ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG ĐẶC ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành:Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành:Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.01.21

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Mai Hương

Nơi công tác : Viện Văn học

Hà Nội – 2012

1. Lí do chọn đề tài...........................................................................................3

2. Lịch sử vấn đề: ........................................................................................... 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ........................................................... 13

4. Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................... 14

5. Những đóng góp mới của đề tài ............................................................... 14

6. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 14

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................3

PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................. 16

CHƯƠNG 1: NHÌN LẠI CHẶNG ĐẦU SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN

NGỌC TƯ ............................................................................................................... 16

1.1 Đôi nét về con người và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ....................... 16

1.2. Quan niệm văn chương và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ................... 18

1.2.1. “Tôi viết như cảm xúc của mình” ....................................................... 18

1.2.2. “Tôi như kẻ đẽo cày giữa đường” ...................................................... 21

1.2.3. Cái “Tôi” nhà văn là cái “Tôi” cô đơn ............................................ 23

1.2.4 “ Con đường viết lách là con đường nhọc nhằn khủng khiếp…" .... 24

1.2.5 “Chậm thôi, giữ lửa và chờ đợi” ......................................................... 26

1.3. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư.................. 27

1.3.1. Con người sống là để yêu thương ....................................................... 27

1.3.2. Con người “Sống là luôn hy vọng…” ................................................ 29

1.3.3. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng mới quý” ............................. 30

1.4. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi mới . 31

1.5. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút độc đáo đậm chất Nam Bộ .................... 35

CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ ............................................................................................. 38

2.1 Khái lược về thế giới nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư ....... 38

2.1.1. Quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về nhân vật văn học......................... 39

2.1.2. Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư với nhân vật của

một số nhà văn nữ cùng thời ............................................................................ 40

1

2.2. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ........................... 42

2.2.1. Nhân vật kiếm tìm ................................................................................... 43

2.2.2. Nhân vật sám hối .................................................................................... 47

2.2.3. Nhân vật lưu lạc ...................................................................................... 50

2.2.4. Nhân vật cô đơn ...................................................................................... 55

2.2.5. Nhân vật nghèo khổ, bất hạnh ............................................................... 62

Tiểu kết .......................................................................................................... 65

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ ............................................................................................. 66

3.1 Người kể chuyện ...................................................................................... 66

3.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất ........................................................... 66

3.1.2. Người kể chuyện ở ngôi kể thứ ba ......................................................... 67

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 68

3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống “có vấn đề”................................. 68

3.2.2. Chú ý đến ngoại hình và nội tâm nhân vật trong xây dựng tính cách

nhân vật.............................................................................................................. 69

3.2.3. Các nhân vật bộc lộ tính cách của mình qua lời nói và hành động. ... 72

3.3 Giọng điệu trần thuật ................................................................................ 74

3.3.1 Giọng điệu dân dã, mộc mạc, tự nhiên ................................................... 74

3.3.2. Giọng điệu ấm áp, chan chứa yêu thương ............................................ 78

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, mượt mà ................................................................ 81

3.4. Ngôn ngữ ............................................................................................... 84

3.4.1 Ngôn ngữ đời thường đậm chất Nam Bộ ................................................ 84

3.4.2 Ngôn ngữ của một vùng “văn hóa sông nước” ..................................... 88

Tiểu kết .......................................................................................................... 89

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 92

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Hơn hai mươi năm trở lại đây, văn học Việt Nam có nhiều biến

chuyển đa dạng và phức tạp. Khác với văn học của những thời kì trước,

văn học thời kì này đã thể hiện những cái nhìn mới về hiện thực đời sống,

về con người. Đề tài thay đổi và mở rộng, cảm hứng đời tư, thế sự được đề

cao. Cái nhìn của tác giả cũng có sự thay đổi, hiện thực được khai thác sâu

hơn, chân thực hơn, đa chiều hơn. Bởi thế văn học thời kì này có những

màu sắc phong phú đồng thời cũng từng gây nhiều tranh luận.

Sự chuyển đổi của văn học có được nhờ sự đóng góp của nhiều cây

bút ở các thế hệ khác nhau, trong đó có phần đóng góp đáng quý của

những cây bút nữ trẻ và đầy sáng tạo. Thế mạnh của những cây bút nữ

ngày càng được khẳng định. Từ sáng tác của những cây bút quen thuộc:

Dạ Ngân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Phan

Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Thuận…đến những cây bút mới xuất hiện

như Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư… đều thực sự gây được sự chú ý của

công luận. Sự gia tăng một cách đáng kể và nét riêng đặc sắc trong sáng

tác của những cây bút nữ trên văn đàn khiến nhiều ý kiến cho rằng, văn

học thời kì đổi mới là nền văn học “mang gương mặt nữ”.

Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, khoảng mười năm đầu

thế kỷ XXI người yêu văn chương cũng như giới phê bình nghiên cứu

không còn xa lạ với Nguyễn Ngọc Tư. Tên tuổi của chị gắn với những tác

phẩm có dấu ấn với bạn đọc và giới phê bình. Ngay từ những tác phẩm đầu

tiên, Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến những “hương vị lạ” và nhanh chóng

tạo được một phong cách riêng độc đáo. Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư đã có

những bước tiến khá tự tin và vững chắc trong văn đàn Việt Nam. Dường

3

như mỗi tác phẩm của chị đều được công chúng đón đọc, quan tâm, đặc

biệt Cánh đồng bất tận đã tạo được những cuộc tranh luận khá thú vị trên

văn đàn, đã được chuyển thể kịch bản điện ảnh và đoạt giải thưởng cao

trong Liên hoan phim. Là cây bút trẻ nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã đoạt

được nhiều giải thưởng cao quý của Hội Nhà văn Việt Nam và các cơ quan

ngôn luận, diễn đàn văn nghệ có uy tín. Chị cũng là cây bút trẻ nhất được

vinh dự nhận giải thưởng văn học Asean. Với những thành công và đóng

góp của chị, Nguyễn Ngọc Tư thực sự là một “hiện tượng” rất cần được

quan tâm nghiên cứu thấu đáo. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù số lượng

bài viết về Nguyễn Ngọc Tư khá nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là các bài viết

về những tác phẩm cụ thể đăng tải trên một số báo, tạp chí và Internet.

Thực tế cũng đã có một vài luận văn, khóa luận, báo cáo khoa học nghiên

cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng cũng mới chỉ đi vào một số

phương diện cụ thể. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư xứng đáng là

một đối tượng cho một đề tài nghiên cứu kĩ càng hơn, hệ thống và đầy đủ

hơn. Hơn nữa, từ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư cũng có thể thấy được

phần nào những vấn đề chung của văn xuôi đổi mới. Những lý do đó, cùng

với sự yêu thích đặc biệt đối với nhà văn nữ này, khiến chúng tôi chọn

nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ”.

2. Lịch sử vấn đề:

Ngay từ đầu, Nguyễn Ngọc Tư đã thu hút được công chúng với một

phong cách mới lạ và độc đáo đậm dấu ấn Nam Bộ. Khi tập Ngọn đèn

không tắt đến với công chúng, “Nhiều bài báo, nhiều tiếng khen trong

Nam ngoài Bắc phát hiện về Nguyễn Ngọc Tư, một hiệu ứng đọc ít thấy từ

lâu” (Dạ Ngân - Nguyễn Ngọc Tư điềm đạm mà thấu đáo). Huỳnh Kim

trong bài Gặp Nguyễn Ngọc Tư nhận xét: “Văn chương sâu sắc mà dung

dị, tinh tế mà tràn đầy tính nết của người dân Nam Bộ trong khi tác giả

mới hai mươi bốn tuổi…Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là những câu

4

chuyện nhà quê. Ở trong đó, ai đọc, dù không hợp gu cũng như tìm được

bóng dáng nhà quê của riêng mình”. Đối thoại với Cánh đồng bất tận,

Chu Lai đánh giá “Nguyễn Ngọc Tư là cây bút tiêu biểu của miền Tây Nam

Bộ, một tài năng văn học hiếm có hiện nay của văn học Việt Nam”. Trong

bài Khi cánh đồng mở ra, Phạm Xuân Nguyên khẳng định bút lực của

Nguyễn Ngọc Tư trong việc “đào sâu vào hiện thực đời sống và khơi sâu

vào thân phận con người…” “Nguyễn Ngọc Tư có tài năng văn chương và

có lòng thương người…Thương người bằng những nỗi đau của con người,

bằng cái cách nhìn thẳng vào những vùng sáng tối chồng chéo trên những

khuôn mặt người và trong những cõi lòng người ”. Trong Lời giới thiệu

tập truyện, nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhận xét: Ngọn đèn không tắt “đã

tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hương vị của mảnh đất

cuối cùng của Tổ quốc – mũi Cà Mau, của những con người tứ xứ, về mũi

đất của rừng, của sông nước, của biển cả mà cha ông ta đã dày công khai

phá…Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị,

bộc trực ấy chứa đựng bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu, vừa tinh

tế qua cách đối nhân xử thế”. Trần Phỏng Diều trong bài Thị hiếu thẩm mĩ

trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt quan tâm đến “vùng thẩm mĩ

” đặc sắc trong sáng tác của chị: “Có thể nói, thị hiếu thẩm mĩ trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tư được biểu hiện qua hình tượng người nghệ sĩ, hình

tượng người nông dân và hình tượng con sông uốn khúc chở nặng tình

người”. Cũng đã có những ý kiến quan tâm đến vấn đề nhân vật của

Nguyễn Ngọc Tư. Trong bài Hãy nâng niu và trân trọng một nhân tài, Lê

Vĩnh Trang nhận xét: “Những nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn

Ngọc Tư giống như bức ảnh chân dung nghệ thuật của một nhà nhiếp ảnh

cừ khôi. Sống động và ấn tượng. Là người thấm nhuần tư tưởng Phật giáo,

Nguyễn Ngọc Tư bao dung trong xây dựng nhân vật của mình, cái xấu cái

tốt cũng đều có nguyên nhân của nó, nhưng không vì thế mà nó làm giảm

đi giá trị của câu chuyện, trái lại, nó làm tăng thêm tính nhân bản của con

5

người”. Coi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ tài năng của Nam Bộ, Huỳnh

Công Tín đánh giá “Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người

Nam Bộ với những cái tên hết sức bình dị, chân chất kiểu Nam Bộ…Họ

mang những tâm tư, nguyện vọng hết sức đời thường. Đó là những người

sinh sống bằng những ngành nghề cũng gắn liền với quê hương sống nước

Nam Bộ. Đặc biệt, vùng đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị

được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều

chất Nam Bộ của chị”.

Yêu mến văn tài của Nguyễn Ngọc Tư, Giáo sư Trần Hữu Dũng –

một Việt kiều tại Mỹ đã lập riêng một trang web có tên là:

www.Vietstudies.org để thu thập các bài viết, tác phẩm của Nguyễn Ngọc

Tư. Chính ở trang web này, trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư – Đặc sản

miền Nam Giáo sư Trần Hữu Dũng đã đánh giá về nghệ thuật viết truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Theo ông “Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư

chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khai mở những sinh hoạt trước mắt.

Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái hay từng có, cô

không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà chưa từng

thấy. Cô đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng. Và qua đó lạ thay,

như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính

chúng ta. Cái khác biệt của Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn khác ở chỗ

đó”. Riêng về nhân vật, ông nhận xét: “Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư hay

khóc và nhiều khi cô khuyến khích nhân vật của mình khóc…nhưng để ý,

cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì yêu thương, không oán giận. Không

phải cái khóc nghẹn ngào, day dứt. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa

miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khắc thì mưa sẽ

tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông

vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình ”.

Trong bài Im lặng thế đấy Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: “Người đọc

6

bất ngờ trước những kiếp người, phận người hôm nay, tại đây như trong

truyện kể, và bất ngờ trước một văn bút khá lạ của người viết truyện.

Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào những vỉa tầng cuộc sống của

những vùng đất cô sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình, văn Tư bắt đầu

là như thế”.

Truyện ngắn Cánh đồng bất tận được coi là một hiện tượng của năm

2005, đã tiêu tốn bao giấy mực của bạn đọc và các nhà nghiên cứu văn

học. Dư luận nhiều chiều khen có, chê có nhưng nhìn chung là tác phẩm

đã được đánh giá cao và đã nhận được giải thưởng cao.

Nguyễn Hòa – nhận xét: “Trong bối cảnh văn chương năm 2005

truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư trở thành một điểm

sáng không cần tới bất cứ sự lăng xê nào”.

Trong cuộc trao đổi cùng các nhà văn Trung Trung Đỉnh và Chu

Lai, nhà thơ Hữu Thỉnh nhấn mạnh: “Nguyễn Ngọc Tư đã có sự bứt phá

rất ngoạn mục, tự vượt lên chính mình và tạo nên bất ngờ thú vị cho giới

nhà văn…Cánh đồng bất tận viết về những con người Nam Bộ với tính

cách đặc thù: Chân thực, chất phác, hồn nhiên và bản năng…Hai nhân

vật đứa trẻ trong tác phẩm là nạn nhân lớn lên tự nhiên như đàn vịt, thiếu

thốn sự quan tâm và những cử chỉ yêu mến của người thân. Điều đó đã lay

động trái tim của hàng nghìn độc giả”. Hữu Thỉnh đặc biệt quan tâm và

đánh giá cao “không khí của tác phẩm: cuộc sống Nam Bộ, hơi thở Nam

Bộ, nhân vật Nam Bộ, ngôn ngữ Nam Bộ thấm đẫm, nồng nàn trong “cánh

đồng”. Đi sâu vào nội dung của tác phẩm Cánh đồng bất tận tác giả Hữu

Thỉnh viết: “Thông điệp của Tư ở đây là con người sống phải biết khoan

dung và tha thứ. Chỉ có lấy ân báo oán thì con người mới có thể nguôi

ngoai được lòng thù hận nỗi đau, nhờ đó người sẽ người hơn, sẽ lớn lên ”.

Hữu Thỉnh cũng đánh giá cao nghệ thuật thể hiện của Nguyễn Ngọc Tư

7

trong Cánh đồng bất tận. Theo Hữu Thỉnh, Nguyễn Ngọc Tư “đã tiến

thêm một bước về nghệ thuật và xây dựng được những nhân vật đa diện;

nhiều góc cạnh và xây dựng được bối cảnh của câu chuyện rất Nam Bộ”.

Từ Australia, Phạm Tuấn trân trọng và yêu quý sáng tác của Nguyễn Ngọc

Tư, đặc biệt Cánh đồng bất tận: “Đọc toàn bộ tác phẩm tôi thấy rõ mồn

một những cảnh đời có thực xung quanh tôi được tái hiện đầy đủ

nhất…Nhân vật trong tác phẩm dù được miêu tả một cách đê hèn, nghèo

nàn, lạc hậu thì thẳm sâu trong tâm khảm họ vẫn còn cháy bỏng lên một

khát vọng tình cảm lớn lao”. T.Phương trong bài Đẹp - xấu trong “Cánh

đồng bất tận” nhận xét “Nhân vật trong tác phẩm vẫn thật nhân hậu, biết

yêu thương, biết tha thứ và khao khát một cuộc sống không thù hận”.

Tác giả Hoàng Thiên Nga với bài Cánh đồng bất tận và những vấn

đề liên quan dành cho Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của chị những nhận

xét thiện cảm: “Vẫn bút pháp giản dị, gọn ghẽ đầy âm sắc Nam Bộ, cách

chọn lọc ngôn ngữ, cử chỉ sống động như đẽo như tạc, trên bối cảnh tiêu

sơ ruộng đồng sông nước Cửu Long vẫn là những mảnh đời nghèo khó

xiêu dạt bơ phờ vì áo cơm. Nhưng không cũ mòn, không nhàm chán, mạch

văn liên kết bởi nhiều chi tiết, hình ảnh thú vị, cốt truyện hình thành theo

dòng suy tưởng của nhân vật xưng “tôi” nhẫn nhịn lặng lẽ mà xuyên mỗi

lúc một sâu phơi mở tận đáy tâm hồn, tính cách, số phận con người”.

Và cuối cùng tác giả dành những lời nhận xét đầy hi vọng cho

Nguyễn Ngọc Tư “Tôi tin với tư chất thông minh và văn tài thiên phú,

Nguyễn Ngọc Tư đủ bản lĩnh để tỉnh táo trên quãng đường dài văn nghiệp

vốn không hiếm cạm bẫy danh vọng và vô số khen chê luôn dễ khiến người

nghe ngộ nhận đánh mất mình”.

Bài viết: Ngày đầu năm đọc Cánh đồng bất tận với sức hút kì lạ

nhận xét: “…đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc chỉ nên đọc một

8

truyện rồi gấp lại, ngẫm nghĩ về nỗi đau thân phận người, thấu hiểu tâm

trạng của nhân vật và một chút trải nghiệm của tác giả hơn phần nào

thấm thía cái giọng văn đặc sệt miền Tây. Đó chính là nỗi đau mà dẫu vô

tình hoặc cố ý xây dựng nhân vật, Tư tạo nên một phong cách không lẫn

vào ai - ấy là chỗ văn Tư đọng vào lòng người sau những giờ phút mệt

nhọc với cuộc sống cơm áo gạo tiền, đọc thư giãn, đọc nghiền ngẫm thấy

thật hay và tinh tế ” (66).

Nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được đặt dưới góc nhìn văn

hóa. Tác giả Nguyễn Trọng Bình trong Bài viết truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư từ góc nhìn văn hóa đã viết: ý thức trân trọng, giữ gìn truyền thống văn

hóa dân tộc trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trước hết được thể hiện ở

sự khẳng định và niềm tự hào của nhà văn về những phẩm chất và giá trị

văn hóa của vùng sông Cửu Long. Hay tác giả Phạm Phú Phong lại đi sâu

vào lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư . Tác giả nhận thấy lời đề

từ có thể là danh ngôn, một câu hát dân gian, ... thể hiện chiều sâu của tư

tưởng, ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm

Nhà văn Dạ Ngân đánh giá cao tài năng của Nguyễn Ngọc Tư. Theo

Dạ Ngân: “Nguyễn Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng không có gì mà Tư cũng

viết được, lại viết rất có duyên, nhân hậu. Đọc cái nào cũng phải nhoẻn

miệng cười sung sướng, sung sướng mà lại ứa nước mắt, thấy nước mắt

của mình cũng trong trẻo và đẹp đẽ, ấy là cái đáng giá mà Tư cho người

đọc hôm nay”. Theo Dạ Ngân, truyện của Nguyễn Ngọc Tư là “chuyện về

những cảnh ngộ, những thân phận, những mảnh đời thường nhật. Nó cho

thấy tác giả có thể dài hơi về kiểu nhân vật này. Tất cả được diễn đạt bằng

thứ ngôn ngữ Nam Bộ lấp lánh và một giọng văn dung dị, đặc biệt ấm áp ”.

Tác giả còn khen ngợi khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư:

“Cái cách của Tư là tuyệt vời. Tôi thấy phương ngữ mà Nguyễn Ngọc Tư

đưa vào truyện bao giờ cũng có sự cân nhắc cho sự đóng góp vào vốn

9

liếng chung của ngôn ngữ quốc gia. Những người bẩm sinh có tài năng

lớn thì họ mới làm được cái đó chứ! Nó tự nhiên như không thôi! Thả cái

chữ ra thì đúng là cái chữ đó thôi không phải cái chữ nào khác”. Quả thực

Nguyễn Ngọc Tư đã có sự sáng tạo về ngôn ngữ dựa trên nền chung là

ngôn ngữ mang đậm bản sắc Nam Bộ.

Tác giả Văn Công Hùng cũng có nhận xét về góc độ ngôn ngữ trong

tác phẩm Hai đứa trẻ “Các câu thoại cũng thế. Đầy bất ngờ và lí thú, đậm

đặc bản sắc Nam Bộ. Đậm đặc tới mức dẫu chưa một lần tới Nam Bộ cũng

thấy nó hiện ra mồn một khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tư. Chất Nam Bộ ấy ẩn

chứa trong tâm hồn những con người sống nơi tận cùng của Tổ quốc,

phóng khoáng và nhân hậu, thẳng thắn, trung thực hết mình trong cuộc

sống… Số phận cột họ vào mảnh đất này và sống chết với nó một cách

dung dị, cương trực”(52).

Báo Tiền phong ra ngày 31 tháng 1 năm 2006 có bài đánh giá về văn

Nguyễn Ngọc Tư “Văn phong giản dị, ngôn ngữ truyện cứ như được kể

vào từ đời thường, nhưng chính những nỗi đau của những kiếp người,

những số phận nhỏ bé ở một vùng quê nghèo và triết lí nhân quả của cuộc

đời làm nên sức ám ảnh lớn cho truyện” (47).

Nhìn chung, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số hiếm những tác giả

trẻ nhận được những lời nhận xét, đánh giá cao, được coi là một “hiện

tượng” của đời sống văn học.

Trong một bài viết của mình, tác giả Bùi Đức Hào khẳng định

“Nguyễn Ngọc Tư là một tài năng. Cô ấy không còn là người của một vùng

đất Cà Mau cụ thể nữa. Cô ấy là tài sản quốc gia, là của Việt Nam. Mà tài

năng dù ở đâu cũng vậy, chỉ có thể phát triển được nếu được sự phát hiện,

10

nâng niu, bồi dưỡng, vun đắp của toàn xã hội”.

Tác giả Lê Thiếu Nhơn trong bài Nguyễn Ngọc Tư – Nhìn từ đỉnh

cao văn chương đánh giá Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ xứng tầm

với các tác giả Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thịệp, Bảo Ninh… Cũng

như vậy, nhiều độc giả chọn chị là người của thế hệ kế tục nhà văn Sơn

Nam.

Bà Quách Thu Nguyệt, Giám đốc nhà xuất bản Trẻ cảm nhận: “Tôi

thích những sáng tạo trong phong cách của tác giả trẻ như Nguyễn Ngọc

Tư. Tác phẩm của họ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ và tạo văn hóa đọc”.

Năm 2008 là năm đánh dấu thành công của Nguyễn Ngọc Tư. Chị là

một tác giả trẻ vinh dự giành được giải thưởng văn học ASEAN 2008.

Cuốn sách Cánh đồng bất tận đã gây được ấn tượng tốt. Không chỉ dừng

lại ở đó, tác phẩm này đã được chuyển thể thành kịch bản sân khấu và kịch

bản phim nhựa. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của chị

đang ngày càng có một vị thế cao.

Năm 2008, cũng được coi là một năm đặc biệt với Nguyễn Ngọc Tư.

Chị cho xuất bản tập truyện ngắn Gió lẻ và chín câu chuyện khác. Tác

phẩm này cũng nhận được sự quan tâm của các nhà phê bình và đông đảo

bạn đọc. Trong bài viết dài Thử nhận định về Gió lẻ sau hiện tượng Cánh

đồng bất tận, Bùi Đức Hào cho rằng đây là một sự sáng tạo mang tính đột

phá “Nguyễn Ngọc Tư là một hiện tượng, là cơ may cho một nền văn học

dễ chừng đang bí lối, trong một xã hội buông chèo, mắc cạn”.

Những tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, Biển người mênh mông,

Gió lẻ và chín câu chuyện khác, Cánh đồng bất tận đem lại cho Nguyễn

Ngọc Tư nhiều giải thưởng cao. Bên cạnh đó chị còn là một cây bút viết

tạp văn, tản văn khá hay. Một số tạp văn :Ngày mai của những ngày mai

(2007), Sống chậm thời @ (In chung với Lê Thiếu Nhơn), Tạp văn Nguyễn

11

Ngọc Tư (2005), Biển của mỗi người (2008), Yêu người ngóng núi (2009),

Khói trời lộng lẫy (2010) và Gáy người thì lạnh (2012) có sức thu hút

đông đảo bạn đọc. Những vấn đề được đặt ra trong tản văn của Nguyễn

Ngọc Tư tưởng như rất nhỏ nhặt, nhưng đầy suy ngẫm. Tất cả đều bắt

nguồn từ những gì chị từng nếm trải, chứng kiến và chiêm ngưỡng. Các

bài viết về tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư đều khá thống nhất trong sự

khẳng định: Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây tạp bút nổi bật trên

văn đàn hiện nay.

Các bài viết phê bình, nghiên cứu còn nhiều song chúng tôi xin dừng

lại ở những bài tiêu biểu. Cùng với những bài viết đó, còn có một số công

trình khoa học, luận văn, khóa luận về Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của

chị như:

1. Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ

phương diện giá trị văn học, văn hóa, Luận văn thạc sĩ văn học, của

Dương Thị Kim Thoa.

2. Quan niệm nhân sinh của người phụ nữ qua các sáng tác văn xuô i

thời kì đổi mới qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo,

Nguyễn ngọc Tư, Luận văn Thạc sĩ văn học của Bùi Phương Anh.

3 Gia đình hiện đại trong truyện ngắn một số cây bút nữ Dạ Ngân,

Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu,

Khóa luận tốt nghiệp của Hoàng Lan Phương.

4. Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,

Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Hà, 2006.

5. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Khóa luận

12

tốt nghiệp của Lương Thúy Hà, 2009.

6. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Khóa

luận tốt nghiệp của Phú Thùy Hương.

7. Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một

số cây bút nữ thời kì 1986 – 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc

Tư, Đỗ Bích Thúy)…

Nhìn lại lịch sử nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, có thể

thấy, các bài viết, các công trình nghiên cứu về tác phẩm của tác giả

Nguyễn Ngọc Tư khá phong phú, tuy nhiên chủ yếu mới dừng lại ở từng

tác phẩm, hoặc đi vào một số khía cạnh trong sáng tác của chị. Với luận

văn này, chúng tôi sẽ cố gắng khảo sát một cách hệ thống, thấu đáo sáng

tác của Nguyễn Ngọc Tư, từ đó đúc rút những nét riêng độc đáo cả về nội

dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện, khẳng định những đóng góp đáng

quý của tác giả Nguyễn Ngọc Tư với nền văn học nước nhà.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn đi sâu tìm hiểu ba vấn đề cơ bản:

- Quan niệm văn chương và chặng đầu sáng tác của Nguyễn Ngọc

Tư.

- Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

- Đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn khảo sát toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ở các thể

loại truyện ngắn, ký, tản văn, tạp văn. Tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn,

13

luận văn chủ yếu tập trung vào thể loại truyện ngắn.

- Để có điều kiện so sánh làm nổi bật nét riêng trong phong cách

sáng tạo của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi cũng khảo sát một số tác phẩm

tiêu biểu của các cây bút chuyên viết về Nam Bộ như Sơn Nam, Phi Vân,

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi, Dạ Ngân…và một số nhà

văn nữ cùng thời.

4 . Phương pháp nghiên cứu:

4.1. Phương pháp phân tích tác phẩm

4.2. Phương pháp cấu trúc hệ thống

4.3. Phương pháp phân loại, thống kê

4.4. Phương pháp so sánh.

5. Những đóng góp mới của đề tài

Với đề tài Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, luận văn sẽ làm

nổi bật một số vấn đề sau đây:

1. Làm rõ quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về văn chương, con người và sự chi phối của những quan niệm đó đến sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

2. Khảo sát và hệ thống các kiểu nhân vật và những đặc điểm nổi

bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư.

3. Chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung

14

chính của luận văn được triển khai trong ba chương:

Chương 1: Nhìn lại chặng đầu sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Chương 2: Thế giới nhân vật trong sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư

Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của

15

Nguyễn Ngọc Tư

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHÌN LẠI CHẶNG ĐẦU SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ

1.1 Đôi nét về con người và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 trong một gia đình nghèo tại xã

Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư có một tuổi

thơ khá vất vả. Khi còn nhỏ chị vừa học vừa phải làm việc nhà, việc ruộng

vườn giúp gia đình. Đến năm 15 tuổi, khi chị mới học hết lớp 9 thì gia

đình gặp biến cố: Ông ngoại mất, kinh tế gia đình vô cùng khó khăn nên

chị phải rời ghế nhà trường. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư vẫn không hề nản

lòng. Chị bắt đầu viết tại làng quê với sự động viên của người cha: “Nghĩ

gì viết nấy, viết những gì con đã trải qua”. Và cũng chính cha của chị đã

mang ba truyện đầu tay của chị gửi đến tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau

và được chọn đăng. Sau đó chị được nhận vào làm văn thư và học làm

phóng viên tại báo này. Sau chuyến đi công tác trong cơn bão số năm tại

Đất Mũi chị đã hoàn thành tập kí sự mang tên Nỗi niềm sau cơn bão dữ.

Tác phẩm này đoạt giải ba Giải Báo chí toàn quốc năm 1997 và chắp cánh

cho những mơ ước của chị. Nguyễn Ngọc Tư chính thức bước vào nghề

văn với nhiều giải thưởng: Giải nhất văn học tuổi hai mươi do báo Tuổi trẻ

tổ chức; giải B của Hội Nhà văn Việt Nam về truyện ngắn 2000 với tác

phẩm Ngọn đèn không tắt; giải tác giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên

hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Chị đã gia nhập Hội Nhà văn

Việt Nam, được đánh giá là một trong những nhà văn trẻ được chú ý ở

Việt Nam hiện nay. Chị lập gia đình với một thợ kim hoàn và hiện đang

cùng chồng con cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí

16

Văn nghệ bán đảo Cà Mau và Hội Văn học Nghệ thuật Cà Mau.

Trong bút kí của Trần Hữu Dũng - một Việt kiều tại Mỹ, tác giả đã

nhận xét về Nguyễn Ngọc Tư “phong cách ngoan hiền nhưng kiên quyết,

cuộc sống giản đơn nhưng thấp thoáng một nội tâm phức tạp và bí ẩn ”.

Đó là trong đời thường còn trong văn chương, Nguyễn Ngọc Tư thường ví

truyện của mình “như trái sầu riêng” – nhiều người thích nhưng cũng

không ít người dị ứng. Mỗi trang văn của Nguyễn Ngọc Tư không đơn

giản là một bức tranh để ngắm mà ở mỗi câu mỗi chữ đều ẩn chứa những

tiếng lòng, tiếng thổn thức về cuộc sống của những số phận, những mảnh

đời”.

* Các tác phẩm chính đã xuất bản:

1. Ngọn đèn không tắt (Tập truyện – NXB Trẻ - 2000)

2. Ông Ngoại (Tập truyện thiếu nhi – NXB trẻ - 2001)

3. Biển người mênh mông (Tập truyện – NXB Kim Đồng – 2003)

4. Giao thừa (Tập truyện – NXB Trẻ - 2005)

5. Nước chảy mây trôi (tập truyện và kí – NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2004)

6. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (tập truyện – NXB Văn hóa Sài Gòn – 2005)

7. Cánh đồng bất tận (Tập truyện - NXB Trẻ - 2005)

8. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (NXB Trẻ - 2005)

9. Ngày mai của những ngày mai (Tạp văn – NXB Phụ nữ - 2007)

10. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện – NXB Trẻ - 2008)

11. Yêu người ngóng núi (Tản văn – Nhà xuất bản Trẻ - 2009).

12. Khói trời lộng lẫy (tập truyện hay tạp văn? – Sài Gòn truyền thông và Nhà xuất bản Thờì đại – 2010).

17

13. Gáy người thì lạnh (Tạp văn – Nhà xuất bản (tên ?) – 2012).

* Giải thưởng:

1. Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II – Tác

phẩm Ngọn đèn không tắt – 2000.

2. Giải B Hội Nhà văn Việt Nam – tập truyện Ngọn đèn không tắt –

2000.

3. Giải ba cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ với truyện Đau gì như

thể.

4. Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các

Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu

biểu năm 2003 do Trung ương Đoàn trao tặng.

5. Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2006, Tác phẩm Cánh

đồng bất tận.

6. Giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á (ASEAN) 2008.

Thời gian gần đây tác phẩm Cánh đồng bất tận đã được chuyển thể

thành phim và được công chúng nồng nhiệt đón nhận.

1.2. Quan niệm văn chương và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn nữ luôn có ý thức bộc

lộ một cách thẳng thắn những quan niệm về văn chương và sáng tác của

mình. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có một số quan niệm độc đáo và nổi

bật sau:

1.2.1. “Tôi viết như cảm xúc của mình”

Cho dù viết về mảng nào, lĩnh vực nào thể loại nào thì với Nguyễn

Ngọc Tư, điều quan trọng vẫn là cảm xúc. Cảm xúc thật từ đời sống chỉ có

được khi trực tiếp sống, thực sự hòa nhập với đời sống.

Trong một bài phỏng vấn Nguyễn Ngọc Tư, người phỏng vấn đặt

câu hỏi : “Các nhà văn hay nói về kĩ thuật viết. Chị có nghĩ mình cũng tạo

18

“kĩ thuật “viết riêng” gây hấp dẫn bạn đọc”. Nguyễn Ngọc Tư thẳng thắn

trả lời: “… một trang viết chỉ có kĩ thuật thôi mà không có thế thái nhân

tình, không hồn vía con người thì ai mà chịu đọc”.

Trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư “Sáng tác thì cứ lúc nào thấy

xúc động, đủ cảm xúc, có suy nghĩ về cái mình trải qua, có nhu cầu phải

viết, nếu không viết chắc…tự tử mất thì viết thôi”. Văn chương của

Nguyễn Ngọc Tư dung dị mà không kém phần sâu sắc bởi nó được viết từ

những cảm xúc thôi thúc tự trong lòng. Chị bộc bạch: “Bao giờ khi bắt tay

vào viết, tôi cũng nghĩ thoáng qua tác phẩm mới này ai sẽ khen, và biết cả

một vài khuôn mặt những người chê. Lần nào cũng nghĩ nhưng lần nào

cũng viết như cảm xúc của mình bởi trước khi viết cho ai đó thì tôi viết

cho mình”. Ở một chỗ khác, chị tâm sự: “Trong văn chương, tôi thường

không có kế hoạch gì, tùy vào cảm hứng” . “Tôi là đứa viết văn không

chuyên, dựa vào cảm xúc mà viết”. Nhìn như vậy có thể thấy, trước sau

Nguyễn Ngọc Tư vẫn coi trọng cảm xúc, lấy cảm xúc làm điểm tựa cho

văn chương.

Nói đến văn là nói đến cảm xúc. Nguyễn Ngọc Tư cũng không ép

mình viết khi không thực sự có cảm xúc. Chị mong muốn những trang văn

chị dành tặng cho độc giả phải là những trang thấm đẫm cảm xúc của

chính chị. Với Nguyễn Ngọc Tư, một truyện được viết ra là trút bỏ một cái

gì đó từ cảm xúc của mình. Sau tác phẩm Cánh đồng bất tận nhiều ý kiến

phản hồi thậm chí trái chiều, nhiều ý kiến phê phán gay gắt, nhưng

Nguyễn Ngọc Tư vẫn bình tâm bởi với chị, điều quan trọng là chị đã viết

những gì mà chị cảm nhận được. Sau này số lượng tác phẩm có tăng lên,

nội dung phong phú hơn, chị vẫn viết theo cảm xúc hồn nhiên của mình.

Nguyễn Ngọc Tư cũng đã từng tâm sự, chị lấy cảm hứng từ cuộc

sống và số phận của những nhân vật nhỏ bé, những người nông dân nghèo,

19

lam lũ, những người nghệ sĩ nghèo khổ bất hạnh, những đứa trẻ đáng

thương, những người đàn bà tội nghiệp…ở chính vùng quê Nam Bộ của

chị. Chính những tình cảm, số phận trớ trêu của họ đã tạo cảm xúc cho

Nguyễn Ngọc Tư sáng tác.

Chị cũng tâm sự “Chưa có bao giờ má dạy tôi viết văn nhưng những

gì mà tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng”. Những

con người, những kỷ niệm, cuộc sống Nam Bộ với biết bao lam lũ, vất vả

nhưng cũng vô cùng thú vị đã nuôi dưỡng tâm hồn, vun đắp tài năng, vốn

sống và khơi nguồn cảm hứng dồi dào cho sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

Chính nhờ vậy, trang viết của Nguyễn Ngọc Tư đậm chất Nam Bộ, làm

xúc động bao trái tim độc giả, đủ sức đánh thức những kỷ niệm về Nam

Bộ của những người xa quê. Đúng như Trần Hữu Dũng nhận xét “ Trong

văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta ở khắp mọi phương trời tìm lại

được cái quê hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên

trong lòng mình, những kỷ niệm mà mình tưởng như không ai chia sẻ”.

Không phải ngẫu nhiên mà những năm gần đây Nguyễn Ngọc Tư

thấy hứng thú và gửi gắm cảm xúc của mình vào thể loại tản văn, tạp văn.

Trong quan niệm của chị “… viết tản văn như một kiểu nhật kí để người

viết gửi gắm những điều mình nghĩ. Bằng cách này em gửi gắm được

nhiều thông điệp, giải tỏa những cảm xúc đầy ứ trong lòng, mà truyện

ngắn không làm được. Truyện của em toàn ảo, không gian và người ảo,

không có hoặc rất ít Nguyễn Ngọc Tư ở đó. Em cho rằng tản văn gần với

người viết nhất, bộc lộ tâm tư tình cảm của người viết nhiều nhất” (52).

Cũng vì những cảm xúc ấy mà Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra một

không gian đồng quê êm ả nhưng cũng nhiều đổi thay của nông thôn thời

đô thị hóa trong Yêu người ngóng núi; những câu chuyện đời trong Gáy

người thì lạnh: “Một cuốn sách thì cả khi chìa gáy ra, người ta cũng nhận

20

được một cái gì đó ấm áp, trao gửi”.

Chính vì thế, Nguyễn Ngọc Tư thực sự thích thú và tâm đắc với thể

loại tản văn bởi nó truyền tải được những cảm xúc của chị. “Có thể tôi viết

truyện là dành cho ai đó nhưng viết tản văn là viết cho mình. Tản văn như

là một giải pháp để tôi giải tỏa những suy nghĩ…”

Những nhà văn thế hệ trước Nguyễn Ngọc Tư như Sơn Nam, Đoàn

Giỏi cũng lấy bối cảnh từ mảnh đất Nam Bộ thân yêu nhưng họ thường

nhìn nhận cảnh vật con người dưới góc độ văn hóa. Trong khi đó trang văn

của Nguyễn Ngọc Tư lại đi sâu vào hoàn cảnh, tâm trạng, những cảm xúc

chân thực của những người dân vùng đất này.

Chính quan niệm “viết như cảm xúc của mình” thấm nhuần trong

ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư khiến trang viết của chị giản dị, tự nhiên, đầy

ắp cảm xúc. Dường như với Nguyễn Ngọc Tư, viết văn trước hết là viết

cho mình, viết để giải tỏa những điều chất chứa trong lòng mình. Khởi

nguồn từ những tình cảm chân chất, văn chương Nguyễn Ngọc Tư do vậy

đã đến được và tạo được sự xúc động sâu xa trong lòng người đọc.

1.2.2. “Tôi như kẻ đẽo cày giữa đường”

Cũng chính bởi quan niệm “Tôi viết như cảm xúc của mình” Nguyễn

Ngọc Tư thẳng thắn viết văn là vì mình cảm nhận thế nào thì sẽ viết như

thế, sống với tất cả những gì chị có. Bản thân Nguyễn Ngọc Tư cũng thừa

nhận “Đôi lúc vì văn mình như quả sầu riêng, người thích thì nói nó thơm,

người không thích thì cho rằng thối”. Chị cảm nhận rõ: “Tôi như một kẻ

đẽo cày giữa đường, ai qua cũng ngó nghiêng chỉ trỏ một tý. Cái tôi buồn

không phải vì những lời nói chân thành của bạn, mà là tôi thấy mất tự do.

Mọi người cứ gào thét đòi tự do sáng tác, nhưng lại băn khoăn trước việc

21

cô ta viết như cô ta thích” (39).

Thực tế, Nguyễn Ngọc Tư không chạy theo một trào lưu sáng tác

nào mà cứ tự nhiên đến với văn học với những ấn tượng riêng của mình.

Những tác phẩm của chị vẫn được độc giả đón nhận một cách háo hức.

Tác phẩm của chị đã đưa lại những phát hiện thú vị về một vỉa tầng của

cuộc sống, của môi trường sống. Khác với lối văn chương ưa cầu kì, bóng

bẩy của những con chữ, tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không màu mè mà

vẫn luôn tạo được dấu ấn đậm, có sức hấp dẫn, thậm chí ám ảnh người

đọc.

Nguyễn Ngọc Tư không muốn ngồi mãi ở một nơi nào đó để chờ

đợi. Đón nhận dư luận sau những tác phẩm của chị, thậm chí là trái chiều

Nguyễn Ngọc Tư vẫn thẳng thắn trả lời “Tôi không đi trên con đường mà

tôi không thích” và nhà văn cũng không phải là người viết những gì mà

độc giả thích. Những tác phẩm văn học chỉ chạy theo trào lưu, theo “mốt”

thì còn đâu là những tác phẩm văn học đích thực nữa?”.

Với Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn phải luôn là chính mình cho dù có

những dư luận thậm chí trái chiều. Chị nhận mình là “kẻ đẽo cày giữa

đường” phải chấp nhận những khen chê cho dù hay hay dở của dư luận.

Tuy vậy chị vẫn cố gắng được là chính mình. Sau thành công của Cánh

đồng bất tận chị viết “sung” hơn. Cho đến khi tập truyện Gió lẻ ra đời,

nhiều ý kiến cho rằng tập truyện làm Nguyễn Ngọc Tư mờ nhạt hơn bởi

phong cách từ Cánh đồng bất tận không còn rõ nữa, chị có ý kiến lại:

“Cánh đồng bất tận không đại diện duy nhất cho tôi. Mười năm tôi viết

những cái người ta thích, giờ đây tôi viết những gì chính mình thích …”

Chị còn nhấn mạnh “Tôi muốn tùy nghi sống và viết theo đúng như bản

chất thất thường vô chừng của mình. Tôi biết không ít người đang băn

khoăn bởi ý nghĩ họ đã mất tôi rồi. Nhưng tôi đi đến đâu đó không có

nghĩa là không quay lại. Con cá quẫy để khỏa bèo vì nó cần thở ở một

22

khoảng rộng hơn. Tôi cũng vậy” (39).

Chính quan niệm như vậy nên Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng tôn

trọng cảm xúc của chính mình. Nếu như nhiều người viết rất quan tâm đến

thị hiếu của người đọc, thậm chí “chiều nịnh” theo thị hiếu của người đọc

đến đánh mất mình thì Nguyễn Ngọc Tư khẳng định: Không thể viết để

chiều nịnh thị hiếu bạn đọc. Khi được hỏi về vai trò của bạn đọc, chị cho

biết: “Mình không thể hiểu hết bạn đọc, có khi viết xong cái truyện mà bản

thân mình thấy thích lắm nhưng bạn đọc lại chê…Với lại, Tư cũng không

có ý tìm hiểu bạn đọc của mình”. Trong quan niệm của chị, nhà văn viết là

do nhu cầu tự thân, do tình cảm thôi thúc. Bạn đọc tìm đến tác phẩm là để

giải trí, cách đánh giá tác phẩm do vậy khác nhau thậm chí trái chiều nhau.

Để giữ tính độc lập của ngòi bút, Nguyễn Ngọc Tư chủ trương không tìm

hiểu và chiều theo thị hiếu người đọc “Vì nếu biết người ta muốn cái gì,

thích cái gì có khi mình lại viết chiều theo ý họ. Thôi thì cứ đường ai nấy

đi, nếu gặp nhau là tốt”. Nguyễn Ngọc Tư coi trọng trước hết là cảm xúc

của mình, nhưng chị luôn trân trọng và hy vọng có được sự đồng điệu,

đồng cảm giữa nhà văn và công chúng.

1.2.3. Cái “Tôi” nhà văn là cái “Tôi” cô đơn

Nguyễn Ngọc Tư sớm cảm nhận và ý thức về sự khắc nghiệt của

nghề văn, về sự cô đơn trong sáng tạo của người nghệ sĩ. Khi được hỏi:

“Chị đã sống trong tâm trạng như thế nào cùng các nhân vật của mình

trong suốt hành trình câu chuyên Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư

trả lời: “Trong cõi văn chương, tôi là đứa cực kì cô đơn. Nên tôi rất dễ

dàng để nhân vật của mình sống trong cô đơn tận cùng, trong hoang hoải,

chán chường. Tôi cũng như những con người trong “Cánh đồng bất tận”

sống giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, sống giữa biển người nhưng

có cảm giác bị bỏ rơi”. Thực tế, đây cũng là cảm giác phổ biến của nhiều

23

người nghệ sĩ.

Với Nguyễn Ngọc Tư nghề viết cần có sự cô đơn, bởi “…cô đơn là

sự tối cần của người viết, nó là một điều kiện hàng đầu của nhà văn.

Không một người viết hay nào tôi biết mà không cô đơn, không một thần

tượng văn chương nào của tôi mà không bị cô đơn giày vò. Và để chạy

trốn nỗi cô đơn trong giao tiếp đơn thuần mặt nhìn mặt, tay nắm tay, việc

viết văn đã dẫn tôi đến sự cô đơn khác… Khi người ta bằng mọi cách chạy

trốn sự cô đơn thì tôi và những đồng nghiệp của tôi lại nuôi cô đơn, cho

nó ăn để duy trì sự cô đơn tồn tại trong người mình cho cái gọi là sáng tạo

văn chương” ( Lời tựa Biển của mỗi người).

Chính vì thế, Nguyễn Ngọc Tư đưa chủ đề về nỗi cô đơn nghệ sĩ vào

nhiều tác phẩm của chị. Nhân vật Tư trong Lời cho má giãi bày “Làm nghề

văn cô độc, cực khổ quá má ơi”. Chị thường đặt mình trong thế đối sánh

với những người bạn không liên quan gì đến văn chương và khẳng định

“Người không viết văn sướng hơn mình nhiều” bởi cuộc sống của họ đơn

giản không phải vướng bận day dứt về “những điều trông thấy”, còn chị

“lúc nào cũng nghĩ nhiều lắm, toàn chuyện trời ơi đất hỡi, nghĩ coi cho

ông này gặp bà kia rồi yêu nhau như thế nào, nghĩ coi anh lính đó sẽ chết

trong tư thế nào, rồi quan tâm bàn tán như thể chuyện nhà mình”. Nhìn cô

bạn mà Tư thương cho mình: “Nguyệt thì chẳng bao giờ cô đơn như thế.

Nó dành cả một tâm hồn không vướng bận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn

hết thảy mọi chuyện lặt vặt của cuộc đời. Còn tôi thì đang đứng giữa biển

văn chương mênh mang không biết đâu là bờ bến, đường đời cũng dở sống

dở chín, chưa đâu tới đâu, hai vai chưa trọn vai nào”.

1.2.4 “ Con đường viết lách là con đường nhọc nhằn khủng

khiếp…"

Là một nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư luôn ý thức được rất rõ về

24

trách nhiệm của người cầm bút, về nghề văn. Chị xác định: “Tôi biết viết

văn là một sự lựa chọn khó, đầy nhọc nhằn, nặng nề dằn vặt”, nhưng chị

vẫn lựa chọn nó. Chị gửi lời nhắn nhủ với những người bạn đọc trẻ tuổi

yêu văn chương: “ … Các bạn nên chơi với văn chương. Chơi thôi, khi

thích khi không, khi vồ vập khi hờ hững. Chơi với văn chương, ít hay nhiều

dù sao cũng có lợi”. Những tác phẩm của chị đã chứng minh điều đó.

Vẫn biết, con đường văn chương vô cùng nhọc nhằn nhưng Nguyễn

Ngọc Tư không hề nản lòng. Chị vẫn miệt mài cống hiến. Nhìn lại chặng

đầu viết văn của chị, có thể thấy đó là con đường nhiều khó khăn nhưng

không kém phần vinh quang. Thực tế những gì chị đạt được, đã thành danh

và được biết đến cả trong và ngoài nước, những giải thưởng danh giá đã

khẳng định thành công lớn của chị.

Không chỉ dừng lại những gì đã có, Nguyễn Ngọc Tư còn muốn

vươn xa hơn nữa. Chị muốn văn chương phải đúng là nghề sáng tạo chứ

không rập khuôn theo một công thức nào cả. Chị nói: “ Bỗng dưng trong

lúc hứng khởi tôi làm được thứ bánh cũng gọi là ngon. Tự hỏi, không biết

công thức chính xác là gì? Nhưng những cái bánh tôi làm trong lúc ngẫu

hứng có lúc mặn, lúc ngọt lại khiến tôi hứng khởi hơn là cứ nhào nặn theo

một thứ công thức nào đó. Tôi không quan tâm chuyện bánh mình làm

ngày nào đó không còn ngon. Tôi sẽ chuyển qua làm mứt”.

Với Nguyễn Ngọc Tư, viết là lẽ sống “ Tôi yêu viết lách vì viết lách

làm tăng sức sống trong tôi”. Và chị có vẻ thành thật tiếc nuối cuộc sống

bình dị của những người không viết văn.

Văn chương với Nguyễn Ngọc Tư là một hành trình dài vô tận.

Nghề văn không có giới hạn. Chị sợ sẽ bị “cạn” đi như nhiều người.

Trong một bài trả lời phỏng vấn chị nói: “Tôi chỉ sợ cái bóng của “Cánh

đồng bất tận” lớn đến nỗi người đọc sẽ không nhìn thấy tôi. Trên cuộc

25

hành trình của cuộc đời mình tôi tình cờ rẽ vào một con đường nhỏ, tình

cờ dựng cái rào, rồi thấy vượt qua cái rào do chính mình dựng lên là vô lí,

nên tôi bỏ ngang, lại tiếp tục đến một con đường khác, nhưng bạn đọc thì

cứ chờ tôi mãi ở cuối cái đường có cái rào kia, bạn đọc không quan tâm

tôi đã đi đến đâu, đã làm được gì.”. Chị luôn có cách trình bày quan điểm

của mình một cách rất văn chương ý nhị: “ Tôi đã thực sự nhìn thấy một bi

kịch, là bạn cứ trải chiếu ở cái chỗ “Cánh đồng bất tận” và muốn tôi ngồi

uống rượu mãi ở đó. Trong khi tôi muốn đi và thực sự đã đi rồi. Tại sao

tôi cứ luẩn quẩn ở cánh đồng đó trong năm năm, mười năm và hai ba

mươi năm nữa, mà không được đi uống rượu ngắm cảnh ở không gian

khác? Tôi biết, cái chỗ tôi muốn tới và thích không đông đảo người chờ

đợi và chúc tụng, nhưng tôi tự hào là mình cũng dời chân khỏi cái hào

quang cũ mà đi”(39).

1.2.5 “Chậm thôi, giữ lửa và chờ đợi”

Nguyễn Ngọc Tư không vội vàng mà cứ bình thản đi vào tìm hiểu

cuộc sống như nó vốn có. Đã có ý kiến gợi ý chị hãy thay đổi đề tài viết,

chuyển sang một “ vùng thẩm mĩ khác”, nhưng chị không thay đổi bởi

“Tôi vẫn thấy mình như mới bắt đầu, mới mùa đầu, mới gieo mầm. Hồi

trước, tôi có mảnh vườn trồng nhiều rau lắm, cứ thu hoạch ở cuối vườn thì

giữa vườn rau đã xanh um. Dân quê tôi chỉ có mảnh vườn, mảnh ruộng để

họ làm lụng thu hoạch cả đời. Tạm thời tôi còn thích mảnh đất này quá” .

Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư người ta thấy chị gắn bó và yêu

vô cùng mảnh đất Cà Mau của mình. Chị không muốn sống và viết vượt ra

khỏi vùng đất ấy. Chính bởi thế, sau này khi đã thành danh, đã được biết

đến nhiều Nguyễn Ngọc Tư đã từ chối không ít lời mời về thành phố lớn

sống và làm việc. Chị hóm hỉnh: “ Nếu lên Sài Gòn, thay vì viết văn, tôi sẽ

ra đường bán… chuối nướng”. Và chị rất tự tin khi trả lời câu hỏi: Chị đã

26

chán “ bóc tách” về quê hương để chuyển sang một vùng kinh tế mới

chưa?. “ Tôi sẽ nghĩ đến điều đó sau khi đã “ chán bóc tách” mãi về miền

quê của mình. Bây giờ thì chưa, cái cảm giác chỉ chạm tới lớp áo ngoài

của miền đất này khiến tôi nghĩ mình sẽ ở lại lâu”. Với chị mảnh đất Cà

Mau vẫn là một mảnh đất màu mỡ cần tiếp tục khai thác.

1.3. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư

Quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những vấn đề cơ

bản và quan trọng của văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người chính

là “sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người được hóa thân thành các

nguyên tắc, phương tiện, hình thức, biện pháp thể hiện con người trong

văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân

vật”. Điều đó được thể hiện trong toàn bộ cấu trúc tác phẩm văn học.

Nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người giúp khám phá chiều sâu

những biểu hiện chủ quan, sáng tạo của nhà văn, thấy được trình độ tư duy

nghệ thuật của từng nghệ sĩ cũng như của cả thời đại văn học. Sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư chịu sự chi phối và cũng thể hiện sâu sắc những nét sắc

sảo trong quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Do đó, tìm hiểu

quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư sẽ giải mã được

thấu đáo thế giới nghệ thuật của chị. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy

quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư thể hiện qua một

số khía cạnh sau:

1.3.1. Con người sống là để yêu thương

Trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, yêu thương đã thành lẽ

sống, niệm vui, niềm hạnh phúc. Với chị “Dù tôi có yêu đơn phương (chắc

là cũng hơi buồn) nhưng bản thân việc yêu đã là sống, là vui”. Nguyễn

Ngọc Tư yêu cha mẹ, yêu quê hương, yêu những kỷ niệm tuổi thơ, yêu từ

cái khuông cửa sau nhà đến khoảng sân đầy nắng, yêu những con người

27

quê hương lam lũ, tảo tần. Chị thương cha mẹ vất vả sớm hôm, thương

người nông dân nghèo gặp nhiều bất trắc, thiên tai, thương bày trẻ thơ bất

hạnh…Trả lời phỏng vấn, chị cho biết: “Người ta sẽ nhận ra ai cũng có

nhu cầu được ấm áp, yêu thương ngay cả những người mạnh mẽ, tàn nhẫn

nhất cũng mong muốn có một ngày được hoàn lương, một mái nhà yên

ấm”. Nguyễn Ngọc Tư đã viết về nhu cầu bình dị ấy một cách say mê, xúc

động. Chính bởi thế, hầu hết các nhân vật của chị đều giàu tình yêu thương

và luôn khát khao được yêu thương. Dường như họ sinh ra để yêu thương

và sẵn sàng chở che, giúp đỡ người khác, nhất là những người bất hạnh.

Nhiều nhân vật khác thì luôn mong được sum họp ấm cúng trong mái ấm

gia đình. Là người giàu cảm xúc, Nguyễn Ngọc Tư rất sợ sự lạnh lùng, vô

cảm. Có dịp chị giãi bày: “Tôi rất sợ lòng mình vô cảm. Tôi cũng sợ y như

vậy khi thấy những người xung quanh không còn biết yêu thương nữa”.

Một khi vơi cạn lòng yêu thương, con người sẽ trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn

và cuộc đời sẽ mất đi vẻ đẹp, mất đi những điều tốt lành. Với tấm lòng

nhân hậu, Nguyễn Ngọc Tư luôn níu giữ lòng tin yêu của con người. Chị

mong muốn mọi người “…đừng bao giờ mất hy vọng vào tâm hồn người

trẻ. Bởi vì sau tất cả những bất đồng, những biểu hiện vô tâm nếu có, thì

rồi ai cũng sẽ có nhu cầu được yêu thương. Mà muốn được vậy, phải biết

chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính trái tim mình trước nhất ”. Khi

được hỏi: “Cái ác có phải là đề tài hấp dẫn với chị không?”, Nguyễn Ngọc

Tư trả lời: “Cái ác, sự tàn nhẫn thói vô tâm luôn làm tôi ghê sợ, hấp dẫn

cái nỗi gì chớ. Tôi đã động tới cái ác vì có nó thì cái thiện, sự thương yêu

sự yếu ớt mong manh của những tình cảm tốt đẹp mới nổi lên được, để cho

người ta nhìn thấy rõ hơn”. Nhìn như vậy có thể thấy, trong quan niệm

của Nguyễn Ngọc Tư viết về cái ác cũng là một cách để tôn vinh cái thiện

và ca ngợi tình yêu thương con người, để con người biết sống tốt đẹp,

28

nhân ái hơn.

1.3.2. Con người “Sống là luôn hy vọng…”

Thực tế, cuộc sống của con người luôn có hai mặt thuận lợi suôn sẻ

và khó khăn, bất hạnh. Để tồn tại, do vậy con người phải biết đối mặt với

cả những bất hạnh, khó khăn và như vậy, hy vọng luôn là liều thuốc hữu

hiệu, là sức mạnh giúp con người đủ sức chịu đựng và vượt qua mọi khó

khăn. Quan niệm như vậy nên Nguyễn Ngọc Tư luôn khẳng định: “Sống là

luôn hy vọng…Hy vọng là liều thuốc chữa được bách bệnh”. Quan niệm

đó đã chi phối cách tiếp cận, phản ánh hiện thực đời sốngvà con người của

Nguyễn Ngọc Tư. Chính vì vậy, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khó khăn

gian nan đến đâu, các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư vẫn luôn tin rằng

cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, bất hạnh khó khăn sẽ qua đi và hạnh phúc đang

đón chờ ở phía trước. Trong hàng loạt tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư:

Ngậm ngùi Hưng Mĩ, Thư từ quê, Đi qua những cơn bão khô, Chờ đợi

những mùa tôm, Gió mùa thao thức…đề cập đến vô vàn khó khăn người

dân đang phải chịu đựng: Từ dịch cúm gia cầm, cảnh chôn vịt sống đến

cảnh “bão tôm”…Những rủi ro tưởng chừng đẩy người nông dân vốn đã

chẳng giàu có gì vào cảnh trắng tay, kiệt quệ. Vậy nhưng, biết hy vọng,

con người vẫn vượt qua tất cả. Sạt nghiệp vì nuôi tôm, nuôi vịt, nợ ngân

hàng lút đầu nhưng người ta vẫn cười: “Rầu cũng nghèo mà cười cũng

nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô”. “Lúa thất

thì hy vọng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh năm sau được giá.

Lứa tôm này chết thì chờ lứa sau. Lúc thả bọc tôm như cây kim xuống

đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng”. Chính những người nông dân

lạc quan “hết thuốc chữa” ấy đã khiến tác giả phải ngạc nhiên. “Tôi nhận

ra rằng, nông dân mình xưa nay có món đặc sản độc lắm, nhờ món đó mà

họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là hy

vọng”. Chính hy vọng tạo ra sức mạnh giúp con người vượt lên khó khăn

29

thực tại để tiếp tục sống và gây dựng tương lai.

Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng xuất hiện khá phổ

biến những con người sống bằng hy vọng. Tiêu biểu là Nương trong Cánh

đồng bất tận. Từ nhỏ Nương đã phải chịu bao bất hạnh, thiếu thốn tình

cảm thương yêu của cha mẹ. Sống bên cạnh người cha đầy lòng thù hận,

Nương vẫn hy vọng một ngày nào đó cha cô sẽ thay đổi, cuộc sống của

cha con cô sẽ tốt đẹp hơn. Nương cứ níu giữ niềm tin đó để sống. Ngay cả

khi đứa em trai bỏ đi, cả khi thân mình bị làm nhục, cô vẫn nghĩ: Nếu cô

có con, cô “sẽ đặt tên nó là Thương, Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường…Đứa bé

không cha nhưng chắc chắn sẽ được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ

sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ cho lỗi

lầm của người lớn”. Ở hoàn cảnh của Nương, phải lạc quan lắm, giàu lòng

hy vọng lắm, con người mới có thể vượt lên oán hận và không nghĩ đến cái

chết. Đúng như Nguyễn Ngọc Tư từng phát biểu: “Con người mà tắt hy

vọng thì chết còn sướng hơn”. Chính hy vọng giúp con người đủ sức

mạnh, đủ nghị lực để sống.

1.3.3. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng mới quý”

Một trong những tính cách nổi bật của con người Nam Bộ là trọng

nghĩa tình. Là người dân Nam Bộ “đặc sệt”, Nguyễn Ngọc Tư luôn luôn

trọng tình nghĩa. Trong quan niệm của chị, tình cảm phải chân thành,

không khiên cưỡng, không giả dối. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng

mới quý”. Sự giả dối trong tình cảm sẽ gây đau đớn cho những người trung

thực: “Sẽ khổ sở rất dài khi ta thấy những cử chỉ thương yêu, tai ta nghe

những lời ngọt ngào mà ta biết tỏng tòng tong tất cả đều không thật”.

Trong Bùa yêu và con nhỏ thất tình, cô gái đã từ chối đi kiếm tìm

một cái bùa yêu để níu giữ người cô yêu thương dù cô rất muốn. Cô cho

rằng, nếu chỉ vì bùa yêu mà người đó quay lại với mình, nói những lời yêu

30

thương ngọt ngào…thì chỉ là giả dối, còn đau đớn hơn cả thất tình bởi tình

cảm ấy có được không phải tự nguyện mà do bùa yêu. Ông Tư Mốt và bà

con ở mút Cà Tha trong Thương quá rau răm đã thật lòng yêu quý Văn,

nhưng chàng bác sĩ trẻ vẫn ra đi không một lời từ biệt. Chàng đã phụ lại

tấm lòng của biết bao con người giản dị ở vùng đất xa xôi, hẻo lánh này

bởi chàng không có tình cảm chân thành với họ. Chàng đến mút Cà Tha để

trốn chạy nỗi đau của mối tình tan vỡ chứ không phải vì muốn chia sẻ,

giúp đỡ mọi người. Vì không có tình cảm bền chặt nên chàng dễ dàng dứt

áo ra đi.

Có thể nói, các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đều bộc lộ tính cách

của con người Nam Bộ: Thẳng thắn, bộc trực, quý trọng sự thật lòng, ghét

sự giả dối, nhất là trong tình cảm. Đó là hệ quả từ quan niệm của Nguyễn

Ngọc Tư.

1.4. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi

mới

Sau những tên tuổi đàn chị như: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Dạ

Ngân, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Minh

Thư, Nguyễn Thị Ấm, Võ Thị Xuân Hà…thế hệ nhà văn nữ sau này đã có

sự nối tiếp thành công với những cây bút sớm có bản sắc riêng: Nguyễn

Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Đỗ Hoàng Diệu … Các nhà văn nữ với ưu thế về

sự đông đảo và sức trẻ đã góp phần không nhỏ làm mới diện mạo của văn

học Việt Nam.

Hơn 20 năm qua, tại các cuộc thi truyện ngắn, tiểu thuyết do tạp chí

Văn nghệ Quân đội tổ chức, các cây bút nữ đoạt được nhiều giải thưởng

đáng kể: Giải nhất trao cho Phạm Thị Minh Thư với Có một đêm như thế;

1992- 1994: Nguyễn Thị Thu Huệ với tác phẩm Hậu thiên đường và Mùa

đông ấm áp; 1995 – 1996: Giải nhất trao cho Trần Thanh Hà với chùm 3

31

truyện ngắn: Miền cỏ hoang, Bà Thơm, Sông có dài; 1998 – 1999: Giải

nhất thuộc về Đỗ Bích Thúy với chùm truyện: Đêm cá nổi, Ngải đắng ở

trên núi, Sau những mùa trăng.

Không chỉ trong các cuộc thi do tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức,

các tác giả nữ cũng đã đạt được không ít giải thưởng tại những cuộc thi

khác: Nguyễn Ngọc Tư đoạt Giải nhất cuộc thi văn học tuổi 20 (lần II) do

Nhà xuất bản Trẻ, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ

phối hợp tổ chức; Nguyễn Thị Minh Dậu - Giải thưởng cuộc thi báo Văn

nghệ 1991; Hồ Thị Ngọc Hoài đoạt Giải nhất tại cuộc thi truyện ngắn do

báo Văn nghệ tổ chức với tác phẩm Thung Lam,… Không chỉ dừng lại ở

các giải thưởng, cuộc thi sáng tác trong nước, các tác giả nữ cũng đã đoạt

được những giải thưởng quốc tế và khu vực. Lê Minh Khuê được nhận giải

thưởng Korea…; Giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á 2008 đã

được trao cho Nguyễn Ngọc Tư với tác phẩm Cánh đồng bất tận. Công

luận đã tốn không ít giấy mực nói về thành công của những cây bút nữ.

Nhiều nhận định khả quan liên tiếp xuất hiện: Truyện ngắn nữ khởi sắc, sự

lên ngôi của các cây bút nữ, Những gương mặt làm sáng giá thể loại nhỏ,

văn học đang mang gương mặt nữ… Số lượng các nhà văn nữ tăng lên

đáng kể và cùng với đó chất lượng cũng đã thay đổi.

Những sáng tác của các cây bút nữ là những phản ánh chân thực về

cuộc sống con người hiện đại. Họ thường viết sâu sắc về mảng đề tài tình

yêu, trăn trở với những kí ức. Cuộc sống đa chiều hiện ra dưới con mắt của

các nhà văn nữ càng đằm thắm hơn, nhân bản hơn. Nhiều tác phẩm nổi bật

với những người phụ nữ có thân phận, cá tính khác nhau nhưng có chung

ước mơ, khát vọng.

Không chỉ sáng tạo về nội dung, lối viết cùng giọng văn đã làm nên

những sáng tác hay, hấp dẫn người đọc. Võ Thị Hảo ngọt ngào và điệu đà

32

trong Hồn trinh nữ, Tình yêu mây trắng. Nguyễn Thị Thu Huệ chao chát

trải đời trong Phù thủy, Hậu thiên đường, … còn Nguyễn Ngọc Tư đã dẫn

người đọc đến những bất ngờ với giọng điệu Nam Bộ thiết tha, mượt mà,

sâu lắng trong Cánh đồng bất tận.

Sau Giải thưởng văn học dành cho tuổi 20 (lần 2) do Nhà xuất bản

Trẻ, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ phối hợp tổ

chức Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục thành công với nhiều tác phẩm. Tuy nhiên,

cho đến thời điểm này Cánh đồng bất tận vẫn là truyện ngắn đánh dấu sự

thành công vượt trội của Nguyễn Ngọc Tư và số bài viết phê bình, nghiên

cứu dành cho tác phẩm này cũng nhiều hơn cả.

Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đăng lần đầu

trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, số 33 ra ngày 13/8/2005

(trang 1, trang 16, trang 17) và đăng hai kì tiếp theo trên báo Việt Nam số

34 và số đặc biệt 35 + 36. Có thể nói khi xuất hiện Cánh đồng bất tận

không phải đã gây được tiếng vang với công chúng yêu văn học. Sau khi

truyện xuất hiện hơn nửa năm, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau có ý kiến

chỉ đạo Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc

Tư. Sau đó báo Văn nghệ mới đăng một loạt bài thảo luận về truyện ngắn

này. Có 2 luồng ý kiến xung quanh truyện ngắn này, tuy nhiên ý kiến

khẳng định đánh giá cao nhiều hơn chê.

Nhiều tác phẩm của chị khi ra đời đã được bạn đọc đón nhận một

cách háo hức, nhiệt thành. Ngoài Ngọn đèn không tắt, Cánh đồng bất tận

là những truyện được giải thì Biển người mênh mông, Giao thừa, Gió lẻ,

Nước chảy mây trôi và nhiều tản văn: Ngày mai của những ngày mai, Yêu

người ngóng núi, Gáy người thì lạnh… đã tạo được sự chú ý của bạn đọc

và giới phê bình.

Trong chục năm trở lại đây, Nguyễn Ngọc Tư đã trở nên khá quen

33

thuộc với công chúng độc giả yêu văn học. Chị là cây bút trẻ đoạt nhiều

giải thưởng cao trong các giải thưởng thường kỳ cũng như trong các cuộc

thi viết truyện ngắn do các đơn vị có uy tín trong và ngoài nước tổ chức.

Nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã được in ấn với số lượng lớn,

được tái bản, đặc biệt số lượng tái bản tập truyện Cánh đồng bất tận đã lên

tới 16 lượt với hàng vạn bản. Tác phẩm Cánh đồng bất tận đã vượt ra khỏi

quỹ đạo văn học trong nước để đến với công chúng nước ngoài.

Đặt những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong dòng chảy chung của

văn xuôi nữ đương đại, có thể thấy, Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có lối viết

rất riêng vì tạo ra được phong cách cho mình – phong cách của một người

phụ nữ chân thành có cái nhìn sâu sắc, một “đặc sản miền Nam” (Trần

Hữu Dũng). Cho đến nay sau hơn một thập kỷ cầm bút Nguyễn Ngọc Tư

vẫn được coi là một nhà văn giàu nội lực. Sức sáng tạo của Nguyễn Ngọc

Tư vẫn dồi dào, chị vẫn liên tục cho ra đời những tác phẩm hấp dẫn được

nhiều tầng lớp độc giả, tạo được tiếng vang trong và ngoài nước. Cho đến

nay, ý kiến đánh giá của nhà văn Dạ Ngân về Nguyễn Ngọc Tư : “Rất nhiều

người trẻ trước hoặc trang lứa tuổi Nguyễn Ngọc Tư thì họ quá loay hoay với

hình thức nói trắng ra cái tâm không lớn thì làm cái gì cũng trầy

trật…Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Ngọc Thuần đã làm cho văn đàn trẻ của

chúng ta đỡ loay hoay và trống vắng”, dường như cũng là ý kiến đánh giá

chung của công luận về thành công, đóng góp và vị trí của cây bút nữ trẻ này

trong văn học Việt Nam đương đại.

Số lượng tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư tăng lên một cách đều đặn.

Chị viết nhanh và khỏe. Điều đó khiến ta có cảm giác, với Nguyễn Ngọc Tư

cảm xúc luôn tuôn trào một cách mãnh liệt trên những trang giấy. Chị viết

nhiều, viết liên tiếp các truyện ngắn và sau đó chị thử bút trên thể loại khác

đó là tản văn, tạp văn. Ở thể loại này chị viết rất sung sức và được độc giả đón

nhận nhiệt thành. Những tản văn như Tản văn Nguyễn Ngọc Tư, Yêu người

34

ngóng núi,…là những tác phẩm đáng để đọc. Trong sáng tác của mình những

câu chuyện có ý nghĩa thời sự, có ý nghĩa xã hội đều được Nguyễn Ngọc Tư

đề cập một cách ý nhị. Những việc tưởng chừng như rất nhỏ lại để lại trong

lòng người đọc những nỗi đau đáu khôn nguôi. Với lợi thế của một người làm

báo, những trang viết của chị cũng đề cập đến những vấn đề mà người dân

quan tâm (Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, Tản văn Nguyễn Ngọc Tư,…)

Cũng như nhiều nhà văn nữ khác, thế mạnh của Nguyễn Ngọc Tư là

nói về nỗi đau, về thân phận những người đàn bà trong cuộc sống hiện đại.

Hầu hết những người phụ nữ trong tác phẩm của chị ngoài cái nghèo đều là

những người phụ nữ bất hạnh. Có nhiều nỗi khổ mà họ phải chịu đựng: Khổ

vì tình yêu, khổ vì gia đình, khổ vì sự cầu toàn của bản thân… Cuộc sống của

họ luôn chống chếnh, chênh vênh, chìm ngập trong những đớn đau mất mát

thiệt thòi.

Nguyễn Ngọc Tư đã nhìn thấy ở những nhân vật của mình một đặc

điểm nổi bật: Dù nghèo khổ, bất hạnh nhưng luôn chung tình, giữ trọn những

kỉ niệm đẹp về tình yêu. Bởi thế nên truyện của chị thường phảng phất chút

buồn. Cái cách mà nhân vật của chị nói và làm luôn ánh lên một cái gì đó

buồn đến lạ lùng. Viết bằng sự thấu hiểu, cảm thông của một nhà văn nữ,

Nguyễn Ngọc Tư ý nhị đưa ra những khao khát khôn nguôi về bến bờ hạnh

phúc, sự bình yên trong tâm hồn mỗi con người. Vì vậy tác phẩm của chị đã

để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Quả là, sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến một “hơi hướng”

lạ, một không khí lạ vô cùng quý giá, cần thiết cho văn xuôi hậu đổi mới.

1.5. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút độc đáo đậm chất Nam Bộ

Sau những thế hệ đi trước thành công với vùng đất và con người Nam

Bộ thì Nguyễn Ngọc Tư là thế hệ sau có những bước tiếp nối đáng tin cậy.

35

Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư người đọc có cảm giác chị chẳng đi đâu

xa ngoài vùng đất của mình. Cũng chính bởi chị sống và yêu hết mình với

mảnh đất Cà Mau và cũng không muốn đi xa khỏi nó.

Nhiều nhà văn có những vùng đất riêng để nuôi dưỡng đứa con tinh

thần của mình. Nguyên Hồng với mảnh đất Hải Phòng gắn bó với những phận

người cùng khổ, lam lũ trong những ngõ hẻm, đường tàu, bến sông, xóm

nghèo, bãi chợ. Với Tô Hoài, sức hấp dẫn của vùng ven đô, của những đám

cưới, đám ma, hội làng khiến cho ông không thể chối từ. Hoàng Cầm luôn

đau đáu với vùng quê Kinh Bắc. Gần đây nhất là nhà văn Đỗ Bích Thúy với

một loạt sáng tác mang đậm hương vị miền núi,… Nguyễn Ngọc Tư cũng

vậy. Tên tuổi của chị gắn liền với mảnh đất Nam Bộ.

Trước đây, nhắc đến vùng đất Nam Bộ chúng ta thường nhớ đến một số

cây bút quen thuộc như: Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn

Nam, Đoàn Giỏi…Những dấu ấn mang đậm sắc thái Nam Bộ được thể hiện

qua những truyện, những kí sự của họ. Nguyễn Ngọc Tư là thế hệ trẻ tiếp nối

đáng tin cậy. Chị khâm phục cách viết của những bậc lão thành. Đồng thời chị

có những sáng tạo riêng trong cách viết.

Mảnh đất Cà Mau luôn xuất hiện trong văn Nguyễn Ngọc Tư như chính

gia đình của chị vậy. Trong tản văn Đất Mũi mù xa, chị viết: “Đất Mũi thiệt

tình không có núi cao, không có biển xanh, không có cát trắng, không cung

đình cổ kính lại càng không có phố cổ đìu hiu. Đất Mũi chỉ có bùn sình, rừng

thẳm và biển. Dẫu biển không xanh ngằn ngặt mà đục ngầu phù sa nhưng ở

đây nhiều biển lắm. Biển đằng trước, biển bên phải, biển bên trái. Bình minh,

mặt trời từ biển quẩy nước ngoi lên rồi khi chiều về, mặt trời chín đỏ già nua

lại ngụp về biển sau một ngày tự cháy”.

Với khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và vùng đất Nam

Bộ nói chung Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ có nhiều tiềm năng.

36

Nhiều ý kiến cho rằng, khi Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện chị đã làm thay đổi

quan niệm, cách viết của một bộ phận nhà văn. Những trải nghiệm thực sự

trên vùng đất ấy đã giúp Nguyễn Ngọc Tư có những tìm tòi và khám phá

được những khía cạnh phong phú của cuộc sống con người, góp phần tạo

37

nên sự đa dạng, mới mẻ của văn học đổi mới.

CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ

2.1 Khái lược về thế giới nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn

Ngọc Tư

Văn học bắt nguồn từ cuộc sống của con người, được sinh ra bởi con

người và cũng vì con người mà tồn tại. Văn học là sự phản ánh của đời sống

xã hội, thể hiện nhận thức và sáng tạo của con người. Văn học lấy con người

làm đối tượng nhận thức trọng tâm. Trong tác phẩm văn học, nhà văn không

chỉ nhận thức chân lý khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng và tình cảm, ước

mơ và khát vọng của mình với con người. Chính vì lẽ đó văn học không thể

thiếu nhân vật, không thể có văn học phi nhân vật. Nhân vật chính là phương

tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhận thức

được tầm quan trọng của nhân vật với tác phẩm văn học, M.Gocki đã khuyên

một nhà văn trẻ: “anh hãy bỏ nghề viết đi. Đấy không phải là việc của anh,

có thể thấy rõ như thế. Anh hoàn toàn không có khả năng miêu tả con người

cho sinh động mà đấy lại là điều chủ yếu”.

Có thể khẳng định rằng nhân vật là một yếu tố quan trọng hàng đầu của

một tác phẩm văn học. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nhân vật. Từ điển

thật ngữ văn học do nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc

Phi bên soạn định nghĩa: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả

trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính

ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống” . Theo

Lý luận văn học, “Nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang

tính ước lệ đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con

người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu

sử nghề nghiệp, tính cách”. Mặc dù có nhiều cách phát biểu khác nhau về

38

khái niệm nhân vật văn học nhưng tất cả đều khẳng định, nhân vật văn học là

hình tượng nghệ thuật về con người, nó có nhiều nét giống con người thật

nhưng không giống một cách tuyệt đối bởi nhà văn xây dựng nhân vật dựa

trên cơ sở có thật qua thủ pháp hư cấu.

2.1.1. Quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về nhân vật văn học

Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn của văn học đương đại. Chị có ý thức

xây dựng hệ thống nhân vật như con người thật ngoài đời chứ không có ý xây

dựng những nhân vật điển hình như những nhà văn thế hệ trước. Thực tế, khi

Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện trên văn đàn thì văn học ta đã thoát khỏi quan

niệm văn học mô phỏng một cách công thức, đơn giản về đời sống và con

người trước đó. Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thế giới nhân vật hiện

lên chân thực rõ nét như những gì họ đã thể hiện ở ngoài đời.

Nguyễn Ngọc Tư không cầu kỳ làm mới, đánh bóng cho nhân vật của

mình. Chị không muốn sống và vượt ra khỏi mảnh đất mà chị gắn bó, thương

yêu với ruộng đồng lầm lũi. Chị viết theo lương tri của mình, viết về những gì

mình cảm nhận được, đúng với quan niệm của mình.

Năm 2005 truyện ngắn Cánh đồng bất tận ra mắt bạn đọc và nhanh

chóng nhận được những dư luận khen chê của công luận. Nhìn chung khen

nhiều hơn chê. Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư viết Cánh đồng bất tận

“ác” với một số chi tiết. Chị trả lời rằng đó là những chi tiết xuất phát từ chính

hiện thực cuộc sống. Nguyễn Ngọc Tư thật sự đã có những thay đổi, sáng tạo

trong cách nhìn nhận vấn đề và trong cách phản ánh số phận con người giữa

bối cảnh xã hội hiện đại.

Sau Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục cho ra đời Gió lẻ,

Khói trời lộng lẫy, một số tản văn… hé mở những vấn đề xung quanh cuộc

sống con người. Nhân vật của chị sinh động, mới mẻ , hấp dẫn người đọc đến

39

tận trang cuối cùng của tác phẩm.

2.1.2. Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư với nhân vật

của một số nhà văn nữ cùng thời

Mỗi nhà văn đều có quan điểm và cách thức xây dựng nhân vật riêng

hay nói cách khác là mỗi nhà văn đều tìm cho mình một lối đi riêng. Cách mà

nhà văn tạo dựng tên tuổi của mình đó chính là tạo được nhân vật của riêng

mình, nhắc tới Huấn Cao ta nhớ ngay đến Nguyễn Tuân, nhắc đến Chí Phèo

ta nhớ ngay đến Nam Cao… và còn rất nhiều nhà văn nổi tiếng khác, mà tên

tuổi của họ luôn gắn liền với nhân vật mà họ tạo dựng được. Cho dù mỗi nhà

văn đều có ý thức tìm cho mình một lối đi riêng nhưng do đối tượng mà họ

phản ánh đều là những con người nên nhân vật trong các tác phẩm của nhà

văn cũng có những điểm gặp gỡ thú vị, đó là tất yếu khách quan. Trên văn

đàn Việt Nam hiện đại, đương đại, người ta nhắc nhiều tới các nhà văn nữ: Võ

Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy… Những

nhà văn này đều có những thành công nhất định trên con đường tìm tòi đổi

mới truyện ngắn. Ở mỗi nhà văn chúng ta ghi nhận những thành công của họ

ở nhiều phương diện khác nhau nhưng nổi bật của họ chính là khả năng đi sâu

vào khai thác đời sống tinh thần của con người hiện đại. Trong số những nhà

văn trên, chúng tôi thấy có sự gặp gỡ khá thú vị giữa nhân vật của Nguyễn

Ngọc Tư với nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ và Đỗ Bích Thúy.

Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy là hai tác giả trẻ với hai phong cách

khác nhau. Cả hai người đều cùng tầm tuổi với nhau tuy vậy mỗi người đều

có cách lĩnh hội kiến thức và tài năng văn chương bẩm sinh khác nhau.

Nguyễn Ngọc Tư được coi là một hiện tượng với chất Nam Bộ đặc sệt. Giống

với Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy cũng làm người đọc nhớ ngay tới chị

qua một phong cách văn đậm chất miền núi. Tuy vậy nhân vật trong truyện

ngắn của hai nhà văn đều chứa đựng những bi kịch. Ở Cánh đồng bất tận các

nhân vật đều rơi vào bi kịch, các nhân vật đều có lòng tốt, tính hướng thiện

40

nhưng bị đẩy vào cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, dốt nát, lam lũ, cuộc

sống ngột ngạt tù túng. Người vợ nhẹ dạ bị vật chất quyến rũ bỏ đi không một

lời từ biệt. Người cha vì bị phụ bạc quyết tâm trả thù đời bằng cách quyến rũ

vợ người khác rồi vứt bỏ họ giữa chừng. Hai đứa con đáng thương sống vạ

vật. Thế rồi Điền bỏ đi chạy theo người đàn bà bị sỉ nhục. Nương bị hãm hiếp

ngay trước mặt người cha đang bị đè nén xuống. Đọc xong Cánh đồng bất tận

không ai là không có cảm giác về sự đau khổ mà các nhân vật phải gánh chịu.

Ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào khai thác những dằn vặt đau khổ

của tâm hồn nhân vật. Trong Gió lẻ người đọc có cảm giác rơi vào cài vòng

xoáy hun hút sâu của những cơn gió vô hồn. Một cô bé 6 tuổi đầu phải chứng

kiến cái chết nhọc nhằn, oan khuất của mẹ: “Mẹ em không trả lời lẳng lặng

vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ em treo mình đung

đưa trên xà nhà”. Và khi người cha nói về cái chết vô trách nhiệm của vợ

mình, cô bé không chấp nhận được lời nói dối ấy dù mãi về sau. Từ đó em

như cơn gió lẻ lang thang, cô đơn bất định giữa dòng đời, Cái cô độc hiu hắt

của Gió lẻ cứ mãi ám ảnh người đọc. Cái quá khứ luôn theo mãi nhân vật một

cách nhức nhối.

Trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy quá khứ luôn ám ảnh người dân lâu

dần trở thành định kiến, cho số phận của Kim trở thành bi kịch. Trong tác

phẩm Bóng của cây sồi, Kim rất xinh đẹp nhưng lại bị dân làng xa lánh chỉ vì

mẹ sinh Kim ra sau vụ cưỡng bức của đám thổ phỉ. Với những người dân thì

dòng máu đang chảy trong người cô là dòng máu đen, dòng máu của loài

quỷ dữ. Chính bởi vậy Kim không lấy được người mà cô yêu. Và Phù cũng

không dám vượt qua định kiến để đến với tình yêu của mình.

Sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng có những nét tương đồng với

sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Chị hay nói về những bất hạnh của người phụ

nữ. Chị để cho nhân vật của mình cố chịu đựng và mong muốn được giải

thoát để cho “không còn nỗi cô đơn cố hữu, không còn nỗi khắc khoải chờ

41

mong”… Nhân vật trong Đêm dịu dàng là cô gái thật đáng thương. Cô bị lừa

dối, cô cảm thấy đau khổ sau chuyện bị lão thủ trưởng già quấy rối trong

phòng làm việc đúng lúc anh đẩy cửa vào. Chính cái lúc cô luống cuống đi

tìm anh để giải thích thì thấy anh đang cười khả ố với lão thủ trưởng già về

chuyện vừa xảy ra với cô. Bấy giờ cô mới nhận ra con người mình đang

thương yêu đã thay lòng đổi dạ. Sự chung thủy, niềm tin đã bị xúc phạm. Mọi

đau khổ, lừa dối tồn tại xung quanh chỉ có một cách để giải thoát cô khỏi điều

đó chính là cái chết. Nhưng cô không làm được. Cũng bởi vậy cô lâm vào thế

cô đơn, buồn chán tuyệt vọng.

Nhìn như vậy, có thể thấy, sáng tác của ba tác giả nữ này đều chú trọng

đến nhân vật, nhất là nhân vật người phụ nữ. Nhân vật của ba tác giả cũng có

những điểm chung: Nhân vật rơi vào bi kịch khi khát vọng tình yêu và hạnh

phúc bị chà đạp.

Mặc dù có khá nhiều điểm tương đồng nhưng nhân vật của Nguyễn

Ngọc Tư và nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy không hề bị

hòa lẫn vào nhau. Mỗi nhà văn lại mang đậm nét phong cách của từng vùng

miền: Nguyễn Thị Thu Huệ là gương mặt đại diện cho văn học miền Bắc,

Nguyễn Ngọc Tư là đại diện cho văn học miền Nam và Đỗ Bích Thúy đại

diện cho văn học miền núi. Tuy vậy cái chất vùng miền Nam Bộ “đặc sệt”

trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư gây nhiều ấn tượng sâu đậm với

người đọc.

2.2. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Khảo sát qua sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy có các

kiểu nhân vật tiêu biểu: Nhân vật kiếm tìm, nhân vật cô đơn ,nhân vật sám

42

hối, nhân vật lưu lạc và nhân vật nghèo khổ, bất hạnh.

2.2.1. Nhân vật kiếm tìm

Nhân vật kiếm tìm là kiểu nhân vật xuất hiện chủ yếu trong tác phẩm

của Nguyễn Ngọc Tư. Xuyên suốt các tác phẩm của chị là những con người

đang kiếm tìm: Kiếm tìm người thân, kiếm tìm chân lý, kiếm tìm niềm tin, lẽ

sống; kiếm tìm hạnh phúc, kiếm tìm sự sống và tìm kiếm chính mình.

Ông Sáu Đèo trong Biển người mênh mông, suốt bốn mươi năm dằng

dặc kiếm tìm người vợ. Ông lặn lội qua khắp hang cùng ngõ hẻm, chịu đựng

bao khổ ải, nhọc nhằn chỉ mong được gặp lại người vợ để nói lời xin lỗi.

Chính hành trình kiếm tìm trong sự cô đơn, giày vò ấy đã làm nên vẻ đẹp của

lương tri, của tình yêu thương của ông. Con đường kiếm tìm mang ý nghĩa

con đường hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của ông.

Trong Cải ơi, ông Năm Nhỏ cũng phiêu bạt suốt mười hai năm trời để

tìm lại đứa con riêng của vợ. Vì làm mất đôi trâu, đứa bé hoảng sợ bỏ nhà ra

đi, nhưng vợ ông và mọi người lại cho rằng vì tiếc của nên ông đã đánh mắng,

khiến con bé phải bỏ nhà mà đi. Ông không quản nắng mưa vất vả, lặn lội đi

tìm con vì ông thực lòng yêu thương con, lo cho con và cũng muốn giải tỏa

cho mình: Ông cũng yêu thương con bé như con ruột của mình, “con mới là

trọng, đôi trâu có sá gì”. Cũng như vậy, hành trình tìm kiếm bà nội của Dự

trong Gió lẻ cũng là cách để cậu có được sự thanh thản tâm hồn. Dự đau khổ

vì mình đã làm tổn thương bà nội, khiến bà bỏ nhà ra đi. Cậu thề sẽ không trở

về nếu không tìm được bà nội và nếu không tìm được bà, Dự sẽ phải mãi mãi

sống trong day dứt, hối hận.

Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư luôn khao khát tìm kiếm hạnh phúc.

Hành trình tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm yêu thương cũng chính là để thoát

khỏi nỗi cô đơn. Trong Một chuyện hẹn hò, nhà văn miêu tả thành công cuộc

đấu tranh tâm lý giằng xé của nhân vật người phụ nữ giữa một bên là tình

43

nhân và một bên là gia đình với những đứa con. Chị luôn mang trong mình

một trái tim khao khát yêu thương đến cháy bỏng, nhưng chị còn có gia đình,

có con nên hạnh phúc ấy cũng trở nên mong manh. Những cơn gió lòng cứ

hối thúc mãi khiến chị càng cảm thấy đau đớn.

Trước tình yêu con người luôn ở trạng thái kiếm tìm cho dù có khoảng

cách về tuổi tác. Trong Của ngày đã mất vị giáo sư già như đang muốn tìm lại

cảm giác yêu đương cháy bỏng với một cô sinh viên trẻ hơn mình gần năm

mươi tuổi. Những khát khao yêu đương cháy bỏng ở một tâm hồn đầy xao

động. Đáp lại những cơn khao khát ấy là cơn buốt lạnh đến tê tái. Cuối cùng

chính ông Giáo sư già lại là người chối bỏ tình yêu ấy. Ông đã chọn một cái

chết cô đơn vì ông không muốn người mình yêu phải rơi nước mắt.

Có những lúc yêu thương tưởng như trong vòng tay, có những lúc

tưởng chừng như tìm thấy nhau, nhưng rồi tất cả lại sụp đổ, biến mất, con

người lại chìm trong cô đơn. Trong Sầu trên đỉnh Puvan, nhân vật Vĩnh luôn

khao khát nhìn thấy những bông hoa Sầu nở sau mười ba tháng hạn. Anh cố

gắng chờ và quyết tâm lên tận đỉnh Puvan cao nghìn mét để thấy được cây

Sầu trổ bông. Cuối cùng anh đã thấy được bông hoa Sầu ý nghĩa cuộc đời nở

đồng thời cay đắng nhận ra anh đã sống một cuộc đời tầm thường nhạt nhẽo,

một cuộc đời vĩnh viễn mất đi gia đình và người con gái anh yêu. Kết thúc

anh đã chọn cái chết dưới những bông hoa Sầu. Nhiều nhân vật của Nguyễn

Ngọc Tư luôn khao khát tìm kiếm hạnh phúc để thoát khỏi nỗi cô đơn nhưng

cuối cùng vẫn không tìm thấy hạnh phúc và tình yêu. Đó là bi kịch của họ.

Trong hoàn cảnh mà niềm tin và sự trung thực của con người thường

xuyên “bị đánh cắp” thì các nhân vật lại đi tìm kiếm nó. Trong Ngọn đèn

không tắt Tươi đại diện cho thế hệ trẻ, thay nội kế tiếp trang sử hào hùng ở xứ

Hòn. Bên cạnh niềm tự hào chiến thắng trộn lẫn máu và nước mắt của các

bác, các chú, trong trái tim chị ngọn đèn vẫn mãi mãi không tắt vì nó được

44

thắp sáng bằng niềm tin, bằng ý chí. Trong Cái nhìn khắc khoải cô Út đã yêu

và đặt niềm tin vào một anh thợ gặt mà cô không hề biết gốc gác ở đâu. Anh

ta làm ít, nhậu nhiều, nợ nần chồng chất khiến cô phải nai lưng ra trả. Nợ

nhiều quá người ta siết nợ, anh đành bỏ cô mà trốn đi. Vậy mà cô không hề

thù hận anh ta, chỉ trách một cách nhẹ nhàng bằng hai từ “tệ thiệt”.

Trong Mộ gió người chị cố gắng và tạo cho mình một niềm tin trải dài

theo thời gian cho tới khi giả đò là người em chỉ bổ đi đâu đó chơi rồi sẽ trở

về. Cũng bởi niềm tin ấy mà chị phải chịu những lời cay nghiệt của bố mẹ chỉ

vì không coi chừng em cẩn thận.

Nhân vật tìm kiếm chính mình cũng thuộc kiểu nhân vật sám hối. Các

nhân vật thường ở thời điểm hiện tại quay trở về quá khứ rồi lại trở về hiện

tại. Tất cả quá khứ phần nhiều là đau khổ, là thấp thỏm, lo âu. Chính vì sám

hối nên nhân vật mới tìm lại được chính mình. Người cha trong Cánh đồng

bất tận khi trở lại là một người cha yêu thương con thì lại phải chấp nhận

một bi kịch: Con gái bị hãm hiếp ngay trước mắt mình.

Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ tìm nhau

khi xa cách mà ngay cả khi họ ở bên nhau. Họ tìm kiếm nhau trong vô vọng.

Trong Nhà cổ cô gái Út nhỏ chờ đợi tình yêu của anh em nhà Tứ Hải, Tứ

Phương trong vô vọng bởi hai anh em đã để bụng thương chị Thể mất rồi.

“Năm tôi mười sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết hai anh em đều lặng lẽ để bụng

thương chị Thể mất rồi. Chị Thể mồ côi từ nhỏ về ở nhờ trong “Nhân Phủ”,

đẹp nết, đẹp người. Sinh thời má anh Hải hay nắm tay trìu mến,” “ Má có hai

thằng con trai chừng nào lớn, bây chọn một đứa, làm con dâu má nghen”. Chị

Thể chỉ cười cười không nói. Chị hiền, dịu dàng như chiếc lá me, con trai

xóm khác gặp một lần còn nhớ, huống chi ba người họ lớn lên cùng nhau…

nhưng nhường qua nhường lại hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn

sáng, ốm sòm, mặt mày xanh rỏ cắc củm dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp

45

tóc, dép, giày… Ông anh chẳng mua gì nhưng thấy chị vo cơm thì nhảy vào

thổi lửa, thấy chị sắp giặt đồ, anh xách nước để sẵn mấy thùng. Những buổi

sớm mai hai người cùng nhau xào nhân, nhồi bột, hấp bánh bao, khói quây lấy

cả hai, khói thơm ngây dại mùi lá dứa. Người em thức sớm học bài, thấy cảnh

đó, đọc linh tinh những câu chẳng có nghĩa gì”. Cô gái cứ chờ đợi tình yêu

một cách mòn mỏi. Họ sống cạnh nhau, thậm chí là thân quen mà không thể

đến với nhau, không thể thổ lộ tình cảm với nhau. Họ thương nhau, yêu nhau

và trên hết chịu khổ để người mình yêu thương được sung sướng, hạnh phúc.

Ngay lời đề từ, Nguyễn Ngọc Tư có viết: “Tôi thích những mối tình câm, tình

thầm… chắc là khó chịu đựng lắm, khi yêu mà giả bộ không yêu, khi buồn cố

diễn mặt vui, khi đau tình phải tỏ ra vô tình” [8, 62].

Trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư con người sống với nhau vì cái

tình. Vì tình mà người đàn bà trong truyện Dòng nhớ mải miết chèo ghe đi

tìm người phụ nữ từng là vợ trước của chồng mình. Bởi chị chứng kiến chồng

mình cũng đang tìm một bóng hình xưa với ánh mắt nhìn xa xăm “rồi những

lần ra bến đứng dưới mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở,

mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng,

một mình, ông già tha thiết nhìn ra sông”. [Cánh đồng bất tận, 123]. Trong

Cái nhìn khắc khoải ông già cứ chờ đợi mãi một người phụ nữ sẽ quay về với

ánh mắt ngóng trông bao ngày dù người phụ nữ ấy chỉ ở nương nhờ ông trong

một thời gian. Rồi trong Một mối tình, người em gái chờ đợi, kiếm tìm tình

yêu của người chồng chị gái mình.

Sở dĩ các nhân vật phải tìm kiếm nhau ngay cả khi họ ở cạnh nhau cũng

bởi vì tình cảm là chuyện không thể nói một là một, hai là hai, không thể tuân

theo một nguyên tắc nào cả. Bởi thế những cuộc tìm kiếm nhau của những

người hàng ngày sống cận bên nhau còn khắc khoải, còn ít hy vọng hơn

những người tìm kiếm người nơi xa. Nguyễn Ngọc Tư thật tinh tế khi đi sâu

46

vào thể hiện tình cảm, tâm lý thầm kín đó của nhân vật.

Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư có nhiều nhân vật là nghệ

sĩ, mà nghệ sĩ thường theo đuổi những hoài bão lớn lao của cuộc đời mình,

những cái đẹp. Nhiều nhân vật sẵn sàng bỏ nhà ra đi theo đoàn hát để được

đứng trên sân khấu. Nhân vật Điệp trong Chuyện của Điệp mải mê với nghiệp

ca hát dù chỉ luôn được giao vai con nít. Cùng với Điệp, cô đào Hồng Lý bỏ cả

con để đi kiếm tìm cho mình một danh tiếng. Cuối cùng sự nghiệp sụp đổ Hồng

Lý lại quay về tìm con. Điệp vẫn mải mê với nghiệp hát. Cũng có những nhân

vật như đào Hồng trong Cuối mùa nhan sắc cho tới lúc sức tàn lực kiệt, vẫn

muốn mình được rực rỡ trên sân khấu, giữ được vẹn nguyên hình ảnh trong

lòng công chúng. Lao động trong văn hóa nghệ thuật có những cái khó khăn

nhất định của nó. Điều quan trọng là người nghệ sĩ phải gắn bó vai diễn với

hoàn cảnh thực tại của mình. Có như vậy cuộc tìm kiếm mới thật sự thành

công. Đúng như là bà ngoại Điệp đã nói với cô: “Con muốn diễn hay thì phải

sống nhân ngãi trước đã. Mình sống có tình đóng vai nào cũng dễ con à”.

Trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư các nhân vật luôn tìm kiếm.

Những tìm kiếm ấy có thể thành công nhưng cũng có nhiều đau khổ, thất

vọng. Tuy nhiên, chính những khao khát về tình yêu hạnh phúc của người phụ

nữ, hành trình tìm kiếm cái đẹp, ý nghĩa thực sự của cuộc sống của các nghệ

sĩ, hành trình tìm kiếm chính mình, tìm kiếm niềm tin ở cuộc sống… khiến

những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư mang hơi thở cuộc sống phong phú, đa

dạng. Cho dù kết quả mà họ nhận được sau những cuộc tìm kiếm ấy phần

nhiều là vô vọng, nhưng họ vẫn không nản, vẫn tiếp tục cuộc hành trình kiếm

tìm của mình. Dường như đối với họ những cuộc tìm kiếm có ý nghĩa tinh

thần giúp họ tạm quên đi hiện tại đau khổ mà họ đang phải gánh chịu.

2.2.2. Nhân vật sám hối

Trong những năm gần đây, văn học Việt Nam có sự chuyển biến mạnh

47

mẽ. Xu hướng tìm lại những ngọn nguồn hiện thực chính là quá trình tự thú,

quá trình sám hối. Tự vấn trở thành một nhu cầu không chỉ của cá nhân mà

của toàn xã hội. Đó là cơ sở dẫn đến sự xuất hiện và phát triển kiểu nhân vật

sám hối. Thực tế, kiểu nhân vật này đã manh nha từ sáng tác của các nhà văn

thế hệ trước: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp. Sau đó kiểu nhân vật

này càng rõ nét hơn trong những tác phẩm của các nhà văn trẻ: Nguyễn Bình

Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh. Đến Nguyễn Ngọc Tư

kiểu nhân vật sám hối trở nên sinh động, phong phú và chân thật.

Nhân vật sám hối là kiểu nhân vật nội tâm. Tác giả không quan tâm

nhiều đến ngoại hình tên tuổi nhân vật mà chủ yếu quan tâm đến sự vận dộng

trong nội tâm, quan tâm đến những suy tư của nhân vật. Nhân vật sám hối và

nhân vật tìm kiếm có quan hệ mật thiết với nhau. Nhiều khi tìm kiếm là sám

hối và có lẽ vì sám hối mà nhân vật tìm lại được chính mình.

Trong Cải ơi, nhân vật người cha luôn trải qua sự dằn vặt. Đó là sự sám

hối của ông với chính lương tâm. Ông cứ ngỡ ông là người gây ra nỗi khổ cho

gia đình. Đứa con gái khi mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ

đòn nó trốn biệt. Khác với ông, vợ ông là người để bụng chuyện nó là con

chồng trước nên bị ông hà khắc ngược đãi. Gần mười hai năm trời ông tìm nó.

Đến đâu ông cũng cố gắng để ý, nghe ngóng tin tức về Cải, nhưng mọi thứ

vẫn bặt vô âm tín. Ông lang thang, rơi vào những tình huống dở khóc, dở cười

tất cả chỉ với hy vọng tìm được con. “Ông già Năm Nhỏ lặng đi, tự hỏi, bây

giờ ông lên ti vi, con Cải có nhận ra ông không”. Câu trả lời là có, ông đã dắt

con nhỏ đi hái xoài chín trong vườn hoang, đã chặt chuối làm bè dạy nó lội,

thả trâu, chơi diều, ông đã cõng con nhỏ đi mấy vạt đồng đến khám bệnh chỗ

ông bác sĩ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cây kẹp nhỏ, mớ dây chun

khoanh, mấy cục kẹp dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về… Tất

cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên. Ông già

48

muốn lên ti vi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng về đi con ơi, đôi trâu có sá gì!”.

So với Tạ Duy Anh hệ thống nhân vật sám hối của Nguyễn Ngọc Tư

không khốc liệt bằng. Đa phần nhân vật của Tạ Duy Anh sám hối khi đã

vướng vào tội ác. Những sám hối của nhân vật Nguyễn Ngọc Tư không liên

quan đến tội ác khốc liệt. Tuy vậy những dằn vặt, giày vò luôn thường trực ở

các nhân vật này khiến cho nhân vật trở nên khắc khổ hơn.

Trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư để nhân vật trải qua những

thử thách tưởng chừng khắc nghiệt. Hình ảnh người cha gắn với sự sám hối

muộn màng với những gì mà ông gây ra khi trước. Chỉ để trả thù mà ông

quyết liệt lừa những người đàn bà rồi bỏ họ khi họ cần đến ông. Cuối cùng

chính ông phải tận mắt chứng kiến cảnh đứa con gái bị hãm hiếp và ông đã

biết quan tâm đến con gái bằng những hành động thể hiện tình thương con

“cởi áo trên người để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái

gì để có thể che cơ thể nó dưới ánh mặt trời” (8, 212). Người đọc thấy xót xa

cho số phận cô gái. Nhưng điều an ủi một chút đó là người cha đã trở về con

người mình như trước kia, chính ý thức về tình mẫu tử đã khiến ông day dứt,

hối hận.

Tác phẩm Vết chim trời mở đầu ấn tượng với một buổi trưa xuất hiện

tiếng khóc xé lòng của bà nội. Tiếng khóc ấy làm đau đớn trái tim người cha

khi bà nội vô tình hỏi: “Sao bay bắn chết Út Hơn của má?”. Người cha đã cả

đời sống trong nỗi mặc cảm, lo âu về một quá khứ xa xôi nào đó khi ông và em

trai mình ở hai đầu chiến tuyến. Người cha ấy chỉ có một cách là: Chờ đợi.

Ngay cả những lý do tưởng chừng như vụn vặt cũng làm cho nhân vật

phải suy nghĩ. Người cha trong Chuồn chuồn đạp nước, sau một câu trợ giúp

sai cho con gái trong một showgame truyền hình, cuộc đời ông đã thay đổi.

Sự dằn vặt ấy mãi theo suốt tâm hồn ông: “Cha đã đi qua ba bảy hai mốt bình

minh, luôn thức dậy với một nỗi tuyệt vọng còn nhớ”. Người cha càng đau

49

đớn hơn khi nghĩ rằng hình ảnh đẹp của mình đã bị sụp đổ trong mắt vợ con

và những người tin yêu mình. Ông luôn rơi vào trạng thái dằn vặt, rối bời

không lối thoát.

2.2.3. Nhân vật lưu lạc

Trước khi nói về kiểu nhân vật này, chúng ta có thể nhận thấy, đây là

loại nhân vật đặc trưng cho tính cách con người khai phá vùng đất mới Nam

Bộ. Vùng đất Nam Bộ không phải là vùng đất có cội nguồn gốc rễ lâu đời mà

được biết đến như một vùng đất mới với những đặc trưng riêng chứa đầy

những điều thú vị. Vùng đất nào con người ấy. Trong cuốn Đồng bằng sông

Cửu Long nhà văn Nguyễn Văn Bổng nói về quan niệm của người Nam Bộ về

nhà cửa. “Họ không cần có nhà đẹp, vì xưa nay có ở đâu được lâu. Nhà của

họ là “nhà đạp”, “nhà đá”, dựng lên đó ở lại đó nhưng nếu không chịu nổi

áp bức thì lại đạp đi, đá đi, đến chỗ khác mà ở”. Ăn mặc cũng vậy “họ

chẳng cần mặc sang, và có thì ăn, cũng không cần lo cho ngày mai lắm”. Dân

cư Nam Bộ chủ yếu là ở nơi khác đến. Trong quá trình kiếm kế sinh nhai họ

không ở cố định một chỗ mà lưu lạc “lang thang xứ nầy xứ nọ. Gặp mùa lúa

thì gặt mướn, gặp vịt bầy đổi đồng thì chở thuê, gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua

về bán lại chợ nổi Cà Mau” (Biển người mênh mông).

Cuộc sống tha hương phiêu dạt của những người khai phá vùng đất mới

đã tạo nên nét đặc trưng trong tính cách của họ. Lớn lên trong cái nôi văn hóa

Nam Bộ, tâm hồn nhạy cảm khiến Nguyễn Ngọc Tư bắt rất tinh một nét tâm

hồn của người dân nơi đây: Cảm thức lưu lạc.

Do vậy, nhân vật lưu lạc thường xuyên xuất hiện trong sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư. Cùng với đó là bao nhiêu số phận mỗi người một hoàn

cảnh khác nhau. Các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường có cuộc sống bất

định, liên tục di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Không gian sống và cả

50

không gian tâm tưởng của nhân vật luôn thay đổi. Hoặc giả có ở cố định một

nơi nhưng từ sâu xa, nhân vật vẫn nghĩ về một cuộc ra đi, vẫn chịu ám ảnh về

sự chia ly phiêu bạt.

Đọc Cánh đồng bất tận ta thấy tập truyện mở ra cả một không gian

mênh mông rợn ngợp của những cánh đồng ngút ngát. Công việc của những

người nông dân khu vực này chủ yếu là nuôi vịt chạy đồng. Họ sống lang

thang vô định qua những cánh đồng. Cuộc sống của họ là sự chuyển dịch từ

cánh đồng này sang cánh đồng khác. Với họ những nơi họ đi qua đều chứa

đầy những kỷ niệm. Chính bởi thế họ coi cánh đồng là mái nhà của mình. Họ

sống, gắn bó mật thiết với nó.

Có những nhân vật như nhân vật cô gái trong Gió lẻ ngày lại qua ngày

sống lay lắt như cỏ dại. Cô cuốn vào đời với những số phận khác. Cô ở nhà

ông Tám Nhơn Đạo rồi lang thang đến chiếc xe của ông Buồn, anh Tìm Nội.

Bóng dáng nhỏ nhoi của cô lẩn khuất gió, cát, bụi nhạt nhòa. Không có một

bàn tay ấm nào nắm lấy bàn tay lạnh, nhỏ bé của cô.

Khảo sát qua sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy: Một

số nhân vật như ông Sáu Đèo trong Biển người mênh mông, ông già Năm Nhỏ

trong Cải ơi, cha con ông Chín trong Nhớ sông, cha con Nương Điền trong

Cánh đồng bất tận, ba nhân vật trong Gió lẻ, gia đình chú Đời trong Đời như

ý…là những nhân vật thể hiện sâu sắc cảm thức lưu lạc của nhà văn. Các nhân

vật này cứ lênh đênh, phiêu dạt ở một nơi nào đó, không phải là nhà mình,

không phải là quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Dường như cuộc đời

họ là những chuyến đi, là sự kiếm tìm mỏi mòn, vô vọng. Thực ra Sáu Đèo,

Năm Nhỏ, Dự…đều có nhà nhưng không thể trở về; cha Nương có nhà mà

phải đốt nhà vì không chịu được sự phản bội. Điền và Nương đi hết tuổi thơ

vẫn không tìm được mảnh đất dung thân, dù tên chúng là đất đai, nương rẫy.

Ba nhân vật “Em”, Dự và “gã” trong Gió lẻ đều là nhưng con người lưu

51

lạc. Dù mỗi người có một hoàn cảnh, một suy nghĩ, một mục đích, song họ

cùng lang thang, phiêu dạt. Cả ba người đều rong ruổi trên đường, chiếc xe cũ

là nhà. Họ không muốn dừng lại ở một nơi nào cố định. Những chuyến đi của

họ không có điểm dừng cuối cùng. Họ chọn cuộc sống phiêu bạt như một

cách để tồn tại, để trốn tránh nỗi đau, trốn tránh hiện thực giả dối. Mỗi khi

nhân vật có ý định làm một việc gì đó, ngay lập tức ý thức về đời sống lưu lạc

lại trỗi dậy, thức tỉnh nhân vật: Cuộc sống lưu lạc của họ không thể thực hiện

được điều đó. Cũng như vậy, nhân vật “Gã: (Gió lẻ) không có ý định tạo dựng

hạnh phúc lâu bền, không gắn bó cuộc đời mình với ai bởi “gã” luôn sợ mọi

thứ lại sẽ biến mất và “gã” sẽ lại đau khổ. Cuộc đời “Gã” đã sớm phải chịu

chia lìa, mất mát và bởi vậy “Gã” không thích có một nơi nào cố định, không

muốn trói buộc mình, không muốn một cuộc sống đầm ấm…Ba cha con

Nương, Điền (Cánh đồng lưu lạc) là điển hình nhất, ám ảnh nhất cho các

nhân vật lưu lạc của Nguyễn Ngọc Tư. Dòng ý thức đan xen quá khứ với hiện

tại của Nương thấm thía cảm giác lưu lạc. Nơi nào cũng khiến Nương cảm

thấy xa lạ, mùa nào cũng làm Nương buồn nhớ ngày xưa. Những gì chứng

kiến trong hiện tại đều gợi cho Nương nhớ về quá khứ tươi đẹp yên bình.

Nương lưu lạc ngay trong chính dòng tâm tư của mình. Bị chịu nhiều chấn

thương về tâm lý, Nương luôn mang dự cảm mong manh về hạnh phúc: “Tôi

lắc đầu, bảo thôi, thí dụ mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm.

Mà đã ngấm, đã xé lòng tan hoang với nỗi đau chia cắt rồi chưa sợ sao?”.

Cuộc sống với Nương và Điền là một chuỗi ngày lưu lạc thực sự. Họ không

có nhà cửa, liên tục di chuyển trên con thuyền nhỏ, không bạn bè, không

người thân, không ai chờ đợi, níu giữ ngoài những kỷ niệm đau đớn trong quá

khứ. Bị bứt khỏi những sợi dây liên kết với quê hương, họ luôn bị ám ảnh bởi

tai họa, bất trắc, bởi nỗi tha hương, lưu lạc. Cảm thức lưu lạc đã khiến họ

không dám hy vọng vào hạnh phúc bền lâu. “Sống cuộc đời mục đồng, chúng

tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để

lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kênh

52

khác. Chúng tôi vô định hơn bất cứ người nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những

cuộc tình của cha tôi, ngày càng ngắn ngủi”. Thậm chí, ngay cả việc trông

mấy cây ô môi nhỏ để tìm lại cảm giác yêu thương, che chở cho những sinh

hoạt nhỏ bé, Điền và Nương cũng nghĩ ngay đến hiện trạng lưu lạc của chúng!

“Hai đứa ngồi nhìn công trình của mình, bỗng buồn, không biết mai này còn

có kịp quay lại coi trụ cây này lớn lên, để trèo lên hái trái, để giăng cái võng,

ngủ một giấc đã đời” [9; 187]. Chính cảm thức về sự lưu lạc luôn thường trực

đã chi phối mọi suy nghĩ, tình cảm, hành động, ứng xử của con người. Vừa

muốn thương một ai đó, gắn bó với một ai đó, chúng lại ngậm ngùi sợ gắn bó

rồi lại phải chịu tổn thương như cha mình “đã ngấm, đã xé lòng toang hoang

với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao?” [9;188]. Những con người tha hương,

lưu lạc luôn có cảm giác: “Dường như không còn kịp nữa để hàn gắn những

đổ nát, để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng” [9; 206]. Và họ tìm về

quá khứ như tìm lại bản nguyên của mình đã bị mất đi do sự đổ vỡ, mất mát

những mối quan hệ, đặc biệt khi con người phải xa rời không gian sống quen

thuộc. Có thể thấy các nhân vật lưu lạc trong Cánh đồng bất tận và rộng hơn

trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thường có tâm trạng phức tạp, lưỡng

phân: Vừa muốn hoài hương, hoài cố vừa muốn ly hương, dấn thân vào con

đường mới.

Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, người đọc còn bị ám ảnh bởi một

kiểu người lưu lạc khác: Đó chính là những nghệ sĩ. Cuộc sống tại các đoàn

hát cũng là một cuộc sống thường xuyên thay đổi. Nghề nghiệp của họ đòi

hỏi phải nay đây mai đó. Điểm chung của những nhân vật này chính là yêu

nghề, say mê với nghề. Họ chính là Điệp, đào Hồng, Diệu… Họ mang đến

cho người xem những vai diễn đáng nhớ. Cuộc sống sinh hoạt tạm bợ, những

khó khăn trong cuộc sống không ngăn được họ đến với sân khấu. Hình ảnh

những nghệ sĩ mang đậm chất nghệ sĩ. Điệp trong Chuyện của Điệp nhận nuôi

bé Bơ khi cô đào Hồng bỏ lại. Điệp nuôi bé Bơ trong hoàn cảnh khó khăn

53

nhưng cô yêu thương nó hết lòng. Khi đào Hồng Lý quay trở lại xin con cô

chấp nhận trả lại. Nhân vật San trong Bởi yêu thương quá yêu ca hát sùng bái

môn nghệ thuật hát bội để rồi cuối cùng đành từ giã ước mơ vì không muốn

cái nghề ô nhục của mình làm tổn hại đến nó.

Nhìn chung, tuy sống lưu lạc nhưng nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư

luôn là những nhân vật có tình cảm, phẩm chất tốt đẹp. Tiên vốn là một cô gái

lang thang nhưng rất tình cảm. Cô dành nhiều tình cảm cho một nhạc sĩ

nghèo. Tiên chăm lo cho anh từng chút một. Thế rồi anh đi, anh thay đổi, Tiên

vẫn nhớ về anh, không một lời oán trách. Dường như với cô được chăm lo

cho người mình yêu thương là hạnh phúc lắm rồi. Trong Một dòng xuôi mải

miết, Sáng vì giữ lời hứa với người đã khuất phải sống xa em, sống lang thang

nay đây mai đó. Các nhân vật chấp nhận một cuộc đời lưu lạc để có một sự

thỏa mãn trong tâm hồn. Ông Sáu Đèo (Biển người mênh mông) từng sống

với vợ thật hạnh phúc. Chỉ một lần uống rượu say, vì nóng giận, ông mắng bà

không sinh con cho ông khiến bà tủi thân, đau đớn bỏ đi. Ông hối hận, bỏ hết

nhà cửa, lặn lội hơn bốn mươi năm ròng để tìm vợ. Ông chỉ mong tìm được

bà để được nói một lời xin lỗi. Dù vô vọng ông vẫn cố kiếm tìm…

Dường như, đi là một cách giải quyết tối ưu của các nhân vật, bởi đó là

con đường giải thoát họ khỏi những thứ mà họ cho là tù túng, kìm kẹp. Họ

lưu lạc hết nơi này đến nơi khác để hy vọng về một sự thay đổi. Anh chàng

Lương trong Bến đò xóm Miễu lớn lên theo những dòng xuôi ngược của

những chuyến đò. Anh ta chứng kiến Bông cùng lớn lên với những bến đò

xuôi ngược ấy. Cũng có lúc anh cảm thấy bất lực khi Bông nhúng mình vào

cuộc sống ô nhục. Tuy vậy anh vẫn tôn trọng cô như một con người thực sự.

Đón Bông về khi cô chỉ còn là một người tàn phế anh vẫn chấp nhận, bỏ qua

dư luận bàn tán khen chê. Tình yêu thương của các nhân vật được thể hiện

thầm lặng, qua hành động, tình cảm và suy nghĩ, mang đậm nét vị tha, cao

thượng. Và bởi thế, có chiều sâu chân thực và gây xúc động sâu xa cho người

54

đọc.

Trên con đường lưu lạc các nhân vật phải tự học cách sinh tồn, cách

yêu thương đồng loại. Phần lớn các nhân vật lưu lạc trong sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư đều là người có tình cảm, tình yêu thương sâu sắc. Không

gian của tác phẩm được mở rộng hơn để nhân vật thể hiện nhân cách, phẩm

chất tốt đẹp đó của mình.

2.2.4. Nhân vật cô đơn

Nhân vật cô đơn là kiểu nhân vật khá phổ biến trong văn học Việt Nam

đổi mới. Kiểu nhân vật này trở thành một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều

cây bút văn xuôi hiện nay. Cuộc sống hiện đại với những guồng quay hối hả

đã cuốn con người vào nhịp sống nhanh, thậm chí vội vàng. Nhưng trước

những thay đổi đến chóng mặt của cuộc sống, con người lại cảm thấy khó hòa

nhập và có cảm giác bị cô đơn. Chính vì thế, các nhà văn chọn viết nhiều hơn

về nỗi cô đơn. Thậm chí có những lúc chính họ cũng rơi vào trạng thái cô đơn

trong hành trình sáng tạo của mình. Nguyễn Ngọc Tư là một tác giả như thế.

Chị tự nhận: “Trong cõi văn chương, tôi là đứa cực kỳ cô đơn. Nếu tôi rất dễ

dàng để nhân vật của mình sống trong cô đơn tận cùng. Trong hoang hoải

chán trường. Tôi cũng như những con người trong Cánh đồng bất tận, sống

giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, sống giữa biển người nhưng có cảm

giác bị bỏ rơi”.

Có người đặt vấn đề: Có thể chính thế giới sông nước mênh mông của

miền Tây Nam Bộ và nhịp sống hối hả của thời hiện đại đã tạo nên cảm thức

cô đơn trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu như các nhân vật của Phạm

Thị Hoài đa phần chọn cô đơn như một cách thế sống, “tự cô đơn” để khước

từ thực tại tầm thường thì các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

hầu hết là những con người “bị cô đơn”. Họ chỉ một mình đơn độc trong dòng

55

đời.

Có thể nhận thấy một điều, nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc

Tư chủ yếu là những người nghệ sĩ và những người nông dân. Ở cả hai loại

nhân vật này cô đơn là một trạng thái thường thấy. Điều đó cũng dễ hiểu bởi

con người vô cùng phức tạp và bí ẩn. Đôi khi họ cảm thấy cô đơn vì lạc lõng

trong một đám đông xa lạ, có khi cô đơn vì cái tôi quá cao. Họ cô đơn khi họ

muốn tách mình ra khỏi số đông… Nguyễn Ngọc Tư đã đi vào khai thác rất

sâu kiểu nhân vật cô đơn ấy bởi chị đã từng nói: “Là phụ nữ, dễ nuôi cô đơn

để viết”. Thông qua cái cô đơn của người nghệ sĩ, cô đơn của những con

người nhỏ bé giữa biển người mênh mông, cô đơn ngay cả chính trong gia

đình mình chúng tôi sẽ làm rõ nét độc đáo, sâu sắc của cây bút Nguyễn Ngọc

Tư khi xây dựng kiểu con người Nam Bộ cô đơn này.

2.2.4.1. Người nghệ sĩ cô đơn

Trên hành trình sáng tạo của mình, người nghệ sĩ luôn muốn cống hiến

cho độc giả, khán giả những công trình nghệ thuật có ý nghĩa. Sự sáng tạo ấy

luôn đi đôi với cảm thức về sự cô đơn. Họ trăn trở đi tìm cái đẹp, ý nghĩa của

cuộc sống và thường hay rơi vào trạng thái cô đơn.

Điều dễ nhận thấy trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là người nghệ

sĩ rất yêu nghề. Họ chấp nhận tất cả thậm chí họ có thể sống chết với nghề.

Đào Hồng ốm sát chiếu nhưng vẫn đòi ra hát. Đào Hồng đã bỏ hết tất cả, trở

thành một người lăng xăng trong đoàn diễn, kiếm sống bằng nghề bán vé số

dạo (Cuối mùa nhan sắc). Điệp trong Chuyện của Điệp sẵn sàng bỏ nhà đi

theo đoàn hát, sẵn sàng đóng vai con nít suốt chỉ vì quá mê nghề ca hát này.

Chú Sa trong Chuyện vui điện ảnh sẵn sàng vì đóng vai tên ác ôn khét tiếng

đạt mà bị hàng xóm xa lánh. Hay như Diệu trong Làm má đâu có dễ chấp

nhận xa con theo đoàn diễn lâu ngày. Nhân vật San trong Bởi yêu thương

không muốn quá khứ ô nhục của mình làm tổn hại đến môn nghệ thuật hát bội

56

nên đã từ giã nghề ca hát.

Các nghệ sĩ sống chết với nghệ thuật, ước mơ, khát vọng lớn lao của họ

là cống hiến cho sân khấu, khán giả cùng những vai diễn hay, ấn tượng và ý

nghĩa. Điệp cống hiến bao nhiêu năm, luôn luôn bị nhận vai con nít vẫn

không nguôi hy vọng một vai diễn chính trên sân khấu. Nhân vật đào Hồng

tuy bệnh tật vẫn muốn đứng trên sân khấu, không muốn làm mất đi hình ảnh

của mình với quá khứ đầy hào quang trước con mắt của khán giả. Biết trước

những khó khăn sẽ đến nhưng San chấp nhận từ bỏ cuộc đời ô nhục để theo

đuổi ước mơ trở thành người nghệ sĩ hát bội.

Cũng bởi chấp nhận mọi thứ để theo đuổi nghệ thuật nên họ cô đơn, lạc

lõng trong thế giới con người xung quanh. Nghiệp hát khiến các nhân vật phải

đi theo đoàn diễn lâu ngày, nay đây mai đó. Mối ràng buộc thường trực với

người thân trở nên lỏng lẻo hơn. Trong Chuyện của Điệp, Điệp luôn sống một

mình, sống thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Khi cô nhận nuôi bé Bơ do đào

Hồng Lý bỏ lại cô đã thấy vui hơn. Nhưng sau đó đào Hồng Lý quay lại tìm

con cô sẵn sàng trả lại và sống cuộc đời cũ. Ông Chín Vũ mê hát bỏ tất cả

theo tiếng gọi tình cảm của mình nhưng vẫn luôn sống một mình chịu lời ra

tiếng vào, ông vẫn thấy cuộc đời có ý nghĩa ngay cả trong Cuối mùa nhan

sắc. Đau khổ hơn, San trong Bởi yêu thương không được thỏa nguyện và phải

sống một cuộc đời cô độc. Nhiều nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư rơi vào tình

trạng cô đơn do chính việc làm của họ. Tiêu biểu là hai người mẹ - hai nghệ sĩ

Đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc) và Diệu (Làm má đâu có dễ). Cả hai đều là

những nghệ sĩ tài năng, say mê nghề nghiệp. Vì muốn nổi tiếng và được giữ

những vai chính, chị Diệu đã gửi con cho má để tự do phấn đấu. Vì chiến

tranh, vì quá nghèo và bận đi diễn nay đây mai đó, Đào Hồng đã cho đứa con

của mình đi. Rồi thời xuân sắc qua đi, nghiệp diễn tàn, họ thấy cô đơn và cần

có đứa con như một điểm tựa về tinh thần, một niềm an ủi thì những đứa con

quay lưng từ chối họ. Họ phải chấp nhận sống tuổi già cô đơn, buồn tẻ trong

57

cảm giác ân hận, day dứt.

2.2.4.2. Con người cô độc trong “Biển người mênh mông”

Nguyễn Ngọc Tư rất nhạy cảm trước sự cô đơn: “ Ngày ngày kẹt giữa

đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghẹt người, nhiều khi tôi

giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã

rời…Lúc ấy tôi có một cảm giác thật kỳ lạ, chỉ mình trên cõi đời này, chỉ một

mình, chẳng ai là tri ân, chẳng ai cả…”. [9; 98].

Hiện thực cuộc sống biến động từng ngày. Cuộc sống ấy tác động đến

nhiều người. Nhịp sống hối hả kéo theo nhiều hệ lụy. Sống gấp, sống nhanh,

sống vội vàng nhưng khi mọi thứ không theo ý muốn người ta lại dễ rơi vào

trạng thái cô đơn.

M. Gorky đã từng nói: “Cuộc sống thiếu tình yêu không phải là cuộc

sống mà chỉ là tồn tại, không thể sống thiếu tình yêu vì con người sinh ra có

một tâm hồn chính là để mà yêu”. Tình yêu là một thứ tình cảm khó lý giải,

nó đem đến cho con người bao nhiêu hạnh phúc thì cũng gây ra cho con

người bấy nhiêu đau khổ. Bởi thế hai người ở cạnh nhau nhưng không có tình

yêu hoặc nếu chỉ có tình yêu đơn phương, thì chỉ là những con người cô đơn.

Trong Cái nhìn khắc khoải người đàn ông và người phụ nữ sống cạnh nhau

nhưng giống như một cuộc rượt đuổi không có điểm chung. Người đàn ông

chú ý, quan tâm đến người đàn bà còn chị ta lại để tâm đến người thợ gặt mà

mình yêu. Trong Dòng nhớ, cái cô đơn xoáy sâu vào lòng mỗi con người

trong một gia đình: “Cả nhà ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót

như ai lấy cật tre cứa tới, cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là sự xum họp

đây, mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người lững thững đi

dưới nắng kia mới chết chứ”. [8, 126]. Trong Cánh đồng bất tận ba cha con

sống cùng nhau, ăn ở cùng nhau vậy mà ta không thấy có hơi ấm gia đình

trong đó. Các cá nhân trong gia đình này như các cá thể rời rạc, không gắn

58

kết. Mẹ bỏ đi, người cha mãi đuổi theo những thù hận. Hai đứa trẻ lớn lên

không được hưởng tình cảm, sự chăm sóc của cha mẹ, không có định hướng

cuộc sống.

Cũng chính bởi thế mà họ quá cô đơn, cái buồn cứ theo bám họ trong

một thời gian dài thậm chí rất dài. Chỉ có tình yêu làm người ta đau khổ, cô

đơn đến thế. Chàng trai mù tên Vĩnh trong truyện ngắn Nửa mùa chỉ biết thở

dài khi Tiên dành tình cảm cho Sỹ dẫu biết rằng Sỹ là một kẻ chẳng ra gì.

Anh chàng Hiên trong Nhớ sông chẳng thể làm gì ngoài ngâm nga câu vọng

cổ buồn hiu hắt trong ngày cưới của Giang. Nỗi cô đơn còn đậm đặc hơn ngay

cả trong những mối tình tưởng như gắn bó mà lại không được đến với nhau.

Trong Huệ lấy chồng, Huệ và Thi yêu nhau tưởng như không có gì ngăn cản

nổi, ấy thế mà khi Thi ra huyện dạy học để kiếm thêm tiền cưới vợ thì lại

vướng phải mối tình với người con gái vị Giám đốc Sở Giáo dục huyện. Anh

Hết yêu chị Hoài là thế nhưng vì hoàn cảnh quá nghèo, không thể lấy chị về

làm vợ nên đành nghe theo lời mẹ Hoài, giả bộ mải mê chơi bời, hư thân để

chị yên lòng theo chồng (Hiu hiu gió bấc). Nỗi cô đơn của các nhân vật cứ

tăng dần lên vì tình yêu tan vỡ cộng theo sự đánh giá của dư luận.

Phần lớn nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sống giữa “biển người mênh

mông” mà luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Họ là nạn nhân của những bi kịch,

éo le, ngang trái, bị số phận xô đẩy đến nỗi cô đơn. Phi trong Biển người

mênh mông thiếu thốn tình yêu thương của mẹ. Anh ở với bà ngoại nhưng

một ngày kia bà cũng bỏ Phi mà đi. Phi thấy mình cô đơn, xa lạ giữa biển

người mênh mông. Phi chọn nghề hát để “được sống tự do, tự tại, để được hát

cho vơi đi nỗi lòng” chứ không phải để mưu sinh. Nếu không hát, Phi lại

uống, uống đến say để quên đời, để vượt thoát nỗi cô đơn và mặc cảm. Phi

cảm thấy mình bê tha nhưng “có ai rầy la, có ai để ý đâu mà biết”. Rồi ông

già Sáu dạt vào đời anh, giúp anh vợi bớt nỗi cô đơn trong một đoạn đời ngắn

ngủi. Nhưng rồi khi ông Sáu ra đi, Phi lại càng thấm thía hơn bao giờ hết sự

59

cô đơn, vô nghĩa của cuộc đời mình.

Nương và Điền trong Cánh đồng bất tận trơ trọi như hai cái cây bị bứt

rễ khỏi mảnh vườn quen thuộc từ ngày mẹ bỏ đi, cha đốt nhà. Chúng sống

cuộc đời du mục, chỉ biết làm bạn với gió, với đàn vịt…Chúng đắm chìm

trong thế giới đó để “tạm quên đi nỗi buồn của cõi người” và để “hy vọng sẽ

không bị đau như yêu thương một ai đó”. Đời sống của chúng khác biệt với

những người xung quanh và không khỏi có cảm giác “nhiều lúc tôi hơi nhớ

con người họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba

công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua

gạo, cám, mắn, muối…dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa…nhưng tôi vẫn

nhớ”. Hai chị em khao khát vô cùng “được đưa tiễn, được xao xuyến, nhìn

những cái vẫy tay, được nhận vài món quà quê như buồng chuối già hương

hay bó rau ngót trong vườn, cùng lời dặn dò quyến luyến “đi mạnh giỏi

ghen”. Chúng nghèo quá, cô đơn quá; chúng không có bạn bè, không có mẹ,

không có ông bà, chỉ có người cha ở ngay bên cạnh nhưng ông lại xem chúng

như đã chết. Chính vì thế “Cái ghe thấy nhỏ vô cùng tận, loay hoay chỉ ba

con người nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em tôi cảm thấy xa cách cha”.

Mỗi con người là một thế giới riêng, không thể gần gũi, sẻ chia. Sống gần cận

nhau mà lòng xa cách vô bờ. Không chỉ xa lạ nhau, họ còn xa lạ với chính

mình.

Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư còn khá nhiều nhân vật khác cũng

thường trực cảm giác cô đơn. Người cha trong Dòng nhớ ôm nặng mối tình

xưa trĩu nặng trong lòng mà không thể chia sẻ, thổ lộ cùng ai. Những đêm dài,

ông âm thầm ngồi bó gối, không đổi tư thế ngồi, ngó xuống dòng sông, nhớ

về người vợ cũ. Ông như khối cô đơn đặc quánh. Xuyến trong Duyên phận so

le phải âm thầm chịu đựng một nỗi đau, một bí mật riêng không thể san sẻ.

Ông Mười (Mối tình muôn năm cũ) “Cả đời chỉ mong người nhà hiểu mình

chứ trông mong gì người thiên hạ”, vậy mà cũng không ai chịu hiểu, chịu chia

60

sẻ cùng ông. Ông già Chín (Cuối mùa nhan sắc) suốt đời ôm một tình yêu

đơn phương. Ông Tư Nhớ (Đau gì như thể) bị nghi oan mà không thể giãi

bày. Người cha trong Chuồn chuồn đạp nước không có lỗi lầm gì, vậy mà cứ

luôn cảm thấy mọi người xa lánh mình. Có thể nói, không mấy nhân vật trong

sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thoát ra khỏi cảm giác bị cô đơn. Họ cố vùng

vẫy tìm cách vượt thoát cô đơn. Vĩnh trong Sầu trên đỉnh Puvan không có

người thân. Kí ức còn lại của anh chỉ là “những mụn thịt rơi vãi của người

thân mình trong bom đạn và đôi môi tím sẫm của người yêu khi người ta vớt

cô lên ở ngã ba sông”. Anh sợ ngày mai bởi với anh “ngày mai là trống

rỗng”. Tuyệt vọng, Vĩnh tìm đến cái chết để giải thoát khỏi nỗi cô đơn. Các

nhân vật: Ông Hai trong Cái nhìn khắc khoải, Nương và Điền trong Cánh

đồng bất tận, nhân vật “em” trong Gió lẻ…đều chạy trốn nỗi cô đơn bằng

cách bầu bạn với chim muông, gà vịt…Để quên đi nỗi cô đơn, bất hạnh, chị

em Nương đã phát hiện ra những ngôn ngữ mới để giao tiếp và “chấp nhận để

cho người ta nhìn mình như những kẻ điên (miễn là tạm quên đi nỗi buồn của

cõi – người). Chị em tôi tìm cách yêu thương đàn vịt…nhưng nhiều khi nhìn

thằng Điền dỏng tai coi mấy con vịt nói cái gì tôi giật mình, nuốt một họng

đắng, tự hỏi đã đến nỗi nầy sao, đến nỗi chơi với người thấy buồn, nên

chuyển qua chơi cùng vịt”. Và thật chua chát khi thấy Điền cười, phát hiện ra,

hai chị em nó “hỏng nói tiếng người? Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi

đọc được những ý nghĩ trong Điền. Ở đó, đang có bão tơi bời, gió quất điên

cuồng vào trái tim nhỏ chi chít vết đau”. Liệu cách giao tiếp mới này có giúp

chúng cảm thấy vơi nhẹ đi nỗi cô đơn, nỗi buồn của cõi người?

Quả thật, nỗi cô đơn của nhiều nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn

Ngọc Tư khó sẻ chia và họ cứ sống chìm đắm rất lâu trong cái vỏ bọc của sự

cô đơn ấy. Một số nhân vật muốn thoát khỏi sự cô đơn bằng cách tìm kiếm,

nhưng những cuộc tìm kiếm ấy phần nhiều là không thành. Họ lại càng buồn

hơn. Mỗi con người là một thế giới khác nhau. Để có một điểm chung trong

61

tình cảm thì nhân vật phải cố gắng hơn rất nhiều.

Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, nhiều lúc có cảm giác nghẹn đắng,

xót xa. Chị viết về số phận con người trong những cảm nhận về sự cay đắng

chua chát mà cuộc đời đã dồn đẩy họ đến. Lối kể của chị thản nhiên nhưng

lúc nào cũng khiến người đọc cảm thấy những bất ổn rồi trăn trở cùng chị để

nghĩ cách giải thoát cho số phận cuộc đời mỗi nhân vật.

2.2.5. Nhân vật nghèo khổ, bất hạnh

Người ta thường nhắc đến Nam Bộ là một vùng đất mới, con người đến

từ khắp mọi nơi. Cuộc sống ở vùng đất mới quả thật không dễ dàng. Thêm

vào đó những khó khăn do thiên tai xảy ra rất nhiều. Đọc Cá tính miền Nam

của Sơn Nam ta mới thấy hết được cảnh nghèo của người dân Nam Bộ. “Kinh

nghiệm của người già để tổng kết là, cứ hai năm làm ăn khá giả được mùa thì

bất cứ địa phương nào cũng phải gặp một năm mất mùa. Trong sáu tháng ở

không chờ lúa chín hoặc sau Tết chờ khi trời đổ mưa, người dân sống bằng

nợ, vay với tiền lời quá cao. Những năm thu hoạch ở mức trung bình, người

làm ruộng chỉ đủ ăn cho tới tháng ba, tháng tư âm lịch là vay lúa, vay tiền.

Mấy tháng rảnh rỗi ấy, người dân ở quê vì thiếu công nghệ nên chỉ có một

con đường là sống lê thê, trước sau gì cũng nghèo, không chơi thì chẳng làm

gì sinh lợi cả” [24; 8]. Điều đó lý giải vì sao ta thường xuyên bắt gặp hình

ảnh người dân nghèo lam lũ trong tác phẩm của những cây bút Nam Bộ như

Hồ Biểu Chánh, Đoàn Giỏi, Sơn Nam…

Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư hình ảnh những người nghèo khổ,

bất hạnh cũng là hình ảnh đậm, phổ biến, có sức ám ảnh với người đọc. Nhiều

lúc ta tự hỏi: Có cái nghèo đến thế thật sao trong thời buổi này? Trong Bến đò

xóm Miễu nhân vật Lương phải chèo đò từ năm 12 tuổi. Nhà Lương rất nghèo

chỉ có cái chòi rách tả tơi. Anh chèo qua 9 con đò, bến đò qua tay chủ tới 4

lần mà anh vẫn nghèo, xơ xác. Trong Biển người mênh mông nhân vật Phi

62

sống cùng bà ngoại, khi lớn lên thôi học đi theo đoàn hát. Đến khi 30 tuổi Phi

vẫn ở một mình, sống nghèo đói. Nhiều đứa trẻ tứ cố vô thân, bị bỏ rơi lang

thang, phiêu bạt khắp nơi khắp chốn lớn lên bằng ăn nhờ ở đậu, ban ngày thì

sống lay lắt, ban đêm thì trú nhờ dưới mái hiên nhà người khác. Diễm Thương

và Thân trong Cải ơi cô bé Tiên trong Nửa mùa…là những kiếp người sống

vất vưởng như thế !

Cái nghèo đói nhiều khi đẩy con người vào hoàn cảnh bất hạnh, tan tác,

chia rẽ. Trong cuộc sống hiện đại, lối sống thực dụng xuất hiện ngày càng

nhiều. Người vợ trong Cánh đồng bất tận chỉ vì những mảnh vải mới mà sẵn

sàng bỏ chồng, bỏ con để ra đi. Huệ và Thi vốn yêu nhau, chắc sẽ là một cặp

đôi xứng với nhau nếu không vì tiền. Vì tiền Thi chuyển lên huyện dạy và rồi

anh không trở về với Huệ nữa (Huệ lấy chồng). Không chịu nổi cuộc sống

nghèo túng khó khăn nên Ái đã bỏ Trọng đi theo thày giáo Thành (Nhà cổ).

Những xô đẩy của cuộc sống đã dồn họ đến sự cùng quẫn. Bông vì nghèo

phải đi bán bia ôm (Bến đò xóm Miễu). Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư nói

nhiều đến những thay đổi của cuộc sống: dịch cúm gia cầm, tiêu cực trong xã

hội kinh tế thị trường… chính những điều đó đã đẩy người dân vào cảnh sống

nghèo khó, túng quẫn...

Nhưng nghèo vật chất mà tinh thần không nghèo. Trong sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư, hầu hết nhân vật đều nghèo, phải lao động vất vả, cực

nhọc, song họ vẫn luôn là những người nghĩa hiệp, giàu lòng nhân ái, yêu

thương. Thật đáng trân trọng cho “những con người có tình, có nghĩa dễ gì

bỏ được nhau” (Làm mẹ). Lời dạy của người mẹ trong truyện Qua cầu nhớ

người thật đáng nể trọng “có nên nói hay không lời xưa rày má thường dạy

thằng con trai lớn, rằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm thì cũng

đừng nghĩ sẽ được đáp đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì

bù đắp được đâu”. Người Nam Bộ sống nặng với chữ tình nên trước cuộc

sống hiện đại con người càng cần vững vàng lên rất nhiều. Đây là lời nhắn

63

nhủ của một người cha với con trai “ Coi chừng sống trong cuộc sống toàn

máy lạnh làm cho máu người ta lạnh đi. Còn mày, mày lạnh được bao nhiêu

phần rồi? Nói chuyện tao nghe không được”. Ồng Hai trong Cái nhìn khắc

khoải dù cuộc sống vô cùng khó khăn, nhưng vẫn sẵn lòng cưu mang cô Út

khi gặp cô ngồi khóc trên bờ kênh. Ông đưa cô Út về nhà, đối xử với cô tử tế,

đúng mực, chăm sóc cô chu đáo. Biết cô gái vẫn còn để lòng thương người

chồng cũ đã bỏ cô đi, ông không quản ngại, cất công tìm giúp cô. Ông sẵn

lòng giúp cô, giúp mọi người mà không gợn một chút vụ lợi. Ông già Tư Nhỏ

trong Đau gì như thể mở rộng vòng tay cưu mang cô Cúc và đứa con trong

bụng cô. Dù đứa bé không phải là con mình, nhưng ông hết lòng yêu thương

nó, ngay cả khi cô Cúc bỏ ông ra sống ngoài xóm chợ. Khi Nga có thai, dân

làng đàm tiếu, nghi ngờ ông hại con gái nuôi. Dù rất đau khổ, nhưng ông vẫn

không oán giận, trách mắng Nga, trái lại hết lòng đối xử tốt với Nga và đứa

con của cô. Chỉ có lòng nhân hậu, bao dung, ông mới có thể sống nghĩa hiệp

được như vậy. Ông Chín trong Cuối mùa nhan sắc đã dành cả cuộc đời và

tình yêu cho Đào Hồng dù cô không nói với ông một lời yêu thương. Mỗi khi

cô gặp khó khăn ông đều mở rộng vòng tay giúp đỡ. Khi Thương Thanh –

người Đào Hồng yêu và suốt đời khắc khoải chờ đợi – đến tìm cô, mặc dù rất

buồn nhưng ông Chín đã giấu kín nỗi đau của mình, để bà vui và hạnh phúc.

Ông Chín tiêu biểu cho tinh thần nghĩa hiệp xả thân vì người khác, nâng đỡ

người khác của con người Nam Bộ.

Thế hệ già đã vậy. Thế hệ trẻ cũng sống rất có tình có nghĩa. Lương dù

nghèo nhưng anh là con người có tấm lòng bao dung “Chứng kiến những gì

cuộc đời đối xử với Bông, Lương nảy sinh tình cảm với Bông, vui buồn với

những cảm nhận của Bông. Anh sẵn sàng đón nhận Bông trở về ngay cả khi

64

Bông đã là một người tàn phế” (Bến đò xóm Miễu).

Tiểu kết

Trở lên, chúng tôi đã khảo sát những dạng nhân vật tiêu biểu trong sáng

tác của Nguyễn Ngọc Tư. Thực tế, thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư rất

đa dạng, chân thật với những con người của chính vùng đất Nam Bộ. Có thể

nói, cuộc sống, con người Nam Bộ và quan niệm văn chương, quan niệm về

con người của Nguyễn Ngọc Tư đã chi phối, để lại những dấu ấn đậm trong

thế giới nhân vật của chị. Nguyễn Ngọc Tư có khả năng phát hiện những nét

tính cách đặc sắc, những uẩn khúc tinh vi, sâu thẳm trong lòng người và thể

65

hiện nó một cách xúc động, đầy ám ảnh.

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN NGỌC TƯ

3.1 Người kể chuyện

Theo Tz. Todorov, người kể chuyện là “hình tượng ước lệ về người

trần thuật (hình thái của hình tượng tác giả trong tác phẩm văn học nghệ

thuật, là người mang tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi)

trong tác phẩm văn học”, là “yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng

tượng… kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà

nhân danh nó cuốn sách được kể có vị thế hoàn toàn đặc biệt. Người kể

chuyện đóng góp một phần quan trọng trong việc thể hiện quan điểm của tác

giả.

3.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất

Nguyễn Ngọc Tư có khả năng nhập thẳng vào nhân vật của mình thông

qua nội tâm của nhân vật mà kể lại câu chuyện, cho nên rất nhiều tác phẩm

của Nguyễn Ngọc Tư lựa chọn hình thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, qua

nhân vật xưng tôi trong tác phẩm. Một số tác phẩm tiêu biểu là Cái nhìn khắc

khoải, Dòng nhớ, Cánh đồng bất tận, Lý con sáo sang sông, Ngổn ngang,…

Người đọc sẽ lĩnh hội được câu chuyện và thấu hiểu cả những suy tư,

trăn trở trong tâm hồn của nhân vật kể chuyện. Có thể xem đó là những đoạn

độc thoại nội tâm của nhân vật. Tiêu biểu là tác phẩm Cánh đồng bất tận,

nhân vật Nương với những dòng suy nghĩ triền miên, với cách xưng tôi đã thể

hiện những trạng thái cảm xúc khác nhau. Không hề tức giận khi bị cha đánh

đòn, “tôi” chỉ ngồi đó tìm ra nguyên nhân xuất phát những trận đòn đó: “Và

tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá

66

bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng?”;

“ Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên

quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng làm sao tôi có thể bỏ được hình hài

nầy”. Khi người cha nhắc tới chuyện lấy chồng thì trong đầu Nương xuất hiện

rất nhiều câu hỏi: “Tôi biết lấy ai trong số đó? lấy một người cắm mặt xuống

đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe thấy tiếng cạo cơm

cháy của con, tiếng muỗng dừa vét gạo dưới đáy mà rát bỏng trong lòng?...

Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? một anh chạy đò?”.

Từ điểm nhìn ngôi thứ nhất, người kể chuyện tham gia vào hành động

của câu chuyện. Các nhân vật sống hồn nhiên như chính trong cuộc đời thực

của họ. Bởi thế đọc văn Nguyễn Ngọc Tư chúng ta dễ nhận thấy trong trang

văn của chị những cuộc đời thực với những lo toan vất vả rất đời thường.

3.1.2. Người kể chuyện ở ngôi kể thứ ba

Nguyễn Ngọc Tư cũng rất khéo léo sử dụng ngôi kể thứ ba để kể. Từ

điểm nhìn này, người kể không tham gia vào hành động của câu chuyện với

vai trò như một trong các nhân vật. Theo Nguyễn Thái Hòa, ở lối kể chuyện

này, người kể đứng ở vị trí khách quan “giả vờ”, không dính líu đến câu

chuyện. Nói cách khác là giữ một khoảng cách giữa người kể và nhân vật, cốt

truyện để rộng đường hư cấu và bảo đảm tính khách quan của hiện thực.

Những tác phẩm tiêu biểu cho lối kể này là: Ngọn đèn không tắt, Truyện của

Điệp, Cải ơi!, Huệ lấy chồng…

Nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư sử dụng giọng kể từ ngôi thứ ba.

Ở điểm nhìn này người kể biết ý nghĩ, cảm giác của nhân vật. Họ thu mình

vào trong nhân vật, thấu hiểu những gì mà nhân vật trải qua. Đôi lúc chị kết

thúc câu chuyện bằng những câu hỏi không rõ của chị, không rõ của nhân

vật, có thể là của cả hai: “Nhưng để làm gì ta?” (Huệ lấy chồng). Người kể

chuyện điềm nhiên thậm chí có phần tưng tửng. Người kể chuyện không còn

67

xưng “tôi” nữa mà xưng tên nhân vật: Điệp (Chuyện của Điệp), Huệ (Huệ lấy

chồng), Lương (Bến đò xóm Miễu),…: “Huệ gật đầu, ừ, mát, gió chạy nghe

thông thống trong lòng. Nghe rõ ràng mùi xoài cát mùa chín bên ngoài song

cửa. Tự dưng Huệ thấy nhớ nhà ghê lắm. Ngồi ngay ở nhà mà mong nhớ

thiếu điều rớt nước mắt cái độp xuống mặt chiếu bông…” [9; 38].

Nhân vật được kể ở ngôi thứ ba với giọng kể liền mạch của người kể

chuyện, có lúc lại là lời độc thoại nhân vật tự nói lên. Bởi vậy để hiểu được

những nhân vật này người đọc cần tìm hiểu kĩ, cảm thông, chia sẻ với những

điều thầm kín của các nhân vật. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng mong muốn

được gửi gắm những quan niệm về con người, cuộc sống hiện nay.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Mỗi loại hình nghệ thuật đều lấy con người làm đối tượng trung tâm

của sự phản ánh. Nhân vật là yếu tố quan trọng để nhận diện đặc điểm và cá

tính sáng tạo của nhà văn. Thông qua thế giới nhân vật trong sáng tác của

Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi đi vào những thủ pháp biểu hiện đặc thù, tìm hiểu

những đặc trưng của nhân vật, qua đó hiểu thêm về quan niệm nghệ thuật của

nhà văn về con người, cuộc sống.

3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống “có vấn đề”

Trước hết, để tạo được những biến đổi trong nhận thức của các nhân

vật, Nguyễn Ngọc Tư đã đặt nhân vật vào những tình huống, những biến cố

để nhân vật không còn suy nghĩ theo lối mòn nữa mà bắt đầu chiêm nghiệm,

phân tích lại bản thân, để nhận ra sai lầm, nhận ra những chân lý của cuộc

đời. Trong Cải ơi, khi Cải làm mất trâu vì sợ đòn mà trốn nhà nhưng mọi

người xung quanh lại nghi ngờ ông Năm Nhỏ - bố dượng là thủ phạm giết

con. Không chịu nổi dư luận ông Năm Nhỏ quyết đi tìm con. Tình huống đó

68

đã làm nổi bật tình yêu thương con của ông Năm Nhỏ.

Tình huống đầy kịch tính được đặt ra trong Cánh đồng bất tận. Tình

huống đó là người vợ bỏ theo trai, hận tình người chồng trả thù vợ bằng cách

quan hệ với những người đàn bà rồi bỏ rơi họ, tình huống Nương bị cưỡng

hiếp ngay trước mặt người cha của mình. Qua những tình huống đó ta nhận

thấy các nhân vật nổi lên với những nét tính cách riêng biệt: Ông bố là kẻ hận

thù một cách mù quáng, Nương sống trong môi trường tăm tối mà vẫn giữ

được sự trong sạch.

Sau những biến cố xảy đến với nhân vật hoặc có liên quan đến cuộc đời

nhân vật, nhà văn thường dành những khoảng lặng nhất định để nhân vật đối

diện với chính mình. Đó là khoảng thời gian để nhân vật biện hộ, giải thích

hay dằn vặt với những giằng xé nội tâm để tự thức tỉnh, tự hoàn thiện nhân

cách. Cái nhìn khắc khoải là một câu chuyện xoay quanh tình cảm của ông

già với cô Út nhưng khi biết tin tức của chồng cô, ông lập tức nói cho cô biết

rồi ông quay trở về dựng lại nhà và hi vọng sẽ gặp lại cô. Ông là một người

đàn ông cao thượng và biết hi sinh vì người khác.

Với những tình huống tự nhận thức, Nguyễn Ngọc Tư đã để cho nhân

vật tự đối thoại, tự đẩy mình đến tận cùng những cảm xúc, để tự thức tỉnh và

điều tiết hành động của chính mình. Đa số khi nhân vật ý thức được thực

trạng của mình, hoặc thức tỉnh điều gì đó là khi họ ít có cơ hội làm lại. Người

cha trong Cánh đồng bất tận, anh chàng Hiện trong Nhớ sông, cậu con trai

trong Nỗi buồn rất lạ,… đều là những trường hợp như vậy. Sự xót xa tiếc

nuối là điều khó tránh khỏi của các nhân vật. Kể cả khi đã là quá khứ, đã xa

rồi nhưng không khỏi có một lúc nào đó từ sâu lắng của tâm can day dứt lên

một nỗi niềm ân hận hay tiếc nuối.

3.2.2. Chú ý đến ngoại hình và nội tâm nhân vật trong xây dựng tính

69

cách nhân vật

Ngoại hình nhân vật chính là những nét về diện mạo, hình dáng, trang

phục, cử chỉ, tác phong của nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn

Ngọc Tư không giống nhau, có đặc điểm ngoại hình không giống nhau. Mỗi

nhân vật có một nét riêng, một số phận riêng. Người đàn bà trong Dòng nhớ

được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả “Tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không

xấu, mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở

ngoài mỏng te nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều lơ thơ vài cọng rũ xuống mặt.

Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo”. Chỉ thế thôi đã thấy

được hình ảnh của một người đàn bà lận đận, chịu nhiều mất mát.

Đối với ngoại hình nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư chú ý nhiều đến đôi

mắt. Trong Cái nhìn khắc khoải, chỉ là môt chi tiết người đàn ông trong một

đôi mắt rân rấn nước với “cái nhìn khắc khoải”. “Một màn nước mỏng, trong

văn vắt, rân rấn tràn ra từ khóe mắt, chỗ đó hơi gợn đỏ…Trong mảng tương

phản sáng tối, khuôn mặt một người đàn ông hiện lên trầm lặng mà sâu sắc”

đã nói lên được cái khao khát mong ngóng hạnh phúc của một người đàn ông

giàu lòng yêu thương cô đơn, khắc khoải mong ngóng bước chân quay lại của

người phụ nữ ông không thể níu giữ.. . Trong một hoàn cảnh khác đôi mắt

người cha qua sự cảm nhận của đứa con “tôi đọc được sự ghê sợ, kinh tởm

cồn lên trong mắt cha” (Cánh đồng bất tận), có sức biểu cảm và thể hiện

chiều sâu tính cách của nhân vật.

Trong Dòng nhớ để thể hiện nỗi nhớ của người chồng dành cho người

vợ trước của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã miêu tả thế ngồi của ông: “Ba tôi

ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu

ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên

cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi…Những đêm đó ba

tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu

70

ngoài kia”.

Ngoài chú ý miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư còn chú ý

đến miêu tả nội tâm nhân vật. Ta thường bắt gặp trong truyện của Nguyễn

Ngọc Tư kiểu nhân vật cô đơn. Trong Một mối tình, “Căn nhà tự nhiên lặng lẽ

đến kì lạ, nghe tiếng thằng Bầu thở ngỡ ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm

tăm trên bếp, tôi ngửi thấy đâu đây mùi bông súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt

thanh, pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới đáy ao. Không lẽ im re hoài, tôi nói

với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai thì cũng vậy thôi, người vẫn chưa về, thử

thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói,

châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt đêm ngày le lói đỏ như

giữ vẹn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau này, chị Hai có về, tôi

sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn bân chớ gì”.

Nguyễn Ngọc Tư am hiểu diễn biến tâm trạng, dòng suy nghĩ của nhân

vật và thật tinh tế khi thể hiện những cung bậc cảm xúc đó của nhân vật. Để

miều tả tâm lý nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng độc thoại và dòng ý thức.

Thực ra, nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường ít độc thoại nội tâm nếu

có thì độc thoại nồi tâm thường đan xen trong đối thoại. Thực chất, đó là

những phiên đoạn tâm lý chắp nối vào nhau. Trong nhiều truyện: Cải ơi, Biển

người mênh mông, Đau gì như thể, Cánh đồng bất tận, Duyên phận so le, Gió

lẻ…sự đan xen giữa lời kể và lời độc thoại nội tâm đã bộc lộ suy nghĩ, tâm

trạng của nhân vật. Trong Đau gì như thể, nỗi đau của ông Tư Nhỏ đã được

tác giả thể hiện rất xúc động. Đó là nỗi đau của người cha hết lòng thương

con nhưng lại phải chịu sự khinh miệt hiểu lầm của người đời. Nỗi đau không

thể diễn đạt nổi bằng lời. Nó chi phối mọi hành động của ông. “Ông rên lên

một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm

khao khát đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao có một lần nào đó đánh giấc

thật sâu, khi trở dậy, nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa

từng có trên đời”. Đoạn độc thoại nội tâm được kể bằng lời nửa trực tiếp cho

71

thấy khát vọng của ông già về một cuộc sống thanh thản, bình yên như trước

kia. Ông mong đó chỉ là một giác mơ, khi tỉnh dậy nó sẽ tan biến như chưa

từng hiện hữu trong đời.

Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt thành công khi miêu tả những trạng thái tâm

lý sâu kín của nhân vật qua dòng ý thức. Câu chuyện trong Cánh đồng bất tận

chủ yếu được kể lại qua dòng ý thức của Nương. Là một đứa trẻ sớm phải

chịu nhiều bất hạnh, Nương già dặn trong suy nghĩ: Nghĩ về quá khứ, về cuộc

sống lang thang, phiêu dạt và sự ghẻ lạnh mà hai chị em đang phải chịu đựng,

về những người đàn bà và cách trả thù của cha…Nương kể chuyện mà như tự

nói với mình: “Mùa du mục của chúng tôi kéo dài từ mùa mưa sang mùa

nắng, rồi lại mưa, nhiều lúc tôi hơi nhớ con người. Họ ở trong cái xóm nhỏ

kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn

kia, nơi chúng tôi thường ghé lại mua gạo cám, mắn muối cho những chuyến

chạy đồng xa” [9; 177]. Có thể nói, qua độc thoại nội tâm, Nguyễn Ngọc Tư

đã diễn tả một cách xúc động đầy ấn tượng những nấc thang cảm xúc của con

người: Từ một thoáng buồn, một chút bối rối, đến trạng thái tâm lý day dứt,

dằn vặt của nhân vật. Nhờ thế, nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư hiện lên chân

thực và sinh động,với thần thái riêng…không lẫn.

3.2.3. Các nhân vật bộc lộ tính cách của mình qua lời nói và hành

động.

Người Nam Bộ với đặc trưng là nói năng thẳng thắn, giàu tình cảm nên

lời nói chân thành, đằm thắm: “Có người hỏi, sao bữa nay không uống cà

phê. Ông Chín Vũ cười lắc đầu, cười tiếp với cái vẻ không muốn nói mà thèm

nói quá trời đi:

- Để dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.

72

Ông già trịnh trọng thì thảo. Cả quán rộ lên cười:

- Già rồi mà còn yêu.

- Mắc yêu thì yêu – ông già cự lại, vẻ mặt sương sướng không giận gì

ai.

- Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà, mình thương người ta mà người ta

đâu có thương mình”.

Qua đoạn đối thoại trên có thể thấy được tính cách yêu đời, giàu tình

cảm của ông Chín Vũ trong Cuối mùa nhan sắc.

Tính cách nhân vật còn được thể hiện thông qua hành động của nhân

vật. Hành động của người cha trong Cánh đồng bất tận làm chúng ta không

thể quên được: “Người cha cởi áo trên người để đắp cho đứa con gái. Ông ta

bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới mặt trời”. Một

hành động chăm sóc, yêu thương con mà ông bỏ qua đã lâu. Hay trong Mối

tình năm cũ, ông Mười đã “nhẫn nại cầm chiếc khăn lau những dòng nước

mắt trên khuôn mặt vợ”. Đây là một hành động, cử chỉ tràn đầy tình yêu

thương, sự nâng niu trân trọng đối với người vợ đã chịu nhiều mất mát của

mình. Để làm nổi bật vẻ đẹp hiếu thảo của anh Hết (Hiu hiu gió bấc), tác giả

đưa ra chi tiết, anh Hết bị cha đánh, nhưng anh không chạy: “Hỏi anh Hết sao

không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo chạy thì được nhưng càng

chạy nhanh thì tía càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì”. Hành động

của ông Hai ở cuối chuyện Cái nhìn khắc khoải: “Gió lùa lao xao trên những

tàn lá chuối. Tiếng lá khô vỡ giòn giống hệt bước chân ai vậy. Ông không nén

được, mắc ngoái nhìn khắc khoải đó”, thể hiện tính cách của ông, một con

người vừa rộng lượng, vừa cô đơn. Chỉ một hành động nhỏ ngước nhìn khắc

73

khoải, tác giả đã khắc họa được tâm trạng, thần thái của nhân vật.

Với những nét nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, Nguyễn Ngọc Tư

đã chuyển tải được ý đồ nghệ thuật của mình một cách hiệu quả, xây dựng

được một thế giới nhân vật sống động, có sức ám ảnh với người đọc.

3.3 Giọng điệu trần thuật

Chúng ta sẽ nhận ra được phong cách của một nhà văn thông qua giọng

điệu của họ. “Giọng điệu: Là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức

của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách

xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ,

thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…”. Nhà lý luận – Giáo sư

Trần Đình Sử đã nói: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi

cái phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”. Cảm hứng chủ đạo

của nhà văn tạo nên nền tảng của giọng điệu. Cũng theo Giáo sư Trần Đình

Sử thì giọng điệu “không đơn giản là một tín hiệu âm thanh đặc thù để nhận

ra người nói, mà là một giọng điệu mang nội dung, tình cảm, thái độ ứng xử

trước các hiện tượng của đời sống. Một nhà văn có khả năng nhận thức bao

quát được nhiều chiều của hiện thực đời sống thì có sự đa dạng về giọng

điệu”. Khảo sát sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, có thể thấy nhiều giọng điệu

trần thuật khác nhau, trong đó chúng tôi chú ý đến ba giọng điệu cơ bản sau:

3.3.1 Giọng điệu dân dã, mộc mạc, tự nhiên

Đọc sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, ta nhận ra ngay một phong cách

khác so với truyền thống văn chương chỉn chu của miền Bắc với ngôn ngữ

miền Nam mộc mạc, giọng điệu dân dã. Tất cả xuất phát từ cảm hứng chân

thành về một vùng đất mà chị yêu quý và gắn bó. Giọng điệu dân dã, tự nhiên

xuất hiện nhiều trong những trang văn của chị: Khung cảnh thiên nhiên, cảnh

74

sống sinh hoạt chân thực của người dân Nam Bộ.

Đây có thể coi là một đoạn văn miêu tả đầy đủ nhất về sinh hoạt đời

sống của người dân buôn bán trên chợ nổi ở Cà Mau: “Tôi thường đứng trên

Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông thấy một dãy ghe rập rờn xao

động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt

trời / Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét.

Nhỏ bé, chật hẹp. Nhưng có một cái gì đó thật khác thường, thế giới đó hẹp

đến nỗi chỉ vừa để xoay lưng, để nằm co, để cúi người... mà cũng dài cũng

rộng vô phương bởi cuộc sống rày đây mai đó, lênh đênh cuối bãi đầu ghềnh

/ Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đâu hết một vạt áo nắng vàng hoe

hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm

dào dạt khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những

điếu thuốc to đùng bằng đầu những ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời.

Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô

con gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc / Họ

chắc cũng từng yêu từng vui từng đau, từng nghe phảng phất niềm thương

nhớ đất”.

Ta bắt gặp trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư cái không gian sông

nước đặc trưng của vùng đất Nam Bộ. Trong tản văn Đất Mũi mù xa Nguyễn

Ngọc Tư viết: “Đất Mũi thiệt tình không có núi cao, không có biển xanh, cát

trắng, không cung đình cổ kính, lại càng không có phố cổ đìu hiu. Đất Mũi

chỉ có bùn sình, rừng thẳm và biển. Dẫu biển không xanh ngằn ngặt mà đục

ngầu phù sa nhưng ở đây nhiều biển lắm. Biển đằng trước, biển bên phải,

biển bên trái. Bình minh, mặt trời từ biển quẩy nước ngoi lên rồi khi chiều về,

mặt trời chin đỏ già nua lại ngụp về biển sau một ngày tự cháy”. Những suy

ngẫm được viết với giọng điệu tự nhiên như nó vốn có như vậy khiến tác

phẩm trở nên gần gũi, tự nhiên.

Cuộc sống gắn bó với sông nước thân thiết tới mức tâm hồn người dân

75

cũng mênh mông, khoáng đạt. Vì vậy cho nên Giang trong Nhớ sông, đã đi

lấy chồng rồi mà vẫn còn mơ giấc mơ trên thuyền ghe. Nhớ sông, nhớ nhà

nên cô rời bỏ nhà chồng để quay về với bố và em gái. Nhân vật của Nguyễn

Ngọc Tư sống tình cảm, đối đãi với nhau bằng tình cảm.

Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thích tự do, không ưa cầu kì hình thức,

bởi thế lời nói của họ cũng rất tự nhiên. Nhiều khi ta có cảm giác ở tác phẩm

của chị lời văn gần với văn nói. Cho nên những trang văn của chị cứ tự nhiên

đi vào lòng người đọc. “Một bữa gió dầm dề, khách vắng teo, mười ba nhân

viên khu du lịch văn hóa So Le tổ chức nhậu nhẹt, xong rồi thì coi ai có cuộc

đời buồn nhất. Mới biết dì Chín nấu bếp hồi nào giờ chưa từng biết yêu ai;

con Mỵ nghèo toàn mặc đồ cũ của chị Hai, mười tám tuổi mới vung vinh được

bộ quần áo của chính mình; Hường thì yêu thầm nhớ trộm ông thầy dạy

Toán… Xuyến kể sau cùng, bằng cái giọng hết sức điềm nhiên, cô nói mười

bảy tuổi có yêu một người, yêu đến nỗi bỏ cha mẹ theo tình. Mười tám tuổi

thằng nọ phũ phàng, bỏ cù bất cù bơ giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về

nhà nữa” [9; 135].

Nhân vật chính trong những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là nông

dân nên ta thấy rõ được tính cách bộc trực, thẳng thắn của họ. Cảm hứng

chính của chị được tạo nên từ những số phận nhỏ bé, từ những người nông

dân cần cù lam lũ ấy. Những người nông dân, những người nghệ sĩ nghèo khổ

- những con người gắn bó sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ. Cho nên trong văn

Nguyễn Ngọc Tư có sử dụng dày đặc ngôn ngữ Nam Bộ, ví dụ: Bí thơ (bí

thư), đờn (đàn), thiệt (thật), linh đinh (lênh đênh), mếch lòng (mích lòng).

Theo những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy số lượng

khẩu ngữ khá lớn trong văn chị: Cà chớn, nghèo cù nèo, cà lơ phất phơ, rã

cặp giò, mát trời ông địa, tổ cha, mắc dịch, biết chết liền,… Người Nam Bộ

76

khi đọc tác phẩm của chị có thể thấy rõ được bản thân mình trong đó.

Ta bắt gặp trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư cuộc sống thực như nó

vốn có nhờ giọng văn mộc mạc, dân dã này. Sự thiếu thốn về vật chất, sự

thiếu hiểu biết cũng là những nét chân thực qua giọng kể tự nhiên của Nguyễn

Ngọc Tư: “… Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa

trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh

sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa

trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát…”

[9; 18].

Những ảnh hưởng của thiên nhiên cũng thật là khắc nghiệt mang đặc

trưng vùng miền Nam Bộ “… Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn

hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa

chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn

tay là nát vụn…” [9; 155].

Trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư ta bắt gặp giọng điệu tự nhiên ấy càng

nhiều: “Ngồi trên xe không biết làm gì cho qua cơn hoang mang mệt mỏi này,

đành ngó ra cột cây số với một niềm hi vọng mãnh liệt nào đó. Và cái bệ bê

tong lùn beo lùn bít được trân trọng thái quá, qua được một cột cây số, vài ba

người lại reo lên như gặp bạn cũ, gặp má đi chợ mua bánh ú về. A Tep-

50km. Trưa xế rồi, xe chao lắc liên tục nên ai cũng đói, A Tep là niềm hi vọng

lớn. Đã chuẩn bị trước tinh thần là đường vắng, người thưa, ít hàng quán nên

lúc trưa dừng chân lại quán xôi định mua xôi hộp, chị chủ quán nói bằng

giọng Quảng Trị đặc sệt, hết xôi gà rồi, chỉ còn xôi trộn thôi. Mình nghe thế

nào mà thanh xôi chồn, thấy hơi dã man, chạy ra xe xin ý kiến tập thể, “Xôi

chồn, dám ăn không?” Mọi người hơi hoảng, bảo xôi gì ghê vậy, thôi, đi. Bây

giờ thì hối hận, bây giờ thì đang đói và hoang mang, A Tep – 46km”. Hay

một không gian quán xá tự nhiên như nó vốn có xuất hiện “Ta có một chiều

ngược ngạo, mang tiếng là đi chơi nhưng phải len lỏi chen chúc mới tìm được

77

một chỗ ngồi trong khuôn viên quán. Chiều xuống rồi mà cả người nhễ nhại

mồ hôi. Đã vậy, các cô tiếp viên mặt đẹp mà quạu đeo. Bạn khoát tay “Chịu

cực một chút, ở đây chim sẻ nướng muối ớt ngon dã man. Đi nhậu chớ có

phải làm thơ đâu mà tìm chỗ đẹp”. Lâu lắm mới gặp nó, nhưng chẳng thể trò

chuyện, xung quanh ồn đến mức chỉ có thể ngó nhau cười gật gật, cuối cùng

(hay bắt đầu?) là cụng ly”. Thiên nhiên và cung cách sinh hoạt đều mang

đậm chất Nam Bộ.

3.3.2. Giọng điệu ấm áp, chan chứa yêu thương

Giọng điệu này đã thể hiện nhiều cung bậc yêu thương trong tâm hồn

Nguyễn Ngọc Tư. Gây ấn tượng với độc giả là lối văn đầy tính nhân văn, đầy

tình nghĩa.

Những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư thể hiện tình cảm thiết tha với

những số phận éo le bất hạnh. Trong Hiu hiu gió bấc, anh Hết yêu chị Hoài là

vậy, nhưng vì hoàn cảnh quá nghèo không thể lấy chị về làm vợ nên đành

nghe theo lời mẹ Hoài, giả bộ mải mê chơi bời để chị yên lòng theo chồng.

Trong khi đó, chị Hoài lại có tình cảm với anh Hết “Thêm một mùa gió bấc

nữa, chị Hoài vẫn chưa lấy chồng. Ai cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo

chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta

đánh cờ mà trong tâm “Viễn ly điên đảo, mộng tưởng cứu cánh niết bàn”,

chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông”.

Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?

Ai mà biết”.

Nguyễn Ngọc Tư xót thương đồng cảm với hi vọng của nhân vật. Khi

người ta yêu mà không được đền đáp, tình yêu đó mỗi lúc một lớn thêm

không gì dễ xóa bỏ. Họ vẫn luôn sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi để người mình

78

thương được hạnh phúc. Trong Duyên phận so le anh Năm Già cầm lòng ra đi

trước sự vô tình của Xuyến. Cũng không trách gì Xuyến, Nguyễn Ngọc Tư

với giọng đôn hậu xuất phát từ sự thấu hiểu, đã đồng cảm với nỗi đau của

Xuyến “Và tàu mang người đi, thăm thẳm như thể nó đã nuốt chửng anh rồi.

Mọi người hỏi Xuyến có sao không, Xuyến bảo, mai mốt cũng quên (như quên

đôi dép, đôi giày… và như quên Khởi). Rồi Xuyến đi gom khăn trải bàn, cuốn

tất cả các bức màn, đem giặt. Nhưng vừa rảnh tay, Xuyến đã nghe buồn anh

cõng buồn em đi lê thê trong dạ, cô dựa lưng vào tường, những vuông vải

phơi trên đầu cồn cào, oằn oại, tơi tả gió. Xuyến ngồi ở đó, ngó nắng, bỗng

thèm có con Bi ở cạnh, để khóc với nó chơi, để đi qua niềm đau đang như bão

bời bời”.

Giọng văn ấm áp ân tình khám phá những suy nghĩ, những trăn trở

trong tâm hồn nhân vật. Tiên trong Nửa mùa là một cô gái nghèo lang thang

không cha không mẹ, nhưng khi đã dành tình cảm cho Sỹ thì hết lòng hết dạ.

Tiên yêu Sỹ bằng một tình yêu không tính toán, ngay cả khi bị phản bội thì

cũng dành cho người khác những lời tốt đẹp “Cuối cùng, nó nuốt nước mắt tin

rằng chuyện này giống như trong phim, chắc là anh mặc cảm, anh không

muốn làm gánh nặng cho nó nên mới ra đi. Chắc là anh không dùng cách giả

đò thân mật với một cô gái khác vì sợ làm nát tan lòng nó. Chắc là anh đứng

dán chỗ hàng rào một hồi, câm lặng nuốt nước mắt nhìn nó ngủ, tay muốn

vuốt tóc nó biết bao nhiêu, muốn hôn lên trán nó biết bao nhiêu nhưng rồi

buộc lòng quay gót. Và giống như trong phim thì Tiên phải đi tìm anh dù ở

cùng trời cuối đất, để nói với anh rằng nó có thấy nặng nề, cực nhọc gì đâu,

cả nghĩ tới điều đó nó còn không mảy may nữa là”.

Hay như Chín Vũ – một cậu công tử con nhà giàu vì mê tiếng hát của

đào Hồng đã bỏ tất cả để trở thanh một chân lăng xăng trong đoàn diễn. Đến

cuối đời, ông cũng không nhận được một lời yêu thương nào từ đào Hồng,

nhưng ông vẫn thấy đời mình thật ý nghĩa “lần đầu tiên ông đóng được vai

79

chính, người ta hỏi vai gì, ông bảo vai con của đào Hồng, phút lâm chung của

người đàn bà suốt đời ông yêu thương, ông gọi “Má ơi!” và thấy bà mỉm

cười. Chỉ vậy thôi à. Ừ, chỉ vậy thôi. Nhưng tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình

cảm của người lớn…”. (Cuối mùa nhan sắc). Nguyễn Ngọc Tư để cảm xúc

của nhân vật bộc lộ một cách chân thật giàu nghĩa tình.

Hình ảnh những người nghệ sĩ và người nông dân bất hạnh nhưng giàu

tình nghĩa trở đi trở lại trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư. Sống ở đời chỉ

có cái tình, cái nghĩa mới cảm hóa được con người, cái tình cái nghĩa là cái

gốc của hạnh phúc bền lâu. Giọng điệu tâm tình của những người bạn chơi

với nhau từ thuở nhỏ lớn lên mỗi người một phương nhưng cứ đến Tết trở về

gặp nhau trò chuyện, sẻ chia với nhau những nhọc nhằn buồn vui trong Ngày

đã qua “Thi rót rượu ra mấy cái ly nhỏ như trứng cút. Uống, chúc mừng năm

mới, chúc tụi ta vạn sự như ý, an khang thịnh vượng. Nguyên cười, “Sao

người ta lại có tật chúc toàn chuyện không có, cụ thể lại đi”. Vậy thì phải

chúc như vầy, chúc Thi vui vẻ, làm công tác thanh tra, vô việc không đối mặt

với bạn cũ để khỏi lâm vô cảnh đánh cũng lỡ mà lùi cũng dở. Tiêu chí vậy

thôi. Chúc Hòa, Chi buôn may bán đắt, cuối năm trời xui đất xụi có một đứa

con. Hòa nói dễ ợt, đợt này bồng bế nhau đi Từ Dũ lần nữa mà vô phương thì

xin một đứa con nuôi về, làm gì làm cũng có một đứa con gái gả cho Nhện

Con. Sau này già, khỏi sợ thằng rể điên điển. Cạn nữa đi chớ, trăm phần

trăm, chúc Nguyên mau… về hưu để có thời gian ở lại quê chơi với bạn bè.

Cuối cùng, chúc Tiệp hạnh phúc, thăng tiến, thế nào cũng lên chức Giám đốc

chi nhánh thời trang Bình San”.

Giọng điệu hồn hậu chân thành còn được thể hiện ở sự cảm thông với

những mối tình không thành. Ông già trong Cái nhìn khắc khoải hết lòng lo

lắng, chăm sóc và mong đợi một tình yêu từ phía người phụ nữ bị bội bạc,

nhưng người phụ nữ ấy vẫn tìm kiếm anh thợ gặt là người thương một thuở

“Buổi chiều ông về sớm, chị giũ áo mưa của ông phơi lên vách, miệng quở

80

ông trời mưa dai thấy sợ. Chị xúc lén lúa đổ cho con Cộc, miệng hỏi lãng như

không “Cộc, mưa lạnh hôn con?” Cộc không trả lời, nó nghinh lên, ý nói vịt

mà lạnh gì, ổng lạnh sao không hỏi, thiệt tình”. Những ước mơ về mái ấm gia

đình hạnh phúc thể hiện qua giọng văn ấm áp yêu thương về một gia đình

đầm ấm. Cuộc nói chuyện giữa nhân vật Tôi với thằng Bầu về khao khát hạnh

phúc gia đình của mình với Trọng “Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát

trong lòng, tôi bảo nhưng có một vai dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả,

vai một người bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa cũ kĩ.

Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu bữa cơm

trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác

một mớ bông súng bước vô nhà… và để được nghe con trai nói với mình

những câu chuyện chỉ để dành cho má nó nghe thôi. Ừ dì chỉ ước có vai bình

thường như vậy…”. Dòng chảy yêu thương thấm đẫm trang văn Nguyễn

Ngọc Tư, tất cả được khơi nguồn từ trái tim nhân hậu của chị. Chính vì vậy,

giọng điệu ấm áp tràn đầy yêu thương của chị nhanh chóng đi vào lòng độc

giả.

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, mượt mà

Có thể nói đây là giọng điệu cơ bản để tạo nên chất nữ tính và cũng là

sức hút trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.

Giọng văn của chị dung dị mà sâu lắng, trữ tình nhẹ nhàng, câu văn

mềm mại. Cái nhẹ nhàng, thủ thỉ của chất trữ tình dường như thấm trong từng

câu chữ, cất lên từ những lời tâm sự, trong những hoài niệm về quá khứ của

nhân vật. Thông thường giọng điệu này dễ tìm thấy ở dạng truyện tự bạch,

người kể chuyện xưng “tôi” và tự kể về cuộc đời mình, bộc bạch nỗi lòng của

mình. Tuy nhiên trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, không kể là truyện

được kể từ ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba mà tùy thuộc vào nội dung câu

81

chuyện. Tác phẩm có thể chứa đựng giọng điệu trữ tình hay không là tùy

thuộc vào dòng cảm xúc của nhân vật mà nó mang lại sự dịu dàng, đằm thắm,

mượt mà.

Ta bắt gặp trong trang viết của Nguyễn Ngọc Tư những câu văn mềm

mại, tràn đầy cảm xúc: “Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước

rong”, hay “và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi”. Ngay cả

khi thuật về tình cảnh đáng thương của Sương - một cô gái giang hồ sau một

đêm đi “thương lượng” với những người “có trách nhiệm” của địa phương (về

việc đàn vịt của gia đình Út Vũ bị nhiễm bệnh) trong truyện ngắn Cánh đồng

bất tận, lời văn của Nguyễn Ngọc Tư vẫn rất nhẹ nhàng: “Một người nuốt

nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt

ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo

hức như sắp được xem một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi,

ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một

sự đổi chác) đã kết thúc rồi.”… “Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau

này, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm

sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị

em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy. "Chị... làm

đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?".”

Điểm khác biệt của Nguyễn Ngọc Tư với Nguyễn Huy Thiệp cũng

chính là ở chỗ đó. Nguyễn Huy Thiệp hay bày tỏ thái độ bằng những ngôn từ

gân guốc, đầy góc cạnh, thậm chí có lúc rất bạo liệt. Nhà văn Dạ Ngân đã

nhận xét về Nguyễn Ngọc Tư có giọng “điềm đạm mà thấu đáo”. Hay Kiệt

Tấn nói Nguyễn Ngọc Tư có giọng văn “…thành thật hiền hòa, không xốc táp

ngang ngược, không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch”.

Với nhịp điệu kể chuyện chậm rãi bình thản, có phần dửng dưng của chị,

Nguyễn Ngọc Tư cố tình mở ngoặc đơn để giải thích, chú thích thêm một vấn

82

đề gì đó:

- Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá

đi anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn truyền

hình. (Duyên phận so le)

- Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu lời nói thương yêu), cuối

cùng hai đứa ra bãi đào khoai (Thương quá rau răm)

Các truyện của Nguyễn Ngọc Tư phần lớn đều có lời đề từ. Lời đề từ có

thể là một danh ngôn, một câu hát dân gian, một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở

thích ngộ nghĩnh,… Chẳng hạn truyện Cải ơi có lời đề từ sau: “Gió đưa cây

cải về trời, rau răm ở lại…”, tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí

dụ có bị phụ phàng, thì cũng cố chanh chua, hằn học một tí, "Gió đưa thằng

quỷ sứ về thành. Để tui ở lại chành ành... đắng cay". Đau, tức vậy mà trách

cứ nhẹ hều...Dường như người ta vẫn yêu, đến mức không thể giận dỗi, nặng

lời.Và mình thì chưa bao giờ yêu ai đến như vậy?!!!” (Cánh đồng bất tận,

tr6). Hay ở một trái tim khi có lời đề từ “Sáng sáng anh uống cà phê. Tối tối

anh uống cà phê…” hay “ở bên người ấy xin đừng nhớ đến tôi, ở bên cạnh tôi

xin đừng làm khổ tôi…”, mấy chiếc xe kẹo kéo, khoai mì luộc hay mở bản

nhạc như vầy “Một trái tim khô. Một trái tim mùa đông. Trái tim đã nhiều lần,

nhiều lần chạy trốn tình yêu. Suốt đời tôi mãi mãi là người đến sau…”, nghe

cũng hay hay. Mà hơi mắc cười, tình yêu, ai cũng khoải, sao cha nội nầy đòi

chạy trốn?!”

Các lời đề từ góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Những

lời đề từ ấy giống như đoạn trữ tình ngoại đề.

Trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta lại thấy giọng điệu thủ thỉ

tâm tình về những câu chuyện xung quanh mình. Đọc tạp văn Nguyễn Ngọc

Tư ta thấy chị kể về miền quê Đất Mũi “Gió mùa phây phẩy, gió đưa trời

lộng lên cao, phù sa bắt đầu nôn nả lấn biển rồi không lâu lắm đâu, từ bãi

83

bồi, đất sẽ cồn lên, một rừng mắm xanh non rào rạt tiến về phía trước giữ đất

lại cho người…”. Hơn thế là một suy nghĩ là lạ: “Nghĩ, thương thành phố,

thấy thành phố sao giống cô vợ dại dột, sống với anh chồng thẳng thừng nói

tôi không yêu cô, nhưng rồi đến bữa cơm, anh ta lại về nhà với vẻ mặt quạu

đeo, đói meo, vợ vẫn mỉm cười dọn lên những món ăn ngon nhất mà cô có.

Vừa ăn chồng vừa nói tôi không yêu cô. Ăn no rồi anh chồng vẫn nói tôi

không yêu cô…”.

Với một tâm hồn đa cảm, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo nên được giọng điệu

trần thuật, đa thanh: Giọng điệu mộc mạc, dân dã, tự nhiên; giọng điệu ấm áp

tràn đầy yêu thương; giọng điệu trữ tình mượt mà,… Nhưng nhìn chung

giọng điệu văn của Nguyễn Ngọc Tư vẫn phảng phất nỗi buồn. Có thể nói

giọng văn trữ tình, mượt mà đã tạo cho trang văn của Nguyễn Ngọc Tư một

vẻ mềm mại, đầy nữ tính. Đó là những tâm tình được thổ lộ, giãi bày, là sự

chia sẻ cảm thông với những số phận éo le của con người. Tất cả đều được

dẫn dắt bởi cái nhìn tinh tế và trái tim nhân hậu của Nguyễn Ngọc Tư.

3.4. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một trong những thước đo sự vận động và phát triển của

một giai đoạn văn học, một dòng văn học nhất định, vừa là dấu hiệu để nhận

diện phong cách của tác giả. Với nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, ngôn ngữ cũng là

một trong những dấu hiệu để nhận ra sự riêng biệt của chị. Khảo sát các sáng

tác của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy chị sử dụng các hình thức ngôn

ngữ sau:

3.4.1 Ngôn ngữ đời thường đậm chất Nam Bộ

Trước hết, phải thấy rằng sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thường khai

thác những vấn đề rất đời thường trong cuộc sống con người miền Nam. Đó là

chuyện tình cảm nam nữ, chuyện ông già đi tìm con, chuyện về những ước

84

mơ bình dị… Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã có nhận xét: “Với giọng văn

mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ đời thường đã tạo nên một không khí hết sức

tự nhiên của màu sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc – mũi

Cà Mau của những con người mà cha ông là người tứ xứ về mũi đất của

rừng, của sông núi, của biển cả đã dày công khai phá, đã đứng lên khởi

nghĩa. Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị,

bộc trực ấy chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua

cách đối nhân xử thế…” (Ngọn đèn không tắt, tr5). Việc sử dụng ngôn ngữ

đời thường thể hiện sự hướng vào đời tư, bám vào hiện thực đời sống. Ngôn

ngữ của Nguyễn Ngọc Tư sử dụng trong tác phẩm của mình chủ yếu là ngôn

ngữ của người dân sống ở thôn quê, ruộng vườn, cho nên cách hành văn, diễn

đạt của chị nôm na dễ đọc, dễ hiểu. Nó tràn vào câu chuyện một cách tự

nhiên, dường như không phải qua khâu xử lý. Chẳng hạn như “Thàn bùi ngùi,

người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt

bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa hát ế ngoi ngóp nằm nghe mưa dầm, nhiều bữa

đứng soát vé bị bọn du đảng địa phương rượt chạy xịt khói…” (Cải ơi); hay

“Nhà mấy cưng ở chỗ nào? Thằng Điền đổ quạu: “Biết chết liền!” (Cánh

đồng bất tận, tr 166). Nguyễn Ngọc Tư nhiều khi có những cách nói ngộ

nghĩnh và bất ngờ như “già công, già cấc”, “đã thiệt”, “đánh lô tô”, “mát

trời ông địa”…

Người đọc không khó nhận ra một hệ thống từ địa phương trong tác

phẩm của Nguyễn Ngọc Tư:

Trước hết trong giao tiếp: Các tên gọi theo thứ tự sinh: Anh Hai, anh

Năm, hoặc khi gọi kèm tên thật: Hai Nhớ, Út Thà… Hoặc cách xưng hô: Tao

nè, Tư Đấu nè, bác Mười Mực của mày nè (1, tr36). Hay “Ông Sáu Đèo làm

nghề bán vé số, có tối ông gặp Phi ở ngoài quán” (7, tr151).

Trong gia đình Nguyễn Ngọc Tư sử dụng các từ má, tía, mấy đứa

85

nhỏ… ở ngoài xã hội các lớp từ thường gặp là người ta, thằng cha, mấy ông,

mấy ổng,… Ví dụ như “Trời ơi, ngồi với thằng chả, mỏi lưng quá, má coi,

yêu đương chi cho mệt vậy không biết…” (Nhà cổ). hay “Con không đành

lòng để tía ở lại một mình”, “Thằng Tứ Hải, đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với

má con tao nì. Để không ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen”

(Nhà cổ).

Sử dụng khẩu ngữ là một trong những cách cụ thể hóa câu nói trong đời

sống thường ngày. Khi đi vào văn chương nó thể hiện sự linh hoạt trong lối

diễn đạt. Khéo léo đưa các khẩu ngữ vào tác phẩm của mình Nguyễn Ngọc

Tư đã mang đến sự sinh động cho những trang viết “Nhà Lương nghèo, chỉ là

cái chòi rách tả tơi, từ ngày đi chèo đò, Lương ăn, ngủ trên bến đò nên nhà

đã bỏ hoang hẳn. Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình khẳng khiu chỉ

độc cái quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại

xuồng” (7, tr. 84), hoặc “Con vịt không chạy lại cái mẻ mà lạch bạch đi tới

chỗ bộ ván ngựa sần sùi nó chui xuống gầm, bữa nay hai ông bà có chuyện gì

mà bắt mình ăn thấy bà cố nội” (8, tr.59).

Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng một lượng

khẩu ngữ khá lớn. Lượng từ khẩu ngữ trong các tác phẩm của chị không kém

từ khẩu ngữ trong các tác phẩm của các nhà văn Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh,

Sơn Nam,… Không chỉ vậy, cách dùng khẩu ngữ của chị rất độc đáo, mới lạ:

Ngoẻo cù nèo, buồn anh cõng buồn em, tổ bố, thấy mồ, hết thuốc chữa, biết

chết liền,… Các khẩu ngữ được dùng trong tác phẩm của chị mang tính biểu

cảm rất cao, thể hiện rõ tình cảm các nhân vật “Chị chưng hửng hỏi ông đi

đâu, ông trả lời, giọng buồn thiu buồn thỉu” (8, tr.58); “chừng nầy tuổi rồi,

mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh

ngày xưa” (4, tr76).

Thực tiễn văn học cho thấy sự gia tăng khẩu ngữ trong văn học không

86

phải là vấn đề mới mẻ. Nguyễn Ngọc Tư đưa vào tác phẩm của mình một lối

nói dung dị, đời thường để tìm ra một con đường ngắn nhất tới bạn đọc. Đó là

một biểu hiện ý thức tìm tòi, một tinh thần cố gắng trong việc làm mới ngòi

bút, làm đa dạng các phương thức diễn đạt của nhà văn. Tuy vậy Nguyễn

Ngọc Tư cũng không rơi vào tình trạng quá chú trọng đến khẩu ngữ mà coi

nhẹ chất văn của tác phẩm.

Ngoài khẩu ngữ ra, một loạt ngữ khí từ được dùng mang đặc trưng của

vùng Nam Bộ: Hôn, hen, nghen, à, nè… Những từ này thường được đặt cuối

những câu cảm hay câu nghi vấn: “Mai mốt, mình đi nữa hen, Cộc” (Cái nhìn

khắc khoải); “Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích quá

trời” (Chiều vắng); “Đêm nay cũng có gió nhiều, cà bắp trong đám là dậy

hương, cái mùi dân dã không chịu được. Gió làm sóng chao ghe mà sao khó

ngủ quá vậy nè” (Giao thừa). Chính những khẩu ngữ, các từ mang sắc thái

biểu cảm xuất hiện nhiều đã làm sáng dậy không khí toàn cảnh rõ nét của

vùng Nam Bộ.

Nguyễn Ngọc Tư từng tâm sự: “Tôi không có ý sử dụng những phương

ngữ, từ địa phương. Tôi viết như vậy vì chỉ có ngôn ngữ ấy mới giúp tôi lột tả

hết được cái tình của người dân quê”.

Số lượng từ địa phương được sử dụng nhiều trong văn Nguyễn Ngọc Tư, ví

dụ như: mướn, thèm,biểu, lội, mần dắt, xúm, dòm,… những từ ngữ đó phản

ánh được thực tại sinh động cuộc sống của con người Nam Bộ.

Về cơ bản, vấn đề sử dụng từ ngữ địa phương cho tới nay vẫn còn được

tranh luận nhiều. Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư đã lạm dụng nhiều

ngôn ngữ địa phương khi viết văn gây khó hiểu cho độc giả. Tuy nhiên nhiều

ý kiến lại nhận xét, chính yếu tố đặc trưng về mặt ngôn ngữ đó đã tạo cho chị

một phong cách không lẫn với ai. Nhà văn Huỳnh Công Tín trong bài viết

Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn trẻ Nam Bộ, đã chia sẻ về việc làm từ điển từ ngữ

87

Nam Bộ và những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã giúp anh rất nhiều trong

công việc như thế nào. So với những thế hệ trước: Đoàn Giỏi, Sơn Nam

chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư chính là người đưa tiếng nói của người

dân Nam Bộ vào văn chương nhiều nhất. Nguyễn Ngọc Tư chọn con đường

trung thành với phương ngữ bởi như có lần cô đã nói, nếu không viết vậy cô

sẽ đánh mất tính tự nhiên của tác phẩm. Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng phương

ngữ một cách có ý thức, vừa không quên tạo dựng một bối cảnh giúp người

đọc hiểu được những phương ngữ đó. Chúng tôi cho rằng việc tận dụng

phương ngữ đầy ý thức đó đã tạo nên một sự tiếp nối và bổ sung mạnh mẽ

cho kho tàng ngôn ngữ phong phú của Nam Bộ.

3.4.2 Ngôn ngữ của một vùng “văn hóa sông nước”

Nếu muốn người đọc tin tưởng những điều nhà văn viết ra thì văn

chương trước hết phải nói sao cho giống hiện thực. Muốn thế nhà văn không

có cách nào khác phải quan sát cuộc sống thật kỹ lưỡng, chi tiết. Chúng ta

tạm hỏi, nếu Nguyễn Ngọc Tư viết về đời sống của người dân vùng sông

nước Nam Bộ mà lại dùng ngôn ngữ miền Bắc và kể những chuyện chưa từng

xảy ra trong đời sống của người dân xứ miệt vườn thì người đọc khó có thể

chấp nhận được. Không gian chủ yếu trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

chính là không gian miệt vườn sông nước. Chúng tôi nhận thấy số từ ngữ thể

hiện đặc trưng địa hình văn hóa của vùng đồng bằng Sông Cửu Long rất rõ.

Việc sử dụng những từ này thường xuyên làm nổi bật bức tranh hiện thực, đời

sống con người. Đồng thời ta thấy được nét văn hóa đặc trưng của vùng đồng

bằng sông Cửu Long so với các vùng miền khác.

Số lượng từ đặc trưng cho vùng văn hóa sông nước khá nhiều, ví dụ

như: Các tên riêng: Xóm Rạch, Chợ Nổi Cà Mau, Kinh Mười Hai, Cù lao Mút

Cà Tha, Sông Cái Lớn; Các từ chỉ phương tiện đi lại: Ghe, xuồng, máy đuôi

tôm, xà lan,…; Các từ chỉ địa hình: Ao, mương, kinh, rạch, ruộng… Các từ

88

chỉ sản vật, đồ vật: bông súng, cá sặc, dừa nước, tép đất, quao,… Chính vì

thế mà trang văn của Nguyễn Ngọc Tư đã mang lại cho người đọc những trải

nghiệm thú vị.

Tiểu kết

Không chỉ có những đóng góp về nội dung, Nguyễn Ngọc Tư có những

đóng góp về mặt nghệ thuật rất đáng chú ý. Chị mang đến cho Văn học Việt

Nam lối hành văn chân chất, mộc mạc, giàu bản sắc Nam Bộ. Cách xây dựng

nhân vật thú vị, ngôn ngữ mang đậm sắc thái Nam Bộ, cách kể chuyện cuốn

hút, giọng văn đầy nữ tính,…đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh

89

muôn màu về cuộc sống và con người Nam Bộ.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Nguyễn Ngọc Tư đến với văn chương bằng tác phẩm Ngọn đèn

không tắt khiến cho người đọc tin tưởng về một tương lai tốt đẹp của chính

cây bút này. Quả thực sau đó người đọc không bị thất vọng. Trong một nền

văn học có nhiều đổi mới, Nguyễn Ngọc Tư đã trở nên khá quen thuộc với

độc giả yêu văn học. Là một tác giả thành danh với nhiều tác phẩm gây chú ý

với người đọc nhưng người ta nhớ nhiều tới Nguyễn Ngọc Tư là bởi tác phẩm

Cánh đồng bất tận của chị. Chị đã gây ấn tượng với độc giả bởi một Nguyễn

Ngọc Tư “ngoan hiền nhưng kiên quyết”.

2. Khảo sát và phân tích tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư dễ nhận thấy:

Ngòi bút của chị khắc họa một cách chân thực, giản dị về cuộc sống của

người dân Nam Bộ. Với cái nhìn chân chất, đầy cảm xúc Nguyễn Ngọc Tư đã

thổi vào hệ thống nhân vật của mình những nét tính cách sống động, giống

như con người thật ngoài cuộc đời. Qua nhân vật chi gửi gắm những quan

niệm về con người, về cuộc sống. Tình cảm và những yêu thương của chị với

mảnh đất Nam Bộ đã tạo nên những trang viết ăm ắp cảm xúc và tình yêu về

quê hương như vậy. Cũng xuất phát từ quan niệm văn học là nhân học,

Nguyễn Ngọc Tư đã khái quát hiện thực cuộc sống thông qua thế giới nhân

vật. Những nhân vật đi vào trang văn của Nguyễn Ngọc Tư một cách chân

thực, sinh động. Ta bắt gặp một số kiểu nhân vật quen thuộc với dấu ấn đặc

trưng của vùng đất mới Nam Bộ, của con người Nam Bộ. Với lối viết riêng

của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã góp một tiếng nói làm phong phú thêm bức

tranh văn xuôi nữ đương đại.

3. Không cầu kì trong việc sử dụng những phương thức biểu đạt,

Nguyễn Ngọc Tư đã khái quát về hiện thực cuộc sống đầy màu sắc. Với ngôn

90

ngữ mang đậm bản sắc vùng miền, với giọng điệu trữ tình, ấm áp, mộc mạc,

tự nhiên, Nguyễn Ngọc Tư đã tìm tòi và khám phá được những khía cạnh

phong phú của cuộc sống con người. Chị khơi gợi trong tâm trí độc giả

những tò mò, thích thú về tầng tầng lớp lớp các vấn đề của cuộc sống và của

vùng đất Nam Bộ.

4. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm nổi bật trong sáng tác

của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư thực sự là một

cây bút có trách nhiệm với nghề. Chị có sự sáng tạo, tìm tòi, đổi mới cảm

hứng sáng tạo và bút pháp thể hiện. Những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư

xuất phát từ tình cảm của chị, bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống đã và đang

xảy ra xung quanh chị. Thời gian gần đây Nguyễn Ngọc Tư tỏ ra thích thú với

thể loại tản văn. Những sáng tác ấy đi vào những vấn đề đang xảy ra quanh

chị, cập nhật kịp thời những tin tức cuộc sống. Tính cả về số lượng và chất

lượng thì các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đã chứng tỏ sức bền, sức dẻo dai

và sự sáng tạo của chị. Có một số ý kiến cho rằng Nguyễn Ngọc Tư có một số

hạn chế như: giọng văn cũ, sử dụng phương ngữ quá nhiều, ... nhưng người

đọc vẫn quan tâm đến những cố gắng nỗ lực của Nguyễn Ngọc Tư.

5.Với những gì đã đạt được, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo lập cho mình một

chỗ đứng trong văn xuôi Việt Nam đương đại nói chung và trong dòng văn

học nữ nói riêng. Là một cây bút trẻ, con đường sáng tác của chị vẫn đang ở

phía trước. Chúng ta sẽ luôn kì vọng vào những sáng tác của chị trong thời

91

gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tác phẩm

1. Nguyễn Ngọc Tư (2000), Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ.

2. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ.

3. Nguyễn Ngọc Tư (2001), Ông ngoại, NXB Trẻ.

4. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng.

5. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa, NXB Trẻ.

6. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Nước chảy mây trôi, NXB Văn học nghệ

thuật.

7. Nguyễn Ngọc Tư (2007), Sầu trên đỉnh Puvan.

8. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb

Văn học

9. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tản văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ.

10. Nguyễn Ngọc Tư (2006, Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ.

11. Nguyễn Ngọc Tư (H.2007), Ngày mai của những ngày mai, NXB Phụ

nữ.

12. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ.

13. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Biển của mỗi người.

14. Nguyễn Ngọc Tư (2012) Gáy người thì lạnh (tản văn), NXB Trẻ

II. Lý luận, phê bình

15. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội.

16. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục Hà

Nội.

17. Đoàn Giỏi (H 2005), Đoàn Giỏi tuyển tập, NXB Văn hóa thông tin.

92

18. Lê Bá Hán (H.2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2004), Từ

điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

20. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn Hà Nội.

21. Nguyễn Thái Hòa (chủ biên) (2000), Những vấn đề thi pháp trong

truyện, NXB Giáo dục.

22. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1996) Con đường đi vào thế giới nghệ

thuật của nhà văn, NXB Giáo dục.

23. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB

Giáo dục.

24. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam…,

Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

25. Sơn Nam (2008), Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ.

26. Sơn Nam (1997), Cá tính miền Nam, NXB Trẻ, TPHCM.

27. Huỳnh Như Phương (1994), Văn chương nữ giới - một cách thể hiện ở

đời, NXB Hội nhà văn.

28. Phan Quang (H.1981), Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hóa.

29. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực

tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

30. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.

31. Trần Đình Sử(2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử,

NXB ĐHP Hà Nội.

32. Bùi Việt Thắng, Mã Giang Lân (2005), Văn học Việt Nam sau 1975,

NXB ĐHQGHN.

33. Bakhtinne (H.1990), Nghệ thuật như là thủ pháp, NXB KHXH.

34. G.N. Poxpelop (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử,

Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, NXB Giáo dục.

35. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học (Nhập môn lý thuyết trần thuật),

93

Nguyễn Thị Như Trang dịch, Phạm Gia Lâm hiệu đính, Hà Nội.

III. Báo, tạp chí

36. Điệp Anh, Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ, VNT số 10 ra ngày

11/3/2001, trang 3.

37. Kim Anh, Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư - Điềm đạm

mà thấu đáo, VNT số 15 ra ngày 11/04/2004, trang 3.

38. Lê Huy Bắc, Cốt truyện trong tự sự, Tạp chí nghiên cứu văn học số 7

năm 2008.

39. Phan Quý Bích, Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, VNT số

46 ra ngày 12/11/2006, trang 10.

40. Nguyễn Trọng Bình, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn

hóa, http://www.viet-studies.info.

41. Võ Đắc Danh, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư – tôi như kẻ đẽo cày giữa

đường, http://www.viet-studies.info.

42. Trần Phòng Diều, Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư, VNQD số 467 năm 2006, trang 94.

43. Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Tư – đặc sản Nam Bộ,

http://www.viet-studies.info

44. Đoàn Ánh Dương, Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn

ngữ trần thuật, TCNCVH số tháng 2/2007.

45. Phạm Thùy Dương, Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ

Bích Thủy và Nguyễn Ngọc Tư, VNQĐ số 661, tháng 1/2007, trang

101.

46. Đặng Anh Đào, Sự sống bất tận, Văn nghệ số 17-18 ra ngày 29/04 và

06/05/2006.

47. Tiến Đề, “Nguyễn Ngọc Tư: Tôi sợ sẽ … cạn đi như nhiều người”,

http://phapluattp.vn

48. Nhiều tác giả, Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn học số 6

94

năm 1996.

49. Thoại Hà, “Nguyễn Ngọc Tư: Tôi quá già để nhảy cẫng trước niềm

vui”, http://vnexpress.net.

50. Bùi Đức Hào, “Thử nhận định về Gió lẻ sau Cánh đồng bất tận trong

hành trình văn học Nguyễn Ngọc Tư, http://www.viet-studies.info.

51. Nguyễn Thị Hoa, “Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập

truyện Cánh đồng bất tận”, http://www.viet –studies.info.

52. Lê Thị Thái Hòa, “Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Là phụ nữ, dễ nuôi cô

đơn để viết”, http://www.vietbao.vn.

53. Đào Duy Hiệp, Chất thơ trong cánh đồng bất tận, Văn nghệ số 32 ra

ngày 12/08/2006.

54. Văn Công Hùng, Bất tận với Nguyễn Ngọc Tư, Văn nghệ trẻ số 25 ra

ngày 24/06/2007.

55. Lê Thị Hường, Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm

nay, Tạp chí Văn học số 2 năm 199.

56. Trần Thiện Khanh, Bàn lại với tác giả Bùi Việt Thắng, Tạp chí văn học

số 8/2008.

57. Trần Hoàng Thiên Kim, “Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Tôi…điên không

đều”, http://www.vietvan.vn

58. Phạm Thái Lê, “Hình tượng con người cô đơn trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư”, http://www.vannghequandoi.com.vn.

59. Hoàng Thiên Nga, Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua cánh đồng bất tận, Văn

nghệ số 39 ra ngày 24/09/2005.

60. Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Ngọc Tư dữ dội và nhân tình, Báo tuổi

trẻ số ra ngày 03/12/2005.

61. Lê Thiếu Nhơn, “Nguyễn Ngọc Tư – nhìn từ đỉnh cao văn chương”,

http://www.lethieunhon.com.

62. Phạm Phú Phong, Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Tạp

95

chí nghiên cứu văn học số 6/2008.

63. Trần Văn Sỹ, Bức tranh quê buồn tím ngắt, Văn nghệ số 15, ra ngày

15/04/2006.

64. Kiệt Tấn, “Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư”, http://www.viet-

studies.info.

65. Bùi Việt Thắng, Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp chí

nghiên cứu văn học số 7/2006.

66. Huỳnh Công Tín, “Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn trẻ Nam Bộ”,

http://namkyluctinh.org.

67. Nguyễn Thanh Tú, Bi kịch hóa trần thuật –một phương thức tự sự, Tạp

chí nghiên cứu văn học số 5/2008.

68. Nguyễn Tý, Nhân vật người nông dân và nghệ sĩ trong Giao thừa của

Nguyễn Ngọc Tư, VN số 21, ra ngày 24/05/2003, trang 7.

69. Nguyễn Tý, Ngày đầu năm đọc Cánh đồng bất tận với sức hút kì lạ,

Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày 07/02/2006.

70. Anh Vân, “Nguyễn Ngọc Tư: Tôi viết như cảm xúc của mình”,

http://vnexpress.net.

71. Thảo Vy, Nỗi nhớ qua Cánh đồng bất tận, báo Tuổi trẻ ra ngày

25/11/2005.

72. Thảo Vy, Nỗi đau qua Cánh đồng bất tận, Tạp chí văn học Phật giáo,

số 2 ra ngày 28/12/2005.

73. Lê Xuân, Nhịp sống cải lương Nam Bộ, VN số tết Mậu Tý 2008, trang

47.

IV. Các trang web tham khảo

74. http://www.viet-studies.info

75. http://www.dactrung.com

76. http://www.evan.com

96

77. http://www.vietnamnet.vn