ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------
ĐẶNG THỊ HOÀI LÊ
ĐẶC ĐIỂM CỦA TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
ĐẶNG THỊ HOÀI LÊ
ĐẶC ĐIỂM CỦA TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8229030.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả
quá trình nghiên cứu của bản thân tôi. Những thành quả khoa học của những tác
giả trước mà tôi sử dụng trong luận văn để làm sáng tỏ thêm vấn đề đều được trích
dẫn rõ ràng, cụ thể. Không có bất cứ sự không trung thực nào trong các kết quả
nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên Đặng Thị Hoài Lê
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý
báu của các tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu, các thầy giáo, cô giáo
Phòng Đào tạo sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, cùng tất cả các thầy giáo, cô
giáo trong khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ bảo,
cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS Hà
Văn Đức – người Thầy trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo và luôn động
viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Sự chỉ bảo tận tâm của thầy đã
mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp, kiến thức cũng như kĩ năng hết sức quý
báu để có thể hoàn thiện luận văn một cách tốt nhất.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến những người thân, gia đình, bạn
bè đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện
thành công luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên
Đặng Thị Hoài Lê
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 4
3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 8
5. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA – VĂN HỌC. TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN
1.1 Khái lƣợc về mối quan hệ văn hóa - văn học. ................................................. 10
1.1.1 Văn hóa ............................................................................................................ 10
1.1.2 Văn học ............................................................................................................. 13
1.1.3 Mỗi quan hệ giữa văn hóa và văn học ............................................................. 14
1.1.4 Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học .............................. 17
1.2 Thể loại tạp văn trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại ............................. 20
1.2.1 Khái niệm tạp văn ........................................................................................... 20
1.2.2 Sự khác biệt của tạp văn với các thể loại khác ................................................ 22
1.2.3 Sự nở rộ của thể loại tạp văn trong văn học Việt Nam hiện nay ..................... 25
1.3 Nguyễn Ngọc Tiến – nhà văn của Hà Nội ngàn năm văn hiến ...................... 30
1.3.1 Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến ............................................................. 30
1.3.2 Nguyễn Ngọc Tiến với thể loại tạp văn ............................................................ 30
1.3.3. Đề tài Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến .................................... 32
1.4 Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................. 35
CHƢƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN
2.1 Không gian từ góc nhìn văn hóa ...................................................................... 37
2.1.1 Không gian Hà Nội nghìn năm văn hiến .......................................................... 37
2.1.2 Không gian cuộc sống và những phong tục sinh hoạt văn hóa Hà Nội .......... 40
2.2 Thời gian từ góc nhìn văn hóa ......................................................................... 55
1
2.2.1 Thời gian sự kiện trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến ........................................ 55
2.2.2 Thời gian sinh hoạt trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến ..................................... 58
2.3 Ngƣời Hà Nội nhìn từ phƣơng diện văn hóa .................................................. 62
2.3.1 Những nét đẹp của người Hà Nội .................................................................... 62
2.3.2 Những góc khuất của người Hà Nội ................................................................ 70
2.4 Tiểu kết chƣơng 2.................... .......... ................................................................73
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC
TIẾN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
3.1 Biểu tƣợng văn hóa ........................................................................................... 75
3.1.1 Khái niệm về biểu tượng văn hóa .................................................................... 75
3.1.2.Một số biểu tượng văn hóa Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến... ......... 77
3.2 Ngôn ngữ nghệ thuật. ....................................................................................... 83
3.2.1 Ngôn ngữ mang tính chất khảo cứu. ................................................................ 84
3.2.2 Ngôn ngữ báo chí. ............................................................................................ 88
3.2.3 Ngôn ngữ giản dị, đời thường. ......................................................................... 90
3.3 Giọng điệu.. ........................................................................................................ 93
3.3.1 Giọng điệu ca ngợi, tự hào............................................................................... 95
3.3.2 Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm ..................................................................... 96
3.3.3 Giọng điệu thong thả, chậm rãi. ...................................................................... 97
3.3.4 Giọng điệu hồi tưởng tiếc nuối. ........... ............................................................99
3.3.5 Giọng điệu tranh biện, đối thoại .......... ..........................................................100
3.4 Tiểu kết chƣơng 3.......................... .......... ........................................................102
KẾT LUẬN............................................. .......... .....................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................ .......... ..................................................106
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi một quốc gia, một dân tộc, một vùng miền trên thế giới đều có những
đặc trưng văn hóa riêng biệt không giống với những quốc gia, dân tộc, vùng miền
khác. Văn học không những là một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự chi
phối, ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà văn học còn có khả năng nhận thức, phản
ánh, là phương tiện truyền tải, lưu giữ, bảo tồn, kiến tạo các giá trị văn hóa và nâng
văn hóa lên tầm cao mới.
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học vừa là vấn đề có tính lí luận, vừa có ý
nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu văn hóa, văn học. Việc nghiên cứu văn học từ góc
nhìn văn hóa là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã được vận
dụng ở Việt Nam khá phổ biến. Vậy nên, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa
giúp chúng ta không những hiểu bản chất của văn học, lý giải văn học mà ta còn
nhận diện được bối cảnh văn hóa dân tộc và thời đại, có cái nhìn sâu sắc về đời sống
văn hóa của cả một dân tộc…
Đầu thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và
nhịp sống hiện đại thì thể loại tạp văn trở nên có ưu thế bởi tính chất ngắn gọn,linh
hoạt, đa dạng, phản ánh một cách nhanh nhạy, kịp thời một vấn đề nào đó nên đã
được nhiều nhà văn quan tâm, thử sức và mang dấu ấn cá nhân của tác giả.
Trong những năm gần đây, khi nhắc về các cây bút viết tạp văn nổi tiếng
không thể không kể đến Nguyễn Ngọc Tiến. Bốn cuốn tạp văn: 5678 bước chân
quanh hồ Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội liên tiếp được
xuất bản đã thể hiện suy tư sâu sắc, trải nghiệm phong phú, lối viết tự nhiên, linh
hoạt, sức sáng tạo dồi dào mạnh mẽ của nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến về Hà Nội, đã
được công chúng đặc biệt chú ý và đón nhận. Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội là
hai cuốn sách đã mang lại Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội cho
Nguyễn Ngọc Tiến năm 2012 đã phần nào khẳng định tài năng và tình yêu với Hà
Nội của Nguyễn Ngọc Tiến.
3
Cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về tạp
văn Nguyễn Ngọc Tiến nhưng nghiên cứu tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn
văn hóa vẫn chưa nhiều, chưa thực sự trở thành công trình, hệ thống và cũng rất ít
công trình tiếp cận được sâu bản chất vấn đề. Trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến
có nhiều vấn đề văn hóa cần được khai thác và tìm hiểu. Đặc biệt việc nghiên cứu đặc
điểm tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa là việc làm thiết thực, khả
quan, hứa hẹn mang lại nhiều điều thú vị, giúp người đọc thấy được rõ hơn văn hóa
Hà Nội ngàn năm văn hiến. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi
quyết định lựa chọn đề tài: “Đặc điểm của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn
văn hóa” để nghiên cứu, với mong muốn góp thêm một cách nhìn nhận mới, nhận ra
những giá trị văn hóa tiềm ẩn dưới những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận văn học từ văn hóa đã xuất hiện từ lâu nhưng đến
những năm đầu của thế kỉ XX, hướng tiếp cận này mới được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, tìm hiểu và đạt được một số thành tựu nhất định như các công trình nghiên
cứu của: Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh… Phan Ngọc trong công trình
Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985) đã vận dụng những yếu tố
văn hóa - xã hội để tìm ra những đặc trưng của phong cách Nguyễn Du. Sau đó đến
năm 1994, ông đã đưa ra những quan điểm về văn hóa, cách tiếp cận văn hóa trong
văn học và đã gợi mở ra nhiều hướng nghiên cứu cho các nhà nghiên cứu sau này.
Năm 1995, công trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại của Trần Đình
Hựu đã chỉ ra đặc điểm văn học Việt Nam dưới ảnh hưởng của Nho giáo giai đoạn
cuối thời Lê đầu thời Nguyễn. Đến năm 1995, công trình Nhà nho tài tử và văn học
Việt Nam của Trần Ngọc Vương bằng cái nhìn loại hình học cũng đã làm rõ hơn điều
này. Tác giả Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực, Văn học
trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn đã đạt được thành
công khi nghiên cứu văn học trung đại dưới góc nhìn văn hóa.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều tác giả áp dụng phương pháp nghiên
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa cho các công trình nghiên cứu của mình và rất
4
nhiều công trình đạt được nhiều thành tựu nhất định như: Văn học trung đại Việt
Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn, Nhà xuất bản (Nxb) Giáo dục, 2003);
Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học (Nguyễn Bá Thành, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2004); Nguyễn Bính – hành trình sáng tạo thi ca (Đoàn Đức Phương, Nxb
Giáo dục, 2005); Thơ Mới từ góc độ văn hóa – văn học (Luận án Tiến sĩ, Hoàng Thị
Huế, Học Viện Khoa học Xã hội, 2007); Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa
(Lê Nguyên Cẩn, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2011);… Như vậy, có thể khẳng
định rằng hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đã, đang và vẫn là một
hướng đi đúng đắn, khoa học.
2.2. Cho đến nay, Nguyễn Ngọc Tiến đã cho ra đời bốn cuốn tạp văn viết về những
gì gần gũi, thân thuộc của Hà Nội từ xưa đến nay và đã được rất được lòng công
chúng yêu văn học, yêu Hà Nội. Hiện nay đã có nhiều bài viết, bài báo viết về tạp
văn của Nguyễn Ngọc Tiến tuy nhiên đó mới chỉ là những trang viết chỉ dừng lại ở
nhận xét khái quát, sơ bộ, bộc bạch ấn tượng, cảm xúc về một cuốn sách hay một
bài tạp văn cụ thể nào đó chứ chưa hề có một luận án hay luận văn nào nghiên cứu
sâu về đặc điểm tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa và chỉ ra được dấu
ấn riêng của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.
Về các bài viết trên báo, tạp chí cũng đã có nhiều tác giả đã dành những đánh
giá sâu sắc về tác giả Nguyễn Ngọc Tiến cũng như tạp văn viết về Hà Nội của ông.
Trong bài viết Đi dọc Hà Nội khám phá chiều sâu của văn hóa thủ đô,
(http://vnexpress.net, 8/2012), tác giả Thanh Huyền đã nhận xét: “Trong cuốn sách
mới này, Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục triển khai góc nhìn mới về một số vấn đề - sự
kiện, giúp người đọc biết về “người Tràng An thanh lịch” qua thú chơi hoa, qua
lịch sử cầu Thê Húc, qua thuốc phiện và rượu lậu của một thời… Tất cả đều được
xây dựng trên nền tảng con người, mà nổi trội là những người Hà Nội rất bình
thường. Họ là người trồng hoa ở làng Ngọc Hà, là chị công nhân đã có mấy chục
năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ Hồ, và xa nữa về thời
gian là những anh chị, cô bác bán hàng rong, người hát xẩm… cùng với các câu vè,
5
lời rao hàng sinh động và lý thú. Đó là những con người đã góp phần làm nên một
diện mạo khác của Hà Nội, khác xa với những “dân chơi” của đất kinh kỳ…”
Tác giả Xuân Phong với bài viết Nguyễn Ngọc Tiến: Lãng từ đi dọc, ngang
Hà Nội trên (https://baotintuc.vn) tháng 9/2012 đã phát hiện ra: “Những trang viết
của anh rất thú vị, có nhiều thứ để đọc, để tìm hiểu và người ta nhận ra rằng anh
viết rất nghiêm túc, viết có trách nhiệm, một thứ trách nhiệm không ai ràng buộc
nhưng lại chặt chẽ hơn tất thảy mọi thứ luật định nào, một thứ ràng buộc cá nhân
với mỗi con chữ được đưa ra”. Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa người đọc tìm hiểu,
khám phá đất và người Thăng Long-Hà Nội, giúp họ càng thêm yêu mảnh đất kinh
kỳ ngàn năm văn hiến này.
Nhà xuất bản trẻ trong một bài viết Những tác phẩm về Hà Nội của Nguyễn
Ngọc Tiến (7/2017) của tác giả Tú Duyên đã có những nhận xét khái quát về các tác
phẩm của ông: “Bộ sách khảo cứu về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến, là một cuộc
phiêu lưu vô cùng đặc biệt mà tác giả đã tạo ra cho những ai yêu mến Hà Nội. Mỗi
một tác phẩm, lại có nét riêng biệt cùng với đó là những câu chuyện về con người,
xã hội, văn hóa, lịch sử,… được tác giả tái hiện lại vô cùng đặc sắc”. Tất cả những
câu chuyện dung dị về Hà Nội giúp chúng ta hình dung ra một Hà nội cổ kính
nhưng luôn có những nét riêng biệt, độc đáo.
Trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tiến – một sử nhân của Hà Nội” trên Báo
Người Hà Nội (7/2018) tác giả Thu Hằng với nhiều năm cùng làm việc với Nguyễn
Ngọc Tiến và đọc các tác phẩm của ông đã nêu lên nhận xét: “Đọc các ký sự - khảo
cứu công phu của Nguyễn Ngọc Tiến thấy ông rất yêu Hà Nội, yêu một cách cụ thể,
chi tiết. Những câu chuyện về phở, bia hơi vỉa hè, phố cổ, tiếng chuông tàu điện
leng keng, những ngày đầu khi Hà Nội bắt đầu có đèn giao thông, cầu Long Biên
được khởi dựng ra sao, nhà vệ sinh công cộng đầu tiên ở đâu... hay những câu
chuyện thú vị về những con người bình dị: cô bán hàng rong, người hát xẩm, chị
công nhân đã có mấy chục năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu
điện Bờ Hồ, rồi thú chơi hoa, chơi cá cảnh, đi hát cô đầu… của người Hà Nội xưa,
tất cả được tái hiện một cách tự nhiên, dung dị để người đọc có thể hình dung ra
6
một Hà Nội cổ kính, đôi khi lại xô bồ nhưng vẫn luôn là một Hà Nội riêng biệt và
độc đáo”. Qua đó thấy được một Nguyễn Ngọc Tiến nhẹ nhàng, tỉ mỉ, chính xác,
cẩn trọng đến từng chi tiết nhưng cũng hết sức dí dỏm, hài hước.
Nhà phê bình Nguyễn Hòa đã dành nhiều lời khen cho cuốn Đi dọc Hà Nội:
"Sau khi đọc hết cuốn sách thú vị này, bạn đọc nào đó có thể còn thấy „thòm thèm‟,
thậm chí chưa vừa ý, nhưng dẫu sao, vẫn cần phải cảm ơn tác giả. Vì khi mà ngay
tại Hà Nội này, cuộc mưu sinh đang kéo nhiều người trong chúng ta vào vòng xoáy
của các lợi ích cho hiện tại và tương lai, không có thời gian, thậm chí lơ đễnh khi
nhìn về quá khứ, thì ngòi bút tài hoa của Nguyễn Ngọc Tiến vẫn cần mẫn và kỳ
công, để viết nên những trang sách không dễ viết. Đó cũng là những trang sách có
thể giúp chúng ta hiểu thêm về quá khứ, về dòng chảy văn hóa và dấu ấn của nhiều
thế hệ ở Hà Thành, đồng thời nhắc nhở chúng ta rằng, hiện tại và tương lai không
đến từ hư vô, mà đến từ quá khứ”. (Đi dọc Hà Nội để thấy một Hà Nội rất khác,
http://vdantri.com.vn, Bình Yên)
Nhà phê bình Nguyễn Trương Quý nhận xét về cuốn Đi xuyên Hà Nội có
nói: “Giọng văn thong thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm làm tăng thêm cảm giác
“truyền kỳ” của những câu chuyện lạ, nhất là những điều gợi nên suy ngẫm về
khoảng cách giữa văn minh và u tối ở một đô thị vừa già cỗi lại vừa lắm nỗi ngây
thơ... Nhiều chỗ tác giả chỉ đưa ra những con số và sự kiện mà người đọc cũng
nghẹn ngào. Vì nỗi thương mình đã sống trong hoàn cảnh đó, hay thương một xã
hội đô thị nhiều dâu bể? Trong cuốn sách này, tính chuyển động, sự trôi dạt nổi lên
như một yếu tố chính. Rất nhiều lần Nguyễn Ngọc Tiến nhấn mạnh tới tính động
của dòng chảy đời sống Hà Nội. Nó vừa bảng lảng lại vừa trần trụi. Nó đẫm đầy
chất tiểu thuyết” [21, tr.6-tr.7].
Như vậy, đã có nhiều bài viết, bài báo viết về tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến
tuy nhiên đó mới chỉ là những trang viết chỉ dừng lại ở nhận xét khái quát, sơ bộ,
bộc bạch ấn tượng, cảm xúc về một cuốn sách hay một bài tạp văn cụ thể nào đó.
Tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến vẫn cần thêm những công trình nghiên cứu chuyên sâu
7
để chỉ ra được dấu ấn riêng của tác giả. Đây cũng là lý do để chúng tôi lựa chọn tạp
văn Nguyễn Ngọc Tiến làm đề tài luận văn.
3. Đối tƣợng, mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến và các giá trị văn hóa biểu hiện trong các tác
phẩm của ông.
3.2 Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Đặc điểm của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa” được
triển khai nhằm những mục đích chính sau:
- Khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa văn hóa và văn học, những
phương thức biểu đạt của văn hóa trong văn học.
- Làm rõ căn nguyên tồn tại của chất văn hóa trong sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tiến.
- Khẳng định nét độc đáo về tư tưởng, nội dung, nghệ thuật sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tiến soi chiếu từ góc độ văn hóa.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài luận văn, người thực hiện đã khảo sát, nghiên cứu bốn
cuốn tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến gồm:
- Đi xuyên Hà Nội, Nxb Trẻ, T.P.Hồ Chí Minh, 2015
- 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Nxb Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 2016
- Đi dọc Hà Nội, Nxb Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 2017
- Đi ngang Hà Nội, Nxb Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 2017
Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến nổi bật với nhiều mảng đề tài liên quan đến
văn hóa, lịch sử, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn chỉ tập
trung làm nổi bật những giá trị thuộc về văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.
Những giá trị khác trong tạp văn sẽ được đề cập trong những lần nghiên cứu sau.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
8
- Phương pháp tiếp cận văn hóa – văn học: Phân tích không gian văn hóa, thời
gian văn hóa, quan niệm văn hóa, cảm quan văn hóa về con người để giải mã
văn hóa các hiện tượng văn học.
- Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu các đặc trưng
của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và
ra quyết định.
- Phương pháp so sánh: So sánh một hiện tượng văn học với các hiện tượng
cùng loại hay các hiện tượng đối lập để làm nổi bật bản chất của hiện tượng
đem ra so sánh.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích thành từng bộ phận các tài liệu
để tìm hiểu sâu sắc về các đối tượng rồi tổng hợp các thông tin đã được phân
tích thành một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và bám sát hơn vào đối tượng
nghiên cứu.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc 03
chương như sau:
Chương 1: Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.
Chương 2: Những giá trị văn hóa Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn
văn hóa.
9
CHƢƠNG 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA – VĂN HỌC
TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN
1.1 Khái lƣợc về mối quan hệ văn hóa - văn học
1.1.1 Văn hóa
Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu về văn hóa,
các phương diện của văn hóa, đưa ra khái niệm về văn hóa… đã được các nhà
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học quan tâm tìm hiểu từ rất lâu.
Văn hóa là nền tảng cho mọi ngành khoa học nên từ thế kỉ XIX văn hóa đã
trở thành đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học như dân tộc học, văn hóa
học, văn học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Nhưng cho đến nay các nhà
nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một định nghĩa nhất quán về văn hóa.
Văn hóa khái niệm có nội hàm rất rộng với rất nhiều cách hiểu, cách lí giải
và tiếp cận khác nhau liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con
người. Văn hóa có thể hiểu như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng nhiều
nhà nghiên cứu lại hiểu văn hóa như là lối sống, thái độ ứng xử hay văn hóa có lúc
được hiểu như một trình độ học vấn.
Khi nói về vấn đề văn hóa, mỗi nhà nghiên cứu lại có một quan điểm khác
nhau. Trong cuộc sống hàng này, văn hóa được hiểu là phong cách sống của con
người, nghĩa là các hoạt động ăn, ở, đi đứng, cách ứng xử (với đồng loại, môi
trường, với bản thân) và cả phong tục, tập quán, tín ngưỡng, đức tin,… của con
người, dân tộc và quốc gia.
UNESCO cho rằng : “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần
và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống và giá trị, tập tục và tín
ngưỡng” [19, tr.10]
10
Edouard Herriot cũng đưa ra các hiểu về văn hóa như sau: “Văn hoa là cái
còn lại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả” (Dẫn
theo Nguyễn Thị Hải Hà) [8, tr.1]
Văn hóa được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt là “Tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch
sử” [31, tr.1079].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách hiểu về văn hóa như sau: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [12, tr.55]. Theo cách
hiểu này, văn hóa bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh
vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá
trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng
và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu
cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh cộng đồng dân tộc, sức đề
kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [25, tr.3]. Với cách
hiểu này, văn hóa là hệ thống những giá trị do con người sáng tạo nên từ tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, phẩm chất, trí tuệ, tài năng đến ý thức bảo vệ, sức đề kháng và
sức chiến đấu của mỗi người, mỗi dân tộc và đối lập hoàn toàn với thiên nhiên.
Trong tác phẩm Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
[18, tr.24]. Như vậy, theo định nghĩa này thì nội hàm của khái niệm văn hóa bao
gồm: Thứ nhất, đó là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
nhằm mục đích vì con người. Thứ hai, những giá trị mà con người sáng tạo ra phải
11
mang tính nhân tính. Tóm lại có thể hiểu rằng, có những giá trị do con người sáng
tạo ra nhưng nó không phải là văn hóa bởi vì nó không mang tính nhân tính, nó chỉ
phục vụ một số những mục đích các cá nhân hay tổ chức nào đó, nó hủy hoại cuộc
sống của con người do đó nó không được cộng đồng chấp nhận như: vũ khí hạt
nhân, các vũ khí giết người, chạy đua vũ trang, chủ nghĩa khủng bố…
Như vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa hay khái niệm về văn hóa. Dựa
trên những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, dựa trên những cách tiếp cận khác nhau
phục vụ cho mục đích nghiên cứu khác nhau mà các nhà khoa học, nhà nghiên cứu
có thể lựa chọn một định nghĩa hay khái niệm có nội hàm gần nhất với vấn đề
nghiên cứu của mình. Tuy vậy, các định nghĩa về văn hóa đều thống nhất ở một
điểm, coi văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra và chỉ có ở con người. Văn
hóa thuộc về con người là đặc trưng căn bản để phân biệt con người với động vật,
cũng là tiêu chí để phân biệt sản phẩm tự nhiên với sản phẩm nhân tạo.
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của con người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người với xã hội và chính văn hóa tiếp tục tham
gia vào việc tạo thế giới vật chất, tinh thần của con người để duy trì sự bền vững và
trật tự xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI, Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã
khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều
sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh nhưng giá trị tốt đẹp nhất
trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó là một động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vừa là một trong những mục tiêu của chúng
ta” [20, tr.2]. Như vậy, chính sách về văn hóa của Đảng đã khẳng định: văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ của dân tộc, văn hóa vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Vậy nên, Đảng và Nhà nước ta
đã và đang chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
12
1.1.2 Văn học
Văn học theo nghĩa rộng được hiểu đồng nghĩa với văn hóa: “Gọi chung mọi
hành vi ngôn ngữ nói – viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Nó bao gồm các tác phẩm
mà ngày nay có thể xếp vào loại chính trị, triết học, tôn giáo” [27, tr.2]. Văn học
theo nghĩa hẹp là tác phẩm văn chương, bao gồm các tác phẩm ngôn từ có tính chất
được sáng tác bằng hư cấu, tưởng tượng và không bao gồm các tác phẩm chính trị,
triết học, tôn giáo. Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một
quan điểm, lập trường của người sáng tác đối với đời sống nhưng văn học lại không
phản ánh hiện thực trong ý nghĩa khách quan, phổ quát của sự vật mà nó quan tâm
đến một con người kết tinh trong sự vật mà nó nói đến. Ví dụ, khi nói đến thuyền và
bến, văn học không chỉ phản ánh thuyền là một phương tiện đi lại của con người
hay bến là một hiện tượng tự nhiên bình thường mà nói đến chúng là nói đến những
người yêu nhau mà phải xa cách, thể hiện một cách sâu sắc nỗi nhớ thương đợi chờ,
tấm lòng son sắt thuỷ chung của người ở nhà đối với người đi xa chưa về “Thuyền
ơi có nhớ bến chăng/Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” (Ca dao); Văn học
nói đến trăng không phải với tư cách là sự vĩnh hằng ngoài vũ trụ mà nhìn trăng
như một con người, coi trăng là người chứng giám cho lời nguyện ước, cho tình yêu
đẹp của Thúy Kiều – Kim Trọng “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/Đinh ninh hai
miệng, một lời song song”(Truyện Kiều, Nguyễn Du)…
Văn học không chỉ là hoạt động sáng tạo nhà văn mà đồng thời cả người tiếp nhận,
thưởng thức văn học cũng mang những chức năng có ý nghĩa xã hội rộng lớn bởi
“chức năng là sự biểu hiện ra thế giới bên ngoài các đặc tính của một khách thể
nào đó trong một hệ thống các quan hệ nhất định” [33, tr.3]. Tác phẩm văn học là
sự biểu hiện sâu sắc nhất về năng lực, trình độ, phẩm chất tinh thần của nhà văn,
phản ánh hiện thực đời sống khách quan, xã hội, con người và dựng nên hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan nên chức năng của văn học là phản ánh hiện thực.
Văn học với hình thức nghệ thuật ngôn đã biểu hiện cái quan hệ mang tính người
của loài người vô cùng phong phú, nhiều cung bậc, nhiều hình thái bởi sự vận động
không ngừng và bất tận. Văn học giúp người đọc hiểu nội dung, hình thức, cái hay,
13
cái đẹp mà nhà văn muốn nói đến đồng thời văn học cũng giúp người đọc thư giãn
tâm hồn, tạo trạng thái cân bằng tâm lí, tinh thần. Vì vậy, có thể khẳng định văn học
có chức năng thưởng thức, thư giãn, giải trí. Văn học trau dồi mặt tình cảm, hiểu
biết cho con người, và tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, tâm lí, tình cảm
của họ. Văn học có vô vàn chức năng: “văn dĩ tải đạo”, văn học làm vũ khí chiến
đấu, giáo dục, nhận thức, chức năng thẩm mĩ, giải trí… Chức năng văn học chỉ là
cái biểu hiện ra bên ngoài của chỉnh thể, giá trị toàn vẹn lại thuộc thế giới nghệ
thuật trong những sự tiếp nhận nghệ thuật khác nhau của mỗi người. Chức năng của
văn học có nhiều hay ít tùy thuộc vào cách nhìn, cách lí giải của từng người.
1.1.3 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.1.3.1 Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa
Văn hóa ngày càng phát triển và ảnh hưởng trực tiếp vào tất cả các ngành
khoa học khác nhau trong đó có văn học. Như vậy, có thể khẳng định văn hóa và
văn học không thể tách rời. Văn học đã góp phần to lớn trong việc nhận thức về vai
trò của văn hóa trong việc sáng tạo và tiếp nhận văn học trong đời sống xã hội. Văn
học là bộ phận của văn hóa, nghiên cứu văn học luôn luôn phải đặt trong mối quan
hệ với văn hóa với tư cách là toàn bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của con người.
Như vậy, văn học luôn luôn bộc lộ rõ nét nhất bản chất văn hóa của một dân tộc,
một đất nước và những tác phẩm văn học luôn mang trong mình những biểu hiện
đặc trưng văn hóa của một vùng quê, một dân tộc, một đất nước, mặc dù chủ thể
sáng tác có hay không ý thức cần phải truyền tải văn hóa vào sáng tác của mình. Vì
văn học là sự biểu đạt văn hóa một cách hiển nhiên.
Trần Lê Bảo trong Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học cho rằng: “Văn
học chẳng những là bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của
văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và giao lưu văn hóa. Văn học
chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa thời đại và truyền thống văn hóa
đọc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lí văn hóa độc đáo của
một thời đại và một cộng đồng dân tộc. Cùng với hệ thống giá trị văn hóa là những
mô thức văn hóa riêng của một cộng đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và
thể hiện những giá trị và mô thức mà cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ” [1, tr.5].
14
Trong văn học luôn luôn có văn hóa. Nhà văn tiếp nhận văn hóa và tái hiện
lại thông qua những tác phẩm của mình. Trong từng tác phẩm văn học Việt Nam thì
những nét văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền, mỗi dân tộc trên đất nước được
thể hiện rất rõ. Ta bắt gặp bức tranh văn hóa dân gian đa dạng sắc màu trong thể thơ
lục bát thuần túy của dân tộc trong Truyện Kiều với việc Nguyễn Du đã chắt lọc văn
hóa dân gian tinh tú của dân như ca dao, thành ngữ, tục ngữ. Trong suốt nhiều thế
kỉ, ngôn từ trong Truyện Kiều được sử dụng rộng rãi trong các sinh hoạt văn hóa
của mọi tầng lớp nhân dân như ngâm Kiều, vịnh Kiều, bình Kiều, lẩy Kiều, bói
Kiều… Những nét đẹp của văn hóa truyền thống trong các sáng tác của Nguyễn
Tuân: nghệ thuật thưởng trà, ngắm hoa, viết thư pháp,… hay văn hóa Hà Nội trong
các sáng tác của Thạch Lam trong Hà Nội băm sáu phố phường, Nắng trong vườn,
Ngày mai…; trong văn chương Vũ Bằng với Miếng ngon Hà Nội, Miếng lạ miền
Nam, Thương nhớ mười hai,… Tác phẩm văn học không chỉ biểu hiện văn hóa mà
còn giúp người đọc tìm hiểu những giá trị ẩn tàng của văn hóa, tìm hiểu tâm lí con
người, tư tưởng thời đại, tư tưởng nhà văn, giúp lí giải những bi kịch trong cuộc
sống như các tác phẩm: Kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ,
Nguyễn Huy Tưởng với kịch Vũ Như Tô, truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, Cha
con ngĩa nặng của Hồ Biểu Chánh…
Văn hóa tác động đến văn học ở mọi mặt. Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm
cũng như nhà văn là một sản phẩm văn hóa. Người đọc khi hướng đến tác phẩm văn
học chính là hướng đến văn hóa. Không gian văn hóa chi phối đề tài, chủ đề, nhân
vật, các thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác và tiếp nhận. Một nền văn
hóa cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy,
văn học chính là thước đo trình độ văn hóa của một dân tộc, đất nước trong một thời
kì lịch sử nhất định.
Trần Nho Thìn cho rằng văn hóa là một hệ thống mở “nhân học văn hóa”,
“nhân chủng học văn hóa”. Văn hóa Việt Nam còn là sản phẩm của sự ảnh hưởng,
giao lưu, tiếp biến văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ… Bất kì một giá trị văn học nào
cũng đều bắt nguồn từ một môi trường văn hóa, từ một đời sống văn hóa nhất định.
15
Nhà văn với vốn văn hóa, vốn sống luôn nắm vững tinh thần thời đại đã hình
thành tư tưởng thẩm mỹ để sáng tác văn chương. Văn học thành công hay không
chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa . Vì vậy, nghiên cứu tác phẩm văn chương từ
góc nhìn văn hóa học trong sẽ giúp chúng ta khám phá được chân lí nghệ thuật một
cách đúng đắn và đúng hướng hơn.
1.1.3.2 Văn học là sự kiến tạo và kết tinh các giá trị văn hóa
Theo Trần Đình Sử: “Văn học là bộ phận quan trọng của văn hóa, sự giàu
có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn hóa” [16, tr.1]. Ông
cũng khẳng định việc sáng tạo ra khúc ngâm, truyện Nôm, hát nói, thơ Mới, kịch
nói, truyện ngắn, tiểu thuyết… được xem “là những hiện tượng sáng tạo văn hóa
lớn lao của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX” [16, tr.3].
Văn hóa chính là những ứng xử văn hóa, quy chuẩn đạo đức làm cho con
người hoàn toàn khác với loài vật. Các giá trị văn hóa ấy thông qua văn học được
đúc kết thành giá trị đạo lí, nâng nó lên tầm tư tưởng và giáo dục cho các thế hệ mai
sau. Ví dụ như đạo làm con được đúc kết trong bài ca dao: “Công cha như núi ngất
trời/ Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông/Núi cao biển rộng mênh mông/Cù
lao chín chữ ghi lòng con ơi”, những câu ca dao, tục ngữ nói về tình cảm gia đình,
thầy cô, đạo lí làm người: “Ơn cha nặng lắm ai ơi/Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng
cưu mang”; “Trời cao, biển rộng, đất dày/ Ơn cha nghĩa mẹ, ơn thầy chớ quên”;
“Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”, “Uống nước nhớ
nguồn”; “Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa”…. Qua tác phẩm Những đứa con
trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi, người đọc có thể cảm nhận được nét đẹp
văn hóa Nam Bộ với nhiều khía cạnh hơn và sâu rộng hơn qua hai nhân vật chính
Việt và Chiến với tình cảm, truyền thống gia đình, lòng yêu nước, yêu cách mạng.
Những vẻ đẹp của con người nơi đây được đã được nâng lên một tầm cao mới khi
đi vào những trang viết của Nguyễn Thi, đó là tầm cao của tinh hoa nghệ thuật,
khiến cho người đọc cảm thấy mến yêu con người và mảnh đất Nam Bộ. Như vây,
khi người đọc tiếp nhận các tác phẩm văn học thì không chỉ cảm nhận giá trị nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm đó mà còn là cảm nhận văn hóa của mỗi vùng
16
miền, dân tộc, đất nước. Vì thế có thể khẳng định thông qua văn học mà văn hóa
mỗi vùng miền, dân tộc, quốc gia được kiến tạo, kết tinh, truyền tải và phát triển.
Trong văn học mà cụ thể hơn là các tác phẩm văn học, người ta thấy được sự
đan xen văn hóa, tiếp biến văn hóa: “Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho
cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp
thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường của sự
giao lưu văn hóa thì văn học có thể là nơi hòa giải của những xung đột tinh thần,
nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người” [15, tr.4]. Ví dụ
như cuộc xung đột giữa hai luồng tư tưởng: nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật
vị nhân sinh trong văn học nước ta những năm 30 của thế kỉ XX. Văn học nước ta
hấp thụ và chịu sự ảnh hưởng rất lớn của văn hóa phương Đông, đặc biệt là văn hóa
Trung Hoa. Văn học cũng ảnh hưởng và hấp thụ văn hóa dân tộc như: văn hóa tộc
người (Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh,
Nguyên Ngọc với Đất nước đứng lên,… ta thấy được những nét văn hóa đặc sắc của
các dân tộc ở Tây Nguyên đồng thời thể hiện lòng yêu nước, hết lòng với cách
mạng, với Đảng của người dân nơi đây), văn hóa vùng miền (các sáng tác của các
tác giả miền Nam như Hồ Biểu Chánh với Cha con nghĩa nặng, Những đứa con
trong gia đình, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi,… mang đậm nét văn hóa Nam
Bộ từ quan điểm sống, cách ứng sử, giọng điệu,… của con người). Trong Văn học
và văn hóa truyền thống, Huỳnh Như Phương đã khẳng định: “Những vùng văn hóa
giao nhau sẽ tạo ra những nét chung trong văn học của từng cùng, đồng thời nó vẫn
giữ lại những nét riêng làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn
hóa, từ đó phân biệt “lãnh thổ” trên bản đồ văn học” [15, tr.4].
1.1.4 Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học
1.1.4.1 Các cách tiếp cận trong nghiên cứu văn học
Văn học đã trải qua quá trình lịch sử nghiên cứu lâu đời với nhiều thành tựu
ở nhiều phương pháp và các quan điểm khác nhau. Phương pháp nghiên cứu theo
phân tâm học Feurd chỉ tập trung khám phá, lí giải những ẩn ức tâm lí, ẩn ức tình
dục ẩn tàng trong tác phẩm nhưng lại không để tâm đến thành tựu về nghệ thuật.
17
Chủ nghĩa cấu trúc luôn quan tâm phân tích hình thức mà bỏ qua nội dung. Chủ
nghĩa ấn tượng lại chỉ quan tâm khám phá ấn tượng trong phút đầu cảm nhận mà
không đi sâu khám phá bản chất hiện thực… Như vậy, mỗi phương pháp nghiên
cứu đều có những ưu thế, nhược điểm và bất cập của nó. Vậy nên, người nghiên
cứu muốn đi sâu vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm thì phải tìm ra được phương
pháp có thể bao quát nhiều phương pháp khác nhau. Trong xu thế hội nhập hiện
nay, cùng với sự phát triển và tiến bộ của nghiên cứu văn học và thời đại, với những
cải tổ và cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có cái nhìn và cách
đánh giá mới, hữu hiệu, chuẩn xác, khoa học hơn về tác phẩm văn chương.
M.Bakhtin là một trong những người khởi xướng cho xu hướng nghiên cứu
văn học thông qua văn hóa học. Đây là quan điểm đề cao vai trò của văn hóa.
Những nghiên cứu văn học của M.Bakhtin là những bước khởi đầu cho một phương
pháp mà rất có ưu thế hiện nay: phương pháp tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn
hóa. Phương pháp này là không chỉ đi tìm ảnh hưởng của văn hóa đương thời đối
với văn học mà còn truy tìm đến cả các truyền thống văn hóa xa xưa của dân tộc,
đất nước.
Phương pháp tiếp cận văn học lấy con người làm trung tâm đã xây dựng con
người với tư cách là một thực thể văn hóa luôn luôn tồn tại trong ba mối quan hệ
căn bản: quan hệ với môi trường tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính
bản thân mình. Trong tiến trình phát triển, con người không ngừng tìm kiếm, xác
lập các nguyên tắc ứng xử cho ba mối quan hệ này. Các mối quan hệ ứng xử ấy
luôn chi phối nhà văn trong quá trình sáng tạo một tác phẩm văn học trong việc
chọn lựa các phương diện thi pháp. Vậy nên, nghiên cứu văn học theo quan điểm
văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu
tố thi pháp của tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là phương pháp tiếp cận
liên ngành, nơi yêu cầu vận dụng tổng hợp các tri thức về lịch sử, tôn giáo, nhân
học, khảo cổ,… để giải mã các hiện tượng thi pháp học tác phẩm văn học.
1.1.4.2 Đặc điểm và ưu thế của phương pháp tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn
hóa
18
Văn hóa là một khái niệm rất rộng với nhiều cách hiểu khác nhau và có
những độ chênh khác nhau nhưng khi đem soi chiếu vào văn học thì văn hóa lại
càng có “độ mờ” nhất định. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong những năm gần đây việc
tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa đã có những thành tựu nhất định qua một số
công trình: Từ góc nhìn văn hóa, Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực của Đỗ
Lai Thúy; Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn;
Giải mã văn học từ mã văn hóa của Trần Lê Bảo; Bản sắc văn hóa Việt Nam qua
giao lưu văn học của Nguyễn Bá Thành,… Mỗi tác giả, căn cứ vào đối tượng
nghiên cứu cụ thể đã tiến hành xây dựng một bộ khái niệm công cụ phù hợp và hiệu
quả để khám phá đối tượng được nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận.
Văn học là bộ phận quan trọng của văn hóa và hiện thân của nền văn hóa.
Trong Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Đỗ Thị Ngọc Chi đã cụ thể hóa
những yêu cầu đó như sau: “1) Phải đặt văn học trông bối cảnh rộng lớn của văn
hóa xã hội hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với các hiện tượng văn
hóa khác; 2) Xem văn học là bộ phận của văn hóa thì văn bản văn học cũng là sản
phẩm văn hóa vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hóa; 3) Văn học là một
trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới mạch ngầm sâu
thẳm của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ” [3,
tr.17].
Văn học và văn hóa có mối quan hệ không thể tách rời nên việc nghiên cứu
văn học dưới góc nhìn văn hóa là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cách tiếp
cận văn học dưới góc nhìn văn hóa giúp chúng ta lí giải trọn vẹn tác phẩm nghệ
thuật cùng với hệ thống văn hóa được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hóa
liên quan đến thiên nhiên, lịch sử, địa lí, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, ngôn
ngữ,… có thể vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của
tác phẩm và góp phần lí giải tâm lí sáng tác, thị hiếu đọc giả và con đường phát
triển của văn học.
19
Cách tiếp cận văn hóa học chính là đặt văn học trong không gian văn hóa với
những đặc trưng của nó đã thâm nhập vào thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Những giá trị văn hóa truyền thống đã thẩm thấu vào thế giới hình tượng và ngôn từ
của tác phẩm văn học mà đôi khi nhà văn không ý thức một cách tự giác. Mặt khác,
những giá trị văn hóa mới hình thành cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình sáng tạo
của nhà văn.
1.1.4.3 Biểu hiện của văn hóa trong văn học
Trong tác phẩm văn học, từng hình tượng, chi tiết luôn luôn có sự thẩm thấu
của văn hóa mà nhiều khi người sáng tạo cũng không ý thức được sự truyền tải văn
hóa trong các tác phẩm của mình, nên luôn phải cần đến sự tìm tòi, phát hiện của
những người đọc, người nghiên cứu văn chương. Trong các tác phẩm văn học thì hệ
thống Chủ đề, đề tài, sự kiện, nhân vật, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,.. luôn bị
văn hóa chi phối. Tuy nhiên, ở mỗi tác phẩm khác nhau thì giá trị văn hóa được thể
hiện rõ hơn ở mặt này hay mặt khác.
Trường hợp cụ thể tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến mà luận văn nghiên cứu, văn
hóa biểu hiện qua nhiều khía cạnh trong tác phẩm. Đặc biệt, những giá trị văn hóa
trong tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc bởi phông văn hóa của nhà văn Nguyễn Ngọc
Tiến. Nguyễn Ngọc Tiến là người con của Hà Nội, vì vậy những yếu tố mang nét
văn hóa Hà Nội được thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm của ông. Những điểm nổi
bật của văn hóa trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến thể hiện ở không gian, thời
gian, con người với những giá trị về nét văn hóa trong sinh hoạt, văn hóa ứng xử, ở
những biểu tượng văn hóa được hình thành mang ý nghĩa nghệ thuật, cách xây dựng
các chủ đề, đề tài về Hà Nội ở ngôn ngữ, giọng điệu trong tác phẩm.
1.2 Thể loại tạp văn trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại.
1.2.1. Khái niệm tạp văn
Xét về phương diện sáng tác và tiếp nhận thì cả người sáng tác và người đọc
đều không xa lạ với thể loại tạp văn nữa. Tạp văn xuất hiện dày đặc trên các tờ báo
với nhiều tác giả. Hiện nay, đã có không ít những tác phẩm đã xác định hẳn tên thể
loại là “tạp văn”.
20
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về thể loại này một cách nghiêm túc, cụ thể
nhưng định nghĩa về tạp văn thực sự đa dạng phong phú và có nhiều ý kiến khác
nhau.
Đỗ Hải Ninh xếp tạp văn là một dạng nhỏ của tản văn: “chúng tôi quan niệm
tản văn là loại văn ngắn gọn, hàm súc, với khả năng khám phá đời sống bất ngờ thể
hiện trực tiếp tư duy, tình cảm tác giả, bao gồm cả tạp văn, tuỳ bút, văn tiểu phẩm.”
[13, tr.3].
Hoàng Phê cũng xác định: “Tạp văn bao gồm nhiều đề tài linh hoạt và có
tên gọi khác nhau như: đoản binh, tiểu phẩm, tùy bút” [14, tr.887].
Tạp văn được định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học như sau: “Tạp văn
được xem là những áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị , có tác dụng chiến đấu
mạnh mẽ. Đó là thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén vừa có tính nghệ thuật cô
đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội” [9, tr.294-295].
Nguyễn Như Ý giải thích: Tạp văn gồm nhiều thể đề tài linh hoạt như đoản
thiên, tiểu phẩm, tùy bút” [40, tr.1495].
Trong cuốn sách Năm bài giảng về thể loại: Kí – Bi kịch – Trường ca – Anh
hùng ca – Tiểu thuyết, Hoàng Ngọc Hiến lại coi tạp văn là một tiểu loại của thể loại
kí: “Trong nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại, kí là một loại thuật ngữ dùng
để gọi tên một thể loại văn học bao gồm nhiều tiểu loại, bút kí , hồi kí, du kí, chính
luận, phóng sự, tùy bút, tản văn, tạp văn, tiểu phẩm,...” [10, tr.5].
Dương Ngọc Dũng trong Tạp văn đã nhận định: “Tạp văn chỉ là những đoản
văn đọc cho vui, ngắn gọn, dễ hiểu, hơi gây sốt một chút nếu cần, không phải là
những chuyên luận đăng trên tạp chí chuyên ngành. Chủ đề thì không có gì nhất
định, lan man từ những mẩu chuyện vụn vặt có thật trong đời sống xã hội Mỹ, đến
một sản phẩm tưởng tượng hoàn toàn, hay những bình luận thoáng qua về
Shakespeare, cổ sử Trung Quốc. Độc giả có thể mở sách ra, thích đâu đọc đấy,
không cần phải bận tâm về “độ chính xác” hay hàm lượng thông tin của bài viết”
[4, tr.2].
21
Trong khí đó lại có một số tác giả đưa ra quan điểm tạp văn nằm trong thể
loại tản văn. Trong cuốn Khái niệm và thuật ngữ lí luận văn học Trung Quốc
(Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học), Phạm Thị Hảo cho rằng: “Tạp
văn là một loại tản văn, bao gồm nhiều hình thức: tạp cảm, tạp đàm, tạp luận,...”
Như vậy, đã có rất nhiều định nghĩa được đưa ra nhưng thực tế là các nhà
nghiên cứu hay cả người sáng tác đều chưa thể định nghĩa bao quát nhất cho thể
loại này. Từ các ý kiến đưa ra có thể khái quát được các đặc điểm chung của tạp văn
như sau: Tạp văn là một tiểu loại ngắn gọn, hàm súc, linh loạt phù hợp với nhu cầu
thưởng thức của đa số độc giả hiện nay. Trong tạp văn nhân vật chính có thể là tác
giả, tác giả thể hiện, trình bày suy nghĩ, quan điểm, tâm tư, tình cảm, tiếng nói của
bản thân mình trước mọi vấn đề của cuộc sống. Nội dung của tạp văn rộng lớn,
không bị gò bó bởi hình thức, người đọc có thể có cơ hội ngắm nhìn cuộc sống hàng
ngày hay đời sống nội tâm, tâm tình của từng tác giả.
1.2.2 Sự khác biệt của tạp văn với thể loại khác
Ở Việt Nam, các khái niệm giữa tản văn, tạp văn, tạp bút, tùy bút, bút kí...
luôn có sự mập mờ, chưa thể phân định rõ ràng. Chính vì vậy việc phân biệt tạp văn
với các thể loại gần gũi là điều cần thiết.
1.2.2.1 Phân biệt với tản văn
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng), Hoàng Phê đã xác định tản
văn có hai nghĩa: “(1) Văn xuôi; (2) Loại văn gồm các thể kí, tùy bút...
Trần Quang Vinh cho rằng: “Giới nghiên cứu lại có người cho tản văn là
một loại ký, lại có người cho rằng ký chỉ bao gồm một phạm vi hẹp hơn tản văn. Có
hai ý kiến như trên bởi khái niệm tản văn được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa
hẹp. Theo nghĩa rộng, tản văn là văn xuôi, đối lập với vận văn (văn vần). Theo
nghĩa hẹp, tản văn là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, giàu khả năng khơi gợi
với kết cấu có sự kết hợp linh hoạt tất cả các phương thức, phương tiện biểu hiện
nghệ thuật, nội dung thường thể hiện đời sống theo kiểu chấm phá và đặc trưng
quan trọng nhất là nó thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân của người cầm bút.” [34,
tr.7-8].
22
Từ điển thuật ngữ văn học đã xác định tản văn ngoài nghĩa là văn xuôi thì
còn có đặc trưng riêng biệt: “Nghĩa đen là văn xuôi, nhưng hiện nay tản văn được
dùng để chỉ một phạm vi xác định, không hoàn toàn khớp với thuật ngữ văn xuôi.
Nếu văn xuôi theo nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần và trong nghĩa hẹp
chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu
thuyết, truyện vừa, truyện ngăn, kí, tiểu phẩm, chính luận thì tản văn chỉ phạm vi
văn xuôi hẹp hơn, không bao gồm các thể loại truyện hư cấu” [9, tr.293]. Điểm
khác biệt của tản văn so với các thể loại khác cũng được nhắc đến trong cuốn sách:
“Tản văn là thể văn xuôi gọn nhẹ, hàm súc, có thể tự sự, trữ tình, nghị luận, miêu tả
phong cách, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện của tản văn mang tính chấm phá,
không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu
tứ độc đáo, có giọng điệu cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được
nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa
mang đậm bản sác cá tính của tác giả” [9, tr.294].
Ở Việt Nam, khoảng thập niên 20 của thế kỷ XX, tản văn phát triển mạnh mẽ
vào với các sáng tác của Tản Đà như: Khối tình – 1918, Tản Đà tùng văn –
1922, Tản Đà nhàn tưởng – 1929, Lời người Man di hiện đại - Nhời đàn bà của
Nguyễn Văn Vĩnh là tập hợp những bài báo của ông trên các tờ Đăng cổ tùng báo,
Đông Dương tạp chí và Nước Nam mới từ 1907 đến 1935, Nguyễn Bá Trác, Đạm
Phượng, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tất Tố... Trong đó, Tản Đà đã bứt phá ra mọi
khuôn khổ của hệ thống thể loại gò bó cũ, là người tiên phong đặt nền móng cho tản
văn Việt Nam.
Giới trẻ sáng tác văn chương hiện nay quan niệm về tản văn khoáng đạt hơn,
phù hợp với xu hướng dân chủ hóa trong đời sống văn chương cũng như sự phát
triển của các thể loại. Như vậy, tản văn không chỉ dành riêng cho các cây bút lão
luyện mà còn là nơi để những người viết trẻ viết về các vấn đề đang diễn ra trong
thực tế xã hội để trình bày các quan điểm của mình một cách ngắn ngọn, thoải mái
hay đưa ra các triết lí nhân sinh trong các mối liên hệ của đời sống xã hội.
23
Tóm lại, tản văn là một thể loại văn xuôi khá năng động, có thể nắm bắt kịp
thời và phản hồi thông tin trực tiếp về những vần đề trong đời sống xã hội. Nhìn
chung tản văn thường ngắn gọn, hàm súc và cũng có ít nhiều sự hư cấu nhất định,
tác động trực tiếp tới tình cảm và nhận thức của người đọc thông qua các yếu tố tự
sự, trữ tình, chính luận nhưng sức hấp dẫn của nó chủ yếu xuất phát từ dấu ấn riêng
của từng tác giả.
Từ nhiều ý kiến đưa ra, có thể thấy được khái niệm tạp văn đôi khi được
dùng như tản văn. Tuy nhiên, tạp văn nghiêng nhiều về vấn đề xã hội và thể hiện
các quan điểm riêng của tác giả trước mọi vấn đề đời sống.
1.2.2.2 Phân biệt với tùy bút
Theo Wikipedia Tiếng Việt: “Tùy bút là một thể của ký, tùy bút nghiêng hẳn
về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà
văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét,
đánh giá, trình bày v.v. Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái
cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá.” [35, tr.2]
Nguyễn Tuân cũng đã nhận định rằng: “Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy
bút là không nguyên tắc gì cả”. Nhiều tác giả cũng có chung quan điểm rằng: Tùy
bút là những trang văn xuôi mà ở đó người viết tùy cảm hứng, tùy cảnh, tùy ngòi
bút mà đưa đẩy. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu như trên sẽ dẫn đến việc lẫn lộn giữa lối
viết phóng khoáng, tự do với lối viết tản mạn, bịa đặt, tùy tiện, đồng thời cũng
không chỉ ra được bản chất quan trọng của tùy bút.
Trần Văn Minh trong Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam 1930 đến
1975 đã nhận định rằng:“Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể
không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt
chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong
của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể
thẩm mỹ vẫn phải chân thực” [11, tr.188]
Trong Hán Việt từ điển giản yếu Đào Duy Anh giải thích rằng “tùy bút” là
“tùy thời mà biên chép” và bút ngoài dùng để viết có thêm nghĩa là biên chép.
24
Nghĩa là người viết không chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của mình mà còn phải chịu
sự chi phối của hoàn cảnh khách quan.
Đỗ Hải Ninh trong bài viết Ký trên hành trình đổi mới, Hoàng Phê trong
cuốn Đại Từ điển Hán Việt xếp tạp văn là một thể loại nhỏ của tản văn.
Hiện nay, hầu như ở báo, tạp chí nào cũng có mục tạp văn hay tạp bút. Tùy
theo phong cách của mỗi tờ báo, tạp chí mà tạp văn có những biến đổi linh hoạt
khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy được, tạp văn cơ bản gần giống với báo chí hơn là
văn chương.
Khi nhắc đến những cây bút viết tạp văn hiện nay ở Việt Nam, không thể
không nhắc đến Nguyễn Ngọc Tiến. Sức hút trong các trang viết của ông chính là
ông đã khắc ghi dấu ấn của riêng mình khi viết về trái tim thủ đô – mảnh đất ngàn
năm văn hiến cùng thái độ sống của chính ông được thể hiện qua giọng văn mộc
mạc mà đầy cảm xúc.
1.2.3 Sự nở rộ của thể loại tạp văn hiện nay
1.2.3.1 Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
Thứ nhất, do chủ chương đổi mới của Đảng và dân chủ hóa trong mọi mặt
đời sống xã hội.
Mỗi thể loại văn học ra đời đều xuất phát từ những yêu cầu nhất định của xã
hội. Việt Nam khi bước vào thời kì đổi mới đến nay đã có rất nhiều biến động tích
cực với bầu không khí dân chủ, nhất là ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, tư tưởng. Môi
trường ấy đã tạo điều kiện cho những người cầm bút tự do được bày tỏ quan điểm
của mình về những vấn đề xung quanh để tự khẳng định bản thân và tài năng của
mình. Tạp văn với tư cách là một tiểu loại kết hợp những đặc điểm của báo chí và
văn chương cho phép người viết dễ dàng, linh hoạt truyền tải thông tin và trình bày,
bày tỏ quan điểm những ý kiến của mình đến độc giả.
Cùng với nhịp sống hối hả hiện nay, người viết đến với tản văn như để lắng
lòng, chia sẻ những khoảnh khắc giá trị trong cuộc sống hối hả, nhộn nhịp với mọi
người và người đọc cũng từ ấy mà thấy hiểu cùng người viết.
Thứ hai là xuất phát từ ý thức, trách nhiệm của nhà văn đối với xã hội.
25
Dựa vào những đặc tính cũng như ưu thế của tạp văn, các nhà văn đã chọn
tạp văn như một vũ khí để đấu tranh trên chiến trường ngôn luận trong hoàn cảnh
đất nước ta những thập niên đầu thế kỉ XX. Các tác giả tiêu biểu như Huỳnh Thúc
Kháng, Ngô Đức Kế, Ngô Tất Tố,… Sự lựa chọn thể loại tạp văn để làm vũ khí để
đấu tranh ngôn luận với thực dân Pháp lúc bấy giờ vừa rút ngắn được thời gian cho
nhà văn, vừa giúp công chúng dễ tiếp nhận thông tin.
Tạp văn là một thể loại có thể phục vụ được chính nhu cầu bày tỏ quan điểm,
chính kiến của người viết trước mọi mặt của đời sống trong thời đại dân chủ nên sự
ra đời của tạp văn là điều tất yếu.
Văn học trong từng giai đoạn phát triển luôn luôn hướng đến triết lí sâu xa
và với những giá trị vĩnh hằng và tạp văn cũng không nằm ngoài đó. Tạp văn có
cơ hội đi sâu vào những vấn đề trong cuộc sống một cách cụ thể, trực tiếp, ngắn
gọn, linh hoạt, hàm súc và nhanh hơn các thể loại khác. Yêu cầu cao nhất đối với
các tác giả là phải có tầm nhìn văn hóa, tầm hiểu biết sâu rộng và trải nghiệm
phong phú để có thể hướng độc giả tới chân, thiện, mỹ và góp phần giúp họ hiểu
muôn mặt của đời sống để hoàn thiện nhân cách bản thân.
Thứ ba, do sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và công nghệ thông tin
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, công nghệ thông tin, nhịp sống
hiện đại, thể loại tạp văn trở thành loại văn bản có ưu thế. Có nhiều tờ báo dành
riêng mục để đăng tạp văn, tản văn, cho nên tạp văn gắn chặt với đời sống xã hội
hiện nay. Tạp văn là thể loại gần gũi với cuộc sống hàng ngày, gắn liền với hoạt
động báo chí nên tác động trực tiếp tới đời sống tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ của
người đọc. Đã có nhiều tạp văn được in thành sách. Như vậy, tạp văn đã dần khẳng
định vị trí của mình trọng nền văn học hiện đại Việt Nam so với các thể loại khác.
Thứ tư là do nhịp sống hối hả hiện đại, con người cần nắm bắt những thông
tin nhanh nhạy, ngắn gọn, chính xác.
Ngày nay, cuộc sống hiện đại hơn, tiện nghi hơn, sôi động hơn, nhịp sống đô
thị diễn ra quá nhanh, con người dần dần bị cuốn vào guồng quay của cuộc sống,
công việc,... nên việc muốn nắm bắt thông tin nhanh nhạy, chính xác, ngắn gọn là
26
điều cần thiết. Ngày nay, các tờ báo dành nhiều mục để in các tạp văn hay người
đọc có thể dùng điện thoại thông minh, máy tính bảng, internet để truy cập các trang
báo mạng để nắm bắt thông tin một cách nhanh nhất. Vì vậy, tạp văn là ưu tiên hàng
đầu vì có thể đi sâu vào đời sống xã hội cùng với đặc điểm ngắn gọn, nhanh nhạy,
chuẩn xác đã đáp ứng nhu cầu của người đọc hiện nay.
Đã có rất nhiều tác giả đã khẳng định dấu ấn riêng của mình với thể loại tạp
văn như: Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Trương Qúy…
Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến viết về Hà Nội vừa có sự kế thừa của các
bậc tiền bối vừa là sự trải nghiệm, chiêm nghiệm từ những khám phá đặc sắc của
riêng ông về mảnh đất ngàn năm văn hiến trong mối liên hệ với đời sống xã hội
đương đại. Thông qua đó ông luôn hướng đến những giá trị cuộc sống tốt đẹp của
đất và người Thăng Long xưa.
1.2.3.2 Tạp văn trong nền văn học Việt Nam đương đại
Cùng với sự vận động và phát triển của các thể loại văn học, tạp văn góp
phần đáng kể cho nền văn học nước nhà. Nếu từ 1900 đến 1986 chỉ là quá trình
hình thành và phát triển của tạp văn thì sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng (12/1986) đến nay thực sự tạp văn có những bước phát triển vượt trội.
Ngày nay, báo chí, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ cùng nhịp sống hiện đại
thì tạp văn, tản văn là loại văn bản chiếm ưu thế. Đặc biệt có rất nhiều tờ báo dành
riêng mục để đăng tạp văn, tản văn thường kì như: Tuổi trẻ, Thanh niên, Văn nghệ,
Người lao động, Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn tiếp thị,… Không chỉ
xuất hiện liên tục và dày đặc trên những mặt báo, các trang mạng xã hội mà những
năm gần đây tạp văn, tản văn được xuất bản khá nhiều, nội dung chất lượng và được
độc giả đón nhận nồng nhiệt.
Viết tạp văn là viết những chuyện nhỏ bé, dung dị, đời thường nhưng lại đề
cập đến những vấn đề của thời đại, nói chuyện đời thường mà chạm đến những
vấn đề thời thế vô cùng sâu sắc. Tại Việt Nam, trong những năm của sự hình
27
thành và phát triển mạnh mẽ của thể loại này đã xuất hiện rất nhiều tác giả với
nhiều cuốn tạp văn gây được tiếng vang và để lại dấu ấn của riêng mình.
Nguyễn Nhật Ánh trong lời tựa viết cho cuốn tạp văn Nghiêng tai dưới gió
của Lê Giang đã nhận xét: “Tôi đọc, lại nghĩ mình đang đọc tự truyện”. Đọc giả sẽ
cùng chung nhận xét với Nguyễn Nhật Ánh khi bắt gặp nhiều mẩu chuyện như
những lời tâm tình, tự sự của chính tác giả kể về sinh hoạt đời thường, những tháng
ngày vất vả lội núi, băng đồng, những tình bạn chân thành và ấm áp trong những
ngày kháng chiến. Qua đó cũng giúp bạn đọc thấy được cảnh sống thanh bạch và
giản dị của đôi vợ chồng nghệ sĩ trọn đời gắn bó với dân ca.
Tạp văn của Nguyễn Khải đề cập của yếu đến vấn đề đạo đức và lối sống.
Nội dung chủ yếu là tự truyện, những câu chuyện liên quan đến các khía cạnh của
đời sống hiện thực xoay quanh những vấn đề nghề văn và cuộc đời.
Tạp văn mang đậm không khí của đất và người Tây Nguyên của Nguyên
Ngọc đã gây được tiếng vang lớn trong làng văn học. Qua các sáng tác của mình,
ông đã làm hiện lên một Tây Nguyên với nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, tạp
văn Nguyên Ngọc đề cập khá nhiều đến bức tranh toàn cảnh nền giáo dục và văn
học Việt Nam bằng việc chỉ ra những sao lầm yếu kém của giáo dục và văn học
nước ta, đồng thời ông cũng chỉ ra những giải pháp và phương hướng khác phục.
Những nét riêng của con người Nam Bộ đã được Nguyễn Ngọc Tư mang vào
những trang tạp văn của bà đã được Thanh Vân nhận xét: “Thủng thảng, nhỏ nhẹ như
người con gái quê đang vừa hái rau muống vừa kể chuyện, những câu chuyện lúc thì
da diết lúc lại hóm hỉnh, tưng tửng, vui vui, tạp văn Nguyễn Ngọc Tư có sự kết hợp rõ
nét giữa văn và báo. Nếu như ở truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư chưa chạm nhiều đến
“kinh tế, chính trị” thì trong tạp văn chị bộc lộ cái nhìn của mình về chuyện lúa chết
non, tôm chết làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, chuyện giữ đất hay bán
đất, chuyện quan lại nhũng nhiễu, hạch sách người dân” [29, tr.5]. Tạp văn Nguyễn
Ngọc Tư là những lời giãi bày tâm sự hết sức chân thành, giản dị nhưng chất chứa
nhiều day dứt trong Tạp văn (2005), Sống chậm thời @ (2006), Ngày mai của những
ngày mai (2007), Biển của mỗi người (2008), Yêu người ngóng núi (2009)
28
Phan Thị Vàng Anh đến với tạp văn khi chị đã được độc giả quen thuộc với
thể loại truyện ngắn. Cuốn Tạp văn Phan Thị Vàng Anh (5/2011), Nxb Trẻ, TP. Hồ
Chí Minh là tập tài liệu tập hợp các bài viết đã đăng trên các báo Thể thao - Văn
hóa; Đại biểu Nhân dân; Tuổi trẻ; Tia sáng; Thời báo Kinh tế Sài Gòn... từ năm
1988 đến 2010 của chị. Các bài viết đề cập trong Tạp văn Phan Thị Vàng Anh là các
vấn đề về đất nước, con người Việt Nam với cái nhìn của một công dân có trách
nhiệm, từ chuyện tiểu tiết đến các vấn đề thời sự nóng hổi, từ chuyện vi mô đến
chuyện vĩ mô. Dù viết về vấn đề gì thì sau mỗi bài viết đều đọng lại trong lòng
người đọc những câu hỏi dạng câu lớn...
Cùng với việc được độc giả đón nhận nồng nhiệt trong thể loại tiểu thuyết thì
Nguyễn Việt Hà khi đến với tạp văn đã mang một dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc
cùng những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam đương đại.
Tạ Duy Anh trong những trang tạp văn của mình lại đưa người đọc về miền
kí ức tuổi thơ ngọt ngào nhưng đầy sự trầm tư cùng những lo lắng và băn khoăn
trước hiện thực cuộc sống hiện tại.
Tạp văn Nguyễn Trương Qúy để lại ấn tượng trong lòng độc giả với giọng
giễu nhại. Tạp văn Lê Giang lại có cách viết mới lại về những điều dung dị quanh
mình. Nhà văn Nguyễn Quang Lập lại là giọng văn dí dỏm, hài hước. Hay nhà văn
Lý Lan được độc giả Việt Nam mê đắm với các bản dịch Harry Porter bằng tiếng
Việt và khi nói lên tiếng lòng của mình qua tạp văn cũng đã để lại dấu ấn riêng và
được độc giả ghi nhận….
Hiện nay, có rất nhiều người viết tạp văn nhưng không phải ai cũng cố thể
ghi được dấu ấn riêng mình như ở các thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn. Đội ngũ
sáng tác chủ yếu đều là những nhà văn, nhà thơ, các bậc lão làng có tên tuổi như:
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Việt Hà, Lý
Lan, Lê Giang,…
Nguyễn Ngọc Tiến đã khẳng định được tên tuổi của mình qua bốn cuốn tạp
văn tiêu biểu. Nét nổi bật trong tạp văn ông là giọng điệu chính luận nhưng lại giản
dị, đời thường khi bàn về những các vấn đề lịch sử, văn hóa và con người Hà Nội.
29
Đọc tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến, độc giả như cảm nhận được cuộc sống giản dị,
gần gũi, đời thường ở Hà Nội qua giọng văn tự nhiên, mộc mạc nhưng đầy xúc cảm,
chiêm nghiệm.
1.3 Nguyễn Ngọc Tiến – nhà văn của Hà Nội ngàn năm văn hiến.
1.3.1 Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến.
Nguyễn Ngọc Tiến sinh ra và lớn lên ở khu phố Vọng, quận Hai Bà Trưng,
Hà Nội. Vì thế, khi viết về Hà Nội giống như ông đang kể về những kí ức tuổi thơ,
hành trình lớn lên cùng những chiêm nghiệm sâu sắc của mình trên mảnh đất ngàn
năm văn hiến này.
Ông từng là lính chiến đấu tại chiến trường biên giới Tây Nam (Lộc Ninh,
sông Bé). Sau 6 năm đi bộ đội, ông thi đỗ Đại học Sân khấu Điện ảnh và tốt nghiệp
ngành Lý luận - Biên kịch khi tuổi đã ngoài 30. Năm 1990, Nguyễn Ngọc Tiến đi
làm báo và luôn gắn bó với nghề. Hiện nay, ông làm phóng viên cho ban Phóng sự -
Điều tra của Báo Hà Nội mới
Gần 30 năm công tác ở Báo Hà Nội mới, ông có nhiều bài viết về văn hóa,
đoạt nhiều giải thưởng báo chí cho những phóng sự điều tra… nhưng có lẽ khi viết
về Hà Nội thì ngòi bút của ông có những dấu ân sâu đậm nhất.
Nguyễn Ngọc Tiến đang được biết đến là một trong những tác giả viết về Hà
Nội nhiều nhất hiện nay. Bên cạnh những cuốn khảo cứu 5678 bước chân quanh Hồ
Gươm, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội, những cuốn sách khác
của ông như: Mong manh, Me Tư Hồng, Lính Hà… cũng đầy ắp những chuyện cũ,
chuyện mới về Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Tiến đến với nghề báo vì thích sự tự do còn viết sách thì do
bức bối về những điều xung quanh, trải nghiệm của bản thân và có nhiều chuyện
chưa ai chạm tới.
1.3.2 Nguyễn Ngọc Tiến với thể loại tạp văn
Nguyễn Ngọc Tiến gắn bó sâu đậm với Hà Nội và có rất nhiều các cuốn sách
viết về Hà Nội từ những khám phá, tìm tòi và kinh nghiệm của bản thân. Cho đến
nay Nguyễn Ngọc Tiến đã cho ra đời 4 cuốn tạp văn viết về Hà Nội. Dường như sự
30
tò mò của bạn đọc và những lần tái bản liên tiếp của 5678 bước chân quanh Hồ
Gươm đã đưa Nguyễn Ngọc Tiến dấn thân cho đề tài Hà Nội. Liên tiếp ông cho ra
mắt cuốn Đi ngang Hà Nội (2012) và Đi dọc Hà Nội (2012), tiếp sau đó là Đi xuyên
Hà Nội (2015), tạo nên một bộ sách khảo cứu về Hà Nội vô cùng thú vị.
Năm 2008, Nguyễn Ngọc Tiến trình làng cuốn khảo cứu về Hà Nội đầu tiên -
5678 bước chân quanh Hồ Gươm. Đây như là một cuộc dạo chơi của chính tác giả
tại hồ Gươm. Qua từng bước chân là những câu chuyện xoay quanh địa điểm này
cùng những đặc sắc văn hóa thú vị và riêng biệt của Hà Nội. Ông đã tái hiện lại
cuộc dạo chơi vô cùng thoải mái, tự nhiên bắt đầu từ tượng đài Lý Thái Tổ men
xung quanh hồ Gươm đến nhiều địa điểm qua các dấu mốc lịch sử cùng con người
nơi đây. Người đọc như được quay ngược thời gian về quá khứ để cùng Nguyễn
Ngọc Tiến đi quanh hồ Gươm, thấy được những đổi thay tại nơi đây cùng thăng
trầm của lịch sử qua các công trình kiến trúc ven hồ, những di tích, những câu
chuyện, những nét văn hóa của riêng người Hà Nội xoay quanh hồ Gươm… Tất cả
đều được ông tái hiện vô cùng sinh động cùng với lời văn giản dị, mộc mạc đã mở
ra một không gian văn hóa, lịch sử riêng biệt chỉ có ở Hà Nội.
Đi ngang Hà Nội với 31 câu chuyện đủ ngóc ngách đời sống lịch sử Hà Nội
mang lại cho bạn đọc yêu Hà Nội cảm xúc bâng khuâng về Hà Nội qua những câu
chuyện, cuộc đời của người Hà Nội theo chiều dài lịch sử. Trong cuốn tạp văn này,
đã có rất nhiều vấn đề mà trước nay chưa có người đề cập đến hay dù có đề cập thì
cũng chưa đi sâu như: Đĩ điếm ở Hà Hội, Tư sản ở Hà Nội, cô đầu ở Khâm Thiên,
xẩm bờ hồ, xe đạp… Những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến vì thế rất thú vị, có
nhiều thứ để đọc, để tìm hiểu và làm sống dậy những điều tưởng chừng đã đi vào dĩ
vãng ở mảnh đất này đồng thời mang lại cho bạn đọc những cảm xúc thú vị và thêm
hiểu biết về nơi đây qua những câu chuyện mà ông kể.
Đi dọc Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục triển khai góc nhìn mới về một số
vấn đề - sự kiện, giúp người đọc biết về "người Tràng An thanh lịch" qua thú chơi
hoa, qua lịch sử cầu Thê Húc, qua thuốc phiện và rượu lậu của một thời. . . Và các
vấn đề - sự kiện ấy luôn được tác giả xây dựng trên nền tảng con người, mà nổi trội
31
là những người Hà Nội rất bình thường cùng với các câu vè, lời rao hàng sinh động
và lý thú. Đó là những con người đã góp phần làm nên một diện mạo khác của Hà
Nội, khác xa với những "dân chơi" của đất kinh kỳ. . . Những trang văn trong Đi
dọc Hà Nội có thể giúp chúng ta hiểu thêm về quá khứ, về dòng chảy văn hóa và
dấu ấn của nhiều thế hệ ở Hà Thành, đồng thời nhắc nhở chúng ta rằng, hiện tại và
tương lai không đến từ hư vô, mà đến từ quá khứ.
Trong Đi xuyên Hà Nội, Hà Nội hiện lên qua nhiều góc cạnh: những bước
hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập bên cạnh những phố
Hàng của Kẻ Chợ, những thú chơi hay phong tục của thời trước, những thăng trầm
lịch sử. Có khi là câu chuyện nhiều ngổn ngang trong thân phận những ngôi biệt thự
cũ giờ cái còn cái mất. Có khi là những phận đời nổi trôi theo thời cuộc: những nhà
nho thất thế, một ông Tây say mê văn hóa bản địa và thành nhà Hà Nội học, những
người con trai con gái của một thời yêu nhau trong sáng… Những chuyện nho nhỏ
thú vị về thời điểm giao thông Hà Nội bắt đầu có đèn tín hiệu giao thông, cầu Long
Biên khởi dựng ra sao, ăn mày Hà Nội hay chợ búa thế nào… Hay những dấu mốc
lịch sử của những cuộc chiến tranh diễn ra trên mảnh đất Hà Nội, mỗi lần đi qua là
để lại những tác động nghiệt ngã lên dấu tích vật chất lẫn văn hóa sống của con
người. Nguyễn Ngọc Tiến đã tập trung viết vào bản chất của đô thị ở khía cạnh
khoa học nhân văn gần gũi, có sự khảo cứu sâu rộng các nguồn tư liệu, nên độ hấp
dẫn nằm ở chính sự sống động ấy. Tất cả dựng nên một cách tự nhiên chân dung
một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà luôn đầy chất đương đại.
Năm 2012, hai cuốn Đi ngang Hà Nội và Đi dọc Hà Nội của Nguyễn Ngọc
Tiến đã nhận được giải thưởng Vì tình yêu Hà Nội là một ghi nhận xứng đáng cho
những đóng góp thầm lặng của một người con của Hà Nội luôn nặng lòng với mảnh
đất quê hương như ông.
1.3.3. Đề tài Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến.
Nguyễn Ngọc Tiến là người con của Hà Nội và là tác giả viết về Hà Nội
nhiều nhất hiện nay, ông được độc giả yêu mến gọi là nhà “Hà Nội học” thời hiện
đại. Những cuốn sách của ông như: 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Đi ngang
32
Hà Nội, Đi dọc Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội, Mong Manh, Me Tư Hồng,… đã được
bạn đọc có cái nhìn mới hơn về mảnh đất ngàn năm văn hiến.
Trong các cuốn tản văn của mình, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa người đọc vào
một cuộc phiêu lưu vô cùng đặc biệt mà tác giả đã tạo ra cho những ai yêu mến Hà
Nội. Mỗi một tác phẩm, lại có nét riêng biệt cùng với đó là những câu chuyện về
con người, xã hội, văn hóa, lịch sử,… được tác giả tái hiện lại vô cùng đặc sắc.
Nguyễn Ngọc Tiến đã từng nói rằng: “Hà Nội là vùng đất có nhiều kỉ niệm,
kí ức nhất đối với tôi. Không những là nơi sinh ra tôi mà Hà Nội còn nuôi tôi bằng
cái nôi văn hóa. Tình yêu của tôi với Hà Nội là sự thẩm thấu dần dần, cứ thế, yêu là
yêu thôi…”. Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tiến, những hình ảnh, những câu
chuyện xảy ra tại nơi đây hiện lên rất rõ nét, cụ thể và sinh động. Một Hà Nội với
phở, phố cổ, tiếng chuông tàu điện leng keng,.. hay nhưng câu chuyện thú vị về: thú
chơi cá cảnh, những bài văn vần về Hà Thành, nhà vệ sinh công cộng đầu tiên, đi
hát cô đầu,… đều được ông ghi chép và kể lại vô cùng lôi cuốn. Với góc nhìn mới
lạ, độc đáo, tác giả kể lại những câu chuyện vô cùng thú vị như: lịch sử của cầu Thê
Húc, “người Tràng An” với thú chơi hoa vô cùng thanh lịch; hay những câu chuyện
về những con người bình dị: cô bán hàng rong, người hát xẩm, chị công nhân đã có
mấy chục năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ Hồ,… Đó
chính là những câu chuyện và những con người đã cho ta thấy một nét riêng biệt ở
mảnh đất kinh kỳ. Hay Câu chuyện về những ngày đầu khi Hà Nội bắt đầu có đèn
giao thông, cầu Long Biên được khởi dựng ra sao, những thành phố kiểu phương
Tây do người Pháp lập nên như thế nào,… những câu chuyện về những năm tháng
khó khăn trong thời kì chiến tranh. Bên cạnh đó, là những câu chuyện về tình yêu
trong sáng của những chàng trai cô gái,... cũng dành được sự yêu thích người đọc.
Không những thế, Nguyễn Ngọc Tiến còn bỏ rất nhiều công sức và tâm
huyết để thu lượm các thông tin qua nhiều cuốn sách lịch sử, sách viết về Hà Nội
của rất nhiều các tác giả người nước ngoài hay những cuốn sách viết về Thăng Long
– Hà Nội của các bậc tiền bối như: Nguyễn Trãi, Phạm Đình Hổ, Đặng Huy Trứ hay
những câu chuyện, bài viết nhỏ của các nhà nghiên cứu sau này như: Vũ Ngọc
33
Phan, Nguyễn Văn Uẩn, Trần Quốc Vượng, , Nguyễn Thừa Hỷ, … chính là những
tài liệu quý giá giúp ông có một cái nhìn hệ thống, rõ nét, khái quát về mảnh đất
ông yêu.
Với nghề làm báo của mình, ông có nhiều cơ hội đi nhiều, gặp gỡ, trò chuyện
với các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ, các bậc cao niên gắn bó với Hà Nội nên
ông đã thu thập được nhiều thông tin, tích lũy được nhiều kiến thức về mọi mặt của
Hà Nội để đưa vào các tác phẩm của mình. Nguyễn Ngọc Tiến từng chia sẻ rằng:
“Có nhiều người không làm báo nhưng họ vẫn khảo cứu và viết về Hà Nội rất sinh
động ăm ắp tư liệu. Vấn đề có thích hay không thích thôi. Song đúng là làm báo
giúp tôi có cơ hộ tiếp xúc dễ dàng với nhiều người và ghi chép được nhiều điều, Hà
Nội dưới các góc độ khác nhau từ đó để viết ra những điều như nó vốn có trong
cuộc sống”.
Đề tài Hà Nội là đề tài hấp dẫn nhiều cây bút ở nhiều thể loại như tiểu
thuyết, truyện ngắn, thơ, kí, tản văn, tạp văn …với nhiều tác giả và tác phẩm gây
được tiếng vang lớn như: Chuyện cũ Hà Nội, Người ven đô (Tô Hoài) Hà Nội băm
sáu phố phường (Thạch Lam), Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Một chuyến
đi, Hà Nội đánh Mỹ giỏi (Nguyễn Tuân), Thương nhớ mười hai (Vũ Bằng), Thú ăn
chơi người Hà Nội (Băng Sơn), Con giai phố cổ, Đàn bà uống rượu (Nguyễn Việt
Hà )… Thạch Lam đã giúp người đọc hình dung ra một khuôn mặt của một Hà Nội
phồn hoa đô hội nhưng cũng thật cổ kính tôn nghiêm, thanh cao với giọng văn tâm
tình trong Hà Nội băm sáu phố phường. Hà Nội trong sáng tác của Vũ Bằng chính
là nỗi nỗi thương nhớ quê hương, cảnh sắc, con người, tình yêu thương dành cho
người vợ hiền tần tảo, thủy chung bằng giọng văn trữ tình sâu lắng kết hợp với vốn
sống, vốn hiểu biết phong phú về đời sống văn hóa, phong tục của người Hà Nội
qua Thương nhớ mười hai. Với cách nhìn đa diện, đa chiều, Đỗ Phấn viết về hiện
thực đô thị Hà Nội là một thành phố trẻ trung, năng động nhưng cũng đang chông
chênh trên con đường hiện đại hóa với muôn màu muôn vẻ phức tạp của cuộc sống
đời thường nhưng cũng hết sức nhân văn cao đẹp. Nguyễn Việt Hà viết văn mà
giọng văn trước sau đều không giống ai đã kể những câu chuyện đầy thú vị về Hà
34
Nội. Ông đã dựng nên chân dung thành phố ngàn năm văn hiến mang hơi thở náo
nhiệt đương đại nhưng cũng giữ được các nét xưa qua Con giai phố cổ, Mặt của
đàn ông, Đàn bà uống rượu… nhưng với Nguyễn Ngọc Tiến thì bất kể đề tài nào
liên quan đến Thủ đô đều khiến ônghào hứng. Ông tự nhận, so với bề dày cả nghìn
năm của Hà Nội, thì dù đã “đi dọc”, “đi ngang”, “đi xuyên” và cả “đi quanh” Hà
Nội, ông cũng chưa thể nói hết về thành phố này. Con người và văn hóa Thăng
Long luôn chứa đựng nhiều điều bí hiểm mà việc tìm hiểu và lý giải đã trở thành
một nhu cầu của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu, các nhà văn, nhà thơ. Viết bao
nhiêu về Hà Nội cũng chưa đủ. Luôn coi mình chỉ là người đi sau so với rất nhiều
cây đa cây đề nghiên cứu về Hà Nội nên Nguyễn Ngọc Tiến cố gắng chọn cho mình
một lối đi riêng với những khám phá thú vị, mới mẻ về Hà Nội. Vì thế, khi viết về
đề tài Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến đã chọn những chủ đề được ít các tác giả đi trước
chọn đó là những câu chuyện thường ngày của Hà Nội và cuộc sống thường ngày
của người dân. Các tác phẩm của ông viết về Hà Nội thiên về mảng đời sống thị
dân, những thay đổi hiện nay của người Hà Nội chứ không phải là các tác phẩm
khảo cứu lịch sử. Nguyễn Ngọc Tiến không nhìn Hà Nội theo con mắt đạo đức mà
theo hiện thực xã hội, Hà Nội với ông là những thứ gần gũi và thân thương.
1.4 Tiểu kết chƣơng 1
Trong nền văn học Việt Nam đương đại, tạp văn là thể loại phát triển mạnh
mẽ. Thuật ngữ này trước đây được hiểu là thể loại văn xuôi nói chung nhưng trong
thực tế sáng tế hiện nay có thể nhận thấy rằng nhưng đặc trưng riêng biệt của thể
loại này. Tạp văn là thể loại ngắn gọn, hàm xúc, linh hoạt, vận dụng kết hợp các
hình thức tự sự, trữ tình hoặc nghị luận để tác giả có thể tái hiện và bày tỏ quan
điểm, trình bày suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, tiếng nói của bản thân mình trước mọi
vấn đề của cuộc sống. Tạp văn hiện nay phát triển mạnh mẽ phục vụ nhu cầu của cả
người đọc và người viết. Với thể loại tạp văn, có rất nhiều tác giả đã khẳng định
được tên tuổi, định hình được phong cách và có những đứa con tinh thần được độc
giả yêu mến.
35
Nguyễn Ngọc Tiến là gương mặt nhà văn tiêu biểu chuyên viết về đề tài Hà
Nội với ba thể loại chính: Kịch, tiểu thuyết và tạp văn. Trong đó, các tác phẩm gây
được tiếng vang và được lòng đa số các độc giả với cách thể hiện một cách nhìn,
cách khai thác mới mẻ, sâu sắc về Hà Nội của riêng Nguyễn Ngọc Tiến phải kể đến
bốn cuốn tạp văn vô cùng đặc sắc của ông: 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Đi
dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, Đi xuyên Hà Nội.
36
CHƢƠNG 2
NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN
2.1 Không gian từ góc nhìn văn hóa
2.1.1 Không gian Hà Nội ngàn năm văn hiến
Từ bao nhiêu thế kỉ nay, vùng đất kinh kì Thăng Long - Hà Nội luôn được
mệnh danh là vùng đất của thơ ca nhạc hoạ. Chính tại nơi đây đã sinh ra nhiều nghệ
sĩ tài năng, và cũng chính nơi đây đã gợi nên cảm hứng sáng tác cho bao thế hệ
nghệ sĩ. Không biết bao nhiêu bài thơ, áng văn, bao nhiêu ca khúc, bức tranh có đề
tài về cảnh vật, con người của vùng đất ngàn năm văn vật này. Đề tài Hà Nội đã đi
vào kho tàng đồ sộ của văn học dân gian, những khảo cứu phong tục tập quán cho
đến những truyện ngắn, kí sự của Thạch Lam, Tô Hoài, Nguyễn Tuân… về văn hóa,
nếp sống của con người, những thú chơi tao nhã của người Thăng Long – Hà
Nội…. Tác giả Nguyễn Ngọc Tiến được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, nơi giàu
truyền thống văn hóa, văn vật với các tập tục lễ hội, âm nhạc, văn hóa dân
gian…nên có thể nói, ông được ấp ủ, nuôi dưỡng giữa cái nôi văn hóa nơi đây. Vì
vậy, Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến là cảnh sắc và con người hiện
lên là những dung dị đời thường với những biến đổi và phát triển qua các giai đoạn
lịch sử ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau.
Hàng ngàn năm, đồng hành với bao thăng trầm của lịch sử dân tộc, Thăng
Long - Hà Nội nhiều lần bị tàn phá bởi giặc ngoại xâm nhưng vẫn hiên ngang trụ
vững “Thăng Long phi chiến địa”, “Giặc đến Bồ Đề giặc lại tan”. Các triều đại trở
về “chỉ nơi này là thắng địa” tập hợp nhân tài mọi miền đất nước, các danh nhân,
người tài có thời gian được sống thanh thản ở vùng thiên khí, địa khí tốt, càng tỏa
sáng, thành danh khi được làm việc tại kinh đô bậc nhất. Có rất nhiều câu ca dao tục
ngữ nói Hà Nội chính là miền đất hứa, ai ai cũng muốn ở Hà Nội như: “Giàu nhà
quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”, “Đông Thành có mẹ có cha/ Đói cơm, thiếu áo
thì ra Đông Thành” [29, tr.76]. Và cho đến thời bao cấp, Hà Nội vẫn được xem là
“đất thánh”, chẳng ai muốn xa “đất thành” và ai muốn về “đất thánh” vì ở đây có
37
điện, có đường nhựa, có nước máy “thứ nước làm trắng da và giọng nói trở nên
mềm hơn”, “Rất nhiều người tin rằng ăn nước máy không chỉ làm người ta thay
đổi giọng nói mà còn làm cho da dẻ đẹp hơn. Một người ở quê ra Hà Nội sống, nhờ
ăn nước máy mà giọng nói bớt thô cứng, mềm hơn, còn da từ thô ráp chuyển sang
mịn màng” [24, tr.226].
Trong 5678 bước chân quanh hồ Gươm, Nguyễn Ngọc Tiến đã lí giải tên gọi
của Hà Nội ngay từ đầu bài Hồ Gươm: “Hà Nội có nghĩa là thành phố trong sông.
Nhưng không chỉ có sông Hồng mà Hà Nội xưa bị bao quanh bởi các sông Tô Lịch,
Kim Ngưu, Thiên Phù.” [22, tr.7]. Khi nói đến Hà Nội không thể không nhắc đến hồ
Gươm – trái tim của Hà Nội. Nơi này hội tụ khí thiêng, gắn liền với người dân thủ
đô qua nhiều phương diện lịch sử văn hóa, từ truyền thuyết Lê Lợi trả kiếm cho rùa
vàng được lưu truyền trong dân gian: “Sau khi đánh tan giặc Minh, một hôm Lê
Thái Tổ ngồi trên thuyền rồng dạo chơi trên hồ thì thần Kim Quy nổi lên, ngài hiểu
thần muốn lấy lại thanh gươm báu trước kia thần đã cho ngài mượn đánh giặc
Minh. Và khi ngài rút gươm ra khỏi vỏ thì ngay lập tức thanh gươm bay về phía
thần Kim Quy, thần ngậm thanh gươm rồi từ từ lặn xuống chỉ để lại một vệt sáng
loáng [22, tr.9].
Phố phường Hà Nội là nơi chứng kiến biết bao thăng trầm của mảnh đất
ngàn năm văn hiến, là nơi sinh hoạt, làm ăn, buôn bán của những con người sống và
gắn bó với nơi này. “Sau năm 1945, nội thành Hà Nội có hơn 300 phố. Từ khi sáp
nhập Hà Tây và nội thành được mở rộng về bốn hướng, nhiều phô mới hình thành,
hiện tại, khu vực nội thành có gần 900 phố. Chuyện phường, phố và đặt tên có
nhiều chuyện vui buồn nhưng trên hết nó là một phần của lịch sử Hà Nội” [24,
tr.306]. “Cuối thời Lê, sông Hồng, Tô Lịch, cùng các hồ lớn ở phía đông và phía
nam Thăng Long vẫn thông với nhau bởi các con kênh. Không chỉ là tuyến đường
giao thông thủy quan trọng mà bến sông, mé sông, mép hồ còn là nơi tập trung dân
cư sống đông đúc, họ vừa sản xuất hàng hóa vừa buôn bán” [24, tr.307].
Hà Nội còn là niềm tự hào với những làng nghề truyền thống: “Kể từ khi
Thăng Long trở thành kinh đô Đại Việt, các nghề thủ công của các làng nghề gốc
38
Thăng Long bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa” [21, tr.87]. “ Hà Nội xưa
là đất hoa. Thời nhà Lý, làng Nghi Tàm có cánh đồng trồng hoa gọi là Đồng Bông.
Làng Yên Phụ cũng trồng hoa nên có tên là Yên Hoa…” [30, tr.69]. “Phía nam kinh
thành Thăng Long (bao gồm Bạch Mai, Mai Động, Hoàng Mai, Tương Mai ngày
nay) là vùng trồng mơ nên người ta gọi là kẻ mơ và mỗi làng trong Kẻ Mơ có một
nghề riêng…” [23, tr.12]. “Nằm cạnh hồ Tây với hoa sen bát ngát, tháng năm sen
nở tỏa hương khắp vùng phía tây kinh thành nên Thụy Chương cũng nổi tiếng với
nấu rượu nhụy sen. Tương truyền rượu nhụy sen ngon đến mức đức Phật cũng
không cưỡng lại được…” [23, tr.91]
Nguyễn Ngọc Tiến đã từng chia sẻ: “Từ khi trở thành phóng viên báo Hà
Nội mới, hồ Hoàn Kiếm (hay hồ Gươm) càng quen thuộc với tôi vì tòa soạn nằm kế
bên. Lúc rỗi việc, tôi thường thẩn thơ dạo quanh hồ và nhận ra rằng vẫn còn nhiều
chuyện chưa viết. Đó là những chuyện truyền miệng, chuyện khó nói và có thể dưới
mắt nhiều người nó lặt vặt song đôi khi nó là cai hồn của đời sống thị dân. Thế là ý
tưởng cuốn sách 5678 bước chân quanh hồ Gươm ra đời từ năm 2002. Sở dĩ đặt tên
sách như vậy vì tôi dạo quanh hồ Gươm hết từng ấy bước chân. Bắt đầy từ tượng Lý
Thái Tổ, vị vua có công đầu xây dựng Thăng Long, theo chiều kim đồng hồ mà kể.
Tuy nhiên, ngoài chuyện không đầu không cuối, tôi cũng lan man những chuyện tôi
đọc trong sách, tôi chứng kiến và cảm nhận về Thăng Long-Hà Nội” [22, tr.5].
Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã tái hiện lại không gian
của các thời phong kiến xưa nổi bật là thời Lý, Trần, Lê qua những câu chuyện lịch
sử trên mảnh đất Hà Nội trong Hồ Gươm, Dựng tượng dài Lý Công Uẩn, Quanh hồ
Gươm không ai bàn chuyện vua Lê, Di sản đê và chuyện bỏ đê,...; những câu
chuyện văn hóa xã hội, đời sống con người thời Pháp hay những câu chuyện về Hà
Nội thời bao cấp với biết bao khó khăn gian khổ nhưng cũng tạo nên cho nơi đây
những nét văn hóa riêng mà không nơi nào có được.
Có thể nhận thấy rằng bốn cuốn tạp văn là một không gian rộng lớn bao quát
tất cả văn hóa, phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt con người Hà Nội mà tác giả
đã phải dành rất nhiều công sức tìm kiếm tư liệu, sách báo trong và ngoài nước, gặp
39
gỡ các nhà nghiên cứu, người cao tuổi lâu năm của Hà Nội, những trải nghiệm cá
nhân... Nguyễn Ngọc Tiến đã khai thác, lựa chọn góc nhìn cẩn trọng theo hai chiều
lịch đại và đồng đại. Các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tiến đã đóng góp khắc họa
sâu chân dung của thành phố trái tim của đất nước và mang đến cho bạn đọc cái
nhìn bao quát, cụ thể nhất về thành phố ngàn năm tuổi này.
Trong những trang viết của mình, Nguyễn Ngọc Tiến đã tái hiện được trong
mỗi câu chuyện về một không gian Hà Nội xưa trong sự đối chiếu với Hà Nội ngày
nay. Ông đã nhìn Hà Nội trong sự vận động và biến đổi hôm qua và hôm nay. Đồng
thời ông luôn bộc lộ nỗi niềm đằng sau những biến đổi ấy. Qua đó, độc giả có cái
nhìn toàn diện, chứng kiến nhiều góc cạnh của Hà Nội qua sự hình thành thành phố,
các thú chơi, phong tục tập quán, các nghệ thuật dân gian... của các thời đại trước
cũng như các thăng trầm của Hà Nội trong từng giai đoạn lịch sử. Có thể thấy được
Nguyễn Ngọc Tiến luôn luôn thể hiện niềm tự hào về mảnh đất thiêng với muôn
vàn cái đẹp, xứ sở của trăm hoa đua nở, mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến của
đất nước muôn đời.
2.1.2 Không gian cuộc sống và những phong tục sinh hoạt văn hóa Hà Nội
Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đều chú trọng miêu tả hoặc gợi
nhắc đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ của người dân Hà Nội. Tất cả đều chứa đựng
không gian các làng nghề, không gian các phố phường mang đậm màu sắc Hà Nội
bởi yếu tố phong tục, những sinh hoạt văn hóa, kiến trúc, ẩm thực, các thú chơi tao
nhã, những buồn vui thế sự, những số phận, những tâm tình của Người Hà Nội.
Không gian cuộc sống muôn màu của Hà Nội đã đi vào trang văn của Nguyễn Ngọc
Tiến với tất cả sự sống động của nó.
Gắn bó với Hà Nội, sống hết mình với nơi chôn rau cắt rốn nên Nguyễn
Ngọc Tiến có cái nhìn sâu sắc, độc đáo về Hà Nội. Chính mảnh đất này đã nuôi
dưỡng tâm hồn nhà văn cùng với cái nhìn độc đáo ấy. Nguyễn Ngọc Tiến đã thể
hiện những cái riêng nhất khi viết về Hà Nội, ông đi sâu vào hầu hết các phương
diện của đời sống một cách cụ thể, tỉ mỉ với lối viết khảo cứu nhẹ nhàng, giản dị,
sâu sắc.
40
2.1.2.1 Nghệ thuật
Với vốn hiểu biết sâu rộng, uyên bác về các lĩnh vực nghệ thuật của mảnh
đất kinh kì ngàn năm, Nguyễn Ngọc Tiến đã cho độc giả thấy rõ được sự hình thành
và tồn tại văn chương, âm nhạc, hội họa, sân khấu,…
Ở mảng văn chương, Nguyễn Ngọc Tiến nhắc nhiều về các tác phẩm viết về Hà
Nội và văn nghệ sĩ thủ đô, nhắc về các giai thoại dân gian, các bài văn vần từng lưu
truyền một thời về Thăng Long – Hà Nội, những câu chuyện của các nghệ sĩ Hà Nội.
Kể bất cứ câu chuyện gì tác giả đều lồng những bài thơ, có khi là thơ ca dân
gian. Khi viết về vẻ đẹp hồ Gươm, Nguyễn Ngọc Tiến liên hệ đến bài thơ của
Nguyễn Văn Siêu:
“Nhất trản trung phì địa
Trường lưu đảo tại thiên
Ngư châu xuân tống khách
Hồi trạo túc hoa thiên”.
Tác giả cũng dẫn bài thơ viết về khung cảnh đẹp như tiên cảnh ở chùa Báo
Ân gần hồ Gươm:
“Phong quang cảnh trí trăm đường
Trong xây chín giếng ngoài tường lục lăng
Rõ mười cử động tưng bừng
Đền vàng cửa ngọc chất từng như nêm.”
Khi nói về thú chơi hoa của Thăng Long , tác giả nhắc đến hai câu thơ của
Nguyễn Trãi. Các thi nhân xưa mượn vạn vật, hoa lá cây cỏ để để giãi bày tâm tư
của mình về nhân tình thế thái:
“Hé cửa đêm chờ hương quế lọt
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.”
Hay khi nói về thú chơi cây cảnh của người Hà Nội xưa, Nguyễn Ngọc Tiến
cũng đã liên hệ đến câu ca dao:
“Ai chơi ta cũng chơi cùng
Chơi trúc quân tử, chơi tùng trượng phu.”
41
Nói về thú chơi câu đối của người Thăng Long cùng với sự thịnh suy của
Nho học, Nguyễn Ngọc Tiến đã dẫn bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên để thể hiện
nỗi niềm tiếc nuối một nét văn hóa đẹp đẽ một thời giờ đã lụi tàn.
Trong Tiếng rao, món quà âm thanh miễn phí, Nguyễn Ngọc Tiến đã ghi lại
nguyên văn các tiếng rao của người Hà Nội xưa bán các loại hàng hóa như: rượu,
kẹo kéo, mài dao, thuốc chữa bệnh, thuốc lào, thuốc tẩy kim băng… và so sánh với
tiếng rao của người Hà Nội ngày nay.
Bài thơ Điếu đức tụng của Tú Mỡ được tác giả nhắc đến nguyên văn trong
câu chuyện viết về thuốc lào. Chính câu chuyện Từ thuốc lào đến thuốc lá, Nguyễn
Ngọc Tiến nhắc đến bài thơ của Hồ Xuân Hương, Tản Đà cùng các câu dao về bán
thuốc lào của người dân Hà Nội.
Trong Từ Mơ Cơm đến phố Hàng Cơm, Nguyễn Ngọc Tiến nhắc lại câu ca
dao miêu tả dụng cụ nấu ăn của người làng Mơ Cơm xưa là nồi đồng, niêu đất và
sanh:
“Cơm kia em nấu nồi mười
Cá này niêu đất, rau tươi xanh đồng.”
Khi nói về phương tiện giao thông, Nguyễn Ngọc Tiến đã dẫn câu vè về việc
cạnh tranh quyết liệt của xe bus với tàu hỏa:
“Ve vẻ vè ve
Cái vè xe bus
Đút khách đằng đít
Lái xe ngồi đầu
Đi qua ổ trâu
Bươu đầu bẹt đít
Đường băng chạy tít
Một loáng về nhà
Còn hơn ra ga
Chờ anh tàu hỏa.”
42
Nói về tình trạng thiếu thốn thời bao cấp, tác giả cũng đưa dẫn chứng qua bài
vè:
“Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu.”
Khi nói về tình yêu đôi lứa, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã dẫn hai câu trong bài
thơ Chân quê của Nguyễn Bính:
“Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng.”
Hay câu thơ đẹp mà buồn trong Lời thề cỏ may của Phạm Công Trứ:
“Trăng vàng đêm ấy, bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may.”
Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến chú ý khá nhiều đến các mảng
nghệ thuật dân gian mang đậm tính truyền thống. Tác giả kể nhiều đến ca trù, sẩm.
Nguyễn Ngọc Tiến trú trọng nhiều đến lịch sử phát triển của ca trù ở Thăng
Long – Hà Nội. “Thời Lê, cánh Nho sĩ không chỉ thưởng thức ca trù mà còn là
những người góp phần thúc đẩy nghệ thuật này phát triển trên đất Thăng Long khi
thơ của họ trở thành lời các bài ca. Nguyễn Công Trứ (1778-1907) là người rất say
mê ca trù, ông cũng là tác giả của nhiều bài ca nổi tiếng, song công lao lớn nhất
của Nguyễn Công Trứ là cùng các Nho sĩ nâng lối hát nói lên đến đỉnh cao làm
tăng giá trị nghệ thuật cho ca trù.” [24, tr.117]. Thế kỉ XX, Ca trù trở thành một
thú chơi một thời ở Hà Nội, các giáo phường, gánh hát, các nhà hát cô đầu xuất hiện
43
ngày một nhiều và giới văn nghệ sĩ Hà Nội là những người đam mê ca trù sâu đậm
nhất. Chinh nhà văn Vũ Bằng cũng đã có những câu nói về niềm đam mê ca trù
cũng như các văn nghệ sĩ trong cuốn Ca trù nhìn từ nhiều phía: “Thực tình đến bây
giờ (năm 1973) có moi trí nhớ, tôi cũng chưa thấy nhà văn, nhà báo đất Bắc nào
mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”. “Các văn nghệ sĩ hội họp uống rượu, ngâm
thơ, đánh một khẩu trống để thưởng một câu văn hay, một tiếng đàn khéo bấm, hay
một giọng ca buông bắt thật tài tình. Đôi khi tức cảnh, họ tạo nên một câu mưỡu,
bài hát nói hay những vần thơ bát cú hoặc lục bát thật hay”. Hay ông không ngần
ngại khi gọi phố cô đầu Khâm Thiên là cái nôi văn nghệ Hà Nội” [24, tr.122,123].
Nguyễn Ngọc Tiến trích dẫn thông tin về công trình nghiên cứu của Trần Thị Kim
Anh trong tiểu luận Ca trù Thăng Long – Hà Nội: Những diễn biến trong tiến trình
lịch sử: “Những bài viết sâu sắc với những từ ngữ đẹp đẽ nhất dùng để miêu tả ngợi
ca nghệ thuật ca trù của Phạm Quỳnh, Nguyễn Xuân Khoát, Ngô Linh Ngọc đều bắt
nguồn từ đây. Nhạc của Nguyễn Văn Thương, thơ của vũ Hoàng Chương, Trần
Huyền Trân lấy cảm hứng từ đây. Bản dịch Tương tiến tửu của Đái Đức Tuấn, tác
phẩm Con voi già của cua Hàm Nghi của Lưu Trọng Lư đều bắt đầu viết ở đây
trong những cơn cao hứng. Đặc biệt, Nguyễn Tuân yêu quý và trân trọng ca trù tơi
mức, dường như với ông, ca trù là một ngôi đền linh thiêng để hóa giải những nỗi
đau tục lụy. Ca trù trong ông luôn như một nỗi ám ảnh, và nỗi ám ảnh đó từng
được thể hiện sâu sắc, đau đớn trong Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Chùa Đàn
(1946) – những truyện ngắn đánh dấu một giai đoạn tuyệt diệu trong cuộc đời sáng
tác của ông” [24, tr.123,124]. Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tiến còn kể về cuộc đời
của hai đào nương tài giỏi, xinh đẹp Hải Chi và Yến Nhân, nhắc đến cả ca nương
Quách Thị Hồ là ca nương duy nhất được nhà nước phong tặng Nghệ sĩ nhân dân.
“Một sự kiện làm nức lòng người dân Việt Nam là ngày 30-9 và ngày 1-10-2009,
dân ca quan họ đã được UNESCO vinh danh là văn hóa phi vật thể của nhân loại,
còn ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp” [24, tr.127]
Nghệ thuật dân gian Hà Nội không thể không nhắc đến xẩm, Nguyễn Ngọc
Tiến bằng những nghiên cứu và vốn hiểu biết của mình đã nhắc về xẩm với lịch sử
44
phát triển, những bài xẩm nổi tiếng và thân phận những người hát xẩm: “Có nhiều
nhà nghiên cứu sân khấu cho rằng có thể xẩm ra đời trước khi có hát chèo,là một
trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo.(…) Tuy nhiên đọc các cuốn sách
của các tác giả Pháp viết về Hà Nội và Bắc Kỳ cuối thế kỉ XIX thì có thể xẩm ra đời
cuối thế kỉ XIX, giai đoạn đói nghèo và loạn lạc khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà
Nội lần thứ nhất” [22, tr.274]. “Xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 7 bài đặc trưng là:
Xẩm chợ, Chênh bong, Riềm huê, Ba bậc nhịp bằng, Phồn huê, Hát với ai và Xẩm
thập ân với những làn điệu: Xẩm chợ, Xẩm thập ân, Xẩm tàu điện… Những bài
Riềm huê, Ba bậc, Phông huê… ban đầu chỉ có ở xẩm Hà Nội, sau đó loang ra để
có những điệu xẩm Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên…” [24, tr.182,183]. “Ở cuốn
Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính viết: Hát xẩm gồm tập hợp những người mù
mắt, năm hoặc sáu người học nghề đàn hát, cả đàn ông, đàn bà dắt nhau đến các
nơi thành thị, kiếm chỗ đông người, trải chiếu ngay các nơi vệ đường mà hát. Trong
hát xẩm, người thì đánh trống, gõ phách, người thì kéo nhị, người gẩy đàn bầu, rồi
đồng thanh mà hát, hoặc đi giọng Nam, hoặc đi giọng Bắc, đi theo tiếng nhị, tiếng
đàn, nghe cũng vui tai. Đàn bà, trẻ con, người lớn xúm xít vào xem, có người
thưởng dăm ba đồng kẽm, có người thưởng vài xu.”. Cuốn Lịch sử Âm nhạc dân
gian cổ truyền Việt Nam do Viện Nghiên cứu âm nhạc xuất bản 1996, tác giả
Nguyễn Viêm nhận đinh: “Hát xẩm là một nghề sinh nhai của người mù, nghề ấy
chính là là kế cứu kẻ tàn tật. Ban đầu hát xẩm còn sơ lược, chỉ vận làn xẩm trong
vài câu ca dao đơn giản. Nhưng dần dần do yêu cầu của người nghe, hát xẩm đã
tiến tới trọn một đoạn dài với nội dung hấp dẫn đến vài chục câu, có khi hát cả một
câu chuyện kéo dài đến hết cả một buổi.” [24, tr.181]
Tóm lại, về mặt nghệ thuật, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa ra rất nhiều dẫn chứng
cụ thể của các nhà văn nhà thơ viết về thủ đô với các mặt của đời sống xã hội. Ông
cũng đã khái quát được sự hình thành và phát triển của các bộ môn nghệ thuật dân
gian. Người đọc như có được cái nhìn tổng quát, như được xuôi về với lịch sử nghệ
thuật của dân tộc khi đọc từng trang viết của ông.
45
2.1.2.2 Kiến trúc
Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến nhắc nhiều đến không gian kiến
trúc. Từng phát hiện của Nguyễn Ngọc Tiến về không gian kiến trúc Hà Nội góp
phần làm cho người đọc hiểu rõ phần nào đời sống của người dân Hà Nội. Ông phát
hiện ra nhà ống khu phố cổ, không phải ảnh hưởng từ Nhật Bản mà nguyên nhân
xuất phát từ chính sách thuế của triều Nguyễn. “Chính sách thuế của nhà Nguyễn từ
Gia Long, Minh Mạng cho tới Tự Đức đối với Hà Nội hầu như không thay đổi.
Không căn cứ hiệu buôn to hay nhỏ mà thu thuế theo mặt tiền của cửa hàng, bất kể
chiều sâu là bao nhiêu. Vì thế, chiều ngang càng rộng thuế càng lớn. Kiểu thu thuế
này khiến nhiều gia đình có mặt tiền rộng nhưng làm ăn không được phải è lưng ra
đóng thuế. Thế là các ngôi nhà vốn vuông vức, rộng rãi trước đó bị xẻ nhỏ chia cho
con cái, có nhà thì bán hay cho thuê. Và kiến trúc nhà ống ra đời trong triều đại
nhà Nguyễn” [24, tr.254,255]. Cũng chính về kiến trúc, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã
tìm tòi, phát hiện ra cấu trúc nhà của người Thăng Long: “Ngày xưa, nếp nhà Kẻ
Chợ hình ống, có nghĩa là nhà 3 gian hay 5 gian ở quê được xoay đầu hồi ra mặt
phố. Mặt tiền có thể hẹp nhưng thường rất dài và giữa nếp nhà trên và nhà dưới
bao giờ cũng cách một khoảng sân”. “Ở các vùng ven kinh thành Thăng Long, các
nhà đều có cấu trúc: nhà-hiên-sân-vườn và bao quanh vườn thường là hàng dâm
bụt xanh thẫm, hoa đỏ tươi được xén phẳng. Từ ngõ vào sân hai bên thường trồng
hai hàng tóc tiên, một luống hồng, luống huệ, mấy khóm nhài. Bên chum nước là
cây lan tiêu hay dạ hợp lan ưa ẩm. Trước hiên là bụi sói, một cây tầm xuân nở ra
cánh biếc” [22, tr.72,73].
Kể về một công trình kiến trúc đẹp của Hà Nội trong “Từ Tương lai Bắc Kỳ”
đến “Hà Nội mới”, Nguyễn Ngọc Tiến giới thiệu: “Ngôi nhà số 44 Lê Thái Tổ hiện
là trụ sở báo Hà Nội mới. Một vị trí quá đẹp, trông sang tháp Rùa, mặt nước ẩn
hiện sau tầng cây. Kiến trúc đẹp, những đường lượn, sọc ngang làm tòa nhà khá
cao bớt cứng. (…) Phong cách kết hợp mái dốc bên trên giống nhà cổ miền Bắc
nước Pháp, hai bên đổ mái bằng là kiểu Địa Trung Hải. (…) Tòa nhà có ba tầng
chính và tầng phụ áp mái để chống nóng… Kiến trúc sư đã thiết kế một cửa sổ hình
46
tròn trên tầng áp mái, từ ô cửa này có thể bao quát toàn cảnh hồ Gươm. Mặt tiền
cũng như tường hậu có nhiều đường nét uyển chuyển làm toàn nhà mềm mại trước
hồ Gươm lung linh…” [22, tr.140, 141].
Đối lập với một kiến trúc đẹp cạnh hồ Gươm, thì tác giả cũng đã chỉ ra một
kiến trúc làm phá vỡ vẻ đẹp quang cảnh hồ Gươm trong bài viết Hàm cá mập:
“Hàm cá mập là tên báo giới đặt tên cho tòa nhà đầu phố Đinh Tiên Hoàng và cuối
số lẻ phố Cầu Gỗ vì nó có hình dáng giống như hàm loại cá này. Vị trí của Hàm cá
mập trước đó là một tầng hình tròn trông ra quảng trường Đông kinh nghĩa thục, vì
hình tròn nên người dân gọi là Nhà Tròn. Nó từng là nhà điều hành các chuyến tàu
của Công ty xe điện thời Pháp thuộc. Năm 1996, trong không khí cả nước ào ào xây
dựng, người ta phá Nhà Tròn để xây nhà cao tầng làm trung tâm thương mại. Việc
xây quá cao như một bức tường lớn ngăn cách khu phố cổ với hồ Gươm, biến nó
thành cái ao cách biệt và phá vỡ kiến trúc phong cảnh đã gây tấm tức cho giới kiến
trúc” [22, tr.244].
Trong bài viết Biệt thự và thân phận, Nguyễn Ngọc Tiến đã kể về quá trình
thay đổi về kiến trúc của 36 phố phường Hà Nội một cách chi tiết, tỉ mỉ như một
kiến trúc sư, một kỹ sư xây dựng thực thụ: “Khi Hà Nội chính thức là thành phố
nhượng địa thì chính quyền bảo hộ đã quyết xây dựng Hà Nội trên nền cũ (…). Thời
kì này, trong khu vực “36 phố phường” nhà lá vẫn chiếm đa số, nhà xây rất ít và
chủ yếu là các phố Hoa kiều gồm: Mã Mây, Lãn Ông, Hàng Ngang… Các con phố
bắt đầu bằng chứ Hàng cong queo, dân buôn bày hàng lấn ra đường, phên cốt che
mưa nắng khiến ngựa của đám nha huyện Thọ Xương không đi được. Hai bên phố
không có rãnh thoát nước trời mưa bùn lấy đến đầu gối, nhà vệ sinh rất sơ sài. (…)
Bên cạnh những tòa nhà công vụ phía đông hồ Gươm như: đốc lý, bưu điện, kho
bạc ngân hàng thì những biệt thự đầu tiên đã mọc lên. (…) Biệt thự là những ngôi
nhà hai tầng nằm giữa lô đất vuông vắn với khuôn viên trồng cây và đường dạo
quanh nhà. (…) Để hạn chế nhà ống và buộc chủ đất phải xây biệt thự, tháng 7-
1921, một ủy ban bao gồm các bác sĩ và quan chức tòa thị chính đã thông qua một
văn bản quy định xây nhà trong khu phố mới phải có các phòng và khối tích từ
47
100m³ trở lên, chỉ tiêu là 25m³ một người, có sân vườn với diện tích tối thiểu là
50m². Nhà phải xây cách hàng rào với nhà bên ít nhất 2 mét.Một năm sau, tòa thị
chính ra tiếp văn bản cấm xây nhà ống trên 22 tuyến phố, nơi chỉ được phép xây
nhà kiểu phương Tây.” [21, tr.9-14]
Nguyễn Ngọc Tiến không chỉ nói về những kiến trúc lớn như biệt thự, phố
cổ, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, nhà hát lớn, Cầu Long Biên vừa dài vừa rộng, Từ
đình Tự Tháp đến khách sạn Aprocol, Vườn hoa và công viên, Bancông Juliet và
thuế Bancông, Vỉa hè có từ bao giờ?, Tượng đài, Từ chùa Báo Ân đến bưu điện,
Khách sạn “Đờ La Hiên” Bờ Hồ, Đền bà Kiệu, Tượng nữ thần tự do trên đỉnh Tháp
Rùa,… mà ông còn nói đến những kiến trúc giản dị, đời thường như nhà vệ sinh
công cộng đầu tiên, hố xí tự hoại đầu tiên ở Hà Nội…
Kiến trúc trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến được đề cập khá nhiều với nội
dung chi tiết, tỉ mỉ. Ông như là một người kiến trúc sư nghiên cứu một mảng kiến
trúc rộng lớn của Hà Nội từ thời phong kiến đến hiện nay, giúp người đọc có được
cái nhìn bao quát về kiến trúc Thăng Long-Hà Nội qua từng thời kì để thêm yêu
thành phố này hơn.
2.1.2.3 Ẩm thực
Ẩm thực là một đề tài được rất nhiều nhà văn đề cập đến khi nói về phẩm
chất thanh lịch của người Hà Nội. Bởi vì văn hóa ẩm thực của người Hà Nội vô
cùng đặc biệt. Với Nguyễn Ngọc Tiến, ông đã dành khá nhiều trang viết về những
món ngon của mảnh đất kinh kỳ này như: Mơ Cơm, rượu Thụy Chương, cà phê,
kem bờ hồ, bia hơi, cầy tơ 7 món Hà Thành, rau muống-quốc rau, một thời ăn tương
ăn mắm ở Hà Nội…
Trong bài viết Từ Mơ Cơm đến phố Hàng Cơm, tác giả đã khái quát ẩm thực
Hà Nội qua các tên gọi của hàng phố xưa: “Phía nam kinh thành Thăng Long (bao
gồm Bạch Mai, Mai Động, Hoàng Mai, Tương Mai ngày nay) là vùng trồng mơ nên
người ta gọi là kẻ mơ và mỗi làng trong Kẻ Mơ có một nghề riêng…”. Hoàng Mai
chuyên nấu rượu nên có tên Nôm là Mơ Rượu, rượu ở đây nổi tiếng không chỉ
Thăng Long mà lan ra khắp thiên hạ nên có câu “Rượu làng Mơ, thơ làng Lủ”hay
48
“Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch”. Mai Động có nghề làm đậu phụ nên gọi là Mơ
Đậu, Bạch Mai có nghề bán thịt nên gọi là Mơ Thịt còn Tương Mai bán xôi lúa và
bán cơm nhưng thiên hạ không gọi là Mơ Xôi mà gọi là Mơ Cơm”. [23, tr.12-13].
Tiếp đó, Nguyễn Ngọc Tiến còn nói đến tên các loại cơm qua các thời kì khác nhau
như cơm đầu ghế, cơm bụi, cơm mậu dịch để độc giả có cái nhìn khái quát nhất về
món ăn không thể thiếu hàng ngày trong mâm cơm của người Việt.
Phở là một món ăn đặc biệt của ẩm thực Hà Nội vì chỉ phở ở Hà Nội mới
ngon. Phở Hà Nội với hương vị độc đáo không có một nơi nào có được đã in sâu
vào tiềm thức con người và mặc định nó là món ăn ngon đặc sắc nhất của Hà Nội.
Muốn ăn phở phải đến Hà Nội. Và với Nguyễn Ngọc Tiến ông cũng dành tình yêu
sâu sắc với phở trong bài viết Phở “có người lái” và phở “không người lái” và Phở
Thìn Bờ Hồ. Ông đã vô cùng tự hào khi viết về món ăn nổi tiếng này: “Cuối tháng
7-2011, Phở và Gỏi cuốn của Việt Nam lọt vào 50 món ăn ngon nhất thế giới do
Kênh truyền hình CNN bình chọn. Trước đó, ngày 20-9-2007, Shorter Oxford
English Dictionary (Từ điển tiếng Anh giản lược Oxford) đã đưa từ phở vào. Phở
Việt Nam đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới và trở thành món ăn ưa thích của
nhiều người” [24, tr.165]. Trong bài viết Phở Thìn Bờ Hồ, Nguyễn Ngọc Tiến nói
về nguyên liệu làm nên món phở đặc trưng Hà Nội phải có sự hòa quện đầy đủ
hương vị rừng, biển, nước ngọt và đồng bằng: “ Cũng như nhiều quán khác ở Hà
Nội lúc bấy giờ, nước dùng phải được hầm từ xương bò lẫn xương lợn, phải có sản
vật của rừng là quế, hồi, phái có sản vật nước ngọt là tôm nõn, cá quả nướng, sản
vật biển Đông là sá sùng và sản phẩm đồng bằng là hành khô nướng, hành lá cắt
ngắn. Từng thứ ấy mới ra mùi phở Hà Nội” [22, tr.326]. Tác giả còn nhắc đến các
tác phẩm văn chương của các nhà văn nổi tiếng viết về phở như: Tú Xương, Tản
Đà, Nguyễn Tuân, Thạch Lam… Từ nhiều nguồn tài liệu để tìm ra nguồn gốc của
phở, lý giải các tên gọi, trích dẫn các câu văn hay về phở, liệt kê hàng loạt tên gọi
về phở … thể hiện một cái nhìn khái quát, một sự dày công tìm tòi của Nguyễn
Ngọc Tiến về món ăn luôn luôn hấp dẫn được du khách khi đến với Hà Nội.
49
Khi nói về ẩm thực Hà Nội thì không thể không kể đến kem. Trong câu
chuyện Kem “sờ” và kem “mút” Bờ Hồ, Nguyễn Ngọc Tiến đã khái quát về lịch sử
du nhập và sự phát triển của kem ở Việt Nam. “Một thời, kem là tiêu chuẩn cho
người quê ra Hà Nội, đi đâu làm gì không biết nhưng phải kể chuyện “ăn kem, xem
tàu điện”, không kể được chả ai tin đã ra Hà Nội” [24, tr.114]. Đặc biệt, cho đến
ngày nay, kem Tràng Tiền vẫn thu hút được rất nhiều thực khách khi đến Hà Nội
cùng với những hình ảnh xếp hàng chỉ đợi mua một vài que kem.
Ẩm thực Hà Nội nếu như không nhắc đến cà phê thì quả là một thiếu sót. Cà
phê Hà Nội khá đặc biệt vì mỗi quán đều có một hương vị riêng mà các quán khác
không có được: “Cà phê Nhân đậm đà, cà phê Lâm qua cổ họng trồi lên vị đắng
nguyên chất, cà phê Giảng có món cà phê trứng “tam vị, nhị mùi”, cà phê Hói uống
có vị hậu. Người ta truyền tai nhau cà phê Nhĩ còn cho tí nước mắm để cà phê dậy
mùi” [23, tr.221]. Món cà phê trứng của Nguyễn Văn Giảng sáng chế ra đã góp
thêm một thức uống thơm ngon bổ dưỡng cho người Hà Nội và góp thêm cho thế
giới một thức uống từ cà phê vô cùng độc đáo mà ai ai khi thử một lần cũng nhớ
nhung mà muốn thưởng thức những lần sau nữa.
Qua đây có thể thấy Nguyễn Ngọc Tiến đã làm mới đề tài ẩm thực trong văn
chương bằng những nét riêng độc đáo, giản dị qua những tìm tòi và trải nghiệm của
riêng mình.
2.1.2.4 Thời trang
Yếm là một Trong chuyện “Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh”, Nguyễn
Ngọc Tiến đã kể đến chuyện cái yếm của phụ nữ Việt Nam và Thăng Long xưa hết
sức sinh động: “Yếm ra đời từ thời Lý. Yếm của phụ nữ Việt Nam thực ra là chiếc
áo lót như quan niệm của người phương Tây, trước hở lưng, sau che kín đến cổ.
(…) Mùa hè, xứ Đàng Ngoài nóng bức, các cô chỉ mặc độc chiếc yếm tung tăng
khắp làng khắp xóm. Mùa đông, gió đông bắc thổi lạnh cắt da cắt thị thì cái yếm ở
bên trong với nghĩa là chiếc áo lót hiền lành” [24, tr.289]. Từ cái yếm của người
Việt, Nguyễn Ngọc Tiến đã giới thiệu cụ thể cái yếm của người Thăng Long: “Nếu
cái yếm ở miền quê Bắc Bộ chỉ may bằng vải thô nhuộm nâu hay bằng đũi thì ở
50
Thăng Long, yếm là đồ trang điểm cho phụ nữ và càng hấp dẫn hơn khi yếm được
may bằng lụa với hình dạng khác nhau: cổ tròn, cổ chữ V… Từ màu nâu ở thôn quê
ra Thăng Long lại là màu trắng, màu xanh lơ, hoa hiên và màu hoa đào phơn phớt.
Song khác với phụ nữ ở vùng quê hồn nhiên mặc yếm ra đường mà không ai chê
trách thì phụ nữ, nhất là phụ nữ chưa chồng, ở Thăng Long không bao giờ dám mặc
mỗi chiếc yếm nghênh ngang phố thị. Như vậy bị cho là không có người dạy” [24,
tr.290]. Chính những chiếc yếm xanh, yếm đào đã cùng với nón có quai tua, chân đi
guốc trở thành mốt của con gái nhà khá giả cuối thế kỉ XIX. Chiếc yếm cũng đã đi
vào văn học dân gian, thơ ca, nhạc họa của các văn nghệ sĩ như Nguyễn Bính,
Nguyễn Nhược Pháp… Ngày nay, yếm xưa không còn được sử dụng mà nó đã được
cải biến: “Đến đầu những năm 1950,thì không còn mấy phụ nữ mặc yếm trừ những
người có tuổi. Thay thế chiếc yếm là chiếc áo lót kiểu phương Tây được nhập vào
Việt Nam, Bây giờ chiếc Yếm xưa lại sống lại. Tuy nhiên nó được cải tiến, không
may bằng lụa mà may bằng vải thô mỏng, cổ khoét sâu hơn cốt để khoe bộ ngực.
Quần bò và áo yếm một giai đoạn cũng là mốt của thanh nữ Hà Thành” [24,
tr.293].
Cùng với yếm, Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể về câu chuyện áo tứ thân, áo the,
quần lĩnh, sự cải biến, thay đổi của quần áo qua các thời kì của Việt Nam nói chung
và Hà Nội nói riêng qua chuyện Từ quần áo ta đến quần áo tây. Tác giả cũng nói về
lịch sử phát triển cải biến qua các thời kì của áo dài Việt Nam. Thể hiện sự hiểu biết
sâu rộng, sự tìm tòi khoa học của nhà văn mang đến cho người đọc cái nhìn khái
quát của chiếc áo dài truyền thống có những nét đẹp riêng qua từng giai đoạn thay
đổi.
Khi nói về phong cách ăn mặc, đầu tóc đầu thế kỉ XX, Nguyễn Ngọc Tiến đã
kể ở câu chuyện Răng đen, răng trắng và răng… Tetracycline. Tác giả đã khái quát
về tục nhuộm răng bắt nguồn từ huyền thoại về một ông vua, chồng của một nữ
thần biển đến tục nhuộm răng của người Việt xưa. Tục nhuộm răng và răng đen của
người phụ nữ được ca ngợi và tôn vinh như một nét đẹp cũng đã vào văn chương.
Tục nhuộm răng đến bây giờ đã không còn, có lẽ từ mục tiêu của phong trào Đông
51
Kinh nghĩa thục: “Hưởng ứng mục tiêu của Đông Kinh nghĩ thục, nhiều đàn ông
Hà Nội đã cắt bỏ búi tóc, đàn bà thì cạo răng đen thành răng trắng. (…) cạo răng
thực sự là một cuộc cách mạng chống lại truyền thống” [23, tr.68-69]. “Từ những
năm 1920-1930 trong khi ở ngoại thành Hà Nội vẫn duy trì tục nhuộm răng đen thì
ở nội thành, số người nhuộm răng ngày càng giảm. Con cái nhà giàu, người làm sở
Tây, thanh niên đi du học không ai còn để răng đen” [23, tr.72]. Sau năm 1954 đã
không còn ai nhuộm răng nên khu vực nội thành không còn nghề nhuộm răng.
Về vấn đề “mặc” không thể không nhắc đến câu chuyện Cái váy đàn bà. Ở
câu chuyện này Nguyễn Ngọc Tiến đã kể nhiều câu chuyện, dẫn ra các dẫn chứng
thơ văn thú vị xung quanh lịch sử thăng trầm của nó: “Váy là trang phục truyền
thống của phụ nữ Việt Nam. (…) Người sang ở Thăng Long-Hà Nội mặc váy lĩnh
đen hay màu tam giang, bậc trung thì mặc màu đen, dân lao động mặc màu tham.
Váy lĩnh cạp điều, nhưng phải là lĩnh dệt làng Bưởi, mặc vơi áo the được cho là
nhã nhặn nhất, đó là mơ ước của nhiều chị em” [23, tr.285].
Trong chuyện “Làm duyên làm dáng”, Nguyễn Ngọc Tiến đã kể khái quát
về các thời trang đi kèm để làm đẹp thêm phong cách của người Thăng Long-Hà
Nội như nón lá, giày dép, làm móng, nhuộm móng, làm các kiểu tóc, trang điểm …
Không chỉ quan tâm về vấn đề mặc của người Thăng Long-Hà Nội mà
Nguyễn Ngọc Tiến còn quan tâm đến các người mẫu thời trang Hà Nội xưa như cô
Bích Ngọc, cô Song Khê, cô Mộng Lê, Ái Liên, Lý Lệ Hà, …
Trong vấn đề thời trang, Nguyễn Ngọc Tiến đã đem đến trước mắt người đọc
một không gian rộng lớn về thời trang của người Hà Nội qua từng thời kỳ một cách
tỉ mỉ, sâu sắc, thấu đáo bằng giọng văn giản dị, nhẹ nhàng.
2.1.2.5 Giao thông
Không gian giao thông được nhắc đến khá nhiều và chi tiết trong tạp văn
Nguyễn Ngọc Tiến. Những câu chuyện xoay quanh các phương tiện xe đạp, ô tô, xe
bus, tàu điện, xe máy… được tác giả kể một cách rất tỉ mỉ, chi tiết giúp cho người
đọc có một điểm nhìn rất khái quát về các phương tiện đi lại tại Hà Nội từ trước đến
nay.
52
Trong Xe bus, Nguyễn Ngọc Tiến đã nhắc về việc xuất hiện của xe bus và
việc mở rộng các tuyến đường để phục vụ việc đi lại của người dân Hà Nội: “Sau
đại chiến thế giới lần thứ I, vào khoảng năm 1919-1920, 4 chiếc xe bus hiệu GM
của Mỹ lần đầu tiên xuất hiện tại Hà Nội. xe có hai hàng ghế băng sát vào thành
chở được khoảng 20 khách. Nơi đón trả khách là bến Cột đồng hồ ngay gần cầu
Long Biên, gọi là bến nhưng sơ sài, có gian nhà nhỏ làm nơi điều hành, sân bến rải
đá dăm. (…) Cầu Long Biên khi đó còn hẹp chưa mở rộng thêm hai bên nên 4 chiếc
xe này chở khách đi Hưng Yên không thể qua cầu, phải đi qua phà. Năm 1923, việc
mở rộng đường hai bên hoàn thành nên xe không phải đi qua Phà Đen nữa” [23,
tr.29] Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể nhiều chuyện buồn vui xoay quanh những tuyến
xe bus, trên những chuyến xe như điểm bán xăng, số lượng xe, lượt xe qua cầu
Long Biên, các loại khách chủ yếu, câu chuyện tình yêu trên chuyến xe bus … Hiện
nay, trên các tuyến đường Hà Nội, xe bus vẫn ngày ngày hoạt động để đưa đón mọi
người, chủ yếu là sinh viên các trường Đại học. Xe bus bây giờ được gọi là “hung
thần đường phố” vì nó gây ra khá nhiều vụ tai nạn thương tâm và là nỗi sợ hãi của
người dân Hà Nội.
Sự xuất hiện của tàu điện cùng sự ra đời của nhà máy điện Bờ Hồ cùng với
các tuyến tàu điện ở Hà Nội đã được Nguyễn Ngọc Tiến kể khá chi tiết trong câu
chuyện “Từ xe ngựa công cộng đến tàu điện”: “Nhà máy xe điện đầu tiên ra đời
vào tháng 5-1890, trụ sở đặt ở đầu làng Thụy Khuê do Công ty Điền địa Đông
Dương thành lập. (…) Từ bến chính Bờ Hồ, tàu điện tỏa đi 6 hướng (Hà Đông, Cầu
Giấy, Mơ, Vọng, Bưởi và Yên Phụ). Tàu điện là nơi kiếm sống của những người ăn
xin, hát xẩm… và cũng chính tàu điện là nguồn cảm hứng sáng tác cho rất nhiều
nghệ sĩ. Ngày nay, tàu điện không còn nữa nhưng không gian tàu điện cùng tiếng
chuông tàu điện leng keng có lẽ cũng đã in sâu vào tiềm thức của rất nhiều người
dân Hà Nội.
Về vấn đề các phương tiện giao thông, không thể không kể đến xe đạp, ô tô,
xe máy. Câu chuyện về 3 phương tiện giao thông này đã được Nguyễn Ngọc Tiến tỉ
mỉ kể, người đọc lật giở từng trang sách như được sống trong chính thời điểm của
53
những phương tiện giao thông xuất hiện, các hãng xe, các câu chuyện xoay quanh
các loại xe… Chính đọc giả có lẽ cũng bất ngờ về sự hiểu biết sâu rộng về các
phương tiện giao thông của Nguyễn Ngọc Tiến, ông như một người nghiên cứu về
phương tiện giao thông nên mới có thể viết ra đầy đủ và chi tiết như thế.
Nguyễn Ngọc Tiến kể về bốt công an điều khiển giao thông đầu tiên và
những câu chuyện thú vị xoay quanh nó trong Từ kios hoa đếm bốt giao thông:
“Đến năm 1976, kios hoa bị dỡ bỏ, thay vào đó là bốt công an điều khiển giao
thông. Trong bốt có hệ thống điều khiển thủ công, công an ngồi trong bật công tắc
đèn xanh, đèn đỏ” [22, tr.75].
Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tiến, người có thể hình dung được không
gian âm thanh của xe bus, xe điện, xe máy, tiếng chuông tàu điện leng keng hòa
cùng với những tiếng rao bán hàng rong, tiếng hát xẩm ai oán, ỉ ôi kể về thân phận
con người đã một thời là nét đẹp văn hóa Hà Nội.
2.1.2.6 Đời sống tâm linh
Trong bài viết Bốn con yêu Long Thành và ma Hàng Trống, Nguyễn Ngọc
Tiến đã kể chuyện ma ám, ma trêu và để cho người đọc thấy được tục thờ cúng của
người Hà Nội xưa: “Ở góc nhà Sauvage có cây si già um tùm lá và rễ, dân phố đồn
có ma nên đem tối không ai dám đi qua. Chuyện là có cô gái trong thôn ra sông
giặt giũ lúc xâm xẩm, khi lên bờ bị ma trêu chọc, sợ quá cô bỏ chạy, quần áo rơi
xuống đất nhưng không dám quay lại nhặt. Sáng hôm sau ra tìm thấy quần áo
không lấm đất được treo lên cây si đàng hoàng. Thấy vậy người trong thôn đã lấy
một chiếc bình vôi cũ mang treo lên góc cây và từ đó ngày rằm, mùng một ra thắp
hương.(…) Dân chúng quanh vùng và nhiều nơi đến thắp hương cúng bái, từ đó ma
không ghẹo ai nữa” [23, tr.22].
Thăng Long-Hà Nội là nơi tập trung nhiều đền chùa, đạo quán, lễ hội. Chính
vì thế, người dân nơi đây có tục thờ cúng từ lâu đời, văn hóa uống nước nhớ nguồn
đời đời được bảo tồn và phát huy. Các vị thánh thần ân đức, các bậc anh hùng vì
dân vì nước đều được thờ phụng ở các chùa, đền, quán, miếu… Đây là những nét
nổi bật trong đời sống tâm linh của người dân đất kinh kỳ. Hồ Gươm cùng thuyết
54
thần kim quy giúp Lê Lợi đánh giặc và câu chuyện vua Lê trả lại gươm báu cho
thần đã mang đến thông điệp về khát vọng hòa bình cùng bài học mượn thì phải trả
đã in sâu vào tâm thức các thế hệ người Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Tiến đã khắc họa rõ nét không gian đời sống tinh thần của
người Hà Nội từ truyền thống đến hiện đại, vừa chân thực vừa lãng mạn. Đó là văn
hóa dân tộc ngàn đời mà người dân các thế hệ xây dựng, bảo tồn và phát huy.
Nguyễn Ngọc Tiến đã nhìn nhận đời sống tâm linh của người Hà Nội dưới góc nhìn
của một con người hiện đại để có thể giúp người đọc có những phát hiện và cái nhìn
sâu sắc nhất về một phần đời sống của người Hà Nội xưa và nay.
Qua bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã đào sâu mọi ngóc ngách của
không gian đời sống lịch sử Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể thấy thấy được sự
hiểu biết sâu sắc của ông về Thăng Long-Hà Nội, về người dân qua những cái đẹp
thực tại đời thường, bình dị, đồng thời ông cũng thể hiện tình cảm mến yêu sâu sắc
với người dân và mảnh đất này.
2.2 Thời gian từ góc nhìn văn hóa
2.2.1 Thời gian sự kiện trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến
Thời gian sự kiện là chuỗi liên tục các sự kiện trong quan hệ trước sau, nhân
quả. Thời gian sự kiện có thể được tính theo độ dài thời gian nó diễn ra.
Trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến thời gian sự kiện là những sự kiện của cả
triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, thời Pháp thuộc đến cả ngày nay, là những sự kiện
xuyên suốt cả một chiều dài lịch sử Hà Nội hình thành và phát triển cho tận đến
ngày nay. Nguyễn Ngọc Tiến luôn luôn đưa người đọc ngược dòng về thời gian quá
khứ rồi quay về đến hiện tại để có được cái nhìn sâu sắc về các sự kiện diễn ra qua
từng thời kì của những sự việc, những con người mà ông kể.
Trong “Từ chùa Báo Ân đến Bưu điện” người đọc nhận thấy thời gian xây
dựng Bưu điện đầu tiên ở Hà Nội trải qua một thời gian dài. Tác giả còn đưa người
đọc ngược về quá khứ để biết được phương tiện truyền thông tin của thời phong
kiến là cờ, đèn, kèn, trống, ngựa, chim câu… đến quá trình Bưu điện được khởi
55
công xây dựng đến khi hoàn thành và những sự kiện xoay quanh nó cùng với câu
chuyện về người trông coi đồng hồ tại nơi này.
Chơi hòa đào ngày Tết là thú chơi tao nhã của người Việt cũng như của
Thăng Long-Hà Nội. Đào Nhật Tân đẹp nổi tiếng khắp đất nước và khi xuân về,
người Hà Nội luôn muốn trong nhà có một cành đào Nhật Tân. Trong “Đào Nhật
Tân có từ bao giờ?”, Nguyễn Ngọc Tiến đã chỉ ra thời gian đào xuất hiện ở Nhật
Tân là vào thời gian Bắc thuộc: “Quan và quân nhà Đường ở đây không biết giờ
được về quê và để bớt nỗi nhớ, đồng thời tính được thời gian ở Giao Chỉ, viên qua
đứng đầu phủ trị sai quân lên rừng Hoàng Liên Sơn đốn đào mang về trồng. Khi
hoa nở họ biết Tết sắp đến, và cộng các mùa hoa lại, họ biết đã ở đất Giao Chỉ bao
nhiêu năm” [23, tr.83]. Dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng cho đến nay Nhật Tân
vẫn là đất đào nổi tiếng không nơi nào sánh được trên mảnh đất kinh kì ngàn năm
văn hiến.
Nguyễn Ngọc Tiến đã kể về quá trình hình thành những biệt thự cùng với
quá trình đô thị hóa ở Hà Nội qua các giai đoạn cùng những câu chuyện thú vị xoay
quanh kiến trúc độc đáo này khá tỉ mỉ và chi tiết trong Biệt thự và thân phận: “Năm
1885, phía đông hồ Gươm vẫn còn hai hồ khá lớn và nó được san phẳng nhanh
chóng vì chính quyền phá bỏ con đê (nay là phố Nguyễn Hữu Huân) lấp đất lấp hồ
để xây biệt thự cho các quan chức cấp cao chính phủ. (…) Nhiều biệt thự nhất là
phố Lê Phụng Hiểu, Ngô Quyền, Trần Nguyên Hãn, Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tông
hiện nay. (…) Tính đến 1954, Hà Nội có 355 phố , phường, đại lộ, trong đó có cả
những con phố mới đánh số chưa có tên. Trừ khu vực phố cổ chặt chội không có
biệt thự, còn lại hầu như phố nào cũng có. Gia đình sống trong biệt thự là tầng lớp
trên trong xã hội, họ muốn riêng biệt tương đối với xung quanh, không muốn ai
làm phiền và cũng không làm phiền ai” [21, tr.10-14]. Cho đến nay, biệt thự vẫn là
kiểu kiến trúc được đại đa số các đại gia xây dựng và sử dụng.
Cầu Long Biên là một biểu tượng của Hà Nội. Nơi này đã chứng kiến biết
bao sự kiện lịch sử thằng trầm của mảnh đất này. Trong bài viết Cầu Long Biên vừa
dài vừa rộng, Nguyễn Ngọc Tiến đã khái quát thời gian xây dựng cầu đã trải qua
56
muôn vàn khó khăn gian khổ: “Nhận chức Toàn quyền Đông Dương rồi sang Hà
Nội cuối 1896, Paul Doumer là nhà cai trị độc tài theo đuổi chủ trương biến chế độ
bảo hộ thành chế độ trực trị, xóa bỏ chủ quyền, thống nhất An Nam. (…) Và
Doumer đã công bố kế hoạch xây dựng cầu Long Biên bắc qua sông Hồng với đầu
cầu bên nội là bến đò chùa Móc, đầu bên kia là bến đò Ái Mộ. Ông cho khảo sát địa
chất, đồng thời công bố cuộc thi thiết kế. (…) Khởi công ngày 17-9-1898 nhưng đến
ngày 3-2-1909, nghĩa là chỉ hơn 3 năm cầu đã hợp long và ngày 28-2-1909 lễ
khánh thành được tổ chức trọng thể. (…) Cầu có tên toàn quyền Paul Doumer
nhưng năm 1945, thị trưởng Hà Nội Trần Văn Lai đổi tên thành Long Biên với ý
nghĩa nó nằm trên đất Long Biên xưa” [21, tr.163]. Trải qua thời gian dài của lịch
sử từ lúc xây dựng đến nay hơn một thế kỷ cầu Long Biên đã trải qua chiến tranh
gian khổ cùng người dân Hà Nội, là đầu mối giao thông quan trọng giúp phần thắng
lợi của mặt trận thủ đô và toàn đất nước vẫn sừng sững hiên ngang đứng trong lòng
Hà Nội với những kỉ niệm thân thuộc, gần gũi và điều không thể thiếu trong lòng
đất mà người Hà Nội.
Trong Cà phê Hà Nội, tác giả đã giúp người đọc nhận biết được hoàn cảnh
cà phê du nhập vào Việt Nam, cây cà phê được đưa vào trồng tại Việt Nam ra sao:
“Cùng với vũ khí và lòng tham khi xâm chiếm thuộc địa, lính Pháp còn mang theo
cả cà phê trong cuộc tấn công Đà Nẵng năm 1858. (…) Năm 1870, một số nhà tư
bản bắt đầu đưa cây cà phê vào trồng trên vùng đất bazan ở Tây Nguyên… Năm
1886, một công ty Pháp đã trồng cà phê ở đồn điền của họ trên đất Ninh Bình, sau
là Nghệ An, hai vùng đất này hợp với cây cà phê. [24, tr.218-219]. Cà phê cũng trở
thành một phần không thể thiếu của một bộ phận người dân Hà Nội qua các thời kì.
Các quán cà phê Hà Nội đều có các hương vị riêng, không gian riêng cùng những
câu chuyên thú vị xoay quanh nó thể hiện những nét riêng chỉ có ở cà phê Hà Nội.
Các phương tiện giao thông không thể thiếu trong cuộc sống, trong những
câu chuyện Xe đạp ơi!,Từ xe điện công cộng đến tàu điện, Ô tô biểu tượng quyền
lực, Xe máy, Xe bus, Nguyễn Ngọc Tiến đã như một nhà nghiên cứu về các loại xe
khi đưa các khoảng thời gian mà các loại phương tiện được đưa vào Hà Nội, thời
57
gian quá trình sử dụng ra sao, ngày nay các phương tiện như thế nào. Các khoảng
thời gian vô cùng cụ thể, chi tiết giúp người đọc có thể thấy được các quá trình phát
triển qua các thời kì của các phương tiện giao thông tại Hà Nội.
Trong bốn cuốn tạp văn, mỗi cuốn là những câu chuyện lớn nhỏ xoay quanh
mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến. Ở tất cả chuyện mà Nguyễn Ngọc Tiến kể thì
đều đưa những sự kiện cụ thể về các quá trình hình thành, phát triển và tồn tại của
các đối tượng hay các câu chuyện xoay quanh đối tượng một cách tỉ mỉ, rõ nét nhất.
Bằng những dày công tìm tòi nghiên cứu cùng kiến thúc sâu rộng và trải nghiệm
phong phú, Nguyễn Ngọc Tiến đã giúp độc giả dường như không bị mông lung
trước những khoảng thời gian dài và rộng mà ông đưa ra trong các chuyện dù là
khoảng thời gian kéo dài từ thời phong kiến cho đến ngày nay.
2.2.2 Thời gian sinh hoạt trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến
Thời gian sinh hoạt là thời gian con người thực hiện các hoạt động sống: thời
gian ngủ, thời gian ăn, dạo chơi, đàm đạo làm việc… Đi sâu vào thời gian này
người ta hiểu được trạng thái sống và tồn tại của con người.
Trong chuyện Hiệu ảnh Quốc Tế, Nguyễn Ngọc Tiến đã kể lại sự kiện ra đời
của hiệu ảnh đầu tiên do người Việt làm chủ: “Ngược dòng thời gian, ngày 14-3-
1869, một sự kiện gây xôn xao không chỉ ở Bắc Kỳ mà cả ba miền đó là việc ra đời
hiệu ảnh đầu tiên do người Việt Nam làm chủ của ông Đặng Huy Trứ ở phố Thanh
Hà. Trước đó, năm 1866, nhân dịp sang Trung Quốc, ông chụp hai tấm ảnh ở
Hương Cảng, những tấm ảnh này làm ông mất ngủ nhiều đêm và ông đã hỏi rất kỹ
cách chụp, in tráng vì ông có ý định mở hiệu. Năm 1867, Đặng Huy Trứ lại được
nhà Nguyễn cử đi công cán Trung Quốc, lần này ông nhờ thợ ảnh ở Quảng Đông
mua hộ máy và vật tư. Về Hà Nội ông bỏ việc quan thuê nhà ở phố Thanh Hà mở
hiệu” [22, tr.99].
Trong Một đời tình câm lặng, Nguyễn Ngọc Tiến chú ý khai thác cuộc đời,
cuộc sống, câu chuyện tình yêu ngang trái và công việc thầm lặng của một bà cụ Sót
bán những con búp bê ở Hà Nội: “Năm 1988-1999 ở ngã ba phố Bảo khánh-Lê
Thái Tổ có một bà già gầy gò, tóc bạc hàng ngày lặng lẽ ngồi bán các con búp bê
58
do chính tay bà làm ra. Nỗi buồn và nỗi đau khổ lộ rõ trên da mạt nhăn nheo. Bà tự
cắt gọt những miếng xốp người ta bỏ đi thành những cô bé, cậu bé hay các ông già,
bà già. Rồi lấy bút bi vẽ mắt vẽ mũi , sau đó khâu những mảnh vải xin được ở các
hiệu may thành quần, thành áo cho chúng” [22, tr.210]. Cuộc tình lãng mạn, thầm
lặng của bà suốt cả một đời bà luôn kiếm tìm trong niềm hy vọng có thể tìm được
người yêu sau những ngăm dài đất nước chia cắt: “Bà kể, ban ngày lang thang hết
đường này tới đường khác, cứ đường nào có hiệu giày là dừng lại. Đến hàng trăm
hiệu giày mà chẳng thấy tăm hơi ông ấy đâu.Ngày đi, tối bà quay về ga Sài Gòn
ngủ. (…) Hết tiền bà mới quay ra Hà Nội, lặng lẽ bán dây chun, rút dép đến khi
không còn dép cao su, chả ai mua dây chun nữa bà chuyển sang làm búp bê” [22,
tr.213].
Tác giả kể cuộc đời thợ may của “nghệ nhân có bàn tay vàng” Tiến Thành
trong Người may complet cho các chính khách: “Năm mười lăm tuổi (1935) gia
đình cho cậu con trai học nghề may tại một hiệu nhỏ trong thị xã. Năm 1946, cảm
thấy tay nghề đã vững, ông tự tin về Hà Nội mở hiệu ở 56 phố Nhà Thượng Khách
(nay là phố Hòe Nhai) và làm nghề ở đó cho tới ngày tiếp quản Thủ đô. Nhờ khéo
tay mà may đẹp nên hiệu của ông lúc nào cũng đông khách” [22, tr.134]. “Không
chỉ may cho các chính khách trong nước, ông còn may cho đại sứ các nước:
Hungary, Ba Lan, Tiệp Khắc… Qua quyển sổ ghi chép số đo mà ông còn giữ từ
năm 1954 đến đầu thập niên 80, ông đã may cho mười lăm cán bộ cao cấp và mười
vị đại sứ nhiều nước tổng cộng hơn ba trăm bộ” Cả cuộc đời ông dù làm chủ cửa
hàng hay lúc làm nhân viên đều nhiệt huyết với nghề để may ra những bộ đồ đẹp để
vừa lòng cả các vị khách khó tính nhất
Đời sống người dân Hà Nội thời bao cấp thiếu thốn, vất vả và họ đã làm
những cách nào để trải qua những năm tháng khó khăn ấy đã được Nguyễn Ngọc
Tiến miêu tả rõ nét cùng với những trải nghiệm chân thực của chính ông trong Cửa
hàng giao tế thời bao cấp: “Thực phẩm thiếu đến mức nhiều gia đình tráng trứng
phải độn thêm nước cơm cho miếng trứng to hơn mới đủ mỗi người một hai lần
gắp. Lại có khi nhà mua được tí thịt, chia hai bữa, sợ con cái ăn vụng, các bà mẹ
59
thường lấy hai sợi tóc xếp dấu nhân trên bát, thấy mất dấu biết con ăn vụng. không
đứa nào tự giác nhận, mỗi đứa sẽ bị một cái cốc vào đầu và bàn tay công nhân chai
sạn mà cốc thì vài ngày vẫn còn sưng” [22, tr.177]. “Dằng dặc thời bao cấp, bữa
sáng của số đông người Hà Nội từ già đến trẻ là cơm rang. Chiều hôm trước nấu
nhiều hơn để dư cơm cho sáng hôm sau. Cơm rang chỉ chạy qua hàng mỡ vì dùng
phiếu mua mỡ thì thôi thịt mà mua thịt thì thôi mỡ, cơm rang ít mỡ khô khốc nhưng
ăn mãi cũng quen. Từ khi đổi giờ làm việc theo kiểu Liên Xô (buổi trưa chỉ được
nghỉ nửa tiếng) hầu hết bỏ ăn cơm trưa chuyển sang ăn cơm sáng, con cái đi học
buổi chiều cũng bị dựng dậy bắt ngồi vào mâm vì ít thức ăn. Khi người lớn cho cơm
trưa vào cặp lồng treo toòng teng trên ghi đông xe đạp mang đến công sở, nhà
máy,trẻ con lại ngủ tiếp. Ai đi làm bằng xe bus nếu bất cẩn, cặp lồng có thể bẹp
rúm và cơm, rau phòi ra. Có lần đi xe bus đến trường, khách chen chúc bỗng nhiên
tôi thấy chân mình như có ai dội nước thải vì nhớp nháp, ngó nghiêng mới biết cặp
lồng cơm canh của bác đứng cạnh bị khách ép bẹp rúm” [22, tr.179-180].
Chơi hoa đào ngày tết trở thành một nét văn hóa đẹp của người Việt. dù đã
trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc thì bây giờ thú chơi ấy vẫn được người
dân Việt ưa chuộng. Và với người dân trồng đào Nhật Tân Hà Nội ngày nay, họ
luôn duy trì và phát huy truyền thống của làng và những mong mỏi của họ vào vườn
đào vào dịp Tết đến xuân về đã được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến trong Đào Nhật
Tân có từ bao giờ?: “Ở Nhật Tân, những ngày giáp Tết, mỗi nhà đều muốn có riêng
một ông trời. Nhà nào đào còn non chưa nở kịp thì mong trời ấm lên và kéo theo
gió nồm, những nhà đào đã hé vừa thì mong thời tiết cứ duy trì 23-24 độ, còn nhà
đào đã điểm hoa thì mong trời thật rét. Những cái mong trái ngược nhau tồn tại
song song từ khi có đào ở làng này. Cái nghề mà không phụ thuộc nhiều vào kinh
nghiệm và bí quyết, trông cả vào ông trời, nhìn trời mà mừng mà lo cho đến khi cắt
đào đi bán vẫn chưa thể thở phào, ấy thế mà không ai muốn chuyển sang trồng cây
khác. Dường như trồng đào là số một của Nhật Tân” [23, tr.89].
Trong Hà Nội ăn tương, ăn mắm, Nguyễn Ngọc Tiến đã miêu tả hoạt động
văn hóa của người dân Hà Nội trong việc làm mâm cỗ ngày Tết cổ truyền thờ cúng
60
tổ tiên phải cần những gì và những gì không thể thiếu trong đó: “Khác với trong
năm, mâm cỗ ngày Tết bao giờ đầy đủ sản vật của mảnh đất “Tam sơn, tứ hải, nhất
phần điền”. rừng núi có măng, nấm hương, mộc nhĩ,… biển có mực, vi cá, nước
mắm,… nhất phần điền là đồng bằng có gà, rau, củ… Vì triết lý “ơn tổ tiên thì chớ
nên quên” nên con cháu phải dâng cúng những thứ ngon nghẻ nhất. Quanh năm ăn
nước mắm loại thường nhưng ngày Tết, nhà nào cũng phải kiếm chai ngon nhất chợ
để nấu cỗ” [23, tr. 339]. “Bữa cỗ ngày Tết dù các món xào, món nấu đã nêm nước
mắm ngon nhưng vẫn phải có bát nước mắm đặt giữa mâm như ngày thường. Bát
nước mắm có ý nghĩa cộng đồng, tinh thần đồng cảm, cộng cảm ở đây giữa con
người đất liền với biển khơi” [23, tr.343].
Trong tất cả các chuyện mà Nguyễn Ngọc Tiến viết hay kể trong bốn cuốn tạp
văn thì đều có sự xuất hiện thời gian sinh hoạt của con người trong những khoảng
thời gian khác nhau, thời gian sinh hoạt luôn xuyên suốt từ quá khứ về đến hiện tại.
Nguyễn Ngọc Tiến khá tỉ mỉ, chi tiết và chân thực khi miêu tả những sinh hoạt của
con người trải qua thời gian của sự sống. Đó là những sinh hoạt cả về đời sống vật
chất và văn hóa tâm linh. Qua đó giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống của
những con người Thăng Long-Hà Nội chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cao đẹp.
Thời gian trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến được tổ chức theo một cách cụ
thể. Đó là thời gian sự kiện trải suốt cuộc đời nhân vật với những sự kiện xảy ra
trong đời cùng với những tâm tư tình cảm của họ. Hoặc là thời gian sự kiện trải dài
từ quá khứ đến hiện tại của một làng nghề, một địa danh, một phương tiện… với
những sinh hoạt hàng ngày chân thực của người dân xoay quanh đó qua những
trang viết giản dị, mộc mạc của nhà văn. Từ đó người đọc có thể hình dung rõ cuộc
sống, tính cách của người được kể và những thay đổi về tâm tư, tình cảm của họ qua
những năm tháng biến đổi của những làng nghề, địa danh, phương diện… được
nhắc đến.
61
2.3 Ngƣời Hà Nội nhìn từ phƣơng diện văn hóa
Con người nhìn từ phương diện văn hóa được xem là một nội dung quan
trọng hiện diện trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến. “Văn hóa” ở đây có thể hiểu
đó là những phong tục tập quán, những thú chơi tao nhã của những con người
Thăng Long-Hà Nội. Đó còn là văn hóa ứng xử trong quan hệ giữa con người với
đồng bào, đồng loại, với người thân, với quê hương đất nước. Những nếp văn hóa
như vậy ngấm sâu vào số phận, cốt cách, tâm tưởng của những con người trong tạp
văn của Nguyễn Ngọc Tiến, trở thành một góc tiếp cận con người và hiện thực.
Người Hà Nội trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến hiện lên qua những câu
chuyện có thật với những nét đẹp riêng về tính cách, tâm hồn. Qua các câu chuyện
với những con người cụ thể, người Hà Nội hiện lên là những con người yêu nước,
yêu thương con người, bao dung nhân ái, tài hoa, thanh lịch hay chỉ là những người
dân bình thường nhưng đã cho ta thấy được những nét riêng biệt của “người Tràng
An”. Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể về những góc khuất của những con người tại nơi
đây, thể hiện những day dứt, trăn trở của một nhà văn luôn nặng lòng với Hà Nội.
2.3.1 Những nét đẹp của người Hà Nội
Hà Nội mà ta vẫn biết trong văn thơ và sách vở là mảnh đất nơi tập trung linh
khí đất trời, hội tụ các nền văn hóa nên người Hà Nội có điều kiện chắt lọc và thẩm
thấu vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn từ khắp nơi. Người Hà Nội bao đời vẫn tự hào
với lời ngợi khen:
"Không thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".
Nét Tràng An ấy được khắc họa qua hình ảnh người Hà Nội đầy văn hóa
trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến. Ông đã từng chia sẻ với phóng viên báo
Người đưa tin rằng: “Các tác phẩm của tôi viết về Hà Nội khác với các tác giả khác
vì tôi thiên về mảng đời sống thị dân, những thay đổi hiện nay của người Hà Nội
chứ không phải là các tác phẩm khảo cứu lịch sử. Ở cuốn 5.678 bước chân quanh
hồ Gươm, tôi kể về những chuyện “lặt vặt” nhưng “rất Hà Nội”, “lặt vặt” từ khi
hồ có tên là Lục Thủy đến mang tên Hồ Gươm. Chuyện về con người, cảnh vật
62
quanh con hồ thẫm đẫm huyền thoại và lịch sử. Thêm vào đó là những chuyện tôi
biết, trải nghiệm về Hà Nội theo cái nhìn cá nhân. Tôi không nhìn Hà Nội theo con
mắt đạo đức mà theo hiện thực xã hội, Hà Nội với tôi là những thứ gần gũi và thân
thương” [Lạc Thành, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến: Tôi luôn mơ về Hà Nội thơm
phức như thế!, https://www.nguoiduatin.vn/nv-nguyen-ngoc-tien-toi-luon-mo-ve-
mot-ha-noi-thom-phuc-nhu-the-a302379.html].
Nguyễn Ngọc Tiến là người con của mảnh đất văn hiến ngàn năm nên ông
không thể giấu được niềm tự hào về những con người Hà Nội giàu nghĩa khí và yêu
nước sâu sắc. Đó là những phố, những gia đình có truyền thống yêu nước: “Phố
Hàng Đào có rất nhiều người tài giỏi và yêu nước như cụ cử Lương Văn Can. Năm
người con của cụ đều hoạt động cách mạng trong đó có Lương Ngọc Quyến lãnh
đạo khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 sau đó bị Pháp giết hại” [22, tr.229]. “Nhà 37
Cầu Gỗ ăn thông ra phố Đinh Tiên Hoàng là nhà của cụ Phạm Quang Hưng làm
thông phán ở Bưu điện Bờ Hồ. Làm sở Tây nhưng cụ Hưng có tinh thần yêu nước,
ghét thực dân xâm lược. Cụ sinh được 12 người con, tất cả đều thông minh, lanh
lợi, cụ dạy dỗ con cái lòng yêu nước, yêu dân tộc ngay từ khi các con còn bé” [22,
tr.283]. Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc đến nhiều người Hà Nội yêu nước, tài giỏi,
khí phách, đã tham gia hoạt động cách mạng, ủng hộ tài sản giúp đỡ nhà nước, nhân
dân trong bài viết Từ phú gia đến tư sản như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Văn Vĩnh,
Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Ngô Tử Hạ, Trần Văn Thành… Ngay cả những cô
đầu Khâm Thiên cũng đã thể hiện được lòng yêu nước khi tham gia kháng chiến:
“Ngày 19-12-1946, Thủ đô bước vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, có cô
đầu không trở về quê ở lại tham gia các đội tải thương, thậm chí có người đã hy
sinh” [24, tr.124].
Người Thăng Long-Hà Nội có truyền thống sống hoà đồng, thân thiện, có
tấm lòng nhân ái, bao dung, yêu thương con người: “Đình làng Phú Mỹ (nay là
phường Mỹ Đình, quận Nam Từ Liêm) có hai bài đạo sắc của vua Lê Cảnh Hưng
(1740-1786) cho Nguyễn Quang Minh chức Hiền cung đại phụ vì đã có lòng tốt
đóng góp 250 quan tiền để phát chẩn cho dân nghèo nên được thăng chức Tham
63
nghị. Tờ sắc thứ hai cho biết Tham nghị Nguyễn Quang Minh lại góp quỹ 50 quan
phát chẩn cho dân nghèo nên được phong hàm Thái Bộc tư khanh. Đó là những
bằng chứng về người làm từ thiện đất Thăng Long. Từ đời vua Gia Long đến Tự
Đức và kéo dài đến thập niên 20, trên các con phố Hà Nội nhỏ xinh bao giờ cũng có
vại nước vối ủ nóng trước cửa nhà để người đi đường khát thì uống. Và cứ đầu
năm, phố trưởng đi từng nhà quyên cho quỹ giúp người, đóng bao nhiêu cũng được,
tùy tâm. Cũng nhờ quỹ này mà dân mất nhà vì cháy có thêm tiền lo chỗ ở mới” [23,
tr.40]. Nguyễn Ngọc Tiến vô cùng chân trọng khi nhắc đến rất nhiều tên tuổi của
những con người làm nên hồn cốt về lòng nhân ái của người Hà Nội bằng tài năng
và nhân cách của bản thân như bà Lê Thị Mai, bà Cả Mọc, Bạch Thái Bưởi, Vũ
Quang Huy, Đỗ Đình Đắc… đã lập nên những hiệp hội từ thiện để giúp đỡ những
người dân nghèo về mọi mặt cuộc sống. Không chỉ thế, những người Pháp lúc bấy
giờ cũng rất khâm phục tấm lòng nhân ái, yêu thương con người củng người Hà
Nội: “Giàu có nhưng cô Tư Hồng có lòng thương người, nơi nào trên cõi Việt Nam
bị mất mùa, bão lụt, cô đều cho chở gạo đến cứu tế. Quan Tư Laglan phục ý chí,
nghị lực, mưu mẹo của người vợ An Nam của mình” [24, tr.266]. “Cuối thế kỉ XIX,
Hà Nội có bà Lê Thị Mai, góa chồng sớm, không như các góa phụ giàu có khác bỏ
tiền lập chùa, bà Lê Thị Mai bỏ tiền làm nhiều nhà gọi là quán sinh đồ ở phố Hàng
Đậu, Hàng Giấy, Hòe Nhai dung nạp và cưu mang trò nghèo các tỉnh về Hà Nội
học, bà còn làm việc thiện giúp đỡ những người nghèo trong cả nước. Không chỉ
dân trong tỉnh Hà Nội kính trọng mà lòng nhân ái của bà được cả nước biết đến,
vua Tự Đức đã tặng sắc phong. Một người đàn bà góa chồng khác là Hoàng Thị
Uyên (còn gọi là bà Cả Mọc), giàu có nhờ buôn bán thật thà. Nghe nói tỉnh nào đói
khổ vì thiên tai bão lũ là bà ủng hộ tiền, gạo. Bà là người đầu tiên ở Việt Nam mở
trường nuôi dạy trẻ miễn phí, mở trại dưỡng lão cho người già không nơi nương
tựa. Nhiều người Pháp đến thăm và họ không ngờ An Nam lại có nhà trẻ đầy tính
nhân ái vì mô hình này ở châu Âu thời điểm đó rất ít” [24, tr.318-319].
Người Hà Nội có nhu cầu về một đời sống phong phú và đa dạng. Từ xưa tới
nay họ nổi tiếng đa tài, khéo léo, tạo được những sản phẩm đẹp đẽ nhiều khi không
64
phải để trao đổi, buôn bán kiếm lời mà cốt là để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ, giải trí.
Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã làm nổi bật lên được người Hà Nội
có nhiều thú chơi tao nhã, làm phong phú cho cuộc sống tinh thần. Người Hà Nội
sành ăn, sành mặc, sành chơi, có thẩm mỹ tinh tế, chuộng cái đẹp và biết thưởng
thức cái đẹp. Và qua đó đã chứng tỏ người Hà Nội có sự hiểu sâu, rộng, thể hiện sự
phong phú, đa dạng về kiến thức của mình trước thiên hạ: “Nguyễn Đình Phúc yêu
thơ và ông đã phổ thơ của Nguyễn Bính thành bài Cô lái đò với giai điệu da diết,
cảm động, thơ với nhạc quấn nhau khiến bài hát không thể thiếu được trong các
phòng trà sang trọng thời Hà Nội bị tạm chiếm. Nhưng đỉnh cao phải là Tiếng đàn
bầu mà ông phổ thơ Lữ Giang, rất nhiều ca sĩ hát thành công ca khúc mang ấm
hưởng dân gian này, phần đầu có chút khắc khoải nhưng phần sau trong sáng. (…)
Nguyễn Đình Phúc là nhạc sĩ đầu tiên viết nhạc cho điện ảnh cách mạng, từ phim
chuyện Chung một dòng sông đến phim tài liệu Nước về Bắc Hưng Hải, phim hoạt
hình Nàng Ngà và nhiều phim khác. Với hội họa, ông vẽ rất nhiều chân dung các
văn nghệ sĩ Việt Nam như: Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,
Xuân Diệu… nét vẽ đơn giản nhưng lột tả được cái thần của các nghệ sĩ” [22,
tr.242].
Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc đến Trần Duy Hưng tài hoa, yêu nghệ thuật
với lời văn rất chân trọng: “Bác sĩ Trần Duy Hưng làm Chủ tịch Uỷ ban Hành
chính Hà Nội lần đầu sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Năm 1954,
từ chiến khu trở vê tiếp quản Thủ đô, ông giữ chức vụ này cho đến năm 1976. Trần
Duy Hưng yêu nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. Trong những năm tháng không
quân Mỹ đánh phá miền Bắc và Hà Nội, bom rơi, đạn nổ, sống chết do trời nhưng
cứ im tiếng súng, lặng tiếng bom là ông lại tận dụng chút thời gian rảnh rỗi hiếm
hoi để nghe nhạc bằng chiếc máy quay đĩa than hiệu Gramophone thế hệ thứ hai.
Ông thích nhạc cổ điển và thường nghe nhạc Beethoven, Liszt, Chopin, Robert
Schumann, Tchaikovsky… nhưng ông mê nhất Mozart” [24, tr.129-130].
Những con người sưu tập tranh để giữ gìn tài sản văn hóa quốc gia cũng như
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của không ít người Hà Nội cũng được ông
65
nhắc đến trong Nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam: “Ông Đức
Minh là chủ của bảy cửa hàng kim hoàn lớn ở Hà Nội. Ông sinh năm 1920 ở Hà
Đông, lịch lãm và có khả năng cảm thụ nghệ thuật bẩm sinh. (…) Kinh doanh
thành đạt, lại có sẵn thú sưu tập nên nhà ông có nhiều cổ vật, nhưng kính nể nhất là
bộ sưu tập hơn 1.000 tác phẩm hội họa. Ông được giới mỹ thuật đánh giá không chỉ
là nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp lớn nhất Việt Nam thế kỉ XX mà còn là người có
phông văn hóa cao” [22, tr.155].
Người Thăng Long-Hà Nội thanh lịch qua thú chơi hoa, qua lịch sử cầu Thê
Húc... Các vấn đề được Nguyễn Ngọc Tiến xây dựng trên nền tảng con người, phục
dựng lại những truyền thống tốt đẹp làm nên bản chất và tâm hồn người Hà Nội:
những bước hình thành nên các phố, phường, thành phố kiểu phương Tây do người
Pháp lập, những thú chơi hay phong tục thời trước qua những thăng trầm lịch sử.
Nguyễn Ngọc Tiến còn đưa những chứng cứ đầy sức thuyết phục về những thú chơi
của người Hà Nội như: chơi hoa, cây cảnh; chơi đĩa than, sưu tập đồ cổ, câu đối
ngày Tết, sưu tầm tranh, chơi cá cảnh, nghe hát ả đào…: “Thú chơi hoa, cây cảnh ở
Thăng Long theo năm tháng được nâng lên thành nghệ thuật. Thú chơi di dưỡng
tinh thần này buộc họ phải am hiểu kỹ thuật trồng, cắt tỉa lá cành, bón phân mà còn
phải tôn theo tín ngưỡng” [22, tr.72]. “Theo ông Ninh, người được đánh giá là
thẩm âm tốt, am hiểu về âm nhạc và hiện cung cấp đĩa cho rất nhiều người chơi,
thì: “Cách đây chục năm, số người chơi đĩa than ở Hà Nội không nhiều nhưng hiện
tại Hà Nội có hàng trăm, trong số đó có rất nhiều người chơi chuyên nghiệp. Thú
chơi đĩa than không chỉ đem lại thẩm mỹ lành mạnh, trong sáng ở trình độ cao mà
còn giúp họ giải tỏa được những căng thẳng trong cuộc sống, vốn là sản phẩm của
xã hội công nghiệp.” Sẽ có nhiều người chơi đĩa than hơn vì họ muốn tìm kiếm sự
trung thực và mộc mạc, những thứ ngày càng khan hiếm, khó tìm trong đời sống”
[24, tr135-136]. Thú chơi câu đối Tết của người Thăng Long-Hà Nội qua các thăng
trầm lịch sử đã được Nguyễn Ngọc Tiến nói đến trong Câu đối và chữ. Dù nhiều thế
kỉ trôi qua, có thăng có trầm nhưng đến nay người Hà Nội vẫn giữ được thú chơi
trong dịp cuối năm và đầu năm mới: “Dăm bảy năm nay, Hà Nội lại xuất hiện thú
66
xin chữ thầy đồ trước Tết. Không chỉ “cho” chữ, không ít người còn nhờ thầy viết
câu đối. Thật là mừng khi văn hóa chơi chữ và câu đối của kinh thành Thăng Long
sống trở lại” [23, tr.193]. “Thú chơi cá cảnh của con trẻ Hà Nội chỉ mới vài chục
năm nhưng kì lạ đứa nào cũng thích. (…) Yên Phụ là làng nuôi cá nổi tiếng và Hà
Nội cũng có duy nhất làng này. (…) Chơi cá cảnh cùng với ngủ trưa là “đặc sản”
của trẻ con nội hành Hà Nội suốt thời bao cấp.” [24, tr.275]…
Hà Nội với những làng nghề truyền thống lâu đời, các thợ thủ công lành
nghề, các sản phẩm nức tiếng trong nước và xuất khẩu nước ngoài đã phần nào lột
tả được nét tính cách đặc trưng của người Hà Nội lao động cần cù, bền bỉ, sáng tạo.
“Con gái Ngọc Hà, Hữu Tiệp khéo tay. Hocquard viết về họ trong cuốn Một chiến
dịch ở Bắc Kỳ: “Các cô rất khéo tay, lấy đất sét đặt lên một khoanh cây chuối, sau
đó cắm các loại hoa xen lẫn với lá lên cục đất sét tạo ra một lùm hoa lá rất lạ và
đẹp mắt. Các cô cũng làm những lẵng hoa đủ màu sắc bán cho bán cho những
người Pháp sang Hà Nội lập nghiệp”. Các cô còn nghĩ cách tết hoa lên xe tay cho
các quan Tây khi họ đi nhà thờ Lớn đón Noel, Tết Tây hay quốc khánh Pháp. Khi
Hà Nội xuất hiện ôtô, các cô trang trí hoa trên mui cho các xe đi đón quan chức
cấp cao từ Pháp sang” [23, tr.113]. “Nằm cạnh hồ Tây với hoa sen bát ngát, tháng
Năm sen nở tỏa hương khắp vùng phía tây kinh thành nên Thụy Chương nổi tiếng
với rượu nhụy sen. (…). Một vùng đất khác ở Thăng Long cũng nấu rượu cũng đất
nổi tiếng, đó là Kẻ Mơ (…). Điều đó cho thấy rượu Mơ không chỉ nổi tiếng ở Thăng
Long mà còn lừng danh thiên hạ” [23, tr,91-92]. “Nhờ đoạn mô tả của Dumoutier
ta biết rõ hơn về phố Hàng Thiếc cuối thế kỉ XIX và cũng nhờ mô tả này nhà nghiên
cứu Nguyễn Dư ở Pháp có cơ sở để chứng minh chiếc đèn dầu (hay còn gọi là đèn
Hoa Kỳ) không phải do Hoa Kỳ sản xuất, nó được làm từ chính bàn tay của chính
người thợ thủ công phố Hàng Thiếc” [21, tr.119].
Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc đến Nguyễn Văn Giảng – người đã sáng tạo
ra món cà phê trứng nổi tiếng Hà Nội: “Từ khi có cà phê đến nay, thế giới đã tạo ra
trên một trăm đồ uống xuất xứ từ cà phê, trong đó Hà Nội góp một thứ thuộc loại
độc đáo: cà phê trứng. Người nghĩ ra là Nguyễn Văn Giảng. (…). Sống ở Hà Nội
67
nên Giảng chứng kiến nhiều gia đình đánh trứng với đường để bồi dưỡng cho con
và thế là anh thử nghiệm ở nhà. Trứng gà ta chỉ lấy lòng đỏ, cho vào cốc, thêm chút
sữa, chút đường rồi dùng bông tre đánh đều. Khi trứng, đường và sữa quện vào
nhau mới cho cà phê vào. Lại đánh tiếp đến khi bọt dâng lên miệng cốc, mùi thơm
tưng bừng tỏa ra là được. Sau nhiều lần rút kinh nghiệm về lượng đường, sữa, anh
cho ra món cà phê trứng thơm ngon và cực kỳ hấp dẫn thị giác. Anh đặt tên là “cà
phê tam vị, nhị mùi” (vị béo của sữa, vị ngọt của đường, vị đắng của cà phê và mùi
thơm của trứng gà, mùi thơm của cà phê)” [24, tr.222-223].
Trong Cầu Long Biên vừa dài vừa rộng chính người nước ngoài cũng ca
ngợi sự cần cù, khéo léo của người Việt: “Trong bài viết Cây cầu Long Biên của
Paul Bouder (Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương năm 1917) viết:
“Chính nhân công bản xứ đã lắp ghép các thanh sắt, điều khiển các máy móc mạnh
mẽ để cẩu trục các cây sắt lớn và lắp đặt những đinh tán. Lúc đầu thợ tán đinh
phần lớn là thợ Trung Quốc vì họ khỏe hơn người An Nam nhưng sau đó, thợ An
Nam đã gạt bỏ họ. Người An Nam dù sức có yếu hơn nhưng họ năng động và khéo
léo. Các đốc công ,kỹ sư cũng ưa thích họ hơn” [21, tr.160].
Họ còn là những người lãng mạn, đa tình với những câu chuyện tình yêu.
Nguyễn Ngọc Tiến kể lại không ít cuộc tình trong các cuốn sách của mình. Đó là
câu chuyện tình yêu của Phạm Văn Đồng và vợ của ông trong bài viết Quán kem
Zesphyr nên duyên bà Cúc và ông Phạm Văn Đồng. Cuộc tình của ông già 70 bốc
thuốc nổi tiếng với một cô gái 30 tuổi: “Hai người gặp nhau trong một đám cưới,
mà thời bao cấp gọi là cưới “đời sống mới”, ăn bánh kẹo, uống nước chè và “liên
hoan văn nghệ”. Theo những người trong phố kể lại, hôm đó cô hát chèo còn ông
vớ cây đàn nguyệt của chủ nhà đệm. Rồi thế nào đó hai người lấy nhau” [22,
tr.281]. Trong bài viết Lấy được vợ nhờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nguyễn Ngọc
Tiến đã kể về tình yêu ngoại quốc vô cùng sâu đâm, cùng nhau trải qua mọi khó
khăn để đi đến được bến đỗ hạnh phúc của một cô gái người Thụy Điển với chàng
trai tên Đô người Việt Nam: “Buổi tối, chị đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường như
nàng Juliett ngóng chờ Romeo đạp xe qua. Muốn rủ chị đi chơi, anh đạp xe đạp qua
68
khách sạn, từ cửa sổ, chị nhìn thấy sẽ lặng lẽ đạp xe theo sau. Hai người thường
xuyên ra quán cà phê cuối Lò Sũ. Hai người ngồi chung bàn và đối diện nhau
nhưng không nói chuyện bằng miệng mà bằng ánh mắt vì nói tiếng Anh, sau khi
chia tay thế nào anh cũng bị ai đó “hỏi thăm”. Và trước lúc chia tay, cả hai bí mật
luồn tay xuống gầm bàn trao thư. Có lần chị hẹn gặp anh ở Bờ Hồ, chị phải mặc
như phụ nữ Việt Nam, để che bộ tóc bạch kim chị đội nón lá dù trời không mưa. Lén
lút trao nụ hôn mà mắt vẫn liếc xung quanh” [22, tr.298-299]. Hay câu chuyện tình
yêu sét đánh của người phụ nữ bán nước chè chạy đã bốn mươi tuổi tên Vân với
chàng tây ba lô đầu trọc 25 tuổi, tốt nghiệp đại học chưa xin được việc. Mối tình
thủy chung son sắt kéo dài cả cuộc đời của bà Sót trong Một đời tình câm lặng. Bà
luôn chờ đợi người tình quay lại tìm mình hay những lần vào Nam chỉ để tìm người
yêu, tình yêu ấy thầm lặng, khắc khoải cho đến lúc bà từ giã cuộc đời.
Trong những bài viết, Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhắc nhiều đến những con
người bình thường, giản dị làm các nghề để kiếm sống quanh mảnh đất ngàn năm
văn hiến này. Họ là những người trồng hoa làng Ngọc Hà, trồng đào làng Nhật Tân,
là bà Yến với mấy chục năm làm việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ
Hồ, những chị lao công, những người bán hàng rong, người hát xẩm, người đánh
tầm quất … Đó là những con người tạo nên những diện mạo một cách đầy đủ của
Hà Nội, khác xa với những dân chơi đất kinh kỳ.
Tất cả những nét đẹp của con người Hà Nội đã được Nguyễn Ngọc Tiến
nhắc đến qua các cuốn sách của ông, nhấn mạnh những phẩm chất đặc trưng của
nhân cách người Thăng Long – Hà Nội. Đó là những người dân giản dị đời thường
đến những con người nổi tiếng, giàu có… tất cả đã làm nên những nét văn hóa
truyền thống, làm nên tinh cách người Hà Nội. Qua đây người đọc có thể thấy được
tài năng, vốn sống, kiến thức lịch sử, văn hóa nghệ thuật phong phú, sâu rộng của
Nguyễn Ngọc Tiến qua nhiều mặt của đời sống xã hội, ông phải hiểu và có cái nhìn
khách quan, cụ thể về nét tính cách của người Hà Nội trong truyền thống và hiện
tại.
69
2.3.2 Những góc khuất của người Hà Nội
Đọc bốn cuốn sách của Nguyễn Ngọc Tiến viết về Hà Nội, người đọc không
chỉ nhận thấy những nét đẹp của con người nơi này mà còn thấy được những điểm
tiêu cực trong tính cách và trong nếp sống người Hà Nội như là mặt trái của những
nét tính cách ở trên.
Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến thói tham nhũng ở Thăng Long-Hà Nội qua
nhiều triều đại trong bài viết Tham nhũng và chống tham nhũng trong lịch sử để
thấy được một góc khuất trong đời sống của một số bộ phận người Thăng Long-Hà
Nội.
Những dị nhân ở Hà Nội cũng được nhắc đến trong bài viết Dị nhân Hà
thành: “Đầu thế kỉ XX, phố Hàng Hài (nay là phố Hàng Gai) có một người đàn bà
tên Chớp, chồng cô Chớp là ông Tây già làm đội trong thành nên hàng phố gọi là
Đội Chớp. Thời đó lấy Tây là chuyện “tày trời” nhưng cô Chớp chả coi thiên hạ ra
gì. Cô không vào trong thành ở cùng chồng mà thuê nhà phố Hàng Hài. Trước khi
lấy chồng, cô Chớp là nặc nô, chuyên khóc thuê, chửi mướn, cô uống rượu không
thua đàn ông nghiện. Ngày nào cũng vậy, cứ uống say, cô Chớp ra quán cơm đầu
phố biểu diễn các bài chửi, các bài khóc mua vui cho trẻ con hàng phố và khách ăn
cơm, cô khóc 3 tiếng, chửi 3 tiếng liền là chuyện bình thường” [23, tr.178]. “Cuối
thập niên 20, phố Hàng Bạc có nhà cô Bé Tý, cô lấy chồng Tây. Nhà như vườn bách
thú, toàn loại khách thường: gà 4 chân, lợn 2 mõm, vịt 1 chân, mào ngỗng như mào
gà… Kẻ ăn, người làm đều lùn tịt. Lúc chưa chồng cô yêu cùng lúc nhiều người
nhưng không bao giờ các nhân tình đụng nhau” [23, tr.179].
Trong bài viết Đồng tính Hà Nội, người đọc chắc chắn sẽ cảm thấy thương
cảm một số người con Hà Nội, họ sinh ra không đúng với chính mình, đi qua những
thăng trầm của cuộc đời, không hại đến ai nhưng thời trước không được đại bộ phận
mọi người cảm thông: “Tá túc quán bà Mai nên chiều nào tôi cũng thấy một “cô
gái” mặc áo cánh đen bó sát người, quần lụa, môi son, má phấn đi xe Peugeot màu
xanh. Cô đạp xe nhẹ nhàng, từ từ và dường như không bao giờ để ý đến ai. Mọi
người trong quán đó bảo là “Tuấn đồng cô”. Tuấn thích mọi người gọi bằng “cô” và
70
rất ghét ai gọi là anh Tuấn” [23, tr.8]. “Vào khoảng năm 1987,1988, quanh hồ
Thuyền Quang xuất hiện khoảng chục “cô”, môi son, má phấn, quần lụa, áo cánh đi
đi, lại lại, giọng eo éo nên đám thanh niên gọi đây là “chợ đồng tính”. Trong chợ có
một “cô” tên cúng cơm là Giang, nhà đâu ở khu Lĩnh Nam hay Mai Động, đổi thành
Mai. Mai buôn bán làm ăn rất giỏi. Khoảng năm 1999,2000 ở một phố cổ, có quán
bar có tên là G. C, mọi người đoán già đoán non “G. C là viết tắt của gay club (tiếng
Anh: Câu lạc bộ đồng tính nam). Buổi tối quán rất đông khách, toàn đàn ông và hầu
hết là người nước ngoài với những hành vi không lộ liễu” [23, tr.11].
Nguyễn Ngọc Tiến cũng nói đến một góc khuất của Hà Nội mà có lẽ rất ít
nhà văn chạm đến hoặc chạm đến chưa sâu đó là gái điếm và mại dâm trong câu
chuyện Điếm xưa, điếm nay: “Năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
mại dâm bị cấm nhưng khi Pháp tái chiếm Hà Nội đầu năm 1947, mại dâm hồi sinh.
(…) Vì bị cấm nên phò cũng không sẵn nên thanh niên phải tìm và họ gọi là đi bắt
phò. Thỉnh thoảng ở góc tối hồ Thiền Quang ầm ầm cãi nhau, một ông dắt xe đạp
lao ra đường, một mụ đàn bà đuổi theo té tát, ra là bác chơi quỵt. Các cô làm phò
có hàng vạn lí do, nào “nhà em làm nhà, còn thiếu mấy bao xi măng lót nền”, nào
chồng em đi “trường”, nào “bà bô em ốm”… (…) Đĩ điếm cứ từ từ đi lên, tỉnh nào
cũng có, dân tộc nào cũng có nhưng chẳng thấy “Nhà Lục xì”. (…) Nói đĩ điếm ở
Việt Nam như một ngành công nghiệp cũng không quá. Ngành công nghiệp này
ngấm ngầm mà công khai, lén lút mà lộ liễu, thiên biến vạn hóa, mặc cho các
chuyên gia cứ hội thảo đi hội thảo lại” [24, tr.17-20].
Cuộc sống khổ cực, vất vả của những con người quê lên Hà Nội kiếm sống
cũng được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến trong các bài viết của ông: “Tam Lang thuê
xe của các chủ khác nhau, lao ra đường kiếm khách. Ông kéo xe đến phố Lô cốt Bắc,
phố có nhiều phụ nữ có chồng là lính và sĩ quan Pháp đóng trong thành (phu xe gọi
là phố vợ Tây – nay là Phó Đức Chính), chầu chực chở vợ con họ đi chợ. Ông cũng
lăn lộn ở xóm Bãi Cát (khu vực An Dương và Phúc Xá bây giờ), lại thuê nhà ở đây để
tìm hiểu bởi xóm bờ sông là nơi tập trung rất đông phu thuê trọ. Ông tận mắt chứng
kiến có phu chết, đám trọ không biết chôn ở đâu, vì không có tiền mua đất, họ đành
71
vù con người xấu số xuống dải cát ven sông Hồng để rồi nước dâng lên cuốn xác đi.
Và rồi vợ phu đẻ con không làm được giấy khai sinh, người lớn không chứng minh và
thường xuyên phải vay nặng lãi để trả tiền thuê xe” [24, tr.146].
Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhận ra, một thời người dân Hà Nội quá coi trọng
xuất thân và có biểu hiện coi thường tỉnh lẻ: “Phu kéo xe bị chèn ép nên cuộc sống
của họ khốn khó, nhiều người bị dồn đến mức đường cùng, trước tình cảnh đáng
thương và đáng lên án, nhà báo Tam Lang quyết định làm phóng sự về những bất
hạnh họ phải chịu đựng. (…) Về dân bãi, Tam Lang viết: “Dân bãi Cát có nhiều
tầng lớp, những dân anh chị sống bám vào dân nghèo, chứa cờ bạc, hành động côn
đồ, cho vay nặng lãi. Còn lại đại đã số là tầng lớp dưới đáy của xã hội làm ăn lam
lũ với đủ nghề lao động nặng nhọc như: xe tay, xe bò, khuân vác, vớt củi, bán quà
rong… Kiếm ăn chật vật vất vả lại hay cờ bạc, thuốc xái, kiếm được đồng nào qua
tay hết đồng ấy, sống không có ngày mai” [21, tr.174]. Họ cũng coi thường, khinh
rẻ những cô gái lấy chồng Tây, hay những người lấy vợ, lấy chồng ngoại quốc,
được Nguyễn Ngọc Tiến nói đến trong bài viết Chồng tây, vợ đầm: “Người Pháp
tôn trọng tự do cá nhân, trong khi người Việt hay nhòm ngó nên các cô có chồng
Tây thường túm một chỗ và thiên hạ gọi là xóm me Tây. (…)Thế nhưng, từ ngày
“theo chồng”, Loan thu lượm được nhiều thông tin về hàng ngũ địch và cô đã
chuyển cho cơ sở. Hai người sinh được một con trai. Ngày những người lính lê
dương rút khỏi Việt Nam, cô không thể theo chồng vì là chiến sĩ quân báo, cuối
cùng chồng cô đành mang đứa bé về Bờ Biển Ngà. Dù hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ nhưng Loan không cách nào gột rửa được tiếng xấu” [24, tr.268-271].
Nhân vật giang hồ luôn áp bức, bóc lột những đứa trẻ, những người ăn xin
khu vực Bờ Hồ của Hà Nội cũng được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến là Ngọc “bụi”:
“Tất cả đám ăn xin từ già đến trẻ nếu muốn làm ăn quanh hồ đều phải nộp tô cho
Ngọc nếu không muốn bán xới đi nơi khác, cứng cổ thì không cỡ đầu cũng gẫy
răng. Ngọc khoán cho đám cái bang, mà khoán cao nên chúng buộc phải bám theo
khách suốt ngày, mệt cũng không dám ngủ. Không đủ mức khoán, có lạy Ngọc cũng
72
không tha. Có vẻ luật của giới giang hồ không tính thành tích trong quá khứ, mười
ngày trước nộp đủ nhưng chỉ một ngày thiếu cũng vẫn bị xử” [22, tr.288].
Trong bài viết Kẻ cắp chợ Đồng Xuân, Nguyễn Ngọc Tiến nói về một điểm
không đẹp xảy ra trong chợ của người Hà Nội xưa là làm giảm uy tín của các
phường với nhau: “Phục vụ cho những người bán hàng và người mua hàng có hẳn
đội bâté (tiếng Pháp: Phu chuyên khiêng hàng thuê). (…) Do nhiều phường bâté
nên cạnh tranh diễn ra quyết liệt, để hạ uy tín của nhau, người của phường này lợi
dụng chợ đông thò tay lấy cắp hàng trong rổ của phường kia và ngược lại” [23,
tr.229-230].
Khi nói đến món phở - món ngon nổi tiếng Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến cũng
kể đến một câu chuyện khá thú vị: “Phở là một trong số ít thứ quà không né tránh
được cơ chế, trong lúc thịt bò bị cấm (vì bò là sức kéo quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp thập niên 60, 70), người ta vẫn tìm cho ra thịt bò. Thậm chí ngay cả
người có trách nhiệm thực hiện lệnh cấm vào quán cũng gọi phở bò. Không có thịt
bò, phở trở nên vô nghĩa. Do trâu, bò bị cấm giết thịt nên mới sinh ra giết mổ lậu.
Để tránh bị phòng thuế và dân quân bắt, đám người này thay đổi địa điểm liên tục,
lúc làng này, lúc làng kia, có khi ở giữa bãi tha ma” [24, tr.176].
Ẩn sau những lời kể chân thực, khách quan là sự trăn trở, day dứt không
nguôi của Nguyễn Ngọc Tiến – một người con luôn nặng lòng với Hà Nội.
2.4 Tiểu kết chƣơng 2
Nhìn từ góc độ văn hóa hay cốt cách văn hóa con người của con người, luận
văn muốn thông qua việc khảo sát sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến để
khẳng định không gian và thời gian sinh hoạt văn hóa, con người Hà Nội trong sáng
tác như là một nguồn cảm hứng mãnh liệt, thiết tha, như một sự lựa chọn, một góc
độ tiếp cận đời sống có ý nghĩa phong cách. Có thể xem đó là biểu hiện của cái nhìn
văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.
Từ bức tranh Hà Nội với cái nhìn không gian, thời gian Hà Nội xưa đến nay,
nhà văn có được nhiều góc tiếp cận thế giới và cái nhìn về phía con người, về đời sống
hoạt động văn hóa ở nơi đây tạo nên cơ sở mới mẻ của nhà văn: con người văn hóa.
73
Nhìn một cách tổng thể, tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến là sự nâng cao nét
đẹp truyền thống, những khía cạnh về cuộc sống người dân Hà Nội. Đồng thời với
sự am hiểu sâu sắc về đất và người Hà Nội xưa và nay cùng với vốn sống phong
phú trong nhiều lĩnh vực, Nguyễn Ngọc Tiến đã tìm ra những nét đẹp trong đời
sống tinh thần, cũng như một vài mặt trái của người Hà Nội. Những điều này đã
được ông thể hiện ngay trong chính nội dung các tác phẩm.
Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã dày công khảo cứu sâu rộng
từ các nguồn tư liệu trong và ngoài nước cùng với những trải nghiệm chân thực của
bản thân ông, người đọc như thấy đất và người Hà Nội gần gũi, quen thuộc, giản dị
nhưng vô cùng hấp dẫn, thanh cao. Trên hết, chúng ta thấy được tấm lòng yêu Hà
Nội sâu sắc, am hiểu và gắn bó bền chặt với Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến. Ông
rất hiểu và trân quý những giá trị sống tốt đẹp giàu tính nhân văn của những con
người trên mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến này và cũng đã nói lên được tiếng
nói đó bằng lối văn giản dị, đời thường và sâu lắng.
74
CHƢƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
3.1.Biểu tƣợng văn hóa
3.1.1 Khái niệm về biểu tượng văn hóa
Biểu tượng là kết tinh của những giá trị văn hóa và luôn ở vị trí trung tâm
của đời sống văn hóa. Biểu tượng ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời
sống con người.
Trong tiếng Hán, “biểu” có nghĩa là phô bày những dấu hiệu để con người
nhận biết một điều gì đó. “Tượng” có nghĩa là hình tượng, là những thứ có trong trí
tưởng tượng của con người. Biểu tượng là một dấu hiệu nhận biết, một đặc trưng
nổi bật, dễ dàng nhận thấy, nhằm biểu đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng.
Các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam rất quan tâm tìm hiểu nguồn
gốc, tính chất, ý nghĩa của biểu tượng và đưa ra rất nhiều khái niệm về biểu tượng.
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant quan niệm: “Tự bản chất của biểu
tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng
một ý niệm. Nó giống như một mũi tên bay mà không bay đứng im mà biến ảo, hiển
nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều
ý nghĩa của một biểu tượng” [41, tr.27].
Từ điển Larousse ghi rằng: “Biểu tượng là một dấu hiệu của hình ảnh, con
vật sống động, hay đồ vật, biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của
một sự vật hay một điều gì đó” [28, tr.4].
Hoàng Phê đã đưa ra khái niệm biểu tượng trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do
ông làm chủ biên như sau: “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của
nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc
khi tác dụng với sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [32, tr.9].
Theo Vũ Dũng: “Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện
xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể
75
mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên
quan đến quá khứ và tương lai” [28, tr.4].
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai
đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của một sự
vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm
dứt” [9, tr.6].
Bản chất của biểu tượng thuộc về cái trừu tượng, khó nắm bắt cũng rất khó
xác định. Sự hiểu biết về biểu tượng còn phụ thuộc nhiều vào sự từng trải, kinh
nghiệm sống, học tập, trình đọ nhận thức của mỗi người. Những biểu tượng luôn có
tính bí ẩn, mơ hồ về mặt ý nghĩa, thôi thúc con người tò mò khám phá, tìm hiểu.
“Một biểu tượng thường có nhiều ý nghĩa hoặc ngược lại một ý nghĩa có nhiều biểu
tượng cùng biểu thị” [8, tr.71].
Qua những khái niệm về biểu tượng, có thể hiểu rằng “Biểu tượng là những
hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được hình thành
trên cơ sở những cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được lưu giữ lại trong ý
thức hay là những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có
từ trước” [19, tr.5]. Biểu tượng không hoàn toàn là những gì diễn ra trong thực tế,
bởi vì nó là việc xây dựng lại của thực tế sau khi đã được tri giác.
Từ những khái niệm biểu tượng có thể rút ra: “Biểu tượng văn hóa là những
thực thể vật chất hoặc tinh thần có khả năng biểu hiện ý nghĩa rộng hơn hình thức
cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền văn
hóa nhất định: nghi lễ, hành vi, kiêng kị, thần linh… Biểu tượng văn hóa là sự tồn
tại của bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan” [8, tr.72].
Biểu tượng văn hóa luôn có mối quan hệ vô cùng khăng khít với biểu tượng
ngôn từ. Vì ngôn ngữ là một phần không thế thiếu trong văn hóa của mỗi dân tộc,
mỗi quốc gia trên toàn thế giới nên biểu tượng ngôn ngữ/ngôn từ là một phần quan
trọng của biểu tượng văn hóa. Biểu tượng ngôn từ chính là các biểu tượng nghệ
thuật được cấu tạo lại thông qua ngôn ngữ trong văn học.
76
Mối quan hệ giữa biểu tượng văn hóa và biểu tượng ngôn từ chính là quá
trình biểu tượng văn hóa đi sâu vào các lĩnh vực nghệ thuật, lưu giữ và phát triển
những biểu tượng nghệ thuật. Các nhà văn, nhà thơ dựa trên mối quan hệ hoặc bổ
sung, hoặc tương phản, hoặc đẳng cấp để tổ chức việc khắc họa nổi bật hình tượng
nghệ thuật, thể hiện một lối tư duy nghệ thuật, phong cách sáng tạo riêng.
Là người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến đậm đà
bản sắc văn hóa, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến hơn ai hiết hiểu những giá trị văn hóa
lâu đời của Thăng Long-Hà Nội. Chính vì lẽ đó, những sáng tác về Hà Nội của ông
thường đi sâu tái hiện những truyền thống, những nét đẹp xoay quanh cuộc sống
của người dân nơi đây. Những hình ảnh đẹp đó trở đi trở lại nhiều lần và đã trở
thành biểu tượng nghệ thuật cho tác phẩm. Có thể kể đến một số biểu tượng tiêu
biểu trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến như: Hồ Gươm, phố phường Hà Nội.
3.1.2 Một số biểu tượng văn hóa Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến
3.1.2.1 Biểu tượng phố
Hình ảnh những phố phường trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến, được trở
đi trở lại nhiều lần và mang ý nghĩa biểu tượng. Biểu tượng phố phường được
Nguyễn Ngọc Tiến đề cập, khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau, có khi hiển hiện
trực tiếp bằng cái tên, địa danh cụ thể, nhưng cũng có khi tồn tại dưới dạng biến thể
mang đặc điểm, sắc thái, linh hồn của Hà Nội.
Với cách biểu hiện trực tiếp, trong một số bài viết Nguyễn Ngọc Tiến nói
đến làng, phố phường bằng cái tên cụ thể như làng Nghi Tàm, làng Yên Phụ Từ
Kios hoa đến bốt giao thông những làng trồng hoa nổi tiếng Hà Nội, làng Thụy
Chương Thụy Chương nấu rượu la cà cả đêm với nghề nấu rượu, nổi tiếng với rượu
nhụy sen, làng Nhật Tân nổi tiếng với hoa đào Đào Nhật Tân có từ bao giờ?, làng
Yên Phụ với nghề nuôi cá cảnh nổi tiếng và Hà Nội chỉ có duy nhất làng này trong
bài viết Chơi cá cảnh… Mỗi làng đều lưu giữ trong mình nét đẹp về thiên nhiên
,những nếp sống văn hóa hay những phong tục tập quán ngàn đời.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì các phố phường cũng xuất hiện
ngày càng nhiều, những tên phố phường lại mang những dấu ấn riêng: “Các làng
77
nghề xuất hiện ở Thăng Long-Kẻ Chợ thì cũng xuất hiện các phố mang tên một mặt
hàng được bày bán. Cũng theo Marini ở mỗi đầu phố đều treo một tấm biển gỗ trên
đó có ghi các mặt hàng, phố Hàng Đào bán tơ lụa, Hàng Ngang bán xiêm áo, Hàng
Bạc bán đồ trang sức, kim hoàn, Hàng Đồng bán đồ đồng, phố Hàng Tượng bán
giày dép, phố Bát Sứ bán đồ sứ… [21, tr.277]. “Sau 1954, nội thành Hà Nội có hơn
300 phố. Từ khi sáp nhập Hà Tây và nội thành được mở rộng về bốn hướng, nhiều
phố mới hình thành, hiện tại khu vực nội thành gồm 900 phố. (…) Danh từ phố theo
nghĩa Nôm “là nơi mua bán, là khu dân cư tập trung quanh khu vực bến thuyền”.
Ban đầu, phố là nơi bán hàng và dần dần phố là nơi có nhiều cửa hàng” [24,
tr.306]. Tên các con phố cũng được Nguyễn Ngọc Tiến giải thích khá chi tiết: “Sỡ
dĩ có tên phố Cầu Gỗ vì đầu thế kỉ XX, giữa Hàng Đào và Hàng Bè vẫn còn hồ Thái
Cực nhưng dân quen gọi là hồ Hàng Đào. Hồ này có một con mương nhỏ ăn thông
với hồ Hoàn Kiếm. Để đi lại, người dân bỏ tiền làm cầu gỗ vì thế có tên là phố Cầu
Gỗ” [22, tr.240]. Các phố có các nghề truyền thống cũng được đặt tên theo nghề
truyền thống như phố Tràng Tiền vì chuyên đúc tiền đồng và tiền kẽm, phố Hàng
Khay vì có nghề khảm trai nổi tiếng…
Qua những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến thì phố phường không chỉ là
nơi trao đổi sản vật, văn hóa mà còn là nơi tiếp xúc xã hội. Phố phường góp phần
truyền bá văn hóa, mang đến nhiều cái mới trong cuộc sống, mở ra những không
gian rộng lớn: “Thăng Long là kinh đô nên khu phố cổ có rất nhiều di tích văn hóa,
lịch sử giá trị. Theo thống kê, khu vực này hiện có 128 di tích, gồm đền, chùa, quán,
đình, nhà thờ họ, di tích cách mạng… trong đó có nhiều di tích được xếp hạng quốc
gia và thành phố. Nhưng còn một giá trị vô hình nữa là không gian sống , nó hòa
quyện cùng với những di tích lịch sử, văn hóa làm khu phố cổ trở thành đô thị
truyền thống độc đáo ở Việt Nam” [24, tr.257].
Phố phường là nơi khẳng định truyền thống yêu nước của cả phố và những
con người ở trong đó: “Phố Hàng Đào có rất nhiều người tài giỏi và yêu nước như
cụ cử Lương Văn Can. Năm người con của cụ đều hoạt động cách mạng trong đó
78
có Lương Ngọc Quyến lãnh đạo khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 sau đó bị Pháp giết
hại” [22, tr.229].
Qua các bài viết của Nguyễn Ngọc Tiến, ta có thể hình dung một Hà Nội với
nhiều phong tục, làng nghề đặc sắc truyền lại từ nhiều đời. Biểu tượng phố phường
không chỉ biểu hiện hoạt động buôn bán, sinh hoạt ở riêng các khu phố phường mà
ta còn thấy ở đó một văn hóa phố phường qua cách cư xử trong cộng đồng, cá nhân
với nhau: Từ đời vua Gia Long đến Tự Đức và kéo dài đến thập niên 20, trên các
con phố Hà Nội nhỏ xinh bao giờ cũng có vại nước vối ủ nóng trước cửa nhà để
người đi đường khát thì uống. Và cứ đầu năm, phố trưởng đi tường nhà quyên cho
quỹ giúp người, đóng bao nhiêu cũng được, tùy tâm. Cũng nhờ quỹ này mà dân mất
nhà vì cháy có thêm tiền lo chỗ ở mới” [23, tr.40].
Biểu tượng ấy còn được thể hiện gián tiếp qua các thú chơi của người Hà
Nội. Biểu tượng phố phường không được gọi tên cụ thể mà được nói đến qua những
hoạt động văn hóa của con người. Trong Từ kios hoa đến bốt giao thông nhà văn
gợi lại không gian đậm chất văn hóa của nếp nhà cũng như thú chơi hoa, cây cảnh
của người dân Thăng Long-Hà Nội: “Ngày xưa nếp nhà Kẻ Chợ hình ống, có nghĩa
là nhà 3 gian hay 5 gian ở quê được xoay đầu hồi ra mặt phố. (…) Thú chơi hoa,
cây cảnh ở Thăng Long theo năm tháng được nâng lên thành nghệ thuật. Thú chơi
di dưỡng tinh thần này buộc họ phải am hiểu kĩ thuật trồng, cắt tỉa lá cành, bón
phân mà còn phải tuân theo tín ngưỡng. (…) Không chỉ chơi hoa – thứ thiên nhiên
ban tặng, người Thăng Long còn chơi cây cảnh mà nay quen gọi là cây thế. Khác
với hoa là màu sắc và hương thơm thì cây thế lại do con người uốn tỉa, làm trái với
quy luật để tạo ra những cây cổ thụ cằn cỗi, bé tí, còi cọc. (…) Tùy tính cách và
mong muốn của từng người chơi mà chọn cây, hoa, cây thế phù hợp” [22, tr.72-74].
“Thế kỉ XVIII, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến khắp thành Thăng Long.
Không chỉ tầng lớp “sĩ, công, thương mà cả những người làm nghề nông cũng treo
câu đối Tết” [23, tr.190]. Không những thế những thú chơi di dưỡng tinh thần của
người dân Hà Nội góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa quốc gia như chơi đĩa
than, sưu tập tranh, sưu tập đồ cổ… Với vốn hiểu biết phong phú tổng quát về Hà
79
Nội và tài quan sát tinh tế màn tính chất cộng đồng, Nguyễn Ngọc Tiến đã làm hiện
lên một phố phường Hà Nội với nhiều làng nghề văn hóa, những thú chơi văn hóa
di dưỡng tinh thần của người dân nơi đây. Bên cạnh những tên gọi cụ thể, phố
phường trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến còn thể hiện qua những kiến trúc tiêu
biểu của phố phường Hà Nội: phố cổ, Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa, cầu
Long Biên, …
Qua khảo sát, tìm hiểu các tác phẩm viết về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến,
chúng tôi nhận thấy biểu tượng phố phường được thể hiện trong các tác phẩm khi
thì cụ thể trực tiếp, nhưng có khi lại gián tiếp, tất cả toát lên phố phường Hà Nội là
sự gắn bó giữa người với người, con người với cộng đồng, phố phường là cuộc
sống, là nơi sinh tồn, là phần hồn của mỗi con người. Cao hơn cả phố phường là
chính quê hương, là đất nước của mỗi con người.
3.1.2.2 Biểu tượng hồ Gươm
Hồ Gươm cùng với cầu Thê Húc, Tháp Bút, Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn đã đi
vào sử sách, thi ca… Hồ Gươm được xem là nơi hội tụ của huyền thoại, một không
gian phản chiếu những yếu tố tinh thần, tôn giáo, vừa linh thiêng huyền bí, vừa lãng
mạn giàu chất thơ. Ở xung quanh nơi đây đã hình thành và tổ chức nên những
phong tục tập quán rất riêng đã trực tiếp ăn sâu vào cuộc sống hàng ngày của người
dân Hà Nội.
Trong các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến thì biểu tượng Hồ
Gươm cũng được ông nhắc đến nhiều lần, là một hình ảnh căng tràn nhựa sống.
Ngay cả trong tên một cuốn tạp văn của thì hồ Gươm cũng được nhắc đến là 5678
bước chân quanh hồ Gươm với 56 bài viết xoay quanh những con người, những
chuyện mà ông khảo cứu hay trải nghiệm của chính ông. Nguyễn Ngọc Tiến nhắc
về tên gọi tại sao lại gọi là hồ Gươm: “Sau khi đánh tan giặc Minh một hôm Lê
Thái Tổ ngồi trên thuyền rồng dạo chơi trên hồ thì thần Kim Quy nổi lên, ngài hiểu
thần muốn lấy lại thanh gươm báu trước kia thần đã cho ngài mượn đánh giặc
Minh. Và khi ngài rút gươm ra khỏi vỏ thì lập tức thanh gươm bay về phía thần Kim
Quy, thần ngậm thanh gươm rồi từ từ lặn xuống chỉ để lại một vệt sáng loang
80
loáng. Từ đó dân gian gọi Lục Thủy là hồ Hoàn Kiếm (hay gọi tắt là hồ Gươm)”
[22, tr.9]. Những hoạt động của con người xung quanh hồ Gươm cũng được tác giả
nhắc đến như: rùa hồ Gươm; người dân các làng quanh hồ ào xuống sát hồ chiếm
đất làm nhà; thi đua thuyền, lướt ván trên hồ; Bờ Hồ là nơi chờ người thân, tìm
đồng hương khi chưa có điện thoại… Với cách miêu tả tỉ mỉ, tường tận, qua đó
người đọc thấy được sự tìm tòi, nghiên cứu, quan sát kỹ lưỡng, vốn hiểu biết phong
phú của nhà văn về các hoạt động văn hóa, sinh hoạt hàng ngày ở nơi đây.
Điều mà người đọc dễ nhận thấy hơn cả là biểu tượng hồ Gươm trong sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tiến được thể hiện cụ thể, sinh động qua những công trình
kiến trúc, đời sống sinh hoạt của người dân. Hồ Gươm được coi là trái tim của Hà
Nội thì trong bốn cuốn tạp văn, biểu tượng hồ Gươm là trung tâm, là nơi mà các
hoạt động của con người diễn ra xung quanh, là nơi chứng kiến sự biến đổi toàn
diện của thủ đô. Qua đó thể hiện niềm tự hào về văn hóa, văn hiến, đồng thời nhà
văn cũng cảm nhận được sức mạnh cộng đồng trong các hoạt động văn hóa đó. Nó
không chỉ là kết quả của trí tuệ, tài năng, sức mạnh của tập thể mà còn là nơi gắn
kết tình cảm của con người với con người, con người với thiên nhiên, quê hương đất
nước.
Trong bốn cuốn tạp văn, biểu tượng hồ Gươm được được thể hiện qua các
công trình kiến trúc trên hồ và xung quanh hồ. Kiến trúc Tháp Rùa được nhắc đến
khá kĩ để tô điểm nên một hồ Gươm đẹp mà ai đến cũng phải ngắm nhìn: “Tháp
hình chữ nhật cao ba tầng, tầng dưới xây rộng hơn, lên cao thì thu nhỏ dần, được xây trên Gò Rùa rộng khoảng 350m2. Mặt phía đông và tây có chiều dài 6,28m.
Phía nam và bắc rộng 4,54m. Hai tầng có lan can chạy xung quanh. Bốn đầu đao
đắp uốn cong dần lên vào giữa đỉnh, trên đỉnh có hình ngôi sao năm cánh. Hình
tượng ngôi sao năm cánh có ở các nhà thờ ở nước Ý thời trung cổ. (…) Tầng đỉnh
chỉ như một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề mặt hai mét. Trên tầng mặt phía đông, bên
trên cửa trong của tầng ba có ba chữ Quy Sơn Tháp (nghĩa là tháp núi rùa). Như
vậy, từ trên đất Gò Rùa lên đến đỉnh tháp cao 8,8m. Dù Tháp Rùa không phải là
công trình kiến trúc đặc sắc, song ai đi qua hồ Gươm không thể không ngắm tháp,
81
và Tháp Rùa làm cho hồ Gươm đỡ trống trải và bớt đơn điệu hơn” [22, tr.363].
Những công trình kiến trúc được xây dựng xung quanh hồ được tác giả nhắc đến
như điểm tô thêm cho vẻ đẹp hồ Gươm: “Khi quân Pháp tái chiếm Hà Nội năm
1883 (…) Công sứ Bonnal đã lên một kế hoạch cải tạo Hà Nội. Theo kế hoạch này,
khu vực phía đông hồ Gươm sẽ là khu hành chính, khu vực phía nam là khu phố
mới và phía tây hồ sẽ trở thành khu vực dành riêng cho người Pháp và làm một
đường vòng quanh hồ Gươm” [22, tr.119]. Ở bài viết “Từ tương lai Bắc Kỳ” đến
“Hà Nội mới”, tác giả có nhắc đến công trình kiến trúc khá thú vị của báo Hà Nội
mới: “Kiến trúc sư đã thiết kế một cửa sổ hình tròn trên tầng áp mái, từ cửa sổ này
có thể bao quát toàn cảnh hồ Gươm. Mặt tiền cũng như tường hậu có nhiều đường
nét uyển chuyển làm tòa nhà mềm mại trước hồ Gươm lung linh” [22, tr.141]. Các
tượng đài, vườn hoa, công viên cùng nhiều công trình kiến trúc khác xung quanh hồ
Gươm cũng được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến khá chi tiết. Qua đó, chúng ta có thể
thấy được sự quan sát tỉ mỉ, vốn hiểu biết phong phú cùng sự tìm tòi khảo cứu công
phú của tác giả.
Biểu tượng hồ Gươm cũng là nơi sinh hoạt văn hóa và cũng là nơi có những
kỉ niệm khó quên của người dân Hà Nội. Trong bài viết Đinh Hợi, Tết ra đi và Qúy
Sửu, Tết trở về, Nguyễn Ngọc Tiến đã nhắc về một quá khứ đau thương nhưng vô
cùng hào hùng của quân dân Hà Nội. Dù trong khói lửa chiến tranh, phải đi tản cư
nhưng họ vẫn luôn giữ được nét văn hóa: “Lệnh phát ra và hơn 10 vạn dân hối hả
gói ghém đồ đạc ra đi. Dù vội vã chuẩn bị đồ đạc nhưng hầu hết các gia đình vẫn
tranh thủ cúng ông Công ông Táo, có gia đình mang sẵn đồ đạc ra hồ Hoàn Kiếm,
hồ Bảy Mẫu, Trúc Bạch… phóng sinh cá chép xong là đi ngay” [21, tr.93].Hồ
Gươm là nơi chứng kiến bao thăng trầm, mất mát của nơi đây. Ngày ra đi ngậm
ngùi thì ngày trở về đông vui, nhộn nhịp, mừng rỡ, hạnh phúc và hồ Gươm chính là
nơi mà người dân cùng ăn mừng vì hòa bình được lặp lại, mừng xuân Qúy Sửu với
nhiều hoạt động quanh Bờ Hồ như thi hoa, biểu diễn ca nhạc,… Ngày ăn mừng
thống nhất đất nước diễn ra tại hồ Gươm, có lẽ với người dân Hà Nội, ngày ấy là
ngày không thể nào quên với tiếng pháo hoa nổ để ăn mừng ngày giải phóng: “Có
82
lẽ đây là lần ùn tắc đầu tiên ở Hà Nội dù ở thời điểm đó dân số nội thành không
quá đông và xe cũng ít. Chúng tôi len lỏi rồi lên Bờ Hồ, chỗ nào cũng có tiếng pháo
nổ và cũng là lần đầu, tổ phục vụ các tiểu khu không lấy tiền trông giữ xe đạp.(…)
Bánh pháo dài đến mấy chục mét. Tiếng nổ kéo dài mười mấy phút mới hết. (…) Tin
tối ngày 1-5 bắn pháo hoa ở Bờ Hồ lan ra và sáng 1-5, bà con các tỉnh nườm nượp
đổ về Hà Nội… Tối mùng 1-5, pháo hoa bắn ở Bờ Hồ và Công Viên Thống Nhất,
tiếng reo vang mỗi khi quả pháo lên cao nở ra hình buồng chuối hay hoa cải” [21,
tr.155]. Hồ Gươm cũng không biết từ khi nào trở thành nơi sinh hoạt văn hóa mỗi
dịp xuân về của người dân Hà Nội: “Đi chơi giao thừa quanh hồ Gươm đã trở
thành nét sinh hoạt văn hóa hơn nửa thế kỉ nay. Không chỉ nam thanh, nữ tú mà còn
có rất nhiều người cao tuổi cùng con cháu họ ra đây xem bắn pháo hoa, hái lộc, thụ
khí thiêng đất trời chốn huyền thoại trong thời khắc chuyển từ năm cũ sang năm
mới” [21, tr.199].
Xung quanh hồ Gươm còn là nơi kiếm sống của nhiều kiếp người với những
số phận, những câu chuyện khác nhau như những người tẩm quất, những người hát
sẩm, người bán nước chè… nhưng đó cũng là một nét văn hóa độc đáo rất riêng của
Hà Nội.
Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến, hồ Gươm là nơi bảo tồn những giá trị
văn hóa, chứng nhân lịch sử hào hùng của dân tộc, là nơi diễn ra những sinh hoạt
truyền thống, nơi kiếm sống của con người. Hình ảnh hồ Gươm hiện lên trong các
cuốn tạp văn mang đặc trưng riêng của hồn đất và người Hà Nội. Hồ Gươm sẽ mãi
mãi trong tiềm thức của những người con đất Việt như một biểu tượng thiêng liêng
về lịch sử và truyền thống văn hóa dân tộc.
3.2.Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ
sĩ sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật có chức năng
thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Chức năng quan trọng nhất của ngôn
ngữ nghệ thuật là chức năng thẩm mỹ. Chức năng này được xác định trong hệ thống
các hình tượng tác phẩm và phong cách của tác giả, bởi ngôn ngữ nghệ thuật là sự
83
thể hiện tài năng của nhà văn. Ngôn ngữ nghệ thuật vừa là hình thức phản ánh đồng
thời chứa đựng nội dung phản ánh nên ngôn ngữ nghệ thuật thường đa nghĩa.
Trong quá trình lao động sáng tạo của nhà văn thì ngôn ngữ nghệ thuật chính
là nơi mà nhà văn bộc lộ tài năng. Ngôn ngữ nghệ thuật mang dấu ấn, màu sắc riêng
của chính tác giả, phản ánh nét độc đáo và là một trong những biểu hiện quan trọng
nhất tạo nên phong cách của từng nhà văn. Những nhà văn nổi tiếng là những nhà
văn có phong cách riêng, bút pháp riêng và ngôn ngữ nghệ thuật riêng.
Ngôn ngữ trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến viết về đề tài Hà Nội giản dị,
mộc mạc, tự nhiên, dễ hiểu, hàm súc. Trong các cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến
rất chú trọng đến việc sử dụng ngôn từ. Bởi vậy, khi nghiên cứu về những giá trị
văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến, luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu
ngôn từ trong sáng tác của ông trên các phương diện sau:
3.2.1 Ngôn ngữ mang tính chất khảo cứu
Theo Wiktionary, nghĩa của từ khảo cứu là “Tìm hiểu trên cơ sở nghiên cứu,
đối chiếu sách vở, tài liệu cũ” [38, tr.1]. Một đặc trưng trong lối diễn đạt trong tạp
văn của Nguyễn Ngọc Tiến chính là khảo cứu. Trong những bài viết, ông luôn luôn
có sự so sánh, đối chiếu với sách vở, tài liệu có trước ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Cùng với những thông tin kiến thức sâu rộng về mọi khía cạnh, mọi vấn đề
của Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến khi viết về những câu chuyện trong các cuốn tạp
văn luôn có sự đối chiếu, so sánh với sách vở, tài liệu với những dẫn chứng, số liệu
cụ thể. Nguyễn Trương Qúy nhận xét: “Cho đến giờ, những khảo cứu của anh về
một Hà Nội qua chiều dài lịch sử đã thành thương hiệu trong làng văn. Đọc những
trang viết từ nhiều cuốn sách được tập hợp qua nhiều năm tháng miệt mài làm việc,
tập trung quanh câu chuyện về một mảnh đất nhiều thăng trầm, người ta có thể thấy
Nguyễn Ngọc Tiến như một sử nhân của Hà Nội” [21, tr.5]. Nhà phê bình Nguyễn
Hòa cũng nhận xét rằng: “Tôi nhận ra một Nguyễn Ngọc Tiến không chỉ là một nhà
báo, anh làm công việc khảo cứu một cách chững chạc. cẩn trọng, kỹ lưỡng, có
trách nhiệm và có chính kiến riêng… Vì thế, liệu có là quá lời khi khẳng định, đến
Đi dọc Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến thực sự mở ra cách tiếp cận mới, rất khác so với
84
một số tác giả trước đây, cũng như đương thời, và anh đã thành công? Tôi đưa ra
giả định này bởi qua ba cuốn sách, tôi nhận ra các bài kí sự, khảo cứu lịch sử văn
hóa tinh tế của anh đã đạt tới một đẳng cấp mới” [7, tr. 7-8].
Nguyễn Ngọc Tiến khảo cứu cần mẫn và kì công để viết từng trang. Đọc các
cuốn sách của ông, người đọc không chỉ thỏa mãn nhu cầu đọc thuần túy mà còn có
những hiểu biết sâu rộng hơn về Hà Nội ở nhiều góc cạnh, nhiều vấn đề. Ban giám
khảo giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội, 20132 khẳng định: “ Đi ngang Hà
Nội và Đi dọc Hà Nội của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến đã mở ra một hướng ghi chép,
khảo cứu độc đáo về cuộc sống thường ngày ở Hà Nội”.
Khi viết về Hồ Gươm, Nguyễn Ngọc Tiến lần lượt đưa ra các mốc thời gian,
từ khi có tên gọi là hồ Gươm cho đến những câu chuyện xung quanh nơi này. Các
bài viết về các phương tiện giao thông ở Hà Nội như Xe buýt, Xe đạp ơi!, Ôtô – biểu
tượng quyền lực, Xe máy,… tác giả cũng nói về các mốc thời gian từ khi xuất hiện
đến sự phát triển của phương tiện giao thông này qua nhiều thời kì: “Sau đại chiến
thế giới lần thứ I, vào khoảng năm 1919-1920, bốn chiếc xe buýt hiệu GM của Mỹ
lần đầu xuất hiện tại Hà Nội. (…) Trước khi Hà Nội tiến hành cải tạo công thương
nghiệp tư doanh 1959, Hà Nội có gần 800 xe buýt và xe tải…” [23, tr.29]. Câu
chuyện về Từ thiện xưa, Nguyễn Ngọc Tiến cũng đã khai thác triệt để, khảo cứu để
đưa ra những dẫn chứng cụ thể về những người Hà Nội từ xưa đến nay luôn có một
lòng yêu nước, thương đồng bào, luôn luôn giúp đỡ những người nghèo khổ.
Tác giả không những tìm tòi khảo cứu, nghiên cứu những cuốn sách lịch sử,
văn hóa, báo, tài liệu trong nước mà còn dày công tìm hiểu những sách báo cuả
người nước ngoài viết về Hà Nội để hoàn thành những cuốn tạp văn để đưa đến
người đọc những bài viết cụ thể, sâu sắc về tất cả những khía cạnh của Hà Nội xưa
và nay. Nói đến Từ quần áo ta đến quần áo Tây, từ ngay đầu bài viết tác giả đã
cung cấp tài liệu cụ thể: “Trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839),
vào thời Lê, học trò và người thường khi có công việc đều mặc áo thâm, dân quê
mặc áo vải thô màu trắng. Đến cưới thời Lê lại mặc áo Thanh cát gồm các màu
xanh sẫm, xanh nhạt và màu sừng” [31, tr.68]. Khi nói về làng Thụy Chương nấu
85
rượu nổi tiếng thì tác giả cũng dẫn các tài liệu: “Sách Lĩnh nam chích quái chép:
“Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo… lấy cốt gạo làm
rượu”, còn sách An Nam chí lược, phần chép về Triệu Đà có đoạn: “Thừa tướng
Lữ Giang chẳng chịu ra mặt sứ giả nhà Hán, Cù Thái hậu mưu giết bèn mở hội
trong cung, lúc uống rượu Thái hậu bảo Gia rằng…” [23, tr.90]. Nguyễn Ngọc
Tiến cũng khảo cứu rất nhiều các tài liệu của tác giả nước ngoài để tăng sức chân
thật, cụ thể các vấn đề mà ông nhắc đến như: Một chiến dịch ở Bắc Kỳ (Hocquard),
Người và việc ở Đông Dương (Clau Bourrin), Đông Dương ngày ấy, 1898-1908
(Clau Bourrin), Hà Nội giai đoạn 1873-1888 (André Masson), Xứ Đông thuộc Pháp
– Những kỉ niệm (Paul Doumer), Lịch sử tự nhiên, dân số và chính trị xứ Đàng
Ngoài (Richard)…
Nguyễn Ngọc Tiến cũng kể về những người Hà Nội cụ thể, có danh tính rõ
ràng, là những người góp phần làm đẹp nên những nét đẹp của người Thăng Long-
Hà Nội. Trong bài viết Những gương mặt thị trưởng, tác giả nhắc đến Trần Duy
Hưng – một người tài giỏi, giản dị, yêu nước: “Bác sĩ Trấn Duy Hưng sinh năm
1912 trong một gia đình trung lưu ở thôn Hòe Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ
Liêm, Hà Nội. Gia đình ông gia giáo, nề nếp. Ông than gia tích cực phông trào
Hướng đạo sinh, do có uy tín ông được cụ Hoàng Đạo Thúy giao phụ trách hoạt
động của Hướng đạo sinh Hà Nội và Bắc Kỳ. (…) Tốt nghiệp bác sĩ loại giỏi, được
gia đình hỗ trợ ông mở một bệnh xá nhỏ 10 giường ở phố Hàng Bông Nhuộm. Năm
30 tuổi, ông trở thành bác sĩ đa khoa nổi tiếng. Uy tín của Trần Duy Hưng với
phẩm chất tốt đẹp, lòng nhân ái và độ lượng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh biết
đến. (…) Giữ chức vụ chủ tịch một thành phố song hàng ngày ông vẫn đi làm bằng
xe môtô cá nhân. Những ngày đầu của chính quyền cách mạng thật khó khăn, ngân
khố cạn kiệt, không ít cuộc đưa đón khách quốc tế, gia đình ông phải cáng đáng.
(…) Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, ông được gần gũi và chăm sóc sức
khỏe cho Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng vẫn đảm bảo tốt nhiệm vụ Thứ trưởng Bộ
Nội vụ rồi Thứ trưởng Bộ Y tế. (…) Trong suốt thời gian làm chủ tịch thành phố,
86
phòng làm việc của ông chính là căn phòng mà ngày xưa các đốc lí vẫn ngồi. Và
bàn ghế, đồ đạc vẫn thế” [22, tr.350-353].
Tác giả nhắc đến những con người Hà Nội yêu nước, thương nòi được người
Pháp ngưỡng mộ: “Giàu có nhưng cô Tư Hồng có lòng thương người, noi nào trên
cõi Việt Nam bị mất mùa, bão lụt, cô đều chở gạo đến cứu tế. Quan Tư Laglan phục
ý chí, nghị lực, mưu mẹo của người vợ An Nam của mình” [24, tr.266]. “Bà Cả
Mọc là người đầu tiên ở Việt Nam mở trường nuôi dạy trẻ miễn phí, mở trại dưỡng
lão cho người già không nơi nương tựa. Nhiều người Pháp đến thăm và họ không
ngờ An Nam lại có nhà trẻ đầy tính nhân ái vì mô hình này ở châu Âu thời điểm đó
rất ít” [24, tr.318-319].
Nguyễn Ngọc Tiến cũng nói về Tiến Thành người có tay nghề may complet
nổi tiếng ở Hà Nội một thời, Phan Xuân Thủy với hiệu ảnh Quốc tế, … Nguyễn
Ngọc Tiến cũng kể về một người Pháp yêu Hà Nội tha thiết với những bức ảnh
chụp Hà Nội, Đông Dương và đã quảng bá con người, cảnh vật nơi đây ra ngoài thế
giới trong bài viết Từ Đặng Huy Trứ đến Dieulefils và… Qua đó có thể thấy được
sự tự hào, trân trọng của tác giả đối với những con người Hà Nội, những người yêu
Hà Nội với những nét đẹp tâm hồn đã làm đẹp thêm mảnh đất văn hiến ngàn năm.
Vậy nên, khi đọc tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến, người đọc luôn cảm thấy
có sức hút, vì khi lật giở, đọc từng trang lại có thêm nhiều hiểu biết, bổ sung vô số
những kiến thức mới mẻ về đất và người Thăng Long-Hà Nội. Nguyễn Ngọc Tiến
từng tâm sự rằng: “Ngoài chuyện không đầu, không cuối, tôi cũng lan man những
điều tôi đọc trong sách, tôi chứng kiến và cảm nhận được về Thăng Long-Hà Nội.
Có nhiều đoạn tôi chỉ mất công sắp xếp tư liệu, lại có đoạn tôi kể những chuyện
không được nhã lắm nhưng đành. Khi viết, tôi không chú trọng nhiều đến bố cục,
dài hay ngắn, tài liệu có đến đâu viết đến đó nên có phần khô cứng. Song đó là
những gì tôi biết” [22, tr.6]. Đúng như vậy, các bài viết, những câu chuyện trong
bốn cuốn tạp văn của ông là những gì ông biết, ông tìm hiểu được, không hề có sự
đưa đẩy, màu mè, kiểu cách.
87
3.2.2 Ngôn ngữ báo chí
Ngôn ngữ báo chí là việc người viết dùng ngôn từ để đưa các thông tin, sự
kiện, tin tức tới đọc giả. Ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, súc tích, được viết bằng những
câu từ đanh thép, lời văn nghiêm túc, lí luận sắc bén, từ ngữ dễ hiểu, sát nghĩa, từ
đó tạo nên sức hấp dẫn cho mỗi bài viết, khơi gợi tính tò mò cho người đọc.
Nguyễn Ngọc Tiến với công việc chính là một nhà báo. Các câu chuyện mà
ông kể trong các cuốn tạp văn đều dựa trên cơ sở tư liệu cụ thể, luận giải khách
quan. Đôi khi ông cũng đưa ra các giải thuyết mới để người đọc có thể cùng suy
ngẫm. Điều này thể hiện ý thức, trách nhiệm cao của một nhà báo, một người cầm
bút chân chính. Khi viết Từ chùa Báo Ân đến Bưu điện, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa
ra mốc thời gian và lí giải cụ thể: “Công trình xây dựng Nhà Bưu điện mới được đặt
tên là công trình 7138 do Trung Quốc viện trợ, theo cách viết của người Trung
Quốc 7138 nghĩa công trình bắt đầu từ ngày 8-8-1971” [22, tr.46]. Trong bài viết
Đại sứ Mỹ Peterson uống cà phê bên Hồ Gươm, tác giả đã đưa lại một dẫn chứng
hết sức cụ thể về những năm đau thương của Hà Nội trong 12 ngày đêm Mỹ ném
bom phá hoại năm 1972: “Đỉnh cao của chiến tranh bằng không quân của Mỹ là 12
ngày đến tháng 12-1972. Mỹ đã huy động hai nghìn bảy trăm lượt chiếc máy bay
các loại, trong đó có máy bay chiến lược B-52 tập kích Hà Nội và thả gần hai nghìn
tấn bom. Phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai, khu An Dương rồi huyện Gia Lâm,
Đông Anh, Thanh Trì… bị “pháo đài bay” tải thảm bom. Chỉ trong 12 ngày, bom
Mỹ đã giết hại 2.289 người, làm bị thương 1.570 người, trong đó có nhiều trẻ em”
[22, tr.128].
Nguyễn Ngọc Tiến viết về một cuộc đua xe đạp đường dài đầu tiên ở Hà
Nội, như chính ông là người đi lấy tin ghi hình ngay tại thời điểm đó: “Tháng 2-
1929, cuộc đua xe đường dài đầu tiên theo lộ trình Hà Nội - Sơn Tây – Hà Nội về
qua Hà Đông dài 100km được đại lý hãng Peugot là Berset ở phố Tràng Thi tổ
chức, kết quả về nhất là hai tay đua người Pháp: Mousserat và Mare với thời gian
3 giờ 7 phút, về đích thứ năm là tay đua Hà Nội tên Bổng với thời gian 3 giờ 11
phút 32 giây còn tay đua Cổng về thứ sáu” [24, tr.32]… Có nhiều lúc, Nguyễn
88
Ngọc Tiến lần lại lịch sử: “Ngọa Triều mất, chấp nhận lời yêu cầu của các quan, Lý
Công Uẩn lên ngôi lập ra triều đại nhà Lý năm 1009 thay thế nhà Tiền Lê, lấy
miếu hiệu là Thái Tổ. Hoa Lư thành kinh đô của nước Đại Cồ Việt dưới triều Đinh
(968-979) và Tiền Lê (980-1009) nằm ở vùng núi non hiểm trở với địa thế “Tiến
khả dĩ công, khoái khả dĩ thú” (tiến có thể đánh thắng, thoái có thể bảo vệ) song vị
vua 35 tuổi không muốn ở mãi nơi rừng xanh núi thẳm vì như vậy thì vua của một
nước mà chẳng khác gì một tộc trưởng nên ngài quyết định rời đô ra thành Đại La
cũ” [22, tr.21]. “Khi quân Minh chiếm thành Thăng Long đổi tên thành Đông Quan
nhưng người dân Đại Việt vẫn gọi thành Thăng Long. Lê Thái Tổ đổi Thăng Long
thành Đông Kinh, dân vẫn gọi Thăng Long” [21, tr.293]…
Nguyễn Ngọc Tiến cũng đưa ra rất nhiều ý kiến ở các câu chuyện mà ông nói
đến để người đọc cùng suy ngẫm. Trong Nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp đầu tiên
của Việt Nam, Nguyễn Ngọc Tiến đã thể hiện sự tiếc nuối khi những bức tranh – tài
sản quốc gia bị mang ra nước ngoài mà không thể làm gì được: “Năm 1989, các
nhà buôn, nhà sưu tập tranh nước ngoài vào Việt Nam lục lọi, tìm kiếm các tác
phẩm có giá trị, nhất là tranh của các họa sĩ từng học Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương và mua khá nhiều mang đi. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam biết nhưng không
có kinh phí nên đành nhìn tài sản quốc gia bị đóng gói chuyển ra nước ngoài.
Không chỉ mua tranh, họ còn lùng mua các bản phác thảo, kí họa. Khi thị trường
nhận ra giá trị tranh của lớp họa sĩ này thì một số đã về với tổ tiên, số còn lại
không vẽ được vì tay đã run” [22, tr.161]. Ông thể hiện sự tiếc nuối với thú chơi cá
chọi của trẻ con Hà Nội nay đã không còn vì bây giờ chúng phải học quá nhiều
trong Chơi cá cảnh. Nguyễn Ngọc Tiến nhiều lúc cũng bày tỏ nỗi niềm xót xa với
một bộ phận người không giữ được nét đẹp thanh lịch của người Hà Nội, đã có sự
tha hóa đạo đức xã hội: “Cũng như ngày xưa, nhà trọ ngày nay là nơi tha hóa đạo
đức xã hội, một anh chàng đã có vợ ở quê ra thành phố kiếm sống chung sống với
một em nào đó, trai gái chưa cưới xin ở với nhau thoải mái. Rồi một bác có tuổi
thuê nhà cho em cave (gái mại dâm) ở để thi thoảng rẽ vào tòm tem. Và về quê, họ
89
lại thành con người của làng, chất phác, thật thà còn “hương đồng gió nội” …”
[21, tr.261].
Có thể thấy rằng, trong hầu hết các bài viết trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn
Ngọc Tiến đã đưa ra các con số và sự kiện rất cụ thể để cho người đọc có thể tin
tưởng, hiểu rõ các câu chuyện và có thể suy ngẫm, chiêm nghiệm các vấn đề ông
nói đến.
3.2.3 Ngôn ngữ giản dị, đời thường
Ngôn ngữ trong bốn cuốn tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến được ông diễn đạt
như những lời ăn tiếng nói hàng ngày, hết sức dung dị ,gần gũi. Ông đặc biệt dùng
nhiều các câu ca dạo, tục ngữ, thành ngữ, vè…. Hay kể những câu chuyện được
truyền miệng trong dân gian với những cách dẫn dắt kể chuyện gần gũi, thân thuộc
như chính cách kể dân gian.
Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến sử dụng rất nhiều ca dao, tục
ngữ, thành ngữ, vè, hay những câu rao bán hàng củng những người bán hàng
rong… Có thể thấy được vốn văn học dân gian của ông rất phong phú.
Nguyễn Ngọc Tiến khi nói về thú chơi cây cảnh ở Thăng Long- Hà Nội một
thời trong bài Từ kios hoa đến bốt giao thông có dẫn câu ca dao:
“Ai chơi ta cũng chơi cùng
Chơi trúc quân tử, chơi tùng trượng phu”
Ca dao Hà Nội miêu tả vẻ đẹp về nón quai thao được tác giả dẫn trong Làm
duyên làm dáng:
“Hà Nội thì kết quai thao
…
Ai trông cái nón Ba tầm cũng ưa”
Câu ca dân gian nói về dụng cụ nấu ăn của Mơ Cơm:
“Cơm kia em nấu nồi mười
Cá này niêu đất, rau tươi sanh đồng”
Ca dao nói về tục nhuộm răng và răng đen của phụ nữ xưa được ca ngợi, tôn
vinh là một nét đẹp không thể thiếu:
90
“Một thương bỏ tóc đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
Ba thương má lúm đông tiền
Bốn thương răng láng hạt tuyền kém thua.”
Lời than về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được Nguyễn
Ngọc Tiến nhắc đến trong Quảng cáo ở Hà Nội qua câu ca dao tục ngữ Hà Nội:
“Em là con gái đồng trinh
…
Thắt lưng cho tròn mà lấy chồng quan”
Thụy Chương là một làng nghề nấu rượu nổi tiếng, Nguyễn Ngọc Tiến khi
nhắc về địa danh này trong bài Thụy Chương nấu rượu la cả cả đêm cũng dẫn câu
ca dao tục ngữ Hà Nội:
“Làng Võng bán lợn bán gà
Thụy Chương nấu rượu la cả cả đêm”
Tác giả dẫn ra bài vè trong Xe buýt để nói về sự cạnh tranh quyết liệt của xe
buýt và tàu hỏa hay bài vè về tình trạng thiếu thốn thời bao cấp trong Thời tem
phiếu
Trong Tiếng rao, món quà âm thanh âm miễn phí, Nguyễn Ngọc Tiến đã dẫn
ra khá nhiều những câu rao dân gian, những câu rao luôn có vần, có điệu và khá hài
hước đã đi vào tiềm thức của rất nhiều người Hà Nội, như là một thứ quà âm thanh
miễn phí, không thể thiếu của đời sống người Hà Nội một thời:
“Ai mài dao sắc như nước
Chém nước nước đứt
Chém sắt mẻ dao
Ai mài dao nào”
“Cô kia tóc ngắn ngang vai
Ăn đồng kẹo kéo nó dài đến khoeo
91
Cô kia chưa có người yêu
Ăn đồng kẹo kéo đến chiều có ngay”…
Có lúc, cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tiến không khác gì lời nói thông
thường hàng ngày: “Thời bao cấp, đê với trẻ con thành phố chẳng có gì thơ mộng,
chúng thích thú là tối tối được cha mẹ cho phép ra ị trên mặt đê, gió từ sông Hồng
lùa vào mát đít nên nhiều đứa không muốn về” [23, tr.55]. “Còn Tí “toét” vẫn cố
thủ ở bến tàu điện cho đến khi người ta dỡ bỏ tàu điện năm 1989. May cho Tí, năm
này, Tí vớ được một em bán nước chè rong khá ngon, sợ bị dân anh chị cướp trắng,
hai người dắt nhau đi đâu không ai rõ” [22, tr.269]. Cách cảm nhận về thời trang
một thời của dân tộc và thể hiện các cô gái mặc các trang phục cũng hết sức tự
nhiên, gần gũi: “Yếm của phụ nữ Việt Nam thực ra là chiếc áo lót như quan niệm
của người phương Tây, trước hở lưng, sau che kín đến cổ. Bà già vú teo tóp cũng
mặc yếm, trẻ con ngực phẳng lì cũng yếm. Song phải nhìn cái yếm của thiếu nữ mới
thấy các cụ ta ngày xưa đã sexy trước người phương Tây. Mùa hè, xứ Đàng Ngoài
nóng bức, các cô chỉ mặc độc chiếc yếm tung tăng khắp làng khắp xóm và miếng
vải không che kín bên cạnh nên thấy rõ đôi vú cứ lắc lên lắc xuống theo bước chân.
Mùa đông, gió đông bắc thổi lạnh cắt da cắt thị thì cái yếm ở bên trong với nghĩa
là chiếc áo lót hiền lành” [24, tr.289].
Nhiều khi Nguyễn Ngọc Tiến cũng so sánh, ví von không khác gì cách nói
của các cụ ta ngày xưa: “Xưa đun rơm, cháy vèo vèo nên người đun phải luôn tay
cho rơm vào bếp mà đã thế lại còn: “Đang khi rửa réo cơm sôi/Con còn kêu khóc
chồng đòi tòm tem”, bây giờ thì cứ vô tư đi. Không có gì đổi mới nhanh bằng xó
bếp” [23, tr.338]. “Tình yêu giống như gà chọi, càng kéo ra thì hai con gà lại càng
muốn xông vào” [22, tr.299].
Cùng với những trang viết có số liệu cụ thể, chính xác, Nguyễn Ngọc Tiến
còn kể các câu chuyện li kì được truyền miệng trong dân gian, những câu chuyện
thời hiện đại ông được nghe kể lại, những câu chuyện ông tận mắt chứng kiến và
trải nghiệm và được ông kể lại một cách đầy đủ, hấp dẫn.`
92
Nguyễn Ngọc Tiến kể các câu chuyện truyền miệng về những con yêu và ma
ở Hà Nội trong Bốn con yêu Long Thành và ma Hàng Trống hết sức cụ thể và còn
dẫn ra câu ca dao Thăng Long về bốn yêu tinh của Long Thành:
“Long Thành có bốn yêu tinh
Yêu trước Hồ Giám yêu đình Đồng Xuân
Yêu cây bàng giữa Hàng Cân
Yêu gốc cây liễu bên sân hồ Tàu”
“Bốn con yêu ấy thống quản phần âm u, phần tín ngưỡng , dục vọng của
người Thăng Long suốt các thời Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh
Thịnh, Gia Long. 80 năm làm yêu, làm ma ở thành Thăng Long bốn con yêu ấy kể
ra cũng khỏe cũng dai lắm. Sau khi nó đã tàn thời hết thiêng mà thiên hạ vẫn e ấp
hãi mãi (…) Đại đa số yêu đều xấu, luôn tìm cách hại người và các loại khác để
tăng cường phép thuật, tuy nhiên cả bốn con yêu Long Thành đều nhân văn, biết
phải trái, co học thức, đó là điều lạ trong các chuyện yêu ở cõi Việt” [23, tr.23,26].
Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến không những dùng văn học dân
gian xen kẽ vào những câu chuyện mà ông còn kể lại rất nhiều câu chuyện mà ông
được nghe, được chứng kiến, ông đã từng trải qua: tình yêu của bà Sót, tình yêu của
người bán nước chè tên Vân, cuộc đời của Tí toét đánh tẩm quất ở Bờ Hồ, cuộc đời
những người hát xẩm,… những câu chuyện của riêng ông cùng những kỉ niệm: đọc
sách ở thư viện quốc gia quen nhiều bạn cùng nhiều kỉ niệm, câu tôm ở Hồ Gươm,
uống bia, đi bốc quẻ, ăn Tết đứng… được ông kể tự nhiên, chân thực. Qua các câu
chuyện, người đọc thấy rõ từ ngữ được ông sử dụng mộc mạc, giản dị mà vẫn hết
sức súc tích, sâu sắc. Lời văn tưởng như không có gì mà bao hàm nhiều ý nghĩa
phong phú, gợi cảm.
3.3 Giọng điệu
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện
trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm
thụ xa gần. thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [9, tr.63].
93
“Giọng điệu là một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật văn
học.(…) Nó là một thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách
độc đáo của người nghệ sĩ” [2, tr.11]. Giọng điệu có vai trò quan trọng trong sáng
tác của nhà văn. Giọng điệu chưa đựng trong nó thái độ, tình cảm, lập trường tư
tưởng, đạo đức, quan niệm. lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn đối với những hiện
tượng được nói đến trong các tác phẩm. Giọng điệu góp phần quan trọng hình thành
phong cách nhà văn và truyền tải nội dung tư tưởng tác phẩm đến người đọc.
Khi đề cập đến vấn đề giọng điệu trong các tác phẩm nghệ thuật, Lý luận văn
học cho rằng: “Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách
nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là yếu
tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể.
Các yếu tố cấu thành tư tưởng nghệ thuật chỉ được cảm nhận trong một phạm vi
giọng điệu nào đó, và nhờ nó mà người đọc thâm nhập vào thế giới tinh thần của
tác giả. Các tác phẩm văn học có giá trị đều thể hiện một giọng điệu đặc biệt, tiêu
biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả mà muốn hiểu tác phẩm người ta không thể
bỏ qua được” [17, tr.58]. Mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng trong sáng tác của
mình, những tác phẩm có giá trị thường có giọng điệu đa dạng, nhiều sắc thái trên
cơ sở một giọng điệu chủ đạo cơ bản. Tuy nhiên, không thể nói đến giọng điệu của
nhà văn này hay hơn giọng điệu của nhà văn kia, mà chỉ có thể nói đến giọng điệu
của nhà văn này khác với giọng điệu của nhà văn kia ở điểm nào.
Tầm quan trọng của giọng điệu trong sáng tác văn học là điều không thể phủ
nhận. Trong một tác phẩm, có thể tồn tại nhiều giọng điệu khác nhau, song bao giờ
cũng có một giọng điệu chủ yếu bao trùm, in ấn đậm nét trong cá tính sáng tạo của
phong cách tác giả.
Hà Nội là một đề tài mà nhiều tác giả đề cập đến. Nếu Tô Hoài viết về Hà
Nội bằng giọng điệu khách quan, cảm thông, trân trọng với những người dân chân
chất hiền lành cùng giọng điệu phê phán xã hội bất công trong Chuyện cũ Hà Nội,
Người ven đê; Thạch Lam với giọng văn tâm tình, đầy cảm xúc, tự hào với những
nét đẹp của người Hà Nội, đặc biệt là văn hóa ẩm thực trong Hà Nội băm sáu phố
94
phường; Nguyễn Tuân có giọng điệu tự hào, ngợi ca trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi;
Vũ Bằng với giọng điệu thương nhớ da diết Hà Nội, yêu thương chân trọng với
người vợ tảo tần trong Thương nhớ mười hai; Băng Sơn viết về Hà Nội với giọng
điệu say mê, yêu thương… thì Nguyễn Ngọc Tiến là người chuyên viết tạp văn về
Hà Nội với những giọng điệu đan xen để phản ánh các trạng thái tâm hồn của nhà
văn trước các câu chuyện mà ông kể. Giọng điệu đa dạng nhiều sắc thái ấy có tác
dụng truyền cảm và tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
3.3.1 Giọng điệu ca ngợi, tự hào
Trong các bốn cuốn tạp văn, ở nhiều bài viết, ở nhiều đoạn, Nguyễn Ngọc
Tiến đã bộc lộ rất rõ ràng niềm tự hào, ca ngợi về Hà Nội.
Nhà văn tự hào về Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến với những giá trị
văn hóa đặc sắc: “Thăng Long là kinh đô nên khu phố cổ có rất nhiều di tích văn
hóa, lịch sử giá trị. Theo thống kê, khu vực này hiện có 128 di tích, gồm: đền, chùa,
quán, đình, nhà thờ họ, di tích cách mạng… trong đó nhiều di tích được xếp hạng
quốc gia và thành phố. Nhưng còn một giá trị vô hình nữa là không gian sống, nó
hòa quyện cùng với những di tích lịch sử, văn hóa làm khu phố cổ trở thành đô thị
truyền thống độc đáo ở Việt Nam” [24, tr.257]. Ông tự hào về Hồ Gươm vì nơi này
là nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ: “Hồ Gươm đi vào thơ ca, nhạc họa, ngày
hôm nay và cả ngày mai, nó vẫn sẽ mãi là cảm hứng cho các nghệ sĩ” [22, tr.18].
Về lĩnh vực nghệ thuật, ông cũng không thể giấu nổi niềm tự hào về thể loại âm
nhạc dân gian: “Một sự kiện làm nức lòng người dân Việt Nam là ngày 30-9 và
ngày 1-10-2009, dân ca quan họ đã được UNESCO vinh danh là văn hóa phi vật
thể của nhân loại, còn ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn
cấp” [24, tr.127]. “Trong kỉ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, một
chương trình xẩm do các nghệ sĩ biểu diễn đã gây ấn tượng mạnh cho du khách.
Không chỉ có vậy, xẩm đi Nhật, Mỹ biểu diễn đã được nhận lời khen ngợi vì sự độc
đáo của loại hình âm nhạc đường phố này” [24, tr.193]. Trong nghệ thuật sân khấu,
Nguyễn Ngọc Tiến cũng nhận ra và tự hào rằng: “Từ những năm đầu thế kỉ XX, hầu
95
hết những sự kiện sân khấu quan trọng nhất trong đời sống sân khấu cả nước đều
diễn ra và kết tinh ở Hà Nội” [22, tr.293].
Ở phương diện văn hóa ẩm thức, không ít lần tác giả vui mừng, tự hào: “Phở
ra thế giới từ thập niên 90 và nhanh chóng được công nhận là món ăn không béo,
dễ ăn, vì thế ngày 20-9-2007, Từ điển tiếng Anh giản lược Oxford (Oxford English
Dictionary) đã đưa phở vào từ điển này khi xuất bản [22, tr.329]. “Cuối tháng 7-
2011, Phở và Gỏi cuốn của Việt Nam lọt vào 50 món ăn ngon nhất thế giới do Kênh
truyền hình CNN bình chọn. Phở Việt Nam hiện có mặt ở nhiều quốc gia trên thế
giới và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người” [24, tr.165]. Nói đến kem
Tràng Tiền, Nguyễn Ngọc Tiến ca ngợi: “Loại kem nào của Tràng Tiền cũng ngon,
song nổi tiếng nhất vẫn là kem cốm. Cho đến hôm nay, khách ăn kem Tràng Tiền
vẫn phải xếp hàng, người ăn kem chật cứng gần cả trăm mét vuông vỉa hè cũng là
chuyện có thể ghi vào kỷ lục Việt Nam” [24, tr.114]
Những tinh hoa văn hóa của Hà Nội đều được Nguyễn Ngọc Tiến nhắc đến
đầy nâng niu, chân trọng, ngợi ca. Điều đó xuất phát từ lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
tình yêu quê hương sâu sắc của ông đối với mảnh đất ngàn năm văn hiến và đất
nước Việt Nam.
3.3.2 Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm
Qua bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến mang lại cho người đọc những trải
nghiệm phong phú đa chiều về cuộc sống Thăng Long-Hà Nội. Đây chính là một
yếu tố quan trọng góp phần làm nên thành công và sức hấp dẫn cho tạp văn của ông.
Qua những trải nghiệm, người đọc có thể suy nghĩ, chiêm nghiệm và tự rút ra
những bài học cho bản thân.
Trước hiện tượng chuyên môn kém của ngành kiến trúc, ông bày tỏ sự trăn
trở: “Trong khi đó sự non kém trong kiến trúc do có người học nhầm, điểm “môn
xun xoe” chủ đầu tư cao hơn điểm chuyên môn nên sản phẩm nghiệp dư. Đó cũng
là những trở ngại lớn đang kìm hãm sự phát triển của kiến trúc Hà Nội” [22,
tr.258]. Chuyện ngõ Hà Nội cũng làm ông suy tư: “Có thể ngõ làm cho đô thị mềm
hơn trước nhưng phố ngang, đường dọc khô cứng, là nơi giấu giếm cái nghèo.
96
Nhưng Hà Nội hôm nay có quá nhiều ngõ đã tạo ra ma trận đô thị, đó là thất bại
của quy hoạch Hà Nội” [21, tr.271]. Các cô hát ả đào xưa bị xã hội luôn nghĩ sai,
khinh thường, Nguyễn Ngọc Tiến bày tỏ suy tư: “Ngày 19-12-1946, Thủ đô bước
vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, có cô đầu không trở về quê ở lại tham
gia các đội tải thương, thậm chí có người đã hy sinh. Nhưng không một bài báo
nào, một cuốn sách nào về giai đoạn này nhắc đến sự hy sinh của họ, còn xã hội
vẫn nghĩ sai về các cô” [24, tr.124]. Ông trăn trở trước bộ môn nghệ thuật ca trù
chưa được chưa được quan tâm thực sự đến bảo tồn và phát triển: “Tuy nhiên hầu
hết các câu lạc bộ vẫn chưa được đầu tư xứng đáng về cơ sở vật chất và họ vẫn
phải tự thân vận động dù đã có nhiều hành động quốc gia bảo vệ ca trù giai đoạn
2010-2015” [24, tr.127]. Ông băn khoăn về câu chuyện đặt tên phố phường nhưng
chưa có tên những người có công xứng đáng đóng góp cho đất nước: “Rồi các nhà
tư sản dân tộc yêu nước đã ủng hộ rất nhiều tiền, vàng cho nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa non trẻ, cho chính phủ kháng chiến, đó là các ông: Trịnh Văn Bô, Đỗ
Đình Thiện, Ngô Tử Hạ… cho đến nay không hiểu vì lý do gì vẫn chưa thấy được
đặt tên phố trong khi thành phố Hải Phòng đã đặt tên phố theo tên nhà tư sản có
công với nước Nguyễn Sơn Hà” [24, tr.319].
Như vậy, đằng sau mỗi trang văn, Nguyễn Ngọc Tiến luôn luôn có điều trăn
trở về mọi mặt đời sống Thăng Long-Hà Nội. Điều này có thể khẳng định rằng, ông
là một nhà báo, một nhà văn, một tri thức luôn có ý thức trách nhiệm cao trước mọi
mặt cuộc sống.
3.3.3 Giọng điệu thong thả, chậm rãi
Nhà phê bình Nguyễn Trương Qúy từng nhận xét rằng: “Giọng văn thong
thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm làm tăng thêm cảm giác “truyền kì” của những câu
chuyện lạ, nhất là những điều gợi nên suy ngẫm về khoảng cách giữa văn minh và u
tối ở một đô thị vừa già cỗi vừa lắm nỗi ngây thơ…” [22, tr.6]. Trong cả bốn cuốn
tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến viết về vô số các hiện tượng trong muôn mặt của Thăng
Long-Hà Nội nhưng giọng văn của ông vẫn thong thả, chậm rãi, bình đạm, khách
quan không vội vàng nhận xét hay phán xét về bất cứ một chuyện gì.
97
Nguyễn Ngọc Tiến kể về bao công sức của con người khi tạo dựng hệ thông
đê: “Ai cũng biết con đê cao với cỏ may “một chiều cả gió bám đầy áo em” nhưng
mấy ai biết nó hình thành thế nào từ sức lao động của hàng vạn con người bao
nhiêu đời nay. Đâu phải cứ đắp đất thành đê, phải biết cách đắp, chỗ nào cao, chỗ
nào thấp; nắn dòng đê để bảo vệ thế nào, rồi đi kèm với đê là cả một hệ thống pháp
luật bảo vệ” [24, tr.50].
Tác giả đã đưa ra nhận xét kiến trúc Hà Nội có đổi mới để có lợi cho người
dân nhưng lại có nhiều hạn chế chưa thể giải quyết được: “Trong cơ chế thị trường,
nhà trở thành hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa khác đã từng bước tác động
đến nhận thức của cư dân Hà Nội. (…) Mô hình phát triển kiểu “gia đình nhất
khoảnh” đã đáp ứng được một số yêu cầu của người dân về tính riêng tư như
quyền tự do trong sinh hoạt mà ở các khu tập thể cũ không có được. Nhưng sự phát
triển lối “mỗi gia đình là một chủ đầu tư” đã sớm bộc lộ những điều bất lợi cho cả
đô thị lẫn người dân. Tình trạng “trăm hoa đua nở” một thời gây lộn xộn trong
kiến trúc đồng thời đẻ ra hội chứng “nhà chóp” cùng những trang trí diêm dúa
cũng như bất lợi về thông thoáng và sự chiếu sáng của căn hộ (…). Đặc biệt việc sử
dụng đất đai quá tốn kém vượt quá khả năng quỹ đất đô thị đã khiến thành phố có
chủ trương hạn chế việc phát triển loại nhà này” [22, tr.255].
Ông kể một thời bom đạn chiến tranh hay thời tiết không thuận lợi nhưng
người dân vẫn say mê với món phở Thìn đặc sắc của Hà Nội: “Tháng mưa, mái
giấy dầu đã cũ nát mà đơn thì chưa duyệt, ngồi ăn bát phở Thìn cũng khổ bởi bùn
lép nhép dưới chân. Hôm nào mưa to, mái dột đàn ông phải đội mũ, còn đàn bà
sùm sụp chiếc nón lá. Thập niên 60,70 thậm chí ngay cả lúc Mỹ ném bom, phở Thìn
lúc nào cũng đông. Khi còi báo động rú lên thì cả khách lẫn chủ cùng nhảy xuống
các hố tăngxê trên hè phố, còi báo yên khách lên ăn tiếp còn chủ lại băm băm, chặt
chặt” [22, tr.327]
Nhiều khi giọng văn ông cũng chậm rãi khi viết về đôi guốc của người dân
Hà Nội một thời: “Xem những bức ảnh chụp cuối thể kỉ XIX, dân đen đi đất còn
98
quan thì guốc mộc, quai làm bằng mo cau, người ta chốt quai bằng đinh gỗ. Sau
này dùng quai cao su và đóng đinh sắt” [22, tr.262].
Ông cũng thong thả, chậm rãi kể về các cuộc thi người đẹp ở Hà Nội, người
dành giải hay các mỹ nhân Hà Nội từng thời kì trong Giai nhân Hà thành.
Nói đến lối ứng xử của đàn ông với phụ nữ, cụ thể là vợ của họ, Nguyễn
Ngọc Tiến nhận xét khách quan: “Đàn ông Tây thì cũng là đàn ông, có người hay
đấm đá vợ, có người lại chiều chuộng, song hiếm có ông nào chiều vợ như Phó Đốc
lý Lagisquet” [24, tr.270].
Rau muống cũng vào trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến nhẹ nhàng như
thế: “Có một điều chẳng ai giải thích được là trưa ăn rau muống, chiều ăn rau
muống, ngày hôm sau và những ngày tiếp theo cũng rau muống mà không chán
bụng. Trong khi đó người ta lại không thể ngày nào cũng ăn mướp, mùng tơi, su
hào, bí đỏ… Vì thế có thể coi rau muống là loại rau dân dã căn bản của người Việt
Nam. Có quốc phục, quốc hoa thì rau muống cũng là quốc rau” [21, tr.239].
Nguyễn Ngọc Tiến có một tình yêu tinh tế, nhẹ nhàng với đất và người Hà
Nội. Những chuyện mà ông kể luôn đi từ quá khứ về đến hiện tại, ông chậm rãi,
thong thả mà kể chuyện, những câu chuyện như giúp người đọc hiểu rõ hơn về đất
và con người nơi đây.
3.3.4 Giọng điệu hồi tưởng tiếc nuối
Nguyễn Ngọc Tiến bày tỏ cảm giác tiếc nuối, xót xa khi những cảnh quan
tươi đẹp, những loại hình nghệ thuật, các trang phục truyền thống… của Thăng
Long-Hà Nội nổi tiếng một thời đã đi vào dĩ vãng, không còn được sử dụng hay bị
phá hủy để phục vụ những dự án của xã hội hiện đại. Ông đã dẫn lại một chuỗi liệt
kê rất nhiều hình ảnh mà giờ đây chỉ còn trong hoài niệm của những người con Hà
Nội.
Tác giả tiếc nuối về sân khấu một thời đông khán giả, không đủ ghế ngồi
nhưng nay thì vắng lặng, lạnh lẽo: “Từ năm 2000 đến cuối năm 2014, sân khấu Hà
Nội vắng lặng. Đứng được chỉ là những chùm tiểu phẩm hài. Tại liên hoan hay hội
diễn quanh đi chỉ có vài tác giả, quanh lại chỉ có vài đạo diễn thi với nhau (…). Sân
99
khấu vắng lặng, nhà hát lạnh lẽo và tấm màn nhung hôi mốc. so sánh có thể khập
khiễng nhưng cuối thập niên 30, Hội Âm nhạc vừa cho thuê biểu diễn ca nhạc đồng
thời cùng tổ chức chiếu phim. Rạp lúc nào cũng đông đến mức người ta phải kê
thêm ghế băng ở phái cuối” [22, tr.295].
Trong Có hay không thanh lịch, Nguyễn Ngọc Tiến bày tỏ sự tiếc nuối khi
quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh khiến Hà Nội trong mắt mọi người không
còn những nét đẹp như xưa: “Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về đây khai
thác, tận dụng, bòn rút thành phố. (…) Hai quá trình thành thị hóa nông thôn và
nông thông hóa thành thị cứ cuồn cuộn song hành” [21, tr.91].
Tác giả cũng tiếc nuối về cái váy truyền thống của dân tộc đã không còn xuất
hiện ở Hà Nội: “Sau phong trào ăn mặc tân thời, cái váy truyền thống của Phụ nữ
Việt gần như không thấy xuất hiện ở Hà Nội dù rằng vẫn thấy ở các miền quê. Kể
ra cũng hơi tiêng tiếc” [23, tr.293].
Ông cũng tỏ ra hồi tưởng rồi tiếc nuối về thói quen văn hóa một thời của
người dân khi đến rạp hát nhưng giờ đã không còn nữa: “Trước khi đến rạp, các bà
các cô ăn mặc quần áo đẹp, trang điểm phấn son, thêm tí nước hoa, còn các ông ăn
bận lịch sự và bao giờ cũng đến trước giờ diễn, chuẩn bị tâm thế thưởng thức. Cái
văn hóa ấy tồn tại suốt những năm bao cấp, rất tiếc bây giờ không còn” [24,
tr.288].
Giọng điệu hồi tưởng, tiếc nuôi trong các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn
Ngọc Tiến hiện rõ trong lời kể, tả trực tiếp cả nhà văn. Đằng sau những câu chuyện
ta có thể hình dung được ánh mắt, niềm vui, nỗi buồn, tình yêu mà nhà văn dành
cho đất và người Thăng Long-Hà Nội. Giọng điệu ấy cho người đọc thấy được chân
dung một nhà văn chân chính, một người con của Hà Nội luôn hết lòng với mảnh
đất trái tim của đất nước.
3.3.5 Giọng điệu tranh biện, đối thoại
Nguyễn Ngọc Tiến từng có lời nhắn gửi đến bạn đọc rằng:“Tôi có thể chắc
chắn rằng, không một nơi nào trên đất Việt Nam với diện tích như vậy lại thấm đẫm
huyền thoại, lịch sử, văn hóa như quanh hồ Hoàn Kiếm. Ai viết về Hà Nội cũng
100
không thể bỏ qua được vùng lõi này. (…) Và tôi nghĩ ai đi quanh hồ Gươm cũng có
thể viết một cuốn sách về “cô gái duyên dáng này”, về Hà Nội theo suy nghĩ chính
họ” [22, tr.5-6]. Trong nhiều câu chuyện trong bốn cuốn tạp văn của ông, không ít
lần ông cũng sử dụng giọng điệu tranh biện hay đối thoại cùng độc giả để nói ra suy
nghĩ, tình cảm của mình và cùng độc giả suy tư về những vẫn đề mà ông còn trăn
trở.
Nguyễn Ngọc Tiến Nhắc đến bà Lê Thị Mai trong Từ thiện xưa với tấm lòng
từ thiện thơm thảo giúp đỡ những người dân nghèo, những người già, trẻ mồ côi
được vua Tự Đức sắc phong “Tiết phụ Từ” nhưng đến ngày nay bia mộ đã không
còn để người dân có thể tưởng nhớ về bà: “Bản đồ Hà Nội năm 1890 vẫn còn ghi rõ
địa điểm và miếu thờ ven hồ Trúc Bạch(chỗ giáp đền Trấn Vũ), nhưng sau đó chính
quyền thành phố mở mang phố xá đã san phẳng miếu và mộ” [23, tr.41].
Ông cũng đã có những đánh giá khách quan những cũng là một lời đối thoại
với bạn đọc về rạp hát trong Từ sân đình đến rạp hát: “Hiện tại nhiều rạp cũ đã
xuống cấp và chuyển đổi mục đích sử dụng trong khi nhiều rạp mới cũng được xây
dựng ở Hà Nội như: Nhà hát ca múa nhạc, Nhà hát kịch nói Trung ương, Nhà hát
kịch Hà Nội… với trang thiệt bị hiện đạo đáp ứng cho hoạt động nghệ thuật trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, với dân số hơn 7 triệu người, Hà Nội còn quá ít rạp.
Nhiều khu đô thị mới hình thành với hàng chục vạn dân nhưng không hề có rạp hát
hay chiếu phim. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần mà còn kéo
dài mong muốn phát triển Hà Nội trở thành thành phố văn hóa” [24, tr.288].
Trong Hà Nội tháng 4-1975, Nguyễn Ngọc Tiến đã viết về niềm vui khôn
xiết của người dân Hà Nội nói chung và cả nước nói riêng khi đất nước thống nhất
nhưng đâu đó cũng là nỗi đau của những người mẹ khi không thấy con trở về: “Đất
nước thống nhất, không riêng bác Thi, nhiều bà mẹ Hà Nội và trên khắp cả nước đã
không được đón đứa con thân yêu trở về. Một cuộc chiến tranh kết thúc nhưng nỗi
đau cho đến hôm nay chưa thể khép lại…” [21, tr.156].
Nguyễn Ngọc Tiến cũng đưa ra ý kiến của riêng mình về thi đại học và cao
đẳng ngày nay: “Tháng 3-2015, ngành giáo dục đã công bố bỏ thi đại học, cao
101
đẳng, kết quả xét tuyển vào các trường căn cứ vào điểm tốt nghiệp phổ thông. Thực
sự không phải là bước ngoặt mà quay lại như giáo dục thời trước” [21, tr.226].
Trong câu chuyện Từ xoa bóp đến tẩm quất, Nguyễn Ngọc Tiến đã đánh giá:
“Tẩm quất giờ cũng không là nghề của người khiếm thị. Kẻ nghiện ngập cũng làm
lấy tiền hút hay chích choác. Ai biết được họ có nhiễm HIV hay không? Nhiều
người to khỏe, sáng mắt cũng lao vào cạnh tranh trong khi họ có thể kiếm được
công việc khác. Lòng nhân ai đang khan hiếm lại không có quy định của cơ quan
quản lý nên họ giành giật miếng ăn với người mù lòa cũng là phải…” [24, tr.164].
Trong Cưới ở Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến cũng có những nhận xét, tranh
biện và cùng đối thoại về một nét sống của đại đa số người Hà Nội ngày nay: “Đất
nước đổi mới, cuộc sống khá dần lên và đám cưới thay đổi, sự phô trương quay trở
lại. Quan chức cưới con phát giấy mời như bươm bướm.Tiền mừng có khi là đôla
Mỹ, có người mừng cả đất đai hay căn hộ” [24, tr.305]
Ở trong các bài viết, Nguyễn Ngọc Tiến không những viết trên cơ sở tra cứu
tài liệu, sách vở, trải nghiệm thực tế mà ông còn có những liên hệ tới thực tế ngày
nay và cùng đó đưa ra những ý kiến, nhận xét, đánh giá khách quan để cùng với
người đọc đối thoại về các vấn đề mà ông đề cập. Đây thực sự là một điều vô cùng
đáng quý, ông xứng đáng là một nhà văn chân chính, một nhà Hà Nội học trong
lòng độc giả.
3.4 Tiểu kết chƣơng 3
Nguyễn Ngọc Tiến là một nhà văn của đất và người Hà Nội. Trong sáng tác
của mình, ông đã phản ánh được mọi mặt đời sống của đất và người nơi đây. Cùng
với nghệ thuật ngôn từ, giọng điệu và nghệ thuật kết cấu, Nguyễn Ngọc Tiến đã tạo
nên chiều sâu và tính khái quát cao cho tạp văn của ông, giúp được độc giả hình
dung, cảm nhận, suy tư về Hà Nội với muôn mặt đời sống một cách đầy đủ, rõ ràng.
Không những thế, ẩn sau những trang văn ấy là một tấm lòng của một nhà văn, một
người con luôn hết lòng với Hà Nội, luôn yêu thương, quý trọng, tự hào về mảnh
đất này nhưng cũng có những day dứt, băn khoăn về Hà Nội với muôn mặt đời
thường, gợi cho người đọc những suy tư, chiêm nghiệm để cùng đối thoại, đồng
102
cảm với chính tác giả. Đó là những yếu tố quan trọng là nên phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Ngọc Tiến: vừa dung dị, đời thường, dí dỏm, hài hước nhưng cũng đầy
những suy tư, xót xa. Sự mạnh dạn, táo bạo, mới mẻ mang tính chất khảo cứu của
Nguyễn Ngọc Tiến đã gây được tiếng vang lớn trong nền văn học Việt Nam, mang
đến sự lôi cuốn đối với độc giả và sự chú ý của giới phê bình văn học.
103
KẾT LUẬN
Văn hóa Hà Nội là mảng hiện thực đã đem đến nguồn cảm hứng dồi dào cho
các nhà văn. Có thể kể đến các cây bút tiêu biểu như: Tô Hoài, Thạch Lam, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng, Băng Sơn, Đỗ Phấn,… Có nhiều nhà văn đã thử sức và thành công
ngay từ những tác phẩm đầu tiên. Một trong những nhà văn của đất và người Hà
Nội là Nguyễn Ngọc Tiến. Sáng tác của ông luôn luôn theo một hướng nhất quán là
viết về đề tài Hà Nội.
Nghiên cứu tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến từ góc nhìn văn hóa đem đến một
cách tiếp cận thú vị, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa các giá trị văn hóa vào trong tác
phẩm của mình một cách tự nhiên, không cầu kì hoa lệ mà vẫn nổi bật với những
đặc trưng riêng. Nhắc đến Nguyễn Ngọc Tiến là nhắc đến một mảng văn học đặc
biệt, đậm đà hơi thở của riêng Hà Nội. Hà Nội trong văn chương Nguyễn Ngọc Tiến
là một mảnh đất văn hiến ngàn năm với bao nhiêu sự phong phú, phức tạp từ quá
khứ đến hiện tại. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tiến muốn đối thoại,
chia sẻ với độc giả về những giá trị tốt đẹp, đáng trân trọng, nâng niu của đất và
người Hà Nội, đồng thời ông cũng đặt ra nhiều vấn đề để người đọc cùng suy ngẫm
về cuộc sống muôn vẻ của Hà Nội hôm nay.
Nguyễn Ngọc Tiến với hành trình nghiên cứu, khảo cứu bền bỉ cùng với vốn
sống phong phú, sự quan sát tinh tế, say sưa, tỉ mỉ, cụ thể, ông đã ghi lại những
trang viết về những làng nghề, những thú chơi, những cái thuộc về đời sống phong
tục, tinh hoa văn hóa Thăng Long-Hà Nội. Đọc tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến người
đọc sẽ có những ấn tượng mới lạ, bất ngờ, đặc biệt là bị thuyết phục bởi những bài
viết theo lối khảo cứu mang tính chất báo chí đời thường, giản dị, mộc mạc, sâu sắc.
Nguyễn Ngọc Tiến đã vượt qua những chuyện vụn vặt, tầm thường để hướng tới
chân lí của văn hóa Hà Nội ngàn năm đã được bảo tồn và phát huy, tiếp nhận và
biến đổi đậm đà bản sắc văn hóa không nơi đâu có được.
Với việc nghiên cứu những giá trị văn hóa trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến,
thêm một lần nữa chúng tôi khẳng định những giá trị văn học mà tạp văn Nguyễn
Ngọc Tiến đem lại đã góp phần làm nên tinh hoa văn học quý giá trong kho tàng
104
văn học Việt Nam. Trong bốn cuốn tạp văn, Nguyễn Ngọc Tiến đã để lại những dấu
ấn đặc biệt về đất và người Thăng Long-Hà Nội từ xưa đến nay. Những trang viết
của Nguyễn Ngọc Tiến thể hiện rõ nét niềm tự hào, mến yêu tha thiết, sự gắn bó
máu thịt, sâu nặng ân tình đối với đất mà người nơi đây. Với những đóng góp của
mình, chúng ta tin tưởng rằng nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến sẽ có nhiều thành tựu lớn
hơn trong thời gian sắp tới.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Lê Bảo, Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học, website:
http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-
hoa/1104-tran-le-bao-giai-ma-van-hoa-trong-tac-pham-van-hoc.html, truy cập ngày
22/09/2019.
2. Hà Minh Châu (2006), Vũ Bằng và thể loại kí, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số
3), tr.9.
3. Đỗ Thị Ngọc Chi (2013), Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Dương Ngọc Dũng (2008), Tạp văn, Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
5. Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm lí học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Hà Minh Đức (Chủ biên, 1995), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Ebook, Đi dọc Hà Nội, wesbtise: https://ebookvie.com/read/di-doc-ha-
noi/Mzc4NQ==#epubcfi(/6/6[Ngoi-but-tai-hoa-va-nhung-trang-sach-khong-de-
viet.htm]!4/2[container]/2/6/1:569), truy cập ngày 13/12/2019.
8. Nguyễn Thị Hải Hà (2013), Truyện ngắn Đỗ Bích Thúy nhìn từ góc độ nhìn văn
hóa, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại: Kí - Trường ca – Anh
hùng ca – Tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
11. Trần Văn Minh (2011), Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến
1975, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.
Hồ Chí Minh.
12. Nhiều tác giả (1995), Hồ Chí Minh toàn tập, in lần 2, tập 3, Nhà xuất bản chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Đỗ Hải Ninh, Ký trên hành trình đổi mới, website: https://vanhaiphong.com/ky-
tren-hanh-trinh-doi-moi-do-hai-ninh/, truy cập ngày 07/01/2020.
106
14. Hoàng Phê (Chủ biên, 2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
15. Huỳnh Như Phương, Văn học và văn hóa truyền thống, website:
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-
chung/2022-huynh-nhu-phuong-van-hoc-va-van-hoa-truyen-thong.html, cập nhật
ngày 20/10/2019
16. Trần Đình Sử (1998), Vai trò của văn học trong sáng tạo văn hóa, Tạp chí Văn
học (số 6), tr.1-3.
17. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1986), Lý luận văn học (tập 2),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp Tp.
Hồ Chí Minh.
20. Trần Ngọc Thêm, Nhận diện Văn hóa, Trung tâm văn hóa học lí luận và ứng
dụng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí
Minh.
21. Nguyễn Ngọc Tiến (2015), Đi xuyên Hà Nội, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Ngọc Tiến (2016), 5678 bước chân quanh hồ Gươm, NXB Trẻ, TP. Hồ
Chí Minh.
23. Nguyễn Ngọc Tiến (2017), Đi dọc Hà Nội, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Ngọc Tiến (2017), Đi ngang Hà Nội, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
25. Đỗ Lai Thúy (2006), Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ lí thuyết hệ thống,
Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Thư viện Nslide, Khái quát về văn học, website:https://nslide.com/giao-an/khai-
quat-ve-van-hoc.un3tvq.html, truy cập ngày 28/11/2019.
27. Phạm Quang Tùng, Văn hóa và một số khái niệm về văn hóa,
website:http://giangvien.net/news/Cac-NGL-co-ban-cua-CN-Mac/Van-hoa-va-mot-
so-khai-niem-ve-van-hoa-594.html, truy cập ngày 18/11/2019.
28. Đặng Thị Tuyết (2015), Biểu tượng văn hóa trong thơ Mai Văn Phấn, Đề tài
nghiên cứu khoa học ngành Ngữ văn, Trường Đại học Thái Nguyên.
107
29. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Tạp văn, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
30. Lương Duy Thứ (1997), Lỗ Tấn tác phẩm và tư liệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển, ngôn ngữ, Hà
Nội.
32. Viện ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ
điển học Hà Nội – Đà Nẵng.
33. Lâm Vinh, Văn học nghệ thuật và chức năng, website: https://vansudia.net/van-
hoc-nghe-thuat-va-chuc-nang/, truy cập ngày 14/12/2009.
34. Trần Quang Vinh (2015), Hà Nội trong tản văn của Đỗ Phấn (Qua tập Hà Nội
thì không có tuyết), Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Vinh.
35. Wikipedi, Kí, website: https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%BD, truy cập ngày
15/01/2020.
36. Wikipedia, Văn hóa, website:
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a, truy cập ngày 12/9/2019.
37.Wikipedia, Văn học, website:
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%E1%BB%8Dc, truy cập ngày
12/10/2019
38. Wiktionary, Khảo cứu, wesbtise:
https://vi.wiktionary.org/wiki/kh%E1%BA%A3o_c%E1%BB%A9u#Ti%E1%BA%
BFng_Vi%E1%BB%87t, truy cập ngày 24/01/2020
39. Tăng Thị Xuân (2017), Truyện ngắn Kim Lân từ góc nhìn văn hóa, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 2013), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.
41. Jean Chevalier, Alain Gheebrant (1969), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
bản dịch tiếng Việt của Nxb Đà Nẵng (2002) – Trường viết văn Nguyễn Du, Hà
Nôi.
108