thăng Long phi chiến địa”, “Giặc đến Bồ Đề giặc lại tan”. Các triều đại trở

về “chỉ nơi này là thắng địa” tập hợp nhân tài mọi miền đất nước, các danh nhân,

người tài có thời gian được sống thanh thản ở vùng thiên khí, địa khí tốt, càng tỏa

sáng, thành danh khi được làm việc tại kinh đô bậc nhất. Có rất nhiều câu ca dao tục

ngữ nói Hà Nội chính là miền đất hứa, ai ai cũng muốn ở Hà Nội như: “Giàu nhà

quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”, “Đông Thành có mẹ có cha/ Đói cơm, thiếu áo

thì ra Đông Thành” [29, tr.76]. Và cho đến thời bao cấp, Hà Nội vẫn được xem là

“đất thánh”, chẳng ai muốn xa “đất thành” và ai muốn về “đất thánh” vì ở đây có

37

điện, có đường nhựa, có nước máy “thứ nước làm trắng da và giọng nói trở nên

mềm hơn”, “Rất nhiều người tin rằng ăn nước máy không chỉ làm người ta thay

đổi giọng nói mà còn làm cho da dẻ đẹp hơn. Một người ở quê ra Hà Nội sống, nhờ

ăn nước máy mà giọng nói bớt thô cứng, mềm hơn, còn da từ thô ráp chuyển sang

mịn màng” [24, tr.226].

Trong 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Nguyễn Ngọc Tiến đã lí giải tên gọi

của Hà Nội ngay từ đầu bài Hồ Gươm: “Hà Nội có nghĩa là thành phố trong sông.

Nhưng không chỉ có sông Hồng mà Hà Nội xưa bị bao quanh bởi các sông Tô Lịch,

Kim Ngưu, Thiên Phù.” [22, tr.7]. Khi nói đến Hà Nội không thể không nhắc đến hồ

Gươm – trái tim của Hà Nội. Nơi này hội tụ khí thiêng, gắn liền với người dân thủ

đô qua nhiều phương diện lịch sử văn hóa, từ truyền thuyết Lê Lợi trả kiếm cho rùa

vàng được lưu truyền trong dân gian: “Sau khi đánh tan giặc Minh, một hôm Lê

Thái Tổ ngồi trên thuyền rồng dạo chơi trên hồ thì thần Kim Quy nổi lên, ngài hiểu

thần muốn lấy lại thanh gươm báu trước kia thần đã cho ngài mượn đánh giặc

Minh. Và khi ngài rút gươm ra khỏi vỏ thì ngay lập tức thanh gươm bay về phía

thần Kim Quy, thần ngậm thanh gươm rồi từ từ lặn xuống chỉ để lại một vệt sáng

loáng [22, tr.9].

Phố phường Hà Nội là nơi chứng kiến biết bao thăng trầm của mảnh đất

ngàn năm văn hiến, là nơi sinh hoạt, làm ăn, buôn bán của những con người sống và

gắn bó với nơi này. “Sau năm 1945, nội thành Hà Nội có hơn 300 phố. Từ khi sáp

nhập Hà Tây và nội thành được mở rộng về bốn hướng, nhiều phô mới hình thành,

hiện tại, khu vực nội thành có gần 900 phố. Chuyện phường, phố và đặt tên có

nhiều chuyện vui buồn nhưng trên hết nó là một phần của lịch sử Hà Nội” [24,

tr.306]. “Cuối thời Lê, sông Hồng, Tô Lịch, cùng các hồ lớn ở phía đông và phía

nam Thăng Long vẫn thông với nhau bởi các con kênh. Không chỉ là tuyến đường

giao thông thủy quan trọng mà bến sông, mé sông, mép hồ còn là nơi tập trung dân

cư sống đông đúc, họ vừa sản xuất hàng hóa vừa buôn bán” [24, tr.307].

Hà Nội còn là niềm tự hào với những làng nghề truyền thống: “Kể từ khi

Thăng Long trở thành kinh đô Đại Việt, các nghề thủ công của các làng nghề gốc

38

Thăng Long bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa” [21, tr.87]. “ Hà Nội xưa

là đất hoa. Thời nhà Lý, làng Nghi Tàm có cánh đồng trồng hoa gọi là Đồng Bông.

Làng Yên Phụ cũng trồng hoa nên có tên là Yên Hoa…” [30, tr.69]. “Phía nam kinh

thành Thăng Long (bao gồm Bạch Mai, Mai Động, Hoàng Mai, Tương Mai ngày

nay) là vùng trồng mơ nên người ta gọi là kẻ mơ và mỗi làng trong Kẻ Mơ có một

nghề riêng…” [23, tr.12]. “Nằm cạnh hồ Tây với hoa sen bát ngát, tháng năm sen

nở tỏa hương khắp vùng phía tây kinh thành nên Thụy Chương cũng nổi tiếng với

nấu rượu nhụy sen. Tương truyền rượu nhụy sen ngon đến mức đức Phật cũng

không cưỡng lại được…” [23, tr.91]

Nguyễn Ngọc Tiến đã từng chia sẻ: “Từ khi trở thành phóng viên báo Hà

Nội mới, hồ Hoàn Kiếm (hay hồ Gươm) càng quen thuộc với tôi vì tòa soạn nằm kế

bên. Lúc rỗi việc, tôi thường thẩn thơ dạo quanh hồ và nhận ra rằng vẫn còn nhiều

chuyện chưa viết. Đó là những chuyện truyền miệng, chuyện khó nói và có thể dưới

mắt nhiều người nó lặt vặt song đôi khi nó là cai hồn của đời sống thị dân. Thế là ý

tưởng cuốn sách 5678 bước chân quanh hồ Gươm ra đời từ năm 2002. Sở dĩ đặt tên

sách như vậy vì tôi dạo quanh hồ Gươm hết từng ấy bước chân. Bắt đầy từ tượng Lý

Thái Tổ, vị vua có công đầu xây dựng Thăng Long, theo chiều kim đồng hồ mà kể.

Tuy nhiên, ngoài chuyện không đầu không cuối, tôi cũng lan man những chuyện tôi

đọc trong sách, tôi chứng kiến và cảm nhận về Thăng Long-Hà Nội” [22, tr.5].

Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã tái hiện lại không gian

của các thời phong kiến xưa nổi bật là thời Lý, Trần, Lê qua những câu chuyện lịch

sử trên mảnh đất Hà Nội trong Hồ Gươm, Dựng tượng dài Lý Công Uẩn, Quanh hồ

Gươm không ai bàn chuyện vua Lê, Di sản đê và chuyện bỏ đê,...; những câu

chuyện văn hóa xã hội, đời sống con người thời Pháp hay những câu chuyện về Hà

Nội thời bao cấp với biết bao khó khăn gian khổ nhưng cũng tạo nên cho nơi đây

những nét văn hóa riêng mà không nơi nào có được.

Có thể nhận thấy rằng bốn cuốn tạp văn là một không gian rộng lớn bao quát

tất cả văn hóa, phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt con người Hà Nội mà tác giả

đã phải dành rất nhiều công sức tìm kiếm tư liệu, sách báo trong và ngoài nước, gặp

39

gỡ các nhà nghiên cứu, người cao tuổi lâu năm của Hà Nội, những trải nghiệm cá

nhân... Nguyễn Ngọc Tiến đã khai thác, lựa chọn góc nhìn cẩn trọng theo hai chiều

lịch đại và đồng đại. Các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tiến đã đóng góp khắc họa

sâu chân dung của thành phố trái tim của đất nước và mang đến cho bạn đọc cái

nhìn bao quát, cụ thể nhất về thành phố ngàn năm tuổi này.

Trong những trang viết của mình, Nguyễn Ngọc Tiến đã tái hiện được trong

mỗi câu chuyện về một không gian Hà Nội xưa trong sự đối chiếu với Hà Nội ngày

nay. Ông đã nhìn Hà Nội trong sự vận động và biến đổi hôm qua và hôm nay. Đồng

thời ông luôn bộc lộ nỗi niềm đằng sau những biến đổi ấy. Qua đó, độc giả có cái

nhìn toàn diện, chứng kiến nhiều góc cạnh của Hà Nội qua sự hình thành thành phố,

các thú chơi, phong tục tập quán, các nghệ thuật dân gian... của các thời đại trước

cũng như các thăng trầm của Hà Nội trong từng giai đoạn lịch sử. Có thể thấy được

Nguyễn Ngọc Tiến luôn luôn thể hiện niềm tự hào về mảnh đất thiêng với muôn

vàn cái đẹp, xứ sở của trăm hoa đua nở, mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến của

đất nước muôn đời.

2.1.2 Không gian cuộc sống và những phong tục sinh hoạt văn hóa Hà Nội

Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đều chú trọng miêu tả hoặc gợi

nhắc đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ của người dân Hà Nội. Tất cả đều chứa đựng

không gian các làng nghề, không gian các phố phường mang đậm màu sắc Hà Nội

bởi yếu tố phong tục, những sinh hoạt văn hóa, kiến trúc, ẩm thực, các thú chơi tao

nhã, những buồn vui thế sự, những số phận, những tâm tình của Người Hà Nội.

Không gian cuộc sống muôn màu của Hà Nội đã đi vào trang văn của Nguyễn Ngọc

Tiến với tất cả sự sống động của nó.

Gắn bó với Hà Nội, sống hết mình với nơi chôn rau cắt rốn nên Nguyễn

Ngọc Tiến có cái nhìn sâu sắc, độc đáo về Hà Nội. Chính mảnh đất này đã nuôi

dưỡng tâm hồn nhà văn cùng với cái nhìn độc đáo ấy. Nguyễn Ngọc Tiến đã thể

hiện những cái riêng nhất khi viết về Hà Nội, ông đi sâu vào hầu hết các phương

diện của đời sống một cách cụ thể, tỉ mỉ với lối viết khảo cứu nhẹ nhàng, giản dị,

sâu sắc.

40

2.1.2.1 Nghệ thuật

Với vốn hiểu biết sâu rộng, uyên bác về các lĩnh vực nghệ thuật của mảnh

đất kinh kì ngàn năm, Nguyễn Ngọc Tiến đã cho độc giả thấy rõ được sự hình thành

và tồn tại văn chương, âm nhạc, hội họa, sân khấu,…

Ở mảng văn chương, Nguyễn Ngọc Tiến nhắc nhiều về các tác phẩm viết về Hà

Nội và văn nghệ sĩ thủ đô, nhắc về các giai thoại dân gian, các bài văn vần từng lưu

truyền một thời về Thăng Long – Hà Nội, những câu chuyện của các nghệ sĩ Hà Nội.

Kể bất cứ câu chuyện gì tác giả đều lồng những bài thơ, có khi là thơ ca dân

gian. Khi viết về vẻ đẹp hồ Gươm, Nguyễn Ngọc Tiến liên hệ đến bài thơ của

Nguyễn Văn Siêu:

“Nhất trản trung phì địa

Trường lưu đảo tại thiên

Ngư châu xuân tống khách

Hồi trạo túc hoa thiên”.

Tác giả cũng dẫn bài thơ viết về khung cảnh đẹp như tiên cảnh ở chùa Báo

Ân gần hồ Gươm:

“Phong quang cảnh trí trăm đường

Trong xây chín giếng ngoài tường lục lăng

Rõ mười cử động tưng bừng

Đền vàng cửa ngọc chất từng như nêm.”

Khi nói về thú chơi hoa của Thăng Long , tác giả nhắc đến hai câu thơ của

Nguyễn Trãi. Các thi nhân xưa mượn vạn vật, hoa lá cây cỏ để để giãi bày tâm tư

của mình về nhân tình thế thái:

“Hé cửa đêm chờ hương quế lọt

Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.”

Hay khi nói về thú chơi cây cảnh của người Hà Nội xưa, Nguyễn Ngọc Tiến

cũng đã liên hệ đến câu ca dao:

“Ai chơi ta cũng chơi cùng

Chơi trúc quân tử, chơi tùng trượng phu.”

41

Nói về thú chơi câu đối của người Thăng Long cùng với sự thịnh suy của

Nho học, Nguyễn Ngọc Tiến đã dẫn bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên để thể hiện

nỗi niềm tiếc nuối một nét văn hóa đẹp đẽ một thời giờ đã lụi tàn.

Trong Tiếng rao, món quà âm thanh miễn phí, Nguyễn Ngọc Tiến đã ghi lại

nguyên văn các tiếng rao của người Hà Nội xưa bán các loại hàng hóa như: rượu,

kẹo kéo, mài dao, thuốc chữa bệnh, thuốc lào, thuốc tẩy kim băng… và so sánh với

tiếng rao của người Hà Nội ngày nay.

Bài thơ Điếu đức tụng của Tú Mỡ được tác giả nhắc đến nguyên văn trong

câu chuyện viết về thuốc lào. Chính câu chuyện Từ thuốc lào đến thuốc lá, Nguyễn

Ngọc Tiến nhắc đến bài thơ của Hồ Xuân Hương, Tản Đà cùng các câu dao về bán

thuốc lào của người dân Hà Nội.

Trong Từ Mơ Cơm đến phố Hàng Cơm, Nguyễn Ngọc Tiến nhắc lại câu ca

dao miêu tả dụng cụ nấu ăn của người làng Mơ Cơm xưa là nồi đồng, niêu đất và

sanh:

“Cơm kia em nấu nồi mười

Cá này niêu đất, rau tươi xanh đồng.”

Khi nói về phương tiện giao thông, Nguyễn Ngọc Tiến đã dẫn câu vè về việc

cạnh tranh quyết liệt của xe bus với tàu hỏa:

“Ve vẻ vè ve

Cái vè xe bus

Đút khách đằng đít

Lái xe ngồi đầu

Đi qua ổ trâu

Bươu đầu bẹt đít

Đường băng chạy tít

Một loáng về nhà

Còn hơn ra ga

Chờ anh tàu hỏa.”

42

Nói về tình trạng thiếu thốn thời bao cấp, tác giả cũng đưa dẫn chứng qua bài

vè:

“Nhất gạo nhì rau

Tam dầu tứ muối

Thịt thì đuôi đuối

Cá biển mất mùa

Đậu phụ chua chua

Nước chấm nhạt thếch

Mì chính có đếch

Vải sợi chưa về

Săm lốp thiếu ghê

Cái gì cũng thiếu.”

Khi nói về tình yêu đôi lứa, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã dẫn hai câu trong bài

thơ Chân quê của Nguyễn Bính:

“Hôm qua em đi tỉnh về

Đợi em ở mãi con đê đầu làng.”

Hay câu thơ đẹp mà buồn trong Lời thề cỏ may của Phạm Công Trứ:

“Trăng vàng đêm ấy, bờ đê

Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may.”

Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến chú ý khá nhiều đến các mảng

nghệ thuật dân gian mang đậm tính truyền thống. Tác giả kể nhiều đến ca trù, sẩm.

Nguyễn Ngọc Tiến trú trọng nhiều đến lịch sử phát triển của ca trù ở Thăng

Long – Hà Nội. “Thời Lê, cánh Nho sĩ không chỉ thưởng thức ca trù mà còn là

những người góp phần thúc đẩy nghệ thuật này phát triển trên đất Thăng Long khi

thơ của họ trở thành lời các bài ca. Nguyễn Công Trứ (1778-1907) là người rất say

mê ca trù, ông cũng là tác giả của nhiều bài ca nổi tiếng, song công lao lớn nhất

của Nguyễn Công Trứ là cùng các Nho sĩ nâng lối hát nói lên đến đỉnh cao làm

tăng giá trị nghệ thuật cho ca trù.” [24, tr.117]. Thế kỉ XX, Ca trù trở thành một

thú chơi một thời ở Hà Nội, các giáo phường, gánh hát, các nhà hát cô đầu xuất hiện

43

ngày một nhiều và giới văn nghệ sĩ Hà Nội là những người đam mê ca trù sâu đậm

nhất. Chinh nhà văn Vũ Bằng cũng đã có những câu nói về niềm đam mê ca trù

cũng như các văn nghệ sĩ trong cuốn Ca trù nhìn từ nhiều phía: “Thực tình đến bây

giờ (năm 1973) có moi trí nhớ, tôi cũng chưa thấy nhà văn, nhà báo đất Bắc nào

mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”. “Các văn nghệ sĩ hội họp uống rượu, ngâm

thơ, đánh một khẩu trống để thưởng một câu văn hay, một tiếng đàn khéo bấm, hay

một giọng ca buông bắt thật tài tình. Đôi khi tức cảnh, họ tạo nên một câu mưỡu,

bài hát nói hay những vần thơ bát cú hoặc lục bát thật hay”. Hay ông không ngần

ngại khi gọi phố cô đầu Khâm Thiên là cái nôi văn nghệ Hà Nội” [24, tr.122,123].

Nguyễn Ngọc Tiến trích dẫn thông tin về công trình nghiên cứu của Trần Thị Kim

Anh trong tiểu luận Ca trù Thăng Long – Hà Nội: Những diễn biến trong tiến trình

lịch sử: “Những bài viết sâu sắc với những từ ngữ đẹp đẽ nhất dùng để miêu tả ngợi

ca nghệ thuật ca trù của Phạm Quỳnh, Nguyễn Xuân Khoát, Ngô Linh Ngọc đều bắt

nguồn từ đây. Nhạc của Nguyễn Văn Thương, thơ của vũ Hoàng Chương, Trần

Huyền Trân lấy cảm hứng từ đây. Bản dịch Tương tiến tửu của Đái Đức Tuấn, tác

phẩm Con voi già của cua Hàm Nghi của Lưu Trọng Lư đều bắt đầu viết ở đây

trong những cơn cao hứng. Đặc biệt, Nguyễn Tuân yêu quý và trân trọng ca trù tơi

mức, dường như với ông, ca trù là một ngôi đền linh thiêng để hóa giải những nỗi

đau tục lụy. Ca trù trong ông luôn như một nỗi ám ảnh, và nỗi ám ảnh đó từng

được thể hiện sâu sắc, đau đớn trong Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Chùa Đàn

(1946) – những truyện ngắn đánh dấu một giai đoạn tuyệt diệu trong cuộc đời sáng

tác của ông” [24, tr.123,124]. Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tiến còn kể về cuộc đời

của hai đào nương tài giỏi, xinh đẹp Hải Chi và Yến Nhân, nhắc đến cả ca nương

Quách Thị Hồ là ca nương duy nhất được nhà nước phong tặng Nghệ sĩ nhân dân.

“Một sự kiện làm nức lòng người dân Việt Nam là ngày 30-9 và ngày 1-10-2009,

dân ca quan họ đã được UNESCO vinh danh là văn hóa phi vật thể của nhân loại,

còn ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp” [24, tr.127]

Nghệ thuật dân gian Hà Nội không thể không nhắc đến xẩm, Nguyễn Ngọc

Tiến bằng những nghiên cứu và vốn hiểu biết của mình đã nhắc về xẩm với lịch sử

44

phát triển, những bài xẩm nổi tiếng và thân phận những người hát xẩm: “Có nhiều

nhà nghiên cứu sân khấu cho rằng có thể xẩm ra đời trước khi có hát chèo,là một

trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo.(…) Tuy nhiên đọc các cuốn sách

của các tác giả Pháp viết về Hà Nội và Bắc Kỳ cuối thế kỉ XIX thì có thể xẩm ra đời

cuối thế kỉ XIX, giai đoạn đói nghèo và loạn lạc khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà

Nội lần thứ nhất” [22, tr.274]. “Xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 7 bài đặc trưng là:

Xẩm chợ, Chênh bong, Riềm huê, Ba bậc nhịp bằng, Phồn huê, Hát với ai và Xẩm

thập ân với những làn điệu: Xẩm chợ, Xẩm thập ân, Xẩm tàu điện… Những bài

Riềm huê, Ba bậc, Phông huê… ban đầu chỉ có ở xẩm Hà Nội, sau đó loang ra để

có những điệu xẩm Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên…” [24, tr.182,183]. “Ở cuốn

Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính viết: Hát xẩm gồm tập hợp những người mù

mắt, năm hoặc sáu người học nghề đàn hát, cả đàn ông, đàn bà dắt nhau đến các

nơi thành thị, kiếm chỗ đông người, trải chiếu ngay các nơi vệ đường mà hát. Trong

hát xẩm, người thì đánh trống, gõ phách, người thì kéo nhị, người gẩy đàn bầu, rồi

đồng thanh mà hát, hoặc đi giọng Nam, hoặc đi giọng Bắc, đi theo tiếng nhị, tiếng

đàn, nghe cũng vui tai. Đàn bà, trẻ con, người lớn xúm xít vào xem, có người

thưởng dăm ba đồng kẽm, có người thưởng vài xu.”. Cuốn Lịch sử Âm nhạc dân

gian cổ truyền Việt Nam do Viện Nghiên cứu âm nhạc xuất bản 1996, tác giả

Nguyễn Viêm nhận đinh: “Hát xẩm là một nghề sinh nhai của người mù, nghề ấy

chính là là kế cứu kẻ tàn tật. Ban đầu hát xẩm còn sơ lược, chỉ vận làn xẩm trong

vài câu ca dao đơn giản. Nhưng dần dần do yêu cầu của người nghe, hát xẩm đã

tiến tới trọn một đoạn dài với nội dung hấp dẫn đến vài chục câu, có khi hát cả một

câu chuyện kéo dài đến hết cả một buổi.” [24, tr.181]

Tóm lại, về mặt nghệ thuật, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa ra rất nhiều dẫn chứng

cụ thể của các nhà văn nhà thơ viết về thủ đô với các mặt của đời sống xã hội. Ông

cũng đã khái quát được sự hình thành và phát triển của các bộ môn nghệ thuật dân

gian. Người đọc như có được cái nhìn tổng quát, như được xuôi về với lịch sử nghệ

thuật của dân tộc khi đọc từng trang viết của ông.

45

2.1.2.2 Kiến trúc

Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến nhắc nhiều đến không gian kiến

trúc. Từng phát hiện của Nguyễn Ngọc Tiến về không gian kiến trúc Hà Nội góp

phần làm cho người đọc hiểu rõ phần nào đời sống của người dân Hà Nội. Ông phát

hiện ra nhà ống khu phố cổ, không phải ảnh hưởng từ Nhật Bản mà nguyên nhân

xuất phát từ chính sách thuế của triều Nguyễn. “Chính sách thuế của nhà Nguyễn từ

Gia Long, Minh Mạng cho tới Tự Đức đối với Hà Nội hầu như không thay đổi.

Không căn cứ hiệu buôn to hay nhỏ mà thu thuế theo mặt tiền của cửa hàng, bất kể

chiều sâu là bao nhiêu. Vì thế, chiều ngang càng rộng thuế càng lớn. Kiểu thu thuế

này khiến nhiều gia đình có mặt tiền rộng nhưng làm ăn không được phải è lưng ra

đóng thuế. Thế là các ngôi nhà vốn vuông vức, rộng rãi trước đó bị xẻ nhỏ chia cho

con cái, có nhà thì bán hay cho thuê. Và kiến trúc nhà ống ra đời trong triều đại

nhà Nguyễn” [24, tr.254,255]. Cũng chính về kiến trúc, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã

tìm tòi, phát hiện ra cấu trúc nhà của người Thăng Long: “Ngày xưa, nếp nhà Kẻ

Chợ hình ống, có nghĩa là nhà 3 gian hay 5 gian ở quê được xoay đầu hồi ra mặt

phố. Mặt tiền có thể hẹp nhưng thường rất dài và giữa nếp nhà trên và nhà dưới

bao giờ cũng cách một khoảng sân”. “Ở các vùng ven kinh thành Thăng Long, các

nhà đều có cấu trúc: nhà-hiên-sân-vườn và bao quanh vườn thường là hàng dâm

bụt xanh thẫm, hoa đỏ tươi được xén phẳng. Từ ngõ vào sân hai bên thường trồng

hai hàng tóc tiên, một luống hồng, luống huệ, mấy khóm nhài. Bên chum nước là

cây lan tiêu hay dạ hợp lan ưa ẩm. Trước hiên là bụi sói, một cây tầm xuân nở ra

cánh biếc” [22, tr.72,73].

Kể về một công trình kiến trúc đẹp của Hà Nội trong “Từ Tương lai Bắc Kỳ”

đến “Hà Nội mới”, Nguyễn Ngọc Tiến giới thiệu: “Ngôi nhà số 44 Lê Thái Tổ hiện

là trụ sở báo Hà Nội mới. Một vị trí quá đẹp, trông sang tháp Rùa, mặt nước ẩn

hiện sau tầng cây. Kiến trúc đẹp, những đường lượn, sọc ngang làm tòa nhà khá

cao bớt cứng. (…) Phong cách kết hợp mái dốc bên trên giống nhà cổ miền Bắc

nước Pháp, hai bên đổ mái bằng là kiểu Địa Trung Hải. (…) Tòa nhà có ba tầng

chính và tầng phụ áp mái để chống nóng… Kiến trúc sư đã thiết kế một cửa sổ hình

46

tròn trên tầng áp mái, từ ô cửa này có thể bao quát toàn cảnh hồ Gươm. Mặt tiền

cũng như tường hậu có nhiều đường nét uyển chuyển làm toàn nhà mềm mại trước

hồ Gươm lung linh…” [22, tr.140, 141].

Đối lập với một kiến trúc đẹp cạnh hồ Gươm, thì tác giả cũng đã chỉ ra một

kiến trúc làm phá vỡ vẻ đẹp quang cảnh hồ Gươm trong bài viết Hàm cá mập:

“Hàm cá mập là tên báo giới đặt tên cho tòa nhà đầu phố Đinh Tiên Hoàng và cuối

số lẻ phố Cầu Gỗ vì nó có hình dáng giống như hàm loại cá này. Vị trí của Hàm cá

mập trước đó là một tầng hình tròn trông ra quảng trường Đông kinh nghĩa thục, vì

hình tròn nên người dân gọi là Nhà Tròn. Nó từng là nhà điều hành các chuyến tàu

của Công ty xe điện thời Pháp thuộc. Năm 1996, trong không khí cả nước ào ào xây

dựng, người ta phá Nhà Tròn để xây nhà cao tầng làm trung tâm thương mại. Việc

xây quá cao như một bức tường lớn ngăn cách khu phố cổ với hồ Gươm, biến nó

thành cái ao cách biệt và phá vỡ kiến trúc phong cảnh đã gây tấm tức cho giới kiến

trúc” [22, tr.244].

Trong bài viết Biệt thự và thân phận, Nguyễn Ngọc Tiến đã kể về quá trình

thay đổi về kiến trúc của 36 phố phường Hà Nội một cách chi tiết, tỉ mỉ như một

kiến trúc sư, một kỹ sư xây dựng thực thụ: “Khi Hà Nội chính thức là thành phố

nhượng địa thì chính quyền bảo hộ đã quyết xây dựng Hà Nội trên nền cũ (…). Thời

kì này, trong khu vực “36 phố phường” nhà lá vẫn chiếm đa số, nhà xây rất ít và

chủ yếu là các phố Hoa kiều gồm: Mã Mây, Lãn Ông, Hàng Ngang… Các con phố

bắt đầu bằng chứ Hàng cong queo, dân buôn bày hàng lấn ra đường, phên cốt che

mưa nắng khiến ngựa của đám nha huyện Thọ Xương không đi được. Hai bên phố

không có rãnh thoát nước trời mưa bùn lấy đến đầu gối, nhà vệ sinh rất sơ sài. (…)

Bên cạnh những tòa nhà công vụ phía đông hồ Gươm như: đốc lý, bưu điện, kho

bạc ngân hàng thì những biệt thự đầu tiên đã mọc lên. (…) Biệt thự là những ngôi

nhà hai tầng nằm giữa lô đất vuông vắn với khuôn viên trồng cây và đường dạo

quanh nhà. (…) Để hạn chế nhà ống và buộc chủ đất phải xây biệt thự, tháng 7-

1921, một ủy ban bao gồm các bác sĩ và quan chức tòa thị chính đã thông qua một

văn bản quy định xây nhà trong khu phố mới phải có các phòng và khối tích từ

47

100m³ trở lên, chỉ tiêu là 25m³ một người, có sân vườn với diện tích tối thiểu là

50m². Nhà phải xây cách hàng rào với nhà bên ít nhất 2 mét.Một năm sau, tòa thị

chính ra tiếp văn bản cấm xây nhà ống trên 22 tuyến phố, nơi chỉ được phép xây

nhà kiểu phương Tây.” [21, tr.9-14]

Nguyễn Ngọc Tiến không chỉ nói về những kiến trúc lớn như biệt thự, phố

cổ, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, nhà hát lớn, Cầu Long Biên vừa dài vừa rộng, Từ

đình Tự Tháp đến khách sạn Aprocol, Vườn hoa và công viên, Bancông Juliet và

thuế Bancông, Vỉa hè có từ bao giờ?, Tượng đài, Từ chùa Báo Ân đến bưu điện,

Khách sạn “Đờ La Hiên” Bờ Hồ, Đền bà Kiệu, Tượng nữ thần tự do trên đỉnh Tháp

Rùa,… mà ông còn nói đến những kiến trúc giản dị, đời thường như nhà vệ sinh

công cộng đầu tiên, hố xí tự hoại đầu tiên ở Hà Nội…

Kiến trúc trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến được đề cập khá nhiều với nội

dung chi tiết, tỉ mỉ. Ông như là một người kiến trúc sư nghiên cứu một mảng kiến

trúc rộng lớn của Hà Nội từ thời phong kiến đến hiện nay, giúp người đọc có được

cái nhìn bao quát về kiến trúc Thăng Long-Hà Nội qua từng thời kì để thêm yêu

thành phố này hơn.

2.1.2.3 Ẩm thực

Ẩm thực là một đề tài được rất nhiều nhà văn đề cập đến khi nói về phẩm

chất thanh lịch của người Hà Nội. Bởi vì văn hóa ẩm thực của người Hà Nội vô

cùng đặc biệt. Với Nguyễn Ngọc Tiến, ông đã dành khá nhiều trang viết về những

món ngon của mảnh đất kinh kỳ này như: Mơ Cơm, rượu Thụy Chương, cà phê,

kem bờ hồ, bia hơi, cầy tơ 7 món Hà Thành, rau muống-quốc rau, một thời ăn tương

ăn mắm ở Hà Nội…

Trong bài viết Từ Mơ Cơm đến phố Hàng Cơm, tác giả đã khái quát ẩm thực

Hà Nội qua các tên gọi của hàng phố xưa: “Phía nam kinh thành Thăng Long (bao

gồm Bạch Mai, Mai Động, Hoàng Mai, Tương Mai ngày nay) là vùng trồng mơ nên

người ta gọi là kẻ mơ và mỗi làng trong Kẻ Mơ có một nghề riêng…”. Hoàng Mai

chuyên nấu rượu nên có tên Nôm là Mơ Rượu, rượu ở đây nổi tiếng không chỉ

Thăng Long mà lan ra khắp thiên hạ nên có câu “Rượu làng Mơ, thơ làng Lủ”hay

48

“Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch”. Mai Động có nghề làm đậu phụ nên gọi là Mơ

Đậu, Bạch Mai có nghề bán thịt nên gọi là Mơ Thịt còn Tương Mai bán xôi lúa và

bán cơm nhưng thiên hạ không gọi là Mơ Xôi mà gọi là Mơ Cơm”. [23, tr.12-13].

Tiếp đó, Nguyễn Ngọc Tiến còn nói đến tên các loại cơm qua các thời kì khác nhau

như cơm đầu ghế, cơm bụi, cơm mậu dịch để độc giả có cái nhìn khái quát nhất về

món ăn không thể thiếu hàng ngày trong mâm cơm của người Việt.

Phở là một món ăn đặc biệt của ẩm thực Hà Nội vì chỉ phở ở Hà Nội mới

ngon. Phở Hà Nội với hương vị độc đáo không có một nơi nào có được đã in sâu

vào tiềm thức con người và mặc định nó là món ăn ngon đặc sắc nhất của Hà Nội.

Muốn ăn phở phải đến Hà Nội. Và với Nguyễn Ngọc Tiến ông cũng dành tình yêu

sâu sắc với phở trong bài viết Phở “có người lái” và phở “không người lái” và Phở

Thìn Bờ Hồ. Ông đã vô cùng tự hào khi viết về món ăn nổi tiếng này: “Cuối tháng

7-2011, Phở và Gỏi cuốn của Việt Nam lọt vào 50 món ăn ngon nhất thế giới do

Kênh truyền hình CNN bình chọn. Trước đó, ngày 20-9-2007, Shorter Oxford

English Dictionary (Từ điển tiếng Anh giản lược Oxford) đã đưa từ phở vào. Phở

Việt Nam đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới và trở thành món ăn ưa thích của

nhiều người” [24, tr.165]. Trong bài viết Phở Thìn Bờ Hồ, Nguyễn Ngọc Tiến nói

về nguyên liệu làm nên món phở đặc trưng Hà Nội phải có sự hòa quện đầy đủ

hương vị rừng, biển, nước ngọt và đồng bằng: “ Cũng như nhiều quán khác ở Hà

Nội lúc bấy giờ, nước dùng phải được hầm từ xương bò lẫn xương lợn, phải có sản

vật của rừng là quế, hồi, phái có sản vật nước ngọt là tôm nõn, cá quả nướng, sản

vật biển Đông là sá sùng và sản phẩm đồng bằng là hành khô nướng, hành lá cắt

ngắn. Từng thứ ấy mới ra mùi phở Hà Nội” [22, tr.326]. Tác giả còn nhắc đến các

tác phẩm văn chương của các nhà văn nổi tiếng viết về phở như: Tú Xương, Tản

Đà, Nguyễn Tuân, Thạch Lam… Từ nhiều nguồn tài liệu để tìm ra nguồn gốc của

phở, lý giải các tên gọi, trích dẫn các câu văn hay về phở, liệt kê hàng loạt tên gọi

về phở … thể hiện một cái nhìn khái quát, một sự dày công tìm tòi của Nguyễn

Ngọc Tiến về món ăn luôn luôn hấp dẫn được du khách khi đến với Hà Nội.

49

Khi nói về ẩm thực Hà Nội thì không thể không kể đến kem. Trong câu

chuyện Kem “sờ” và kem “mút” Bờ Hồ, Nguyễn Ngọc Tiến đã khái quát về lịch sử

du nhập và sự phát triển của kem ở Việt Nam. “Một thời, kem là tiêu chuẩn cho

người quê ra Hà Nội, đi đâu làm gì không biết nhưng phải kể chuyện “ăn kem, xem

tàu điện”, không kể được chả ai tin đã ra Hà Nội” [24, tr.114]. Đặc biệt, cho đến

ngày nay, kem Tràng Tiền vẫn thu hút được rất nhiều thực khách khi đến Hà Nội

cùng với những hình ảnh xếp hàng chỉ đợi mua một vài que kem.

Ẩm thực Hà Nội nếu như không nhắc đến cà phê thì quả là một thiếu sót. Cà

phê Hà Nội khá đặc biệt vì mỗi quán đều có một hương vị riêng mà các quán khác

không có được: “Cà phê Nhân đậm đà, cà phê Lâm qua cổ họng trồi lên vị đắng

nguyên chất, cà phê Giảng có món cà phê trứng “tam vị, nhị mùi”, cà phê Hói uống

có vị hậu. Người ta truyền tai nhau cà phê Nhĩ còn cho tí nước mắm để cà phê dậy

mùi” [23, tr.221]. Món cà phê trứng của Nguyễn Văn Giảng sáng chế ra đã góp

thêm một thức uống thơm ngon bổ dưỡng cho người Hà Nội và góp thêm cho thế

giới một thức uống từ cà phê vô cùng độc đáo mà ai ai khi thử một lần cũng nhớ

nhung mà muốn thưởng thức những lần sau nữa.

Qua đây có thể thấy Nguyễn Ngọc Tiến đã làm mới đề tài ẩm thực trong văn

chương bằng những nét riêng độc đáo, giản dị qua những tìm tòi và trải nghiệm của

riêng mình.

2.1.2.4 Thời trang

Yếm là một Trong chuyện “Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh”, Nguyễn

Ngọc Tiến đã kể đến chuyện cái yếm của phụ nữ Việt Nam và Thăng Long xưa hết

sức sinh động: “Yếm ra đời từ thời Lý. Yếm của phụ nữ Việt Nam thực ra là chiếc

áo lót như quan niệm của người phương Tây, trước hở lưng, sau che kín đến cổ.

(…) Mùa hè, xứ Đàng Ngoài nóng bức, các cô chỉ mặc độc chiếc yếm tung tăng

khắp làng khắp xóm. Mùa đông, gió đông bắc thổi lạnh cắt da cắt thị thì cái yếm ở

bên trong với nghĩa là chiếc áo lót hiền lành” [24, tr.289]. Từ cái yếm của người

Việt, Nguyễn Ngọc Tiến đã giới thiệu cụ thể cái yếm của người Thăng Long: “Nếu

cái yếm ở miền quê Bắc Bộ chỉ may bằng vải thô nhuộm nâu hay bằng đũi thì ở

50

Thăng Long, yếm là đồ trang điểm cho phụ nữ và càng hấp dẫn hơn khi yếm được

may bằng lụa với hình dạng khác nhau: cổ tròn, cổ chữ V… Từ màu nâu ở thôn quê

ra Thăng Long lại là màu trắng, màu xanh lơ, hoa hiên và màu hoa đào phơn phớt.

Song khác với phụ nữ ở vùng quê hồn nhiên mặc yếm ra đường mà không ai chê

trách thì phụ nữ, nhất là phụ nữ chưa chồng, ở Thăng Long không bao giờ dám mặc

mỗi chiếc yếm nghênh ngang phố thị. Như vậy bị cho là không có người dạy” [24,

tr.290]. Chính những chiếc yếm xanh, yếm đào đã cùng với nón có quai tua, chân đi

guốc trở thành mốt của con gái nhà khá giả cuối thế kỉ XIX. Chiếc yếm cũng đã đi

vào văn học dân gian, thơ ca, nhạc họa của các văn nghệ sĩ như Nguyễn Bính,

Nguyễn Nhược Pháp… Ngày nay, yếm xưa không còn được sử dụng mà nó đã được

cải biến: “Đến đầu những năm 1950,thì không còn mấy phụ nữ mặc yếm trừ những

người có tuổi. Thay thế chiếc yếm là chiếc áo lót kiểu phương Tây được nhập vào

Việt Nam, Bây giờ chiếc Yếm xưa lại sống lại. Tuy nhiên nó được cải tiến, không

may bằng lụa mà may bằng vải thô mỏng, cổ khoét sâu hơn cốt để khoe bộ ngực.

Quần bò và áo yếm một giai đoạn cũng là mốt của thanh nữ Hà Thành” [24,

tr.293].

Cùng với yếm, Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể về câu chuyện áo tứ thân, áo the,

quần lĩnh, sự cải biến, thay đổi của quần áo qua các thời kì của Việt Nam nói chung

và Hà Nội nói riêng qua chuyện Từ quần áo ta đến quần áo tây. Tác giả cũng nói về

lịch sử phát triển cải biến qua các thời kì của áo dài Việt Nam. Thể hiện sự hiểu biết

sâu rộng, sự tìm tòi khoa học của nhà văn mang đến cho người đọc cái nhìn khái

quát của chiếc áo dài truyền thống có những nét đẹp riêng qua từng giai đoạn thay

đổi.

Khi nói về phong cách ăn mặc, đầu tóc đầu thế kỉ XX, Nguyễn Ngọc Tiến đã

kể ở câu chuyện Răng đen, răng trắng và răng… Tetracycline. Tác giả đã khái quát

về tục nhuộm răng bắt nguồn từ huyền thoại về một ông vua, chồng của một nữ

thần biển đến tục nhuộm răng của người Việt xưa. Tục nhuộm răng và răng đen của

người phụ nữ được ca ngợi và tôn vinh như một nét đẹp cũng đã vào văn chương.

Tục nhuộm răng đến bây giờ đã không còn, có lẽ từ mục tiêu của phong trào Đông

51

Kinh nghĩa thục: “Hưởng ứng mục tiêu của Đông Kinh nghĩ thục, nhiều đàn ông

Hà Nội đã cắt bỏ búi tóc, đàn bà thì cạo răng đen thành răng trắng. (…) cạo răng

thực sự là một cuộc cách mạng chống lại truyền thống” [23, tr.68-69]. “Từ những

năm 1920-1930 trong khi ở ngoại thành Hà Nội vẫn duy trì tục nhuộm răng đen thì

ở nội thành, số người nhuộm răng ngày càng giảm. Con cái nhà giàu, người làm sở

Tây, thanh niên đi du học không ai còn để răng đen” [23, tr.72]. Sau năm 1954 đã

không còn ai nhuộm răng nên khu vực nội thành không còn nghề nhuộm răng.

Về vấn đề “mặc” không thể không nhắc đến câu chuyện Cái váy đàn bà. Ở

câu chuyện này Nguyễn Ngọc Tiến đã kể nhiều câu chuyện, dẫn ra các dẫn chứng

thơ văn thú vị xung quanh lịch sử thăng trầm của nó: “Váy là trang phục truyền

thống của phụ nữ Việt Nam. (…) Người sang ở Thăng Long-Hà Nội mặc váy lĩnh

đen hay màu tam giang, bậc trung thì mặc màu đen, dân lao động mặc màu tham.

Váy lĩnh cạp điều, nhưng phải là lĩnh dệt làng Bưởi, mặc vơi áo the được cho là

nhã nhặn nhất, đó là mơ ước của nhiều chị em” [23, tr.285].

Trong chuyện “Làm duyên làm dáng”, Nguyễn Ngọc Tiến đã kể khái quát

về các thời trang đi kèm để làm đẹp thêm phong cách của người Thăng Long-Hà

Nội như nón lá, giày dép, làm móng, nhuộm móng, làm các kiểu tóc, trang điểm …

Không chỉ quan tâm về vấn đề mặc của người Thăng Long-Hà Nội mà

Nguyễn Ngọc Tiến còn quan tâm đến các người mẫu thời trang Hà Nội xưa như cô

Bích Ngọc, cô Song Khê, cô Mộng Lê, Ái Liên, Lý Lệ Hà, …

Trong vấn đề thời trang, Nguyễn Ngọc Tiến đã đem đến trước mắt người đọc

một không gian rộng lớn về thời trang của người Hà Nội qua từng thời kỳ một cách

tỉ mỉ, sâu sắc, thấu đáo bằng giọng văn giản dị, nhẹ nhàng.

2.1.2.5 Giao thông

Không gian giao thông được nhắc đến khá nhiều và chi tiết trong tạp văn

Nguyễn Ngọc Tiến. Những câu chuyện xoay quanh các phương tiện xe đạp, ô tô, xe

bus, tàu điện, xe máy… được tác giả kể một cách rất tỉ mỉ, chi tiết giúp cho người

đọc có một điểm nhìn rất khái quát về các phương tiện đi lại tại Hà Nội từ trước đến

nay.

52

Trong Xe bus, Nguyễn Ngọc Tiến đã nhắc về việc xuất hiện của xe bus và

việc mở rộng các tuyến đường để phục vụ việc đi lại của người dân Hà Nội: “Sau

đại chiến thế giới lần thứ I, vào khoảng năm 1919-1920, 4 chiếc xe bus hiệu GM

của Mỹ lần đầu tiên xuất hiện tại Hà Nội. xe có hai hàng ghế băng sát vào thành

chở được khoảng 20 khách. Nơi đón trả khách là bến Cột đồng hồ ngay gần cầu

Long Biên, gọi là bến nhưng sơ sài, có gian nhà nhỏ làm nơi điều hành, sân bến rải

đá dăm. (…) Cầu Long Biên khi đó còn hẹp chưa mở rộng thêm hai bên nên 4 chiếc

xe này chở khách đi Hưng Yên không thể qua cầu, phải đi qua phà. Năm 1923, việc

mở rộng đường hai bên hoàn thành nên xe không phải đi qua Phà Đen nữa” [23,

tr.29] Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể nhiều chuyện buồn vui xoay quanh những tuyến

xe bus, trên những chuyến xe như điểm bán xăng, số lượng xe, lượt xe qua cầu

Long Biên, các loại khách chủ yếu, câu chuyện tình yêu trên chuyến xe bus … Hiện

nay, trên các tuyến đường Hà Nội, xe bus vẫn ngày ngày hoạt động để đưa đón mọi

người, chủ yếu là sinh viên các trường Đại học. Xe bus bây giờ được gọi là “hung

thần đường phố” vì nó gây ra khá nhiều vụ tai nạn thương tâm và là nỗi sợ hãi của

người dân Hà Nội.

Sự xuất hiện của tàu điện cùng sự ra đời của nhà máy điện Bờ Hồ cùng với

các tuyến tàu điện ở Hà Nội đã được Nguyễn Ngọc Tiến kể khá chi tiết trong câu

chuyện “Từ xe ngựa công cộng đến tàu điện”: “Nhà máy xe điện đầu tiên ra đời

vào tháng 5-1890, trụ sở đặt ở đầu làng Thụy Khuê do Công ty Điền địa Đông

Dương thành lập. (…) Từ bến chính Bờ Hồ, tàu điện tỏa đi 6 hướng (Hà Đông, Cầu

Giấy, Mơ, Vọng, Bưởi và Yên Phụ). Tàu điện là nơi kiếm sống của những người ăn

xin, hát xẩm… và cũng chính tàu điện là nguồn cảm hứng sáng tác cho rất nhiều

nghệ sĩ. Ngày nay, tàu điện không còn nữa nhưng không gian tàu điện cùng tiếng

chuông tàu điện leng keng có lẽ cũng đã in sâu vào tiềm thức của rất nhiều người

dân Hà Nội.

Về vấn đề các phương tiện giao thông, không thể không kể đến xe đạp, ô tô,

xe máy. Câu chuyện về 3 phương tiện giao thông này đã được Nguyễn Ngọc Tiến tỉ

mỉ kể, người đọc lật giở từng trang sách như được sống trong chính thời điểm của

53

những phương tiện giao thông xuất hiện, các hãng xe, các câu chuyện xoay quanh

các loại xe… Chính đọc giả có lẽ cũng bất ngờ về sự hiểu biết sâu rộng về các

phương tiện giao thông của Nguyễn Ngọc Tiến, ông như một người nghiên cứu về

phương tiện giao thông nên mới có thể viết ra đầy đủ và chi tiết như thế.

Nguyễn Ngọc Tiến kể về bốt công an điều khiển giao thông đầu tiên và

những câu chuyện thú vị xoay quanh nó trong Từ kios hoa đếm bốt giao thông:

“Đến năm 1976, kios hoa bị dỡ bỏ, thay vào đó là bốt công an điều khiển giao

thông. Trong bốt có hệ thống điều khiển thủ công, công an ngồi trong bật công tắc

đèn xanh, đèn đỏ” [22, tr.75].

Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tiến, người có thể hình dung được không

gian âm thanh của xe bus, xe điện, xe máy, tiếng chuông tàu điện leng keng hòa

cùng với những tiếng rao bán hàng rong, tiếng hát xẩm ai oán, ỉ ôi kể về thân phận

con người đã một thời là nét đẹp văn hóa Hà Nội.

2.1.2.6 Đời sống tâm linh

Trong bài viết Bốn con yêu Long Thành và ma Hàng Trống, Nguyễn Ngọc

Tiến đã kể chuyện ma ám, ma trêu và để cho người đọc thấy được tục thờ cúng của

người Hà Nội xưa: “Ở góc nhà Sauvage có cây si già um tùm lá và rễ, dân phố đồn

có ma nên đem tối không ai dám đi qua. Chuyện là có cô gái trong thôn ra sông

giặt giũ lúc xâm xẩm, khi lên bờ bị ma trêu chọc, sợ quá cô bỏ chạy, quần áo rơi

xuống đất nhưng không dám quay lại nhặt. Sáng hôm sau ra tìm thấy quần áo

không lấm đất được treo lên cây si đàng hoàng. Thấy vậy người trong thôn đã lấy

một chiếc bình vôi cũ mang treo lên góc cây và từ đó ngày rằm, mùng một ra thắp

hương.(…) Dân chúng quanh vùng và nhiều nơi đến thắp hương cúng bái, từ đó ma

không ghẹo ai nữa” [23, tr.22].

Thăng Long-Hà Nội là nơi tập trung nhiều đền chùa, đạo quán, lễ hội. Chính

vì thế, người dân nơi đây có tục thờ cúng từ lâu đời, văn hóa uống nước nhớ nguồn

đời đời được bảo tồn và phát huy. Các vị thánh thần ân đức, các bậc anh hùng vì

dân vì nước đều được thờ phụng ở các chùa, đền, quán, miếu… Đây là những nét

nổi bật trong đời sống tâm linh của người dân đất kinh kỳ. Hồ Gươm cùng thuyết

54

thần kim quy giúp Lê Lợi đánh giặc và câu chuyện vua Lê trả lại gươm báu cho

thần đã mang đến thông điệp về khát vọng hòa bình cùng bài học mượn thì phải trả

đã in sâu vào tâm thức các thế hệ người Việt Nam.

Nguyễn Ngọc Tiến đã khắc họa rõ nét không gian đời sống tinh thần của

người Hà Nội từ truyền thống đến hiện đại, vừa chân thực vừa lãng mạn. Đó là văn

hóa dân tộc ngàn đời mà người dân các thế hệ xây dựng, bảo tồn và phát huy.

Nguyễn Ngọc Tiến đã nhìn nhận đời sống tâm linh của người Hà Nội dưới góc nhìn

của một con người hiện đại để có thể giúp người đọc có những phát hiện và cái nhìn

sâu sắc nhất về một phần đời sống của người Hà Nội xưa và nay.

Qua bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã đào sâu mọi ngóc ngách của

không gian đời sống lịch sử Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể thấy thấy được sự

hiểu biết sâu sắc của ông về Thăng Long-Hà Nội, về người dân qua những cái đẹp

thực tại đời thường, bình dị, đồng thời ông cũng thể hiện tình cảm mến yêu sâu sắc

với người dân và mảnh đất này.

2.2 Thời gian từ góc nhìn văn hóa

2.2.1 Thời gian sự kiện trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến

Thời gian sự kiện là chuỗi liên tục các sự kiện trong quan hệ trước sau, nhân

quả. Thời gian sự kiện có thể được tính theo độ dài thời gian nó diễn ra.

Trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến thời gian sự kiện là những sự kiện của cả

triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, thời Pháp thuộc đến cả ngày nay, là những sự kiện

xuyên suốt cả một chiều dài lịch sử Hà Nội hình thành và phát triển cho tận đến

ngày nay. Nguyễn Ngọc Tiến luôn luôn đưa người đọc ngược dòng về thời gian quá

khứ rồi quay về đến hiện tại để có được cái nhìn sâu sắc về các sự kiện diễn ra qua

từng thời kì của những sự việc, những con người mà ông kể.

Trong “Từ chùa Báo Ân đến Bưu điện” người đọc nhận thấy thời gian xây

dựng Bưu điện đầu tiên ở Hà Nội trải qua một thời gian dài. Tác giả còn đưa người

đọc ngược về quá khứ để biết được phương tiện truyền thông tin của thời phong

kiến là cờ, đèn, kèn, trống, ngựa, chim câu… đến quá trình Bưu điện được khởi

55

công xây dựng đến khi hoàn thành và những sự kiện xoay quanh nó cùng với câu

chuyện về người trông coi đồng hồ tại nơi này.

Chơi hòa đào ngày Tết là thú chơi tao nhã của người Việt cũng như của

Thăng Long-Hà Nội. Đào Nhật Tân đẹp nổi tiếng khắp đất nước và khi xuân về,

người Hà Nội luôn muốn trong nhà có một cành đào Nhật Tân. Trong “Đào Nhật

Tân có từ bao giờ?”, Nguyễn Ngọc Tiến đã chỉ ra thời gian đào xuất hiện ở Nhật

Tân là vào thời gian Bắc thuộc: “Quan và quân nhà Đường ở đây không biết giờ

được về quê và để bớt nỗi nhớ, đồng thời tính được thời gian ở Giao Chỉ, viên qua

đứng đầu phủ trị sai quân lên rừng Hoàng Liên Sơn đốn đào mang về trồng. Khi

hoa nở họ biết Tết sắp đến, và cộng các mùa hoa lại, họ biết đã ở đất Giao Chỉ bao

nhiêu năm” [23, tr.83]. Dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng cho đến nay Nhật Tân

vẫn là đất đào nổi tiếng không nơi nào sánh được trên mảnh đất kinh kì ngàn năm

văn hiến.

Nguyễn Ngọc Tiến đã kể về quá trình hình thành những biệt thự cùng với

quá trình đô thị hóa ở Hà Nội qua các giai đoạn cùng những câu chuyện thú vị xoay

quanh kiến trúc độc đáo này khá tỉ mỉ và chi tiết trong Biệt thự và thân phận: “Năm

1885, phía đông hồ Gươm vẫn còn hai hồ khá lớn và nó được san phẳng nhanh

chóng vì chính quyền phá bỏ con đê (nay là phố Nguyễn Hữu Huân) lấp đất lấp hồ

để xây biệt thự cho các quan chức cấp cao chính phủ. (…) Nhiều biệt thự nhất là

phố Lê Phụng Hiểu, Ngô Quyền, Trần Nguyên Hãn, Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tông

hiện nay. (…) Tính đến 1954, Hà Nội có 355 phố , phường, đại lộ, trong đó có cả

những con phố mới đánh số chưa có tên. Trừ khu vực phố cổ chặt chội không có

biệt thự, còn lại hầu như phố nào cũng có. Gia đình sống trong biệt thự là tầng lớp

trên trong xã hội, họ muốn riêng biệt tương đối với xung quanh, không muốn ai

làm phiền và cũng không làm phiền ai” [21, tr.10-14]. Cho đến nay, biệt thự vẫn là

kiểu kiến trúc được đại đa số các đại gia xây dựng và sử dụng.

Cầu Long Biên là một biểu tượng của Hà Nội. Nơi này đã chứng kiến biết

bao sự kiện lịch sử thằng trầm của mảnh đất này. Trong bài viết Cầu Long Biên vừa

dài vừa rộng, Nguyễn Ngọc Tiến đã khái quát thời gian xây dựng cầu đã trải qua

56

muôn vàn khó khăn gian khổ: “Nhận chức Toàn quyền Đông Dương rồi sang Hà

Nội cuối 1896, Paul Doumer là nhà cai trị độc tài theo đuổi chủ trương biến chế độ

bảo hộ thành chế độ trực trị, xóa bỏ chủ quyền, thống nhất An Nam. (…) Và

Doumer đã công bố kế hoạch xây dựng cầu Long Biên bắc qua sông Hồng với đầu

cầu bên nội là bến đò chùa Móc, đầu bên kia là bến đò Ái Mộ. Ông cho khảo sát địa

chất, đồng thời công bố cuộc thi thiết kế. (…) Khởi công ngày 17-9-1898 nhưng đến

ngày 3-2-1909, nghĩa là chỉ hơn 3 năm cầu đã hợp long và ngày 28-2-1909 lễ

khánh thành được tổ chức trọng thể. (…) Cầu có tên toàn quyền Paul Doumer

nhưng năm 1945, thị trưởng Hà Nội Trần Văn Lai đổi tên thành Long Biên với ý

nghĩa nó nằm trên đất Long Biên xưa” [21, tr.163]. Trải qua thời gian dài của lịch

sử từ lúc xây dựng đến nay hơn một thế kỷ cầu Long Biên đã trải qua chiến tranh

gian khổ cùng người dân Hà Nội, là đầu mối giao thông quan trọng giúp phần thắng

lợi của mặt trận thủ đô và toàn đất nước vẫn sừng sững hiên ngang đứng trong lòng

Hà Nội với những kỉ niệm thân thuộc, gần gũi và điều không thể thiếu trong lòng

đất mà người Hà Nội.

Trong Cà phê Hà Nội, tác giả đã giúp người đọc nhận biết được hoàn cảnh

cà phê du nhập vào Việt Nam, cây cà phê được đưa vào trồng tại Việt Nam ra sao:

“Cùng với vũ khí và lòng tham khi xâm chiếm thuộc địa, lính Pháp còn mang theo

cả cà phê trong cuộc tấn công Đà Nẵng năm 1858. (…) Năm 1870, một số nhà tư

bản bắt đầu đưa cây cà phê vào trồng trên vùng đất bazan ở Tây Nguyên… Năm

1886, một công ty Pháp đã trồng cà phê ở đồn điền của họ trên đất Ninh Bình, sau

là Nghệ An, hai vùng đất này hợp với cây cà phê. [24, tr.218-219]. Cà phê cũng trở

thành một phần không thể thiếu của một bộ phận người dân Hà Nội qua các thời kì.

Các quán cà phê Hà Nội đều có các hương vị riêng, không gian riêng cùng những

câu chuyên thú vị xoay quanh nó thể hiện những nét riêng chỉ có ở cà phê Hà Nội.

Các phương tiện giao thông không thể thiếu trong cuộc sống, trong những

câu chuyện Xe đạp ơi!,Từ xe điện công cộng đến tàu điện, Ô tô biểu tượng quyền

lực, Xe máy, Xe bus, Nguyễn Ngọc Tiến đã như một nhà nghiên cứu về các loại xe

khi đưa các khoảng thời gian mà các loại phương tiện được đưa vào Hà Nội, thời

57

gian quá trình sử dụng ra sao, ngày nay các phương tiện như thế nào. Các khoảng

thời gian vô cùng cụ thể, chi tiết giúp người đọc có thể thấy được các quá trình phát

triển qua các thời kì của các phương tiện giao thông tại Hà Nội.

Trong bốn cuốn tạp văn, mỗi cuốn là những câu chuyện lớn nhỏ xoay quanh

mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến. Ở tất cả chuyện mà Nguyễn Ngọc Tiến kể thì

đều đưa những sự kiện cụ thể về các quá trình hình thành, phát triển và tồn tại của

các đối tượng hay các câu chuyện xoay quanh đối tượng một cách tỉ mỉ, rõ nét nhất.

Bằng những dày công tìm tòi nghiên cứu cùng kiến thúc sâu rộng và trải nghiệm

phong phú, Nguyễn Ngọc Tiến đã giúp độc giả dường như không bị mông lung

trước những khoảng thời gian dài và rộng mà ông đưa ra trong các chuyện dù là

khoảng thời gian kéo dài từ thời phong kiến cho đến ngày nay.

2.2.2 Thời gian sinh hoạt trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến

Thời gian sinh hoạt là thời gian con người thực hiện các hoạt động sống: thời

gian ngủ, thời gian ăn, dạo chơi, đàm đạo làm việc… Đi sâu vào thời gian này

người ta hiểu được trạng thái sống và tồn tại của con người.

Trong chuyện Hiệu ảnh Quốc Tế, Nguyễn Ngọc Tiến đã kể lại sự kiện ra đời

của hiệu ảnh đầu tiên do người Việt làm chủ: “Ngược dòng thời gian, ngày 14-3-

1869, một sự kiện gây xôn xao không chỉ ở Bắc Kỳ mà cả ba miền đó là việc ra đời

hiệu ảnh đầu tiên do người Việt Nam làm chủ của ông Đặng Huy Trứ ở phố Thanh

Hà. Trước đó, năm 1866, nhân dịp sang Trung Quốc, ông chụp hai tấm ảnh ở

Hương Cảng, những tấm ảnh này làm ông mất ngủ nhiều đêm và ông đã hỏi rất kỹ

cách chụp, in tráng vì ông có ý định mở hiệu. Năm 1867, Đặng Huy Trứ lại được

nhà Nguyễn cử đi công cán Trung Quốc, lần này ông nhờ thợ ảnh ở Quảng Đông

mua hộ máy và vật tư. Về Hà Nội ông bỏ việc quan thuê nhà ở phố Thanh Hà mở

hiệu” [22, tr.99].

Trong Một đời tình câm lặng, Nguyễn Ngọc Tiến chú ý khai thác cuộc đời,

cuộc sống, câu chuyện tình yêu ngang trái và công việc thầm lặng của một bà cụ Sót

bán những con búp bê ở Hà Nội: “Năm 1988-1999 ở ngã ba phố Bảo khánh-Lê

Thái Tổ có một bà già gầy gò, tóc bạc hàng ngày lặng lẽ ngồi bán các con búp bê

58

do chính tay bà làm ra. Nỗi buồn và nỗi đau khổ lộ rõ trên da mạt nhăn nheo. Bà tự

cắt gọt những miếng xốp người ta bỏ đi thành những cô bé, cậu bé hay các ông già,

bà già. Rồi lấy bút bi vẽ mắt vẽ mũi , sau đó khâu những mảnh vải xin được ở các

hiệu may thành quần, thành áo cho chúng” [22, tr.210]. Cuộc tình lãng mạn, thầm

lặng của bà suốt cả một đời bà luôn kiếm tìm trong niềm hy vọng có thể tìm được

người yêu sau những ngăm dài đất nước chia cắt: “Bà kể, ban ngày lang thang hết

đường này tới đường khác, cứ đường nào có hiệu giày là dừng lại. Đến hàng trăm

hiệu giày mà chẳng thấy tăm hơi ông ấy đâu.Ngày đi, tối bà quay về ga Sài Gòn

ngủ. (…) Hết tiền bà mới quay ra Hà Nội, lặng lẽ bán dây chun, rút dép đến khi

không còn dép cao su, chả ai mua dây chun nữa bà chuyển sang làm búp bê” [22,

tr.213].

Tác giả kể cuộc đời thợ may của “nghệ nhân có bàn tay vàng” Tiến Thành

trong Người may complet cho các chính khách: “Năm mười lăm tuổi (1935) gia

đình cho cậu con trai học nghề may tại một hiệu nhỏ trong thị xã. Năm 1946, cảm

thấy tay nghề đã vững, ông tự tin về Hà Nội mở hiệu ở 56 phố Nhà Thượng Khách

(nay là phố Hòe Nhai) và làm nghề ở đó cho tới ngày tiếp quản Thủ đô. Nhờ khéo

tay mà may đẹp nên hiệu của ông lúc nào cũng đông khách” [22, tr.134]. “Không

chỉ may cho các chính khách trong nước, ông còn may cho đại sứ các nước:

Hungary, Ba Lan, Tiệp Khắc… Qua quyển sổ ghi chép số đo mà ông còn giữ từ

năm 1954 đến đầu thập niên 80, ông đã may cho mười lăm cán bộ cao cấp và mười

vị đại sứ nhiều nước tổng cộng hơn ba trăm bộ” Cả cuộc đời ông dù làm chủ cửa

hàng hay lúc làm nhân viên đều nhiệt huyết với nghề để may ra những bộ đồ đẹp để

vừa lòng cả các vị khách khó tính nhất

Đời sống người dân Hà Nội thời bao cấp thiếu thốn, vất vả và họ đã làm

những cách nào để trải qua những năm tháng khó khăn ấy đã được Nguyễn Ngọc

Tiến miêu tả rõ nét cùng với những trải nghiệm chân thực của chính ông trong Cửa

hàng giao tế thời bao cấp: “Thực phẩm thiếu đến mức nhiều gia đình tráng trứng

phải độn thêm nước cơm cho miếng trứng to hơn mới đủ mỗi người một hai lần

gắp. Lại có khi nhà mua được tí thịt, chia hai bữa, sợ con cái ăn vụng, các bà mẹ

59

thường lấy hai sợi tóc xếp dấu nhân trên bát, thấy mất dấu biết con ăn vụng. không

đứa nào tự giác nhận, mỗi đứa sẽ bị một cái cốc vào đầu và bàn tay công nhân chai

sạn mà cốc thì vài ngày vẫn còn sưng” [22, tr.177]. “Dằng dặc thời bao cấp, bữa

sáng của số đông người Hà Nội từ già đến trẻ là cơm rang. Chiều hôm trước nấu

nhiều hơn để dư cơm cho sáng hôm sau. Cơm rang chỉ chạy qua hàng mỡ vì dùng

phiếu mua mỡ thì thôi thịt mà mua thịt thì thôi mỡ, cơm rang ít mỡ khô khốc nhưng

ăn mãi cũng quen. Từ khi đổi giờ làm việc theo kiểu Liên Xô (buổi trưa chỉ được

nghỉ nửa tiếng) hầu hết bỏ ăn cơm trưa chuyển sang ăn cơm sáng, con cái đi học

buổi chiều cũng bị dựng dậy bắt ngồi vào mâm vì ít thức ăn. Khi người lớn cho cơm

trưa vào cặp lồng treo toòng teng trên ghi đông xe đạp mang đến công sở, nhà

máy,trẻ con lại ngủ tiếp. Ai đi làm bằng xe bus nếu bất cẩn, cặp lồng có thể bẹp

rúm và cơm, rau phòi ra. Có lần đi xe bus đến trường, khách chen chúc bỗng nhiên

tôi thấy chân mình như có ai dội nước thải vì nhớp nháp, ngó nghiêng mới biết cặp

lồng cơm canh của bác đứng cạnh bị khách ép bẹp rúm” [22, tr.179-180].

Chơi hoa đào ngày tết trở thành một nét văn hóa đẹp của người Việt. dù đã

trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc thì bây giờ thú chơi ấy vẫn được người

dân Việt ưa chuộng. Và với người dân trồng đào Nhật Tân Hà Nội ngày nay, họ

luôn duy trì và phát huy truyền thống của làng và những mong mỏi của họ vào vườn

đào vào dịp Tết đến xuân về đã được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến trong Đào Nhật

Tân có từ bao giờ?: “Ở Nhật Tân, những ngày giáp Tết, mỗi nhà đều muốn có riêng

một ông trời. Nhà nào đào còn non chưa nở kịp thì mong trời ấm lên và kéo theo

gió nồm, những nhà đào đã hé vừa thì mong thời tiết cứ duy trì 23-24 độ, còn nhà

đào đã điểm hoa thì mong trời thật rét. Những cái mong trái ngược nhau tồn tại

song song từ khi có đào ở làng này. Cái nghề mà không phụ thuộc nhiều vào kinh

nghiệm và bí quyết, trông cả vào ông trời, nhìn trời mà mừng mà lo cho đến khi cắt

đào đi bán vẫn chưa thể thở phào, ấy thế mà không ai muốn chuyển sang trồng cây

khác. Dường như trồng đào là số một của Nhật Tân” [23, tr.89].

Trong Hà Nội ăn tương, ăn mắm, Nguyễn Ngọc Tiến đã miêu tả hoạt động

văn hóa của người dân Hà Nội trong việc làm mâm cỗ ngày Tết cổ truyền thờ cúng

60

tổ tiên phải cần những gì và những gì không thể thiếu trong đó: “Khác với trong

năm, mâm cỗ ngày Tết bao giờ đầy đủ sản vật của mảnh đất “Tam sơn, tứ hải, nhất

phần điền”. rừng núi có măng, nấm hương, mộc nhĩ,… biển có mực, vi cá, nước

mắm,… nhất phần điền là đồng bằng có gà, rau, củ… Vì triết lý “ơn tổ tiên thì chớ

nên quên” nên con cháu phải dâng cúng những thứ ngon nghẻ nhất. Quanh năm ăn

nước mắm loại thường nhưng ngày Tết, nhà nào cũng phải kiếm chai ngon nhất chợ

để nấu cỗ” [23, tr. 339]. “Bữa cỗ ngày Tết dù các món xào, món nấu đã nêm nước

mắm ngon nhưng vẫn phải có bát nước mắm đặt giữa mâm như ngày thường. Bát

nước mắm có ý nghĩa cộng đồng, tinh thần đồng cảm, cộng cảm ở đây giữa con

người đất liền với biển khơi” [23, tr.343].

Trong tất cả các chuyện mà Nguyễn Ngọc Tiến viết hay kể trong bốn cuốn tạp

văn thì đều có sự xuất hiện thời gian sinh hoạt của con người trong những khoảng

thời gian khác nhau, thời gian sinh hoạt luôn xuyên suốt từ quá khứ về đến hiện tại.

Nguyễn Ngọc Tiến khá tỉ mỉ, chi tiết và chân thực khi miêu tả những sinh hoạt của

con người trải qua thời gian của sự sống. Đó là những sinh hoạt cả về đời sống vật

chất và văn hóa tâm linh. Qua đó giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống của

những con người Thăng Long-Hà Nội chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cao đẹp.

Thời gian trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến được tổ chức theo một cách cụ

thể. Đó là thời gian sự kiện trải suốt cuộc đời nhân vật với những sự kiện xảy ra

trong đời cùng với những tâm tư tình cảm của họ. Hoặc là thời gian sự kiện trải dài

từ quá khứ đến hiện tại của một làng nghề, một địa danh, một phương tiện… với

những sinh hoạt hàng ngày chân thực của người dân xoay quanh đó qua những

trang viết giản dị, mộc mạc của nhà văn. Từ đó người đọc có thể hình dung rõ cuộc

sống, tính cách của người được kể và những thay đổi về tâm tư, tình cảm của họ qua

những năm tháng biến đổi của những làng nghề, địa danh, phương diện… được

nhắc đến.

61

2.3 Ngƣời Hà Nội nhìn từ phƣơng diện văn hóa

Con người nhìn từ phương diện văn hóa được xem là một nội dung quan

trọng hiện diện trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến. “Văn hóa” ở đây có thể hiểu

đó là những phong tục tập quán, những thú chơi tao nhã của những con người

Thăng Long-Hà Nội. Đó còn là văn hóa ứng xử trong quan hệ giữa con người với

đồng bào, đồng loại, với người thân, với quê hương đất nước. Những nếp văn hóa

như vậy ngấm sâu vào số phận, cốt cách, tâm tưởng của những con người trong tạp

văn của Nguyễn Ngọc Tiến, trở thành một góc tiếp cận con người và hiện thực.

Người Hà Nội trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến hiện lên qua những câu

chuyện có thật với những nét đẹp riêng về tính cách, tâm hồn. Qua các câu chuyện

với những con người cụ thể, người Hà Nội hiện lên là những con người yêu nước,

yêu thương con người, bao dung nhân ái, tài hoa, thanh lịch hay chỉ là những người

dân bình thường nhưng đã cho ta thấy được những nét riêng biệt của “người Tràng

An”. Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể về những góc khuất của những con người tại nơi

đây, thể hiện những day dứt, trăn trở của một nhà văn luôn nặng lòng với Hà Nội.

2.3.1 Những nét đẹp của người Hà Nội

Hà Nội mà ta vẫn biết trong văn thơ và sách vở là mảnh đất nơi tập trung linh

khí đất trời, hội tụ các nền văn hóa nên người Hà Nội có điều kiện chắt lọc và thẩm

thấu vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn từ khắp nơi. Người Hà Nội bao đời vẫn tự hào

với lời ngợi khen:

"Không thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".

Nét Tràng An ấy được khắc họa qua hình ảnh người Hà Nội đầy văn hóa

trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến. Ông đã từng chia sẻ với phóng viên báo

Người đưa tin rằng: “Các tác phẩm của tôi viết về Hà Nội khác với các tác giả khác

vì tôi thiên về mảng đời sống thị dân, những thay đổi hiện nay của người Hà Nội

chứ không phải là các tác phẩm khảo cứu lịch sử. Ở cuốn 5.678 bước chân quanh

hồ Gươm, tôi kể về những chuyện “lặt vặt” nhưng “rất Hà Nội”, “lặt vặt” từ khi

hồ có tên là Lục Thủy đến mang tên Hồ Gươm. Chuyện về con người, cảnh vật

62

quanh con hồ thẫm đẫm huyền thoại và lịch sử. Thêm vào đó là những chuyện tôi

biết, trải nghiệm về Hà Nội theo cái nhìn cá nhân. Tôi không nhìn Hà Nội theo con

mắt đạo đức mà theo hiện thực xã hội, Hà Nội với tôi là những thứ gần gũi và thân

thương” [Lạc Thành, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến: Tôi luôn mơ về Hà Nội thơm

phức như thế!, https://www.nguoiduatin.vn/nv-nguyen-ngoc-tien-toi-luon-mo-ve-

mot-ha-noi-thom-phuc-nhu-the-a302379.html].

Nguyễn Ngọc Tiến là người con của mảnh đất văn hiến ngàn năm nên ông

không thể giấu được niềm tự hào về những con người Hà Nội giàu nghĩa khí và yêu

nước sâu sắc. Đó là những phố, những gia đình có truyền thống yêu nước: “Phố

Hàng Đào có rất nhiều người tài giỏi và yêu nước như cụ cử Lương Văn Can. Năm

người con của cụ đều hoạt động cách mạng trong đó có Lương Ngọc Quyến lãnh

đạo khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 sau đó bị Pháp giết hại” [22, tr.229]. “Nhà 37

Cầu Gỗ ăn thông ra phố Đinh Tiên Hoàng là nhà của cụ Phạm Quang Hưng làm

thông phán ở Bưu điện Bờ Hồ. Làm sở Tây nhưng cụ Hưng có tinh thần yêu nước,

ghét thực dân xâm lược. Cụ sinh được 12 người con, tất cả đều thông minh, lanh

lợi, cụ dạy dỗ con cái lòng yêu nước, yêu dân tộc ngay từ khi các con còn bé” [22,

tr.283]. Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc đến nhiều người Hà Nội yêu nước, tài giỏi,

khí phách, đã tham gia hoạt động cách mạng, ủng hộ tài sản giúp đỡ nhà nước, nhân

dân trong bài viết Từ phú gia đến tư sản như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Văn Vĩnh,

Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Ngô Tử Hạ, Trần Văn Thành… Ngay cả những cô

đầu Khâm Thiên cũng đã thể hiện được lòng yêu nước khi tham gia kháng chiến:

“Ngày 19-12-1946, Thủ đô bước vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, có cô

đầu không trở về quê ở lại tham gia các đội tải thương, thậm chí có người đã hy

sinh” [24, tr.124].

Người Thăng Long-Hà Nội có truyền thống sống hoà đồng, thân thiện, có

tấm lòng nhân ái, bao dung, yêu thương con người: “Đình làng Phú Mỹ (nay là

phường Mỹ Đình, quận Nam Từ Liêm) có hai bài đạo sắc của vua Lê Cảnh Hưng

(1740-1786) cho Nguyễn Quang Minh chức Hiền cung đại phụ vì đã có lòng tốt

đóng góp 250 quan tiền để phát chẩn cho dân nghèo nên được thăng chức Tham

63

nghị. Tờ sắc thứ hai cho biết Tham nghị Nguyễn Quang Minh lại góp quỹ 50 quan

phát chẩn cho dân nghèo nên được phong hàm Thái Bộc tư khanh. Đó là những

bằng chứng về người làm từ thiện đất Thăng Long. Từ đời vua Gia Long đến Tự

Đức và kéo dài đến thập niên 20, trên các con phố Hà Nội nhỏ xinh bao giờ cũng có

vại nước vối ủ nóng trước cửa nhà để người đi đường khát thì uống. Và cứ đầu

năm, phố trưởng đi từng nhà quyên cho quỹ giúp người, đóng bao nhiêu cũng được,

tùy tâm. Cũng nhờ quỹ này mà dân mất nhà vì cháy có thêm tiền lo chỗ ở mới” [23,

tr.40]. Nguyễn Ngọc Tiến vô cùng chân trọng khi nhắc đến rất nhiều tên tuổi của

những con người làm nên hồn cốt về lòng nhân ái của người Hà Nội bằng tài năng

và nhân cách của bản thân như bà Lê Thị Mai, bà Cả Mọc, Bạch Thái Bưởi, Vũ

Quang Huy, Đỗ Đình Đắc… đã lập nên những hiệp hội từ thiện để giúp đỡ những

người dân nghèo về mọi mặt cuộc sống. Không chỉ thế, những người Pháp lúc bấy

giờ cũng rất khâm phục tấm lòng nhân ái, yêu thương con người củng người Hà

Nội: “Giàu có nhưng cô Tư Hồng có lòng thương người, nơi nào trên cõi Việt Nam

bị mất mùa, bão lụt, cô đều cho chở gạo đến cứu tế. Quan Tư Laglan phục ý chí,

nghị lực, mưu mẹo của người vợ An Nam của mình” [24, tr.266]. “Cuối thế kỉ XIX,

Hà Nội có bà Lê Thị Mai, góa chồng sớm, không như các góa phụ giàu có khác bỏ

tiền lập chùa, bà Lê Thị Mai bỏ tiền làm nhiều nhà gọi là quán sinh đồ ở phố Hàng

Đậu, Hàng Giấy, Hòe Nhai dung nạp và cưu mang trò nghèo các tỉnh về Hà Nội

học, bà còn làm việc thiện giúp đỡ những người nghèo trong cả nước. Không chỉ

dân trong tỉnh Hà Nội kính trọng mà lòng nhân ái của bà được cả nước biết đến,

vua Tự Đức đã tặng sắc phong. Một người đàn bà góa chồng khác là Hoàng Thị

Uyên (còn gọi là bà Cả Mọc), giàu có nhờ buôn bán thật thà. Nghe nói tỉnh nào đói

khổ vì thiên tai bão lũ là bà ủng hộ tiền, gạo. Bà là người đầu tiên ở Việt Nam mở

trường nuôi dạy trẻ miễn phí, mở trại dưỡng lão cho người già không nơi nương

tựa. Nhiều người Pháp đến thăm và họ không ngờ An Nam lại có nhà trẻ đầy tính

nhân ái vì mô hình này ở châu Âu thời điểm đó rất ít” [24, tr.318-319].

Người Hà Nội có nhu cầu về một đời sống phong phú và đa dạng. Từ xưa tới

nay họ nổi tiếng đa tài, khéo léo, tạo được những sản phẩm đẹp đẽ nhiều khi không

64

phải để trao đổi, buôn bán kiếm lời mà cốt là để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ, giải trí.

Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã làm nổi bật lên được người Hà Nội

có nhiều thú chơi tao nhã, làm phong phú cho cuộc sống tinh thần. Người Hà Nội

sành ăn, sành mặc, sành chơi, có thẩm mỹ tinh tế, chuộng cái đẹp và biết thưởng

thức cái đẹp. Và qua đó đã chứng tỏ người Hà Nội có sự hiểu sâu, rộng, thể hiện sự

phong phú, đa dạng về kiến thức của mình trước thiên hạ: “Nguyễn Đình Phúc yêu

thơ và ông đã phổ thơ của Nguyễn Bính thành bài Cô lái đò với giai điệu da diết,

cảm động, thơ với nhạc quấn nhau khiến bài hát không thể thiếu được trong các

phòng trà sang trọng thời Hà Nội bị tạm chiếm. Nhưng đỉnh cao phải là Tiếng đàn

bầu mà ông phổ thơ Lữ Giang, rất nhiều ca sĩ hát thành công ca khúc mang ấm

hưởng dân gian này, phần đầu có chút khắc khoải nhưng phần sau trong sáng. (…)

Nguyễn Đình Phúc là nhạc sĩ đầu tiên viết nhạc cho điện ảnh cách mạng, từ phim

chuyện Chung một dòng sông đến phim tài liệu Nước về Bắc Hưng Hải, phim hoạt

hình Nàng Ngà và nhiều phim khác. Với hội họa, ông vẽ rất nhiều chân dung các

văn nghệ sĩ Việt Nam như: Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,

Xuân Diệu… nét vẽ đơn giản nhưng lột tả được cái thần của các nghệ sĩ” [22,

tr.242].

Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc đến Trần Duy Hưng tài hoa, yêu nghệ thuật

với lời văn rất chân trọng: “Bác sĩ Trần Duy Hưng làm Chủ tịch Uỷ ban Hành

chính Hà Nội lần đầu sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Năm 1954,

từ chiến khu trở vê tiếp quản Thủ đô, ông giữ chức vụ này cho đến năm 1976. Trần

Duy Hưng yêu nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. Trong những năm tháng không

quân Mỹ đánh phá miền Bắc và Hà Nội, bom rơi, đạn nổ, sống chết do trời nhưng

cứ im tiếng súng, lặng tiếng bom là ông lại tận dụng chút thời gian rảnh rỗi hiếm

hoi để nghe nhạc bằng chiếc máy quay đĩa than hiệu Gramophone thế hệ thứ hai.

Ông thích nhạc cổ điển và thường nghe nhạc Beethoven, Liszt, Chopin, Robert

Schumann, Tchaikovsky… nhưng ông mê nhất Mozart” [24, tr.129-130].

Những con người sưu tập tranh để giữ gìn tài sản văn hóa quốc gia cũng như

thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của không ít người Hà Nội cũng được ông

65

nhắc đến trong Nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam: “Ông Đức

Minh là chủ của bảy cửa hàng kim hoàn lớn ở Hà Nội. Ông sinh năm 1920 ở Hà

Đông, lịch lãm và có khả năng cảm thụ nghệ thuật bẩm sinh. (…) Kinh doanh

thành đạt, lại có sẵn thú sưu tập nên nhà ông có nhiều cổ vật, nhưng kính nể nhất là

bộ sưu tập hơn 1.000 tác phẩm hội họa. Ông được giới mỹ thuật đánh giá không chỉ

là nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp lớn nhất Việt Nam thế kỉ XX mà còn là người có

phông văn hóa cao” [22, tr.155].

Người Thăng Long-Hà Nội thanh lịch qua thú chơi hoa, qua lịch sử cầu Thê

Húc... Các vấn đề được Nguyễn Ngọc Tiến xây dựng trên nền tảng con người, phục

dựng lại những truyền thống tốt đẹp làm nên bản chất và tâm hồn người Hà Nội:

những bước hình thành nên các phố, phường, thành phố kiểu phương Tây do người

Pháp lập, những thú chơi hay phong tục thời trước qua những thăng trầm lịch sử.

Nguyễn Ngọc Tiến còn đưa những chứng cứ đầy sức thuyết phục về những thú chơi

của người Hà Nội như: chơi hoa, cây cảnh; chơi đĩa than, sưu tập đồ cổ, câu đối

ngày Tết, sưu tầm tranh, chơi cá cảnh, nghe hát ả đào…: “Thú chơi hoa, cây cảnh ở

Thăng Long theo năm tháng được nâng lên thành nghệ thuật. Thú chơi di dưỡng

tinh thần này buộc họ phải am hiểu kỹ thuật trồng, cắt tỉa lá cành, bón phân mà còn

phải tôn theo tín ngưỡng” [22, tr.72]. “Theo ông Ninh, người được đánh giá là

thẩm âm tốt, am hiểu về âm nhạc và hiện cung cấp đĩa cho rất nhiều người chơi,

thì: “Cách đây chục năm, số người chơi đĩa than ở Hà Nội không nhiều nhưng hiện

tại Hà Nội có hàng trăm, trong số đó có rất nhiều người chơi chuyên nghiệp. Thú

chơi đĩa than không chỉ đem lại thẩm mỹ lành mạnh, trong sáng ở trình độ cao mà

còn giúp họ giải tỏa được những căng thẳng trong cuộc sống, vốn là sản phẩm của

xã hội công nghiệp.” Sẽ có nhiều người chơi đĩa than hơn vì họ muốn tìm kiếm sự

trung thực và mộc mạc, những thứ ngày càng khan hiếm, khó tìm trong đời sống”

[24, tr135-136]. Thú chơi câu đối Tết của người Thăng Long-Hà Nội qua các thăng

trầm lịch sử đã được Nguyễn Ngọc Tiến nói đến trong Câu đối và chữ. Dù nhiều thế

kỉ trôi qua, có thăng có trầm nhưng đến nay người Hà Nội vẫn giữ được thú chơi

trong dịp cuối năm và đầu năm mới: “Dăm bảy năm nay, Hà Nội lại xuất hiện thú

66

xin chữ thầy đồ trước Tết. Không chỉ “cho” chữ, không ít người còn nhờ thầy viết

câu đối. Thật là mừng khi văn hóa chơi chữ và câu đối của kinh thành Thăng Long

sống trở lại” [23, tr.193]. “Thú chơi cá cảnh của con trẻ Hà Nội chỉ mới vài chục

năm nhưng kì lạ đứa nào cũng thích. (…) Yên Phụ là làng nuôi cá nổi tiếng và Hà

Nội cũng có duy nhất làng này. (…) Chơi cá cảnh cùng với ngủ trưa là “đặc sản”

của trẻ con nội hành Hà Nội suốt thời bao cấp.” [24, tr.275]…

Hà Nội với những làng nghề truyền thống lâu đời, các thợ thủ công lành

nghề, các sản phẩm nức tiếng trong nước và xuất khẩu nước ngoài đã phần nào lột

tả được nét tính cách đặc trưng của người Hà Nội lao động cần cù, bền bỉ, sáng tạo.

“Con gái Ngọc Hà, Hữu Tiệp khéo tay. Hocquard viết về họ trong cuốn Một chiến

dịch ở Bắc Kỳ: “Các cô rất khéo tay, lấy đất sét đặt lên một khoanh cây chuối, sau

đó cắm các loại hoa xen lẫn với lá lên cục đất sét tạo ra một lùm hoa lá rất lạ và

đẹp mắt. Các cô cũng làm những lẵng hoa đủ màu sắc bán cho bán cho những

người Pháp sang Hà Nội lập nghiệp”. Các cô còn nghĩ cách tết hoa lên xe tay cho

các quan Tây khi họ đi nhà thờ Lớn đón Noel, Tết Tây hay quốc khánh Pháp. Khi

Hà Nội xuất hiện ôtô, các cô trang trí hoa trên mui cho các xe đi đón quan chức

cấp cao từ Pháp sang” [23, tr.113]. “Nằm cạnh hồ Tây với hoa sen bát ngát, tháng

Năm sen nở tỏa hương khắp vùng phía tây kinh thành nên Thụy Chương nổi tiếng

với rượu nhụy sen. (…). Một vùng đất khác ở Thăng Long cũng nấu rượu cũng đất

nổi tiếng, đó là Kẻ Mơ (…). Điều đó cho thấy rượu Mơ không chỉ nổi tiếng ở Thăng

Long mà còn lừng danh thiên hạ” [23, tr,91-92]. “Nhờ đoạn mô tả của Dumoutier

ta biết rõ hơn về phố Hàng Thiếc cuối thế kỉ XIX và cũng nhờ mô tả này nhà nghiên

cứu Nguyễn Dư ở Pháp có cơ sở để chứng minh chiếc đèn dầu (hay còn gọi là đèn

Hoa Kỳ) không phải do Hoa Kỳ sản xuất, nó được làm từ chính bàn tay của chính

người thợ thủ công phố Hàng Thiếc” [21, tr.119].

Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc đến Nguyễn Văn Giảng – người đã sáng tạo

ra món cà phê trứng nổi tiếng Hà Nội: “Từ khi có cà phê đến nay, thế giới đã tạo ra

trên một trăm đồ uống xuất xứ từ cà phê, trong đó Hà Nội góp một thứ thuộc loại

độc đáo: cà phê trứng. Người nghĩ ra là Nguyễn Văn Giảng. (…). Sống ở Hà Nội

67

nên Giảng chứng kiến nhiều gia đình đánh trứng với đường để bồi dưỡng cho con

và thế là anh thử nghiệm ở nhà. Trứng gà ta chỉ lấy lòng đỏ, cho vào cốc, thêm chút

sữa, chút đường rồi dùng bông tre đánh đều. Khi trứng, đường và sữa quện vào

nhau mới cho cà phê vào. Lại đánh tiếp đến khi bọt dâng lên miệng cốc, mùi thơm

tưng bừng tỏa ra là được. Sau nhiều lần rút kinh nghiệm về lượng đường, sữa, anh

cho ra món cà phê trứng thơm ngon và cực kỳ hấp dẫn thị giác. Anh đặt tên là “cà

phê tam vị, nhị mùi” (vị béo của sữa, vị ngọt của đường, vị đắng của cà phê và mùi

thơm của trứng gà, mùi thơm của cà phê)” [24, tr.222-223].

Trong Cầu Long Biên vừa dài vừa rộng chính người nước ngoài cũng ca

ngợi sự cần cù, khéo léo của người Việt: “Trong bài viết Cây cầu Long Biên của

Paul Bouder (Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương năm 1917) viết:

“Chính nhân công bản xứ đã lắp ghép các thanh sắt, điều khiển các máy móc mạnh

mẽ để cẩu trục các cây sắt lớn và lắp đặt những đinh tán. Lúc đầu thợ tán đinh

phần lớn là thợ Trung Quốc vì họ khỏe hơn người An Nam nhưng sau đó, thợ An

Nam đã gạt bỏ họ. Người An Nam dù sức có yếu hơn nhưng họ năng động và khéo

léo. Các đốc công ,kỹ sư cũng ưa thích họ hơn” [21, tr.160].

Họ còn là những người lãng mạn, đa tình với những câu chuyện tình yêu.

Nguyễn Ngọc Tiến kể lại không ít cuộc tình trong các cuốn sách của mình. Đó là

câu chuyện tình yêu của Phạm Văn Đồng và vợ của ông trong bài viết Quán kem

Zesphyr nên duyên bà Cúc và ông Phạm Văn Đồng. Cuộc tình của ông già 70 bốc

thuốc nổi tiếng với một cô gái 30 tuổi: “Hai người gặp nhau trong một đám cưới,

mà thời bao cấp gọi là cưới “đời sống mới”, ăn bánh kẹo, uống nước chè và “liên

hoan văn nghệ”. Theo những người trong phố kể lại, hôm đó cô hát chèo còn ông

vớ cây đàn nguyệt của chủ nhà đệm. Rồi thế nào đó hai người lấy nhau” [22,

tr.281]. Trong bài viết Lấy được vợ nhờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nguyễn Ngọc

Tiến đã kể về tình yêu ngoại quốc vô cùng sâu đâm, cùng nhau trải qua mọi khó

khăn để đi đến được bến đỗ hạnh phúc của một cô gái người Thụy Điển với chàng

trai tên Đô người Việt Nam: “Buổi tối, chị đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường như

nàng Juliett ngóng chờ Romeo đạp xe qua. Muốn rủ chị đi chơi, anh đạp xe đạp qua

68

khách sạn, từ cửa sổ, chị nhìn thấy sẽ lặng lẽ đạp xe theo sau. Hai người thường

xuyên ra quán cà phê cuối Lò Sũ. Hai người ngồi chung bàn và đối diện nhau

nhưng không nói chuyện bằng miệng mà bằng ánh mắt vì nói tiếng Anh, sau khi

chia tay thế nào anh cũng bị ai đó “hỏi thăm”. Và trước lúc chia tay, cả hai bí mật

luồn tay xuống gầm bàn trao thư. Có lần chị hẹn gặp anh ở Bờ Hồ, chị phải mặc

như phụ nữ Việt Nam, để che bộ tóc bạch kim chị đội nón lá dù trời không mưa. Lén

lút trao nụ hôn mà mắt vẫn liếc xung quanh” [22, tr.298-299]. Hay câu chuyện tình

yêu sét đánh của người phụ nữ bán nước chè chạy đã bốn mươi tuổi tên Vân với

chàng tây ba lô đầu trọc 25 tuổi, tốt nghiệp đại học chưa xin được việc. Mối tình

thủy chung son sắt kéo dài cả cuộc đời của bà Sót trong Một đời tình câm lặng. Bà

luôn chờ đợi người tình quay lại tìm mình hay những lần vào Nam chỉ để tìm người

yêu, tình yêu ấy thầm lặng, khắc khoải cho đến lúc bà từ giã cuộc đời.

Trong những bài viết, Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc nhiều đến những con

người bình thường, giản dị làm các nghề để kiếm sống quanh mảnh đất ngàn năm

văn hiến này. Họ là những người trồng hoa làng Ngọc Hà, trồng đào làng Nhật Tân,

là bà Yến với mấy chục năm làm việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ

Hồ, những chị lao công, những người bán hàng rong, người hát xẩm, người đánh

tầm quất … Đó là những con người tạo nên những diện mạo một cách đầy đủ của

Hà Nội, khác xa với những dân chơi đất kinh kỳ.

Tất cả những nét đẹp của con người Hà Nội đã được Nguyễn Ngọc Tiến

nhắc đến qua các cuốn sách của ông, nhấn mạnh những phẩm chất đặc trưng của

nhân cách người Thăng Long – Hà Nội. Đó là những người dân giản dị đời thường

đến những con người nổi tiếng, giàu có… tất cả đã làm nên những nét văn hóa

truyền thống, làm nên tinh cách người Hà Nội. Qua đây người đọc có thể thấy được

tài năng, vốn sống, kiến thức lịch sử, văn hóa nghệ thuật phong phú, sâu rộng của

Nguyễn Ngọc Tiến qua nhiều mặt của đời sống xã hội, ông phải hiểu và có cái nhìn

khách quan, cụ thể về nét tính cách của người Hà Nội trong truyền thống và hiện

tại.

69

2.3.2 Những góc khuất của người Hà Nội

Đọc bốn cuốn sách của Nguyễn Ngọc Tiến viết về Hà Nội, người đọc không

chỉ nhận thấy những nét đẹp của con người nơi này mà còn thấy được những điểm

tiêu cực trong tính cách và trong nếp sống người Hà Nội như là mặt trái của những

nét tính cách ở trên.

Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến thói tham nhũng ở Thăng Long-Hà Nội qua

nhiều triều đại trong bài viết Tham nhũng và chống tham nhũng trong lịch sử để

thấy được một góc khuất trong đời sống của một số bộ phận người Thăng Long-Hà

Nội.

Những dị nhân ở Hà Nội cũng được nhắc đến trong bài viết Dị nhân Hà

thành: “Đầu thế kỉ XX, phố Hàng Hài (nay là phố Hàng Gai) có một người đàn bà

tên Chớp, chồng cô Chớp là ông Tây già làm đội trong thành nên hàng phố gọi là

Đội Chớp. Thời đó lấy Tây là chuyện “tày trời” nhưng cô Chớp chả coi thiên hạ ra

gì. Cô không vào trong thành ở cùng chồng mà thuê nhà phố Hàng Hài. Trước khi

lấy chồng, cô Chớp là nặc nô, chuyên khóc thuê, chửi mướn, cô uống rượu không

thua đàn ông nghiện. Ngày nào cũng vậy, cứ uống say, cô Chớp ra quán cơm đầu

phố biểu diễn các bài chửi, các bài khóc mua vui cho trẻ con hàng phố và khách ăn

cơm, cô khóc 3 tiếng, chửi 3 tiếng liền là chuyện bình thường” [23, tr.178]. “Cuối

thập niên 20, phố Hàng Bạc có nhà cô Bé Tý, cô lấy chồng Tây. Nhà như vườn bách

thú, toàn loại khách thường: gà 4 chân, lợn 2 mõm, vịt 1 chân, mào ngỗng như mào

gà… Kẻ ăn, người làm đều lùn tịt. Lúc chưa chồng cô yêu cùng lúc nhiều người

nhưng không bao giờ các nhân tình đụng nhau” [23, tr.179].

Trong bài viết Đồng tính Hà Nội, người đọc chắc chắn sẽ cảm thấy thương

cảm một số người con Hà Nội, họ sinh ra không đúng với chính mình, đi qua những

thăng trầm của cuộc đời, không hại đến ai nhưng thời trước không được đại bộ phận

mọi người cảm thông: “Tá túc quán bà Mai nên chiều nào tôi cũng thấy một “cô

gái” mặc áo cánh đen bó sát người, quần lụa, môi son, má phấn đi xe Peugeot màu

xanh. Cô đạp xe nhẹ nhàng, từ từ và dường như không bao giờ để ý đến ai. Mọi

người trong quán đó bảo là “Tuấn đồng cô”. Tuấn thích mọi người gọi bằng “cô” và

70

rất ghét ai gọi là anh Tuấn” [23, tr.8]. “Vào khoảng năm 1987,1988, quanh hồ

Thuyền Quang xuất hiện khoảng chục “cô”, môi son, má phấn, quần lụa, áo cánh đi

đi, lại lại, giọng eo éo nên đám thanh niên gọi đây là “chợ đồng tính”. Trong chợ có

một “cô” tên cúng cơm là Giang, nhà đâu ở khu Lĩnh Nam hay Mai Động, đổi thành

Mai. Mai buôn bán làm ăn rất giỏi. Khoảng năm 1999,2000 ở một phố cổ, có quán

bar có tên là G. C, mọi người đoán già đoán non “G. C là viết tắt của gay club (tiếng

Anh: Câu lạc bộ đồng tính nam). Buổi tối quán rất đông khách, toàn đàn ông và hầu

hết là người nước ngoài với những hành vi không lộ liễu” [23, tr.11].

Nguyễn Ngọc Tiến cũng nói đến một góc khuất của Hà Nội mà có lẽ rất ít

nhà văn chạm đến hoặc chạm đến chưa sâu đó là gái điếm và mại dâm trong câu

chuyện Điếm xưa, điếm nay: “Năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,

mại dâm bị cấm nhưng khi Pháp tái chiếm Hà Nội đầu năm 1947, mại dâm hồi sinh.

(…) Vì bị cấm nên phò cũng không sẵn nên thanh niên phải tìm và họ gọi là đi bắt

phò. Thỉnh thoảng ở góc tối hồ Thiền Quang ầm ầm cãi nhau, một ông dắt xe đạp

lao ra đường, một mụ đàn bà đuổi theo té tát, ra là bác chơi quỵt. Các cô làm phò

có hàng vạn lí do, nào “nhà em làm nhà, còn thiếu mấy bao xi măng lót nền”, nào

chồng em đi “trường”, nào “bà bô em ốm”… (…) Đĩ điếm cứ từ từ đi lên, tỉnh nào

cũng có, dân tộc nào cũng có nhưng chẳng thấy “Nhà Lục xì”. (…) Nói đĩ điếm ở

Việt Nam như một ngành công nghiệp cũng không quá. Ngành công nghiệp này

ngấm ngầm mà công khai, lén lút mà lộ liễu, thiên biến vạn hóa, mặc cho các

chuyên gia cứ hội thảo đi hội thảo lại” [24, tr.17-20].

Cuộc sống khổ cực, vất vả của những con người quê lên Hà Nội kiếm sống

cũng được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến trong các bài viết của ông: “Tam Lang thuê

xe của các chủ khác nhau, lao ra đường kiếm khách. Ông kéo xe đến phố Lô cốt Bắc,

phố có nhiều phụ nữ có chồng là lính và sĩ quan Pháp đóng trong thành (phu xe gọi

là phố vợ Tây – nay là Phó Đức Chính), chầu chực chở vợ con họ đi chợ. Ông cũng

lăn lộn ở xóm Bãi Cát (khu vực An Dương và Phúc Xá bây giờ), lại thuê nhà ở đây để

tìm hiểu bởi xóm bờ sông là nơi tập trung rất đông phu thuê trọ. Ông tận mắt chứng

kiến có phu chết, đám trọ không biết chôn ở đâu, vì không có tiền mua đất, họ đành

71

vù con người xấu số xuống dải cát ven sông Hồng để rồi nước dâng lên cuốn xác đi.

Và rồi vợ phu đẻ con không làm được giấy khai sinh, người lớn không chứng minh và

thường xuyên phải vay nặng lãi để trả tiền thuê xe” [24, tr.146].

Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhận ra, một thời người dân Hà Nội quá coi trọng

xuất thân và có biểu hiện coi thường tỉnh lẻ: “Phu kéo xe bị chèn ép nên cuộc sống

của họ khốn khó, nhiều người bị dồn đến mức đường cùng, trước tình cảnh đáng

thương và đáng lên án, nhà báo Tam Lang quyết định làm phóng sự về những bất

hạnh họ phải chịu đựng. (…) Về dân bãi, Tam Lang viết: “Dân bãi Cát có nhiều

tầng lớp, những dân anh chị sống bám vào dân nghèo, chứa cờ bạc, hành động côn

đồ, cho vay nặng lãi. Còn lại đại đã số là tầng lớp dưới đáy của xã hội làm ăn lam

lũ với đủ nghề lao động nặng nhọc như: xe tay, xe bò, khuân vác, vớt củi, bán quà

rong… Kiếm ăn chật vật vất vả lại hay cờ bạc, thuốc xái, kiếm được đồng nào qua

tay hết đồng ấy, sống không có ngày mai” [21, tr.174]. Họ cũng coi thường, khinh

rẻ những cô gái lấy chồng Tây, hay những người lấy vợ, lấy chồng ngoại quốc,

được Nguyễn Ngọc Tiến nói đến trong bài viết Chồng tây, vợ đầm: “Người Pháp

tôn trọng tự do cá nhân, trong khi người Việt hay nhòm ngó nên các cô có chồng

Tây thường túm một chỗ và thiên hạ gọi là xóm me Tây. (…)Thế nhưng, từ ngày

“theo chồng”, Loan thu lượm được nhiều thông tin về hàng ngũ địch và cô đã

chuyển cho cơ sở. Hai người sinh được một con trai. Ngày những người lính lê

dương rút khỏi Việt Nam, cô không thể theo chồng vì là chiến sĩ quân báo, cuối

cùng chồng cô đành mang đứa bé về Bờ Biển Ngà. Dù hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ nhưng Loan không cách nào gột rửa được tiếng xấu” [24, tr.268-271].

Nhân vật giang hồ luôn áp bức, bóc lột những đứa trẻ, những người ăn xin

khu vực Bờ Hồ của Hà Nội cũng được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến là Ngọc “bụi”:

“Tất cả đám ăn xin từ già đến trẻ nếu muốn làm ăn quanh hồ đều phải nộp tô cho

Ngọc nếu không muốn bán xới đi nơi khác, cứng cổ thì không cỡ đầu cũng gẫy

răng. Ngọc khoán cho đám cái bang, mà khoán cao nên chúng buộc phải bám theo

khách suốt ngày, mệt cũng không dám ngủ. Không đủ mức khoán, có lạy Ngọc cũng

72

không tha. Có vẻ luật của giới giang hồ không tính thành tích trong quá khứ, mười

ngày trước nộp đủ nhưng chỉ một ngày thiếu cũng vẫn bị xử” [22, tr.288].

Trong bài viết Kẻ cắp chợ Đồng Xuân, Nguyễn Ngọc Tiến nói về một điểm

không đẹp xảy ra trong chợ của người Hà Nội xưa là làm giảm uy tín của các

phường với nhau: “Phục vụ cho những người bán hàng và người mua hàng có hẳn

đội bâté (tiếng Pháp: Phu chuyên khiêng hàng thuê). (…) Do nhiều phường bâté

nên cạnh tranh diễn ra quyết liệt, để hạ uy tín của nhau, người của phường này lợi

dụng chợ đông thò tay lấy cắp hàng trong rổ của phường kia và ngược lại” [23,

tr.229-230].

Khi nói đến món phở - món ngon nổi tiếng Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến cũng

kể đến một câu chuyện khá thú vị: “Phở là một trong số ít thứ quà không né tránh

được cơ chế, trong lúc thịt bò bị cấm (vì bò là sức kéo quan trọng trong sản xuất

nông nghiệp thập niên 60, 70), người ta vẫn tìm cho ra thịt bò. Thậm chí ngay cả

người có trách nhiệm thực hiện lệnh cấm vào quán cũng gọi phở bò. Không có thịt

bò, phở trở nên vô nghĩa. Do trâu, bò bị cấm giết thịt nên mới sinh ra giết mổ lậu.

Để tránh bị phòng thuế và dân quân bắt, đám người này thay đổi địa điểm liên tục,

lúc làng này, lúc làng kia, có khi ở giữa bãi tha ma” [24, tr.176].

Ẩn sau những lời kể chân thực, khách quan là sự trăn trở, day dứt không

nguôi của Nguyễn Ngọc Tiến – một người con luôn nặng lòng với Hà Nội.

2.4 Tiểu kết chƣơng 2

Nhìn từ góc độ văn hóa hay cốt cách văn hóa con người của con người, luận

văn muốn thông qua việc khảo sát sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến để

khẳng định không gian và thời gian sinh hoạt văn hóa, con người Hà Nội trong sáng

tác như là một nguồn cảm hứng mãnh liệt, thiết tha, như một sự lựa chọn, một góc

độ tiếp cận đời sống có ý nghĩa phong cách. Có thể xem đó là biểu hiện của cái nhìn

văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.

Từ bức tranh Hà Nội với cái nhìn không gian, thời gian Hà Nội xưa đến nay,

nhà văn có được nhiều góc tiếp cận thế giới và cái nhìn về phía con người, về đời sống

hoạt động văn hóa ở nơi đây tạo nên cơ sở mới mẻ của nhà văn: con người văn hóa.

73

Nhìn một cách tổng thể, tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến là sự nâng cao nét

đẹp truyền thống, những khía cạnh về cuộc sống người dân Hà Nội. Đồng thời với

sự am hiểu sâu sắc về đất và người Hà Nội xưa và nay cùng với vốn sống phong

phú trong nhiều lĩnh vực, Nguyễn Ngọc Tiến đã tìm ra những nét đẹp trong đời

sống tinh thần, cũng như một vài mặt trái của người Hà Nội. Những điều này đã

được ông thể hiện ngay trong chính nội dung các tác phẩm.

Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã dày công khảo cứu sâu rộng

từ các nguồn tư liệu trong và ngoài nước cùng với những trải nghiệm chân thực của

bản thân ông, người đọc như thấy đất và người Hà Nội gần gũi, quen thuộc, giản dị

nhưng vô cùng hấp dẫn, thanh cao. Trên hết, chúng ta thấy được tấm lòng yêu Hà

Nội sâu sắc, am hiểu và gắn bó bền chặt với Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến. Ông

rất hiểu và trân quý những giá trị sống tốt đẹp giàu tính nhân văn của những con

người trên mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến này và cũng đã nói lên được tiếng

nói đó bằng lối văn giản dị, đời thường và sâu lắng.

74

CHƢƠNG 3

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TẠP VĂN

NGUYỄN NGỌC TIẾN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

3.1.Biểu tƣợng văn hóa

3.1.1 Khái niệm về biểu tượng văn hóa

Biểu tượng là kết tinh của những giá trị văn hóa và luôn ở vị trí trung tâm

của đời sống văn hóa. Biểu tượng ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời

sống con người.

Trong tiếng Hán, “biểu” có nghĩa là phô bày những dấu hiệu để con người

nhận biết một điều gì đó. “Tượng” có nghĩa là hình tượng, là những thứ có trong trí

tưởng tượng của con người. Biểu tượng là một dấu hiệu nhận biết, một đặc trưng

nổi bật, dễ dàng nhận thấy, nhằm biểu đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng.

Các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam rất quan tâm tìm hiểu nguồn

gốc, tính chất, ý nghĩa của biểu tượng và đưa ra rất nhiều khái niệm về biểu tượng.

Jean Chevalier và Alain Gheerbrant quan niệm: “Tự bản chất của biểu

tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng

một ý niệm. Nó giống như một mũi tên bay mà không bay đứng im mà biến ảo, hiển

nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều

ý nghĩa của một biểu tượng” [41, tr.27].

Từ điển Larousse ghi rằng: “Biểu tượng là một dấu hiệu của hình ảnh, con

vật sống động, hay đồ vật, biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của

một sự vật hay một điều gì đó” [28, tr.4].

Hoàng Phê đã đưa ra khái niệm biểu tượng trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do

ông làm chủ biên như sau: “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của

nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc

khi tác dụng với sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [32, tr.9].

Theo Vũ Dũng: “Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện

xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể

75

mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên

quan đến quá khứ và tương lai” [28, tr.4].

Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai

đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của một sự

vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm

dứt” [9, tr.6].

Bản chất của biểu tượng thuộc về cái trừu tượng, khó nắm bắt cũng rất khó

xác định. Sự hiểu biết về biểu tượng còn phụ thuộc nhiều vào sự từng trải, kinh

nghiệm sống, học tập, trình đọ nhận thức của mỗi người. Những biểu tượng luôn có

tính bí ẩn, mơ hồ về mặt ý nghĩa, thôi thúc con người tò mò khám phá, tìm hiểu.

“Một biểu tượng thường có nhiều ý nghĩa hoặc ngược lại một ý nghĩa có nhiều biểu

tượng cùng biểu thị” [8, tr.71].

Qua những khái niệm về biểu tượng, có thể hiểu rằng “Biểu tượng là những

hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được hình thành

trên cơ sở những cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được lưu giữ lại trong ý

thức hay là những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có

từ trước” [19, tr.5]. Biểu tượng không hoàn toàn là những gì diễn ra trong thực tế,

bởi vì nó là việc xây dựng lại của thực tế sau khi đã được tri giác.

Từ những khái niệm biểu tượng có thể rút ra: “Biểu tượng văn hóa là những

thực thể vật chất hoặc tinh thần có khả năng biểu hiện ý nghĩa rộng hơn hình thức

cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền văn

hóa nhất định: nghi lễ, hành vi, kiêng kị, thần linh… Biểu tượng văn hóa là sự tồn

tại của bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan” [8, tr.72].

Biểu tượng văn hóa luôn có mối quan hệ vô cùng khăng khít với biểu tượng

ngôn từ. Vì ngôn ngữ là một phần không thế thiếu trong văn hóa của mỗi dân tộc,

mỗi quốc gia trên toàn thế giới nên biểu tượng ngôn ngữ/ngôn từ là một phần quan

trọng của biểu tượng văn hóa. Biểu tượng ngôn từ chính là các biểu tượng nghệ

thuật được cấu tạo lại thông qua ngôn ngữ trong văn học.

76

Mối quan hệ giữa biểu tượng văn hóa và biểu tượng ngôn từ chính là quá

trình biểu tượng văn hóa đi sâu vào các lĩnh vực nghệ thuật, lưu giữ và phát triển

những biểu tượng nghệ thuật. Các nhà văn, nhà thơ dựa trên mối quan hệ hoặc bổ

sung, hoặc tương phản, hoặc đẳng cấp để tổ chức việc khắc họa nổi bật hình tượng

nghệ thuật, thể hiện một lối tư duy nghệ thuật, phong cách sáng tạo riêng.

Là người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến đậm đà

bản sắc văn hóa, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến hơn ai hiết hiểu những giá trị văn hóa

lâu đời của Thăng Long-Hà Nội. Chính vì lẽ đó, những sáng tác về Hà Nội của ông

thường đi sâu tái hiện những truyền thống, những nét đẹp xoay quanh cuộc sống

của người dân nơi đây. Những hình ảnh đẹp đó trở đi trở lại nhiều lần và đã trở

thành biểu tượng nghệ thuật cho tác phẩm. Có thể kể đến một số biểu tượng tiêu

biểu trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến như: Hồ Gươm, phố phường Hà Nội.

3.1.2 Một số biểu tượng văn hóa Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến

3.1.2.1 Biểu tượng phố

Hình ảnh những phố phường trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến, được trở

đi trở lại nhiều lần và mang ý nghĩa biểu tượng. Biểu tượng phố phường được

Nguyễn Ngọc Tiến đề cập, khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau, có khi hiển hiện

trực tiếp bằng cái tên, địa danh cụ thể, nhưng cũng có khi tồn tại dưới dạng biến thể

mang đặc điểm, sắc thái, linh hồn của Hà Nội.

Với cách biểu hiện trực tiếp, trong một số bài viết Nguyễn Ngọc Tiến nói

đến làng, phố phường bằng cái tên cụ thể như làng Nghi Tàm, làng Yên Phụ Từ

Kios hoa đến bốt giao thông những làng trồng hoa nổi tiếng Hà Nội, làng Thụy

Chương Thụy Chương nấu rượu la cà cả đêm với nghề nấu rượu, nổi tiếng với rượu

nhụy sen, làng Nhật Tân nổi tiếng với hoa đào Đào Nhật Tân có từ bao giờ?, làng

Yên Phụ với nghề nuôi cá cảnh nổi tiếng và Hà Nội chỉ có duy nhất làng này trong

bài viết Chơi cá cảnh… Mỗi làng đều lưu giữ trong mình nét đẹp về thiên nhiên

,những nếp sống văn hóa hay những phong tục tập quán ngàn đời.

Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì các phố phường cũng xuất hiện

ngày càng nhiều, những tên phố phường lại mang những dấu ấn riêng: “Các làng

77

nghề xuất hiện ở Thăng Long-Kẻ Chợ thì cũng xuất hiện các phố mang tên một mặt

hàng được bày bán. Cũng theo Marini ở mỗi đầu phố đều treo một tấm biển gỗ trên

đó có ghi các mặt hàng, phố Hàng Đào bán tơ lụa, Hàng Ngang bán xiêm áo, Hàng

Bạc bán đồ trang sức, kim hoàn, Hàng Đồng bán đồ đồng, phố Hàng Tượng bán

giày dép, phố Bát Sứ bán đồ sứ… [21, tr.277]. “Sau 1954, nội thành Hà Nội có hơn

300 phố. Từ khi sáp nhập Hà Tây và nội thành được mở rộng về bốn hướng, nhiều

phố mới hình thành, hiện tại khu vực nội thành gồm 900 phố. (…) Danh từ phố theo

nghĩa Nôm “là nơi mua bán, là khu dân cư tập trung quanh khu vực bến thuyền”.

Ban đầu, phố là nơi bán hàng và dần dần phố là nơi có nhiều cửa hàng” [24,

tr.306]. Tên các con phố cũng được Nguyễn Ngọc Tiến giải thích khá chi tiết: “Sỡ

dĩ có tên phố Cầu Gỗ vì đầu thế kỉ XX, giữa Hàng Đào và Hàng Bè vẫn còn hồ Thái

Cực nhưng dân quen gọi là hồ Hàng Đào. Hồ này có một con mương nhỏ ăn thông

với hồ Hoàn Kiếm. Để đi lại, người dân bỏ tiền làm cầu gỗ vì thế có tên là phố Cầu

Gỗ” [22, tr.240]. Các phố có các nghề truyền thống cũng được đặt tên theo nghề

truyền thống như phố Tràng Tiền vì chuyên đúc tiền đồng và tiền kẽm, phố Hàng

Khay vì có nghề khảm trai nổi tiếng…

Qua những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến thì phố phường không chỉ là

nơi trao đổi sản vật, văn hóa mà còn là nơi tiếp xúc xã hội. Phố phường góp phần

truyền bá văn hóa, mang đến nhiều cái mới trong cuộc sống, mở ra những không

gian rộng lớn: “Thăng Long là kinh đô nên khu phố cổ có rất nhiều di tích văn hóa,

lịch sử giá trị. Theo thống kê, khu vực này hiện có 128 di tích, gồm đền, chùa, quán,

đình, nhà thờ họ, di tích cách mạng… trong đó có nhiều di tích được xếp hạng quốc

gia và thành phố. Nhưng còn một giá trị vô hình nữa là không gian sống , nó hòa

quyện cùng với những di tích lịch sử, văn hóa làm khu phố cổ trở thành đô thị

truyền thống độc đáo ở Việt Nam” [24, tr.257].

Phố phường là nơi khẳng định truyền thống yêu nước của cả phố và những

con người ở trong đó: “Phố Hàng Đào có rất nhiều người tài giỏi và yêu nước như

cụ cử Lương Văn Can. Năm người con của cụ đều hoạt động cách mạng trong đó

78

có Lương Ngọc Quyến lãnh đạo khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 sau đó bị Pháp giết

hại” [22, tr.229].

Qua các bài viết của Nguyễn Ngọc Tiến, ta có thể hình dung một Hà Nội với

nhiều phong tục, làng nghề đặc sắc truyền lại từ nhiều đời. Biểu tượng phố phường

không chỉ biểu hiện hoạt động buôn bán, sinh hoạt ở riêng các khu phố phường mà

ta còn thấy ở đó một văn hóa phố phường qua cách cư xử trong cộng đồng, cá nhân

với nhau: Từ đời vua Gia Long đến Tự Đức và kéo dài đến thập niên 20, trên các

con phố Hà Nội nhỏ xinh bao giờ cũng có vại nước vối ủ nóng trước cửa nhà để

người đi đường khát thì uống. Và cứ đầu năm, phố trưởng đi tường nhà quyên cho

quỹ giúp người, đóng bao nhiêu cũng được, tùy tâm. Cũng nhờ quỹ này mà dân mất

nhà vì cháy có thêm tiền lo chỗ ở mới” [23, tr.40].

Biểu tượng ấy còn được thể hiện gián tiếp qua các thú chơi của người Hà

Nội. Biểu tượng phố phường không được gọi tên cụ thể mà được nói đến qua những

hoạt động văn hóa của con người. Trong Từ kios hoa đến bốt giao thông nhà văn

gợi lại không gian đậm chất văn hóa của nếp nhà cũng như thú chơi hoa, cây cảnh

của người dân Thăng Long-Hà Nội: “Ngày xưa nếp nhà Kẻ Chợ hình ống, có nghĩa

là nhà 3 gian hay 5 gian ở quê được xoay đầu hồi ra mặt phố. (…) Thú chơi hoa,

cây cảnh ở Thăng Long theo năm tháng được nâng lên thành nghệ thuật. Thú chơi

di dưỡng tinh thần này buộc họ phải am hiểu kĩ thuật trồng, cắt tỉa lá cành, bón

phân mà còn phải tuân theo tín ngưỡng. (…) Không chỉ chơi hoa – thứ thiên nhiên

ban tặng, người Thăng Long còn chơi cây cảnh mà nay quen gọi là cây thế. Khác

với hoa là màu sắc và hương thơm thì cây thế lại do con người uốn tỉa, làm trái với

quy luật để tạo ra những cây cổ thụ cằn cỗi, bé tí, còi cọc. (…) Tùy tính cách và

mong muốn của từng người chơi mà chọn cây, hoa, cây thế phù hợp” [22, tr.72-74].

“Thế kỉ XVIII, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến khắp thành Thăng Long.

Không chỉ tầng lớp “sĩ, công, thương mà cả những người làm nghề nông cũng treo

câu đối Tết” [23, tr.190]. Không những thế những thú chơi di dưỡng tinh thần của

người dân Hà Nội góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa quốc gia như chơi đĩa

than, sưu tập tranh, sưu tập đồ cổ… Với vốn hiểu biết phong phú tổng quát về Hà

79

Nội và tài quan sát tinh tế màn tính chất cộng đồng, Nguyễn Ngọc Tiến đã làm hiện

lên một phố phường Hà Nội với nhiều làng nghề văn hóa, những thú chơi văn hóa

di dưỡng tinh thần của người dân nơi đây. Bên cạnh những tên gọi cụ thể, phố

phường trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến còn thể hiện qua những kiến trúc tiêu

biểu của phố phường Hà Nội: phố cổ, Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa, cầu

Long Biên, …

Qua khảo sát, tìm hiểu các tác phẩm viết về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến,

chúng tôi nhận thấy biểu tượng phố phường được thể hiện trong các tác phẩm khi

thì cụ thể trực tiếp, nhưng có khi lại gián tiếp, tất cả toát lên phố phường Hà Nội là

sự gắn bó giữa người với người, con người với cộng đồng, phố phường là cuộc

sống, là nơi sinh tồn, là phần hồn của mỗi con người. Cao hơn cả phố phường là

chính quê hương, là đất nước của mỗi con người.

3.1.2.2 Biểu tượng hồ Gươm

Hồ Gươm cùng với cầu Thê Húc, Tháp Bút, Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn đã đi

vào sử sách, thi ca… Hồ Gươm được xem là nơi hội tụ của huyền thoại, một không

gian phản chiếu những yếu tố tinh thần, tôn giáo, vừa linh thiêng huyền bí, vừa lãng

mạn giàu chất thơ. Ở xung quanh nơi đây đã hình thành và tổ chức nên những

phong tục tập quán rất riêng đã trực tiếp ăn sâu vào cuộc sống hàng ngày của người

dân Hà Nội.

Trong các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến thì biểu tượng Hồ

Gươm cũng được ông nhắc đến nhiều lần, là một hình ảnh căng tràn nhựa sống.

Ngay cả trong tên một cuốn tạp văn của thì hồ Gươm cũng được nhắc đến là 5678

bước chân quanh hồ Gươm với 56 bài viết xoay quanh những con người, những

chuyện mà ông khảo cứu hay trải nghiệm của chính ông. Nguyễn Ngọc Tiến nhắc

về tên gọi tại sao lại gọi là hồ Gươm: “Sau khi đánh tan giặc Minh một hôm Lê

Thái Tổ ngồi trên thuyền rồng dạo chơi trên hồ thì thần Kim Quy nổi lên, ngài hiểu

thần muốn lấy lại thanh gươm báu trước kia thần đã cho ngài mượn đánh giặc

Minh. Và khi ngài rút gươm ra khỏi vỏ thì lập tức thanh gươm bay về phía thần Kim

Quy, thần ngậm thanh gươm rồi từ từ lặn xuống chỉ để lại một vệt sáng loang

80

loáng. Từ đó dân gian gọi Lục Thủy là hồ Hoàn Kiếm (hay gọi tắt là hồ Gươm)”

[22, tr.9]. Những hoạt động của con người xung quanh hồ Gươm cũng được tác giả

nhắc đến như: rùa hồ Gươm; người dân các làng quanh hồ ào xuống sát hồ chiếm

đất làm nhà; thi đua thuyền, lướt ván trên hồ; Bờ Hồ là nơi chờ người thân, tìm

đồng hương khi chưa có điện thoại… Với cách miêu tả tỉ mỉ, tường tận, qua đó

người đọc thấy được sự tìm tòi, nghiên cứu, quan sát kỹ lưỡng, vốn hiểu biết phong

phú của nhà văn về các hoạt động văn hóa, sinh hoạt hàng ngày ở nơi đây.

Điều mà người đọc dễ nhận thấy hơn cả là biểu tượng hồ Gươm trong sáng

tác của Nguyễn Ngọc Tiến được thể hiện cụ thể, sinh động qua những công trình

kiến trúc, đời sống sinh hoạt của người dân. Hồ Gươm được coi là trái tim của Hà

Nội thì trong bốn cuốn tạp văn, biểu tượng hồ Gươm là trung tâm, là nơi mà các

hoạt động của con người diễn ra xung quanh, là nơi chứng kiến sự biến đổi toàn

diện của thủ đô. Qua đó thể hiện niềm tự hào về văn hóa, văn hiến, đồng thời nhà

văn cũng cảm nhận được sức mạnh cộng đồng trong các hoạt động văn hóa đó. Nó

không chỉ là kết quả của trí tuệ, tài năng, sức mạnh của tập thể mà còn là nơi gắn

kết tình cảm của con người với con người, con người với thiên nhiên, quê hương đất

nước.

Trong bốn cuốn tạp văn, biểu tượng hồ Gươm được được thể hiện qua các

công trình kiến trúc trên hồ và xung quanh hồ. Kiến trúc Tháp Rùa được nhắc đến

khá kĩ để tô điểm nên một hồ Gươm đẹp mà ai đến cũng phải ngắm nhìn: “Tháp

hình chữ nhật cao ba tầng, tầng dưới xây rộng hơn, lên cao thì thu nhỏ dần, được xây trên Gò Rùa rộng khoảng 350m2. Mặt phía đông và tây có chiều dài 6,28m.

Phía nam và bắc rộng 4,54m. Hai tầng có lan can chạy xung quanh. Bốn đầu đao

đắp uốn cong dần lên vào giữa đỉnh, trên đỉnh có hình ngôi sao năm cánh. Hình

tượng ngôi sao năm cánh có ở các nhà thờ ở nước Ý thời trung cổ. (…) Tầng đỉnh

chỉ như một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề mặt hai mét. Trên tầng mặt phía đông, bên

trên cửa trong của tầng ba có ba chữ Quy Sơn Tháp (nghĩa là tháp núi rùa). Như

vậy, từ trên đất Gò Rùa lên đến đỉnh tháp cao 8,8m. Dù Tháp Rùa không phải là

công trình kiến trúc đặc sắc, song ai đi qua hồ Gươm không thể không ngắm tháp,

81

và Tháp Rùa làm cho hồ Gươm đỡ trống trải và bớt đơn điệu hơn” [22, tr.363].

Những công trình kiến trúc được xây dựng xung quanh hồ được tác giả nhắc đến

như điểm tô thêm cho vẻ đẹp hồ Gươm: “Khi quân Pháp tái chiếm Hà Nội năm

1883 (…) Công sứ Bonnal đã lên một kế hoạch cải tạo Hà Nội. Theo kế hoạch này,

khu vực phía đông hồ Gươm sẽ là khu hành chính, khu vực phía nam là khu phố

mới và phía tây hồ sẽ trở thành khu vực dành riêng cho người Pháp và làm một

đường vòng quanh hồ Gươm” [22, tr.119]. Ở bài viết “Từ tương lai Bắc Kỳ” đến

“Hà Nội mới”, tác giả có nhắc đến công trình kiến trúc khá thú vị của báo Hà Nội

mới: “Kiến trúc sư đã thiết kế một cửa sổ hình tròn trên tầng áp mái, từ cửa sổ này

có thể bao quát toàn cảnh hồ Gươm. Mặt tiền cũng như tường hậu có nhiều đường

nét uyển chuyển làm tòa nhà mềm mại trước hồ Gươm lung linh” [22, tr.141]. Các

tượng đài, vườn hoa, công viên cùng nhiều công trình kiến trúc khác xung quanh hồ

Gươm cũng được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến khá chi tiết. Qua đó, chúng ta có thể

thấy được sự quan sát tỉ mỉ, vốn hiểu biết phong phú cùng sự tìm tòi khảo cứu công

phú của tác giả.

Biểu tượng hồ Gươm cũng là nơi sinh hoạt văn hóa và cũng là nơi có những

kỉ niệm khó quên của người dân Hà Nội. Trong bài viết Đinh Hợi, Tết ra đi và Qúy

Sửu, Tết trở về, Nguyễn Ngọc Tiến đã nhắc về một quá khứ đau thương nhưng vô

cùng hào hùng của quân dân Hà Nội. Dù trong khói lửa chiến tranh, phải đi tản cư

nhưng họ vẫn luôn giữ được nét văn hóa: “Lệnh phát ra và hơn 10 vạn dân hối hả

gói ghém đồ đạc ra đi. Dù vội vã chuẩn bị đồ đạc nhưng hầu hết các gia đình vẫn

tranh thủ cúng ông Công ông Táo, có gia đình mang sẵn đồ đạc ra hồ Hoàn Kiếm,

hồ Bảy Mẫu, Trúc Bạch… phóng sinh cá chép xong là đi ngay” [21, tr.93].Hồ

Gươm là nơi chứng kiến bao thăng trầm, mất mát của nơi đây. Ngày ra đi ngậm

ngùi thì ngày trở về đông vui, nhộn nhịp, mừng rỡ, hạnh phúc và hồ Gươm chính là

nơi mà người dân cùng ăn mừng vì hòa bình được lặp lại, mừng xuân Qúy Sửu với

nhiều hoạt động quanh Bờ Hồ như thi hoa, biểu diễn ca nhạc,… Ngày ăn mừng

thống nhất đất nước diễn ra tại hồ Gươm, có lẽ với người dân Hà Nội, ngày ấy là

ngày không thể nào quên với tiếng pháo hoa nổ để ăn mừng ngày giải phóng: “Có

82

lẽ đây là lần ùn tắc đầu tiên ở Hà Nội dù ở thời điểm đó dân số nội thành không

quá đông và xe cũng ít. Chúng tôi len lỏi rồi lên Bờ Hồ, chỗ nào cũng có tiếng pháo

nổ và cũng là lần đầu, tổ phục vụ các tiểu khu không lấy tiền trông giữ xe đạp.(…)

Bánh pháo dài đến mấy chục mét. Tiếng nổ kéo dài mười mấy phút mới hết. (…) Tin

tối ngày 1-5 bắn pháo hoa ở Bờ Hồ lan ra và sáng 1-5, bà con các tỉnh nườm nượp

đổ về Hà Nội… Tối mùng 1-5, pháo hoa bắn ở Bờ Hồ và Công Viên Thống Nhất,

tiếng reo vang mỗi khi quả pháo lên cao nở ra hình buồng chuối hay hoa cải” [21,

tr.155]. Hồ Gươm cũng không biết từ khi nào trở thành nơi sinh hoạt văn hóa mỗi

dịp xuân về của người dân Hà Nội: “Đi chơi giao thừa quanh hồ Gươm đã trở

thành nét sinh hoạt văn hóa hơn nửa thế kỉ nay. Không chỉ nam thanh, nữ tú mà còn

có rất nhiều người cao tuổi cùng con cháu họ ra đây xem bắn pháo hoa, hái lộc, thụ

khí thiêng đất trời chốn huyền thoại trong thời khắc chuyển từ năm cũ sang năm

mới” [21, tr.199].

Xung quanh hồ Gươm còn là nơi kiếm sống của nhiều kiếp người với những

số phận, những câu chuyện khác nhau như những người tẩm quất, những người hát

sẩm, người bán nước chè… nhưng đó cũng là một nét văn hóa độc đáo rất riêng của

Hà Nội.

Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến, hồ Gươm là nơi bảo tồn những giá trị

văn hóa, chứng nhân lịch sử hào hùng của dân tộc, là nơi diễn ra những sinh hoạt

truyền thống, nơi kiếm sống của con người. Hình ảnh hồ Gươm hiện lên trong các

cuốn tạp văn mang đặc trưng riêng của hồn đất và người Hà Nội. Hồ Gươm sẽ mãi

mãi trong tiềm thức của những người con đất Việt như một biểu tượng thiêng liêng

về lịch sử và truyền thống văn hóa dân tộc.

3.2.Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ

sĩ sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật có chức năng

thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Chức năng quan trọng nhất của ngôn

ngữ nghệ thuật là chức năng thẩm mỹ. Chức năng này được xác định trong hệ thống

các hình tượng tác phẩm và phong cách của tác giả, bởi ngôn ngữ nghệ thuật là sự

83

thể hiện tài năng của nhà văn. Ngôn ngữ nghệ thuật vừa là hình thức phản ánh đồng

thời chứa đựng nội dung phản ánh nên ngôn ngữ nghệ thuật thường đa nghĩa.

Trong quá trình lao động sáng tạo của nhà văn thì ngôn ngữ nghệ thuật chính

là nơi mà nhà văn bộc lộ tài năng. Ngôn ngữ nghệ thuật mang dấu ấn, màu sắc riêng

của chính tác giả, phản ánh nét độc đáo và là một trong những biểu hiện quan trọng

nhất tạo nên phong cách của từng nhà văn. Những nhà văn nổi tiếng là những nhà

văn có phong cách riêng, bút pháp riêng và ngôn ngữ nghệ thuật riêng.

Ngôn ngữ trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến viết về đề tài Hà Nội giản dị,

mộc mạc, tự nhiên, dễ hiểu, hàm súc. Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến

rất chú trọng đến việc sử dụng ngôn từ. Bởi vậy, khi nghiên cứu về những giá trị

văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến, luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu

ngôn từ trong sáng tác của ông trên các phương diện sau:

3.2.1 Ngôn ngữ mang tính chất khảo cứu

Theo Wiktionary, nghĩa của từ khảo cứu là “Tìm hiểu trên cơ sở nghiên cứu,

đối chiếu sách vở, tài liệu cũ” [38, tr.1]. Một đặc trưng trong lối diễn đạt trong tạp

văn của Nguyễn Ngọc Tiến chính là khảo cứu. Trong những bài viết, ông luôn luôn

có sự so sánh, đối chiếu với sách vở, tài liệu có trước ở nhiều khía cạnh khác nhau.

Cùng với những thông tin kiến thức sâu rộng về mọi khía cạnh, mọi vấn đề

của Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến khi viết về những câu chuyện trong các cuốn tạp

văn luôn có sự đối chiếu, so sánh với sách vở, tài liệu với những dẫn chứng, số liệu

cụ thể. Nguyễn Trương Qúy nhận xét: “Cho đến giờ, những khảo cứu của anh về

một Hà Nội qua chiều dài lịch sử đã thành thương hiệu trong làng văn. Đọc những

trang viết từ nhiều cuốn sách được tập hợp qua nhiều năm tháng miệt mài làm việc,

tập trung quanh câu chuyện về một mảnh đất nhiều thăng trầm, người ta có thể thấy

Nguyễn Ngọc Tiến như một sử nhân của Hà Nội” [21, tr.5]. Nhà phê bình Nguyễn

Hòa cũng nhận xét rằng: “Tôi nhận ra một Nguyễn Ngọc Tiến không chỉ là một nhà

báo, anh làm công việc khảo cứu một cách chững chạc. cẩn trọng, kỹ lưỡng, có

trách nhiệm và có chính kiến riêng… Vì thế, liệu có là quá lời khi khẳng định, đến

Đi dọc Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến thực sự mở ra cách tiếp cận mới, rất khác so với

84

một số tác giả trước đây, cũng như đương thời, và anh đã thành công? Tôi đưa ra

giả định này bởi qua ba cuốn sách, tôi nhận ra các bài kí sự, khảo cứu lịch sử văn

hóa tinh tế của anh đã đạt tới một đẳng cấp mới” [7, tr. 7-8].

Nguyễn Ngọc Tiến khảo cứu cần mẫn và kì công để viết từng trang. Đọc các

cuốn sách của ông, người đọc không chỉ thỏa mãn nhu cầu đọc thuần túy mà còn có

những hiểu biết sâu rộng hơn về Hà Nội ở nhiều góc cạnh, nhiều vấn đề. Ban giám

khảo giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội, 20132 khẳng định: “ Đi ngang Hà

Nội và Đi dọc Hà Nội của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến đã mở ra một hướng ghi chép,

khảo cứu độc đáo về cuộc sống thường ngày ở Hà Nội”.

Khi viết về Hồ Gươm, Nguyễn Ngọc Tiến lần lượt đưa ra các mốc thời gian,

từ khi có tên gọi là hồ Gươm cho đến những câu chuyện xung quanh nơi này. Các

bài viết về các phương tiện giao thông ở Hà Nội như Xe buýt, Xe đạp ơi!, Ôtô – biểu

tượng quyền lực, Xe máy,… tác giả cũng nói về các mốc thời gian từ khi xuất hiện

đến sự phát triển của phương tiện giao thông này qua nhiều thời kì: “Sau đại chiến

thế giới lần thứ I, vào khoảng năm 1919-1920, bốn chiếc xe buýt hiệu GM của Mỹ

lần đầu xuất hiện tại Hà Nội. (…) Trước khi Hà Nội tiến hành cải tạo công thương

nghiệp tư doanh 1959, Hà Nội có gần 800 xe buýt và xe tải…” [23, tr.29]. Câu

chuyện về Từ thiện xưa, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã khai thác triệt để, khảo cứu để

đưa ra những dẫn chứng cụ thể về những người Hà Nội từ xưa đến nay luôn có một

lòng yêu nước, thương đồng bào, luôn luôn giúp đỡ những người nghèo khổ.

Tác giả không những tìm tòi khảo cứu, nghiên cứu những cuốn sách lịch sử,

văn hóa, báo, tài liệu trong nước mà còn dày công tìm hiểu những sách báo cuả

người nước ngoài viết về Hà Nội để hoàn thành những cuốn tạp văn để đưa đến

người đọc những bài viết cụ thể, sâu sắc về tất cả những khía cạnh của Hà Nội xưa

và nay. Nói đến Từ quần áo ta đến quần áo Tây, từ ngay đầu bài viết tác giả đã

cung cấp tài liệu cụ thể: “Trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839),

vào thời Lê, học trò và người thường khi có công việc đều mặc áo thâm, dân quê

mặc áo vải thô màu trắng. Đến cưới thời Lê lại mặc áo Thanh cát gồm các màu

xanh sẫm, xanh nhạt và màu sừng” [31, tr.68]. Khi nói về làng Thụy Chương nấu

85

rượu nổi tiếng thì tác giả cũng dẫn các tài liệu: “Sách Lĩnh nam chích quái chép:

“Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo… lấy cốt gạo làm

rượu”, còn sách An Nam chí lược, phần chép về Triệu Đà có đoạn: “Thừa tướng

Lữ Giang chẳng chịu ra mặt sứ giả nhà Hán, Cù Thái hậu mưu giết bèn mở hội

trong cung, lúc uống rượu Thái hậu bảo Gia rằng…” [23, tr.90]. Nguyễn Ngọc

Tiến cũng khảo cứu rất nhiều các tài liệu của tác giả nước ngoài để tăng sức chân

thật, cụ thể các vấn đề mà ông nhắc đến như: Một chiến dịch ở Bắc Kỳ (Hocquard),

Người và việc ở Đông Dương (Clau Bourrin), Đông Dương ngày ấy, 1898-1908

(Clau Bourrin), Hà Nội giai đoạn 1873-1888 (André Masson), Xứ Đông thuộc Pháp

– Những kỉ niệm (Paul Doumer), Lịch sử tự nhiên, dân số và chính trị xứ Đàng

Ngoài (Richard)…

Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể về những người Hà Nội cụ thể, có danh tính rõ

ràng, là những người góp phần làm đẹp nên những nét đẹp của người Thăng Long-

Hà Nội. Trong bài viết Những gương mặt thị trưởng, tác giả nhắc đến Trần Duy

Hưng – một người tài giỏi, giản dị, yêu nước: “Bác sĩ Trấn Duy Hưng sinh năm

1912 trong một gia đình trung lưu ở thôn Hòe Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ

Liêm, Hà Nội. Gia đình ông gia giáo, nề nếp. Ông than gia tích cực phông trào

Hướng đạo sinh, do có uy tín ông được cụ Hoàng Đạo Thúy giao phụ trách hoạt

động của Hướng đạo sinh Hà Nội và Bắc Kỳ. (…) Tốt nghiệp bác sĩ loại giỏi, được

gia đình hỗ trợ ông mở một bệnh xá nhỏ 10 giường ở phố Hàng Bông Nhuộm. Năm

30 tuổi, ông trở thành bác sĩ đa khoa nổi tiếng. Uy tín của Trần Duy Hưng với

phẩm chất tốt đẹp, lòng nhân ái và độ lượng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh biết

đến. (…) Giữ chức vụ chủ tịch một thành phố song hàng ngày ông vẫn đi làm bằng

xe môtô cá nhân. Những ngày đầu của chính quyền cách mạng thật khó khăn, ngân

khố cạn kiệt, không ít cuộc đưa đón khách quốc tế, gia đình ông phải cáng đáng.

(…) Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, ông được gần gũi và chăm sóc sức

khỏe cho Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng vẫn đảm bảo tốt nhiệm vụ Thứ trưởng Bộ

Nội vụ rồi Thứ trưởng Bộ Y tế. (…) Trong suốt thời gian làm chủ tịch thành phố,

86

phòng làm việc của ông chính là căn phòng mà ngày xưa các đốc lí vẫn ngồi. Và

bàn ghế, đồ đạc vẫn thế” [22, tr.350-353].

Tác giả nhắc đến những con người Hà Nội yêu nước, thương nòi được người

Pháp ngưỡng mộ: “Giàu có nhưng cô Tư Hồng có lòng thương người, noi nào trên

cõi Việt Nam bị mất mùa, bão lụt, cô đều chở gạo đến cứu tế. Quan Tư Laglan phục

ý chí, nghị lực, mưu mẹo của người vợ An Nam của mình” [24, tr.266]. “Bà Cả

Mọc là người đầu tiên ở Việt Nam mở trường nuôi dạy trẻ miễn phí, mở trại dưỡng

lão cho người già không nơi nương tựa. Nhiều người Pháp đến thăm và họ không

ngờ An Nam lại có nhà trẻ đầy tính nhân ái vì mô hình này ở châu Âu thời điểm đó

rất ít” [24, tr.318-319].

Nguyễn Ngọc Tiến cũng nói về Tiến Thành người có tay nghề may complet

nổi tiếng ở Hà Nội một thời, Phan Xuân Thủy với hiệu ảnh Quốc tế, … Nguyễn

Ngọc Tiến cũng kể về một người Pháp yêu Hà Nội tha thiết với những bức ảnh

chụp Hà Nội, Đông Dương và đã quảng bá con người, cảnh vật nơi đây ra ngoài thế

giới trong bài viết Từ Đặng Huy Trứ đến Dieulefils và… Qua đó có thể thấy được

sự tự hào, trân trọng của tác giả đối với những con người Hà Nội, những người yêu

Hà Nội với những nét đẹp tâm hồn đã làm đẹp thêm mảnh đất văn hiến ngàn năm.

Vậy nên, khi đọc tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến, người đọc luôn cảm thấy

có sức hút, vì khi lật giở, đọc từng trang lại có thêm nhiều hiểu biết, bổ sung vô số

những kiến thức mới mẻ về đất và người Thăng Long-Hà Nội. Nguyễn Ngọc Tiến

từng tâm sự rằng: “Ngoài chuyện không đầu, không cuối, tôi cũng lan man những

điều tôi đọc trong sách, tôi chứng kiến và cảm nhận được về Thăng Long-Hà Nội.

Có nhiều đoạn tôi chỉ mất công sắp xếp tư liệu, lại có đoạn tôi kể những chuyện

không được nhã lắm nhưng đành. Khi viết, tôi không chú trọng nhiều đến bố cục,

dài hay ngắn, tài liệu có đến đâu viết đến đó nên có phần khô cứng. Song đó là

những gì tôi biết” [22, tr.6]. Đúng như vậy, các bài viết, những câu chuyện trong

bốn cuốn tạp văn của ông là những gì ông biết, ông tìm hiểu được, không hề có sự

đưa đẩy, màu mè, kiểu cách.

87

3.2.2 Ngôn ngữ báo chí

Ngôn ngữ báo chí là việc người viết dùng ngôn từ để đưa các thông tin, sự

kiện, tin tức tới đọc giả. Ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, súc tích, được viết bằng những

câu từ đanh thép, lời văn nghiêm túc, lí luận sắc bén, từ ngữ dễ hiểu, sát nghĩa, từ

đó tạo nên sức hấp dẫn cho mỗi bài viết, khơi gợi tính tò mò cho người đọc.

Nguyễn Ngọc Tiến với công việc chính là một nhà báo. Các câu chuyện mà

ông kể trong các cuốn tạp văn đều dựa trên cơ sở tư liệu cụ thể, luận giải khách

quan. Đôi khi ông cũng đưa ra các giải thuyết mới để người đọc có thể cùng suy

ngẫm. Điều này thể hiện ý thức, trách nhiệm cao của một nhà báo, một người cầm

bút chân chính. Khi viết Từ chùa Báo Ân đến Bưu điện, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa

ra mốc thời gian và lí giải cụ thể: “Công trình xây dựng Nhà Bưu điện mới được đặt

tên là công trình 7138 do Trung Quốc viện trợ, theo cách viết của người Trung

Quốc 7138 nghĩa công trình bắt đầu từ ngày 8-8-1971” [22, tr.46]. Trong bài viết

Đại sứ Mỹ Peterson uống cà phê bên Hồ Gươm, tác giả đã đưa lại một dẫn chứng

hết sức cụ thể về những năm đau thương của Hà Nội trong 12 ngày đêm Mỹ ném

bom phá hoại năm 1972: “Đỉnh cao của chiến tranh bằng không quân của Mỹ là 12

ngày đến tháng 12-1972. Mỹ đã huy động hai nghìn bảy trăm lượt chiếc máy bay

các loại, trong đó có máy bay chiến lược B-52 tập kích Hà Nội và thả gần hai nghìn

tấn bom. Phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai, khu An Dương rồi huyện Gia Lâm,

Đông Anh, Thanh Trì… bị “pháo đài bay” tải thảm bom. Chỉ trong 12 ngày, bom

Mỹ đã giết hại 2.289 người, làm bị thương 1.570 người, trong đó có nhiều trẻ em”

[22, tr.128].

Nguyễn Ngọc Tiến viết về một cuộc đua xe đạp đường dài đầu tiên ở Hà

Nội, như chính ông là người đi lấy tin ghi hình ngay tại thời điểm đó: “Tháng 2-

1929, cuộc đua xe đường dài đầu tiên theo lộ trình Hà Nội - Sơn Tây – Hà Nội về

qua Hà Đông dài 100km được đại lý hãng Peugot là Berset ở phố Tràng Thi tổ

chức, kết quả về nhất là hai tay đua người Pháp: Mousserat và Mare với thời gian

3 giờ 7 phút, về đích thứ năm là tay đua Hà Nội tên Bổng với thời gian 3 giờ 11

phút 32 giây còn tay đua Cổng về thứ sáu” [24, tr.32]… Có nhiều lúc, Nguyễn

88

Ngọc Tiến lần lại lịch sử: “Ngọa Triều mất, chấp nhận lời yêu cầu của các quan, Lý

Công Uẩn lên ngôi lập ra triều đại nhà Lý năm 1009 thay thế nhà Tiền Lê, lấy

miếu hiệu là Thái Tổ. Hoa Lư thành kinh đô của nước Đại Cồ Việt dưới triều Đinh

(968-979) và Tiền Lê (980-1009) nằm ở vùng núi non hiểm trở với địa thế “Tiến

khả dĩ công, khoái khả dĩ thú” (tiến có thể đánh thắng, thoái có thể bảo vệ) song vị

vua 35 tuổi không muốn ở mãi nơi rừng xanh núi thẳm vì như vậy thì vua của một

nước mà chẳng khác gì một tộc trưởng nên ngài quyết định rời đô ra thành Đại La

cũ” [22, tr.21]. “Khi quân Minh chiếm thành Thăng Long đổi tên thành Đông Quan

nhưng người dân Đại Việt vẫn gọi thành Thăng Long. Lê Thái Tổ đổi Thăng Long

thành Đông Kinh, dân vẫn gọi Thăng Long” [21, tr.293]…

Nguyễn Ngọc Tiến cũng đưa ra rất nhiều ý kiến ở các câu chuyện mà ông nói

đến để người đọc cùng suy ngẫm. Trong Nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp đầu tiên

của Việt Nam, Nguyễn Ngọc Tiến đã thể hiện sự tiếc nuối khi những bức tranh – tài

sản quốc gia bị mang ra nước ngoài mà không thể làm gì được: “Năm 1989, các

nhà buôn, nhà sưu tập tranh nước ngoài vào Việt Nam lục lọi, tìm kiếm các tác

phẩm có giá trị, nhất là tranh của các họa sĩ từng học Cao đẳng Mỹ thuật Đông

Dương và mua khá nhiều mang đi. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam biết nhưng không

có kinh phí nên đành nhìn tài sản quốc gia bị đóng gói chuyển ra nước ngoài.

Không chỉ mua tranh, họ còn lùng mua các bản phác thảo, kí họa. Khi thị trường

nhận ra giá trị tranh của lớp họa sĩ này thì một số đã về với tổ tiên, số còn lại

không vẽ được vì tay đã run” [22, tr.161]. Ông thể hiện sự tiếc nuối với thú chơi cá

chọi của trẻ con Hà Nội nay đã không còn vì bây giờ chúng phải học quá nhiều

trong Chơi cá cảnh. Nguyễn Ngọc Tiến nhiều lúc cũng bày tỏ nỗi niềm xót xa với

một bộ phận người không giữ được nét đẹp thanh lịch của người Hà Nội, đã có sự

tha hóa đạo đức xã hội: “Cũng như ngày xưa, nhà trọ ngày nay là nơi tha hóa đạo

đức xã hội, một anh chàng đã có vợ ở quê ra thành phố kiếm sống chung sống với

một em nào đó, trai gái chưa cưới xin ở với nhau thoải mái. Rồi một bác có tuổi

thuê nhà cho em cave (gái mại dâm) ở để thi thoảng rẽ vào tòm tem. Và về quê, họ

89

lại thành con người của làng, chất phác, thật thà còn “hương đồng gió nội” …”

[21, tr.261].

Có thể thấy rằng, trong hầu hết các bài viết trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn

Ngọc Tiến đã đưa ra các con số và sự kiện rất cụ thể để cho người đọc có thể tin

tưởng, hiểu rõ các câu chuyện và có thể suy ngẫm, chiêm nghiệm các vấn đề ông

nói đến.

3.2.3 Ngôn ngữ giản dị, đời thường

Ngôn ngữ trong bốn cuốn tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến được ông diễn đạt

như những lời ăn tiếng nói hàng ngày, hết sức dung dị ,gần gũi. Ông đặc biệt dùng

nhiều các câu ca dạo, tục ngữ, thành ngữ, vè…. Hay kể những câu chuyện được

truyền miệng trong dân gian với những cách dẫn dắt kể chuyện gần gũi, thân thuộc

như chính cách kể dân gian.

Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến sử dụng rất nhiều ca dao, tục

ngữ, thành ngữ, vè, hay những câu rao bán hàng củng những người bán hàng

rong… Có thể thấy được vốn văn học dân gian của ông rất phong phú.

Nguyễn Ngọc Tiến khi nói về thú chơi cây cảnh ở Thăng Long- Hà Nội một

thời trong bài Từ kios hoa đến bốt giao thông có dẫn câu ca dao:

“Ai chơi ta cũng chơi cùng

Chơi trúc quân tử, chơi tùng trượng phu”

Ca dao Hà Nội miêu tả vẻ đẹp về nón quai thao được tác giả dẫn trong Làm

duyên làm dáng:

“Hà Nội thì kết quai thao

Ai trông cái nón Ba tầm cũng ưa”

Câu ca dân gian nói về dụng cụ nấu ăn của Mơ Cơm:

“Cơm kia em nấu nồi mười

Cá này niêu đất, rau tươi sanh đồng”

Ca dao nói về tục nhuộm răng và răng đen của phụ nữ xưa được ca ngợi, tôn

vinh là một nét đẹp không thể thiếu:

90

“Một thương bỏ tóc đuôi gà,

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,

Ba thương má lúm đông tiền

Bốn thương răng láng hạt tuyền kém thua.”

Lời than về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được Nguyễn

Ngọc Tiến nhắc đến trong Quảng cáo ở Hà Nội qua câu ca dao tục ngữ Hà Nội:

“Em là con gái đồng trinh

Thắt lưng cho tròn mà lấy chồng quan”

Thụy Chương là một làng nghề nấu rượu nổi tiếng, Nguyễn Ngọc Tiến khi

nhắc về địa danh này trong bài Thụy Chương nấu rượu la cả cả đêm cũng dẫn câu

ca dao tục ngữ Hà Nội:

“Làng Võng bán lợn bán gà

Thụy Chương nấu rượu la cả cả đêm”

Tác giả dẫn ra bài vè trong Xe buýt để nói về sự cạnh tranh quyết liệt của xe

buýt và tàu hỏa hay bài vè về tình trạng thiếu thốn thời bao cấp trong Thời tem

phiếu

Trong Tiếng rao, món quà âm thanh âm miễn phí, Nguyễn Ngọc Tiến đã dẫn

ra khá nhiều những câu rao dân gian, những câu rao luôn có vần, có điệu và khá hài

hước đã đi vào tiềm thức của rất nhiều người Hà Nội, như là một thứ quà âm thanh

miễn phí, không thể thiếu của đời sống người Hà Nội một thời:

“Ai mài dao sắc như nước

Chém nước nước đứt

Chém sắt mẻ dao

Ai mài dao nào”

“Cô kia tóc ngắn ngang vai

Ăn đồng kẹo kéo nó dài đến khoeo

91

Cô kia chưa có người yêu

Ăn đồng kẹo kéo đến chiều có ngay”…

Có lúc, cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tiến không khác gì lời nói thông

thường hàng ngày: “Thời bao cấp, đê với trẻ con thành phố chẳng có gì thơ mộng,

chúng thích thú là tối tối được cha mẹ cho phép ra ị trên mặt đê, gió từ sông Hồng

lùa vào mát đít nên nhiều đứa không muốn về” [23, tr.55]. “Còn Tí “toét” vẫn cố

thủ ở bến tàu điện cho đến khi người ta dỡ bỏ tàu điện năm 1989. May cho Tí, năm

này, Tí vớ được một em bán nước chè rong khá ngon, sợ bị dân anh chị cướp trắng,

hai người dắt nhau đi đâu không ai rõ” [22, tr.269]. Cách cảm nhận về thời trang

một thời của dân tộc và thể hiện các cô gái mặc các trang phục cũng hết sức tự

nhiên, gần gũi: “Yếm của phụ nữ Việt Nam thực ra là chiếc áo lót như quan niệm

của người phương Tây, trước hở lưng, sau che kín đến cổ. Bà già vú teo tóp cũng

mặc yếm, trẻ con ngực phẳng lì cũng yếm. Song phải nhìn cái yếm của thiếu nữ mới

thấy các cụ ta ngày xưa đã sexy trước người phương Tây. Mùa hè, xứ Đàng Ngoài

nóng bức, các cô chỉ mặc độc chiếc yếm tung tăng khắp làng khắp xóm và miếng

vải không che kín bên cạnh nên thấy rõ đôi vú cứ lắc lên lắc xuống theo bước chân.

Mùa đông, gió đông bắc thổi lạnh cắt da cắt thị thì cái yếm ở bên trong với nghĩa

là chiếc áo lót hiền lành” [24, tr.289].

Nhiều khi Nguyễn Ngọc Tiến cũng so sánh, ví von không khác gì cách nói

của các cụ ta ngày xưa: “Xưa đun rơm, cháy vèo vèo nên người đun phải luôn tay

cho rơm vào bếp mà đã thế lại còn: “Đang khi rửa réo cơm sôi/Con còn kêu khóc

chồng đòi tòm tem”, bây giờ thì cứ vô tư đi. Không có gì đổi mới nhanh bằng xó

bếp” [23, tr.338]. “Tình yêu giống như gà chọi, càng kéo ra thì hai con gà lại càng

muốn xông vào” [22, tr.299].

Cùng với những trang viết có số liệu cụ thể, chính xác, Nguyễn Ngọc Tiến

còn kể các câu chuyện li kì được truyền miệng trong dân gian, những câu chuyện

thời hiện đại ông được nghe kể lại, những câu chuyện ông tận mắt chứng kiến và

trải nghiệm và được ông kể lại một cách đầy đủ, hấp dẫn.`

92

Nguyễn Ngọc Tiến kể các câu chuyện truyền miệng về những con yêu và ma

ở Hà Nội trong Bốn con yêu Long Thành và ma Hàng Trống hết sức cụ thể và còn

dẫn ra câu ca dao Thăng Long về bốn yêu tinh của Long Thành:

“Long Thành có bốn yêu tinh

Yêu trước Hồ Giám yêu đình Đồng Xuân

Yêu cây bàng giữa Hàng Cân

Yêu gốc cây liễu bên sân hồ Tàu”

“Bốn con yêu ấy thống quản phần âm u, phần tín ngưỡng , dục vọng của

người Thăng Long suốt các thời Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh

Thịnh, Gia Long. 80 năm làm yêu, làm ma ở thành Thăng Long bốn con yêu ấy kể

ra cũng khỏe cũng dai lắm. Sau khi nó đã tàn thời hết thiêng mà thiên hạ vẫn e ấp

hãi mãi (…) Đại đa số yêu đều xấu, luôn tìm cách hại người và các loại khác để

tăng cường phép thuật, tuy nhiên cả bốn con yêu Long Thành đều nhân văn, biết

phải trái, co học thức, đó là điều lạ trong các chuyện yêu ở cõi Việt” [23, tr.23,26].

Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến không những dùng văn học dân

gian xen kẽ vào những câu chuyện mà ông còn kể lại rất nhiều câu chuyện mà ông

được nghe, được chứng kiến, ông đã từng trải qua: tình yêu của bà Sót, tình yêu của

người bán nước chè tên Vân, cuộc đời của Tí toét đánh tẩm quất ở Bờ Hồ, cuộc đời

những người hát xẩm,… những câu chuyện của riêng ông cùng những kỉ niệm: đọc

sách ở thư viện quốc gia quen nhiều bạn cùng nhiều kỉ niệm, câu tôm ở Hồ Gươm,

uống bia, đi bốc quẻ, ăn Tết đứng… được ông kể tự nhiên, chân thực. Qua các câu

chuyện, người đọc thấy rõ từ ngữ được ông sử dụng mộc mạc, giản dị mà vẫn hết

sức súc tích, sâu sắc. Lời văn tưởng như không có gì mà bao hàm nhiều ý nghĩa

phong phú, gợi cảm.

3.3 Giọng điệu

Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập

trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện

trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm

thụ xa gần. thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [9, tr.63].

93

“Giọng điệu là một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật văn

học.(…) Nó là một thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách

độc đáo của người nghệ sĩ” [2, tr.11]. Giọng điệu có vai trò quan trọng trong sáng

tác của nhà văn. Giọng điệu chưa đựng trong nó thái độ, tình cảm, lập trường tư

tưởng, đạo đức, quan niệm. lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn đối với những hiện

tượng được nói đến trong các tác phẩm. Giọng điệu góp phần quan trọng hình thành

phong cách nhà văn và truyền tải nội dung tư tưởng tác phẩm đến người đọc.

Khi đề cập đến vấn đề giọng điệu trong các tác phẩm nghệ thuật, Lý luận văn

học cho rằng: “Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách

nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là yếu

tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể.

Các yếu tố cấu thành tư tưởng nghệ thuật chỉ được cảm nhận trong một phạm vi

giọng điệu nào đó, và nhờ nó mà người đọc thâm nhập vào thế giới tinh thần của

tác giả. Các tác phẩm văn học có giá trị đều thể hiện một giọng điệu đặc biệt, tiêu

biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả mà muốn hiểu tác phẩm người ta không thể

bỏ qua được” [17, tr.58]. Mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng trong sáng tác của

mình, những tác phẩm có giá trị thường có giọng điệu đa dạng, nhiều sắc thái trên

cơ sở một giọng điệu chủ đạo cơ bản. Tuy nhiên, không thể nói đến giọng điệu của

nhà văn này hay hơn giọng điệu của nhà văn kia, mà chỉ có thể nói đến giọng điệu

của nhà văn này khác với giọng điệu của nhà văn kia ở điểm nào.

Tầm quan trọng của giọng điệu trong sáng tác văn học là điều không thể phủ

nhận. Trong một tác phẩm, có thể tồn tại nhiều giọng điệu khác nhau, song bao giờ

cũng có một giọng điệu chủ yếu bao trùm, in ấn đậm nét trong cá tính sáng tạo của

phong cách tác giả.

Hà Nội là một đề tài mà nhiều tác giả đề cập đến. Nếu Tô Hoài viết về Hà

Nội bằng giọng điệu khách quan, cảm thông, trân trọng với những người dân chân

chất hiền lành cùng giọng điệu phê phán xã hội bất công trong Chuyện cũ Hà Nội,

Người ven đê; Thạch Lam với giọng văn tâm tình, đầy cảm xúc, tự hào với những

nét đẹp của người Hà Nội, đặc biệt là văn hóa ẩm thực trong Hà Nội băm sáu phố

94

phường; Nguyễn Tuân có giọng điệu tự hào, ngợi ca trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi;

Vũ Bằng với giọng điệu thương nhớ da diết Hà Nội, yêu thương chân trọng với

người vợ tảo tần trong Thương nhớ mười hai; Băng Sơn viết về Hà Nội với giọng

điệu say mê, yêu thương… thì Nguyễn Ngọc Tiến là người chuyên viết tạp văn về

Hà Nội với những giọng điệu đan xen để phản ánh các trạng thái tâm hồn của nhà

văn trước các câu chuyện mà ông kể. Giọng điệu đa dạng nhiều sắc thái ấy có tác

dụng truyền cảm và tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.

3.3.1 Giọng điệu ca ngợi, tự hào

Trong các bốn cuốn tạp văn, ở nhiều bài viết, ở nhiều đoạn, Nguyễn Ngọc

Tiến đã bộc lộ rất rõ ràng niềm tự hào, ca ngợi về Hà Nội.

Nhà văn tự hào về Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến với những giá trị

văn hóa đặc sắc: “Thăng Long là kinh đô nên khu phố cổ có rất nhiều di tích văn

hóa, lịch sử giá trị. Theo thống kê, khu vực này hiện có 128 di tích, gồm: đền, chùa,

quán, đình, nhà thờ họ, di tích cách mạng… trong đó nhiều di tích được xếp hạng

quốc gia và thành phố. Nhưng còn một giá trị vô hình nữa là không gian sống, nó

hòa quyện cùng với những di tích lịch sử, văn hóa làm khu phố cổ trở thành đô thị

truyền thống độc đáo ở Việt Nam” [24, tr.257]. Ông tự hào về Hồ Gươm vì nơi này

là nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ: “Hồ Gươm đi vào thơ ca, nhạc họa, ngày

hôm nay và cả ngày mai, nó vẫn sẽ mãi là cảm hứng cho các nghệ sĩ” [22, tr.18].

Về lĩnh vực nghệ thuật, ông cũng không thể giấu nổi niềm tự hào về thể loại âm

nhạc dân gian: “Một sự kiện làm nức lòng người dân Việt Nam là ngày 30-9 và

ngày 1-10-2009, dân ca quan họ đã được UNESCO vinh danh là văn hóa phi vật

thể của nhân loại, còn ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn

cấp” [24, tr.127]. “Trong kỉ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, một

chương trình xẩm do các nghệ sĩ biểu diễn đã gây ấn tượng mạnh cho du khách.

Không chỉ có vậy, xẩm đi Nhật, Mỹ biểu diễn đã được nhận lời khen ngợi vì sự độc

đáo của loại hình âm nhạc đường phố này” [24, tr.193]. Trong nghệ thuật sân khấu,

Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhận ra và tự hào rằng: “Từ những năm đầu thế kỉ XX, hầu

95

hết những sự kiện sân khấu quan trọng nhất trong đời sống sân khấu cả nước đều

diễn ra và kết tinh ở Hà Nội” [22, tr.293].

Ở phương diện văn hóa ẩm thức, không ít lần tác giả vui mừng, tự hào: “Phở

ra thế giới từ thập niên 90 và nhanh chóng được công nhận là món ăn không béo,

dễ ăn, vì thế ngày 20-9-2007, Từ điển tiếng Anh giản lược Oxford (Oxford English

Dictionary) đã đưa phở vào từ điển này khi xuất bản [22, tr.329]. “Cuối tháng 7-

2011, Phở và Gỏi cuốn của Việt Nam lọt vào 50 món ăn ngon nhất thế giới do Kênh

truyền hình CNN bình chọn. Phở Việt Nam hiện có mặt ở nhiều quốc gia trên thế

giới và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người” [24, tr.165]. Nói đến kem

Tràng Tiền, Nguyễn Ngọc Tiến ca ngợi: “Loại kem nào của Tràng Tiền cũng ngon,

song nổi tiếng nhất vẫn là kem cốm. Cho đến hôm nay, khách ăn kem Tràng Tiền

vẫn phải xếp hàng, người ăn kem chật cứng gần cả trăm mét vuông vỉa hè cũng là

chuyện có thể ghi vào kỷ lục Việt Nam” [24, tr.114]

Những tinh hoa văn hóa của Hà Nội đều được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến

đầy nâng niu, chân trọng, ngợi ca. Điều đó xuất phát từ lòng tự hào, tự tôn dân tộc,

tình yêu quê hương sâu sắc của ông đối với mảnh đất ngàn năm văn hiến và đất

nước Việt Nam.

3.3.2 Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm

Qua bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến mang lại cho người đọc những trải

nghiệm phong phú đa chiều về cuộc sống Thăng Long-Hà Nội. Đây chính là một

yếu tố quan trọng góp phần làm nên thành công và sức hấp dẫn cho tạp văn của ông.

Qua những trải nghiệm, người đọc có thể suy nghĩ, chiêm nghiệm và tự rút ra

những bài học cho bản thân.

Trước hiện tượng chuyên môn kém của ngành kiến trúc, ông bày tỏ sự trăn

trở: “Trong khi đó sự non kém trong kiến trúc do có người học nhầm, điểm “môn

xun xoe” chủ đầu tư cao hơn điểm chuyên môn nên sản phẩm nghiệp dư. Đó cũng

là những trở ngại lớn đang kìm hãm sự phát triển của kiến trúc Hà Nội” [22,

tr.258]. Chuyện ngõ Hà Nội cũng làm ông suy tư: “Có thể ngõ làm cho đô thị mềm

hơn trước nhưng phố ngang, đường dọc khô cứng, là nơi giấu giếm cái nghèo.

96

Nhưng Hà Nội hôm nay có quá nhiều ngõ đã tạo ra ma trận đô thị, đó là thất bại

của quy hoạch Hà Nội” [21, tr.271]. Các cô hát ả đào xưa bị xã hội luôn nghĩ sai,

khinh thường, Nguyễn Ngọc Tiến bày tỏ suy tư: “Ngày 19-12-1946, Thủ đô bước

vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, có cô đầu không trở về quê ở lại tham

gia các đội tải thương, thậm chí có người đã hy sinh. Nhưng không một bài báo

nào, một cuốn sách nào về giai đoạn này nhắc đến sự hy sinh của họ, còn xã hội

vẫn nghĩ sai về các cô” [24, tr.124]. Ông trăn trở trước bộ môn nghệ thuật ca trù

chưa được chưa được quan tâm thực sự đến bảo tồn và phát triển: “Tuy nhiên hầu

hết các câu lạc bộ vẫn chưa được đầu tư xứng đáng về cơ sở vật chất và họ vẫn

phải tự thân vận động dù đã có nhiều hành động quốc gia bảo vệ ca trù giai đoạn

2010-2015” [24, tr.127]. Ông băn khoăn về câu chuyện đặt tên phố phường nhưng

chưa có tên những người có công xứng đáng đóng góp cho đất nước: “Rồi các nhà

tư sản dân tộc yêu nước đã ủng hộ rất nhiều tiền, vàng cho nhà nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa non trẻ, cho chính phủ kháng chiến, đó là các ông: Trịnh Văn Bô, Đỗ

Đình Thiện, Ngô Tử Hạ… cho đến nay không hiểu vì lý do gì vẫn chưa thấy được

đặt tên phố trong khi thành phố Hải Phòng đã đặt tên phố theo tên nhà tư sản có

công với nước Nguyễn Sơn Hà” [24, tr.319].

Như vậy, đằng sau mỗi trang văn, Nguyễn Ngọc Tiến luôn luôn có điều trăn

trở về mọi mặt đời sống Thăng Long-Hà Nội. Điều này có thể khẳng định rằng, ông

là một nhà báo, một nhà văn, một tri thức luôn có ý thức trách nhiệm cao trước mọi

mặt cuộc sống.

3.3.3 Giọng điệu thong thả, chậm rãi

Nhà phê bình Nguyễn Trương Qúy từng nhận xét rằng: “Giọng văn thong

thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm làm tăng thêm cảm giác “truyền kì” của những câu

chuyện lạ, nhất là những điều gợi nên suy ngẫm về khoảng cách giữa văn minh và u

tối ở một đô thị vừa già cỗi vừa lắm nỗi ngây thơ…” [22, tr.6]. Trong cả bốn cuốn

tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến viết về vô số các hiện tượng trong muôn mặt của Thăng

Long-Hà Nội nhưng giọng văn của ông vẫn thong thả, chậm rãi, bình đạm, khách

quan không vội vàng nhận xét hay phán xét về bất cứ một chuyện gì.

97

Nguyễn Ngọc Tiến kể về bao công sức của con người khi tạo dựng hệ thông

đê: “Ai cũng biết con đê cao với cỏ may “một chiều cả gió bám đầy áo em” nhưng

mấy ai biết nó hình thành thế nào từ sức lao động của hàng vạn con người bao

nhiêu đời nay. Đâu phải cứ đắp đất thành đê, phải biết cách đắp, chỗ nào cao, chỗ

nào thấp; nắn dòng đê để bảo vệ thế nào, rồi đi kèm với đê là cả một hệ thống pháp

luật bảo vệ” [24, tr.50].

Tác giả đã đưa ra nhận xét kiến trúc Hà Nội có đổi mới để có lợi cho người

dân nhưng lại có nhiều hạn chế chưa thể giải quyết được: “Trong cơ chế thị trường,

nhà trở thành hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa khác đã từng bước tác động

đến nhận thức của cư dân Hà Nội. (…) Mô hình phát triển kiểu “gia đình nhất

khoảnh” đã đáp ứng được một số yêu cầu của người dân về tính riêng tư như

quyền tự do trong sinh hoạt mà ở các khu tập thể cũ không có được. Nhưng sự phát

triển lối “mỗi gia đình là một chủ đầu tư” đã sớm bộc lộ những điều bất lợi cho cả

đô thị lẫn người dân. Tình trạng “trăm hoa đua nở” một thời gây lộn xộn trong

kiến trúc đồng thời đẻ ra hội chứng “nhà chóp” cùng những trang trí diêm dúa

cũng như bất lợi về thông thoáng và sự chiếu sáng của căn hộ (…). Đặc biệt việc sử

dụng đất đai quá tốn kém vượt quá khả năng quỹ đất đô thị đã khiến thành phố có

chủ trương hạn chế việc phát triển loại nhà này” [22, tr.255].

Ông kể một thời bom đạn chiến tranh hay thời tiết không thuận lợi nhưng

người dân vẫn say mê với món phở Thìn đặc sắc của Hà Nội: “Tháng mưa, mái

giấy dầu đã cũ nát mà đơn thì chưa duyệt, ngồi ăn bát phở Thìn cũng khổ bởi bùn

lép nhép dưới chân. Hôm nào mưa to, mái dột đàn ông phải đội mũ, còn đàn bà

sùm sụp chiếc nón lá. Thập niên 60,70 thậm chí ngay cả lúc Mỹ ném bom, phở Thìn

lúc nào cũng đông. Khi còi báo động rú lên thì cả khách lẫn chủ cùng nhảy xuống

các hố tăngxê trên hè phố, còi báo yên khách lên ăn tiếp còn chủ lại băm băm, chặt

chặt” [22, tr.327]

Nhiều khi giọng văn ông cũng chậm rãi khi viết về đôi guốc của người dân

Hà Nội một thời: “Xem những bức ảnh chụp cuối thể kỉ XIX, dân đen đi đất còn

98

quan thì guốc mộc, quai làm bằng mo cau, người ta chốt quai bằng đinh gỗ. Sau

này dùng quai cao su và đóng đinh sắt” [22, tr.262].

Ông cũng thong thả, chậm rãi kể về các cuộc thi người đẹp ở Hà Nội, người

dành giải hay các mỹ nhân Hà Nội từng thời kì trong Giai nhân Hà thành.

Nói đến lối ứng xử của đàn ông với phụ nữ, cụ thể là vợ của họ, Nguyễn

Ngọc Tiến nhận xét khách quan: “Đàn ông Tây thì cũng là đàn ông, có người hay

đấm đá vợ, có người lại chiều chuộng, song hiếm có ông nào chiều vợ như Phó Đốc

lý Lagisquet” [24, tr.270].

Rau muống cũng vào trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến nhẹ nhàng như

thế: “Có một điều chẳng ai giải thích được là trưa ăn rau muống, chiều ăn rau

muống, ngày hôm sau và những ngày tiếp theo cũng rau muống mà không chán

bụng. Trong khi đó người ta lại không thể ngày nào cũng ăn mướp, mùng tơi, su

hào, bí đỏ… Vì thế có thể coi rau muống là loại rau dân dã căn bản của người Việt

Nam. Có quốc phục, quốc hoa thì rau muống cũng là quốc rau” [21, tr.239].

Nguyễn Ngọc Tiến có một tình yêu tinh tế, nhẹ nhàng với đất và người Hà

Nội. Những chuyện mà ông kể luôn đi từ quá khứ về đến hiện tại, ông chậm rãi,

thong thả mà kể chuyện, những câu chuyện như giúp người đọc hiểu rõ hơn về đất

và con người nơi đây.

3.3.4 Giọng điệu hồi tưởng tiếc nuối

Nguyễn Ngọc Tiến bày tỏ cảm giác tiếc nuối, xót xa khi những cảnh quan

tươi đẹp, những loại hình nghệ thuật, các trang phục truyền thống… của Thăng

Long-Hà Nội nổi tiếng một thời đã đi vào dĩ vãng, không còn được sử dụng hay bị

phá hủy để phục vụ những dự án của xã hội hiện đại. Ông đã dẫn lại một chuỗi liệt

kê rất nhiều hình ảnh mà giờ đây chỉ còn trong hoài niệm của những người con Hà

Nội.

Tác giả tiếc nuối về sân khấu một thời đông khán giả, không đủ ghế ngồi

nhưng nay thì vắng lặng, lạnh lẽo: “Từ năm 2000 đến cuối năm 2014, sân khấu Hà

Nội vắng lặng. Đứng được chỉ là những chùm tiểu phẩm hài. Tại liên hoan hay hội

diễn quanh đi chỉ có vài tác giả, quanh lại chỉ có vài đạo diễn thi với nhau (…). Sân

99

khấu vắng lặng, nhà hát lạnh lẽo và tấm màn nhung hôi mốc. so sánh có thể khập

khiễng nhưng cuối thập niên 30, Hội Âm nhạc vừa cho thuê biểu diễn ca nhạc đồng

thời cùng tổ chức chiếu phim. Rạp lúc nào cũng đông đến mức người ta phải kê

thêm ghế băng ở phái cuối” [22, tr.295].

Trong Có hay không thanh lịch, Nguyễn Ngọc Tiến bày tỏ sự tiếc nuối khi

quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh khiến Hà Nội trong mắt mọi người không

còn những nét đẹp như xưa: “Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về đây khai

thác, tận dụng, bòn rút thành phố. (…) Hai quá trình thành thị hóa nông thôn và

nông thông hóa thành thị cứ cuồn cuộn song hành” [21, tr.91].

Tác giả cũng tiếc nuối về cái váy truyền thống của dân tộc đã không còn xuất

hiện ở Hà Nội: “Sau phong trào ăn mặc tân thời, cái váy truyền thống của Phụ nữ

Việt gần như không thấy xuất hiện ở Hà Nội dù rằng vẫn thấy ở các miền quê. Kể

ra cũng hơi tiêng tiếc” [23, tr.293].

Ông cũng tỏ ra hồi tưởng rồi tiếc nuối về thói quen văn hóa một thời của

người dân khi đến rạp hát nhưng giờ đã không còn nữa: “Trước khi đến rạp, các bà

các cô ăn mặc quần áo đẹp, trang điểm phấn son, thêm tí nước hoa, còn các ông ăn

bận lịch sự và bao giờ cũng đến trước giờ diễn, chuẩn bị tâm thế thưởng thức. Cái

văn hóa ấy tồn tại suốt những năm bao cấp, rất tiếc bây giờ không còn” [24,

tr.288].

Giọng điệu hồi tưởng, tiếc nuôi trong các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn

Ngọc Tiến hiện rõ trong lời kể, tả trực tiếp cả nhà văn. Đằng sau những câu chuyện

ta có thể hình dung được ánh mắt, niềm vui, nỗi buồn, tình yêu mà nhà văn dành

cho đất và người Thăng Long-Hà Nội. Giọng điệu ấy cho người đọc thấy được chân

dung một nhà văn chân chính, một người con của Hà Nội luôn hết lòng với mảnh

đất trái tim của đất nước.

3.3.5 Giọng điệu tranh biện, đối thoại

Nguyễn Ngọc Tiến từng có lời nhắn gửi đến bạn đọc rằng:“Tôi có thể chắc

chắn rằng, không một nơi nào trên đất Việt Nam với diện tích như vậy lại thấm đẫm

huyền thoại, lịch sử, văn hóa như quanh hồ Hoàn Kiếm. Ai viết về Hà Nội cũng

100

không thể bỏ qua được vùng lõi này. (…) Và tôi nghĩ ai đi quanh hồ Gươm cũng có

thể viết một cuốn sách về “cô gái duyên dáng này”, về Hà Nội theo suy nghĩ chính

họ” [22, tr.5-6]. Trong nhiều câu chuyện trong bốn cuốn tạp văn của ông, không ít

lần ông cũng sử dụng giọng điệu tranh biện hay đối thoại cùng độc giả để nói ra suy

nghĩ, tình cảm của mình và cùng độc giả suy tư về những vẫn đề mà ông còn trăn

trở.

Nguyễn Ngọc Tiến Nhắc đến bà Lê Thị Mai trong Từ thiện xưa với tấm lòng

từ thiện thơm thảo giúp đỡ những người dân nghèo, những người già, trẻ mồ côi

được vua Tự Đức sắc phong “Tiết phụ Từ” nhưng đến ngày nay bia mộ đã không

còn để người dân có thể tưởng nhớ về bà: “Bản đồ Hà Nội năm 1890 vẫn còn ghi rõ

địa điểm và miếu thờ ven hồ Trúc Bạch(chỗ giáp đền Trấn Vũ), nhưng sau đó chính

quyền thành phố mở mang phố xá đã san phẳng miếu và mộ” [23, tr.41].

Ông cũng đã có những đánh giá khách quan những cũng là một lời đối thoại

với bạn đọc về rạp hát trong Từ sân đình đến rạp hát: “Hiện tại nhiều rạp cũ đã

xuống cấp và chuyển đổi mục đích sử dụng trong khi nhiều rạp mới cũng được xây

dựng ở Hà Nội như: Nhà hát ca múa nhạc, Nhà hát kịch nói Trung ương, Nhà hát

kịch Hà Nội… với trang thiệt bị hiện đạo đáp ứng cho hoạt động nghệ thuật trong

giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, với dân số hơn 7 triệu người, Hà Nội còn quá ít rạp.

Nhiều khu đô thị mới hình thành với hàng chục vạn dân nhưng không hề có rạp hát

hay chiếu phim. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần mà còn kéo

dài mong muốn phát triển Hà Nội trở thành thành phố văn hóa” [24, tr.288].

Trong Hà Nội tháng 4-1975, Nguyễn Ngọc Tiến đã viết về niềm vui khôn

xiết của người dân Hà Nội nói chung và cả nước nói riêng khi đất nước thống nhất

nhưng đâu đó cũng là nỗi đau của những người mẹ khi không thấy con trở về: “Đất

nước thống nhất, không riêng bác Thi, nhiều bà mẹ Hà Nội và trên khắp cả nước đã

không được đón đứa con thân yêu trở về. Một cuộc chiến tranh kết thúc nhưng nỗi

đau cho đến hôm nay chưa thể khép lại…” [21, tr.156].

Nguyễn Ngọc Tiến cũng đưa ra ý kiến của riêng mình về thi đại học và cao

đẳng ngày nay: “Tháng 3-2015, ngành giáo dục đã công bố bỏ thi đại học, cao

101

đẳng, kết quả xét tuyển vào các trường căn cứ vào điểm tốt nghiệp phổ thông. Thực

sự không phải là bước ngoặt mà quay lại như giáo dục thời trước” [21, tr.226].

Trong câu chuyện Từ xoa bóp đến tẩm quất, Nguyễn Ngọc Tiến đã đánh giá:

“Tẩm quất giờ cũng không là nghề của người khiếm thị. Kẻ nghiện ngập cũng làm

lấy tiền hút hay chích choác. Ai biết được họ có nhiễm HIV hay không? Nhiều

người to khỏe, sáng mắt cũng lao vào cạnh tranh trong khi họ có thể kiếm được

công việc khác. Lòng nhân ai đang khan hiếm lại không có quy định của cơ quan

quản lý nên họ giành giật miếng ăn với người mù lòa cũng là phải…” [24, tr.164].

Trong Cưới ở Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến cũng có những nhận xét, tranh

biện và cùng đối thoại về một nét sống của đại đa số người Hà Nội ngày nay: “Đất

nước đổi mới, cuộc sống khá dần lên và đám cưới thay đổi, sự phô trương quay trở

lại. Quan chức cưới con phát giấy mời như bươm bướm.Tiền mừng có khi là đôla

Mỹ, có người mừng cả đất đai hay căn hộ” [24, tr.305]

Ở trong các bài viết, Nguyễn Ngọc Tiến không những viết trên cơ sở tra cứu

tài liệu, sách vở, trải nghiệm thực tế mà ông còn có những liên hệ tới thực tế ngày

nay và cùng đó đưa ra những ý kiến, nhận xét, đánh giá khách quan để cùng với

người đọc đối thoại về các vấn đề mà ông đề cập. Đây thực sự là một điều vô cùng

đáng quý, ông xứng đáng là một nhà văn chân chính, một nhà Hà Nội học trong

lòng độc giả.

3.4 Tiểu kết chƣơng 3

Nguyễn Ngọc Tiến là một nhà văn của đất và người Hà Nội. Trong sáng tác

của mình, ông đã phản ánh được mọi mặt đời sống của đất và người nơi đây. Cùng

với nghệ thuật ngôn từ, giọng điệu và nghệ thuật kết cấu, Nguyễn Ngọc Tiến đã tạo

nên chiều sâu và tính khái quát cao cho tạp văn của ông, giúp được độc giả hình

dung, cảm nhận, suy tư về Hà Nội với muôn mặt đời sống một cách đầy đủ, rõ ràng.

Không những thế, ẩn sau những trang văn ấy là một tấm lòng của một nhà văn, một

người con luôn hết lòng với Hà Nội, luôn yêu thương, quý trọng, tự hào về mảnh

đất này nhưng cũng có những day dứt, băn khoăn về Hà Nội với muôn mặt đời

thường, gợi cho người đọc những suy tư, chiêm nghiệm để cùng đối thoại, đồng

102

cảm với chính tác giả. Đó là những yếu tố quan trọng là nên phong cách nghệ thuật

của Nguyễn Ngọc Tiến: vừa dung dị, đời thường, dí dỏm, hài hước nhưng cũng đầy

những suy tư, xót xa. Sự mạnh dạn, táo bạo, mới mẻ mang tính chất khảo cứu của

Nguyễn Ngọc Tiến đã gây được tiếng vang lớn trong nền văn học Việt Nam, mang

đến sự lôi cuốn đối với độc giả và sự chú ý của giới phê bình văn học.

103

KẾT LUẬN

Văn hóa Hà Nội là mảng hiện thực đã đem đến nguồn cảm hứng dồi dào cho

các nhà văn. Có thể kể đến các cây bút tiêu biểu như: Tô Hoài, Thạch Lam, Nguyễn

Tuân, Vũ Bằng, Băng Sơn, Đỗ Phấn,… Có nhiều nhà văn đã thử sức và thành công

ngay từ những tác phẩm đầu tiên. Một trong những nhà văn của đất và người Hà

Nội là Nguyễn Ngọc Tiến. Sáng tác của ông luôn luôn theo một hướng nhất quán là

viết về đề tài Hà Nội.

Nghiên cứu tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa đem đến một

cách tiếp cận thú vị, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa các giá trị văn hóa vào trong tác

phẩm của mình một cách tự nhiên, không cầu kì hoa lệ mà vẫn nổi bật với những

đặc trưng riêng. Nhắc đến Nguyễn Ngọc Tiến là nhắc đến một mảng văn học đặc

biệt, đậm đà hơi thở của riêng Hà Nội. Hà Nội trong văn chương Nguyễn Ngọc Tiến

là một mảnh đất văn hiến ngàn năm với bao nhiêu sự phong phú, phức tạp từ quá

khứ đến hiện tại. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tiến muốn đối thoại,

chia sẻ với độc giả về những giá trị tốt đẹp, đáng trân trọng, nâng niu của đất và

người Hà Nội, đồng thời ông cũng đặt ra nhiều vấn đề để người đọc cùng suy ngẫm

về cuộc sống muôn vẻ của Hà Nội hôm nay.

Nguyễn Ngọc Tiến với hành trình nghiên cứu, khảo cứu bền bỉ cùng với vốn

sống phong phú, sự quan sát tinh tế, say sưa, tỉ mỉ, cụ thể, ông đã ghi lại những

trang viết về những làng nghề, những thú chơi, những cái thuộc về đời sống phong

tục, tinh hoa văn hóa Thăng Long-Hà Nội. Đọc tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến người

đọc sẽ có những ấn tượng mới lạ, bất ngờ, đặc biệt là bị thuyết phục bởi những bài

viết theo lối khảo cứu mang tính chất báo chí đời thường, giản dị, mộc mạc, sâu sắc.

Nguyễn Ngọc Tiến đã vượt qua những chuyện vụn vặt, tầm thường để hướng tới

chân lí của văn hóa Hà Nội ngàn năm đã được bảo tồn và phát huy, tiếp nhận và

biến đổi đậm đà bản sắc văn hóa không nơi đâu có được.

Với việc nghiên cứu những giá trị văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến,

thêm một lần nữa chúng tôi khẳng định những giá trị văn học mà tạp văn Nguyễn

Ngọc Tiến đem lại đã góp phần làm nên tinh hoa văn học quý giá trong kho tàng

104

văn học Việt Nam. Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã để lại những dấu

ấn đặc biệt về đất và người Thăng Long-Hà Nội từ xưa đến nay. Những trang viết

của Nguyễn Ngọc Tiến thể hiện rõ nét niềm tự hào, mến yêu tha thiết, sự gắn bó

máu thịt, sâu nặng ân tình đối với đất mà người nơi đây. Với những đóng góp của

mình, chúng ta tin tưởng rằng nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến sẽ có nhiều thành tựu lớn

hơn trong thời gian sắp tới.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Lê Bảo, Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học, website:

http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-

hoa/1104-tran-le-bao-giai-ma-van-hoa-trong-tac-pham-van-hoc.html, truy cập ngày

22/09/2019.

2. Hà Minh Châu (2006), Vũ Bằng và thể loại kí, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số

3), tr.9.

3. Đỗ Thị Ngọc Chi (2013), Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Dương Ngọc Dũng (2008), Tạp văn, Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.

5. Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm lí học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Hà Minh Đức (Chủ biên, 1995), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Ebook, Đi dọc Hà Nội, wesbtise: https://ebookvie.com/read/di-doc-ha-

noi/Mzc4NQ==#epubcfi(/6/6[Ngoi-but-tai-hoa-va-nhung-trang-sach-khong-de-

viet.htm]!4/2[container]/2/6/1:569), truy cập ngày 13/12/2019.

8. Nguyễn Thị Hải Hà (2013), Truyện ngắn Đỗ Bích Thúy nhìn từ góc độ nhìn văn

hóa, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại: Kí - Trường ca – Anh

hùng ca – Tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

11. Trần Văn Minh (2011), Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến

1975, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.

Hồ Chí Minh.

12. Nhiều tác giả (1995), Hồ Chí Minh toàn tập, in lần 2, tập 3, Nhà xuất bản chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đỗ Hải Ninh, Ký trên hành trình đổi mới, website: https://vanhaiphong.com/ky-

tren-hanh-trinh-doi-moi-do-hai-ninh/, truy cập ngày 07/01/2020.

106

14. Hoàng Phê (Chủ biên, 2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

15. Huỳnh Như Phương, Văn học và văn hóa truyền thống, website:

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-

chung/2022-huynh-nhu-phuong-van-hoc-va-van-hoa-truyen-thong.html, cập nhật

ngày 20/10/2019

16. Trần Đình Sử (1998), Vai trò của văn học trong sáng tạo văn hóa, Tạp chí Văn

học (số 6), tr.1-3.

17. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1986), Lý luận văn học (tập 2),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

19. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp Tp.

Hồ Chí Minh.

20. Trần Ngọc Thêm, Nhận diện Văn hóa, Trung tâm văn hóa học lí luận và ứng

dụng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí

Minh.

21. Nguyễn Ngọc Tiến (2015), Đi xuyên Hà Nội, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

22. Nguyễn Ngọc Tiến (2016), 5678 bước chân quanh hồ Gươm, NXB Trẻ, TP. Hồ

Chí Minh.

23. Nguyễn Ngọc Tiến (2017), Đi dọc Hà Nội, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

24. Nguyễn Ngọc Tiến (2017), Đi ngang Hà Nội, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

25. Đỗ Lai Thúy (2006), Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ lí thuyết hệ thống,

Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Thư viện Nslide, Khái quát về văn học, website:https://nslide.com/giao-an/khai-

quat-ve-van-hoc.un3tvq.html, truy cập ngày 28/11/2019.

27. Phạm Quang Tùng, Văn hóa và một số khái niệm về văn hóa,

website:http://giangvien.net/news/Cac-NGL-co-ban-cua-CN-Mac/Van-hoa-va-mot-

so-khai-niem-ve-van-hoa-594.html, truy cập ngày 18/11/2019.

28. Đặng Thị Tuyết (2015), Biểu tượng văn hóa trong thơ Mai Văn Phấn, Đề tài

nghiên cứu khoa học ngành Ngữ văn, Trường Đại học Thái Nguyên.

107

29. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Tạp văn, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

30. Lương Duy Thứ (1997), Lỗ Tấn tác phẩm và tư liệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển, ngôn ngữ, Hà

Nội.

32. Viện ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ

điển học Hà Nội – Đà Nẵng.

33. Lâm Vinh, Văn học nghệ thuật và chức năng, website: https://vansudia.net/van-

hoc-nghe-thuat-va-chuc-nang/, truy cập ngày 14/12/2009.

34. Trần Quang Vinh (2015), Hà Nội trong tản văn của Đỗ Phấn (Qua tập Hà Nội

thì không có tuyết), Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Vinh.

35. Wikipedi, Kí, website: https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%BD, truy cập ngày

15/01/2020.

36. Wikipedia, Văn hóa, website:

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a, truy cập ngày 12/9/2019.

37.Wikipedia, Văn học, website:

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%E1%BB%8Dc, truy cập ngày

12/10/2019

38. Wiktionary, Khảo cứu, wesbtise:

https://vi.wiktionary.org/wiki/kh%E1%BA%A3o_c%E1%BB%A9u#Ti%E1%BA%

BFng_Vi%E1%BB%87t, truy cập ngày 24/01/2020

39. Tăng Thị Xuân (2017), Truyện ngắn Kim Lân từ góc nhìn văn hóa, Luận văn

Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 2013), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.

41. Jean Chevalier, Alain Gheebrant (1969), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,

bản dịch tiếng Việt của Nxb Đà Nẵng (2002) – Trường viết văn Nguyễn Du, Hà

Nôi.

108