BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ái Vân

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TỰ

TRUYỆN VÀ HỒI KÍ CỦA TÔ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ái Vân

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TỰ

TRUYỆN VÀ HỒI KÍ CỦA TÔ HOÀI

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến quí Thầy Cô, những người đã tận tình giảng dạy, động

viên, giúp đỡ, đóng góp ý kiến cho tôi trong quá trình học tập cũng như khi thực hiện luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi, người đã

tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ, để tôi hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn phòng Khoa học Công nghệ – Sau đại học trường Đại học Sư Phạm

Thành phố Hồ Chí Minh, Ban giám hiệu, Tổ Văn Trường Trung học phổ thông Chuyên Lê Hồng

Phong, các thành viên trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện, giúp đỡ, khuyến khích,

động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi kính mong nhận được sự đóng góp, giúp

đỡ của các Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn.

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 9 năm 2011

Nguyễn Thị Ái Vân

MỤC LỤC

1TLỜI CẢM ƠN1T ...................................................................................................................... 1

1TMỤC LỤC1T ............................................................................................................................ 2

1TMỞ ĐẦU1T .............................................................................................................................. 4

1T1. Lý do chọn đề tài1T .................................................................................................................................. 4

1T2. Lịch sử vấn đề1T ...................................................................................................................................... 5

1T2.1. Ý kiến đánh giá tổng quát về sự nghiệp sáng tác chung của Tô Hoài1T ............................................. 5

1T2.2. Ý kiến về mảng tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài1T ......................................................... 6

1T3. Phạm vi – đối tượng nghiên cứu1T ........................................................................................................... 9

1T4. Phương pháp nghiên cứu1T ...................................................................................................................... 9

1T5. Đóng góp mới của luận văn1T .................................................................................................................. 9

1T6. Cấu trúc của đề tài1T ................................................................................................................................ 9

1TChương 1: TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT THỂ LOẠI 1T ..... 11

1T1.1. Thể loại Tự truyện và Hồi ký1T ........................................................................................................... 11

1T1.1.1. Khái niệm Tự truyện1T ................................................................................................................ 11

1T1.1.2. Khái niệm hồi kí1T ...................................................................................................................... 12

1T1.1.3. Đường biên động/ranh giới mờ giữa tự truyện và hồi kí1T ........................................................... 14

1T1.2. Hồi kí trong tự truyện và tự truyện trong hồi kí Tô Hoài1T .................................................................. 16

1T1.3. Về sáng tác của Tô Hoài1T .................................................................................................................. 17

1T1.4. Vị trí của tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài1T ..................................................................... 18

1TChương 2: NGHỆ THUẬT TÁI HIỆN, TÁI TẠO HỒI ỨC VÀ TIẾNG NÓI CỦA CÁI TÔI TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI 1T .................................................... 25

1T2.1. Hồi kí, tự truyện Tô Hoài – Thế giới của hồi ức1T ............................................................................... 25

1T2.2. Tiếng nói của cái tôi – tự truyện, hồi kí và nghệ thuật tự biểu hiện1T ................................................... 30

1T2.2.1. Cái “tôi” tác giả – nhân vật trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài1T ..................................................... 30

1T2.2.1.1. Cái “tôi” ngây thơ, hài hước, hóm hỉnh, tài hoa, giàu trí tượng tượng1T ................................ 31

1T2.2.1.2. Cái “tôi” sâu sắc, giàu cảm xúc, nhân ái, gắn bó, yêu quí cảnh vật và con người quê hương 1T ..................................................................................................................................................... 35

1T2.2.1.3. Cái tôi tuổi trẻ nhiều mơ ước, nhiệt tình và không thiếu trải nghiệm xót xa1T ....................... 37

1T2.3. Khắc họa nhân vật qua hồi ức, bằng hồi ức1T ...................................................................................... 42

1T2.3.1. Khắc họa nhân vật người thân1T ................................................................................................. 42

1T2.3.2. Cách khắc họa nhân vật bạn văn qua hồi tưởng1T ........................................................................ 46

1T2.4. Những bức tranh đời sống (thiên nhiên, sinh hoạt) qua hồi ức của nhân vật tôi/ người kể chuyện. 1T ... 55

1TChương 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI 1T .................................................................................................................................. 63

1T3.1. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức1T ......................................... 63

1T3.1.1. Trần thuật theo trình tự dòng hồi ức1T ......................................................................................... 63

1T3.1.2. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức1T .................................. 65

1T3.2. Hòa phối điểm nhìn (quanh một góc nhìn chủ đạo) trong trần thuật 1T ................................................. 67

1T3.2.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật1T ................................................................................................ 67

1T3.2.2. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn1T................................................................................................. 70

1T3.3. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc, đảo thuật, dự thuật1T ............................................................................... 72

1T3.3.1. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc1T ....................................................................................................... 72

1T3.3.2 Kĩ thuật đảo thuật.1T .................................................................................................................... 77

1T3.4. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn, phát huy sức mạnh ngôn từ, giọng điệu trong trần thuật1T ....... 78

1T3.4.1. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn1T ...................................................................................... 78

1T3.4.2 Sức mạnh ngôn từ1T ..................................................................................................................... 85

1T3.4.2. Kết hợp ưu thế của các loại giọng điệu trong trần thuật1T ............................................................ 95

1T3.4.3.1. Giọng điệu hài hước, dí dỏm1T ............................................................................................ 96

1T3.4.3.2. Sự hòa quyện phức hợp của những giọng điệu trần thuật1T .................................................. 99

1TKẾT LUẬN1T ...................................................................................................................... 104

1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T ............................................................................................... 106

1TPHỤ LỤC1T ......................................................................................................................... 109

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nhà văn Tô Hoài là một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Trong quá trình lao động

sáng tạo nghệ thuật bền bỉ của mình, ông đã có những đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam hiện

đại về mặt nội dung và nghệ thuật, cả chất lượng và số lượng. Trong bài báo “Với Tô Hoài” trích ở

Tuyển tập mười năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ [38] nhà văn Xuân Trường đoán định Tô Hoài là

người viết nhiều nhất ở nước ta. Cũng trong bài báo này, vào những năm 1991, Tô Hoài nhớ ông có

khoảng 140 đầu sách. Đến nay theo nhiều nhà nghiên cứu thống kê, số lượng tác phẩm của Tô Hoài

đã là gần 200 đầu sách…Như vậy chúng ta thấy khả năng lao động nghệ thuật rất đáng khâm phục

của tác giả. Đặc biệt ở đề tài nào ông cũng có những tác phẩm để lại dấu ấn trong lòng người đọc, ở

thể loại nào ông cũng có sự tiên phong, đóng góp riêng, thúc đẩy sự phát triển chung của nền văn

xuôi Việt Nam hiện đại.

Trong đời sống văn học Việt Nam từ xưa đến nay, tự truyện và hồi kí – vốn rất gần gũi nhau – vẫn là những thể loại văn xuôi nghệ thuật mà trong những bối cảnh cụ thể của đất nước và đời sống cá nhân, nhiều nhà văn ngại dùng đến do tính chân thật cao và dấu ấn cá nhân đậm nét của nó. Đây là các thể loại có nhiều thách thức đối với nhà văn. Đến thế kỉ XX, việc tìm hiểu về đặc trưng thể loại văn chương được đặt ra như một vấn đề chính trong nghiên cứu văn học, thể loại tự truyện, hồi kí dần có sự phát triển và khẳng định ví trí của nó trên văn đàn. Tô Hoài là một trong những tác giả có đóng góp lớn về thể loại này. Ông xứng đáng là một tác giả văn chương như nhà văn Nguyên Ngọc trên báo tuổi Trẻ chủ nhật ngày 7 tháng 6 năm 2009 đã nhận xét: “Tô Hoài là vậy, nhà văn

cần mẫn và tài hoa “đục đẽo” suốt đời vào cái thứ đẹp nhất mà cũng khó nhất trên đời, là nghệ thuật” [43].

1. Thể loại tự truyện, hồi kí có một giá trị khá đặc biệt trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam mà Tô Hoài là một trong những tác giả có những tác phẩm thành công về thể loại văn học này.

2. Khi nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài thì mảng tự truyện, hồi kí chiếm một vị trí đáng kể. Nên việc nghiên cứu sẽ giúp hiểu về sự nghiệp văn học của Tô Hoài, sẽ có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về con người và phong cách văn chương nhà văn từ đó có cơ sở để nghiên cứu thể loại tự truyện, hồi kí của các nhà văn khác.

3. Tô Hoài là một tác giả được chọn giảng dạy trong chương trình dạy và học Văn ở nhà trường phổ thông. Bởi thế, việc nghiên cứu về con người và sự nghiệp văn chương của ông sẽ giúp cho giáo viên có kiến thức vững chắc, có tầm khái quát từ đó có khả năng xác định trọng tâm bài

giảng một cách chuẩn xác.

Đó là những lí do khiến cho người viết chọn đề tài: “Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi

kí của Tô Hoài”.

2. Lịch sử vấn đề

Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà văn

lớn, có đóng góp về nhiều thể loại văn học khác nhau. Trên trang viết của mình ông luôn để lại

những dấu ấn riêng, có dấu “vân tay” in trên chữ, có “một giọng điệu riêng, một cách nói

riêng”(Phong Lê). Các trang viết với giọng điệu và cách thể hiện riêng ấy đã đem đến cho Tô Hoài

một phong cách nghệ thuật đặc sắc. Hơn nữa, ông sáng tác trong thời gian dài, đồ sộ về số lượng,

phong phú về thể loại, lại có những đóng góp lớn cho quá trình phát triển nền văn học dân tộc ta.

Chắc chắn có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và quan tâm tới. Chúng tôi bắt gặp một số lượng không

nhỏ những bài chuyên luận, phê bình ở những mức độ khác nhau về phong cách nghệ thuật, tác

phẩm, con người tác giả. Để có được cái nhìn khái quát, người viết tạm chia:

2.1. Ý kiến đánh giá tổng quát về sự nghiệp sáng tác chung của Tô Hoài

Bàn về giá trị văn chương Tô Hoài, xưa nay có rất nhiều ý kiến của các nhà văn, các nhà lý

luận và phê bình văn học. Họ đã dành nhiều sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị của Tô

Hoài. Từ khi xuất hiện các tác phẩm của Tô Hoài đã được giới nghiên cứu văn học chú ý.

Trước 1945, Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại viết: “Truyện ngắn của Tô Hoài không những đặc biệt về lời văn, về cách quan sát, về lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về những đầu đề do ông chọn lựa nữa” [87]. Đây là nhận xét về tài năng văn chương còn đang trẻ, mà có sức viết khỏe và hay. Tô Hoài sáng tác nhanh, thể loại phong phú nên tác giả còn đánh giá cao Tô Hoài ở: "Cũng như ở những truyện ngắn của ông đăng trong Hà Nội Tân văn trong khoảng 1940 – 1941, ở tập Quê người ông tỏ ra là một nhà tiểu thuyết có con mắt quan sát sâu sắc" [87]. Tô Hoài được xếp vào nhóm các tác giả tả chân. Là người đỡ đầu cho Tô Hoài vào nghề văn, Vũ Ngọc Phan nhận rõ những đặc sắc, những mạnh – yếu trong văn Tô Hoài. Ông cho thấy cùng với năng lực miêu tả tinh tế thế giới loài vật, Tô Hoài còn là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn của dân quê”. Nhà phê bình cũng đã sớm phát hiện chất giọng “trào lộng và khinh bạc” ở Tô Hoài.

Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng không ngừng gia tăng. Những nhà phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như: Trần Hữu Tá, Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh, Nguyễn Văn Long,Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Điệp…đã có những đánh giá thật tinh tế khách quan về các tác phẩm văn chương của ông.

Trần Hữu Tá, trong cuốn sách Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo đánh giá tổng quát về sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật của Tô Hoài. Trần Hữu Tá nhấn mạnh ngay ở tựa đề bài viết: “Tô Hoài – một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại” [84]. Một sự nghiệp văn học phong phú về đề tài, đồ sộ về số lượng, có phong cách độc đáo.

Hà Minh Đức nhận xét, đánh giá Tô Hoài thành công ở nhiều đề tài khác nhau: "Tô Hoài trong dòng chung của trào lưu văn học hiện thực ngày càng tạo riêng cho mình những giá trị mới.

Ông viết về đất nước, con người qua những bức tranh xã hội chân thực và lắng đọng với thời gian

để làm nổi lên những giá trị vật chất, tinh thần bền vững. Tô Hoài với vùng đất ven thành qua bao đời, Tô Hoài với con người và thiên nhiên xứ nhiệt đới nhiều kì thú, những phong tục tập quán lâu

đời, các loài vật trong nhà và hoang dã" [50,12]. Đặc biệt khi viết về thiên nhiên, phong tục quê

hương.

Phong Lê đánh giá cao nghệ thuật miêu tả và tài dùng ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có của Tô

Hoài: "Ở tuổi hai mươi, ngòi bút Tô Hoài thật đã xiết bao linh hoạt. Quan sát kĩ lưỡng và tinh tế.

Ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có. Thiên nhiên khoáng đãng mà mơ mộng. Nhân vật có dáng riêng,

giọng riêng và đều sắc nét" [50,25].

Phan Cự Đệ thấy được sự gắn bó sát sao của Tô Hoài với hiện thực cuộc sống. Với Tô Hoài

cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học. Vì thế tác phẩm của Tô Hoài thành công ở

nhiều đề tài khác nhau: "Có những người từ sách vở lí luận, từ vốn văn hóa kiến thức đi vào văn

học. Tô Hoài chủ yếu từ cuộc sống mồ hôi nước mắt, từ cuộc đời lam lũ của quần chúng, từ những

cái gì rất dân tộc rất dân gian mà đi vào con đường sáng tác...Tác phẩm của anh là sự gắn bó mật

thiết với quê hương đất nước, từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục sinh hoạt cho đến truyền thống

văn hóa, ngôn ngữ dân tộc, là tấm lòng yêu thương khâm phục, ơn nghĩa thủy chung đối với người

lao động nghèo khổ nhưng rất thông minh, anh dũng miền xuôi và miền ngược của Tổ quốc"

[50,104].

Bùi Hiển đánh giá cao về nghệ thuật kể chuyện bằng rất nhiều giác quan tinh nhạy: "Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài là thế, thiên về thị giác, một thứ thị giác tinh nhạy, đầy màu sắc và ấn tượng, cảm xúc, nói rộng ra hơn nữa là thiên về cảm giác, về cảm nhận trực quan cụ thể, về biểu hiện các sắc thái tình cảm gần gũi thầm kín. Và bởi vì tất cả những cái đó đều xuất phát từ một tình yêu gắn bó đối với cuộc sống chiến đấu của dân tộc, sáng tác của anh tỏa ra một nguồn sáng ấm áp và phảng phất lung linh nhiều sắc độ, nó là một trong những bí quyết thành công của anh" [50,107].

Hoàng Trung Thông nhận xét về những mảng thành công nổi bật của Tô Hoài và khẳng định số lượng tác phẩm đồ sộ của ông: "Trong văn chương, Tô Hoài có ba mảng lớn: viết về mình và về quê mình, viết về miền núi và viết cho thiếu nhi, đó là tôi chưa nói anh viết về nhiều nơi, về các cuộc đời rất khác nhau trong nước và ngoài nước. Cho tới nay anh đã viết và in khoảng 110 quyển truyện ngắn, truyện dài về ba mảng đề tài trên" [50,109].

Nhìn chung những đánh giá về sự nghiệp và tài năng của các nhà nghiên cứu về Tô Hoài rất xác đáng. Chúng ta đều thấy rõ sự thành công rất nhiều mặt về nội dung, nghệ thuật. Tô Hoài là một tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một nhà văn chuyên viết về văn xuôi. Cùng với nhiều nhà văn tài năng đương thời, ông đã có những đóng góp cho sự phát triển của nền văn xuôi hiện đại. Với một sức lao động dẻo dai, bền bỉ, Tô Hoài đã có số lượng lớn tác phẩm ở nhiều thể loại và điều đáng qúi là có nét đặc sắc riêng trong phong cách nghệ thuật của mình.

2.2. Ý kiến về mảng tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài

Theo Trần Hữu Tá, trong cuốn sách Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, đánh giá nét

đặc biệt ở tài năng của Tô Hoài là ông viết hồi kí khi còn rất trẻ và khẳng định được sự thành công ở

lĩnh vực này: “Về mặt thể loại, Cỏ dại có hai điều đáng để suy nghĩ. Một là trong văn chương, vô số

nhà viết hồi kí, nhưng ở tuổi hai mươi ít ai đã thành công như Tô Hoài...Hai là chùm tác phẩm Cỏ

dại, Cát bụi chân ai, Chiều chiều đã khẳng định ông là cây bút hồi kí có hạng” [84,19].

Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ

thuật viết tự truyện, hồi kí chính là nghệ thuật thể hiện cái tôi – tác giả: "Hồi kí và tự truyện của ông

kết hợp được dòng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân tích tỉnh táo các hiện tượng và phần tâm sự

của tác giả" [50,132].

Phong Lê trong Tô Hoài, sáu mươi năm viết, đã cho rằng đặc sắc của thể loại hồi kí, tự

truyện Tô Hoài chính là nghệ thuật trần thuật theo dòng hồi ức: “Tô Hoài không chỉ là người có sức

nhớ kỹ, nhớ dai mà hơn thế, những cái sống, cái nhớ của ông luôn dư đầy, là luôn luôn có mặt

trong hiện tại. Một quá khứ luôn luôn được dồn về hiện tại, được hiện tại hóa – nhưng vẫn trong

trang phục của quá khứ” [50,43]. Chính sự gắn bó, trân trọng đối với con người và những sự kiện

đã trải qua tạo nên sức mạnh hiện tại hóa quá khứ như vậy. Vì “Văn là người”, khi đọc tác phẩm

văn chương ta bắt gặp tâm hồn con người. Phong Lê còn khẳng định sức lôi cuốn, hấp dẫn của tự

truyện Tô Hoài đối với độc giả: "Đọc tự truyện tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể

viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một bầu khí quyển

chung cho bao thế hệ" [50,43].

Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Chân dung và phong cách, có những ý kiến đánh giá rất sắc sảo, sát hợp về văn chương Tô Hoài, đặc biệt mảng tự truyện, hồi kí. Mỗi nhà văn đều có một quan niệm nghệ thuật riêng về con người. Ông khẳng định với: “Tô Hoài quan niệm con người là con người, chỉ là con người, thế thôi” [27,287]. Nguyễn Đăng Mạnh so sánh với một số tác giả khác như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…để thấy được rằng: “Có thể nói, Tô Hoài là nhà văn của người thường, của chuyện thường, của đời thường” [27, 288]. Sau một số luận giải, phân tích tác giả bài viết đã nhận định: “Tôi cho rằng Tô Hoài sinh ra để viết hồi kí, tự truyện. Dường như ông có một thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi tưởng…” [27,299]. “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài...ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy” [27]. Trong lời nhận định của mình, Nguyễn Đăng Mạnh chỉ ra cho độc giả thấy sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài chính là: "nhân vật trung tâm" – "cái tôi" của tác giả – cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực: "một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đôi chút khinh bạc" [27].

Vương Trí Nhàn, Tô Hoài và thể hồi kí, lời tựa cho tập Hồi kí đã đánh giá cao sức mạnh nội lực khi viết về thể loại hồi kí của Tô Hoài: “Dường như cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông. Hồi kí là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ” [76,942]. Vốn sống, sự trải nghiệm suy tư làm nên thành công của thể loại này.

Vân Thanh đánh giá cao mảng hồi kí, tự truyện của Tô Hoài, tác giả cho rằng với thành công

này đã tạo thêm sự phong phú về đề tài nổi bật trong sự nghiệp văn học của Tô Hoài: "Theo tôi, nói

Tô Hoài trong phần đặc sắc của anh là nói về mảng đề tài miền núi như ta đã thấy, nhưng đến hôm

nay không thể không nói đến phần kí ức tuổi thơ và tuổi thanh niên của anh...Tôi cho là Tô Hoài đã

thực sự đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ – hoặc được

nhìn qua cách nhìn trẻ thơ đề nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ" [50,399 – 403]. Tác giả Vân

Thanh khẳng định Tô Hoài đã có sự đổi mới về tư tưởng, thủ pháp nghệ thuật tự truyện, hồi kí:

“Điều kỳ lạ là các mảng sống và chi tiết trước đây cũng như bây giờ, vẫn cứ gần như tươi rói trong

kí ức nhà văn"…Mảng sống đó rất có nét dáng, góc cạnh, trước hết vì khả năng nhớ dai và rất động

ở kí ức của Tô Hoài” [50,382 - 383].

Phạm Việt Chương ấn tượng khi đọc tác phẩm của Tô Hoài chính là giọng điệu của tác

phẩm, nó giúp cho tác phẩm có một sức hấp dẫn riêng tạo nên phong cách nhà văn. Tác giả nhận

xét:"Chúng ta gặp lại Tô Hoài...khi anh viết một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu mến.

Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình viết về họ bằng bút pháp tả

thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh

điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua"

[50,404].

Xuân Sách nhận xét về Cát bụi chân ai, nhà văn thấy tác phẩm có giá trị văn học vừa là cuốn

tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã dựng lại đời sống tinh thần của một số cây bút lớn cũng như môi

trường mà nhà văn phản ánh trong đó: "Tác phẩm mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài – từ văn phong đến con người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai muốn nghe thì nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn…Và vì thế…sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực" [50,414]. Tác phẩm nhấn mạnh nét phong cách của Tô Hoài thể hiện qua tác phẩm ở cách trần thuật, giọng điệu và tính chân thật.

Trần Đức Tiến chú ý tới điểm nhìn khi xây dựng nhân vật trong hồi kí của Tô Hoài: "Bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ cầm bút chúng tôi nhìn một số "nhân vật lớn" của văn chương nước nhà từ một cự li gần...Bây giờ qua Tô Hoài – chúng tôi được nhìn gần: một khoảng cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc" [50,413].

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét và rút ra quan niệm về con người trong hồi kí của nhà văn Tô Hoài – Cát bụi chân ai "kể chuyện những nhà văn, những người bạn mà tài năng văn học không ai chối bỏ được nhưng đồng thời cũng là những con người bình thường với những tính tốt và tật xấu như mọi người" [50].

Đây là những ý kiến đánh giá mang tính chất khái quát nhất và tiêu biểu nhất về tự truyện và hồi kí của Tô Hoài. Những bài viết trên đã trở thành những ý kiến tham khảo rất hữu ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò và những đặc điểm riêng trong thể loại hồi kí và tự truyện của Tô Hoài. Các công trình này có giá trị đánh dấu vị trí quan trọng trong toàn bộ sáng tác của tác giả, giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống và con người trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Đánh giá về Tô Hoài và văn nghiệp của ông không phải là công việc làm một lần bởi một người là có thể hoàn tất. Vì văn

Tô Hoài nói chung và thể hồi kí, tự truyện nói riêng thực sự là những tác phẩm có giá trị, như một

mạch ngầm trong lòng đất, càng khơi càng trong, càng ngọt ngào bất ngờ và thú vị, nói như nhà

nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Dường như cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết

hôm nay của ông. Hồi kí là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ cảm thấy và đã theo

đuổi suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ” [76,942]. Với đề tài: Đặc điểm nghệ thuật hồi kí và tự

truyện của Tô Hoài, người viết mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về những đặc sắc trong

nghệ thuật hồi kí và tự truyện của Tô Hoài, đồng thời có dịp hiểu rõ hơn phong cách nghệ thuật độc

đáo của nhà văn Tô Hoài.

3. Phạm vi – đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng đề tài: đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi kí của Tô Hoài.

- Phạm vi đề tài: gồm các tự truyện sau: Cỏ dại, tập Tự Truyện, Mười năm.

Các hồi kí sau: Những gương mặt, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội.

Cách chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi vì trong sáng tác của Tô Hoài về hai thể loại

này có sự giao thoa. Chính vì vậy, luận văn không tách riêng theo từng thể loại bởi những đặc điểm

nghệ thuật ấy vừa đúng với tự truyện vừa đúng với hồi kí. Nếu có đặc điểm nghệ thuật nào rõ, mang

đặc trưng của từng thể loại thì sẽ tách biệt ra để nghiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này, chúng tôi phải sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau.

Dưới đây là một số phương pháp chủ yếu:

- Phương pháp hệ thống: đặt đối tượng nghiên cứu trong hệ thống. Đặt hồi kí, tự truyện trong toàn bộ sáng tác để thấy được vị trí và đóng góp của Tô Hoài đối với sự nghiệp văn học của tác giả. Đặt trong hệ thống chủ thể tác phẩm để hiểu nghệ thuật trần thuật.

- Phương pháp loại hình: Giúp ta phân chia đối tượng nghiên cứu có tính chất khoa học, nghiên cứu thể loại dựa theo từng nhóm tác phẩm, từ đó thấy được giữa tự truyện và hồi kí có nét chung và nét riêng, đồng thời thấy được sự kết hợp giữa hai thể loại.

- Phương pháp so sánh: Dùng như một thao tác so sánh: đặt hồi kí, tự truyện cạnh nhau để nhận ra nét chung và nét riêng. Đặt hồi kí, tự truyện của Tô Hoài cạnh những tác phẩm của tác giả khác để so sánh thấy được nét riêng trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. - Sử dụng các thao tác: khảo sát, thống kê, tổng hợp,...

5. Đóng góp mới của luận văn

Cái mới của luận văn là tập trung chuyên sâu đi tìm đặc điểm nghệ thuật của hồi kí, tự truyện Tô Hoài. Chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật trong mảng tự truyện, hồi kí Tô Hoài. Khẳng định đóng góp của tác giả trong sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung và thể hồi kí, tự truyện nói riêng.

6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu và phụ lục, luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Tự truyện, hồi kí – vấn đề lí thuyết thể loại: Tự truyện và hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài. Ở chương 1 tập trung nghiên cứu, khảo sát những vấn đề thể loại làm cơ sở để nghiên cứu.

Chương 2: Nghệ thuật tái hiện, tái tạo hồi ức và tiếng nói của cái tôi. Ở chương 2 tập trung vào đặc điểm thế giới nghệ thuật tạo dựng nhân vật qua hồi ức nhân vật tôi và nghệ thuật khắc họa các nhân vật khác.

Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Ở chương 3 tập trung tìm hiểu phương tiện nghệ thuật trong phương thức trần thuật như: kết hợp trần thuật, phối hợp điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ.

Người viết trình bày luận văn có cấu trúc 3 phần? Bởi vì chương 1 đặt nền tảng cơ sở lý

thuyết. Còn chương 2 và 3 đi sâu vào tìm hiểu phương diện nghệ thuật.

Chương 1: TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT THỂ LOẠI

1.1. Thể loại Tự truyện và Hồi ký

1.1.1. Khái niệm Tự truyện

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ

biên: “Tự truyện là tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình…”

[23,389].

Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, hệ thống: “Tự truyện thường là những câu

chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả…Theo Lơjon, bởi vì, về quá khứ, kỷ

niệm bị xóa mờ với thời gian, vì tư duy khi viết về tự truyện đã trải qua biết bao cảnh đời, và vì các

sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại, nên khó mà trùng hợp với sự thật…Tự truyện không phải là một tập hợp những kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết…”

[7,1905-1906].

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, cũng đưa ra định nghĩa: “Tự truyện là tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi, trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [22]. Tác phẩm tự truyện thường có phương hướng lý giải cuộc sống đã qua (của tác giả) như một chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc sống trải nghiệm của mình. Người viết tự truyện có khi cũng vận dụng hư cấu, “thêm thắt” hoặc “sắp xếp lại” các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán. Tự truyện luôn luôn là hành vi khắc phục cái thời gian đã lùi xa, là mưu toan quay về thời tuổi thơ, tuổi trẻ, làm sống lại những đoạn đời quan trọng nhất, nhiều kỷ niệm nhất, như là “sống lại” cuộc đời mình từ đầu. Tự truyện thường được viết vào thời gian tác giả đã trưởng thành, đã trải qua phần lớn các chặng đường đời mình.

Theo tác giả Phạm Ngọc Lan trong luận văn “Tự truyện trong văn học Việt Nam hiện đại”, vào năm 1970 Bruce Mazlish đưa ra định nghĩa: “Tự truyện là một thể loại văn học, khai sinh từ chủ nghĩa lãng mạn, cho chúng ta một bức chân dung về sự hình thành cuộc đời quá khứ của một cá nhân nào đó từ điểm nhìn của thời hiện tại, được hoàn thành thông qua nội quan và hồi ức, trong đó cái tôi hiện ra như một thực thể đang phát triển”. Năm 1974, trong tiểu luận Hiệp ước tự thuật (Le Pacte Autobiographique), Philippe Lejeune trình bày một định nghĩa nổi tiếng nhằm xác lập những dấu hiệu về mặt hình thức của tự truyện: Đó là “thể loại tự sự tái hiện dĩ vãng, trong đó một con người có thật kể lại cuộc sống của mình, nhấn mạnh về đời sống riêng tư, đặc biệt là về mặt lịch sử hình thành nhân cách” [49,19].

Như vậy, khi viết lại câu chuyện đời mình, nhà văn có thể định nghĩa, định hình cho cuộc đời ấy thành một bức chân dung tự họa, xét một cách khách quan có thể khác với chân dung thật của

mình, dẫu có những nét tương đồng nhưng tất cả đã được cấu trúc lại, nhào nặn lại thành một sáng

tạo nghệ thuật.

Theo tác giả Phạm Ngọc Lan [49,21] thì công trình của Elizabeth W.Bruss nghiên cứu sự hành chức của diễn ngôn tự thuật cả về phương diện người viết lẫn người tiếp nhận trong công trình

Hoạt động tự thuật: Vị thế đang thay đổi của một thể loại văn học (Autobiographical Acts: The

Changing Situation of a Literary Genre), và từ góc nhìn đó Elizabeth W.Bruss đề ra 3 nguyên tắc

xác định tự truyện:

1/ Tác giả tự truyện đảm nhận một vai trò kép. Ông phải là điểm khởi đầu của chủ đề cũng

như của cấu trúc văn bản.

2/ Những thông tin, những sự kiện được trình bày trong mối quan hệ với tác giả tự truyện

được xác nhận phải là hoặc có khả năng là sự thật.

3/ Cho dù những điều được trình bày có bị nghi ngờ hay không, cho dù những điều đó có thể

bị tái công thức hóa theo hướng nào đấy dễ tiếp nhận hơn từ điểm nhìn khác hay không thì tác giả tự

truyện vẫn tin vào điều mà ông trình bày.

Từ những định nghĩa trên, tác giả Phạm Ngọc Lan đã xác định hai tiêu chí nhận diện thể loại

mà chúng tôi cho rằng chính xác và khoa học. Người viết tiếp thu và coi đó là một trong những cơ

sở để tìm ra được nét riêng của thể loại tự truyện.

- Cái tôi tác giả và sự phát triển nhân cách của nó trong quá khứ, với tư cách là hình tượng

trung tâm của tác phẩm.

- Tính xác thực tương đối của cốt truyện. Nguyễn Thành Thi trong Văn học thế giới mở đã viết: "Nhà văn khi sáng tác tác phẩm bao giờ cũng sáng tác theo một mô hình thể loại xác định. Thể loại tác phẩm văn học, thường được hiểu là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể" [36,12].

Vậy khi nhà văn sáng tác theo một thể loại nào đó, đầu tiên sẽ tuân thủ những mô chuẩn nghệ thuật quy ước, tạo nên những nét riêng, những đặc trưng cơ bản của thể loại đó. Ở thể loại tự truyện nhà văn đóng vai trò trong tác phẩm như là nhân vật “tôi” đứng ra kể lại, tả lại những gì xảy ra.Vì vậy, cần khẳng định tự truyện là tác phẩm văn học tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình.

1.1.2. Khái niệm hồi kí

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên. Các tác giả đã đưa ra khái niệm: “Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến”. Họ cho rằng: “Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính xác của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần với nhật kí. Còn về phương diện tư liệu, về tính xác thực và không có hư cấu thì hồi kí lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” [23,152]. Do đó, hồi kí phải được viết một cách cân nhắc, kỹ lưỡng, phải hết sức tôn trọng tính chân thật. Đó có thể là một câu chuyện mà tác giả chứng kiến hoặc lấy chất liệu từ chính cuộc đời mình làm đối tượng khai thác.

Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, hệ thống: "Thuật ngữ chỉ một thể loại nằm

trong nhóm thể tài ký. Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện

có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến" [7,648].

Hồi kí rất gần với nhật kí ở hình thức giãi bày, cách kể theo thứ tự thời gian, chú ý đến các sự

kiện mang tính chất tiểu sử.Về mặt chất liệu, về tính xác thực không có yếu tố hư cấu thì hồi kí rất

gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học, kí sự tư liệu lịch sử. Tuy nhiên, khác với các sử gia và

các nhà nghiên cứu tiểu sử, người viết hồi kí chỉ tái hiện phần hiện thực thường nằm trong tầm nhìn

của mình, căn cứ chủ yếu vào những ấn tượng và hồi ức của bản thân mình. Do vậy trong toàn bộ

tác phẩm có sự nổi trội của bản thân người viết hoặc cái nhìn của người viết vào tất cả những gì

được kể lại, miêu tả lại. Hồi kí mang đậm tính chủ quan khiến cho các sự kiện trong hồi kí không

thể so bì với các tư liệu gốc, các chứng tích, về tính xác thực. Tuy nhiên, sự thiếu hụt sự kiện, thông

tin hay sự phiến diện về đối tượng miêu tả trong hồi kí lại được bù đắp bởi văn phong sinh động,

cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác giả. Thế mạnh của hồi kí văn học là nó cung cấp các tư liệu về

người thật, việc thật dưới hình thức nghệ thuật văn chương nhưng không hư cấu. Tuy nhiên, sau một

thời gian dài hồi kí được xem chỉ dành riêng cho đề tài chiến tranh hay chính trị, hồi kí trở lại gắn với cuộc sống. Dấu ấn khá đậm của sự trở lại này là tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Những

gương mặt…

Trong bài Kí và giảng dạy Kí – Hoàng Như Mai viết: “Hồi kí ghi lại những sự việc đã qua,

nhưng những sự việc ấy không phải thuộc vào một thời kì lịch sử xa xôi mà phải gần gũi,có liên quan khá mật thiết với hiện tại. Hồi kí thường là do những người đang còn sống kể lại” [20,218].

Quan tâm đến vấn đề này, các tác giả của cuốn Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên đã dành một chương nghiên cứu về tác phẩm kí văn học. Các tác giả cho rằng: “Dù được hình thành và chọn lọc từ nguồn ghi chép và sáng tạo nào, kí văn học phải là nơi gặp gỡ của hai nhân tố quan trọng: sự thật của đời sống và giá trị nghệ thuật” [14,211].“Phải là loại văn xuôi tự sự trần thuật những người thật việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độ và tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần thuật cùng mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện v.v…thì mới làm nên đặc trưng của kí” [14]. Có thể thấy điểm chung của thể kí: “ những sự kiện và con người có thật trong cuộc sống, với nguyên tắc phải tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của đối tượng miêu tả” [14,216]. Cũng trong cuốn này, các nhà lí luận văn học khẳng định: “Xét từ gốc và bản chất, thì kí không nhằm thông tin thẩm mĩ, mà là thông tin sự thật” [14]. Riêng hồi kí đòi hỏi rất khắt khe về sự thật, sự trung thực, công minh, không được yêu ghét cá nhân, không được nhân đó để thanh minh, đề cao mình. Nếu làm được như vậy, hồi kí có sức mạnh chống lại sự xuyên tạc về một sự kiện, một nhân vật nào đó mà trước đấy còn lờ mờ chưa rõ.

Người viết hồi kí kể lại những điều mà mình có dịp quan sát những sự việc và con người để lại những ấn tượng sâu sắc, gắn bó với những kỷ niệm riêng nhưng lại mang nội dung xã hội phong phú. Cuộc đời của mỗi con người đều có thể ghi lại thành hồi kí nhưng phải thỏa mãn điều kiện: “Những trang viết đó có ý nghĩa xã hội quan trọng, gợi lên được nhận thức có ích chung cho mọi người” [14,231].

Như vậy là, trong quan niệm của các nhà nghiên cứu, hồi kí là một thể loại văn học luôn đề

cao tính chính xác và độ chân thực của các sự kiện. Nhà văn Tô Hoài – nhà văn rất thành công trong

thể loại hồi kí cũng đưa ra nhận định riêng của mình về: “Kí là một thể loại mang tính cách riêng,

tính cách của một lối viết ra những cảm xúc trước sự việc mắt thấy, tai nghe. Kí có lối xây dựng chủ

đề, nhân vật, kết cấu, tình tiết, ngôn ngữ… riêng biệt” [57,25]. Chính từ quan niệm đó mà hồi kí của

Tô Hoài có những đặc điểm riêng. Một mặt nó tuân theo những yêu cầu riêng của hồi kí, một mặt nó

in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Đã gọi là hồi kí, tác giả cứ phải là người sống thật trong cuộc, được biết, được thấy tận mắt

những chứng tích. Cho nên, nếu người viết là một tâm hồn biết tự trọng, nghĩa là đặt nặng phần sự

thật trên hết thì những điều nêu ra, tự nó, lại đã hàm chứa một giá trị sử liệu, văn hóa, văn học của

thời đại. Bằng không, thật là một sự đáng tiếc lớn dắt dẫn người đọc hiểu sai lệch sự thật.

Vì vậy, viết hồi kí mà đúng với bản chất của thể loại kí thật rất khó. Viết sao cho trung thực,

khách quan, khiêm tốn mà duyên dáng, gợi được thi vị cho người đọc mới là điều đáng kể, đáng đón

nhận. Vẫn hay có mình ở trong mà tác giả vẫn tránh được sự tự đề cao đáng trách. Sự hài hòa ấy

chứa đựng một biển trời thanh thoát cao thượng, một phong độ hào hoa của người cầm bút, của văn

nhân. Nếu hồi kí được biểu lộ đúng nghĩa của nó thì đọc hồi kí lại là một điều thú vị vô cùng. Nó

cho phép nhiều thành phần hiện tại bỗng nhớ về quá khứ, sống lại với dĩ vãng - trong đó biết bao kỷ

niệm chợt hiện ra. Có việc, có người mà ta biết nhưng không tường tận. Có việc có người mà ta

chưa biết hoặc đã quên đi thì nay sống lại đậm nét, phong phú, linh hoạt hơn. Chẳng khác nào tác

giả hồi kí đã là một nhà đạo diễn kỳ tài, sắp xếp lớp lang một cốt truyện có thực với nhiều khuôn mặt hiện diện mỗi người một vẻ, một cốt cách riêng biệt. Cái hấp dẫn, cái tuyệt hảo của một thiên hồi kí là vậy.

1.1.3. Đường biên động/ranh giới mờ giữa tự truyện và hồi kí

Nguyễn Thành Thi trong Văn học thế giới mở đã viết: “tương tác thể loại – có thể hiểu bao quát hơn – là hiện tượng hai hay nhiều thể loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học, thuộc về một hay nhiều hệ thống thể loại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng nhau,… để cùng biến đổi hoặc hình thành thể loại mới ( với một cấu trúc ít nhiều thay đổi về “tố chất thẫm mĩ chủ đạo”,“giọng điệu”,“dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm” [36,14].

Thực tế đời sống văn học cho thấy mỗi một “nòng cốt” thể loại tồn tại như là một mô chuẩn nghệ thuật ít nhiều mang tính quy ước, chỉ có ý nghĩa tương đối, và luôn có khả năng biến đổi. Vì vậy, nhà văn khi sáng tác theo một thể loại nào đó, một mặt luôn tôn trọng, tuân thủ những mô chuẩn quy ước, mặt khác – ít hoặc nhiều – luôn có nhu cầu thoát bỏ khỏi những mô chuẩn quy ước ấy, bằng cách “nhìn sang” những thể loại xung quanh, rút tỉa lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp kinh nghiệm của hai hay nhiều thể loại, tạo ra những tác phẩm “lệch chuẩn”. Nếu nhà văn thành công nhà văn sẽ có những tác phẩm hay hơn, mới hơn; còn nếu chua thành công thì những thử nghiệm như vậy ít ra cũng là một gợi ý, một sự chuẩn bị cho tác phẩm sau, người đi sau.

Tương tác giữa các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác có hư cấu (fiction) như tiểu thuyết, truyện ngắn,…và các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác không hư cấu (non fiction) như hồi kí, kí sự, nhật kí, ghi chép,…tạo nên các thể loại đan xen giữa các yếu tố hư cấu với yếu tố không hư cấu

như truyện kí, tự truyện, tiểu thuyết tự thuật [36,15].

Trong bài Kí và giảng dạy Kí – Hoàng Như Mai viết: “Những điểm khác nhau cơ bản giữa

hồi kí và tự truyện là tự truyện thiên về kể lại những chuyện thân mật, bình thường nhiều hơn mà

hồi kí thì thiên về những sự kiện có tính lịch sử. Cũng do đặc điểm này, mà sự hư cấu trong tự

truyện có thể xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người viết. Cho nên nói về giá trị lịch sử thì hồi kí

hơn tự truyện, nhưng đứng về tính chất văn học thì tự truyện có thể hơn hồi kí vì tự truyện thuộc

phạm trù của truyện” [20,218]. Sự khác nhau do hướng đến đối tượng phản ánh khác nhau và đặc

trưng của tự truyện là hư cấu sáng tạo.

Tự truyện và hồi kí rất khó phân chia ranh giới cho rạch ròi, khi phân biệt ta thiếu sự thống

nhất về tiêu chí nhận diện thể loại, nhất là về vai trò của sự thật và hư cấu trong hai thể loại này.

Chính nhà văn Tô Hoài quan niệm: “Trong sáng tạo, không thể đem so sánh các thể loại theo lối

định mức. Bất cứ một sáng tạo văn học nào, khi đạt tới xuất sắc, điều chiếm đỉnh cao của thể loại

ấy và của nền văn học nói chung” [57,26].

Điểm giống nhau giữa Tự truyện với hồi kí là cùng những thể loại văn học mang tính hồi cố,

tái hiện lại quá khứ, nhưng hai thể loại tự truyện và hồi kí nằm ở hai địa hạt không hề trùng khít với

nhau trong hệ thống thể loại văn học: bản chất của truyện cho phép nhà văn hư cấu để tạo nên

những hình tượng hoàn chỉnh, còn bản chất của hồi kí đòi hỏi sự chính xác của sự kiện và những

đánh giá khách quan của người viết kí. Những yếu tố hư cấu, nếu có, chỉ đóng vai trò chức năng, hỗ

trợ cho tư tưởng chính luận.

Điểm khác nhau cơ bản Tự truyện là câu chuyện về cuộc đời một cá nhân, tâm điểm của tự truyện là cái tôi người kể chuyện trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, trong sự tương tác của nó với thế giới bên ngoài. Đấy là một cái tôi trong trạng thái động, trạng thái của sự hình thành, biến đổi, tiến triển về tâm lý, tính cách không ngừng và không hoàn kết.

Trong khi đó, tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài, là cuộc sống và con người trong một thời kỳ lịch sử nào đấy (đặc biệt là khi lịch sử có những biến động lớn), và cái tôi nói chung chỉ đóng vai trò nhân chứng. Đấy là một cái tôi trong trạng thái tương đối tĩnh, trạng thái của kẻ quan sát, phân tích thực tại và ghi nhận một cách khách quan.

Nếu như mối quan tâm đầu tiên của tác giả tự truyện là khám phá gương mặt của chính mình qua hồi ức, thì mối quan tâm đầu tiên của tác giả hồi kí là khám phá gương mặt của thời đại qua những sự kiện mà mình chứng kiến, và trọng lượng của tác phẩm nằm ở chính sức thuyết phục, lay động của những sự kiện thực ấy. Nếu cái tôi trong tự truyện là con người với tất cả chiều kích tâm hồn, bề sâu tư tưởng và tình cảm của nó thì cái tôi trong hồi kí chủ yếu đại diện cho một phương diện nào đó của ý thức xã hội, một xu hướng tiếp nhận và phản ứng nào đó đối với những biến cố và những nhân vật của lịch sử. Bản chất thể loại đòi hỏi sự trung thực, chính xác và khách quan trong việc bao quát toàn bộ hiện thực cuộc sống trong quan hệ với con người.

Ở hồi kí thường thiên về trần thuật các sự kiện. Thỉnh thoảng giữa các sự kiện ấy mới xuất hiện cảm xúc của tác giả. Số lượng sự kiện trong hồi kí thường nhiều hơn so với tự truyện. Bên cạnh cảm xúc cá nhân của tác giả, trong hồi kí có thêm cảm xúc của nhân vật có liên quan. Tác giả tự

truyện thường tập trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của chính mình trong sự

tương tác của nó với thế giới bên ngoài đến những người mình đã gặp, những việc mình đã thấy

hoặc tham dự. Khi viết các tác giả thường hướng vào cái “tôi”bên trong nội tâm của mình. Những

việc xảy ra bên ngoài chỉ làm “nền” cho cái “tôi” ấy. Cái “tôi” tác giả – nhân vật tự do bày tỏ cảm

xúc, suy nghĩ về các sự việc xảy ra trong quá khứ. Trật tự của các sự kiện được phát triển theo tâm

lý, cảm xúc riêng của tác giả. Có những sự kiện có thật được đưa vào trình bày một cách trọn vẹn,

chính xác nhưng cũng có những sự kiện được tác giả lược bỏ đi một số chi tiết để đạt được ý muốn

chủ quan của mình. Bởi vậy tư duy trong tự truyện là tư duy “hướng nội”.

Có thể thấy điểm khác nhau cơ bản giữa tự truyện và hồi kí ở chỗ: cảm xúc, tình cảm cá nhân

của tác giả trong tự truyện thường đậm nét hơn so với hồi kí. Nói khác đi, tư duy tự truyện là “tư

duy” hướng nội, còn tư duy hồi kí là “tư duy” hướng ngoại.

1.2. Hồi kí trong tự truyện và tự truyện trong hồi kí Tô Hoài

Tự truyện là câu chuyện kể về cuộc đời mình, tâm điểm của tự truyện là "cái tôi" người kể

chuyện. Trong quá trình sáng tác người viết tự truyện nhiều khi cũng vận dụng hư cấu “thêm thắt”

“sắp xếp lại”, các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp

lý, nhất quán.

Vậy có hồi kí trong tự truyện là vì tác giả ghi lại những gì có thật (kí). Tác giả hồi tưởng lại

những gì có thật đã trải qua trong quá khứ của chính mình, mà bản chất của hồi kí đòi hỏi sự chính xác. Một tự truyện “lí tưởng” là tác phẩm mang cái nhìn hồi cố về một đoạn đời và nhân cách của tác giả, mà trong đó những sự kiện không đậm nét bằng tính thành thực và tính sâu sắc của những trải nghiệm đó. Vì thế trong tự truyện có hồi kí.

Hồi kí là hồi tưởng lại những điều mà mình có dịp quan sát những sự việc và con người để lại những ấn tượng sâu sắc, gắn bó với những kỷ niệm riêng nhưng lại mang nội dung xã hội phong phú. Tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài.

Vậy hồi kí có chất truyện là trong quá trình sáng tác, tác giả không sắp xếp đơn thuần các sự

kiện mà có hư cấu để làm nổi bật "cái tôi".

Tuy nhiên, sự phân biệt các tiểu loại chỉ có tình chất tương đối. Tự truyện là thể loại có tính giáp ranh, nó nằm ở giao điểm tiểu thuyết và hồi kí, tự sự và trữ tình; và trong hệ thống các thể loại văn học không ngừng diễn ra những mối liên hệ chuyển biến và xuyên thấm lẫn nhau. Một tác phẩm có thể nghiêng về chất tự truyện, chất hồi kí hay chất tiểu thuyết tự thuật tùy trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, trường hợp những tác phẩm Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Những gương mặt, Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài, nếu xét thật khắt khe thì không nằm hoàn toàn trong địa hạt của tự truyện, cũng không đáp ứng hết những yêu cầu của hồi kí. Ngay quan niệm về sự thật cũng là một nét rất khác biệt, chứng tỏ sự thoát ly của Tô Hoài đối với hồi kí kiểu “truyền thống” một sự thật riêng như mình nhớ, như mình hiểu, một sự thật không phải của sự kiện mà của thần thái những con người đã gặp, những thời kỳ đã sống qua, đó là “vẻ lung linh chờn vờn của sự thật” (Vương Trí Nhàn).

Nói chung, một trong những dấu hiệu nổi bật nhất ghi nhận sự biến chuyển nội tại của văn học cũng như gương mặt phong phú của nó qua từng thời đại chính là sự giao thoa và tương tác lẫn

nhau của những thể loại văn học, tạo nên những biến thể, những phức thể đa dạng, phù hợp với sự

phát triển của tiến trình văn học. Có thể nói, với hơn sáu mươi năm viết, ông đã để lại cho nền văn

học hiện đại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Hơn

nữa càng ngày người ta càng nhận ra rằng, cái làm nên giá trị trong văn chương Tô Hoài ngoài

những tác phẩm đã được đánh giá cao thì còn phải thấy ở hai thể hồi kí, tự truyện đã cho ta thấy một

Tô Hoài không lẫn với ai, hóm hỉnh, thông minh, và sống hết mình với nghề văn, nghiệp văn.

Những tác phẩm này đã để lại cho độc giả ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật khỏe, thật trẻ.

Cũng chính vì vậy, luận văn không tách riêng theo từng thể loại mà những đặc điểm nghệ

thuật ấy vừa đúng với tự truyện vừa đúng với hồi kí. Nếu có đặc điểm nào rõ, đặc trưng của từng thể

loại thì sẽ tách biệt ra.

1.3. Về sáng tác của Tô Hoài

Đến với nghề văn thật tự nhiên, ông được nhận xét là “một nhà văn xuôi bẩm sinh” (Trần

Đình Nam). Theo trí nhớ của Tô Hoài thì tác phẩm đầu tiên ông sáng tác là Nước lên: "Cách đây

nhiều năm rồi, gặp năm nước lớn, hương lý làng Nghĩa Đô đốc thúc người đi đê. Trai tráng làng tôi

suốt lượt phải hộ đê từ Tứ Tổng lên tận vùng này. Chúng tôi cơm nắm cơm đùm kéo bộ cả đêm đến

sáng mới tới điếm canh đê hàng tổng. Nhớ làm sao buổi sáng hãi hùng ấy, cái cảnh tôi trông thấy

đoàn người chạy nước từ dưới bãi lên lấm vùi như đàn chuột trong hang đang bị ộc nước. (Về sau,

một trong những truyện ngắn đầu tiên tôi viết, là truyện ngắn Nước lên in trên báo Hà Nội tân văn của anh Vũ Ngọc Phan, trong đó đã chép lại nhiều hình ảnh đau thương hôm ấy) [76]. Truyện Con dế mèn ra đời, đã có sức chiếm lĩnh đối tượng độc giả rộng lớn, ở mọi lứa tuổi. Tô Hoài có khả năng hóa thân vào sự sống của vật và đồng thời đưa đến cho thế giới loài vật sự sống của con người. Ngòi bút của Tô Hoài linh hoạt, quan sát kỹ lưỡng và tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có, có sắc thái giọng điệu riêng, tất cả đều rất sắc nét. Câu chuyện về sự khám phá, rong chơi của con dế cũng là ước mơ của cả đời người. Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng truyện ngắn của mình trong miêu tả thế giới loài vật, trong tập truyện O chuột (gồm 8 truyện) (1942) đa số viết về loài vật một cách sinh động và trong đó có bóng dáng của cuộc sống con người.

Tô Hoài là người nặng lòng với quê hương, ông viết về con người và thiên nhiên một cách gần gũi, có nét riêng như Nhà nghèo (1942); Giăng thề (1941); Quê người (1942), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944) đều miêu tả vùng quê thân yêu của nhà văn. Quá trình gắn bó với vùng đất quê hương đã giúp ông viết rất hay về đề tài này.

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một trong số ít cây bút không phải trăn trở, ngập

ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác phẩm đầu tiên trong thời gian này.

Mảng đề tài Tô Hoài đạt được thành công lớn hơn trong giai đoạn này là cuộc sống con người miền núi. Ông là người tiên phong xây dựng văn học viết về các dân tộc ít người. Ông viết về sự chuyển mình, thay da của vùng đất này trong cách mạng dân tộc dân chủ (Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc…) và trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lên Sùng Đô, Nhật kí vùng cao, Miền Tây…). Viết về miền núi, tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài là Truyện Tây Bắc. Tập truyện được nhận Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955. Truyện Tây Bắc gồm 3 tác

phẩm: truyện Mường Giơn và hai truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A phủ. Tập truyện

miêu tả cuộc đời thống khổ của những người dân miền núi dưới ách thực dân Pháp và bọn thổ ti

lang đạo. Nỗi khổ ấy tập trung vào người phụ nữ. Nhờ có nhà văn Tô Hoài, người đọc có được kinh

nghiệm sống, biết được cảnh đau khổ của nhân dân miền núi, làm nảy sinh những cảm xúc thương

yêu đối với con người và vùng đất này. Còn tác phẩm Miền Tây là một sự đóng góp tích cực của Tô

Hoài trong việc miêu tả những bước đi đầu tiên đầy gian khổ của vùng đất này lên xã hội chủ nghĩa.

Miền Tây được Giải thưởng Hội nhà văn Á - Phi năm 1972.

Sau Miền Tây, đề tài về vùng cao vẫn còn được Tô Hoài tiếp tục viết: Tuổi trẻ Hoàng Văn

Thụ (1971); Họ Giàng ở Phìn Sa (1984); Nhớ Mai Châu (1988). Đây là đề tài tác giả viết thành

công vì có nhưng năm tháng đi thực tế, gắn bó với vùng đất miền núi và khả năng nắm bắt tinh

nhạy.

Trở về với những miền thân thuộc qua mảng hồi kí và tự truyện, mảng đề tài Hà Nội - ngoại

ô, quê ông vẫn là đề tài chủ yếu trong những sáng tác của ông. Những kỉ niệm trong quá khứ với gia

đình, bạn bè thôi thúc ông viết : Từ Cỏ dại đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), đến

Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự trở về trọn vẹn

của Tô Hoài với những miền thân thuộc, quê hương yêu dấu của ông.

Tô Hoài đã sớm xác định cho mình văn chương là sự thật ở đời nên quyết tâm đi vào con

đường của chủ nghĩa hiện thực. Và khi đã viết là say mê hết mình “ trong ngoài ba năm viết như

chạy thi”(Phong Lê), Tô Hoài đã để lại một khối lượng lớn các tác phẩm, làm nên một Tô Hoài mang dấu ấn riêng.

Tóm lại, toàn bộ sáng tác của Tô Hoài đã có những đóng góp to lớn và hết sức quan trọng cho sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của Tô Hoài đưa đến người đọc những hiểu biết thêm về đời sống, về ngôn ngữ và cũng chính những sáng tác của Tô Hoài mà người ta hiểu hơn thế nào là văn chương chân chính, đích thực.

1.4. Vị trí của tự truyện, hồi kí trong sáng tác của Tô Hoài

Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà văn lớn và có nhiều đóng góp về nhiều thể loại văn học khác nhau. Tác giả thành công khi viết về đề tài miền núi, về loại vật, về Hà Nội. Bên cạnh đó ta nhận thấy thời gian sẽ trôi qua nhưng những ấn tượng của độc giả nhớ nhiều nhất về tác phẩm của Tô Hoài là mảng tự truyện, hồi kí của ông.

Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định thế mạnh về tự truyện, hồi kí của Tô Hoài ở việc tái hiện tiếng nói của cái tôi “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài…ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy” [27]. Còn Phong Lê lại nhấn mạnh ở yếu tố hồi ức: “Hồi ức và tự truyện – đó là một mảng viết đặc sắc, nếu không nói là đặc sắc nhất của Tô Hoài, nơi một bộ nhớ tuyệt vời và một tuổi thọ khoẻ mạnh và minh mẫn” [50].

Qua những nhận định trên, ta thấy các nhà phê bình đã có những nhận xét và đánh giá rất cao về mảng hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Có được điều đó là do sức viết dẻo dai, bền bỉ, suốt đời đi tìm cái đẹp trong cuộc đời. Với một bản lĩnh nghề nghiệp dám nói lên sự thật bằng giọng văn rất

riêng, tạo nên những đặc sắc về nghệ thuật. Đặc biệt sức hấp dẫn từ việc xây dựng " nhân vật trung

tâm" – "cái tôi" của tác giả – cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực. Thực sự

với thể loại này Tô Hoài đã để lại “ dấu ấn riêng trên từng trang giấy”. Tô Hoài sáng tác tự truyện,

hồi kí từ rất sớm.

Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học. Theo Tô Hoài, dù là sáng tác

theo thể loại nào cũng phải “Nói được sự thật để khiến cho người đọc cảm xúc từ đó gây suy nghĩ

cho họ”. Tác phẩm văn chương phải bắt nguồn từ hiện thực và đem đến cho người đọc những cảm

xúc thẫm mỹ. Bởi tư tưởng của tác phẩm là tư tưởng – cảm xúc, “tư tưởng nhiệt hứng” (Bielinxki).

Xuất phát từ quan niệm viết tự truyện, hồi kí như là một cuộc đấu tranh tư tưởng nên Tô Hoài coi tự

truyện, hồi kí là một trong những thể loại trong đó rất cần đến sự sáng tạo của người nghệ sỹ. Đó là

những trang ghi chép những sự việc đời tư đã lùi vào quá khứ, song ghi chép ở đây không phải là

một bản sao sự việc mà là sự sáng tạo. Viết tự truyện, hồi kí là nhằm đáp ứng những yêu cầu của

hiện tại bằng những câu chuyện kể lại về đời tư, về người thật việc thật ngày hôm qua do chính

người kể chuyện chứng kiến và tham gia vào sự việc.

Một người có vốn sống từng trải, phong phú như Tô Hoài mới có khả năng viết được thành

công “từ những hiện tượng vừa vặt vãnh lại vừa tinh tế ấy, đôi lúc tưởng ngẫu nhiên đến thế mà có

sức ngồi dậy trong sáng tạo chỉ vì nó đã được cái nền sống già dặn từng trải của anh xét duyệt rồi

quyết định cho trở ra sống lại một lần nữa” [57].Với tự truyện, hồi kí, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của nhà văn, với ông đó không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì “khi viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép ta giản đơn. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu” người thật việc thật ấy, nhưng hiểu được việc thật ấy sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép của anh” [57].

Tố Hữu đã từng nói: “Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Điều đó không chỉ đúng với thơ bởi khi đọc Tự truyện, Cát bụi chân ai, rồi Chiều chiều , người đọc luôn cảm phục bởi một trí nhớ tuyệt vời, một sự gắn bó tha thiết với cuộc đời. Những hồi ức, những kỷ niệm của cả một đời người bao giờ cũng in đậm trong trí nhớ của tác giả. Tô Hoài đã nhận ra yếu tố cảm xúc rất quan trong trong sáng tác: “Một việc, một người, một nhận xét ở bất cứ quãng sống nào trong đời khi đạt tới mức thật tha thiết thì có sức nhập vào, sức thúc đẩy (hoặc sức dằn vặt ta) cho ta những suy nghĩ liên tiếp – nghĩa là những mầm mống của sự sáng tạo”. Những mầm mống của sự sáng tạo ấy phải được cất lên từ hơi thở, từ mồ hôi và máu của cuộc sống. Nếu tác phẩm văn chương là phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thật thông qua thái độ chủ quan của người viết thì Cỏ dại giúp chúng ta hiểu một cách sinh động những gì đã tạo nên tâm hồn cũng như những nét đặc sắc trong phẩm chất nhà văn. Tác giả kể lại một cách xúc động về “Những ngày thơ ấu nó leo hoang trong đám cỏ bên lề đường đi. Cái giống cỏ dại, cỏ không tên, rườm rà, chen khít bò ngẩn ngơ trong mấy khoảng đất rác rưởi”. Cảm xúc rất mạnh, liên tục, với sức sống lan nhanh như loài cỏ hoang. Một tình cảm chân thành và một trí nhớ tuyệt vời. Mỗi nghệ sĩ – nhà văn có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan khác nhau nên sự tái hiện lại hiện thực khách quan cũng khác

nhau. Sự phản ánh hiện thực khách quan ấy được thể hiện trong cả gia tài nghệ thuật của họ.

Cỏ dại và Tự truyện là những dấu ấn đầu tiên để Tô Hoài viết những hồi kí tiếp theo trong

hành trình viết hồi kí – một hành trình đấu tranh tư tưởng của mình. Với Cỏ dại và Tự truyện, người

đọc thấy tác giả không chỉ tái hiện lại cuộc đời của chính mình mà còn tái hiện cả bức tranh đời

sống, bức tranh sinh hoạt trong môi trường sống của cá nhân nhà văn. Một không khí u buồn, đen

tối đè nặng trong tác phẩm thông qua giọng điệu trần thuật, thông qua sự việc và con người hiện ra

qua trang sách. Tác giả không đi vào phản ánh những mâu thuẫn giai cấp dữ dội, quyết liệt song

người ta thấy được tất cả sự buồn chán về một kiếp người, buồn về sự bần cùng, bế tắc. Đâu đó

trong tác phẩm cũng le lói một chút hy vọng và niềm tin. Hình ảnh tác giả trong những ngày lang

thang kiếm sống ở trường đời là xã hội, hết bán giầy ở hiệu giầy Bata đến làm kế toán sổ sách giấy

tờ cho hãng, rồi những ngày thất nghiệp lang thang vất vưởng, những ngày phiêu bạt ra Hải

Phòng…Tự truyện của Tô Hoài thực sự là câu chuyện viết về chính mình và những người xung

quanh mình.

Do đó hành trình đến Cát bụi chân ai (1990) và Chiều chiều (1999) đã khẳng định ngòi bút

chân thực, khách quan, không tô điểm của Tô Hoài. Trong những dòng hồi kí ấy, Tô Hoài vừa cho

người đọc thấu hiểu một thời kỳ lịch sử, vừa cho người đọc chiêm ngưỡng các tác gia văn học từ

góc độ sinh hoạt đời thường. Như vậy với phong cách đặc biệt, Tô Hoài đã đem đến cho nền văn

học Việt Nam những tác phẩm hồi kí xuất sắc. Trong đó Cát bụi chân ai là cuốn hồi kí tiêu biểu in

đậm phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Ở độ tuổi “thất thập”, Tô Hoài đã thể hiện độ chín cả về cái nhìn và tư tưởng nghệ thuật, cộng thêm một vốn sống phong phú, Cát bụi chân ai đã thực sự gây chú ý của độc giả và khẳng định một lần nữa vị trí không thể thiếu của nhà văn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Nguyễn Văn Thạc trong Mãi mãi tuổi 20 viết: “Trên trang sách, cuộc sống tuyệt vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trọn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”. Hiện thực của cuộc sống rất phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người. Mà phải là một cây bút tinh tế, tỉ mỉ và bản lĩnh mới thể hiện được hết ý tưởng của mình trên trang giấy. Những điều đáng nói hơn cả là tác giả đã viết được rất hay về chính mình, không quá cường điệu mà cái tôi cá nhân vẫn hiện rõ. Hơn nữa để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hiểu cả về một thời đại đã qua thì thật là thú vị.

Hành trình viết hồi kí của Tô Hoài là hành trình xuyên suốt trong quá trình sáng tác của ông. Mỗi tác phẩm hồi kí là một sự chiêm nghiệm về cuộc sống, về con người, về lịch sử và trên hết đó là sự thật, vì Tô Hoài quan niệm: sự thật đã là đẹp rồi. Vì: “Cái đẹp mà văn học đem lại không phải là cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá một cách nghệ thuật” [14,57].

Tô Hoài quan niệm: “Với tôi, dù viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay hồi kí thì tôi vẫn cố gắng viết gần nhất với sự thật, tiến tới sự thật. Tất nhiên, cái “góc độ” sự thật nó cũng linh động lắm. Nhưng từ góc độ của tôi và do tôi lựa chọn thì tôi đảm bảo thế là đúng nhất, gần nhất”. Có thể nói, hồi kí Việt Nam hiện đại đã tiến triển theo hướng tái hiện quá khứ một cách chân thực, đồng thời thể hiện được cái tôi tác giả ngày càng sâu sắc, phong phú và mới lạ, đáp ứng nhu cầu nhận thức quá khứ phức tạp của những thời đã qua.

Trong dòng chảy chung của hồi kí hiện đại, hồi kí Tô Hoài đã mở ra những khả năng mới của

hồi kí trong việc thể hiện đời mình và đời người, đem đến cho văn học những màu sắc mới mẻ. Cát

bụi chân ai và Chiều chiều là những khúc nhạc lòng vừa xao động những âm thanh nhỏ nhẹ, ân tình,

vừa ẩn chứa tiếng cười hóm hỉnh, cảm xúc đằm thắm, chân tình lẫn niềm suy tư, trăn trở. Kho hồi

ức về chuyện đời, chuyện người, chuyện văn, chuyện thời đại trong tâm trí nhà văn cứ miên man

tuôn chảy như dòng suối, lúc dào dạt, lúc gập ghềnh, khúc khuỷu. Phong Lê khi đọc những tác

phẩm này đã cảm thấy “bị cuốn hút bởi những gì mới mẻ, không trùng lặp, không nhạt mờ, kém sút

trong cái kho kỷ niệm lúc nào cũng dư đầy trong Tô Hoài”. Và cũng vì thế mà hồi kí của Tô Hoài

đã đọng lại trong lòng người đọc dư âm và ấn tượng khó quên. Ở đó có những con người, cuộc

đời… tưởng chừng hết sức thường tình, bình dị, nhưng mang nhiều ý nghĩa cao đẹp, đáng trân trọng

và có cả những uẩn khúc đáng thương. Chẳng lên giọng, không quan trọng hóa, cũng chẳng cần

phải khiêm nhường, Tô Hoài cứ tự nhiên mà kể về những gì mình đã biết, đã trải trên dòng đời gần

suốt thế kỷ.

Bên cạnh những suy tư về cuộc đời, về số phận con người, ba tập hồi kí Cát bụi chân ai,

Chiều chiều và Chuyện cũ Hà Nội còn đưa ta đến những vùng đất gian nan nhưng nghĩa tình (mà

nổi bật là vùng Tây Bắc trong những năm kháng chiến, vùng quê Thái Bình trong thời kỳ Cải cách

ruộng đất), và phản ánh sự đổi thay của xã hội với những bước đi của thời đại cách mạng. Mỗi cuốn

hồi kí là một bức tranh về cuộc đời, con người, về đất nước và thời đại, chứa đựng bao nỗi trăn trở

của nhà văn. Hồi kí của Tô Hoài cho ta thấy một ngòi bút có duyên, thông minh, sắc sảo, hóm hỉnh,

tinh tế. Theo dòng hồi ức, ông đi từ chuyện này sang chuyện khác một cách tự nhiên “có lúc tưởng như lan man mà không kề cà, vô vị” [76]. Ngôn ngữ nhân vật trong hồi kí Tô Hoài được cất lên từ đời sống. Các chi tiết nghệ thuật trong văn ông là kết quả của một quá trình quan sát tinh và sắc. Ở ông không có sự chua chát, tự trào như hồi kí của Vũ Bằng, không giàu chất thơ như hồi kí Anh Thơ. Hồi kí Tô Hoài hóm hỉnh, giàu chất suy tư. Đó chính là “điểm nhấn” của Tô Hoài trong hồi kí Việt Nam hiện đại.

Vậy nếu cuốn Cỏ dại đã phát hiện ra khả năng của tác giả trong việc nắm bắt quá khứ ngay khi nó vừa hình thành cũng như khách quan hoá bản thân biến mình thành một đối tượng miêu tả thì cuốn Tự truyện cho thấy ông sống kỹ lưỡng biết bao với đời sống quanh mình, từ chuyện riêng tư đến chuyện làm nghề, rồi chuyện hoạt động cách mạng, cái gì cũng có thể đưa lên trang giấy để trở thành văn chương, sức chứa của đầu óc ông thật hơn người mà sự chi li tỉ mỉ thì lại ít ai bì kịp.Tuy nhiên, phải đến khi Cát bụi chân ai và tiếp đó Những gương mặt rồi Chiều chiều ra đời thì ngòi bút hồi kí của Tô Hoài mới thật có dịp tung hoành giữa những chuyện đã sống qua để rồi dựng lên ngồn ngộn một bức tranh hoành tráng. Trong lòng bạn đọc và nhất là trong lòng đồng nghiệp, Tô Hoài như vừa tái sinh để trở lại với cái thời lẫy lừng uy tín. Một quá khứ luôn luôn được ông cho dồn vào hiện tại, được hiện tại hoá; nhưng vẫn trong trang phục của quá khứ. Nhà văn không lôi cuốn chúng ta ở những mảng sống bạo liệt hay những nhân vật tầm vóc thổi bùng lên những biến động lớn lao. Mà ông viết về những gì đã gặp, đã trải. Một bộ phim truyền hình làm về Tô Hoài gần đây rất gợi ấn tượng trong cảnh Tô Hoài đi dọc bức tường ngôi nhà của ông ngoại tác giả. Cũ kỹ xù xì nhưng đằm chắc vững chãi, những bức tường như thế tượng trưng cho cái cuộc sống mà Tô Hoài vừa nương tựa vào vừa tìm cách thâm nhập để tìm thấy cảm hứng trong suốt đời viết. Viết hồi kí, tự

truyện Tô Hoài đã khẳng định: sống đến đâu viết đến đấy. Thực tế không ở đâu xa , thực tế là ngay

chính con người bản thân mình và chung quanh.

Hơn nữa khi viết tự truyện, hồi kí rất cần đến khả năng ghi nhận đời sống. Đó là khả năng

nhìn, khai thác và biểu hiện, để cho sự thật – cuộc đời thành sự thật – nghề nghiệp. Nghĩa là sự thật

để lại ấn tượng và tạo được mỹ cảm trong tiếp nhận của người đọc. Sự thật đó phải được “lạ hóa”

bằng tài năng và phẩm chất nghệ nghiệp. Ngoài tài năng cần phải có bản lĩnh và nhiều khi cần đến

lòng dũng cảm. Bởi có lắm sự thật không dễ nghe. Cho nên nói cho hết cái bí mật của lặng im người

viết cần nhiều đến bản lĩnh và cách nói khéo léo.

Đọc tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, ta thấy thật xúc động với những cảnh đời tư hiện lên thật

thiêng liêng tha thiết vừa buồn, vừa vui đan xen thể hiện rất thực cuộc sống đời thường. Bàng bạc

trong tác phẩm của Tô Hoài ta thấy rõ: đời đẹp và buồn. Điều này ta cũng đã gặp đâu đó trong cuộc

đời và văn chương song ở đây Tô Hoài đã sống cái cảm giác ấy và diễn tả một cách thấm thía, ông

biết truyền nó sang người đọc theo cái cách riêng của mình. Cho nên trong tác phẩm, nhà văn đã

miêu tả những mảnh đời nhỏ bé nhưng thực ra đã vươn tới cái điều mà các tác giả lớn xưa nay vẫn

khái quát. Dưới con mắt của nhà văn mọi kỷ niệm không chỉ được biến thành những cái vĩnh hằng,

cái cao thượng mà có cả sự vật, con người gần gũi với đời sống hàng ngày. Nhân vật không chỉ

được tắm mình trong cái ánh sáng lung linh huyền ảo của quá khứ mà hiện ra như những con người

bình thường, thậm chí tầm thường. Chính điều này làm cho tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có được cái nhìn tiểu thuyết. Ông đã tiếp cận cuộc sống trong sự xô bồ gần gũi nhất.

Tô Hoài có một sức sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi, kiên nhẫn, đều đặn và liên tục, đủ để đưa ông trở thành một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành công và ghi được dấu ấn riêng. Riêng ở thể hồi kí, tự truyện ông cũng đã khẳng định được tài năng và sức sáng tạo mãnh liệt của mình. Trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí và tự truyện. Chúng ta nhận ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết hồi kí, tự truyện của Tô Hoài

Vậy vì sao Tô Hoài có được sự thành công ở hai thể hồi kí và tự truyện cả về số lượng lẫn chất lượng như thế? Có lẽ có nhiều lí do, đầu tiên là yếu tố chủ quan: khi Tô Hoài kể đi phụ bán ở hiệu giày Bata vừa viết văn, lần đầu tiên nhận nhuận bút, ông sung sướng không dấu được nỗi vui mừng vì tiền nhuận bút một bài viết hơn cả một tháng lương. Ông kể: “Tôi không thể so sánh và tượng tượng ra giá một bài báo và công xá những công việc tôi đã làm bấy lâu để kiếm sống. Hãng giày Bata mỗi tháng trả lương tôi sáu đồng. Bây giờ một cái truyện ngắn tôi được mười đồng, lại có băng quấn quanh tờ bạc, ngoài đề tên mình. Ôi, lịch sự! Mà một tháng tôi có thể viết mấy cái truyện ngắn! Điếc không sợ súng, tôi cứ viết tràn lan” [76]. Có lẽ ngay từ giây phút đó Tô Hoài đã xác định: “Bây giờ khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi cũng không có mục đích gì, đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết văn”. Tô Hoài quan niệm viết văn là một nghề – một nghề kiếm sống như bất cứ nghề nào. Đã xác định là nghề thì phải viết, phải lao động nghệ thuật một cách chăm chỉ, cần mẫn. Cho đến bây giờ ông vẫn say mê viết. Nguyên Ngọc đã nhận xét:“Tô Hoài là vậy, nhà văn cần mẫn và tài hoa “đục đẽo” suốt đời vào cái

thứ đẹp nhất mà cũng khó nhất trên đời, là nghệ thuật”. Đây là một quan niệm hoàn toàn nghiêm

túc. Vì thế ông chọn nghề viết văn là nghề để kiếm sống, thật dễ hiểu bởi nó phù hợp và hết sức

chân chính. Nhà văn đã tìm đến với những thể loại mà ở đó sự trải nghiệm và sức viết dồi dào được

dịp thể hiện một cách đầy đủ nhất. Nguyễn Đăng Mạnh nhận ra rằng: “Tôi cho rằng Tô Hoài sinh ra

để viết hồi kí, tự truyện. Dường như ông có một thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi

tưởng…” [27,299].

Bản chất của văn chương là sáng tạo không chấp nhận sự dễ dãi và cẩu thả. Tô Hoài ý thức

được rằng nghề viết văn là nghề hết sức nghiêm túc. Ông đã xác định: “Nghề viết là nghề phải học

suốt đời” và “sẽ không thể viết được gì nếu không có một trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách

sâu xa” và “nếu nhát sợ nhu nhược, chủ quan, chỉ quanh quẩn gặm nhấm dăm ba suy nghĩ cũ, đã

sẵn trong đầu, không chịu tiếp xúc và nghiên cứu đời sống, không thể thành cuộc sống, không xứng

đáng cầm bút” [57]. Còn khi đặt bút sáng tạo thì ông trăn trở: “Cầm bút viết không lúc nào không

lo. Một chữ phải là một hạt ngọc trên trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất, của mình tìm

được, do phong cách văn chương của mình mà có. Trang sách mà không có ngọc, trang bản thảo

không có chữ thần, không có tinh hoa thì cái hồn của tác phẩm, từ tư tưởng đến nhân vật, tất cả bao

nhiêu ước vọng, khát khao ta gởi gắm vào sáng tác biết lấy gì mà sống được. Không có chữ nuôi nó,

nó trống rỗng rồi chết héo đi. Nghĩ đến sáng tác nghèo nàn, còi cọc, bao giờ cũng giật mình”.(Tô

Hoài) Cái “giật mình” thật đáng quí của một nhà văn đầy tinh thần trách nhiệm. So với nhiều nhà

văn cùng thời với mình,Tô Hoài nổi lên ở sự viết nhiều, viết khoẻ. Ở đây có yếu tố tự nhiên nó là một thứ của trời cho riêng ông (năng khiếu), dường như tác giả không cần cố gắng bao nhiêu mà văn chương vẫn cứ miên man không bao giờ hết. Song cần nói thêm trong số nguyên nhân có thể cắt nghĩa viết được như thế này, nhà nghiên cứu Đặng Tiến sau khi đọc Chiều chiều đã nhận xét: “Nói chung, kể cả những truyện hư cấu truyện lịch sử Tô Hoài viết cái gì thì cũng ra tự truyện”. Tức là viết gì Tô Hoài cũng kéo nó gần với mình đặt nó dưới góc nhìn riêng và tiêu hóa nó, biến nó thành của mình.

UTiểu kết chương 1:U Trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí, tự truyện chúng tôi thấy hai thể loại tự truyện và hồi kí – vốn rất gần gũi nhau. Nên cần phải thấy sự cần thiết và tính tương đối khi phân biệt tự truyện, hồi kí trong nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài. Phải dựa vào kết cấu, nhân vật và kiểu tư duy của tác giả để xem xét. Điểm để nhận rõ được sự khác biệt là yếu tố cảm xúc, tình cảm cá nhân của tác giả trong phản ánh hiện thực. Trong quá trình nghiên cứu thấy được sự giao thoa có yếu tố hồi kí trong tự truyện và có tự truyện trong hồi kí Tô Hoài. Có hồi kí trong tự truyện là vì tác giả ghi lại những gì có thật (kí). Tác giả hồi tưởng lại những gì có thật đã trải qua trong quá khứ của chính mình, mà bản chất của hồi kí đòi hỏi sự chính xác. Vì thế trong tự truyện có hồi kí. Còn hồi kí có chất truyện là trong quá trình sáng tác, tác giả không sắp xếp đơn thuần các sự kiện mà có hư cấu để làm nổi bật "cái tôi". Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học

Xác định rõ văn chương là một hình thái lao động nghệ thuật cao quí. Xác định quan niệm nghề nghiệp nghiêm túc, đúng đắn nhà văn Tô Hoài đã dành được thành công cho mình trên lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật nói chung và với hai thể hồi kí, tự truyện nói riêng.

Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà văn lớn và có nhiều đóng góp về nhiều thể loại văn học khác

nhau. Tác giả thành công khi viết về đề tài miền núi, về loại vật, về Hà Nội. Bên cạnh đó ta nhận

thấy thời gian sẽ trôi qua nhưng những ấn tượng của độc giả nhớ nhiều nhất về tác phẩm của Tô

Hoài là mảng tự truyện, hồi kí của ông. Tô Hoài có một sức sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi, kiên nhẫn,

đều đặn và liên tục, đủ để đưa ông trở thành một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt

Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành công và ghi được dấu ấn riêng. Riêng ở thể

hồi kí, tự truyện ông cũng đã khẳng định được tài năng và sức sáng tạo mãnh liệt của mình. Trong

quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí và tự truyện. Chúng ta nhận ra những

nét đặc sắc trong nghệ thuật viết hồi kí, tự truyện của Tô Hoài .

Chương 2: NGHỆ THUẬT TÁI HIỆN, TÁI TẠO HỒI ỨC VÀ TIẾNG NÓI CỦA CÁI TÔI TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI

2.1. Hồi kí, tự truyện Tô Hoài – Thế giới của hồi ức

Bản thân khái niệm hồi kí, tự truyện đã bao hàm tính chất hồi cố, tái hiện quá khứ. Tác giả

hoài niệm, hồi tưởng về những cái đã qua: “Những từng trải và kỷ niệm cả đời thúc giục, đã viết ra

đấy, nhưng chưa bao nhiêu. Mỗi ngày qua trở thành một ám ảnh, bởi chưa cầm bút thì cứ mãi mãi

khắc khoải. Khi thấm thía, khi chợt nhớ đêm nay ngồi quán cóc ông lão 81 lại nhớ người hầu bàn

nhà Thuỷ Tạ Bờ Hồ xưa kia” [63,28]. Nghệ thuật tái hiện hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện –

hồi kí Tô Hoài. Người kể lại câu chuyện đời mình là người đi tìm gương mặt chính mình. Là người

khám phá và sáng tạo ra cái tôi bằng chính cái tôi. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá

khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại khi đã trưởng thành, khi đứng tuổi để

nghĩ về quá khứ trong đó có gia đình, quê hương bối cảnh xã hội được nhớ lại, ghi lại. Hiện thực

không phải như trong truyện ngắn, tiểu thuyết mà hiện thực ở đây là trong quá khứ có một khoảng

cách về không gian thời gian so với hiện tại trong tác phẩm. Hồi ức bao giờ được hiện lên? bao giờ

được hồi tưởng lại? Chỉ khi từ một sự việc, hình ảnh quá ấn tượng, gây sốc, hoặc để lại một tổn thất đau đớn nào đó mà con người không thể nào quên. Khi hồi tưởng lại nhu cầu được nhớ, được viết trỗi dậy, thăng hoa cảm xúc. Đó là những lúc con người sống thật nhất, chân thành nhất với chính mình. Xét từ khía cạnh này, viết tự truyện, hồi kí chính là một phương tiện giải phóng những năng lực nội tại của con người, cho con người một cơ hội để nhận thức lại mình.

Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm rất thực về cuộc sống hay về chính mình…Nhà văn không gợi lại quá khứ chỉ vì quá khứ, mà vì hiện tại mình đang sống, và quá khứ trong quan hệ với hiện tại cũng là điều bảo chứng cho một định hướng trong tương lai. Theo những ý nghĩa ấy, cuộc sống có thể không trải dài qua thời gian mà mở rộng xuống chiều sâu của tinh thần. Hiện thực trong tác phẩm hồi kí, tự truyện của Tô Hoài khác với hiện thực đã được tưởng tượng sáng tạo lại ở các loại hình văn học khác của Tô Hoài và những tác giả khác. Như trường hợp ở tác phẩm Cỏ dại, Tự Truyện, Mười năm và Những gương mặt, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội, hiện thực thuộc về hôm qua được nhìn lại để suy ngẫm trải nghiệm. Nói cái hôm qua để gián tiếp nói đến cái hôm nay. Chính vì thế, cách nhìn thể loại đã chi phối các đặc điểm khác của thể loại hồi kí và tự truyện.

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn cũng có những nhận xét về thể hồi kí của Tô Hoài. “Trong cái động có cái tĩnh, dường như trong kho văn chương của tác giả luôn có một góc riêng dành cho cái mà người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được ông quan niệm như một bộ phận không thể thiếu của hiện tại” [76,927– 928]. Hồi kí là một cách thể hiện nhu cầu khám phá đời sống và con

người qua việc hồi tưởng và sự sắp xếp các mạch của hồi ức.

Điều hiển nhiên là quá khứ đã xảy ra, những gì đã mất đi trong cuộc đời không bao giờ có thể tìm lại được nguyên vẹn. Bức chân dung tự họa không cho ta một hình ảnh nguyên vẹn như đời

thực mà là hình ảnh nhìn từ một góc độ nào đấy, theo một chiều kích nào đấy. Cũng như vậy, tự

truyện không phải là sự tái hiện đơn thuần về quá khứ như nó đã xảy ra, bởi lẽ quá trình tâm lý của

sự hồi tưởng và tái hiện sẽ cho chúng ta không phải là chính bản thân quá khứ mà là sự hiện diện

trong tinh thần của một thế giới không bao giờ còn trở lại. Quá khứ được gợi lại đã mất đi sự vững

chắc và nguyên vẹn của nó, nhưng một khi được hồi tưởng và dựng lại sau một hành trình dài phân

tán và tìm kiếm qua thời gian, quá khứ ấy sẽ có một mối quan hệ mới và mật thiết hơn với cuộc đời

hiện tại của cá nhân. Khi nhà văn đặt bút viết tự truyện, hồi kí chất liệu của quá khứ sẽ được hồi ức

và trí tưởng tượng tổ chức lại tương ứng với tình trạng ý thức hiện tại và những nhu cầu của sáng

tạo nghệ thuật. Và khi đi vào tổ chức nghệ thuật của tự truyện, hồi kí “cuộc sống” của “một con

người có thật” sẽ không còn quá khứ khách quan nữa mà là quá khứ từ điểm nhìn của hiện tại – tính

chân thực của nó nằm ở cái nhìn, cách nhìn chứ không phải bản thân sự kiện.

Thế giới hồi ức trong hồi kí và tự truyện Tô Hoài là thế giới thuộc về quá khứ. Thứ nhất khi

hồi tưởng Tô Hoài thường nhớ đến các sự kiện để lại ấn tượng sâu đậm có sức tác động lớn đến bản

thân và mọi người xung quanh.

Thứ hai dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình

của nhân vật. Tô Hoài thường trần thuật những điều gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Thế

giới trong hồi ức là cuộc đời được khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình.

Thứ ba dòng hồi tưởng có khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong lúc hồi tưởng của nhà văn. Thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Hiện thực trong tác phẩm hồi kí và tự truyện của Tô Hoài khác với hiện thực đã được tưởng tượng sáng tạo lại ở các loại hình văn học khác của Tô Hoài và những tác giả khác. Thứ tư trong hồi kí,tự truyện của Tô Hoài đôi khi có sự đan cài chồng chéo các lớp thời gian, sự kiện khi hồi tưởng.

Hiện thực sống động trong cuộc sống đã được tác giả quan sát tỉ mỉ, ghi chép cẩn thận, bằng trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ, ông đã viết nên những trang văn đầy ắp tình người, tình đời. Với cảm xúc chân thành mãnh liệt thì tác phẩm bao giờ cũng có sức mạnh hiện tại hóa quá khứ. Thứ nhất khi hồi tưởng Tô Hoài thường nhớ đến các sự kiện để lại ấn tượng sâu đậm có sức tác động lớn đến bản thân và mọi người xung quanh. Thế giới được hồi tưởng là những sự kiện, thời gian đáng nhớ được nhà văn chắt lọc và sắp xếp đầy dụng ý nghệ thuật. Cách hồi tưởng làm nổi bật lên thời gian lịch sử với bao biến động tác động mạnh đến đời sống con người3T: "Cái hôm Tây chiếm tỉnh Hà Nội lần thứ hai, ông tôi đương trèo đẵn một cây xoan. Nghe phía ngoài thành, tiếng súng nổ đùng đùng. Người trong làng nhốn nháo...[76,9] "Cái hôm Tây chiếm tỉnh Hà Nội lần thứ hai"3T. Sự kiện lịch sử ấy là mốc đánh dấu sự đổi thay của cuộc sống, thay đổi vận mệnh của con người, của dân tộc. Báo hiệu một cuộc xâm lược bằng vũ trang qua 3Ttiếng súng nổ đùng đùng. Sức phản ánh của câu văn lớn vừa cho thấy tình hình thời cuộc vừa phản ánh lòng người lo lắng, bất an: "Người trong làng nhốn nháo". Hoàn cảnh đó đúng thực như: "Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây" của Nguyễn Đình Chiểu năm xưa. 3T Trong tự truyện, hồi kí một điều chúng ta dễ nhận thấy là những mốc

sự kiện lịch sử chỉ được Tô Hoài phác họa thoáng qua nhưng cũng đủ để chúng ta nhận diện được

một cách tổng quát về tình hình xã hội lúc bấy giờ. "Hồi ấy, những ngày 1938 sôi nổi đã qua. Chiến

tranh thế giới chống phát xít đã nổ ra rồi – dù rằng đến phút cuối cùng, ... thật đen tối thật khốn

khổ" [76,114]. Như vậy, thời gian lịch sử là thời gian hiện thực với những sự kiện quan trọng, đánh

dấu bước đi và nấc thang có ý nghĩa của mỗi dân tộc. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về

quá khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại, khi hoàn cảnh lịch sử đã thay

đổi nghĩ về quá khứ để nhận thức về một thời kì: "thật đen tối thật khốn khổ". Có một sự kiện này

có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhiều nhà văn cũng như độc giả: "Báo Nhân Văn

ra đến số 6 bị tịch thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi chẳng

biết ai chủ trương cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân Văn. Nhà xuất bản Minh Đức

đóng cửa. Hồi ấy, báo in còn ít, chỉ tính số nghìn. Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ,

cuối năm 1956.” [63,77] Đó là thời điểm“cuối năm 1956” những hệ lụy của sự kiện này sẽ không

bao giờ lịch sử có thể quên. Sự kiện này không chỉ thể hiện cái nhìn chân thực của tác giả mà còn là

cái mốc lịch sử không quên. Những sự kiện ấy ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người và gây không

ít ảnh hưởng trong giới văn nghệ sĩ một thời gian dài. Mở đầu tác phẩm Mười năm tác giả tô đậm

cảnh buổi chiều cuối ngày căng thẳng vì cảnh thuế thúc, trống dồn: "Tùng...tùng...tùng...tùng...Tiếng trống thôi thúc ing ỏi, ra riết, gay gắt, càng về những ngày cuối càng gay gắt. Không biết nhưng ai mười tám tuổi trở lên phải chạt đông chạy tây lo thuế nào thì lo, nhưng cứ mỗi lúc tưng hồi trống

ngoài đình nổi lên liên miên ba tiếng một thi trẻ con các xóm lại cất cổ nhại theo: tiền....tiền...tiền...tiền [73,5]. Không khí thật ngột ngạt, ông lật lại mảnh đất hiện thực đào xới lại tiếng nói “đau khổ” để cho ta nghiền ngẫm. Cách tô đậm thời gian giúp cho ngòi bút của Tô Hoài dựng lại được không khí cuộc sống, không phải chỉ ở những biến cố hệ trọng mà còn dựng lại không khí của những bức tranh sinh hoạt cụ thể mang đậm dấu ấn thời đại.

Tác dụng khi đặt con người trong bối cảnh sống, liên quan đến những sự kiện quan trọng, có sức tác động lớn sẽ giúp chúng ta tiếp cận con người và hiện thực ở cự li gần đồng thời cung cấp cho độc giả những tư liệu quý giá, và đầy xác thực.

Hơn nữa dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình của nhân vật. Tô Hoài thường trần thuật những điều gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Thế giới trong hồi ức cuộc đời được khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình. Hồi ức về mẹ thật cảm động: “Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tươi mát và sinh động. Ta càng xa tuổi thơ thì hồi ức đó càng rõ rệt, dễ hiểu và thân thiết” (N.V, Sengunop). Hồi ức – nhân vật “tôi” đang nhớ lại điều bản thân đã trải qua. Cảm xúc về mẹ – đấng sinh thành, là điểm tựa tinh thần luôn đem đến cho ta một cảm giác dễ chịu, thân thiết. Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tạo được niềm vui và niềm tin trong ta. Khi trưởng thành, hồi ức về mẹ càng gần gũi, sinh động và tươi mát.Trong đôi mắt của con không ai gần gũi và thân thương bằng mẹ, cũng không có cảm xúc nào chân thật hơn cảm xúc về mẹ. Đó là tình yêu thương, sự thấu hiểu của đứa con:"Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm đợi chờ dài dặc”. Đó là bóng dáng của người phụ nữ đã phải chịu nhiều vất vả, lam lũ cho cuộc sống nghèo khó, cơ cực, luôn phải sống trong những chuỗi ngày “thắc thỏm đợi chờ dài dặc” tin tức của người chồng đi làm ăn biền biệt ở đất Sài Gòn xa xôi

không thấy trở về.

Một quá khứ luôn luôn được ông cho dồn vào hiện tại, được hiện tại hoá; nhưng vẫn trong

trang phục của quá khứ. Đặc trưng của tự truyện, hồi kí tái hiện quá khứ. Có điều thời gian quá khứ

không chỉ là hình tượng thời gian đơn thuần mà còn thể hiện khát khao được sống lại, được dẫn

người đọc trở về với cuộc đời đã qua để tâm sự và chia sẻ. Tình cảm gia đình cảm động thiêng

liêng, khiến cho những ngày em Hồ ốm rồi sau đó chết do bệnh sởi, mặc dù kỉ niệm đó đã trôi qua

rất lâu nhưng với cách hồi tưởng cụ thể đó khiến ta thấm thía nỗi đau khi mất đi một người thân là không có gì bù đắp được: "4TĐầu tháng tư, Hồ và tôi, hai anh em cùng lên sởi...Tôi không nhớ rành rõ được những ngày đau yếu của Hồ thế nào...Trên nắp áo quan, có bát cơm thắp hương. Dì tôi

cõng tôi, cung cúc chạy. Vừa chạy, vừa khóc rưng rức..Tôi cứ ngờ ngợ không bao giờ tin buổi sáng

hôm ấy, cái Hồ chết. Chết là thế a? Tôi cứ tưởng hình như rồi một buổi chiều nào, Hồ lại lủi thủi

trở về" [76,57]. Nhưng tiếc thay sự tượng tưởng trẻ thơ đó sẽ không bao giờ xảy ra cả. Sự mất mát

chia lìa thật buồn. Thời gian hồi tưởng ấy chính là thời khắc của tử biệt. Sự kiện đã tác động mạnh

vào tâm hồn tác giả và khiến cho người đọc xúc động vì sức mạnh của sự hồi tưởng.

Dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình của nhân

vật. Tô Hoài thường trần thuật những điều gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Những kỉ niệm

ấy, hầu hết Tô Hoài đã được chứng kiến hay trực tiếp là người cùng tham dự cho nên nó hiện rất sâu

đậm, rõ ràng trong kí ức của nhà văn. Trần thuật theo dòng hồi tưởng nên câu chuyện về các nhà

văn, tác giả không kể về toàn bộ cuộc đời sự nghiệp sáng tác của họ theo một trật tự thời gian nhất định mà chỉ kể ở từng đoạn, từng quãng đời mà nhà văn biết, thậm chí biết rất kĩ. Như trong tác phẩm Cát bụi chân ai, Tô Hoài không tạo dựng bởi những hồi tưởng về cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Xuân Diệu, mà hồi tưởng về nỗi đau tinh thần mà nhà thơ phải chịu đựng. Với những dòng hồi ức về nhà thơ, Tô Hoài phần nào đã hé mở nỗi đau thầm kín của thi sĩ. Tô Hoài hồi tưởng về những kỉ niệm không bao giờ quên được giữa ông và Xuân Diệu, chứng tỏ Tô Hoài hiểu nhà thơ đến tận chân tơ kẽ tóc. Có lẽ không ai khác ngoài Tô Hoài dám dũng cảm bộc lộ điều này: “Thỉnh thoảng Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn tay nắm cả buổi, nhìn nhau tha thiết, Xuân Diệu yêu tôi" [63,189].

Tài năng của Tô Hoài thể hiện ở chỗ, có khi chỉ là một chi tiết rất nhỏ mà làm nên một tính cách riêng. Những điều tưởng chừng chỉ thoáng qua, nhưng nhà văn cũng nắm bắt được và biến nó trở thành cái tôi độc đáo của nhà văn và người đọc cũng không thể nào quên được, nó cứ ám ảnh trong trí nhớ của mỗi độc giả. Là những người cùng nghề, lại đều say mê những chuyến đi dài. Tô Hoài hiểu được nỗi đau ở Nguyễn Tuân vào cuối đời là “cái đau của một người cả đời ham đi rồi dần dần không đi đâu, quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt”. Vì vậy có lúc định khoe với Nguyễn Tuân về chuyến đi Cát Bà, nhưng thấy “bước chân khó nhọc, nặng nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt bơ phờ tía tím” [63,328]. Tô Hoài lại thôi, không “dám nói tôi sắp đi Cát Bà”.

Tác dụng4T với đặc trưng của thể loại hồi kí, tự truyện yếu tố cảm xúc chủ quan tạo được sự

hấp dẫn cho câu chuyện. Đồng thời làm nổi bật nhân vật "tôi" đang sống trong thế giới tinh thần.

Dòng hồi tưởng có khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong lúc hồi tưởng của nhà văn. Thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Hiện thực trong tác phẩm hồi kí, tự truyện của Tô Hoài khác với hiện thực đã được tưởng tượng sáng tạo lại ở các loại hình văn học khác của Tô Hoài

và những tác giả khác. Trong hồi kí, tự truyện Tô Hoài thường phá vỡ trình tự thời gian, có hòa

quyện giữa quá khứ gần và quá khứ xa, không tái hiện sự kiện theo trật tự biên niên mà xáo trộn

chúng bằng “dòng ý thức” miên man. Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi

khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Hồi tưởng là phương thức

chủ yếu để xây dựng hình tượng thời gian trong hồi kí, tự truyện. Trong nhiều tác phẩm, hồi tưởng

luôn trở đi trở lại trong tác phẩm với mật độ đậm đặc, nhiều lớp, nhiều tầng: hồi tưởng của chủ thể,

hồi tưởng của nhân vật….đan cài chồng chéo lên nhau, tạo nên những thế giới hình tượng phong

phú. Đi vào trong thế giới của Cát bụi chân ai, thấy rất nhiều nhân vật mang theo trong mình một

quá khứ sâu thẳm và ngập đầy những nỗi day dứt, nuối tiếc, xót xa. Ngã sáu Hàng Kèn, cái “ngã sáu

đường đời” lúc nào cũng “leo loét ngọn đèn con” trở thành không gian chỉ dành cho hồi tưởng:

“Mỗi đêm ngã sáu từng người tìm về với kỷ niệm của mình” [63,37]. “Nguyễn Tuân chẳng thiết cái

quán bát nháo của ông lão 81. Nhưng đến đây là một cơ hội để nhớ. Tách cà phê bít bất hay chén

rượu có nhạt cũng không quan tâm, chỉ bởi nó đem lại được cái cớ” [63,36]. Nguyễn Tuân mỗi lần

đến đây là một lần bỏ lạnh ly cà phê để nhớ đến người hầu bàn cũ. “Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó.

Không hiểu sao….” [63,16]. Cho nên Tô Hoài mới ngậm ngùi: “Ôi, tội cho những người nhớ lâu”

[63,40].

Tô Hoài đã sử dụng yếu tố hồi ức hồi tưởng miêu tả thời gian giãn cách để kể lại các sự kiện

liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân. Sự đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự kiện

trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của Nguyễn Tuân tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với từng mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để người đọc có thể hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn đều là một sự kiện có ý nghĩa.Trong hồi kí, tự truyện Tô Hoài vừa miên man theo thời gian giãn cách, khiến các sự kiện không hiện diện theo trình tự, vừa có sự đan cài chồng chéo để các sự kiện về xã hội lịch sử, về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Hình ảnh đầu tiên tạo ấn tượng cho chúng ta là cái dáng điệu Nguyễn Tuân “lững thững bên kia hè đường bờ Hồ” [63,5]. Con người này xuất hiện giữa cuộc đời như thế, ung dung, nhàn tản, mặc thiên hạ đua chen. Phong cách khác người của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở cách ăn mặc: “khăn lượt vố, áo gấm trầm, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định [63,5 – 6]. Chân dung khép lại với cảm xúc bâng khuâng của tác giả khi nghe đài báo về cái chết của Nguyễn Tuân: “Đêm qua nghe đài báo ông Nguyễn Tuân chết rồi. Tôi nghĩ vẫn như buổi tôi ngồi uống một mình nhưng Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng, trước hôm tôi ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi! ô hô” [63,336].

Tác dụng tạo nên là ý nghĩa khai phá một lối viết mới, một cách thức tạo dựng chân dung độc đáo, đặc sắc của Tô Hoài. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ nét về cuộc sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của họ. Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, tuôn chảy theo dòng hoài niệm, đánh dấu sự chuyển đổi vị trí của cái “tôi” trong tự truyện, hồi kí hiện đại.

Nhà văn viết tự truyện, hồi kí như được sống lại một lần nữa đoạn đời đã qua của mình, đời tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sắp xếp lại và sáng tạo thêm cho sinh động. Vì

thế trong quá trình hồi tưởng và ôn lại quá khứ của mình, nhà văn đồng thời cũng sáng tạo lại quá

khứ. Với hai thể loại tự truyện và hồi kí đã góp phần tạo nên sự thành công đáng kể trong sự nghiệp

của Tô Hoài. Nó cũng đã thể hiện sự tìm tòi, đổi mới tư duy văn học của Tô Hoài, làm nên một Tô

Hoài với phong cách riêng, một vị trí vững vàng trong văn đàn Việt Nam.

2.2. Tiếng nói của cái tôi – tự truyện, hồi kí và nghệ thuật tự biểu hiện

2.2.1. Cái “tôi” tác giả – nhân vật trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài

- Khái niệm cái “tôi” tự truyện và cái “tôi” tác giả Nguyễn Đăng Mạnh khi nhận xét khái quát về tự truyện, hồi kí của Tô Hoài đã khẳng định:

“Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất Tô Hoài … ở thể văn này, nhân vật trung

tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự

hấp dẫn của cái tôi ấy ” [27]. Trong lời nhận định của mình, tác giả đã chỉ ra cho độc giả thấy một

trong những điều làm nên sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài, đó chính là " nhân vật trung tâm" –

"cái tôi" của tác giả - cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực. Cho nên sự hấp dẫn

của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy. Để làm nổi bật cái tôi chính là

nghệ thuật tự biểu hiện.

Trong tự truyện đòi hỏi rất cao cái “tôi” cá nhân chân thực của tác giả. Trong truyện có một nhân vật rất đặc biệt, cần người viết phải chăm chút – nhân vật tôi. Thông thường khi đọc tự truyện nếu độc giả không tinh ý sẽ nhầm lẫn giữa cái “tôi” tác giả và cái “tôi” nhân vật. Phần nhiều, khi viết về bản thân cuộc đời mình thường các tác giả dễ bị yếu tố cảm xúc chủ quan chi phối. Cái “tôi” tác giả và cái “tôi” nhân vật, nhiều lúc đã thật sự hòa làm một. Chính điều này đã làm nên chất hiện thực, tăng khả năng thuyết phục cho tác phẩm. Khi này quan điểm cơ bản của tác giả thống nhất với nhân vật “tôi”. Nhân vật “tôi” là nhân vật chính và tác giả nhập hẳn vào hóa thân vào nhân vật “tôi” để tự bộc bạch ý nghĩ, tình cảm, đi sâu vào tâm tư sâu kín của mình, làm cho người đọc bị cuốn hút vào những nét đặc sắc của nhân vật. Người kể là người đã từng chứng kiến sự việc xảy ra. Do đó mà khoảng cách giữa người kể và nhân vật là rất nhỏ.

Tác phẩm tự truyện đã phản ánh rất thực cuộc đời đã qua của nhà văn – nhân vật tôi trong tác phẩm, nhằm tái hiện lại cuộc sống hiện thực dưới sự quan sát, miêu tả của nhà văn ấy. Các đặc điểm của tự truyện phần lớn bị quy định bởi các đặc điểm của trần thuật. Hình ảnh nhân vật “tôi” hiện lên với những băn khoăn trăn trở, với những khát khao lớn lao… Bên cạnh đó, còn có những dòng tâm sự về mình, về những điều đã xảy ra trong quá khứ, với những hồi ức về tuổi thơ, tuổi trưởng thành với những gì đã và chưa làm được, trong quá trình nhận thức khám phá về con người và xã hội của nhân vật tôi trong tác phẩm. Cuộc sống của nhân vật tôi dường như được tái hiện lại thông qua “lăng kính” của nhà văn. Xét từ khía cạnh này, viết tự truyện chính là một phương tiện giải phóng những năng lực nội tại của con người, cho con người một cơ hội để nhận thức lại mình. Vì thế trong quá trình hồi tưởng và ôn lại quá khứ của mình thông qua cái tôi, nhà văn đồng thời cũng sáng tạo lại quá khứ, như muốn sống cuộc đời thứ hai, một cuộc đời không bị ràng buộc trong những hạn độ của thời gian, để đạt đến một sự tự do nào đó, dẫu chỉ là tự do trong thế giới riêng của tâm hồn

mình.

- Khái niệm cái “tôi” tác giả trong hồi kí

Do đặc trưng của thể loại hồi kí, nên ranh giới phân định giữa cái “tôi” tác giả và cái “ tôi”

nhân vật gần như không có khoảng cách. Tác giả chính là nhân vật và nhân vật là tác giả. Nhân vật

trung tâm trong hồi kí và nghệ thuật thể hiện đặc sắc của Tô Hoài là kiểu người trần thuật xưng “tôi”

vừa là người dẫn chuyện vừa là một nhân vật. Nhận xét về kiểu tường thuật này, Đinh Trọng Lạc so

sánh: “Kiểu này không được cá thể hóa sâu sắc bằng kiểu xưng “tôi” tự kể về mình. Nhưng so kiểu

xưng “tôi” đóng vai trò người dẫn chuyện thì kiểu này có mức độ cá thể hóa hơn nhiều, bởi vì

người kể cũng đồng thời là một trong những nhân vật của truyện” [6].

Kiểu tường thuật này, một mặt tác giả nhập và chủ thể “tôi” với vai trò dẫn chuyện, một mặt

khác xem “tôi” là một nhân vật đứng ngang hàng với các nhân vật khác trong truyện. Nhân vật “tôi”

cũng tham gia và chứng kiến, là nhân chứng sống của câu chuyện. Cho nên, về cơ bản người dẫn

chuyện, nhân vật “tôi” và tác giả trùng hợp nhau về quan điểm. Với sự tôn trọng hiện thực khách

quan, “tôi” với vai trò dẫn chuyện phải chiều theo, chịu sự chi phối, quy định của sự kiện, biến cố,

tình tiết, nhân vật…trong câu chuyện thực được tác giả phản ánh. Còn “tôi’ với tư cách là nhân vật,

cũng như các nhân vật khác, nó phải như là biểu hiện sự khách quan vốn có trong cuộc sống xảy ra

mà nếu có sự khác biệt về ngôn ngữ, hành động, tính cách…so với đời thường thì tính hiện thực của

nó sẽ kém thuyết phục. Sự liên kết khéo léo giữa “tôi” là người dẫn chuyện vừa là nhân vật sẽ phản ánh cách suy nghĩ, lập trường sáng tác của tác giả đối với hiện thực khách quan.

Tô Hoài khi viết tự truyện, hồi kí cũng quay lại trở về với thời thơ ấu, tuổi trẻ, và những ấn tượng của nghề viết văn để ôn lại những vui – buồn, được – mất trong cuộc đời của mình, cũng là để ôn lại, tìm ra những kinh nghiệm trong cuộc sống. Bởi vì quãng ấu thơ là những năm tháng có sự tác động mạnh mẽ nhất đến thế giới tâm hồn vốn ngây thơ, trong sáng và cũng dễ tổn thương nhất, đó sẽ là những kỉ niệm in sâu trong tiềm thức của con người. Còn tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người với biết bao ước mơ, khát vọng tìm hiểu, khám phá cuộc sống. Khi đọc tự truyện, hồi kí in đậm dấu ấn cá nhân tác giả.

2.2.1.1. Cái “tôi” ngây thơ, hài hước, hóm hỉnh, tài hoa, giàu trí tượng tượng

Người kể lại câu chuyện đời mình là người đi tìm gương mặt chính mình qua hồi tưởng, là người khám phá và sáng tạo ra cái tôi bằng chính cái tôi. Từ một sự việc, hình ảnh quá ấn tượng mà con người không thể nào quên. Khi hồi tưởng lại nhu cầu được nhớ, được viết trỗi dậy bằng một cảm xúc mãnh liệt. Nhân vật “tôi” khi nhìn về quá khứ cũng là để nhìn lại chính mình, nhìn lại sự đời, để hoài niệm. Đặc biệt ở nhà văn Tô Hoài khi viết về quá khứ – viết về tuổi thơ vừa có sự nhập thân vào quá khứ để thể hiện sự vật trong cái nhìn trong trẻo, hồn nhiên nhất vừa có sự đánh giá, suy nghiệm lại về số phận mình. Lúc này có sự thấu hiểu là lời tự thương mình, là một sự thấm thía. Trên hết vẫn là một tình thương yêu dành cho lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên. Vì vậy Tô Hoài đã trở thành nhà văn cho nhiều lứa tuổi, đặc biệt cho tuổi thơ. Từ một tuổi thơ hồn nhiên đến những trải nghiệm đầu tiên về cuộc đời, những tự truyện thuộc mảng này là hành trình ngược dòng thời gian,

quay về với tuổi thơ đã mất, sống lại với cuộc đời mình từ những năm tháng đầu tiên để đi tìm

những khởi nguồn xa xưa nhất của con người mình trong hiện tại. Nếu tác phẩm văn chương là phản

ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thật thông qua thái độ chủ quan của người viết thì Cỏ dại

giúp chúng ta hiểu một cách sinh động những gì đã tạo nên tâm hồn cũng như những nét đặc sắc

trong phẩm chất nhà văn. Tác giả kể lại một cách xúc động về “Những ngày thơ ấu nó leo hoang

trong đám cỏ bên lề đường đi. Cái giống cỏ dại, cỏ không tên, rườm rà, chen khít bò ngẩn ngơ

trong mấy khoảng đất rác rưởi”. Cảm xúc rất mạnh, liên tục, với sức sống lan nhanh như loài cỏ

hoang. Một tình cảm chân thành và một trí nhớ tuyệt vời. Trong Cỏ dại, Tự truyện nhân vật tôi kể

về thời thơ ấu của mình, về những người thân ruột thịt, về cuộc sống ở quê nhà – vùng ngoại ô Hà

Nội: Nghĩa Đô. Kí ức xa xưa tưởng chừng như chưa hề phai nhạt, những chi tiết, sự việc xảy ra

trong quá khứ mà vẫn tươi mới, gây nhiều hứng thú như mới ngày hôm qua. Chính cảm xúc chân

thành có sức mạnh hiện tại hóa qúa khứ.

Nghệ thuật thể hiện cái tôi, để làm nổi bật cái tôi, tác giả tập trung xây dựng về hành động và

suy nghĩ của nhân vật để làm nổi bật cái “tôi” ngây thơ, giàu trí tượng tượng. Đây là dịp để cho

nhân vật được bày tỏ, được bộc bạch, phơi bày tâm trạng của mình. Mỗi con người chúng ta ai cũng

có một tuổi thơ để nhớ về. Trong trí óc còn non dại, tinh khôi như một tờ giấy trắng, cuộc sống quả

là thú vị và có bao điều mới lạ cần khám phá. Tất cả những gì diễn ra quanh cuộc sống của một đứa

trẻ, dù chỉ là rất nhỏ, người lớn không để ý tới cũng sẽ để lại một ấn tượng sâu đậm trong kí ức trẻ

thơ. Hồi ức bao giờ được hiện lên? bao giờ được hồi tưởng lại? Chỉ khi là từ một sự việc, hình ảnh quá ấn tượng, đôi khi gây sốc. Nỗi sợ hãi về những con ma trong trí tưởng tượng hấp dẫn ta bởi niềm tin thơ dại: “3TBiết bao nhiêu chuyện ma quái rùng rợn quanh cái ao. Ông tôi kể. Bà tôi kể. Ngọn đèn khuya liu hiu...Ma. Ma!...Hễ động tiếng người, ma liền đứng vươn dậy nhảy ùm xuống nước, lập lờ rồi biến mất. Giữa những câu chuyện ghê rợn ấy, tôi ngồi nép khít bên tay áo bà tôi, nhìn ra ngoài trời tối. Thấy chỗ nào cũng thấp thoáng trăng trắng những ma là ma. Tôi nhắm nghiền mắt lại” [76]. 3TTrong trí tượng tượng thơ dại ấy còn biết bao nỗi sợ hãi khác mà chỉ có ở lứa tuổi nhỏ, ngây thơ, hồn nhiên và giàu trí tượng tưởng mới tin như thế. 4T Một đoạn khác, nhân vật “tôi” sau khi đọc sách kiếm hiệp đã tự mình gọt kiếm luyện võ, và khoe khoang với các em họ của mình. Nhưng kì thực cậu vẫn luôn sợ ma. Tác giả đã để cho nhân vật tự bộc lộ, nhân vật “tôi” đã thú thực đến dễ thương khiến cho người đọc phải bật cười trước sự chân thật của cậu. Hình ảnh nhân vật “tôi” hiện lên thật sinh động qua trang văn của Tô Hoài: “Bây giờ, nhà Nhâm thực vắng. Mẹ vẫn đi luôn. Hai chị em, ngày ăn cơm trong bà, tối về nhà ngoài ngủ. Tôi vẫn khoe với chúng là tôi giỏi, tôi có võ và tôi đang luyện phép nữa. Nhưng tôi chưa dám ra ngoài ấy ngủ trông nhà với chúng nó lần nào. Tôi sợ ma” 4T[76,96]. 4T Nhân vật “tôi” đã chinh phục độc giả thật sự khi so sánh nỗi sợ hãi của mình trong hoàn cảnh, qua nhà chơi với mấy em họ nhưng rất sợ người coi hộ hai em mình vì bà ta rất dữ. Nhưng nỗi sợ hãi ấy không bằng sợ ông Thần Đất, rõ ràng nỗi sợ hãi đầy tâm linh đó đã được thể hiện rất sinh động qua chi tiết:4T “4TKhông bao giờ tôi muốn đi ngang sân. Đằng cuối vườn cũng có một lối khác vào. Lối ấy qua gò Thần Đất. Tôi chỉ lách mấy cụm dứa dại đã lọt được đến sân đất. Nhưng vốn sợ ông Thần Đất hơn sợ mẹ Lặc, tôi không dám chui đầu luồn rặng dứa dại. Đành lấm lét chạy qua sân" [76,99].

Để làm nổi bật tính cách nhân vật tác giả chú ý đến hành động của nhân vật. Bất cứ một

người nào đã từng trải qua tuổi thơ đều thấy mình qua hình tượng nhân vật giản dị, hồn nhiên, khi

đọc xong những cuốn sách kiếm hiệp mà mình yêu thích, nhân vật liền: "4TNhiều khi thích chí tôi đem

những thứ ấy ra bờ ao, đứng nói lảm nhảm và múa may một mình. Tôi tập đánh nhau. Tôi tập hoá

phép. Có lúc lẩn thẩn, tôi nhắm mắt, đập đầu vào tường côm cốp. Cái đầu tôi hình như rắn

hơn"4T 4T[76]. Cách miêu tả hành động đó cho thấy nhân vật tôi rất hiếu động, giàu trí tượng tượng và

hài hước trong tưởng tượng trẻ thơ của mình. Dường như đằng sau những hành động trẻ con ngây

ngô, hồn nhiên là nụ cười hóm hỉnh của nhà văn Tô Hoài và nhân vật đã hiện lên rất sống động và chân thực. 4T Cách xây dựng nhân vật tôi gần gũi với bạn đọc. Bất cứ một người nào đã từng trải qua tuổi thơ đều thấy mình qua hình tượng nhân vật giản dị, hồn nhiên, không che giấu nhược điểm .

Đây là truyện chủ thể kể về bản thân “tôi” một cách trực tiếp. Ở kiểu truyện này, tác giả và

nhân vật “tôi” hòa làm một, khoảng cách giữa tác giả và nhân vật “tôi” rất gần, dễ cho tác giả gởi

quan điểm, thái độ, tình cảm của mình. Một người trong cuộc, lại gánh vác việc trần thuật và phải

thể hiện quan điểm tác giả nên lời văn gián tiếp hai giọng ở đây rất nổi bật, đậm hơn, rõ hơn so với

kiểu tường thuật có nhân vật “tôi” dẫn chuyện. Khi kể lại tác giả dùng lời văn gián tiếp hai giọng

khi thì lời của nhân vật khác trong truyện khi thì chính là lời của nhân vật tôi. Tác giả Tô Hoài còn xây dựng thành công nhân vật “tôi4T”4T, trẻ con , hồn nhiên, trong sáng. Vì là tuổi thơ nên rất mê đi chơi, đây là niềm sung sướng man dại của tuổi thơ. Trong niềm vui mê tơi quên cả giờ về, chơi bao nhiêu cũng không chán:“4TMuốn đi đâu, tôi phải hỏi u. U tôi nhổ một bãi nước bọt xuống đất, bảo tôi: “Ừ, cho đi chơi một tý. Bãi nước bọt này, đi chơi về mà khô thì chớ chết đấy?Tôi vâng, chạy một mạch ra nhà Nhâm. Rồi bao giờ cũng mải chơi, quên cả bãi nước bọt khô, chiều cũng chưa mò về". Vì mải chơi bao giờ thấy u xách roi đi tìm thì mới: " Tôi cung cúc chạy về. Bỏ lại cả gươm với kiếm. Vài hôm lại một lần u vác roi đi tìm tôi như vậy” [76,98]. Trong cái dáng chạy "Cung cúc" đó ta thấy rất sợ, rất ngoan nhưng chỉ vài hôm sau đó lại để "U vác roi đi tìm". Chỉ có thể trở về với tuổi thơ ta mới tìm lại được cảm giác như thế. Không thể lí giải được tại sao? chỉ biết rằng đối với trẻ thơ được chơi đùa sự sống mới có ý nghĩa. Cách khắc họa nhân vật như vậy đã làm cho những trang văn của Tô Hoài trở thành bạn của tuổi thơ và có sức sống vượt thời gian.

Nghệ thuật thể hiện cái tôi hóm hỉnh, thông minh, tác giả tập trung xây dựng vào lời văn chên xen vào những suy nghĩ, bình phẩm làm nổi bật cái tôi. Hồi kí Tô Hoài đã kể những chuyện rất riêng tư, thậm chí là thầm kín của các văn nghệ sỹ một cách cụ thể. Anh Thơ vì có mặc cảm mình xấu nên cứ bịa ra trong hồi kí là ngày xưa bà rất đẹp, lắm người mê như Nguyễn Bính chẳng hạn. Tô Hoài viết: “Bà ấy mà mê Nguyễn Bính, chưa chắc Bính đã xúc động liền. Bính nó có hàng trăm gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ cũng xấu, lợi hở như miếng thịt trâu. Tính tình đồng bóng. Sang Liên Xô với Nguyễn Văn Bổng, Thanh Tịnh lại hỏi thăm Goocki, tưởng ông ấy còn sống” [68]. Cuối cùng nhà văn kết luận một cách rất hóm: “Anh Thơ mà đẹp là chết với tôi rồi”. Độc giả không thể không cười thú vị khi đọc đến câu văn này. Sự thông minh đã phát huy được hết cái hóm hỉnh, tài tình của Tô Hoài trong câu văn. Câu chuyện của Tô Hoài khiến ta nhớ đến bài thơ hóm hỉnh được cho là của Nguyễn Bính. Nếu ta đọc ghép những chữ đầu câu thơ thành một dòng thì sẽ thấy cái tài hoa của các thi sĩ thật đáng nể, thế mới biết tại sao Nguyễn Bính lại có trăm gái đẹp theo và lời văn

của Tô Hoài có sức thuyết phục ghê gớm!

Anh đi không hẹn ngày về

Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn?

Muốn gì anh muốn gì hơn

Hôn hoàng nay, lại hoàng hôn mai ngày

Môi khô vóc liễu thêm gầy

Anh xa, em kẻ lông mày với ai

Thơ không làm trọn một bài

Đàn không gảy trọn một vài khúc ngâm

Ông tơ già quá nên nhầm

Ai làm sum họp, ai làm chia phôi

Chẳng thà đừng kết duyên đôi

Có cho sum họp để rồi xa nhau

Tính năm tính tháng thêm sầu

Ấy hai con én ngang lầu bay bay...

Nghệ thuật thể hiện cái tôi hóm hỉnh, thông minh, tác giả tập trung xây dựng đối thoại giữa

các nhân vật. Tác giả dùng lời văn gián tiếp của người kể và lời nửa trực tiếp mang ý thức nhân vật

rất đặc sắc ở Tô Hoài: "Nguyễn Tuân nhiếc tôi: Chúa ghét cái thằng bợm bia rượu mà hàng ngày

lại uống nước lạnh. Không mấy khi Nguyễn mời tôi uống chè. Không bao giờ cho tôi thuốc lá. "Mày hút phí thuốc lá". Muốn hút chơi thì tôi phải xin ông. Thường nói, ông vừa khôi hài vừa mỉa: "Chó biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày." Tôi cũng tìm ra cách chọc tức lại. Này ông chửi tôi giả rượu, giả thuốc, tôi ăn bọ hung, tôi ăn thịt chuột. Ông bảo người ta chỉ thật nhất lúc ngồi với cái chén. Nhưng mà từ thời công nguyên, hai nghìn năm nay, người ta đã luận về cả trăm lối nâng chén đấy, chứ không phải cách riêng của thằng khôn lỏi này đâu. Tôi chìa trang Sử kí ra trước mặt Nguyễn Tuân."

Đồng thời Tô Hoài dẫn dắt khôn khéo: "Tề Uy Vương hỏi Thuần Vu Khôn: - Tiên sinh uống bao nhiêu thì say? Khôn đáp: - Thần uống một đấu cũng say, mười đấu cũng say. - Một đấu cũng say thì sao uống được một hộc? Sao nói vậy?

Khôn nói: - Nếu cho uống trước mặt đại vương có quan chấp pháp đứng bên cạnh, quan ngự sử nấp sau lưng thì Khôn sợ hãi cúi đầu uống, chỉ một đấu đã say... Khi trời chiều, tiệc vãn, dồn chén ngồi kề, gái trai cùng chiếu, giày dép lẫn lộn, chén bàn bừa bãi, trên thềm tắt đuốc, chủ nhân giữ một mình Khôn ở lại mà tiễn khách ra, áo là cởi bỏ, thoảng mùi hương thơm phức. Lúc bấy giờ lòng Khôn rất vui, có thể uống được một hộc mười đấu. Vì vậy nói rượu quá hoá loạn, vui quá hoá buồn, muôn việc đều thế.

Vua Tề nói: Hay!

Chắc chắn Nguyễn Tuân đã ngâm nga đoạn văn này bao nhiêu lần, nhưng tôi cứ đọc lên. Nguyễn

Tuân im lặng, không phải để khỏi cụt hứng người đọc mà Nguyễn Tuân nhấp chút chút rồi gật gù.

[63,180]

Cách đối đáp vừa cho thấy sự khôn khéo, biết vận dụng hài hòa điển tích xưa, càng tô đậm

thêm kiến thức uyên bác, vừa hợp lòng người. Chứ để cho Nguyễn Tuân im lặng...Quả thật Tô Hoài

đâu phải là tay vừa! Mà cái luận về say của Thuần Vu Khôn quả thực rất chí lí! Cứ mỗi lần đọc tới

đoạn này người viết lại ao ước một lần thật say và thầm thì một mình ta say trời đất cũng say. Thế

mới thấy hết cái tài tình mà của người xưa mà Tô Hoài đã chuyền tải tới cho chúng ta. Sự đồng cảm

vì vậy là vô tận. Thuật truyền cảm của Tô Hoài thật khéo léo!.

2.2.1.2. Cái “tôi” sâu sắc, giàu cảm xúc, nhân ái, gắn bó, yêu quí cảnh vật và con người quê hương

Tuổi thơ là quãng đời quan trọng, có ý nghĩa trong quá trình phát triển sau này của con

người. Tuổi thơ luôn để lại những ấn tượng nguyên thủy, sâu sắc, có sức ám ảnh dai dẳng trong suốt

cuộc đời nhà văn. Chúng ta nhận thấy rằng khi viết về tuổi thơ, viết về quá khứ của bản thân, có

người ghi lại cả quãng đời, có người chỉ nhìn lại mình một phần cuộc đời nhưng chính một phần ấy

lại có sức chứa vô cùng lớn lao, có ý nghĩa quyết định cho cả một đời người. Thường tự truyện hay

viết về tuổi ấu thơ – quãng đời đẹp nhất, có sức ám ảnh lâu nhất của con người. Tâm hồn trẻ thơ

chưa hề bị bào mòn, pha tạp và chính nó đã ghi nhận lại những cái thiêng liêng sâu xa của sự sống.

Muốn làm nổi bật cái tôi, tác giả tập trung miêu tả cảm xúc, tâm trạng nhân vật, chú ý nhiều đến 4Tcách bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật, để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng. Cách khắc họa đó làm nổi bật nhân vật - tôi là một cậu bé nhạy cảm, dễ xúc động, mau nước mắt. Khi xa các em họ mà nhân vật tôi rất thương. Có những lúc không thể chịu nổi: "Tôi ngồi hai tay bưng mặt. Tôi khóc tu tu" không có một hành động nào có thể diễn tả được nên cậu bé đã để cho cảm xúc tuôn trào không thể ngăn lại. Cách thể hiện cảm xúc trực tiếp đó vừa làm cho nhân vật sinh động vừa kéo khoảng cách giữa hiện tại và quá khứ gần lại với nhau. Nhân vật tôi giàu tình yêu thương, tâm trạng được diễn tả bằng nỗi nhớ đến ngẩn ngơ: "Trên nhà, không có ai. Tôi thấy nhà văng vắng khác mọi khi. Tôi ngơ ngẩn, tha thủi về." Dường như con người ngày thường của nhân vật tôi vốn đã giàu tình cảm bây giờ vắng các em, cảm giác buồn nhớ và cô đơn tràn ngập...Tình yêu thương giữa những đứa trẻ thật sâu sắc đã làm xúc động lòng ta khi trong tâm hồn trẻ thơ ấy có những kỉ niệm thật khó quên: "Tôi nằm trằn trọc, nước mắt đầm đìa xuống chiếu. Tôi cố thức. Nhâm, Châu ngủ ngoài Kẻ Chợ. Năm giờ sáng Nhâm, Châu và mẹ lên tầu...Chúng nó lên tàu cả rồi, tàu chạy rồi. Nước mắt tôi lại đầm đìa.. Nhâm, Châu đi rồi. Còn mỗi cái đầu mốc trắng của tôi tha thủi ngơ ra ngẩn vào" [76,104]. Đọc những câu văn này ta càng hiểu nhu cầu được sống trong tình yêu thương của con người là rất lớn, và đối với trẻ em càng không thể nào thiếu được. Những câu văn của Tô Hoài thực sự làm cho "con người gần con người hơn". 4T Điều này đã minh chứng cho một chân lí bất diệt mà nhà thơ Tố Hữu đã nói đến: “Văn học là cuộc đời,… văn học sẽ không là gì cả

nếu không vì cuộc đời mà có”.

Tác giả tập trung miêu tả cảm xúc, tâm trạng nhân vật, làm nổi bật cái tôi gắn bó sâu sắc với

quê hương. Nhân vật “tôi” tự bộc bạch ý nghĩ, tình cảm, đi sâu vào tâm tư sâu kín của mình. Độc

giả còn thấy được sự tinh tế khi nhân vật nhận ra được mùi “mùi quê hương” qua sự miêu tả rất cụ

thể và tỉ mỉ của tác giả: “4TTôi đã ngửi được mùi đất quen thuộc. Quen thuộc lắm, chỉ thoáng qua là

biết sắp về tới quê. Ờ, mà lạ. Không bao giờ tôi biết phân biệt được rõ ràng cái hương vị phảng

phất kỳ dị ấy. Nó thoang thoảng trong cánh đồng hoặc vẩn vơ trong rặng ô rô xanh rì. Tưởng như

đấy là mùi cỏ khô, mùi đất ải, mùi khói rơm bếp. Không phải. Đích nó là mùi lá muỗm nấu lẫn với

lá vối, mùi rau nhảy mùi lá trang, mùi lá cải, mùi có bồ mùng, mùi mái rạ chuồng bò. Cơ chừng

chẳng rõ ràng mùi gì. Nó là tất cả, từ mùi tóc hôi trên đầu đứa trẻ cho tới mùi nõn cỏ gấu đắng mới

nở hương đồng cỏ nội hoà vào nhau, bốc trên một miền quê. Cái mùi quê đặc biệt, mỗi khi về gần đến làng, là thoảng biết” [76,33]. Chính cách miêu tả trực tiếp 4Tcụ thể và sinh động cho thấy trí tưởng tưởng của nhân vật tôi rất phong phú, mới có được những hình ảnh tươi mới và sống động

như thế. Nhân vật tôi cảm nhận về cảnh vật không chỉ cảm nhận trực tiếp bằng thị giác mà còn có

khả năng diễn tả những cảm nhận của khứu giác, cảm giác. Qua đoạn văn miêu tả, tác giả đã cho

chúng ta – những độc giả biết đến khái niệm về “mùi quê hương” – một khái niệm tưởng như rất

trừu tượng nhưng qua ngòi bút miêu tả tài tình, tinh tế của Tô Hoài lại trở nên cụ thể, chi tiết, rõ

ràng. Nó không phải là cái gì quá mơ hồ, khó nắm bắt mà “nó còn là tất cả” những gì quen thuộc,

gần gũi quanh ta, là “hương đồng cỏ nội hoà vào nhau, bốc lên một miền quê”. Đọc những lời miêu

tả trên của Tô Hoài, người đọc như lạc vào quê hương, như đang được đi giữa quê hương thưởng

thức một mùi quen thuộc của “hương đồng gió nội” một mùi quê hương không bao giờ phai trong trí nhớ mọi người. Thực sự là có thể tách con người ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi con người. Những câu văn của Tô Hoài sẽ còn lắng đọng rất lâu trong lòng những người xa quê.

Khi khắc họa nhân vật tôi, tác giả muốn nhấn mạnh đến vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng Một cái “tôi” gắn bó với con người và cuộc sống đời thường đầy tình nghĩa, nhân hậu, chân thành. Tác giả dùng những câu văn trữ tình, thẫm đẫm triết lí. Đặc biệt nhà văn chú ý đến mối quan hệ giữa nhân vật và những người xung quanh. Hàn Mặc Tử viết: "Người thơ phong vận như thơ ấy". Có người lại cho rằng: "Đọc một bài thơ tôi gặp gỡ một tâm hồn" hay “Văn tức là người”. Nếu đọc một bài thơ ta gặp gỡ một tâm hồn thì khi đọc hồi kí ta sẽ nhận ra tác giả là ai ? là người như thế nào? bởi mỗi trang viết đã in đậm dấu ấn cá nhân tác giả. "Vết vân chữ" đã lưu dấu trên câu chữ. Từ những trang văn của Tô Hoài ta có thể hình dung ra bức chân dung của chính tác giả – bức chân dung tự hoạ. Chính vì đặt nhân vật trong hoàn cảnh sống đời thường đó làm nổi bật lên cái tôi cá nhân thấm đẫm tình yêu thương, nhân bản Tô Hoài từng quan niệm tình yêu thương là cội nguồn của sức mạnh, là lẽ sống đẹp của mỗi người. Tình yêu thương không có quy luật nhưng lại biện chứng, thống nhất, vì có tình yêu thương con người sẽ vượt qua mọi trở ngại, chiến thắng được tất cả. Nặng lòng yêu thương cuộc sống, trân trọng con người, những trang văn của Tô Hoài mang cảm hứng nhân bản về tình yêu, con người trong cuộc đời thường là những trang viết thấm đẫm “cái tôi” yêu thương, nhân bản của tác giả. Với những câu chuyện đời thường, trong những trang viết của Tô Hoài, ta thấy được tấm lòng ông thổn thức cùng cảnh đời cơ cực, những số phận oan nghiệt đắng cay. Tình cảm của ông thấm đẫm từng trang văn. Câu chuyện Nguyễn Bính mất con. Trái tim Tô Hoài là trái tim yêu thương và thông cảm sâu sắc với mỗi con người, mỗi số phận của đồng nghiệp. Ông có trái tim

của người đã từng trải qua những đau khổ, cực nhục trong bước đường thăng trầm của cuộc đời. Vì

thế mà trái tim ấy rung lên những nỗi xót thương đối với những người cùng khổ. Khi Nguyễn Bính

lỡ dở trong tình yêu với người con gái đến với ông khi làm báo “Trăm hoa” đã để lại cho nhà thơ

nỗi đau thương, ân hận đến suốt đời. Vì say rượu: “Một tối kia, bố rượu say rồi bố bế Hiền thẩn thơ

ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu, chợt nghĩ thế nào, hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho một

người đàn ông đi tới” [63,62]. Người đọc thương cảm trước cảnh Nguyễn Bính “thất thểu suốt đêm,

sáng ra nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống không” [63,62] vì đã trót đưa con cho người ta: "Thôi

bây giờ viết vào đây câu chuyện thương tâm ngày ấy. Biết đâu, chuyện này – như một cái nhắn tin

tìm người ruột thịt thường đọc trên báo...Đột nhiên, tôi hy vọng. Tên cháu là Hiền nhé" [63]. Tô

Hoài có tấm lòng nhân ái, ông viết với giọng điệu đầy cảm xúc, với một niềm hi vọng, hi vọng

không bao giờ cạn rằng một ngày nào đó Nguyễn Bính sẽ tìm lại được bé Hiền, để cho trái tim đau

khổ của người cha, hết đơn côi, lạnh giá và ân hận. Quả thật nơi đâu có tình yêu thương, nơi đâu có

lòng nhân ái ở đó lòng người được sưởi ấm lại!

Người nghệ sĩ luôn có một trái tim rung động trước cuộc sống và cần phải có một lí trí sáng

suốt. Ở Tô Hoài ta thấy trong ông có một cái nhìn khách quan,một thái độ rõ ràng trước đối tượng

mà mình phản ánh. Ngoài vốn sống là chất liệu vô tận, là khâu nối liền thường xuyên nhà văn với

cuộc sống, ở Tô Hoài ta còn thấy một thế giới quan đúng đắn. Đặt nhân vật trong mối quan hệ với

mọi người xung quanh, ông nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách của người nghệ sĩ. Nghệ

thuật tự biểu hiện cái tôi vừa hồi tưởng vừa suy ngẫm và mênh mang một tình người thiết tha.

2.2.1.3. Cái tôi tuổi trẻ nhiều mơ ước, nhiệt tình và không thiếu trải nghiệm xót xa

Lúc lứa tuổi thiếu niên, mười tám đôi mươi ấy của đời người lại khớp đúng vào lúc đời sống dân tộc đang chuyển mình từ một thời kỳ tối tăm nhất để chuẩn bị cho một ngày mới – đêm sâu Tiền Cách mạng. Nên cái tôi được khắc họa nổi bật với những cảm xúc trực tiếp, bằng những hành động hăng hái: "Chúng tôi lúc ấy thích hiểu biết, ham chơi, thật hăng và táo tợn....Những việc làm say sưa....Bây giờ hiểu biết rồi, gặp ai cũng châu đầu lại, bàn chống thuế, vào hội Ái hữu, làm cách mạng, lên thế giới đại đồng! Những ngày cầu Am sôi nổi, hăng hái của tôi" [76,133]. Tuổi trẻ thích thể hiện mình, nhiệt tình, năng nổ và nhạy bén với thời cuộc. Rõ ràng, những thanh niên trẻ đang rất muốn cống hiến, muốn thay đổi để đem lại một cái gì đó mới mẻ cho cuộc sống của họ: "Thời gian ấy, thanh niên khao khát lý tưởng, như người đi nắng khát nước, chỉ nghe đồn cũng đã tìm đến bày tỏ nỗi băn khoăn và đánh bạn với nhau" [76,206]. Nhân vật tôi đặt mình trong khao khát của thời đại để cho thấy cái khao khát chung của một thế hệ. Một cái "tôi" đầy nhiệt huyết, hăng say mà ta có cảm tưởng như mong muốn làm được một cái gì có ích, có nghĩa cho cuộc đời thật mạnh mẽ, mong ước thay đổi hiện tại. Ước mơ đó tha thiết như: "Gió hồ cuối thu thổi vào rào rạt như nguồn cơn của lòng người. Ngỡ như ngọn gió đương thổi cái tương lai tốt đẹp đến cho mình" [76, 233]. Tô Hoài đã lắng lòng mình để nghe những khao khát đang thổi bừng trong tâm hồn tuổi trẻ. Sự tha thiết ấy khiến ta liên tưởng đến câu nói của nhà văn Nga M.Prisvin: "Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải ước mơ tha thiết hơn nữa để biến tương lai thành thực tại". Cái tôi tuổi trẻ nhiều mơ ước, nhiệt tình.

Nhưng cuộc đời rất phong phú và phức tạp, nhân vật “tôi” dấn thân vào cuộc đời và trải

nghiệm, thấm thía, đau xót. Trong Cỏ dại đi vào kí ức bạn đọc không phải là hình ảnh một đứa trẻ

khao khát tình mẹ như hình ảnh bé Hồng (Những ngày thơ ấu), cái khao khát cháy bỏng một hơi ấm

tình thương mẫu tử như người lữ hành trên sa mạc mong một dòng suối mát khiến cho người đọc

xúc động, rưng rưng. Cũng không phải là hình ảnh những đứa trẻ hồn nhiên trong sáng trong độ tuổi

vô tư của mình…mà là hình ảnh Cu Bưởi sớm phải bươn trải trong trường đời, sớm phải ý thức về

bản thân trong một môi trường buồn tẻ nghiệt ngã. Vì thế mà nhân vật tôi của Tô Hoài buồn nhiều

hơn vui, nỗi buồn đi từ trường đời vào nhân vật và niềm vui cũng được chắt lọc từ cuộc sống hết

sức bình dị mà ra khiến cho người đọc ngậm ngùi, xót xa. Đến tuổi đi làm tự kiếm sống, nhân vật

tôi vật vã trong nhiều nghề khác nhau, nhiều niềm vui, nỗi buồn khác nhau. Từ việc bán hàng ở hiệu

giày Bata số nhà 89 phố hàng Đào, công việc buồn tẻ và tình người lạnh lùng. Nhà văn đã đi sâu

vào những suy nghĩ của nhân vật tôi để thấy sự tự thương mình. Đến việc làm ở hãng Hàng Bông

thợ nhuộm, rồi đi làm kho với công việc khuân vác nhặt nhạnh, cuối cùng bỏ việc lang thang. "Tôi

sắp khóc mà phải mếu máo cười". Thảm thương nhất là những ngày thất nghiệp ở Hải Phòng.

"Ngày lại ngày, tôi đi tìm việc. Thấy cái giấy dán ở đầu tường nào tôi cũng đến đọc, thấy cửa hiệu

to, tôi ghé nghiêng nhòm vào rồi hỏi. Chẳng đâu ăn thua.. Tôi vẫn may rủi hàng ngày vẩn vơ đi tìm

việc, mà việc vẫn xa lắc xa lơ đâu không biết" [76,196]. Những kỉ niệm đáng nhớ đến mức: "mà

thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn nhớ". Qua cách kể của nhân vật tôi ta thấy sự trải nghiệm chua xót, đắng cay và nhận thấy đời quả thật đáng buồn! Vẫn cách khắc họa cái tôi tự biểu hiện qua suy nghĩ, qua lời nói đồng thời tác giả dùng hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng thêm sự thuyết phục, tìm sự đồng cảm để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan hơn: "Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ? Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì đương nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm" [76,194]. Chủ thể "tôi" được chiếu điểm nhìn qua cho nhân vật trong kể chuyện của mình như trên là việc ý thức của tác giả trong lối kể nhằm tránh giọng hồi tưởng một chiều hay là sự đơn điệu bằng phẳng kéo tác giả lùi sâu vào quá khứ để suy tưởng. Chính vì lẽ đó mà mạch tự sự câu truyện kể thỉnh thoảng bị dừng lại bởi lời trực tiếp của nhân vật, kéo gần tương lai lai với câu truyện, tăng tính hiện thực. Nhà văn đã để nhân vật tự suy ngẫm để nhấn mạnh sự tự ý thức của con người trong hoàn cảnh: "Trong nghề viết của tôi, ví như ai khuyên tôi dựng nhân vật phải theo quy luật cuộc sống – họ nói thế, nhân vật phải gồm hai mặt tốt và mặt xấu. Nếu có khi nào viết về Cần, về một người như Cần, tôi đành chịu có muốn cũng không thể làm theo lời khuyên ấy được. Lòng tốt của Cần và tình thương của vợ chồng anh đối với tôi không biết có“quy luật hai mặt” ấy" [76,191]. Nhân vật tôi đã dùng những câu văn mang tính khẳng định để bộc lộ suy nghĩ của mình. Khi dùng những cụm từ, câu văn như: "tôi đành chịu. Lòng tốt của Cần và tình thương của vợ chồng anh đối với tôi không biết có “quy luật hai mặt” ấy". Rõ ràng những năm tháng đã qua sẽ không bao giờ quên, như lòng biết ơn sâu sắc của tác giả. Đọc xong những trang truyện người đọc không thể ngăn được tiếng thở dài, buồn bã. Sau đó nhân vật tôi buộc lòng phải thất thểu quay về Hà Nội…Khắc hoạ nhân vật từ những chi tiết sinh động trong cuộc sống đời thường như thế, nhà văn không có ý định làm méo mó hoặc bôi nhọ nhân vật, mà ở đây là một trong những thủ pháp xây dựng nhân vật của nhà văn. Có lẽ trong làng văn hiện đại Việt Nam ít ai viết về kỷ niệm tuổi thơ và những ngày

bước vào tuổi trưởng thành với nhiều chi tiết “vụn vặt” như Tô Hoài.

Trong các tác phẩm hồi kí, khi tác giả hòa mình trong môi trường sống gần gũi với các nhà

văn. Ta thấy nổi bật lên cái “tôi” nghệ sĩ tài hoa, tinh tế, khéo léo thể hiện ở cách kể chuyện. Chen

giữa mạch truyện tự sự của chủ thể “tôi” kể về nhân vật khác là những đoạn tâm sự trực tiếp của

nhân vật “tôi”, người chứng kiến câu chuyện, điều đó làm cho câu chuyện kể ngừng lại, nhịp kể

chậm lại lắng sâu và suy tư của nhân vật “tôi” cũng như tạo sự ngừng lại, cùng suy tư với nhân vật

của độc giả. Cách kể được thể hiện bằng lời văn gián tiếp của người kể và lời nửa trực tiếp mang ý

thức nhân vật rất đặc sắc ở Tô Hoài: "Khi bực tức một người, một bài báo, người ta nói thường thốt

ra, câu nói ác khẩu mà nhiều người hay kể lại: "bao giờ chết thì nhớ chôn theo với tôi một thằng

phê bình", theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn nói đùa thêm để dưới ấy trao đổi cho đỡ

buồn. Cũng táo tợn như cái câu của P.Môrăng: Ta muốn sau khi ta chết đi, da ta được thuộc làm

cái vali mà Nguyễn Tuân đã lấy đặt lên đầu trang tiểu thuyết Thiếu quê hương khi in từng kỳ ở tuần

báo Hà Nội Tân Văn. Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân vùng vằng nói: "Thế này thì tao đem trả thẻ

Đảng cho Tố Hữu". Nhưng chưa bao giờ Nguyễn Tuân làm thế. Chỉ thấy mỗi năm, dịp kỷ niệm ngày

vào Đảng, hay tết nhất Nguyễn Tuân đều đến chơi Tố Hữu. Thế nào cũng cầm lên mây bông hồng

vàng lòng trứng gà. Trước sau tề chỉnh hầu như đã thành nếp. Cũng là "miệng xà" thôi" [63,185].

Chỉ một đoạn văn ngắn thôi mà ta thấy lời văn sử dụng rất linh hoạt khi thì lời của nhân vật kể, khi thì lời trực tiếp của nhân vật khác, khi thì lời chêm xen, giải thích của tác giả như để làm vơi bớt cái gay gắt của Nguyễn Tuân: "theo cái nhớ của tôi, thật thì Nguyễn Tuân còn nói đùa thêm để dưới ấy trao đổi cho đỡ buồn" cách viết thật khéo léo, khiếm tốn, hóm hỉnh: "Cũng là "miệng xà" thôi". Điều đó làm cho câu chuyện kể ngừng lại, nhịp kể chậm lại lắng sâu và suy tư của nhân vật “tôi” cũng như tạo sự ngừng lại, cùng suy tư với nhân vật của độc giả. Chính vì vậy, truyện đã tạo điểm nhìn khác nhau qua cách chuyển vai kể đầy sinh động, chứ không phải cứ một giọng của một cách kể xuôi chiều, đều đều một nhịp.

4TVới đặc trưng của thể loại hồi kí khi miêu tả nhân vật "tôi", tác giả thường dùng cách bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật. Tác giả dùng thủ pháp trực tiếp để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng. Cách khắc họa đó làm nổi bật nhân vật. Khẳng định mạnh mẽ mình là người trong

Tô Hoài tinh tế và khéo léo, hoà nhã trong ứng nhân xử thế. Khi đặt nhân vật “tôi” bên cạnh với tư cách là nhân vật tồn tại khách quan như những nhân vật khác, nó còn được giao nhiệm vụ kể theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”, tức đặt điểm nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Bởi vì nhân tố đối thoại, độc thoại là đặc tính quan trọng của hoạt động ngôn từ, trả lại cho ngôn từ hình thức nói vốn có của nó như trong đời sống thực. Như cái lần Tô Hoài đưa đám ma Minh Đức – một người mà Nguyễn Tuân không ưa. 4T Tác giả dùng thủ pháp4T vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật4T. 4T Nguyễn Tuân hỏi: “Sao ông đi đưa đám thằng ấy?”, Tô Hoài trả lời: “Trong đầu tôi không thấy có câu hỏi nào về việc như ông hỏi” [63,57]. Cách trả lời như thế, Nguyễn Tuân có vẻ không tin nhưng họ tránh được sự khó xử, thắc mắc. Hai người tránh đề cập đến chuyện đó bằng cách đụng cái cốc bia hơi mạnh.

cuộc, tăng giá trị chân thực cho câu chuyện. Đồng thời nhấn mạnh sự đồng cảm cao độ giữa những

người bạn văn chương. Tô Hoài thật tài hoa, tinh tế trong cách viết. Khi viết về Xuân Diệu 4T– 4Tcon

người của Tình không tuổi và xuân không ngày tháng:

4T"4TTự dưng, Xuân Diệu nắm tay tôi:

- Chúng mình già rồi...Xuân Diệu có một tình yêu riêng không khi nào biết tuổi, từ xa xưa

đến bây giờ vẫn tơ vương, vẫn thanh xuân, vẫn thiết tha. Ở Đan Mạch mới có luật cho người cùng

giới lấy nhau. Lão Axen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70 tuổi đã trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà

thị chính thủ đô Côpenha làm đăng kí kết hôn...Thơ tình Xuân Diệu gửi một người lính trẻ rời thành

phố vào chiến trường chống Mỹ" [63,198]. Trong đó có lời đề bài thơ Em đi tặng Hoàng Cát có

đoạn: "Em hẹn sau đây sẽ trở về/ Sống cùng anh lại những say mê.../ Áo chăn em gửi cho anh

giữ /Xin gửi cùng em cả hẹn thề." Đêm 11/7/1965 23 giờ 30. Ta biết Xuân Diệu sinh năm 1916

vậy đến năm 1965, Xuân Diệu gần 50 tuổi vẫn viết thơ tình nồng nàn, đắm say với một chàng lính

trẻ. Cho nên Tô Hoài thấu hiểu cái nỗi chờ đợi đau đáu của bạn mình khi biết: "Xuân Diệu tài hoa

và đam mê, cả đời đuổi theo mộng. Một bài thơ, những bài thơ, những mối tình trai và tình gái." Vì

vậy cái khéo léo, tài hoa của tác giả Tô Hoài khi tưởng như kể chuyện ở đâu đâu, ở xa xôi bên trời

Tây:" Ở Đan Mạch mới có luật cho người cùng giới lấy nhau. Lão Axen 72 tuổi yêu lão Alyxin 70

tuổi đã trên bốn mươi năm, bây giờ được ra toà thị chính thủ đô Côpenha làm đăng kí kết hôn".

Nhưng kì thực tác giả mong cho suy nghĩ của con người đổi thay, phóng khoáng, khoa học hơn để

thấu hiểu cho nỗi lòng của những người không may gặp những bất hạnh. Nhà văn đã rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể, giúp chúng ta được tiếp cận, được bước vào một thế giới đời thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh, huyền ảo mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm của những nhà văn. Điều đáng nói ở đây là ngay cả khi viết về những thói tật của những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân thành của một nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm thấy nhà văn hạ thấp họ hay cố tình đề cao bản thân mình để làm nhòe đi hình ảnh người khác.

Ở đây nghệ thuật tự biểu hiện của nhân vật bằng cách dùng những nhận xét của người khác khi nhận xét về mình một cách thẳng thắn, khách quan. Một cái tôi chân thành không né tránh. Hoàn toàn nhất quán trong cách viết, không ngại ngần phanh phui ngay cả chính bản thân mình. Ông viết cả những câu nói của bạn văn khi nói về ông, như nhận xét của Như Phong: “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt”; hay Nguyễn Tuân cũng từng nhận xét: “Chó biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành, không hiền lành của mày” [63]. Và Tô Hoài cũng nhìn nhận về mình: “Có thể thế. Tôi sinh ra nơi thành phố và làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh lí không khạc ra lửa như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, ở quê tôi túi bạc đâm toạc tờ giấy, có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy” [76]. Cái “khóe đời”mà ông lăn lóc ấy ít nhiều đã tác động, hình thành nên nét tính cách trong con người ông. Ngay cả việc đã từng bị Nguyên Hồng chửi thẳng vào mặt ông cũng không hề che giấu: “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn!...” [63]. Phải chăng vì thế mà ta hình dung ra Tô Hoài như một bức chân dung được phác thảo giống như bất cứ bức chân dung nào khác; không thiên vị, không né tránh. Tinh tường, tài hoa trong cách nhìn nhận, giá đánh, phản ánh.

Dưới ngòi bút Tô Hoài người đọc vẫn cảm nhận được tính khách quan của sự vật hiện tượng

được miêu tả, cộng với cách kể chuyện hấp dẫn có duyên, nhiều khi lan man mà vẫn kết dính, nhiều

khi “vụn vặt” mà vẫn có sức khái quát. Tác giả đã kể lại hết sức chân thực cuộc đời, cảnh ngộ của

nhân vật tôi, tập trung khắc họa từ suy nghĩ, hành động, lời nói từ đó khái quát lên tính cách. Người

đọc hồi hộp dõi theo cả một quá trình khôn lớn, trưởng thành của nhân vật tôi, quá trình nhận thức,

khám phá xã hội, quá trình hình thành nhân cách của nhân vật tôi, hình ảnh của tác giả sau này.

Nhân vật tôi như sợi dây xâu chuỗi biết bao cảnh đời số phận. Khi nói về mình, tác giả đã miêu tả

không phải như một cái gì đã hoàn tất và cố định mà như là một nhân cách biến chuyển, đổi thay

được cuộc sống tôi luyện. Điều đó cũng chính là một trong những nét đặc trưng cơ bản của tiểu

thuyết mà ta tìm thấy trong Tự truyện của Tô Hoài.

Tại sao? Khi viết tự truyện, hồi kí Tô Hoài thành công khi khắc họa tiếng nói bên trong của

nhân vật "tôi", một tâm sự chân thành, một cái tôi đầy suy tư, trăn trở: "Hồi kí, tự truyện của Tô

Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài...Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của

người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy".

Nhận xét trên của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh là rất chính xác. Tô Hoài viết hay và có ý thức tạo

nên sự hấp dẫn của cái "tôi" trong tự truyện. Điều đó một phần do những năm 30 của thế kỷ này đã

chứng kiến một cuộc lột xác của văn học, một “thời đại chữ tôi” ( Hoài Thanh ) – “cái tôi” bộc lộ tự

do, trực tiếp, thành thực thành “chữ tôi”. Cái tôi tự cảm trong thơ mới lãng mạn, cái tôi tự nghiệm

trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán, một phần nào đó, cái tôi tự giãi bày trong những tự truyện, hồi kí. Mà trong những tác phẩm tự truyện, hồi kí của Tô Hoài cũng thấy rõ điều đó.

Hơn nữa các tác giả tự truyện, hồi kí thực sự giai đoạn của 1930-1945 khẳng định cái tôi của mình thông qua cách biểu hiện của đời sống bên trong mình, một cái tôi mạnh mẽ đầy ý thức. Con người có giá trị vì nó là một tồn tại duy nhất không bao giờ gặp lại.Trong tự truyện, hồi kí nhân vật tôi tự coi mình là chứng nhân cho chính mình, còn những người khác thì nhân vật tôi coi là nhân chứng cho những gì không thể thay thế được trong sự hiện diện của mình”. Nếu trong văn học Trung đại thế giới bên ngoài thu hút nhân cách con người thì bây giờ nhân cách con người tự khẳng định như một nhu cầu tất yếu, định hình những chuẩn mực cho nó, và đấy là mảnh đất màu mỡ cho thể loại văn học của đời sống cá nhân phát triển. Tô Hoài cũng là người ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã mạnh dạn thể nghiệm cho thể loại tự truyện, hồi kí. Và đã có những cống hiến trong công việc phát triển thể loại văn học này.

Vì sao khi viết tự truyện, hồi kí Tô Hoài nhắm đến tái hiện quãng đời ấu thơ của tác giả khi tác giả còn chưa xa cái tuổi thơ ấu ấy bấy nhiêu. Trong khi nhiều nhà văn khác trên thế giới chỉ thường viết tự truyện, hồi kí khi đã có tuổi, có một độ lùi thời gian cần thiết để đánh giá, suy nghiệm về cả cuộc đời đã qua của mình, thì nhà văn Tô Hoài viết tự truyện, hồi kí ở tuổi đời rất trẻ. Trong hoàn cảnh xã hội khi con người mang nặng nỗi bất hòa với hiện tại thì quá khứ là một trong những nẻo đường thoát ly ngay trước mắt. Quá khứ dù có hạnh phúc, đẹp đẽ hay là đau khổ buồn thương đi nữa, một khi đã trở thành kỷ niệm thì đều mang một vẻ đẹp, một vẻ “hoàng kim”, một sức cuốn hút lạ lùng nào đó, bởi nó không bao giờ trở lại. Đấy chính là quy luật trong đời sống tình cảm của con người.

Đương nhiên thành thực không phải điều kiện duy nhất để nhà văn thành công trong tự

truyện, hồi kí . Trong thể loại này chủ thể trần thuật trở thành một chủ thể kép: vừa là chính tác giả

đang tự kể về mình, vừa là nhân vật chính, là hình tượng trung tâm trong tác phẩm. Thể loại này

đào tìm chất liệu và xây dựng tác phẩm từ cuộc đời và tính cách của cái tôi – tác giả, chính ở đây sự

tự thể hiện diễn ra chân thực nhất, tự do nhất và cũng là khắc nghiệt nhất. Bởi lẽ tác giả ngoài đời và

tác giả trong nghệ thuật, cái thật của cuộc sống và cái thật của nghệ thuật, chúng không bao giờ

trùng khít với nhau. Có những cuộc đời bên ngoài thì rất rực rỡ, ấn tượng, nhưng đi vào nghệ thuật

lại nhàm chán, mờ nhạt và sáo mòn. Ngược lại, có những cuộc đời bên ngoài thì rất tẻ ngắt, ảm

đạm, tầm thường, nhưng đi vào nghệ thuật thì lại lung linh nhiều tầng ý nghĩa sâu xa, cao đẹp của

thân phận con người. Có thể nói, đọc tự truyện không phải chỉ là đọc cuộc đời tác giả mà đi tìm

trong cuộc đời ấy một cuộc đời lớn hơn thế, đi tìm trong số phận ấy trong số phận của cả tầng lớp,

cả nhân thế này. Nên cái tôi – tác giả ấy phải tìm được mở rộng tối đa các giới hạn sống, những sự

kiện, biến cố phải được khai thác tối đa về phương diện tính chân thực của khoảng rộng của không

gian và thời gian sống. Tự truyện được viết ra từ chính vốn sống, vốn trải nghiệm cụ thể của cuộc

đời nhà văn, nhưng nó không phải con số cộng của những sự kiện đã xảy ra, những kinh nghiệm đã

đúc rút, mà là quá trình sống lại cuộc đời mình một lần nữa, với cả những phương án khả thi khác nữa của nhân cách mình, với cả bề dày của thời gian, của sự đeo đẳng, ám ảnh, day dứt, nuối tiếc trong mình.

2.3. Khắc họa nhân vật qua hồi ức, bằng hồi ức

Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm rất thực về cuộc sống hay về chính mình. Nhà văn khi hồi tưởng nhớ về những người thân yêu đã để lại cảm xúc sâu đậm cho tác giả.

Khi trưởng thành bước theo nghề văn thường tác giả có cảm hứng viết về những cây bút mà mình ưa thích, hâm mộ và có quan hệ thân cận đặc biệt. Điều ấy khiến cho cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc lộ đậm nét qua việc hồi tưởng. Cái tôi của người cầm bút bộc lộ tính chủ quan của hoạt động sáng tạo. Sự thú vị khi đọc những chân dung văn học, ta thấy rất rõ tình cảm của người viết bởi sự gần gũi thấu hiểu. Cảm xúc có phần nồng nhiệt và nhìn đối tượng phản ánh bằng một lăng kính ngưỡng mộ, yêu thương của người viết đối với đối tượng của mình. Tính chủ quan khi khắc họa nhân vật bằng hồi ức còn thể hiện rõ hơn nữa ở cách khai thác và sự phát hiện riêng về đối tượng. Tác phẩm văn học đích thực bao giờ cũng neo giữ ở lòng người lâu nhất và điều thuyết phục người đọc chính là cảm xúc chân thành của người viết. Tác giả biết tự đánh giá lấy mình tránh sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả là người duy nhất tham gia chứng kiến sự việc.

2.3.1. Khắc họa nhân vật người thân

Hồi ức – nhân vật “tôi” đang nhớ lại điều bản thân đã trải qua. Ấn tượng mạnh mẽ nhất của tác giả khi nhớ về người thân đó là cảm xúc về mẹ: “Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tươi mát và sinh động. Ta càng xa tuổi thơ thì hồi ức đó càng rõ rệt, dễ hiểu và thân thiết” (N.V, Sengunop). Cảm

xúc về mẹ – đấng sinh thành, là điểm tựa tinh thần luôn đem đến cho ta một cảm giác dễ chịu, thân

thiết. Hồi ức về mẹ bao giờ cũng tạo được niềm vui và niềm tin trong ta. Khi trưởng thành, hồi ức

về mẹ càng gần gũi, sinh động và tươi mát.Trong đôi mắt của con không ai gần gũi và thân thương

bằng mẹ, cũng không có cảm xúc nào chân thật hơn cảm xúc về mẹ. Có lúc tác giả cách thể hiện

gián tiếp như lời kể, lời tả: "4TTrong đôi mắt dịu hiền của u tôi, tôi mới có thể là hy vọng của một

tương lai mong đợi sáng sủa hơn". Nhưng có lúc bộc lộ trực tiếp cảm xúc của cái tôi trữ tình, cách

gọi mẹ bằng: "U ơi u, chị ơi! chị, cháu hiểu, không bao giờ chị biết đến những hàng chữ tắt mắt

cháu đương viết đây. Cái thế giới tân kỳ mà cháu sống, chẳng bao giờ chị tìm biết. Người mẹ kín

đáo ngắm đứa con ngày một khác lạ, lạc mãi vào những cuộc sống xa xôi nào. Mẹ âm thầm sống.

Mẹ là cái bóng đi bên cạnh tháng ngày của con. Chị ơi! Chưa bao giờ chị dám muốn có một ý đổi thay mong ước" [76,30]. 4TKhi xây dựng hình ảnh người mẹ thân yêu vì khắc họa qua hồi tưởng cho nên ấn tượng nhất của tác giả với mẹ qua ngoại hình, tác giả thiên về miêu tả. Miêu tả đòi hỏi nhiều

chi tiết để dựng cảnh giống như thực. Mặt khác, bạn đọc có cảm tưởng như mình được trực tiếp

chứng kiến, thậm chí có thể tham gia vào cảm xúc của các nhân vật trong câu chuyện. Ngày nay

người ta gọi tác động này là “hiệu quả của sự có mặt”. Khi miêu tả ngoại hình của mẹ, tác giả tập trung khắc họa: 4T"Cái bóng lầm lũi, hoà với bóng tối, vẽ nên một khuôn mặt trăng trắng với đôi mắt nhỏ lòng đen nhuộm một màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ bên cạnh lớp lớp những ngậm ngùi những thắc thỏm đợi chờ dài dặc trong ngấn nước mắt và tiếng thở dài...Tóc đường ngôi của u tôi lốm đốm rụng, chỉ còn lưa thưa. Mới năm nào, u tôi thuê tôi nhổ, một chinh hai chiếc tóc sâu. U tôi cười, nếp nhăn ở đuôi con mắt nheo lại, xếp lên nhau, đến khi hết cười còn hằn những vết rạn khía quanh xuống hai bên gò má. Hàm răng trên của u tôi khuyết hai chiếc đã mấy năm nay. U tôi già đi từ bao giờ? Từ lúc nào?" [76,30]. 4TBóng dáng người mẹ đã được khắc hoạ qua “Cái bóng hoà lẫn với bóng tối", “Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm đợi chờ dài dặc”. Khi hồi tưởng tác giả vừa miêu tả vừa bộc lộ tình cảm trong đôi mắt yêu thương của tác giả người mẹ hiện lên là người phụ nữ đã phải chịu nhiều vất vả, lam lũ vì cuộc sống nghèo khó, cơ cực, luôn phải sống trong những chuỗi ngày “thắc thỏm đợi chờ dài dặc” tin tức của người chồng đi làm ăn biền biệt ở đất Sài Gòn xa xôi không thấy trở về. Miêu tả nhân vật Tô Hoài hay đặc tả về đôi mắt để phản ánh chiều sâu của tâm trạng, tâm hồn con người: "4Tmột khuôn mặt trăng trắng với đôi mắt nhỏ lòng đen nhuộm một màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ bên cạnh lớp lớp những ngậm ngùi những thắc thỏm đợi chờ dài dặc trong ngấn nước mắt và tiếng thở dài" 4T[76]. Cách xây dựng nhân vật của Tô Hoài tập trung qua miêu tả hình dáng, cử chỉ ta cũng có thể liên tưởng đến số phận con người, có thể thấy được những suy nghĩ, đăm chiêu trong tâm hồn của người mẹ qua hồi tưởng của tác giả4T. Ngay trong khi hồi tưởng tác giả dùng những câu văn trữ tình cảm nhận thời gian trôi qua rất nhanh đưa theo tuổi trẻ của mẹ đi mất, người con bỗng thoảng thốt nhận ra: "Mới năm nào, u tôi thuê tôi nhổ, một chinh hai chiếc tóc sâu...U tôi già đi từ bao giờ? Từ lúc nào?". Tác giả ngậm ngùi nhận ra c4Tuộc sống của mẹ từ khi sinh ra đã quen với sự chịu đựng, quen với những nỗi bất hạnh cay đắng của cuộc đời. Cách khắc họa nhân vật – đời người như một dòng sông buồn. Tác giả đứng ở hiện tại để hồi tưởng lại nên khắc họa nhân vật của mình bằng tình yêu thương trong chiều sâu tâm

hồn.

Văn học phản ánh hiện thực thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Mỗi một thể loại văn

học có cách phản ánh và đặc trưng riêng của nó. Đặc trưng của truyện ngắn là sự cô đọng, dồn nén,

phản ánh một hiện thực lớn trong một phạm vi nhỏ mà vẫn làm nổi bật được tư tưởng chủ đề mà tác

giả gửi gắm. Cho nên trong từng chi tiết của truyện đều có dụng ý nghệ thuật và có tính triết luận rất

cao. Những trang văn miêu tả của Tô Hoài bao giờ cũng hiện lên cụ thể, chân thực và sống động,

cho dù có khi nhà văn diễn tả những cảm xúc mơ hồ của con người. Khi miêu tả đối tượng, nhà văn

luôn thể hiện sở trường trong việc đặc tả chi tiết khiến cho sự vật, sự việc được miêu tả ở cự ly gần

nhất gây được nhiều bất ngờ thú vị tới người đọc. Khả năng đặc biệt của Tô Hoài nắm bắt rất nhanh

những chi tiết chân thực điển hình của đối tượng miêu tả.

Ấn tượng khó quên của tác giả đó là tình thương yêu của người bà dành cho mình. Với tuổi

ấu thơ, nhỏ bé không ai dịu dàng yêu thương cháu bằng bà. Khi mẹ bắt đi học sợ, khóc không chịu

đi nên: "4TThấy bà, tôi bỗng khóc to hơn” [76]. Sau đó được bà dỗ dành mới chịu đi học, điều này phù

hợp với tâm lí trẻ thơ, hay sợ hãi và thích nhẹ nhàng, vỗ về. Thế là người bà đã kiên nhẫn ngồi cạnh

cháu suốt nửa tháng: "Bà có ngồi thì cháu mới ngồi. Và tôi đứng yên. Bà tôi phải ngồi xuống cùng

ghế, tôi mới dám nép một bên. Trống tan học, bà tôi dắt tôi về. Buổi học chiều, cũng lại cảnh hai bà

cháu ngồi cạnh nhau. Hôm sau lại những hôm sau nữa, sau nữa. Mỗi sáng, tôi tề chỉnh sách mũ và

lọ mực, bà tôi lại đưa tôi lên trường và ngồi cùng một bên. Cái lệ ấy kéo dài đến nửa tháng" [76, 474T– 4T48]. Khi hồi tưởng về nhân vật người bà tác giả dùng loại câu kể nhắc đi, nhắc lại thời gian: "Buổi học chiều... Hôm sau lại những hôm sau nữa, sau nữa....Mỗi sáng...Cái lệ ấy kéo dài đến nửa tháng." Biết bao nhiêu công lao và tình thương bà dành cho cháu trong sự kiên nhẫn ấy. Bởi vậy càng lớn lên nhân vật tôi càng trân trọng tình cảm mà người bà dành cho mình. Và chỉ có người bà thấu hiểu cho nỗi nhớ nhà da diết của đứa cháu xa quê. Nỗi lòng người cháu như vỡ òa khi tìm được điểm tựa tinh thần. 4TCó khi nỗi nhớ nhà đến nôn nao tác giả dùng lời nói gián tiếp của bà: "4TTôi nhớ nhà quá. Nhớ vàng cả người. Vàng cả người là bà ngoại tôi nói thế. Giữa tháng chạp, bà ra đón tôi về quê ăn tết. Vừa trông thấy bà, hai mắt tôi đã loá nước mắt". Bởi bản thân nhân vật tôi lúc đó còn rất ngây thơ ngay trong cả nỗi nhớ của mình cũng khó có thể tìm ngôn ngữ nào để diễn tả. Cho nên tác giả đã dùng nhận xét của người bà vừa thương cháu vừa trải đời để diễn tả cho hết cho đúng cái nỗi nhớ da diết. Đây là hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt bên cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng thêm một nhân chứng để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan hơn. 4TTự truyện của Tô Hoài có nguồn gốc chủ yếu từ thời thơ ấu của tác giả. Tô Hoài khắc họa nhân vật người thân một cách sinh động và bao trùm lên vẫn là tình cảm yêu thương mà tác giả dành cho bà.

Hồi ức tuổi thơ của Cu Bưởi luôn in đậm hình bóng, gương mặt của người ông, một hình ảnh gây ấn tượng mạnh trong trí nhớ của nhân vật tôi: “Đầu ông tôi cạo nhẵn, lơ thơ tóc bạc, ngó được cả làn da đầu bóng đỏ…Phía má bên trái ông tôi có một cái nốt ruồi. Ở vết nốt ruồi mọc ra mấy sợi râu dài mờ như cước, quyện lẫn cả vào chòm râu thưa bên mép. Mắt ông tôi lúc nào cũng lờ đờ. Phía dưới mí gồ lên hai cái bọng. Những nếp răn chảy trên má rạt quanh xuống hai bên cằm…” [76]. Tô Hoài miêu tả gương mặt của người ông tới từng tiểu tiết trên gương mặt, khiến cho người

đọc có cảm giác như mình đang được trực tiếp quan sát gương mặt ấy qua một tấm kính hiển vi,

nhìn thấy được cả nốt ruồi nhỏ ở bên má trái và mấy sợi râu bạc mờ trên đó. Biệt tài miêu tả ngoại

hình của nhà văn khiến cho người đọc phải ngạc nhiên và thán phục. Cách miêu tả ngoại hình hết

sức chi tiết. Những hình ảnh ấy hiện ra trước mắt độc giả là một gương mặt của người già với những

nếp nhăn khắc khổ, hằn sâu như vết chân của thời gian đã đi qua, in dấu lại, đôi mắt dường như đã

mệt mỏi, kém vẻ tinh anh “lờ đờ”, “có màng gợn trăng trắng”. Với sự khắc họa ngoại hình chuẩn

xác như vậy nên gương mặt người ông đã gây ấn tượng độc đáo và rõ nét với người đọc. Trên

khuôn mặt ấy vừa có cái chung của tất cả mọi gương mặt người già nhưng lại có những điểm riêng

biệt mà chỉ nhân vật ấy mới có.

Khi miêu tả ngoại hình qua dáng ngồi in đậm hình bóng của người ông trong kí ức của Cu

Bưởi ,đối với nhân vật “tôi” – đây vừa là người mà nhân vật kính trọng, vừa là người rất đáng sợ:

“Mỗi sớm, khi tôi bừng mắt, nhìn sang ghế tràng kỷ bên đã trông thấy đốm thuốc phập phèo sáng.

Ông tôi ngồi bó gối, bao giờ cũng một kiểu ấy, hút thuốc, nhìn ra sân” [76]. Tác dụng của những

nét vẽ đã tạo nên hình dáng của người ông, vừa có sức gợi lớn về số phận con người. Trong dáng

ngồi im lìm và lặng lẽ ấy như có cái gì đó vừa bất mãn vừa cam chịu, nhẫn nhục, suy tư trước thời

thế cuộc đời, trước cái nghèo đói tù túng như con mọt đang ăn mòn mỗi thân phận, mỗi cuộc đời

của người dân vùng Nghĩa Đô khi đó. Một con người cũng đã từng có một thời tung hoành. Bây giờ

khi đã về già, con người ấy ngoài việc ngồi đăm chiêu như vậy và quét lá rụng trước sân thì “không

cất nhắc một việc gì nữa”. Trong khi gia đình cứ “nghèo dần mãi đi”. Đó là một sự buông xuôi trước số phận, phó thác cuộc đời cho số phận; một sự cam chịu và bất lực trước hiện thực cuộc sống. Dáng ngồi lặng lẽ, khắc khoải của người ông như một dấu than, một dấu chấm buồn góp vào bức tranh cuộc sống chung của những người dân trong làng. Cuộc sống bị bao phủ bởi màu xám tẻ ngắt của cái nghèo đói, cũ kỹ và lạc hậu. Nhà văn Tô Hoài gọi đó là: “Cuộc sống trong ao mà những con chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt mình vừa thở”. Còn nhà thơ Xuân Diệu gọi đó là “cái ao đời phẳng lặng”. Cứ ngẫm về cuộc sống đó thấy kiếp người thật buồn, cái buồn như lan toả từ câu chữ đến lòng người. Tác dụng của việc khắc họa nhân vật chỉ qua vài nét phác họa về hình dáng – dáng ngồi của người ông vào buổi sáng với đốm thuốc lập loè đã lạc vào thời gian, in đậm trong kí ức của Cu Bưởi. Đằng sau những nét vẽ của tác giả, độc giả đã được biết thêm rất nhiều về cuộc đời, về thân phận của nhân vật, những điều có được nhờ sự liên tưởng, nhờ cảm nhận của người đọc qua cách khắc họa ngoại hình chân thực và sinh động ấy.

Cách xây dựng nhân qua hồi tưởng khiến cho những trang Tự truyện của Tô Hoài hiện lên thật cụ thể và sinh động. Mỗi chi tiết, mỗi đường nét như những nét vẽ vừa chân thực lại vừa rất có hồn tạo nên phong cách riêng trong cách xây dựng nhân vật của nhà văn. Có thể nói, thế giới nhân vật trong tự truyện Tô Hoài được khắc họa bằng hồi tưởng, được vẽ nên bằng tình cảm, bằng sự suy tư về số phận con người. Nhân vật vì thế hiện ra sắc nét, sinh động. Mỗi con người, mỗi gương mặt, mỗi hình bóng được miêu tả lại có những cảnh ngộ riêng, những cảnh đời và thận phận khác nhau tạo nên bức tranh cuộc đời chung mà trông vào đó người đọc thấy thấm thía một nỗi buồn, buồn cho cuộc sống tù túng, quanh quẩn.

Khi khắc họa nhân vật Tô Hoài đã phát huy hiệu quả của sự ấn tượng, cảm xúc hồi tưởng,

hình ảnh trực quan, đặc tả hình dáng vẻ bề ngoài để làm rõ tính cách và liên tưởng về thân phận con

người. Cách xây dựng nhân vật bằng hồi ức của nhà văn đã tạo nên ấn tượng độc đáo đối với độc

giả.

2.3.2. Cách khắc họa nhân vật bạn văn qua hồi tưởng

Bản chất của con người là một nghệ sĩ, nhà văn là nghệ sĩ của tâm hồn. Nhà văn Tô Hoài có

ý thức nghề nghiệp cao coi văn chương là một hình thái lao động nghệ thuật cao quí. Ông quan

niệm người viết văn trước hết họ cũng là người – người lao động, chỉ khác là họ là người lao động

nghệ thuật mà thôi. Là người cùng nghề nên giữa ông và các nhà văn khác có sự "cọ xát" ở cự li

gần. Một nhà văn trong quá trình sáng tạo phải có cái nhìn mang tính phát hiện, phải có sự va chạm

vào cuộc đời bằng những góc cạnh đa chiều. Ở họ trước hết cũng là người như bao nhiêu người bình

thường khác. Họ cũng có đầy đủ mọi vẻ đẹp cao quý và không ít những điều bình thường, thậm chí

cũng tầm thường nữa:“Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ” [63,7].

Chính cái nhìn giản dị mà chân thực ấy đã khiến cho Tô Hoài không hề giấu giếm về mình khi xây

dựng bức chân dung tự hoạ. Ông ghi lại cả những câu đùa mỉa mai của các bạn đồng nghiệp khi

nhận xét về mình. Không tô điểm, không cần cường điệu, mà ông cứ đem sự thật ra để kể: “Chúng

tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ nhen” [76]. Đối với Tô Hoài người viết văn cũng giống như bất cứ người bình thường nào khác. Quan niệm về người viết văn như trên đã chi phối toàn bộ tư tưởng nghệ thuật trong những sáng tác hồi kí và tự truyện của Tô Hoài, góp phần làm nên sức hấp dẫn ở những sáng tác của ông.

Nguyễn Văn Thạc trong Mãi mãi tuổi 20 viết: “Trên trang sách, cuộc sống tuyệt vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”. Hiện thực của cuộc sống rất phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, cuộc sống với tất cả những sắc thái thẩm mỹ đa dạng của nó lần lượt hiện lên: có cả cái bi, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn lộn. Tất cả như những sợi chỉ óng ánh nhiều mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên tấm thảm cuộc đời. Khi sáng tác Tô Hoài không ngần ngại mà đem nhân vật ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng nên. Ông không nói quá cho ai, tô vẽ lý tưởng ai, nhưng cũng không vì thế mà làm mất đi niềm yêu quý của độc giả đối với các đối tượng mà ông đã tạo dựng.

Thời gian sẽ trôi qua, vạn vật sẽ đổi thay, dù không ai muốn đều phải “ra đi” theo quy luật của tạo hóa, khu vườn văn chương sẽ xuất hiện những chỗ trống khi những tên tuổi từng rạng rỡ một thời như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Ngô Tất Tố…không còn nữa. Những cây lớn đổ xuống cả một khoảng trời trống vắng. Khi đó những trang văn hồi tưởng về các nhà văn lớn, sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận và hiểu hơn về giới nhà văn trong quá khứ.

Có thể nói đây là những nhân vật rất đặc biệt trong tác phẩm hồi kí của ông, là những người bạn, người đồng nghiệp mà ông gần gũi, thân thiết, tiếp xúc nhiều với họ, điều quan trọng nữa là

ông rất hiểu họ. Với cái nhìn nhân bản đời thường “người ta ra người ta thì phải là người ta đã

chứ.” Nhà văn đã rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể, giúp chúng

ta được tiếp cận, được bước vào một thế giới đời thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh,

huyền ảo mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm của những nhà văn. Điều đáng nói ở đây là ngay

cả khi viết về những thói tật của những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng

chân thành của một nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm

thấy nhà văn hạ thấp họ hay cố tình đề cao bản thân mình để làm nhòe đi hình ảnh người khác. Với

nhà văn thì ấn tượng chủ quan rất quan trọng, cuộc sống phải dội vào trái tim những nhịp đập ngân

vang, phải ám ảnh, thôi thúc người cầm bút sáng tạo. Mà cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai

chiếc lá giống hệt nhau trong rừng người cũng vậy không có hai người hình dung giống hệt nhau.

Nhà văn tài năng phải có phong cách riêng. Điều ta nhận ra là khi nhà văn hồi tưởng những kỉ niệm

về bạn văn chương thì thường ấn tượng đến những cây bút có tài năng và có cá tính, có tác phẩm

hay. Hơn nữa chính độc giả thường quan tâm tới những nhà văn có tài mà họ hâm mộ. Vì cuộc đời

là nơi xuất phát cũng là nơi đi đến của văn học. Cho nên viết hồi kí văn học đòi hỏi phải tôn trọng

sự thật đồng thời phải hợp với suy nghĩ của người đọc nếu không tác phẩm sẽ khó tồn tại được. Có

thể nói Tô Hoài đã vượt qua được cái thử thách khắc nghiệt ấy.

Ấn tượng về ông hoàng của thơ tình yêu – Xuân Diệu Ấn tượng về Xuân Diệu, Tô Hoài vẽ lên một vẻ ngoài chỉn chu, lịch thiệp: “áo tuýt so lụa mỡ

gà, cà vạt lấm tấm vàng xẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán” [63,185]. Xuân Diệu cũng từng tự hào về mái tóc bồng bềnh gợn sóng của mình, mái tóc lãng mạn như những đợt sóng ở Quy Nhơn vậy. Chỉ một nét vẽ nhỏ thôi nhưng hình ảnh Xuân Diệu hiện lên rất hào hoa, lãng mạn. Hình thức đó thực xứng với ông hoàng của thơ tình yêu.

Ấn tượng thứ hai về Xuân Diệu mà Tô Hoài cho chúng ta biết là niềm say mê lao động nghệ thuật cả sáng tác và cả nói chuyện thơ Xuân Diệu cũng trau chuốt tỉ mỉ như một nghệ sĩ trước công chúng. Ông như con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi, nhiệt huyết, hết mình, hết lòng: "Xuân Diệu hay đi nói chuyện văn thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút kỹ lưỡng bảy, tám bài nói, nói khắp nước cũng chuyên mấy cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng và nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười. Xuân Diệu xuýt xoa thú vị: "Nước ta rất chuộng văn học và cũng là cái mốt. Phục vụ không bao giờ xuể được, nói suốt tháng vẫn kín chương trình" [63,193]. Tô Hoài đã đánh giá đúng tài năng của Xuân Diệu, tài nói chuyện thơ rất hay, rất có duyên. Vì sao Xuân Diệu lại say mê như thế, cũng dễ hiểu thôi với niềm khát khao giao cảm với đời, lại có một tâm hồn luôn rộng mở. Ông là một cây đàn Bá Nha nhưng không muốn chỉ có một Chung Tử Kì, mà khao khát hàng vạn, hàng triệu tri âm, tri kỉ, ở mọi nơi, mọi thời, thuộc mọi loại người khác nhau trên thế gian này. Một tâm hồn như thế, tất nhiên sẵn sàng truyền nhiệt huyết thơ đến với mọi người để trở thành thi sĩ của nhân dân. Một tâm hồn như thế tất nhiên cũng không thể tự giam hãm mình trong một hoạt động văn học nào. In đậm trong ta hình ảnh một Xuân Diệu – nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dào dạt tình đời.

Ấn tượng thư ba về Xuân Diệu rất đời thường và bình thường, Xuân Diệu ăn khỏe đến nỗi

Tô Hoài có cảm tưởng: “Không phải Xuân Diệu ăn mà là người nào khỏe gắp hộ, biến Xuân Diệu

thành con ma ăn, trông đến thương” [63,191]. "Mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy –

Xuân Diệu nói – như thế không làm chủ nhà tốn kém, lại hợp sự cần thiết của mình. Không sang

trọng đâu toàn những thứ dễ kiếm, mấy quả trứng, thịt bò hay thịt gà, canh măng hay canh cà chua,

canh cà chua hay hơn, cho nhiều hành và nhớ mắm muối đậm một chút. Ngày hai buổi nói, lại tối

nữa, phải thế mới có sức". Bởi ông quan niệm lao động nghệ thuật như một niềm đam mê khắc khổ

ngay chính nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng lấy người thầy của mình là Xuân Diệu làm tấm gương

sáng về lao động nghệ thuật. Nên muốn vậy phải có sức khỏe, như ăn cố để lấy sức vậy. Sự chi li, tỉ

mỉ, tính toán rất rõ cả trong việc sáng tác: "Cả đến viết, Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười, mỗi

bài đều có mục đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc bài đăng báo rồi để in sách. Nếu không,

không viết. Đã tính trước rồi. Không bao giờ viết bài đăng báo rồi không in vào sách" [63,193]. Vì

vậy số lượng tác phẩm mà Xuân Diệu để lại rất đáng kể.

Nhưng đặc biệt bức chân dung Xuân Diệu trong tác phẩm Cát bụi chân ai của Tô Hoài

không phải được tạo dựng bởi những hồi tưởng về cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ, mà được tạo dựng

qua nỗi đau tinh thần mà nhà thơ phải chịu đựng. Với những dòng hồi ức về nhà thơ, Tô Hoài phần

nào đã hé mở nỗi đau thầm kín của nhà thơ. Viết về Xuân Diệu, ta thấy Tô Hoài không hề ngần ngại

kể về những chuyện đời tư, những chuyện kín của Xuân Diệu, khiến ta cảm nhận được Tô Hoài hiểu

nhà thơ đến tận chân tơ kẽ tóc. Có lẽ không ai khác ngoài Tô Hoài dám dũng cảm bộc lộ điều này:

“Thỉnh thoảng Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn tay nắm cả buổi, nhìn nhau tha thiết, Xuân Diệu yêu tôi" [63,189]“Xuân Diệu cầm cổ tay tôi nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối, Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá” [63,189]. Rồi Xuân Diệu cũng bị kiểm điểm. Con người tài hoa thường bạc mệnh. Đọc những vần thơ của ông về tuổi trẻ, tình yêu ta thấy ông yêu đời và khát khao giao cảm với cuộc đời, khát sống như vậy mà trong hồi kí của Tô Hoài, ta lại bắt gặp một con người cô đơn và bất hạnh: "Xuân Diệu chỉ ngồi khóc...Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy nhưng ai cũng to tiếng, gay gắt "tư tưởng tư sản, phải chừa đi". Xuân Diệu nức nở "tình trai của tôi...tình trai..." rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra". Nhân vật “tôi” bên cạnh với tư cách là nhân vật tồn tại khách quan như những nhân vật khác, nó còn được giao nhiệm vụ kể theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”, tức đặt điểm nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật: " Xuân Diệu chỉ ngồi khóc...Xuân Diệu nức nở "tình trai của tôi...tình trai..." rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra". Không thể giãi bày được, đau xót biết bao. Khi này khoảng cách giữa các nhân vật rất gần để có được sự đồng cảm, thấu hiểu.

Con người không bao giờ biết tuổi già bởi đã từng viết về mùa xuân vĩnh hằng với những hăm hở và vồ vập ấy đã có lúc phải buột miệng thốt ra: “Chúng mình đã già rồi” [63,197]. Xuân Diệu nói vậy nhưng ở tuổi 50 ông vẫn nồng nàn với những tình yêu rất trẻ: "Xuân Diệu đào hoa và đam mê, cả đời đuổi theo mộng, nhiều mộng, nhiều mối tình trai. Một bài thơ, những bài thơ, những mối tình trai và tình gái". Con người suốt đời theo đuổi những đam mê và khao khát chờ đợi 4TTình không tuổi và xuân không ngày tháng. Những trang Tô Hoài viết về Xuân Diệu vào những năm

tháng lúc bấy giờ quả thật là táo bạo và cũng đầy yêu thương: "4T"Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu

chỉ buồn thương, buồn cười và đáng yêu, chỉ đáng yêu". Có lẽ chỉ có Tô Hoài mới dám kể ra một

cách tỉ mỉ sự thật này. Phải chăng điều này xuất phát từ quan niệm “viết hồi kí là một cuộc đấu

tranh để thấy ra sự thật” của Tô Hoài. Nói ra sự thật đã là khó, nhưng dùng sự thật ấy để viết vào

trong sách sao cho khéo léo lại càng khó hơn. Qua hồi kí của Tô Hoài, người đọc cảm thấy ngỡ

ngàng trước cuộc đời Xuân Diệu nhưng cũng từ đó mà cảm thương nhà thơ hơn và vẫn yêu những

vần thơ tình dào dạt, căng tràn nhựa sống của ông.

Tô Hoài tài hoa và sâu sắc khi có lời nhắn gởi tha thiết và chí tình đối với hậu thế. Ông viết

rất hay, rất đúng: "Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết đẹp đến não nùng của Xuân

Diệu, không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ như

thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu. Khi nào cũng khát vọng, không

bao giờ già, mãi mãi ban đầu." [63,199] Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân thành của một

nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm thấy nhà văn Tô

Hoài đang làm xấu đi thần tượng của đọc giả mà mong muốn tha thiết rằng những người tài hoa

thường bạc mệnh và chỉ có tình thương, sư cảm thông, thấu hiểu mới xóa mờ khoảng cách và làm

cho người gần người hơn. Thời gian sẽ trôi qua, vạn vật sẽ đổi thay khi đó những lời văn chân thành

này sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận và hiểu hơn về ông hoàng của

thơ tình yêu.

Đọc nhưng nét phác họa về chân dung Xuân Diệu của Tô Hoài người đọc bỗng trào lên một

cảm xúc, một cảm thông chia sẻ với nỗi đau, nỗi bất hạnh của “nhà thơ tình không tuổi” này.

Ấn tượng về nhà văn duy mỹ – Nguyễn Tuân: Trong số những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, người mà Tô Hoài dành vị trí trang trọng từ khi mở đầu cho đến khi kết thúc cuốn hồi kí Cát bụi chân ai là Nguyễn Tuân. Ấn tượng của Tô Hoài về một Nguyễn Tuân với phong cách không giống ai: ngang tàng và kiêu hãnh. Nguyễn Tuân là một “bậc thầy của văn chương”, một tên tuổi nổi tiếng nhưng với Tô Hoài – họ là hai người bạn tốt, hiểu nhau. Người ta thường chỉ viết, thường chỉ có cảm hứng viết về những cây bút mà mình ưa thích, hâm mộ và có quan hệ thân cận đặc biệt. Điều ấy khiến cho trong các bức chân dung văn học, cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc lộ đậm nét. Ta thấy rất rõ tình cảm của người viết bởi sự gần gũi thấu hiểu. Tô Hoài đã trở thành tri kỉ khi hiểu rõ về cả văn và con người Nguyễn Tuân: "Có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái giọng khụng khiệng, khệnh khạng. Triết lý và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn trong thang thuốc bắc, ghé bổ một tý, lại vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng thế. Với người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì không chịu đựng được. Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ." [63,7] Cảm xúc có phần nồng nhiệt và nhìn đối tượng phản ánh bằng một lăng kính ngưỡng mộ, yêu thương của người viết đối với đối tượng của mình. Cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc lộ tính chủ quan trong hoạt động sáng tạo.

Ấn tượng của Tô Hoài về một Nguyễn Tuân ở cuộc sống bình dị đời thường, với những thăng trầm và tính cách vốn có của ông trong dòng chảy cuộc đời. Con người ấy trong tác phẩm được mệnh danh bằng một loại từ ngữ “cây sáng kiến ăn chơi", “tay sành ăn và kĩ tính”. Cái thú đi

là một trong cái thú lớn nhất trong đời ông, đó là sở thích, là đam mê của ông. “Cái thúc giục vẫn là

những cơn đói đi của mình” [63,7] Có lẽ vì thế mà không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân mượn câu

của P. Môrăng làm đề tựa cho cuốn tiểu thuyết Thiếu quê hương của mình, đó là: “Ta muốn sau khi

chết đi rồi da ta được thuộc làm cái vali”. Bởi thế, trong hồi kí Tô Hoài, hình ảnh đầu tiên tạo ấn

tượng cho chúng ta là cái dáng điệu Nguyễn Tuân “lững thững bên kia hè đường bờ Hồ” [63,5].

Con người này xuất hiện giữa cuộc đời như thế, ung dung, nhàn tản, mặc thiên hạ đua chen. Phong

cách khác người của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở cách ăn mặc: “khăn lượt vố, áo gấm trầm, tay

chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định” [63,5– 6].

Tô Hoài còn ấn tượng cả về tính cách đời thường của Nguyễn Tuân. Ông không chịu được

mùi hoa sữa, ghét lây cả cây. Ông “kỵ mùi tỏi và cũng không chịu được mùi hoa ở các thứ hương Ấn

– Độ cứ thoang thoảng, rờn rợn như có ma lẩn quất trong nhà” [63,20]. Con người ấy yêu ghét ai

thì khó mà dấu được bởi tính tình “thẳng như ruột ngựa”. Con người ấy không chịu được những gì

giả dối vòng vèo, cho nên đã từng nói với Tô Hoài: “Không biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét

cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày” Đôi khi Nguyễn Tuân cũng lạnh lùng đến

khó chịu: “Khi bực bội chẳng kể to nhỏ, cái gì cũng vặc. Đuổi một người gõ nhầm cửa. Dửng dưng

trước một người không ưa, dù người ta giơ tay định bắt tay. Lại thấy cái ông ấy vào cùng buồng

trong bệnh viện, nhất định sang buồng khác” [63,76]. Nguyễn Tuân là người rất kỹ tính. Trước khi

đi đâu hay làm một việc gì, ông luôn chuẩn bị thận trọng và chu đáo: “một cuốn sổ nhỏ, cái áo mưa,

bỏ vào ba lô vừa phải. Một bao cơm nắm, thêm cái thắt lưng lương khô quấn chéo ngang mình. Dây bi đông nước, Nguyễn Tuân đã cẩn thận buộc ghì vào thắt lưng cho khi nước đỡ sóc” [63,19]. Lọ muối vừng, hộp nước mắm chưng dự trữ trên ba lô, thời chiến và thời bình vẫn thế.

Tô Hoài ấn tượng về Nguyễn Tuân là người ưa phóng khoáng, tự do. Tuy nhiên, cái phóng khoáng của ông không bao giờ lẫn với sự buông tuồng, cẩu thả, “tính đếm sửa soạn cho mải mê thì phải nhớ đến từng ly" [63,19]. Nguyễn Tuân kỹ tính trong việc ăn uống. Trời nắng nóng, ông nhấm rượu mướp đắng giải nhiệt,“nhưng không xơi mướp đắng mắm tôm như người ta. Không bao giờ đụng tới mắm tôm chợ” [63,27]. Ông cầu kỳ trong ẩm thực cũng như trong bất kỳ một thú ăn chơi nào. Cái khác người của Nguyễn Tuân nằm trong tính cách chứ không phải ông cố tạo ra để nổi trội hơn người. Nguyễn Tuân sành ăn, biết thưởng thức, không vì miếng ăn, thức uống sang trọng mà phải là hợp khẩu vị, ngon theo ý mình: “Chỉ ăn phở chín, lùa thật nhanh, ăn thật nóng, lên hết chất phở, thú nhất. Không hành tây, mùi tầu, húng chó, không thêm nước mắm, dấm ớt, tương ớt, không mỡ váng, không mì chính, cốt thưởng thức cái tinh túy của nước dùng xương” [63,28]. Nguyễn Tuân chủ yếu thưởng thức sự tinh túy của món ăn. Đôi khi không phải ăn mà là nhấm nháp để nghĩ về quá khứ, hồi tưởng về những cái xa xưa và những nơi mà mình chưa đến được. Ông tỏ ra biết ơn và trân trọng bà Lâm – người đã tái hiện món “lốc bểu” Lạng Sơn ngày trước: “Ngon lắm bà Lâm à. Người biết làm thức ăn ngon như bà bây giờ hiếm, không có nữa đâu” [63,105]. Nguyễn Tuân còn cầu kỳ trong việc uống. Ông chỉ uống “rượu ngữ” như các cụ ngày xưa và chọn các thức uống hảo hạng: Chianty của Ý, Rôm Giaimaich hay Uytki, Mao Đài, mùa hè thì làm Cốc tai, không đụng đến rượu ngọt dù nặng, không uống rượu Xa kê Nhật.

Ấn tượng của Tô Hoài về một Nguyễn Tuân rất quí bạn bè. Không thích quán cà phê hâm

nóng ở đầu đường nhưng “cứ tối tối, tôi lại rước tôi” ra đó để tìm về những cái nhớ. Không thích

ăn bánh cuốn nhân thịt nhưng vẫn cùng Tô Hoài và Nguyên Hồng đi vào quán Hồng Lâm để thỏa

mãn ước nguyện của bạn “cho thằng này về Kẻ Bưởi một tí” [63,101]. Còn với Tố Hữu thì vào

những dịp lễ tết, ông không quên mua mấy bông hồng vàng, đích thân đem đến tặng nhà thơ.

Nguyễn Tuân thận trọng và chu đáo đến từng chuyện nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống. Ông không

quên để tâm đến việc chúc sức khỏe và cảm ơn chủ tiệc đã chiêu đãi mình.

Ấn tượng về một Nguyễn Tuân thắng tính, không chấp nhận cái hợm mình của người khác

bằng cách hồi tưởng lại một hành động khó quên của Nguyễn Tuân, cá tính khinh bạc của Nguyễn

Tuân đã được Tô Hoài khắc họa rất rõ, vốn mến và chơi thân, nhưng ông đã đuổi Nguyễn Sáng ra

khỏi nhà vào ngày đầu năm mới cũng chỉ tại “cái hợm trong sáng tạo, không coi ai ra gì, ai cũng

không bằng mình của Nguyễn Sáng thì Nguyễn Tuân không chịu được” [63,174].

Tô Hoài đánh giá cao tài năng của Nguyễn mà trước hết là ở cái nhìn nhạy bén. “Bao giờ

cũng là người tài nhìn ra những điều mà chưa ai nhận ra” [63,102]. Ngòi bút tài hoa, sắc sảo của

Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy được “những lăng cạnh gốc gác, như muôn vật trong trời đất,

khác nhau mà lại dính líu với nhau” [63,9]. Chính sự tinh tế, nhạy cảm ấy đã làm cho ngòi bút của

Nguyễn tài hoa và sắc cạnh. Với chân dung Nguyễn Tuân điều rõ nhất ta thấy ở nhà văn ấy là sự

độc đáo, tài hoa trong cách sống, và cũng là con người độc đáo, tài hoa trong sự nghiệp. “Tác phẩm

của Nguyễn Tuân khiến có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ”. Song không thiếu những

kẻ đố kị ganh ghét, soi mói… vì thế mà sự sáng tạo cứ được nhìn từ góc độ chính trị “lên xuống theo thời tiết”, khiến Nguyễn Tuân đã phải cáu kỉnh, chua chát, mà nói rằng: “Mày bảo chúng nó viết đi để ông với mày đi chơi, thế là biên chế bớt được người công tác theo dõi” [63]. Chân dung khép lại với cảm xúc bâng khuâng của tác giả khi nghe đài báo về cái chết của Nguyễn Tuân: “Đêm qua nghe đài báo ông Nguyễn Tuân chết rồi. Tôi nghĩ vẫn như buổi tôi ngồi uống một mình nhưng Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng, trước hôm tôi ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi! ô hô” [ 63,336].

Quan niệm về con người “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ” của Tô Hoài đã bộc lộ rất rõ qua việc tái hiện chân dung Nguyễn Tuân với đầy đủ tính chân thực. Ông cầu kỳ kiểu cách, mê đi, ân nghĩa, thủy chung. Ông không chỉ là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam mà còn là một người luôn nặng trĩu suy tư, sống giản dị và mang những tính tình đời thường: khó tính hay phàn nàn, nói thẳng. Trong hồi kí Tô Hoài, con người ấy hiện lên ở phần đời nhiều hơn là phần nhà văn. Đó là một con người tài hoa, uyên bác, giàu lòng tự trọng, cầu kì cẩn thận trong mọi nếp sống, không xô bồ, vồ vập mà kín đáo, thâm trầm. Xây dựng hình ảnh Nguyễn Tuân qua hồi tưởng, Tô Hoài đã phác hoạ rất đậm nét về những kỉ niệm giữa đời thường với Nguyễn Tuân, những chuyện vụn vặt của cuộc sống, song không phải vì thế mà người đọc bớt đi lòng kính trọng và cảm phục Nguyễn Tuân.

Ấn tượng về nhà nhà thơ "chân quê" – Nguyễn Bính: Khi đọc những vần thơ "chân quê" của nhà thơ Nguyễn Bính, người đọc hình dung đó là một con người giản dị, mộc mạc, chân chất như vần thơ của thi sĩ. Ấy thế mà ngoài đời, Nguyễn Bính lại là một con người khác, một con “ma men” tuỳ tiện và phóng túng trong lối sống sinh hoạt. Nguyễn

Bính cũng là một nhân vật đáng nhớ với quan niệm: “Đời là một cuộc chơi dài mà thiên hạ phải

cung phụng nhà thơ”. Ông sống tự do, phóng khoáng: “Hứng làm thơ thì vứt hết công việc, thích đi

chơi thì vay tiền”. Nguyễn Bính sống theo kiểu nghệ sĩ. Mỗi khi có tiền, ông thường rủ bạn bè đi

đánh chén. Nguyễn Bính sống theo kiểu của mình. Tờ báo “Trăm hoa” của nhà thơ đã cho thấy

điều đó: “Tờ Trăm hoa”, rõ ra một vẻ khác. Không về bè với “Nhân văn”, nhưng chẳng đi với ai”.

Nhà thơ hài lòng vì điều đó: “Trăm hoa phải thế mới là báo của Nguyễn Bính chứ”[] Mới làm quen

với Tô Hoài, Nguyễn Bính đã hỏi. Cách xây dựng nhân vật bằng cách để nhân vật đối thoại với

nhau, trả nhân vật về với hoạt động giao tiếp từ đó để nhân vật bộc lộ tính cách.

“Bắt tay rồi, Nguyễn Bính hỏi tôi:

- Này có tiền không?

Như đã biết nhau từ bao giờ. Tôi cảm động được anh hỏi han thân tình như thế. Tôi mỉm

cười. Thế là cũng chẳng đợi tôi trả lời, có lẽ cái cười hiền lành của tôi đã khiến anh ấy thấy tôi sẵn

sàng rồi. Anh sai luôn:

- Vào nhà bánh giò “Đờ - măng” chỗ kia, mua dăm chiếc nhé, năm chiếc cũng không thừa

đâu. Từ sáng tới giờ tớ chưa được miếng nào vào bụng” [76].

Qua hồi kí của Tô Hoài, ông là người có tính trăng hoa: “Nguyễn Bính thấy gái như quạ vào

chuồng lợn, như ếch vồ hoa” [63,61]. Ông yêu đương một cách lãng mạn. Những mối tình tuyệt

vọng của ông là kết quả của những lần “thề bồi đấy rồi lại nhãng ra ngay đấy”. Như một minh

chứng cho quan niệm thẫm mĩ tình buồn mới là tình đẹp:

"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Đời mất vui khi đã vẹn câu thề". Cuộc đời không giống thơ của Nguyễn Bính làm cho bao nhiêu cô gái từng theo thơ đến với Nguyễn Bính rốt cuộc rồi cũng ra đi. Những bài thơ tình của Nguyễn Bính từng được độc giả yêu quí. Nhưng con người ngoài đời của ông: “biết bao người con gái đã theo thơ đến với Nguyễn Bính. Nhưng cuộc đời hoa thơm bướm lượn không giống như thơ, không như thơ. Thế thì lại vứt bỏ. Người con gái đã đến với Nguyễn Bính khi làm báo Trăm hoa cũng chẳng được bao lâu. Chỉ tội đã có với nhau một mụn con” [63]. Nhưng trăng hoa thế mà “suốt một thời thanh xuân, tôi cũng chưa thấy anh một lần nào lấy vợ” [76]. Ít lâu sau báo Trăm hoa bị đóng cửa, Nguyễn Bính bị điều về Ty văn hoá Nam Định. Kỉ niệm về Nguyễn Bính trong kí ức của Tô Hoài chỉ còn lại là hình ảnh “thỉnh thoảng chỉ thấy nhăn nhó rầu rĩ”. Cuộc sống của Nguyễn Bính tưởng như vô tư nhưng tình cảm bên trong thì lại lắm sầu não, ưu tư. Nét u ám của cuộc đời Nguyễn Bính lộ cả trên khuôn mặt rầu rĩ. Cái khốn khổ của nhà thơ là do bệnh đa mang, đa cảm: “những cùng quẫn tự chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại đày ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này mà vẫn không nguôi”. Lỡ dở trong tình yêu với người con gái đến với ông khi làm báo “Trăm hoa” đã để lại cho nhà thơ nỗi đau thương, ân hận đến suốt đời. Vì say rượu nên Nguyễn Bính đã mất con trong đêm lạnh lẽo: “Một tối kia, bố rượu say rồi bố bế Hiền thẩn thơ ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu, chợt nghĩ thế nào, hai tay bố Hiền giơ Hiền ra, đưa Hiền cho một người đàn ông đi tới” [63,62]. Người đọc thương cảm trước cảnh Nguyễn Bính “thất thểu suốt đêm, sáng ra nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống không” [63,62] vì đã trót đưa con cho người ta. Nỗi đau ấy cứ đè nặng, day dứt Nguyễn Bính cả

đời, nhắc lại “lần nào Nguyễn Bính cũng khóc” [63,62]. Số phận nhà thơ thật buồn: vợ bỏ, con nhỏ

bị thất lạc, chết vì trúng gió sau cuộc rượu ngày tết ở nhà bạn. Những trang viết của Tô Hoài về

Nguyễn Bính để lại những dư âm chua xót trong lòng bạn đọc.

Ấn tượng sâu đậm về Nguyễn Bính, Tô Hoài đã tạo dựng, hồi tưởng về những gì hết sức

chân thực ở con người này, nhưng bên cạnh đó Tô Hoài càng ấn tương về “tầm vóc mỗi câu thơ

Nguyễn Bính" – " Nguyễn Bính biết làm thơ từ bé. Vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra thơ, tài năng thơ

bẩm sinh. Cho đến khi thành những bài thơ đầu tiên, những bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính.Thật

rõ ở Nguyễn Bính, năng khiếu trong thơ được khơi từ cuộc sống chân thực, lý trí và bản năng nhà

thơ hoà một tấm lòng, khi ấy thơ Nguyễn Bính tuyệt trần" [76,781]. Đọc những dòng hồi tưởng của

Tô Hoài tạo dựng bức chân dung tinh thần của Nguyễn Bính khiến cho ta thấy một nhà văn tài hoa

đồng thời cũng có nhiều thói tật, ta có một cái nhìn không giống những gì mà ta đã hình dung được

qua những trang thơ, song vì thế mà chân dung của Nguyễn Bính trở nên chân thực hơn, đời thường

hơn. Khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc trở nên gần gũi hơn, không có sự lí tưởng hoá, không

phóng đại và tô hồng mà trở nên chân thực hơn. Trong con người ấy có cả mặt tốt và mặt xấu lẫn

lộn. Kỉ niệm về Nguyễn Bính tuy buồn, rất buồn, nhưng người đọc cũng có thể chia sẻ một phần

nào nỗi đau mất con – nỗi đau đã trở thành niềm nhức nhối trong suốt cuộc đời nhà thơ. Dựng bức

chân dung Nguyễn Bính ta vẫn thấy những giá trị tuyệt vời của những vần thơ mà ông đã để lại cho

bạn đọc.

Ấn tượng về nhà văn của tình yêu thương – Nguyên Hồng: Nguyên Hồng là nhà văn của tình yêu thương, Tô Hoài đã dựng lên một con người đa sầu, đa cảm, dễ khóc. Nghệ thuật dựng chân dung về Nguyên Hồng hành động ấn tượng, gợi nhiều suy nghĩ cho Tô Hoài: “Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít” [63]. Nhưng cũng bằng hành động có lúc con người ấy cứng rắn đáo để: “Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam” [63]. Đọc những dòng hồi tưởng về chân dung Nguyên Hồng, ta hình dung ra một Nguyên Hồng dằn vặt trong những cuộc họp kiểm điểm với nước mắt lưng tròng. Nguyên Hồng vốn dễ khóc và hay mau nước mắt. Cách hồi tưởng về các bạn văn của Tô Hoài đã cho thấy những kỷ niệm trong đời tư của các nhà văn, quá trình sống và tồn tại của họ, có cả quá trình hình thành và khao khát viết, những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Xây dựng nhân vật bằng hồi tưởng là dịp để Tô Hoài giãi bày lòng mình, giải phóng cho một tâm sự để thể hiện rõ hơn một quan niệm sống. Những nhà văn dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người trong xã hội. Hãy xem bức chân dung Nguyên Hồng mà Tô Hoài đã tạo dựng trong tác phẩm của mình: “Ai nhờ tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh, và bảo người ta phải để mình tiêm. Như một thầy thuốc thực sự...Như thế, nhà văn đi đường lẫn vào đám đông” [76]. Những ấn tượng này thật khó phai nhòa theo năm tháng.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng hồi tưởng, tác giả đặt nhân vật bên cạnh nhân vật khác để so sánh để thấy rằng, Nguyên Hồng hiện lên với tính cách hoàn toàn tương phản với Nguyễn Tuân. Đồng thời để tô đậm thêm ấn tượng và tạo ra sự khách quan, tác giả đã dùng nhưng câu văn nhận xét của nhân vật khác về nhân vật đang được hồi tưởng tạo ra sự sinh động như trả con người về hoàn cảnh sống thực của họ. Nguyên Hồng sống đơn giản, không bao giờ câu nệ chuyện quần áo,

đầu tóc hay ăn uống. Cách ăn uống của Nguyên Hồng đã bị Nguyễn Tuân nhận xét: “Nguyên Hồng

cái thằng xơi được bọ hung thì nó còn từ cái gì” [63,51]. Nguyễn Tuân đã đúc kết nết ăn của

Nguyên Hồng là “chủ nghĩa cơm năm bát cật lực” Vào quán ăn Tiểu Lạc Viên, Nguyên Hồng còn

gói theo cả một bọc thịt chó để “nhắm” trong khi chờ chủ quán làm món ăn. Bọc thịt chó “thoạt

trông cũng biết không phải gói nguyên, chắc trưa nay Nguyên Hồng đánh chén ngoài ấp, còn thừa

thì mang đi nốt. Hổ lốn thịt luộc, lòng gan trộn với húng, riềng, cả đùm con con muối tiêu” [63,92].

Nguyên Hồng là người“ruột để ngoài da”, chuyện gì cũng có thể nói ra hết và nhất là không

chịu được những lời vu cáo. Ông luôn thanh minh về sự trong sạch của mình trong công tác báo chí,

văn nghệ: “Tôi làm báo không giờ giấc, không quản thức đêm thức hôm, tôi bỏ hết sáng tác, cố làm

cho kịp. Suốt tuần tôi bận bịu về nó hơn con mọn, bỏ ăn bỏ uống vì nó… thế thì làm sao tôi có thể

sai…Tôi đấu tranh thực hiện đường lối văn học nghệ thuật của đảng… Tôi hết tâm hết sức vì nó, tôi

không thể, tôi không thể…” [63,91]. Như người bị “ốp đồng”, không biết còn tỉnh hay mê, Nguyên

Hồng vừa khóc mếu máo vừa thanh minh.

Qua hồi ức của Tô Hoài, Nguyên Hồng hiện lên sống động với những chi tiết thật đến không

ngờ, vừa bi thương vừa hài hước. Nguyên Hồng thẳng tính không ghét ai nhưng cũng không thân

với người nào. Ông có cái tài chưa đi đến nơi cần đến nhưng lại tưởng tượng và viết về nơi đó rất

hay. Giữa cuộc sống đua chen, xô bồ, Nguyên Hồng vẫn giữ cho mình một tính cách riêng “Người

ta làm thì Nguyên Hồng lẳng lặng im... thiên hạ thế thì ta khác”. Tô Hoài không nói về Nguyên

Hồng như là một nhà văn, mà giúp chúng ta có thể tiếp cận cuộc sống thường ngày của ông. Nguyên Hồng sống giản dị gần gũi với mọi người. Hình ảnh Nguyên Hồng được Tô Hoài tạo dựng qua dòng hồi tưởng “như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ - như một lão nông về quê sau chuyến đi xa – một kẻ lang thang suốt đời đi tìm đất mới”. Đối với Nguyên Hồng, quần lành áo tốt hay áo quần lôi thôi, đều chỉ như vậy” [76]. Hình ảnh nhà văn nổi tiếng ấy cũng hết sức bình thường giản dị như bao nhiêu con người bình thường khác. Một nhà văn dân dã với nhiều phẩm chất nhưng cũng không ít những cá tính, thói tật. Với cách xây dựng nhân vật qua hồi tưởng, tác giả đặt nhân vật vào giữa cái bộn bề phức tạp của cuộc sống để làm nổi bật tính cách, không tô vẽ, không phóng đại, hay lí tưởng hoá cũng không làm mất đi niềm yêu quý của độc giả. Cách xây dựng nhân vật ở cự li gần tạo sự chân thật, đồng cảm.

Ấn tượng về nhà văn của bi kịch trong truyện lịch sử – Nguyễn Huy Tưởng Với Tô Hoài, tác giả của Sống mãi với Thủ đô là một con người hiền lành, chân thực, xốc vác với công việc chung “Nguyễn Huy Tưởng vốn trầm mặc, dẫu gặp việc vô vập, bồn chồn, anh vẫn giữ điềm nhiên”. Là một con người có kỉ luật trong công việc, thích viết nhật kí, thích sưu tầm tài liệu, thích ca tụng L.Tônxtôi: “Nguyễn Huy Tưởng từng tròn mắt ca tụng khấn vái L.Tôxtôi, Ifxen…và ở mỗi người bạn, mỗi cán bộ cấp cao, Nguyễn Huy Tưởng đều tìm ra những ưu điểm để tô hồng. Ai nấy đều cười và quen đến độ, Nguyễn Huy Tưởng sắp khen và biết khen thế nào rồi” [76, 434].

Con người ấy nghĩ thực, nói thực và bao giờ cũng nhìn người, nhìn sự vật ở những khía cạnh tốt đẹp nhất, cho nên khi gặp cái gì tráo trở, bất thường thì không thể thích nghi ngay được. Nguyễn Huy Tưởng không chịu tin rằng cũng con người ấy làm gì có chuyện khi ở rừng gian khổ thì tốt đẹp,

về thành phố lại đổi thay: “Chúng nó cũng vẫn là chúng mình cả thôi, chẳng lẽ chỉ biến đâu một lúc,

trở lại là thằng khác à?” [76,434].

Đến thời kì Nhân văn Giai phẩm, khi gặp thời cuộc thay đổi Nguyễn Huy Tưởng trở nên

trầm mặc, buồn, dường như trong con người của nhà văn có một sự băn khoăn, trăn trở, có những

khủng hoảng trong tư tưởng. Nguyễn Huy Tưởng trở nên “lầm lì, đăm chiêu, ít nói và có nói cũng

khác hẳn mọi khi. Nguyễn Huy Tưởng tâm sự: “Cậu bảo tớ bắt chước Titô? Không phải. Tớ là Cộng

sản Việt Nam” [76 ,435]. Là Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với Đảng cho nên khi nghe tin

Nam Tư bị đuổi khỏi Cục Thông tin quốc tế, rồi năm 1956 xảy ra sự kiện Hung - ga - ry, Nguyễn

Huy Tưởng mấy đêm không chợp mắt. Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn, có những ý kiến khác những

lời bình trên các báo, Nguyễn Huy Tưởng nói: “Nước Hung ga ry trong phe xã hội chủ nghĩa,

nhưng trước nhất nước Hung ga ry là nước Hung ga ry đã. Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu,

tôi không hiểu” [76,434]. Trong công việc, Nguyễn Huy Tưởng là người say mê, giàu nghị lực, đã

chuẩn bị viết thì phải viết bằng được. Sống mãi với Thủ đô được viết trong hoàn cảnh nhà văn đã

thực sự thâm nhập với cuộc sống, đã trưởng thành cùng với kháng chiến của dân tộc: “Nguyễn Huy

Tưởng đã công phu, cẩn trọng cho tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Mấy năm đầu trở về, Nguyễn

Huy Tưởng đã viết xong tập 1. Những trang bản thảo chữ rõ nét, đều đặn, được chép ra, đánh máy

cẩn thận” [76]. Với công việc nào cũng vậy, Nguyễn Huy Tưởng cũng hết sức nhiệt tình, sôi nổi và

cẩn trọng. Chỉ vài nét thấp thoáng thôi, nhưng chân dung Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho chúng ta – những độc giả những ấn tượng khá đậm nét về con người này.

Bằng cái biết, cái hiểu của người trong cuộc, trong quá trình hồi tưởng Tô Hoài đã vén dần bức màn bí mật về cuộc đời của giới văn nghệ sỹ với bao buồn vui và cả những chua xót. Không cần nhiều lời, nhà văn đã phác họa nên những tính cách đáng nhớ. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua hồi ức trong hồi kí, tự truyện giúp ta hình dung ra cuộc sống của những nhà văn, nhà thơ cùng thời. Ta còn thấy được bức chân dung của chính tác giả Tô Hoài. Hình tượng tác giả được phác thảo với những nét cơ bản như là một nhân chứng đáng tin cậy. Điểm đáng tin cậy đầu tiên là vì tác giả là người cùng thời.

Với cách khắc họa nhân vật qua hồi ức, Tô Hoài đã thực sự được thoát khỏi những ảnh hưởng và hạn chế của cái nhìn sử thi – lí tưởng hoá hiện thực. Nhân vật ông ấn tượng từ người thân đến bạn văn chương đều rất đời thường và thẫm đẫm cảm xúc. Ông đã tìm cho mình một lối đi riêng. Luôn cố gắng tìm ra một hình thức thể hiện mới, tìm con đường mới để tránh sáo mòn, phải chăng đó là một trong những lí do để ông vươn lên giải phóng mình.

2.4. Những bức tranh đời sống (thiên nhiên, sinh hoạt) qua hồi ức của nhân vật tôi/ người kể chuyện.

Muốn cho nhân vật thể hiện rõ cái tôi thì phải đặt nhân vật vào hoàn cảnh có các nhân vật

khác, có thiên nhiên sinh hoạt để nhân vật bộc lộ tính cách.

Bức tranh thiên nhiên sinh hoạt qua hồi ức Đó là cách miêu tả bức tranh thiên nhiên có độ lùi thời gian chứ không phải như miêu tả một

bức tranh trực tiếp. Chính vì vậy cảnh thiên nhiên được hồi tưởng phản chiếu qua tâm hồn nhà văn.

Đặc biệt đối với người Phương Đông luôn quan niệm giữa con người và thiên nhiên, ngoại cảnh

luôn có mối giao hòa tương thông, con người tìm đến với thiên nhiên như tìm về với đời sống tâm

hồn của mình. Không thể hình dung con người sẽ sống như thế nào nếu thiếu đi cảnh vật xung

quanh. Như nhà thơ Chế Lan Viên suy ngẫm: "Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương" bởi "Khi ta

ở, đất là đất ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Không gian gắn bó luôn có một sức gợi mãnh liệt

của tình cảm, nó tác động đến trí nhớ thiên bẩm của nhà văn và tạo nên sự thăng hoa của cảm xúc.

Chính sức gợi này có sức mạnh hiện tại hóa quá khứ. Qua những tác phẩm của Tô Hoài người ta dễ

ấn tượng với những bức tranh cuộc sống đặc sắc về phong cảnh, phong tục ở những vùng ngoại ô

Hà Nội. Đọc những tác phẩm của ông ta mới thấy được hết những đặc sắc ở những vùng miền ấy.

Tác phẩm của Tô Hoài thường hướng nhãn quan của mình vào các tập tục làng quê. Chất phong tục

dày đặc trong tác phẩm góp phần làm nên giá trị văn xuôi của Tô Hoài. Nó làm cho bức tranh đời

sống xã hội trở nên sống động, độc đáo hơn trong tính toàn vẹn của cuộc sống. Thiên nhiên ở làng

Nghĩa Đô hiện ra thật đẹp và sinh động với những màu sắc: "Hương sen thơm suốt quãng đường hai

bên hồ. Những chiếc lá sen tròn đồng tiền, mơn mởn nghển lên khỏi mặt nước. Chúng tôi lội xuống

hái những nụ mới nhú bằng ngón tay. Nụ sen ăn ngòn ngọt. Rồi trải lá sen lên bờ cỏ, chúng tôi nằm

ngủ dưới gốc đa, trong gió hồ buổi trưa hây hẩy bát ngát" [76]. Con người như hòa cùng thiên

nhiên để được sống những giây phút bình yên nhất của tuổi thơ. Ấn tượng sâu đậm đó khiến cho khi

hồi tưởng lại cảm xúc đã thăng hoa trên trang giấy.

Một lần nữa người đọc lại có dịp cảm nhận hiện thực thông qua nghệ thuật hồi tưởng về không gian đời sống. Tô Hoài là con một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công. Hoàn cảnh đó khiến nhà văn từ nhỏ đã sớm hòa mình trong cuộc sống của gia đình, làng quê lúc phong lưu cũng như khi sa sút, túng quẫn. Tô Hoài cũng đã cảm nhận được niềm vui và nỗi buồn trong từng bước thăng trầm của làng nghề truyền thống. Những yếu tố về quê hương và gia đình đã ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài. Bức tranh sinh hoạt làng quê trong văn Tô Hoài hiện ra chân thực và đầy đủ đến từng chi tiết qua cảnh sinh hoạt làng nghề truyền thống dệt cửi với hình ảnh cô gái đi bán lụa: "Tấm áo vải đồng lầm đỏ như son thậm, hai vạt thắt bó que. Cái thắt bao hoa lý thấp thoáng lẫn với màu đôi dãi yếm đào, như những cô lái tỉnh Bắc. Cái nón kinh khoác một bên tay, cái đãy nâu đựng hai súc lụa cao ngất nghễu đeo trĩu lưng. Nặng thế mà chị Hai vẫn bõm bẽm nhai trầu, giữ dáng đi nhanh như con cón. Cô lái lụa sớm mai ra ngoài đường gặp lũ lượt người đeo đãy đi chợ" [73,42]. Không khí của cảnh đi chợ, đó là không gian sinh hoạt đời thường: "Sương trắng xóa đương vỡ từng mảng kéo qua cánh đồng mênh mông mãi ra và cánh đồng dần dần sáng. Những tiếng nói, tiếng cười, những con lợn kêu và đòn gánh kiu kịt càng náo nhiệt hơn, dần dần rõ lên từng đám đông với gồng gánh từ các bờ tre kéo ra" [73,181]. 4T Cách khắc họa nhân vật bằng cách đặt nhân vật vào trong hoàn cảnh và miêu tả để khẳng định một điều, trong thuở ấu thơ không có gì thích bằng được rong chơi thỏa thích, hồn nhiên, vô tư: “Nhưng miệng tôi vẫn chum chúm huýt gió huy huy. Tôi bắt chước chim khướu, chim chào mào, chim chích choè...Tôi đương tập huýt sáo, bạn cùng trẻ con khắp xóm. Bắt đầu những ngày lêu lổng. Tôi đúc dế, tôi chơi nặn nồi “lương mô” đất thó. Lội qua quãng sông Tô Lịch trước cửa đình, tôi sang bãi Đồng Vân bẻ ăn cắp bắp ngô, nhổ

trộm ớt tầu đem về giồng bờ ao. Có mấy quyển sách cũ, tôi đem xé từng tờ phất diều hết. Tôi thề

không bao giờ đi học nữa. Vài năm nữa tôi sẽ làm thợ cửi như những đứa trẻ khác trong xóm”

[76,107]. Tuổi thơ đã được hòa mình trong thiên nhiên, gần gũi với quê hương cho có một tâm hồn

thuần hậu, chất phác. 4TBức tranh đời sống được hồi tưởng qua đôi mắt trong veo của tuổi thơ cái gì

cũng mới lạ, nó thôi thúc sự tìm tòi, nó hấp dẫn bởi niềm tin thơ dại. Có một điều ta hiểu là những

gì mình biết được từ tuổi thơ sẽ theo mãi khó phai nhòa theo năm tháng. Nhà văn Tô Hoài sau này

rất thành công trong việc viết về phong tục, nét riêng văn hóa rất hay, rất tinh tế. Mà phải chăng

người hiểu được văn hóa riêng của vùng miền là người sống rất sâu với cuộc đời với con người và

quê hương. Bằng cái nhìn ngây thơ, giàu trí tượng tượng của cậu bé Bưởi, tác giả đã hồi tưởng:

“Mỗi năm, vào tết Nguyên Đán, ông tôi sắm một chậu nước vôi và cái thép lá thông. Ông nhúng

thép vào vôi, phết thành những đường vòng to bằng chiếc mẹt trên mặt tường. Lạ lắm, nhưng tôi

không dám hỏi. Có lần, ông tôi cắt nghĩa: cái vòng vôi này để trừ tà. Năm mới, ma quỷ dưới âm

thường lên trần gian cướp nhà của người ta. Cái vòng vôi này làm cho ma quỷ sợ không dám vào.

Nghe thế, tôi đủ hãi. Mỗi năm, tôi ngẩn ngơ nhìn ông tôi bê chậu nước vôi đi xung quanh nhà quét

lại những hình tròn tròn. Lốt vôi tô lại mãi, trắng rợn” [76].

Bức tranh cuộc sống sinh hoạt qua hồi ức Bức tranh đời sống sinh hoạt gia đình, của cá nhân có những thay đổi ảnh hưởng tới cuộc

sống, tâm lý của nhân vật. Đó là cách miêu tả có độ lùi thời gian để nhận thức. Đời sống sinh hoạt

trong tự truyện được hồi tưởng bằng trí nhớ, trí tưởng tượng phong phú. Nổi bật lên trong tự truyện,hồi kí Tô Hoài là loại bức tranh đời sống sinh hoạt gợi nhớ. Đó là vùng quê quen thuộc mà nhà văn luôn nhớ tới. Ở đó, con người bộc lộ những tính cách riêng của mình. Tô Hoài sinh ra và lớn lên tại quê ngoại, trong một gia đình nghèo làm nghề thủ công ở Làng Kẻ Bưởi – Nghĩa Đô. Trong tự truyện Cỏ dại vẫn mang đậm chất thôn quê của một vùng ven thành Hà Nội với nhịp điệu sống tù túng, buồn tẻ trong cái nghèo đói, cũ kỹ, lạc hậu: “Cuộc sống còm cõi của làng ngoại tôi chỉ loanh quanh cả đời ở trong làng. Đàn bà, trẻ con đưa võng kẽo kẹt bên khung cửu mọt. Không mấy ai đi ra ngoài” [76]. Bức tranh đời sống ảm đạm đượm buồn với màu xám buồn tẻ trong những trang hồi ức. Tuy nhiên, người đọc nhận thấy một thoáng hồn quê vẫn phảng phất thấp thoáng trên những dòng chữ đó. Cái nghèo đói, tù túng vẫn không thể làm mất đi vẻ yên bình, êm ả, làm mờ đi nét đẹp trong những bức tranh sum họp đầm ấm như thế này: “Những đêm đông lạnh lẽo, u tôi ngồi xắm giấy. Hai cánh tay u tôi đưa đi đưa lại, chiếc que dò chạy lạt xạt, lẹt quẹt dưới lòng những tờ giấy dài nháng keo. Đã bao năm qua, tiếng que dò lạt xạt canh khuya vẫn thế, như đời u tôi vẫn thế, cái áo nâu bạc, chân đi đất, đôi quang gánh loi thoi” [76]. Nghề làm giấy cực nhọc, mà thu nhập chẳng đáng là bao những tiếng “lạt xạt, lẹt quẹt” vẫn còn vọng mãi trong kí ức của tác giả để nhắc chúng ta nhớ về một thứ âm thanh rất riêng của làng nghề Kẻ Bưởi – Nghĩa Đô. Hoàn cảnh đó khiến những ngày thơ ấu của nhà văn được sống trong niềm vui bình dị, khi lại chứng kiến những nỗi buồn thấm thía, xót xa. Bức tranh đời sống gia đình đến ngày phiên chợ có một không khí thật buồn: “Nhà người ta phiên chợ được hàng thì vui, nhà tôi ngày chợ không chuyện này thì sinh chuyện khác. Hàng ít lại hàng xấu,không đều, mặt hàng gùn gút lên, không ai mua. Thế là xảy ra những trận xô xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi”, vậy nên “nhà tôi còn êm ấm sao được nữa,trong

khi sự túng thiếu càng gồ cổ mỗi con người lại và mỗi người đều cứ ngày càng bẳn gắt với nhau,

càng lúc thương lúc ghét nhau, thật hết sức thất thường" [76]. Bức tranh đời sống 4Tquẩn quanh, tù

túng: "Người ở Nghĩa Đô nghèo, sự sống loanh quanh buộc vào mấy cái khung cửi mọt. Trong làng,

không mấy ai đi ra ngoài. Một chiếc xe đạp bóp chuông kính coong qua trên đường cái trẻ con

cũng chạy đuổi theo xem. Những ngày tết nhất rỗi rãi bố mang con lên bến xe điện mua vé đi tàu

chạy "keng ầm" vào thành phố đã lý thú lắm" [76,27]. 4TCái buồn thấm sâu vào từng tế bào, từng chân

lông của cơ thể xã hội. Buồn về sự quanh quẩn cùng quẫn của một kiếp người lao động: "Cuộc sống

trong ao mà những con chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt

mình vừa thở" [76,247].

Là người con của tầng lớp lao động bình dân, lại được chứng kiến cảnh buồn nhiều hơn vui

của gia đình mình. Tô Hoài sớm chan hoà trong cuộc sống gian truân đời thường để cảm nhận nó.

Có lẽ vì vậy mà cảm quan hiện thực của nhà văn “thấm được và thấm nhanh cái buồn” (Vân

Thanh)Vào nghề từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX. Tô Hoài đã sớm chứng kiến những sự kiện

lớn không thể nào quên của những năm này. Những sự kiện ấy có buồn, có đau khổ xót xa. Những

năm tháng mà không khí ngột ngạt đã bao trùm cả xã hội và lan dần vào từng ngõ xóm. Làng quê

của Tô Hoài chưa bao giờ lại “tiêu điều khốn khổ đến như thế. Nghề dệt lụa đã lụi bại chết hẳn.

Khung cửa người ta đem chẻ củi, bán làm củi. Người tha hương bơ vơ những đâu, vãn cả làng.

Trông trước thấy cái đói, cái chết mà không biết làm thế nào”[76]. Xã hội làng quê ngày càng xơ

xác tiêu điều “Trên chợ Bưởi, người lang thang ở đâu đến ngày càng nhiều. Buổi tối lăn vào ngủ trong các cầu chợ. Sáng ra thì nhiều người nằm lại, không còn sức bò đi kiếm được nữa”[76]. Cảnh đau lòng ấy không chỉ ở một nơi nào,một vùng quê nào mà: "Buổi sáng, trời đất đã vàng lóe như mặt người đói. Mỗi người ở nhà, ở các bờ bụi, ao chuôm lừ khừ ra đi lẫn lộn vào đám những người đói ở đâu đâu đến đi qua làng, người nối dòng dài, mỗi ngày càng nhiều, không biết từ đâu đến rồi đi đâu, những đâu" [73,202]. Từ không gian hiện thực này nhà văn gợi lên cho chúng ta thấy cuộc sống của người dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn khắc nghiệt, trong bầu không khí ngột ngạt của nạn đói 1945. Tô Hoài luôn miêu tả sự kiện ở điểm nhìn khách quan, tác giả không phân tích hay bình luận mà để cho người đọc tự cảm nhận hiện thực cuộc sống qua các sự kiện. Không gian sự kiện này khiến cho người đọc có cảm giác lo lắng bởi cái chết dường như hiện diện ngay trên đầu mỗi người. Sự u ám và nguy hiểm bao trùm lên không gian: "Chỉ ba tháng mà dài dằng dặc, làng Hạ biến đổi quá. Như một cái đầm lá sen, cẳng tàn rụi, xơ xác, tan tác, ngao ngán trên mặt nước mờ sương cuối thu. Thật ra thì làng Hạ đã dần dần vào cảnh đói mấy tháng nay rồi, từ những phiên chợ mà các dãy lụa cứ phải đeo về kìn kịt và các khung cửi đã bắt đầu uỗi thợ ra" [73,201]. Những ngày tháng đen tối ấy đã để lại trong tâm hồn Tô Hoài những nỗi niềm trĩu nặng, và nó trở thành những hồi ức không thể nào quên trong tâm hồn ông. Và những hồi ức ấy được ông viết lại vào trong tác phẩm tự truyện.

Tất cả những chất liệu, âm thanh cuộc sống dội vào trang văn của Tô Hoài sức ấm nóng của cuộc sống. Cách ông tái hiện thời gian lịch sử theo cách riêng của mình. Là người đã từng sống và chứng kiến những bước chuyển mình của lịch sử dân tộc, trên từng trang viết của ông chúng ta thấy những sự kiện lịch sử hiện lên một cách có ý thức. Lúc lứa tuổi thiếu niên, mười tám đôi mươi ấy

của đời người lại khớp đúng vào lúc đời sống dân tộc đang chuyển mình chuẩn bị cho một hoàn

cảnh mới ở quê hương: "Ở Bưởi, chúng tôi chống mê tín tối nào cũng đi trêu những đám lên đồng".

Tuổi trẻ thích thể hiện mình, nhiệt tình, năng nổ và nhạy bén với thời cuộc: "Vùng tôi năm ấy chớm

có phong trào thanh niên. Chúng tôi thích tìm bạn, kết bạn. Ở Nghĩa Đô không có cơ sở cách mạng

cũ, nhưng khi trào lưu bình dân đưa những tư tưởng mới đến, thanh niên bắt rất nhậy. Chúng tôi

thèm nghe những chuyện xa lạ, những lý luận mới, những tin tức thợ thuyền, dân cày hoạt động và

tình hình thế giới – tất cả những gì khác cái tẻ nhạt, cái khốn đốn cái ốm mòn thường ngày"

[76,135]. Nhân vật tôi đặt mình trong không gian chung của thời đại để cho thấy cái khao khát của

một thế hệ.

Vì “Văn học là tấm gương phản ánh thời đại” nên thể loại chân dung văn học cũng phản ánh

thời đại. Như ta đã biết, bất cứ một nhân vật nào cũng phải được đặt trong hoàn cảnh lớn, hoàn cảnh

nhỏ. Viết về nhà văn mà không đặt họ vào không khí chung thời đại thì sao có thể hiểu được họ.

Cuộc sống là tổng hòa của mọi mối quan hệ xã hội. Và đối với nhà văn thì mối quan hệ với tác

phẩm, với các nhà văn là mối quan hệ đáng quan tâm nhất, hầu như chi phối mọi đời sống tâm tư

của họ. Họ đã sống và rất cần sống trong không khí văn chương.

Với Tô Hoài, trước khi cầm bút, ông đã từng trải qua cuộc sống gian truân vất vả của một

người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời. Nhưng chính từ pho kinh nghiệm sống ấy, với

năng khiếu quan sát, ghi nhớ đặc biệt sắc sảo, Tô Hoài đã trở thành nhà văn. Tô Hoài luôn ý thức

xây dựng chân dung văn học trong không khí thời đại. Và đối với ông “Người cầm bút hiểu cuộc đời, biết những sự kiện mới, con người và hành động”. Chính vì thế mà những tác phẩm của ông luôn sống động như cuộc đời thực, luôn lôi cuốn và thu hút người đọc.

Khi hồi tưởng lại bức tranh đời sống của các đồng nghiệp, ta có cảm giác thật đau đớn và xúc động biết bao trước những bi kịch của cuộc đời các nhà văn. Trước cách mạng, xã hội chìm trong đau đớn, với không khí ngột ngạt, đói kém, cuộc sống của những nhà văn đầy những bấp bênh, đau khổ. Tô Hoài cũng là người trong cảnh ngộ ấy, hơn ai hết, ông cũng đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của họ. Chính vì thấy được sự đau đớn của họ trong cảnh ngộ ấy, nên trong tác phẩm của Tô Hoài, khi viết về các nhà văn, ông luôn thấu hiểu về sự đau khổ của những con người tài cao mà phận thấp. Họ là những con người tài hoa có hoài bão nhưng sống trong hoàn cảnh "cơm áo ghì sát đất". “Cơm áo không đùa với khách thơ”. Có lẽ vì cảm thông với người cùng cảnh ngộ, mà cứ lúc nào nhớ lại, Tô Hoài không thể quên.

Hoà bình lặp lại, đất nước đứng trước tình hình và nhiệm vụ mới. Biết bao khó khăn và thử thách đặt ra với những con người đang đặt những viên gạch đầu tiên cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Rồi thế giới biến động, phức tạp. Tất cả những điều đó đã chi phối đời sống văn học. Quan niệm về con người trong văn học cũng trở nên đa dạng hơn và không tránh khỏi những khác biệt, trái ngược giữa những quan niệm của các nhà văn. Các nhà văn vừa sống trong niềm tin tưởng lại vừa có tâm trạng lo lắng. Lo lắng chưa được hiểu đúng đặc trưng bản chất nghệ thuật của văn học. Có nhiều nhà văn đã ngộ nhận. Một số nhà lãnh đạo văn nghệ chỉ quan tâm đến ý nghĩa chính trị một cách máy móc, biến văn học thành công cụ giáo dục tư tưởng, “quy chiếu máy móc, sát phạt nặng nề”. Những cuộc họp kiểm điểm liên tiếp diễn ra, sinh hoạt thường nhật của Hội nhà văn là

“bới lông tìm vết”. Câu chuyện về con hổ mà mẹ Nguyên Hồng kể cho ông nghe, đã được ông chép

lại và đăng trên trang cuối báo Văn của ông, đã bị người ta nghĩ là “có vấn đề”, họ nghĩ “đời thủa

nào mà người ta lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái gì, nói ai? Xỏ xiên

thế nào đây, không hiểu. Không hiểu tức là có vấn đề” [63]. Ta hình dung ra một Nguyên Hồng dằn

vặt trong những cuộc họp kiểm điểm với nước mắt lưng tròng, thậm chí khóc hu hu. Nguyên Hồng

vốn là người dễ khóc và mau nước mắt. Ông là người hết sức chân thành, đa cảm khi “xoè bàn tay

lên chồng báo, vuốt vuốt, mếu máo, nước mắt như trút…tôi thức đêm thức hôm…tôi bỏ hết sáng tác,

ngày đêm chỉ nghĩ đến tờ báo…bài này đề tài công nhận…bài về kháng chiến, bài về thống

nhất…bài về sửa sai cải cách ruộng đất…tôi không…tôi không…Rồi chẳng mấy lúc Nguyên Hồng

lại khóc hu hu” [63]. Ta lại bắt gặp hình ảnh Nguyên Hồng với sự bức xúc không thể nén lại, khi

xem tờ báo Nhân Dân có tiêu đề:

"Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và trong công tác do Tô Hoài viết, Nguyên Hồng

buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:

Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì không!” [63].

"Và rồi không chịu được nữa, Nguyên Hồng đã đi đến quyết định, một quyết định được dự

tính từ trước:…

- Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam” [63].

Không phải là vô tình mà là có chủ đích, Tô Hoài đã dựng lại chân dung các nhà văn trong không

khí văn học thời đại lúc bấy giờ. Khi đặt nhân vật vào không khí văn chương, nhân vật được đặt trong “tổng hoà mọi mối quan hệ xã hội”, vì thế mà chân dung các nhà văn hiện lên khá đầy đủ và sinh động. Qua cái nhìn hồi tưởng bức tranh cuộc sống đã rũ bỏ chiếc áo khoác thiêng liêng. Giờ đây, nó hiện lên gần gũi tưởng như có thể nhìn thấy, đụng chạm tới được và xem xét từ bất cứ góc độ nào. Xuất phát từ quan niệm con người là con người, con người không phải là thánh nhân, vì thế mà lần đầu tiên Tô Hoài đã cho chúng ta nhìn một số “nhân vật lớn” đó là cả một thế hệ nhà văn: Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính. Tô Hoài đã xây dựng bức tranh đời sống một cách gần gũi suồng sã.

Bức tranh sinh hoạt đời sống trong quá khứ không phải được đo bằng những sự kiện trọng đại mà chỉ là những ngày thường nối tiếp nhau cùng những chuyện vui buồn lẫn lộn. “Đất nước như những cánh đồng cày vỡ, chưa biết cấy hái như thế nào”. Vết thương cải cách ruộng đất vẫn còn đâu đó. Lịch sử hiện thân thật cụ thể là những con người, những mối quan hệ, những công việc thường nhật. Vụ án “Nhân văn Giai phẩm” đã từng làm chấn động cả một thời kì văn học được ông nhớ lại: “Báo Nhân văn ra được mấy số. Có dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài ba báo trên Nhân văn, mà chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của cả một số giới không phải là những người làm báo Nhân văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy” [63]. Tô Hoài lại tạo dựng những nhân vật trong hiện thực sinh động, trong không khí văn học. Nó đã giúp bạn đọc có thể nhìn thấy và hiểu biết một cách toàn diện sâu sắc. Chính vì thế mà bức tranh cuộc sống đọng lại trong tâm tư người đọc lâu bền, đầy ấn tượng. Hơn nữa, nhân vật hiện lên không bị cắt đoạn mà trong cả một quá trình với những diễn biến phức tạp, khiến chúng ta không mắc phải cái nhìn siêu hình, phiến diện mà có được cái nhìn

tổng thể bao quát với những hình ảnh, bức chân dung chân xác, đáng tin tưởng vì nó thể hiện rất

thật. Có lẽ Tô Hoài là một người khai phá, một người mở màn cho một thể loại kí đặc biệt với một

cách tiếp cận hiện thực với xu hướng tiếp cận của tiểu thuyết.

Hiện thực của cuộc sống rất phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người. Dưới ngòi bút

của Tô Hoài, cuộc sống với tất cả những sắc thái thẩm mỹ đa dạng của nó lần lượt hiện lên: có cả

cái bi, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn lộn.Tất cả như những sợi chỉ óng ánh nhiều

mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên tấm thảm cuộc đời. Đọc tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, ta thấy

thật xúc động với những cảnh đời tư hiện lên thật thiêng liêng tha thiết vừa buồn, vừa vui đan xen

thể hiện rất thực cuộc sống đời thường. Bàng bạc trong tác phẩm của Tô Hoài ta thấy rõ: đời đẹp và

buồn. Ông đã tiếp cận cuộc sống trong sự xô bồ gần gũi nhất.

Nếu như trước đây, các nhà văn chủ yếu tái hiện, đánh giá con người theo các biểu hiện tư

tưởng, đạo đức của nó, thì bây giờ văn học đã mở rộng tư duy sang các bình diện của sự tồn tại con

người như thời gian, môi trường và cả năng lực ý thức của nó trước thế giới, trước hoàn cảnh xã hội.

Môi trường của các nhà văn chính là không khí văn học thời đại họ đang sống. Đặt vào “môi

trường” đó, ta mới hiểu được con người, mới đi đến khám phá được những bí ẩn trong tâm hồn con

người. Khi xây dựng nhân vật trong hồi kí, tự truyện. Tô Hoài luôn luôn có ý thức đặt nhân vật

trong bức tranh thời đại. Phải chăng vì thế mà ông đã dày công sưu tập tài liệu trong suốt cuộc đời.

Tiểu kết chương 2

Tìm hiểu nghệ thuật tái hiện, tái tạo hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện – hồi kí Tô

Hoài. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Hiện thực không phải

như trong truyện ngắn, tiểu thuyết mà hiện thực ở đây là trong quá khứ có một khoảng cách về

không gian thời gian so với hiện tại trong tác phẩm. Hồi ức được hồi tưởng lại chỉ khi những hình

ảnh trong cuộc sống dội vào trái tim tác giả những nhịp đập dữ dội, gây ấn tượng mạnh, đủ sức sống

dậy cảm xúc mãnh liệt. Thế giới trong hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, qua tâm hồn, qua tình cảm

nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm. Hiện thực thuộc về hôm qua được nhìn lại để

suy ngẫm trải nghiệm. Nói cái hôm qua để gián tiếp nói đến cái hôm nay. Chính vì thế, cách nhìn

thể loại đã chi phối các đặc điểm khác của thể loại hồi kí và tự truyện. Tác giả thành công với nghệ

thuật đi tìm tiếng nói bên trong của cái tôi hồi kí, tự truyện bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh

sống cụ thể, thông qua cách hồi tưởng, dùng câu văn, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để nhân vật tự

biểu hiện, tự bộc lộ tính cách. Nghệ thuật khắc họa xây dựng nhân vật khác bằng hồi ức, thông qua

hồi ức.

Chương 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÍ, TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI

3.1. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức

Trần thuật là tất cả cách tổ chức, lựa chọn, sắp xếp khi trình bày về một sự việc sao cho nó có

hiệu quả, sáng rõ nhất.

Trần thuật trong tự truyện, hồi kí thường theo trình tự dòng hồi ức, nhớ gì kể đó. Mặt khác tự

truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài hòa giữa diễn biến

sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện. Như khi ở trong

quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc này tác giả dùng nghệ thuật trần thuật

là đảo thuật. Còn khi tác giả đang ở độ tuổi hai mươi hoặc thời kì tham gia cách mạng nhân có một

sự kiện lại nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố.

3.1.1. Trần thuật theo trình tự dòng hồi ức

Trình tự theo dòng hồi ức, nhớ gì kể đó, các sự kiện được tác giả sắp xếp theo một dòng hồi

ức. Tác phẩm tự truyện, hồi kí thường có thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua (của tác giả) như một chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người viết nhiều khi cũng vận dụng hư cấu “thêm thắt” “sắp xếp lại”, các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán. Tô Hoài khi viết tự truyện, hồi kí đã trần thuật theo dòng hồi ức. Nghệ thuật tái hiện hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện – hồi kí Tô Hoài. Người kể lại câu chuyện đời mình là người đi tìm gương mặt chính mình. Là người khám phá và sáng tạo ra cái tôi bằng chính cái tôi. Đó là thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại khi đã trưởng thành, khi đứng tuổi để nghĩ về quá khứ trong đó có gia đình, quê hương bối cảnh xã hội được nhớ lại. Quay lại trở về với thời thơ ấu, tuổi trẻ để ôn lại những vui – buồn, được – mất trong cuộc đời của mình, cũng là để ôn lại, tìm ra những kinh nghiệm trong cuộc sống.Trọng tâm của tự truyện là sự đánh giá, suy nghiệm lại về số phận mình; câu chuyện là hành trình tìm kiếm bản thân mình trong quá khứ để thấy bản thân mình trong hiện tại. Bởi vậy thời gian sẽ trôi chảy như một dòng sông. Ở Tự truyện diễn biến thời gian xoay quanh nhân vật tôi được hiện diện thật sống động. Ở đó có những ngày thơ ấu (Cỏ dại), những ngày cắp sách đến trường (Mùa hạ đến, mùa xuân đi), những ngày hoạt động trong nhóm ái hữu (Những ngày thơ dệt),những ngày lang thang tìm việc làm (Đi làm), những ngày thất nghiệp (Hải Phòng)…

Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Thời gian nghệ thuật trong hồi kí Tô Hoài vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn. Hồi tưởng là phương thức chủ yếu để xây dựng hình tượng thời gian trong tự truyện. Trong nhiều tác phẩm, hồi tưởng luôn trở đi trở lại trong tác phẩm với mật độ đậm

đặc, nhiều lớp, nhiều tầng: hồi tưởng của chủ thể, hồi tưởng của nhân vật….đan cài chồng chéo lên

nhau, tạo nên những thế giới hình tượng phong phú. Đi vào trong thế giới của tự truyện, hồi kí, thấy

rất nhiều nhân vật mang theo trong mình một quá khứ sâu thẳm và ngập đầy những nỗi day dứt,

nuối tiếc, xót xa. Ngã sáu Hàng Kèn, cái “ngã sáu đường đời” lúc nào cũng “leo loét ngọn đèn con”

trở thành không gian chỉ dành cho hồi tưởng, một thánh đường của hồi tưởng. “Mỗi đêm ngã sáu

từng người tìm về với kỷ niệm của mình” [63,37]. “Nguyễn Tuân chẳng thiết cái quán bát nháo của

ông lão 81. Nhưng đến đây là một cơ hội để nhớ. Tách cà phê bít bất hay chén rượu có nhạt cũng

không quan tâm, chỉ bởi nó đem lại được cái cớ” [63,36]. Nguyễn Tuân mỗi lần đến đây là một lần

bỏ lạnh ly cà phê để nhớ đến người hầu bàn cũ. “Cứ ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao…”

[63,16]. Nơi ngã sáu của hồi tưởng này, con người sống với dĩ vãng nhiều hơn là sống với hiện tại,

ám ảnh day dứt vì dĩ vãng đã qua nhiều hơn là buồn vui vì những nỗi niềm trong hiện tại. Bởi lẽ dù

hiện tại có đau buồn hơn, hạnh phúc hơn hay hứa hẹn hơn thì dĩ vãng cũng vẫn thổn thức ở tận đấy

tâm hồn – nơi mà không có gì có thể chạm đến được. Cho nên Tô Hoài mới ngậm ngùi: “Ôi, tội cho

những người nhớ lâu” [63,40].Tô Hoài là người có trí nhớ rất tuyệt vời. Vì lẽ đó, những câu chuyện

qua hoài niệm của ông cứ tuôn ra dào dạt không dứt. Quá khứ được nhà văn hiện tại hóa. Điều này

được bộc lộ rõ qua việc sử dụng phép đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại, giữa quá khứ gần và quá

khứ xa: Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí Tô Hoài thường gắn với dòng ý thức, dòng tâm tưởng. Kí

ức được Tô Hoài sắp xếp không theo trật tự biên niên mà lan man, rối rắm, nhớ đến đâu, kể đến đó. Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có sự xâu chuỗi các chi tiết, sự kiện. Thông thường với cách hồi tưởng thì các sự kiện, sự việc được xâu chuỗi theo mạch cảm xúc. Trong tác phẩm Cỏ dại tác giả kể về cuộc đời của mình từ ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Cho nên các chi tiết, sự kiện phần lớn được sắp xếp theo trình tự thời gian. Kiểu “tự sự phi cốt truyện” này là hệ quả tất yếu của kĩ thuật hồi cố. Chính từ cách trần thuật này, trung tâm điểm của kết cấu truyện đã chuyển đổi từ chiều rộng cuộc sống với hệ thống những sự kiện và biến cố phong phú sang chiều sâu tâm lý với một loạt những cảm xúc, tâm trạng, cảm giác...đã đẩy cốt truyện xuống hàng thứ yếu để thiên về khắc họa những ấn tượng, tình cảm còn lại qua thời gian của người trần thuật. Khi nhân vật rời khỏi bình diện hành động để chuyển sang bình diện hồi tưởng, khi cốt truyện di chuyển từ chuỗi biến cố cấu trúc nên lai lịch một đời người sang lịch sử hình thành nhân cách cá nhân nhìn từ thời hiện tại, chỉ còn lại những ấn tượng, cảm xúc, tâm trạng và nhận thức của chủ thể trước những hành động, biến cố, tình huống ấy. Chính ý thức đó đã biến thời gian đã qua thành một thời gian “của riêng mình”, một thời gian đã chuyển từ bên ngoài vào bên trong của con người, một thời gian sống lại từ những kí ức đời thường của cái “tôi” đã tự nhận ra mình là một thực thể có giới hạn sống riêng. Dù trong dòng tự sự có mặt hay không có mặt “thời hiện tại” thì ý thức của nhà văn về “thời hiện tại” ấy vẫn không hề vắng mặt, cái “ngày nay” đối diện và đối thoại với cái “ngày xưa” như là một thời quá khứ đã tách ra khỏi mình chứ không phải chỉ đơn thuần là một khoảng thời gian đã qua. Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm rất thực về cuộc sống hay về chính mình…Nhà văn không gợi lại quá khứ chỉ vì quá khứ, mà vì hiện tại mình đang sống, và quá khứ trong quan hệ với hiện tại cũng

là điều bảo chứng cho một định hướng trong tương lai. Theo những ý nghĩa ấy, cuộc sống có thể

không trải dài qua thời gian mà mở rộng xuống chiều sâu của tinh thần.

3.1.2. Kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức

Trần thuật trong tự truyện, hồi kí thường theo trình tự dòng hồi ức, nhớ gì kể đó. Mặt khác tự

truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài hòa giữa diễn biến

sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện. Như khi ở trong

quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc này tác giả dùng nghệ thuật trần thuật

là đảo thuật. Còn khi tác giả đang ở độ tuổi hai mươi hoặc thời kì tham gia cách mạng, nhân có một

sự kiện lại nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố. Đặng Thị

Hạnh đã nhận thấy: “Dòng hoài niệm trong Cát bụi chân ai chạy lan man, rối rắm như ba mươi sáu

phố phường, những phố hẹp của Hà Nội cổ đan xen nhau dày đặc, với những rẽ ngoặt quanh

co(…). Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy lông bông theo dòng hoài niệm, móc vào

đâu đấy, dừng lại một lát rồi lại đi, ...đi ngược về trước hoặc lùi về sau, có khi hàng chục năm.

Tưởng đó cũng là bình thường khi “trò chơi lớn” của văn viết hồi kí là đặt chồng lên nhau các lớp

thời gian” [50,398].

Trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài thường phá vỡ trình tự trần thuật, không tái hiện sự kiện theo

trật tự biên niên mà xáo trộn chúng bằng “dòng ý thức” miên man. Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Nghệ thuật trong tự truyện, hồi kí Tô Hoài vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn: "4TBa anh em tôi ngồi lù lù đầu hè. Như ba ông đầu rau đen đủi ngồi trong bếp gio. Giờ đây tôi tưởng lại những buổi sáng thiểu não ấy. Nhâm ơi Nhâm! Tôi gọi Nhâm vu vơ dưới ngòi bút, trong ánh đèn dầu đêm mùa xuân này. Có khi nào những dòng kí ức của anh mà em đọc đến, hẳn em không giấu được mỉm cười ngạc nhiên rằng sao anh khéo nhớ ma mãnh thế. Nhâm đã quên và chắc là bây giờ chẳng còn những ngày rầu rĩ như thế. Tôi thì tôi nhớ dai, nhớ lắm, em ạ. Cây viết lê đến dòng kẻ này, mắt tôi nhìn vào bóng đêm câm lặng lẽ vẫn thấy lại buổi sáng chúng tôi ngồi phơi đầu bùn trước hè, bên cạnh bậc hòn đá" [76,101]. 4TTrong nhiều tự truyện, hồi kí cách thức kết hợp tràn thuật này nhấn mạnh sự nhận thức, suy ngẫm của nhân vật. Câu văn hồi tưởng đầy suy tư và thẫm đẫm cảm xúc của nhân vật. Nhiều khi kết thúc tác phẩm trong sự bừng tỉnh của tác giả trước thực tại, sự bừng tỉnh đầy cay đắng, xót xa. Từng mảnh của cái hiện tại chia lìa tan tác được xé nhỏ ra, cài vào trong dòng hồi tưởng miên man của nhân vật và của chủ thể như những nhận thức đau xót về cái đã có và cái đã mất của con người. 4TTrần thuật kết hợp với cảm nhận bằng tâm trạng: "Cái thuở xa xôi ấy không còn nữa. Bà Ba tôi mất đã năm sáu năm nay rồi....Từ ngày đó, tôi càng thưa về quê nội. Con đường càng ngại. Con đường càng xa. Sao con đường trở về quê lại xa quá thế! Trong đời, tôi đã qua những đoạn đường dài gấp trăm ngàn nó mà không hề nghĩ ngợi đến nỗi xa xôi như khi tôi bước trên đường về làng nội. Con đường ấy xa hơn hết và xa mãi mãi. Như vẫn dài thăm thẳm từ thuở tôi còn nhỏ, mỗi lần theo u về quê" [76,35]. 4T Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Nghệ thuật trần thuật

trong hồi kí Tô Hoài vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn. Thời gian quá khứ và hiện tại hòa lẫn vào

nhau. Những nếp gấp thời gian ken dày trong chuỗi tâm sự, nhập nhòe, đan quyện giữa một thời

đang sống, một thời đang hồi tưởng và một thời được hồi tưởng. Sự có mặt của hiện tại trong quá khứ và quá khứ trong hiện tại làm bật lên cái nhìn so sánh, phân tích, nghiền ngẫm.

Nghệ thuật trần thuật kết hợp vừa đảo thuật vừa hồi cố trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài

được lồng ghép, đan cài vào nhau. Thảm thương nhất là những ngày thất nghiệp ở Hải Phòng.

"Ngày lại ngày, tôi đi tìm việc. Thấy cái giấy dán ở đầu tường nào tôi cũng đến đọc, thấy cửa hiệu

to, tôi ghé nghiêng nhòm vào rồi hỏi. Chẳng đâu ăn thua.. Tôi vẫn may rủi hàng ngày vẩn vơ đi tìm

việc, mà việc vẫn xa lắc xa lơ đâu không biết...Tôi vẫn miên man mải miết, qua từng phố. Thấy cửa

hiệu nào có quầy trả tiền, có người đứng bán hàng, hay có người ngồi ghi ghi, chép chép, tôi hiểu

là ở đấy có việc làm, có thể mượn người làm, tôi vào hỏi .Nhưng vẫn không có việc ở đâu đợi tôi"

[76,192]. Những kỉ niệm đáng nhớ đến mức: "mà thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn

nhớ".Trong những ngày tìm việc nương nhờ vợ chồng người bạn nhưng họ cũng nghèo quá, nhà của

Cần được tác giả miêu tả: “có lẽ đây là cái buồng tắm cũ. Kê vừa vặn được chiếc giường nhỏ. Thò

chân ra ngoài thành giường đã đụng vào tấm cánh sào che hiên”. "Tôi đã ở với vợ chồng Cần trong

cái xó xỉnh tí tẹo như thế, thật kỳ lạ và oái oăm, thật gian nan mà mỗi lần nghĩ lại bao giờ cũng

ngậm ngùi" [76,191]. Chính vì không gian ở quá chật hẹp ấy khiến cho những kẻ ác miệng lời ra

tiếng vào: " Những lời nghi kỵ và xúc phạm kia không gây một điều nghĩ ngợi nào trong chúng tôi

nhưng đã khiến chúng tôi đau đớn, nhức nhối trong lòng". Qua cách kể của nhân vật tôi ta thấy sự trải nghiệm chua xót, đắng cay và nhận thấy đời quả thật đáng buồn !

Các sự kiện nối chồng chéo chằng chịt khiến cùng một lúc, người đọc có thể được chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử. Khi là thời gian ở rừng Thượng Yên, khi lại là những sự kiện báo chí làm ầm ĩ cả giới văn nghệ sĩ: “Chúng tôi bị kiểm điểm qua loa: Bỏ lớp học quan trọng đi ăn mừng đường xe lửa được khôi phục, việc không cần thiết. Báo Nhân Văn ra đến số 6 bị tịch thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi chẳng biết ai chủ trương cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân Văn. Nhà xuất bản Minh Đức đóng cửa. Hồi ấy, báo in còn ít, chỉ tính số nghìn. Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ, cuối năm 1956” [63,77]. Sự kiện này có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhiều nhà văn cũng như độc giả. Vào thời điểm lịch sử lúc bấy giờ việc tịch thu báo Nhân Văn được sự ủng hộ của rất nhiều người. Đó là thời điểm "cuối năm 1956”. Việc một tờ báo bị cấm trở thành sự kiện “ầm ĩ”. Và những hệ lụy của sự kiện này sẽ không bao giờ lịch sử có thể quên. Sự kiện này không chỉ thể hiện cái nhìn của chân thực của tác giả mà còn là cái mốc lịch sử không quên. Những sự kiện ấy ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người và gây không ít ảnh hưởng trong giới văn nghệ sĩ một thời gian dài. Chính vì thế mà có “những cuộc họp tập thể này gọi là chỉnh huấn”. “Mùa đông 1951, ở rừng Chiêm Hóa, hai tháng dự lớp đầu tiên chỉnh huấn gọi là “theo phương pháp Hoa Nam" [63,111].Với nghệ thuật trần thuật kết hợp, ta càng hiểu hơn về nhà văn Tô Hoài. Không chỉ là nhà văn ông còn là một chiến sĩ, không chỉ là một người yêu nước gắn bó với từng bước đi của cách mạng

Nghệ thuật trần thuật trong Tự truyện, hồi kí lúc này tác giả dùng kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức: hiện tại – quá khứ có khi quá khứ – hiện tại. Những

nếp gấp thời gian ken dày trong chuỗi tâm sự, nhập nhòe, đan quyện giữa một thời đang sống, một

thời đang hồi tưởng và một thời được hồi tưởng. Sự có mặt của hiện tại trong quá khứ và quá khứ

trong hiện tại làm bật lên cái nhìn so sánh, phân tích, nghiền ngẫm: Thứ nhất đó là sự tự thương

mình. Thứ hai so sánh để thấy tình người thật thấm thía. Thứ ba ngẫm lại để thấy: đời đẹp và buồn.

Như vậy trần thuật lại một quãng đời của một đời người, tuy không phải là dài nhưng lại chất

chứa bao kỷ niệm vui buồn. Cảnh buồn cứ hiện ra trước mắt người đọc dường như bao trùm lên

toàn cảnh vật và con người trong cuộc sống. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật trần thuật sắp xếp thời

gian giãn cách để kể lại các sự kiện liên quan đến các mốc thời gian. Tác giả dùng nghệ thuật trần

thuật kết hợp vừa đảo thuật vừa hồi cố để đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự kiện

trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với từng

mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để người đọc có thể

hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn đều là một sự

kiện có ý nghĩa. Nghệ thuật trần thuật trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài vừa miên man theo dòng hồi

ức, khiến các sự kiện không hiện diện theo trình tự, vừa có sự xắp xếp chồng chéo để các sự kiện về

xã hội lịch sử, về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ

nét về cuộc sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của họ.

3.2. Hòa phối điểm nhìn (quanh một góc nhìn chủ đạo) trong trần thuật

3.2.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật

Điểm nhìn trần thuật là góc quan sát, vị trí mà người kể dựa vào để miêu tả, trần thuật lại các

nhân vật và sự kiện.

Tô Hoài là nhà văn có ý thức nghề nghiệp và bản lĩnh nghệ thuật cao. Tài năng của ông thể hiện ở nhiều mặt, trong đó điểm nhìn trần thuật bộc lộ cá tính sáng tạo. Nhà lý luận Bêlinxki khẳng định tầm quan trọng của điểm nhìn: “Khi đứng trước một phong cảnh đẹp thì chỉ có một điểm nhìn làm cho ta thấy toàn cảnh và chiều sâu của nó. Đứng gần quá hay xa quá, lệch về phía bên phải hay bên trái quá cũng làm cho phong cảnh mất vẻ toàn vẹn, hoàn mỹ”. Thông thường, trong Tự truyện, hồi kí người kể chuyện là tác giả. Nhân vật đến với độc giả phải thông qua tư tưởng, tình cảm tác giả được biểu hiện qua lời kể chuyện. Lê Ngọc Trà viết: "Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư." Cho nên lời kể chuyện luôn mang dấu ấn của tác giả, bộc lộ phong cách, cá tính, tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ để hấp dẫn người đọc. Điểm nhìn trần thuật là vị trí mà người trần thuật cảm nhận và miêu tả các sự vật, đối tượng trong tác phẩm. Cho nên mỗi khi thay đổi điểm nhìn là tạo nên một cảm xúc, một thái độ đánh giá khác nhau.

Sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với một tư tưởng nhất định. Và tư tưởng đó tập trung thể hiện qua cái nhìn của tác giả. Hay nói một cách khác, trong khi phản ánh đời sống người nghệ sĩ không thể không có một cái nhìn nghệ thuật riêng. Cái nhìn là một biểu hiện tinh thần đặc biệt của tác giả. Để hiểu được nội dung phong phú của cuộc sống trong tác phẩm, chúng ta không

thể không khám phá cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn. Cái nhìn

thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, từ đó nó có thể phát hiện cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi...Cái nhìn xuất phát từ một cá thể, mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét. Suy ngẫm về cái nhìn ta

thấy trong tác phẩm Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ cùng là hình ảnh "cái bóng" tưởng

như vô tình, ngẫu nhiên. Với Vũ Nương đây là cách dỗ dành con trẻ, động viên con như có cha ở

bên cạnh, là tự an ủi mình cho đỡ cô quạnh và vơi đi nỗi nhớ chồng. Nàng có ngờ đâu đó chính là

cái bóng oan khiên khiến mình phải chết. Cái bóng đối với bé Đản đó là người đàn ông bí ẩn. Còn

với Trương Sinh cái bóng thứ nhất là bằng chứng không thể chối cãi về sự hư hỏng của vợ. Cái

bóng xuất hiện lần thứ hai, cái bóng của chính chàng mở mắt cho sự thật tội ác do chính chàng gây

ra nhưng tất cả đã quá muộn. Cho nên mỗi khi thay đổi điểm nhìn là tạo nên một cảm xúc, một thái

độ đánh giá khác nhau.

Mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng độc đáo biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Sự

độc đáo ấy là yếu tố quan trọng tạo nên phong cách của mỗi nhà văn. Dưới con mắt tài hoa của

Nguyễn Tuân, con người luôn được cảm nhận ở phẩm chất tài hoa, tài tử, phi thường đáng ngưỡng

mộ. Nguyễn Tuân chỉ quen cảm thụ với những cái cao cả, thiêng liêng. Một Huấn Cao tài năng toàn

diện, nhân cách lồng lộng khó ai sánh kịp. Dưới con mắt của Nam Cao con người lại được hiện lên

với những cái “vặt vãnh” nhỏ nhặt nhưng nhà văn luôn nhìn thấy ở họ ý thức sâu sắc về nhân cách

bản thân mình. Từ một cuộc đời nhỏ bé mà có thể khái quát lên cả một kiếp người. Nhiều khi Nam

Cao nhìn thấy họ dằn vặt, đau đớn trước bi kịch về quyền làm người. Nhân vật của Nam Cao nhiều khi coi trọng danh dự làm người cao hơn cả tính mạng như Lão Hạc, Chí Phèo, Lang Rận...Còn với Tô Hoài, cái nhìn của ông mang một nét riêng không lẫn vào ai. Tác giả nhìn con người phải là: “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”, có nghĩa là con người có những mặt hay và dở, có cái được và chưa được. Theo Tô Hoài con người không phải là thánh nhân, thậm chí còn có cả những phần đen tối lẩn khuất trong tâm hồn. Trong cái nhìn của ông, con người cũng có những khổ đau, bất hạnh nhưng họ biết vươn lên cho dù phải vật lộn với hoàn cảnh cuộc sống khó khăn. Họ vươn lên trên đau khổ để tìm lại cuộc sống của chính mình.

Trong Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, người kể tham dự vào truyện như là một nhân vật ở ngôi thứ nhất. Với điểm nhìn của cái tôi chủ quan – tác giả, nhân vật “tôi” có điều kiện dẫn dắt người đọc qua những chặng đường phiêu lưu, bộc lộ những trải nghiệm trong cuộc sống, thể hiện thái độ tình cảm của mình trước từng diễn biến sự việc. Mỗi khi thay đổi điểm nhìn, cuộc sống được cảm nhận ở nhiều góc cạnh, đa chiều, phong phú. Người tường thuật xưng “tôi” tự kể về mình. Điểm nhìn từ nhân vật tôi. Đây là truyện chủ thể kể về bản thân “tôi” một cách trực tiếp, phơi bày trực tiếp trước mắt người đọc những gì “tôi” đã chứng kiến trong cuộc sống. Ở kiểu truyện này, tác giả và nhân vật “tôi” hòa làm một, khoảng cách giữa tác giả và nhân vật “tôi” rất gần, dễ cho tác giả gởi quan điểm, thái độ, tình cảm của mình. Điểm nhìn trần thuật này khiến cho cái tôi của nhà văn có dịp được bày tỏ, được bộc bạch, phơi bày tâm trạng của mình. Mỗi con người chúng ta ai cũng có một tuổi thơ để nhớ về. Trong trí óc còn non dại, tinh khôi như một tờ giấy trắng, cuộc sống quả là thú vị và có bao điều mới lạ cần khám phá. Cho nên tất cả những gì diễn ra quanh cuộc sống của một đứa trẻ, dù chỉ là rất nhỏ, người lớn không để ý tới cũng sẽ để lại một ấn tượng sâu đậm trong

kí ức trẻ thơ: Đây là kiểu tường thuật mà “người kể được cá thể hóa, đã nhập làm một với nhân vật

chính của tác phẩm" đang “kể chuyện về mình” với những tình cảm, cách cảm nhận và lí giải mọi

điều của người trong cuộc: "Buổi sáng nào “tôi” cũng hì huỵch vần từng chiếc lốp ôtô dựng ngoài

mặt tường trước cửa hàng. Tối đến, lại hì huỵch theo mé tường vần vào. “Xong việc vần lốp ôtô là

tới việc đánh giầy, xong đánh giầy, vào rửa một chậu bát đũa rếch. Đoạn việc rửa bát rếch, tiếp đến

cọ chai (…) cọ được vài chục chai, đã đến buổi trò tan chiều. Tôi sửa soạn và phụ thổi cơm"

[76,76]. Điểm nhìn từ nhân vật tôi nên kỉ niệm hằn sâu trong tâm hồn khi có dịp giãi bày nó vùng

vẫy lên với một sức mạnh dữ dội của sự trải nghiệm và thấm thía. Từ điểm nhìn trực tiếp đó nhân

vật tôi hiện ra sinh động, có sức hấp dẫn, cuốn hút người đọc.

Ngoài vai trò là người dẫn chuyện, nhân vật tôi giữ vai chủ thể tự bộc lộ cảm xúc của mình có nghĩa là ở điểm nhìn trực tiếp, trực diện. 4TVới đặc trưng của thể loại 4Ttự truyện, hồi kí4T khi miêu tả nhân vật "tôi", tác giả thường dùng cách bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật. Tác giả dùng thủ

pháp trực tiếp để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng: 4T"Và tôi ơi là tôi, tôi cũng không

nghĩ được ra nếu cứ dấn vào thì nên làm những như thế nào. Thuý không bị suýt ngã nên Thuý

không tưởng được cái hất cáu kỉnh đã khiến tôi đau điếng cả trong lòng và cả bàn chân"

[76,202]. 4TTác giả dùng thủ pháp trực tiếp để nhân vật tôi tự kể, tự miêu tả cảm xúc, tâm trạng4T của

mình trong đêm thân mật với Xuân Diệu, ông đã để mình trở thành người trong cuộc, cũng nồng

nàn, không làm chủ được cảm xúc của mình: "Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp.

Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa. Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong đêm quái quỷ lại thấy mình không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rởn rợn" [63,191]. Cái chân thành ấy khiến câu chuyện trở nên rất thật, có sức thuyết phục cao nhận được sự đồng cảm của đọc giả. Khi dùng chủ thể trần thuật kiểu này tạo nên sự gần gũi của chủ thể kể “tôi” và nhân vật, giúp tác giả thâm nhập vào nội tâm nhân vật.

Xuất phát từ điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi nhận xét: "Nguyễn Tuân áo rách cũng vẫn đượm màu phong lưu, tiền thì cứ tiêu và chỉ tính thôi chứ không đếm. Nguyễn Tuân, một người ý tứ, trân trọng, thận trọng, khéo thu xếp" [63]. Một Nguyễn Tuân thật sắc sảo và kiêu bạc: "Cái ác khẩu của nhà văn này thì khỏi nói. "Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình" [63]. Với cái nhìn nhân bản yêu thương, trái tim Tô Hoài đập cùng một nhịp với trái tim thổn thức đau thương của bạn bè và thông cảm sâu sắc với mỗi con người, mỗi số phận của đồng nghiệp khi Nguyễn Bính để mất con: “thất thểu suốt đêm, sáng ra nhợt nhạt, thẫn thờ bước giữa trống không". Chuyện đã qua mà vẫn còn ám ảnh mãi với Tô Hoài ông vẫn không ngừng hi vọng giúp được bạn làm một cái gì đó để vơi bớt sự dằn vặt, đau đớn trong tâm hồn bạn.

Viết về ông hoàng của thơ tình yêu Xuân Diệu mà ta ngưỡng mộ lại rất đời thường và bình thường, chỉ là: "Mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy ..Ngày hai buổi nói, lại tối nữa, phải thế mới có sức". Và ở một cự li thật gần có lúc chính là người trong cuộc để nhìn mà thấm thía mà thương bạn: "Xuân Diệu nức nở "tình trai của tôi... tình trai..."rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra". Nhưng đâu chỉ có thế thôi lời nhắn gửi tha thiết với hậu thế, chỉ có thể là người rất hiểu, rất thương Xuân Diệu mới có thể viết hay và đúng như thế: "Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình tha thiết

đẹp đến não nùng của Xuân Diệu, không danh giới tơ duyên trai hay gái, phải thấu hiểu nỗi niềm và

duyên nợ của nhà thơ như thế, suốt đời nhớ thương và chờ đợi mới là biết yêu thơ Xuân Diệu. Khi

nào cũng khát vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu" [63]. Đây là cái nhìn yêu thương, lấy trái

tim nhân ái để đồng cảm. Trái tim ấy đập những nhịp của yêu thương! Đến nay là tháng 7 năm 2011

mà trên thế giới nạn phân biệt giới tính còn rất nhiều, mấy hôm nay trên báo thể thao có mấy đội

tuyển nữ người Đức thoát y để kêu gọi sự bình đẳng giới và nạn kì thị giới tính thứ ba còn ở khắp

mọi nởi nhất là Nam Phi dẫn đến nhiều cái chết thương tâm của những người bất hạnh này. Lan

man một chút để thấy rằng cách đây mấy chục năm rồi mà Tô Hoài có cái nhìn nhân ái như vậy quả

thật đó là lòng nhân đạo mới mẻ và sâu sắc đầy tính nhân văn. Đọc tự truyện của Tô Hoài thấy đó là

nỗi thương mình và đọc hồi kí của ông thấy đó là lòng thương người. Tất cả đều xuất phát từ cái

nhìn yêu thương.

3.2.2. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn

Nghệ thuật hòa phối, di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả. Điểm nhìn của

chủ thể nhân vật tôi không đơn giản mà có sự phối hợp giữa các điểm nhìn khác tạo ra cảm xúc về

cuộc sống đa chiều, nhiều mặt, sự việc có khi được nhìn ở điểm nhìn của chủ thể, Tô Hoài tự kể về

những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính nhà văn hoặc của một nhân vật nhà

văn về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Cách di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả – chiếu điểm nhìn qua nhân vật khác. 4TNhân vật tôi ngay từ lúc nhỏ đã đi xa nhà, vốn tính nhạy cảm nên nỗi nhớ nhà thường trực. 4T Có khi nỗi nhớ nhà đến nôn nao tác giả dùng thủ pháp bộc lộ gián tiếp, qua nhân vật khác như lời nói của bà ngoại: "4TTôi nhớ nhà quá. Nhớ vàng cả người. Vàng cả người là bà ngoại tôi nói thế. Giữa tháng chạp, bà ra đón tôi về quê ăn tết. Vừa trông thấy bà, hai mắt tôi đã loá nước mắt". Điểm nhìn, đây là một câu bé 4T–4T suy nghĩ còn rất ngây thơ ngay trong cả nỗi nhớ của mình cũng khó có thể tìm ngôn ngữ nào để diễn tả. Cho nên tác giả đã dùng nhận xét của người bà vừa thương cháu vừa trải đời để diễn tả cho hết cho đúng cái nỗi nhớ da diết. Đây là hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt bên cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng thêm một nhân chứng để nhấn mạnh cảm xúc chân thật.

Xuất phát từ điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi – với cái nhìn nhân bản đời thường “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”. Nhà văn đã rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể và đối tượng được phản ánh giúp chúng ta tiếp cận, bước vào một cuộc sống đời thường của thế giới nhà văn – những người nghệ sĩ mà chúng ta thường chỉ cảm nhận họ qua tác phẩm văn học. Có thể nói đây là những con người rất đặc biệt trong tác phẩm hồi kí của Tô Hoài, là những người bạn, người đồng nghiệp mà ông gần gũi, thân thiết, tiếp xúc nhiều với họ, điều quan trọng nữa là ông rất hiểu họ. Cách nhìn và vốn sống đó giúp cho người đọc hiểu ra rằng phía sau thế giới nghệ thuật lung linh, nhiều màu hồng mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm thì đó còn là những nhà văn rất đời thường. Tác giả chiếm lĩnh đối tượng ở nhiều mặt nhưng cái trước hết mà ông tiếp xúc với họ – đó là con người đời thường, bình thường. Điều đáng nói ở đây là ngay cả khi viết về những thói tật của những người nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân thành của một nghệ sĩ chân chính, bằng cái nhìn cảm thông chân tình nên chúng ta không cảm thấy

nhà văn hạ thấp họ hay cố tình đề cao bản thân mình để làm nhòe đi hình ảnh người khác. Ở kiểu

tường thuật này, nhân vật “tôi” bên cạnh với tư cách là nhân vật tồn tại khách quan như những nhân

vật khác, nó còn được giao nhiệm vụ kể theo quan điểm chủ quan của nhân vật “tôi”, tức đặt điểm

nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái

độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Bởi vì

nhân tố đối thoại, độc thoại là đặc tính quan trọng của hoạt động ngôn từ, trả lại cho ngôn từ hình

thức nói vốn có của nó như trong đời sống thực, để từ đó giúp chúng ta khai thác đến những hình

ảnh trong ý thức con người, khám phá bản chất con người và xã hội. Khi tác giả nhận xét: “Tôi

không được biết Nguyễn Tuân thời xưa kênh kiệu tàn nhẫn thế nào, chỉ thấy bây giờ cũng chịu khó

chơi tạp, chỉ có điều là ngồi đối diện đấy, nhưng không nhìn mặt ai. Cái ác khẩu của nhà văn này

thì khỏi nói. "Tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình", nhưng giá ở dưới âm ty,

thằng phê bình chẳng may nào đó bị chôn sống, lại mời ông đi uống rượu rồi đi chơi đảo Cát Hải

thì chắc ông cười xoà, làm lành ngay. Vẫn cái khó khăn hay cái dễ dãi chỉ vì mình" [63,30]. Dùng

điểm nhìn của chính nhà văn đưa ra nhận xét. Cách di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của

tác giả – chiếu điểm nhìn qua nhân vật khác. Cái nhìn nghệ thuật không chỉ thể hiện trên phương

diện con người mà còn bộc lộ trên rất nhiều mặt của cuộc sống.

Tô Hoài tự kể về những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính nhà văn

hoặc của một nhà văn nhân vật về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Cách di chuyển điểm

nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả bằng cách làm một người trong cuộc, lại gánh vác việc trần thuật và phải thể hiện quan điểm tác giả nên lời văn gián tiếp hai giọng ở đây rất nổi bật, đậm hơn, rõ hơn so với kiểu tường thuật có nhân vật “tôi” dẫn chuyện. Tô Hoài rất giỏi tạo dựng những bức tranh đời sống, trong đó chứa đựng nhiều chi tiết sinh động. Những nhân vật hiện lên trước mắt ta như đang tham gia vào những cảnh sống ngoài đời:“Tôi đến nhà ...Một lúc lâu, Nguyễn Tuân mới rầu rầu nói: “Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản chí của người già bạc hết cả lông nách mới nghĩ quẩn thế không”. Lại còn “không biết” nữa sao! Chẳng qua đây chỉ là người lão giang hồ tự hỏi, tự hận mình. Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi dần dần không đi đâu, quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt” [63]. Khi kể lại tác giả dùng lời văn gián tiếp hai giọng khi thì lời của nhân vật khác trong truyện: “Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản chí của người già bạc hết cả lông nách mới nghĩ quẩn thế không." khi thì chính là lời của nhân vật tôi: "Lại còn “không biết” nữa sao! Chẳng qua đây chỉ là người lão giang hồ tự hỏi, tự hận mình. Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi dần dần không đi đâu, quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt”. Vẫn cách khắc họa cái tôi đồng thời tác giả dùng hình thức kể chuyện của chủ thể "tôi" đặt cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng thêm sự thuyết phục, tìm sự đồng cảm để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan hơn. Cái nhìn thân tình, gần gũi. Cách di chuyển điểm nhìn trong cái tôi chủ quan của tác giả bằng cách làm một người trong cuộc, lại gánh vác việc trần thuật và phải thể hiện quan điểm tác giả nên lời văn gián tiếp hai giọng ở đây rất nổi bật, đậm hơn, rõ hơn so với kiểu tường thuật có nhân vật “tôi” dẫn chuyện. Tô Hoài rất giỏi tạo dựng những bức tranh đời sống, trong đó chứa đựng nhiều chi tiết sinh động. Những nhân vật hiện lên trước mắt ta như đang tham gia vào những cảnh sống ngoài đời. Khi kể lại tác giả dùng lời văn gián tiếp hai giọng khi thì lời của nhân vật khác trong truyện khi thì chính

là lời của nhân vật tôi. Vẫn cách khắc họa cái tôi đồng thời tác giả dùng hình thức kể chuyện của

chủ thể "tôi" đặt cạnh chủ thể khác, hình như tác giả muốn tăng thêm sự thuyết phục, tìm sự đồng

cảm để cho tác phẩm được hiện thực, khách quan hơn.

Đặt điểm nhìn ở nhân vật khác nhau trong cách kể chuyện, tạo cho người đọc cái nhìn nhiều

chiều đúng với bản chất đời sống biến động của thời đại Tô Hoài, khi sự khủng hoảng các mối quan

hệ con người đã làm nhức nhối những nhà văn có lương tri. Cách kể này cho thấy nhà văn tôn trọng

sự tự do về nhận định ở người đọc, đồng thời tạo cho nhân vật gần với độc giả và độc giả dường

như chứng kiến con người thật mà mình đã gặp trong đời sống, chứ không phải là con người trong

tác phẩm. Cách kể này tránh sự đơn giản một chiều, một giọng nhàm chán trong phản ánh hiện thực.

Mỗi nghệ sĩ – nhà văn có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan khác nhau nên sự tái

hiện lại hiện thực khách quan cũng khác nhau. Sự phản ánh hiện thực khách quan ấy thể hiện quan

niệm sống của tác giả thông qua điểm nhìn.Viết về chuyện vặt vãnh hằng ngày bằng chất văn xuôi

đời thường, nhà văn không né tránh phàm tục, nghịch dị, thô nhám…của cuộc sống. Tất cả những

chất liệu, âm thanh cuộc sống dội vào trang văn của Tô Hoài sức ấm nóng của cuộc sống. Nhãn

quan sinh hoạt thế sự làm cho tự truyện, hồi kí của Tô Hoài vừa có nét riêng, vừa có khả năng nắm

bắt và tái hiện đời sống, vừa có cái nhìn sắc sảo, tinh quái dễ phát hiện ra cái phần thô kệch hài

hước của đời sống. Xuất phát từ điểm nhìn vừa trẻ trung vừa già dặn, Tô Hoài đã có cái nhìn sâu sắc về các vấn đề xã hội. Đó là nét riêng trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài.

Tô Hoài với cách kể chuyện hấp dẫn có duyên, nhiều khi lan man mà vẫn kết dính, nhiều khi “vụn vặt” mà vẫn có sức khái quát. Trang viết nào, đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, mang hơi thở nóng hổi của sự sống. Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã đạt được một bước tiến mới về nghệ thuật trần thuật trong tự truyện, hồi kí Việt Nam hiện đại.

3.3. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc, đảo thuật, dự thuật

3.3.1. Kĩ thuật giảm tốc, tăng tốc

Kĩ thuật giảm tốc Kĩ thuật giảm tốc: về nguyên tắc hồi kí, tự truyện thường viết theo trình tự sự kiện bắt đầu đến kết thúc tạo ra nhịp kể nhanh. Nhưng Tô Hoài không thế, để người đọc chờ đợi tạo sự hấp dẫn, tác giả không kể hết một mạch. Mà Tô Hoài "nhẩn nha" kể vừa miêu tả vừa khắc họa cảnh sinh hoạt, vừa chêm xen vào bình luận đó là kỹ thuật giảm tốc. Có khi tác giả không để cho nhân vật hành động liền mà để cho nhân vật suy ngẫm rồi mới bộc lộ bằng hành động. Có khi một sự việc được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, cách dùng tần suất kể về việc đó có dụng ý nghệ thuật.

Tô Hoài "nhẩn nha" kể vừa miêu tả vừa khắc họa cảnh sinh hoạt, vừa chêm xen vào bình luận đó là kỹ thuật giảm tốc. Do tính chất hồi cố, chỉ nhìn nhận, “ôn lại” sự việc từ độ lùi của một khoảng thời gian thường là đã khá xa, cho nên tự truyện thường thiên về giọng trần thuật điềm tĩnh, chậm rãi, ít đi vào các xung đột kịch tính, nhưng rất giàu tiềm năng gây rung động cảm xúc. Tô Hoài lại thường đi vào cuộc sống với mạch ngầm bình thường của cuộc sống như sự vốn có của nó.

Những tác phẩm của ông cứ lặng lẽ dần trôi theo mạch trần thuật của nhà văn.

Trong Tự truyện là những mảng tự truyện về quãng đời thơ ấu, thời thanh niên của nhà văn thì nhịp điệu trần thuật nhìn chung ổn định cứ dần trôi lặng lẽ theo một kết cấu thời gian nhất định.

Những cảm nhận về cuộc đời, về số phận con người cứ dần hiện ra theo sự trưởng thành của nhân

vật tôi. Nhịp điệu trần thuật tự nhiên, giọng điệu gần gũi, cùng với cách kể chuyện hấp dẫn, có

duyên đã lôi cuốn người đọc vào một quãng đời của tác giả. Từng bước đi thăng trầm của cuộc đời

nhà văn cứ lần lượt hiện lên trang sách. Từ chuyện của thằng Cu Bưởi kể về ngôi nhà, mảnh vườn

xưa quen thuộc và những người thân cứ lần lượt được giới thiệu. Rồi đến những ngày ở Kẻ Chợ đi

học…Và đến khi đi học, rồi đi làm, đi bán giày bata “số 89 phố hàng Đào” rồi về cửa hàng giày ở

“phố hàng Khay”, nào là được gọi về làm bàn giấy của hãng ở phố Giăngsole, Hàng Bông, Thợ

nhuộm…Cứ thế qua bước đi của thời gian, nhà văn trưởng thành trên trường đời là xã hội, mỗi suy

nghĩ, dự định đều chín chắn hơn. Nhìn chung nhịp điệu trần thuật không có gì đặc sắc so với trước

đây của ông: thường nhẩn nha, thong thả như cuộc sống hàng ngày. Có lúc vừa kết hợp kể và tả. Đó

là những đoạn rẽ ngang trong mạch trần thuật: đoạn miêu tả thiên nhiên, đoạn phong tục, đoạn hồi

tưởng quá khứ, hoặc có đoạn là những lời bình luận ngoài đề. Đang hồi tưởng về ông, tác giả lại đưa

người đọc trở về quá khứ của ông ngoại với những ngày tháng trai trẻ vất vả lam lũ của chàng thanh niên từng phải ra Bắc vào Nam, từng làm phu, làm đường, đến cả việc đóng vai trò làm thầy lang “bất đắc dĩ” để kiếm hai bữa ăn đường4T: "Trong những ngày xưa kỳ dị mênh mang của ông tôi còn những chuyện ghê gớm hơn chuyện võ và chuyện lính... Ông tôi kể ngày xưa ông tôi đã đi phu mộ làm đường trong Phan Rang, Phan Thiết" [76,23]. 4TMạch truyện bị xen ngang và tạm thời dừng lại song người đọc lại có điều kiện để dõi theo đường đời của từng nhân vật hoặc lại được thưởng thức những bức tranh thiên nhiên kỳ thú.

Cái điểm sáng thu hút nhất trong tập truyện chính là sự ngân vọng của những cảm xúc tươi mới, tinh tế, dào dạt trong tâm hồ, được diễn tả qua đôi mắt hồn hậu đầy ngạc nhiên và xúc động của trẻ. Qua niềm vui trong trẻo của trẻ em khi được đi tàu điện4T “Chẳng bao lâu, xe điện đã tới. Từ đằng xa, nghe những tiếng quẹt quẹt trên lằn dây điện. Bánh tầu nghiến ken két, lượn nghiêng vào bến, rít u u váng lên. Đôi khi, tầu điện lại kéo thêm chiếc toa đằng sau. Cái tàu cái toa cùng sơn màu vàng thẫm, nối đuôi nhau chạy như thể bò con đuổi bò mẹ đòi bú” [76,53]. Trong đôi mắt trẻ thơ niềm chờ đợi đó thật háo hức với cách so sánh rất ngộ nghĩnh, gần gũi với những trẻ em ở thôn quê. Giống như trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. 4T Với chị em Liên, con tàu là hoài niệm, làm sống lại kí ức tuổi thơ nơi Hà Nội xa xăm, huyên náo. Đoàn tàu mang lại: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Đoàn tàu có âm thanh, ánh sáng dù thoáng qua nhưng xóa tan không khí bóng đêm của phố huyện, át đi buồn tẻ, cô đơn. Đoàn tàu chỉ là khoảnh khắc, phố huyện vẫn là mênh mông , nhưng trong khoảnh khắc kéo phố huyện lật sang trang khác. Tâm trạng chờ đợi đồng nghĩa với niềm vui, an ủi, hy vọng dẫu rất mơ hồ. Đoàn tàu đến, thức dậy trong con người phố huyện khát khao sống mãnh liệt. Ta thấy rõ lòng nhân hậu trong cách nhìn về trẻ thơ của hai nhà văn.Tác giả Tô Hoài còn xây dựng thành công nhân vật "tôi" khi miêu tả thế giới tinh thần hồn nhiên, trong sáng, ngây thơ.

Có khi tác giả không để cho nhân vật hành động liền mà để cho nhân vật suy ngẫm rồi mới

bộc lộ bằng hành động. Diễn biến tâm lí cho thấy nhân vật tôi gần như rơi vào thế cùng quẫn đang

cố vùng vẫy tìm một lối thoát dù rất hẹp nhưng vẫn không được. Anh đau buồn nhận ra không thể

làm thế được: "Và tôi ơi là tôi, tôi cũng không nghĩ được ra nếu cứ dấn vào thì nên làm những như

thế nào. Thuý không bị suýt ngã nên Thuý không tưởng được cái hất cáu kỉnh đã khiến tôi đau điếng

cả trong lòng và cả bàn chân" [76]. Qua hành động trên của nhân vật nhà văn Tô Hoài muốn khẳng

định dù cho hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn thì con người vẫn không đánh mất chính mình. Cách

nhìn nhân vật của tác giả vì thế rất nhân bản. Độc thoại nội tâm thường hướng nội, nhằm để nhân

vật tự ý thức, tự vấn lương tâm, tự phê phán, tự đánh giá. Chuẩn mực đạo đức tác giả quan niệm là

trung thực, trong sáng: "Tôi nghĩ loăng quăng xa gần cả đêm. Sáng hôm sau, tôi ra đường sớm.

Nhưng không phải tôi đến cái gác gần chợ Cột Đèn để tìm cách làm lại cái quặp chân. Tôi chỉ

mạnh bạo lúc nghĩ vẩn vơ. Chưa mấy khi đêm nghĩ hung hăng thế, sáng hôm sau lại đi làm thế

được. Trời sáng, tôi có cảm tưởng mặt tôi đã bệch ra vì nỗi lo, và lại tủi thân. Tôi không thể làm

thế.Thuý rất tốt. Nhưng chết thôi, chết thì thôi tôi không thể thảm hại đến vậy" [76,203].

Có khi một sự việc được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, cách dùng tần suất kể về việc đó có dụng

ý nghệ thuật. Cát bụi chân ai tản mạn xô dạt theo những đột hiện, những vùng không gian và thời

gian cách xa nhau được đồng hiện trong những hồi tưởng quanh ly cà phê bỏ lạnh ở ngã sáu Hàng

Kèn. Kết cấu chủ yếu xây dựng trên trục dọc của mối giao tình giữa Nguyễn Tuân với Tô Hoài.

Bóng dáng lung linh hư ảo của Nguyễn Tuân ẩn hiện suốt chiều dài của một thời kỳ nhiều biến

động; những hồi tưởng của Nguyễn Tuân hay những hồi tưởng về Nguyễn Tuân tạo nên những trục ngang xô dòng tự sự về phía những cuộc đời, những con người khác nhau của những năm tháng đã qua: Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Trần Đức Thảo, Vũ Hoàng Chương, ông lão cà phê ngã sáu Hàng Kèn, Aki Nguyễn An Nghệ, anh chiến sĩ Két, người đàn bà trong quán cà phê Ca,… Dường như chẳng chút dụng công mà những sự kiện ngoài đời cứ chuyển hóa rất nhẹ nhàng thành những chi tiết nghệ thuật. Từ những chuyện “hệ trọng”...cho đến những chuyện “vụn vặt”…đều sống lại trong trí nhớ Tô Hoài, trong veo như chưa bao giờ khúc xạ qua quá trình “cày bừa” sáng tạo nghệ thuật. Nhưng rồi tất cả lần lượt trôi dạt về phía tình bạn vong niên Nguyễn Tuân – Tô Hoài.

Kĩ thuật giảm tốc làm cho mạch trần thuật có lúc tưởng như lan man, sa đà song không hề bị mất đi cái logic chung của tác phẩm. Mạch trần thuật hết sức chi tiết, tỉ mỉ, hiện thực được miêu tả nhiều khi “trần trụi” từ những chuyện “vụn vặt, tủn mủn”, bằng cái nhìn tinh quái của người trong cuộc tạo nên sức hấp dẫn, tính chân thực của thể loại tự truyện, hồi kí.

Kĩ thuật giảm tốc phù hợp và giúp đỡ Tô Hoài thể hiện bức tranh cuộc sống hiện thực bình dị, tự nhiên vốn có. Tô Hoài quan tâm đến cuộc sống đời thường, những vui buồn, lo toan của người dân lao động nên tác phẩm của ông giản dị, tự nhiên, gần gũi đối với mỗi người đọc.

Thời gian đời tư của nhân vật có thể được tác giả sắp xếp theo một trình tự tuyến tính. Trọng tâm của tự truyện là sự đánh giá, suy nghiệm lại về số phận mình; câu chuyện là hành trình tìm kiếm bản thân mình trong quá khứ để thấy bản thân mình trong hiện tại. Bởi vậy thời gian sẽ trôi chảy như một dòng sông. Ở Tự truyện diễn biến thời gian xoay quanh nhân vật tôi được hiện diện thật sống động. Ở đó có những ngày thơ ấu (Cỏ dại), những ngày cắp sách đến trường (Mùa hạ đến, mùa xuân đi), những ngày hoạt động trong nhóm ái hữu (Những ngày thơ dệt),những ngày lang

thang tìm việc làm (Đi làm), những ngày thất nghiệp (Hải Phòng)… Dòng hồi tưởng đôi lúc đột

ngột bị ngăn lại bằng những khoảnh khắc thức nhận hiện đại. Trong tự truyện, Tô Hoài thường phá

vỡ trình tự thời gian, không tái hiện sự kiện theo trật tự biên niên mà xáo trộn chúng bằng “dòng ý

thức” miên man. Theo dòng hoài niệm, thời gian tâm tưởng cứ tuôn chảy, đôi khi đứt đoạn nhưng

lại được móc nối ngay vào khoảnh khắc của hiện tại. Thời gian nghệ thuật trong tự truyện Tô Hoài

vì thế mà diễn ra sinh động, hấp dẫn.

Từ yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm ta thấy trong tác phẩm Tự truyện của Tô Hoài

có sự xâu chuỗi các chi tiết, sự kiện. Thông thường với cách hồi tưởng thì các sự kiện, sự việc được

xâu chuỗi theo mạch cảm xúc. Trong tác phẩm Cỏ dại tác giả kể về cuộc đời của mình từ âu thơ cho

đến lúc trưởng thành. Cho nên các chi tiết, sự kiện phần lớn được sắp xếp theo trình tự thời gian.

Kiểu “tự sự phi cốt truyện” này là hệ quả tất yếu của điểm nhìn hồi cố. Chính từ điểm nhìn này ,

trung tâm điểm của kết cấu truyện đã chuyển đổi từ chiều rộng cuộc sống với hệ thống những sự

kiện và biến cố phong phú sang chiều sâu tâm lý với một loạt những cảm xúc, tâm trạng, cảm

giác...đã đẩy cốt truyện xuống hàng thứ yếu để thiên về khắc họa những ấn tượng, tình cảm còn lại

qua thời gian của người trần thuật. Khi nhân vật rời khỏi bình diện hành động để chuyển sang bình

diện hồi tưởng, khi cốt truyện di chuyển từ chuỗi biến cố cấu trúc nên lai lịch một đời người sang

lịch sử hình thành nhân cách cá nhân nhìn từ thời hiện tại, thì những xung đột kịch tính, những mâu

thuẫn gay gắt, những tình huống sắc nhọn sẽ mời đi qua lớp màn ngăn cách của thời gian để chỉ còn

lại những ấn tượng, cảm xúc, tâm trạng của chủ thể trước những hành động, biến cố, tình huống ấy. Chính ý thức đó đã biến thời gian đã qua thành một thời gian “của riêng mình”, một thời gian đã chuyển từ bên ngoài vào bên trong của con người, một thời gian sống lại từ những kí ức đời thường của cái “tôi” đã tự nhận ra mình là một thực thể có giới hạn sống riêng. Dù trong dòng tự sự có mặt hay không có mặt “thời hiện tại” thì ý thức của nhà văn về “thời hiện tại” ấy vẫn không hề vắng mặt, cái “ngày nay” đối diện và đối thoại với cái “ngày xưa” như là một thời quá khứ đã tách ra khỏi mình chứ không phải chỉ đơn thuần là một khoảng thời gian đã qua.

Trong Tự truyện, mặc dù không có chủ ý xây dựng những nhân vật điển hình kiểu hư cấu trong tiểu thuyết, song trên trang sách người ta vẫn thấy bóng dáng của những nhân vật cụ thể, những người thật việc thật với thái độ, tâm lý, số phận của nhân vật. Ở đây người ta bắt gặp những cuộc đời thật với tất cả những đường nét xù xì, góc cạnh và cả những tình cảm trong sáng xuất phát từ một lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp của nhà văn

Kĩ thuật tăng tốc Kĩ thuật tăng tốc là đẩy nhanh mạch kể truyện bằng cách, thứ nhất kể lướt, không kể tỉ mỉ, phần nào không quan trọng thì lướt qua bằng cách tóm lược vài ba câu. Thứ hai kể lõi sự việc bớt tả cảnh. Thứ ba: kể nhảy cóc từ một thời gian cụ thể có thể là 10 năm sau tạo khoảng cách đó chính là tăng tốc.

Nhà văn chỉ ước đoán bằng những khoảng ước định như: “năm ấy”, “những năm ấy”,“khoảng những năm”,“mấy năm”,“hồi ấy”… nhưng chúng ta vẫn có thể biết được các sự kiện theo dòng lịch sử của dân tộc Rồi những năm tháng chiến tranh, nhiều gia đình ở Hà Nội phải đi tản cư đến những vùng bình yên. “Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp

Cầu Đen trên Nhã Nam” [63,52]. Sự kiện lịch sử này mãi mãi in đậm trong trí nhớ mỗi người dân

Việt Nam đặc biệt là các nhà văn. Trong hồi kí Tô Hoài một điều chúng ta dễ nhận thấy là những

mốc sự kiện lịch sử chỉ được Tô Hoài phác họa thoáng qua nhưng cũng đủ để chúng ta nhận diện

được một cách tổng quát về tình hình xã hội lúc bấy giờ. Thời gian trong hồi kí của Tô Hoài được tổ

chức theo dòng hoài niệm nên các sự kiện được nói tới thường.

Có lúc được trình bày mạch lạc men theo những dòng hồi tưởng về một số thời điểm nhất

định trong đời văn của ông và bạn làng văn. Nhưng cũng có lúc nó cũng không tuân theo sự mạch

lạc ấy, khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong trí nhớ của nhà văn, không muốn có mạch lạc rõ

ràng: đang chuyện Nguyễn Tuân ham đi (lên Tây Bắc, đến Quảng Ninh, ra nước ngoài…) lại nhảy

sang chuyện cái máy chữ Baby cổ lỗ, mốc thếch; đang chuyện Đặng Đình Hưng đi bán rượu lậu và

uống rượu rắn lại nhảy sang chuyện Nguyễn Tuân ngược đường Pnôm Pênh - Poipet định vượt biên

giới sang Thái Lan; đang chuyện Nguyễn Tuân rồi chuyện Nguyên Hồng ngồi trong nhà vách viết

văn ở Nhã Nam; chuyện Nguyễn Bính làm báo Trăm hoa; đến chuyện Xuân Diệu đứng trên lầu

khách sạn Apôlô nhìn sông Mê Công cuồn cuộn phù sa. Tô Hoài là người có trí nhớ rất tuyệt vời. Vì

lẽ đó, những câu chuyện qua hoài niệm của ông cứ tuôn ra dào dạt không dứt. Quá khứ được nhà

văn hiện tại hóa. Điều này được bộc lộ rõ qua việc sử dụng phép đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại,

giữa quá khứ gần và quá khứ xa: Thời gian nghệ thuật trong hồi kí Tô Hoài thường gắn với dòng ý

thức, dòng tâm tưởng. Kí ức được Tô Hoài sắp xếp không theo trật tự biên niên mà lan man, rối

rắm, nhớ đến đâu, kể đến đó. Đang kể về Nguyễn Tuân lại nhớ đến Nguyên Hồng, Nguyễn Bính thế là câu chuyện cứ xen kẽ, tạo nên mạch chuyện không đầu, không cuối.

Lối viết trần thuật theo dòng hồi tưởng ta thấy, đan xen với nhau, lẫn với bao nhiêu chuyện đời, chuyện phong tục bộn bề phức tạp và những lời trữ tình ngoại đề. Có khi đang kể chuyện này lai nhảy sang chuyện kia. Dòng hồi tưởng không mạch lạc mà khi đứt khi nối, có lúc chầm chậm dần dần, có lúc lại vội vã, xô bồ, vùn vụt… Dòng hồi tưởng có lúc lại chi tiết đến kinh ngạc: "Anh đưa nhuận bút cho tôi. Những tờ giấy bạc quấn băng, chữ viết cẩn thận, nắn nót ghi số tiền và tên tôi được viết có chữ “Ông” trên đầu. Truyện ngắn Nước lên được năm đồng. Năm đồng ấy là cây gậy thần của ông bụt Vũ Ngọc Phan cho tôi. Tôi hô thần chú, lập tức thấy nó hiện lên bộ "phô tuýtxo" thứ vải rẻ tiền may quần áo tây, nhưng bền. Lại đôi giày vải trắng. Mới chỉ hết có hơn ba đồng, mà tôi đã trút được cái áo dài chéo go thâm và đôi guốc mộc. Lại còn tiền mua cân kẹo sìu về chia cho cả nhà. Lại còn mua cho em gái tôi cái vòng huyền. Mà cũng vẫn còn tiền. Trời ơi!" [76]. Nhà văn nhớ rõ cả câu nói trong lúc bốc đồng: "Bốc lên, Nguyễn Sáng hét: “Chỉ có một thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!”. Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa: “Đi ngay!”. Nguyễn Sáng vẫn hăng: “Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở! Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật, vứt đi!” – “Anh ra khỏi đây ngay” [63,175]. Cả nụ cười và sắc thái của nó, thậm chí cả dáng vẻ của nét mặt lúc bấy giờ, màu sắc quần áo mà nhân vật lúc đó mặc, mặc dù đã trải qua hơn nửa thế kỉ.

Sự chuyển dịch kết cấu và cốt truyện sang bình diện dòng ý thức, dòng hoài niệm có thể được thực hiện bằng nhiều thủ pháp. Thường gặp nhất là thủ pháp xé vụn chuỗi biến cố xây dựng nên cốt truyện thành những đơn vị nhỏ và kết hợp lại trong một cấu trúc phi lý tính – cấu trúc trực giác của ý thức hồi tưởng.

3.3.2 Kĩ thuật đảo thuật.

Tự truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài hòa giữa

diễn biến sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện. Nên cần

tới kĩ thuật đảo thuật gồm kĩ thuật dự thuật và hồi cố.

Kĩ thuật dự thuật Vậy khi ở trong quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc đó tác giả dùng

nghệ thuật trần thuật là dự thuật.

Cách sắp xếp các sự kiện trong cuộc đời nhân vật được hiện diện theo một trình tự rất linh

hoạt và đa dạng. Sự kiện đời tư của nhân vật có thể được tác giả sắp xếp theo một trình tự là theo

dòng hồi ức, nhớ gì kể đó nhưng cũng có khi được tác giả tổ chức theo kiểu thời gian gấp khúc, có sự giãn cách: “4TTôi học cửu chương. Đã lâu, chẳng học hành gì, không cầm đến cái quản bút, bây giờ bỗng học môn cửu chương khó quá. Đến bây giờ mỗi khi thấy bản cửu chương ở cuối quyển vở

của trẻ, đặc xịt, ngang dọc, lổm ngổm những con số rắc rối tôi còn ngại" [76,88]. 4T Dòng hồi tưởng đôi lúc đột ngột bị ngăn lại bằng những khoảnh khắc thức nhận hiện tại. 4T Nhưng có lúc bộc lộ trực

tiếp cảm xúc của cái tôi trữ tình, cách gọi mẹ bằng: "U ơi u, chị ơi! chị, cháu hiểu, không bao giờ chị biết đến những hàng chữ tắt mắt cháu đương viết đây. Cái thế giới tân kỳ mà cháu sống, chẳng bao giờ chị tìm biết" [76,29].4T Nhân vật đang hồi tưởng về quá khứ mà trong đó lồng vào những kỉ niệm đã xa trong sâu thẳm tâm hồn.

Như khi ở trong quá khứ lại quay về hiện tại để làm sáng rõ hơn sự việc. Lúc này tác giả dùng nghệ thuật trần thuật là đảo thuật: "4TNăm ấy, tôi lên sáu....Sang năm sau, tôi phải đi học...Vào quãng tháng ba tháng tư mùa mưa rào, mùa đom đóm và mùa ma trơi...Cái đêm hôm trước tôi đi học buổi đầu tiên cũng có trận mưa thật to....Bởi thế, mỗi lần nhớ lại thuở ấy, kí ức tôi bao giờ cũng phảng phất cả trận mưa rào" [76,42]. Thời gian là thứ không chờ đợi, cách hồi tưởng về những kỉ niệm xưa cũ ấy như một nếp gấp trong trí nhớ của người hồi tưởng4T .

Nhân vật đang hồi tưởng về quá khứ mà trong đó lồng vào những kỉ niệm đã xa trong sâu thẳm tâm hồn. Những kỉ niệm đáng nhớ đến mức: "mà thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn nhớ", "Sau này, mỗi khi nhớ đến vợ chồng bạn, bao giờ tôi cũng bồi hồi và nghẹn ngào không biết chữ nào nói hết được cuộc sống chúng mình ngày ấy". Nhà văn không gợi lại quá khứ chỉ vì quá khứ, mà vì hiện tại mình đang sống, và quá khứ trong quan hệ với hiện tại để nhận thức rõ hơn về lòng tốt của người bạn năm xưa đồng thời khẳng định sự biết ơn sâu sắc, điều đó đã tác động, khắc sâu trong tâm hồn nhân vật tôi mà thời gian không thể xóa nhòa.

Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật trần thuật là dự thuật miêu tả thời gian giãn cách để kể lại các sự kiện liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân. Sự đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự kiện trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của Nguyễn Tuân tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhà văn không xây dựng các sự kiện theo trật tự tuyến tính mà luôn có sự đan xen giữa quá khứ và

hiện tại, không gian gần và xa móc nối vào nhau. Cát bụi chân ai mở đầu bằng câu: “Tôi kém

Nguyễn Tuân mười tuổi, trước kia tôi không quen Nguyễn Tuân” [63,5]. Cuối tác phẩm là sự thảng

thốt khi nghe “đài báo tin nhà văn Nguyễn Tuân mất rồi. Tôi nghĩ như tôi vẫn ngồi uống một mình, Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng trước hôm ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi!”

[63,330]. Xây dựng các sự kiện xoay quanh mối giao tình giữa Nguyễn Tuân với Tô Hoài Xen giữa

mối quan hệ tình bạn của họ là bao câu chuyện đời, chuyện người, chuyện chính trị xã hội, chuyện

văn chương.

Với từng mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để

người đọc có thể hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn

đều là một sự kiện có ý nghĩa. Trong hồi kí, Tô Hoài vừa miên man theo thời gian giãn cách, khiến

các sự kiện không hiện diện theo trình tự, vừa có sự đan cài chồng chéo để các sự kiện về xã hội lịch

sử, về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ nét về cuộc

sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của

họ.

Kĩ thuật hồi cố Khi tác giả đang ở độ tuổi hai mươi hoặc thời kì tham gia cách mạng, nhân có một sự kiện lại

nhớ về tuổi thơ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố. Hồi tưởng là phương thức

trần thuật chủ yếu trong tự truyện, hồi kí. Trong nhiều tác phẩm, hồi tưởng luôn trở đi trở lại trong

tác phẩm với mật độ đậm đặc, nhiều lớp, nhiều tầng: hồi tưởng của chủ thể, hồi tưởng của nhân vật….đan cài chồng chéo lên nhau, tạo nên những thế giới hình tượng phong phú: "4TCòn bao nhiêu chuyện lính lặt vặt vừa buồn cười vừa thảm thương không nhớ hết. Trong những ngày xưa kỳ dị mênh mang của ông tôi còn những chuyện ghê gớm hơn chuyện võ và chuyện lính...Ông tôi kể ngày xưa ông tôi đã đi phu mộ làm đường trong Phan Rang, Phan Thiết. Ngày xưa, cái ngày mà làng này nghèo xác xơ " [76,23]. 4TCòn khi tác giả đang ở độ tuổi thời kì tham gia cách mạng, nhân có một sự kiện lại nhớ về thời thất nghiệp trong quá khứ của mình, nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố.

Khi nhớ đến Nguyên Công Hoan, Tô Hoài hồi tưởng: "Bấy giờ 1à mùa hè 1938, anh nhỉ? Hơn hai mươi năm trước, ở Nam Định. Những truyện ngắn anh viết lúc ấy đăng trên các báo Hà Nội quả thực là những con dao bầu mổ phanh cái bụng giới quan trường và bọn nhà giàu. Cái giàu sang kệch cỡm và bất nhân của chúng, dưới ngòi bút vạch toạc sự thật giễu cợt đắng cay của anh, thành những bỉ ổi thối tha mỉa mai trước mắt bạn đọc" [76,713]. Cách nhớ về quá khứ xa hơn thì đó là kĩ thuật hồi cố. Trong hồi kí,tự truyện Tô Hoài đôi khi có hai lớp thời gian hồi tưởng chồng lên nhau. Đó là thời gian hồi tưởng của nhà văn: “Những năm trước 60, cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban đêm thanh vắng lắm” [63,8]. Và thời gian hồi tưởng của nhân vật: “Chính Nguyễn Tuân mới đương hồi tưởng… Thế nào mà ở đây Nguyễn Tuân lại nhớ đến Két chiến dịch sông Thao mùa hạ 1949” [63,14]. Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, tuôn chảy theo dòng hoài niệm, đánh dấu sự chuyển đổi vị trí của cái “tôi” trong hồi kí hiện đại.

3.4. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn, phát huy sức mạnh ngôn từ, giọng điệu trong trần thuật

3.4.1. Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn

Lý thuyết tự sự học quan niệm diễn ngôn trần thuật là văn bản được tạo ra bởi hành động kể dưới dạng truyền miệng hoặc viết. “Mỗi văn bản trần thuật là sự móc nối và luân phiên giữa diễn

ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật” (Dolezel). Diễn ngôn là người kể đưa ra câu

chuyện đến người nghe như thế nào? đặt trong quá trình đó gọi là diễn ngôn, hướng đến người đọc.

Theo đó, một văn bản trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của người kể

chuyện và diễn ngôn của nhân vật.

Diễn ngôn của người kể chuyện Trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, những phát ngôn của người kể chuyện chủ yếu tồn

tại dưới ba dạng: lời kể, lời tả và đôi khi, bình luận.

Lời kể là kiểu lời trần thuật chiếm số lượng lớn và có vai trò quan trọng giúp người trần thuật

tổ chức một cấu trúc tự sự. Nội dung truyện về cơ bản được hoàn chỉnh theo mạch trần thuật của

những người tham gia kể chuyện. Thông thường, lời kể của người trần thuật tồn tại dưới hai hình

thức: lời khách quan của người kể chuyện giấu mặt và lời chủ quan của người kể chuyện ngôi thứ

nhất. Cả hai loại lời này đều có thể được “phong cách hóa” tức là làm cho nó mang đậm dấu ấn chủ

thể của người nắm giữ diễn ngôn.

Cùng với lời kể, lời tả cũng khá phổ biến trong diễn ngôn của người kể chuyện. Tả là vẽ lại

hình hài của vật chất qua con mắt của người kể. Nó hỗ trợ đắc lực cho việc kể và làm cho câu

chuyện được kể, con người được kể sống động, hấp dẫn hơn.

Người kể chuyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại với tư cách người mang quan điểm, tư tưởng, thái độ của nhà văn hướng tới người đọc, khi cần, có thể dùng những lời bình luận để trực tiếp bày tỏ thái độ về một vấn đề hay một sự kiện nào đó trong cuộc sống.

Diễn ngôn của nhân vật Phần lớn các diễn ngôn của nhân vật trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài thuộc dạng đối thoại

và độc thoại.

Diễn ngôn đối thoại trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại bao gồm đối thoại giữa từng cặp nhân vật và đối thoại giữa rất nhiều nhân vật với nhau. Trong đó, diễn ngôn đối thoại đa nhân vật chiếm một tỉ lệ thấp, thường xuất hiện trong các cuộc trò chuyện đám đông trong gia đình, hay không gian đàm thoại công cộng.

Diễn ngôn độc thoại là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó”. Độc thoại nội tâm giúp nhân vật tự bộc bạch hết tất cả những gì người trần thuật khó nói hoặc không thể nói hết. Đó là những suy tư, trăn trở, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và những lo toan thầm kín về bản thân hay về người khác….

Vận dụng thành tựu tự sự học và hội thoại học, chúng tôi cố gắng đưa ra một số nhận định về đặc điểm diễn ngôn trần thuật của tự truyện, hồi kí của Tô Hoài trong xu hướng cách tân ngôn ngữ của tự truyện, hồi kí của Tô Hoài.

Diễn ngôn trần thuật trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài đã tạo được một tương quan mới

có tính nghệ thuật giữa diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật.

Diễn ngôn của người kể chuyện trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài thường được phong

cách hóa. Đó không phải là kiểu diễn ngôn mực thước trung tính của người kể chuyện trong truyện

cổ tích hay truyện trung đại mà luôn mang phong cách ngôn ngữ của ai đó. Rõ nhất là khi các nhà

văn sử dụng diễn ngôn phong cách hóa của người kể chuyện xưng “tôi”. Diễn ngôn của người kể

truyện đầu tiên là diễn ngôn kể như: "Năm 1942, tôi quen Nguyễn Huy Tưởng trong một hội nghị

ban dạy học hội Truyền bá Quốc ngữ. Tôi làm giáo viên dạy buổi tối các lớp Truyền bá Quốc ngữ

vùng Bưởi. Nguyễn Huy Tưởng có chân trong ban trị sự của Trung ương Hội" [76,684]. Cách trần

thuật theo dòng hồi tưởng lại những kỉ niệm, những sự kiện trong quá khứ. Tiếp theo là diễn ngôn tả

như khi Tô Hoài hồi tưởng về Nguyễn Huy Tưởng thì dùng lại tả chân dung của bạn văn. Nó hỗ trợ

đắc lực cho việc kể và làm cho câu chuyện được kể, con người được kể sống động, hấp dẫn hơn:

"Đôi mắt một mí của anh nhìn người ta một cách trìu mến từ lúc thoạt gặp. Đôi mắt ấy cũng bộc lộ

nét riêng đức tính vốn quý người của anh. Và sự say mê cái đẹp cao cả thiêng liêng mà về sau, tôi

càng hiểu rõ hơn. Đến với anh, người ta thương dễ có cảm tình ngay. Cũng như tình tình anh, con

mắt đầu tiên nhìn người không lạnh nhạt, ơ hờ, mà độ lượng và sấn sàng thân thiết. Anh thường

thấy ở người ta những cái đáng mến trước mắt" [76,685]. Có khi dùng diễn ngôn trữ tình ngoại đề,

phát biểu về con người ấy hoặc bình luận. Tô Hoài đã dùng loại diễn ngôn này để đưa ra nhận xét

rất tinh tế thể hiện sự thấu hiểu và cả vốn kiến thức sâu rộng về tác phẩm văn học của đồng nghiệp như khi Tô Hoài hồi tưởng về Nguyễn Huy Tưởng thì dùng lại bàn về tác giả và tác phẩm: "Yêu cái đẹp, đôi khi anh lại thiên về sùng bái" nên Tô Hoài khi cần, có thể dùng những lời bình luận để trực tiếp bày tỏ thái độ về một vấn đề văn học đáng quan tâm, thể hiện vốn kiến thức về văn học sâu và rộng, sự tinh tế trong tâm hồn người đọc: "Ở kịch lịch sử Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả một nghệ sĩ lớn thời Lê. Công trình vĩ đại của Vũ Như Tô chỉ còn được một dòng chữ trong sử sách, những muôn đời người Kẻ Chợ ngước trông lên vẫn thấy trên trời nước hồ Tây ẩn hiện bóng cao trăm trượng toà lâu đài cực kỳ tráng lệ. Công trình của Vũ Như Tô – kết tinh tinh hoa đất nước, mơ ước xây Cửu Trùng đài, cũng là khát vọng của người cầm bút làm sống lại nhà kiến trúc thiên tài trong đau khổ sáng tạo" [76,699]. Cách dùng diễn ngôn của người kể chuyện trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài thường được phong cách hóa và rất linh hoạt có tác dụng làm cho đối tượng được miêu tả có thể được cảm nhận ở nhiều mặt, đa chiều và giọng kể không nhàm chán. Đồng thời qua diễn ngôn của người kể chuyện ta thấy bóng dáng nhân vật kể cùng song hành với nhân vật khác.

Hình thức diễn ngôn người kể chuyện được “phong cách hóa” như vậy thường tạo cho tự truyện, hồi kí của Tô Hoài một sắc thái trữ tình kèm với chất suy tư, chiêm nghiệm đầy dụng ý. Chẳng hạn như khi cảm kích trước tấm lòng: "Anh Vũ Ngọc Phan in cho tôi liên tiếp nhiều truyện ngắn, truyện cổ tích, phóng sự lên báo Hà Nội tân văn. Anh đưa nhuận bút cho tôi. Những tờ giấy bạc quấn băng, chữ viết cẩn thận, nắn nót ghi số tiền và tên tôi được viết có chữ “Ông” trên đầu. Truyện ngắn Nước lên được năm đồng. Năm đồng ấy là cây gậy thần của ông bụt Vũ Ngọc Phan cho tôi. Tôi hô thần chú, lập tức thấy nó hiện lên bộ "phô tuýtxo" thứ vải rẻ tiền may quần áo tây, nhưng bền. Lại đôi giày vải trắng. Mới chỉ hết có hơn ba đồng, mà tôi đã trút được cái áo dài chéo go thâm và đôi guốc mộc. Lại còn tiền mua cân kẹo sìu về chia cho cả nhà. Lại còn mua cho em gái tôi cái vòng huyền. Mà cũng vẫn còn tiền. Trời ơi!" [76]. Tấm lòng tri ân người anh, người thầy của

mình không bao giờ quên. Đoạn văn cho thấy lời văn đã ngừng mà cảm xúc vẫn xốn xang trên ngòi

bút. Cảm xúc chân thành có sức cảm hóa kì lạ!

Diễn ngôn của nhân vật – bao gồm cả đối thoại và độc thoại – chiếm một địa vị xứng đáng

trong diễn ngôn trần thuật của tự truyện, hồi kí của Tô Hoài.

Trong tự truyện, hồi kí của Tô Hoài, hình thức diễn ngôn song thoại chiếm dung lượng lớn

hơn nhiều các diễn ngôn đa thoại. Với đặc điểm mang dấu ấn riêng của từng nhân vật tham gia đối

thoại, các diễn ngôn song thoại đem lại nhiều hiệu quả nghệ thuật khác nhau. Qua diễn ngôn song

thoại, các nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm, khát vọng, tính cách, phẩm chất, đạo đức của bản

thân.

Qua diễn ngôn song thoại đối đáp giữa hai nhân vật Khiết và Chúc trong tác phẩm Mười

năm ta thấy nhà văn như muốn miêu tả những kẻ a dua, xu thời và một khi nào đó tình thế thay đổi

sẽ trở mặt ngay, tìm mọi cách dụ dỗ một người phụ nữ trẻ góa chồng, rồi sau lưng họ lại nói xấu: "

Ả này lẳng ra mặt!". Rõ ràng đây là một kẻ không đàng hoàng:

"Chị Hai đã về khỏi. Khiết vươn vai đứng dậy, bảo Chúc: - Ả này lẳng ra mặt! - Cậu lại nhăng nhăng rồi. Chỗ này bàn chính trị, không phải nơi tán Gái nhé. Khiết cười - Nhận xét thế thôi chứ người ta đã là gái góa một con. Chúc trợn mắt, nói: - Ái tình mới không cần trinh tiết. Người đàn bà phải ở góa là một sự dã man thời trung cổ. Khiết hỏi: - Đằng ấy có muốn lấy ả không, tớ làm mối? - Còn vờ! Khéo tim la đổ cho trâu. Khiết cười, nói lửng, vẻ kênh kiệu của một anh chàng được thể, trêu tức: - Thanh niên chim gái như hái hoa, là lẽ thường ở đời" [73,70]. Khi quyến rũ được cô ả kia rồi, nắm chắc là cá đã cắn câu mới buông lời giễu cợt người

khác:

" Đằng ấy có muốn lấy ả không, tớ làm mối?". Rõ ràng muốn ăn gắp bỏ cho người, cái điều Tô Hoài đã dùng một lời cuả nhân vật khác nói với hắn: "Còn vờ! Khéo tim la đổ cho trâu". Bản chất của tên Khiết đã bị lộ rõ khi hắn buông một lời trơ trẽn: "Thanh niên chim gái như hái hoa, là lẽ thường ở đời."

Khi cần, nhà văn cũng thỉnh thoảng để cho nhân vật độc thoại. Song đáng chú ý hơn là các trường hợp để cho nhân vật “tôi” thực hiện diễn ngôn kể chuyện theo dòng độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là ý nghĩa thầm kín, là lời tự nhủ thầm hoặc nhân vật nói to lên với mình. Độc thoại nội tâm bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật, làm hiện rõ: “con người bên trong” của nó. Độc thoại nội tâm đánh dấu bước quan trọng trên con đường phát triển văn học, làm cho văn học thể hiện ngày càng sâu sắc, toàn diện về con người. Độc thoại nội tâm chính là một trong những thủ pháp hữu hiệu nhất giúp nhà văn phơi bày nội tâm nhân vật, miêu

tả nó từ bên trong. Nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn “đọc” được những ý nghĩ sâu kín

nhất trong lòng nhân vật. Nghệ thuật này mang tính mới mẻ độc đáo khiến nó không bị cũ, không bị

coi là lạc hậu. Độc thoại nội tâm thường hướng nội, nhằm để nhân vật tự ý thức, tự vấn lương tâm,

tự phê phán, tự đánh giá, Đó là những suy tư, trăn trở, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và những lo

toan thầm kín về bản thân hay về người khác. Độc thoại nội tâm giúp nhân vật tự bộc bạch hết tất cả

những gì người trần thuật khó nói hoặc không thể nói hết: "Nhà văn Vũ Ngọc Phan có lòng tốt, đã

trả nhuận bút, mỗi khi tuần báo Hà Nội tân văn của anh ấy đăng cho tôi một cái truyện ngắn. Có lẽ

cả Hà Nội chỉ có Vũ Ngọc Phan làm cái việc phúc đức ấy. Báo khác, kể cả những tờ tuần báo Ngày

nay, báo Chủ Nhật của văn đoàn Tự Lực nổi tiếng đã in truyện ngắn Mê gái (Con gà mái ri) của tôi

lên trang nhất, nhà văn Khái Hưng ra tiếp tôi, bắt tay thật chặt mà cũng không trả tôi xu nào và

không cho tác giả được một tờ báo biếu! Bởi vì, không có thể lệ thế. Lý do: tự dưng ông gửi bài cho

tôi chứ không phải tôi mời ông viết. Tôi chỉ trả tiền người tôi mời viết. Thế là ông cần tôi, thì không

lẽ gì tôi lại phải trả tiền ông. Dẫu cho cả năm ông gửi bài đến và tôi in, cũng vẫn là ông phải cảm

ơn tôi. Luật rừng của nghề báo thời ấy" [76].

Một biện pháp quan trọng tác giả hay dùng để miêu tả nhân vật là chú giải tâm lí. Đối với

nhà văn, điều quan trọng không phải chỉ là điều nhân vật đó nói hay nghe mà còn là cách nhân vật

đó thể hiện. Vì thế các chú giải tâm lí của tác giả giúp người đọc thấu hiểu tâm can nhân vật. Tác

giả đã dùng thủ pháp bộc lộ trực tiếp để nhân vật tôi tự bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, rất nhiều lần trong tác phẩm, nhân vật tôi 4T khóc khi sắp phải đi xa nhà. Ta xúc động vì theo tâm lí thì không có đứa trẻ nào lại không buồn vì xa nhà: “Bây giờ tôi phải xuống ở nhà chú Tưởng. Nói sao hết được nhớ thương buổi ra đi. Đứng trong sân thì Kẻ Chợ ở phía gốc cây dừa. Những đêm tối trời, tôi trông thấy ánh sáng thành phố đỏ sạm đằng góc trời đó. Nào có đâu xa, mà bước chân ra khỏi ngõ, nước mắt đổ hai hàng". Nhưng lại rất trẻ con, hồn nhiên khi tự an ủi: "Tôi gắng lắm mới khỏi khóc to. Bởi còn níu được chút hi vọng, những phiên u tôi đi chợ thể nào cũng ghé vào và thế nào cũng có quà” [76,68]. Chính cách miêu tả như thế làm cho nhân vật gần gũi, chân thật và hợp với tâm lí trẻ em.

Đồng thời, độc thoại nội tâm cũng bộc lộ cái nhìn thế giới, cách đánh giá con người của nhân vật. Độc thoại nội tâm phơi bày sự dằn vặt, mâu thuẫn bên trong nhân vật Tác giả bao giờ cũng nhìn con người trong thế động, luôn thay đổi, biến chuyển. Ông hiểu rằng con người bị chi phối bởi nhiều tác động mà hoàn cảnh sống rất dễ tác động đến tính cách. Trong hoàn cảnh đang gặp khó khăn, có một bà mẹ có con gái có bầu với người yêu cô ta mà gia đình nhà gái lại không chịu gả. Bà mẹ lại muốn nhân vật tôi lấy con gái mình và bà sẽ cho rất nhiều của cải. Nhân vật tôi buộc phải suy nghĩ, lựa chọn: "Tôi nghĩ làm thế nào bây giờ? Tôi choáng cả người. Trong cái xã hội mà nén bạc đâm toạc tờ giấy, nhà giàu và đồng tiền lúc nào cũng trói người ta, từ trong cách đối xử với nhau hàng ngày tới mọi thói quen, thì một con người đương bơ vơ vơ vẩn như tôi, bỗng dưng đương thằng nên ông, có nhà ngói cây mít có của ăn của để, có ngôi thứ, và cái chuyện lấy vợ chửa sẵn thì cuối cùng chỉ đem tiền ra bôi son đánh phấn là xoá đi được tất cả, êm đẹp tất cả. Cái hoàn cảnh vừa hiếm lại vừa dễ mà biết bao người rỗng túi thèm nhạt bỗng bắt được của rơi. Có thể tắc lưỡi được. Còn như cái lý tưởng mà tôi đang mơ ước, thật sôi nổi mà cũng thật mênh mang góc biển

chân trời trong khi hàng ngày chỉ kiếm sống trợ thời này thì sao?" [76,148]. Đời người như một

dòng sông, nước trong mọi con sông như nhau và đâu cũng thế cả, nhưng mỗi con sông khi thì hẹp,

khi thì chảy xiết, khi thì rộng, khi thì êm đềm, khi thì trong veo, khi thì ấm, khi thì lạnh. Con người

cũng như vậy, có những khúc ngoặt làm sao để có thể tự vượt qua những giây phút dễ bị hấp dẫn

bởi sức mạnh của vật chất. Độc thoại nội tâm phơi bày sự dằn vặt, cuộc đấu tranh đầy mâu thuẫn

bên trong nhân vật để tìm ra một lối thoát. Và nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định rằng con người sẽ

vượt lên được chính mình dù cho hoàn cảnh có khiến cho con người đôi lúc yếu mềm thì con người

vẫn không đánh mất chính mình. Đó là tấm lòng của Tô Hoài trong niềm tin về bản chất con người.

Kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn Diễn ngôn là người kể đưa ra câu chuyện đến người nghe như thế nào? đặt trong quá trình đó

gọi là diễn ngôn, hướng đến người đọc. Kết hợp các diễn ngôn lại với nhau để tạo ra một hiệu quả

nghệ thuật nào đó. Chính là nhà văn đã sáng tạo. Có khi nhà văn cho nhân vật nói ít như: đoạn cuối

chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Cảnh cho chữ là diễn ngôn của người kể nhưng đã dành một lưu

lượng cho nhân vật Huấn Cao. Tại sao Nguyễn Tuân lại tạo một sự kết hợp như vậy ? Vì phải có

người kể chuyện để dựng nên cảnh tượng cho chữ ấy. Tại sao Huấn Cao được nói bởi đó là những

lời giáo huấn, lời nói cuối cùng của một đời người, lời của thánh hiền nên diễn ngôn không cần

người nghe, không cần trả lời mà mục đích là lời truyền lại, lời di huấn. Còn viên quản ngục nói rất

ít vì muốn tôn vinh Huấn Cao, viên quản ngục là người tri kỉ. Cách tạo bố cục, tỉ lệ diễn ngôn trong

tác phẩm sẽ tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Với đặc điểm mang dấu ấn riêng của từng nhân vật tham gia đối thoại, các diễn ngôn song thoại đem lại nhiều hiệu quả nghệ thuật khác nhau. Cuộc đối thoại của người bạn đọc và nhà văn Nguyễn Công Hoan thật xúc động. Qua diễn ngôn song thoại, các nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm, khát vọng, tính cách, phẩm chất, đạo đức của bản thân. Càng thôi thúc nhà văn sáng tác khi nhận ra rằng: "Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Nhà văn phải là người đứng trong lao khổ để đón lấy những vang động của đời."(Nam Cao) Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã cất tiếng. Tiếng nói nhà văn thống thiết nêu lên những khổ ải quanh mình. Không hiu hắt, không tuyệt vọng. Bạn đọc đã thấm thía với tiểu thuyết Bước đường cùng...ngòi bút viết ra những nỗi đau đớn đời người." Nhưng đồng thời Tô Hoài đã khéo léo kết hợp các loại diễn ngôn để tạo hiệu quả nghệ thuật. Rõ ràng trong cuộc đối thoại ấy đã nói hết tâm tư của người nông dân nghèo khổ vừa diễn tả nỗi rung cảm của người nghệ sĩ để viết lên tác phẩm văn chương:

"Khách nói: - Thưa ông, tôi ở huyện Yên Mô trong Ninh Bình ra. Anh chưa hiểu thế nào. - Tôi muốn thưa với ông một việc. Anh càng lúng túng nhìn người lạ. - Ông ơi, đời tôi rất khổ. Chỉ một câu ấy, nét mặt tần ngần đăm chiêu ấy, anh đã hiểu. Một câu nói, một câu nói vào một cảnh một tình, có thể mở ra cho nhà văn nhìn thấu suốt trước sau. Thế rồi người ấy đều đều kể ra nỗi khổ chồng chất nghìn đời. Người ấy nức lên. Khuôn mặt to lớn sầm lại, nhoà nước mắt. Rõ

ràng là một người không hề khóc bao giờ. Nhưng người ấy đã khóc, rồi nói:

- Tôi đã thắt cổ mà không chết được. Tôi mới biết thì ra số kiếp tôi còn phải chịu khổ lâu,

muốn "đi” cũng không “đi” được. Đã thế, bọn lý dịch còn cho là thắt cổ vờ. Nó lại kiện tôi thắt cổ

để doạ quan trên.

Người ấy thở dài:

- Tôi biết làm thế nào...

Rồi im một lúc lâu. Nắng trưa càng nặng nề.

- Bây giờ tôi trông cậy vào ông.

Anh nhìn người ấy. Không ngạc nhiên, con mắt và trái tim nhà văn hiểu ngay sự tin cậy ấy.

Nhưng chẳng hay người ấy tin cậy gì ở anh? Anh là thế nào? Những câu tự hỏi và có thể tự trả lời

ngay được, tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội ba đào như thế, anh đã viết một loạt truyện "xã hội ba

đào kí" mà - cũng lắm khi con người không biết mình là ai nữa. Số phận khủng khiếp của người

nông dân kia và của người cầm bút viết văn âu cũng đương là một. Hai con người cùng khổ ở đời.

Anh vẫn im lặng nhìn người bạn mới.

Người ấy nói:

- Không, tôi không đến nhờ ông làm hộ cái đơn để kêu oan cho tôi. Tôi chỉ thấy khổ như

như đến thế ác

cảnh tôi là khổ đến tuyệt trần đời rồi, cho nên tôi phải kể cho ông viết, ông phải viết thành sách, nếu không thì chẳng ai biết được dân đen chúng tôi cực nhục đến như thế nào, bọn hào lý quan trên nào. độc Người ấy tin cậy anh thế đấy. Bỗng nhiên, trong cơn nung nấu đến ngạt thở trên cái chợ người giữa trưa, nhà văn cảm thấy được sức mạnh ngòi bút mình không sóng gió nào vùi dập được, không thế lực nào địch được. Trước mắt, chỉ có anh và người nông dân khốn khổ.

Tiểu thuyết Bước đường cùng anh viết mùa hè 1938, khi anh còn ở rốn lại Nam Định. Song, từ ngày ấy tôi cũng chưa hỏi xem anh đã gặp người nông dân ở Ninh Bình kia khi nào, có phải lúc anh viết Bước đường cùng không. Nhưng tôi có một yên trí đặc biệt, tôi tin rằng Bước đường cùng có anh ta. Bước đường cùng là người ấy...Vâng, đấy là người bạn đọc thân thiết, bạn đọc chân chính, nhà phê bình đúng nhất, nguồn sáng tạo và sức mạnh cổ vũ to lớn, mạnh mẽ cho nhà văn" [76,715-716].

Đoạn đối thoại sau đã thể hiện được vừa là diễn ngôn song thoại vừa là sự kết hợp của các loại diễn ngôn. Tại sao tác giả để cho người bạn đọc ấy nói rất nhiều? Là bởi vì anh ta khổ quá bị đẩy vào bước đường cùng cho nên như cầu giãi bày, tâm sự rất lớn. Hơn nữa anh ta tìm đến với nhà văn bởi một niềm tin: dùng tiếng nói văn chương phản ánh hiện thực. Còn tại sao nhân vật nhà văn chỉ hỏi liên tiếp rất nhiều câu hỏi ? rất ngắn.Vì nhà văn quá bất ngờ, ngạc nhiên trước người khách lạ tìm đến mình mà giãi bày. Khi hiểu ra thì nhân vật nhà văn lại càng ít nói bởi vì nhường chỗ cho sự xúc động, đồng cảm, lúc này đây biết lắng nghe, biết thấu hiểu đó cũng là một nghệ thuật. Tiếp đến là những câu văn dài thể hiện sự suy ngẫm, nhân vật nhà văn nhận thức được văn chương là vũ khí chiến đấu. Văn học phải xuất phát từ hiện thực cuộc đời. Vì cuộc đời mà có!

Đôi khi để nhân vật nhập vào nhân vật khác để nói thay. Với Tô Hoài nhà văn dừng lại dùng

quan niệm văn chương đàm luận từ đó thấy được sự thấu hiểu của tác giả về nghề văn và người viết

văn: "Người viết văn trong lúc đen tối nhường này, đã gặp người bạn đọc vĩ đại người bạn đọc và

sức mạnh cảm hứng chân chính, quả là một điều mà trước nay trong văn chương không mấy ai đã

được niềm ao ước ấy" [76,717]. Quả đúng văn chương cần đến sự đồng cảm của con người như

chúng ta cần đến ánh sáng của mặt trời cho sự sống vậy !

3.4.2 Sức mạnh ngôn từ

Ngôn ngữ của đời sống và ngôn ngữ của tâm hồn Văn học có khả năng miêu tả thế giới hiện thực bằng hình tượng nghệ thuật. Chính ngôn ngữ

đã đem lại cho văn học khả năng ấy bằng việc chuyển hoá ngôn ngữ cuộc sống vào ngôn ngữ của

nhà văn. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, “ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học,

vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ” [23,215]. Macxim Gorki cũng khẳng định

“ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Chính chất liệu ngôn từ đã giúp văn học đạt được tính

“vạn năng” trong việc tái hiện và chiếm lĩnh đời sống. Do đó, có thể khẳng định rằng ngôn ngữ là

một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn.

Đặc trưng của tác phẩm văn chương là lấy ngôn ngữ làm chất liệu để sáng tạo nên tác phẩm

văn học. Một nhà văn tài năng là người để lại dấu ấn riêng trên từng trang giấy. Ngôn ngữ thể hiện

tư tưởng, bao bọc tư tưởng cho nên cách dùng ngôn ngữ thể hiện tài hoa và ý thức trách nhiệm của người cầm bút . Ngôn ngữ văn chương là nơi thể hiện rõ nét riêng của người viết. Vị tướng Napoleong từng nói: "Trên đời này có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút, thanh gươm thì đoạt thành chiếm đất còn cây bút thì thu phục lòng người. Rốt cuộc cây bút mạnh hơn thanh gươm". Tô Hoài đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ thích hợp tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm của mình, phát huy sức mạnh ngôn ngữ dân tộc trong tác phẩm. Khẳng định một cách mạnh mẽ vị trí của mình trên văn đàn Việt Nam.

Tô Hoài là một nhà văn viết khoẻ, viết nhiều. Ông đến với nghề văn không phải từ lý luận, sách vở, từ vốn kiến thức thu nhận qua trường lớp mà đến với nghề văn từ thực tế vốn sống của nhân dân lao động và từ chính bản thân mình cố gắng học bằng con đường tự học. Đến với nghề văn từ thực tế cuộc sống lao động của người dân nên Tô Hoài luôn có ý thức học tập lời ăn tiếng nói hàng ngày của người lao động để đưa vào trong tác phẩm. Ông quan niệm: “Ngôn ngữ quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô tận cho nhà viết tiểu thuyết”. Ông từng cho rằng “Có nhiều cách để học chữ và tiếng nói. Mỗi người viết văn tự luyện một cách học khác nhau. Nhưng chắc chắn ai cũng học chung một thầy là quần chúng nhân dân”. Vì thế mà trong tác phẩm của mình, Tô Hoài luôn là một người nghệ sĩ sử dụng thành thạo và điêu luyện vốn ngôn ngữ của dân tộc.

Ngôn ngữ của đời sống – cách sử dụng các yếu tố phương ngữ Có thể thấy trong Tự truyện, hồi kí nhà văn đã học tập, vận dụng đưa vào trong trang viết của mình một hệ thống từ ngữ mang đậm màu sắc địa phương của vùng Kẻ Bưởi. Bởi vậy mà khi đọc Tự truyện, hồi kí người đọc như sống lại không khí của đời sống sinh hoạt, phong tục với lời ăn

tiếng nói hàng ngày dân dã đời thường, gần gũi, quen thuộc của một vùng quê ngoại thành Hà Nội.

Dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày trong tác phẩm là một trong những sở trường của Tô Hoài

khiến cho mạch trần thuật trở nên hết sức dí dỏm và hấp dẫn lôi cuốn. Khi cầm bút, Tô Hoài là nhà

văn luôn ý thức được sự sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ để tạo ra ngôn ngữ mới cho tác phẩm

của mình. Theo ông “tinh thông về chữ là một điều cần thiết”. Nhà văn luôn ao ước “Mỗi chữ phải

là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong

cách văn chương của mình mà có” [57]. Trên cơ sở học tập vốn ngôn ngữ đời sống vô cùng phong

phú của nhân dân, Tô Hoài luôn có những nỗ lực để tạo ra ngôn ngữ mới mang dấu ấn phong cách

cá nhân của nhà văn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp nhận xét: “Ngôn ngữ của Tô Hoài mềm

mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế của một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự

giản dị của một sự khéo léo lớn. Chính vì thế mà văn Tô Hoài không bị mòn cũ theo thời gian” [14]. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm Tô Hoài cất lên từ đời sống. Tô Hoài nhận ra rằng nhà

văn có đóng góp trước hết là chữ nghĩa của dân gian. Nhân dân là ông thầy tạo ra ngôn ngữ. Ngôn

ngữ tự truyện Tô Hoài sử dụng nhiều lời ăn, tiếng nói của quần chúng, ngôn ngữ dân gian. Do luôn

tiếp xúc với người lao động nên nhà văn đã khai thác và vận dụng rất nhiều từ ngữ trong tiếng nói

hàng ngày của họ. Nhà văn thừa nhận:“Ảnh hưởng đầu tiên đến với tôi, không nói về tư tưởng, lập

trường chính trị chính là làng Nghĩa Đô của tôi. Người ta nói thế nào thì tôi cứ thế mà xào xáo

thành văn. Các tiếng nói ở trong nhà, ở trong xóm, ở trong làng của bà con, bạn bè lúc bé, lúc bắt

4TTrong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, Tô Hoài dùng từ ngữ rất mộc mạc như chính nhựa sống của cuộc đời tuôn chảy, trong một tình huống rất đời: "Người đen như củ súng thế mà lại định

đầu lớn lên nó ăn rất sâu vào óc mình. Tất cả các thứ ngôn ngữ mà tôi quen nghe, quen dùng tạo thành cho tôi cái gốc trong các tác phẩm đầu tiên của tôi” (Tô Hoài). Một đoạn văn hồi tưởng dùng ngôn ngữ bình dị gắn với vùng quê của ông:4T“Kí ức tôi mờ mịt những kỷ niệm một màu trắng sương, những kỷ niệm, vô vàn kỷ niệm chen lấn, xô đẩy. Tôi không nhớ rõ mà thực tôi đã nhớ biết bao nhiêu. Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấc thỏm đợi chờ dài dặc….đến tiệt tóc mất…túi tôi rủng rẻng.(…)Hai cánh tay u tôi đưa đi đưa lại, chiếc que dò chạy lạt xạt, let quẹt…” [76,22-23].4T Ngôn ngữ của người lao động đã từ cuộc sống mà đi thẳng vào tác phẩm của nhà văn mang theo cả cái xô bồ, lấm lem của cuộc sống đời thường. Đọc Tự truyện của Tô Hoài, ta thấy nhà văn sử dụng những từ ngữ của người Kẻ Bưởi vẫn quen dùng. Người đọc có thể lập ra một trường từ vựng của người Kẻ Bưởi, từ những danh từ gọi tên đồ vật, sự vật đến những động từ, tính từ và cả những lời nói của người dân Kẻ Bưởi cũng được tác giả trích dẫn trực tiếp vào tác phẩm. Đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày mà khi Cu Bưởi nghe hiểu và tập nói đã dùng tiếng nói ấy cho đến khi lớn lên, trưởng thành. Đó là cách gọi tên những đồ vật mà người Kẻ Bưởi đã dùng, trong đó có những cái tên lạ: “nếp nhà”, “cái chuôm nước”, “nếp răn chảy trên má”, “cái rõi cửa”, “búng ngô”… Hay có những từ được dùng như động từ mang lại đặc trưng của ngôn ngữ vùng Kẻ Bưởi: Bà tôi quẩy một gánh nồi niêu… Có bác cả ngày nhịn khàn nằm dài, tối mò mẫm đi ăn trộm...U tôi ngồi xắm giấy [76]. Đó là những từ được dùng theo thói quen, trong tiếng nói hàng ngày của người dân làng Nghĩa Đô. Đó là những từ mà Tô Hoài học được từ lời ăn tiếng nói của người dân Kẻ Bưởi.

chim con gái làng này!" [76,52]. Cách so sánh của những cô gái đậm chất khẩu ngữ đời thường, lại

ẩn trong đó cả niềm kiêu hãnh của những cô gái đang có trong mình quãng đời đẹp nhất đó là tuổi

trẻ.

4TTrong một đoạn miêu tả về người mẹ của mình, chỉ qua lớp ngôn ngữ bình dân, quen thuộc

ta hình dung ra ngay người phụ nữ vùng quê nhưng phải là vùng dệt lụa, với áo the thâm, rủ tóc

lông đuôi gà, thắt lưng nhiễu với váy lĩnh xùm xoè. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên qua lớp sóng

ngôn ngữ phù hợp như một bức tranh, một vẻ đẹp xưa, vẻ đẹp truyền thống mà chúng ta được chiêm

ngưỡng từng nét một. Ngôn ngữ sống động như từng nét vẽ: "U tôi mặc the thâm đốm hoa lót nền

xanh cánh chả. Vành khăn sa tanh láng hoa dâu vắt vẻo rủ tóc lông đuôi gà. Cái yếm cổ xây cát bá

trắng bong với cái thắt lưng nhiễu thắt ra ngoài, lộ một mẩu lưng bao xanh buông chùng bộ sà tích

bạc reo lích tích. Hôm nay u tôi mặc váy lĩnh xùm xoè, dưới chân lấp ló đôi dép cong. U tôi ẵm cái

4TỞ mỗi miền quê có những thói quen trong sự dụng ngôn ngữ, ta thấy ngôn ngữ của tiếng

Hồ. Tôi súng sính bước bên làn sóng váy u" [76,52].

khóc hờ: "Thày tôi đặt cái bọc nhật trình xuống ghế. Thày tôi hỏi bà tôi đâu? Rồi thày tôi bỏ mũ lên

trước bàn thờ ông tôi, thì thụp lễ. Ở trong buồng bà tôi che vạt áo lên mặt, khóc lu loa... Hờ anh ơi,

anh bỏ nhà cửa anh đi đằng nào, bây giờ con anh về đây cháu anh về đây, anh ở đâu anh không

về...hờ ơ ơ.. " [76,59].4T Tô Hoài sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà

biến hóa.

Ngôn ngữ trong tự truyện Tô Hoài nhiều khi đậm chất đời thường, có khi tưởng như thô kệch, để miêu tả cuộc đời gần cạnh với nó nhất, thô rám và sắc nhọn: "Đến trưa, dì cháu tôi ra về, đứng đợi tàu cửa chợ Đồng Xuân. Một người đàn bà ngồi trong bọn những người làm nghề đổi tiền cửa chợ, bỗng đứng dậy, xăm xăm tới. Mặt xám ngoét, vành khăn vấn hất lên quá nửa mái tóc, cái đuôi gà chổng ngược. Vẻ cong cớn, táo tợn lắm. Mụ cắp cái thúng nhòi đến trước mặt dì tôi, chống nạnh bên sườn, xỉa tay luôn một thôi:

– Con đĩ Bưởi, con đĩ Bưởi kia, mày quyến rũ thằng Lâm đi đâu? Mày là con mẹ mìn à? Trêu tay bà, bà xé xác mày ra... Con đĩ Bưởi kia!" [76,115]. Ngôn ngữ xỉa xói kết hợp với điệu bộ làm cho tiếng chửi trở nên dữ dằn, nặng nề, đanh đá. Ngôn ngữ của một ả kẻ chợ trong cơn nghen tuông không kìm mình lại được, tuôn ra bằng hết cảm xúc qua ngôn ngữ. Nhưng đọc câu văn của Tô Hoài ta lại nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du khi miêu tả Hoạn Thư tự bào chữa cho mình: "Rằng tôi chút phận đàn bà – Ghen tuông thì cũng người ta thương tình". Chúng tôi muốn khẳng định rằng Tô Hoài đã để sự việc như nó vốn có trong đời sống và dùng tài sắp xếp ngôn ngữ của mình mà chạm khắc lên cuộc sống.

Một trường hợp khác, diễn ngôn của nhân vật trong hoàn cảnh người phụ nữ góa chồng bị người ta quyễn rũ bỏ lại đứa con thơ dại cho người mẹ chồng. Bà thương cháu mà chửi kẻ cướp mẹ của cháu bà. Vì thế ngôn ngữ lúc này của nhân vật kèm theo sự bức xúc, nóng giận: "Bà lão đến bên gốc mít. Thằng bé đứng bên cạnh bà. Một tay bà xắn váy. Hai chân giạng nang đưa đẩy đầu gối dẻo như thể bà vãi chèo đò làm chay tháng bảy. Một tay bà xỉa xói vào cái gốc mít. Bà lão chửi, bà lão chửi nhé, bà lão chửi có ngành có ngọn:"Cha tiên nhân cái đứa mất tông mất giống, cái đứa giết người cướp của, mày chứa chấp, mày dụ dỗ con người ta… mày để đứa trẻ nó khóc sớm khóc tối…

mày giết đứa con trẻ… nó như con gà, mày bắt mất mẹ… mày là quân mẹ mìn… Mày đi đằng xuôi

mày chết đằng xuôi, mày đi đằng ngược mày chết đằng ngược" [73,73]. Tiếng chửi của một người

bình dân có lớp lang, thứ tự và ngoa ngoắt. Ngôn ngữ như phập phồng hơi thở của cuộc sống, mà

hiện thực cuộc đời thì biết bao màu trắng, đen như Nguyễn Văn Thạc trong Mãi mãi tuổi 20 viết:

“Trên trang sách, cuộc sống tuyệt vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn

niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”. Hiện thực của cuộc sống rất

phong phú, phức tạp đã tác động đến bao người. Có cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn

lộn. Tất cả như những sợi chỉ óng ánh nhiều mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên tấm thảm cuộc đời.

Khi sáng tác Tô Hoài không ngần ngại mà đem nhân vật ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường

mà suy xét, mà tạo dựng nên. Trong hồi kí, khi viết về ngôn ngữ của các nhà văn, một số trường

hợp khiến cho người đọc bất ngờ, vì nhiều nhà văn dùng ngôn từ rất thô ráp, suồng sã đến ngạc

nhiên. Khi Nguyên Hồng bức xúc: – Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày

nữa. Ông về Nhã Nam” [63]. Trong ngày tết khi vui chén: "Bốc lên, Nguyễn Sáng hét: “Chỉ có một

thằng Sáng thôi. Còn thì cứt hết!”. Nguyễn Tuân giơ tay ra cửa:“Đi ngay!”. Nguyễn Sáng vẫn

hăng: “Nguyễn Tuân à, đừng tưởng bở! Ông không biết viết tiểu thuyết. Truyện không có nhân vật,

vứt đi!” – “Anh ra khỏi đây ngay” [63,175]. Cách dùng ngôn ngữ như vậy, nhà văn muốn suồng sã

hóa, rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người đọc với người kể. Giúp chúng ta được tiếp

cận, bước vào một thế giới đời thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh, huyền ảo mà ta vẫn thường biết đến qua tác phẩm của những nhà văn. Đặt các nhân vật nhà văn hoàn cảnh sống của thời đại, Tô Hoài đã xoá bỏ thế giới của “tuyệt đối hóa” với các nhà văn như cách hiểu qua trang sách, đã xử lí chất liệu hiện thực hoàn toàn khác. Sự kiện và con người trong tác phẩm của ông đều được đặt dưới cái nhìn suồng sã. Mọi cuộc sống xô bồ, đa diện, nhiều sắc thái được thay thế cho một cuộc sống trang nghiêm, tĩnh tại và đơn giản. Qua cách dùng ngôn ngữ đó, cuộc sống đã bị lột mất chiếc áo khoác thiêng liêng. Xuất phát từ quan niệm con người là con người, con người không phải là thánh nhân, vì thế mà lần đầu tiên Tô Hoài đã cho chúng ta nhìn một số nhân vật của văn chương nước nhà từ một cự li gần, nói như Trần Đức Tiến: nhìn ở một “khoảng cách khá tàn nhẫn nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc” [50].

Để khắc phục ngôn ngữ hời hợt, xa rời đời sống, Tô Hoài đã đổi mới bằng cách tiếp thu những yếu tố quan trọng của ngôn ngữ dân gian. Mà đặc điểm ngôn ngữ dân gian thường là tự nhiên, đầy cảm xúc, giàu ngữ điệu và tính hình tượng: "Lê vẫn biết Chúc ve vãn chị Hai Tâm. Mà Chúc cũng đã mong ước ra miệng “lấy được con vợ như nhà Hai Tâm thì cả đời cơm no bò cưỡi, thú quá” [73,71]. Hơn nữa, khi tác giả tái hiện trong lời mình phát ngôn đàm thoại thì do bản thân sự thay thế các cá nhân phát ngôn không tránh khỏi sự thay đổi giọng điệu. Đó cũng là cơ sở tạo nên sự đa thanh cho lời văn của người kể chuyện trong tác phẩm Tô Hoài. Khi đề cập đến lời văn khẩu ngữ, M.Bakhtin cho rằng “sự kể chuyện của người kể chuyện có thể được phát triể dưới các hình thức của lời văn viết hay các hình thức của lời khẩu ngữ – lời kể miệng trong ý nghĩa đích thực của từ đó. Và đây là kiểu cách ngôn từ của người khác được tác giả sử dụng như một quan điểm, một lập trường cần thiết để tiến hành trần thuật”. Trong một đoạn đối thoại giữa nhân vật chị Hai Tâm và anh Lê: "Anh Lê hồi này làm ở đâu mà thong thả thế? Thong thả quái gì, vội chúi mũi suốt phiên

đấy. Vội mà đêm cuối phiên bận nhất thế này lại nghỉ? khéo dấu đầu hở đuôi!" [73,24]. Qua cách

vận dụng ngôn ngữ của người bình dân: "giấu đầu hở đuôi". Cho thấy nhân vật chị Hai Tâm thật là

đáo để, dạn dĩ, lối nói đó làm cho lời nói của nhân vật trở nên linh hoạt gần gũi. Cách chụp mũ bất

ngờ như thế càng cho thấy tính cách sắc sảo, mạnh mẽ và có phần cá tính của nhân vật mà vẫn rất

đời. Song song với nghệ thuật ngôn từ điêu luyện, Tô Hoài còn để cảm xúc chan hòa vào từng trang

viết, làm cho sự việc, con người gần gũi như bản chất thật ngoài đời. Cách vận dụng lời ăn tiếng nói

của người bình dân, ngôn ngữ cuộc sống đã đi thẳng vào tác phẩm văn học. Tiếp thu những lời ăn

tiếng nói, nếp nghĩ quen thuộc, vận dụng cách nói chân chất, những quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ

dân gian, đưa nó vào lời văn của mình vừa tạo cho lời văn sinh động vừa đảm bảo tính khách quan

của hiện thực lời nói, tạo nên câu chuyện tự nhiên mà không có sự gò ép của tác giả.

Đưa nó đan xen vào ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ đủ loại nhân vật, đặt nó vào môi trường

đối thoại với tâm trạng nhiều biến thiên đã làm cho ngôn ngữ có tính chất đa thanh. Trong một lần

Nhàn nói chuyện với Lạp về việc Hiền – người con gái mà anh thương thầm sắp đi lấy chồng. Lạp

nói lơ lửng: "Ai biết đâu chuyện nhà người ta! Nhàn cười nhạt, thế ra công anh đắp đập, be bờ;

đan lờ thả cá, bây giờ tay ai" hả?. Lối vận dụng ca dao, lời ăn tiếng nói của người bình dân thật đắc

địa trong trường hợp này vì nó sẽ tác động mạnh đến tâm trạng con người làm nhói tim người trong

cuộc. Trong những tác phẩm của ông ta thấy không thiếu những câu nói dân dã đời thường, những

thành ngữ, tục ngữ giàu hình ảnh ví von sinh động, không thiếu những bài ca dao. Nguyễn Đăng

Điệp nhận xét: “Ngôn ngữ của Tô Hoài mềm mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế của một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự giản dị của một sự khéo léo lớn. Chính vì thế mà văn Tô Hoài không bị mòn cũ theo thời gian” [14].

Trong Tự truyện,hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ; nhà văn có một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi, từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Cách vận dụng ngôn ngữ linh hoạt, tăng giá trị biểu cảm như hơi thở của cuộc sống phả vào ngôn ngữ.

Ngôn ngữ tâm hồn Chủ ngòi bút tờ báo Nam Phong – Phạm Quỳnh đã từng ca ngợi Truyện Kiều: "Một nước phải có quốc túy, quốc hoa, quốc hồn. Quốc túy của Việt Nam là Truyện Kiều. Quốc hồn của Việt Nam là Truyện Kiều. Quốc hoa của Việt Nam là Truyện Kiều. Truyện Kiều còn thì Tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn thì nước Việt còn." Cho nên Truyện Kiều đã đi vào đời sống tâm hồn của người Việt Nam với một sức mạnh lan tỏa như lời ca ngợi của Tố Hữu: "Tiếng thơ ai động đất trời – Nghe như non nước vọng lời nghìn thu." Sự thành công của truyện Kiều thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó rất đáng ca ngợi là sự phát triển ngôn ngữ làm giàu và đẹp hơn ngôn ngữ Tiếng Việt. Đồng thời có sức lan tỏa, ảnh hưởng đối với người sáng tác văn chương.

4TTác giả có một kiến thức rất sâu, rất phong phú về Truyện Kiều, hiểu biết đó không chỉ dùng lại ở kiến thức mà đã trở thành máu thịt, thành tâm hồn cho nên cách vận dụng dày đặc và rất chính xác, dễ hiểu: "Dì Bảy sang bên vùng Bắc gọi hồn cái Hồ mấy lần. Thỉnh thoảng u tôi nói rằng: "Độ đầu năm, mở quẻ Kiều có hai câu: Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm liệng vành mà chơi. Nghiệm quá... ới con ơi a...". Lại khóc" [76]. Cách viết rất tinh tế khi vận dụng câu Kiều

vừa cho thấy sự sâu sắc của tác giả. Vừa diễn tả số phận ngắn ngủi không may của của đứa em gái

bạc mệnh "Thoắt gãy cành thiên hương”. Vừa cho thấy sức lan toả của bói Kiều trong tín ngưỡng

dân gian. Hay. Vừa có thể cho thấy nỗi đau tiếc không nguôi trong lòng người mẹ mất con, nỗi đau

ám ảnh tới mức người mẹ đã cảm nhận được sự đoản mệnh ở mức dự cảm qua câu Kiều. Trên hết

vẫn là tình thương của tác giả bàng bạc trên câu chữ. Chúng tôi có thể khẳng định đây là thứ ngôn

ngữ tâm hồn của Tô Hoài. Nó được chiết lọc từ kiến thức văn hóa, văn học và thăng hoa trong cảm

4TBằng ngôn ngữ của tâm hồn ấy Tô Hoài đã diễn tả rất tinh tế nỗi lòng của người mẹ và tấm

xúc của ông.

lòng thấu hiểu của mọi người, xung quanh việc đặt tên cho em gái là Ngó. Bởi người cha do hoàn

cảnh phải đi xa kiếm việc. Biền biệt thời gian rất ít về đã để lại nỗi chờ đợi khắc khoải của người

vợ trẻ và nôi chờ mong của gia đình, đúng thật là: "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng". Câu Kiều của Nguyễn Du đã trở thành đắc dụng trong trường hợp này: 4T"4TCuối năm ấy, tôi ở Kẻ Chợ về nhà được mấy ngày, u tôi ở cữ em gái tôi. Đi đẻ trên nhà thương Cáo, suýt đẻ rơi 4T – 4T nhưng không dám

viết thư vào Sài Gòn kể với thày tôi thế. Ông tôi đặt tên nó là Ngó, "Sen ngó đào tơ..." mà" [76,83].

Cách viết khi vận dụng câu Kiều cho thấy sự sâu sắc của tác giả với vốn hiểu biết văn học dân tộc

sâu rộng và sự vận dụng tài tình đã làm giàu và đẹp thêm kho từ vựng vốn rất phong phú của Tô

Hoài.

Ngay cả trong những hồi tưởng hóm hỉnh, câu Kiều của Nguyễn Du cũng xuất hiện, thành

4TCách vận dụng Truyện Kiều có cả trong miêu tả nhân vật, hình ảnh người cha trong đôi mắt của trẻ thơ thật đẹp, khi người cha xuất hiện dường như một vùng tỏa sáng như chàng Kim Trọng xưa: "Thày tôi đến làng u tôi với phong dạng chàng Kim Trọng du xuân trong truyện Thuý Kiều. Người ăn vận chững như chưa bao giờ trai làng ở đây chững đến thế. Đầu đội nón dứa chóp bạc. Mắt đeo kính rợp, áo sa bóng nuột, nổi cái thắt lưng điều đỏ hoe, dài loè xoè thò chấm vạt áo trước. Cái quần là hộp, đôi giầy Chí Long bóng nhoáng. Tay dắt chiếc xe đạp nhẹ nhàng. Cùng với điệu bộ trang nhã, thêm cái danh làm việc Tây ngoài Kẻ Chợ, ôi thôi nhất làng rồi" [76]. Nhưng với cái nhìn hiện tại đã trưởng thành thì dường như Tô Hoài đang dùng thủ phát "tôn cao 4T– 4Thạ bệ", khi chêm xen vào câu: "Không bao giờ tôi được biết những thứ sang trọng ấy thày tôi đã đi mượn hay thuê của nhà cầm đồ Vạn Bảo". Tạo nên sự hài hước, dí dỏm rất dễ gặp trong văn phong Tô Hoài làm nên những trang văn sinh động, thành nét riêng trong phong cách của ông. Quả đúng thật Tô Hoài đã để lại dấu ấn riêng trên từng trang viết.

4TNgay cả lúc ở trong tình cảnh ngậm ngùi nhất, khi bị giao cho một công việc không liên quan gì đến việc bán giày thường ngày thì tác giả cũng tự thương thân mình lâm vào cảnh ngộ: "4TVì tôi

ngôn ngữ hàng ngay trong sinh hoạt: "Thỉnh thoảng, thầy Lâm lại đón đường đưa tôi một cái thư. Tôi chẳng phải tò mò xem trộm. Bởi vì rồi dì Niêm sẽ bảo tôi đọc hộ, dì tôi sẽ ngồi kể cho tôi viết trả lời. Những lá thư tình bao giờ cũng bắt đầu vài ba câu Kiều lẩy Sen tàn cúc lại nở hoa. Sầu dài ngày ngắn... rồi mới đến: Cậu ơi! Ngày sáu khắc, đêm năm canh... thư nào cũng một câu như vậy, dì tôi chưa đọc, tôi cũng cứ viết sẵn. Cậu ơi! Ngày sáu khắc... rồi ngồi đợi" [76,115]. Có lẽ những câu Kiều như vậy đã đi vào tâm hồn của nhà văn để góp phần tạo nên những trang văn rất đời, rất người. Ngôn ngữ đã trở thành kí hiệu của tâm hồn.

hiểu mọi công việc cậu chủ đương giảng cho tôi nghe ấy là vào cái loại công việc của bọn bồi xăm

dắt gái, của thằng hề đồng của chàng Kim Trọng trong vở Kiều cải lương mà tôi là người tập bán

hàng, lại kiêm cả những việc thằng bồi xăm và thằng hề đồng" [76,164]. Có thể nói Truyện Kiều đã

trở thành vốn sống và có thể len lỏi khắp những trang viết của Tô Hoài như một mạch nguồn của

văn hóa dân tộc không bao giờ dứt. Để chứng minh cho một quy luật: "Cuộc đời là nơi xuất phát

cũng là nơi đi tới của văn học."

Trong cách tưởng tượng của tác giả ta cũng thấy bóng dáng của những nhân vật trong Truyện Kiều nữa: "4TKhông bao giờ tôi có thể nhớ được thày giáo Đức rõ ràng hơn hình ảnh ấy. Từ đấy, mỗi khi ở làng ngoại tôi, trong dịp đình đám hễ đêm hát chèo mà phường diễn trò Kiều, cứ vai Kim

Trọng ra là tôi nhớ đến thày giáo Đức.Chàng Kim Trọng phong tình, mặt dồi phấn, áo the khăn

lượt, tay xoè quạt đủng đỉnh tủm tỉm dạo quanh chiếu sàn rạp" [76]. Cách dùng ngôn ngữ miêu tả

thiên về ấn tượng.

Trong Mười năm, khi ví chuyện chị Hai Tâm bị lời lẽ ngon ngọt của tên Khiết mà theo hắn.

Tác giả lại dùng Truyện Kiều để diễn tả nỗi lòng chị: "Ngày mới bước chân đi được ít lâu, chị Hai

đã cảm thấy mình như con Kiều mắc tay bợm già rồi. Nhưng đâm lao đành phải theo lao, nấn ná,

tính toán. Rồi ngày lại ngày..." [73,189]. Sự vụn vỡ một niềm tin ấy, chỉ có thể lấy nỗi lòng của

Kiều mắc lừa mới nói hết cái thấm thía của nhân vật. Cách vận dụng ngôn ngữ người xưa của tác

giả thật tài tình!

Ở một hoàn cảnh khác trong Mười năm, nhân vật Hiền có duyên thầm chưa ngỏ với chàng trai cùng làng là Lạp. Nhưng sau đó mẹ Hiền gả Hiền cho một người khá giả trên tỉnh. Nỗi lòng của Hiền bối rối và tác giả lại vận dụng hình ảnh Kiều để giãi bày:"Hiền không giám nghĩ thẳng:gả bán con để lấy tiền chuộc nhà. Chạm đến, Hiền thình lình hốt hoảng, mủi lòng. Không, không phải thế, Hiền không đến nước như cô Kiều vì thằng bán tơ làm cho cửa nhà tan nát mà phải bán mình. Đây mới ướm lời vừa duyên phải lứa, còn đắn đo, còn tư lự, được hay không ở duyên số, ôi chà, nào đã ra sao" [73,189]. Có thể nói cách vận dụng này rất nhiều trong tác phẩm tự truyện, hồi kí của Tô Hoài đã tạo được duyên thầm của những trang văn của ông.

Sức mạnh ngôn ngữ ở những lời bình văn chương rất đẹp, trong sáng và tinh tế tài hoa khi Tô Hoài nhận xét về thơ Nguyễn Bính: "Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê của Nguyễn Bính...Rồi mỗi khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày tháng như chẳng liên quan gì đến những bài thơ quê đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại rõ ra ý nghĩa sâu thẳm của mỗi câu thơ với quê hương. Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỷ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình tuyệt vời của Nguyễn Bính" [76,778]. Nhân vật “tôi” là nhân vật chính và tác giả nhập hẳn vào hóa thân vào nhân vật “tôi” để tự bộc bạch ý nghĩ, tình cảm, đi sâu vào tâm tư sâu kín của mình, Nguyễn Bính là nhà thơ của hương đồng cỏ nội, Tô Hoài đã trở thành tri kỉ, tâm giao và rất mực tài hoa khi đã tinh tường nhận ra: "Khi nào anh cũng là người của xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính. Quê hương

là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu vết đời mình. Ở Nguyễn Bính, tình quê là hình bóng đất nước,

những nơi anh đã đặt chân với vô vẫn kỷ niệm và quê anh cũng là vùng chiêm trũng mênh mông

Phú Xuyên, Bình Lục, Ý Yên, Vụ Bản – cái rốn nước đồng bằng sông Hồng, ở đấy, nhà thơ thân

thương của chúng ta đã lênh đênh thân con cò, con diệc đồng sâu"[76 780]. Đọc những câu bình

văn tài hoa này ta nhận thấy. Một câu thơ hay không chỉ hay bởi những gì nó mang sẵn mà còn vì

những gì nó có thể gợi ra để người đọc đồng sáng tạo. Sức mạnh tạo nên sự đồng cảm mãnh liệt

chính là: "Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ, Nguyễn Bính đạt tới sự toàn bích." Tô Hoài đã

thấy được sức mạnh, đặc trưng của thơ ca nói chung và hồn thơ Nguyễn Bính nói riêng đó là thẫm

đẫm yếu tố cảm xúc – chính cảm xúc chân thành mới động tới được những cõi cao sâu trong lòng

người và vang vọng với thời gian.

Mặt khác tác giả thể hiện khả năng miêu tả thiên nhiên bằng ngôn ngữ của tâm hồn. Tô Hoài

quan niệm: “Quan sát và ghi chép đi liền với lối sống cần thiết của người viết văn. Quan sát bắt ta

nhớ và mở rộng những điều ta biết” [57]. Hà Minh Đức cũng khẳng định mặt mạnh của Tô Hoài

chính là phương diện miêu tả: “Tô Hoài giỏi miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm của

ông gồm nhiều màu vẻ, từ những cảnh thơ mộng gợi cảm đến một thiên nhiên khắc nghiệt, hung dữ”

[50]. Ngôn ngữ của tâm hồn được thể hiện rõ qua vận dụng ngôn ngữ để miêu tả cảnh vật và con

người. Đúng là "văn chương bắt rẽ từ cuộc đời và nở hoa nơi từ ngữ" để tạo nên những đoạn văn

trữ tình, giàu chất thơ. Đặc biệt đối với người Phương Đông luôn quan niệm giữa con người và

thiên nhiên luôn có mối giao hòa tương thông, con người tìm đến với thiên nhiên như tìm về với đời sống tâm hồn của mình. Không thể hình dung nhân vật nếu thiếu thiên nhiên. Qua giao hòa với thiên nhiên, nhân vật của Tô Hoài thường mở lòng mình trước bạn đọc. Phong cảnh thiên nhiên, những bức tranh thiên nhiên giữ một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật của Tô Hoài. Trong tác phẩm văn học, bức tranh thiên nhiên bao giờ cũng thể hiện ý đồ nghệ thuật và mang đậm dấu ấn sáng tạo của tác giả. Thiên nhiên góp phần tạo dựng không khí thực. Vì thế ta thấy phong cảnh thiên nhiên có khi ảm đạm, có khi đầy sức sống, tác giả đã gửi gắm vào đó kỉ niệm. Chính vì vậy bức tranh thiên nhiên mang đậm phong cảnh quê hương ở Nghĩa Đô. " 4TTôi đã ngửi được mùi đất quen thuộc. Quen thuộc lắm, chỉ thoáng qua là biết sắp về tới quê. Ờ, mà lạ. Không bao giờ tôi biết phân biệt được rõ ràng cái hương vị phảng phất kỳ dị ấy. Nó thoang thoảng trong cánh đồng hoặc vẩn vơ trong rặng ô rô xanh rì. Tưởng như đấy là mùi cỏ khô, mùi đất ải, mùi khói rơm bếp” [76,33]. Thiên nhiên đã bao bọc lấy con người, chan hòa với con người và được thể hiện bằng ngôn ngữ tâm hồn tinh tế: 4T"Hương sen thơm suốt quãng đường hai bên hồ. Những chiếc lá sen tròn đồng tiền, mơn mởn nghển lên khỏi mặt nước. Chúng tôi lội xuống hái những nụ mới nhú bằng ngón tay. Nụ sen ăn ngòn ngọt. Rồi trải lá sen lên bờ cỏ, chúng tôi nằm ngủ dưới gốc đa, trong gió hồ buổi trưa hây hẩy bát ngát" [76,120]. Con người như mở rộng tâm hồn đón lấy hương thơm của đất trời quê hương, là thứ mật ngọt nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn khôn!

Vào những đêm có trăng, bầu trời tràn ngập ánh sáng. Những đem đó, bầu trời tượng trưng cho cái vô cùng của không gian và cái vĩnh cửu của thời gian. Bầu trời là tấm gương soi tỏ tâm hồn cao đẹp của con người. Bởi vậy không phải ai cũng dám đối diện với cái vô cùng, đối diện với chính mình. Mở lòng trước thiên nhiên, cảm nhận được thiên nhiên, giao hòa với thiên nhiên – theo tác

giả, đó là dấu hiệu của nhân tính, của một tâm hồn đẹp. Trong tác phẩm Mười năm [73,167], trăng

sáng như trải lụa làm thổn thức lòng người, "Trăng sáng thênh thang trên làng xóm, khêu gợi lòng

người những suy nghĩ bồi hồi. Thế là Lạp quay trở lại. Nhưng cánh liếp cửa sổ khung củi nhà Hiền

đã đóng. Trăng vằng vặc như ban ngày, nhìn sướng mắt như thấy người con gái mặc áo lụa." Một

đêm trăng khác khi có niềm vui mới đến với con người thì: "Thế mà ánh trăng đêm thu muộn trong

leo lẻo, rời rợi mùi hoa thiên lý, hoa cau, hoa móng rồng từ các bờ rào thoang thoảng ra như hi

vọng trong lòng người. Những chòm lá xoan, những cành tre và tàu dừa phe phẩy, lấp lánh không

biết nước mưa hay sương, hay ánh trăng đọng. Ánh trăng thu gọn và tô đậm những bụi cây như

người ngồi người đứng với nhau trên bờ ao nước loáng sáng" [73,318]. Những câu văn lấp lánh ánh

sáng, ngôn ngữ đẹp, gợi tả. Dường như người viết đã mở rộng tâm hồn mình để cho ánh trăng mặc

sức tuôn tỏa. Không chỉ cảm nhận vầng trăng thu từ trên cao mà cảm nhận ánh sáng của nó qua sự

phản chiếu, cảm nhận bằng rất nhiều giác quan như thấy được hương thơm của ánh sáng. Quả thật

ngôn ngữ của tâm hồn có một sức mạnh kì diệu! Khiến ta nhớ tới cách ca ngợi sức mạnh lời nói của

vị tướng Napoleong: "Trên đời này có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút, thanh gươm thì đoạt

thành chiếm đất còn cây bút thì thu phục lòng người. Rốt cuộc cây bút mạnh hơn thanh gươm."

Biện pháp so sánh được sử dụng tối đa để miêu tả thiên nhiên. Cũng là ánh trăng nhưng trong những

ngày cái đói tràn về, nghệ thuật so sánh đã làm cho hình ảnh trở nên sinh động hơn: "Mặt trăng nẫu

vàng như một cái lỗ thủng chuyển động trên vòm trời mù sương. Đêm thăm thẳm hút vào một vùng

chết chóc" [73,214].

Một trong những nét nổi bật tạo nên sức hấp dẫn trong ngòi bút miêu tả thiên nhiên của Tô Hoài: "Tô Hoài không chìm đắm trong thiên nhiên, không tìm ở thiên nhiên một lối thoát, một niềm an ủi như các nhà lãng mạn tiêu cực, nhưng bao giờ anh cũng chắt chiu, trân trọng những vẻ đẹp và chất thơ của đời sống."( Phong Lê) đó là trong khi miêu tả thiên nhiên nhà văn đã vận dụng, phát huy hiệu quả hoạt động của mọi giác quan để nắm bắt, tái tạo hiện thực nhằm đưa đến cho người đọc những bức tranh miêu tả thiên nhiên sống động, phong phú và độc đáo. Nói như nhà thơ Xuân Diệu là: “thức nhọn mọi giác quan”. Để tạo nên những trang miêu tả đặc sắc, nhà văn đã huy động mọi giác quan của con người, thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác nhưng trong đó thị giác được vận dụng có hiệu quả nhất. Và trong khi miêu tả “Tô Hoài nắm bắt rất nhạy bén những nét cô đọng, những chi tiết điển hình cho nên có khi chỉ vài nét chấm phá mà dựng nên cả một bức tranh”. Đọc Tự truyện, độc giả không thể bỏ qua đoạn văn Tô Hoài miêu tả cơn mưa đầu mùa hạ. Đoạn văn có thể coi là sự hội tụ những tinh hoa trong ngôn ngữ miêu tả rất tài tình, tinh tế của nhà văn: “Gió rúc điên đảo trong cành cây. Người chạy táo tác. Ngoài đường cái, trẻ con kêu ơi ới. Sắp được xem mưa, thích quá, gọi nhau rối rít. Mấy con chó nhảy cỡn nhay xích ống, ăng ẳng sủa, chúng nó cũng vui ngớ ngẩn như chúng tôi lẹt đẹt…lẹt đẹt…mưa đã giáo đầu, những giọt nước to thô lố lăn xuống mái phên nứa. Mưa thực rồi. Mưa ào xuống, mọi người ngỡ ngàng sao mưa đến nhanh thế. Vừa mấy giọt lách cách mà đã tuôn rào rào ngay, ánh nước xiên xuống lao vào bụi cây. Con gà trống chạy qua, ướt lướt thướt, hai đầu cánh nhấp nhô, còn loanh quanh tìm chỗ trú. Mưa sầm xập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước toả trắng ngấn. Trong nhà âm xầm hẳn đi. Mùi nước mưa mới ấm, ngòn ngọt, ngai ngái. Mùi man mác xa lạ của những trận mưa đầu mùa đem về. Mưa rèo rèo

trên sân, gõ lộp độp trên phên nứa, mái dại, đập lùng tùng liên miên vào tàu lá chuối. Tiếng giọt

gianh đổ ồ ồ, sói lên những rãnh nước sâu. Bỗng một cơn gió phào đến cây cối bị vật vã, nổi lên

một hồi xa thẳm rạt rào. Mảnh sân đất đã ngập mấp mé. Nước chảy đỏ ngòn bốn bề, cuồn cuộn

trong các ngách rãnh quanh lối xuống chuộm. Nhưng mưa chỉ rào rào một lúc, bỗng trong vòm trời

tối thẫm vang lên một hồi rên rỉ ầm ĩ. Tiếng sấm mưa mới. Ngoài ngõ, nghe tiếng chân lép nhép

chạy. Bao nhiêu người vác thùng, vác rổ ra bắt cá rô rạch quanh các bờ ao” [76,36– 37].

Miêu tả một cơn mưa đầu mùa hạ, Tô Hoài đã phát huy tối đa hiệu quả của những hình ảnh

trực quan để miêu tả cơn mưa. Cơn mưa đầu mùa hạ được miêu tả với đủ mọi giác quan từ những

hình ảnh, âm thanh, mùi vị thật cụ thể, sắc nét và sống động. Tô Hoài đã miêu tả chính xác tiếng

mưa rơi với những âm thanh rất đặc trưng. Không những thế nhà văn còn lắng nghe và phân biệt

được các tầng bậc, độ mạnh - nhẹ của âm thanh ứng với mỗi thời điểm khác nhau của cơn mưa. “Lẹt

đẹt…lẹt đẹt…mưa giáo đầu”, những âm thanh đầu tiên của loạt mưa rơi xuống một cách rụt rè, yếu

ớt trên mái phên nứa. Âm thanh được miêu tả tiếng mưa rơi tăng cấp dần dần, mỗi lúc một dồn dập,

khẩn trương gấp gáp:Rồi “mưa buông sầm sập…từng giọt gianh đổ ồ ồ, ào ạt, ọc lên ở những rãnh

nước sâu”. Miêu tả cơn mưa đầu mùa, nhà văn không thể quên tiếng sấm gọi mưa: "bỗng trong vòm

trời tối thẫm vang lên một hồi rền rền ầm ĩ. Tiếng sấm mưa mới ”. Cơn mưa không chỉ được miêu tả

thông qua những âm thanh mà nó còn được miêu tả bằng cả cái “mùi” của trận mưa mới đầu mùa

hạ: “Mùi nước mưa mới ấm, ngòn ngọt, ngai ngái. Mùi man mác, xa lạ của những trận mưa đầu

mùa đem về”. Cái độc đáo, thú vị ở chỗ miêu tả “mùi” nhưng nhà văn lại diễn tả cái “mùi” ấy bằng sự kết hợp của nhiều giác quan, thể hiện ở vị “ngòn ngọt”, mùi “ngai ngái”; và cảm giác “âm ấm”. Một sự miêu tả thật tài tình cho thấy biệt tài miêu tả của nhà văn Tô Hoài. Phải có một sự quan sát kỹ càng, một nhãn quan tinh tế thì mới có thể miêu tả đến tài tình, tinh tế như vậy.

Kết hợp với miêu tả âm thanh, mùi vị, nhà văn còn tái hiện những hình ảnh rất sinh động của mọi vật trong cơn mưa. Tô Hoài đã miêu tả rất chi tiết về hình ảnh, hình dáng của những hạt mưa: “những giọt mưa to thô lố lăn xuống mái phên nứa”, “xiên xuống, lao vào bụi cây”; “Mưa xầm xập, giọt ngã, giọt bay”. Bên cạnh đó còn có hình ảnh mọi vật trong cơn mưa, hình ảnh“con gà trống ướt lướt thướt hai đầu cánh nhấp nhô, còn loanh quanh tìm chỗ trú”; hình ảnh “người chạy táo tác. Ngoài đường, trẻ con kêu ơi ới”, rồi hình ảnh “bao nhiêu người vác thùng, vác rổ ra bắt cá rô rạch quanh bờ ao”. Miêu tả cơn mưa ở vùng nông thôn mà không có những hình ảnh sống động đó thì đoạn văn sẽ thiếu đi nét quê rất đặc trưng, gần gũi và quen thuộc. Tác giả đã phát huy tối đa hiệu quả những hình ảnh trực quan, tạo nên “trang phục” mới, độc đáo, thú vị cho những trang miêu tả. Cho nên “có thể nói văn xuôi của Tô Hoài có chất thơ, chất nhạc và chất hoạ”. Có được những tinh tế ấy cũng là nhờ bởi sự trau dồi vốn ngôn ngữ. Đọc những trang viết của Tô Hoài ta có cảm giác ẩn chứa trong những trang viết ấy là sức lôi cuốn, thu hút người đọc. Chính vì vậy mà Phong Lê từng nhận xét về Tô Hoài:“Lực lưỡng và liên tục cho đến tuổi già. Gắn bó và lôi cuốn người đọc cho đến tuổi già".

Với Tô Hoài, thiên nhiên là nơi bộc lộ tài năng sở trường của mình, có lẽ vậy mà những bức tranh thiên nhiên thường trọn vẹn, sinh động, muôn màu muôn vẻ. Thiên nhiên trong những tác phẩm của ông luôn có hồn, tươi tắn đầy sức sống như sự tồn tại vốn có của nó. Để có được biệt tài

miêu tả sống động và tinh tế như thế, nhà văn Tô Hoài phải có sự trau dồi kho từ vựng phong phú,

đa dạng. Đối với ông, để có được kho từ vựng ấy, người viết văn phải luôn có ý thức học tập lời ăn

tiếng nói của nhân dân.

Trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ; nhà văn có

một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi, cóp nhặt từ lời ăn tiếng nói hàng

ngày của nhân dân. Đồng thời vốn ngôn từ ấy còn ngày được bổ sung, được làm giàu thêm nhờ khả

năng sáng tạo từ ngữ mới của nhà văn cho nên mọi sự vật hiện tượng và nội dung trong tác phẩm

hiện lên thật cụ thể, sống động, giàu hình ảnh, cảm xúc và đậm chất thơ và cảnh vật trở nên sống

động, có hồn.

3.4.2. Kết hợp ưu thế của các loại giọng điệu trong trần thuật

Tài năng của người nghệ sĩ thể hiện qua phong cách sáng tạo giúp cho tác phẩm của họ vượt

qua quy luật băng hoại của thời gian. Nhà văn I.X. Tuốc - ghê - nhép nói: "Cái quan trọng trong tài

năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong

cổ họng của bất kì một người nào khác." (Dẫn theo Khrapchenkô) Cái giọng riêng biệt chính là

phong cách nghệ thuật độc đáo của người nghệ sĩ. Nó không thể có sự giống nhau hoặc trùng lặp ở

bất cứ nhà văn nào khác.

Nhà văn A.Tsêkhốp cũng nói: “Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó

không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng thì anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ”. Giọng điệu trần thuật chi phối bởi vào điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật khác nhau sẽ dẫn đến giọng điệu trần thuật khác nhau. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong nhà văn và tác dụng truyền cảm tới người đọc, thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu sắp xếp xong hệ thống nhân vật” [23].

Văn học cổ phương Đông quan niệm “điệu hồn” của tác phẩm văn chương là sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Cái “hơi văn”, “chí khí”… toát ra ở các tác phẩm văn chương là “điệu hồn”, là giọng điệu nghệ thuật của chủ thể nhà văn sử dụng có ý thức, có chủ định. Đó là quan niệm cho rằng khi tâm hồn rung động trước sự tình sẽ thể hiện ở giọng điệu và giọng điệu này hình thành nên “văn”. Vì thế, quan niệm xưa xem giọng điệu nghệ thuật là “điệu hồn” ngự trị ở tác phẩm văn chương. “Điệu hồn” toát ra, được tạo nên bởi một tập hợp ngôn từ. Quan niệm hiện đại không xem ngôn ngữ (chất liệu xây dựng nên tác phẩm văn chương) là những từ ngữ khô cứng câm lặng, mà đặt ngôn ngữ vào môi trường “sinh thái” của nó, đó là môi trường giao tiếp, trả lại cho nó hình thức và nội dung vốn có, không cách li môi trường sống của nó. Có như thế ta mới hiểu hết được giá trị đích thực của phát ngôn được nói như thế nào. Đó là giọng điệu mang tính sáng tạo độc đáo ở mỗi nhà văn, thể hiện tài năng của nhà văn trong sự chiếm lĩnh đời sống. Vì thế, Trần Đình Sử xem giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn”. Do đó ta có thể hiểu rằng giọng điệu chứa đựng dấu ấn cá nhân, là sự biểu hiện về nhận thức, thái độ của nhà văn đối với đời sống, để cuối cùng tạo ra giá trị tư tưởng cho tác phẩm văn học theo cách nhìn riêng, theo quan niệm thẩm mỹ riêng của nhà văn.

Giọng điệu thuộc phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, giúp ta hiểu rõ hơn về chiều sâu

và sự phong phú của chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng giúp ta nhận ra nét riêng độc đáo của mỗi nhà

văn, nhà thơ. Để tạo nên dấu ấn riêng của mình, mỗi tác giả cần phải có một giọng riêng. Theo

Khrapchenkô: “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu

nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với

những mặt khác nhau của nó”. Đi sâu hơn, khi nói về giọng điệu của mỗi cá nhân, ta cần xem xét,

đặt cá nhân đó trong bối cảnh lịch sử của thời đại. Giọng điệu cá nhân mang dấu ấn của dân tộc và

thời đại, bởi vì không có một nhà văn, nhà thơ nào có thể thoát li khỏi thời đại và dân tộc mình. Đó

là tính tất yếu của lịch sử văn học và càng tất yếu với những nhà văn. Là người luôn quan sát cuộc

sống bằng ánh mắt tinh tường và nhạy cảm, tác giả đưa những điều mình nhìn thấy, cảm nhận vào

thơ bằng một giọng điệu tâm tình, chân thật, lắng sâu.

3.4.3.1. Giọng điệu hài hước, dí dỏm

Giọng điệu trần thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng

điệu trần thuật luôn giữ được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái. Có

thể nói đó là chất giọng khá ổn định mặc dù trước và sau Cách mạng, cũng có lúc nó xuất hiện đậm

nhạt khác nhau song nhìn chung là phổ biến. Bên cạnh giọng điệu khác, nó làm nên tính phức điệu

trong giọng điệu trần thuật của tác giả. Cùng với ngôn ngữ nghệ thuật, giọng điệu làm nên một giá

trị riêng trong việc biểu lộ sắc thái tình cảm của nhân vật và tư tưởng của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả. Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn thế sự, nhân bản đời thường giúp cho các nhà văn cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau, đem đến hiện tượng đa sắc thái, đa giọng điệu trong các tác phẩm văn học. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình một giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế.

Giọng hài hước dí dỏm, Tô Hoài viết về Anh Thơ: “Bà ấy mà mê Nguyễn Bính, chưa chắc Bính đã xúc động liền. Bính nó có hàng trăm gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ cũng xấu, lợi hở như miếng thịt trâu. Tính tình đồng bóng. Sang Liên Xô với Nguyễn Văn Bổng, Thanh Tịnh lại hỏi thăm Goocki, tưởng ông ấy còn sống” [68]. Cuối cùng nhà văn kết luận một cách rất hóm:“Anh Thơ mà đẹp là chết với tôi rồi”. Độc giả không thể không cười thú vị khi đọc đến câu văn này.

Điều làm ta thú vị khi đọc Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài là mặc dù giọng hồi tưởng nhẩn nha mà không đơn điệu tôi vì giọng kể chuyện dí dóm, hài hước. Khi tác giả biến những điều thiêng liêng thành cái buồn cười, khôi hài khiến người đọc thấy vui: 3T“Về việc đi theo đạo, bà tôi thường kể lại một câu chuyện buồn cười. Chặp tối, các dì tôi quì cầu kinh giữa nhà. Thầy giáo làm lễ bên cạnh. Thầy để ý nghe lời cầu kinh của dì tôi. Thầy nghe tiếng rì rầm đều đều Đức Chúa Lời... Đức Chúa Lời... có mười cái răng... Đức Chúa Lời có mười cái răng... Đức... Dì tôi quì, hai mắt nhắm tịt, cái đầu gật gưỡng. Tan lễ, thầy giáo gọi dì tôi đến, bảo đọc lại câu kinh. Dì tôi đọc lại: Đức chúa Lời có mười cái răng. Cả nhà không ai dám cười. Thầy giáo nghiêm trang bảo: "Bận sau, nhớ cầu Đức chúa Lời có mười điều răn... Đọc lại nào" [76]. 3TSự khôi hài đó làm người đọc phải bật cười theo.

Giọng hài hước, dí dỏm sinh động, chân thật đến mức hồn nhiên trong Cỏ dại. Ai đã qua tuổi

thơ cũng bắt gặp mình trong đó. Đọc những trang văn của Tô Hoài ta vừa thấy buồn cười vừa thấy

thương quá về tuổi thơ. Có lẽ vì sự hài hước, hóm hỉnh này mà Tô Hoài trở thành nhà văn của nhiều

lứa tuổi. Trong dòng hồi tưởng về ấu thơ ta đã nhận ra chất giọng hài hước, dí dỏm, một cái nhìn

giễu cợt về mình: “Một buổi kia, đương ngồi, tôi chợt buồn đi đái. Thôi chết. Tôi đã thấy có những

đứa thường khoanh tay, thò đầu lên bàn thầy", “xin thầy cho đi giải ạ” Tôi cũng sẽ lên thưa thầy

một câu, tôi cũng được đi. Nhưng tôi không dám lên. Tôi cứ ngồi im, chốc chốc nhăn nhó nhìn trộm

thầy…” [76,45]. Hay có hôm ngủ mê Cu Bưởi đái dầm: “Một đêm kia, tôi ngủ mê thấy được về chơi

nhà. Lâu lắm mới được về. Lạ quá, trước nhà có cây cam quả chín đỏ ối. Tôi hái ăn chán chê. Rồi

tôi chạy ra ngõ. Tôi đứng trên đầu cây gỗ. Tôi vén quần cẩn thận. Tôi đái một bãi chơi. Tôi sực

tỉnh. Quần tôi ướt hết đũng. Mặc phản ẩm nhơm nhớp. Quần ướt quá. Tôi ngồi, hai mắt ráo hoảnh.

Cơn ngủ đã tan mất. Tôi khấn thầm, cầu cho cái quần chóng ráo…” [76,78].

Trong Tự truyện, hồi kí ta còn nhận thấy có sự đan cài, pha trộn nhiều giọng điệu khác nhau

trong cùng một tác phẩm song nổi bật lên vẫn là nụ cười hài hước dí dỏm, có khi trong dòng hồi

tưởng về mẹ, bên cạnh những tình cảm thương yêu, kính trọng độc giả vẫn nhận ra giọng điệu tinh

quái dí dỏm vốn có của nhà văn và cũng trong cái tinh quái dí dỏm ấy là một nỗi buồn chua chát về

cuộc đời, kiếp người nghèo khổ, tù túng không có hy vọng vào tương lai:“Tôi còn nhớ có buổi

chiều, không biết u tôi đi đâu về. Ngoài ngõ tiếng chó sủa inh ỏi. Tôi chạy ra, thấy u tôi đương rối

4TChính giọng kể chuyện hài hước và trí tưởng tượng khiến cho chúng ta biết dù đó không phải là sự thật, người lớn không bao giờ tin nhưng với trẻ nhỏ thì đầy thú vị và thôi thúc trí tưởng tượng: "Ngoài bể có giống cá ông voi to bằng cái đình làng ta. Ném chùm dừa xuống nó nuốt chửng. Ném cái cối đá xuống nó cũng nuốt. Một lần kia, con cá ông voi nuốt cả một cái thuyền và một nhà thuyền chài. Anh chài ở trong bụng cá cứ lấy dao lóc thịt cá ông voi mà chén. Như vậy, sống được một tháng. Cứ đến bữa anh chài xẻo thịt, cá ông voi đau quá, chạy cuồng khắp bốn bể. Rồi kiệt sức, lên nằm chết trên bãi cát. Anh thuyền chài can đảm kia rạch bụng cá chui ra, lại còn kéo được cả thuyền của mình ra nữa" [76,61]. Cách kể cứ như truyện cổ tích ngày xưa mà vẫn làm cho tuổi thơ ta say đắm bởi niềm tin có thật.

4TGiọng kể hài hước của trẻ thơ trong cách nhìn đối với tín ngưỡng:“Tưởng vào đâu, hoá bà tôi dặn vào rừng Ông Cụ. Đầu làng tôi có một cái miếu trong đám cây ruối bùm tum. Miếu thờ một con hổ bằng đá. Gọi là rừng Ông Cụ. "Ông Cụ" ngồi rụm hai chân sau, nhìn ra, trong cái hang gạch. U tôi cầm cái dùi, thỉnh mấy tiếng côông côông vào cái chuông bé như chiếc bát úp treo lủng lẳng trên cái rễ si ngoằn ngoèo thò xuống. U tôi xuýt xoa lễ. Tôi ngả mũ, cũng chắp tay lễ. Tôi nhìn ông Cụ Mắt ông Cụ bằng đá, cũng trắng xanh nhệch nhạc. Ông hổ mà trông xoàng như con mèo” [76,69].4T Vẫn là cái giọng hài hước khi tác giả biến những điều thiêng liêng thành cái bình thường,

rít cuống queo xua con chó vện của nhà cứ lăn xả vào cắn. Tôi phải quát thật to, nó mới gầm gừ chịu lùi. Thì ra con chó hoa mắt. Hôm ấy u tôi mặc áo cánh trắng. Xưa nay con chó nhà đã quen mắt với cái áo nâu của u tôi. Chưa bao giờ u tôi có cái áo trắng” [76]. Hình ảnh người mẹ lam lũ, vất vả trong con mắt nhà văn vẫn đôi chút pha thêm sự dí dỏm, hài hước, nghịch ngợm mà khi đọc nên người đọc vẫn thấy xót xa thấm buồn trước một kiếp người trong cuộc sống.

đáng buồn cười.

Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình một

giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế. Giọng điệu trần

thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng điệu trần thuật luôn giữ

được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái. Trong hồi kí vẫn giọng văn

hài hước Tô Hoài viết: “Tôi mới viết truyện ngắn Ông giăng không biết nói đăng tuần báo Tiểu

thuyết Thứ bảy:

"Gã yêu em. Em sắp về nhà chồng rồi mà cứ như không. Đêm hội chèo, tay đôi còn đưa nhau

ra ngoài đồng, bên cái giếng thơi đầu xóm. Gã gặng hỏi. Nhưng em lắc đầu bảo không, rồi khóc.

Mọi khi thì chẳng dám nói. Nhưng hôm ấy thong thả phiên chợ tơ, lại có chèo hát sân đình, gã hơi

ngà ngà một chút. Gã sửng cồ lên:

- Ông biết thừa ra rồi. Ông hỏi thử chơi đấy thôi. Ông biết mười hai tháng sau cưới mày. Đồ

khốn nạn!

Người con gái vùng chạy. Gã say rượu khát cháy cổ, cúi đầu hớp nước ngã lộn xuống, chết

đuối trong giếng. Thế rồi ngày 12 tháng sau, ả nọ về nhà chồng. Từ đấy, mỗi lần về xóm nhà mình

không bao giờ em dám đi tắt cánh đồng qua lối men bờ giếng. Nào ai biết đâu cái chết éo le thương

tâm của người con trai. Nông nỗi đêm ấy chỉ có mỗi một ông giăng chứng kiến. Nhưng ông giăng

lại không biết nói. Trong nhà hát ở Vĩnh Hồ, Vũ Hoàng Chương chắp tay bái tôi:

- Lạy huynh, huynh nhất thiên hạ, huynh đã rõ tâm tình đệ. Ông thử hỏi chơi đấy thôi. Ông

Tôi bảo: - Mắt ông viền vải tây rồi.Câu của tôi là “mười hai tháng sau”, không phải “mười hai

biết mười hai tháng sáu thì cưới mày... Ha ha, lạy huynh... tháng sáu”, không phải. Vũ Hoàng Chương cãi: Không, “mười hai tháng sáu” mới đúng cái đau của đệ, huynh đã cho đệ nén “mười hai tháng sáu”, không, mười hai tháng sáu: huynh cứ cho đệ đọc cái ngày tuyệt mệnh ấy là mười hai tháng sáu ” [63,152 - 153].

Giọng điệu trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài hóm hỉnh, hài hước ngay với cả chính mình. Ông tự nhận xét: “Tôi là con ếch Cu Ba,ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở ruộng mía thì lổ đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như cánh hoa rơi” [68,173]. Giọng văn dí dỏm khiến người đọc dù nghe chuyện về những nhà văn ít tên tuổi như Sao Mai (sinh 1924) cũng không chán: “Tôi lại khoái ông có máu đa tình mà lại chung thuỷ. Léng téng với ai rồi cũng lấy người ta. Nghe nói ông mới có phòng mới (...) vừa cai nghiện (...) bằng một liều thuốc dân gian, mạnh và dữ, phải có nghị lực mới cai được (...) Bài thuốc cai của Sao Mai có gia giảm cả vị phụ nữ" [68,25 - 27]. Tô Hoài không nói rõ là gia hay giảm...Cái giọng hài hước ấy hiển hiện trên câu chữ và người đọc sẽ nhận ra. Ông khôi hài, thâm thúy khi viết về Phan Khôi: “Mình đọc Phan Khôi nhiều đến thế từ thuở bé, ông phải khoái lắm chứ. Thế mà ông ấy đốp một câu: “Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anh viết ra cái gì. Nghe có người nói anh viết truyện con giun, con dế” [68,40]. Lý Hoài Thu nhận xét về giọng điệu Tô Hoài: “Thâm hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu, nhàm

chán, lan man tí chút nhưng không kề cà, vô vị, không chút u mặc với cái giọng khơi khơi mà nói, ai

muốn nghe thì nghe, không bắt buộc nghe rồi hiểu” [50]. Giọng điệu vừa hài hước vừa chua xót.

Vì sao trong tự truyện, hồi kí lại có giọng điệu hài hước, hóm hỉnh? Vì đối tượng cười thứ

nhất là những người thân trong gia đình. Thứ hai là giới bạn văn chương của mình – là những người

trí thức, những người nghệ sĩ – đó là cười những cái chưa được của bạn mình và của chính mình –

nụ cười hóm hỉnh sâu sắc mà không cay độc, không cười cho hả dạ mà nhiều khi cười buồn, cười

xót xa. Thứ ba nhiều khi những điều giễu cợt mỉa mai không phải dành cho những nhân vật mà ông

phác hoạ chân dung. Mà là thái độ của ông đối với một thời kì đen tối, “đêm sâu tiền cách mạng”,

thái độ phê phán ẩn dưới một giọng điệu hóm hỉnh, giễu cợt. Không chỉ là thái độ của riêng ông mà

đây là thái độ của cả một lớp người viết thời ấy.

3.4.3.2. Sự hòa quyện phức hợp của những giọng điệu trần thuật

Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm của Tô Hoài luôn giữ được bản sắc riêng: mỉa mai,

bóng gió pha chút gai góc, tinh quái. Đó là chất giọng khá ổn định ở cả trước và sau Cách mạng,

mặc dù mức độ đậm nhạt có khác nhau. Nhưng bên cạnh giọng điệu ấy, nhà văn còn sử dụng nhiều

giọng điệu, nó làm nên tính phức điệu trong giọng điệu trần thuật của tác giả. Vừa bi, vừa hài, cái

đáng cười lại rất thương tâm, đó chính là giọng điệu mang bản sắc riêng của Tô Hoài.

Giọng trữ tình, bùi ngùi, xót xa. Do tính chất hồi cố, chỉ nhìn nhận, “ôn lại” sự việc từ độ lùi của một khoảng thời gian thường là đã khá xa, cho nên tự truyện, hồi kí thường thiên về giọng trần thuật điềm tĩnh, chậm rãi, ít đi vào các xung đột kịch tính, nhưng rất giàu tiềm năng gây rung động cảm xúc. Do nhu cầu diễn tả thành thực và tha thiết nhất những cung bậc tình cảm riêng của cá thể nghệ sĩ, câu văn thường miên man, trải dài, xuôi theo dòng cảm xúc, tạo nên một âm hưởng trầm lắng, rưng rưng như những lời tâm tình đầy xúc động. Lời văn tuy đóng khung trong thể loại tự sự nhưng lúc nào cũng có chiều hướng xô tràn sang địa giới trữ tình. Giọng văn thuộc gam trầm và buồn, lắng sâu trong tâm thế hồi có miên man run rẩy, rưng rưng trong những xúc động, thương cảm, đau đớn chân thành, xót xa, nghe như những tiếng thở dài đau xót. Khuynh hướng nghệ thuật hướng nội, lấy tình cảm, cảm xúc cá nhân để làm chất liệu chủ yếu cho tác phẩm, được thể hiện đậm nét trong lời văn nghệ thuật. Giọng điệu của tiếng nói tâm hồn trẻ thơ đầy khắc khoải, nhạy cảm cực độ trước đau thương và hạnh phúc ở đời. 4TGiọng kể tâm tình, những trang văn thẫm đẫm cảm xúc trữ tình. Khi nhân vật tôi thể hiện tấm lòng đồng cảm với số phận nhân vật trong tác phẩm "Không gia đình" của Hector Malot như bắt gặp một người đồng cảnh, một người bạn thấu hiểu. Qua giọng kể cho thấy nhân vật tôi có một tâm hồn tinh tế, giàu lòng nhân ái. Đó cũng là một tố chất quan trọng để sau này trở thành nhà văn của tình yêu thương: "Cuộc đời lưu lạc của thằng bé trong truyện cứ như trông thấy ở mỗi dòng chữ. Tôi mê man theo thằng bé từ lúc nó bỏ nhà đi theo ông già làm xiếc. Cái lúc thằng bé đứng trên ngọn đồi nhìn lại túp lều nhà mình trước còn rõ, sau mờ. Mắt tôi cũng mờ. Rồi nó quay mặt, quả quyết bước theo ông già. Tôi cũng theo nó. Cũng buồn, cũng giận, cũng tủi cùng chung nỗi cảm thương với người bạn xa xôi mà gần gũi đó. Tôi giấu quyển truyện trong gầm

giường, chỉ lo ai lấy trộm mất. Tôi tưởng rồi suốt đời tôi không thể xa được anh bé trong truyện

nữa" [76,77]. Những câu văn đầy cảm xúc, tình cảm của tác giả truyền qua nhân vật và lan rộng

những vòng sóng âm vang vào lòng người đọc4T.

Giọng kể của sự hồi tưởng, trong mỗi câu chữ có cảm xúc của chủ thể trần thuật rất

rõ. 4T“Nhưng cũng có những buổi chiều, ông tôi uống rượu hiền lành và kể biết bao nhiêu chuyện

ngày xưa. Không phải là chuyện “Tấm Cám” hay “Ngốc buôn vôi, buôn quít” của bà tôi. Đây là

chuyện ngày xưa của ông tôi. Ông tôi có mặt trong những câu chuyện ấy. Tôi nhìn ông, kính cẩn

trông thấy ông tôi rất oai trong tưởng tượng” [76,15]. 4THướng ngòi bút tới người dân lao khổ thì trái

tim nghệ sĩ trở nên buồn với giọng trần thuật trở nên xót xa, thương cảm: “Mỗi lần nhớ lại những

ngày ở Cầu Am, tôi chỉ nhớ phảng phất thế, nhưng những nét xoáy cắt vào kỷ niệm cứ long lanh

như những nhát khía...Mọi người đều tốt bụng và đều khổ mà có người khổ đến phải đi trẫm mình

vào cái ao có ma đằng sau nhà thương. Nhà bác hàng nước vẫn cãi nhau với vợ bác cu-li san,

nhưng đôi lúc lại rơm rớm nước mắt” [76,160].

Qua giọng điệu trần thuật mà ta cảm thấy nhói lên nỗi buồn về cảnh vật và con người trong

tác phẩm. Ta thấy bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là giọng điệu trữ tình mang sắc thái bùi ngùi cảm

động. Sắc thái giọng điệu này thường bộc lộ khi nhà văn viết về những gian truân trong cuộc sống

sinh hoạt và hiện thực mà bản thân mỗi con người phải đối mặt, bởi đó là quy luật của cuộc sống.

Giọng điệu trần thuật của Tô Hoài, một không khí u buồn, đen tối đè nặng trong tác phẩm. Tác giả

không đi vào phản ánh những mâu thuẫn giai cấp dữ dội, quyết liệt song người ta thấy được tất cả sự buồn chán về một kiếp người, buồn về sự cùng quẫn, bế tắc. Hình ảnh tác giả trong những ngày lang thang kiếm sống trong trường đời, hết bán giầy Bata đến làm nghề kế toán sổ sách giấy tờ cho hãng, rồi những ngày thất nghiệp lang thang vất vưởng, thậm chí cả những ngày phải đi ăn mày ở cửa chùa để kiếm “miếng cơm manh áo”, những ngày phiêu bạt ra Hải Phòng: “Tôi cũng phải đi ra Hải Phòng rồi. Bạn bè cũng đang giúp tôi chuyến đi. Các bạn vừa muốn tôi tìm được công ăn việc làm, vừa đỡ phải cưu mang. Bởi ai cũng đại khái túng kiết xơ mướp như tôi cả", “Chẳng qua vì tôi không bấu víu vào đâu được nữa tôi phải “lên đường” đi cầu may” [76,201].

Giọng điệu cứ bùi ngùi xúc động không phải được tạo ra bởi từ sự gia công của câu chữ, mà xuất phát từ tình cảm chân thành của tác giả. Những ngày thất nghiệp lang thang kiếm việc ở Hải Phòng, khiến nhà văn không khỏi thấm thía cảnh khổ đau của cái nghèo. Giọng điệu ấy lại thật da diết:

“Cần bâng khuâng hỏi tôi trong bóng tối: - Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ. Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì tôi

đang nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm" [76, 208 -209].

Âm hưởng bùi ngùi da diết trải dài trong nhiều tác phẩm của Tô Hoài bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống. Những năm trước Cách mạng, là cuộc sống quẩn quanh tù túng khiến con người bế tắc trong mưu kế sinh nhai. Họ lâm vào cảnh cùng đường tuyệt vọng. Sau Cách mạng, âm hưởng da diết bùi ngùi chỉ xuất hiện khi nhà văn nhớ về những kỷ niệm buồn xưa hoặc bản thân phải đối diện với qui luật tất yếu của một đời người. Giọng điệu trữ tình sâu lắng khi Tô Hoài thể hiện nỗi

thương cảm với số phận con người. Ông nghĩ về cuộc đời Nguyễn Bính: “Những cùng quẫn tự

chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại đầy ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này

mà vẫn không nguôi” [63,61]. Ông thấy xót xa, cho Nguyễn Tuân – một người có thú ham đi mà

cuối đời không còn đi được: “Đi đâu, đã không còn bay nhẩy được, giờ đây thêm cái day dứt, cái

bực bội của con người ngày ngày quanh quẩn mở đóng cửa sổ” [63,325]. Tô Hoài boăn khoăn, trăn

trở về nghiệp văn: “một đời viết được tuyển vào có hai quyển, nhìn sách mà chẳng nói nên lời”

[63,324 - 325]. “Cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm đủ miếng

ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần” [63,312]. Nhà văn ngậm ngùi, chua xót khi nói

đến tình cảm đồng đội, đồng chí: “Có phải những câu hò ngẩn ngơ não lòng trong đêm lạnh giữa

những con người đã trải mấy cuộc đời làm rơi nước mắt xuống đường phố như dòng sông miên

man, nhớ nhà mà mừng trở về không còn, lệ ai chan chứa, biết đi đâu về đâu như khi còn ở rừng

Thượng Yên, khóc cũng chẳng vì lẽ gì. Nguyễn Tuân nhìn Aki. Nguyễn Tuân rút khăn tay chấm nước

mắt” [63,48].

Rõ ràng, bên cạnh giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài còn là giọng

trữ tình với nhiều sắc thái tình cảm. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống đời thường, ở

đó ông bộc lộ thái độ trước muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống. Cái sắc thái làm nên giọng điệu chủ

đạo của Tô Hoài trong Tự truyện, hồi kí đã chứng tỏ nhà văn sống trọn vẹn với con người và cuộc

đời cả lúc vui cũng như lúc buồn, cả lúc khổ đau cũng như lúc sung sướng hạnh phúc. Nhờ giọng

điệu này mà chúng ta có thể nhận ra rằng, từ những sự việc vốn bình thường trong cuộc sống cũng có thể trở thành chất liệu muôn đời cho văn chương.

Giọng triết lí, suy tư Kết hợp với giọng trữ tình, bùi ngùi, xót xa là “giọng điệu suy tư triết lý”. Là nhà văn luôn gắn bó với đời sống xã hội, trăn trở với những vấn đề bức xúc của thời đại. Nhà văn chiêm nghiệm về con người: “Người đời hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã” [68]. Trải nghiệm cuộc sống giúp nhà văn nhận ra sự thay đổi trong ý nghĩa của việc dùng từ ngữ: “Ngày nay người ta dùng lẫn nghĩa hai chữ “theo dõi” mà nghĩa một thời của nó không đẹp đẽ lịch sự như đài báo “cảm ơn bạn đọc và người nghe đã theo dõi”. Không, chỉ có mật thám theo dõi người bị tình nghi, đội xếp theo dõi kẻ cắp sắp móc ví. Nghĩa thời trước của hai chữ “theo dõi” là vậy” [63,70]. Trong tác phẩm Những gương mặt: "Những điều ấy khác nhau như mưa với nắng hoàn cảnh người cầm bút hôm nay với người cầm bút chúng tôi ở lứa tuổi thanh niên. Chúng tôi những cánh bèo vật vờ. Có thể phơi phới ra biển khơi mênh mông. Có thể giạt lên khô héo trên bờ cát". Bởi hiện thực cuộc sống sẽ ảnh hưởng tới từng số phận con người mà lớp nhà văn thì sự tác động ấy có thể càng lớn. Giọng điệu suy tư, triết lý trong hồi kí Tô Hoài thể hiện sự sắc sảo của nhà văn khi nghĩ về cuộc sống, về con người. Tô Hoài triết lý về sự thay đổi đến không ngờ của cuộc sống: “Nhiều khi những thay đổi khác nhau đến không ai có thể nghĩ trước ra được. Cái đáng ghét hôm qua bỗng nhiên trở nên cái ưa nhìn hôm nay” [75,465].

Tô Hoài hiểu ra sự đời đa đoan: "Thế nhưng, những câu: "người ta bảo ông nói thế này... thế này.." vẫn vo ve đến. Cho hay cũng là thói đời. Câu nói mát mẻ, xỏ xiên, các thứ tiếu lâm thời thế ở đâu đâu hay quàng đến mượn tiếng Nguyễn Tuân bất mãn. Nhiều đến độ người nọ thổi vào tai

người kia, nếu tò mò cộng lại, cũng không thể tin cái ông nhà văn dẫu có tiếng là ngạnh trê đấy,

nhưng chắc cũng không hơi sức đâu bịa ra lắm chuyện đổng giả thế. Nhưng đồn thì cứ đồn"

[63,75]. Chẳng phải là trong Cát bụi chân ai, nhiều chỗ tác giả không muốn giấu mình nữa mà

đứng bật dậy phát biểu về sự đời “Ôi thôi não nùng trần ai". “Đầu tôi nặng trĩu mưa gió". Nói gọn

lại là đời đẹp và buồn thì cố nhiên nhiều người đã có ý ấy rồi , song ở đây Tô Hoài đã sống cái cảm

giác ấy một cách thấm thía và ông biết truyền nó sang người đọc theo cái cách riêng của mình.Và ở

chỗ này, nhà văn tưởng chỉ dán mắt nhìn vào các mảnh đời lụn vụn thực ra đã vươn tới cái điều mà

các tác giả lớn xưa nay vẫn khái quát. Cái quan trọng nhất vẫn là cái giọng riêng, "dấu vân chữ" trên

trang viết. Thành công của nhà văn Tô Hoài là tìm thấy lại cái bóng tỏa rộng của mình trên những

trang hồi kí. Mà như Vương Trí Nhàn đã nhận xét một cách chí lí: "Dường như cả cuộc đời từng

trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông . Hồi kí là nơi cả con người tác giả cùng cái

triết lý mà ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi suốt đời, cả hai có dịp bộc lộ đầy đủ nhất" [76,942].

Có thể nói, ngòi bút của Tô Hoài luôn linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng giọng điệu trần thuật. Đời

sống và con người trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài có lúc hiện ra qua giọng điệu trữ tình sâu

lắng, lúc hóm hỉnh, dí dỏm, hài hước nhưng cũng đậm chất triết lý, suy tư. Quá trình tiếp xúc với

văn hóa phương Tây đã tạo ra những điều kiện căn bản cho sự hình thành và phát triển của thể loại

hồi kí, tự truyện Việt Nam: sự nổi trội của tình cảm, cảm xúc; giọng điệu tâm tình, hài hước, dí

dỏm… Quá trình mở rộng các giới hạn giao lưu văn hóa trong thời kì đổi mới đã thúc đẩy cho thể loại này chuyển biến và hiện đại hóa một cách căn bản: sự xuất hiện của giọng điệu đa dạng, phức hợp. Điều đó tạo nên đặc trưng riêng về giọng điệu của hồi kí, tự truyện Tô Hoài trong hồi kí, tự truyện Việt Nam hiện đại.

Tiểu kết chương 3

Sức hấp dẫn của hồi kí – tự truyện là nghệ thuật trần thuật hiệu quả. Trần thuật trình tự theo

dòng hồi ức vì tự truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn, hài

hòa giữa diễn biến sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu chuyện.

Tô Hoài đã kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức một cách linh

hoạt tạo nên mạch trần thuật sinh động, sáng tạo. Tác giả kết hợp linh hoạt giữa các kĩ thuật tăng

tốc, giảm tốc, đảo thuật, dự thuật. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn trong tự truyện, hồi kí cũng rất

quan trọng. Điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi không đơn giản mà có sự phối hợp giữa các điểm

nhìn khác tạo ra cảm xúc về cuộc sống đa chiều, nhiều mặt, sự việc có khi được nhìn ở điểm nhìn

của chủ thể, Tô Hoài tự kể về những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính nhà

văn hoặc của một nhà văn nhân vật về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Nghệ thuật kết hợp

ưu thế của các loại diễn ngôn. Kết hợp các diễn ngôn lại với nhau để tạo ra một hiệu quả nghệ thuật.

Trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ, nhà văn có một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Tô Hoài đã sáng tạo và phát huy tối đa sức mạnh ngôn ngữ. Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có giọng điệu rất linh hoạt. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình một giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế.

KẾT LUẬN

Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Tô Hoài có một sức

sáng tạo mạnh mẽ, dài hơi, kiên nhẫn, đều đặn và liên tục, đủ để đưa ông trở thành một trong những

cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Ở mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành công và ghi

được dấu ấn riêng. Riêng ở thể hồi kí, tự truyện ông cũng đã khẳng định được tài năng và sức sáng

tạo mãnh liệt của mình.

1. Trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Tô Hoài, đặc biệt ở thể hồi kí, tự truyện. Hai thể loại

tự truyện và hồi kí – vốn rất gần gũi nhau. Việc đầu tiên chúng tôi thấy sự cần thiết và tính tương

đối khi phân biệt tự truyện, hồi kí trong nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài. Phải dựa vào kết cấu,

nhân vật và kiểu tư duy của tác giả để xem xét. Điểm để nhận rõ được sự khác biệt là yếu tố cảm

xúc, tình cảm cá nhân của tác giả trong phản ánh hiện thực. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút

ra một số kết luận như sau:

2. Nghệ thuật tái hiện, tái tạo hồi ức thông qua cái tôi trong tự truyện – hồi kí Tô Hoài. Đó là

thế giới của hồi ức, thời gian thuộc về quá khứ có một khoảng lùi. Nhà văn đứng trong thời điểm hiện tại khi đã trưởng thành, đứng tuổi để nghĩ về quá khứ trong đó có gia đình, quê hương bối cảnh xã hội được nhớ lại, ghi lại. Hiện thực không phải như trong truyện ngắn, tiểu thuyết mà hiện thực ở đây là trong quá khứ có một khoảng cách về không gian thời gian so với hiện tại trong tác phẩm. Hồi ức được hồi tưởng lại chỉ khi những hình ảnh trong cuộc sống dội vào trái tim tác giả những nhịp đập dữ dội, gây ấn tượng mạnh, đủ sức sống dậy cảm xúc mãnh liệt. Thế giới trong hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, qua tâm hồn, qua tình cảm nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm. Hiện thực thuộc về hôm qua được nhìn lại để suy ngẫm. Nói cái hôm qua để gián tiếp nói đến cái hôm nay. Chính vì thế, cách nhìn thể loại đã chi phối các đặc điểm khác của nghệ thuật hồi kí và tự truyện.

3. Nghệ thuật đi tìm tiếng nói bên trong cái tôi hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Nếu đọc một bài thơ ta gặp gỡ một tâm hồn thì khi đọc hồi kí, tự truyện ta sẽ nhận ra tác giả là ai ? là người như thế nào, bởi mỗi trang viết đã in đậm dấu ấn cá nhân tác giả. Nghệ thuật bộc lộ cái tôi, tác giả đã dùng bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh sống cụ thể, thông qua cách hồi tưởng, dùng câu văn, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại để nhân vật tự biểu hiện, tự bộc lộ tính cách. Đặt điểm nhìn nơi nhân vật sẽ có lợi thế vì nó vừa tả hiện thực vừa trực tiếp nhập vào nhân vật để bộc lộ thái độ suy nghĩ thông qua sự đối thoại độc thoại để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Bởi vì nhân tố đối thoại, độc thoại là đặc tính quan trọng của hoạt động ngôn từ, trả lại cho ngôn từ hình thức nói vốn có của nó như trong đời sống thực. Nghệ thuật khắc họa xây dựng nhân vật khác bằng hồi ức, thông qua hồi ức. Những nhân vật người thân trong gia đình và bạn văn gần gũi hiện ra qua kí ức hồi tưởng của tác giả rất bình dị, đời thường và nhiều cảm động. Tô Hoài đã khuấy động vào con tim

khối óc chúng ta về những con người có số phận lênh đênh, tài hoa nhưng cũng lắm gian truân. Nhờ

Tô Hoài chúng ta đã hiểu thêm được những người nghệ sĩ tài ba ở những cự li gần nhất và hơn hết hiểu được sâu sắc “nghề văn” – một nghề cao quí nhưng cũng đầy gian nan.

4. Sức hấp dẫn của hồi kí – tự truyện là nghệ thuật trần thuật hiệu quả. Trần thuật trình tự

theo dòng hồi ức vì tự truyện, hồi kí luôn tôn trọng sự thật nhưng đôi khi phải giải quyết mâu thuẫn,

hài hòa giữa diễn biến sự kiện trong dòng hồi ức nên phải kết hợp dòng hồi ức và diễn biến câu

chuyện. Tô Hoài đã kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và trần thuật theo dòng hồi ức một

cách linh hoạt tạo nên mạch trần thuật sinh đông, sáng tạo. Tác giả kết hợp linh hoạt giữa các kĩ

thuật tăng tốc, giảm tốc, đảo thuật, dự thuật. Nghệ thuật hòa phối điểm nhìn trong tự truyện, hồi kí

cũng rất quan trọng. Điểm nhìn của chủ thể nhân vật tôi không đơn giản mà có sự phối hợp giữa các

điểm nhìn khác tạo ra cảm xúc về cuộc sống đa chiều, nhiều mặt, sự việc có khi được nhìn ở điểm

nhìn của chủ thể, Tô Hoài tự kể về những việc ông nhớ lại nhưng có khi dùng điểm nhìn của chính

nhà văn hoặc của một nhà văn nhân vật về một nhà văn khác từ đó đưa ra nhận xét. Tạo được tính

chất vừa chân thật – là đặc trưng của tự truyện, hồi kí vừa rất khách quan. Tô Hoài đã lựa chọn cách

hòa phối điểm nhìn phù hợp và rất linh hoạt trong để từ đó dựng lại bộ mặt tinh thần về nhân cách tác giả, với mục đích nghệ thuật khác nhau. Với thể tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã tạo ra được nét riêng biệt, có sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc và làm nên một Tô Hoài với phong

cách riêng.

5. Một thành công nữa của nhà văn Tô Hoài đã kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn. Kết hợp các diễn ngôn lại với nhau để tạo ra một hiệu quả nghệ thuật. Cách tạo bố cục, tỉ lệ diễn ngôn trong tác phẩm sẽ tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Chính là nhà văn đã sáng tạo trong cách trần thuật. Trong Tự truyện, hồi kí Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ, nhà văn có một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Đồng thời vốn ngôn từ ấy càng ngày được bổ sung, được làm giàu thêm nhờ khả năng sáng tạo từ ngữ mới của nhà văn cho nên mọi sự vật hiện tượng và nội dung trong tác phẩm hiện lên thật cụ thể, sống động, giàu hình ảnh, cảm xúc và đậm chất thơ và cảnh vật trở nên sống động, có hồn. Tô Hoài đã sáng tạo và phát huy tối đa sức mạnh ngôn ngữ. Tự truyện, hồi kí của Tô Hoài có giọng điệu rất linh hoạt. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo cho mình một giọng điệu phù hợp với cái tạng vừa sâu sắc, hóm hỉnh, vừa nhẹ nhàng, tinh tế. Giọng điệu trần thuật rất đa dạng phong phú như cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng điệu trần thuật luôn giữ được bản sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái.

Tô Hoài là nhà văn có tấm lòng nhân ái, một trái tim mẫn cảm, một trí tuệ uyên thâm và một bản lĩnh văn hóa vững vàng. Nhà văn quan tâm đến hết thảy những vấn đề bức thiết trong đời sống xã hội và thời đại. Với tâm huyết nghề nghiệp, thái độ lao động nghiêm túc, tích cực, phát huy cá tính sáng tạo, nhà văn Tô Hoài đã gặt được những thành công lớn trong sự nghiệp sáng tác của mình. Với Tự truyện – hồi kí Tô Hoài đã để lại cho nền văn học hiện đại Việt Nam những giá trị to lớn về thể loại và những độc đáo ở phong cách nhà văn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristotle, Lưu Hiệp (Nguyễn Đăng Bảng, Phan Ngọc và những người khác dịch) (1999), Nghệ

thuật thơ ca. Văn tâm điêu long, Hà Nội. NXB Văn Học.

2. Bakhtin, (Phạm Vĩnh Cư dịch) (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Hà Nội. Bộ Văn hóa

Thông tin và Thể thao – Trường viết văn Nguyễn Du.

3. Bakhtin, (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch) (1998), Những vấn đề thi pháp

Đôtxtôiepxki, Hà Nội. NXB Giáo dục.

4. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Hà Nội. NXB Văn Học. 5. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Hà Nội. Đại

học quốc gia Hà Nội.

6. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, NXBGD. 7. Đỗ Đức Hiểu – chủ biên (2006), Từ điển văn học, NXB Thế giới. 8. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Hà Nội. NXB Hội nhà văn. 9. Đỗ Lai Thúy (2000), Mắt thơ, NXB Văn hóa thông tin. 10. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp – Lý thuyết chủ nghĩa hình thức

Nga, Hà Nội. NXB Hội nhà văn.

11. Dương Thị Thu Hiền (2004). Tô Hoài với hai thể văn chân dung và tự truyện. Luận văn Thạc sĩ.

Đại Học Thái Nguyên.

12. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn Học. 13. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NXBTN. 14. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, NXBGD. 15. Hà Minh Đức (2010), Tô Hoài – Sức sáng tạo của một đời văn, NXBGD. 16. Hecto Malot (2000), Không gia đình, NXB văn hóa thông tin HN. 17. Hồ Dzếnh (2001), Chân trời cũ, NXB Văn nghệ TP. HCM. 18. Hoài Thanh, Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam, Hà Nội. NXB Văn học. 19. Hoàng Như Mai (1989), Đọc “Tự truyện” của Tô Hoài, Văn nghệ. 20. Hoàng Như Mai (1971), Kí và giảng dạy kí, Vấn đề giảng dạy TPVH theo loại thể. NXBGD. 21. Khrapchenko, M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Hà Nội. Tác

phẩm mới.

22. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG HN 23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Hà Nội. NXB

Đại học quốc gia Hà Nội.

24. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, TPHCM. NXB Trẻ. 25. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Hà Nội. NXB Giáo dục. 26. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Các nhà văn nói về văn, NXB tác phẩm mới. 27. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Chân dung và phong cách, NXBT.

28. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự,

NXBGD.

29. Nguyễn Hải Hà (2006), Thi pháp tiểu thuyết L.Tonxtoi, NXBGD. 30. Nguyên Hồng (1963), Những ngày thơ ấu, NXB VH. 31. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, NXB VHHN. 32. Nguyễn Khải (2009), Tác phẩm chọn lọc, NXBGD. 33. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội. 34. Nguyễn Phú Bình (1996), Bản sắc dân tộc miền núi trong “ Truyện Tây Bắc” và “Miền Tây” của

Tô Hoài. Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm. TP – HCM.

35. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXBGD. 36. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, NXBT. 37. Nguyễn Thị Thu Hiền (2006), Truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài. Luận văn Thạc sĩ, Đại học

Sư phạm. TP – HCM.

38. Nguyễn Văn Bổng (2003), Với Tô Hoài, (Tuyển tập mười năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ),

NXBGD.

39. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu Văn học, NXB – Khoa học xã hội. 40. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ,

NXBGD.

41. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những

vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXBGD.

42. Nguyễn Văn Long (2009), PTTPVH hiện đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, NXBGD. 43. Nhà văn Nguyên Ngọc, Dế Mèn tự cứu, Báo Tuổi Trẻ ra ngày 7.6.2009. 44. Nhiều tác giả (1994), Tiếng nói tri âm, T1, T2, NXB Trẻ. 45. Phan Cự Đệ (1983), Tuyển tập Nguyên Hồng (tập1), NXB Văn học Hà Nội. 46. Phan Cự Đệ (2003), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXBGD. 47. Phan Cự Đệ chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXBGD. 48. Phan Trọng Thưởng – Nguyễn Hữu Sơn – Trịnh Bá Dĩnh biên soạn (1999), Tuyển tập 40 năm

tạp chí văn học 1960-1999 (Tập 3: Văn học hiện đại Việt Nam), NXB TP.HCM.

49. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện trong văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn Thạc sĩ, Đại học

Sư phạm. TP – HCM.

50. Phong Lê – Vân Thanh (2000), Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, NXBGD. 51. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương – học thuật Việt Nam hiện đại, NXBGD. 52. Phong Lê (2001), Ngót sáu mươi năm văn Tô Hoài (Một số gương mặt văn chương học thuật

Việt Nam Hiện Đại), NXBGD.

53. Phương Lựu (1997), Lý luận Văn Học, NXBGD. 54. Phương Lựu (2009), Vì một nền lý luận Văn Học, NXB Văn học. 55. Tô Hoài (1959), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB VH. 56. Tô Hoài (1969), Nhật kí vùng cao, NXB Thanh niên, HN. 57. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, NXB Tác phẩm mới, HN.

Tô Hoài (1994), Tuyển tập (tập 1), NXB VH.

58. Tô Hoài (1984), Họ Giàng ở Phìn - Sa, NXB Tác phẩm mới, HN. 59. Tô Hoài (1985), Mùa thu Luông Pha - Bang, NXB Thanh niên Hà Nội. 60. Tô Hoài (1985), Tự truyện – hồi kí, NXB VHHN. 61. Tô Hoài (1985), Tự truyện, NXB VHHN. 62. Tô Hoài (1987), Dế Mèn phiêu lưu kí, NXBGD. 63. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai, NXB Hội nhà văn. 64. 65. Tô Hoài (1994), Tuyển tập (tập 2), NXB VH. 66. Tô Hoài (1994), Tuyển tập (tập 3), NXB VH. 67. Tô Hoài (1995), O chuột, NXB Văn nghệ. 68. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, NXB Hội nhà văn. 69. Tô Hoài (1999), Miền Tây (tập 1, 2), NXB Văn học dân tộc. 70. Tô Hoài (1999), Quê nhà, NXB Văn nghệ TP. HCM. 71. Tô Hoài (1999), Trăng thề, NXB Văn nghệ TP. HCM. 72. Tô Hoài (2001), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, NXBGD. 73. Tô Hoài (2003), Mười năm, NXB Hội nhà văn. 74. Tô Hoài (2004), Bút kí Tô Hoài, NXB HN. 75. Tô Hoài (2004), Chuyện cũ Hà Nội (tập 1, 2), NXB Trẻ. 76. Tô Hoài (2005), Hồi kí (Cỏ dại, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Những gương mặt) NXB Hội nhà

văn.

77. Tô Hoài (2006), Giấc mộng ông thợ dìu, NXBHNV. 78. Tô Hoài (2007), Tạp bút, NXB Hội nhà văn. 79. Tô Hoài (2009), Những ngõ phố, NXB Hội nhà văn. 80. Trần Đăng Khoa (1999), Chân dung và đối thoại, NXBTN. 81. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, NXBGD. 82. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Hà Nội. NXB Đại

học Sư phạm.

83. Trần Hữu Tá, Nguyễn Trí (1985), Truyện và kí Việt Nam 1955 – 1975, Hà Nội. NXBGD. 84. Trần Hữu Tá ( 2001), Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, NXB Trẻ. 85. Trần Mạnh Hảo (2004), Văn Học Phê bình – Tranh luận, NXBLĐ. 86. Trịnh Bá Dĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, TP.HCM. Giáo dục – Trung tâm nghiên

cứu quốc học.

87. Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, 4 tập, Sài Gòn. NXB Thăng Long. 88. Vương Trí Nhàn (2002), Tô Hoài và thể hồi kí, Tạp chí văn học số 8, tháng 8, 2002. 89. Vương Trí Nhàn (2004), Trở lại cái thời lãng mạn – Về tiểu thuyết “Thượng đế thì cười” của

Nguyễn Khải, Báo Văn nghệ ngày 7/8/2004.

90. Xuân Sách và Trần Đức Tiến (1993), Trao đổi về “Cát bụi chân ai”, Báo Văn nghệ 13/11/1993.

PHỤ LỤC