BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Thị Minh Kim
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ BÙI GIÁNG
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
`
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bùi Giáng là một trường hợp đặc biệt và độc đáo của nền thi ca hiện đại
Việt Nam cuối thế kỉ XX. Nhắc đến Bùi Giáng người ta nghĩ đến một hiện
tượng mà cho đến tận hôm nay hãy còn đó rất nhiều vấn đề hấp dẫn vẫn chưa
được tỏ tường.
Các nhà phê bình chính thống hầu như ít “chạm” đến ông trong khi số
lượng người yêu thích thơ ông lại rất đông đảo. Báo chí có ghi chép lại rằng
đám tang của ông có tới hàng ngàn người tham dự, là một trong những đám
tang lớn nhất kể từ sau năm 1975. Nhà thơ Huy Cận cũng có lần bày tỏ lòng
yêu mến với Bùi thi sĩ:
Đôi lời thăm bạn thơ
Thăm tấm lòng tri kỷ
Bao giờ đến bây giờ
Tình thơ không hoen rỉ
(Thân tình gửi anh Bùi Giáng)
Dường như xưa nay độc giả yêu thơ ông, đến với thơ ông chỉ mới bằng
tâm thế “kính nhi viễn chi” mà thôi. Ai cũng dễ dàng cảm nhận Bùi Giáng
“rất Bùi Giáng”, Bùi Giáng rất “không giống ai”, thế nhưng cái bản chất Bùi
Giáng rất riêng, rất độc đáo ấy là gì thì lại không mấy ai đủ tự tin để lý giải
cặn kẽ. Chung quanh Bùi Giáng có vô số giai thoại đáng nhớ lại càng dễ
khiến người ta cảm thấy mơ hồ khó nắm bắt.
Trước nay đã có rất nhiều người viết về Bùi Giáng nhưng phần lớn đều
là những bài viết tản mạn đăng báo hoặc đăng ở các tập san chuyên đề về Bùi
`
Giáng. Hiện nay vẫn chưa có một tài liệu nào nói đầy đủ về toàn bộ cuộc đời
và tác phẩm của ông nói chung và nghiên cứu chuyên sâu về thơ Bùi Giáng
nói riêng.
Bùi Giáng là tác giả của khoảng sáu bảy mươi đầu sách đủ mọi thể loại,
từ văn thơ cho đến dịch thuật, từ giới thiệu tác giả tác phẩm nước ngoài cho
đến bàn luận về triết học phương Tây…
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số tập thơ của Bùi Giáng đã
được xuất bản và lưu hành hợp pháp tại Việt Nam.
Luận văn hướng tới xác định những cảm hứng chủ đạo và đặc điểm
nghệ thuật thơ Bùi Giáng, góp phần đánh giá thơ Bùi Giáng- một thi sĩ được
xem như một hiện tượng độc đáo trên thi đàn Việt Nam cuối thế kỷ XX.
Nghiên cứu về Bùi Giáng quả là một thử thách không nhỏ nhưng chúng
tôi thiết nghĩ đó cũng là điều nên làm để góp phần giải mã và giới thiệu một
chân dung văn học rất đáng quan tâm của nền thơ ca Việt Nam cuối thế kỉ
XX.
Tìm hiểu ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ BÙI GIÁNG là cách
chúng tôi chọn để mở một lối nhỏ trên hành trình tiếp cận thi sĩ tài hoa và dị
biệt này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Khi tìm hiểu và khảo sát các nguồn tư liệu viết về Bùi Giáng, chúng tôi
nhận thấy số lượng các công trình nghiên cứu về Bùi Giáng đã được công bố,
xuất bản và hiện đang lưu hành hợp pháp ở Việt Nam không nhiều.
Về luận văn, chúng tôi có dịp khảo sát được ba luận văn đã chọn Bùi
Giáng làm đối tượng nghiên cứu, mỗi luận văn tiếp cận vấn đề ở những góc
độ khác nhau. Trong luận văn tốt nghiệp của mình, với đề tài Bùi Giáng –
`
Một cuộc đời, một cõi thơ, năm 2000, Đinh Vũ Thùy Trang đã sống trong
tiếng thơ Bùi Giáng bằng sự thẩm âm của một người mong mỏi là một khách
tri âm. Luận văn biểu đạt những Ngổn ngang nỗi niềm tâm sự: yêu quê
hương, tuổi thơ hồn nhiên, nỗi buồn, tình yêu… trong thơ ông. Bên cạnh đó,
luận văn đã cảm thụ và lý giải quan niệm của nhà thơ về thế giới về con
người, với một tiêu đề Khởi nguyên cõi tinh mật. Và cõi tinh mật trong thơ
ông là gì? Là một thực tại đầy ắp nhiên giới, là thế giới của hoài niệm, chiêm
bao, là nguyên lý mẹ, là kinh thơ? Tựu trung lại, luận văn đã đi đến một kết
luận: cõi thơ u mật…thơ và ngôn ngữ của Bùi Giáng vốn viên mật , nhưng có
lẽ “mẹ huyền nhiệm” là cõi tinh mật sâu kín chỉ sau Kinh thơ, mà ông sở dĩ
có nguồn thơ thâm mật, trác tuyệt bởi nó đã được lấy từ cõi nguồn Phật giáo
uyên nguyên (trang 52). Tất cả những nhận định, nghiên cứu trên của người
viết giúp ta tiến thêm một bước khi thâm nhập vào cõi thơ Bùi Giáng. Luận
văn tiếp theo mà chúng tôi khảo sát là luận văn cử nhân của tác giả Nguyễn
Văn Quốc, với đề tài Đặc điểm nghệ thuật ngôn từ trong thơ Bùi Giáng. Ở
luận văn này, phần gợi nhiều hứng thú nhất có lẽ chính là phần nghiên cứu về
hình thức khẩu ngữ trong thơ Bùi Giáng. Đáng tiếc, phần này lại không được
xây dựng thành một tiêu đề riêng và chưa được nghiên cứu sâu. Gần đây nhất
là luận văn thạc sĩ với đề tài Thơ Bùi Giáng của tác giả Trương Thị Mỹ
Phượng đã bảo vệ thành công vào năm 2007. Tác giả đã cố gắng bao quát một
đề tài khá rộng là Thơ Bùi Giáng bằng việc đi sâu nghiên cứu hệ thống những
đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ Bùi Giáng. Tuy nhiên, trong phần
kết luận ở cuối công trình nghiên cứu, dường như tác giả cũng còn khá lúng
túng và chưa đưa ra được một nhận định thực sự có sức nặng về một chân
dung văn học độc đáo của văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Về sách, tính đến tháng 06 năm 2009, chúng tôi tiếp cận được với bốn
cuốn sách viết về Bùi Giáng. Có hai cuốn sách viết về Bùi Thi Sĩ đã được
`
xuất bản cách đây vài năm và khá quen thuộc với những người quan tâm đến
Bùi Giáng. Đó là cuốn Bùi Giáng trong tôi của tác giả Hồ Công Khanh, do
Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh in năm 2005 và cuốn Bùi
Giáng – thi sĩ kì dị của tác giả Trần Đình Thu do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản
năm 2005 và đã tái bản lần thứ hai.
Tác giả Hồ Công Khanh hiện đang sinh sống tại Đà Nẵng, còn tác giả
Trần Đình Thu sống tại TPHCM. Qua tiếp xúc và trò chuyện với hai tác giả
này, chúng tôi có cơ hội hiểu thêm về họ, cũng như tiếp cận thêm nhiều thông
tin về Bùi Giáng- con người mà họ rất quan tâm và dành nhiều tâm huyết để
giới thiệu với độc giả khắp nơi. Tác giả Hồ Công Khanh tự nhận mình là
người “cuồng si” Bùi Giáng và cũng là người có khá nhiều kỉ niệm riêng tư
với Trung Niên Thi Sĩ khi Bùi Giáng còn tại thế. Bùi Giáng là người ảnh
hưởng rất mạnh mẽ đến cuộc sống và cách sống của tác giả Bùi Giáng trong
tôi. Hồ Công Khanh trong nhiều năm liền đã dày công sưu tầm, bảo quản gần
như đầy đủ các tác phẩm của Bùi Giáng, thuộc đủ mọi thể loại, trong đó có cả
những tài liệu chưa được xuất bản chính thức tại Việt Nam.Có thể nói không
ngoa, ở Việt Nam bây giờ, Hồ Công Khanh là một trong số ít những người
gìn giữ cái “thư viện riêng” về Bùi Giáng, bằng tất cả tấm lòng của mình với
tiền nhân. Hồ Công Khanh hầu như chưa bao giờ vắng mặt trong những buổi
lễ kỉ niệm, tưởng niệm về cố thi sĩ. Đây cũng là cách tác giả thể hiện sự kính
trọng và ngưỡng mộ một tài năng độc đáo. Bên cạnh đó, Hồ Công Khanh còn
là một nhà thư pháp có tiếng. Trong cuốn Bùi Giáng trong tôi, Hồ Công
Khanh đã trổ tài viết thư pháp rất nhiều tác phẩm thơ Bùi Giáng. Còn tác giả
Trần Đình Thu xuất thân là nhà báo, là cộng tác viên của nhiều tờ báo tại
TPHCM. Sau cuốn Bùi Giáng- thi sĩ kì dị, Trần Đình Thu vẫn ấp ủ ý định sẽ
có một công trình nghiên cứu sâu hơn về thi sĩ Bùi Giáng. Cả hai tác giả đều
rất yêu mến con người và thơ ca của Bùi thi sĩ, hai cuốn sách ra đời đầu tiên
`
để thoả mãn những cảm xúc của chính bản thân tác giả , và sau nữa cũng là
góp phần giới thiệu một chân dung lạ trên thì đàn Việt Nam thế kỉ thứ XX.
Tác giả Hồ Công Khanh không phải là người viết sách chuyên nghiệp.
Cuốn Bùi Giáng trong tôi như là một cuốn sách lưu giữ kỉ niệm nhiều hơn là
một công trình nghiên cứu mang tính học thuật về Bùi Giáng. Tác giả tìm
thấy sự đồng điệu lớn lao với nhà thơ này. Cuốn sách gồm năm phần: Một vài
cảm nhận về thi sĩ Bùi Giáng, Thông lộ Bùi Giáng, Bùi Giáng- những điều
chưa nói hết, Bùi Giáng- người không đem trần gian giấu vào hạt bụi, Bùi
Giáng- cội nguồn bí ẩn của thơ ca. Những bài viết của Hồ Công Khanh nặng
về cảm nhận hơn là phân tích, phê bình những thi phẩm của Bùi Giáng. Hồ
Công Khanh tìm thấy bóng dáng cùa mình trên hành trình sống, hành trình
thơ ca của Bùi Giáng.Với tất cả tấm lòng trân trọng một tài năng và niềm yêu
kính một nhân cách, tác giả của Bùi Giáng trong tôi cũng có gợi mở ít nhiều
cho chúng ta đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thêm về nhà thơ này.
So với cuốn Bùi Giáng trong tôi của Hồ Công Khanh, cuốn sách Bùi
Giáng- thi sĩ kì dị làm tốt hơn vai trò của một công trình nghiên cứu nhiều
mặt về văn nghiệp Bùi Giáng. Cuốn sách được ra đời trong kế hoạch viết một
bộ sách “phác hoạ chân dung các nhà văn nhà thơ trong đời sống thường
ngày và trong lao động nghệ thuật. Nó không phải là sách phê bình văn học.
Nhưng đôi chỗ vẫn kết hợp việc phân tích tác phẩm để minh hoạ cho cuộc đời
tác giả. Tuy nhiên việc phân tích này sẽ không đi quá sâu như những cuốn
sách phê bình” (Vài lời đầu sách). Cuốn sách chia làm hai phần, phần đầu
dành cho những bài viết về Bùi Giáng, phần sau dành để tuyển chọn và giới
thiệu một số thi phẩm tiêu biểu của Bùi Giáng theo tiêu chí phân loại của tác
giả cùng một số bài Bùi Giáng trả lời phỏng vấn các tờ báo. Các bài thơ trong
phần sau này được trích từ nhiều tập thơ của Bùi Giáng đã được xuất bản
hoặc sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Phần đầu gồm gần ba mươi bài viết
`
đi vào rất nhiều khía cạnh khác nhau về cuộc đời và văn nghiệp của Bùi
Giáng. Trần Đình Thu kể chuyện cuộc đời Bùi Giáng, kể về tài viết sách với
tốc độ kinh hồn, về những nguồn thi hứng dào dạt trong thơ ông, về những tác
phẩm văn học dịch mang đầy tính tư tưởng và triết lý…Có thể nói Trần Đình
Thu đã bao quát khá rộng về đề tài Bùi Giáng mà ông đã chọn để nghiên cứu.
Không chỉ dừng lại nghiên cứu các phần nội dung tư tưởng trong các tác
phẩm của Bùi Giáng, Trần Đình Thu còn có những bài đi sâu vào Ngôn ngữ
thơ Bùi Giáng- vốn là thế mạnh và là một trong những dấu hiệu khiến Bùi
Giáng không thể lẫn vào với ai. Trần Đình Thu nhận định dường như Bùi
Giáng “chơi” vốn ngôn ngữ chứ không có ý thức vận dụng ngôn ngữ theo kĩ
thuật này nọ để làm thành thơ. Tác giả đề cập đến một số cách “chơi” với
ngôn ngữ ở Bùi Giáng: nói lái, vờn chữ…
Chúng tôi khá tâm đắc với một đoạn mà Trần Đình Thu nhận định về
toàn bộ văn nghiệp của Bùi Giáng- thi sĩ tự khoác và được thiên hạ khoác cho
mình danh xưng “nhà thơ điên”: “ Bản chất của văn chương Bùi Giáng là sự
tổng hòa của những nghịch lý. Trong cái cà rỡn có sự đau xót, trong bỡn cợt
có nỗi ngậm ngùi, trong sự nghịch ngợm hồn nhiên trẻ thơ có sự uyên bác,
trong điên loạn cuồng si là một cõi mộng bát ngát đẫm tình…Cái nét riêng ấy
không ai có được, không ai bắt chước được và không thể có người thứ hai”.
Trong năm 2008, để kỉ niệm mười năm ngày mất của Trung Niên Thi
Sĩ ( 1998 – 2008), có thêm hai cuốn sách về Bùi Giáng đã được Nhà xuất bản
Lao động và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phối hợp xuất bản. Đó là
Bùi Giáng qua 99 giai thoại do Huyền Li sưu tầm và biên soạn, và Bùi Giáng
trong cõi người ta do Đoàn Tử Huyến chủ biên. Hai cuốn sách xuất hiện trên
thị trường vào khoảng cuối năm 2008 và gây được một “cơn sốt” nho nhỏ
trong cộng đồng độc giả yêu thơ ông. Bùi Giáng và 99 giai thoại là một cuốn
sách đễ đọc và và gây nhiều hứng thú. Người ta tìm thấy trong đó những giai
`
thoại về một con người chưa bao giờ thôi đặc biệt. Từ những người đã từng
tiếp cận văn nghiệp Bùi Giáng cho đến những người chưa hề đọc qua một tác
phẩm nào của ông cũng đều tìm thấy sự thú vị khi đọc tập sách mỏng này.
Cuộc đời Bùi Giáng bao phủ bởi số lượng không đếm được những giai thoại
mà người ta không thể rõ thực hư. Con số 99 chỉ là một con số tương đối,
mang tính giới hạn để làm hấp dẫn thêm “một hiện tượng lạ, có thể nói, độc
nhất vô nhị, là Bùi Giáng”. Bùi Giáng trong cõi người ta là một công trình
biên soạn nghiêm túc, tập hợp một số lượng lớn những bài nghiên cứu về Bùi
Giáng từ trước đến nay, từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi nhà nghiên cứu đều
chọn cho mình một khía cạnh tâm đắc nhất để nhìn về con người cũng như
phê bình, nhận định về văn nghiệp của Bùi Giáng. Cuốn sách này thuộc vào
loại đầy đặn và chỉn chu mà mang tính học thuật cao trong số những công
trình nghiên cứu về Bùi Giáng đã được xuất bản hợp pháp từ trước đến nay ở
Việt Nam.
Về những nguồn tài liệu khác như sách, báo và mạng internet, chúng
tôi nhận thấy thông tin về Bùi Giáng khá đa dạng và đáng được lưu tâm,
nhưng cũng đòi hỏi người nghiên cúu phải có kĩ năng thẩm định và chọn lọc
thông tin để có thể nhìn nhận về Bùi Giáng một cách khách quan và khoa học
nhất. Tuy sách viết bề Bùi Giáng hiện không có nhiều nhưng các bài viết đăng
trên các báo, tạp chí hoặc trên mạng internet lại khá phong phú và đa dạng,
được viết từ trước và sau năm 1975.
Đầu tiên là giai phẩm Văn, số đặc biệt về nhà thơ Bùi Giáng tháng 5
năm 1973, đăng hàng loạt những bài viết: Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn –
Thanh Tâm Huyền, Thi ca và tư tưởng – Tuệ Sỹ, Bùi Giáng về cố quận –
Nam Chữ, Bùi Giáng cải lương ca – Cao Huy Khánh, Bùi Giáng trên đường
về cố hương – Trần Hữu Cư, Ẩn ngữ cung bậc thi ca – Thục Khư, Chung
quanh vấn đề Bùi Giáng – Trần Tuấn Kiệt... Phần lớn những bài viết này đều
`
cố gắng chỉ ra cái độc đáo trong sáng tác của nhà thơ, nhất là ở bình diện
ngôn ngữ và tư tưởng. Có người, thậm chí còn đồng thuận trong cách đánh
giá, gọi ông là một thiên tài, thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt
Nam hiện đại. Có người đánh giá rất cao khi đọc tác phẩm Thi ca tư tưởng
của ông, cho ông là người đầu tiên mở ra một cuộc Hội thoại của Tại thể
chúng ta giữa Tồn sinh và Lịch sử, và mượn ý của M. Heidegger, Wozu
Dichter để ngợi ca: Trong thời đại của đêm tối cõi đời, của cái vực sâu không
đáy kia của cõi đời phải được thể nghiệm và được kiện tận miên bạc bình
sinh. Mà muốn được như vậy, thì điều cần thiết là phải có vài kẻ đạt tới cái
chỗ cùng tận của cái vực sâu không đáy (Tuệ Sĩ – Thi ca và tư tưởng – Giai
phẩm Văn – tháng 5 – 1973 – trang 27). Tìm hiểu về một tác giả, những cứ
liệu trên cũng chỉ dừng ở mức độ tham khảo.
Đến năm 1997, tạp chí Thời Văn, số 19, ra số đặc biệt về nhà thơ
Bùi Giáng, đã xuất hiện một số cây bút phê bình mới: Đôi nét về thi sĩ Bùi
Giáng – Phạm Văn Hạng , Tản luận về Bùi Giáng – Ban biên tập báo, Bùi
Giáng – Cuộc đùa vui ngôn ngữ - Vũ Đức Sao Biển, Mượn lời anh Sáu Giáng
– Nguyễn Lương Vy, Bùi Giáng – Đào Hiếu, Bùi Giáng – Đi vào cõi thơ –
Trần Hữu Dũng, Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi Giáng – Khiêm Lê Trung,
Thử một lần đối diện với thơ và con người thơ Bùi Giáng – Trương Vũ Thiên
An, Mùa xuân trong thơ Bùi Giáng – Hồ Ngạc Ngữ, Bùi Giáng với Ly Tao –
Bửu Khánh Hồ, Vài cảm nghĩ về Bùi Giáng – Nhất Thanh, Bùi Giáng – Thi sĩ
kỳ dị - Huỳnh Ngọc Chiến… Đọc qua những bài viết này, tôi thấy có những
điểm nhìn quen thuộc trong các bài viết trước và một vài điểm mới. Cách nhìn
của giới văn nghệ về thơ Bùi Giáng nhìn chung vẫn nghiêng về tư tưởng và
ngôn từ. Tuy nhiên, một số cây bút đã có phần dè dặt hơn trong tiếp cận thế
giới thơ ca Bùi Giáng. Họ đã có cái nhìn cẩn trọng hơn , nhưng đều đồng nhất
Bùi Giáng là một hiện tượng độc đáo của văn học, một hiện tượng rất khó
`
nắm bắt và thấu hiểu một cách chính xác. Vẫn còn đó những lời khen tặng,
nhưng đã bớt phần dị thường. Ta thử điểm lại: Bùi Giáng là một hiện tượng
thơ khá phức tạp của miền Nam trước 1975… Có thể nói cả đời ông là sự tận
hiến cho thơ và vì thơ (Khiêm Lê Trung – Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi
Giáng – trang 45). Có quá nhiều người viết về thơ Bùi Giáng – ông được gọi
là tài hoa, ông là người nghỉ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ, chứ
không phải nghĩ ra thơ, làm thơ (Trần Hữu Dũng – Bùi Giáng – Đi vào cõi
thơ – trang 43). Chưa có ai dám sống và dám chết hết mình cho thi ca nhu
Anh. Và cũng có thể nói rằng Anh là một trường hợp cực kỳ hiếm trong lịch
sử thi ca Việt Nam (Nguyễn Lương Vỵ - Mượn lời anh Sáu Giáng – trang 42).
Thêm vào hành trang cho chuyến du hành của tôi vào cõi thơ Bùi Giáng, đó là
những đánh giá có sắc thái song hành trong lời đề tặng và phê phán: Hiện
tượng Bùi Giáng không phải là hiện tượng thi ca hay tư tưởng mà là hiện
tượng về sự phá hủy… Toàn bộ những suy nghĩ của ông chỉ là sự tập hợp của
những khát vọng vụn vặt về tình ái và lẽ tử sinh… Hễ ai dính dáng tới ái tình,
tới chuyện tử sinh là ông khen, bất chấp hay dở, cũ mới, lớn bé, bất chấp
người đó là ông A bà B nào mà ông tình cờ nhặt được trong cơn nổi hứng. Đủ
thấy “Thi ca tư tưởng” là một phê bình nhận định ngẫu hứng vừa sâu sắc vừa
ba phải tào lao đến cở nào (Đào Hiếu – Bùi Giáng – trang 40). Những góc
nhìn đó đã góp phần không nhỏ trong quá trình tìm hiểu đầy đủ hơn về con
đường thơ đầy phức tạp của thí sinh Bùi Giáng. Và gần đây nhất, báo Thanh
niên, những số báo trong tháng , năm 2005, ở trang Văn hóa nghệ thuật, tiêu
đề Bùi Giáng – Thi sĩ kỳ dị, đã cho đăng tải nhiều kỳ các bài viết về con người
và thơ Bùi Giáng. Nhìn chung, đó là những bài viết phần lớn nghiêng về
thông tin hơn là tính nghiên cứu, học thuật.
Nếu dùng công cụ tìm kiếm thông tin phổ biến nhất, nhanh nhất và hữu
hiệu nhất hiện nay là “Google” để search những từ khoá (key) liên quan đến
`
Bùi Giáng trên mạng internet, chúng ta sẽ không khỏi bất ngờ vì một số lượng
khá lớn các trang tin có liên quan đến Bùi Giáng. Lẽ dĩ nhiên, công cụ tìm
kiếm google chỉ có giá trị đầu tiên ở mặt cung cấp số lượng những trang tin,
chứ chúng tôi chưa đủ sức để kiểm chứng độ chính xác của toàn bộ các trang
tin vốn vẫn biến động từng ngày trong cái thế giới thông tin cứ rộng lên từng
ngày. Tuy nhiên, số lượng không nhỏ các trang tin liên quan đến Bùi Giáng
trên mạng internet cũng góp phần khẳng định sự hấp dẫn của tên tuổi cũng
như văn nghiệp Bùi Giáng đối với bạn đọc Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung.
Cuối cùng, chúng tôi xin trích lại nhận định đánh giá của tác giả T.
Khuê viết về Bùi Giáng trong Từ điển văn học – NXB Thế giới – bộ mới ,
xuất bản năm 2004, để khép lại tiêu mục này: Bùi Giáng viết rất nhiều, nhưng
những gì còn lại chính là thơ… Thơ Bùi Giáng ngay từ thuở đầu đã rong chơi
lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp
lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ sinh tồn, về những chuyện phù du, dâu bể,
ẩn khuất khía cạnh dục tình khép mở Xuân Hương… Tính chất “bất khả tri”
trong triết lý Đông phương và triết học hiện sinh gặp nhau trong thơ Bùi
Giáng: nếu trường phái hiện sinh vô thần bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở
Bùi Giáng định mệnh và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư
tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm dấu Đạm Tiên, hắt ra những ảnh siêu
thực… Bi kịch của Bùi Giáng là ông lặp lại chính mình, ngay cả trong thơ,
cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều khi được dùng lại
nhiều lần trở thành sáo và vô nghĩa. Dù sao chăng nữa, Bùi giáng ao được
một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ XX,
khác với Nguyễn Khuyến trong kỷ 19 hoặc Tản Đà đầu thế kỷ 20 (trang 163).
`
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng đa dạng phương pháp nghiên
cứu, trong đó đặc biệt phát huy tối đa tác dụng của phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp hệ thống và phương pháp thống kê, phân loại. Phương
pháp phân tích và tổng hợp giúp chúng tôi nhìn sâu vào đề tài đã chọn, không
những thế, phương pháp này còn giúp xem xét vấn đề đó trong mối liên quan
với những vấn đề khác có những sự tương đồng tương đối. Phương pháp hệ
thống giúp hệ thống hóa cách tiếp cận Bùi Giáng ở những phương diện khác
nhau. Phương pháp thống kê phân loại rất cần thiết trong quá trình thực hiện
luận văn này vì nó giúp chúng tôi thống kê được tần số xuất hiện của một số
từ ngữ đặc biệt, những kết cấu dòng thơ đặc biệt…trong thơ Bùi Giáng.
4. MỘT SỐ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn hướng đến việc cung cấp một cái nhìn tương đối toàn diện về
những cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ Bùi
Giáng, để từ đó góp thêm tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị thế của
nhà thơ trong tiến trình vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại. Bên
cạnh đó, luận văn cũng mong muốn góp phần bước đầu khắc hoạ chân dung
văn học của Bùi Giáng và khơi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Dẫn luận và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được
triển khai thành ba chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về Bùi Giáng
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Bùi Giáng
Chương 3: Đặc điểm thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu thơ Bùi Giáng
`
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BÙI GIÁNG
1.1.VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, quê ở làng Thanh Châu, xã
Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông là con thứ hai trong gia
đình có 8 người con. Thân sinh của Bùi Giáng là cụ Bùi Thuyên, thân mẫu là
bà Huỳnh Thị Kiền. Khi vào miền Nam ông được gọi là Sáu Giáng. Thưở nhỏ
ông theo học tiểu học ở Hội An, học trung học tại Thuận Hoá- Thừa Thiên.
Năm 1948 gia đình ông tản cư về Trung Phước. Từ 1950 đến 1952 ông chăn
bò ở vùng rừng núi Trung Phước. Đây là khoảng thời gian mà ông gọi là 15
năm chăn dê như Tô Vũ thời xưa. Trong thập kỷ 60,70 của thế kỷ XX, ông có
dạy học tại một số trường tư thục của Sài Gòn. Có thời gian ông điều trị bệnh
ở dưỡng trí viện Biên Hoà. Ông mất ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại TPHCM.
Bùi Giáng là một con người gây kinh ngạc cho bất kỳ ai quan tâm đến
ông. Làm thơ, dịch tiểu thuyết của các tác gia danh tiếng trên thế giới, viết
sách nghiên cứu triết học đông tây kim cổ với những kiến thức vô cùng uyên
bác… nhưng Bùi Giáng đồng thời lại còn chạy nhảy la hét ngoài đường trong
bộ dạng của những con người mà ta quen gọi là điên. Cuộc đời Bùi Giáng vì
vậy luôn được bao phủ bởi vô số những giai thoại ly kỳ, những thông tin hư
hư thực thực. Từ năm 1962 trở đi, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu
sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Càng về sau càng nhiều hơn. Nói về số
lượng, thì ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền
Nam trước giải phóng. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ
`
thì phải kể bằng đơn vị ngàn bài. Tuy nhiên, ông hoàn toàn không phải một
học giả cần mẫn, suốt ngày giam mình trong thư viện, miệt mài bên trang
sách mà thậm chí còn ngược lại. Nhiều người từng gần gũi ông ngạc nhiên
nói rằng họ chỉ thấy Bùi Giáng suốt ngày lang thang rong chơi nhàn nhã, bia
rượu uống tràn, thế nhưng khi nhà xuất bản cần, chưa đến một ngày ông đã
mang đến cả năm bảy trăm trang sách. Vậy ông viết sách vào lúc nào? Một
nhà văn gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975 kể lại chuyện viết sách của
ông như sau: "Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy
Thanh Tuệ (Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm lúc đó) vì một tấm lòng liên tài
đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, đã dành trọn phương tiện cho ưu
tiên xuất bản tác phẩm của Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn
có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt
nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ
sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy
giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy
giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm". Nhà
văn này kể tiếp: "Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng
giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất thong dong, tưởng chừng
như thi sĩ chẳng hề có điều chi vướng bận, rộn lòng cả”.
Chưa bao giờ những người gần gũi Bùi Giáng bắt gặp ông đang ngồi
viết sách. Có người ngạc nhiên quá, tìm cách rủ Bùi Giáng tới quán uống
rượu để tìm hiểu. Nhưng chỉ tốn rượu đãi Bùi Giáng chứ chẳng khai thác
được chút thông tin nào. Vặn hỏi mãi ông cũng không giải thích điều gì. Bùi
Giáng chỉ cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu và nói "vui thôi mà"
trước sự ngơ ngẩn của người hỏi chuyện. Trước sau ông không hề giải thích
bất cứ thắc mắc nào.
`
Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái
bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Quá trình tư duy và lao động
sáng tạo trong con người Bùi Giáng như thế nào? Ông đã hình thành những tứ
thơ ra sao? Vì sao ông có thể tuôn ra được những câu thơ mà không cần suy
nghĩ? Đó là những câu hỏi mà rất nhiều người tò mò muốn biết nhưng có lẽ
không ai tìm hiểu được. Ông Huỳnh Ngọc Chiến, một người quen biết với Bùi
Giáng kể, một lần nọ có mấy người bạn Quảng Nam cùng ngồi uống cà phê
với Bùi Giáng, một người rất ái mộ Bùi Giáng tò mò hỏi ông thường làm thơ
như thế nào, thì Bùi Giáng cười và nói: "Qua làm thơ cũng giống như em là
kỹ sư mà làm toán lớp ba rứa thôi".Theo ông Huỳnh Ngọc Chiến thì lúc đó
Bùi Giáng trả lời rất thành thật, chẳng có một chút biểu hiện cao ngạo nào cả.
Vì thế có thể tin lời Bùi Giáng rằng với ông, làm thơ là một công việc dễ
dàng, đơn giản như ta làm toán cộng toán trừ, đặt bút vào là làm chứ không
cần phải suy nghĩ. Chính nhờ khả năng viết nhanh đó mà Bùi Giáng đã cho ra
đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ như trên. Giai đoạn ra sách nhiều nhất của
Bùi Giáng là khoảng từ năm 1964 đến năm 1970. Riêng năm 1969 Bùi Giáng
cho ra đời đến mười cuốn sách. Cũng trong những năm này có những người
đứng ra thành lập nhà xuất bản với mục đích chủ yếu để in tác phẩm của Bùi
Giáng.
Có một số người Bùi Giáng nhắc lại mãi trong những trang viết của
mình như là một nỗi ám ảnh. Hình bóng họ đã ăn sâu vào tiềm thức ông do
những ấn tượng mạnh mẽ lúc ban đầu. Khi bệnh tình bộc phát, những hình
bóng đó sẽ xuất hiện trở lại trong văn thơ ông theo những cách khác nhau.
Trên lĩnh vực tri thức, đại thi hào Nguyễn Du và triết gia người Đức Martin
Heidegger được ông lặp lại nhiều nhất. Khi bước vào con đường nghiên cứu,
Bùi Giáng quan tâm đến Nguyễn Du đầu tiên cùng với một số tác giả cổ điển
khác. Chúng ta nhớ lại, cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện
`
Phan Trần được ông viết vào năm 1957 thật sáng trong mạch lạc. Kể từ đó,
thiên tài Nguyễn Du bắt đầu "nhập hồn" Bùi Giáng. Cái tên Nguyễn Du xuất
hiện với tần số dày đặc trong những bài viết của Bùi Giáng. Trong thơ, trong
văn, trong giới thiệu tư tưởng và triết học, thậm chí cả trong những bản dịch
tiểu thuyết nước ngoài… đâu đâu ta cũng bắt gặp hình bóng Nguyễn Du. Bùi
Giáng còn sáng tác nhiều bài thơ về Nguyễn Du. Một số bài thơ khác không
liên quan, thì ông lại đề tặng Nguyễn Du. Tuy nhiên, không phải như thế là
Bùi Giáng sẽ dành những câu chữ hay ho nhất để viết về "cố nhân" của mình.
Ngược lại, phần lớn những bài thơ viết về Nguyễn Du đều rất cà rỡn. Ta hãy
đọc vài đoạn thơ Bùi Giáng viết về Nguyễn Du. Đây là một đoạn trong bài
Nhớ ông: "Nhớ hoài ông Nguyễn ông Du / Ông Như ông Tố Điếu Đồ biển
Nam / Hồng Sơn Liệp Hộ hội đàm / Hồng Sơn sơn nguyệt minh quang một
mình". Hoặc một đoạn khác trong bài Tố Như nhớ quê: "Tôi nay lão nhược
hơn ông / Tôi ngoài bảy chục thong dong một mười / Ông chưa tới tuổi sáu
mươi / Lìa đời lúc mới tuổi ngoài năm lăm". Đó là trong thơ. Vì thơ thì không
phải lúc nào cũng đưa được một người nào đó vào mãi nên sự xuất hiện của
Nguyễn Du cũng có giới hạn. Nhưng trong văn xuôi thì Bùi Giáng liên tục
đưa Nguyễn Du vào. Đi sâu vào các trang sách của Bùi Giáng, ta thấy
Nguyễn Du xuất hiện dày đặc. Khen thơ Hồ Dzếnh, Bùi Giáng viết: "Cũng
may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ
Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm
gì". Viết về một câu chuyện không đâu vào đâu, Bùi Giáng cũng lại nói về
Nguyễn Du: "Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm sau có
kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ
rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau". Viết về Albert Camus,
Bùi Giáng cũng không quên Nguyễn Du: "Rồi những điều Nguyễn Du nói với
ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ. Những điều Nguyễn Du nói với quỷ, thì
`
thần thánh lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ
không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du". Trong
những cuốn sách như Mùa thu trong thi ca, Thi ca tư tưởng, Đường đi trong
rừng… cứ một đôi trang là ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Du hiện lên qua cái
lăng kính hài hước của Bùi Giáng: "Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui.
Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma, vùng vẫy rú lên một tiếng như Zarathustra
also sprach. Ông điềm nhiên làm Nam Hải Điếu Đồ. Kẻ câu ấy câu cái gì tại
Nam Hải?"… "Và đó cũng là duyên do kỳ dị thiên biến vạn hóa đã khiến
Nguyễn Du mở một trận Ẩn Tàng kỳ bí cổ kim bằng cách: cả hư không đặt để
nên lời, cả nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung của song trùng tịch hạp
thượng thừa huyền môn tâm pháp – Nguyễn Du đều đem gán vào môi miệng
Bạc Bà Tú Bà"… Bùi Giáng còn có cái thú làm thơ giả Kiều để ký tên chung
Bùi Giáng - Nguyễn Du hoặc Bùi Giáng - Tố Như. Đó là những đoạn lục bát
chen vào giữa những đoạn văn xuôi, có tí chút "chất Kiều". Trong cuốn
Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại có nhiều đoạn giả Kiều rất dài. Những
câu giả Kiều ấy có khi sai cả vần sáu tám.
Từ trước đến nay có rất nhiều người đặt câu hỏi: Bùi Giáng có phải là
một người bị mắc bệnh điên hay không? Cũng đã có rất nhiều bài viết về Bùi
Giáng đề cập đến vấn đề này, trong đó một số tác giả khẳng định Bùi Giáng là
người điên trong khi một số khác lại nói ngược lại. Trong một bài viết, tác giả
Trần Đới khẳng định: "Một sự thực là Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng
như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước
bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà
chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi
Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tỉnh lại và
hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật
thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó... Bây giờ người thi sĩ này chỉ
`
còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống". Một người
khác, ông Nhất Thanh, thì viết như thế này: "Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích
hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương
nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta".Bùi Giáng hiển nhiên cũng
biết việc nhiều người tranh cãi nhau rằng ông có điên hay là không điên. Ông
đã tự viết về mình như sau: "Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ
đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên.
Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ
điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng
mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa
nay vậy". Đọc đoạn đó của ông người ta thấy hơi bối rối. Vậy thì Bùi Giáng là
người như thế nào? Ông là một người điên hay là một người bình thường?
Nhưng có một sự thật không thể chối cãi: Bùi Giáng đã từng là bệnh nhân của
bệnh viện tâm thần hẳn hoi. Năm 1969 là năm ông in được nhiều tác phẩm
nhất nhưng cũng là năm mà ông vấp phải cú sốc lớn thứ hai trong đời. Bùi
Giáng bị hỏa hoạn thiêu cháy hết toàn bộ sách vở quý hiếm, một số tranh và
đặc biệt nhiều bản thảo hoàn chỉnh mà ông rất tâm đắc. Con người hồn nhiên
của Bùi Giáng có lẽ không bị sốc vì chuyện này, nhưng sau đó người thân của
ông phải đưa ông vào Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa để chữa trị. Cung Tích
Biền kể: "Khoảng đầu thập niên 70 có lẽ người ta đưa ông vào nhà thương
điên Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương
điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường tình:
"Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!". Ông trả lời tỉnh queo: "Chữa
trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà
thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp;
trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình
nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên". Nghe Bùi Giáng nói như thế, hẳn
`
người ta cảm thấy ngờ ngợ rằng những việc làm không giống ai của ông là do
ông muốn thế chứ chẳng phải do bệnh tật gì gây ra. Nhà văn Đào Hiếu viết:
"Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn, là phi lý,
là chốn lưu đày, là cõi phù du là cái mớ bòng bong vớ vẩn...". Chung quanh
vấn đề Bùi Giáng, có hai điều cần nêu ra sau đây. Một là, không phải chỉ có
mình Bùi Giáng vừa có những biểu hiện tâm thần vừa làm thơ viết văn. Có rất
nhiều bệnh nhân của các bệnh viện tâm thần là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ... Họ
có thể vẽ tranh, sáng tác văn thơ ngay trong thời gian điều trị bệnh. Có điều
họ không có sẵn cái gốc tài năng xuất chúng như Bùi Giáng nên không trở
thành hiện tượng đặc biệt mà thôi. Hai là, những hành vi khác người của Bùi
Giáng đã được các nhà chuyên môn xác định có nguyên nhân bệnh lý hẳn hoi
chứ không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân sinh quan gì cả. Có điều, vì ta
thấy cái điên của ông cũng hơi khác người nên cảm thấy ngờ ngợ. Nhưng dần
dần ta sẽ được rõ hơn khi xem xét đến các vấn đề khác. Cần biết rằng, không
riêng gì Bùi Giáng mà nhiều bệnh nhân tâm thần khác, tiếp xúc với họ đôi khi
ta cũng dễ nhầm lẫn vì thấy họ có vẻ thật thật giả giả, nửa điên nửa tỉnh. Cho
nên chúng ta không thể kết luận được về tình trạng của họ mà phải là các nhà
chuyên môn.
Không ai biết Bùi Giáng, đọc Bùi Giáng mà không yêu mến ông. Đó là
sự thật. Gọi ông là người tỉnh cũng được, điên cũng được, dù là tỉnh hay điên
ông cũng đã để lại cho đời những vần thơ mênh mang trác tuyệt. Ông mở ra
một thế giới thi ca cao vời, ảo diệu. Nói như một người từng gần gũi với ông:
"Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi
là nếu có được thêm ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta còn được lạ lùng
được kỳ ảo biết bao nhiêu". Quả đúng như vậy !
`
1.2 SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Genève về Đông Dương
được ký kết vào tháng 7 năm 1954. Do sự can thiệp của Mỹ, đất nước ta tạm
thời chia đôi, lấy vĩ tuyến 17, sông Bến Hải, làm ranh giới. Sau hai năm, cả
nước sẽ tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Bản hiệp định chưa ráo
mực, Mỹ đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, với chiêu bài
tự do, chống lại chế độ Cộng sản ở miền Bắc, phá vỡ hiệp định Genève. Như
vậy, tình hình chính trị xã hội của đất nước ta trong giai đoạn này cực kỳ phức
tạp. Miền Bắc bắt tay thực hiện kế hoạch ba năm rồi năm năm đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Miền Nam, chính quyền Mỹ - Diệm đưa ra luật 10/59, dã
tâm xóa trắng những cơ sở cách mạng. Nhân dân miền Nam vẫn kiên cường
gầy dựng lại cơ sở cách mạng, đấu tranh chính trị. Đến năm 60, đồng bào
miền Nam làm nên phong trào Đồng Khởi, chính thức tiến hành cuộc đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trên bình diện rộng. Từ đó, nhân dân cả
hai miền Nam Bắc cùng đấu tranh chống Mỹ - Ngụy. Miền Bắc vừa chiến đấu
chống cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, vừa trở thành hậu phương lớn của
tiền tuyến lớn miền Nam cho đến ngày chiến thắng 30/4/1975, thống nhất đất
nước. Tình hình chính trị xã hội ở các đô thị miền Nam, vùng giặc tạm chiếm
cũng không kém phần phức tạp. Nền kinh tế miền Nam trong thời kỳ này chủ
yếu tồn tại được là nhờ hàng viện trợ của Mỹ. Mỹ ồ ạt đổ hàng viện trợ vào
miền Nam Việt Nam, tạo nên một nền kinh tế phồn vinh giả tạo. Danh xưng
Sài gòn hòn ngọc viễn đông đã lừa bịp được một số người nhẹ dạ. Trong
quyển Nhìn lại một chặng đường văn học, giáo sư Trần Hữu Tá cũng đã viết:
Viện trợ của Mỹ chủ yếu là cung cấp hàng tiêu dùng, làm giàu cho những nhà
nhập cảng mà số lượng nhảy vọt từ vài trăm lên tới hai chục vạn người,
nhưng lại bóp chết nhiều ngành sản xuất bản xứ. Và ông cũng đã trích dẫn
nhận xét của tạp chí kinh tế Phát triển, của Pháp, tháng 6 năm 1972: Sự suy
`
sụp của dân chúng về sức khỏe, về nhà cửa, về giáo dục cũng không kém
phần bi thảm, cũng như sự tan nát hay đồi bại của cả môt thế hệ tài năng
dùng để xây dựng đất nước đều mất sạch. Đã nhiều năm rồi, miền Nam Việt
Nam sống nhờ của bố thí. Dân chúng ở các thành thị sống một mức sống
hoàn toàn giả tạo (trang15,16). Sống trong thời đại như thế, Bùi Giáng sống
và làm thơ trong thế giới của riêng ông. Không bị chi phối bởi chính trị,
không chọn con đường đến với cuộc đấu tranh chống Mỹ dữ dội và khóc liệt,
Bùi Giáng ngao du vào cõi riêng, ở đó, ông khóc cười với cuộc đời, với mọi
biến động của tha nhân. Ông bắt đầu sáng tác vào cuối năm 50 thế kỷ XX.
Ông sáng tác rất nhiều, nhưng chúng ta vẫn chưa thống nhất được số lượng
chính xác các tác phẩm của ông. Từ năm 1952 trở đi, ông liên tục sáng tác và
dịch thuật.
Những sáng tác của Bùi Giáng đã được in khá nhiều trong giai đoạn
này. Đầu tiên có thể kể đến sách giáo khoa và luận đề. Bùi Giáng đã nghiên
cứu về các tác giả sau đây: -Bà Huyện Thanh Quan - Lục Vân Tiên - Chinh
Phụ Ngâm - Quan Âm Thị Kính - Truyện Kiều - Truyện Phong Trần - Cung
Oán Ngâm Khúc - Nguyễn Công Trứ - Tản Đà - Phan Bội Châu - Chu Mạnh
Trinh - Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị, xuất bản từ 1957 - 1959.
Với khả năng am hiểu ngoại ngữ uyên thâm và năng lực chuyển dịch
ngôn ngữ tuyệt vời. Bùi Giáng đã để lại cho chúng ta một số lượng dồi dào và
phong phú những bản chuyển ngữ đậm chất văn chương. Có thể kể đến những
tác phẩm tiêu biểu sau đây: Cõi Người Ta của Saint Exupéry, Trăng Tỳ Hải
của Albert Camus, André Gide, Heidegger, Khung Cửa Hẹp của André Gide,
Hoa Ngõ Hạnh của W. Shakespeare, Bạo Chúa Caligula của Albert Camus,
Con Người Phản Kháng của Albert Camus, Ngộ Nhận của Albert Camus,
Mùa Hè Sa Mạc của Albert Camus, Kẻ Vô Luân của André Gide, Hamlet của
W. Shakespeare, Hòa Âm Điền Dã của André Gide, Hoàng Tử Bé của Saint-
`
Exupéry, Mùi Hương Xuân Sắc của Gérard De Nerval, Kim Kiếm Điêu Linh
của Ngoạ Long Sinh, Biển Đông Xe Cát của Albert Camus, Nhà Sư Vướng
Lụy của Đại sư Tô Mạn Thù.
Chúng tôi xin dành hẳn một phần riêng để viết về một tác phẩm văn
học của một tác giả Pháp mà bao thế hệ ngưởi đọc Việt Nam ta đã say mê
qua ngòi bút tài hoa và tinh tế của dịch giả Bùi Giáng. Bùi Giáng không phải
là người duy nhất chuyển dịch Việt ngữ tác phẩm Le petit prince của nhà văn
Pháp Saint Exupery, nhưng có thể nói không ngoa, rằng với Bùi Giáng,
Hoàng tử bé đã vĩnh viễn sống trong trái tim những người Việt Nam đắm say
thiên truyện ngắn u uẩn vế một “mặt đất trần trọng và đau thương này”.
Chúng tôi dừng lại ở Hoàng tử bé, bởi lẽ không chỉ đơn giản là dịch tác phẩm
này từ tiếng Pháp sang tiếng Việt mà dường như Bùi Giáng của chúng ta
dường như cũng chính là một hoá thân vĩnh viễn của Hoàng tử bé.
Có thể ví "Hoàng Tử Bé" với một bài thơ tuyệt tác, ý tại ngôn ngoại,
mở ra một thế giới vô cùng rộng lớn đằng sau những từ ngữ và hình ảnh, một
bài thơ mà vẻ đẹp của nó không có giới hạn, chỉ phụ thuộc vào sự nhảy cảm
và trí tưởng tượng của độc giả. Hoàng tử bé là một cuốn sách người ta sẽ
không bao giờ cảm thấy chán dù đã đọc hàng trăm lần. Những dòng văn đẹp
như một áng thơ của Hoàng tử bé luôn là lựa chọn số một của những người
yêu sách khi muốn giới thiệu về một cái gì đó tiêu biểu cho sự thơ mộng, sự
trong sáng, về tình yêu, tình bạn, về cái đẹp, về niềm hy vọng của con người
trước những hiểm họa mà chính con người sẽ gây ra cho thế giới của mình.
Hoàng Tử Bé chỉ có một. Trăm năm ngàn năm sẽ không bao giờ có một
hoàng tử bé thứ hai. Hoa hồng của hoàng tử cũng chỉ có một. Dù trên thế gian
có triệu triệu khu vườn, mỗi khu vườn có trăm ngàn đóa hồng giống hệt nhau,
cuối cùng cũng chỉ có một đóa hồng cậu đã chăm sóc, đã yêu thương, đã giận
hờn... Thế gian thì vô cùng. Ước mơ thì vô tận. Hoàng tử bé đi chu du khắp
`
các thiên hà cuối cùng vẫn đau đáu nhớ về cái hành tinh bé nhỏ của mình. Sự
trở về khó khăn và đau đớn. Hoàng tử bé thật có quay về được không? Có
phải bao giờ cũng trở về được đâu...Chuyện mở vào lời kể của tác giả về một
bức tranh của mình vẽ khi còn bé. Bức tranh số một vẽ một con trăn đã nuốt
trọn một con voi vào bụng và nằm để tiêu hóa con mồi. Đưa cho mọi người
xem ai cũng bảo đó là một chiếc… nón nỉ. Cậu bé tức giận vẽ Bức tranh số
hai cũng y như bức số 1 nhưng có vẽ thêm hình con voi nằm bên trong bụng
con trăn cho mọi người… sáng mắt ra. Kết quả là cậu được khuyên… thôi
đừng vẽ nữa. Vậy đó, trẻ em bao giờ cũng giàu óc tưởng tượng hơn người
lớn… Và chúng thường bị người lớn đối xử bất công theo kiểu “cả vú lấp
miệng em” làm chúng nhiều khi… tức chịu không nổi. Từ đó tác giả cứ đem
hai bức tranh nọ ra như một bài test trắc nghiệm hết thảy những người lớn mà
ông gặp… Ông thất vọng vô cùng… vì nếu chỉ nhìn bức tranh số một thì
chẳng ai “nhìn” ra được con voi nọ trong bụng con trăn. Tác giả chán nản
không thèm nói chuyện văn thơ nghệ thuật với những kẻ đó. Và, để “hạ mình
xuống cho ngang tầm với họ” ông chỉ nói chuyện với họ về đánh bài, đánh
cầu, uống rượu hay về chính trị, về áo quần hay trang sức…Trong đời chúng
tôi sau này và có lẽ bạn nữa cũng vậy, nếu đầu óc bạn cũng đầy tưởng tượng
đầy mơ mộng như tác giả, bạn sẽ nhiều lúc cảm thấy mình “lạc lõng” như thế
giữa cái thế gian này, vốn đầy những kẻ thực dụng, phàm phu tục tử, thô hào,
chẳng chút gì thơ mộng thăng hoa văn nghệ văn gừng….Vậy nên tác giả khôn
xiết ngạc nhiên khi vẽ cho Hoàng tử bé xem cái bức tranh số một vốn có hình
giống như… cái mũ, thì cậu bé liền nhìn ngay ra con voi nằm ẩn tàng sâu kín
trong bụng con trăn nọ. Và khi ông lúng túng không vẽ được một con cừu cho
cậu (ông bỏ “nghề” vẽ đã lâu vì lâu nay phải sống chung với toàn những kẻ
phàm phu thô thiển chẳng thiết gì tới nghệ thuật văn chương) và ông bèn vẽ
đại một cái hộp mà bảo rằng: “Đấy,… con cừu của chú đó” vậy mà Hoàng tử
`
Bé lại mừng rỡ kêu lên đúng rồi con cừu của tôi đó rồi, nó nằm ngoan ngoan
trong cái hộp đây mà. Truyện bắt đầu ngộ nghĩnh như thế. Từ đó chúng ta
chuẩn bị đi vào thế giới ngụ ngôn triết lý đìu hiu thơ mộng của tác giả, cái thế
giới mà người ta không thể chỉ nhìn bằng mắt mà phải nhìn bằng trí tưởng,
bằng trái tim (Hay nói như Mộng Liên đường Chủ nhân trong bài tựa cho
Đoạn trường Tân Thanh là phải nhìn bằng “con mắt trông suốt cả bốn
cõi”)Truyện đầy rẫy những ngụ ngôn nho nhỏ, những lời thơ mộng thở than,
những ngẫm nghĩ ngậm ngùi bâng khuâng tơ tưởng, lãng đãng phất phơ…Tác
giả cùng ta cười buồn cái kiêu hãnh ngô nghê của người lớn bằng cái nhìn
ngây thơ trung thực của cậu Hoàng tử bé nhỏ. Cậu có cái nhìn trong suốt như
cậu bé trong truyện của Andersen đã phát hiện ra ông vua cởi truồng trong khi
tất cả bọn người lớn, vốn đầy mặc cảm, nên cứ nghĩ nhà vua đang mặc cái áo
thần kỳ….Chẳng hạn…Hoàng tử bé găp một ông vua đơn độc trên một hành
tinh nhỏ xíu nọ. Chỉ có một mình không bầy tôi, không thần dân…Nhưng ông
vua vẫn muốn ra cái oai của một đế vương. Ông ra lệnh cấm ngáp rồi lại ra
lệnh ngáp, rồi lại ra lệnh lúc ngáp lúc không… đổi tới đổi lui để sao cho
người ta phải... tuân lệnh mình. Đó là thế giới người lớn kỳ cục. Truyện tưởng
như đùa, nhưng sống lâu năm trên cõi đời này rồi thì bạn sẽ thấy chuyện đó
nhan nhản ở các nhà cầm quyền trên thế giới…Ông vua muốn Hoàng tử bé ở
lại làm bày tôi của ông nhưng chàng nhất định đi. Rốt cuộc nhà vua phải vội
vàng phong chàng làm đại sứ lưu động để …phù hợp với ý muốn của kẻ bầy
tôi duy nhất này!Chàng lang thang trong vũ trụ và gặp tòan những gã người
lớn kỳ cục như thế. Gã khoe khoang thì lúc nào cũng tưởng người ta vỗ tay là
để tán tụng gã. Gã nghiện rượu có đủ lý do để uống rượu. Gã kế tóan suốt
ngày loay hoay với những con số. Vậy đó người lớn là vậy đó. Bạn muốn giới
thiệu một hành tinh mới được khám phá ư? Bạn phải là một nhà khoa học Tây
phương mới được, chứ nếu bạn là một anh chàng Hồi giáo chẳng hạn thì
`
chẳng ai tin!!! Bạn muốn giới thiệu một người bạn mới ư? Bạn phải nói về số
cân của anh ta, tuổi tác, địa vị anh ta, thu nhập của anh ta… chứ đừng nói anh
ta thích gì, anh ta yêu gì…Bạn muốn giới thiệu một căn nhà ư? Đừng nói nó
xây kiểu gì, có sân có vườn có hoa cỏ, có chim chóc gì gì… Cứ nói nó trị giá
một trăm nghìn phật lăng là lập tức người ta xúyt xoa hít hà…Người lớn là
vậy đó.Và chú bé cứ phải lang thang trong cái xứ sở lạ lùng đó, với nỗi nhớ
khôn khuây về một đóa hồng nơi chốn quê nhà mà chàng đã từ bỏ.Tập truyện
là lời phản kháng của cái thế giới ngây thơ con trẻ mộng mơ lãng mạn chống
lại thế giới người lớn thực dụng, khô khan, tính tóan, thô hào, bỉ lậu….Rải rác
lãng đãng trong truyện là những ý tưởng đìu hiu thăm thẳm, bàng bạc thơ
mộng, hắt hiu mà trầm ngâm say đắm..…Cái qúy nhất nó vô hình……Vô
hình như đóa hồng nơi tinh cầu xa xôi mà chàng Hoàng tử giờ chỉ còn ấp ủ
trong tâm tưởng……Vô hình như nguồn nước đâu đó trong sa mạc mà người
ta cứ mãi mãi đi tìm trong vô vọng……Vô hình như tâm hồn khôn xiết ngây
thơ trong sáng, ẩn náu trong thân hình xinh xắn của chàng Hoàng tử bé
con.Vô hình như kho tàng chôn giấu đâu đó trong ngôi nhà cổ.Hoàng tử nhìn
vào cuộc đời của những con người trên quả đất đìu hiu này…Chàng thấy
gì?…Thấy những người lớn mệt nhòai trên những chuyến tàu ngược xuôi
xuôi ngược khắp thế gian. “Chẳng bao giờ người ta hài lòng với nơi chốn
mình đương ở”, nên họ cứ đi suốt, nhưng họ không biết mình đi đâu về đâu.
Họ ngủ suốt. Chỉ có những đứa trẻ là thức… chúng dùng hết thời gian để tiêu
phí cho một con búp bê rách: Chỉ có chúng là biết điều chúng tìm kiếm. Và
khi con búp bê rách bị cướp đi thì chúng khóc…Trong những ngày buồn
người ta thích ngắm Hoàng hôn. Và trên tinh cầu nhỏ xíu của mình có ngày
Hoàng tử bé đã ngắm bốn mươi ba buổi hòng hôn. Và tôi hiểu rằng trong cái
ngày đó cậu đã xiết bao là u sầu…“Thật huyền bí khôn xiết là cái xứ sở của lệ
vàng”“Chuyện hệ trọng là chuyện phi cơ hay truyện đóa hoa chứ?Bác nói
`
thật y như …người lớn!!!”Cái con người chỉ biết làm toán cộng, không biết
hít hương hoa, không biết ngắm trăng sao, không yêu ai…Thì có khác gì một
cây nấm!!! Con chồn nói với Hoàng tử bé: cái quý nhất ở xứ sở loài người là
những con gà mái, (cậu chắc cũng đi tìm gà?) Còn cái xấu nhất là lũ thợ săn
chồn. Xứ sở của cậu không có bọn thợ săn à?? Thật tuyệt vời!!! Nhưng nó
cũng không có gà ư??? Thật trên đời không có chi là hòan hảo cả!!!“Chẳng
bao giờ nên nghe hoa nó nói, chỉ nên ngắm nhìn hoa và hít thở hương
hoa…”“Buồn xiết bao nếu phải quên một người bạn thiết. Đâu có phải ai ai
trong thiên hạ cũng có một người bạn thiết…”“Con trẻ phải nên rất mực độ
lượng với những người lớn”“Nếu có một kẻ yêu một đóa hoa duy nhất duy
chỉ có một mà thôi trong hàng triệu tinh cầu, chừng ấy đủ để kẻ ấy sung
sướng mỗi khi nhìn lên ngàn sao trên bầu trời…”
“Chính cái thời giờ chú đã tiêu hao mất đi với đóa hồng của chú, chính nó đã
làm đóa hồng của chú trở nên xiết bao hệ trọng đối với chú”“Nhưng con
người trong xứ sở của bác họ trồng năm ngàn đóa hoa hồng chung trong một
thửa vườn…Và họ chẳng tìm ra cái mà họ tìm kiếm… Ấy thế mà cái họ tìm
kiếm có thể tìm ra trong riêng một đóa hồng hoặc trong một tí nước
giọt…”Vậy đó. Đã có một chàng Hoàng tử nhỏ bé ngây thơ lãng mạn lạc
bước xuống trần phiêu du lãng đãng giữa sa mạc cát vàng cồn nọ bụi hồng
dặm kia, và gặp chàng văn sĩ của chúng ta. Chú đã đem lại cho văn sĩ cái giấc
mơ phiêu bồng của mộng mơ, của nghệ thuật, của hội họa văn chương mà thế
giới đã vô tình hủy hại nơi chàng văn sĩ từ thuở chàng còn là một em bé. Họ
đã gặp nhau trong cuộc ngẫu nhĩ thiên thu. Tình trong giây phút mà thành
thiên thu. Như cuộc tình của Hoàng tử với đóa hồng, cuộc tình dang dở của
ông văn sĩ-phi công với hội họa. Gặp nhau đây, rồi chia tay u uẩn, bàng bạc
lãng quên… Đường trường sông núi hẹn nhau có gặp lại???Gió xanh cát vàng
trăng tàn đêm lạnh. Cái giấc mơ của con người u hòai lãng đãng đã mất đi qua
`
đôi nanh độc của con rắn thâm hiểm trầm ngâm nọ, đã dụ dỗ chàng quay về
với đóa hồng xa thẳm của chàng…bỏ lại chúng ta trên thế gian sa mạc hoang
vắng này. Cám ơn Saint Antoine de Exupery nhà văn đã ghi lại cho chúng ta
cuộc gặp gỡ thơ mộng trầm ngâm của một văn sĩ, đại diện cho chúng ta, với
chàng Hoàng tử, đại diện cho mộng đời bất tuyệt, lãng mạn phù du hắt hiu
phiêu lãng…Đọc lại bản dịch của Bùi Giáng, người ta không chỉ thấy ông lột
tả được bản chất của nguyên tác mà còn "nhập hồn" vào câu chuyện. Có lẽ từ
tâm hồn ngây thơ khoáng đạt của mình mà ông đã dịch đến chỗ vi diệu nhất
của tác phẩm. Trong trang đầu của cuốn sách, Bùi Giáng trích 4 câu thơ của
Huy Cận: "Bích Câu đâu nữa bóng chàng Uyên/Sông núi thô sơ bặt tiếng
Huyền/Có lẽ hồn ta không đẹp nữa/Nét thần thôi họa bức thiên duyên". Bốn
câu thơ đó không dính dáng gì đến câu chuyện của Saint Exupéry cả, nó như
một tiếng tơ rung khởi động trong tâm hồn trước khi đọc tác phẩm. Và đọc
xong câu chuyện thì ta chợt hiểu... Chưa hết, ông còn làm thơ tặng tác giả
"Trung niên tặng Saint Exupéry": "Ngậm ngùi từ biểu ngôn trưng/Âm dong
tiếu mạo hình dung xa vời". Và trong phần cuối cuốn sách, Bùi Giáng còn
đăng kèm một chùm mười bài thơ của mình. Cảm ơn Bùi Giáng đã chuyển
dịch tài tình để chúng ta có thể đọc và nâng niu từng dòng văn xuôi đẹp như
thơ.
Về thơ- phần quan trọng và có giá trị nhất trong văn nghiệp của Bùi
Giáng, chúng tôi đã ghi nhận tên một số tập thơ tính đến thời điểm này. Đó là:
Mưa Nguồn, Hoa Lá Cồn , Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, Bài Ca
Quần Đảo, Sa Mạc Trường Ca , Rong Rêu, Đêm Ngắm Trăng, Chớp Biển do
nhóm Việt thường ở Canada xuất bản, Thơ Bùi Giáng- Hoa Kỳ xuất bản,
Thơ Bùi Giáng 1995 do Bùi Vịnh và thân hữu thực hiện tại Hoa Kỳ, Tập thơ
Như Sương - Nhà xuất bản Trẻ.
`
Bùi Giáng còn có những thành tựu đáng ghi nhận trong những công
trình biên Khảo và sáng tác văn xuôi. Có thể kể ra ở đây: Tư Tưởng Hiện Đại
1, 2 và 3 - Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại 1 và 2 - Sao Là Không
Có Triết Học Heidegger - Đi Vào Cõi Thơ - Thi Ca Tư Tưởng - Sa Mạc Phát
Tiết - Sương Bình Nguyên - Trăng Châu Thổ - Mùa Xuân Thi Ca - Thúy Vân
Tam Hợp Đạo Cô - Ngày Tháng Ngao Du - Đường Đi Trong Rừng - Lời Cố
Quận - Lễ Hội Tháng Ba - Con Đường Ngã Ba…
Ngoài những tác phẩm đã nêu (chưa đầy đủ) còn rất nhiều bài thơ ngẫu
hứng tức thì của tác giả viết tặng riêng cho những anh em thân hữu, bà con đó
đây vào những dịp được gặp ông. Bên cạnh đó là những cuốn băng ghi âm,
ghi hình được ghi lại với tư cách cá nhân để giữ làm tư liệu sau nầy…
`
CHƯƠNG 2
NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG
THƠ BÙI GIÁNG
Thơ chiếm một số lượng và vị trí đáng kể trong toàn bộ văn nghiệp Bùi
Giáng. Nhắc đến Búi Giáng người ta nhớ đến một giọng điệu thơ rất riêng, rất
độc đáo. Hành trình thơ Bùi Giáng có thể tạm chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu tiên là thời ki sơ khai trong thơ Bùi Giáng Đây là thời kì
các sáng tác thơ của Bùi Giáng tuy tiềm ẩn nhiều yếu tố mới mẻ nhưng vẫn
mang bóng dáng tiêu chí mỹ học của thơ xưa nay, vẫn còn tuân thủ theo các
niêm luật thơ thường thấy. Thơ có nhịp, có vần, tương đối sáng rõ. Những đặc
điểm này thể hiện rõ trong những bài thơ lục bát "đối thoại" với Nguyễn Du
và những bài thơ "hoạ" thơ Thân Thị Ngọc Quế. Có thể nói thời kì sơ khai
này là thời kì thơ Bùi Giáng dễ đọc nhất, dễ hiểu nhất và nhưng cũng ít “chất
Bùi Giáng” nhất.Giai đoạn tiếp theo có thể xem như là một cuộc “giải trừ tri
thức” trong con người cũng như trong thơ văn của Bùi Giáng. Thời kì này hết
sức đặc biệt và góp phần hình thành nên một con người kì lạ, một cá tính thơ
độc đáo. Đây là thời kì các sáng tác thơ Bùi Giáng bắt đầu thoát khỏi những
khuôn khổ của những nguồn tri thức bao la và đa dạng mà nhà thơ đã lĩnh hội,
từ rất nhiều nguồn, rất nhiều lĩnh vực để khẳng định một phong cách thơ Bùi
Giáng, một phong cách không dễ xếp loại và gọi tên. Có thể nói đây là thời kì
những tinh hoa tri thức đã từng ngấm vào tư tưởng Bùi Giáng, thông qua bộ
`
lọc của riêng ông và giờ đây chuyển hóa thành tư tưởng cao vượt bậc, không
nghiêng theo một luồng tư tưởng nhất định nào cả. Thơ Bùi Giáng giai đoạn
này có sự đối thoại giữa Ý thức- Tiềm thức- Vô thức, trong đó những giao
hòa cũng như phản biện giữa ý thức và tiềm thức làm nảy sinh những vô thức
mang giá trị lớn lao. Thời kì sau cùng- thời kì thứ ba trong thơ Bùi Giáng có
thể ví như là một “khúc ca thiên tiên”. Đây là thời kì thơ Bùi Giáng thực sự
đạt đến ngưỡng tự do cao nhất, vượt trên mọi giới hạn để chuyển tải được hệ
tư tưởng rất riêng của Bùi Giáng, sáng tạo những cách cảm, cách nghĩ rất
riêng của Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng đến thời kì này hầu như đã vượt khỏi mỹ
học cổ điển về thơ. Vì thế, Bùi Giáng giống như một "người phá đường biên"
cũ, đẩy nó đến một nơi dường như không nhìn thấy chân trời, không rạch ròi
được những ranh giới. Người ta ngỡ ngàng, kinh ngạc và hãy còn bị quyến rũ
dài lâu ở cái phong cách thơ “rất Bùi Giáng” như thế này. Đôi khi thơ không
còn là thơ nữa, đôi khi thơ dường như méo mó xẹo xọ, thơ là các kiểu dị hình.
Thế nhưng bằng một tài năng phi thường và một trí óc không hề tầm thường,
Bùi Giáng đã để lại cho hậu thế những “niềm sửng sốt” khôn nguôi.
2.1 THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG THƠ BÙI GIÁNG
Thân phận trong thơ Bùi Giáng tương đồng và thấm nhuần tư tưởng về
con người của Phật giáo. Phật dạy con người trở về với bản lai diện mục, Bùi
Giáng hô hào đi tìm “nguyên mộng”, “nguyên xuân” và “trở về cố quận”. Thế
giới thơ Bùi Giáng là thế giới biểu tượng thơ mộng và dịch giải ra, ấy là lời
Phật. Bùi Giáng có lúc cao hứng còn cho rằng: có ngày “mưa nguồn” sẽ
chuyển dịch thành “kinh điển thơ ca… lúc đó Tăng Ni… sẽ ngâm thơ thay cho
tụng kinh đọc chú”. Bùi Giáng nói như vậy, tất nhiên, trừ ông ra mãi mãi sẽ
không có ai nói lời tương tự. Cho nên, nội lực thâm hậu của Bùi Giáng chỉ có
thể là “tiếp dẫn đạo sư” cho nguồn thơ Việt, là ngọn gió tọc mạch khiến cho
mây bình nguyên vần vũ đảo điên chứ không thể không ít nhiều làm đổ rụng,
`
xiêu lệch tư tưởng Phật giáo uyên nguyên. Nhưng trừ những cố chấp đó ra,
Bùi Giáng vẫn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu “thi sĩ Bồ tát” mà giới bạn đọc
đã dành tặng cho ông.
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
Bốn câu tự họa trên đây dường như đã gói trọn bản chất thơ ca và tư
tưởng Bùi Giáng. Một bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng trong một
"đạo khờ" gắn bó với đoạn trường tái tân thanh (chữ của Bùi Giáng) tiếp
nhận Nguyễn Du như một thông đạo, thông thư, thông mệnh văn học.
Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu
lại? Ta là ai? Những trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Ðến
bản thân ta, ta còn không biết, nữa là... Nếu trường phái hiện sinh (Sartre) bác
bỏ tính chất định mệnh, thì ở Bùi Giáng, định mệnh (Kiều) và hiện sinh giao
hưởng với nhau thành một cấu trúc tư tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm
dấu Ðạm Tiên, hắt ra những ánh siêu thực:
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại bên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn chân trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
`
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
(Mưa nguồn)
Ít ai trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại lại viết nhiều về trần gian
như ông. Lúc thì nguyện “yêu trần gian nguyên vẹn”, lúc thì “sẽ tiếc thương
trần gian mãi mãi”, lúc khác là:
Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy
Đời chúng ta là mấy trăng tròn
Yêu thiết tha cõi trần gian, nhiều khi ông nhìn trời đất như đứa bé. Ông
hỏi sông: “Ngàn mây về cuối mãi trời xa. Nước có bằng lòng đứng đợi ta”.
Ông bập bẹ: “Trần gian do cánh bướm cánh chuồn chuồn. Con kiến bé cùng
hoa hoang cỏ dại. Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn”. Ông kêu lên
thảng thốt: “Ồ gót chân, anh đứng ngó như ngây”. Ông òa khóc không gìn
giữ: “Em ra đi đời bưng mặt khóc òa”. Nhưng Bùi Giáng là đứa trẻ biết rằng
“Diều đứt dây trẻ cũng cầm bằng”. Thơ ông từ bài này sang bài khác, từ trang
này sang trang khác thắm đượm mối âu lo cho “Những nỗi đau về chẳng hẹn
giờ”, “Những thân xương máu đã đàng là ủy mị”. Ông ngẫm về thân phận
mình, về con người:
Người kia đứng lại
Nghe trời đầy xuống hai vai
Gánh nặng đó ông gánh chịu suốt cả cuộc đời đơn độc của mình. Nhiều
khi ông đã thốt lên “Đời dại khờ như một giấc chiêm bao”, nhiều khi ông lắng
nghe “Mấy đời ly biệt rẽ đau một mình”. Nhiều khi ông van nài “Em ở lại với
`
đời ta em nhé. Em đừng đi cho ta nắm tay em”…Ý thức sâu xa về sự hữu hạn
của kiếp người, của lẽ hợp tan, ông luôn phấp phỏng lo lắng:
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rời xa vĩnh viễn với người thôi
Và:
Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ
Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi
Mỗi cảnh, mỗi vật đều in dấu nỗi phấp phỏng, lo lắng ấy. Nào là
“Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo”, nào là “Tờ cảo thơm như lệ ứa pha
hồng”, nào là “Mình cát lạnh chân lạc đà bé bỏng - Bóng hình em tơi tả dưới
trăng rằm”, nào là “Ngày đi đổ bóng sau người- Mộng hờ biết có buồn vui em
về”, nào là “Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai”…
Con người quả thật bé nhỏ trước lẽ vô thường, trước những chuyển
xoay của tạo vật. Trong thơ Bùi tiên sinh có thể thấy sự chuyển dịch, đổi thay
của không gian, thời gian, bản chất và hiện tượng. Thời gian đi là nước đi.
Hay đời người cũng đi? Bùi Giáng buộc mình ý thức trong từng sát-na sự ra
đi của xác thân, của tình yêu, của vạn vật trong cõi ban sơ:
Thân xương máu đã đành là ủy mị
Em ở lại với đời ta em nhé
Em về mấy thế kỉ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ý thức rằng màu sương đang mòn ruỗng, chiếc lá chuyển màu, dòng
nước miệt mài trôi và những yêu thương rồi cũng mất… là những ý thức tạo
nên nghị lực sống thù thắng phi thường, một can đảm để chấp thuận ngang
`
ngửa bể dâu, dù lắm lúc cũng dở khóc cười và chất ngất điêu linh. Nhưng …
hãy mỉm cười đi, trong huỷ diệt đã sẵn mầm sự sống, trong buốt giá mùa đông
“thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”:
Mỗi sáng tôi nhìn mặt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới.
( Nhìn thấy- Đêm ngắm trăng, trang 27)
Có ý thức từng hơi thở vào ra mới thấy sự quý trọng và cần thiết của
hơi thở. Bình lặng thở vào, mỉm cười thở ra, dẫu “mặt trời lặn”, “mặt trời
mọc” thì hơi thở cũng trong lành và tĩnh tại. Đó là thông điệp nhuốm màu
thiền, mà đã ngân nga suốt từng thời thơ Bùi Giáng. Nhìn vạn vật đổi thay,
em hãy là tấm gương sáng trong để tất cả qua đi soi mình vào đó. Sống là
phụng hiến, là vươn lên. Nếu em buông thả cho tất cả qua đi trong vô ý thức,
cuộc đời sẽ xám đen một màu ảm đạm. Đừng tỏ ra bất cần và chẳng hề tỉnh
táo để nhận diện sự mầu nhiệm xung quanh. Nhưng nếu em “đưa tay nắm bắt
để cầm; (em sẽ) nghe trong chút nắng sương chầm chậm bay”. Nắng giữ
chẳng được, buông thả không xong, tất cả qua đi trong ý thức. Cứ nghe chim
hót, lá reo. Cứ nhìn mặt trời mọc, mặt trời lặn mỗi sớm, mỗi chiều để thấy
một bình minh, một mặt trăng đang nhón gót đến gần. Đừng cố níu giữ làm
gì, rồi mặt trời sẽ mọc, mặt trời sẽ lặn, mỗi ngày mỗi mới, em sẽ tìm ra đúng
nghĩa một đời vui. Tha thiết cầu cứu cho chuồn chuồn, châu chấu, nguyên
mộng, nguyên xuân… thơ Bùi Giáng vì vậy văng vẳng lời kêu “phản quan tự
kỷ”. Chỉ với thiên nhiên huyền nhiệm, ta đã giàu có mà ta lại làm “cùng tử
lang thang” đi tìm cầu mọi thứ để khi sức mòn lực kiệt mới thảng thốt gào
kêu: Cố hương ơi, đường trở về sao quá xa xôi! Ôi quê hương, cố quận! Ôi,
`
nguyên mộng, nguyên xuân! Cuối cùng rồi ta cũng gặp ngươi, gặp lại tình ta.
Hoát nhiên ta “đại ngộ” vì sao Bùi Giáng nói:
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà
Hay
Từ đâu ngươi đến?- Từ đây ta về
Hành trình lữ thứ để quy hồi cố quận, có ai ngờ, càng đi càng xa. Hãy
đi để trở về, “hãy đến đi để thấy”, “hãy như thực tri chứng”. Cũng như:
Người nằm ngủ thấy gì,
Thấy rất nhiều nắng lạ,
Những chùm bông rất xanh,
Có lẽ bông là lá.
Người nằm ngủ thấy gì,
Chẳng thấy gì hết cả.
Ngài thử nằm ngủ đi…
(Có lẽ – Mưa nguồn…tr. 359)
Nắng, lá, bông ngươi thấy không như thấy. Cái ngươi thấy sẽ khác cái
ta thấy. Hãy ngủ đi để thấy, hỏi có ích gì. Hãy bỏ chân xuống tháng ngày,
đừng bắt chước bọn thi sĩ lếu láo “quanh năm ru rú trong tháp ngà mà liên
miên thuyết thoại về dâu biển tinh sương chan hoà tuế nguyệt”? Lời suông có
ích gì, chỉ méo mó xiêu lệch mà thôi. Không ai lấy cắp được đoá hoa trong
tâm hồn người khác, mặt trăng rỗng tuếch tư niệm soi xuống nhân gian như
ngàn vạn đoá hoa dâng tặng hồn người. Bùi Giáng cảm nhận được và cố chỉ
cho người khác nhưng lại khuyến cáo “ngón tay không phải là mặt trăng”.
`
Không đến sẽ không thấy, kẻ “như thực tri chứng” trong trường hợp này chỉ
biết ngước mắt nhìn trăng thơ mộng mà cảm thương: ước gì ta có thể cho
ngươi vầng trăng đẹp này!
Thực ra , trong bản chất cuả thân phận làm người , Bùi Giáng đau nỗi
đau kiếp nhân sinh , nỗi đau cuả sự thất bại trong nỗ lực vượt qua “ bốn nuí “
( Chữ cuả Trần Thái Tông ,1218 - 1277 , trong Thiền Tông Chỉ Nam ), vượt
qua sắc không , ngũ uẩn , vô thường . Bùi Giáng không sao đặt được bước
chân vào cõi thanh tịnh vô vi (Asamkrita ) . Ông tự dày vò mình trong hình
hài “ đười ươi , con vật , giống khỉ , ngưả mặt cười vu vơ “( hình ảnh “ điên “
cuả Bùi Giáng ).
…Em về giũ áo mù sa
Tiền trình vạn lý anh là đười ươi…
…Em về giũ áo đười ươi
Trút quần phong nhụy cho người phụ nhau.
Đười ươi tại hạ ra đời
Thời gian rạch xé tô bồi cho em
….Ông già rất mực đười ươi
Già nua lắm lắm còn cười vu vơ.
Nhận ra “ tinh thể đười ươi “ trong thân phận người là một giác ngộ tư
tưởng của Bùi Giáng:
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
`
Trong Thiền Luận , Daisetz Teitaro Suzuki nhắc đến Thiền Thoại sau :
Khi Ngưỡng Sơn ( 804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân thí dụ như
vầy: “Như ngôi nhà có sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt
khọt”, khỉ đáp lại “khọt khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng”. Ngưỡng
Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì sao?". Hồng Ân bước xuống một tay
nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi khỉ ơi , ta với ngươi cùng đối
mặt nhau đây”.Đoạn thơ trên biểu hiện tâm hồn , tính cách , kiểu nói năng rất
Thiền cuả Bùi Giáng .
Bùi Giáng nhận ra Phật Tánh trong hình hài đười ươi cuả người , của
tôi , “ người cũng là tôi , tôi cũng là người , ấy rằng tinh thể đười ươi “ . Vũ
trụ , thời gian là nhất thể , tự tại , không sinh diệt : “ một cũng là ba , là hai ,
là một ; mai , mốt cũng là hôm nay “ . Sự giác ngộ như thế là bước giác ngộ
thứ nhất để dẫn đến đại ngộ . Đây không phải là sự “ xoá nhoà ranh giới giữa
cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung” như nhận xét cuả Nguyễn Hưng
Quốc . Trong đoạn thơ trên , phải chăng Bùi Giáng mượn lời thiền sư Hồng
Ân để thể hiện tư tưởng cuả mình ? Rõ ràng tư tưởng thơ Bùi Giáng là tư
tưởng Phật Giáo . Đời hư huyễn, như hạt sương , bọt nước , như ánh chớp ,
như áng mây , vô thường , chiêm bao ( Bùi Giáng có nhiều bài thơ đề tài
Chiêm Bao ) .Tự Tánh cuả vạn vật là KHÔNG, sự từ bỏ Ngã , không để
vướng mắc vào bất cứ cái gì đạt tới tinh thần “ Ưng vô sở trú “, (Giới thiệu
Kinh Kim Cang – Thích Thái Hoà ). Dường như Bùi Giáng đang phát tâm, an
trú tâm và hàng phục tâm, đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập ngã- không
“Anh đã định sẽ cùng em kể lể
Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao
Vườn hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ
Một mùi hương hồng tụ ở nơi nao”
Anh đã định bỏ hoàng hoa say đắm
`
Bỏ tâm tư về vắng lặng phương trời
Bỏ tất cả tâm tình xưa say đắm
Tới muôn sau tình tuyệt vọng không lời
( Quá Khứ Của Anh )
Có lúc Bùi Giáng đã đạt đuợc sự hồn nhiên thanh tịnh , vượt qua sắc
không , đạt đến tinh thần cuả Hoa Nghiêm , hoà trong tạo vật . Tôi không thấy
hồn thơ Bùi Giáng bị vây khốn như Thanh Tâm Tuyền đã từng viết về ông.
Rong rêu ngày tháng rong chơi
Tìm xuân tinh thể chốn nơi nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như là hài nhi?
( Bé Con Ơi )
…Một hàng cây bóng thần tiên
Dập dìu ở giữa khuôn viên thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy quanh
( Thiên Thanh Là Là )
Xin yêu mãi mãi và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
( Phụng Hiền )
`
Nâu sồng ăn mặc sớm hôm
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm song the.
( Ăn Mặc Nâu Sồng )
Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến
cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là
Phật , kể cả sơn hà đại địa , phiến đá, dòng suối trong rừng, một miếng gỗ,
cục đá hay đồng chì ..Nhưng Bùi Giáng không trở thành Thiền Sư , ông vẫn
sống với thân phận đười ươi khỉ đột giữa đời , vẫn tra hỏi tìm kiếm mỏi mòn
trong cõi bể dâu , và ngày càng xa hút .. trong cái nhìn cuả con người , cái
nhìn đười ươi , nghi hoặc , đo , đếm .
Đười ươi giũ áo tình phong nhã
Khỉ đột trút quần tưởng Việt siêu …
( Chiêm Bao 7 )
Cố gắng trăm năm tìm kiếm mãi
Mỏi mòn nghìn mối thể thân ly …
( Chiêm Bao 3 )
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
( Tặng Mã Giám Sinh )
`
Ông chỉ đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới đại ngộ cuả Thực tướng vô
tướng ; thực tánh vô tánh . Trạng thái “ điên “ cuả Bùi Giáng chính là trạng
thái bất lực trước cuộc vượt qua đề “ tái sinh “, mặc dù Bùi Giáng đã nhiều
lần nói đến tái sinh.
Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại bông lông
( Quá Khứ Cuả Anh - tại Lê Gia Trang 1991 )
Tỉnh ra nửa sợ nửa mừng
Tận cùng gió núi trăng rừng tái sinh
( Chuyện Chiêm Bao 20)
Tận cùng gió gác trăng lầu
Tái sinh rừng biển buồn rầu trăm năm
( Chiêm Bao 21 )
Chưa giác ngộ , người ta thấy núi là núi sông là sông. Giác ngộ rồi ,
người ta vẫn thấy núi là núi , sông là sông , nhưng là một tâm hồn tái sinh .
Tái sinh trong tâm bình thường không phải tâm sai biệt . Như trở về nhà xưa ,
hoa xuân như lộng lẫy hơn, dòng nước đầu non như chảy mát rượi hơn, trong
vắt hơn , trong mọi vật bình thường là toàn thể vũ trụ , là tự do.Chính vì
không vượt qua được sắc tướng huyễn hoặc hồng trần , Bùi Giáng cứ phiêu
du trong cõi đời cô độc mù khơi , hành trình ấy như một bế tắc , lại vưà như
một khám phá hiện sinh làm nên thơ Bùi Giáng , những bài thơ ấy chia xẻ
được với mọi người nỗi niềm gần xa . Bởi vì nếu Bùi Giáng “ ngộ “ được
`
chân như , có lẽ thơ Bùi Giáng chỉ còn là những bài kệ để thuyết pháp mà thôi
.
Tôi người thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không
( Mái Hiên )
lạnh lụng dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời
( Mái Hiên )
Có vẻ như cách nhìn, cách suy tưởng và cách cảm của Bùi Giáng về
thân phận con người thấm đẫm cái nhìn của tư tưởng Phật giáo. Có người
cho rằng nhìn thơ Bùi Giáng qua nhãn quan Phật giáo là nhạt nhẽo, méo mó,
thơ chỉ là bản phiên dịch tư tưởng Phật giáo … Hãy đến đi, để thấy… Dẫu
sao, Bùi Giáng cũng từng nhắn nhủ: “Chúng ta quên một cách quá dễ dàng,
vắng một nhà tư tưởng tác động một cách thiết cốt nhất, chính là những điểm
ông bị kích bác hơn là những điểm ông được tán đồng”. Biết vậy, Bùi Giáng
mặc ai khen, ai chê, đã “tự tại với tâm” thì “tự tại với pháp”.Nhưng không
hoàn toàn như thế. Có thể nói đọc thơ Bùi Giáng không bằng hiểu Bùi Giáng.
Hiểu Bùi Giáng không bằng cùng Bùi Giáng bỏ chân xuống tháng ngày.
Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong
thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi - người chưa thành người :
`
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr.198)
Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng u buồn- trích Sa Mạc Trường Ca)
Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình:
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr.86)
Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết !Đười Ươi Thi Sĩ,
nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên
tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đất Sơ Nguyên.
Thuở Uyên Nguyên ấy, là mùa Xuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con
Người.Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn
Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm,
chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn
ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngày Tết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi
Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng :
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng
(Thơ Bùi Giáng)
Và đối với Bùi Giáng, ngày xuân không câu nệ hình thức:
`
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì
(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo)
Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán:
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
- "Thầy mua giúp ! Đầu năm, dịp Tết"
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(...)
Hỡi Thượng Đế ! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì ? Cho sáng nghĩa Vô Biên ?
(Chớp Biển, tr.127-128)
Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng: khía cạnh xã
hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày
càng rõ nét về sau.Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè
phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo
khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo.
Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ:
`
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
(Anh vẫn Tưởng, trích Bài Ca Quần Đảo)
Thơ Bùi Giáng là hiện sinh trong đoạn trường và định mệnh. Những ám
ảnh "mù sa", "chỉn e", ám ảnh "vân mòng", "mai sau", "trăm năm", "ngẫu
nhĩ", "phong tình", "cổ lục", "dặm về", "tử sinh"... là cảm nhận kiếp người bé
nhỏ hữu hạn giữa những điều vô hạn. Tiếp nhận Nguyễn Du như một thông
đạo, thông thư, thông mệnh văn học, Bùi Giáng thường đề cập đến thân phận
dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu lại? Ta là ai? Những
trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Bùi Giáng đã đặt những
câu hỏi về thân phận con người trải suốt đời thơ, thắc mắc, tìm kiếm, đặt nghi
vấn về cõi đi, cõi ở, cõi có, cõi không của phận người. Có lẽ xuất phát từ thẳm
sâu ý thức về thân phận thiên tài, số kiếp kẻ phong vận bạc mệnh. Thực ra ,
trong bản chất của thân phận làm người , Bùi Giáng đau nỗi đau kiếp nhân
sinh , nỗi đau của sự thất bại trong nỗ lực vượt qua sắc không , ngũ uẩn , vô
thường. Bất lực trong việc đặt chân vào cõi thanh tịnh vô vi (Asamkrita ) Bùi
Giáng tự dày vò mình trong hình hài “ đười ươi “, con vật , giống khỉ , ngửa
mặt cười vu vơ. Những từ ngữ, hình ảnh thơ tưởng chừng ngộ nghĩnh nhưng
là giác ngộ tư tưởng của Bùi Giáng. Ví như việc nhận ra “ tinh thể đười ươi “
trong thân phận con người.
`
2.2 THIÊN NHIÊN TRONG THƠ BÙI GIÁNG
Thử xem xét yếu tố thiên nhiên trong thơ Bùi Giáng, người đọc nhận ra
ngay chất cổ điển trong cách Bùi Giáng sử dụng những chất liệu này. Thiên
nhiên trong thơ Bùi Giáng là thiên nhiên đời thường của ca dao, đó là thiên
nhiên khái niệm mang tính trí tuệ, tư tưởng của thơ Đường, nó cũng mang cái
nhìn Hoa Nghiêm của Bùi Giáng trên hoa cỏ, sông núi, ruộng đồng, gió trăng,
mây nước. Thiên nhiến ấy cũng mang màu sắc Kiều của Nguyễn Du. Ta gặp
nhiều hình ảnh này: chân trời, rộng tênh, nguyệt tỏ bên thềm, biển cạn sông
sâu, chiều xuân thơ mộng, bình minh vô thường, sương đầm lá ướt, vườn hiu
hắt nguyệt, hờn mây nhỏ lệ, gió núi trăng rừng, biển xanh dâu, cây cỏ ngậm
ngùi, trời thu, rừng thu, mây trời, bụi hồng, cát lầm, nguyên khê, đầu
núi…Bùi Giáng là nhà thơ có lòng yêu quê hương sâu đậm. Không được phát
ngôn một cách cụ thể nhưng những "phố thị", những "cố quận", "đười ươi" là
những địa chỉ, những hình ảnh thường xuyên xuất hiện, đã phản ánh lòng
nặng tình quê của thi sĩ họ Bùi. Thiên nhiên của miền trung du xứ Quảng hiển
hiện trong thơ Bùi Giáng nửa thân thuộc, nửa như nằm trong viễn tượng mênh
mông của Phusis (Thiên nhiên) Hy Lạp Nguyên Sơ (theo Heidegger). Hình
ảnh thiên nhiên mang đậm hồn quê trải theo dọc dài các sáng tác của Bùi
Giáng, tần số xuất hiện khi đậm khi nhạt nhưng bao giờ cũng đẫm đầy khắc
khoải. (Hỏi tên: rằng biển xanh dâu. Hỏi quê rằng: mộng ban đầu rất xa).
Bùi Giáng thương quý từng hòn đá bờ khe, từng chân mây mái rạ, từng con
kiến, con chuồn chuồn châu chấu, từng bóng nắng chiều, từng bờ sông bóng
mạ hay những mùa lũ khốn khó... Tất cả những hình ảnh thân thương và thân
quen của hồn quê xứ Việt đều mang trọn tâm tình con người mà hóa thân vào
thơ ông rất mực phiêu nhiên.
Không gian quê hương xứ Quảng là một mảng không gian rộng lớn,
xuất hiện dày đặc trong các thi phẩm của Bùi Giáng. Từ khởi điểm một đời
`
thơ cho đến khi trần gian về cõi khác, lúc nào hồn thơ cũng bị ràng buộc bởi
núi rừng, triền cỏ, hoa đồng Duy Xuyên. Trong khoảng không gian rộng lớn
này, điểm dừng đầu tiên, chúng ta đặc biệt quan tâm, đó là một thời ông tự
nhận là Tô Vũ mục dương ở núi rừng xứ Quảng. Đây là không gian khơi
nguồn cảm hứng thi ca Bùi Giáng. Khoảng trời thơ đầu tiên Bùi Giáng đến
là :
Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng
Lạc mất đường về chợt bỗng dưng
Sực nhớ rằng đây rừng núi thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng
Người xuống theo dòng trôi nước lã
Màu sim màu móc núi sương mây
Suối đá gập ghền hôm sớm tụ
Khói mù mịt thổi xuống đồi cây
(Người về - Mưa nguồn)
Ông đã tìm thấy ở sim ngàn sổ lá, rừng truông thác đổ một mối giao
tình thân thiết, gần gũi, gắn bó. Hồn thơ ông tìm đến thiên nhiên không chỉ
những ẩn sĩ xưa, để thanh lọc tâm hồn, chốn núi rừng sơ nguyên ấy còn là cội
nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, nơi phát tiết chữ tình say đắm, là lời
hẹn đầu , lời ước nguyện trăm năm. Mối tình đầu ấy được nói bằng giọng điệu
ngỡ là bỡn cợt, nhưng thật ra hết sức nghiêm trang, nếu không nói là rất đổi
thiêng liêng. Bên cạnh đó, suối nguồn thứ hai chảy mênh mang cõi thơ Bùi
Giáng, làm nức lòng con người xứ Quảng là màu trăng xứ sở, sông Thu Bồn
`
cá sóng bóng Duy Xuyên. Ở đây, tên riêng của một vùng đất, một con sông
đã được mã hóa để trở thành không gian nghệ thuật thi ca Bùi Giáng. Không
gian quê hương thường là không gian của nỗi nhớ. Đó là khoảng trời chứa
đầy tâm trạng của người con Quảng Nam xa quê. Con sông Thu Bồn bắt đầu
từ núi đá Ngọc Linh, chảy qua thị xã Hội An rồi đổ ra biển Đông qua Cửa Đại
(Đại Chiêm) là biểu tượng của quê hương xứ Quảng. Hơn nữa, không gian
quê hương xứ sở trong thơ Bùi Giáng đâu chỉ có Thu Bồn. Hàng loại những
địa danh quê hương cứ lặp đi lặp lai. Nào những Trà Linh, Đá Dừng, Hòn
Dựng, Rạnh Khe Rinh buồn Trung Phước Cà Tang Dùi Chiêng Tí Sé mây
chiều thổi xuống Duy Xuyên, nào những Thanh Châu, Vĩnh Trinh, Lệ Trạch,
Bến Đền, Bảo An, Bàn Lãnh, Xuân Đài, nào những Đại Lộc, Điện Bàn, Tiên
Phước, Hòa Vang, Thăng Bình, cứ mãi đi về trong cảm xúc thi ca. Nhà thơ
như muốn dặn lòng đừng quên, không bao giờ quên một khoảng trời quê.
Cũng có lúc, thơ ông xuất hiện một loạt bài Màu trăng xứ sở, Gặp trăng xứ
sở, Hờn trăng xứ sở (Lá hoa cồn). Quê hương mùa mưa lũ đã để lại dấu ấn
sâu đậm trong thơ ông. Hai câu lục bát trong bài thơ Tiếng Vọng, tập thơ Mưa
Nguồn của Bùi Giáng :
Em về ở lại đây thôi
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Một trăm cây lá bên rừng
Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây
Tình quê hương của ông còn được biểu lộ qua nỗi ray rứt của một
người con xa xứ: Hình ảnh quê hương như đã thành một ám ảnh.
`
Chiều hôm đếm lá cây rơi
Bên đèn phố thị thương đồi núi xa
(Chiều hôm phố thị)
Bây giờ tôi đã quên xưa
Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về
(Ca dao)
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
Ðã từ xa lắm thiên thần nhớ em
Mưa nguồn ra đời đã hơn một phần tư thế kỷ. Thời gian trôi qua, bão
giông đời lắng dịu, chúng ta giờ đây có điều kiện thử thong thả đem một chút
tâm tình người nông dân quê hương xứ Quảng của ông để lắng nghe tiếng nói
thiết tha của lời thơ đạm nhiên trong Mưa nguồn. Và tôi dám nói rằng, đó
chính là nơi mà tinh hoa ông phát tiết ở độ sung mãn. Toàn bộ tác phẩm Mưa
nguồn là một khối toàn bích, rất khó lòng trích ra dăm ba câu để phẩm bình
theo thể lệ biên khảo. Đó là tiếng nói thiết tha với cỏ hoa hồn du mục của
người sống trong cảnh giới mù sương nội cỏ:
Én đầu xuân, tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
Quê hương ông thuộc miền trung du xứ Quảng - một trong những xứ
nghèo của miền Trung - nơi mà những cơn lũ trên non hằng năm vẫn chảy về
`
xuôi, cuốn trôi phăng đồng. Những dòng nước đục cuộn qua, vườn tược tiêu
điều và lòng người thê thiết lắm:
Một bờ dương xếp bến sau
Nước vần vũ đục nghe đau lá vườn
(Thiếu phụ trở về)
hay
Em về ở lại đây thôi
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Một trăm cây lá bên rừng
Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây
Mười con xóm nhỏ bên này
Nhắc nhau nhớ lại cái ngày bên kia
(Tiếng vọng)
Nhớ lại cái ngày bên kia? Cái ngày lênh đênh, trôi dạt qua làng bên tránh lũ
cùng cô thôn nữ xinh xinh? Cô mang về rất nhiều hương vị mênh mông của rừng
suối, huyền bí của khói mây? Và để hồn thơ ai cứ mãi mơ màng:
Người xuống theo dòng trôi nước lũ
Màu sim màu móc núi sương mây
Suối đá gập ghềnh hôm sớm tụ
Khói mù mịt thổi xuống đồi cây
(Người xuống)
Người dân quê Việt Nam, nhất là người dân quê xứ Quảng Nam nghèo
nàn của miền Trung sỏi đá, vốn luôn chịu khó chịu thương hai sương một
`
nắng, sống trọn cùng thiên nhiên và vui buồn cùng trời đất. Mồ hôi đổ xuống
luống cày và kết tinh thành những lời ca dao tha thiết. Tâm hồn Bùi Giáng
vẫn là tâm hồn của người nông dân chân chất, nên lời thơ ông vẫn mênh mang
như ca dao trên bãi lúa nương dâu. Và thiên nhiên đó đã mang trọn tâm tình
con người mà hòa tan vào viễn tượng mênh mông:
Viết thơ lạc dấu sai dòng
Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong
Nước xanh lên đọt đòng đòng
Ngày mai sẽ mất hạt lòng thơ ngây
(Ca dao)
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
Hết mấy phen buồn trở lại bên đời
Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
(Người đi đâu)
Bùi Giáng viết bài thơ nổi tiếng sau đây ( Nỗi lòng Tô Vũ ), để kể lại
đoạn đời chăn dê lang thang khắp vùng Nam Ngãi Bình Phú dạo bỏ học năm
1952 :
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi ướt dòng khe,
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi vọng be be
`
Ông cùng đàn dê đã trải qua nhiều gian nan lận đận “bôn ba băng rú
rậm rùng mình”, gặp những trận lụt rừng nguy hiểm,
Nước trôi nguồn, nước lũ cuốn phăng phăng
Và :
Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng …
Có những lúc ông cùng đàn dê băng qua truông làm kinh sợ đàn nai
rừng có tên là Nai Cao Gót :
Vàng Cao Gót, nai đầu truông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa
Sau một thời gian vất vả lội suối băng ngàn ông cùng đàn dê cắm trại
định cư và đây là một khoảng thời gian hạnh phúc nhất mà ông có thể hưởng
thụ giữa thiên nhiên :
Dưới nắng mưa tha phương du mục mãi,
Cay đắng từng dịu ngọt mặn mà thêm”
Ông bện những chiếc vòng mây ngũ sắc để đeo vào cổ con dê đủ màu
của ông. Sau khi chiều xuống, chúng đã ăn no nê, trở về :
Ngẩng đầu lên dê ơi ăn thong thả,
Đeo vòng vào em ngẩng cổ cong xinh,
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ,
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi,
Trao người em trăm năm lời ước thệ,
`
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi,
Và ông thêm đoạn chú thích : “Ngay lần đầu thuở hai mươi tuổi trao
cái vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động bằng lần đeo vòng cho dê
vậy”.
Đeo vòng cho dê xong, ông cũng bện riêng cho mình một chiếc :
Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc
Dành riêng mình dê hỡi, hiểu vì sao ?
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết,
Gá đời mình trọn kiếp với dê sao !
Dê sao là một loại dê rất đẹp, lốm đốm như sao, có màu hoa cà, còn
gọi là dê hoa cà. Bài thơ Nỗi lòng Tô Vũ dài đến 60 câu, được nhiều người
thích đọc. Bài thơ với những lời thơ hết sức thiết tha, đằm thắm, ông dành cho
những nàng thơ đặc biệt của ông là những con bò, đọc lên nghe rất thú vị.
Trong bài thơ, ông xưng anh với những con bò mà ông đã biến chúng thành
dê cho giống chuyện Tô Vũ ngày xưa và gọi chúng là em: "Chiều hôm nay
bên chó vàng chễm chện/Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi". Ông tặng các
nàng thơ của ông những chiếc vòng bằng mây mà ông tự đan đủ màu sắc như
người ta tặng kỷ vật cho người mình yêu: "Này em Đen chiếc vòng vàng tươi
lắm/Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu/Này em Trắng chiếc hồng càng lóng
lánh/Này đây em Hoa Cà hỡi! Chiếc nâu". Mỗi nàng dê một chiếc vòng, ông
tự tay đeo vào cổ các nàng và thủ thỉ: "Ngẩng đầu lên! Dê ơi anh thong
thả/Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh/Ngẩng đầu lên! Đây lòng anh vàng
đá/Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên". Tặng xong kỷ vật cho các nàng
dê rồi ông mới thề thốt: "Và giờ đây một lời thề đã thốt/Nghìn thu sau đồi núi
chứng cho ta/Cao lời ca bê hê em cùng thốt/Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết
`
tha". Lấy dê, thực chất là bò, làm nàng thơ quả là một chuyện xưa nay chưa
có ai làm. Nhưng đáng kinh ngạc hơn nữa là ông so sánh chuyện đeo vòng
mây cho dê với việc trao vòng cầu hôn cho vị hôn thê của mình: "Ngẩng đầu
lên nhìn anh mờ mắt lệ/Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi/Trao người em
trăm năm lời ước thệ/Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi". Trong lần xuất
bản đầu tiên của tập Mưa nguồn, Bùi Giáng còn ghi chú rõ ý khổ thơ này là,
ngày xưa khi ông cưới vợ, thì cái giây phút đeo chiếc vòng đính hôn kỳ diệu
ấy không làm ông xúc động bằng bây giờ đeo vòng mây cho dê! Thật là một
cảm xúc khác người. Sau này chúng ta sẽ thấy, thứ cảm xúc này không phải
do ông cố nặn ra cho thành bài thơ lạ mà đó là những gì diễn ra thực tế trong
tâm trí ông. Nỗi lòng Tô Vũ là một bài thơ độc đáo bởi đối tượng cảm xúc của
tác giả không phải là cảnh đẹp, là người thơ mà là những con dê. Bài thơ
không giống ai đó có những đoạn thơ đẹp lạ lùng: "Em nhớ hay không hồn
hoa dại cỏ/Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya/Vàng cao gót nai đầu
buông hãi sợ/Gió cây rung trút lá mộng tan lìa"...
Trong bài Chiều, nhà thơ mở đôi mắt hoang mang nhìn đất trời với tất
cả nỗi ngạc ngạc hồn hồn của con người Sơ Thủy. Và tình yêu, từ đó, cũng
hòa tan trong viễn tượng mênh mang kia để biến thành man mác tuyết sương:
Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm
Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm
(Chiều)
Mù sa thấp rừng mai xưa lỡ hẹn
Xuống thôn làng ngó lá rụng ven khe
`
Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn
Với sông Thu từ một buổi bay về
(Hang rừng)
Tâm hồn nhà thơ mở rộng ra đón nhận mọi viễn tượng kỳ diệu của
thiên nhiên để nó trở thành lẽ sống và lẽ chết của chính mình. Cái cùng cực
phức tạp cũng ở nơi thơ ông, cái cực kỳ đơn giản cũng ở nơi ông:
Mây đứng lại chân trời phủ khói
Dòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ
(Không đủ gọi một lần)
Bờ mây trắng dựng cuối trời bóng dáng
Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian
Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng
Em về nhanh cho mây trắng buông màn
...
Còn hay mất? Ngày sau ta sẽ lại
Em sẽ về giữa mùa nước trăng phơi
(Bờ mây)
Thiên nhiên ở miền trung du xứ Quảng trong Mưa nguồn là thiên nhiên
nằm trong viễn tượng mênh mông của Phusis Hy Lạp Nguyên Sơ. Ông
Heidegger đã dành những trang tuyệt vời để diễn giải về Phusis, báo rằng:
"Người Hy Lạp đã không khởi đầu bằng cách y cứ vào các hiện tượng tự
`
nhiên để thể hội Phusis (Thiên nhiên) mà trái lại chính nhờ y cứ vào nền tảng
của một thể nghiệm căn cơ trầm tư thơ mộng về Hằng Thể mà họ thấy khai
mở trước mắt họ cái mà họ gọi là Phusis" (Introduction à la Métaphysique).
Cái gọi là "một thể nghiệm căn cơ trầm tư thơ mộng về Hằng Thể" - une
expérience fondamentale poétique et pensante de l’être - chính là hồn thơ
mênh mông nằm trong Mưa nguồn của Bùi Giáng. Ông cũng từng nói: “Nếu
ta không thực hiện nổi cội nguồn trường mộng ở nội tâm thì triết học không
thể nào tiếp xúc được với căn cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học
hiệu phù hoa với bao nhiêu giọng điệu" (M.Heidegger và Tư tưởng hiện đại,
tập 1).
Từng hòn đá bờ khe, từng chân mây mái rạ, từng con kiến, con chuồn
chuồn châu chấu, từng bóng nắng chiều, từng bờ sông bóng mạ... tất cả những
hình ảnh thân thương và thân quen của hồn quê xứ Việt đều mang trọn tâm
tình con người mà hóa thân vào thơ ông rất mực tự nhiên mà cũng rất đỗi tài
hoa:
Nhìn, em nhé, bên bờ kia gió thổi
Lá xanh vườn theo cỏ mượt ngân nga
Tơ vi vút một đời thương nhớ tuổi
Của trăng rằm xuống dọ dẫm bên hoa
(Bờ nước cũ)
Đó chẳng phải là thiên nhiên hiển lộ hay linh hồn Phusis mở phơi sao?
`
Em về bủa rộng chiêm bao
Buồn sông bóng mạ chìm sâu bên dòng
(Sầu ca sĩ)
Trong lời tựa cho tác phẩm Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại -
một tác phẩm biên khảo chính yếu của mình, Bùi Giáng có nói: “Phần tâm
hội phải được chiêm niệm theo điệu tâm hội. Và dòng lơ lửng của Mưa nguồn
đã bóng bẩy làm việc đó theo nhịp võ-vàng-cổ-độ-Á-Đông". Để rồi sau này,
khi rời bỏ quê hương vào Nam, hình ảnh quê hương cứ như một nỗi ám ảnh
ray rứt trong ông:
Chiều hôm đếm lá cây rơi
Bên đèn phố thị thương đồi núi xa
(Chiều hôm phố thị)
Bây giờ tôi đã quên xưa
Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về
(Ca dao)
Ngay chốn thị thành, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra một dáng người
đang ngơ ngác giữa phố thị, luôn băn khoăn tự hỏi :
“ Ông Bùi ôi ! Tại sao hết đứng lại ngồi Ông đi phố thị nhớ đồi núi
xa". Một người ở Sài Gòn mà nói giọng Quảng Nam, giọng nói con người quê
hương đã đi vào thơ : “Ông tên là Gioáng phải không ?/ Ông người Đòa
Nẽng chính tông tộc Buồi" . Trong những năm tháng cuối đời thơ, nhiều lần
nhà thơ mộng tưởng chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng Nam :
Non nửa thế kỷ xa quê
Mà chưa có dịp về quê một lần
`
Bày mươi mốt tuổi tần ngần
Nước non Nam Việt chiếm gần trọn tim
Về Trung biết chốn nào tìm
Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua ?
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi
Toàn nhiên bạn cũ than ôi
Biển dâu tản mác bốn trời ba phương
Còn chăng cảnh vật khẩn trương
Bao năm chứng kiến đoạn trường đã qua
Quan tâm tự hỏi tà tà
Rạc rời tim máu trời già biết không ?
(Tâm sự - Đêm ngắm trăng)
Khoảng trời thơ Bùi Giáng đã mang hình bóng những đường phố ngã
bảy ngã ba, những dáng người ngược xuôi vội vã, những dòng chảy hối hả
của cuộc sống phố thị. Cách gọi khoảng trời phố thị của nhà thơ hết sức độc
đáo : phố xanh, phố hồng, phố xuân, phố hận, phố ngả nghiêng vai, bàn chân
phố thị phi phàm, Phố Thị Diện Tiền, Phố Thị Chan Hòa, Phố Thị Lỡ Thì,
Phố Thị Hoe Vàng, phố mộng mường, phố mộng hồi đàm, cườm tay phố thị
nhỏ to, phố đứng phường ngồi, phố em… Chưa có nhà thơ nào như Bùi Giáng
cảm nhận và đặt tên gọi phố thị lạ thường như thế. Không gian phố thị hiên
diện trong nhà thơ ông có một hành trình riêng của nó. Ban đầu ông đến với
nó bằng cảm giác hết sức ngộ nghĩnh: Cộ xe nhiều cũng nhảy bỗng như hươu,
rồi đến ngắm nhìn: phố phủ xiêm người, Phố chợ chiều, Phố chợ lớn, Phố Sài
`
Gòn, Lang thang ngõ quẹo đường cong/ Đường đi uốn khúc chạy vòng quanh
co, rồi bị cuốn hút : Bây giờ tôi đã quên xưa/ Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu
về, và cuối cùng là dấn thân, trở thành người con phố thị: Níu vai phố rộng
xin về/ Với cây gió rút với hè nắng rung.
Cứ như thế, cuộc sống và con người phố thị trở thành đề tài, nguồn cảm
hứng của thi ca Bùi Giáng. Những ngày tháng đứng phố ngồi phường, cụ thể
hơn, những tháng ngày sống ở Sài Gòn, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc màu
mưa sắc nắng nơi đây: nắng vàng rộng ngực gầy vai, mưa tuôn chợ nhỏ môi
mềm. Bùi Giáng đâu chỉ có nói nắng mưa. Từ Thưa em Sài Gòn, Phố Sài
Gòn, phố Chợ Lớn, Sáng Sài Gòn, Chiều Sài Gòn, Đêm Sài Gòn… đến những
địa danh Gò Vấp, Bình Thạnh, Chợ Cây Quéo, chợ Cây Thị, lăng Ông Bà
Chiểu…, như thể phố xa đô thành là chốn đi về của tình thơ Bùi Giáng. Cuộc
sống và con người phố thị trong thơ ông đa dạng vô cùng. Đã có lần, nhà thơ
choáng ngợp: Tôi dừng lai mơ hồ trong một lúc/ Đường Ngã Ba, Ngã Bốn,
Ngã Năm/ Đường Ngã Bảy tự bao giờ bỏ cuộc/ Với xuân xanh từng vĩnh biệt
hoa vàng (Tặng Nam Chữ Thục Khưu). Nhưng rồi, sống lâu với nó, ông quen
thuộc thân thiết biết bao nhiêu với phiêu bồng ngã quẹo. Thế rồi nhà thơ yêu
phố thị. Tuy nhiên, cuộc sống và con người phố thị đâu chỉ có trong những
cảm xúc trữ tình, lãng mạn, đâu chỉ có nhịp sống hối hả, vội vàng, đâu chỉ có
những con người đi thật nhanh qua cuộc đời mình rồi chợt nhận ra ta cô đơn
quá đỗi. Trong khoảng không gian này, chúng ta còn bắt gặp những cảnh đời
cơ cực:
`
Vỉa hè, trời ngọ, bữa cơm
Con kinh tế mới lạc hồn về đây
Các con từ những tháng ngày
Bao nhiêu lận đận kéo dài năm năm
(Chào các con – Chớp biển)
Mồng ba Tết ra dường con gặp
Một trẻ con đi bán đậu phụng rang
-“ Thầy mua giúp! Đầu năm dịp Tết… ”
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng Ba một dịp
Không con về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn
(Dâng – Chớp biển)
Em xinh như một nàng tiên
Nàng tiên lao động liên miên phố phường
Thập thành tốt đẹp thênh thang
Tưng bừng lao động dọc ngang tháng ngày
Em từ Lục Tỉnh Miền Tây
Về thanh phố lớn rộng dài Miền Nam
Ve chai giày dép cũ càng
`
Thơ Bùi Giáng ở mảng đề tài này, đã đem đến cho thi đàn đương đại,
vùng tạm chiếm ở đô thị miền Nam, một điệu thơ lành mạnh, khỏe khoắn.
Không gian phố thị trong thơ ông được hình thành từ một tâm thơ gắn bó với
cuộc đời. Nó có đầy đủ những cung bậc, những sắc điệu khác nhau, cũng
buồn, cũng cô đơn…, nhưng không dẫn con người vào cõi bế tắc, tuyệt vọng
chán chường, nghi ngờ cuộc sống đến mức hoảng loạn, xui người ta tìm đến
lối sống thác loạn. Cái không gian nghệ thuật ấy của thi ca Bùi Giáng níu
chân ta trong cõi vui buồn của kiếp nhân sinh phố thị. Quãng đời nhà thơ sống
ở đồng bằng sông nước Nam bộ không lâu, nhưng nó đã thành thế giới nghệ
thuật của riêng Bùi Giáng. Những địa danh Bình Dương, Mỹ Tho, Gò Công,
Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Hà Tiên, Cà Mau… lần
lượt xuất hiện trong thơ đâu chỉ đơn giản đánh dấu cột mốc của ngày tháng
ngao du, mỗi một tên gọi được thốt lên, chứa đựng trong đó chữ nghĩa, chữ
tình, với lời hẹn hò nghìn năm không phai dấu son lục tỉnh, và thương lắm
dáng hình sông nước Cửu Long. Vẫn còn đây, mối tình đồng bằng ở giữa trái
tim lưu giữ mãi hơi ấm tình người. Và đã có lúc lòng thơ da diết gọi:… Trời
nước mông mông tán thành nhân gian thương nhớ rộng thênh thu nào Lục
Tỉnh bờ Tiền Giang Châu Đốc em Sa Đéc… Rạch Giá Sóc Trăng trăm năm
ròng rã anh quên rồi tên tuổi đã xô về đấu tóc ngập mơ màng buồn sóng khói
Hà Tiên. Ôi Trà Vinh Vĩnh Long bao giờ có dịp. Em Cần Thơ Mỹ Tho ta nghe
chừng em ước nguyện rất nhiều rồi câu chuyện đó với đời ta. Xin hẹn nhé một
ngàn năm đi về em ở lại gió li ti bờ cũ đón chờ đây… Chiều Long Xuyên nghe
gió thổi lên ngàn… Thương nhớ lắm bóng hình ai em ạ. Đã một lần về đứng
nơi đây. Hai bàn chân nghe máu đỏ chạy dài. Về ở giữa trái tim tròn ấm áp.
Nắm tay nhau nghe tơ về với tóc… (Trời Nam Việt – Mưa nguồn), gọi khắc
khoải: Em nghe không, em nghe nhé nghe cùng. Tình yêu cuộc sống thật đầy
đặn trong những vần thơ Bùi Giáng viết về đồng bằng. Nếu phố thị đã từng là
`
người tình kiều diễm, mang đến sự đam mê, cháy bỏng tột cùng trong cảm
xúc yêu đương, biến thi nhân thành một kẻ si tình, thì người em Lục Tỉnh đã
để lại trong lòng người khách lãng du một tình yêu đơn sơ, giản dị, ngọt lành.
Nhà thơ đã yêu nàng như tình yêu em gái. Cái đằm thắm trong cảm xúc đồng
bằng được hiển thị trong lời thơ thật điềm đạm, ân cần: Thu đô thị đã mấy lần
lừa phỉnh/ Em cùng ta về Lục Tỉnh nghe không/ Để nhớ lại lần xưa em đã
định/ Cùng ta đi ngó cỏ nội hoa đồng. Thời gian gắn bó với đất trời sông
nước Nam bộ ngắn ngủi, nhưng nhà thơ đã để lại nơi ấy một phần của trái tim
mình. Thoạt đầu, thi nhân đến với vùng đất hoa đồng cỏ nội bằng dáng vóc
của chàng trai phố thị: Nằm xuống cỏ nghe tràn lan nước gội/ Chạy vòng
quanh Thu Lục Tỉnh bao la/ Cồn Sa Đéc Sóc Trăng sương vòi või/ Gió lên bờ
kim hải sóng xanh xa (Màu Xuân – Mưa nguồn). Nhưng, mưa lâu thấm đất,
ân tình của ruộng vườn sông nước đã quyện chặt lòng người, thi nhân đã trút
bỏ lớp áo hoa mỹ, thật thà thổ lộ:
Nước xanh lên đọt đòng đòng
Ngày mai sẽ mất hạt lòng thơ ngây
Bây giờ cá nhảy nghiêng cây
Chim chuyền bụi ớt cỏ dày phân bua
Nỗi niềm hè hạn thu mưa
Là tâm sự của quê mùa nông dân
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên…
(Ca dao – Mưa nguồn)
Và khắc chạm vào tấm bia thơ của mình những bàn chân bước đơn sơ,
những con người miệt vườn luôn nở nụ cười quanh cây trái ngọt lành, không
`
gian êm đềm với những mái rạ ven sông, sóng nước Tiền Giang mênh mông,
mênh mông. Và, cho dù ngàn năm bia đá có mòn, tình thơ vẫn còn đọng lại
ân, nghĩa, tình:
Tình và nghĩa, nghĩa và ân
Tình yêu ân nghĩa tình thân hơn tình…
(Ở đời chút kỷ niệm cỏ thơm – Như sương)
2.3 TÌNH YÊU TRONG THƠ BÙI GIÁNG
Thơ Bùi Giáng toát ra một tình thương rộng lớn với tất cả mọi loài
sống trên cuộc trần không phân biệt. Mặc dù trên đời đó, có những lúc ông
phải chịu trăm lần thổn thức, có những lúc bao dòng lệ tuôn, mấy lần khắc
khoải, …có những lúc ông phải trải qua những lần buồn tủi, giữa đảo điên,
bàng hoàng hốt hoảng những đêm đen, vì :
Có những người bạn xem tôi là cà gật,
Những người em không vẹn nghĩa mất rồi !
Mặc dầu vậy ông vẫn nguyện một lòng chung thuỷ và tha thiết yêu
thương cuộc đời :
Trần gian hỡi, tôi đã về đây sống,
Tôi đã tìm đâu ý nghĩa lầm than
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương …
Đối tượng mà ông yêu thương là toàn thể vũ trụ với tấm lòng của
một vị bồ-tát :
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
`
Trần gian ơi, cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn ...
Và đoạn này cũng rất đẹp :
Còn ở lại một ngày, còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại,
Nếu trời xanh tay với kiểng chân cao !
Tấm lòng nhân hậu của Bùi Giáng không những tỏ lộ trong phong cách
mà ông sống với bạn bè thân hữu mà còn qua những bài thơ ông viết về
những người hầu như bị xã hội bỏ rơi, quên lãng như cô nàng ve chai, cô em
mọi nhỏ.
Tình yêu trong ông có khi cũng đồng nghĩa với tình người :
Làm sao nói được tình yêu
Từ em mọi, tới diễm kiều Kim Cương ?
Ông còn tha thiết nhắn nhủ tới thế hệ trẻ rằng,
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin hãy để bóng chiều bay qua …
Một tư tưởng gia Tây phương nói rằng :
« Người trẻ tuổi mà không biết buồn, không biết khóc là một người tàn
ác. Còn người già mà nếu không biết vui, không biết cười là một người ngu
si ».
`
Quả vậy, người trẻ tuổi may mắn chưa bị bệnh tật, có hoàn cảnh sống dễ
dàng, thì ít khi biết đến những nỗi khổ của cuộc đời và của những lầm than
của người khác.
Thơ tình Bùi Giáng tỏa thành hai nhánh, một về cõi thực, một về cõi
mơ và đều gắn với một không gian, một xứ quê mà ông gọi là “cố quận”.
Đó là một quê thực xứ Quảng của ông nhưng cũng là một xứ mơ, một quê
xưa , nước cũ đầy khái quát mơ hồ . Khi nói về những mối tình, về những
người con gái đi qua đời mình, Bùi thi sĩ đều mơ màng và nâng niu.
Đối tượng đầu tiên trong thơ tình Bùi Giáng- bóng hồng không thể
không nhắc đến trong cuộc đời Bùi Giáng ,đó là kì nữ Kim Cương. Bùi
Giáng yêu cũng thật lạ lùng. Ông yêu nhiều, sáng tác nhiều thơ tình về người
đẹp. Trong lòng ông có rất nhiều người đẹp, nữ nghệ sĩ Kim Cương và diễn
viên điện ảnh Mỹ Marilyn Monroe chiếm một vị trí đặc biệt. Đối với hai
người này, Bùi Giáng mạnh dạn nói năng mà không hề e ngại điều gì. Bởi
trong tâm thức ông, họ là hiện thân của cái đẹp nhân gian. Hiện có rất nhiều
giai thoại về chuyện Bùi Giáng mê Kim Cương, nhưng có lẽ ta cũng không
cần tìm hiểu rằng chúng thật giả bao nhiêu phần trăm, bởi điều đó không mấy
quan trọng. Vì như trường hợp Marilyn Monroe, một người ở tận bên kia đại
dương mà vẫn nhập vào hồn ông được, huống gì là Kim Cương tài sắc ở ngay
tại Việt Nam.
Kim Cương là đối tượng số một của Bùi Giáng. Hình bóng của người
đẹp này dường như thường trú trong vô thức của ông chứ không phải thỉnh
thoảng mới hiện ra như một số người khác. Bùi Giáng đã dùng mọi cách biểu
đạt kỳ quái nhất để nói về Kim Cương. Bài thơ sau đây hẳn sẽ làm cho một số
độc giả nữ cảm thấy "kỳ kỳ" nhưng đồng thời nó cũng cho thấy sự ám ảnh
kinh khủng của người đẹp Kim Cương đối với ông. Đó là bài Cô Kim Cương
`
ơi, in trong tập Sa mạc phát tiết, nguyên văn như sau: "Nếu ngày sau tôi chết
đi, mà cô không thể giỏ cho một giọt nước mắt/Thì cô có thể giỏ cho một giọt
nước tiểu cũng được/(Nhớ giỏ ngay trên nấm mồ)/Ở dưới suối vàng tôi sẽ
ngậm cười mà đón nhận/(Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây)". Thật là
một bài thơ không thể nào tưởng tượng nổi, thật là một cảm hứng tình yêu
chắc trên đời này chỉ có Bùi Giáng mới say đắm và thiết tha đến vậy. Cái khát
vọng thiết tha và có phần hơi lạ lùng kì quái này, Bùi Giáng không chỉ nhắc
đến trong một bài thơ. Nó lặp lại khá nhiều trong những bài thơ rải rác, ó khi
ngay cả trong những đoạn văn xuôi. Cứ một ý như vậy mà Bùi Giáng nói
dông nói dài mãi. Thế nhưng sau đó Bùi Giáng lại đổi ý, không muốn giữ lời
đề nghị trên nữa: "Hỡi mẫu thân Kim Cương! Mẫu thân hãy dừng cuộc đi tiểu
trong một thời gian để suy ngẫm trở lại xem có thể tạo ra một vũ trụ khác để
đi tiểu". Chúng ta không cần quan tâm đến ý nghĩa của từng câu chữ. Nhưng
chúng mang cái ý nghĩa tổng quát, đó là sự ứng xử của vô thức đối với từng
khái niệm. Ở đây là sự ứng xử với cái đẹp khác giới tính của thi sĩ trong trạng
thái tâm thần không bình thường. Theo sau Kim Cương, Marilyn Monroe
cũng được Bùi Giáng mê cuồng. Ông đã sáng tác một số bài thơ về người đẹp
này. Ta hãy đọc bài Trời khóc Marilyn để xem Bùi Giáng viết về người đẹp
này như thế nào: "Trời xanh úp mặt nghe tin/Thôi rồi! Em Má Ri Lyn đi
rồi/Từ đây ta bỏ ngai trời/Thu thời gian đập tơi bời càn khôn/Giữa hư vô nếu
em còn/Nhớ ta em gửi cái hồn cho ta/Úp môi ôm mặt khóc òa/Cồn lê lên
miệng là ba bốn lần". Đó là bài thơ ông in trong tập Hoa lá cồn, xuất bản năm
1963. Sau đó trong phần Mưa nguồn hòa âm, ông lại viết một bài thơ với cái
tựa cũ là Trời khóc Marilyn. Bài thơ có mấy chục câu bắt đầu từ chữ luống,
một loạt câu khác bắt đầu từ chữ một. Bài thơ này có một số câu chữ đi vượt
quá giới hạn "đố tục giảng thanh", không thể trích dẫn vào đây được. Nhưng
nó cho thấy rõ cái cách mà Bùi Giáng trình bày về cái đẹp trần tục theo cảm
`
hứng của ông. Không chỉ có Kim Cương và Marilyn Monroe, Bùi Giáng còn
say đắm nhiều phụ nữ khác. Mỗi người một vẻ, họ hiện ra trong nhiều màu
sắc kỳ bí khác nhau. Đó không phải là những nàng thơ theo nghĩa thông
thường mà là hiện thân của cái đẹp. Một cách vô thức, Bùi Giáng phân biệt họ
theo những tiêu chí khác nhau. Những người đầu tiên có thể kể đến là Hoàng
hậu Nam Phương và ni cô Trí Hải. Khác với nghệ sĩ Kim Cương và cô đào
rực lửa người Mỹ Monroe Marilyn là hiện thân của cái đẹp nhân gian trần tục,
hai người này thuộc về thế giới của cái đẹp thoát trần. Một ngày nọ, Bùi
Giáng nhận được một phong bì gửi đến, trên có dán con tem in hình Nam
Phương Hoàng hậu. Sự kiện nhỏ nhoi ấy lập tức gây xúc động lớn với ông.
Từ lúc đó, Hoàng hậu Nam Phương trở thành một hình bóng ám ảnh ông. Bà
bắt đầu xuất hiện trong các trang viết của thi sĩ. Trong cuốn Mùa thu trong thi
ca Bùi Giáng viết: "Suốt bao năm dài tại hạ làm thơ, chung quy chỉ vì cái
màu xuân xanh bất tuyệt ban sơ của Dương Hoàng Hậu. Màu xuân ấy đã một
lần tái sinh cách đây ba mươi năm trong hình hài máu me Nam Phương
Hoàng hậu. Tại hạ yêu Dương Quý Phi bao nhiêu thì cũng yêu Nam Phương
Hoàng Hậu bấy nhiêu". Mặc dù Bùi Giáng luôn tôn kính Nam Phương, nhưng
ông cũng hài hước, cà rỡn, lan man trên hình ảnh của bà cũng bởi tính của
ông như vậy. Tuy nhiên, Bùi Giáng cố gắng giữ "chuẩn mực", không bao giờ
đi quá đà. Một đôi khi ngẫu hứng quá thì ông cũng chỉ viết như thế này:
"Chiêm bao anh thấy Hoàng hậu Nam Phương dắt tay Marilyn Kim Cương
nương tử tới gõ cửa xin vào thăm viếng anh thì anh bảo rằng anh đang bận
viết lá thư cho em nên không thể nào đón tiếp Hoàng hậu được thì cảm phiền
Hoàng hậu hãy lui gót chờ qua ngày mai anh sẽ ân cần chiếu cố". Bùi Giáng
cũng có sáng tác một đôi bài thơ về Nam Phương. Trong bài Chiêm bao Nam
Phương Hoàng hậu, dù là một bài thơ thuộc vào thể "điên loạn", nhưng ông
vẫn đủ "tỉnh táo" để ngòi bút không chệch qua chỗ thiếu đứng đắn: "Kê bô tí
`
xí đêm đà/Ki ba ri xí i à xán da/Xã dan xoàng xĩnh giang hà/Ồ mô pha cố cồ
ri xa ì/Tử tì mỉm tí tì ti/Miệng vàng hợp nhất nhu mì nhị biên/Ra sông ngồi
ngó diện tiền/Ngần sương sái diện uy quyền nữ vương". Bên cạnh Hoàng hậu
Nam Phương, ni cô Trí Hải xuất hiện trong các trang sách Bùi Giáng một
cách khá dày. Bà là một người có trình độ uyên thâm, tác giả của một số đầu
sách. Có lúc Bùi Giáng gọi bà là Trí Hải ni cô, có lúc gọi là mẫu thân Phùng
Khánh. Bùi Giáng làm rất nhiều bài thơ về bà. Có thể kể tên một số bài như
Mẹ Phùng Khánh, Kính tặng Phùng mẫu thân, Mẹ Phùng Thăng Khánh,
Phùng Khánh Mẫu Thân... Rất nhiều người thắc mắc vì sao Bùi Giáng gọi
người này là mẹ, là mẫu thân. Bùi Giáng cũng từng "giải thích" chuyện đó
trong Thi ca tư tưởng như sau: "Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại
là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu
tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc là
người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa là: Phùng Khánh là bà
mẹ loài người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con
của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là
con vật?". Có lẽ Bùi Giáng đã tìm thấy nơi người nữ tu này điều gì đó gần gũi
với hình bóng người mẹ xa xưa của ông, hoặc là tấm lòng nhân ái của bà làm
ông cảm động, hoặc là trí tuệ mẫn tiệp của bà khiến ông nể phục... Vì một
trong những lý do nào đó mà ta không thể đoan chắc được, thi sĩ bật ra tiếng
gọi mẹ trong vô thức một cách da diết. Những bài thơ của ông vì thế đọc lên
thấy vừa tức cười vừa tội nghiệp: "Mẹ còn nhớ nữa con chăng/Mẫu thân
Phùng Khánh con hằng chẳng quên/Tuy đôi phen chết nếp nền/Cung vang
lừng bậc điệu đền bù xoang/Mẹ về ngõ vắng vườn hoang/Thừa thiên sông
lạnh kéo sang khu rừng"..."Mẹ nhìn con nữa còn chăng/Mẹ đi đứng gót mẹ
hằng hằng qua/Lúc vui buồn mẹ nhớ nhà/Quận châu xứ sở con đà lãng
quên/Phùng thăng mẹ chớ xui nên/Từng cơn điên dại khôn đền cho con"...
`
"Nghe tin con chết giữa đường/Mẫu thân Phùng Khánh càng thương con
nhiều/Con bèn tái điệp giấn liều/Chết thêm một trận hoang liêu song
trùng/Mẹ càng bất tuyệt nhớ nhung/Ngày đêm mẹ khóc vô cùng vì con"...
"Con thương Phùng Khánh vô ngần/Phùng thăng thân mẫu cũng gần như
nhiên/Nguyệt rừng lộng lẫy man nhiên/Trăng ngàn thơ dại ngậm nghiêng
nghiêng vành"...
Những câu thơ này, dù không được bình thường, nhưng nó lại gieo vào
lòng người đọc một nỗi niềm man mác. Phải chăng trong tiếng gọi mẹ thiêng
liêng ấy là một sự cô độc tận sâu thẳm hồn người ? Nhưng Bùi Giáng là như
vậy. Trong suy tư, trong cảm xúc, trong cuộc đời... ông lúc nào cũng hồn
nhiên như con trẻ.
Thơ tình Bùi Giáng đôi khi có nhắc đến một vài người cụ thể : “Bình
sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà
Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh ( tức Trí Hải Ni Cô) “ ( tiểu sử
tự ghi ) Nhưng những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn vinh như là mẫu
thân sinh đẻ ra mình , tuyệt không có chút gì là quan hệ nhục thể cuả tình yêu
nam nữ , nhớ mong , hờn ghen , đau khổ, hẹn hò, mộng mơ như trong thơ tình
cuả những nhà thơ khác.
Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi
( Theo Áng Mây bay )
Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
( Mai Sau Em về )
`
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây .
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
( Kính Thưa )
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
( Thơ Điên )
Chuyện tình yêu chỉ thoáng qua rất nhẹ vậy “ Niềm đau đớn xót xa như
vĩnh quyết “ cuả Bùi Giáng là gì ? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu ý thức về thân
phận thiên tài , số kiếp kẻ phong vận bạc mệnh mà Nguyễn Du nói đến trong
Độc Tiểu Thanh Ký ? Xưa nay người phong vận phải mang lấy những hận sự
, những kỳ oan , như một định mệnh , biết “ hỏi đoạn trường từ đâu “ , “dù có
hỏi trời cũng không có lời giải đáp ” . Cổ kim hận sự thiên nan vấn / Phong
vận kỳ oan ngã tự cư “. Bùi Giáng tự kham lấy những nghiệp chướng ấy
chăng , rồi nín thinh như cỏ cây:
`
Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
( Mười Hai Con Mắt )
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
( Chào Nguyên Xuân )
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu …
( Vẫn Là Là )
Tình yêu trong thơ Bùi Giáng vô vàn thể điệu và rất nhiều mẫu số. Ông
có Mẫu thân Phùng Khánh, mẹ Trí Hải, Kim Cương Kì Nữ, Nường Monroe,
gái Xiêm La, Gái Tô Châu, Hà Thanh Ca Sĩ, mấy em da Đen Phi Châu, Em
Mọi, Nàng Đạm Tiên, Thuý Vân, Thuý Kiều, Bé Con Bình Thạnh, những chị
miệt quê, Thiếm Năm sáo xã Tân Phong/ Thiếm về chín suối long đong thế
nào.
Những con người hữu hình, những em vô hình, những nàng sương
bóng. Bây giờ em ở nơi đâu/ cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao?, đã mang mác
thị trùng trong một Bùi Giáng tha thiết đến tê điếng, điên ngây. Bàng hoàng
đuổi bắt một bản lai diện mục ẩn huyền. Mỗi Phùng Khánh Trí Hải, mỗi Kiều
Nhi, mỗi Em Mọi là mỗi trận đại cuồng mê đế đằm đìa phủ chụp người thơ
trong bàng hoàng nương náu. Bàng hoàng thể phách, mộng hoài đêm Da Đen
`
tới Rú Rừng, Da Trắng, Apollinaire tìm người yêu có thật, dấn mình trong
diễm ảo nhu cầu. Bùi Giáng hư vô hoá tất cả trong miên trường vọng kĩ nhân
hề thiên nhất phương. Nhân vật Em trong thơ Bùi Giáng thấp thoáng bóng
hình một con người của thực tại, của kỷ niệm yêu thương, nhưng cũng là
huyễn hoặc “sương bóng” tâm tưởng để Bùi Giáng giãi bày:
Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên
( Mộng)
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ứot
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kểlại chuyện ngày xưa cũ kĩ
Em không nghe vì anh cũng không nghe
( Nhiên tượng)
Bây giờ em đứng nơi đâu
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao?
Gắng thu xếp gấp rồi vào
Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?
Trong này thiên hạ rất đông
Ăn mặc thật đẹp nhưng trong không mặn mà bằng em..
Nhà thơ buồn nhớ không biết em giờ ở đâu và “ngọn cỏ trong mình
mẩy” của em “sầu ra sao?”. Câu thơ đầy ẩn ý, hư hư thực thực, trần thế mà
phiêu bồng, rồi “Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?" Tại sao là
`
“tấm” mà không là “cái”, là “chiếc” hay chỉn chu hơn là ”manh” (tấm áo,
manh quần). Chữ “tấm“ ở đây rất dân giã thể hiện được cái nghèo của đối
tượng nhưng phủ đầy sự thân thương của tác giả .Chao, thi sĩ tuy mơ màng
nhưng câu hỏi ở đây, rất thực, rất chân tình, có cái gì như bẽ bàng như trách
móc mà cũng đầy thương yêu!“Trong này thiên hạ rất đông” - người thành
phố mà, ăn mặc cũng thật đẹp nhưng tác giả không thấy “mặn mà” như em
nơi thôn dã ( chắc em ở miệt ngoài chân quê). Con người bao năm mơ màng
nơi phố phường nhưng tận sâu trong lòng vẫn da diêt một thâm tình quê
kiểng, nâng niu vẻ đẹp mặn mà nguyên sơ .Và với một tình cảm như vậy nên
từ khi cất bước “khắp bến giang hà” thì ở đâu cũng không nghĩ đến ai khác
ngoài em thân thuộc, ngọc ngà “Nơi nào cũng thấy ngọc ngà đèo truông”.
Câu thơ gợi cả hai trường nghĩa đen và nghĩa bóng ! Còn thì nhớ nhung , mất
thì xa xót, cái tình người của Bùi cũng rất nhân thế. Người bạn tấm mắn của
Bùi Giáng qua đời đã ngót nửa thế kỷ, có lẽ cảnh chia biệt đó đã tạo cho ông
những xót xa buồn khổ, để rồi từ đó ông thổ lộ một cách vô cùng sâu sắc trên
những trang thơ, dựng nên bóng dáng ấm áp của những người em, người vợ .
Một nỗi nhớ nhung xa xót khôn nguôi, đôi tình nhân lỗi hẹn:
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi cho ta nắm tay em ..
…Một hôm nào em mở cửa đầu khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ …
Em là cái chân dung toàn thiện toàn mỹ của người nữ trong cuộc đời :
em ở khắp nẻo đường, em là mây gió, là cây lá, là sông hồ..Tác giả nâng hình
ảnh em lên tầm hoàn vũ :
`
…Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng !
Những câu thơ vừa thực vừa ảo. Những câu thơ nói về một người con
gái đẹp đẽ, thánh thiện nhưng là của một tình yêu chiêm bao, một tình yêu
khoáng dật vô thường !
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
… Ồ thưa em ta thấy mộng không thường .
Cái chất Bùi Giáng huyễn hoặc thể hiện ở cái “mộng không thường”
này. Em như sương khói, như suối nguồn, em đến làm dịu mát tâm hồn thi sĩ
nhưng em không hiện hữu trong đời thực, dẫu “ôm em trong vòng tay” thì “
em vẫn trôi”, “vẫn chảy lọt qua hai vòng tay khép chặt” !
Ta thả một chiếc lá, chiếc lá trôi
Ta thả một con thuyền giấy, con thuyền giấy trôi
Ta ôm em trong vòng tay,
Em vẫn trôi…
Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong thơ Bùi Giáng, suốt
một nửa thế lỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ
cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy mà
đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường. Gái Núi, hay Em Mọi
Nhỏ, còn có tên Duồng Mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và
có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một Sử Lịch sơ
khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói. Gái Núi là một khai thị,
khai tâm, khai tứ, khai từ:
`
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
( Mười hai con mắt)
Mở mắt để tiếp thu Mùa Xuân Tinh Thể:
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non quanh
Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã
tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết
lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo:
Em ở trong rừng
Mọi chị Mọi em
Sinh bình quây quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em Mọi
Em ở đâu rồi
( Tặng em Mọi, Mười hai con mắt)
Mọi chị Mọi em, vị chi là nhiều em Mọi.Tình yêu trong thơ Bùi Giang,
đối với chúng ta vẫn như một định đề muôn thuở , vừa quen vừa lạ. Quen vì
nó mang đến cho hồn ta sự ngọt ngào của tình người như rượu ngọt và cũng
mặn chát bẽ bàng như thuốc đắng, mà thiếu nó vũ trụ sẽ không hồn. Nó lạ vì
khác những tình yêu mà ta đã gặp hoặc nồng nàn như Xuân Diệu, bẽ bàng
như Huy Cận, phiêu du như Vũ Hoàng Chương…, tất cả đều rất thực , thực
đến mức “cắn”vào được, nhưng cáí tình của Bùi lại lưỡng phân vừa thực vừa
mộng, vừa đời vừa đạo ,vừa chạm tay vào đã sương khói bay xa, đôi lúc ảo
giác và cuồng vọng gần với Hàn Mặc Tử …Có lẽ nói mãi cũng không hết
`
được chuyện Bùi Giáng làm thơ về những người đẹp. Cho nên ta hãy đọc mấy
câu thơ mà ông "phân loại đánh giá người đẹp" trong bài Quốc sắc Việt Nam
sau đây: "Nam Phương Hoàng hậu đẹp một cách thong dong/Kim Cương
Nương tử đẹp một cách thoải mái/Hà Thanh Công chúa đẹp một cách cởi
mở/Trí Hải Ni cô đẹp một cách không lời". Bài thơ này còn dài nhưng chỉ
trích dẫn chừng này câu cũng đủ cho thấy "vị giám khảo cuộc thi Người đẹp
Việt Nam" này có con mắt tinh đời lắm. Bên cạnh những người em rất thực
thì thơ Bùi cũng thường nói nhiều đến những người em rất mộng - nguồn tạo
sinh muôn màu trong cuộc thế ! Những vần thơ xinh tươi diễm ảo đầy sức
khêu gợi nói về cây cỏ , mặt trời , chim chóc …tất cả đều trào dâng sức sống
, đều từ em, nhờ em mà sinh sôiTình yêu của Bùi Giáng là một một tình yêu
chiêm bao, một tình yêu khoáng dật vô thường ! Cái cách gọi tên nhân vật trữ
tình của nhà thơ cũng là cả một sự lạ lùng, những “em mọi”, “con”, “bé
con”.
Một sắc thái khác của thơ tình Bùi Giáng không thể không nói đến, bên
cạnh cái đằm thắm , cái ảo huyền lại còn nữa cái đuà cợt châm biếm . Một
sắc thái “tự trào” làm đa dạng thêm cái “Tình“ trong thơ ông. Một cái tình
thoáng qua, một cái tình thất vọng nhưng sự thất vọng, sự bất lực được thể
hiện trong một chuỗi cười rất đáng được chia xẻ.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Trái tim không chịu giữa đường rút lui
Bỏ đi buồng phổi sụt sùi
Trái tim không chịu lau chùi máu me…
( Kẻ qua đường )
Nhà thơ không nói gì đến cái đối tượng ái tình cuả mình , không cầu
xin, không trách móc như những vần thơ khác trong trường hợp tương tự ta
`
thường gặp .Ở đây nhà thơ chỉ nói về cái “tình si” quá mức của mình, vừa
bày tỏ vừa chế giễu , nhưng chắc rằng, sau cái “sụt sùi” , cái “máu me” này
nhà thơ chúng ta vẫn vui vẫn sống. Đó là cái nét ngồ ngộ của ái tình Bùi
Giáng mà có nguời cho rằng “thái độ hậu hiện đại trong thơ”( Hoàng Ngọc
Tuấn ). Bản chất của những vần thơ tự trào là nhà thơ “tự yêu” cái kém cỏi,
cái bất lực, cáí vô dụng của mình ; tự cười nhạo , tự chế giễu, nhưng đằng sau
cái cười nhạo đó âm thầm che giấu một tâm tình kiêu bạc thách thức “ta
trong giữa đời đục” !
Đã mười mùa xuân thi sĩ ra đi , văng vẳng bên tai ta một câu hỏi đau
đáu khi xuân về :
Mùa xuân em có về không?
Nhành mai cố quận trổ bông dịu dàng…
Câu hỏi nghe xao xuyến và nếu ta thay “cố quận” bằng một tên làng
cụ thể thì câu thơ quả thực chính là tâm trạng của chính ta, của bao người xa
quê, bao kẻ ra đi vì cuộc mưu sinh mong ngóng ngày gặp gỡ nhất là những
dịp xuân về tết đến.… Nhưng “cố quận” của Bùi Giáng phải chăng là một từ
phiếm chỉ , một miền đất đã lìa xa, một kỷ niệm, một ước vọng hơn là một
thực tại. Và người em, và tình yêu nơi ông cũng chỉ gợi ta về một giấc mộng
nơi “bờ nước cũ” của người “em xưa” .
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Mộng xanh ngần giậy nối giấc em xưa…
hoặc may mắn hơn, thì cũng chỉ là chốn đào nguyên tương tư hai hình bóng
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu…
`
Bùi Giáng quả một thi sĩ đặc biệt, thật khó hình dung nền thơ Việt
Nam hiện đại lại thiếu ông.Thơ tình của thi sĩ góp phần tạo nên cái sự riêng,
cái nét đặc biệt đó .
`
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM THỂ LOẠI, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU
THƠ BÙI GIÁNG
3.1 THỂ LOẠI
3.1.1. Thơ lục bát
Thơ lục bát của Bùi Giáng cũng gần gũi như lục bát của Đoạn trường
tân thanh và gần như ca dao, có cả thơ đùa cợt kiểu ca dao ( Tuy nhiên, Em có
mặc quần, Lời sơn nữ) Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ lãng
mạn 1930 – 1945 ( Ly Tao I, Ly Tao III, Màu trời đó…) Cảm hứng chính của
thơ Bùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền ( Chào Nguyên Xuân,
Cỏ hoa hồn du mục, Dư vang…)
Sau đây là bản thống kê dựa trên sự khảo sát ở các tập thơ của Bùi
Giáng, tổng cộng 1659 bài thơ:
Bảng thống kê các thể loại thơ
Thơ song Thơ Đường luật Thơ lục bát Thể loại thơ Thơ tự do thất ngôn bát cú thất lục bát
Số lượng 385 75 09 1190
Thơ Bùi Giáng có thể nói là hàng ngàn bài, cũng có thể nói là một bài
vô tận. Thể loại thơ nổi bật trong sáng tác của Bùi Giáng là lục bát. Tại sao là
lục bát? Theo như chính tác giả phát biểu"Lục bát Việt Nam là cõi thi ca
`
hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển, ba bẩy sông hồ." Hậu
xét đó có là “lộng ngôn” không nhưng tình yêu của Bùi Giáng với thể loại thơ
dân tộc này quả là một đam mê mãnh liệt. Ngoài ra, ông yêu thơ lục bát có lẽ
chính vì ngưỡng mộ Nguyễn Du. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất
một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý
một câu Kiều.Như thơ, Bùi Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng, cả
đời lục bát. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc Bùi Giáng không
“làm người phá đường biên” các niêm luật trong thơ lục bát. Dẫu uyển
chuyển và trân quý thể thơ này thế nào, khuôn khổ của một thể loại thơ cũng
quá chật chội với những cảm xúc và suy tưởng luôn đầy ứ của Bùi Giáng. Do
vậy, lục bát của Bùi Giáng cũng khác biệt. Đậm hồn dân tộc nhưng cũng đầy
ngẫu hứng, sáng tạo, kể cả vi phạm các quy tắc niêm luật tưởng bất biến.
Rằng xưa ký ức đàn bà
Tên là phụ nữ, tuổi là dấn thân.
.....
Trước đèn một tập mở ra
.....
Biển dâu lục địa cõi miền
.....
Cảo thơm lần giở gió giăng dậy thì
Lục bát của Bùi Giáng có những cách tân độc đáo ở chỗ: phá vỡ cấu
trúc cơ bản của lục bát “dòng trên 6, dưới 8”, ở phối thanh , ngắt nhịp, sử
dụng từ mới lạ...
`
Bảng thống kê hình thức kết cấu thơ
Trên 8 Bài thơ 1 câu 2 câu 3 câu 4 câu 5câu 6 câu 7 câu câu
Số lượng 12 152 142 219 165 157 87 256
Chúng ta phải xét mặt cấu trúc bài thơ bởi vì đó cũng là một trong những
yếu tố cần thiết để ta hình dung điệu thơ lục bát của Bùi Giáng. Như vậy, về
mặt cấu tạo một bài thơ lục bát, Bùi Giáng đã thử sức khá đầy đủ các loại
hình kết cấu. Trong đó, bài thơ lục bát 4 câu (8 dòng) và dài hơn 8 câu (16
dòng), được ông ưa chuộng hơn. Số lượng của hai dạng kết cấu này vượt trội
hơn so với các dạng khác. Tuy nhiên, nhìn tổng quát, theo chúng tôi, những
bài thơ lục bát hay của ông thường là những bài thơ ngắn. Phải chăng đó là
một nét độc đáo về hình thức thơ lục bát của Bùi Giáng?. Hơn nữa, lục bát là
một thể loại thơ, trong cảm quan người Việt, dễ làm nhưng khó hay. Thơ lục
bát của Bùi Giáng cũng thế. Rải rác ở mỗi loại kết cấu bài thơ một câu, hai
câu, ba câu,... Bùi Giáng có những bài thơ đọc xong rồi quên, nhưng cũng có
những bài thơ ông trau chuốt tỉ mỉ, làm đẹp thể thơ truyền thống của dân tộc.
Chúng ta thử đọc những bài thơ này:
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng
Ngày mai cá song phiêu bồng vẫn bay
(Như sương)
Từng con nắng nhỏ tôi gom
Nụ cười hiu hắt buổi sầu tàn phai
Nhánh đời gió lộng mây bay
`
Chiều vời vợi thả gió mây phiêu bồng
(Như sương)
và những câu thơ:
Hai tay vốc nước suối ngàn
Rắc lên cành dại giọt ngần như sương
(Xuân thôn nữ - Mưa nguồn)
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc ngưòi một con
(Mắt buồn – Mưa nguồn)
Hai bài thơ trên mở đầu tập thơ Như sương, không có tựa đề. Những ý
tứ: gom nắng nhỏ, nụ cười hiu hắt, sầu tàn phai,... rất quen thuộc, thậm chí nó
còn mang tính công thức, Nhưng những hình ảnh: ngàn trăng ngậm bóng
sương đồng, chiều vời vợi thả gió mây phiêu bồng là của riêng Bùi Giáng. Nó
góp phần làm nên giọng thơ lục bát độc đáo của riêng ông. Dung lương bài
thơ càng ít, tính hàm súc, độ dồn nén về giai điệu càng cao. Bài thứ nhất chỉ
vỏn vẹn 14 chữ, bài thứ hai 28 chữ, nhưng sức ngân của một niềm tin về một
ngày mai vẫn còn đó cái đẹp của sự sống, vang xa lắm! Hai câu lục bát sau,
trích từ hai bài thơ khác nhau, không thể bộc lộ trọn vẹn cấu trúc cả bài thơ,
không thể giúp chúng ta khảo sát giọng điệu thơ lục bát từ nó, nhưng đó là
những câu lục bát đẹp, rất đẹp của Bùi Giáng. Ở một góc độ khác, việc xây
dựng bài thơ lục bát bằng những khổ thơ chỉ có một câu (tức hai dòng thơ,
dòng lục và dòng bát) của Bùi Giáng cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Dạng
`
này được ông sáng tác cũng khá nhiều, khoảng 15 bài. Xin chép ra đây một
bài:
Xin lời nói ở trên môi
Là lời ở lại bên đời quên nhau
Bụi hồng, ấy của chiêm bao
Thì con sóng đục chìm vào nước xanh
Linh hồn, ấy ngục xin kham
Lời sai trên miệng sẽ không là lời
Xin mùa lá rụng và rơi
Sẽ lên đường gặp ấy trời mùa sau
Ra đi hẹn với xuân đầu
Buổi hồi nguyên lại pha màu bình minh
Con chim về sẽ đậu cành
Tiếng ca ấy sẽ hoà thanh với đời
(Lời xuân – Mưa nguồn)
`
Đây là một hình thức lạ của lục bát. Mỗi câu thơ nếu tách ra, sẽ là
một bài riêng lẻ. Nhưng qua ngòi bút của nhà thơ, nó cùng xuất hiện trong
một bài thơ, được kết dính với nhau bằng vần điệu và ý tình. Dù cái tứ của bài
thơ có thể được chấp nhận hoặc không, nhưng với dạng kết cấu này, Bùi
Giáng đã góp phần tạo nên sắc thái mới của lục bát. Bùi Giáng là nhà thơ rất
mê lục bát. Ở những thể loại thơ khác, ông vẫn thường xuyên xen kẽ một vài
câu thơ lục bát, hoặc dùng lục bát làm câu thơ cuối chốt lại ý tình của tứ thơ,
ví dụ như bài thơ này:
Nằm nghe mây nước bốn bề
Ngủ ngóng phong ba ba ngõ phơi
Tuyết nguyệt vèo tung theo chớp biển
Vũ vân vi vút với sương đồi
Em đi bên ấy chân tròn khép
Hai ống mơ hồ mệt ứ hơi
Khô héo một hang hờ hửng bước
Quạnh hiu tìm tõi khắp nơi nơi
Tử sinh liều cuộc ở đời
Trùng lai khập khiễng khắp trời khai sinh
(Một hang khô héo - Chớp biển)
Trong bài thơ Lời em nói (Như sương) cũng thế! Bài thơ có tất cả 8
khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng. Năm khổ đầu được viết theo thể thơ tự do, mỗi dòng
8 chữ. Đến khổ thơ thứ 6, hai dòng đầu 8 chữ, hai dòng sau là lục bát. Hai khổ
`
thơ cuối lại được viết theo thể thơ lục bát. Tôi nêu một vài ví dụ như thế để
chúng ta cùng hình dung điệu lục bát đã thấm sâu, rất sâu trong con người thơ
của Bùi Giáng. Hình thức kết câu thơ lục bát trong sáng tác của ông hết sức
phong phú. Ấy là ta chưa nêu những dạng thức như: mở đầu bài thơ là dòng
bát hoặc khép lại bài thơ là dòng lục, hoặc khổ thơ cuối bài chỉ có một dòng
bát...
Điểm cuối cùng trong việc khảo sát kết cầu thơ lục bát của Bùi Giáng
chúng tôi dừng lại ở lối thơ rớt dòng của ông. Sau đây là một vài biểu hiện
cho hiện tượng này:
Chép lời
Bờ cỏ ra hoa
Muộn từ
Cánh hạc trong tà huy bay
Hang rừng
Thiêm thiếp
Ngủ say
Giờ xuân tao ngộ
Di hài
Thu đông
(Đêm qua – Sa mạc phát tiết)
Lang thang ngõ quẹo đường cong
Đường đi uốn khúc chạy vòng co quanh
`
Hình dong chữ S khúc quành
Vô cùng yểu điệu và thanh nhã...
Ồ!
...
(Phiêu bồng ngã quẹo - Chớp biển)
Hình thức thơ ở bài Đêm qua, nếu là thơ tự do thì không có gì lạ.
Chúng ta cũng đã khá quen thuộc loại này khi tiếp xúc với Thơ mói. Nhưng,
thơ lục bát lại hiếm thấy. Cái tạng của Bùi Giáng không thích sự câu nệ, ràng
buộc. Cho nên, ở thể thơ này, Ông luôn tìm cách thể hiện mới. Hình thức ấy
thật sự có hiệu quả nghệ thuật? Phải thừa nhận rằng, với cách cấu tạo bài thơ
như thế, Bùi Giáng đã đem một luồng gió mới thổi cánh diều lục bát có từ
ngàn xưa đến thì hiện tại. Kiểu rớt dòng ở khổ thơ đầu bài thơ Phiêu bồng ngã
quẹo rất thú vị. Chưa bàn đến lối ngôn ngữ ép vần, ép thanh trong câu thơ lục
bát (rất thường thấy trong thơ ông), ý thơ: Vô cùng yểu điệu và thanh nhã vốn
đã đầy đủ về mặt ý nghĩa. Nhưng, chỉ có thế thôi thì nó là một câu văn xuôi.
Chữ ồ! cuối câu, tách ra, tạo thành dòng thơ khác, đã kéo câu văn xuôi tạm bợ
kia trở về với hơi thở quen thuộc của lục bát, Chỉ là một tình thái từ, vậy mà
nó đủ khả năng xoay chuyển tình thế, đủ để gọi đó là kiểu thơ lục bát Bùi
Giáng.
Thơ lục bát của Bùi Giáng có đầy đủ tất cả các loại nhịp điệu: nhịp đôi,
nhịp chẵn, nhịp lẻ,... Sự phối thanh và hiệp vần cũng đa dạng không kém. Bàn
về nhịp thơ lục bát và nhịp thơ lục bát của Bùi Giáng, ông Hoàng Phủ Ngọc
Tường có viết: “Nói đến thơ Việt Nam, là chắc chắn nghĩ ngay đến thơ lục
bát. Không hẳn chỉ có Việt Nam mới có thể thơ này (Chiêm Thành cũng có)
mà bởi vì đó là thể thơ của nhịp Hai, là nhịp của gàu tát nước, là tiếng võng
`
đưa, là nhịp của tao nôi, và là nhịp của trái tim đập trong lồng ngực. Thí dụ
thứ nhất thuộc về Nguyễn Du:
Trăm năm / trong cõi / người ta
Chữ tài / chữ mệnh / khéo là / ghét nhau
Bùi Giáng cũng đi nhịp hai như vậy ( trích Bùi Giáng trong tôi – Văn
hoá nghệ thuật - Chủ nhật 28/ 02/ 1999 ). Trước khi là nhịp đưa nôi, với xuất
thân từ lời đối đáp trên đồng lúa, vườn tược, sông rạch... , lục bát mang trong
mình nó hơi thở tươi giòn của cuộc sống mà không thể thơ nào có thể sánh
kịp. Như trên đã nói, nhịp thơ lục bát của Bùi Giáng khá phong phú. Nhưng
cách phối nhịp như vầy, thì chỉ có Bùi Giáng:
Sông nước chảy, núi mây bay
Tình yêu có lẽ như say sưa hoài
Đêm nguyệt sáng, ngày nhật soi
Em từ mây tụ tới trời mưa tuôn
Ngủ sáu khắc, thức năm canh
Em từ ngủ nướng tâm thành ra tro
Sông từ bến, bến sang đò
Tựu thành trời biển chơi trò ú tim
Sông tìm bến, bến tìm sông
Tìm lâu không gặp long đong khóc hoài
Sông tìm bến, bến sông tìm
Tìm chơi khuây khoả nỗi niềm tâm tư
Sông về bến, biển nhớ nguồn
`
Hỏi sông tin tức suối nguồn ra sao
Bấy lâu mưa gió dạt dào
Non ngàn cây cỏ mừng chào suối chăng?
(Ân lộc lai rai – Đêm ngắm trăng)
Đây có phải là bài thơ hay? Xin trả lời ngay rằng: không! Nhưng nhịp
điệu thơ lục bát nghe lạ! Việc chia nhịp dòng lục 3/3 một cách đều đặn tới gần
cuối bài thơ, Bùi Giáng đã làm cho bước đi của thơ lục bát mới hơn, điệu thơ
bị phá cách. Nếu ví giai điệu thơ như một bài hát thì trên chỉ toàn là điệp
khúc, không có các tổ khúc trong tiết tấu, nhạc điệu. Dù có chỗ lời thơ còn bị
ép vào khuôn nhịp một cách khiên cưỡng, nhưng Bùi Giáng đã dẫn ta đi theo
nhịp thơ lục bát của riêng ông. Thêm nữa, ông có những dòng thơ lục bát, khi
đọc lên, ta phải tức tưởi chạy theo nhịp của nó, ví dụ:
Con đường tuổi trẻ / người đi
Giẫm hoa đầu / giẫm nát / vì vô can
…..
hay:
Của em: / tình mộng tuyệt tài
Của em: / tình luỵ kéo dài tời đâu?
- Tới đâu cũng được, / có sao:
Từ đầu tiên / tới / cuối đầu tiên / đi!
(Của em - Chớp biển)
Xin hãy chú ý dòng thơ cuối của hai ví dụ trên. Rõ ràng, nhịp điệu thơ
lục bát của Bùi Giáng lạ thường! Bên cạnh những câu lục bát chính thể về vần
và thanh, chúng ta cũng gặp những câu thơ, bài thơ:
`
Vàng thau lẫn lộn chêng vênh
Làm sao phân biệt Sở Khành, Thúc Sinh?
(Chẳng hiểu nữa rồi – Thơ vô tận vui)
“Đáo đầu nha nhứt thân...
Nan đảo na nhứt nhụt...”
Nhập thần xuất thánh tụ tiên
Hình thành hư sự huyễn nhiên như hà
Phiêu bồng du hí nguyệt hoa
Tầm sưu túy điệu tịch tà vong tâm
Cầm ca hộ tống phù trầm
Tuyết băng nhi nữ cát tầm tân loan
Trùng lai dị dạng bàn hoàn
Hàn huyên ly hợp bi hoan dị hình
(Cõi người ta – Đêm ngắm trăng)
Trường ca Hy Lạp tê mê
Hoàng hoa Phenthé – Si Lée vàng vàng
(Dư vang vô lượng – Đêm ngắm trăng)
Con chữ trong câu thơ lục bát của Bùi Giáng nhảy múa theo nhịp điệu
riêng nữa rồi! Trong ví dụ thứ nhất, cách ép chữ trong phối thanh là một nét
`
ngộ nghĩnh quen thuộc. Bởi ông đã từng viết Mỹ Tho, Mỹ Thọ, Sóc Trăng
ơi... Ở ví dụ hai, ta nhận thấy, làm thơ lục bát bằng chữ Hán trên thi đàn, có lẽ
chỉ có Bùi Giáng. Trong ví dụ ba, sự phối thanh ở dòng bát đã bị phá vỡ.
Người khó tính sẽ không nghe lọt lỗ tai. Người đã quen với cái nết của ông thì
bật cười mà thốt lên: - Đúng là Bùi Giáng.
Nhìn lại, thể thơ lục bát là thế mạnh trong quá trình sáng tác của nhà
thơ. Tìm hiểu thơ ông không thể không đề cập đến thể thơ này. Dù sự đóng
góp của ông còn nhiều mặt hạn chế, nhưng chúng ta phải thừa nhận, ông đã
làm mới thơ lục bát ở nhiều phương diện. Với cái nhìn dè dặt, ta gọi nó là một
vài biến thể của lục bát. Nhưng, tôi muốn đặt một cái tên khác: lục bát của
Bùi Giáng. Khép lại phần khảo sát này, bên tai tôi vẫn văng vẳng đâu đây
điệu thơ:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn gửi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù?
(Mai sau em về - Mưa nguồn)
rồi nữa:
- Mình ơi! Tôi gọi bằng nhà
Nhà tôi! Tôi gọi mình là nhà tôi
(Về buôn bán – Mưa nguồn)
nghe da diết lắm!
`
3.1.2 Các thể thơ khác
Ngoài thơ lục bát, Bùi Giáng còn sử dụng nhiều thể thơ khác như thơ 4
chữ, thơ 5 chữ, thơ 8 chữ ....nhưng dẫu cho chọn bất cứ một thể thơ nào thì
qua bàn tay tài hoa và kì dị của Bùi thi sĩ, các thể thơ vốn đã được định danh
ấy đều mang những nét rất riêng và mới mẻ. Có thể nói Bùi Giáng là một phù
thuỷ việc sử dụng ngôn ngữ và các thể thơ.
Đọc những bài thơ sau:
Bách niên trần thế giáng phục thăng
Kỷ xứ oanh hồi địa tuyết băng
Bất quá nhứt chi sào lâm điểu
Chỉ ưng lục nguyệt tẩy thiên bằng
Giang phong tuỳ thuộc tâm huy tuyết
Sơn nguyệt thích tòng tưởng chiếu băng
Yến đáo hương quan khan cổ mộc
Hàn thu phù chữ hải môn đăng
(Phù âu - Mười hai con mắt)
Một lá thuyền lan xuống bóng hồng
Nghe chừng hạnh phúc lạc hư không
Em về ráng đỏ giăng đầu núi
Thu tới sương mù đổ xuống sông
Đêm lấp dư hương lời ước nguyện
Ngày chôn tan mộng sáp đào ong
Trùng phùng dù hẹn mai còn hội
Giậu cúc năm nào rụng hết bông
(Cổ kính – Lá hoa cồn)
`
Ta nghe chừng quen thuộc lắm! Giọng điệu là một trong ba đặc trưng
của thể loại thơ ca. Điệu Đường thi là vậy, trang trọng, mực thước, tao nhã,…
Hai bài thơ dù được sáng tác bằng ký tự khác nhau, nhưng âm hưởng thơ
Đường vẫn hiện diện, đủ đầy. Sống trong không khí thi ca hiện đại, Bùi Giáng
không nỡ quên tiếng vọng từ ngàn xưa. Nhưng điệu thơ này không nhiều. Nó
xuất hiện khoảng 5 bài trên tổng số 70 bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật,
trong 13 tập thơ. Điều thú vị về thơ ông, trong thể thơ này, không phải là
giọng điệu chuẩn mực đó.
Con người Bùi Giáng không bị ràng buộc, con người thơ của ông cũng
phóng túng không kém. Nếu tiết điệu thơ Đường bị chi phối bởi kết cấu bố
cục chặt chẽ của nó, thì Bùi Giáng đã dễ dàng phá vỡ:
Bấy nay dưới nguyệt tưởng gần xa
Tượng thể chan hoả quỷ ghẹo ma
Thao thức bấy chầy thơ dội mãi
Tuyệt vời từ đó mộng tuôn ra
Thịnh triều cơ sở tầm vô mịch
Chiến trận trường kỳ cứu nhất tra
Những tưởng tầm sưu sương tái diện
Nào ngờ khai thác tuyết khuynh hoa
Ôi thôi mộng mỵ thần ly thánh
Bào háo vô năng tái lập hoà
(Chuyện chiêm bao (bốn) - Mười hai con mắt)
Biến bố cục của thể bát cú thành 10 câu, vậy mà vẫn giữ được thể điệu
của nó, đó là chất ngông của Bùi Giáng. Cái khéo trong hình thức phá cách
`
này chính là sự lựa chọn cách mở rộng các cặp câu. Nhà thơ đã làm dôi ra
phần thực chứ không phải phần luận hay kết. Và đây nữa, nếu cho rằng thơ đi
bằng nhịp điêu, vần điệu, thì Bùi Giáng đã làm rối vần, rối nhịp, rối thể thức
thơ Đường:
Uống rượu hôm nay chẳng thấy vui
Tuổi già chỉ biết có ngậm ngùi
Bảy mươi ba tuổi ghê gớm lắm
Chưa ráo máu đầu ráo riết chơi
Chết một mình ngoài đường phố náo
Sống muôn kiếp giữa chén trà tươi
Tử sinh liều trận giữa cười
Tiêu tùng vốn liếng điệu cười ươi ca
(Không đề - Như sương)
Một sự phá cách đáng kinh ngạc! Bóng dáng thơ Đường xuất hiện một
cách mờ nhạt ở bốn câu đầu. Nghệ thuật đối cũng không còn chặt chẽ. Câu 5
– 6 không còn tuân thủ theo nhịp điệu quen thuộc 4/3 hoặc 2/2/3 của thể thơ
thất ngôn Đường luật. Và cuối cùng, hai câu kết lại là câu lục bát. Người am
hiểu luật thơ sẽ khó lòng mà chấp nhận đây là bài thơ theo thể thức thơ
Đường. Người ác khẩu sẽ cho đây là biểu hiện của một tư duy không ổn định.
Ngay bản thân tôi, tôi cũng hết sức đắn đo trong việc lựa chọn bài thơ này.
Nhưng thiết nghĩ, thể loại văn chương không thể, và cũng không bao giờ bất
di, bất dịch. Văn chương gắn liền với cuộc sống, mà cuộc sống thì thay đổi
không ngừng. Giọng điệu thơ phá cách của Bùi Giáng trong thể thơ Đường rất
phù hợp vơi trạng thái vận động đa dạng của con người ở những năm cuối thế
kỷ XX và trong đời sống của chúng ta hiện nay. Ấy là chưa kể đến việc, cách
`
làm thơ đó bị chi phối trực tiếp bởi giọng điệu trữ tình của chính tác giả. Đọc
nhiều thơ Bùi Giáng, chúng ta dễ dàng nhận ra, thơ ông thường có cuộc vượt
thoát đầy chất ngẫu hứng như thế. Sau cùng, chúng ta thử đến với một bài thơ
thất ngôn bát cú rất duyên của Bùi Giáng:
Đi từng bước, bước cũng từng đi
Bước đi chậm rãi nhớ nhung gì
Trời mây sương tuyết luôn chào đón
Đất ruộng sắn khoai vẫn thuận tuỳ
Lúa chin rì rào vàng ửng nắng
Dâu xanh thăm thẳm bích như ty
Em đi từng bước tôi từng bước
Từ trước tới sau mãi cũng vì
(Từng bước - Như sương)
Nhịp thơ chậm theo cấu tứ và nội dung của bài thơ. Nhịp thơ đã lột tả
được trạng thái cảm xúc giữa em và tôi. Không phải những bước chân buồn,
không phải là những bước dò dẫm lòng nhau. Đó là nhịp điệu chân đi như
muốn thẩm thấu hương sắc của đất trời. Tôi nối bước em và rồi em nối bước
tôi. Chúng ta nối bước nhau đến với cuộc đời. Bùi Giáng đã làm mới thơ
Đường rõ nét nhất ở câu thơ cuối. Đó là cách nói bỏ một dấu chấm lửng, cái
kết mở ra một chiều kích mới trong cảm nhận và suy tưởng tứ thơ. Đó là một
cách thức cho người đọc đồng sáng tạo.
Chỉ đôi nét tìm hiểu, chúng ta ít nhiều cũng cảm nhận sự góp mặt có
chút gì đó thú vị cúa Bùi Giáng trong thề thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Tôi
xin ghi lại bài thơ sau để khép lại phần khảo sát này, để chúng ta biết thêm
`
một khía cạnh nữa trong thơ Bùi Giáng, thay đổi hoàn toàn giọng điệu trang
trọng của thơ Đường, lối nói ỡm ờ, lắt léo mà ông đã kế thừa Hồ Xuân
Hương:
Của em ấy của của trời cho
Ấy của trời cho thế mới to
Thảng hoặc phù du toan kết thúc
Bể trần chìm nổi có chi lo
Tuyệt tài đãng khí tình chung đúc
Nghĩa bạc vân tiêu uất hận mờ
Du hý mộng trường mao vũ tận
Hồi sinh hồng lệ khấp vu vơ.
(Của em – Thơ vô tận vui)
Trong 13 tập thơ của Bùi Giáng, vẻ đẹp của hình thức thơ tự do tập
trung ở Mưa nguồn, tập thơ đầu tay của ông. Đó cũng là tập thơ hay nhất của
Bùi Giáng.
Thể loại thơ 4, 5 chữ không nhiều so với thơ 7, 8 chữ. Nhưng nó cũng
có những nét thú vị. Nếu Nguyễn Nhược Pháp để lại trên văn đàn bài thơ
Chùa Hương, 5 chữ, vừa mang chất tình vừa đậm chất tự sự, thì Bùi Giáng
cũng có bài thơ Mở về phương ấy, 5 chữ, nặng tình, có chút sắc thái triết lí:
Con gái khóc bữa nào
Bây giờ nhắc chi nữa
Chuyện ngày trước chiêm bao
Chuyện ngày sau mộng úa
`
Em chết trên bờ lúa
Em chết dưới triều xanh
Giòng sông kia ấy của
Mộng ước vỡ tan tành
Ở bên đường ngồi lại
Những người đếm tóc nhau
Kỷ niệm về kinh hãi
Màu mắt thuở xa nào
Xin ngó bóng mây trời
Xin nhìn con cá nhảy
Xin thấy ở khắp nơi
Miệng cười thơ dại ấy
Con gái khóc bữa nào
Bây giờ xin nhắc lại
Xin dựng một hàng rào
Để mở về phương ấy
Nhịp thơ đều đặn, kết cấu thơ khép kín, giọng thơ tâm tình, khúc chiết.
Dù không có nét xưa duyên dáng, hương xưa bàng bạc như Chùa Hương, dù
vẫn còn đó chủ nghĩa hoài nghi: Chuyện ngày trước chiêm bao / Chuyện ngày
sau mộng úa / - Mộng ước vỡ tan tành - Kỷ niệm về kinh hãi, nhưng điệu thơ
`
đã cho chúng ta nhận diện một Bùi Giáng không ảm đạm, thê lương trước
cuọc đời. Xin hãy đọc khổ thơ cuối. Giọng thơ an nhiên, thanh thản, nhẹ
nhàng như xui giục ta cùng dựng một hàng rào, mở về phương ấy, nơi có
người con gái đã từng biết rơi nước mắt trong cuộc sống. Và, nếu Lưu Trọng
Lư trong Ngày xưa đã làm mới giọng điệu thơ khi xen kẽ thơ 4 và 5 chữ (hai
ông Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong sách Thơ ca Việt Nam hình thức
và thể loại đã gọi đó là hiện tượng hợp thể):
Bắt đàn bươm bướm
Trên cành hoa tươi
Tháng ngày vui lượm
Những vần thơ rơi
Thơ rơi trên bãi cỏ
Cỏ mịn tợ như nhung
Nàng nhặt đưa vào giỏ
Một chiều trước gió tung
...
thì Bùi Giáng cũng có những câu thơ như vầy:
...
Gót chân nhỏ chạy
Đầu non xuống lũng mơ màng
Đó bóng hươu vàng
Một lần ngó thấy
(Lá thổi mưa bay – Mưa nguồn)
`
hoặc:
Cúi đầu nghe tạnh
Mừa chiều rừng gió đi mau
Con đường trăng lạnh
Hang rừng bông rụng hoa đau
hoặc:
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bò nọ bay sang
(Bờ lúa – Mưa nguồn)
hoặc:
Ngồi đây nói chuyện
Lúc trời cao thổi gió xuống xanh nguồn
Em thốt lời bằng miệng
Và bằng môi hơi thở tự đâu tuôn
(Trò chuyện – Mưa nguồn)
Xem ra, tiết tấu thơ ở những dòng thơ này mới hơn Lưu thi sĩ. Cũng
phải thôi, bởi Bùi Giáng đã kế thừa, có sáng tạo thể thức thơ mới. Cái nhặt
khoan của dòng thơ 4 chữ xen kẽ 5, 6, 8 chữ đã diễn tả hiệu quả cảm giác cảm
`
gió nghe thu của nhà thơ.Thể thơ 7, 8 chữ nổi bật nhất trong thể loại thơ tự do
của Bùi Giáng. Đọc những bài thơ 7, 8 chữ, chúng ta ít gặp sự phá cách về
nhịp điệu, 7 chữ thường là nhịp 4/3 và 8 chữ thường là nhịp 3/5:
Bàn chân em đẹp / hãy dừng đây
Suối chảy bờ quanh / mượt cỏ dày
Em có bằng lòng / về ở lại
Bên màu cây lá / mộng xưa sau
(Hương bay suối cũ – Mưa nguồn)
Em ở lại / với đời ta em nhé
Em đừng đi. / Cho ta nắm tay em
Ta muốn nói / bằng thơ bay nhẹ nhẹ
Vào trong mơ / em mộng giấc êm đềm
(Ly tao – Mưa nguồn)
Nhưng, xét về mặt kết cấu, thể thơ này được Bùi Giáng biểu đạt hết sức
đa dạng. Bên cạnh kết cấu khổ thơ đều đặn 4 dòng, chúng ta bắt gặp những
khổ thơ chỉ có 3 dòng:
Vì con mắt cũng buồn như mí mắt
Em đi về như vui gượng trên môi
Lời nói kia là lá rụng sương đồi
(Không đề - Mưa nguồn)
Và có những bài thơ được xây dựng liền mạch hai hoặc ba khổ thơ, mỗi
khổ 8 dòng, như hình thức thơ bát cú. Đọc ba bài thơ có cùng tựa đề Nhìn cổ
`
lạc (Mưa nguồn), một bài viết cho Kim Trọng, một bài viết cho Thuý Kiều,
và bài sau đây viết cho Dương Cao Tiên:
E ấp môi đào: - nở ép hoa?
Liễu nài chi bận để em qua
Tấm trao phỏng thấu tơ lòng đượm
Mảnh gửi e thay dấu mộng loà
Há dễ mày xanh sương bạc nhuốm
Ví dù ý ngọc giọng vàng pha
Sân Thi nền Lễ còn tuỳ nữa
Hãy lánh cho về nhé xích ra
Tiên thề trang trọng thảo một phen
Chép núi tạc sông gấm dệt bằng
Vằng vặc vừng trong trên chứng giám
Não nùng Hương Nguyệt dưới dòng xen
Tạ tình song điệu loan sầu phụng
Nể ý đôi hầu thiếp vén xiêm
Ngồi xuống muôn vàn đầu xõa gật
Nguồn dân lai láng cúc lồng sen
Chúng ta vừa lạ lại vừa quen. Quen vì thoang thoảng đâu đây điệu hồn
cổ thi. Lạ vì bóng dáng của niêm luật quá mỏng manh. Hãy chú ý câu thơ cuối
ở khổ thơ thứ nhất. Nó tươi ròng điệu thức hiện đại. Điều thú vị khác ở kết
cấu của thể thơ này, chính là cái cách khép lại bài thơ rất lửng lơ, kiểu Bùi
`
Giáng. Tôi xin ghi lại khổ thơ cuối của bài thơ Thưa (Mưa nguồn) để tiện
tham khảo:
Giờ đứng lại là bây giờ rất lạ
Là bao giờ từ buổi lạc tin hoa
Nhầm bóng nguyệt là sầu đau khôn tả
Phút trùng lai là ngó vội nhau và...
Dạng thức tạo cái kết lấp lửng này xuất hiện rất nhiều trong thơ Bùi
Giáng. Nó đã làm nên một giọng thơ của riêng ông.
Khi đã chọn làm một kiếp tằm nhả tơ, mỗi nhà thơ đều đứng vững ở
một thể thơ sở trường của mình. Bùi Giáng đã có nhiều bài thơ làm theo thể
thơ tự do rất hay. Nếu được xếp vào hàng ngũ những nhà thơ thuộc hậu kỳ
Thơ mới, những sáng tác của ông không mang sắc thái được ghi trong Bản
tuyên ngôn tượng trưng của nhóm Dạ Đài, ra mắt bạn đọc từ năm 1945 –
1946: Thế cho nên chứng tôi – Thi sĩ tượng trưng chúng tôi sẽ nói lên và chỉ
nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngụ cảu những thế giới
yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là cái thế giới âu sầu đây nữa.
Về hình thức thơ tự do, Bùi Giáng có cách thức biểu đạt riêng, nhưng ông sa
đà vào chủ nghĩa hình thức, để tạo một thế giới dị thường, huyễn hoặc lòng
người. Dù có những lúc, đọc thơ ông, ta bắt gặp những hạt sạn. Nhưng đó là
những bài thơ được ông làm ở trạng thái bất định. Những bài thơ ấy, theo
phương thức gạn đục khơi trong, tôi không khảo sát. Như trên đã nói, thể thơ
tự do không phải là sở trường của Bùi Giáng. Ông nặng tình với thơ lục bát
hơn.
`
3.2 NGÔN NGỮ THƠ BÙI GIÁNG
Thơ Bùi Giáng phần nhiều khó hiểu, bởi vì có rất ít người hoặc có thể
nói là dường như không có ai có thể hiểu được hoàn toàn, kể cả tôi nữa. Riêng
cá nhân tôi, tôi chỉ tìm gặp những cái mà mình có thể hiểu được, có thể rung
cảm được dưới góc độ tâm hồn của mình, còn cái chính yếu, cốt lõi trong thơ
văn của ông thì tôi chắc mình không thể hiểu nổi. Bởi vì rất ít người có đủ
trình độ để hiểu thơ của ông.
Bùi Giáng hội đủ điều kiện của một nhà thơ lớn. Theo thi hào Anh,
T.S.Elliot, thi hào là một người ngoài tài nghệ cá nhân, phải là con người
thông kim bác cổ, là người thừa kế di sản văn hoá nhân loại, cũng như trong
Phật giáo, thiền sư tự chứng mà không có thầy ấn chứng thì gọi là bàng môn
tả đạo, tà ma ngoại đạo. Cho nên kẻ nào chứng đạo thường thường thao thức
đi tìm một người ấn chứng cho sự giác ngộ của mình. Giống như là Vĩnh Gia
Huyền Giác đại sư khi ngộ đạo cũng cần tìm đến ngài Huệ Năng để tham vấn
xem cái ngộ của mình có đúng không ? nếu tự tu tự ngộ tự chứng thì gọi là
bàng môn tả đạo. Cho nên không phải ai cũng có thể tự xưng “thiền sư” hoặc
xưng “tổ sư” cả đâu ! Xét theo tiêu chuẩn chính thống, thì phải bái kiến một
bậc thầy đã chứng ngộ, rồi cầu xin vị này ấn chứng cho mình. Thì trong thơ
văn cũng vậy. Có một di sản chung mà một người gọi là nhà thơ lớn thì không
thể không biết đến. Trong thơ Bùi Giáng chúng ta bắt gặp âm hưởng không
những thơ chữ Hán, Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà còn thơ Tô Đông Pha,
Lý Bạch, Đường Thi, Shakespeare, Guillame Appolinaire, Verlain,
Longfellow, Walt Whiteman … Chính vì đọc nhiều, thông suốt văn hoá nhân
loại cho nên trong thơ Bùi Giáng ta thấy :
Cuồng lên ngọn nước bốn mùa
Núi phơ phất tuyết, cổng chùa tịch liêu
`
Hai hàng phượng đỏ giấn liều
Từng cơn quạnh quẽ, nắng chiều rỉ hoen…
Hoặc khi Bùi Giáng tả một cơn bão cát ở sa mạc, cát tung lên như một
tờ giấy khổng lồ được lật qua, như một thân thể đang trút linh hồn, và gió như
đang quét sạch mặt đất :
Người nằm ngủ từ nghìn năm thấp thoáng
Ta bước qua từ ngữ rụng hai lần
Từ sa mạc như bồi phong tẩy địa
Trút linh hồn dường như thể như thân…
Hoặc là :
Chập chờn nữ chúa so vai
Mộng chiều Hy Lạp ngủ dài miên man
Thành ra, trong thơ ông chúng ta nhìn thấy có cả thế giới.
Và khi Bùi Giáng viết về con người thì con người cũng có nhiều quốc
tịch, như Marilyn Monroe, Brigitte Bardot, … cho nên ông phải là người
thông kim bác cổ … Trong thơ Bùi Giáng không thiếu bất cứ phương diện
nào. Những cảm hứng ấy thật vô cùng xa lạ với người đọc. Và chúng ta thử
đọc bài “Gió bão Tây Nam” :
Mịt mù gió bão Tây Nam
Trùng quang vó ngựa tế nhanh trong mù,
Thân người nát ở phía sau
Ngàn năm mắt khép khổ đau khôn hàn …
`
Cái đẹp trong thơ Bùi Giáng là giàu từ ngữ và lối dùng từ vô cùng
sáng tạo. Ví dụ từ ngữ “nhà ma” thì ông đặt thêm “cửa quỷ”. Đã có “gió tràng
giang”, thì ông đặt thêm “trăng đại hải”, … rất nhiều từ ngữ sáng tạo.
Bùi Giáng chơi ngôn ngữ thiên tài. Ông dùng chữ một cách hào phóng,
phung phí. Ông tự thân thoát khỏi ý nghĩa ngôn tự, ngữ cảnh nhào lộn, đu
bay, không gốc rễ, như cảnh ráp nối người giữa không trung cuộc nhảy dù
biểu diễn. Như cái pháp hoa xoè cánh trong đêm hội, thể hiện cái rực rỡ rất
đỗi đánh thức, lại rất đỗi phù du. Do bản thân sự ngao du rong ruổi trong sa
mạc chữ nghĩa, trong thế giới ảo hoá này, thơ Bùi Giáng tạo cho người đọc
một giá trị cảm thức sâu sắc, bàng hoàng, đẩy tới những hoài cảm, tưởng
vọng mênh mông hơn, chính ý lực của bài thơ mà từ đầu tác giả muốm hàm
gởi.Bùi Giáng giàu ngôn ngữ như cát bãi biển. Mỗi chữ lại ẩn tàng nhiều mặt
biểu hiện, đa dung mạo, đa nội lực.Nó có khả năng biểu thị rộng lớn cái tận
cùng ý nghĩa. Ông dùng từ Hán Nôm đến mức tuyệt hảo và đảo lộn, nói lái,
trá hình, ngẫu hứng, ẩn dụ lại rất mực tài tình. Đôi khi chữ dùng của ông
tuồng vô nghĩa những là một mật ngữ, mật mã.
Trong gần nửa thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có
những câu thơ tuyệt hay, những khám phá ngôn ngữ cực kì mới mẻ. Những
dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng làm xuyến xao không biết
bao nhiêu người đọc. Bùi Giáng hay dùng biện pháp láy trong thơ mình,
những từ láy hoặc cấu trúc láy chỉ có ông mới nghĩ ra và dùng một cách lạ
lùng như thế.
Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một chiều khe mương
`
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia
(Sa mạc trường ca, Cầu Nguyện Ca)
Những hình ảnh ẩn dụ độc đáo, khơi gợi cả một chiều sâu suy tưởng.
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
hoặc:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn giữ đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Nhưng sự nhảy múa của ngôn từ không dừng lại ở tầm cao, nó còn
hiện diện gần gũi, đáng yêu trong những cách sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ hài
hước hay những vần thơ dục tính khép mở kiểu Hồ Xuân Hương với các kiểu
nói lái tinh vi.
`
3.2.1 Các lớp ngôn từ nổi bật trong thơ Bùi Giáng
3.2.1.1 Lớp ngôn từ thế tục
Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hoả diệm sơn của hồn
ông. Có dìu ba đào về một chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào,
động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánhh chuồn chuồn của Bùi Giáng
vẫn gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết từ đôi cánh của nó. Đã đành
làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề
ngôn ngữ một cách nặng nề, triên miên như Bùi Giáng. Hầu hết các nhà thơ
khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của ngôn ngữ nhưng vẫn tự hào
về công việc sáng tạo của mình. Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn
nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có
vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắn chắn không mấy tin tưởng vào
khả năng thể hiện của ngôn ngữ:
Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Dở chừng như mọng dở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên
Một hôm Mai Thảo bảo rằng
Làm thơ bê bối sao bằng đi rong
Phố phường cỏ mọc quanh năm
Tôi cho rằng đây là một đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ
Bùi Giáng: Thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhoà mọi đường biên quen thuộc
`
vốn đưôc mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học
từ xưa đến nay. Thứ nhất là xoá nhoà những đường biên về giọng điệu. Thơ
ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác họ và một loại tạm gọi là bình
dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm thượng thừa, miên
trường…nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa.
Còn bình dân thì như đại ca, Huê Kỳ, liên tồn, lai rai, số dzách…nghĩa là
những khẩu ngữ còn lấm lem bụi bặm ngoài đường phố. Cả hai loại đều khiến
giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì có nguy cơ thơ thành sáo, cổ. Dùng
loại dưới có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát
khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hoà trộn hai loại ngôn ngữ ấy lại với
nhau một cách tài tình. Đọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào.
Như một phép màu.Gắn liền với sự xoá nhòa trên là một sự xoá nhòa khác:
xáo nhoà ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết
hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về các nhà thơ
khác. Nói đến sự kết hợp gữa truyền thống và hiện đại là thừa nhận ít nhiều
chúng ta có thể khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng,
mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ơ Bui Giáng, tính chất truyền
thống và hiện đại tan hoà với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ, hình tượng
thơ ông dùng: cũ, ngôn ngữ ông viết: cũ; thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của
ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có
cảm tưởng rằng những từ, những chữ nào Bùi Giáng đã từng sử dụng một lần
đề trở thành của riêng Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có
dấu ấn của Bùi Giáng, sau đó ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ
như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Đọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp “giũ áo”,
“rớt hột”, “đười ươi”, “chuồn chuồn”, “châu hấu”…chúng ta hay tri hô lên :
Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn như “thập thành”, “máu me”,
“lai rai”… chúng ta cũng lại tri hô lên Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt
`
Nam ta hiếm có trường họp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc
đáo chỉ ở cấp độ của bài hoặc câu. Ở Bùi Giáng, tính chật độc đáo thể hiện ở
ngay cấp độ từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận các nhà thơ đâm ra
lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu
chân của Bùi Giáng. Thứ ba, là sự xoá nhoà ranh giới giữa cái gọi là thơ và
phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao
giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc về thế giới của văn xuôi, của tiểu
thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng
nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng:
Bây giờ em đứng nôi đâu
Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao
( Gửi Thôn Nữ Vĩnh Trinh)
Bùi Giáng có tài hoá giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ là sàm sỡ,
dưới ngòi bút ông, bỗng nhiên trở thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi
Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang:
Sáng nay bao tử mơ mòng
Càfe bên nọ cháo lòng bên kia
(Sáng Nay)
Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Đi vào thơ
Bùi Giáng tự nhiên chúng có những âm vang rất lạ, rất xa,tưởng như không
còn là chuyện “café” hay “cháo lòng” nữa.
Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong
cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh
thiêng trở nên bình thường. Những Thượng Đế, Phật, Thánh Hiền…đi vào thơ
ông, mất một chút hào quang, song, bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng
`
làm cho cái đáng kính thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là
một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có cái tài làm cho những cái thô và tục trở
thành những cái thơ mộng, xôn xao. Cuối cùng,thứ tư, tôi gọi là xoá nhoà
giữa cái có lý và cái phi lý; ót ai để ý trong thơ Bùi Giáng cũng có điều này:
ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như : mặc dù…,
càng…càng…, vẫn là.., vì.., rằng…., tuy nhiên…Chắc chắn là không có nhà
thơ nào dùng nhiều các từ này bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng
các liên từ này rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước hoặc sau ông.
Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ
pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ, ở cuối câu, thường
là câu cuối bài:
Em về- nhà cửa nhỏ nhoi
Buồn rầu khôn xiết em soi gương và…
( Em Đi)
Nối đuôi khởi sự từ đầu
Vì dù kết thúc trước sau vẫn là…
( Vẫn Là Là)
Bá phương phảng phất rồi xa
Mùa hương xa vắng càng xa xôi càng …
( Băng Tâm)
Mai sao dù có đi về
Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng…
( Em Về)
`
Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng ít chú ý,
không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà,
ở trong những trường hợp này, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất
hiện của những kiểu câu như thế ê hề, mặt khác nhiều lúc Bùi Giáng đem
những liên từ lý luận ra đùa nghịch:
Nếu và những vẫn ắt rằng
Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
Và những tuy vẫn là chia
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
( Tuy Nhiên)
Tuy nhiên đất quạnh sơn hà
Còn tuy nhiên mãi hoạ là nhiên tuy
( Ích dụng hung sự)
Mần răng ra rứa ví dù
Mần ri thế nọ tịt mù thế kia
(Mỗi ngày)
Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập
Mưa Nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn Thu Rớt Hột
((1963) về sau thơ ông tăm tối hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại
hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa Nguồn, đằm hơn, lắng
hơn, và chín hơn. Mưa Nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng khôn nguôi:
Viết thơ lạc dấu sai dòng
Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong
`
Viết thơ là trở lại bên
Con người thôn nữ răng đen hai hàng
( Ca Dao)
Sau này ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi.
Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, ông cứ lặp đi lặp lại rải
rác ở nhiều bài thơ khác nhau:
Trở về đồng ruộng đôi khi
Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà
( Gấu Buồn)
Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm
giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông
hoàn toàn cô độc:
Quay về một cõi riêng thôi
Liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân
( Đời rộng đương chìm)
Ông làm thơ cho hư không:
Bây giờ xin ngỏ cụm cây
Chớp hàng viết nốt áng mây về trời
( Bây Giờ)
Ông độc thoại:
Ngàn năm độc đối riêng hàng
Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu
( Khởi từ)
`
Từ đây đổi vịt thay gà
Chán chường đến thế là ta ngậm lời
( Nhà ma đi đời)
Sau năm 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu sao
dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Thơ của ông có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt
những thắc mắc siêu hình đế quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc. Từ đó,
ông nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ:
Chợt mùa thơ vội đổi giòng
Cội nguồn cũng bởi tự lòng mà ra
( Từ Bấy đến nay)
Với quan niệm như vậy, thơ khơng còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa
mà là một lời bộc bạch tâm sụ:
Lời tỉnh táo, lời mê man
Điệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca
( Y Ư Mộng Du Ư Mê)
Do đó, ông khao khát được thông cảm:
Xổ bầu tâm sự điêu linh
Ai người chia sẻ với mình với ta
( Một giờ)
Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu
sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể.
Văn bản ấy có đời sống riêng của nó; có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn đằng
`
sau là một tâm tình, một tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ
vỡ oà bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ:
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
( Bé con ơi)
Bùi Giáng băn khoăn:
Tôi cười tôi khpc bâng quơ
Người nghe cười kpóc có ngờ chi không?
Bùi Giáng lại năn nỉ:
Tặng nhau từ ngữ lạc lầm
Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn
( Y Ư Mộng Du Ư Mê)
Bùi Giáng xoá nhoà ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái
chung:
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyềt tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay
`
Xoá nhoà. Xoá nhoà ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống
và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái tôi và cái ta, giữa cái chung và cái
riêng, xoá nhoà mọi sự phân biệt. bằng những sự xoá nhoà ấy. Bùi Giáng xoá
nhoà luôn ran giới giữa cái gọi là văn hoá cấp cao và văn hoá bình dân. Đồng
thời, Bùi Giáng cũng xoá nhoà luôn cả tính chất nghiêm nghị.
Thơ Bùi Giáng hầu hết hình thành qua ngôn ngữ thông thường, xã hội
ngày càng dùng nhiều hơn, rặt Nôm, lại lắm khi những ngôn từ rất lem luốc
bụi giang hồ. Nó đã nhẹ tênh, gần gũi, tự nhiên như nói chuyện, đầm ấm giản
dị như ca dao. Nó rất kì cục, thường hằng, nhưng tinh tế. Nó rất đơn sơ như là
một chứng minh cho kĩ thuật thượng thừa của Bùi Giáng. Trong lịch sử văn
học nước nhà, ít thấy thi nhân nào- kể cả thi nhân ta rất mực yêu mến thờ
phụng như Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tản Đà- bày cuộc vui chơi chữ nghĩa
đó đây một cách đơn giản nhưng thâm thuý, trù phú và thiết tha ngộ nghĩnh
như Bùi Giáng. Ghì môi cơn mộng la đà/ Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng/
Nửa vời trăng rộng mông lung/ Đường xa nghi hoặc tháp tùng ni cô/ Tôi chấp
nhận trăm lần trong thổn thức/ Tôi bàng hoàng hốt oảng những đêm đêm/ Tôi
xiu chịu cuồng si để sáng suốt/ Tôi đui mù chi thoả dạ yêu em.
Sự rong chơi của Bùi Giáng trong ngôn ngữ và giữa cuộc đời vừa thâm
trầm, vừa vui nhộn, vừa bi khoái là vì khi ông không dè dặt, giữ gìn mà cố
buông thả đi về lẫn lộn giữa những câu thơ khóc cười đầy uyên bác, trang đài,
cổ kính , xen lẫn với những từ, những câu đầy ngôn từ dân giã, bụi đời có khi
đến mức giang hồ ngổ ngáo, trần trụi. Vừa nói đến tâm sự của mình một cách
quý phái:
Hồn du mục cỏ hoa mòn mỏi
Rừng đêm xanh trăng tỏ không lời
Vì hơi thở cũng sầu như lá úa
`
Rớt lưng đồi bối rối lách theo lau
…ông chuyển hệ mượn lời người khác nói về cái đên của mình một
cách thống khoái đầy “sáu Giáng”:
Vợ chồng tôi lúc nào cũng nhớ anh
Anh điên mà dzui dzẻ thập thành
Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu
Lời thơ Bùi Giáng rất giản dị, tuôn ra một cách tự nhiên như là chuyện
ông là con người xuất khẩu thành thơ.
Chó sủa sớm chiều đi qua ngõ,
Gà con mất mẹ chạy bâng quơ,
Và khi tả một người tan thần hồn, nát thần trí, thì Bùi Giáng viết :
Chèo ghe ra biển ghé vai
Hỏi thăm cá biển một hai ba điều
Nửa chừng quên bẵng bốn điều
Cuối cùng sực nhớ năm điều đã quên …
Tâm hồn con người này thiếu chánh niệm cho nên quên trước nhớ
sau.
Dạng thức khẩu ngữ xuất hiện khá nhiều trong thơ Bùi Giáng. Điều này
không có gì lạ. các nhà thơ khác thi thỏang cũng sử dụng hình thức khẩu ngữ
trong thơ. Lưu Trọng Lư đã từng: Mưa mãi mưa hoài…/Mưa chi mưa mãi…,
Thế Lữ thốt lên trong Tiếng gọi bên song: Đi đâu vội bấy, hỡi ai ơi !, Tản Đà
tha thiết nhắn: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi / Trần thế em nay chán nữa rồi
/ Cung quế có ai ngồi đấy chửa / Cành đa xin chị nhắc lên chơi, và Nguyễn
Du cũng đã từng đặt vào mồm mụ Tú Bà: Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma…
`
Có điều, Bùi Giáng dùng khẩu ngữ như một phương thức biểu đạt thường
trực. Bởi, với ông, làm thơ là một cuộc đối thọau. Thơ ông mang hơi thở của
sự sống hằng thường. Vì thế, có khi ông sử dụng cả lọai tiếng lóng trong thơ.
Chúng ta khảo sát vài ví dụ cụ thể:
Duỗi dài bốn cẳng nằm ngang
Nhớ thương tháng cũ bước quàng hụt hao
(Lá cây-Ngàn thu rớt hột)
Nếu thay bốn cẳng thành bốn… cái gì khác, nếu thay cái bước quàng
thành bước vội hoặc bước mau…, thì e rằng không còn là thơ Bùi Giáng nữa!
Giã từ than thể bước ra
Mười hai bến nước té ra một bờ
(Té ra một bờ- Lá hoa cồn)
Hai chữ té ra đã lột tả được sắc thái rất đỗi hồn nhiên, dân dã, mộc mạc
của ý thơ. Đó là lúc con người lãnh ngộ ra điều đơn giản đến không ngờ của
mười hai bến nước đục trong cũng tại lòng người.
Cái thương cái tiếc rạc rời
Cái đi cái đứng cái ngồi lang thang
(Nhớ và quên-Màu hoa trên ngàn)
Thương, tiếc, đứng, ngồi, đều được dẫn dắt bắt đầu từ chữ cái. Điệu thơ
nghe mới nặng nhọc làm sao !
Lời ăn tiếng nói rì rầm
Ăn lời nói tiếng ? Ăn nhằm vào đâu
`
Chỉ xin tòan thể nhiệm mầu
Tòan nhiên vô tận nhiệm trao tâm tình
(Gửi An Hem-Đêm ngắm trăng)
Tính chất khẩu ngữ hết sức đặc trưng của Bùi Giáng nằm ở dòng thơ
thứ hai. Nghe dục dặc lắm ! Nhưng nó sẽ trở thành điểm nhấn để hai ý thơ
cuối cùng được thăng hoa. Những lời thị phi có sá gì, ông cợt nhả với nó, chỉ
có cái tình giữa những kẻ tự chọn nghiệp thương vay khóc mướn với đời mới
là điều quan trọng. Bùi Giáng đã gởi trao giới anh em nghệ sĩ lời tâm tình chí
cốt, bằng cách nói của riêng ông:
Anh bình tĩnh thưa rằng: anh hổng dám!
Hổng dám đâu ! Đâu hổng dám là đâu !
(Hổng dám đâu-Đêm ngắm trăng)
Na Quỳnh hai đứa ăn đòn
Hu hu một lúc khóc mòn mỏi hơi
Khóc than mút chỉ mà chơi
Lệ tuôn dầm đất tung trời mây bay
(Na Quỳnh-Đêm ngắm trăng)
Đọc những làn điệu khẩu ngữ này ta mứoi thấy tâm hồn Bùi Giáng thơ
trẻ vô cùng. Tập thơ Đêm ngắm trăng được sáng tác năm 1997. Bùi Giáng ở
vào tuổi thấp thập cổ lai hy. Vậy mà, từ ý thơ, chúng ta có thể hình dung ra
một ông lão râu tóc phất phơ le lưỡi rụt đầu nói hổng dám đâu. Nhìn bé Na,
Quỳnh bị đòn mà khóc, ông làm thơ dể nước mắt của trẻ thơ bay mút chỉ trên
trời mây. Tuy nhiên, cách thức sử dụng khẩu ngữ của nhà thơ được nhiều
người chú ý chính là cái kiểu dạ thưa, thưa rằng, thưa em. Ngòai hai bài thơ
có tựa đề Thưa rằng, Bùi Giáng thưa em khá nhiều: Thưa em uống rượu bây
giờ, Thưa em từ bữa nghiêng chào, Thập thành dao động thế nào thưa em,
`
Thưa em tiên tải đọan trường, Thưa em từ bữa xa nào, Thưa em dâu biển rì
rào… Và có lẽ, đọc thơ Bùi Giáng, ít ai quên:
Thưa em xứ Huế bây giừo
Vẫn còn Núi Ngự bên bờ sông Hương
Riêng tôi, tôi lại nhớ Thưa em Sài Gòn. Những trợ từ, hô ngữ trong
phong cách khẩu ngữ cũng được nhà thơ sử dụng thật đắc địa. ông có cả một
bài thơ, mỗi dòng thơ đều bắt đầu từ chữ ấy (bài thơ Ấy Ấy Ấy, Kiều Nguyệt
Nga) và có những câu thơ rất đẹp:
Dạ thưa vâng ạ vâng ừ
O bồng sương đục mây lừ đừ cong
(Điếu người-Đêm ngắm trăng)
Ấy là em ạ em ôi
Tình yêu em-ấy là đời của anh
(Phải chăng-Đêm ngắm trăng)
Đời dại khờ như một giấc chiêm bao
- Ừ thế sao ? Em hãy rủ ta vào
(Và màu xuân đó-Mưa nguồn)
Và cũng như nhiều người con quê ở miền Trung, ông đã đưa lời ăn
tiếng nói quê hương xứ sở làm chất liệu thi ca. Làm sao kể xiết những chi
răng rứa đi về trong thơ ông. Tôi tạm ghi lại đây ý thơ khá dễ thương với
tiếng nói con người xứ Quảng của ông:
Ni cô, Thánh nữ chẳng vừa
Chào tôi ranh mãnh cợt đùa:”Chào ông!
`
Ông tên là Gioáng phải không?
Ông người Đòa Nẽng chính tông tộc Buồi?
(Bâng quơ-Thơ vô tận vui)
Phong cách ngôn ngữ khẩu ngữ được Bùi Giáng vận dụng trong thơ rất
đa dạng, lúc thô mộc, lúc trau chuốt, nhưung phần lớn đều là dụng công nghệ
thuật. Nó đã tạo ra giọng điệu thơ khó lẫn với người khác của ông. Chính thao
tác quen dung khẩu ngữ trong thơ đã góp phần làm nên một Bùi Giáng sáng
tác thơ nhanh và dễ đến mức như lấy thơ từ trong túi ra.
3.2.1.2 Lớp ngôn từ triết học
Từ Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, năm 6, 63 đã thấy xuất hiện tính chất đoạn
trường, tồn sinh như tinh thần chính trong tư tưởng Bùi Giáng: Nguyễn Du,
Tản Ðà gặp gỡ Heidegger, Breton phóng sinh một tạng chán đời mới lạ. Bài
Rượu Uống trong Lá Hoa Cồn, một thứ đoạn trường ngông rất lãng mạn siêu
thực, tiêu biểu cho tính chất lang thang trong cấu trúc thơ Bùi Giáng:
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Ðộng hờ hững chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
Càn khôn xiêm mỏng che mành
Về trong thiên hạ em thành thiên thân.
`
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
Tài hoa tiếng vọng điêu linh
Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao.
Thưa em từ bữa nghiêng chào
Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang
Em đi rắc lá trên đàng
Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia
Mùa xuân mưa rưới mộng lìa
Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Chạy quang cồn cụm lá già
Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
Càn khôn gió đổ chất chồng
Rú như beo rống như hùm đổi hang
Trên rừng dưới lũng tan hoang
Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Nhìn nhau trong lũy ngoài hào
Lời phôi dựng một điệu chào dị sai
Trên đầu thế kỷ chia hai
Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
`
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường
Chung cầm dâu biển khôn lường
Chân trời mộng lý con đường chia ba
Nam đình doanh trại dàn qua
Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong
Hoạt tồn phát tiết sầu đong
Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên
Bùi Giáng sáng tác 499 trang Con Ðường Ngả Ba, Bước Ði Của Tư
Tưởng trong một thời gian ngắn. Ðiểm thích thú nhất của người đọc trong
cuốn sách này là những trích đoạn thơ Bùi Giáng, phần lớn là những câu thơ
hay, tỏa ra những suy tư sâu lắng về bản chất con người. Nhưng trong 499
trang chữ ấy, người đọc tìm thấy rất ít dòng đứng đắn và tỉnh táo bàn về
những vấn đề triết học như hiện sinh và bản thể, tồn tại và thời gian, mặc dù
ông rất ngưỡng mộ Heidegger, người thầy hiện sinh được ông trích, dịch một
cách kỳ cục. Ví dụ như câu này, dịch ra từ tiếng Pháp, tiếng Ðức: "Nhưng mà
lời thuyết thoại trì ngự, trong (khởi từ) Ðịnh Mệnh Phối Tiết mở phơi, sẽ ra
sao nếu như cái Sở Khải Khai trong Song Trùng Tịch Hạp bị Ðịnh Mệnh Phối
Tiết (ruồng rẫy) bỏ phó mặc cho cuộc thể hội vất vơ nhân tuần (dung thường
nhật lệ) của con người từ diệt chúng tử chúng sinh?"
(Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng, trang 12-13).
Dù đặc sệt những tên tuổi triết gia, nặng ký trích dẫn thiên kinh, vạn
điển, dù có một số ý trội lên về vấn đề đọc sách, đọc Nguyễn Du, đọc Bùi
Giáng, về sự gặp gỡ giữa những nhà tư tưởng lớn, đả kích một số nhà xuất
bản không tôn trọng văn bản của tác giả, Con Ðường Ngả Ba vẫn không phải
là cuốn sách bàn về triết học, hoặc đưa ra một hệ thống tư tưởng mạch lạc; mà
có thể nói đây chỉ là cuốn phiếm luận bí hiểm, ngôn ngữ thần chú, nhại triết
`
học, nhạo người đọc. Cho nên khi Tạ Tỵ viết: "Bùi Giáng đối thoại với
Nietzsche, Sophocle, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus..." thì e
rằng Tạ Tỵ quá lời. Sự tìm kiếm siêu hình nơi Bùi Giáng, như chỉ dừng ở
phần vỏ của ngôn từ: tồn sinh, tồn lưu, hằng thể, hư vô, logos, ... mà không đi
vào nội tâm của suy tưởng. Hoặc có lẽ Bùi Giáng chỉ muốn rỡn chơi. Nếu ông
có nhắc tới Như Lai, Bồ Tát, Heidegger, Parménide, Platon, Socrate cũng chỉ
như ông nói đến Nam Phương Hoàng Hậu, Dương Quý Phi, Marilyn Monroe,
đười ươi, chuồn chuồn, châu chấu v.v... vậy thôi, trong một trạng thái "tẩu
hỏa nhập ma", một tinh thần anarchiste toàn diện. Một "người phá", để nói
theo ngôn ngữ Trần Dần. "Người phá" trong cái nghĩa tiêu cực của nó, chứ
không phải trong cái nghĩa sáng tạo, ít nhất là ở cuốn sách Con Ðường Ngả
Ba.
Phải chăng Bùi Giáng chỉ muốn "hù dọa" người đọc không chuyên
môn? Hay ông muốn nhại, diễu, những hệ thống suy tưởng mà một số trí thức
quen dùng như mẫu mực hoạt động tinh thần? Biến chúng thành một thứ
charabia, ngôn ngữ vấn đáp chuồn chuồn, châu chấu, nói trẹ, nói xàm, nói bá
láp và ông có khả năng sản xuất mỗi ngày vài trăm trang như thế?
Thái độ anarchiste toàn diện này mở rộng trong đời sống, trở thành một
bản năng phản kháng quẫy đời: Cởi quần áo giữa lớp học, tắm nơi công cộng,
ngủ vỉa hè, trở thành clochard (hành khất say rượu), mặc áo rằn ri lính ngụy,
để chỉ đường..., tất cả những "cơn điên" ấy của Bùi Giáng chứng minh sự
sáng suốt của một Bùi Giáng không điên. Không điên vì ông chỉ đẩy đến
cùng trạng thái hiện sinh, chứng nghiệm ý thức trần trụi về bản thể. Cởi dần
năm bẩy lớp quần áo chẳng qua chỉ là hình ảnh "rút gọn hiện tượng", bóc vỏ
các tầng lớp bề ngoài của "hiện tượng" để tìm ra bản chất trong hiện tượng
luận Husserl. Trở thành clochard là một cách thể nghiệm tự do và tự hủy.
Trong những đệ tử của hiện sinh thời ấy, Bùi Giáng là người đi xa nhất trong
`
hành động tự hủy và hành xác. Tự hủy để chứng minh: Cá nhân con người đã
chán ngấy cuộc sống, nó có một quyết định tự do lựa chọn, và sự hủy hoại
bản thân là sự lựa chọn tiến gần nhất đến tự do tuyệt đối.
Sau 75, người ta càng yêu Bùi Giáng hơn, vì trong một xã hội được bị
lồng vào khuôn phép, một xã hội đã ổn định cơ chế, công chúng yêu mến
những gì bất thường, yêu những kẻ ngoại đạo, bất ổn. Bùi Giáng là người
ngoại đạo duy nhất dám làm lũng đoạn môi trường ổn định bằng thái độ tự
hủy. Cái điên của Bùi Giáng là cái điên sáng suốt trong một tình thế không có
cứu cánh nào khác nếu không tìm về bản thể của con người.
3.2.1.3 Lớp ngôn từ tôn giáo
Nghệ thuật và thi ca, sẽ có thể diễn đạt tất cả đau khổ phù du mộng ảo
của kiếp nhân sinh. Với thi ca, cái vô thường sẽ được làm cho trường cửu, cái
chết và nỗi khổ sẽ trở thành bất tử. Khổ không còn là khổ, khi nó trở thành
đối tượng khách quan của nghệ thuật, muôn đời người ca kỹ bên bến sông
Tầm Dương vẫn còn đang gảy khúc tỳ bà… Chiếc áo xanh của quan Tư Mã
Giang Châu trong tác phẩm Tỳ Bà Hành cho đến nay vẫn chưa ráo lệ. Ngày
xưa người chinh phụ bẻ cành liễu để tiễn chồng thì nay sự biệt ly vẫn còn tiếp
diễn giữa cảnh đời và con người có chút hơi khác. Cảnh đời phù du, hạnh
phúc chóng tàn cũng thế, không bao giờ thay đổi.
Người kỹ nữ ngày xưa trên bến nước
Sẽ đi về trong bóng nguyệt quanh năm
Và sẽ nhắc với đời em chuyện trước
Vàng nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm …
Vũ trụ như một sân khấu, tái diễn mãi hoài một tấn tuồng dù diễn viên
có đổi thay qua nhiều thế hệ,
`
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không ?
Hỏi tức là đã trả lời. Không có chi khác lạ. Với những cảnh phồn hoa
phố thị với những cuộc tình ngang ngữa, càn khôn vũ trụ ngày xưa là « của
riêng » của những chàng chàng thiếp thiếp, thì bây giờ « đón bước em xinh »
của thế hệ diễn viên mới tái hiện màn kịch cũ,
Đây phồn hoa của thị thành
Đây hồn thuỷ thảo khóc tình ngổn ngang …
Thi nhân chỉ hỏi nhỏ một câu :
Sầu đau nhan sắc bất bình ra sao ?
Mặc dù đã biết rằng :
Ngày sau chỗ ấy
mây mù quyến rũ trăng suông,
Em về sẽ thấy
mông lung sầu mộng nửa đường …
Cảnh hợp rồi tan, tan rồi hợp, sẽ vẫn diễn tiếp diễn mãi hoài nếu bao
lâu còn sự sống, cũng như bốn mùa vẫn luân chuyển bao lâu giữa … thị thành
vần xoay. Đó là sự vĩnh viễn trở về (Le retour éternel) :
Đầu xuân dậy, thiết tha vang ngưỡng cửa,
Trống tiêu trùng trong điệp khúc mai sau.
Vì vĩnh viễn trở về nên biệt ly cũng sẽ là « trùng ngộ » :
Thưa rằng ly biệt mai sau
`
Là trùng ngộ giữa sắc màu nguyên xuân ...
Cuộc tồn sinh vốn đã là cõi đất trích chiêm bao, thì cứ hãy thong dong
mà sống và chết, đừng ngại chi cảnh « lên thác xuống ghềnh:
Thân xương máu đã đành là uỷ mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh
Đó cũng là lý do chính để bồ-tát không sợ sinh tử, nhìn sinh tử như
hưyễn mộng, cũng là lý do vì sao Bùi Giáng suốt đời lang thang ở trong các
đống rác và giữa đường phố … mà không bao giờ chịu trú ngụ bất cứ một
chỗ nào, bởi vì ông đánh đổi cả cuộc đời để nhận lấy « cõi thơ ». Đó cũng là
lý do Bồ-tát dấn thân vào cuộc đời dưới bất cứ hình thức hoá sinh nào tuy
không phải chỉ là hoá thân làm ăn mày :
Thưa rằng bạc mệnh riêng kham
Giờ đây bất tuyệt xin làm cỏ cây …
Sở dĩ người ta đau khổ bởi vì người ta không chịu sống giản dị như
bông huệ ngoài đồng, như thiên nhiên, như loài vật,
Con kiến bé có bao giờ lận đận
Bước đi về trong cổ hận chiêm bao…
Trong miền đất trích chiêm bao vẫn có những đau khổ trở về mà mùa
xuân cũng trở về nữa với cây xanh lá dù tóc xanh có phai màu :
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau …
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng …
`
Mọi sự của cuộc đời sẽ tái diễn một cách y hệt, vô thường, khổ, không
cũng như một thi sỹ nào đó đã thốt lên :
Chim vẫn bay quanh từ vạn kỷ
Gió thật xưa, mây thật già nua …
Trực nhận được lẽ đó thì không còn thác loạn điêu đứng vì nỗi dâu biển
trong cuộc tồn sinh, hãy để cho cơn buồn bay qua, như giấc mộng, như bóng
chiều, bởi lẽ tất cả đều là mộng huyễn và giấc mộng cuối cùng thì cũng như
giấc mộng ban sơ, không khác gì cả :
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin hãy để bóng chiều bay qua …
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh !
Vì thực ra chúng ta có mất mát gì đâu ? vì tuyệt đối ta không có gì để
mất, ta đã khóc than đau khổ vì cái Không mà chúng ta chẳng biết. CÁI
KHÔNG chính là quê hương của ta, nghĩa là của một cái KHÔNG tịch mịch
từ vạn thuỷ, Không trở về Không là trở về « sơ nguyên mộng », là sực tỉnh
từ »cơn trường mộng dâu biển đa đoan », cho nên trong bản kinh Trung Bộ,
đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta : »Cái này không phải là Ta, Cái này không
phải là Của Ta, không phải là Tự Ngã Của Ta ». Thành ra nếu mình chết thì
cũng đừng nói rằng mình chết mà hãy bảo : chính cái « địa thuỷ hoả phong »
và « Sắc Thọ Tưởng Hành Thức » chúng nó đang chết mà thôi. Bởi vì chấp
ngã cho nên chúng ta cảm thấy khổ.
`
Theo giáo lý Đại thừa thì ngay cả khi chúng ta đang sống chúng ta cũng
đã là KHÔNG rồi ! KHÔNG mà trở về KHÔNG thì đó là chúng ta đang trở
về SƠ NGUYÊN MỘNG. Bùi Giáng viết :
Tôi thấy người, mừng rỡ xiết bao,
Trời xanh ươm lá ở trên cao
Con chim nhảy nhót bên cành nhánh
Người nắm tay tôi rủ bước vào …
Bài thơ này hoàn toàn lập lại ý tưởng của nhà thơ Longfellow, một thi
hào của Hoa -Kỳ, sống vinh quang và thành đạt theo kiểu Mỹ chứ không phải
như Bùi Giáng. Nếu nói có một cái gì trường cửu bất biến chăng ? Thì chúng
ta phải nói đó là CÁI KHÔNG. Bởi vì tất cả những cái gì có hình tướng đều
phải bị hủy hoại, có trẻ có già, có sanh có diệt, có biến chuyển, nhưng Cái
Không thì chẳng bao giờ biến chuyển. Ví dụ như người ta thường hỏi thăm về
quê hương của mình. Những người xa quê nhà đã lâu, bây giờ mình gặp lại
một người đồng hương thì luôn luôn hỏi : Cây cối ở đó bây giờ ra sao ? Con
người ở đó bây giờ ra sao ? Nước non ở đó bây giờ ra sao ? Mọi sự mọi vật đã
thay đổi như thế nào? Chứ không ai hỏi : Cái ”hư không” ở quê hương mình
bây giờ ra sao rồi ? Mọi người đều không ai hỏi như vậy, bởi vì ai cũng biết
cái Hư Không thì chẳng bao giờ đổi thay. Vậy nên hoàn toàn biết chắc rằng,
cái Hư Không ấy vẫn luôn luôn còn mãi. Người là ai thế ? phải chăng đó là
bản lai diện mục của ta, là « hồn sơ nguyên mộng”, là cái ta bất khả huỷ diệt,
có trước tất cả đất trời, và vượt ngoài tất cả trần gian khổ luỵ, là nơi trú ẩn
vững chắc nhất,
“Ngươi chính là hải đảo của chính ngươi”.
(Kinh Pháp Cú)
`
… thấy được ngươi là thấy được cái bản lai diện mục của mình thì vạn
vật trở nên mới mẻ, trời thêm xanh, chim chóc cũng thêm vui mừng nhảy
nhót.
Người rủ ta bước vào thế giới của người, tức là thế giới của Không
Tịch, của Pháp giới tính bát ngát nguyên vẹn như rừng xanh :
Ngôi nhà người dựng giữa rừng xanh
Cửa gió bằng cây có nhánh cành,
Để khép sơ sơ và cũng dể
Mở mời anh chị bước vào nhanh …
Người, cái ta nguyên vẹn vô thuỷ vô chung, nó rất gấn ta mà ta không
hay, cũng như niết bàn vẫn ở khắp nơi mà ta không hề gặp. Rừng xanh ở đây,
tượng trưng cho cái Tâm hồn nhiên tươi sáng, của thuở tình chưa biến động
chưa đau khổ vì cuộc biển dâu, nó vừa ở trong gang tấc vừa cách xa mấy
trùng quan san, chỉ do nghiệp lực chúng ta nhìn thấy. Ta có thể bước vào
nhanh trong đó, nếu muốn. Rừng ấy vốn là quê hương của ta, nhưng vì mãi
theo đuổi những sắc màu huyền hoặc, ta trót lỡ quên mất đường về, đến nỗi
khi chợt về lại trong rừng, thì ta ngỡ mình đã đi lạc vào một nơi xa lạ :
Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng, lạc mất đường về, chợt bỗng dưng
sực nhớ rằng đây là rừng rú thẳm, là quê hương thân thiết biết bao chừng.
Cho nên con người chúng ta có một mâu thuẫn là lâu lâu chúng ta cũng
ưa đi ra biển, ngắm trời đất bao la, hoặc đứng trước một ngọn núi, cao vời vợi
có vẻ bí hiểm chúng ta cũng thấy thích – nhưng mà chỉ thích một chốc lát, rồi
chúng ta lại quay về, chứ không ai mà có thể ở mãi mãi được với cảnh thiên
nhiên- bởi vì gần gũi thiên nhiên cũng chính là gần gũi với chính mình, và
`
chúng ta bỗng dưng sợ hãi chính mình … Bởi vì sợ hãi chính mình, và căn do
này khiến chúng ta chạy xa chính mình và đến với đồng loại đến với bất cứ
cái gì để tránh xa hoặc trốn thoát việc đối mặt với chính mình. Mặc dù mỗi
khi chúng ta tới núi tới biển, chúng ta cũng cảm thấy thú vị. Nhưng cái thú vị
ấy không bao giờ kéo dài được lâu, và chúng ta cũng phải trở về cùng nhịp
sống hối hả bon chen của cuộc cạnh tranh sinh tồn khốc liệt này. Chỉ có
người đạo sỹ và thi sỹ mới có thể yêu thích thiên nhiên được lâu dài. Khi ta
chết, thì chúng ta buộc phải đối diện với ánh sáng nguyên thuỷ của Tâm ta, và
nếu chúng ta không quen độc cư thì chúng ta sẽ sợ hãi và theo sau đó là chúng
ta phải chui vào trong một bào thai nào đó để lẩn trốn cái ánh sáng vô lượng
quang minh, và do đây mà tạo ra cuộc lầm than của luân hồi sinh tử. Như vậy,
bài thơ của Bùi Giáng ý nói là : Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng, lạc mất
đường về …Mình ngỡ mình đi lạc, nhưng thật ra quê hương đó mình đã xa lâu
rồi, trở thành lạ hoắc với mình và mình trở thành sợ hãi. Ngôi rừng, cõi hoang
sơ bát ngát, chính là quê hương của ta, mà ta lại sợ hãi !Thì ra, từ vô lượng
kiếp sống ta đã bỏ quê hương Cái Không, để đi tìm những Cái Có chẳng ra gì,
những cái có đau khổ phù du. Đến khi gặp lại Cái Không, chúng ta lại tưởng
mình đi lạc, đâu ngờ rằng ta vốn đi lạc từ lâu, nay đúng lúc gặp lại đường về.
Do vì ”bội giác hiệp trần” tức là quay lưng với bản tánh giác ngộ và rong theo
cát bụi, mà chúng ta đã lấy giả làm thật. Đến nỗi khi gặp cái không bao la
“hồn sơ nguyên mộng” thì ta lại tỏ ra sợ hãi, chạy trốn. Đó phải chăng là
nguồn gốc mọi khổ đau của con người ? Nhất là đối với thi nhân, những
người có cảm thụ bén nhạy, tinh tế nhất, trước những sắc màu âm thanh, hình
ảnh giả dối của trần gian, vũ trụ …?
3.2.1.4 Hình thức ngôn ngữ truyện Kiều
Truyện Kiều luôn là nguồn thi hứng cho giới văn nhân kể từ khi nó ra đời
cho đến nay. Dân gian rất yêu quý Truyện Kiều, nên mới có hình thức vịnh
`
Kiều, tập Kiều, bói Kiều, thậm chí các bà mẹ cũng đã ru con bằng những câu
thơ Kiều. Nhưng có lẽ, chưa ai đến với Truyện Kiều như Bùi Giáng. Trong
khi các nhà thơ khác rất dè dặt và cẩn trọng, Bùi Giáng toàn tâm toàn ý đến
với thiên tuyệt bút này của Nguyễn Du. Chưa kể đến những giai thoại ông dạy
học, dạy Văn, dạy Truyện Kiều ở Sài Gòn, Bùi Giáng làm thơ lúc tỉnh táo hay
lúc rơi vào trạng thái hoang tưởng. Truyện Kiều lúc nào cũng hiện diện. Nó
như là nỗi ám ảnh khôn nguôi khôn dứt. Những chi tiết, sự kiện, nhân vật và
ngôn ngữ Truyện Kiều xuất hiện dày đặc trong thơ ông. Bùi Giáng đã từng
thay lời Kiều mà nói với Kim: Quê chàng trời lạnh Liêu Dương / Quê chàng
đất quạnh trrên đường chia phôi (Kỷ niệm - Chớp biển). Nếu không thấm sâu
cái tình của Kiều trong nỗi niềm ly biệt, khó lòng mà nhìn thấy con đường
chia biệt lứa đôi sao mà hiu hắt quạnh quẽ thê lương đến vậy. Bùi Giáng đã
từng dự cuộc trao duyên giữa Kiều và Vân, viết lại cảnh phiên toà Kiều báo
ân báo oán... Màu quan san, Tan sương đã thấy bóng người, Thưa hồng rậm
rục, Non đoài, Trong quân có lúc vui vầy, cũng thành một bài thơ hẳn hoi
(Những bài thơ này nằm trong tập thơ Sa mạc phát tiết). Riêng cái tứ Trăm
năm trong cõi người ta, được lặp đi lặp lại không dưới 50 lần. Các ngữ quen
thuộc của Truyện Kiều như: cậy em, chân trời góc bể, hoa cười ngọc thốt,
sông Tiền Đường, tử sinh liều giữa, thanh minh trong tiết tháng ba, lễ hội
Đạp Thanh, anh hoa phát tiết, cảo thơm lần mở... thường xuyên đi về trong
thơ Bùi Giáng. Hình thức tập Kiều của ông cũng đặc biệt. Ta thử đọc những
câu thơ này:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chin chục thiệt thòi đôi mươi
Chỉn ghê là thói ở đời
Biển dâu bù đắp khung trời cong cong
(Mọc giữa trời – Sa mạc phát tiết)
`
hoặc:
“Rừng phong thu đã nhuốm màu
Quan san” ngần ấy tư trào ngần kia...
Đêm đêm máu tia máu bốc tia
Bừng tuôn như thề canh khuya dịu dàng
(Thu - Chớp biển)
hay:
Hỏi tên? - Cổ lục phong trần
Hỏi quê? - Mộng tường tiền trình bơ vơ
Gọi tên? - Từ ấy đến giờ
sầu vui tường niệm chép tờ xé toang
(Hỏi và gọi - Chớp biển)
Quả thật, xét về mặt ngôn ngữ mà nói, ngôn ngữ Truyện Kiều đã thấm vào
thể phách thơ Bùi Giáng. Nó được chuyển hoá theo cái nết người của ông. Nó
không trang trọng như Tố Hữu đã từng Kính gửi cụ Nguyễn Du. Nó không
mang vẻ đẹp trí tuệ đậm chất triết lí, chính luận: Nỗi đau Anh trùng với nỗi
đau nhân loại / Mượn câu Kiều hóa thạch cuộc đời riêng của Chế Lan Viên.
Nó là một khối ngôn ngữ được vận động trong cảm thức hồn nhiên, tươi
nguyên cuộc sống của Bùi Giáng. Từ Nguyễn Du, Bùi Giáng trích tạo nên
một mô típ bạc mệnh hiện đại, mầu sắc siêu thực, tài tử và tài hoa, một chất
thơ giao thoa Nguyễn Du Bùi Giáng:
Lớp phiêu bồng mọc trăng ngàn
Thành xưa phố cũ muôn vàn phía sau
Ðạp thanh vẽ bóng lộn mầu
Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây
`
Ngõ ban sơ hạnh ngân đài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ mầu hoa trên ngàn
(Mầu hoa trên ngàn)
Nơi Bùi Giáng còn một mô típ bạc mệnh, cuồng khất, tổng hợp đoạn
trường, tồn sinh, ngông ngôn, rất liều và rất loạn, mà cũng là vọng âm của
niềm hoang mang tuyệt đối:
Hồng quần rất mực bước ra
Trường quần duệ địa phong hoa lá cồn
Phải rằng nắng quáng dập dồn?
Hay là đèn trút linh hồn oái oăm?
Phải là nguyệt giữa đêm rằm?
Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ?
Kể từ hằng thủy ban sơ?
Kể từ sơ thủy về tờ vẽ trang?
Kể từ thu tạ lên đàng?
Rừng phong thu đã quan san nhuộm mầu?
Phải rằng đó trước kia sau?
Hay là sau trước còn tao ngộ gì?
(Con đường ngả ba)
Ám ảnh đoạn trường, tư tưởng và ngôn ngữ Nguyễn Du theo đuổi Bùi
Giáng suốt đời. Những tập thơ mới nhất, in ở hải ngoại những năm gần đây
càng lộ rõ. Trong những cuốn Thơ Bùi Giáng, Bùi Giáng 94 (in tại California
năm 95), và một phần tập Chớp Biển, Bùi Giáng tìm về người thầy Nguyễn
Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một chữ
`
hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu
Kiều:
Rằng xưa ký ức đàn bà
Tên là phụ nữ, tuổi là dấn thân.
.....
Trước đèn một tập mở ra
.....
Biển dâu lục địa cõi miền
.....
Cảo thơm lần giở gió giăng dậy thì
Ám ảnh "mù sa", ám ảnh "chỉn e", ám ảnh "vân mòng", "mai sau", "trăm
năm", "ngẫu nhĩ", "phong tình", "cổ lục", "dặm về", "tử sinh"... trở thành lớp
da thứ nhì của Bùi Giáng:
Rừng phong thu đã nhuốm màu
Quan san ngần ấy tư trào ngần kia
.....
Chốn nào mộng mị chiêm bao
Chốn này tỉnh táo tiêu tao vân mòng
Từ cảnh sang tình, từ mơ sang thực, ám ảnh ngôn ngữ trở thành ám ảnh tư
tưởng. Bùi Giáng đã cạn dần hồn mình và sống hồn Nguyễn Du trong đoạn
cuối đời:
Em đi từ tỉnh mộng đầu
Một mình anh ở mang sầu trăm năm
Em từ vô tận xa xăm
Trùng lai chất vấn: Từ trăm năm nào?
`
Những câu hỏi mà Bùi Giáng trải suốt đời thơ, thắc mắc, tìm kiếm, đặt
nghi vấn về cõi đi, cõi ở, cõi có, cõi không, biết đâu hôm nay Bùi Giáng
chẳng đã tìm được Nguyễn Du ở một cõi trùng lai nào đó, và ông đang chất
vấn người thầy về nỗi đoạn trường ấy, từ trăm năm nào?
3.2.2 Các biện pháp nghệ thuật nổi bật
3.2.2.1 Ẩn dụ và tượng trưng hoá
Thơ Bùi Giáng là một dòng nước ngược, là một tâm thức đi ngược
chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử. Trong hàng vạn
trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng từ
Lịch Sử để chối bỏ:
Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch sử
( Lá hoa cồn)
Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xâuu duy nhất và tuyệt
đối mà ông gọi là Nguyên Xuân, là khởi thuỷ của nguồn sống, nguồn thơ, quê
của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo,
của Lời cố quận, Tiếng gọi về:
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên xuân
( Mưa nguồn, trang 25)
`
Tác phẩm và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thuỷ chung trước sau như một
với Màu hoa trên ngàn, ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy.Xuân là mạch
nguồn thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt:
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn
Mùa xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa nguồn và tái hiện
trong Lá hoa cồn,. về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm
cuối đời. Mưa nguồn là thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giángđựoc
in năm 1962, gồm có nhiều bài thơ làm từ năm 1948. Lời thơ trong sáng, tươi
thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phái trước miên trường phía sau
Đây là câu thơ nổi tiếng bậc nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể đữôc sử
dụng ở nhiều tần số khác nhau: buồn hay vui, u hoài hay đuàu cợt, ví dụ khi
bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ: Xin chào nhau giữa con đường, dù
không hiểu miên trường là gì.Và ý của tác giả có thể ngược lại, là mùa xuân
phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi
Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả nhất định và bằng hữu
đồng hương, chứ không phải một “hiện tượng văn học” như gần đây.
Có thể là thơ của tuổi xanh nên tập Mưa nguồn đã khởi đi từ nhiều hình
ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi:
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lây lất bởi đời xuân em ạ
`
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
( Những nhành mai, Mưa nguồn)
Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ
cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu
hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng thời ấy là hình ảnh mới lạ, trong thể
thơ truyền thống:
Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến
Ôi thiều quang! Làn nước cũ trôi mau
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mcọ
Xa biệt lắm mưa nguồn trên mái tóc
Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
( Giã từ Đà Lạt- Mưa nguồn)
Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới,
nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó. Ở Xuân
Diệu, Huy Cận, niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi
thiều quang! Làn nước cũ trôi mau . Trần gian phôi pha, thời gian huỷ diệt
nhưng nhà thơ chấp nhận quỳ luật, nên đã ghì siết hai tay Nàng Thơ đẹp nhất
của trần gian ứa lệ:Tôi đã nguyện yêu trần gian mãi mãi…Những bài thơ tin
yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ
sau, mà cũng ít người nhắc đến. Trở lại với giai đoạn Mưa nguồn, chàng
thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời goan,
ở Màu Xuân: Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt. Mùa xuân, mùa
`
xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh hình sắc. Trong niềm hoan lạc
của đát trời, con ngưởi an tâm vui hưởng, và tin ở sự tuần hoàn miên viễn,
như tin vào một cánh én:
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa.
Người ta thường nói: xuân về. Chữ về tin tưởng an lạc như Về Cố quận.
Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về ( Nguyễn Bính). Chữ về
gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy. Từ 1948, Bùi Giáng có câu sấm ký:
Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu. Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn,
có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong
mạch Vũ trụ ca của Huy Cận:
Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở về nhà
Mở sách chép rằng vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
( Áo xuân, 1942)
Mặt khác nó báo hiệu chủ đề “chết từ sơ ngộ” và màu hoa trên ngàn sơ
khai lúc đó đã là màu hoa cuối cùng:
Lỡ từ lạc bước bước ra
chết từ sơ ngộ màu hoa cuối cùng
( Mưa nguồn)
Bùi Giáng, rất sớm đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một
toạ độ, xác định bởi một không gian cố quận và một thời điểm nguyên xuân:
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
`
cỏ màu xuân bị giẫm nát không hay
chợt có lúc hau chân dừng một lượt
người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này
( Chỗ này, mưa nguồn)
Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong
thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn. Những trận mưa rừng núi là hiện
tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể
thời trai trẻ, khi chăn dê miền trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là
những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây
ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen. Lại thêm nghĩa bóng:
mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, “giáng”
xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời
chờ mong của Tản Đà: Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.
Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân
tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc.
Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc
đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi
Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược - ngày nay gọi là
Kinh Thượng - đã để lại câu ca dao:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn
Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam
của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca
dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu:
`
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than
Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị:
Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao.
(Chén Trà, Báo Thời Văn, tr.24)
Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.
Chữ Nguồn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự
nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là “nguyên”, là nguồn cội, là nguồn sống, là
Sơ Nguyên Ngọn Suối: con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh
Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc
suốt đêm bây giờ suối nín... (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr.75). Suối ở đây là
Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và
Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân
và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng
Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là “cái cửa khe huyền diệu” -
“huyền tẫn chi môn” theo lời Lão Tử. Chữ “tẫn” Ngô Tất Tố diễn dịch là khe,
mà có người cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là
một nghĩa.. Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện
nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên,
Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles)(2) có lẽ, về sau đã gợi ý
cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngõ và cửa:
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua
Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và
ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc
`
bước bước ra... và tác giả, hay độc giả có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục
bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác,
trên Báo Văn 1973:
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Hoặc:
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Như đã nói: toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ
duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác
tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác. Người đời thường trích dẫn mấy
câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp:
Hỏi tên ? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr.132)
Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đã khó hiểu hơn: một,
hai, ba nghĩa là gì? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu; hoặc ta
tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử: “Đạo sinh ra một, một
sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”; ý thức con người đong đưa
giữa cái nghi và cái diệu: không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu
thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và
`
Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới: đo cái liên tục và đếm cái gián
đoạn. Nhưng còn là, là gì? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì?
Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi. Hiểu thơ Bùi
Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn
giản. Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng
lời, vì:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr.25)
Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn
nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi - người chưa thành người :
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
3.2.2.2 Tạo "tân điển tích"(tạo ra điển tích kiểu mới)
Trong văn học Trung đại, điển tích và điển cố là hiện tượng phổ biến,
thậm chí là một phần không thể thiếu. Nó là một phương cách, một phương
tiện phổ dụng làm nên đặc trưng về mặt chất liệu của văn học Trung đại. Lối
dùng điển của văn học Trung đại là sử dụng lại những tích, những sự
kiện trong kho chất liệu chung mà con người và văn chương xa xưa đã có
được. Việc dùng điển trong tác phẩm còn được xem là bằng chứng về sự uyên
bác của người viết. Lối sử dụng điển tích ấy tưởng đã theo văn học trung đại
chìm hẳn vào quá khứ. Nhưng trong thơ Bùi Giáng, người ta lại thấy sự trở lại
của nó. Song, nó vừa giống xưa, vừa không hoàn toàn như xưa. Vì thế mới
gọi là "tân điển tích". Có thể nhận thấy, về mặt thời gian, Bùi Giáng dùng cả
của người xưa cả của đương thời ; về nguồn, Bùi Giáng sử dụng khá nhiều
nguồn kể cả của văn, sử, triết, tôn giáo, truyền thông..., trong đó Truyện Kiều
`
là một nguồn được Bùi Giáng sử dụng rất dày và đậm đặc ; về cách sử dụng,
Bùi Gíang dùng khá pha tạp, nghĩa là ông trộn lẫn xưa-nay, đông-tây, đời-
đạo, văn-sử- triết-tôn giáo... Bút pháp nghệ thuật đó khiến cho lời thơ Bùi
Giáng trở nên hỗn dung cổ-kim, trung đại hiện đại, rất độc đáo, mình ông là
một trường phái, chẳng giống ai. Những "dạ thưa", những "tồn sinh", những
"phố thị", những "cố quận", "đười ươi", đã trở thành những cốt cách, những
địa chỉ rất Bùi Giáng:
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
Ðã từ xa lắm thiên thần nhớ em
3.2.2.3 Lạ hoá ngôn từ
Nói đến phong cách Bùi Giáng, trên báo chí, từ trước đến nay, thỉnh
thoảng có người xem đó là một phong cách tắc tị hay quậy phá, bỡn cợt, rất
thiếu nghiêm túc. Hình như không phải. Theo tôi, ít có nhà thơ nào say mê và
trân trọng ngôn ngữ như Bùi Giáng. Ông có đùa nghịch với chữ nghĩa thì
cũng chỉ là một cách để trắc nghiệm quyền năng của ngôn ngữ: từ chữ này,
ông liên tưởng đến chữ khác; rồi từ chữ khác đó, ông lại liên tưởng đến những
chữ khác khác nữa. Chữ nghĩa cứ gọi nhau. Thành trùng trùng điệp điệp chữ.
Động một chữ mà bao nhiêu chữ khác cùng vang động. Tương tự kinh
nghiệm được Bùi Giáng mô tả trong cuốn Mùa thu trong thi ca:
“Ta ngồi dưới gốc cây sim, lắng tai nghe bò đương gặm cỏ, thong
dong đưa tay vói một cành, hái một trái ăn chơi. Và bỗng dưng? Bỗng dưng
nảy ra một sự tình kỳ lạ: bàn tay ta vừa chạm tới một trái sim riêng lẽ, thì
suốt dãy rừng, toàn thể ngàn sim lục bỗng chấn động lừng vang. Đó là một bí
quyết lạ lùng.”
`
Bùi Giáng để lại một sự nghiệp khá đồ sộ, với hơn năm mươi đầu sách
khác nhau, vừa thơ vừa văn xuôi. Văn xuôi của ông bao gồm ba thể loại
chính: dịch thuật, biên khảo về triết học và bình luận về văn học. Gây sôi
động trong dư luận và được nhiều người nhắc nhở nhiều nhất - cả khen lẫn
chê - là hai thể loại đầu, nhưng tôi thích Bùi Giáng ở thể loại sau hơn. Trong
thể loại sau đó, tôi đặc biệt thích những bài viết về thơ của Bùi Giáng, phần
lớn tập trung trong hai tập Đi vào cõi thơ và Thi ca tư tưởng, cũng như rải rác
trong nhiều cuốn sách khác, từ Mùa thu trong thi ca đến Ngày tháng ngao du,
v.v... Có thể nói, ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, Bùi Giáng là người viết
về thơ nhiều nhất và có một số bài có thể nói là hay. Hay, không phải ở những
sự đánh giá về từng nhà thơ hay từng bài thơ cụ thể. Ở phương diện này, Bùi
Giáng khá lạc hậu và dễ dãi: ông vẫn chưa thoát được mỹ học của Thơ Mới,
thời 1932-45, chủ yếu qua cách nhìn của Hoài Thanh, vốn đậm màu sắc lãng
mạn chủ nghĩa, trong cách cảm thụ và phân tích, do đó, những nhà thơ hoặc
những bài thơ được ông khen ngợi một cách nồng nhiệt thường không thực sự
hay, hoặc nếu hay, thì cũng là những cái hay cũ, của một thời đã xa. Đáng chú
ý hơn, trong những bài viết về thơ của Bùi Giáng, là những nhận xét về thơ
nói chung hoặc về từng chữ và từng câu thơ cụ thể, nhưng từ đó, thỉnh thoảng
ông làm sáng lên một số điều thuộc về bản chất của thơ. Chính ở khía cạnh
này, Bùi Giáng tỏ ra là một cây bút nhạy bén, có những ý kiến thú vị và bất
ngờ.Dù sao, Bùi Giáng chủ yếu cũng vẫn là một nhà thơ. Với tư cách là nhà
thơ, Bùi Giáng là một hiện tượng lạ lùng, nếu không nói là lạ lùng nhất trong
lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông
chứa đựng những nghịch lý không dễ gì có thể giải thích được. Ngay cái cách
làm thơ cực kỳ dễ dàng của ông cũng là một bí nhiệm, làm nhiều người, nhất
là giới cầm bút, không ngớt bàng hoàng. Với cách sáng tác ào ạt và trong điều
kiện hiếm khi đủ tỉnh táo để nhuận sắc thơ mình, Bùi Giáng ít khi, rất ít khi,
`
có được những bài thơ thực sự hoàn chỉnh. Thơ ông thường hay ở câu chứ
không phải ở bài. Và có một hiện tượng thú vị là những câu thơ được xem là
hay của Bùi Giáng thường được lặp lại khá nhiều lần, ở những bài thơ khác
nhau, có khi cách nhau đến cả hàng chục năm. Điều đó chứng tỏ Bùi Giáng
không những tâm đắc mà còn sống thường trực với những câu thơ ấy. Điều đó
cũng có nghĩa là ông rất tự giác về những câu thơ hay của mình, đồng thời
cũng chính là mặt mạnh của mình. Ông làm cả hàng ngàn bài thơ, thật ra, là
để ngắm nghía từ nhiều góc độ khác nhau sự huyền diệu của một số câu thơ
hay.
Thơ Bùi Giáng hay ở câu, ở một số câu. Nhưng ngay cả ở những câu
không hay, thậm chí, ở những câu hoàn toàn nhảm nhí, Bùi Giáng vẫn đóng
được dấu ấn của mình. Bùi Giáng là một trong vài nhà thơ hiếm hoi tạo được
một phong cách riêng ở đơn vị rất nhỏ trong thơ: từ. Có một cú pháp thơ của
Xuân Diệu, của Thanh Tâm Tuyền. Và có một từ vựng thơ của Bùi Giáng
(cũng như của Trần Dần). Cái gọi là từ vựng thơ riêng ấy không phải là những
từ do Bùi Giáng sáng chế ra mà là, chủ yếu là những từ được Bùi Giáng sử
dụng. Chúng là những từ ngữ thông thường, có khi đã cũ mèm trong thơ văn
cổ (như: thập thành, tháp tùng, ban sơ, phong nhuỵ, phiêu bồng, v.v...) hay có
khi còn lấm lem bụi bặm của đường phố (lai rai, cà chớn, số dzách, tùm lum,
nhe răng, chân đi chữ bát, v.v...), nhưng có điều oái oăm là, khi đi vào thơ
Bùi Giáng, dường như chúng trở thành vật sở hữu của Bùi Giáng. Nhưng thơ
Bùi Giáng không phải chỉ đặc sắc ở cấp độ chữ hay cấp độ câu. Ở Bùi Giáng
còn có một cái gì khác hơn thế nữa: thơ ông còn có một khí quyển riêng.
Chính cái khí quyển ấy làm cho, một là, từng chữ của Bùi Giáng đều mang
hơi hướm của ông; hai là, hoá giải những khác biệt trong phong cách của mỗi
chữ khiến cho những chữ Hán Việt cổ kính nằm cạnh những tiếng lóng rất
mới mà không hề thấy chỏi nhau; và ba là, làm cho mọi câu thơ, dù hay hay
`
dở, dù nghiêm trang hay nhả nhớt, đều mang phong cách của ông, không lẫn
với ai được. Nói đến phong cách Bùi Giáng, trên báo chí, từ trước đến nay,
thỉnh thoảng có người xem đó là một phong cách tắc tị hay quậy phá, bỡn cợt,
rất thiếu nghiêm túc. Và bí quyết lạ lùng ấy thể hiện trong nhiều bài thơ của
Bùi Giáng. Phần lớn những bài thơ có vẻ lảm nhảm hay tối tăm của Bùi
Giáng là những bài thơ trong đó ông đuổi bắt miên man những khả năng kết
hợp mới của một chữ hay lắng nghe những tiếng nói huyền bí của ngữ âm.
Bài “Ngẫu hứng” sau đây có thể được xem như một ví dụ thuộc loại tiêu biểu
nhất cho phong cách thơ ông:
Một hôm gầu guốc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Bôm ha? đạn hả? bao gồm
Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen
("Ngẫu hứng")
Đoạn thơ chỉ là một chuỗi liên hệ vô tận trong ngôn ngữ. Chữ "gầu
guốc" làm Bùi Giáng liên tưởng đến chữ "gầm ghì" và "gần gũi": tất cả đều
bắt đầu bằng phụ âm [g]. Chữ "một hôm" làm ông liên tưởng đến "hai hôm"
rồi "ba hôm"; chữ "ba hôm" làm ông liên tưởng đến cách nói lái "bôm ha";
trong "bôm ha", từ tố "bôm" khiến ông liên tưởng đến "đạn"; từ âm tố "gao",
ông liên tưởng đến "gạo"; từ "gạo đỏ", ông liên tưởng đến một điều không hề
có: "gạo đen", v.v... Thành ra, chữ "một hôm" mở đầu đoạn thơ trên không
phải chỉ là ý niệm về một đơn vị thời gian mà còn bao hàm ý niệm về sự tranh
chấp ("gầu guốc gầm ghì"), về súng đạn (và từ đó, chết chóc), là cơm gạo (và
phía sau của nó, sự cùng cực, khốn quẫn), cuối cùng, là may rủi trong sự
thành, bại và cả trong sự sống, chết. Xin mở một dấu ngoặc: bài thơ này được
Bùi Giáng sáng tác trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam đang hồi khốc liệt.
`
Thời ấy, với rất nhiều người, thời gian được đo lường bằng khả năng chịu
đựng những đe doạ từ chiến tranh và từ sinh kế, tuỳ thuộc vào những sự đỏ
đen của số mệnh. Tuy nhiên, nếu ngôn ngữ chỉ là một chuỗi những liên hệ bất
tận như vậy thì, như các nhà hậu cấu trúc luận sau này đã chỉ rõ, ngôn ngữ
không còn khả năng quy chiếu về hiện thực và do đó, cũng không còn khả
năng phát hiện chân lý được nữa. Bùi Giáng hoàn toàn hiểu điều đó. Trong
bài "Phố phường cỏ mọc" in trong tập Mùa thu trong thi ca, ông mỉa mai:
"người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật." Ai
tưởng thì cứ tưởng, riêng ông, ông rất bi quan:
Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
Mỹ Thọ muôn đời là Lục Tỉnh hôm nay
Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
Gọi người sương phụ gái thơ ngây.
(Lẫn lộn lung tung)
Nên lưu ý là những cách đổi tên gọi như vậy xuất hiện không phải một
lần trong thơ Bùi Giáng. Trong bài "Trường giang lục tỉnh", ông lại viết:
Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở
Cần Thở muôn đời là Gió Việt đêm nay
...
Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng
Dượng dì ơi thương nhớ cháu nhiều không...
Hoài nghi khả năng "tái hiện hiện thực" của ngôn ngữ, có khi Bùi
Giáng bỏ cuộc chơi trong lãnh vực ngữ nghĩa để đuổi bắt một trò chơi ở lãnh
vực ngữ âm, với nhịp điệu trầm bổng của các thanh, các âm. Đó là những lúc
`
Bùi Giáng làm những câu thơ toàn bằng chữ Hán hoặc những câu thơ hoàn
toàn vô nghĩa, trong đó, chỉ có những tiếng động lanh canh lách cách của các
âm, các vần, các thanh điệu va chạm vào nhau mà thôi. Có thể nói Bùi Giáng
làm thơ như một người chơi cờ không nhắm tới mục đích chiếu tướng mà
nhắm tới việc khám phá khả năng biến chuyển vô tận của các nước cờ. Bùi
Giáng là người làm thơ thuộc loại hồn nhiên nhất trong thơ Việt Nam. Ông là
kẻ làm thơ, trước hết, với chữ. Nhưng khi các từ ngữ chỉ, hay chủ yếu chỉ,
liên hệ với các từ ngữ khác thì quan hệ giữa các từ ngữ ấy và hiện thực được
chúng ám chỉ trở thành hàm hồ và xa xôi hẳn như cái điều các nhà hậu cấu
trúc luận đã từng phân tích. Bùi Giáng, từ rất sớm, đã nhận ra điều đó. Bùi
Giáng đã cảm nhận sâu sắc hơn ai hết sự bất lực của ngôn ngữ. Không phải là
sự bất lực của người sử dụng ngôn ngữ mà là sự bất lực của chính ngôn ngữ.
Thơ Bùi Giáng có khi là thơ về sự bất lực của ngôn ngữ. Do đó, một mặt,
người ta có thể nói Bùi Giáng là nhà thơ hồn nhiên, nhưng mặt khác, người ta
cũng có thể nói Bùi Giáng là một nhà thơ bi quan nhất trong lịch sử văn học
Việt Nam, người đi đến tận cùng sự tuyệt vọng đối với cái gọi là chức năng
phản ánh hay tái hiện hiện thực và từ đó, chức năng truyền thông và giao cảm
của ngôn ngữ. Với các nhà thơ khác, ngôn ngữ là một thứ chất liệu. Với Bùi
Giáng, ngôn ngữ không phải chỉ là một chất liệu mà còn là một đề tài, một
cảm hứng. Bùi Giáng làm thơ không phải bằng ngôn ngữ, với ngôn ngữ mà
còn về ngôn ngữ. Cái bi kịch của Bùi Giáng là ở chỗ: là người cầm bút, ông
chỉ có một thứ vũ khí duy nhất phải sử dụng, đó là ngôn ngữ, một thứ vũ khí
ông rất yêu, nhưng đồng thời, tự thâm tâm, khác hẳn các nhà thơ khác, ông
không ngớt hoang mang hoài nghi về hiệu năng của nó.
Sự đùa bỡn với ngôn ngữ thi ca bằng cách sử dụng kiểu nói lái tinh
quái của quê hương ông nhiều khi thô thiển một cách cụ thể chứ không bóng
bẩy kiểu Hồ Xuân Hương. Người đọc rất hay bắt gặp trong sách ông những
`
cụm từ như “tồn lưu, tồn liên, liên tồn, lưu tồn, tồn ;lí tí ngọ, tồn lập tập trung,
tồn lập tập hợp…để đuà nghcịh với triết học, nghịch với thi ca, nghịch với
cuộc đời và nghịch ngay với chính bản thân ông:
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
( Mưa nguồn)
Trong văn học Việt Nam, hình như chưa có ai đi đến tận cùng chủ
nghĩa hư vô như Bùi Giáng. Ở khía cạnh này, có thể nói Bùi Giáng là nhà thơ
tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc mọi niềm tin đều bị sụp
đổ.Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ lãng mạn 1930 – 1945 (
Ly Tao I, Ly Tao III, Màu trời đó…) Cảm hứng chính của thơ Bùi Giáng là
cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền ( Chào Nguyên Xuân, Cỏ hoa hồn du
mục, Dư vang…)Bùi Giáng có phong cách ngôn ngữ riêng, người ta có thể nói
đến kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng. Ông sử dụng rất nhiều từ Hán Việt bên cạnh từ
thuần Việt, đó là vốn từ Hán Việt của nhà Phật và của văn chương cổ điển,
đồng thời ông tạo nên những từ lạ so với vốn từ đã quen dùng. Nhiều bài, từ
Hán Việt dày đặc đến nỗi trở nên rất khó đọc với độc giả bình thường:
Em từ non nước Viễn Khơi
Trùng lai Cố Quận chịu chơi một lần
( Em Từ)
Thiệt thòi đời mộng phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát ;ầm
Giấc quày quả lạnh trâm anh
`
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi
( Mùa phượng cũ)
Điều này giải thích tại sao thơ Bùi Giáng khó hiểu. Bùi Giáng cố ý
dùng nhiều từ Hán Việt trong một cấu trúc ngữ pháp đã bị xáo trộn so với cấu
trúc bình thường để tạo nên “mật ngữ” của riêng ông. Có điều lạ là tuy có
nhiều từ Hán Việt nhưng thơ ông không hề cổ điển, có lẽ vì ông khai thác thi
tứ, đề tài, chất liệu và tạo ra trường nghĩa mới so với thơ cổ điển chăng. Cách
dùng chữ Hán Việt của Bùi Giáng rất khác Nguyễn Du. Nguyễn Du đặt từ
Hán Việt bên cạnh những từ Thuần Việt sao cho người đọc dù không biết chữ
Hán vẫn có thể cảm hiểu được thơ.
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Thiên hương quốc sắc lạ thay
Một toà sẵn đúc dày dày thiên nhiên
Khiến đời tứ đảo tam đuên
Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng
( Gà gáy sáng- Bùi Giáng)
Với Bùi Giáng, làm thơ như một trò nghịch ngợm chữ nghĩa của một
con người tài hoa. Trong đoạn thơ trên rõ ràng có một bàn tay nghịch ngợm
rất mực tài hoa của Bùi Giáng, xáo trộm nghịch ngợm triệt để những từ Hán
Việt, chữ nghĩa trở nên xa lạ không sao hiểu được. Mật ngữ của Bùi Giáng là
`
ở đó. Phong cách thơ Bùi Giáng trước hết thể hiện ở trò chơi ngôn ngữ thách
đố người đọc như trong trò chơi ú tim. Bùi Giáng có khả năng biến hoá ngôn
ngữ một cách tài hoa. Tôi không nghĩ đó là thi pháp, mà chỉ là sự tài hoa của
ngòi bút, của cá tính sáng tạo. Thi pháp thơ Bùi Giáng nằm torng thi pháp thơ
cổ điển và thơ lãng mạn.
“Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi”
Ầm trang sử lịch. Hình như đây là chữ dùng đặc biệt của Bùi Giáng.
Trước ông, hình như chưa có ai dùng từ sử lịch. Và kể từ Bùi Giáng, mỗi khi
viết về ông, hoặc mỗi khi viết theo thể điệu của ông, ngưòi ta thường dùng từ
này để nói lên cái tính lịch sử của đời sống, của con người, của một cuộc lữ,
hay của một vòng quay, một vòng vận động. Có thể nhiều người trong chúng
ta thấy từ ấy lạ, đầy nét Bùi Giáng, và đã tưởng người thi sĩ “cho nét chữ lên
đàng quẩn quanh”. Và chúng ta cũng cho nét chữ của mình quanh quẩn lên
đàng đuổi theo nét chữ của người. Điều đó cũng là hợp lý khi đi tìm hay nói
về phong cách của nhà thơ. Có lẽ ít người biết rằng dù có một phong cách từ
độc đáo, trong việc dùng từ “sử lịch” này, Bùi Giáng có quan niệm rõ ràng
của ông. Ông sáng tạo từ “sử lịch” để diễn tả một khái niệm triết lý. Sử lịch là
lịch sử nhuốm đẫm màu thời gian phôi pha thiên cổ. Tôi nhớ trong tập Mưa
nguồn, Bùi Giáng có viết:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
`
Từ láy trong ngôn ngữ Việt chứa một nội hàm đặc biệt. nó như cái tạng
của con người Việt Nam vậy, cứ ngỡ là bông lơn nhưng thật ra rất tinh tế và
sâu sắc. nó có khả năng diễn tả đến tận cùng những uẩn khúc của tâm trạng
con người. Từ láy qua lời ăn tiếng nói của người bình dân trong thơ ca dân
gian là một minh chứng điển hình. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế
Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Tuân… là các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng về
vận dụng từ láy trong sáng tạo nghệ thuật. chúng ta khó có thể quên lửa lựu
lập lòe, quyên gọi hè quang quác quác, gà gáy tẻ tè te, vừng quế đỏ lòm lom,
chí cha chí chat khua giày dép, tiếng ca nông đì đòanh chấm câu cho nhữung
vần thơ yêu nước… Bùi Giáng cũng rất giỏi sử dụng từ láy. Trong thơ ông có
đủ cả các dạng thức của từ láy, láy tiếng láy, thanh, láy âm vần, láy phụ âm
đầu… tôi xin được ghi ra đây những dạng từ láy mang giọng điệu của riêng
Bùi Giáng:
Em bước tới em là con gái Việt
Em bước về là Lục Tỉnh phanh phơi
(Con mắt mở ra-Ngàn thu rớt hột)
Người đã hỏi hấp hô trong hơi thở
Đã điêu tàn sao vọng mãi dư vang
(Hòang hôn vẽ bong-Mưa nguồn hòa âm)
Thấy em như thấy mặt trời
Lung linh dưới nguyệt rạng ngời rêu rong
(Thấy em-Đêm ngắm trăng)
Tuổi mười sáu bây giừo lên gấp gảy
Mộng miên man là mây phủ lưng đèo
`
(Những nhành mai-Mưa nguồn)
Đường về đó dựng mình xuân bên lá
Buổi mai nào từ ly biệt bẻ bai
(Trở lại-Mưa nguồn)
Màu trời đó để ngàn sương hớt hải
Xuống li ti là dựng vội con đường
Tơ vàng óng là đà đua đẩy nhẹ
Nắng hây hẩy là hồng lên he hé
Chảy vi vu là giọt nhẹ xuống vai
(Tuổi trẻ-Mưa nguồn)
Mùa sau thu xế
Hang rừng gió thổi giòng khe
Em về dây để
Rạc rời tiếng cũ còn nghe
(Gái buồn-Mưa nguồn)
Rời rã em đi để một mình
Ta nhìn trăng lại xuống bên hiên
Chân bước bây giờ ta rất sợ
Tiếng vọng bao giừo em nín thinh
(Tàn nhẫn-Mưa nguồn)
Lạc về đầu rú khe truông
Vốc năm ngón nhỏ gieo buồn rã riêng
`
(Phượng-Mưa nguồn)
Lục Tỉnh phanh phơi, hơi thở hấp hô, rạng ngời rong rêu, gấy gảy tuổi
mười sáu, mộng miên man, ly bịet bẻ bai, ngàn sương hớt hải, nắng hây hẩy,
hồng he hé, chảy viv u, nghe tiếng xưa rạc rời, em đi ta rời rã nhìn trăng,
buồn rã riêng..., đó là những từ láy có chức năng bổ nghĩa mang dấu ấn nghệ
thuật của Bùi Giáng. Hai chữ phanh phơi đã cực tả tấm lòng rộng mở của Lục
Tỉnh. Phải thẩm thấu đến tận cùng nỗi lòng người, mới nghe được hơi thở hấp
hô. Tình yêu đối với em thật mãnh liệt, nhưng tình yêu ấy đã có tự lâu rồi, lâu
lắm, rất lâu, đủ lâu để thời gian phủ lớp rêu phong. Giờ đây, ta thấy em và mở
lớp rêu rong rạng ngời. hai tiếng gấp gảy, miên man khiến ta hình dung tuổi
mười sáu thật đầy đặn. ly bịet ta nghe cũng đã nheìeu, nhưng ly biệt bẻ bai, có
lẽ chỉ có ở Bùi Giáng. Nỗi buồn ly biệt đâu chỉ có vị mặn của nước mắt, nhà
thơ đã thêm vào đó vị chát đắng của lòng mình. Sương, ta thấy cũng đã nhiều.
Màu trời sương, thỉnh thỏang ta cũng bắt gặp ở đâu đó. Nhưng, ngàn sương li
ti hớt hải vội dựng con đường, đường sương là cách nói riêng của Bùi Giáng.
Những từ láy hây hẩy, he hé, vi vu đã là cho sắc hồng của nắng, nhà thơ gọi
đó là sợi tơ vàng óng của trời, căng tràn nhựa sống như tình yêu tuổi trẻ. Miêu
tả nỗi sầu muộn tái tê của lòng người, nhữung rạc rời, rời rã, ta nghe đã thấm,
nhưung rã riêng buồn thì nỗi buồn ấy đã thấm vào xương tủy mất rồi! Đọc thơ
Bùi Giáng, cái rã riêng ấy đâu chỉ vài lần: Máu trong mình mòn ruỗng /
Xương trong mình rã riêng ( Bờ lúa), Bước chân giẫm sỏi trên đồi / Những
thân đau khổ nhữung đời rã riêng (Tặng bạn)…
Láy phụ âm đầu là một hiện tượng khác, không thể không nhắc đến trong
cách sử dụng từ láy của nàh thơ: Dập dìu cành lá lắc qua / Lung lay lai láng lân
la lội làn (Nàng tiên) hoặc: Về sau tôi cứ lầm lì / Hoặc hò hét hoặc hoắc huy
hiêu hùng (Cái gì là nàng tiên). Hiện tượng này không mang tính nghẹ thuật,
`
nhưng trong nhữung năm 70 của thế kỷ XX, đã thấy vài người làm thơ ở Sài
Gòn cố gắng bắt chước, làm thơ theo cách láy âm đầu này.
Xin ghi ra đây một đọan thơ trích trong Nhan sắc hôm nay, Bùi Giáng
dùng từ láy rất độc đáo, để khép lại tiêu mục này:
Bờ thánh thót động giòng em đi đến
Làn lênh lang lau lách lại luân lưu
Hoa cỏ phanh phơi đón đợi dê cừu
Tung bốn vó nhịp nhàng về nhảy cởn
Cho quay tít sắc bên màu ngả ngớn
Cho quanh co giòng khe nước tăn teo
Cho ngổn ngang gò bến đống cheo leo
Cho uốn éo đường thu thêm thiên thẹo
Một trong những chữ dùng độc đáo nữa của Bùi Giáng là chữ “hột”.
Bùi Giáng không dùng từ hạt, mà là hột. Nó là phương ngữ, từ của người
phương Nam. Hột của nhà thơ cũng lắm thú vị: hột đầm sương là chốc chốc
mơ màng, hột tròn quá khứ ruổi rong, màu hoa rớt hột phù du trên ngàn, ngàn
thu rớt hột chôn vùi tình nhau, tàn thu rớt hột trăm năm, ngàn thu rớt hột lũy
hào tan hòang, ngànt hu rớt hột trang liều lĩnh hoa, mắt người chìm hột sao
khuya, miệng người bỏ hột bên rìa mép hoang… Từ một từ vựng mang một
nghĩa cụ thể, nàh thơ đã nâng lên thành nghĩa biểu tượng với nhiều màu sắc
khác nhau. Không còn là hạt của hoa quả ngũ cốc, hạt nước, hạt sương… mà
là cái cốt lõi bền vững của tâm can con người. Nó bền bỉ hiện diện để chứung
kiến cuộc bể dâu của thời đại, của lòng người đa đoan. Và, kể từ nay, tiếng
Việt ta đã có thêm một từ hột theo kiểu của Bùi Giáng. Tiếp theo là ngẫu nhĩ.
Ngẫu đắc, ngẫu nhiên thăng hoa trong ngẫu hứng nghệ thuật trở thành ngẫu
`
nhĩ của Bùi Giáng: về đây ngẫu nhĩ mông lung, em từ ngẫu nhĩ đa mang, nơi
ấy một lần ngẫu nhĩ, một hôm ngẫu nhĩ thấy người đi giữa phố hoa, giờ ngẫu
nhĩ như hồng bay em ạ, giờ khép mắt nhớ một lần ngẫu nhĩ, em từ vạn thuở
long đong – gặp anh ngẫu nhĩ thuận tòng chịu chơi… Lúc trong cõi nhớ đầy
cảm xúc, lúc trong dòng hồi tưởng mông lung, lúc trong nỗi hoan hỷ, lúc suy
tư triết lý…, ngẫu nhĩ của nhà thơ đặt con người luôn luôn ở trạng thái tương
giao. Con người không thể và không bao giờ bị tách khỏi cuộc sống. Hơn nữa,
ngẫu nhĩ còn là tùy thuận, tùy duyên của nhà Phật, là cái ngẫu nhiên và tất
nhiên trong triết lý của tư duy biện chứng. Vậy thì, ngẫu nhĩ rất đáng được đặt
trong kho lưu trữ ngôn ngữ dân tộc.
Và cuối cùng là ngôn ngữ của cái đẹp:
Ta đã nhặt nhành mai kia của đá
Và đã trao cho nham thạch phiêu bồng
…
Về tuế nguyệt bước ngao du tận tụy
Người có nghe tang hải réo vô thường
(Hoàng hôn vẽ bóng-Mưa nguồn)
Mai sau hẹn với ban đầu
Chờ nhau ngõ khác ngó màu nguyên xuân
(Hẹn ước-Mưa nguồn)
Mở mắt bên người tôi chẳng biết
Màu sau lá có rộng bên mình
Bùi Giáng có rất nhiều dạng thức ngôn ngữ dẫn ta đến cái đẹp trong
cảm xúc nghệ thuật văn chương như thế. Đó là kiểu ngôn ngữ được cách điệu,
`
là những bước chân trong vũ điệu lạ thường mà giai điệu của nó thóat ra từ
nhịp tim của một nhà thơ biết yêu và trân trọng những giá trị của cuộc sống.
Có người gọi đó là những xoang điệu hào hoa, vũ điệu balet… tôi lại muốn
đặt nó một tên gọi khác: ngôn ngữ của cảm xúc thẩm mỹ bay bổng, tuyệt vời.
Phong cách Bùi Giáng toát ra từ thế giới nghệ thuật của cả bài thơ. Thơ Bùi
Giáng là một thế giới riêng, thế giới thơ cổ điển của hôm nay. Thế giới của
nghệ thuật kết hợp với tư tưởng, của tâm thức hiển hiện trong ý thức, của câu
chữ thật nói lời vô ngôn, của sự trộn lẫn tài hoa và bi thương, của thực tướng
và hư huyễn. Tiếng Việt trở nên sang trọng và phong phú vô cùng, câu thơ
trùng trùng nghĩa, chữ gợi chữ chữ thai nghén nghĩa mới, nghĩa gọi tâm, tâm
lay động thái hứ, vang vọng mãi vào vô biên. Bùi Giáng có nhiều bài thơ hay,
không chỉ câu thơ hay.
“Dù sao chăng nữa, Bùi Giáng tạo ra được một mẫu ngông thời đại,
sáng tạo một kiểu say sưa chán đời của thế kỷ XX, khác vớ Nguyễn Khuyến
trong thế kỷ XIX và Tản Đà đầu thế kỷ XX”. Đó là kết luận của Tự điển văn
học.
3.3 GIỌNG ĐIỆU
3.3.1 Gi ọng đối thoại
Khi Bùi Giáng làm thơ, ông thường hay “gửi” đến một ai đó. Vì thế
mỗi bài thơ dường như là một cuộc trò chuyện vô hình giữa người gửi và
người nhận. Với ông, làm thơ, bình thơ là một cuộc đối thoại. Đối thoại với
trời đất thiên nhiên hoa cỏ bốn mùa, đối thoại với người kim cổ Đông Tây,
đối thoại với chính bản thân mình. Trong những vần thơ của ông, không ít lần
Bùi Giáng đối với chính mình
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
`
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.
( Ngày tháng ngao du)
Đó là một cuộc đối thoại không theo lệ thông thường : Người thi sĩ xuất
chúng xuất thần thường có phong thái khác thường. Họ nói rất ít mà nói rất
nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hỗ như chẳng thẩy gì hết. Họ nói cho
họ mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hội chẳng bận
tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe. (Bài viết bình thơ Tuệ sĩ –
Đi vào cõi thơ).
Cuộc đối thoại đó, không phải lúc nào cũng thành công.
Sầu như si độn thập dư niên
Liễu nhập tàn hồng cộng nhứt thiên
Di mạn tằng du văn khiệp ý
Hàn thiền hý lộng lục thương thiên
- Cô phì cười ?
- Vâng cháu phì cười.
- Phì cười chuyện chi ?
- Bác làm thơ như thế thì có trời mà hiểu. Có quỷ ma mà hiểu.
- Nhưng tôi xin tặng cô…
- Tặng cháu để làm gì. Khổ cho cháu đã đành mà còn khổ luôn cho bác
nữa.
- Sao gọi là khổ cho bác ? Sao gọi là khổ cho cháu đã đành ?
`
- Khổ cho cháu đã đành có nghĩa là : người ta tặng cho mình cái gì mình
chẳng hiểu đâu vào đâu cả, có phải là khổ không ? Sự tình thật dễ hiểu.
Còn khổ luôn cho bác ? Ấy có nghĩa là : đem tặng cho người ta một cái
gì mà người ta không hiểu, người ta bực bội, người ta khổ, thì mình
cũng khổ theo. Sự tình cũng thật dễ hiểu.
- Té ra là thế.
(Ngày si độn – Ngày tháng ngao du)
Hoặc, thi nhân trong cuộc đối thoại với thiên nhiên vạn vật không
thành, là bởi : Nếu có gì khiếm khuyết, thiếu sót đáng tiếc, thì ấy là ở tại nơi
ta, chớ không phải ở tại nơi rừng biển. Lòng ta không đủ rộng để đón nhận
núi rừng (Ngày tháng ngao du). Và, đó là những cuộc đối thoại dữ dội nhất :
Kẻ nào say mê "Đoạn trường tân thanh" của ông Nguyễn Du, kẻ đó khó mà
trường thọ (Sở dĩ nhiên – Ngày tháng ngao du). Thơ Bùi Giáng còn là một
cuộc đàm thoại miệt mài, vơi những câu hỏi liên tục và những câu trả lời
không rõ rệt, vì mong lung và phổ quát, như trong bài "Tặng Mã Giám Sinh"
(Bùi Giáng.193):
"Hỏi tên rằng biển xanh dâu
"Hỏi quê ? rằng mộng ban đầu đã xa
"Gọi tên ? rằng một hai ba
"đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
Cuộc vấn hỏi này, dù xuất xứ từ ai, cũng chỉ mang lại một hồi âm mơ
hồ và bất tận, liên can tới một hiện tượng biến đổi liên tục. Dù vĩ đại và
trường kỳ đến mấy, sự biến đổi đó chỉ hiện hữu trong ý thức và tâm thức của
thi nhân về một nhân sinh quan và vũ trụ quan luôn luôn khác biệt và khiếm
khuyết. Trước hết, sự biến cách hay "sái diện" (BG.5) của cái "ta" nơi Bùi
Giáng theo diễn tiến một sự kết cấu qua thể hủy tạo hay phá thể
`
(déconstruction-défiguration) đa diện và đa trạng. Đó là một trào lực có
khuynh hướng vừa ly tâm, vừa hướng tâm, nhằm phá vượt hai chiều những
biên giới bản thể, để chủ thể trở thành khách thể, cái "ta" trở thành "không-
ta", thành "mình", thành "em", hoặc ngược lại, trong một thế tách-nối vô định
và bao quát liên hệ tới nhân thể, như trong câu:
Nhìn em như thể nhìn người ...
Nhìn người như thể nhìn ta
Tự mình nâng cốc rót ra rót vào
(Bùi Giáng, 1995)
hoặc:
Nhớ quên người nhớ quên người
Tầm sương sái diện ai người ai ta
(Bùi Giáng.1995).
Đặc biệt là hiện tương người "láng giềng": đó là vị thế của một thứ tha
nhân, vừa xa lạ, vừa gần gũi, ở bên kia hàng rào, nhưng lại bên cạnh vách
tường, từng sống giáp ranh như những mảnh "ta" chia cách, nhưng vẫn còn
luyến tiếc tâm giao:
Láng giềng tâm sự là ta với mình
Trong quan niện tách-nối này, thi nhân có lúc cảm thấy bớt lẻ loi, đỡ cô
đơn, vì có khả năng "khuếch xung" thành những thân phận khác. Nhờ đó, thi
nhân thẩm thấu được những cảnh huống đa thể, đôi khi như mâu thuẫn với
chính mình: sống hộ người khác; sống qua người khác; hoặc sống-bên-cạnh
và lạc lõng ngay chính bản thân mình. Cũng như sống và không sống, đôi khi
chi là một cảm giác, một quan niệm hai bề. Đó là viễn tượng "trùng khơi" qua
những bản thể và trạng huống tư duy khác nhau thành những trào lực dây
`
chuyền tiếp nối. Ngay với tại bản thể, sự "sái diện" của cái "ta" cũng là một
hiện tượng "điệp trùng" nhân cách, được thể hiện qua tâm thức và ấn tượng đa
diện từ chính bản thân mình. Cái "ta" đó luôn luôn là môi trường xung đột
hoặc gặp gỡ của những tâm trạng tỉnh và say, điên cuồng và sáng suốt, vui và
buồn, lẫn lộn. Đôi khi tình, tỉnh và điên cũng có thể tiếp ứng nhau một cách
kỳ diệu để trở thành thứ "tình điên...chơi vơi" so với "tình không điên" cũng
đầy hỗn mang -- tĩnh và loạn cùng một nơi, và có thể cùng một lúc. Đảo điên
đôi khi lại tách biến thành "cuồng mộng" , thành "niềm vui vô hạn" và "niềm
đau vô lượng" (trong một thể luân phiên hư hư thực thực: "Vui quá giả bộ
buồn". Sự sái diện của cái ta đảo điên đôi khi còn đi song song với hiện tượng
"khuếch xung" và phản "khuếch xung", qua những giai đoạn so sánh hay ám
chỉ dí dỏm như sau:
Điên cuồng mà tưởng nên thơ
Cuồng điên mà tưởng làm thơ như thần
Phải chăng đây là những lời tự mỉa mai (phản khuếch xung), hay tự
tâng bốc (khuếch xung), nói thế nào cùng đúng, và cũng có thể sai, vì làm sao
biết được thi nhân điên hay không điên, thơ hay thẩn, thần hay ngợm ? Sự
"sái diện", "điệp trùng" và "khuếch xung" của cái "ta" trong thơ Bùi Giáng,
không những chỉ có tính cách thuần nhân, liên hệ tới ta và không-ta, mà còn
thẩm thấu xuyên qua các giới sinh vật, qua thiên nhiên, trong một vòng "trùng
sinh thái thậm". Có lúc thi nhân muốn truy dụng cái phong độ của "tuổi cọp"
mình để đủ bản lãnh "giữ mộng đười ươi". hoặc theo "ngựa về núi đá đầu
thai" . Cũng có lúc thi nhân như có thể thu kết được cả vũ trụ, thấy "mưa gió
trong thân", hoặc nghe "mùa Sự "sái diện", "điệp trùng" và "khuếch xung" từ
nhân sinh quan tới vũ trụ quan luôn luôn ám ảnh Bùi Giáng đến nỗi thi nhân
đã phải thốt lên:
`
Từ đó về sau Trẫm đau đớn thiết tha
Và không còn biết mình là cái gì nữa cả
Nhưng sự tách-biến hoặc phá thể siêu hình này không hoàn toàn đưa
đến sự khước từ nhân cách hoặc tự hủy trong tư tưởng, mà lại có ích dụng
hoặc chức năng làm rẫy và mở đường phóng toả, nhằm truy dụng những "ngõ
ban sơ", như thể tìm kiếm "dấu" tích của một nguồn gốc xa xưa; như để tìm
lại huyền sử trong "trang phai cỏ". Nguồn gốc của bản thể trong ta và ngoài ta
được Bùi Giáng gọi chung là quê quán của "mộng ban đầu đã xa", là "cố
quận" vừa thực thể dưới hình thức tương tự của "phố cũ", hoặc "viễn phố",
vừa trừu tượng như quan niệm "nguyên thủy của không gian và thời gian vô
tận, của những "nghìn xa vắng “ còn phảng phất mơ hồ trong tiềm thức nhân
loại.
3.3.2 Giọng bông đùa
Thơ Bùi Giáng, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, đã tinh
nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý
nghĩa cuộc đời, về lẽ tồn sinh, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất một
dục tình khép mở Xuân Hương:
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
hoặc:
Bỏ hai chân xuống một vùng
Nước truông là lá thu rừng xuống khe.
(Bỏ hai chân)
`
Thơ Bùi Giáng tự nhiên và mang phong vị hài hước, hóm hỉnh.
Triết lý trong cuộc chơi và kiếm tìm ngôn từ của Bùi tiên sinh cuối cùng chỉ
còn lại mấy chữ "vui thôi mà!" cứ ngỡ rằng ai hiểu thế nào cũng được.
`
KẾT LUẬN
Bùi Giáng là một hiện tượng độc đáo trên thi đàn văn học dân tộc, cụ
thể ở địa phận miền Nam vùng bị giặc tạm chiếm, vào nửa cuối thế kỷ XX.
Xác định vị trí của tác giả phải đặt họ vào trong thời đại mà họ sống, xét
những đóng góp tích cực của họ đối với nền văn học nước nhà. Luận văn
không có tham vọng xây tòa nhà to lớn cho thơ Bùi Giáng, nhưng quả thật,
nhà thơ rất xứng đáng có một chỗ đứng vững chắc trong lòng người yêu thơ.
Thơ ông, lời khen tiếng chê đều có đủ. Để cảm nhận chính xác hồn thơ Bùi
Giáng, bạn đọc cần phải gạn đục khơi trong, khách quan và khoa học trong
đánh giá và nhận định về con người cũng như văn nghiệp Bùi Giáng. Thật
khó để có một Bùi Giáng chung cho tất cả mọi người, tuy nhiên, đã là Bùi
Giáng, ắt hẳn tên tuổi đó xứng đáng là một hiện tượng. Trong tập Mưa nguồn,
Bùi Giáng có viết:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Bùi Giáng đã ra đi rồi. Nhưng vầng trăng ông để lại vẫn mãi nguyên
một màu sơ thuỷ. Những lá hoa cồn hay những dòng chữ mà ông để lại cho
đời vẫn thấp thoáng mãi trong những bóng sương mù của thi ca, của hồn
nguyên tiêu ngày cũ. Mãi mãi, chúng sẽ còn để ngân lại trong lòng những
ngưởi yêu quý ông những tiếng gọi trở về. Trở về bến sơ đầu của những cơn
mưa nguồn ngày cũ, của những bài ca quần dảo hoang vu, của những lời cố
quận mịt mù gang tấc. Hẳn đã nhiều lần trong cuộc tồn sinh của mình, Bùi
`
Giáng đã nhận thấy rằng quê hương của ông, cố quận của ông đã không còn
như xưa nữa. Dù quê hương hay cố quận đó được hiểu như thế nào đi nữa thì
ông cũng đã “chết nhiều lần trong trận sống”, và trong cuộc đời này, hình như
nhiều lúc ông đã lạc mất lối về. Bởi thế, để tìm đường về của những đường
xưa lối cũ của những Hồn Nguyên Tiêu, có lẽ người thi sĩ ấy chỉ còn có thể
tìm về và tìm vào trong những cuộc chiêm bao:
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
( Rưọu uống, Mưa nguồn )
Bùi Giáng đã ra đi vào cõi thiên thu vĩnh biệt, thân ngũ uẩn trả về cho cát
bụi:
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa?
(Mắt buồn - Mưa nguồn)
Nhưng trên tinh thần tư tưởng nhà thơ thì thật sáng láng bao la, dù biết
trần gian này là phiền não, tối tăm, khổ đau mà vẫn vui vẻ NGUYỆN đi vào
cõi người:
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây sống đủ vui sầu
(Phụng Hiến - Bùi Giáng)
`
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bùi Giáng-Mưa nguồn-NXB Văn học 2002
2 Bùi Giáng -Lá hoa cồn-NXB Sài Gòn
3 Bùi Giáng -Ngàn thu rớt hột-Màu hoa trên ngàn
4 Bùi Giáng -Bài ca quần đảo-Nguyễn Đình Vượng-1973
5 Bùi Giáng -Sa mạc phát tiết-NXB An Tiêm-Saigon 1963
6 Bùi Giáng -Đêm ngắm trăng-NXB Trẻ TPHCM-1997
7 Bùi Giáng -Chớp biển-Saigon-Anaheim-Koln 1996
8 Bùi Giáng -Mười hai con mắt-NXB Văn học 2000
9 Bùi Giáng -Mưa nguồn hòa âm-Saigon 1973
10 Bùi Giáng -Như sương-NXB Trẻ Tp HCm 1998
11 Bùi Giáng -Rong rêu-NXB Đà Nẵng 1995
12 Bùi Giáng -Thơ vô tận vui-NXB Thuận Hóa 2004
13 Bùi Giáng -Thi ca tư tưởng-NXB Ca dao Saigon 1969
14 Bùi Giáng -Ngày tháng ngao du-NXB An TIêm Saigon 1971
15 Bùi Giáng -Đi vào một cõi thơ-NXB Ca dao Saigon 1969
16 Bùi Giáng -Mùa thu thi ca-NXB An Tiêm Saigon 1970
17 Bùi Giáng -Một vài nhận xét về Truyện Kiều, Phan Trần, Thúy
Vân, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm, Quan âm Thị Kính, Bà
Huyện Thanh Quan-NXB Hội nàh văn 1998
18 Bùi Giáng -Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại-NXB Văn
học 2000
19 Đinh Vũ Thùy Trang-Bùi Giáng, một cuộc đời, một cõi thơ-luận
văn thạc sĩ 2000
`
20 Nguyễn Văn Quốc-Đặc điểm nghệ thuật ngôn từ trong thơ Bùi
giáng-luận văn cử nhân 2004
21 Trương Thị Mỹ Phượng, Thơ Bùi Giáng, Luận văn thạc sĩ văn
học, 2007
22 Giai phẩm Văn-Số đặc biệt về nhà thơ BG tháng 5/1973
23 Tạp chí Thời Văn-số đặc tuyển về thi sĩ BG số 19, tháng 6/1977
24 Tưởng nhớ thi sĩ Bùi Giáng-NXB Trẻ TpHCM 1999
25 Trường Vũ Thiên An-Thử một lần đối diện với thơ và con người
thơ Bùi Giáng-Tạp chí Kiến thức ngày nay số 41, trang Chân
dung văn học
26 Sư nữ Trí Hải-Thông điệp của thơ-Bài nói chuyện buổi tưởng
niệm thi sĩ Bùi Giáng tại tịnh thất TH VVạn Hạnh 8/10/1998
27 TS Nguyễn Công Lý, ThS Đặng Ngọc Như-Thơ Bùi Giáng: Đôi
điều cảm nhận-Tạp chí Nha Trang số 81, tháng 6/2002
28 Trần Trung Phượng- Bùi Giáng,kẻ đùa giỡn với tư tưởng-Báo Tia
sang số 61
29 Trần Đình Thu-Một năng lực phi thường của kẻ súôt ngày rong
chơi-Bài thơ lạ lung của anh chăn bò-Dịch giả tài hoa nhưung
không bình thường-Ngày tháng ngao du-Văn chương Bùi Giáng
trong những cuốn sách đầu tiên-Những người phụ nữ đẹp thóat
trần- Bùi Giáng có phải là một người điên không-Báo Thanh
niên các số tháng 3/2005
30 Đặng Tiến-Thơ là hạnh phúc- Bùi Giáng nguồn xuân-Hòai vọng
tìm về thiên tính con người-Báo Thanh Niên các số tháng 3/2005
31 Cung Văn Nguyễn Vạn Hồng-Bàng Giúi tiên sinh-Phóng túng
hình hài, ngang tang tính mệnh-Báo Thanh Niên các số tháng
3/2005
`
32 Hòang Kim-Ngây thơ trong cõi người ta-Thăng hoa cuối đời và
lá thư tình chưa công bố-Báo Thanh Niên các số tháng 3/2005
33 Nguyễn Khắc Mai-Nén hương thắp cho chàng Bội Lan hiện đại-
Báo Tuổi trẻ chủ nhật 18/10/1998
Trần Huệ Hiền –Bùi Giáng,viên ngọc quý. 34
Tần Hòai Dạ Vũ- Bùi Giáng còn ở lại 35
Từ điển văn học-NXB Thế giới 2004 36
37 Biên tập dựa theo tài liệu của Ủy ban thống nhất trung ương và
Tổ văn học miền Nam-Viện văn học-Vài nét tình hình chung và
tình hình văn học vùng tạm chiếm miền Nam Việt Nam
38 Huy Tâm-Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại ( 1933-
1963)-1969
39 Phan Cự Đệ chủ biên-Lý luận phê bình văn học miền Trung kỷ
XX-NXB Đà Nẵng
40 Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận-NXB Sự Thật
1959
41 Minh Huy-Những khuynh hướng thi ca Việt Nam (1932-1963)-
Lãng mạn-Tượng trưng-Tả thực-Hiện sinh-1962
42 Phần đóng góp của văn học miền nam những bước đầu của báo
chí, tiểu thuyết và thơ mới-NXB Lửa Thiêng 1975
43 Tạ Ty-Mười khuôn mặt văn nghệ-NXB Kim Lai 1970
44 Tủ sách Khoa Ngữ Văn-báo chí ĐH KHXH-NV TPHCM –Thơ-
Nghiên cứu-Lý luận-Phê bình-NXB ĐHQG TPHCM 2003
45 Hà Minh Đức-Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt nam hiện đại-
NXB Giáo dục 1998
46 Trần Đình Sử-Những thế giới nghệ thuật thơ-NXB ĐHQG Hà
Nội 2001
`
47 Từ trong di sản-NXB Tác phẩm mới-Hội nàh văn Việt Nam-Hà
Nội 1981
48 Phương Lựu-Về quan điểm văn chương cổ Việt Nam-NXB GD
1985
49 Đỗ Văn Hỷ-Người xưa bàn về văn chương-NXB KH XH Hà Nội
1993
50 Trầ Trọng Đăng Đàn-Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam
những năm 1954-1975- NXB Sự Thật 1991
51 Roman Jakobson-Cao Xuân Họa dịch-Ngôn ngữ và thi ca
52 Thế Phong-Chiêu niệm bốn nhà văn Saigon 1969
53 Những nhà văn hôm nay-NXB Nhà văn Việt Nam 1969
54 Phương Lựu-Từ văn học so sánh đến thi học so sánh-NXB Văn
học Hà Nội 2002
55 Đỗ Đức Hiếu-Đổi mới đọc và bình luận-NXB Hội nhà văn Hà
Nội 1999
56 Nguyễn Đăng Điệp-Giọng điệu trong thơ trữ tình-NXB Văn học
2002
57 Phan Ngọc-Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ-NXB Trẻ
2000
58 Phương Lựu-Tiếp tục khơi dòng-NXB Văn học 2001
59 Tzvetan Todorov-Đào Ngọc Chương dịch-Mikhail Bakhtin-
Nguyên lý đối thoại-NXB ĐHQG TpHCM 2004
60 Hòang Ngọc Hiến-Văn học… gần và xa-NXB GD 2003
61 Trần Đăng Xuyền-Nhà văn hiện thực đời sống vào cá tính sang
tạo-NXB Văn học 2002
62 Nguyễn Thanh Hùng-Đọc và tiếp nhận văn chương-NXB GD
2002
`
63 Trần Đình Sử-Một số vấn đề thi pháp học hiện đại-Bộ GD và
ĐT-Vụ GV hà Nội 1993
64 Bùi Văn Nguyên-Hà Minh Đức-Thơ ca Việt nam hình thức và thể
loạii-NXB ĐHQG Hà Nội 2003
65 Nguyễn Bá Thành-Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại-
NXB Văn học 1996
66 NGô Văn Phú-Chuyện văn chuyện đời-NXB Lao Động Hà Nội
2004
67 Thơ Mới 1932-1945 tác giả và tác phẩm-NXB Hội nhà văn 1998
68 Tạp chí Sáng tạo-số 1,2,3(1956), 4,5(1957),16-27(1958),
2831(1959), 17(1960)
69 Tạp chí Nghiên cứu phê bình Văn học số
1(1967),5,6(1968),110(1972)
70 Nguyễn Dược-Trung Hải-Sổ tay địa danh Việt Nam-NXB GD
2005
71 Trần Thái Đỉnh –Triết học hiện sinh -NXB SG 1969
72 Nguyên Sa-Một bông hồng cho văn nghệ-NXB Trình bày 1969
73 Đinh Hùng-Đốt lò hương cũ-NXB Lửa thiêng 1971
74 Nguyên Sa-Mây bay đii-NXB Trí Dũng 1967
75 Nguyên Sa-Thơ-NXB K.D 1963
76 Vũ Hòang Chương-Ta đợi em từ ba mươi năm-NXB An Tiêm
1971
77 Trần Hữu Tá-Nhìn lại một chặng đường văn học-NXB TPHCM
2000