BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________________ TRẦN THANH BÌNH
ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA THƠ CA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TÁC ĐỘNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ NGỌC TRÀ Thành Phố Hồ Chí Minh - 2008
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thực tế sáng tác và tiếp nhận thơ ca từ xưa đến nay cho thấy, mặc dù xã
hội phát triển ngày một văn minh hơn, mặc dù bây giờ nhân loại đang bước vào
thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, và mặc cho người ta không ngừng đổi thay
những quan điểm về thơ ca do những ý thức hệ tư tưởng khác nhau của những thời
đại khác nhau chi phối, thì thơ ca vẫn tồn tại bên cạnh con người như một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu. Cuộc sống càng xô bồ, càng làm con người mệt mỏi thì
con người lại càng muốn giải phóng tinh thần mình ra khỏi quy luật sinh tồn - diệt
vong của thế giới vật chất để tìm về với nghệ thuật. Thơ ca vẫn là nơi để người ta
trở về. Thơ ca vẫn là tri âm tri kỷ của con người.
Nhưng do đâu mà thơ ca có sức hút mạnh mẽ như vậy? Cái gì đã kéo người
ta đến với thơ? Cái gì đã khiến người ta phải sáng tác và đọc thơ như một nỗi đam
mê không cưỡng lại được? Là một người yêu thơ, tôi luôn bị những câu hỏi ấy ám
ảnh. Và rồi nỗi ám ảnh ấy thôi thúc tôi đi vào thế giới thơ để tìm câu trả lời. Đề tài
“Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động” là một hướng nghiên
cứu những căn cơ của việc sáng tác thơ và những đặc điểm nghệ thuật trong thơ mà
thi nhân đã sử dụng như một thủ pháp để chuyển tải thông điệp từ trái tim mình
đến với độc giả để tác động đến lý trí và cảm xúc của họ. Trong phần nghiên cứu
một tác gia điển hình cho xu hướng thơ tác động, chúng tôi chọn nhà thơ Tố Hữu
bởi những đóng góp to lớn của ông dành cho thơ ca và cách mạng Việt Nam.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong sáng tác và trong cả hoạt động nghiên cứu, thơ ca không còn là một
lĩnh vực thần bí. Trên thế giới và ở Việt Nam, đã có không ít các công trình nghiên
cứu về lý luận thơ ca, từ những công trình tầm cỡ thế giới như "Nghệ thuật thi ca"
của Aristote, "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp hay "Tùy viên thi thoại" của Viên
Mai đến những công trình nghiên cứu của các nhà lý luận phương Tây và của các
nhà lý luận Việt Nam… Mặc dù đã khai thác bao quát hết các vấn đề thuộc về đặc
trưng, bản chất, chức năng hoặc có cả kinh nghiệm sáng tác thơ, nhưng các công
trình ấy không dừng lại tìm hiểu thi pháp của thơ như một hình thức nghệ thuật có
khả năng tác động vào công chúng độc giả. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thu thập được
ở những tác giả ấy những ý kiến khẳng định ý nghĩa tác động của thơ ca từ những
góc nhìn khác nhau:
Từ góc nhìn của các nhà lý luận và sáng tác:
Trong tác phẩm "Dẫn luận nghiên cứu văn học", Pospelov cho rằng "các
tình cảm của nhà thơ trữ tình có uy lực "lây truyền" người đọc, trở thành tài sản
tinh thần của người đọc" [114, tr.332]. Công trình của ông khám phá đặc điểm của
tác phẩm trữ tình từ góc nhìn đặc điểm cấu trúc của lý luận truyền thống qua việc
nghiên cứu các đối tượng, nội dung, các dạng thức của trữ tình, đặc điểm biểu cảm
của lời văn trữ tình… và chỉ dừng lại ở những đặc điểm chung nhất của thể loại trữ
tình chứ không đi sâu vào đặc trưng thi pháp hoặc những hình thức có khả năng tác
động của thơ ca.
Nhà nghiên cứu V. Skholovskij trong bài viết "Nghệ thuật như là thủ
pháp" cho rằng thủ pháp "lạ hóa" trong tác phẩm nghệ thuật giúp người ta “trở lại
cảm giác về cuộc sống, để cảm nhận được các sự vật, để làm cho hòn đá thành hòn
đá (...). Mục đích của nghệ thuật là đem lại cảm nhận về sự vật như đã nhìn thấy
mà không phải đã nhận biết nó; thủ pháp của nghệ thuật là thủ pháp biệt hóa các
sự vật và là thủ pháp tạo ra một hình thức khó hơn, làm cho sự cảm thụ trở nên khó
hơn và dài hơn, vì quá trình cảm thụ trong nghệ thuật mang mục đích tự thân và
phải kéo dài ra; nghệ thuật là sự cảm nhận cách làm ra sự vật, còn cái được làm ra
trong nghệ thuật thì không quan trọng” [151, tr.150]. Mặt khác, Skholovskij cũng tán
đồng ý kiến của Aristote yêu cầu ngôn ngữ thơ phải có tính chất xa lạ, gây kinh
ngạc và theo ông, một trong những yếu tố gây tác động đến người đọc là mặt ngữ
âm và nhịp điệu của thơ.
M.B. Khrapchenko trong bài "Sức sống vĩnh cửu những thuộc tính và chức
năng nội tại của tác phẩm văn học", sách "Những vấn đề lý luận và phương pháp
luận nghiên cứu văn học" đã quan tâm sâu sắc đến những biểu hiện nghệ thuật tạo
nên giá trị nghệ thuật và của một tác phẩm văn học: "nhà văn không đơn giản chỉ
làm cái việc truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện
nghệ thuật của mình, anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho
chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả" [68, tr.177].
Nhà phê bình văn học Đức M. Reich – Ranicki trong bài viết "Một lời biện
hộ cho thơ" đã đưa ra những lập luận khác nhau về việc có hay không hữu ích của
thơ đối với đời sống con người. Ông cũng cho rằng "thi ca có lúc có khả năng – cho
dù không thay đổi được ngay thế giới – song có thể làm cho thế giới đó trở nên dễ
chịu hơn (…), có thể lay động con người khỏi trạng thái thờ ơ, và thậm chí có thể
đánh bật nó khỏi những lối mòn tư duy cố hữu" [118, tr.72]. Bài viết của ông góp
phần khẳng định khả năng tác động của thơ ca, tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu các
hình thức tác động cụ thể.
Trong công trình "Hệ thống kết cấu lý luận "Thi ngôn chí", Cổ Phong đã
bàn đến 8 chức năng của thơ ca trong đó có chức năng giáo dục. Ông đã đồng tình
với ý kiến của Khổng Dĩnh Đạt, Dương Duy Trinh, Ba Nhật Hưu… khi nói về khả
năng giáo huấn con người của thơ và cho rằng "thơ nói chí, chí lại có khả năng cảm
hóa, giáo dục con người" [189, tr.36].
Lê Ngọc Trà trong "Lý luận và văn học" khẳng định: "Nghệ thuật trở
thành một phương tiện tác động quan trọng và có hiệu quả chính là nhờ những đặc
điểm vốn có của nó. Bản chất của nghệ thuật là tình cảm. Đánh vào tình cảm là tác
động vào khâu then chốt để lay chuyển con người", "trong quá trình tác động để cải
biến con người, tác phẩm nghệ thuật hiện ra không phải như người thầy, nhà thuyết
giáo mà như là người đồng hành, người đối thoại với bạn đọc, với khán giả", "nghệ
tr.109 - 111].
thuật ảnh hưởng đến con người lâu dài, dần dần và tác động theo kiểu lây lan" [157,
Bàn về các yếu tố thơ, trong quyển "Lý luận và văn học, vấn đề và suy
nghĩ", Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương cho rằng "nhịp, sự trở đi trở lại đều
đặn làm cho bài thơ tác động đến người đọc theo từng làn, từng đợt sóng, một cách
nhịp nhàng, liên tục, khiến con người như bị cuốn đi, rơi vào trạng thái đê mê. Nhịp
có tính "ru người", tạo chất "say" cho thơ" [40, tr.83]. Cũng trong tác phẩm này,
Huỳnh Như Phương quan tâm đến mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, ông đã
bàn đến chức năng giao tiếp như một “sự tác động qua lại giữa người viết và người
đọc” [40, tr.140].
Trong "Thi pháp hiện đại", Đỗ Đức Hiểu cũng thừa nhận khả năng tác
động của thơ ca rất mạnh mẽ: "Nhà thơ càng tài năng, những làn sóng âm vang
tr.70].
càng nhiều, càng rộng, có khi không bờ bến, nó vang dội trong nhiều thế kỷ" [49,
Trần Đình Sử trong tiểu luận "Những thế giới nghệ thuật thơ" đã cho
rằng khả năng tác động như là một đặc điểm nổi bật của thơ cách mạng: "Thơ văn
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng có một sức tác động lớn
trong đời sống tinh thần người Việt Nam (…). Đặc điểm của thơ ca cách mạng là
gắn chặt với phong trào đấu tranh cách mạng, là vũ khí đấu tranh của phong trào
[122, tr.94]. Nhìn dọc theo chiều phát triển của tư duy nghệ thuật từ thơ cổ điển, lãng
đó. Tính chiến đấu là đặc điểm nổi bật được các nhà thơ cách mạng ý thức rất rõ"
mạn, tượng trưng, đến thơ cách mạng, Trần Đình Sử đã thấy rõ khả năng tác động là
một thành công lớn của thơ cách mạng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dừng lại ở những
nhận định đó chứ không đi vào nghiên cứu cụ thể hệ thống thi pháp có khả năng tác
động.
Đinh Gia Trinh trong "Hoài vọng của lý trí", khi bàn về trách nhiệm của
các văn sĩ và nghệ sĩ, đã khẳng định: "Sức cảm hóa của văn chương và của nghệ
thuật là một điều hiển nhiên. Những kẻ khinh sự truyền bá tư tưởng bằng văn
chương, coi những trang sách như một vang bóng vô ích chỉ là những kẻ xét đoán
hẹp hòi" [161, tr.52, 53]. Và khi đọc "Xuân thu nhã tập", ông cũng cho rằng: "Bởi
nhạc điệu, bởi sự hòa hợp âm thanh, bởi màu sắc của hình ảnh, tức khắc lời thơ đọc
lên "mê hoặc" ta, làm ta đắm say. Cốt thơ chính là có cái năng lực cảm hóa ấy, cái
năng lực làm người ta rung động… Thi sĩ là người khơi nguồn lưu thông cái run
rẩy huyền diệu của Thơ, mình cảm, mình rung động, rồi lựa lời, lựa âm thanh, điều
hòa màu sắc làm người ta cảm, người ta rung động, đem cái run rẩy huyền diệu
làm tràn sóng sang người đọc" [161, tr.201].
Công trình lý luận về thơ "Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại" của Hà Minh Đức bàn đến nhiều vấn đề của thơ ca Việt Nam, trong đó, ông có
viết: "Thơ ca chân chính luôn là tiếng nói yêu thương, là lời ca chiến đấu, giàu ước
mơ và khát vọng", "nhà thơ không chỉ nhân danh mình để nói lên một điều gì, mà
chính là nhân danh xã hội, nhân danh đất nước, nhân danh giai cấp", "quan điểm
chính trị bộc lộ công khai và trực tiếp trong thơ tạo nên chất thép, chất chiến đấu
của thơ ca. Các nhà thơ với vị trí chiến đấu của người công dân giác ngộ lý tưởng
luôn có dụng ý lấy thơ ca làm vũ khí tuyên truyền trực tiếp những tư tưởng chính trị
nhằm động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng" [34, tr.103].
Và trong "Bình luận văn học", Như Phong cũng viết: "Văn nghệ không thể
tự coi là đã mãn nguyện, nếu nó chỉ làm cho người ta đứng ở ngoài cuộc mà phân
biệt đúng sai, mà còn phải lôi người ta vào trong cuộc đập tan cái lãnh đạm bàng
quan của họ, gọi dậy ở họ những sức mạnh vẫn ngủ yên, làm cho họ có thái độ tích
cực trước cái gì đáng yêu hoặc đáng ghét, gây cho họ ý thức và ý chí đấu tranh để
tiêu diệt cái gì hoặc bảo vệ cái gì. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ
cũng làm cho người đọc xong, ra khỏi tác phẩm ấy, không còn nguyên như trước
nữa, không thể sống yên với chính mình, vì đã yêu thương hay căm thù tột độ, cần
phải giải quyết vấn đề trên đời sống thật, cần phải hành động" [110, tr.244].
Trong quá trình tìm hiểu "Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam
(1945 – 1995)", Vũ Văn Sỹ đã khẳng định: "Về hình thức, văn học cách mạng vẫn
chủ yếu là thơ ca tuyên truyền, vận động và thơ ca tâm sự giác ngộ", "thơ không
còn là của riêng, đựng trong "túi", trong "bầu" mà là một thứ vũ khí kháng chiến, là
tài sản tinh thần chung của nhân dân. Sứ mệnh cao cả của thơ ca là phụng sự nhân
dân, phụng sự đất nước" [126, tr.43, 56]. Chuyên luận của ông tập trung nghiên cứu
những hình thức nghệ thuật đặc thù của thơ ca trong mối tương quan mật thiết giữa
sự vận động của xã hội và sự phát triển của thơ ca.
Mã Giang Lân trong khảo luận "Tìm hiểu thơ" có viết: "Chúng ta có tiếng
nói trữ tình quen thuộc kết hợp một cách nhuần nhị, tự nhiên với chất tự sự; khi cần
thiết vận dụng châm biếm, đả kích để đánh kẻ thù có hiệu quả hơn. Đến kháng
chiến chống Mỹ thơ có thêm tiếng nói chính luận đanh thép sắc sảo, có sức thuyết
phục, lay động mạnh tạo nên âm hưởng hùng tráng và vẻ đẹp sử thi" [80, tr.103, 104].
Tuyển tập phê bình tiểu luận "Tiếng vọng những mùa qua" của Nguyễn
Thị Thanh Xuân có bài viết về văn học kháng chiến ở Nam Bộ. Bàn về thơ ca giai
đoạn này, bà khẳng định: "Thơ ca chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn
học ở chiến khu Nam Bộ, cả về số lượng lẫn chất lượng". "Nội dung của thơ ca giai
đoạn này là ca ngợi cuộc kháng chiến, lên án sự tàn bạo của quân thù, biểu dương
những tấm gương anh hùng của nhân dân và kêu gọi những người đi theo giặc trở
về với chính nghĩa" [175, tr.225].
Lê Thành Nghị trong tác phẩm "Văn học sáng tạo và tiếp nhận" cho rằng
hiệu quả tác động của tác phẩm là tất yếu khi người cầm bút cố gắng và không bị
hạn chế trong việc "sử dụng những biện pháp hiệu quả nhất, kể cả các biện pháp
của các phương pháp sáng tác phi hiện thực như lãng mạn, viễn tưởng, huyền
thoại… miễn là tất cả sự vận dụng và tìm tòi nghệ thuật này nhằm đạt đến tính chân
thực thuyết phục của hình tượng văn học, đạt đến hiệu quả cao nhất trong việc tác
động vào tư tưởng và tình cảm người đọc" [101, tr.58].
Trong tiểu luận "Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy", Xuân
Diệu viết: "Có một cái gì rất lôi cuốn trong bộ phận thơ cách mạng viết theo nhạc
điệu thơ truyền thống; bây giờ chúng ta tuyên truyền, cổ động, hô hào, nhưng các
bài hịch của ông cha ta kêu gọi đánh giặc, kêu gọi đi theo, chính nghĩa, đã mở lối
văn, hơi văn chiến đấu ấy" [20, tr.55]. Trong cái nhìn này, Xuân Diệu nhận thấy rõ
thơ ca cách mạng "có rất nhiều bài cổ động: Em khuyên chị, chị khuyên em; cổ
động binh lính; cổ động học sinh, thanh niên; cổ động công nhân; cổ động dân cày;
cổ động dân nghèo làm cách mạng; hiệu triệu đồng bào đánh đuổi đế quốc Pháp;
kêu gọi quốc dân, và rất nhiều bài cổ động phụ nữ"…[20, tr.56].
Trúc Chi trong "Ba mươi năm một nền thơ cách mạng" cho rằng: "Thơ
đã trở thành sự sống cho xã hội một cách thực sự. Vũ khí của thơ là ở chỗ đó. Cách
mạng đã trả về cho thơ một nhiệm vụ nặng nề là góp phần xây dựng cuộc sống, xây
dựng con người, làm thức dậy những tình cảm cao thượng và chiến đấu cho một lẽ
sống công bằng đạo lý" [13, tr.130].
Trong giáo trình "Đại cương Mỹ học", Tạ Văn Thành cũng có cùng ý kiến
như trên: "Nghệ thuật tác động tổng hợp đến trí tuệ và trái tim, và không một ngõ
ngách nào của tâm hồn con người mà nghệ thuật lại không thâm nhập được", "bằng
cách giáo dục cho con người về nhiều mặt và tác động cả vào tình cảm lẫn lý trí
con người, cổ vũ họ đấu tranh cho những lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nền nghệ thuật
chân chính thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng là chức năng cải tạo xã
hội" [140, tr.104, 105].
Đông La trong "Biên độ của trí tưởng tượng" cho rằng: "Thơ ca không
chỉ tạo nên sự xúc động, sự khoái cảm, sự tâm đắc mà còn gợi nên những suy tư,
những trăn trở, ý thức trách nhiệm lớn lao đối với đồng loại" [70, tr.98]. Nguyễn Thị
Dư Khánh với "Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường"
có phần bàn về mục đích của môn Ngữ Văn, trong đó, theo bà, "thơ trữ tình là loại
tác động trực tiếp và sâu xa hơn cả" [63, tr.133].
Trong cuộc hội thảo về “Văn học và hiện thực”, “Phản ánh hiện thực là
chức năng hay thuộc tính của văn học?”, các nhà nghiên cứu lý luận cũng bày tỏ
mối quan tâm về khả năng tác động của tác phẩm. Từ quan điểm thông báo, Hoàng
Ngọc Hiến cho rằng “tác phẩm văn học phải truyền cho người đọc ham muốn cải
tạo hiện thực cuộc sống” [45, tr.6], còn Nguyễn Huệ Chi thì thừa nhận chính sự tự do
sáng tạo và tài năng nghệ thuật của tác giả đã tạo nên sự giao cảm kỳ diệu và “đánh
tr.14].
thức dậy trong người đọc một thế giới bí ẩn chưa từng biết trong hiện thực” [11,
Trong các công trình nghiên cứu, các giáo trình lý luận văn học, khả năng
tác động của thơ được nói đến từ góc nhìn về chức năng của văn học. Trần Đình Sử
trong "Lý luận và phê bình văn học" cho rằng: “Văn học vừa khơi gợi khoái cảm,
mở mang trí tuệ, dạy khôn con người, vừa thức tỉnh lương tri, lương tâm, dạy con
người biết yêu thương, căm giận…” [123, tr.216], giáo trình "Lý luận văn học" do
Phương Lựu chủ biên thì nhìn nhận “văn học có tác dụng khách quan là có thể tác
động vào đời sống tinh thần lý trí, tình cảm con người” [91, tập 1, tr.221] và khi nhìn
từ đặc điểm thể loại thơ, tác giả cũng khẳng định: “thơ trữ tình công dân có sức tác
động mạnh mẽ… khi nhà thơ lấy tư cách công dân cổ vũ và ca ngợi…, lên án và
đấu tranh…” [92, tr.364]. Các giáo trình Lý luận văn học trong phần trình bày chức
năng của văn học, thường xem chức năng tác động là một trong những chức năng
của văn học, dù đôi khi lồng nó vào chức năng giáo dục hoặc giao tiếp.
Các bức thư của ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam gửi
Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, III, IV đều có nhấn mạnh tác dụng của văn
học: “Mỗi tác phẩm văn nghệ phải có tác dụng rọi ánh sáng mới vào nhận thức, tư
tưởng, tình cảm của xã hội, cổ vũ nhân dân phấn khởi tiến lên” [4, tr.17]. Đó cũng là
mối quan tâm sâu sắc đến việc thơ văn phải phản ánh cái mới và đấu tranh cho cái
mới, quan tâm đến tác dụng giáo dục tư tưởng và truyền cảm sâu sắc của tác phẩm
nhằm góp phần thúc đẩy cuộc sống mới phát triển.
Từ góc nhìn của các nhà ngôn ngữ học:
Gần đây, việc nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ
học Việt Nam quan tâm. Đã có Mai Ngọc Chừ với "Tìm hiểu vần thơ Việt Nam"
(1986), Bùi Công Hùng với "Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca" (1989), Phan
Ngọc với "Tìm hiểu phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều"
(1985), "Cách giải thích Văn học bằng ngôn ngữ học" (2000), Nguyễn Phan Cảnh
với "Ngôn ngữ thơ" (1987), Hữu Đạt với "Ngôn ngữ thơ Việt Nam" (1993), Triều
Nguyên với "Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ" (2006)... Mỗi một người có
những đóng góp khác nhau vào cái nhìn tổng thể của ngôn ngữ học đối với thơ ca.
Qua đó, và qua các tác phẩm khác, vấn đề tác động của thơ cũng được nhìn nhận.
Trong "Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa", Hoàng Tuệ cho rằng vấn
đề phong cách trong văn chương thực chất là "một sự tạo nghĩa", nhưng cần nhấn
mạnh rằng đó là một sự tạo nghĩa đặc biệt, trong sự giao tiếp xã hội bằng nghệ
thuật, nhằm tạo nên một tác động đặc biệt" [164, tr.23].
Phan Ngọc thì nhìn thấy khả năng tác động như là một thuộc tính của thơ.
Trong quyển "Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ", ông viết: “Thơ là một
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm
xúc và, phải suy nghĩ…” [102, tr.29]. Theo ông, sở dĩ, có những câu thơ được nhớ đến
hàng ngàn năm là nhờ cách tổ chức ngôn ngữ của nó.
Trong "Phong cách học Tiếng Việt", Đinh Trọng Lạc cho rằng “tính cụ
thể hóa nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất của lời nói nghệ thuật. Nó giải thích
bản chất sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến người đọc (...). Sự cụ thể hóa nghệ
thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ (...),
do đó, thơ đặc biệt sử dụng biện pháp trùng điệp ở các cấp độ để nhấn mạnh, để
158].
xoáy sâu những ý tình, những hình tượng mà nhà thơ cho là quan trọng” [71, tr.154,
Công trình "Ngữ pháp của thơ" của Nguyễn Thế Lịch đã nghiên cứu các
hình thức nghệ thuật như những đặc điểm ngữ pháp của thơ được các nhà thơ
thường xuyên sử dụng. Đó là con đường "từ ngữ liệu thơ ca rồi khái quát thành mô
hình của "ngữ pháp thơ" [84, tr.16]. Bài viết trình bày lần lượt các vấn đề về đơn vị
của ngữ pháp thơ, việc sử dụng các dấu câu, hiện tượng tỉnh lược thành phần, dùng
cấu trúc đối, đảo, điệp, sử dụng hạn chế các hư từ, cấu trúc dòng thơ và bài thơ, các
kiểu câu cảm thán, câu hỏi tu từ, sự kết hợp bất thường, sự đổi mới cấu trúc câu
thơ… Ông thừa nhận trùng điệp là một dạng thức tác động hiệu quả vào tình cảm
của người đọc: “hai tiếng “khi mô” (trong bài "Tiếng hát sông Hương") được nhắc
lại mấy lần để xoáy sâu vào lòng người đọc nỗi day dứt, lòng mong mỏi ngày được
giải thoát khỏi cuộc đời ô nhục của cô gái trên sông Hương” [84, tr.59]. Tuy nhiên,
công trình này không đi sâu sát vào các đặc trưng ngữ pháp có xu hướng tác động.
Trong "Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt", Hữu Đạt
cho rằng "Các đơn vị ngôn ngữ hoạt động trong phong cách nghệ thuật với chức
năng nổi bật nhất là chức năng tác động bằng hình tượng (…). Tác động của nghệ
thuật trước hết là tác động tình cảm và thẩm mỹ, (…), chức năng tác động tình cảm
lại là yếu tố nổi bật lên trước nhất" [29, tr.285 - 287]. Ông cũng chỉ ra rằng việc sử
dụng thường xuyên các lời than gọi, các câu hỏi tu từ nghệ thuật, nhiều từ láy, từ
tượng hình, là một trong những điểm tạo nên dấu hiệu khác biệt giữa phong cách
nghệ thuật và các phong cách chức năng khác.
Trong sách "Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học", Nguyễn Lai
cho rằng quá trình sáng tác, dù được thể hiện dưới dạng nào, "cuối cùng và thực
chất nhất là nó phải bắt đầu từ sự rung động của chính mình để qua đó tạo ra sự
rung động cho người khác" [73, tr.59]. Hà Công Tài trong bài viết "Cấu trúc ẩn dụ
hóa trong thơ" cho rằng thơ ca có khả năng tác động bằng các yếu tố nghệ thuật,
trong đó có ẩn dụ, một phương tiện tu từ đặc sắc trong văn chương có thể giúp các
nhà thơ khai thác nhiều hình ảnh tân kỳ. Ẩn dụ cũng là một “phương cách tác động
và gây hấp dẫn nơi người đọc” vì "nghệ thuật thường tác động lên người đọc bởi sự
sáng tạo những ký hiệu lạ lùng hấp dẫn" [128, tr.46]. Còn Phong Hồng Anh trong bài
viết "Tín hiệu thơ - cuộc đối thoại giữa nhà thơ và bạn đọc" xem thơ như một
“hình thức đối thoại trữ tình trực tiếp không ngừng của nhà thơ với cuộc đời” và
khẳng định đó là thuộc tính thể loại quan trọng nhất của thơ. Tác giả này dùng các
quy tắc của lý thuyết giao tiếp, lý thuyết dụng học để nghiên cứu ngôn ngữ thơ và
cho rằng: “Đích giao tiếp - tác động của thơ là để được chia sẻ, đồng cảm, được
giải tỏa một cảm xúc cao trào nào đó đang diễn ra với nhà thơ”. “Thơ là hành trình
của một người đến với muôn người, từ nhu cầu tự bộc lộ mình của nhà thơ tìm đến
sự đồng cảm với cuộc đời” [1, tr.26].
Nhìn chung, những tài liệu chúng tôi đã tiếp cận tuy chưa dừng lại tìm hiểu
thi pháp tác động của thơ ca nhưng cũng đã ít nhiều chạm vào những vấn đề liên
quan đến khả năng tác động của thơ. Chúng tôi xin ghi nhận các ý kiến trên và sẽ
xem đó như những gợi ý quý báu để đi sâu vào tìm hiểu thi pháp thơ ca từ góc nhìn
tác động. Với luận văn này, chúng tôi hy vọng được góp vào diễn đàn nghiên cứu
thơ ca một tiếng nói nhỏ, nhưng phần nào cũng làm cho lý luận thơ ca Việt Nam
ngày thêm phong phú hơn, đầy đặn hơn và mới mẻ hơn.
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Thế giới thơ ca vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp, bước chân vào
lãnh địa này trong một khoảng thời gian nhất định và trong phạm vi một luận văn
tốt nghiệp, người viết chỉ tập trung vào việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến
khả năng tác động của thơ ca. Cụ thể là thông qua một số ý kiến về thơ của các nhà
nghiên cứu lý luận, các nhà ngôn ngữ học, các nhà sáng tác ở trong và ngoài nước
cũng như từ thực tế lịch sử thơ Việt Nam suốt mấy ngàn năm qua... để khẳng định
thơ ca là một nghệ thuật có khả năng tác động cao. Đồng thời, trong khi tìm hiểu
các yếu tố làm nên sức mạnh tác động của thơ, luận văn liên hệ với các bài thơ,
đoạn thơ, câu thơ của các nhà thơ Việt Nam. Ở chương 3, luận văn khảo sát thơ Tố
Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp một tiếng nói khẳng định ý nghĩa của
thơ trong đời sống con người. Thông qua quá trình tìm hiểu những quan niệm của
đông đảo các học giả từ xưa đến nay, luận văn hướng đến tìm hiểu trạng thái và
nhu cầu tác động của nhà thơ khi sáng tác; đồng thời khẳng định rằng thơ ca là một
nghệ thuật có sức mạnh tác động đáng kể, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu
tranh giữ nước Việt Nam trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
- Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn góp thêm hướng nghiên cứu về thi pháp
bằng việc tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật nổi bật nhất có khả năng tạo nên ấn tượng
sâu đậm và tác động mạnh mẽ vào công chúng. Mặc dù người ta vẫn đã và đang
sáng tác và thưởng thức thơ, nhưng lý thuyết về thi pháp thơ nhìn từ góc độ tác
động sẽ góp phần đáng kể cho quá trình sáng tác của các nhà thơ đương đại và
trong tương lai – nhất là khi thị hiếu thẩm mỹ của công chúng ngày càng được
nâng cao và quy luật đào thải càng trở nên nghiệt ngã.
- Khảo sát các yếu tố nghệ thuật trong thơ Tố Hữu như một biểu hiện tiêu
biểu cho loại thơ tác động, luận văn cũng góp phần khẳng định giá trị nghệ thuật và
sức mạnh tác động của thơ Tố Hữu đồng thời lý giải vì sao tiếng thơ Tố Hữu đã
vinh dự trở thành tiếng gọi đàn cho cả dân tộc ta trong những ngày tháng đấu tranh
gian khổ nhất.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương
pháp sau đây:
Phương pháp hệ thống: Trong quá trình tìm hiểu các quan niệm về
thơ của các học giả, tìm hiểu các biểu hiện tác động của thơ ca trong lịch sử, và tìm
hiểu các hình thức thi pháp tác động cụ thể, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, hệ
thống và trình bày các yếu tố này theo từng luận điểm thích hợp.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình
khảo sát các tác phẩm thơ ca Việt Nam và thơ Tố Hữu để làm rõ vấn đề cần nghiên
cứu.
Phương pháp loại hình: Luận văn tập trung nghiên cứu thể loại thơ
ca, chủ yếu là thơ trữ tình có xu hướng tác động.
Phương pháp thống kê: Để khẳng định những giá trị tác động nổi
bật của thơ Tố Hữu, chúng tôi sẽ tiến hành phương pháp thống kê một số hình thức
nghệ thuật.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung trọng tâm của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sức mạnh tác động của thơ
Chương 2: Một số hình thức thi pháp hướng tới sự tác động trong thơ
Chương 3: Nghiên cứu một trường hợp cụ thể: thơ Tố Hữu
Chương 1
SỨC MẠNH TÁC ĐỘNG CỦA THƠ
1.1 Sức tác động của thơ:
Là một trong những loại hình nghệ thuật đến với loài người sớm nhất, thơ
chiếm lấy một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người ngay từ khi
họ biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với nhau. Cho đến hôm nay, sau một chặng
đường rất dài, nhìn lại, ta vẫn thấy thơ còn đó ở bên mình. Thơ vẫn rất thủy chung,
vẫn đằm thắm dịu dàng len lỏi qua dòng xiết nghiệt ngã của cuộc đời để đến với trái
tim người đọc. Thơ giăng mắc trong lòng người những cảm thức tinh tế về cái
Chân, cái Thiện, cái Mỹ; thơ gợi thức trong lòng người những hoài niệm xa xôi,
những ước mơ đẹp đẽ; thơ thôi thúc, giục giã trong ta những lý tưởng, kêu gọi ta
hành động phụng sự Tổ Quốc... và rồi dần dần, con người không thể sống thiếu thơ.
Bằng sức mạnh của riêng mình, thơ đã góp phần nâng cuộc sống này lên như một
thiên chức đáng tự hào. Mỗi một lần ngoái nhìn lại thơ ca là mỗi một lần chúng ta
không khỏi ngạc nhiên vì sức mạnh ấy.
1.1.1 Trong suy nghĩ của nhiều học giả xưa nay
Thơ được viết ra để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của con người: nhu
cầu thưởng thức cái đẹp, nhu cầu nâng cao tri thức, nhu cầu tiếp thu và khám phá
thế giới tình cảm của con người v.v… Mỗi bài thơ được thai nghén từ những trăn
trở, suy tư, những trải nghiệm đầy nỗi niềm và thấm trong từng câu chữ là những
giọt mồ hôi, giọt nước mắt của người sinh ra nó. Nhưng mọi sáng tạo đó chỉ trở nên
thật sự hữu ích cho xã hội loài người khi nó có thể góp phần nâng cuộc sống lên,
góp phần khiến cho người càng Người hơn. Sức mạnh của thơ thật vô cùng, và
trong thực tế, nó không chỉ giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách cho con người
mà nó còn góp phần tác động vào tư tưởng, quan điểm, lập trường của con người, từ
đó mà cải tạo xã hội. Thật ra, người ta đã phải trải qua thật nhiều những tranh luận,
nhiều thể nghiệm để khẳng định chân lý ấy. Tuy nhiên, thơ ca là một lĩnh vực nhạy
cảm nên vẫn thấy xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau. Mỗi nhà thơ, mỗi nhà
nghiên cứu hay cả những chính trị gia đều có những ý kiến riêng được hun đúc từ
những trải nghiệm của chính bản thân họ về thơ ca, nhưng điểm chung của họ là
nhìn nhận sức mạnh tác động của thơ ca đối với xã hội như một chức năng quan
trọng.
Thơ thể hiện sức mạnh của mình khi tác động đến tư tưởng con người với
tinh thần nhân văn cao cả. Ở phương Tây, từ thời cổ đại, Platon đã từng muốn đuổi
những nhà thơ ra khỏi đất nước mình vì nhìn thấy những ảnh hưởng khôn lường của
thơ đối với công chúng. Ông cho rằng, “ngoài loại thơ ca tụng thần linh và người
tr.512]. Theo Platon, tình cảm buồn, vui, yêu thương, căm thù khi còn ở ngoài đời thì
tốt, còn không cho phép mọi loại thơ khác xâm nhập vào lý tưởng quốc” [93, tập 2,
còn được lý trí chế ngự, nhưng một khi đã bước vào thơ, sẽ được “bộc lộ thỏa mãn
trong thơ, càng gây tác dụng xấu cho con người” [93, tập 2, tr.513]. Nhà hiền triết này
đã nhìn thấy ảnh hưởng rất mạnh của thơ đối với đời sống tinh thần của nhân dân ở
cả hai mặt tốt xấu.
Aristotle cũng rất đề cao sức mạnh của thơ. Ông cho rằng thơ có sức mạnh
của tình cảm, của trái tim và sức mạnh ấy có thể khiến mọi người tự thanh lọc tâm
hồn mình, có thể kéo mọi người đến gần nhau hơn: “Bi kịch đúng là gây ra nỗi buồn
và khiếp sợ, từ đó dẫn đến sự thanh lọc đối với những tình cảm này”, nó khiến cho
“một số người cảm thấy một sự khoan khoái, nhẹ nhàng, dễ chịu” [93, tập 2, tr.513].
Từ quan niệm này, Aristote chủ trương bộc lộ, kích phát tình cảm để thanh lọc. Về
sau, Sigmund Freud phát triển quan niệm "thanh lọc" của Aristotle theo cách lý giải
rằng văn học có thể giải tỏa những ham muốn, những ẩn ức về tính dục mà con
người bị đè nén, không thể thỏa mãn trong thực tế. Theo cách nghĩ của Freud, văn
học nói chung và thơ ca nói riêng có khả năng giúp con người thoát ra khỏi những
giày vò, giăng bủa của mớ bòng bong phức tạp để tìm lại sự cân bằng cho thế giới
tinh thần. Thật vậy, khi cuộc sống càng biến động thì các nhà thơ càng không ngừng
đi tìm lẽ sống, không ngừng suy nghiệm về lẽ đời, về con người. Tác phẩm của họ -
những bài thơ được viết ra để chuyển tải những thông điệp đó đến loài người. Một
bài thơ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa khiến người ta thỏa mãn những thị hiếu thẩm
tr.79]. Thơ không phải là những bài đạo đức khô khan phục vụ cho một chế độ, một
mỹ của người đọc mà nó còn có ý nghĩa “giao tranh để đoàn kết mọi người” [143,
giai cấp nào nhưng nó lại có sức mạnh tuyệt đối để “khiến con người, tất cả mọi
người thành ra thuần khiết” [143, tr.80].
Từ hướng tác động vào con người, thơ ca đi đến khả năng thay đổi xã hội. Ít
nhiều các nhà làm chính trị từ xưa đến nay vẫn nhìn thơ như một thế mạnh thuộc
một lĩnh vực tinh thần phong phú không những có khả năng xâm nhập và làm thay
đổi đời sống tinh thần con người mà thậm chí còn làm thay đổi cục diện xã hội. Các
nhà tư tưởng phương Đông cổ đại cho rằng, cuộc sống bình yên hay loạn lạc bắt
nguồn từ trong tư tưởng mà ra và trong đó, thơ là một yếu tố có khả năng gây ảnh
hưởng không nhỏ. Tuân Tử nghĩ rằng những âm thanh gian trá sẽ làm loạn nhân
sinh và ngược lại, những âm thanh tốt đẹp có khả năng cảm hóa con người, làm cho
cuộc sống bình yên. Quan niệm của Tuân Tử khẳng định chắc chắn khả năng tác
động của nghệ thuật: bất kể là xấu hay tốt, tác phẩm nghệ thuật có sức mạnh lớn lao
đối với tính “an” hay “loạn” của xã hội. Cùng quan điểm đó, Khổng Tử chủ trương
truyền dạy đạo đức, khiến người, giúp người tu thiện, rèn luyện nhân cách bằng
kinh sách. Một trong những cách thức “tu thân” mà Khổng Tử đề ra cho học trò là
đọc sách, đọc thơ, đọc Kinh Thi và bàn luận về Kinh Thi để nâng cao tri thức: “Bất
học thi, vô dĩ ngôn” [93, tập 1, tr.39]. Ở góc độ lý luận văn học mà nhìn, ta thấy
Khổng Tử đã rất xem trọng khả năng tác động của thơ ca và đề xướng một quan
niệm văn học tuyên truyền và bảo vệ chế độ, đạo đức, lễ giáo phong kiến. Mặc Tử
đề cao khả năng tác động đến mức xem nhẹ hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Ông
cho rằng: “Một thành tựu về mặt sáng tạo là khéo léo nếu nó bổ ích cho con người,
và nó là thô lỗ nếu nó không bổ ích” [93, tập 1, tr.45]. Trong khi đó thì Hàn Phi Tử lại
chủ trương bài trừ văn nghệ triệt để. Hàn cho rằng: “Nếu tôn chuộng kẻ sĩ, thi, thư
và nói lý thuyết thì dân sẽ thích chơi không, vô nghề nghiệp, và khinh nhà vua; nếu
tập 1, tr.48]. Suy cho cùng, thái độ phủ nhận văn học của Hàn Phi không phải là
tôn chuộng kẻ sĩ ở nhà không làm quan thì dân sẽ xa lánh và chê bai người trên” [93,
không hiểu biết về nghệ thuật mà ngược lại ông hiểu rất rõ, ông nhận thấy khả năng
tác động rất lớn của chúng vào nhân dân và ông lo sợ xã hội nổi loạn. Chủ trương
chuyên chế cực đoan của Pháp gia - Phi Tử không dung hòa với tiếng nói của lương
tri, của khát vọng con người trong văn thơ nên ông cổ vũ hành động hủy diệt thi thư
nhưng nếu nhìn ở góc độ nhận thức thì ông lại là người hiểu rõ sức mạnh cải biến
xã hội của văn thơ. Tiếc là ông không biến nó thành một phương tiện để giáo huấn
nhân dân mà lại đặt nó vào thế đối lập để rồi hủy diệt nó. Hành động đó thật trái với
tiến bộ xã hội. Hàn Phi Tử quả thật đã nhìn thơ văn với một sức mạnh vô cùng,
giống như quan niệm của đại đế Napoleon: “Súng đại bác phá tan thành quách, tác
phẩm phá tan xã hội” [185, tr.1344].
Các nhà lý luận Trung Quốc như Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị cũng xem trọng ý
nghĩa xã hội của thơ văn, xem văn thơ như một phương tiện bảo vệ và tuyên truyền
cho đạo đức phong kiến. Qua những luận điểm bàn về vấn đề sáng tạo văn học, kết
cấu, từ văn, ngôn ngữ, biện pháp nghệ thuật trong “Văn tâm điêu long”, Lưu Hiệp
cho rằng thơ ca thật sự có ý nghĩa tích cực trong việc giáo huấn nhân dân: “Cái chữ
thâu tóm của 300 bài (Kinh Thi) là không tà dâm. Giữ lấy nó để dạy thì thích hợp
vậy" [47, tr.156]. Lý Bạch - nhà thơ, nhà lý luận thi ca xuất sắc đời Đường rất chú
trọng đến sức đồng vọng diệu kỳ của thơ ca. Ông đề cao chức năng “cảm hóa nhân
tâm” của thơ, cho rằng thơ không chỉ có mục đích tự thân mà còn phải “vì quân, vì
thần, vì dân, vì vật mà sáng tác, chứ không phải vì văn mà sáng tác” [184, tr.572]. Từ
đó, ông khuyến khích sáng tác thơ để giúp vào việc thi hành chính đạo, phản ánh
nỗi đau khổ của nhân dân. Ông coi trọng thơ phúng dụ vì đấy là loại thơ có khả
năng “trị bệnh cứu người, bổ khuyết thời thế” [184, tr.585]. Từ những nhận thức đúng
đắn đó, Bạch Cư Dị sáng tác những tác phẩm có giá trị nhân sinh, được lưu truyền
rộng rãi trong nhân dân, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước Trung
Hoa. Về cách thức, thơ có cách cải tạo xã hội theo con đường đơn giản mà tinh tế,
quyến rũ nhất. Thơ nhẹ nhàng đi vào lòng người và thức tỉnh họ, kêu gọi họ bằng
nhiều cách khác nhau. Đôi khi, thơ đến với con người như là một tín ngưỡng thiêng
liêng và huyền bí. Chính vì thế mà nhà thơ Pháp gốc Ba Lan Apollinaire đã kêu gọi
các nhà thơ “hãy quay về với Khổng Phu Tử, Phật Thích Ca, hiền triết Socrate,
[143, tr.77] để mang thơ đến với nhân dân. Thiết thực hơn, nhà cách mạng Lương
Chúa Jesus, là những bậc đạo đức học chịu đói mà lang thang qua các xóm làng”
Khải Siêu cổ động mọi người sáng tác như một hành động cải tạo thế giới. Tuy lập
trường chính trị và tư tưởng triết học còn nhiều hạn chế, nhưng Lương Khải Siêu
luôn đề cao sức mạnh của văn thơ. Ông cho rằng văn thơ có thể thức tỉnh nhân dân,
rửa nhục cho nước. Lương Khải Siêu chủ trương hoạt động văn học cách mạng:
"văn thể cách mạng", "thi giới cách mạng", "tiểu thuyết giới cách mạng" v.v… Qua
"Ẩm băng thất thi thoại", ông kêu gọi thơ phải tuyên truyền, biểu hiện tinh thần
cách mạng, tinh thần thượng võ, chủ nghĩa yêu nước để giúp cho dân khí lớn mạnh.
Tư tưởng của Lương Khải Siêu ảnh hưởng đến giới văn nghệ đương thời, nhiều
người nêu cao khẩu hiệu "tiểu thuyết cứu quốc!", "thi ca cứu quốc!".
Các học giả Việt Nam thời trung đại cho rằng có ba sự nghiệp lớn có thể lưu
danh hậu thế: lập công, lập đức, lập ngôn. Văn thơ được nhìn nhận như một công
cụ, phương tiện để giáo huấn tư tưởng, đạo đức cho nhân dân, góp phần vào cuộc
cải biến nhân quần, xã hội. Vũ Quỳnh nhìn nhận thơ văn rất có ý nghĩa bởi nó “há
chẳng phải là khuyên điều thiện, trừng điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích
phong tục đó ru?” [131, tr.31]. Lê Quý Đôn từng viết: “Văn chương là gốc lớn của sự
lập thân, là việc lớn của sự kinh thế” [131, tr.92] như một lời khẳng định vai trò và
mục đích vì xã hội của văn thơ, khẳng định ý nghĩa thiết thực của thơ trong đời
sống xã hội. Nguyễn Văn Siêu xác định mục đích cao cả của văn chương là phục vụ
cho con người: “Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” [131, tr.125]. Nguyễn
Thượng Hiền khẳng định sức mạnh của thơ: “Thét một tiếng đã nâng dậy chứng ỳ
của một nền phong hóa suy đồi” [61, tr.101] còn Hồng Nhậm cho rằng thơ hay phải
“làm khóc được quỷ thần” và “thông suốt trời đất” [61, tr.88]. Ta thấy rằng, sự liên
kết giữa thơ ca, chính trị và đạo đức là cái gốc để các thi nhân ngày xưa hướng ý đồ
tác động của mình đến độc giả mỗi khi sáng tác. Cảm hứng của nhà thơ được khơi
nguồn từ những điều tai nghe mắt thấy, từ những tồn vong của một triều đại, một
dân tộc và từ những buồn vui, sướng khổ của nhân dân. Theo đà phát triển của lịch
sử, thơ không những được xem là phương tiện giáo dục mà thơ còn là vũ khí góp
phần đấu tranh và phát triển xã hội. Sức mạnh tạo nên ý nghĩa xã hội cao quý cho
thơ còn ở chỗ nó có thể cải tạo xã hội. Tóm lại, cách nói của người xưa tuy chỗ đậm
chỗ nhạt nhưng cũng đã thừa nhận khả năng tác động của thơ vào xã hội như là một
bản chất vốn có. Khi bày tỏ ý kiến về thơ, họ có cả một bề dày sáng tác ở phía sau.
Lời họ nói là những lời được trải nghiệm từ những hoạt động xã hội của một chính
trị gia, hoặc là lời gan ruột của thi nhân về cái nghiệp cầm bút của mình. Về mặt
này, các ý kiến của người đi sau cũng gặp gỡ những người đi trước. Ý nghĩa, vai trò
của thơ ca đã được thế hệ cha ông ta đặt ra từ rất lâu và ngày nay được nhận thức lại
từ góc nhìn của hệ tư tưởng mới.
R. Jakobson trong công trình “Ngôn ngữ và thi ca” đã nghiên cứu thơ ca từ
góc độ lý thuyết giao tiếp của ngôn ngữ và khẳng định “ngôn ngữ phải được nghiên
cứu trong tất cả các chức năng khác nhau của nó” [33, tr.110]. Chính ông cũng xác
định chức năng kêu gọi là một trong sáu chức năng cơ bản của sự giao tiếp ngôn
ngữ. Bàn về chức năng này, ông khẳng định, "sự hướng tới người nhận – chức năng
kêu gọi – tìm được sự thể hiện thuần túy ngữ pháp trong hình thức hô cách và mệnh
lệnh cách [33, tr.113]. Theo ông, một bài thơ, bên cạnh chức năng thơ vốn là chủ đạo,
còn có những chức năng ngôn ngữ khác. Tùy vào đặc điểm của thể loại thơ khác
nhau mà có những chức năng khác nhau: thơ sử thi chủ yếu dựa vào chức năng giao
tiếp của ngôn ngữ; thơ trữ tình gắn bó chặt chẽ với chức năng biểu cảm; “thơ của
ngôi thứ hai” thấm đẫm chức năng kêu gọi: nó hoặc là cầu xin, hoặc là giáo huấn.
Theo quan niệm của Jakobson, các chức năng nhận thức, biểu cảm và tác động là
các chức năng thường thấy nhất trong thơ. Mặc khác, ông đề xuất hướng nghiên cứu
“tính văn học”, quan tâm đến việc văn học “nói như thế nào” hơn là tìm hiểu xem
văn học “nói cái gì”, nhưng “nói như thế nào” hay “nói cái gì” thì cũng là nói với
độc giả, nói với xã hội chứ không phải tác giả nói với chính mình. Trong những cái
đích mà nhà ngôn ngữ Jakobson hướng đến trên con đường đi tìm hiểu các nguyên
lý để tranh luận cho bản chất của văn học, có mục đích tác động. Vì dù cùng có
chung chức năng giao tiếp như ngôn ngữ của đời sống, nhưng ngôn ngữ thơ không
bao giờ là ngôn ngữ khách quan mà luôn mang trong mình nhiệm vụ bộc lộ tình
cảm, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời. Jakobson và các nhà ngôn ngữ sau này
thường vận dụng các đặc điểm, các quy tắc trong ngôn ngữ để “đọc” thơ. Chẳng hạn
như tìm hiểu các chức năng của thơ (dựa trên các chức năng của ngôn ngữ), các giá
trị tu từ, các loại câu thơ, các yếu tố ngữ âm, ngữ điệu… trong thơ. Trong những
tìm tòi đó, các nhà ngôn ngữ đã dành cho khả năng tác động của thơ một mối quan
tâm đáng kể, đủ để khẳng định rằng “thơ là một nghệ thuật tác động”.
Trên lập trường duy vật biện chứng, Lenin quan tâm sâu sắc đến mối quan
hệ giữa văn nghệ và hiện thực. Trong các ý kiến đánh giá Tolstoi, Lenin thường đề
cao ý nghĩa hiện thực: “Tolstoi không những đã cống hiến những tác phẩm nghệ
thuật mà quần chúng sẽ tán thưởng và sẽ đọc mãi mãi, một khi họ đập tan được ách
của bọn địa chủ và bọn tư bản và tạo được cho họ những điều kiện sống của con
người” [83, tr.258]. Với tư cách là một vị lãnh đạo, Lenin đề cao ý nghĩa xã hội của
văn chương và sử dụng chúng vì mục đích cách mạng. Trong một bức thư gửi cho
M. Gorki, Lenin đã rất băn khoăn trong việc chọn lựa một loại hình nghệ thuật có
khả năng tác động tích cực đến công chúng: “Bây giờ cần phải tác động như thế
nào, cần phải “làm loại văn học” nào cho đúng?” [83, tr.297]. Theo quan điểm của
Lênin, văn thơ luôn là vũ khí đấu tranh giai cấp, là phương tiện để tuyên truyền,
giác ngộ quần chúng nhân dân.
Nhưng để tác phẩm có sức mạnh đấu tranh, người cầm bút phải nhận thức
rõ trách nhiệm của mình. Hay nói cách khác, ý nghĩa đấu tranh của tác phẩm phải
bắt nguồn từ sự dấn thân của hành vi sáng tạo. Sứ mạng cao cả của những người
cầm bút, theo Sartre là phải dấn thân vào công cuộc đấu tranh của xã hội: “Văn học
phải phục vụ cho đấu tranh, nhiệm vụ của nhà văn là vận dụng các loại hình thức
văn học để phơi bày cái thế giới này cho mọi người xem, để cứu vãn cái thế giới
này”, “Chỉ có nghệ thuật cho người khác và bởi người khác” [120, tr.132]. Quan niệm
dấn thân của Sartre xác định thái độ và quan hệ của nhà thơ đối với xã hội từ nhu
cầu, trách nhiệm tự bóc lộ mình, bóc lộ không phải để cho mình mà cho cả người
đọc để từ đó mà cải tạo xã hội.
Sau này, các nhà cách mạng Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ
Nguyên Giáp… trong rất nhiều bài viết, bài phát biểu của mình đều thống nhất một
quan niệm xem văn nghệ là một hoạt động phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc. Theo đó, “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là
[176, tr.67]. Hồ Chí Minh không ngừng nhắc nhở đội ngũ sáng tác không ngừng mài
chiến sĩ trên mặt trận ấy", "văn thơ phải phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân”
sắc ngòi bút của mình để trở thành “những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò
chính trừ tà” [176, tr.53], không ngừng viết “để giáo dục, giải thích, cổ động, phê
bình, để phục vụ quần chúng” [176, tr.69]. Nhận thấy văn học có khả năng đi sâu vào
ý nghĩ, tình cảm của con người, có khả năng làm tốt công tác tư tưởng trên mặt trận
văn hoá, Hồ Chí Minh và những lãnh đạo Đảng rất coi trọng công tác văn học. Do
yêu cầu của cách mạng nên sức tác động của thơ ca, nhất là nhiệm vụ cổ động tuyên
truyền rất được đề cao: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào
việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng [176, tr.101]. Đồng chí
Trường Chinh thường bày tỏ mối quan tâm sâu sắc đến văn nghệ tuyên truyền. Ông
kêu gọi sáng tác những tác phẩm nghệ thuật thiết thực, gắn bó với quần chúng nhân
dân “như nước uống, khí trời”. Bởi “nhân dân ta đang trông chờ những tác phẩm cổ
vũ lòng yêu nước nồng nàn, những tác phẩm văn nghệ tố cáo một cách sắc bén chế
độ tàn khốc của Mỹ - Diệm” [176, tr.178, 180]. Các ý kiến trên không dừng lại từng
thể loại cụ thể, nhưng trên tinh thần ấy, thơ cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó. Với
tư cách là nhà thơ, Trường Chinh - Sóng Hồng nhiều lần khẳng định khả năng chiến
đấu của thơ: “Thơ là một vũ khí đấu tranh kỳ diệu”, “thơ có thể trở thành một sức
mạnh phi thường khi nó chinh phục trái tim quần chúng nhân dân”, “thơ có thể
truyền cảm mãnh liệt cho quần chúng, cổ vũ quần chúng đấu tranh anh dũng và lao
động sáng tạo”. Quan niệm này còn được ông thể hiện bằng thơ: “Thơ như rót men
nồng, nhen lửa đốt, Khiến người nghe vác súng vút lên đường, Thơ hay nhất phải là
thơ thiết thực, Phải là thơ - vũ khí của nhân dân”… Và quyết liệt nhất vẫn là khẩu
khí kêu gọi nhà thơ hãy “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ, Mỗi vần thơ: bom đạn
phá cường quyền” [176, tr.664, 665, 679, 780]. Những quan niệm trên của nhà thơ Sóng
Hồng được chính bản thân nhà thơ thực hiện triệt để trong suốt quá trình sáng tác.
Như vậy đó, từ trong thực tế cuộc sống, thơ đã được sinh ra và đã gắn liền
với xã hội loài người bằng nhiều ý nghĩa tích cực. Trong nhiều ý nghĩa của thơ thì
khả năng đóng góp vào quá trình phát triển xã hội của thơ là điều mà các nhà tư
tưởng lỗi lạc cổ kim đã thừa nhận. Trong dòng chảy của thơ Việt Nam, chúng ta
nhận thấy rất rõ khả năng tác động mạnh mẽ của thơ không chỉ là ở một giai đoạn,
một phong trào mà trong mỗi một nhà thơ, mỗi một bài thơ cũng tiềm ẩn thứ "năng
lượng" đó. Lịch sử "một trăm năm đô hộ giặc Tây, một ngàn năm đô hộ giặc Tàu"
và những thăng trầm của xã hội đã đẩy nhân dân ta vào cuộc chiến tranh vệ quốc
trường kỳ mà kiêu hãnh. Và trong hoàn cảnh đó, thơ Việt Nam vẫn đồng hành với
người dân Việt, thơ là tri âm, là đồng chí đồng đội, là tiếng kèn dõng dạc thúc
quân…
1.1.2 Trong lịch sử văn học dân tộc
Thơ Việt Nam gắn bó với người Việt Nam từ mấy ngàn năm nay. Nếu hiểu
nghệ thuật kết tinh từ ba nguồn sức mạnh: môi trường, thời điểm và bản ngã thì ứng
vào thơ Việt Nam, ta thấy được tính cách kiên cường của dân tộc Việt Nam trong
suốt chiều dài đấu tranh dựng nước và giữ nước. Dân tộc ta trải qua nhiều giai đoạn
kháng chiến chống xâm lăng nên lịch sử tác động của thơ ca càng phong phú. Thơ
như con sông chảy qua nhiều phong cảnh khác nhau của lịch sử, và mỗi thời điểm
mà nó đi qua đã tạo nên một sắc thái riêng, mang đến những ý nghĩa đặc biệt đối
với sự tồn vong của dân tộc. Những tác động mạnh mẽ, những ảnh hưởng sâu rộng
vào lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của thơ Việt Nam là một minh chứng
hùng hồn cho sức mạnh của nền thơ ca dân tộc.
Thơ của các nhà thơ lớn có sức mạnh của một tầm tư tưởng lớn, bao quát
khắp nhiều lĩnh vực: khoa học, sử học, chính trị, văn hóa, quân sự… Những tác
phẩm ấy gắn liền với những biến động của thời cuộc, bên cạnh khả năng khơi dậy
những rung động thẩm mỹ, nó còn dần dà tác động, cảm hóa tư tưởng con người.
Như thể đáp ứng lòng mong mỏi của nhà thơ, hàng triệu triệu độc giả đã lĩnh hội và
lan truyền đi, từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác. Ở phương
Đông lẫn phương Tây đã có những thi phẩm có khả năng chi phối tư tưởng và sinh
hoạt tinh thần của cả một thời đại. Nhiều quyển sách mạnh hơn giáo gươm, nhiều
tác phẩm dấy lên những cuộc cách mạng tinh thần. Paul Bourget khẳng định: “Đời
sống tinh thần trong một xã hội văn minh gồm nhiều nhân tố hợp lại. Văn chương là
[161, tr.53]. Trong ý nghĩa ấy, thơ đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp dựng nước
một nhân tố ưu đẳng. Quyển sách là một người hướng dẫn quan trọng vô cùng”
và giữ nước của dân tộc. Nhìn lại truyền thống thơ ca của dân tộc, ta tự hào trước
lấp lánh những hồn thơ minh triết của ông cha – những hồn thơ mạnh mẽ như sóng
cồn, đã tác động vào tư tưởng chúng ta, chỉ cho ta những nẻo vào đời, vực dậy và
hâm nóng trong ta bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, cuốn ta vào đại cuộc bằng tinh thần ái
quốc quên thân.
Từ khi văn học thành văn đến hết thế kỷ XX, thơ Việt Nam đã trải qua
nhiều chặng đường phát triển với những thành tựu khác nhau nên sức mạnh tác
động của thơ vì vậy mà cũng thăng trầm. Đôi lúc, thi nhân phải đơn độc tìm đường,
cất lên tiếng thơ lẻ bạn nhưng cũng có lúc thơ ca phát triển thành những phong trào
mạnh mẽ, thậm chí, có nhiều bài thơ tuy không biết tên tác giả nhưng vẫn cứ được
truyền đọc như truyền cho nhau sức mạnh đấu tranh. Đến thời đại cách mạng, thơ
thật sự là tiếng thét căm thù, là lời kêu gọi hành động, được truyền đi, lan xa, lan xa
như sóng biển. Những làn sóng ấy làm nên một nền thơ cách mạng có sức chiến đấu
như vũ bão, có sức cuốn hút nhân dân hăng hái nhiệt tâm bước vào cuộc chiến đấu
tranh vì độc lập dân tộc.
Trong cuộc chiến chống phong kiến phương Bắc, thơ ca thời Lý Trần nêu
cao tinh thần quật cường, kiên quyết bảo vệ nền độc lập. Các nhà thơ Lý Thường
Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… cũng là những thiên tài
quân sự với những chiến công sáng chói trong lịch sử giữ nước, họ luôn đứng hiên
ngang trên tuyến đầu chống giặc. Vì vậy mà thơ của họ đã truyền cho ta sức nén
dồn của lòng yêu nước, của lòng căm thù giặc sâu sắc. "Nam quốc sơn hà" xứng
đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Bài thơ đã bất ngờ
vang vọng trên đoạn sông Như Nguyệt thuộc phòng tuyến sông Cầu làm nao núng,
lung lay ý chí chiến đấu của quân sĩ Tống, khiến quân tướng Đại Việt thêm bừng
bừng khí thế: "Nam quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khang, thủ bại hư" [65, tr. 68].
"Nam quốc sơn hà" đã được toàn dân tộc Việt Nam xem như một "bài thơ thần" có
sức tác động mạnh mẽ. Thấm trong từng câu chữ là sức mạnh tiến công, ý chí diệt
thù và lòng tự hào dân tộc nung nấu suốt hàng ngàn năm trước nên đã tạo thành một
âm vang đặc biệt, dội mạnh vào tâm hồn của biết bao thế hệ Việt Nam. Trong hào
khí Đông A, có nhiều bài thơ rừng rực lửa chiến công, kích thích lòng tự hào dân
tộc và ý chí tiến công của binh sĩ như "Hịch tướng sĩ", "Tụng giá hoàn kinh sư",
"Thuật hoài", "Bạch Đằng Giang phú"… Nền thơ ca Lý Trần với âm hưởng lạc
quan, hào hùng thể hiện lý tưởng chiến đấu của thời đại và góp phần xây dựng một
nền văn hóa thuần túy Việt Nam, đầy tự tin và ý thức độc lập, vượt lên khỏi ảnh
hưởng sâu đậm của Trung Quốc.
Sớm ý thức rõ tác dụng của thơ trong đời sống tinh thần của con người, nhà
thơ - vị quân sư tài ba Nguyễn Trãi đã sáng tác để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc khỏi ách bóc lột của ngoại bang. Đối ngoại, ông chủ trương
"mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng" bằng những lập luận sắc bén, hào
hùng. Ông giáng lên đầu giặc những đòn nặng nề khiến chúng phải kinh hãi, hạ vũ
khí và lui về nước. Đối nội, ông truyền dạy cho nhân dân những bài học nhân nghĩa
ở đời, nêu cao tinh thần khẳng khái trung quân, ái quốc. "Bình Ngô đại cáo" của
Nguyễn Trãi là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam, là một áng "thiên
cổ hùng văn" của dân tộc với khí phách dời non lấp bể và chiến công vang dội đất
trời. Tội ác kẻ thù khiến người ta căm phẫn, niềm tự hào của nhà thơ cuốn người ta
tự hào theo, và lòng nhân ái của nhà thơ khiến người ta nể phục. Càng đọc "Bình
Ngô đại cáo" ta càng thấy gần gũi, yêu mến nhân dân theo tư tưởng thân dân cao cả
của nhà thơ: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo, (…),
Ta mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng, Nó đã tham sống sợ chết, thực
bụng cầu hòa, Ta coi toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức" [169, tr.23]. "Bình
Ngô đại cáo" đã tiếp thêm cho nhân dân ta sức mạnh, niềm tin vào chính nghĩa, vào
tinh thần quật khởi của giống nòi trước thế lực tàn bạo của kẻ thù mà đứng dậy tiến
công.
Sau Nguyễn Trãi, sự nghiệp của các nhà thơ lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đều có tác động đáng kể đối với công chúng. Nguyễn
Bỉnh Khiêm dùng văn thơ để giáo huấn, truyền thụ đạo lý cho nhân dân khi chứng
kiến sự suy yếu và thối nát của chế độ phong kiến. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được
viết ra với hy vọng vực lại đạo đức, phong hóa suy đồi để xoay được cái thế thiên
hạ. Người đời sau vẫn chịu ảnh hưởng tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, vẫn nhớ đến
phong vị riêng của thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm bởi những lời triết lý và giáo huấn sâu
sắc. Họ luôn tìm thấy trong mỗi bài thơ của ông một lẽ biến dịch, tương sinh, tương
khắc; một lời răn dạy; một lời mỉa mai chê trách; một quan niệm nhân sinh... Sức
tác động nhẹ nhàng ấy của thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã giúp người ta tự răn mình, tự
dạy mình thành "nhân". Đặc biệt, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nâng thơ thành
tiếng kêu thương, thành tiếng nói nói hộ nỗi khổ đau của nhân tình thế thái. Với
"Truyện Kiều" và "Văn tế thập loại chúng sinh", ông đã làm rung chuyển cả lòng
người, đã khóc cho số phận con người và đặt vào trời đất những câu hỏi ai oán
khiến đất trời không thể đứng yên. Đến Nguyễn Du, thơ đi sâu vào trái tim người,
thơ Nôm của Nguyễn Du phản ánh tư duy của cộng đồng và thời đại với những câu
hỏi lớn về xã hội, về kiếp người; thơ chữ Hán của Nguyễn Du có những câu hỏi đau
đáu niềm u uất của một đời người, có nỗi buồn thê thiết, xót thương cho những kiếp
người cơ cực và nỗi bất bình cho những người tài hoa, bạc mệnh. Thế nên, thơ của
Nguyễn Du có sức tác động mạnh. Mộng Liên Đường đã từng cho rằng nếu Nguyễn
tr.181] thì thơ ông không thể làm thấm thía và đớn đau lòng người đến như vậy. Ở
Du “không phải có con mắt trông suốt sáu cõi, tấm lòng hiểu thấu nghìn đời” [157,
góc độ lý luận tác động của thơ ca mà nhìn, Nguyễn Du đã tác động mạnh đến trái
tim người đọc bằng chính những thông điệp nhân ái cao đẹp từ trái tim mình. Cùng
tấm lòng như Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương dùng thơ để phản kháng thay cho
những phụ nữ bị giam cầm trong bốn bức tường của xã hội phong kiến hà khắc. Bà
mạnh dạn đưa vào thơ những vấn đề riêng tư, những đau đớn mà người phụ nữ phải
chịu đựng mà chủ yếu là những bi kịch thuộc về giới tính và còn cất cao giọng đả
kích những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến từ vua, quan đến đám sĩ tử, nhà
sư - những kẻ mà bà cho rằng đạo đức giả và bất tài. Thơ của bà có độ bén nhạy,
đánh một cái cho đối tượng ngã gục ngay tức khắc khiến người trong sạch đọc lên
thì thấy hả hê còn kẻ xấu đọc lên thì tức trào nước mắt. Về sau, người ta vẫn đọc
thơ bà để chế giễu những phường trêu hoa, ghẹo nguyệt hoặc những kẻ bất tài. Hồ
Xuân Hương đã xuất sắc đi trước thời đại mình mấy trăm năm bằng cách dùng thơ
đấu tranh cho phụ nữ, vì mãi đến thế kỷ XX, chúng ta mới đề cập đến vấn đề nam
nữ bình quyền và thơ ca cũng mới chính thức trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp.
Ngay sau khi thực dân Pháp lấn chiếm nước ta, từ ngòi bút của các nhà Nho,
các ông tú, ông cử, thầy đồ, và cả nghĩa sĩ đánh Tây, thơ ca Việt Nam đã hăng hái
bước vào cuộc chiến chống xâm lược. Tư tưởng yêu nước thời kỳ này vận động
theo nhiều hướng khác nhau. Nguyễn Khuyến tỏ thái độ phản kháng, bất bình trước
thời cuộc bằng một phong cách thơ đặc biệt. Ông dùng thơ để bộc bạch lòng yêu
nước thương dân. Người ta yêu thơ Nguyễn Khuyến từ những vần thơ hoài cổ, da
diết tìm về với những vàng son phong kiến một đi không trở lại đến những bài thơ
phủ nhận không khoan nhượng những kẻ xấu xa, hèn kém, những con người trong
chế độ phong kiến đã bị tha hóa, biến chất trước cơn lốc thực dân. Tuy không “bốp
chát” như thơ Tú Xương hay “đánh một cái chết tươi” như thơ Hồ Xuân Hương
nhưng thơ Nguyễn Khuyến khơi gợi trong ta kín đáo một ý chí bất khuất trước kẻ
thù. Đó là tiếng nói của một nhà nho tiết tháo, một trái tim yêu nước thiết tha đằm
thắm. Cùng thời với Nguyễn Khuyến, Tú Xương dùng thơ như một phương tiện tố
cáo hiện thực xã hội. Tiếng cười trong thơ Tú Xương rất sắc sảo và cay độc, nó
khiến người ta chán ghét sự xuống cấp của đạo đức xã hội thực dân nửa phong kiến
và những cái nhố nhăng pha tạp của cuộc sống bước đầu bị Âu hóa, khiến người ta
không thể chấp nhận cái bản chất lai căng của những kẻ sính ngoại cầu vinh. Qua
thơ, Tú Xương truyền cho người đọc niềm trắc ẩn đau đớn vì cảnh nước mất nhà
tan, khiến người ta buồn cười mà cũng nhận biết đó là những nụ cười "ra nước
mắt". Cũng giống như Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương chỉ gián tiếp xây dựng tinh
thần yêu nước khi nói lên nỗi nhục mất nước, gián tiếp xây dựng một tinh thần tranh
đấu kiên trinh khi bộc lộ khí tiết cá nhân chứ vẫn chưa đủ sức bao quát được thời
đại nên nhà thơ vẫn chưa thể đứng vào hàng những nhà thơ “dùng cán bút làm đòn
xoay chế độ”. Nhưng điều đó không giảm đi giá trị tác động trong thơ của Tú
Xương và Nguyễn Khuyến bởi những tiếng thơ ấy vẫn chất chứa căm hờn và thôi
thúc niềm ái quốc trong nhân dân.
Khi kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi bôn đào, hịch Cần Vương truyền
khắp mọi nơi thì các sĩ phu yêu nước cũng trở thành những nghĩa sĩ đánh Tây, đánh
bằng cả gươm đao lẫn thơ văn. Thơ ca thời kỳ Cần Vương truyền bá lý tưởng vì
nước vong thân của một số thủ lĩnh Cần Vương: Tôn Thất Thuyết, Phan Đình
Phùng, Phan Trọng Mưu, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích, Kỳ Đồng… Họ
sáng tác thơ không chỉ cho riêng mình mà để khóc, để gọi, để đánh thức đồng bào
cùng đứng lên tranh đấu. Phần nhiều, những bài thơ được gợi cảm hứng từ một trận
đánh, một sự hy sinh, và từ những lời tuyệt mệnh khẳng khái nên rất hào sảng, tràn
đầy khí khái, sục sôi lòng căm thù, thiết tha lòng mến nghĩa yêu dân. Bên cạnh đó,
còn có những thi phẩm không lưu tên tác giả nhưng không kém sức tác động. Cả hai
dòng thơ ca bác học và thơ ca vô danh thời Cần Vương đều được sáng tác với mục
đích cao đẹp là kích động lòng yêu nước, hâm nóng bầu nhiệt huyết chống ngoại
xâm cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Ở miền Nam, vì không thể cùng những người bạn đồng niên xông pha trận
mạc nên nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu kiên trì mài nhọn ngòi bút của mình thành
vũ khí đánh giặc: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian,
bút chẳng tà” [135, tr.192]. Từ quan điểm nhân dân và dân tộc, thơ Nguyễn Đình
Chiểu đã cho ta thấy rõ nét đẹp khẳng khái của những lãnh tụ nghĩa quân dám vì
dân mà cãi lệnh vua, chống giặc cứu nước, những người nghĩa dân và người sĩ phu
“Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây", "Vì nước tấm thân đã gửi còn mất cũng cam,
Giúp đời cái nghĩa đáng làm nên hư nào ngại” [19, tr.34], thấy rõ bản chất triều đình
yếu hèn cắt đất dâng cho giặc và bọn nhà nho làm tay sai cho Pháp. Với Nguyễn
Đình Chiểu, cầm bút làm thơ là một thiên chức, tiếng thơ ông rất giàu cảm xúc
trước những biến động nóng bỏng của thời cuộc nên gây tác động mạnh đến các sĩ
phu yêu nước và đồng bào Nam Bộ. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" được Nguyễn
Đình Chiểu sáng tác khi trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc (16 - 12 - 1864) của
nghĩa sĩ bị thất bại. Tác phẩm đã hòa chung tấm lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ
với những khí phách anh linh, với tinh thần quyết chiến, bất khuất của những người
nghĩa binh hy sinh vì nước. Vì vậy, tuy bài văn tế là để khóc người mất nhưng lại có
sức mạnh cổ vũ tinh thần chiến đấu cho những người còn sống, làm nức nở những
người trong cuộc và làm bồi hồi những kẻ thờ ơ trước thực trạng nguy nan của đất
nước. Âm vang của "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một minh chứng cho sức mạnh
của thơ văn cụ Đồ.
Trước uy tín của Nguyễn Đình Chiểu, bọn thực dân và tay sai tìm mọi cách
mua chuộc hòng ngăn chặn mọi tác động có hại cho chúng nhưng chúng đã thất bại.
Tầm tư tưởng tiến bộ và "Trái tim biết chọn lời ru, Câu thơ biết nhắm giặc thù tiến
công" [19, tr.55] của ông đã có ảnh hưởng sâu rộng cho công chúng. Nguyễn Đình
Chiểu xứng đáng là nhà thơ hàng đầu của văn học yêu nước Việt Nam thế kỷ XIX.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc ta có rất nhiều nhà thơ lớn: Phan
Châu Trinh, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông, Phan
Đình Phùng, Nguyễn Thượng Hiền… Trong số đó, Phan Bội Châu là người xuất
sắc tiếp nối Nguyễn Đình Chiểu trong việc sử dụng thơ như một vũ khí đấu tranh
giải phóng dân tộc. Là một nhà cách mạng nhiệt huyết, Phan Bội Châu tích cực
tuyên truyền giáo dục thanh niên, lập hiệp hội, tìm đường du học và kêu gọi toàn
dân đoàn kết. Thơ Phan Bội Châu vượt qua phạm trù đạo đức để vươn tới hành
động chính trị, vượt thoát sự chi phối của tư tưởng quân chủ để vươn tới tư tưởng
cách mạng. Cái tình trong thơ Phan Bội Châu nóng bỏng tình yêu đất nước, quê
hương. Thơ ông là tiếng khóc, tiếng than dữ dội trước thảm cảnh mất nước nên có
sức tác động, thức tỉnh lòng người rất mạnh mẽ. Ý đồ sáng tác "Ba tấc lưỡi mà
gươm, mà súng, Một ngòi lông, vừa trống, vừa chiêng" được ông thể hiện ngay từ
những đầu đề: “Đề tỉnh quốc dân hồn”, “Ai Việt Nam”, "Hòa lệ cống ngôn”, “Hải
ngoại huyết thư” v.v... Hiểu rằng văn thơ là vũ khí lợi hại trong sự nghiệp đấu tranh
cách mạng, ông sáng tác say sưa không mệt mỏi. Trong hoàn cảnh bấy giờ, thơ
Phan Bội Châu vang lên như những tiếng thét căm hờn dữ dội, như những bản cáo
trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác của thực dân cướp nước và phong kiến tay sai.
Bên cạnh những tình tự sâu sắc về lịch sử, về nòi giống, về đồng bào đồng chí, thơ
ông khẩn thiết một lẽ sống anh hùng, vang vọng, giục giã lời kêu gọi cứu nước. Hơn
ai hết, Phan Bội Châu đã góp vào lịch sử văn học dân tộc một kiểu mẫu văn
chương: văn chương tuyên truyền cổ động chiến đấu. Vì thế nó làm cho nhiều chính
khách Trung Hoa, Nhật Bản biết đến, khâm phục tác giả và ủng hộ cách mạng Việt
Nam.
Theo chiều dài đấu tranh đó, rất nhiều bài thơ đã song hành với những sự
kiện lịch sử và gây tác động mạnh mẽ vào ý thức của đông đảo nhân dân. Năm
1902, khi thực dân Pháp tổ chức khánh thành cầu Long Biên, Phan Trọng Mưu viết
“Thăng Long hoài cổ” kêu gọi “rửa hận” cho non sông. Bài thơ được những người
đến xem hưởng ứng nhiệt liệt và lập tức được lưu truyền rộng rãi. Đầu năm 1905,
trong kỳ thi hương của tỉnh Bình Định, “Chí thành thông thánh” của Phan Châu
Trinh và “Cầu lương ngọc tất danh sơn” của Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng
dưới cái tên giả Đào Mộng Giác đã gây tác động mạnh và thức tỉnh biết bao người.
Lời kêu gọi giải tán trường thi từ hai tác phẩm ấy được các sĩ tử hưởng ứng sôi nổi
và sau đó rất nhanh, hai bài thơ được truyền bá lan rộng từ Bình Định ra các tỉnh
miền Trung và miền Bắc khiến nhà nước lo lắng tìm cách truy nã Đào Mộng Giác.
Lời thức tỉnh của anh họ Đào khiến nhiều người "không ngủ" được nữa. Khi đọc
các tác phẩm này, nhiều vị học giả tiến bộ đã đốt thi tập của mình. Tư tưởng “duy
tân đả cựu” được truyền bá rộng khắp. Cùng giai đoạn này tác phẩm “Á tế Á ca”
cũng gây ảnh hưởng sâu rộng trên toàn quốc. Bài thơ được viết bằng thể thơ song
thất, ngôn ngữ dân tộc, giọng điệu dạt dào cảm xúc nên dễ tác động đến tình cảm và
lý trí của người đọc. Tư tưởng tiến bộ của “Á tế Á ca” đã góp phần thuyết phục,
kích thích giới sĩ phu cả nước tập hợp lực lượng, thai nghén và hình thành những tổ
chức cách mạng.
Tiếp nối Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục là một hoạt động chính trị,
văn hóa mang tính chất cách mạng triệt để. Thơ văn Đông Kinh Nghĩa Thục được
truyền đi khắp nước, nêu cao tinh thần cải cách, duy tân và hình thành nên các tổ
chức cách mạng. Các nhà nho yêu nước đã phá vỡ quy củ "cao quý", "đóng kín"
vốn có của văn chương cổ và say sưa sáng tác những áng văn thơ tuyên truyền cổ
động. Thơ văn Đông Kinh Nghĩa Thục phản ánh sâu sát thực tế nên có sức mạnh đi
vào công chúng. Tư tưởng xông xáo, chịu ảnh hưởng tiến bộ của "Tân thư" khiến
tác phẩm của các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Chu Trinh… càng trở nên tự tin, táo bạo và thống thiết. Thơ văn giai
đoạn này cuồn cuộn như ngọn thủy triều, lan rộng và khuấy động đến cả những
vùng nông thôn xa xôi. Về ý nghĩa lịch sử, văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục đã kết
thúc nền văn học trung đại và mở đường cho văn học dân tộc bước vào thời đại
cách mạng mới.
Sau phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, nhiều chí sĩ yêu nước xuất dương
tìm đường cứu nước. Năm 1914, sau khi tiễn chân họ, Á Nam Trần Tuấn Khải viết
“Tiễn chân anh Khóa”. Ngay sau khi trình làng, bài thơ được truyền tụng rộng rãi,
gây ra phong trào ngâm sa mạc lan tràn từ Bắc chí Nam và kéo dài hàng nửa thế kỷ.
Trước sự tán thưởng nhiệt thành của công chúng, hai năm sau, Trần Tuấn Khải viết
thêm “Mong anh Khóa”, rồi “Anh Khóa 3”, “Anh Khóa 4”. Âm hưởng thơ vẫn đậm
đà lòng yêu nước khiến thực dân Pháp đã buộc phải thi hành một chính sách kiểm
duyệt chặt chẽ đối với các sáng tác của ông. Một số sách của Trần Tuấn Khải cũng
đã bị tịch thu và bản thân tác giả cũng có lần bị bắt giam. Giai đoạn này, thơ Trần
Tuấn Khải có sức tác động mạnh mẽ, có khả năng truyền cảm sâu xa đồng thời góp
vào dòng văn học yêu nước Việt Nam một tiếng nói kín đáo đầy tính nhân văn.
Sau quả bom vang dội của Phạm Hồng Thái, bài thơ “Chiêu hồn nước” của
Phạm Tất Đắc được nhà in Thanh niên ở Hà Nội bí mật in và phát hành. Trước sự
đàn áp dã man của thực dân Pháp và tay sai đối với các phong trào bãi khóa, bãi thị,
đình công..., Phạm Tất Đắc viết bài thơ để "chiêu hồn nước" về cho mọi người Việt
Nam, khuyên họ từ bỏ sự rụt rè do dự mà “hy sinh quyền lợi”, mà “mau mau nên trả
nợ nần non sông”. Bài thơ bám sát vào tình hình thời sự nóng bỏng và không ngại
bày tỏ thái độ kiên quyết làm cách mạng nên đã có sức tác động mạnh vào lòng
người. Âm điệu gần gũi quen thuộc của thể thơ song thất lục bát trong bài thơ càng
được công chúng thành thị yêu thích. Trước thái độ hưởng ứng nhiệt liệt đó, chính
quyền đương thời tăng cường kiểm soát gay gắt nhiều hoạt động chính trị khác.
Cuối năm 1930, nhà thơ bị bắt.
Hưởng ứng “Chiêu hồn nước” ở miền Bắc, trong Nam, Trần Hữu Độ viết
“Hồi trống tự do” khiến cho chính sự thêm phần nóng bỏng. Tiếp theo là những áng
văn thơ trên “Cái chuông rè” của Nguyễn An Ninh... Đanh thép, ngắn gọn và hùng
hồn, những tác phẩm này truyền cho quần chúng ngọn lửa của lòng yêu nước và
niềm tin vào tương lai đấu tranh của dân tộc.
Vào thời kỳ Mặt trận dân chủ, thơ văn trong tù đã bộc lộ lòng căm thù ngùn
ngụt, ý chí sắt đá và niềm tin mãnh liệt vào cách mạng. Nhiều bài thơ đã tập trung
tố cáo tội ác dã man và những âm mưu chia rẽ, mua chuộc của Pháp. Các nhà thơ
chiến sĩ Hồ Tùng Mậu, Trần Huy Liệu, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Đức Cảnh… đã để
lại nhiều bài thơ sôi sục bầu nhiệt huyết của những người sẵn lòng hy sinh cho Tổ
Quốc. Tập thơ "Từ ấy" của nhà thơ cộng sản trẻ tuổi Tố Hữu mang lại cho thơ Việt
Nam một ý thức cách mạng rõ rệt và một tinh thần chiến đấu quyết liệt. Tập thơ gợi
người ta nhớ đến chất hào tráng trong thơ văn Đông Kinh Nghĩa Thục thời trước đó,
cũng khiến người ta nhớ đến bầu nhiệt huyết sôi sục trong thơ Phan Bội Châu,
nhưng nó mãnh liệt hơn. "Từ ấy" cuồn cuộn tinh thần khao khát tự do, tinh thần xả
thân để làm cách mạng. Bản thân nhà thơ là tù nhân, từng nếm trải những phút giây
cận kề cái chết nên sức mạnh của những vần thơ càng như được tăng thêm, tác động
mạnh đến nhận thức của công chúng: "Sự sống đã phát sinh từ cái chết, Thì gian
nguy hiểm nạn có hề chi! Ta hãy là đoàn chiến hạm ra đi, Hùng dũng tiến, đạp
muôn đầu ngọn sóng, Tương lai đó, trước mặt ta, biển rộng, Trên đầu ta, lồng lộng
gió trời cao!" [60, tr.69]. Nhiệt huyết của tuổi trẻ, nhân sinh quan tiến bộ và ý thức
cách mạng của Tố Hữu đã tạo nên một "Từ ấy" mãnh liệt như sóng cồn, tưởng có
thể nhấn chìm mọi thế lực thù địch. Nhờ thế, nó đã lôi kéo nhiều thanh niên tiểu tư
sản ra khỏi những ý thức hệ bi quan, bế tắc, giúp họ nhận ra lý tưởng cách mạng,
kích thích lòng hăng hái say mê và kéo họ vào con đường tranh đấu. Đỉnh cao của
thơ nhà tù là "Nhật ký trong tù" - tiếng nói trầm tĩnh, khẳng khái của Hồ Chí Minh
với niềm tin mãnh liệt vào sự thành công của cách mạng Việt Nam, tiếng nói giàu
lòng nhân ái, lạc quan yêu đời của một vị lãnh tụ trong hoàn cảnh “Thân thể tại
ngục trung, Tinh thần tại ngục ngoại”. Nhà thơ cách mạng Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh, ngay từ những tác phẩm văn xuôi được viết khi chưa về nước, đã thật sự
xem sáng tác là một hoạt động đấu tranh chính trị, đã nhìn thấy sức mạnh tuyên
truyền của thơ văn. Với ông, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, vai trò
trách nhiệm của nhà thơ đối với dân tộc đã được khẳng định trực tiếp như một tuyên
ngôn: “Hiện tại thi trung ưng hữu thiết, Thi gia dã yếu hội xung phong” (Nay ở
trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong) [177, tr.199]. Tuyên ngôn
đó trở thành tuyên ngôn nghệ thuật của cả thời đại và được Người triệt để vận dụng
trong suốt cuộc đời cầm bút và hoạt động chính trị của mình. Toàn bộ thi phẩm của
Hồ Chí Minh chủ yếu được viết theo hai loại: thơ trữ tình và thơ ca tuyên truyền.
Thơ tuyên truyền lại có sức thuyết phục mạnh mẽ bởi hình thức giản dị, phong cách
linh hoạt, lời thơ trong sáng, phù hợp với tâm lý và trình độ của nhân dân lao động.
Vai trò to lớn của Hồ Chí Minh đối với thơ ca dân tộc không phải chỉ ở chỗ là một
nhà thơ lớn mà chính là ở chỗ tư tưởng của Người đã góp phần quan trọng trong
quá trình xây dựng nền thơ Việt Nam hiện đại.
Theo bước chân Người, trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đội ngũ
nhà thơ cách mạng Việt Nam trở thành những chiến sĩ trên cả hai mặt trận vũ trang
và văn hóa, tiếp tục dùng ngòi bút của mình để đấu tranh. Từ năm 1945, dưới đường
lối lãnh đạo của Đảng, thơ ca kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ “là một bước
tổng hợp giữa lãng mạn và hiện thực, trữ tình và anh hùng ca, cảm xúc và trí tuệ,
dân tộc và hiện đại” [31, tr.578] hình thành một nền thơ ca kháng chiến có sức tác
động lớn lao. Yêu cầu dành cho nhà thơ trước vận mệnh Tổ Quốc được xác định rõ:
cần phải hình thành một nền thơ có khả năng đấu tranh chính trị, cổ động tinh thần,
giác ngộ tư tưởng cho quần chúng nhân dân. Thơ phải là “tiếng hát át tiếng bom”,
phải hăng hái xông pha chiến trường. Từ đường lối đúng đắn đó, mỗi nhà thơ là một
chiến sĩ vót nhọn thơ thành chông, mài thơ thành kiếm sắc để viết nên những bài
thơ như viên đạn nhằm hướng quân thù, những bài thơ tươi như bông hoa cắm trên
mộ người đã khuất.
Trong dòng thơ kháng Pháp sau cách mạng tháng Tám, “Tây Tiến” của
Quang Dũng thuộc hàng những bài thơ độc đáo. "Tây Tiến" và Quang Dũng gắn bó
như được buộc ràng sẵn một sợi dây vô hình, ngay từ lúc trình làng cho đến tận
hôm nay, bài thơ vẫn giữ được sức hấp dẫn kỳ lạ. Ra đời trong những năm tháng
hào hùng, một môi trường sống và chiến đấu “không thể nào quên”, “Tây Tiến”
cuốn hút, ám ảnh người ta bởi “cái chất thơ dữ dằn và thật thi vị, thật dễ sợ cũng
thật dễ quyến, đanh sắc đến chói gắt lại dịu dàng đến mềm lòng” [96, tr.56]. Mặc dù
một số người có tư tưởng cứng nhắc phê phán tâm trạng buồn nhớ và những vất vả
thiếu thốn, những mệt mỏi, kiệt sức và chết chóc... là yếu đuối, khiến nhà thơ bao
phen lận đận nhưng đông đảo độc giả ngoài chiến trường và trong hậu phương đã
chuyền tay nhau chép, đã đọc cho nhau nghe và thích thú, say mê chất hào hoa, đa
tình mà gân guốc của “Tây Tiến”: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Da xanh
màu lá, dữ oai hùm… Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc
tr.76].
đời xanh, Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành"… [94,
Bài thơ "Bên kia sông Đuống” được Hoàng Cầm viết trong một đêm tháng 4
- 1948 cuồn cuộn cảm xúc: căm hờn, đớn đau, tiếc nuối vì quê hương bị giặc chiếm.
Đến cuối tháng 6-1948, báo Cứu Quốc đăng bài thơ này và từ năm 1949, bài thơ
được truyền vào Khu 3, Khu 4, rồi vào đến Nam Bộ. Từ Nam Bộ, "Bên kia sông
Đuống" ra cả Côn Đảo, vào các trại giam... “Bên kia sông Đuống” đã khơi dậy
trong nhân dân tình yêu quê hương sâu nặng, sắt son, là một trong những bài thơ nổi
tiếng thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Ở miền Nam, tại Sài Gòn, sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định
Gerneve được ký kết, “Một thế kỷ - mấy vần thơ” của Truy Phong được tuần báo
Tiến Thủ đăng trang trọng trên trang nhất gây xôn xao công chúng. Ngay khi cầm
trên tay bản thảo, cả tòa soạn đã "rùng mình" vì xúc động, họ đoán trước “bài thơ
này sẽ có giá trị gấp nhiều lần tờ Tiến Thủ của chúng ta” [Internet] và quyết định
đăng. Báo Tiến Thủ hôm ấy bán hết nhanh chóng, khắp Sài Gòn lao xao đọc thơ
Truy Phong: “Dầu ai cắt đất chia hai, Cho trong đau khổ, cho ngoài thở than, Dầu
ai banh ruột xé gan, Cho tim xa óc, cho nàng xa tôi, Thì anh hãy nhớ một lời, Ngày
mai thống nhứt liền đôi bến bờ...” [Internet]. Chỉ mấy ngày sau, tờ báo Tiến Thủ bị
những kẻ quá khích kéo đến đập thành đống gạch vụn, chính quyền Sài Gòn lập tức
ban hành lệnh rút giấy phép. Thế nhưng không sức mạnh nào ngăn kịp sức lan tỏa
mãnh liệt của bài thơ vào công chúng, giới học sinh, sinh viên chép tay, chuyền cho
nhau học thuộc, những người tù chính trị ngâm ngợi trong từng đêm dài, giữa
những đợt tra tấn. Rất nhiều hạt nhân của phong trào sinh viên học sinh sau này kể
rằng họ đã đến với phong trào lần đầu qua những vần thơ ấy. “Một thế kỷ - mấy vần
thơ” đã tạo thành một sự kiện văn học lớn, lan tỏa ra thành làn sóng đấu tranh mạnh
mẽ trong các giới sinh viên học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ.
Trước cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, Sài Gòn và cả miền Nam sôi
sục bầu không khí đấu tranh của những cuộc xuống đường, những đêm không ngủ,
tuyệt thực, bãi công. Nhiều người bị bắn, bị tù đày, biết bao mất mát hy sinh và
không ít những người trẻ tuổi bị mua chuộc, dụ dỗ. Trong hoàn cảnh đó, "không
một cây bút học sinh nào lúc đó khi viết lại nhằm mục đích định làm văn chương
(…), họ mong muốn thức tỉnh, tập hợp, tổ chức và biểu dương lực lượng thế hệ trẻ
để khi cần có thể đưa lực lượng đó vào cuộc đấu tranh chung" [127, tr.29]. Bấy giờ,
bài thơ “Thưa Mẹ, trái tim” của Trần Quang Long nhanh chóng trở thành tiếng kèn
xung trận, thành tiếng loa vang vọng đến mọi người. Bài thơ có sức lay động dữ dội
đến sinh viên học sinh và các đô thị miền Nam, bừng bừng như “những tia sáng sẵn
sàng bốc cháy”, nó vừa gieo lửa, vừa truyền lửa - ngọn lửa yêu nước, ngọn lửa sôi
sục đấu tranh. Nhiều sinh viên đã đi theo tiếng thơ ấy, họ “quyết định chọn con
đường thầy Long đã chọn: lên rừng. Thế đấy, thơ Long đã từng là ngọn đuốc soi
đường cho bao thế hệ thanh niên thời chống Mỹ” [103, tr.43]. Họ đã trích một số câu
để sử dụng như là khẩu hiệu hành động, là động lực, là bệ phóng để vượt qua mọi
khó khăn trên con đường tranh đấu: “Con sẽ vót nhọn thơ thành chông, Xuyên vào
gan lũ giặc, Con sẽ mài thơ như kiếm sắc, Chặt đầu văn nghệ tay sai” [103, tr.54].
Có thể khẳng định, thơ Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của văn
chương trong cuộc đấu tranh giữ nước và cũng tự hào giữ lại cho dân tộc những tên
tuổi lớn, những tác phẩm có giá trị. Chúng ta đã có nhiều tên tuổi đẹp như những
dấu son: Sóng Hồng, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Trần
Hữu Thung, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn
Khoa Điềm, Hoàng Trung Thông, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Trần Đăng Khoa,
Nguyễn Duy… Lớp nhà thơ trước cách mạng và lớp nhà thơ mới xuất hiện đã vai
kề vai tạo nên một diện mạo, một phẩm chất mới cho thơ. Ngoài những bài thơ đã
kể, vẫn còn nhiều những bài thơ khác ra đời trong những giai đoạn lịch sử khác
nhau cũng gây nên những “chấn động” cho người đọc. Nó khơi dậy trong họ niềm
căm phẫn, hâm nóng trong họ bầu nhiệt huyết, khơi thông trong họ nguồn sống mới,
niềm tin mới vào lý tưởng cao đẹp. Tinh thần ái quốc trong thơ đã tạo nên một sức
mạnh lớn thôi thúc nhân dân tìm đọc, nhờ vậy, thơ truyên truyền dù là loại “hàng
quốc cấm” nhưng vẫn được chuyền tay nhau từ khắp mọi miền. Không cần sách vở,
in ấn, tác phẩm vẫn đến với mọi người với một sức sống bền bỉ. Người ta cứ âm
thầm trao, âm thầm đọc với nỗi hân hoan xúc động, người ta đọc đến thuộc lòng,
ghi sâu vào ký ức, gặp nhau là truyền lại cho nhau nghe. Những bài thơ ấy chứa
đựng một bầu máu nóng sôi sùng sục, như kêu gọi, như dồn dục... khiến cho người
đọc người nghe cảm thấy rạo rực, thích thú và hưởng ứng. Tác dụng của nó nếu
không đẩy ta vào con đường hành động thì ít ra cũng thức tỉnh lòng kiên cường bất
khuất ở trong ta.
Vị thế nhà thơ trong thời đại mới mang lại cho họ một tầm nhìn mới, trao
cho họ cái quyền và trách nhiệm phải viết ra những điều mà mình nhận thấy, cần
thông tin tới ngàn vạn công chúng để góp phần xây dựng lại lòng tin, gợi lại tình
thân ái và cải tạo xã hội. Thực tế thơ ca Việt Nam cho thấy một niềm vui là hầu hết
các tài năng thơ đều có ý thức đúng đắn về vai trò của một nghệ sĩ đối với xã hội.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử, họ đã tụ hội lại thành những thời kỳ, những phong
trào thơ đấu tranh, tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Có thể khẳng định, chưa bao giờ thơ bị giam kín trong trang sách mà luôn vươn ra
cuộc sống bên ngoài để tác động mạnh mẽ vào độc giả. Thời gian đã chứng minh
rằng thơ Việt Nam có rất nhiều bài được lưu lại trong lịch sử văn học như những
dấu ấn khó phai nhạt trong lòng người bởi sức sống bền bỉ và sức tác động mạnh mẽ
của chúng.
1.2 Nguồn gốc khả năng tác động của thơ
Những ý nghĩa cao đẹp mà thơ ca mang đến cho xã hội như đã nêu trên
không chỉ được nảy sinh từ nhu cầu cấp bách của lịch sử mà còn từ chính ngay
trong bản chất của hoạt động sáng tác. Đời sống của một tác phẩm được tính từ tiền
đề xã hội với những yếu tố thuộc về thời đại, quê hương, gia đình - cho đến khi tác
phẩm đến với người đọc và được họ tiếp nhận thì chúng mới thật sự đi hết quy trình
tồn tại của mình. Những yếu tố thuộc về tiền đề xã hội thường góp phần hun đúc
nên những tài năng thơ, giúp họ ấp ủ và thai nghén ra những bài thơ phục vụ cho
cộng đồng mình đang sống. Thật ra, ý đồ phát khởi của nhà thơ ngay trong quá trình
sáng tác cũng đã hàm chứa cả ý thức tác động: khi tứ thơ chợt đến hoặc khi ngòi bút
viết ra từng dòng thơ trên giấy thì trong đầu nhà thơ cũng đồng thời hình dung ra
thái độ, phản ứng của người đọc về điều mình sắp diễn đạt. Điều đó đã trở thành
quy luật. Thậm chí ngay cả khi viết một bài thơ tình yêu, nhà thơ cũng hướng đến ít
nhất là một người cụ thể. Chưa kể đến nhiều trường hợp ý thức tác động hình thành
trong đầu nhà thơ trước khi tác phẩm thành hình. Hiện tượng này xuất hiện phần
nhiều ở các nhà thơ cách mạng – những người có ý thức đề cao mục đích cổ vũ,
tuyên truyền trong sáng tác.
Có thể khẳng định, một trong những bản chất quan trọng của thơ là khả
năng tác động mạnh mẽ của nó đối với đời sống tinh thần của con người. Khả năng
đó nằm ngay trong bản chất của thơ với tư cách là một hoạt động giao tiếp.
1.2.1 Thơ và hoạt động giao tiếp
Thơ vốn là một hình thức đối thoại trữ tình trực tiếp và không ngừng của
tr.117] thì ý nghĩa này cũng chính là một trong những thuộc tính thể loại quan trọng
nhà thơ với cuộc đời. Nếu nói rằng “nghệ thuật có ý nghĩa giao tiếp rất sâu sắc” [157,
nhất của thơ. Hoạt động sáng tác của nhà thơ bao hàm cả mục đích tìm tri âm, mong
muốn được chia sẻ hoặc giải tỏa một cảm xúc nào đó của nhà thơ đến độc giả. Cũng
như bao nhiêu người khác, nhà thơ cần trò chuyện, cần đối thoại với người xung
quanh, bên cạnh nhu cầu bộc lộ, giải bày tâm trạng để tìm sự giải thoát, nhà thơ còn
có nhu cầu được lắng nghe, được cảm thông. Bên cạnh những phương thức đối
thoại thông thường, nhà thơ còn đối thoại bằng nghệ thuật vì “ở mức cao hơn, nghệ
thuật là lời nhắn nhủ, yêu cầu sự chia sẻ của số đông, sự thông cảm của nhiều
người” [157, tr.10]. Một tác phẩm viết ra không chỉ là của một người dành cho một
người, mà còn cho cả cộng đồng, nó là một trong những phương tiện thể hiện mối
đồng cảm giữa con người với con người. Cần hiểu rằng thơ “không phải chỉ là tiếng
thì thầm, là lời nhắn gửi mà còn là tiếng nói của những tình cảm lớn, những tư
tưởng lớn, những quan niệm về cuộc sống, về con người” [157, tr.13]. Thật ra, sáng
tác và tiếp nhận là hai quá trình tương tác của hoạt động giao tiếp bằng nghệ thuật
theo cách “tác động qua lại giữa người viết và người đọc” [40, tr.140]. Bằng con
đường này, nhà thơ có thể giao tiếp với độc giả của mình và đó cũng là một nhu cầu
chính đáng trong mọi nhu cầu khác của hoạt động sáng tạo. Về phía người đọc, đời
sống tâm hồn phong phú của họ với những nhu cầu tiếp nhận đa dạng cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình sáng tác của nhà thơ, buộc nhà thơ phải sáng tác ra
những tác phẩm thật sự hữu ích. Hơn nữa, không dễ lường trước mọi số phận của
mỗi tác phẩm, không ai có thể chắc chắn rằng một bài thơ nào đó sẽ được công
chúng nhiệt liệt hưởng ứng, hoặc khi đã hưởng ứng lần này thì sẽ hưởng ứng những
lần sau và chính sự không chắc chắn này "cho phép mọi khả năng kết hợp giữa tác
phẩm và người đọc, từ chán ghét cho đến tôn sùng; nó cho phép số phận tác phẩm
tham gia vào những thất thường, say mê và thay đổi trong đời tư của mỗi người",
cho nên, cũng có "những người yêu thơ đến mức phát ghen và rất đau khổ khi có
người cũng cùng yêu một tác phẩm" [167, tr.28].
Trong mối quan hệ giữa người đọc và người viết, bắt đầu từ biết đến hiểu,
từ hiểu sâu sắc đến hiểu tuyệt đối, mức độ đó gọi là tri âm. Tri âm là một quan niệm
thuộc về lý thuyết tiếp nhận, nhưng tri âm cũng là nhu cầu đáng kể của nhà thơ
trong quá trình sáng tác, vì ngay từ trong nguồn cội, thơ chính là sự đồng điệu tự
nhiên, mật thiết giữa nhà thơ và người đọc. "Đốt cháy mình trong ngọn lửa sáng tạo,
người viết chỉ hướng đến mục đích duy nhất là giá trị tư tưởng – nghệ thuật của tác
phẩm" [111, tr.141], chỉ muốn ai đó sẽ đọc thơ mình, sẽ hiểu những suy nghĩ của
mình và đồng cảm với những nỗi niềm đang dào dạt trong lòng mình. Bao giờ cũng
vậy, nhu cầu hướng đến độc giả trở thành nhu cầu thường trực trong lòng mỗi nhà
thơ. Cho nên, Raphaen Anbecti - nhà thơ nổi tiếng của Tây Ban Nha từng mong có
một thứ “thơ đường phố”, còn Cơlôđê Côlinhông thì mong có một “thi pháp tiếng
kêu”. Khi sáng tạo ra một bài thơ, nhà thơ như đẻ cho mình một đứa con tinh thần
đồng thời cũng mang đến cho loài người một giá trị tinh thần, bài thơ ấy là tiếng nói
của quần chúng và vì quần chúng. Không phải tự bản thân nhà thơ truyền bài thơ ấy
đi, không chỉ mỗi một mình nhà thơ hiểu mà chính độc giả là những người tiếp
nhận, lưu giữ truyền tụng thơ anh khiến thơ trở thành tiếng nói chung của nhiều trái
tim đồng điệu, trở thành tài sản chung của nhân loại. Một nhà thơ Phương Tây đã
[56, tr 26]. Điều đó khiến ta liên tưởng thơ như là những con thuyền chở tâm hồn của
viết: “Một giọt nước hòa muôn giọt nước, Sẽ biến thành biển nước mênh mông”...
một người đến với muôn người, rồi thơ lại cũng như những cánh chim bằng, chở tất
cả mọi người những đến chân trời mới lạ. Nơi đó, họ sẽ được gặp nhau.
Về phía nhà thơ, tâm thế đối thoại với độc giả có khi là những trực cảm bất
chợt nhưng cũng có khi là những suy niệm từ trong chiều sâu văn hóa mà nhà thơ
đã tích lũy. Trước mỗi cơn đau của tâm hồn mình hoặc của người đời, thơ viết ra lại
càng nồng nàn, đau đáu yêu thương. Sự phức hợp nhiều chiều của cuộc sống kéo
nhà thơ đến những biên độ tinh vi của cảm giác, di dịch theo khoảng không gian khi
thì hạn hẹp khi lại rộng lớn không cùng, theo chiều thời gian của những sớm nắng
chiều mưa, của những sợi tóc xanh dần dần hóa bạc, của những vầng trán đếm thời
gian bằng những nếp ưu tư... Rất phong phú, rất đa dạng. Nhưng miễn làm sao mà
thơ của họ không hề xa lạ với con người, vẫn có đủ sức mạnh để hích vào cuộc đời,
vào lòng người những suy tư da diết và thăm thẳm về cuộc sống. Có thể khẳng định
rằng, từ xưa nay thơ chưa bao giờ xa lạ với con người, thơ luôn được người đọc đón
nhận. Có thể đời sống của mỗi bài thơ khác nhau về độ dài ngắn theo thời gian,
khác nhau về mức độ nồng nhiệt hưởng ứng của công chúng khi chào đời nhưng
những nhà thơ chân chính bao giờ cũng hướng về độc giả với nhu cầu được giao
tiếp, được đón nhận và niềm khắc khoải tìm một mối tri âm.
Bên cạnh ý nghĩa chủ quan, tác phẩm còn có ý nghĩa khách quan khi phải
rời tác giả để đến với độc giả trong khi độc giả còn phải chịu sự chi phối của nhiều
hệ tư tưởng khác nhau khiến cho mọi sự áp đặt chủ quan của nhà thơ không thể là
yếu tố quan trọng nhất để thuyết phục được độc giả. Nói như vậy không phải để phủ
nhận khả năng tác động của thơ mà là để hiểu thêm rằng nếu muốn tác động vào
người đọc, thơ phải có quy luật riêng của nó. Đâu có phải ngẫu nhiên mà một bài
thơ có sức mạnh lay động tâm hồn người đọc, nó có một nguyên nhân sâu xa mà lý
luận văn học gọi là tiền đề xã hội. Xúc cảm của nhà thơ, nội dung và nghệ thuật của
bài thơ là những yếu tố không nhỏ góp phần làm tạo nên chất lửa, thắp sáng nhận
thức người đọc và thôi thúc trái tim họ. Một khi tác phẩm non yếu, thiếu khả năng
thuyết phục thì dù người đọc có tiếp xúc tác phẩm cũng không bị ảnh hưởng gì. Vì
vậy, khi đặt ngòi bút xuống trang giấy trắng, các nhà thơ thường tự vấn: “viết cho
ai", "viết để làm gì", "viết như thế nào". Ngày xưa Đỗ Phủ cho rằng nhà thơ cần có
thái độ nghiêm túc, khổ luyện “Sách đọc vỡ muôn quyển, Hạ bút như có thần” để
đạt đến bút lực mà người đọc "Đọc chẳng kinh người, chẳng chịu thôi” [184, tr.528].
Nói như Chế Lan Viên, khi nhà thơ có được ý thức sâu sắc rằng thơ muốn làm
người khác khóc, trước tiên mình phải khóc; muốn cho người khác cười trước hết
mình phải cười, thì thiết nghĩ, họ đã đạt đến một nửa của sự thành công trên con
đường nghệ thuật.
Vậy mà chúng ta đã thường có thói quen nghĩ về lý luận sáng tác thơ văn
nhiều hơn là nghĩ đến đời sống của tác phẩm sau khi nó rời khỏi bàn viết của nhà
thơ để đến với người đọc. Thực tế thì hai mặt ấy song hành nhau trong đời sống của
văn học, một tác phẩm được viết ra cũng là để cho người đọc thưởng thức, tiếp
nhận. Nói như các quan hệ xã hội khác, quan hệ giữa nhà thơ và công chúng là quan
hệ cung và cầu, và sản phẩm trao đổi thuộc về lĩnh vực tinh thần: bài thơ. Không thể
có thơ khi không có nhà thơ, nhưng thơ sẽ không có giá trị nếu không được độc giả
tiếp nhận, bài thơ là chiếc cầu nối giữa thi nhân và độc giả, giúp họ đến gần nhau
hơn và cùng hướng về những giá trị nhân văn. Điều đó hiển nhiên vì rằng qua
những những biến cố thăng trầm trong xã hội, người ta vẫn làm thơ và thơ vẫn được
tiếp nhận, thơ không hề vắng bóng trong đời sống tinh thần của con người.
Đã và đang có ý kiến thừa nhận sáng tạo và tiếp nhận văn học là một trong
hai vấn đề cốt lõi của văn học khiến người ta đi đến những quan niệm thấu đáo hơn.
H. R. Jauss khẳng định: "Sự đổi mới văn học sử đòi hỏi chúng ta phải vứt bỏ những
định kiến của chủ nghĩa khách quan lịch sử, xây dựng mỹ học sáng tạo và mô tả
truyền thống thành mỹ học tiếp nhận và tác động" [62, tr.86]. M. B. Khrapchenko thì
cho rằng "đặc điểm quan trọng nhất của những tác phẩm văn học và nghệ thuật có
giá trị là ở chỗ chúng không chỉ bao hàm những đặc điểm của thời đại đã làm chúng
xuất hiện mà còn có sự liên hệ sinh động với những thời đại tiếp sau" [67, tr.289], và
ông cho rằng khi nghiên cứu cuộc sống của tác phẩm, cần phải chú ý đến những
hình thức tiếp nhận khác nhau của độc giả đối với chúng. Ở Việt Nam, nhiều nhà
nghiên cứu lý luận cũng quan tâm đến vấn đề tiếp nhận thơ ca. Nguyễn Văn Hạnh,
Huỳnh Vân, Lê Ngọc Trà, Trương Đăng Dung, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Văn
Dân… lần lượt soạn dịch hoặc trình bày những kiến giải của mình về các công trình
thuộc lý thuyết tiếp nhận của các trường phái lý luận ở phương Tây. Trong thực tế,
tiếp nhận chiếm một phần căn bản trong hoạt động giao tiếp văn học và bản thân
"sự sáng tạo là linh hồn của tính năng động tiếp nhận" [26, tr.201], hai hoạt động ấy
gắn bó và ảnh hưởng đến nhau mật thiết.
Với nhà thơ, “thơ ca giống như tình yêu. Tình yêu bị chúa trời chia làm đôi,
và con người luôn phải khắc khoải đi tìm cái nửa còn lại của đời mình..., đó là sự
tìm nhau và giao cảm không ngừng giữa người viết và bạn đọc. Đó là bản chất và
cuộc sống vĩnh cửu của thơ" [159, tr.26]. Ít nhà thơ nói rằng “tôi viết cho tôi”, và
nhiều nhà thơ vẫn xem nhu cầu được tri âm là điều quan trọng. Nguyễn Du là một
trường hợp cụ thể. Cả cuộc đời viết thơ “bằng máu” và “nước mắt" (chữ dùng của
Mộng Liên Đường), rốt cuộc, điều mà ông vẫn khắc khoải đến cuối cuộc đời là “Bất
tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” [23, tr.160]. Trong thực
tế, khi sáng tác, nhà thơ thường vận dụng năng lực đồng cảm của mình để kéo
người khác đồng cảm với mình, và khi ấy thơ trở thành những sợi dây tình cảm ràng
buộc mọi người. Thơ là nơi nhà thơ chia sẻ cho nhân loại những nhận thức mới mẻ
về cuộc sống, là nơi lan truyền từ người này sang người khác những xúc cảm yêu
thương, trong sáng, lành mạnh. Thơ không chỉ tri âm với tâm trạng mà thơ còn tri
âm với cái đẹp. Cái đẹp trong thơ không chỉ bắt nguồn từ thiên nhiên, từ hiện thực
cuộc sống xung quanh ta mà cái đẹp còn khởi thủy từ trong hồn người nghệ sĩ.
Nhưng cái đẹp ấy vẫn mới chỉ là một nửa, nó tồn tại ở trạng thái khao khát và khắc
khoải được tìm đến với một nửa còn lại trong tâm hồn độc giả. Thông qua lăng kính
sáng tạo của nhà thơ, người đọc thêm một lần được nhìn thấy cái đẹp trong cuộc đời
ở góc độ khác. Trong ý nghĩa này, nhà thơ là người có công tạo nên một thế giới
tinh thần lung linh kỳ diệu, đem lại cho con người niềm hứng khởi mỗi khi được
chiêm ngưỡng. Giữa hai niềm hạnh phúc cho và nhận, nhà thơ chọn hạnh phúc được
cho đi, nhưng nếu một bài thơ được viết ra mà không ai đọc, không ai hiểu thì khác
nào một đóa hoa nở trong bụi rậm, khác nào một tiếng chim hót giữa rừng hoang.
Xưa Bá Nha đã đập vỡ cây đàn khi biết Chung Tử Kỳ đã chết, Nguyễn Khuyến than
thở: “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai, ai biết mà đưa?” [186, tr.376] khi
Dương Khuê lìa trần cũng vì họ cần một tri kỷ, tri âm.
Tuy về phía lý luận tiếp nhận, chúng ta thấy rằng tri âm là một quan niệm lý
tưởng, tuyệt đối hóa vấn đề. Tri âm yêu cầu người đọc phải có năng lực cảm và hiểu
cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như chính sự cảm nhận của tác giả, có nghĩa
là tiếp nhận hết những điều tác giả muốn gửi gấm thông qua hình tượng nghệ thuật.
Thế nên người đọc tri âm là một chuyện rất hiếm hoi. Nhưng về phía lý luận sáng
tác, tri âm vẫn là một trạng thái, một nhu cầu phổ biến, không hề bị giảm đi. Nhà
thơ vẫn sáng tác trong tâm thế khao khát tri âm, khao khát được người đọc lắng
nghe, hiểu và chia sẻ với mình. Thường trực trong nhà thơ là nhu cầu tự thể hiện
mình để giao cảm với đời, với thế giới, với cuộc sống hiện tại và với muôn đời sau.
Nhiều nhà thơ, đôi lúc cũng muốn làm cho thơ mình lớn lên bằng cách cố gắng viết
thật nhiều. Nhưng thơ lớn hay không, trước hết là do tấm lòng và sự suy nghĩ của
nhà thơ có bao hàm được tấm lòng và sự suy nghĩ của thật nhiều người hay không,
chứ không phải cứ viết nhiều thì trở thành nhà thơ lớn. Không thể gượng ép mình
và cũng không thể gượng ép người. Làm thơ đã khó mà làm thơ hay để có được tri
âm càng không dễ chút nào, cảm xúc của mình không thật “chín”, lý tưởng của
mình chưa thật “say” thì không thể được độc giả chấp nhận, huống chi mong cầu
một mối tri âm. Nhà thơ cần phải viết khi không còn đủ sức kiềm giữ hoặc không
còn muốn kiềm giữ những xúc cảm, những ý tưởng của riêng mình, những bí mật
của hồn mình, ấy là lúc thơ bật ra như một nhu cầu chia sẻ tuyệt vời nhất, nó cứu thi
nhân thoát khỏi trạng thái cô đơn.
Tóm lại, nếu quy luật của cuộc sống là đi từ đơn giản đến phong phú, từ lạc
hậu đến văn minh, từ thấp đến cao thì quy luật của nghệ thuật là đi từ trái tim một
người đến trái tim người khác rồi hòa vào nhịp đập của muôn người. Ý thức về cuộc
sống càng tinh nhạy càng giúp cho nhà thơ có thêm nhiều cảm hứng sáng tạo, đồng
thời thơ anh cũng nói hộ được cho đông đảo độc giả những số phận éo le, những nỗi
niềm cay đắng mà họ phải gánh chịu. Càng nói được cho nhiều người, anh càng đến
được với nhiều người, là anh đã "mở tâm hồn mình ra", "vươn tới sự đồng cảm với
tha nhân" [40, tr.140]. Bàn về số phận của thơ, có người cho rằng thơ hay tựa như một
chú chim trời tự do, có thể bay khỏi cành cây về một phương vô định với muôn vàn
độc giả. Ở phương xa đó, nó sẽ có một cuộc sống mới, với những điều tốt đẹp, với
những sự hưởng ứng nồng nhiệt của mọi người. Điều đó cũng lý giải nguyên nhân
vì sao mà dân gian ta lại có sở thích "bói Kiều", mặc dù Truyện Kiều có đến 1348
câu thơ lục bát. Dù xã hội ngày nay có tân tiến, khoa học kỹ thuật tinh vi đến thế
nào cũng không thể giết chết thơ ca, như lời nhà thơ Hainơ từng nói: “Xã hội tương
lai là bánh mì, hoa hồng và thơ ca”. Những khi bị gió bụi cuộc đời xô đẩy khiến trái
tim mỏi mệt, trí nghĩ mất thăng bằng, chênh chao, đuối sức thì người ta đã tìm đến
thơ như một chỗ dựa bình yên nhất trong tâm hồn: “Có những phút ngã lòng, Tôi
vịn câu thơ mà đứng dậy”.
1.2.2 Tiếng thơ là tiếng gọi
Marx đã nói: "Triết học cũng như các khoa học xã hội khác không chỉ giải
thích thế giới, mà còn cải tạo thế giới" [162, tr.185]. Nguyên lý đó rất quan trọng đối
với thơ ca.
Như một nhiệm vụ quan trọng mà lịch sử đã giao phó, nghệ thuật nói chung
và thơ, văn nói riêng hiển nhiên trở thành phương tiện để biểu hiện một cách có ý
thức thái độ, cảm xúc của con người trước những biến thái của cuộc sống. Nếu mọi
nhận thức và phản ánh của nhà thơ không nhằm đến mục đích cải tạo cuộc sống thì
thơ cũng trở thành vô nghĩa. Từ xưa, Horace đã quan tâm đến mục đích xã hội của
tác phẩm, ông cho rằng một tác phẩm không chỉ cần phải đẹp, không chỉ cần phải
hay, mà cốt yếu là “cần có ma lực nữa, cần lay động tâm linh của bạn đọc theo
mong muốn của tác giả” [93, tập 2, tr.484]. Muốn được như vậy, nhà thơ phải hướng
đến độc giả với niềm ưu ái và sáng tác trong tâm thế làm sao cho thơ đến với mọi
người, sống lâu bền trong lòng mọi người, tác động và tập hợp mọi người. Mặc dù
xã hội loài người trải qua nhiều hệ tư tưởng khác nhau, nhưng ý nghĩa tác động của
thơ vẫn không thay đổi. Thơ ca của các nhà truyền giáo, thơ của các vị vua chúa,
tướng lĩnh, thơ của những vị Nho sĩ tiết tháo và cho đến thơ của các nhà thơ cách
mạng… đều rất giàu âm vang, đều có khả năng thu phục lòng dân, tập hợp mọi
người. Sức mạnh đó được truyền đi theo con đường từ trái tim một người đến trái
tim của muôn người; nó không khiên cưỡng, ép buộc theo kiểu các luật lệ hà khắc
mà nó động viên, thuyết phục, kêu gọi, giúp người ta "sáng tâm", "sáng trí" mà tự
nguyện nghe theo, làm theo. Đại thi hào Goethe cũng cho rằng “Thơ phải làm sao
cho: nghĩ thì thấy sâu xa, nghe thì xúc động” [185, tập 2, tr.1344]. Cái sâu xa của thơ
góp phần nâng cao tầm nhận thức, tư tưởng của độc giả; và cái "xúc động" của thơ
khiến người ta mê say, yêu thích. Từ tư duy lý tính đến tư duy cảm tính, từ những ý
tưởng tiến bộ trong trang viết đến những hành động cụ thể ngoài cuộc đời, thơ đã đi
qua một chặng đường dài, một hành trình trọn vẹn và hoàn thành sứ mệnh cao cả
của mình đối với con người. Từ lâu, thơ đã đường hoàng sánh vai với những hình
thái ý thức khác trong xã hội trong vai trò cải tạo thế giới.
Trên thực tế, mặc dù đã có một thời gian, người ta coi thơ ca là món “trà dư
tửu hậu" nhưng xã hội hôm nay đã thay đổi, nhịp sống văn minh năng động khiến
nhu cầu thưởng thức nghệ thuật càng khắt khe hơn vì vậy thơ càng cần những người
viết thật sự mạnh mẽ, những người chấp nhận dấn thân, chấp nhận hy sinh. Nhiệm
vụ cổ vũ, bênh vực, lên án, đả kích hình thành trong tâm thức người viết ý thức tác
động đến độc giả mạnh mẽ hơn nên nhiều nhà thơ đã không còn ngần ngại bày tỏ tư
tưởng, thái độ của mình khi sáng tác. Nhà thơ trong thời đại mới đã dám mạnh dạn
bộc bạch tâm sự, bày tỏ thái độ của mình đối với cuộc đời, dám mạnh dạn động
viên, kêu gọi người đọc hướng đến những lý tưởng cao đẹp, vì lợi ích của cộng
đồng. Bằng những hành động đó, họ đã trực tiếp nâng thơ lên một tầm cao mới: tác
động đến công chúng, kêu gọi công chúng đi theo những lý tưởng cao cả của dân
tộc. Tiếng thơ không chỉ là tiếng lòng, tiếng buồn thương cho thân phận con người
mà tiếng thơ - với sức mạnh vốn có của nó, còn là tiếng chim gọi đàn, là tiếng kèn
tập hợp, là tiếng trống thúc quân.
Bàn về sức mạnh của văn chương, Lê Ngọc Trà từng nhấn mạnh khả năng
"giáo dục", "tác động" và "cải tạo thế giới" của chúng. Theo ông, "khả năng tác
động của nghệ thuật rất lớn” và từ lâu nó đã “trở thành một phương tiện tác động
quan trọng và có hiệu quả” [157, tr.107, 109, 111]. Từ cái nhìn sâu sắc về bản chất của
văn học và đặc trưng sáng tạo của người nghệ sĩ, quan niệm “tác động” của Lê
Ngọc Trà mở ra nhiều chiều: văn học tác động đến người đọc theo con đường từ trái
tim đến trái tim, bằng tiếng nói nhẹ nhàng và sự rung động mãnh liệt trong tâm hồn
người cầm bút. Theo cách đó, những “quan niệm sống, quan niệm triết học về xã
hội và tự nhiên, những chính kiến của con người” [157, tr.107] được truyền đi, lây lan
trong mênh mông biển người. Như vậy là tác động tuyên truyền bằng nghệ thuật, là
sự hòa hợp mà không làm nhòe đi trong nhau tính nghệ thuật và chức năng xã hội
của tác phẩm. Trên thực tế thì thông qua hình thức nghệ thuật, thông qua các vẻ đẹp
và sức mạnh vốn có của nghệ thuật, thơ có khả năng gợi ra những tiềm lực trong đời
sống tinh thần, kích thích sức mạnh ở các tình cảm và khiến nguồn đam mê của con
người thêm cuồng nhiệt hơn. Tiếng gọi của thơ cao đẹp và thiêng liêng, khiến công
chúng vì yêu mà làm, vì ngưỡng mộ mà nghe. Trong hành động của họ, ta thấy có
sự kết hợp giữa lý trí và cảm xúc, giữa nhận thức lý tưởng và say mê lý tưởng, giữa
phục tùng lời hiệu triệu và yêu thương người cất lời hiệu triệu…
Thơ hiệu triệu, kêu gọi, tập hợp nhưng trước hết, thơ phải là thơ. Tác động
bằng thơ khác với kiểu tuyên truyền áp phích, cũng khác với sự cưỡng chế của pháp
luật. Đã qua rồi cái thời nhân dân dốt chữ nên nhà thơ không thể viết ra vần ra điệu
một ý tưởng, một tuyên bố nào đó rồi muốn người khác nghe theo mình. Bây giờ,
nói đến thơ, người ta nghĩ ngay đến cái đẹp - cái đẹp của tâm hồn con người bộc
bạch qua những ngôn từ đẹp. Thơ là miền đất của cái đẹp, của tài năng, thơ chứa
đựng những khát vọng cao cả của loài người. Khi người ta nói “rất thơ”, “rất nên
thơ” có nghĩa là người ta đang cảm nhận một sự vật, một hiện tượng nào đó đẹp, hài
hòa, dịu dàng và mang lại cho họ cảm giác dễ chịu, sung sướng. Như vậy, vô hình
chung chúng ta ngày càng khẳng định vững chắc yêu cầu cái đẹp như một thuộc
tính của thơ. Những giá trị nhân văn và sức hấp dẫn từ trong đặc trưng thể loại đã
biến thơ thành những trận cuồng phong tư tưởng khi gặp phải những vướng vấp của
chính trị, xã hội. Khi được lịch sử trao nhiệm vụ, nhà thơ lập tức trở thành những
chiến sĩ tiên phong và tiếng thơ của họ cũng trở thành những lời tâm huyết tràn đầy
nghĩa khí, dẫn đường cho nhân dân bước theo. “Một nhà thơ trữ tình lớn phải nói
tr.484]. Một tiếng thơ có ý nghĩa phải hướng đến những lý tưởng đẹp, những tình
lên được nguyện vọng của quần chúng, phải là phát ngôn nhân của thời đại” [30,
cảm trong sáng, thiêng liêng, phải khiến cho lòng người hoặc phấn chấn, hoặc cảm
phục, yêu thương. So với các loại hình nghệ thuật khác, thơ ca là một nghệ thuật có
khả năng kích thích sức tưởng tượng một cách mạnh mẽ nhất, và tác động mạnh mẽ
nhất đến độc giả. Thơ có khả năng “vừa khơi gợi khoái cảm, mở mang trí tuệ, dạy
khôn con người, vừa thức tỉnh lương tri, dạy con người biết yêu thương, căm
[91, tr.221] và thật sự đã “tác động mạnh mẽ… khi nhà thơ lấy tư cách công dân cổ
giận…” [125, tr.216], thơ “tác động vào đời sống tinh thần lý trí, tình cảm con người”
vũ và ca ngợi, lên án và đấu tranh” [91, tr.364].
Cao hơn một mức so với nhu cầu tri âm, nhu cầu tác động của nhà thơ thể
hiện ý nghĩa của thơ ca đối với xã hội, ý nghĩa của tài năng đối với nhân loại. Nó
không bó hẹp trong phạm vi được hiểu, được nghe mà còn vươn tới việc nâng cao
cuộc sống lên một tầm cao mới, tùy vào điều kiện và yêu cầu cụ thể của môi trường,
của dân tộc. Mỗi một nhà thơ có những sở trường và ý tưởng khác nhau nhưng họ
cùng có được trong tay mình một công cụ đắc lực để góp phần vào bước tiến của xã
hội. Bên cạnh đó, thơ có ý nghĩa hay không, độc giả có thái độ tiếp nhận thơ như
thế nào còn phụ thuộc vào thái độ của nhà thơ trong tác phẩm. Bởi vì, khi đọc thơ
anh, độc giả sẽ cảm nhận được thái độ của anh đối với cuộc đời. Nếu anh nhỏ vào
thơ một giọt mực hằn học thì anh sẽ nhận thấy nơi độc giả nỗi thờ ơ hoặc khinh bỉ;
còn khi anh trân trọng cài lên thơ mình một đóa tin yêu, anh sẽ nhận lại sự nồng
nhiệt tin yêu nơi độc giả. Khi ấy, người ta sẽ theo anh, sẽ nghe anh vì lý tưởng trong
thơ anh có sức thuyết phục họ, cuốn họ đi. Những nhà thơ Phan Bội Châu, Hồ Chí
Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu… đã làm được điều này cho thơ họ và cho dân tộc ta.
Thơ của họ đã vực nhân dân vươn lên những lẽ sống cao đẹp, gọi nhân dân đứng
lên chiến đấu vì nền hòa bình, độc lập, tự do.
Những nhà thơ có tâm, có tài luôn ý thức rõ rằng thơ có sức mạnh khiến
người ta say mê, nó "bắt làm nô lệ, làm cho mê mẩn và làm một cách kín đáo,
nhưng với sức mạnh không gì sánh nổi nâng cao con người, đưa nó tới gần trạng
thái khi con người thực sự trở thành vật tô điểm cho trái đất" [113, tr.352]. Những
nhận thức sâu sắc về cuộc sống và những thành bại, vinh quang, tủi nhục của thời
đại mình khiến tiếng thơ của những nhà thơ lớn giàu ý nghĩa nhân sinh và có khả
năng gọi đàn mạnh mẽ hơn. Lịch sử thơ ca Việt Nam từ mấy ngàn năm nay trải qua
những tên tuổi lớn: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình
Chiểu, Hồ Chí Minh, Tố Hữu... đã chứng minh cho ta rõ điều đó. Họ tự hiểu rằng
phải dẫn thơ đi đến tận cái đích cuối cùng, phải truyền cho thơ một sức mạnh để thơ
nâng cuộc sống lên, để động viên con người không ngừng đấu tranh, lao động và
hòa nhịp cùng xã hội. Họ tự hiểu trọng trách của người nghệ sĩ đối với nền văn hóa
của dân tộc và phấn đấu sáng tạo nên những tác phẩm có sức tác động vào công
chúng mạnh mẽ như những tiếng gọi đàn. Vì vậy tiếng gọi của thơ càng phải vang
vọng mà cũng càng phải bền bỉ. Bởi lẽ, “ngoài việc tác động vào lòng người như
một sức mạnh vật chất, thơ còn có tác dụng lưu giữ những biến động của đất nước,
những buồn vui lo nghĩ, những niềm tin và hy vọng của dân tộc trong từng giai
đoạn và cả một thời” [35, tr.54]. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc,
nhiều nhà thơ dù trực tiếp bị gông cùm, nhiều người cầm súng lăn lộn giữa chiến
trường, nhiều người ở miền Bắc ngóng tin Nam đau như đứt từng đoạn ruột…
nhưng họ vẫn can trường dấn thân. Họ đi vào cuộc chiến, ngày cầm súng với chiến
sĩ hoặc cầm cuốc với nhân dân rồi đêm về thao thức với thơ. Sáng tác và kêu gọi đã
trở thành vấn đề máu thịt của nhà thơ như người nông dân sống chết trên thửa ruộng
cày của họ. Nhà thơ miệt mài "cày" trên trang giấy bằng tài năng, trí tuệ và tất cả
các cung bậc tình cảm sôi sục trong lòng họ: yêu thương - căm thù, buồn - vui, sum
họp - chia xa, hi sinh, mất mát... Và khi những con người đầy ắp lý tưởng ấy quyết
tr.148] thì lý tưởng của họ thắp sáng lòng nhân dân, nỗi đau của họ hòa cùng nỗi đau
tâm “nói ra bằng lời, bằng nhạc, bằng thơ... những điều cảm nhận về thế giới” [41,
dân tộc làm nên những tiếng thơ vang vọng tận đáy lòng người. Những cảm nhận
sâu xa, mãnh liệt ấy sẽ trở thành những bức thông điệp kỳ diệu đối với mọi người
và có ý nghĩa lớn lao đối với xã hội. Chính ý thức đó đã giúp các nhà thơ sáng tác
những bài thơ giục giã, tác động đến đông đảo đồng bào, vực họ đứng lên, cuốn họ
theo mình. Với những hành động thực tiễn ấy, họ xứng đáng vinh danh những nhà
thơ cách mạng, thơ của họ xứng đáng là những tiếng gọi đàn.
Trước trọng trách mà xã hội dành riêng cho những người làm nghệ thuật,
hơn bao giờ hết, nhà thơ càng hiểu rõ ý nghĩa của thơ và có thái độ lao động tích
cực hơn vì thơ. Hiện nay, khi cái bóng của chiến tranh đã nhòa dần vào quá khứ, xã
hội phát triển, trình độ văn hóa của mỗi dân tộc càng ngày càng được nâng cao lên
thì trình độ thẩm mỹ của công chúng dĩ nhiên cũng cao hơn. Điều đó buộc nhà thơ
phải có năng lực cảm nhận nhạy bén và tinh tế trước cuộc sống muôn sắc muôn
màu, phải thu vào tinh vi và phát ra thành thơ cũng phải thật ấn tượng. Có như vậy,
"tần số phát sóng" của thơ mới cao hơn và tìm thấy sự cộng hưởng nhiều hơn ở tâm
hồn đông đảo bạn đọc. Trước nhu cầu của xã hội, nhà thơ cần đem thơ mình "góp
phần phát hiện và bảo vệ chân lý, giữ cho ngọn lửa lương tâm của mỗi con người
không những không bị lụi tắt mà càng chói sáng lên ngay trong những cơn cuồng
phong dữ dội nhất của lịch sử” [117, tr.7], để thơ luôn vững bước trước những biến
động của lịch sử và trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho nhân dân.
Một tác phẩm ra đời, đến tay người đọc thì không còn là của riêng nhà thơ,
dù họ vẫn phải chịu trách nhiệm về những khả năng tác động mà tác phẩm gây ra.
Với nhà thơ, một bài thơ thành công phải làm xúc động lòng người, hướng họ đến
những gì thanh cao hoặc kéo họ ra khỏi những gì xấu xa thấp hèn thông qua việc thể
hiện những tình cảm lớn, mở ra những vinh quang, kích thích những hân hoan trong
trái tim họ. Ý nghĩa và mức độ tác động của thơ còn tùy thuộc vào năng lực nhận
thức thế giới, quan điểm, lập trường của người viết, đó có thể là tiếng nói đồng điệu
với tư tưởng thời đại, nhưng cũng có thể là những tiếng nói lạc nhịp. Trong tất cả
các yếu tố tạo nên một tác phẩm thơ: ngôn ngữ, nhạc điệu, ý tứ... thì cái lắng đọng
lại trong tâm trí người đọc chính là cái “tình” của người viết. Cái tình - cái cảm xúc
của người viết thật sự chân thành sẽ có đủ sức lay động trái tim người đọc. Mỗi “bài
thơ là một sợi dây truyền tình cảm cho người đọc” [145, tr.3], tuy nhiên, thơ còn
khiến người ta say mê bằng sự mẫn tiệp của trí tuệ, của chiều sâu suy tưởng. Những
vần thơ được hun đúc nên từ những trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ từ tình yêu Tổ
Quốc, từ lẽ tồn vong của dân tộc và cả những mất mát chia lìa của tình yêu lứa đôi
thường mang lại cho độc giả niềm hân hoan, lòng ngưỡng mộ và xúc động sâu xa
khi thưởng thức. Cũng chính vì thế mà ta thấy, có rất nhiều phong cách thơ khác
nhau, nhiều vẻ đẹp khác nhau để cuốn hút con người. Đó là những Tố Hữu, Xuân
Diệu đậm đà tình thương mến và những Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn
Khoa Điềm giàu triết lý… Mỗi phong cách đó đã đến được với những luồng tiếp
nhận khác nhau tùy vào trình độ, sở thích của độc giả. Mỗi tiếng thơ góp vào một
thanh âm cao vút để tạo nên bản hùng ca giục giã nhân dân làm nên cuộc cách mạng
thần thánh, giữ vững một Việt Nam độc lập, hạnh phúc, tự do.
Cuối cùng, theo chúng tôi, nhà thơ một khi đã xác định được việc làm thơ
của mình như một thiên chức nghệ sĩ, như một trách nhiệm quan trọng đối với xã
hội thì việc biến tiếng thơ thành tiếng chim gọi đàn, thành tiếng kèn tiếng trống dồn
giã thúc quân là một nhiệm vụ thiêng liêng đối với dân tộc mà họ luôn cố gắng hoàn
thành. Theo chiều dài lịch sử, những nhà thơ Việt Nam đã mang đến cho thơ một vị
trí xứng đáng trong nền văn hóa dân tộc, họ đã đem thơ đến thật gần với nhân dân,
như một người bạn, một đồng chí, một người thầy luôn bên cạnh nhân dân trên mọi
nẻo đường đời. Những dấu chân ấy đã làm tròn thiên chức cao quý của người nghệ
sĩ đối với xã hội: mang trái tim và tài năng của mình ra cống hiến cho lý tưởng, cho
cuộc đời, cho người đọc.
TIỂU KẾT CHƯƠNG MỘT
Thơ là một nghệ thuật thoát thai từ xã hội và cái đích cuối cùng của thơ là
phục vụ cho con người. Thơ là lời tâm tình với kẻ tri âm, là lời Mẹ ru, là lời giáo
huấn, là tiếng gọi của Tổ Quốc… Thơ gần gũi mà thiêng liêng. Thơ mềm mại ngọt
ngào. Thơ đắng nghét niềm căm phẫn. Thơ hừng hực khí tiến công. Bằng chính
những điều như thế, thơ luôn tác động đến con người. Ý nghĩa đó của thơ, chúng ta
khó mà phủ nhận.
Trong suy nghĩ đó, chúng tôi cho rằng tác động của thơ ca là hiện tượng mà
nhà thơ bộc bạch những lập trường, quan điểm, những tư tưởng và ý nghĩ, những
ước mơ hoài bão của mình vào thơ, được truyền đi và làm rung động trái tim người
đọc, giúp họ nhận thức được những điều đúng đắn từ đó phát sinh những hành
động thiết thực. Ý nghĩa tác động của thơ được hiểu như một "cú hích" của thơ vào
nhận thức, tình cảm, cảm xúc của người đọc khiến họ thay đổi cách nhìn, cách nghĩ.
Mức độ tác động của thơ rất đa dạng, từ việc khơi gợi nơi người đọc những cảm xúc
xao xuyến bâng khuâng, những nỗi nhớ nhung, những niềm thương cảm trước cảnh
ngộ của tha nhân. Nhưng quan trọng hơn cả là kiểu tác động mạnh vào người đọc,
kéo họ đi, cuốn họ đi theo bước đi mà lịch sử và dân tộc đang cần. Đó là kiểu tác
động vào chiều sâu trí tuệ và độ nhạy của cảm xúc để độc giả thông qua thơ mà tìm
thấy lẽ sống cho chính họ. Với kiểu tác động đó, thơ đã thật sự hoàn thành sứ mệnh
nhân văn cao cả của nó.
Chương 2
MỘT SỐ HÌNH THỨC THI PHÁP HƯỚNG TỚI SỰ TÁC ĐỘNG
TRONG THƠ
Trong thực tế sáng tác, hầu như không có nhà thơ nào chuyên chú sáng tác
thơ theo một mô hình ngữ pháp mẫu mực. Đặc trưng thể loại và năng lực sáng tạo
của nhà thơ là hai yếu tố khiến thơ không thể gò mình vào trong khuôn khổ đó. Có
thể nói, nếu loài người tạo ra văn phạm cho lời nói thì nhà thơ là người xóa bỏ văn
phạm, là người tự tìm ra văn phạm cho riêng mình. Khi nhu cầu của thời đại và
những phát kiến khoa học liên tục nhảy vọt thì thơ và các lĩnh vực nghệ thuật khác
càng phải được tổ chức đặc biệt để chiếm lĩnh tâm hồn và nâng cao tư tưởng thẩm
mỹ cho con người. Trên con đường đi vào tâm tưởng độc giả, thơ có lối đi riêng.
Thơ chứa đựng cả một thế giới mênh mông và sâu thăm thẳm của tâm hồn con
người, thơ là nơi nhà thơ bộc lộ những nhận thức, những suy nghĩ, những trạng thái
cảm xúc của mình và sau đó tác động đến tình cảm và lý trí người đọc. Nói cách
khác, thơ biểu hiện để mà tác động, thơ tác động bằng cách biểu hiện. Thông
thường, thơ càng dễ có xu hướng tác động khi các nhà thơ sử dụng những hình thức
thi pháp có tính năng hướng đến người đọc. Đó là những kiểu câu có mục đích
hướng ngoại; những cách thức phối thanh, hiệp vần, trùng điệp tạo nên sức mạnh
âm vang; các thủ pháp nghệ thuật gây chú ý cho người đọc…
2.1 Các kiểu câu có tính năng tác động cao
2.1.1 Câu cầu khiến
Cầu khiến là một dạng thức tác động. Trong giao tiếp, do nhu cầu của hoàn
cảnh hoặc của cá nhân mà chủ thể phát ngôn đưa ra lời cầu khiến. Khi sáng tác thơ,
nhà thơ thường sống trong trạng thái say sưa, nhiệt tình vì một lý tưởng, một tình
cảm, một sự việc nào đó, nên nhu cầu giao cảm của nhà thơ thường rất lớn. Đó cũng
là lúc nhà thơ muốn kéo người đọc vào với mình và đưa ra lời thơ cầu khiến.
Câu cầu khiến vốn được sử dụng khi người nói muốn người nghe làm một
điều gì đó theo ý mình. Nó "có chức năng chuyển tải một lệnh kèm theo tình thái
tr.53]. Câu cầu khiến trong Tiếng Việt "được cấu tạo nhờ những phụ từ tạo ý mệnh
lệnh đến người nghe để tạo nên một hiệu quả “nhận thức” mang tính hiệu lệnh” [2,
lệnh, bằng ngữ điệu mệnh lệnh cộng với điều kiện là chỉ chứa những từ liên quan
đến nội dung của lệnh" [5, tập 2, tr.235]. Những phụ từ cầu khiến tạo ý mệnh lệnh ấy
cũng tạo nên các mức độ tác động khác nhau: khuyên bảo, thỉnh cầu, ra lệnh…
Các phụ từ tình thái thường đứng trước vị từ là "hãy","đừng", "chớ",
"không" và đứng sau vị từ là "nào", "với", "đi", "đi thôi", "đi nào"… Trong đó,
"hãy", "nào", "với", "đi", "đi thôi", "đi nào"… tạo ý nghĩa khẳng định; các phụ từ
"đừng", "chớ", "không"… mang ý nghĩa phủ định.
Cũng từ những nét nghĩa đó, câu cầu khiến trong thơ được sử dụng để động
viên, kêu gọi, thỉnh cầu hoặc khuyên can… Đối tượng của câu cầu khiến có khi là
đông đảo quần chúng, là một lớp người, cũng có khi là một người. Tuy nhiên, ý
nghĩa tác động của câu cầu khiến thật sự có hiệu quả khi nó nói được những điều
lớn lao, khi nó kêu gọi được nhiều người:
- Thưa các cô, các cậu, lại các anh Đời đổi mới, người càng nên đổi mới [Phan Bội Châu – Bài ca chúc Tết thanh niên, 17, tr.547] - Phải đứng dậy! Còn ngồi làm chi nữa Hiệp đoàn mau, vác búa liềm lên! [Nguyễn Văn Hoan – Bài ca kêu gọi công nông binh làm cách mạng, 179, tr.248] - Chị hãy cùng tôi, ta bước đi, Việt Minh cờ đỏ rực ba kỳ Ta đi theo tiếng đoàn quân gọi Đuổi Pháp về Tây, đuổi Nhật về! [Nguyễn Thị Trinh – Ngọn lửa BaTơ, 179, tr.758] - Hãy xốc tới, phá tan nền thống trị Đạp chông gai, xây dựng cột dân quyền! [Nguyễn Nghiêm – Hãy xốc tới, 179, tr.73] - Hỡi những người anh em như gió đứng lên Hãy vùng dậy phá ngục tù bom đạn Hãy hiên ngang xóa bỏ căm thù Hãy cùng ta chấm dứt cảnh máu xương… [Ngô Kha – Trường ca hòa bình, 187, tr.91]
- Bằng tất cả hãy về đây nhận diện Vạch mặt kẻ thù cướp nước hại dân [Trần Quang Long – Ta đi tới, 103, tr.73]
Lời kêu gọi của nhà thơ dành cho đông đảo quần chúng nhân dân thường
mang sắc thái trân trọng, nó bao hàm lòng yêu mến, quý trọng, vừa van xin, thỉnh
cầu, vừa cổ động, thuyết phục. Nội dung kêu gọi trong những trường hợp này
thường là lời kêu gọi thức tỉnh, kêu gọi đứng lên diệt thù. Có rất nhiều loại câu này
trong các bài thơ của các chí sĩ yêu nước của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các bài
thơ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Các nhà nghiên cứu cho rằng đó là
thơ hiệu triệu, thơ tuyên truyền. Trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, nó có ý nghĩa
rất lớn trong việc tập hợp sức mạnh toàn dân, nó như tiếng chim gọi đàn.
Không phải mọi câu cầu khiến đều phải có các phụ từ cầu khiến. Đôi khi ta
vẫn thấy sức mạnh của câu thơ giục ta hành động. Khi đó, câu cầu khiến thường đi
kèm với hô ngữ:
- Anh em hỡi! Đồng lòng đứng dậy Tuốt gươm ra đòi lấy chính quyền! [Tống Văn Trân – Một bài thơ máu, 179, tr.134] - Mau mau hỡi mấy người nghèo khổ Kíp đứng lên đánh đổ quân thù! [Tôn Quang Phiệt – Mau mau đứng dậy, 179, tr.96] - Không! Không! Mau đứng dậy Cứu nước và cứu nhà! [Sóng Hồng – Đứng lên!, 179, tr.481]
Có những lời cầu khiến nóng bỏng tình yêu đất nước đến mức chúng ta
không nghĩ đó là lời cầu khiến mà chính là lời tự nhủ về một nghĩa vụ thiêng liêng,
cao cả:
- Khi Tổ Quốc cần Chúng mình biết hy sinh! (…) Giữ lấy cầu ao Giữ lấy gốc chanh Giữ lấy giàn bầu Giữ xanh mái tóc! [Nguyễn Bao – Hoa chanh, 147, tr.187]
Loại câu cầu khiến được dùng để van xin, thỉnh cầu có sắc thái biểu cảm
cao và đối tượng được cầu khiến trong trường hợp này thường ở vị thế cao hơn
người cầu khiến. Nhưng cũng có khi nhà thơ chọn cách cầu khiến này để bày tỏ thái
độ tôn trọng đối tượng khiến lời cầu khiến thêm thiết tha hơn:
- Xin chớ để mòn dạ sắc son
Kìa trăng vằng vặc núi cùng non [Bùi Hữu Diên-Cảm đề, 181, tr.57] - Ai ôi! Tỉnh dậy đừng mê, Xin đem thù sỉ mà thề non sông [Phan Bội Châu – Gọi hồn quốc dân, 17, tr.154] - Bạn hỡi, gần xa hăng chiến đấu Trước sau xin giữ tấm lòng thành! [Hoàng Văn Thụ – Nhắn nhủ nhiều người, 179, tr.729] - Nói ra sợ mất lòng em, Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa! [Nguyễn Bính – Chân quê, 7, tr.34]
Trong những tuyển tập thơ tình, các thi nhân vẫn thường dùng kiểu câu cầu
khiến để bày tỏ tình cảm, để bộc lộ những khao khát tình yêu. Xuân Diệu nôn nao,
[Xuân Diệu – Giục giã, 133, tr.116]. Đằm thắm và sâu lắng, nhà thơ Huy Cận viết những
giục giã: "Mau với chứ, vội vàng lên với chứ. Em, em ơi, tình non sắp già rồi"
câu thơ ngọt ngào để dỗ dành: "Em ơi, hãy ngủ, anh hầu quạt đây(…), Ngủ đi em,
mộng bình thường" [Ngậm ngùi, 133, tr.131]. Nguyễn Đình Thi thì ray rứt, bồn chồn,
trách móc: "Em, em nhìn đi đâu, Em, sao em không nói…" [Không nói, 180, tr.282].
Không chỉ tác động đến con người mà đôi khi các nhà thơ còn hướng đến lực lượng
siêu nhiên, đến mây, đến gió:
- Xin gió lạnh đừng lật nghiêng vành nón, Kẻo tôi nhìn thấy nước mắt em rơi…" [Vũ Đình Minh - Hội Lim, 188, tr.282] - Tạo hóa hỡi, hãy trả tôi về Chiêm quốc Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian [Chế Lan Viên - Những sợi tơ lòng, 172, tr.22] - Thôi đừng bảo rằng Nước mắt là phù phiếm Hỡi gió và gió Đêm nay xin ngủ yên đừng thức giấc làm gì… [Ngô Kha - Gió, 187, tr.153]
Có thể, câu cầu khiến cũng là một trong những phương tiện nghệ thuật hữu
hiệu giúp nhà thơ giao cảm với cuộc đời. Mặc dù không phải là thơ tuyên truyền,
vận động nhưng kiểu câu cầu khiến ở trên cũng tác động đến tình cảm người đọc.
Đối với thơ kháng chiến, những kiểu câu cầu khiến xuất hiện với tần số dày hơn.
Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, đó là những lời kêu gọi tràn đầy nhiệt
huyết. Sức mạnh của những lời thơ ấy thật vô cùng, vì đó không chỉ là lời của riêng
một nhà thơ mà là lời của Tổ Quốc. Sức mạnh ấy có thể cuốn chúng ta đi, chỉ cho ta
thấy, thậm chí còn khiến chúng ta thay đổi cuộc đời ta…
Cứ như thế, câu cầu khiến trong Tiếng Việt đi vào thơ ca với tất cả sắc thái
đa dạng của nó với những dạng thức tác động khác nhau: ra lệnh, khuyên răn, kêu
gọi, dẫn dụ, thỉnh cầu, van xin… Hoặc vô tình hoặc cố ý, các nhà thơ sử dụng câu
thơ có hình thức cầu khiến như một cố gắng nhằm đạt đến việc người nghe thực
hiện một cái gì đó theo mong muốn của mình. Thực tế thì cũng có đôi khi các nhà
thơ không đặc biệt chú tâm tác động lắm nhưng bất kỳ các câu thơ có chứa các động
từ tình thái cầu khiến này đều thực hiện chức năng đó như một tất yếu.
2.1.2 Câu hỏi tu từ:
Là một hình thức trao đổi thông tin trong giao tiếp của con người, "câu hỏi
thường được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự trả
lời, giải thích của người tiếp nhận nó" [5, tập 2, tr.226]. Câu hỏi tu từ trong thơ trữ tình
có thêm vài chức năng mới: hỏi để nghi vấn, hỏi để trả lời, hỏi để khẳng định, hỏi
để bộc lộ cảm xúc hoặc dùng để triển khai ý thơ. Vì vậy, đối tượng để hỏi không chỉ
dành riêng cho ngôi thứ hai hay ngôi thứ ba mà nhiều khi là chính người hỏi, chính
bản thân nhà thơ. Trong thơ trữ tình, loại câu hỏi chiếm tỉ lệ cao, được thông dụng
nhất là những câu hỏi tu từ tăng cường sắc thái biểu cảm cho văn bản và tác động
đến độc giả.
Về hình thức và mục đích giao tiếp, có nhiều dạng câu hỏi khác nhau.
Dạng kết cấu “có… không?”, “có… được không?” kết hợp với chủ ngữ ở
ngôi thứ nhất hoặc thứ hai tạo ra nghĩa cầu khiến. Câu hỏi có dạng kết cấu này có
nhiều hiệu lực khác nhau: hỏi để bày tỏ lòng mong mỏi được trả lời, hỏi để khẳng
định, hỏi để kín đáo nhắc nhở hoặc muốn đối tượng làm một điều gì đó cho mình, vì
mình:
- Đẩy bạo lực lùi vào bóng tối Thắp đuốc hòa bình đi giữa nhân dân Hỡi người bạn xưa một thời thân mến Có bao giờ anh biết hay không? [Tần Hoài Dạ Vũ – Gởi một người bạn xưa, 153, tr.363] - Mới chợt nghĩ đã chạnh lòng run rẩy Có ai cùng về lại với tôi không? [Nguyễn Trọng Hoàn – Nỗi nhớ, 180, tr.202]
-Muốn thiện lại thành ra ác Có ai giống với tôi không? [Trần Nhuận Minh – Phút lâm chung của cụ Hãn, 188, tr.281] -Yết ơi, khi nằm xuống Có ai bên mình không? [Nguyễn Bùi Vợi – Một dòng cho em, 147, tr.662]
Dạng câu hỏi "có… không" đôi khi còn bị tỉnh lược phụ từ nghi vấn "không"
ở cuối câu, hoặc tỉnh lược cả hai phụ từ. Tuy hình thức thay đổi nhưng ý nghĩa của
nó vẫn giữ nguyên như khi còn đầy đủ phụ từ:
- Trong không khí hằng ngày ta vẫn thở Có bao giờ nghe máu chảy về tim? [Đông Trình – Hạo khí ca, 153, tr.336] - Có người Việt Nam nào trong đêm chợt thức Cùng sống với ta một nỗi niềm? [Đông Trình – Giọt lệ mừng, 153, tr.339] - Ở tận phương nào em có biết cho tôi? [Nguyễn Sĩ Đại - Gió bờ sông, 188, tr.182]
Dạng câu hỏi có phụ từ "chăng" đặt ở cuối câu cũng có nét nghĩa giống như
câu hỏi có kết cấu "có… không". Các nhà thơ dùng dạng câu hỏi này để "thăm dò"
thái độ đối phương, để bày tỏ niềm phân vân, chưa quyết đoán của mình về một vấn
đề nào đó. Hỏi "… chăng?" là muốn biết suy nghĩ, phán đoán của mình vừa đưa ra
có đúng hay không, có phải như vậy không:
- Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ Có giống như mình lưu luyến chăng? [Huyền Kiêu - Tương biệt dạ, 188, tr.227] -Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng? [Vũ Cao - Núi đôi, 188, tr.40]
Những câu hỏi này thường tạo âm điệu nhẹ nhàng nhưng hàm chứa nỗi băn
khoăn, day dứt, mong chờ của nhà thơ về một sự đồng cảm, chia sẻ từ phía người
đọc. Hỏi "có - không" nhưng thật ra trong lòng nhà thơ luôn mong đợi được trả lời
là "có". Vì vậy, nhiều nhà thơ thường dùng dạng câu hỏi này như một cách thức kín
đáo biểu lộ cảm xúc, bộc bạch tâm hồn mình. Bộc lộ mình bằng hình thức câu hỏi là
cách bộc lộ và đối thoại, khác với cách bộc lộ nội tâm theo kiểu độc thoại thường
gặp (nhất là trong thơ xưa), thường là bộc lộ bằng dạng câu kể lể. Những câu hỏi
này khiến cho cách diễn đạt của nhà thơ sống động hơn, ấn tượng hơn và khả năng
tác động đến người đọc vì thế cũng mạnh hơn.
Dạng câu hỏi chọn lựa: "A hay B?", "A hoặc B?" cũng xuất hiện khá nhiều
trong thơ ca. Trong giao tiếp bình thường, câu hỏi này thường buộc người tiếp nhận
phải chọn một thành phần trong câu để trả lời. Ví dụ: -Hỏi: "Mày ở lại hay về?" -
Đáp: "Về" hoặc "Ở lại chứ!". Nhưng trong thơ, câu hỏi dạng này là những câu hỏi
tu từ được nhà thơ sử dụng để tập trung hướng đến một hình ảnh, một sự vật sự việc
nào đó theo định hướng làm nổi bật A lên, dùng đặc trưng của A để tác động đến
nhận thức của người đọc:
- Nghìn cụm núi phục mình trên mặt nước Đảo nằm yên hay những khúc lưng rồng? [Nguyễn Viết Lãm - Hạ Long, đêm bốc vác, 147, tr.400] - Nó là thằng thổ phỉ Hay là đứa Việt gian? [Hoàng Lộc - Viếng bạn, 147, tr.430] - Em còn đợi chuyến đò sau Hay là không thể đợi nhau bờ này? [Thu Bồn - Mong em về trước cơn mưa, 188, tr.34] - Đồng ngang dọc những bờ vùng bờ thửa Hay trận tuyến bủa vây giăng bờ lửa? [VõVăn Trực - Trận địa quê hương, 147, tr.623]
Mục đích của dạng câu hỏi này không cần thiết trả lời rõ là "A" hay "B" mà
tạo nên sự gián đoạn tạm thời cho mạch thơ và dùng yếu tố này để soi rọi yếu tố kia.
Cách diễn đạt này tác động đến tâm trí người đọc ấn tượng nhất định về những trăn
trở suy tư của nhà thơ. Xét về ý nghĩa, câu hỏi dạng này hướng đến việc miêu tả, tái
hiện đặc điểm, bản chất của sự vật, hiện tượng được nói đến trong thơ. Nhưng khi
chọn cách hỏi này, thay vì diễn đạt suông theo kiểu câu thông báo, câu miêu tả như
thường lệ, thiết nghĩ, ý đồ của nhà thơ còn muốn nhấn mạnh tính chất, đặc điểm ấy.
Theo cách này, dù câu hỏi mang hình thức lựa chọn nhưng nhà thơ không buộc
người đọc trả lời mà muốn người đọc thấy rõ mối tương quan giữa A và B và qua
quá trình nhận thức về mối tương quan ấy, A càng được người đọc khắc sâu hơn
trong tâm trí.
Loại câu hỏi có mục đích cảm thán là một hình thức hỏi đặc biệt, vì cả
người nghe và người hỏi đều đã hiểu cái ý trả lời. Trọng tâm của dạng câu hỏi này
nằm ở các kết hợp từ “biết” hoặc "biết là". Hai từ này tập trung sự chú ý người đọc
vào cảm xúc của nhà thơ:
- Hoa trôi man mác, biết là về đâu? [Nguyễn Du - Truyện Kiều, 25, tr.88] - Giờ biết làm sao cầm được hoa? [Yến Lan - Cầm chân em, cầm chân hoa, tr.16] - Biết đời chẳng có gì là thực Biết rồi, anh có chơi không? [Chế Lan Viên - Trò chơi, 171, tr.156]
- Người nằm dưới mả ai ai đó Biết có quê đây hay vùng xa? (…) Suối vàng sâu thẳm biết là ai? [Tản Đà - Thăm mả cũ bên đường, 188, tr.124, 126]
Nếu lược bỏ "biết", "biết là" thì các câu hỏi trên sẽ là: Hoa trôi về đâu? Giờ
làm sao cầm được hoa? Anh có chơi không? Ai ở dưới suối vàng? Chúng trở về
kiểu cấu tạo của những câu hỏi thuần túy và cần được trả lời. Kiểu câu hỏi có từ
"biết", "biết là" tuy có sử dụng hình thức hỏi nhưng lại tạo nên sắc thái mơ hồ và
không nhất thiết phải trả lời. Nó là dạng thức hỏi không xác định rõ phạm vi đối
tượng nhưng lại biểu lộ ra những băn khoăn của nhân vật trữ tình. Nếu dùng loại
câu hỏi này, câu thơ sẽ hướng đến khả năng bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc của
nhà thơ và tác động vào cảm xúc độc giả.
Ngoài ra, thường thấy trong thơ dạng câu hỏi có mô hình kết cấu: "Đâu +
nòng cốt câu?" hoặc: "Nòng cốt câu + đâu?". Trong thực tế, "Đâu" là loại từ được
dùng nhiều trong thơ ca bởi khả năng biểu thị những nỗi buồn, nỗi đau, nỗi tiếc
nuối… rất cao độ về một cái gì tốt đẹp đã qua rồi, đã mất đi, đã không bao giờ tìm
lại được nữa. Phụ từ dùng để hỏi này có xu hướng tác động mạnh đến cảm xúc của
con người nên được nhiều nhà thơ thường xuyên vận dụng như một phương tiện
biểu đạt và tác động cảm xúc hiệu quả. Từ nỗi buồn nhớ da diết về những vàng son,
oanh liệt thuở xa xưa, Thế Lữ tạo nên sức lây lan, ám ảnh mãnh liệt vào tâm hồn
người đọc bằng một loạt các câu hỏi :
- Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? [Thế Lữ - Nhớ rừng, 133, tr.53]
Câu hỏi sau bật ra tiếp nối câu hỏi trước. Hỏi liên tục là một trong những
cách thức tạo nên âm vang cho thơ bởi bề dày của những âm thanh được lặp lại
nhiều lần như điệp khúc. Nhà thơ Hoàng Cầm đã từng bộc lộ nỗi niềm đau đớn, tiếc
thương làng quê thân yêu của mình bằng các điệp khúc: "Bây giờ đi đâu? Về đâu?,
Bây giờ tan tác về đâu?" [Bên kia Sông Đuống, 188, tr.60 - 62] trong cuối mỗi đoạn thơ
tạo nên những tiếng nấc đứt ruột, ngơ ngác buồn... Cũng với cách hỏi liên tục như
vậy, nhà thơ Vũ Đình Liên ngày nào đã từng khiến biết bao độc giả Việt Nam
nghẹn ngào thương cảm cho thân phận những bậc trí sĩ lạc thời bởi nền Hán học đã
tr.243]. Lưu Trọng Lư cũng làm xao xuyến biết bao trái tim bạn đọc về một cuộc tình
đi vào quá vãng: "Người thuê viết nay đâu?,(…)Hồn ở đâu bây giờ?" [Ông đồ, 188,
thơ ngây với đầy ăm ắp những kỷ niệm đẹp đẽ như một giấc mộng mà người trong
cuộc phải thốt lên tiếc nuối, bàng hoàng: "Còn đâu ánh trăng vàng, Mơ trên làn tóc
chi nữa, 133, tr.325].
rối, Còn đâu những giờ nhung lụa, Còn đâu mùi cỏ lạ, ...Còn chi nữa em ơi!" [Còn
Trong tuyển "Thơ hay Việt Nam thế kỷ XX", có rất nhiều những câu hỏi lơ
lửng băn khoăn, những câu hỏi chơi vơi niềm trắc ẩn. Chúng vướng mắc lại trong
tâm trí người đọc:
- Bỗng dưng, em ạ, tôi buồn Ngày mai còn đấy, nhưng còn em đâu? [Kim Chuông – Tôi và em, 188, tr.74] - Tìm đâu dấu vết ngày xưa? Đâu bom đạn tội tình thuở ấy? [Trần Dần – Bài thơ Việt Bắc, 188, tr.89] - Tôi về xứ Huế chiều mưa Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu? [Nguyễn Duy – Nhớ bạn, 188, 123]
Ngoài ra, còn có dạng câu hỏi có dạng điệp cấu trúc để tạo ra điệp khúc,
nhấn mạnh, xoáy sâu vào cảm xúc và suy nghĩ của độc giả bằng sự lặp lại nhiều lần
về nội dung nghi vấn và tính nhạc của đoạn thơ:
- Vì đâu hử? Thân tàn ma dại Vì đâu mà cấm ải ngăn sông? Vì đâu bom đạn hãi hùng? Vì đâu nát thịt, tan lòng, hỡi ai? [Xuân Thủy – Bài ca Việt Minh, 179, tr.741]
"Vì đâu" được lặp lại bốn lần trong một khổ thơ với chủ ý tác động đến
người đọc bằng tâm trạng bức xúc của nhà thơ trước nghịch cảnh. Dạng câu hỏi này
quy tụ rất nhiều khả năng tác động cho thơ khi nó xây dựng một loạt câu thơ đập
mạnh vào ấn tượng của người đọc bằng nội dung hỏi lẫn cách thức hỏi. Nghe hỏi
một lần, người ta đã xốn xang, nghe hỏi lần thứ hai, người ta thấy bồn chồn và rồi
lần thứ ba, lần thứ tư… nó sẽ cuốn người ta theo.
Xét từ phương diện giao tiếp, câu hỏi còn có chức năng cầu khiến. Dạng câu
hỏi - cầu khiến không tạo ra tính áp đặt cho người đọc mà ngược lại còn tăng quyền
chủ động cho người đọc, do đó mà có tính lịch sự hơn cách cầu khiến trực tiếp. Khi
muốn ngăn cản hoặc khuyên đối tượng trữ tình không nên hành động, nhà thơ có
thể dùng các từ để hỏi: “làm gì”, “gì”, “làm chi”, “chi” đặt phía sau động từ để
tạo nghĩa phủ định (nói làm chi = đừng nói). Kiểu câu hỏi này tác động đến đối
phương như một lời khuyên nhủ nhẹ nhàng:
- Nhìn chi em chân trời xa vời vợi Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta? [Chế Lan Viên - Đêm tàn, 188, tr.430]
Trong trường hợp dùng từ hỏi có nghĩa phủ định “sao không” đặt trước chủ
từ trong câu, chúng ta lại có dạng câu hỏi có khả năng khuyến khích hành động. Sắc
thái biểu cảm của loại câu này như một lời khuyến cáo, ra lệnh hoặc trách móc nhẹ
nhàng:
- Sao anh không về chơi thôn Vĩ? [Hàn Mặc Tử - Đây thôn Vĩ Dạ, 188, tr.428] - Anh hẹn đến Mà sao anh không đến? [Nguyễn Bính Hồng Cầu - Viển vông, 9, tr.13]
Còn nếu từ để hỏi "sao" được mang ra đặt phía trước động từ thì câu hỏi sẽ
mang ý nghĩa chất vấn nguyên nhân của hành động trực tiếp hơn:
- Bất bình chịu vậy sao an? Vạch mặt đế quốc, xé gan quan trường! [Hồ Văn Ninh - Thảm cảnh trên đường 14 và cuộc đấu tranh đổ máu ở nhà lao KonTum, 179, tr.81] - Hỏi ai tới đó sao đành lòng đi? [Trần Mai Ninh - Tình sông núi, 147, tr.500]
Trong thực tế đọc và sáng tác thơ, còn có nhiều câu hỏi bật ra thật bất
thường, tạo nên phản ứng thẩm mỹ nơi người đọc. Loại câu hỏi mà chính nhà thơ là
người trả lời có tác dụng tác động bất ngờ như vậy. Dù có thể trong tâm thế sáng
tác, nhà thơ không chủ ý hỏi để "làm khó" ai mà chỉ hỏi bâng quơ để giãi bày những
trăn trở của mình, nhưng những câu hỏi ấy vẫn khiến người đọc bâng khuâng. Hiện
tượng này được hiểu như là một kiểu tác động cộng hưởng, cộng hưởng nỗi trăn trở
riêng tư của một người sang nhiều người. Chế Lan Viên là một trong số các nhà thơ
thường sử dụng loại câu hỏi này để tự vấn bản thân. Thơ Chế Lan Viên tác động
đến người đọc bằng những suy tư giàu chất triết lý, nóng hổi tư tưởng nhân sinh:
"Ai bảo dùm: Ta có có Ta không?" [Chế Lan Viên - Ta, 133, tr.205], "Ta là ai? Như
tr.189].
ngọn gió siêu hình, Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt" [Chế Lan Viên - Hai câu hỏi, 133,
Xét về cấu tạo ngữ pháp và ngữ nghĩa, có những câu hỏi rõ ràng đầy đủ
thành phần nhưng cũng có những câu hỏi mơ hồ. “Câu hỏi - cầu khiến chính là phép
hội thoại của hai loại câu truyền thống: hỏi (về hình thức) và cầu khiến (về mục
đích phát ngôn)” [76, tr.31] nên nó có đặc điểm ngữ nghĩa là xác định sẵn định hướng
trả lời cho đối ngôn. Ở trong thơ, loại câu này là phương tiện để nhà thơ bày tỏ
những tư tưởng, suy luận, kiến giải nào đó của mình và tác động đến người đọc,
khiến họ đồng tình hưởng ứng, nghe theo, làm theo ý mình.
Đôi khi nhà thơ sử dụng câu hỏi để khẳng định với đối tượng vấn đề mình
đưa ra là đúng:
- Lo sao lo khéo lo quanh Ta khôn ai dám tranh giành với ta? [Phan Bội Châu - Gọi hồn quốc dân, 17, tr.157] - Phép màu nào chống chọi nổi thời gian? [Vương Trọng - Sợi tóc hai màu, 188, 416] - Ai bảo chiến tranh không có thời giờ Đi bên nhau nói những lời tình tự? [Nguyễn Thị Hồng Ngát - Chùm hoa bóng nước, 147, tr.460] - Còn mối tình nào hơn thế nữa? (…)Có mối tình nào hơn Tổ Quốc? [Trần Mai Ninh - Tình sông núi, 147, tr.501]
Ngoài những câu hỏi đã nêu, trong thơ Việt Nam còn nhiều dạng câu hỏi
khác như câu hỏi có cấu trúc đảo trật tự từ trong câu: "Biết không em, nỗi lòng anh
khi đó?" [Tố Hữu - Đi đi em, 60, tr.27], câu hỏi không dùng phương tiện từ ngữ chuyên
dùng để hỏi: "Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực" [Thâm Tâm - Tống biệt hành, 133, tr.310],
hay là loại câu có chứa các từ hỏi “có thể… không?/ được không?” để hỏi về khả
năng của người đối diện v.v…
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, “câu hỏi trong thơ trữ tình
thường có tác dụng gieo vấn đề, xoáy sâu vào tư duy người đọc, buộc họ phải suy
ngẫm, tự tìm đến với hàm ngôn của bài thơ, với thế giới nội tâm của tác giả. Đó là
một trong những biện pháp tạo nên phương thức lĩnh hội tích cực chủ động ý nghĩa
ngôn từ” [38, tr.64]. Đó cũng là một trong những phương thức nghệ thuật mang lại
khả năng tác động cho thơ và được các nhà thơ thường xuyên sử dụng. Chế Lan
Viên, người đã dành cả cuộc đời mình cho thơ, đã từng tuyên bố: "Thơ xưa chỉ hay
than mà ít hỏi, Đảng dạy ta, thơ phải trả lời". Chính quá trình hỏi - đáp trong thơ đã
làm nên cái mới lạ và sức hấp dẫn cho thơ, lôi cuốn người đọc vào mạch cảm xúc
của thơ. Nhất là những câu hỏi ở cuối bài thơ, những câu hỏi có sức mạnh tạo nên
những mạch thơ tưởng như không bao giờ dứt bởi những trăn trở suy tư mà nhà thơ
vừa đặt ra. Với kiểu hỏi như vậy, lời thơ, bài thơ tuy khép lại nhưng ý thơ vẫn vang
vọng những dư âm.
2.1.3 Câu cảm thán
Bên cạnh kiểu tác động bằng cách cầu khiến và hỏi, cảm thán cũng là một
dạng câu chiếm tỉ lệ khá cao trong thơ trữ tình. Do nhu cầu bộc lộ cảm xúc và tác
động của nhà thơ trở nên bức thiết, họ thường sử dụng câu cảm thán như một
phương tiện hữu hiệu. Mặc dù trong các loại câu cầu khiến, câu tường thuật, câu hỏi
đều có biểu thị cảm xúc nhưng chúng không thể đảm đương hết khả năng cảm thán
trực tiếp như loại câu cảm thán.
Về hình thức cấu tạo, câu cảm thán có những hình thức riêng để nhận dạng.
Giáo trình Ngữ pháp Tiếng Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội xác định các trợ từ
thường được đặt ở cuối câu cảm thán là: sao, bao, thay, xiết bao, làm sao v.v…
"hoặc dùng hình thức đảo ngược trật tự a - b trong nòng cốt N = a + b cùng với
những trợ từ kể trên" [166, tr.205]. Các nhà ngôn ngữ học cho rằng giữa câu cảm thán
với câu tường thuật không có đường ranh rõ rệt, nhưng chúng vẫn có những dấu
hiệu hình thức khá xác định để nhận biết câu cảm thán như một kiểu câu có đặc thù.
Theo đó, câu cảm thán đi vào thơ ca với nguyên vẹn những đặc điểm và chức năng
của nó.
Câu cảm thán được nhà thơ sử dụng như một phương tiện để họ bày tỏ một
trạng thái tâm lý trước một sự tình nào đó được nêu ra trong thơ. Xét về phương
diện ngữ dụng thì cảm thán là hành động bày tỏ. Dùng hình thức câu cảm thán, nhà
thơ được trực tiếp bộc lộ cảm xúc, được phơi bày mình ra trước người đọc, trước
cuộc đời. Có thể, nhìn từ mục đích phát ngôn, nhà thơ không có tham vọng gì khác
ngoài việc bộc lộ mình khi dùng câu cảm thán. Nhưng kỳ thực, câu thơ cảm thán là
chiếc cầu nối liền hai miền cảm xúc của thi nhân và độc giả. Những cảm xúc vui
buồn mà nhà thơ hô thán lên trong thơ sẽ được người đọc tiếp nhận và đồng cảm
nên mặc nhiên nó cũng có giá trị tác động.
Theo quy tắc ngữ pháp, các thán từ: thay, ôi, ôi chao… có thể đứng một
mình làm thành câu, hoặc kết hợp với từ khác làm thành thành phần phụ của câu
cảm thán. Các cảm thán từ này có khả năng biểu hiện cảm xúc cao độ. Những câu
thơ có sử dụng các cảm thán từ đó trở thành một tín hiệu khơi gợi sự chú ý cho độc
giả vì những trạng thái cảm xúc của nhà thơ được tăng lên. Nó tác động vào độc giả
bằng cảm xúc dạt dào, da diết của nhà thơ. Nhất là khi nhà thơ hướng về Tổ Quốc
đang trong cảnh lâm nguy, cảm xúc trong câu cảm thán tác động vào chúng ta là
tâm trạng hụt hẫng, đau đớn, căm thù:
- Giận thay đế quốc, quân thù Còn ta, ta quyết đền bù giang sơn… [Nguyễn Thị Nghĩa - Còn quân giặc, ta còn hy sinh, 179, tr.69] - Giận thay cuộc thế xoay vần Xà lim này đã mấy lần vào ra! [Lê Đức Thọ - Xà lim oán, 179, tr.709] - Lưỡi dao thù địch, ôi, oan nghiệt Giết cái tinh anh, máu chửa nhòa. [Lê Đức Thọ - Hận rừng xanh, 179, tr.709] - Đồng bào hỡi, nước nhà tan nát Giận căm thay, giặc Pháp hung tàn! [Xuân Thủy - Bài ca Việt Minh, 179, tr.740] - Ôi! Tiếng ve, tiếng ve kêu không mệt [Hoàng Minh Châu - Ve sôi hè phố, 147, tr.236]
Về trật tự các thành phần câu, các phụ từ: lạ, thật, quá, ghê, thế, dường nào,
biết mấy, vô cùng thường đứng sau vị từ và các phụ từ xiết, xiết bao có thể đứng sau
hoặc trước vị từ. Chúng làm thành câu cảm thán có ý nghĩa tô đậm, cường điệu, làm
tăng thêm lên các đặc điểm, tính chất của sự việc và hiện tượng được nêu lên trong
câu. Điều đáng chú ý là, từ sức mạnh biểu cảm đó, loại câu cảm thán này có thêm
sức mạnh khơi gợi, lôi kéo sự chú ý của độc giả. Bởi vì, như một lẽ đương nhiên,
thường thì cái gì quá giới hạn cũng hay khiến người ta chú ý. Người nào càng nhạy
cảm, tinh tế thì càng dễ bị cuốn hút hơn bởi những câu thơ cảm thán như thế này:
- Quý biết bao là dòng máu anh hùng Đã nhuộm thắm ngọn Tiền phong cho Đảng! [Đặng Xuân Thiều - Ánh sáng ban trưa, 179, tr.706] - Quân bạo tàn xiết nỗi dâm ô! [Xuân Thủy - Bài ca Việt Minh, 179, tr.741] - Biệt ly nay mới biết Chi xiết nỗi thương đau. Giọt lệ một lần ứa, Biết bao lần chan chứa! [Đông Hồ - Tuổi xuân, 133, tr.302] - Nhớ con bướm trắng lạ lùng [Nguyễn Bính - Người hàng xóm, 133, tr.322] - Yêu làm sao những thửa ruộng, đường mương Cơn gió sớm bay thơm mùi đất rạ [Trần Quang Long - Trên vùng giải phóng, 103, tr.219]
Nếu thiếu các phụ từ "biết bao", "chi xiết", "lạ lùng"… thì các câu thơ trên
thuộc loại câu miêu tả, nhưng khi thêm vào phía trước hoặc phía sau nó những phụ
từ chỉ mức độ khiến mức độ cảm xúc tăng lên và từ đó tác động vào cảm xúc của
người đọc. Bản thân câu thơ cảm thán cũng có những khả năng nhận thức, thông
báo, biểu cảm như những loại câu khác. Về thông tin, câu thơ cảm thán cũng cung
cấp cho người đọc những đặc điểm, bản chất của sự việc hiện tượng vừa được nêu
ra nhưng chính đặc trưng cảm thán đem đến cho phát ngôn này một nghĩa mới: biểu
cảm và tác động. Vì vậy, câu cảm thán luôn được sử dụng như một lời than, có khi
là lời hỏi và lời khẳng định để bộc bạch cảm xúc của mình và khơi dậy cảm xúc của
đối phương.
Đôi khi, nhà thơ sử dụng nhiều câu cảm thán liên tục trong một dòng thơ
hoặc một đoạn thơ tạo nên một âm hưởng thơ tràn ngập cảm xúc, tác động mạnh
vào người đọc:
-Thương tiếc quá! Trời ơi! Rùng rợn quá! (…)Như tiếng thét của muôn hồn thê thảm! [Nguyễn Văn Năng - Tôi không chết và tôi còn sống mãi!, 179, tr.392] - Ôi! Khốn nạn! Ôi điên rồ! Giận tức! [Xuân Tâm, 133, tr.147] - Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! [Chế Lan Viên - Thu, 133, tr.209]
Cảm xúc cuốn cảm xúc, nỗi buồn gọi nỗi buồn, niềm vui gọi niềm vui. Đó
là con đường đi từ trái tim một người đến trái tim nhiều người của nghệ thuật, của
thơ ca. Những trường hợp cảm thán liên tục như vậy còn tạo nên giọng điệu cảm
thán. Giọng điệu da diết trong những câu thơ cảm thán còn thể hiện được cả những
trạng thái tình cảm phức tạp, tinh tế nhất của con người và cũng tác động mạnh đến
cảm xúc của con người.
2.2 Những yếu tố tạo nên nhạc điệu lôi cuốn
Thơ là một thể loại của văn chương, nhưng là văn có nhạc. Nhạc thơ là một
trong những đặc thù của thơ. Căn nguyên của nó bắt nguồn từ quy luật vận động
nhịp nhàng của các hình tượng ngữ âm theo một tổ chức nhất định mà nhà thơ chọn
lọc và biểu hiện khi sáng tác. Coocnây Trucốpxki, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học
Liên Xô (cũ) xem nhạc tính như là một trong năm bí quyết khi làm thơ. Nhìn từ góc
độ ngôn ngữ, nhạc thơ mang vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc. Khi sáng tác, các nhà thơ
vẫn luôn dụng công tổ chức âm thanh bài thơ thật hấp dẫn, du dương, sao cho người
nghe hiểu được thanh âm đó và nhân hiệu quả của nó lên, đối đáp, tiếp nối và lan
truyền thông tin đó. Âm nhạc của thơ có khả năng ru người, cuốn hút người vào thế
giới thơ và nó cũng là một phương tiện được các nhà thơ sử dụng một cách hữu
hiệu để tác động đến độc giả.
2.2.1 Sức cuốn hút của các yếu tố trùng điệp
Ngoài những hình tượng, thơ còn mang trong lòng nó những giai điệu. Nhạc
điệu trong thơ từ lâu đã trở thành tính năng cơ bản, thành đặc trưng không thể thiếu
của thơ. Nhạc thơ được hình thành chủ yếu từ tiết tấu (số lượng âm tiết trong câu,
nhịp điệu, âm điệu, phép trùng điệp và phép đối) và vần. Tùy vào từng thể thơ khác
nhau mà các yếu tố này được tổ chức khác nhau tạo nên đặc trưng nhạc tính của
từng thể loại.
Trùng điệp trong thơ ca là sự lặp lại các đơn vị ngữ âm khác nhau trong văn
bản để tạo nên một âm hưởng mang ý nghĩa, và ý nghĩa này sẽ không tồn tại nếu
tách riêng khỏi văn bản. Cũng cùng một mục đích muốn khắc sâu vào tâm trí công
chúng, nhạc sĩ lặp đi lặp lại nhiều lần một số nốt nhạc, ca từ để tạo nên điệp khúc,
đạo diễn cho xuất hiện trên màn ảnh nhiều lần một hình ảnh, người diễn thuyết lặp
lại nhiều lần một từ, một ý quan trọng… thì nhà thơ cũng sử dụng các biện pháp lặp
và có thể lặp nhiều yếu tố khác nhau, tạo nên tính trùng điệp cho thơ để lôi cuốn
người đọc.
Trước đây, trong thơ cổ điển, điệp là một biểu hiện của việc "thiếu vốn chữ"
nên người ta kỵ dùng điệp. Hiện tượng điệp trong thơ mới bắt đầu phát triển về sau
này. Từ sau khi phong trào Thơ Mới, thơ tự do phát triển, điệp dần dần trở thành
một dạng năng lượng quan trọng để thể hiện nội dung mà những biểu hiện ngôn ngữ
khác khó mà diễn đạt thay thế. Các nhà thơ tạo nên trùng điệp cho thơ ở nhiều đơn
vị ngôn ngữ khác nhau: âm (phụ âm, nguyên âm), vần, tiếng (âm tiết), từ, ngữ,
dòng, cấu trúc câu, đoạn.
Trùng điệp luôn có khả năng tạo ra một âm hưởng lớn do sự lặp lại các âm
thanh, tạo thành những âm vang giàu nhạc điệu, giàu ấn tượng, giàu sức lan tỏa cho
thơ. Đó cũng là nguyên nhân mà các nhà thơ Tản Đà, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Nguyễn
Duy… thường sử dụng biện pháp trùng điệp như một trong những biện pháp nghệ
thuật hình thành nên nét phong cách thơ độc đáo cho riêng mình để tác động đến
độc giả.
Đối với các thể thơ cố định số lượng tiếng trong một dòng (thơ 7 chữ, 8 chữ,
lục bát…), các nhà thơ khai thác sức mạnh của vần (nguyên âm và phụ âm) để tạo
nên nhạc điệu. Sự lặp lại nhiều lần một phụ âm hoặc nguyên âm sẽ giúp cho người
đọc cảm giác rõ hơn ý nghĩa biểu đạt của từ, ngữ trong hoàn cảnh cụ thể đó bởi khả
năng tạo nghĩa của các vỏ âm thanh ngôn ngữ mang lại. Khi Xuân Diệu viết:
"Những luồng run rẩy rung rinh lá" [Đây mùa thu tới, 133, tr.110] là ông đã chọn hai từ
láy "run rẩy" và "rung rinh" có phụ âm đầu là "r" - vốn là một âm xát, ồn, hữu
thanh, được phát âm theo kiểu rung đầu lưỡi - để tạo nên ấn tượng sâu sắc về độ
rung từ cách phát âm đến ý nghĩa mà câu thơ muốn biểu đạt. Cả "run rẩy" hay
"rung rinh" đều là hai từ láy diễn đạt sự chuyển động của chủ thể. Tương tự như
vậy, các nhà thơ thường sử dụng nhiều cách điệp phụ âm, nguyên âm, cách sử dụng
từ láy vừa có tác dụng tăng cường ý nghĩa biểu đạt của từ, vừa tạo nên độ vang
vọng về âm thanh cho câu thơ để tác động đến cảm giác của độc giả:
- Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi [Quang Dũng - Tây Tiến, 188, tr.567]
Âm hưởng của hai câu thơ lan xa, lan xa… và tác động vào cảm giác của
người đọc ấn tượng sâu đậm về nỗi nhớ của nhà thơ. Nó có sức mạnh kéo người ta
đến gần để lắng nghe tiếp những tự tình phía sau. Trong mở đầu Bên kia Sông
Đuống, Hoàng Cầm cũng sử dụng hàng loạt các yếu tố lấp láy, điệp âm, điệp vần để
tạo nên một khúc dạo đầu quyến rũ, kéo người đọc vào thế giới Kinh Bắc lung linh,
huyền ảo:
- Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay [Hoàng Cầm - Bên kia sông Đuống, 147, tr.218]
Điệp từ, điệp ngữ, điệp câu cũng là hiện tượng phổ biến trong thơ hiện đại.
Điệp được sử dụng với mục đích mở rộng nghĩa và gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra
cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe. Những nhà thơ chú ý tạo âm hưởng cho
thơ, thường tận dụng biện pháp trùng điệp để làm phong phú thêm độ âm vang cho
nhạc thơ và tác động đến tư tưởng, tình cảm của độc giả.
Mỗi loại điệp tạo nên mỗi hiệu ứng khác nhau. Kiểu điệp từ và cụm từ ở đầu
câu và cuối câu thường tạo nên khí thơ hùng mạnh, lôi cuốn người đọc mạnh mẽ
hơn. Cái réo rắt, da diết của đoạn thơ trong Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm) là vì
vậy:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Cách điệp này khiến người đọc chú ý đến tác dụng ý nghĩa của từ ngữ đó,
nó buộc người ta suy nghĩ đến lý do mà nhà thơ phải lặp lại nhiều lần những cấp độ
ngôn ngữ lớn như vậy. Đối với những sự kiện trọng đại, những tình cảm lớn, cách
điệp này tạo nên âm vang mạnh mẽ hùng hồn như một lời hịch:
- Tiếng hoan hô của đoàn tử tù vang lên
người đãng trí, 187, tr.75]
Tiếng hoan hô như lời nguyện Tiếng hoan hô trùng trùng lớp sóng Tiếng hoan hô thăng trầm như bể dâu Những tiếng hoan hô còn lan rộng Tiếng hoan hô lớn lao vô cùng và nhọn như tháp bút [Ngô Kha – Ngụ ngôn của
- Lửa bùng lên, lửa bùng lên, đất trời tê dại Lửa bùng lên, lửa bùng lên, chị gục xuống quê hương Lửa nén từ lâu trong buồng phổi căm hờn Lửa nén từ lâu trong mắt người nhẫn nhục Lửa đã đốt từ chiều sâu ý thức Lửa đã nhen từ mỗi nhịp con tim Ba mươi mốt triệu người quằn quại siết rên Lửa! Lửa! Lửa! Lửa nào đang cháy bỏng… [Trần Quang Long – Phan Thị Mai, 103, tr.201, 202]
Đối với kiểu điệp ngữ ở vị trí đầu câu như trên, âm vang có bị cách quãng
do sự tồn tại của các yếu tố cuối câu, nhưng vẫn không lấn át được sức mạnh ngữ
âm của chúng. Mỗi một dòng thơ tiếp theo đều được bắt đầu bằng cách lặp lại yếu
tố (từ, ngữ) ở dòng trước nó, tạo nên độ dày đặc về âm thanh, và theo cách này, nó
tác động đến người đọc bằng độ vang, mạnh của âm thanh mà còn bằng ý nghĩa từ
vựng của các yếu tố được lặp lại nhiều lần. Có thể cảm nhận điều này ở một đoạn
thơ khác:
tr.820]
Hôm qua đàn cháu ra đời Ngày mai đàn cháu hát cười tự do Hôm qua đói rét ngục tù Ngày mai tươi sáng ấm no đời đời Hải Phòng cuồn cuộn dâng như biển Giặc Pháp mang thêm tội giết người Hải Phòng cuồn cuộn dâng như biển Đứng dậy hôm nay ở lớp người! [Trần Huyền Trân – Hải Phòng 19.11.1946, 188,
Hiện tượng trùng điệp như vậy hoàn toàn không thể xảy ra đối với thơ ca cổ
điển, nó sẽ bị xem là vụng về, khó chấp nhận. Nhưng ở đây, nó có ý nghĩa tích cực
vì đã tạo nên một sức hút của một bầu không khí quyết liệt, cái khí thế vũ bão của
cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Âm hưởng trùng điệp, ào ạt của những dòng thơ ấy
có sức hút người đọc rất mạnh.
Ta thường thấy hiện tượng trùng điệp xuất hiện nhiều hơn hết trong các
sáng tác thơ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ và thơ hôm nay - sau 1975.
Phải chăng âm vang của cuộc sống mới tạo cho các nhà thơ niềm hăng say, sôi nổi,
nhiệt tình và muốn chuyển hết vào thơ ca? Phải chăng cách diễn đạt này giúp các
nhà thơ thể hiện tốt hơn cái "ta" của thời đại với niềm vui sướng, hân hoan nhất?
Bên cạnh trùng điệp ở vị trí đầu câu, điệp ở giữa hoặc cuối câu cũng tạo nên những
âm vang mạnh mẽ. Nó giúp nhà thơ truyền đến công chúng niềm hân hoan vui
sướng, tự hào đang trào dâng trong lòng:
- Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa... [Nguyễn Đình Thi - Đất nước, 188, tr.377] Và còn kéo chúng ta say sưa tin tưởng vào ngày toàn thắng của dân tộc: -Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh [Phạm Tiến Duật - Lửa đèn, 188, tr.150]
Nếu như điệp gián cách tạo nên những nhịp điệu nhất định, khiến câu thơ
tăng thêm độ nhịp nhàng lôi cuốn thì điệp liên tiếp có nét độc đáo của nó. Nó nhấn
mạnh mà không cần ý tứ, e ngại, nó thẳng thừng nhắc lại, bắt người đọc phải nghe
thấy nó, nghĩ đến nó:
- Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm Sách giấy giở tung trắng cả rừng chiều! Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều Những con đường tình yêu mới mẻ... (...)Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa Thương em, thương em, thương em biết mấy! [Phạm Tiến Duật - Gửi em, cô thanh niên xung phong, 66, tr.56, 57] - Phan Thị Mai, Phan Thị Mai, cả tấm hình hài Đang thắp sáng bằng lửa hờn dân Việt (...)Phan Thị Mai, Phan Thị Mai Chị ngã xuống rồi triệu người xao xuyến
(...)Phan Thị Mai, Phan Thị Mai Chị ngã xuống rồi, triệu lòng u uất Và rùng rùng dân tộc đứng lên theo [Trần Quang Long – Phan Thị Mai, 103, tr.202]
Trùng điệp trong thơ đôi khi được nhà thơ dùng như một phản xạ thẩm mỹ
tự nhiên, nhưng đôi khi hình thức nghệ thuật này được nhà thơ sử dụng một cách có
chủ ý. Bài thơ tình ở Hàng Châu của Tế Hanh được viết theo kết cấu trùng điệp.
Ngay từ những dòng đầu tiên, nhà thơ đã dắt người đọc vào tâm trạng nhớ thương
quay quắt:
- Anh xa nước nên yêu thêm đất nước Anh xa em càng nhớ thêm em (…)Một ít vàng trong nắng trong cây Một ít buồn trong gió trong mây Một ít vui trên môi người thiếu nữ… [Tế Hanh – Bài thơ tình ở Hàng Châu, 188, tr.164]
Rồi đến giữa bài thơ, trong tâm trạng hồi tưởng về quá khứ, kỷ niệm hiện
lên tiếp nối kỷ niệm như những đợt sóng trào dâng, dào dạt ngân lên bằng những
điệp từ:
- Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy Có núi sông và có trăng sao Có giận hờn và có chiêm bao Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến (…) Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi [Tế Hanh – Bài thơ tình ở Hàng Châu, 188, tr.165]
Tình yêu cách chia và nỗi khắc khoải về người yêu được ẩn sau hình ảnh hai
nửa vầng trăng của Hoàng Hữu. Bài thơ cũng có kết cấu trùng điệp với hiện tượng
lặp các từ "vầng trăng", "trăng", "một nửa" và " nửa" với mật độ dày đặc. Bài thơ
có 21 câu, nhưng có đến 5 "vầng trăng", 13 "trăng", 4 "một nửa", 3 "nửa". Đây quả
là một hiện tượng trùng điệp có chủ ý tạo nghĩa của nhà thơ. Tràn ngập bài thơ là
"trăng" nhưng trăng không viên mãn mà cứ chập chờn hư ảo. Bằng cách này,
Hoàng Hữu đã "mê hoặc" người đọc bằng cõi không gian huyễn hoặc của trăng, của
tình yêu và bằng cả cái tứ thơ "một nửa" "vầng trăng" nằm ở hai đầu nỗi nhớ:
"Trăng vẫn đấy mà em xa quá, Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên?" [Hoàng Hữu –
Hai nửa vầng trăng, 188, tr.202]. Vầng trăng, tình yêu và nỗi nhớ đã tác động mạnh, đã
trở thành nỗi ám ảnh của rất nhiều độc giả sau khi đã đọc thơ Hoàng Hữu.
Không dừng lại ở hiện tượng điệp âm, điệp từ, điệp ngữ, nhiều nhà thơ còn
xây dựng kiểu kết cấu vòng. Trong bài thơ Gạch vụn thành Vinh, nhà thơ Thạch
Quỳ dùng câu hỏi: "Có thành phố nào như thành phố này không?" [188, tr.351, 352]
để mở đầu và sau đó dắt người đọc vào một vùng quê hương hoang tàn vỡ nát, tất
cả chỉ còn là những đống gạch vụn. Thành phố Vinh đau thương mà dũng cảm, kiên
cường trong bom đạn giặc thù lần lượt hiện lên. Ấn tượng được tô đậm thêm khi
cuối bài thơ, nhà thơ cũng kết thúc bài thơ bằng câu hỏi "Có thành phố nào như
thành phố này không?" [188, tr.352]. Câu hỏi lặp lại lần nữa như để nhắc lại lần nữa,
lần nữa nỗi đớn đau mất mát của thành phố này.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ru những em bé lớn trên lưng mẹ bằng
những khúc hát ngọt ngào, tha thiết: "Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho
ru những em bé lớn trên lưng mẹ, 188, tr.147]. Điệp khúc này được nhà thơ lặp lại đến 3
ngoan đừng rời lưng mẹ" và "Ngủ ngon a - Kay ơi, ngủ ngoan a - Kay hỡi" [Khúc hát
lần trong bài thơ dài 6 khổ tạo thành những nốt nhạc ngân vang, dìu dặt, khắc sâu
vào lòng người nghe. Những kiểu kết cấu trùng điệp như thế rất có hiệu quả thẩm
mỹ, nó nhắc đi, nhắc lại, xoáy sâu vào tâm trí ta một nỗi đau, một hình ảnh, một tâm
trạng…
Có thể khẳng định, trùng điệp được xem như một phương tiện diễn đạt mới
mẻ và hiệu quả trong thơ hiện đại. Ở tất cả các cấp độ trùng điệp: âm, từ, ngữ,
câu… và tất cả các vị trí, liên tục hay gián cách... đều có thể tạo nên âm vang mạnh
mẽ, da diết để tác động đến người đọc.
2.2.2 Nhịp điệu réo gọi
Nhịp điệu là yếu tố có khả năng tác động không nhỏ đến người đọc thông
qua sức mạnh âm thanh. Maiakovski cho rằng nhịp chính là “sức mạnh cơ bản, năng
lượng cơ bản của câu thơ” [46, tr.36]. Chính bản chất lặp đi lặp lại theo một khoảng
cách nhất định, có tính chu kỳ và bền vững của nhịp đã tạo nên sức chiếm lĩnh và
lôi cuốn mạnh mẽ cho thơ. Hiện nay, xu hướng thơ tự do và thơ văn xuôi ngày càng
lấn át thơ đều chữ, đẩy vần xuống vị trí sau và đưa nhịp lên phía trước. Mà kỳ thực,
đối với bất kỳ loại thơ nào, nhịp điệu cũng là một yếu tố quan trọng để tạo nên nhạc
tính, làm tăng sức tác động cho thơ.
Nhịp điệu bắt nguồn từ đời sống trước khi vào nghệ thuật. Đó có thể là tiếng
mái chèo khua trên sông, tiếng chuông đồng hồ, tiếng bước chân trên đường phố…
Nhịp thơ hình thành dựa nên trên cái nền của nhịp điệu cuộc sống và nhịp điệu tâm
hồn người sáng tác. Trong thơ, nhịp điệu là những tổ chức âm thanh đặc biệt đều
đặn, cân đối, nhịp nhàng, uyển chuyển được tạo ra từ cách kết hợp âm tiết như ngắt
nhịp, phối thanh, phối âm, trường độ, cường độ, tốc độ… Hiểu theo nghĩa hẹp, “chỗ
ngắt dòng trong thơ được xem là chỗ ngừng chủ yếu khi thơ được ngâm hay đọc.
Chỗ ngắt như vậy được gọi là chỗ ngừng giọng, ngắt giọng, ngừng nhịp, ngắt nhịp,
hoặc gọi thẳng là nhịp của thơ” [137, tr.38]. Nhịp thơ là một trong những yếu tố quan
trọng tạo nên tiết tấu, giai điệu, âm hưởng cho câu thơ và góp phần khu biệt thơ với
văn xuôi. Nhịp điệu giữ vai trò rất quan trọng trong việc biểu hiện và cảm thụ thơ
ca, là nhựa sống tạo nên chất nhạc cho thơ, tạo nên những tác động thẩm mỹ cho
độc giả khi đọc thơ. Nhà thơ không chỉ sử dụng nhịp điệu như một biện pháp tu từ
nghệ thuật để bộc bạch thế giới nội tâm của mình mà còn hướng đến việc tác động
đến cảm xúc của người đọc, réo gọi người đọc.
Bản thân âm thanh, nhịp điệu có khả năng gợi ra những điều mà từ ngữ
không thể diễn đạt hết, nó góp phần làm sáng lên những góc khuất tinh tế trong tình
cảm con người, đồng thời có khả năng tác động đến con người. Những trạng thái
cung bậc tình cảm có sự biến thiên tương ứng với cách ngắt nhịp trong thơ. Nhịp
tâm trạng khi buồn bã, khi mênh mang, khi nhộn nhịp náo nức… đều có thể được
nhà thơ thể hiện trong nhịp thơ. Vì thế, bên cạnh các yếu tố ngữ âm khác, thơ còn
lay động lòng người bằng nhịp điệu độc đáo của mình. Ấn tượng nhất, có sức tác
động mạnh nhất đối với người đọc có lẽ vẫn là những kiểu nhịp điệu mô phỏng từ
cuộc sống, những nhịp điệu lẻ, nhanh, mạnh, như dồn dục, như thôi thúc:
- Các anh về// Mái ấm/ nhà vui// Tiếng hát/ câu cười//
Rộn ràng/ xóm nhỏ// Các anh về// Tưng bừng/ trước ngõ// Lớp lớp/ đàn em/ hớn hở/ chạy theo sau// Mẹ già/ bịn rịn/ áo nâu// Vui đàn con/ ở rừng sâu mới về// [Hoàng Trung Thông – Bao giờ trở lại, 147, tr.578]
Đó là sự cộng hưởng, vỗ nhịp của tâm hồn con người từ niềm hân hoan, rộn
rã của cuộc sống bên ngoài. Những bài thơ cách mạng thiên về ngợi ca thường được
tạo nhịp theo cách này. Nhịp điệu đời sống là cơ sở để nhà thơ tạo nhịp cho thơ.
Nếu có ý thức tác động mạnh vào cảm xúc của độc giả, nhà thơ sẽ tạo nên những
nhịp ngắt ngắn, lẻ, bởi nó biểu hiện cho những điều bất trắc, éo le, nghiệt ngã, trái
ngược với nhịp chẵn vốn là nhịp điệu tự nhiên trong lời nói của người Việt, đã trở
nên quen thuộc và là cái nền của tình cảm nhẹ nhàng, của cuộc sống bình yên.
Hoàng Cầm trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" đã thể hiện được nỗi đau thương,
tức tưởi trước cảnh quê hương bị giày xéo dưới gót giày xâm lược bằng những nhịp
điệu đứt quãng, rời rạc:
- Quê hương ta/ từ ngày khủng khiếp// Giặc kéo lên/ ngùn ngụt/ lửa hung tàn// Ruộng ta khô// Nhà ta cháy// Chó ngộ một đàn// Lưỡi dài/ lê sắc máu// Kiệt cùng/ ngõ thẳm/ bờ hoang// Mẹ con/ đàn lợn âm dương// Chia lìa/đôi ngả// Đám cưới chuột/ đang tưng bừng/ rộn rã// Bây giờ/ tan tác/ về đâu?// [Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống, 147, tr.219]
Nhà thơ Hoài Vũ thì lôi cuốn người đọc về miền quê thân yêu của mình
bằng những nhịp điệu tha thiết, dạt dào tình yêu thương. Cái nền nhịp lẻ trong toàn
bài thơ tạo sức sống mạnh mẽ, quyết liệt cho những tình cảm trong sáng và ý chí
quyết tâm bảo vệ quê hương:
- Ơi Vàm Cỏ Đông!/ Ơi con sông// Nước xanh biêng biếc/ chẳng thay dòng// Đuổi Pháp đi rồi,/ nay đuổi Mỹ// Giặc đi đời giặc,/ sông càng trong...//
Vàm Cỏ Đông đây,/ ta quyết giữ// Từng chiếc xuồng,/ tấm lưới,/ cây dầm// Từng con người/ làm nên lịch sử// Và dòng sông/ trong mát quanh năm// [Hoài Vũ – Vàm Cỏ Đông, 147, tr.664]
Những nhịp thơ ngắn, rắn rỏi tồn tại như như một cách phá vỡ sự nhịp
nhàng đơn điệu để tạo tính đột xuất và thiết lập một sự hài hoà mới. Sẽ rất dễ tác
động đến độc giả nếu một đoạn thơ, một câu thơ phần lớn thường gồm những nhịp
ngắn hoặc bằng những tiếng có thanh điệu cao. Phan Bội Châu cũng đã sử dụng
nhịp điệu khẩn trương, nhịp nhàng để đánh thức, để giục giã nhân dân:
- Dậy!/Dậy/ Dậy!// (…) Đi cho êm/, đứng cho vững/ trụ cho gan// Dây đoàn thể/ quyết/ ghe phen/ liên hiệp lại// [Phan Bội Châu – Bài ca chúc Tết thanh niên, 17, tr.547]
Và rõ ràng, nhịp điệu gấp rút là nhịp dành cho lời thúc giục, nên sức tác
động của nó rất cao:
- Đi nhanh,/ đi nhanh// Chiến trường/ đang giục// Đầy núi,/ đầy sông// Đèn ta/ đã mọc// [Chính Hữu – Ngọn đèn đứng gác, 147, tr.368]
Trong thơ cách mạng, nhịp thơ rất phong phú, đa dạng. Các nhà thơ sử dụng
linh hoạt các kiểu diễn đạt sao cho khả năng chuyển tải đạt đến mức tối ưu. Thành
công của lời kêu gọi trong bài thơ của Hồ Chí Minh ở chỗ nhà thơ đã kết hợp nhuần
nhuyễn các biến đổi linh loạt, cách mô phỏng nhịp điệu từ cuộc sống, và cả cách
ngắt nhịp ngắn, tạo nên sức tác động mạnh đến người đọc:
- Ào,/ào,/ ào…// Ào,/ ào,/ ào…// Già nào// Trẻ nào// Lính nào// Dân nào// Đàn ông nào// Đàn bà nào// Kẻ có súng/ dùng súng// Kẻ có dao/ dùng dao// Kẻ có cuốc/ dùng cuốc// Người có cào/ dùng cào//
Thấy Tây/ cứ chém phứa// Thấy Nhật/ cứ chặt nhào…// [Hồ Chí Minh – Bài ca du kích, tr.126]
Đoạn thơ, và cả bài thơ có nhịp điệu tăng dần, vươn dần lên cao điểm. Nó
nhanh và mạnh mẽ như một cơn lốc, cuốn người đọc vào không khí sôi nổi, khẩn
trương của những ngày toàn quốc kháng chiến nên nó có sức tác động mạnh đến
người đọc. Trong xu hướng đó, càng về sau, các nhà thơ càng cố công làm cho nhịp
thơ giãn nở, sáng tạo nên những biến nhịp, biến thanh bất thường, tạo nên những
hiệu quả mới, sức sống mới cho thơ. Sự sáng tạo, phá cách về nhịp điệu trong nhiều
trường hợp đã tạo ra những điểm nhấn nghệ thuật, tạo nên cảm giác mạnh mẽ trong
lòng người khi đọc:
- Hòa bình về/ trong trái tim người// Như/ sự sống/ một lần trở lại// Hòa bình /khởi công// Hòa bình/ vùng dậy// Hòa bình/ ấm no độc lập// Hòa bình/ thống nhất/ muôn nơi// [Ngô Kha - Trường ca hòa bình, 187, tr.89]
Trong bầu không khí tiến công như vũ bão của cách mạng Việt Nam, nhiều
bài thơ đã ra đời với những nhịp điệu sôi sục như vậy. Nhịp điệu bao trùm bài thơ là
nhịp thở, nhịp tim của tuổi trẻ, của tất cả những người cầm tay súng tay đao hướng
tới kẻ thù. Nhất là giữa những ngày tháng nóng bỏng chiến sự ấy, tác dụng kêu gọi,
thúc giục của nó như càng mạnh thêm lên:
- Con sẽ vót nhọn thơ/ thành chông// Xuyên vào/ gan lũ giặc// Con sẽ mài thơ/ như kiếm sắc// Chặt đầu/ văn nghệ/ tay sai// (...) Trái tim con/ là rừng/ là núi// Là lúa/ là ngô/ là cam/ là bưởi// Là/ quá khứ,/ là/ tương lai// Là/ khổ đau,/ là/ hạnh phúc// Là/ đấu tranh,/ là/ bất khuất// [Trần Quang Long – Thưa Mẹ, trái tim, 103, tr.54]
Khi đọc thơ tự do, mặc dù số tiếng trong câu và số câu trong bài thơ dài
ngắn đan xen, không theo khuôn khổ và mặc dù vị trí các vần được gieo cũng không
cố định nhưng chúng ta vẫn nghe thấy chất thơ uyển chuyển, nhịp nhàng. Đó là nhờ
sức mạnh của nhịp thơ. Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, thi ca cũng hình
thành cho riêng mình nhạc tính như là một đặc trưng của thể loại mà "thậm chí khi
lời, ý dở, nhà thơ vẫn quyến rũ người nghe bằng nhịp điệu và sự cân đối" [8, tr.119].
Bên cạnh đó, những thể thơ đều chữ (4 chữ, 5 chữ, 7 chữ hoặc 8 chữ), thơ
lục bát có nhịp ngắt cân đối, đều đặn như vậy ngỡ như không có gì đặc biệt, nhưng
thật ra nó cuốn người đọc vào cái nền nã, mềm mại, thanh thoát. Không phải cứ
phải nhanh, mạnh mới tạo nên chấn động trong lòng người mà đôi khi những thanh
âm dìu dặt, nhịp nhàng êm ái vẫn có sức cuốn hút của riêng mình:
- Nhớ bản sương giăng,/ nhớ đèo mây phủ// Nơi nào qua,/ lòng lại chẳng yêu thương?// Khi ta ở,/ chỉ là nơi đất ở// Khi ta đi/ đất đã hóa tâm hồn!// Anh bỗng nhớ em/ như đông về nhớ rét// Tình yêu ta/ như cánh kiến hoa vàng// Như xuân đến/ chim rừng lông trở biếc// Tình yêu làm đất lạ/ hóa quê hương!// [Chế Lan Viên – Tiếng hát con tàu, 147, tr.878] - Anh yêu em/ như anh yêu/ đất nước Vất vả/ đau thương/ tươi thắm/ vô ngần// Anh nhớ em/ mỗi bước đường/ em bước// Mỗi tối anh nằm/ mỗi miếng anh ăn// [Nguyễn Đình Thi – Nhớ, 188, tr.720]
Nó cuốn người đọc bằng cái dạt dào, say sưa lay động của chất nhạc bên
trong tâm hồn nhà thơ.
Tóm lại, sự hình thành nhịp cho mỗi bài thơ không hẳn phụ thuộc vào quy
định nhịp của từng thể thơ mà tùy thuộc vào nhịp điệu của cảm xúc người sáng tác.
Nhịp thơ chính là bản điện đồ nhịp sống và nhịp tâm hồn nên tính tương đối ổn định
của nhịp trong từng thể loại thơ dễ bị phá vỡ, câu thơ thường xuyên đổi nhịp. Người
làm thơ bao giờ cũng có ý thức cao về giá trị của nhịp và xem nhịp là bước đi của
thơ. Nhịp điệu chậm rãi để kể, để tả, để ru hồn người, nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn
dập để giục giã, để lôi cuốn lòng người. Khi ý thức điều đó và tận dụng sức mạnh
của nhịp, nhà thơ có thể dùng nhịp điệu của thơ như một phương tiện hữu hiệu để
réo gọi độc giả, để cuốn độc giả vào thế giới cảm xúc của mình.
2.2.3 Vần thơ và âm điệu du dương, gợi cảm
Trong các yếu tố tạo nên nhạc tính cho thơ, vần góp phần không nhỏ. Vần
trong thơ được tạo nên nhờ sự lặp lại các khuôn vần giữa các âm tiết trên các dòng
thơ theo những quy luật phối âm nhất định và giữ vai trò liên kết các dòng thơ hoặc
nhấn mạnh sự ngừng nhịp... Vần thơ có vai trò liên kết, nó khiến người ta quay trở
lại với dòng thơ trước - nơi mà khuôn vần đã xuất hiện lần thứ nhất. Vần cũng là
yếu tố tác động đến người đọc về mặt âm thanh bởi nó được gieo ở các tiếng cuối
nhịp, lại là tiếng mang âm lượng nặng nhất và có trường độ dài nhất trong dòng thơ.
Vì vậy, những âm tiết mang vần là trọng âm, là điểm nhấn nghệ thuật, là những
tiếng thường được người đọc chú ý nhất khi đọc lên.
Ấn tượng mà vần đem đến cho người đọc là cảm giác khoan khoái, "hứng
thú như ngậm âm nhạc trong miệng" [22, tr.284]. Đọc những câu thơ có vần, có điệu,
người đọc cảm thấy như đang hát, như đang hòa điệu cùng thơ. Tận dụng điều này,
các nhà thơ thường vận dụng linh hoạt nhiều loại vần khác nhau trong tiếng Việt để
tạo nên âm hưởng riêng cho thơ mình. Khi có nhu cầu tác động, vần cũng hiển
nhiên trở thành phương tiện biểu đạt hiệu quả.
Phổ dụng nhất là hiệp vần chân và vần chính. Kiểu vần này có khả năng tạo
nên độ vang vọng cao nhất cho thơ. Vần chính là hiện tượng hai âm tiết trùng nhau
hoàn toàn phần vần: xa, ca, nhà, ta… Vần chân là hiệp ở các tiếng cuối dòng. Kết
hợp hai kiểu vần này, độ hòa âm của bài thơ sẽ cao hơn, nhạc thơ giàu xúc cảm hơn
và dễ tác động đến độc giả hơn:
tr.221]
- Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp bên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu? Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh,mái đầu bạc phơ…[Hoàng Cầm - Bên kia sông Đuống, 147,
Chúng ta có vốn ngôn ngữ đơn âm nhưng đa thanh, nên câu thơ Việt của
chúng ta vừa cô đọng vừa giàu nhạc điệu. Ngôn ngữ thơ càng tinh vi, điêu luyện, có
giá trị biểu cảm cao, có sức gợi tả đặc biệt thì càng tạo nên những liên tưởng phong
phú, sinh động trong tâm trí của người đọc. Trong thơ, các âm tiết được hiệp vần
bật lên tựa như những nốt nhạc ngân lên từ một chiếc vĩ cầm. Vì vậy mà nhiều nhà
thơ sử dụng vần như một phương tiện ngữ âm để tác động vào cảm giác của độc
giả.
Muốn âm hưởng thơ có độ vang dội vào lòng người mạnh mẽ hơn, các nhà
thơ chọn những âm hiệp vần có độ vang: a, ơi, ôi, an, ang, ương, anh… và các
thanh đi kèm là những thanh bằng, giàu sức lan tỏa. Kiểu vần này phù hợp với
những tâm trạng vừa mạnh mẽ vừa da diết, mênh mang:
- Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi. [Quang Dũng - Tây Tiến, 188, tr.116] - Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm ngát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa... [Nguyễn Đình Thi - Đất nước, 147, tr.568]
Ngược lại, muốn tạo cho người đọc cảm giác về sự trúc trắc thì những âm
hiệp vần được chọn thường là những âm khép: iu, oăt, ep, âp, ăp, ât, ăt…và mang
thanh trắc. Những vần này rất phù hợp để diễn đạt những tình huống hiểm nghèo,
éo le, đau đớn đến khó thốt thành lời:
- Khóc anh không nước mắt Mà lòng đau như cắt Gọi anh chửa thành lời Mà hàm răng dính chặt [Hoàng Lộc - Viếng bạn, 147, tr.431] - Chỗ cây cau kê vại nước ngọt giờ thành hố bom Nơi góc sân lũ trẻ chơi ô quan cày lên bởi một chùm rốc - két Một bức tường vỡ đôi nồng khét Một bức tường vỡ đôi… [Trần Nhật Thu - Một bức tường vỡ đôi, 147, tr.592]
So với kiểu hiệp vần thông hoặc vần lưng thì hiệp vần chính và vần chân
giúp cho vần phát huy mạnh nhất khả năng tác động ngữ âm của ngôn ngữ. Sự lặp
lại 2 hoặc 3 lần một vần trong khổ thơ sẽ tạo nên sự dìu dặt, du dương của âm, đồng
thời âm hiệp vần lại nằm ở âm tiết đứng cuối dòng, có nghĩa là cuối nhịp thơ càng
khiến cho thơ trở nên nhịp nhàng và vang xa hơn.
Vần trong thơ ngày càng đa dạng hơn, vần được gieo không bắt buộc nhất
thiết phải nằm ở vị trí cố định nào. Số âm tiết trong thơ tự do nên vị trí của vần cũng
tự do hơn. Số lượng từ có các vần hiệp với nhau ngày càng nhiều và các vần hiệp ở
nhiều vị trí khác nhau: vần chân, vần lưng và vần thông.
Tuy nhiên, “thơ ca muốn được như dàn nhạc, không phải nhờ ở vận mà nhờ
cả ở âm. Âm có thích hợp thời thơ mới có ảnh hưởng, đọc lên mới có thể thành điệu
ngâm” [81, tr.33]. Âm ở đây là âm điệu, là sự phối hợp luân phiên các thanh điệu của
âm tiết về đường nét (Bằng: ngang, huyền – Trắc: hỏi, ngã, nặng, sắc) và âm vực
(Cao: ngang, ngã, sắc – Thấp: huyền, hỏi, nặng) để tạo nên độ trầm bổng, du dương,
phù hợp với nội dung mà tác giả muốn diễn đạt. Thanh điệu của thơ có thể tác động
đến độc giả bằng cao độ trầm hay bổng đó.
Sự đối lập về đường nét cũng như về âm vực của ngôn ngữ Việt Nam đã
đem lại cho thanh điệu sự hòa âm tuyệt vời cho thơ. Sự tập trung nhiều thanh bằng
hoặc nhiều thanh trắc trong thơ sẽ tạo nên những điểm nhấn nghệ thuật ấn tượng.
Những tiếng mang thanh trắc thường nặng nề hoặc réo rắt, biểu hiện sự trục trặc,
tạo cảm giác bất trắc, không bình yên, xáo trộn, tan vỡ. Nếu tập trung nhiều thanh
trắc trong một đoạn, một câu thơ sẽ tạo nên hiệu quả thẩm mỹ mạnh mẽ cho người
đọc. Cho nên, khi muốn tác động vào người đọc những nội dung ý tưởng mạnh mẽ,
quyết liệt, nhà thơ thường sử dụng luân phiên nhiều âm tiết cao, thanh trắc để tạo
nên giai điệu không ổn định, thất thường:
- Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ, bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người! [Quang Dũng – Tây Tiến, 188, tr. 157]
Đôi khi, nhà thơ phối hợp nhiều âm tiết mang thanh bằng - trắc trong một
dòng, một đoạn thơ không câu nệ bổng trầm mà tuân theo quy luật tự nhiên của lời
nói. Chính hiện tượng này tạo cho người đọc cảm giác dễ chịu như đang được nghe
nhà thơ trò chuyện, tâm tình những lời gan ruột:
- Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn! Trái cây rơi vào áo người ngắm quả, Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn, Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn… Cha ông ta từng đấm nát tay trước của cuộc đời, Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa… [Chế Lan Viên – Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?, 147, tr.648] - Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ Không cho ai có thể lạnh tanh Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ Như vết xước của trái tim Sau bài hát rồi em lặng im Cái lặng im rực màu hoa đỏ Anh biết mình vô nghĩa đi bên em [Thanh Tùng – Thời hoa đỏ, 147, tr.626]
Chính cái thanh điệu tự nhiên lên xuống, trầm bổng ấy tác động đến tình
cảm của người đọc. Nó mang lại cho người đọc cảm giác gần gũi, thân thiết như thể
đang "đọc" chính mình, không câu nệ, không trau chuốt… thông thường, âm điệu
trong một bài thơ cũng biến đổi tùy theo đoạn thơ, tùy theo nội dung ý nghĩa mà
nhà thơ điều chỉnh sự phối âm cho phù hợp. Thú vị nhất là khi người đọc đang
thuận tai vì những âm điệu du dương, đang thoải mái thẩm thấu cái âm hưởng ấy thì
bất ngờ vấp phải sự gồ ghề trục trặc của con chữ khiến tất cả bỗng khựng lại, cảm
xúc đang trôi bị vướng lại, vướng lại và buộc họ nên nó tạo được sự chú ý của
người đọc.
Ngược lại, câu thơ có nhiều thanh bằng thường gợi cảm giác êm đềm, hài
hòa, nhẹ nhàng, không gian được mở rộng ra, thời gian như kéo dài hơn. Muốn tác
động đến người đọc những cảm xúc ngọt ngào, tinh tế, thơ thường tận dụng những
âm điệu của thanh bằng, hoặc âm vực thấp:
- Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy [Nguyễn Đình Thi – Đất nước, 147, tr.567] - Triền đê xanh Bờ cỏ gió xanh xanh Sắc áo ấy cũng màu xanh với gió Hoàng hôn tím buông dài lối nhỏ Hương tóc thơm Thơm mãi tới bây giờ. [Phạm Sĩ Đại – Gió bờ sông, 188, tr.182]
Cũng như nhịp, âm điệu thơ cũng có khả năng mô phỏng, hình tượng hóa
đối tượng được miêu tả. Hòa âm thường xuyên thay đổi sẽ làm cho giai điệu trở nên
căng thẳng, không ổn định và ngược lại, nếu hòa âm ít thay đổi thì giai điệu có tính
dàn trải, êm ả. Vì thế mà thanh điệu có vai trò và vị trí rất quan trọng trong thơ ca.
Nhà thơ là người có khả năng biến cái nhạc điệu phong phú của Tiếng Việt thành
sức mạnh, thành vũ khí sắc bén cho thơ Việt Nam. Giữa âm điệu và nội dung biểu
đạt luôn có mối tương quan. Âm điệu trong thơ thể hiện khả năng vận dụng linh
hoạt các con chữ giàu âm thanh và phong phú về nghĩa của nhà thơ, sao cho có thể
tạo nên những vần thơ sâu sắc về nội dung và hấp dẫn, du dương về âm sắc, khiến
người ta phải hứng thú đọc đi đọc lại để "thẩm âm" và đắc chí. Những nhà thơ lớn
của Việt Nam rất biết cách tận dụng điều đó để thu hút sự chú ý của công chúng và
giúp cho thơ trụ được với thời gian.
2.3 Những kiểu hình ảnh tác động mạnh
Tư duy hình tượng cảm tính giữ vai trò quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật
khiến cho hầu hết các tác phẩm nghệ thuật đều giàu chất tạo hình và biểu cảm. Khi
sáng tác thơ, thông qua khả năng sử dụng ngôn ngữ khéo léo kết hợp với hư cấu,
tưởng tượng, nhà thơ xây dựng những hình ảnh có sức khái quát cao, lung linh,
sống động và độc đáo. Hình ảnh trong thơ khác với hình ảnh bên ngoài bởi sức
truyền cảm mạnh mẽ, sức thức tỉnh tư tưởng lớn lao, ở khả năng lôi cuốn con người
tham gia vào đời sống xã hội. Nó tác động mạnh đến độc giả bởi độ mãnh liệt, sự đa
nghĩa lẫn sự kỳ ảo phi lý tính. Nhờ những đặc điểm đó, ở một mức độ nhất định, nó
đã trở thành phương tiện để nhà thơ tác động đến độc giả, truyền gửi đến họ những
lý tưởng, những suy tư, những cảm xúc buồn vui đối với cuộc đời.
2.3.1 Hình ảnh phóng đại và cường điệu
Bielinsky từng viết: "Nhà thơ được vũ trang bằng các hình vẽ sống động và
sắc sảo về hiện thực, trình bày trong một bức tranh trung thực để tác động vào trí
tưởng tượng của người đọc" [92, tr.129]. Với vũ khí lợi hại đó, nhà thơ có khả năng
khiến người đọc phải cảm động, tê mê, phải sợ hãi, kinh hoàng, run rẩy, rơi lệ hay
căm hờn (chữ dùng theo Diderot). Bằng cách sử dụng những hình ảnh một cách
hiệu quả, nhà thơ có thêm một cách tác động ấn tượng đến độc giả.
Bằng hình ảnh, phải làm sao khêu gợi vào cảm xúc, đánh vào tư tưởng, lý trí
của độc giả để họ nghĩ, họ nhớ, họ ám ảnh không quên. Nghĩa là, nhà thơ phải miêu
tả hình ảnh vừa là nó, vừa không phải là nó, vừa gợi ra một cái gì đó lớn lao hơn,
mạnh mẽ hơn. Hình ảnh trong nghệ thuật và thơ ca không bó hẹp, lạnh lùng chính
xác như khách thể trong cuộc sống, vì thế nó cho phép nhà thơ vượt ra ngoài ranh
giới đó, có thể cường điệu, phóng đại để gây sững sờ, gây căm phẫn cho độc giả.
Trong lịch sử thơ ca Việt Nam, không ít các thời kỳ thơ ca phát triển rực rỡ từ giữa
lúc dân tộc đang ngùn ngụt khí thế tiến công vào kẻ thù xâm lược. Lúc ấy, thơ ca
ngợi tình yêu nước, khơi dậy lòng căm thù giặc trong nhân dân, hình ảnh trong thơ
vì thế cũng mạnh mẽ như bão táp thời đại. Có thể nói, không ở dòng thơ nào hình
ảnh phóng đại được sử dụng nhiều như trong thơ ca yêu nước. Từ cổ chí kim, tùy
thể loại khác nhau, ngôn ngữ và giọng điệu, cấu trúc câu thơ có thể thay đổi nhưng
kiểu hình ảnh để ngợi ca, để khẳng định sức mạnh của dân tộc trong cuộc chiến với
kẻ thù thì vẫn được các nhà thơ tái hiện theo phương thức phóng đại, cường điệu.
Nó có tác dụng tô đậm thêm vẻ đẹp ấy, nó thúc mạnh vào lòng người những cảm
xúc tự hào về dân tộc và thương mến đồng bào.
Trong thơ trung đại, các nhà thơ thường tô đậm vẻ đẹp những dáng vóc hiên
ngang của tráng sĩ và sức mạnh vũ bão của toàn quân:
- Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu, Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu [Phạm Ngũ Lão - Thuật hoài, 89, tr.153]
- Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói Trận đánh được thua chửa phân Chiến lũy Bắc Nam chống đối Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ Bầu trời đất chừ sắp đổi…[Trương Hán Siêu Bạch Đằng Giang phú, 89, tr.5]
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng từng tác động mạnh vào trái tim
người dân Việt Nam bằng những hình ảnh ấn tượng về nỗi cơ khổ của nhân dân:
- Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế, Gây binh kết oán trải hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. [Bình Ngô đại cáo, 89, tr.17]
Cuộc tiến công thần thánh của quân dân ta lẫn sự thất bại thảm hại của quân
thù được Nguyễn Trãi khắc đậm vào lòng người bằng những hình ảnh ấn tượng:
- Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh (…) Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm... [Bình Ngô đại cáo, 89, tr.19]
Trong thơ hiện đại, truyền thống ấy càng được phát huy mạnh mẽ. Những
mất mát hy sinh trong cuộc chiến là vô số kể, là vô cùng. Những bài thơ ngợi ca,
biểu dương những người dân Việt Nam hiền lành nhưng bất khuất hiên ngang hầu
hết không phải là những bản tuyên dương thành tích một cách trang trọng. Các nhà
thơ thời kỳ này đã kịp ghi lại những hình ảnh ấn tượng nhất, gợi cảm nhất về họ.
Nhiều nhà thơ không ngần ngại khẳng định, ngợi ca bằng những hình ảnh thơ hừng
hực lửa tiến công. Điều này tạo nên một lực không nhỏ, cuốn người đọc vào cùng
cái cảm giác mạnh mẽ đó. Có nghĩa là nó có thể khiến người đọc mạnh theo với khí
thế đó, vui theo niềm vui đó, đi theo đường đi đó:
tr.179]
- Chúng con đi những dòng sông chảy xiết Chúng con đi rung từng trận gió rừng Cả thế hệ xoay trần đánh giặc Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua bưng [Thanh Thảo - Những ngôi sao của mẹ, 66,
Nó tác động mạnh đến độc giả bởi độ mãnh liệt, cũng tác động đến độc giả
những cảm xúc về một điều gì đó lớn lao, cao cả, thiêng liêng trong từng hành
động, từng suy nghĩ của con người trong thơ:
- Dậy sấm sét rung rinh bè quân chủ Sóng cách mạng ào ào trong vũ trụ Chớp lửa lòng sáng rực ánh tương lai! [Nguyễn Nghiêm - Hãy xốc tới, 179, tr.73] - Mỗi bài thơ cả một rừng biểu ngữ Vạn lời hô cứu nước dội non sông [Hoàng Văn Trương - Dòng máu đỏ, 153, tr.356] - Đường con đi Tổ Quốc mai sau Ngày độc lập phương Đông hồng một cõi Dưới bóng cờ hiên ngang con của Mẹ Cùng anh em đi dựng mặt trời [Lê Gành - Mười năm, con đã lớn, 153, tr. 113] - Cuộc đời tôi, không! Cuộc đời chung! Nở khắp đường đi những đóa hồng Đường nở tương lai tràn ánh sáng Như ánh sao vàng đăm đắm trông. [Trần Quang Long - Huế ơi, 103, tr.216]
Và đôi khi, từ một hình ảnh khác thường trong cuộc sống, nhà thơ đã tạo
nên những vần thơ có sức mạnh phi thường:
- Bé vào tù ngày chưa được nằm nôi Như chú chuột con đỏ lòm trong tay Mẹ Ngục tù bắt em sống đời nô lệ Mẹ dạy em sức mạnh của quê hương Bằng bài ca xé nát những bức tường [Võ Quê - Cho người bạn tù sơ sinh, 153, tr.262]
Trong đời sống, hình ảnh tồn tại khách quan nên mức độ tác động của chúng
tùy thuộc vào sự cảm nhận của mỗi người, nhưng khi đi vào thơ, thông qua cách thể
hiện độc đáo của nhà thơ, các hình ảnh ấy như được chắp thêm sức mạnh. Bởi vì
khi sáng tác, nhà thơ luôn có xu hướng tạo nên những hình ảnh giàu tính biểu cảm
để tác động đến độc giả. Xu thế này càng khiến cho thơ tăng thêm khả năng lay
động lòng người.
2.3.2 Hình ảnh kỳ ảo, phi lý hấp dẫn người đọc
Goethe từng cho rằng bài thơ nói chung hợp lý nhưng lại phải hơi phi lý một
chút ở chỗ nào đó. Chính yếu tố hơi phi lý ít ỏi, xen kẽ giữa các yếu tố hợp lý khác
to lớn hơn sẽ khiến bài thơ có sức hấp dẫn đặc biệt. Nếu tất cả đều đơn giản, thật thà
thì thơ sẽ trở nên thô vụng, không đủ sức hấp dẫn người đọc. Thật ra, yếu tố mà ta
gọi là phi lý trong thơ không phải là yếu tố hoang đường, thần bí mà chính là những
hình thức thể hiện từ quá trình nhận thức bằng duy lý và bằng trực giác của nhà thơ.
Mong muốn của người làm thơ là sáng tạo nên những bài thơ “vượt lên cái đã biết,
cái đã quen, cái đã thấy, nhà thơ cần cấu tạo nên những hình tượng độc đáo, những
vần thơ vi diệu, có màu sắc có âm thanh... nơi mà suy lý logic không phát hiện
được” [173, tr.79]. Chế Lan Viên từng khuyên các nhà thơ "đừng viết những câu thơ
khuôn hình văn phạm, như những cây thẳng quá chim không về", cũng là vì ông
muốn khẳng định vẻ đẹp độc đáo, kỳ diệu của thơ ca. Từ bao giờ, những yếu tố phi
lý đã trở thành một trong những biện pháp diễn đạt sinh động và có khả năng tác
động mạnh, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Chúng ta từng bắt gặp
những hình ảnh kỳ lạ, khó hiểu, khó giải thích nhưng lại rất hay, rất đẹp. Đó là kết
quả của quá trình nhà thơ sáng tác dựa trên một thoáng ấn tượng của trực cảm, vụt
lóe sáng như sao băng cho nên những ánh sáng lấp lánh của nó tự khắc cũng làm
cho thơ sẽ trở nên có cánh, có đủ khả năng tạo được sự nhập cảm, sức lan truyền
của bài thơ đối với người đọc. “Những hình ảnh kỳ lạ, phi lý tính ấy như có "ma
lực", "mê hoặc" làm cho người đọc thơ như chạm vào luồng điện, gây ấn tượng ám
ảnh trong tâm trí" họ [92, tr.366].
Thông thường, hình ảnh mang yếu tố phi lý thường xuất hiện trong thơ
nhiều hơn trong văn xuôi. Nó được hình thành nhờ vào trí tưởng tượng và trực giác
của nhà thơ. Trí tưởng tượng của nhà thơ càng phong phú và trực giác càng nhạy
bén thì càng có nhiều tứ thơ lạ, nhiều hình ảnh đẹp. Về phía người đọc, họ không
những chấp nhận mà còn hứng thú với những hình ảnh kỳ ảo, phi lý bởi vì nó vẫn
ấm nóng nguồn nhiệt từ cuộc sống đời thường. Sau mỗi hình ảnh đó là một tâm
trạng, một lời tự tình sâu sắc. Nhà thơ phải ở trong trạng huống bức xúc, "tâm
trạng" lắm mới tượng hình nên những hình ảnh mới mẻ, độc đáo, bất ngờ, phá cách,
phá vỡ logic thông thường. Hình ảnh ấy phần nào thể hiện được tính cách, tâm tình
của nhà thơ nên càng gây hứng thú cho độc giả nhiều hơn. Có nhiều hình ảnh thơ
hoàn toàn phi lý, phi thực tế nhưng lại thuộc hàng những hình ảnh đẹp, những câu
thơ độc đáo, nó thu hút người đọc, hấp dẫn người đọc bằng những hình thức tồn tại
khác thường trong những chiều kích lạ:
- Chiều nay… thương nhớ nhất chiều nay Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy Tôi uống cả em và uống cả Một trời quan tái, mấy cho say! [Nguyễn Bính - Một trời quan tái, 7, tr.119] - Một cộng với một thành đôi Anh cộng cô đơn thành biển Nắng tắt mà người không đến Anh ngồi rót biển vào chai [Thanh Sơn - Biển vắng, 188, tr.363]
Uống bóng người yêu và rót biển vào chai là điều hoang tưởng, nhưng nó lại
có sức tác động mạnh vào cảm giác của người đọc. Cảm giác ấy là có thật. Nó gợi
người ta liên tưởng đến cái muôn trùng biển, mênh mông buồn và nỗi cô đơn đặc
sánh trong tâm hồn người. Khó mà dửng dưng khi chạm phải những câu thơ hoặc
những hình ảnh lạ như vậy. Khi nhà thơ cố ý diễn đạt càng mơ hồ thì hiệu quả tác
động càng cao hơn, nó khiến người ta nhớ lâu hơn, nếu không muốn nói là sẽ nhớ
suốt đời. Với một nhà thơ, làm thơ như vậy đã là thành công.
Tố chất tài hoa tài tử của nhà thơ là một trong những nguyên nhân tạo nên
kiểu hình ảnh có yếu tố phi lý. Cái chất thơ ấy không thể gieo mà có, tìm mà gặp.
Khi gặp men nồng cảm xúc, nó tự bật ra những hình ảnh kỳ quái, khó hiểu. Các nhà
thơ Bùi Giáng, Thanh Lãng, Hàn Mặc Tử… thuộc típ nhà thơ thiên về địa hạt này.
Những dị biệt độc đáo trong thơ Hàn thường là Trăng, Hồn và Máu. Tài năng và
những cảm xúc thăng hoa trong cơn đau tột cùng của căn bệnh hiểm ác thường
xuyên mang đến cho thơ ông những hình ảnh siêu thực, nhưng tất cả đều là tuyệt
bút:
- Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? (…) Áo em trắng quá nhìn không ra [Đây thôn Vĩ Dạ, 188, tr.854] - Gió rít vầng trăng cao ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra. [Say trăng, 79, tr.161]
Các hình ảnh ở trạng thái như là không có thật, quá mức độ bình thường,
thậm chí gây cảm giác ghê sợ vì nó khiến người ta tưởng như nhà thơ đang mê
sảng, đang mộng mị. Kiểu hình ảnh này thường xuất hiện trong tác phẩm của các
nhà thơ theo trường phái tượng trưng. Tuy nhiên, về sau, việc sáng tạo nên các hình
ảnh mang yếu tố phi lý gây cảm giác kỳ ảo cho người đọc không chỉ thấy ở các nhà
thơ tượng trưng nữa mà nó lây lan qua các nhà thơ khác. Nhất là trong cảm hứng
ngợi ca đất nước, con người Việt Nam trong kháng chiến, trước những tấm gương
anh dũng, tuyệt vời của họ, nhà thơ như bị cuốn đi và viết nên những ngôn từ có
cánh, những hình ảnh bay bổng:
- Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng. Chợt thấy Anh giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công. [Lê Anh Xuân - Dáng đứng Việt Nam, 188, tr.912]
Khi đó là khi nhà thơ muốn khắc họa một hình ảnh, một vấn đề cụ thể bằng
một thoáng ấn tượng, trực giác, bằng cảm nhận siêu thực, bằng trái tim rung động
mãnh liệt không kiềm chế. Nếu dùng tư duy logic mà mổ xẻ, phân tích thì tưởng
như không thể chấp nhận, không thể hiểu vì nó vô nghĩa hoặc kỳ quặc. Nhưng nếu
dùng trực cảm để cảm nhận thì vẫn thấy nó hợp lý, nếu nhìn nhận chúng ở nét nghĩa
bên trong, ở những xung động thẩm mỹ ào ạt trong lòng nhà thơ. Vì thế mà hình
ảnh thơ đạt đến độ khác thường và gây tác động mạnh cho độc giả.
Những hình ảnh phi lý, kỳ ảo luôn mang đến cho người đọc những cảm giác
sâu đậm, khó phai:
yêu trùm lên khắp quê hương, 147, tr.517]
- Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên, vẫn nắng Ba Đình trong veo Người đem về năm trước Ta thề mang ánh nắng này đến nhà mẹ già ở tận chót Cà Mau Những biên đội không quân như hình ảnh dân tộc ta lượn quanh Người lớn vượt Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu. [Việt Phương – Muôn vàn tình thân
Thơ kháng chiến đã tận dụng khuynh hướng ngợi ca để xây dựng nên những
tượng đài nghệ thuật cho những con người Việt Nam anh dũng, kiên trung. Cảm
xúc thơ càng thăng hoa thì hình ảnh thơ càng bay bổng diệu kỳ. Trong thực tế,
người đọc bị tác động không nhỏ từ những hình ảnh kỳ lạ ấy. Một chút ghê rợn, một
chút kỳ ảo - nó như có ma lực hút người ta tư duy theo hướng đó, không cưỡng lại.
Đôi lúc nó khiến người ta tự hỏi phải chăng trời sinh ra nhà thơ và ban cho họ tài
năng để họ làm thơ và cũng để họ mê hoặc con người? Dù có nhà thơ có cả một sự
nghiệp chất ngất những tác phẩm, cũng có nhà thơ nổi tiếng chỉ với dăm bài, nhưng
độc giả nhớ đến họ thường không phải vì nhà thơ đó viết nhiều hay ít, mà vì họ nhớ
đến những câu thơ trác tuyệt hoặc những câu thơ thâm thúy khó phai mờ theo thời
gian. Người đọc luôn bị tác động khi bắt gặp những hình ảnh thơ tài hoa, độc đáo
như thế này:
- Bây giờ riêng đối diện tôi Còn hai con mắt khóc người một con [Bùi Giáng - Mắt buồn, 36, tr.160] - Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ Ở bên kia nhìn trở lại bên này [Bùi Giáng - Người đi đâu, 36, tr.41] - Biển trầm luân, sóng can qua Câu thơ mỏng mảnh mang ra làm chèo [Trần Huyền Trân, 155, tr.64] - Trái Đất ba phần tư nước mắt Đi như giọt lệ giữa không trung [Xuân Diệu, 155, tr.68] - Anh gọi hồn về nghiêng tháp bút Mở nguồn linh diệu nắng hoen mưa... [Hoàng Cầm, 155, tr.70] - Thoáng hiện em về trong đáy cốc Nói cười như chuyện một đêm mơ [Quang Dũng, 155, tr.71] - Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ Tươi như cánh nhạn lai hồng [Nguyễn Mỹ - Cuộc chia ly màu đỏ, 147, tr.453]
Khi đọc những câu thơ đó, người đọc sẽ thấy như mình đang bị huyễn hoặc,
đang bị dẫn dắt vào một vùng không gian kỳ ảo, đa chiều. Nó được gợi lên từ những
cảm giác không xác định rõ, những hình ảnh rất khó vẽ ra giấy nhưng lại có thể diễn
đạt được bằng ngôn ngữ thơ. Nó góp phần tạo nên phẩm chất đặc biệt của riêng thơ
và mang lại cho người đọc những cảm giác mới lạ. Nó đánh vào nhận thức và cảm
xúc độc giả bằng chính sự mới lạ đó. Càng lạ, càng khiến người ta khó quên, càng
ám ảnh người ta.
Có thể khẳng định, khi nào thơ còn tồn tại thì vẫn còn những hình ảnh phi
lý, kỳ ảo. Vì chính dạng thức cảm giác là dạng thức cơ bản nhất và là dạng đặc thù
nhất của hình tượng thơ, mà cảm giác cũng chính là căn nguyên của tính chất phi lý
trong cấu trúc hình tượng thơ. Nó là kiểu tư duy ảo hóa trong quá trình sáng tác của
nhà thơ và đòi hỏi người đọc thơ phải nhập vào thế giới ảo đó để cảm thụ. Nếu cảm
giác nhạy bén thôi thúc nhà thơ sáng tác nên những hình ảnh kỳ lạ thì đến lượt
người đọc cũng phải dùng cảm giác và kinh nghiệm sống của mình mà giải mã
những hình ảnh đó. Người đọc không thể thắc mắc hoài về cái điều vì sao sông
Đuống trong thơ Hoàng Cầm lại nằm nghiêng nghiêng trong khi con sông này ở
Bắc Ninh thì đâu có như vậy. Ngược lại họ lại bị nhà thơ cuốn vào các hình ảnh ấy
vì chính các hình ảnh này tác động vào họ một ấn tượng sâu sắc, khiến họ khó quên
dù có thể sau này không còn nhớ nó nằm trong bài thơ nào, do ai sáng tác. Cho nên,
nhà thơ nào càng tinh tế trong nhận thức thế giới thì càng sáng tạo nhiều hơn những
hình ảnh kỳ lạ, độc đáo, và càng được nhiều độc giả say mê.
Thực tế văn học đã cho ta tin rằng, người đọc bao đời nay vẫn luôn bị lôi
cuốn và rất hứng thú với những hình ảnh sáng tạo ấn tượng, kiểu như: “Trăng nằm
sóng xoãi trên cành liễu, Đợi gió đông về để lả lơi [Hàn Mặc Tử - Bẽn lẽn, 79, tr.64] hay
133, tr.125]. Và cả cái bến My Lăng của Yến Lan bao mùa trăng rồi vẫn ông lái đò
"Hương thời gian thanh thanh, Màu thời gian tím ngát" [Đoàn Phú Tứ - Màu thời gian,
chơ vơ ngồi đợi khách làm ngẩn ngơ lòng người đọc.
Có như vậy mới hiểu, giữa cuộc đời trần thế, con người vẫn mơ màng về ảo
ảnh. Có thể trong ảo ảnh, người ta chiêm nghiệm sâu hơn cái bản ngã của mình.
Thông qua ảo ảnh, bản chất thực của cuộc đời cũng được phản ánh sâu sắc hơn.
Không riêng gì trong thơ, thực và ảo vẫn luôn đan xen, hòa quyện vào nhau trong
rất nhiều loại hình nghệ thuật khác với sức cuốn hút mạnh mẽ...
2.3.3 Hình ảnh hàm ẩn, đa nghĩa, có sức khêu gợi
Đôi khi những hình thức diễn đạt rành mạch, sáng rõ lại phá vỡ nét đẹp
huyền ảo của đối tượng nên người ta chọn cách diễn đạt bóng gió, mơ hồ. Trong
thơ, đó là nghệ thuật chơi chữ hoặc sử dụng những hình ảnh mang nhiều tầng ý
nghĩa khác nhau để tạo nên sức hấp dẫn. Hình ảnh có tính mơ hồ, đa nghĩa trong thơ
tr.168] nhiều lúc ngẫm mãi mới hiểu trọn vẹn ý của nhà thơ. Dĩ nhiên không phải là
thường "tạo tiềm năng cho người đọc đồng tưởng tượng, bổ sung, suy đoán" [123,
nhà thơ không có khả năng miêu tả những hình ảnh cụ thể, đơn giản mà chủ ý của
họ là muốn sử dụng cách diễn đạt hàm ẩn để chuyển tải những ý tưởng thâm thúy
bằng những hình ảnh chứa nhiều tầng nghĩa. Con đường mòn từ bao giờ đã trở
thành điều tối kỵ của sáng tạo nghệ thuật và điều này khiến nhiều nhà thơ vẫn
không ngừng tìm tòi, sáng tạo. Hình ảnh trong thơ cũng không đi ra ngoài cái quỹ
đạo ấy, nó luôn vận động, luôn được làm mới để đáp ứng cảm quan thẩm mỹ phong
phú của độc giả.
Từ trong hình thức lâu đời nhất của thơ là ca dao, hình ảnh đa nghĩa cũng đã
được người bình dân đưa vào sáng tác bằng hình thức hàm ẩn. Các biện pháp tu từ
hoán dụ, ẩn dụ… là một cách hàm ẩn giàu ý nghĩa. Khi nghe câu ca dao: "Bây giờ
mận mới hỏi đào, Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? - Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào", thì trước hết người đọc bị tác động bởi cách
nói ví von, hay, lạ của người nói, sau đó mới giải mã và hiểu ý nghĩa của nó. Ở mức
độ sâu xa, nhà thơ sử dụng hàm ngôn nhằm tác động vào người đọc những khả năng
diễn đạt nhiều tầng nhiều lớp hình ảnh nhưng ấn tượng ban đầu của nó cũng tác
động đến người đọc. Trước khi thực hiện thao tác giải mã ý nghĩa mà hình ảnh biểu
đạt, người đọc đã cảm thấy thú vị vì cách nói này lạ, vì hình ảnh này không đơn
giản.
Nhiều nhà thơ từng sáng tạo những hình ảnh thơ độc đáo với nhiều lớp
nghĩa thâm thúy. Hồ Xuân Hương nổi tiếng với hình ảnh bánh trôi nước:
- Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son [Hồ Xuân Hương - Bánh trôi nước, 23, tr.350]
Độc đáo và ấn tượng. Nó khiến người đọc không thể không bất ngờ trước
cách diễn đạt thông minh như vậy. Bằng cái vốn ngôn ngữ sắc sảo và tài hoa, Hồ
Xuân Hương còn có nhiều hình ảnh phong phú, nhiều tầng nghĩa khác được sử dụng
linh hoạt và sống động. Người đọc thơ Xuân Hương thường thú vị với những hình
ảnh "quả mít", "bánh trôi nước", "trò đánh đu", "cái quạt"… bởi ẩn sau lớp nghĩa
hiển ngôn còn có nghĩa hàm ngôn, sau nghĩa thực, hình ảnh thực còn có nghĩa bóng,
nghĩa tục. Chính lớp nghĩa được xem là tục này lại có sức mạnh công phá thành trì
phong kiến, khiến người đương thời đọc thơ Xuân Hương phải nhăn mặt, kẻ bị đả
kích vuốt mặt không kịp, và thế hệ sau này như chúng ta thì cảm thấy sảng khoái,
thú vị.
Xét về nguyên nhân, cơ sở để tạo nên những hình ảnh đa nghĩa là khả năng
liên tưởng của nhà thơ. Liên tưởng giúp cho nhận thức và cảm xúc mở rộng và sâu
sắc hơn. Khi nhà thơ dựa trên liên tưởng để sáng tác, hình ảnh thơ không đơn giản,
ý thơ không bộc trực nữa, nó buộc người đọc phải đi theo con đường liên tưởng để
cảm nhận. Mặc khác, khả năng liên tưởng của con người không dừng lại ở một
hướng nào mà luôn rộng mở, đa chiều, từ một sự vật cụ thể liên tưởng đến một điều
gì đó khái quát tượng trưng và ngược lại. Nó khiến cho cảm xúc thơ thêm phong
phú, đa dạng. Khi đọc những câu thơ:
- Năm canh máu chảy đêm hè vắng Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ Có phải tiếc xuân mà đứng gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ? [Cuốc kêu cảm hứng, 23, tr.495]
thì độc giả không nên chỉ hiểu đơn giản rằng đó chỉ là tiếng cuốc thâu đêm khản
giọng gọi hè. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã liên tưởng đến nỗi tiếc xuân của cuốc và
niềm ái quốc của mình. Tiếng cuốc ai oán ấy được nhà thơ khắc họa bằng những
hình ảnh ấn tượng. Rất da diết và ám ảnh. Nó tác động vào người đọc cảm giác "da
diết, ám ảnh, chì chiếc một tiếng chim có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng
kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! nhớ nước!" [23, tr.495].
Sự mở rộng ý nghĩa của hình ảnh được dựa trên cơ sở đối lập hoặc tương
đồng. Khi tiếp cận một hình ảnh lạ, người đọc sẽ lập tức phán đoán ý nghĩa thứ hai
dựa trên việc liên tưởng đến những ý nghĩa đối lập hoặc tương đồng với nó. Tức thì
sẽ hiểu được nghĩa sâu xa của nó. Đôi khi, hình ảnh trong thơ cứ liên tiếp xuất hiện,
tạo nên một chuỗi hình ảnh đa nghĩa, gây hứng thú cho người đọc. Bài thơ "Áo
bông che bạn" của Tú Xương là một ví dụ:
- Người đi Tam Đảo, Ngũ hồ Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình Non non nước nước tình tình
Vì ai lận đận nên mình ngẩn ngơ [Áo bông che bạn, 23, tr.590]
"Người đi" là người bạn tình hay bạn tri âm? "Khóc trúc than ngô" là khóc
lóc thở than vì nhớ thương hay khóc cho nỗi khổ của nhân dân? "Tình tình" là tình
yêu nam nữ hay tình sông núi? Bài thơ gieo vào tâm trí người đọc lửng lơ hai cách
hiểu, khiến cho người đời sau mỗi khi nhắc đến "Áo bông che bạn" của Trần Tế
Xương lại luống ngậm ngùi xen lẫn băn khoăn…
Cho đến bây giờ người ta cũng băn khoăn ít nhiều về bài thơ "Thề non
nước" của Tản Đà. Bài thơ nổi tiếng với hai hình ảnh đa nghĩa, mang tính biểu
tượng: non - nước. "Thề non nước" của Tản Đà gây xôn xao dư luận bởi hình ảnh
nước - non gợi lên những cách hiểu khác nhau. Đó vừa là non nước - thiên nhiên
trong một bài thơ vịnh cảnh, là non nước - tình yêu của một giọng điệu thơ tình Tản
Đà khó lẫn, vừa là nước non - Tổ Quốc ẩn sâu tình cảm yêu nước của nhà thơ bởi
văn chương ông luôn bị thực dân Pháp kiểm duyệt gắt gao. Đó là một bài thơ để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Nhìn chung, những hình ảnh đa nghĩa luôn có sức gợi rất cao, nó đòi hỏi
người đọc phải có một tri thức đặc biệt để cảm thụ, để giải mã, để đi đến đằng sau
hình ảnh ấy mà tìm hiểu những tầng nghĩa nhà thơ đã gửi gắm. Cách cảm thụ thâm
thúy và diễn đạt sắc sảo nhiều tầng nghĩa như trên làm cho quá trình tiếp nhận của
người đọc không trôi đi trong sự chiếm lĩnh dễ dãi mà ngược lại nó thêm sức bấu
víu vào tâm trí người đọc. Có thể nói, hình ảnh đa nghĩa trở thành phương tiện nghệ
thuật chuyển tải hữu hiệu những ẩn ý của nhà thơ vì nhiều lý do khác nhau buộc nhà
thơ không tiện trực ngôn mà phải hàm ngôn. Qua đó, ta nhận ra nét đẹp kín đáo
trong giao tiếp của người Việt đồng thời thấy được sức mạnh của những hình ảnh
hàm ngôn. Hình ảnh đa nghĩa trong cách diễn đạt hàm ngôn giống như một viên
ngọc giấu mình đi, càng cố tìm hiểu kỹ, càng phát hiện ra giá trị quý báu của nó.
Khai thác đặc điểm này, các nhà thơ luôn làm mới thơ mình qua những tình huống
cụ thể, những tâm trạng cụ thể và những hình ảnh giàu tính biểu cảm. Một khi cảm
xúc của người sáng tạo truyền sang cảm xúc của nhiều độc giả, điều đó có nghĩa là
nhà thơ đã khẳng định được phần nào thiên chức của thơ.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu lịch sử vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam,
chúng tôi nhận thấy rằng hình ảnh trong thơ cũng vận động phát triển không ngừng.
Trong thơ cổ, các nhà thơ bị phong tỏa kìm hãm bởi bốn bức tường lễ giáo hà khắc
khiến họ không thể tự do ngôn luận, tự do bộc bạch lý tưởng, chí khí của mình.
Cách an toàn nhất là kín đáo bày tỏ tư tưởng sau lớp vỏ ngôn từ khéo léo hoặc
những hình ảnh nhiều tầng nghĩa. Cũng chính vì vậy mà trong thơ cổ xuất hiện
nhiều hình ảnh đa nghĩa phục vụ cho cách diễn đạt hàm ngôn, ẩn dụ ấy. Càng về
sau, khi chế độ phong kiến tan rã, khi cuộc chiến tranh vệ quốc trải qua nhiều giai
đoạn khốc liệt thì các nhà thơ Việt Nam đã sử dụng thơ như một vũ khí sắc bén để
phản ánh trực diện bức tranh cuộc sống, để quyết liệt bày tỏ tình cảm yêu ghét của
mình bằng những hình ảnh gợi cảm, chân thực. Hình ảnh trong thơ hiện đại mất dần
tính đa nghĩa và thay vào đó thường là những hình ảnh sinh động, mạnh mẽ hoặc kỳ
ảo, có khả năng gợi cảm cao để tác động trực tiếp đến người đọc. Hoặc nếu có cần
phải diễn đạt theo lối hàm ngôn, các nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật khác như
ẩn dụ, hoán dụ hoặc so sánh tu từ…
2.4 Những hình thức ngữ pháp hướng đến sự tác động
Đối tượng mà các nhà thơ hướng đến rất phong phú, đa dạng. Đó có thể là
Cha, Mẹ, là người yêu, là bè bạn, hoặc có thể là tất cả độc giả trong xã hội này. Tâm
thế sáng tạo đó chi phối quá trình chọn lựa và sử dụng các biện pháp nghệ thuật sao
cho phù hợp nhất, sao cho thơ dễ đến và sống bền bỉ trong lòng người nhất. Ngoài
các đặc trưng thi pháp hướng tới sự tác động nổi bật đã trình bày ở trên, trong phần
này, chúng tôi tìm hiểu những thủ pháp nghệ thuật có khả năng gây sự chú ý cho
người đọc mà các nhà thơ thường sử dụng.
2.4.1 Hô ngữ dùng để gọi đối tượng khác
Khi muốn lời thơ của mình hướng đến một đối tượng cụ thể và muốn đối
tượng ấy lắng nghe mình, nhà thơ sử dụng hô ngữ. Thông qua hô gọi, nhà thơ muốn
kéo độc giả vào cùng tâm thế, cùng trạng thái cảm xúc cụ thể trong bài thơ. "Với hô
ngữ gọi ra đối tượng trữ tình, tiếng thơ được định hướng" [124, tr.277]. Lời hô gọi của
nhà thơ hướng vào nhiều đối tượng khác nhau: người mẹ, người thân, người yêu,
quê hương, đất nước… Đối với những bài thơ viết để tuyên truyền cổ động thì lời
gọi thường dành cho tất cả mọi người.
Về cấu tạo, hô ngữ trong Tiếng Việt gồm các loại tiểu từ: bớ, kìa, ê, a, à,
nhỉ, nhé, hỡi, hả (hở), này, nè, ơi… kết hợp với đại từ hoặc danh từ. Các tiểu từ
trong hô ngữ Tiếng Việt không phân biệt giới tính của người được gọi nhưng chức
năng của chúng thì khác nhau. Tiểu từ "ơi" có hai chức năng vừa để gọi, cũng vừa
để đáp. Khi sáng tác, nhà thơ thường sử dụng chức năng thứ nhất: dùng tiểu từ "ơi"
để gọi đối phương, gọi và chia sẻ cùng họ những cảm xúc cụ thể. Giá trị tác động
của tiểu từ "ơi" ở mức độ cao, nó khiến đối tượng được gọi phải lắng nghe:
- Anh ơi, bom đạn bốn bề Thân anh đi lính mong về nữa đâu Đời em mang vết thương sầu Đời anh nào để mai sau những gì? Chao ôi, anh chết thảm thê! Chết vì ai thế Chết vì theo Tây! [Xuân Thủy - Thơ xuân vợ lính gửi chồng, 179, tr.745] - Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống [Hoàng Cầm - Bên kia sông Đuống, 147, tr.218]
Tiểu từ "ơi" đặt người nghe ở thế trực diện, nên sức tác động của nó cao.
Mặc dù không phải lúc nào nhà thơ cũng "ra lệnh" mà đôi khi nhà thơ dùng "ơi" để
gọi lên nhân vật trữ tình như một cách bày tỏ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của mình
với đối tượng :
- Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! [Giang Nam - Quê hương, 147, tr.456] - Ngủ đi em ơi, trời xanh sau lá thưa Trưa đã sẫm rồi, cửa ngỏ sương sa [Lưu QuangVũ - Thơ ru em ngủ, 168, tr.100]
Và cũng có khi nhà thơ dùng hô ngữ này để gọi thiên nhiên, vạn vật:
- Sông ơi! Dài sao Rộng ơi! Biển cả [Quang Dũng - Không đề, 180, tr.157]
Tiểu từ "này" được dùng để gọi người đối diện trong một không gian gần
hơn. Khi gặp những câu thơ có tiểu từ "này", ta có cảm giác mối quan hệ giữa nhà
thơ và đối tượng được nhà thơ gọi đang rất thân thiện, gần gũi. Đây là tiểu từ mang
màu sắc khẩu ngữ, bình dân hơn so với tiểu từ "ơi", và cũng có thể vì vậy mà nó ít
được các nhà thơ sử dụng hơn. Nhưng đọc các câu thơ cảm thán, các câu thơ có sử
dụng hô ngữ thì chúng ta lại thấy chúng tạo nên những lời hô gọi nhiều cảm xúc,
những lời tình tự tha thiết. Nó là tín hiệu mà nhà thơ phát ra như một yêu cầu đòi
đối tượng phải hướng về mình:
-Này, các anh, các chị mình ơi! Người rong ruổi há mình ngồi yên lặng? [Nguyễn Nghiêm - Cổ động đấu tranh, 179, tr.72] Này các em, xin các em cứ khóc Hãy để tự nhiên cho nước mắt trào ra [Trần Quang Long - Bài học cuối năm, 103, tr.94] - Này bạn bè, quê hương Trái tim chúng ta Thật thà như củ khoai trong vườn [Trần Quang Long - Mùa xuân quê hương, 103, tr.115]
Trong giao tiếp bình thường, tiểu từ "nhé" vừa có chức năng nhường quyền
quyết định cho người nghe, vừa có chức năng hăm dọa. Trong một câu thơ, một khi
được thêm tiểu từ "nhé" vào, chúng lập tức được gia tăng sắc thái biểu cảm cho
giọng điệu thơ. Những câu thơ có sử dụng tiểu từ này thường trở thành lời khuyên
răn, nhắc nhở hoặc là lời hứa hẹn, lời tự tình tha thiết yêu thương:
- Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng anh trở về hóa đá phía bên kia... [Thu Bồn - Tạm biệt, 180, tr.130] - Huế ơi, mai nhé, ta về lại Đi ngược dòng Hương nhớ tuổi thơ [Trần Quang Long - Huế ơi, 103, tr.217]
Trong tất cả các tiểu từ cấu tạo nên hô ngữ thì "hỡi" được dùng với sắc thái
trang trọng nhất. "Hỡi" thường xuất hiện trong những bài thơ viết về đất nước, quê
hương hoặc những lời kêu gọi, giục giã hùng hồn:
- Dấy lên hỡi! gái trai thuyền thợ Hỡi dân cày, đi ở đợ công! Hỡi phường buôn thúng bán bưng! Học trò, binh lính, thủ công, phường tuồng! Hỡi những người tiểu thương, tiểu chủ! Hỡi phố phường, thôn ổ nơi nơi! Đời ta không chịu tôi đòi, Thịt xương không chịu làm mồi sài lang. Mau chỉnh đốn, đội hàng giai cấp Siết tay nhau, nối chặt đồng tâm! [Đặng Xuân Thiều - Vô sản diễn ca, 179, tr.683]
- Sơn La ơi, hỡi Sơn La Vì dân, vì nước, vì nhà đứng lên! [Xuân Thủy - Lời người lính Sơn La, 179, tr.739] - Hỡi tất cả bạn đồng tâm, đồng chí Xin cùng nhau gắn chặt nghĩa keo sơn [Nguyễn Nghiêm - Hãy xốc tới, 179, tr.73] - Hỡi đồng bào tỉnh chưa, chưa tỉnh? Thù non sông, ta tính sao đây? [Lê Mạnh Trinh - Khuyên đọc báo nhân ái, 179, tr.138] - Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng? [Chế Lan Viên - Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?, 147, tr.648]
Trong tất cả các trường hợp được dùng, tiểu từ "hỡi" đã hoàn thành xuất sắc
chức năng hô gọi của mình và sức mạnh của nó như một tín hiệu tập hợp, gọi đàn
đối với những đối tượng được hô lên trong câu. Sắc thái tác động của tiểu từ "hỡi"
quyết liệt hơn, gay gắt mà cũng tha thiết hơn các tiểu từ "ơi", "nhé", "này"... nên nó
vẫn được sử dụng nhiều nhất trong các đoạn, các bài thơ mang nội dung kêu gọi,
tuyên truyền, cổ vũ đấu tranh...
2.4.2 Đại từ nhân xưng tạo tình huống đối thoại thân mật
Khi nói ra một phát ngôn, chúng ta thường cố gắng diễn đạt hết sức mình để
cho ý đồ thông tin của mình trở nên hiển hiện, trực chỉ, sao cho nó có tính "quan
yếu" tối đa và giúp người nghe nhận ra được tính quan yếu đó. Cách xưng hô, phần
nào cũng đảm nhiệm được vai trò này. Trong giao tiếp, người ta xưng hô với nhau
theo những đại từ nhân xưng nhất định, và "các đối tượng giao tiếp được xác định
ngôi theo vị trí và chức năng cú pháp của đại từ" [5, tr.113]. Ở ba cương vị khác
nhau: cương vị nói, cương vị nghe và cương vị được nói đến đều có các nhóm đại từ
nhân xưng tương xứng. Ở ngôi thứ nhất - ngôi dành cho người nói, thường có các
đại từ: ta, tôi, tao, tớ, mình, chúng ta, chúng tôi, chúng tao, chúng tớ, chúng mình,
cha, mẹ, anh, em, chị, con, cháu… Ở ngôi thứ hai - ngôi dành cho người nghe,
thường có các đại từ: mày, mi, chúng mày, chúng bay, bay, tụi mày, anh, chị, em,
mẹ, cha, bà, ông… Ở ngôi thứ ba - ngôi dành cho người được nói đến, thường có
các đại từ: anh ấy, chị ấy, chúng nó, nó, họ…
Dùng đại từ nhân xưng là một cách để biểu hiện lịch sự. Tùy theo hoàn
cảnh, đối tượng cụ thể mà nhà thơ lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp. Người Việt
Nam thường dùng các đại từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô, tạo nên một bầu
không khí thân tình khi giao tiếp. Xét về nguyên tắc quan yếu, cách xưng hô này có
cả hai khả năng chuyển đạt: chuyển đạt không trực chỉ và chuyển đạt trực chỉ.
Trong thơ cũng vậy, khi ý đồ diễn đạt của nhà thơ ở phạm vi tự biểu hiện và mong
muốn người đọc gián tiếp cảm nhận thông tin trong thơ mình, đó là chuyển đạt
không trực chỉ. Ví như khi Lưu Quang Vũ viết: "Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài,
Chỉ một người ở lại với anh thôi" [Và anh tồn tại, 168, tr.75] thì cái tâm ý khẳng định
một tình yêu chung thủy, một người yêu, người vợ chung thủy như nhất mà nhà thơ
muốn gửi đến người đọc được lặn vào phía sau hoàn cảnh giả thuyết "tàu đông", "lỡ
chuyến đi dài" và chỉ còn có "một người ở lại". Còn khi ý đồ diễn đạt thông tin của
nhà thơ hướng trực tiếp đến đối tượng, muốn thông tin đó được người nghe (người
đọc) nhận biết ý định thông tin của mình. Đó cũng là khi Xuân Diệu giục giã: "Gấp
tr.147]. Khi đó, ông đã biểu lộ rất rõ ràng cái tâm trạng say sưa, yêu đời, yêu người
đi em, anh rất sợ ngày mai, Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn" [Giục giã, 133,
đến cuống quýt vì vòng xoáy thời gian sẽ nuốt chửng lấy đời người. Khi đó, ông
muốn đối tượng cùng hiểu ra vấn đề và tán đồng với ông. Như vậy, hai khả năng
chuyển đạt trực tiếp và gián tiếp cứ luân phiên nhau trong mọi hoàn cảnh, mọi phát
ngôn và mọi câu thơ, bài thơ khác nhau. Theo đó, nó cũng có khả năng tác động đến
độc giả bằng nhiều mức độ khác nhau.
Trong thơ, các đại từ cũng đa dạng như trong ngôn ngữ nói và cũng vẫn giữ
nguyên vẹn các chức năng xưng danh trong việc thể hiện trạng thái cảm xúc của nhà
thơ. Theo thời gian phát triển, cách sử dụng đại từ nhân xưng trong thơ hôm nay đa
dạng hơn trong thơ xưa. Các đại từ ngôi thứ nhất trong thơ đương đại không chỉ đơn
điệu một chữ "ta" khô khan mà còn là "tôi", chúng tôi", "anh", "em", "con",
"cháu"… và các đại từ ở ngôi thứ hai cũng phong phú tương ứng: anh, chị, mẹ, cha,
ông, bà…
Các đại từ ngôi thứ nhất, "một khi xuất hiện trong lời nói, thường cho phép
nhà thơ biểu hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường, tư tưởng, tình cảm của cá nhân trữ
tình" [113, tr.276]. Vì vậy, khi trực tiếp xưng hô "tôi", chúng tôi", "anh", "em",
"con"… là nhà thơ đang đặt mình trong tâm thế đang đối thoại trực tiếp với đối
tượng, với người thân của mình, nó ít nhiều tác động đến tâm thế tiếp nhận của
người đọc. Nó cũng đặt người đọc vào hoàn cảnh đang lắng nghe nhà thơ bộc bạch
điều gì đó, với chính người đọc đây. Chuyện trong thơ sẽ là chuyện giữa người nói
(nhà thơ) và người nghe (độc giả), nên nó khiến người đọc tập trung chú ý hơn.
Các đại từ "tôi", chúng tôi", "ta", "chúng ta" biểu đạt trạng thái cảm xúc
trong giao tiếp ở mức độ trung tính. Các câu thơ sử dụng các đại từ này thường thể
hiện rõ tính chất tự thuật nhưng là tự thuật trong tâm thế hướng đến độc giả:
- Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ [Hồng Nguyên - Nhớ, 188, tr.296] - Đã đến giờ chưa nhỉ Mà tôi nghe như trại giặc tan tành? Anh rót cho khéo nhé Kẻo lại nhầm vào nhà tôi Nhà tôi ở cuối thôn Đồi Có giàn thiên lý, có người tôi thương [Yên Thao - Nhà tôi, 188, tr.709]
Một khi chủ thể trữ tình trong thơ hiện lên qua cách xưng hô này thì khả
năng nhà thơ bộc lộ trực tiếp bản thân mình rất cao. Trong những tình huống, những
tình cảm, cảm xúc cụ thể, cái tôi chủ thể hướng đến đối tượng và điều này cũng
khiến đối tượng dễ phát khởi niềm cảm thông đối với nhà thơ – dễ hơn nhiều so với
kiểu lời thơ phiếm chỉ, không được định danh, và không có đại từ nhân xưng nào
như trong thơ cũ.
Các đại từ "anh", "em", "con"… xuất hiện trong thơ tạo biểu đạt trạng thái
cảm xúc giao tiếp ở mức độ gần gũi, thân mật giữa người nói và người nghe. Lời
thơ là lời của nhà thơ đang hướng đến người mà nhà thơ thương mến nên giọng điệu
thêm trữ tình, gợi cảm hơn. Đằng sau các đại từ tự xưng mình, nhà thơ phải sử dụng
các đại từ ngôi thứ hai (anh, chị, em, mẹ, cha, ông, bà…) tương ứng. Nếu trong
cùng một bài thơ hoặc một đoạn thơ mà nhà thơ lần lượt sử dụng luân phiên hai đại
từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai thì lời thơ sẽ trở thành lời trò đối thoại
trực tiếp đầy cảm xúc của ngôi thứ nhất với ngôi thứ hai. Cách thức này cũng tạo
cho độc giả cảm giác dễ cảm thông, dễ hòa nhập với những cảm xúc của nhà thơ:
- Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi [Chế Lan Viên - Tiếng hát con tàu, 188, tr.878] - Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học [Bằng Việt - Bếp lửa, 188, tr.880] - Con về thăm Mẹ, Mẹ ơi! Ôi chao vui quá! "Cổng trời" mở toang… [Lê Giang - Thăm Mẹ, 190, tr.277]
Nhưng thân mật nhất có lẽ là cách gọi trực tiếp tên riêng của một người.
Mặc dù nhà thơ chỉ viết cho riêng một người, nhưng tình cảm tha thiết, cõi rung
động chân thành ấy có khả năng khiến người đọc hứng thú hơn khi tiếp nhận. Đọc
những bài thơ đó, người đọc sẽ có cảm giác như được chứng kiến một câu chuyện
của nhà thơ với một "người thật việc thật", nó khiến cảm xúc trong lòng người đọc
như dâng tràn hơn lên:
- Tưởng chẳng còn gì để mất Vân ơi (…) Ta quen nhau đơn giản đến lạ kỳ Anh như người say trên đường em chợt thấy Nến đã tắt - đêm nay lại cháy Cầu chúc gì trong ánh sáng Vân ơi. [Hoàng Nhuận Cầm - Mây cuối trời, 66, tr.20] - Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá Trận đánh trường kỳ vắng Hùng tham dự Trận đánh cuối cùng chiến thắng phải về ta [Nguyễn Đức Mậu - Nấm mộ và cây trầm, 66, tr.124] - Hương ơi Bên giếng nhà em có bụi chuối bồ hương Quanh năm bóng mát sang vườn nhà tôi Nhà tôi lài, lý thơm về tối Tôi bỏ ra đi mười mấy tuổi Mà sao còn nhớ tóc em dài? [Nguyễn Hồi Thủ - Chợt nhớ, 66, tr.770]
Có thể nói, chúng ta rất lấy làm tự hào vì sự đa dạng của ngôn ngữ dân tộc
mình. Trong đó, ta có một hệ thống đại từ nhân xưng có sắc thái biểu cảm thật sự
phong phú, nó giúp cho ngôn ngữ Việt Nam ta thêm đa dạng, giàu tình cảm hơn.
Đối với thơ, thông qua cách thức các nhà thơ sử dụng đại từ, chúng ta có thể xác
định tình huống đối thoại, tình cảm và thái độ của nhà thơ đối với đối tượng được
nhắc đến qua thơ. Phần lớn là nó có khả năng tác động đến tâm tư, tình cảm của
người đọc, hoặc ít ra thì nó cũng tạo cho người đọc cảm giác dễ chịu, dễ cảm thông
khi đọc thơ.
2.4.3 Biện pháp im lặng, bỏ lửng gợi sự chú ý của độc giả
Trong các hình thức ngữ pháp hướng đến sự tác động, im lặng là một hình
thức "ôn hòa" nhất. Bởi vì, khi sử dụng nghệ thuật im lặng, nhà thơ thường có xu
hướng tác động đến tình cảm, cảm xúc của độc giả với những cung bậc nhẹ nhàng,
tinh tế, gợi cảm hơn là bày tỏ một điều gì đó lớn lao, dữ dội. Nếu các hình thức thi
pháp khác có hướng tác động mạnh mẽ, như sóng, như gió cuốn người ta theo, thì
im lặng là ngọn gió hiền hòa, là ngọn sóng lăn tăn nhưng cũng đủ làm nao nao lòng
người…
Im lặng là sự ngắt đứt câu nói (kể cả sự bỏ lửng không nói trọn, hoặc ngập
ngừng tạo ra sự gián đoạn) thể hiện một xung đột tình cảm nào đó hoặc nhằm diễn
đạt một ngụ ý nào đó như phản đối hoặc đồng tình. Trong giao tiếp, đôi lúc chúng ta
gặp những tình huống người nói tự nhiên làm gián đoạn cuộc đối thoại bằng sự im
lặng. Sự im lặng ấy lại tạo nên tình huống bất bình thường và thường ẩn chứa một
thái độ. Người ta không muốn nói tiếp vì không muốn tiếp tục cuộc hội thoại, vì
cảm thấy không cần thiết, hoặc vì rơi vào tình thế lúng túng khó trao lời, hoặc im
lặng để chờ một diễn biến mới thay cho một câu đáp cần có… Biện pháp im lặng
được xem là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, còn gọi là ẩn ngữ hoặc tỉnh lược. Các nhà
ngôn ngữ học cho rằng im lặng là một hành vi có chủ ý - nó thuộc phạm trù phương
châm về cách thức trong giao tiếp. Nó có thể diễn đạt những nội dung ngữ nghĩa
hoặc biểu thị những thái độ khác nhau đồng thời khiến người đối diện phải suy nghĩ
về biểu hiện đó. Người ta phải tự tìm cái để lấp đầy khoảng trống mà người nói đã
bỏ lửng, đã nói dở dang. Đinh Trọng Lạc cho rằng im lặng là một "phương thức
biểu đạt bằng cách bỏ trống để người nghe (đọc) suy ra mà tự mình hiểu, không cần
diễn đạt bằng lời" [71, tr.218].
Trong thơ ca, sự gián đoạn bằng cách im lặng có giá trị nghệ thuật nhất
định, nó có khả năng tác động mạnh đến cảm xúc của độc giả. Nhà ngôn ngữ học R.
Mihalla đã rất đề cao hiệu quả diễn đạt của biện pháp này: “Sự im lặng trở nên đích
đáng, với tư cách là một hành vi” [154, tr.26]. Vì thật ra, trong khi diễn đạt, có nhiều
lúc người ta không tiện nói "toạc móng heo" không phải vì muốn che giấu mà là
muốn cho người nghe (người đọc) tự đoán, tự nhận thức ra vấn đề. Vì, bản thân vấn
đề đang được đề cập có thể là những vấn đề nhạy cảm, tế nhị. Về hình thức cấu tạo,
im lặng được ký hiệu bằng dấu chấm lửng (…), thường nằm ở cuối dòng thơ, cũng
có khi xuất hiện ở giữa dòng. Vì vậy mà biện pháp im lặng còn được gọi là bỏ lửng.
Thực tế văn học cho thấy, đã có những câu thơ tuyệt bút, những câu thơ "ám
ảnh" lòng người bằng biện pháp này. Đại thi hào Nguyễn Du rất tinh tế trong việc
diễn tả tâm trạng xao xuyến, bối rối của Thúy Kiều sau lần gặp Kim Trọng: "Tình
trong như đã, mặt ngoài còn e" [25, tr.42]. Nếu không bỏ lửng ý mà viết đầy đủ vào
đấy thì phải là: đã thân thiết, đã gắn bó, đã ý hợp tâm đầu nhưng mặt ngoài vẫn còn
e ngại, xấu hổ, lúng túng. Và nếu viết như vậy thì người đọc đâu thể nào cảm nhận
được hết cái trạng thái lưu luyến, bâng khuâng của buổi bắt đầu yêu. Tâm trạng đó
mà phải nói rõ ra thì sẽ vụng về. Điều đó cũng là một biểu hiện minh chứng cho
năng lực sáng tạo của đại thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Khuyến trong "Khóc Dương
Khuê" cũng đã từng bỏ lửng: “Bác Dương thôi đã thôi rồi…, Nước mây man mác
ngậm ngùi lòng ta” [18, tr.499]. Câu thơ thứ nhất là sự kết hợp giữa biện pháp nói
giảm, nói tránh và bỏ lửng. "Thôi đã thôi rồi", xét về nghĩa thực thì thật là mông
lung, khó hiểu chính xác. Nhưng trong hoàn cảnh cụ thể này thì cái cách nói lửng lơ
ấy lại có khả năng diễn đạt trọn vẹn nỗi nghẹn ngào tuyệt vọng của nhà thơ khi khóc
bạn. Nó diễn tả đúng tâm trạng, lời lẽ của một người bạn già đang "chân tay rụng
rời", sửng sốt trước hung tin: người bạn chí thân của mình đã mất. Nó có ý nghĩa
hơn bất kỳ lời lẽ sướt mướt nào khác. Trong trường hợp này, biện pháp bỏ lửng
biểu đạt cho thái độ bất lực, né tránh vì đau đớn.
Có nhiều những trường hợp nhà thơ sử dụng biện pháp im lặng tạo nên giá
trị biểu cảm rất cao. Nó tác động mạnh đến suy nghĩ, cảm xúc của người đọc mà
trong trường hợp đó, nếu nói ra rõ ràng bằng lời nói cụ thể thì câu thơ sẽ bị giảm đi
sức mạnh. Thông thường, có hai vị trí được bỏ lửng: giữa dòng thơ và cuối dòng
thơ.
Khi đang diễn đạt một ý tưởng, một cảm xúc nào đó, đến giữa dòng thơ, bất
chợt nhà thơ ngắt nửa chừng. Biểu hiện hình thức của nó là dấu chấm lửng, và đọc
đến đó, người đọc bắt buột phải ngắt nhịp. Hiện tượng này tuy không phổ biến như
các biện pháp nghệ thuật khác nhưng nó có giá trị nghệ thuật cao, có sức tác động
- Rồi... rồi chị nói sao đây? Em ơi! Nói nhỏ câu này với em... [Nguyễn Bính - Lỡ bước sang ngang, 7, tr.18]
lớn đối với cảm xúc của người đọc:
Nó làm cho câu thơ gấp gãy, ý thơ bị khựng lại, và sự tiếp nối ở nửa dòng
còn lại đôi khi cũng không làm "sáng tỏ" được ẩn ý trong dấu ngừng lặng nửa dòng
ấy. Thật ra, im lặng tạm thời giữa dòng thơ là cách để nhà thơ tác động vào độc giả
cảm xúc ngập ngừng, tinh tế, khó nói trọn vẹn cho đến cuối cùng. Nó tạo nên một
cảm giác lửng lơ vì bất ngờ, vì chưa thỏa mãn cho người đọc. Trong những trường
hợp đó, cảm xúc của nhà thơ cũng rất tinh tế, cũng rất khó mà nói cho rõ ràng,
chuẩn xác, nên cái dấu chấm lửng lơ lửng ấy lại trở thành phương tiện hữu hiệu
nhất để diễn đạt:
- Con xin ngắn lại đường gần Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi... [Trúc Thông - Bờ sông vẫn gió, 182, tr.241] - Vội vã vắt áo quần ướt mưa hơ lửa Có một người… có một người nào nữa [Nguyễn Thụy Kha - Những giọt mưa đồng hành, 179, tr.354]
Vị trí chấm lửng giữa dòng thơ thường hướng đến hai khả năng diễn đạt.
Thứ nhất, nhà thơ muốn tạo sự đứt quãng cho dòng thơ nhằm khắc sâu, gây ấn
tượng mạnh cho độc giả về sự bất ngờ của hai ý thơ trước và sau dấu chấm lửng đó:
- Ông ra đi và… Ông đã về đây Đời là cuộc hành trình khép kín [Anh Ngọc - Vị tướng già, 188, tr.293] - Dòng sông từng hẹn tôi về Qua cầu… để rớt lời thề với em. [Trương Nam Hương - Tự bạch, 182, tr.243] - Và... cho đến một ngày xuân
Có người thiếu phụ dừng chân cổng nhà. Em giờ... là của người ta Của riêng tôi một chậu hoa - cúc tần! [Nguyễn Đại Nghĩa - Bên dậu cúc tần, 182, tr.133]
Thứ hai, bỏ lửng nửa dòng cũng là một cách thức để nhà thơ muốn gia tăng
thêm nội dung mà nửa dòng trước đã chuyển tải. Với dấu chấm lửng đó, điều muốn
nói như được nhân lên nhiều hơn khi chấm lửng giữa dòng thơ. Nhà thơ muốn kéo
dài thêm, tô đậm thêm nơi người đọc những tình ý, những cảm xúc trong ý thơ nằm
trước đó trước khi tiếp tục ý sau. Như vậy, dòng thơ như được giãn nở thêm ra, nhịp
thơ cũng kéo dài hơn, gợi cảm giác mênh mang trong lòng người đọc:
-Cùng chung một tuổi ngây thơ Nào ai biết… có ai ngờ… mai sau. [Đỗ Huy Chí - Nhịp cầu trẻ con, 182, tr.35] - Rồi ta đi, rồi ta vui Rồi ta quên... dòng nước trôi xa mình... [Bế Kiến Quốc - Đuốc lá dừa, 182, tr.13] - Bên hiên vẫn vắng bóng nàng Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng rưng... [Nguyễn Bính - Người hàng xóm, 7, tr.48]
Theo tìm hiểu, lục bát vẫn là thể thơ có hiện tượng bỏ lửng nhiều nhất so
với các thể thơ khác. Nét dịu mềm, mênh mông, dìu dặt của lục bát vốn gần gũi với
tâm tình người Việt. Các nhà thơ như còn muốn gia tăng thêm sự mềm mại, uyển
chuyển của lục bát bằng những dấu chấm lửng cuối dòng như kéo dài thêm những
- Xuôi tay, chiều phút yếu mềm Là thôi... có thể mất em trong đời! [Nguyễn Hoàng Sơn - Tiễn em, 7, tr.140] - Nước phù sa đỏ như son Mưa giăng giăng, sắc lá non cồn cào... Mười năm... đi biết là bao Dẫu xa, vẫn nhớ nôn nao, mong về... [Bế Kiến Quốc, Trở lại nguồn, 7, tr.618] - Bao đêm người thức thâu canh Cho tôi trọn giấc ngủ lành… Bao đêm… [Văn Lê - Người dưng, 188, tr.407] - Hạnh phúc của anh là đào than xẻ núi Và yêu em… yêu hết lòng mình…[Nguyễn Tùng Linh - Gửi em và thị xã than, 188, tr.414]
giai điệu vốn đã ngọt ngào sâu lắng của thơ:
Đối với kiểu bỏ lửng ở vị trí cuối dòng, nhà thơ như đưa ra một tín hiệu ám
chỉ ý thơ vẫn chưa kết thúc, vẫn còn nhiều điều hơn thế chưa được nói hết trong
dòng thơ. Hoặc có khi là cách để nhà thơ muốn tô đậm ý nghĩa mà dòng thơ vừa
diễn đạt. Với cách này, câu thơ như được nới rộng thêm ra, gợi cho người đọc nhiều
khả năng tiếp nhận. Những dấu lửng cuối dòng thơ luôn tạo cho người đọc cảm giác
- Cấm sao tơ nhện cứ giăng Một đời dại - vẫn đa mang - một đời... [Nguyễn Thị Hồng Ngát - Xem nguyệt cô hóa cáo, 182, tr.159] - Không gian trắng xóa cả rồi Chỉ còn dáng mẹ giữa trời. Và mưa... [Đỗ Thuấn - Dáng mẹ, 182, tr.39] - Vết đạn bom còn sây sát thân mình Em vẫn cười, đôi mắt sáng long lanh... [ĐàoXuânQuý - Giã từ NamNgạn, 188, tr.625] - Đôi bàn chân thoăn thoắt Vượt lên tầng thép sắt Giặc dội bom sập hầm Tay súng còn siết chặt... [Xuân Thiêm - Cô gái Bạch Long Vĩ, 147, tr.570] - Nắng vẫn còn ngời trên những mắt lá si… Và người chồng ấy đã ra đi… Như không hề có cuộc chia ly…[Nguyễn Mỹ - Cuộc chia ly màu đỏ, 188, tr.492] - Đơn vị qua đi tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…[Giang Nam - Quê hương, 188, tr.493] - Vô danh… Vô danh… Vô danh… Vô danh… 1959… 1968… 1973… 1975… Những tên tuổi. Những cuộc đời khát vọng Giờ chỉ còn giản đơn: Vô danh… (…) Nhưng vì sao bia mộ các anh nằm Vẫn đời đời ghi lặng lẽ: Vô danh... [Ngô Thế Oanh - Vô danh, 188, tr.563]
bâng khuâng, man mác, không yên…
Trong nhiều trường hợp, khoảng lặng trong thơ để ngầm báo một cái gì đó
dữ dội, khốc liệt lắm mà không sao nói ra được. Chỉ có bỏ lửng nửa chừng thì mới
có thể chuyển tải hết cái cảm xúc tinh tế, nhạy cảm ấy. Nhất là kiểu thơ dùng biện
pháp bỏ lửng ở cuối bài. Kết thúc lơ lửng hoặc ngừng lặng cho đoạn thơ, bài thơ
bằng các biện pháp im lặng như vậy là kết thúc mở. Bài thơ kết thúc nhưng ý thơ
chưa hết.
- Gẫy lái, đứt neo, tàu thoát ra rốn bão Anh nguyên lành về lại căn phòng em Bỗng gặp cơn bão nhà không triều, không sóng Chiến hạm đời anh lặng lẽ cắt neo Chìm…. [Nguyễn Vũ Tiềm - Bão, 188, tr.404]
Nhưng không phải bất kỳ dấu chấm lửng nào cũng biểu thị cho biện pháp
im lặng và biện pháp im lặng không chỉ thể hiện rõ ràng ra bằng hình thức dấu
chấm lửng. Các nhà thơ còn biểu hiện im lặng bằng nhịp ngắt lâu, hoặc sự gấp gãy
xuống dòng:
Chia cho em một đời Tôi một cay đắng một niềm vui một buồn (...)
Chia cho em một đời Thơ một lênh đênh một dại khờ một tôi [Nguyễn Trọng Tạo - Chia, 130, tr.48, 49]
Những câu thơ gấp gãy và ý thơ lơ lửng như thế này xuất hiện nhiều trong
các tác phẩm của các nhà thơ hiện đại. Họ viết như vậy thường là để diễn đạt trạng
thái hụt hẫng, bất ngờ hoặc nghẹn ngào. Đối với chúng tôi, có thể xem đó là sự cách
tân thơ về mặt hình thức. Từng lần xuống dòng là từng nhịp ngắt, rồi kết thúc bằng
một khoảng dài im lặng. Và chính cái khoảng lặng dài ấy, cũng chính là khoảng
ngân vang của thơ vào lòng người. Im lặng, và lặn sâu, vang xa, vang xa... Đó là
một trong những đặc trưng của thơ ca.
Cảm quan nghệ thuật của phương Đông chúng ta thích những gì đơn giản
mà sâu sắc, súc tích. Vì vậy, biện pháp im lặng cũng có giá trị kích thích năng lực tư
duy của người đọc. Im lặng trong thơ là làm cho nhịp thơ ngừng lại, như bước chân
đang đi bỗng nhiên khựng lại và khiến người ta chú ý hơn. Nếu xét về chức năng
biểu cảm thì nó rất gợi cảm, nên khi sự im lặng xuất hiện tại vị trí, thời điểm nào đó
thích hợp sẽ tạo nên một hàm nghĩa lớn hơn rất nhiều bất kỳ một phát ngôn nào.
Người Việt Nam ta vẫn cho rằng: "Người khôn ăn nói nửa chừng, Để cho
người dại nửa mừng nửa lo!". Nói nửa chừng để dấy lên trong lòng độc giả những
cảm xúc, đó cũng là một dụng ý khôn khéo, tinh vi của nhà thơ khi muốn tác động
vào độc giả vậy.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Có người nói rằng ở trên đời này có bao nhiêu lối đi để con người đặt chân,
thì cũng có bấy nhiêu lối cho thơ. Trên những lối đi ấy, có nhiều cách đi, và cùng
trên một cách đi, có người thành công, có người thất bại. Điều đó cũng có thể để lý
giải cho mọi biểu hiện phong phú, vô tận của các phong cách thơ ca trong lịch sử;
cũng lý giải cho mức độ hiệu quả của những thi pháp mà nhà thơ sử dụng để tác
động đến độc giả.
Theo thời gian, do tác động của xã hội và nhu cầu phát triển của thơ, các
yếu tố thuộc về thi pháp trong thơ luôn vận động không ngừng và thay đổi. Phẩm
chất thơ vốn giàu có, hình tượng thơ đa dạng, phức tạp và trên thực tế thì người ta
đứng trên nhiều góc độ khác nhau để tiếp cận và nghiên cứu thơ nên mọi sự khẳng
định trong trường hợp nào đó cũng cần phải kiểm chứng lại trong từng thời điểm cụ
thể. Nhưng, ở góc độ tác động mà nhìn, chúng ta nhận thấy thơ có khả năng tác
động thông qua một số hình thức thi pháp nhất định. Thơ mang trong mình nhiều
tiềm năng mà khi cần, nhà thơ vận dụng và phục vụ hiệu quả cho ý đồ sáng tạo của
mình. Có không ít những yếu tố thi pháp thơ có nhiều tiềm lực, nó có khả năng vừa
tái hiện, vừa bộc lộ, vừa tác động. Trong chương này, chúng tôi tập trung tìm hiểu
những yếu tố có khả năng tác động mạnh mẽ nhất vào lý trí và cảm xúc của độc giả,
các yếu tố đã từng tác động mạnh vào nhiều thế hệ độc giả Việt Nam: các kiểu câu
có tính năng tác động cao, những yếu tố tạo nên nhạc điệu lôi cuốn, những kiểu
hình ảnh tác động mạnh, những hình thức ngữ pháp hướng đến sự tác động.
Xét về mức độ, mỗi yếu tố nghệ thuật có mức độ tác động nhiều ít khác
nhau nhưng trong chừng mực nào đó nó vẫn thuộc hàng những thi pháp có khả năng
tác động đến độc giả. Trong khi tìm hiểu, chúng tôi dừng lại ở thể loại thơ trữ tình
Việt Nam chứ không mở rộng ra các loại thơ khác. Trình tự phân tích, dẫn chứng
minh họa cho từng đề mục trong chương không tuân thủ theo tiến trình lịch sử thơ
ca dân tộc mà được sắp xếp theo đặc điểm tác động của từng yếu tố thi pháp. Tuy
nhiên, dường như mọi vấn đề đều quy về dòng thơ ca kháng chiến. Điều này không
có gì lạ bởi lịch sử đã trao cho các nhà thơ giai đoạn này nhiệm vụ ngợi ca, cổ động
nhân dân bước vào cuộc chiến đấu của dân tộc nên việc các nhà thơ vận dụng
những hình thức thi pháp hữu hiệu nhất để tác động là tất yếu.
Chương 3
NGHIÊN CỨU MỘT TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ: THƠ TỐ HỮU
3.1 Quan niệm của Tố Hữu về thơ
Được sinh ra và lớn lên trong những năm tháng nhiều biến động, cuộc đời
Tố Hữu gắn liền với những sự kiện trọng đại của lịch sử Việt Nam. Trong cơn bão
táp thời đại ấy, ông đã chọn đúng hướng đi cho cuộc đời mình, đã tự nguyện "buộc"
hồn mình với bao nhiêu "hồn khổ" của nhân dân lao động lầm than và gắn bó cuộc
đời mình với cách mạng một cách trọn vẹn, trở thành gương mặt thơ sáng ngời của
cách mạng. Chúng ta đã có đủ lý lẽ để khẳng định rằng Tố Hữu là nhà thơ có nhiều
bạn đọc nhất trong thời đại của ông, rằng tiếng thơ của Tố Hữu là tiếng nói của
nhân dân, là tiếng nói của cách mạng. Thành tựu đó có cơ sở vững vàng từ những
quan niệm sáng tác tiến bộ được ông trình bày trong nhiều bài viết mang tính lý
luận phê bình, trong những buổi nói chuyện về kinh nghiệm làm thơ hoặc tâm sự về
thơ, và trong tác phẩm thơ.
3.1.1 Thơ phải gắn bó với nhân dân, phục vụ cuộc sống
Ngay trong những ngày đầu, thơ Tố Hữu bật lên như những ngọn pháo sáng
nhưng rồi không lịm tắt theo thời gian mà lặn sâu vào tâm hồn người, âm ỉ, ấm áp
như những hòn than bền bỉ. Sức vang xa mà lắng đọng, ào ạt mà sâu sắc, sôi sục mà
thiết tha trong thơ ông là thành quả của sự cộng hưởng, sự hòa hợp tuyệt vời giữa
chính trị và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại. Tố Hữu thuộc mẫu nhà thơ có
quan niệm sáng tác tiến bộ và suốt đời thơ ông đi theo tư tưởng ấy. Trong các bài
viết bàn về văn học nghệ thuật và các buổi nói chuyện về thơ, trước sau Tố Hữu vẫn
thường quan tâm đến những vấn đề cốt lõi nhất: cảm xúc chân thật trong thơ, mối
quan hệ mật thiết giữa thơ và cuộc sống, ý nghĩa gọi đàn của thơ ca cách mạng.
Ý thức được rằng mình đang sống trong một thời đại "rất xao động" (chữ
dùng của Tố Hữu), một thời đại có nhiều bước nhảy vọt và dễ làm cho chúng ta lạc
phương hướng nên ngay từ những ngày mới vào cuộc, Tố Hữu đã xác định hướng
đi đúng đắn cho thơ và nhanh chóng tạo được tiếng vang. Từ ấy - tập thơ đầu tay
của ông vút lên như một tiếng hát trong trẻo, vui mừng của một tâm hồn vừa tìm
thấy lẽ sống cao đẹp, sẵn lòng đến với cách mạng, gắn bó với quần chúng cần lao:
"Tôi buộc hồn tôi với mọi người, Để tình trang trải khắp muôn nơi, Để hồn tôi với
bao hồn khổ, Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" [Từ ấy, 60, tr.57]. Trái ngược với
những người làm thơ trẻ lúc bấy giờ, Tố Hữu không bị lôi kéo vào những nỗi niềm
hoài cổ, xa lánh cuộc đời và mơ mộng thoát ly nên cũng không phải rơi vào bi kịch
bế tắc. Tâm hồn Tố Hữu hướng về cuộc đời thực với rất nhiều những số phận chịu
bất công đói nghèo, cơ cực. Đứng vững trên lập trường của một chiến sĩ cách mạng,
ông kêu gọi nhà thơ phải đứng giữa cuộc đời mà nghe, mà hiểu, mà viết để phục vụ
nhân dân. Ngay trong những dòng đầu tiên của bài "Văn học là cuộc đời", Tố Hữu
khẳng định: "Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học
sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là
nơi đi tới của văn học" [58, tr.119]. Văn nghệ nói chung và thơ ca nói riêng, theo
quan niệm của Tố Hữu, mặc dù là tiếng nói hồn hậu chân thành nhưng "cái hồn
nhiên không phải tự nhiên mà có, nó phải từ cuộc sống của nhân dân mà ra, lại được
nuôi bằng cuộc sống của nhân dân" [57, tr.442], thơ không mang mục đích tự thân mà
phải được bắt rễ từ cuộc sống lớn lao của nhân dân và góp phần vào thúc đẩy sự
phát triển xã hội. Từ nhận thức đó, Tố Hữu đã hòa nhập cái tôi của mình vào công
cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước, dùng thơ để nói tiếng nói của nhân dân, tiếng
nói của thời đại.
Bàn về thiên tài, Tố Hữu nói: "Tôi không tin có cái "thiên tài" nào ở ngoài
cái ổ của cuộc sống vĩ đại, cuộc sống lao động và đấu tranh đau khổ và dũng cảm
của muôn triệu con người làm nên lịch sử" [57, tr.442]. Dù có tài năng đến đâu thì họ
cũng là "con đẻ toàn diện của hoàn cảnh nó đã sống" [57, tr.442] và tác phẩm phải
"như đứa con mang máu thịt và cả cái mùi riêng của mẹ" [57, tr.442], mọi giá trị nghệ
thuật tuy được sáng tạo từ tim óc của nhà thơ nhưng phải luôn gắn bó và phục vụ
cuộc sống, phục vụ nhân dân. Tố Hữu không chấp nhận kiểu nhà thơ có thái độ thờ
ơ, lãnh đạm, tách rời cuộc sống, vì rằng thái độ đó sẽ không thể tạo nên những tác
phẩm có giá trị tích cực, mọi vấn đề mà tác phẩm phản ánh sẽ rất xa lạ với cuộc
sống, với nhân dân. Ông luôn nhắc nhở nhà thơ xiết chặt sợi dây liên hệ với hiện
thực cuộc sống, "tài năng không tự nhiên mà có" [58, tr.124] mà nhà thơ cần "phải
Tố Hữu thường động viên bạn cầm bút không ngừng trau dồi vốn sống, tích
sống đến tận cùng cuộc sống mới có được thơ hay" [59, tr.8].
lũy kinh nghiệm, lắng nghe nhu cầu của nhân dân và cất lên những tiếng thơ thiết
thực phục vụ lợi ích của nhân dân. Với ông, một trong những yêu cầu mang tính
nghiệp vụ dành cho một nhà thơ là không nên dối mình, phải thở hơi thở nóng hổi
của cuộc đời để cảm giác được sâu xa yêu cầu của quần chúng, của xã hội thì mới
sáng tác được những tác phẩm có giá trị. Cách mạng đã giúp Tố Hữu nhìn thấy sức
mạnh vô cùng của nhân dân, nhìn thấy được mối quan hệ biện chứng giữa cách
mạng, nhân dân và thơ ca nên ông cũng mong muốn những người làm thơ cần được
hiểu rõ điều này để họ không phải lạc lõng, cô đơn, nhất là đối với những nhà thơ
mới thoát khỏi tâm trạng buồn tiếc bi quan để đi vào kháng chiến. Những ý kiến và
tác phẩm của Tố Hữu ít nhiều tác động đến nhận thức của họ. Trong lời đề tựa tập
thơ Việt Bắc, Tố Hữu viết:
Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền Thuyền xô sóng dậy Sóng đẩy thuyền lên [60, tr.305]
Quan niệm này được Tố Hữu đúc kết từ những ngày đầu biểu tình đấu tranh
đến những năm tháng trực tiếp lên chiến khu, cùng nhân dân dãi dầu nếm trải những
gian khổ khó khăn trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Càng sống gần dân, Tố Hữu
càng thấu hiểu, cảm thông và yêu quý họ nhiều hơn, cũng vì thế mà thơ ông phản
ánh sinh động và sâu sát bức tranh kháng chiến và tâm tình của nhân dân: từ những
em bé liên lạc viên dũng cảm hy sinh, chị dân công chuyên cần vận chuyển hàng,
nỗi thao thức nhớ thương con của những bà bầm bà bủ, đến những khoảnh khắc nhớ
nhà của các anh Vệ quốc quân… Trong thơ ông, hình ảnh cuộc sống rất đa dạng, đó
là những sắc màu tươi roi rói của cuộc đời như lời ông từng khẳng định: "Hình ảnh
và nhịp điệu trong thơ là gì? Phải là hình ảnh và nhịp điệu của bản thân cuộc đời
tr.444]. Mặt khác, tuân theo yêu cầu "phổ cập và nâng cao", ngôn ngữ thơ Tố Hữu
kia, ở nơi nào, ở lúc nào đó bộc lộ ra được cái bản sắc, cái tươi mới của nó" [57,
vừa trong sáng thiết tha, vừa giản dị, mộc mạc. Ông khuyến khích các văn nghệ sĩ
nên học hỏi ca dao kháng chiến chống Pháp, vì dù nghệ thuật còn đơn sơ nhưng ca
dao kháng chiến "đã chứa đựng nguồn cảm xúc vô cùng giàu mạnh của nhân dân
kháng chiến. Đó là kho tài nguyên vô tận mà các nhà thơ của chúng ta phải biết khai
thác…" [57, tr.73], khai thác để phục vụ hiệu quả cho đông đảo nhân dân.
Là nhà thơ cách mạng, hơn ai hết, Tố Hữu hiểu rằng cội nguồn của thơ phải
bắt đầu từ thực tiễn cuộc sống, chính hiện thực cuộc sống nâng thơ lên tầm cao hơn,
giúp thơ có sức sống hơn. "Không dựa trên khoa học thì thơ không thể đứng vững,
không thể có cánh bay, không thể có chiều sâu, chiều rộng, chiều cao, không thể có
sức rung động được lòng người và cải tạo được xã hội. Và như vậy, thơ không thể
làm tốt chức năng của mình" [58, tr.125]. Lúc nào, ở đâu, miễn có dịp là ông nhiệt
tình động viên bạn cầm bút: "Bây giờ thì cái gì cũng đáng viết cả, chỉ lo không có
sức mà viết: Đừng chờ nữa. Phải viết như có cái gì nó thôi thúc sau lưng, nó cuốn ta
lên phía trước, cho thơ ta mang được nhịp điệu của thời đại mình" [58, tr.122]. Lời
động viên của ông đôi khi rất quyết liệt như lời thúc giục.
Khi miền Bắc giành thắng lợi và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tố
Hữu vẫn không ngừng sáng tác thơ và trình bày các quan điểm lý luận về chính trị
và văn nghệ. Tố Hữu còn phê phán những nhà thơ xa rời thực tế khi họ còn "thi vị
hóa cuộc kháng chiến, ca hát cuộc đấu tranh của nhân dân một cách trừu tượng và
tỏ căm thù giặc một cách còn công thức, chưa phổ được vào thơ những vui, buồn,
giận, ghét cụ thể, thiết thực của nhân dân" [57, tr.73]. Đặc biệt đề cao tính chân thực
của văn học, Tố Hữu yêu cầu người cầm bút phải xác định rõ rằng "nhân vật chính
của tác phẩm là các tầng lớp nhân dân mà chủ yếu là quảng đại nông dân và công
nhân trong đời sống hàng ngày, chiến đấu và sản xuất của họ" [57, tr.89] bởi vì theo
ông "thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình, tiếng nói đồng chí. Thơ tư sản thì tìm tới lỗ
tai, cái bụng tư sản. Thơ của nhân dân lao động thì tìm tới trái tim của người lao
động” [57, tr.89], phải hiểu rằng "thơ là kết quả của sự thâm nhập đời sống, trí tuệ tài
năng của nhân dân, nhập tâm bao nhiêu là nhờ ở cuộc đời của mình gắn bó được
bao nhiêu với nhân dân mình. Nhập tâm từ tâm hồn, tình cảm, đến dáng đi, giọng
nói, tiếng khóc, tiếng cười. Nhập tâm đến một mức nào đó thì thơ ấy thành hình. Có
thể nói thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy" [57, tr.445].
Tất cả những điều Tố Hữu làm, những bài thơ Tố Hữu viết, những quan
niệm Tố Hữu bộc bạch đều bắt nguồn từ tình yêu tha thiết ông dành cho cách mạng,
là niềm say đắm với thơ ca và nghĩa tình ấm áp với nhân dân. Ông đã sống như lời
ông từng nói: "Nhà khoa học, người nghệ sĩ chân chính… luôn luôn sáng tạo, bởi
luôn luôn thiết tha với con người, cuộc sống" [58, tr.126] và trước sau như một, ông
vẫn tâm nguyện: "chỉ yêu thứ thơ nào cho ta hiểu sâu xa cuộc sống, yêu cuộc sống
tr.441]. Nhân sinh quan của ông cũng mang bản chất cách mạng sâu sắc: yêu đất
của ta hơn, cho ta thêm sức sống, sức chiến đấu cho hạnh phúc của con người" [57,
nước, con người và cái Thiện; ghét kẻ thù phi nhân tính, ghét cái Ác. Nhưng không
phải kiểu yêu - ghét suông có màu sắc cải lương mà bao giờ cũng dẫn đến hành
động quyết liệt: tranh đấu tới cùng để bảo vệ chính nghĩa; lên án, tiêu diệt những thế
lực phản cách mạng, thù địch với con người. Ông là một trong "những nghệ sĩ biết
gắn chặt cuộc đời mình với cuộc sống của công nông binh, của những người lao
động" [57, 453]. Và, như lẽ tất nhiên, tiếng thơ ông cũng vang vọng vào nhân dân
như tiếng kèn xung trận, tiếng trống thúc quân, như tiếng gọi đàn.
3.1.2 Thơ là tiếng chim gọi đàn
Như đã thành nếp, mỗi khi nghĩ đến Tố Hữu thì chúng ta liên tưởng ngay
đến cách mạng Việt Nam. Nói như cách nghĩ của Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh: có
cách mạng mới có thơ Tố Hữu, Tố Hữu làm thơ cũng chính là làm cách mạng, thơ
Tố Hữu phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Hai việc ấy đã trở thành lẽ sống
của cuộc đời ông, nên nó cũng hình thành trong suy nghĩ của ông những quan niệm
đinh ninh thường trực về mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ ca, cuộc sống và cách
mạng. Với Tố Hữu, thơ ca trong thời đại bấy giờ nhất định phải có tác dụng cách
mạng, phải là vũ khí đấu tranh cách mạng, phải là tiếng chim gọi đàn.
Thật vậy, khi Tố Hữu nói thơ là tiếng gọi đàn, có nghĩa là ông đã nhìn thấy
bản chất tác động của thơ. Là một nhà thơ cách mạng, hiểu rõ hơn ai hết sức mạnh
của văn học, ông khẳng định: "cần xem văn học là vũ khí, là công cụ hết sức quý
tr.223]. Trong thời đại bấy giờ thơ Tố Hữu nói riêng và thơ cách mạng nói chung đã
báu của loài người và nói riêng của mỗi dân tộc, và thực là một vũ khí lợi hại" [57,
mạnh mẽ vạch trần những tội ác và âm mưu thôn tính, hủy diệt của kẻ thù; nó đặc
biệt có sức mạnh nâng người ta lên, cuốn người ta theo, dắt người ta đến một tương
lai tươi sáng hơn.
tr.226], Tố Hữu cũng khẳng định thái độ sáng tác và trách nhiệm của người cầm bút
Ý thức rằng thơ có khả năng "xây dựng biến đổi tâm hồn con người" [57,
đối với văn thơ: "người ta không thể "chơi" với súng, "chơi" với lửa thì cũng không
nên "chơi" với văn học nghệ thuật" (…). Nếu như trong mọi công việc chúng ta phụ
trách đều phải nghiêm trang thì tôi nghĩ đối với văn học lại càng phải nghiêm trang
hơn nữa" [57, tr.227]. Bởi nếu một phút giây nào người nghệ sĩ lơ là, cẩu thả tức thì
họ sẽ tạo nên những tác phẩm kém chất lượng hoặc tác động không tốt đến người
đọc. Cái nhìn nghiêm khắc về nghề thơ và thái độ lao động nghiêm túc, hết mình vì
nghệ thuật - là cơ sở để tạo nên sức mạnh cho thơ được Tố Hữu nghiêm túc nhắc
nhở mọi người. Ông luôn cho rằng, để trở thành tiếng gọi đàn, thơ trước hết cần
phải trong sáng, phải đúng đắn, và sau đó còn phải hùng hồn, mạnh mẽ để lôi kéo,
để thúc giục mọi người. Những vần thơ:
Dậy lên, hỡi đồng bào đau khổ Đất nước này phải thơm lúa thơm hoa Dân tộc này sẽ là một bài ca Của nhân nghĩa và bốn ngàn năm tỏa rộng Tôi hát lớn. Và trái tim sôi nóng Đẩy tôi lên cùng sóng người đi Cờ đỏ bay cao. Sức mạnh thần kỳ Qua lửa máu, không gì ngăn cản nổi. [Một nhành xuân, 60, tr.498]
như có sức mạnh cuốn ta đi. Đó là hơi nóng của máu đang cuồn cuộn chảy trong
tim, là ánh sáng ngời ngợi của lý tưởng soi trên đầu, là niềm tin, là lẽ sống bất tử mà
nhà thơ tin tưởng và sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình để đeo đuổi, để cống hiến.
Chất men say trong thơ Tố Hữu như có ma lực "chuốc" người đọc cùng say. Cũng
bằng niềm say mê ấy, Tố Hữu mơ ước xây dựng một nền văn nghệ "mang lại sự
phấn khởi tươi vui, làm cho cuộc đời khỏe để chiến đấu" [57, tr. 31], mong muốn mọi
người cùng góp sức tạo cho dân tộc anh hùng một nền văn nghệ anh hùng. Bản thân
ông đã cùng bao đồng nghiệp của mình làm được điều đó, họ đã mang đến cho nền
thơ cách mạng một sức mạnh kỳ diệu trong việc "công phá" thành trì tội ác của
quân thù và vực dậy, hâm nóng, cổ động tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của
toàn dân.
Hầu mong góp vào nền thơ cách mạng những tiếng gọi đàn hữu ích, Tố Hữu
nhắc nhở, động viên bạn viết hướng ngòi bút về cuộc chiến tranh anh dũng của dân
tộc, ông kêu gọi mọi người hãy tạm dừng lại những ước mơ sáng tạo nên những tác
phẩm đồ sộ, vĩ đại mà trước hết hãy tập trung sáng tác những "tác phẩm mang lợi
ích thiết thực cho kháng chiến, có tác dụng đối với quần chúng nhân dân" [57, tr.88].
Trong hoàn cảnh hiện tại, để tác động đến tinh thần yêu nước của nhân dân thì
"nhiệm vụ của người chiến sĩ văn nghệ, trước hết là biểu dương người chiến sĩ của
xã hội, những chiến sĩ của nhân dân cách mạng" vì hơn lúc nào hết, "chỉ có lúc này,
trong cuộc chiến đấu này, những tình cảm cao đẹp nhất, những hành động đẹp nhất
của nhân dân ta, dân tộc ta mới bộc lộ đầy đủ nhất và đáng nói nhất". Ông còn cho
rằng, nếu không có những tác phẩm văn nghệ toát lên những vấn đề của đời sống,
của thời đại, nói lên cách sống, cách nghĩ của Đảng ta, dân tộc ta hiện nay, thì đó
"không những là sự thiệt hại lớn cho dân tộc ta hôm nay và mai sau, mà đối với
nhân dân thế giới, chúng ta thành những người vô trách nhiệm" [57, tr.34 - 37]. Bấy
giờ, bên cạnh Hồ Chí Minh và Sóng Hồng, Tố Hữu là một trong những nhà thơ sớm
có quan niệm sáng tác và lập trường chính trị tiến bộ và sâu sắc. Ý nghĩa tác động
của thơ ca, khả năng đóng góp của thơ ca đối với cuộc kháng chiến của dân tộc luôn
được Tố Hữu khẳng định, đề cao và không ngừng giục giã mọi người hiểu rõ và tận
dụng nó để sáng tác phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ Quốc.
Tố Hữu tỏ rõ thái độ xây dựng và bảo vệ nền văn nghệ cách mạng - một nền
văn nghệ có những ảnh hưởng tích cực đối với tư tưởng của đông đảo đồng bào. Ở
cương vị của một người lãnh đạo làm công tác văn hóa văn nghệ, Tố Hữu trực tiếp
phê phán bài trừ những hiện tượng, những hoạt động văn nghệ mà ông cho là sai
trái. Ông lo sợ những tác phẩm ấy sẽ tác động không tốt vào tư tưởng và nhận thức
của nhân dân, ông quyết liệt kêu gọi mọi người không dung nạp thứ văn chương
phù phiếm, xa lạ với nhân dân vì nó không mang lại cho đất nước một ý nghĩa thiết
thực nào, vì nó không góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Suốt cuộc đời cầm bút
chiến đấu, Tố Hữu đã học tập nghiêm túc và chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư
tưởng yêu nước của các tiền bối ở Việt Nam và thế giới, ông ham thích thơ Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh và tìm đọc các tác phẩm tiến bộ của các V. Hugo, M.
Gorki, J. London, L. Tonstoi… Tiếp bước họ, Tố Hữu đã dùng thơ ca khẳng khái
khẳng định lòng yêu nước, tinh thần quật cường của nhân dân Việt Nam trong chiến
tranh và thôi thúc, giục giã mọi người hướng về cách mạng. Những nhận thức đúng
đắn của một chiến sĩ cộng sản giúp Tố Hữu hình thành nên tình cảm cách mạng:
yêu ghét rất rạch ròi và quyết liệt. Đối với nhân dân, với Đảng, với Bác Hồ, Tố Hữu
dành tất cả tình thương yêu, cảm thông và kính trọng; đối với những thế lực phản
động, những kẻ áp bức bóc lột, kẻ thù xâm lược, ông căm phẫn và kêu gọi toàn dân
hợp sức đấu tranh tiêu diệt chúng. Những lời lẽ trong thơ Tố Hữu, khi hướng tới kẻ
thù, luôn là những tiếng thét căm hờn:
Như đám cháy trong gió lồng rần rật Muôn nghìn trái tim, một ngọn lửa thiêng Triển gân lên, rung chuyển cả dây xiềng Đồng đứng dậy đạp đầu quân khốn nạn! [Tranh đấu, 60, tr.102]
Trong các sáng tác của mình, Tố Hữu luôn tỏ rõ thái độ đấu tranh cho cách
mạng. Khuynh hướng kêu gọi đấu tranh trong thơ Tố Hữu bộc lộ rõ ngay trên các
tiêu đề bài thơ: "Hãy đứng dậy", "Liên hiệp lại", "Dậy lên thanh niên", "Dậy mà
đi"… Có nhiều bài thơ như lời đanh thép kết tội kẻ thù: "Tiếng hát trên đê", "Thưa
các ông nghị", "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên", "Êmily… con", "Bài ca xuân 71",
v.v… Ông cũng đã không ngần ngại gọi thẳng tên tuổi kẻ ngoại bang: Giôn - xơn,
Mác - na - ma - ra…
Cùng với thơ của nhiều nhà thơ chiến sĩ khác, thơ Tố Hữu vang vọng và
hùng hồn như những khúc quân hành, thổn thức như nhịp đập của hàng vạn trái tim
đồng bào và thiêng liêng như lời Tổ Quốc. Từ năm 1938, trong "Tháp đổ", ông đã
tự nhắc nhở mình và cũng nhắc nhở các thi sĩ khác tránh xa những quan điểm nghệ
thuật yếu đuối, tiêu cực đương thời:
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát Của ngày mai muôn thuở với hương hoa [Tháp đổ, 60, tr.30].
Đó cũng là lời khẳng định cho một quan niệm thơ ca tích cực: nhiệm vụ của
nhà thơ là phải góp phần tác động, đấu tranh và cải tạo cho xã hội ngày càng tươi
sáng hơn. Suy nghĩ này của Tố Hữu cho thấy ông đã dự báo được một nền nghệ
thuật có khả năng đả phá và xây dựng, chiến đấu cho một xã hội tốt đẹp trong tương
lai. Nguyễn Văn Hạnh đã từng khẳng định ý nghĩa tác động trong thơ Tố Hữu:
"ngay từ đầu, thơ anh không phải là thơ ngâm vịnh, thơ cảm thán hay thơ "ký thác"
mà thơ anh kêu gọi đấu tranh cách mạng, kêu gọi hành động" [39, tr.41].
Đối với Tố Hữu, cảm hứng thơ thường hướng ra bên ngoài, hướng về số
đông; đề tài thơ Tố Hữu thiên về cuộc chiến đấu chống giặc và những vấn đề thời
sự nóng bỏng nên thơ Tố Hữu là thơ gọi đàn, là bài ca nhiệt tình ca ngợi lý tưởng
cộng sản và kêu gọi đấu tranh. Năm 1995, trong bài nói chuyện với nhà văn Anh
Đức, Tố Hữu khẳng định: "người viết có quyền dùng ngòi bút can thiệp vào tất cả
mọi việc nào mà anh ta thấy là cần thiết để đẩy lùi cái xấu, thúc đẩy cái tốt. Các
tr.163]. Bản thân Tố Hữu yêu cầu thơ phải là vũ khí đấu tranh cách mạng, phải mang
việc ấy không phải chỉ là việc của nhà nước mà còn là của mọi người cầm bút" [75,
cánh lửa, phải rắn rỏi chất thép để tác động đến quần chúng nhân dân. Ông tìm về
với nhân dân, với kháng chiến như tìm về với sức mạnh vô tận của cội nguồn sáng
tạo nghệ thuật bởi ông hiểu rằng "nếu tác phẩm văn học miêu tả được sinh động,
chân thực con người của mình, chỉ rõ được cái đáng yêu đáng ghét thì ích lợi cho ta
[57, tr.227]. Tuy nhiên, ý thức được con đường lây lan tình cảm của con người là vô
rất nhiều. Nó có thể giúp ta vươn lên một cuộc sống cao hơn, đẹp hơn, giàu có hơn"
cùng, Tố Hữu cho rằng trước hết thơ là tiếng nói tình cảm - tình cảm cách mạng:
"Thơ là chuyện đồng điệu, nó là tiếng nói của người nào đó đến với những người
nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý đồng tình… Thơ là tiếng nói
đồng ý đồng tình, tiếng nói đồng chí" [57, tr.440, 441]. Chính yếu tố tình cảm chân
thành, đằm thắm và sâu lắng trong thơ Tố Hữu đã tạo nên sức mạnh truyền cảm cho
thơ ông, khiến biết bao độc giả đã say mê, tán thưởng, ca tụng. Cũng nhờ thế, thông
qua thơ ca, Tố Hữu đã dễ dàng truyền đạt những lý tưởng cách mạng cao đẹp đến
người đọc, tác động họ, giác ngộ và thôi thúc họ hành động.
Những ý kiến của Tố Hữu đối với quá trình xây dựng và phát triển nền văn
học cách mạng có hai ý nghĩa: vừa là tiếng nói của đồng chí lãnh đạo thay mặt
Đảng yêu cầu và định hướng cho các văn nghệ sĩ, vừa là tiếng nói của người đồng
chí, đồng nghiệp say mê nghiệp bút, hăm hở đấu tranh nên có sức thuyết phục cao.
Có thể xem trên đây là quan niệm khá đầy đủ tiến bộ và đúng đắn về thơ ca của Tố
Hữu - những nền tảng lý luận vững chắc giúp thơ Tố Hữu thành công và nó cũng
góp phần mang tính chỉ đạo, định hướng cho nền thơ cách mạng Việt Nam phát
triển. Suốt cuộc đời cầm bút, Tố Hữu đã tuân thủ theo những quan niệm nghệ thuật
của mình và cống hiến cho đất nước nhiều tác phẩm có giá trị. Qua từng tập thơ,
hồn thơ Tố Hữu càng đằm thắm và sâu sắc hơn, biểu thị sinh động và trung thực
đường lối lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ. Sức mạnh của tình yêu nước, yêu dân
giúp thơ ông có sức tác động mạnh, có sức sống bền bỉ, len qua những khúc mắc
đời thường, vượt qua những gai góc bạo liệt của chiến tranh để làm rung động hồn
người.
3.2 Đặc điểm thi pháp thơ Tố Hữu xét từ góc độ tác động
Sự kết hợp hài hòa nội dung và hình thức biểu hiện qua nhiều chặng đường
thơ giúp Tố Hữu thành công và giúp thơ ông có được một sức sống bền lâu. Có thể
thấy rõ tiếng nói trong trẻo hồn nhiên trong "Từ ấy", tiếng nói gần gũi chân tình
trong "Việt Bắc", chất phóng khoáng hào sảng trong "Gió lộng" và "Ra trận", và sau
đó là hơi thơ đằm thắm ở các tập sau. Ảnh hưởng của thơ Tố Hữu đối với độc giả
đương thời và hiện nay cũng đã được xác định qua những ý kiến của các nhà nghiên
cứu. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung tìm hiểu những biểu hiện thi pháp đã
tạo nên âm vang, khiến thơ Tố Hữu có sức tác động mạnh mẽ đến đông đảo độc giả.
3.2.1 Nhạc điệu vừa ngọt ngào tha thiết, vừa hùng tráng giục giã
Chế Lan Viên cho rằng thơ được tạo nên từ hai miền lý trí và xúc cảm, một
chút thiếu cân bằng sẽ tạo nên những dòng thơ thiên lệch, hoặc sẽ khô khan mà sâu
sắc, hoặc sẽ mượt mà nhưng nông cạn, hời hợt. Giữ được thế quân bình giữa hai
vực thẳm có sức hút mãnh liệt ấy phải là nhà thơ tài năng, và Tố Hữu đã làm được
điều đó. Thơ Tố Hữu "vừa ru người trong Nhạc, vừa thức người bằng Ý. Trong
tr.208]. Âm nhạc trong thơ Tố Hữu như chất keo kéo người đọc hướng về cách
sóng nhạc cuồn cuộn, những Ý nổi lên, như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại" [75,
mạng, về Tổ Quốc và nhân dân.
Người ta say mê thơ Tố Hữu không phải vì bút pháp nghệ thuật của Tố Hữu
cao siêu trác tuyệt mà chính cái hồn thơ dạt dào nhựa sống, dạt dào tình yêu đất
nước, yêu cuộc đời, yêu nhân dân của Tố Hữu đã cuốn họ đi. Có một sức mạnh nào
đó thấm trong mỗi dòng, mỗi ý, mỗi bài thơ làm ta say đắm, khi đọc đến, là nhận ra
ngay hơi thơ của Tố Hữu, nhưng bảo tách bạch cho rõ ràng thì thật khó khăn. Đó
chính là nhạc điệu bên trong, là nhạc điệu tâm hồn. Nhạc điệu tâm hồn không chỉ
thể hiện cụ thể bằng cái vỏ âm thanh của ngôn ngữ thơ lúc bổng lúc trầm, lúc êm,
lúc mạnh mà nó còn được kết tinh từ tư duy nghệ thuật của nhà thơ, thông qua lăng
kính tâm hồn nhà thơ, chất nhạc này được phả vào toàn bộ hình tượng thơ, từ cấu
tứ, hình ảnh, kết cấu v.v… Nó là nhạc trong hồn nên rất vi diệu, cũng rất dễ đến với
những tâm hồn đồng điệu khác.
Nếu như nhân vật chính trong thơ Chế Lan Viên là bản thân nhà thơ đang
suy nghĩ, thì nhân vật chính trong thơ Tố Hữu là chính nhà thơ đang say sưa hát ca.
Sự kết hợp giữa chất hùng tráng và chất trữ tình, giữa hơi thở dân tộc và màu sắc
hiện đại cũng làm nên chất nhạc điệu tâm hồn ngọt ngào sâu lắng trong thơ Tố Hữu,
nó khiến người đọc cảm thấy một dấu hiệu riêng của Tố Hữu chứ không phải là ai
khác, nó vang lên một "thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ nhiều
khi thành một thứ "thi tại ngôn ngoại" của Tố Hữu" [75, tr.509] và Xuân Diệu gọi cái
nền nhạc đặc biệt đó là "lòng thương mến". Tố Hữu vẫn được nhiều nhà nghiên cứu
khác gọi là "thi sĩ của tình thương" cũng bởi vì nhân sinh quan cách mạng và trái
tim nhạy cảm yêu đời, yêu người đã tạo cho riêng ông một hồn thơ không trộn lẫn
với ai, một hồn thơ vừa sôi nổi, háo hức lại vừa thiết tha, đằm thắm, chân tình như
tâm hồn dân tộc Việt Nam. Sáng tạo trong thơ Tố Hữu, "nhìn chung, không ở những
từ ngữ mới lạ, những so sánh tân kỳ, mà ở những hòa phối âm thanh nhịp điệu có
sức diễn tả độc đáo" [98, tr.228]. Thơ Tố Hữu thật sự giàu chất nhạc, nhạc bên trong
lẫn nhạc bên ngoài. Đọc Tố Hữu, ta nghe ra rõ ràng cái vần điệu, cái âm điệu của
riêng Việt Nam mình, ta cũng bị cái chất nhạc ấy tác động vào tâm trí của mình,
cảm xúc của mình.
Trước hết là âm thanh vang ra từ bản thân mỗi từ ngữ nhờ quá trình chọn
lọc và sử dụng thuần thục của nhà thơ. Hệ thống ngữ âm phong phú của Tiếng Việt
đã được Tố Hữu tận dụng và phát huy thật sự có hiệu quả, "tiếng nói Việt Nam luôn
luôn hát lên thành âm nhạc" [75, tr.565] trong thơ ông. Một trong những âm vang dễ
nhận thấy nhất trong thơ Tố Hữu là những từ lấp láy được sử dụng rất nhiều. Chúng
tôi thống kê có đến 582 từ láy với 1353 lượt sử dụng trong toàn bộ 7 tập thơ của Tố
Hữu. Như vậy, trung bình trên 10 dòng thơ có khoảng 1,281 từ láy. Một số lượng
không nhỏ đủ để ta hiểu việc dùng nhiều từ lấp láy là một trong những đặc trưng
của thơ Tố Hữu.
Từ láy vốn được hình thành trên phương thức phối hợp ngữ âm giữa hai từ
(bộ phận hoặc hoàn toàn) để tạo nên những âm thanh vang xa hơn. Trong thơ Tố
Hữu, có rất nhiều kiểu láy khác nhau, từ láy toàn bộ ("Mây núi hiu hiu chiều lặng
tr.206]) và láy phụ âm ("Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên" [Non nước ngàn dặm,
60, tr.466])… Xét về mặt ngữ âm, khi đứng một mình, bản thân một từ láy có khả
lặng" [Quê mẹ, 60, tr.244]) đến láy bộ phận, láy vần ("Chú bé loắt choắt" [Lượm, 185,
năng tạo nên âm vang hơn các loại từ khác. Cái yếu tố lặp lại hai lần một bộ phận
hoặc là vần, hoặc là âm, hoặc lặp cả tiếng là cơ sở tạo nên độ nhấn về âm thanh cho
từ láy. Cho nên, nhiều nhà thơ vẫn thích sử dụng từ láy, để tăng tính nhạc cho thơ
đồng thời mang đến cho từ những khả năng tác động mạnh hơn. Từ láy tượng thanh
có khả năng mô phỏng âm thanh trong tự nhiên, từ láy tượng hình có khả năng gợi
lên những hình tượng sinh động, cụ thể và độc đáo. Trong thơ Tố Hữu, có nhiều
kiểu từ láy khác nhau được sử dụng: láy tượng thanh (xình xịch, thánh thót, rầm
rập, lao xao, rộn rã, rầm rì, ríu rít…), láy tượng hình (thênh thang, ung dung, phấp
phới, lồng lộng, thăm thẳm, xác xơ, lênh đênh…) và láy tâm trạng (da diết, bồn
chồn, bâng khuâng, nao nao, miên man, hồi hộp, tê tái, ngẩn ngơ,…). Có nhà
nghiên cứu cho rằng: "Ở bài thơ nào và gần như khổ thơ nào của Tố Hữu cũng có
mặt từ lấp láy (…). Dường như việc dùng từ lấp láy đã thành một nét phong cách
của thơ Tố Hữu" [75, tr.340]. Chúng tôi cho rằng, từ láy trong thơ Tố Hữu đã góp
phần không nhỏ trong việc tạo nên nhạc tính cho thơ ông và giúp thơ ông có sức
ngân vang, có sức tác động vào độc giả mạnh mẽ hơn.
Nhạc điệu trong thơ Tố Hữu còn được tạo thành nhờ vào các yếu tố trùng
điệp: điệp từ, điệp ngữ, điệp câu, và điệp cấu trúc. Nhiều bài thơ hay của Tố Hữu
đều không thiếu các yếu tố này. Nhiều bài thơ có hiện tượng điệp dày đặc. Ví dụ:
Trong bài thơ "Trăng trối" - một khúc tự tình tha thiết của nhà thơ trong tình cảnh
nghĩ về cái chết - có 8 trường hợp điệp câu, từ, ngữ khác nhau trong một bài thơ dài
60 dòng, mỗi trường hợp điệp 2 lần, 3 lần, thậm chí 4, 5 lần, và tổng số lượt trùng
điệp trong toàn bài là 24 lần. "Việt Bắc", "Tiếng hát sông Hương", "Ta đi tới", "Quê
mẹ", "Dậy mà đi", "Em ơi…Ba Lan", "Quyết hy sinh", "Đường của ta đi", "Một
khúc ca"… là những bài thơ hay và có tần số trùng điệp cao, nên cũng có sức cuốn
hút vô cùng. Đôi khi điệp có khả năng làm tăng thêm trong lòng độc giả niềm cảm
kích khí thế hiên ngang, bất khuất:
- Giết ta đi, lũ khốn, giết ta đi Máu ta thấm vào muôn lòng rên xiết Bay sẽ thấy cả Việt Nam đoàn kết Đứng phắt lên, giết chết cả loài bay Đứng phắt lên, chặt đứt xích xiềng này! Một thây ngã, một trăm đầu xốc tới Trăm đầu rụng, thì muôn chân lính mới Sẽ xông lên! Cờ phấp phới bay cao Sẽ không rơi xuống đất một giây nào! [Quyết hy sinh, 60, tr.119,120]
Cũng có khi nhà thơ sử dụng trùng điệp nhằm tác động đến độc giả những
tình cảm thiết tha, trìu mến:
- Mình về/ mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy /thiết tha mặn nồng Mình về/ mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi,/ nhìn sông nhớ nguồn? …Nhớ người mẹ/ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy/ bẻ từng bắp ngô Nhớ sao/ lớp họ/c i tờ Đồng khuya/ đuốc sáng/ những giờ/ liên hoan Nhớ sao/ ngày tháng/ cơ quan Gian nan/ đời vẫn/ ca vang/ núi đèo… [Việt Bắc, 60, tr.230,231]
Nếu tính thêm các yếu tố từ lấp láy, hiệp vần, ngắt nhịp và trùng điệp thì
đoạn thơ trên hội đủ các thủ pháp tạo nên nhạc điệu cho thơ. Nó làm cho các tiếng
trong dòng, các dòng thơ kết dính, xoắn xuýt lấy nhau liền mạch khiến người đọc dễ
thuộc, dễ nhớ và dễ rung động. Tố Hữu đã sử dụng hầu hết các dạng điệp và điệp ở
nhiều vị trí khác nhau: đầu câu, giữa câu, cuối câu, cách quãng, vòng tròn. Trong
các thủ pháp tạo nên độ vang xa thì trùng điệp có khả năng lớn nhất, là thủ pháp chủ
yếu để tạo nên chất nhạc cho thơ. Hiện tượng điệp dày đặc như vậy thể hiện thái độ
sống sôi nổi, tâm tình thiết tha của nhà thơ đồng thời tạo nên sức mạnh lôi cuốn của
giọng thơ.
Bên cạnh đó, vần là một yếu tố góp phần quan trọng làm tăng nhạc điệu cho
thơ, đồng thời là yếu tố giúp thơ có khả năng tác động vào trong tâm hồn người đọc
một cách tự nhiên, cảm tính. Tuy sáng tác bằng nhiều thể thơ khác nhau, nhưng Tố
Hữu cũng chú trọng đến vần, ngay cả đối với thể thơ tự do vốn không câu nệ số
tiếng trên một dòng thơ. Ngoài những vần thông thường Tố Hữu còn gieo vần ở
nhiều vị trí khác nhau (vần lưng và vần chân), hoặc có những âm tiết nằm ở giữa
dòng dưới hiệp với âm tiết cuối của dòng trên:
- Tin về nửa đêm Hỏa tốc hỏa tốc Ngựa bay trên dốc Đuốc cháy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn đỏ lửa… [Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 60, tr.222]
Có khi nhà thơ cố ý gieo vần trong cùng một dòng thơ khiến cho câu thơ dạt
dào nhạc điệu:
- Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan Đường bạch dương sương trắng nắng tràn [Em ơi… Ba Lan, 60, tr.290] - Có thể nào khuây cỏ cây vẫn nhắc …Cả hai miền xao xuyến tiếng ve ran [Có thể nào yên, 60, tr.322] - Sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến Gió lộng đường khơi, rộng đất trời [Mẹ Tơm, 60, tr.316]
Nhiều nhà phê bình nhận định rằng vần trong thơ Tố Hữu rất "tươi", rất
vang. Xuất hiện nhiều trong thơ Tố Hữu nhưng không phải vì thế mà vần bị gò ép,
khiên cưỡng. Các vần đều được Tố Hữu gieo rất uyển chuyển, tự nhiên chứ không
cứng nhắc, vụng về, gượng gạo. Vần trong thơ Tố Hữu được sử dụng để góp phần
nhấn mạnh những tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đồng thời tác động mạnh vào quá
trình nhận thức của người đọc. Giá trị biểu cảm của vần được biểu hiện khác nhau
tùy vào việc chúng mang thanh điệu khác nhau nên Tố Hữu rất có ý khi sử dụng vần
bằng - trắc để tạo nên âm điệu cho thơ. Nếu như những bài thơ mang âm điệu hùng
tráng của ông thường gieo nhiều vần trắc thì những bài thơ mang giọng điệu tha
thiết, ngọt ngào, các vần được gieo thường là những vần bằng. Có thể đơn cử hai
bài "Bác ơi" và bài "Thù muôn đời muôn kiếp không tan" để thấy được sự khác
nhau đó. Trong "Bác ơi", có tất cả 13 lần hiệp vần theo kiểu aaba của dạng thơ 7
chữ thì đủ cả 13 lần đều được Tố Hữu chọn vần bằng, hoàn toàn không có lấy một
vần trắc. Bài thơ mang âm điệu da diết, đau đáu một niềm tiếc thương vô hạn về
Chủ tịch Hồ Chí Minh và tác động mạnh vào cảm xúc của người đọc. Ngược lại,
"Thù muôn đời muôn kiếp không tan" có tất cả 74 dòng thơ, 37 lần hiệp vần theo
từng cặp dòng thơ thì có đến 35 vần mang thanh trắc. Vì thế, bài thơ vang lên âm
điệu mạnh mẽ, rắn rỏi, tác động vào người đọc và kích thích ở họ nỗi căm hận kẻ
thù và khơi dậy trong họ ý chí đấu tranh. Tuy nhiên, xét mối tương quan cụ thể thì
Tố Hữu ít sử dụng vần trắc mà chúng ta thấy vần bằng là chủ yếu. Theo thống kê,
trong thơ Tố Hữu có đến 70,7% vần bằng và 78,5% sử dụng vần chính trong tổng
số vần được hiệp. Đó cũng là nguyên nhân khiến nhiều người cho rằng vần thơ Tố
Hữu có sức vang xa, có chất nhạc, có khả năng tác động mạnh vào cảm xúc của độc
giả.
Ngoài ra, hơi thơ Tố Hữu thường liền mạch, âm hưởng thơ tuôn chảy dạt
dào bởi ông thường xuyên sử dụng vần liền hơn là vần gián cách. Có thể thấy, trong
tay nhà thơ, vần là một công cụ phục vụ hiệu quả ý đồ nghệ thuật. Về vấn đề này,
Nguyễn Văn Hạnh cũng nhận xét: "Thơ là thơ cách mạng, thơ kêu gọi đấu tranh,
thơ tình nghĩa, nội dung quyết định hình thức một cách cao độ, ý tình liền một
mạch, cách khai triển, cấu tạo bài thơ, cũng như cách gieo vần, là từ nhu cầu ấy mà
ra" [75, tr.825].
Cái nền của nhạc thơ vẫn là nhịp điệu, kết quả của quá trình kết hợp hài hòa
các ngữ liệu ngữ âm trong thơ. Trong thơ Tố Hữu nhịp điệu khá phong phú, đa
dạng. Ngay trong những thể thơ quen thuộc, nhịp thơ của Tố Hữu cũng biến hóa
khác thường:
- Huế mình,/ đẹp nhất lòng dân// Mùa Thu khởi nghĩa,/ mùa Xuân dậy thành.// Ngày đi,/ tóc hãy/ còn xanh// Mai về,/ dù bạc tóc anh,/ cũng về!// Nhớ ai/ khắc khoải/ chiều hè// Con chim cu gáy gốc Chè,/ nôn nao… // [Nước non ngàn dặm, 60, tr.467]
Thông thường, nhịp lục bát là nhịp chẵn (2/2/2 và 2/2/2/2), sự cải biến thành
nhịp 3/3 ở câu lục và nhịp 4/4 ở câu bát là cách bắt nhịp phải phục tùng ý. Thậm
chí, Tố Hữu còn sử dụng nhịp 2/4/2 và nhịp 6/2 ở câu bát biến câu thơ thuần túy trở
thành câu nói, khiến người đọc đọc lên, cảm thấy gần gũi, dễ nhớ. Trong nhiều bài
thơ khác, chúng ta thấy Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt nhịp thơ. Nhiều đoạn, nhiều
bài thơ có nhịp ngắt rất táo bạo giúp cho thơ vượt thoát lối mòn, thể hiện nổi bật
tâm trạng vui sướng, bất ngờ hoặc đau đớn tột cùng của nhà thơ, đồng thời có khả
năng tác động rất sâu sắc đến tình cảm của người đọc. Ví dụ trong bài thơ "Bài ca
xuân 1961", Tố Hữu đã sử dụng các thể thơ tự do, lục bát và cả thể thơ bảy chữ
đồng thời tạo nên những nhịp thơ biến hóa không ngừng để lôi cuốn độc giả vào
chung niềm hân hoan trước mùa xuân tươi vui của đất nước:
- Tôi viết bài thơ xuân// Nghìn chín trăm sáu mốt// Cành táo đầu hè/ rung rinh/ quả ngọt// Nắng soi/ sương giọt/ long lanh…//
Rét nhiều/ nên ấm/ nắng hanh// Đắng cay lắm/ mới ngọt lành/ đó chăng?// Giã từ/ năm cũ/ bâng khuâng// Đã nghe/ xuân mới/ lâng lâng/ lạ thường!// Chào xuân đẹp!/ Có gì vui đấy// Hỡi em yêu?/ Mà má em đỏ dậy// Như buổi đầu/ hò hẹn/ say mê// Anh nắm tay em,/ sôi nổi,/ vụng về // [Bài ca mùa xuân 1961, 60, tr.309]
Tuy nhiên, không phải lúc nào nhịp thơ cũng biến hóa mà chính nhịp điệu
truyền thống cũng tạo nên âm hưởng tha thiết, ngọt ngào, tác động nhẹ nhàng vào
cảm xúc của độc giả, khiến tâm hồn họ ngân lên những cung bậc xao xuyến, yêu
thương:
- Bầm ơi/ có rét/ không bầm?// Heo heo/ gió núi,/ lâm thâm/ mưa phùn// Bầm ra ruộng cấy/ bầm run// Chân lội dưới bùn,/ tay cấy mạ non// …Mưa phùn/ ướt áo/ tứ thân// Mưa bao nhiêu hạt,/ thương bầm/ bấy nhiêu! // [Bầm ơi, 60, tr.198]
Nhạc trong thơ Tố Hữu, cũng như ở các nhà thơ khác còn được cấu thành
bởi sự phối thanh. Các nhà thơ luôn biết đặt những âm tiết mang thanh trắc hoặc
thanh bằng đúng vào vị trí của nó để tăng giá trị biểu cảm của thơ. Tố Hữu còn
thuần thục ở chỗ ông kết hợp việc phối thanh và tạo nhịp để tạo nên khả năng mô
phỏng nhịp điệu đời sống của thơ. Sự mô phỏng âm thanh tự nhiên trong thơ Tố
Hữu đã tạo nên những âm điệu quen thuộc đồng thời làm tăng khả năng tác động
đến người đọc bởi nó khiến người đọc dễ cảm thụ, dễ nhớ lâu:
- Hì hà/ hì hục// Lục lục/ lào cào// Anh cuốc/ em cuốc// Đá lở/ đất nhào!// [Phá đường, 60, tr.186]
Đó là nhịp điệu khẩn trương và hối hả nhưng rất đỗi mạnh mẽ của dân công
trong cuộc phá đường, là tiếng đất đá lăn lộn dưới sức bủa của con người. Nhịp thơ
ngắn, khỏe rất gần với nhịp điệu bên ngoài cuộc sống nên dễ tác động đến cảm xúc
người đọc. Còn đây là nhịp điệu chậm rãi của người ca kỹ trên sông Hương:
- Trên dòng/ Hương Giang// Em buông mái chèo//
Trời trong veo// Nước trong veo// Em buông mái chèo// Trên dòng/ Hương Giang// [Tiếng hát sông Hương, 60, tr.60]
Tâm trạng u buồn và nhịp chèo hờ hững của người con gái được Tố Hữu thể
hiện thành công bằng nhịp điệu chậm rãi, rời rạc. Với "Tiếng chổi tre", nhà thơ đã
khắc họa độc đáo âm thanh đều đặn của từng nhát chổi người lao công đưa trên
đường vắng:
- Tôi lắng nghe// Trên đường/ Trần Phú// Tiếng chổi tre// Xao xác/ hàng me// Tiếng chổi tre// Đêm hè// Quét rác…// [Tiếng chổi tre, 60, tr.304]
Bài thơ với những dòng thơ ngắn (2,3 chữ), nhịp ngắt chậm rãi, đều đặn như
những nhịp chổi từ xa vẳng lại. Đọc xong đoạn thơ ấy, ta có cảm giác như nó đang
tan đi, ngân vang vào không gian và để lại trong lòng ta những rung cảm sâu xa.
Việc tạo nhịp, gieo vần, phối thanh, sử dụng các phép trùng điệp và các từ lấp láy
được Tố Hữu vận dụng nhuần nhuyễn, khéo léo làm tăng thêm nhạc điệu cho thơ,
cũng làm tăng thêm sức mạnh tác động vào lòng độc giả. Tuy nhiên, ở trường hợp
nào ta cũng dễ tìm thấy, dễ nhận ra giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và sâu lắng của
Tố Hữu, dù có những bài thơ căm phẫn, hơi thơ mạnh mẽ nhưng cái nền, cái âm
hưởng chủ đạo của hồn thơ Tố Hữu vẫn trong trẻo, tha thiết. "Có thứ thơ hay mà
khúc khuỷu, và có khi chỉ hay ở chỗ khúc khuỷu. Có thứ thơ hay ở chỗ dễ dàng,
trong trẻo như dòng nước chảy xuôi trên mảnh kính pha lê. Thơ Tố Hữu ở vào lối
thứ hai này" [75, tr.170]. Nhạc thơ Tố Hữu chở đầy ăm ắp những tư tưởng tình cảm
cách mạng, những hiện thực cách mạng và những nỗi niềm của quần chúng cần lao.
Tất cả những tiết tấu, hơi thơ, nhịp thơ sinh động ấy cứ "hô ứng vạn biến", nó có
khả năng đi vào quần chúng nhân dân thật tự nhiên cộng với lý tưởng cách mạng
trong sáng của ông, tạo nên một sức tác động không thể tránh khỏi đối với mọi thế
hệ độc giả.
3.2.2 Hình ảnh thơ mang đậm chất anh hùng cách mạng
Những kiểu hình ảnh phong phú trong thơ Tố Hữu gắn liền với quan niệm
nghệ thuật, với khả năng chiếm lĩnh và sáng tạo không gian nghệ thuật của một nhà
thơ trữ tình chính trị. Chính ông là người đã "đem vào thơ Việt Nam một không
gian xã hội sôi động những biến sự lịch sử" [124, tr.215] bằng những hình ảnh trực
quan, đa dạng, hùng hồn. Mục đích cổ vũ, động viên, tác động tuyên truyền của nền
thơ cách mạng đã phần nào tạo nên kiểu không gian mới, không gian xã hội rộng
lớn gắn liền với đời sống con người. Những hình ảnh thơ tươi tắn, mạnh mẽ và sinh
động như chính cuộc sống, cuộc chiến đấu của nhân dân trong thơ Tố Hữu đã tác
động mạnh đến tình cảm, nhận thức của đông đảo đồng bào.
Ấn tượng bao trùm của hình ảnh trong thơ Tố Hữu là hình ảnh động. Kiểu
hình ảnh này tác động mạnh đến người đọc, nó làm tăng lên trong họ sự mê thích,
ấn tượng khi họ tiếp nhận tác phẩm. Những hình ảnh bao trùm lên các tác phẩm của
ông là những hình ảnh thuộc về chính trị, xã hội: Đất nước, Làng quê, Nhân dân,
Dân tộc, Giai cấp, Đảng, Bác Hồ, Người mẹ, Người chiến sĩ, Con đường đấu tranh,
Tự do, Giải phóng, Ngục tù, Kẻ thù xâm lược,v.v… Để những hình ảnh ấy đạt đến
độ khái quát cao, có khả năng gợi cảm, có khả năng tác động sâu sắc vào tâm trí của
công chúng khi đọc thơ, Tố Hữu đã có cách thức thể hiện độc đáo riêng mình.
Trước hết là cách miêu tả hình ảnh trong trạng thái động, trạng thái đang diễn tiến.
Đã có khá nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu cùng nhận xét về trạng thái sôi động
của hình ảnh trong thơ Tố Hữu. Bản thân nhà thơ là nhà cách mạng, là người
"dường như không bao giờ ngồi trong phòng hay nằm trên giường để lắng nghe thế
giới. Ông rất thích đi, chạy, nhảy, bay" [124, tr.217]. Phải chăng vì vậy mà hình ảnh
con người (gồm nhà thơ và các nhân vật khác) trong thơ Tố Hữu đều luôn vận
động:
- Em đi cùng anh lên thành xưa [Em ơi, BaLan, 60, tr.290] - Đi ta đi! Khai phá rừng hoang [Bài ca mùa xuân 1961, 60, tr.313] - Tôi chạy trên miền Bắc(…) Tôi đi dưới nắng trưa (…) Tôi vui đi, mê mải… một hai [Trên miền Bắc mùa xuân, 60, tr.260] - Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa [Mẹ Tơm, 60, tr.315]
- Ta đi, làm ánh sao băng giữa trời [Đường vào, 60, tr.355] - Ta băng qua cát bụi Ta xông ra chiến trường (...) Ta qua sông qua suối Ta qua núi qua đèo [Bài ca lái xe đêm, 60, tr.356] - Ta lại dấn thân vào trận mới Sóng người dâng ngập lối, biểu tình Rầm rộ cuộc diễu binh vĩ đại [Theo chân Bác, 60, tr.404]
Các nhân vật khác, bất kể họ là ai, từ những em bé nhỏ ngây thơ đến người
mẹ tần tảo, từ cô dân quân đảm đang tháo vát đến anh Giải phóng quân dãi dầu
chinh chiến... trong thơ Tố Hữu vẫn thường xuyên xuất hiện trong trạng thái hoạt
động: Êmily, con đi cùng cha [Êmily, con..., 60, tr.363], Hỡi em đi học, hây hây má
tròn [Xuân sớm, 60, tr.367], Bầm ra ruộng cấy bầm run, Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ
non [Bầm ơi, 60, tr.198], Chào cô dân quân vai súng tay cày, Chân lội bùn, mơ hạ máy
bay [Chào xuân 67, 60, tr.374], Ơi anh Giải phóng chân không mỏi, Mỗi bước hành
quân, mỗi chiến công [Theo chân Bác, 60, tr.414]...
Và cả thiên nhiên, cây cỏ chim muông cũng rộn rã, tưng bừng chuyển động:
Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu [Xuân lòng, 60, tr.36], Gió miền Bắc đang
xuân, 60, tr.75], Chim trên mái kêu nhau về tổ ở [Nhớ người, 60, tr.81], Lúa mềm xao xác
thổi vào Nam đó [Bài ca xuân 68, 60, tr.380], Xuân bước nhẹ trên cành non lá mới [Ý
ở ven sông [Nhớ đồng, 60, tr.88], Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, Nắng chói
sông Lô, hò ô tiếng hát, Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca [Ta đi tới, 60, tr.226]...
Có thể hiểu, với Tố Hữu, đi tới, đấu tranh là hành động tất yếu, hành động
bản lề của mọi lẽ. Những hình ảnh năng động ấy góp phần khiến thơ ông tăng thêm
sức tác động vào công chúng. Khi đại cuộc đang đòi hỏi, đang giục giã mọi người,
thơ Tố Hữu đã thay lời Đảng, lời Tổ Quốc giục giã đấu tranh. Mà thật ra, xã hội
cũng cần phải vận hành chứ đâu thể đứng yên, nhất là xã hội đang chiến tranh loạn
60, tr.69]. Từ cái nhìn biện chứng, Tố Hữu đã thổi vào thơ một sức sống mạnh mẽ,
lạc như lời thơ ông từng viết: "Đời tranh đấu có bao giờ yên tĩnh" [Như những con tàu,
mạnh đến nỗi không có gì có thể ngừng lặng. Đọc thơ Tố Hữu, có lúc ta có cảm
giác mình đang được xem một thước phim sống động, và những ấn tượng độc đáo
mang đến cho ta một cảm giác khỏe khoắn, tươi trẻ, say mê. Nó gợi lên trong ta tâm
trạng phấn chấn, háo hức sống, hăng say làm việc, sẵn sàng tranh đấu, sẵn lòng hy
sinh vì Tổ Quốc, vì cách mạng.
Nhưng dường như trạng thái vận động cũng không đủ để thể hiện thế giới
tinh thần đang ngùn ngụt sục sôi trong con người Tố Hữu. Ông luôn muốn thể hiện
ra thơ, truyền nó đi, mạnh hơn nữa, càng mạnh mẽ càng ngân vang càng tốt. Ở mức
độ tác động cao hơn, hình ảnh trong thơ Tố Hữu còn là những hình ảnh được nhà
thơ cường điệu, phóng đại. Điều đó cũng thể hiện đặc điểm của thơ cách mạng, nó
"đối lập với cái bình thường, quá độ, nhợt nhạt, trung tính, già cỗi, chết chóc, lặng
lẽ, vật thể; nó cũng đối lập với cái siêu thoát, u hoài, cô đơn, buồn thảm. Chất thơ
này làm cho thơ trữ tình điệu nói của Tố Hữu mang sắc thái say mê, bay bổng, cao
cả, nhiệt huyết" [124, tr.298].
Sáng tác được là do cuộc sống đến lay động tâm hồn mà thành hình. Lê
Quý Đôn cũng đã từng nói, "làm thơ có ba điều chính: một là "tình", hai là "cảnh",
ba là "sự". Tố Hữu đã thu gom vào tâm hồn mình những "cảnh", những "sự" và ướp
vào thêm cái "tình" lai láng yêu thương của một chiến sĩ cách mạng để tượng thành
thơ. Hình ảnh trong thơ Tố Hữu rất gợi cảm, nó khiến "lòng người rung lên và nhớ
mãi" [75, tr.210]. Người ta nhớ mãi vì chúng kỳ lạ, khác thường, bởi chúng được nhà
thơ đậm tô thêm cho sắc thái đạt đến mức cao nhất, đến tột cùng. Những hình ảnh
này tác động mạnh vào người đọc, kéo họ đi theo cảm hứng ngợi ca, say mê, phấn
khởi:
- Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi! Nước mắt ta trào, híp mí, tràn môi Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc Hả hê chưa, ai bịt được mồm ta Ta hát huyên thuyên, ta chạy khắp nhà Ai dám cấm ta say, say thần thánh? Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ! Gió gió ơi! Hãy làm giông làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi! [Huế tháng Tám, 60, tr.161]
Đoạn thơ cuốn hút người đọc bởi cảm xúc vui sướng hân hoan, những hình
ảnh lạ, táo bạo, mạnh mẽ. Từ một cảm nhận mới về thế giới, nhà thơ đã viết nên
một hình ảnh lạ. Cường điệu là một cách làm mới, làm đẹp, làm đậm thêm hình ảnh,
nhưng là một kiểu biểu hiện có từ lâu đời. Trong thơ ca dân gian đã có phương thức
tu từ thậm xưng, cường điệu. Tuy đã trở nên quen thuộc trong nếp tư duy của con
người, nhưng cường điệu vẫn không kém sức thuyết phục người đọc, bởi lẽ mỗi một
hình ảnh được nhà thơ cường điệu không theo lối mòn cũ mà họ luôn có những phát
hiện, liên tưởng, cảm nhận của riêng mình. Nhà thơ Tố Hữu thiên về những hình
ảnh "nóng", "sáng", "tươi đẹp". Ông vẫn thích đẩy trạng thái, tính chất của hình ảnh
sang độ ấm áp hơn, nóng bỏng hơn hoặc rực rỡ, dữ dội hơn mức bình thường. Khi
ca ngợi vẻ đẹp của Tổ Quốc, ông thường dùng những từ ngữ, hình ảnh "lạ lùng",
"vinh quang", "anh hùng", "vĩ đại" (Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng, Đến em thơ cũng
hóa những anh hùng!). Cách nói này đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ cho thơ ông:
- Xuân hãy xem! Cuộc diễu binh hùng vĩ 32 triệu nhân dân Tất cả hành quân Tất cả thành chiến sĩ (...) Tên lửa, tên tre Lưỡi lê, lưỡi mác Và thuyền và xe Chân đi, vai vác Qua núi qua khe Mạnh hơn thác, trùng trùng vô tận! [Chào xuân 67, 60, tr.374]
Có lẽ "hai tiếng Việt Nam rất đáng tự hào" đã khắc sâu vào tâm thức sáng
tạo của Tố Hữu những trường nghĩa như vậy nên khi nói đến con người Việt Nam,
ta thường thấy Tố Hữu miêu tả họ như những anh hùng với sức mạnh vũ bão:
- Anh đi, xuôi ngược tung hoành Bước dài như gió, lay thành chuyển non Mái chèo một chiếc xuồng con Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương [Tiếng hát sang xuân, 60, tr.350] - Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Không giết được em, người con gái anh hùng! …Từ cõi chết, em trở về chói lọi
Như buổi em đi, ngọn cờ đỏ gọi Em trở về, người con gái quang vinh [Người con gái Việt Nam, 60, tr.281]
Cường điệu càng làm tăng thêm sức mạnh, dù sức mạnh đó của số đông lớp
người hay của một người. Nó khiến cho những điều được nói đến thêm quyết liệt,
dữ dội hơn:
- Đoàn quân nhỏ, một tinh thần thống nhất Hai mươi lăm người, chỉ một đầu thôi Nghiến chặt răng và sủi bọt quanh môi Rít lên những tiếng kêu dài ghê rợn! "Đả đảo tra tấn! Đả đảo tra tấn!" [Tranh đấu, 60, tr.100]
Cách viết như vậy là một ưu thế giúp ông thể hiện thành công những tình
cảm lớn, mãnh liệt. Cái nền tảng, cái cốt lõi khiến cho thơ Tố Hữu không bị gượng
ép, không bị trơ, không bị lạc điệu hay mang tính khẩu hiệu hô hào là do chính bản
thân nhà thơ đã thấm nhuần tinh thần cách mạng. Tư tưởng này xuyên suốt trong
thơ ông:
- Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí Sống, chẳng cúi đầu. Chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo [Tuổi 25, 60, tr.426]
Cho nên khi ca ngợi ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thơ Tố Hữu cũng thật tự
nhiên, như nói, như hát, và chất thơ hồn nhiên ấy thấm sâu vào trái tim yêu nước
của đồng bào. Nhân vật trong thơ Tố Hữu rất đa dạng, có khi là một người, có khi là
số đông. Con người số đông tạo thành một lực lượng hùng mạnh trong cuộc chiến
tranh cứu nước đã đi vào thơ Tố Hữu rất sinh động. Đó là vạn nhà, bao hồn khổ,
những hồn thân tự thưở xưa, những linh hồn thép, những linh hồn trẻ, muôn chiến
sĩ, vạn gia đình, nghìn thế hệ, muôn vạn trái tim, vạn anh hùng, đoàn quân, rừng
người, đoàn chiến hạm, dòng người vô địch, dòng người cuộn thác… Số đông ở đây
không thể đếm, nó là con số tượng trưng, tượng trưng cho sự phong phú, đa dạng,
giàu có, bất tận, bền vững. Tất cả tập hợp lại thành hình tượng tập thể kỳ vĩ, đầy sức
mạnh hào hùng, làm nên những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó cũng là một
cách thức nhà thơ cường điệu, để làm mạnh hơn, để tác động, để cuốn hút độc giả.
Hình ảnh trong thơ Tố Hữu cũng rất rõ nét, trực quan. Tố Hữu không thuộc
mẫu nhà thơ đi "săn" hình ảnh lạ. Hình ảnh với Tố Hữu chỉ là một phương tiện để
diễn tả cái tình đang chất chứa bên trong, để nói với con người những tâm tình thiết
tha nào đó. Cái đầu và trái tim cuồng nhiệt của ông yêu thích những hình ảnh tươi
tắn, nóng cháy, căng tràn. Trần Đình Sử cũng cho rằng kiểu hình ảnh này xuất hiện
rất nhiều trong thơ Tố Hữu, nó như là một biểu hiện của "trạng thái say sưa, phơi
phới, bay bổng với lý tưởng, niềm tin của tâm hồn, là trạng thái tinh thần khát khao
mãnh liệt, ngùn ngụt nhiệt huyết trong cuộc đấu tranh cách mạng, trạng thái nảy nở
tr.297]. Đó là một thế giới đang bừng sáng: mặt trời chân lý, cả địa cầu thành một
sinh sôi tột độ của xã hội và tự nhiên, là sự tỏa sáng các phẩm chất giá trị" [124,
ngôi sao, muôn vạn vì sao dẫn đường, vàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi,nắng chói
Sông Lô, nắng đu đưa, nắng chang chang, nắng tràn, nắng tươi… với những hình
ảnh nóng cháy: cuộc đời như ngọn lửa, thiêu bằng mắt lũ đê hèn, miền Nam rực
lửa, tim ta làm ngọn lửa, vần thơ mang cánh lửa… những hình ảnh phát sáng, chói
chang: trái tim như ngọc sáng ngời, sáng trên đầu như một mảnh trời xanh, sáng
long lanh, niềm tin tươi ánh thép, hố bom lấp lánh, Cụ Hồ sáng soi, sáng muôn
lòng, gươm trần sáng quắc, miền Nam trong lửa đạn sáng ngời…, và những hình
ảnh căng tràn, nảy nở: rừng cao su thẳng tắp, lúa trổ đòng đòng, căng đày sức dậy
dáng non tơ, áo nâu nắng chói, mía lên mật thân tím màu áo cưới, cam ngon xoài
ngọt vàng nông trại, mỗi ngày vui một quả trứng hồng… Những hình ảnh ấy tạo nên
tính chất bay bổng, say mê cho thơ Tố Hữu. Nó ngợi ca, khẳng định vẻ đẹp của lý
tưởng cách mạng, của những con người vì đất nước mà quên mình tranh đấu. Chất
lãng mạn cách mạng trong thơ Tố Hữu tác động đến người đọc bằng sự rung động
mãnh liệt của cảm xúc, của tình cảm cách mạng. Tâm trạng say mê, bay bổng khiến
lời thơ Tố Hữu càng cuộn sóng, hình ảnh càng bay cao, bài thơ càng đạt đến đỉnh
cao, sức tác động càng mạnh mẽ. Nó vang như tiếng kèn gọi quân ra trận, mạnh như
nước lũ cuốn người tiến lên.
3.2.3 Các kiểu câu cầu khiến, câu hỏi và câu cảm thán gợi tâm tình và
tác động
Tận dụng đặc điểm giao tiếp của các loại câu, nhiều nhà thơ thường xuyên
sử dụng các loại câu cầu khiến, câu hỏi, câu cảm để thơ có được sức mạnh trực tiếp,
có sức lay động tâm hồn hàng triệu người. Tố Hữu cũng vậy, niềm tin và tình yêu
dành cho cuộc đời luôn rạo rực, luôn căng tràn trong tâm trí và trong trái tim ông,
khiến ông muốn hát ca, muốn kêu gọi, muốn lôi kéo và thúc giục mọi người xung
quanh cùng hướng đến cách mạng.
Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Tố Hữu đã bộc lộ một lý tưởng cao đẹp, một
quyết tâm sắc đá. Sức mạnh đó tạo cho người đọc một niềm tin, cuốn người ta mê
say. Ông thường cất lời kêu gọi, thúc giục mọi người. Trong số các nhà thơ hiện
đại, Tố Hữu là nhà thơ mạnh dạn viết nhiều câu cầu khiến nhất. Có 369 câu cầu
khiến trên tổng số 10.565 dòng thơ, trung bình 10 dòng thơ sẽ có 0,349 câu thơ cầu
khiến. Nếu so với tổng số 286 bài thơ thì hầu như cứ mỗi bài thơ, có hơn một lần
cầu khiến. Câu cầu khiến trong thơ Tố Hữu có đầy đủ các sắc thái biểu cảm: từ nhẹ
nhàng đến mạnh mẽ, từ nhắc nhở, khuyên bảo đến kêu gọi, giục giã. Những dòng
thơ cầu khiến tuôn ra tự nhiên, mạnh mẽ, không chút gượng ép, bắt buộc, bất chấp
có hay không có các phụ từ cầu khiến:
- Dậy lên, tất cả những thanh niên! Dậy lên, hỡi những linh hồn thép(…) Phất ngọn cờ lên, tung bước lên Với kho hùng khí của thanh niên(…) Dậy lên, hỡi những linh hồn trẻ Máu của con yêu nhuộm thắm đời! [Dậy lên thanh niên, 60, tr.98]
Như đã thấy, tuy những dòng thơ không xuất hiện các phụ từ cầu khiến
(hãy, đừng, chớ) nhưng sắc thái cầu khiến trong câu thơ vẫn quyết liệt. Chính cái ý
nghĩa cầu khiến chi phối cảm xúc của câu thơ, chi phối cả ngôn từ trong câu thơ. Số
lượng câu cầu khiến không có phụ từ cầu khiến trong thơ Tố Hữu không ít, nó làm
mềm đi những lời kêu gọi, mặc dù vẫn có thể truyền đi sức mạnh, vẫn giục giã mọi
người.
Trong những câu thơ có sử dụng phụ từ cầu khiến, thường gặp nhất vẫn là
phụ từ "hãy". Với phụ từ này, mức độ cầu khiến được nâng lên cao nhất, mức độ tác
động cũng mạnh nhất:
- Hỡi chiến sĩ rữa tan trong mả loạn Hãy về đây trong đáy giếng hồn tôi! Hãy về đây những ảnh hình ly tán [Lao Bảo, 60, tr.45] - Hãy thay chúng tôi truyền đi vang động Tiếng vọng căm thù, tiếng vọng đau thương [Thù muôn đời muôn kiếp không tan, 185, tr.287] - Thơ ta ơi! Hãy cất cao tiếng hót Ca ngợi trăm lần Tổ Quốc chúng ta! [Mùa thu mới, 60, tr.280] Bên cạnh đó là câu cầu khiến sử dụng phụ từ "phải":
- Phải đạp đổ cường quyền quân đế quốc! [Tranh đấu, 60, tr.101] - Phải sẵn sàng như chiến sĩ ra đi Lòng mở rộng đón muôn lòng yêu nước Hồn phải sáng bừng lên như ngọn đuốc Chiếu trăm nơi, đến ngõ hẻm làng xa [Thưa các ông nghị, 60, tr.165]
Và lời cầu khiến bằng phụ từ "đi" đứng sau động từ như một lời hối thúc:
- Đứng lên đi, xây dựng cuộc đời chung [Ý xuân, 60, tr.75] - Giết ta đi, lũ khốn, giết ta đi! [Quyết hy sinh, 60, tr.119] - Nói đi anh, hết nỗi niềm Để chi e ấp buồn thêm héo lòng! Nói đi anh, chớ ngại ngùng Buồn anh, tôi sẽ góp cùng buồn tôi [Cảm thông, 60, tr.131]
Có thể hiểu, yêu cầu của thời đại, của cách mạng lúc bấy giờ là lay gọi, thức
tỉnh, giục giã nhân dân ý thức về vận mệnh của Tổ Quốc và thơ Tố Hữu đã đáp ứng
xuất sắc yêu cầu đó. Các câu cầu khiến trong thơ Tố Hữu là những lời giục giã một
cách trực tiếp. Đầu tiên là "đứng dậy":
- Hãy đứng dậy! ta có quyền vui sống! Cứ tan xương, cứ chảy tủy, cứ rơi đầu! [Hãy đứng dậy, 60, tr.31] - Đứng phắt dậy! Hỡi muôn hồn phấn đấu Phá bất bình, mưu sống cho ngày mai… [Xuân lòng, 60, tr.37] - Đứng lên đi, hỡi tuổi trẻ xung phong Sóng cách mạng đang gầm rung thế giới! [Ý xuân, 60, tr.75]
sau đó là "đi":
- Dậy mà đi! Dậy mà đi! Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi? [Dậy mà đi, 60, tr.126]
- Ta hãy là đoàn chiến hạm ra đi Hùng dũng tiến, đạp muôn đầu ngọn sóng [Như những con tàu, 60, tr.69] - Đi, bạn ơi, đi! Biệt tháng ngày (…) Đi, bạn ơi đi! Cả cuộc đời Của ta nào chỉ của ta thôi [Đi, 60, tr.151] - Ta đi đi, tìm hạnh phúc từ đây! [Xuân đến, 60, tr.155] - Đi đi hoài, đi mãi anh em ơi [Vui bất tuyệt, 60, tr.168] - Đi, đi, đi! Ôi nhịp đời phơi phới [Đêm xanh, 60, tr.171]
và "tiến lên":
- Tiến lên, Quân giải phóng Qua cái chết vinh quang Tiến lên, giành quyền sống Dưới cờ đỏ, sao vàng! [Giết giặc, 60, tr.163] - Tiến lên hăng nữa, đừng tha Cầm dao, cầm súng xông pha phen này! [Đói! Đói!, 60, tr.154] - Anh chị em ơi, hai mươi lăm triệu đồng bào Tiến lên muôn vạn vì sao
dẫn đường [Quang vinh Tổ Quốc chúng ta, 60, tr.256]
Trong tập thơ "Từ ấy", có 132/369 câu cầu khiến. Như vậy nó chiếm phần
nhiều hơn so với các tập thơ còn lại của ông. Nó cũng cho thấy tính cấp thiết của lời
giục giã trong hoàn cảnh chiến cuộc đang nóng sôi mà ý thức giác ngộ cách mạng
của nhân dân còn hạn hẹp. Lời kêu gọi như đánh mạnh vào ý thức của mọi lớp
người đang say mê lý tưởng. Qua lời kêu gọi, Tố Hữu truyền cho độc giả lẽ sống
cách mạng, giúp mọi người hiểu rằng con đường cách mạng có muôn nghìn đắng
cay, vất vả, thậm chí tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc nhưng phải nêu cao tinh
thần bất khuất trước quân thù. Thơ Tố Hữu - thơ của một chiến sĩ vào tù ra khám,
xả thân và bất khuất vì đất nước nên luôn có sức tác động lớn lao đối với độc giả:
"Nếu mai đây có chết một thân tôi, Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu, Hai mươi
tr.113]. Người ta đã truyền đọc thơ Tố Hữu như đọc những lời tâm huyết, người ta
tuổi, hồn quay trong gió bão, Gân đang săn và thớ thịt căng da" [Trăng trối, 60,
đọc thơ Tố Hữu để tăng thêm sức chịu đựng những đói khổ, tù đày, tra tấn, xích
xiềng…
Tố Hữu luôn khao khát làm cho cuộc đời thêm tươi đẹp hơn, khao khát hiến
dâng, khao khát chiến đấu. Lời thơ Tố Hữu như réo gọi mọi người hãy cùng dâng
hết tuổi thanh xuân của mình vào đại cuộc. Bên cạnh lời cầu khiến, thơ Tố Hữu còn
tác động mạnh đến độc giả bằng những câu hỏi xoáy sâu vào tâm trí, cảm xúc người
đọc.
Nếu như cầu khiến để yêu cầu một cách trực tiếp thì hỏi là một dạng thức
tác động nhẹ nhàng hơn, nhưng cũng không kém phần quyết liệt. Trong một bài thơ,
khi nhà thơ liên tiếp đặt ra nhiều câu hỏi, sức mạnh tác động của bài thơ sẽ tăng lên
bởi những điều nhà thơ hỏi chắc chắn là những điều đáng suy nghĩ, đáng quan tâm.
Tố Hữu đã từng hỏi như vậy:
- Vì sao ngày một thanh tân Vì sao người một mến thân hơn nhiều? Vì sao cuộc sống ta yêu Mỗi giây mỗi phút sớm chiều thiết tha? Vì sao mỗi hạt mưa sa Mỗi tia nắng dọi cũng là tình chung? [Tiếng hát sang xuân, 60, tr.351]
Bởi vì sự thể ấy không phải bỗng dưng mà xảy ra, mà có được. Trước
những điều khó tin đang hiển hiện trước mắt, nhà thơ như đang dâng tràn cảm xúc
và trĩu nặng suy tư. Cất tiếng hỏi, hỏi để mà tự thấm thía, giúp người đọc cùng thấm
thía cái giá phải trả cho cuộc sống bình yên chan hòa tình nhân ái hôm nay. Các bài
thơ "Huế tháng Tám", "Có thể nào yên", "Người con gái Việt Nam"… cũng là
những bài thơ có dày đặc các câu hỏi. Câu hỏi này vừa bật ra, câu hỏi khác lại nối
tiếp. Ở trường hợp đó, nhà thơ hỏi để khắc sâu vấn đề chứ không cần câu trả lời.
Trong bản thân câu hỏi đã mang lời đáp. Trong thơ Tố Hữu rất nhiều câu hỏi như
vậy mà Hoài Thanh từng nói rằng nếu không phải là nhà thơ mà là người thường
hỏi thì sẽ trở thành lẩn thẩn:
- Em là ai? Cô gái hay nàng tiên? Em có tuổi hay không có tuổi? Mái tóc em đây hay là mây là suối? Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông? Thịt da em hay là sắt, là đồng? [Người con gái Việt Nam, 60, tr.281]
Những câu hỏi của nhà thơ làm nổi bật lên trước mắt chúng ta hình ảnh
người con gái Việt Nam bình dị nhưng kiên cường, bất khuất trước vũ lực của quân
thù. Cách thể hiện này gây cho người đọc một ấn tượng khác thường khiến họ phải
ngỡ ngàng. Khi đọc xong bài thơ, họ sẽ cảm thấy mến yêu, cảm phục chị Trần Thị
Lý như chính trạng thái tình cảm của nhà thơ khi viết.
Có đến 747 lượt câu hỏi được Tố Hữu sử dụng trong 7 tập thơ. Như vậy
trong 10 dòng thơ, sẽ có gần một (0,707) câu hỏi xuất hiện. Câu hỏi trong thơ Tố
Hữu có đầy đủ các dạng thức trong thơ trữ tình. "Hỏi để mà trả lời. Hỏi để mà
khẳng định... Nhờ sự cọ xát của câu hỏi và lời đáp ấy đã bật ra nhiều ánh sáng, nó
giúp ta mỗi ngày thấy rõ thêm, hiểu sâu thêm..." [75, tr.317]. Đặc biệt, câu hỏi trong
thơ Tố Hữu thường hướng thẳng đến một nhân vật cụ thể nào đó:
- Thi sĩ hỡi! Đi tìm chi vơ vẩn Trong hồn già đã chết những yêu mơ? Có lành đâu vết thương đầy oán hận? Có tan đâu khí uất tự bao giờ? [Tháp đổ, 60, tr.29] - Bạn ơi nguồn thảm sầu kia bởi Số phận hay do chế độ này? [Vú em, 60, tr.43] - Bà con ơi, tính sao đây? Bã nâu thính trấu nhét đầy bụng sao? [Đói! Đói, 60, tr.153] - Ở đây sóng gió bất kỳ Má ơi, má ở làm chi một mình? [Bà má Hậu Giang, 60, tr.122] - Anh có nghe thấy không? Ơi người anh Vệ Quốc? [Cá nước, 60, tr.179] - Bầm ơi, có rét không bầm? Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn [Bầm ơi, 60, tr.198] - Anh pháo binh, anh còn đợi chờ gì?(…) Anh pháo binh, anh chưa bắn đi à? [Bắn, 60, tr.205] - Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng? [Việt Bắc, 60, tr.231]
Vừa gọi cụ thể tính danh, vừa đặt câu hỏi, ý thơ hướng trực tiếp đến một đối
tượng. Cho dù người đọc không phải là đối tượng ấy thì ý nghĩa tác động của dòng
thơ vẫn lan truyền vào ý thức của họ. Bên cạnh đó, những câu hỏi không hướng vào
đối tượng cụ thể trong thơ Tố Hữu thì phần nhiều là những câu hỏi nhằm vào mục
đích khẳng định vấn đề. Lời khẳng định rất chắc chắn:
- Ai chiến thắng mà không hề chiến bại?
Ai nên khôn mà không dại đôi lần? [Dậy mà đi!, 60, tr.126] - Ai đâu giam cấm được hồn ta? Ai đâu giam cấm được lời ca? [14 tháng 7, 60, tr.92] - Ai cản được mùa xuân xanh tươi sáng Ai cản được những đoàn chim quyết thắng Sắp về đây tắm nắng xuân hồng? [Xuân đến, 60, tr.156] - Ở đâu? Mỗi ngọn núi dòng sông Cũng hiển hách chiến công Lừng danh dũng sĩ Ở đâu? Một mũi chông, một ngọn tầm vông Cũng hiên ngang như trường thành chiến lũy [Chào xuân 67, 60, tr.375] - Đàn tép mà ép biển khơi? Quạ đen mà chiếm mặt trời được chăng? [Quang vinh Tổ Quốc chúng ta, 60, tr.253]
Tố Hữu còn làm ray rứt, xốn xang tim gan người đọc bằng những câu thơ tự
vấn:
- Ta biết em rất khỏe, tim ơi Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng? [Bài ca mùa xuân 1961, 60, tr.313] - Làm sao cho nhân loại một nhà Và làm sao cho tất cả màu da Hòa hợp lại như một vầng trán đẹp! [Trước Kremlin, 60, tr.273]
Cũng không phải lúc nào câu hỏi cũng chất vất, vặn vẹo hoặc lên gân, đôi
khi, câu hỏi giúp nhà thơ diễn đạt được những cảm xúc nhạy bén của mình. Những
câu hỏi này thường đằm thắm, sâu lắng hơn:
- Chiều nay heo hút rừng sâu Mưa rừng suối lũ, biết đâu mà tìm? [Mưa rơi, 60, tr.200] - Ôi có phải sóng bồi thêm bãi trước Hay biển đau xưa nước rút xa rồi? [Mẹ Tơm, 60, tr.315]
Có thể thấy, câu hỏi trong thơ Tố Hữu góp phần xoáy sâu vào nhận thức
người đọc, buộc họ phải suy ngẫm, tìm thấy những ý tưởng sâu sắc mà ông muốn
tác động họ. Những câu hỏi trong thơ ông cũng làm nên cái mới lạ, sinh động và
sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, nhất là những câu hỏi tạo ý nghĩa khẳng định luôn
tác động mạnh mẽ vào độc giả. Dạng thức ấy đã phần nào làm người ta yêu thích và
say mê chất cách mạng quyết liệt, táo bạo và can trường trong tâm hồn ông và trong
thơ ông.
Bên cạnh hai loại câu cầu khiến và hỏi, thơ Tố Hữu dùng nhiều câu cảm
thán. Là nhà thơ có cuộc sống gắn bó sâu sắc cuộc sống của dân tộc, thở hơi thở
mạnh mẽ hào sảng của dân tộc, đau nỗi đau máu thịt với dân tộc, nên những câu thơ
cảm thán trong thơ Tố Hữu bật lên như một lẽ tất yếu, như đứa con reo vui khi bố
mẹ cho quà, như đứa học trò sướng run người khi được thầy cô tặng thưởng. Mọi
cảm xúc, với Tố Hữu là rất thật, không gượng ép, không khuôn sáo giả tạo. Khi vui,
thơ Tố Hữu dạt dào cảm xúc, những cảm xúc cứ kết dính lại với nhau thành một
chuỗi dài liền mạch. Có câu cảm thán bày tỏ niềm vui: "Ồ vui quá! Rộn ràng trên
vạn nẻo, Bốn phương trời và sau dấu muôn chân" [Hy vọng, 60, tr.58], có câu chan
[Lá thư Bến Tre, 60, tr.325], có câu nêu bật ý chí quyết tâm: "Vì độc lập, Tự do, núi
chứa nỗi buồn: "Phải chi em gởi cho anh được, Nắm đất đang nồng lửa đấu tranh!"
sông hùng vĩ, Vì thiêng liêng giá trị con người, Vì muôn đời hoa lá xanh tươi, ta
quyết thắng, Giành mùa xuân đẹp nhất!" [Bài ca xuân 68, 60, tr.381], và cả nỗi cảm thán
vì những đau thương, mất mát: "Máu Việt Nam đang chảy, Đỏ đồng, ôi máu yêu!
Miền Nam đang bốc cháy, Đồng bào ôi lửa thiêu!" [Giết giặc! 60, tr.163].
Đặc biệt, Tố Hữu không sử dụng thường xuyên các phụ từ cảm thán. Cảm
thán trong thơ Tố Hữu thường kết hợp với câu cầu khiến, bày tỏ một cảm xúc, một
quyết tâm. Sự kết hợp này giúp cho sức tác động của thơ thêm phần mạnh mẽ hơn:
- Tiến lên, giành quyền sống Dưới cờ đỏ sao vàng [Giết giặc, 60, tr.263] -Thì đứng dậy, xoa tay và tự bảo Chí còn đây, sức lực hãy còn đây! [Dậy mà đi! 60, tr.126]
Trong 7 tập thơ, có đến 1176 câu cảm thán, cứ mỗi 10 dòng thơ, có trung
bình 1,113 câu cảm thán. Quả thật, giở tập thơ Tố Hữu, ấn tượng đầu tiên về hình
thức là dày đặc các dấu chấm than, như một biểu hiện cho hồn thơ luôn dào dạt,
căng tràn cảm xúc. Chính ông cũng từng bảo rằng: "Ở nước mình, phải là gỗ đá mới
không rung động. Ngồi một chỗ thì khô cằn, chứ đi đâu cũng bừng bừng sức sống.
tr.449]. Đọc Tố Hữu, ta có cảm giác hình như tất cả những rung động, những xôn
Không làm thơ cũng phải huýt sáo, cũng phải động tay động chân cho sướng" [57,
xao của đất nước như lan truyền vào ông, và rồi những cảm xúc đó từ ông truyền
qua thơ, từ thơ truyền đến mọi người.
Chất rắn rỏi quyết liệt trong câu cầu khiến, chất da diết xoáy sâu trong câu
hỏi, và chất dạt dào cảm xúc trong câu cảm thán đã thể hiện được những ý thức
cách mạng, bầu nhiệt huyết sục sôi và những trạng thái tình cảm phức tạp, tinh tế
nhất của nhà thơ. Và, tất cả những điều đó sẽ nhân đôi ý nghĩa bởi thông qua đó,
độc giả lĩnh hội được và tìm thấy niềm say mê, niềm hứng khởi để dấn thân vào
công cuộc bảo vệ đất nước.
3.2.4 Các hình thức thơ đậm đà chất dân tộc, gần gũi với nhân dân
Việc học tập tiếp thu các truyền thống trong văn học dân gian từ lâu đã trở
thành hướng nỗ lực của nhiều tác giả hiện đại. Qua những yếu tố mượn từ văn hóa
dân gian ấy, thơ ca sẽ xích lại gần hơn, dễ tâm tình, tác động đến nhân dân hơn. Thơ
Tố Hữu dễ nhớ dễ thuộc, xét đến cùng là do mang sắc thái dân tộc đậm đà. Bản thân
Tố Hữu đã nhìn thấy sức sống mạnh mẽ trong lòng nhân dân của các loại hình văn
nghệ dân gian, ông cho rằng quần chúng nhân dân "chính là những kẻ vận tải cái
hay ấy qua các thời đại, nên họ rất dễ cảm xúc với những hình thức văn nghệ cũ, và
điệu cảm xúc bình dị của nhân dân đời trước rất quen thuộc với họ" [75, tr.326]. Từ
nhận thức này, Tố Hữu đã đưa vào thơ mình khá nhiều thi liệu của văn học dân gian
như một phương tiện nhằm đại chúng hóa, phổ cập hóa thơ ca cách mạng.
Phong trào ca dao kêu gọi đánh Pháp, đánh Nhật trước cuộc tổng khởi nghĩa
rất phát triển. Cũng vì ca dao là một thể loại ngắn gọn, dễ đi sâu vào quần chúng
nhân dân nên khá nhiều tờ báo khi phát hành thường dành riêng mặt báo cho ca dao.
Ca dao chống Pháp tập trung kêu gọi quần chúng vũ trang, chuẩn bị khởi nghĩa,
chống bắt phu, bắt lính, chống bóc lột dân nghèo… Thơ Tố Hữu, từ những năm này
về sau cũng chịu ảnh hưởng đó. Ông viết nhiều bài thơ mạnh khỏe như ca dao, có
tr.429]:
những bài thật sự đã thành ca dao và có sức tác động mạnh mẽ đến quần chúng" [75,
- Chém choa ba đứa đánh phu Choa đói choa rét bây thù gì choa
Bay coi Tây – Nhật là cha Sướng chi bay hại nước nhà, bà con Liệu hồn bỏ thói du côn Bằng không đòn lại trả đòn cho coi! [Tiếng hát trên đê, 60, tr.148]
Nhiều câu trong thơ được Tố Hữu viết theo kiểu diễn đạt ví von của ca dao
khiến cho những tư tưởng, tình cảm mới của thời đại được thể hiện sinh động, hấp
dẫn hơn, làm tăng tính chất dân tộc của các bài thơ và làm thơ gần gũi hơn với quần
chúng nhân dân:
- Dù ai nói ngả nói nghiêng - Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân - Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu - Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu
Có khá nhiều motipe xưng danh quen thuộc của ca dao dân ca trong thơ Tố
Hữu. Trong tình huống người con gái mở lời tự giới thiệu về mình, dân gian thường
nói theo dạng: "Em là...", và trong thơ Tố Hữu cũng có cách nói như vậy: "Em là
con gái Bắc Giang, Rét thì mặc rét nước làng em lo" [Phá đường, 60, tr.185]. Khi giới
thiệu gia cảnh, cô gái trong dân gian nói: "Nhà em lắm ruộng nhiều trâu,... Nhà em
công việc bề bề",... và cô gái Bắc Giang của Tố Hữu cũng nói: "Nhà em phơi lúa
chưa khô, Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong" [Phá đường, 60, tr.185]. Trong kho
tàng ca dao dân ca Việt Nam, chúng ta thấy nhân dân thường bày tỏ niềm tự hào:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh", "Thấy dừa thì
nhớ Bến Tre, Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười", "Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định múa roi đi quyền"... thì trong "Việt Bắc", cũng thấy những kiểu
kể, kiểu xưng như vậy:
Muối Thái Bình ngược Hà Giang Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh Ai về mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông. [Việt Bắc, 60, tr.235]
Ngoài ra, cách xưng hô "mình" - "ta" vốn đã quen thuộc với người lao động
trong các bài hát giao duyên nam nữ của những sinh hoạt hội hè, lối đối đáp trực
tiếp này thường rất gợi cảm, rất tha thiết bởi nó được nói khi những người đang yêu
phải chia tay nhau, hẹn hò nhau, thề nguyền với nhau hoặc thậm chí là trách móc
hờn dỗi nhau. Tố Hữu cũng đã sử dụng cặp đại từ "mình - ta" và lối giao duyên tình
nghĩa này của ca dao để nói đến nghĩa tình keo sơn gắn bó giữa cách mạng và nhân
dân Việt Bắc. "Ta" và "mình" - hai nhân vật chính trong bài thơ Việt Bắc, cứ xoắn
xuýt nhau, cứ thay lượt nhau mà bộc bạch tâm tình. Theo dòng cảm xúc đó, tất cả
những vấn đề thời sự, chính trị cũng được đề cập nhưng giọng điệu tâm tình bao
trùm lên khiến cho bài thơ không khô khan, nhàm chán. Có những đoạn thơ rất đậm
chất ca dao:
- Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? …Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người [Việt Bắc, 60, tr.230, 232]
khiến ta nhớ đến những tình tự dân gian quen thuộc:
- Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ [Ca dao] - Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười [Ca dao]
Nếu như ca dao đã có những câu rất hay về trạng thái xa cách gây nên nỗi nhớ niềm
thương trong lòng người:
- Nhớ ai nhớ mãi thế này Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn. Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn Đã bưng đến bát lại dằn xuống mâm. [Ca dao]
thì có đến 41 lần Tố Hữu sử dụng từ "nhớ" trong bài thơ "Việt Bắc" dài 150 dòng
lục bát. Tố Hữu cũng diễn đạt rất thành công tâm trạng nhớ thương lưu luyến ấy,
một nỗi nhớ bao trùm không gian và thời gian, chi phối mạnh mẽ đến cuộc sống của
con người trong các bài thơ. Trong tổng số 8030 từ khác nhau trên toàn văn bản, đã
có đến 222 lần Tố Hữu sử dụng từ "nhớ", đó là một số lượng không nhỏ, đủ để góp
phần thể hiện tập trung hơn những cảm xúc của nhà thơ đối với đất nước, quê
hương, con người Việt Nam, góp phần khiến cho hơi thơ đậm đà tình thân ái hơn.
Ngoài ra, Tố Hữu còn sử dụng rộng rãi trong thơ những thành ngữ dân gian.
Thành ngữ trở thành phương tiện góp phần làm cho thơ ông sinh động, giản dị, dễ
hiểu, dễ thuộc, giàu tính dân tộc và tính nhân dân. Có tổng số 108 thành ngữ đã
được Tố Hữu sử dụng linh hoạt trong từng hoàn cảnh cụ thể. Quen thuộc nhất là:
xương tan thịt nát, chia ngọt xẻ bùi, nhạt muối vơi cơm, ôm chân liếm gót, ăn gian
nói dối, ăn nhờ ở đậu, bom rơi đạn nổ, lên rừng xuống bể, lội suối lên ngàn, quay
hướng đổi lòng, tham bát bỏ mâm… Các câu thơ được vận dụng thành ngữ rất giàu
tính biểu cảm: Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, Càng tức nước càng xui bờ vỡ, Lòng dân
ta như lửa thêm dầu... Đa số đều là thành ngữ được cấu tạo 4 âm tiết khiến câu thơ
cô đọng, nhịp nhàng cân đối, làm tăng giá trị thẩm mỹ cho thơ.
Bên cạnh thành ngữ, Tố Hữu còn thường xuyên sử dụng từ địa phương. Từ
địa phương "là một hình thái nhất định của ngôn ngữ. Hình thái ấy có những đặc
điểm riêng trong hệ thống ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và được sử dụng ở một môi
trường địa lý hạn hẹp hơn môi trường của ngôn ngữ" [165, tr.249]. Được đi nhiều nơi
khác nhau, lại thông thạo tiếng Huế, nên Tố Hữu sử dụng không ít từ địa phương
khi sáng tác thơ. Có khoảng gần một trăm từ địa phương (82 từ) thì phương ngữ
miền Trung chiếm phân nửa. Có đủ các loại từ từ phụ từ mô, tê, răng, rứa, nờ, ni…
đến những thực từ gan, hắn, mi, bồn, sương, đương, … Từ những từ đơn chớ, chi,…
và những từ đa âm tiết măng mai, rôm rả, chui cha, mả bố, gà ri… Phương ngữ
miền Nam hoặc miền Bắc cũng được sử dụng linh hoạt: vô, hét, tụi bay, kêu la,
ham, vui lây, má, bầm, mé… Từ địa phương trong thơ Tố Hữu không chỉ có khả
năng khắc họa sinh động phong tục, tập quán, con người trên từng vùng đất khác
nhau của Tổ Quốc mà còn tạo được cảm giác hứng thú, gần gũi cho độc giả khi tiếp
nhận. Chính cái màu sắc địa phương ấy đã thể hiện sự gắn bó, hòa hợp giữa nhà thơ
và đồng bào, càng khiến người đọc yêu mến, say mê thơ ông hơn.
Trong đường lối chung của Đảng, thơ Tố Hữu luôn hướng về vấn đề dân tộc
trong rất nhiều biểu hiện. Truyền thống dân tộc trong chiều sâu lịch sử thường được
Tố Hữu gợi nhắc:
- Ta đi dưới bốn nghìn năm lịch sử [Vui bất tuyệt, 60, tr.167]
Cảm ơn Đảng đã cho ta dòng sữa - Bốn nghìn năm chan chứa ân tình [Chào xuân 67, 60, tr.376] Bốn nghìn năm cũ, bao mơ ước - Đã được hôm nay, rạng mặt người! [Theo chân Bác, 60, tr.412]
Nó không mơ hồ mà rất cụ thể trong nhiều suy nghĩ, nhận thức. Từng sự
kiện trọng đại, từng hình ảnh đẹp của hôm nay in rõ dáng dấp của ông cha thưở xưa.
Đó là dòng "Bạch Đằng xưa, Cửu Long nay" [Tuổi 25, 60, tr.426] nhận chìm bao tàu
giặc, là anh Giải phóng quân dũng mãnh "Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi,
Một dây ná, một cây chông, cũng tiến công giặc Mỹ" [Bài ca xuân 68, 60, tr.379].
Những con người gợi nhớ những con người, Tố Hữu như mang cả toàn dân tộc
cùng bước vào cuộc chiến. Xưa cha ông chiến thắng lẫy lừng thì nay dân ta cũng
xuân 68, 60, tr.381], xưa cha ông thất bại thì nay chúng ta can trường dấn thân để tiếp
ngoan cường bất khuất "Như khí phách Trần, Lê. Như oai vũ Quang Trung" [Bài ca
tục sự nghiệp dở dang: "Phan Đình Phùng đó, Tống Duy Tân, Nguyễn Trung Trực
lại Hoàng Hoa Thám, Đầu dám thay đầu, chân nối chân!" [Theo chân Bác, 60, tr.400].
Những người con của nước Việt từ "Phan Chu Trinh lạc lối trời Âu, Phan Bội
Châu, câu thơ dậy sóng" [Theo chân Bác, 60, tr.400] long đong tìm lối đi cho đến
những hành động oanh liệt theo "Hồn nước gọi. Tiếng bom Sa Diện, Trái tim Hồng
Thái nổ vang trời" [Theo chân Bác, 60, tr.403] luôn được Tố Hữu gợi nhắc với tình yêu
kính thiêng liêng. Trong cuộc trường chinh của thế hệ hôm nay, qua thơ Tố Hữu, ta
thấy có sự góp sức không nhỏ của cha ông từ mấy nghìn năm trước. Cái dòng chảy
lịch sử không hề ngừng lặng, hồn thiêng ông cha "vẫn quẩn quanh cùng đất nước"
và qua thơ đó, nhân dân Việt Nam như thấy mình được tiếp thêm sức mạnh.
Như chúng ta đã thấy, bản sắc dân tộc đậm đà từ những thủ pháp biểu hiện
của thơ ca truyền thống, những motipe, cách ví von, hình ảnh, thi liệu… đều được
Tố Hữu thừa hưởng và sáng tạo theo tinh thần mới, tinh thần cách mạng nên người
đọc chỉ thấy hay, thấy quen quen chứ không thấy sáo mòn, cũ kỹ. Các yếu tố này
cũng khiến thơ Tố Hữu phù hợp cảm quan thẩm mỹ của người dân Việt, khiến
người ta đọc Tố Hữu như đọc lời ca dao, như nghe lời mẹ ru, vì thơ đó được hun
đúc từ tình yêu non nước nồng nàn. Bằng cách diễn đạt như vậy, Tố Hữu đã khiến
những vấn đề khô khan, xa xôi với người bình dân trở nên gần gũi, dễ hiểu đối với
họ. Cái riêng, cái chung, tình cảm gia đình và tình cảm xã hội hòa quyện vào nhau
một cách tự nhiên, gắn bó, dần dần ngấm sâu vào tim óc nhân dân bằng con đường
giản dị, ngọt ngào của một lời tự tình, một lời ru tha thiết yêu thương. Sự tìm tòi
sáng tạo của Tố Hữu, sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại góp phần làm tăng
khả năng tác động của thơ ông vào công chúng, "sẽ làm cho nghệ thuật vừa thấm
sâu, vừa đi xa" [75, tr.848].
TIỂU KẾT CHƯƠNG BA
Thơ Tố Hữu là thơ của một người say mê cuộc sống, say mê cách mạng, say
mê đấu tranh. Bằng những hình thức biểu hiện thích hợp, Tố Hữu đã tạo cho thơ
mình một sức mạnh đáng kể, một sức sống bền lâu, ám nhiễm và tác động sâu sắc
vào tâm hồn người đọc. Sức mạnh của thơ Tố Hữu "chính là vì nó nói với trái tim,
chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự". Bằng thơ, Tố
Hữu "có thể đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của đại nghĩa" [20, tr.36],
thơ Tố Hữu là "một trường nghị lực cho người đọc" [75, tr.401].
Bên cạnh những hình thức thi pháp nổi bật đã được trình bày ở trên, chúng
ta vẫn thấy một số yếu tố khác cũng mang những nét riêng cho phong cách thơ Tố
Hữu, cũng giúp thơ Tố Hữu tăng thêm khả năng tác động vào độc giả. Đó là cách
thức sử dụng đại từ nhân xưng, cách sử dụng nhiều hô ngữ, cách ngắt câu giữa
dòng, và cả cách mà nhà thơ cho ra đời một bài thơ: ra đời rất kịp thời.
Không thể phủ nhận, thơ Tố Hữu sử dụng hệ thống đại từ nhân xưng đa
dạng. Tình cảm cách mạng có liên quan không nhỏ đến cách xưng hô trong thơ Tố
Hữu. Ông là nhà thơ, cũng là chiến sĩ cách mạng, ông gọi quần chúng là cha, mẹ,
anh, chị của mình. Thơ ông hướng đến hàng triệu người, cũng có khi dành cho riêng
một số con người anh hùng tiêu biểu. Khi đó, ông gọi tên họ chính xác: Lượm,
Nguyễn Văn Hòa, bà má Hậu Giang, mẹ Tơm, mẹ Suốt, Nguyễn Chí Diểu, Phan
Đăng Lưu, Huỳnh Ngọc Huệ, Lê Chưởng, Trần Thị Lý, Lê Thị Hồng Gấm, Hồ
Giáo, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp… Đối với ngôi thứ nhất,
ông luôn xưng hô cụ thể: tôi, chúng tôi, ta, chúng ta, con, anh, em… với nhân dân.
Cách xưng hô trực tiếp ấy tạo nên không khí thân mật, chan hòa gắn bó, tạo cảm
giác thoải mái, dễ tiếp nhận.
Mặt khác, nó còn có khả năng gợi lên những cảm xúc riêng, dễ làm thỏa
mãn yêu cầu biểu đạt cảm xúc và tác động vào cảm xúc độc giả của nhà thơ.
Thơ Tố Hữu thường sử dụng nhiều hô ngữ. Hô ngữ được sử dụng khi nhà
thơ hướng đến đối tượng bên ngoài, đến số đông hoặc chỉ với một ai đó. Hô ứng tạo
nên mối quan hệ cộng hưởng, tác động lẫn nhau. Với Tố Hữu, dường như con người
không cô đơn, không cô lập mình trước thời đại, trong rất nhiều tình huống, nhà thơ
sử dụng hô ngữ như một lời kêu gọi hưởng ứng, đồng tình từ mọi người. "Ít có nhà
thơ nào sử dụng hô ứng rộng rãi như Tố Hữu" [122, tr.191]. Thế giới hô ứng trong thơ
Tố Hữu giúp tiếng thơ ông luôn xao động, nôn nao, rạo rực, không bình lặng. Đỉnh
cao của trạng thái này là nhà thơ cất lên lời gọi. Những dòng thơ được bắt đầu hoặc
kết thúc bằng hô ngữ thường mang lại cảm giác hài hòa, thân ái. Hô ngữ làm cho
tiếng thơ không đơn độc, tiếng thơ luôn được định hướng, tiếng thơ giàu âm vang.
Kiểu hô ngữ trong thơ Tố Hữu cũng là những ơi, hỡi, này, kìa, ê, a, à, nhỉ, nhé, hỡi,
hả (hở), nè… kết hợp với đại từ hoặc danh từ phía sau. Tiếng gọi trong thơ Tố Hữu
luôn gắn liền với một đối tượng cụ thể, đó là những người dân Việt Nam yêu
thương: Bác ơi, anh em ơi, hỡi đồng bào, hỡi người bạn thân, bạn hỡi, bầm ơi, má
ơi, em ạ, hỡi cô tiên nữ, hỡi em, anh Trỗi ơi… và đôi khi là những địa danh: Huế ơi,
Hương Giang ơi, Tây Nguyên ơi, Mạc Tư Khoa ơi, và ông gọi cả những đối tượng
trừu tượng: xuân ơi, năm 2000 ơi, ôi Việt Nam,Tổ Quốc ơi, Người ơi, quê hương
ơi… Tố Hữu hay chạy, đi, chào, mời và hô, gọi. Đó là kiểu nhà thơ đặt mình vào
nhịp đời đang cuồn cuộn chảy của nhân dân, là kiểu nhà thơ cùng hít thở, nói cười,
buồn, khóc với nhân dân. Khi hô gọi, nhà thơ hướng đến đối tượng cụ thể, đồng
thời còn tạo nên những làn sóng cộng hưởng, lây lan cảm xúc trong nhiều người.
Thơ Tố Hữu còn tác động mạnh vào người đọc bởi tính kịp thời, thời sự.
Maiakovski đã từng có trường ca Vladimia Ilich Lenin năm … và đến 1969 Tố Hữu
có "Theo chân Bác", điều này đã đáp ứng kịp thời sự chờ đợi của đông đảo độc giả.
Ngoài trường ca "Theo chân Bác", Tố Hữu còn có "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên",
"Ta đi tới", "Việt Bắc", "Việt Nam máu và hoa", "Hãy nhớ lấy lời tôi", "Toàn thắng
về ta", "Vui thế, hôm nay"... Những bài thơ này đã được ông sáng tác như một sự
giải quyết kịp thời, như một bản tổng kết, ghi công, giúp người đọc thêm phần hồ
hởi, phấn khởi.
Có thể khẳng định rằng, "về mọi phương diện, Tố Hữu luôn luôn là lá cờ
tiền phong, lá cờ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam" [116, tr.465]. Ông viết
những câu thơ khiến "người ta có thể uống như nước ngọt, có thể hít thở như khí
trời lành" [20, tr.37]. Thơ ông đã đạt tới sự "ngọt ngào như là mỗi người có thể tự
làm ra những câu thơ Tố Hữu mà họ đọc ấy" [20, tr.37] vì ông đã nhập tâm sâu sắc,
thu hút và "chế biến" những tư tưởng, ý tưởng cách mạng thành ra thức ăn của tâm
hồn. Bằng tài năng của một nhà thơ và lý tưởng của một nhà cách mạng, Tố Hữu đã
xây dựng được một sự nghiệp thơ ca cao quý, đã thực hiện cái sứ mệnh cao quý
nhất của nghệ thuật: "giúp người ta suy nghĩ, hành động, đấu tranh, giúp người ta
biết yêu, biết ghét, biết phân minh, giúp cho người ta biết sống, biết chết một cách
xứng đáng nhất trong những giờ quyết định của đời mình" [75, tr.376].
KẾT LUẬN
Bước sang thế kỷ hai mươi mốt, chúng ta như bị cơn lốc của những phương
tiện vật chất ùn ùn kéo đến vây quanh, nó chiếm chỗ trong không gian, trong tâm
hồn con người làm những giá trị tinh thần trở nên hạn hẹp, thưa thớt và thậm chí trở
nên lạc lõng. Nhu cầu hưởng thụ vật chất cao hơn cũng góp phần làm cho thị hiếu
thẩm mỹ của con người trở nên khắt khe hơn. Thơ ca nói riêng và văn học nói
chung, đôi khi đã trở thành "hàng hóa" bởi sự cạnh tranh gay gắt của quá nhiều tác
phẩm, nó nhiều đến mức khiến người ta phải sợ, phải "ngấy". Trong quá trình thay
đổi đó, hơn lúc nào hết, thơ càng phải phát huy tối đa sức mạnh của mình. Đối với
riêng người sáng tác, sự phát triển của xã hội kích thích ý thức sáng tạo của họ hơn,
đời sống xã hội phức tạp lại là tiền đề hun đúc cho họ nguồn năng lượng, niềm đam
mê sống hết mình vì nghệ thuật. Thơ ca vừa phải là món ăn tinh thần bổ ích đối với
xã hội, là quyển sách đưa đường dẫn lối cho công chúng, vừa là người bạn đường
thân thiết của mọi người. Quan trọng nhất, thơ phải là một trong những công cụ
giáo dục tư tưởng tình cảm lành mạnh và thiết thực cho thanh thiếu niên, là vũ khí
đấu tranh cho sự phát triển trong sạch và vững mạnh của xã hội. Giữa những xô bồ
chộn chạo của cuộc đời, điều đáng mừng là thơ vẫn tồn tại như một sứ giả của thế
giới tâm linh.
Kinh nghiệm lịch sử chứng minh rằng người ta không hề hoặc rất ít có cơ
hội tìm thấy quyền lợi, chức vụ hay những lợi ích vật chất lẫn tinh thần khác nếu
dấn thân vào con đường nghệ thuật nhưng tất cả họ vẫn hăng say sáng tạo với một
sức mạnh không cưỡng lại được. Sự đam mê kỳ lạ ấy khiến chúng ta liên tưởng đến
những đàn cá vượt qua bao thác ghềnh tìm về đồng bằng đẻ trứng, dù rất nhiều con
chết, nhưng chúng vẫn tuân theo bản năng và hy sinh kỳ lạ. Mặt khác, những nhà
thơ sống trong xã hội hiện đại ngày nay càng thấm sâu hơn cái quy luật sàng lọc
sòng phẳng của cuộc đời đối với mọi giá trị tinh thần mà họ tạo ra, thế mà họ vẫn
viết. Lý giải rằng chính vì bản thân văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói
riêng là một trong những niềm vui lớn nhất của con người và họ không ngừng tạo
tác để mở rộng tâm hồn người, để tạo nên muôn nghìn sợi dây nối liền ta với người,
để nhân sự sống lên, để giúp cho người ta bước qua cuộc sống chật hẹp tù túng của
mình và tìm đến sự đồng cảm của hàng trăm cuộc đời khác, nghe ra hợp lý hợp tình.
Nhất là đối với một dân tộc mà chiều dài lịch sử gắn liền với những cuộc chiến
tranh giành độc lập, thì thơ ca tuyên truyền, cổ động đấu tranh phải có một vị trí
quan trọng, khác thường. Đối với một dân tộc mà bão táp chiến tranh không ngừng
gây thương tích, vấn đề tìm đường cứu nước, tìm ra chân lý cho cuộc đời luôn đặt
con người vào những tình huống căng thẳng thì thơ ca yêu nước đã cho thấy sức
mạnh, ý nghĩa của mình trong việc trở thành người bạn, người thầy, người dẫn
đường đáng tin cậy của nhân dân.
Tồn tại giữa cuộc đời như một thực thể có tư duy và có khả năng sáng tạo,
bất cứ ai trong chúng ta cũng có nhu cầu giao tiếp. Vì sống là phải sống với người
khác, cần người khác và vì người khác. Khi mọi phương tiện liên lạc càng hiện đại
thì mối liên hệ giữa nhà thơ và độc giả càng gần gũi, cởi mở và thân thiện. "Giao
tiếp là một điều kiện của sự sống. Đã có giao tiếp là có trao đổi, có tác động lẫn
nhau" [158, tr.487]. Cho nên, tác động là một phạm trù thuộc lĩnh vực sáng tác lẫn
tiếp nhận văn học, là biểu hiện cụ thể từ nhu cầu giao cảm mãnh liệt của nhà thơ khi
sáng tác. Để đạt được hiệu quả cao nhất, nhà thơ luôn cố gắng chọn lựa hình thức
nghệ thuật thích hợp sao cho diễn đạt thành công nhất ý tưởng, cảm xúc của mình
và tạo được sức tác động mạnh nhất, sức lan truyền bền bỉ nhất trong lòng độc giả.
Do đặc trưng thể loại, thơ nghiêng hẳn về phương diện bộc lộ cảm xúc, tâm hồn nhà
thơ. Bộc lộ để mà bộc lộ, bộc lộ cũng để mà tác động đến người đọc. Quá trình sáng
tác là quá trình nhà thơ vừa trăn trở, bộc lộ, giãi bày, vừa đi tìm sự chia sẻ, đồng
cảm, tìm mối dây liên kết với tri âm, với cộng đồng. Ai cũng phải nhọc nhằn, vất vả
gieo vào trang viết từng con chữ, từng ý nghĩ với mong muốn khi nó đến được với
người đọc thì có thể mắc lại nơi ấy. Trong tâm thức của mỗi người họ, thường trực
là niềm khắc khoải muốn tạo ra những tác phẩm có hằng số nghệ thuật mới lạ, có tư
tưởng nhân văn sâu sắc, có sức lay động vào tâm thức con người. Chính vì vậy mà
câu hỏi làm thế nào để người đọc đọc mình, hiểu mình, nghe theo mình… trở nên
thật sự cần thiết đối với mỗi người cầm bút.
Đứng về phương pháp luận, nghiên cứu các biểu hiện thuộc về hình thức thi
pháp của thơ chỉ là một hướng trong nhiều hướng nghiên cứu văn học. Nó được
chúng tôi chọn nghiên cứu như một hướng đi tìm những nguyên nhân tạo nên sức
sống bền bỉ, âm vang mạnh mẽ và nhất là sức tác động mãnh liệt của thơ ca. Trong
xu hướng cần nên chú trọng việc nâng cao tính khoa học của ngành nghiên cứu văn
học, phát hiện ngày càng sâu hơn bản chất và quy luật của văn học, từng bước khám
phá ra con đường, hệ thống thao tác đáng tin cậy để hiểu sâu tác phẩm, hiểu sâu quá
trình sáng tác và tiếp nhận, góp sức vào việc tạo ra những giá trị văn học mới và
phát huy tác dụng của văn học trong cuộc sống thì đề tài nghiên cứu này là một nét
nhỏ trong nhiều vấn đề mà thi pháp học hiện đại đang hướng tới. Mặt khác, như ý
kiến của các nhà nghiên cứu văn học thì trong sáng tác và nghiên cứu ngày nay,
chúng ta cũng đã không còn thơ ngây mà khẳng định một chiều, phiến diện theo
kiểu hoặc chỉ thấy thơ là vũ khí của tư tưởng, hoặc chỉ thấy thơ ca là nghệ thuật,
hoặc chỉ thấy thơ ca là ngôn ngữ. Đã trải qua một quá trình tranh luận lành mạnh và
nghiêm túc để thấy rõ: thơ là tổng hợp của ba yếu tố đó. Lịch sử từ xưa đến nay
cũng đã chứng minh cho ta thấy rõ rằng: nếu đã là một nghệ sĩ tài năng thì đồng
thời cũng là một nhà tư tưởng, một nhà văn hóa lớn, một nhà ngôn ngữ học uyên
bác. Cho nên, việc lựa chọn một góc nhìn hay một lĩnh vực nghiên cứu nào đối với
văn thơ không còn là vấn đề để bàn luận vì mục đích cuối cùng của nó là mang lại
một nét mới để bổ sung cho những vấn đề lý luận truyền thống thêm hoàn chỉnh
hơn.
Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu luận văn này từ những cơ sở thực tế đó,
và cũng từ hy vọng quá trình sáng tác và nghiên cứu thơ ca ngày càng phong phú
hơn, hoàn thiện hơn. Bởi chúng tôi cho rằng, đúng như lời của Nguyễn Văn Hạnh
từng viết: "Không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương nghệ thuật
trong việc giúp con người hiểu được cuộc sống và hiểu chính mình, sống có tình
thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục để thăng hoa, để
ước mơ, vươn đến chân thiện mỹ. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái đẹp, sự hài hòa, sự
sống" [42, tr.255]. Chưa bao giờ văn học rời xa con người, chưa bao giờ văn học phản
bội lại những ước mơ cao cả của con người. Trong mọi thời đại, sáng tạo văn học
vẫn mãi là một hoạt động sáng tạo cao đẹp, đầy thánh thiện, đáng để tôn vinh.
Cuối cùng, chúng tôi muốn khẳng định rằng, như một lẽ tất yếu, các yếu tố
thi pháp có khả năng tác động mạnh vào công chúng luôn giữ vai trò không nhỏ
trong tiến trình thúc đẩy sự đổi mới và phát triển thơ ca Việt Nam, nó góp phần
khẳng định và định hướng cho người cầm bút trong ý đồ đưa tác phẩm của mình
đến với độc giả thêm sắc nét và có sức sống bền lâu hơn trong lòng người. Nỗ lực
mà luận văn hướng tới là góp phần tìm tòi và khẳng định những hiệu quả nghệ thuật
của các hình thức thi pháp ấy để góp thêm vào bề dày nghiên cứu thơ ca Việt Nam
một cách nhìn nhận mới, thiết thực, bổ ích cho đội ngũ những người sáng tác trẻ ở
Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Phong Hồng Anh (2005), "Tín hiệu thơ - cuộc đối thoại giữa nhà thơ và bạn
đọc", Tạp chí Ngôn ngữ, (9).
2. Đỗ Ảnh (1990), "Thử vận dụng quan điểm cấu trúc – chức năng để nhận diện
miêu tả câu cầu khiến Tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, (2).
3. Arnaudop M. (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, Hoài Lam và Hoài Ly
dịch, Nxb Văn học.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam (1970), "Thư gửi Đại
5. Diệp Quang Ban (2006), Ngữ pháp Tiếng Việt tập 1 và 2, Nxb Giáo dục.
6. Diệp Quang Ban (1998), Một số vấn đề về câu tồn tại trong Tiếng Việt, Nxb
hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, IV", Tạp chí Tác phẩm mới, (6).
Giáo dục.
7. Nguyễn Bính (1992), Thơ Nguyễn Bính chọn lọc, Nxb Văn học.
8. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb ĐH và Giáo Dục CN, Hà Nội.
9. Nguyễn Bính Hồng Cầu (2007), Nhặt bóng mình, Nxb Văn nghệ.
10. Hoàng Minh Châu (1978), "Trả lời Tạp chí văn học", Tạp chí Văn học, (1).
11. Nguyễn Huệ Chi (1988), Hội thảo về "Phản ánh hiện thực là chức năng hay
thuộc tính của văn học", Tạp chí Văn học, (5).
12. Tân Chi tuyển chọn và biên soạn (1999), Thạch Lam văn và đời, Nxb Hà Nội.
13. Trúc Chi (1999), Ba mươi năm một nền thơ cách mạng, Nxb Thanh niên.
14. Nguyễn Đình Chú, Trần Hữu Tá chủ biên (2002), Văn học 11, tập 1, phần
Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
15. Mai Ngọc Chừ (1991), "Những đặc điểm của âm tiết Tiếng Việt và vai trò của
nó trong thơ ca", Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
16. Nguyễn Dương Côn (1994), "Phác thảo về quan hệ giữa ảo và phi lý trong
thơ", Tạp chí Sông Hương, (8).
17. Ngô Viết Dinh tuyển chọn (2002), Đến với thơ Phan Bội Châu, Nxb Thanh
niên.
18. Ngô Viết Dinh tuyển chọn (2002), Đến với thơ Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh
niên.
19. Ngô Viết Dinh tuyển chọn (2002), Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Thanh
niên.
20. Xuân Diệu (1978), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy, Nxb Tác phẩm
mới.
21. Xuân Diệu (1978), "Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống”, Tạp chí Văn
học, (1).
22. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Xuân Diệu (tái bản 1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học.
24. Dovsdilskj S. (1961), "Nhiệm vụ của nhà thơ", Tạp chí Văn nghệ, (49).
25. Nguyễn Du (tái bản 1996), Truyện Kiều, Nxb Văn hóa thông tin.
26. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học Xã hội.
27. Hữu Đạt (1996), "Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ ca và ca dao", Tạp
chí Ngôn ngữ, (4).
29. Hữu Đạt (1998), Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt, Nxb
28. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
Văn hóa thông tin Hà Nội.
30. Phan Cự Đệ chủ biên (tái bản 1998), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo
dục.
31. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Văn học.
32. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học.
33. Trịnh Bá Đĩnh biên soạn (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học.
34. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo dục.
35. Trinh Đường (2001), "Trăm năm thơ", Tạp chí Nhà văn, (1).
36. Bùi Giáng (tái bản 2006), Mưa nguồn, Nxb Văn nghệ.
37. Nguyễn Thiện Giáp (2004), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
38. Phạm Thị Hà, Nguyễn Thị Thìn (2002), "Câu hỏi trong thơ trữ tình", Tạp chí
Ngôn ngữ, (10).
39. Nguyễn Văn Hạnh (1985), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí, Nxb Thuận Hóa.
40. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận và văn học, vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo dục.
41. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa
học Xã hội.
42. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, Nxb Giáo dục.
43. Đỗ Thị Hằng (2005), "Ẩn dụ bổ sung - một phương tiện tu từ đặc sắc trong
44. Cao Xuân Hạo (tái bản 2004), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb
văn chương", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (11).
Khoa học Xã hội.
45. Hoàng Ngọc Hiến (1988), "Phản ánh hiện thực là chức năng hay thuộc tính của
văn học", Tạp chí Văn học, (5).
46. Hoàng Ngọc Hiến (2004), "Năng khiếu cảm nhận tiết tấu", Tạp chí Văn học và
tuổi trẻ, (1).
47. Lưu Hiệp (1996), Văn tâm điêu long, bản dịch trong Tạp chí Văn học nước
ngoài, (3).
48. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi… và nhiều tác giả khác biên tập (1983), Từ
49. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
điển văn học tập 1, 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Hirsch E. (2004), "Thơ và độc giả", Tạp chí Văn học nước ngoài, (1).
51. Nguyễn Thái Hòa (1996), "Tiếp đoạn trong một dòng thơ", Tạp chí Ngôn ngữ,
(1).
52. Bùi Công Hùng (1973), "Về một số quan điểm sáng tác thơ ở Sài Gòn", Tạp
chí Văn học, (2).
53. Bùi Công Hùng (1974), "Những ý kiến sai trái về thơ của Nguyễn Văn Thi",
Tạp chí Văn học, (4).
54. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
55. Hoàng Hưng (1994), "Về bản sắc dân tộc và thơ hôm nay", Tạp chí Sông
Hương, (11).
56. Tố Hữu (1961), "Thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình, tiếng nói đồng chí", Tạp
chí Văn nghệ, (48).
57. Tố Hữu (1973), Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta,
thời đại ta, Nxb Văn học.
58. Tố Hữu (1981), Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật, Nxb Văn học.
59. Tố Hữu (1998), "Phải sống đến tận cùng cuộc sống mới có được thơ hay", Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, (8).
60. Tố Hữu (tái bản lần 7 năm 2005), Thơ Tố Hữu, Nxb Văn học.
61. Đỗ Văn Hỷ biên soạn (1990), Người xưa bàn về văn chương tập 1, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
62. Jauss H. R. (2002), "Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
63. Nguyễn Thị Dư Khánh (1996), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học
văn học", Trương Đăng Dung dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, (1).
trong nhà trường, Nxb Giáo dục.
64. Đinh Gia Khánh chủ biên (tái bản 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XV nửa đầu
thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục.
65. Đinh Gia Khánh chủ biên (tái bản 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu
thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục.
66. Trần Đăng Khoa, Vũ Quần Phương tuyển chọn và giới thiệu (2007), Những
67. M.B.Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
nhà thơ Việt Nam thời chống Mỹ, Nxb Kim Đồng.
văn học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
68. M.B.Khravchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn học, Lại Nguyên Ân dịch, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
69. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
70. Đông La (2001), Biên độ của trí tưởng tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.
71. Đinh Trọng Lạc chủ biên (2002), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
72. Chu Lai (1993), "Nghề khổ", Tạp chí Văn nghệ, (1).
73. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo
dục.
74. Đinh Lan (2001), "Không gian nghiêng – một nét độc đáo trong thơ Hoàng
Cầm", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (3).
75. Phong Lan tuyển chọn (2003), Tố Hữu, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
76. Đào Thanh Lan (2005), "Cách biểu hiện hành động cầu khiến gián tiếp bằng
câu hỏi – cầu khiến", Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
77. Mã Giang Lân (1996), "Sự hình thành các bài thơ", Tạp chí Văn học, (10).
78. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
79. Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu (2001), Thơ Hàn Mặc Tử, Nxb Văn
hóa thông tin.
80. Mã Giang Lân (2004), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
81. Mã Giang Lân (2004), "Tản Đà - từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tạo hình
thức thơ ca", Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8).
82. Phong Lê chủ biên (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
83. Lenin V. I (1977), Bàn về văn hóa, văn học, nhiều người dịch, Nxb Văn học.
84. Nguyễn Thế Lịch (2000), "Ngữ pháp của thơ", Tạp chí Ngôn ngữ, (11) và
(12).
85. Nguyễn Thế Lịch (2004), "Nhịp thơ", Tạp chí Ngôn ngữ, (1).
86. Vân Long sưu tầm (1995), Xuân Quỳnh thơ và đời, Nxb Văn hóa Hà Nội.
87. Lotman IU. M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, (nhiều người dịch), Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
88. Nguyễn Lộc (tái bản 2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế
kỷ XIX, Nxb Giáo dục.
89. Phan Trọng Luận chủ biên (2006), Ngữ Văn 10 tập hai, Nxb Giáo dục.
90. Lưu Trọng Lư (1961), "Một vài cảm nghĩ về thơ", Tạp chí Văn nghệ, (48).
91. Phương Lựu chủ biên (2002), Lý luận văn học tập 1, Nxb Đại học Sư phạm.
92. Phương Lựu chủ biên (tái bản lần thứ 4, 2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo
dục.
93. Phương Lựu (2005), Tuyển tập tập 1, 2, 3, Nxb Giáo dục.
94. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (tái bản 2006), Văn học 12 tập
1, Nxb Giáo dục.
95. Đặng Thai Mai (1997), Đặng Thai Mai toàn tập, tập 1, Nxb Văn học.
96. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Để dạy tốt văn học Việt Nam lớp 12, Nxb Giáo
dục.
97. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong
cách, Nxb Trẻ.
98. Nguyễn Đăng Mạnh (tái bản 2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục.
99. Hồ Chí Minh (tái bản 1999), Nhật ký trong tù, Nxb Thanh niên.
100. Nguyễn Thanh Mừng (2006), "Nguyên Tiêu", Tạp chí Nhà văn, (3).
101. Lê Thành Nghị (2003), Văn học sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Quân đội nhân
dân.
102. Phan Ngọc (tái bản 2000), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Trẻ.
103. Nguyễn Hữu Ngô sưu tầm và biên soạn (2005), Trần Quang Long, cuộc đời và
tác phẩm, Nxb Thuận Hóa.
104. Bàng Sĩ Nguyên (1978), "Thơ của đời sống", Tạp chí Văn học, (1).
105. Triều Nguyên (2006), Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ, Nxb Giáo
dục.
106. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể
loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
107. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí
Minh.
108. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.
109. Đái Xuân Ninh (1985), Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học, Nxb Tp.
HCM.
110. Như Phong (1977), Bình luận văn học, Nxb Văn học.
111. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn.
112. Vũ Quần Phương (1992), "Vài ý nghĩ về thơ hôm nay", Tạp chí Tác phẩm
mới, (3).
113. Pauxtovskj K. (2001), Bông hồng vàng, Kim Ân dịch, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
114. Pospelov G. N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch, Nxb Giáo dục.
115. Vũ Đức Phúc (1978), "Thơ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Văn học,
(4).
116. Vũ Đức Phúc (2001), Bàn về văn học, Nxb Khoa học xã hội.
117. Bùi Minh Quốc (1993), "Góp mấy suy nghĩ về người nghệ sĩ, chiến sĩ”, Tạp
chí Văn học, (3).
118. Ranicki M. R. (1994), "Một lời biện hộ cho thơ", Trương Hồng Quang dịch,
Tạp chí Văn học, (3. 2003).
119. Nguyễn Xuân Sanh (1973), "Cuộc sống với lý tưởng, trang thơ, người bạn
đọc", Tạp chí Văn học, (1).
120. Sartre J. P. (1999), Văn học là gì, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn.
121. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Hà Nội.
122. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục.
123. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
124. Trần Đình Sử (tái bản 2001), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Văn hóa thông tin.
125. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm.
126. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
Hội, Hà Nội.
127. Trần Hữu Tá nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn (2000), Nhìn lại một chặng
đường văn học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
128. Hà Công Tài (1997), "Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ", Tạp chí Văn học, (5).
129. Nguyễn Trọng Tạo (1994), "Thơ lục bát Việt Nam, lạm bàn", Tạp chí Sông
Hương, (6).
130. Nguyễn Trọng Tạo (2007), 36 bài thơ, Nxb Lao động.
131. Nguyễn Minh Tấn biên soạn (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội.
132. Khâu Chấn Thanh (1995), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc,
Nxb Giáo dục.
133. Hoài Thanh, Hoài Chân (tái bản 2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
134. Vũ Thanh tuyển chọn (1998), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
135. Tuấn Thành, Anh Vũ tuyển chọn (2002), Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm và dư
luận, Nxb Văn học.
136. Tuấn Thành, Anh Vũ tuyển chọn (2005), Việt Bắc tác phẩm và lời bình, Nxb
Văn học.
137. Đào Thản (1990), "Nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát", Tạp chí Ngôn ngữ,
(3).
138. Nguyễn Kim Thản (1981), Cơ sở ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb Tp.Hồ Chí Minh.
139. Nguyễn Bá Thành (1991), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
140. Tạ Văn Thành (1998), Đại cương Mỹ học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
141. Thanh Thảo (1995), "Cuối cùng, thơ chiến đấu với chính nó", Tạp chí Tác
phẩm mới, (11).
142. Thanh Thảo (2002), "Sự bền lòng, một tên gọi khác của thơ ca", Tạp chí Nhà
văn, (11).
143. Đoàn Thêm dịch và giới thiệu (1962), Quan niệm và sáng tác thơ, theo lời thi
nhân và học giả phương Tây, Viện Đại Học Huế.
144. Nguyễn Đình Thi (1961), "Mở rộng cửa cho cuộc sống mới vào thơ, cho thơ
vào cuộc sống mới", Tạp chí Văn nghệ, (48).
145. Nguyễn Đình Thi (1992), "Mấy ý nghĩ về thơ", Tạp chí Tác phẩm mới, (3).
146. Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên (1997), Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam tập
3, Nxb Văn học.
147. Vũ Duy Thông biên soạn (2003), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945 – 1975, Nxb Giáo dục.
148. Trúc Thông (1995), "Một ngả đường đến với thơ", Tạp chí Tác phẩm mới,
(11).
149. Chu Thị Thơm (2006 ), "Thơ trẻ: Bức tranh chưa phân định sắc màu", Tạp chí
Nhà văn, (2).
150. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội.
151. Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp - Lý
thuyết Chủ nghĩa hình thức Nga, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
152. Nguyễn Thị Phương Thủy (2004), "Vần, thanh điệu, nhịp điệu trong câu thơ
Mới bảy chữ", Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
153. Trần Thức tuyển soạn và giới thiệu (2005), Viết trên đường tranh đấu, Nxb
Thuận Hóa.
154. Phạm Văn Tình (2002), "Im lặng – một dạng tỉnh lược ngữ dụng", Tạp chí
Ngôn ngữ, (5).
155. Nguyễn Vũ Tiềm (2006), Đi tìm mật mã của thơ, Nxb Hội nhà văn.
156. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb
Thanh niên.
157. Lê Ngọc Trà (tái bản 2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
158. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo dục.
159. Võ Gia Trị (2002), "Lý luận là nền tảng cho thơ ca vươn cao", Tạp chí Nhà
văn, (11).
160. Coocnây Trucốpxki (1993), "Những bí quyết làm thơ hay cho trẻ em", Bùi
Hòa dịch, Tạp chí Văn học, (5).
161. Đinh Gia Trinh, (tái bản 2005), Hoài vọng của lý trí, Nxb Hội nhà văn.
162. Hoàng Trinh chủ biên (1978), Văn học, cuộc sống, nhà văn, Nxb Khoa học Xã
hội.
163. Hoàng Trinh (1996), "Giao tiếp trong văn học", Tạp chí Văn học, (4).
164. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, Nxb Giáo dục.
165. Hoàng Tuệ (1998), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
166. Ủy ban Khoa học Xã hội (1983), Ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
167. Valery P. (2000), "Các vấn đề thi ca", Phương Ngọc dịch, Tạp chí Văn học, (1).
168. Kiều Văn tuyển chọn (2002), Thơ Lưu Quang Vũ, Nxb Đồng Nai.
169. Kiều Văn (2006), Những gương mặt tiêu biểu thơ ca Việt Nam, Nxb Văn học.
170. Chế Lan Viên (1973), "Trả lời Tạp chí văn học, hay là nói chuyện thơ đầu
năm", Tạp chí Văn học, (1).
171. Chế Lan Viên (1993), Di cảo thơ, tập II, Vũ Thị Thường góp nhặt, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
172. Chế Lan Viên (tái bản 1997), Điêu tàn, Nxb Hội nhà văn.
173. Hồ Sĩ Vịnh (2004), "Yếu tố phi lý tính trong thơ", Tạp chí Nhà văn, (8).
174. Xâytlin (1968), Lao động nhà văn, Nxb Văn học.
175. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Tiếng vọng những mùa qua, Nxb Trẻ.
176. Nhiều tác giả (Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh) (1976), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
177. Nhiều tác giả (1979), Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học
Xã hội.
178. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật Đà
Nẵng.
179. Nhiều tác giả (1984), Tổng tập văn học Việt Nam tập 36, Nxb KHXH Hà Nội
và Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
180. Nhiều tác giả (1990), Tình bạn, tình yêu, thơ…, Nxb Giáo dục.
181. Nhiều tác giả (1992), Thơ Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Giáo dục.
182. Nhiều tác giả (1994), Tuyển tập Thơ lục bát Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
183. Nhiều tác giả (1997), Thi ca Việt Nam thời Cần Vương, Nxb Văn học.
184. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, Sở nghiên cứu văn học,
Viện văn học Trung Quốc.
185. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Lời hay ý đẹp, tập 2, Nxb Thanh niên.
186. Nhiều tác giả (2004), Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.
187. Nhiều tác giả (2005), Ngô Kha, ngụ ngôn của một thế hệ, Nxb Thuận Hóa.
188. Nhiều tác giả (2006), Thơ hay Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hóa thông tin.
189. Nhiều tác giả (2006), Cái nhìn mới về lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Tài
liệu của Trường Đại học KHXH và Nhân văn.
190. Nhiều tác giả (2006), Văn chương một thời để nhớ, Nxb Văn học.
191. http://vietbao.vn/vanhoa/tham-tinh-tu-may-van-tho