ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ KHÁNH VÂN
NHỮNG YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG MỘT SỐ TRÒ RỐI NƯỚC CỔ TRUYỀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Hà Nội-2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ KHÁNH VÂN
NHỮNG YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG MỘT SỐ TRÒ RỐI NƯỚC CỔ TRUYỀN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Chí Quế
Hà Nội-2015
MỤC LỤC
Trang Nội dung
2 Phần 1: Mở đầu
1. Lí do chon đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Giới thiệu cấu trúc luận văn 7
8 Phần 2: Nội dung chính
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn 8
1.1. Cơ sở lí luận 8
1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng văn học dân gian 8
1.1.2. Khái niệm và đặc trƣng của múa rối nƣớc 11
1.2. Cơ sở thực tiễn 18
1.2.1. Hoạt động của các đơn vị biểu diễn múa rối nƣớc 18
1
1.2.2. Thị hiếu của ngƣời xem 22
Chƣơng 2: Mối quan hệ của múa rối nƣớc và văn học dân gian 26 thể hiện qua một số trò rối nƣớc cổ truyền
2.1. Trò cổ về đời sống sản xuất của ngƣời nông dân 27
2.2. Trò cổ về đời sống tâm linh 33
2.3. Trò cổ về lịch sử 43
Chƣơng 3: Múa rối nƣớc với những cách tân hiện đại 49
3.1. Mục đích cách tân múa rối nƣớc cổ truyền 49
3.2. Hƣớng cách tân múa rối nƣớc cổ truyền 50
Kết luận 78
2
Tài liệu tham khảo 80
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Múa rối nƣớc là một bộ môn nghệ thuật diễn xƣớng dân gian đặc sắc
của dân tộc Việt Nam. Trong kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam, múa
rối nƣớc là một trong những loại hình độc đáo nhất. Với sân khấu là mặt
nƣớc, diễn viên là các con rối, cộng với hiệu quả của ánh sáng và pháo hoa
đã tạo ra những màn biểu diễn hấp dẫn và vô cùng huyền ảo. Đây là bộ
môn nghệ thuật độc đáo và chỉ có ở Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu các trò rối nƣớc cổ truyền, tôi nhận thấy
có một mối liên hệ sâu sắc và bền chặt giữa mối rối nƣớc và văn học dân
gian. Có những tích trò đã sử dụng những hình mẫu nhân vật, kịch bản
trong các câu chuyện cổ; lại có những tích trò mƣợn những lời ca dao chứa
chan tình cảm trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam. Chính vì vậy, trong
luận văn này, tôi sẽ đi sâu nghiên cứu một số trò rối nƣớc cổ truyền để tìm
ra mối liên hệ giữa múa rối nƣớc và văn học dân gian.
Cá nhân tôi rất may mắn khi có mẹ là một nghệ sĩ múa rối nƣớc.
Tuổi thơ tôi gắn liền với buổi biểu diễn của mẹ và các cô chú đồng nghiệp.
Tôi yêu sự thô mộc của những quân rối khi nằm yên trên bờ và càng say
mê hơn khi chúng thoắt ẩn thoắt hiện trên làn nƣớc kì ảo. Và chính tình yêu
đƣợc hun đúc từ thƣở bé thơ đã thôi thúc tôi tìm hiểu về nghệ thuật múa rối
nƣớc truyền thống của dân tộc. Tôi muốn góp một phần công sức của mình
đề gìn giữ và phát huy những nét đẹp vốn có của múa rối nƣớc.
Đặt ra vấn đề nghiên cứu ngiên cứu những yếu tố văn học dân gian
3
trong một số trò rối nƣớc cổ truyền tuy không phải là vấn đề mới mẻ nhƣng
hiện nay, sự phát triển nhanh của xã hội đã ảnh hƣởng mạnh mẽ tới sự tồn
tại, phát triển của múa rối nƣớc thì việc nghiên cứu này sẽ góp một phần
nhỏ bé để giúp tìm ra những yếu tố cốt lõi trong giá trị một số trò cổ nói
riêng và bộ môn nghệ thuật múa rối nƣớc nói chung. Để từ đó có những
biện pháp hữu hiệu giúp bảo tồn, giữ gìn một bộ môn nghệ thuật độc đáo
của nƣớc nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Một số công trình nghiên cứu về rối mƣớc đã đƣợc công bố trong và ngoài
nƣớc.
2.1. Nghệ thuật múa rối nước, tác giả Tô Sanh
Nhà xuất bản: Văn hoá, 1976 -
Nội dung: Nghệ thuật múa rối nói chung và nghệ thuật múa rối nƣớc. -
Nguồn gốc lịch sử và quá trình nghệ thuật múa rối nƣớc. Tiết mục và kỹ
thuật thể hiện múa rối nƣớc. Tính chất đặc điểm quan hệ của nghệ thuật
múa rối nƣớc với các bộ môn nghệ thuật khác
2.2. Lịch sử nghệ thuật múa rối Việt Nam, tác giả Nguyễn Huy
Hồng
Nhà xuất bản: Sân khấu, 2005 -
Nội dung: Giới thiệu về lịch sử nghệ thuật múa rối ở Việt Nam, nghệ -
thuật múa rối cổ truyền dân tộc, nghệ thuật múa rối 1945-1995. Giới thiệu
từ vựng về nghệ thuật múa rối, các thuật ngữ múa rối
2.3. Nghệ thuật múa rối Việt Nam, tác giả Nguyễn Huy Hồng
4
Nhà xuất bản: Văn hoá, 1974 -
- Nội dung: Đại cƣơng về nghệ thuật múa rối. Vài nét về lịch sử nghệ
thuật múa rối Việt Nam. Nhìn qua nghệ thuật múa rối truyền thống dân tộc.
Cơ sở rối truyền thống dân tộc.
2.4. Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, tác giả: Hoàng Chương
(chủ biên), Đoàn Thị Tình, Đặng Ánh Ngà, Phan Thanh Liêm
Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin, 2012 -
Nội dung: Giới thiệu lịch sử, mỹ thuật sân khấu, nghệ thuật tạo hình -
và kỹ thuật máy móc điều khiển múa rối nƣớc. Đồng thời nêu lên định
hƣớng phát triển múa rối nƣớc Việt Nam và vấn đề bảo tồn, phát huy nghệ
thuật múa rối nƣớc dân gian Việt Nam
2.5. Nghệ thuật múa rối nước Thái Bình, tác giả Nguyễn Huy
Hồng
Nhà xuất bản: Sở Văn hoá và thông tin Thái Bình, 1987 -
Nội dung: Vài nét về đất Thái Bình và nghệ thuật múa rối nƣớc: sân -
khấu, buồng trò, quân rối, máy điều khiển, nghệ nhân, trò và tích trò, nhân
vật, biểu diễn, âm nhạc. Giới thiệu một số hình ảnh múa rối nƣớc cùng 3
phƣờng hội tiêu biểu ở Thái Bình: phƣờng múa rối nƣớc Nguyễn, Tuộc,
múa rối thùng ở Đống.
2.6. Nghệ thuật múa rối Tày – Nùng, tác giả Nguyễn Huy Hồng
Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin, 2003 -
Nội dung: Giới thiệu nghệ thuật múa rối Tày - Nùng; cách tổ chức và -
tạo hình quân rối, mỹ thuật sân khấu, cách điều khiển con rối... và một số
5
trò rối Tày – Nùng
2.7. Rối nước = Water puppets, tác giả: Hữu Ngọc, Lady Borton
- Nơi xuất bản: Thế giới, 2009
- Nội dung: Tìm hiểu nghệ thuật múa rối nƣớc ở Việt Nam. Sự bắt
nguồn của rối nƣớc, âm nhạc, các nét trạm trổ của con rối truyền thống, tìm
hiểu về văn hoá Việt Nam múa rối nƣớc, vai trò của chú Tễu...
2.8. Luận án: Sự phục hồi của rối nước đồng bằng Bắc Bộ, tác
giả: Vũ Tú Quỳnh
Nội dung: Tổng quan về rối nƣớc vùng đồng bằng Bắc Bộ trƣớc đổi mới.
Trình bày những tác nhân căn bản dẫn đến sự phục hồi của rối nƣớc sau
đổi mới và những vấn đề đặt ra đối với rối nƣớc trong tình hình kinh tế,
văn hoá và xã hội hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Đây là một loại hình sân khấu dân gian mang tính chất đặc thù dân tộc.
Hiện nay, trên thế giới, múa rối nƣớc chỉ có ở Việt Nam. Nhƣng trên thực
tế, trong những năm gần đây, trong giới nghiên cứu không có nhiều công
trình nghiên cứu về múa rối nƣớc.
- Trong luận văn này, tôi muốn làm rõ đặc trƣng của múa rối nƣớc, vị trí
của múa rối nƣớc so với các loại hình sân khấu khác. Để từ đó khai thác
những giá trị đặc sắc của bộ môn này. Để từ đó có biện pháp thích hợp để
bảo tồn loại hình sâu khấu độc đáo này.
- Tìm hiểu và khai thác những giá trị văn học dân gian trong múa rối nƣớc
6
cổ truyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu: Một số trò cổ của múa rối nƣớc cổ truyền nhƣ: Đi
cấy, Xay lúa giã gạo, Múa bát tiên, Múa tứ linh, Lam Sơn khởi nghĩa.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu một số trò rối nƣớc
cổ truyền đã và đang đƣợc lƣu truyền tại các phƣờng rối tại khu vực đồng
bằng châu thổ sông Hồng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, bên cạnh nhƣng phƣơng pháp nghiên
cứu chủ đạo bao gồm phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng pháp
nghiên cứ liên ngành, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, luận văn còn sử
dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp điền dã: vì có rất nhiều phƣờng rối cùng diễn các trò cổ
nên cần có sự thu thập đầy đủ, chính xác các trò cổ đó. Để từ đó có sự so
sánh, đối chiếu.
- Phƣơng pháp nghiên cứu chọn mẫu: trong những tích rối của các
phƣơng rối, tôi sẽ chọn ra một số trò cổ mang nhiều tính đặc trƣng của rối
nƣớc cổ truyền nhất để từ đó phân tích, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn nghiên cứu một số những yếu tố văn học dân gian trong
một số trò rối nƣớc cổ truyền góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu giá trị
của di sản văn hóa độc đáo này.
Luận văn lý giải đƣợc một số vấn đề trong mối quan hệ giữa múa rối
nƣớc và văn học dân gian. Luận văn cũng tìm ra đƣợc những điểm tƣơng
7
đồng, khác biệt trong những truyện cổ dân gian với những trò cổ của múa
rối nƣớc. Để từ đó khẳng định vai trò nền tảng của văn học dân gian đối
với múa rối nƣớc nói riêng và các loại hình sân khấu dân gian khác nói
chung.
7. Giới thiệu cấu trúc luận văn:
Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận.
Chƣơng 2: Mối quan hệ của múa rối nƣớc và văn học dân gian qua một số
trò rối nƣớc cổ truyền.
8
Chƣơng 3: Múa rối nƣớc với những cách tân hiện đại.
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ CỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
1.1 Khái niệm văn học dân gian và các đặc trưng của văn học dân gian
1.1.1 Về khái niệm văn học dân gian
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền
miệng đƣợc tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những
sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng.
Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và
phổ biến bằng miệng cho ngƣời khác. Văn học dân gian khi đƣợc phổ biến
lại, đã thông qua lăng kính chủ quan (bộ não ngƣời) nên thƣờng đƣợc sáng
tạo thêm. Văn học dân gian thƣờng đƣợc truyền miệng theo không gian (từ
vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trƣớc đến đời sau).
Quá trình truyền miệng thƣờng đƣợc thực hiện thông qua diễn xƣớng - tức
là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể).
- Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác tập thể.
Tập thể là tất cả mọi ngƣời, ai cũng có thể tham gia sáng tác. Nhƣng quá
trình này, lúc đầu do một ngƣời khởi xƣớng lên, tác phẩm hình thành và
9
đƣợc tập thể tiếp nhận. Sau đó những ngƣời khác (địa phƣơng khác, thời
đại khác) tham gia sửa chữa, bổ sung cho tác phẩm biến đổi dần. Quá trình
bổ sung này thƣờng làm cho tác phẩm phong phú hơn, hoàn thiện hơn.
Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sáng tác này ở những thời điểm khác
nhau. Nhƣng vì truyền miệng nên lâu ngày, ngƣời ta không nhớ đƣợc và
cũng không cần nhớ ai là tác giả. Tác phẩm dân gian vì thế đã trở thành của
chung, ai cũng có thể tùy ý thêm bớt, sửa chữa.
- Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau
trong đời sống cộng đồng.
Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều ngƣời nhƣ lao
động tập thể, vui chơi ca hát tập thể, hội hè... Trong những sinh hoạt này,
tác phẩm văn học dân gian thƣờng đóng vai trò phối hợp hoạt động, tạo
nhịp điệu cho hoạt động (những bài hò: hò chèo thuyền, hò đánh cá,..).
Không những thế, văn học dân gian còn gây không khí để kích thích hoạt
động, gợi cảm hứng cho ngƣời trong cuộc (ví dụ những câu chuyện cƣời
đƣợc kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc
trong công việc).
1.1.3. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam
Dựa vào những đặc điểm giống nhau cơ bản về nội dung và nghệ
thuật của các tác phẩm trong cùng một nhóm, có thể thấy văn học dân gian
Việt Nam gồm những thể loại chính nhƣ sau: thần thoại, sử thi dân gian,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cƣời, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu
đố, ca dao – dân ca, vè, truyện thơ, các thể loại sân khấu (chèo, tuồng, múa
10
rối, các trò diễn mang tích truyện).
1.1.4. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian
- Văn học dân gian là kho trí thức vô cùng phong phú về đời sống của các
dân tộc (kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên,
xã hội, con ngƣời). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời
đƣợc nhân dân ta đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó đƣợc mã
hoá bằng những ngôn từ và hình tƣợng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn ngƣời
đọc, ngƣời nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền cùng năm
tháng.
- Văn học dân gian ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con ngƣời.
Vì thế, nó có giá trị giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống
yêu nƣớc, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạo, tinh thần đấu tranh
chống cái ác, cái xấu...). Văn học dân gian cũng vì thế mà góp phần hình
thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xƣa và nay.
- Văn học dân gian có giá trị to lớn về nghệ thuật. Nó đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân nƣớc nhà. Nó đã
trở thành những mẫu mực để đời sau học tập. Nó là nguồn nuôi dƣỡng, là
cơ sở của văn học viết.
1.2. Khái niệm múa rối nước và các đặc trưng của múa rối nước
Múa rối nƣớc là loại hình diễn xƣớng dân gian vô cùng độc đáo của ngƣời
Việt.Múa rối nƣớc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, lấy ao hồ làm nơi
dựng buồng trò che giấu nghệ thuật điều khiển, mặt nƣớc làm sàn diễn cho
quân rối làm trò đóng kịch. Đó là sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật tạo
11
hình với nghệ thuật điều khiển con rối, lấy con rối làm phƣơng tiện chủ yếu
để thể hiện nội dung. Múa rối nƣớc là món ăn tinh thần không thể thiếu đối
với mỗi ngƣời dân lao động. Trải qua nhiều thế kỷ, múa rối nƣớc từ một
loại hình nghệ thuật mang đậm yếu tố dân gian, đã trở thành một nghệ
thuật truyền thống, một sáng tạo đặc biệt của ngƣời Việt và đang trên
đƣờng trở thành một di sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo tồn của nhân
loại.
Múa rối bắt nguồn từ những trò chơi ngẫu nhiên, tự phát đến có chủ
định, truyền cảm. Con rối là nhân vật chính, nhƣng phụ thuộc vào sự phối
hợp giữa nghệ thuật điêu khắc, kỹ thuật lắp ráp, bài trí sân khấu và nghệ
thuật điều khiển con rối, có khả năng tập trung, quy tụ nhiều loại hình nghệ
thuật (điêu khắc, hội họa, chèo, tuồng…) và phụ thuộc chủ yếu vào tài điều
khiển của diễn viên điều khiển con rối.
Theo truyền thuyết thì lịch sử múa rối nƣớc ra đời từ thời xây dựng
thành Cổ La Kinh An Dƣơng Vƣơng năm 225 trƣớc công nguyên. Múa rối
nƣớc hình thành từ lâu đời, ra đời và tồn tại cùng với nền văn minh lúa
nƣớc ở đồng bằng sông Hồng từ các thời vua Hùng. Và cụ thể hơn múa rối
nƣớc ra đời năm 1221 thời vua Lý Nhân Tông, trên bia đá Sùng Thiện Diên
Linh đặt tại Chùa Long Đọi xã Đọi Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam.
Khi nói đến nghệ thuật múa rối trƣớc hết phải nói đến nghệ thuật tạo
hình. Nghệ thuật tạo hình đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nếu không có
tạo hình con rối thì không có biểu diễn múa rối. Nhân vật rối mang tính
ƣớc lệ tƣợng trƣng, việc đầu tƣ sáng tạo không theo một khuôn mẫu nào,
mà phải dựa trên kịch bản. Tạo hình nhân vật đƣợc kết hợp hài hòa hai yếu
12
tố: nghệ thuật điêu khắc dân gian và nghệ thuật điêu khắc cung đình.
Nét độc đáo của quân rối là đƣợc làm từ gỗ sung và sơn ta để dễ điều
khiển dƣới nƣớc. Quân rối xƣa thƣờng khá nhỏ, xinh xắn, dễ điều khiển,
con rối hồn nhiên, sôi động phù hợp với hị hiếu của ngƣời dân hoạt bát và
ngộ nghĩnh. Hiện nay, vẫn dựa trên các nguyên mẫu dân gian nhƣng các
con rối đƣợc làm khá to, lắp ghép trong một thân hình, cao khoảng 30 - 40
cm. Làm quân rối tƣơng đối phức tạp, nếu không làm chuẩn sẽ không điều
khiển đƣợc hoặc diễn rất khó. Để có một con rối hoàn chỉnh, cần mất rất
nhiều công đoạn, đòi hỏi sự tỉ mẩn khéo léo của các nghệ nhân. Chất liệu
làm nên con rối phải là loại gỗ sung - loại gỗ dai, nhẹ và dẻo để con rối có
thể nổi trên mặt nƣớc và ngƣời điều khiển con rối dễ dàng biểu diễn. Các
bƣớc thực hiện: Nghiên cứu kịch bản; vẽ nhân vật; chọn loại gỗ thích hợp
(gỗ sung, gỗ mít..); đục con rối theo kích cỡ, hình dáng đã thống nhất theo
bản vẽ; phơi khô, làm nhẵn bề mặt con rối; hom sơn ta (loại sơn chống
thấm nƣớc giữ độ bền gỗ) để xốp đƣợc quấn nhiều lớp vải mỏng, phủ sơn
ta và phơi khô; thếp bạc, vàng cho con rối (theo tính cách tùy từng nhân
vật); hóa trang con rối; lắp máy, dây, sào con rối. Thông thƣờng, quân rối
nƣớc gồm 2 phần, phần thân nổi trên mặt nƣớc thể hiện nhân vật, còn phần
đế chìm dƣới mặt nƣớc giữ cho rối nổi đồng thời là nơi lắp máy điều khiển.
Múa rối nƣớc sinh ra từ làng quê, gắn bó với ngƣời nông dân vì vậy
không gian biểu diễn múa rối vẫn là những làng quê với lũy tre xanh, cánh
đồng mênh mông thẳng tắp. Để cho một buổi biểu diễn thành công thì khâu
chuẩn bị hết sức quan trọng, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho biểu diễn
đều phải chuẩn bị trƣớc. Các con rối đƣợc tạo ra bằng vật liệu gỗ dễ kiếm.
Các nghệ nhân do biết khai thác mặt nƣớc để diễn trò nên rối từ một vật vô
13
tri vô giác trở thành những nhân vật rất sinh động và hồn nhiên. Buồng trò
là nơi giấu mình của các nghệ nhân, đồng thời là nơi để con rối, để sắp trò
và để nhạc công biểu diễn.
Sân khấu rối nƣớc là khoảng trống trƣớc mặt buồng trò, bề ngang
sân khấu là chiều rộng gian giữa khoảng 2m50. Dƣới mặt nƣớc là hệ thống
nhiều cọc dây của máy điều khiển các quân rối. Phông cảnh trang trí sân
khấu là những tấm mành đƣợc các nghệ nhân trang trí hình rồng phƣợng.
Hai bên dọc sân khấu bài trí bởi hàng lan can, cửa dọc buồng trò là những
lá cờ, cổng chào… Ngƣời nghệ nhân múa rối nƣớc đứng trong buồng trò để
điều khiển con rối, họ sử dụng từng cây sào, giật con rối bằng hệ thống dây
bố trí ở bên ngoài hoặc dƣới nƣớc. Sự thành công của quân rối biểu diễn
chủ yếu là do sự cử động thân hình, những động tác làm trò của chúng.
Âm nhạc trong múa rối nƣớc có vai trò rất quan trọng. Nếu xét về
đặc điểm cấu tạo thì dàn nhạc trong múa rối nƣớc có nhiều nét tƣơng đồng
với chèo cổ. Dàn nhạc trong trò diễn rối nƣớc thƣờng chỉ là nhạc nền, phần
nhiều hát làn điệu chèo, dàn nhạc tạo không khí. Dàn nhạc rối nƣớc xƣa ít
hòa tấu nhạc không lời mang tính biểu đạt, phần hòa tấu chỉ đánh theo
ngƣời hát. Nhƣng mỗi đoạn diễn tấu câu nhạc lƣu không ấy mang lại hiệu
quả bất ngờ, tạo không khí trò diễn thậm chí cả buổi diễn. Dàn nhạc giữ vị
trí quan trọng buổi diễn rối nƣớc trƣớc sân đình, những tiếng trống thúc
dục, gọi mời ngƣời đến xem trò rối. Sau hồi trống cái thúc dục hiệu lệnh,
kèn sáo, trống con, mõ sênh tiền… hòa tấu rộn ràng gọi mời công chúng
đến xem trò diễn rối nƣớc. Chú Tễu bƣớc đi trong tiếng nhạc lời ca tƣng
bừng dọn giọng giáo trò, âm nhạc ngắt lặng mọi ngƣời lắng nghe từng lời
chú Tễu cung chúc khán giả, dẫn ngƣời xem vào trò diễn. Chú Tễu nhƣ
ngƣời cầm nhịp buổi diễn thì âm nhạc làm cầu nối từ linh hồn con rối đến
14
ngƣời xem, từng hành động diễn dẫn vào tổng thể trò rối.
Bộ gõ dàn nhạc trợ giúp đắc lực thành công các mảng trò, những
đoạn ngừng nghỉ vắng lặng để ngƣời nghe rót từng lời nhân vật, khi ồn ào
vui tƣơi rộn ràng không khí hội làng. Trống mõ, sênh, chiêng…tạo nhịp
phách gây không khí rộn ràng buổi diễn đầy phấn khích ấn tƣợng. Dàn
nhạc chèo chuyển sang hòa tấu diễn rối nƣớc hiệu quả bất ngờ, dù hai hình
thức sân khấu khác nhau nhƣng dàn nhạc lại diễn chung một làn điệu bài
bản, đây đặc điểm tính co rãn nội dung phong phú âm nhạc dân gian.
Rối nƣớc Bắc Bộ phổ cập diễn với ca nhạc chèo, ngay phƣờng rối
Đồng Ngƣ Bắc Ninh sinh ra từ làng Quan họ không thể hát quan họ thay
các làn điệu chèo. Phƣờng rối nƣớc Đồng Ngƣ chỉ một nét riêng hát quan
họ mời trầu, nay thành lề lối hát phổ biến tại các đoàn, nhà hát múa rối
chuyên nghiệp đến phƣờng rối dân gian. Rối nƣớc cổ hòa nhập nhịp sống
thời đại mới, âm nhạc đã biến hóa vào các trò diễn hát quan họ, ả đào, chầu
văn, thậm chí cả dân ca vùng miền vì công chúng xã hội đƣơng đại.
Âm nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tƣ tình cảm của
con rối vô tri mà dẫu có lời thoại cũng không thể truyền tải hết. Âm nhạc
gắn kết các trò diễn với nhau, tạo cho ngƣời xem không có cảm giác bị đứt
đoạn giữa các trò diễn, truyền tải đƣợc hết nội dung tạo sự giao lƣu giữa
con rối và ngƣời xem. Nhạc cụ chính đƣợc sử dụng là trống, não bạt, pháo
(ngày xƣa) cũng là một âm thanh hỗ trợ đắc lực. Múa rối cần âm thanh
mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi biểu diễn trong không
gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào náo nhiệt. Cho đến ngày nay, đã
có nhiều phƣờng rối sử dụng băng đĩa nhƣng nhƣ vậy đã làm giảm đi sự
hấp dẫn của nghệ thuật múa rối nƣớc. Bởi tiết tấu của nhạc sống gây hƣng
phấn đến ngƣời xem, nghệ nhân điều khiển con rối theo âm nhạc lúc thì
15
nhẹ nhàng, lúc thì sôi động, mãnh liệt. Nếu thiếu âm nhạc, không khí của
cả chƣơng trình sẽ thiếu đi tính hấp dẫn. Âm nhạc đóng vai trò quan trọng,
đứng thứ hai sau kỹ thuật biểu diễn và làm nên giá trị của nghệ thuật dân
gian độc đáo này. Ngôn ngữ, cách thể hiện của sân khấu chèo đƣợc áp
dụng triệt để vào nghệ thuật biểu diễn múa rối nƣớc. Cách độc thoại rối
trên sân khấu không đơn thuần là những lời thoại mà đã đƣợc thể hiện bằng
cách nói có vần, có điệu của nghệ thuật sân khấu chèo. Tiếng trống “sấm
nở” của phƣờng Nam Chấn xƣa nay còn đƣợc nhiều ngƣời truyền tụng.
Với việc đƣa âm nhạc, nghệ thuật sân khấu chèo, tuồng vào trong biểu diễn
đã tạo cho múa rối nƣớc một diện mạo mới đáp ứng đƣợc nhu cầu thƣởng
thức nghệ thuật biểu diễn dân gian của khán giả.
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công cho các
tích trò, đó là kịch bản dàn dựng ở mỗi vở diễn. Nghệ thuật múa rối nƣớc
ra đời bắt nguồn từ những trò chơi dân gian, gắn với những ngƣời dân lao
động. Do điều kiện tự nhiên và công việc nhà nông, múa rối nƣớc đƣợc xây
đắp hình thành từ tâm tƣ tình cảm của ngƣời dân lao động, tái hiện cuộc
sống và ƣớc vọng của thời đại. Nội dung các tích trò cổ thƣờng ca ngợi tình
yêu quê hƣơng đất nƣớc, truyền thống tƣơng thân tƣơng ái, uống nƣớc nhớ
nguồn mang đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc đƣợc thể hiện qua các tích nhƣ:
Chọi trâu; Dệt vải trao con; Cáo bắt gà; Đánh cá; Câu ếch… Con rối là
những vật vô tri vô giác qua bàn tay khéo léo của con ngƣời tạo hóa đã làm
cho con rối cử động vô cùng linh hoạt nhƣ một con ngƣời. Lời loại trong
rối nƣớc truyền thống là các bài văn vần, biền ngẫu, không theo hình thức
quy củ. Hình tƣợng nêu lên thƣờng mƣợn từ các điển tích sử sách cổ xƣa.
Hiện nay, phƣờng còn khoảng 16 tích trò cổ truyền nhất và rất nhiều
tích trò hiện đại kể về những sự tích dân gian, cuộc sống hàng ngày của
16
ngƣời dân Việt. Nội dung các tích trò xoay quanh đề tài về sinh hoạt đời
thƣờng, lễ hội truyền thống, những câu chuyện mang tính thời sự cao: múa
rồng, đấu vật, chọi trâu, đi cấy bắn máy bay, chú Tễu kể chuyện biển
Đông…
Có thể nói, múa rối nƣớc là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc
đƣợc xem là báu vật của văn hóa dân tộc, là “linh hồn của đồng ruộng Việt
Nam”. Nghệ thuật múa rối nƣớc là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền
thống lâu đời của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc vùng châu thổ sông
Hồng. Thông qua trò rối nƣớc ngƣời xem cảm nhận đƣợc sắc thái của hội
làng, cuộc sống bình dị của làng quê, sự chịu thƣơng chịu khó của những
ngƣời nông dân. Đó chính là hơi thở cuộc sống làng quê Việt, là biểu tƣợng
17
cho ƣớc mơ của ngƣời Việt.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Hoạt động của các đơn vị biểu diễn múa rối nước
2.1.1. Phường rối dân gian
Phƣờng rối dân gian là tập hợp những ngƣời sống chung trong một
cộng đồng làng xã. Họ thƣờng có quan hệ thuyết thống với nhau. Nghề làm
rối nƣớc thƣờng đƣợc truyền từ đời này sang đời khác. Các tò rối nƣớc cổ
truyền trong các phƣờng rối truyền thống thƣờng đƣợc lƣu giữ bằng cách
truyền miệng. Những kĩ thuật biểu diễn độc đáo cũng đƣợc giữ làm bí
quyết riêng của từng phƣờng rối. Tuy nhiên, các phƣờng rối cổ truyền
thƣờng không biểu diễn không thƣờng xuyên. Nội dung và kĩ thuật biểu
diễn thƣờng chỉ đƣợc truyền cho con trai, những kĩ thuật có thể bị thất
truyền vì chỉ đƣợc lƣu trong trí nhớ của các nghệ nhân. Nhƣ vậy khả năng
mai một các giá trị cổ là rất cao.
2.1.2. Phường rối tư nhân:
Hình thức tổ chức mới đƣợc hình thành, chủ yếu là ngay chính tại gia
đình của một số nghệ nhân múa rối nƣớc hoặc những ngƣời yêu múa rối.
Đặc điểm của các sân khấu này thƣờng có diện tích nhỏ hơn các phƣờng
rối chuyên nghiệp. Các xuất diễn thƣờng đƣợc tổ chức theo nhu cầu và thị
hiếu của ngƣời xem. Đặc điểm các quân rối phụ thuộc vào kích thƣớc của
sân khấu nên chúng thƣờng chỉ bằng một nửa hoặc bằng 2/3 so với kích
thƣớc của các quân rối thông thƣờng. Nhƣng kĩ thuật biểu diễn và kĩ thuật
máy móc trong quân rối thì hầu nhƣ không thay đổi. Điều khác biệt lớn
18
nhất tại các phƣờng rối tƣ nhân này là kịch bản biểu diễn. Nhiều trò diễn
nhỏ lẻ, có nội dung rất mới đƣợc chính những chủ nhân của các phƣờng rối
này sáng tác ra. Có thể kể đến những trò diễn nhƣ: trò an toàn giao thông,
giáo dục vềcác vấn đề xã hội. Đây là những sáng tạo mang tính cá nhân.
Nội dung các trò thƣờng gắn liền với cuộc sống hiện đại hoặc những vấn
đề bức thiết của cuộc sống. Nhân vật trong các trò diễn mới cũng vô cùng
đặc biệt. Đó không còn là những anh tễu, cô tiên, ông câu ếch… nữa. Sự
sáng tạo không biên giới đã tạo nên những quân rối hoàn toàn mới nhƣ: xe
máy, ô tô… Du khách nƣớc ngoài khi đƣợc xem các trò rối nƣớc hiện đại
này thƣờng tỏ ra rất thích thú. Họ cảm thấy nội dung của các trò diễn dễn
hiểu và mang hơi thở của cuộc sống hiện đại. Bên cạnh việc đƣợc xem biểu
diễn múa rối nƣớc, khán giả còn đƣợc trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất ra các quân rối. Họ còn đƣợc thử điều khiển các quân rối và thậm chí
có thể tham gia với vai trò nhƣ một diễn viên trong buổi biểu diễn.
Đây là một hƣớng phát triển mới đối với bộ môn nghệ thuật múa rối
nƣớc. Chính nhờ những phƣờng rối tƣ nhân mà bộ môn nghệ thuật dân
gian độc đáo này đến gần hơn với công chúng. Và những ngƣời thực sự
yêu thích múa rối nƣớc có cơ hội đƣợc trải nghiệm những khâu trong quá
trình tạo nên một vở diễn rối nƣớc hoàn chỉnh.
Có thể kể tới một nhân vật tiêu biểu cho phƣơng thức biểu diễn kể
trên đó chính là nghệ nhân Phan Thanh Liêm. Ông có một sân khấu rối
nƣớc mini ngay tạo tầng 4 ngôi nhà ở Khâm Thiên (Hà Nội). Địa điểm độc
đáo này đã thu hút rất nhiều ngƣời xem, đặc biệt là ngƣời nƣớc ngoài. Với
một bể nƣớc nhỏ hình bán nguyệt đƣợc quây bằng tôn, mái đình đỏ, nổi
trên mặt nƣớc là những mảng bèo. Khác với thủy đình ở những nhà hát
múa rối, thủy đình của hậu duệ đời thứ 7 trong gia đình làm múa rối ở Nam
19
Định này có thêm cây đa và khóm tre vàng.Lý giải cho tiểu cảnh ấy, ngƣời
đàn ông dáng cao ráo cho biết muốn giới thiệu cả lịch sử và những nét đặc
trƣng của ngƣời Việt với bạn bè quốc tế. "Cây đa, bến nƣớc sân đình" hay
"tre vàng Thánh Gióng" đều là hình ảnh quen thuộc và ăn sâu vào tiềm
thức của mỗi ngƣời Việt. Bởi vậy, ngoài việc biểu diễn các trò, anh còn
muốn quảng bá văn hóa.
Theo ông Liêm, từ những năm 2000, ông đã công bố mô hình độc
diễn rối nƣớc, nhƣng do nhà chật, không có chỗ diễn nên không thể phát
triển đƣợc. Thông thƣờng mỗi buổi diễn cần rất nhiều ngƣời, đôi khi 2-3
ngƣời mới điều khiển đƣợc một con. Rối nƣớc đƣợc thiết kế có đế bằng gỗ
cùng các phụ kiện lắp ghép bên trong nên rất nặng. Ngƣời điều khiển cần
có sức khỏe và tập trung để di chuyển con rối uyển chuyển, nhịp nhàng.
Để buổi diễn không "cồng kềnh", ông Liêm đã cải tiến con rối với đế
bằng cao su. Vì thế anh có thể dễ dàng điều khiển một lúc 2 con rối, thậm
chí cả đội hình múa gồm 8 cô tiên. Với sáng tạo ấy, anh "tung hoành" trên
sân khấu mini của riêng mình tại nhà và vi vu một mình lƣu diễn trời
Tây.Ngoài cải tiến để rối nhẹ hơn, ông Liêm cũng sáng tạo thêm nhiều
nhân vật và lồng ghép những vấn đề xã hội quan tâm nhƣ đua xe vào bài
biểu diễn của mình. Ông cho hay thƣờng đƣa nhiều trò dân gian, truyền
thống ra nƣớc ngoài diễn. Có một sân khấu rối nƣớc trong chính ngôi nhà
của mình không những đã thỏa ƣớc mơ của nghệ sĩ Phan Thanh Liêm mà
còn góp phần đƣa múa rối nƣớc đến gần hơn đông đảo công chúng.
20
2.1.3. Nhà hát chuyên nghiệp:
Trên khắp cả nƣớc hiện nay có khoảng 23 nhà hát múa rối nƣớc đang
hoạt động. Nhƣ vậy có thể thấy rằng tại hầu hết các tỉnh thành đều có các
nhà hát múa rối chuyên nghiệp đang hoạt động.
Các nhà hát múa rối là các cơ quan chuyên nghiệp trong việc tổ chức
biểu diễn múa rối nƣớc. Chính vì vậy, tại đây có những phòng ban chuyên
trách với từng khâu sản xuất, biểu diễn. Trong mỗi nhà hát đều có, một ban
giám đốc chịu trách nhiệm chung về các hoạt động của nhà hát. Bên cạnh
đó, phòng nghệ thuật sẽ là nơi lƣu giữ những tƣ liệu của nhà hát, gìn giữ
những kịch bản cổ, sáng tác những kịch bản mới (giới thiệu về chức năng
phòng nghệ thuật). Phòng tạo hình: Làm việc tại phòng tạo hình là những
họa sĩ, nhà điêu khắc chuyên nghiệp. Họ là ngƣời sẽ thổi hồn vào những
khúc gỗ vô tri để từ đó những con rối linh hoạt, sống động đƣợc ra đời.
Cũng chính tại đây, con rối sẽ đƣợc lắp hệ thống máy và dây để có thể cử
động và diễn xuất nhƣ những diễn viên chuyên nghiệp. Nhƣng để con rối
có thể biểu diễn linh hoạt trong làn nƣớc kì ảo nhƣ có một phép lạ thì cần
tới dự khéo léo của những diễn viên. Nghề diễn viên múa rối nƣớc là nghề
diễn vất vả nhất bởi diễn viên phải ngâm mình trong nƣớc bất kể là mùa hè
hay đông,bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Không chỉ có vậy, với sức cản của
nƣớc, những con rối dƣờng nhƣ nặng hơn, khó điều khiển hơn. Phải có cả
sức khỏe, sự khéo léo và tình yêu mãnh liệt với bộ môn nghệ thuật dân
gian này, ngƣời diễn viên múa rối mới có thể vƣợt qua đƣợc những khó
khăn trong nghề nghiệp. Ƣu điểm của các nhà hát chuyên nghiệp: các buổi
biểu diễn mang tính chuyên nghiệp, hệ thống lƣu giữ thông tin tốt vì vậy có
thể gìn giữ đƣợc giá trị của múa rối nƣớc truyền thống. Nhƣng cũng không
thể phủ nhận rằng, chính tính chuyên nghiệp và sự công nghiệp hóa,
21
thƣơng mại hóa ngành đã khiến các suất diễn múa rối nƣớc trở nên ngắn
hơn, tiết tấu nhanh hơn và vì vậy cũng làm mất đi tính ê a vốn có của múa
rối nƣớc truyền thống.
Khi nhắc tới các đơn vị biểu diễn rối nƣớc chuyên nghiệp, ngƣời ta không
thể không nghĩ tới cánh chim đầu đàn của ngành đó chính là nhà hát múa
rối nƣớc Việt Nam.
Bên cạnh cánh chim đầu đàn đó, không thể không nhắc tới một Nhà
hát múa rối đang giữ kỉ lục đỏ đèn suốt 365 ngày trong năm. Đó là Nhà hát
Múa rối Thăng Long. Từ năm 2006, Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam đã
xác lập kỷ lục "Nhà hát Múa rối Thăng Long là đơn vị nghệ thuật duy nhất
trong cả nƣớc biểu diễn 365 ngày trong năm". Đặt trong bối cảnh khó khăn
chung của sân khấu hiện nay, nhất là nghệ thuật truyền thống, mới thấy hết
giá trị của hai chữ "kỷ lục" ấy. Bảy năm sau, Nhà hát lại tiến thêm một
bƣớc trở thành "Nhà hát duy nhất tại châu Á biểu diễn múa rối nƣớc 365
ngày trong năm" và sắp tới có thể sẽ là kỷ lục thế giới. Trong chặng đƣờng
gần 20 năm gắn bó với múa rối ( Nhà hát thành lập từ năm 1969 nhƣng đến
năm 1989 mới biểu diễn rối) họ đã trải qua không ít khó khăn, cũng đi lên
từ những bƣớc đầu " tích từng vị khách, tích từng buổi diễn" mà thành. Từ
chỗ cả tuần chỉ có một rồi vài ba buổi diễn đến cái đích "đỏ đèn" cả năm,
trung bình một ngày 5 suất diễn, phục vụ từ 1.000 đến 1.200 khách. Từ chỗ
nhà hát đi mời chào bán từng vé lẻ, đến lúc đã có khoảng 200 công ty du
lịch là đối tác thƣờng xuyên... là cả một chặng đƣờng dài mồ hôi xen lẫn
nƣớc mắt mà thế hệ nghệ sĩ sau nối tiếp thế hệ trƣớc gây dựng. Để có đƣợc
thành công nhƣ vậy, nhà hát luôn chú trọng đào tạo đội ngũ nghệ sĩ trẻ kế
cận, bên cạnh việc mời các nghệ sĩ đã ở tuổi về hƣu tiếp tục cộng tác để tạo
nên "nguồn", các nghệ sĩ biểu diễn luân phiên nên mới có sức "chạy"
22
đƣờng trƣờng nhƣ vậy. 365 ngày "đỏ đèn" với trung bình 5 suất diễn/ngày
nghĩa là đời sống của ngƣời nghệ sĩ rối nƣớc ở đây đƣợc đảm bảo. Họ có
điều kiện làm nghề và sống bằng nghề, đƣợc vinh danh nhờ nghề. Ấy cũng
là điều cần cho nghệ thuật rối nƣớc cổ truyền đƣợc bảo tồn và phát triển.
2. Thị hiếu của người xem
2.1. Thị hiếu của người Việt Nam
Hiện nay, với tình hình phát triển nhanh chóng và bùng nổ của các
loại hình giải trí, múa rối nƣớc dần lui về là một bộ môn “đặc sản” ít đƣợc
thƣởng thức tại Việt Nam. Ngƣời Việt thƣờng chọn những tụ điểm nhƣ rạp
chiếu phim, khu vui chơi thay vì các sân khấu nghệ thuật truyền thống. Các
gia đình hiện đại cũng thƣờng chọn cho con trẻ những khu vui chơi hiện
đại trong những dịp cuối tuần chứ không phải là sân khấu múa rối nƣớc.
Sân khấu múa rối nƣớc chỉ thực sự thu hút đƣợc khách xem trong nƣớc
trong những dịp lễ tết đặc biệt nhƣ: ngày trung thu, tết thiếu nhi 1/6 hay
những ngày hội làng.
Những nỗi niềm trăn trở luôn đâu đáu trong tim những ngƣời thực sự
yêu bộ môn nghệ thuật truyền thống này. Đằng sau tấm màn biểu diễn,
những diễn viên cũng luôn lo lắng cho tƣơng lai của múa rối nƣớc. Bởi
dƣờng nhƣ múa rối nƣớc đang thất thế ngay chính trên sân nhà. Lƣợng
khách tìm đến với múa rối nƣớc ngày càng đông nhƣng tiếc thay, đó hầu
hết là khách quốc tế. Trong những xuất diễn tại các nhà hát lớn, khán
phòng thƣờng kín chỗ nhƣng thật khó để tìm đƣợc một gƣơng mặt của
khách Việt Nam.
Nếu những phát triển của xã hội đã đẩy múa rối nƣớc xa khỏi thói
quen giải trí của ngƣời thành thị Việt Nam thì những ngƣời nghệ sĩ múa rối
23
lại đang nỗ lực ngày đêm để đƣa múa rối tiến lại gần hơn với công chúng
trong nƣớc. Những chuyến lƣu diễn ngắn thƣờng xuyên đƣợc tổ chức tại
hầu khắp các tỉnh thành. Những sân khấu lƣu động đƣợc dựng lên trên
những sân đình, sân trƣờng mẫu giáo hay tại những khu đất trống tại các
địa phƣơng. Và mỗi khi nghe nói có sự xuất hiện của các đoàn múa rối
nƣớc, khách đến xem vẫn rất đông. Trong các buổi diễn ấy, tôi vẫn bắt gặp
những ánh mắt say mê, hứng khởi của các em nhỏ. Tôi vẫn nghe thấy
những tràng vỗ tay thật giòn, thật vang sau mỗi trò diễn. Rồi trong ngày hội
làng, khi những quân rối đƣợc đem ra biểu diễn sau một năm nằm im trong
góc buồng trò, ngƣời xem vẫn đến chật cả 3 phía của sân khấu. Điều đó
chứng tỏ khán giả Việt vẫn dành rất nhiều tình yêu cho múa rối nƣớc. Và
dù sự hiện đại có làm thay đổi thị hiếu của ngƣời xem thì múa rối sẽ mãi
giữ đƣợc một vị trí quan trọng trong lòng mỗi ngƣời dân Việt Nam.
2.2. Thị hiếu của khách nước ngoài
Múa rối nƣớc đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm ở Việt Nam
nhƣng mãi đến năm 1979, trong liên hoan rối Quốc tế tổ chức ở Ba Lan, bộ
môn nghệ thuật này mới đƣợc giới thiệu với bạn bè năm châu. Ngay lập
tức, tất cả ngƣời xem bị choáng ngợp trƣớc sự duyên dáng đến kì diệu của
những con rối. Đến năm 1984, Nhà hát Múa rối Trung ƣơng tiếp tục gây
đƣợc tiếng vang lớn trong chuyến lƣu diễn tới 3 nƣớc Tây Âu. Những tràng
pháo tay dài, những tiếng hò reo không ngớt sau mỗi tiết mục đã chứng tỏ
sự ngỡ ngàng, thán phục của khán giả nơi đây. Thậm chí, giám đốc Nhà hát
Nghệ thuật Thành phố Mulhouse đã nói trong sự xúc động: “Nghệ thuật
múa rối nƣớc của các bạn đã làm tất cả chúng tôi vô cùng kinh ngạc”.
Kể từ đó, những chuyến lƣu diễn nƣớc ngoài đƣợc tổ chức liên tục.
24
Đi đến đâu, các đoàn biểu diễn cũng nhận đƣợc sự hƣởng ứng của rất đông
khán giả. Thậm chí, nhiều ngƣời đã đi theo đoàn từ thành phố này tới thành
phố khác để đƣợc xem lại buổi biểu diễn. Ngƣời Pháp gọi múa rối nƣớc là
“linh hồn của đồng ruộng Việt Nam”. Ngƣời Úc nhận xét “dù mộc mạc về
tạo hình, giản dị trong cốt truyện nhƣng nghệ thuật rối nƣớc vẫn vô cùng
tinh xảo”. Các nhà báo thì khẳng định: “rối nƣớc rất xứng đáng trở thành di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”.
Không chỉ có vậy, tại những liên hoan sân khấu Quốc tế, các chuyên
gia hàng đầu về múa rối trên toàn thế giới cũng đồng tình rằng “rối nƣớc
Việt Nam là một trong những hình thức quan trọng, độc đáo bậc nhất của
sân khấu múa rối”.
Tại Việt Nam, rối nƣớc đang giữ kỉ lục là bộ môn nghệ thuật dân
gian “đỏ đèn” suốt 365 ngày trong năm. Hàng ngày, mỗi sân khấu lớn nhƣ
Nhà hát Múa rối Thăng Long, Nhà hát Múa rối Việt Nam có từ ba đến năm
suất diễn. Và hầu nhƣ khán phòng luôn chật kín chỗ. Trong những chuyến
du lịch tại Việt Nam, các du khách Quốc tế luôn chọn nghệ thuật múa rối
nƣớc để trải nghiệm. Vì theo họ, hiếm có bộ môn nghệ thuật nào lại độc
đáo nhƣ múa rối nƣớc của ngƣời Việt. Thậm chí có nhiều du khách yêu
thích múa rối nƣớc đến nỗi họ tìm tới tận những phƣờng nghề rối truyền
thống để đƣợc trải nghiệm quá trình đẽo gọt, sơn phết những quân rối; để
đƣợc một lần thử điều khiển những quân rối. Họ say mê và thích thú khi
đƣợc hóa mình vào làn nƣớc ao hồ, náu mình trong thủy đình, vừa ngân
nga câu thoại, vừa điều khiển quân rối. Nhƣ vậy có thể thấy rằng, khách
quốc tế thực sự yêu thích bộ môn nghệ thuật truyền thống này của Việt
Nam. Nếu có sự đầu tƣ đúng mức, đúng cách, đây sẽ là một hƣớng phát
25
triển cho ngành du lịch văn hóa của nƣớc nhà.
26
CHƢƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA MÚA RỐI NƢỚC VÀ VĂN HỌC
DÂN GIAN THỂ HỆN QUA MỘT SỐ TRÒ RỐI NƢỚC CỔ TRUYỀN
Khi nói về các thể loại sân khấu, sức hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời xem
thƣờng là kịch bản, ngôn ngữ văn học và diễn xuất, giọng nói, hành động
của ngƣời diễn viên. Nhƣng ở múa rối nƣớc, điều hấp dẫn khán giả chính ở
hành động ngoại hình của con rối. Khi mới đƣợc hình thành, rối nƣớc nặng
tính kì hơn tính kịch. Ngƣời xem bị hấp dẫn bởi những hành động kì ảo của
các quân rối trên mặt nƣớc. Các trò cổ thƣờng không có lời mà chỉ có nhạc.
Một số trò rối hoàn toàn không có lời, hoặc rất ít lời (ví dụ nhƣ: múa tứ
linh, cấy cày, bơi chải...). Trong lịch sử hình thành của múa rối nƣớc, ngay
cả khi rối nƣớc thật sự phát triển và tiếp thu ngôn ngữ văn học thì quân rối
cũng đƣợc biểu hiện bằng hành động ngoại hình là chính. Ngôn từ trong
nghệ thuật múa rối nƣớc không phải là điều kiện cần, chỉ mang tính hỗ trợ,
không nhất thiết phải có, ngƣời xem vẫn hiểu đƣợc nội dung thông qua
hình ảnh và diễn xuất của quân rối. Mặc dù vậy, mối quan hệ của múa rối
nƣớc và văn học dân gian vẫn thể hiện khá rõ nét qua một số yếu tố. Có
những trò cổ thể hiện mối quan hệ khăng khít với văn học dân gian thông
qua nguồn gốc hình thành. Lại có một trò cổ mô phỏng dựa theo cốt truyện
của truyền thuyết hoặc cổ tích. Và cũng có không ít trò cổ mƣợn ca dao để
làm lời giáo trò.
Và để tìm hiểu về mối quan hệ giữa múa rối nƣớc và văn học dân
gian, tôi sẽ đi sâu nghiên cứu ba nhóm trò cổ đặc trƣng:
- Trò cổ về đời sống sản xuất của ngƣời nông dân
27
- Trò cổ về đời sống tâm linh
- Trò cổ về lịch sử
2.1. Trò cổ về đời sống sản xuất của người nông dân
Ngƣời dân vùng Đồng bằng Bắc Bộ lấy việc canh tác lúa nƣớc làm
công việc chính. Cuộc sống của họ gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái
cày, cây lúa. Công việc nhà nông tuy vất vả nhƣng cũng không bận bịu
quanh năm. Những lúc nông nhàn, ngƣời nông dân lại tìm đến với những
thú vui dân giã. Đó là khi những quân rối đƣợc mang ra biểu diễn trên mặt
nƣớc ao hồ.
Cuộc sống lao động quanh năm đã khiến ngƣời nông dân có đƣợc
đôi bàn tay khéo léo, sự sáng tạo để tận dụng những vật liệu quanh mình
làm ra các quân rối. Quân rối đẽo gọt từ gỗ, dây bằng thừng, áo quần bằng
vải, đề bằng cao su… đó thực sự là những vật liệu quen thuộc. Ngƣời nghệ
nhân đã sáng tạo nghệ thuật không phải từ những thứ xa xỉ mà chỉ từ
những thứ giản dị tại chốn làng quê.
Không chỉ có vậy, cuộc sống lao động cũng trở thành chất liệu cho
những sáng tác của các trò rối nƣớc. Một trong những nhóm trò cổ phổ
biến nhất tại các phƣờng rối nƣớc là nhóm trò cổ về đời sống sinh hoạt sản
xuất của ngƣời nông dân. Hình ảnh con trâu, cái cày, đồng lúa, cây cau…
đều đƣợc ngƣời nghệ nhân đƣa vào trò cổ. Sân khấu múa rối đã tái hiện
khéo léo hơi thở của cuộc sống làng quê. Trong nhóm trò cổ về đời sống
sinh hoạt sản xuất, tôi tập trung nghiên cứu 2 trò cổ: sản xuất nông nghiệp
(cày, bừa, cấy, xay lúa, giã gạo, dệt vải…)
28
2.1.1.Những phường rối diễn trò cổ về đời sống sản xuất
Hiện nay, có rất nhiều phƣờng rối diễn trò về cuộc sống sinh hoạt sản
xuất. Cụ thể:
- Phƣờng Đào Thục (Đông Anh) có trò: Làm ruộng.
- Phƣờng Phú Đa (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) có trò: Cày – bừa – cấy –
gặt.
- Phƣờng Yên Thôn (Thạch Thất, Hà Nội) có trò: Xay lúa – giã gạo – dệt
vải – quay tơ – lò rèn – xẻ gỗ – cấy cày.
- Phƣờng Chàng Sơn (Thạch Thất, Hà Nội) có trò: Sản xuất (cày – bừa –
tát nƣớc – chăn trâu – thả diều – xay lúa – giã gạo).
- Phƣờng Đồng Bình (hay còn gọi là phƣờng Mít, huyện Mỹ Đức, Hà Nội)
có hai trò: Đi cày – đi bừa – đi gặt – đi cuốc và Xay lúa – giã gạo.
- Phƣờng Bùi Xá (Thuận Thành, Bắc Ninh) có trò: Cày – bừa – cấy – xay
thóc – giã gạo.
- Phƣờng Đồng Ngƣ (Thuận Thành, Bắc Ninh) có hai trò: Xay thóc – giã
gạo, Sản xuất (cày – bừa – cấy – gặt).
- Phƣờng Tứ Phong (Quế Võ, Bắc Ninh) có trò: Sản xuất (cấy – cày – dệt
vải – bừa – cuốc).
- Phƣờng Lại Ốc (Văn Yên, Hƣng Yên) có trò: Xay lúa – giã gạo.
- Phƣờng Bồ Dƣơng (Ninh Thanh, Hƣng Yên) có trò: Sản xuất (cày – cấy –
gặt – ngả mạ – cuốc).
- Phƣờng Thanh Hải (Nam Thanh, Thái Bình) có trò: Cày – bừa – cấy
- Phƣờng Bùi Thƣợng (Tứ Lộc, Hải Dƣơng) có trò: Sản xuất (Xay thóc –
29
giã gạo – đi cấy – đi cày – đi bừa – cắt cỏ – gánh mạ)
- Phƣờng Nhân Hòa (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) có trò: Xay lúa – giã gạo
- Phƣờng Nam Chấn (Nam Trực, Nam Định) có trò: Sản xuất (cày – bừa –
cấy – gặt – dệt vải)
- Phƣờng Nam Giang (Nam Ninh, Hải Phòng) có trò: Xay lúa – giã gạo
- Phƣờng Nguyên Xá (Hay còn gọi là phƣờng Nguyễn, Thái Bình) có trò:
Canh nông (cày – bừa – cấy – gặt – chăn trâu – chăn bò – cắt cỏ – cuốc
ruộng).
- Phƣờng Duyên Tục (Thái Bình) có trò: Tăng gia sản xuất (Cày – cuốc –
xay thóc – giã gạo – dệt vải).
2.1.2.Mô tả nội dung trò cổ về đời sống sản xuất của người nông dân
Nhìn chung các trò cổ về sản xuất nông nghiệp đều không có kịch
bản cụ thể. Các trò này tƣơng đối giống nhau ở tất cả các phƣờng rối. Hầu
hết các trò đều kể về cuộc sống sinh hoạt sản xuất của ngƣời nông dân. Nội
dung ở tất cả các trò là hình ảnh ngƣời nông dân đi cấy, đi cày, giã gạo, xay
lúa. Bên cạnh đó có một số trò có thêm các hoạt động sản xuất khác nhƣ:
gieo mạ, chăn trâu, cắt cỏ, dệt vải…
Nhân vật chính luôn xuất hiện trong trò diễn dân gian này thƣờng là:
hai chị nông dân đi cấy, hai anh nông dân dắt hai con trâu đi cày. Đây là
hình ảnh quen thuộc của cánh đông làng quê hƣơng. Bên cạnh đó, tùy vào
nội dung của trò sản xuất nông nghiệp trong từng phƣờng rối mà trò diễn
có thêm một số quân rối khác nhƣ: quân rối giã gạo, quân rối tát nƣớc,
30
quân rối gánh lúa, quân rối xay thóc, quân rối dệt vải… Các quân rối hầu
hết sẽ có hai hành động diễn. Một là hành động sản xuất (cấy, cày, xay lúa,
giã gạo, tát nƣớc, dệt vải….); hai là hành động hát đối đáp tâm tình.
2.1.3. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và trò rối nước cổ truyền về
đời sống sản xuất nông nghiệp
Nếu hơi thở cuộc sống đồng quê đƣợc khắc họa rõ nét qua các trò rối
nƣớc cổ truyền về lao động sản xuất thì yếu tố văn học dân gian cũng đƣợc
thể hiện rất rõ trong nội dung của trò cổ này. Lời của các nhân vật trong trò
cổ trên đều là lối nói đối đáp giao duyên. Đây là hình thức quen thuộc của
ca dao truyền thống. Nội dung của các câu hát cũng là những lời ca dao
chứa chan tình cảm. Những câu ca dao đƣợc sử dụng trong các trò rối về
sản xuất nông nghiệp đều là các câu ca dao thuộc nhóm câu hát về lao động
sản xuất. Các lời ca dao đó đều là những lời ca ca ngợi tình yêu lao động,
khuyến khích con ngƣời hăng say tăng gia sản xuất.
Tuy trò diễn rất ngắn nhƣng trong lời giáo trò vẫn có những lời ca
dao chứa chan tình cảm. Lời mở đầu của hầu hết trò sản xuất nông nghiệp
của các phƣờng là lời ca dao là câu ca dao:
“Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lƣu
Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Câu ca dao gợi nên khung cảnh quen thuộc của đồng quê Việt Nam
với ngƣời nông dân tần tảo sớm hôm, với chú trâu cần mẫn kéo cày. Các
nghệ nhân múa rối nƣớcthật tinh ý khichọn câu ca dao trong rất nhiều câu
31
cao dao về lao động sản xuất. Bởi đây là hình ảnh tiêu biểu cho công việc
sản xuất nông nghiệp. Dù biết rằng công việc đồng áng là “khó nhọc”
nhƣng ngƣời nông dân vẫn luôn tin tƣởng vào thành quả của một ngày mai
tƣơi sáng. Với dáng vẻ cần mẫn, vui vẻ, những quân rối khiến ngƣời xem
cảm nhận đƣợc sự lạc quan, tình yêu lao động của ngƣời nông dân. Bằng
sự đối ý tƣơng đồng trong câu cao dao “chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”
kết hợp với hình ảnh hai chị nông dân cấy lúa, hai anh nông dân cày ruộng,
ngƣời xem thấy đƣợc sự gắn bó trong mối quan hệ giữa những thành viên
trong gia đình và giữa con ngƣời với công cụ sản xuất – con trâu. Họ biết
phân bổ công việc cho nhau. Hai vợ chồng cùng nhau cày cấy còn con trâu
thì bừa cho mảnh ruộng đƣợc đẹp hơn để dễ cấy hái hơn. Phần mở đầu trò
diễn rất ngắn nhƣng đã tạo nên một không gian lao động rất chân thực, rất
thiết tha ngọt ngào.
Nối tiếp đó, một số phƣờng rối (ví dụ nhƣ phƣờng Bùi Thƣợng – Hải
Dƣơng) có lời ca dao tâm tình chú trâu – ngƣời bạn thân thiết nhất với
nông dân Việt Nam:
“Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trấu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
lại có phƣờng rối sử dụng lời dị bản của bài ca dao trên:
32
“Nghé ơi ta bảo nghé này,
Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu.
Ở đời khôn khéo chi đâu,
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
Ngƣời nông dân luôn thiết tha yêu cuộc sống ruộng đồng, gắn bó với quê
hƣơng, đất nƣớc, họ luôn bày tỏ tình thân thiết với từng vƣờn cải, từng
luống rau, đồng lúa. Tình yêu thƣơng của con ngƣời không chỉ với ngƣời
mà đối với tất cả vạn vật. Lòng trìu mến khăng khít qua lời nhắn nhủ trên
đã thể hiện sự thân thiết của ngƣời nông dân đối với loài gia súc gần gũi
nhất trong đời sống hàng ngày. Mọi việc nặng nhọc của nhà nông đều do
trâu đảm đƣơng. Trâu luôn đồng cam công khổ với ngƣời. Chính vì vậy có
những phƣờng rối dành hẳn một đoạn trò diễn để “ngƣời nông dân” giãi
bày tâm sự cùng “chú trâu”. Tiếng gọi “trâu ơi” tha thiết, với giọng điệu
thật thân tình kết hợp cùng những hành động vỗ về của quân rối ngƣời
nông dân với quân rối chú trâu đã thể hiện sự trìu mến của con ngƣời với
loài vật này. Đoạn diễn tuy ngắn nhƣng thắm đƣợm tình thƣơng yêu của
nhà nông đối với chú trâu thân thƣơng. Đồng thời đoạn diễn cũng thể hiện
một lối sống đẹp, giàu tình nặng nghĩa của cha ông ta.
Phần tiếp theo của trò diễn là phần đối đáp giữa hai đôi nam nữ. Đó
là những câu hát thể hiện tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình:
Nữ: “Con trâu đi trƣớc cái cày
Luống sâu thì cót mới đầy hỡi anh”
Nam: “Tình ta nhƣ tấm lụa vàng
Đừng hong cho bạc, đừng dầm cho phai”
33
Nữ: “Chồng em vất vả cày bừa
Để em cấy dảnh mạ mùa cho xanh”
Nam và nữ: “Cô em đi cấy
Yếm thắm buông lơi
Chiếc nón trên vai.
Nón ơi che nắng,
Nắng chớ trêu ngƣời.
Chăm cấy mạ non
Tay ai thoăn thoắt,
Cái bắp chân thon
Lội đồng lúa nƣớc.
Cấy lúa cho ngoan,
Lúa xanh biêng biếc
Đồng làng reo vui.”
Qua nội dung của trò rối nƣớc dân gian này, ngƣời xem thấy đƣợc
hơi thở của cuộc sống lao động ở làng quê Việt Nam. Hơn hết, chất liệu
ngôn từ đƣợc sử dụng trong trò cổ đều là các lời ca dao ca ngợi vẻ đẹp
cuộc sống, ca ngợi lao động. Ngƣời nghệ nhân múa rối nƣớc đã thực sự tài
tình khi sử dụng ca dao làm phần lời cho trò cổ. Bởi chỉ những câu ca dao
chứa chan tình cảm mới có thể lột tả đƣợc hết về cuộc sống bình dị của
ngƣời dân ở làng quê Việt Nam.
34
2.2. Nhóm một số trò cổ về đời sống tâm linh
Múa rối nƣớc khi mới đƣợc hình thành thƣờng đƣợc biểu diễn tại các
lễ hội. Tuy đƣợc xem nhƣ một trò mua vui giúp cho ngƣời nông dân giải
tỏa mệt nhọc sau những ngày mùa vụ nhƣng múa rối vẫn có những dấu
hiệu mã hóa rất gần gũi với những lễ thức nông nghiệp mang tính biểu
tượng, đặc biệt là lễ thức cầu nước mà người dân vẫn thực hiện trong lễ
hội. Trong hệ thống các trò cổ, ngƣời xem vẫn thấy đƣợc những yếu tố tâm
linh. Đặc biệt là Trong nhóm một số trò cổ về đời sống tâm linh, tôi sẽ tập
trung nghiên cứu 2 trò cổ là Tứ linh và Múa tiên.
2.2.1. Trò rối nước cổ truyền múa tứ linh
Trong quan niệm dân gian, Tứ linh có nghĩa là 4 loài linh vật,
chúng có mặt trong văn hóa của nhiều nƣớc phƣơng Đông, nhất là những
nƣớc ảnh hƣởng văn hóa Trung Quốc. Tứ linh bao gồm: long, ly, quy,
phƣợng. Tƣơng truyền, mỗi khi con vật nào trong tứ linh xuất hiện là báo
điềm lành có thánh nhân ra đời. Tứ linh và tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai) có
mặt phổ biến trong hội họa, điêu khắc dân gian, nhất là ở các đình chùa và
thƣờng đi chung với các đề tài hoa lá, mây nƣớc.
2.2.1.1. Những phường rối nước có trò múa tứ linh
- Phƣờng Đào Thục (Đông Anh)
- Phƣờng Chàng Sơn (Thạch Thất, Hà Nội)
- Phƣờng Đồng Bình (hay còn gọi là phƣờng Mít, huyện Mỹ Đức, Hà Nội)
- Phƣờng Bùi Xá (Thuận Thành, Bắc Ninh)
- Phƣờng Đồng Ngƣ (Thuận Thành, Bắc Ninh)
35
- Phƣờng Lại Ốc (Văn Yên, Hƣng Yên)
- Phƣờng Bồ Dƣơng (Ninh Thanh, Hƣng Yên)
- Phƣờng Thanh Hải (Nam Thanh, Thái Bình)
- Phƣờng Bùi Thƣợng (Tứ Lộc, Hải Dƣơng)
- Phƣờng Nam Chấn (Nam Trực, Nam Định)
- Phƣờng Nam Giang (Nam Ninh, Hải Phòng)
- Phƣờng Nguyên Xá (Hay còn gọi là phƣờng Nguyễn, Thái Bình)
- Phƣờng Duyên Tục (Thái Bình)
2.2.1.2. Mô tả trò múa tứ linh
Ban đầu, trên mặt nƣớc phẳng lặng, Phƣợng xuất hiện. Phƣợng múa
điệu múa uyển chuyển. Trong lúc múa, có lúc Phƣợng thu cổ về gọn gẽ bên
đôi cánh, có lúc lại vƣơn cao đầy kiêu hãnh. Nhân vật xuất hiện tiếp theo là
Quy. Khi Quy xuất hiện, ngƣời nghệ nhân tạo hiệu ứng khói tỏa trên mặt
nƣớc. Phƣợng và Quy cùng múa đôi song hành trông rất đẹp mắt. Âm nhạc
lúc này bắt đầu tăng nhanh tiết tấu. Đến khi trống giục dồn vang thì hai
nhân vật Long và Lân xuất hiện. Khi di chuyển phần thân uốn lƣợn trong
nƣớc mềm mại. Long xuất hiện, miệng ngậm pháo và phun ra lửa. Khi
phun hết lửa, quân rối Long đƣợc điều khiển để phun nƣớc. Quân rối cuối
cùng trong 4 nhân vật đó là Lân. Bốn nhân vật cùng xoay vòng, uốn lƣợn
uyển chuyển trên mặt nƣớc. Âm nhạc sôi động và thay đổi tiết tấu liên tục.
2.2.1.3. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và trò rối nước cổ truyền
36
múa tứ linh
Tứ linh có nghĩa là 4 loài linh vật, chúng có mặt trong văn hóa của
nhiều nƣớc phƣơng Đông, nhất là những nƣớc ảnh hƣởng văn hóa Trung
Quốc. Tứ linh bao gồm: long, ly, quy, phƣợng. Tƣơng truyền, mỗi khi con
vật nào trong tứ linh xuất hiện là báo điềm lành có thánh nhân ra đời. Thực
tế tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phƣợng đƣợc dân gian bắt nguồn từ bốn
linh thần gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tƣớc.
Thực tế, tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phƣợng đƣợc dân gian bắt
nguồn từ bốn linh thần gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu
Tƣớc. Chúng đƣợc ngƣời xƣa tạo ra từ bốn chòm sao cùng tên ở bốn
phƣơng trời. Chúng mang bên mình bốn nguyên tố tạo thành trời đất theo
quan niệm của ngƣời xƣa (lửa, nƣớc, đất và gió). Và việc chọn nơi để làm
thành kinh đô phải hội tụ yếu tố hòa hợp giữa các nguyên tố ấy.
* Long:
Về nguồn gốc của rồng thì theo cơ sở văn hóa việt nam thì con rồng
có nguồn gốc từ Việt Nam sau đó mới du nhập vào Trung Quốc. Chúng ta
cũng thấy gần các triều đại cổ của trung quốc vua có biểu tƣợng là kỳ lân,
trong khi tục xâm mình có hình rồng lại có từ thời Hùng Vƣơng (Tất nhiên
chúng ta thấy rõ là rồng việt nam khác rồng trung quốc nhƣng về hình dạng
gần giống nhau). Rồng có chín đặc điểm quan trọng sau:
- Thân của rắn
- Vẩy cá chép (81 vảy dƣơng và 36 vảy âm)
- Đầu lạc đà
- Sừng hƣơu
37
- Mắt tôm hùm
- Bụng của con sò
- Gan bàn chân của hổ
- Vuốt của chim ƣng
- Mũi, Bờm, Đuôi của sƣ tử
*Lân (hay gọi kỳ lân vì lân là tên con cái, con đực gọi là kỳ)
Lân có đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc
ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Lân có những đặc điểm
nhƣ sau: - Sừng nai
- Tai chó
- Trán lạc đà
- Mũi sƣ tử
- Miệng rộng
- Thân ngựa
- Chân hƣơu
- Đuôi bò
Thực ra trong tạo hình của ngƣời Việt chúng không tuân thủ đầy đủ
các nguyên tắc này. Chúng thƣờng đƣợc thể hiện trong tƣ cách đội tòa sen,
làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ Pháp, và nhiều khi ngồi trên
đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tƣ cách này chúng
xuất hiện cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và nhƣ thể chúng
38
có khả năng kiểm soát tâm hồn những ngƣời hành hƣơng.
Một dáng hóa thân khác của kỳ lân là con long mã, bao giờ cũng
đƣợc thể hiện chạy trên sóng nƣớc (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Ngƣời ta
thƣờng hiểu rằng: long là rồng, rồng thì bay lên, nghĩa là tung, tƣợng trƣng
cho kinh tuyến, thời gian - mã là ngựa, chạy ngang, là hoành, tƣợng trƣng
cho vĩ tuyến, không gian. Nhƣ vậy long mã tƣợng trƣng cho sự tung hoành
của nam nhi, cho thời gian và không gian, long mã chạy là biểu hiện cho vũ
trụ vận động, đồng thời tƣợng trƣng cho thánh nhân.
* Quy
Quy đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ thời An Dƣơng Vƣơng,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là bóng dáng của thần Visnou, một tối
thƣợng thần của đạo Bà la môn. Trong tạo hình, ngƣời ta bắt đầu thấy Quy
từ năm 1126 trong tƣ cách đội bia ở chùa Linh Ứng, Thanh Hóa, từ đó tồn
tại thƣờng xuyên dƣới hình thức đội bia; mãi đến tận thế kỷ 15 mới thấy
đội hạc
Quy là vật hợp bởi cả âm lẫn dƣơng: bụng phẳng tƣợng trƣng cho đất
(âm), mai khum tƣợng trƣng cho trời (dƣơng). Hình tƣợng rùa đội bia
tƣợng trƣng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng. Đó là quan niệm
dân gian.
Quy là cao quý, nhiều khi nó là chủ nguồn nƣớc (rùa phun nƣớc
thiêng), là một linh vật của đất Phật.
* Phượng
Phƣợng là tên con mái, con trống gọi là loan. Phƣợng có mỏ diều hâu
dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ƣng, đuôi công... Các bộ phận của
39
phƣợng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tƣợng
trƣng cho mặt trời, mặt trăng, lƣng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh
tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Nhƣ vậy nó tƣợng trƣng cho bầu trời, khi nó
bay hoặc múa (phƣợng vũ) là tƣợng trƣng cho sự hoạt động của vũ trụ. Vì
thế phƣợng là hình tƣợng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu
tố dƣơng, tƣợng trƣng cho vua chúa thì phƣợng lại có yếu tố âm nên tƣợng
trƣng cho hoàng hậu và ngƣời đàn bà.
Bốn con vật Long, Lân, Quy, Phƣợng, đều rất linh thiêng, nên đƣợc
gọi là Tứ Linh. Mỗi khi có 1 trong 4 con linh vật này xuất hiện thì nơi ấy ắt
có điều lành xảy đến, hoặc có Thánh nhân ra đời. Trò Tứ linh đƣợc dựng
nội dung và tạo hình nhân vật theo những quan niệm dân gian và theo
những dấu tích còn lại của hình ảnh 4 con vật thiêng trong những câu
chuyện dân gian. Nhân dân ta cho rằng, chỉ cần 1 trong 4 con vật thiêng
này hiện hữu thì đất nƣớc sẽ thái bình, dân cƣ sẽ yên vui. Vì vậy, trong trò
cổ này, các nghệ nhân đã cho cả 4 con vật thiêng cùng quần tụ. Đó là ƣớc
mơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân Đại Việt thời xa xƣa.
2.2.2. Trò múa tiên
2.2.2.1. Những phường rối nước có múa tiên (múa bát tiên)
Trò múa tiên hay còn gọi là múa bát tiên là một trong những trò cổ
phổ biến của các phƣờng rối nƣớc cổ truyền. Có thể liệt kê các phƣờng có
trò múa tiên:
- Phƣờng Đào Thục (Đông Anh)
- Phƣờng Chàng Sơn (Thạch Thất, Hà Nội)
40
- Phƣờng Đồng Bình (hay còn gọi là phƣờng Mít, huyện Mỹ Đức, Hà Nội)
- Phƣờng Bùi Xá (Thuận Thành, Bắc Ninh)
- Phƣờng Đồng Ngƣ (Thuận Thành, Bắc Ninh)
- Phƣờng Lại Ốc (Văn Yên, Hƣng Yên)
- Phƣờng Bồ Dƣơng (Ninh Thanh, Hƣng Yên)
- Phƣờng Thanh Hải (Nam Thanh, Thái Bình)
- Phƣờng Bùi Thƣợng (Tứ Lộc, Hải Dƣơng)
- Phƣờng Nam Chấn (Nam Trực, Nam Định)
- Phƣờng Nam Giang (Nam Ninh, Hải Phòng)
- Phƣờng Nguyên Xá (Hay còn gọi là phƣờng Nguyễn, Thái Bình)
- Phƣờng Duyên Tục (Thái Bình)
- Phƣờng Nguyên Xá (Hay còn gọi là phƣờng Nguyễn, Thái Bình)
2.2.2.2. Mô tả trò múa tiên (múa bát tiên)
Ban đầu, có 6 cô tiên xuất hiện trong làn khói mờ ảo. Kích cỡ và
hình dáng của các cô tiên giống hệt nhau. Các cô tiên vừa múa vừa hát
những lời ca ngợi vẻ đẹp chốn quần tiên. Tiếng nhạc réo rắt, nhịp điệu
chậm rãi. Rồi bỗng tiết tấu của trò diễn tăng dần, hai cô tiên khác xuất hiện.
Hai cô tiên này có hình dáng giống với các cô khác nhƣng kích cỡ to hơn
nhiều. Từ lúc xuất hiện, hai cô tiên này trở thành tâm điểm của trò diễn,
các cô khác chỉ múa phụ họa. Gần kết thúc trò diễn, hai cô tiên chính xoay
vòng với tốc độ rất nhanh. Lúc này âm nhạc cũng đƣợc đẩy nhanh tiết tấu.
41
Rồi cả 8 cô tiên đều cúi đầu chào và biến mất trong làn sƣơng khói.
2.2.2.3. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với trò rối nước cổ truyền
múa tiên
Theo nghiên cứu, trò cổ Múa Tiên đƣợc ra đời dừa theo hai tích
truyện: truyện cổ tích Từ Thức gặp tiên và Vƣơng mẫu nƣơng nƣơng thiết
bàn đào. Cả hai câu chuyện này đều có hình ảnh các nàng tiên múa những
điệu múa kì ảo.
Truyện Từ Thức gặp tiên kể lại rằng: Năm 20 tuổi Từ Thức đỗ cao,
đƣợc bổ một chân tri huyện ở một huyện vùng Bắc. Từ Thức vốn là ngƣời
phóng khoáng, không chịu ràng buộc vào khuôn phép. Chàng thích uống
rƣợu ngâm thơ, và đi chơi ngắm cảnh. Ở gần vùng Từ Thức trị nhậm có
một ngôi chùa lớn. Trƣớc sân và xung quanh vƣờn trồng toàn một loại cây
mẫu đơn. Mỗi năm vào khoảng tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ
cúng Phật. Nhân dịp đó, các thiện nam tín nữ các nơi đua nhau về chùa lễ
Phật và ngắm hoa. Một năm vào kỳ hội xem hoa, Từ Thức cũng có cái
hứng đi hành hƣơng ngắm cảnh. Để khỏi làm kinh động dân chúng, Từ
Thức cải trang thành một ngƣời học trò. Hồi này các chùa chiền đƣợc triều
đình vì nể, nên có những bọn sƣ sãi ỷ thế hoành hành. Để bảo vệ hoa, chùa
này đặt ra một cái lệ ai bẻ hoa hoặc là gãy cây sẽ bị phạt vạ một số tiền.
Nếu không có tiền thì nhà chùa sẽ bắt làm nô để đền nợ. Ngày hôm ấy có
một cô gái đi xem hội vô tình không biết lệ nhà chùa, thấy có hoa đẹp ở
cạnh lối đi bèn rón tay ngắt một bông. Thấy vậy, bọn thủ hộ trong chùa
xông ra bắt giữ lại đòi tiền vạ. Cô gái thú thực là mình đi xem hội không
mang tiền theo nên không biết lấy gì đền. Nghe nói thế, bọn thủ hội liền sai
trói cô gái vào cột chùa cốt để làm nhục, vặn cho ra tiền chuộc. Vừa lúc ấy
Từ Thức tiến vào cổng chùa. Từ Thức giải cứu cho cô gái rồi hỏi thăm
42
nàng. Không ngờ cô gái ấy lại là ngƣời cùng quê, nên Từ Thức càng thêm
niềm nở. Hai ngƣời men theo lối cổng chùa, vừa đi vừa ngỏ ít lời lâm sự.
Trƣớc khi từ giã, nàng còn không quên mời chàng đến chơi nhà nếu có dịp
về thăm quê. Lúc trở về huyện lỵ, lập tức chàng cởi bỏ ấn tín treo ở trƣớc
mái công đƣờng, rồi bỏ đi biệt. Chàng đi thẳng về quê nhà thăm bố mẹ và
bà con làng nƣớc. Ở nhà đƣợc ít lâu, nhớ đến lời mời của cô gái trong hội
xem hoa, Từ Thức liền cất công ra đi. Theo lời chỉ dẫn, chàng lặn lội tìm
kiếm, nhƣng bóng chim tăm cá mịt mù. Một hôm trên đƣờng đi tìm, từ
sáng sớm, Từ Thức đã trèo lên núi cao nhất ra giữa cửa Thần phù. Tự nhiên
trƣớc mắt chàng hiện lên một hòn đảo trông y nhƣ một đóa hoa sen giữa
vùng biển cả. Say sƣa nhìn ngắm, chàng bèn dong buồm ra khơi. Chẳng
bao lâu thuyền đã ghé đảo. Đang mê mải nhìn, chàng bỗng thấy ở sƣờn núi
đá gần đó có một cửa hang khá rộng. Chàng gặp lại cô gái năm xƣa, hai
ngƣời kết duyên thành vợ chồng và sống ở chốn bồng lai tiên cảnh. Một
hôm, Từ Thức nhớ nhà và muốn về quê cũ thăm lại cha mẹ. Vợ chàng
không ngăn cản đƣợc. Chàng từ giã vợ quay về quê cũ nhƣng cảnh vật đã
khác xƣa, ngƣời xƣa cũng không còn. Hỏi ra mới biết chàng đã rời xa quê
hƣơng đƣợc mấy trăm năm.
Cũng có một khảo dị khác của câu chuyện này nói về nguyên nhân
chàng Từ Thức quay về quê cũ. Một hôm chúa tiên cùng quần tiên lên chầu
thƣợng đế ăn tiệc bàn đào. Khi ra đi có dặn các tiên đồng không đƣợc cho
Từ Thức ra cửa sau. Nhƣng Từ Thức nghe lỏm đƣợc, tò mò lén ra cửa sau
để xem cho biết, ra xem thì nhìn thấy cõi trần. Dƣới đó, mọi ngƣời đang
làm ăn vui vẻ, nhìn thấy vậy Từ Thức bỗng động lòng nhớ nhà. Lúc chúa
tiên và quần tiên về, chàng bèn xin về thăm quê… Không giữ đƣợc chàng
nên mọi ngƣời đành để chàng ra về. Để tiễn chàng, các tiên đã múa điệu
43
múa tiên.
Truyền thuyết về Vƣơng Mẫu nƣơng nƣơng, cũng có đoạn các tiên
nữ ra múa điệu múa chào mừng trong tiệc bàn đào. Tây Vƣơng Mẫu, còn
gọi là Vƣơng Mẫu nƣơng nƣơng, Diêu Trì Kim Mẫu, là vị nữ thần từ bi
trong truyền thuyết Trung Quốc, có diện mạo là một bà già hiền lành.
Tƣơng truyền Vƣơng Mẫu sống ở cung Dao Trì (Diêu Trì, trong vƣờn của
bà có trồng bàn đào là giống đào tiên, ăn vào trẻ mãi không già. Theo
truyền thuyết, trong tiệc bàn đào, để chào mừng chƣ vị thần tiên, Vƣơng
Mẫu nƣơng nƣơng cũng cho các cô tiên trong điện của mình chuẩn bị một
điệu múa đẹp đến mê hồn. Chƣ vị thần tiên xem xong, ai cũng thán phục
khen hay.
Có thể thấy rằng cả hai câu chuyện trên đều có hình ảnh các cô tiên
đang múa. Nhƣng hầu hết các nghệ nhân múa rối nƣớc tại các phƣờng rối
lâu đời đều cho rằng nguồn gốc của trò Múa Tiên xuất phát từ câu chuyện
Từ Thức gặp tiên. Không chỉ bởi đó là truyện cổ tích Việt Nam mà còn bởi
nội dung trò diễn. Trò múa tiên không chỉ có nội dung miêu tả về chốn
bồng lai tiên cảnh, non nƣớc hữu tình mà còn có hình ảnh các cô tiên chào
giã biệt một cách lƣu luyến.
Nhƣ vậy có thể thấy rằng, chỉ với một chi tiết rất nhỏ trong một
truyện cổ tích, các nghệ nhân rối nƣớc đã sáng tạo ra một trò diễn rất hay
và mang đậm màu sắc huyền ảo. Trò cổ này chứa đựng ƣớc mơ của nhân
dân ta về một thế giới tuy siêu thực nhƣng rất đẹp. Chốn đó là chốn bồng
lai với hoa thơm trái ngọt với mây nƣớc bồng bềnh cũng các nàng tiên xinh
đẹp tuyệt trần.
44
2.3. Trò cổ về lịch sử
Việt Nam là quốc quốc gia hào hùng, dân tộc Việt Nam là một dân
tộc quật khởi bởi chúng ta đã trải qua rất nhiều những cuộc kháng chiến lẫy
lừng để bảo vệ tổ quốc. Để ghi lại những chiến công đó, các nghệ nhân
múa rối nƣớc đã sáng tạo ra một số trò cổ với nội dung ca ngợi trang sử giữ
nƣớc hào hùng của dân tộc ta.
Trong nhóm các trò cổ về lịch sử, tôi xin lấy trò Lam Sơn khởi nghĩa
để làm đối tƣợng nghiên cứu. Bởi đây là một trong những trò cổ về lịch sử
phổ biến nhất trong các phƣờng rối cố truyền.
2.3.1. Những phường rối nước có trò Lê Lợi khởi nghĩa
Nhƣ đã nói ở trên, đây là một trò cổ tƣơng đối phổ biến tại các
phƣờng rối nƣớc cổ truyển. Một số phƣờng có trò Lam Sơn khởi nghĩa:
- Phƣờng Đào Thục (Đông Anh)
- Phƣờng Chàng Sơn (Thạch Thất, Hà Nội)
- Phƣờng Đồng Ngƣ (Thuận Thành, Bắc Ninh)
- Phƣờng Thanh Hải (Nam Thanh, Thái Bình)
- Phƣờng Bùi Thƣợng (Tứ Lộc, Hải Dƣơng)
- Phƣờng Nam Chấn (Nam Trực, Nam Định)
- Phƣờng Nam Giang (Nam Ninh, Hải Phòng)
- Phƣờng Nguyên Xá (Hay còn gọi là phƣờng Nguyễn, Thái Bình)
2.3.2. Mô tả trò Lê Lợi khởi nghĩa
45
Trò Lam Sơn khởi nghĩa chia làm 4 đoạn:
1. Lê Lợi đi cày khuyến khích việc nhà nông
2. Liễu Thăng dọa sẽ đánh tan quân Lê Lợi
3. Lê Lợi giáp chiến với Liễu Thăng và chém rơi đầu Liễu Thăng
4. Quân Lê Lợi đại thắng.
Cụ thể diễn biến trò diễn nhƣ sau:
Lê Lợi mặc trang phục nông dân, đang cấy cày trên ruộng.
Lê Lợi:
Anh em ta ơi!
Tôi Lê Lợi… nguyện cùng bà con
Làm mùa cho tốt
Thực túc binh cƣờng
Quyết đánh thắng giặc
Tiếng đế:
Ối! Sao vua lại đi cấy thế
Để đấy cúng con làm cho chứ!...
(lê Lợi vào, Liễu Thăng ra)
Liễu Thăng:
Ngộ đích thị Liễu Thăng
Nguyên soái của Đại Minh
Chốn triều trung chức cao đẳng nhất
46
Đem quân sang xân chiến Nam bang
Lê Lợi đâu? Hạ mã ra hàng
Nếu không… ta sẽ phá tan tành tất cả.
(Lê Lợi mặc áo giáp đi ra trong tiếng hò reo, phảo nổ làm khói bốc
lên)
Lê Lợi:
Chí nam nhi đứng trong trời đất
Cƣơng quyết rằng toàn dân ta bất khuất
Có lẽ đâu ta lại cúi đầu
Chúng ta đây, đâu có sợ Liễu Thăng
Non nƣớc này vững chắc ngàn thu
Quyết diệt quân thù.
Tên giặc Liễu hãy xuống ngựa đầu hàng
Không thì sẽ tan xƣơng nát thịt.
(Hai bên giáp chiến, Liễu Thăng bị chém đầu)
Lê Lợi:
Ta mới ra tay tuần võ
Mà Liễu Thăng đã tử trận tiền
Truyền ba quân thu dọn chiến trƣờng
Thu khí giới, hồi dinh mở tiệc…
47
(Chiêng trống rộn ràng… diễu qua vài vòng rồi tất cả cùng kéo vào.)
Đôi khi trò diễn còn đƣợc tiếp nối với tích trả gƣơm. Lê Lợi giờ đã
lên ngôi, đi thuyền trên hồ Tả Vọng để ngắm cảnh. Lê Lợi mình mặc áo
bào, đầu đội mũ miện, hông đeo gƣơm báu. Khi thuyền ra giữa hồ, thần
Kim Quy hiện lên, đòi gƣơm báu. Lê Lợi dâng gƣơm bằng hai tay, thầm
Kim Quy ngậm gƣơm rồi lặn xuống đáy hồ. Ánh sáng của gƣơm thần còn
le lói mãi.
2.3.4. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với trò rối nước cổ truyền Lê
Lợi khởi nghĩa
Trò cổ này bắt nguồn từ cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của dân
tộc ta. Chiến thắng ấy đã đƣợc lƣu vào sử sách. Thậm chí vì quá biết ơn Lê
Lời và nghĩa quân, nhân dân ta cũng sáng tạo ra những truyền thuyết về
nhân vật lịch sử lẫy lừng này. Tuy trò diễn rất ngắn và không nêu hết quá
trình diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Nhƣng ngƣời xem vẫn nhận thấy hình
tƣợng một ngƣời anh hùng vì dân vì nƣớc mà đánh giặc. Sức mạnh của con
ngƣời đó là sức mạnh phi thƣờng của lòng yêu nƣớc.
Trò diễn cũng đã biến đổi một số chi tiết trong thực tế ví dụ nhƣ:
ngƣời chém đầu Liễu Thăng không phải là Lê Lợi. Nhƣng cái nhìn của dân
gian, dù ai là ngƣời chém đầu Liễu Thăng thì Lê Lợi cũng là ngƣời có công
lớn nhất. Bởi đạo của của Liễu Thăng bị đánh tan là nhờ có tài trí của Lê
Lợi.
Trò cổ này còn đƣợc kết nối với trò trả gƣơm. Nội dung phần này
đƣợc lấy từ Sự tích Hồ Gƣơm. Nếu phần trên của trò cổ mang đậm hào khí
của chiến thắng lịch sử thì trong phần này không khí linh thiêng đƣợc nhấn
mạnh hơn nhiều. Phần này của trò cổ chỉ tập trung vào cảnh Lê Lợi trả
48
gƣơm chứ không miêu tả hết toàn bộ Sự tích Hồ Gƣơm. Hình ảnh Vua lê
Lợi dâng gƣơm lại cho thần Kim Quy đã phần nào thể hiện đƣợc ƣớc mơ
về cuộc sống thái bình vĩnh cửu. Giống nhƣ nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã
viết:
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gƣơm vứt bỏ lại hiền nhƣ xƣa.
Trò diễn Lê Lợi khởi nghĩa thực sự là một trò cổ có ý nghĩa sâu sắc.
Với chất liệu kịch bản là những câu chuyện lịch sử, truyền thuyết dân gian,
trò cổ đã khắc họa nên hình ảnh ngƣời anh hùng gần dân, yêu nƣớc; tài
giỏi, dũng cảm đánh thắng giặc ngoại xâm. Đề rồi sau đó khi đã lên ngôi,
ngƣời anh hùng ấy lại trả lại lƣỡi gƣơm thần khắc hai chữ “thuận thiên”, để
49
từ đó thể hiện khát khao hòa bình thay cho cả dân tộc.
CHƢƠNG 3: MÚA RỐI NƢỚC VỚI NHỮNG CÁCH TÂN HIỆN ĐẠI
3.1. Mục đích cách tân múa rối nước cổ truyền
Biến đổi nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống, một lẽ tự nhiên
muốn tồn tại phát triển vào cuộc sống mới. Một thói quen cải biến nghệ
thuật cổ thuộc các nƣớc hệ thống Xã hội chủ nghĩa cũ. Mỗi hình thức nghệ
thuật ra đời mang theo mục đích, từng bƣớc tạo dựng công chúng. Vấn đề
đổi mới múa rối nƣớc là một vấn đề cấp thiết. Bởi xã hội luôn biến đổi và
thị hiếu của ngƣời xem cũng luôn thay đổi. Nếu giữ mãi 16 trò cổ, và lối
diễn ê a nhƣ truyền thống vốn có thì chắc hẳn khán giả sẽ ngày càng xa rời
múa rối nƣớc. Trong những năm qua, những nghệ nhân, nghệ sĩ múa rối
nƣớc đã có những hƣớng đi mới, táo bạo những cũng đầy chất thơ và tập
trung khai thác vào chiều sâu của các vở diễn cũng nhƣ hình thức biểu
diễn.
Có 3 hƣớng phát triển, cách tân múa rối nƣớc đã và đang đƣợc triển khai
trong thời gian qua:
- Dùng múa rối để kể các câu chuyện dân gian.
- Kết hợp múa rối và một số loại hình nghệ thuật khác để kể
các câu chuyện dân gian.
- Kết hợp múa rối với những cốt truyện hiện đại.
Đây là những hƣớng đi táo bạo của những ngƣời làm nghề. Những
cách tân này đã đem lại hơi thở mới cho múa rối nƣớc truyền thống. Khi
50
tìm con đƣờng mới cho múa rối nƣớc truyền thống, những ngƣời nghệ sĩ
vẫn luôn cố gắng giữ nguyên vốn cổ hoặc cách tân biến đổi, khai thác chất
liệu dân gian tạo dựng mới.
Những đơn vị đi đầu trong công cuộc tìm hƣớng phát triển cho bộ
môn nghệ thuật này là: Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Múa rối nƣớc
Rồng vàng, Nhà hát Múa rối Thăng Long… Thực tế cho thấy, những tác
phẩm của họ đã đƣợc đón nhận nhiệt thành. Không chỉ ngƣời xem trong
nƣớc mà cả khán giả Quốc tế cũng rất háo hức đón đợi các tác phẩm mới
của họ. Tại những Festival rối quốc tế, những vở rối của Việt Nam luôn
đƣợc đánh giá cao bởi tính nghệ thuật, tính thời sự và sự sáng tạo.
3.2. Hướng cách tân múa rối nước cổ truyền
3.2.1.Cách tân rối nước với cốt truyện dân gian Việt Nam
3.2.1.1. Cốt truyện dân gian Việt Nam kết hợp với múa rối nước truyền
thống Việt Nam
Kho tàng truyện cổ Việt Nam có vô số các câu chuyện lí thú, bổ ích.
Để khai thác vốn quý này, các nghệ sĩ múa rối nƣớc đãđƣa những truyện cổ
dân gian Việt Nam đến với múa rối nƣớc. Nếu trƣớc kia, các tiết mục rối
nƣớc hầu hết chỉ là các trò cổ có dung lƣợng rất ngắn, thậm chí một số trò
cổ còn không có lời; thì nay các vở múa rối nƣớc hiện đại đƣợc xây dựng
theo cốt truyện dân gian. Nhƣng câu chuyện này thƣờng có diễn biến, cao
trào rất rõ ràng. Những quân rối không chỉ thực hiện các trò diễn đơn giản
mà đã thực sự trở thành những diên viên chuyên nghiệp.
Những kịch bản đƣợc chọn để chuyển thể sang múa rối nƣớc thƣờng
51
là những câu chuyện có nhiều bối cảnh sông nƣớc. Ví dụ nhƣ chuyện cổ
tích “Trê cóc”, sự tích “Hồ Ba Bể”… Hầu hết các chuyển động của quân
rối trong những vở diễn này vẫn mang đặc trƣng cơ bản của múa rối nƣớc.
Không có nhiều cách tân trong hành động của quân rối. Nhƣng để đáp ứng
đƣợc nhu cầu biểu diễn, các quân rối đƣợc tạo hình tƣơng đối linh hoạt.
Một loạt những nhân vật mới đƣợc tạo hình để phục vụ cho các chi tiết
trong vở diễn.
Đối với hƣớng cách ân này, tôi xin lấy một ví dụ cụ thể để phân tích
đó là vở múa rối nƣớc “Trê cóc” của Đoàn Nghệ thuật Múa rối Thành phố
Hồ Chí Minh để nghiên cứu. Tuy đây không phải đơn vị đầu tiên chuyển
thể truyện ngụ ngôn Trê Cóc trên sân khấu múa rối nƣớc. Nhƣng tiết mục
này lại mang đậm dấu ấn của nghệ thuật múa rối nƣớc, đồng thời cũng giữ
đƣợc rất nhiều nét cơ bản của kịch bản văn học dân gian.
Để chuyển thể đƣợc một tác phẩm truyện ngụ ngôn thành một vở
múa rối nƣớc hiện đại, cần có sự góp sức của rất nhiều nghệ sĩ. Vở diễn
đƣợc Đoàn Nghệ thuật Múa rối Thành phố Hồ Chí Minh chuyển thể, với sự
đóng góp của:
Tác giả kịch bản: Nghệ sĩ Xuân Phúc, nghệ sĩ Hoàng Duẩn
Đạo diễn dàn dựng: Hùng Lâm
Biên tập: Lê Hoa
Tạo hình: Hoàng Anh
Chỉ đạo nghệ thuật: NSƢT Đức Thế
Đầu tiên, để tạo nên sự thành công cho vở diễn, cần có một kịch bản
52
văn học hay giàu tính sáng tạo. Lấy nội dung từ câu chuyện Ngụ ngôn quen
thuộc, các nghệ sĩ múa rối đã sáng tạo thêm để câu chuyện thêm phần sinh
động, hấp dẫn.
* Kịch bản:
Vở diễn đã dựa theo nội dung của truyện ngụ ngôn “Trê cóc”. Đó là
câu chuyện kể về sự tranh con giữa trê và cóc. Vợ chồng Cóc vốn ở gần bờ
ao. Đến khi đẻ, vợ Cóc xuống ao sinh ra một đàn nòng nọc. Trê ở dƣới ao
thấy nòng nọc giống mình, bèn bắt cả đàn về nuôi. Khi Cóc trở lại, thấy
Trê chiếm đoạt con mình, mới đem việc đến kiện ở cửa quan. Quan truyền
giam Trê lại. Vợ Trê ở nhà đến nhờ Triều Đẩu gỡ tội cho chồng. Triều Đẩu
giới thiệu vợ Trê đến tìm Lý Ngạnh, một thủ hạ am tƣờng việc quan. Lý
Ngạnh lo lót lễ vật vào cáo quan để khiếu nại cho Trê. Quan cho sai nha
đến tận nơi tra án. Trông thấy đàn nòng nọc, nha lại cho là con của Trê bèn
về trình với quan. Quan liền ra lệnh thả Trê và bắt giam Cóc lại. Đến lƣợt
vợ Cóc phải chạy lo cho chồng. Ếch giới thiệu cho vợ Cóc một thầy kiện
trứ danh là Nhái Bén. Nhái Bén khuyên vợ Cóc cứ đợi đàn nòng nọc đứt
đuôi tự nhiên sẽ về với mình, không cần phải kiện cáo gì cả. Quả nhiên ít
lâu sau, khi ra bờ ao thì đàn cóc con theo mẹ về. Vợ Cóc cùng đàn con đến
kêu oan. Trƣớc chứng cứ rõ ràng, Trê phải thú tội và bị kết án "lƣu tam
thiên lý" (đầy xa ba ngàn dặm). Hai vợ chồng Cóc đƣợc kiện trở về, một
nhà vui sƣớng vum vầy.
Kịch bản này đƣợc giữ lại gần nhƣ hoàn chỉnh trong vở múa rối
nƣớc. Tuy nhiên để phù hợp với sân khấu múa rối nƣớc. Một số chi tiết
trong kịch bản đã đƣợc thay đổi so với nội dung truyện ngụ ngôn. Ví dụ
nhƣ đoạn rắn ăn thịt con của trê, khiến cho trê vô cùng đau khổ. Từ đó, Trê
53
quyết định sống ở bùn đen, để tránh xa loài rắn độc ác. Đây là chi tiết
không hề có trong truyện ngụ ngôn. Nhƣng để tăng thêm kịch tính cho vở
rối nƣớc nên các tác giả đã thêm chi tiết này vào vở diễn. Chi tiết này cũng
tạo ra một cái kết mới cho nhân vật Trê trong câu chuyện.
Cách kể chuyện của các nghệ sĩ múa rối nƣớc cũng rất khác so với
truyện ngụ ngôn truyền thống. Trong vở diễn, có những đoạn trật tự tuyến
tính về thời gian bị đảo lộn. Trong vụ xử kiện, bác Rùa đã đƣợc nghe kể lại
những việc làm của Rắn xấu xa. Đặc biệt ở chỗ, những việc làm của Rắn
không chỉ đƣợc thuật lại qua lời kể mà còn đƣợc tái hiện trực tiếp sân khấu.
Cách kể chuyện này rất hầu nhƣ không đƣợc sử dụng trong các câu chuyện
dân gian. Nhƣng với sân khấu múa rối nƣớc, đặc biệt là trong sự cách tân
mạnh mẽ của bộ môn nghệ thuật này thì cách kể chuyện phi tuyến tính này
đƣợc sử dụng khá thành công.
* Nhân vật:
Các nhân vật có mặt trong truyện ngụ ngôn Trê Cóc là: vợ chồng
Trê, vợ vợ chồng Cóc, Triều Đẩu, Lý Ngạnh, Nhái Bén. Nhƣng để câu
chuyện gần gũi hơn với khán giả nhỏ tuổi, các tác giả đã thay thế một số
nhân vật. Nhân vật chính trong câu chuyện vẫn đƣợc giữ nguyên đó là: Trê
và Cóc. Nhng hệ thống các nhân vật phụ thì đƣợc thay đổi khá nhiều.
Ngƣời xử kiện trong vở rối nƣớc không còn là vị quan uy nghi, oai nghiêm
mà chỉ là bác Rùa hiền hậu.
Hệ thống các nhân vật phụ khác cũng mang lại điều mới mẻ cho vở
diễn. Thay vì những nhân vậtTriều Đẩu, Lý Ngạnh, Nhái Bén, tác giả Xuân
Phúc, Hoàng Duẩn đã đƣa những anh Trai, bác Cua, lão Rắn vào câu
54
chuyện. Điều đó khiến cho bối cảnh của cuộc “tranh giành” giữa Trê với
Cóc đậm chất làng quê Việt Nam. Đó là không gian gần gũi bên bờ ao
cùng những con trai, con cua, con rắn nƣớc quen thuộc.
3.2.1.2. Cốt truyện dân gian Việt Nam kết hợp với rối nước và rối cạn
Một bƣớc tiến mới so với việc dùng múa rối nƣớc truyền thống để kể
chuyện dân gian, đó là vừa chuyển thể truyện dân gian thành kịch bản múa
rối nƣớc, vừa kết hợp múa rối nƣớc với múa rối cạn. Để làm đƣợc điều
này, các nghệ sĩ múa rối nƣớc phải tìm đƣợc những cốt truyện dân gian vừa
có bối cảnh sông nƣớc, vừa có bối cảnh trên cạn. Thực ra đây không phải
là một yêu cầu khó bởi không gian sống của ngƣời dân Việt Nam gắn liền
với sông nƣớc, ao hồ. Vì vậy, trong kho tàng truyện cổ Việt Nam có rất
nhiều các câu chuyện nhƣ vậy.
Hƣớng đi này đã từng đƣợc đoàn Múa rối Hải Phòng biến thành hiện
thực trong dự án múa rối nƣớc – cạn của vở Trê Cóc tranh con. Vở diễn
này đã đạt đƣợc huy chƣơng vàng trong Liên hoan múa rối chuyên nghiệp
toàn quốc 2003. Vở “Trê cóc tranh con”, tác giả Trần Đình Ngôn, đạo diễn
Xuân Thấm của Đoàn Múa rối Hải Phòng giành nhiều giải cao nhất, trong
đó có HCV cho vở diễn, đạo diễn và vai quan huyện (cũng do chính ông
Xuân Thấm thủ vai).
Trƣớc đó, khoảng năm 2000, Đoàn Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí
minh cũng đã rất thành công trong việc chuyển thể kịch bản truyện truyền
thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh thành vở rối nƣớc kết hợp với rối cạn Vua
Hùng kén rể. Điều đó chúng tỏ, đây là cách tân mà rất nhiều nghệ sĩ múa
rối nƣớc cùng hƣớng tới. Hƣớng đi này sẽ đảm bảo giữ đƣợc sự hoi thở
55
truyền thống trong kịch bản của các vở diễn múa rối.
Trong phần này của luận văn, tôi xin lấy vở rối nƣớc kết hợp với rối
cạn Vua Hùng kén rể làm đối tƣợng nghiên cứu. Vở diễn đƣợc thực hiện
bởi các nghệ sĩ
Kịch bản: Quang Minh
Biên kịch và đạo diễn: NSƢT Xuân Thắm
Thiết kế mý thuật và tạo hình con rối: NSƢT La Viết Sinh
Trang trí sân khấu: Họa sĩ Chu Văn Tấn
Âm nhạc: Nhạc sĩ Trọng Đài
* Kịch bản:
Vở diễn có nội dung dựa thoe truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Nội dung của truyền thuyết có thể đƣợc tóm tắt ngắn gọn nhƣ sau: Hùng
Vƣơng thứ mƣời tám có một ngƣời con gái tên là Mị Nƣơng, ngƣời đẹpnhƣ
hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng một ngƣời chồng
xứngđáng. Đến cầu hôn có hai vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể
Vua Hùng. Một ngƣời là Sơn Tinh - chúa vùng non cao. Một ngƣời là
Thuỷ Tinh - chúa vùng nƣớc thẳm. Để lựa chọn đƣợc chàng rể xứng đáng,
Vua Hùng bèn đặt ra điều kiện:"Ngày mai ai mang lễ vật gồm: Một trăm
ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chƣng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa
chín hồng mao, mỗi thứ một đôi đến trƣớc thi ta sẽ gả con gái cho”. Hôm
sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến truớc, cƣới đƣợc Mị Nƣơng.Thuỷ Tinh đến
sau, không lấy đƣợc vợ, đùng đùng nồi giận, đem quân đuổi theo đòi cƣớp
Mị Nƣơng. Thần hô mƣa gọi gió, dâng nƣớc sông lên cuồn cuộn làm cho
thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn Tinh không hề nao núng.
56
Thần dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp thành dựng luỹ,
ngăn chặn dòng lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ Tinh đuối
sức phải chịu thua. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh vẫn làm
mƣa gió, bão lụt,dâng nƣớc đánh Sơn Tinh nhƣng năm nào cũng mang thất
bại trở về.
Nội dung của vở rối nƣớc gần nhƣ đƣợc chuyển thể trọn vẹn từ
truyền thuyết. Nhƣng các nghệ sĩ đã thật sáng tạo khi chia sân khấu làm hai
phần. Nửa trên của sân khấu là phần đất diễn của rối cạn, nửa dƣới của sân
khấu là lãnh địa của rối nƣớc. Tính cao trò của vở diễn cũng đƣợc tạo ra
trong cuộc giao tranh của Sơn Tinh và Thủy Tinh. Khi đó, hai sân khấu
nhƣ đƣợc hòa làm một. Nƣớc từ sân khấu rối nƣớc cũng dâng lên, cuộn
sóng. Núi từ sân khấu rối cạn cũng xuất hiện và chặn dòng nƣớc. Đây là
một điểm rất mới so với sân khấu rối nƣớc truyền thống.
Đặc biệt, trong vở rối này, tác giả đã thổi hồn vào từng chi tiết để các
nhân vật có những suy nghĩ đắn đo nhƣ con ngƣời đời thƣờng. Sơn Tinh
cũng đã rất lo lắng khi không kiếm đƣợc đủ lễ vật, lo lắng khi lo sợ nếu
Thủy Tinh lấy Mỵ Nƣơng sẽ khiến dòng nƣớc bạo cƣờng cuốn trôi cả cơ
đồ Hồng Lạc. Thủy Tinh thì ấm ức vô cùng khi tất cả những thứ lễ vật đều
là sản vật từ rừng xanh. Thủy Tinh nghĩ mình không thể tìm đƣợc lễ vật
nên sẽ cƣớp lễ vật từ Sơn Tinh hoặc cƣớp Mỵ Nƣơng về làm vợ. Những
chi tiết đó, tuy không có trong truyền thuyết nhƣng lại phù hợp những hỉ nộ
ái ố của đời thƣờng. Nhờ có những chi tiết đó, ngƣời xem cảm thấy nội
dung truyền thuyết nhƣ gần gũi với đời sống của con ngƣời hơn.
* Nhân vật:
Trong truyền thuyết chỉ có các nhân vật: Vua Hùng, công chúa Mỵ
57
Nƣơng, Sơn Tinh, Thủy Tinh. Trong vở diễn này ngoài những nhân vật
chính giống nhƣ trong truyền thuyết, một hệ thống các nhân vật phụ đã
đƣợc sáng tạo thêm để tăng thêm tính hấp dẫn cho vở diễn. Trên cạn có:
Hồng Hạc (ngƣời bạn thân thiết của Sơn Tinh, ngƣời mà Sơn Tinh thƣờng
xuyên cùng tâm sự), Thần Núi (ngƣời cho Sơn Tinh những lời khuyên khi
chàng gặp khó khăn)… Dƣới nƣớc có cá tôm, thủy quái, thuồng luồng –
những kẻ cùng bày mƣu tính kế với Thủy Tinh.
Bên cạnh đó, tạo hình nhân vật của các quân rối trong vở diễn cũng
góp phần khắc họa tính cách nhân vật. Nếu Vua Hùng, Mỵ Nƣơng, Sơn
Tinh đƣợc khoác lên mình trang phục của ngƣời dân thời Hùng Vƣơng với
những hình ảnh quen thuộc nhƣ: Mỵ Nƣơng mặc áo ngắn đến bụng, xẻ
ngực, bó sát vào ngƣời, phía trong mặc yếm kín ngực, chiếc yếm cổ tròn
sát cổ, có trang trí những hình tấm hạt gạo. Thắt lƣng có ba hàng chấm
trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng. Hùng Vƣơng và Sơn Tinh cắt tóc
ngắn đến ngang vai, thân trên mặc mảnh giáp hình chữ nhật dùng để che
ngực có 4 quai đeo. Đai lƣng bằng đồng có khóa to bản, đƣợc hình thành
bởi nhiều các móc đƣợc liên kết với nhau. Còn Thủy Tinh thì toàn thân
mình có một màu xanh kì dị. Khuôn mặt tựa hung thần, nét mặt vô cùng
hung tợn.
Qua cách tạo hình nhân vật mới lạ, cùng các chi tiết mới và nét đột
phá trong viêc kết hợp truyện dân gian, rối nƣớc và rối cạn, vở Vua Hùng
kén rể đã đen đến cho ngƣời xem nhiều điều lí thú. Câu chuyện dân gian về
chàng Sơn Tinh, Thủy Tinh đƣợc khai thác theo một khía cạnh mới để từ
đó vừa gìn giữ đƣợc nội dung của một truyện truyền thuyết ý nghĩa vừa
phát huy đƣợc cái hay của bộ môn múa rối nƣớc.
58
3.2.1.3. Cốt truyện dân gian Việt Nam kết hợp với rối nước và chèo cổ
Từ khi múa rối nƣớc ra đời, giữa chèo và rối nƣớc có một mối liên
hệ đặc biệt. Cùng đƣợc sinh ra từ vùng đồng bằng Bắc Bộ nên chèo và rối
nƣớc giống nhƣ anh em một nhà, nhƣ tay chân trên cùng một cơ thể. Chèo
chính là là phần âm nhạc, ngôn ngữ, tích truyện của Rối nƣớc. Các tích
trong rối nƣớc đều sử dụng các làn điệu chèo, ngôn ngữ chèo. Nhƣng chèo
và múa rối nƣớc vẫn là hai bộ môn nghệ thuật tách biệt nhau. Theo cách
biểu diễn rối nƣớc thông thƣờng thì các nghệ nhận múa rối sẽ điều khiển
con rối dƣới hồ, ao nƣớc. Còn dàn nhạc và nghệ sỹ hát chèo thì ngôi bên
trên lồng tiếng và hát đế theo nhân vật và các hành động của con rối.
Nhƣng đã có một bƣớc đột phá mới trong nghệ thuật múa rối cũng
nhƣ chèo cổ. Vào tháng 1 năm 2015, các nghệ sĩ chèo của Nhà hát Chèo
Hà Nội đã chính thức cho ra mắt vở “Long Thành diễn xƣớng”. Ở dự án
“Long Thành diễn xƣớng” cả hai sân khấu chèo và múa rối nƣớc đều trình
diễn song hành. Đây là dạng sân khấu đa năng. Phía trên vẫn là sàn gỗ của
sân khấu chèo nhƣng phía dƣới đƣợc thiết kế một hồ nƣớc làm sân khấu
cho múa rối nƣớc. Thiết kế này làm giảm đi đáng kể chiều cao của sân
khấu múa rối truyền thống, đồng thời cũng làm mất đi hình ảnh thủy đình –
hình ảnh trung tâm của sân khấu rối nƣớc. Phần gầm của sân khấu chèo
đƣợc tận dụng để trở thành nơi ẩn mình của những nghệ sĩ múa rối. Xét về
tính năng, không gian phía dƣới sân khấu chèo lúc này giống với nhà thủy
đình của múa rối nƣớc. Vì giới hạn về chiều cao của sân khấu chèo nên các
nghệ sĩ múa rối nƣớc đã phải quỳ trong khi điều khiển quân rối. Đây là một
bất lợi tƣơng đối lớn so với tƣ thế diễn bình thƣờng. Nhƣng điều này cũng
không làm ảnh hƣởng tới sự chuyển đồng của những con rối trên mặt nƣớc.
59
Có những tích trò đƣợc diễn song song trên cả trên sàn gỗ và dƣới hồ nƣớc.
Nội dung của vở diễn “Long Thành diễn xƣớng” là những trích đoạn
ngắn về cuộc sống của ngƣời nông dân đồng bắng Bắc Bộ xƣa. Tràn ngập
trong không gian diễn xƣớng là những lời ca dao ca ngợi về vẻ đẹp của quê
hƣơng đất nƣớc, ca ngợi về tình yêu lao động, tình yêu lứa đôi. Những câu
chuyện đậm chất làng quê nhƣ câu cá, chăn vịt, hứng dừa đều có mặt trong
buổi diễn. Buổi biểu diễn giống nhƣ một câu chuyện thu nhỏ về cuộc sống
tại làng quê Việt Nam. Bên cạnh đó những câu chuyện có kịch tính nhƣ
Cáo bắt vịt cũng đƣợc kết hợp trên cả hai sân khấu. Cảm giác khi đƣợc
nhìn thấy con cáo chạy từ mặt nƣớc, biến mất hút trên cành cây để rồi sau
đó lại bị đuổi bắt trên mặt đất quả thật là kì thú biết bao. Rồi đến những
phút thăng hoa của thế giới tâm linh khi trên sân khấu gỗ là hình ảnh của
Cô Đôi Thƣợng Ngàn cũng khúc hát chầu văn lôi cuốn thì dƣới sân khấu
nƣớc là sự quần tụ của tứ linh thần kì.
Để có đƣợc sự trùng khớp này phải kể tới sự đồng điệu giữa âm nhạc
của cả hai loại hình sân khấu. Phần dàn nhạc chèo đáp ứng hoàn toàn các
trò rối nƣớc mang hai đặc tính: Chất co dãn âm nhạc dân gian, nội dung
phong phú âm nhạc hát, diễn và kể nội tâm nhân vật. Một đặc điểm bao
trùm lên hai loại thể sân khấu chèo, rối nƣớc cùng trình diễn một hình thức
âm nhạc bởi chúng cùng sinh ra từ làng do ngƣời dân quê đồng sáng tạo
theo phƣơng thức trình diễn nghệ thuật, âm nhạc dân gian. Đây điều kiện
tiên quyết kết nối hai hình thức sân khấu khác biệt lại trình diễn chung một
nền nhạc, âm nhạc dân gian.Nhạc hát các làn điệu chèo cùng trò rối nƣớc
diễn tả hòa nhập đặc tính âm nhạc dân gian làng xã, những nét sinh hoạt
ngƣời dân quê đồng bằng Bắc Bộ.Hai bộ môn nghệ thuật trong cùng một
60
vở diễn và cũng tỏa sắc, khoe tài.
Nếu trình diễn Rối nƣớc thông thƣờng, nghệ sỹ điều khiển rối riêng,
nghệ sỹ hát lồng riêng, thì với Long thành diễn xƣớng, các nghệ sỹ của
Nhà hát chèo trực tiếp hát, nói và tay thì điều khiển con rối để thể hiện
hành động của nhân vật. Vì thế, mọi cung bậc cảm xúc của các nhân vật
đƣợc ngƣời nghệ sỹ trực tiếp thể hiện bằng giọng hát, giọng nói nên cảm
xúc trực tiếp đƣợc truyền qua đôi bàn tay điều khiển đến con rối. Và khán
giả có cảm nhận nhƣ chính những quân rối cũng nhƣ đang khóc, cƣời, múa,
hát một cách thực sự.
Đây chƣơng trình diễn xƣớng nằm trong dự án bảo tồn và phát triển
nghệ thuật truyền thống của Nhà hát chèo Hà Nội. Nghệ sỹ ƣu tú Thúy Mùi
– chỉ đạo nghệ thuật – Giám đốc Nhà hát chia sẻ: “Việc kết hợp giữa chèo
và rối nƣớc là dự án đƣợc ban lãnh đạo Nhà hát cùng các nghệ sỹ rất đồng
tình và đƣợc cấp trên rất ủng hộ. Không chỉ giới thiệu cho du khách, đặc
biệt là khách quốc tế đến Hà Nội về nghệ thuật chèo mà còn giúp họ có
những giây phút thƣ giãn, thoải mái khi đƣợc chứng kiến những màn rối
nƣớc vui nhộn, ý nghĩa đƣợc kết hợp trên cùng một sân khấu đa năng do
các nghệ sỹ Chèo đích thực trực tiếp trình diễn. Mô hình này cũng sẽ chinh
phục đƣợc trẻ em khi xem rối sẽ đƣợc làm quen với Chèo”.
Đƣợc biết, sau thành công của dự án “Long Thành diễn xƣớng”, các
nghệ sĩ Nhà hát chèo Việt Nam đang gấp rút thực hiện một dự án mới cũng
có sự góp mặt của múa rối nƣớc. Đó là dự án “Tấm Cám”. Với dự án này,
ngƣời xem sẽ thấy văn học dân gian trở thành gốc rễ để chèo cổ và rối
nƣớc truyền thống cùng thăng hoa trên cùng một sân khấu. Sân khấu chèo
sẽ một lần nữa đƣợc tại hiện song hành cũng múa rối nƣớc. Những cảnh cá
bống dƣới giếng, đôi hài của Tấm bị rơi khi qua sông… đều sẽ đƣợc múa
61
rối hóa. Đây là một hƣớng đi rất mới, rất táo bạo và chắc chắn sẽ đƣợc
công chúng đón nhận nhiệt tình. Hƣớng cách tân này sẽ không chỉ giúp gìn
giữ sự mƣợt mà của các làn điệu chèo, sự uyển chuyển của các quân rối
nƣớc mà còn phát huy đƣợc vẻ đẹp của những câu chuyện dân gian đầy ý
nghĩa.
3.2.1.4. Cốt truyện dân gian Việt Nam kết hợp với rối nước và nghệ thuật
hoạt hình cắt giấy hiện đại
Tiếp nối những cách tân của múa rối nƣớc, gần đây, trong khuôn khổ
Liên hoan múa rối Quốc tế diễn ra tại Hà Nội vào tháng 9 năm 2015, nhà
hát Múa rối Trung ƣơng đã cho ra mắt vở rối nƣớc “Chuyện tình đầm Dạ
Trạch”. “Chuyện tình Dạ Trạch” đƣợc phỏng tác theo truyền thuyết về
cuộc gặp gỡ kỳ ngộ giữa công chúa Tiên Dung xinh đẹp và chàng đánh cá
nghèo khó không mảnh khố che thân Chử Đồng Tử.
Vở diễn đƣợc Nhà hát Múa rối Việt Nam xây dựng với sự góp mặt
của nhiều nghệ sĩ tên tuổi nhƣ:
Kịch bản múa rối và đạo diễn: NSƢT Lê Hồng Hà
Ca từ: Phan Huyền Thƣ
Thiết kế mỹ thuật và tạo hình con rối: Duy Bằng
Hoạt hình cắt giấy: NSND Hà Bắc
Âm nhạc: Đỗ Bảo
Chỉ đạo nghệ thuật: NSƢT Vƣơng Duy Biên
Về kịch bản, vở rối nƣớc đã tái hiện gần một phần của truyền thuyết
Chử Đồng Tử. Truyền thuyết có kể rằng: Chử Đồng Tử sống cùng cha
chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố
phải thay nhau mà mặc. Lúc ngƣời cha hấp hối, ông gọi con lại bảo rằng
hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thƣơng cha nên Chử Đồng Tử liệm
62
khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách
ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa ngƣời dƣới nƣớc. Thời ấy vua Hùng
Vƣơng thứ 18 có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ
thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của
công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy
nghi trƣợng, ngƣời hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào
cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai ngƣời quây
màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nƣớc xối
dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dƣới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi
han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin đƣợc cùng nên duyên vợ chồng. Vua Hùng
nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết
ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp
nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung-Chử Đồng Tử làm chúa. Một
hôm có ngƣời bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên
chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngƣợc xuôi.
Một hôm, Chử Đồng Tử gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn
giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật.
Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và
một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.Về nhà, Chử Đồng Tử
truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng
chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có
hàng quán ven đƣờng, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng
nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc
sung túc, ngƣời hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng
kinh ngạc bèn dâng hƣơng hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Nghe tin, vua
Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi
63
ngƣời xin ra chống cự nhƣng Tiên Dung chỉ cƣời và từ chối không kháng
cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con
sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện
và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền
đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.Nhân dân cho đó là điều
linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ
Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và
chợ đó là chợ Hà Thị.
Câu chuyện về Chử Đồng Tử, Tiên Dung tuy rất dài nhƣng khi
chuyển thể kịch bản sang múa rối nƣớc, tác gỉa đã tập trung vào cuộc gặp
gỡ giữa Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Cuộc gặp gỡ của họ đƣợc miêu tả
trong một khung cảnh rất thơ mộng. Trong một lần du ngoạn trên sông,
thấy cảnh vật nên thơ, đẹp nhƣ bức tranh thủy mặc, công chúa cùng các thị
nữ lên bờ múa hát. Chàng Chử đang bắt cá thấy đông ngƣời vội vã vùi
mình trốn trong cát. Công chúa quây mành tắm giữa thiên nhiên, khi nƣớc
trôi xuống cát hiện ra cơ thể cƣờng tráng của chàng Chử. Biết đƣợc hoàn
cảnh nghèo khó, hiếu thảo nhƣờng khố cho cha khi chết của chàng, trái tim
công chúa Tiên Dung đã hoàn toàn bị chinh phục. Nhân duyên trời định đã
giúp họ nên nghĩa vợ chồng, cùng nhau chung tay giúp đỡ dân làng cấy hái
để có cuộc sống ấm no, đầy đủ. Tức giận trƣớc hoàn cảnh không môn đăng
hộ đối, nhà Vua triệu công chúa hồi. Không thể làm trái lệnh Vua cha
nhƣng tình cảm đôi lứa cũng không thể bị chia cắt, hai vợ chồng đã cùng
nhau hóa thành đôi chim hạc bay về trời. Mối tình lãng mạn tuyệt vời của
họ đã phá tan mọi rào cản phong kiến, đề cao khát vọng trong tình yêu đôi
lứa, tạo nên một huyền thoại bất tử, đƣợc lƣu truyền mãi trong nhân gian.
Nhƣ vậy có thể thấy rằng vở rối này đã tái hiện lại phần đẹp nhất của
64
câu chuyện dân gian. Nhƣng nếu chỉ dừng ở đó thì vở diễn này cũng không
có gì khác nhiều so với những hƣớng cách tân đã kể trên. Điều làm nên sự
khác biệt lớn nhất của tác phẩm này với các vở diễn trƣớc đó, đó là sự kết
hợp đầy sáng tạo giữa múa rối nƣớc với nghệ thuật hoạt hình cắt giấy.
Bối cảnh của vở diễn vẫn là không gian thủy đình quen thuộc và
những con rối vẫn hồn nhiên trong sáng nhƣng qua cách thể hiện mới đƣợc
phát triển lên nhƣ: màn pháo sáng mở đầu cho vở diễn đã gay ấn tƣợng
mạnh cho ngƣời xem… Vẫn là nhóm múa bát tiên cổ trong nghệ thuật rối
nhƣng ở chuyên tình Dạ trạch đã đƣợc biến hóa thành một nhóm múa cung
đình mềm mại, uyển chuyển không khô cứng nhƣ những con rối trƣớc đây.
Ấn tƣợng là màn công chúa Tiên Dung khi tắm trên dòng sông Nhị Hà,
nàng Tiên Dung tự múc gáo nƣớc của dòng sông dội lên ngƣời sau bức rèm
che tạo một hiệu ứng hình ảnh rất đặc biệt với ngƣời xem.
Vở diễn là sự kết hợp khéo léo giữa múa rối nƣớc truyền thống với
thể loại hoạt hình cắt giấy sinh động, thu hút ngƣời xem ngay từ màn mở
bằng những tràng pháo sáng hoành tráng, đẹp mắt. Sân khấu rối nƣớc và hệ
thống màn hình led hiện đại đƣợc kết hợp cùng nhau. Màn hình led đƣợc
đặt ngay phía trên của sân khấu rối nƣớc quen thuộc. Những đoạn diễn của
các quân rối dƣới sân khấu nƣớc vẫn đƣợc các nghệ sĩ biểu diễn hết sức
chuyên nghiệp và mang đậm giá trị truyền thống. Nhƣng với sự hỗ trợ của
kĩ thuật hiện đại, ngƣời xem thực sự cảm thấy ngỡ ngàng khi đƣợc xem
những hình ảnh múa rối kết hợp với nghệ thuật hoạt hình cắt giấy. Có thể
lấy một ví dụ rất cụ thể nhƣ sau: Trong vở diễn có đoạn tái hiện lại cảnh
bắt cá trên sông, đoạn diễn này có nội dung gần giống với trò diễn bắt cá
truyền thống. Nhƣng nếu ở sân khấu rối nƣớc truyền thống thì ngƣời xem
chỉ nhìn thấy những gì diễn ra trên mặt nƣớc thì nay, với hệ thống màn
65
hình led, ngƣời xem nhìn thấy cả những cảnh cá lội tung tăng, nơm úp
trƣợt, cá mắc lƣới thật sinh động và rõ nét. Hai sân khấu, một rất thực, rất
mộc mạc, một rất huyền ảo, rất hiện đại đƣợc kết hợp cùng nhau để tạo ra
một chỉnh thể đồng nhất.
Cũng có những lúc màn hình led đƣợc sử dụng nhƣ một phông nền
cho cảnh diễn bên dƣới. Những hình ảnh bãi lau, cồn cát đƣợc vẽ rất tinh tế
cùng sự chuyển đổi màu sắc linh hoạt đã tạo nên chiều sâu cho sân khấu rối
nƣớc. Nếu trƣớc đây, mỗi khi chuyển cảnh từ trò diễn này sang trò diễn
khác, sân khấu thƣờng có những khoảng “chết” sân khấu thì nay, màn hình
led đã giải quyết triệt để đƣợc vấn đề này. Khi các quân rối thực hiện xong
một trích đoạn và chuẩn bị rút vào buồng trò thì lập tức khác giả bị thu hút
bởi sự chuyển cảnh trên màn hình led. Đây là một cách “đánh lạc hƣớng”
rất hiệu quả. Chi tiết này tuy nhỏ nhƣng đã thể hiện đƣợc sự tinh tế và tài
năng của ngƣời đạo diễn.Nghệ sĩ Hồng Hà - đạo diễn của vở diễn đã chia
sẻ: “Vở diễn Chuyện tình Dạ Trạch vẫn giữ đƣợc nét truyền thống không
chỉ diễn nhƣng trò cổ nữa mà còn phải hòa nhập với những cập nhật những
cái mới mẻ nhƣ kết hợp cùng nghệ thuật đƣơng đại khác phù hợp với thời
gian, tinh thần văn hóa quốc tế.”
Nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống thƣờng vẫn sử dụng âm nhạc
dân tộc cổ điển nhung ở Chuyên tình Dạ Trạch dù là tích cổ nhƣng âm
nhạc hiện đại tạo một cách thƣởng thức mới cho ngƣời xem và nghe. Đạo
diễn muốn mang đến thông điệp văn hóa truyền thống nhƣng luôn hòa
nhập kết hợp cùng các loại nghệ thuật đƣơng đại khác.
Đây sẽ là một hƣớng đi mới cho nghệ thuật múa rối nƣớc Việt Nam.
Từ nay, nghệ thuật múa rối nƣớc có thể đƣợc kết hợp với nhiều loại hình
66
nghệ thuật hiện đại. Nhƣng điều quan trọng nhất đó là giá trị cốt lõi của
mỗi vở diễn đều là các tác phẩm văn học dân gian. Điều đó khiến cho múa
rối nƣớc dù có tiến xa đến đâu vẫn mang trong mình dấu ấn đậm nét của
văn hóa, văn học Việt Nam. Và dù có đƣợc cách tân tới mức nào thì múa
rối nƣớc vẫn không mất đi những đặc trƣng nội dung rất riêng của một bộ
67
môn nghệ thuật truyền thống Việt.
3.2.2. Cách tân múa rối nước với cốt truyện dân gian Thế giới
3.2.2.1. Cốt truyện dân gian Thế giới kết hợp với rối nước truyền thống
Nhà hát Múa rối Việt Nam có một hƣớng đi táo bạo đó là đƣa tác
phẩm văn học nƣớc ngoài vào dàn dựng. Với mong muốn làm mới và hấp
dẫn hơn múa rối nƣớc truyền thống, các nghệ sĩ nhà hát Múa rối Việt Nam
đã sáng tạo không ngừng.Đây là dự án hợp tác nghệ thuật giữa Nhà hát
Múa rối Việt Nam phối hợp với Tổ chức Interart Riviera SA (Pháp) thực
hiện nhằm đƣa múa rối nƣớc có thể thực hiện những câu chuyện phức tạp
hơn, ly kỳ hơn, gần với cuộc sống hiện tại. Khác với rối nƣớc truyền thống,
chƣơng trình “Truyện cổ tích An-đéc-xen” đòi hỏi sự bứt phá lớn, tiết tấu
khẩn trƣơng mang hơi thở cuộc sống đƣơng đại và những ý tƣởng đầy nhân
văn.
Vở diễn này là tổ hợp 4 truyện cổ tích của An-đéc-xen: Chim họa mi,
Chú lính chì dũng cảm, Vịt con xấu xí, Nàng tiên cá. Để có một kịch bản
hoàn chỉnh cho vở diễn, nghệ sĩ Ngô Quỳnh Dao đã “thai nghén” trong
suốt gần 10 năm. Nhen nhóm ý tƣởng từ những năm 2003, 2004, nhƣng
phải đến tận năm 2013, vở diễn mới chính thức đƣợc ra mắt công chúng.
Với mong muốn tìm một hƣớng đi mới vững chắc cho múa rối nƣớc Việt
Nam, nghệ sĩ Ngô Quỳnh Dao đã chọn kịch bản là những câu chuyện cổ
tích nƣớc ngoài. Đây là một hƣớng đi đúng đắn và có chiều sâu. Bởi nếu
nghệ thuật múa rối nƣớc vốn đƣợc sinh ra để kể về cuộc sống của con
ngƣời và chủ yếu là để mua vui cho con ngƣời; thì truyện cổ tích lại là thế
giới tƣởng tƣợng chứa đựng biết bao ƣớc mơ và bài học bổ ích cho con
68
ngƣời. Kết hợp giữa rối nƣớc và truyện cổ tích thế giới là một cuộc “kết
duyên” tất yếu. Truyện cổ tích đã vốn đã hấp dẫn, truyện cổ tích An-đéc-
xen lại càng thu hút hơn bởi những tình tiết rất đời. Vì vậy, truyện cổ An-
đéc-xen không chỉ hấp dẫn với các em nhỏ mà cả đối với ngƣời lớn, khi
đọc cũng cảm nhận đƣợc những điều lý thú, bổ ích của những câu chuyện.
Nhà hát Múa rối Việt Nam mang đến cho khán giả nhỏ tuổi những
câu truyện cổ An-đéc-xen theo một phong cách hoàn toàn khác... Sân khấu
thủy đình quen thuộc nay đƣợc kết hợp hài hòa với những hình ảnh mới lạ
nhƣ những lâu đài tráng lệ, cung điện nguy nga, cây thông Noel lấp lánh...
và những nhân vật nhƣ nhà vua, công chúa, hoàng tử, chim họa mi, chú
lính chì, bầy thiên nga, nàng tiên cá...đã tạo nên sự độc đáo, khác lạ của
múa rối nƣớc.
Theo ông Jean Lui Larguier, Giám đốc Tổ chức Interart Riviera SA,
vở diễn “Truyện cổ tích An-đéc-xen” qua rối nƣớc sẽ đƣợc biểu diễn tại
Pháp mở đầu cho những hoạt động của Năm Việt Nam tại Pháp. Ông đã
biết đến múa rối nƣớc cách đây 30 năm tại Pháp và ấn tƣợng, thích thú với
loại hình nghệ thuật truyền thống này. Sau một thời gian dài, tìm hiểu, trao
đổi với Nhà hát Múa rối Việt Nam, dự án hợp tác nghệ thuật đầu tiên
chuyển thể đã đƣợc thực hiện xong giai đoạn 1. Với vở kịch của An-đéc-
xen, ê kíp làm chƣơng trình đã phải thay đổi một số yếu tố kỹ thuật nhƣ: hồ
biểu diễn chỉ sâu 50cm thay vì 1m nhƣ bình thƣờng, chuyển mành bằng tre
sang mành bằng dây, con rối cũng đƣợc thay đổi trở nên đẹp hơn và thay
đổi kỹ thuật phù hợp với 50cm nƣớc, kỹ thuật diễn nhẹ nhàng, êm đềm hơn
để phù hợp với ngƣời Pháp, đoạn hội thoại trên sân khấu giống nhƣ hội
69
thoại trong thực tế, gần gũi với cuộc sống…
Họa sỹ Ngô Quỳnh Giao, kịch bản, đạo diễn, tạo hình cho Truyện cổ
tích An-đéc-xen chia sẻ: Năm 2005, Nhà hát Múa rối Việt Nam đã xây
dựng múa rối nƣớc cổ tích An-đéc-xen nhƣng đến năm 2013 cái duyên mới
đến và truyện cổ tích của An-đéc-xen trở nên sống động, lung linh. Nhất là
nó càng có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay khi đang có nguy cơ xuống cấp
về đạo đức, môi trƣờng sống, truyện An-đéc-xen có thiên nhiên quá đẹp,
con ngƣời quá nhân đạo, sự hi sinh về ngƣời khác, đồng thời quý trọng
ngƣời khác hơn mạng sống của mình.
NSƢT Nguyễn Tiến Dũng, Phó Giám đốc Nhà hát Múa rối Việt
Nam cho biết: “Có lẽ, Nhà hát Múa rối cũng là đơn vị nghệ thuật đầu tiên
thực hiện quan hệ chéo giữa hai nƣớc. Qua chƣơng trình này, nghệ sỹ nâng
cao đƣợc tay nghề, tiếp cận với những câu chuyện của nƣớc ngoài tƣơng
đối nhịp nhàng. Hi vọng, chƣơng trình sẽ đƣợc sự đón nhận của khán giả
Pháp và chúng tôi có thể biểu diễn phục vụ khán giả ở nhiều nƣớc ở Châu
Âu.”
Chƣơng trình Truyện cổ tích An-đéc-xen đã biểu diễn tại Pháp vào
tháng 12 năm 2013 và tháng tháng 12 năm 2014 và đã thu đƣợc nhiều ấn
tƣợng tốt đẹp từ ngƣời xem. Có nhiều ngƣời xem đã thật sự xúc động khi
xem vở diễn. Họ thật sự bất ngờ những cốt truyện quen thuộc lại đƣợc kể
hay và lạ đến vậy. Thậm chí, có nhiều em nhỏ đã khóc khi xem cảnh chú
vịt con xấu xí bị ghẻ lạnh, hắt hủi. Điều đó chứng tỏ ngôn ngữ múa rối
nƣớc đã truyền tải thành công những giá trị nhân văn sâu sắc trong truyện
An-đéc-xen. Kết tinh giữa múa rối nƣớc Việt nam với văn học thế giới đã
70
thực sự thành công và chạm đƣợc tới trái tim của khán giả.
Trong tƣơng lai, đây chắc chắn sẽ là một mảnh đất màu mỡ để đào
sâu và khai thá. Bởi kho tàng truyện cổ tích trên thế giới còn rất nhiều
những câu chuyệnhay. Và nếu có thể chuyển thể những câu chuyện đó trên
sân khấu múa rối nƣớc đó sẽ là những “cuộc kết duyên” đầy ý nghĩa giữa
nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam với văn học dân gian Thế giới.
3.2.2.2. Cốt truyện dân gian Thế giới kết hợp với múa rối nước và nghệ
thuật ba lê
Nếu tƣởng rằng, các quân rối của nghệ thuật múa rối nƣớc chỉ có thể
biểu diễn trên mặt nƣớc thì quả thật là một sai lầm. Thực tế đã chứng minh,
bằng sự sáng tạo không biên giới, các nghệ sĩ đã có thể khiến các quân rối
bay lên khỏi mặt nƣớc. Đó là dự án rất thành công của Nhà hát Múa rối
Thăng Long.
Trong khuôn khổ Liên hoan rối Quốc tế 2015, Nhà hát Múa rối thăng
Long đã mang đến tiết mục rối nƣớc “Bay lên từ mặt nƣớc” của NSƢT
Chu Lƣợng. Tác phẩm kể về câu chuyện của nàng thiên nga Odette. Đây là
câu chuyện cổ tích Nga về một nàng công chúa bị phù phép thành thiên
nga. Ngƣời xem trên thế giới thƣờng biết đến nội dung câu chuyên này qua
vở ba-lê kinh điển của Trai-xcốp-xki.
Kịch bản của vở rối đã tái hiện một cách sơ lƣợc nội dung của truyện
cổ tích. Hoàng tử Siegfriedđến bên bờ hồ trong một đêm trăng sáng. Chàng
nhìn thấy một đàn thiên nga đáp ngay gần đó. Chàng định nhắm vào đàn
thiên nga định bắn, nhƣng bàng hoàng khi thấy một con thiên nga biến
thành thiếu nữ xinh đẹp, Odette. Ban đầu, nàng tỏ ra sợ hãi Siegfried. Khi
anh hứa sẽ không làm hại, nàng mới kể rằng nàng là Nữ hoàng Thiên nga
71
Odette. Đàn thiên nga là những nạn nhân của lời nguyền khủng khiếp do ác
phù thủy Von Rothbart, kẻ trông nhƣ nửa ngƣời nửa cú, tạo ra. Ban ngày
họ phải biến thành thiên nga và ban đêm, chỉ khi đứng trong hồ ma thuật -
hồ đƣợc tạo ra từ những giọt nƣớc mắt của mẹ Odette - mới trở về hình
dạng con ngƣời. Lời nguyền chỉ bị phá vỡ nếu có một ngƣời chƣa bao giờ
yêu ai trƣớc đây, thề sẽ yêu Odette mãi mãi. Siegfried hứa sẽ yêu Odette
bằng tất cả tình yêu của chàng. Nhƣng mẹ của Siegfried ra lệnh cho anh
nhảy với sáu nàng công chúa và chọn một trong số họ làm cô dâu. Von
Rothbart ngụy trang đến cùng cô con gái xinh đẹp Odile. Ông đã biến
Odile trở nên trông giống Odette y đúc. Hoàng tử nhầm Odile với Odette,
anh tuyên bố với mọi ngƣời rằng sẽ lấy Odile làm vợ. Von Rothbart ngay
lúc đó làm phép cho Siegfried đƣợc nhìn thấy Odette thật. Nhận ra sai lầm
của mình, anh thành khẩn cầu xin nàng tha thứ. Von Rothbart xuất hiện và
nhất mực nói Siegfried phải giữ lời hứa, kết hôn với Odile, và Odette sẽ
thành thiên nga mãi mãi. Siegfried quyết định quyên sinh cùng Odette và
họ lao xuống hồ. Siegfried và Odette lên thiên đàng, đƣợc ở bên nhau mãi
mãi.
Nghệ sĩ Sarah Rowland Barker, Đoàn múa rối Vƣơng quốc Anh chia
sẻ: "Quá hoành tráng, rối nƣớc Việt Nam rất đẹp và lung linh. Đặc biệt là
âm nhạc, âm nhạc thật tuyệt vời". Đây cũng là cảm nhận chung của những
khán giả khác. Một câu chuyện cổ tích đầy ý nghĩa về tình yêu đƣợc kể
bằng hình thức hoàn toàn mới. Câu chuyện này vốn đƣợc biết đến nhiều
nhất qua các vở ba-lê thì nay, vẫn là biểu diễn ba-le nhƣng lại bằng các
quân rối nƣớc. Những diệu xoay vòng trên không trung của những quân rối
quả là những màn ảo thuật đặc sắc.
3.2.2.3. Cốt truyện dân gian Thế giới kết hợp với múa rối nước và nghệ
72
thuật nhạc kịch
Đạo diễn Lepage ngƣời Canada đã mang nghệ thuật rối nƣớc Việt
Nam vào dàn dựng vở nhạc kịch "Chim họa mi và những truyện ngụ ngôn
khác". Robert Lepage là nghệ sĩ sân khấu, đạo diễn xuất sắc của Canada.
Ông từng đoạt nhiều danh hiệu lớn trong và ngoài nƣớc. Lepage đƣợc công
nhận là ngƣời tạo nên cuộc cách mạng trong sân khấu cổ điển. Ông đặc biệt
thành công khi tiếp cận sân khấu sáng tạo, áp dụng các công nghệ hiện đại,
kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật trên một sân khấu.Lepage bắt đầu biết
tới các loại hình múa rối của châu Á khi xem nhiều thể loại nhƣ rối bóng
của Trung Quốc, rối tay của Đài Loan, rối Bunraku của Nhật Bản... nhƣng
rối nƣớc của Việt Nam đem lại ấn tƣợng đặc biệt nhất. Cũng bởi ấn tƣợng
đặc biệt đó mà đầu năm 2007, Lepage quyết tới Việt Nam, cùng với Gerald
Herman - giám đốc rạp Hanoi Cinematheque - để tìm hiểu về rối nƣớc.
Trong suốt 10 ngày ở Việt Nam, Lepage tới các sân khấu, xem biểu diễn,
tiếp xúc nghệ sĩ, tìm hiểu sân khấu, kỹ thuật của rối nƣớc.
Trở về Canada, với sự sáng tạo của mình trong nghệ thuật sân khấu,
ông đƣa rối nƣớc Việt Nam vào dựng vở Chim sơn ca. Vở nhạc kịch đã
đƣợc dàn dựng tại Toronto vào tháng 10/2009 với cái tên Chim sơn ca và
những truyện ngụ ngôn khác. Đến tháng 7/2010, vở này ra mắt công chúng
lần đầu tại Liên hoan âm nhạc Lyrique d'Aix-en-Provence, sau đó diễn tại
Nhà hát Lyon vào mùa thu năm 2010. Tháng 6/2011, vở nhạc kịch đƣợc
giải thƣởng Claude Rostand - giải do Hội phê bình âm nhạc Pháp trao tặng,
nhằm tôn vinh các tác phẩm âm nhạc hay nhất bên ngoài Paris.
Vở múa rối Chim sơn ca và những truyện ngụ ngôn khác dựa trên vở
nhạc kịch Chim sơn ca (nhà soạn nhạc Igor Stravinsky viết dựa theo câu
chuyện của Andersen). Khi đƣợc hỏi vì sao lại có ý định đƣa rối nƣớc -
73
một loại hình nghệ thuật dân gian Việt Nam vào dựng nhạc kịch - loại hình
nghệ thuật hàn lâm phƣơng Tây, Lepage trả lời: "Nhạc kịch phát triển
mạnh ở châu Âu thế kỷ 19, từ lúc đó những ngƣời dàn dựng đã muốn có sự
giao lƣu với nghệ thuật châu Á, vì thế họ cũng đã mô phỏng phong cách
bài trí sân khấu châu Á rồi. Bản thân câu chuyện Chim họa mi cũng lấy bối
cảnh Trung Hoa (nhân vật chính là hoàng đế Trung Hoa), vì thế tôi muốn
thể hiện sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong vở nhạc kịch này. Đúng là
kết hợp rối nƣớc Việt Nam với nhạc kịch thoạt nghe có vẻ khó và có độ
chênh, nhƣng thực chất lịch sử nghệ thuật từ thế kỷ 19 đã có xu hƣớng giao
thoa".
Trong vở nhạc kịch Chim sơn ca và những truyện ngụ ngôn khác,
Lepage đã lấy cảm hứng trang trí sân khấu theo kiểu hoàng cung Trung
Quốc, dàn dựng và biểu diễn dựa trên nghệ thuật rối nƣớc cổ truyền của
Việt Nam. Sân khấu đƣợc thiết kế sáng tạo với một bể nƣớc đƣợc dựng
trƣớc vị trí của dàn nhạc. Sân khấu bên phải và bên trái là chỗ dành cho
dàn nhạc và hợp xƣớng. Các nghệ sĩ múa rối, ca sĩ và nghệ sĩ độc tấu lội
trong nƣớc và điều khiển các con rối đại diện cho các nhân vật y hệt các
nghệ sĩ rối nƣớc Việt Nam.
Lepage kể, khi ông dàn dựng vở Chim sơn ca và những truyện ngụ
ngôn khác, các nghệ sĩ đã phản đối nhiều, họ cho rằng khó mà vừa hát, vừa
điều khiển con rối đƣợc. Tuy nhiên, trải qua quá trình tập luyện, các giọng
ca opera đã tỏ ra thích thú vì có những trải nghiệm mới. "Họ nói với tôi
rằng, đối với một nghệ sĩ Opera thì cơ thể giống nhƣ một cái máy hát, và
dành cho việc hát. Nhƣng khi lội trong nƣớc, điều khiển rối, cơ thể có thêm
một nhiệm vụ nữa là truyền cá tính và cái hồn vào con rối. Việc đƣợc bộc
lộ ở hai hình thái khác nhau, ngƣời nghệ sĩ sẽ có những trải nghiệm mới về
74
bản thân. Từ chỗ phản đối khi phải lội nƣớc để hát, các giọng ca dần trở
nên yêu thích. Thậm chí diễn viên vào vai chim sơn ca còn nói cô ấy ghen
tị với các bạn vì phải làm chim bay trên trời mà không đƣợc lội xuống
nƣớc".
, Lepage muốn giới thiệu vở nhạc kịch tới công chúng quê hƣơng của
rối nƣớc. Lepage nói: "Tôi rất tiếc vì không thể đem toàn bộ vở nhạc kịch
sang đây diễn. Nó quá lớn, quá hoành tráng, chỉ tính riêng ca sĩ đã có tới
tám giọng ca opera cùng dàn hợp xƣớng 80 ngƣời. Kèm theo đó là rất
nhiều nhạc công trong dàn nhạc, các diễn viên, cùng sân khấu, đạo cụ... Tôi
hy vọng trong tƣơng lai có một nguồn tài trợ để đƣa đƣợc vở diễn sang
Việt Nam".
Vở Chim sơn ca và những truyện ngụ ngôn khác đã đƣợc ghi hình
khi lƣu diễn ở Pháp năm 2010. Video ghi lại toàn bộ hình ảnh vở nhạc kịch
này đƣợc trình chiếu ở rạp Cinematheque (Hà Nội). Ngôn ngữ của vở diễn
bằng tiếng Nga, với phụ đề tiếng Việt. Cuối buổi chiếu, đạo diễn Lepage
trò chuyện, chia sẻ với khán giả những câu chuyện hậu trƣờng khi dàn
dựng vở nhạc kịch độc đáo này.
Đây là một hƣớng đi lạ do một một nƣớc ngoài yêu thích múa rối
thực hiện. Điều này chứng tỏ không chỉ những nghệ sĩ Việt Nam đau đáu
trong việc bảo tồn và phát triển múa rối nƣớc mà cả các nghệ sĩ Quốc tế
cũng rất yêu và muốn bộ môn nghệ thuật này sống mãi. Múa rối đã thực sự
tiến xa khỏi lãnh thổ Việt Nam để đến với bạn bè năm châu.
3.2.3. Cách tân múa rối nước với cốt truyện hiện đại
Một hƣớng đi táo bạo và cách tân hoàn toàn đã đƣợc các nghệ sĩ
75
Mua rối của Nhà hát Múa rối Việt Nam thử nghiệm trong dự án “Hồn
Quê”. Đây là một vở diễn rối nƣớc kết hợp với nghệ thuật sắp đặt phƣơng
Tây.
Vở rối đƣa ngƣời xem thấy khung cảnh êm đềm của làng quê Việt
Nam và hòa cùng cuộc sống chất phác của ngƣời nông dân Việt Nam.Trên
sân khấu nƣớc khá huyền ảo với thủy đình bằng phên nứa mộc mạc, hồ sen
lãng mạn, “Hồn quê” đầy ắp những trò diễn truyền thống của rối nƣớc nhƣ
chọi trâu, cày cấy, đàn vịt, đàn cá bơi lội, múa rồng, phƣợng, đua thuyền...
Vở diễn có ba phần: Đất nƣớc Việt Nam lịch sử mấy nghìn năm
dựng nƣớc và giữ nƣớc, Con ngƣời làng quê đoàn kết, thƣơng yêu nhau và
Văn hóa dân tộc tỏa sáng. Nghệ thuật sắp đặt đƣợc thực hiện chung quanh
sân khấu nƣớc, dẫn dắt ngƣời xem tới những hình ảnh giản dị, chân thực và
giàu cảm xúc về cảnh lao động, sinh hoạt truyền thống của ngƣời dân đất
Việt. Một khung cảnh điển hình của làng quê Việt Nam hiện ra trƣớc mắt
khán giả với những đụn thóc, bãi sân phơi đầy rơm, vài chiếc chõng tre,
những chiếc chum nƣớc bên giếng khơi...
Trong nền nhạc hiện đại và hiệu ứng của ánh sáng, cuộc sống đời
thƣờng, rất đỗi thân quen của ngƣời nông dân đầy những vất vả, lo toan
nhƣng luôn mang lại niềm vui, tiếng cƣời.
Có thể nhận thấy những tâm hồn, tính cách hồn hậu ấy qua sự xuất
hiện của các diễn viên trong vai những nghệ nhân đục con rối bên cối xay
thóc, cối giã gạo, các bà các chị áo nâu, đầu thắt khăn mỏ quạ tất tả đi chợ
thổi cơm, ngồi dệt bên khung cửi, nhóm bà con nghỉ chân và cùng nhau nói
chuyện rôm rả bên gốc cây đa đầu làng sau buổi gặt về, những lão nông rít
điếu cày, những ông lão đánh cá, câu ếch.Ðể dàn dựng vở diễn, các nghệ sĩ
76
nhà hát phải lao động sáng tạo hết mình để thiết kế sân khấu, tạo hình con
rối, chuẩn bị đạo cụ. Trong đó, có nhiều đạo cụ, anh chị em nghệ sĩ phải
đặt mua ở các vùng quê ngoại thành Hà Nội.
Nghệ thuật sắp đặt (instalation) là một trong những trào lƣu nghệ
thuật mới từ phƣơng Tây tràn vào Việt Nam khoảng những năm cuối thế kỉ
XX, đầu thế kỉ XXI và đƣợc giới văn nghệ sĩ thành thị tiếp nhận từ dè dặt
đến hƣởng ứng mạnh mẽ. Rất nhiều nghệ sĩ Việt Nam đã thực hiện nghệ
thuật sắp đặt lấy ý tƣởng từ những vật dụng của cuộc sống nông nghiệp
truyền thống nhƣ rổ, rá, nơm, đó, chum, vại, rơm rạ, đồ mã... để nói về suy
nghĩ, thái độ của con ngƣời hiện đại đối với văn hoá truyền thống: sự nuối
tiếc, hoài cổ, thờ ơ hay quên lãng.… Ngƣời diễn viên trong các vở rối này
không giữ vai trò chủ đạo mà chỉ là yếu tố bổ trợ để tạo một nền cảnh sống
động thay vì một nền cảnh tĩnh của phông màn và đạo cụ mà ta vẫn thấy ở
rối nƣớc sân khấu. Yếu tố con ngƣời đƣợc điều tiết ở một mức độ vừa phải
để không lấn át vai trò của các con rối. Thực ra ta có thể đọc thấy đƣợc ý
đồ của tác giả khi đƣa vai diễn con ngƣời vào với dụng ý để tái hiện lại
khung cảnh xem rối ở nông thôn, mục đích là để khắc phục nhƣợc điểm
của sân khấu rối trong nhà, chúng ta xem hai lớp kịch chồng lên nhau, một
lớp là những diễn viên đóng vai những ngƣời nông dân với những sinh
hoạt quanh ao rối, một lớp lõi là những tiết mục rối nƣớc. Sự ra đời của
những vở rối này cho thấy việc kết hợp rối nƣớc với nghệ thuật mới dƣờng
nhƣ là một hƣớng đi mở cho rối nƣớc hiện đại. Các nghệ sĩ nhận thấy có
mối liên hệ gần gũi nào đó giữa biểu diễn rối nƣớc và nghệ thuật sắp đặt và
rõ ràng khi kết hợp với nghệ thuật hiện đại thì rối nƣớc đã mang màu sắc
mới, màu sắc hiện đại. Tuy nhiên, nghệ thuật hiện đại có lí thuyết của riêng
nó. Ví dụ nhƣ nghệ thuật sắp đặt là nghệ thuật sử dụng những vật dụng sẵn
77
có để xây dựng một kết cấu không gian có ý tƣởng. Việc lựa chọn vật dụng
nhƣ thế nào, số lƣợng, mật độ, tần suất xuất hiện cũng nhƣ cách thức bài trí
các vật dụng đều phải đạt đƣợc sự thống nhất về nội dung và làm bật ý
tƣởng chủ đạo. Không nên hiểu nghệ thuật sắp đặt đơn giản chỉ là một hình
thức minh hoạ hình ảnh hay nghệ thuật của mặt phẳng. Đánh giá từ góc độ
học thuật, không gian sắp đặt đã mở rộng hơn khung cảnh sân khấu (chứ
không mở rộng phạm vi diễn rối), sự tham gia trình diễn của con ngƣời
(một dạng performance art đơn giản), phần nào làm sáng tỏ thêm những
hiểu biết về không gian sống của rối, của những ngƣời làm rối... và đây là
những kết quả sáng tạo đáng ghi nhận. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật cho
rằng nghệ thuật sắp đặt là một gợi mở về ý tƣởng cho rối nƣớc, tuy nhiên
chúng ta phải khai thác nghệ thuật mới ở mức độ nào, ở hình thức thể hiện,
ở nội dung, ngôn ngữ hay triết lí nghệ thuật? Trong cách làm những vở rối
mới hiện nay, nghệ thuật sắp đặt có lẽ chỉ là tên gọi còn không có ngôn ngữ
biểu đạt của nghệ thuật. Những vật dụng đƣợc bày ra cho ngƣời ta nhận
biết nó là cái gì chứ không cho ngƣời ta cảm nhận nó nhƣ thế nào. Ví dụ
những cái chum, vại... đƣợc sắp đặt chỉ cho ngƣời ta biết đó là những vật
dụng của nông thôn, còn các vật dụng đó có còn tồn tại hay không và tồn
tại nhƣ thế nào trong cuộc sống hiện nay của ngƣời nông dân thì cách bày
đặt đã không thể hiện đƣợc. Chính vì vậy, những vở rối mới sử dụng hình
thức nghệ thuật đƣơng đại nhƣng lại không chuyển tải đƣợc những nội
dung mang tiếng nói của thời đại. Trong biểu diễn rối nƣớc, nghệ thuật sắp
đặt hay nghệ thuật trình diễn chƣa đƣợc hiểu đúng nên chƣa có ngôn ngữ
biểu đạt hiệu quả. Từ góc độ văn hóa, biểu diễn rối nƣớc trong không gian
của nghệ thuật sắp đặt là sản phẩm của những ngƣời làm rối chuyên
nghiệp. Cuộc sống đô thị với mạng lƣới thông tin cập nhật và môi trƣờng
78
nghệ thuật sôi động luôn cung cấp cho họ những năng lƣợng cần thiết để
sáng tạo. Họ có môi trƣờng chuyên môn để trao đổi, để thu thập những
thông tin phản hồi cho những thử nghiệm, họ cũng có đủ trình độ và nhận
thức để tiếp xúc với những luồng văn hoá nghệ thuật mới và hoàn toàn có
khả năng vận dụng ngôn ngữ của nhiều hình thức nghệ thuật mới này để
xây dựng rối nƣớc hiện đại. Cách làm tuy hay và có hƣớng phát triển, song
có lẽ đây chỉ là một trong những hƣớng đi phù hợp với các đơn vị rối
chuyên nghiệp vì cần phải có kinh phí, cần phải có những con ngƣời đƣợc
đào tạo và có trình độ hiểu biết nhất định. Còn với rối nƣớc dân gian của
ngƣời nông dân, đổi mới vẫn là một con đƣờng bỏ ngỏ chƣa thể thực hiện
đƣợc. Nghệ thuật với họ xƣa nay là một nhu cầu và họ cứ làm theo nhu cầu
mà chẳng cần biết đến những học thuyết hay triết lí nghệ thuật nào.
Yếu tố âm nhạc và ánh sáng tăng giảm, rất ăn nhịp với các cảnh diễn,
tạo nên điểm nhấn cho các chi tiết, các hành động của diễn viên. Khi thì
nhộn nhịp, vui tƣơi, khi lại gấp dáp, dữ dội. Đó chính là một điểm khác biệt
và tạo đƣợc dấu ấn đậm nét ở vở diễn này.
NSƢT, đạo diễn Vƣơng Duy Biên cho biết: "Một tác phẩm múa rối
ấn tƣợng, không chỉ giới thiệu đƣợc vẻ đẹp của loại hình rối nƣớc mà
còn làm sinh động cho các nhân vật rối bằng các hình thức nghệ thuật biểu
diễn mới”.Từ ý tƣởng đó, việc đƣa nghệ thuật sắp đặt và các yếu tố nghệ
thuật đƣơng đại vào nghệ thuật múa rối "thổi" vào "Hồn quê" hơi thở dân
tộc một cách sinh động.
Tuy nhiên, vẫn còn những ý kiến cho rằng dƣờng nhƣ đạo diễn đƣa
thêm nhiều chi tiết sắp đặt, hơn nữa có những câu thoại thừa không phù
hợp với một số cảnh diễn. Dù sao, không thể phủ nhận tác phẩm "Hồn
quê" đã thành công khi tìm cách thể hiện mới cho loại hình nghệ thuật
79
truyền thống của dân tộc.Ðiều đặc biệt là nếu những vở diễn nhƣ thế này
biểu diễn cho ngƣời nƣớc ngoài, sẽ giúp họ hiểu hơn về cuộc sống cũng
nhƣ tâm hồn ngƣời Việt Nam.Vở rối “Hồn quê” vẫn còn đƣợc ê-kíp dàn
dựng chỉnh sửa và hoàn thiện, chắc chắn sẽ đƣa đến ngƣời xem nhiều điều
mới lạ.
Sau những đánh giá cao về các vở rối của Nhà hát múa rối trung
ƣơng trong thời gian qua, lần này “Hồn quê” một lần nữa khẳng định
hƣớng đi của nhà hát, bên cạnh việc phát triển rối nƣớc, sẽ luôn tạo điều
kiện cho việc tìm ý tƣởng cho các cách thể hiện mới nhằm thu hút công
80
chúng, nhất là trẻ em.
KẾT LUẬN
Múa rối nƣớc là một sáng tạo độc đáo của cƣ dân vùng châu thổ sông
Hồng, đƣợc manh nha từ công cuộc chế ngự nƣớc, cải tạo nƣớc thành yếu
tố số một cho việc sản xuất nông nghiệp. Phạm vi hoạt động của nó bao
gồm nhiều tỉnh nhƣ Thái Bình, Phú Thọ, Thanh Hoá, Nam Hà, Hà Tây...
Yếu tố độc đáo của rối nƣớc là sử dụng mặt nƣớc làm sân khấu để con rối
diễn trò, đóng kịch. Buồng trò rối nƣớc đƣợc nhân dân quen gọi là nhà rối
hay thủy đình, đƣợc dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tƣợng trƣng
cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Tất cả buồng trò, sân khấu
cùng trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... đúng là một khu đình
làng thu nhỏ lại thành một cảnh đẹp nhƣ trong mộng với những mái uốn
cong lung linh phản chiếu trên mặt nƣớc. Sân khấu rối nƣớc là khoảng
trống trƣớc mặt buồng trò, nó chỉ thực sự hoàn chỉnh khi đã vào chƣơng
trình biểu diễn và cũng bắt đầu mất đi ngay khi chấm dứt tiết mục cuối
cùng. Qua những tiết mục biểu diễn của nghệ thuật rối nƣớc cổ truyền,
những cảnh sinh hoạt bình thƣờng về đời sống, tập tục tinh thần và vật chất
truyền đời của ngƣời nông dân Việt Nam đƣợc thể hiện một cách rõ nét. Ðể
làm đƣợc một con rối hoàn chỉnh, phải trải qua rất nhiều công đoạn từ đục
cốt đến trang trí hóa trang và rất nhiều công đoạn mà ngƣời nghệ nhân
không thể bỏ qua. Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc. Sự
thành công của quân rối nƣớc chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình,
hành động làm trò đóng kịch của nó. Các nghệ nhân dân gian đã dựa vào
kinh nghiệm, lần mò trong thực tế, tìm tòi, sáng tạo và để lại cho đời nay
nhiều kiểu máy rối nƣớc phong phú và đa dạng. Ta có thể gặp ở đây khá
81
nhiều đồ dùng thƣờng ngày của nghề lúa nƣớc mà ngƣời nông dân tự làm
ra nhƣ thừng, sào, vọt... để làm máy điều khiển quân rối. Ngƣời nghệ nhân
rối nƣớc đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ thao tác từng cây
xào hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dƣới nƣớc.
Ngâm bùn lội nƣớc để làm nghệ thuật không phải là một công việc bình
thƣờng thích thú với mọi ngƣời. Nếu không phải là ngƣời sống ân tình với
nƣớc tới mức "Sống ngâm da, chết ngâm sƣơng" nhƣ cƣ dân trồng lúa
nƣớc, thì khó có đƣợc sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân
vật rối nƣớc. Nội dung các trò rối nƣớc truyền thống đều đƣợc lấy cảm
hứng từ chính cuộc sống của ngƣời noogn dân Việt Nam. Đến với múa rối
ta đƣợc nghe những lời ca dao chứa chan tình cảm, đƣợc hiểu thêm về tín
ngƣỡng, phong tục quê hƣơng, đƣợc khắc sâu thêm về những trang sử hào
hùng của dân tộc. Thông qua các trò của rối nƣớc, ngƣời xem đã cảm nhận
đƣợc sắc thái của hội làng, lại phảng phất những mơ ƣớc bình dị cho cuộc
sống. Họ mơ ƣớc có đƣợc cuộc sống may mắn, hạnh phúc và bình yên.
Nghệ thuật múa rối cổ truyền từ thời xa xƣa đã mang đậm bản sắc dân tộc
từ vẻ dịu dàng, man mác đồng quê, sự chịu thƣơng chịu khó tần tảo sớm
hôm lo cho cuộc sống, tới sự quật cƣờng anh dũng bảo vệ nơi chôn rau cắt
rốn khi kẻ thù xâm chiếm bờ cõi giang sơn. Ở đấy vừa trần tục gần gũi lại
vừa linh thiêng, nó cũng chính là biểu tƣợng cho mơ ƣớc của cộng đồng
ngƣời Việt, một nghệ thuật quen thuộc và gần gũi với ngƣời nông dân từ
bao thế kỷ qua. Hiện nay, khi cuộc sống đổi thay, rối nƣớc cũng phải
chuyển mình thay đổi. Nhƣng các nghệ sĩ múa rối nƣớc vẫn luôn tâm niệm
rằng, rối nƣớc là nghệ thuật đặc trƣng của Việt Nam. Chính vì vậy, dù có
cách tân nhƣ thế nào, rối nƣớc cũng cần giữ đƣợc bản sắc đậm đà của dân
82
tộc Việt.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đổng Chi (1957), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
2. Hoàng Chƣơng chủ biên (2012), Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
3. Hoàng Kim Dung (1997), Múa rối Việt Nam – những điều nên
biết,Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Lê Điệp (2001), Thực trạng và giải pháp khôi phục, phát triển nghệ
thuật múa rối nước Thái Bình, Sở Văn hóa thông tin Thái Bình, Thái
Bình.
5. Nguyễn Văn Định (2007), Nghệ thuật rối nước làng Đống (xã Đông
Các, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình), Luận văn thạc sĩ Văn hóa
học, Viện nghiên cứu Văn hóa, Hà Nội.
6. Nguyễn Bích Hà (2012), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học
sƣ phạm, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Hiền (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt
Nam hiện nay, nhiều tác giả, Nxb Thế giới, Hà Nội.
8. Văn học (2009), Nghệ thuật múa rối truyền thống trên đất Thăng
Long, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
9. Nguyễn Huy Hồng (1974), Nghệ thuật múa rối Việt Nam, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
10. Nguyễn Huy Hồng (1987), Nghệ thuật múa rối nước Thái
84
Bình, Sở Văn hóa và Thông tin Thái Bình, Thái Bình.
11. Nguyễn Huy Hồng (1996), Rối nước Việt Nam, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
12. Nguyễn Huy Hồng (1998), Văn hóa làng Nguyễn, Sở Văn hóa
thông tin và thể thao Thái Bình, Thái Bình.
13. Nguyễn Huy Hồng (2002), Người Hà Nội và nghệ thuật múa
rối thế kỉ XX, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
14. Nguyễn Huy Hồng (2005), Lịch sử nghệ thuật múa rối Việt
Nam, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
15. Nguyễn Huy Hồng (2007), Diễn xướng dân gian và nghệ
thuật sân khấu truyền thống Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
16. Nguyễn Huy Hồng (2007), Nghệ thuật múa rối, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
17. Đỗ Huy (1990), Bản sắc dân tộc của văn hóa, Viện Văn hóa,
Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Huy (2000), Liên hoan Quốc tế về múa rối tại
Hà Nội, Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Việt Hƣơng (2006), Lễ hội cầu nước – trấn thủy
ở Hà Nội và phụ cận, Công trình tiến sĩ Văn hóa học, Viện nghiên
cứu Văn hóa, Hà Nội.
20. Trần Đình Hƣợu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb
Văn hóa, Hà Nội,
21. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân
gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Đinh Gia Khánh (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb
85
Giáo dục, Hà Nội.
23. Lê Văn Kỳ (2002), Lễ hội nông nghiệp Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
24. Vũ Tự Lập chủ biên (1991), Văn hóa và cư dân châu thổ Bắc
Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Đỗ Long (1993), Tâm lí cộng đồng làng và di sản, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Hữu Mão (1994), Hoa tay làng Chàng, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
27. Hữu Ngọc (2006), Rối nước, Nxb Thế giới, Hà Nội.
28. Hữu Ngọc (2008), Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
29. Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
30. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
31. Nguyễn Quân (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
32. Lê Chí Quế (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Nguyễn Hữu Quýnh (1987), Danh nhân lịch sử Việt Nam, tập
I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Tô Sanh (1976), Nghệ thuật múa rối nước, Nxb văn hóa, Hà
Nội.
35. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội
86
nhập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
36. Phan Cẩm Thƣợng (2008), Nghệ thuật ngày thường, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
37. Phạm Trọng Toàn (1997), Tìm hiểu nghệ thuật múa rối nước
và sự phối hợp của âm nhạc trong biểu diễn múa rối nước cổ truyền
làng Nguyễn, Công trình thạc sĩ Văn hóa học, Trƣờng Đại học Văn
hóa, Hà Nội.
38. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền Bắc
Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian, những lĩnh
vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian, những
phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Trần Quốc Vƣợng chủ biên (1996), Văn hóa học đại cương và
cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
43. Trần Quốc Vƣợng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy
87
ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.