Đại học quốc gia Hà Nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ************

Vũ Phương Thảo

Đặc điểm văn xuôi Y Ban

Luận văn thạc sỹ khoa học văn học

Hà Nội – 2009

Đại học quốc gia Hà Nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ************

Vũ Phương Thảo

Đặc điểm văn xuôi Y Ban

Luận văn thạc sỹ khoa học văn học

Chuyên ngành Mã số : Văn học Việt Nam : 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Nguyễn Bích Thu

Hà Nội - 2009

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1 Sau năm 1975 đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới nền văn học nƣớc nhà có nhiều

biến chuyển và khởi sắc. Góp phần vào những chuyển biến và những khởi sắc ấy là

sáng tác của đông đảo các cây bút nữ vừa trẻ về tuổi đời, vừa giàu nội lực sáng tạo.

Đây là thời kỳ mà ngƣời ta thƣờng gọi là thời kỳ “văn học đang mang gƣơng mặt

nữ”. Y Ban là một trong những gƣơng mặt nổi bật ấy. Cùng với Nguyễn Thị Thu

Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, chị là ngƣời có nhiều đóng góp

trong việc tạo nên những dấu ấn của đời sống văn học đƣơng đại.

1.2 Gƣơng mặt của Y Ban đƣợc nhiều ngƣời biết đến trƣớc hết bởi chị có

những tác phẩm đƣợc giải thƣởng cao: Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một

người đàn bà - Giải nhất cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội

(1989-1990), tập truyện ngắn: Người đàn bà có ma lực - Giải nhì cuộc thi viết về

Hà Nội của Nhà xuất bản Hà Nội - 1993. Những bƣớc khởi đầu khá suôn sẻ đó đã

giúp Y Ban tự tin hơn trên hành trình sáng tạo của mình.

1.3 Sau những đăng quang kể trên chị không hề ngừng nghỉ mà vẫn liên tục

sáng tác với nhiều tâm huyết và niềm đam mê. Gắn bó với nghề văn đã gần hai

mƣơi năm, đến nay Y Ban đã là tác giả của mƣời một tác phẩm thuộc các thể loại:

truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết. Nhiều cuốn sách của chị khi ra đời đã thu

hút đƣợc sự quan tâm của độc giả và giới phê bình, kích thích đƣợc cảm hứng

tranh luận trên văn đàn. Đã có không ít những cuộc phỏng vấn, những bài viết trên

các báo, tạp chí, không ít những cuộc trao đổi trên các diễn đàn bàn về tác phẩm

của Y Ban, trong đó có cả những trang diễn đàn đăng tải trên mạng Internet của

ngƣời Việt ở nƣớc ngoài.

1.4 Nhƣ đã nói ở trên, tác phẩm của Y Ban đƣợc bạn đọc và giới phê bình

quan tâm, song sự quan tâm ấy mới chỉ nằm ở phạm vi những bài viết, những bài

1

phỏng vấn nằm rải rác trên các báo hoặc các tạp chí. Ngoài ra cũng đã có một số

luận văn nghiên cứu về sáng tác của chị nhƣng lại là kết hợp nghiên cứu với sáng

tác của các nhà văn nữ khác nhƣ Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng

Anh, Võ Thị Hảo… Với số lƣợng tác phẩm đáng kể, với những giải thƣởng đã

đƣợc nhận, Y Ban trở thành một cây bút khá tiêu biểu đối với dòng văn học nữ nói

riêng và với nền văn xuôi Việt Nam đƣơng đại nói chung. Vì vậy thiết nghĩ đã đến

lúc cần phải có những khảo cứu riêng về toàn bộ sáng tác của Y Ban một cách hệ

thống và đầy đủ.

Đó là những lý do khiến chúng tôi chọn sáng tác của Y Ban làm đối tƣợng

nghiên cứu của luận văn. Theo đó, chúng tôi cũng hy vọng: thông qua việc tìm

hiểu, nghiên cứu một gƣơng mặt nữ khá ấn tƣợng của dòng văn học đƣơng đại Việt

Nam sẽ góp phần khám phá những dấu ấn cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật đồng

thời nhận diện sự phát triển của văn xuôi Việt Nam trong vài thập kỷ gần đây.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1 Các bài viết về tác phẩm của Y Ban in trên các báo và các tạp chí.

Y Ban viết văn từ lúc còn đi học phổ thông nhƣng mãi đến khi Bức thư gửi mẹ

Âu Cơ đoạt giải cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989-1990),

chị mới đƣợc bạn đọc chú ý và từ đó với những sáng tác tiếp theo, chị thực sự trở

thành một gƣơng mặt khá ấn tƣợng trong văn giới.

Nhận định về sáng tác của Y Ban, nhà nghiên cứu phê bình văn học Bùi Việt

Thắng trong bài Một giọng nữ trầm trong văn chương, đã chỉ ra những cái đƣợc và

chƣa đƣợc của truyện ngắn Y Ban. Về lối viết của cây bút này, ông nhấn mạnh “Y

Ban có lối viết riêng của mình, chị chú ý khai thác nhiều tâm trạng điển hình của

nhân vật trong những tình huống tiêu biểu”, cũng trong bài viết này ông khái quát:

“Truyện của Y Ban có thể đƣợc xếp vào dạng truyện tâm tình - không đặc sắc về

cốt truyện và tình tiết song lại có khả năng lắng đọng trong ngƣời đọc bởi chiều

sâu tâm lý của tính cách da diết của tình đời, tình ngƣời” [25]. Vẫn là của tác giả

Bùi Việt Thắng, bài viết Khi người ta trẻ in trên báo Văn nghệ số 43/1993 là tản

2

mạn về truyện ngắn của nhiều cấy bút trẻ: Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng

Anh, Nguyễn Thị Ấm…, Y Ban cũng là một nhà văn nhận đƣợc nhiều lời ngợi

khen từ tác giả: “Y Ban quan tâm đến yếu tố thời gian nghệ thuật nên truyện của

chị đậm chất chiêm nghiệm, triết lý”.

Báo Văn nghệ số 25/2003, đăng bài Y Ban và những thân phận đàn bà của

Xuân Cang. Tác giả đã phân tích và lý giải về cách xây dựng nhân vật nữ của Y

Ban. Ông đánh giá: “Y Ban là một ngƣời phụ nữ viết văn đầy nhậy cảm và chị cảm

nhận đƣợc những biến thái tinh vi trong tâm hồn con ngƣời”.

Gần đây nhất là bài viết của Lê Thị Hƣơng Thủy với tựa đề Đọc truyện ngắn

Y Ban, ngƣời viết đã có những khái quát cơ bản về đặc điểm trong những tác phẩm

thuộc “thể loại nhỏ” của Y Ban trên nhiều khía cạnh: đó là “sự trở đi trở lại của

những nhân vật nữ”, là “xu hƣớng khai thác những xung đột bên trong”, là những

không gian sáng trong tác phẩm… Nhận định một cách chung nhất tác giả viết:

“Đọc truyện ngắn Y Ban ngƣời đọc nhƣ bị ám ảnh không dứt về những thân phận,

những cuộc đời qua từng câu chuyện kể. Những câu chuyện có lúc tƣởng nhƣ

không đầu không cuối nhƣng lại có sức neo giữ trong tâm trí ngƣời đọc. Tựa vào

cảm giác, tâm trạng… ngòi bút của Y Ban đã khơi sâu vào mạch nguồn cảm xúc,

vào thế giới tâm linh của con ngƣời để rồi lại đem đến cho ngƣời đọc những cảm

nhận, những nỗi niềm trƣớc từng cảnh ngộ” [33]

Báo cáo kết quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội, giám đốc nhà xuất bản

Hoàng Ngọc Hà đánh giá cao tác phẩm của chị: “Y Ban (giải B) lại có một lối kể

chuyện thật thản nhiên, không bình phẩm mà dẫn ngƣời đọc vào những suy tƣ và

tự xem lại cách sống của mình” [11]

Tại hội thảo khoa học Mười truyện ngắn hay báo Văn nghệ 1998 do trƣờng

Đại học Hồng Đức tổ chức, truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đƣợc

nhiều nhà giáo và sinh viên quan tâm đƣa ra ý kiến đánh giá, trong đó giảng viên

Vũ Thị Oanh đã có những nhận định không chỉ dành riêng cho một tác phẩm mà là

cái nhìn rộng hơn về sáng tác của Y Ban: “Sáng tác của Y Ban không đặt ra những

vấn đề to tát, cũng không đại ngôn mà thƣờng chỉ là những điều mắt nhìn và trái

3

tim suy nghĩ nhƣng thƣờng để lại những ám ảnh có lúc xa xót nhƣ những nhát cứa,

có lúc bồi hồi dịu ngọt. Đã gặp một lần - những ngƣời có trái tim nhạy cảm không

dễ mấy ai quên” [9].

Nhìn chung những bài viết về sáng tác của Y Ban in trên các báo và các tạp chí

chƣa thực sự phong phú về số lƣợng và chƣa sâu về mức độ khảo sát. Đa số các tác

giả chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu, nhận diện tác giả mà chƣa

có những nghiên cứu cụ thể các bình diện của tác phẩm. Cũng là những bài viết về

sáng tác của Y Ban, nhƣng chúng ta sẽ bắt gặp một không khí hoàn toàn khác - một

không khí sôi nổi hơn, thẳng thắn hơn, tự do hơn khi trao đổi về những tập truyện

của Y Ban, đó là những bài viết trên báo mạng, trên các trang diễn đàn văn nghệ.

2.2. Các bài viết, trao đổi về tác phẩm của Y Ban trên các trang diễn đàn và

báo mạng.

Trong một cuộc trò chuyện với nhà văn Y Ban, chúng tôi rất đồng tình khi

nghe chị bày tỏ ý kiến về khâu tiếp nhận: “Dù là theo dòng văn học nào, lãng mạn,

hiện thực hay cách tân thì mục đích cuối cùng của nhà văn cũng là hƣớng đến bạn

đọc. Bạn đọc là ngƣời thông minh nhất, vì vậy tôi hoàn toàn tôn trọng ý kiến của

độc giả”. Quả thật nhƣ vậy, có độc giả dễ tính, nhƣng cũng có độc giả khó tính,

nên khi họ tiếp cận với một tác phẩm văn học nào, tác phẩm đó sẽ đƣợc đánh giá

trên nhiều góc độ, nhiều bình diện. Đó là lý do vì sao chúng tôi đƣa mục này vào

luận văn. Các bài viết về tác phẩm của Y Ban trên mạng internet thể hiện quan

điểm và cảm nhận của độc giả nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp. Số lƣợng rất phong

phú nhƣng dƣới đây xin đƣợc hệ thống một số bài viết của các nhà báo và một số

cuộc trao đổi của độc giả là thành viên của những diễn đàn có uy tín trên mạng.

Cẩm cù là tác phẩm đa nghĩa đã đƣợc xuất bản từ năm 2001, nhƣng gần đây

trên Vietimes mới có một bài viết về nó: Y Ban - hành trình đến tận cùng thế tục.

Tác phẩm này có dung lƣợng tƣơng đƣơng với một truyện vừa, lại gần nhƣ không

có cốt truyện, vì vậy Hoàng Tố Mai - tác giả bài viết đã làm một việc cần thiết là

hệ thống lại những sự kiện đặc biệt của tác phẩm xoay quanh những ngôi nhà vệ

sinh và những nhân vật khác thƣờng. Đan xen vào đó là một vài lời bình luận, nhận

4

xét: “Cẩm cù không chỉ dừng lại là một tác phẩm trào lộng thông thƣờng. Nó cho

thấy thế tục hỗn mang và khủng khiếp nhƣng đâu đó vẫn còn lại những giá trị nhân

bản không thể phủ nhận”. Cuối bài viết, tác giả chiêm nghiệm cùng Y Ban: Trong

Cẩm cù “Cái thanh luôn bị cái tục lấn áp thậm chí đánh bạt. Vấn đề ở đây chính là

cái nhìn trào lộng trƣớc sự lấn áp của cái tục (…). Đọc Cẩm cù chúng ta buộc phải

ghi nhận tinh thần lạc quan và hƣớng thiện ẩn sau từng trang viết. Có lẽ với Y Ban,

khi ý thức đƣợc về sự phàm tục cũng là lúc con ngƣời đặt đƣợc một bƣớc chân

chắc nịch trên con đƣờng chế ngự nó, ít ra là sự phàm tục của bản thân mình”[63].

Trên trang www.phunucali.com một trang tạp chí của ngƣời Việt Nam ở nƣớc

ngoài có đƣa bài viết khá công phu về Tình dục và văn chương nữ giới trong nước

- Nguyễn Mạnh Trinh. Bài viết thể hiện một cái nhìn khá cởi mở về vấn đề tình

dục trong văn chƣơng. Nguyễn Mạnh Trinh đã tìm hiểu tƣơng đối kỹ lƣỡng về

phản ứng của dƣ luận trong nƣớc đối với một số tác phẩm mang yếu tố sex mà tác

giả là các nhà văn nữ: Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu), Cánh đồng bất tận (Nguyễn

Ngọc Tƣ), Tre rừng (Năm con Ngựa Trời), I am đàn bà (Y Ban). Mở đầu cho việc

cảm nhận tác phẩm của Y Ban, ông giới thiệu: “Năm 2006 cuốn sách I am đàn bà

của Y Ban là một hiện tƣợng của văn học trong nƣớc. Truyện của Y Ban cũng đậm

đặc dâm tính và chân dung của một ngƣời đàn bà đƣợc phác họa để mô tả bằng

những nét đen tràn ứ cảm giác”. Sau những đoạn phân tích về cuộc đời nhân vật,

ông kết thúc bằng một nhận xét đầy sự chia sẻ: “Ngƣời đàn bà - nhân vật của Y

Ban, dù là Cái Tý, cái Thanh, Thị… của giới nghèo khổ cùng đinh, hay Tự của giới

có học đều giống nhau, đều có cái ham muốn tự nhiên của con ngƣời và lúc nào

cũng lửng lơ, phân đôi giữa cái muốn và cái ngăn cấm. Để rồi những chọn lựa chỉ

là bất đắc dĩ của một tâm trạng rất đàn bà…”.

Trong bài viết Đọc sách I am đàn bà, tác giả Phạm Hồ Thu đã có một khái quát

cho toàn tập truyện: “… Mỗi truyện là một câu chuyện thú vị hoặc là nói về vẻ đẹp

đàn bà, hoặc là nói về nỗi đau đớn đàn bà (…), làm nên cả một tứ lớn cho tập sách.

Đó là bài ca bi lụy và ngạo nghễ về thế giới đàn bà trong nỗi khát vọng đi tìm một

5

xã hội hoàn hảo hơn để mỗi ngƣời đàn bà đều xứng đáng là ngƣời của phái đẹp”[65]

Không chỉ có những lời khen, tác phẩm của Y Ban cũng nhận đƣợc những

phản hồi trái chiều rất mạnh mẽ từ phía bạn đọc. Từng câu, từng dòng trong email

anh Hoàng Thành Nam đã gửi cho ban biên tập website thơ trẻ - diễn đàn văn học

trẻ đã cho thấy thái độ vô cùng bàng hoàng và phẫn nộ của anh trƣớc việc Nhà xuất

bản Phụ nữ cho phát hành cuốn I am đàn bà: “Tôi không thể nghĩ rằng hiện nay

các nhà xuất bản lại có thể cho xuất bản những cuốn sách có nội dung phản tác

dụng nhƣ thế này…

1. Về góc độ ý nghĩa tích cực (…) những ý nghĩa tốt đẹp của các câu chuyện

hay những bài học triết lý mà tác giả có thể mang lại cho ngƣời đọc cũng chỉ ở

mức độ nông cạn thiếu sâu sắc và tầm thƣờng.

2. Về góc độ giải trí cuốn sách có thể mang lại cho ngƣời đọc sự giải trí,

nhƣng sự giải trí ở đây gắn liền với vấn đề nhục dục. Nếu tách những vấn đề nhục

dục ra khỏi nội dung câu chuyện thì vấn đề giải trí ở đây sẽ chẳng còn gì…

3. Về góc độ thƣơng mại (…) cuốn sách dạng này hiện nay có nhiều và tƣơng

đối bán chạy, khách hàng của những cuốn sách dạng này là các cô, cậu học sinh

đang ở độ tuổi tò mò còn những ngƣời trƣởng thành thì rất ít mua vả lại họ có mua

thì cũng ít ai đọc đến truyện thứ hai và chẳng ai khen…” [64]

Bình tĩnh hơn anh Hoàng Thành Nam, nhƣng bài viết của độc giả Nguyên

Nguyên (trên Diễn đàn thơ trẻ 365) với chủ đề Nghĩ về văn hóa sex cũng nói về tác

phẩm của Y Ban bằng một giọng châm biếm: “Nếu gom hết những nhà văn nhà

thơ Hoàng Diệu, Y Ban… đến một thế giới mà chỉ có họ với nhau, tôi nghĩ rằng họ

sẽ nude trong thế giới của họ cả ngày lẫn đêm bởi còn gì ngoài sự trần trụi đƣợc

phô ra một cách tỉ mỉ chi tiết. Nếu thế giới chúng ta đầy rẫy những văn chƣơng

dung tục và có phần bẩn nhƣ họ thì thiết nghĩ… trong các bức vẽ khỏa thân không

phải kèm theo khăn voan làm gì cho phiền phức” [49]

Nếu nhƣ anh Hoàng Thành Nam phê phán tác phẩm trên phƣơng diện nội

dung coi đó là một sản phẩm “văn hóa thiếu lành mạnh”, phản tác dụng thì bạn đọc

Trần Hiếu - một thành viên của Diễn đàn văn hóa học (www.vanhoahoc.edu.vn )

6

lại đánh giá tác phẩm trên phƣơng diện đề tài: “Tình dục trong văn học nói chung,

trong văn Y Ban nói riêng không có gì xấu”, nhƣng anh kết luận: “Tôi có cảm giác

rằng đây cũng chỉ là một phong trào giống nhƣ bao phong trào khác đang diễn ra

trong xã hội Việt Nam chứ nó không phải là một hiện tƣợng mới (tự thân tác giả

thấy nhu cầu, cảm hứng sáng tác), nói trắng ra là ăn theo” [50].

Cũng trên diễn đàn này, thống kê cho thấy có tới hơn hai mƣơi bài viết của

các thành viên trao đổi xung quanh chủ đề Yếu tố tình dục trong văn Y Ban từ góc

nhìn văn hóa. Đa số các ý kiến đều đánh giá cao tác phẩm có chứa sex của Y Ban

trong đó có nhiều bài viết sắc sảo, thú vị tỏ ra ngƣời viết là độc giả có trình độ. Xin

đƣợc trích dẫn một vài đoạn trong những bài đó để chứng minh:

Mỹ Linh: “Yếu tố tình dục, những câu chuyện tình dục nhƣ Y Ban miêu tả cũng

có thể hiện hữu trong mỗi ngƣời, chỉ có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt đạo đức giả

nên cho rằng nó xấu, hoặc lâu nay không quen nói ra. Cái lâu nay chỉ nói riêng thì nay

có ngƣời nói toang toang ra cho mọi ngƣời cùng nghe. Cái lâu nay chỉ nói trong nhà

thì nay có ngƣời nói giữa thanh thiên bạch nhật… có thể nói rằng không có ít ngƣời

ngày ngày chờ post lên để vào xem đoạn tiếp theo, rồi vợ chồng cùng bàn tán với

nhau, nhƣng ngày hôm sau trƣớc mặt bàn dân thiên hạ vẫn tỉnh queo mà chê bai, mà

“eo ôi khiếp” (…) Nếu không chứng minh đƣợc nó là xấu thì ta nên chứng minh nó

có giá trị nhƣ thế nào? … có giá trị là có văn hóa” [50].

Ngọc Diệp: “Nhân vật của Y Ban, văn của Y Ban vẫn rất Nữ tính và đằng sau

tất cả có lòng yêu thƣơng con ngƣời, ao ƣớc vƣơn tới những cảm xúc xứng đáng

với con ngƣời” [50].

Đó là những nhận định chung về tập truyện I am đàn bà. Còn nói riêng về tác

phẩm Tự trong tập truyện này cũng có những nhận định rất sắc sảo: “Tự đã tạo

đƣợc một cái nhìn trực diện vào chủ đề tình dục, đặc biệt hơn là tình dục với phụ

nữ… Tình dục ở Tự tuy có phần bản năng nhƣng không phản cảm vì phần lớn tác

giả đã chăm chút nó bằng những từ ngữ thanh hơn và quan trọng là bà đã không

tách rời nhu cầu tình dục của nhân vật với nhu cầu tình yêu, hƣớng suy nghĩ của

7

độc giả đến phần người của nhân vật”. “Riêng ở mảng văn viết về tình dục này…

Y Ban sôi nổi, mạnh mẽ theo lối hiện đại, trực tính mang dáng dấp tình dục

phƣơng Tây” (Ngô Diệu Lan) [50].

Có thể nói trong những sáng tác của Y Ban, I am đàn bà là tập truyện gây

nhiều chú ý nhất của dƣ luận. Nhƣ đã thấy ở trên có rất nhiều bài viết, cách đánh

giá nhƣng không phải lúc nào cũng thống nhất, thuận chiều. Tuy nhiên, xu hƣớng

chiếm ƣu thế hơn vẫn là xu hƣớng nhìn nhận và bình luận về tác phẩm của Y Ban

một cách bình tĩnh, khách quan, tìm thấy ở đó nhiều tầng giá trị tốt đẹp. Phần ít

còn lại là những phê phán, xu hƣớng này khi phê phán về sự phản tác dụng, không

lành mạnh của tác phẩm, họ cũng đƣa ra lập luận và lý lẽ của riêng họ. Nó không

phải là không có chỗ xác đáng, song thay vì họ phải đặt nó trong hệ thống những

sự kiện, sự việc khác để thấy đƣợc toàn bộ những giá trị tác phẩm thì họ lại cô lập

và nâng cao nó lên. Thành ra tác phẩm đƣợc hiểu một cách phiến diện, chủ quan ở

khía cạnh dung tục tầm thƣờng.

Mới đây nhất khi Nhà xuất bản Phụ nữ cho phát hành tiểu thuyết Xuân Từ

Chiều (6/2008), trên báo mạng cũng liên tục có những bài viết về tác phẩm này.

Chƣa có nhiều bài viết đi sâu mà chủ yếu là những tóm tắt về số phận của ba nhân

vật và đều thống nhất ở những nhận định chung về nội dung cũng nhƣ lối viết của

nhà văn.

Trang www.evan.vnexpress.net có bài viết Xuân Từ Chiều của Thanh Huyền.

Tác giả nói về ngƣời đàn bà ẩn sau câu chuyện “Xuân Từ Chiều câu chuyện về ba

ngƣời đàn bà bị trêu ngƣơi. Hình bóng thứ tƣ hoặc nhòe lẫn vào ba con ngƣời đó là

dáng dấp của Y Ban - ngƣời viết có khuôn mặt cƣời nhƣng đã không ít bận nuốt

nƣớc mắt vào trong những khi mải mốt đi tìm hạnh phúc”. Cuối bài viết tác giả

nhận định thêm về kết cấu của cuốn tiểu thuyết: “Truyện không có một cái cốt chặt

chẽ mà nhƣ một ghi chép lộn xộn, ngẫu hứng những lời kể của ngƣời trần thuật.

Nhà văn dƣờng nhƣ cũng chỉ kể một cách tự nhiên mà không quan tâm đến việc

kiến tạo cho câu chuyện của mình một cấu trúc. Lối kể đó phù hợp với những việc

vặt vãnh trong nhà, ngoài phố, nhìn đến đâu kể đến đó. Và vì thế mà tác phẩm

8

cuốn hút”.

Nguyễn Thị Thu Hà - K8 lại băn khoăn về những thân phận đàn bà của Y

Ban: “Nhà văn Y Ban viết nhiều về phụ nữ nhƣng sao đến Xuân Từ Chiều vẫn còn

cái đau đáu khôn nguôi về những số kiếp con ngƣời. Đến bao giờ họ mới thoát

khỏi cái bể khổ ấy? Đến bao giờ mới không còn những tiếng kêu đau đớn của

ngƣời phụ nữ” [56]

Xuân Từ Chiều - chua xót vì nỗi con người là tên bài viết của Trần Thanh Hà

đƣợc đẩy trên trang báo www.antd.vn, tác giả không đi sâu vào phân tích tác phẩm

mà có tính chất tóm tắt nội dung và nhận diện lối viết mới mẻ của Y Ban: “Nhà

văn Y Ban vốn chuyên viết về đàn bà, lần này chọn một cách viết rất đàn bà, là lối

kể chuyện vô cùng ngồi lê đôi mách. Chính bởi cách viết này, mà tất cả những câu

chuyện to nhỏ trong đời sống của ngƣời đàn bà… đều đƣợc chuyển tải một cách tự

nhiên, nhuần nhuyễn… Mới đọc tƣởng đây chỉ là chuyện ngồi lê đôi mách của đàn

bà, nhƣng càng đọc càng thấy chua xót vì nỗi đàn bà, nỗi con ngƣời trong thời

đoạn chúng ta”.

Cũng trên tinh thần của những bài viết trên, Nguyễn Đức Dƣơng cũng bị lay

động và day dứt bởi “những chuyện rất đời” của Xuân Từ Chiều “Cũng ám ảnh và

dữ dội không kém I am đàn bà , Xuân Từ Chiều là câu chuyện về cuộc đời của

những ngƣời phụ nữ mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp khuôn mẫu trong xã hội…

hãy đọc tác phẩm để thấy đƣợc một phần của mình trong đó” [48]

Mở đầu cho bài phỏng vấn của mình với nhà văn Y Ban, nhà báo Hà Linh

cũng có những cảm nhận riêng của mình về những tác phẩm: “Vẫn viết về phụ nữ,

cuốn tiểu thuyết mới của Y Ban là câu chuyện về ba ngƣời đàn bà bị tạo hóa trêu

ngƣơi. Tác phẩm mở ra không gian của một cái chợ đời, nơi nhân vật buôn chuyện

buồn số phận, những mong mua lấy chút nhân tình” [61].

Bài viết Xuân Từ Chiều - một lát cắt mới về cuộc sống người phụ nữ của

Minh Văn Chất cũng là lời giới thiệu về nội dung của cuốn sách kèm theo những

cảm nhận rất riêng: “Đọc Xuân Từ Chiều độc giả dƣờng nhƣ nín thở, hồi hộp lo

lắng cho những nhân vật của tác phẩm, mạch tiểu thuyết diễn tiến nhanh, liên tục

9

nhƣ cuốn hút độc giả từ trang đầu đến trang cuối của tác phẩm. Với kết cấu liền

mạch (không chia đoạn) có vẻ nhƣ Y Ban đã lấy một hơi dài để kìm nén cảm xúc

lòng mình, để viết và chỉ thở hắt ra khi đã tuôn trào hết. Chính điều đó đã tạo nên

sự hụt hẫng, lắng đọng trong lòng độc giả khi đọc hết tác phẩm” [47]

Sau cùng các bài nhà văn Y Ban trả lời phỏng vấn của phóng viên các báo

cũng là những gợi mở rất ý nghĩa cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài của

mình. Xin đƣợc liệt kê một số bài tiêu biểu:

Lê Hà -:dep.com.net: Đối thoại Y Ban - Nguyễn Khắc Phục

Lƣu Hà - vnexpress.net: I am đàn bà của Y Ban bị rút giải thưởng ; Y Ban -

sex là giải trí và văn hóa.

Xuân Anh - vietimes.vietnamnet.vn: Buồn ơi! Y Ban chào mi; Đàn bà xấu thì

không có quà; Nhà văn Y Ban - văn chương vẫn cần trời cho.

Anh Vân - vnexpress.net: Lý Lan muốn góp ý với Y Ban về I am đàn bà.

Nguyễn Hằng - dantri.com.vn: Nhà văn Y Ban bị sốc khi I am đàn bà bị thu hồi

Vũ Quỳnh Trang - Văn Nghệ Công An số 63/2006: Nhà văn Y Ban: Nhà văn

sống được là nhờ vào những công việc khác.

Tú Cầu - giadinh.net.vn: Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức.

Lan Anh - dep.com.vn: Nhà văn Y Ban - Tôi không nhẫn được.

(…)

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Luận văn khảo sát toàn bộ tác phẩm của nhà văn Y Ban in trong tám tập

truyện ngắn, hai tiểu thuyết và một truyện vừa đã đƣợc các nhà xuất bản ấn hành.

* Tám tập truyện ngắn:

1. Người đàn bà có ma lực (NXB Hà Nội - 1993)

2. Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm (NXB Hội nhà văn - 1995)

3. Vùng sáng ký ức (NXB Hội nhà văn - 1996)

4. Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (Truyện viết cho thiếu nhi - NXB Kim

10

Đồng - 2000)

5. Miếu hoang (NXB Thanh Niên - 2000)

6. Cẩm Cù (NXB Hà Nội - 2001)

7. Cưới chợ (NXB Thanh Niên - 2004)

8. I am đàn bà (NXB Phụ nữ - 2006)

* Một truyện vừa: Thần cây đa và tôi (NXB Hội nhà văn - 2005)

* Hai tiểu thuyết:

1. Đàn bà xấu thì không có quà (NXB Hội nhà văn - 2004)

2. Xuân Từ Chiều (NXB Phụ nữ - 2008)

4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Tìm hiểu những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Y Ban trên cả phƣơng

diện nội dung và nghệ thuật

Bƣớc đầu ghi nhận thành tựu và những đóng góp của nhà văn Y Ban đối với

văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi thực hiện những phƣơng pháp

nghiên cứu chủ yếu sau:

5.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại:

Với một số lƣợng tác phẩm khá lớn phƣơng pháp này sẽ giúp chúng tôi trong

quá trình khảo sát, phân loại các đặc điểm nổi bật về nội dung, các kiểu dạng nhân

vật, và một số phƣơng thức biểu hiện nghệ thuật trong sáng tác Y Ban.

5.2. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu:

Tiến hành so sánh tác phẩm của Y Ban với sáng tác của một số nhà văn khác

để thấy những điểm khác biệt và đặc trƣng trong sáng tác của Y Ban.

11

5.3. Phƣơng pháp phân tích tổng hợp:

Phƣơng pháp này sẽ giúp chúng tôi vừa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu những đặc

điểm trong văn xuôi Y Ban, vừa hệ thống, tổng hợp kết quả từ đó minh chứng cho

các luận điểm chính của luận văn.

6. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN

Phần mở đầu

Phần nội dung: Gồm 3 chƣơng

Chƣơng 1: Sáng tác của Y Ban trong dòng chảy chung của văn xuôi nữ thời

kỳ đổi mới

Chƣơng 2: Những đặc điểm nổi bật về nội dung trong sáng tác của Y Ban.

Chƣơng 3: Những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật trong sáng tác của Y Ban.

Phần kết luận

12

Tài liệu tham khảo

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: SÁNG TÁC CỦA Y BAN TRONG DÕNG CHẢY

CHUNG CỦA VĂN XUÔI NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1. VĂN XUÔI NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Đại hội VI năm 1986 là một sự kiện đánh dấu những thay đổi lớn lao trong

đời sống xã hội của đất nƣớc. Từ đó đến nay đã hơn 20 năm, nhiều ngƣời trong số

chúng ta đôi khi nhìn lại cũng không thể ngờ rằng một đất nƣớc nhiều thƣơng đau

sau hàng mấy mƣơi năm chiến tranh lại có thể gƣợng dậy và lớn lên nhanh chóng

đến vậy. Văn học là một trong những hình thái ý thức xã hội bị cuốn vào cái quỹ

đạo đang ngày một gia tăng về tốc độ kia. Song điều khác biệt là văn học thay đổi

trƣớc hết là để làm tròn trách nhiệm của một cuốn nhật ký lớn đối với thời đại,

nhƣng văn học thay đổi cũng là để phản ánh sự đổi thay của chính nó.

Mƣời năm đầu đổi mới, văn đàn đã chứng kiến sự đƣợc mùa của truyện ngắn

sau một thời gian dài bị ngƣng trệ. Trong đó ngƣời ta nói nhiều đến sự đóng góp

của những cây bút nữ, sự bứt lên của phái đẹp, tới một nền văn học “mang gƣơng

mặt nữ”. Và trong mƣời năm tiếp theo, chúng ta lại có đủ thời gian để kiểm

nghiệm sự sung sức và bền bỉ trong sáng tạo nghệ thuật của đội ngũ những cây bút

đã đem lại cho văn chƣơng cái chất dịu dàng khoan hậu.

Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này có rất nhiều bài phỏng vấn, những

bài đánh giá, bình luận về các cây bút nữ (Văn xuôi phái đẹp - Bích Thu; Khi

người ta trẻ I, Khi người ta trẻ II - Bùi Việt Thắng; Các cây bút trẻ đối thoại cùng

trang viết - những cuộc đời không yên ả - Kỳ Phong; Suy nghĩ về đặc điểm của nữ

văn sỹ - Phƣơng Lựu; Điểm qua sự vận động của truyện ngắn các cây bút nữ - Lê

Thị Hƣơng Thủy; Thành tựu và đội ngũ các nhà văn nữ Việt Nam - Nguyễn Thị

Nhƣ Trang; Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm - Hoàng Thị Hồng Hà; Văn

chương nữ giới - một cách thể hiện ở đời - Huỳnh Nhƣ Phƣơng…), đó là còn chƣa

13

kể đến những bài viết riêng về một tác giả. Sự sôi nổi trong địa hạt phê bình chứng

tỏ đang có một sự sắp xếp và cân đối lại lực lƣợng sáng tác trên văn đàn cũng nhƣ

tính thẩm mỹ trong một tác phẩm nghệ thuật.

Quả thật nhƣ vậy: Số lƣợng các nhà văn nữ tăng lên một cách đáng kể trong

thời gian gần đây. Và do đó, có sự gia tăng về số lƣợng của những tác phẩm văn

chƣơng giàu chất “nữ tính”. Tất nhiên, “sự khởi sắc” của những cây bút nữ không

hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào số lƣợng những đầu sách mà quan trọng là nó đủ sức

neo giữ và “găm” vào trí nhớ bạn đọc.

Hòa bình trở lại, những nhà văn đã trƣởng thành trong chiến tranh nhƣ Lê

Minh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Nhƣ Trang, Nguyễn Thị Cẩm Thạch, Lê

Minh Khuê… vẫn tiếp tục sáng tác. Họ là những tên tuổi đã từng nổi danh nhƣng

những trải nghiệm cuộc đời và sự say mê với nghề cầm bút vẫn thôi thúc họ sáng

tạo. Câu chuyện dười tán lá rợp, Những dấu chấm phía chân trời, Khoảng trời

phía sau nhà, Buổi chiều tỏa hương của Nguyễn Thị Ngọc Tú viết sau năm 1975 là

bằng chứng về sự dẻo dai của một cây bút cống hiến hết mình. Trở về với đời

thƣờng sau chiến tranh, Lê Minh Khuê lại tỏ ra là một nhà văn có khả năng hòa

nhập nhanh với cuộc sống đƣơng đại. Năm 2005 chị vẫn viết và tiếp tục cho ra đời

tập truyện Màu xanh man trá. Sinh ra và lớn lên trong thời buổi bom đạn, lớp nữ

nhà văn này đều đƣợc chứng kiến cuộc sống gian khổ, những đau thƣơng mất mát

của dân tộc, những tấm gƣơng anh dũng kiên trung, những làng quê hậu phƣơng

tận tụy… Đó chính là những ám ảnh và cũng là những thế mạnh trên trang viết của

các chị. Cho đến nay, họ đã là những nhà văn già dặn cả về tuổi đời và tuổi nghề.

Các chị đã có những trang viết giàu sức thuyết phục về hiện thực chiến tranh, tuy

nhiên bị chi phối bởi ý thức hệ, các chị đều có phần “kín đáo và dè dặt hơn khi bộc

lộ những khao khát bản năng cũng nhƣ khi tiếp cận với cái hiện thực đời thƣờng

đang diễn ra, đang biến đổi” [34].

Không chờ các nhà văn nữ lớp trƣớc khép lại sự nghiệp sáng tác, thế hệ sau

mới bắt đầu cầm bút mà họ phát lộ tài năng song song cùng những tên tuổi đàn chị

đã nổi danh. Đó là một đội ngũ đông đảo, sung sức và dĩ nhiên họ trẻ (Đều trên

14

dƣới 30 vào thời điểm đầu những năm 90 của thế kỷ trƣớc - thời điểm mà họ “lên

ngôi”), họ tự tin, đầy lòng nhiệt huyết và say mê với nghề. Những Phạm Thị Minh

Thƣ, Trầm Hƣơng, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài; Những Y Ban,

Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Ấm, Nguyễn Thị Châu

Giang … và gần đây hơn là Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Bích Thúy đều là những gƣơng

mặt đã trở nên quen thuộc với bạn đọc. Vừa là đội ngũ kế cận, vừa là đội ngũ bổ

sung, họ đã làm cho thế hệ đàn chị của mình “yên tâm” hơn bằng sự sắc sảo, bằng

khả năng sáng tạo của chính họ. Điểm lại hơn hai thập kỷ đã qua thì ngôi vị quán

quân trong các cuộc thi truyện ngắn, tiểu thuyết do tạp chí Văn nghệ quân đội tổ

chức, đa số thuộc về các cây bút nữ. 1989 - 1990: là Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu

Cơ và Chuyện một người đàn bà. 1992 - 1994: là Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu

thiên đường và Mùa đông ấm áp. 1995 - 1996: giải nhất thuộc về Trần Thanh Hà

với chùm 3 truyện ngắn: Miền cỏ hoang, Bà Thỏm, Sông có dài. 1998 - 1999: Kết

thúc cuộc thi sáng tác văn học Hướng tới giao thừa thiên nhiên kỷ, tạp chí Văn

nghệ quân đội lại trao giải nhất cho nhà văn nữ Đỗ Bích Thúy với chùm truyện:

Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi, Sau những mùa trăng. Gần đây hơn, tập Gió

mưa gửi lại của Thùy Linh cũng đƣợc nhận giải nhất cuộc thi truyện ngắn 2001-

2002 của tạp chí Văn nghệ quân đội.

Giải thƣởng trong các cuộc thi truyện ngắn do các báo khác tổ chức cũng đƣợc

trao cho không ít những gƣơng mặt nữ: Nguyễn Thị Minh Dậu - Giải thƣởng cuộc thi

Báo văn nghệ - 1991; Dƣơng Nữ Khánh Thƣơng, Viên Lan Anh, Đào Phong Lan

cũng đã đạt giải trong các cuộc thi truyện ngắn 1996-1997 của báo Văn nghệ trẻ.

Nguyễn Ngọc Tƣ giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 (lần II) do Nhà Xuất Bản Trẻ,

Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh và Báo Tuổi trẻ phối hợp tổ chức. Gần đây,

2006 -2007 Báo Văn nghệ đã tổ chức cuộc thi truyện ngắn lần thứ 13 và giải nhất lại

đƣợc trao cho tác phẩm Thung Lam của tác giả nữ không chuyên Hồ Thị Ngọc Hoài.

Sau những giải thƣởng, các chị vẫn viết - viết bởi ham thích đƣợc viết, viết

nhƣ một nhu cầu cần phải viết. Vì lẽ đó mà tên tuổi của các chị đƣợc biết đến

không chỉ trong những lần xƣớng danh của lễ trao giải mà còn đƣợc khắc sâu hơn

trong lòng ngƣời đọc bởi nhiều tác phẩm ra đời sau đó. Kể cả những cây bút đã và

15

chƣa đăng quang, họ đều làm việc với một thái độ nghiêm túc. Nhiều tác phẩm của

họ đã gây đƣợc chú ý của dƣ luận và tạo đƣợc dấu ấn trong đời sống văn học nhƣ:

Bi kịch nhỏ - Lê Minh Khuê; Con chó và vụ ly hôn - Dạ Ngân; Giấc ngủ nơi trần

thế - Nguyễn Thị Ấm; Kịch câm, Khi người ta trẻ - Phan Thị Vàng Anh; Người

đàn bà đứng trước gương, Sau chớp là dông bão - Y Ban; Minu xinh đẹp - Nguyễn

Thị Thu Huệ; Hạnh - Nguyễn Thị Minh Dậu; Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc

Tƣ… Đến đây, nếu ai theo sát bƣớc đi của văn học nƣớc ta đều dễ hiểu tại sao trên

văn đàn giai đoạn này lại xuất hiện nhiều nhận định nhƣ: Truyện ngắn nữ khởi sắc,

sự lên ngôi của các cây bút nữ, những gương mặt làm sáng giá “thể loại nhỏ”, văn

học đang mang gương mặt nữ… Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng: hầu hết các

bài viết đều nói về truyện ngắn của các chị bởi đó là các thể loại sở trƣờng phù hợp

với sức “rƣớn” của họ, nhƣng điều đó không có nghĩa là họ chỉ viết truyện ngắn.

Họ cũng thử ngòi bút ở nhiều thể loại khác và cũng có những thành công nhất

định. Chúng ta biết đến tiểu thuyết: Ngụ cư - Thùy Dƣơng; Tường Thành -Võ Thị

Xuân Hà; Giàn thiêu - Võ Thị Hảo; Xuân Từ Chiều - Y Ban và những truyện vừa

Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ; Tiệm may Sài Gòn - Phạm Thị Hoài;

Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tƣ; Thần cây đa và tôi - Y Ban.

Trƣớc kia “khi phụ nữ chƣa giành đƣợc đƣợc vai trò tƣơng xứng trong xã hội

thì văn học đối với nhiều ngƣời cũng là chuyện kính nhi viễn chi” [22]. Xin đƣợc

trích nguyên văn một đoạn nhà lý luận Huỳnh Nhƣ Phƣơng lý giải cho nhận định

trên: “Phạm vi hoạt động hạn hẹp của ngƣời phụ nữ chắc hẳn là một lý do khiến họ

không thể chiếm lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ trong tất cả sự đa dạng và phức tạp

của nó. Ngay ở sự tự biểu hiện tâm hồn vốn là lĩnh vực mà ngƣời phụ nữ có năng

lực tự nhiên hơn cả, thì chính họ cũng lại đƣợc trời phú cho khả năng kiềm chế

việc phơi bày những nỗi riêng tây ra trƣớc bàn dân thiên hạ và do đó không dám đi

đến cùng những cảm xúc và khao khát của trái tim mình” [22]. Vậy thì giờ đây họ

xuất hiện trƣớc công chúng độc giả với một tầm nhìn mới. Cuộc sống rộng lớn đa

chiều đã đƣợc họ nhận thức rõ ràng trên từng trang giấy; những vui buồn âu lo,

những niềm tin hi vọng, những đớn đau tủi hờn của bản thân cũng nhƣ của đồng

loại đều đƣợc trải ra dƣời ngòi bút của chính họ - âu cũng là một điều đặc biệt mới

16

mẻ song cũng thật đáng mừng. “Dẫu là than vãn hay phẫn nộ họ cũng đều có lý do

đáng chú ý… từ lâu họ đã là đa số thầm lặng, cho nên khi họ cất tiếng nói tức là có

những thôi thúc rất mạnh để vƣợt qua sự e dè” [22]

Sự kiện các nhà văn nữ lên ngôi tƣơng đối phức tạp và đƣợc cắt nghĩa bởi hai

lý do: Thứ nhất là do cơ chế đổi mới của đất nƣớc năm 1986. Đây là điều kiện sáng

tác thuận lợi cho tất cả các nhà văn nói chung trong cả nƣớc và các nhà văn nữ nói

riêng. Sự cơi nới về đề tài và dỡ bỏ một số quan niệm áp đặt cho văn chƣơng đã

kích thích sự sáng tạo của nhà văn. Họ có điều kiện để thâm nhập vào mọi ngõ

ngách của đời sống xã hội cũng nhƣ đời sống tinh thần của con ngƣời, thậm chí

những vùng đất cấm kị mà một thời văn học phải né tránh thì nay lại càng thu hút

ngòi bút của họ. Bối cảnh xã hội mới cũng mở rộng việc giao lƣu với văn hóa thế

giới thông qua một số lƣợng lớn sách dịch. Tầm nhìn xa hơn, rộng hơn về văn hóa

các nƣớc cũng thúc đẩy những tìm tòi nghệ thuật của nhà văn. Nguyên nhân thứ

hai là do thiên hƣớng nghệ thuật của giới tính: “nhà tâm lý học thụy sĩ Karl

Gustave Jung cho rằng: xét từ tố chất tâm lý thì nữ giới thuộc loại hình tình cảm…

mang những đặc điểm rõ ràng hơn là tƣ duy”, “một số nhà giải phẫu học cũng đã

chứng thực nữ giới thƣờng tƣ duy thiên về bán cầu não trái tức là bộ phận nặng về

tình cảm tƣởng tƣợng, hồi tƣởng… nhiều nhà tâm lý học khác khẳng định nữ giới

rất nhạy cảm, dễ xúc động” [17], do đó họ có thể viết sâu về những vấn đề của giới

mình, đi sâu vào thế giới tâm hồn bí ẩn của ngƣời phụ nữ. Đối với việc sáng tác

văn học, ngoài sự đa cảm - yếu tố đƣợc coi là mảnh đất tốt cho sự nảy mầm tài

năng của chính họ, nữ giới còn có lợi thế ở tài quan sát tinh tế và năng lực ngôn

ngữ. Trên nền chung thì nhƣ thế, còn đi vào tình hình cụ thể của văn học nữ nƣớc

ta những năm gần đây, nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn cũng có những nhận đinh

rất sát sao: “Hình nhƣ do sự nhảy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch với thời

đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời sống. Mặt

khác với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lƣợng thì không ai bằng, mà nhỏ

nhen chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng - từng cây bút nữ tìm ra mặt mạnh của

mình khá sớm, định hình khá sớm” [8]. Cũng cần nói thêm số lƣợng các tác giả nữ

đông đảo và “tỏ ra khó chắc tay trong dàn chung” [19] lại chủ yếu là những cây

17

bút viết nhiều và thành công hơn ở thể loại truyện ngắn. Có lẽ “cảm xúc sáng tạo

truyện ngắn có chung tần số với cảm xúc nữ tính: sự lóe sáng, sự thất thƣờng, tính

thời khắc và sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng” [23].

“Cuộc sống luôn vỗ sóng vào văn học”, vì thế cũng nhƣ những sáng tác của

các nhà văn giai đoạn này, chảy trong sáng tác của các nhà văn nữ là những vang

hưởng của cuộc sống thời đại chúng ta. Họ thẳng thắn bóc tách những mặt trái

của xã hội và cũng mạnh dạn bóc tách chính tâm hồn cuộc đời của mình.

Cuộc sống đa chiều kích với những tranh đấu của con ngƣời để đạt tới cái

chân - thiện - mỹ đều đƣợc các cây bút nữ chuyển tải một cách tự nhiên vào những

trang viết. Đó là sự tha hóa nhân cách con ngƣời, là những cái ác đƣợc dẫn dắt bởi

ma lực của đồng tiền (Đường về trần - Võ Thị Hảo, Đồng đô la vĩ đại - Lê Minh

Khuê), đó là những vật lộn để mƣu sinh, để có đƣợc miếng cơm manh áo hàng

ngày (Nhà trọ - Nguyễn Thị Châu Giang, Ước mơ của chị bán hàng rong - Y Ban),

đó còn là lối sống pha tạp, lai căng trong thời đại mới, làm mờ đi những thuần

phong mĩ tục (Cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa - Y Ban, Công tử vườn - Lý

Lan), lối sống thực dụng, cơ hội cũng thƣờng xuyên đƣợc các chị phơi bày (Gió

mùa đi qua - Nguyễn Thị Phƣớc, Bản lý lịch tự thuật - Y Ban).

Trên tất cả các mảng đề tài, hầu nhƣ các chị em đều tỏ rõ sự “bình đẳng” về

chất lƣợng sáng tạo đối với các đồng nghiệp phái mày râu. Họ cũng viết mạnh mẽ,

bạo liệt và gai góc. Nhƣng dƣờng nhƣ cái bản chất nữ tính đa cảm, đa sầu vẫn kéo

ngòi bút của họ đằm sâu hơn với những trang viết về tình yêu. “Họ đã đem toàn

bộ đời sống hiện thực và tinh thần tập trung vào tình yêu và triển khai ra cũng

thành tình yêu” (Dẫn theo Phƣơng Lựu)- [17], cho nên tình yêu là một đề tài chiếm

một vị trí khá lớn và làm nên đặc trƣng trong sáng tác của những cây bút này.

Chúng ta biết đến: Chiếc lá xanh hạnh phúc, Những kẻ ra đi - Nguyễn Thị Ấm,

Vĩnh biệt giấc mơ - Võ Thị Xuân Hà, Cát đợi, Tình yêu ơi ở đâu - Nguyễn Thị Thu

Huệ, Và anh một phần ba cuộc đời, Thiên đường và địa ngục - Y Ban, Si tình -

Phan Thị Vàng Anh… Ái tình là lĩnh vực mãnh liệt nhất đối với con ngƣời. Với

ngƣời phụ nữ, tình yêu mang lại cho họ “vị đắng” nhiều hơn những ngọt ngào. Vì

18

thế họ luôn có dự cảm mong manh về hạnh phúc. Họ viết nhiều về tình yêu, nhƣng

cũng nhiều tình yêu dang dở, tan vỡ. Đó là lý do vì sao “truyện ngắn nào cũng

chan chứa hoài niệm và mơ ƣớc về một tình yêu, một hạnh phúc đích thực, khó

nắm giữ, mong manh dễ bị thời gian khỏa lấp” [26]

Một đặc điểm nữa cũng rất dễ nhận thấy trong sáng tác của những cây bút nữ,

đó là họ hay viết về kí ức, kể cả cách đây hơn hai chục năm, khi họ mới xuất hiện

trên văn đàn - khi ấy họ còn trẻ nhƣng những trang văn vẫn đầy ắp những kí ức.

Đó là Chuyện buồn tuổi 18 - Nguyễn Thị Minh Hoa, là Chiếc bình đựng kí ức -

Dƣơng Nữ Khánh Thƣơng, là Cau non - Nguyễn Thị Phƣớc, Những miền rừng -

Trần Thanh Hà, là Vùng sáng kí ức - Y Ban… Ký ức của họ có kỉ niệm thời thơ ấu

với những trò nghịch dại, có khoảng trống nhớ nhung về những ngƣời thân yêu, và

có cả miền kí ức về một vùng đất quê hƣơng gắn bó… Nhƣng thẳm sâu và da diết

nhất vẫn là kí ức của tình yêu. Tình yêu đến mang theo những khoảnh khắc đẹp đẽ,

rồi ra đi để lại những vết thƣơng suốt cuộc đời không lành nổi. Tất cả - cả hạnh

phúc và đớn đau đều đƣợc “gói ghém” cẩn thận và cất vào một nơi bí mật nhất

trong tâm hồn - đó là cách mà những ngƣời phụ nữ vẫn làm để có thể cân bằng

cuộc sống của chính họ. Khơi ra nguồn kí ức này, những nhà văn nữ của chúng ta

không chỉ thể hiện những trải nghiệm và nghiền ngẫm về cuộc đời, họ còn thể hiện

sự dũng cảm khi đi vào hiện thực cao nhất của đời sống tinh thần - “cõi mông lung

vô hạn của tâm linh”.

Nổi bật trong thế giới phong phú của văn xuôi các cây bút nữ là những người

phụ nữ với những thân phận và tính cách cá biệt nhưng lại có chung những

miền khát vọng, ước mơ. Có những ngƣời phụ nữ quyết liệt đầy bản lĩnh dám yêu

và dám đƣơng đầu, dám lên tiếng để dành đƣợc sự bình quyền trong tình yêu (Vũ

điệu địa ngục - Võ Thị Hảo, Cát đợi - Nguyễn Thị Thu Huệ), có những ngƣời phụ

nữ cả một đời chỉ sống trong cô đơn và nỗi niềm tiếc nuối quá khứ (Người đàn bà

có ma lực - Y Ban), cũng có những ngƣời phụ nữ thất thƣờng, trộn hòa cả thật thà

với giả dối, thêm tý chút đỏng đảnh (Những đêm thắp sáng - Nguyễn Thị Thu Huệ,

Nàng ơi tôi yêu thị đấy - Y Ban)… và còn nhiều những ngƣời đàn bà khác: giàu có,

nghèo có, dịu dàng nhân hậu có, mà ghê gớm cũng có, địa vị cao có, thấp có, cam

19

chịu có và muốn bứt phá cũng có, nhún nhƣờng có mà lạnh lùng kiêu hãnh cũng

có. Nhƣng đa số họ đều là những người đàn bà bất hạnh, phải gánh chịu nhiều

nỗi đau do số phận đặt bầy. Vì thế, một tình yêu đích thực, một hạnh phúc giản

đơn luôn là niềm khát vọng và mong mỏi của họ. Họ “đã hơn một lần là những

ngƣời lữ hành đi tìm tình yêu, một tình yêu theo đúng nghĩa của nó nhƣng khi

tƣởng đến đích thì họ nhƣ bƣớc lạc vào khoảng trống vô vọng” [31]. (Người sót lại

của rừng cười - Võ Thị Hảo, Mười ngày - Phan Thị Vàng Anh, Tình yêu ơi ở đâu -

Nguyễn Thị Thu Huệ, Thiếu phụ và những đôi cò, Ôn lột tử - Y Ban). Mỗi tác giả

với một lối viết riêng, một cách tiếp cận riêng, song đằng sau từng trang viết của

các nữ nhà văn là những niềm thƣơng yêu, sự trân trọng và cảm thông với số phận

những ngƣời phụ nữ. Các chị cũng đã tỏ ra khá chắc tay và phát huy đƣợc ƣu thế

giới tính của mình khi xây dựng những nhân vật nữ với đời sống nội tâm phong

phú và phức tạp. Thói quen tƣ duy hƣớng nội đã trở thành một phƣơng tiện hữu ích

cho nhà văn khai thác thế giới bí ẩn khuất lấp bên trong con ngƣời đang xáo trộn

bởi nhiều những cung bậc, những sắc thái cảm xúc, tâm trạng (Hậu thiên đường -

Nguyễn Thị Thu Huệ, Người đàn bà đứng trước gương - Y Ban, Biển cứu rỗi -Võ

Thị Hảo).

Văn xuôi các cây bút nữ trong giai đoạn này khiến chúng ta phải thay đổi cách

nhìn về họ còn bởi lối viết phá cách “thoải mái, hồn nhiên” và giọng điệu nữ

tính đa dạng. Cái “chất đời” trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ không chỉ

đƣợc thể hiện bởi giọng chao chát, từng trải trong Phù thủy hay Hậu thiên đường

mà còn bởi những lúc đằm thắm dịu nhẹ nhƣ Biển ấm. Còn với Võ Thị Hảo những

tâm hồn đau đớn nhƣng trong sáng thánh thiện trong sáng tác của chị lại rất hợp

khi đƣợc tạo nên bởi cái chất ngọt ngào và điệu đàng của Bàn tay lạnh, Hồn trinh

nữ, Tình yêu mây trắng. Riêng Y Ban cái neo giữ ngƣời đọc trong những trang viết

thản nhiên nhƣng giàu chiêm nghiệm là cái giọng đôi khi đay đả chất vấn, khi tâm

tình lắng đọng (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Ước mơ của chị bán hàng rong), khi châm

biếm mỉa mai, khi lại xót xa thấm thía (Thiên đường và Địa ngục, Làng Cò, Cưới

chợ… ). Trẻ hơn nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ lại làm thức tỉnh bao trái tim ngƣời đọc khi

tạo ra những cú “hẫng” bất ngờ nhƣng vẫn sâu lắng và mƣợt mà trong cái giọng

20

điệu Nam Bộ thiết tha (Cải ơi, Cánh đồng bất tận…).

Tuy nhiên, điểm mạnh bao giờ cũng đi cùng những điểm yếu. Bên cạnh

những ƣu thế nữ giới, họ có những hạn chế so với đòi hỏi của việc tạo ra những

kiệt tác trong văn học. “Phụ nữ đúng là giàu óc tƣởng tƣợng hơn nam giới. Nhƣng

theo các nhà tâm lý học thì giấc mơ của chị em thƣờng là những câu chuyện

thƣờng nhật xảy ra trong cửa nhà… Mặt khác (…) văn học là câu chuyện tình cảm

nhƣng tình cảm sâu sắc thƣờng phải kết hợp với trí tuệ, với lý trí đã chín muồi…

chị em có ƣu thế về tình cảm và ngôn ngữ nhƣng chƣa tìm đƣợc sự cân đối hài hòa

với lý trí, trí tuệ” [17]. Chính vì thế mà Lê Minh Khuê cũng có nhiều trăn trở khi

nhìn nhận về sáng tác của giới mình “Nghĩ về những ngƣời viết cùng giới với mình

tôi thƣờng bị chi phối bởi cảm giác nƣớc đôi. Một mặt nhiều chị em bộc lộ một tài

năng rõ rệt không lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác sao vẫn cảm thấy đặt trong

hoàn cảnh chung rồi thì mỗi ngƣời cũng đến thế thôi: Không bao giờ có sự gọi là

đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả” [8]. Nhìn lại những sáng tác các nữ nhà

văn của chúng ta hôm nay, thì hạn chế có cả trên phƣơng diện nội dung và trên

phƣơng diện hình thức. Xin đƣợc mƣợn hai lời nhận định của hai nhà phê bình để

nói rõ hơn về vấn đề này: “Đọc những cây bút nữ trẻ thấy thích nhƣng vẫn thấy

thiếu một cái gì đó thật căn cốt, thật dƣ ba - tác phẩm của họ vẫn chƣa dâng hiến

những áng văn hay cho ngƣời đọc. Dƣờng nhƣ họ quan tâm đến chuyện nhiều

hơn văn.”[26]; “Phụ nữ thƣờng mạnh ở chỗ đƣa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào

trang sách hoặc nói nhƣ phƣơng Tây họ tự ăn mình… đọc Phạm Thị Hoài, Phan

Thị Vàng Anh khá hào hứng, tuy nhiên phải nói thật là ở mỗi ngƣời nguy cơ lặp lại

mình, nguy cơ ấy đã khá rõ” [8].

Hạn chế trong bất kì trào lƣu văn học nào cũng là điều khó tránh khỏi và văn

học nƣớc ta không nằm ngoài quy luật đó nhƣng phải thấy đƣợc thập kỉ 90 của thế

kỉ XX, các cây bút nữ đã một lần khởi sắc. Điều đó đã rõ ràng và “là một hiện

tƣợng tốt đẹp, đánh dấu một phƣơng diện phát triển của văn học” [17]. Ghi nhận

những nỗ lực, những thành công và vị trí của họ trên văn đàn, chúng ta tin tƣởng

rằng họ sẽ đi xa hơn và sẽ là lực lƣợng có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn

21

học nƣớc nhà.

1.2 HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA Y BAN.

1.2.1 Vài nét về tác giả

Nhà văn Y Ban tên thật là Phạm Thị Xuân Ban sinh 1/7/1961 tại Nam Định.

Hiện nay chị cùng gia đình đang sống ở Hà Nội. Y Ban đến với văn chƣơng không

phải là chủ định ngay từ đầu vì trƣớc khi là học viên của trƣờng viết văn Nguyễn

Du, chị đã tốt nghiệp khoa Sinh trƣờng Đại học Tổng hợp và từng là giảng viên của

trƣờng cao đẳng Y Nam Định. Song song với việc viết văn chị còn làm báo. Chị là

hội viên Hội nhà văn (1996) và hiện đang công tác tại báo Giáo dục và thời đại.

Y Ban đã trải qua một tuổi thơ bom đạn dữ dội. Bố đi bộ đội, mẹ là bác sĩ nên

công việc thƣờng xuyên bận rộn, một mình chị chăm lo cho ba đứa em nhỏ. Y Ban

vốn là một cô bé nghịch ngợm và ngang bƣớng nhƣng lại học giỏi và ham mê đọc

sách. Rồi chị nhận ra mình cũng có khả năng viết “vào năm học lớp 8 (lớp 10 bây

giờ) tôi đóng một quyển sách rất đẹp, nắn nót viết vào trang đầu những mẩu

chuyện con tự viết” [2]. Cũng vì đam mê văn chƣơng và vì tiếng gọi của tình yêu

với một nhà điêu khắc trẻ, chị đã bỏ nghề giáo về Hà Nội và theo học trƣờng viết

văn Nguyễn Du. Chƣa kịp tốt nghiệp đã lấy chồng rồi sinh con. Chồng chị là ngƣời

có tài, anh đam mê điêu khắc tƣợng. Yêu vợ, yêu con nhƣng anh lại không thể nuôi

sống vợ con. Ra trƣờng chƣa xin đƣợc việc, kinh tế eo hẹp, Y Ban phải phụ mẹ

chồng đi bán gà tần, làm bột sắn. “Gia đình đã có lúc từ tôi vì cho là tôi làm điều

thần kinh không chấp nhận đƣợc, đó là bỏ giảng đƣờng lấy một chỗ ngồi nhếch

nhác ngoài vỉa hè” [44] - chị giãi bày. Cuộc sống khó khăn khiến vợ chồng chị đã

có lúc xô xát. Y Ban tâm sự: “khi đêm xuống con ngủ rồi, tôi mới đƣợc sống với

thế giới riêng của mình thƣơng thân chỉ còn biết khóc. Tôi giải tỏa bằng nƣớc mắt

và luôn tin ngày mai mọi sự sẽ tốt đẹp hơn”. Vốn là ngƣời nhạy cảm nên chị

thƣờng đẩy cảm xúc của mình đến tận cùng đau khổ, kể cả những chuyện nhỏ nhặt,

vớ vẩn. Đó là khi còn trẻ, nhƣng ngoài ba mƣơi tuổi chị nhìn đời sắc sảo hơn và

chấp nhận mọi thứ một cách tƣơng đối. Trƣớc khi là biên tập của báo Giáo dục và

Thời đại, chị đã từng lăn lộn với đủ nghề để nuôi chồng nuôi con, “nuôi cả tƣợng

22

của chồng” nhƣng may sao chị vẫn không bị mất đi sự lãng mạn và những rung

động cần thiết cho tâm hồn. Ngƣợc lại, cuộc sống vất vả, từng trải đã cho chị thêm

những kinh nghiệm và vốn sống - điều mà nhà văn nào cũng cần có.

Tác phẩm đầu tay của chị là tác phẩm đã đƣợc giải nhất cuộc thi truyện ngắn do

tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức (1989 – 1990) - Bức thư gửi mẹ Âu Cơ. Từ thời

điểm đó đến năm 2008, chị đã cho xuất bản một khối lƣợng tác phẩm tƣơng đối lớn với

tám tập truyện ngắn, một truyện vừa và hai tiểu thuyết. Trong suốt thời gian gần hai

mƣơi năm đó, có lúc ngƣời ta thấy chị vắng bóng trên văn đàn, bản thân chị vì nhiều lý

do đã có lúc “nghĩ đến việc gác bút dài dài”. Nhƣng nhƣ chị nói “chƣa đủ gan” và quan

trọng là khó có thể làm mất đi niềm say mê yêu thích đã nuôi dƣỡng từ thuở nhỏ.

1.2.2 Quan điểm sáng tác của Y Ban

Y Ban là một trong những nhà văn nữ luôn có ý thức bộc lộ một cách thẳng

thắn những quan điểm sáng tác của mình

Là nhà văn ai cũng mong có đƣợc những tác phẩm nổi tiếng và lƣu lại với thời

gian. Nhà văn Y Ban cũng vậy song để có đƣợc một tác phẩm hay, chị rất có ý

thức về sự kiên trì, chuyên tâm của mình: “Tôi gieo chữ nhƣ cầm một nắm thóc

trên tay rồi tung ra. Quan điểm sáng tác của tôi là trăm bó đuốc bắt đƣợc một con

ếch chứ không mơ con gà đẻ trứng vàng” [68]. Thẳng thắn trong quan niệm sáng

tác nên chị cũng rất mạnh mẽ khi bảo vệ những đứa con tinh thần của mình:

“Nhiều ngƣời phê văn tôi vụn vặt, yêu đƣơng với dƣa cà mắm muối chẳng có ý

tƣởng cao siêu gì, tôi nghĩ ý tƣởng cao siêu bằng giời mà không ai muốn đọc thì

trắng tay. Tôi viết văn cho độc giả, không viết văn cho nhà phê bình, tôi không

thích loại văn chƣơng cầu kỳ hình thức” [68]. Có lẽ đó là lý do mà văn chị rất dễ

đọc, dễ nhớ và không kén độc giả song không vì thế mà dễ dãi đơn điệu, ngƣợc lại

nó rất gần gũi, thân quen mà vẫn rất thấm thía và sâu sắc.

Là phụ nữ, thế mạnh của Y Ban là viết về nỗi đau, thân phận của ngƣời đàn bà

và ký ức. Nhƣng viết về mảng nào, lĩnh vực nào, thì với chị điều quan trong nhất

23

vẫn là sự nhân ái, tính nhân bản đọng lại sau mỗi tác phẩm: “Cách hành văn, các

chi tiết nhiều khi rất bạo liệt, nhƣng cái đọng lại là sự nhân ái. Tôi viết về cái xấu,

cái ác là để ngƣời ta căm ghét nó và muốn sống đẹp hơn, viết về sự đổ vỡ là để gợi

lại niềm tin yêu cuộc sống” [68]

Là nhà văn đồng thời là nhà báo, phải đi nhiều nên Y Ban hiểu giá trị của

những lần đi ấy không chỉ là lấy tin viết bài mà nó còn có nhiều ý nghĩa đối với tác

phẩm của chị. Chính vì thế, chị luôn nhấn mạnh là nhà văn cần chấp nhận dấn thân

để sáng tạo. Dấn thân để có thực tế, để đƣợc tận mắt thấy “tôi cũng rúc vào những

quán vƣờn và mở to mắt ra để nhìn” [69]. Dấn thân cũng có nghĩa là “đặt mình vào

nhân vật và đẩy đến tận cùng những tình huống của nhân vật” [69]. Không chỉ biết

dấn thân mà còn phải biết chấp nhận. Là nhà văn nữ thì sẽ phải chấp nhận nhiều

hơn bình thƣởng bởi lẽ “bên cạnh ngƣời phụ nữ là một gia đình mà văn chƣơng

thƣờng đỏng đảnh nhƣ một ông chồng khó tính. Nó đòi hỏi sự dâng hiến hết mình”

[7]. Nghĩa là đến với văn chƣơng chị cũng phải chấp nhận đứng trên bờ chênh

vênh giữa một bên là gia đình và một bên là đam mê nghệ thuật. Khâu sáng tạo đã

nhƣ thế, đến khi sản phẩm đến tay độc giả rồi thì lại phải biết chấp nhận mọi sự

phán xét của độc giả dù đó là khen hay chê.

Trong quá trình sáng tạo, Y Ban đề cao những yếu tố hƣ cấu. Điều đó đánh

giá phần “trời cho” nhà văn. Tức là đánh giá độ tài năng của ngƣời viết. Chị nói:

“Văn chƣơng cũng cần phải thông tin nhƣng cái hay của nhà văn chính là ở sự hƣ

cấu” [69] Với những tác phẩm cần cái nhìn tỉnh táo khách quan, Y Ban hay kể ở

ngôi thứ ba, còn những truyện ngắn có cốt truyện nghiêng về tâm lý, Y Ban thƣờng

hay kể ở ngôi thứ nhất để đặt mình vào vị trí của nhân vật, để có thể khai thác nội

tâm nhân vật một cách triệt để và biểu hiện nó một cách sâu sắc: “Tôi thích những

cốt truyện lozic, những hành động có thể lý giải đƣợc một cách biện chứng. Chính

vì vậy tôi hay đặt mình vào nhân vật để dự đoán xem nhân vật sẽ suy nghĩ ra sao,

sẽ làm điều gì trong từng hoàn cảnh nhất định. Bởi vậy các nhân vật của tôi đƣợc

đánh giá là rất thực, có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống” [53].

Viết về sex chị quan niệm: Đây là phƣơng tiện giải trí và văn hóa. “Văn

24

chƣơng cần tôn trọng sex ở khía cạnh đó”. Viết sex cũng là cách gắn kết bạn đọc

với con chữ. Nhƣng viết sex không dễ. Nó có tục hay không tục là do câu chữ “nếu

mình viết trực tiếp, thẳng tuột về nó nhƣ một thứ nhu cầu bản năng kích động ở

ngƣời đọc những ý nghĩ không lành mạnh, không trong sáng thì tác phẩm sẽ trở

nên phản cảm. Nhƣng nếu tác giả khéo léo, thay thế những khái niệm về các bộ

phận, các hành vi của con ngƣời bằng nhiều cách diễn đạt văn chƣơng hơn, phủ lên

chi tiết tục những ý nghĩa rất Ngƣời, đƣa trí tƣởng tƣợng của độc giả đến các vấn

đề nhân văn thì ngƣời đọc sẽ không lăn tăn đến chuyện đề tài nữa [53]. Không cần

phải nói thêm, quan niệm này của Y Ban đã quá rõ ràng và thực tế sáng tác của chị

đã là những minh chứng đầy thuyết phục.

1.2.3. Tác phẩm của Y Ban trong dòng văn xuôi nữ thời kỳ đổi mới.

Từ tác phẩm đầu tiên đƣợc giải nhất cuộc thi truyện ngắn do tạp chí Văn nghệ

quân đội tổ chức (1990) là truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Y Ban vẫn tiếp

sáng tác và nhận thêm đƣợc giải thƣởng nữa vào năm 1993 cho tập truyện Người

đàn bà có ma lực. Gần đây nhất (2006), ban giám khảo cuộc thi truyện ngắn Báo

Văn nghệ đã nhất trí cao để giải nhì cho truyện I am đàn bà của chị. Giải thƣởng đã

đƣợc công bố cuối tháng 6/2006 nhƣng tại buổi lễ trao giải thì bất ngờ bị rút lại với

tác phẩm này đã vi phạm thể lệ cuộc thi… Thể lệ ghi rõ: Trong thời gian cuộc thi, tác phẩm dự thi không

được gửi in sách, báo hay tạp chí nào khác. Trong phiên họp bổ sung của ban chung khảo cuộc thi, I am

đàn bà không còn nằm trong danh sách giải thƣởng vì tác giả đã tập hợp in thành sách”) - (Xem thêm “I

am đàn bà của Y Ban bị rút giải thƣởng” - Lƣu Hà - vnexpress.net). Giải thƣởng tuy bị rút lại

lý do phạm quy (Nhà văn Nguyễn Trí Huân hội đồng chung khảo giải thích: “… bạn đọc đã phát hiện

nhƣng lý do của sự việc này thuộc về thể lệ, hình thức cuộc thi, còn xét về mặt chất

lƣợng tác phẩm đã đƣợc cả một hội đồng giám khảo có trình độ và uy tín đánh giá,

nghĩa là nó đã xứng đáng đƣợc “giải nhì”.

Nhiều tác phẩm của chị khi ra đời đã đƣợc bạn đọc đón nhận một cách nhiệt

thành. Ngoài Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực là những truyện

đƣợc giải thì Người đàn bà đứng trước gương, Đàn bà xấu thì không có quà, Chợ

rằm dưới gốc dâu cổ thụ, Ước mơ của chị bán hàng rong và gần đây nhất là tập

25

truyện ngắn I am đàn bà và tiểu thuyết Xuân Từ Chiều đƣợc sự chú ý cả bạn đọc

và giới phê bình, kích thích cảm hứng tranh luận trên văn đàn. Riêng tập truyện I

am đàn bà là “đứa con” đã làm cho Y Ban khổ sở trong năm 2006, tập truyện này

đã bị Cục xuất bản đình chỉ xuất bản và thu hồi vào cuối năm 2006. Trƣớc đó,

tháng 11/2006, I am đàn bà đã đƣợc Nhà xuất bản Công An nhân dân phát hành và

bán hết 1500 bản in. Sau đó Nhã Nam xin tái bản ở Nhà xuất bản Phụ Nữ, thực tế

là dùng lại bản scan cũ của Nhà xuất bản Công an nhân dân. Tới lúc đó, nhà văn Y

Ban vẫn chƣa hề nhận đƣợc thông tin chính thức nào về I am đàn bà bị thu hồi.

Việc không giải thích rõ ràng lý do thu hồi đã gây ra nhiều lời đồn thất thiệt và

những nghi ngờ không đáng có rằng: “Y Ban gây Scandal để nổi tiếng”, “đánh

bóng mình bằng chiêu sex”… Cho đến nay, dƣ luận đã tạm lắng xuống và theo

những gì chúng tôi tìm và thu thập từ các bài báo, các trang diễn đàn trên mạng

internet thì những lời khen vẫn nhiều hơn tiếng chê. Đó cũng là điều dễ hiểu vì I

am đàn bà có sex thật nhƣng là thứ sex có văn hóa và thấm đậm chiều sâu nhân

bản.

Trở lại những sáng tác khác của Y Ban trong dòng chảy chung của văn xuôi

nữ đƣơng đại. So với những cây bút nhƣ Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Phan

Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Lý Lan… thì Y Ban là nhà văn có lối

viết rất riêng và tạo ra đƣợc phong cách cho mình - phong cách của một ngƣời đàn

bà từng trải, sống sâu sắc, mạnh bạo và dám thách thức. Cho đến nay, đã gần hai

mƣơi năm trong nghề cầm bút, Y Ban luôn đƣợc biết đến nhƣ một nhà văn giàu nội

lực. Nếu trong số những cây bút cùng thời với chị, đã có nhiều ngƣời gần nhƣ

chững lại thì Y Ban vẫn dồi dào sức sáng tạo, vẫn liên tục cho ra đời những tác

phẩm đƣợc nhiều độc giả lƣu tâm.

Viết nhiều truyện ngắn, nhƣng Y Ban vẫn thử ngòi bút của mình trên nhiều

thể loại khác là truyện vừa, tiểu thuyết. Truyện vừa Thần cây đa và tôi hay tiểu

thuyết Đàn bà xấu thì không có quà hay Xuân Từ Chiều đều là những tác phẩm

đáng đọc. Trong sáng tác của mình, Y Ban tỏ ra sắc sảo khi tiếp cận và khai thác

đề tài thế sự đời tƣ. Nhƣng không phải lúc nào cũng giản dị, đằm thắm nhƣ Trần

Thùy Mai hay dịu dàng và trang trọng, trí thức nhƣ Võ Thị Hảo mà gần với

26

Nguyễn Thị Thu Huệ hơn, Y Ban là nhà văn đa giọng điệu. Ở giai đoạn nào trong

hành trình sáng tác của Y Ban, chị cũng có những tác phẩm đột phá nhƣng nếu nhƣ

những tác phẩm viết ở đầu thời kỳ sáng tác của chị thiên về bè trầm hơn thì giai

đoạn sau, ngƣời đọc lại nhận thấy độ chín của chị ở những tác phẩm sôi nổi ồn ào

hơn. Với lợi thế của một ngƣời làm báo, nhiều trang viết của chị cũng nóng hổi

những vấn đề thời sự, cũng bức xúc, châm chích, đả phá mạnh mẽ những ung nhọt

của xã hội (Thần cây đa và tôi, Xuân Từ Chiều). Nhƣng cũng nhƣ nhiều nhà văn

nữ khác, thế mạnh của chị vẫn là viết về nỗi đau, về thân phận những ngƣời đàn bà

trong cuộc sống hiện đại. Dễ thấy một điều, hầu hết những ngƣời phụ nữ trong tác

phẩm của chị đều là những ngƣời phụ nữ bất hạnh. Họ không khổ về vật chất thì

cũng khổ về tinh thần. Không khổ trong tình yêu thì khổ trong gia đình. Không khổ

vì những gã đàn ông thì khổ vì chính sự cầu toàn của bản thân. Không chống chếnh

chênh vênh bởi những sự lựa chọn, giữa trách nhiệm bổn phận và khao khát của

bản thân thì lại chìm ngập trong những đớn đau mất mát thiệt thòi.

Khi dịu dàng mà bén ngọt, ấy là lúc Y Ban đang nói về một tình yêu đẹp của

ngƣời con gái; khi đồng cảm hay xót xa, lại là khi chị đang sẻ chia với những

ngƣời đàn bà bất hạnh. Nhƣng những lúc riết róng đôi khi gay gắt bạo liệt, đó là

lúc Y Ban đang lên tiếng để bảo vệ cho những nhân vật nữ của chị khỏi bất công.

Yêu thƣơng những ngƣời phụ nữ, Y Ban luôn luôn muốn đòi quyền bình đẳng cho

họ: “Ngƣời phụ nữ Việt Nam hôm nay vẫn bị giằng xé giữa cái tam tòng tứ đức và

cái quyền con ngƣời, quyền của ngƣời phụ nữ hiện đại. Vì vậy mà trong hoàn cảnh

này nhân vật của tôi vin vào tam tòng tứ đức, trong hoàn cảnh khác lại vin vào cái

quyền con ngƣời hiện đại, và tôi nghiêng về bên ngƣời phụ nữ phải đƣợc sống nhƣ

cái quyền họ đƣợc sống” [40]. Với Y Ban chân dung bóng dáng ngƣời phụ nữ phần

nào khắc họa ở những tên truyện: Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Người đàn

bà đứng trước gương, Đàn bà xấu thì không có quà, Đứa con và người đàn bà tật

nguyền, Người đàn bà có ma lực, Người đàn bà và những giấc mơ, I am đàn bà,

Ước mơ của chị bán hàng rong, Ước mơ của chị Tũn, Người đàn bà trên dòng

sông Đanuyp, Thiếu phụ và những đôi cò, Biển và người đàn bà, Thượng đế bảo

rằng mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà, Con gái mang cuộc đời

27

của mẹ, Mẹ không thể xin lỗi con… Cách đặt tên ấy đã trở thành motif quen thuộc

trong sáng tác của chị. Viết bằng sự thấu hiếu, sự cảm thông của một nhà văn nữ,

Y Ban đã thể hiện những niềm khao khát khôn nguôi về bến bờ hạnh phúc, sự bình

yên trong tâm hồn của ngƣời cùng giới. Với niềm khát khao giản dị ấy, tác phẩm

của chị đã tìm đƣợc vị trí trong lòng độc giả.

Mỗi tuần một chân dung vui - Y Ban

Đích thị I am đàn bà

Qua bao vấn nạn sắp là… đàn ông.

Cuộc đời nay bão mai dông

Đàn bà xấu (xí) thì không có quà

Miếu hoang dƣới thần cây đa

Cẩm cù, Cưới chợ rõ là Y Ban

Vùng sáng ký ức chƣa tan

Lên bờ xuống ruộng chẳng can cớ gì

Bức thư gửi mẹ Âu cơ

Bƣu điện không chuyển nên giờ vẫn đây

Gầy gò mà cứ phây phây

Móc hàm bảy yến nới tay có thừa

28

(Phan Thị Thanh Nhàn)

CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NỘI DUNG

TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN

2.1 NHỮNG MẢNG SÁNG TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƢỜNG

Theo quy luật tình cảm của con ngƣời, những gì thuộc về phạm trù cái đẹp,

cái cao cả, cái trác tuyệt đều đem đến cho con ngƣời cảm xúc tin yêu, trân trọng

hoặc ngƣỡng vọng tự hào. Nghĩa là cái đẹp dù ở tầm vĩ mô hay vi mô, cái đẹp lồ lộ

rực rỡ phi thƣờng hay cái đẹp tiềm ẩn bình dị, là cái đẹp của tự nhiên hay cái đẹp

của con ngƣời, cái đẹp thuộc về nội dung hay hình thức đều xứng đáng để con

ngƣời đề cao hay ca ngợi. Ở nƣớc ta, thời kỳ mƣời năm đầu sau chiến tranh, dƣờng

nhƣ văn xuôi vẫn trƣợt theo “quán tính” của cách bao quát hiện thực trên diện

rộng, của những cảm hứng sử thi và giọng điệu ngợi ca. Chỉ từ 1986 trở lại đây,

văn xuôi mới có sự thay đổi không chỉ ở phạm vi đề tài, chủ đề, tƣ duy nghệ thuật

mà còn ở cảm hứng sáng tạo. Sở dĩ có sự chuyển đổi này là bởi hiện thực cuộc

sống sau chiến tranh đã bộc lộ những khó khăn, khắc nghiệt của nó. Con ngƣời trở

lại với cuộc sống đời thƣờng phải đối diện với tất cả những khó khăn bề bộn ấy.

Vất vả trong mƣu sinh, trăn trở với những ám ảnh về một thời chiến tranh, nhƣng

con ngƣời hôm nay không phải đã mất hết niềm tin và nghị lực. Vẻ đẹp vẫn tiềm

tàng trong mỗi con ngƣời, mỗi cảnh đời. Cũng nhƣ nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ

hay Lý Lan, Võ Thị Hảo, Y Ban đã chắt chiu tìm kiếm để đƣa lên trang viết của

mình những mảng sáng của cuộc sống soi rọi những giá trị nhân bản đời thƣờng.

2.1.1. Vẻ đẹp mang thiên chức nữ.

Nhân hậu thủy chung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha vốn là vẻ đẹp gắn liền

với ngƣời phụ nữ bao đời nay. Từ hình ảnh “Cái cò lặn lội” trong ca dao đến hình

ảnh ngƣời đàn bà ôm con ngóng chồng hóa đá, từ câu chuyện Người con gái Nam

Xương đến câu chuyện của Chị Dậu trong văn Ngô Tất Tố, những ngƣời phụ nữ

trở thành một điều gì đó thật đẹp, thật cao cả, lớn lao. Một lần nữa những phẩm

29

chất ấy lại đƣợc Y Ban khắc sâu hơn trong tác phẩm của mình.

Truyện Chú Ngoẹo xây dựng cuộc đời một ngƣời mẹ điển hình cho cuộc đời

những ngƣời mẹ Việt Nam đảm đang tảo tần. Ngƣời phụ nữ nông dân thuần chất

trong truyện sinh đƣợc chín ngƣời con, nhƣng đứa con út lại là một đứa trẻ tật

nguyền. Không có sự phân biệt, bà vẫn yêu thƣơng Ngoẹo nhƣ các anh chị của chú

vậy. Tảo tần, bà nuôi chín ngƣời con khôn lớn. Khi tất cả đã đủ lông đủ cánh và có

thể tự lo cho cuộc sống riêng, thì bao nhiêu tình yêu, sự chăm bẵm bà dồn cả vào

đứa con út thiệt thòi: “Mẹ vẫn sống nhƣ mặt trời cần mẫn chiếu rọi cho trái đất. Mẹ

không nuôi lợn cấy ruộng nữa nhƣng mẹ vẫn dậy sớm nấu cơm cho chú Ngoẹo

ăn”. Vẫn bằng giọng văn giản dị, mộc mạc, Y Ban đã đƣa ra một triết lý sống đơn

sơ mà cao cả ở ngƣời đàn bà này - và cũng là lẽ sống của tất cả những ngƣời đã

từng là mẹ: mẹ sống vì con đó thôi. Năm mƣơi năm - thời gian ấy không dài cho

một cuộc đời bình thƣờng nhƣng với một đứa con tàn tật và một ngƣời mẹ phải

thƣờng xuyên ở bên để chăm bẵm từng miếng cơm giấc ngủ thì quả thật đó là

quãng thời gian dƣờng nhƣ vô tận. Từng ngày, từng tháng dệt bằng những vất vả lo

toan, bằng tình yêu và nghị lực, bằng sự hy sinh và sức chịu đựng phi thƣờng. Chỉ

đến khi đứa con mái tóc “bạc trắng nhƣ tóc mẹ” nhƣng “đôi mắt không có tuổi” kia

không còn nữa thì mẹ mới yên tâm trút hơi thở cuối cùng.

Ngƣời ta thƣờng nói đến tình mẫu tử nhƣ là bản năng của ngƣời phụ nữ bởi lẽ

đối với ngƣời phụ nữ nhiều thứ tình cảm khác có khi đơn giản chỉ là tình cảm đồng

loại con ngƣời với con ngƣời, có khi là tình yêu đôi lứa, họ cũng biểu hiện những

mẫu tính vốn có của mình. Trong I am đàn bà, một ngƣời phụ nữ nông dân nghèo

khó, nhƣng trƣớc một sinh mệnh nhỏ nhoi gần nhƣ không còn sự sống chị vẫn cố

gắng ấp nó vào lòng, truyền cho nó hơi ấm và tất cả tình yêu thƣơng có đƣợc từ

một ngƣời mẹ. “Nhìn thấy thằng bé tím ngắt bị kiến bu đầy ngƣời”, chị đã hét lên

sợ hãi, sau đó thì chị khóc “khóc vật vã, khóc kiệt cùng”. Với bản năng làm mẹ

của, chị cởi áo ngoài bọc thằng bé lại rồi đào huyệt. Nhƣng có một dấu hiện khiến

chị nhận ra cái sinh linh kia còn sống, thế là “thị cởi nốt chiếc áo lót rồi ôm thằng

bé sát vào ngực thị. Một cuộc luân hồi đƣợc nén trong ngực thị, thị cảm nhận đƣợc

hơi ấm dần lên trên cơ thể thằng bé”. Chị đã đem nó về nuôi mặc dù “nhà rách nhƣ

30

tổ đỉa” và bốn đứa con với vợ chồng chị thật sự đã là quá tải về kinh tế…

Ngƣời phụ nữ trong Ôn lột tử, Biển và người đàn bà xấu xí còn có biểu hiện

mẫu tính cả với ngƣời họ yêu. Họ chăm sóc những ngƣời đàn ông nhƣ ngƣời đàn

bà chăm sóc những đứa con: “Với tấm lòng nhân hậu, nàng đan một cái nôi to và

đặt anh lên đấy. Đêm đến anh rúc vào nách nàng nhƣ trẻ nhỏ. Nàng âu yếm vỗ về

anh rồi kể những câu chuyện cổ tích cho anh nghe. Trong hơi ấm của nàng anh lớn

dần lên” (Biển và người đàn bà xấu xí). Ngƣời đàn ông tìm đến với ngƣời phụ nữ

trong tình trạng là một kẻ ốm đau, thất bại, bị bỏ rơi. Còn ngƣời phụ nữ họ cứ rộng

lƣợng nhƣ biển cả vậy, luôn sẵn sàng dang tay ôm đón, vỗ về, chở che. Họ yêu và

sống vì những ngƣời đàn ông ấy. Nhƣng khi ngƣời đàn ông nhƣ con chim đủ lông

đủ cánh không cần đến sự chăm sóc của những “ngƣời mẹ” nữa và họ ra đi, thì

ngƣời phụ nữ trong đau đớn, họ chết đi mang theo tình yêu hoặc gắng sống trong

cô đơn đợi chờ chỉ vì hy vọng một ngày nào đó ngƣời đàn ông sẽ trở về và cần đến

sự giúp đỡ của họ. Có lẽ không phải tình yêu làm họ mù quáng mà sự yêu thƣơng

bản năng, sự hy sinh bản năng, lòng bao dung bản năng đã làm cho họ vƣợt lên

trên cả sự phản bội và lãng quên của kẻ khác.

Gần gụi hơn trong cuộc sống gia đình, Ước mơ của chị bán hàng rong lại là

câu chuyện kể về ngƣời phụ nữ hàng ngày quẩy trên vai gánh hàng rong đi khắp

các phố phƣờng để mong gánh nặng gia đình đƣợc giảm bớt. Đau đớn, mệt mỏi

sau những trận đòn của chồng, buồn bã chán nản sau những lần chứng kiến nỗi

“ấm ức, ậm ực” vì miếng ăn của bố đẻ và mẹ chồng… nhƣng chị vẫn âm thầm chịu

đựng. Có khi chị khóc để vơi đi nỗi đau, cũng có lúc chị cay đắng không thể khóc

đƣợc, song không bao giờ chị bỏ một buổi bán hàng, bởi là ngƣời lo toan tất cả,

hơn ai hết trong gia đình chị hiểu nếu chị không đi làm, cả nhà không biết sẽ trông

cậy vào cái gì và trên hết là vì những đứa con của chị, vì cuộc sống của chúng.

Hình ảnh ngƣời phụ nữ chịu thƣơng chịu khó trong truyện làm ta liên tƣởng đến

Cô hàng xén trong truyện ngắn cùng tên của Thạch Lam. Những ngƣời phụ nữ ấy

31

nhỏ bé mà can trƣờng, giản dị đời thƣờng mà cao cả vị tha.

2.1.2 Khao khát tình yêu, hạnh phúc bình dị

Bên cạnh việc khắc sâu thêm những vẻ đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ, Y

Ban còn dành nhiều trang viết để ngợi ca con ngƣời với những khát khao tình yêu

và hạnh phúc bình dị. Một món quà, một bông hoa, một sự quan tâm sẻ chia, một

trái tim chân thành, một gia đình ấm cúng với tiếng khóc cƣời trẻ thơ, một bờ vai

để nƣơng tựa trong những lúc sóng gió cuộc đời - có lẽ sẽ chẳng còn gì giản dị hơn

những ƣớc mơ ấy. Một ngƣời phụ nữ bình thƣờng nhất, không cần phải là ngƣời

giỏi giang có địa vị cũng có thể có đƣợc cái hạnh phúc ấy. Nhƣng hạnh phúc cũng

giống nhƣ tiền bạc, sự giàu sang, chẳng bao giờ phân phát đều cho tất cả mọi

ngƣời. Chính những số phận không đƣợc phân phát hạnh phúc ấy mới là đối tƣợng

mà nhà văn Y Ban quan tâm và đồng cảm.

Đó là ngƣời đàn bà góa chồng từ lúc tuổi còn xuân trong Một lần và mãi mãi.

Chị đã có con nhƣng thực tế chị chƣa một lần biết yêu và đƣợc yêu. Có lẽ khát

vọng yêu đƣơng ấy, vì con mà suốt quãng đời tuổi trẻ của mình chị đã kìm nén lại.

Nhƣng khi con đã qua tuổi bế ẵm thì chị lại thành thật với con ngƣời tự nhiên của

mình “tôi đã cố quên thế nhƣng không thể nào quên đƣợc. Tôi đã biết tôi sẽ bị

trừng phạt cả ở trên trời lẫn dƣới địa ngục nhƣng tôi bất chấp. Tôi chƣa bao giờ

yêu và đƣợc yêu. Bây giờ tôi mới biết thế nào là đƣợc yêu”. Tình yêu của chị luôn

luôn đi kèm với mặc cảm tội lỗi là bởi ngƣời chị yêu chính là gia sƣ của con gái

chị - ngƣời đàn ông trẻ hơn chị nhiều tuổi. Lời giãi bày của ngƣời đàn bà đồng thời

cũng là một lời thú tội. Chị hiểu cái giá mà mình phải trả cho bài học tình yêu là gì

nhƣng chị vẫn làm. Điều đó chứng tỏ, tình yêu không chỉ là niềm mơ ƣớc mong

mỏi mà đã trở thành những cơn khát cháy bỏng trong ngƣời đàn bà ấy.

Cũng vẫn là niềm khát khao đƣợc chở che, đƣợc nƣơng tựa ở một ngƣời đàn

ông nhƣng trong Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Y Ban đã nhìn nó từ cảm nhận của

một cô gái điếm: “Cả đời làm cái nghề ngủ với đàn ông mà lại đi thèm một bàn tay

đàn ông đến vậy”. Có ý kiến cho rằng, đây là cái khoảnh khắc lƣơng thiện lóe sáng

trong chuỗi ngày đen tối của cô gái. Thực tế với những ngƣời đã phải làm cái nghề

32

bán thân thì đa phần là bất đắc dĩ, vì thế cái cảm giác “thèm một bàn tay đàn ông”

có lẽ không phải là cái “khoảnh khắc lóe sáng” mà dƣờng nhƣ nó thƣờng trực, nó

là niềm ƣớc vọng khôn nguôi. Lời tự diễu của cô gái mang theo một cảm giác thật

xót xa chua chát. Đằng sau cái điều tƣởng nhƣ nghịch lý lại là một khát vọng chân

thành giản dị nhƣng khó trở thành hiện thực.

Thế mạnh của Y Ban là viết về phụ nữ nên hầu nhƣ tiếp cận đời sống trên

phƣơng diện nào ta đều thấy phụ nữ là nguồn mạch cảm hứng nổi bật của nhà văn.

Trong đó chị dành một sự sẻ chia lớn lao đối với những ngƣời phụ nữ, những cô

gái có những khiếm khuyết về ngoại hình. Nấm trong Đàn bà xấu thì không có quà

hay ngƣời phụ nữ trong Đứa con và người đàn bà tàn tật là những ngƣời nhƣ thế.

Nấm là cô gái có đôi chân ngắn hơn bình thƣờng nhƣng bù lại cô thông minh và

tràn đầy nghị lực sống. Biết mình không đẹp, thậm chí còn là một cô gái dị hình,

Nấm sống cần mẫn hơn, rồi cô cũng đi học đại học và đi làm. Việc đi làm tƣởng

chừng đã có thể làm cho Nấm cảm thấy mình không còn là cái gì đó đặc biệt nữa

mà cũng bình thƣờng nhƣ bao con ngƣời khác trong xã hội. Nhƣng cuộc sống vốn

không giản đơn là có một công việc. Những va chạm hàng ngàys đã làm Nấm thấy

sự thiếu hụt của mình so với những ngƣời đàn bà khác. Ngoài một đôi chân ngắn,

Nấm vẫn là một cô gái bình thƣờng: “Ngực Nấm căng và tròn. Hàng tháng những

giọt máu sinh nở của đàn bà ra đủ ba ngày tƣơi rói” và Nấm cũng có một trái tim

biết vui buồn, biết yêu thƣơng và cũng biết khao khát. Hằng đêm Nấm vẫn mơ về

“ngƣời đàn ông của nàng với một vòng tay ôm rất chặt. Một cái nhìn thật nồng ấm.

Một nụ cƣời nhân hậu. một nụ hôn cháy bỏng…”. Nàng cũng mơ ƣớc đƣợc nhận

một bông hoa, đƣợc tặng một món quà nhƣng Nấm luôn luôn ý thức đƣợc chân

dung đích thực của mình nên Nấm chua xót nhận thấy “những khao khát kia là một

sự xa xỉ mà thôi”. Nhƣng cái ý thức đó không bắt đƣợc nàng dập tắt những khao

khát mà ngƣợc lại những khao khát còn ở một mức độ cao hơn: “Một tình yêu, một

tình dục, một chồng vợ, một mái ấm gia đình và những đứa con”. Gọi là cao hơn

so với những khát vọng trƣớc đó của Nấm thôi, còn nó cũng rất đỗi bình thƣờng

nhƣ bao ƣớc mơ của những ngƣời đàn bà bình thƣờng trên thế gian này.

Cũng nhƣ Y Ban, ám ảnh trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ, hay Võ Thị Hảo là

33

những cuộc săn tìm hạnh phúc của những ngƣời đàn bà. Trong đó các chị cũng

quan tâm đến những đối tƣợng đặc biệt. Đó là những ngƣời điên, những phụ nữ tật

nguyền nhƣng ẩn sau những ngang trái cuộc đời vẫn sáng lên những khát vọng

khôn nguôi về tình yêu hạnh phúc. Nhƣng không giống với Hằng - cô gái tật

nguyền hứng những giọt mƣa để kỳ vọng vào hạnh phúc trong Làn môi đồng trinh

của Võ Thị Hảo, hay nhƣ Tâm - cô gái có những khiếm khuyết về hình thể trong

Máu của lá - nuôi dƣỡng niềm tin yêu cuộc sống bằng những lá thƣ của một ngƣời

đàn ông; cũng không giống nhƣ nhân vật ngƣời phụ nữ tàn tật tìm kiếm hạnh phúc,

tình yêu trong những giấc mơ trong Người đi tìm giấc mơ của Nguyễn Thị Thu

Huệ, nhân vật ngƣời đàn bà tàn tật trong Đứa con và người đàn bà tật nguyền của

Y Ban mạnh mẽ và táo bạo hơn nhiều, chị không hề thụ động khi trông chờ vào

một điều may mắn, một phép nhiệm màu nào của cuộc đời, cũng không hề ẩn náu

trong cõi hƣ vô nào đó, mà niềm khao khát đã thúc đẩy chị chủ động kiếm tìm cho

mình cái hạnh phúc đƣợc làm mẹ. Ngƣời phụ nữ tật nguyền ấy không chấp nhận để

cho số phận mãi trùm lên mình những nỗi bất hạnh: “Con ngƣời đã làm ra tất cả,

thế tại sao lại không chống lại định mệnh để nó cƣớp đi niềm vui hạnh phúc của

mình”. Chị “hiểu và yêu cuộc sống”, “chị muốn trở thành một con ngƣời bình

thƣờng đƣợc cuộc đời ban cho những điều bình thƣờng sẽ có ở một cuộc đời”. Bởi

vậy vƣợt lên trên mặc cảm của bản thân, chấp nhận dƣ luận của ngƣời đời, chị đã

xin ngƣời đàn ông cho chị một đứa con. Điều chị cầu xin đã đƣợc toại nguyện, dẫu

hạnh phúc không trọn vẹn nhƣng đứa con cũng là niềm an ủi lớn lao cho cuộc đời

chị. Đƣợc làm mẹ, làm vợ là những điều bình thƣờng mà ai cũng dễ dàng có đƣợc,

nhƣng đối với những ngƣời phụ nữ tật nguyền nhƣ chị đó lại là mơ ƣớc cả đời.

Chính vì vậy những nỗ lực để có đƣợc hạnh phúc bình dị kia thật đáng trân trọng

và nể phục.

Cũng nói về khát vọng bản năng đƣợc làm mẹ của ngƣời phụ nữ, nhƣng Y

Ban đã đặt nhân vật của chị trong nhiều tình huống trớ trêu của cuộc đời để khắc

sâu thêm về những điều đem lại ý nghĩa lớn lao đối với ngƣời phụ nữ: Xuân - một

ngƣời vợ hiền đảm nhƣng không có con, song đã có đến tám lần chị phải đƣa Từ

một ngƣời bạn gắn bó nhƣ em gái- đi phá thai (Xuân Từ Chiều). Xuân đã nén lòng

34

dấu những giọt nƣớc mắt, không biết bao nhiêu lần cô ao ƣớc “làm sao cấy nó

đƣợc vào trong bụng chị nhỉ”. Nghe cứ nhƣ chuyện đùa mà sao tê tái đến vậy. Một

cuộc sống giàu sang, thành đạt, một ngƣời chồng đẹp trai và yêu vợ tha thiết,

những tƣởng Xuân đã có tất cả. Nhƣng rốt cuộc, tất cả đều không thể bù đắp cho

những khát khao mong mỏi một đứa con của Xuân.

Ở một câu chuyện khác mang màu sắc thần thoại Những nghịch lý của thần

Airet, Y Ban cũng viết trên nền cảm hứng về khát vọng làm mẹ của ngƣời đàn bà.

Hai cô gái xinh đẹp: một Dịu Dàng, một Thông Minh nhƣng họ chỉ có một đôi

chân để đi. Điều ấy có vẻ nhƣ không ảnh hƣởng nhiều đến tính cách hiền lành, yêu

động vật, thiên nhiên của cô Dịu Dàng và niềm ham mê đọc sách của cô Thông

Minh. Điều làm họ đau khổ và thấy mình không bình thƣờng ấy là việc có chung

một nơi sinh con: “Cô Thông Minh òa khóc: chị Dịu Dàng ơi khốn khổ thân chúng

mình quá. Mình không phải là ngƣời bình thƣờng đâu. Bây giờ làm thế nào? Em

muốn sinh con đẻ cái… đây này sách họ viết một ngƣời đàn bà bình thƣờng có một

cái đầu, một đôi tay, một trái tim và một nơi sinh sôi thế mà chị em mình lại chung

nhau một cái nơi sinh sôi, chị nhƣờng cho em nhé”.

Trở đi trở lại vẫn là những khát vọng gia đình, đƣợc yêu đƣợc làm mẹ của

những ngƣời đàn bà. Soi lại, lật đi, cũng vẫn là những ngƣời đàn bà với những khát

khao đƣợc sinh con đẻ cái, đƣợc có một ngƣời đàn ông chở che nƣơng tựa. Tại sao

vậy? Mỗi ngƣời đàn bà dù ở mỗi hoàn cảnh khác nhau, mỗi cuộc đời khác nhau

nhƣng cuối cùng rồi khát vọng của họ cũng vẫn quy về những mối quan hệ trong

gia đình. Tại sao cô gái có đôi chân ngắn lại không ƣớc có một đôi chân dài hơn,

tại sao ngƣời đàn bà tàn tật không mơ mình trở thành một ngƣời phụ nữ xinh đẹp,

lành lặn và cả cặp sinh đôi Dịu Dàng và Thông Minh kia nữa, sao họ không ƣớc

đƣợc đi trên đôi chân của mình? Tất cả họ chỉ chung một mong ƣớc, một khát

vọng đó là tình yêu và những đứa con. Phải chăng khát vọng ấy không phải là điều

bình thƣờng nhƣ chúng ta vẫn nghĩ. Với ngƣời phụ nữ khiếm khuyết hay lành lặn,

tình yêu hạnh phúc gia đình với những đứa con mới thực sự là những điều đặc biệt

quan trọng trong cuộc đời họ, là lẽ sống của họ. Y Ban thấu hiểu một cách sâu sắc

mặt này ở ngƣời phụ nữ và lý do khiến chị khắc sâu hình ảnh họ với những khát

35

vọng bản năng chính là để cho chúng ta hiểu về họ hơn, biết trân trọng họ hơn.

2.1.3 Sex - khát vọng sống.

Ai cũng biết tình dục xƣa nay gần nhƣ là một lĩnh vực cấm kị trong văn

chƣơng truyền thống Việt Nam, thế nhƣng gần đây con đê xây bởi những ảnh

hƣởng của Nho giáo đó đã dƣờng nhƣ bị phá vỡ. Năm 1986 đất nƣớc tiến hành

công cuộc đổi mới, đổi mới về kinh tế kèm theo đổi mới về văn hóa nghệ thuật.

“Dân chủ hóa văn học” là một khái niệm bao quát toàn bộ đời sống văn học ở thời

kỳ này. Các văn nghệ sĩ đã có sự thay đổi trong nhận thức và tƣ duy, “những mảnh

đời thƣờng đƣợc nhìn ngắm lại và trong cái nền văn học gọi là hiện thực chủ nghĩa

ấy, tình dục chằng còn là một vấn đề úy kỵ nữa mà nhiều khi cò trở thành một đề

tài lôi cuốn sự chú ý của độc giả và những ngƣời phê bình văn học” [66].

Trong những tác phẩm: Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo

Ninh, Những mảnh đời đen trắng - Nguyễn Quang Lập, Bến không chồng - Dƣơng

Hƣớng…đã có những xen ôm ấp làm tình táo bạo, những suy nghĩ điên đảo, những

khát khao thể xác mạnh mẽ, cũng có cả những cuộc giao hoan rất ngọt ngào.

Nhƣng tất cả đều đƣợc miêu tả theo kiểu bóng mờ; không quá lộ liễu. Bảo Ninh

viết trong Nỗi buồn chiến tranh: “Suốt đêm trong nhịp tàu dồn dập lắc lƣ,… hai

ngƣời thoải mái ôm xiết lấy nhau mà ngủ, … thỉnh thoảng thức dậy càng ôm chặt

nhau; thỏa sức hôn hít nhau sống gấp lên với nhau những cây số cuối cùng còn

vƣơng lại của tuổi thanh xuân chiến hào…”.

Trong Ăn mày dĩ vãng có những trang viết rất gợi cảm, cuốn hút: “Tôi (…)

cồn cào ghì xiết em vào ngƣời, hối hả đỡ em nằm xuống và lấy băng đạn kê đầu

cho em khỏi lấm tóc. Em chỉ rên khẽ lên một tiếng sâu thẳm từ trong lồng ngực rồi

duỗi chân, mắt nhắm lại… Hàng khuy áo đƣợc bong dần từng cái. Chao ôi! (…) tôi

hoàn toàn không thể ngờ ngực em lại đẹp thế! Nhỏ nhắn, no tròn và trắng đến lóa

mắt… Tôi gục mặt vào đó nghẹt thở, yên bình trong ngào ngạt hƣơng thơm cây

trái và tan rã...”.

Tuy nhiên sex không phải là yếu tố mà ngƣời ta hay đƣa ra để phân tích, bình

luận khi nhắc tới những tác phẩm kể trên. Những “vở diễn” có sex gây ồn ào trong

36

văn học Việt Nam lại chủ yếu là do phái nữ “dàn dựng” mà ngƣời đầu tiên có

những đóng góp đáng kể là Phạm Thị Hoài với một loạt truyện ngắn nhƣ: Năm

ngày, Thuế biển, Chín bỏ làm mười…Yếu tố sex trong văn của bà khoanh vùng

nhỏ gọn với tầm cỡ vừa phải. “Lối viết gia giáo của Phạm Thị Hoài vẫn là một lối

tiếp cận từ xa, sex trong tinh thần chữ nghĩa nhiều hơn là ở những cảm giác trực

tiếp” (Nguyễn Huy Thiệp - dẫn theo Sisan) [50]. Chính vì thế mà những tác phẩm

ấy không có cơ hội gây ra những cơn sóng ầm ào, dữ dội. Nhƣng nó lại mang ý

nghĩa mở đƣờng. Bởi vì Phạm Thị Hoài là một ngƣời phụ nữ. Sau chị là sự tiếp nối

của Vi Thùy Linh, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu, Nhóm Ngựa Trời và mới

nhất là Y Ban. Đây cũng là những tên tuổi gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi

trong giới phê bình nói riêng và dƣ luận nói chung với nhiều ý kiến trái chiều.

Nhƣ một đặc điểm chung của giới nữ các tác giả này không chỉ nhạy cảm với

những nỗi đau, những bi kịch, họ còn nhạy cảm và biểu hiện một cách mạnh mẽ

với những khao khát, ham muốn của chính giới mình, kể cả đó là những đòi hỏi về

tình dục - chuyện mà xƣa nay vẫn đƣợc coi là chuyện kín nơi phòng the. Những

chuyện mà đa số phụ nữ chƣa bao giờ là ngƣời ở tình thế chủ động.

Trong số các tác giả nữ kể trên nếu nhƣ Vi Thùy Linh, Đỗ Hoàng Diệu hay

Nguyễn Ngọc Tƣ là những nhà văn, nhà thơ trẻ đƣợc biết đến trong vài năm trở lại

đây thì Y Ban lại là một nhà văn đã qua cái tuổi bốn mƣơi và đƣợc biết đến những

năm đầu thập niên 90 của thế kỉ trƣớc. Đến nay sau hơn hai mƣơi năm cầm bút chị

đã là một nhà văn có “thƣơng hiệu” và tập truyện I am đàn bà (2006) dù đã đem lại

cho Y Ban một năm với “tình thế hình sin” thì nó cũng chỉ là một tập truyện củng

cố thêm cho “thƣơng hiệu” của chị. Tuy nhiên không phải theo kiểu nhƣ ngƣời ta

vẫn nói là “đánh bóng mình bằng chiêu sex”. Bởi lẽ đó là một thƣơng hiệu đã đƣợc

đảm bảo bằng những giải thƣởng, bằng hai mƣơi năm chị nhào nặn những dang dở

của tâm hồn mình, bằng cả những hay dở mà ngƣời đọc đã quá quen trong những

sáng tác của chị, mà không cần phải dùng “chiêu sex” nữa. Nhƣng có lẽ “cái máu

ăn thua” trong ngƣời đàn bà “đã qua hai lần lửa” lại là lý do khiến cho nhà văn

“xắn tay” vào đề tài nhạy cảm này một cách bạo liệt nhƣ vậy. Sẽ là hồ đồ nếu chƣa

đọc hết tác phẩm của Y Ban mà đã vội quy kết nó. Nếu cứ theo thói quy chụp viết

37

sex là “rẻ tiền” có lẽ đa số tác phẩm văn học đƣơng đại Việt Nam sẽ khó thoát khỏi

cái mũ trên. Sex, đúng nhƣ tinh thần bình đẳng của nó - chỉ đơn thuần là công cụ

để nhà văn chuyển tải thông điệp của mình. Đối với nhà văn Y Ban, nó chính là

khát vọng sống của cá nhân - một cụm từ thật đơn giản nhƣng chúng ta hãy xem

giá trị nhân văn mà nhà văn Y Ban đã truyền tải qua đó sâu sắc nhƣ thế nào.

Trƣớc khi tập I am đàn bà ra đời trong văn Y Ban không phải không có những

đoạn viết về sex, Y Ban viết nhiều về tình yêu, về cuộc sống gia đình vì thế những

chuyện muôn đời của đàn ông, đàn bà, chuyện vợ, chuyện chồng sẽ xuất hiện là

điều tất yếu. Tuy nhiên vấn đề tình dục trong văn chƣơng lại có rất nhiều mức độ

khác nhau. Viết nhƣ Hồ Xuân Hƣơng xƣa kia cũng đƣợc coi nhƣ là viết về sex, mà

nói tới cảnh ôm nhau, hôn nhau, âu yếm vuốt ve nhau cũng có thể đƣợc coi là có

yếu tố sex; cao hơn là những cảnh “giao hoan” thì không thể phủ nhận là không

viết về dục tình. Khám phá ra một thứ thơ về sex vừa tinh túy, vừa ý nhị, tục mà

thanh nhƣ Hồ Xuân Hƣơng thì tới nay vẫn chƣa có ngƣời khám phá tƣơng tự. Mà

tƣơng tự làm sao đƣợc khi nó đã thực sự là đỉnh cao rồi. Còn viết ở mức độ thứ hai

thì rất nhiều nhà văn sử dụng, tùy từng tác giả, tác phẩm mà vấn đề đó có thể nhạt

hơn hay đậm hơn. Yếu tố sex trong một số tác phẩm của Y Ban nhƣ: Hai bảy

bước chân là lên thiên đường, Chuyện trong căn nhà nhỏ, Cái điềm con thỏ trắng,

Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Tôi yêu nàng đấy thị ơi, Những nghịch lý của thần Ai-

ret, Đàn bà xấu thì không có quà đều có thể xếp vào mức độ thứ hai này, chẳng

hạn một đoạn trong Cái điềm con thỏ trắng: “Anh ôm lấy cô và hôn. Anh sờ soạng

ngƣời cô và không hỏi gì nữa. Cô xua đuổi bàn tay anh. Anh dấu chặt tay cô và cởi

cúc áo… cả hai lại bàng hoàng nhƣ trong giấc mơ”; hay một đoạn khác trong Tôi

yêu nàng đấy thị ơi: “Ngƣời đàn ông bèn thò tay cởi cúc áo thị. Thị cũng chẳng

phản ứng gì. Cởi quần thị, thị cũng chẳng phản ứng gì. Ngƣời thị cứng đờ nhƣ bị

thôi miên. Ngƣời đàn ông vuốt ve thị một cách chậm rãi… Rất từ tốn ngƣời đàn

ông cởi bỏ quần áo mình và nằm sấp lên thị”. Ở những tác phẩm vừa kể trên yếu tố

sex cũng chỉ dừng lại ở mức đó nhƣ một thứ gia vị làm ngon cho một món thức ăn.

Đó là về mức độ còn về mục đích thì dĩ nhiên là khác nhau nhiều vì nó còn phụ

thuộc vào nội dung của từng tác phẩm. Tuy vậy chúng tôi cũng thống kê và thấy

38

rằng đa số tình dục trong văn Y Ban đƣợc miêu tả nhƣ một niềm khao khát, mong

mỏi, một sự tự nguyện dâng hiến. Niềm khao khát ấy hoặc là xuất phát từ tình yêu

hoặc là những đòi hỏi chính đáng của bản năng sinh lý nhƣng luôn bị kiềm thúc

bởi đạo lý, luân thƣờng bởi những ngang trái cuộc đời.

Cái giây phút tan biến vào ngƣời đàn ông của cô gái trong Hai bảy bước chân

là lên thiên đường chính là những phút giây cô cảm nhận đầy đủ nhất tình yêu cô

dành cho anh. Nó đã cồn cào và mãnh liệt ngay trong cái nhìn đầu tiên: “Thực ra

em đã muốn làm điều này với anh từ lâu rồi. Ngay sau cái lần anh nhìn rất lâu vào

em trong cái đám đông ngƣời ấy và nói em đẹp”. Cô biết anh là ngƣời đàn ông có

quyền lực và địa vị, nhƣng cô cũng biết trong anh vẫn có một phần của con ngƣời

bình thƣờng. Và cô đã yêu cái phần ngƣời bình thƣờng đó. Trong cái giây phút

cùng nhau thăng hoa “em đã bừng tỉnh để nhận ra sự nức nở của anh trên ngực em,

trong cơn vọt trào của cảm xúc anh đã rên rỉ bằng tiếng của chú mèo chứ không

phải bằng tiếng gầm của sƣ tử. Em tự hào vì đã làm cho anh sung sƣớng”. Thực ra

ban đầu buổi hẹn hò trong suy nghĩ của cô gái cũng lo lắng vì đoán định những sự

việc sẽ xảy ra nhƣng tình yêu và khao khát trong cô đã thắng. Cô là một ngƣời phụ

nữ hiện đại, sống hiện đại và tôn trọng nhu cầu của bản thân, chính vì vậy sau dâng

hiến, không bị xâm lấn bởi cảm giác tội lỗi mà thay vào đó là một cảm giác hạnh

phúc tự hào mà cô đang cố gắng để có thể tận hƣởng trọn vẹn. Điều ấy đƣợc cô lý

giải một cách rạch ròi bằng sự tỉnh táo của lý trí: “Cái dẫn đến giây phút em đang

tận hƣởng là vì em yêu và ngƣỡng mộ anh, em rất ngƣỡng mộ anh và khao khát

một tình yêu”. Tất nhiên câu chuyện đề cập đến vấn đề tình dục không phải đơn

giản là khắc họa tình yêu và khát vọng đƣợc đến với ngƣời mình yêu một cách trọn

vẹn của cô gái mà nó là đòn bẩy để khiến cho bi kịch của cô thêm thấm thía khi

ngƣời đàn ông mà cô chân thành gửi gắm tất cả lại hiện ra nguyên hình là một kẻ

phóng túng, chơi bời và cô cũng chỉ là một trong những trò tiêu khiển của hắn.

Con ngƣời đẹp nhất khi sống hài hòa với tự nhiên và bản năng gốc của mình.

Tôn trọng bản tính tự nhiên trong con ngƣời, văn chƣơng có thể biểu hiện con

ngƣời sâu sắc, thấu đáo hơn mọi tốt xấu - buồn vui. Nếu nhƣ văn học một thời

ngoảnh mặt, dấu đi những điều có thật trong khát vọng bản năng vẫn tồn tại, ẩn kín

39

ấy thì văn chƣơng hôm nay lại cố gắng giãi bày, cố gắng thấu hiểu, chia sẻ với con

ngƣời, nhờ đó nó thoát khỏi cái nhìn phiến diện một chiều. Và khi chân lý đƣợc

nhận thức lại, cũng nhƣ một số nhà văn khác cùng thời, Y Ban đã khai thác con

ngƣời tự nhiên trƣớc nhu cầu của hạnh phúc đời thƣờng, của cuộc sống riêng tƣ.

Đó là khát vọng tình yêu, tình dục mãnh liệt. Trong Đàn bà xấu thì không có quà

có đoạn Y Ban viết: “Trong tƣ thế cuộn tròn Nấm nhƣ đang nằm trong vòng tay

của ngƣời đàn ông của Nấm. Ngƣời đàn ông của Nấm đang cởi những khuy áo của

Nấm. Rồi bàn tay ấm áp diệu kỳ đang xoa ngực Nấm. Nấm nép chặt vào ngực

anh, một cảm giác ngây ngất ngự trị cơ thể Nấm…” Đó không phải là một cuộc ân

ái đang hay đã diễn ra ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời của cô gái. Nó chỉ là

những gì mà cô tƣởng tƣợng ra để có thể thỏa mãn phần nào cơn đòi hỏi của cơ

thể, một cơ thể chỉ có đôi chân ngắn, còn tất cả đều đủ đầy và khỏe mạnh, kể cả

nhu cầu sinh lý của một ngƣời đàn bà. Từ khi biết quan sát cuộc sống xung quanh,

Nấm nhận ra bi kịch của một con ngƣời không có đƣợc thân hình bình thƣờng.

Nhƣng từ khi nhận biết đƣợc những biến đổi trong cơ thể của chính mình, khát

vọng của chính mình thì Nấm lại hiểu sâu sắc hơn cái bi kịch của một ngƣời đàn bà

- cái bi kịch không có đƣợc những điều đơn giản ở cuộc đời: một tình yêu, một tình

dục, một mái ấm gia đình và những đứa con. Khai thác yếu tố tích cực trong con

ngƣời tự nhiên, tác phẩm đã thể hiện tinh thần nhân văn cao cả khi quan tâm đồng

cảm với những số phận con ngƣời bé nhỏ không may mắn trong cuộc đời.

Khẳng định sự chính đáng đối với những đòi hỏi của con ngƣời tự nhiên;

trong Những nghịch lý của thần Airet - Y Ban tỏ ra táo bạo khi trần tục hóa cả

những thánh thần: “Thần vuốt ve tóc cô, tóc cô óng mƣợt. Thần vuốt ve da thịt cô,

da thịt cô mịn màng. Thần nắm lấy bàn tay cô, tay cô mềm nhƣ những dây tơ hồng.

Thần gục đầu vào ngực cô, bỗng nhiên cái đầu đang nóng bừng của thần dịu lại.

Thần nằm xuống bên cô, đôi tay cô quấn quýt cổ thần yêu thƣơng”. Chính thần

cũng đang làm dịu lại cơn khát của ngƣời con gái đang dần khô héo vì cô đơn, vì

cuộc đời không cho cô cơ hội để kiếm tìm một ngƣời đàn ông. Họ đã cho nhau cái

hạnh phúc trần tục của con ngƣời để rồi trong những giây phút biếng nhác êm ả

bên nhau ấy, “lần đầu tiên thần biết thế nào là tình yêu, hạnh phúc trong yên ả

40

thanh bình. Thần muốn đánh đổi tất cả những vinh quang, những dải đất, những

điều nghịch lý lấy sự biếng nhác vợ chồng. Thần muốn đánh đổi tất cả lấy một

điều… thần ôm ghì cô gái”. Lời thú nhận của vị thần Airet khẳng định sức mạnh,

sức hấp dẫn, “giá trị muôn đời của tình ái”. Đến một vị thần cũng có khát vọng,

đƣợc có một đời sống tình dục nhƣ những con ngƣời bình thƣờng thì vì lẽ gì mà

chúng ta - những con ngƣời bình thƣờng lại e ngại, dấu diếm và luôn có cái nhìn

hẹp hòi đối với nhu cầu tự nhiên ấy.

Sex là chuyện riêng tƣ của con ngƣời, nhƣng có lẽ nó chỉ nên “riêng tƣ” khi

nó là hành động, còn khi bàn về nó, những câu chuyện về nó chúng ta cũng không

nên ngƣợng ngập, che dấu, bởi lẽ trƣớc sau gì nó cũng là sản phẩm của con ngƣời,

là những điều mà tất cả mọi ngƣời khi đến tuổi đều biết và đều làm. Ngày nay cùng

với sự phổ cập Internet, vấn đề tình dục đã đƣợc nhìn nhận một cách cởi mở hơn,

thông thoáng hơn. Nó không còn là thâm cung bí sử nữa khi chỉ cần một cái nhấp

chuột cũng có thể thấy hết đƣợc cái cung điện ngọc ngà của con ngƣời. Văn học

của chúng ta cũng nhận ra rằng từ trƣớc đến nay nó đã “quan liêu” nhƣ thế nào khi

“không biết cách khi làm thỏa mãn những độc giả thân yêu của nó để đề tài ấy cho

các phƣơng tiện nghe nhìn ra sức khai thác vô tội vạ” (Nguyễn Huy Thiệp- dẫn

theo Sisan) [56]. Và vài năm trở lại đây nó đã làm một cuộc cách mạng cởi trói cho

những quan niệm hà khắc về tình dục mà ngƣời cầm quân cũng nhƣ lực lƣợng chủ

đạo của nó lại chính là các chị em phụ nữ. Đọc Nằm nghiêng - Phan Huyền Thƣ;

Bóng đè - Đỗ Hoàng Diệu; Cánh đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tƣ; Dự báo phi thời

tiết - Nhóm Ngựa Trời; và I am đàn bà - Y Ban, bạn đọc “có thể khen hay chê cách

viết của họ là mới mẻ hoặc trần tục, nhƣng nó vẫn là một khuynh hƣớng mới trong

cách viết của một số nhà văn nữ. Bằng cách viết động chạm đến chuyện cấm kị họ

đã tự cởi trói, tự chứng tỏ rằng trong sáng tác không nên phân biệt nam hay nữ.

Bằng nội tâm phong phú và nhạy cảm họ cho rằng họ viết về giới của họ trung

thực hơn là những gì mà ngƣời khác áp đặt” [60]

Khảo sát dƣ luận xung quanh tập truyện I am đàn bà của Y Ban, chúng tôi

thấy có nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Nhƣng cho đến nay tập truyện đã nhận

41

đƣợc nhiều lời khen hơn. Đó chính là vì tác phẩm đã đạt đƣợc độ chín cần thiết của

nó. Chín về nội dung và về hình thức truyền tải, chín cả về ý tƣởng và văn phong.

Và tất nhiên không thể thiếu về độ sâu sắc trong những tầng ý nghĩa của tác phẩm

I am đàn bà là một truyện đƣợc dùng làm tựa sách, kể về một ngƣời đàn bà

thuần Việt, vì lòng nhân từ, một bữa nọ vào rừng kiếm mật ong bắt đƣợc một đứa

trẻ sơ sinh bị bỏ rơi đem về nuôi cùng đàn con của mình, dù nhà chị rất nghèo. Một

ngày kia làng tuyển lao động đi Đài Loan, giống nhƣ những phụ nữ nông thôn

nghèo khác, chị vay tiền đặt cọc để đƣợc đi “xuất khẩu” dù chỉ làm cái nghề giúp

việc gia đình. Ở đó chị bị nhốt vào một căn nhà giống nhƣ một hoang đảo và làm

việc chăm sóc một ngƣời đàn ông bị bại liệt. Ngôn ngữ bất đồng, không tiếp xúc

với xã hội chị chỉ biết hết lòng chăm sóc ngƣời xa lạ với nghĩa vụ của kẻ làm thuê,

của một ngƣời đàn bà nông dân chịu thƣơng chịu khó và đặc biệt là bằng cái thiên

chức làm mẹ, làm chị thuần khiết. Nhƣ một bí ẩn khoa học, ngƣời đàn ông kia

bỗng phục hồi một phần thân thể mà biểu hiện rõ nhất là “chất ngƣời” nguyên

thủy. Sáu trăm ngày bên xứ ngƣời, cô đơn, chỉ biết có công việc và trò chuyện với

một ngƣời không có khả năng nói đƣợc, nỗi nhớ chồng, nhớ con của chị mỗi lúc

càng trở nên cồn cào da diết. Thời gian nhƣ kẻ đồng lõa, nó hối thúc, nó đẩy chị tới

những cơn thèm khát chồng vợ, nó ám ảnh vào trong giấc mơ của chị. Và điều gì

đến đã phải đến, cơn khao khát xác thịt trong chị cộng với cái ánh mắt reo vui và

cầu khẩn của ngƣời đàn ông mỗi khi chị xuất hiện đã khiến cho chị không còn kìm

nén đƣợc nữa. Và cái camera mà chủ đã đặt ở nơi khuất kín trong phòng đã tố cáo

chị cái tội danh “quấy rối tình dục”. Chị bị vào tù mà không có cách nào để làm

cho ngƣời ta hiểu lời chị nói. Chữ nghĩa kém cỏi, chị chỉ nói đƣợc một câu Anh

ngữ nửa vời để bảo chữa cho mình: “I am đàn bà”.

Bàn về lời bảo chữa bằng câu Anh ngữ nửa vời này, nhà văn Lý Lan góp ý:

“Khi đọc truyện ngắn I am đàn bà tôi rất thích, chị ấy là một nhà văn có tài, có tâm.

Nhƣng đến đoạn gần kết khi ngƣời đàn bà đứng trƣớc tòa nói “I am đàn bà” để biện

hộ cho hành vi của mình tôi thấy hẫng. Nếu là tôi, tôi sẽ nói “I am ngƣời”. “I am đàn

bà” mang lại cảm giác kêu gọi lòng thƣơng hại hay van xin. Mà việc gì phải thế!

Nếu một ngƣời đàn ông rơi vào hoàn cảnh đó thì anh ta cũng hành xử nhƣ ngƣời đàn

42

bà kia thôi” [67]. Nhà văn Lý Lan đã đúng trong cái lý của chị. Nhƣng chúng tôi

nghĩ Y Ban để ngƣời phụ nữ nông dân nói lên câu ấy cũng là có cái lý của Y Ban.

Cái cách giao tiếp với ngƣời bệnh bằng sex của ngƣời đàn bà không chỉ là dục vọng

nhƣ ở ngƣời đàn ông. Nó là sự trộn lẫn giữa bản năng và tình cảm. Vì lòng thƣơng

cảm chị đã đến với thân xác bại hoại của ngƣời đàn ông một cách hồn nhiên của con

ngƣời giống nhƣ khi xƣa chị ban phát sự yêu thƣơng cho cu Đức - đứa bé mà chị

nhặt trong rừng. Chính vì thế chị đã “cho” ngƣời đàn ông phần vì chị cũng có những

ham muốn thân xác nhƣng điều làm chị hạnh phúc lại là những hồi phục bất ngờ của

ngƣời đàn ông bệnh tật. Chị đã sửng sốt reo vui, cái vui của một ngƣời mẹ thấy con

mình chập chững những bƣớc đi đầu tiên: “Ôi, tay cu à? Tay cu cử động đƣợc rồi à?

Đấy, chị biết ngay mà, cu sẽ khỏi bệnh. Cu khỏi bệnh rồi. Tay cu cử động đƣợc rồi

mà. Hay quá, cu giỏi quá. Để chị thơm cu một cái nào”.

Có lẽ chiếc carmera đã ghi lại tất cả, cả niềm vui, cả nƣớc mắt, cả những lời

tâm sự của chị. Nhƣng ai hiểu? Họ cũng không cần hiểu, họ chỉ quan tâm đến hành

vi của chị thôi. Vậy nên chị chẳng bao giờ có cơ hội để thanh minh cho mình cả. Y

Ban từng tâm sự: “I am đàn bà đƣợc viết từ một mẩu tin tôi đọc trên báo…Tôi là

ngƣời làm báo tiếp xúc với không ít số phận đáng thƣơng của những ngƣời đi lao

động xuất khẩu nhƣng tôi vẫn thấy đau đớn khi đọc đƣợc tin này. Tại sao ngƣời

phụ nữ Việt Nam lại có thể bị kiện vì tội quấy rối tình dục? Ngày xƣa tôi lớn lên ở

quê, tôi còn nhớ các bà còn răn dạy con cháu trong nhà rằng: đàn ông nhà mày đi

xa, mày có thèm thì lấy gót chân mà dí vào, đừng có dại dột mà làng nƣớc ngƣời ta

chửi vào mặt. Đấy ngƣời phụ nữ Việt Nam nhẫn nhịn nhƣ thế cơ mà” [53]. Còn

bây giờ, thấu hiểu những ẩn ức của ngƣời đàn bà xa xứ, Y Ban không để ngƣời phụ

nữ của chị nhẫn nhịn nữa. Cuộc sống nghèo đói tha hƣơng, đơn lẻ đã khiến họ quá

thiệt thòi rồi. Còn một cái khát vọng nhỏ nhoi chính đáng chẳng lẽ họ cũng phải

kìm nén nốt sao? Sau nhiều trăn trở tác giả đã ƣu tiên giải phóng cho nguyện vọng

tự nhiên bản năng của ngƣời đàn bà. Đó cũng là ý tƣởng táo bạo nhƣng cũng tràn

đầy tính nhân bản, biểu hiện tình yêu thƣơng trân trọng con ngƣời của nhà văn.

Truyện thứ hai gây sửng sốt cho tập I am đàn bà là một truyện có cái tên rất

ngắn: Tự. Và có lẽ đây mới chính là truyện ngắn khiến cho cả tập sách thành trung

43

tâm điểm để dƣ luận xôn xao ầm ào. Cái xôn xao ầm ào ấy ắt hẳn phải xuất phát từ

màu mè sex của truyện. Nhà văn Y Ban cũng thừa nhận: “…tôi để ngòi bút của

mình tự do khi viết về chuyện đàn ông đàn bà, về những khát vọng và đam mê của

ngƣời phụ nữ. Trƣớc đây tôi viết ra rồi tự biên tập, cắt gọt rất nhiều, còn bây giờ

tôi không biên tập nữa. Truyện Tự trong tập truyện ngắn này là một ví dụ về sự

buông thả, giải phóng ngòi bút của tôi…”. Tác phẩm kể về một ngƣời đàn bà sau

khi đã mất đi khả năng tình dục đã quyết liệt tìm mọi cách để có đƣợc tình yêu

nhằm đảm bảo nhu cầu bản năng chính đáng. Nhƣng thất vọng trƣớc thế giới đàn

ông, chị phải tự sắm sửa cho mình một liệu pháp công nghiệp là cái “chim giả”.

Nghe qua nhƣ vậy ngƣời ta có thể coi đó là một câu chuyện tục tĩu, khoét sâu vào

khía cạnh bản năng của con ngƣời. Nhƣng đằng sau những khát vọng của nhân vật

chính là rất nhiều những ẩn ức bị dồn nén bởi hoàn cảnh xã hội. Trong Tự có ba

ngƣời đàn ông, ngƣời thứ nhất là ngƣời chồng nhất mực yêu thƣơng vợ con, sung

mãn trong tình dục nhƣng bỗng mất khả năng làm chồng do bị sang chấn về tâm lý

(hoàn cảnh nhà chật chội, phải chung đụng, không có góc riêng cho hai vợ chồng)

và bỏ đi vì mặc cảm tội lỗi với vợ. Ngƣời vợ đã từng chờ đợi, chị thăng tiến trong

sự nghiệp và trở thành tiến sĩ khoa học xã hội, nhƣng vẫn khao khát một tình yêu

có cả tình dục hoàn hảo. Và chị đã gặp ngƣời đàn ông thứ hai - một chuyên gia tầm

cỡ nhƣng lại là một kẻ phong tình hay hẹn hò với đàn bà ở những nhà nghỉ rẻ tiền.

Kết quả của cuộc trao đổi thể xác là hai bịch sữa mà ngƣời ấy “thuổng” đƣợc khi đi

họp. Cái giá rẻ ấy đã làm ngƣời đàn bà choáng váng và thấy mình bị hạ thấp. Còn

ngƣời thứ ba là một giáo sƣ văn hóa, chuyên nói về văn hóa lãnh đạo, văn hóa tình

dục nhƣng lại mù tịt về văn hóa làm một ngƣời đàn ông cho ra hồn, chỉ biết kéo

tuột đàn bà lên giƣờng rồi đem khăn lau bàn cho ngƣời tình dùng. Hành trình đi

tìm tình yêu của ngƣời đàn bà đầy bi lụy ê chề vì chị chỉ gặp một thứ tình dục ê

chề. Liệu pháp “tự” của ngƣời đàn bà bằng cái “chim giả” chính là cách để chị

thoát khỏi sự bi lụy với đàn ông. Nếu nhƣ nhân vật “thị” trong I am đàn bà là một

ngƣời đàn bà ít học và thuộc giới nghèo khổ cùng đinh thì ngƣời phụ nữ trong Tự

lại là một ngƣời đàn bà có học, có địa vị trong xã hội, nhƣng họ đều có một điểm

chung là sự thiếu hụt ái tình, đều có cái ham muốn tự nhiên của con ngƣời, nhƣng

44

bao giờ cũng bị phân đôi bởi cái muốn và không muốn, bởi những vạch ranh giới

luân lý. Để rồi, “những lựa chọn của họ cũng chỉ là cái sự bất đắc dĩ của một tâm

trạng rất đàn bà”.

Đúng nhƣ Y Ban nói, trong tác phẩm này chị đã lựa chọn một lối viết về sex

tƣơng đối phóng túng, nhƣng lại không hoàn toàn buông thả dễ dãi mà ta nhận thấy

chị luôn làm chủ đƣợc ngòi bút của mình. Bởi nếu chị buông thả thì có lẽ “cuốn này

sẽ thành tiểu thuyết rất ẩm ƣớt”. Y Ban nói rằng: chị “là một nhà văn viết về sex một

cách có logic và có văn hóa” [54]. Viết về sex một cách logic theo chị có nghĩa là

“tôi không cố tình nhấn nhá vào sex một cách khiêu dâm. Tôi viết về sex khi nhân

vật cần phải nhƣ thế, câu chuyện nó đẩy nhân vật vào tình huống có sex…”[54].

Còn viết về sex một cách có văn hóa có nghĩa là chị sẽ “đặt sex vào sự đối xử văn

minh và có văn hóa của những ngƣời có tri thức”, là “khéo léo thay thế những khái

niệm về các bộ phận, các hành vi của con ngƣời bằng những cách diễn đạt văn

chƣơng hơn, phủ lên chi tiết tục những ý nghĩa rất ngƣời…”. Tất nhiên chúng ta

không chỉ căn cứ hoàn toàn vào lời của chính tác giả, bởi từ ý đồ chủ quan đến hiệu

quả khách quan còn là con đƣờng thật xa. Nhƣng quả thật trong Tự câu chuyện đã

đẩy nhân vật vào tình huống có sex và mặc dù diễn biến sex có cụ thể chi tiết nhƣng

không trần trụi và phản cảm, bởi nó không tục, nó đƣợc viết đúng nhƣ tinh thần mà

nhà văn đã nói và quan trọng là Y Ban không tách rời nhu cầu tình dục của nhân vật

với nhu cầu tình yêu. Với chồng, có tình yêu nên tình dục có khao khát, có quá trình

phát triển và đƣợc thăng hoa. Nhƣng với hai ngƣời đàn ông còn lại, thì tràn ứ một

cảm giác thất vọng, chán nản, ê chề khi nhân vật phải đối diện với sex không tình

yêu, một thứ sex thƣơng mại và vô văn hóa. Thiết nghĩ nếu không kiểm soát đƣợc

ngòi bút của mình, có lẽ tác giả cũng không thể hƣớng ngƣời đọc tới phần Ngƣời

của nhân vật nhƣ vậy. Sự xót xa thấm thía khi có tình yêu mà cái khát khao tình dục

không đƣợc thỏa mãn, cái ê chề chua chát khi đƣợc thỏa mãn về tình dục mà không

có tình yêu chính là những giá trị nhân văn không thể có ở một ngòi bút buông

tuồng dễ dãi.

Ở Tự ngƣời ta không những hiểu mà còn rất thấm thía về cái cách mà nhu cầu

tình dục của con ngƣời đƣợc đối xử nhƣ thế nào trong các giai đoạn phát triển của

45

xã hội. Con ngƣời cứ đi tìm rồi bị rơi vào cảm giác hụt hẫng, lơ lửng thất vọng bẽ

bàng rồi lại đi tìm…Thực sự Tự đã làm đƣợc cái việc là “tạo đƣợc một cái nhìn

trực diện vào chủ đề tình dục”, đặc biệt là tình dục với phụ nữ. Đã là con ngƣời thì

tình dục là nhu cầu, mà nhu cầu thì cần đƣợc đáp ứng. Hơn nữa đây lại là nhu cầu

chính đáng của bản năng thì lại càng không thể “lờ đi” hoặc xem thƣờng. Đem nhu

cầu tình dục ra để so sánh với nhu cầu ăn uống thì có vẻ không đƣợc hợp lắm

nhƣng nhu cầu tình dục không đƣợc thỏa mãn (theo nghĩa họ hoàn toàn đáng đƣợc

hƣởng) thì cũng chẳng khác gì ăn chƣa đủ no, uống chƣa đã khát. Tuy vậy đối với

nhiều phụ nữ, chuyện dành “ƣu ái” cho nhu cầu này chƣa đƣợc họ ý thức hoặc ý

thức chƣa đầy đủ. Tƣ tƣởng cho rằng tình dục chỉ thuộc về mảng tối, mảng cấm kỵ

trong con ngƣời tồn tại quá lâu đã trở thành một nếp nghĩ, một cái “bóng đè” đối

với ngƣời phụ nữ phƣơng Đông trên con đƣờng đi tìm hạnh phúc cho chính mình.

Y Ban cho rằng, đó chính là vì họ bị chi phối bởi chữ “nhẫn” trong tình dục.

“Trƣớc kia ngƣời phụ nữ Á Đông khi lên giƣờng với chồng dƣờng nhƣ chỉ để thực

hiện một nhiệm vụ là duy trì nòi giống nhà chồng. Có nhiều ngƣời tìm đƣợc khoái

lạc khi ân ái với chồng, thì lập tức bị mẹ chồng can thiệp: Rồi cô lại giết chồng

bằng cái thứ ấy của cô mất thôi. Thế là ngƣời đàn bà cắn răng chịu một chữ nhẫn

nhục với chồng, mặc cho chồng dày vò tấm thân mình mà không có sự hợp tác, đôi

khi vì không có sự hợp tác đó mà còn bị đánh đập, chửi rủa” [40]. Nhân vật tôi

trong Tự ở vào trƣờng hợp thứ hai, tức là cũng tìm đƣợc khoái lạc khi cùng chồng

ân ái. Nhƣng khác ở chỗ khi bị mẹ chồng nhắc nhở, cô lại muốn gào lên rằng: “cô

cũng thích chuyện ấy với chồng…nếu không có tiếng đằng hắng của mẹ và tiếng

cƣời rúc rích của chị dâu”. Dù chỉ ngấm ngầm trong suy nghĩ nhƣng đó cũng là

một phản ứng rất dữ dội, muốn đƣợc mọi ngƣời hiểu và thừa nhận nhu cầu có thật

ấy. Khi chống đối lại quan điểm ấu trĩ của ngƣời mẹ là: “đàn bà thì mình chỉ cốt

cho nó có con chứ có phải sung sƣớng gì đâu” là ngƣời đàn bà muốn phản kháng

lại lối suy nghĩ tự kìm hãm, tự dối lừa cái bản năng của không ít ngƣời trong xã hội

chúng ta. Cái ý thức mạnh mẽ ấy cũng nằm trong ý thức của Y Ban khi chị viết

truyện ngắn này: “Tình dục cổ xƣa nhƣ loài ngƣời vậy, bởi nó trƣớc hết là con

đƣờng duy trì nòi giống cho nhân loại. Nhƣng sẽ không chỉ dừng lại ở đó. Để có

46

một em bé, ngƣời ta cần đến x lần, hai em bé, cần đến 2x lần, nhƣng trong một đời

ngƣời có đến hàng trăm, hàng nghìn cái x lần nhƣ vậy. Đâu phải tất cả đều nhằm

duy trì nòi giống. Vậy thì sex còn là phƣơng tiện giải trí và văn hóa” [53].

Đề cập đến tình dục thẳng thắn không né tránh, nhất là trong “môi trƣờng xã

hội có bề dày lịch sử đi qua chế độ phong kiến” thì ít nhiều có thể gây sốc nhƣng

không phải cú sốc nào cũng mang đến hiệu quả tiêu cực. Chẳng phải Cánh đồng bất

tận của Nguyễn Ngọc Tƣ hay Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu đã từng là những cú sốc

đó sao? Nhƣng hệ quả của nó đến giờ này, đã có ai đủ lý lẽ để khẳng định nó hoàn

toàn tiêu cực? Nếu có đánh giá nó tiêu cực cũng không thể vứt bỏ những mặt tích

cực của nó. Làm sao Nguyễn Ngọc Tƣ có thể gợi dâm đƣợc khi đi suốt cánh đồng

ruồng rẫy, xua đuổi sex, ngƣời ta chỉ bị ám ảnh bởi cái nhờn nhợn, rờn rợn về một

ngƣời đàn ông tung hoành ngang dọc trên thân xác hết ngƣời đàn bà này đến ngƣời

đàn bà nọ, bởi cái phẫn nộ xót xa tuyệt đỉnh lúc ngƣời cha buộc phải chứng kiến

cảnh con gái mình bị hiếp dâm…Còn ở cái chốn mà một ngƣời đàn bà làm mƣa làm

gió trên mấy thế hệ đàn ông của một dòng tộc trong Bóng đè, ngƣời ta lại không

khỏi kinh hoàng trƣớc văn phong ngữ điệu của Đỗ Hoàng Diệu, nhƣng có mấy ai

không khâm phục cái bản lĩnh văn học của nhà văn ấy, có mấy ai lại không trăn trở

suy ngẫm về những nhức nhối trong xã hội, trong cuộc sống xung quanh về những

vấn đề của dân tộc, đất nƣớc đằng sau câu chuyện tình dục. Cho nên “có sốc thì cứ

sốc đi, rồi khi bình tĩnh lại thì ngẫm xem liệu ngƣời ta có thể phân biệt chủng tộc

với cái nhu cầu ấy hoài đƣợc không” [50]. Có nhiều ý kiến phản đối Tự vì cho rằng

nó không tế nhị vì sex đƣợc miêu tả quá trần trụi. Đến nay cuốn I am đàn bà bị thu

hồi và cấm phát hành vẫn chƣa ai rõ là vì lý do gì, kể cả tác giả cũng không nhận

đƣợc một lời giải thích nào, nhƣng có lẽ mọi ngƣời đều ngầm hiểu là do cách viết về

tình dục khá mạnh của nhà văn trong truyện ngắn Tự. Nhƣng cần phải thấy Tự là

tình dục của một ngƣời đàn bà mạnh mẽ, bị kìm nén, bị tƣớc đoạt, vùng vẫy để tìm

lối thoát. Mà sau lại cộng thêm với sự thất bại, bẽ bàng của hi vọng tìm kiếm một

chút lãng mạn trong tình yêu để “trang điểm” cho cái nhu cầu không thể phủ nhận

đó. Vì thế cái nhẹ nhàng, tế nhị, rụt rè có lẽ sẽ không thể đem lại hiệu quả cho ý đồ

của tác giả. Một bản năng tình dục mạnh mẽ bị đè nén, khao khát mãnh liệt, bị cầm

47

tù bóp nghẹt bởi một xã hội đói nghèo về vật chất, nghèo nàn về tinh thần và trí tuệ.

Sự háo hức, mong đợi luôn bị dập tắt một cách phũ phàng ngay trong giai đoạn cao

trào, hƣng phấn. Rồi nỗi oan ức một thời của nó vẫn không đƣợc xoa dịu bởi sex vẫn

không đƣợc mơn trớn, vuốt ve. Hai ngƣời đàn ông đến sau đều là những đại diện

cho lớp ngƣời có địa vị, có tri thức văn hóa trong xã hội nhƣng hành vi tình dục lại

mang đậm chất bản năng tùy tiện, xô bồ đã khiến cho cảm giác tủi nhục, ê chề về

một tình dục bị cƣ xử thiếu văn hóa của ngƣời phụ nữ từng trải đã phát triển đến cao

trào, không còn dành chỗ cho sự thi vị lãng mạn nữa. Vậy thì một lối viết e dè, nhẹ

nhàng, mờ mờ, tỏ tỏ có đem lại hiệu quả?

Tác giả câu chuyện từng nói rằng: “ngƣời ta nói cách miêu tả về sex của tôi quá

tỉ mỉ và tự nhiên, nhƣng tôi lại nghĩ cái tục của truyện nếu có không phải ở sự miêu tả

mà ở ý tƣởng: phụ nữ có thể dùng một cái chim giả để thay thế cả thế giới đàn ông”

[53]. Chúng tôi nghĩ cái “chim giả”, mặc dù là liệu pháp để giữ lấy sự kiêu hãnh,

nhƣng nó lại là lựa chọn của nhân vật ở thế cùng trong tuyệt vọng. Nó là một sự lựa

chọn bất đắc dĩ và không có hạnh phúc vì rõ ràng nó không đem lại cảm xúc tích cực

cho nhân vật. Có nghĩa là ý tƣởng “thay thế cả thế giới đàn ông” bằng “liệu pháp công

nghiệp” cũng thất bại, thậm chí nó còn khoét sâu thêm nỗi đau cho ngƣời đọc về một

cuộc sống tình dục đã bị vật chất hóa chƣa có lối thoát.

Đến đây có thể nói, vấn đề chấp nhận hay phản đối một tác phẩm nhƣ Tự còn

phụ thuộc vào “khẩu vị” của độc giả. Những ngƣời chống đối Tự không phải họ

không nhìn thấy những thông điệp nhân văn của tác phẩm mà là vì họ chƣa thể

chấp nhận đƣợc cách viết theo xu hƣớng “phô bày” nhƣ thế trong văn học nƣớc

nhà mà thôi. Đối với họ, nếu chọn tác phẩm nhƣ thế để làm phƣơng tiện chuyển tải

nội dung thì tác giả cần khéo léo và dụng công hơn nữa cho bề mặt tác phẩm đƣợc

thanh hơn, chi tiết phải đƣợc xử lý sao cho nền nã với cách nghĩ của ngƣời Việt

Nam hơn. Nói về khâu tiếp nhận, có một độc giả đã đem Tự và Bóng đè ra để so

sánh: “Y Ban đã không nhân nhƣợng với các nam độc giả khi để cho một nhân vật

chính bị bệnh bất lực. Nam độc giả với củ rong giềng xìu xìu ển ển sẽ chẳng bao

giờ thích một câu chuyện mô tả cảnh một ngƣời chồng bị bệnh bất lực trong truyện

Tự. Cho nên tuy các cảnh tả những tình tiết về rung động của thân xác ngƣời đàn

48

bà trong các chuyện sex của Y Ban rất ẩm ƣớt, nhƣng các nam độc giả sẽ không

thoải mái khi thấy tác giả trừng phạt họ bằng một sự mô tả cảnh bất lực của đàn

ông. Đấy là lý do vì sao Tự tràn trề sex mà ít nam độc giả hào hứng bàn

đến…trong khi Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu thì tả sex đã thô, và tràn đầy những

bố cục giả dối thế nhƣng nó lại đƣợc các nam độc giả ào ạt tìm đọc. Lý do là vì câu

chuyện đƣợc đánh bóng bởi những thông điệp chính trị nhƣ Việt Nam chống Tàu.

Với nam độc giả thì vừa chính trị, vừa thô bỉ cũng chả sao” [58]. Đến đây xin đƣợc

nói thêm rằng vấn đề tiếp nhận của ngƣời đọc không chỉ phụ thuộc vào “khẩu vị”,

nó còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức và văn hóa của ngƣời đọc nữa. Còn nhƣ ý

kiến trên, theo chúng tôi đó là một ý kiến hoàn toàn chủ quan và đã hạ thấp văn

hóa đọc của những nam độc giả. Không bình luận thêm, chúng tôi chỉ xin đƣa ra ý

kiến của nhà văn Y Ban để có thể soi tỏ điều đúng sai của nhận định trên đây:

“…Cách đọc mà cứ chặt khúc tác phẩm ra, thì tôi cho đó là lối đọc không có văn

hóa. Tôi nghĩ khi đọc một tác phẩm phải đọc tổng thể” [44]. Trong nghệ thuật khái

niệm sex nhƣ cái kính “chiếu yêu”: “nếu tiếp cận dƣới khía cạnh nhân văn nó sẽ là

nhân văn, nếu nhìn nó với sự kinh tởm dục tính, nó sẽ là kinh tởm. Tôi chỉ buồn

khi tác phẩm của mình rơi vào tay những ngƣời mà khi đọc họ chỉ thấy duy nhất

sex thôi, còn bao nhiêu câu chữ, tầng ý họ hoàn toàn không thấy” [45]

Tình dục là một nhu cầu tự nhiên của con ngƣời. Nhƣng tình dục còn là một

hành vi văn hóa diễn ra giữa hai ngƣời và đòi hỏi cả hai phải cùng đƣợc thỏa mãn.

Tuy nhiên đòi hỏi đó nếu nhƣ có ai trong hai ngƣời không đƣợc đáp ứng thì đó

chính là ngƣời phụ nữ. Quan tâm đến thiệt thòi tƣởng nhƣ nhỏ bé nhƣng lại rất

quan trọng đó, trong tác phẩm Xuân Từ Chiều, Y Ban đã để cho nhân vật Từ bày tỏ

những băn khoăn và lý giải về vấn đề này: “Tại sao có nhiều ngƣời đàn bà luôn

than thở rằng, chồng không biết chiều, không biết cách làm tình, không bao giờ

đƣợc thăng hoa, cả đời ngủ với chồng mà không đƣợc sƣớng bao giờ. Nhƣ vậy có

nghĩa là, trong số chị em có chồng, nhiều chị em chƣa bao giờ đƣợc chạm vào

điểm G”. Từ cũng đã có quãng thời gian không cảm nhận đƣợc chồng nhƣ thế.

Nhƣng Từ luôn có ý thức “giải cứu” cho mình khỏi cái “rắc rối” ấy trong quan hệ

chồng vợ. Cô cho rằng: “chị em phụ nữ thay vì ngồi than thở rằng chồng không

49

biết cách làm cho họ sung sƣớng thì…họ hãy tự biết cách khai mở mình đi”. Bản

thân Từ cũng đã tìm cho mình chiếc chìa khóa riêng để tự khám phá cơ thể một

cách kỹ lƣỡng hơn. Và đó chính là cái khớp N mà Từ đã rất nghiêm túc nói với

chồng mong muốn cùng đƣợc hợp tác để đạt tới cảm xúc thăng hoa. Hƣớng tới nữ

quyền, Y Ban đã hƣớng tới những vấn đề rất đời thƣờng, trần thế, song lại rất có ý

nghĩa đối với ngƣời phụ nữ, kích thích ở họ niềm vui sống. Ngƣời phụ nữ có khát

khao đƣợc dâng hiến nhƣng họ cũng có khát khao đƣợc tận hƣởng, đƣợc đạt tới sự

khoái cảm trong tình dục. Đó là khát khao hoàn toàn chính đáng và là biểu hiện

của một cuộc sống có chất lƣợng cả về vật chất, tinh thần và lạc dục.

Tóm lại yếu tố sex trong Tự, trong Xuân Từ Chiều, hay trong I am đàn bà,

Đàn bà xấu thì không có quà, Hai mươi bảy bước chân là lên thiên đường và một

số tác phẩm khác của Y Ban không chỉ là phƣơng tiện để lôi cuốn, để “gắn bạn đọc

với con chữ”, nó còn là phƣơng tiện để giáo dục: sex là nhu cầu bản năng, nhƣng

nó cũng là một trong những biểu hiện của tình yêu, nó còn là văn hóa và giải trí.

Con ngƣời chúng ta cần nhìn nhận nó dƣới khía cạnh khoa học và nhân văn, để nó

đƣợc đối xử một cách xứng đáng nhƣ cái tự nhiên vốn có. Đừng bao giờ lạm dụng

tùy tiện để sex trở thành hành vi vô văn hóa và cũng đừng bao giờ đè nén, hay áp

đặt, gắn sex với bất kỳ một loại đạo đức nào, luân lý nào để nó mãi mãi phải là sự

khao khát không bao giờ đƣợc thỏa mãn của con ngƣời. Bởi thiên chức của sex

không phải chỉ là cách để bảo tồn nòi giống mà còn đem lại sự sung sƣớng, thăng

hoa trong hạnh phúc của con ngƣời.

2.1.4. Niềm tin và nghị lực vƣợt lên hoàn cảnh

Bằng sự đồng cảm và thiện cảm, Y Ban còn viết về những con ngƣời biết vƣợt

trên nhƣng nỗi đau bằng niềm tin và nghị lực. Mấy ai trong cuộc đời lại chỉ gặp

những điều may mắn, suôn sẻ. May mắn cũng không phải là điều ngẫu nhiên. Y

Ban luôn đề cao những con ngƣời sinh ra vốn đã không may mắn nhƣng lại là

ngƣời biết dọn đƣờng cho may mắn đến với mình.

Trở lại tác phẩm Đứa con và người đàn bà tật nguyền, ngƣời đàn bà trong câu

50

chuyện vốn là một ngƣời không may mắn có đƣợc một thân hình bình thƣờng nhƣ

bao ngƣời. Chị bị thọt một chân. Chị không oán trách bố mẹ và đất trời đã sinh ra

mình nhƣ thế, “chị có một niềm tin tuyệt đối rằng cuộc đời sẽ công bằng mang đến

hạnh phúc cho chị”. Nhƣng cuộc đời vốn khắt khe, nếu nhƣ chị không phải là một

ngƣời mạnh mẽ, không phải là một ngƣời dám đƣơng đầu, không phải là một phụ

nữ dũng cảm vƣợt lên dƣ luận xã hội thì cái mơ ƣớc của chị vẫn mãi chỉ là ƣớc mơ.

Niềm tin không thôi chƣa đủ mà còn phải có hành động. Cái khát khao mong mỏi

có đƣợc một đứa con của chị đã trở thành hiện thực - đó là điều may mắn mà chính

chị là ngƣời mở lối cho nó. Chị bị ngƣời ta tra hỏi, lên án, chị bị cách chức từ một

bác sỹ xuống làm hộ lý. Nhƣng chị đã lƣờng trƣớc hết tất cả, chị vẫn cảm thấy

hạnh phúc bởi con tim chị đã không còn nhức nhối, khắc khoải vì cô đơn nữa. Âu

cũng là một kết thúc có hậu dành cho những ai biết tin vào cuộc sống và biết vƣợt

lên chính mình, “vƣợt lên những khuôn khổ, nếp nghĩ tầm thƣờng của mọi ngƣời

vẫn nghĩ”.

Còn Nấm trong Đàn bà xấu thì không có quà cũng là ngƣời có những khiếm

khuyết về hình thể. Nhƣng nghị lực của một cô bé vốn có đầu óc sáng láng đã giúp

Nấm có đƣợc những thành công nhất định. Nhận thức đƣợc ngoại hình không bình

thƣờng của mình, nhiều đêm Nấm đã khóc, đã đau đớn vì cái sự không bình thƣờng

ấy nhƣng chƣa bao giờ Nấm nghĩ rằng mình sẽ buông xuôi đầu hàng số phận. Gạt đi

sự tự ti, Nấm đã đi học và cũng đã có đƣợc một cái bằng cử nhân đàng hoàng, cũng

có một công việc để nuôi sống bản thân. Rồi bao nhiêu những trắc ẩn trong đời sống

tinh thần, tình yêu tha thiết với cuộc đời, Nấm đã dồn vào những trang viết. Văn

chƣơng thực tế là cứu cánh của Nấm, nhƣng ngƣợc lại cũng phải là ngƣời nghị lực

lắm, bản lĩnh lắm, Nấm mới chấp nhận đến với văn chƣơng bởi vì “vinh quang đấy

mà nhiều cay đắng lắm”. Truyện ngắn của Nấm đƣợc đăng báo, nhiều phóng viên đã

đến để phỏng vấn Nấm nhƣng ngƣời ta chú ý nhiều đến đôi chân của nàng hơn là

việc nàng đã viết nhƣ thế nào. Song Nấm đã kiên trì để dần dần chứng minh cho mọi

ngƣời biết cái sai trong quan điểm “văn chƣơng là sự cao sang không phải dành cho

một con lùn”. Nấm vẫn sống tha thiết, vẫn yêu chân thành và vẫn viết bằng trái tim

mình. Bởi Nấm tin và muốn sống một cách mạnh bạo có đôi phần gai góc nhƣ lời

51

khuyến khích của ngƣời phụ nữ cùng làm với Nấm: “Các ngƣời có đôi chân dài thì

tôi có đôi chân ngắn, các ngƣời đi mƣời bƣớc thì tôi đi hai mƣơi bƣớc. Nhƣng con

đƣờng không chỉ đếm bằng bƣớc đi mà bằng ý nghĩ”.

Ở tác phẩm Ôn lột tử, nghị lực của ngƣời đàn bà bất hạnh lại đƣợc đánh giá

trên một khía cạnh khác. Ngƣời phụ nữ chờ chồng đi kháng chiến xƣa kia đã là

những hình ảnh đẹp đi vào thơ văn nhƣ huyền thoại. Điều đó đƣợc giải thích bằng

lòng thủy chung son sắt đã có từ ngàn đời của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Nhƣng sự

chờ đợi của ngƣời đàn bà trong truyện ngắn này lại không thể giải thích theo cái

nghĩa ấy. Chờ đợi một ai đó, chờ đợi một điều gì đó cũng cần phải có niềm tin, đủ

sự kiên nhẫn. Chờ đợi một kẻ phản bội vô ơn, có lẽ niềm tin và sự kiên nhẫn của

họ phải nằm ngoài sức tƣởng tƣợng. Lẽ nào khi yêu ngƣời đàn bà họ dại khờ đến

thế? Gã đàn ông sau khi khỏe mạnh nhờ ngƣời đàn bà đã bỏ đi nhƣ con nhện rời bỏ

tổ tò vò. Vậy mà, Bùa vẫn không chuyển nhà “Bùa đan những mũ len, và sống và

chờ”. Chị chỉ sợ một ngày nào đó ngƣời đàn ông yếu đuối lại trở về mà không gặp

đƣợc chị. Có lẽ sự chờ đợi sẽ là vô vọng nhƣng điều quan trọng là Bùa đã vƣợt lên

trên nỗi đau bị phản bội. Dƣờng nhƣ trời phú cho chị một sức mạnh tiềm tàng. Chị

vẫn sống và nuôi dƣỡng niềm tin trong sự chờ đợi. Sau những nỗi đau không phải

ai cũng làm đƣợc điều ấy. Nó đã chứng tỏ Bùa là ngƣời phụ nữ giàu nghị lực. Mặc

dù đây không phải là ý nghĩa chính của Ôn lột tử nhƣng xét ở một khía cạnh nào

đó tác phẩm vẫn mang tầng nghĩa này.

2.1.5 Sự tự ý thức về cá nhân.

Trong văn Y Ban lời ngợi ca không chỉ dành cho những con ngƣời nhân hậu,

vị tha với những khát vọng bình dị; cho những tấm gƣơng về nghị lực đáng nể

phục mà còn dành cho những phụ nữ yếu đuối, nhƣng trong họ là cả một khối

mạnh mẽ quyết liệt những đòi hỏi quyền đƣợc sống, đƣợc yêu, đƣợc nắm bắt cơ

hội hạnh phúc. Đó là biểu hiện trƣớc nhất và cũng là sâu sắc nhất của việc ý thức

đƣợc cái tôi cá nhân của con ngƣời.

Y Ban không có nhiều tác phẩm viết về phƣơng diện này, nhƣng đã viết thì

52

cực kỳ mạnh mẽ và sâu sắc. Ngƣời con gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ là một

công dân bình thƣờng, khát khao đƣợc yêu, đƣợc làm mẹ nhƣng cô đã trở nên thảm

hại chỉ vì điều mơ ƣớc ấy bị bao bọc bởi những quan niệm luân lý của thế hệ cũ, có

lẽ đã không còn phù hợp. Sau cái đêm đầy nhục nhã đớn đau ở bệnh viện dƣờng

nhƣ cô đã ý thức rõ hơn về cái quyền của cá nhân cô: “Con mong muốn tình yêu.

Con đã có đầy đủ một tình yêu ấy rồi. Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí

không cho con buông thả. Giá nhƣ ngày ấy mặc dù tội lỗi mẹ cứ cho chúng con lấy

nhau thì con đã trở thành một ngƣời phụ nữ bình thƣờng chứ không phải mang

cảnh góa bụa trong cô thiếu nữ kén chồng thế này”. Mất đi đứa con và mất luôn cả

tình yêu, dƣờng nhƣ đó là một cú sốc quá lớn đối với một cô gái tuổi đời còn trẻ,

nhƣng cô là ngƣời của thế hệ khác với cái thế hệ “đặt đâu ngồi đấy”- thế hệ chỉ

bƣớc theo những gì định sẵn. Ở thế hệ của cô - họ sống bằng sự lựa chọn của cá

nhân (cho dù sự lựa chọn ấy không phải bao giờ cũng đúng) nên họ mạnh dạn đối

thoại, chất vấn với thế hệ trƣớc: “cái giống lạc loài- con và hài nhi của con là cái

giống lạc loài… Con là đứa lạc loài? Các em con không lạc loài. Con sẽ không lạc

loài nếu nhƣ không bao giờ xảy ra chuyện này. Hài nhi của con sẽ không lạc loài

nếu con và anh ấy cƣới nhau. Phải thế không mẹ? Có khác nhau nhiều không mẹ?

Cái gì làm thƣớc? Tình yêu hay hôn nhân? Về mặt vật chất cái đêm sinh ra giống

lạc loài có giống cái đêm sinh ra giống không lạc loài không hả mẹ? Con yêu mẹ,

con tin mẹ nhƣng con cũng yêu sách vở và tin sách vở. Vậy mà con không hiểu

đƣợc rằng tình yêu thì đƣợc hết lời ca ngợi nhƣ thế mà tình yêu lại hay sinh ra

những giống lạc loài!”. Lời chất vấn không phải là lời trách móc, là sự phủ nhận

những khuôn phép cũ. Đó chỉ là mong muốn thế hệ trƣớc hãy nới lỏng những quan

niệm nhân văn trong cách nhìn nhận mối quan hệ của con ngƣời, loại bỏ những

khuôn thƣớc cứng nhắc để cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi vì thế hệ này chỉ có thể sống

với sự lựa chọn của mình chứ không thể bắt họ phải sống bằng môi trƣờng, bằng

những tƣ tƣởng, những suy nghĩ của thế hệ trƣớc. Dù suy nghĩ trong tình yêu của

thế hệ này hay của cá nhân nào đó không phải lúc nào cũng đúng nhƣng dám bộc

lộ nó là thái độ dũng cảm của ngƣời phụ nữ hiện đại. Nó chính là “tiếng nói cá

53

nhân, tiếng nói thế hệ”.

Dám thẳng thắn để bộc lộ những ý muốn, quan điểm, đòi hỏi của chính mình

là một biểu hiện của ý thức cá nhân, ý thức đó còn đƣợc Y Ban triển khai trên một

khía cạnh nữa đó là việc tự nhận ra những giá trị, ý nghĩa của bản thân đối với

những ngƣời khác và với cuộc đời. Ngƣời phụ nữ trong Biển và người đàn bà xấu

xí là nhƣ vậy. Chấp nhận hy sinh, chấp nhận khổ cực, ngƣời phụ nữ xấu còn chấp

nhận tất cả những hệ lụy về mình để cứu vớt một ngƣời đàn ông yếu đuối. Ngƣời

đàn ông đã dần trƣởng thành, cứng cáp trong bàn tay chăm sóc vỗ về của ngƣời

đàn bà ấy. Nhƣng bản chất đàn ông muôn đời vẫn thế, anh vẫn muốn đến với

những ngƣời đàn bà xinh đẹp. Nàng có thể bán nhà, bán cửa để mua cho anh một

phòng thí nghiệm bên bờ biển. Nàng cũng có thể ép xác mình để chờ đợi ngày anh

thành đạt… Nhƣng nàng không đủ sức biến mình thành ngƣời khác. Nàng vẫn là

một ngƣời đàn bà xấu xí. Vì thế khi anh trở thành một ông chủ giàu có với đầy đủ

uy lực và sức mạnh thì cũng là lúc nàng ra đi. Nàng ra đi vì nhận thức đƣợc rằng

“một ngƣời đàn bà xấu xí không thể nào giữ đƣợc một ngƣời đàn ông cho trọn vẹn.

Cho dù có phải là một ngƣời đàn ông do mình tạo ra đi nữa, cũng thế thôi”. Nhƣng

nàng ra đi không phải trong thất bại, nàng vẫn chiến thắng ít nhất là đối với bản

thân nàng, bởi lẽ nàng đã làm tất cả những gì có thể và còn hơn thế nữa. Không

hoàn toàn giống nhƣ ngƣời phụ nữ trong Biển cứu rỗi (Võ Thị Hảo) ra đi vì “một

chút lòng tự tôn của giống ngƣời”, nàng ra đi nhƣ một ngƣời đàn bà cao thƣợng và

kiêu hãnh. Kiêu hãnh vì những gì mình đã làm, kiêu hãnh vì sự thông minh và lòng

bao dung của mình: “Nàng là một ngƣời đàn bà nhân hậu. Nàng rất thông minh.

Nàng biết việc mình làm. Nàng sẽ giết chết ngƣời đàn ông đó nếu nàng muốn.

Nhƣng nàng chẳng làm thế đâu”. Biển cũng hát những lời ngợi ca nàng “chính

nàng, nàng là vàng hòa lẫn trong nƣớc biển này”. Biển đem tới cho ngƣời đàn bà

bất hạnh sự thanh thản, trả lại cho nàng sự thánh thiện và cao thƣợng.

Viết về những mảng sáng trong cuộc sống đời thƣờng, Y Ban luôn có ý thức

tôn trọng cuộc sống riêng tƣ của con ngƣời cùng những rung động cảm tính, bản

năng của họ. Đó là cách tiếp cận hiện thực thể hiện sự dân chủ hóa trong văn học,

là cách nhìn nhân bản trong việc khám phá con ngƣời và tạo nên sắc thái riêng

54

trong tác phẩm Y Ban.

2.2. NHỮNG GÓC KHUẤT TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƢỜNG

Sau đổi mới, Y Ban là một trong những nhà văn có ý thức và có khả năng

phản ánh chân xác về hiện thực và con ngƣời, nhìn nhận vấn đề theo tất cả các

chiều kích của nó. Chị không chỉ viết về những mảng sáng mà còn quan tâm tới

những mảng khuất tối của cuộc sống đời thƣờng. Đó là mảng viết về cái xấu, cái

ác, cái phi nhân, về nỗi đau và bi kịch. Khơi gợi nhiều cung bậc cảm xúc ở ngƣời

tiếp nhận, hƣớng tới cái chân - thiện - mỹ, Y Ban luôn giữ một quan điểm rõ ràng:

“Tôi viết về cái xấu, cái ác là để ngƣời ta căm ghét nó và muốn sống đẹp hơn, thiện

hơn, viết về sự đổ vỡ là để gợi lại niềm tin yêu cuộc sống”.

2.2.1 Lối sống thực dụng và sự xuống cấp của những giá trị đạo đức.

Nhiều thập kỷ trƣớc 1975, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống thời chiến, nền văn

học Việt Nam đã “nhập cuộc tích cực trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của

dân tộc” [1], nên nhà văn dƣờng nhƣ ít nói tới mặt trái của hiện thực, của lối sống cá

nhân, ích kỷ. Nhƣng khi đất nƣớc hòa bình, văn học đƣợc tiếp sức bởi không khí dân

chủ, cởi mở, đặc biệt là từ Đại hội Đảng VI, với nhu cầu “nhìn thẳng vào sự thật”,

các nhà văn đã bỏ lối viết tô hồng một chiều, cảm hứng phê phán lại nhƣ một dòng

chảy đƣợc khai thông. Cùng với các nhà văn đã có tên tuổi trƣớc đây nhƣ Ma Văn

Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê… Y Ban cũng góp tiếng

nói phê phán của mình đối với những lối sống ích kỷ, thực dụng, vạch tìm truy

nguyên sự tha hóa, sự đi xuống của những giá trị đạo đức.

Phê phán lối sống thực dụng, trong Hàng khuyến mại, Y Ban nói đến một xu

hƣớng đang phổ biến trong quan hệ kinh doanh, buôn bán của cơ chế thị trƣờng, đó

là chiến lƣợc “khuyến mại”. Chiến lƣợc này là một chiêu cách thông minh của nhà

sản xuất đánh vào tâm lý của ngƣời tiêu dùng, thúc đẩy quá trình lƣu thông hàng hóa

và kinh doanh phát triển. Tuy nhiên, ngày càng có những nhà kinh doanh buôn bán

vì chạy theo lợi nhuận, mà sẵn sàng biến thái hình thức này từ khuyến mại vật chất

chuyển sang khuyến mại phi vật chất. Câu chuyện về hai ngƣời đàn ông: Hạnh và

55

Sơn mà Y Ban kể lại bằng ngôi thứ nhất theo cái giọng thản nhiên đã dần cho chúng

ta biết món hàng phi vật chất kia là gì. Đó là một đêm “vui vẻ” cùng đàn bà. Việc

Hạnh rời khách sạn khi chƣa sử dụng “hàng khuyến mại” không phải vì không có

“nhu cầu”, cũng không phải vì lòng trắc ấn với cô gái mà là do hàng không đẹp. Bởi

lẽ khi chƣa nhìn thấy đôi chân thô đen đúa, bàn chân nứt nẻ với những cái móng đã

chuyển sang nâu, sang đen của cô gái bán bảo hiểm thì Hạnh cũng có vẻ rất hào

hứng: “Tôi sẽ dùng, không thể bỏ phí cơ hội, tôi… mê săn hàng khuyến mại. Điều

đó có nghĩa tôi chƣa phát đạt. Tôi có vợ và có con, tôi chăm chút cho gia đình mình

nhƣng không có nghĩa là tôi không thích chơi bời… Tại sao không chứ cho dù có là

hàng khuyến mại thì cũng là một ngƣời đàn bà lạ”. Bản thân hình thức khuyến mại

hàng hóa không có gì xấu nhƣng lợi dụng nó và biến thái nó theo kiểu rẻ rúng những

ngƣời phụ nữ thì thật đáng lên án. Ngƣời phụ nữ làm nghề “bán hoa” còn đƣợc chút

tiền boa của khách, còn ở đây tiết hạnh của họ chỉ nhƣ chút lộc thêm vào cho ngƣời

mua hàng mà thôi. Rõ ràng quan hệ mua bán ở đây đã vƣợt qua giới hạn điểm nút

của nó, biểu hiện một lối sống thực dụng đáng báo động.

Trong Xuân Từ Chiều cuộc đời cô đơn và cái chết của ngƣời phụ nữ có mệnh

trực bình lại là cái giá phải trả cho thói ích kỷ, sự vô cảm của chính những ngƣời

thân trong gia đình cô. “Trực bình là nƣớc ở hồ tiên, là lẫm là kho chứa bạc tiền,

gái giỏi tề gia ích phu tử” những tƣởng Chiều sẽ có cuộc sống suôn sẻ, ấm êm bên

ngƣời chồng đã làm đến chức vụ trƣởng. Tiền bạc không thay thế đƣợc tình ngƣời.

Chiều cô đơn lạc lõng ngay trong chính ngôi biệt thự to đẹp của mình, chẳng ai

nhớ tới sự có mặt của cô. Cuộc sống giàu sang ấy đã làm cho chồng cô quên mất

cái ngày xƣa, cái thời bên giếng nƣớc hôm nào anh ta còn bẽn lẽn “này để tớ bế

con cho, về giải cho tớ bài toán”. Tình ngƣời sao nhạt nhẽo nhanh thế, mau quên

thế. Thảo nào mà cái bóng của cô Chiều ngày càng hiu hắt hơn, để rồi phải tự tìm

đến cái chết, coi đó nhƣ một lối thoát cho cuộc đời mình. Ngƣời đến viếng rất đông

nhƣng ngƣời ta đến viếng vì ngƣời sống - “những kẻ đã lạnh lòng trƣớc một tâm

hồn từng ấm nóng thƣơng chồng yêu con” [59]. Thật nhức nhối khi nhiều kẻ bị mê

hoặc bởi vật chất, quyền lực. Y Ban đã nhìn thấy hệ quả từ nó là sự vô tình bạc

56

bẽo, sự tha hóa vô cảm.

Hiện thực đang biến động từng ngày, lối sống tham lam, thực dụng cũng lan

tràn trong xã hội dƣới nhiều dáng vẻ. Trong Cuộc chiến tranh giữa các nền văn

hóa, Y Ban đã miêu tả cuộc đụng độ giữa hai luồng nhận thức về văn hóa. Từ sự

kênh kiệu tự phụ, thái độ coi thƣờng những ngƣời xuất thân từ nông thôn, Mi đã

đẩy mình lên một tầm văn hóa cao hơn chồng. Để rồi khi đƣợc nhắc nhở góp ý về

một chiếc váy ngắn mỏng đếm nỗi “nhìn rõ cả mụn ruồi trên đùi… nhìn thấy cả cái

nơi tế nhị”, Mi đã không tiếc lời mắng mỏ, thậm chí xúc phạm chồng: “chẳng có

sự thật nào ở đây cả chỉ có sự ích kỷ của bọn đàn ông quê mùa các anh… lũ các

anh có học mà vô văn hóa… có hở lông đây cũng đi ra đƣờng cho thiên hạ chiêm

ngƣỡng”. Phải chăng kiểu ăn mặc và lối nói năng của Mi mới thật là có văn hóa?!

Phô ra sự sai lệch trong nhận thức, sự kệch cỡm trong lối sống, Y Ban để cho nhân

vật tự bộc lộ tầm văn hóa của mình, chạy theo cuộc sống lai căng, phi thẩm mỹ lại

cho đó là văn hóa tiến bộ. Gây ra tiếng cƣời hài hƣớc, trào lộng bằng sự lầm tƣởng,

Y Ban đã đạt đƣợc hiệu quả phê phán trong tác phẩm này.

Còn đây nữa là câu chuyện “nhặt ở dọc đƣờng” nhƣng không kém phần nhức

nhối. Câu chuyện về hai mẹ con bị ngƣời đi xe máy va phải, chỉ bị xây xát chút ít

nhƣng mặc cho ngƣời lái xe xin lỗi van lơn, phân trần hoàn cảnh nhà quê đi mƣợn

xe ra thăm ngƣời thân nằm bệnh viện, mẹ con họ vẫn bắt anh phải đền tiền: “Mày

tông phải bà già thì mày phải nôn tiền ra đền, làm gì có chuyện xin nƣớc bọt”

(Tiếng khóc thiên thần I) và hai trăm nghìn đền cho vết trầy xƣớc của bà mẹ, phải

trả giá bằng cái chết của ngƣời con trai duy nhất - là một lời cảnh tỉnh mà Y Ban

dành cho thói đời tham lam, giả dối - một dạng biến tƣớng của cái ác. Bài học về

đức năng thắng số là lời răn dạy cho tất cả chúng ta.

Những đứa con của ông Thông trong Bản lý lịch tự thuật cũng là những biểu

hiện của sự ích kỷ, của sự xuống dốc về nhân cách. Chúng đã từng quay lƣng lại,

phủi vuỗi những cố gắng của ngƣời bố một thời đem lại cho chúng những bản lý

lịch tốt đẹp, sau đó chúng lại ra sức quan tâm về quá khứ, về quãng thời gian ông

Thông đi B, khi biết những trang lý lịch ấy có giá trị nhƣ thế nào trong việc thăng

tiến của bản thân: “Ngƣời Mỹ bây giờ họ rất cởi mở, biết đâu khi xem lý lịch của

57

con có ngƣời cha đã một thời bắn nhau với họ trong chiến hào họ sẽ cảm thông mà

giúp đỡ phần nào cho”. Bởi vậy nếu trƣớc kia chúng từng dùng giọng giễu cợt để

phản hồi lại những câu chuyện quá khứ của ông thì giờ đây chúng lại muốn ghi lại

tƣờng tận những năm tháng ông ở trong tuyến lửa. Nếu trƣớc kia chúng cũng từng

coi thƣờng ông: một “ông già khốt ta bít”, một “ông bố lãng mạn” thì giờ đây

chúng lại trở về đƣa tiền và khoác lên ngƣời cha những bộ quần áo mới chỉ vì mục

đích có đƣợc những bản lý lịch đẹp đƣợc kê khai tỉ mỉ. Chúng bảo nhau: “Tờ lý

lịch của bọn mình sang ra phết đấy chứ. Vừa sang vừa đảm bảo. Thế mới biết lịch

sử quan trọng thật. Lịch sử sẽ đảm bảo cho cuộc sống sẽ dễ chịu hơn”. Giờ đây lối

sống thực dụng có phần nhẫn tâm đã không chỉ tồn tại ngoài xã hội, không chỉ

đƣợc thực hiện trong quan hệ giữa những ngƣời không quen biết, nó còn len lỏi

trong cuộc sống gia đình, phá vỡ những ràng buộc tình cảm cha con thiêng liêng.

Điều đó ngẫm thấy thật đau xót. Bằng giọng châm biếm, Y Ban đã ngầm thể hiện

thái độ phê phán, sự lo lắng trƣớc những bất ổn trong lối sống, trong nhân cách đạo

đức đang ngày càng xâm lấn, làm tổn hại những thuần phong mỹ tục ngàn đời.

Cũng với cảm hứng phê phán ấy, Y Ban còn nói tới sự tha hóa về nhân cách

trƣớc sức mạnh của đồng tiền. Bạn bà Phúc không chỉ là những cảm thông của tác

giả với nỗi cay đắng của một ngƣời đàn bà góa bụa, nói tới thú tính của một đứa

con trai dám cầm dao đánh đuổi mẹ ra khỏi nhà vì tiền vàng, nhà văn còn nói tới

sức tung phá, hủy hoại của đồng tiền đối với nhân cách con ngƣời. Những giọt

nƣớc mắt muộn màng của đứa con trai bất hiếu rơi bên quan tài bà Phúc cũng

không còn làm cho chúng ta cảm thấy xót thƣơng và có thể tha thứ cho hành vi tội

lỗi, gây đớn đau cho những ngƣời ruột thịt của hắn.

Sau chiến tranh, trƣớc những điều kiện xã hội, lịch sử mới, những tƣ tƣởng

hẹp hòi thiển cận, những nguyên tắc cứng nhắc dần mất đi, chủ trƣơng đổi mới với

những mặt tích cực tiến bộ của nó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội.

Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Đó đây đã có những biểu hiện cho

mặt thứ hai của cơ chế này. Đƣợc giải phóng khỏi những nguyên tắc, những rào

cản, con ngƣời dễ rơi vào phấn khích, cực đoan. Đôi khi những thông thoáng và

58

cởi mở quá đà đã dẫn tới việc coi nhẹ, bỏ qua những nếp sống, những luân lý đạo

đức tốt đẹp. Y Ban đã tô đậm một góc mặt trái ấy của xã hội bằng những trang viết

về những quan hệ bất chính xâm hại đến hạnh phúc gia đình.

Chuyện bên barie là một vở kịch đƣợc dàn dựng từ sự dối trá của hai cha con.

Con gái nói dối cha là công đoàn tổ chức cho đi nghỉ mát kì thực là cô đi với một

gã đàn ông già bằng tuổi bố mình. Còn ngƣời cha từ chối việc vợ lên thăm với lý

do tiếp một phái đoàn đặc biệt, phái đoàn ấy kì thực lại là một cô gái trẻ. Vở kịch

đƣợc hạ màn khi xảy ra cuộc chạm trán của hai cha con bên barie cùng những

ngƣời tình của họ. Cha giật mình khi nhìn thấy con, con bối rối khi nhìn thấy cha.

Rồi sau những “cú sốc” đó, họ đều cảm thấy đau đớn và thất vọng. Nếu nhƣ ngƣời

cha bàng hoàng sững sờ bao nhiêu khi biết đứa con gái mà ông hết lòng yêu

thƣơng giờ đây đã không còn ngoan ngoãn thuần chất nữa, thì đối với cô con gái

những hình ảnh tốt đẹp về ngƣời cha và lòng tôn trọng dành cho ông cũng mất đi

bấy nhiêu. Ngƣời cha đã kì vọng để rồi thất vọng về con gái càng lớn thì niềm tin

và tình yêu của cô gái về ngƣời cha tận tụy trách nhiệm với gia đình cũng suy giảm

càng nhiều. Sự suy thoái về đạo đức nhân cách đang có nguy cơ làm tổn hại đến

những tình cảm thiêng liêng cha con, chồng vợ. Bi kịch ấy sẽ tất yếu xảy ra nếu

nhƣ những thành viên trong gia đình không thay đổi lối sống, suy nghĩ và hành

động của chính họ.

Cũng gần tƣơng tự nhƣ tình huống trên nhƣng trong truyện ngắn Thằng bé có

phép tàng hình, Y Ban lại đứng ở vị trí của một đứa trẻ để đánh giá những hành vi

của ngƣời lớn, những bậc làm cha làm mẹ. Tâm hồn con trẻ còn chƣa đủ sâu sắc để

có thể hiểu hết những việc mà ngƣời lớn đã làm, nhƣng điều đó không có nghĩa là

họ có quyền lừa dối, đƣợc thực hiện nhƣng hành vi tội lỗi trƣớc chúng. Cái móng

hổ mà cậu bé đã lấy đƣợc trong lần “trinh thám” là bằng chứng rõ ràng cho việc

mẹ em đã làm với ngƣời đàn ông trong công viên hôm ấy. Nhƣng mẹ đã không

thành thật, mà làm sao mẹ có thể thành thật chuyện đó với một đứa trẻ. Sự đổ vỡ

niềm tin, lòng hận thù đã làm cậu bé không thể tha thứ cho ai và chọn cái chết làm

phƣơng cách giải thoát. Cái chết của cậu bé là một lời thức tỉnh đối với bậc làm

59

cha làm mẹ. Họ không chỉ là ngƣời sinh thành, nuôi nấng dạy dỗ mà còn phải là lẽ

sống, là niềm tin, là chỗ dựa chở che chứ không phải là những cú sốc gây tổn

thƣơng cho con trẻ.

Không chỉ quan tâm đến vấn đề thuộc phạm vi gia đình, Y Ban còn lƣu tâm

đến những vấn đề đạo đức xã hội mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Truyện ở rừng,

Y Ban đã khiến ngƣời đọc sửng sốt, gai sợ trƣớc việc làm của một ngƣời đàn bà

làm nghề nấu cao thú. Nấu cao những động vật quý hiếm phục vụ nhu cầu về sức

khỏe con ngƣời mặc dù không hề đƣợc khuyến khích nhƣng nó lại là điều chẳng xa

lạ gì đối với ngƣời Việt Nam. Song đến mức “xao vàng hạ thổ” một hài nhi (dẫu là

hài nhi đã loại bỏ) thì thật là khủng khiếp hãi hùng. Cho dù là vì bất cứ lý do gì thì

đó cũng là việc làm mất nhân tính. Câu chuyện làm ta nhớ tới nhân vật ngƣời con

dâu với cái phích đá đựng những hài nhi mà ngƣời ta nạo phá đem về cho chó ăn

(trong Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp). Nghĩ mà rùng mình sợ hãi trƣớc những

tha hóa, sự đi xuống nghiêm trọng của đạo đức, của nhân tính con ngƣời.

Cơ chế thị trƣờng với những chính sách hợp lý, khoa học, đã có những tác

động tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nƣớc nhà, nâng cao mức sống cho

ngƣời dân, song cũng tạo điều kiện cho con ngƣời làm quen với lối sống tiêu thụ,

quan hệ mua bán lạnh lùng. Xã hội đang đổi thay từng ngày, từng giờ, tác động lên

mỗi chúng ta bằng tất cả sự ồ ạt, hỗn tạp của nó. Nếu không đủ bản lĩnh chế ngự

những dục vọng thấp hèn của bản thân, con ngƣời dễ rơi vào lối sống gấp, thực

dụng, sùng bái đống tiền…Từ lối sống này đến mất nhân tính, tha hóa, trở nên thú

tính chỉ còn là ranh giới mỏng manh. Là một nhà văn tâm huyết với nghề cầm bút,

tha thiết với những cái đẹp ở đời, Y Ban đã không ngừng đấu tranh vì nó. Chị luôn

luôn trăn trở, lo ngại trƣớc những suy đồi, sự xuống cấp của những thang bậc giá

trị đã tồn tại lâu bền trong đời sống tinh thần của cộng đồng. Và rõ ràng chị không

ngồi yên để trăn trở, lo lắng mà sẵn sàng lao thẳng vào nó để mổ xẻ, phanh phui.

Chị đã khẳng định đƣợc sức mạnh ngòi bút của mình từ những trang văn nhƣ thế.

2.2.2. Những tệ nạn xã hội

Công cuộc đổi mới cùng những chính sách mở cửa đã có tác động lớn lao đối

60

với sự phát triển của đất nƣớc. Nhƣng những tệ nạn do chính nó đẻ ra cũng có ảnh

hƣởng tiêu cực đối với xã hội, với cộng đồng. Và không phải ai cũng có thể nắm

bắt hết những loại hình đa dạng cũng nhƣ những biến thái tinh vi của những tệ nạn

xã hội ấy. Là một ngƣời làm nghệ thuật nhƣng đồng thời cũng là một ngƣời làm

báo nên nhà văn Y Ban tỏ ra rất nhạy bén và sắc nhọn trong việc tìm hiểu và phản

ánh kịp thời những ung nhọt trong xã hội.

Nếu nhƣ trong một số các tác phẩm mà chúng tôi dẫn ra và phân tích ở mục

trên, Y Ban bày tỏ sự lo ngại, thái độ phê phán của mình trƣớc lối sống thực dụng

và sự đi xuống của những giá trị đạo đức theo kiểu phản ánh, cảnh tỉnh, một vài tác

phẩm đƣợc viết bằng giọng châm biếm trào lộng, thì khi viết về những tệ nạn xã

hội, chị lại có một cách thể hiện vô cùng táo bạo. Tệ nạn mại dâm, lọc lừa, tham ô,

hối lộ hay đời sống xa hoa trụy lạc của một số quan chức… đều đƣợc chị thẳng

thắn bóc tách, mổ xẻ, phanh phui, vạch tìm đến tận cùng, không nhân nhƣợng. Và

để tƣơng ứng với nội dung ấy, chị không sử dụng lối bóng gió nhẹ nhàng mà đánh

trực diện, giọng điệu châm chích sâu cay, đả kích gay gắt quyết liệt. Tất cả sự

mạnh mẽ bạo liệt ấy đƣợc thể hiện rất rõ nét trong Thần cây đa và tôi một truyện

xuất bản năm 2005. Đây là tác phẩm đƣợc dẫn dắt nhờ vào màu sắc thần thoại.

Truyện là tập hợp của rất nhiều các cuộc đối thoại giữa hần Cây đa và một ngƣời

phụ nữ, trong đó vị thần dƣới hình hài cũng là một ngƣời phụ nữ kể cho ngƣời phụ

nữ kia nghe rất nhiều điều mà thần đƣợc biết, đƣợc chứng kiến và linh ứng. Mỗi

câu chuyện đƣợc kể đều là những khối u ác tính mà loài ngƣời cần phải cắt bỏ nếu

muốn xã hội đƣợc lành mạnh.

Thần kể về một vụ án ngƣời giúp việc ăn cắp tiền: ngƣời đặt đơn kiện là chủ

nhà - một nữ bác sĩ làm việc tại bệnh viện phụ sản. Ngƣời giúp việc muốn có một

chút lƣng vốn cho con học hành nên đã không trả lại tiền cho chủ mà chấp nhận đi

tù. Nhƣng trƣớc khi lĩnh án năm năm tù giam, chị cũng phải khai một vài lời với

tòa về hành vi phạm tội của mình. Lời khai ấy lại vô tình nói ra một sự thật mà

nhiều ngƣời biết song chẳng ai có dịp để nói trƣớc tòa: “mỗi tuần chị ấy đi trực

một lần, có khi hai lần. Lúc về nhà chị ấy mệt lắm, lăn ra ngủ ngay. Hai túi áo chị

ấy đầy phong bì. Mỗi lần cháu chỉ lấy một chiếc phong bì thôi nên chị ấy không

61

phát hiện ra”. Vậy là ở đây có một con đƣờng lòng vòng: Bác sĩ lấy tiền của bệnh

nhân, ngƣời giúp việc lại lấy tiền của bác sĩ. Cứ pháp luật mà nói dĩ nhiên ngƣời

giúp việc phải vào tù còn bác sĩ thì không, vì đấy là tiền “bồi dƣỡng” không phải

tiền ăn cắp, và cứ thế “số tiền đi trực của hai năm trƣớc, trừ đi 27 triệu bị ngƣời

giúp việc lấy cắp, cộng với số tiền đi trực của năm nay không bị mất cắp, cô bác sĩ

đã mua cho mình một con xe hơi với giá 50.000 USD. Trong khi đó lƣơng tháng

của bác sĩ có thâm niên công tác mƣời lăm năm nhƣ cô cộng với số tiền nhà nƣớc

phụ thêm chỉ vào khoảng 150 USD, chƣa đủ để cho hai đứa con cô học thêm và ăn

quà sáng”. Vậy mà bệnh viện này lại có tới hai mƣơi, ba mƣơi bác sĩ kiếm đƣợc

nhiều tiền nhƣ cô bác sĩ kia thì không biết bệnh nhân đã phải mất bao nhiêu tiền, rõ

ràng là “ngƣời ốm nuôi ngƣời khỏe”, không chỉ nuôi mà còn làm giàu cho ngƣời

khỏe nữa kia. Nói tới việc kiếm tiền của bác sĩ thì cũng nhiều mánh lới lắm nhƣng

những mánh lới ấy cũng chỉ là hình thức hợp pháp hóa những đồng tiền, còn thì ai

vào bệnh viện cũng biết và phải biết huống hồ là thần. “Bệnh ngoài da không phạm

phải tim gan phèo phổi có mạnh tay thì chỉ đau thấu gan ruột chứ không chết

ngƣời. Ngƣời thân xót quá phải móc hầu bao ra chi cho bác sĩ… có bác sĩ làm cao

một tí ra điều không nhận bệnh nhân chẳng chắp tay lạy nhƣ tế sao là gì”. Những

bác sĩ tầm tầm thì họ lại có mánh lới khôn ngoan hơn “họ mặc áo bờ lu trắng đi

qua đi lại buông những lời hững hững hờ hờ. Đã vào bệnh viện mà bác sĩ buông

những câu lửng lơ là cầm chắc cái chết, ngƣời nhà nào mà chẳng bám chắc lấy bác

sĩ. Chi tiền ra, nôn tiền ra, ồ thế chứ”. Rồi cả những y tá hộ lý họ là ngƣời trực tiếp

chăm sóc bệnh nhân, họ không đƣợc nhiều nhƣ bác sĩ thì họ cũng phải đƣợc chút ít

“họ mang em bé đi tắm không biết ý gài sẵn tiền vào khăn của em bé thì sẽ biết

tay, em bé sẽ khóc suốt, đau tim ngƣời mẹ lắm”.

Chẳng cứ gì đến bệnh viện, thời đại kim tiền đi đến cửa nào không chi tiền đố

có xuôi lọt. Đến nhƣ phật dạy chúng sinh phải từ bỏ tham, sân, si mà trƣớc cửa phật

họ cũng phải “mang tiền ra dụ thánh thần… ấy là trần sao âm vậy”. Mƣợn sự bao

quát chính xác trong cái nhìn của một vị thần, Y Ban đã thỏa sức nói lên những bức

xúc trƣớc những tiêu cực xã hội. Quanh đi quẩn lại, chung quy cũng chỉ một chữ

tiền. Càng những nơi cần đến cái tâm, cái tình thì ngƣời ta lại càng đề cao chữ tiền.

62

Nếu nhƣ trƣớc đây sự tha hóa và đi xuống về mặt đạo đức bởi đồng tiền chỉ diễn ra

ở phạm vi những cá nhân nào đó trong xã hội (nhƣ chồng cô Chiều trong Xuân Từ

Chiều hay đứa con trai út của bà Phúc trong Bạn bà Phúc) thì hôm nay thực trạng ấy

đã diễn ra theo quy mô rộng khắp, trở thành thói quen, thành một vấn nạn xã hội. Ai

cũng nhìn thấy nhƣng chƣa có cách nào để giải quyết. Có thể nói ở đây Y Ban đã

không chút dè dặt trong những trang lật tẩy hành vi vô nhân đạo của một bộ phận

con ngƣời trong xã hội. Chị cũng chẳng ngần ngại trong việc “xộc” vào cái mà

ngƣời ta gọi là “thế giới riêng tƣ” nhƣng lại phô bày sự bỉ ổi xấu xa trụy lạc của một

số quan chức. Thực tế nó không còn là cái sự bẩn thỉu xấu xa trong nhân cách của

một cá nhân nữa mà là của một lớp quan chức đục khoét, những kẻ làm ăn phi pháp:

“Thời buổi bây giờ làm ăn nhiều bất trắc. Có vụ làm ăn nào không suôn sẻ thì phải

đi giải đen. Nhẹ thì ăn thịt chó, nặng thì đi chơi gái mà nặng nữa thì phải đi mua

trinh”. Ví nhƣ một quan to phạm tội tham nhũng bị đe dọa tố cáo, nghe lời thày tàu

đã nhờ một má mì bắt mối mua ba cái trinh mong đƣợc tai qua nạn khỏi. Tệ nạn này

đẻ ra tệ nạn khác, cái việc đi mua trinh là hệ quả của tệ nạn mại dâm nhƣng từ việc

ấy đến việc giao cấu với trẻ em cũng không còn là khoảng cách xa xôi gì, vì miễn là

đƣợc việc đâu cần cần biết đối tƣợng mua đã thành niên hay vị thành niên. Cái nạn

mại dâm cũng vì thế mà chẳng thể nào dập đƣợc.

“Làm quan năm tội năm công là tốt cho dân cho nƣớc lắm rồi”, nhƣng thời

buổi ngày nay, đã làm ông to bà lớn rồi cũng ít ai nghĩ đƣợc cho dân cho nƣớc, vì

thế mà tội bao giờ cũng nhiều hơn công, đục khoét vơ vét bao giờ cũng nhiều hơn

đóng góp cống hiến. Để thu hút vốn đầu tƣ của nƣớc ngoài ngƣời ta ƣu tiên cho

một dự án xây chung cƣ cao cấp của bọn ngoại bang, quyết định thu hồi đất đƣợc

kí nhƣng giá đền bù giải phóng mặt bằng cho nông dân mất đất bèo bọt, chỉ có mấy

chục nghìn đồng một mét vuông, “đã thế ông tỉnh cắn một miếng, ông huyện cắn

một miếng, ông xã cắn một miếng, còn lại đến tay ngƣời dân chỉ là mƣời mấy ngàn

đồng”. Rồi bọn ngoại bang lại đổ đất san nền, phân lô bán với giá mấy mƣơi triệu

một mét vuông. Các vị quan ta non tay cũng chỉ biết đứng trơ mắt để nhìn chúng

hại dân ta…nhƣng rồi vụ án kinh tế này hay các vụ tham ô hối lộ khác chƣa kịp

đƣa ra tòa thì ngƣời ta đã tự xét xử với nhau cũng bằng những hình thức kiểu ấy.

63

Nói trắng ra là dập bằng tiền. Thấp cổ bé họng, không tiền không quyền thì chẳng

thể làm đƣợc gì. Ví nhƣ anh chàng nhà báo chân chính nhiều lần định đƣa ra ánh

sáng ổ sâu mọt tham nhũng trong tòa soạn báo của anh ta nhƣng báo cáo lên chi

bộ, rồi lên công đoàn, lên chính quyền đều chẳng có ai xử lý, vì đó là bộ ba chân

kiềng vững chắc, họ bọc lót cho nhau rất tốt nhất là trong việc tham ô. Tố cáo lên

cấp trên nhƣng thanh tra ở trên về thì chỉ cần một phong bì nặng tay khoảng chục

triệu là coi nhƣ không có chuyện gì. “Phong bì luôn đƣợc đảm bảo theo giá vàng”

và khối lƣợng nặng nhẹ thế nào sẽ tùy thuộc vào mức độ quan trọng của vụ việc.

Đƣa ra những tiêu cực này phải nhận thấy rằng Y Ban thực sự đã có cái nhìn

không khoan nhƣợng trƣớc cái xấu, cái ác. Rƣợt đuổi và truy tìm đến tận cùng

những tiêu cực ấy, Y Ban đã nhận thấy những kẽ hở trong hành lang pháp lý,

những điều chƣa thật hợp lý trong một số chính sách của nhà nƣớc. Chẳng hạn,

“nhà nƣớc đã đầu tƣ hàng núi tiền chỉ cho một số bệnh viện tuyến trung ƣơng còn

những bệnh viện ở nơi xa thì lại bỏ bê. Mà những nơi xa đó thì quá nhiều dân

nghèo. Dân nghèo mới lắm bệnh”. Điều đó chẳng phải bất công, bất hợp lý lắm

sao? Hay khi một tên quan to, mong tránh đƣợc cái nạn bị tố cáo tham nhũng đã đi

hiếp dâm trẻ em, nhƣng khi hắn bị đƣa ra tòa, ngƣời ta chỉ khép hắn vào tội giao

cấu với trẻ vị thành niên, còn chẳng ai đả động đến việc hắn tham ô. Đó chẳng phải

pháp luật ta còn chƣa nghiêm, còn nhiều kẽ hở đó sao?

Tiếp nối tinh thần “nhiệt tình phê phán” (Chữ dùng của Lê Ngọc Trà) của văn

học những năm đầu đổi mới đƣợc khơi dậy bằng chủ trƣơng chống tiêu cực của

Đảng, Y Ban với những trang đả phá gay gắt chứa đầy bức xúc trƣớc những tiêu

cực xã hội, chứng tỏ chị là một nhà văn rất có trách nhiệm với nghề cầm bút, thiết

tha với cái thiện cái đẹp ở đời. Hiện thực trộn lẫn cả những mảng sáng trong những

mảng tối. Nếu chỉ nhặt tìm và bằng lòng với những mảng sáng sẽ làm “hƣ” xã hội.

Chứng tỏ một năng lực bao quát, sự từng trải và nhận thức sâu sắc, trong tƣơng

quan với cái đẹp, Y Ban còn nhìn thấy cả những cái xấu, cái ác. Nhƣng chị viết về

cái xấu, cái ác không phải với thái độ hả hê, khiêu khích mà giống nhƣ một bác sĩ

tận tâm đang bắt mạch tìm bệnh và nếu có thể trong một vài trƣờng hợp, vị bác sĩ

64

ấy còn có thể “kê đơn bốc thuốc” cho bệnh nhân của mình.

Trong những năm đất nƣớc còn chiến tranh, khi nói về những ngƣời làm việc

trong bộ máy nhà nƣớc, cán bộ trong cơ quan chính quyền thì sự sa sút về đạo đức

hay những lỗi lầm trong công việc thƣờng chỉ miêu tả nhƣ những thiếu sót, những

khuyết điểm có thể sửa chữa đƣợc. Nhƣng khi đất nƣớc hòa bình, bên cạnh việc tiếp

tục đề cao cái mới, cái tốt, nhà văn đƣợc phép viết nhiều hơn về những mặt trái của

xã hội. Đặc biệt từ những năm đầu thời kỳ đổi mới, khi Đảng phát động chủ trƣơng

chống tiêu cực, làm trong sạch tổ chức Đảng thì nhiệt tình phê phán của văn học giai

đoạn này trở nên mạnh mẽ hơn. Hàng loạt những Mảnh đất lắm người nhiều ma

(Nguyễn Khắc Trƣờng), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy

Anh), … gần nhƣ là những tác phẩm thuộc lớp đầu tiên giải quyết những tiêu cực

dồn đọng từ thời chiến tranh, cộng thêm những tiêu cực mới trong cơ chế quản lý

bao cấp. Đến lƣợt mình, Y Ban cùng các nhà văn thuộc thế hệ của chị lại tiếp tục

thực hiện nhiệm vụ ấy nhƣng là trong một cơ chế xã hội mới với những tiêu cực

ngày càng nghiêm trọng và tinh vi hơn. Song vẫn theo đuổi đến cùng nhƣ không hề

mệt mỏi, Y Ban càng tỏ ra mạnh bạo, quyết liệt hơn trong những trang lật tẩy tội

trạng, những bất công trong xã hội, nhƣ lời một nhà văn Nga đã nói: “Chừng nào

trong cuộc đời còn nhiều điều ác thì chừng đó còn có cớ để viết văn” [35]

2.2.3. Những “nỗi buồn chiến tranh”.

Ở bất kỳ giai đoạn văn học nào, một tác phẩm văn học đích thực nào, cảm

hứng sáng tác cũng bị chi phối bởi đặc điểm sáng tạo của mỗi cá nhân, đồng thời

chịu sự tác động của thời đại. Trong hoàn cảnh đất nƣớc ba mƣơi năm chiến tranh,

trƣớc yêu cầu cấp thiết là phục vụ cách mạng, phục vụ cuộc chiến đấu sống còn

của dân tộc, văn học tràn đầy âm hƣởng hào hùng, giọng điệu sử thi ngợi ca cuộc

chiến tranh thần thánh của dân tộc. Tiếng nói phê phán rất ít và chủ yếu là dành

cho kẻ thù. Nhƣng sau 1975, đất nƣớc đƣợc giải phóng và thống nhất, sau một

quãng lùi lịch sử, chất sử thi trong văn học nhạt dần, viết về chiến tranh đã không

còn cái không khí hùng tráng, cái giọng điệu hảo sảng nữa, thay vào đó là những

lắng đọng suy tƣ về nỗi đau hậu chiến. Viết về nỗi đau hậu chiến, với những khám

65

phá về số phận của từng cá nhân, về bi kịch của con ngƣời, cũng là để chúng ta

nhìn thấy không chỉ sự khốc liệt của cuộc chiến tranh mà còn nhìn thấy dị họa của

nó với đời sống con ngƣời hôm nay.

Y Ban cũng nhƣ một số nhà văn nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan, Phan Thị

Vàng Anh - họ đều sinh ra vào những năm đất nƣớc còn chìm trong khói lửa đạn

bom, nhƣng lại lớn lên trong buổi giao thời nên họ không giống nhƣ thế hệ nhà văn

đi trƣớc trực tiếp trải qua thời điểm khắc nghiệt của chiến tranh nhƣ Lê Minh Khuê

hay Nguyễn Thị Nhƣ Trang. Họ có một cách tiếp cận của riêng mình đối với nỗi

đau của con ngƣời bƣớc ra từ cuộc chiến. Số lƣợng tác phẩm viết về chiến tranh

của Y Ban không nhiều, nhƣng lại rất đằm sâu và thấm thía.

Trong Bản lý lịch tự thuật, Y Ban đã phác họa chân dung một ngƣời lính có

cái may mắn vẫn còn lành lặn khi trở về với gia đình từ cuộc chiến tranh tàn khốc.

Nhƣng đời sống hậu chiến cũng có những tàn khốc riêng của nó, đặc biệt là với

hoàn cảnh nhƣ nhân vật Thông trong tác phẩm. Anh đã từng có một cuộc sống tạm

gọi là ổn định với vợ, ba đứa con và một công việc ở bệnh viện. Anh sẽ còn có một

địa vị cao hơn và một cuộc sống tốt hơn nếu nhƣ anh không có tên trong danh sách

năm bác sỹ đƣợc điều động ra chiến trƣờng. Thƣơng ba đứa con thơ, thƣơng ngƣời

vợ bụng mang dạ chửa, anh phân vân không biết có nên chống quyết định không vì

“Những ngƣời chống lệnh họ chỉ bị kỷ luật sơ sơ thôi. Chiến trƣờng thiếu y bác sỹ,

hậu phƣơng cũng thiếu. Kỷ luật họ lấy ai chữa bệnh cho dân”. Nhƣng cuối cùng

anh vẫn đi với một lý do cực kỳ đơn giản: “Anh không muốn những tờ lý lịch của

những đứa con có một vệt đen là bố đào ngũ”. Nhƣng khi hòa bình lập lại, ngoài

ngƣời vợ hiền thục, thì bốn đứa con anh Thông, không một đứa nào cần biết ông

đã ra đi vì cái gì. Chúng coi thƣờng ông bởi ông chỉ có tình yêu thƣơng mà không

thể cho chúng một chỗ làm tốt, một địa vị cao trong xã hội. Chúng cũng chẳng bao

giờ muốn nghe lại cái bản lý lịch của ông. Chúng không muốn ông nhắc tới, chúng

không quan tâm, chúng quay lƣng lại, chúng lãng quên. Ngƣời đàn ông ngày càng

cảm thấy mình lạc lõng giữa đồng nghiệp và chính những ngƣời thân yêu của

mình. Ông sống buồn rầu, lặng lẽ và bắt đầu có thói quen nằm quay mặt vào tƣờng.

Ngƣời ta kết luận ông mắc bệnh hội chứng chiến tranh. Thực tế là ông cô đơn vì

66

không thể hòa nhập đƣợc vào cuộc sống thực dụng, đầy bon chen. Bất lực và thất

vọng hơn khi những đứa con ông lại là những kẻ vô ơn đầu tiên với ông và cũng có

nghĩa là với biết bao ngƣời đã nằm lại ở chiến trƣờng. Ông đã từng tâm sự với vợ:

“Khi anh quyết định đi anh chỉ nghĩ đến những tấm lý lịch của những đứa con thôi,

nhƣng khi nằm dƣới bom đạn và bên xác đồng đội anh nghĩ đến tấm lý lịch của đất

nƣớc mình em ạ. Cái đó mới giải thích đƣợc vì sao đoàn quân dài thế, đông thế”.

Vậy cái bi kịch của ông Thông là do đâu? Chiến tranh? Bản thân ông? Hay những

đứa con ông? Thông bị rơi vào hoàn cảnh này là do những đứa con vô tâm và thực

dụng của ông, nhƣng cái nguyên nhân trƣớc nhất và sâu xa nhất vẫn là chiến tranh.

Nếu không có chiến tranh ông đã không phải xa rời tổ ấm, để lại gánh nặng bốn

đứa con trên vai ngƣời vợ. Không có chiến tranh ông vẫn sẽ làm việc ở bệnh viện

đó với thu nhập cao hơn, các con ông sẽ có một cuộc sống tốt hơn, đầy đủ hơn, và

có lẽ những tên B quay cũng không có cơ hội đƣợc lên làm viện trƣởng. Ông sẽ

không bị coi thƣờng và sinh ra trầm uất nhƣ vậy. Không có chiến tranh, ông cũng

không có quá khứ đầy ám ảnh mà lúc nào ông cũng muốn sẻ chia với ngƣời khác,

với những đứa con và sẽ không có chuyện đau buồn khi những đứa con ông vuỗi

bỏ quá khứ ấy… Tiếng nói phê phán chiến tranh không trực diện nhƣng thảm kịch

trong đời sống tinh thần của những cá nhân đi ra khỏi cuộc chiến đã nhƣ những

bản cáo trạng đối với sự đeo bám dai dẳng của chiến tranh tàn khốc.

Một sự thật không kém phần đau xót mà những ai đã từng viết về chiến tranh

không thể không đề cập đến, đó là sự cô đơn khắc khoải trong vời vợi đợi chờ của

những ngƣời phụ nữ khi chồng họ đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trƣờng. Giống

nhƣ Con Ma của Lý Lan, trong Điều ấy bây giờ con mới hiểu ra, Y Ban đã để cho

nỗi đau của một góa phụ đƣợc cảm nhận đến tận cùng từ nhân vật đứa con gái:

“Ngày mai … mẹ sẽ chỉ còn lại một mình với căn phòng trống vắng. Mẹ còn trẻ

quá, nỗi cô quạnh trùm lên mẹ trong quãng đời còn lại. Ai sẽ làm thay đổi đƣợc

điều đó?” Sẽ chẳng ai làm đƣợc điều đó trừ khi thời gian quay lại và chiến tranh

không xảy ra. Chính chiến tranh đã đánh cắp bố và đánh cắp luôn cả tuổi xuân

hạnh phúc của mẹ. Buổi chia tay hôm ấy với lời hẹn ƣớc về một đứa con trai đã

không thực hiện đƣợc vì đó cũng là buổi tiễn đƣa cuối cùng. Trong những năm

67

tháng chiến tranh, bố không về thăm mẹ lần nào nữa. Rồi cả khi đất nƣớc đã độc

lập thống nhất bố cũng không trở về. Y Ban đã xoáy sâu vào tâm trạng, vào nỗi

khắc khoải đợi chờ, niềm khao khát đoàn tụ của những ngƣời vợ trong và sau chiến

tranh. Nó làm ta nhớ tới sự sầu muộn của ngƣời thiếu phụ ngóng chồng đi chinh

chiến xƣa kia trong Chinh phu ngâm khúc của Đặng Trần Côn:

Lòng này gửi gió đông có tiện

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền

Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Trở lại với tác phẩm của Y Ban, phải đến nhiều năm sau, khi ngƣời con gái đã

lớn khôn và bƣớc vào cái tuổi thoát kén thành ngài, sinh con đẻ trứng, cô mới hiểu

đƣợc sự khờ khạo của đứa trẻ bảy tuổi là mình khi ấy: Chiến tranh không có ngoại

lệ, và bố cô đã vĩnh viễn ra đi sau lần “gặp” mẹ không thành. “Sẽ trọn mƣời lần,

hai mƣơi lần năm năm nữa, bố mãi mãi không bao giờ trở về để lại mẹ suốt đời với

một niềm khao khát thiếu phụ dở dang”.

Chiến tranh đã cƣớp đi tính mạng ngƣời chồng, ngƣời cha của biết bao nhiêu gia

đình, cũng có khi nó trả về cuộc sống đời thƣờng những ngƣời đàn ông không còn

lành lặn. Trƣớc mắt, đó là cả một may mắn so với những ai còn nằm lại chiến trƣờng.

Nhƣng chiến tranh không đơn giản thế, nó oái oăm hơn những gì ta biết về nó. Tuấn

trong Xuân Từ Chiều là một trong những nạn nhân của cái oái oăm ấy. Anh đẹp trai,

thành đạt trong cuộc sống thời bình và là ngƣời đàn ông rất yêu vợ. Nhƣng anh không

thể mang đến cho Xuân - vợ anh cái hạnh phúc đƣợc làm mẹ cũng nhƣ bản thân anh

cái niềm vui đƣợc làm bố. Bởi vì trong thời gian đóng quân ở Lào Cai do một lần

vƣớng mìn, anh đã bị mất đi bộ phận sinh dục, đã phải phẫu thuật tái tạo lại nhƣng

anh đã không còn khả năng sinh con nữa. Nỗi bất hạnh giờ đây không chỉ còn là của

riêng Tuấn mà đã nhân đôi lên trong quan hệ vợ chồng với Xuân.

Rõ ràng chiến tranh không chỉ hiện hình nơi tiền tuyến, không chỉ gây ra

68

những hậu quả trƣớc mắt mà còn để lại những di chứng lâu dài. Lời tâm sự chân

thành mà tha thiết của một thiếu nữ, một ngƣời mẹ trẻ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ

cũng có sức mạnh ám ảnh đối với ngƣời đọc: “Mẹ Âu Cơ sinh đƣợc năm mƣơi

ngƣời con trai, năm mƣơi ngƣời con gái. Con trai của mẹ thì thành anh hùng thi sĩ,

con gái của mẹ thì trở thành những bà mẹ. Đất nƣớc anh hùng, ngoại xâm, thiên tai

liên miên nên mẹ quan tâm đến những anh hùng thi sỹ. Mẹ đã không chú ý đến

những cô gái vốn dịu dàng, nhu mì, không mấy đòi hỏi mẹ. Mẹ ơi mẹ hãy quan

tâm đến chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ”.

Không cứ phải là những trận đánh quyết liệt, không cứ phải là bom rơi đạn nổ,

là chết chóc đổ máu mới là nói về chiến tranh. Chiến tranh kết thúc nhƣng những

tổn thƣơng, đau đớn do nó gây ra đâu phải đã dừng lại. Vì vậy nói về tâm thế của

những ngƣời lính bƣớc ra từ cuộc chiến, về những khó khăn khi hòa nhập với cuộc

sống hiện thực của họ; nói về nỗi cô đơn, về khát khao hạnh phúc trong khắc khoải

đợi chờ của những ngƣời vợ, ngƣời mẹ cũng là cách nhìn nhận đa chiều và đi đến

tận cùng sự tàn khốc của chiến tranh. Cách viết này không chỉ nhà văn Y Ban mà

một số nhà văn nữ cùng thời với chị cũng đã thể nghiệm: Người sót lại của rừng

cười, Biển cứu rỗi của Võ Thị Hảo hay Một chuyến đi, Bảy ngày trong đời của

Nguyễn Thị Thu Huệ cũng là tiếng nói phê phán chiến tranh theo cách nhìn vào

mặt trái của tấm huy chƣơng. Chiến tranh tác động đến những vấn đề có tính xã

hội sâu sắc. Nó không chỉ để lại sự mất cân đối trong kinh tế, nó còn gây ra bất ổn

trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, sự cảm thông và thấu hiểu giữa

thế hệ trƣởng thành trong và sau chiến tranh. Tất cả những điều ấy không dễ gì

điều hòa và cân bằng lại. Lối viết theo góc nhìn nhƣ Y Ban là cách tiếp cận chiến

tranh khách quan và nhân ái, góp phần rút ngắn khoảng cách thế hệ nói trên, đồng

thời nó cũng là những thông điệp hòa bình, là lời lên án chiến tranh có sức vang

hƣởng lâu dài.

2.2.4 Bi kịch tình yêu

M.Gorki đã từng nói: “Cuộc sống thiếu tình yêu không phải là cuộc sống mà

chỉ là tồn tại, không thể sống thiếu tình yêu vì con ngƣời sinh ra có một tâm hồn

69

chính là để mà yêu”. Nhƣng tình yêu là gì vậy? Y Ban từng viết trong Chiếc vương

miện bằng cỏ : “Có phải thế này không? Cồn cào, khắc khoải. Ở bên cạnh mà cứ

nhƣ xa vời, ở xa vời mà cứ nhƣ kề bên. Mặt giáp mặt mà lại mong có sự kì diệu

của cuộc đời”. Quả thật tình yêu là một thứ tình cảm khó lý giải nó đem đến cho

con ngƣời bao nhiêu hạnh phúc thì cũng gây ra bấy nhiêu đau khổ. Mà “Con ngƣời

ta hạnh phúc thì giống nhau chứ đau khổ thì mỗi ngƣời một vẻ” (Levtolstoi). Bản

thân tình yêu cũng có muôn hình vạn trạng những kiểu khổ đau của nó: Một tình

yêu không thành, không tới, một tình yêu dang dở đổ vỡ, một tình yêu bị cấm

đoán, một tình yêu bị phản bội dối lừa… tất cả đều tạo nên những bi kịch ẩn trong

từng cuộc đời, từng số phận. Để rồi trong khắc khoải hy vọng đớn đau, họ vẫn mãi

kiếm tìm cho mình một tình yêu đích thực.

Đề tài về tình yêu là mảng hiện thực khá sinh động trong sáng tác của Y Ban.

Ở đó trải ra muôn vàn những cung bậc cảm xúc mà bằng sự tinh tế và hiểu biết của

riêng mình, Y Ban đã nhìn nhận và lý giải nó theo những sắc thái khác nhau: Có

tình yêu cao thƣợng nhƣ Biển và người đàn bà xấu xí, lại có tình yêu khao khát

đƣợc dâng hiến nhƣ Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, có tình yêu si mê khờ dại nhƣ Hai bảy

bước chân là lên thiên đường, Anh- tôi- thằng bé và con rắn, cũng có những tình

yêu đầy ảo tƣởng nhƣ Người đàn bà và những giấc mơ, Gà ấp bóng; Có những

tình yêu đầu đời trong sáng lãng mạn tinh khôi nhƣ Chiếc vương miện bằng cỏ;

Cũng có cả tình yêu muộn màng, vớt vát khi cuộc đời đã vào lúc hoàng hôn nhƣ

Phút dành cho tình yêu…nhƣng chung cuộc vẫn là những cuộc tình dang dở, kết

thúc bằng nƣớc mắt, chia ly, bằng sự cô đơn tuyệt vọng, bằng cả những tiếc nuối

khao khát chẳng bao giờ nguôi ngoai. Chính vì thế mà lan tỏa trong hầu khắp các

câu chuyện tình yêu của Y Ban là sự bất an, là những phấp phỏng âu lo và lắng lại

là những nỗi buồn khôn xiết.

Viết về tình yêu mà cụ thể là bi kịch tình yêu, Y Ban và nhiều nhà văn nữ nhƣ

Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh… thƣờng quan tâm nhiều

đến nỗi đau của giới mình. Không phải họ thiên lệch mà thực sự khi tình yêu mang

tới những vị đắng, thì phụ nữ bao giờ cũng là ngƣời phải nếm chịu nhiều nhất. Đó là

lý do vì sao nhân vật chính khổ đau trong mảng đề tài này của Y Ban thƣờng là

70

những ngƣời phụ nữ. Đó là ngƣời đàn bà trong Người đàn bà có ma lực vì quá tin

vào ma lực của mình mà cả thời con gái đã không biết dừng lại ở một ngƣời đàn

ông, để tình yêu và hạnh phúc cứ lùi xa khỏi tầm với. Đó còn là nỗi xót xa của một

ngƣời phụ nữ không có may mắn đƣợc tạo hóa ban cho sắc đẹp để giữ đƣợc tình yêu

dù nàng có thừa đức hy sinh và lòng tốt (Biển và người đàn bà xấu xí). Cũng có khi

ngƣời phụ nữ để mất tình yêu chỉ vì sự đỏng đảnh trẻ con nhƣ Miên trong Thượng

đế bảo rằng mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà. Bi kịch cũng tìm

đến với những ngƣời phụ nữ quá si mê chỉ nhận ra nỗi đau của chính mình khi bị

ngƣời đàn ông phụ bạc (Tôi và anh thằng bé và con rắn, Hai bảy bước chân là lên

thiên đường). “Khao khát một tình yêu đích thực nhƣng tình yêu ơi ở đâu vẫn là một

câu hỏi không có lời đáp theo suốt cuộc đời những ngƣời đàn bà này” [34]. Có rất

nhiều nguyên nhân dẫn tới một tình yêu không trọn vẹn và để lại nhiều đau khổ.

Người phụ nữ không ý thức được đâu là tình yêu đích thực với những giá

trị cần có là một trong những lý do dẫn đến bi kịch tình yêu của chính họ. Các

truyện: Đôi găng tay da màu nâu và Thượng đế bảo rằng mỗi người đàn ông chỉ

của riêng một người đàn bà là những tâm sự thành thật đầy tiếc nuối của những

ngƣời phụ nữ đã để tuột khỏi tay món quà quý giá của cuộc đời đó là hạnh phúc

đƣợc yêu. Trong Đôi găng tay da màu nâu, ngƣời con gái mải miết chạy theo một

đam mê là đôi găng tay để rồi đánh mất đi tình yêu đầu đời đẹp đẽ. Cô chờ ngƣời

đàn ông tặng cô món quà ấy. Nhƣng anh không hiểu. Anh lại càng không bao giờ

hiểu đƣợc rằng cô còn hẹn hò với anh chỉ vì nghĩ đến một ngày mình sẽ là ngƣời

sở hữu chiếc găng tay kia. Cả cho đến khi tình yêu của hai ngƣời dừng lại, thì

nguyên nhân của cuộc chia tay ấy vẫn còn là một điều bí ẩn với anh. Nhƣng cô thì

hiểu, đó là vì ngƣời yêu cô đã tặng đôi găng tay cho chị gái theo đúng lời hứa năm

xƣa và điều ấy có nghĩa là cô sẽ không bao giờ còn có cơ hội là chủ nhân của nó

nữa. Đôi găng tay da chỉ là một ƣớc lệ của những khát khao phù phiếm, những

hoài vọng về một hạnh phúc xa xôi rất đàn bà. Nó làm ngƣời ta quên đi cái mình

đang có. Đến một ngày nhận ra cái mình chạy theo vẫn không bắt đƣợc mà cái

mình có cũng tuột mất thì đã muộn. “Rồi nhiều mùa xuân trôi qua, nàng trở thành

một ngƣời đàn bà thành đạt, danh giá nhƣng vẫn sống độc thân. Ngƣời đàn bà có

71

sở thích là mua những đôi găng tay da màu… khi mùa xuân về là lúc ngƣời đàn bà

cảm thấy một nỗi buồn không sao tả xiết, ngƣời đàn bà liền mang chiếc hộp đựng

găng tay ra… Mọi cảm giác mà ngƣời đàn ông đã đƣa đến khi nàng là một cô bé

hai mƣơi ba tuổi ào ạt tràn về. Chính những cảm giác đó mà ngƣời đàn bà chẳng

thể chấp nhận một ngƣời đàn ông nào khác nữa”.

Cũng là một nhận thức ấu trĩ về tình yêu nhƣng lần này bi kịch đến không

phải là vì ham muốn vật chất tầm thƣờng, một ƣớc vọng phù vân mà chỉ vì một câu

nói. Có biết bao ngọt ngào trong từng lời nói, từng nụ hôn, bao nhiêu ấm áp trong

sự quan tâm, bao nhiêu chân thành trong tình cảm mà Sơn giành cho Miên thì

Miên lại coi nhẹ; Cô lại đi suy nghĩ, dằn vặt, khổ đau vì một câu nói bâng quơ

châm chọc của thiên hạ. Vậy là lời nói ngang đƣờng trở thành to tát. Lòng tự ái đã

khiến cô vứt bỏ tình cảm của Sơn - ngƣời hoàn toàn không có lỗi. Chỉ nhiều năm

sau đó khi không tìm đƣợc một tình yêu đích thực nàng mới cảm thấy nuối tiếc,

xót xa cho mối tình đầu, mới cảm thấy ân hận vì sự đỏng đảnh con trẻ của mình.

Nàng thƣờng nhấm nháp những kỉ niệm đau đớn để dễ dàng trôi vào giấc ngủ.

Trong một chuyến đi du lịch Miên đã gặp lại Sơn, sự nhạy cảm của ngƣời đàn bà

cho nàng biết ánh mắt và cử chỉ kia chứng tỏ một điều Sơn vẫn còn yêu nàng.

Nhƣng cuối cùng nàng vẫn phải cay đắng nhìn vào sự thật: Dù yêu nhƣng Sơn sẽ

không bao giờ còn là của nàng nữa, anh đã thuộc về một ngƣời đàn bà mang tên

Leng. Suy nghĩ của Leng ở đoạn cuối truyện cũng chính là những gì mà Miên đang

lờ mờ nhận ra: Mỗi ngƣời đàn ông là của riêng một ngƣời đàn bà dẫu cho trái tim

họ có thuộc về một ngƣời đàn bà khác.

Y Ban rất cảm thông và sẻ chia với ngƣời phụ nữ khi họ rơi vào bi kịch nhƣng

chị cũng thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm của họ. Cái gì cũng có giá của nó.

Trả giá cho những sai lầm của hai ngƣời đàn bà trong hai câu chuyện trên đó là sự

mất đi một tình yêu đích thực chân thành. Chỉ còn lại nỗi ám ảnh suốt đời về bóng

hình của ngƣời đàn ông đã từng yêu họ tha thiết.

Sự mềm yếu, đa cảm, cả tin của người đàn bà cũng là nguyên nhân gây ra

72

những bất hạnh của chính họ

Ngƣời con gái trong truyện ngắn Thiên đường và địa ngục đã tin vào lời

chàng trai thử ăn trái cấm để đƣợc lên thiên đƣờng. Nhƣng sau khi lọt vào vƣờn

cấm giống bà Eva và tận hƣởng những phút giây thiên đƣờng ấy, cô bàng hoàng

tỉnh dậy, nƣớc mắt tràn khóe mi nhìn bình minh ngọt ngào sau đêm cấm: “Những

tiếng họa mi hót ríu ran bằng những lời thóa mạ con cái, kêu rên cuộc sống. Món

ăn làm đẹp lòng bà Eva bằng cơm rang của em và bị bắt đền. Tiện nghi đầy đủ

bằng bô hắt qua cửa sổ…”. Từ những phút giây bàng hoàng chuyển dần sang thất

vọng chua chát, nàng càng ý thức rõ ràng hơn về thực tại tối tăm, úi sùi. Nàng bẽ

bàng nhận ra rằng: “Đây chính là điều chƣa nghĩ ra…chao ôi, đây chính là mặt trái

của thiên đƣờng chăng. Đối lập với thiên đƣờng là gì nhỉ? À địa ngục”. Vì sự ham

muốn trƣớc mắt, chàng trai đã dụ dỗ cô gái bằng một câu chuyện huyền thoại lãng

mạn nhƣng chàng vì quên hay cố tình quên đã không kể cho cô nghe đoạn kết của

câu chuyện ấy: rằng khi thƣợng đế biết Adam và Eva phạm phải điều cấm, họ đã bị

đẩy xuống trần giới, ngƣời phụ nữ đã phải chịu trừng phạt cả về thể xác và linh

hồn về tội quyến rũ đàn ông. Còn cô gái, vì sự cả tin khờ dại mà quên đi rằng

những gì ta mơ ƣớc, tƣởng tƣợng bao giờ cũng đẹp hơn, cao hơn với cuộc đời thô

nhám và trần trụi. “Ôi đàn bà, đàn bà muôn đời vẫn vậy, vẫn không thoát khỏi dây

xích của sự nhẹ dạ” [13]. Chỉ một điều ấy thôi đã đẩy cô vào bi kịch - bi kịch của

sự vỡ mộng, của sự đổ gãy về một tình yêu lý tƣởng. Ngƣời con gái chốc chốc lại

bật cƣời, rồi đôi mắt nhỏ lệ, cô im lặng chìm trong nỗi đau nghĩ về cuộc sống hiện

đại, tình yêu hiện đại, về chính mình. Có những điều chẳng phải lúc nào cũng đủ

tỉnh táo để nhận ra:

Nghìn lần xem vẫn đam mê

Trái tim buốt trước câu thề gió trăng

Cấm sao tơ nhện cứ giăng

Một đời dại - vẫn đa mang - một đời.

(Hồng Ngát)

Trong một cuộc trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phục, Y Ban tâm sự:

73

“Quả thực là em (Y Ban - VPT) viết ít và viết xấu về đàn ông. Làm nhƣ vậy có lẽ vì

em yêu đàn ông quá, mong muốn ở họ nhiều quá” [51]. Nhƣng có lẽ cũng là vì chị

yêu thƣơng những ngƣời đàn bà quá, chị lo lắng quan tâm tới họ, mong muốn đƣợc

lên tiếng chở che cho họ. Mặt khác làm nên những bi kịch khổ đau cho ngƣời phụ

nữ lại chủ yếu là đàn ông. Do đó chẳng có lý do gì khi viết về bi kịch của ngƣời phụ

nữ chị lại bỏ qua những gã đàn ông họ sở, bội bạc, quên ơn, hoặc ích kỉ, vô trách

nhiệm. Y Ban rất quan tâm đến những biến động tâm lý của ngƣời đàn bà sau những

lần họ dâng hiến: “Nếu họ đƣợc ngƣời tình vuốt ve, động viên dù chỉ là một cuộc

điện thoại hỏi han, họ sẽ lại thăng hoa. Còn nếu sau đó là một khoảng lặng thì đó là

nỗi ê chề, bẽ bàng và cay đắng” [69]. Nhân vật chính trong truyện ngắn Hai bảy

bước chân là lên thiên đường là một cô gái trẻ, thông minh song lại quá nhạy cảm

và đủ nghiêm túc trong tình yêu để cảm nhận sự đau khổ xót xa cho bản thân trƣớc

thái độ thờ ơ lạnh nhạt của một ngƣời đàn ông sau cái lần đƣợc cô dâng hiến. Trong

lần hẹn hò đầu tiên cô đã rất e dè và cẩn trọng, nhƣng cô yêu anh nhiều, yêu thật

lòng, yêu không vụ lợi vì thế mà cô sợ, sợ ngày mai “ngày mai em phải đối diện với

những sự thật, em sẽ nhìn mọi thứ với đúng tên gọi của nó. Và điều đó làm em khốn

khổ”. Điều mà cô lo sợ đã đến, nhƣng rồi nó cũng tan biến trong hơi ấm của nụ hôn

nồng nàn mà ngƣời đàn ông dành cho cô. Chính cô cũng không thể cƣỡng lại chính

bản thân mình. Nhƣng cô sẽ không lo sợ, không khổ đau, không phải đối diện với sự

thật ngày mai nếu nhƣ ngƣời đàn ông cũng yêu cô, cũng vẫn dịu dàng và ngọt ngào

với cô nhƣ ngày hôm nay. Song hạnh phúc nhƣ một trò chơi của tạo hóa và cô cũng

chỉ là một trò chơi qua đƣờng của ngƣời đàn ông ấy. Cô đã gọi lại cho anh nhƣng

dƣờng nhƣ trong đầu anh đã không còn có ý niệm về những gì xảy ra giữa hai ngƣời

nữa, anh chỉ lạnh lùng nhắc nhở bằng cái giọng của công việc “à em này, khi tình cờ

gặp nhau ở đám đông chúng mình nên tế nhị nhé”. Và bi kịch bắt đầu từ đây, nó

xâm lấn vào tâm hồn cô gái với suy nghĩ về thiên đƣờng của mình: “Thiên đƣờng

cách cuộc sống của em hai bảy bƣớc chân, em đã bƣớc đƣợc hai sáu bƣớc rồi… sau

cái khoảnh khắc tan biến vào anh, bƣớc chân cuối cùng ấy em tƣởng tƣợng ra đó

chính là lời anh thổ lộ rằng anh yêu em…kì lạ thay cái thiên đƣờng. Adam và Eva vì

yêu nhau mà phải đẩy xuống hạ giới. Còn em chỉ vì thiếu tình yêu, em không đƣợc

74

lên thiên đƣờng”. Không phải cô không lƣờng trƣớc những gì sẽ xảy ra, nhƣng niềm

tin đặt nhầm chỗ, cô đã kỳ vọng quá nhiều vào một gã đàn ông đểu cáng, để rồi lại

phải một mình ôm lấy nỗi đau.

Ngƣời đàn ông trong Con quỷ nhỏ trong tôi, cũng có cái bản chất rất gần với

ngƣời đàn ông trong câu chuyện trên. Nhƣng nếu nhƣ trong Hai bảy bước chân là

lên thiên đường, nhân vật “anh” có một lối sống hiện đại và tỏ ra thẳng thắn không

che đậy cho sự buông thả, dễ dãi của mình, thì nhân vật “chú” trong Con quỷ nhỏ

trong tôi, lại là một kẻ xảo trá, đa tình nhƣng lại luôn dùng cái mác nhà văn với

những bức thƣ tình ngọt nhƣ mật để che đậy và lấp liếm đi sự khốn nạn. Cái kim

trong bọc cũng không dấu đƣợc lâu, những bức thƣ là phƣơng tiện cho gã đàn ông

có thể một lúc nhiều tay bắt cá nhƣng nó cũng chính là bằng chứng để lột tẩy bộ

mặt giả dối của hắn. Xuân - vợ hắn là ngƣời đầu tiên và trực tiếp chịu đựng những

khổ đau khi có một ngƣời chồng nhƣ hắn. Còn với nhân vật “tôi”, cô đã tôn trọng

ngƣời đàn ông ấy nhƣ một ngƣời chú để đƣợc chỉ bảo, nhƣ một ngƣời bạn để dốc

bầu tâm sự buồn vui. Thật đau đớn khi hắn không phải là ngƣời nhƣ cô nghĩ. Đó

chính là sự vấp ngã đầu tiên mà cô biết từ đây cô vào đời sẽ không phải bằng sự

hồn nhiên trong sáng nữa mà bằng một đôi mắt “đã có những vết đen len lỏi”. Đã

có biết bao đêm cô dằn vặt mình: “Tôi đã biết thêm về cuộc đời mà đáng lẽ chƣa

nên biết chút nào. Cũng chƣa thể bảo tôi là lả lơi nhƣng theo một ý nghĩ nào đó, tôi

cũng chẳng còn trong trắng nữa. Biết thêm về cuộc đời, cái vốn sống của cuộc đời

tôi đã bị trả giá quá đắt”. Tuy thế, giữ đƣợc thân, cô vẫn còn là ngƣời may mắn so

với hai ngƣời đàn bà trong hai câu chuyện Cái điềm con thỏ trắng và Sự vô tội của

Adam và Eva, bởi vì khi nhìn thấy sự ích kỷ, vô trách nhiệm của ngƣời đàn ông sau

những phút đam mê thì họ đã trở thành những bà mẹ mất rồi. Họ sẽ phải làm gì

đây nếu nhƣ bị ngƣời đàn ông phủi bỏ vào lúc ấy. Họ sẽ phải bỏ đứa bé, nhƣng là

mẹ họ đau xót lắm, còn nếu không họ sẽ phải sinh và nuôi con một mình với biết

bao điều tiếng. Nhƣng không một gã đàn ông nào trong cuộc nghĩ gì cho họ. Tin

vào điềm lành mà con thỏ mang lại, chàng trai trong Cái điềm con thỏ trắng đã hồn

nhiên phô ra sự ích kỷ, vô lƣơng tâm của mình. Ngƣời phụ nữ đã có thai bốn tháng

nhƣng anh chƣa muốn cƣới, lấy cớ là còn phải theo đuổi công danh sự nghiệp, rằng

75

vợ con sẽ khổ nếu nhƣ anh chƣa có việc làm ổn định…Đúng quá, nhƣng tại sao

anh không nghĩ đến điều này sớm hơn. Trong những lúc khao khát đắm say, sao

anh không một lần nghĩ tới hậu quả của nó, nếu nhƣ anh chƣa sẵn sàng làm bố.

Đến khi sự đã rồi thì lại muốn rũ bỏ để thoát thân.

Gã Adam trong Sự vô tội của Adam và Eva cũng vậy, gã đã làm cho ngƣời

đàn bà có thai nhƣng con ngƣời ti tiện trong gã chỉ cho rằng: mối quan hệ giữa gã

và ngƣời đàn bà chỉ là tám chục ngàn đồng và điều đó đã đƣợc giải quyết sòng

phẳng, việc cô gái có thai, là điều cô ta mong muốn, do đó cô ta sinh con và nuôi

con không liên quan gì tới gã. Tỉnh queo trong từng lời nói, chàng Adam tỏ ra

dửng dƣng khi đƣợc thông báo về tình trạng sắp chết đói của hai mẹ con nàng Eva.

Hắn cho rằng, mình vô can, có thể vô tƣ sinh con cũng vô tƣ vứt bỏ nó. Cả hai

ngƣời đàn ông - Một đã có gia đình, một chƣa; trong quan hệ với ngƣời phụ nữ,

một có tình yêu, một không, nhƣng cuối cùng, khi hệ quả để lại họ đều lộ ra là

những kẻ tàn nhẫn, vô trách nhiệm, vô lƣơng tâm. Bi kịch mà chính họ đã tạo ra

cho ngƣời phụ nữ là lời cảnh tỉnh của nhà văn trƣớc sự tê liệt đông cứng lòng nhân

ái của con ngƣời, trƣớc một thực trạng con ngƣời đang lạm dụng tình yêu để làm

xấu đi ý nghĩa đích thực của nó.

Trƣớc sự ào ạt đôi khi thực dụng của thời kì mở cửa có thể nói không quá

rằng tuổi trẻ là đối tƣợng dễ bị tác động, chi phối và cuốn theo lối sống hiện đại,

trong đó không ngoại trừ lối sống thiếu lành mạnh. Để tạo dựng cho những lớp

thanh niên mới lớn vốn sống cần thiết, tránh đƣợc những vấp váp không đáng có

trong cuộc đời thì ngoài nhà trƣờng và xã hội, gia đình luôn là nơi có trách nhiệm

đầu tiên và lớn lao nhất. Cha mẹ sẽ là ngƣời trực tiếp dạy dỗ, chỉ dẫn cho họ những

kinh nghiệm sống đầu đời kể cả những chuyện tế nhị và mang tính chất riêng tƣ

nhất là vấn đề về giới tính, về tình yêu đôi lứa. Nhiều bậc phụ huynh vì e ngại hoặc

vì thiếu trách nhiệm đã không chú ý đến việc dạy bảo những vấn đề ấy, để xảy ra

những “tai nạn” lẽ ra có thể tránh đƣợc. Trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, khi trình

làng một tâm trạng thiếu nữ đòi quyền đƣợc yêu, đƣợc nắm bắt cơ hội hạnh phúc,

Y Ban chú ý nhiều đến những nguyên nhân gây ra bi kịch của ngƣời mẹ trẻ không

bảo vệ đƣợc con mình. Ngoài sự khác biệt về thế hệ, về quan niệm đạo đức luân lý,

76

còn có sự thiếu quan tâm của những bậc cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho

con. Trong bức thƣ đã không biết bao lần cô gái nhắc lại câu mắng của ngƣời mẹ

“ai dạy mày nhƣ thế cơ chứ?”, để sau mỗi lần nhắc lại đó cô gái lại đƣợc giãi bày

và thanh minh cho chính mình. Đó vừa là câu trả lời nhƣng vừa bao hàm cả sự

trách móc: việc con đã làm chẳng cần ai phải dạy cả. Đó là bản năng tình yêu trong

con, là “đất bao la và trời rộng lớn dạy con”, nó không có gì sai vì đó là nhu cầu tất

yếu của mỗi con ngƣời khi yêu, nhƣng nếu nó đã sai (khi nhìn ở một góc nào đó)

thì đó cũng là một phần lỗi của mẹ, mẹ đã không trang bị cho con đủ kiến thức về

sinh lý của một cô gái mới lớn trong khi mẹ cũng là y tá. “Giá mà… mẹ bảo con,

và hƣớng dẫn con, con đã không gào lên nhƣ thế”. Những điều sai con đã làm ấy

không ai dạy con cả chỉ vì mẹ đã không dạy con phải làm sao cho đúng, để bây giờ

“nỗi cô đơn con không thể chia sẻ cùng ai. Mẹ vẫn âm thầm đau nỗi đau của mẹ,

con vẫn âm thầm đau nỗi đau của con”.

Secxpia từng nói: “Tình yêu là khói sinh ra cùng với hơi thở muộn phiền” -

Đã yêu ít ai tránh đƣợc những khổ đau buồn sầu. Khi cắt nghĩa bi kịch tình yêu

trong sáng tác của Y Ban không thể không nói đến nguyên nhân từ sự cuồng si

hay có những lúc quá cầu toàn của chính người phụ nữ. Nhân tình là một truyện

ngắn kể về ngƣời đàn bà đã có một con nhƣng ly thân với chồng và sống trong một

phòng nhỏ cùng xóm trọ với những cô gái bán hoa. Giờ đây nàng là ngƣời tự do, tự

do về thời gian, tự do trong sinh hoạt thƣờng nhật, tự do trong cả những mối quan

hệ. Nàng yêu một ngƣời đàn ông đã có vợ, họ dành cho nhau hai tiếng buổi trƣa

mỗi ngày từ thứ hai đến thứ sáu - “thời gian vừa đủ cho một cuộc âu yếm nhau,

không quá khứ, không tƣơng lai, không cả hiện tại”. Ngƣời phụ nữ sẽ vẫn cảm

thấy thoải mái với cuộc sống mới, vẫn thấy hạnh phúc với ngƣời đàn ông mới nếu

nhƣ không có lần nàng phải một mình đi giải quyết cái thai nhỡ nhàng. Nàng sốt

cao, nàng đói và khát, nàng cũng cảm thấy sự bấy bớt của cơ thể và nàng cần có

anh ở bên cạnh biết mấy. Nhƣng sự khao khát của nàng chỉ khiến nàng rơi vào ảo

giác. Anh ta đã có gia đình và cuối tuần là thời gian anh ta dành để bên vợ, để đƣa

những đứa con đi chơi, không có trƣờng hợp ngoại lệ nào với nàng, kể cả khi nàng

phải ở bệnh viện vì hậu quả do chính anh ta gây ra. Nàng khóc vật vã, nàng đau

77

đớn rã rời, tim nàng nhƣ ngừng đập, chân tay bủn rủn, nàng nhận ra cái bi kịch của

mình cũng nhƣ nàng đủ tỉnh táo để nhận ra anh cũng chỉ là một kẻ vô tình, chỉ vui

vẻ hứng thú trong những phút giây nồng nàn. Nhƣng nàng vẫn chấp nhận anh vì

nàng sợ sự cô đơn và nàng yêu anh. Nàng bỗng hiểu vì sao các cô gái bán hoa đêm

đêm vẫn khóc khóc cƣời cƣời, cũng giống nhƣ nàng “khóc đi cƣời đi và hô to lên

ba tiếng: Nhân tình, nhân tình, nhân tình để tiếp thêm nghị lực. Đêm nay là đêm

thứ bẩy ngày mai là chủ nhật. Đau đớn đi, khao khát đi, cƣời đi, khóc đi, hô to lên

đi, rồi sẽ đến ngày thứ hai. Anh sẽ lại đến, sẽ lại âu yếm, xót xa, xiết chặt… ngọt

ngào đến thế cơ mà”.

Tình yêu quả là thứ tình cảm không dễ gì lý giải. Vì nó mà con ngƣời ta có

thêm sức mạnh để vƣợt qua bao khó khăn của cuộc sống. Cũng vì nó mà con ngƣời

ta trở nên yếu mềm, cam chịu - trƣờng hợp này xảy ra đối với những ai yêu si mê,

yêu cuồng dại, yêu quên mình và quên cả sự thờ ơ, hững hờ của ngƣời kia.

Cô gái trong Tôi và anh, thằng bé và con rắn là tiêu biểu cho việc tôn thờ một

tình yêu không hề có thật. Cô đã yêu anh một tình yêu không đổi thay, không đòi

hỏi, yêu nhƣ không hề nghe những lời mắng chửi thậm chí xỉ vả của anh trong

những lúc trái tính thất thƣờng của dân nghệ sỹ. Anh bỏ vợ, bỏ con để hy sinh hết

mình cho nghệ thuật. Cô lại hy sinh hết mình cho anh để anh có thời gian theo đuổi

niềm đam mê tƣợng. Thời gian của cô là đằng đẵng những ngày bên anh, không

gian của cô là gian phòng đậm màu nâu đất của hàng trăm những bức tƣợng. Cô

thƣờng giúp anh nhào đất thật nhuyễn, nhƣng nhiều khi cô bị đuổi một cách vô cớ,

“Cô chỉ câm lặng đi vào góc khuất ngồi và nhìn”. Anh yêu cô nhƣng lấy ngƣời

khác làm vợ và sinh con, “Cô cần mẫn sống trong sự dửng dƣng đó”. Khi anh

chuyển sang làm tƣợng đồng, anh đuổi cô vì không cần nhào đất nữa, cô tuyệt

vọng nhƣng vẫn dõi theo anh từng ngày, đến khi anh thành công mở triển lãm

tƣợng đồng, cô che kín mặt đến xem và “khóc một cách thầm lặng”. Rồi anh lại

chán tƣợng đồng, anh đon đả nhờ cô nhào đất, “cô đánh nhuyễn đất bằng cả những

giọt nƣớc mắt của mình”. Đứa con trai của anh chết vì nghiện ma túy. Cô muốn bỏ

anh ra đi vĩnh viễn, nhƣng cô cũng là ngƣời biết “hy sinh cho cái đẹp” nên cô vẫn

lặng lẽ bên anh. Điều gì đã làm cho ngƣời con gái ấy có thể chịu đựng nhiều đến

78

thế? Chẳng thể là điều gì khác ngoài tình yêu cô dành cho anh. Dƣờng nhƣ cô

không còn sống vì cô nữa, cô đã đánh mất chính mình khi là cái bóng của anh.

“Hóa ra đàn bà ai cũng có khả năng đặc biệt giống nhau: Yêu đƣơng, ghen tuông

và cuồng si” (Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ).

Bi kịch tình yêu của Người đàn bà có ma lực trong truyện ngắn cùng tên lại là

bi kịch của ngƣời đàn bà quá cầu toàn, đi suốt cuộc đời không tìm thấy tổ ấm, một

nơi trú ngụ bình yên cho mình. Nhân vô thập toàn, đã yêu đôi khi phải chấp nhận,

nếu không sẽ không thể có đƣợc hạnh phúc gắn bó bền lâu. Ngƣời phụ nữ trong

truyện một phần vì tin vào ma lực của mình, phần khác lại có đòi hỏi cao ở những

ngƣời đàn ông đến với nàng, vì thế mà nàng thất bại. Nàng yêu ngƣời con trai tên

Sơn nhƣng thấy quá “phẳng lặng” lúc nào cũng giữ một đôi mắt dịu dàng kể cả khi

nàng giở trò ngang bƣớng; anh chàng khoa toán lãng mạn cũng bị nàng rời bỏ ngay

khi chàng vừa kịp thổ lộ lời yêu; cậu bé thi rớt đại học thì trẻ con; chàng nghệ sỹ

thì lợi dụng; ngƣời đàn ông đã ly hôn thì sợ mạo hiểm; thực tập sinh nƣớc ngoài

mới về nƣớc thì keo kiệt… Không thật sự có ý thức gắn bó với tình yêu nào, nàng

chỉ xem mỗi cuộc tình là một sự thể hiện sức mạnh của ngƣời đàn bà có ma lực.

Đến lúc nàng thực sự cần tình yêu và cuộc sống gia đình thì tình yêu cứ mãi lùi xa

theo tuổi xuân. Con đƣờng tìm kiếm tình yêu hạnh phúc của chị ngày càng khó

khăn, chị càng trƣợt dài trong sự cô độc, trống trải ghê gớm. Quá khứ hiện về

những tháng ngày kiêu hãnh nhƣng hiện tại “hạnh phúc đƣợc lo toan cho một gia

đình riêng không hề có trên khuôn mặt ngƣời đàn bà ấy”.

Đằng sau mỗi câu chuyện, mỗi cảnh đời, mỗi số phận con ngƣời bị thất bại

trong cuộc hành trình kiếm tìm tình yêu đích thực, ta nhận thấy sự thấu hiểu và

cảm thông sâu sắc của một nhà văn giàu tình yêu thƣơng và nhạy cảm với nỗi đau

của con ngƣời. Ta cũng nhận thấy bóng dáng của những con ngƣời trong xã hội

hiện đại với những bi kịch tình yêu - chuyện vẫn tƣởng là một địa hạt riêng tƣ nay

lại mang tính xã hội sâu sắc. Bằng cảm quan tinh tế của ngƣời phụ nữ, viết về tình

yêu, Y Ban dƣờng nhƣ không dừng lại ở chuyện tả chân mà “bứt lên” trên cái thực

để nhìn rõ hơn những biến chuyển trong đời sống tâm lý, tình cảm của con ngƣời

vốn rất không rõ ràng mạch lạc mà bí ẩn và khó giải thích rạch ròi bằng lý trí. Trên

79

nhiều trang viết, chị cũng trăn trở cùng nhân vật của mình tìm ra lối thoát cho

chính cuộc đời của họ sau những bi kịch. Vì vậy, dù còn mang vị đắng nhƣng

không bao giờ mất đi niềm tin - tình yêu vẫn đƣợc Y Ban miêu tả nhƣ một niềm

khao khát vĩnh hằng của con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Đó cũng là lý do vì

sao sáng tác về tình yêu của Y Ban luôn chiếm đƣợc cảm tình của nhiều thế hệ độc

giả hôm nay.

2.2.5. Bi kịch gia đình.

Bối cảnh thị trƣờng hóa, thƣơng phẩm hóa, đô thị hóa trong xã hội đã bộc lộ

một cái nhìn về sự dang dở, không hoàn thành. Đó chính là cái nhìn độc đáo xuất

phát từ những biến động trong đời sống xã hội và những chuyển động ngầm trong

lòng nó. Gia đình lớn thế nào thì gia đình nhỏ thế ấy. Xã hội có những biến động

thì gia đình cũng không thể bình yên. Vì thế, thành phần mà trƣớc đây thƣờng

đƣợc xem là tế bào, là nền tảng cho xã hội dƣờng nhƣ đang trở nên mong manh

hơn trƣớc những tác động ngƣợc chiều của chính nó. Gia đình với nguy cơ của sự

rạn nứt, đổ vỡ là đề tài đƣợc nói đến khá nhiều trong văn xuôi sau 1975. Đã có

những tác phẩm thành công ở mảng đề tài này nhƣ: Mùa lá rụng trong vườn - Ma

Văn Kháng; Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp; Thời xa vắng - Lê Lựu… Đến

lƣợt mình, đề cập đến bi kịch gia đình, Y Ban cũng quan tâm đến những quan

niệm, tình cảm, lối sống của từng cá nhân mà ở đó tiềm ẩn những bất ổn có nguy

cơ dẫn đến sự rạn vỡ bên trong. Ta vẫn thƣờng bắt gắp trong sáng tác của chị một

gam màu xám chủ đạo trên nền bức tranh hôn nhân và gia đình. Bằng cảm quan

nhạy bén của một ngƣời phụ nữ hiện đại, bằng lối tiếp cận đa diện, ngòi bút Y Ban

đã đi đến tận cùng sóng gió để truy tìm căn nguyên khiến cho bức tranh ấy không

thể có những sắc màu tƣơi tắn hơn.

Để một gia đình hạnh phúc và bền vững cần sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong

đó yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất là tình yêu. Một cuộc hôn nhân không tình yêu

sẽ là nguyên nhân gây ra những bi kịch trong gia đình. Mến trong Thiếu phụ và

những đôi cò, là ngƣời phụ nữ có bi kịch nhƣ thế. Ngày còn là một nữ sinh viên

80

trƣờng Y, nàng đã yêu một “thanh niên trẻ khỏe, đẹp đẽ có khuôn mặt thanh tú”, anh

học nghề thổi thủy tinh và thƣờng đem tặng nàng những đôi cò xinh đẹp đủ màu sắc

do anh tự làm. Nhƣng anh lại là một ngƣời khuyết tật - anh bị câm, vì thế mà dù yêu

nhƣng nàng lại không đủ dũng cảm để đến với anh. Mối tình khép lại, nàng cất những

đôi cò đi và lấy một ca sĩ làm chồng. Nhƣng từ trong cội rễ, nó đã là một cuộc hôn

nhân không tình yêu. Điều ấy càng rõ rệt hơn khi chồng nàng trở thành một ca sĩ hết

thời. Triền miên trong những cơn say, hắn không ngớt lời chửi mắng vợ và tệ hơn khi

trong cơn túng quẫn, hắn nghĩ ra trò để kiếm tiền bằng cách đặt làm hàng loạt những

đôi cò giống nhƣ kỷ vật tình yêu của nàng và bắt nàng đem bán. Trên hè phố trong

buổi chiều mƣa gió não nề, có một thiếu phụ ngồi thu mình trong tấm ni lông bên

cạnh những đôi cò xanh đỏ đủ màu lóng lánh. Mặc cho mƣa quất vào mặt, mặc cho

ngƣời qua đƣờng nhìn nàng bằng ánh mắt khi nhìn một kẻ điên khùng. Họ đang hối

hả ngƣợc xuôi chỉ mong cho mau về với tổ ấm gia đình. Còn nàng, nàng vẫn ngồi đó,

cốt sao không phải trở về ngôi nhà của chính mình. Quá khứ lại ào về, nàng xót xa,

gặm nhấm nỗi đau mà một thời vì không đủ dũng cảm, nàng đã vứt bỏ ngƣời đàn ông

thực lòng yêu thƣơng nàng.

Để đảm bảo cho sự bền vững của một gia đình, ngoài tình yêu là yếu tố đầu

tiên thì kinh tế là yếu tố quan trọng thứ hai. Áp lực kinh tế đè nặng lên vai bất kỳ

thành viên nào cũng có thể gây ra những rạn vỡ trong gia đình. Chuyện trong

căn nhà nhỏ cũng là dạng bi kịch gia đình có những khó khăn về kinh tế nhƣng nó

lại vƣợt khỏi khuôn khổ một gia đình. Căn nhà ấy đã từng là nơi cƣ ngụ của một

gia đình hạnh phúc. Bất hạnh kéo đến kể từ khi ngƣời mẹ đổ bệnh rồi qua đời,

ngƣời cha nuôi con bằng những cuốc xích lô ít ỏi. Khi lƣng vốn không có, sự học

hành cũng chỉ qua cái đận biết đọc, biết viết. Vậy là ngƣời con trai lại nối nghiệp

cha. Lại đi đạp xích lô. Nhƣng họ vẫn mơ những ƣớc mơ giản dị, ngƣời cha bảo

con: “cố gắng dành dụm ít tiền mà lấy vợ con ạ”, ngƣời con cũng lo lắng cho cha:

“bố cũng tính chuyện lấy vợ đi, bố còn trẻ mà”. Nhƣng khi con ngƣời ở đây luôn

luôn phải vật lộn và chống chọi với cái thứ gọi là kế sinh nhai thì mong ƣớc cƣới

đƣợc một cô vợ đàng hoàng, tử tế vẫn còn nguyên là mong ƣớc: “Cái mƣu sinh

hàng ngày nhƣ một guồng máy đƣợc nạp mã số cứ thế cuốn con ngƣời ta không

81

biết sao mà dừng lại đƣợc”. Thời gian không có, tiền bạc cũng không, thử hỏi cƣới

vợ bằng gì đây? Kể ra nếu nhƣ hai cha con họ là hai ngƣời phụ nữ có lẽ họ sẽ sống

nhƣ vậy suốt đời. Nhƣng họ là những ngƣời đàn ông và bi kịch thực sự đến trong

căn nhà nhỏ khi ngƣời cha đem về một cô gái trẻ, quê mùa. Cô gái làm ta nhớ tới

ngƣời đàn bà đã theo anh cu Tràng về làm vợ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn

Kim Lân, nhƣng trong cái đói, những bữa cơm đƣợc thay bằng cháo cám vẫn có

những niềm vui len lỏi vào tâm trí từng thành viên của gia đình mới. Còn ở đây, từ

khi cô gái có mặt, hai cha con đã bớt đi sự vất vả nhờ những bữa cơm tƣơm tất,

nhờ những nồi nƣớc tắm lá thơm đƣợc chuẩn bị chu đáo, song tiếng nói trong căn

nhà ấy cũng bớt dần và không khí mỗi ngày mỗi nặng nề. Ai cũng hiểu cô gái là

của ngƣời cha, nhƣng sự lệch pha trong ca làm đã khiến ngƣời đàn bà ấy không

còn là sở hữu của ngƣời cha nữa. Lâu rồi thành quen và chẳng ai còn có ý định tìm

cho mình một ngƣời vợ. Dƣờng nhƣ những con ngƣời trong gia đình ấy đƣợc đặt

trong một quy định vô hình đầy khắc nghiệt mà chính họ chƣa vƣợt ra ngoài những

rào cản. Ba ngƣời họ nƣơng tựa vào nhau, đắng đót một nỗi buồn không thành lời.

Hai đứa trẻ đƣợc sinh ra thật tội nghiệp khi chúng cũng phải tập theo thói quen im

lặng của ngƣời lớn. Và còn có một điều đau xót hơn nữa là không ai biết chúng là

con ngƣời nào, trong hai ngƣời đàn ông chúng sẽ gọi ai là bố? Làm sao họ có thể

trả lời đƣợc câu hỏi ấy, họ chỉ biết đến hai chữ chấp nhận. Tất cả đều là sự chắp vá,

nhƣng chắp vá mãi mà vẫn khập khiễng. Trong im lặng, mối quan hệ nhƣ một khối

thuốc nổ đã đƣợc châm ngòi, nhƣng chƣa biết bao giờ mới nổ đƣợc. Cái bi kịch

của gia đình ấy suy đến cùng là sự bế tắc về kinh tế, sự khốn khó, nghèo túng đã

dồn họ đến cuộc sống tối tăm, không lối thoát. Họ sẽ chẳng thể giải thoát đƣợc

khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy nếu nhƣ vẫn chẳng có cách nào khác ngoài việc đạp

xích lô để kiếm tiền.

Đọc truyện ngắn của Y Ban, nhiều lúc thấy có cái gì thật tức tƣởi, xót xa. Chị

viết về số phận con ngƣời trong sự cảm nhận những cay đắng chua chát mà cuộc

đời dồn đẩy họ đến chân tƣờng. Lối kể của chị cứ thản nhiên, nhƣng lúc nào ngƣời

đọc cũng cảm thấy lo sợ vì dƣờng nhƣ những bất ổn, những sóng gió lúc nào cũng

chỉ trực lao vào những nhân vật của chị. Phải chăng sự đồng cảm của chị với

82

những cuộc đời bất hạnh là phải nói, nói thật nhiều, thật sâu sát những thiệt thòi,

khốn khổ may ra mới giải tỏa nỗi xót xa trong lòng. Vì thế trong nhiều lần mổ xẻ

những vấn đề xã hội cũng nhƣ nhiều vấn đề gia đình, ngƣời đọc luôn cứ phải khắc

khoải, trăn trở cùng chị để nghĩ cách giải thoát cho số phận cuộc đời mỗi nhân vật.

Chúng ta thƣờng nói, phụ nữ là ngƣời giữ lửa cho gia đình nhƣng nếu chỉ có

một mình họ thì việc duy trì ngọn lửa ấy thêm nồng đƣợm sẽ rất khó khăn. Họ cần

có sự hỗ trợ của những ngƣời đàn ông. Nhƣng nếu đàn ông là những gã ti tiện

khốn nạn hay trăng hoa, vũ phu, bất tài thì bi kịch gia đình chính là bắt nguồn

từ đó và không ai khác ngoài ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ là ngƣời đầu tiên nhận lấy

những đớn đau, tủi cực. Những bi kịch rạn nứt trong gia đình ở Mẹ không thể

không xin lỗi con, Thiếu phụ và những đôi cò có nguyên nhân từ những ông chồng

nhƣ thế.

Mẹ không thể xin lỗi con là truyện kể về những biến cố trong cuộc đời ba ngƣời

thân của nhân vật tôi trong đó cuộc đời bà ngoại là bi kịch của một ngƣời phụ nữ có

chồng là kẻ trăng hoa. Lẽ dĩ nhiên không phải ngƣời đàn ông nào cũng có cái tật trăng

hoa, nhƣng phàm những ai đã phạm phải thói tật đó thƣờng họ không để cho ngƣời

đàn bà biết, đặc biệt là khi đã có vợ thì bằng mọi cách có thể, họ sẽ che dấu đi sự thật.

Còn ngƣời đàn ông trong câu chuyện này lại khác. Gã ngoại tình nhƣng công khai

thỏa thuận với vợ trƣớc. Gã làm trong nhà nƣớc, lại đƣợc cất nhắc lên làm giám đốc.

Chuyện gã bồ bịch lăng nhăng mà lọt ra ngoài, chắc chắn sẽ bị kỷ luật. Thời buổi tem

phiếu, bảy đứa con sẽ trông vào cái gì để sống? Đánh vào tâm lý ngƣời mẹ thƣơng

con, gã dùng đó là lý do để buộc ngƣời vợ khốn khổ phải chấp nhận cho gã đƣa ngƣời

yêu về nhà tình tự ngay trong gian buồng hạnh phúc của bà. Tàn nhẫn và khốn nạn

hơn nữa gã còn bắt bà canh gác cho gã. Còn gì cay đắng và uất ức hơn khi lại chính

tay bà phải dọn dẹp giặt giũ chăn chiếu mà đôi tình nhân đã quần thảo tƣớp tơ. Rồi

cũng đến lúc bà không còn chịu đƣợc nữa. Song thay vì làm bung bét mọi chuyện, bà

lại đấm thùm thụp vào ngực để cho cơn nghẹn trôi xuống mỗi khi nó chặn lên cổ bà.

Trời ơi cái kiếp đời phụ nữ sao họ chẳng bao giờ đƣợc sống cho chính mình, suốt đời

cứ nhục nhã đớn đau cam chịu hết vì chồng lại vì con. Dƣờng nhƣ chịu đựng là thuộc

tính của họ và khi cần thì cái thuộc tính ấy cũng chẳng bao giờ có cái ngƣỡng hạn

83

định nào cả. Gia đình của ngƣời phụ nữ trong truyện bề ngoài có vẻ nhƣ sóng gió đã

ngƣng lại kể từ khi đứa con của gã đàn ông và ả phi dê bị chết, nhƣng trong lòng nó

đã nứt toác những vết thƣơng vĩnh viễn không thể liền đƣợc. Nó chỉ lắng lại và giấu

vào một nơi nào đó thật sâu trong lòng ngƣời đàn bà.

Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội là sự gia tăng những nhu cầu tinh

thần của con ngƣời. Khi ăn no mặc đủ đã không còn là niềm mong ƣớc của nhiều

ngƣời thì một đời sống tình cảm phong phú với những yêu thƣơng nồng đƣợm có

lẽ cũng không phải là những đòi hỏi quá cao với bất kỳ gia đình nào. Tuy nhiên đời

sống xã hội phát triển, con ngƣời ngày càng có nhiều sự lựa chọn thì lại kéo theo

một nguy cơ khác đó là “sự xơ hóa cảm xúc”, trong mối quan hệ chồng vợ. Y Ban

hay viết về “những phút xao lòng, những phút giây ngoài chồng, ngoài vợ. Có

muôn vàn lý do để ngƣời đàn ông hoặc ngƣời đàn bà có thể xao lòng trƣớc một ai

đó. Tuy nhiên một trong những căn nguyên mà nhân vật của chị luôn tự ý thức

chính là sự xơ hóa trong tình cảm” [33]. Vì vậy nếu không có sự cố gắng từ cả hai

phía: cả ngƣời đàn ông và ngƣời đàn bà trong gia đình thì đó sẽ là tác nhân mạnh

mẽ nhất dẫn đến những đổ vỡ không thể nào cứu vãn nổi.

Quan tâm nhiều đến ngƣời phụ nữ, Y Ban cũng dành nhiều trang viết để nói

về nỗi đau tinh thần của họ trong đời sống hiện đại, trong gia đình hiện đại. Y Ban

từng nói: “Tôi rất thích mổ xẻ đến tận cùng tâm lý của ngƣời đàn bà hiện đại. Họ

thông minh giỏi giang nhƣng vẫn luôn cần một đời sống tình cảm phong phú…tôi

thích ngƣời phụ nữ có trách nhiệm với gia đình nhƣng ngƣời đó cũng yêu và hiểu

về tình yêu” [69]. Vì vậy chị luôn chọn những tình huống có tính chất tâm lý để

thử thách nhân vật, khiến họ phải trải qua một cuộc giằng xé, day dứt trong tâm

hồn nhƣ ngƣời phụ nữ trong: Người đàn bà và những giấc mơ, Sau chớp là dông

bão, Người đàn bà đứng trước gương, Gà ấp bóng…

Truyện ngắn Sau chớp là dông bão, Y Ban đã để cho nhân vật của mình đi

trên mép bờ ranh giới của sự lựa chọn. Chìm trong những dòng suy nghĩ về một

ngƣời đàn ông không phải là chồng mình, ngƣời phụ nữ nhớ tới “khuôn mặt tử tế”

mà nàng đã gặp trong chuyến đi công tác. Đó là gƣơng mặt đem đến cho nàng

84

nhiều ấn tƣợng tới mức đã có lúc nó đẩy nàng đến những giằng co giữa một bên là

ý thức của một ngƣời đàn bà đã có gia đình, và một bên là những ham muốn tình

cảm mới lạ. Sự êm ả trong cuộc sống vợ chồng cứ “lặp đi lặp lại thành một rãnh

mòn, từ lâu đã không còn làm nàng thổn thức đƣợc nữa”. Nàng lo lắng chăm sóc

cho chồng “nhƣng nàng không còn xao xuyến mỗi khi anh động chạm đến nàng”,

chính vì thế nàng hay mơ tƣởng đến ngƣời đàn ông lạ. Nàng thích đƣợc nghe

những lời mơn trớn dịu dàng từ ngƣời đó. Khuôn mặt ngƣời đàn ông tử tế theo

nàng cả vào trong những giấc mơ. Chỉ một động chạm nhẹ cũng làm nàng xao

xuyến, đó là cảm nhận về một sự dịu ngọt mới lạ mà ngƣời đàn bà thấy thiếu ở

chồng mình… Có lẽ đây sẽ là tác nhân gần nhất biến nguy cơ đổ vỡ gia đình trở

thành sự thật. Nếu nhƣ chồng nàng không phải là ngƣời khéo léo níu ngƣời vợ lại

bằng những tình cảm âu yếm, bằng sự dịu ngọt cần thiết mà nàng đang thiếu thì

chắc hẳn sau những tia chớp đang làm ngƣời đàn bà mất thăng bằng sẽ là cơn bão

tố cho một gia đình.

Sự xơ hóa trong cảm xúc gia đình đôi khi tạo nên những khoảng cách chồng

vợ. Nếu nhƣ không đƣợc hâm nóng, dần dần những quan hệ sẽ trở nên gƣợng gạo

tẻ nhạt. Ngƣời phụ nữ dễ rơi vào trụy lạc ái tình nhƣ một giải pháp để thoát khỏi sự

nhạt nhẽo, vô vị, để đƣợc sống với con ngƣời cá nhân.

Trong Người đàn bà và những giấc mơ, Y Ban đã bày tỏ một sự thật là niềm

mong mỏi đƣợc giải tỏa những ẩn ức sinh lý tinh thần của ngƣời phụ nữ. “Cuộc

sống của gia đình nàng trôi qua êm đềm, bằng lòng, ít trăn trở”- bề ngoài tƣởng

nhƣ đó là ƣớc mơ của nhiều ngƣời, nhƣng thật ra bên trong đang tiềm ẩn những

nguy cơ đổ vỡ, khi mà chồng nàng vẫn thƣờng đi làm về muộn và “thƣờng những

hôm anh về nhà trễ, không bao giờ anh ngủ cùng nàng. Anh sẽ nằm co quắp nhƣ

một con tôm và kêu mệt mỏi”. Để khỏa lấp những khoảng trống trong tâm hồn, để

đƣợc thay đổi cảm giác, để “cân bằng với cuộc sống mà ngày càng cảm thấy thiếu

hụt”, trong những đêm nằm chờ chồng về, nàng mong ƣớc có một ngƣời đàn ông

nào đó thật hoàn hảo và đối xử với nàng một cách lý tƣởng, không làm “nàng đau

cả thể xác lẫn linh hồn”, nàng đã tìm thấy ngƣời đàn ông đó trong giấc mơ. Vậy là

nàng ngủ nhiều hơn và trong giấc mơ nàng đã ngoại tình. Cứ nhƣ thế sau những

85

lần ngoại tình, nàng lại sống trong trạng thái đầy mâu thuẫn, một bên là những

khao khát thầm kín của ngƣời phụ nữ, còn một bên là những mặc cảm day dứt về

tội lỗi. Cuộc tình trong giấc mơ của ngƣời đàn bà thể hiện ý thức cảnh tỉnh của nhà

văn trƣớc nguy cơ của sự đổ vỡ, dẫu đó mới chỉ là những dấu hiệu manh nha.

Cũng với motif về một ngƣời đàn bà thành đạt nhƣng lại ngoại tình vì mong

muốn có một đời sống tình cảm hoàn hảo, trong Gà ấp bóng, Y Ban đã bày tỏ suy

nghĩ về việc ngƣời phụ nữ luôn có ý thức tự cởi trói cho mình ra khỏi những ràng

buộc. Họ sẽ phải giải quyết vấn đề của chính mình trên con đƣờng đi đến sự thừa

nhận của toàn xã hội. Tuy nhiên ngƣời phụ nữ dù thế nào cũng luôn là ngƣời yếu

đuối, cần đƣợc bảo vệ và sẻ chia. Họ cần nhận đƣợc từ phía ngƣời đàn ông sự

khích lệ, tình yêu thƣơng cũng nhƣ sự cảm thông, niềm tin và đôi khi là cả sự bao

dung đối với những lỗi lầm có thể bỏ qua đƣợc. Câu chuyện mà ngƣời đàn bà kể

lại cho vị thẩm phán nghe không phải là một lời thanh minh, nó chỉ là một lời tâm

sự rất thật sau cái kết thúc đau buồn của gia đình chị. Ngƣời phụ nữ muôn đời vẫn

thế “đã ở vào cái tuổi khôn ngoan đến vậy mà vẫn dại khờ vì một vài lời đƣờng

mật”. Trong một chuyến đi công tác con tim chị đã rung động trƣớc một ngƣời đàn

ông ngoại quốc, khi đã về nƣớc rồi, con tim chị vẫn còn loạn nhịp với những dòng

mail, những cuộc điện thoại. Trong hai mƣơi năm chung sống cùng ngƣời chồng

luôn yêu một cách vồ vập thái quá nên ngƣời phụ nữ luôn cảm thấy “thiếu một thứ

đó là sự dịu dàng” và “khi đã sống với nhau đến hai mƣơi năm rồi thì đôi khi cảm

xúc cũng bị xơ hóa”. Đó chính là lý do khiến ngƣời phụ nữ muốn vƣợt ra khỏi sự

bình yên của số phận. Nàng đã giữ liên lạc với ngƣời đàn ông ngoại quốc trong

suốt ba tháng nhƣng mối quan hệ của họ cũng chỉ có thế, chỉ dừng lại ở những

dòng thƣ, những cuộc điện thoại. Sau ba tháng, nàng trở về là chính mình, không

còn hồi hộp chờ đợi nữa. Nàng đã muốn dừng cuộc phiêu lƣu tình cảm này vì nàng

không muốn đánh đổi cuộc sống gia đình với bất kỳ một điều gì khác. Nhƣng nàng

đã không gặp may. Chồng nàng đã biết đƣợc những lá thƣ nàng gửi đi cho ngƣời

đàn ông trƣớc khi nàng kịp kể lại mọi chuyện. Anh đã không có đƣợc niềm tin

trƣớc những lời thú nhận chân thành của vợ, và họ đã chia tay - một cái giá quá đắt

mà nàng phải trả cho “cuộc tìm đƣờng” và thể nghiệm nhu cầu mới của chính

86

mình.

Không phải ngẫu nhiên mà Y Ban lại hay đề cập đến vấn đề ngoại tình, đến

những “phút giây ngoài chồng vợ”. Chị cắt nghĩa: “Cuộc sống phát triển kéo theo

sự xơ hóa trong tình cảm gia đình. Bƣớc ra khỏi cửa thôi là sẽ thấy cả xã hội che

chở cho việc ngoại tình. Tại sao khách sạn nhà nghỉ lại mọc lên nhiều đến vậy?

Trƣớc tiên phải nhìn lại xem gia đình có lỗi gì không để đẩy ngƣời ta đến việc

ngoại tình? Một ngƣời phụ nữ trƣớc mặt bạn trai sẽ trở nên duyên dáng, ý nhị biết

bao trong khi ở nhà với chồng thì đầu bù tóc rối. Ngƣời đàn ông có thể buông

những lời khen với cô đồng nghiệp hay bà hàng xóm nhƣng về nhà lại cục cằn với

vợ con” [69] Sự thất vọng về đời sống vợ chồng trong cuộc sống chung là một

trong những lý do của việc ngoại tình và đó cũng chính là nguy cơ dẫn đến những

bi kịch. Nhƣng có một điểm khác biệt là mục đích của những cuộc ngoại tình.

Trong khi đàn ông coi ngoại tình nhƣ một chút gia vị trong cuộc sống, là một giải

pháp nhất thời để xoa dịu những phiền muộn trong công việc, trong gánh nặng của

một ngƣời trụ cột gia đình, thì ngƣời đàn bà lại ngoại tình khi „cần khỏa lấp sự

trống trải và mong tìm hạnh phúc trong những mối tình cảm mới” [34]. Hầu nhƣ

không có ngƣời đàn ông nào trong sáng tác của Y Ban lại coi ngoại tình là mục

đích để tìm kiếm một tình yêu đích thực. Gia đình vẫn luôn là lý do để ngƣời đàn

ông trong Nhân tình hay Sự vô tội của Adam và Eva từ chối sự cầu cứu của bạn

tình: “Tôi phải hoàn thành nghĩa vụ làm chồng làm cha của tôi một cách xứng

đáng chứ, vợ con tôi phải đàng hoàng yên ấm” (Sự vô tội của Adam và Eva). Còn

ngƣời phụ nữ “ai cũng vậy, đến chết vẫn mong chờ một tình yêu đẹp”, bi kịch của

họ đôi khi xuất phát chính từ những kỳ vọng về sự hoàn hảo ấy. Hãy nghe lời tâm

sự của ngƣời đàn bà đã một lần thất bại trong hôn nhân: “Nếu đừng đòi hỏi mọi

thứ quá hoàn hảo thì tôi đã có những thứ tôi cần: một căn nhà tiện nghi, một ngƣời

chồng tài hoa trẻ đẹp, hai đứa con khỏe mạnh ngoan ngoãn, một việc làm ổn định,

có thu nhập cao, có uy tín trong công việc…”(Gà ấp bóng).

Tuy nhiên bản chất của ngƣời phụ nữ Việt Nam thời nào cũng thế, dù có vô

vàn lý do khác nhau để biện hộ cho hành động của mình sau những giây phút xao

lòng thì họ vẫn trở về với thiên chức vốn có của mình. Sự tự thú, sám hối luôn nằm

87

trong những biến động tâm lý của ngƣời đàn bà sau cuộc ngoại tình. “Ngƣời đàn

bà dù có học hay không có học, sau mỗi cuộc yêu họ đều có những day dứt”.

Trong Người đàn bà và những giấc mơ cứ mỗi lần ngoại tình trong giấc mơ, ngƣời

phụ nữ lại có cảm giác lỗi lầm và chăm sóc chồng con chu đáo hơn để rồi đến một

ngày, tiếng gọi của con trẻ đã đƣa nàng trở về với thực tại, nàng lại làm tròn bổn

phận của mình với gia đình không phải chỉ bằng nghĩa vụ, trách nhiệm mà còn

bằng cả tình yêu thƣơng với chồng con. Ngƣời đàn bà trong gia đình của Y Ban

“đôi khi cũng chống chếnh, chênh vênh giữa bổn phận của một ngƣời vợ và một

thế giới siêu thực nào đó, rồi họ lại giật mình thảng thốt quay về duy trì tổ ấm yên

bình” [69]. Bởi vì từ sâu thẳm trong ý nghĩ, tâm can họ cũng không bao giờ có ý

định lừa dối chồng, hay trở thành ngƣời vợ không thủy chung: “cũng có nhiều

ngƣời tán tỉnh tôi. Nói thực tình tôi cũng có hả hê khi thấy mình còn hấp dẫn.

Nhƣng chƣa bao giờ tôi có ý nghĩ trong đầu rằng tôi sẽ ngoại tình” (Gà ấp bóng).

Ngoại tình thực chất cũng chỉ là một sự lựa chọn đầy bi kịch bởi vì: “thực tế trong

lòng không bao giờ nàng muốn ngủ với ngƣời đàn ông nào khác ngoài chồng”

(Người đàn bà và những giấc mơ), kể cả là ngoại tình trong mơ thì “nàng cũng

không bao giờ có ý định tìm kiếm gƣơng mặt một ngƣời đàn ông nào ở ngoài đời

giống trong mơ” (Sau chớp là dông bão). Chính những ý nghĩ ấy đã làm cho họ

thức tỉnh vƣợt qua những cám dỗ và đó là điều đáng đƣợc trân trọng.

Tình yêu là yếu tố bắt đầu cho một cuộc hôn nhân, nhƣng chất men của nó

chƣa đủ để tạo nên một gia đình hạnh phúc. Mái ấm gia đình cần phải đƣợc dày

công vun đắp của cả vợ và chồng. “Một nụ cƣời hiền hậu, một ánh nhìn âu yếm,

một cử chỉ nồng nàn, một lời khen đúng lúc, một câu đùa đúng chỗ, một sự sẻ chia

kịp thời, một lời nói đẹp…” đều là những giọt vui bé nhỏ cần đƣợc gom góp để có

đƣợc hạnh phúc bền vững, bởi vì bi kịch có thể gõ cửa bất kỳ một gia đình nào

trong bất kỳ lúc nào. Viết về những bi kịch thông qua cái nhìn của nhân vật khi họ

đang trực tiếp cảm nhận những rạn nứt của cuộc sống chung bằng tấm lòng và sự

cảm thông sâu sắc, sáng tác của Y Ban đã thực sự làm rung động trái tim ngƣời

đọc, đặc biệt luôn tìm đƣợc sự đồng cảm ở độc giả cùng giới từ những trang viết

88

theo sát diễn biến tâm lý của ngƣời đàn bà trong tình yêu và gia đình.

CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NGHỆ THUẬT

TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN

Nói về nghệ thuật trong sáng tác văn chƣơng thì vai trò của ngƣời viết có thể

đƣợc so sánh nhƣ vai trò của đạo diễn trong điện ảnh. Cái hay, cái hấp dẫn của một

tiểu thuyết hay truyện ngắn không chỉ phụ thuộc vào mức độ sâu sắc và giá trị

nhân văn của những vấn đề đƣợc nói tới, nó còn phụ thuộc rất nhiều vào nghệ

thuật dàn dựng của ngƣời viết. Nếu nhƣ ngƣời đạo diễn phải dàn dựng về bối cảnh

của bộ phim, dàn dựng lối diễn xuất của diễn viên… thì tác giả văn học lại phải

dàn dựng về cốt truyện, tình huống, về nhân vật, về điểm nhìn, về không gian thời

gian và dàn dựng cả về ngôn từ của tác phẩm. Trƣớc mỗi hiện tƣợng của đời sống,

mỗi nhà văn có những cách khai thác nghệ thuật riêng, những phƣơng thức riêng

để thể hiện thái độ và quan điểm thẩm mỹ của mình, nhƣng hầu hết đều có thể soi

chiếu từ các góc độ kể trên và tùy từng tác giả mà ở mỗi góc độ đó có thể đậm nhạt

khác nhau.

Trong sáng tác của Y Ban dấu ấn mà nhà văn để lại đƣợc biểu hiện ở nghệ

thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.

3.1 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN

Cốt truyện là yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong bất kỳ hình thức tự sự

nào. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển sang dạng văn bản khác. Cốt

truyện đƣợc hiểu là “cái lõi của văn tự sự”, là “hệ thống sự kiện cụ thể đƣợc tổ

chức theo yêu cầu tƣ tƣởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản quan

trọng nhất trong hình thức động thuộc loại hình tự sự và kịch” [10]

Có nhiều quan điểm cho rằng khi nói tới cốt truyện là nói tới một phạm trù

thuộc về nội dung của chỉnh thể văn học. Còn muốn xem xét cốt truyện nhƣ một

phƣơng thức nghệ thuật, có nghĩa là tìm hiểu về nó trên bình diện cách thức tổ

89

chức. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này, do đó chúng tôi đƣa vào khái

niệm trên đây vì ở đó thuật ngữ cốt truyện đƣợc hiểu thiên về việc tổ chức các sự

kiện hơn là các sự kiện. Đọc truyện ngắn và tiểu thuyết của Y Ban dễ nhận thấy sự

đa dạng trong các phƣơng thức xây dựng cốt truyện của chị. Có cốt truyện đƣợc tổ

chức theo kiểu ghép mảnh (Làng Cò, Cuộc sống kỳ diệu), có cốt truyện trong

truyện (Thần cây đa và tôi, Đàn bà xấu thì không có quà), có cốt truyện đƣợc xây

dựng theo kiểu truyền thống (Vùng sáng ký ức, Chuyện trong căn nhà nhỏ…), cốt

truyện có khi đƣợc xây dựng theo kiểu tâm lý (Sau chớp là giông bão, người đàn

bà có ma lực), theo kiểu dị truyện (nhƣ Mắt ma, Miếu hoang, Chợ rằm dưới gốc

dâu cổ thụ …), hay theo kiểu để chất báo chí giao thoa với chất truyện (Xuân Từ

Chiều, I am đàn bà). Tuy nhiên các phƣơng thức này không phải bao giờ cũng

đƣợc sử dụng đều nhƣ nhau. Dƣới đây chúng tôi sẽ đề cập đến ba cách thức tổ

chức cốt truyện phổ biến làm nên đặc trƣng trong sáng tác của Y Ban.

3.1.1 Tổ chức cốt truyện theo kết cấu tâm lý

Theo PGS.TS Lê Huy Bắc thì cốt truyện tâm lý đƣợc phân loại dựa trên tiêu

chí nhân vật. Nó “đƣợc triển khai dựa trên tâm lý của nhân vật với những bức xúc

và dằn vặt nội tâm, sự vận động nội tâm đó là cơ sở thúc đẩy truyện phát triển”[4]

Nếu nhƣ trong cốt truyện truyền thống, sự kiện (theo logic của thời gian tuyến

tính) là cốt lõi của câu chuyện thì ở những tác phẩm có cốt truyện tâm lý, cốt

truyện thƣờng mờ nhạt “phân tích nội tâm trở thành phƣơng tiện nghệ thuật chủ

yếu” trong cách thức xây dựng cốt truyện. Liên kết tác phẩm không phải đƣợc tạo

ra từ logic những sự kiện có quan hệ nhân quả, mà đƣợc tạo ra từ dòng chảy bất

định của tâm trạng.

Nhiều truyện của Y Ban có độ co giãn rất linh hoạt, phù hợp với việc biểu

hiện các sắc thái bên trong của nhân vật: Khi dừng lại ở một khoảnh khắc nào đó

của tâm trạng, khi lại chạy theo những biến đổi của nội tâm, những miên man trong

dòng suy nghĩ. Hai bảy bước chân là lên thiên đường, Chiếc vương miện bằng cỏ,

Nhân tình, Cuộc tình silicol, Người đàn bà có ma lực, Ước mơ của chị bán hàng

90

rong, Sau chớp là dông bão, Người đàn bà đứng trước gương, Thượng đế bảo

rằng mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà, Người đàn bà và những

giấc mơ…thƣờng ít hành động, xung đột, mà thay vào đó là những suy tƣ, những

trăn trở về cuộc đời với những nỗi niềm, những rung động, những tâm tƣ thầm kín.

“Cái mà ám gợi ngƣời đọc chính là những trạng huống cảm xúc mà nhân vật đã

trải qua, qua giọng kể nhƣ một lời tâm sự của ngƣời viết” [34]. Chiếc vương miện

bằng cỏ là những rung động đầu tiên của một nữ sinh viên trƣớc tình cảm ấm áp

của một chàng trai ngƣời Huế, cùng bao tiếc nuối cho những tháng ngày ngọt ngào

trong nguyên sơ cảm xúc. Ước mơ của chị bán hàng rong là tâm trạng của ngƣời

phụ nữ nghèo với những lo toan cho một cuộc sống đầy những khó khăn chất

chồng. Người đàn bà có ma lực kể về những cuộc tình đã đi qua ngƣời đàn bà, mà

đằng sau những cuộc tình đƣợc hồi tƣởng là những suy nghĩ trăn trở, những cơn

sóng lòng khắc khoải về những cảm xúc khi yêu và đƣợc yêu, và sau hết là cảm

giác trống trải cô đơn bởi không có cái hạnh phúc đƣợc lo toan cho một gia đình

riêng. Sau chớp là dông bão, Người đàn bà và những giấc mơ, Gà ấp bóng là

những phấp phỏng chờ đợi cùng những băn khoăn day dứt của ngƣời phụ nữ có ý

định ngoại tình. Đó thực sự là những đấu tranh nội tâm giữa khát khao bản năng và

bổn phận làm vợ, làm mẹ: “I love you - tôi đã thổ lên ba từ đó trong trạng thái vô

thức. Khi nhận thức đƣợc mình vừa nói gì, tôi sợ hãi dập máy. Tôi đi vào giƣờng

vùi mặt vào gối trong trạng thái đê mê dịu dàng. Sau đó tôi dằn vặt, tự vấn mình

xem điều gì đã xảy ra. Thế có gọi là ngoại tình không?”(Gà ấp bóng).

Theo dòng tâm trạng của nhân vật, những câu chuyện dƣờng nhƣ không tuân thủ

một cách chặt chẽ các thành phần của cốt truyện, đôi khi nó không đầu, không cuối.

Câu chuyện đã thôi không kể nữa nhƣng nhân vật dƣờng nhƣ chƣa có một kết thúc

nào. Họ vẫn cứ theo đuổi những dòng suy nghĩ miên man theo những trăn trở, nghi

hoặc về cuộc đời chẳng biết bao giờ có thể lý giải đƣợc. “Định mệnh hay là sự lựa

chọn? Đâu là ranh giới? Ngƣời đàn bà không thể tìm đƣợc câu trả lời… Còn ƣớc mơ?

…ngay cả giấc mơ cũng là một giấc mơ silicol rồi thì còn đâu là giấc mơ bình thƣờng

đƣợc nữa” (Cuộc tình Silicol). Cuộc sống vốn phức tạp và chẳng phải điều gì cũng có

thể dễ dàng lý giải tới ngọn ngành. Kết thúc truyện ngắn Ai chọn dùm tôi, cô gái bị

91

phụ tình vẫn chìm trong những suy nghĩ đắn đo khi chọn cho mình một lối đi trong

cuộc đời: “Rời nhà ông thầy cúng, tôi cũng không biết chọn nẻo nào cho mình. Tôi đã

sống thành mà có nhận đƣợc quả phúc đâu. Còn sông Hồng ƣ? Liệu có trôi đƣợc ra

biển không hay sẽ mắc vào một gờ đá nào đó rồi vật vờ theo sóng nhƣ cái chết của

nàng tiên cá. Đến chuyện cổ tích mà có cứu đƣợc nàng đâu”. Lối kết thúc để ngỏ này

đôi lúc khiến cho ngƣời đọc có cảm giác nhƣ mạch truyện vẫn còn tiếp diễn “dòng

vận động của truyện chƣa chấm dứt, lời giải đáp không rõ ràng. Số phận nhân vật

chƣa đƣợc thể hiện trọn vẹn” [14]. Hay trong Xuân Từ Chiều cũng vậy, truyện kết

thúc nhƣng nhà văn cũng không giải quyết đến cùng mọi vấn đề. Với Xuân và Từ, ta

có cảm giác cuộc sống của họ vẫn đang tiếp diễn, kéo dài: “Từ bỏ dở nghiên cứu về

cái khớp N. Từ bàn với chị Xuân mua đất trồng cam. Chị Xuân bảo, ở miền Trung có

ngƣời đàn ông lập nghĩa trang hài nhi, mày bỏ nghiên cứu khớp N là đúng, còn việc

trồng cam để tao nghĩ đã, cũng hay đấy mày ạ. Nhƣng mày bỏ cơ quan à? Không, em

không bỏ, em sắp đƣợc lên lƣơng rồi. Em vừa nghĩ ra một đề tài: Cam. Tối nay em

viết đề cƣơng, em chắc chắn lần này đề tài của em sẽ đƣợc thông qua chị ạ”. Có lẽ đó

là khoảng trống tác giả dành cho ngƣời đọc suy ngẫm và tự tạo ra những kết thúc cho

riêng mình.

Xây dựng cốt truyện dựa trên dòng chảy của cảm xúc, tâm lý, Y Ban đã sử

dụng thủ pháp đồng hiện với lối kết cấu lắp ghép. Thời gian cũng là thời gian tâm

lý, tác giả thƣờng chọn một thời điểm của cuộc đời nhân vật, rồi từ đó mở ra thời

gian quá khứ, đan xen với hiện tại theo dòng tâm tƣởng của nhân vật. Bức thư gửi

mẹ Âu Cơ là đồng hiện của hai khoảng thời gian: hiện tại và quá khứ - hiện tại là

nỗi đau về thể xác và tinh thần của ngƣời mẹ mất con, quá khứ là ký ức thời thơ

ấu. Bằng việc trả lời những câu hỏi của ngƣời mẹ, truyện đƣợc phát triển nhờ sự

lồng ghép những diễn biến tâm trạng của cô gái qua hai quãng thời gian ấy. Thời

điểm đƣợc chọn không cố định là thời điểm nào, có thể nó chỉ là một khoảnh khắc

của đời ngƣời nhƣng đó lại là thời điểm có tính chất tâm lý, đánh thức cả một

quãng thời gian trong quá khứ: khoảng thời gian ngắn ngủi của một bộ phim đƣợc

chiếu ngoài rạp đủ cho một ngƣời phụ nữ nghĩ về cả quãng đời lầm lỡ của mình, về

điểm bắt đầu là “một cái thời xa xƣa cũ kỹ lắm” (Đàn bà sinh ra trong bóng đêm).

92

Cảm nhận về một ngày sắp đi qua của ngƣời đàn bà trong căn nhà trống trải, từ

những tiếng nô đùa của trẻ nhỏ, từ tiếng “dao thớt lách cách bên hàng xóm”, từ

mùi thức ăn loang trong không khí - cũng đủ để chị hồi tƣởng về quá khứ - “những

chồng kỷ niệm của cả một quãng đời”- tất cả nhƣ mơi xảy ra hôm qua (Người đàn

bà có ma lực). Với hình thức nhật ký nhƣ ở truyện ngắn này, tác giả thiên về bộc lộ

những cảm nghĩ và suy tƣ hơn là bám sát vào miêu tả những sự kiện và biến cố của

đời sống.

Để đi sâu vào khám phá biểu đạt thế giới nội tâm của con ngƣời trong nhiều

trạng huống khác nhau, Y Ban sử dụng độc thoại nội tâm và những tình huống có

tính chất tâm lý nhƣ là hai phƣơng tiện biểu hiện hữu hiệu. Phần lớn dung lƣợng

của truyện ngắn I am đàn bà là chuỗi độc thoại nội tâm của ngƣời phụ nữ xa xứ.

Từ thời điểm chị trở thành ngƣời giúp việc cho một gia đình Đài Loan, nhà văn đã

để cho nhân vật triền miên trong độc thoại. Có lẽ bị giam lỏng trong một ngôi nhà

nhƣ đảo hoang, ngôn ngữ lại bất đồng nên ngƣời phụ nữ luôn có nhu cầu đƣợc giao

tiếp, đƣợc bộc bạch những nỗi niềm. Chính nhu cầu ấy cộng với cái hồn nhiên của

ngƣời nông dân thuần chất đã khiến chị thoải mái hơn khi nói ra những tâm tƣ, dẫu

chỉ là nói một mình. Nỗi nhớ chồng con, sự cô đơn, những khao khát bản năng hay

tình thƣơng đối với ngƣời đàn ông bại liệt, tất cả đều đƣợc bộc lộ thông qua những

đoạn độc thoại ấy. “Tình huống là nơi soi chiếu những lát cắt của cuộc đời”, những

tình huống tâm lý thƣờng là những tình huống đánh thức quá khứ, gợi lại những kỷ

niệm, biểu hiện sâu sắc nhất đời sống tình cảm của một con ngƣời. Việc gặp lại hai

ngƣời bạn: Leng và Sơn trong cùng chuyến xe đi du lịch là tình huống đƣa Miên

trở về những ngày tháng còn là sinh viên với tình yêu đầu đầy tiếc nuối, “Leng,

Sơn - hai cái tên ấy đập vào trí nhớ nàng làm tóe bung ra những kỷ niệm đã quá xa

xôi nhƣng lại tràn đầy những cảm giác trinh nguyên thuở ban đầu” (Thượng đế bảo

rằng mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà). Tình huống buộc phải

bỏ đi đứa con bé bỏng của ngƣời mẹ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ hay cái chết của

ngƣời đàn ông bán xu hào trong buổi chiều mƣa của Sợi dây nối những cánh diều

đều là những tình huống khiến cho câu chuyện hoặc phải ngƣng lại bởi những

dòng suy tƣ, những dòng cảm xúc của nhân vật, hoặc sẽ dẫn những suy nghĩ trở về

93

quá khứ. Bằng sự đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại, mọi trạng thái tình cảm, mọi

cung bậc tâm trạng đều đƣợc thể hiện rõ nét: Từ niềm vui hạnh phúc đến nỗi buồn,

sự cô đơn, từ ƣớc mơ hoài vọng đến thất vọng nuối tiếc, từ gắn bó yên lành đến

chia xa khắc khoải…

Lấy quá trình vận động bên trong của nhân vật làm điểm tựa để tổ chức tác

phẩm, Y Ban đã thể hiện đƣợc khả năng nhập thân và tham gia vào chiều sâu tâm lý

của nhân vật để có thể cảm nhận ở đó đầy đủ và sâu sắc những biến động tinh tế,

“những nếp gấp khúc chuyển từ hƣớng ngoại vào hƣớng nội”. Có thể nói đây là một

thế mạnh của ngòi bút Y Ban đem lại những xúc cảm sâu lắng trong lòng ngƣời đọc.

3.1.2 Tổ chức cốt truyện theo kiểu dị truyện (có yếu tố kỳ ảo)

Yếu tố kỳ ảo trong văn chƣơng chẳng phải là điều gì mới lạ. Từ xa xƣa nó đã

xuất hiện trong các kho tàng thần thoại và truyện cổ dân gian xƣa. Trong bài viết

về Những hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ XX, GS Phùng Văn Tửu có nói

về nguồn gốc của thuật ngữ kỳ ảo: “Theo từ điển thuật ngữ Pháp, kỳ ảo là tính từ,

bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp phantastikos, tiếng la tinh là phantasticus để chỉ những

gì đƣợc tạo nên từ trí tƣởng tƣợng, chứ không tồn tại trong thực tế. Các từ ngữ Hi

Lạp, latin trên đều có liên quan đến từ phantasia (tiếng Pháp là phantasie, tiếng

Anh là phantasy) có nghĩa là trí tƣởng tƣợng phóng túng. Kỳ ảo trong tiếng Việt là

một từ Hán Việt, kỳ: là lạ lùng, ảo: là không có thật. Cái kỳ ảo là cái lạ lùng, không

có thật, không thể bắt gặp trên thế gian này, nói chung là cái siêu nhiên nếu ta hiểu

cái siêu nhiên là những gì không tồn tại ở trên đời” [39]

Trong văn học, để nói về một loại truyện mà nội dung và hình thức của nó ít

nhiều hiện diện yếu tố kỳ lạ hoang đƣờng, bên cạnh thuật ngữ truyện kỳ ảo, chúng

ta còn gặp một số thuật ngữ khác: truyện kỳ dị, truyện quái dị, huyễn tƣởng, huyền

ảo, dị truyện…Còn về khái niệm, đây là một khái niệm có nội hàm phức tạp mà

“việc xác định chúng không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới đến nay vẫn chƣa có

tiếng nói thống nhất” [3]. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu của chúng ta đều thống

nhất nhấn mạnh về sự khác biệt giữa văn học kỳ ảo và yếu tố kỳ ảo trong văn học.

94

“Chẳng phải bất cứ tác phẩm nào xuất hiện yếu tố siêu nhiên đều là văn học kỳ ảo”

[31], ví nhƣ các thần thoại, cổ tích hay truyền thuyết đều không phải là văn học kỳ

ảo bởi “cái siêu nhiên đƣợc giải thích bằng thiên nhiên (hòn núi có dáng vọng phu)

hoặc lịch sử (Đổng Thiên Vƣơng phá giặc Ân)…trong khi đặc trƣng của truyện kỳ

ảo là tính chất mập mờ, khó phân định giữa thật và ảo” [6]. Một đặc điểm nữa là

“bản chất của văn học kỳ ảo là sự xé rách thực tại bằng một yếu tố kỳ ảo nào đó

mà khả năng gây nên sự hoang mang do dự, sợ hãi cho ngƣời đọc” [3], trong khi

đó các thể loại văn học dân gian lại không gây cho độc giả sự hoang mang, lo sợ

hay bất ổn gì. Nghĩa là hiệu quả tác động của văn học kỳ ảo không thể nào giống

đƣợc hiệu quả mà một câu chuyện thần thoại hay cổ tích tạo cho ngƣời đọc. Từ

việc xác định nội hàm này, chúng ta thấy “cái là ta quen gọi là văn học kỳ ảo thì

chỉ đƣợc giới hạn trong sự bùng nổ của mảng văn học gần nhƣ cùng thời và phát

triển xa hơn văn học lãng mạn một chút thôi” [3]. Tuy vậy cần nhấn mạnh lại là do

đặc trƣng nói trên của văn học kỳ ảo, nhiều tác phẩm có mang những yếu tố kỳ ảo

ra đời sau văn học lãng mạn cũng không đƣợc xếp vào văn học kỳ ảo.

Ở đây, với những sáng tác có chứa yếu tố kỳ ảo của Y Ban, chúng tôi không

có ý định sắp xếp, khẳng định nó thuộc văn học kỳ ảo hay không mà chỉ quan tâm

tới việc các yếu tố, các chi tiết kỳ ảo đƣợc sử dụng và có vai trò nhƣ thế nào trong

việc xây dựng, tổ chức cốt truyện của tác phẩm.

Y Ban có khá nhiều tác phẩm mà cốt truyện đƣợc xây dựng nhờ vào yếu tố kỳ

ảo. Tùy vào mục đích, chủ đề tƣ tƣởng tác giả muốn nói tới trong tác phẩm mà

mức độ các chi tiết siêu nhiên, hoang đƣờng dày hay thƣa, giữ vai trò chủ yếu hay

chỉ ở dạng chêm xen. Một cách tƣơng đối có thể chia sáng tác của Y Ban ở dạng

này làm hai loại: Loại thứ nhất, yếu tố hoang đƣờng kỳ ảo chỉ có tính chất đƣa đẩy,

dẫn dắt câu chuyện mà không gây bất ngờ hay lo lắng hồi hộp (Thần cây đa và tôi,

Tiếng khóc thiên thần I và II, Những nghịch lý của thần Airet, Câu chuyện tình

yêu). Loại thứ hai, chi tiết kỳ ảo có thể nhiều, có thể ít nhƣng đều mang đến cảm

giác nghi hoặc, có gì đó rờn rợn, sợ hãi cho ngƣời đọc (Tôi yêu nàng đấy thị ơi,

Mắt ma, Miếu hoang, Làng Cò, Tay thiêng, Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ, Chuyến

95

xe đêm, Bệnh dại, Món nợ văn chương, Sự sống kỳ diệu)

Ở loại truyện thứ nhất, nhân vật đƣợc chọn để đem lại mầu sắc kỳ ảo cho tác

phẩm thƣờng là những vị thần: thần cây đa, thiên thần, thƣợng đế, Nam Tào, Bắc

Đẩu, thần Airet…Các nhân vật đó chính là điểm tựa để ngƣời viết triển khai cốt

truyện một cách tự nhiên, sinh động, chuyển tải ý đồ không bị cứng nhắc, khiên

cƣỡng. Chẳng hạn nếu không có thần cây đa thì những câu chuyện về các tệ nạn xã

hội nhƣ: tham nhũng, mại dâm, hối lộ, cùng các vấn đề nổi cộm khác trong xã hội

nhƣ câu chuyện người đàn ông của lịch sử, chuyện của những cựu chiến binh, của

người đàn ông viết văn, của những bác sĩ... sẽ khó có thể móc nối với nhau trong

cùng tác phẩm Thần cây đa và tôi. Cũng nhƣ thế việc Thƣợng đế linh ứng lời cầu

nguyện của cô gái trong Câu chuyện tình yêu, một trò chơi của thần Airet trong

Những nghịch lý của thần Airet đều là những điểm thắt nút, cái cớ cho câu chuyện

đƣợc phát triển, để đến lúc mở nút, ngƣời đọc nhận ra chân lý của cuộc đời, về tình

yêu, về hạnh phúc trần tục, về bài học đức năng thắng số... Những tác phẩm này

chủ yếu là những tác phẩm có cốt truyện sự kiện, kỳ ảo chỉ xuất hiện nhƣ một yếu

tố làm mới lạ trong việc dẫn dắt mạch truyện. Tác giả ít gia công cho việc tạo

không gian, thời gian huyền ảo, những tình huống đột ngột bí hiểm, gây cảm giác

sợ hãi tò mò cho ngƣời đọc mà thƣờng tập trung làm nổi bật chủ đề hoặc giải quyết

cốt truyện. Vì vậy không tạo phản ứng nghi ngờ, dị ứng hồi hộp ở ngƣời đọc với

những tình tiết ly kỳ khó tin, mà cũng nhƣ tác giả, họ hòa nhập vào tác phẩm bởi

cái đích khác không phải là bởi những yếu tố kỳ ảo.

Ở loại truyện thứ hai, cốt truyện rất giản đơn nhƣng Y Ban đem tới cho độc

giả một cảm giác hoàn toàn khác. Một số chi tiết ngƣời đọc cảm thấy quen quen

dƣờng nhƣ đã đƣợc nghe ở đâu đó trong những câu chuyện kể của ông bà, những

câu chuyện truyền miệng nhƣng hoàn toàn không phải nhƣ những tác phẩm thuộc

thể loại thần thoại hay cổ tích, truyền thuyết. Chẳng hạn nhƣ chi tiết một tay đạo

chích mò mẫm giữa đêm đen vào bãi tham ma để ăn trộm cánh tay ngƣời chết vì

sét đánh để làm bảo bối cho nghề ăn cắp trong Tay thiêng, hay chi tiết cô gái ngƣời

trần đem lòng yêu linh hồn của một chàng trai mà cô thƣờng gặp hàng tháng ở chợ

rằm trong truyện Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ, hay chuyện một ngƣời phụ nữ có

96

thể tìm kiếm đƣợc những ngôi mộ đã mất bằng khả năng giao tiếp với ngƣời âm

của mình (Bệnh dại). Nhƣng cái sự “quen quen” mà ngƣời đọc cảm nhận thấy

không làm giảm đi độ hấp dẫn, hồi hộp của câu chuyện. Ngƣợc lại, nó còn làm

tăng cảm giác sợ hãi, nghi hoặc của độc giả. Bởi lẽ cái sự quen quen ở đây tạo cho

ta một lối suy nghĩ rằng đây không hoàn toàn là câu chuyện do tác giả tƣởng tƣợng

ra, mà những chi tiết ấy đã đƣợc lƣợm nhặt ở đâu đó trên dƣơng gian. Dƣờng nhƣ

ngƣời ta đã nghe kể về nó, đọc về nó, tƣởng chừng nó hiện hữu ở đâu đây song vẫn

không thể nào nắm bắt và lý giải đƣợc. Do đó xuất hiện cảm giác hoài nghi, nửa tin

nửa ngờ cộng với việc tác giả gia công thêm cho những chi tiết ấy khoảng không

gian và thời gian gợi sự huyền ảo, mơ hồ, tranh tối tranh sáng huyễn hoặc nên

không thể không gây ra những tác động nhất định ở ngƣời đọc.

Mọi cái kỳ ảo đều là sự vi phạm trật tự quen thuộc, nên khi xuất hiện, nó sẽ

“tạo sự đứt gãy của hiện thực khái quát”. Tuy nhiên với việc tổ chức cốt truyện, nó

lại có những vai trò nhất định. Sự xuất hiện của các yếu tố kỳ lạ trong truyện ngắn

Y Ban đƣợc xem nhƣ tình huống quan trọng tạo ra sự chuyển biến của cốt truyện,

“nó gắn kết các nhân vật cùng tham gia một sự kiện nào đó góp phần bộc lộ quan

hệ tính cách của các nhân vật, thể hiện chủ đề, tƣ tƣởng của tác phẩm” [38]. Đó là

tình huống có tính chất điềm báo, nhƣ tình huống cái tay thiêng đƣợc treo trên bàn

thờ mà tên đạo chích chặt đƣợc của ngƣời chết (vì sét đánh) ở bãi tha ma - một

đêm trƣớc lúc hắn hành nghề đã nhỏ xuống đĩa ba giọt máu đỏ tƣơi (Tay thiêng) -

đó là một điềm gở. Bản thân hắn cũng nghĩ thế nhƣng vì tham lam hắn gạt đi sự sợ

hãi và tự nhủ “Đi nốt tối nay thôi”. Nhƣng quả thật là điềm gở và hắn đã bị chết vì

mắc kẹt trong bụi tre khi chạy trốn đám dân làng đuổi bắt. Sự hiện diện của tình

huống ở dạng này cho thấy thế giới siêu nhiên không vô can mà có tác động trực

tiếp nhằm tạo ra sự răn đe, cảnh tỉnh. “Nó là câu chuyện của ngẫu nhiên, bất chợt,

khó lý giải”.

Cũng có khá nhiều tình huống là sự lồng ghép giữa các yếu tố ảo và cốt truyện

thực bằng những motif về thần chú, bùa ngải, lễ trừ tà. Trong Tôi yêu nàng đấy thị

ơi, bùa ngải của một cô gái si tình mong chiếm đƣợc tình yêu của một chàng trai

mà cô đã yêu đơn phƣơng say đắm là hai chiếc áo: một của cô, một của gã trai kia

97

đắp lên xác ngƣời chết và một bài thần chú đọc trong mƣời lăm phút mà ông thầy

bói đã đƣa cho cô. Trong Làng Cò, chi tiết kỳ ảo là một lễ cƣới cho ngƣời đã khuất

mong hồn ma không ám ảnh ngƣời mà anh ta đã định lấy làm vợ khi còn sống.

Thực chất đám cƣới ấy là một hình thức của lễ trừ tà theo quan niệm của ngƣời

phƣơng Đông.

Đó cũng có thể là những tình huống về sự trở lại từ cõi âm của những hồn ma

và tham gia vào cuộc sống thực của con ngƣời trên cõi trần, giống nhƣ nhân vật

Đồng trong Mắt ma, hiện về nói chuyện và cho Huấn mƣợn đôi mắt siêu phàm có

thể nhìn thấu tâm can ngƣời khác, đoán trƣớc những sự việc sắp xảy đến để làm

nghề kiếm sống. Hay trƣờng hợp của cô gái tên Phƣơng trở về trong đêm tròn bốn

chín ngày cô chết để nhờ một chàng trai tốt bụng chăm sóc ngƣời mẹ già đơn độc

của cô (Chuyến xe đêm); là trƣờng hợp của Thắng - chàng trai chết trẻ, trở về vào

đêm rằm hàng tháng trong phiện chợ dƣới gốc dâu để gặp lại những ngƣời yêu trên

cõi trần (Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ). Hình hài cô bé gái mặc váy xanh hay vui

vầy cùng một bà lão ăn xin trú ngụ ở ngôi Miếu hoang trong truyện ngắn cùng tên

cũng nằm trong motif tình huống trở về này. Đây là cô bé con thày lang có tiếng

trong vùng đã chết từ rất nhiều năm trƣớc, và nay trở thành cô Bảy.

Có thể thấy những truyện hoang đƣờng kỳ lạ trên đây của Y Ban đƣợc nâng

cánh bởi cái nhìn thế giới mang đậm dấu ấn của một tƣ duy phƣơng Đông với một

niềm tin mang tính chất tâm linh vào sự tƣơng thông, tƣơng giao giữa ngƣời sống

và ngƣời chết, giữa thế giới thực tại và thế giới siêu nhiên. Và “dù đó là một thứ vũ

trụ hai bên đi nữa thì sự giao lƣu giữa hai bên vẫn còn thân thiết và bền chặt” [37].

Cũng chính bởi niềm tin vào sự tƣơng giao ấy, mà yếu tố kỳ ảo ở đây không hề dẫn

dắt ngƣời đọc sa đà vào cốt truyện huyễn hoặc, hoàn toàn mất liên lạc với cuộc

sống thực tại, ngƣợc lại nó không chỉ là “mối nối cần thiết giữa các giai đoạn cấu

thành của cốt truyện”, nó còn “cố định hóa tính chân thực của bức tranh xã hội”

[38]. Tuy nhiên cũng nhƣ nhiều nhà văn khác, với Y Ban, hiện thực không phải lúc

nào cũng đồng nghĩa với tính có thật mà đôi khi nó là “vẻ đẹp huyền thoại của sự

tái hiện tự nhiên theo cách nhìn độc đáo của nhà văn về sự vật” (Hà Minh Đức -

Dẫn theo Bùi Thanh Truyền) [37]. Tính hiện thực của tác phẩm lúc này nằm ở chỗ

98

nó đã đề cập và giải quyết đƣợc những vấn đề gì của thực tế. Vì thế cái ảo, cái lạ

trong những tác phẩm của Y Ban không đơn thuần là thể nghiệm một cách viết

mới, đem lại một cảm giác mới cho độc giả, nó còn mang theo nhiều tầng nghĩa

nhân văn, những triết luận về cuộc đời. Đó là sự thủy chung muôn đời của ngƣời

phụ nữ, là khát khao đƣợc sống, đƣợc yêu của một chàng trai sớm phải lìa xa cõi

trần thế (Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ); là sự sẻ chia giúp đỡ, là lòng yêu thƣơng

con ngƣời (Miếu hoang, Chuyến xe đêm), là lời cảnh tỉnh với những việc làm

không lƣơng thiện (Tay thiêng), là sự bình yên không gì sánh nổi của cuộc sống

đời thƣờng không vƣớng bận bất kỳ quyền năng siêu nhiên nào (Mắt ma ).

Khi xây dựng những cốt truyện mang yếu tố kỳ ảo, Y Ban không chỉ quan tâm

tới tình huống, chi tiết, chị còn gia cố cho những khoảng không gian thời gian

thêm hƣ ảo, huyễn hoặc, rùng rợn. Một cách khái quát có thể thấy thời gian ở đây

chủ yếu là thời gian đêm khi tà dƣơng lụi tắt, là thời gian mà cõi dƣơng gian vẫn

còn say ngủ, là thời điểm để một thế giới khác thức dậy và hoạt động. Còn không

gian đa phần là không gian mang không khí u minh, hoang vắng, hƣ ảo của cõi mộ

địa, cõi cƣ ngụ của những linh hồn. Đó là một đêm mƣa “Trời tối thẫm, con đƣờng

phía trƣớc hun hút vào bóng đêm…trong cabin cái ấm đang bị lấn chiếm. Trân

nhìn đồng hồ đã hơn mƣời hai giờ đêm. Không gian vắng lặng đến đáng ngờ”

(Chuyến xe đêm), hoặc có thể là một bãi tha ma giữa cánh đồng (Tay thiêng), một

gian nhà chứa những xác chết tỏa ra hơi lạnh “lúc nào trông cũng nhƣ có khói”

(Tôi yêu nàng đấy thị ơi). Đó còn là cái “không gian lƣỡng hợp”(cách gọi của Bùi

Thanh Truyền), là điểm hẹn cho những cuộc kỳ ngộ giữa ngƣời sống và ngƣời đã

khuất nhƣ trong Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ. Không gian ấy cũng xôn xao tiếng

nói cƣời, tiếng mua bán nhƣng lại lờ mờ ẩn hiện dƣới ánh trăng, bàng bạc với

những bƣớc chân ngƣời “nhƣ bay, nhƣ lƣớt”.

Không nhằm mục đích kích thích nhu cầu chuộng lạ đơn thuần của ngƣời đọc,

với việc xây dựng cốt truyện từ chất liệu kỳ ảo, coi sự hiện diện của chúng nhƣ

một thủ pháp nghệ thuật mới hƣớng vào thực tại đời sống sôi động, Y Ban đã

mang lại những giá trị thẩm mỹ thực sự cho tác phẩm. Nhờ đó chị hoàn toàn tự do

tung bút, mở rộng biên độ khám phá cuộc sống mà không bị hạn chế bởi tính logic

99

của hiện thực. Với những yếu tố kỳ lạ hoang đƣờng viễn tƣởng, Y Ban không chỉ

đem lại sự phong phú trong những mảng sáng tác của chị, mà cùng với Hòa Vang,

Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập… họ đã cùng tạo cho văn học Việt Nam một bƣớc phát

triển theo hƣớng đa dạng hóa.

3.1.3 Sự giao thoa giữa chất báo chí và chất truyện.

Một phóng viên của báo vnexpress hỏi nhà văn Y Ban rằng: “Sau Đàn bà xấu

thì không có quà, nhiều ngƣời chê xu hƣớng báo chí hóa văn chƣơng của Y Ban.

Chị nghĩ sao? - Tôi tự hào với cách viết đó, đó là xu hƣớng hiện đại văn chƣơng,

nếu cứ rề rề, dùng nhiều con chữ để miêu tả thì bạn đọc không chịu đƣợc. Văn

chƣơng cũng phải thông tin…Làm báo chí cũng giúp tôi gặp đƣợc nhiều cảnh ngộ

để sáng tạo” [69]. Nhƣ vậy có nghĩa là chất báo chí đƣợc tìm thấy trong những tác

phẩm của Y Ban, không hoàn toàn là hệ quả tự nhiên của công việc làm báo, là cái

chịu ảnh hƣởng từ “bệnh nghề nghiệp” mà nó nằm trong ý thức sáng tạo, trong

quan điểm sáng tác của nhà văn. Những tác phẩm có cốt truyện đƣợc xây dựng

theo lối này chiếm tỉ lệ không nhiều và mới xuất hiện trong những sáng tác sau này

của Y Ban nhƣng nhƣ nhà văn nói, nó là một xu hƣớng hiện đại mà chị là một

trong số ít ngƣời đang thử nghiệm nhằm hƣớng tới một cách nhìn mạnh dạn và

thẳng thắn, một thái độ nhập cuộc vừa khách quan vừa trực cảm trƣớc những vấn

đề nóng của thực tế.

Chất báo chí trong sáng tác của Y Ban thể hiện trên hai phƣơng diện: Thứ nhất,

ở độ gãy gọn trong miêu tả, và thứ hai ở tính chất sự kiện ngƣời thật việc thật, tuy

nhiên nó không hề giống nhƣ các tác phẩm ký, phóng sự. Bởi nó không trần thuật

một cách xác thực theo kiểu ghi nhanh mà đã đƣợc tổ chức lại, đan cài với những hƣ

cấu khác hoặc chỉ nhƣ một gia liệu đƣợc đặt vào lòng một cốt truyện lớn.

Dễ nhận thấy trong truyện ngắn, kể cả tiểu thuyết và truyện vừa của Y Ban,

dung lƣợng dành cho miêu tả không nhiều, ngoài những đoạn miêu tả tâm lý trong

những tác phẩm có chất truyện nhạt mờ, ta ít gặp những trang tả phông nền, bối

cảnh cho nhân vật hoạt động mà chủ yếu mang tính chất điểm, gợi, thông báo: ví

100

dụ nhƣ một bãi tha ma, một rạp chiếu phim, một quán cà phê, một căn nhà nhỏ lụp

xụp…Không phải là tất cả nhƣng đa phần vóc dáng, trang phục của nhân vật cũng

đều chỉ đƣợc tả lƣớt hoặc không đƣợc tả. Ngƣời đọc hoàn toàn không nắm đƣợc

chi tiết tỉ mỉ không gian diễn ra các sự kiện của câu chuyện cũng nhƣ chỉ biết đến

nhân vật qua những từ miêu tả chung chung, chẳng hạn: đẹp, xinh, một khuôn mặt

sáng láng tự tin, một thân hình hấp dẫn,…Y Ban tả về thiên nhiên rất hay, rất đẹp

nhất là về những cánh đồng với những cơn gió no mùi sữa lúa, những khoảng sáng

với không gian nắng lung linh: nắng trên triền đê, nắng của chiều thu, nắng sau cơn

mƣa…, tuy nhiên những đoạn miêu tả ấy xuất hiện không nhiều, và thƣờng ngắn,

ngƣời đọc đôi khi chƣa kịp thƣởng thức hết cái tinh khôi trong trẻo nên thơ của

cảnh vật đã phải bƣớc ra để bắt kịp vào các mảng hiện thực khác của truyện.

Nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả muốn hƣớng ngƣời đọc tới những sự kiện chính,

nắm bắt đƣợc tƣ tƣởng, chủ đề của tác phẩm một cách nhanh chóng thông qua một

cốt truyện đƣợc triển khai mạch lạc, khúc triết. Đã đành rằng văn chƣơng thì phải

có chất văn, thiếu đi những đoạn “trữ tình ngoại đề” ấy, những con chữ sẽ ít có cơ

hội đƣợc “nhún nhảy”, trang văn sẽ giảm đi rất nhiều độ mƣợt mà, mềm mại của

nó. Nhƣng thực tế về một cuộc sống hiện đại gấp gáp, không cho phép con ngƣời

có nhiều thời gian để “nhâm nhi” hoặc dông dài với những chi tiết phụ. Hƣớng tới

độc giả, Y Ban đã sử dụng lối nhanh, sắc, gọn trong báo chí, cắt tỉa, lƣợc bỏ những

yếu tố không thực sự quan trọng, đƣa tới cho ngƣời đọc một văn bản gãy gọn,

không rƣờm rà, để có thể tiếp cận một cách trực tiếp tới chủ đề của tác phẩm. Tuy

nhiên cũng phải nói thêm, viết nhƣ thế nhƣng không có nghĩa là Y Ban cứ viết theo

một đƣờng thẳng băng, mà rất nhiều những liên tƣởng, tạt ngang tạt dọc vẫn đƣợc

sử dụng để cơi nới độ suy diễn ở độc giả, tăng thêm những tầng nghĩa cho tác

phẩm.

Sự giao thoa giữa chất báo chí và chất truyện trong sáng tác của Y Ban còn

thể hiện trong việc tổ chức sắp xếp các sự kiện ngƣời thật việc thật nhƣng không

hẳn trên phƣơng diện đăng tải công bố, truyền bá, mà mang tính chất chính luận

thời sự và đôi chỗ có cả tính “chiến đấu” rõ rệt (Đàn bà xấu thì không có quà, I am

101

đàn bà, Thần cây đa và tôi, Xuân Từ Chiều).

Trong tiểu thuyết Đàn bà xấu thì không có quà, tính chất báo chí không dàn

trải và lồng ghép vào các chi tiết khác của cốt truyện, nó đƣợc tách ra và nằm gọn

trong một phân đoạn đặt trong lòng tác phẩm, phân đoạn có tên là “Buổi sáng”. Ở

đây không xuất hiện nhân vật, các xung đột, chỉ có những bản tin rất ngắn gọn của

phòng biên tập (nơi Nấm làm việc) đƣợc đọc lên thông qua một câu hỏi “Hôm nay

có gì mới không?” và một vài câu bình luận cho sự kiện ấy mà đa phần đó là sự

phản hồi mang tính chất châm biếm mỉa mai. Đại loại nhƣ một tin về rùa thiêng hồ

Gƣơm nổi trên mặt hồ, trên đầu cụ rùa có một đốm trắng - một điềm báo cho thời

kỳ thịnh vƣợng của đất nƣớc - thì sẽ đƣợc kèm thêm một câu bình luận: “Ôi dào,

nƣớc hồ Gƣơm ô nhiễm đặc quánh nhƣ vậy, cụ phải chui lên mà thở chứ, chả lẽ

chịu chết ngạt à?”. Tin về một chƣơng trình nối vòng tay lớn, speaker bƣớc xuống

sân khấu và phỏng vấn một em bé không biết nói, chỉ ú ú ớ ớ, sẽ đƣợc phản ứng lại

với một thái độ bất bình: “nhà đài nó coi ngƣời xem là ngu hết cả rồi hay sao mà

nó đi dựng một kịch bản bản hề hãm đến thế (…), nó nghèo hơn mọi cái nghèo

trên đời này”. Còn những tin động chạm đến quan chức hay các đơn vị của nhà

nƣớc thì thƣờng đƣợc kèm thêm thông báo là không đƣợc đƣa tin, sẽ ảnh hƣởng

đến dƣ luận, đến phong trào. Chẳng hạn nhƣ “một cậu ấm con một quan chức trong

buổi sinh nhật mình đã lấy tiền của bố mua mƣời chiếc xe máy @ tặng cho bạn”

hay “mƣời đơn vị đƣợc giao hàng cứu trợ cho đồng bào bị lũ lụt ở miền trung thì

có chín đơn vị làm thất thoát 30% đến 70% ”...Trong gần hai mƣơi trang của phân

đoạn này, ngƣời đọc nhận thấy hầu hết các bản tin không phải là những sự kiện, sự

việc tác giả nghĩ ra để làm rõ công việc hoặc làm sôi nổi không khí của một phòng

biện tập báo mà đó hoàn toàn là những sự kiện có thật, ngƣời thật, việc thật đã xảy

ra trong xã hội của chúng ta. Do đó chất báo chí ở đây mang tính đăng tải thông

tin. Tuy cùng với thời gian nó không còn là những tin thời sự nữa, nhƣng việc đan

xen những câu bình luận của các nhà báo lại khiến nó trở thành cái cớ để nhà văn

nói tới và phê phán những vấn đề bức xúc của xã hội: tham nhũng, quan liêu, môi

trƣờng ô nhiễm, đời sống quan chức xa hoa, bạo lực nhà trƣờng…vì vậy, chất báo

chí ở đây có thêm tính chính luận và tính chiến đấu tích cực, biểu hiện một lối viết

102

mạnh và thẳng của tác giả trƣớc những tiêu cực trong đời sống xã hội.

Khác với tiểu thuyết trên, tính báo chí ở Xuân Từ Chiều lại không nằm ở dạng

những bản tin độc lập trong một phân đoạn của truyện mà đan xen vào các tình

tiết, sự kiện khác. Nó là những đoạn “tạt ngang tạt dọc” khiến cho câu chuyện

không bị rơi vào trạng thái trần thuật đều đều, vừa làm tăng sự phong phú của nội

dung, vừa tạo nên những tầng ý nghĩa cho tác phẩm. Đó là những câu chuyện

ngoài giờ mà Từ cùng đồng nghiệp thƣờng đƣa ra để trao đổi, tranh luận ở cơ

quan: nhƣ việc đất rừng của nhà nƣớc ở Sóc Sơn bị cắt đem bán bất hợp pháp với

giá hàng tỷ đồng, việc tổng biên tập một tờ báo nhờ quan hệ quen biết xin đƣợc

quyết định đi hộ đê để đuổi dân chiếm đất, rồi chuyện ngƣời ta mở những lớp

luyện thi cho các cháu chuẩn bị vào lớp một của trƣờng điểm, chuyện đầu tƣ cải

tạo đƣờng thoát nƣớc ở Hà Nội nhƣng lụt vẫn hoàn lụt, đến cả những chuyện về

văn hóa tốc độ, văn hóa ứng xử, xã hội xe máy…cũng đƣợc đƣa ra luận bàn. Tất cả

đƣợc kể dƣới dạng những câu chuyện phiếm (hoặc để tán gẫu, hoặc để đóng góp

cho một đề tài nào đó) nhƣng thật sự nó lại là những vấn đề bất cập mà hàng ngày,

hàng giờ, chúng ta vẫn chứng kiến, có hàng trăm câu chuyện đúng nhƣ thế hoặc

tƣơng tự nhƣ thế vẫn xảy ra. Dẫu vậy nó vẫn chỉ là những “sự kiện và bình luận”

mà chƣa có một vấn đề nào đƣợc giải quyết triệt để. Bằng cách chêm xen những

câu chuyện ngoài lề có tính chất xã hội, Y Ban đã để cho màu sắc chính luận của

báo chí đƣợc giao thoa với cốt truyện về số phận của ba ngƣời phụ nữ Xuân, Từ,

Chiều. Điều ấy không chỉ đem đến cho tiểu thuyết những thông tin thẩm mỹ nhƣ

bản chất phải có của nó mà còn mang đến cả những “thông tin sự thật” rất báo chí.

Riêng truyện ngắn I am đàn bà - một truyện ngắn đƣợc lấy tên cho cả tập

truyện - chất báo chí không phải nằm trong những đoạn tạt ngang tạt dọc, mà nó

nằm ngay trong cốt lõi của câu chuyện, bởi nguyên nó là một mẩu tin trên báo về

một ngƣời phụ nữ Việt Nam đi lao động xuất khẩu bị kiện ra tòa vì tội quấy rối

tình dục ông chủ mà Y Ban đã đọc đƣợc, sau đó chị xây dựng bối cảnh, bồi đắp

những chi tiết theo ý đồ của mình để nó trở thành một truyện ngắn hoàn chỉnh.

Truyện những ngƣời Việt Nam đi xuất khẩu lao động bị đánh đập, bị đối xử tàn

nhẫn hoặc bị kiện ra tòa nhƣ ngƣời phụ nữ trong tác phẩm, ta vẫn thƣờng thấy trên

103

các báo, hoặc trên phƣơng tiện thông tin truyền thanh, truyền hình. Câu chuyện của

Y Ban không phải hoàn toàn hƣ cấu vì cái cốt của nó là chuyện của ngƣời thật việc

thật. Nhƣng khi đọc tác phẩm lên ta không hề có cảm giác đang đọc một bản tin,

một phóng sự; không tiếp nhận nó nhƣ tiếp nhận thông tin đơn thuần. Bởi vì nó đã

đƣợc viết dƣới cách viết của một nhà văn không phải nhà báo, nó mang đến cho

ngƣời đọc sự xúc động từ những trang miêu tả tâm lý của nhân vật, ca ngợi tình

yêu thƣơng con ngƣời, khơi gợi sự cảm thông chia sẻ với những khát vọng, những

bất hạnh của ngƣời phụ nữ - điều mà báo chí ít quan tâm hơn. Đó là chƣa kể đến

việc nhà văn còn phải thêm nhiều chi tiết để biện hộ, để cứu rỗi cho ngƣời phụ nữ

ấy, khiến cho câu chuyện có sức nặng, giàu giá trị nhân văn.

Sự thâm nhập giao thoa của báo chí vào các tác phẩm văn học ta thƣờng thấy

trong các thể loại ký, phóng sự, tùy bút, còn trong các truyện ngắn, tiểu thuyết

thƣờng không nhiều. Y Ban là một trong số ít những nhà văn sử dụng phƣơng thức

này để xây dựng, tổ chức tác phẩm. Với lợi thế của việc làm báo, trực tiếp chứng

kiến ngƣời thật việc thật, nhiều khi những câu chuyện đã khơi gợi ý tƣởng sáng tạo

cho Y Ban hoặc trở thành chất liệu trong tác phẩm của chị. Có thể là chất liệu chính,

có thể chỉ là chất liệu gia thêm nhƣng đều có vai trò nhất định trong cấu trúc tác

phẩm. Xét một cách tƣơng đối, ở một góc độ nào đó, nó đã rút ngắn khoảng cách

giữa cuộc sống và sự sáng tạo nghệ thuật, cung cấp những mảng tƣ liệu và chất liệu

sống, phục vụ kịp thời hơn cho những nhu cầu hiểu biết thực tế của ngƣời đọc.

3.2 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

Mọi loại hình nghệ thuật đều lấy con ngƣời làm đối tƣợng trung tâm của sự

phản ánh. Với tác phẩm văn học thì nhân vật là “công cụ khái quát hiện thực và

phƣơng tiện để tác giả quan niệm nghệ thuật về con ngƣời dƣới một hình thức biểu

hiện tƣơng ứng” [18]. Với vai trò là hình thức cơ bản để miêu tả thế giới một cách

hình tƣợng, nhân vật là yếu tố quan trọng để nhận diện đặc điểm và cá tính sáng

tạo của nhà văn. Khảo sát hệ thống nhân vật trong sáng tác Y Ban, cách tiếp cận

104

của chúng tôi là đi vào những kiểu dạng nhân vật nổi bật, những thủ pháp biểu hiện

đặc thù, tìm hiểu những đặc trƣng của nhân vật, qua đó hiểu thêm về quan niệm

nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời, về cuộc sống.

Con ngƣời trong văn học trƣớc 1975, là con ngƣời sử thi, con ngƣời đại diện

cho lý tƣởng cao cả. Tƣơng ứng với nó là kiểu nhân vật đơn nhất, dễ phân biệt chính

diện phản diện. Con ngƣời trong văn học sau 1975, xét trên cấp độ tổng thể là con

ngƣời cá nhân, cá thể, khi đƣợc nhà văn cụ thể hóa trong tác phẩm nó sẽ trở thành

một thế giới nhân vật đa dạng: nhân vật kỳ ảo, nhân vật dị hình, nhân vật tính cách,

nhân vật khát vọng, nhân vật tha hóa, nhân vật thức tỉnh…Có thể gặp trong sáng tác

của Y Ban hầu hết các loại nhân vật kể trên. Nhƣng căn cứ vào tính chất lặp đi lặp

lại của các mô hình nhân vật, chúng tôi khu biệt thành ba kiểu nhân vật sau đây:

3.2.1 Nhân vật tự nhận thức

Đây là kiểu nhân vật “tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại, lục vấn

và cảnh tỉnh chính mình với những biến động của nội tâm trƣớc sự dồn đẩy âm

thầm mà quyết liệt của lƣơng tâm, của bổn phận làm ngƣời” [29].

Để tạo đƣợc những biến đổi trong nhận thức của các nhân vật, Y Ban đã đặt

chúng vào những tình huống, những biến cố để nhân vật không còn suy nghĩ theo

lối mòn nữa mà bắt đầu chiêm nghiệm, phân tích lại bản thân, để nhận ra sai lầm,

nhận ra những chân lý cuộc đời. Cái chết của ngƣời bán su hào - ngƣời tình cũ năm

xƣa đã thức tỉnh ngƣời đàn bà thành đạt khi nàng nhận ra sự tàn nhẫn và vô tình

của mình, nhận ra sự chới với của một tâm hồn khi tự nó cắt đi dây neo với quá

khứ huyền thoại: “Sợi dây neo nàng với quá khứ tuổi thơ êm đềm huyền thoại nàng

dứt đứt rồi. Giữa hạnh phúc vợ chồng con cái danh giá và sự thành đạt, nàng chỉ

nhƣ một cánh diều không dây mà thôi” (Sợi dây nối những cánh diều). Sau những

phút dây lên thiên đƣờng, tỉnh giấc bởi lời “thóa mạ con cái, kêu rên cuộc sống”,

bởi ánh bình minh soi rọi một chái nhà chật hẹp, cô gái trong Thiên đường và địa

ngục cay đắng nhận ra cái thiên đƣờng ấy chỉ là một hiện thực úi sùi đầy chua xót,

nhận ra rằng mình đã quá cả tin và nhẹ dạ, để đến nỗi lạc lối xuống địa ngục rồi

105

mới hay. Sự hối hận của ngƣời đàn bà trong Phút dành cho tình yêu trƣớc một

ngày tòa gọi ra giải quyết ly hôn khiến ngƣời đọc vô cùng cảm động vì đó cũng là

thời điểm một đêm trƣớc lúc chị phải lìa xa cuộc đời - một đêm ngắn ngủi để cả

hai vợ chồng vừa xin lỗi, vừa yêu thƣơng, vừa nhận ra cuộc đời cần có nhau biết

mấy và cũng vừa là để chia ly vĩnh viễn. Một tiếng gọi của con thơ, đã làm cho

ngƣời phụ nữ dứt mình khỏi những cơn mơ và cũng dứt luôn những cuộc ngoại

tình trong mộng mị mà nàng đã sử dụng nhƣ một cứu cánh cho cuộc sống chồng

vợ đã có những xơ hóa cảm xúc (Người đàn bà và những giấc mơ). Nằm trên

giƣờng bệnh rồi, ngƣời phụ nữ trong Cuộc tình silicol mới có nhiều thời gian để

nhận thấy những khát vọng thẳm sâu trong con ngƣời mình, để thức tỉnh một cuộc

đời trôi nổi với những mối tình phù vân: “Ngẫm lại cuộc đời mình đã chinh phục,

đã kiếm niềm vui, kể cả tiền của những ngƣời đàn ông. Nhƣng mình đã không có

một bông hồng nào, một nụ hôn nào, một cái vuốt ve dịu dàng nào của một tình

yêu đích thực cả. Lúc nào cũng nóng bỏng, vội vàng trong guồng quay vô định”.

Sau những biến cố xảy đến với nhân vật hoặc có liên quan đến cuộc đời nhân

vật, nhà văn thƣờng dành những khoảng lặng nhất định để nhân vật đối diện với

chính mình. Đó là khoảng thời gian để nhân vật biện hộ, giải thích hay dằn vặt với

những giằng xé nội tâm để tự thức tỉnh, tự hoàn thiện nhân cách. Hai mƣơi bốn giờ

sau cuộc ân ái, ngƣời đàn ông mà cô gái ngƣỡng mộ, si mê hiện ra nguyên là một

kẻ chơi bời phóng đãng. Sự chờ đợi để đƣợc nhận một lời hỏi thăm dịu dàng, một

lời ngọt ngào yêu thƣơng khiến cho cô càng đớn đau và hụt hẫng trƣớc sự thờ ơ

của gã phong tình. Nhƣng cũng chính trong những ý nghĩ quay cuồng khổ sở, cô

đã thức tỉnh giấc mơ thiên đƣờng để nhận ra mình vẫn còn may mắn vì: “thực chất,

thiếu một bƣớc chân em đã bị sa xuống địa ngục rồi” (Hai mươi bảy bước chân là

lên thiên đường). Cả quãng thời gian còn lại của Người đàn bà có ma lực, sẽ là

quãng thời gian rất dài để ngƣời đàn bà lật dở những trang nhật ký và tìm về với

quá khứ một thời phù phiếm trong sự cảm nhận về cái hiện tại cô đơn trống trải và

để than thở rằng “Ta là một ngƣời đàn bà, một ngƣời đàn bà rất hoàn hảo nhƣng tại

sao ta lại không có đƣợc cái kết quả của sự hoàn hảo ấy” và trên hết để ngƣời đàn

bà thức tỉnh một điều rằng: những cuộc tình không phải là trò chơi để ngƣời ta thử

106

nghiệm, đó là nơi thể hiện tình yêu, sự sẻ chia và lòng bao dung nên càng không

phải là nơi để kiếm tìm sự hoàn hảo. Truyện Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm là

cuộc đời đầy nhục nhã với những dằn vặt suy tƣ của ngƣời đàn bà lỡ bƣớc, phải

đem thân xác để nuôi mình và nuôi con. Nhƣng không mãi chìm sâu trong bóng

tối, không trƣợt dài trong vũng bùn nhơ bẩn, đã có lúc ngƣời đàn bà chợt giật mình

thức tỉnh. Cô giận mình và thấy xấu hổ nhục nhã với chính mình, “thằng bé đƣợc

bao nhiêu tuổi thì ả có bấy nhiêu năm với những ngày hành xác thâu chuỗi dài

dài”. Chính những khoảnh khắc suy tƣ, day dứt và hối lỗi ấy trong những chuỗi

ngày đen tối đã khiến cô ý thức sâu sắc hơn về thân phận bất hạnh của chính mình.

Cuộc đời của cô gái điếm trong truyện của Y Ban không đem lại cho ta cảm giác

khinh thị mà ngƣợc lại làm cho ta thấy thƣơng, thấy cảm thông. Nó làm ta liên

tƣởng tới hai cô gái Huệ và Liên trong truyện ngắn Tối ba mươi của Thạch Lam.

Trong căn nhà nhỏ hết khách chỉ còn hai cô gái với nỗi niềm tha hƣơng và những

dòng lệ chua xót tủi hổ cho tấm thân lạc loài của mình.

Người đàn bà đứng trước gương lại kể về một phụ nữ đã từ bỏ gia đình và

những đứa con thân yêu để theo đuổi niềm đam mê văn chƣơng của mình. Nhƣng

cuối cùng nàng cũng nhận ra văn chƣơng hay những ngƣời đàn ông khác đều

không thể thay thế đƣợc những đứa con trong lòng nàng. Sau một cuộc tình nữa bị

thất bại, ngƣời đàn bà đã có nhiều khoảnh khắc để tự soi ngắm mình trƣớc gƣơng,

để đau đớn nhận ra mình không phải là một ngƣời đàn bà đẹp, nhận ra sự trống trải

của hiện tại. Nàng đã ảo vọng vào sự danh giá để mất đi những gì quý giá nhất của

cuộc đời. “Trong ý nghĩ toang tuếch đến cực độ, nàng cố bắt óc phải suy nghĩ đến

một điều gì đó. Phải rồi, nàng có hai đứa con gái. Chúng đẹp lắm!...Nàng thƣơng

con rát ruột, nỗi thƣơng con gấp đôi mọi lần vì các con nàng là con gái”. Lúc ấy

nàng chỉ cần có con, nó sẽ ngồi trên lòng nàng để vén môi nàng lên làm con thỏ

sứt. Nàng đã hiểu và đã thức tỉnh rằng nàng cần chúng và chúng “cần một ngƣời

mẹ làm con thỏ sứt môi hơn là một ngƣời mẹ danh giá nhiều”. Khi trái tim của

nhân vật “nàng” trong Sau chớp là dông bão, bị rung động bởi một ngƣời đàn ông

không phải là chồng mình, nàng đã trải qua một cơn xáo trộn tình cảm với nhiều

những trăn trở tội lỗi. Đã có những khoảng thời gian, bằng giấc mơ, bằng sự tƣởng

107

tƣợng, nàng thƣờng xuyên để mình chìm đắm trong những phút giây của “sự dịu

ngọt” với ngƣời đàn ông kia nhƣng sau đó nàng luôn ở trong tình trạng phải dằn

vặt vì không biết rằng nhƣ thế có phải là mình đã ngoại tình không? Đó là điều

nàng không hề muốn. Nàng đã liên tục lục vấn bản thân, phân tích những cảm xúc

của chính mình và cuối cùng nàng nhận ra đó là sự “dịu ngọt chết ngƣời”, là một

ánh chớp tình cảm sẽ đem đến nhiều dông bão cho gia đình nàng. Quyết định làm

bạn là một quyết định đúng đắn và kịp thời đã giúp nàng vƣợt qua cơn sóng gió.

Với những tình huống tự nhận thức, Y Ban đã để cho nhân vật tự đối thoại, tự

đẩy mình đến tận cùng những cảm xúc, để tự thức tỉnh và điều tiết hành động của

chính mình sao cho có sự cân bằng giữa lƣơng tâm và trách nhiệm. Tuy nhiên

không phải sự thức tỉnh nào cũng kịp thời nhƣ trƣờng hợp của ngƣời phụ nữ trong

Sau chớp là dông bão. Đa số khi nhân vật ý thức đƣợc thực trạng của mình, hoặc

thức tỉnh điều gì đó cũng là khi họ ít có cơ hội để làm lại. Ngƣời phụ nữ trong Gà

ấp bóng, Đôi gang tay da màu nâu, Thượng đế bảo rằng mỗi người đàn ông chỉ

của riêng một người đàn bà, Sợi dây nối những cánh diều…đều là những trƣờng

hợp nhƣ vậy. Sự xót xa tiếc nuối sau những khoảng lặng để thức tỉnh là cảm giác

khó tránh khỏi của hầu hết các nhân vật. Kể cả khi đã là quá khứ xa xôi nhƣng

không khỏi có một lúc nào đó từ nơi sâu lắng của tâm can day dứt lên một nỗi

niềm ân hận hay tiếc nuối. Những câu hỏi đặt ra với những trăn trở chiêm nghiệm

từ chính cuộc đời nhân vật cũng là những câu hỏi gián tiếp để ngƣời đọc tự soi

sáng bản thân mình.

Nhƣ vậy để biểu hiện sự thức tỉnh của nhân vật, Y Ban đã chú ý nhiều đến

việc xây dựng tình huống, và miêu tả những biến động trong nội tâm nhân vật.

Khắc họa nhân vật trong trạng thái đột biến của nhận thức, Y Ban đã mở rộng biên

độ khám phá con ngƣời ở chiều sâu cảm thức. Mỗi con ngƣời đều có một số phận

riêng, một tính cách riêng, một cuộc đời biệt lập, chịu sự tác động khác nhau của

các yếu tố trong cuộc sống, nhƣng tự ý thức vẫn luôn là điều cần thiết cho tất cả

mọi ngƣời để tránh bớt đi những lầm lỡ sai sót, để cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, yên

108

bình hơn.

3.2.2 Nhân vật cô đơn

Trƣớc 1975, con ngƣời trong văn học là con ngƣời tập thể; con ngƣời cá nhân

với nỗi cô đơn vẫn đƣợc xem là một chủ đề kiêng kỵ trong văn học. Nhƣng sau

1975, với sự đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn, với nhu cầu

tự ý thức trƣớc sự đổi thay của đời sống xã hội, con ngƣời cô đơn đã trở thành một

kiểu nhân vật, một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều cây bút văn xuôi hôm nay.

“Cô đơn là vấn đề của bản thể cá nhân, nhƣng nó không hẳn là vấn đề riêng tƣ

nhỏ bé” [29] Vì vậy đã có không ít nhà văn đi vào khám phá những sắc diện khác

nhau của trạng thái này trong con ngƣời: Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu,

Con gái thủy thần, Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Quang

Thiều với Hai người đàn bà xóm trại, Nguyễn Thị Thu Huệ với Nước mắt đàn

ông, Phạm Thị Hoài với Chín bỏ làm mười…Y Ban bằng khả năng nắm bắt những

biến thái tinh vi của đời sống con ngƣời, chị đã khai thác trạng thái cô đơn của con

ngƣời một cách tinh tế và sâu sắc. Nhiều nhân vật của chị, cô đơn nhƣ một nỗi ám

ảnh thƣờng xuyên truy đuổi, dồn nén cuộc sống của họ.

Yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố có sức nặng nhất, để khắc họa sự cô đơn của

nhân vật đó là việc đào sâu vào tâm trạng, cảm giác, suy nghĩ của nhân vật.

“Motif con ngƣời cô đơn, bất hạnh sau chiến tranh có cả một vệt quang phổ

rộng của cách biểu hiện khác nhau” [29]. Đi vào khía cạnh này, Y Ban không sử

dụng thủ pháp độc thoại nội tâm, độc thoại với ngƣời vắng mặt hay độc thoại dƣới

dạng viết nhật ký, sự đan xen giữa ý thức và tiềm thức nhƣ trong Nỗi buồn chiến

tranh (Bảo Ninh), Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Biển cứu rỗi (Võ Thị Hảo)…mà Y

Ban biểu hiện bằng sự im lặng. Nỗi đau bị dồn nén bởi thất vọng vì những đứa

con, bởi lạc lõng vì không tìm đƣợc sự chia sẻ của những ngƣời sống chung quanh-

ngƣời đàn ông bƣớc ra từ cuộc chiến trong Bản lý lịch tự thuật luôn luôn bị bủa

vây bởi sự cô đơn. Triền miên trong sự nín lặng, ông Thông trút những bi kịch của

cuộc đời mình vào những tiếng thở dài, vào những ngày tháng “úp mặt vào tƣờng

và mở mắt thật to”. Nỗi cô đơn của con ngƣời sau chiến tranh còn là khoảng trống

109

vắng trong tâm hồn của một thiếu phụ khắc khoải chờ chồng đi chiến đấu đƣợc

cảm nhận qua những suy nghĩ của ngƣời con: “mẹ còn trẻ qua, nỗi cô quạnh trùm

lên mẹ trong quãng đời còn lại” (Bây giờ con mới hiểu).

Nói về sự cô đơn thâm nhập vào những trang viết của mình, nhà văn Nguyễn

Thị Châu Giang tâm sự cùng báo Văn nghệ Trẻ: “Thực ra cuộc sống của tôi diễn ra

rất suôn sẻ, tốt đẹp. Những ngƣời phụ nữ sống quanh tôi cũng không hề gặp bất

trắc trong cuộc sống, song không hiểu sao tôi luôn cảm thấy họ cô đơn. Ngƣời phụ

nữ cô đơn ngay trong chính gia đình mình, trong cuộc sống hàng ngày mà họ phải

đƣơng đầu và họ không có cách gì giải tỏa đƣợc. Điều này luôn ám ảnh tôi” [21].

Sự cô đơn ám ảnh những nhân vật nữ của Nguyễn Thị Châu Giang cũng có phần

giống với sự cô đơn đeo đuổi những nhân vật nữ trong sáng tác của Y Ban. Họ cô

đơn không phải chỉ khi họ tồn tại đơn thân, một mình, một bóng, họ cô đơn ngay

trong chính ngôi nhà mình, cô đơn ngay giữa chốn đông ngƣời: “Ngày ngày con

vẫn nhập cuộc, con đi xem, đi vũ hội, đi du lịch những sau tất cả những cuộc vui,

con càng cô đơn hơn”. Đó là nỗi cô đơn nặng nề, sâu thẳm của cô thiếu nữ, của

ngƣời mẹ mất con trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ. Nỗi cô đơn ấy vừa là hệ quả của

sự mất mát đổ vỡ tình yêu hạnh phúc, vừa do sự khác biệt thế hệ tạo thành, do cả

sự thờ ơ lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn của con ngƣời. Trạng thái cô đơn còn là cảm

giác hụt hẫng, hoang vắng đến tột cùng của cô gái trong Đàn bà xấu thì không có

quà khi mỗi tối không còn đƣợc lắng đợi tiếng chuông điện thoại, đƣợc thủ thỉ bên

tai những lời âu yếm ngọt ngào, và trên hết sẽ không còn ai để cô chia sẻ tâm sự,

những buồn vui cuộc sống. Sau công việc cô sẽ lại chìm vào nỗi cô đơn. Không

yêu thƣơng nhung nhớ, không cả những mong chờ. Đó còn là sự tiếc nuối, và

những cảm nhận về hiện tại trống trải cô đơn của ngƣời phụ nữ khi đã sang cái dốc

bên kia của tuổi thanh xuân, khi không còn cơ hội để lựa chọn (Người đàn bà có

ma lực, Đôi gang tay da màu nâu).

Để khắc họa nỗi cô đơn, ngoài việc chú ý đến đời sống nội tâm của nhân vật,

Y Ban còn chú ý đến không gian và thời gian nhân vật hiện diện. Ở phƣơng diện

thời gian, Y Ban thƣờng đặt nhân vật vào sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Đa

số các truyện ngắn đều xây dựng trên cơ sở hồi tƣởng. Nỗi đau quá khứ và sự trống

110

rỗng hiện tại là điều giằng xé các nhân vật cô đơn. Thời gian về chiều khi hàng

xóm lách cách tiếng dao thớt để chuẩn bị cho bữa cơm gia đình là thời gian hay

khiến ngƣời đàn bà cô độc trong Người đàn bà có ma lực phải hoài niệm về quá

khứ. Cái “quá khứ của một thời trẻ, sống động dàn trải nhƣ một cuốn phim màu

với những lời ca êm dịu ngọt ngào” luôn làm ngƣời đàn bà ý thức về hiện tại một

mình một bóng trong căn nhà không có hơi ấm đàn ông và tiếng khóc cƣời trẻ nhỏ.

Cái khoảnh khắc mỗi mùa xuân về, cũng là thời điểm luôn làm ngƣời đàn bà trong

Đôi gang tay da màu nâu hồi tƣởng về sự khờ dại của tuổi hai mƣơi ba - nguyên

nhân của cái hiện tại đơn độc đầy nuối tiếc.

Thời gian để khắc họa nỗi cô đơn còn là những chuỗi ngày phải sống bằng hai

con ngƣời với hai khoảng thời gian đêm - ngày khác nhau của thiếu nữ trong Bức

thư gửi mẹ Âu Cơ: Ngày là con ngƣời của những cuộc chơi, cuộc vui cùng bạn bè.

Còn đêm là con ngƣời của đau đớn và nƣớc mắt. Ngày là cuộc sống giả tạo, là

niềm vui giả tạo, đêm về mới là nỗi cô đơn nặng nề thấm thía không thể cùng ai

chia sẻ. Bằng sự đối lập giữa hai mảng thời gian ấy, sự cô đơn đƣợc phát triển theo

thời gian của tâm trạng và thƣờng bị đẩy đến tận cùng cảm xúc trống vắng.

Không gian để biểu hiện sự cô đơn của nhân vật không phải là không gian bao

la vô tận để ở đó con ngƣời cảm nhận thấy sự nhỏ bé cô độc mà Y Ban thƣờng đặt

nhân vật vào khoảng không gian nhỏ hẹp, không gian gia đình và cô lập nó theo

nhiều cách: Đó là không gian tù túng, bức bách của ngôi biệt thự “trong hai lần

cổng khóa, bà chủ không có ai để trút bầu tâm sự”(Jô). Là không gian căn phòng

nhỏ khép kín của ngƣời đàn bà lỡ thì cô độc luôn đặt đối lập với không gian nhộn

nhịp, ồn ào ở các gia đình trong khu tập thể (Người đàn bà có ma lực). Đó còn là

“không gian khập khiễng”(chữ dùng của Lê Thị Hƣờng) - không gian mà ở đó

“nhân vật tự bộc lộ mình qua lời nói, hành động nhƣng mỗi lời nói, mỗi hành động

của nhân vật đều sai nhịp với cuộc sống” [15], nó đẩy nhân vật vào trạng thái bị lạc

lõng, không thể hòa hợp đƣợc với những ngƣời xung quanh và vì thế mà cô đơn

(Bản lý lịch tự thuật).

Trạng thái cô đơn dù là trong khoảnh khắc hay là sự cô đơn triền miên cũng

111

đều ẩn chứa những hoài vọng và ƣớc mơ, hạnh phúc và khổ đau của những mảnh

đời, những số phận con ngƣời trong cuộc sống. Với khả năng nhận biết và khám

phá chiều sâu trong thế giới tâm hồn nhiều bí ẩn, Y Ban đã cho thấy thực trạng tinh

thần của con ngƣời trong đời sống hiện đại. Mặt khác bằng những nhân vật cô đơn

của mình, nhà văn còn bày tỏ sự đồng cảm đối với những khát khao ƣớc vọng

đƣợc hòa đồng, đƣợc hạnh phúc của con ngƣời. Xây dựng các nhân vật cô đơn, vì

thế mà mang thêm ý nghĩa nhân văn.

3.2.3 Nhân vật kỳ ảo

Với những tác phẩm mang chứa yếu tố kỳ ảo, việc xây dựng các nhân vật kỳ

ảo đƣợc coi là một trong những phƣơng diện quan trọng làm nên đặc trƣng cho tác

phẩm. Trong những sáng tác của Y Ban thuộc kiểu loại này, các nhân vật kỳ ảo

không chỉ góp phần đa dạng hóa thế giới nhân vật, mà chúng còn là bình diện mới

để nhà văn thuận tiện trong việc khái quát sự phức tạp và biến đổi không ngừng

của đời sống.

Nhân vật kỳ ảo trong sáng tác của Y Ban đƣợc xây dựng không chỉ theo một

motif nhất định mà có nhiều kiểu dạng khác nhau. Có những kiểu nhân vật thần

thoại, cổ tích nhƣ: thiên thần, thƣợng đế. Có kiểu nhân vật siêu thực là các hồn

ma. Có cả kiểu nhân vật đời thường mang những khả năng thần kỳ.

Kiểu nhân vật thần thoại, cổ tích, là kiểu nhân vật có gốc gác trong văn học

dân gian, đó là các vị thần hay thƣợng đế với những diện mạo đƣợc phác họa sơ

sài, đôi khi còn giữ nguyên chức phận nhƣ trong văn học truyền thống, đôi khi lại

phá vỡ nguyên mẫu để mang theo những biến thiên tính cách và tâm lý nhƣ con

ngƣời. Thiên thần trong Tiếng khóc thiên thần hay thƣợng đế trong Câu chuyện

tình yêu là lực lƣợng của một thế giới siêu nhiên, mang chức năng phận sự nhất

định nhƣ răn dạy, chỉ bảo đối với loài ngƣời mu muội, tham lam hay để cứu rỗi

những linh hồn tội lỗi, thực hiện những lời cầu nguyện của chúng sinh.

Từ những vị thiên thần ấy đến một vị Thần cây đa có thói quen ăn kẹo lạc và

112

thích ngồi xì xoạt uống nƣớc chè (Thần cây đa và tôi), hay một vị thần Airet biết

nhớ nhung, biết hạnh phúc trong những phút giây biếng nhác bên ngƣời con gái

bằng xƣơng bằng thịt nơi trần thế (Những nghịch lý của thần Airet) thì các nhân

vật kỳ ảo này dƣờng nhƣ đã thoát ra khỏi những nguyên mẫu chức năng của nó. Y

Ban hoàn toàn có chủ đích khi đời thường hóa các thần bằng những suy nghĩ, cảm

xúc của ngƣời trần tục. Khi Thần cây đa trong hình hài của một ngƣời phụ nữ với

những câu chuyện “buôn bán” kiểu phụ nữ, với sở thích “bày đặt chuyện nọ,

chuyện kia” kiểu con ngƣời thì khi ấy thần cũng chỉ là một con ngƣời thôi. Hay khi

thần Airet trong sự day dứt phân đôi của cảm xúc giữa một bên là tình vợ chồng,

tình cha con đầy màu sắc của chốn trần ai nhiều hệ lụy và bên kia là thiên chức của

một vị thần chuyên gây ra những trò nghịch lý thì khi ấy thần đâu còn nguyên là

một vị thần nữa. Tạo ra tính cách, xây dựng đời sống tình cảm cho nhân vật kỳ ảo

này, Y Ban đã trả về cho nhân vật những phẩm chất rất đỗi con ngƣời, góp phần

xóa bỏ khoảng cách giữa độc giả và nhân vật. Chính khoảng cách gần gũi này,

những suy tƣ, chiêm nghiệm về cuộc đời đƣợc nhà văn gửi gắm qua nhân vật dễ

dàng đến với ngƣời đọc hiện đại. Tình yêu đƣợc hòa quyện giữa thần Airet và một

cô gái trần thế đƣợc miêu tả qua lăng kính ái ân, là một biểu hiện của khát vọng rất

ngƣời: khát vọng tình yêu và hạnh phúc đôi lứa.

Đem lại một cảm giác khác với thế giới thần thánh ở trên là thế giới của kiểu

nhân vật siêu thực với những hồn ma - hình hài của những ngƣời đã khuất. Một

đặc điểm thƣờng thấy ở các nhân vật này đó là: Họ đứng ngoài quy luật trôi chảy

của thời gian, thƣờng mang theo âm khí nặng nề mỗi khi xuất hiện hoặc có những

biểu hiện “phản vật chất”. Cô gái xin đi nhờ Chuyến xe đêm trong truyện ngắn

cùng tên là một cô gái đã chết cách đó bốn chín ngày. Khi xuất hiện trong ca bin

cùng Trân thì “bỗng nhiên Trân rùng mình, một luồng khí lạnh buốt nhƣ chích vào

da thịt anh”. Rồi khi cô gái nói lời cảm ơn hay trò chuyện với anh, tiếng cô rành rọt

nhƣng Trân lại không nhìn thấy cô gái mở miệng ra để nói. Đó chính là biểu hiện

của “cái phản vật chất” ở những linh hồn. Dƣờng nhƣ họ tồn tại bởi một cái gì đó

mà ta không cảm nhận đƣợc bằng xúc giác. Hình hài của những ngƣời trong phiên

113

chợ rằm dƣới gốc dâu “không phải là da thịt mà chỉ nhƣ không khí cô đặc lại mà

thôi”, và khi họ di chuyển bƣớc chân “sao cứ nhƣ bay, nhƣ lƣớt” trên mặt đất (Chợ

rằm dưới gốc dâu cổ thụ).

Đứng ngoài quy luật trôi chảy của thời gian cũng là đặc trƣng thƣờng thấy ở

các nhân vật ma. Khi từ giã cõi trần là họ đã bƣớc sang một thế giới khác, thế giới

của sự vĩnh hằng. Ở đó họ không hề thay đổi diện mạo trƣớc lúc nhắm mắt xuôi

tay. Trong Mắt ma, Đồng bị chết trong chiến tranh vì một mảnh bom phạt ngang

mặt, khi anh hiện về trong giấc ngủ của Huấn (để cho Huấn mƣợn đôi mắt nhìn

thấu mọi sự), anh cũng xuất hiện với cái hình hài “một bên mặt anh vỡ vụn, máu

đã đông đặc” đúng nhƣ trƣớc lúc anh rời xa cõi trần. Tƣơng tự, trong Miếu hoang,

con gái của ông lang Vọc chết từ lúc còn nhỏ. Tính đến thời điểm cô hiện về để

giúp đỡ một bà lão cô đơn nơi miếu hoang không rõ cô đã chết đƣợc bao nhiêu

năm chỉ biết: “cách đây lâu lắm rồi, bà đến ăn xin ở đám ma cháu của ông lang

Vọc, thọ trên chín mƣơi tuổi”- Có lẽ đã trải qua mấy đời ngƣời nhƣng khi trở về cô

vẫn xuất hiện trong dáng hình một cô bé gái mặc chiếc áo màu xanh. Phƣơng,

Thắng, Đồng, hay cô bé áo xanh đều là những ngƣời còn rất trẻ. Vì vậy họ chết đi

nhƣng vẫn muốn trở về bởi còn nặng nợ với trần thế. Phƣơng trở về vì còn canh

cánh một nỗi mẹ già, Thắng tham dự phiên chợ rằm cũng chỉ với mục đích dùng

tiếng sáo trầm bổng mê hoặc để dẫn gọi ngƣời yêu. Nhƣng dù có hoài nhớ đến đâu,

họ cũng chỉ là kiếp ma, họ vẫn phải trở về với thế giới của riêng họ “trƣớc khi gửi

lại trần gian cái nhìn lƣu luyến và chan chứa ân tình”.

Còn một kiểu dạng nhân vật nữa là nhân vật đời thường nhưng lại có những

khả năng siêu phàm. Khả năng này có thể là do ngƣời đã khuất ban tặng (nhƣ Huấn

đƣợc ban tặng đôi mắt), cũng có thể là do một đột biến nào đó có ý nghĩa bƣớc ngoặt

trong cuộc đời nhân vật (nhƣ nhân vật cô gái trong Bệnh dại sau khi bị chó dại cắn

không chết, ngƣợc lại còn có thêm một khả năng thần bí, vƣợt ra khỏi nhận thức

thông thƣờng của con ngƣời đó là khả năng giao tiếp với ngƣời âm để tìm những ngôi

mộ bị thất lạc của chính những ngƣời đó).

Nhƣng dù ở góc độ nào đi nữa thì đó cũng là những nhân vật để ngƣời viết

114

bộc lộ những suy tƣ, chiêm ngiệm về cuộc sống hiện hữu. Mắt ma thể hiện sự dứt

khoát trong cách sống của nhân vật: “tao là ngƣời dƣơng gian thì hãy để tao nhìn

với con mắt của ngƣời dƣơng gian”. Hay trong Bệnh dại, qua những câu chuyện

của những ngƣời đến nhờ cô gái có khả năng thần kỳ ẩn chứa nhiều bài học về đạo

đức, về hiếu nghĩa.

Bằng việc xây dựng các nhân vật kỳ ảo cộng với việc gia cố chất ly kỳ cho

không gian thời gian, cho chi tiết, ta nhận thấy Y Ban có những cách tân riêng

trong kỹ thuật tự sự của mình. Nƣơng vào sự đa nghĩa của hình tƣợng kỳ ảo, chị đã

vƣợt qua đƣợc cái nhìn hiện thực truyền thống để có một phong cách mới trong

việc chuyển tải những ý đồ nghệ thuật, đồng thời mở rộng biên độ cảm nhận cho

ngƣời đọc. Điều đó cho thấy những nỗ lực trong sáng tạo của Y Ban nhằm “xóa bỏ

khoảng cách trần thuật, xóa bỏ khoảng cách của cái bình thƣờng và cái dị biệt”

trong văn chƣơng.

3.3 NGÔN NGỮ

Ngôn ngữ là một trong những phƣơng diện để tạo nên sự thống nhất của hình

thức tác phẩm, nó không chỉ có giá trị tự thân, tồn tại độc lập mà nằm trong chỉnh

thể nghệ thuật, bị chi phối bởi nội dung phản ánh cũng nhƣ nhiều yếu tố thuộc về

cá tính sáng tạo của nhà văn. Vì vậy vừa là một trong những thƣớc đo sự vận động

và phát triển của một giai đoạn văn học, một dòng văn học nhất định, vừa là dấu

hiệu để nhận diện phong cách của tác giả. Với nhà văn Y Ban ngôn ngữ cũng là

một trong những dấu hiệu đế nhận ra sự riêng biệt của chị. Khảo sát các sáng tác

của Y Ban, chúng tôi thấy chị sử dụng đắc đạo ba hình thức ngôn ngữ sau:

3.3.1 Ngôn ngữ đời thƣờng

Những biến đổi về tƣ duy nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 kéo

theo sự biến đổi về phạm vi đề tài, chủ đề, về cảm hứng sáng tạo. Do đó ngôn ngữ

115

cũng phải có những đổi mới cho phù hợp. Một trong những dấu hiệu của xu hƣớng

đổi mới ấy là việc sử dụng ngôn ngữ hiện thực đời thƣờng - hệ quả của tƣ duy

hƣớng vào đời tƣ, bám vào hiện thực đời sống.

Qua trải nghiệm thực tế, cùng với ý thức đƣa tác phẩm đến gần hơn với bạn

đọc, Y Ban đã đƣa vào tác phẩm của mình những tiếng nói của đời sống thƣờng

nhật với sự dung nạp của nhiều khẩu ngữ. Một nhân vật trong Cuộc tình Silicol có

sử dụng một câu mà có lẽ ngoài đời chẳng mấy ai không biết, chẳng mấy ai chƣa

nghe một lần bởi nó là câu cửa miệng của không ít ngƣời: “Ôi dào, có tiền là có

tất”. Hay nhƣ lời miêu tả mang đậm chất hàng quán của nhân vật “tôi” trong Tôi và

gã: “Gã lại đang ngửa cổ rít thuốc lào. Tôi chờ cho gã phê xong thuốc. Phải mấy

phút sau gã mới phều phào: sức khỏe kém rồi, phê lâu”. Cũng có khi đó là một câu

tự nghiệm của nhân vật đƣợc bày tỏ theo lối rất dân dã: “Cha mẹ có thành đạt đến

đâu mà con cái không học hành đến nơi đến chốn thì cũng vứt” (Gà ấp bóng).

Cùng với việc đƣa chất liệu đời thƣờng vào tác phẩm, ngôn ngữ trong sáng tác

của chị nhiều khi còn thô nhám, đôi khi có cả sự suồng sã, bỗ bã của lời ăn tiếng

nói hàng ngày. Nó tràn vào câu chuyện một cách tự nhiên, dƣờng nhƣ không phải

qua khâu xử lý. Chẳng hạn nhƣ: “…thuê gara thì vừa xa vừa đắt, nhƣng cái chính

là giao thông kinh hãi thế kia, bố ai dám lái ô tô ra ngoài đƣờng”. Hay “có ngƣời

nhà thuốc vừa rút mũi tiêm ra, nấc nấc lên mấy cái rồi lăn cổ ra chết ngay”(Thần

cây đa và tôi). Ở nhiều câu sự hài hƣớc trong cái chất dân dã đời thƣờng lại tạo cho

ngƣời đọc một cảm giác rất gần gũi, thân quen: “Từ thƣờng gặp nhiều bộ mặt khác

nhau của chồng, lúc xí xớn trêu vợ con, lúc cửng lên coi cả thiên hạ chẳng ra gì”

hoặc “chồng Từ lấy chiếc xe quốc cong mông đạp đi” (Xuân Từ Chiều). Trong

Ngoái đầu nhìn lại, cũng có những câu đọc lên thấy rất thú vị. Cái thú vị toát ra từ

sự “hồn nhiên” không câu nệ trong sử dụng con chữ của ngƣời nói, chẳng hạn: “tôi

định cà khịa nhƣng vì mỗi khi vặn óc để nhớ một câu tiếng Anh tôi lại có khuôn

mặt ngỗng ỉa nên tôi chẳng dám cà khịa nữa”.

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ là một trong những cách đem lại cái duyên cho

câu nói trong đời sống thƣờng ngày. Khi đi vào văn chƣơng, nó lại thể hiện độ sắc

116

gọn, linh hoạt trong lối diễn đạt. Khéo léo đƣa các thành ngữ vào tác phẩm của

mình, Y Ban đã mang đến sự sinh động cho những trang viết: “Thế là hai ông hàng

xóm tối lửa tắt đèn có nhau xông vào cuộc đào mồ đào mả, chốc dây mơ rễ má nhà

nhau lên bằng miệng lƣỡi” (Chồng tôi), hoặc: “đấy, chị em thân nhau đến mức ấy

cơ mà. Có chuyện thầm kín đến mức sống để dạ chết mang theo còn nói đƣợc với

nhau” (Thần cây đa và tôi). Hay “có gì mà lạ, đói đầu gối phải bò, trói vào mà

đánh khen hay chịu đòn” (Xuân Từ Chiều).

Thƣờng những thành ngữ, tục ngữ đƣợc dẫn ra là để khẳng định một chân lý

hoặc chứng minh cho một kinh nghiệm nào đó đã đƣợc đúc kết từ thời rất xa xƣa:

“các cụ xƣa thƣờng nói họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai hay là trong phúc có

họa, trong họa có phúc. Đó chính là cái chân của cuộc sống” (Xuân Từ Chiều);

“…con và cháu ông không cứu đƣợc là vì ông đã coi con chó quý hơn ngƣời. Các

cụ đã có câu cứu một người phúc đẳng hà sa là thế” hoặc “có một vị bác sĩ tay

nghề giỏi giang. Lộc vào nhà nhƣ nƣớc. Theo nhƣ các cụ nói thì vị bác sĩ này đang

ở vào thời vận đỏ như vông đông như tiết” (Thần cây đa và tôi). Hay đơn giản đó

cũng chỉ để tăng tính cô đọng cho một câu nói: “chẳng phải vì cái sự một năm làm

nhà, ba năm làm cửa mà vì họ không quan tâm lắm đến việc phải có một bộ cánh

cửa chắc chắn” (Làng Cò).

Thực tiễn văn học cho thấy sự gia tăng “thành phần khẩu ngữ” trong tác phẩm

văn học không phải là vấn đề mới mẻ, và Y Ban cũng không phải là ngƣời đầu tiên

nới lỏng tính khuôn định trong cách sử dụng ngôn ngữ mực thƣớc trang trọng để

mở đƣờng cho xu hƣớng tiệm cận ngôn ngữ đời sống (Bởi vì trƣớc đây trong thời

kỳ kháng chiến chống Pháp, để phù hợp với yêu cầu “văn hóa hóa kháng chiến”,

góp phần tích cực vào việc tuyên truyền các đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng, khẩu

ngữ cũng từng đƣợc xem nhƣ một phƣơng tiện nghệ thuật để tác phẩm có thể đến

đƣợc với nhiều đối tƣợng tiếp nhận). Cũng hƣớng tới đối tƣợng tiếp nhận, nhƣng

không phải với mục đích tuyên truyền cổ động, Y Ban đƣa vào tác phẩm của mình

một lối nói dung dị, đời thƣờng là để tìm ra một con đƣờng ngắn nhất đến với bạn

đọc. Điều đó biểu hiện một ý thức tìm tòi, một tinh thần cố gắng trong việc làm

117

mới ngòi bút, làm đa dạng các phƣơng thức diễn đạt của nhà văn.

Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng một đôi chỗ tác giả đã hơi lạm dụng

việc sử dụng khẩu ngữ khiến cho nó chƣa thật sự đem lại những hiệu quả thẩm mỹ

cho tác phẩm. Chẳng hạn một đoạn văn sau đây chúng tôi cho là sẽ ít nhiều gây

phản cảm ở ngƣời đọc: “Chúng nhìn tớ há hốc mồm ra ợ, chúng phát kinh, sau khi

ợ một hồi thì tớ đánh rắm, rắm to. Tớ kênh đít lên mà đánh một tràng. Hết ợ lại

đánh rắm, tởm thế, bố đứa nào chịu đƣợc. Vậy là giải tán” (Tôi và gã). Vẫn biết

rằng, việc sử dụng các chi tiết các phƣơng tiện nghệ thuật, ngôn ngữ biểu hiện đều

không nằm ngoài dụng ý của nhà văn. Nó sẽ phục vụ cho một tƣ tƣởng, một ý đồ

nào đó mà nhà văn muốn gửi gắm. Tuy nhiên không nên vì quá chú trọng đến nó

mà coi nhẹ chất văn cần có của tác phẩm bởi hiệu quả thẩm mỹ bao giờ cũng phải

đƣợc tạo ra từ cả hai bình diện nội dung và hình thức.

3.3.2 Ngôn ngữ đậm chất dân gian

Một trong những dấu ấn đặc biệt ở sáng tác của Y Ban đó là chất dân gian

trong ngôn ngữ đƣợc sử dụng để xây dựng tác phẩm. Y Ban đã có một tuổi thơ lớn

lên bên bờ tre gốc rạ, gắn với những lời ru câu hát ngọt ngào, những bài đồng dao,

bài vè trẻ nhỏ. Khi có gia đình, thời gian đầu với những gánh hàng qua khắp các

phố phƣờng, những câu chuyện phiếm nơi quán nƣớc vỉa hè lại là niềm vui cho

những lúc nghỉ chân, đồng thời nhập vào với chất dân gian đã ngấm từ thuở nhỏ

thành một dòng chảy liên tục và mạnh mẽ. Nó đƣợc chọn lọc, hòa quyện với chất

hiện đại đời thƣờng nhƣng đầy biến động trở trăn tạo nên một phong cách riêng

biệt cho những trang viết của Y Ban.

Ngoài những câu tục ngữ, thành ngữ ngắn gọn, hàm súc mà chúng tôi đã dẫn

chứng ở phần trên, Y Ban còn lồng vào tác phẩm có dung lƣợng lớn những câu

chuyện ngụ ngôn, những câu chuyện vui truyền khẩu dân gian đầy tính hài hƣớc

nhƣng đậm đặc tính cách ngƣời Việt. Đó là chuyện “Ước con vịt giời” và chuyện

“Ba điều ước” trong Đàn bà xấu thì không có quà. Truyện kể về nỗi ám ảnh của

một đời sống vật chất khó khăn, đói kém, miếng ăn không bao giờ đƣợc thỏa mãn:

một con vịt giời, một miếng dồi chó cũng là cả một niềm mơ ƣớc. Nhƣng trên hết

118

vẫn là những bài học, là lời răn dạy của cha ông về nết ăn uống. Những đoạn kể

nhƣ thế đôi khi giống nhƣ đoạn ngoại đề, đƣa ngƣời đọc trở về một thế giới xa xƣa

nào đó - thế giới tuổi thơ của chính mình với những truyện kể dân gian, đôi khi ý

nghĩa đƣợc rút ra từ nó lại là cái cớ để nhân vật tự ý thức hoặc tạo cho cuộc đời

mình những bƣớc ngoặt. Ví dụ trong tiểu thuyết Xuân Từ Chiều đã có cả một câu

chuyện cổ tích Andecxen đƣợc kể lại - câu chuyện “Bộ quần áo mới của Thượng

đế”. Sức cuốn hút của dòng chảy cổ tích, của dòng chảy gọi là văn học dân gian -

văn học truyền khẩu ấy đã mê đắm Từ và cô đã quyết định bỏ học trƣờng Y để thi

vào khoa Xã hội học của trƣờng Đại học Tổng hợp…

Đặc trƣng dân gian dễ nhận thấy nhất trong sáng tác của Y Ban, đó là những lời

hát ru ngọt ngào, những bài dân ca đằm thắm. Từ xa xƣa, cái cò đã đi vào ca dao

dân ca nhƣ một biểu tƣợng của ngƣời phụ nữ tảo tần sƣơng nắng, vất vả sớm hôm.

Đó là biểu tƣợng đẹp và cũng là biểu tƣợng phổ biến nhất trong những lời tâm tình

của ngƣời xƣa. Cái hồn điệu quê hƣơng dân tộc khi đi vào tác phẩm Y Ban có lẽ

cũng vì thế mà chủ yếu là những lời ru, điệu hát về cái cò. Làng Cò yên ả, thâm u. Ở

đây các bà mẹ chỉ biết ru con bằng câu: “Cái cò là cái cò quăm, mày hay đánh vợ

đêm nằm với ai…Cái cò là cái cò quăm, gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non…”

(Làng Cò).

Tiễn đƣa cu Tũn về lòng đất mẹ, ngƣời chị trong Nàng thơ không khóc, trong

đầu nàng chỉ hiện lên kỷ niệm với đứa em thơ và rất nhiều những câu hát nàng đã

ru em: “Cái cò đi đón cơn mƣa, tối tăm mù mịt ai đƣa cò về …Cái cò mà đi ăn

đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao… Cái cò cái vạc cái nông, ba con cùng

béo vặt lông con nào…”. Một phụ nữ nông dân thuần chất sang làm ngƣời giúp

việc bên xứ Đài Loan cũng thƣờng gửi gắm nỗi lòng nhớ nhung, yêu thƣơng chồng

con quê nhà vào những bài dân ca mộc mạc mà trữ tình thắm thiết. Cũng vẫn là

những điệu hát về con cò, vừa làm việc, chị vừa hát cho ông chủ nghe: “Con cò

bay lả bay la. Bay từ cửa phủ bay qua là qua cánh đồng. Tình tính tang là tang tính

tình…” (I am đàn bà).

Ký ức tuổi thơ thƣờng là những gì tồn tại lâu bền nhất trong tâm hồn một con

119

ngƣời. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở vùng quê đất Việt, có lẽ sẽ không bao giờ

quên đƣợc những bài đồng dao, những câu vè của trẻ nhỏ dễ thuộc dễ nhớ. Khi đã

trở thành một nhà văn, những bài đồng dao của một thời tuổi thơ cũng theo Y Ban

vào những trang viết, nhƣng lúc ấy nó không còn là một câu hát hồn nhiên, vô tƣ

nữa. Nó đã đƣợc chỉ dẫn theo ý đồ của tác giả. Nói tới việc nạn mại dâm không

ngừng gia tăng do những hạn chế trong pháp luật của nƣớc nhà, Y Ban phê phán:

“Từ cổ chí kim ở cái đất nƣớc này là cái thứ vòng vo. Cứ theo bài đồng dao của trẻ

con mà xem nhé: Con chim sẻ nó đẻ cành chanh, tôi lấy mảnh sành tôi chanh nó

chết, đƣợc ba chậu máu đƣợc sáu nong đầy, ông thày ăn một, bà cốt ăn hai, còn cái

thủ cái tai đem lên biếu chú. Chú hỏi thịt gì? Thịt con chim sẻ nó đẻ cành

chanh…để rồi thả đỉa ba ba, chớ bắt đàn bà, phải tội đàn ông, cơm trắng nhƣ bông,

gạo thuyền nhƣ nƣớc…”(Thần cây đa và tôi).

Trong sáng tác của Y Ban xuất hiện hai dòng dân gian khác nhau, một dòng

thuần dân gian cổ xƣa nhƣ những bài đồng dao, những câu truyện cổ tích, tiếu lâm,

những lời ru câu hát dân ca…mà chúng tôi vừa dẫn chứng ở trên, ngoài ra còn một

dòng dân gian khác cũng khá phong phú. Gọi là dân gian vì nó cũng là sáng tác

truyền miệng, nó không phải là sản phẩm của một cá nhân cụ thể nào mà là của

quần chúng, của nhân dân. Còn khác với dòng dân gian truyền thống ở chỗ nó ra

đời muộn hơn và gắn với đời sống hiện tại. Tác giả của nó không thuần là cƣ dân

nông nghiệp. Còn nội dung thì có phần châm biếm nhiều hơn. Chẳng hạn: “Em ơi,

anh đã sẵn sàng, bơm xe, tai nghe thời tiết, mắt liếc đồng hồ, nhổ râu, xâu quai dép

về với em đây” (Làng Cò), hay “Tông Đản là chợ của quan - Nhà Thờ chợ của gian

ngoan nịnh thần - Đồng Xuân chợ của gian thƣơng - Chợ Giời chợ của nhân dân

anh hùng” (Xuân Từ Chiều). Ngay cả dân đề đóm cũng có thơ ca: “Ai ơi cứ chơi số

đề - Khi đi một chỉ, khi về bảy cây” hay “Cờ bạc là bác thằng bần - Cửa nhà bán

hết cho chân vào cùm” (Xuân Từ Chiều).

Tóm lại dù là ngôn ngữ dân gian của truyền thống cổ xƣa ra đời từ khi chƣa

có văn học viết hay ra đời muộn hơn thế thì khi đi vào tác phẩm của Y Ban, chúng

đều có vai trò nhƣ nhau trong việc tạo ra đặc trƣng trong ngôn ngữ biểu hiện của Y

Ban. Cái cô đọng hàm súc trong những câu có chứa thành ngữ, tục ngữ, cái sâu xa

120

hài hƣớc trong những chuyện tiếu lâm, ngụ ngôn hay cái ngọt ngào trong từng điệu

hát lời ru không chỉ làm đa dạng hóa lối diễn đạt hoặc mang lại sự mềm mại, mƣợt

mà cho những trang viết, mà còn tạo ra sự gần gũi gợi nên cái hồn cốt dân tộc ở

ngƣời đọc khi họ tiếp xúc với tác phẩm.

3.3.3 Ngôn ngữ mang tính phiếm chỉ hóa nhân vật

Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “Phiếm chỉ là khái niệm chỉ cái chung

chung, không rõ ràng cụ thể ngƣời nào vật nào” [20]. Để phân biệt ngƣời này với

ngƣời khác thì tên là yếu tố đầu tiên để nhận diện, là ký hiệu thông thƣờng đơn

giản nhất để cá biệt hóa nhân vật. Vậy mà yếu tố này với Y Ban không đƣợc xem

là quan trọng. Khảo sát sáng tác của Y Ban, chúng tôi thấy rằng đại đa số các nhân

vật của Y Ban đều không đƣợc đặt tên. Có đến 53/85 tác phẩm, tên nhân vật đều

mang tính phiếm chỉ hóa. Trong đó ngoài các truyện đƣợc kể từ ngôi thứ nhất -

nhân vật xƣng tôi (Đại từ nhân xƣng không phân biệt giới tính), còn lại các nhân

vật đều đƣợc gọi tên một cách chung chung đã xác định giới tính. Nhân vật nam

thƣờng đƣợc gọi là: gã, hắn, anh, anh ta, ngƣời cha, anh ấy, ông, ngƣời đàn ông,

thằng anh, ông cụ… Còn nhân vật nữ thƣờng đƣợc gọi là: thị, nàng, chị, ngƣời đàn

bà, ả, đứa chị, đứa con gái nhỏ, cô gái, thiếu phụ, con gái tôi…Đôi khi các nhân vật

đƣợc nhắc tới dựa theo các đặc điểm hình thức hoặc nghề nghiệp nhƣ: ngƣời số

hai, ngƣời số ba (Tự), ngƣời đàn ông trẻ, ngƣời đàn ông già (Chuyện trong căn nhà

nhỏ), chàng chăn cừu, nữ tu sĩ (Câu chuyện tình yêu), gã lái xe (Tiếng khóc thiên

thần I), ông chủ, bà chủ (Jô), thày giáo (Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ), bà lão,

cô bé áo xanh (Miếu hoang), bóng trắng (Phút dành cho tình yêu).

Với cách sử dụng các đại từ phiếm chỉ để gọi tên các nhân vật của mình, Y

Ban đã làm nhòa tên tuổi nhân vật nhƣng không hề làm mờ đi đƣờng biên khu biệt

giữa các nhân vật ấy (Bởi ngoài cái tên sẽ còn nhiều đặc trƣng nhƣ hình dạng, hành

động, tính cách, suy nghĩ…để có thể nhận diện nhân vật) ngƣợc lại nó làm tăng

tính khái quát cho những số phận. Là con ngƣời cá thể đấy nhƣng số phận của họ,

hoàn cảnh của họ, tâm lý của họ không hề mang tính dị biệt. Xét trên một phƣơng

121

diện khác, khi nhân vật đƣợc gọi bằng những cái tên chung chung, thậm chí một

cách gọi tên có thể dùng ở nhiều tác phẩm khác nhau, khiến cho độc giả phải chú ý

nhận diện và tái tạo hình tƣợng nhân vật một lần nữa trong trí nhớ. Và đó chính là

một trong những cách để độc giả cùng tham gia vào quá trình sáng tạo nhân vật.

Mỗi ngƣời sẽ có một cách lý giải một ẩn số đối với mỗi nhân vật mà họ băn khoăn.

Cũng cần phải nói thêm rằng, khi tác giả đặt cho nhân vật là gã, là thị, hay là hắn,

là ả… đều không hề có ý miệt thị, mà đơn giản chỉ là một cách gọi chung có thể áp

dụng cho nhiều trƣờng hợp, nhiều hoàn cảnh. Về mặt này, Y Ban cũng đã lƣu ý

trong phần ghi chú ở cuối một truyện ngắn: “Tôi rất đắn đo trong việc gọi tên nhân

vật của tôi vì tiếng Việt có rất nhiều cách để gọi. Nhân vật của tôi là nữ, tôi có thể

gọi là: nàng, em, ngƣời đàn bà, ả, thị…hoặc là một cái tên nào đó trong muôn vàn

cái tên phụ nữ. Gọi là thị nhƣng có miệt thị nàng đâu. Vậy những ai đọc truyện này

hãy tùy thuộc vào tâm trạng và hoàn cảnh cụ thể của mình để đổi cách gọi cho

nhân vật của tôi” (Tôi yêu nàng đấy, thị ơi).

Gọi tên theo kiểu phiếm chỉ hóa nhân vật đã xuất hiện trong văn học thời kỳ

1930-1945 mà tiêu biểu là trong những sáng tác của Nam Cao. Nhƣng có lẽ chỉ

trong văn xuôi Y Ban nó mới xuất hiện với một tần số lớn nhƣ vậy, và khi cách gọi

ấy trở nên phổ biến nhƣ là thói quen thì bản thân nó lại tạo thành một nét nổi bật

trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Tất nhiên nó không chỉ là thói quen đơn

thuần mà còn là cách gọi mang những dụng ý nhất định của nhà văn, vừa tăng tính

khái quát vừa mở ra nhiều khả năng tiếp nhận ở ngƣời đọc.

3.4 GIỌNG ĐIỆU

Với tƣ cách là một “phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học” [10]. Giọng

điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo ra phong cách của nhà văn. Theo GS Trần

Đình Sử thì giọng điệu “không đơn giản là một tín hiệu âm thanh đặc thù để nhận

ra ngƣời nói, mà là một giọng điệu mang nội dung, tình cảm, thái độ ứng xử trƣớc

các hiện tƣợng của đời sống” [24]. Với một nhà văn có khả năng nhận thức bao

122

quát đƣợc nhiều chiều kích của hiện thực đời sống, thƣờng sẽ có sự đa dạng về

giọng điệu. Khảo sát sáng tác của Y Ban, có thể tìm thấy trong đó nhiều giọng điệu

trần thuật khác nhau, trong đó chúng tôi chú ý đến ba giọng điệu cơ bản sau:

3.4.1 Gọng trữ tình đằm thắm

Có thể nói đây là giọng điệu cơ bản để tạo nên chất nữ tính trong sáng tác của

Y Ban. Cái nhẹ nhàng, thủ thỉ của chất trữ tình dƣờng nhƣ thấm trong từng câu

chữ, cất lên từ những lời tâm sự, trong những ƣớc mơ bay bổng, những hoài niệm

quá khứ của nhân vật. Thông thƣờng giọng điệu này dễ tìm thấy ở dạng truyện tự

bạch, ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” và tự kể về cuộc đời mình, bộc bạch nỗi lòng

của mình. Trong sáng tác của Y Ban, không kể là truyện đƣợc kể từ ngôi thứ nhất

hay ngôi thứ ba mà tùy thuộc vào nội dung câu chuyện, tác phẩm có thể dung chứa

giọng điệu trữ tình hay không và tùy thuộc vào dòng cảm xúc của nhân vật mà nó

mang sự dịu dàng đằm thắm hay xót xa, da diết. Chẳng hạn: khi một ngƣời phụ nữ

mất chồng, đêm đêm chỉ còn lại một mình trong sự trống trải, thì suy nghĩ khi ấy

của nhân vật sẽ là lời tâm sự rất xót xa “…Xuân không bao giờ dám giƣơng cái tôi

lên. Bao nhiêu oan trái của việc không có con, một mình Xuân gánh chịu. Bây giờ

trong đêm bao phủ, không còn chồng nữa, cứ khóc đi cho vơi nỗi niềm oan ức, tủi

thân của ngƣời đàn bà” (Xuân Từ Chiều), còn khi nhân vật đang trải hồn mình ra

để cảm nhận sự yên bình của cuộc sống thôn quê ấm áp, thân thƣơng thì khi ấy cái

giọng điệu trữ tình dịu nhẹ sẽ phát huy đƣợc hiệu quả của nó: “tôi thong dong đạp

xe trở về nhà, đến con đƣờng xuyên qua cánh đồng, chân trời phía đông hồng hồng

rồi đỏ dần. Những tia nắng đầu tiên của ban ngày khỏe khoắn chọc thủng lớp mây

xốp màu trắng. Rồi nhƣ vỡ òa ra, ánh sáng chan chứa khắp chân trời phía đông. Ồ,

trong cái nền da xanh ngắt của bầu trời và những mảng mây xốp kia tôi đã nhìn

thấy một làng quê yên ả…Chao ôi, sao mà thanh bình đến thế!...Tôi thấy yêu cuộc

đời, cuộc sống hiện tại quá chừng” (Đi chợ sớm).

Chất trữ tình còn khơi gợi ở ngƣời đọc những khoảnh khắc rung động trong

tâm hồn giữa dòng chảy hỗn độn của cuộc sống từ những đoạn miêu tả thiên nhiên

123

của Quê nội với triền đê cỏ úa vàng “chỉ có những bông cỏ may vẫn cứ nhởn nhơ

nô đùa với gió”, “gió thổi tung tóc, dòng sông êm đềm chảy. Vạt ngô bên kia sông

xanh tốt lạ thƣờng”, hay của Đất mặn vùng đồi cằn khô với “gam màu bàng bạc

của đất, màu vàng úa của lá cây, xam xám của nền trời đông”, của Nơi cha sinh ra

với “đất đai đang phình bụng phơi màu nâu bạc dƣới cái rét. Dăm ba cây cải bắp

để dành ra giêng đứng chơ vơ giữa ruộng màu. Nƣớc trong veo, nhạt thếch, đƣờng

làng gồ ghề, vắng lặng”, của không khí giữa thu “nằng thủy tinh rờ rỡ ngoài trời,

những cái lá trên cây xanh sạch sẽ mơn mởn sau trận mƣa đêm đang làm duyên

dƣới nắng” (Người đàn bà đứng trước gương), của thảo nguyên mênh mang nắng

gió “mỗi buổi chiều khi hoàng hôn khoác cho trời đất tấm áo choàng màu tím, thì

tiếng sáo mục đồng ngân nga réo rắt lòng ngƣời. Một buổi sớm mai khi bình minh

lên một màu hồng tƣơi cùng màu xanh mỡ màng của cỏ cây có hai bông hoa mọc

lúng liếng giữa hai luống sắc nền ấy, đó chính là đôi mắt và đôi môi của chàng”

(Câu chuyện tình yêu). Tuy nhiên chủ yếu vẫn là cái đằm thắm trữ tình bắt nguồn

từ những dòng tâm sự, những cảm xúc chủ quan của nhân vật trong những câu

chuyện không có cốt truyện nhƣ: Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà

và những giấc mơ, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Chiếc vương miện bằng cỏ, Bức

thư gửi mẹ Âu Cơ. Ở những truyện này giọng điệu trần thuật thong thả, chậm rãi,

những sự kiện vốn đã ít song lại bị nhấn chìm bởi cảm xúc, tâm trạng của nhân vật:

“nàng lắc đầu nhiều cái và nuốt nƣớc mắt chảy vào trong ngực. Tuy nhiên từ trong

sâu thẳm, cơn đau vẫn âm ỉ. Nàng đâu phải là kẻ hời hợt dễ nhớ dễ quên, nàng đã

từng sống hết mình để đạt cảm giác đến tận cùng. Nhiều đêm nàng đã khóc thƣơng

con đến tột độ, muốn treo cổ tự tử, nhƣng nàng biết chúng còn yêu nàng lắm nên

nàng không thể chết mà thôi” (Người đàn bà đứng trước gương). Đó là một trong

chuỗi những diễn biến tâm trạng, suy nghĩ về cuộc đời, về gia đình, sự nghiệp của

ngƣời đàn bà dồn chảy trong khoảnh khắc ngắm nhìn toàn bộ chân dung mình

trƣớc gƣơng. Lúc ngƣời mẹ ngắm con ngủ và dàn trải rất nhiều những suy nghĩ về

thời gian, về tƣơng lai đôi khi cũng là những đoạn tâm tình rất nhẹ nhàng nhƣng

sâu lắng: “…ngắm con ngủ, Từ rƣng rƣng muốn khóc, trong sâu thẳm Từ nghĩ

thƣơng con cháy lòng. Cái thời đại con đang sống có rất nhiều biến động…Liệu

124

với chỉ tấm lòng mẹ có chở che đƣợc cho con không? Ngay cả bố mẹ của con

đây…khi trong lòng mỗi ngƣời đều đau đáu về những hoài vọng lớn lao khác của

cuộc đời để có lúc không còn nghĩ đến con chứ đừng nói là hi sinh vì con cái nhƣ

những bậc sinh thành ngày trƣớc, liệu con có bị tổn thƣơng không? Liệu con có

hiểu cho nỗi lòng của bố mẹ không?” (Xuân Từ Chiều). Đọc những dòng này ta

không hề thấy một Y Ban gai góc, táo bạo, thay vào đó là một Y Ban dịu dàng đa

cảm với trái tim giàu tình yêu thƣơng.

Ở những truyện có mối dây nối với quá khứ, Y Ban còn sử dụng hình thức

nhật ký, bức thƣ để diễn tả “mảng thế giới của những cái tôi đàn bà phong phú và

phức tạp mà sâu sắc”. Dƣới dạng một bức thƣ, nhân vật trong Bức thư gửi mẹ Âu

Cơ có thể thỏa lòng nói ra những khát vọng thầm kín của mình mà trong những

hoàn cảnh khác, nhân vật khó có cơ hội để giãi bày. Mƣợn hình thức nhật ký, trong

Người đàn bà có ma lực, Chiếc vương miện bằng cỏ, Y Ban đã tìm đƣợc cách tiếp

cận hiệu quả thế giới nội tâm nhân vật. Ở đó, ngƣời đọc nhƣ đƣợc dõi theo cả một

quãng đời tuổi trẻ của ngƣời đàn bà qua từng trang nhật ký. Cấu trúc tự sự dƣới

đây đƣợc lặp lại nhiều lần khi nhân vật hồi tƣởng:

“ Ngày …17 tuổi bƣớc vào trƣờng đại học, ta là một cô gái không xinh đẹp,

cũng không có duyên. Để bù lại ta thông minh và học giỏi

Ngày 1/7 trên chuyến tàu hôm ấy, ta và cô bạn gái - một cô bé xinh xắn, dịu

dàng, thoạt trông rất đáng yêu đi về nhà nghỉ hè…

Ngày …hồi ấy mùa ôn thi thứ tƣ trong đời sinh viên..

Ngày …”

(Người đàn bà có ma lực)

Có thể nói giọng trữ tình, thâm trầm đằm thắm đã tạo cho trang viết của Y

Ban một vẻ mềm mại, đầy nữ tính. Nó là những rung động trƣớc một vẻ đẹp, là

những tâm tình đƣợc thổ lộ giãi bày, là sự sẻ chia cảm thông với những éo le bất

hạnh của ngƣời phụ nữ. Tất cả đều đƣợc “dẫn dắt bởi mẫn cảm bản năng” tuyệt

diệu của nữ nhà văn, làm nên cái hồn cốt, cái giai điệu nền nã mà âm vang trong

125

lòng ngƣời đọc.

3.4.2 Giọng hài hƣớc châm biếm

Bên cạnh một Y Ban đa cảm dịu dàng, một Y Ban đằm thắm, ngƣời đọc còn

biết đến một Y Ban thẳng thắn và gai góc trên những trang phê phán quyết liệt. Và

giọng hài hƣớc, châm biếm trong tác phẩm của chị chính là giọng điệu đƣợc tạo ra

từ tiếng nói phê phán ấy. Cái tức, cái bực, cái nực cười là câu chuyện của một nhà

tâm lý học, bởi sự khốn khó mà phải nhờ vào trò bắt ruồi đem bán để làm cái mua

vui cho ngƣời và cũng vừa là kế sinh nhai cho mình. “Cánh đàn ông chúng ta có

trăm nghìn cái bức bối làm ta phát điên phát dại, rồi dẫn đến chết yểu, chết non, tôi

mới nghĩ ra trò giải thoát này. Cái trò chơi gì của cánh đàn ông chúng ta xem ra

cũng có hai mặt…cái trò chơi của tôi chỉ mất năm trăm bạc…chỉ ngặt đầu vào.

Nhất thiết phải có con ruồi bác ạ. Ruồi nó là một con rất vớ vẩn, con ruồi đậu ở

chuồng phân - vớ vẩn hết sức - ấy thế mà mới nực cƣời”.

Phân phối hàng hóa theo tem phiếu là một trong những hạn chế rất trầm trọng

của thời quản lý hành chính bao cấp. Trong một tác phẩm, Y Ban đã mƣợn lời

nhân vật để nói về cái bất cập gây ra bao đói khổ cho nhân dân một thời ấy: “vào

cái thời khốn khổ, cái gì cũng phân (phối) mà phân thì nhƣ cứt. Nhà đông con nên

lúc nào cũng đói” (Mẹ không thể xin lỗi con). Gu thẩm mỹ của Y Ban rất khác lạ.

Có lẽ đẹp với chị không phải là cái mỹ miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh

khiến con ngƣời ta hƣng phấn, lặng đi, sững sờ thậm chí là sock nữa. Đi suốt chiều

dài gần trăm trang của Cẩm cù, đọng lại trong lòng ngƣời đọc là ám ảnh về sự

khốn khó, nhếch nhác và sự thích nghi kỳ lạ của con ngƣời với những điều kiện

sống tồi tệ trong quá khứ. Ám ảnh lớn nhất của nhân vật chính là những nhà vệ

sinh bẩn thỉu trải dài theo những năm tháng tuổi thơ nay đây mai đó của gia đình

cô bé, trong đó có một kỷ niệm đƣợc nhà văn viết ra với giọng rất hài hƣớc: “tôi và

con bé con chủ nhà cùng vào, chốt chặt cửa và ngồi đối diện với nhau…đƣợc một

lúc tôi phải bịt mũi kêu Thối lắm, không chịu được - Mặt con bé kia lạnh tanh:

mày nghĩ đây là giường ngủ nhà mày chắc, đã gọi là chuồng xí thì nó phải hôi thối

chứ - Tôi chẳng hiểu tại sao lại có loại nhà vệ sinh hai hố thế này và ngƣời lớn có

đi chung nhƣ chúng tôi không nhỉ? Đó vĩnh viễn là một câu hỏi bí mật và cái sự bí

126

mật này không hiểu có liên quan gì đến câu vè này không

Yêu em đâu phải bạc vàng

Yêu vì nhà nàng hố xí hai ngăn ”

Bản thân câu vè đã rất hóm rồi, khi nó đƣợc ghép với tình huống kể trên thì

hiệu quả hài hƣớc tăng lên gấp bội - cứ nhƣ ngƣời ta thiết kế nhà vệ sinh kiểu ấy là

để dành cho những đôi uyên ƣơng đi vệ sinh cùng nhau.

Y Ban là một nhà văn có thế giới quan độc đáo, thẳng thắn, rõ ràng, tuyệt đối

độc lập và “có khuynh hƣớng triệt hạ tất cả những gì tỏ ra cải lƣơng, rởm, nửa

mùa” [63]. Coi sự giả dối nhƣ một căn bệnh, chị đã mô tả trò diễn đạo đức nhƣ là

những màn hài kịch trên sân khấu cuộc đời. Ở Ước mơ của chị bán hàng rong,

đám ma của ông lão, ngƣời ta đốt pháo không chỉ là để mừng ông lão thọ trên bảy

mƣơi tuổi, để xua đi mùi xú uế của một ngƣời bị liệt đã mấy năm trời mà còn là để

“linh hồn ông lão đi luôn khỏi lẩn quất về nhà bốn mƣơi chín ngày nữa”. Thay vì

đau xót tiếc nuối cho ngƣời quá cố, ngƣời ta lại thấy phấn chấn hẳn lên bởi màn

trình diễn của cô gái trẻ trung xinh xắn. Trong buổi tiễn đƣa ông lão về thế giới

bên kia, diễn viên hạng ba là tiếng cƣời bi hài về chữ hiếu.

Cuộc sống hiện đại của cơ chế đổi mới - cơ chế thị trƣờng cũng phơi bày ra

nhiều mặt trái của nó: gây ra những bất ổn trong gia đình, những suy thoái về nhân

cách đạo đức con ngƣời, về thuần phong mỹ tục và gây ra cả những tiêu cực xã hội

đáng lo ngại. Thay vì việc dạy điều nhân nghĩa ở đời, ngƣời cha lại dạy con mình

phải biết giả dối, biết quan liêu, biết thờ ơ ở chốn quan trƣờng: “Mặt anh thật thà

quá, anh nghĩ làm sao nó hiện cả lên mặt anh rồi. Mà phàm ngƣời làm tổ chức thì

không đƣợc thế…hãy tập cho đôi mắt trống rỗng, khuôn mặt phẳng lỳ. Cƣời đấy,

nói đấy mà chả có tác dụng gì (…). Lời nói, hành động của anh phải không biết

đâu mà lần đƣợc, cứ ậm ậm ừ ừ là tốt, nhất quyết không bao giờ đƣợc khẳng định

điều gì cả” (Làng Cò). Với lối viết mang sắc thái châm biếm, Y Ban không ngần

ngại đƣa lên trang viết của mình những tình huống nực cƣời để rồi qua giọng châm

biếm, các sáng tác đã bộc lộ tính phê phán, sự lo ngại trƣớc một thực trạng nhiều

bất ổn của xã hội do bị thâm nhập và tác động của cơ chế thị trƣờng: đó là việc

127

ngƣời ta đuổi dân, xây chùa để kiếm lợi, “…bên cạnh miếu ngƣời ta muốn có cả

chùa. Ngƣời ta đã tính toán kỹ, miếu thì ít ngƣời vào, chỉ có chùa thì nhiều ngƣời

đến. Nhiều ngƣời đến thì chùa lắm tiền lộc. Bây giờ đang có nạn quan chức tiêu

tiền chùa là gì. Đấy, cái lý nằm ở chỗ đó, thế cho nên một dãy phố dài chƣa đến

một km mà có đến ba chùa. Nhà anh ta… nằm trong khuôn viên chùa, phải di dời”

(Thần cây đa và tôi). Đó còn là việc ngƣời ta đút lót thanh tra chục triệu đồng để

dập một vụ tham ô. Cái sự ấy cũng đã thƣờng nhƣng điều đáng nói là cách so sánh

của Y Ban: Chục triệu đồng ấy có thể là số tiền cho chín mƣơi hộ nghèo sống trong

một tháng, cho mƣời hộ nghèo vay để phát triển làm ăn thoát nghèo và là cái tết

vui cho 5000 ngƣời dân tộc với 2000 mỗi ngƣời để mua muối, “nhƣng mƣời triệu

đồng đó chỉ đủ cho một bữa nhậu trung bình, là tiền bao trung bình cho một cô gái

trung bình, là phong bì cỡ trung bình...”. Đó cũng là cái việc mà các bác sĩ đã làm

để lấy tiền từ túi bệnh nhân và đua nhau mua ô tô nhƣng khốn nỗi nhà nhỏ, phố

nhỏ không chứa nổi ô tô, thuê gara thì vừa xa vừa đắt, giao thông thì kinh hãi. Thế

là: “cái sân bệnh viện rộng rãi, vừa là bãi để ô tô, vừa là nơi đi an toàn nhất. Chiều

chiều hết giờ làm việc, chui vào ô tô ngồi, mở băng nhạc thƣ giãn, rồi cua tay lái

sành điệu mấy vòng - cũng là để văn ôn võ luyện đến lúc về hƣu không quên”

(Thần cây đa và tôi).

Có thể thấy, giọng điệu châm biếm hài hƣớc đã đem đến cho sáng tác có màu

sắc phê phán của Y Ban một âm hƣởng riêng biệt, đặc trƣng. Ở nhiều tác phẩm sự

châm biếm đi kèm với tiếng cƣời hài hƣớc nhƣng về cơ bản nó không nhẹ nhàng,

kín đáo mà có phần chát chúa, thâm thúy. Bởi lẽ, sau tiếng cƣời là cái nhìn nghiêm

khắc với hiện thực, là thái độ không khoan nhƣợng với những nghịch lý trớ trêu

của cuộc đời. Những trang viết nhƣ thế của Y Ban là một cách tiếp cận hiện thực

đa chiều. Xóa bỏ khoảng cách sử thi và đem lại không khí dân chủ cho sáng tác

của chị.

3.4.3 Giọng chiêm nghiệm triết lý

Khi con ngƣời ta từng trải, lại đa sầu, đa cảm, sống nặng với những ký ức - họ

128

sẽ sớm có những nghiền ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời. Với tuổi thơ không phải

lúc nào cũng bình yên, với một cuộc sống gia đình cũng nhiều sóng gió, cộng với

những năm tháng lăn lộn ngoài đời bằng đủ nghề để mƣu sinh, Y Ban đã tích lũy

cho mình những vốn sống phong phú, những kinh nghiệm, trải nghiệm để dễ dàng

hoàn thiện chính mình. Những vốn sống, những kinh nghiệm ấy, không chỉ là chất

liệu quý giá cho những trang viết của chị, nó còn là điều kiện để chị có thể “tổng

kết nhân tâm thời đại”, để mang đến cho tác phẩm của mình tính triết luận sâu sắc.

Với đặc thù của giới nữ, lại tiếp cận hiện thực từ những vấn đề của cuộc sống

đời thƣờng nên trong khi triết lý, Y Ban thƣờng bộc lộ xu hƣớng chiêm nghiệm về

nhân sinh thế sự.

Một nhà văn nữ từng nói: “Đời phần lớn là buồn. Ngày nọ rồi tới ngày kia.

Mỗi ngày đƣợc thêu dệt bởi những nỗi buồn con con nhiều khi vô cớ” (Thiếu phụ

chưa chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Có lẽ chính vì thế khi đi vào tác phẩm văn

học, con ngƣời vẫn là con ngƣời với nhiều nỗi buồn, nhiều khổ đau hơn là niềm

vui hạnh phúc. Trong sáng tác của Y Ban, hầu hết các nhân vật dù là đƣợc miêu tả

trọn vẹn một cuộc đời, một số phận hay đƣợc cắt ra để chọn miêu tả một khoảnh

khắc, một thời điểm thì chúng vẫn là những cuộc đời, những thời điểm của nỗi

đau, nỗi bất hạnh. Điều đó lý giải vì sao Y Ban thƣờng hay để cho nhân vật chiêm

nghiệm về hạnh phúc trong tƣơng quan với những cay đắng mà họ phải nếm trải:

“Sự đời suy thịnh, thịnh suy, hạnh phúc rồi bất hạnh, nó chỉ cách nhau gang tấc mà

thôi. Khi hạnh phúc ngƣời ta hƣớng về miền đất hứa, khi bất hạnh ngƣời ta nhớ về

bến đò xƣa” (Cái Tý). Cũng tƣơng tự nhƣ vậy ở Sau chớp là dông bão nhân vật

chính cũng nhận ra cái chân của cuộc sống rằng: “Ở đời chẳng có phân giới nào rõ

ràng cho hạnh phúc hay bất hạnh, sung sƣớng và khổ đau. Những cảm giác đó có

một vòng giao thoa rất rộng. Hạnh phúc ƣ? Rồi thì bất hạnh đấy. Sung sƣớng ƣ?

Thì sẽ khổ đau ngay”. Cũng với ý nghĩa ấy, trong một tác phẩm khác Y Ban triết

lý: “Cũng nhƣ sự sung sƣớng, hạnh phúc, luôn đi kèm theo đó là sự bất hạnh”

(Xuân Từ Chiều).

Viết về nỗi đau là một trong những thế mạnh của Y Ban, điều ấy có thể giải

129

thích bởi cảm quan nhạy cảm tinh tế của nhà văn nhƣng có lẽ cũng bởi chị nhận thấy

sự nhiều vẻ của bi kịch cuộc đời: “Vinh quang nào tôi nghĩ cũng nhƣ nhau. Còn cay

đắng thì khốn khổ lắm. Nó trăm vẻ” (Con quỷ nhỏ trong tôi). Cái cay đắng trăm vẻ

ấy trong tác phẩm của Y Ban lại chính là trăm vẻ cay đắng của ngƣời phụ nữ. Nhìn

bằng cái nhìn của một nhà văn, cảm dƣới cái cảm của một ngƣời phụ nữ, nên nhiều

triết lý đƣợc viết cũng là triết lý về giới nữ hoặc triết lý dƣới cái nhìn của giới nữ.

Họ thƣờng nghiệm ra nhiều điều từ những gì làm cho họ đau khổ. Ngƣời đàn bà làm

nghề bán hoa sẽ có triết lý trong khuôn khổ cái nghề của ả: “thƣợng đế chẳng qua

chỉ là một gã đàn ông xỏ lá nhất chứ chẳng chơi. Món quà tặng của gã chẳng qua chỉ

là những đồng tiền xu có lỗ” (Đàn bà sinh ra từ bóng đêm). Ngƣời đàn bà thành đạt

lại có lý của họ khi họ muốn bảo vệ cho những suy nghĩ, những khát vọng của mình:

“Khi ngƣời ta thành đạt, ngƣời ta tự cho mình một số đòi hỏi và điều kiện nào đấy”

(Gà ấp bóng). Còn ngƣời đàn bà xấu xí, họ lại đem cái xấu xí của mình ra để chiêm

nghiệm những ƣớc mơ cuộc đời họ: “nàng muốn mình tuyệt đẹp để có một tình yêu

đẹp. Bởi chƣa có sách nào viết rằng ngƣời đàn bà xấu xí có một tình yêu đẹp bao

giờ. Nàng Nấm ƣớc mơ mình thật giầu có. Ngƣời nghèo cũng khó có một tình yêu

đẹp” (Đàn bà xấu thì không có quà ). Đôi khi trải qua những đớn đau, những kiếp

nạn của ngƣời đàn bà, họ thƣờng triết lý về chính những thiệt thòi mà chỉ là đàn bà

mới có thể thấu hiểu và sẻ chia cho nhau: “Ừ thì số mệnh con ngƣời phải thế. Đàn

bà không khổ cửa phụ mẫu, thì cũng khổ cửa chồng con, có mấy ai vẹn toàn…”

(Tự), hoặc “phụ nữ chúng tôi có những giai đoạn chẳng khác nào con gà ấp bóng

kia. Còn lại là một tình yêu đích thực” (Gà ấp bóng).

Từ những trang triết lý về con ngƣời nếm trải, Y Ban đã bày tỏ quan điểm về

cuộc sống: Cuộc sống của mỗi ngƣời phải là do chính họ tạo dựng và duy trì, đâu

cứ phải sống dựa vào một điều gì đó để mình không còn là mình nữa: “Ở dƣơng

gian có sáng có tối. Sáng chƣa chắc đã nhìn rõ mọi sự, mà tối đâu phải là không

nhìn thấy gì. Ngƣời dƣơng gian ắt sẽ tìm thấy sự tồn tại ở trên đời” (Mắt ma). Cuộc

sống là sự tổng hợp phong phú của cả cái xấu và cái đẹp. Bản thân cái xấu, cái đẹp

cũng có muôn màu, muôn vẻ nhƣ những suối nguồn đổ ra biển cũng có dòng to,

dòng nhỏ, có dòng nổi, dòng ngầm mà không phải lúc nào con ngƣời ta cũng nắm

130

bắt hết đƣợc. Nhƣng trong quan hệ giữa các mặt đối lập, chúng luôn tồn tại song

song. Cái đẹp chƣa bao giờ lấn hết đƣợc cái xấu và cái xấu cũng chƣa bao giờ triệt

tiêu đƣợc cái đẹp. Trong một tác phẩm, nhân vật của Y Ban cũng đã có lúc nghiệm

thấy điều này: “Từ bỗng ngộ ra rằng, nếu học Y thì cô chỉ có thể cứu chữa cho một

số ngƣời thôi. Còn cả một xã hội thì chẳng có bác sĩ nào cứu đƣợc cả. Bởi cái xã

hội mà cô đang sống đây, nó không chỉ có một dòng chảy nhƣ con sông kia mà có

rất nhiều dòng chảy ngầm” (Xuân Từ Chiều).

Từ trƣớc đến nay Y Ban vẫn là một nhà văn viết bằng sự nhạy cảm và trái tim

thƣơng yêu con ngƣời. Dƣờng nhƣ chị luôn luôn “dị ứng” với những đối xử bất

công với con ngƣời, thậm chí là sự đối xử bất công với chính bản thân họ. Quan

tâm và tôn trọng con ngƣời tự nhiên bản năng, Y Ban đã để nhân vật của mình bảo

vệ những nhu cầu chính đáng của con ngƣời một cách quyết liệt bằng giọng triết

luận có tính tổng kết với những lý lẽ thuyết phục: “Mọi cảm xúc của con ngƣời đều

đang đƣợc nhân loại hoàn thiện cơ mà. Tại sao cảm xúc này lại luôn bị che giấu.

Một ngƣời có thể nói to trƣớc đám đông, tôi căm thù tội ác dã man, tôi yêu thƣơng

con trẻ, tôi đau xót đồng bào tôi bị thiên tai. Chẳng có ngƣời nào dám nói trƣớc

đám đông rằng, tôi ngủ với chồng tôi rất khoái. Tất nhiên đó là cảm xúc riêng tƣ,

không cần phải nói trƣớc đám đông. Nhƣng cũng không thể nói đó là cảm xúc xấu

xa tội lỗi đƣợc” (Xuân Từ Chiều).

Với giọng điệu chiêm nghiệm triết lý, con ngƣời trong sáng tác của Y Ban đƣợc

soi rọi từ nhiều bình diện và tầng bậc, từ con ngƣời của tình cảm đến con ngƣời của

lý trí, từ con ngƣời xã hội đến con ngƣời của bản năng tự nhiên. Họ đều là những

con ngƣời bình thƣờng, không đƣợc lý tƣởng hóa. Họ khác nhau ở nhiều điểm,

nhƣng lại đều là những con ngƣời đã qua những trải nghiệm nỗi đau. Những triết lý

của họ có thể không hoàn toàn phù hợp với số đông, có thể chƣa là chân lý nhƣng đó

là một phần có thực trong cuộc đời mà chúng ta không dễ gì phủ nhận. Bởi lẽ trƣớc

mỗi triết lý là cả một sự nếm trải những điều không suôn sẻ. Sau mỗi triết lý lại là

những suy nghĩ trăn trở nghiêm túc về những vấn đề của cuộc sống. Rõ ràng bằng

giọng điệu này, nhà văn đã bộc lộ đƣợc nhân sinh quan và thế giới quan, bộc lộ đƣợc

thái độ của ngƣời cầm bút trƣớc hiện thực. Nó không chỉ làm tăng sức khái quát cho

131

hình tƣợng nghệ thuật, nó còn tạo ra chiều sâu cần thiết cho tác phẩm.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đã nhập tịch làng văn bằng một bằng một giọng

tâm tình, thành thực đến da diết, khiến ngƣời đọc không thể thờ ơ cũng nhƣ

không thể không đặt niềm tin vào một cây bút có nhiều triển vọng mang cái tên

Y Ban. Và quả thật, Y Ban đã không phụ lòng mong mỏi của bạn đọc. Khi nền

văn học nƣớc nhà đang có nhiều chuyển đổi, khi truyện ngắn khởi sắc bởi một

lực lƣợng “Ganepho giàu nội lực”, thì trên văn đàn, trƣớc khi nhắc tới một Thu

Huệ từng trải, già dặn so với tuổi đời, một Phan Thị Vàng Anh dí dỏm và thâm

trầm khi thể hiện tâm lý của lứa tuổi mới lớn, một Lý Lan tự nhiên mà không

kém phần sắc sảo, giới nghiên cứu và bạn đọc không thể không nhắc tới một Y

Ban dịu dàng mà riết róng, trào lộng mà suy tƣ khi thể hiện con ngƣời và cuộc

đời trong những trang viết của mình.

2. Khảo sát và phân tích tác phẩm của Y Ban dễ nhận thấy: ngòi bút chị tỏ ra

linh hoạt và sắc nét khi viết về cuộc sống, về con ngƣời của đời thƣờng, của nhân

sinh thế sự. Đây cũng là khía cạnh mà các nhà văn cùng thời với chị lựa chọn để đƣa

văn học thăng bằng trở lại sau nhiều năm quá thiên về cái chung, cái vĩ đại. “Sau bao

nhiêu năm cách mạng và chiến tranh, tập cho con ngƣời quen với cuộc sống bình

thƣờng cũng có bổ ích nhƣ giúp họ nhận ra vẻ đẹp của những cái giản đơn xung

quanh - một công việc mà chỉ riêng nghệ thuật là đƣợc giao phó cho chức phận để

thể hiện” [35]. Với cách tiếp cận hiện thực không đơn giản phiến diện mà đa diện,

nhiều chiều, Y Ban đã đƣa vào tác phẩm của mình những phức tạp đa đoan của đời

sống thƣờng ngày. Trong đó không chỉ có những mảng sáng mà còn có những mảng

khuất tối. Không chỉ có cái đẹp đẽ mà còn có cái xấu xa, không chỉ có cái ngọt ngào

mà còn nhiều cay đắng… Những sắc màu, những cung bậc tƣơng phản ấy cùng với

lối viết của riêng mình, Y Ban đã góp một tiếng nói làm phong phú hơn bức tranh

văn xuôi nữ đƣơng đại, khơi gợi ở ngƣời đọc khả năng đối thoại và suy ngẫm.

3. Trong văn xuôi của Y Ban, tƣ duy hƣớng nội là một đặc điểm định tính đã

132

phần nào chi phối đến phƣơng thức biểu đạt. Việc tổ chức cốt truyện hay xây dựng

nhân vật trong sáng tác của chị đều thiên về biểu hiện tâm trạng dƣới nhiều dạng

vẻ xen lẫn thực và ảo, thời sự và tâm linh. Với cách diễn đạt ngôn ngữ linh hoạt,

nhiều cấp độ, với sắc thái giọng điệu đan xen trữ tình, giễu nhại đầy trăn trở và tự

nghiệm đã cho thấy cách nhìn con ngƣời và thế giới đa chiều, bộc lộ rõ tính dân

chủ và nhân bản trong sáng tác của Y Ban.

4. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm nổi bật trong văn xuôi Y

Ban, chúng tôi nhận thấy Y Ban thực sự là một nhà văn có trách nhiệm với nghề

cầm bút, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm và đổi mới cảm hứng sáng tạo cũng

nhƣ bút pháp thể hiện. Thời kỳ đầu, những trang viết của Y Ban thƣờng chứa chan

tình cảm, đi sâu vào số phận con ngƣời đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Nhƣng trong

những sáng tác gần đây, đặc biệt khi chuyển sang làm báo, thì trang viết của Y Ban

ngày càng nghiêm nhặt, khách quan hơn. Không chỉ khai thác thân phận con

ngƣời, ngòi bút của chị còn hƣớng ra xã hội, lật xới lên những vấn đề bức xúc của

hiện thực, động chạm đến những tầng cõi trong các mối quan hệ xã hội phức tạp.

Có thể nói các trang viết của Y Ban ở truyện ngắn, truyện vừa hay tiểu thuyết đã

chứng tỏ sức bền, sức dẻo dai và liên tục trong lao động sáng tạo của chị, hơn nữa

nó làm thành một “văn hiệu”, một phong cách Y Ban dịu dàng mà quyết liệt.

Với những thành tựu đã đạt đƣợc, Y Ban đã tạo lập cho mình một chỗ đứng

trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại nói chung và trong dòng văn học nữ nói riêng.

Chị thật sự là một gƣơng mặt gây ấn tƣợng trên văn đàn Việt Nam trong những

năm đầu thế kỷ XXI. Có thể nói con đƣờng sáng tác của Y Ban vẫn đang ở phía

trƣớc. Nhƣ chúng tôi đƣợc biết, tiểu thuyết Xuân Từ Chiều của chị đã lọt vào vòng

chung khảo cuộc thi tiểu thuyết 2005 - 2009 do Hội nhà văn tổ chức. Một lần nữa

ngƣời đọc lại kỳ vọng vào một ngòi bút luôn thấm đẫm ý thức dân chủ hóa trong

cảm hứng sáng tạo, trong tƣ tƣởng nghệ thuật cũng nhƣ trong bút pháp thể hiện của

133

nhà văn.

DANH MỤC TÁC PHẨM CỦA Y BAN

1. Người đàn bà có ma lực (NXB Hà Nội - 1993)

2. Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm (NXB Hội nhà văn - 1995)

3. Vùng sáng ký ức (NXB Hội nhà văn - 1996)

4. Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (Truyện viết cho thiếu nhi - NXB Kim

Đồng - 2000)

5. Miếu hoang (NXB Thanh Niên - 2000)

6. Cẩm Cù (NXB Hà Nội - 2001)

7. Cưới chợ (NXB Thanh Niên - 2004)

8. I am đàn bà (NXB Phụ nữ - 2006)

9.Thần cây đa và tôi (NXB Hội nhà văn - 2005)

10. Đàn bà xấu thì không có quà (NXB Hội nhà văn - 2004)

134

11. Xuân Từ Chiều (NXB Phụ nữ - 2008)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐƢỢC IN THÀNH SÁCH HOẶC CÔNG

BỐ TRÊN CÁC TẠP CHÍ, BÁO VIẾT:

1. Vũ Tuấn Anh. Đổi mới văn học về sự phát triển. Tạp chí Văn học số 4/1995

2. Y Ban. Những trang viết đầu tiên. Tạp chí Tác phẩm mới số 1/ 1998.

3. Lê Huy Bắc. Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo. Tạp chí Nghiên cứu văn học số

8/ 2008.

4. Lê Huy Bắc. Cốt truyện trong tự sự. Tạp chí Nghiên cứu văn học số

7/2008.

5. Xuân Cang. Y Ban và những thân phận đàn bà. Báo Văn nghệ số 25/ 2003.

6. Đặng Anh Đào. Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam.

Tạp chí Nghiên cứu văn học số 8/2006.

7. Nhiều tác giả. Gặp gỡ các nhà văn trẻ. Tạp chí Tác phẩm mới số 3/ 1996.

8. Nhiều tác giả. Phụ nữ và sáng tác văn chương. Tạp chí văn học số 6/ 1996.

9. Nhiều tác giả. Truyện ngắn hay 1998 (các ý kiến trong hội thảo). Báo Văn

nghệ trẻ số 13/ 1999.

10. Nhiều tác giả. Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Đại học Quốc Gia - Hà

Nội 1997.

11. Hoàng Ngọc Hà. Những nung nấu nghệ thuật về Hà Nội hào hoa (trích

báo cáo kết quả cuộc thi viết tiểu thuyết và truyện ngắn về đề tài Hà Nội). Báo Văn

nghệ số 44/ 1993.

12. Nguyễn Hà. Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa

sau thập niên 80. Tạp chí Văn học số 3/ 2000.

13. Võ Thị Hảo. Truyện ngắn chọn lọc. NXB Hội nhà văn 1995.

14. Lê Thị Hƣờng. Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay. Tạp chí Văn

học số 4/ 1995.

15. Lê Thị Hƣờng. Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay.

135

Tạp chí Văn học số 2/ 1994.

16. Diên Khánh. Nhà văn Y Ban: Tôi là “ trâu đen”. Thời báo doanh nhân - Xuân

Kỷ sửu 2009.

17. Phƣơng Lựu. Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ. Tạp chí Tác phẩm mới

số 3/1998.

18. Phƣơng Lựu (chủ biên),Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam… Lý luận văn

học. NXB Giáo Dục 2003.

19. Phạm Xuân Nguyên. Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay. Tạp chí Văn học

số 2/1994.

20. Hoàng Phê. Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng 1997.

21. Kỳ Phong. Các cây bút trẻ đối thoại cùng trang viết - những cuộc đời

không yên ả. Văn nghệ trẻ số 10/ 2001.

22. Huỳnh Nhƣ Phƣơng. Văn chương nữ giới - một cách thể hiện ở đời

(Những tín hiệu mới). NXB Hội Nhà văn 1994.

23. Nguyễn Đức Quang - Ngô Vĩnh Bình - Phạm Hoa. Chúng tôi phỏng vấn

bốn cây bút nữ. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/1993.

24. Trần Đình Sử. Dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo Dục 1998.

25. Bùi Việt Thắng. Bình luận truyện ngắn. Nhà xuất bản Văn học 1999.

26. Bùi Việt Thắng. Khi người ta trẻ I (Tản mạn về truyện ngắn những cấy

bút nữ trẻ). Báo Văn nghệ số 43/ 1993.

27. Bùi Việt Thắng. Một giọng nữ trầm trong văn chương. Tạp chí Văn hóa số

397/ 1997.

28. Bùi Việt Thắng. Truyện ngắn dự thi Phía trước là hi vọng. Tạp chí Văn

nghệ quân đội số 7/ 1993.

29. Bích Thu. Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi 1975 qua hệ thống motif

chủ đề. Tạp chí Văn học số 4/ 1995.

30. Bích Thu. Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975. Tạp chí văn học số

9/ 1996.

31. Bích Thu. Văn xuôi phái đẹp. Tạp chí sông Hƣơng số 145/ 2001.

32. Lê Thị Hƣơng Thủy. Điểm qua sự vận động của truyện ngắn các cây bút

136

nữ. Tạp chí nhà văn số 3/ 2006.

33. Lê Thị Hƣơng Thủy. Đọc truyện ngắn Y Ban.

34. Lê Thị Hƣơng Thủy. Truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ đồi mới

(qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan).

Luận văn Thạc sỹ - Đại học KHXH & NV 2004.

35. Lê Ngọc Trà. Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới. Tạp chí Nghiên

cứu văn học số 1/ 2007.

36. Vũ Quỳnh Trang. Nhà văn Y Ban: Nhà văn sống được là nhờ vào những

công việc khác. Báo Văn nghệ Công an số 63/ 2006.

37. Bùi Thanh Truyền. Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại

Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/ 2006.

38. Bùi Thanh Truyền. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại VN. Luận án

Tiến sĩ - Viện Văn học 2006.

39. Phùng Văn Tửu. Những hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ XX. Tạp

chí Nghiên cứu văn học số 5/ 2006.

II. NHỮNG BÀI VIẾT TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

40. Lan Anh . Nhà văn Y Ban - Tôi không nhẫn được. www.dep.com.vn.

41. Xuân Anh. Buồn ơi! Y Ban chào mi. www.vietimes.vietnamnet.vn

42. Xuân Anh. Đàn bà xấu thì không có quà. www.vietimes.vietnamnet.vn

43. Xuân Anh. Nhà văn Y Ban văn chương vẫn cần trời cho.

www.vietimes.vietnamnet.vn

44. Yến Anh. Sex cổ xưa như trái đất. www.vietbao.vn

45. Tú Cầu. Nhà văn Y Ban không muốn bình luận. www.giadinh.net.vn

46. Tú Cầu. Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức. www.giadinh.net.vn

47. Minh Văn Chất. Xuân Từ Chiều - một lát cắt mới về cuộc sống người phụ

nữ. www.moingaymotcuonsach.com.vn

48. Nguyễn Đức Dƣơng. Ba số phận Xuân Từ Chiều.

www.netlife.vietnamnet.vn

137

49. Nhiều tác giả. Nghĩ về văn hóa sex. www.diendan.thotre.com

50. Nhiều tác giả. Yếu tố tình dục trong văn Y Ban từ góc nhìn văn hóa.

www.vanhoahoc.edu.vn

51. Lê Hà: Đối thoại Y Ban - Nguyễn Khắc Phục. www.dep.com.net

52. Lƣu Hà. “I am đàn bà” của Y Ban bị rút giải thưởng. www.vnexpress.net

53. Lƣu Hà. Y Ban với “I am đàn bà”. www.vnexpress.net

54. Lƣu Hà. Y Ban - sex là giải trí và văn hóa . www.vnexpress.net

55. Trần Thanh Hà. Xuân Từ Chiều - chua xót vì nỗi con người. www.antd.vn

56. Nguyễn Thị Thu Hà- K8. “Xuân Từ Chiều” trong dòng đời cuộn chảy.

www.vietvan.vn

57. Nguyễn Hằng. Nhà văn Y Ban bị sốc khi “I am đàn bà” bị thu hồi.

www.dantri.com.vn

58. Lê Thị Huệ. Cái Tý thị toàn cầu hóa xứ Đài Loan. www.gioo.com

59. Thanh Huyền. Xuân Từ Chiều. www.evan.vnexpress.net

60. Phạm Thị Ngọc Liên. Tình dục trong văn chương Việt Nam.

www.mizzya.wordpress.com

61. Hà Linh. Y Ban - Cái nhân tình không ai bán cả. www.vnexpress.net

62. Phƣơng Lựu. Gặp gỡ giữa Schopenhauer với Trang Tử và bi kịch nhân

sinh. www.evan.vnexpress.net

63. Hoàng Tố Mai. Y Ban: Hành trình đến tận cùng thế tục

www.vietimes.vietnamnet.vn

64. Hoàng Thành Nam. Ý kiến của độc giả về tập truyện ngắn “I am đàn bà”

bị thu hồi. www.diendan.thotre.com

65. Phạm Hồ Thu. Đọc sách “I am đàn bà”. www.vinabook.com

66. Nguyễn Mạnh Trinh. Tình dục và văn chương nữ giới trong nước.

www.phunucali.com

67. Anh Vân. Lý Lan muốn góp ý với Y Ban về “I am đàn bà”.

www.vnexpress.net

68. Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác. www.vietbao.vn

138

69. Y Ban chấp nhận dấn thân để sáng tạo. www.vietbao.vn

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ...................................................................................................... 1

2.1 Các bài viết về tác phẩm của Y Ban in trên các báo và các tạp chí. ............................... 2

2.2. Các bài viết, trao đổi về tác phẩm của Y Ban trên các trang diễn đàn và báo

mạng. ........................................................................................................................................ 4

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...............................................................10

4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ......................................................................................11

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................11

6. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN ......................................................................................12

PHẦN NỘI DUNG ...............................................................................................................13

CHƢƠNG 1: SÁNG TÁC CỦA Y BAN TRONG DÕNG CHẢY CHUNG CỦA VĂN

XUÔI NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI ...........................................................................................13

1.1. VĂN XUÔI NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI .........................................................................13

1.2 HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA Y BAN. .................................................................22

1.2.1 Vài nét về tác giả ......................................................................................22

1.2.2 Quan điểm sáng tác của Y Ban .................................................................23

1.2.3. Tác phẩm của Y Ban trong dòng văn xuôi nữ thời kỳ đổi mới. ................25

CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NỘI DUNG TRONG SÁNG TÁC

CỦA Y BAN ..........................................................................................................................29

2.1 NHỮNG MẢNG SÁNG TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƢỜNG ...........................29

2.1.1. Vẻ đẹp mang thiên chức nữ. ....................................................................29

2.1.2 Khao khát tình yêu, hạnh phúc bình dị ......................................................32

2.1.3 Sex - khát vọng sống. .................................................................................36

2.1.4. Niềm tin và nghị lực vƣợt lên hoàn cảnh ....................................................50

2.1.5 Sự tự ý thức về cá nhân. ............................................................................52

2.2. NHỮNG GÓC KHUẤT TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƢỜNG ........................55

2.2.1 Lối sống thực dụng và sự xuống cấp của những giá trị đạo đức. ...............55

139

2.2.2. Những tệ nạn xã hội .................................................................................60

2.2.3. Những “nỗi buồn chiến tranh”. ................................................................65

2.2.4 Bi kịch tình yêu ........................................................................................69

2.2.5. Bi kịch gia đình. ......................................................................................80

CHƢƠNG III: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG

TÁC CỦA Y BAN ................................................................................................................89

3.1 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN ...............................................................89

3.1.1 Tổ chức cốt truyện theo kết cấu tâm lý .....................................................90

3.1.2 Tổ chức cốt truyện theo kiểu dị truyện (có yếu tố kỳ ảo) ..........................94

3.1.3 Sự giao thoa giữa chất báo chí và chất truyện. ........................................ 100

3.2 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ............................................................. 104

3.2.1 Nhân vật tự nhận thức ............................................................................. 105

3.2.2 Nhân vật cô đơn ...................................................................................... 109

3.2.3 Nhân vật kỳ ảo ........................................................................................ 112

3.3 NGÔN NGỮ ................................................................................................................. 115

3.3.1 Ngôn ngữ đời thƣờng .............................................................................. 115

3.3.2 Ngôn ngữ đậm chất dân gian .................................................................. 118

3.3.3 Ngôn ngữ mang tính phiếm chỉ hóa nhân vật .......................................... 121

3.4 GIỌNG ĐIỆU .............................................................................................................. 122

3.4.1 Gọng trữ tình đằm thắm .......................................................................... 123

3.4.2 Giọng hài hƣớc châm biếm ..................................................................... 126

3.4.3 Giọng chiêm nghiệm triết lý ................................................................... 128

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 132

DANH MỤC TÁC PHẨM CỦA Y BAN ...................................................................... 134

140

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 135