ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------- LÊ THỊ THANH PHƯƠNG
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Nội - năm 2008
Lời cám ơn
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của
PGS.TS Trần Nho Thìn-người đã có những định hướng ban đầu, những lời nhận
xét và chỉ dẫn quý báu trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn. Tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc, chân thành tới thầy về những gợi ý quý báu và thời gian mà
thầy đã dành cho tôi.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới các thầy cô khoa văn học, Trường đại học
KHXH&NV - Đại học QG Hà Nội.
Tôi xin cảm ơn tới các thầy cô giáo trường THCS Vĩnh Tường, nơi tôi đang
công tác đã tạo điều kiện cho tôi học tập trong suốt thời gian qua.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã hết lòng động viên và tạo điều kiện thuận lợi để tôi có kết quả học tập
như ngày hôm nay.
Hà Nội, ngày ……tháng … năm 2008…
1
Đề tài: TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƢ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đại Việt sử kí toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời trung đại. Tác
phẩm là tập đại thành gồm nhiều bộ sử do nhiều nhà sử học của các đời biên soạn
trong đó người có cống hiến lớn nhất là Ngô Sĩ Liên .
Đại Việt sử ký toàn thư được coi như một di sản văn hoá dân tộc. Ra đời trong
thời trung đại, khi mà tư duy nguyên hợp còn tồn tại và chi phối khá mạnh mẽ đến
việc trước tác, Đại Việt sử ký toàn thư là tác phẩm điển hình lưu dấu ấn của lối tư
duy này. Tác phẩm không chỉ có giá trị lịch sử to lớn mà còn có giá trị văn học
sâu sắc. Đại Việt sử ký toàn thư đã xây dựng thành công nhiều chân dung nhân vật
lịch sử, miêu tả thành công những bối cảnh, không gian, thời gian xẩy ra sự việc.
Ngoài ra nguồn sử liệu phong phú trong tác phẩm còn là nguồn tư liệu quý giá cho
nghiên cứu và sáng tác văn học. Đó là một trong những lý do thôi thúc chúng tôi
tìm hiểu đề tài Tìm hiểu giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư. .
Đại Việt sử ký toàn thư bao gồm: quyển thủ và 24 quyển ghi chép lịch sử
nước ta từ thời kỳ Hồng Bàng cho đến năm 1675. Việc nghiên cứu giá trị văn học
của Đại Việt sử ký toàn thư góp phần làm rõ tính nguyên hợp của tác phẩm: văn-
sử bất phân và giúp cho bạn đọc thấy được sự ảnh hưởng của lối viết trong bộ sử
này rất sâu rộng đến nhiều thế hệ sau này. Ở giai đoạn đầu tiên, giữa văn học và
các bộ môn khoa học khác như: triết học, sử học, thiên văn học, y học chưa có
danh giới rõ ràng… . Văn học chưa tách ra thành một bộ môn nghệ thuật độc lập
như ngày nay. Thời cổ, văn học có thể là thơ ca mà cũng có thể là sử ký, thậm chí
viết sử còn được coi là hình thức sáng tác văn học cao quý nhất. Người xưa coi
văn chương là thú chơi tao nhã để di dưỡng tính tình, có thể cảm động được lòng
người, di dịch được phong tục, tập quán chuyển biến được cuộc đời công hiệu giáo
2
hoá của văn chương là rất lớn …Và viết sử chính là cách giáo huấn đạo đức hiệu
quả nhất, sâu sắc nhất.
Tìm hiểu giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy được quan
niệm về nhân sinh của cha ông ta trong quá khứ “sự ngưng kết vững vàng của trí
tuệ dân tộc và phản ánh sức sống người Việt trong mấy ngàn năm trước
đó”.(7,T289)
Đại Việt sử ký toàn thư có giá trị sử học, văn học rất lớn nên hiện nay chương
trình sách Ngữ văn lớp 10 ( cải cách) do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức biên soạn,
đã đưa một số đoạn trích từ bộ sử này vào để giáo dục cho học sinh thời đại mới về
những nét đẹp trong nhân cách con người Việt Nam xưa đồng thời cho học sinh thấy
được phần nào tính nguyên hợp và giá trị văn học của tác phẩm. Đây cũng là lí do
thôi thúc tôi, với tư cách một giáo viên dạy văn ở trường phổ thông, đi tìm giá trị văn
học của Đại Việt sử ký toàn thư.
2. Lịch sử vấn đề.
Đại Việt sử ký toàn thư đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trên các lĩnh
vực lịch sử, văn hoá, văn học…Dưới đây xin điểm qua một số công trình nghiên cứu
liên quan đến tác phẩm.
Trên lĩnh vực sử học có thể kể đến đề tài tiến sĩ của Nguyễn Thi “Sự phát
triển của sử học Việt Nam từ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đến Đại Việt sử ký
toàn thư cuả Ngô Sĩ Liên”. Ở công trình này tác giả chỉ ra công lao đóng góp và
phát triển của Ngô Sĩ Liên so với bộ Đại Việt sử ký. Ngô Sĩ Liên biên soạn thêm
phần ngoại kỷ, chép sử từ thời Hồng Bàng cho đến khi quân Minh bị đánh đuổi ra
khỏi nước ta. Phần bổ sung của ông làm cho lịch sử nước ta thời kỳ dựng nước
mang tính chất nửa lịch sử nửa huyền thoại. Hơn nữa bắt đầu từ Ngô Sĩ Liên tác
phẩm mới mang tên là Đại Việt sử ký toàn thư và cấu trúc của tác phẩm được chia
làm hai phần: Ngoại kỷ và bản kỷ.
3
Có thể kể đến bài viết của Nguyễn Phương trên tạp chí Đại học Huế năm
1960 với nhan đề: “Phương pháp viết sử của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên”. Ở bài
viết này, tác giả chủ yếu chỉ ra đặc điểm cách tiếp cận lịch sử của các nhà nho. Hai
chữ “trung”, “hiếu” đã ảnh hưởng phức tạp đến suy nghĩ của họ. Họ chép sử chủ
yếu để nêu gương, dăn dạy, để truyền thụ luân lý chứ không phải tìm kiếm chân lí
lịch sử…Cách chép sử như vậy dễ làm mất đi tính khách quan trung thực của khoa
học lịch sử và mang nặng tính chủ quan của người chép sử. Nguyễn Phương đứng
trên quan điểm của người hiện đại để phê phán các nhà chép sử thời xưa chứ chưa
quan tâm tìm hiểu giá trị văn học của tác phẩm.
Trong cuốn Từ điển văn học (Nhà xuất bản Thế giới), Bùi Duy Tân đã chỉ
ra: “Đại Việt sử ký toàn thư không những có giá trị lịch sử mà còn có giá trị văn
học. Tác phẩm thể hiện rõ quan niệm “văn sử triết bất phân”. Các tác giả viết sử đã
chú ý đến nghệ thuật viết văn vì vậy chép sử vẫn có giá trị văn học. Giá trị ở đây là
ở những đoạn kể truyện hấp dẫn, có miêu tả được bối cảnh, không khí xẩy ra sự
việc, là ở những trang viết về nhân vật lịch sử mà lại chú ý ở tính cách, hành động,
có cả tâm trạng suy nghĩ của nhân vật”( 50 ,tr1015). Những nhận xét cô đọng này
là những gợi ý rất qúi giá cho việc xử lý đề tài của chúng tôi.
Đoàn Thu Vân trong phần hướng dẫn giảng dạy hai trích đoạn của Đại Việt
sử ký toàn thư cũng nhấn mạnh giá trị nhiều mặt, kể cả giá trị văn học của bộ sử:
“Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử lớn của Việt Nam thời trung đại do Ngô Sĩ
Liên biên soạn, hoàn tất năm 1479, gồm 15 quyển, ghi chép lịch sử nước ta từ thời
Hồng Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi(năm 1479). Theo lời tựa của chính
tác giả ngay từ đầu cuốn sách thì Đại Việt sử ký toàn thư được biên soạn dựa trên
cơ sở sách Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu ở đời Trần và Sử ký tục biên của Phan
Phu Tiên ở đời Hậu Lê. Tác phẩm thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, vừa có giá
trị sử học vừa có giá trị văn học”(26,tr 41).
4
Trong bài viết “Nhà sử học Ngô Sĩ liên với lối viết toàn thư” Hoàng Văn
Lâu cũng ghi nhận giá trị văn học của công trình này: “Đại Việt sử ký toàn thư có
rất nhiều “truyện” về các bậc đế vương, các bà thái hậu hoàng phi, các hoàng tử
các công chúa, các thần văn, thần võ, các tao nhân mặc khách cho đến các nhân vật
không có địa vị to tát trong xã hội”(7,tr207 ).
Giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư còn được đề cập đến trong một số
công trình nghiên cứu: Thi pháp văn học trung đại Việt Nam của Trần Đình Sử ,
một số bài viết về bài Nam quốc sơn hà và Bình Ngô đại cáo của Bùi Duy Tân,
Con đường giải mã tác phẩm văn học trung đại Việt Nam của Nguyễn Đăng Na.
Như vậy các nhà nghiên cứu văn học trung đại đều đã ghi nhận, khẳng định giá trị
văn học của Đại Việt sử ký toàn thư. Nhưng chưa có tác giả nào đi sâu vào nghiên
cứu một cách hệ thống các giá trị văn học của nó. Tiếp thu, kế thừa những ý kiến
gợi ý của các nhà nghiên cứu, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ chỉ
ra những biểu hiện cụ thể về giá trị văn học của bộ sử ký này.
Văn bản được sử dụng để phân tích là bản dịch bộ Đại Việt sử ký toàn thư (
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, bản in năm 1993) được dịch từ bản in Chính Hoà
thứ 18(năm 1697).
3 .Xác định đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đại Việt sử ký toàn thư
3.2 Phạm vi đề tài: tìm hiểu giá trị văn học ở bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
3.3 Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài: chỉ ra được giá trị văn học nhiều mặt của
Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là một đề tài lớn, có thể trở thành đối tượng nghiên
cứu cho các luận án bậc cao hơn. Trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ và
thời gian có hạn, chúng tôi xác định chỉ xới lên một số vấn đề trong rất nhiều vấn
đề về giá trị văn học của bộ sử. Khuôn khổ và phạm vi thời gian cũng chỉ cho phép
5
chúng tôi dừng lại trên một số tư liệu khảo sát có chọn lọc để phân tích. Các
chương mục cụ thể như sau:
- Chương I: tìm hiểu mục đích, phương pháp viết sử của Ngô Sĩ Liên, sự chi
phối của quan điểm Nho gia về lịch sử, nhấn mạnh sự kết hợp hai phương thức
biên niên và kỷ truyện.
-Chương II. Tìm hiểu tính chất văn chương của Đại Việt sử ký toàn thư như là
một tác phẩm văn học qua việc phân tích tư duy, bút pháp văn học thể hiện trong bộ
sử qua nhiều phương diện khác nhau.
-Chương III. Tìm hiểu giá trị bổ trợ mà Đại Việt sử ký toàn thư có thể cung cấp
cho người hiện đại để hiểu biết về hiện thực xã hội, con người liên quan đến văn học
và đời sống văn học trong thời kỳ lịch sử được bộ sử phản ánh. Nói cách khác,
chương này đi tìm từ bộ sử các dẫn liệu về ngữ cảnh của các sáng tác văn học từ thế
kỷ XV trở về trước và xác định giá trị như là chất liệu cho sáng tác văn học đời sau.
Chương này về lý thuyết đòi hỏi phải xử lý một lượng tài liệu rất lớn nhưng chúng tôi
trong khuôn khổ thời gian hạn hẹp và phạm vi khả năng của học viên cao học, chỉ xin
chọn một số trường hợp chúng tôi coi là tiêu biểu để phân tích. Một sự phân tích đầy
đủ tất cả các nguồn tư liệu sẽ là nhiệm vụ của một công trình tầm cao hơn, như luận
án Tiến sĩ.
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1phương pháp phân tích, chứng minh.
4.2 phương pháp so sánh.
4.3 phương pháp thống kê.
4.4 Phương pháp xã hội –lịch sử.
4.5 phương pháp tiếp cận văn hoá học.
6
5 Đóng góp mới của luận văn: Lần đầu tiên nghiên cứu có hệ thống giá trị
văn học của Đại Việt sử ký toàn thư .
6. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba
chương.
Chương I : Khái quát chung về Đại Việt sử ký toàn thư.
Chương II: Tính văn chương của Đại Việt sử ký toàn thư.
Chương III: Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu và
sáng tác văn học.
7
Chƣơng I: QUAN NIỆM VÀ PHƢƠNG PHÁP VIẾT SỬ TRONG
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƢ
1. Quan niệm về lịch sử và mục đích chép sử của tác giả Đại Việt sử ký
toàn thƣ
Đại Việt sử ký toàn thư là tập đại thành của nhiều bộ sử do nhiều nhà sử học
các đời biên soạn, từ Lê Văn Hưu đời Trần qua Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ
Quỳnh đời Lê Sơ, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê Trung Hưng. Tác phẩm ghi
chép lịch sử dân tộc ta từ họ Hồng Bàng đến năm 1675.
Trong các nhà chép sử trên thì Ngô Sĩ Liên là người có đóng góp nhiều nhất .
Ngô Sĩ Liên người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Không rõ năm sinh và năm mất chỉ biết theo Đại Việt
lịch triều đăng khoa lục, ông thọ 98 tuổi. Ông đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn (1418-1427) và đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3, đời Lê
Thái Tông (1434-1442) .
Dưới triều Lê, Ngô Sĩ Liên giữ chức Đô ngự sử đời Lê Nhân Tông (1434-
1459) rồi Lễ bộ thị lang Triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, kiêm sử
quan tu soạn đời Lê Thánh Tông (1460-1479). Cũng như Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ
Liên hoạt động trong hai cơ quan chuyên trách về văn hoá và giáo dục, là Quốc tử
giám và Quốc sử viện . Năm 1479, Lê Thánh Tông “sai Sử quan tu soạn Ngô Sĩ
Liên soạn Đại Việt sử ký toàn thư gồm 15 quyển”
Ngô Sĩ Liên đã thêm vào Đại Việt sử ký phần Ngoại kỷ làm cho lịch sử nước
ta trong thời mở nước mang tính chất nửa lịch sử nửa huyền thoại và lịch sử nước
ta được nhìn nhận một cách hệ thống…Riêng Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ
Liên ghi chép lịch sử nước ta bắt đầu từ thời kỳ mở nước( họ Hồng Bàng) và dừng
8
lại năm 1427 khi quân Minh bị đuổi ra khỏi nước ta. Phần còn lại do các nhà sử
học đời sau ghi chép và hoàn thiện .
So với Ngô Sĩ Liên các nhà sử học khác cũng có những đóng góp không hề
nhỏ . Tiêu biểu là Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ Lý huyện Đông Sơn,
nay là thôn Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, thuộc dòng
dõi của Trấn bộc xạ Lê Lương đời Đinh. Ông đỗ bảng nhãn năm Đinh Mùi (1247)
đời Trần Thái Tông ,nhận chức vị Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Quốc viện giám tu
nghiệp . Ông vâng mệnh vua biên soạn bộ Đại Việt sử ký chép lịch sử từ thời Triệu
Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Theo con số xác minh của nhiều nguồn sử liệu thì bộ
sử của Lê Văn Hưu gồm 30 quyển.
Sang đời Lê Nhân Tông (1443-1459) Phan Phu Tiên lại vâng lệnh vua Lê biên
soạn tiếp từ đời Trần Thái Tông (1225-1258) cho đến khi quân Minh bị đuổi ra
khỏi nước ta năm 1427. Bộ quốc sử của Phan Phu Tiên coi như tiếp tục bộ quốc sử
đời Trần do Lê Văn Hưu biên soạn nên vẫn mang tên Đại Việt sử ký. Phan Phu
Tiên người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Tây Hồ, thành phố
Hà Nội. Ông đỗ Thái học sinh năm 1396 đời Trần sau lại thi đỗ khoa Minh kinh
năm 1429 đời Lê Thái Tổ. Ông viết tiếp bộ sử ký khi đang giữ chức Quốc tử giám
bác sĩ tri quốc sử viện. Theo Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú thì bộ sử của Phan
Phu Tiên gồm 10 quyển.
Đầu thế kỷ XVI, năm 1511 Vũ Quỳnh với cương vị sử quan Đô tổng tài, biên
soạn xong bộ Đại Việt thông giám thông khảo chép lịch sử nước ta từ họ Hồng
Bàng cho đến khi Lê Lợi “đại định thiên hạ” tức cho đến thắng lợi của sự nghiệp
bình Ngô dẫn đến sự sáng lập vương triều nhà Lê. Như vậy bộ sử của Vũ Quỳnh
bao quát thời gian lịch sử gần như bộ sử của Ngô Sĩ Liên và chắc chắn dựa trên cơ
sở bộ sử của Ngô Sĩ Liên. Nếu như bộ sử của Ngô Sĩ Liên có 15 quyển thì bộ sử
của Vũ Quỳnh chia thành 24 quyển.
9
Sang thời Lê Trung Hưng, năm 1665 Phạm Công Trứ (1600-1675) cùng một
nhóm triều thần do ông đứng đầu được giao nhiệm vụ biên soạn quốc sử. Đó là bộ
Đại Việt sử ký tục biên .
Năm 1676, Thượng thư bộ Công Hồ Sĩ Dương được giao nhiệm vụ “trông coi
việc sửa quốc sử”. Nhưng đến năm 1681 Hồ Sĩ Dương mất nên Tham tụng Thượng
thư bộ hình tri trung thư giám Lê Hy (1646-1702) lại được giao nhiệm vụ biên
soạn quốc sử. Ông kế thừa những công trình của người đi trước và biên soạn tiếp
từ Lê Huyền Tông năm Cảnh Trị (1663) đến Lê Gia Tông năm Đức Nguyên 2
(1675) cũng gọi là Bản kỷ tục biên. Đây là phần biên soạn mới của Lê Hy. Tháng
11 năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà 18 (1697), bộ quốc sử do nhóm Lê Hy
biên soạn hoàn thành “Sách làm xong dâng lên ngự lãm, bèn sai thợ khắc in ban bố
trong thiên hạ”. Đây chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư – một bộ quốc sử lần đầu
tiên được khắc in toàn bộ và còn được bảo toàn đến ngày nay.
Hiện nay thư viện nghiên cứu Hán Nôm tàng chữ 6 bản in Đại Việt sử ký toàn
thư là A3/14, VHV179/1-9, A2694, VHV1499/1-11, VHV2330-2333, VHV2334-
2236. Thư viện Sử học có một bản in Đại Việt sử ký toàn thư mang ký hiệu
HV118. Đây là một bản in đầy đủ gần giống với bản A3 của viện nghiên cứu Hán
Nôm. Thư viện Viện Khảo học của Sài Gòn trước đây nay là Thư viện Khoa học
xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, lưu giữ một bản in ký hiệu VS4. Bộ sách này
đóng thành 7 tập và 24 quyển. Như vậy là nước ta hiện nay có 8 ký hiệu sách Đại
Việt sử ký toàn thư có thể quy vào 7 văn bản. Trong các bản khắc in của Đại Việt
sử ký toàn thư, văn bản khắc in Chính Hoà 18 là văn bản đáng tin cậy nhất. Hiện
nay đã được dịch ra tiếng Việt và là nguồn tư liệu cần thiết không chỉ cho ngành sử
học mà còn cho nhiều ngành khoa học khác.
Đại Việt sử ký toàn thư theo bản in khắc ván từ năm Chính Hoà (1697) bao
gồm Quyển thủ và 24 quyển.
10
Quyển thủ: gồm các lời tựa của Lê Hy, Phạm Công Trứ , Ngô Sĩ Liên và biểu
dâng sách, phàm lệ, kỷ niên mục lục và bài Việt giám thông khảo tổng luận của Lê
Tung
Phần ngoại kỷ: gồm 5 quyển từ họ Hồng Bàng đến các sứ quân.
Phần bản kỷ: gồm 19 quyển, từ triều Đinh đến năm 1675.
Mục đích chép sử của các sử gia được thể hiện ngay ở phần đầu trong bài Biểu
dâng sách của Ngô Sĩ Liên, tác giả viết “Thần trộm nghĩ: Ngày xưa làm sách làm
tin là điển của nước lớn, để ghi chép quốc thống lúc lìa, lúc hợp, để tỏ rõ trị hoá khi
thịnh khi suy. Ấy là muốn gương răn cho đời sau, há chỉ chép cơ vi về dĩ vãng. Ắt
thiện ác phải làm rõ ràng trong khen chê, thì người đời sau mới biết ý khuyên
răn”(1,Tr101 ). Ngô Sĩ Liên vẫn theo quan điểm truyền thống về lịch sử của Nho
gia như một quá trình thịnh suy, hưng vong, bĩ thái có tính chất chu kỳ của các
triều đại trị vì và truy tìm nguyên nhân của sự thịnh suy ấy, nhằm rút ra những bài
học đạo đức nhắn gửi cho những người làm chính trị đời sau. Quan điểm này từng
được nhấn mạnh trong một số tác phẩm về lịch sử của Trung Quốc như Kinh Xuân
Thu của Khổng Tử, Sử ký của Tư Mã Thiên, Tư trị thông giám của Tư Mã Quang,
Thông giám cương mục của Chu Hy...Các nhà sử học ở Việt Nam thời trung đại đã
chịu ảnh hưởng tư tuởng sử học của các Nho gia Trung Quốc là điều đã rõ.
Mục đích chép sử như trên qui định kết cấu và nội dung bộ sử. Trục chính của bộ sử
xoay quanh các triều đại; các sự kiện lịch sử chủ yếu là các sự kiện có liên quan đến
đời sống cung đình được kể lại theo nguyên tắc biên niên, có đối chiếu với lịch sử
biên niên theo các triều đại của Trung Quốc. Các nhân vật lịch sử thường là các bậc
vua chúa, quan lại, các bậc trung thần hay gian thần, họ được kể lại qua sự tái hiện
lời nói, việc làm, các quan hệ tương tác qua lại giữa họ với nhau. Còn lịch sử về các
mối quan hệ kinh tế và đời sống nhân dân thì ít được đề cập đến.
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời phong kiến nên
có dấu ấn ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Trong đó sự ảnh
11
hưởng của tư tưởng Nho gia là sâu đậm nhất. Tư tưởng Nho gia đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đầu óc của các sử gia. Nhiều khi các sử gia đã nhìn nhận nhân vật
lịch sử thiếu tính khách quan mà mang màu sắc chủ quan. Mục đích viết sử là để
khen chê, nêu guơng đạo đức, một lời khen vinh dự hơn áo mũ quan tước, một lời
chê nặng hơn búa rìu. Những người hiếu nghĩa, trung quân được ca ngợi, trái lại
những kẻ bất trung, bất hiếu bị phê phán nặng nề. Người thiện đọc sử có thể bắt
chước, người ác biết có thể tự răn. Như vậy mục đích chép sử để theo đuổi một
luân lý đạo đức chứ không phải là tìm kiếm qui luật vận động khách quan của lịch
sử. Mục đích chép sử này khác hẳn với cách chép sử của khoa học lịch sử hiện đại
ngày nay.
Mục tiêu khen chê đã dẫn đến cách viết sử đầy cảm xúc và những dòng bình
sử, những yếu tố đã đem lại màu sắc văn chương cho bộ sử. Đại Việt sử ký toàn
thư có những trang sử thấm đẫm lòng tự hào dân tộc qua việc ca ngợi các nhân vật
lịch sử. Ngô Sĩ Liên đã đưa phần ngoại kỷ vào thời kỳ mở nước chính là để đề cao
lịch sử lâu đời của đất nước hơn nữa. Trong những lời bình sử ông đã hết lời ca
gợi những anh vị hùng dân tộc như Bà Trưng, Đặng Dung, Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi …những người thầy mẫu mực như Chu Văn An ,Tô Hiến
Thành…những người có tài đối đáp giỏi như Mạc Đĩnh Chi, những người có tinh
thần bất khuất trước kẻ thù như Trần Bình Trọng, Lê Giốc… Đôi khi ông còn so
sánh vua Đại Việt hơn cả vua Trung Hoa. “ Việc dấy quân nhân nghĩa của vua (Lê
Thái Tổ) có thể rực rỡ hơn Thang Vũ”. Việc chép lại toàn bộ các bài như : Sông
núi nước Nam, Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Ngôn hoài của Phạm
Ngũ Lão và đặc biệt là bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi trong chính sử
chính là niềm tự hào vô bờ về con người, sông núi, văn hiến Đại Việt. Bên cạnh
khuynh hướng gợi ca Ngô Sĩ Liên còn phê phán những kẻ cầm quyền mà hèn nhát,
sợ quân xâm lược. Tiêu biểu là lời bàn của ông về Thái uý Trần Nhật Hiệu, khi
Nhật Hiệu viết hai chữ “Nhập Tống” và không muốn gọi quân Tịnh Cương đến hội
quân. Ông viết “Nhật Hiệu là đại thần cùng họ với vua. Giặc đến khiếp sợ, hèn
12
nhát, không có kế sách chống giữ, lại còn kiếm cách xui vua mình chạy đi ở nhờ
nước khác thì còn dùng hắn làm tướng làm gì”(2,Tr28). Nhìn chung qua các lời
bình giá , ta thấy tinh thần dân tộc ở Ngô Sĩ Liên rất sâu sắc nhưng xét về mục
đích, nguyên tắc viết sử thì ông không khác gì sử gia Trung Quốc nếu không nói là
ông đã học cách làm sử của họ. Khảo thêm về cách viết sử của ông sẽ là mục tiếp
theo.
2. Đại Việt sử ký toàn thƣ đã vận dụng tổng hợp hai lối viết sử truyền thống
của ngƣời Trung Quốc
Mở đầu bài biểu dâng sách, Ngô Sĩ Liên đã trực tiếp trình bày lối viết sử
của mình “ theo Mã Sử biên niên nhưng thẹn vì chắp vá còn thô, học Lân kinh so
việc đâu dám mong cẩn nghiêm sánh kịp”(1,T102). Kinh Xuân Thu ( Lân kinh) của
Khổng Tử ra đời vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên với những từ ngữ nghiêm
khắc khô khan. Sử ký do Tư Mã Thiên biên soạn vào thế kỷ I trước công nguyên
thấm đẫm chất văn chương . Nghĩa là Ngô Sĩ Liên đã vận dụng tổng hợp cả hai
phương pháp viết sử truyền thống của người Trung Quốc: lối viết biên niên theo bộ
Xuân Thu và lối viết kỷ truyện theo Sử ký của Tư Mã Thiên. Đồng thời Ngô Sĩ
Liên đã nhắc đến Mã sử và khẳng định theo Mã sử có nghĩa là ông đã ảnh hưởng
của Mã sử nhiều. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã rất nhiều lần nhắc
đến những nhân vật lịch sử quan trọng được Tư Mã Thiên ghi chép trong sử ký.
Trong phần Bản kỷ hai lần tác giả nhắc đến Lưu Bang Hán Cao Tổ .
Lần thứ nhất khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh trong bài
chiếu có viết “ Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người có
văn chất đủ vẻ, thực thể các quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất
thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn
được”(1, T339,340)
13
Lần thứ hai là trường hợp thượng hoàng Nghệ Tông được tin thắng trận
giết chết Chế Bồng Nga, Nghệ Tông nói “cầm cự nhau lâu ngày mới được gặp
nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ”(2,T180)
Ở kỷ nhà Trần, Ngô Sĩ Liên còn so sánh Trần Hưng Đạo như Quách Tử
Nghi nhà Đường. Ông có công lao cùng các vua Trần thế kỷ XIII chung sức vượt
qua khó khăn khiến cho thiên hạ đã tan mà lại hợp, xã tắc đã nguy mà lại yên, suốt
đời Trần không còn nạn ngoại xâm nhà Hồ nữa. Công lao ấy là lớn lắm. Đôi khi
ông còn so sánh vua Đại Việt còn hơn cả vua Trung Hoa “ Việc dấy quân nhân
nghĩa của vua Lê Thái Tổ có thể rực rỡ hơn cả Thang Vũ”…
Như vậy việc nhắc đến tên tuổi của các nhân vật lịch sử nổi tiếng Trung Hoa
trong sử ký là một minh chứng khẳng định sự ảnh hưởng của Bắc sử đối với những
trí thức Đại Việt là rất lớn .
Theo PGS_TS Hoàng Văn Lâu thì do ảnh hưởng của lối viết kỷ truyện
trong sử ký của Tư Mã Thiên nên “Trong Đại Việt sử ký toàn thư có rất nhiều
“truyện” về các nhân vật lịch sử từ các bậc đế vương, các bà thái hậu hoàng phi,
các hoàng tử, công chúa, các văn thần võ tướng, các văn nhân mặc khách cho tới
các nhân vật không có địa vị to tát gì trong xã hội”(7, T207). Nét nổi bật trong bút
pháp “truyện”(bút pháp tự sự ) trong Đại Việt sử ký toàn thư là khắc hoạ chân dung
nhân vật qua những chi tiết ngoại hình, chi tiết về nguồn gốc xuất thân có tính li
kỳ, miêu tả hành động, ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật và còn đặt nhân vật
vào những mối mâu thuẫn, những tình huống truyện …Thậm chí các nhà sử học
còn biết chọn lọc sắp xếp các chi tiết thành một sâu chuỗi các sự việc. Các sự việc
này được sắp xếp theo trật tự trước sau để lột tả tính cách nhân vật.
Như đoạn kể sau đây về hoàng đế Thái Tông thuộc kỷ nhà Trần: “Xưa
Thượng hoàng còn hàn vi, lấy người con gái thôn Bà Liệt (thuộc huyện Tây Chân
). Người đó có mang thì bị thượng hoàng ruồng bỏ. Đến khi Bà Liệt ra đời, thượng
hoàng không nhận con. Lớn lên, Bà Liệt khôi ngô giỏi võ nghệ, xin xung vào đội
14
đánh vật. Một hôm, Bà Liệt đánh cầu với người trong đội, người kia vật ngã Bà
Liệt, bóp cổ suýt tắc thở. Thượng hoàng thét lên “con ta đấy”. Người ấy sợ hãi lạy
tạ”(2,T13) . Như vậy sự kiên gan của nhà vua làm sao chiến thắng được tình phụ
tử. Đến lúc nguy nan nhất liên quan đến tính mạng của con trai mình thượng hoàng
buộc phải lên tiếng. Câu chuyện không chỉ là một sâu chuỗi sự việc lối tiếp nhau
mà còn đầy kịch tính làm cho người đọc phải hồi hộp theo dõi.
Nhiều khi các nhà sử học còn dừng lại ở những sự việc khác thường, những
tình huống có vấn đề hay những thói quen kỳ quặc để phác hoạ tính cách. Như
đoạn viết về viên độc bạ Trần Cụ “Bấy giờ có viên độc bạ Trần Cụ tính khoan hậu,
cẩn thận thật thà, giỏi nghề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các
nghề ấy”. Mỗi hành động của cụ đều tỉ mỉ, cầu kỳ “mỗi khi sắp đánh đàn thì cắt
đầu dây buộc lại cho chặt rồi mới gảy. Có người hỏi cớ làm sao, cụ trả lời “Nếu
khúc đàn chưa hết mà dây đứt thì làm thế nào ?”. Cụ làm cầu thì cân nhắc các múi
da, cho mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở miệng cầu là chỗ cái bong bóng lợn
vào thì hơi mỏng và nhẹ để cân đối với sức nặng ở đầu bong bóng …Nhà ông ta ở
và thuyền có hai cửa đối nhau, xếp đặt bày biện các thứ phải cân đối ngay ngắn”.
Đặc biệt cụ có những nguyên tắc bất di bất dịch không bao giờ thay đổi “Cụ người
Cứu Liên vốn có mối hận với người Cứu Liên, thề rằng không bao giờ đặt chân lên
đất ấy nữa . Sau này về trở về Cứu Liên thì đi thuyền, đến khi lên bộ thì đi kiệu cho
tới khi đến giường mới xuống kiệu, thức ngủ, ăn uống đều ở trên giường. Khi nào
chơi xem vườn ao thì lại sai khiêng giường đến chỗ đó hết hứng lại trở về, lại ngồi
kiệu lên thuyền…cứ như thế cho đến lúc hết đời chưa hề dẫm một bước lên đất
Cứu Liên”(2,T89-90). Như vậy ở đây các nhà sử học có cách khắc hoạ nhân vật rất
sinh động, chú ý đến những chi tiết thể hiện tính cách kỳ quặc.
Dấu ấn của lối viết kỷ truyện trong Đại Việt sử ký toàn thư còn được thể hiện
ở những tình huống gay cấn mà các nhà sử học lựa chọn để đưa vào trong chính
sử. Như đoạn viết về Thái sư Trần Thủ Độ “ Thủ Độ có lần duyệt định số hộ khẩu,
15
Quốc Mẫu xin riêng cho một người làm câu đương. Thủ Độ gật đầu, biên lấy họ
tên và quê quán người đó. Khi duyệt đến xã nọ, hỏi rằng : tên mỗ ở đâu. Người ấy
mừng rỡ chạy đến. Thủ Độ bảo hắn : Ngươi vì có công chúa xin cho làm chức câu
đương không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân
biệt với người khác”. Người đó kêu van xin thôi mãi mới tha cho, từ ấy trở đi
không ai dám đến nhà thăm vì việc riêng nữa”(2, T34). Qua đây ta thấy Trần Thủ
Độ là người làm việc rất công minh không vì tình riêng mà trao giao chức vụ cho
ai cả. Cách chọn sự việc của các sử gia trong tình huống này rất nghệ thuật với chi
tiết chặt ngón chân gây ấn tượng mạnh.
Sở dĩ có cách chép sử giàu dấu ấn của lối viết kỷ truyện như trên là do mục
đích chép sử của các nhà nho. Họ muốn nêu gương dăn dạy và giáo dục cho đời
sau bằng những câu truyện lịch sử . Bài học lịch sử là những luân lý của Nho giáo,
là đạo đức làm người. Nhìn chung lối viết kỷ truyện trong Đại Việt sử ký toàn thư
đã tạo màu sắc tự sự cho tác phẩm.
Viết Đại Việt sử ký toàn thư các bậc thần sử không chỉ ảnh hưởng của lối viết
kỷ truyện trong sử ký của Tư Mã Thiên mà còn ảnh hưởng lối viết biên niên theo
Kinh Xuân Thu của Khổng Tử. Lối viết biên niên ghi sự việc xẩy ra từng ngày,
từng tháng, năm nọ tiếp năm kia, các sự kiện trong ngoài nước cùng đời đều nghi
chép đầy đủ cả. Lối viết biên niên trong Kinh Xuân Thu cũng là lối viết “bao biếm”
“một chữ được khen thì vinh hơn hoa cổn bị chê một câu thì nặng hơn rìu búa”.
Ảnh hưởng của lối viết biên niên được thể hiện ngay qua những lời bình sử. Các
nhà sử học thường lấy ngay phép tắc trong Kinh Xuân Thu làm chuẩn mực để đánh
giá các nhân vật lịch sử. Sở dĩ có điều này bởi bản thân Kinh Xuân Thu là một bộ
sử được viết theo lối biên niên nhưng đồng thời cũng là một bộ kinh điển của Nho
gia
Ngô Sĩ Liên đứng trên lập trường tư tưởng của nho gia để phê phán Lê Đại
Hành, tác giả khẳng định “Tam cương là đạo thường của muôn đời không thể một
16
ngày rối loạn, khi Lê Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương còn nhỏ nhưng
vẫn là vua, thế mà Đại Hành lại xưng làm phó vương, rắp tâm làm điều bất lợi.
Đạo làm tôi không được làm điều rắp tâm, rắp tâm ắt phải giết. Đó là phép của
sách Xuân Thu người người đều nêu lên để thi hành”(1, T221). Ông còn cho rằng
“Làm vua mà không biết Xuân Thu tất phải chịu cái tiếng cầm đầu tội ác, làm tôi
mà không biết nghĩa Xuân Thu tất mắc vào tội cướp ngôi giết vua, tức là Minh
Vương, Ai Vương là Lữ Gia vậy”(2, T152). Nhìn chung tư tưởng nho gia đã thấm
sâu vào đời sống tinh thần của các bậc sử gia và đã trở thành kim chỉ nam để biên
soạn lịch sử. Họ đã đứng trên đạo đức của nho giáo như : tam tòng tứ đức, tam
cương ngũ thường… để nhìn nhận, đánh giá các nhận các nhân vật lịch sử. Ngô Sĩ
Liên phê phán Lê Đại Hành thông dâm với vợ của vua rồi nghiễm nhiên lập làm
hoàng hậu thì không còn gì hổ thẹn hơn nữa. Việc Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng
hậu cùng một lúc làm rối loạn nhân luân, tác giả viết: “ Từ xưa chỉ lập hoàng hậu
một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến năm người. Tiên
hoàng không kê cứu khảo cổ học mà bề tôi đương thời lại không có ai biết sửa cho
đúng đến nỗi chìm đắm trong tình riêng…Sau đến hai triều Lê, Lý cũng phần
nhiều bắt trước làm theo. Ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc
vậy”. Cũng quan điểm ấy ông phê phán vua Trần Nghệ Tông đem công chúa Huy
Ninh chịu tang chồng mới được 6 tháng mà đem ngả cho Quý Ly thế là làm hỏng
nhân luân bắt đầu từ vua. Ngô Sĩ Liên khen những người phụ nữ chung thuỷ tuẫn
tiết theo chồng: “ Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tông băng kêu gào mãi
rồi chết; Lê Thị nghe tin chồng chết không ăn mà chết; vợ Ngô Miễn là Nguyễn
Thị không phụ nghĩa chồng cũng nhảy xuống sông chết theo chồng. Mấy người
này đức hạnh thuần hiếu, trinh tiết, trên đời này thực không có nhiều”(2,Tr74 ).
Ngay cả cách nhìn nhận các nhân vật lịch sử như những ông vua “vương quỷ”
hay những vị vua “anh minh”, những bề tôi trung thành hay những tên nghịch
tặc...cũng là cách nhìn nhận con người theo chuẩn mực của Nho giáo .
17
Các bậc thần sử xem Nho gia là tư tưởng chính thống nên những vị vua say mê
đạo Phật bị họ phê phán kịch liệt. Cả Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đều nêu nguyên
tắc làm vua là không được say mê đạo Phật. Ngô Sĩ Liên nhận xét về Lý Thái Tổ :
“Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân,
lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ
bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham
thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém”(1, T252). Cũng như vậy Ngô Sĩ Liên phê
phán Lý Thái Tông: “Sử khen vua là người nhân triết thông tuệ, có đại lược văn
võ…mê hoặc bởi cái lý thuyết từ ái của Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch (chỉ
việc tha tội cho Nùng Chí Cao) thì lòng nhân ấy thành ra nhu nhược, đó là chỗ
kém”(1, T270). Trong lời bình về sư Vạn Hạnh, Ngô Sĩ Liên không tán thành lối
sống xuất thế của nhà Phật: “sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là
người khác thường, đến khi sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi,
như thế là có trí thức vượt người thường vậy. Nhưng mặt khác dứt tính mệnh, bỏ
nhân luân, chán trần tục ồn ào, nương cửa thiền tĩnh mịch, để trong sạch lấy một
mình, người quân tử không cho là phải”(1 ,T247)
Tư tưởng thiên mệnh là một bộ phận quan trọng của Kinh Xuân Thu được Ngô
Sĩ Liên dùng để giải thích sự biến của lịch sử, sự thịnh suy của các triều đại. Giải
thích về sự bại vong của Lý Nam Đế ông viết: “ Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ
bạo, đáng là thuận đạo trời, thế mà cuối cùng đến nỗi bại vong là vì trời chưa muốn
cho nước ta được bình trị chăng ? Than ôi ! không chỉ vì gặp phải Bá Tiên là kẻ
giỏi dùng binh mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ thế cho giặc, há
chẳng phải cũng do trời hay sao”(1, T182). Khi giải thích nguyên nhân nhà Trần
thay nhà Lý, mặc dù ông đã chỉ ra nhân tố chủ quan dẫn đến sự bại vong của nhà
Lý song lại cho rằng cái chủ quan do con người tạo ra cũng là cái tất yếu của thiên
mệnh: “Thái tử Sảm đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng
dâm dục ở bên ngoài tự tiện phong tước cho người ? Bởi Cao Tông ăn chơi vô độ,
giường mối bỏ hỏng cho nên mới thế. Nhưng họ Lý nhân thế mà vong, họ Trần
18
nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả”(1,T334) . Theo Ngô Sĩ Liên mệnh trời là huyền
bí song không phải là không biết trước, trời và người không đối lập nhau mà có
mối quan hệ “thiên nhân cảm ứng”. Bình luận sự kiện Lý Công Uẩn đốt hương
khấn trời trên đường đánh Diễn Châu ông viết: “Vua Thang gặp tai nạn hạn hán lấy
sáu sự việc ra trách mình là mưa xuống ngay. Nay vua gặp nạn gió sấm, lấy việc
đánh dẹp tự trách mình mà mưa bão ngừng ngay. Trời và người cảm ứng với nhau
rất nhỏ nhạy, ảnh hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời không soi
đến ta mà dám dối trời chăng?”(1, T243). Ông rút ra bài học “thuận với trời thì
thịnh, nghịch với trời thì suy” Lê Lợi thành công vì “thuận thiên thừa vận”…
Nhìn chung ảnh hưởng của Kinh Xuân Thu vào biên soạn lịch sử chính là ở
những đoạn được viết theo lối biên niên. Sự kiện lịch sử được ghi chép theo từng
năm, từng mùa, từng tháng. Ngoài ra còn là sự in đậm của tư tưởng Nho gia vào
biên soạn lịch sử. Có thể khẳng định rằng tư tưởng Nho gia đã trở thành “kim chỉ
nam” để biên soạn lịch sử và thấm nhuần vào đầu óc của các sử gia .
Như vậy Đại Việt sử ký toàn thư đã có sự kết hợp của hai lối viết sử truyền
thống của người Trung Quốc. Đó là lối viết kỷ truyện theo sử ký của Tư Mã Thiên
và lối viết biên niên theo Kinh Xuân Thu. Sự kết hợp của hai lối viết này đã chi
phối đến toàn bộ kết cấu của tác phẩm, đan xen trong Đại Việt sử ký toàn thư là
những đoạn được viết theo lối biên niên và những đoạn tự sự rời rạc và sự kết hợp
của hai lối viết này làm cho bộ sử trở lên hay và hấp dẫn hơn, càng đọc càng cảm
thấy có sức lôi cuốn đến kỳ lạ, thể hiện rõ tình trạng văn - sử bất phân
Ngoài ảnh hưởng của hai lối viết sử truyền thống của người Trung Quốc,
Ngô Sĩ Liên còn sử dụng nguồn tài liệu từ các truyền thuyết dân gian, điều này đã
được tác giả khẳng định rất rõ trong phần phàm lệ “sách này làm ra gốc ở hai bộ
Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử
các bản chí truyện và những việc nghe thấy truyềnlại khảo đính mà thành”(1,T103)
19
Mặc dù sử dụng nguồn sử liệu là dã sử và các bản chí truyện nhưng Ngô Sĩ Liên
vẫn nghi ngờ, không tin cậy. Do vậy một mặt ông bỏ đi không chép những việc quá
quái đản, mặt khác dù đã đưa dã sử vào chính sử nhưng ông vẫn viết thêm “sợ chưa
chắc đã đúng” (1,T103) hay tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại cho đời sau, có lẽ vì
thế mà khi trình bày phần này ông gọi là phần ngoại kỷ. Việc thêm phần ngoại kỷ vào
Đại Việt sử ký làm cho lịch sử dân tộc được nhìn nhận một cách hệ thống và cũng là
niềm tự hào dân tộc của tác giả.
3. Đại Việt sử ký toàn thƣ là bộ sử điển hình cho tính nguyên hợp văn- sử
bất phân
Theo từ điển thuật ngữ văn học “Tính nguyên hợp trỏ sự hoà lẫn làm một ban
đầu của các loại hình sáng tạo văn hoá”(46,T239). Tính nguyên hợp là đặc trưng của
mọi ngành khoa học đặc biệt là khoa học xã hội ở giai đoạn đầu tiên. Ban đầu từ các
ngành khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội đều chưa có ranh giới rõ ràng, ngành
thiên văn chưa tách khỏi chiêm tinh, hoá học còn chung với luyện đơn, y dược, văn -
sử -triết còn ở trong tình trạng bất phân. Mãi đến sau này cùng với sự phức tạp hoá
dần của tồn tại xã hội và ý thức xã hội tính nguyên hợp mất dần đi tính phổ quát và
được phân chia thành các loại hình độc lập phát triển riêng rẽ.
Riêng ở phương Đông đặc biệt là ở Việt Nam do đặc điểm của tư duy tổng hợp
nên quá trình hình thành các bộ môn khoa học riêng rẽ diễn ra chậm. Tình trạng văn –
sử –triết bất phân còn kéo dài cho đến tận ngày nay.
Hơn nữa do quan niệm về văn chương của người xưa rất rộng “ Trời đất vạn vật
đều có vẻ đẹp, vẻ đẹp ấy là văn”(42,T177) Tư duy nguyên hợp còn bắt nguồn từ tư
tưởng Nho giáo. Nho giáo chủ chương duy trì trật tự xã hội bằng đức trị nên dùng văn
để chở Đạo, bất cứ thể loại nào có thể chở được Đạo, phù hợp với triết lý đạo đức
kinh điển của Nho gia đều có thể gọi là văn. Phan Huy Chú mở đầu phần tịch chí,
sách Lịch triều hiến chương loại chí đã viết “cái hay trong lòng người gửi vào văn
chương sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết đạo trời. Thư tịch văn minh loài
20
người ở đó”. Quan niệm này coi tất cả những gì liên quan đến văn minh của xã hội
loài người đều thuộc về phạm vi văn học. Cho nên một tác phẩm tôn giáo như Khoá
hư lục của Trần Thái Tông hay những văn kiện chính trị như Chiếu dời đô của Lý
Thái Tổ, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi…đều được coi là tác phẩm văn học. Người xưa viết ra những tác phẩm trên
không chỉ là một công trình học thuật mà còn dùng văn để chở Đạo, hơn nữa họ viết
làm sao cho hình thức trải chuốt sao cho “lời hay ý đẹp” như một tác phẩm văn học.
Như vậy cội nguồn sâu xa của tính nguyên hợp văn- sử- triết bất phân trong văn
học phương Đông là bắt nguồn từ lối tư duy tổng hợp, bắt nguồn từ quan niệm của
Nho giáo dùng văn để chở Đạo, để giáo hoá nên mọi tác phẩm dùng để chở Đạo đều
gọi là văn.
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử đầu tiên của nước ta thời trung đại đã
thể hiện rất rõ tính chất văn – sử bất phân. Sở dĩ có điều này vì thời gian biên soạn bộ
quốc sử trên là khá sớm so với các bộ sử nói chung và so với nền văn học viết nói
riêng. Hơn nữa tính nguyên hợp của bộ sử này còn do mục đích viết sử của các nhà
nho chi phối. Họ viết sử trước hết để nêu gương dăn dạy hay truyền thụ đạo lý “ca
ngợi đời thịnh trị thì sáng tỏ ngang mặt trời, mặt trăng, lên án kẻ nghịch tặc thì lời lẽ
như sương thu lạnh buốt. Người thiện có thể bắt chước, người ác có thể tự răn”. Như
vậy mục đích chép sử của các nhà nho không khác lắm so với mục đích sáng tác văn
chương. Bên cạnh đó mục đích chép sử của các nhà nho còn để ghi lại sự thịnh suy
của quốc thống. Với mục đích chép sử như thế rõ ràng các nhà nho không có ý định
sáng tác văn chương. Nhưng trong quá trình biên soạn, họ lại “lấy tài văn chương để
ghi chép quốc sử”. Vậy là vô tình họ đã để lại giá trị văn học cho Đại Việt sử ký toàn
thư .
Đại Việt sử ký toàn thư có sự hoà quyện nhuần nhuyễn giữa văn và sử, xen lẫn
những đoạn được viết theo lối biên niên sử là những đoạn được viết theo lối kỷ truyện
mang đậm dấu ấn của tác phẩm văn học. Trước hết Đại Việt sử ký toàn thư đã khắc
21
hoạ thành công không gian tạo lên bối cảnh cho sự diễn biến của sự việc. Đó là không
gian nơi triều đình thường diễn ra những cảnh “nồi da nấu thịt”anh em cốt nhục giết
nhau để tranh giành ngôi báu, không gian chốn thâm cung bí sử nơi những vị hôn
quân ăn chơi trác táng, không gian nơi cung vua về đêm những tên nghịch thần bí mật
giết vua để chiếm đoạt ngai vàng. Ngoài không gian nơi triều đình còn là không gian
nơi trận mạc với bối cảnh chiến trường hoang vu, hiểm trở, lau lách hay mưa gió bão
bùng…Tất cả những mảng không gian này đều là sự thật lịch sử nhưng đã được các
sử gia khắc hoạ bằng bút pháp văn học giàu sức tạo hình tạo lên bối cảnh cho diễn
biến của sự việc. Như vậy chất văn và sử đã hoà với nhau một cách nhuần nhuyễn ,
Đại Việt sử ký toàn thư chép về lịch sử của các triều đại phong kiến. Nhân vật
lịch sử được các sử gia quan tâm nhiều nhất là các bậc đế vương, các bậc trung thần
nghĩa sĩ hay những tên nghịch thần. Khi chép về các nhân vật lịch sử các bậc thần sử
đã sử dụng bút pháp khắc hoạ nhân vật của nhà văn như: thần thánh hoá nguồn gốc
xuất thân, tô đậm những nét khác biệt về chân dung ngoại hình, chú ý đến những
hành động phi phàm thể hiện thể hiện tính cách hay lên án những hành vi vô đạo đức
vi phạm những phép tắc của lễ giáo phong kiến. Cách chép sử thông thường là liệt kê
chính xác những sự kiện lịch sử theo ngày tháng nhưng trong Đại Việt sử ký toàn thư
các bậc thần sử quan tâm đến cả những cuộc đối thoại giữa các nhân vật lịch sử, thậm
chí họ còn đặt nhân vật vào những mối mâu thuẫn, những tình huống truyện có kịch
tính ….Chính cách chép sử như vậy đã mang đến giá trị văn học cho tác phẩm. Như
vậy nhân vật lịch sử nhưng lại được khắc hoạ bằng bút pháp văn học, sự kiện lịch sử
diễn ra được nằm trong bối cảnh không gian giàu màu sắc văn học, đôi khi sự kiện
còn được sắp xếp xáo trộn không theo trật tự biên niên sử để tạo lên sức hấp dẫn. Đây
chính là sự hoà trộn giữa văn và sử .
4. Lối viết sử trong Đại Việt sử ký toàn thƣ có ảnh hƣởng sâu sắc đến lối
viết sử của nhiều thế hệ
22
Đại Việt sử ký toàn thư là một di sản văn hoá dân tộc, là tập đại thành của
nhiều nhà sử học qua nhiều đời biên soạn. Lối viết trong Đại Việt sử ký toàn thư là sự
kết hợp của hai lối viết viết sử truyền thống của người Trung Quốc. Đó là lối viết
biên niên theo Kinh Xuân Thu của Khổng Tử và lối viết kỷ truyện theo sử ký của Tư
Mã Thiên. Đánh giá về lối viết này Hoàng Hồng – Giảng viên trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn khẳng định rằng: “phương pháp biên niên có kết hợp với một
số yếu tố kỷ truyện cùng văn phong giàu tính thẩm mỹ của Ngô Sĩ Liên khiến tác
phẩm rất mạch lạc, rõ ràng và sống động. Phương pháp này đã trở thành mẫu mực
biên soạn lịch sử cho các nhà sử gia của hàng trăm năm sau”(7, T108.
Ngay như tác phẩm Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, một tác phẩm viết bằng
chữ Hán ra đời vào thế kỷ XVIII có rất nhiều điểm tương đồng với lối viết sử của
Ngô Sĩ Liên. Việt sử tiêu án chép sử nước ta từ họ Hồng Bàng đến ngoại thuộc nhà
Minh. Về mặt kết cấu Ngô Thời Sĩ cũng chia lịch sử nước ta thành các kỷ gần tương
ứng với Đại Việt sử ký toàn thư như: họ Hồng Bàng, nhà Thục, ngoại thuộc Đông
Hán, ngoại thuộc Ngô - Tấn – Tề – Lương, Tiền Lý …
Khi kể lại lịch sử sau mỗi triều đại, sau mỗi sự kiện lịch tác phẩm cũng có
những lời bình sử. Qua những lời bình, người chép sử thể hiện sự đánh giá chủ quan
của mình. Cũng giống như lối viết của các bậc đại nho xưa Ngô Thời Sĩ đem văn để
chép sử. Tác giả rất thành công trong việc khắc hoạ chân dung nhân vật lịch sử qua
hành động, qua ngôn ngữ đối thoại, qua nghệ thuật sắp xếp các tình tiết…Sở dĩ có
cách chép sử như vậy bởi trong qua trình biên soạn Ngô Thời Sĩ đã dựa vào chính sử,
ông chỉ bổ xung đính chính lại những gì mà ông cho là sai sót còn lối chép sử vẫn kế
thừa các vị tiền bối xưa nên tính chất văn –sử bất phân đã hoà quyện nhuẫn nhuyễn
trong tác phẩm .
Đến các thế kỷ sau này việc sử dụng văn chương vào chép sử ngày một thể hiện
rõ ràng hơn. Điều này được đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt tác phẩm diễn ca
lịch sử như: Thiên Nam ngữ lục, Đại Nam sử ký quốc ngữ, Thiên Nam minh giám,
23
Đại Nam quốc sử diễn ca…Hầu hết các tác phẩm này đều phát huy tối đa thể thơ lục
bát vào để diễn ca lịch sử. Cũng giống như các bậc thần sử xưa các tác giả diễn ca
lịch sử cũng có thái độ khen chê rất rõ ràng. Những vị anh hùng dân tộc thì được
khen gợi hết lời bằng những vần thơ hùng tráng, kỳ vĩ. Tiêu biểu là những vần thơ
dành cho vị tướng làng Phù Đổng:
Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân
Nghe vua cầu tướng ra quân
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang
Lời thưa mẹ dạ cần vương
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh
Sứ về tâu trước thiên đình
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào
Trận mây theo ngọn cờ đào
Ra tay sấm sét, nửa chiều giặc tan
áo nhung cởi lại Linh san
Thoắt đà thoắt nợ trần hoàn lên tiên .
(51,T23,24)
Hay đoạn viết về Trưng Trắc, Trưng Nhị vừa mang âm điệu hào hùng vừa trữ tình, ý
thơ chắc gọn, nhịp điệu dồn dập mà lại rất tự nhiên:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
24
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Linh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục, hai là bá vương
(51, T43,44)
Các đoạn viết về Lý Bôn, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật
Duật…cũng ít nhiều mang âm điệu hào hùng như vậy:
Trần Hưng Đạo đã anh hùng
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều
Hoài Văn tuổi trẻ chí cao
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công
Trần Bình Trọng cũng là trung
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương
Khuyển Ưng còn nghĩa đá vàng
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê
Mà trong ngọc diệp kim chi
25
Lũ Trần Ích Tắc sao đi hàng đầu
(51,T117)
Đối với những kẻ quyền gian, giảo hoạt như: Lý Phật Tử, Kiều Cung Tiễn, Trần
ích Tắc, Mạc Đăng Dung …thì những lời kết tội vừa nghiêm khắc vừa phẫn lộ:
Đăng Dung cậy có công danh
Thuyền rồng, tán phượng lộng hành sợ chi
Chiêu Tông gặp lúc hiểm nguy
Nửa đêm lén bước chạy về Tây phương
Đăng Dung lập lại Cung Hoàng
Hành cung tạm trú Hải Dương cõi ngoài
Xe loan về đến kinh đài
Sẵn sàng thiền chiến ép bài sách phong
Hoạ tâm từ ấy càng nồng
Lương Châu Tây Nội cam lòng cho đang.
(51, T151)
Nhìn chung phần thành công nhất của các tác phẩm diễn ca lịch sử là sự thuần
thục, điêu luyện của thể thơ lục bát, với bút pháp sử thi trữ tình, văn vẻ đằm thắm có
sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với công chúng.
Không chỉ ảnh hưởng đến cách chép sử của những tác phẩm ngay cùng thời (lịch
sử thời trung đại) mà cách chép sử của các bậc thần sử trong Đại Việt sử ký toàn thư
còn ảnh hưỏng cho đến tận ngày nay. Điển hình như cuốn Lịch sử Việt Nam Tập I,
xuất bản năm 1971, của Nhà xuất bản Khoa học xã hội khi viết về thời kỳ dựng và
giữ nước của nhà nước Văn Lang. Các nhà khoa học lịch sử hiện đại đã không căn cứ
vào các di tích lịch sử hay dấu vết khảo cổ học mà lại căn cứ vào truyền thuyết và dã
26
sử. Nhận xét về cách viết sử này Nguyễn Huệ Chi nhận xét “Về phương diện này,
hình như các giới sử học hiện đại chưa được thận trọng bằng giới sử gia phong kiến.
Giới sử gia phong kiến khi viết về thời tiền sử bao giờ cũng đặt trong một đề mục gọi
là Ngoại kỷ. Tức là cái gì nằm ngoài chính sử. Và khi bắt buộc phải sử dụng truyền
thuyết bổ sung cho sử liệu thì họ đều giới thuyết cặn kẽ” (54, tr3). Vậy mà các nhà
khoa học lịch sử hiện đại “lại đặt nguyên si kết cấu đó vào thời tiền sử”. Như đoạn
viết sau về Thánh Gióng “Cậu bé làng Dóng ba năm nằm trên chõng đá “chẳng nói
chẳng cười” nhưng vừa nghe tin có ngoại xâm và nghe tiếng mõ rao cầu hiền tài
chống giặc thì đã “vụt lớn lên như thổi”. Dóng ăn liền một lúc hết:
Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi cạn đà khúc sông
Và Dóng lên đường ra trận. Theo Dóng đi đánh giặc có người dân cày đang cầm vồ
đập đất , có người câu cá, có người đi săn, có đoàn trẻ chăn trâu, có những chàng trai
nghèo đang vỡ đất…Dóng cùng toàn dân đánh giặc. Dóng nhằm nơi giặc Ân mà xông
tới, quất roi sắt vào thân giặc, vút tre ngà xuống đầu giặc”(53,T61). Cách chép sử như
vậy là trình bày lịch sử theo kiểu kể truyện dân gian. Ngoài ra Nguyễn Huệ Chi còn
chỉ ra rằng: “ Truyện Thánh Gióng với tất cả kết cấu đầy đủ kiểu này thật ra chỉ mới
xuất hiện trong các công trình khảo cứu của Nguyễn Văn Huyên trước Cách mạng
tháng Tám và Cao Huy Đỉnh vài chục năm trước đây”(54,tr3). Vậy đưa một truyền
thuyết dân gian mới được bổ sung đầy đủ cách vài chục năm gần đây vào thời kỳ tiền
sử liệu có hợp lý chăng ? Viết sử thời hiện đại mà lại đưa dã sử vào chính sử là một
hạn chế.
Ảnh hưởng của lối viết toàn thư gần gũi với chúng ta hơn là những cuốn sách giáo
khoa lịch sử hiện đại, các nhà sử học cũng trích nguyên văn kiện Đảng cũng giống
như các sử quan chép lại chiếu, sắc do vua ban .
Như vậy lối viết biên niên kết hợp với lối viết kỷ truyện hay nghệ thuật dùng văn
chép sử của các bậc thần sử trong Đại Việt sử ký toàn thư đã có ảnh hưởng sâu rộng
27
đến lối viết sử của nhiều thế hệ sau này. Chính lối viết này đã tạo nên giá trị văn học
cho bộ sử cổ nhất nước ta. Do sự hoà trộn giữa văn và sử nên tính chất văn chương
của Đại Việt sử ký toàn thư còn sơ đẳng bởi lẽ tác phẩm này chưa thuần tuý là một
tác phẩm văn học thực sự. Đại Việt sử ký toàn thư có giá trị lịch sử là chính. Hơn nữa
nhìn nhận tác phẩm ở góc độ văn học thì thời gian ra đời mà nghệ thuật tự sự thiên
về lối kể lể để nêu gương giáo dục là chính chứ chưa quan tâm đến kỹ thuật viết văn
như các tác giả thời hiện đại.
28
CHƢƠNG II: TÍNH VĂN CHƢƠNG CỦA ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƢ
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời trung đại. Tác phẩm
không chỉ có giá trị to lớn về sử học mà còn mang giá trị văn học sâu sắc. Giá trị văn
học của tác phẩm được thể hiện ở: các nhà sử học đã xây dựng thành công những bối
cảnh không gian, thời gian làm nền cho sự xuất hiện của nhân vật hay diễn biến của
sự kiện và khắc hoạ thành công chân dung những nhân vật lịch sử bằng bút pháp văn
học .
1. Tìm hiểu các yếu tố của thi pháp trong bộ sử:
1.1. Không gian trong Đại Việt sử ký toàn thƣ
Không gian là độ dài rộng trong sự tồn tại của vật chất Ăng ghen nói: “Hình
thức cơ bản của mọi tồn tại là thời gian và không gian, những tồn tại ở ngoài thời
gian, tồn tại ở ngoài không gian đều là hoang đường”(33, tr19)
Đối với nghệ thuật “ Không gian là hình thức bên trong của hình tượng nghệ
thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó thế
giới nghệ thuật thể hiện quảng tính của nó. Cái bên này cái bên kia, liên tục cách
quãng, nối tiếp, cao thấp, xa gần, rộng dài tạo thành viễn cảnh nghệ thuật…không
gian nghệ thuật cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm”.(15, T98)
Đặc trưng về không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học trung đại đã được
các nhà nghiên cứu đề cập đến rất nhiều; đó là không gian vũ trụ cao rộng mênh
mông theo hai xu hướng đi xa và lên cao, không gian của thế giới tâm linh trong
tâm tưởng của con người (thiên đường, địa ngục, thuỷ cung) trong các tác phẩm
truyền kỳ hay trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Không gian bến đò, làng quê,
núi non trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không gian thế tục trong
thơ của Nguyễn Khuyến, Tú Xương…Nhìn chung không gian trong tác phẩm văn
học trung đại là không gian có tính chất vĩ mô, còn không gian vi mô như con
29
đường, gian phòng hay góc vườn gắn liền với cuộc sống riêng tư của con người thì
hiếm hoi.
Nằm trong phạm trù văn học trung đại với ảnh hưởng của quỹ đạo vùng -ảnh
hưởng của văn hoá phương Đông một bộ sử ký giàu giá trị văn học như Đại Việt
sử ký toàn thư cũng mang những đặc trưng mô tả về không gian không nằm ngoài
đặc trưng chung của văn học trung đại .
Một bộ sử hiện đại không thể mô tả không gian chi tiết tỉ mỉ, có tính hình
tượng. Nhưng điều đó đã xẩy ra với bộ sử thời trung đại. Không gian chủ yếu trong
Đại Việt sử ký toàn thư là không gian nơi triều đình –không gian có màu sắc chính
trị, quan phương và không gian nơi trận mạc. Sở dĩ như vậy bởi Đại Việt sử ký
toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời trung đại. Lịch sử được ghi chép
trong Đại Việt sử ký toàn thư là lịch sử của các triều đại phong kiến với những năm
tháng hưng vong. Hơn nữa các nhà sử học chủ yếu chép sự tích các triều đại,
những việc vua làm, những lời vua nói rồi những phép tắc trong triều…cho nên
không gian trong tác phẩm chủ yếu là không gian cung đình .
Không gian nơi cửa cấm thành diễn ra những cảnh “nồi da nấu thịt” anh em
cốt nhục chém giết lẫn nhau để tranh giành ngôi báu như cuộc chiến của ba anh
em: Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức ở kỷ nhà Trần (bản kỷ, quyển II) nhưng
cuối cùng đã bị Phụng Hiểu –một bề tôi trung thành dẹp loạn. Hay không gian nơi
sân cung – nơi tên nghịch thần Đỗ Thích ngầm giết vua để đoạt ngôi báu. Đỗ Thích
vốn là một tên chi hậu nội nhân “làm chức ở lại Đồng Quan, đêm nằm trên cầu
bỗng thấy sao xa rơi vào miệng. Thích bèn cho là điềm tốt bèn nảy ra ý định giết
vua. Đến đây nhân vua đang ăn yến ban đêm say rượu nằm trong sân, Thích bèn
giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt Vương Liễn. Khi ấy lệnh lùng bắt hung thủ rất
gấp, Thích phải nén lấp ở máng nước trong cung qua ba ngày khát lắm gặp lúc trời
mưa thò tay hứng nước uống, cung nữ trông thấy đi báo. Đinh quốc công Nguyễn
Bặc sai người bắt đem chém”(1,Tr 214).
30
Không gian cung vua về đêm –nơi vua Uy Mục hoàng đế ăn chơi trác táng vui
đùa uống rượu vô độ cho đến khi say liền giết chết cả cung nhân. Không gian cung
đình (thâm cung bí sử) nơi gói gọn cuộc đời Trâu Canh – một thần y có công chữa
khỏi bệnh liệt dương cho vua Trần Dụ Tông…Nhìn chung không gian nơi triều
đình xuất hiện với mật độ dày đặc. Đây là không gian có màu sắc chính trị, quan
phương không gian này tạo nên bối cảnh cho sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử.
Những tên nghịch thần, những tên “ quỷ vương”, những đấng minh quân, hay
những bậc thần y tài giỏi…Không gian triều đình chính là “hoàn cảnh điển hình”
cho các nhân vật lịch sử bộc lộ tính cách trung thành hay phản nghịch, một đấng
minh quân chân chính hay những vị vua ăn chơi vùi đầu vào rượu chè và nữ sắc.
Tất cả đều được các sử gia ghi chép để nêu gương răn dạy cho đời sau.
Ngoài không gian nơi triều đình, không gian mang dấu ấn của tác phẩm tự sự
trong Đại Việt sử ký toàn thư là không gian nơi trận mạc. Lịch sử dân tộc ta gắn
liền với lịch sử dựng nước và giữ nuớc. Trong hàng nghìn năm Bắc thuộc nhân dân
ta không biết bao nhiêu lần phải đương đầu với đế chế phong kiến phương Bắc.
Với lòng tự hào dân tộc sâu sắc các sử gia đã khắc hoạ thành công bối cảnh của
những cuộc chiến trong đó không gian là yếu tố tạo nền. Bút pháp khắc hoạ không
gian chủ yếu là bút pháp miêu tả. Như cuộc chiến giữa Triệu Quang Phục và Bá
Tiên (phần ngoại kỷ, kỷ nhà Tiền Lý) “ Đầm này thuộc huyện Chu Diên, chu vi
không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín giữa có nền đất cao có
thể ở được, bốn mặt bùn lầy người ngựa khó đi chỉ có thể dùng thuyền độc mộc
nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ mới có thể đi được. Nhưng nếu không quen biết
đường lối thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn
chết”(1,tr181). Nhờ việc sử dụng nhiều từ ngữ có tính tạo hình, không gian chiến
trường hiện lên khá hoang vu rộng lớn và rậm rạp. Trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh, không gian mà giặc phải đương đầu là núi rừng đêm vắng. Chúng rơi
vào tình trạng khốn đốn mất hết liên lạc “Tụ ngỡ là thành Xương Giang chưa bị
phá dẫn quân định đến đó, khi đến nơi thì thành Xương Giang đã mất. Chúng hết
31
cả hy vọng, lại càng kinh hoàng sợ hãi, gặp lúc trời báo tai biến, mưa to gió lớn,
núi rừng gầm thét, người ngựa nhìn nhau không nhích được chút nào. Giặc chỉ còn
đợi đến đêm vắng bắn súng làm tín hiệu báo cho hai thành Đông Quan và Chí Linh
để họ nghe thấy tếng súng thì ra cứu viện.” (2,Tr 276,277). Như vậy chúng ta có
thể thấy ở đoạn trích dẫn trên tác giả đã dùng nhiều từ ngữ giàu tính tạo hình, giàu
sắc thái biểu cảm, mang đậm màu sắc chủ quan (kinh hoàng sợ hãi, mưa to gió lớn,
núi rừng gầm thét gặp lúc trời báo tai biến) để phác hoạ bối cảnh cuộc chiến. Cách
hành văn như vậy chúng ta không thể thấy ở một bộ sử hiện đại mà chỉ có trong
Đại Việt sử ký toàn thư. Việc mượn văn để chép sử các nhà sử học đã vô tình tạo ra
những bối cảnh không gian có màu sắc nghệ thuật cho bộ quốc sử cổ nhất nước ta.
1. 2. Thời gian trong Đại Việt sử ký toàn thƣ
Thời gian là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học. Nó chi phối trực
tiếp đến kết cấu của tác phẩm. Bản chất của thời gian “là hình thức nội tại của hình
tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật
sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn
nhất định trong thời gian, cái trần thuật bao giờ cũng là cái diễn ra trong thời
gian”(15, T101). Khác với thời gian vật lý được đo bằng đồng hồ, bằng lịch ngày
tháng theo một trật tự niên biểu thì thời gian trong tác phẩm văn học có thể đảo
ngược quay về quá khứ xa lắc xa lơ hoặc có thể vươn tới một tương lai xa xôi. Nhà
văn có thể dồn nén một thời gian dài chỉ trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc
lát ra thành vô tận. Trong tác phẩm thời gian có thể được biểu hiện bằng rất nhiều
hình thức khác nhau; gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời trung đại. Tác
phẩm đã ghi chép lịch sử dân tộc ta từ họ Hồng Bàng cho đến năm 1675. Ngay từ
tiêu đề của bộ sách(Đại Việt sử ký toàn thư) chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra
chức năng chính là để chép sử nên thời gian chủ yếu trong tác phẩm là thời gian
32
biên niên theo trật tự ngày tháng. Cách ghi chép này giống như Kinh Xuân Thu của
Khổng Tử. Tức là sự việc nào xẩy ra trước thì chép trước sự việc nào xẩy ra sau thì
chép sau. Trong mỗi năm lại phân theo mùa (xuân, hạ, thu, đông) tháng rồi đến
ngày( Những sự kiện tai biến của trời đất, ngày sinh, ngày mất của các vị hoàng đế
, thái tử ghi rõ đến từng ngày ) riêng năm trước hết phải ghi can chi rồi mới ghi
niên hiệu của các vị hoàng đế của năm đó. Ví dụ như: “Bính Tuất , kiến trung năm
thứ 2 (1226) (Tống Bảo Khánh năm thứ hai ). Mùa xuân tháng giêng, sách phong
Chiêu Hoàng làm hoàng hậu đổi gọi là Chiêu Thánh”. Nhìn chung các sự kiện lớn
thì ghi rõ đến từng ngày, tháng nào có nhiều sự kiện thì ghi lần lượt từng sự kiện:
Năm Đinh Mùi (1427)( Minh Tuyên Đức năm thứ hai). Mùa xuân xẩy ra các sự
kiện lớn sâu đây ;
Vua Lê Lợi tiến quân sang bờ Bắc sông Lô… -
Sơn Thọ nhà Minh sai người sang thông tin tức … -
Ban chức hoả thư cho các quân các lộ … -
Sửa lại đền Hưng Đạo Vương … -
Hạ lệnh cho lộ An Bang nộp cọc gỗ và tên tre … -
Tất cả gồm có 28 sự kiện (2,tr 263). Thời gian trong Đại Việt sử ký toàn thư
được đánh dấu bằng các sự kiện quốc sử, các việc vua làm, các sự kiện triều chính.
Nhưng Đại Việt sử ký toàn thư không chỉ ảnh hưởng của lối viết biên niên sử của
Kinh Xuân Thu mà còn ảnh huởng của lối viết kỷ truyện trong sử ký của Tư Mã
Thiên. Hơn nữa do phương pháp dùng văn để chép sử nên thời gian trong Đại Việt
sử ký toàn thư ở những đoạn chép về các nhân vật lịch sử thì thời gian đã bị đảo
lộn mang đậm sắc thái thời gian trong tác phẩm văn học và gắn liền với cuộc đời
của cá nhân. Điển hình như khi chép về Hưng Đạo Đại Vương –Trần Quốc Tuấn.
Đoạn trích bắt đầu bằng sự kiện; tháng 6 ngày 24 sao sa, Hưng Đạo Đại Vương ốm
vua đến thăm hỏi về kế sách giữ nước…tiếp theo nhà viết sử không kể liền mạch
33
như thông thường mà ngược dòng thời gian hồi khứ về thời điểm lịch sử khi Trần
Quốc Tuấn mới được sinh ra có một thầy tướng số phán rằng “ người này ngày sau
có thể giúp nước cứu đời. Sự kiện tiếp theo là lời trăng trối của An Sinh
Vương(cha của Trần Quốc Tuấn) trước khi mất “Con mà không vì cha lấy được
thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”(2,tr79) ( cha của Trần
Quốc Tuấn vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng tức vua trần Thái Tông lúc bấy giờ )
Trần Quốc Tuấn nghe vậy nhưng ông chưa cho là phải. Ông đem lời trăng trối này
để thử gia nô và các con …Toàn bộ những sự việc này được kể trong thời gian hồi
cố. Tiếp theo nhà sử học mới trở về với dòng sự kiện đang xẩy ra với một quá khứ
gần hơn quá khứ trước đó đã được kể. “ Mùa thu tháng 8 ngày 20 Hưng Đạo
Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp được công nhận “Vũ Hưng Đạo Đại
Vuơng”(2,tr80). Sau đó nhà sử học lại trở về quá khứ xa hơn để ôn lại công đức
của Trần Quốc Tuấn cho đến khi mất. Như vậy cách kể trong tác phẩm có sự đảo
lộn trật tự thời gian trước sau mang đậm màu sắc thời gian trong tác phẩm văn học.
Cách kể này đã làm cho nhân vật lịch sử hiện lên đa chiều kích và có chiều sâu
cuộc đời về các mặt như; nguồn gốc xuất thân, công đức, sự linh hiển sau khi mất...
Như vậy căn cứ vào thời gian được kể, nhà viết sử đã khắc hoạ tính cách như một
quá trình chứ không phải ở thời điểm mà họ “sắm vai lịch sử”. Thời gian ở đây
không những bị đảo lộn mà còn là thời gian của cả một đời người: sinh ra cống
hiến cho đất nước rồi mất đi. Cách kể đảo trật tự thời gian không chỉ thể hiện ở
nhân vật Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn mà với nhân vật Phụng Hiểu
đời Lý cũng vậy. Sau khi miêu tả những hành động xả thân lao vào chốn loạn quân
để bảo vệ ngai vàng cho vua thể hiện là một trung thần bất khuất sẵn sàng hi sinh
bản thân mình để thực hiện bổn phận “trung quân”thì các nhà sử học lại quay trở
về quá khứ để làm rõ nguồn gốc xuất thân của nhân vật. Phụng Hiểu vốn là người
làng Băng Sơn, ở Ái Châu, ngay từ nhỏ Phụng Hiểu đã có sức người hùng dũng và
hành động phi phàm. Một hôm hai thôn Cổ Bi và Đàm Xá tranh nhau địa giới toan
đánh nhau Phụng Hiểu bảo người thôn cổ bi rằng: “Một mình tôi có thể đánh được
34
bọn họ” . Các phu lão mừng lắm, làm cơm rượu để thiết đãi. Phụng Hiểu ăn một
bữa mấy đấu gạo, uống cũng quá mức rồi đến khiêu chiến với Đàm Xá. Phụng
Hiểu cứ đứng thẳng người nhổ cây mà đánh tới tấp làm nhiều người bị thương.
Thôn Đàm Xá sợ phải trả ruộng cho thôn Cổ Bi. Những hành động của Phụng Hiểu
đã thể hiện rõ tầm vóc của một con người phi phàm. Sau khi kể về quá khứ xa nhất
này các nhà sử học lại trở về với quá khứ gần hơn. Thái Tổ nghe danh của Phụng
Hiểu đã lâu muốn ban ân thưởng cho chàng (vì đã có công trong việc dẹp giặc)
nhưng Phụng Hiểu nói rằng: “Thần không muốn thưởng tước, xin cho đứng trên
núi Băng Sơn ném đao lớn đi xa đao rơi xuống chỗ nào trong đất công thì xin ban
làm sản nghiệp. Vua nghe theo Phụng Hiểu leo lên núi, ném đao xa đến hơn mười
dặm đao rơi xuống thôn Đa Mi. Vua bèn lấy số ruộng ở đó ban cho, tha thóc thuế
cho ruộng ném đao ấy”(1,tr 249 ). Cách kể có tính đảo trật tự thời gian đã làm cho
câu truyện trở lên hay, hấp dẫn và dễ theo dõi . Hơn nữa nó mang lại giá trị văn
học cho tác phẩm. Chính cách kể này khiến cho càng đọc tác phẩm ta càng thấy nó
có sức lôi cuốn
2.Nghệ thuật tự sự của Đại Việt sử ký toàn thƣ
2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật:
2.1.1. Miêu tả ngoại hình trong văn chƣơng trung đại
Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng thuộc về một thời đại nhất định và chịu
chi phối bởi hệ tư tưởng của thời đại ấy. Văn học trung đại Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật nói trên. Văn học trung đại là một khái niệm có tính chất quy
ước chỉ một giai đoạn văn học từ thế kỷ thứ X cho đến hết thế kỷ XIX. Đây là một
giai đoạn văn học chịu ảnh hưởng chủ yếu của quỹ đạo vùng hay sự chi phối của “
tam giáo đồng nguyên”. Nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu, còn bắt đầu từ thế kỷ thứ
XV trở đi Nho giáo giữ vai trò độc tôn chi phối đến mọi vấn đề của cuộc sống con
người đặc biệt là đời sống văn học. Nho giáo ảnh hưởng trực tiếp đến văn học qua
thế giới quan của người cầm bút, kể cả quan niệm cái hay cái đẹp của văn chương
35
cũng bị Nho giáo chi phối. Do ảnh hưởng của văn chương Nho giáo, do thế giới
quan của con người trung đại nên văn chương trung đại thường có tính ước lệ
tựơng trưng.
Nho giáo nhìn nhận con nguời là con người “chức năng” trong xã hội luân
thường “mẹ hiền”, “dâu thảo”, “cha nghiêm” “con có hiếu” bề tôi thì phải trung
với vua, người bề trên có trách nhiệm chăn dắt kẻ dưới…các nhà nho sáng tác văn
chương không phải để phản ánh thế giới khách quan mà để nói đến cái “chí” cái
“tâm” của mình và để truyền Đạo. Con nguời theo quan niệm của Nho giáo là con
người đã được phân biệt đẳng cấp nên mỗi một kiểu người trong xã hội sẽ có một
công thức miêu tả riêng do vậy dẫn đến tính ước lệ tượng trưng.
Hơn nữa trong cảm thức của người phương Đông thì họ chưa nhìn nhận tự
nhiên như một khách thể còn con người là chủ thể. Con người trong xã hội xưa
sống chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên họ coi mình là một bộ phận trong thế giới
tự nhiên và quan trọng hơn họ thấy trong thiên nhiên những phẩm chất tốt đẹp của
con người. Họ nhìn thấy phẩm chất kiên cường, bất chấp mọi gian lao ở cây tùng,
cây bách nên cây tùng, cây bách thường tượng trưng cho người quân tử. Thực tế
tùng bách là những loài cây rắn rỏi chịu đựng được sương gió hay bão tố cũng
giống như anh hùng nào cũng “ sức cử đỉnh bạt sơn, tài kiêm văn võ”. Họ thấy
phẩm chất trong sáng ở cây mai nên cây mai tượng trưng cho người quân tử . Rồng
phượng là những con vật cao quý tượng trưng cho vua chúa. Đây là cách nhìn nhận
thế giới khách quan của những nhà nho, chính cách nhìn nhận này dẫn đến tính
ước lệ tượng trưng trong miêu tả ngoại hình và cả tính cách của nhân vật.
Bên cạnh đó ta có thể thấy bất cứ một nền văn học nào cũng bị ảnh hưởng của
nền văn học bản địa. Văn học trung đại ảnh hưởng sâu sắc tính ước lệ và công thức
trong văn học dân gian. Những nhân vật nữ chính diện trong văn học dân gian
thường xinh đẹp dịu dàng chịu thương chịu khó, giàu tình yêu thương(Tấm, Mị
Nương, Mị Châu, Cô Út). Những nhân vật phản diện thừơng độc ác xấu xa thậm
36
chí cả người lẫn nết(Cám, hai cô chị của cô Út trong truyện Sọ Dừa). Những nhân
vật người em thường tội nghiệp đáng thương nhưng tính tình hiền lành tốt bụng
…Như vậy văn học trung đại có tính ước lệ tượng trưng do sự chi phối của quan
niệm của Nho giáo về con người, do cảm quan về thế giới của con người phương
Đông, do ảnh hưởng của văn học dân gian…
Tính ước lệ tượng trưng của văn học trung đại đã mang lại tính công thức
chung trong khi miêu tả. Mĩ nhân nào cũng “mày ngài mắt phượng”, “mặt hoa da
phấn”, văn nhân nào cũng “nhả ngọc phun châu”…cách miêu tả này làm cho nhân
vật mất đi những nét riêng chỉ còn lại cái chung .
Bút pháp ước lệ trong văn học trung đại được thể hiện rõ nhất ở Truyện Kiều –
một kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du. Trong khi khắc hoạ ngoại hình nhân vật tư
duy phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện ở Nguyễn Du được thể
hiện rõ ràng. “Về ngoại hình nhân vật nữ chính diện thì tất phải đẹp nghiêng nước
nghiêng thành, chim xa cá lặn, còn nếu là phái nam thì hào hoa phong nhã hoặc kỳ
vĩ phi thường”. “Khi miêu tả các nhân vật chính diện Nguyễn Du thường khai thác
các yếu tố thiên nhiên thì khi miêu tả những nhân vật phản diện, ông lại cố gắng
đặt chúng vào địa hạt cuộc sống hằng ngày, cố gắng miêu tả chúng sao như thực.
Đáng ngạc nhiên biết bao là các nhân vật phản diện, bao nhiêu yếu tố thiên nhiên
bay đi đâu mất cả với nhân vật phản diện tác giả cố gắng gọi sự vật bằng đúng cái
tên của nó”(41 ,T109,110)
Thuý Kiều có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Vẻ đẹp của Kiều khiến
hoa cũng phải ghen liễu cũng phải hờn. Qua cách miêu tả này Nguyễn Du đã dự
báo cho nàng một tương lai đầy chuân chuyên trắc trở sóng gió :
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
37
Hoa nghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai
(6,tr51)
Thuý Vân mang vẻ đẹp đoan trang phúc hậu; khuân mặt tròn trịa như trăng
rằm, miệng cười như hoa, da trắng như tuyết…rõ ràng những yếu tố thiên nhiên
được huy động triệt để khắc hoạ vẻ đẹp của nàng:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuân trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
(6,tr51)
Như vậy cả vẻ đẹp của Thuý Vân và Thuý Kiều là vẻ đẹp tinh khôi của của
trời đất. Vẻ đẹp này bắt nguồn từ quan niệm “thiên nhân hợp nhất” con người là do
trời đất sinh ra, là một tiểu vũ trụ trong cái đại vũ trụ thiên nhiên. Vẻ đẹp của con
người là vẻ đẹp của thiên nhiên
Những nhân vật anh hùng thì thường oai phong lẫm liệt, thường to lớn phi
thường. Từ Hải thì “Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước
cao, đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài”.
Ngoại hình của Từ Hải được khắc hoạ hoàn toàn bằng các yếu tố thiên nhiên ngay
cả hoạt động của Từ Hải cũng diễn ra trong không gian toàn cảnh vũ trụ rộng lớn.
Những hành động của chàng được ví von “sấm ran” như “mưa sa”: Sức mạnh của
Từ Hải là sức mạnh của các thế lực thiên nhiên:
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong
38
Thùa cơ trúc chẻ, ngói tan
Binh uy từ đấy sấm vang trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ, sạch dôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét mưa sa.
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam.
(6,tr265)
Những nhân vật văn nhân thường hào hoa, phong nhã; khi Kim Trọng xuất
hiện thì hàng loạt các yếu tố thiên nhiên được huy động rộng rãi để hình dung quần
áo, vật dụng, tư trang, cả cử chỉ, hành vi, cả môi trường hoạt động của nhân vật
cũng vậy thật là nức mùi thiên nhiên;
Đuề huề lưng túi gió trăng.
Sau lưng theo một vài thằng con con
Tuyết in ngựa sắc câu dòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
(6,tr62)
Nếu như khi khắc hoạ ngoại hình nhân vật chính diện Nguyễn Du thường lấy
vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực, thì khi miêu tả ngoại hình của nhân vật phản
diện, ông lại miêu tả chúng rất thực, với hành vi, cử chỉ cụ thể và đặt chúng vào đại
hạt của cuộc sống đời thường, những yếu tố thiên nhiên cao quí, trong sạch bay đi
đâu hết cả:
Mã Giám Sinh hiện lên rất cụ thể về ngoại hình và tuổi tác.
Qúa niên trạc ngoại tứ tuần
39
Mày râu nhẫn nhụi áo quần bảnh bao
(6,tr110)
Hay một mụ Tú Bà với dáng vẻ và nước da “nhờn nhợt” đã ám chỉ bản chất
của con người thiếu chân chính .
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Người đâu ăn uống đẫy đà làm sao.
(6,tr136)
Mã Giám Sinh “Quá niên trạc ngoại tứ tuần” mà mày râu vẫn còn nhãn nhụi áo
quần bảnh bao, trải truốt như trên là hình thức điển hình cho một con người
chuyên sống bằng lừa lọc. Cái màu da “nhờn nhợt” của Tú Bà cho thấy Tú Bà làm
việc về ban đêm nhiều hơn ban ngày, làm việc trong bóng tôi nhiều hơn dưới ánh
sáng. Còn cái béo “đẫy đà” trên là hình thức của con người không lao động chân
tay mà sống bằng sự bóc lột thân xác của chị em phụ nữ đang phát đạt. Như vậy
bút pháp ước lệ trong trong truyện Kiều của Nguyễn Du được thể hiện rõ rệt qua
việc khắc hoạ chân dung hai tuyến nhân vật đối lập nhau, đó là nhân vật chính diện
và nhân vật phản diện. Bên cạnh những tác phẩm truyện thơ như “Truyện Kiều”
bút pháp ước lệ tượng trưng còn được thể hiện qua những tác phẩm văn xuôi như
“Hoàng Lê nhất thống chí ” của tập thể tác giả Ngô Gia Văn Phái.
Trong tác phẩm này ngoại hình nhân vật cũng được miêu tả theo một công thức
đã được đặt trước. Tất cả những ông vua những bậc thánh nhân quân tử đều có
tướng mạo, nguồn gốc sinh thành và tư chất khác thường rồng, phượng xuất hiện
hoặc tiên đồng thái tử trên trời giáng thế….
Nguyễn Khản “sinh ra cũng là một trang phong lưu công tử”(28,tr63) hay
Vương Tử Cán xuất hiện trong tác phẩm tuy chỉ là một đứa trẻ nhưng trong con
mắt của tác giả đã là “Con vua cháu chúa” nên mang cốt cách của một đấng “minh
quân”: “lúc Vương Tử cán đầy tuổi, cốt cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà khác với
40
người thường. Đến khi biết nói Vương Tử Cán đối đáp gãy gọn cử chỉ không khác
gì người lớn. Mỗi khi các quan văn võ vào thăm Vương Tử Cán đối đáp với thái độ
nghiêm chỉnh”. (28,Tr14)
Nhân vật trong tác phẩm Văn học trung đại do ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo nên có sự phân biệt rõ ràng trong khi miêu tả. Những bậc vua chúa, quân tử
thường có cốt cách cao quý, xuất thần…những bậc tiểu nhân thì hèn kém, trần tục.
Người có ngoại hình, cốt cách như thế nào thì sẽ có phẩm chất như thế ấy.
Như vậy phẩm chất của con người trong quan niệm của các nhà nho là do tạo
hoá ban cho chứ không phải do rèn luyện, hay do môi trường hoàn cảnh. Tư duy
của các nhà nho trong việc nhìn nhận con người khác hẳn với các nhà văn hiện đại.
Đối với các nhà văn hiện đại tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, hoàn cảnh làm nảy
sinh tính cách, tính cách lại tác động trở lại hoàn cảnh. Giữa tính cách và hoàn
cảnh có tác động qua lại biện chứng với nhau…
Nhân vật nữ trong Hoàng Lê Nhất thống chí…không được chú ý đến nhiều,
nhưng tác giả lại đặc biệt quan tâm đến dung nhan của Đặng Thị Huệ, bởi chính
nhan sắc của nhân vật này đã dẫn đến sự suy vong của nhà Trịnh diễn ra nhanh
chóng. Tác giả viết “Một hôm hiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ
bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. Người họ Đặng này quê làng Phù
Đổng mắt phượng mài ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp”(28,tr12).
Cách miêu tả ngoại hình nhân vật này đã dự kiến cho sự phát triển tiếp theo của
tác phẩm. Dường như đây là qui luật phát triển của các triều đại phongkiến. Một
triều đại mới khai sinh bao giờ cũng phát triển rực rỡ sau đó sẽ đi vào suy thoái bởi
sự hoang dâm vô độ, ham mê tửu sắc của những người đứng đầu nhà nước.
. Việc chúa Trịnh Sâm vì say mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ dẫn đến những
việc làm trái đạo lý bỏ con trưởng, lập con thứ là mầm mống cho sự loạn lạc tranh
giành quyền lực.
41
Như vậy cả thơ lẫn văn xuôi trong bút pháp khắc hoạ ngoại hình nhân vật đều
mang tính chất tượng trưng, ước lệ. Đây là đặc trưng điển hình cho thi pháp văn
học trung đại. Dù ở thể loại nào đi chăng nữa vẫn chịu sự chi phối bởi đặc trưng
văn hoá của xã hội đương thời.
2.1. 2. Miêu tả ngoại hình trong Đại Việt Sử ký toàn thƣ.
Cũng giống như hàng loạt các tác phẩm nằm trong phạm trù văn học trung đại
như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoàng Lê nhất thống chí của tập thể tác giả họ
Ngô Gia Văn Phái, hay Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… Đại Việt sử ký
toàn thư khi khắc hoạ ngoại hình nhân vật cũng sử dụng bút pháp ước lệ tượng
trưng.
Bản thân các tác giả của Đại Việt sử ký toàn thư vốn là những nhà nho nên họ
đã nhìn nhận con người qua lăng kính của Nho giáo. Trong tư duy của nhà nho
bao giờ có sự “Phân biệt” đối với những tầng lớp người trong xã hội. Các bậc
thánh nhân, quân tử vua chúa bao giờ cũng có sự thụ thai hoặc ra đời kỳ lạ, có
tướng mạo khác thường, có trí tuệ vượt trội hoặc nhân cách cao thượng…còn
những bậc tiểu nhân thì nhân cách thấp hèn, trần tục.
Như Tiền Ngô Vương kỷ nhà Ngô: “Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà,
trạng mạo khác thường, có ba nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm
chủ một phương nên mới đặt tên là Quyền. Đến khi lớn lên mắt sáng như chớp
dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng có thể có thể nâng được vạc” (1,tr 204)
Hoặc như: Hiến Tông Duệ hoàng đế cũng vậy, mẹ là Trường lạc Thái hậu có
mang đến khi đủ tháng đủ ngày “Chiêm bao thấy… rồng vàng từ trên trời sa
xuống, bay vào trong phòng một lát sau thì sinh vua. Vua sinh ra dáng vẻ thiên tử
mũi cao mặt rồng, thần thái trang nghiêm, tươi đẹp khác thường” (3,tr8)
Sở dĩ có hầu hết các bậc đế vương đều có nguồn gốc ra đời kỳ lạ như trên vì
theo quan niệm của người phương Đông xưa nhân cách cao quý của những đấng
42
bậc được xem như sản phẩm sẵn có do trời đất phú cho…Nhân vật chỉ cần ứng
dụng vào đời sống xã hội là nổi danh.
Người xưa ít quan tâm đến sự đào luyện của xã hội với tài năng tức là ít quan
tâm đến mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh.
Khi miêu tả dáng đi, vẻ mặt của các bậc đế vương họ đều lấy rồng phượng, hổ,
báo, ánh chớp ra để so sánh. Như Lê Lợi cũng vậy : “Vua sinh ra thiên tư tuấn tú,
khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ mắt sáng miệng rộng, mũi cao, trên vai có một
nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ, kẻ thức giả đều
biết vua là bậc phi thường” (2,tr 239)
Hoặc như Thái Tông Hoàng đế: “vua mũi cao mặt rồng, giống như Hán Cao
Tổ, (2,tr7).
Như vậy trong khi miêu tả ngoại hình các nhân vật đế vương các nhà sử học đã
sử dụng rất nhiều hình ảnh có tính chất ước lệ như: rồng, hổ, tia chớp để ví von.
Những hình ảnh này góp phần tạo lên một nguồn gốc cao quý. Ngoài ra họ còn sử
dụng mô típ về sự thụ thai kỳ lạ để thần thánh hoá nguồn gốc xuất thân. Các nhà sử
học đã nhìn nhận những bậc đế vương hay hiền nhân quân tử vốn là sản phẩm tinh
tuý của trời đất sinh ra đã mang phẩm chất cao quý.
Cách miêu tả nhân vật bằng bút pháp ước lệ như trên tạo ra chân dung ngoại
hình rất chung chung. Người đọc khó có thể căn cứ vào đó để hình dung ra diện
mạo riêng của từng nhân vật, nhưng lại có thể thấy được nhân cách phẩm chất của
nhà vua. Hán Cao Tổ là một ông vua sáng lập ra nhà Hán và trị vì đất nước Trung
Quốc trong một thời kỳ hưng thịnh và kéo dài. Việc so sánh vua Trần Thái Tông
với Hán Cao Tổ là có ý giúp cho người đọc thấy rõ được vua cũng quyền uy, phú
quý, thông tuệ như Hán Cao Tổ. Trong bộ sử ký của Tư Mã Thiên, Hán Cao Tổ
được miêu tả bằng những chi tiết đậm đặc yếu tố ước lệ “Cao Tổ người mũi gồ,
trán rồng, ở cằm và má có râu tốt, ở bắp vế bên trái có bảy mươi hai nốt ruồi. Tính
nhân hậu, thương người, đầu óc rộng rãi luôn nghĩ đến mưu đồ lớn …Cao Tổ
43
thường uống rượu chịu nhà bà già Vương mỗi khi say rượu ngủ, bà Vũ và bà
Vương thấy có rồng ở trên người lấy làm lạ”(37, tr101)
Khi viết về các bậc đế vương, các nhà sử học thường thần thánh hoá nguồn gốc
xuất thân của vị quân vương. Họ đã đưa vào lịch sử nhiều chi tiết hoang đường kỳ
ảo. Cách khắc hoạ ngoại hình nhân vật như vậy một phần do sự kế thừa thi pháp
của văn học dân gian trong các câu truyện cổ, một phần do cách chép sử dưới sự
“ngưỡng mộ” của bề tôi trung thành hoặc dựa vào “những việc nghe thấy truyền
lại. Hơn nữa ta thấy cách miêu tả nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử ký toàn thư còn
ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học Trung Quốc điển hình như Sử ký của Tư Mã
Thiên. Cách chép sử này sẽ thiếu đi sự khách quan của khoa học lịch sử, nhưng
lại mang màu sắc chủ quan của tư duy văn học.
Đại Việt Sử ký toàn thư không đơn giản chỉ là một cuốn sách chép sử thông
thường mà ở những đoạn khắc hoạ chân dung nhân vật lịch sử mang giá trị văn học
khá rõ. Tuy nhiên khác với các nhà văn hiện đại họ khắc hoạ ngoại hình nhân vật
không phải để phản ánh tính cách bên trong mà miêu tả ngoại hình của các bậc
thần sử chủ yếu là để phân cấp nhân vật theo quan điểm của đạo đức phong kiến.
Những gì kỳ vĩ, phi thường thuộc về những bậc thánh nhân, quân tử, những gì tầm
thường lại thuộc về những kẻ tiểu nhân .
2.2. Miêu tả hành động nhân vật trong Đại Việt Sử ký toàn thƣ.
2.2.1. Phân loại nhân vật theo quan niệm đạo đức phong kiến
Đại Việt Sử ký toàn thư là công trình sử học lớn của Việt Nam thời trung đại,
chép sử nước ta từ thời Hồng bàng cho đến năm 1675. Thời kỳ mà Đại Việt sử ký
toàn thư được biên soạn cũng là thời kỳ mà Nho giáo đóng vai trò chính thống chi
phối đến mọi vấn đề của đời sống con người.
Các sử gia - đồng thời cũng là những nhà nho. Họ đã đứng trên lập trường Nho
giáo để đánh giá, phán xét nhân vật lịch sử. Nho giáo nhìn nhận con người trong xã
44
hội theo chức năng, xem xét con người dưới góc độ đạo đức. Nhà nho đề cao đạo
đức hơn cả sự giàu có, sự giàu có chỉ là “nhân tước”, còn đạo đức mới là “thiên
tước”. Đạo đức chính là thước đo để đánh giá hành vi của con người, điều này xuất
phát từ chủ trương trị nước bằng đạo đức của Nho giáo.
Trong văn chương trung đại (văn chương của những nhà nho) , nhân vật
thường được chia làm hai tuyến: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Nhân vật chính diện là những con người có hành vi đạo đức tốt phù hợp với
chuẩn mực đạo đức phong kiến. Ngoại hình nhân vật nữ chính diện “tất phải đẹp
nghiêng nước nghiêng thành, chim sa cá lặn” còn nếu là phái nam tất hào hoa
phong nhã hoặc kỳ vĩ phi thường. Về tài năng, nhân cách, lý tưởng của họ hầu như
vươn tới những giá trị tinh thần siêu việt. Nhìn chung họ là tấm gương, là mẫu
người lý tưởng mà người đời vươn tới. Nhân vật chính diện trong truyện kiều như :
Thuý Kiều, Từ Hải, Kim Trọng…
Nhân vật phản diện là những con người vô đạo đức, họ thường có quan hệ tiêu
cực, có những hành vi mang tính chất phá hoại đối với những nhân vật chính diện
và trái với phép tắc của xã hội phong kiến.
Nhân vật phản diện trong truyện Kiều như: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh,
Bạc Hà, Bạc Hạnh…Cách phân chia nhân vật thành hai tuyến như trên một mặt do
sự chi phối của tư tưởng nho gia, một mặt do sự kế thừa thi pháp của văn học dân
gian. Xuyên suốt các tác phẩm văn học dân gian là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác,
chính và tà. hay chính là cuộc đấu tranh giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản
diện.
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sử lớn của những nhà nho nên cũng không nằm
ngoài quy luật nói trên. Nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng được
chia thành hai tuyến.
45
Một là, tuyến của nhân vật chính diện: bao gồm những ông vua chân chính,
những bề tôi trung thành, những anh hùng dân tộc tài giỏi, tâm công, trung hiếu.
Hai là tuyến nhân vật phản diện: là những tên vua gian ác, hoang dâm, ăn chơi
vô độ hoặc những tên nghịch thần.
Việc phân chia nhân vật lịch sử ra thành hai loại như trên của các sử gia là
điển hình cho tư duy phân loại nhân vật của văn học trung đại.
2.2.1.1. Những hành động chân chính
Mục đích viết sử của Ngô Sĩ Liên là: Nêu gương trị đạo cho đời sau, giáo huấn
bài học về luân lý, nêu cao chính thống chống nguỵ triều. Những con người có
nhân cách cao thượng, có lương tâm trong sáng thì được ca ngợi hết lời “sáng tỏ
như mặt trời, mặt trăng”, những tên phản tặc thì lời lẽ gay gắt “như sương thu lạnh
buốt”. Đứng trên quan niệm Nho giáo: Những nhân cách trong sáng như Chu Văn
An và Trương Đỗ đời Trần được các sử gia ca gợi hết lời
Người thầy Chu Văn An hiện lên với vài nét phác hoạ rất đơn sơ thoáng qua
nhưng chân dung, cốt cách thể hiện rõ nét.
Chu Văn An: học vấn tinh thông, học trò đầy cửa, những người học ông đều đỗ
đạt cao. Chu Văn An được Minh Tông mời làm Quốc tử giám tu nghiệp dạy Thái
tử học. Dụ tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép
nước. Ông nhiều lần khuyên can Dụ Tông nhưng không nghe, bất bình trước việc
làm ngang tai trái mắt, chán nản về thời thế rối ren, ông bèn dâng sớ xin chém bảy
tên nịnh thần (đều là những người được vua yêu). Sớ dâng lên nhưng không được
trả lời, ông liền treo mũ áo về quê.
Trương Đỗ thuộc kỷ nhà Trần, ông học rộng, nổi tiếng là thanh liêm, thẳng
thắn, con cháu nối đời làm quan có tiếng là nghèo mà sạch không hề gây dựng điền
sản.
46
Ba lần dâng sớ can vua nhưng không được bèn treo mũ từ quan xa rời vòng
danh lợi. Những hành động khẳng khái cương trực trên của Chu Văn An và
Trương Đỗ là sự phản kháng tình trạng vô đạo của xã hội phong kiến. Nho giáo
quan niệm bề tôi phải trung với vua nhưng khi vua làm những điều bất chính thì họ
sẵn sàng đứng về phía nhân dân, đứng về phía đạo đức chân chính của cuộc đời để
lên tiếng với những kẻ cầm quyền, từ chối danh lợi để giữ khí tiết thanh cao, tâm
hồn trong sáng. Con đường công danh của họ đi từ chức phận của nhà nho hành
đạo sang nhà nho ẩn dật. Họ muốn thực hiện đạo “Trung quân”, muốn giúp cho
dân cho nước nhưng chốn quan trường rối loạn, bon chen, kẻ cầm quyền bạc
nhược làm cho họ chán nản. Nhiều lần Dụ Tông đem mũ áo ban cho Chu Văn An
nhưng ông không nhận, sau đó ông trở về quê sống cuộc đời thanh bạch: “cày ăn,
đào uống đòi yên đời phận” .
Như vậy, chỉ cần phác hoạ một vài hành động tiêu biểu chân dung nhân cách
nhân vật đã hiện lên rõ rệt. Gấp trang sử lại không ai có thể quên được một Chu
Văn An và một Trương Đỗ khẳng khái, cương trực, thanh cao. Nhưng xét cho cùng
đây không phải là cá tính mà là tính cách chung của một kiểu người– nhà nho ẩn
dật.
Hành động nhân vật góp phần thể hiện tính cách, mỗi hành động khác nhau sẽ
phản ánh tính cách khác nhau. Trong các nhà khoa học nghiên cứu về con người
chỉ có duy nhất nhà văn mới quan tâm đến hành động của nhân vật nhưng ở đây ta
thấy các nhà sử học cũng chú trọng đặc biệt đến hành động của nhân vật qua đó
thấy được tính cách và khái quát thành kiểu người trong xã hội. Như vậy cách
chép sử của các nhà nho cũng giống như cách phản ánh cuộc sống của nhà văn.
Chính lối chép sử như trên đã tạo lên giá trị văn học cho tác phẩm. Bên cạnh những
hành động thẳng thắn, cương trực của những nhà nho giàu khí tiết, đó là hành động
yêu nước, căm thù giặc của những con người quả cảm. Tiêu biểu là nhân vật Trần
Quốc Tuấn thuộc kỷ nhà Trần:
47
Tại hội nghị các Vương hầu ở Bình Than, họp bàn về kế sách đánh giặc
Nguyên. Nhưng lúc đó Văn hầu Trần Quốc Toản còn nhỏ tuổi không được dự họp
bàn, Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phấn khích tay cầm quả cam bóp nát lúc nào
không biết. Một thời gian sau, Quốc Toản lui về huy động hơn nghìn gia nô và
người thân, sắm vũ khí đóng thuyền chiến viết lên cờ sáu chữ: “Phá cường địch
báo hoàng ân”. Khi đối mặt với giặc tự mình xông lên trước quân sỹ, giặc trông
thấy phải tránh lui không dám đối địch. Rõ ràng chân dung nhân vật Trần Quốc
Toản được các nhà sử học dựng lên bằng những hành động chọn lọc và ấn tượng.
Tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, tích tụ, dồn nén, không thể kìm chế
được đã được bộc lộ ra ngoài bằng hành động bộc phát “bóp nát quả cam” rồi sắm
vũ khí đóng thuyền chiến viết lên cờ sáu chữ: “Phá cường địch báo hoàng ân”.
Tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc của Trần Quốc Toản vốn bắt nguồn từ
truyền thống tốt đẹp của con người Việt nam từ xa xưa. Lên ba tuổi chàng trai Phù
Đổng đã nhổ tre diệt thù, tiếng nói đầu tiên của chàng là tiếng nói đánh giặc. “Con
người Việt Nam vốn là những con người có ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu
nước rất mãnh liệt. Họ xem ranh giới quốc gia là rất đỗi thiêng liêng, khác hẳn với
người phương Tây sống du mục, lang thang nay đây mai đó nên ranh giới quốc gia
đối với họ không là vấn đề “sống còn” cần kíp giữ gìn bảo vệ. Đối với người Việt
Nam hễ kẻ nào đến xâm phạm bờ cõi, lãnh thổ là “bị đánh tơi bời” và chống trả
quyết liệt”(39,tr43)
Đại Việt sử ký toàn thư không chỉ là những trang sử hào hùng về lòng yêu nước
căm thù giặc, mà còn là bài ca bất hủ về tư tưởng trung quân. Đứng trên quan điểm
Nho giáo để nhìn nhận lịch sử, các sử gia luôn tôn thờ tư tưởng trung quân. Những
tấm gương trung quân đã được các sử gia ca gợi hết lời. Tiêu biểu là nhân vật
Phụng Hiểu đời Trần.
Trước những việc làm vô đạo đức, trái nhân luân, làm loạn kỷ cương, thì một
con người giàu nghĩa khí như Phụng Hiểu không thể khoanh tay đứng nhìn. Khi
48
Lý Thái Tổ vừa băng hà, linh cửu chưa được an táng, thái tử vâng di chiếu chuẩn
bị lên ngôi. Vậy mà ba anh em Đông Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức đem quân phục
sẵn trừ khử thái tử nhằm cướp đoạt ngôi báu. Phụng Hiểu – một bề tôi trung thành
rất phấn khích tức giận rút gươm chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc hô to rằng; “bọn
Vũ Đức Vương ngấp nghé ngôi báu, không coi vua nối vào đâu, trên quên ơn tiên
đế, dưới trái nghĩa con tôi”.(1,tr248) “Vì thế thần là Phụng Hiểu xin đem thanh
gươm này để dâng, rồi xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương, Vương quay
ngựa ngã khuỵ xuống bị Phụng Hiểu bắt giết. Phủ binh của ba vương thua chạy,
quan quân đuổi theo chém giết không sót một mống chỉ có hai vương là Đông
Chinh và Dực Thánh chạy thoát”(1,tr149).
Hành động lao đầu vào chốn loạn quân và bất chấp tính mạng của Phụng Hiểu
là kết quả của sự phẫn uất trước đạo lý cương thường bị đảo lộn, anh em cốt nhục
giết nhau để tranh dành ngôi báu, không coi di chiếu vua ban là gì. Hành động đó
là đỉnh cao của tư tưởng trung quân, trung quân chính là một phẩm quan trọng nhất
của bề tôi, không phải “vua bảo chết, thần chết” mà vì đạo lý, vì lẽ sống cương
thường của Nho giáo đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân.
Chức năng của sử học là phản ánh lịch sử chính xác, cung cấp thông tin, sự
kiện còn văn học thiên về chức năng thẩm mỹ, giáo dục. Nhưng qua những tấm
gương yêu nước như Trần Quốc Toản, trung quân như Phụng Hiểu, thì những
trang sử của Đại Việt sử ký toàn thư đã mang chức năng giáo dục, thẩm mỹ của
văn chương. Điều này hoàn toàn phù hợp với mục đích viết sử của các bậc đại nho.
Nhà sử học dựng lại chân dung nhân vật lịch sử giống như quá trình sáng tạo của
nhà văn. Nhà văn chọn lọc, khái quát ghi nhận những hành động ấn tượng từ thực
tế cuộc sau đó tái hiện vào trong tác phẩm của mình, còn nhà sử học chép lại có
chọn lọc và sắp xếp những hành tiêu biểu để tạo dựng chân dung nhân vật lịch sử.
Chính sự tương đồng trong quá trình sáng tác văn học và quá trình chép sử đã tạo
lên giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư .
49
2.2.1.2. Những hành động phi đạo đức
Nhà nho trong xã hội phong kiến xưa là người có vị trí đặc biệt, là tầng lớp
đứng đầu tứ dân (sỹ – nông – công – thương). Họ là tầng lớp trung gian giữa giai
cấp thống trị và nhân dân. Khi cần họ thay mặt cho nhân dân nói lên tiếng nói của
đại quần chúng, nhất là khi giai cấp thống trị rơi vào con đường ăn chơi xa hoa,
truỵ lạc, không chăm lo cho cuộc sống của người dân.
Trong tư duy của những nhà sử học, giai cấp thống trị được phân thành hai
loại: một là các đấng minh quân tài giỏi, nhân đức chăm lo cho dân cho nước, hai
là những ông vua hoang dâm, tàn ác ăn chơi vô độ.
Khi xã hội phong kiến bước vào giai đoạn suy đồi, bản chất phản động của giai
cấp phong kiến đựơc thể hiện rõ. Văn học mang nặng tính chất phê phán hơn là
ngợi ca.
Hai ông vua bị các thần sử phê phán gay gắt nhất đó là: Vua Uy Mục và vua
Ngoạ Triều.
Điều đặc biệt ở đây khi xây dựng chân dung hai nhân vật lịch sử này các nhà
sử học không chỉ quan tâm đến thời điểm mà họ “sắm vai” lịch sử mà còn khắc
hoạ tính cách theo cả một quá trình. Điều này làm cho con người trong lịch sử
giống như nhân vật trong tác phẩm văn học. Bút pháp khắc hoạ nhân vật là bút
pháp của nhà văn. Ngoạ Triều đã từng giết anh tự lập làm vua, còn Uy Mục Hoàng
đế vốn là con của một tỳ thiếp được lập làm vua. Thái hậu e không nối được đạo
thống nên không vui. Sau khi lên ngôi Uy Mục đã ngầm giết thái hậu rồi nghỉ
chầu bảy ngày.
Trước khi Uy Mục lên ngôi Văn Lễ, Quang Bật cùng các đại thần nhận di
chiếu lập Túc Tông lên ngôi Hoàng đế, Uy Mục oán thù sau này mượn mưu của
Khương Chủng và Nhữ Vi đẩy hai người đi làm thừa tuyên sứ Quảng Nam “khi họ
50
đến sông lớn ở huyện Châu Phúc vua sai người đuổi theo bắt phải tự tử, cả triều
đình ai cũng biết, vua đổ tội cho Nhữ Vi rồi giết y”(3,tr40).
Xưa nay trong xã hội phong kiến việc thái tử lên ngôi là do vua cha truyền lại
hoặc chưa kịp viết di chiếu thì do các quan trong triều tôn lên. Nhưng qua những
sự việc nêu trên cả hai vị vua này có sự kế vị không chính đáng, thậm chí có cả
những hành động tàn ác giết cả anh trai của mình để tranh ngôi báu, hoặc giết cả
cận thần để bịt đầu mối…
Việc đưa vào lịch sử những chi tiết trên làm cho tính cách nhân vật trở nên
điển hình. Uy Mục và Ngoạ Triều là tiêu biểu cho loại vua “quỷ vương”.
Uy Mục hoàng đế từ khi lên ngôi: “Vua đêm nào cũng cùng cung nhân vui đùa
uống rượu vô độ khi say liền giết cả cung nhân”(3,tr45). Các quan nào không lập Y
làm vua thì giết đi, lại ngầm sai nội nhân Nguyễn Đình Khoa đi dò xét cả hai mươi
sáu vương là các chú và anh em của vua, nếu còn thì trừng trị nốt. Anh em nội,
ngoại, thích của Uy Mục cậy quyền thế giết hại cả nhân sinh: “kẻ thì dùng ngón
kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân chúng đều cướp đoạt
cả, nhà nào có đồ lạ, đồ quý chúng đánh dấu chữ vào đều đòi lấy”(3,tr45)
Bọn ngoại thích Nguyễn Đình Khoa: “ngầm sai người đến Thừa Hiến phủ
huyện các xứ trong nước, tới cả dân gian, cưỡng bắt những con gái chưa chồng làm
khốn khổ nhân dân”.(3,tr47)
Tội ác chồng chất của vua và bọn ngoại thích làm cho dân chúng không dám ló
mặt ra, thấy chúng đã chạy trốn vào các nhà, phố xá hàng chợ. Vua chết do Giản
Tu oán hận vì đã giết cha mẹ, anh chị em mình thảm khốc nên sai người dùng súng
lớn cho nổ tan tành hết hài cốt. Sống không trách nhiệm, không lương tâm để
người thân nội ngoại thích hoành hành nên chết bi thảm là tất yếu. Đây là quan hệ
nhân quả.
51
Ngoạ Triều hoàng đế coi việc giết người là sở thích, coi tính mạng của người
dân là thứ đùa vui. Các sử thần đã đưa vào lịch sử rất nhiều hành động giàu kịch
tính, gay cấn, đậm màu sắc văn học “vua tính hiếu sát, phàm người bị hành hình,
hoặc lấy cỏ danh cuốn vào người mà đốt cho lửa cháy gần hết hoặc sai kép hát
người nước Tông là Liêu Thư Tâm lấy dao ngắn, dao cùn xẻo từng mảnh để cho
không được chết chóng. Người ấy kêu gào thì Thư Tâm nói đùa rằng: “Nó không
quen chịu chết”, vua cả cười. Đi đánh dẹp bắt được tù nhân thì giải đến bờ sông
khi nước triều rút sai người làm lao dưới nước, dồn cả vào trong ấy đến nước triều
lên ngập nước mà chết hoặc bắt người chèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây
đổ, người rơi xuống chết, vua thân đi đến xem lấy làm vui. Có lần vua đi đến sông
Ninh sông ấy nhiều rắn, vua sai trói người vào mạn thuyền đi lại giữa dòng muốn
cho rắn cắn chết. Phàm bò lợn muốn làm thịt thì tự tay vua chọc tiết rồi mới đưa
vào nhà bếp sau”(1,tr236). Ngỗ ngược hơn “vua róc mía trên đầu sư Quách Ngang
giả vờ lỡ tay làm đầu vua bị thương chảy máu rồi cả cười hoặc nhân yến tiệc, giết
mèo cho các vương ăn, ăn xong vua lấy đầu mèo giơ lên cho các vương xem, các
vương đều sợ, vua lấy làm thích”(1,tr236). Sự tàn ác của Ngoạ Triều hoàng đế
được sử thần Ngô Sỹ Liên so sánh với vua Kiệt nhà Hạ và vua Trụ nhà Thương.
Chân dung vua Ngoạ Triều hiện lên bằng nghệ thuật sắp xếp chọn lọc hàng loạt
các chi tiết, các sự việc sinh động, hấp dẫn. Những chuỗi hành động mà các thần
sử đưa ra đều tập trung vào vẽ lên bộ mặt của một vị vua tàn ác nhất trong lịch sử.
Thông thường khi lật một trang sử, ấn tượng đối với người đọc là sự kiện, nhưng
có lẽ rằng qua những trang sử trên người đọc lại thấy hình bóng của một kiểu nhân
vật trong văn học – nhân vật đế vương tàn ác, coi việc giết người là một thú vui.
Như vậy qua việc taọ dựng chân dung nhân vật lịch sử bằng nghệ thuật sắp xếp các
chi tiết các nhà sử học đã phản ánh được cái chung qua cái cụ thể mang tính đại
diện. Đây là cách xây dựng nhân vật và phản ánh cuộc sống của nhà văn
Những vị vua như Uy Mục và Ngoạ Triều không đủ đạo đức để làm vua, xã
hội phong kiến xưa được duy trì chủ yếu bằng đức trị. Người đứng đầu nhà nước là
52
vua đóng vai trò là “cha mẹ của dân”, thay trời trị dân và giáo hoá dân mà có
những hành động tàn ác như trên quả thật là không xứng đáng, giáo dân, dân cũng
không nghe. Một ông vua anh minh phải là một ông vua vừa tài giỏi vừa nhân hậu
và phải biết chăm lo cho dân cho nước. Còn những ông vua “vương quỷ” như trên
sẽ thất bại nhanh chóng. Trong xã hội phong kiến đạo đức là nhân tố quyết định sự
thịnh suy trong công cuộc trị vì. Nhân đức vua chúa kém thì thần dân sẽ quay
lưng. Nhân đức toả sáng thì thần dân sẽ quy phục thiên hạ đại định. Ngoài những
tên “quỷ vương” các nhà nho chép sử còn lên án gay gắt những tên gian thần, phản
tặc.
Tiêu biểu như Đỗ Thích thuộc kỷ nhà Đinh làm chức ở lại Đồng Quan: “đêm
nằm trên cầu bỗng thấy sao sa rơi vào miệng” Thích cho là điềm tốt bèn nảy ra ý
định giết vua. Đến đây, nhân vua ăn yến tiệc ban đêm, say rượu nằm trong sân.
Thích bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt Vương Liễn, khi ấy lệnh lùng bắt
hung thủ rất gấp, Thích phải nấp ở máng nước trong cung. Qua ba ngày khắt lắm,
gặp lúc trời mưa thò tay hứng nước uống, cung nữ trong cung trông thấy liền đi
báo. Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc sai người bắt đem chém, đập nát xương ra từng
mảnh chia cho người trong nước ăn”(1,tr214). Hành động giết vua của Đỗ Thích
là mắc vào tội khi quân. Đây là tội nặng nhất trong xã hội phong kiến nên bị trừng
phạt đích đáng. Ngai vàng phong kiến là địa vị cao nhất thiên hạ, người ngồi ở vị
trí này có quyền lực tuyệt đối và được hưởng mọi thú ngon vật lạ trên đời, vây
xung quanh họ là hàng trăm hàng nghìn những cung tần mĩ nữ “mặt hoa da phấn”
“nghiêng nước nghiêng thành” ngày đêm thay nhau phục vụ…Địa vị cao quý và
cuộc sống phù hoa nơi cung cấm tạo lên nỗi khát thèm mơ tưởng. Đây là nơi
thường xuyên diễn ra cảnh “nồi da nấu thịt”. Nhiều bậc quần thần đã liều mạng để
chiếm đoạt ngôi báu. Cuộc đời ngắn ngủi của Đỗ Thích được trích dẫn ở trên là
minh chứng cho giấc mộng trở thành đế vương nhưng không thành .
53
Xây dựng chân dung nhân vật lịch sử bằng việc gợi ca những hành động chân
chính và lên án, phê phán những hàng động phi nghĩa đã mang lại giá trị giáo dục
sâu sắc cho Đại Việt sử ký toàn thư. Sử học nhưng lại mang chức năng văn
chương(chức năng giáo dục) Vậy giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư là
xuất phát từ mục đích chép sử của các bậc đại nho.
2.3. Nghệ thuật tạo tình huống truyện
2.3.1. Đặt nhân vật vào những mối mâu thuẫn
Cách chép sử của các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư khác hẳn với cách chép
sử của khoa học lịch sử hiện đại. Khoa học lịch sử hiện đại chép sử theo lối biên
niên, sự kiện lịch sử được sắp xếp theo trật tự ngày tháng, sự kiện đưa ra càng chân
thực bao nhiêu càng có giá trị bấy nhiêu. Nhưng ở Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ
Liên đã vận dụng tổng hợp cả hai phương pháp viết sử của Trung Quốc. Đó là lối
viết biên niên của bộ Xuân Thu và lối viết kỷ truyện theo bộ Sử ký của Tư Mã
Thiên.
Đại Việt sử ký toàn thư có sự đan xen giữa lối viết biên niên và kỷ truyện.
Những phần được viết theo lối kỷ truyện, Ngô Sỹ Liên đã khéo léo chọn lọc, sắp
xếp các chi tiết để tạo dựng chân dung nhân vật. Thậm chí ông còn đặt nhân vật
lịch sử vào mối mâu thuẫn để nhân vật bộc lộ tính cách.
Tiêu biểu như nhân vật Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn- kỷ nhà Trần.
Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Tuấn, Ngô Sĩ Liên đặt nhân vật vào mối
mẫu thuẫn giữa chữ hiếu và chữ trung. Trần Quốc Tuấn sẽ lựa chọn thực hiện tròn
bổn phận làm con hay là một bề tôi trung thành. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc
Tuấn vốn là con trai của An Sinh Vương. Trước khi mất, An Sinh Vương trăng trối
với con rằng: “con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì dưới suối vàng cũng
không nhắm được”(2,tr79). Trong thâm tâm, An Sinh Vương mong con đoạt được
ngôi báu từ tay Chiêu lăng về mình (ông và Chiêu Lăng vốn có hiềm khích với
54
nhau). Sau khi nghe xong lời cha dặn Trần Quốc Tuấn ghi điều đó ở trong lòng
nhưng ông không cho là phải. Trần Quốc Tuấn thương cha nhưng đã đặt lợi ích
triều đại, lợi ích đất nước cao hơn lợi ích cá nhân. Khi vận nước nằm trong tay ông
đem lời trăng trối của cha ra để thử gia nô và các con, hơn nữa đây cũng là lần thử
thách cuối cùng để kiểm nghiệm lòng mình. Trước hết ông hỏi hai gia nô Yết Kiêu
và Dã Tượng, họ cho rằng: “làm như thế tuy được phú quý một thời nhưng để lại
tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú quý hay sao”. Câu trả lời
của hai gia nô khiến ông không những hài lòng mà còn cảm động đến phát khóc.
Câu trả lời của con trưởng khiến ông ưng ý: “Dẫu khác họ cũng còn không nên
huống chi là người cùng một họ”(2,tr80). Con thứ đồng ý với phép thử, điều này
khiến cho Trần Quốc Tuấn có phản ứng quyết liệt. Ông cho đây chính là kẻ phản
nghịch định chém đầu để trừng trị và dặn người nhà không cho phép nhìn mặt sau
khi ông chết.
Sau phép thử ông đã giải toả được mối mâu thuẫn giữa chữ “trung” và chữ
“hiếu” đã giải quyết được mối giằng co, day dứt trong lòng. Cuối cùng ông đã đặt
chữ “trung” lên trên chữ “hiếu”, đặt nợ nước lên trên tình nhà. Trần Quốc Tuấn là
hình mẫu lý tưởng của thời đại, là mẫu người mà xã hội phong kiến tôn thờ, là sản
phẩm của Nho giáo. Tư tưởng trung quân của Trần Quốc Tuấn là tư tưởng chủ yếu
của Nho gia. Tấm gương trung quân ở Trần Quốc Tuấn luôn được đề cao nhằm
mục đích giáo hoá, tuyên truyền bảo vệ trật tự xã hội phong kiến.
Như vậy, việc đặt nhân vật vào các mối mâu thuẫn, hay chính là các mối quan
hệ (vua – tôi, cha – con, gia nô - chủ tướng) để thể hiện tính cách là cách sử dụng
nghệ thuật viết văn vào khắc hoạ chân dung nhân vật lịch sử. Vì vậy những trang
sử này mang giá trị văn học sâu sắc.
2.3.2. Đặt nhân vật vào những tình huống truyện giàu kịch tính
55
Tính huống truyện có kịch tính: ở đó nhân vật sẽ gặp phải những điều bất
ngờ, sự việc diễn ra ngoài dự đoán. Tình huống truyện cũng có thể là sự gặp gỡ của
những tính cách để tạo lên một sâu chuỗi các sự việc và để lại một ý nghĩa .
Xây đựng chân dung nhân vật Trần Thủ Độ, các sử gia đã tạo ra những tình
huống truyện giàu kịch tính. Mở đầu mỗi tình huống sự việc diễn ra căng thẳng,
sau khi sự việc được giải quyết để lại cho người đọc một sự bất ngờ và cuối cùng
câu chuyện đi vào hồi kết. Kết thúc mỗi tình huống người đọc sẽ nhận ra vẻ đẹp
về nhân cách của nhân vật.
Ở tình huống thứ nhất có người hặc tội về sự chuyên quyền của Trần Thủ Độ.
Vua xa giá cùng với người hặc tội đến tận nhà Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ không
hề biện bạch cho bản thân hay tỏ lòng thù oán hoặc tìm cách trừng trị người hặc tội
mình, hơn nữa ông còn công nhận lời nói đó là phải và thưởng cho người dám
dũng cảm vạch lỗi của mình.
Tình huống hai: Khi nghe Linh Từ Quốc Mẫu( phu nhân của Trần Thủ Độ)
khóc và mách về tên quân hiệu ngăn không cho đi qua thềm cấm. Trần Thủ Độ sai
đi bắt, người quân hiệu kia nghĩ mình phải chết là chắc nhưng khi Trần Thủ Độ
vặn hỏi anh ta đem sự thật ra trả lời. Anh ta không những không bị trừng phạt mà
còn được khen thưởng vì giữ đúng pháp luật. Như vậy thái độ phân biệt đúng sai
của Trần Thủ Độ rất rạch ròi.
Tình huống thứ ba: Có người nhờ Linh Từ Quốc Mẫu xin cho làm chức câu
đương, Trần Thủ Độ đã dạy cho tên này một bài học muốn làm chức ấy thì phải
chặt một ngón chân đi để phân biệt với những người khác cho xứng đáng với chức
vụ mà người đó được cử. Người đó nghe thấy điều kiện như vậy van lấy van để xin
thôi .
Tình huống bốn: Vua muốn phong chức tước cho An Quốc, anh của Trần Thủ
Độ nhưng ông đã thẳng thắn trình bày quan điểm chỉ nên lựa chọn người giỏi nhất
56
có thể là mình, có thể là anh mình, không nên hậu đãi cả hai anh em, làm như vậy
sẽ dẫn đến rối loạn triều chính.
Cách giải quyết các tình huống của tác giả làm cho người đọc hoàn toàn bất
ngờ. Bởi theo thói đời thì người ta thường hân hoan khi anh em hay người thân
của mình được cất nhắc, trọng dụng để dễ kéo bè, kéo cánh khinh loát triều chính.
Nhưng ở đây Trần Thủ Độ lại đặt điều kiện lựa cho vua là: có thể là chọn mình
hoặc chọn anh trai mình, không thể trọng dụng cả hai người cùng một lúc. Qua
bốn tình huống trên ta thấy Trần Thủ Độ là người thẳng thắn, phân miêng. Ông
luôn đặt việc công lên trên những lợi ích riêng tư, không vì lợi ích riêng tư mà làm
ảnh hưởng đến việc công bao giờ
Đặt nhân vật vào những tình huống truyện để bộc lộ tính cách đây là hình thức
mượn kỹ thuật viết văn để chép sử . Chính cách chép sử như vậy làm cho Đại Việt
sử ký toàn thư trở lên lôi cuốn, hấp dẫn và quan trọng hơn là đã để lại giá trị văn
học cho tác phẩm .
2.4.Khắc hoạ tính cách nhân vật qua ngôn ngữ
2.4.1 Ngôn ngữ của những bậc hiền tài
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, là phương tiện diễn đạt của mọi ngành khoa
học. Mỗi một ngành khoa học có một chất liệu riêng, nếu hội hoạ chất liệu là màu
sắc, đường nét, âm nhạc là âm thanh, kiến trúc là đường nét, hình khối, còn đối với
văn học chất liệu là ngôn từ. Ngôn từ là yếu tố đầu tiên của văn học. Ngôn từ trong
tác phẩm văn học hàm xúc, giàu tính hình tượng và có tính truyền cảm cao. Nhà
văn sử dụng ngôn từ để xây dựng chân dung nhân vật văn học, qua đó để phản ánh
cuộc sống. Ngôn từ là chất liệu của văn học nhưng đồng thời ngôn từ cũng là đối
tượng của văn học. Khi phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học, người ta không
chỉ chú ý đến ngoại hình, hành động mà còn chú ý cả lời nói, ngôn ngữ độc thoại,
đối thoại.
57
Chỉ có tác phẩm văn học người ta mới quan tâm đến ngôn ngữ, đến phát ngôn
của nhân vật. Nhưng trong Đại Việt sử ký toàn thư các sử gia rất khéo léo trong
việc lồng những đoạn đối thoại vào để lột tả tính cách nhân vật. Nho giáo vốn rất
coi trọng việc học hành nên nhân vật là những người hiền tài được các nhà sử gia
hết lòng ca ngợi. Điển hình là Mạc Đĩnh Chi có tài đối đáp rất thông minh, nhanh
nhẹn. Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang nhà Nguyên, “một hôm viên tể tướng mời ông
vào phủ cho cùng ngồi, lúc ấy đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có bức
trướng mỏng thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc, Đĩnh Chi vờ ngỡ như chim
sẻ thực, vội chạy đến bắt. Người Nguyên đến cười ồ, cho là người phương xa bỉ
lậu. Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi, mọi người lấy làm lạ hỏi tại sao, Đĩnh
Chi trả lời: Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ chứ chưa thấy vẽ đậu cành
trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu cành trúc với chim sẻ.
Trúc là quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân, tể tướng thêu như vậy là để tiểu nhân trên
quân tử sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy, tôi vì thánh
triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân”(2,tr93) nói đến đây mọi người đều phục ông.
Theo quan niệm của người xưa, bậc hiền tài không chỉ có sự ra đời kỳ lạ, có
tướng mạo khác thường, mà còn có tài đối đáp. Đối đáp giỏi là kết quả của học vấn
uyên thâm “ thông thiên văn, tường địa lý”. Cách đối đáp thông minh của Mạc
Đĩnh Chi là sự thể hiện việc xử trí thông minh khôn khéo, nắm lấy điểm yếu của
người khác kéo phần thắng về mình. Trong hoàn cảnh giao tiếp với nhà Nguyên
cách ứng xử trên đã góp phần giữ thể diện cho quốc gia. Ngoài việc quan tâm đến
ngôn ngữ của những bậc hiền tài các sử gia còn chú trọng đến ngôn ngữ của những
bề tôi trung thành giàu tinh thần yêu nước
2.4. 2 Ngôn ngữ của những bề tôi giàu tinh thần yêu nƣớc.
Văn học cổ không chú ý nhiều đến miêu tả thế giới nội tâm con người, các nhà
văn chủ yếu khắc hoạ tính cách qua hành động và đối thoại. Những đoạn đối thoại
của nhân vật trong Đại Việt Sử Ký toàn thư tuy không dài nhưng lột tả được tính
58
cách của nhân vật. Khi miêu tả các đoạn đối thoại đó các sử gia đặc biệt quan tâm
đến sự ứng đối của người dân Đại Việt đối với giặc phương Bắc. Đây là lúc đối
mặt với kẻ thù, đây cũng là lúc thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ . Tiêu biểu là
cuộc đối thoại giữa Trần Khắc Chung - Ô Mã Nhi, giữa Trần Bình Trọng - giặc,
giữa Lê Giốc – giặc.
“ Mùa xuân tháng giêng, ngày mồng 6 tướng Ô Mã Nhi đánh vào các xứ Vạn
Kiếp và núi Phả Lại, quan quân vỡ chạy. Ngày 12 giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ
Ninh, Đông Ngàn bắt được quân của ta, thấy người nào cũng thích hai chữ “ Sát
thát” bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm giết hại nhiều người, rồi đến Đông Bộ
Đầu chúng dựng một lá cờ lớn. Vua muốn sai người dò xét tình hình giặc mà chưa
tìm được ai. Chi hậu thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng: “Thần hèn mọn bất tài
nhưng xin được đi”. Vua mừng nói rằng: “ Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối,
lại có ngựa kỳ ngựa ký như thế”. Ô Mã Nhi hỏi Chung: “Quốc vương ngươi vô lễ,
sai người thích chữ “sát thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm. Khắc Chung
đáp:
“ Chó mà cắn người lạ không phải tại chủ nó, vì lòng trung phẫn mà họ thích
chữ thôi. Quốc Vương tôi không biết việc đó, tôi là cận thần tại sao lại không có?
Nói rồi giơ cánh tay cho xem”.
Ô Mã Nhi nói:
“ Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn
chống lệnh, càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao”, Khắc Chung nói:
“ Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín Bình nước Yên, đóng quân
ở đầu biên giới, đưa thư tín trước, nếu không thông hiếu thì mới có lỗi. Nay lại bức
nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại huống chi là
người.”(2,tr53)
59
Hoặc như Trần Bình Trọng, chồng sau của công chúa Thuỵ Bảo thuộc dòng
dõi Lê Đại Hành. Đánh nhau với giặc trong cuộc chiến chống quân Nguyên do Ô
Mã Nhi cầm đầu. Khi bị giặc bắt Vương không chịu ăn, giặc hỏi việc nước Vương
không chịu trả lời, giặc hỏi Vương “ Có muốn làm vương đất Bắc không?” Vương
thét to: “ Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”(2,tr54) rồi
bị giết. Đây là câu nói khẳng khái, dứt khoát, thể hiện rõ tinh thần yêu nước của
một kẻ sĩ thà chết chứ không nhận ân sủng của giặc.
Đến thời kỳ nhà Trần, mùa hạ tháng 5 ngày 5 người Chiêm đưa Ngư Câu
Vương Húc đã đầu hàng đến cướp phủ Nghệ An…tháng 6 giặc đánh vào sông Đại
Hoàng, vua sai hành khiển Đỗ Tử Bình đi chống giữ. Quan quân tan vỡ giặc liền
đánh vào Kinh Sư, bắt người cướp của rồi rút về. An Phủ sử Lê Giốc bị giặc bắt,
giặc buộc Giốc phải lạy, Giốc trả lời chúng: “ Ta là quan của nước lớn, sao phải
lạy chúng mày”(2,tr165), giặc nổi giận giết ông.
Qua những đoạn đối thoại trên ta thấy từ Đỗ Khắc Chung đến Trần Bình
Trọng hay Lê Giốc đều là những trung thần nghĩa sĩ quả cảm, giàu tinh thần yêu
nước . Họ thà chết chứ không thèm đầu hàng hay nhận ân sủng của giặc
Chỉ bằng những đoạn đối thoại ngắn và cô đọng các sử gia ra cũng giúp cho
người đọc nhận ra tính cách nhân vật . Tuy nhiên ngôn ngữ vẫn chưa có tính cá thể
mà mang tính cách chung cho những con người giàu tinh thần yêu nước.
2.4.3. Ngôn ngữ của những đấng minh quân
Thái tổ Cao Hoàng Đế tên huý là Lợi, họ Lê. Người Lam Sơn, huyện Lương
Giang, trấn Thanh Hoá. Vua sinh ra thiên tử tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh
kỳ vỹ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói như
chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi
thường.
60
Bấy giờ họ Hồ cướp ngôi nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược nước Nam, chia
cắt nước ta thành quận huyện, bắt nhân dân làm tôi tớ, luật pháp phiền hà, khắc
nghiệt, thuế má lao dịch nặng nề. Vua ẩn náu chốn núi rừng, dụng tâm nghiền
ngẫm thao lược, chiêu tập dân chúng hăng hái, dấy binh khởi nghĩa mong trừ hoạn
lớn. Vua từng bảo mọi người:
“ Ta cất quân đánh giặc, không phải là có lòng ham muốn phú quý mà chính vì
muốn để ngàn năm về sau, người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho bọn giặc tàn
ngược”.(2,tr240)
Qua những lời nói trên ta thấy Lê Lợi xứng đáng là một bậc minh quân có nhân
cách cao thượng, có chí khí lớn của bậc quân vương, mang tinh thần dân tộc quật
khởi . Ông sẵn sàng chịu gian khổ, sương gió, chứ không can tâm chịu nô lệ tôi tớ.
Mặc cho nhiều lần người Minh trao quan chức để dụ dỗ nhưng Lê Lợi không chiụ
khuất phục, Lê Lợi từng nói: “ Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập
công to, lưu lại tiếng thơm ngàn năm, sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến.
Thế rồi dẫn đầu hào kiệt, dựng cờ khởi nghĩa diệt giặc Minh”.
Trong cuộc kháng chiến giặc Minh quân ta nhiều lúc rơi vào tình thế nguy nan
. Lê Lợi lo lắng bàn với quân sĩ rằng “Giặc vây ta bốn mặt có muốn chạy cũng
không có lối nào. Đây chính là “ tử địa”mà binh pháp đã nói đánh nhanh thì sống ,
không đánh thì chết”. Vua nói xong chảy nước mắt làm cho quân sĩ ai cũng xúc
động. Những vị vua nhân đức thì mỗi lời thốt ra đều tràn đầy tình yêu nước thương
dân. Họ luôn trăn trở cho việc sống còn hay sự nguy hại đến mỗi người dân. Vua
từng ra lệnh cho các tứơng sĩ rằng “Dân chúng khổ về chính sách bạo ngược của
giặc đã lâu rồi. Những châu huyện nào chúng ta đi tới, không được mảy may xâm
phạm của dân. Nếu không phải là trâu bò, thóc lúa của bọn nguỵ quan, thì dẫu đói
khát đến đâu cũng không được lấy bậy”( 2,tr254). Những lời nói trên là tư tưởng
nhân nghĩa và lòng yêu nước thương dân của Lê Lợi, điều này đã cảm hoá được tất
cả các thần dân. Vua dẫn quân đi đến đâu cũng được thần dân ủng hộ, đón tiếp
61
nồng nhiệt. “ Mùa xuân, tháng giêng vua đem đến hương Đa Lôi, huyện Thổ Du,
trấn Nghệ An. Già, trẻ tranh nhau đem trâu, rượu đến đón và khao quân. Mọi người
đều nói: “không ngờ ngày nay lại trông thấy uy nghi của nước cũ”(2,tr253)
Tư tưởng nhân nghĩa của Lê Lợi không chỉ thể hiện trong mối quan hệ với thần
dân mà đối với quân giặc, tinh thần khoan dung độ lượng hiện lên với vẻ đẹp ngời
sáng. Sau khi giặc đầu hàng nhiều tướng sĩ vẫn còn rất căm thù giặc vì đã giết hại
thân thích gia đình họ, tướng sĩ liền khuyên vua giết chết bọn chúng đi nhưng vua
dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi nguời, nhưng không thích giết
người là bản tâm của bậc nhân đức. Và lại, người ta đã hàng mà mình lại giết thì là
điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt là để hả căm giận trong chốc lát mà mang
tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn
người ,để dập tắt chiến tranh cho đời sau, sử xanh đã chép tiếng thơm muôn đời, há
chẳng lớn lao sao”(2,tr281)
Như vậy qua ngôn ngữ đối thoại trực tiếp và gián tiếp với quân sĩ, qua những
lời dụ, Lê Lợi xứng đáng là bậc vua nhân hậu và anh minh bậc nhất trong lịch sử.
Ngôn ngữ của ông thể hiện tầm vóc nhân cách đạo đức, trí tuệ cao của một bậc
lãnh tụ mang cốt cách phương Đông. Tình yêu nước thương dân vô bờ bến cùng
với tấm lòng vị tha cao cả của ông là sự kết tinh bản tính nhân hậu của con người
Việt Nam trong lịch sử
Việc chép sử nhưng lại dừng lại khá lâu ở những đoạn đối thoại để khắc hoạ
tính cách nhân vật chính là mượn bút pháp của nhà văn. Nghệ thuật chép sử như
trên làm cho nhân vật lịch sử hiện lên chân thật, sinh động.
62
TIỂU KẾT
Đại Việt sử ký toàn thư đã khắc hoạ thành công bối cảnh không gian, thời gian
làm nền cho sự xuất của nhân vật và diễn biến của sự việc, quan trọng hơn trong bộ
sử ký này các nhà sử học đã xây dựng thành công chân dung nhân vật lịch sử bằng
bút pháp của văn học.
Việc mượn văn vào để chép sử, các bậc sử thần đã để lại giá trị văn học cho
một bộ quốc sử cổ nhất nước ta. Màu sắc văn học được thể hiện ngay ở những
đoạn mô tả bối cảnh không gian, thời gian làm nền cho diễn biến của sự việc, khắc
hoạ chân dung nhân vật lịch sử qua các chi tiết về ngoại hình, thần thánh hoá
nguồn gốc xuất thân, những đoạn miêu tả hành động chân chính hay phi đạo đức
của các nhân vật, những tình huống truyện gay cấn, những đoạn đối thoại tuy ngắn
nhưng đã lột tả hết được tính cách nhân vật. Bấy nhiêu phương diện đưa ra là giá
trị văn học của Đại Việt Sử ký toàn thư.
Tuy nhiên so với Sử ký của Tư Mã Thiên, có lẽ độ phong phú về các loại nhân
vật của Đại Việt Sử ký toàn thư sẽ không bằng, sự sắc nét trong xây dựng chân
dung nhân vật chưa cập đến. Sở dĩ như vậy bởi Đại Việt sử ký toàn thư là kết quả
của hai lối viết: Lối viết biên niên theo Kinh Xuân Thu và lối viết kỷ truyện theo sử
ký của Tư Mã Thiên. Sử ký của Tư Mã Thiên được viết theo lối kỷ truyện. Tác
phẩm được Lỗ Tấn coi là cuốn “Ly tao không vần” có tất cả 130 thiên với hơn 52
vạn chữ, gồm 5 phần: Bản kỷ, biểu thư, thế gia, liệt truyện. Đặc biệt ở phần liệt
truyện gồm: 70 thiên, đây là phần có giá trị văn học nhất.
Đại Việt sử ký toàn thư chủ yếu ghi chép về sự thịnh suy của các triều đại
phong kiến, ít chú ý đến những vấn đề kinh tế mà quan tâm đến nhân cách đạo đức
của các nhân vật lịch sử. Nhân vật chủ yếu trong Đại Việt sử ký toàn thư chủ yếu là
các đấng minh quân, những tướng sỹ, những bề tôi trung thành….Những nhân nữ,
thái hậu, hoàng hậu, cung nữ ít được đề cập đến. Nhìn chung nhân vật trong Đại
Việt sử ký toàn thư là nhân vật của chốn cung đình. Còn trong sử ký của Tư Mã
63
Thiên có hàng nghìn nhân vật: có đủ các thành phần, đủ các nghề nghiệp, đủ các
tầng lớp. Hình ảnh những chàng nông dân như Trần Thiệp, Ngô Quảng; những
người du thuyết như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Thư, những hiệp khách như
Kinh Kha, Nhiếp Chính; những anh hàng thịt như Chu Lợi, Cao Tiệm Ly; những
triết gia như Khổng Khâu, Trang Chu; những danh tiếng như Hàn Tín, Lý Quảng;
những công tử như Tín Lãng Quân, Mạnh Thường Quân; những bạo chúa như Tần
Thuỷ Hoàng, Nhị Thế. Chiều dài thời gian mà Sử ký của Tư Mã Thiên đề cập thật
đáng nể, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế khoảng 3000 năm.
Nhìn chung các sử gia cả ở Việt Nam và Trung Hoa đều là những nhà nho
thực sự dũng cảm, họ giám bình luận, khen chê rõ ràng, thẳng thắn. Bản thân họ
phải là người học rộng tài cao, nhìn thấu bốn cõi và là những nhà tư tưởng lớn của
thời đại. Thực ra các sử gia chỉ thuật lại, chép lại chuyện xưa chứ đâu phải sáng
tác, nhưng để lưu giữ được lịch sử họ đã chạm vào nghệ thuật viết văn. Họ đã biết
chọn lọc những chi tiết đặc sắc, điển hình. Họ biết đặt nhân vật vào những tình
huống căng thẳng, những mối mâu thuẫn để phác hoạ chân dung nhân vật lịch sử.
Vì vậy Đại Việt sử ký toàn thư chứa giá trị văn học sâu sắc .
64
CHƯƠNG III
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƢ LÀ NGUỒN TƢ LIỆU QUÝ GIÁ CHO
NGHIÊN CỨU VÀ SÁNG TÁC VĂN HỌC
Chúng tôi đã khảo sát Đại Việt sử ký toàn thư như là một tác phẩm văn học.
Nhưng với tư cách là một bộ sử, công trình này còn có giá trị văn học xét trên
nhiều bình diện khác. Các bình diện này tựu chung đều giúp cho giới nghiên cứu,
sáng tác văn học ngày nay hiểu và tái hiện đúng, khách quan hiện thực lịch sử và
con người, hiểu đúng bản thân đời sống văn học của thời kỳ lịch sử mà Đại Việt
sử ký toàn thư đã phản ánh.
1.Đại Việt sử ký toàn thƣ là nguồn tƣ liệu quý cho nghiên cứu văn học
1.1 Đại Việt sử ký toàn thƣ là nguồn tƣ liệu gốc của tác phẩm văn học
Như đã trình bày ở phần lý do chọn đề tài. Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ
quốc sử lớn đầu tiên của nước ta thời trung đại. Tác phẩm không chỉ có giá trị to
lớn về mặt sử học mà còn có giá trị văn học sâu sắc. Bên cạnh những thành công
trong nghệ thuật khắc hoạ nhân vật, Đại Việt sử ký toàn thư còn cung cấp cho khoa
nghiên cứu những văn bản gốc. Ở đây ta có thể hiểu văn bản gốc là văn bản chính
hay một dị bản được xem là gần với văn bản gốc nhất, trong trường hợp tác phẩm
có nhiều dị bản.
Đại Việt sử ký toàn thư đã sưu tập rất nhiều văn bản văn học, hầu hết các văn
bản này đã được đưa vào những tổng tập, tuyển tập văn học Việt Nam, thậm chí
đưa vào các chương trình sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh trong nhà
trường. Tiêu biểu như các bài: Nam quốc sơn hà, Chiếu dời đô, Bình Ngô đại cáo,
Tụng giá hoàn kinh sư, Hịch tướng sỹ văn(trích đoạn).
Các nhà nghiên cứu luôn đặt ra hai vấn đề chính khi nghiên cứu tác phẩm văn
học trung đại đó là lựa chọn văn bản và cách hiểu chữ nghĩa của văn bản.
65
Ở phương diện lựa chọn văn bản, việc lựa chọn được văn bản có độ tin cậy cao
đóng vai trò khá quan trọng. Bài Nam quốc sơn hà vốn là tác phẩm không có nhan
đề, điều này được rất nhiều bài nghiên cứu ghi nhận và nhiều bộ cổ sử ghi chép
như :Đại Việt sử ký toàn thư của nhóm Ngô Sỹ Liên hay trong Việt điện U linh tập
của Lý Tế Xuyên…. Nam quốc sơn hà là tác phẩm có khá nhiều dị bản, theo tài
liệu mà nhiều nhà nghiên cứu đã công bố, hiện còn ít nhất từ 25 đến 35 văn bản về
Nam quốc sơn hà. Vậy văn bản nào tin cậy nhất? Tôi thấy phần lý giải của
Nguyễn Đăng Na là khá thuyết phục. Ông coi văn bản trong Đại Việt sử ký toàn
thư là văn bản gốc đáng tin cậy nhất để nghiên cứu tác phẩm này, bởi hai lý do:
“Thứ nhất Đại Việt sử ký toàn thư là tác phẩm văn học chức năng hành chính
quan trọng vào loại bậc nhất đối với quốc gia Đại Việt suốt thời trung đại. Tác
phẩm không chỉ do nhà nước đứng ra tổ chức, biên soạn mà còn được khắc in vào
loại sớm nhất so với các văn bản khắc in khác có lưu giữ bài: Nam quốc sơn hà.
Thứ hai Đại Việt sử ký toàn thư do những cây đại bút biên soạn, kiểm hiệu như
tiến sỹ khoa Nhâm Tuất 1442 Ngô Sĩ Liên, tiến sỹ khoa Mậu Tuất 1478 Vũ
Quỳnh…và tiếp sau đó là các tiến sỹ khoa Mậu Thìn 1628 Phạm Công Trứ, khoa
Giáp Thìn 1664 Lê Hy….Mỗi chữ hạ xuống chắc chắn các bậc đại gia kia phải đắn
đo, thận trọng.”(23, Tr 82).
Hơn nữa khi khảo sát 25 văn bản Nam quốc sơn hà, Trần Nghĩa đã phát hiện
ra rằng, kết quả văn bản “có tần số xuất hiện lớn nhất lại hoàn toàn trùng khớp
từng chữ với văn bản Nam quốc sơn hà trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Cũng giống như Nguyễn Đăng Na, Bùi Duy Tân trong những bài nghiên cứu
về bài thơ Nam quốc sơn hà cũng coi Đại Việt sử ký toàn thư là văn bản khắc in
đáng tin cậy nhất để xác minh sự vô danh của bài thơ. Trong bài viết khác “Bình
Ngô đại cáo, “văn bản –bản dịch –nhan đề” Tác giả không khỏi giật mình khi thấy
cả bốn kiệt tác: “Nam quốc sơn hà, Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ và cả Bình Ngô đại
cáo được in trong cuốn Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam và cả các bản dịch
66
hiện hành đều lấy gốc từ các văn bản in ấn sao chép ở các thế kỷ sau, chứ không
dựa vào văn bản Đại Việt sử ký toàn thư –một tập quốc sử có giá trị bậc nhất được
in ấn vào cuối thế kỷ XVII. Theo yêu cầu của nhà xuất bản Giáo dục tìm thiện bản
(bản quy chuẩn) cho sách giáo khoa, chúng tôi đã khảo sát lại bốn văn bản kiệt tác,
đưa lại văn bản quy chuẩn lấy từ Đại Việt sử ký toàn thư” (36,tr134). Theo tác giả
Bùi Duy Tân so với Đại Việt sử ký toàn thư thì các văn bản hiện hành đã có rất
nhiều những vênh lệch, sai sót trong vấn đề dịch thuật. “Chẳng hạn như bài Nam
quốc sơn hà thì câu thơ thứ hai trong Đại Việt sử ký toàn thư là “ Tiệt nhiên phận
định tại thiên thư” chứ không phải là “ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” như văn
bản hiện hành. Ở bài Chiếu dời đô thì câu áp chót trong Đại Việt sử ký toàn thư có
hai chữ “kinh sư” “ Vi vạn thế kinh sư chi thượng đô”, chứ không phải “vi vạn thế
đế vương chi thượng đô” như bản dịch hiện hành ( Bản dịch hiện hành dịch: “là
nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời” ). Bản hợp tuyển dịch: “Là chốn đô
thành bậc nhất của kinh sư muôn đời”. Bình Ngô đại cáo có nhiều biến động sai
lệch hơn Hịch tướng sĩ văn…”(36,tr134)
Như vậy, từ lý luận đến khảo sát văn bản, chúng ta đều thấy bài Nam quốc sơn
hà trong Đại Việt sử ký toàn thư là văn bản đáng tin cậy nhất. Nguyên văn của bài
đó như sau:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Sông núi nước Nam, Nam đế ở
Rõ ràng phân định tại sách trời
Cớ sao nghịch tắc sang xâm phạm?
Cứ thử làm xem chuốc bại nhơ
67
(1, tr 279)
Bên cạnh bài Nam quốc sơn hà, các nhà sử học đã chép lại bài: Bình Ngô đại
cáo. Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính cực kỳ quan
trọng, không chỉ đối với lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam. Văn bản Bình Ngô đại cáo được lưu giữ bằng hai
con đường. Một là những văn bản chép tay, hai là những văn bản khắc in. Những
văn bản chép tay tất yếu sẽ bị sai lệch, ít đảm bảo độ chính xác. Còn những văn
bản khắc in độ chính xác tin cậy cao hơn.
Hiện nay chúng ta còn ba văn bản khắc in là: Trùng san Lam Sơn thực lục, Đại
Việt sử ký toàn thư và Hoàng Việt văn tuyển.
Văn bản Bình Ngô đại cáo tồn tại dưới hai dạng: Dạng đầy đủ và dạng không
đầy đủ.
Dạng đầy đủ chỉ có trong hai tác phẩm : Đại Việt sử ký toàn thư và Hoàng Việt
văn tuyển. Hoàng Việt văn tuyển là tác phẩm do Bùi Huy Bích (1744-1818) biên
soạn, Hi Văn Đường khắc in năm Minh Mệnh thứ sáu (1825), tuy nhiên Hoàng
Việt văn tuyển cũng ra đời sau Đại Việt sử ký toàn thư. Hơn nữa nó là công trình
mang tính chất trước thuật của một cá nhân, khác với Đại Việt sử ký toàn thư là
công trình mang tầm cỡ quốc gia.
Đại Việt sử ký toàn thư được khắc in năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của nhà vua và do các sử quan biên soạn. Bài Bình Ngô đại cáo
nằm trong phần Bản kỷ thực lục mà bản này vốn được Lê Hồng Đức giao cho Ngô
Sĩ Liên biên soạn. Ngô Sĩ Liên đã hoàn thành công trình này vào năm 1478. Như
vậy Bản kỷ thực lục ra đời trước Hoàng Việt văn tuyển trên dưới 300 năm. Những
con số trên cho phép khẳng định văn bản Bình Ngô đại cáo trong Đại Việt sử ký
toàn thư có độ chính xác cao hơn trong Hoàng Việt văn tuyển. Do vậy để đưa tác
phẩm này vào giảng dạy trong nhà trường không gì bằng lấy văn bản trong Đại
Việt sử ký toàn thư phần Bản kỷ thực lục do Ngô Sĩ Liên biên soạn . Theo ý kiến
68
của một số giáo sư đầu ngành nghiên cứu về văn học trung đại thì giữa các văn bản
chép tay, giữa các văn bản trong sách giáo khoa các cấp giảng dạy trong nhà
trường và văn bản Bình Ngô đại cáo trong Đại Việt sử ký toàn thư tồn tại nhiều
vênh lệch. Nguyễn Đăng Na trong bài Bình Ngô Đại cáo “Một số vấn đề văn bản,
dịch giả …” đã cho rằng câu văn “Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng”
không có trong Đại Việt sử ký toàn thư nhưng lại có trong các văn bản trên. Tác
giả đưa ra những lập luận xác đáng để chứng minh rằng việc xuất cụm từ trên trong
các văn bản hiện hành là không hợp lý
“Thứ nhất : Văn bản Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết dưới danh nghĩa Lê
Lợi, bởi vậy ngôn ngữ xưng hô trong bài phải là ngôn ngữ của Lê Lợi” “còn câu
văn trên chỉ là lời của người truyền chỉ, không phải là lời trong văn bản chiếu chỉ
“Thứ hai: Giả sử văn bản có viết câu “ đại thiên hành hoá, hoàng thượng
truyền rằng ..” thì đó là lời kể của người viết sử hoặc là lời thuật của người kể
chuyện chứ không thuộc ngôn từ văn bản Bình Ngô đại cáo”(23,tr142). Còn Bùi
Duy Tân trong bài viết Bình Ngô đại cáo “văn bản- bản dịch- nhan đề” cũng cho
rằng “bản gốc Bình Ngô đại cáo trong Đại Việt sử ký toàn thư không có chữ “cố
ưu” trong câu “ cố ưu đãi hiền chi xa” như nhiều văn bản hiện hành. Hai chữ ấy
không biết đã được thêm từ bao giờ. Và vì thêm hai chữ ấy nên phải kéo hai chữ
“đặc dĩ”vốn ở vị trí chuyển tiếp ở trên xuống đầu câu dưới để đối ngẫu với “ đặc dĩ
cứu dân chi chí mỗi uất uất nhi dục đông” hoặc bản gốc Bình Ngô đại cáo trong
Đại Việt sử ký toàn thư ở đoạn áp chót có hai chữ “tàn tốt” trong câu “ bỉ khí bạo
tàn tốt khất lân chi vỹ” thì các văn bản hiện hành lại đổi thành hai chữ “ngã hổ”
không biết tự bao giờ” (36,T135). Ngoài ra, tồn tại rất nhiều sai sót khác đã được
các nhà nghiên cứu trình bày trong hợp tuyển.
Hơn nữa Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi chép lại rất nhiều văn bản khác như
Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải,
Ngôn hoài của Phạm Ngũ Lão, Hịch tướng sỹ văn của Trần Quốc Tuấn… so với
69
rất nhiều văn bản chép tay và khắc in khác như: Viện điện u linh tập, Lĩnh Nam
trích quái, Hoàng Việt văn tuyển thì Đại Việt sử ký toàn thư vẫn là văn bản khắc in
cổ xưa nhất, đáng tin cậy nhất. Tác phẩm là văn bản gốc cung cấp cho người
nghiên cứu những văn bản có độ chính xác cao, phục vụ cho nghiên cứu văn học.
1.2 Đại Việt sử ký toàn thƣ là nguồn sử liệu quan trọng tạo cơ sở xác định
thời gian ra đời của một số sáng tác thơ văn.
Tác phẩm văn học vừa là đứa con tinh thần của nhà văn vừa là sản phẩm của
một truyền thống văn hoá và cũng là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử kinh tế –
xã hội cụ thể. Cho nên muốn hiểu thấu đáo, cặn kẽ về nội dung của một tác phẩm
văn học, trước hết ta phải đặt tác phẩm đó vào thời gian ra đời, vào thời đại đã sản
sinh ra nó.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, các sử gia đã chép lại một số tác phẩm văn học.
Các tác phẩm văn học này được coi là văn bản gốc hay văn bản chính để nghiên
cứu văn học. Hầu hết các văn bản này đều chứa đựng giá trị nội dung nghệ thuật
đặc sắc được đưa vào giảng dạy trong nhà trường hoặc tuyển tập. Gắn liền với
những văn bản gốc đó là hoàn cảnh ra đời. Hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm là
vấn đề rất quan trọng bất cứ một nhà nghiên cứu nào không được phép bỏ qua.
Xưa Đức Phật Thích Ca chủ trương “bắt lập văn tự” bởi sợ sau này đệ tử của mình
câu chấp vào câu chữ, khiến cho học thuyết do mình khai sáng ra bị sai lạc. Do
vậy muốn hiểu được văn bản ta phải đặt nó vào toạ độ không gian và thời gian ra
đời. Muốn hiểu được nội dung của bài Nam quốc sơn hà, đặc biệt là hiểu được ý
nghĩa của chữ “Quốc”, ta phải đặt bài thơ vào thời điểm ra đời.
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Vào tháng 3 năm Bính Thìn 1076, nhà Tống
sai Quách Quỳ và Triệu Tiết phối hợp với quân Chiêm Thành và Chân Lập vào
xâm lược nước ta. Nhà vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như
Nguyệt đánh tan địch. Quân Tống bị chết đến hơn ngàn người (1,tr 279). Cũng
70
trong sách ấy, tác giả viết tiếp “ người đời truyền rằng Lý Thường Kiệt làm hàng
rào dọc theo sông để cố thủ. Một đêm quân sỹ chợt nghe Trương tướng quân
ngâm bài thơ này trong đền. Như vậy thời điểm ra đời của bài thơ có ý nghĩa quan
trọng đặc biệt đối với người Việt lúc bấy giờ “ bởi thời điểm ấy người Tống mới
chỉ coi vua nước ta là quận Vương, gọi quốc gia Đại Việt là An Nam Quận. Như
vậy bấy giờ nước ta chỉ là quận huyện của Trung Hoa. Danh hiệu An Nam Quận
và An Nam Vương tồn tại từ năm 1010 đến năm 1174 kéo dài 164 năm. Năm 1174
Tống Hiến Tông mới công nhận nước ta là “Quốc” và phong cho Lý Thiên Tộ làm
An Nam Quốc Vương. Như vậy có đặt chữ “Quốc” vào thời điểm 1075-1076 trước
khi Trung Hoa thừa nhận Việt Nam là một “ Quốc” mới thấy hết giá trị của câu
văn. Chữ “ Quốc” đó từ thế kỷ XV sau chiến thắng quân Minh trở đi nó không còn
quan trọng như chữ “Quốc”trong bài Nam quốc sơn hà.
Hoặc như bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng vậy. Đặt tác phẩm này
vào thời điểm ra đời, đó là “ sau khi dẹp yên giặc Ngô” vua sai văn thần Nguyễn
Trãi soạn và tuyên bố cho khắp thiên hạ biết thì ta mới thấy được tầm cỡ của bài
cáo. Hơn nữa những trang Đại Việt sử ký toàn thư kỷ nhà Lê cung cấp cho người
đọc một nguồn sử liệu phong phú và chính xác để hiểu thấu nhiều vấn đề của nội
dung bài cáo. Từ chân dung người anh hùng Lê Lợi chịu nhiều gian khổ “nếm mật
nằm gai” để đương đầu với cuộc kháng chiến chống quân Minh, đến những
phương châm đánh giặc “Lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều”, chính sách bóc lột
tàn bạo của giặc phương Bắc, bối cảnh, không khí của cuộc chiến, những chiến
thắng liên tiếp mà quân và dân ta đã đạt được ...Văn thần Nguyễn Trãi dựa vào sự
thật lịch sử rồi kết hợp với tài năng văn chương của mình để tạo lên một áng “thiên
cổ hùng văn”
Tụng giá hoàn kinh sư là bài thơ hay của Trần Quang Khải. Tác phẩm được
đưa vào nhiều tổng tập và đã từ lâu được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Đại
71
Việt sử ký toàn thư ghi lại thời gian ra đời của tác phẩm này như sau: “Tháng 6
ngày 6 hai vua trở về kinh sư, thượng tướng là Quang Khải làm thơ rằng”:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
(Bến Chương Dương cướp giáo
Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước cũ muôn thu)
(2,tr57)
Hai câu đầu của bài thơ nhắc đến hai chiến thắng liên tiếp ở bến Chương
Dương và cửa Hàm Tử. Vậy hai chiến thắng đó diễn ra như thế nào? Đại Việt sử ký
toàn thư đã ghi rất rõ: “ Mùa hạ, tháng tư vua sai bọn Chiêu Thành Vương (Khuyết
danh), Hoài văn hầu Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem binh đón đánh
giặc ở bến Tây Kết. Quan quân cùng với quân Nguyên đánh nhau ở Hàm Tử Quan.
Các quân đều có mặt ở đấy, duy quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật có
người nước Tống, mặc áo kiểu Tống, cầm cung tên để đánh…. Quân Nguyên trông
thấy đều kinh hãi, bảo nhau là người Tống sang giúp vì thế thua chạy”(2,tr55). “
Tháng 5 ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên, chặt đầu cắt tai
giặc nhiều không kể xiết….Ngày mồng 10 có người từ chỗ giặc chốn về đến ngự
doanh tàu báo: “ Thượng tướng Trần Quang Khải, Hoài văn hầu Quốc Toản và
Trần Thông, Nguyễn Khải Lạp cùng em là Nguyễn Triều đem dàn binh các lộ đánh
bại quân giặc ở các xứ kinh thành Chương Dương”(,2tr56). “ Ngày 20 hai vua tiến
đóng ở Đại Mang, bộ tổng quản giặc Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Hôm đó ta
72
đánh bại giặc ở Tây Kết, giết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu nguyên soái
Toa Đô”.
Như vậy Trần Quang Khải -tác giả của bài thơ, đồng thời cũng là người trực
tiếp tham gia cuộc chiến nên những chiến thắng được nhắc đến trong bài thơ vừa
dồn dập, vừa sôi động, gấp gáp, vừa nóng hổi tính thời sự. Thực chất bài thơ là
khúc ca khải hoàn của một vị tướng có vai trò nhất nhì trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông. Niềm vui trong bài thơ là niềm vui của một người
trong cuộc làm nên chiến thắng.
Nếu không lật lại những trang quốc sử để tìm hiểu về Phạm Ngũ Lão thì sẽ
không thấy hết được cái hay của bài Thuật hoài, không thể thấy hết được vẻ đẹp
tâm hồn và nhân cách của ông. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Phạm Ngũ Lão “ là
người phóng khoáng có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ
bị. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là quân phụ tử hễ đánh là thắng. Ông huấn luyện
quân đội rất có kỷ luật, đối đãi tướng hiệu tựa như người nhà, cùng đồng cam cộng
khổ với binh sĩ, cho nên quân đi tới đâu không ai dám chống. Tất cả chiến lợi
phẩm thu được đều xung vào kho quân, coi của cải như không, là bậc danh tướng
của một thời như vậy”.
Trong lời bình sử Ngô Sĩ Liên bàn thêm “ Tôi từng thấy các danh tướng nhà
Trần như Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Suý (Tức
Phạm Ngũ Lão) thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyên về nghề võ,
thế mà dùng binh tinh điệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người
xưa cũng không ai vượt nổi các ông”.
Như vậy Phạm Ngũ Lão được các sử gia đánh giá rất cao. Ông là người văn võ
toàn tài và có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên, hễ đánh
là thắng. Vậy mà trong bài thơ ông lại viết:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
73
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Tức là:
“ Trai chưa trả nợ công danh được
Còn thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu”
(2,tr105)
Qua đối chiếu giữa ý thơ và sự thật lịch sử, ta thấy Phạm Ngũ Lão quả là
khiêm tốn. Ông là người văn võ toàn tài và đã có rất nhiều cống hiến cho đất nước,
vậy mà ông vẫn cho mình là không đủ tài giỏi, không mưu lược như Gia Cát
Lượng để giúp đỡ cho dân, cho nước nên phải thẹn thùng. Qua đây người đọc thấy
được cái thẹn của Phạm Ngũ Lão trong bài Thuật hoài là cái thẹn cao đẹp và khiêm
nhường.
Hiện thực lịch sử trong Đại Việt sử ký toàn thư còn cho thấy: Thời đại nhà
Trần với hào khí quật khởi, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên,
nghĩa quân đã tự khắc trên cánh tay mình hai chữ “ Sát thát” tức là giết giặc Thát
Đát. Hành động này mang vẻ hùng dũng, dữ tợn, là cơ sở hiện thực để Phạm Ngũ
Lão dựng lên bức chân dung tráng sỹ đời Trần: vừa dũng mãnh lại vừa lãng mạn.
Cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước mấy ngàn thu. Ba quân dũng mãnh như hổ
báo khí thế nuốt trâu:
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
(Vung giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu).
(2,tr105)
Ngoài ra Đại Việt sử ký toàn thư còn cung cấp cho bạn đọc và giới nghiên cứu
nhiều tư liệu lịch sử để thấu đáo nội dung, hoàn cảnh ra đời của một số sáng tác
74
khác như: Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán
Siêu, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn …
Như vậy Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi chép lại hoàn cảnh ra đời của nhiều
sáng tác như: Bối cảnh của thời đại, bối cảnh của cuộc, những phẩm chất tốt đẹp
của người anh hùng… Điều này rất quan trọng giúp cho bạn đọc thấy được những
vẻ đẹp sâu xa dưới lớp vỏ ngôn từ.
1.3 Đại Việt sử ký toàn thƣ là cơ sở khách quan để bình luận khái niệm
“ đế” trong một số sáng tác văn học từ thế kỷ X cho đến hết thế kỷ XV
1.3.1 Cách bình luận khái niệm “đế” của một số học giả hiện nay:
Khái niệm “đế” là một khái niệm quan trọng của văn hóa chính trị và văn học
thế kỷ X đến thế kỷ XV. Chữ “đế” là khái niệm được giới nghiên cứu văn học hiện
nay bình luận theo hướng một chiều đề cao tinh thần dân tộc chủ nghĩa, coi việc
đối lập Bắc đế và Nam đế là tinh thần chủ đạo của văn học yêu nước thế kỷ X đến
thế kỷ XV. Nhưng sự thật lịch sử liệu có hoàn toàn xác nhận tính chất đúng đắn
của cách phân tích này ? Đại Việt sử ký toàn thư có thể cung cấp cho ta những căn
cứ lịch sử thực tế để trả lời câu hỏi.
Văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XV là một giai đoạn văn học
nằm trong phạm trù văn học trung đại, tồn tại trong thời kỳ độc lập tự chủ của dân
tộc. Trong giai đoạn văn học này, có hai tác phẩm nhắc đến chữ “đế” đó là Nam
quốc sơn hà và Bình Ngô đại cáo. Đã từ lâu hai tác phẩm này đã được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường và được bạn đọc yêu thích.
Nam quốc sơn hà được coi là tác phẩm văn học nổi tiếng và cổ nhất của nước
ta. Bài thơ đã được ghi vào lịch sử như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc
ta sau hơn một nghìn năm bị phong kiến nước ngoài đô hộ.
75
Bình Ngô đại cáo được coi là văn bản hành chức quan trọng bậc nhất của nước
ta, tác phẩm ra đời là sự kết hợp giữa hai nguồn cảm hứng: Cảm hứng chính trị và
cảm hứng sáng tác tạo lên một áng “thiên cổ hùng văn”.
Cả hai tác phẩm này trong thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
với những kiến giải sâu sắc về các phương diện: Văn bản, dịch nghĩa, tác giả, câu
chữ…Ở đề tài này tôi chỉ bàn thêm về việc hiểu chữ “đế” trong hai tác phẩm đó.
Trước đây khi phân tích, bình luận hai bài thơ này, các học giả, các nhà nghiên
cứu đều đã chú tâm đến những từ ngữ có tính chất “nhãn tự” tạo nên thần thái và
giá trị của bài thơ. Trong đó chữ “ đế” được nhấn mạnh và quan tâm nhiều nhất.
Trong bài viết ở cuốn “Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ
XVIII” do Đinh Gia Khánh chủ biên, khi phân tích bài Nam quốc sơn hà tác giả
cho rằng: “Trời không có hai mặt trời, thiên hạ không có hai hoàng đế. Tất cả đất
đai trong thiên hạ đều là thuộc quyền thống lĩnh tối cao của vị hoàng đế duy nhất
ấy, mà lúc đương thời đó là vị hoàng đế nhà Tống. Các dân tộc khác ở xa ngoài đất
Hoa Hạ (tức Trung Quốc) đều là man di, tuy có thể có thủ lĩnh của họ, nhưng các
thủ lĩnh ấy chỉ là phiên thuộc của Tống đế….Vì vậy Lý Thường Kiệt nêu lên hai
chữ “Nam đế” để gọi vua nhà Lý chính là muốn đối lập với Bắc đế tức vua nhà
Tống và vua nhà Lý, mỗi đằng làm đế một phương, không ai hơn ai, không ai có
quyền xâm phạm ai. Nêu cao Nam đế chính là đập tan tư tưởng kỳ thị Hoa Di rất
phản động của giai cấp phong kiến và Nho gia ở Trung Quốc” (21,tr69).
Trong cuốn Giảng văn văn học Việt Nam của tập thể tác giả, NXB Hà Nội
1998 tác giả cũng nhìn nhận chữ “đế” như vậy: “Trong Nam quốc sơn hà, khẳng
định “Nam đế” Lý Thường Kiệt nhằm mục đích đối lập với “Bắc đế” phủ nhận tư
tưởng “Trời không có hai mặt trời, đất không có hai hoàng đế” (47,tr143).
Theo cách nhìn nhận trên đến bài Bình Ngô đại cáo các tác giả đều cho rằng:
“Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc mạnh
mẽ và sâu sắc, qua cụm từ “các đế nhất phương” (47,tr143) đã có ở bài Nam quốc
76
sơn hà . “Các triều đại phong kiến Việt Nam tồn tại ngang hàng nếu không muốn
nói là hơn(vì Đại Việt luôn chiến thắng) với các triều phương Bắc” (47,tr143).
Điều này được Nguyễn Trãi viết rành rọt trong Bình Ngô đại cáo:
“Từ Triệu, Đinh, lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”.
Bùi Duy Tân trong cuốn “ Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam , tập 1 cho rằng: “nước Việt Nam trong quan niệm của Nguyễn
Trãi còn có một nền văn hoá lâu đời, một phong tục tập quán riêng và một lịch sử
đầy những chiến công của anh hùng hào kiệt. Những nhân tố này đã hoà quyện với
nhau tạo thành một quốc gia bền vững, tồn tại ngang hàng với các đế chế Trung
Hoa”.
Ngoài các tác giả trên còn có rất nhiều sách giáo khoa tham khảo trong chương
trình trung học cơ sở, trung học phổ thông đều khẳng định nội hàm của chữ “ đế”
trong hai bài thơ Nam quốc sơn hà và Bình Ngô đại cáo là ngang hàng đối sánh
với đế chế phong kiến phương Bắc.
Các quan điểm trên đều xuất phát từ tinh thần dân tộc và lòng tự tôn dân tộc
sâu sắc. Nội hàm của chữ “đế” trong hai tác phẩm mang tính chiến đấu cao, chống
lại tư tưởng bá quyền của Trung Hoa…Có lẽ vì vậy nên các học giả đều đề cao
tính chiến đấu của chữ “đế”. Nam đế phải đối sánh với Bắc đế và khi cần Nam đế
chọi lại Bắc đế. Người nước nào làm chủ nước ấy, không kẻ nào có quyền đi xâm
lược và thống trị nước khác. Như vậy theo như cách hiểu này, cách xưng “đế” của
hai bài thơ trên là sự đối chọi, sánh ngang, khẳng định quyền làm chủ của nhân dân
Đại Việt với đế chế phong kiến Trung Hoa. Quyền làm chủ tổ quốc là bất khả xâm
phạm, tổ quốc là “sơn xuyên phong vực” và cũng là “ văn hiến chi bang”. Nếu
quân thù xâm chiếm ắt phải “đánh cho tơi bời” hay chuốc lấy thất bại thảm hại.
Nhưng để hiểu chính xác khách quan câu chữ của sáng tác văn học có lẽ chúng ta
77
nên nhìn nhận ở nhiều góc độ. Bối cảnh văn hoá thời đại là một nhân tố quan
trọng để ta hiểu câu chữ trong tác phẩm không bị thiên lệch. Trước hết chúng ta
tìm hiểu mối quan hệ ngoại giao cổ truyền của Trung Quốc thời kỳ cổ đại với các
nước lân cận.
1.3.2. Vài nét về lịch sử quan hệ bang giao Trung Việt thời kỳ cổ trung đại
.
Nền ngoại giao của đế chế phong kiến Trung Hoa đã hình thành từ mấy nghìn
năm và được xuất phát từ tư tưởng của người Trung Quốc về vũ trụ, quốc gia, con
người. Trong quan niệm của người Trung Quốc. Đất nước Trung Hoa được coi là
cái “rốn” của thiên hạ, là trung tâm của vũ trụ còn các nước xung quanh chỉ là chư
hầu, phiên thuộc che chở cho Trung Hoa. Người làm chủ đất nước Trung Hoa là
Thiên tử ( con trời) thay trời trị dân, có quyền hành tuyệt đối :
Khắp gầm trời không đâu không là đất của vua
Tất cả trên mặt đất không ai không là tôi của vua
Đó là cơ sở tư tưởng bá quyền. Trung Quốc ở giữa là tông chủ, còn các nước
chư hầu phải phục tùng nước tông chủ theo những quy định rõ ràng về chính trị,
quân sự, kinh tế. Với những quy định như thế thiên tử nắm chặt được các nước chư
hầu. Thiên tử tức là thiên triều không cắt cử quan lại để quản lý nước đó về mặt
hành chính cũng không trực tiếp điều hành về mặt chính trị, kinh tế …trên thực tế
họ vẫn là một nước độc lập có chủ quyền nhưng bị ràng buộc với nước tông chủ.
Sự ràng buộc của Trung Quốc với nước phiên thuộc chủ yếu bằng hai hình thức:
Một là phải chịu sách phong của thiên triều (tức là người đứng đầu nước đó phải
được thiên triều ban sắc công nhận). Hai là phải chịu sự cống nạp theo định kỳ
hoặc không theo định kỳ .
Thực chất của chính sách “Sắc phong và triều cống” là sự bóc lột, thu phục
của thiên triều đối với các nước chư hầu, là sự bành trướng của nước mạnh đối với
78
những nước yếu. Trung Quốc là một đất nước rộng lớn và đông dân nhất trong khu
vực Đông Nam Á. Trung Quốc luôn biết kết hợp sức mạnh quân sự với những thủ
đoạn chính trị, ngoại giao. Những cuộc chiến tranh liên miên (hơn một nghìn năm
thời nhà Hạ, nhà Thương; các cuộc chiến tranh thời Xuân Thu – Chiến Quốc, Tam
Quốc; các cuộc chiến tranh với Hung Nô, Khương, Kim, với các nước Tây vực ..)
đã cung cấp cho các triều đại phong kiến Trung Quốc một kho kinh nghiệm về
tranh thủ, chia rẽ, liên minh…được tổng kết thành những câu ngắn gọn như: “Toạ
sơn quan đấu hổ”, “Viễn giao cận công, cầu công tồn dị, hợp tung liên hoành.”.
Ngoại giao cổ truyền của Trung Quốc có hư, có thực, có giản đơn có phức tạp, có
chân thành có quỷ quyệt .
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc. Núi liền núi, sông liền sông.
Không triều đại nào là Trung quốc không coi Đại Việt là “phiên thuộc” và không
tìm cách xâm lược:
+ Nhà Tần (năm 221TCN-208TCN) đưa quân xâm lược
+Nhà Hán ( năm 202TCN- 24TCN) đô hộ
+ Thời Tam Quốc (năm 220-280) nhà Ngô đô hộ
+ Thời Nam Bắc triều (năm 420-581) Tống, Tề, Lương, Trần đô hộ
+ Thời Tuỳ(năm 581-618)đô hộ
+ Nhà Đường (năm 618-907) đô hộ
+ Thời Bắc Tống, Nam Tống (Năm 907-960) đưa quân xâm lược
+ Thời Nguyên (năm 1271-1388) ba lần xâm lược Đại Việt
+ Thời Minh (năm 1368-1644) đưa quân đi xâm lược
+ Thời Thanh (năm 1644-1911) đưa quân xâm lược.
Mỗi khi xâm lược nước ta các triều đại phong kiến Trung Quốc đều coi nước ta
là lãnh thổ của Trung Quốc và áp dụng chế độ quận huyện, thực hiện chính sách
79
đồng hoá rồi vơ vét tài nguyên khoáng sản. Khi không chiếm được thì họ thực hiện
chế độ sách phong và triều cống nghĩa là hai nước có quan hệ bình thường trên cơ
sở chịu tấn phong của hoàng đế Trung Quốc và chịu sự cống nộp, nếu có vấn đề
cần giải quyết thì hai nước trao đổi công hàm hoặc sứ thần trực tiếp giải quyết .
Nhìn chung Đại Việt và Trung Quốc là hai nước láng giềng, nhưng một bên là
một nước tông chủ, luôn thực hiện chính sách bành chướng, một bên là chư hầu
phải thần phục. Dựa trên mối quan hệ ngoại giao cổ truyền, dựa trên thực tế lịch
sử thì cách xưng “đế” trong hai bài thơ Nam quốc sơn hà và Bình Ngô đại cáo
không thể giải thích là đối chọi hay ngang hàng với hoàng đế Trung Hoa. Bởi
chúng ta là một nước nhỏ luôn phải phục tùng trước một nước lớn. Hơn nữa dân
tộc ta luôn là một dân tộc yêu chuộng hoà bình nên nhún nhường để cho nước êm
dân ấm. Theo GS Trần Quốc Vượng “ trong quan hệ nước nhỏ đối với nước lớn, từ
xưa đến nay kể từ đời họ Khúc qua Đinh –Lê-Lý -Trần –Hậu Lê, đường lối ngoại
giao khôn khéo nhất của Đại Việt là “thần phục giả vờ, độc lập thật sự”,trong xưng
đế ngoài xưng vương . Đây là chính sách ngoại giao mềm dẻo được các triều đại
phong kiến Việt Nam duy trì suốt hàng ngàn năm Bắc thuộc .
1.3.3 Đại Việt sử ký toàn thƣ cung cấp tƣ liệu lịch sử cho việc hiểu khái
niệm “đế” trong một số sáng tác văn học
Để hiểu chính xác câu chữ của một sáng tác văn học ta không chỉ đặt tác phẩm
vào hoàn cảnh ra đời với đặc trưng bối cảnh văn hoá của một thời đại mà cần đặt
chúng vào mạch vận động của bài thơ .
Căn cứ vào mạch vận động của bài thơ, cách xưng “đế” trong hai bài thơ trên
có nghĩa là khẳng định quyền làm chủ đất nước đối với nhân dân Đại Việt. Cách
xưng “đế” đó thực ra nhằm khẳng định quyền lực của các triều đại phong kiến Đại
Việt đối với thần dân Đại Việt hơn là thông điệp gửi thẳng cho các triều đại phong
80
kiến Trung Hoa với tinh thần “đối chọi”, “sánh ngang”, “vỗ vai” sòng phẳng với
họ.
Trước hết mạch vận động cảm xúc tư tưởng của cả hai bài thơ đều tràn trề
niềm tự hào dân tộc. Bài Nam quốc sơn hà với bốn câu thơ trang trọng, đanh thép,
hai mươi tám chữ vàng, đã khẳng định sự tồn tại khách quan của nước Đại Việt với
tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có lãnh thổ riêng biệt, điều này đã
ghi tại sách trời. Đến bài Bình ngô đại cáo, tác giả tiếp tục nêu lên chân lý khách
quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt:
Xét như nước Đại Việt ta
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
(2,tr282)
Đất nước ta từ lâu đời đã có: Cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn
hiến, thêm nữa là lịch sử riêng, chế độ riêng với hào kiệt không bao giờ thiếu:
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt không bao giờ thiếu
(2,tr282)
So với bài Nam quốc sơn hà thì Bình Ngô đại cáo được bổ sung ba yếu tố nữa:
Văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Hơn nữa Nguyễn Trãi còn sử dụng nghệ
thuật so sánh để khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc:
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương
(2,tr282)
81
Đất nước Trung Quốc với các triều đại phong kiến bao năm trị vì thì dân tộc
Việt Nam cũng có bấy nhiêu triều đại trường tồn cùng lịch sử. Hay nói cách khác,
đất nước Trung Hoa trải qua bao đời hoàng đế làm chủ thì dân tộc Việt Nam cũng
bao bậc đế vương làm chủ đất nước.
Như vậy các tác giả bài thơ, đều khẳng định với nhân dân Đại Việt rằng:
Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào lịch sử dân tộc ta có phong tục tập quán, có nền
văn hiến, có lịch sử lâu đời, đặc biệt là chúng ta có chủ quyền cũng có đế vương
giống như các triều đại phong kiến Trung Hoa. Hơn nữa tư tưởng chủ đạo, niềm ưu
ái, tình yêu thương hết thảy ở trong Bình Ngô đại cáo là tình cảm Nguyễn Trãi
dành cho nhân dân. Ngay từ phần mở đầu tác phẩm, tác giả đưa ra quan điểm sống
đầy tinh thần trách nhiệm, hướng đến nhân dân, lấy sự yên lành trong cuộc sống
của nhân dân làm lẽ sống:
Việc nhân nghĩa cốt để yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
(2,tr282)
Nhân nghĩa là quan niệm sống của Nho giáo, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con
người, sống nhân nghĩa là lẽ sống cao đẹp, là chuẩn mực mà không chỉ trong xã
hội phong kiến, mà con người ở mọi thời đại đều hướng đến. Đối với Nguyễn Trãi,
nhân nghĩa trước hết là phải để yên dân, đây là tư tưởng lấy dân làm gốc.
Xuyên suốt nội dung của Bình Ngô đại cáo cũng vẫn là hướng về nhân dân: Tố
cáo tội ác chồng chất của giặc đã huỷ hoại tàn sát cuộc sống của nhân dân. Những
chiến thắng liên tiếp, sức mạnh quật khởi như sóng trào bão cuốn cũng là sức mạnh
của nhân dân.
Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết bài “đại cáo” này khi cuộc kháng chiến quân
Minh đã kết thúc, để báo cáo cho toàn thể nhân dân được biết. Rõ ràng lúc này
quân Minh đã rút về nước, vấn đề “đối ngoại”- xưng đế với nhà Minh- không thể là
82
vấn đề ưu tiên so với những vấn đề đối nội nóng bỏng đang đặt ra cho Lê Lợi ,
Nguyễn Trãi khi vừa mới giải phóng đất nước, trước hết là việc chứng minh tính
chất hợp lý của chuyện Lê Lợi lên ngôi vua. Trong bối cảnh chính trị rất phức tạp,
bên ngoài thì nhà Minh vẫn một mực yêu cầu Lê Lợi tìm con cháu nhà Trần để họ
phong vương, bên trong thì các lực lượng “ngụy quân, ngụy quyền” ở vùng đồng
bằng sông Hồng chưa thể nói là đã tuân phục hoàn toàn một hào trưởng đến từ đất
Thanh Hóa xa xôi, Nguyễn Trãi và Lê Lợi hẳn là phải sử dụng cơ hội viết bài cáo
để giải quyết những nhiệm vụ đang đặt ra nóng bỏng như thế.
Dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay vốn là một nước nhỏ, sống rất hài hoà, coi
trọng tình nghĩa, coi trọng sự hoà hiếu. Thậm chí ta thấy trong bài Bình Ngô đại
cáo, quân ta đã liên tiếp giành được chiến thắng, giặc Minh thất bại thảm hại:
Bọn Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía
Lũ Lý An, Phương Chính nín thở mong thoát thân
…………………………………………………………..
Đô đốc Thôi Tụ lê gối xin đầu hàng
Thượng thư Hoàng Phúc trói mình đành chịu bắt
(2,tr285,287)
Vậy mà ông cha ta còn “trải chiếu hoa” cho giặc trở về mở đường cho chúng
rút lui trong danh dự, hơn nữa còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho giặc rút về:
Tham tướng Phương Chính nội quan Mã Kỳ được cấp trước
Năm trăm chiếc thuyền đã vượt biển vẫn hồn bay phách lạc
Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh lại được cho
Mấy ngàn cổ ngựa về nước rồi, còn tim thót chân run
(2,tr287)
83
Không phải đến thời kỳ vua Lê mới có tinh thần yêu hoà bình, mà ngay từ thời
kỳ dựng nước cũng vậy. Do hoà hiếu mà An Dương Vương đã mắc mưu gả con gái
Mị Châu cho con trai tướng giặc. Cũng do hoà hiếu mà năm 1077 sau khi đánh cho
quân Tống đại bại trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã dừng lại chủ
động điều đình để mở lối thoát cho địch rút lui trong danh dự. Do hoà hiếu và độ
lượng, sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3 năm 1288, khi xét thưởng cho
những người có công, vua Trần Nhân Tông sai người đem đốt hết thư từ của những
kẻ phản bội đầu hàng giặc.
Như vậy tinh thần trọng hoà hiếu đã được các triều đại phong kiến lấy làm
phương châm ứng xử trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ tinh thần trọng hoà hiếu vẫn được kế thừa và phát huy.
Nguyên toàn quyền Pháp Paul Dumer từng nói với Hoàng Thị Thế con gái lãnh tụ
cuộc khởi nghĩa Yên Thái Hoàng Hoa Thám: “Galieni với tôi đã bị Đề Thám bắt,
trong tay lại không có vũ khí, vậy mà Đề Thám đã tha mạng cho chúng tôi”.Qua
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, người phương Tây đã nhận xét rằng
“ngoài Việt Nam ra không thấy nước nào có chính sách tù binh độ lượng và nhân
nghĩa như Việt Nam. Ngay trong chiến tranh, dám thả về đồn địch hàng trăm tù
binh mạnh khoẻ sau khi đã giải thích, giáo dục”(39,tr65)
Không chỉ tiếp nhận, giảng hoà do hoàn cảnh của một nước nhỏ, Việt Nam
còn khiêm nhường, mềm dẻo chấp nhận một sự lệ thuộc hình thức để giữ gìn một
nền độc lập. Xuyên suốt Đại Việt sử ký toàn thư các triều đại phong kiến Việt
Nam từ nhà Đinh đến nhà Nguyễn sau này đều duy trì một nề nếp sai sứ thần sang
cống nạp dưới dạng “biếu”, “tặng” và nhận tước phong của triều đình Trung Hoa,
tỏ ý thần phục theo thể thức của một nước chư hầu:
Kỷ nhà Đinh :
Nhâm thân ,năm thứ 3(972) [Tống Khai Bảo năm thứ năm ]. Sai Việt vương
Liễn sang thăm nước Tống (1,T212.)
84
Kỷ nhà Lê:
Quý Mùi năm thứ tư (983)[ Tống, Thái Bình –Hưng quốc năm thứ 8]. Mùa
xuân sai sứ thần sang thông hiếu với nước Tống.(1,T222)
Giáp Thân năm thứ 5(984)[ Tống, Ung –Hy năm thứ 1]. Nước Tông sai sứ
sang thăm, vua sai sứ Tông xin lĩnh tiết trấn”.(1,T223)
Canh Thìn năm thứ 2(990)[ Tống, Thuần Hoá năm thứ 1]. Nhà Tống sai Tả
chính ngôn là Tống Cảo, hữu chính ngôn là Vương Thế Tắc mang chế tiết sang
phong thêm cho vua hai chữ “đặc tiến”. (1,T 226)
Quý Tỵ năm thứ năm (993)[ Tống, Thuần Hoá năm thứ 4]. Nhà Tống sai
Vương Thế Tắc và Lý Cư Giảng đem sách thư sang phong vua làm Giao chỉ quận
vương. (1,T227)
Đinh Dậu năm thứ tư (997)[ Tống, Chí đạo năm thứ 3]. Mùa hạ tháng 4, nhà
Tống phong vua là Nam Bình Vuơng. Vua sai sứ sang thăm nước Tống để đáp lễ .
Vua Tống ban chiếu thư khen gợi. (1,T229)
Tháng 9 nhà Tống đúc ấn “Giao Chỉ quận vương”chiếu cho Quang nam vận
chuyển sứ đem sang cho vua. (1,T235)
Kỷ Dậu, năm thứ 2(1009). Sai sứ đem dâng vua Tống con tê ngưu nuôi quen .
Vua Tống cho là con tê ngưu từ xa đến không hợp thuỷ thổ, muốn trả lại nhưng lại
trái ý vua, sai đợi cho sứ ta về, rồi thả ra biển .(1,T235)
Kỷ nhà Lý
Canh Tuất, Thuận thiên 1(1010)[ Tống, Đại Trung Tương Phù năm thú 3].
Mùa xuân tháng 2, xa giá nhà vua về châu Cổ Pháp cho các bô lão trong hương
tiền và lụa theo thứ bậc khác nhau. Sai viên ngoại lang là Lương Nhậm Văn là Lê
Thái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo. (1,T241)
85
Kỷ Tỵ năm thứ 2 (1029) [ Tống, Thiên Khánh năm thứ 7]. Năm ấy sứ Tống là
Chương Dĩnh sang làm lễ điếu tang, lại sai sứ sang phong vua làm quận vương
(1,T254)
Mậu Dần, năm thứ 5 (1038) [ Tống, Bảo Nguyên năm thứ 1 ]. Nhà Tống phong
vua làm Nam Bình Vương .(1,T258)
Kỷ Mão năm thứ 6(1039) - Kỷ Mão, năm thứ 6 (1039) [ Từ tháng 6 về sau Càn
phù hữu đạo năm thứ nhất – Tống, Bảo Nguyên năm thứ 2]. Mùa thu, tháng 8, sai đại
liêu ban là Sư Dung Hoà và thân vương là Đỗ Hưng sang nước Tống tiếp tục việc
thông hiếu cũ ( 1,T261)
- Nhâm Ngọ năm thứ 4(1042)[ từ tháng 10 về sau là Minh đạo năm thứ nhất.
Tống Khánh Lịch năm thứ 2]. Sai viên ngoại Lang Đỗ Khánh và Lương Mậu Tài đem
voi trắng dâng nhà Tốngđể tiếp tục sự thông hiếu.(1,T263)
- Ất Mùi Long Thuỵ Thái Bình năm thứ 2 (1055) [Tống Chí Hoà năm thứ 2]
. Nhà Tống phong vua làm Giao chỉ quận vương. (1,T271))
- Đinh Dậu năm thứ 4 (1057) [ Tống Gia Hựu năm thứ 2]. Sai sứ đêm thú lạ
sang biếu nhà Tống, gọi là con lân. Tư Mã Quang nói: “ Nếu là con lân thực mà đến
không phải thời, cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt, nếu không phải là con lân thực, thì
làm cho người phương xa chê cười. Xin hậu thưởng cho sứ giả rồi bảo người phương
xa đêm về(1,T272).
- Đinh Mùi, năm thứ 2 (1067) [ Tống Trị Bình năm thứ 4 ]. Nhà Tống gia
phong cho vua làm khai phủ nghi đồng tam ty, rồi lại gia phong làm An Nam Bình
Vương(1,T274).
_ Quý sửu, Thái Ninh năm thứ 2(1037) [ Tống, Hi Ninh năm thứ 6 ]. Nhà
Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương (1,T277).
Mậu Ngọ năm thứ 3 (1078) [ Tống Nguyên Phong năm thứ nhất ]. Đào Tông
Nguyên đem biếu nhà Tống năm con voi nhà và xin trả lại các châu Quảng Nguyên,
Tô Mậu và những người các châu ấy bị bắt khi trước (1,T280).
86
- Mậu Tuất năm thứ 9 (T1118) [ Tống Trung Hoà năm thú ư nhất ]. Mùa đông
tháng 11 sai viên ngoại lang Nguyễn Bá Độ và Lý Bảo Thầu đem biếu nhà Tống hai
con tê trắng và ba con voi nhà(1,T289).
- Mậu Thân năm thứ 5 (1132) [ Tống Thiệu Hưng 2]. Mùa đông tháng 10sai
viên ngoại lang Lý Phụng Ân và Phụng nghị lang Doãn Anh Khái sang thăm nước
Tống để đáp lễ. Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ quận vương.
- Kỷ Mão, Thiệu Minh năm thứ 2 (1132) [ Tống Thiệu Hưng năm thứ 3]. Nhà
Tống phong vua làm Giao Chỉ quận vương. (1,T 306)
- Tân Tị năm thứ 22 (1161)[ Tống, Thiệu Hưng năm thứ 3]. Mùa đông sai đem
voi nhà sang dâng nước Tống. Vua Tống bảo các đại thần rằng “ Trẫm không ưa thú
lạ làm khó nhọc cho người xa nên sai quý thần bảo cho họ rằng từ nay về sau bất tất
phải đem vật lạ tiến cống (1,T323).
- Mậu Tý năm thứ 6 (1168) [ Tống Càn Đạo năm thứ 4]. Mùa thu, tháng 8 sứ
Tống sang, sứ Thát Đát (tức là sứ của nhà Nguyên ) cũng sang. Đều thưởng hậu để
dụ, ngầm lấy lễ tiếp đãi cả hai sứ, không cho họ gặp nhau. (1,T324)
Kỷ nhà Trần
-“ Đinh Tị, năm thứ 5 (1377)từ tháng 5 trở đi là Phế đế Xươngphù năm thứ 1-
Minh hồng Vũ năm thứ 10 . Sai Trần Đình Thâm sang cáo phó với nước Minh, nói
là Duệ Tôn đi tuần ngoài biên giới bị chết đuối, và báo tin lập vua nối ngôi ”.(2,T163)
-“ Tân Mão, năm thứ 3 (1411)Minh Vĩnh Lạc thứ 9 sai hành khiển Hồ Ngạn
Thần làm chánh sứ cầu phong, thẩm hình là Bùi Ngột Ngôn làm phó sứ, mang tờ biểu
và sản vật địa phương cống người bằng vàng bạc”(2,T229)
Kỷ nhà Lý Đến kỷ nhà Lê:
“khi Lê lợi giành được thắng lợi vua vẫn cho bọn Thiếu Đĩnh làm sứ thần sang xin
nhà Minh phong cho Trần Cảo làm An quốc vương, thậm chí còn cho đúc hai người
bằng vàng thay thế cho hai người thực …và nhiều cống vật khác như một lư hương
bằng bạc, đôi bình hoa bằng bạc, 300 tấm lụa thổ, 14 đôi ngà voi, 20 lọ hương xông
87
áo, 2vạn nén hương, 24 khối hương trầm … sang dâng lạp cho vua nhà Minh. Sau khi
quân Minh rút về nước vẫn theo Đại Việt sử ký toàn thư Lê Lợi liên tiếp hằng năm
cho sứ giả sang xin nhà Minh phong vương. Đến ngày 1 tháng giêng năm 1431nhà
Minh mới phong cho Lê Lợi làm An Nam quốc sự, tức là An Nam quốc vương từ đây
triều công không dứt”.
“ Đinh Tị, năm thứ 4(1437) Minh Chính Thống thứ 2. Ngày 13, -
Nước Minh sai chánh sứ là binh bộ thượng thư Lý Uc , Phó sứ là thông
chính ty hữu thông chính Lý Hanh mang chiếu sắc và ấn vàng sang
phong cho vua làm An Nam quốc vương”(2,T335)
Ngày 17, cho quản lính quân hùng tiệp là Thái Sĩ Minh làm chánh sứ, -
bộ đồng tri thẩm hình viện sự là Hà Phủ và Hữu Hình viện đại phu là
Nguyễn Nhật Thăng làm phó sứ, sang nước Minh tạ ơn”(2, T336)
-“Quý Dậu, năm thứ 11(1453) Minh – Cảnh thái thứ 4 Mùa đông,
tháng11.Vua sai bồi thần là bộn Nguyễn Nguyên Kiều, Nguyễn Thả, Trần
Doãn Huy sang nước Minh nộp cống hàng năm “.(2,T379)
-“ Ât Hợi năm thứ 2(1455). Mùa đông, tháng 10, ngày 25 sai bồi thần Lê Văn
Lão, Nguyễn Đình Mỹ, Nguyễn Cư Đạo, Đăng Duệ, Sang nước Minh cống nộp
hàng năm và tạ ơn ban cho áo mũ”.(2,T383)
“ Nhâm Ngọ, năm thứ 3 (1462) Minh Thiên Thuận thứ 6. Mùa đông, tháng
10, ngay mùng 6, sứ thần nước Minh là Bộ Tiền Phổ ngự ở sứ quán, đến khi
về, vua sai đem lễ vật đến tiến”.(2, T397)
-“ Canh Tý năm thứ 11(1480) Minh Thành Hoá năm thứ 16. Mùa đông tháng
11 ngày 18, sai bòi thần là Nguyễn Văn Chất, Doãn Hoàng Tuấn, Vũ Duy Giáo
sang nước Minh tiến cống hàng năm và tâu việc Chiêm Thành”(.2,T483)
-“ Mẫu Ngọ, năm thứ 1 (1498) Minh Hoằng Trị thứ 11). Tháng 11, ngày 8,
vua sai bồi thần là Nguyễn Quang Hầu, Phạm Thịnh, Lê Tuấn Mẫu sang nước
Minh cống hàng năm”.(3,T11.)
88
-“ Canh Thân, năm thứ 3 (1500) Minh Hoằng Trị thứ 13. Mùa xuân, tháng
giêng vua sai sang nước Minh. Hình bộ tả thị lang Nguyễn Huy Trinh, lễ khoa
đo cấp sự trung Lê Lan Hinh, Thượng Bảo thiếu khanh Nguyễn Nho Tông tạ
việc lễ phúng, các học sỹ Lê Hung Hiếu, hàn lâm viện thị thư kiêm tú lâm cục
tư huấn Đỗ Nhân, thông sự thi thừa Bùi Đoan Giáo tạ việc sách phong và xin
áo mũ”.(3,T23)
. “ Tân Dậu, năm thứ 4(1501) Minh Hoằng Trị thứ 14. Mùa đông, tháng 11,
ngày 16, vua sai lại bộ tả thị lang Nguyễn Uc đóng các hiệu thư đinh cương,
hàn lâm viện thi thư kiêm Tú Lâm cục tư huấn Đặng Minh Khiêm sang nước
Minh cống hàng năm”.(3,T27)
Quý Hợi năm thứ 6 (1263) [ Tống Cảnh Định năm thứ 4 –Nguyên Trung
Thống năm thứ 4]. Mùa xuân, tháng giêng sai điện tiền chỉ huy sứ Phậm Cự
Địa và Trần Kiều sang nước Nguyên. Vua Nguyên xuống chiếu ưu đãi cho ba
năm một lần cống.(3,T33)
Mùa đông tháng 10 sai sứ sang nước Minh. Bọn bộ tả thị Lang Dương -
Trực Nguyên, đông các hiệu thư Chu Tống Văn hàn lâm viện kiểm
thảo Đinh Thuận mừng Vũ Tôn lên ngôi Lương Khản tạ ơn ban vóc
lụa, hồng lô thị thiếu khanh Nguyễn Thuyên dâng hương, Bôn công bộ
hữu thi lang Nguyễn Đạo, hàn lâm viện kiểm thảo Doãn Mưu Khôi, hộ
khoa cấp sự Lệ Đính Chi tạ ơn làm viếng, bộn Thanh Hoá thừa tuyên
sư Lê Tung, Hàn lâm viện kiểm thảo Đinh Trinh, giám sát ngự sử lê
hiếu trung ta ơn sắc phong, bọn nghệ an tham nghi Lê Uyên, Hàn lâm
viện Lý Ngô Tuy, Giám sát ngự Hoàng Nhạc tiến cống hàng
năm”.(3,tr46)
“ Canh Ngọ, Hồng Thuận năm thứ 11(1510). Minh Chính Đức thứ 5. -
Tháng 11, vua sai phó đô ngự sử đài Đỗ Lê Khiêm, Hàn lâm viện thị
độc kiêm sử quan Nguyễn Bỉnh Hoà, đề hình giám sát ngự sử Nguyễn
89
Đức Quang, thông sự Nguyễn Minh, Hình nhân 8 người, tòng nhân 25
người sang nước Minh cống hàng năm “(3,T57)
-“ Bính Ngọ, năm thứ 7(1606) Minh Vạn Lịch năm thứ 34. Sai chánh sứ là Nguyễn
Dụng , Nguyễn Khắc Khoan sang nước Minh tiến lễ tạ ơn sai chánh sứ Ngô Chí Hoà,
Nguyễn Trực, phó sứ Phạm Hồng Nho, Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Duy Thì, hai sứ
bộ sang nước Minh cống hàng năm”.(3,T211)
-“ Quý Sửu, năm thứ 14, (1613). Minh Vạn Lịch năm thứ 41. Mùa hạ, tháng 4 , sai
chánh sứ Lưu Đình Chất, Nguyễn Đăng, phó sứ là Nguyễn Đức Trạch, Hoàng Kỳ,
Nguyễn Chính, Nguyễn Sư Khanh hai phái bộ sang nước Minh cống hàng
năm(3,T218)
“ Canh Thân, Vĩnh Tộ năm thứ 2, (1620). Minh Vạn Lịch năm thứ 4. -
Sai chánh sứ Là Nguyễn Thế Tiêu và Nguyễn Cung, phó sứ là Bùi Văn
Bưu, Ngô Nhân Triệt, Nguyễn Tuấn, hai sứ bộ sang nước Minh cống
hàng năm”. (3,T223)
-“ Bính Dần, năm thứ 8,(1626). Minh Thiên năm thứ 6. Sai chánh sứ là
Nguyễn Tiến Dụng và Trần Ví, phó sứ là Đỗ Khắc Kính, Nguyễn Tự Cường,
Bùi Tất Thắng, Nguyễn Lại hai sứ bộ sang nước Minh cống hàng
năm”.(3,T226)
“ Canh Ngọ, Đức Long năm thứ 2 (1630). Minh Sùng Trinh năm thứ 3 -
. Mùa đông, tháng 11 sai chánh sứ là Trần Hữu Lễ, Dương Trí Trạch,
Phó sứ là Nguyễn Minh Tế , Bùi Bỉnh Quân, Nguyễn Nghi Hoàng
Công Phụ hai sứ bộ sang nước Minh cống hàng năm”.(3,T230.)
Như vậy căn cứ vào hiện thực lịch sử như trên, căn cứ vào nghệ thuật ngoại
giao mềm dẻo “trong xưng đế ngoài xưng vương” nếu cứ hiểu hai cụm từ: “Nam đế
cư” trong bài Nam quốc sơn hà và “xưng đế nhất phương” trong bài Bình Ngô đại
cáo là sánh ngang đối chọi với hoàng đế Trung Hoa thì sẽ bất chấp coi thường thực tế
lịch sử.
90
Hơn nữa trong lĩnh vực ngoại giao các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn luôn duy
trì phương châm ngoại giao “trong xưng đế, ngoài xưng vương” tuy chiến thắng
nhiều lần rất vẻ vang nhưng vẫn tỏ ra nhún nhường để giữ hoà hiếu tránh tổn thất
không cần thiết cho nhân dân. Theo Trần Nho Thìn thì “Thực ra không đợi nhà Minh
phong vương thì Lê Lợi mới lên ngôi hoàng đế để lãnh đạo đất nước, lãnh đạo đất
nước trên thực tế nhưng vẫn cần một sự thần phục danh nghĩa để có thể yên ổn xây
dựng một cuộc sống hoà bình”. Như vậy căn cứ thực tế ngoại giao cổ truyền của
người Trung Quốc, căn cứ vào cảm hứng trong các sáng tác, căn cứ vào phương
châm sống trọng hoà hiếu của con người Việt Nam và đặc biệt là căn cứ vào hiện
thực khách quan được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư có thể kết luận rằng
việc xưng “đế” trong hai bài Nam quốc sơn hà và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
là xưng “đế” với nhân dân Đại Việt chứ không phải xưng “đế” với hoàng đế Trung
Hoa. Mặc dù là xưng “đế” với nhân dân Đại Việt nhưng nội dung của các sáng tác
vẫn không mất đi niềm tự hào dân tộc. Trong những căn cứ đưa ra để hiểu đúng đắn
nội dung của chữ “đế” trong các sáng tác văn học từ thế kỷ thứ X cho đến hết thế kỷ
XV thì những hình thức “cầu phong” “triều cống” được ghi chép trong Đai Việt sử ký
toàn thư là những cơ sở khách quan nhất.
1.4 Đại Việt sử ký toàn thƣ cung cấp tƣ liệu lịch sử về tƣ tƣởng “tại đức bất tại
hiểm”
Đạo đức của người lãnh đạo chứ không phải sự hiểm yếu của núi sông mới
quyết định sự thành bại của sự nghiệp chính trị. Đây là một triết lý quan trọng trong
văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV. Đại Việt sử ký toàn thư cho phép kiểm tra tính
xác thực của sự phổ biến của triết lý này .
Mô hình của xã hội phương Đông thời phong kiến là mô hình của một xã hội
chuyên chế. Mô hình xã hội này được phân cấp thành rất nhiều thứ bậc khác nhau.
Trong đó vua là người đứng đầu đồng thời là người có quyền hành cao nhất. Tất cả
mọi thứ dưới gầm trời này từ “tấc đất” đến “ngọn cỏ” đều thuộc về vua. Vua ban
91
hành chức sắc, ban hành phép tắc luật lệ….từ việc lớn đến việc nhỏ đều do vua
quyết định. Xã hội Nho giáo duy trì trật tự xã hội bằng “đức trị”, người đứng đầu
dùng “đức hoá” và các chuẩn mực đạo đức để giáo dục các thần dân. Con người
trong xã hội này coi việc trau dồi, rèn luyện đạo đức là việc cao quý hàng đầu. Đạo
đức là chuẩn mực để đánh giá nhân cách con người. Một người có đạo đức là một
người có lòng nhân ái, có sự độ lượng bao dung, có tinh thần trung thực, có ý
chí…Vua là người lãnh đạo – là người đứng ở vị thế cao nhất trong xã hội chủ
chương duy trì trật tự bằng “đức trị” nên thần dân cũng soi sét nhà vua từ góc độ
đạo đức. Xã hội Nho giáo luôn đề cao chữ “ đức” của người trị vì. Khổng Khâu
cho rằng “ Trong hương thôn không gì bằng tuổi, trong triều không gì bằng tước,
còn trong công cuộc giúp đời dẫn dắt dân tiến lên thì không gì bằng đức”. Vẫn là
đề cao chữ “đức” ở người lãnh đạo Mạnh Kha khẳng định “làm vua một nước mà
chuộng đức nhân là vô địch trong thiên hạ”. Ông suy ngẫm “bất nhân mà được
nước thì có đấy, còn bất nhân mà được thiên hạ thì chưa bao giờ có đâu ”. Như vậy
để làm tròn trách nhiệm là “cha mẹ” “thay trời trị dân và giáo hoá dân” theo đạo
của trời thì các đấng minh quân phải luôn tu dưỡng đạo đức
Đạo đức của nhà vua được biểu hiện trong sự thống nhất giữa “nội thánh và
ngoại vương”, giữa “trị và hành”. Nội thánh có nghĩa là bản thân vua phải có
những đức tính cơ bản như: Nhân (tức lòng thương người), hiếu (tức là phải có
hiếu, tôn kính với mẹ cha, kính anh nhường em), trung thứ (tức là trung hậu hoà
mục, khiêm tốn, cẩn thận, siêng năng).
Đạo đức của nhà vua có vai trò quyết định đến sự thành bại trong sự trị vì. Vua
nhân đức sẽ thu phục được thần dân còn không có đạo đức thì có ra lệnh thần dân
cũng không nghe, nếu phải thực thi thì chẳng qua cũng là điều miễn cưỡng.
Nho giáo nhìn nhận con người từ phương diện đạo đức, nên phẩm chất của
người lãnh đạo là chủ đề thường thấy trong các sáng tác thơ văn. Tuy nhiên do
tính độc đoán, chuyên quyền của đức vua nên các nhà thơ, nhà văn không dám trực
92
tiếp thẳng thắn bày tỏ sự đánh giá của mình mà chỉ kêu gọi hay nhắn gửi một cách
khéo léo.
Vấn đề “tại đức bất tại hiểm” được đề cập đến rất nhiều trong tác phẩm văn
học trung đại như: Thiên Hưng trấn phú, Xương Giang phú của Lý Tử Tấn, Bạch
Đằng Giang của Nguyễn Sưởng, các bài phú về núi Chí Linh của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Mộng Tuân, Lí Tử Tấn, Trình Thuấn Du…
Hai tác phẩm tiêu biểu nhất đề cập đến vấn đề “tại đức bất tại hiểm” là: Bạch
Đằng giang phú của Trương Hán Siêu và Quan hải của Nguyễn Trãi. Hai tác
phẩm này đều nằm trong phạm trù văn học trung đại trong giai đoạn từ thế kỷ thứ
X đến thế kỷ thứ XV. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm viết có tính hồi khứ lại
các chiến thắng lớn đã diễn ra trên sông Bạch Đằng. Trong đó tác giả đã đề cao
quan điểm “tại đức bất tại hiểm” như một lời nhắn gửi quan trọng đối với triều đại
nhà Trần đang suy yếu. Bạch Đằng vốn là một nhánh của sông Kinh Thầy đổ ra
biển thuộc Quảng Ninh. Đây là con sông đã chứng kiến nhiều chiến thắng của nhân
dân Việt Nam trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược phương Bắc. Nơi đây
Ngô Quyền đã từng đặt một trận địa cọc ngầm bày sẵn đánh tan quân Nam Hán,
bắt sống thái tử Lưu Hoàng Thao (năm 938), Lê Hoàn đánh được tướng nhà Tống
là Hầu Nhân Bảo (981). Thời Trần, Trần Hưng Đạo đã phá tan quân Mông Nguyên
bắt sống Ô Mã Nhi năm 1288. Dòng sông Bạch Đằng không chỉ là dòng sông gắn
liền với những chiến công lịch sử mà còn trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho
rất nhiều nhà thơ hiện đại sau này.
Tác giả Trương Hán Siêu(?-1354) người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh
tỉnh Ninh Bình. Thời điểm ông viết tác phẩm này không có tài liệu nào ghi chép,
nhưng căn cứ vào nội dung nhiều người đoán có thể là đời Trần Dụ Tông ( ở ngôi
1341-1369). Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Trương Hán Siêu được nhiều lần nhắc
đến với tư cách là một nhân vật chính trị quan trọng. Trương Hán Siêu viết bài phú
này bằng sự hoá thân vào nhân vật “khách dừng lại dòng sông”, mang phong thái
93
tiêu dao chu du thưởng ngoại khắp miền sông nước, đến chiến trường Bạch Đằng
xưa để ôn lại lịch sử và suy ngẫm về những nhân tố làm nên những chiến thắng
hào hùng.
Đã hai lần trong bài phú tác giả khẳng định vai trò của chữ “đức” của nhân tài
của các đấng minh quân trong vịêc quyết định thắng lợi trong các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm. Lần thứ nhất, tác giả viết:
“Tín thiên tạm chi thiết hiểm
Lại nhân kiệt dĩ điện an”
(Đúng là trời đã bày đặt cho địa thế hiểm trở
Mà cũng nhờ người tài giữ nền hoà bình). (6,tr26)
Trong hai câu thơ này tác giả đặt ngang hàng yếu tố đất hiểm và nhân tài.
Nhưng lần thứ hai, tác giả bắt đầu nhấn mạnh đức của người lãnh đạo.
“Nhân nhân hề văn danh
Phỉ nhân hề câu dẫn”
(Người có đức nhân sẽ còn được lưu danh
Kẻ bất nhân đều bị tiêu diệt) (26,tr6)
Đến phần kết của bài thơ tác giả tiếp tục nhấn mạnh nhân tố “đức cao” mà một
vị vua phải có để đem lại “muôn thủa thanh bình cho nhân dân”.
Tin tri : “ Bất tại quan hà chi hiểm hề,duy tại ý đức chi mạc kinh”
(Đúng là: Chẳng tại non sông hiểm trở, chỉ tại đức cao không gì so sánh
được)(26,tr6).
Như vậy đến với dòng sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu không chỉ ôn lại
những chiến công lịch sử mà còn gửi gắm một triết lý sống lớn ở đời: Thắng giặc
không phải ở địa thế hiểm yếu mà quan trọng hơn là nhân đức của người lãnh đạo.
94
Với triết lý này theo Trần Nho Thìn: “ Trong bối cảnh nhà Trần suy yếu…nó cảnh
tỉnh nhắc nhở người lãnh đạo chú ý đến bài học lịch sử, phải quan tâm tu dưỡng
đạo đức, thi hành nhân nghĩa như một nguyên tắc chính trị sống còn của nhà lãnh
đạo” (41,tr208).
Trong bài Quan hải số 13 Nguyễn Trãi đã từng suy tư trăn trở rất nhiều về triết
lí sống “tại đức bất tại hiểm”:
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
Càn khôn kim cổ vô cùng ý
Khước tại thương lang viễn thụ yên
(Cọc đóng lớp này lớp khác trước sóng biển
Dây sắt giăng ngầm dưới nước, tất cả đều vô ích!
Thuyền úp, mới tin “dân như nước” là đúng,
Không cậy được thế hiểm núi sông, mệnh là ở trời.
Hoạ phúc đều có nguyên nhân, không phải một ngày sinh ra
Khiến anh hùng để hạn mấy nghìn năm sau
Nghĩ về trời đất và xưa nay, ý không cùng được
Có thể biết khi nhìn đám khói trên rặng cây xa kia bên dòng nước trong
xanh)(54, tr279)
95
Rõ ràng trong bài thơ là những suy tư của Nguyễn Trãi về tổ chức lực lượng
kháng chiến của Hồ Quý Ly. Ông đã dựa vào cọc lim, dây sắt ư ? hay dựa vào địa
thế núi sông hiểm trở ? thì đó Hồ Quý Ly đương nhiên là người anh hùng lắm mưu
nhiều kế. Ông ta có một đội quân 100 vạn người, cuộc bố phòng rất chu đáo, ý chí
cương quyết. Nhưng hai cha con Hồ Quý Ly vẫn thất bại nhanh chóng và đau đớn.
Phải chăng do nhân đức kém cỏi( thất nhân tâm) nên lòng dân không theo. Câu thơ
“Nước vừa có thể chở thuyền, vừa có thể làm thuyền đắm” trong bài thơ như lời
nhắc nhở thật nhiều ý nghĩa!
Trong Đại Việt sử ký toàn thư vào thời điểm cuối triều đại nhà Trần, Nguyễn
Nhữ Thuyết đã bị Hồ Quý Ly ruồng bỏ không dùng vì đã thẳng thắn nói đến chân
lí “tại đức bất tại hiểm”. Nhữ Thuyết dâng thư can đại ý nói rằng “Ngày xưa nhà
Chu , nhà Nguỵ dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản
Viên , có sông Lô Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc
đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền
rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp
đầu …Xin nghĩ lại điều, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật
hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn chữ không hợp với trị. Cho
dù dựa vào địa thế hiểm trở thì đời xưa có câu “Cốt ở đức chứ không cốt ở
hiểm”(2,T191). Hồ Quý Ly chỉ vì lợi ích riêng tư mà rời đô về Thanh Hoá cho dù
nơi ấy có địa thế hiểm yếu nơi đầu non cuối nước nhưng chỉ hợp với thời loạn chứ
không hợp với lúc trị bình. Điều cốt yếu nhất làm cho dân an nước thịnh phải là
nhân đức của các bậc đế vương . Nếu thất nhân tâm lòng dân không theo dù có địa
thế hiểm yếu thì công cuộc trị vì vẫn thất bại.
Trong cuộc kháng chíên chống giặc Minh buổi đầu gây dựng lực lượng Lê Lợi
gặp rất nhiều khó khăn “nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt như sao buổi sớm”
nhưng do quan điểm “nhân nghĩa” , do nhân đức của Lê Lợi không ngừng toả phát
nên một thời gian sau dân chúng đã tập hợp đông đảo:
96
Dựng gậy làm cờ, tụ hội bốn phương manh lệ
Hoà rượu mời lính, dưới trên một dạ cha con. (2,tr285)
Cuối cùng Lê Lợi đã giành được thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến
chống giặc Minh :
Ngày mười tám tháng ấy, Liễu Thăng bị quân ta tấn công , rừng Chi Lăng
mưu đồ đổ sụp
Ngày 20, Liễu Thăng bị quân ta đấnh bại ,núi Mã Yên tử trận phơi thây
Ngày 25, Bảo Định bá Lương Minh trận hãm phải bỏ mình
Ngày 28, Thượng thư Lý Khánh kế cùng phải thắt cổ
Ta thuận đà, đưa dao tung phá
Giặc bí nước, quay giáo đánh nhau
Kế đó, lại tăng quân vây bức bốn bên
Hẹn đến giữa tháng 10 nhất tề giệt giặc
(2,tr286)
Chiến thắng giặc Minh là chiến thắng của tinh thần đoàn kết và đồng thời cũng
là chiến thắng của lòng nhân đức.
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử cổ nhất của nước ta thời trung đại .
Tác phẩm đã ghi chép ngọn ngành cuộc kháng chiến chống quân Minh, sau khi
cuộc kháng chiến này kết thúc Ngô Sĩ Liên đã đưa ra những lời bình sử đề cao
nhân nghĩa của người anh hùng Lê Lợi “Thế mới biết hoạ đến tột cùng thỉ trị bình
mà vững chắc; Nhân nghĩa càng sâu thì ảnh hưởng càng xa” “may mà lòng trời còn
đó, thánh chúa ra đời, chinh phục bằng nghĩa, đánh dẹp bằng nhân non sông mới
được đổi mới nhật nguyệt mới lại sáng tươi. Nhân dân từ đây bình yên, nước nhà
từ đây thuận trị. Như vậy qua cách bình sử của Ngô Sĩ Liên hay qua cách nhìn
nhận của rất nhiều trí thức Đại Việt lúc bấy giờ họ đều đề cao “nhân đức” của
97
người đứng đầu. Mọi thắng lợi trong lịch sử không phải là do địa thế hiểm yếu mà
là thắng lợi của lòng nhân đức. Lịch sử vận hành của các triều đại phong kiến là
lịch sử vận hành của các hoàng đế, nên nhân đức của nguời lãnh đạo, của các bậc
đế vương sẽ quyết định sự thịnh suy trong công cuộc trị vì.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư nhân đức của người bậc đế vương là vấn đề
được quan tâm hàng đầu của các nhà sử học. Ngô Sĩ Liên qua những lời bình sử
cũng luôn đòi hỏi người làm vua phải có nhân có đức. Ông đã từng nhắc đến lời
trong sách Trung dung “Người có đức lớn thế nào cũng có ngôi, thế nào cũng có
danh, thế nào cũng sống lâu”. Nội dung của chữ “đức” ở các đấng minh quân được
các nhà sử học đề cập đến có nghĩa rất rộng: biết dùng người hiền, biết thương dân
, biết giữ trọn các đạo trung hiếu, tiết, nghĩa…tuy nhiên Ngô Sĩ Liên cũng nhấn
mạnh sự thể hiện của “nhân đức”của các ông vua trong quan hệ với thần dân. Cách
chép sử của các bậc thần sử cũng muốn khẳng định một hiện tượng có tính quy
luật: Vị vua nào nhân đức thì vương triều đó sẽ trường tồn còn bất nhân bất nghĩa
thì sẽ sớm tiêu vong .. Trong bài Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung dâng
lên vua Lê Tương Dực đã tổng kết sự thịnh của các triều đại phong kiến. Tác giả
cho rằng: điều quyết định sự thịnh suy trong công cuộc trị vì vẫn là nhân đức của
các bậc đế vương. Xuyên suốt Đại Việt sử ký toàn thư từ họ Hồng Bàng cho đến
năm 1675, lịch sử tồn tại của các vương triều phong kiến trong Đại Việt sử ký toàn
thư sẽ là minh chứng hùng hồn cho triết lý “tại đức bất tại hiểm”:
“Kể từ khi Kinh Dương Vương, họ Hồng Bàng nối dòng dõi Thần Nông, lấy
con gái vua Động Đình, sáng rõ đạo vợ chồng theo đúng nguồn phong hoá, vua lấy
đức mà cảm hoá dân, giũ áo khoanh tay. Dân cày ruộng đào giếng, ra ngoài thì làm
lụng, trở về thì nghỉ ngơi, chẳng phải phong tục thái cổ của Viên Đế ư ?
Lạc Long Quân nối đời Hồng Bàng, lấy con gái họ Âu Lạc mà có điềm lành
sinh trăm con trai…hưởng nước trải nhiều năm, rất lâu dài đã giàu thọ lại nhiều
con trai, từ xưa nay chưa từng có
98
Hùng Vương nối nghiệp của Lạc Long, chăm ban đức huệ để vỗ yên dân,
chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, không lo can qua chinh chiến, con cháu nối đời
đều gọi là Hùng Vương, phúc gồm 18 đời, trải qua hai nghìn năm” (1,tr118)
An Dương Vương sở dĩ mất nước là vì “hưng công dắp thành có phần không
dè sức dân , cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo”(1,tr140).
“Triệu Vũ Đế nhân loạn nhà Tần, chiếm lấy đất Lĩnh Biểu đóng đô ở Phiên
Ngung, cùng với Hán Cao Tổ làm đế một phương, có lòng nhân thương dân, có
mưu trí giữ nước. Vũ công khiến Tàm Tùng phải kinh sợ, văn giáo khiến Tượng
Quận được chấn hưng, lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy nhân nghĩa mà cố kết
lòng người, dạy dân cày trồng, nước giàu binh mạnh…Nam Bắc chung vui, nước
nhà vô sự, hưởng nước hơn một trăm năm, đúng là bậc anh hùng tài lược”
“Đinh Tiên Hoàng bỏ con đích lập con nhỏ, mà ân tình cha con trái lìa; lập
năm hoàng hậu ngang nhau mà tình nghĩa vợ chồng rối loạn, yêu dùng Đỗ Thích
để thành hoạ cướp ngôi giết vua, mà đạo vua tôi không còn. Thế thì họ Đinh dấy
lên là do Tiên Hoàng, không phải là mệnh trời không giúp, chính là do mưu của
người không ra gì”(1,tr122)
“ Ngoạ Triều không đáng ngôi vua, giết anh, ngược dân, dùng hình bằng lửa
đốt dao cưa, làm ngục ở ngọn cây chuồng nước, mê đắm nữ sắc thương tổn sinh
linh, dẫu muốn không mất, có thể được không ?”
“ Đại Hành phế con Đinh Hoàng, giáng làm Vệ Vương, thế là không có nghĩa
vua tôi, sinh được chín con trai mà không sớm lập thái tử, thế là không có ân cha
con. Lập đến năm hoàng hậu mà lại gian dâm với bề trên là Đinh Hậu, thế là không
có đạo vợ chồng; chỉ biết có lòng dục mà không biết đến tình nghĩa, chỉ biết có
mình mà không biết có con, thích giết chết mà không thích làm sống, thích hình
phạt mà không thích ân đức. Mình chết thì nước cũng bị diệt theo, là do chất chứa
điều bất nhân vậy”(1,tr123)
99
“Thắng lợi của Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông “do thuận lòng dân”còn thất bại của
Hồ Quý Ly vì thả sức bạo ngược lại dân, bị dân từ bỏ”.
Hoặc như : “Cao Tổ Hoàng Đế tư chất chí dũng như Thành Thang nhà Ân,
dấy quân nhân nghĩa như Vũ Vương nhà Chu, thu dùng hào kiệt qúet sạch khí tà,
tuy tướng Minh giữ tợn như bọn Liễu Thăng, Lương Minh, đều thua trận xé thây,
giảo quyệt như Lũ ThôI Tụ, Hoàng Phúc, cùng kế cùng chịu chói. Loạn hơn hai
chục năm, một sớm dẹp yên, non sông giờ đây đổi mới, đất nước giờ đây bình yên,
là bởi Hán Cao Tổ Hoàng Đế chí dũng khoan nhân, vua tôi hợp lòng cùng đức mà
được vậy. Hãy xen Hán Cao Tổ thần vũ không giết người, ấy là lòng của trời đất;
tơ hào không phạm của dân, ấy là lượng của trời đất; thu nuôi dân các lộ, ấy là lòng
nhân của trời đất. Tha về mười vạn binh, ấy là đức của trời đất. Có lệnh tiến cử
người hiền, ấy là Thành Thang chọn người hiền không hạn phương nào; có chiếu
dụ bảo kẻ hàng, tức là Thành Thang ấy khoan nhân thay cho bạo ngược. Binh nông
có phép tức như tám việc chính sự của Vũ Vương lấy nghề nông làm chính, chăn
dân có lệ ấy là Vũ Vương vỗ yên bốn phương…Bình Ngô đại cáo không câu nào là
không lời nhân nghĩa, trung tín Lam Sơn thực lục…không chỗ nào là không đạo tu
tề trị bình. Bình định được trời đất của Đại Việt, đặt vững được xã tắc của Hoàng
triều, các đời: Triệu, Đinh, Lý, Trần làm sao sánh kịp. Thế mới biết đế vương là
việc lớn, cương thường là đạo chính. Cương thường lập thì nghiệp lớn của đế
vương mới thành, nhân nghĩa tỏ thì ngôi báu thiên hạ mới định. Vua Thang, vua
Vũ suy lòng nhân nghĩa, rạng danh quân nhân nghĩa. Lấy được thiên hạ do chính
nghĩa, giữ được thiên hạ là do đức nhân”(1,tr129)
Như vậy từ trong sáng tác văn học cho đến chính sử đều tập trung khẳng định
một điều: Nhân đức của các đấng minh quân là yếu tố quan trọng quyết định sự
thắng lợi trong các cuộc khởi nghĩa và trong công cuộc trì vì. Còn địa thế hiểm yếu
hay binh pháp, chiến thuật… là những yếu tố không thể thiếu nhưng nó không phải
yếu tố đóng vai trò như là cội nguồn. Mô hình của xã hội Nho giáo – mô hình của
100
chế độ chuyên chế tập quyền, quyền lực nằm toàn bộ trong tay nhà vua thì “nhân
đức” của nhà vua đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Sự cai trị của nhà vua trong xã
hội phong kiến thường diễn ta theo hai xu hướng: Một là được nhân dân tôn thờ
như một đấng minh quân; Hai là bị nhân dân căm ghét như một tên bạo chúa. Là
một đấng minh quân hay một tên bạo chúa tất cả là phụ thuộc vào nhân đức của
nhà vua. Hiện thực lịch sử về sự thịnh suy của các triều đại phong kiến trong Đại
Việt sử ký toàn thư là minh chứng khách quan cho quan điểm “tại đức bất tại hiểm”
mà các tác giả văn học đã gửi ngắm trong các sáng tác của mình
2. Đại Việt sử ký toàn thƣ là chất liệu cho sáng tác văn học
2.1. Đại Việt sử ký toàn thƣ là chất liệu cho truyện viết bằng chữ Hán
Mượn cốt truyện của những sách chép sử để viết truyên và tiểu thuyết là một
điều đã có từ lâu trong lịch sử văn học Trung Quốc điển hình như các tác phẩm
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Lại Am …ở Việt Nam
sự xuất hiện của truỵên và tiểu thuyết lịch sử không phải là ít tiêu biểu như: Nam
triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, Hoàng lê nhất thống chí của
Ngô Thì Chí –Ngô Thì Du, Hoàng Việt long hưng ký của Ngô Giáp Đậu, Việt Nam
tiểu sử của Lê Hoan …Những tác phẩm trên mang trọn vẹn đặc trưng của truyện
hay tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung của lịch sử làm đề tài, hay cảm hứng sáng
tạo nghệ thuật. Sự chính xác tuyệt đối như lịch sử là không có bởi ở những tác
phẩm này tác giả dựa vào những sự kiện lịch sử trong qua khứ sau đó hư cấu tưởng
tượng gây hứng thú cho người đọc.
Trong quá trình hình thành ý tưởng việc nghiên cứu sử liệu là điều không thể
thiếu đối với nhà văn, rất nhiều nhà văn đã sử dụng Đại Việt sử ký toàn thư làm
chất liệu cho những sáng tác của mình tiêu biểu cho sáng tác viết bằng chữ Hán đó
là Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề.
2.1.1. Hiện thực lịch sử của Đại Việt sử ký toàn thƣ trong Công dƣ tiệp ký
của Vũ Phƣơng Đề
101
Hiện nay trong nghiên cứu văn học chưa có một định nghĩa rõ ràng đầy đủ về
khái niệm “hiện thực lịch sử” chúng ta có thể tạm hiểu hiện thực lịch sử: là bối
cảnh xã hội của một thời điểm hoặc một thời kỳ lịch sử được đưa vào trong tác
phẩm văn học trong đó bao gồm: sự kiện, biến cố, bối cảnh và nhân vật lịch sử.
Hiện thực lịch sử chính là xương sống của tác phẩm, là cơ sở khách quan làm cho
nhà văn không hư cấu quá đà và làm cho tác phẩm thêm chân thực. Khi sáng tác
văn học không phải nhà văn đưa toàn bộ những sự kiện của một giai đoạn lịch sử
vào trong tác phẩm văn học, nhà nghệ sĩ chỉ cần một vài sự kiện thậm chí một
khoảnh khắc trong đời sống của một nhân vật lịch sử làm chất liệu cho sáng tác của
mình. Hiện thực lịch sử có thể thu hút nhà văn bắt đầu bằng các nhân vật lịch sử và
cũng có thể bắt đầu các sự kiện. Việc lựa chọn nhân vật lịch sử nào, hay giai đoạn
lịch sử nào phụ thuộc vào điểm gặp ngỡ giữa tâm hồn nhà văn với hiện thực lịch
sử. Có thể sự kiện lịch sử là tâm điểm chú ý của người nghệ sĩ sau đó kéo theo là
hệ thống nhân vật nhưng cũng có thể nhân vật mới là chính, là điểm sáng vẫy gọi
tạo lên cảm xúc cho nhà văn. Nhìn chung những giai đoạn, những nhân vật lịch sử
có tính phức tạp cao sẽ là mảnh đất hấp dẫn thu hút nhà văn tìm đến
Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn sử chất liệu hấp dẫn cho sáng tác văn học,
bản thân bộ sử này đã mang những giá trị văn học, đã mang màu sắc chủ quan của
người chép sử. Hơn nữa nguồn sử liệu mà các sử gia đã sử dụng khá phong phú:
Ngô Sĩ Liên đã kế thừa sử ký của Lê Văn Hưu và sử ký tục biên của Phan Phu Tiên
ngoài ra còn tham khảo thêm Bắc sử và dã sử, những bản truyện chí rồi những việc
tai nghe mắt thấy khảo đính thêm mà thành
Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề được soạn xong năm 1755. Tác phẩm
được chia thành 12 môn loại: thế gia, chí khí, danh nho, tiết nghĩa, danh thần, thần
quái, ác báo, tiết phụ, ca nữ, âm phù, dương trạch, danh thắng, thú loại .
102
Công dư tiệp ký có nghĩa là sách ghi chép vội ngoài giờ làm việc công. Lúc
đầu do Vũ Phương Đề soạn sau đó Trần Quý Nha và một số người khác bổ sung.
Nội dung của tác phẩm là sâu kết nhiều mẩu truyện nhỏ được sắp xếp thành các
môn loại.
Trong Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề thì Truyện Trâu Canh ở xã Tử
Trầm đã muợn cốt truỵện trong Đại Việt sử toàn thư. Hiện thực lịch sử được nói
tới là đời Trần Dụ Tông năm Tân Mão, Thiệu Phong năm thứ 11(1351) có ghi
“Trâu Canh có tội đáng chết được tha. Bấy giờ Trâu Canh thấy vua bị liệt dương
dâng phương thuốc nói rằng giết đứa bé trai lấy mật hoà với dương khởi thạch mà
uống và thông dâm với chị hay em gái ruột của mình thì sẽ hiệu nghiệm. Vua làm
theo và thông dâm với chị ruột là công chúa Thiên Ninh quả là công hiệu. Canh từ
đấy càng được yêu quý, được ngày đêm ở luôn trong cung hầu hạ thuốc thang.
Canh liền thông dâm với cung nữ việc bị phát giác, thượng hoàng định bắt Canh
chết nhưng vì có công chữa bệnh cho vua nên được tha. Canh là con Trâu Tôn
người phương Bắc khoảng Năm Triệu Phong người Nguyên vào cướp tôn làm thầy
thuốc đi theo quân Nguyên đến khi quân Nguyên thua bị bắt. Tôn ở lại nước ta
chữa bệnh cho các vương hầu. Người trong nước nhiều lần cho Tôn ruộng nên
thành ra giàu có. Canh nối nghiệp cha trở thành danh y nhưng không có hạnh kiểm
thành nên nỗi thế. Đến sau lại được phục hồi chức vị. Dòng dõi Canh đến đời triều
nay còn có người tên là Trâu Bảo được của do Trâu Canh cất giữ trở lên giàu có
nhưng cũng vì thế mà lụn bại”.(2,tr132)
So với Đại Việt Sử Ký toàn thư thì Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm có nhiều
chi tiết và sự việc trùng lặp với chính sử: Trùng lặp về tên nhân vật, tên địa danh,
giống nhau ở sự việc Trâu Canh chữa bệnh liệt dương cho vua Trần Dụ Tông được
vua hậu đãi nhưng rồi do bản thân hoặc người thân làm những việc bất chính chấp
nhận kết cục bi đát. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép sau khi chữa bệnh cho
vua Trâu Canh ở lại trong cung liền thông dâm với cung nữ việc bị phát giác
103
thượng hoàng định bắt Canh chết nhưng vì chữa khỏi bệnh cho vua nên lại được
tha. Còn Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm thì con ông thông dâm với cung nữ việc
bị phát giác con ông bị tử hình còn ông thì bị đuổi về tịch thu toàn bộ gia sản .
Nhìn chung cả ở trong chính sử và cả ở trong truyện đều tập trung tố cáo sự hoang
dâm làm đảo lộn “tam cương ngũ thường” từ các bậc vua chúa đến các bậc thần y.
Kết quả so sánh cho thấy Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm đã lấy cốt truyện trong
Đại Việt sử ký toàn thư .
2.1.2 Những phần hƣ cấu so với Đại Việt sử ký toàn thƣ trong truyện Trâu
Canh ở xã Tử Trầm
Như chúng ta đã biết nhà viết truyện và nhà viết tiểu thuyết là người làm sống
dậy những tư liệu lịch sử bằng hư cấu, bằng khả năng tưởng tượng bởi hư cấu và
tưởng tượng là thao tác không thể thiếu được trong sáng tác văn học. Nhà văn vừa
phải tôn trọng sự thật lịch sử, vừa phải phát huy cao độ khả năng hư cấu khiến cho
cái không có vẫn chứa cái có thật. Nhà văn có thể thêm một số chi tiết vào nhân vật
lịch sử làm cho nhân vật lịch sử trở lên hoàn thiện, họ có thể đi sâu vào nội tâm
nhân vật lịch sử phản ánh những giằng co, đau đớn …do vậy nhân vật trong tác
phẩm văn học thường sinh động hơn so với các nhân vật lịch sử. Tất nhiên mức độ
hư cấu nhiều hay ít là phụ thuộc vào mỗi nhà văn, mỗi thời kỳ văn học. Nhìn
chung các sáng tác văn học trung đại có sự hư cấu ít hơn so với tác phẩm văn học
hiện đại khi viết về đề tài lịch sử . Trong Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm so với
cốt truyện trong Đại Việt sử ký toàn thư tác giả đã đưa vào một số hư cấu. Không
gian trong Đại Việt sử ký toàn thư là không gian cuả “thâm cung bí sử” thì không
gian trong Truyện Trâu Canh ở xã Tử trầm là không gian của làng quê nối liền với
không gian triều chính, không gian cung đình chỉ được giới thiệu qua loa. Câu
truyện bắt đầu được mở ra tại một sơn thôn trong núi mà trong Đại Việt sử ký toàn
thư không có. “Phía Tây đất Tử Trầm, huyện An Sơn có hơn mười ngọn núi đá
chạy dài gần một dặm phong cảnh thanh tú đáng yêu. Bên trong có một cái động
104
đá bên dưới có chùa nơi tiền thánh vương lập hành cung ở đó, thường đến chơi
luôn và đổi tên là xã Phong Châu… Tương truyền xã ấy có một người tên là Trâu
Canh nhà nghèo phải đi làm thuê kiếm ăn…”(12,tr177) cách mở đầu có không
gian, có bối cảnh, có hoàn cảnh xuất thân của nhân vật. Đây là cách mở đầu có tính
công thức trong tác phẩm văn học Trung đại. Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm
nhấn mạnh vào hoàn cảnh nghèo khó của nhân vật còn trong Đại Việt sử ký toàn
thư là một bộ sách chép sử nên không có những chi tiết này. Ngoài ra Truyện Trâu
Canh ở xã Tử Trầm còn thêm vào nhân vật người khách người Tàu. Khi Trâu Canh
đang nhổ mạ thì có người khách đi qua và nói rằng: “Tôi có một ngôi đất tốt nếu ai
xin tôi sẽ cho ngay” Trâu Canh liền bỏ mạ mời khách về nhà. Ông tiếp đãi khách
bữa cơm đạm bạc sau đó nài nỉ cầu xin sự giúp đỡ. Ông khách thấy thái độ thành
khẩn của Trâu Canh bèn dẫn đến chỗ con cóc bên cạnh núi và nói rằng “Chỗ này
đất đẹp nếu làm nhà ở thì tất sẽ giàu sang, sau đó còn dặn thêm sau này khi đã
được gần vua rồi thì phải chuyển nhà đi ngay chứ không ở lại dù chỉ một ngày”.
Sau này Trâu Canh đã không nghe nên đã dẫn đến tai vạ .
Cách chữa bệnh cho vua trong chính sử cũng khác so với truỵện, trong chính
sử Trâu Canh khuyên vua giết một đứa con trai lấy mật hoà với nước dương khởi
thạch sau đó thông dâm với chị em ruột thì sẽ hiệu nghiệm còn ở Truyện Trâu
Canh ở xã Tử Trầm là sự hiệu nghiệm của sợi dây mây thần kỳ. Trâu Canh lội
xuống ao đánh cá dùng sợi dây buộc giỏ cá vào người nhưng sợi dây đứt nên lấy
sợi dây mây cuốn vào thắt lưng thay dây đã bị đứt thì bỗng thấy dương vật khởi
dậy. Nhà nghèo chỉ có cái khố rách lên ông không dám lên bờ. Sau khi cởi sợi dây
mây cuốn ngang thắt lưng thì lại thấy dương khởi dần dần bé đi và mềm ra. Bà mẹ
thấy sợi dây có tác dụng kỳ diệu nên phơi khô cất sợi dây mây nên gác bếp thỉnh
thoảng lại sai ông lấy sợi dây mây đeo vào, lần nào làm cũng thấy hiệu nghiệm.
Vua Trần Dụ Tông bị bệnh liệt dương chữa mãi không khỏi cho sứ giả đi giao
khắp nước người nào chữa cho vua khỏi bệnh thì sẽ đựơc chia nửa lộc của thiên hạ.
Bà mẹ Trâu Canh cho gọi sứ giả vào rồi đem theo sợi dây mây dâng vua. Vua đeo
105
dây ấy vào thấy hiệu nghiệm sau đó sinh được hai hoàng tử. Vua cho Trâu Canh là
thần y bèn giữ lại trong cung để chữa bệnh nhưng khi công thành danh toại ông
không chịu rời nhà đi chỗ khác. Như lời tiên đoán của ông khách người Tàu hậu
hoạ đã đến con trai ông đã thông dâm với cung nữ, ông đã bị đuổi về, gia sản tịch
thu hết. Gia đình lại bị đói rét như ngày xưa. Như vậy những chi tiết về hoàn cảnh
nghèo khó của Trâu Canh và chi tiết về sợi dây mây thần kỳ là sự hư cấu hoàn toàn
của truyện. Sự hư cấu này làm cho câu truyện trở nên hấp dẫn, li kỳ. Việc thêm vào
trong tác phẩm một số nhân vật như; bà mẹ, người con của Trâu Canh làm cho
cuộc đời nhân vật được nới rộng trong khung thời gian và phức tạp hoá truyện kể.
Đây chính là đóng góp của Vũ Phương Đề so với Đại Việt sử ký toàn thư nhưng dù
gì thì cốt truyện vẫn dựa vào sự ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư . Qua việc
khảo sát hiện thực lịch sử và sự hư cấu ở Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm rõ ràng
Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn chất liệu hấp dẫn tin tưởng cho sáng tác văn học
thời Trung đại. Nguồn sử liệu trong tác phẩm còn là cơ sở khách quan để người
độc đối chiếu giữa hiện thực lịch sử và sự hư cấu của nhà văn.
2.2 Đại Việt sử ký toàn thƣ là chất liệu cho một số tiểu thuyết lịch sử thế
kỷ XX
2.2.1. Một vài ý kiến về tiểu thuyết lịch sử và vấn đề sử dụng chất liệu
trong Đại Việt sử ký toàn thư
Thế kỷ XX có sự ra đời của hàng loạt các tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử với
số lượng khá lớn tiêu biểu như: Tiếng sấm đêm đông, Hai bà đánh giặc, Lê Đại
Hành, Vua Bố Cái, Việt Thanh chiến sử của Nguyễn Tử Siêu. Bà chúa chè, Loạn
kiêu binh …của Nguyễn Triệu Luật. Đêm hội Long Trì, An Tư, Cầu vồng Yên Thế
của Nguyễn Huy Tưởng. Cờ nghĩa Ba đình, bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên.
Vầng vặc sao khuê, Người Thăng Long của Hà Ân. Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân
Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…
106
Nhìn chung các tiểu thuyết thời kỳ này phát triển khá mạnh và gặt hái được
khá nhiều thành công nhưng phần lớn các ý kiến đánh giá về nó còn tản mạn chưa
thành hệ thống. Tiêu biểu như công trình nghiên cứu của Bùi Văn Lợi trong luận
án tiến sĩ “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm
1945” dưới sự hướng dẫn của GS Nguyễn Đình Chú trong đó viết: “Các nhà tiểu
thuyết thời kỳ này đã có những thành công đáng kể trong việc sử dụng chất liệu
lịch sử để xây dựng tiểu thuyết. Một mặt trong quá trình sáng tác họ đã cố gắng giữ
gìn tính chân thực của lịch sử và né tránh được các khuynh hướng chuyển dịch lịch
sử một cách đơn thuần vào trong tác phẩm. Mặt khác các nhà văn đã phát huy trí
tưởng tượng phong phú, hư cấu phần nào đó sự kiện nhằm lôi cuốn hấp dẫn người
đọc tin vào lịch sử và nghĩ rằng bản thân mình cũng có thể làm được như cha ông
mình ngày trước…Đây cũng chính là điểm sáng tạo, điểm đóng góp về phương
diện thể loại của dòng tiểu thuyết lịch sử cho tiểu thuyết Việt Nam trên con đường
hiện đại hoá”(25,tr33)
Tiếp theo là ý kiến của nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân trên trang Web
tiểu thuyết lịch sử ngày 31/10/2005. Trong bài viết này tác giả khẳng định: “Mười
năm trở lại đây có thể thấy trên đề tài lịch sử những tìm tòi mạnh dạn hơn, vượt
qua các quy phạm cằn cỗi đem lại cho sinh khí văn chương về lịch sử”(4,tr1).
Khái quát hơn là ý kiến của Phan Cự Đệ trong Tuyển tập Phan Cự Đệ “Sự
phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam và ở Châu Âu đã đặt ra nhiều vấn đề lý
luận; sự khác nhau trong nhiệm vụ của nhà viết sử và tiểu thuyết lịch sử, mối quan
hệ giữa các sự kiện lịch sử và vai trò của hư cấu nghệ thuật, tiểu thuyết lịch sử và
nhiệm vụ soi sáng những vấn đề cuộc sống hiện tại”. Ngoài ra còn có rất nhiều các
ý kiến đánh giá tản mạn về các bộ tiểu thuyết riêng lẻ. Như vậy các ý kiến trên dù
đứng ở những góc độ khác nhau nhưng đều giống nhau ở một điểm đánh giá lại
những đóng góp của thể loại tiểu thuyết lịch sử.
107
Trong hàng loạt các tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử ở thế kỷ XX đã có không
ít những tác phẩm đã sử dụng chất liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư. Tiêu biểu
như tiểu thuyết An Tư của Nguyễn Huy Tưởng . Phan Cự Đệ trong cuốn Nguyễn
Huy Tưởng viết chung với Hà Minh Đức đã cho rằng “Viết An Tư Nguyễn Huy
Tưởng đã dựa vào những tài liệu lịch sử trong Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử
thông giám cương mục. Riêng viết về công chúa An Tư tác giả chỉ dựa vào một
câu trong Đại Việt sử ký toàn thư “ Khiển Nhân Tông An Tư vu thoát hoan dục thư
nan dã”, những sự kiện khác như : như câu truyện Trần Lai đêm cơm hẩm dâng lên
vua; Yết Kiêu, Dã Tượng cứu thoát Trần Quốc Tuấn, Triệu Trung mặc quan phục
nhà Tống , Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đánh Hàm Tử Quan…những sự việc
này Nguyễn Huy Tưởng dựa vào Việt Sử thông giám cương mục và Đại Việt sử ký
toàn thư”(14,tr26,27)
Trên trang Web tiểu thuyết lịch sử ngày 31/10/2005 khi nhìn nhận về tiểu
thuyết lịch sử nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cũng khẳng định trong Giàn
Thiêu “Võ Thị Hảo đã tận dụng những tư liệu của Đại Việt sử ký toàn thư, đặc biệt
là những sự kiện trong gian đoạn 1088- 1138, dưới hai triều Nhân Tông và Thần
Tông nhà Lý”(4,tr2)
Cũng trên trang Web đó tác giả cũng cho biết thêm tiểu thuyết Hồ Quý Ly của
Nguyễn Xuân Khánh lấy “từ những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư và
truyện ký Nam ông mộng lục….dựng lại bức tranh về một giai đoạn lịch sử tính
phức tạp của một tình thế lịch sử”(4,tr2)
Như vậy đã không ít những tiểu thuyết thế kỷ XX đã lấy chất liệu trong Đại
Việt sử ký toàn thư “làm khung” cho bộ tiểu thuyết của mình. Việc mượn bối cảnh,
nhân vật hay sự kiện lịch sử nào là tuỳ thuộc vào ý đồ của nhà văn. So với các
truyện, tiểu thuyết viết bằng chữ Hán thì tiểu thuyết thế kỷ XX sử dụng chất liệu
của Đại Việt sử ký toàn thư sáng tạo và nhuần nhuyễn hơn. Nếu như trước kia
trong tác phẩm văn học trung đại các tác giả có thể mượn hẳn cốt truyện được ghi
108
chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thì đến tiểu thuyết lịch sử thế kỷ XX hiện thực
lịch sử được nói đến có khi chỉ là bối cảnh, có khi chỉ là nhân vật thậm chí chỉ là
một khoảnh khắc lịch sử. Hiện thực lịch sử chỉ tạo lên không khí hoặc là bộ xương
sống của tác phẩm. Điều đó có nghĩa là các nhà tiểu thuyết thế kỷ XX đã sử dụng
yếu tố hư cấu đậm đặc hơn. Họ đẩy cao kỹ thuật viết văn thiên về hư bút. Nhưng
dù có hư bút đến đâu cũng có một ngưỡng nhất định không thể vượt qua được một
giới hạn là sự thật lịch sử . Các nhà tiểu thuyết thế kỷ XX khi viết về những đề tài
lịch sử không phải là sự chạy chốn thực tại mà là “hâm nóng” niềm tự hào dân tộc
mà các thế trẻ ngày nay đang bị guồng quay của cuộc sống hiện đại làm cho quên
lãng.
2.2.2. Hiện thực lịch sử trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo
Do điều kiện hạn hẹp của thời gian, chúng tôi xin dừng lại khảo sát Giàn
thiêu của Võ Thị Hảo như là một trong những tiểu thuyết sử dụng chất liệu gốc
của Đại Việt sử ký toàn thư, hy vọng qua đó hiểu được vai trò tư liệu tham khảo
quan trọng của bộ sử đối với các sáng tác về đề tài lịch sử.
Giàn thiêu được kết cấu thành hai mạch truyện.
Mạch thứ nhất gắn với tiểu sử của Từ Lộ nằm trong khoảng thời gian( 1088-
1117)
Mạch thứ hai gắn liền với tiểu sử của vua Lý Thần Tông nằm trong
khoảng(1117-1138 ).
Ở mạch thứ nhất chàng trai Từ Lộ là một chàng công tử con quan chỉ biết đọc
sách đánh cờ và thổi tiêu…nhìn chung chỉ biết hưởng thụ. Chàng có biết đâu buổi
dạo chơi cùng người vợ chưa cưới vào tối nguyên tiêu năm ấy lại là giờ khắc cuối
cùng của cuộc sống phù hoa. Ngay đêm hôm ấy tai hoạ ập đến gia đình chàng. Cha
chàng là tăng quan đô án Từ Vinh bị Diên Thành Hầu nhờ pháp sư Đại Điên dùng
phép thuật giết chết, xác cha chàng trôi dọc theo dòng sông Tô dừng lại trước cửa
109
nhà Diên Thành Hầu rồi dựng đứng lên chỉ tay đánh dấu kẻ thủ phạm vụ ám sát.
Sau đó còn nhiều lần báo mộng nhắc con trai phải trả thù.
Tai biến đã làm thay đổi hẳn chàng trai. Chàng nguyền phải từ đây sống chỉ trả
thù cho cha. Lần thứ nhất chàng cùng mẹ dâng đơn tố cáo Diên Thành Hầu lên
viên quan coi việc hành án. Ông này biết Diên Thành Hầu là thủ phạm nhưng cũng
biết thế lực của hoàng thân qúa lớn, bèn phán xét rằng ; mẹ con chàng vu cáo, lẽ ra
phải phạt nặng nhưng vì cha chàng vừa mất nên giảm xuống mức mẹ con chàng bị
cách xuống làm thứ dân và bị tịch thu gia sản. Sau đó mẹ chàng chết vì uất ức.
Lần thứ hai không cam chịu nổi uất ức chàng đem bức thư viết bằng máu đến
điểm binh dâng lên vua Nhân Tông, tưởng như nỗi oan được giải, nào ngờ suýt bị
chém đầu vì làm kinh động đến bệ rồng. Lá đơn máu bị lớp lớp chân ngựa voi dày
xéo.
Lần thứ ba biết không thể động đến thủ phạm ngôi cao chàng định một phen
sống mái với kẻ đâm thuê chém mướn nhưng gân cốt thư sinh như chàng là một trò
cười trước pháp sư Đại Điên phép thuật đầy mình. Từ Lộ hiểu rằng muốn trừng trị
kẻ giết thuê thì chính chàng phải học được phép thuật cao hơn Đại Điên. Chàng
tìm đến vị sư trên núi Yên Tử, trải qua bao gian khổ tu luyện khi đã có phép thuật
cao siêu trở về để trả thù ai ngờ việc trả thù lại dễ dàng như thế. Diên Thành Hầu
chỉ còn là cái xác không hồn ngày ngày chạy theo đứa con độc nhất đã hoá điên
sau đám cưới bất thành và sau vụ cháy ngày ấy. Diên Thành Hầu sẵn sàng đón
nhận cái chết một cách thản nhiên không một sự chống cự.
Mạch hai của truyện nói về vua Lý Thần Tông tức là kiếp thứ hai của Từ Lộ
hay chính là vị đại sư Từ Đạo Hạnh đã đầu thai vào nhà Sùng Hiền Hầu. Sinh ra ở
kiếp thứ hai Từ Lộ làm công tử Lý Dương Hoán – người sẽ được lập làm thái tử
lên ngôi làm hoàng đế thứ 5 sau Lý Nhân Tông.
Dựa vào cốt truyện trên thì ở Giàn thiêu có nhiều sự kiện, tình tiết, nhân vật
trùng sát với Đại Việt sử ký toàn thư .
110
Các nhân vật như: Từ Đạo Hạnh, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Thái Uý Lý
Đạo Thành, Lý Thường Kiệt, Linh nhân Ỷ Lan, vợ chồng Sùng Hiền Hầu là những
nhân vật có thật trong chính sử.
Nguồn gốc của vua Lý Thần Tông hay chính là sự hoá kiếp của sư Từ Đạo
Hạnh lấy từ những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Bấy giờ vua đã nhiều
tuổi mà chưa có con trai nối dõi, xuống chiếu chọn con của tông thất để lập làm
con nối. Em vua là Sùng Hiền Hầu (không rõ tên) cũng không có con trai gặp lúc
nhà sư núi Thạch Thất Từ Đạo Hạnh đến chơi nhà, hầu nói với Đạo Hạnh về việc
cầu tự. Đạo Hạnh dặn rằng: “Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì báo cho tôi
biết trước để cầu khấn với sơn thần”(1,tr286). Sau đó “phu nhân của Sùng Hiền
Hầu là Đỗ Thị đã có mang, đến đây trở ngựa đi báo. Đạo Hạnh lập tức thay áo tắm
rửa, vào hang núi trút xác mà qua đời. Sau đó phu nhân sinh con trai tức là Dương
Hoán. Người làng cho là việc lạ để xác Đạo Hạnh vào trong khám thờ. Nay núi
Phật tích tức là chỗ ấy. Hằng năm, mùa xuân cứ đến ngày mồng 7 tháng 3 con trai,
con gái hội tụ ở chùa là hội vui có tiếng một vùng”(1,tr287)
Hoặc như tội ác tày trời của Linh nhân Ỷ Lan đã được chính sử ghi chép khá
cụ thể: Linh nhân Ỷ Lan là mẹ của vua Nhân Tông sau khi vua cha mất được tôn
lên làm Hoàng thái phi, còn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu làm Hoàng thái
hậu . Linh Nhân (Ỷ Lan ) vốn có tính ghen mới kêu với vua rằng “Mẹ già khó nhọc
mới có ngày nay mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì để mẹ già vào
đâu?” “Vua bèn sai đem Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng
Dương rồi bức phải chết chôn theo lăng Thái Tông”(1,tr 277).
Sự việc vua Lý Thần Tông bị bệnh lạ sau này được nhà sư Minh Không chữa
khỏi theo tiên đoán của Từ Đạo Hạnh ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư được
Võ Thị Hảo hư cấu thành sự việc ông vua hoá hổ “Khắp thân ngài ngự bao phủ
một lớp lông cứng dài, màu vàng màu nâu chen lẫn ở cổ và bả vai. lông xù lên như
bờm dài. Ngài ngự gầm rít suốt ngày, xé tan mọi quần áo trên người, bao nhiêu đồ
111
ngự thiện dọn ra còn nguyên. Đôi lúc mọi người xung quanh rùng mình…dạ bẩm
vì thấy mắt ngài ngự đỏ đọc…cặp mắt háu háu nhìn vào cánh tay trần của các cung
nữ như ngài ngự thèm thịt sống”(16,tr297). Sau này vua đã được sư Minh Không
chữa bệnh bằng cách “vặt lông” nhân vật về mặt tinh thần. Nhưng rồi chứng nào
tật ấy Từ Đạo Hạnh vẫn tham vọng sống trong quyền lực thoả mãn khát vọng cao
sang quyền quý. Đây là căn bệnh từ kiếp trước nên không chữa khỏi , cuối cùng thì
phải chấp nhận cái chết.
Việc tôn sùng đạo Phật của hai triều đại Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông
được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư đã in dấu rõ nét trong tiểu thuyết của
Võ Thị Hảo.
Từ nhân vật chính đến nhân vật phụ trong tác phẩm đều là các bậc đại sư hoặc
danh sư như: sư Từ Đạo Hạnh, sư bà chùa Trầm –Nhuệ Anh, sư Minh Không,
pháp sư Đại Điên, đại sư Tzu, sư Giác Hải…
Ngoài không gian lãnh cung, công đường, không gian trong tác phẩm cũng
nhuốm màu phật giáo với những tên gọi như: Niết bàn, Tây trúc ,chùa Trầm, chùa
Hải Thanh…
Thời gian trong tác phẩm đó là thời gian hai kiếp của nhà sư Từ Đạo Hạnh .
Kiếp trước là Từ Lộ với thời gian lịch sử là thời đại vua Lý Nhân Tông, kiếp sau là
Dương Hoán Thần Tông trong thời gian lịch sử của vua Lý Thần Tông .
Đặc biệt ngôn ngữ của Giàn thiêu là ngôn ngữ mang đặc trưng của Phật giáo,
thể hiện văn hoá của một thời kỳ tôn sùng đạo Phật đến cao độ. Ngay từ trang đầu
tiên đến trang cuối cùng của tác phẩm là những lời phật dạy được tác giả trích dẫn
một cách nghiêm túc “An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha” .
Dày đặc trong tác phẩm là những từ ngữ trong kinh Phật là những lời của kinh phật
. Ngay cả tiêu đề của các chương phần lớn cũng là ngôn ngữ Phật giáo : niệm xứ,
đoạ xứ, nghiệp chướng, hành cước, báo oán, thiền sư, đầu thai, giải thoát, lãnh tiếu,
112
nhân gian, đoạn đầu đài … Đọc tác phẩm chúng ta hiểu thêm về triết lý của đạo
Phật, hiểu thêm quá trình tu luyện hành đạo rồi lên cõi Niết bàn của các chân sư.
2.2.3 Những phần hƣ cấu trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo so
với Đại Việt sử ký toàn thƣ
Bên cạnh những tình tiết, sự việc, nhân vật trùng sát với Đại Việt sử ký toàn
thư tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo có rất nhiều hư cấu.
Võ Thị Hảo đã đưa vào trong tiểu thuyết của mình nhiều nhân vật mà không có
trong chính sử như: Tiểu thư Nhuệ Anh, cung nữ Ngạn La, sư bà chùa Trầm, pháp
sư Đại Điên, gia đình Diên Thành Hầu
Nhiều sự việc, tình tiết mà chính sử không ghi chép: như sự việc 49 cô cung nữ
xiêm áo lộng lẫy đã phải tới đảo âm hồn để lên giàn thiêu chết cùng hoàng đế Lý
Nhân Tông, Linh nhân Ỷ Lan thường xuyên gặp phải ác mộng rồi bị đàn chuột
cắn xé, vụ án và cái xác của Tăng Đô án Từ Vinh, những cuộc trả thù báo oán của
chàng Từ Lộ…
Không gian trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo là không gian ảo, dĩ nhiên là
không gian này không hề được các sử gia nhắc đến trong Đại Việt sử ký toàn thư
bởi lịch sử là sự chính xác còn văn học là hư cấu. Không gian ảo trong Giàn thiêu
là không gian mà cung nữ Ngạn La bị nhốt vào trong lãnh cung. Trong không gian
ấy có cả những con người thực, có cả những âm hồn và có cả những con vật gớm
ghiếc thực hiện nhiệm vụ của một tên đao phủ xử tội tâm hồn. Trong không gian
ảo ấy Linh nhân ỷ Lan – một con người sắc sảo mạnh mẽ và đầy quyền lực đã phải
run sợ khóc xin, còn thái hậu Dương – người bị Ỷ Lan hãm hại cùng 48 cung nữ
lúc nhà vua băng hà, đã trở thành công tố viên đứng ra hỏi tội. Những con chuột
gớm ghiếc lại thành những người thực thi pháp luật. Ngạn La, cô bé ngây thơ mới
mười hai tuổi trở thành người chứng kiến.
113
Thời gian trong Giàn thiêu cũng là thời gian được hư cấu. Câu chuyện là sự
xen kẽ giữa hai kiếp của nhà sư Từ Đạo Hạnh. Thời gian này ứng với trong chính
sử là triều đại vua Lý Thần Tông(1117-1138)…
Nhìn chung phần hư cấu của tiểu thuyết lịch sử thế kỷ XX so với chính sử là
rất lớn, nhiều khi các nhà tiểu thuyết chỉ mượn một vài chi tiết, một vài sự kiện,
hay bối cảnh để tạo nền còn vẫn phải phát huy tối đa sự hư cấu. Nhưng hư cấu lại
không được vượt qua giới hạn sự thật lịch sử. Tóm lại việc nghiên cứu và sử dụng
chất liệu lịch sử đến đâu là việc vô cùng quan trọng đối với nhà văn.
Đại Việt sử ký toàn thư đóng vai trò quan trọng. Nó cung cấp cho nhà văn
chất liệu làm sáng tác và tạo nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ.
114
Kết luận
Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ quốc sử lớn của nước ta thời trung đại. Tác
phẩm là tập đại thành do nhiều bộ sử của các đời hợp lại như; Đại Việt sử ký của
Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt
thông giám thông khảo của Vũ Quỳnh, Đại Việt sử ký thực lục và bản kỷ tục biên
của Phạm Công Trứ, Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên của Lê Hy…Trong các nhà sử
học trên thì Ngô Sĩ Liên là người có đóng góp nhiều nhất .
Đại Việt sử ký toàn thư không chỉ có giá trị to lớn về mặt sử học, triết học mà
còn có giá trị văn học sâu sắc. Giá trị văn học của tác phẩm bắt nguồn từ tư duy
nguyên hợp “văn sử triết bất phân”. Giá trị văn học của Đại Việt sử ký toàn thư thể
hiện ở những đoạn khắc hoạ thành công những bối cảnh không gian, thời gian làm
nền cho diễn biến của sự việc,khắc hoạ thành công chân dung những nhân vật lịch
sử bằng bút pháp của văn học thông qua những chi tiết về ngoại hình, hành động,
ngôn ngữ ……
Nằm trong phạm trù văn học trung đại khi khắc hoạ ngoại hình nhân vật Đại
Việt sử ký toàn thư mang những đặc trưng của thi pháp văn học trung đại. Các
nhà sử học đã sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng để miêu tả ngoại hình nhân
vật. Họ thường thần thánh hoá nguồn gốc sinh thành của các bậc đế vương. Phổ
biến là các mô típ thụ thai thần kỳ như mơ thấy rồng ấp hoặc hoa sen nở trong
bụng sau đó có mang rồi sinh ra vua. Mỗi bước đi của đấng quân vương được ví
như rồng như hổ…Như vậy họ sinh ra đã là bậc quân tử hay đại trượng phu, khác
với con người hiện đại sự thành danh là do giáo dục hay do tác động của hoàn
cảnh.
Ra đời trong thời kỳ Nho giáo hưng thịnh hơn nữa các sử gia đều là những
người thấm nhuần sách thánh hiền nên khi nhìn nhận các nhân vật lịch sử thường
qua “lăng kính” của Nho giáo. Các bậc thần sử thường lấy “tam cương ngũ
thường” hay “trung” “hiếu” “tiết” “nghĩa”…để soi sét đánh giá phẩm chất, nhân
115
cách của các nhân vật lịch sử. Đứng từ góc độ của đạo đức Nho giáo thì nhân vật
trong Đại Việt sử ký toàn thư được chia ra thành hai tuyến: Một là những nhân vật
có những hành vi phù hợp với chuẩn mực của đạo đức Nho giáo. Đó là các đấng
minh quân, các bề tôi trung thành, những bậc anh hùng có công với nước hay
những tiết phụ Hai là những nhân vật có những hành vi trái với phép tắc, đạo đức
của Nho giáo. Điển hình là những tên nghịch thần hay những tên “vương quỷ” ăn
chơi xa đoạ hại dân hại nước.
Lịch sử trong Đại Việt sử ký toàn thư là lịch sử của các triều đại phong kiến
nên nhân vật chủ yếu trong Đại Việt sử ký toàn thư là những ông vua, những bậc
quần thần hoặc những bề tôi trung thành hay phản nghịch. Các nhân vật thái hậu
hay vương phi, cung nữ ít khi được đề cập đến .
Ngoài ra cũng giống như hàng loạt các bộ sử cổ khác trên thế giới Đại Việt sử
ký toàn thư còn là nguồn tư liệu cho nghiên cứu và sáng tác văn học. Rất nhiều các
nhà nghiên cứu về văn học trung đại như: Bùi Duy Tân, Nguyễn Đăng Na, Trần
Nho Thìn …đều coi Đại Việt sử ký toàn thư là tư liệu gốc cho nghiên cứu tác phẩm
văn học. Sở dĩ như vậy vì Đại Việt sử ký toàn thư là văn bản khắc in sớm nhất
(1697). Hơn nữa đây là công trình quốc gia do nhà nước tổ chức biên soạn. Các tác
giả tham gia biên soạn đều là những tiến sĩ, những bậc trí thức đại tài như: Lê Văn
Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ…
Những quan điểm, những tư tưởng của các nhà sử học và hiện thực lịch sử
phản ánh trong Đại Việt sử ký toàn thư là cơ sở khách quan để soi sáng nội dung
của một số sáng tác văn học. Như cách hiểu chữ “đế” trong hai bài thơ Nam quốc
sơn hà và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ngoài ra Đại Việt sử ký toàn thư còn
là nguồn tư liệu tin cậy để kiểm nghiệm triết lí “tại đức bất tại hiểm” mà một số tác
giả đã đề cập đến trong các sáng tác văn học. Lịch sử góp phần củng cố thêm rằng;
sự chiến thắng trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm hay trong công
cuộc trì vì đất nước là do nhân đức của người người lãnh đạo . Nhân đức của người
116
lãnh đạo giống như một nguồn năng lượng toả phát đến mọi thần dân mà họ cai trị.
Nguồn năng lượng của “Đức” sẽ tập hợp thần dân, các thần dân lại hướng về các
bậc đế vương như các vì sao trên trời đều chầu về một ngôi sáng nhất –Ngôi Bắc
thần. Như vậy vấn đề hàng đầu mà nhà nghiên cứu văn học trung đại phải quan
tâm là độ tin cậy của văn bản thì Đại Việt sử ký toàn thư đã đáp ứng được yêu cầu
đó. Ngoài việc đóng vai trò là nguồn tư liệu gốc cho nghiên cứu, Đại Việt sử ký
toàn thư còn là chất liệu cho sáng tác các tiểu thuyết lịch sử Khối lượng các tiểu
thuyết viết về đề tài lịch sử là rất lớn, trong đó không ít những tác phẩm đã sử dụng
nguồn chất liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư. Tiêu biểu như Truyện Trâu Canh ở
xã Tử Trầm trong Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh, An Tư của Nguyễn Huy Tưởng, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…Viết về
đề tài lịch sử xa xưa của dân tộc không phải là hình thức chạy trốn thực tại của các
nhà văn hiện đại mà đây là cách “hâm nóng”lại lịch sử hào hùng cho thế hệ trẻ
ngày đang bị cuộc sống hiện đại cuốn hút làm quên đi lịch sử dân tộc .
Người ta thường nghĩ đến lịch sử là khô cứng, là chính xác nhưng riêng nguồn
chất liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư lại là nguồn tư liệu hay và hấp dẫn bởi bản
thân tác phẩm đã mang giá trị văn học, đã mang dấu ấn chủ quan của người cầm
bút. Cách chép sử của các nhà nho khác với cách chép sử thông thường là không
dừng lại ở những sự kiện lịch sử mà sâu chuỗi các sự việc, sự kiện lại để nâng nhân
vật lịch sử lên có chân dung như các nhân vật trong tác phẩm văn học. Hơn nữa khi
chép về nhân vật lịch sử các nhà sử học đã khéo lồng vào đó những câu truyện hay
và hấp dẫn về đời tư làm cho lịch sử được kể thêm sinh động .
Cả tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán và tiểu thuyết lịch sử đầu thế kỷ XX đều
mượn chất liệu lịch sử trong Đại Việt sử ký toàn thư nhưng mức độ sử dụng nguồn
sử liệu là khác nhau. Nếu như các tác phẩm viết bằng chữ Hán mượn cả cốt truyện
trong Đại Việt sử ký toàn thư như Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm trong Công
dư tiệp ký của Vũ Phương Đề thì các nhà tiểu thuyết đầu thế kỷ XX chỉ sử dụng
117
một vài sự kiện, vài nhân vật hay bối cảnh làm nền cho sự hư cấu của mình. Điều
đó có nghĩa là các nhà tiểu thuyết đầu thế kỷ XX thiên về “hư bút” nhiều hơn.
Nhìn chung việc nghiên cứu nguồn sử liệu để viết tiểu thuyết lịch sử là công việc
không thể thiếu của người cầm bút . Đại Việt sử ký toàn thư là nguồn sử liệu tin
cậy và là mảnh đất màu mỡ cho các nhà viết tiểu thuyết lịch sử khai thác .
Với những giá trị to lớn về sử học, triết học và văn học như trên Đại Việt sử
ký toàn thư xứng đáng là di sản văn hoá dân tộc. Tác phẩm là nguồn tư liệu phong
phú , tin cậy cho các nhà nghiên cứu thuộc nhiều ngành khoa học xã hội .
118
Tài Liệu Tham khảo
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I(1998), NXBKHXH.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II(1998),NXBKHXH.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III(1998),NXBKHXH.
4. Lại Nguyên Ân, Tiểu thuyết và lịch sử, VietNamNet, ngày 30/10/2005.
5. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng(2003), Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên
.
6. Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Hà Tĩnh.
7. Phan Đại Doãn (1998), Ngô Sĩ Liên và Đại Việt sử ký toàn thư, NXB chính
trị Quốc gia
8. Quang Đạm (1998), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hoá thông tin.
9. Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập, NXB Đại học Quốc gia.
10. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết lịch sử , Tạp chí Nhà văn số 1năm 2003.
11. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà
Minh Đức .., Văn học Việt Nam (thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVIII), NXBGD.
12. Vũ Phương Đề(2001), Công dư tiệp ký, NXB Văn học.
13. Hà Minh Đức( chủ biên)(2003)- Lý luận văn học, NXBGD.
14. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ –(1966), Nguyễn Huy Tưởng, NXB Văn học.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử ,Nguyễn Khắc Phi(2006), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXBGD.
16. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, NXB Phụ nữ.
17. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá(2004), Từ
điển văn học, NXB Thế giới .
119
18. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB văn
hoá thông tin .
19. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội .
20. Nguyễn Xuân Khánh (2000) ,Hồ Quý Ly, NXB Phụ nữ.
21. Đinh Gia Khánh (1964), Văn học cổ Việt Nam, NXBGD.
22. Vũ Khiêu (1984), Một số vấn đề lí luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện
Triết học xuất bản.
23. Nguyễn Đăng Na,(2006) Con đường giải văn học trung đại Việt Nam,
NXBGD.
24. Phan Ngọc(1997), Sử ký Tư Mã Thiên, NXB Văn học .
25. Bùi Văn Lợi (1998), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ
XX đến năm 1945, Luận án tiến sĩ ngữ văn.
26. Phan Trọng Luận (chủ biên), (2006), Ngữ văn 10 –tập II, NXBGD.
27. Phương Lựu (2002) Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung
đại Việt Nam .
28. Ngô Gia Văn Phái (1987), Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Hà Nội
29. Ngô Gia Văn PháI (1987), Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Hà Nội
30. Nguyễn Phương (1962), Phương pháp viết sử của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ
Liên, Tạp chí Đại học Huế, tháng 10.
31. Nguyễn Phương –(1962), Những sai lầm của Đại Việt sử ký toàn thư, Tạp
chí Đại học Huế tháng 10.
32. Trần Trọng Sâm(1999), Sử gia Tư Mã Thiên, NXB Hà Nội
33. Diệp Tú Sơn (2004), Mĩ học tiểu thuyết, NXB Hà Nội.
120
34. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học –một số vấn đề lý luận và lịch
sử ,NXB Đại học sư phạm .
35. Trần Đình Sử (2005) , Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXBĐHQG.
36. Bùi Duy Tân (2007), Tuyển tập ,NXBGD
37. Nhữ Thành (1971), Sử ký Tư Mã Thiên, NXB Văn học.
38. Phạm Xuân Thạch, Suy nghĩ về những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử ,Viet
NamNet ngày 09/10/2005.
39. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXBGD.
40. Đặng Đức Thi, Sự phát triển của sử học Việt Nam từ đại Việt sử ký của Lê
Văn Hưu đến Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Luận án tiến sĩ sử
học .
41. Trần Nho Thìn(2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,
NXBGD
42. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội.
43. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
NXBGD.
44. Trần Ngọc Vương (1998), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXBGD.
45. Nhiều tác giả (1980), Góp phần nghiên cứu bản lĩnh , bản sắc của dân tộc
Việt Nam, NXB Khoa học xã hội .
46. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học, NXBGD.
47. Nhiều tác giả (1998), Giảng văn văn học Việt Nam, NXBGD.
48. Nhiều tác giả (1998), Văn học Việt Nam (1990-1945), NXBGD.
49. Nhiều tác giả (2003), Lý luận văn học, NXBGD.
121
50. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học, Nhà xuất bản thế giới mới .
51. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái (2007), Đại Nam quốc sử diễn ca ,NXBGD
52. Ngô Thời Sĩ(2001) Việt sử tiêu án, NXB Thanh niên
53. Nhiều tác giả(1971), Lịch sử Việt Nam Tập I, NXBKHXH.
54. Nhiều tác giả(1980), Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa của dân tộc,
NXBKHXH.
122