ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN THỊ NGỌC HÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC NGA
TRONG TRUYỆN NGẮN A. CHEKHOV
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội-2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN THỊ NGỌC HÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC NGA
TRONG TRUYỆN NGẮN A. CHEKHOV
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Nhƣ Trang
Hà Nội-2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
CHƢƠNG 1: BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ NHỮNG “THAM SỐ” CỦA
BẢN SẮC DÂN TỘC NGA.................................................................... 9
1.1 Khái lƣợc về bản sắc dân tộc .................................................................... 9
1.2 Các tham số xác định bản sắc văn hóa Nga .............................................. 12
CHƢƠNG 2: BẢN SẮC DÂN TỘC NGA TRONG TRUYỆN NGẮN
A. CHEKHOV NHÌN TỪ CÁC KIỂU NHÂN VẬT ..................................... 21
2.1 Nhân vật “con ngƣời nhỏ bé" .................................................................... 21
2.2. Nhân vật và sức mạnh cứu rỗi .................................................................. 33
2.3 Nhân vật đang trong cuộc hành trình ....................................................... 47
CHƢƠNG 3: BẢN SẮC DÂN TỘC NGA TRONG TRUYỆN NGẮN
A. CHEKHOV NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN KHÔNG GIAN ........................ 57
3.1 Không gian làng quê và thiên nhiên Nga .................................................. 57
3.2 Không gian thành thị và hành trình khám phá thế giới của con ngƣời Nga . ..63
3.3 Không gian ngôi nhà – nơi trở về của con ngƣời Nga .............................. 66
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 75
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
A.Chekhov (1860-1904) là nhà văn vĩ đại của nền văn học Nga thế
kỉ XIX, "ngƣời đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê
phán Nga". Ông đƣợc coi là bậc thầy truyện ngắn với số lƣợng khá đồ sộ,
gần 600 truyện, trong đó có nhiều truyện xứng vào hàng kiệt tác của văn học
thế giới. Nhà tiểu thuyết ngƣời Đức Th.Mann khẳng định "nghệ thuật tự sự
của A.Chekhov không nghi ngờ gì nữa thuộc về những gì có sức mạnh nhất
và tinh hoa nhất trong toàn bộ văn học châu Âu"[21,tr48].
Sức hấp dẫn của truyện ngắn A.Chekhov không phải ở những biến
cố lớn lao, những sự kiện tầm cỡ tạo nên những biến động trong đời sống
lịch sử- xã hội. Ngòi bút của ông hƣớng vào lĩnh vực hiện thực mà các nhà
văn Nga đƣơng thời chƣa khai thác hết. Đó là cuộc sống hàng ngày với
muôn vàn biểu hiện phong phú, đa dạng, phức tạp của nó. Đọc truyện ngắn
của A.Chekhov, độc giả sẽ hiểu rõ hơn xã hội, đời sống, con ngƣời Nga thế
kỉ XIX.
Đặt vấn đề bản sắc dân tộc/ căn tính dân tộc để đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn là sự lựa chọn, là định hƣớng không ít nhà nghiên cứu văn
hóa, văn học đƣơng đại. Câu hỏi mang tính bản thể triết học luôn đƣợc đặt ra
sau tất cả mọi khám phá về nghệ thuật luôn là: Ta là ai? Ta thuộc về nơi nào?
Ta có điểm gì khác biệt? Bản sắc dân tộc là khái niệm không chỉ để nhận
dạng một dân tộc với những đặc sắc văn hóa riêng mà còn phản ánh nhu cầu
khẳng định cái riêng, cái độc đáo, cái đẹp của dân tộc trong tƣơng quan với
các dân tộc khác. Sáng tác của nhà văn lớn luôn hƣớng đến luận giải những
câu hỏi mang tính bản thể luận đó, luôn chứa đựng “mã” văn hóa của cộng
2
đồng, dân tộc.
Bản sắc dân tộc là một phạm trù có tính lịch sử của tồn tại xã hội,
đƣợc xác lập trên cơ sở những đặc điểm hiện hữu khách quan ban đầu khi
cộng đồng mới hình thành và vẫn tiếp tục thay đổi, ổn định trong quá trình
cộng đồng đó vận động. Căn tính của một dân tộc đƣợc hợp nhất bởi căn tính
của mỗi cá nhân trong cộng đồng trên nguyên lí của sự đồng hoá, dung hoà
và thích nghi để cùng tồn tại. Do đó, nó đại diện cho một nhóm ngƣời trong
một phạm vi không gian văn hoá nhất định. Từ đó có thể thấy, căn tính dân
tộc còn là phạm trù để giúp phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác. Đó
không chỉ là một cách thức để nhận dạng một dân tộc với những đặc sắc văn
hoá riêng mà đó còn là một nhu cầu khẳng định cái riêng, cái độc đáo, cái
đẹp của dân tộc trong tƣơng quan so sánh với các dân tộc khác.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Bản sắc dân tộc Nga
trong truyện ngắn của A.Chekhov mong góp một phần nhỏ vào việc đánh
giá thế giới nghệ thuật và những giá trị thẩm mỹ độc đáo trong tryện ngắn
của nhà văn Nga kiệt xuất A.Chekhov.
2.Lịch sử vấn đề
Các tác phẩm của A.Chekhov đến với độc giả Việt Nam từ những năm 50
của thế kỉ XX. Ngay sau đó, những bài phê bình, nghiên cứu về Chekhov lần
lƣợt xuất hiện. Nghiên cứu về Chekhov từ trƣớc đến nay chủ yếu là những
bài viết riêng lẻ, hay những bài giới thiệu in trong các tuyển tập tác phẩm,
hầu nhƣ chƣa xuất hiện một chuyên luận nào dành riêng nghiên cứu tác gia
này.
Đọc và tham khảo hầu hết những bài viết ấy, chúng tôi nhận ra một số hƣớng
nghiên cứu và tiếp cận chính nhƣ sau:
- Hƣớng tiếp cận xã hội học kết hợp với nghiên cứu tiểu sử: Đây là hƣớng
3
tiếp cận chính của rất nhiều bài viết về Chekhov từ những thập niên 60, 70,
80 và đầu 90. Có thể kể đến: Đọc Sekhop của Nguyễn Tuân, Văn nghệ số
5/1957, Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Sekhốp của Lancon,
Nghiên cứu Văn học số 2/1960, Sekhop nhà hiện thực vĩ đại của Trọng Hiền,
Tạp chí văn học số 6/1960, A. Sekhop: một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn in
trong Tsekhov tập truyện tập 1, NXB Văn học 1977, cuốn sách A. Sekhop,
của Phan Hồng Giang NXB Văn hóa 1979 - giới thiệu về tiểu sử cuộc đời
Sekhov, phần nghiên cứu A. P. Sekhov của Đỗ Hồng Chung in trong Lịch sử
văn học Nga, NXB Giáo dục 2003; Chất nhân bản trong truyện ngắn
Chekhov của Vƣơng Trí Nhàn in trong Anton Sekhov - tuyển tập tác phẩm (3
tập), NXB Văn học, 1999. Những bài viết này khái quát cuộc đời sự nghiệp
sáng tác của Chekhov, nhấn mạnh phƣơng diện nội dung và ý nghĩa xã hội
của tác phẩm, ít quan tâm đến giá trị nghệ thuật, thậm chí có những ý kiến áp
đặt. Tuy nhiên bài nghiên cứu của Vƣơng Trí Nhàn ít nhiều đã kết hợp chỉ ra
đƣợc những vấn đề nội dung và yếu tố nghệ thuật tác phẩm, có những nhận
xét, cảm nhận tinh tế, đáng lƣu ý.
- Hƣớng tiếp cận theo thi pháp học và thi pháp học so sánh đi sâu vào tìm
hiểu các yếu tố về nghệ thuật trong truyện ngắn Chekhov, có những so sánh
để làm nổi bật nét riêng ở phong cách nhà văn. Đó là bài viết của Đào Tuấn
Ảnh: Tsekhov và Nam Cao một sáng tác hiện thực kiểu mới, Tạp chí Văn
học, số 2, 1992; và rất nhiều bài nghiên cứu đƣợc đọc trong hội thảo nhân
dịp kỉ niệm 100 năm ngày mất của A. Chekhov tại trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội. Có thể kể đến: Đào Tuấn Ảnh Kết cấu thời gian trong truyện ngắn
Chekhov và Nam Cao, Trần Lê Bảo với A. Sekhov và Lỗ Tấn dưới góc nhìn
so sánh, Đỗ Hải Phong với trong Mạch ngầm tự sự và trữ tình truyện ngắn
“Một chuyện đùa nhỏ” của A. Sekhov, Nguyễn Trƣờng Lịch với A. Sekhov,
người thuật chuyện tài hoa…Nhƣng một số bài viết mới chỉ mang tính nhận
4
định chung và dựa trên một số luận điểm đã đƣợc khái quát từ trƣớc.
- Hƣớng tiếp cận thi pháp học kết hợp với văn hóa học. Ở đây chúng tôi lƣu
tâm nhiều đến hai bài nghiên cứu viết nhân kỷ niệm 100 năm mất đại văn
hào A. Chekhov đã đƣợc đăng ở Tạp chí Nghiên cứu Văn học và Tạp chí
Văn học nước ngoài: Bài viết của Đào Tuấn Ảnh - Cách tân nghệ thuật của
Anton Sekhov (thử một cách tiếp cận mới) (Nghiên cứu văn học số 8 - 2004);
và bài viết của nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cƣ Trekhov nhà văn xuôi tự sự,
nhà viết kịch (Văn học nước ngoài, số 4-2004). Những bài viết này gợi mở
cho chúng tôi một số vấn đề về phong cách truyện ngắn của Chekhov, giúp
chúng tôi hiểusâu sắc hơn về Chekhov và truyền thống văn hóa Nga trong
tác phẩm của ông. Luận văn của chúng tôi sẽ đi tiếp những ý tƣởng đƣợc gợi
ý và xoáy sâu vào trọng tâm: bản sắc văn hóa Nga từ cả phƣơng diện tƣ duy,
cảm thức về thế giới, con ngƣời đến cả những yếu tố nghệ thuật.
3. Đối tƣợng, mục đích và phạm vi nghiên cứu
Nhƣ đã nói ở trên, luận văn lấy vấn đề bản sắc văn hoá Nga làm trung tâm và tập
trung khai thác trên truyện ngắn của A. Chekhov, do đó chúng tôi hƣớng đến:
- Chỉ ra những biểu hiện rõ bản sắc văn hoá Nga trong truyện ngắn của
A.Chekhov.
- Thông diễn cách tƣ duy về thế giới và con ngƣời của A.Chekhov trong mối
quan hệ với truyền thống văn hoá Nga, đặc biệt là truyền thống văn hoá
Chính thống giáo.
Tác phẩm của Chekhov để lại gần 600 truyện ngắn và hàng chục vở
kịch. Cả truyện ngắn và kịch của ông đều đƣợc giới nghiên cứu quan
tâm.Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi tập trung tìm hiểu mảng truyện
ngắn. Khảo sát kỹ càng toàn bộ truyện ngắn của Chekhov là điều khó có thể
thực hiện đƣợc. Nhìn tổng quát có thể thấy, Chekhov sáng tác truyện ngắn ở
5
hai giai đoạn: giai đoạn đầu (những năm 1880 - 1888) - giai đoạn của những
sáng tác hài hƣớc châm biếm; giai đoạn sau từ năm 1888 trở đi và đặc biệt là
những năm 90 của thế kỉ XIX, một phong cách viết truyện ngắn của
Chekhov đƣợc định hình rõ rệt, tiếng cƣời châm biếm hài hƣớc ẩn kín vào
trong lối viết nhẹ nhàng trữ tình. Đây là giai đoạn có nhiều sáng tác hay,
nhiều cách tân trong nghệ thuật tự sự, trong thi pháp thể loại, có nhiều yếu tố
báo hiệu cho văn chƣơng thế kỷ XX. Ngòi bút của Chekhov vừa hƣớng đến
những đặc trƣng thể loại, vừa phá vỡ giới hạn khuôn khổ thể loại. Vì vậy
luận văn của chúng tôi tập trung khảo sát và tìm hiểu truyện ngắn Chekhov
sáng tác vào những năm 90 của thế kỉ XIX.
Theo quan sát của chúng tôi, ở Việt Nam từ những năm 50 đến nay có rất
nhiều bản dịch, tuyển tập truyện ngắn Chekhov. Để lựa chọn tƣ liệu cho việc
nghiên cứu của mình, chúng tôi quan tâm đến một số tuyển tập và bản dịch
sau:
- Truyện ngắn tuyển tập với 20 truyện ngắn - NXB Văn học 1957. Ngƣời
dịch: Nguyễn Tuân, Trần Dần, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ dịch qua các
bản tiếng Pháp, tiếng Anh. Lời giới thiệu của Nguyễn Tuân. Năm 2004,
tuyển tập này đƣợc tái bản lại.
- Tập truyện (2 tập), NXB Văn học, 1977- 1978. Ngƣời dịch: Phan Hồng
Giang và Cao Xuân Hạo, dịch nguyên bản tiếng Nga.
- Anton Sekhov - Tuyển tập tác phẩm (3 tập, Tập 1,2: truyện ngắn, Tập 3:
kịch). NXB Văn học, 1999, Vƣơng Trí Nhàn tuyển chọn và viết lời giới
thiệu. Bộ tuyển tập này tuyển chọn và tập hợp các tác phẩm của Chekhov
đƣợc dịch ở Việt Nam trong các tuyển tập trƣớc đó.
- Truyện ngắn A. P. Tsekhốp, NXB Văn học 2003. Ngƣời dịch: Phan Hồng
Giang, Cao Xuân Hạo, dịch nguyên bản từ tiếng Nga. Tuyển tập này về số
6
lƣợng ít hơn so với tuyển tập năm 1977 - 1978 do Phan Hồng Giang, Cao
Xuân Hạo dịch. Nhƣng ở đây có bổ sung thêm 8 truyện ngắn khác, chủ yếu
là các truyện ngắn nằm ở giai đoạn sáng tác đầu tiên của Chekhov.
Gần đây nhất năm 2004, tạp chí Văn học nước ngoài số 4 có đăng 4 truyện
ngắn Chekhov do Đào Tuấn Ảnh dịch trực tiếp từ tiếng Nga: Cuộc đọ súng,
Sinh viên, Dusechka, Agafia.
Chúng tôi đã tham khảo hầu hết các bản dịch, tuyển tập ấy và lựa chọn
Truyện ngắn Sekhov (2 tập), NXB Văn học 1977 - 1978, ngƣời dịch: Phan
Hồng Giang và Cao Xuân Hạo làm nguồn tƣ liệu chính. Lý do khiến chúng
tôi lựa chọn: đây là bộ tuyển tập có in nhiều tác phẩm Chekhov sáng tác
trong giai đoạn những năm 90 của thế kỉ XIX, mặt khác với bộ tuyển tập này
chúng tôi xác định đƣợc những năm sáng tác của các tác phẩm.
Thống kê trên tuyển tập do Phan Hồng Giang và Cao Xuân Hạo dịch, chúng
tôi đã chọn ra đƣợc 12 truyện ngắn Chekhov sáng tác vào những năm 90 của
thế kỉ XIX: Những người đàn bà (1891), Người đàn bà phù phiếm (1891), Ở
nơi đày ải (1892), Phòng số 6 (1892), Vôlôdia lớn và Vôlôdia bé (1893), Nhà
tu hành vận đồ đen (1894), Huân chương Anna nhị đẳng (1895), Ngôi nhà
có căn gác nhỏ (1896), Khóm phúc bồn tử 1898), Một chuyện tình yêu
(1898), Một chuyến công vụ (1898), Người đàn bà và con chó nhỏ (1899).
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi không bó hẹp trong phạm vi
12 truyện ngắn ấy. Để có thể có những nhận định xác đáng và có cơ sở hơn,
chúng tôi khảo sát, so sánh thêm những truyện ngắn sáng tác vào giai đoạn
trƣớc, những truyện ngắn sáng tác vào những năm 90 nhƣng không có trong
tuyển tập do Phan Hồng Giang và Cao Xuân Hạo dịch (VD: Người trong
bao, Sinh viên, Cây hồ cầm của Rothschild ..), và cả truyện ngắn Người vợ
chưa cuới - thiên tự sự cuối cùngcủa ông sáng tác vào 1903.
7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với định hƣớng nhƣ đã nêu trên, luận văn sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu chính: tiếp cận văn hoá họcvà phƣơng pháp phân tích- tổng hợp.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Bản sắc dân tộc và những “tham số” của bản sắc dân tộc Nga
Chƣơng 2: Bản sắc dân tộc Nga trong truyện ngắn A. Chekhov nhìn từ
các kiểu nhân vật
Chƣơng 3: Bản sắc dân tộc Nga trong truyện ngắn A. Chekhov nhìn từ
8
phƣơng diện không gian
Chƣơng 1: BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ NHỮNG “THAM SỐ” CỦA
BẢN SẮC DÂN TỘC NGA
1.1 Khái lƣợc về bản sắc dân tộc
1.1.1 Khái niệm dân tộc
Dân tộc, theo quan niệm của các nhà sử học, là những cộng đồng ngƣời đƣợc
hình thành trong quá trình lịch sử, trên cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, lãnh
thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, đặc biệt là về truyền thống văn hoá. Mỗi
dân tộc có quá trình hình thành và phát triển không giống nhau nhƣng đều
chịu sự chi phối của những quy luật phổ biến nên giữa các dân tộc có những
nét tƣơng đồng nhất định trong lịch sử, văn hóa… Trong điều kiện giao lƣu
nhƣ ngày nay, những yếu tố thuộc về truyền thống dân tộc, bản sắc dân tộc
đƣợc quan tâm nhiều hơn.
Tính dân tộc trong văn học là một khái niệm thuộc phạm trù tƣ tƣởng thẩm
mỹ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể
những đặc điểm độc đáo tƣơng đối bền vững chung cho các sáng tác của một
dân tộc, đƣợc hình thành trong quá trình phát triển lịch sử và phân biệt với
văn học của các dân tộc khác. Một nhà văn trong bất cứ trƣờng hợp nào cũng
sử dụng một số phƣơng diện biểu hiện quen thuộc của hình thức nghệ thuật
dân tộc họ từ thể loại, ngôn từ đến các chất liệu của đời sống xã hội và thiên
nhiên của dân tộc mình. Vậy nên, tinh thần dân tộc luôn thấm đẫm trong
từng câu chữ, trong cách cảm cách nghĩ của mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng
chính đặc thù của đời sống dân tộc đã mang lại cho văn học của dân tộc ấy
một bản sắc riêng độc đáo đƣợc bảo tồn lƣu giữ qua nhiều thế hệ.
Đại văn hào Nga, M.Gorky cho rằng “Văn học là nhân học”, đối tƣợng của
9
văn học là con ngƣời, nhiều cá nhân hợp thành xã hội. Do đó, văn học phải
phản ánh tính dân tộc là điều tất yếu. Văn học là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, khách thể và chủ thể ở đây nói chung là thuộc tính của một
dân tộc nhất định, cho nên tính dân tộc là một thuộc tính tất yếu của văn học.
Nhà phê bình văn học Nga Belinsky cho rằng: “Mỗi nhân vật phải gắn với
một dân tộc nhất định, một thời đại nhất định. Vì nếu con ngƣời không có
tính dân tộc không phải là con ngƣời thực sự mà là một khái niệm trừu
tƣợng. Vì vậy mà rõ ràng tính dân tộc trong tác phẩm không phải là một
thành tích mà là một thuộc tính tất yếu của việc sáng tạo”.
Tính dân tộc của tác phẩm văn học đƣợc biểu hiện ở nhiều khía cạnh, trƣớc
hết là ở ngôn ngữ, trong cách cảm thụ thế giới. Về hình thức, tính dân tộc thể
hiện trong thể loại của tác phẩm văn học.
Ta cũng cần phân biệt tính dân tộc và tính cách dân tộc. Tính cách dân tộc
cũng đƣợc thể hiện trong tác phẩm có tính dân tộc. Đó là những phẩm chất,
tính cách lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên thành phẩm chất của dân tộc.Tuy
nhiên sự lặp lại ở đây không phải là sự lặp lại một cách đơn điệu, nhàm chán
ở các hình tƣợng nghệ thuật; mà tính cách dân tộc là cái thống nhất trong sự
đa dạng, ổn định trong sự biến đổi. Cũng không nên hiểu tính cách dân tộc là
sự liệt kê các phẩm chất. Tính cách dân tộc là một phẩm chất chỉnh thể, nó
thể hiện trong một phức hợp liên kết các phẩm chất nhất định. Một tác phẩm
văn học thể hiện đƣợc nội dung và những vấn đề phù hợp với tình cảm và
tâm lí dân tộc thì tác phẩm ấy có tính dân tộc. Do những điều kiện riêng về
hoàn cảnh địa lí, về lịch sử phát triển của xã hội, nếp sống văn hóa, phong
tục tập quán… mà mỗi dân tộc có những tình cảm và tâm lí riêng. Bàn về
tính dân tộc trong văn học nghệ thuật, A.Tolstoy đã từng nhận định "Nghệ
thuật dân tộc là nghệ thuật mang mùi hƣơng đất đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi
từ dƣờng nhƣ có hai lần ý nghĩa nghệ thuật… ". Bởi tác phẩm văn học nghệ
thuật là sản phẩm riêng của cá nhân nghệ sĩ, nhƣng đằng sau mỗi ngƣời 10
nghệ sĩ bao giờ cũng mang bóng dáng của dân tộc, giai cấp mà họ đang sống.
Vậy nên tinh thần dân tộc luôn thấm đẫm trong từng câu chữ, trong cách cảm
cách nghĩ của mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng chính đặc thù của đời sống dân
tộc đã mang lại cho văn học của dân tộc ấy một bản sắc riêng độc đáo đƣợc
bảo tồn lƣu giữ qua nhiều thế hệ.
1.1.2 Khái niệm bản sắc dân tộc
Bản sắc dân tộc (national identity) là điểm phân biệt cộng đồng này
với cộng đồng khác. Các nhà dân tộc học nhấn mạnh yếu tố nhân chủng học
của tộc ngƣời trong bản sắc dân tộc. Các nhà văn hóa học nhấn mạnh yếu tố
tín ngƣỡng, nghệ thuật. Các nhà xã hội học nhấn mạnh phƣơng diện hoạt
động xã hội của con ngƣời.
Bản sắc dân tộc không phải là khái niệm tĩnh, nó có sự vận động biến
đổi nhƣ những “tham số” cơ bản để định hình nên nét riêng, độc đáo của
riêng mỗi dân tộc. Bản sắc dân tộc đƣợc hợp thành từ bản sắc của mỗi cá
nhân trong cộng đồng trên nguyên lí đồng hóa, dung hòa, thích nghi để cùng
tồn tại. Do đó bản sắc dân tộc gắn liền với một giới hạn không gian văn hóa
nhất định. Phạm Quang Long trong cuốn Lý luận văn học cũng nhận xét:
"bản sắc dân tộc , tính dân tộc của văn học đƣợc xem xét nhƣ là sản phẩm
của một quá trình lịch sử, mang tính tổng hợp, là tích hợp của những giá trị,
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử hay là những sản phẩm của ngƣời đƣa
những thông điệp ấy (nghệ sĩ) đến ngƣời đọc"[25, tr113 ]
Các tham số để xác định bản sắc dân tộc: tín ngƣỡng, tôn giáo, cách
ứng xử của con ngƣời với tự nhiên và xã hội, ngôn ngữ,….Tuy nhiên, nhìn
một cách khái quát, văn hóa có thể coi là phạm trù quan trọng nhất, bao
trùm, giúp ta hình dung nét riêng của mỗi dân tộc, chứa đựng phần lớn
11
những nét riêng của bản sắc dân tộc.
1.2 Các tham số xác định bản sắc dân tộc Nga
1.2.1 Địa văn hóa
Xét về cơ tầng văn hóa bản địa, trƣớc hết có thể thấy Nga là một trong
những nƣớc có đƣờng bờ biển dài nhất thế giới ( 37.00km/ 17.075.200km2).
Đây là điều kiện thuận lợi cho phép đất nƣớc này có thể mở rộng giao lƣu
với bên ngoài, đặc biệt là giao lƣu với Phƣơng Tây. Nga cũng là nƣớc có
đƣờng biên giới dài nhất, trải dài từ Á sang Âu. Do đó chắc chắn trong văn
hóa Nga, bên cạnh yếu tố Phƣơng Tây sẽ có yếu tố Phƣơng Đông.
Từ phƣơng diện sự hình thành quốc gia lãnh thổ, sự đan xen của yếu
tố Phƣơng Đông và Phƣơng Tây càng biểu hiện rõ nét hơn. Tổ tiên của
ngƣời Nga là những bộ tộc Slav phƣơng Đông xƣa kia từng sinh sống, trồng
trọt và chăn nuôi ở Đông Nam Châu Âu. Đầu công nguyên, họ chiếm giữ
vùng lãnh thổ từ Baltic đến Biển Đen, từ Karpat đến thƣợng nguồn sông Oka
và sông Volga. Ngƣời Slav tổ chức công xã theo lãnh thổ chứ không theo
dòng họ. Do đó mối quan hệ theo chiều dọc- huyết thống yếu hơn so với
những mối liên hệ theo chiều ngang. Ngƣời Slav vì thế không có tộc phả và
dễ dàng đón nhận các yếu tố từ bên ngoài vào và mong muốn đồng hóa các
dân tộc khác. Quả thực ngƣời Slav trong lịch sử tồn tại, đã từng chiến đấu
với rất nhiều bộ tộc khác (chẳng hạn bộ tộc Huns) nhƣng đồng thời cũng mở
rộng ảnh hƣởng của mình sang Bzantyum. Nƣớc Nga Kiev đƣợc hình thành
ở thế kỉ VI chính là nhờ liên minh các bộ tộc Slav, trong đó bộ tộc Rus đứng
đầu. Yếu tố bản địa văn hóa đó vừa kết hợp với những cuộc tiếp xúc, tiếp
biến văn hóa trong lịch sử nƣớc Nga tạo ra những giá trị văn hóa Nga. Có thể
kể đến những cuộc tiếp xúc và tiếp biến văn hóa đã diễn ra trong lịch sử
nƣớc Nga nhƣ : sự hình thành nƣớc Nga Kiev, tiếp xúc với Bizantyum(IX-
12
X), Hunnish đô hộ ( XIII-XV), cải cách của PyotrI(VII-VIII).
Trƣớc hết có thể thấy rõ, đặc điểm đầu tiên trong văn hóa Nga
chính là sự hòa hợp và xung đột giữa hai yếu tố Đông và Tây. Năm 988, Cơ
Đốc giáo trở thành quốc giáo của Nga. Sự kiện này tạo nên bƣớc ngoặt cơ
bản trong đời sống xã hội Nga. Những ngẫu tƣợng bị đem đốt hoặc quẳng
xuống sông, song nhiều nghi lễ đa thần giáo vẫn đƣợc giữ lại. Điều đó có
nghĩa là nƣớc Nga đã nhích gần về phía Phƣơng Tây dù vẫn giữ lại một số
nét phƣơng Đông…Các bài hát nghi lễ cổ xƣa, các vũ điệu ngày hội gắn liền
với phong tục các bộ tôc Slav phƣơng Đông đã chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ từ
Bzatyum Thế chế quân chủ nga cũng đƣợc thiết lập theo mô hình đế chế
phƣơng Đông.
Bên cạnh giao thoa tự nguyện còn có giao thoa cƣỡng bức. Cuộc xâm
lƣợc và đô hộ của quân Mông Cổ kéo dài hơn hai thế kỉ đã để lại dấu vết sâu
đậm và lâu dài trong lịch sử Nga. Chính nó đã quy định nên tính chất nông
nô chuyên chế Nga. Lý tƣởng tập thể và chế độ chuyên chế chính là hai dấu
ấn rõ nét nhất mà đế quốc Mông Cổ để lại trong văn hóa Nga. Mặt khác
Byzantyum cũng là Châu Âu, là phƣơng Đông nằm kề phƣơng Tây Cơ đốc
giáo. Do đó Cơ đốc giáo không chỉ góp phần thống nhất và củng cố địa vị
của Nhà nƣớc Nga mà còn tạo điều kiện mở rộng những mối giao lƣu của nó
với các quốc gia khác ở Âu Châu.
Từ cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII, cuộc cải cách của Piotr’ Đệ
nhất đã tạo nên quá trình Tây hóa ở Nga, nhanh chóng đƣa nƣớc Nga thoát
khỏi lạc hậu bằng những cuộc cải cách thiết thực toàn diện: quân sự, chính
trị, kinh tế và giáo dục… Chính nhà vua là ngƣời rất tiến bộ, có ý thức dân
chủ, thƣờng đi qua các nƣớc Tây Âu để học tập kinh nghiệm. Ông có công
đầu xây dựng thành phố Saint Petersburg để nối liền Nga với phƣơng Tây.
13
Nƣớc Nga so với thế kỉ trƣớc đã phát triển nhiều mặt và đạt nhiều thành tựu.
Đây là thời kì tiếp xúc và tiếp biến văn hoá thứ hai của nƣớc Nga. Tƣ tƣởng
tự do dân chủ vì thế cũng hình thành. Cũng từ thời Piotr’ Đệ nhất quá trình
Âu hóa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa xã hội. Các công
trình kiến trúc mang phong cách Châu Âu đƣợc xây dựng (Cung điện mùa
đông, Hoàng thôn). Những bản giao hƣởng và opera tràn đầy tƣ tƣởng khai
sáng cũng dần thay thế các vũ điệu dân gian Nga… Có lẽ với cải cách của
Piotr’ Đệ nhất, nƣớc Nga đã tuyên bố đi với Châu Âu. Song quá trình đi với
Châu Âu đó nƣớc Nga vẫn duy trì đƣợc bản sắc văn hóa của mình. Văn học
của Pushkin, Tolstoy vẫn chứng tỏ bản sắc văn hóa riêng của Nga, bên cạnh
những ảnh hƣởng của phƣơng Tây. Song Đông và Tây không phải chỉ là
khái niệm. Đó còn là những tƣ tƣởng đối nghịch nhau giữa những ngƣời
sùng Slav và những ngƣời sùng phƣơng Tây. Phái sùng Slavcho rằng nƣớc
Nga nên đi theo con đƣờng Đông phƣơng đặc sắc của mình. Họ hƣớng về
nƣớc Nga cổ xƣa và truyền bá tƣ tƣởng thỏa hiệp giữa ngai vàng và nhân
dân. Phái sùng Tây Phƣơng cho rằng nƣớc Nga cần đi theo con đƣờng chung
của Châu Âu. Họ chủ trƣơng tự do cải lƣơng chủ nghĩa, coi nhà nƣớc quân
chủ lập hiến là lý tƣởng. Ban đầu cả hai phái đều có thiện chí thay đổi chế độ
nông nô. Nhƣng cả hai phái đều mắc sai lầm cơ bản. Phái Slave thì bảo thủ,
phái sùng Tây Phƣơng thì mất gốc. Sự phân cực về tƣ tƣởng này liên quan
đến vấn đề con đƣờng phát triển của nƣớc Nga.
Đặc điểm thứ hai trong văn hóa Nga đƣợc coi nhƣ là hệ quả của yếu tố
địa văn hóa chính là thái độ thành kính tôn giáo. Với ngƣời Nga, nhân tố đạo
đức luôn luôn chiếm ƣu thế hơn nhân tố trí lực. Vì thế họ luôn tin thần linh và
giàu lòng bác ái. Với ngƣời Nga, Chúa luôn đứng ở vị trí tối thƣợng, không ai
đƣợc vƣợt lên trên, nắm giữ vai trò của Chúa. Aitmatov với Đoạn đầu đài hay
M. Bulgakov với Trái tim chó và Những quả trứng định mệnh đều hƣớng đến
ý tƣởng rằng: kẻ nào có tham vọng vƣợt lên vai trò của Chúa, kẻ đó sẽ bị 14
trừng phạt. Aitmatov nhấn mạnh bi kịch đoạn đầu đài trở về trong cuộc sống
đời thƣờng khi có kẻ dám thay Chúa thực hiện những thiên chức thiêng liêng
của Ngƣời.
Tâm thế của con ngƣời Nga tồn tại cả hai trạng thái: mặc cảm sợ hãi và tâm lý
bành trƣớng ra bên ngoài. Điều này xuất phát từ yếu tố địa văn hóa. Nƣớc
Nga có vùng đồng bằng Đông Âu, không có lá chắn an ninh tự nhiên, do đó
thƣờng bị xâm lƣợc từ nhiều phía. Đặc điểm này tạo nên cảm giác bản năng
không an toàn, không tin cậy thế giới bên ngoài, nhƣng đồng thời cũng muốn
vƣơn ra bên ngoài. Bản thân nƣớc Nga trong lịch sử đã phải chịu sự cai trị đô
hộ của nhiều đế quốc lớn, liên tục phải tự bảo vệ mình trƣớc những cuộc tấn
công của kẻ thù. Tuy nhiên, Nga cũng không ngừng mở rộng lãnh thổ của
mình cả về phƣơng Tây lẫn phƣơng Đông. Lịch sử nƣớc Nga từng chứng kiến
những cuộc Đông Tiến trong thế kỉ XVI đến Kazan, Astrakhan, thế kỉ XVII
đến Sibir và Viễn Đông và cả những cuộc Tây tiến đến Baltic vào thế kỉ thứ
XVIII. Trong bản tính con ngƣời Nga có cả tâm lý sợ hãi lẫn tham vọng bành
trƣớng. Bản thân A. Chekhov vào cuối thế kỉ XIX đã từng tuyên bố rằng ông
“muốn gột bỏ dòng máu nô lệ đang chảy trong huyết quản của con ngƣời
Nga”. Song chính các nhà văn nhƣ A. Chekhov cũng luôn chuyển tải trong tác
phẩm của mình ý tƣởng, suy tƣ của ngƣời Nga rằng dân tộc Nga là dân tộc
đƣợc Chúa tuyển chọn và mang sứ mệnh của Chúa.
Hơn nữa, Nƣớc Nga là một bình nguyên vĩ đại với những khoảng không vô
bờ bến. Các yếu tố địa lí, môi trƣờng tự nhiên đó ảnh hƣởng khá rõ nét đến
đời sống tâm hồn của ngƣời Nga. Hay nói ngƣợc lại, các yếu tố tự nhiên là
biểu tƣợng của tâm hồn Nga. Tâm hồn con ngƣời Nga nhƣ trôi nổi trên bình
nguyên bất tận, phiêu du đến những khoảng xa xăm vô tận. Tâm hồn đó luôn
khao khát đến cái kết thúc và tận cùng, bởi vì nó chƣa biết đến ranh giới và
15
hình dạng của cuộc sống, chƣa gặp những đƣờng nét và giới hạn trong kết cấu
đất đai của mình, trong thiên nhiên của mình. Một tâm hồn cực kỳ nhạy cảm
với những dòng mạch thần bí và khải huyền. Nó không bị biến thành pháo
đài, nhƣ tâm hồn con ngƣời châu Âu, không bị bao bọc bằng nƣớc thép của
kỷ luật tôn giáo và văn hóa. Tâm hồn đó rộng mở cho mọi khoảng không,
khát khao tới xa tắp tận cùng của lịch sử. Nó dễ dàng dứt bỏ mọi mảnh đất và
phiêu du trong cơn lốc xoáy hoang dại đến khoảng xa tít tắp, trong nó có thiên
hƣớng phiêu lãng trên khắp các bình nguyên bao la của đất đai Nga.
1.2.2 Truyền thống văn hóa Chính thống giáo – tư tưởng Cứu thế
Kitô giáo là một tôn giáo lớn và xuất hiện lâu đời trên thế giới, có sức
ảnh hƣởng đến nhiều quốc gia trên nhiều phƣơng diện nhƣ văn hóa, chính trị,
kinh tế, văn học… “Ra đời ở Trung Cận Đông, trong một đế quốc La Mã
rộng lớn mà đế quốc ấy lại kế thừa rất nhiều di sản văn hóa Hy Lạp, Kitô
giáo trong quá trình tạo dựng đã biết kế thừa những tư tưởng triết học nổi lên
là triết học khắc kỷ và duy lý, những hệ thống thần linh của các dân tộc thời
cổ đại thuộc đế chế La Mã.” [14, tr.29].
Quá trình phát triển của Kitô giáo đƣợc chia thành ba thời kỳ chính: Kitô giáo
Sơ kỳ, Kitô giáo thời Trung cổ và Kitô giáo thời Cận - hiện đại. Trong lịch sử
hình thành và phát triển, Kitô giáo đã phân chia thành ba nhánh chính, gồm
Tin lành (hay còn gọi là Kháng cách/Protestantism), cùng với Thiên chúa giáo
(hay còn gọi là Công giáo/Catholicism) và Chính thống giáo Đông phƣơng
(Eastern Orthodoxy). Vào thế kỷ XI, Kitô giáo diễn ra cuộc đại phân liệt lần
thứ nhất, một bên theo văn hóa Hy Lạp, một bên theo văn hóa La tinh, gọi là
phân liệt Đông – Tây, hình thành tôn giáo mới ở phƣơng Đông: Chính thống
giáo. Đôi khi Chính thống giáo còn đƣợc gọi là Kitô giáo phƣơng Đông. Thế
kỷ XVI, cuộc đại phân liệt lần thứ hai diễn ra trong Công giáo, hình thành
16
một tôn giáo mới – đạo Tin lành. Cùng thời gian với việc ra đời đạo Tin lành,
xuất hiện một trào lƣu cải cách theo cách riêng ở nƣớc Anh hình thành Anh
giáo. Ảnh hƣởng của Kitô giáo phƣơng Đông thể hiện rõ rệt trong thời kỳ lịch
sử thế kỷ XV-XVI khi chính Byzantium nằm dƣới ách thống trị của Thổ Nhĩ
Kỳ. Ảnh hƣởng này xảy ra chủ yếu thông qua văn hóa. Văn hóa Byzantium
vô cùng tinh tế và sâu sắc, là sự kết hợp giữa thần học và truy hoan. Nó khiến
những thời điểm quan trọng nhất trong đời sống của con ngƣời – sinh, tử,
hƣớng linh hồn đến Chúa – nhuốm chất thơ cao cả, mang ý nghĩa vĩ đại mà
cho đến nay không đâu có đƣợc.
Từ thế kỷ thứ X, Kitô giáo, nói cụ thể hơn là Kitô giáo chính thống đã
trở thành quốc giáo của Nga với số lƣợng Kitô hữu ngày một đông. Trong
hơn mƣời thế kỷ, Kitô giáo chính thống (còn gọi là Chính thống giáo) đã tham
gia tích cực vào việc nuôi dƣỡng, đào luyện nên tính cách con ngƣời Nga,
giúp cho họ hiểu đƣợc ý nghĩa cuộc sống, thậm chí ngay cả khi mất niềm tin
thì họ vẫn không hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới quan Chính thống giáo.
Nền văn hóa và văn học Nga có mối liên hệ mật thiết với thế giới quan
Chính thống giáo và đó chính là điều khác biệt chủ yếu với văn hóa và văn
học phƣơng Tây. Chính Chính thống giáo cũng đã ảnh hƣởng đến thái độ,
quan tâm tới bản chất tinh thần, tới việc đào sâu vào thế giới nội tâm của con
ngƣời – một nhiệm vụ trọng tâm của văn học. Trong dòng chảy lịch sử của
văn học Nga, Kitô giáo đã để lại dấu ấn trong nhiều sáng tác của các nhà
văn, nhà thơ, đặc biệt ở thế kỷ XIX nhƣ A.Pushkin, N.Gogol, F.Dostoevsky,
L.Tolstoy… và thế kỷ XX nhƣ M.Bulgakov, I.Shmelev, B.Pasternak,… “Các
nhà văn Nga xem xét các sự kiện của đời sống, tính chất, khát vọng của con
ngƣời, soi sáng chúng bằng ánh sáng chân lý của Kinh Thánh, tƣ duy qua các
17
phạm trù của Chính thống giáo”.
Có thể nhìn lại một số nét riêng của văn hóa Kito giáo phƣơng Đông
in đậm trong tƣ duy con ngƣời Nga và thể hiện trong sáng tác của các nhà
văn Nga. Trong văn hóa Kitô giáo phƣơng Đông, sự tồn tại của con ngƣời
nơi trần thế đƣợc coi là một đoạn trƣớc ngƣỡng cửa cuộc sống vĩnh cửu chứ
không đƣợc xem nhƣ giá trị tự thân. Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản của cuộc sống
là chuẩn bị cho con ngƣời đón nhận cái chết. Cái chết đƣợc xem nhƣ bản
nguyên của cuộc sống này. Nguyện vọng thiêng liêng của con ngƣời muốn
sống hòa thuận, từ tâm, ý thức về tội lỗi của bản thân và sự khổ hạnh đƣợc
coi là ý nghĩa cuộc sống nơi trần thế. Từ đây, trong văn hóa Chính thống
giáo xuất hiện thái độ xem nhẹ lợi ích vật chất nơi trần thế bởi nó phù du và
nhất thời, coi lao động không phải là phƣơng tiện xây dựng và sáng tạo mà
nhƣ là khả năng tự cải tạo bản thân.
Trên cơ sở tƣơng phản giữa thiêng liêng và trần tục, văn hóa
Byzantium thể hiện đặc biệt rõ khát vọng khám phá chân tƣớng bí ẩn của
sự vật, hiện tƣợng. Những ngƣời Byzantium đã coi văn hóa của mình là
cao nhất nên họ có ý thức tự vệ, tránh những ảnh hƣởng của ngoại lai, kể
cả ảnh hƣởng văn hóa, từ đó nảy sinh trong mẫu gốc văn hóa Chính thống
giáo những đặc điểm của tinh thần cứu thế.
Truyền thống hội nhập của giáo hội Chính thống giáo thể hiện trong
việc sáp nhập các khái niệm đẹp và thiện vào từ cao quý (tiếng Nga:
blagolepie) rất đặc trƣng cho văn hóa Nga. Nhà triết học tôn giáo
S.Bulgakov đã coi “khả năng nhìn thấy vẻ đẹp trí tuệ của thế giới tinh thần”
nhƣ là đặc điểm thế giới quan chính thống giáo này.
Khi tổ chức nên đời sống tôn giáo – tinh thần của nhân dân Nga,
Chính thống giáo có khả năng hấp thu những hệ thống giá trị tinh thần đã
18
đƣợc hình thành trong môi trƣờng văn hóa đa thần giáo, dẫn đến sự hình
thành nên kiểu ngƣời Nga rất đặc biệt – kiểu ngƣời Cứu thế. Phƣơng diện
mạt thế của Kitô giáo đƣợc phản ánh rõ nét trong Chính thống giáo. Vì vậy,
kiểu ngƣời Nga Cứu thế phân biệt rõ giữa cái thiện và cái ác, nhận biết sâu
sắc thế giới này không hoàn thiện và không bao giờ bằng lòng với những gì
có trong đó mà luôn kiếm tìm cái thiện hoàn hảo.
Nhận thức đƣợc tính chất thiêng liêng là giá trị cao nhất nên ngƣời
Nga luôn hƣớng đến cái thiện tuyệt đối và do vậy không xếp những giá trị
tƣơng đối của đời sống trần thế vào hàng nguyên tắc “thiêng liêng”, luôn
muốn hành động nhân danh cái gì đó tuyệt đối.
Tiểu kết Có thể nói, bản sắc dân tộc là phạm trù đƣợc hình thành nên từ
nhiều yếu tố, vừa có những “tham số” cố định vừa có những vận động, biến
đổi theo thời gian. Nhà văn dù sáng tác theo khuynh hƣớng, trào lƣu nào
cũng thể hiện trên trang văn của mình “tiềm thức”, căn tính dân tộc, thể hiện
cách nhìn con ngƣời và thế giới ít nhiều theo cảm thức của một dân tộc mà
họ thuộc về. Rất khó để hình dung và nêu ra đầy đủ những đặc điểm bản sắc
dân tộc Nga – một dân tộc chứa trong mình cả chất phƣơng Đông và phƣơng
Tây, một dân tộc đã trải qua nhiều cuộc tiếp xúc và tiếp biến văn hóa theo cả
hƣớng chủ động và bị động. Tuy nhiên theo chúng tôi, những “tham số” cơ
bản để hình dung về nền văn hóa đó cần đƣợc nhấn mạnh và xem xét chính
là yếu tố địa văn hóa, là những cuộc tiếp xúc và tiếp biến văn hóa lớn trong
lịch sử, là yếu tố tôn giáo. Những đặc điểm nổi bật của căn tính dân tộc Nga
đƣợc phản chiếu theo những cách khác nhau trong tác phẩm của mỗi nhà
văn, đặc biệt là những nhà văn lớn của dân tộc. Với A. Chekhov, chúng tôi
thực hiện cuộc hành trình khám phá căn tính, bản sắc dân tộc ở hai phƣơng
diện: nhân vật và không gian – tƣơng ứng với hai phạm trù quan trọng: cách
19
nhìn về con ngƣời và thế giới của nhà văn.
Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC NGA TRONG TRUYỆN NGẮN A.
CHEKHOV NHÌN TỪ CÁC KIỂU NHÂN VẬT
Mỗi nhà văn khi sáng tác đều thể hiện trong đó cái nhìn về con ngƣời và cuộc
sống. Cái nhìn ấy đƣợc phản chiếu trong rất nhiều phƣơng diện, đặc biệt rõ rệt
là trong cách tạo dựng các kiểu nhân vật. "Nhân vật là phương tiện cơ bản để
nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật
để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào
đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt
người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất
định"[25,tr160]. Trong mỗi nhân vật, mỗi kiểu nhân vật, độc giả “đọc” ra
đƣợc cảm thức về cuộc sống và con ngƣời của nhà văn. Đó vừa là cảm thức
của riêng cá nhân ngƣời nghệ sĩ nhƣng cũng là thứ cảm thức có sợi dây vô
hình nhƣng bền bỉ gắn với truyền thống, cách nhìn, bản sắc riêng của dân tộc.
Giữa vô vàn các nhân vật mà A. Chekhov xây dựng, thuộc nhiều tầng lớp,
nhiều tính cách, nhiều lứa tuổi ta có thể khái quát và nhận ra một vài kiểu
nhân vật đặc trƣng, gắn liền với tính cách Nga, văn hóa Nga, tâm thế con
ngƣời Nga, truyền thống Nga: con ngƣời nhỏ bé, con ngƣời và sức mạnh cứu
rỗi, con ngƣời đang trong cuộc hành trình. Tiêu chí để phân chia và nhận diện
các kiểu nhân vật này của chúng tôi chính là: mối quan hệ giữa con ngƣời –
con ngƣời, con ngƣời – tự nhiên, con ngƣời – những đối tƣợng bên ngoài
mình. Bởi vấn đề cần hƣớng đến trong nghiên cứu này là bản sắc dân tộc Nga.
Cách ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời, con ngƣời với tự nhiên chính là
một trong những điểm quan trọng để nhận diện bản sắc của một dân tộc.
2.1 Nhân vật “con ngƣời nhỏ bé”
20
“Con ngƣời nhỏ bé” vốn là kiểu nhân vật truyền thống trong văn học Nga,
xuất hiện liên tục trong tác phẩm của A. Pushkin, N. Gogol, F. Dostoevsky
và A. Chekhov. Sự xuất hiện và hiện diện và “ám ảnh” lâu dài của kiểu nhân
vật này trong sáng tác của các nhà văn Nga theo chúng tôi gắn liền và cũng
là hình thức thể hiện một đặc điểm rất quan trọng của bản sắc văn hóa Nga,
tâm tính Nga. Nhƣ đã nói ở chƣơng 1, xuất phát từ đặc điểm địa văn hóa:
vùng đồng bằng Đông Âu không có lá chắn, dẫn đến một nét tâm lý thƣờng
trực trong con ngƣời Nga: tâm lý sợ hãi, cảm giác không an toàn. Hơn nữa,
cuối thế kỉ XIX là thời điểm cả nƣớc Nga sống trong bầu không khí ngột
ngạt, kìm kẹp do Nga hoàng tạo ra. Chính sách độc ác của Nga hoàng bóp
chết tất cả cái gì sống, chà đạp lên những giá trị tinh thần, đàn áp tự do tƣ
tƣởng. Nicôlai III đã biến nƣớc Nga những năm cuối thế kỉ XIX thành một
biển bùn lầy và nƣớc mắt, đâu đâu cũng có bắt bớ, tù đày, tra tấn. Và ngƣời
dân “như bị lắc trong một cái hũ nút khổng lồ, cái đáng quý thì bị hủy đi, cái
đáng thù thì đem ra thờ, cái đáng thương yêu thì đem ra đày đọa, cái đáng
phải khinh ghét mà diệt đi thì lại đem ra kiêng sợ” (Nguyễn Tuân). Chekhov
nhìn thấy tất cả điều ấy. Ông cảm thấy cái không bình thƣờng giữa những
điều mà ngƣời khác coi là bình thƣờng.
Thế giới nhân vật của A.Chekhov là những con ngƣời bình dị, đời thƣờng,
gần gũi, những gã mugic nghèo, những em bé làm thuê, những ngƣời trí thức
bần cùng. Họ yếu đuối, nghèo hèn, là nạn nhân đáng thƣơng của cuộc đời.
Phần đông trong số họ là phụ nữ và trẻ em. Họ mang trái tim khao khát yêu
thƣơng, hiền lành, nhẫn nhục, chịu thƣơng chịu khó, mà không sao có đƣợc
hạnh phúc. Là nhà văn có trái tim nhân đạo cao cả, A.Chekhov chỉ ra sự thật
về đời sống con ngƣời không phải dƣới cái nhìn khinh miệt mà đầy nhân
hậu, bao dung.
Lipa, ngƣời mẹ đáng thƣơng Trong khe núi làm dâu mà nhƣ con ở "Sau khi
21
chồng ra đi, cô không ngủ trên giường của mình nữa mà tiện đâu nằm đấy
hoặc trong bếp hoặc nhà kho. Ngày nào cô cũng lau sàn nhà hay giặt giũ và
vẫn có cảm tưởng như đi làm thuê công nhật" [11,tr 569]. Làm dâu một gia
đình giàu có, lúc nào Lipa cũng sống trong cảm giác sợ hãi. "Họ sống giàu
sang đấy nhưng mà ở nhà họ sợ lắm". Cô tâm sự " Lúc đầu tiên, ngay sau
hôm đám cưới ấy, cháu sợ Anhixim Gơrigorit. Nhà họ cũng tốt, không làm gì
cháu, nhưng hễ họ đến gần là cháu lạnh toát cả người, lạnh thấu xương ấy.
Chẳng đêm nào cháu ngủ được, cháu run rẩy và chỉ biết cầu Chúa"[11,
tr.561-562]. Một cuộc sống tinh thần luôn bị tra tấn, cô đã từng thốt lên với
mẹ:" Sao mẹ lại gả con vào chốn này hả mẹ". Vô cùng đau xót cho Lipa khi
đứa con mới sinh bé bỏng đáng yêu bị giết ngay trƣớc mắt bởi ngƣời chị dâu
độc ác, chồng bị đày đi Xibiri vì làm bạc giả. Bao đau thƣơng bất hạnh đổ ập
xuống đầu ngƣời phụ nữ nhỏ bé, hiền lành, yếu đuối này. " Ngay sau đó
người ta nghe thấy một tiếng kêu thét chưa từng nghe thấy bao giờ tại
Ucoleevo và không thể tin được một người bé nhỏ yếu đuối như Lipa lại có
thể kêu thét như vậy" [11, tr 580]. Đó là tiếng kêu của nỗi đau, của lòng căm
phẫn uất ức mà không thể làm gì đƣợc.
Đó còn là bà Marfa- vợ Yakov trong Cây hồ cầm của Rothschild. Suốt đời
sống bên chồng nhƣng chƣa bao giờ bà đƣợc đón nhận tình cảm âu yếm từ
ông "ông chưa hề vuốt ve bà, chưa hề thương xót bà, chưa hề nghĩ tới việc
mua cho bà một cái khăn quàng hoặc mang từ một đám cưới về cho bà chút
món ăn ngon; ông chỉ vẫn thường la hét bà, chỉ trách cứ bà về những vụ
thiệt thòi về tiền nong, chỉ nhào vào bà mà giơ cao nắm đấm…, ông cấm cả
bà uống nước trà để đỡ tốn tiền"[11,tr. 6]. Một ngƣời phụ nữ nông dân cả cuộc
đời không đƣợc một ngày sung sƣớng. Trông dáng hình khắc khổ của bà, ngƣời
đọc dễ cảm nhận ngay điều đó." … bà già đang ngồi trên ghế đẩu, gầy trơ xương
và khòm khòm; với chiếc mũi nhọn và cái miệng há ra, trông nghiêng thấy bà
22
giống như một con chim khát nước"[11, tr. 7]. Cuộc sống của bà bên ông chồng
chỉ là những chuỗi ngày la hét, những nắm đấm, những câu dọa nạt. Điều đó ám
ảnh bà tới gần lúc sắp từ giã cõi đời. Khi Yakov đƣa bà đi khám bệnh về, dù rất
mệt, nhƣng bà không dám nằm nghỉ bởi bà luôn bị ám ảnh bởi Yakov- ngƣời chỉ
nghĩ về những thiệt thòi, tiêu tốn tiền nong và những lời la mắng của hắn.
Bên cạnh đó là số phận, cuộc sống của những ngƣời phụ nữ nhỏ bé yếu đuối,
hôn nhân bất hạnh, chịu nhiều nỗi đau. Anna Xergheevna trong Người đàn
bà có con chó nhỏ là ngƣời phụ nữ còn trẻ, xinh đẹp với dáng ngƣời ngƣời
tầm thƣớc, mái tóc hung vàng, đầu đội mũ bêrê đã thu hút sự chú ý của mọi
ngƣời. Anna thuộc tầng lớp quí tộc, đời sống vật chất đầy đủ nhƣng cuộc
sống không hạnh phúc. "Nét mặt nàng mệt mỏi, những món tóc dài của nàng
buồn bã xõa xuống hai bên mặt. Nàng lặng lẽ suy nghĩ, dáng trông rầu
rĩ…mắt nàng đẫm lệ.", và " Ở nàng vẫn có một cái gì đó tội nghiệp đáng
thương." [10,tr 387]. Anna khao khát hạnh phúc lại luôn phải sống trong nỗi
cay đắng, tinh thần bị dày vò bởi khát vọng tình yêu không thành, bị dày vò
bởi mình sống không đúng với chồng và tự dày vò vì cho rằng mình bị coi
thƣờng, khinh bỉ." Tôi xấu xa, tôi là một người phụ nữ thấp hèn, tôi tự khinh
mình và không mong gì tự bào chữa cả. Không phải tôi lừa chồng mà là tự
lừa dối mình. Từ lâu rồi chứ không phải bây giờ mới lừa đâu... Khi lấy
chồng, tôi 20 tuổi, một nỗi khao khát dày vò tôi, tôi muốn được một cái gì tôt
đẹp hơn, tôi tự nhủ: có chứ, có một cuộc sống khác chứ. Tôi muốn sống!
Sống và sống…Lòng hiếu kì thiêu đốt tôi… tôi đã không thể tự làm chủ được
mình nữa, "[11,tr 483]. Đó là những lời gan ruột mà Anna chƣa bao giờ dám
nói ra, cô cứ giữ kín trong lòng và điều đó càng khiến cô khổ sở. Một ngƣời
phụ nữ luôn khao khát hạnh phúc sống bên ngƣời chồng nô bộc bên trong
ngôi nhà với bức tƣờng rào sắc nhọn mà "Nhìn thấy bức rào ấy chắc ai cũng
phải bỏ chạy"[11,tr493]. Một cuộc sống tù túng, cô đơn, mòn mỏi bóp nghẹt
23
ƣớc mơ, hạnh phúc của con ngƣời.
Nhân vật Anya trong Huân chương Anna nhị đẳng rơi vào nỗi đắng cay tủi
hổ khi mục đích lấy chồng của nàng là vì tiền. "Nàng nhớ lại cái cảm giác
cay cực của nàng trong buổi lễ thành hôn, khi nàng có ấn tượng là vị linh
mục, đám khách khứa cũng như mọi người có mặt trong nhà thờ đều buồn bã
nhìn nàng: tại sao, tại sao nàng, một cô gái xinh đẹp, đáng yêu như thế mà
lại đi lấy cái ông luống tuổi vô vị kia?" [10,tr 241]. Nàng hi sinh tuổi xuân
để gắn bó đời mình với một lão già bụng phệ, miệng thở phì phò nhƣng rất
giàu có. Anya mong muốn đƣợc sống sung sƣớng và có điều kiện giúp đỡ
cha và em nhƣng không ngờ chồng nàng là một gã ti tiện, bủn xỉn. "Nàng đi
lấy một ông chồng giàu, thế nhưng tiền thì nàng vẫn không có, áo cưới phải
may chịu, khi cha và hai em nàng ra ga tiễn nàng, cứ trông mặt họ cũng thấy
là họ không còn lấy một đồng xu…nhưng tiền thì ông không đưa. Tuy thế
ông có cho Anya một chiếc nhẫn, mấy chiếc vòng và mấy chiếc trâm, nói
rằng nên có những vật này để phòng khi túng thiếu. Và ông thường mở khóa
tủ ngăn của nàng ra soát lại xem thử các thứ có còn nguyên vẹn cả
không"[10,tr 242]. Anya trẻ trung xinh đẹp cuối cùng chỉ là món đồ trang
sức cho ông chồng già keo kiệt mà thôi.
Bất hạnh hơn nữa là những ngƣời phụ nữ trong câu chuyện Những người
đàn bà. Họ cố gắng gƣợng vùng vẫy tìm kiếm hạnh phúc nhƣng kết cục là
bất lực, buồn thảm, cay đắng. Masenca là một cô gái trẻ, đài các tiểu thƣ,
không nghèo hèn gì. Đáng lẽ ra cô phải đƣợc sống hạnh phúc trọn đời bên
chồng. Thế nhƣng, sự đời lắm oái ăm. Đôi vợ chồng trẻ phải xa nhau khi mới
cƣới, anh chồng phải đi lính. Cảnh vợ lính sống một mình biết bao khó khăn,
cạm bẫy rình rập. Đối phó với những kẻ nghiện ngập thƣờng xuyên quấy
phá, thân đàn bà con gái làm sao lo liệu đƣợc những việc cần sức vóc đàn
ông nhƣ " chuyện ngựa, chuyện xe, hay là dậu đổ, bồ hóng trong ống khói
24
bếp cháy"[9,tr 290]. Rồi việc phải đến cũng sẽ đến với ngƣời phụ nữ trẻ vắng
chồng. Đáng thƣơng thay, cái ngƣời đàn ông mê hoặc cô làm cho cô phải
lòng, sau khi thỏa mãn dục vọng thì lại dè bỉu cô "lẽ ra phải nhớ đến chồng
và giữ mình thì cô ta lại đi phải lòng tôi"[9,tr 291]. Nhƣng đó có phải là lỗi
của Masenca đâu, bởi xa chồng mới cƣới, sống một mình thật buồn bã cô
đơn. Với ngƣời phụ nữ, hạnh phúc gia đình, đƣợc sống bên ngƣời yêu
thƣơng là lẽ đƣơng nhiên. Và nếu Masenca sa ngã là do hoàn cảnh đấy chứ.
Nhân vật tôi cũng đã thú nhận: "Trông cô ta thật là ưa nhìn và tôi buông lời
tán tỉnh dường như không phải là đứng với nhau ở bên cổng mà là đang ngồi
trong buổi lễ sinh nhật nào vậy…Tôi mất hết cả lý trí và giãi bày với cô ta
tình yêu của tôi…"[9, tr 291]. Chồng trở về, Masenca cứ nhất quyết không
muốn giữ hạnh phúc gia đình. Thật nực cƣời nhƣng có lẽ lí do thì chỉ cô biết
rõ vì sao." Masenca chạy qua cổng vào sân nhà tôi, chân đi đất, mình mặc
mỗi chiếc váy, rồi lao vào tôi, nắm lấy tay tôi đang cầm dây cương,cả người
cô ta dính bê bết nhựa cây, run rẩy, khóc lóc…" Em không thể sống với cái
thằng tởm lợm ấy đâu; em không đủ sức chịu đựng nữa đâu! Nếu anh không
yêu em thì thà giết quách em đi còn hơn"[9, tr 294]. Trách cô ít thƣơng cô
nhiều vì ngay lúc đó, sau khi cô bị ngƣời tình nổi cáu vụt cho hai cái dây
cƣơng thì ngƣời chồng chạy đến. Anh ta kêu thất thanh: "đừng đánh! Đừng
đánh!" nhƣng "rồi như người mất trí, dang thẳng tay thụi tới tấp vào người
cô ta, sau đó đánh ngã cô xuống đất mà giẫm chân lên;...giật luôn giây
cường từ tay tôi và cứ thế quất lấy quất để vào Masenca. Vừa đánh vừa kêu
như con ngựa." [9,tr 295]. Kết cục buồn thảm với Masenca: cô bị kết tội giết
chồng- mặc dù cô không nhận tội- và bị kết án đày đi Xibiri nhƣng chƣa kịp
đi thì chết vì sốt.
Bên cạnh nhân vật Masenca, trong truyện ta còn gặp những ngƣời phụ nữ
cũng không kém phần đau khổ. Sophia, vợ Phedo, một ngƣời đàn bà xấu xí,
25
sống cùng bố chồng. Ngƣời phụ nữ này luôn ốm đau sầu não, khóc lóc suốt
ngày và thƣờng xuyên phải đến nhà thƣơng chữa bệnh. Chồng cô ta, Phedo
là thợ cả ngành cơ khí rất phát tài nên đến gần anh ta cũng khó. Sophia có
chồng mà cũng nhƣ không, có con mà không đƣợc gần con, cô không khác
gì ngƣời ở trong nhà chồng. Đau đớn bất hạnh, xót xa khi nghe những lời cô
em dâu nói với chị: "Anh Phedo của chị đã đuổi chị từ xưởng máy về nhà với
bố, còn mình thì kiếm một cô nhân tình; con của chị thì anh ta cướp mất, rồi
gán đi ở đợ cho nhà một ông chủ. Chị thì làm quần quật như trâu như ngựa,
mà vẫn cứ bị chửi mắng. Thà cứ ở vậy suốt đời còn hơn, thà cứ lấy dăm hào
chỉ của bọn linh mục, chìa tay đi ăn xin, lao đầu xuống giếng còn
hơn…"[9,tr .299]. Những lời nói nhƣ dao cứa vào ruột nhƣng đấy lại là sự
thật. Sophia chỉ còn biết cam chịu.
Mặc dù nói ra những lời cứng rắn đó nhƣng cô em mạnh mẽ, quyết liệt cũng
chịu số phận hẩm hiu không kém. Vacvara,con gái một gia đình nghèo, trẻ
đẹp khỏe mạnh và rất thích ăn diện. Vì muốn thoát khỏi những tháng ngày
cực khổ ăn không đủ no, cô chấp nhận lấy Alioska- một ngƣời chồng lƣng
gù. Căm phẫn gia đình nhà chồng và chồng, cô luôn nói những lời cay nghiệt
" Có gì mà tiếc? Bắt tội, ừ thì bắt tội, thà cứ để cho sấm sét nó đánh chết đi
còn là hơn sống mãi thế này. Em thì còn trẻ khỏe, mà chồng em thì gù lưng,
tởm lợm, cay nghiệt,…như cá mắc vào nơm, em thấy nằm với một con rắn
độc còn dễ chịu hơn nằm với gã Alioska ghẻ lở này"[9,tr 298]. Bất hạnh
trong hôn nhân nhƣng Varvara lại không cam chịu nhƣ Sophia. Cô kể cho
chị dâu nghe " chuyện đêm đêm cô đi chơi với tay linh mục như thế nào, tay
này nói những gì với cô, bạn bè của tay đó là những ai, cô đã đi lại với bọn
viên chức và lái buôn ngủ trọ như thế nào"[9,tr 299]. Câu chuyện của
Varvara cùng điệu hát buồn buồn từ xa đƣa lại đã tác động đến tâm trí của
Sophia. "Điệu hát buồn buồn…gợi nhớ đến cuộc đời phóng khoáng, và
26
Sophia khẽ mỉm cười, chị ta vừa cảm thấy có tội, vừa cảm thấy kinh hãi và
êm dịu khi lắng nghe điệu hát ấy, chị thấy thèm muốn, ghen tỵ và tiếc rẻ rằng
chị đã không mắc vào đường tội lỗi như vậy lúc còn trẻ trung và xinh
đẹp…"[9,tr 299]. Không đủ can đảm để vùng vẫy giải thoát số phận khỏi
những điều cay nghiệt, ngƣời phụ nữ đáng thƣơng chỉ còn cách là tự đau khổ
dằn vặt và có lẽ đến khi chết chị mới hết khổ đau.
Xót xa hơn là số phận của những đứa trẻ. Chúng đều có hoàn cảnh éo le, vô
cùng khó khăn. Với tâm hồn trong sáng, ngây thơ, non nớt, chúng tự tìm
cách riêng vƣợt qua khó khăn của mình.
Vanka trong truyện ngắn cùng tên là một chú bé chín tuổi đi học việc ở nhà
một lão thợ giày đã ba tháng nay. Cuộc sống của nó ở đây là chuỗi ngày bị
đọa đày, bóc lột sức lao động. Trong bức thƣ gửi ông, bé viết những dòng
chữ đầy nƣớc mắt " Ngày hôm qua cháu bị đánh một trận đau lắm ông ạ.
Ông chủ nắm tóc cháu lôi ra ngoài sân rồi lấy dây da đánh cháu tới tấp vì
tội cháu đưa nôi cho con ông chủ ngủ mà cháu trót ngủ quên đi mất. Tuần
vừa rồi bà chủ sai cháu mổ con cá mòi, cháu lại bắt đầu làm từ đuôi, thế là
bà ta cầm cả con cá mòi mà quật vào mặt cháu…Ăn thì chẳng có gì. Buổi
sáng ông bà chủ cho cháu một miếng bánh mì, buổi trưa cho bát cháo, đến
tối lại một mẩu bánh, còn bao nhiêu canh bắp cải hay nước chè thì ông bà
chủ ngốn hết, ông ạ. Ông bà chủ bắt cháu ngủ ngoài hành lang, khi con
người ta khóc thì cháu chẳng được ngủ tí nào mà cứ phải đưa nôi suốt"[9, rt
36]. Đó là nỗi khổ của đứa trẻ đáng phải đƣợc nâng niu chăm sóc từng bữa
ăn giấc ngủ vậy mà bị bóc lột sức lao động, bị đánh đập đối xử không khác
một con vật. Qua bức thƣ của chú bé, độc giả vô cùng căm phẫn lão thợ giày
độc ác ti tiện. Xót xa khi trong mỗi dòng thƣ của Vanka là cơn hãi hùng bởi
đòn roi, là ƣớc muốn đƣợc trở về với ông từng ngày. "Ông thân yêu, ông lên
đây đi…cháu xin ông làm ơn làm phúc đem cháu đi khỏi đây.ông thương lấy
27
cháu mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm
được ăn no lắm, chúa buồn lắm, không nói được gì, cứ khóc thôi. Hôm vừa
rồi, ông chủ lại lấy cái khuôn khâu giày đập vào đầu cháu, cháu ngã xuống
mãi lâu sau mới tỉnh. Đời cháu khổ quá, khổ hơn cả chó, ông ạ…"[ 9,tr 38].
Những tâm sự của đứa trẻ ngây thơ trong trắng là lời tố cáo mãnh liệt nhất
những cái xấu xa độc ác đang hàng ngày hàng giờ đày dọa con trẻ. Trong
thƣ, chú bé da diết mong mỏi "Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang
cháu về nhà ông, về làng, cháu chẳng chịu được nữa…Cháu van lạy ông,
chúa cầu Thượng Đế suốt ngày đêm, để ông đến mang cháu đi khỏi nơi này,
không cháu chết mất…"[9, tr 36]. Nếu ông của Vanka độc đƣợc những dòng
chữ này sẽ đứt từng khúc ruột. Thế nhƣng bức thƣ mà Vanka viết sẽ không
bao giờ tới đƣợc tay ông bởi cái địa chỉ chú ghi hồn nhiên đến tội nghiệp
"Gửi ông ở nhà quê". Với Vanka, bức thƣ đƣợc bỏ vào thùng là niềm hi
vọng, là hạnh phúc sung sƣớng vì em sắp đƣợc trở về bên ông. Trong giấc
ngủ, em nằm mơ thấy cái bếp lò, thấy ông em ngồi trên bệ bếp đang đọc thƣ
và tƣơng lai ấm ấp đang đến với em. Nhƣng tất cả chỉ là giấc mơ. Cuộc sống
nhƣ trong địa ngục ngày mai sẽ lại tiếp diễn với Vanka.
Tiếp nối chủ đề con ngƣời nhỏ bé, nhân vật nhỏ bé trong truyện ngắn
Chekhov không chỉ nhỏ bé về thân phận mà tầm vóc nhân cách cũng thấp
kém, hèn mọn. Đó là những con ngƣời tự làm cho mình bé nhỏ, luôn thấy
mình nhỏ bé, hèn hạ. Chính vì vậy với tƣ cách là một nhà văn- bác sĩ,
Chekhov đã chỉ ra những chứng bệnh phổ biến trong xã hội khi ấy, chứng
bệnh sợ tất cả mọi thứ trên đời.
Dƣới ngòi bút của Chekhov, những viên chức có thân phận nhỏ bé cũng là
những kẻ có đầu óc nô lệ. Thói nô lệ đã thành nếp sống nơi nhà máy, công
sở, ngoài đƣờng. Thói nô lệ đã ngấm sâu vào đầu óc con ngƣời, trở thành
những phản ứng bình thƣờng trong xã hội. Chekhov căm phẫn và khinh bỉ
28
những thói xấu. Ông cảm thấy cái không bình thƣờng giữa những điều mà
ngƣời khác coi là bình thƣờng. Chính vì vậy, Chekhov mong muốn, bằng
những tác phẩm nghệ thuật vào cuối những năm 90, ông có thể “gột sạch
dòng máu nô lệ đang chảy trong huyết quản của con ngƣời Nga”.
Với Chekhov, điều ông quan tâm trƣớc tiên ở con ngƣời là nhân phẩm.
Nhƣng nếu chỉ ý thức đƣợc nhân phẩm thôi cũng chƣa đủ, con ngƣời cũng
phải biết tôn trọng nhân phẩm của mình. Đó mới là thông điệp của nhà văn
gửi tới bạn đọc. Chekhov viết hàng loạt truyện ngắn về những con ngƣời
không ý thức đƣợc nhân phẩm của mình, không biết tôn trọng nhân phẩm
của mình. Qua đó, nhà văn đã góp tiếng nói tố cáo phê phán kiểu con ngƣời
nhỏ bé trƣớc quyền lực.
Cuộc gặp gỡ giữa anh béo và anh gầy diễn ra trên sân ga cũng là một cảnh
tƣợng của những con ngƣời nhỏ bé có thói quen qụy lụy, nịnh nọt cấp trên.
Anh béo và anh gầy vốn là ngƣời bạn học phổ thông thân thiết, cuộc gặp gỡ
ngẫu nhiên của họ đánh thức những tình cảm vô tƣ trong sáng thời đi học.
“Hai bạn ôm nhau hôn đến ba lần, mắt rưng rưng chăm chăm nhìn nhau. Cả
hai đều kinh ngạc một cách đầy thú vị”[1, tr. 8]. Câu chuyện của họ diễn ra
chân tình cởi mở, nhƣng khi anh gầy biết bạn mình đã là viên chức bậc ba rồi
thì bỗng dƣng “tái mét mặt, ngây ra như phỗng đá, nhưng lát sau thì anh ta
toét miệng cười, mặt mày nhăn nhúm, dường như mắt anh ta sáng hẳn lên.
Toàn thân anh ta rúm ró, so vai rụt cổ khúm núm" [9, tr9]. Hàng loạt cử chỉ,
điệu bộ thể hiện sự sợ hãi, xun xoe của anh gầy trƣớc anh béo. "Dạ,bẩm
quan trên, tôi…tôi rất lấy làm hân hạnh ạ. Bạn…nghĩa là bạn…từ thuở nhỏ,
thế rồi bỗng nhiên làm chức to thế. Hì hì hì" [9, tr9]. Giữa họ giờ đây không
còn là quan hệ bạn bè thân mật suồng sã nữa mà là quan hệ giữa ông quan to
và ông quan bé. Chỉ trong khoảnh khắc, cách xƣng hô cậu tớ thân mật đƣợc
thay bằng thái độ trịnh trọng, khúm núm: “dạ bẩm quan lớn”. Tất cả xuất
29
phát từ nguyên nhân: anh béo đã trở thành hội viên hội tƣ vấn có bậc hai. Hai
con ngƣời thân thiết, mừng rỡ đã trở nên xa cách nhau bởi khoảng cách giữa
các giai tầng khác nhau trong xã hội.
Có thể nói, chính hoàn cảnh xã hội đầy nhiễu nhƣơng đã đặt ra những rào
cản trong quan hệ giữa con ngƣời. Những thói xấu, những tội lỗi của đám
ngƣời kia đều do cái chế độ chính trị bạo tàn gây ra. Câu chuyện Anh béo và
anh gầy không chỉ nực cƣời mà chúng ta còn thấy đƣợc thân phận và nhân
cách nhó bé của anh viên chức quèn trong xã hội.
Viết về những con ngƣời nhỏ bé về mặt nhân cách, A. Chekhov đã tìm ra
nguyên nhân làm cho con ngƣời trở nên bé nhỏ. Ông không lên giọng cao
ngạo đao to búa lớn hay bằng giọng điệu của kẻ dạy dỗ, mỗi truyện của ông
giản dị, tự nhiên mà sức chứa lớn lao. A. Chekhov viết về những con ngƣời
bình thƣờng bằng cách chỉ ra tật xấu đã bào mòn đi chất ngƣời của họ.
Mƣợn nguyên mẫu từ thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp ở những ngày còn học ở
trƣờng phổ thông, Chekhov viết tác phẩm Người trong bao. Hình tƣợng
Belikov tƣợng trƣng cho lối sống của kẻ yếu hèn. Y sống đơn độc nhƣ con
ốc, lúc nào cũng cố thu mình vào trong vỏ. "Ô hắn để trong bao, chiếc đồng
hồ quả quýt cũng để trong bao bằng da hươu; và khi rút chiếc dao nhỏ để
gọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng đặt trong bao;…lúc nào hắn cũng giấu mặt
sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên. Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần,
lỗ tai nhét bông, và khi ngồi lên xe ngựa thì bao giờ cũng cho kéo mui
lên"[9,tr 335-336]. Belikov sợ mọi thứ trên đời: sợ bị dị nghị, sợ bị làm trò
cƣời, sợ bị cắt cổ, sợ bị kẻ trộm chui vào nhà… Và thế là hắn cố thu mình
vào trong vỏ bọc. Cả ý nghĩ của mình hắn cũng cố giấu vào bao. Hắn bao giờ
cũng thấy có cái gì đó mờ ám khó nói, đáng ngờ vực trong việc cho phép làm
điều này điều nọ. Lúc nào hắn cũng sợ “nhỡ lại xảy ra chuyện gì”. Cuộc
sống của Belikov bị bao nhiêu cái “ngộ nhỡ, giá nhƣ” ngăn cản, kìm hãm lối
30
sống tốt đẹp. Đến nỗi hắn sợ cả yêu. Nhƣng sợ nhất vẫn là cấp trên. Y vốn có
tính ton hót, mách lẻo với cấp trên và lúc nào cũng sợ ông hiệu trƣởng, ông
thanh tra. Chỉ cần nghe nói đến ông hiệu trƣởng, ông thanh tra là y đã “tái
mặt”. Luôn sống theo thông tƣ, chỉ thị,bất cứ việc gì hắn thấy không vừa ý là
dọa đi mách ông thanh tra, ông hiệu trƣởng. Belikov yêu cầu khi có mặt hắn
thì không ai đƣợc nói điều gì xúc phạm đến cấp trên. Nỗi sợ hãi cấp trên lây
lan ra cả những ngƣời xung quanh. Trong vòng mƣời lăm năm trời ở thành
phố, do ảnh hƣởng của hắn, dân chúng đâm ra sợ tất cả: sợ nói to, sợ gửi thƣ,
sợ đọc sách, sợ làm quen, sợ giúp ngƣời nghèo, sợ dạy học chữ…Nguồn gốc
của tất cả nỗi khiếp sợ ấy, khiến bó có thể lây lan, chính là tâm lí nô lệ, hèn
nhát phổ biến của tất cả mọi ngƣời, không chỉ Belikov. Và khi hắn chết đi,
cái chết không hề gây cảm xúc xót thƣơng, tiếc nuối cho mọi ngƣời, mà
ngƣợc lại tạo nên sự thỏa thích cho những ngƣời khác. "Từ nghĩa địa trở về,
lòng chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái". Tác phẩm đặt ra vấn đề
có tính nổi cộm, thƣờng nhật và mãi có tính thời sự về lối sống của con
ngƣời. Ngòi bút của Chekhov ở đây đã đụng đến đáy sâu của một nhân cách
méo mó mà vốn không phải là hiện tƣợng hiếm thấy. Nguyên nhân sâu xa có
thể thấy đó là cuộc sống bị bóp nghẹt tự do, dân chủ, cuộc sống tối tăm của
nƣớc Nga dƣới chế độ chuyên chế .
"Một chuyện tình yêu" là câu chuyện về một trí thức mang tâm lí của những
kẻ hèn yếu, luôn sợ hãi những thay đổi, lúc nào cũng quẩn quanh với những
toan tính, đắn đo, " nhỏ nhặt và hồ đồ". Anh ta thầm yêu một phụ nữ đã có
chồng, nhƣng đã bỏ lỡ cơ hội có tình yêu và hạnh phúc. Cuối cùng, một con
ngƣời có học thức đã chấp nhận sống mòn mỏi, vô vị ở một làng quê hẻo
lánh suốt đời.
Tuy không chỉ ra đƣợc lối thoát cho nhân vật, nhƣng A.Chekhov đã thể hiện
thái độ phê phán thói nô lệ, thái độ sợ hãi trƣớc quyền uy của con ngƣời và
31
phủ định cuộc sống tầm thƣờng, tẻ nhạt đang phổ biến trong xã hội lúc bấy
giờ. Từ đó nhà văn đi đến kết luận: “Không thể sống nhƣ thế mãi đƣợc”,
phải tìm cách thay đối cuộc sống dung tục ấy bằng một cuộc sống tốt đẹp
hơn.
2.2 Nhân vật và sức mạnh cứu rỗi
Nhƣ đã nhấn mạnh ngay trong những khái quát ở chƣơng 1, nền tảng đạo
đức của ngƣời Nga là Chính thống giáo. Chính thống giáo in đậm trong tƣ
duy của họ và hình thành nên một cách hình dung về con ngƣời và cuộc
sống, trong đó những giá trị tinh thần, tâm hồn con ngƣời đƣợc đặt cao hơn
hết thảy. Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm của các nhà
văn Nga ta luôn bắt gặp khát vọng hƣớng tới những giá trị tinh thần cao cả,
khát vọng cứu rỗi linh hồn con ngƣời.
A.Chekhov có lẽ là một trong những nhà văn nhìn thấy và miêu tả chính xác
sự lụi tàn trong tâm hồn con ngƣời. Song nhà văn nhìn thấy trong sự lụi tàn
đó, trong tiến trình khô cằn, cạn kiệt đi đó, mỗi cá nhân vẫn mong tìm đƣợc
sự cứu rỗi. Yếu tố làm nên sự cứu rỗi, theo Chekhov là niềm tin và tình yêu.
Niềm tin và tình yêu chỉ có thể chiếu ánh sáng của nó vào tâm hồn mỗi con
ngƣời khi con ngƣời hƣớng đến thực thể tối cao – Chúa. Trong Người đàn bà
có con chó nhỏ, A. Chekhov đã đặt vào trong dòng suy nghĩ của nhân vật
Gurov những suy nghĩ về niềm tin về cuộc sống, “cội nguồn của sự cứu cánh
vĩnh viễn” – đó chính là tình yêu. Trong cái đơn điệu, trong cái lãnh đạm
hoàn toàn đối với cuộc sống và cái chết của mỗi chúng ta có lẽ đã ẩn giấu
cội nguồn cứu cánh vĩnh viễn của chúng ta, quá trình vận động không ngừng
của cuộc sống trên trái đất, sự hoàn thiện không ngừng. Ngồi bên một người
đàn bà trẻ tuổi, mà sớm mai đến lại càng trở nên xinh đẹp, lòng cảm thấy
yên tĩnh và mê say cái cảnh thần tiên của biển trời, mây núi... Gurov nghĩ
rằng, thực ra, nếu suy nghĩ cho thật kỹ, thì sẽ thấy thế giới này vạn vật, trừ
32
những cái mà chúng ta tự suy tưởng và làm ra, đều đẹp đẽ, khi mà chúng ta
quên hết những mục đích cao siêu của cuộc sống, quên hết cái gọi là phẩm
chất của con người mình[10,tr. 393].
Trong rất nhiều tác phẩm, kể cả những vở kịch (Vườn anh đào,Ba chị
em), A. Chekhov nhiều lần nhắc đến niềm tin vào Chúa và sức mạnh
cứu rỗi tâm hồn thần thánh khi giữ được niềm tin đó. Chẳng hạn, ông
mượn lời của Thánh Gregory để nhấn mạnh điều đó: Khi anh ta nhìn thấy
thần thánh và vẻ đẹp vô hạn, và thấy mọi vật, anh ta đồng thời từng bước
khám phá ra những cái mới và kỳ lạ bất ngờ so với những gì anh ta thấy
trước đây, anh ta vượt qua nỗi sợ hãi nhờ những gì trải ra dần dần trước
mắt. Khát vọng nhìn thấy [Chúa] không bao giờ chìm xuống bởi cái mà anh
ta mong chờ đẹp và linh thiêng hơn bất cứ thứ gì anh ta đã nhìn thấy. Là tác
giả của những truyện ngắn đời thƣờng, Chekhov đã sáng tạo nên những trang
viết “Quý giá và tinh vi như những tấm ren, như những chiếc lọ pha lê rất
đựng đủ các hương vị cuộc đời…Vừa thức tỉnh trong con người lòng kinh
tởm đối với cuộc sống tẻ nhạt vừa tăng cường thêm một âm hưởng quý giá
vô ngần và tối cần thiết đối với đời sống chúng ta. Âm hưởng của một tâm
hồn lành mạnh và yêu đời…” ( Gorky).Với tình yêu thƣơng nhân ái bao la,
Chekhov luôn khao khát mong mỏi đánh thức trong lòng ngƣời dân Nga
những phẩm chất tốt đẹp, những nỗi niềm thầm kín, khát vọng hạnh phúc,
tình yêu.
Các nhân vật chủ yếu trong truyện ngắn của Chekhov là đội ngũ trí
thức (bác sĩ, họa sĩ, nhà văn…). Họ âm thầm làm việc, âm thầm cống hiến
công sức, trí tuệ cho cuộc đời,làm thay đổi tại chỗ cuộc sống của bản thân,
gia đình và xã hội, góp phần xây dựng tƣơng lai công bằng, bác ái và nhân
đạo.
33
Nhân vật bác sĩ Dymov trong truyện Người đàn bà phù phiếm là một trí thức
nhƣ thế. Anh là một bác sĩ rất giỏi về chuyên môn, cần cù trong nghiên cứu
khoa học và y học. Cần mẫn, chăm chỉ làm việc tại hai bệnh viện, đồng
nghiệp rất ngƣỡng mộ anh. Họ gọi anh là "Một nhà bác học trẻ tuổi, một vị
giáo sư tương lai như anh cần phải tìm tòi nghiên cứu nhiều." [10,tr 154].
Dymov đã hi sinh cả bản thân vì khoa học, tự nguyện trở thành đối tƣợng thử
nghiệm cho một loại bệnh hiểm nghèo: bệnh yết hầu. Khi nói về cái chết của
Dymov, Coroxchelep- ngƣời bạn đồng nghiệp đã thốt lên : “Thật là một tổn
thất cho khoa học!...Nếu đem ra so sánh anh ấy với chúng ta thì đó là một
người vĩ đại, xuất chúng! Bao nhiêu tài năng! Bao nhiêu hy vọng anh đã đem
lại cho chúng ta. Đó là nhà khoa học mà có đốt đuốc cũng không sao tìm
được"[10,tr 154].
Ngƣợc lại, vợ anh, Onga- một ngƣời đàn bà phù phiếm chỉ thích thú với
nghệ thuật. "Sau bữa ăn, Onga đến chơi nhà bạn rồi đi nghe kịch hay nghe
hòa nhạc, và đến quá nửa đêm mới trở về nhà. Ngày nào cũng vậy"[10,tr
123]. Cô có thú vui là đi làm quen với giới nghệ sĩ, chuyện phiếm và thƣờng
xuyên tổ chức những buổi dạ hội nhỏ tại nhà. Đám bạn bè của cô đến tham
gia vào các trò giải trí, đánh bài, nhảy múa, ngâm thơ, vẽ tranh. Họ đều tỏ ý
coi thƣờng Dymov. Và ngay chính bản thân Onga cũng không hiểu gì về
chồng mình. Cô nói với chồng những lời nghe thật nực cƣời "Dymov, anh
thật là con người thông minh, phúc hậu nhưng anh có một nhược điểm rất
lớn đấy. Anh hoàn toàn không quan tâm đến nghệ thuật, anh phủ nhận cả âm
nhạc lẫn hội họa"[10,tr 123]. Đáp lại ngƣời vợ phù phiếm, Dymov càng
chứng tỏ học thức và tầm hiểu biết của mình "Từ trước đến nay anh chỉ
nghiên cứu khoa học tự nhiên và y học. Anh không còn thì giờ để nghĩ đến
nghệ thuật…Bạn bè của em không biết gì cả về khoa học tự nhiên cũng như
về y học. Tuy vậy anh không thấy em trách móc họ điều gì. Anh không hiểu
34
những bức tranh và các vở ca kịch,…Anh không hiểu, nhưng không hiểu đâu
phải phủ nhận"[10,tr123].
Đối với gia đình, anh là một ngƣời rất yêu thƣơng vợ, tận tụy chăm sóc, đối
xử dịu dàng, đáp ứng mọi yêu cầu của vợ mà không bao giờ kêu ca, phàn
nàn. Cô vợ cứ mải chạy theo những cái phù phiếm không hề quan tâm đến
chồng, chỉ khéo mồm nịnh nọt. Cô ta đi nghỉ ở ngoại ô mà thực chất là đi
đàn đúm, tiêu tiền của chồng, những đồng tiền mồ hôi nƣớc mắt của anh.
Khi anh đến thăm vợ mang theo khá nhiều đồ ăn ngon với nỗi nhớ vợ da
diết. Anh rất đói bụng , mệt mỏi nhƣng nghĩ đến lúc đƣợc ngồi ăn cơm chiều
cùng vợ rồi ngủ ngon lành thì không niềm vui nào tả đƣợc. Nhƣng cô vợ
Onga của anh lại sai anh ngay lập tức phải quay về nhà lấy váy áo cho cô ta
để kịp sáng mai cô đi dự đám cƣới của một ngƣời mới quen. Thật là bỉ ổi,
thô lỗ. Thế mà Dymov vẫn chiều lòng vợ, chỉ kịp uống cốc nƣớc chè và ăn
khoanh bánh mì khô rồi ra ga ngay cho kịp chuyến tàu.
Ngay cả khi biết vợ ngoại tình, anh chỉ buồn mà không hề trách mắng, hay
có cử chỉ nào thô lỗ. Đó là cách ứng xử của một tâm hồn cao thƣợng, một
con ngƣời giàu lòng tự trọng. "Dymov chừng như đoán ra rằng mình đang bị
lừa. Anh không dám nhìn thẳng vào mắt vợ, không dám cười lên sảng khoái
khi gặp nàng…"[10,tr 140] .Và anh sẵn sàng tha thứ cho Onga nếu cô ta biết
chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với anh trong cuộc sống cũng nhƣ trong công
việc. "Nhìn nét mặt rạng rỡ, tràn đầy hạnh phúc của Dymov có thể đoán
được rằng lúc ấy Onga cùng vui cái vui của anh, mừng cho thành công của
anh, chắc Dymov sẽ tha thứ cho nàng tất cả, trong hiện tại cũng như trong
tương lai, anh sẽ quên hết cho nàng; nhưng nàng không hiểu phó giáo sư đại
cương là gì, hơn nữa lại sợ muộn giờ xem hát, vì vậy im lặng không nói năng
gì cả "[10,tr145]. Hết lòng yêu thƣơng, tôn trọng vợ, tận tụy hi sinh vì công
việc, nhân vật Dymov là mẫu hình lí tƣởng, đánh thức những con ngƣời sống
35
vị kỉ, nhỏ nhen, không biết trân quý những gì mà cuộc sống ban tặng.
Nhân vật Yakov trong truyện "Cây hồ cầm của Rothschild" lại khác.
70 tuổi, chuyên nghề đóng quan tài, cả đời ki cóp, làm giàu, cộc cằn, thô lỗ,
hằn học với đời, luôn cảm thấy mình bị thua lỗ, mát mát. Ngay cả với vợ
cũng vậy: "Trong suốt đời ông, ông chưa hề vuốt ve bà, chưa hề thương xót
bà, chưa hề nghĩ tới việc mua cho bà một cái khăn quàng hoặc mang từ một
đám cưới về cho bà chút món ăn ngon; ông chỉ vẫn thường la hét bà, chỉ
trách cứ bà về những vụ thiệt thòi về tiền nong, chỉ nhào vào bà mà giơ cao
nắm đấm…, ông cấm cả bà uống nước trà để đỡ tốn tiền "[11,tr6]. Thế
nhƣng , sau cái chết của vợ, ông rơi vào một cảm giác lo âu mạnh mẽ. Ông
hối hận vì " chưa bao giờ thương xót Marfa. Năm mươi năm họ sống chung
trong vẫn cái nhà bằng gỗ thông này…ông đã có thể không bao giờ nghĩ tới
cũng như không bao giờ để ý tới bà, như thể bà bà chỉ là một con mèo hay
một con chó?" [11,tr 11]. Lão nghĩ về ngƣời vợ suốt bao năm chung sống mà
lão coi không khác gì một nô lệ .Cả cuộc đời sống với vợ, chỉ duy nhất một
lần lão đối xử với vợ nhƣ một con ngƣời. Và cũng là lần cuối cùng trong đời,
ngƣời vợ của lão đƣợc hƣởng tình thƣơng của lão khi lão đƣa vợ đến nhà
thƣơng. Đây là chi tiết gây xúc động cho độc giả. "Chúng tôi xin đa ta tấm
lòng tốt của ông, nhưng mà, xin ông cho phép tôi được nói, con sâu bé nhỏ
nhất cũng muốn sống"[11, tr8]. Ông nói với y tá nhƣ vậy. Và đây nữa "Xin
ông làm phúc giác hơi cho bả- Yakov nài nỉ.- Chính ông cũng biết đấy, ví thử
bả đau dạ dày hay đau bên trong thì mới phải cho uống thuốc bột hay thuốc
giọt, nhưng bả bị cảm lạnh! Thưa ông Maxime Nicolaitch, chữa cảm lạnh thì
chỉ có chích máu, đó là việc đầu tiên phải làm"[11,tr 8]. Còn lại một mình,
lão trở về với kỉ niệm xƣa, những kỉ niệm của quá khứ đƣợc đánh thức với
sự thay đổi tính cách bất ngờ vào giây phút cuối đời Yakov. Trong tâm trí
lão là hình ảnh cây liễu già nua mà thuở xƣa lão cùng vợ và đứa con gái tóc
36
vàng bé bỏng ngồi chơi dƣới gốc, con sông xƣa sầm uất cảnh thuyền bè đi
lại, những cánh rừng bạch dƣơng bát ngát. Và xen vào đó là cảnh hiện tại.
"Tất cả đều trơn lì, bằng phẳng, chỉ có mỗi một cây phong non, mảnh mai
như thiếu nữ… và trên sông, người ta chỉ còn thấy những con vịt và những
con ngỗng; người ta ta khó có thể tưởng tượng rằng khi xưa ở đây có nhiều
thuyền đến thế. Lão chua xót cho cuộc đời mình trôi đi với toàn thất bại,
thua thiệt"[11,tr.13-14]. Cuộc đời ông đã trôi đi chẳng thâu đƣợc lợi gì,
chẳng có chút vui thú nào, ông đã làm hỏng đời ông một cách, chẳng đâu vào
đâu hết. Tƣơng lai không còn lại với ông nữa, và trong dĩ vãng của ông, ông
chỉ thấy những sự thiệt thòi. Yakov đau đớn khi thấy cuộc sống diễn ra vô vị
và tƣơng lai không còn lại với mình nữa." …Tại sao những con người lại
luôn luôn làm cái trái ngược với cái mà họ có bổn phận phải làm?" [11,tr
15]. Bao nhiêu buồn khổ, lão gửi cả vào tiếng đàn. Âm thanh tiếng đàn cảu
ông một nhạc khúc buồn và cảm động đến nỗi nƣớc mắt ông không cầm
đƣợc nƣớc mắt. Càng suy nghĩ, day dứt thì tiếng nhạc của cây hồ cầm càng
buồn thảm. Cây đàn với bản nhạc của Yakov đƣợc trao cho Rothschild-
chàng nhạc công Do Thái vốn bị lão ghét bỏ, nạt nộ lúc sinh thời. Bao nhiêu
cảm xúc, suy ngẫm trƣớc khi chết, lão trút cả vào bản nhạc cuối cùng. Sự say
mê sáng tạo cộng với sự thức tỉnh của inh hồn nhƣ nhập cả cả vào dây đàn.
"Và trong thành phố, bản nhạc mới này thành công đến đỗi những nhà buôn
và những công chức giành giựt nhau gã nhạc sĩ kéo hồ cầm và bắt gã phải
chơi bản nhạc đó đến mười lần liên tiếp" bởi " tiếng đàn của anh u sầu, thê
lương tới mức khiến tất cả những người nghe đều phải khóc"[11,tr 18]. Đó là
bản nhạc của sự thức tỉnh lƣơng tâm, tiếng nhạc của nỗi buồn, của cuộc đời
đầy nỗi buồn thƣơng day dứt.
Với cái nhìn nhân bản sâu sắc, A. Chekhov đã xây dựng những nhân vật có
sức mạnh cứu rỗi tâm hồn tâm hồn từ tình yêu và niềm tin dù chỉ trong suy
37
nghĩ và khoảnh khắc ngắn ngủi.
Một chuyện đùa là tác phẩm có cốt truyện đơn giản nhƣng ý nghĩa vô cùng
sâu sắc. Nadia, một cô gái nhút nhát rất sợ trò chơi trƣợt tuyết bởi "cả khoảng
không gian từ đôi giày cao su nhỏ nhắn đến chân qủa đồi phủ băng này đối
với nàng thật ghê sợ, tưởng như là một vực sâu vô tận" [9,tr 30]. Thế nhƣng,
đƣợc sự động viên khuyến khích của "tôi", Nadia đã ngồi vào xe trƣợt. Trong
nỗi hoảng sợ khi "Chiếc xe lao đi vun vút như một viên đạn. Làn không khí bị
xé ra quật vào mặt, gào rít bên tai dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như
muốn giật phăng đầu ra khỏi vai. Gió ép mạnh, đến nghẹt thở"[9,tr 30]. Nadia
bỗng nghe thấy âm thanh ngọt ngào bên tai "Nadia, anh yêu em". Khi xuống
dốc an toàn, nàng bắt đầu nghĩ ngợi, hoài nghi. Không biết đó là "tôi" nói hay
chỉ là lời của gió." Có phải anh nói ra những lời đó không?...Có hay không?
Đó là một câu hỏi của lòng tự trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnh
phúc"[9,tr 31]. Điều bí ẩn ấy làm Nadia băn khoăn. Mặc dầu rất sợ hãi nhƣng
để tìm câu trả lời, Nadia rủ "tôi" tiếp tục trƣợt tuyết. Hết lần này đến lần khác,
Nadia vẫn nghe âm thanh ấy thì thào bên tai trong nỗi hoảng sợ khi trƣợt từ
đỉnh đồi xuống. Sự nghi ngờ cứ lớn dần lên trong lòng nàng khiến nàng day
dứt không yên. "Điều gì đã xảy ra? Ai nói những lời ấy? Anh ấy hay là chỉ do
ta nghe đƣợc?". Ngọn đồi tuyết phủ trong trẻo là nơi Nadia đƣợc nghe những
lời ngọt ngào nhất. Tại đây, nàng đã đƣợc sống thật là mình, sống với khao
khát và ƣớc mơ cháy bỏng về hạnh phúc. "Chẳng bao lâu sau, Nadia quen
nghe những lời ấy như quen uống rượu, hay dùng morfin”[9,tr 323] nên việc
trƣợt tuyết trở thành thông lệ. Nàng đã chủ động rủ "tôi" đi trƣợt. Mặc dù vẫn
đáng sợ khi lao từ đỉnh đồi vẫn là nỗi sợ bhhaix với Nadia nhƣng" giờ đây
chính cái nguy hiểm, cái kinh sợ đó lại đem đến một cái gì đặc biệt đắm say
cho những lời yêu đương ấy, nhưng vẫn là điều và dằn vặt lòng người như
trước|"[9,tr 332]. Quyết tìm ra bằng đƣợc, nàng mạo hiểm trƣợt một mình.
38
“Trượt xe một mình thật đáng ghê sợ biết bao, ôi, thật đáng ghê sợ! Mặt nàng
tái nhợt, trắng như tuyết,toàn thân run rẩy, nàng bước đi y hệt như đến nơi
chịu án tử hình, nhưng nàng xăm xăm đi, đi, đầu không ngoảnh lại”. Nhƣng
nàng có nghe đƣợc lời ngọt ngào say đắm ấy nữa không , có lẽ chính nàng
cũng chẳng rõ, vì nỗi sợ hãi khi trƣợt tuyết một mình đã làm nàng "không còn
khả năng nghe được, phân biệt được các âm thanh, không còn khả năng hiểu
nữa..."[9,tr. 33]. Có thể thấy, câu nói ngọt ngào đó mãi mãi là điều bí ẩn đẹp
đẽ, đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời buồn tẻ, phẳng lặng sau này của Nadia;
"điều ấy đã trở thành kỷ niệm hạnh phúc nhất, xúc động nhất, đẹp đẽ nhất
tronng đời nàng...". Dù chỉ là một khoảnh khắc nhỏ trong cuộc đời nhƣng lại
có ý nghĩa vô cùng to lớn. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc sẽ nuôi dƣỡng tâm
hồn, giúp con ngƣời sống tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là lòng yêu thƣơng, trân
trọng và niềm tin của nhà văn đối với con ngƣời, đặc biệt là những ngƣời phụ
nữ trong xã hội mà ông sống.
Theo A.Chekhov, con ngƣời mà đặc biệt là tâm hồn con ngƣời dù trong hoàn
cảnh nào cũng có thể đƣợc phục sinh, đƣợc cứu rỗi. Ai là ngƣời mang sức
mạnh cứu rỗi trong thế giới này? Từ phƣơng diện này có thể thấy truyện ngắn
A. Chekhov có mối liên hệ chặt chẽ với truyền thống văn hóa Nga. Trong
Tâm hồn Nga, N.Berdiaev đã nhấn mạnh một đặc điểm rất quan trọng của văn
hóa Nga – tính nữ vĩnh viễn. Theo nhà nghiên cứu, chính bởi “tính nữ” tồn
tại trong tâm hồn, tâm tính, cảm thức nên ngƣời Slav có khả năng lắng nghe
những vang động sâu xa trong tâm hồn. Sức mạnh và vai trò của ngƣời phụ
nữ cũng đã đƣợc nói đến trong Kinh Sáng thế, nhấn mạnh cả khả năng phá
hủy thế giới, cũng nhƣ năng lƣợng tạo dựng thế giới bởi ngƣời phụ nữ, bởi
phụ nữ là ngƣời sinh ra Đấng Cứu thế. Hình ảnh ngƣời phụ nữ với chức năng
cứu rỗi đã trở nên khá quen thuộc trong văn học Nga cổ điển.Đó là Tatyana
39
Larina (Evgenii Onegin) củaA.S. Pushkin, Sonya Marmeladova (Tội ác và
hình phạt) củaF.M. Dostoevsky, Natasha Rostova (Chiến tranh và hòa bình),
Dolly và Kitty (Anna Karenina), Katyusha Maslova (Phục sinh) của
L.N.Tolstoy…Hình ảnh ngƣời phụ nữ truyền thống đó lại tiếp tục trở lại trên
trang văn của A. Chekhov.
Lida trong Ngôi nhà có căn gác nhỏ là chị của gia đình. Đó là một cô gái
rất xinh đẹp với làn da trắng trẻo, với mái tóc màu hung và vẻ mặt luôn
nghiêm nghị. "Lida làm việc ở ủy ban cứu tế, ban ngày thì tiếp những người
bệnh, phân phát sách hoặc che dù đi vào làng, chiều tối thì lại cao giọng nói
chuyện trường sở, chuyện làng nước"[10,461]. Công việc yêu thích mà nàng
tự nhận thấy phải có trách nhiệm đó là giúp đỡ những hoàn cảnh thua thiệt. "
Nàng cầm theo một bản lấy chữ kí yêu cầu trợ cấp cho những người thường
dân vừa bị nạn cháy nhà…nàng kể rất nghiêm trang về việc bao nhiêu nhà
trong làng Xijanops bị cháy, bao nhiêu người dân không còn nơi trú ngụ, và
việc trước tiên phải làm những gì để giúp những người bị nạn"[10,tr 412].
Với tính cách mạnh mẽ, sắc sảo, giàu tham vọng, ham hoạt động xã hội, Lida
cùng những ngƣời trong ban cứu tế xuất hiện rất đúng lúc, mang đến cho
những ngƣời nghèo khổ "trường học, nhà thương". Cô luôn làm việc vì mọi
ngƣời và công lý, và sẵn sàng lớn tiếng thẳng thắn tranh luận để bảo vệ quan
điểm của mình. "Chỉ nói với anh một điều là không thể có thái độ bó tay tay
ngồi nhìn. Thực ra chúng tôi cũng không mong gì cứu vớt được nhân loại và
rất có thể, nhiều lúc chúng tôi sai lầm. Nhưng chúng tôi làm tất cả những gì
có thể làm được và chúng tôi đúng"[10,tr 427]. Cô cũng khẳng định vai trò
của những ngƣời có học là phải giúp đỡ mọi ngƣời. Qua những lời tranh luận
đó, mặc dù có những việc Lida làm chƣa chắc đã chiều lòng tất cả mọi ngƣời
nhƣng dù sao đó cũng là công việc của lòng nhân ái, của tình thƣơng đồng
40
loại.
Trái với cô chị Lida mạnh mẽ quyết đoán, cô em Mixuyt lại vô cùng dịu dàng.
Cô con gái út của gia đình đƣợc mẹ và chị yêu chiều. Nàng trẻ trung, xinh
đẹp, ngây thơ trong trắng. Hàng ngày Mixuyt thƣờng ngồi đọc sách, hái anh
đào về làm mứt hoặc đi hái nấm. Nàng thảnh thơi, nhàn hạ chứ không bận rộn
nhƣ chị. Ngôi nhà có căn gác nhỏ lôi cuốn chàng họa sĩ bởi nếp sống của một
gia đình quyền quý nhƣng không phô trƣơng. Họ sống giản dị,vui vẻ, đầm ấm
và yêu thƣơng nhau. Chính cuộc sống đó cùng với hai cô gái trẻ trung, xinh
đẹp, đáng yêu khiến nhân vật "tôi" luôn có cảm giác nhƣ vừa thấy một giấc
mơ đẹp. Đặc biệt, tâm hồn trong trắng của Mixuyt đã khơi dậy trong lòng
chàng họa tình yêu cuộc sống mãnh liệt. Nếu trƣớc đó anh luôn cảm thấy
luyến tiếc quãng đời đã sống, quãng đời nhạt nhẽo với "trái tim nặng nề và
nhức nhối" thì giờ đây, khi chiếm đƣợc trái tim Mixyut, tình yêu đã khiến anh
thay đổi. "Tôi bỗng khao khát muốn sáng tác chỉ riêng cho nàng thôi...nàng
sẽ cùng tôi làm chủ những hàng cây, những cánh đồng, những đám mây,
những buổi hoàng hôn này...tất cả thiên nhiên kì diệu xinh đẹp này, mặc dù
giữa thiên nhiên xinh đẹp ấy từ trước đến nay tôi vẫn cảm thấy mình thừa và
cô đơn"[10,tr 433]. Đó chính là nhờ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của vẻ
đẹp tâm hồn ngƣời phụ nữ. Mặc dù chàng họa sĩ và Mixuyt phải xa nhau,
nhƣng trong tâm khảm của ngƣời họa sĩ, ánh đèn xanh bên ô cửa sổ đêm nào
đôi lúc hiện về nhƣ đánh thức tình yêu trong anh, và rồi hi vọng anh và
Mixuyt nhất định sẽ gặp lại nhau.
Bên cạnh nhân vật Mixuyt thì ngƣời vợ Manhiusia của Thầy giáo dạy văn
cũng là nhân vật tiêu biểu cho kiểu nhân vật với sức mạnh cứu rỗi. Manhiusia
đã mang lại cho Nikitin một niềm vui sƣớng "Anh cảm thấy vô cùng sung
sướng như mặt đất, bầu trời và ánh đèn trong thành phố..., tất cả như hòa vào
41
trong mắt anh thành một cái gì rất đẹp, rất dịu dàng và anh thấy con ngựa
anh cưỡi đang bơi trong không trung những muốn vươn lên bầu trời đỏ rực vì
ráng chiều"[8,tr 327]. Nikitin là ngƣời "mồ côi nghèo khổ, một thời thơ ấu bất
hạnh, thời thanh niên buồn chán,"[8,tr 350]. Thời sinh viên, anh sống trong
căn buồng rẻ tiền, không ngƣời thân và tƣởng nhƣ không có tƣơng lai. Giờ
đây, tình yêu, sự quan tâm chăm sóc của ngƣời vợ đảm đang hiền dịu làm cho
anh luôn tràn ngập niềm vui trong lòng. Cuộc sống phúc của họ càng nhân lên
bởi sự vun vén của Manhiusia. Nikitin cảm thấy" Những ngày hạnh phúc nhất
của anh bây giờ là chủ nhật và ngày lễ. Khi anh được ở nhà từ sáng đến
chiều...anh sống một cuộc sống ngây thơ nhưng hết sức vui, làm anh nhớ lại
cuộc sống êm ả của mục đồng. Anh không ngừng quan sát xem Manhiusia
khôn ngoan và đảm đang của anh đã xây cái tổ ấm như thế nào..." [8,tr 348].
Cuộc sống của thầy giáo dạy văn có ý nghĩa hơn rất nhiều nhờ ngƣời vợ đáng
yêu đó.
Chịu ảnh hƣởng của tƣ duy và cảm thức Chính thống giáo, con ngƣời Nga
luôn hƣớng đến hành trình sáng tạo một cuộc sống tốt đẹp hơn – cuộc sống
với sự bình yên trong tâm hồn. Trong tác phẩm "Nhà tu hành vận đồ đen",
thạc sĩ Andrey Vaxilich Kovrin do làm việc quá căng thẳng mỏi mệt đã
quyết định về thôn quê, làng Borixovka nghỉ ngơi. Tại đây, đƣợc sống trong
không khí dễ chịu của thiên nhiên tƣơi đẹp và đặc biệt là trong tình cảm cảm
ấm áp của cha con cụ Petotsky(Egor Xemionyt). Anh đƣợc cha con cụ yêu
mến và coi nhƣ ngƣời thân thiết. Đã từng đƣợc cụ Petotsky đỡ đầu, dạy dỗ.
Trong con mắt cụ , Kovrin là một "nhà học giả, một con người siêu phàm;
anh đã tự tạo ra cho mình con đường công danh rực rỡ"[10,tr 282]. Vì yêu
quý anh nên nhà ông cụ có khá nhiều ảnh của Kovrin. Với Tanhia, anh là
ngƣời đáng ngƣỡng mộ. Mỗi lần Kovrin đến thăm gia đình đã nuôi dƣỡng
42
anh, có thể thấy anh nhƣ một luồng không khí mới mẻ xua đi những buồn
chán ở chốn này. Tanhia đã tâm sự với Kovrin "Anh Andriussa, cảm ơn anh
đã đến đây. Những người quen của gia đình chúng tôi ở quanh đây tẻ lắm
mà cũng chẳng nhiều nhặn gì…Suốt đời, suốt cả đời, chúng tôi chỉ quanh
quẩn trong vườn cây, thậm chí chưa bao giờ tôi nằm mê thấy gì khác ngoài
táo và lê. Điều đó tất nhiên là tốt thôi, cũng có ích lợi, nhưng mà đôi khi
cũng muốn có cái gì khác cho nó đỡ đơn điệu. Tôi còn nhớ những lần anh về
đây nghỉ hè hay chỉ về chơi thôi, trong nhà như có gì tươi hơn, hệt như lớp
vải phủ các giá đèn treo và ghế đệm được cất"[11,tr 283]. Rõ ràng, sự xuất
hiện của anh có ý nghĩa to lớn với cha con Tanhia.
Và trong những ngày tháng về nghỉ ở khu vƣờn nhà cụ Petotsky, một bƣớc
ngoặt trong cuộc đời đã đến với anh. Là ngƣời làm vƣờn rất say mê công
việc, ông cụ luôn luôn lo lắng sau khi mình mất đi không biết ai sẽ thay mình
tiếp tục chăm sóc khu vƣờn. "Tất cả bí quyết thành công không phải ở chỗ
khu vườn này rộng và có đông người làm công , mà là ở chỗ là tôi yêu công
việc này- anh có hiểu không?- tôi yêu công việc này còn hơn cả yêu bản thân
mình…Tất cả bí quyết là ở tình yêu đối với vườn cây, tức là con mắt thạo
nghề tinh tường, ở đôi tay khéo léo…Thế mà khi tôi chết rồi thì ai sẽ trông
coi vườn cây thay tôi?" [10,tr293]. Bao trăn trở cụ Egor tâm sự với Kovrin
và mong muốn một điều, chính anh là ngƣời sẽ thay cụ, anh sẽ trở thành con
rể cụ để giúp cụ quản lí khu vƣờn. Phải rất yêu quý, tin tƣởng Kovrin thì cụ
Egor mới có ý định ấy. "Tôi yêu mến anh lắm và sẽ chẳng giấu giếm anh
điều gì,…Tôi muốn nói rõ ra rằng: anh là người duy nhất mà tôi có thể gả
con gái tôi không phải lo ngại gì. Anh là một người thông minh, một con
người có tâm hồn và chắc anh chẳng để cho sự nghiệp yêu quý của tôi bị mai
một. Và nguyên nhân chủ yếu là tôi thương yêu anh như con đẻ"[10,tr. 294].
Kovrin trở thành nơi gửi gắm niềm tin, là ngƣời giúp cho cụ Egor tìm ra lối
43
thoát để cụ có thể thanh thản sống những năm tháng tuổi già. Khi nghe anh
nói về mối quan hệ thân tình sẽ dẫn đến hôn nhân với Tanhia "cụ Egor
Xêmionyt đi đi lại lại rất lâu trong phòng cố che giấu niềm xúc động của
mình"[10,tr 306]. Còn Tanhia thì sao. Cô cũng vui sƣớng hạnh phúc vô cùng
"Tanhia cảm thấy như tình yêu và hạnh phúc bất ngờ đã choán lấy cuộc đời
nàng,…Có lúc một niềm vui lớn bỗng trào dâng trong lòng nàng và nàng
muốn bay lên trời cao và nguyện cầu thượng đế…"[10,tr 307]. Có thể thấy,
đối với cha con Tanhia, Kovrin đã mang đến một niềm an ủi động viên, một
ân huệ lớn.
Ngoài ra, có những truyện ngắn, nhà văn miêu tả những khía cạnh trái với
lƣơng tâm đạo lí. Qua đó nhà văn hƣớng ngƣời đọc đến cái chuẩn mực, cái
đẹp hài hòa mà con ngƣời cần vƣơn tới, cần hƣớng thiện; con ngƣời cần sống
có đạo đức và lí tƣởng.
Trong “ Khóm phúc bồn tử", nhân vật Nicolai Ivanyt, một viên chức xoàng
ở sở thuế vụ mơ ƣớc có một trang chủ riêng, thèm đƣợc ăn trái cây hái từ
vƣờn nhà. Nicolai nhịn ăn, nhịn mặc, dành dụm từng đồng lƣơng trong hàng
chục năm liền và cuối cùng cũng đƣợc toại nguyện- tậu đƣợc một trang trại ở
đó trồng những khóm phúc bồn tử. Nicolai cảm thấy sung sƣớng, hạnh phúc
khi ăn quả phúc bồn tử- niềm hạnh phúc của kẻ lấy miếng ngon và tổ ấm làm
lí tƣởng. Anh ta "ngấu nghiến " ăn, " nước mắt lưng tròng" và liên tục hít
hà" ngon quá, a ngon quá". Đêm đến, anh ta trằn trọc không ngủ đƣợc, chốc
lại trở dậy, bƣớc ra chỗ bàn đặt đĩa phúc bồn tử nhặt từng quả đƣa lên miệng.
Một viên chức nghèo rụt rè đã lột xác thành một điền chủ với cuộc sống đầy
đủ, no nê và nhàn rỗi." Tôi bước lại gần ngôi nhà, đi ngược về phía tôi là
một con chó lông màu vàng sẫm, béo phục phịch như lợn…Tôi vào phòng
người em trai , anh ta ngồi trên giường, chăn phủ kín chân. Trông chú ấy già
đi , người béo bệu trắng nhợt, má mũi và đôi môi cứ chẩy ra”[10,tr 336].
44
Thay đổi cả ngoại hình lẫn tâm tính, anh ta cho rằng hạnh phúc của một kẻ
thành đạt là phải làm điều thiện thật nhiều hơn nữa. Tất cả điều đó làm tăng
tính hợm hĩnh tự phụ trong con ngƣời nhân vật. “ Hôm nay ngài địa chủ béo
bự lôi đến nhà hội đồng hương chính bắt vạ những người nông dân vô ý để
ngựa ăn lúa, thế mà hôm sau, vào ngày lễ, ngài ấy đã đem đặt giữa sân một
thùng rượu lưng lưng, và những người nông dân xúm vào uống, miệng kêu
gào tung hô ông chủ, say mềm phủ phục dưới chân người làm phúc"[10,tr
337].
Chỉ bằng vài chi tiết đặc sắc, ấn tƣợng, nhà văn cho ngƣời đọc thấy
Khóm phúc bồn tử đã thức tỉnh lƣơng tâm con ngƣời. "Các vị hãy thử nhìn kĩ
vào cuộc đời này: sự ti tiện, nhàn hạ của những kẻ có quyền thế và sự u mê
lam lũ như súc vật của những người bị trị, chung quanh là cảnh nghèo khổ
đến cùng cực, chật chội, rượu chè, nghiện ngập, đạo đức giả, dối trá…thế
mà trong tất cả các ngôi nhà, trên tất cả mọi đường phố đều im lặng, yên
tĩnh. Trong cả số năm vạn người sống trong thành phố không có lấy một
người nào thét to lên giận dữ”[10,tr 339].
Khát vọng suốt đời của Nicolai Ivanyt là những trái phúc bồn tử đƣợc
trồng trong vƣờn nhà. Anh ta đã đạt đƣợc mục tiêu cuộc sống- một cuộc
sống nhàn hạ, no đủ, lƣời nhác, đê tiện của kẻ có quyền thế, một cuộc sống
gò bó, ích kỉ. Quả phúc bồn tử tƣợng trƣng cho hạnh phúc nhỏ nhoi của cuộc
sống vật chất tầm thƣờng mà Nicôlai đã suốt đời khao khát. Lên án cuộc
sống đó đồng nghĩa là nhà văn đã khẳng định cuộc sống tự do. Qua đó, nhà
văn cũng hƣớng ngƣời đọc vƣơn tới một cuộc sống cao đẹp, có lí tƣởng, vì
hạnh phúc của mọi ngƣời. Đó mới thực sự là cuộc sống có ý nghĩa.
2.3 Nhân vật đang trong cuộc hành trình
Nhƣ chúng tôi đã trình bày trong chƣơng 1, ngƣời Nga với mạch
45
nguồn tinh thần là tƣ tƣởng Chính thống giáo luôn hƣớng đến “vẻ đẹp trí tuệ
của thế giới tinh thần”, luôn nhận thấy thế giới này không hoàn thiện và cần
vƣơn đến những cái hoàn hảo. Từ cách tƣ duy nhƣ vậy, các nhà văn Nga và
đặc biệt là Chekhov khi xây dựng nhân vật luôn đặt họ trong các hành trình,
hành trình đó chủ yếu là hành trình trong tƣ tƣởng, hƣớng đến sự hoàn thiện
vẻ đẹp tâm hồn, hoặc phục sinh tâm hồn vốn đã già cỗi, đã héo tàn. Thực
chất hành trình đó phần nào phản ánh cổ mẫu vốn tồn tại trong Chính thống
giáo: “thử thách - tìm thấy”. Tất nhiên, nhiều nhân vật của A. Chekhov có
thể phải nhận lấy cái chết, nhƣng điều quan trọng là nhà văn đã miêu tả rất
chân thực một hành trình đổi thay trong tƣ tƣởng của họ, thậm chí đôi khi,
cái chết nhƣ một sự thức tỉnh.
Mỗi truyện ngắn của A.Chekhov là một cuộc hành trình đi tìm nhân phẩm.
Nhà văn luôn quan tâm đến chất nhân bản trong con nguời. Ông đi sâu khám
phá tâm hồn nhân vật, phát hiện ra những xung đột, mâu thuẫn, giằng xé nội
tâm của họ ngay giữa đời thƣờng. Muốn con ngƣời sống có ý nghĩa hơn thì
cách tốt nhất là cho họ thấy hoàn cảnh sống tăm tối, bế tắc của họ, phải đánh
thức trong họ nỗi chán nản trƣớc hiện thực cuộc sống. Từ đó họ sẽ khao khát
vƣơn tới một chân trời rạng rỡ hơn. Đó là những con ngƣời luôn tự ý thức
bản thân, họ mang bi kịch tinh thần, giàu hoài bão, luôn phải đối diện với
chính mình, trăn trở tìm kiếm con đƣờng thoát khỏi cuộc sống dung tục, tầm
thƣờng, vô nghĩa. Nhân vật trải qua quá trình tầm thƣờng hoá rồi chống lại
nó, sau đó là sự nhận thức và thức tỉnh. Và khi nhân vật dám nhìn thẳng, chỉ
trích những thói hƣ tật xấu cũng là lúc họ khao khát đƣợc thay đổi, đƣợc
vƣơn lên.
Raghin trong truyện Phòng số 6 là biểu hiện của thói bàng quan viên chức.
Ông đƣợc phân công về làm giám đốc ở một bệnh viện mà vốn cái xấu xa,
độc ác đã lộ nguyên hình. Ở nơi đó, ngƣời quản lý, mụ thủ kho, viên y tá
trƣởng chỉ lo ăn bớt của bệnh nhân. Nhƣng với bản tính hiền lành, nhu 46
nhƣợc, “lại không có đủ nghị lực và lòng tin vào chính nghĩa” để đấu tranh
chống lại cái ác." Bác sĩ Raghin có một thái độ dửng dưng đối với những
chuyện rối ren trong bệnh viện"[10,tr 175]. Thay vào đó, ông để mặc ngƣời
ta làm điều ác trong cơ quan mình phụ trách, chấp nhận sống chung với cái
ác. Dần dần, Raghin thấy mệt mỏi. Từ một bác sĩ làm việc rất chăm chỉ, ân
cần nhiệt tình, "ông tiếp bệnh nhân từ sáng đến trưa, tự tay mổ xẻ lấy, lại
còn thân hành làm công việc hộ sinh nữa…"[10,tr 176], ông trở nên chây ì,
chán việc "vì thấy nó đơn điệu và rõ ràng là vô ích"[10,tr 176]. Ông có thái
độ lãnh đạm, vô trách nhiệm, thờ ơ trƣớc những cái ác đang hoành hành
xung quanh. Ông bắt đầu không đến bệnh viện thƣờng xuyên nữa mà ở nhà
ngồi một mình trong phòng đọc sách và nhắm rƣợu với dƣa chuột muối. Ông
còn bao biện cho thái độ vô trách nhiệm của mình bằng tƣ tƣởng: “Kẻ chịu
trách nhiệm về sự bất lương của mình không phải là mình mà là thời đại”
[10,tr 188]. Trong cơn buồn chán, Raghin tìm thấy sự đồng cảm với một
bệnh nhân tâm thần tên là Gromov. Anh này sống trong nhà thƣơng điên bẩn
thỉu hôi hám cùng với năm bệnh nhân khác. Raghin đã phát hiện ra Gromov
là con ngƣời rất thông minh, có trí tuệ, đáng mến. Ông cảm thấy "Trong suốt
thời gian mình ở đây hình như đây là người đầu tiên có thể nói chuyện được.
Anh ta biết suy luận và quan tâm đến đúng vấn đề cần quan tâm"[10,tr 197].
Vì vậy, ông tìm cơ hội để trò chuyện với Gromov. Thế nhƣng điều đó khiến
mọi ngƣời cho rằng ông có vấn đề về tâm thần và cƣỡng chế nhốt ông trong
nhà thƣơng. Ông sực tỉnh nhận ra cái nơi mà ngƣời ta vốn gọi là nhà thƣơng
điên thực chất là một nhà tù khủng khiếp. Cuối cùng, chính Raghin cũng trở
thành một nạn nhân chung số phận với những nạn nhân khác của Phòng số 6,
và chết một cách đau đớn. Bác sĩ Raghin là kiểu nhân vật bất bình với cuộc
sống bức bối ngột ngạt, tù túng. Đó cũng chính là hành trình của con ngƣời
47
đi tìm lối thoát với hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trong Nhà tu hành vận đồ đen, Chekhov viết về một kiểu viên chức có lối
sống giàu ảo tƣởng, ngỡ mình là tài năng xuất chúng đến nỗi đẩy cuộc sống
của chính mình rơi vào bi kịch. Tự cho mình là tài năng vĩ đại, Korvin lấy
làm thú vị với cái đặc quyền hơn ngƣời là có thể nói chuyện với thế lực siêu
nhiên. Kết quả anh đã không làm đƣợc gì và mắc chứng vĩ cuồng. Thất vọng,
chán nản với bản thân, Korvin cũng chán ghét và căm giận những ngƣời thân
đã yêu mến và chiều chuộng anh. Bản thân cha con Tachiana cũng hoàn toàn
thất vọng với Korvin và quay lƣng lại với anh khi thấy anh chỉ là con ngƣời
bình thƣờng. Quan hệ của họ tan vỡ là kết quả của những ảo tƣởng quá xa
vời. Chỉ ra nguyên nhân của quan hệ tan vỡ ấy, Chekhov còn muốn lên án
môi trƣờng đã dung túng, nuôi dƣỡng cho ƣớc mơ hão huyền của con ngƣời.
Nếu Korvin trong Nhà tu hành vận đồ đen chết vì bệnh tật, vì thất vọng,
buồn chán với chính bản thân mình thì Lexinhitxki trong Một chuyến công
vụ chết vì lối sống ăn chơi sa đọa. Đƣợc thừa hƣởng một gia tài lớn từ ngƣời
cha bất chính, Lexinhitxki đã vung tay tiêu pha, mắc nợ lung tung, rồi học
hành cũng chẳng đi đến đâu. Tâm lí của kẻ kiêu căng, hợm hĩnh, thất thế đã
làm cho anh ta xa lánh mọi ngƣời xung quanh. Cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt
đã làm cho Lexinhitxki rơi vào chán nản bế tắc. Không tìm thấy lối thoát nào
cho cuộc đời, kết cục Lexinhitxki đã chọn đến cái chết để kết thúc những
tháng ngày vô nghĩa của mình. Đó là biểu hiện của cuộc sống lay lắt, cũ
mòn, sống mà nhƣ chƣa từng sống.
Cũng trong Một chuyến công vụ, thẩm phán Lygin cùng quan đốc Xtarsenko
về làng Xyrnhia để khám nghiệm tử thi. Anh ngủ đêm ở ngôi nhà công cộng
của làng, cũng là nơi có xác chết của kẻ tự sát. Anh đƣợc biết chuyện
Lexnhitxki tự sát vì buồn chán, vì bất hạnh và bế tắc. Còn những con ngƣời
nghèo khổ nhƣ ngƣời mõ làng Ilia Losađin phải làm việc vất vả suốt 30 năm,
48
không một ngày nghỉ mà vẫn bị mọi ngƣời khinh rẻ hắt hủi. "Làm gì có
chuyện kiếm thêm được tiền! Mấy ông nhà giàu bây giờ khó tính, hay cáu
gắt lắm.Đem giấy tờ đến cũng gắt, bỏ mũ trước mặt các ông cũng găt.khi thì
mắng là đồ say rượu, người toàn mùi hành, khi thì gọi là đồ ba hoa, chó
đẻ"[10,tr 365]. Qua những điều mắt thấy tai nghe về sự thật cuộc sống của
những con ngƣời lao động nghèo khổ, anh đã thức tỉnh và nhận ra rằng
những ảo tƣởng, mơ ƣớc về cuộc sống ở Matxcơva với anh bây giờ không
còn ý nghĩa nữa. "Và anh cảm thấy rằng, vì cái chết tự sát kia, cùng nỗi khồn
khổ cuả ông mõ già, anh cũng phải gánh chịu phần trách nhiệm; thật là
khủng khiếp nếu anh sẵn sàng chấp nhận rằng những con người ấy, cam
chịu với số phận, sẽ chuốc lấy cho mình tất cả những gì là nặng nề cay đắng
trong cuộc đời"[10,tr 379]. Trong anh phần nào đã ý thức đƣợc cần phải thay
đổi cuộc sống tẻ nhạt, nghèo nàn này bằng một cuộc sống hoàn toàn khác.
Ở “Người đàn bà phù phiếm”, sự thức tỉnh mà Chekhov hƣớng đến có
phần cay đắng, chua chát, nặng nề. Với bản chất phù phiếm, Onga lại mải
mê tìm lí tƣởng cuộc đời những nơi xa xôi mà không biết rằng có một con
ngƣời tuyệt vời đang ở bên cạnh mình và yêu cô một cách thực lòng. Sống
bên ngƣời chồng giản dị, "không có gì nổi bật", cô không ý thức đƣợc rằng
chồng mình là một con ngƣời vĩ đại, một tính cách phi thƣờng với những
phẩm chất tốt đẹp. Cô lao vào những cuộc tình phù phiếm. Lúc chia tay với
tình nhân cũng là lúc cô vĩnh viễn mất đi ngƣời chồng yêu quý. Cô mất tất
cả và đã quá muộn "Những bức tường, trần nhà, ngọn đèn và tấm thảm trên
sàn…tất cả như cười giễu Onga, tất cả như muốn nói rằng" Bỏ lỡ rồi! Bỏ lỡ
rồi!" 10,tr. 155]. Cuối cùng Onga rơi vào những dằn vặt, day dứt khôn
nguôi. Sống bên chồng, cô không biết trân trọng những gì tốt đẹp mà mình
có. Đến khi mất tất cả, cô mới nhận thấy giá trị đích thực và ý nghĩa tình yêu
của chồng. Qua đó, cô cũng thấy rõ bản thân mình hơn, nhận thức đƣợc tính
49
chất phù phiếm của cái gọi là tình yêu mà cô theo đuổi. Hành động cuối
cùng là Onga vừa khóc vừa chạy bổ ra…lao vào phòng làm việc của chồng
và gọi to" Dymov" mong muốn đƣợc chuộc tội với anh thì Dymov đã vĩnh
viễn ra đi. Tác giả vừa phê phán nhân vật, vừa thức tỉnh ngƣời đọc: con
ngƣời hãy nhìn nhận cuộc đời và những ngƣời xung quanh mình sâu sắc hơn,
nghiêm túc hơn.
A.Chekhov cũng hƣớng ngòi bút đến những nhân vật muốn thoát khỏi
cuộc sống tẻ nhạt, tù túng và khao khát kiếm tìm một cuộc sống có ý nghĩa
với hạnh phúc đích thực. Trong "Người đàn bà có con chó nhỏ”, nhân vật đã
chiến thắng những ngột ngạt bế tắc của sống, đƣợc sống đúng là mình.Tác
phẩm toát lên không khí tẻ nhạt, bức bối trong cuộc sống của các nhân vât.
Đó là Gurov– một con ngƣời bình thƣờng, chƣa đầy 40 tuổi, có một con gái
12 tuổi, một bé trai đã đi học ở trƣờng, anh lấy vợ từ khi còn là sinh viên
năm thứ hai… Anh là sinh viên khoa văn, có tâm hồn nghệ sỹ nhƣng lại làm
việc tại một ngân hàng. Gurov sống bên cạnh một ngƣời vợ học đòi, tâm hồn
khô cứng, anh chán nản. Trong cuộc đời, anh có “nhiều mối tình bãi biển”
tầm thƣờng, chóng vánh. Nhƣng khi gặp Anna, ngƣời phụ nữ có chồng là
một công chức ăn lƣơng,tát cả đã thay đổi. Tình yêu chân thành của Anna,
tình yêu của ngƣời phụ nữ luôn có khát khao có đƣợc một cái gì tốt đẹp hơn
trong cuộc sống đã đánh thức trái tim Gurov. Anh nhận ra tất cả các cảm
giác ghẻ lạnh dai dẳng ở chính quá khứ của mình, anh nhận ra cuộc sống
công thức tẻ nhạt, những mối tình vô nghĩa, rắc rối vấn vƣơng trong cuộc đời
anh.
Anna Xergheevna, một phụ nữ xinh đẹp, kín đáo, rụt rè và giàu lòng
tự trọng. Cuộc sống của nàng khá đầy đủ nhƣng nàng chƣa bao giờ cảm thấy
hạnh phúc. Chồng nàng không khác gì một kẻ nô bộc. Vẻ nô bộc toát lên từ
50
dáng đi, cái đầu, từ chiếc huy hiệu ông ta đeo. "ngồi xuống cạnh nàng, là
một người còn trẻ, râu quai nón thanh, dáng người rất cao và hơi gù gù. Mỗi
bước đi, anh ta lại gật đầu xuống, có cảm tưởng rằng anh ta luôn cúi đầu
chào. Chắc đó là chồng nàng, người mà trong những phút giây cay đắng ở
Yanta, Anna Xergheevna đã gọi là một người nô bộc. Thực ra, trong cái
dáng người dài ngoẵng, bộ râu quai nón và cái trán hơi bị hói cũng có vẻ
ngoan ngoãn, nhún nhường. Anh cười ngọt ngào, bên dưới cổ áo, chiếc cổ
áo, chiếc huy hiệu chứng nhận bằng cấp nào đó lấp lánh trông hệt số đeo
của người hầu phòng"[10,tr 402]. Sống bên cạnh con ngƣời ấy, Anna luôn
dằn vặt, day dứt khôn nguôi về lẽ sống, về số phận chính con ngƣời mình.
“Tôi xấu xí, tôi là một phụ nữ thấp hèn, tôi tự khinh mình và không mong đợi
gì bào chữa cả,“ tôi không thể làm chủ mình được nữa”, đã “trở thành một
người đàn bà tầm thường, rẻ rúng mà ai cũng có thể khinh bỉ được”[10,tr
391]. Và nàng đau đớn nhận ra rằng “ Chưa bao giờ tôi được sống hạnh
phúc và cả bây giờ cũng đang bất hạnh và sẽ không bao giờ được sống hạnh
phúc, không bao giờ”[10,tr 404]. Cuộc gặp gỡ giữa Gurov và Anna
Xergheevna tại bờ biển Yanta không ai ngờ đó lại là cuộc gặp đánh dấu sự
nảy tình yêu ở hai ngƣời. Cả hai đã tìm thấy ở nhau sự hấp dẫn kì lạ. Mặc dù
đã có gia đình, song họ đến với nhau say mê thắm thiết nhƣ chƣa từng bao
giờ đƣợc yêu. Lúc này, nàng mới cảm thấy đƣợc sống với con ngƣời thật của
mình, đƣợc yêu, đƣợc giận hờn, cƣời khóc, đƣợc hạnh phúc và đau khổ.
"Nàng và anh yêu nhau tha thiết như những người rất gần gũi, gắn bó với
nhau, như vợ như chồng, như những người bạn âu yếm. Họ có cảm tưởng
rằng chính số mệnh đã tạo họ ra cho nhau, và họ không thể hiểu rằng làm
sao mà anh lại có vợ và nàng lại có chồng. Họ như hai con chim trời cùng
đàn, một con trống, một con mái, cùng bị bắt và nhốt vào hai cái lồng khác
nhau. Họ tha thứ cho nhau tất cả những gì mà họ cảm thấy ngượng ngùng
51
khi hồi tưởng lại quá khứ, tha thứ tất cả những gì xảy ra trong hiện tại và
cùng cảm thấy rằng mối tình này đã làm thay đổi hắn cả hai
người"[10,tr408]. Nhƣng có lẽ ngƣời thay đổi nhiều nhất chính là Gurov bởi
trong suốt những năm tháng trai trẻ của mình, anh đã làm cho biết bao ngƣời
phụ nữ ngộ nhận về tình yêu của anh dành cho họ. "Và bởi thế không một ai
trong bọn họ cảm thấy hạnh phúc bên anh.Thời gian trôi đi, anh làm quen
với phụ nữ, gần gụi họ, rồi lại rời xa, nhưng chưa bao giờ yêu; có tất cả mọi
điều duy nhất chỉ có tình yêu là chưa đến"[10,tr 408]. Gurov ban đầu đến với
Anna chỉ là một trong những thử nghiệm nhƣ bao mối tình bãi biển chóng
vánh của anh, nhƣng sau này nhờ tình yêu chân thành của Anna đã đánh thức
trái tim khô cằn nơi anh "chỉ đến bây giờ, khi trên đầu anh tóc đã bắt đầu
bạc, anh mới yêu, yêu thực sự chân thành- lần đầu tiên trong cả đời
mình".[10,tr 408]. "… Khi Gurov nhìn nàng, trái tim anh bỗng thắt lại, anh
chợt hiểu rằng, giờ đây, trên thế giới này, đối với anh không còn ai gần gũi
hơn, thân quý hơn, quan thiết hơn người phụ nữ này…Người đàn bà nhỏ
nhắn không gì nổi bật ấy giờ đây đã choán hết cả cuộc đời anh, đã là niềm
vui, nỗi khổ của anh, là hạnh phúc duy nhất mà anh hằng mong ước bấy
lâu". Cả hai dƣờng nhƣ đều có chung một quyết định là từ bỏ tất cả để đến
với nhau bởi “họ cảm thấy chính số mệnh đã tạo họ ra cho nhau”. Nhƣng dù
vậy họ vẫn chƣa biết sẽ phải làm gì để thoát khỏi cảnh phải lẩn trốn lừa dối
mọi ngƣời. Sức mạnh tình yều nhƣ giúp họ tìm đƣợc lối thoát "Có cảm giác
chỉ một lát nữa thôi không cần nhiều lắm, là lối thoát sẽ được tìm ra, và lúc
ấy, một cuộc đời hoàn toàn mới, thật đẹp đẽ sẽ đến; nhưng cả hai người đều
thấy rõ rằng còn xa lắm , xa lắm mới đến ngày kết cục, và những gì rắc rối
nhất, khó khăn nhất mới chỉ bắt đầu"[11, tr 503]. Cả hai vẫn đang trong hành
trình đi tìm hạnh phúc, đi tìm ý nghĩa cuộc sống.
Có thể thấy thông qua cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên này, Chekhov muốn
nói tới vấn đề có ý nghĩa thời đại: Con ngƣời cần phải đƣợc sống đầy đủ cả 52
thể chất lẫn tâm hồn. Con ngƣời ở bất cứ thời đại nào cũng vƣơn tới gạt bỏ
những què quặt tâm hồn.
Khát vọng tự do, hạnh phúc của con ngƣời không bao giờ có giới hạn.
Để đạt đƣợc khát vọng đó thì có biết bao con đƣờng. Nadia trong " Người
vợ chưa cưới" đã tìm cho mình một con đƣờng đi riêng. Là cô gái trẻ đẹp đã
đoạn tuyệt với lối sống trƣởng giả, nhƣ mọi cô gái khác khi bƣớc vào tuổi
thanh xuân, cô cũng mơ ƣớc và khao khát hạnh phúc lứa đôi. Cô đã từng mơ
lấy chồng từ năm mƣời sáu tuổi, và bây giờ, khi hai mƣơi ba tuổi là lúc
chuẩn bị kết hôn. Andrey, một chàng đẹp trai, biết chơi vĩ cầm là vị hôn phu
tƣơng lai. Ngày cƣới đến gần nhƣng một biến cố đã rẽ ngoặt cuộc đời Nadia
theo hƣớng khác. Xaxa, anh họ của Nadia đã chỉ cho cô thấy rằng cuộc sống
nhàn hạ của cô không có gì tốt đẹp cả, có khi còn xấu xa, vô đạo đức. Qua
những gì ngƣời anh nói, khi nghĩ đến tƣơng lai mai sau, đến cuộc nhân
duyên: lấy chồng, sinh con, bế cháu…cuộc sống nhàn hạ, chật hẹp, tù túng,
Nadia hình dung ra cảnh sống của bà, của mẹ: sống vô tích sự. Nàng thấy ớn
lạnh, chán chƣờng về đoạn đời tẻ nhạt, vô vị đang đợi nàng, và cuộc đời trẻ
trung xinh đẹp của nàng sẽ qua đi vô ích. Chính vì vậy, trƣớc ngày cƣới ít
lâu, Nadia bỏ nhà lên Thủ đô, đoạn tuyệt với quá khứ, nàng bắt đầu một cuộc
đời mới và trở thành con ngƣời khác hẳn. " Nadia hay đi dạo chơi trong
vườn, ngoài phố, cô ngắm nhìn các ngôi nhà, những hàng rào xám xịt, cô có
cảm tưởng rằng mọi cái trong thành phố này đã già cỗi từ lâu, đã lỗi thời và
đang đón đợi hoặc là sự kết thúc hoặc là sự mở đầu một cái gì đó trẻ trung,
tươi mới"[11,tr 622]. Trƣớc những gì cô cảm nhận đƣợc, Nadia ao ƣớc cuộc
đời mới, rạng rỡ,tự do, tƣơi vui ấy rồi sẽ đến nếu ta nhìn thẳng vào số phận
mình, biết nhận ra lẽ phải. Cô Nadia xinh đẹp đã can đảm rũ bỏ quá khứ, từ
bỏ cuộc hôn nhân, tìm cho mình một tƣơng lai sáng sủa hơn. Lời ngƣời anh
họ cứ vang bên tai "Khi cô thay đổi cuộc sống của mình thì tất cả sẽ thay 53
đổi- điều chủ yếu là thay đổi cuộc sống, mọi thứ còn lại không
cần"[11,tr.616]. Nhân vật Nadia không chỉ nhận ra đƣợc bộ mặt thật của
cuộc sống mà còn tìm ra hƣớng đi cho riêng mình. Quá trình đấu tranh, tự
phê phán cũng có nghĩa là con ngƣời đang từng bƣớc hƣớng về một cuộc đời
mới tốt đẹp hơn. Đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc và sức lay động của
mỗi truyện ngắn của A.Chekhov.
Tiểu kết:
Qua các kiểu nhân vật của A. Chekhov có thể thấy rằng, nhà văn
mong muốn từ những con ngƣời rất đỗi bình thƣờng, từ hiện thực sống
sƣợng, thô ráp, từ những ngóc ngách tuế toái của hiện thực chỉ ra vẻ đẹp bên
trong, khát vọng cứu rỗi và vƣơn tới những giá trị tinh thần cao cả của con
ngƣời Nga. Truyện ngắn của A. Chekhov, thông qua các nhân vật, thể hiện
khá rõ sự chi phối của tƣ duy Chính thống giáo và những đặc trƣng căn cốt
nhất của bản sắc văn hóa Nga: khát vọng hƣớng tới sự hài hòa bình yên, tính
nữ vai trò cứu thế của ngƣời phụ nữ, con ngƣời và hành trình tìm kiếm chân
54
lý trong tƣ tƣởng và đạo đức…
Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC NGA TRONG TRUYỆN NGẮN A.
CHEKHOV NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN KHÔNG GIAN
3.1 Không gian làng quê và thiên nhiên Nga
Thiên nhiên của đất nƣớc Nga đi vào trang văn của Chekhov vừa tƣơi
thắm, thuần hậu, vừa lãng mạn, trữ tình, lại vừa mang nét riêng, nó tạo nên
bản sắc và sức hấp dẫn kì lạ. Một điều dễ nhận thấy trong bức tranh thiên
nhiên của Chekhov là phong cảnh thảo nguyên.Thảo nguyên bao la rộng lớn
của nƣớc Nga dƣờng nhƣ luôn là hình ảnh có sức lôi cuốn kỳ diệu đối với
tâm hồn phóng khoáng và dào dạt chất thơ của các nghệ sĩ. Trong đó, thảo
nguyên trở thành hình tƣợng nhân vật chính, đƣợc nhà văn tái hiện lại với
dòng cảm hứng say sƣa, với những ấn tƣợng dạt dào. Không gian mà các
nhân vật của Chekhov mơ ƣớc là một không gian tƣơi đẹp. Cái đẹp ấy
thƣờng gắn với thiên nhiên đất nƣớc, với tƣơng lai .
Đến với vùng “Thảo nguyên” hoang dã xa xôi, với những con ngƣời
hàng ngày hàng giờ sống cùng thiên nhiên, tác giả dựng lên một thảo nguyên
miền Nam nƣớc nga đầy chất thơ qua sự cảm nhận của chú bé Yegoruska.
Những tâm tƣ, quá khứ, hoài niệm và những con ngƣời bình dị nhƣ miền
thảo nguyên; những câu chuyện cổ tích, những con ngƣời bên bếp lửa với
cuộc sống mộc mạc giản dị, chân thật và phong phú tạo nên một không gian
rộng lớn và vô cùng đẹp đẽ, sinh động. Bắt đầu là hình ảnh của " một cánh
bình nguyên rộng mênh mông có một dãy đồi vắt ngang chen chúc nhau,
nhấp nhổm nhòm qua vai nhau, mấy ngọn đồi này dần dần nhập lại thành
một hàng chạy dài từ vệ đường bên phải cho đến tận chân trời mất hút trong
khoảng không màu tím nhạt;"[9, tr 122]. Tiếp theo đó, khung cảnh thiên
nhiên làng quê thanh bình, gần gụi hiện ra " một dải nắng rộng màu vàng rực
55
trườn đi trên mặt đất…và đột nhiên cả cảnh thảo nguyên rộng mênh mông
cởi bỏ tấm chăn tối mờ mờ của buổi sáng sớm, mỉm cười và bắt đầu phô ra
muôn vàn giọt sương sớm long lanh"[9,tr 122]. Một cảnh tƣợng thân thuộc,
bình yên tạo cho con ngƣời một niềm vui ấm áp. Những cánh đồng tiểu
mạch đã gặt xong, những đám cỏ dại, những bụi gai, những khóm đay dại-
tất cả đều sém đi vì nắng, ngả sang màu hung hung nâu và nhƣ chết dở,
nhƣng giờ đây, đƣợc làn sƣơng mai tắm gội và đƣợc ánh nắng vuốt ve, đã lại
hồi sinh để nở hoa trở lại. Kì diệu nhất ở đây có lẽ là thế giới âm thanh riêng
của thảo nguyên, đó là những âm thanh đặc trƣng đòi hỏi sự lắng nghe bằng
tất cả tâm hồn. "Trên mặt đường, những con chim "ông lão" cất tiếng hót
tươi vui bay qua vun vút; trong đám cỏ, mấy con chuột nhảy gọi nhau, và xa
xa đâu về bên trái, có tiếng nức nở của mấy con chim dẽ mào. Một đàn chim
cun cút hoảng sợ trước chiếc xe ngựa cất cánh bay vụt lên và trong tiếng vỗ
cánh rào rạo mềm mại rủ nhau bay về phía dãy đồi. Trong đám cỏ, châu
chấu, cào cào, dế mèn, xén tóc thi nhau kéo dài điệu nhạc rả rích đơn điệu
của chúng. và trong tiếng vỗ cánh rào rạo mềm mại rủ nhau bay về phía dãy
đồi"[9,tr 122]. Những âm thanh này đem đến cho thảo nguyên một thế giới
của sự sống trong chiều sâu của nó.
Trong tác phẩm, cùng với cuộc hành trình của cậu bé chín tuổi Yeoruska,
thảo nguyên đƣợc Chekhov miêu tả trong sự khám phá toàn vẹn, đầy đủ. Nó
hiện lên sinh động, chi tiết trong từng góc độ không gian, trong từng thời
điểm thời gian. Không chỉ rộng, sự mênh mông không cùng đến rợn ngợp
của thảo nguyên còn đƣợc cộng hƣởng bởi tầm cao: "Bầu trời úp lên trên
cánh thảo nguyên không có rừng và núi cao trông sâu thẳm và trong suốt
đến phát sợ lên, tất cả bây giờ đều có vẻ vô cùng vô tận"...
Vẻ đẹp của thảo nguyên không chỉ lộ diện dƣới ánh nắng mặt trời chói chang
ban ngày mà dƣờng nhƣ còn đẹp kì diệu và đầy bí ẩn hơn khi thảo nguyên ẩn
mình trong bóng đêm. Lúc này, dù không còn tiếng chim hót,không có 56
hƣơng thơm của hoa nhƣng thảo nguyên vẫn đẹp đẽ vô cùng. Trong bóng tối,
thảo nguyên sống với cuộc sống riêng của mình, trong vẻ tĩnh lặng mơ hồ
của nó đều đang chứa đựng những khoảnh khắc sống thiêng liêng của sinh
linh vạn vật, đó là âm thanh của cỏ "những âm thanh rộn rã, tươi vui và trẻ
trung mà ban ngày không hề nghe thấy" đó còn là "tiếng kêu đứt quãng, lo
lắng của một con chim đang thức", là "tiếng một con cười khanh khách hay
khóc lên nức nở" là "tiếng kêu của một con chim đang thao thức hay đang
mê ngủ gì đấy bây giờ vang lên mau hơn giữa tiếng lách tách đơn điệu, khua
động làn không khí im lìm" và âm thanh râm ran của côn trùng …Tất cả đều
là những âm thanh rất khẽ khàng và rất đỗi mơ hồ của vạn vật. Thảo nguyên
về đêm còn sống trong làn không khí của cuộc sống yên bình "thoang thoảng
mùi rơm rạ, mùi cỏ khô và mùi hoa nở muộn, những mùi hương ấy nồng
đậm, ngòn ngọt và dịu dàng".
Nhƣ vậy có thể thấy, dù là dƣới ánh nắng ban ngày hay trong sự tĩnh lặng của
bóng đêm, thảo nguyên ở đây đều đƣợc hiện lên trong vẻ đẹp toàn vẹn và sinh
động của nó. Thảo nguyên của A.Chekhov không chỉ đƣợc miêu tả bởi sự
mênh mông vô tận, ở vẻ đẹp tự nhiên của sự sống, mà ở đó còn tiềm tàng bao
nguồn sinh lực mạnh mẽ, lớn lao. Con ngƣời đứng trƣớc sự bao la, hùng vĩ
của thiên nhiên để suy ngẫm về quê hƣơng, đất nƣớc, hơn nữa là để đối chứng
thực tại cuộc sống của chính mình, ý nghĩa và mục đích tồn tại của cuộc sống
ấy ra sao, có lẽ cũng là điều mà A.Chekhov muốn gửi gắm qua hình tƣợng
thảo nguyên của mình. Thảo nguyên của A. Chekhov, do đó không đơn thuần
là sự rộng lớn, khoáng đạt, là vẻ đẹp hoang dã của thiên nhiên mà cao hơn
nữa nó là thế giới của sự sống trong đó chứa đựng cái nhân loại lớn lao, ở đó
con ngƣời có thể tìm thấy ý nghĩa đích thực cho cuộc sống của mình.
57
Bên cạnh đó là khung cảnh thiên nhiên với những hình ảnh quen thuộc của
một cuộc sống nông thôn yên ả, bình dị " những con chim mỏ nhát vừa bay
tung tăng vừa kêu líp nhíp và những con vịt khịt khịt qua lỗ mũi. Trời nắng
gay gắt và những ánh phản chiếu lấp lánh trên mặt nước làm quáng mắt…
Trước mặt ông vươn lên một cây liễu lớn rất già, thân mở toác và đầy những
tổ quạ..."[11,tr 13]. Đứng trƣớc khung cảnh thanh bình ấy, nhân vật nhƣ
sống giữa quá khứ và hiện tại. Trong kí ức của nhân vật, khung cảnh thiên
nhiên của quá khứ là rừng phong rộng lớn với rừng thông già trên ngọn núi
xa. Nhƣng giờ đây chỉ còn mỗi một cây phong non. Tất cả đã lùi xa mờ dần
giống nhƣ những gì quý giá nhất tuột khỏi tầm tay con ngƣời.
Đọc truyện ngắn Chekhov, ta còn bắt gặp hình ảnh một làng quê trong khe
núi, một trang trại nhỏ xinh của một điền chủ, một khu vƣờn ƣơm cây xinh
đẹp. Những hạt bụi tuyết nhỏ trắng xóa bay bay vƣơng lên tóc ngƣời, bài hát
buồn buồn tuyệt diệu vọng từ phía sau nhà thờ một làng quê nhỏ trong buổi
chiều măt trời lặn. Một vài ánh sao mờ lấp lánh trên mặt hồ trong một đêm
yên tĩnh, những căn nhà nhỏ với ánh đèn mục đồng đều đƣợc tác giả miêu tả
tinh tế. " Nếu nhìn từ trên cao xuống thì làng Ucơleevo có một vẻ đẹp đẽ, yên
tĩnh với những rặng liễu, ngôi nhà thờ quét vôi trắng và dòng sông nho
nhỏ…Ở sườn dốc bên kia nổi lên những đám lúa mạch đen, những đống,
những bó rải rác chỗ này chỗ kia như vừa bị bão lốc quăng quật tứ tung, chỉ
những đám lúa mới cắt đã nằm thành hàng thành lối, lúa kiều mạch cũng đã
chín, lúc này đang lấp loáng như xà cừ. Đang giữa ngày mùa." [11,tr564].
Và trong không gian làng quê quen thuộc của nƣớc Nga ta bắt gặp nếp sinh
hoạt rất đời thƣờng của ngƣời nông dân Nga ." dân làng vẫn đang lũ lượt từ
chợ phiên Cadan kéo về. một đám các bà, những người làm nhà máy đội mũ
lưỡi trai mới, những kẻ hành khất, đám trẻ nhỏ…Một xe ngựa chạy qua, bụi
cuốn mù mịt, kéo theo phía sau con ngựa chưa bán được…; một con bò cái
58
bị buộc sừng dắt đi cứ bướng bỉnh cưỡng lại, một xe ngựa chở đám mugic
say rượu. Một bà già dắt thằng bé đội mũ to vành, đi đôi ủng rộng. Thằng bé
mệt lử vì trời nóng nực lại phải tha đôi ủng nặng trịch khiến đầu gối nó cứ
cứng đơ nhưng nó vẫn lấy hết hơi hết sức thổi liên tục cái kèn nhỏ" [11,tr
565].
Khu vƣờn của gia đình cụ Petotsky trong Nhà tu hành vận đồ đen đã từng
đem đến cho Kovrin thời thơ ấu một ấn tƣợng diệu kì nhƣ trong truyện cổ
tích "… Ở đấy có những cây ăn qủa xếp thành hàng độc đáo, cây lê hình
chóp nón như cây tùng, cây sồi, cây bồ đề tán lá hình cầu, cây táo hình cái
ô, cây mận kết thành cổng chào, kết thành chữ cái đầu tiên của tên họ, thành
hình giá đèn treo…Ở đấy còn thấy những thân cây trắc, thẳng như thân cọ,
chỉ sau khi nhìn kĩ thì mới biết đó là cây phúc bồn tử…"[10,tr 280]. Đó là
nhờ tài năng và lòng say mê công việc của chủ nhân khu vƣờn. Trong bức
tranh tuyệt đẹp thanh bình đó, vui mắt nhất là hình ảnh những ngƣời lao
động miệt mài. Họ đi chầm chậm "như kiến bò, kẻ đẩy xe cút kít, người cầm
thuổng, cầm bình tưới nước..."[10,tr 280].
Một không gian khác trong truyện ngắn của Chekhov là không gian trang ấp.
Trang ấp trong nhiều truyện gắn liền với vẻ đẹp thiên nhiên và văn hóa, nó
luôn là nơi hấp dẫn và lôi cuốn con ngƣời. Đây là khung cảnh thiên nhiên
trong Khóm phúc bồn tử: mạn bờ sông, những hàng cây liễu rũ, những trang
ấp và nếu đứng trên đỉnh ngọn đồi thì từ đó có thể nhìn thấy cả cánh đồng
rộng lớn. Phía ấy có những bãi cỏ mênh mông… những cây dƣơng, khu
vƣờn, những mái ngói đỏ, một đầm nƣớc rộng gần bên cối xay gió và một
nhà tắm quét vôi trắng. Những hình ảnh đó gợi lên một cái gì quen thuộc,
gần gũi trong cuộc sống của ngƣời nông dân Nga.
Trong Ngôi nhà có căn gác nhỏ "Mặt trời đã khuất bóng, để lại
những ánh vàng trên ruộng lúa mì đang trổ bông. Hai hàng cây thông già,
59
cao lớn mọc gần nhau, như hai bức thành chắn ngang, làm thành một con
đường tối mờ mờ ảo ảo…Chung quanh vắng lặng, mặt trời đã tối rồi, chỉ
còn đây đó trên những ngọn cây cao một ít ánh mặt trời rung rinh vàng chói,
toả màu ngũ sắc lên những mạng nhện. Mùi hương lá bay ngào ngạt
…Chung quanh tôi là cảnh một trang trại quyền quý có chiếc hồ rộng với
bến tắm. Hàng liễu xanh ngả mình bên mặt nước yên lặng, và bên kia bờ là
một xóm nhỏ có tháp chuông cao vút, cây thánh giá trên đó còn đỏ rực lên
phản chiếu ánh mặt trời chiều"[10,tr.411]. Một cảnh tƣợng có sức quyến rũ
quen thuộc khiến nhân vật nhƣ đƣợc thấy lại cảnh niên thiếu. Trên nền cảnh
thiên nhiên đó, cuộc sống thanh bình êm đềm trội đi với nét sinh hoạt văn
hóa đặc trƣng khiến cho nhân vật tôi luôn bị cuốn hút, anh cảm thấy tâm hồn
thanh thản nhẹ nhõm biết bao khi hàng ngày hàng giờ đƣợc hòa vào không
khí đó. "…những buổi sớm mùa hạ ấy bao giờ cũng có một vẻ quyến rũ lạ
thường. Khi vườn cây xanh còn đọng sương óng ánh dưới mặt trời rạng rỡ
sớm mai, khi những đóa hoa mộc lan và liễu diệp đào tỏa ngát hương thơm
bên nhà và hai cô thiếu nữ vừa đi lễ nhà thờ về quây quần bên ấm trà nóng
trong vườn, khi biết tất cả những người ăn mặc đáng yêu, khỏe mạnh trẻ
trung xinh đẹp ấy, suốt ngày sẽ chỉ chơi đùa vui vẻ, những lúc ấy người ta
chỉ muốn cuộc đời lúc nào cũng được như thế"[10,tr411].
Có thể thấy dƣới ngòi bút của Chekhov, làng quê Nga đẹp dịu dàng,
êm ái . Cảnh vật hiền hòa gợi nên những nét văn hóa rất riêng của nƣớc Nga
thời Chekhov sống.
3.2 Không gian thành thị và hành trình khám phá thế giới của con ngƣời
Nga
Cuộc sống trong phần lớn tác phẩm của Chekhov diễn ra ở các thị trấn
tỉnh lẻ: hoang tàn, buồn tẻ, những đƣờng phố vắng vẻ những ngôi nhà thấp
60
phủ đầy bụi, những con ngƣời mơ màng ngái ngủ, sống im lìm, bất động,
không làm gì, không quan tâm đến vấn đề gì. Nhƣng bên cạnh đó không
gian thành thị xuất hiện nhƣ một sự nối dài hành trình nhân vật. Chính ở
không gian thành thị nhân vật thực hiện hành trìnhkhám phá thế giới. Đặc
điểm này gắn liền với đặc tính của con ngƣời Nga – con ngƣời thích lãng
du, con ngƣời đang trong cuộc hành trình.
Thành phố Matxcơva hào nhoáng với đủ thứ ánh sáng, màu sắc rực rỡ
của áo quần, đèn chụp, những buổi vũ hội, những toan tính, danh vọng, địa
vị của cả một giới quý tộc Nga : "Từ nhà người thợ may, Onga thường hay
đến gặp một nữ diễn viên quen biết nào đó để xem chương trình biểu diễn có
gì mới không hay là để lấy vé xem những buổi diễn đầu tiên các vở kịch mới,
hay là những đêm kịch nhằm ủng hộ một diễn viên nào đó. từ nhà nữ diễn
viên, nàng thường đi đến xưởng họa của một họa sĩ nào đó, hoặc đi xem
triển lãm tranh rồi rồi tới nhà một nhân vật nổi tiếng để mời họ đến chơi nhà
nhà mình…"[10, tr 122]. Đó là Onga trong Người đàn bà phù phiếm. Nhân
vật luôn di chuyển từ nơi này đến nơi khác để tìm kiếm niềm vui, thỏa mãn
lối sống ích kỉ xa hoa." Như năm trước, trình tự của cuộc sống vẫn chẳng có
gì đổi thay. Hàng tuần vào tối thứ tư, Onga vẫn tổ chức những buổi dạ hội.
Nghệ sĩ thì ngâm thơ, các họa sĩ thì vẽ tranh, nhạc sĩ xello vẫn kéo đàn, nhà
danh ca vẫn hát…Onga vẫn đi tìm những người nổi tiếng như xưa, tìm rồi
vẫn chưa được thỏa mãn, lại tìm nữa. Đêm đêm nàng vẫn trở về nhà rất
muộn"[10,tr144]. Và rồi, trong hành trình đó, Onga bừng tỉnh khi mà những
gì nàng cất công đi tìm chỉ là xa hoa phù phiếm, còn thứ quý giá nhất đời
nàng, ngƣời chồng yêu thƣơng nàng chân thành ở ngay bên cạnh khi nàng
nhận ra thì đã quá muộn." Nàng bỗng cảm thấy thương Dymov đến quặn
lòng, thương mối tình vô bờ bến của anh đối với nàng, cuộc đời trẻ trung
của anh…Nàng nhớ lại nụ cười bình dị, ngoan ngoãn, hiền lành của
61
anh…Onga cay đắng òa lên khóc…"[10,tr149].
Xuất hiện trong buổi vũ hội cùng chồng, Anya trong Huân chương
Anna nhị đẳng đã chính thức gia nhập giới quí tộc thƣợng lƣu. Đặt chân vào
tòa nhà của hội đồng quý tộc, bắt đầu tiếp xúc với một thế giới khác thế giới
mà nàng đã từng sống, đó là thế giới của những con ngƣời sang trọng "những
chiếc áo khoác lông, những người đầy tớ trong nhà lăng xẩng vào và những
bà mặc áo hở vai tay cầm quạt che gió lùa; không khí sặc mùi hơi thắp đèn
và mùi lính tráng. Khi Anya khoác tay chồng bước lên thang gác, bắt đầu
nghe thấy tiếng nhạc và trông thấy hình ảnh toàn thân mình phản chiếu
trong tấm gương khổng lồ rực rỡ dưới ánh sáng của vô số ngọn đèn, trong
tâm hồn nàng bừng tỉnh cái cảm giác vui mừng và mối linh cảm hạnh phúc
mà nàng đã thể nghiệm đêm nào trên sân ga xép, dưới ánh trăng …Và lần
đầu tiên trong đời nàng cảm thấy mình giàu có và tự do. Ngay sự hiện diện
của ông chồng cũng không làm cho nàng thấy ngượng ngập, vì khi bước qua
ngưỡng cửa nhà hội đồng nàng đã nhờ bản năng mà đoán ngay ra được
rằng sự có mặt của ông chồng già ở bên cạnh không những không giảm bớt
giá trị của nàng , mà còn phủ lên nàng tấm màn sương huyền bí đầy sức
khêu gợi xưa nay vẫn có sức quyến rũ lạ lùng đối với đàn ông"[10,tr251].
Đó là dấu mốc đánh dấu sự biến đổi con ngƣời Anya. Từ một cô gái hiền
lành, một cô vợ luôn sợ sệt khi đứng trƣớc mặt chồng, Anya đã hoàn toàn
thành con ngƣời khác mà nàng còn ngỡ ngàng vì nó diễn ra nhanh quá sức
tƣởng tƣợng." …nàng đứng ngẩn người ở giữa gian phòng khách , bàng
hoàng, ngây ngất, không dám tin rằng cuộc chuyển biến trong đời nàng,
cuộc chuyển biến diệu kỳ ấy lại diễn ra một cách chóng vánh như vậy;"[11,
tr 424]. Bắt đầu từ đó, Anya bận rộn với những buổi du ngoạn, những tối
xem biểu diễn và thƣờng về nhà rất khuya. Nàng cứ thoải mái tiêu tiền của
chồng cho thú vui của riêng mình. Những buổi ghé thăm cha và em cũng
62
thƣa dần. Thật không ngờ cuộc sống phong lƣu trƣởng giả ngấm vào Anya
nhanh chóng đến vậy. Môi trƣờng sống đã biến đổi con ngƣời nhƣ thế đó.
Anya cũng giống nhƣ bao cô gái khác lúc ấy. Sống trong môi trƣờng thành
thị, họ dễ bị cuốn đi trong dòng chảy chung của xã hội.
Một không gian khác cũng mở ra trƣớc mắt độc giả với nhiều suy
ngẫm. Cuối tác phẩm Thảo nguyên cũng là cuối cuộc hành trình của chú bé
Yeoruska. "Đoàn xe đỗ trên một chiếc cầu lớn bắc qua một con sông rộng. Ở
phía dưới, trên mặt sông bốc lên một làn khói đen và qua làn khói có thể
trông thấy một chiếc tàu thuỷ kéo một chiếc xà lan. Trước mặt, bên kia sông,
sừng sững một quả núi lớn, nham nhở nhiều màu , rải rác những mái nhà và
những giáo đường, dưới chân núi, một cái đầu máy xe hoả chạy giữa đám
toa chở hàng…"[9, tr 214]. Một không gian hoàn toàn mới lạ, không gian
thành thị mà chú bé Yegoruska chƣa bao giờ trông thấy. " Nhưng bây giờ,
nhìn các thứ đó, nó không thấy sợ, không lấy làm lạ. Trên gương mặt nó
thậm chí không có chút gì giống như một sự tò mò"[9, tr 214]. Chú bé đã
dần trƣởng thành khi cùng đoàn ngƣời trải qua một hành trình dài ngày trên
thảo nguyên bao la. Một đứa trẻ phải quen dần với cuộc sống tự lập khi
không có ngƣời thân ở bên.Cuộc sống ấy sẽ giúp chú bé trƣởng thành rất
nhiều, tƣơng lai tƣơi sáng sẽ mở ra trƣớc mắt chú." Bây giờ con cứ ăn cứ
chơi đi, rồi mai kia sẽ đi học. Con phải học cho chăm chỉ siêng năng, cho nó
thành người…con phải học sao cho hiểu rõ mọi điều…Khi nào học đã thành
thạo mọi môn rồi, con sẽ đi làm việc. Biết đủ mọi môn thì làm việc gì cũng
thế"[9, tr 219-220]. Đó là lời cha Khristophor dặn dò chú bé trƣớc khi chia
tay. Một cuộc đời mới mở ra đối với chú bé "Yegoruska có cảm giác là cùng
với hai người ấy, tất cả những gì nó từng sống qua, đều đã vĩnh viễn tan biến
đi như khói; nó buông mình ngồi phịch xuống chiếc ghế dài và khóc nức nở
63
để đón chào cuộc sống mới, chưa từng biết, vừa bắt đầu đối với nó… Cuộc
sống ấy rồi sẽ ra sao?" [9, tr. 277]. Một hành trình mới đi tìm tri thức mà mẹ
chú bé và mọi ngƣời mong mỏi sẽ giúp chú thay đổi cuộc đời.
3.3 Không gian ngôi nhà – nơi trở về của con ngƣời Nga
Có thể thấy không gian trong những tác phẩm của A.Chekhov chủ yếu
là những không gian khép kín quen thuộc nhƣ ngôi nhà, trang ấp, không gian
gợi lên cuộc sống đầm ấm, ở đó con ngƣời tìm đƣợc sự bình yên nhất. Cũng
nhƣ rất nhiều nhà văn Nga (A. Pushkin, N. Gogol, L.Tolstoy, M.Bulgakov,..),
A. Chekhov khi tạo dựng không gian và mô hình thế giới cũng hƣớng đến cặp
đối lập ngôi nhà – thế giới bên ngoài. Cách tạo dựng này có gắn liền với thế
giới quan Chính thống giáo – coi ngôi nhà là nơi để trở về, là không gian yên
ấm, còn thế giới bên ngoài đầy những cạm bẫy và nỗi lo sợ.
"Sau những ngày dài sống trong căn phòng thênh thang trống rỗng
với những hàng cột lớn, tôi thấy một cảm giác là lạ khó tả khi được ngồi
trong ngôi nhà xinh xắn ấm cúng…". Trong không gian của Ngôi nhà có căn
gác nhỏ, nhân vật tôi" bỗng cảm thấy như mình bị quyến rũ bởi một cái gì
hết sức quen thuộc, gần gũi, tưởng như thấy lại những cảnh thời niên
thiếu"[10,tr411]. Xung quanh "ngôi nhà trắng xóa có hàng hiên và căn gác
nhỏ" là khung cảnh tuyệt đẹp" một trang trại quyền quý có hồ rộng với bến
tắm. Hàng liễu xanh ngả mình bên mặt nước yên lặng…"[10,tr 411]. Nhân
vật tôi hay lui tới căn căn nhà này hơn không chỉ bởi không gian khoáng đạt
mà sự lôi cuốn anh chính là những ngƣời sống tại đó. "Chúng tôi chơi trò
roket và đánh tennit. Ở đó, đối với tôi, tất cả như đều toát ra một cái vẻ gì
trẻ trung, trong trắng, nền nếp…Thật là một gia đình hoàn mĩ, một gia đình
trí thức." [10,tr415]. Đó là một gia đình giàu có nhƣng quanh năm sống ở
nông thôn. Ông bố đã mất, chỉ còn bà mẹ và hai cô con gái. Bà mẹ rất hiểu
64
biết khi tiếp khách là một họa sĩ, bà luôn làm cho anh ta vui bằng những câu
chuyện về hội họa. Cô chị Lida tham gia công việc xã hội ở ban cứu tế. Đó là
một cô gái nhanh nhẹn, hoạt bát và có cá tính. Còn cô em Mixuyts ngây thơ
trong trắng rất thích đọc sách. Cả nhà họ yêu thƣơng nhau và rất mến khách.
Nhân vật tôi, ngƣời họa sĩ cũng chiếm đƣợc cảm tình của mẹ con bà chủ nhà
(tất nhiên là trừ Lida): " Và khi hai ba ngày tôi không đến chơi, bà đã cho
người đến hỏi xem tôi có bị ốm đau gì không. Bà cũng trầm trồ nhìn ngắm
những tiểu phẩm tôi vẽ và như Mixuyt, cũng huyên thuyên hồ hởi kể mọi
chuyện cho tôi và nhiều lúc tin cậy đem kể cả những chuyện riêng trong
nhà"[10,tr421]. Chàng họa sĩ từng cảm thấy đời buồn chán, đơn điệu, luôn
không bằng lòng với mình, anh ta nghèo túng, lang thang nay đây mai đó,
nhƣngkhi đến gia đình bà Pavlopna, cảm nhận tình cảm gia đình đầm ấm,
anh ta vui sƣớng vô cùng. Ngôi nhà đã chiếm lĩnh một góc tâm hồn anh "Tôi
đứng lặng trầm ngâm giây lát rồi quay lại để nhìn một lần nữa ngôi nhà…
ngôi nhà đáng yêu, thơ ngây cổ kính, ngôi nhà hình như đang nhìn tôi bằng
những cửa sổ của căn gác nhỏ và hiểu lòng tôi tất cả"[10,tr434]. Tình yêu
thƣơng, sự quan tâm lẫn nhau, lòng hiếu khách, nếp sinh hoạt thƣờng ngày
trong ngôi nhà ấm cúng khiến nhân vật cảm thấy khoan khoái. Đó là khoảng
thời gian đáng nhớ, khoảng thời gian vô cùng ý nghĩa của chàng họa sĩ .
Onga Ivanopna trong Người đàn bà phù phiếm là ngƣời phụ nữ luôn
quan tâm đến nghệ thuật do đó cách bài trí trong ngôi nhà của cô cũng thật
đặc biệt: "Trong phòng khách, Onga treo gần kín tường đủ các thứ
tranh…Bên cạnh chiếc đàn dương cầm nàng để đủ các thứ ô Trung Quốc,
giá vẽ, dao găm,tượng bán thân, các tấm ảnh chụp, những tấm vải sặc sỡ
…trông thật vui mắt. Trong phòng ăn, nàng gắn lên tường những tấm tranh
khắc gỗ, treo mấy chiếc dao quắm, dựng những cái cào và cái hái trong góc
nhà; những cái áo đã đem lại cho căn phòng một phong thái rất Nga. Trong
phòng ngủ nàng cố bài trí thành một cái hang: trên tường và trần nhà nàng 65
căng những tấm vải dày đen sẫm, phía bên giường ngủ nàng treo một cái
đèn kiểu Vơnidơ, trước cửa ra vào dựng một hình người tay cầm lưỡi rìu cán
dài . Mọi người đều nhận rằng đôi vợ chồng trẻ ấy có một căn nhà rất ấm
cúng"[10,tr121-122]. Đó là ngôi nhà hạnh phúc của vợ chồng Onga- Dymov
khi họ mới cƣới nhau. Cuộc sống bình yên trôi đi. Hàng ngày Dymov đến
bệnh viện làm việc, Onga cũng có công việc của mình. Nàng đi đến hiệu
may, xem triển lãm, gặp gỡ giới nghệ sĩ mà cô ngƣỡng mộ. Thật may mắn
cho Onga khi có một ngƣời chồng thông minh, đôn hậu, yêu thƣơng vợ chân
thành. Bản thân Onga cũng rất yêu và tự hào về chồng mình. Trong tổ ấm
hạnh phúc đó, Onga cảm nhận đƣợc sự giản dị, lành mạnh khỏe khoắn của
chồng khiến nàng vô cùng sung sƣớng. Đó là những ngày hạnh phúc trong
tháng trăng mật. Onga vô cùng lo lắng, buồn rầu khi chồng không may bị lây
bệnh từ bệnh nhân. "Đêm nào nàng cũng khấn trời, và cũng may mà mọi sự
đều qua đi một cách trót lọt. Và cuộc sống hạnh phúc, thanh bình của họ lại
êm đềm trôi đi, không gợn chút buồn rầu,lo lắng. Hiện tại đã đẹp đẽ thế
nhưng tương lai lại càng diễm lệ hơn vì mùa xuân đang tới,- mùa xuân đang
mỉm cười từ đằng xa và hứa hẹn trăm nghìn điều sung sướng. Hạnh phúc sẽ
kéo dài vô tận"[10,tr126]. Đáng lẽ ra Onga phải nhận ra điều đó. Nhƣng vì
mải chạy theo những thú vui phù phiếm mà Onga đã đánh mất tất cả. Sau tất
cả những thú vui khiến cho Onga quên mất ngƣời chồng hiền lành tốt bụng,
nàng lại “tưởng tượng ra mình khi thì ở phòng khách, khi ở trong phòng ngủ,
khi thì ở trong phòng làm việc của chồng… đến cảnh nàng ngồi yên bên
Đymov và an hưởng cái cảm giác sạch sẽ, yên tĩnh trong chính mình”[10,tr
134]. Dù sao, ngôi nhà có ngƣời chồng đôn hậu mãi sẽ là tổ ấm của Onga
nếu cô tỉnh ngộ.
Khác với ngôi nhà của những ngƣời trẻ tuổi sống ở thành thị, ngôi nhà
của cụ Petotskytrong Nhà tu hành vận đồ đen đồ sộ lắm, có những hàng cột 66
lớn chạy dài, những hình nổi sư tử quét vôi trắng, có người hầu mặc áo đuôi
tôm chầu chực sẵn ở lối vào. Một vườn hoa có từ lâu đời… trông nghiêm
nghị, đường bệ, kéo dài gần một dặm từ nhà ra đến bờ sông dựng thành vách
đất sét cao trên mặt nước, ở đấy có những rặng thông rễ nổi hẳn lên xương
xẩu như những bàn tay sù sì; phía dưới là dòng nước hững hờ, lãnh đạm trôi
xuôi, từng đàn sếu bay ngang qua, tiếng kêu buồn bã; đặt chân đến chỗ này
dường như bao giờ cũng có tâm trạng muốn ngồi lại một lát và viết những
bài ca huyền thoại"[10,tr 278-279]. Đây là ngôi nhà của một ngƣời làm vƣờn
khá giả nên kiến trúc toàn bộ không gian thể hiện rõ dấu ấn chủ nhân. Trong
không gian thơ mộng lãng mạn đó, con ngƣời nhƣ đang đƣợc sống ở một thế
giới thần tiên chứ không phải trong đời thực. Không phải ngẫu nhiên mà
Andrey Vasillich Kovrin lại quyết định về đây nghỉ chơi sau những ngày làm
việc căng thẳng, mệt mỏi. Bởi vì, nơi đây Kovrin đã có những tháng ngày
đƣợc cụ Petotsky đỡ đầu dạy dỗ. Những năm tháng thơ ấu sống cùng gia
đình cụ Petotsky là những ngày hạnh phúc với những ấn tƣợng kì diệu nhƣ
trong truyện cổ tích. Vì vậy mà lần trở về này cũng là lần anh về với cuộc
sống gia đình đầm ấm, về với những ngƣời luôn yêu quý và mong ngóng
anh.Trong lời nói của Tanhia thể hiện tình cảm đó: "tôi muốn rằng bao giờ
anh cũng coi chúng tôi nhƣ những ngƣời thân thiết của mình". Còn ông cụ
thì yêu Kovrin có lẽ còn hơn con đẻ. Cụ rất hãnh diện về anh, ngƣời mà cụ
đã có công lao nuôi dạy. Sự trở về của Kovrin mang đến niềm vui cho cha
con ông cụ và Kovrin cũng vô cùng hạnh phúc. Cảm xúc dâng trào trong anh
"Kovrin linh cảm ngày hôm nay sẽ kéo dài, tươi vui, chan hòa ánh sáng…và
một cảm xúc trẻ trung, khoan khoái xao xuyến trong tim anh, cái cảm xúc mà
anh từng biết đến hồi thơ ấu khi anh chạy chơitrong khu vườn
này"[10,tr285]. Mọi ngƣời trở vào nhà trong niềm vui hân hoan, trong nỗi
67
xúc động vì lâu ngày nhau. Nếp sinh hoạt thƣờng ngày khi ngồi trong ngôi
nhà ấm cúng, "uống trà trong những chiếc tách bằng sứ cổ, ăn krem và
những chiếc bánh mì ngon ngọt bện hình số 8" đã gợi lại cho Kovrin thời thơ
ấu và niên thiếu khiến anh cảm thấy " rộn ràng, bề bộn, mà khoan khoái".
Trong nhịp sống bình yên ấy, Kovrin có cảm giác nhƣ đang ở trong ngôi nhà
của mình, mình cũng là một thành viên không thể thiếu của gia đình cụ
Petotsky. Kovrin có lẽ đã bớt lo âu mệt mỏi, căng thẳng khi về đây. Hàng
ngày anh uống cà phê cùng Tanhia, dạo chơi quanh khu vƣờn rồi mới về
buồng mình làm việc . "Anh chăm chú đọc, ghi ghi chép chép, thỉnh thoảng
ngẩng mặt lên nhìn qua cửa sổ mở rộng hoặc nhìn những bông hoa tươi còn
ướt đẫm sương trong chiếc bình đặt trên bàn, rồi lại cúi xuống đọc tiếp, và
anh có cảm giác rằng từng đường gân trong cơ thể anh đang run lên vì sảng
khoái" [10,tr286]. Tâm trạng thƣ thái, nhẹ nhõm nên Kovrin mặc dù làm việc
rất nhiều và ngủ quá ít nhƣng anh luôn tỉnh táo và vui vẻ bình thƣờng. Rõ ràng
gia đình đầm ấm đã tiếp sức cho con ngƣời. Gia đình, ngôi nhà hạnh phúc là bến
đỗ bình yên cho mỗi ngƣời trong cuộc đời này.
Tiểu kết:
Ba kiểu không gian đƣợc đề cập đến gắn liền với tâm thức và tâm tính của
con ngƣời Nga và cách nhìn của họ về thế giới. Đó là cái nhìn và sự trải rộng tâm
hồn, vƣợt qua mọi giới hạn, vƣơn tới những không gian xa xôi thỏa mãn khát
vọng trải nghiệm và hòa nhập với thiên nhiên. Đó là đặc tính lãng du, phiêu du,
luôn thực hiện cuộc hành trình tìm kiếm cái cao cả, cái đẹp. Từ một phía khác,
con ngƣời Nga dẫu vƣơn đến những không gian mới nhƣng đâu đó vẫn phảng
phất nỗi lo sợ về thế giới bất an bên ngoài. Do đó trên hành trình tìm kiếm cái
mới, họ luôn hƣớng về ngôi nhà nhƣ là nơi bình yên nhất, nơi chở che cho những
68
tâm hồn đau khổ. Trong mỗi thiên tự sự, các kiểu không gian đó hòa trộn vào
nhau, tạo nên sự đan cài, phức tạp hóa không gian, xếp chồng cả không gian thực
và không gian tâm tƣởng trong giới hạn về dung lƣợng của thể loại truyện ngắn.
KẾT LUẬN
Từ phƣơng diện địa văn hóa cũng nhƣ lịch sử, có thể thấy bản sắc văn hóa
Nga có sự hòa quyện của yếu tố phƣơng Đông và phƣơng Tây. Với nƣớc
Nga, Đông và Tây luôn vừa hòa hợp vừa xung đột, cành phƣơng Tây đƣợc
lai ghép trên thân cây phƣơng Đông. Vì thế Kito giáo, khi đến Nga đã biến
thành Chính thống giáo. Chính thống giáo là nền tảng tinh thần, để lại dấu ấn
trên mọi phƣơng diện tƣ tƣởng, lối tƣ duy, cách ứng xử, sáng tạo nghệ thuật
của dân tộc này. Trong đó rất đáng lƣu ý những nét độc đáo của Chính thống
giáo đƣợc phản ánh rõ nét trong tác phẩm của các nhà văn Nga: khát vọng
phục sinh, vƣơn tới vẻ đẹp tinh thần, khát vọng cứu rỗi tâm hồn...
A.Chekhov là nhà văn đi sâu vào từng ngóc ngách tuế toái của hiện thực,
phản ánh tinh tế từng biến đổi dù nhỏ nhất trong tâm hồn con ngƣời. Từ
những nhân vật cụ thể, sinh động, những cuộc đời "bé mọn" trên từng trang
văn, nhà văn truyền đến ngƣời đọc một cách nhìn về con ngƣời. Cách nhìn đó
vừa phản chiếu tâm thức, cảm quan truyền thống của ngƣời Nga, vừa là sự
nhạy cảm của nhà văn trƣớc những biến động của cuộc sống đƣơng thời với
con ngƣời. Kiểu nhân vật nhỏ bé, nhân vật và sức mạnh cứu rỗi linh hồn, con
ngƣời đang trong cuộc hành trình thể hiện rất rõ hai trạng thái đối lập vốn tồn
tại trong tâm thức Nga: vừa mặc cảm lo sợ vừa muốn vƣơn rộng ra bên ngoài,
phản ánh cả khát vọng muốn vƣơn tới sự phục sinh và cứu rỗi trong tâm hồn,
tâm thức, đặt giá trị tinh thần lên trên hết. Vào thời điểm khi xã hội Nga đang
đầy những dấu hiệu của" giông bão", biến chuyển, A.Chekhov nhìn thấy
69
những biến đổi, những dằn vặt, những đau khổ...của con ngƣời trƣớc thời đại
trên nền mẫu số chung của tâm thức Nga, cảm thức Nga. Đó có lẽ cũng là một
trong những điểm độc đáo cần đƣợc lƣu ý khi lí giải thế giới nhân vật cũng nhƣ
cách nhìn của nhà văn về con ngƣời.
Tác phẩm của A.Chekhov đậm chất Nga bởi ở đó ngƣời đọc nhìn thấy một
không gian Nga, một mô hình thế giới mang đậm lối tƣ duy của ngƣời Nga.
Những thảo nguyên, điền trang, trại ấp Nga trên trang văn của A.Chekhov còn
gắn liền với sự dịch chuyển trong không gian, từ một không gian nông thôn
chuyển sang nông thôn thành thị, hành trình khám phá thế giới bên trong của
mình đƣợc thực hiện. Đặc điểm này nhấn mạnh một nét riêng của tâm hồn
Nga, tính cách Nga: tính lãng du, khát vọng khám phá.
Mô hình thế giới của A.Chekhov không chỉ đƣợc đặt trong sự dịch chuyển
mà còn đƣợc đặt trong sự đối lập. Cặp đối lập không gian vốn đƣợc Chính
thống giáo cũng nhƣ các nhà văn Nga nhấn mạnh thế giới bên ngoài – ngôi
nhà lại trở về trên trang văn cuả A.Chekhov. Một lần nữa không gian ngôi nhà
đƣợc nhấn mạnh- đó là biểu tƣợng của sự bình yên, của khát khao trở về, là
hình ảnh của gia đình và sự bao dung. Chekhov không đặt song song rõ rệt
hai không gian thế giới bên ngoài và ngôi nhà trong suốt tất cả các thiên
truyện nhƣng chỉ riêng hình ảnh ngôi nhà gắn liền với niềm vui và sự bình
yên của nhân vật sau rất nhiều đau đớn, biến cố đã làm rõ sự đối lập vốn đã
rất quen thuộc trong tƣ duy Chính thống giáo và ngƣời Nga.
Truyện ngắn A.Chekhov có lẽ đã là"địa hạt" đƣợc các nhà nghiên cứu cày xới
kĩ càng. Tuy nhiên, nghiên cứu về nhà văn này vẫn chƣa có "điểm dừng". Đặt
tác phẩm của ông trong "tọa độ" bản sắc văn hóa dân tộc để lí giải cách nhìn
của nhà văn về thế giới và con ngƣời là một giả thiết khoa học của chúng tôi
70
trong luận văn này. Bản sắc văn hóa dân tộc và cá tính sáng tạo của nhà văn là
những yếu tố ở tầng sâu, luôn có sự hòa quyện và kết hợp, cần đƣợc quan tâm
71
khi tìm hiểu nhà văn và tác phẩm ở cả chiều đồng đại và lịch đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thùy Anh (2015), Vấn đề căn tính trong sáng tác của các tác giả di
dân gốc Việt (Qua một số tiểu thuyết được xuất bản trong nước thời gian gần
đây), Luận văn Thạc sỹ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
2. Đào Tuấn Ảnh (1992), Chekhov và Nam Cao- một chủ nghĩa hiện thực
kiểu mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học( số 1), tr.48-62.
3.Đào Tuấn Ảnh (2004), Cách tân nghệ thuật của Anton Chekhov, Tạp chí
Nghiên cứu văn học( số 8), tr.3- 25.
4. Aristotle (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội
5. Lại Nguyên Ân( biên soạn) (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Berdyev N. (1946) Tư tưởng Nga- Những vấn đề cơ bản của tư tưởng Nga
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Đào Tuấn Ảnh dịch, Tài liệu lƣu hành nội bộ.
7. Berdyev N. (2003) Tâm hồn Nga, Tạp chí Văn học nước ngoài (số 6),
tr.1-22
8. Chekhov A. (1977), Truyện ngắn Sekhov (2 tập), Ngƣời dịch: Phan Hồng
Giang và Cao Xuân Hạo, Nxb Văn học, Hà Nội
9. Chekhov A. (1988), Truyện ngắn, Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch;
Vƣơng Trí Nhàn biên tập, Nxb Cầu vồng Maxcova.
10.Chekhov A. (1978), Tập truyện, Phan Hồng Giang dịch, Nxb Văn học.
11. Chekhov A. (1999), Tuyển tập tác phẩm, Vƣơng Trí Nhàn tuyển chọn và
giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
12. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Trƣờng Lịch, Huy Liên (1998), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
13. Phạm Vĩnh Cƣ (2004), A.Chekhov, nhà văn xuôi tự sự, nhà viết kịch,Tạp
72
chí văn học nước ngoài( số 4), tr.134-146.
14.Nguyễn Hồng Dƣơng (2012), Công giáo thế giới - Tri thức cơ bản, NXB
Từ điển Bách khoa
15. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2012), Lí luận văn học (Tái bản lần thứ nhất),
Nxb Giáo dục, Hà Nội
16. Hastings S.(2009),Câu chuyện kinh thánh. Những bài học về lòng yêu
thương, Minh Vi dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
17. Nguyễn Hải Hà (2004), Cái mới trong truyện ngắn A. Sêkhốp, Kỷ yếu hội
thảo kỷ niệm 100 năm ngày mất của A. Chekhov, ĐHSPHN.
18. Nguyễn Hải Hà (1996), Lịch sử văn học Nga, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
19. Tống Duy Hải (2002), Chất hiện thực và chất trữ tình trong truyện ngắn
Sêkhốp, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Khoa học Xã và Nhân văn, ĐHQGHN.
20. Lê Bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2009), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Hà Thị Hoà (biên soạn và tuyển chọn)(2007), Văn học Nga trong nhà
trường,Nxb Giáo dục, Hà Nội
22. Phạm Gia Lâm (1997),Sự chuyển biến của tƣ duy nghệ thuật trong văn
học Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ,Tạp chí Văn học (số 11), tr. 10-17.
23. Nguyễn Thị Minh Loan (2011), Cách tân trong truyện của A.P.Sêkhôp,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
24. Phạm Thị Loan (2007), Một số đặc điểm cấu trúc truyện ngắn
A.P.Sêkhôp, Luận văn Thạc sỹ, Đại học khoa học xã và Nhân văn.
25. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Lê Thị Tuyết Mai (2013), Kỹ thuật lạ hoá trong truyện của AntonChekhov
(Qua nhóm truyện về trẻ em và phụ nữ), Luận văn Thạc sỹ, Đại học khoa học
73
xã và Nhân văn, ĐHQGHN
27. Vƣơng Trí Nhàn (1999), Chất nhân bản trong Sekhov, Antôn Seekhov
Tuyển tập tác phẩm, NXB Văn học, Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông
Tây, Hà Nội
28. Nhiều tác giả (2012), 100 nhân vật tiêu biểu để hiểu Kinh thánh, Nxb tôn
giáo.
29. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội
30. Nguyễn Thị Quyên (2004), Nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật trong
truyện ngắn của A.P. Sêkhốp, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học Xã và
Nhân văn, ĐHQGHN
31. Nguyễn Văn Quang (1991), Hình tượng nhân vật tích cực trong truyện
ngắn Sêkhốp, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Phạm Bích Thủy (1992), Một số đặc điểm không gian- thời gian nghệ
thuật trong truyện ngắn Sêkhốp, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Tổng hợp Hà
Nội.
34. Nguyễn Chí Tình (Tổng thuật) (2011), Số phận của truyền thống và bản
sắc văn hóa Nga trong thời kỳ của những biến động lịch sử, Thông tin Khoa
học xã hội( số 11), tr.40-47.
35. Trần Đình Việt (1971), Nghệ thuật viết truyện ngắn của Tsê-khốp, Luận
văn tốt nghiệp, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
36. Hoàng Thị Diệp Yến (2003), Sức lay động của truyện ngắn Sêkhốp, Luận
74
văn tốt nghiệp, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.
75