intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng song đề trong chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:165

60
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn nắm bắt những nội dung về James Joyce và những vấn đề phương hướng khảo sát; cái thực và song đề trực giác; cái tưởng tượng và song đề bản thể; cái biểu tượng và song đề diễn ngôn thông qua luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng song đề trong chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce sau đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng song đề trong chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hồng Anh HIỆN TƯỢNG SONG ĐỀ TRONG CHÂN DUNG MỘT NGHỆ SĨ TRẺ CỦA JAMES JOYCE LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hồng Anh HIỆN TƯỢNG SONG ĐỀ TRONG CHÂN DUNG MỘT NGHỆ SĨ TRẺ CỦA JAMES JOYCE Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, các thầy cô tổ Văn học Nước ngoài - Khoa Ngữ Văn cùng gia đình, bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và động viên để tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến PGS. TS. Đào Ngọc Chương, người thầy đã tận tình hướng dẫn và đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012 Người viết luận văn Nguyễn Hồng Anh Lớp Cao học Văn học Nước ngoài Khóa 21
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố ở các công trình khác. TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012 Người viết luận văn Nguyễn Hồng Anh Lớp Cao học Văn học Nước ngoài Khóa 21
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: JAMES JOYCE VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHƯƠNG HƯỚNG KHẢO SÁT .................................................................................................... 20 1.1. James Joyce và hiện tượng song đề ...................................................... 20 1.1.1. Giới thuyết thuật ngữ song đề....................................................... 20 1.1.2. Cội nguồn của hiện tượng song đề trong phong cách sáng tác của James Joyce ................................................................................... 31 1.2. James Joyce và Jacques Lacan ............................................................. 35 1.2.1. Phân tâm học cấu trúc của Jacques Lacan .................................... 35 1.2.2. Phương cách nghiên cứu song đề trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce dưới ánh sáng phân tâm học Lacan ................... 41 Chương 2: CÁI THỰC VÀ SONG ĐỀ TRỰC GIÁC ............................... 46 2.1. Cái Thực theo quan niệm của Jacques Lacan ....................................... 46 2.2. Song đề trực giác từ sự quy chiếu của cái Thực ................................... 49 2.2.1. Song đề trực giác từ giác quan ....................................................... 51 2.2.2. Hòa giải song đề trực giác .............................................................. 66 Chương 3: CÁI TƯỞNG TƯỢNG VÀ SONG ĐỀ BẢN THỂ ................. 77 3.1. Cái tưởng tượng theo quan niệm của Jacques Lacan ........................... 77 3.2. Song đề bản thể từ sự quy chiếu của cái Tưởng tượng ........................ 82 3.2.1. Chủ thể và cái Khác ....................................................................... 85 3.2.2. Cái tôi và cái Khác như là tôi ......................................................... 98
  6. Chương 4: CÁI BIỂU TƯỢNG VÀ SONG ĐỀ DIỄN NGÔN ............... 109 4.1. Cái Biểu tượng theo quan niệm của Jacques Lacan ........................... 109 4.2. Song đề diễn ngôn từ sự quy chiếu của cái Biểu tượng ..................... 115 4.2.1. Chủ thể và diễn ngôn chủ ............................................................. 116 4.2.2. Chủ thể và diễn ngôn đại học ....................................................... 127 4.2.3. Chủ thể và diễn ngôn người cuồng loạn – Hòa giải song đề diễn ngôn............................................................................................. 135 KẾT LUẬN .................................................................................................. 145 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 148
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Gần một thế kỷ đã trôi qua kể từ khi James Joyce công bố tác phẩm đầu tiên, đó là khoảng thời gian đủ dài để ghi khắc danh xưng một nhà văn vào hàng bất tử. Nhưng không như những tượng đài văn chương khác của Ireland như William B.Yeats, Samuel Beckett, Seamus Heaney…, James Joyce chưa bao giờ nhận được bất cứ giải thưởng văn chương nào và chưa bao giờ có được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu đầu ngành. Có lẽ, nhân loại cần một độ lùi thời gian để thẩm định chân xác hơn mối nghi ngờ: liệu James Joyce là một tài năng văn chương kiệt xuất, một nhà văn hiện đại chủ nghĩa tiêu biểu cho cả một thế hệ tài năng, hay chẳng qua chỉ là một kẻ gàn dở tâm thần, giễu nhân loại bằng trò chơi chữ nghĩa? Bất chấp tất cả, James Joyce vẫn trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất từ đầu thế kỷ XX trở lại đây; nghiên cứu về ông chưa bao giờ lỗi thời dù đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại đã đi qua hơn nửa thế kỷ. Chân dung một nghệ sĩ trẻ (A Portrait of the Artist as a Young Man) là cuốn tiểu thuyết thứ nhất và cũng là tác phẩm dễ đọc hơn so với hai kiệt tác kinh điển của James Joyce, Ulysses và Finnegan Wake, nên đây là lựa chọn đầu tiên cho những ai muốn từng bước tiếp cận với phong cách sáng tác, tư tưởng và tài năng văn chương của ông. Nhưng dễ đọc không đồng nghĩa với đơn giản, với một nhà văn mà suốt cuộc đời chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác, phạm trù dễ hay khó, phức tạp hay giản đơn không thể được đo bằng những quy chuẩn thông thường. Điều làm nên tầm vóc cho những tác phẩm của James Joyce chính là sự đòi hỏi ở người đọc một khả năng tìm tòi, một sự khai phá chính mình trước khi khai mở tác phẩm, vì tác giả đã đưa vào tác phẩm rất nhiều điều xa lạ với phần đông độc giả (những danh từ riêng không
  8. 2 chú giải, những liên tưởng bất quy tắc với huyền thoại - lịch sử xa xưa, sự vận dụng và sáng tạo tư duy triết học kết tụ từ hàng ngàn năm, kỹ thuật viết tự tạo…). Đó là lí do tạo nên nhiều hướng khai thác khác nhau cho tác phẩm của James Joyce, tùy vào khả năng tìm tòi của người đọc, khiến các sáng tác của ông luôn mới mẻ và thu hút. Chân dung một nghệ sĩ trẻ cũng không là ngoại lệ. Do đó, chọn nghiên cứu tác phẩm này vừa là một thử thách, đồng thời vừa là một phương cách tự rèn luyện về khả năng nghiên cứu vì hướng mở trong cách tiếp cận tác phẩm. Để mở ra một hướng đi mới giúp khai thác tác phẩm kết hợp lí giải phong cách và tư tưởng nhà văn, chúng tôi chọn nghiên cứu hiện tượng song đề. Song đề là một cách nhìn nhận cuộc sống, là thái độ ứng xử và phản ánh tâm trạng con người từ thuở xa xưa. Khởi đi từ hiện tượng song đề, chúng tôi không xem đây là một tác phẩm văn chương thuần túy, mà muốn diễn giải nó như một công trình thẩm mỹ mang tính triết học kết hợp với tâm lí học và thi pháp văn chương. Từ đó cho thấy rằng James Joyce xứng đáng với những mỹ từ mà một nửa nhân loại đã không tiếc lời ngợi ca: nhà văn của trí tuệ vĩ đại, nhà văn của chủ nghĩa toàn cầu. Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài Hiện tượng song đề trong “Chân dung một nghệ sĩ trẻ” của James Joyce. Ở bề rộng, đề tài nhằm hướng đến tính khả biến trong nghiên cứu tác phẩm James Joyce nói chung và tiểu thuyết này nói riêng khi kết hợp với những lý thuyết hiện đại; ở chiều sâu, đề tài khai thác nội dung tác phẩm hòng làm toát lên bức chân dung tâm hồn của nhà nghệ sĩ James Joyce gắn liền với tư tưởng nhân loại thời đại ông, giúp độc giả thấy được tầm vóc của một trong những bậc thầy hiện đại chủ nghĩa đầu tiên. Đó cũng là mục đích mà luận văn mong muốn đạt được.
  9. 3 2. Lịch sử nghiên cứu Khi viết Ulysses, James Joyce hi vọng rằng tác phẩm này sẽ khiến các nhà phê bình phải “bận rộn” đến hàng thế kỷ sau. Điều đó đã trở thành sự thật. Không chỉ Ulysses mà tất cả các sáng tác của James Joyce đều thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu và bạn đọc yêu thích văn chương trên toàn thế giới, gần một trăm năm nay. Lượng bài viết về J. Joyce vô cùng lớn, nhưng với hạn chế về ngôn ngữ cũng như khả năng tìm kiếm tài liệu, chúng tôi chỉ dẫn ra đây một số ít công trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Thực ra song đề không phải là một hiện tượng được chính James Joyce định danh rõ ràng trong các tác phẩm của mình, như các thuật ngữ: epiphany (hiển linh), paralysis (tê liệt), gnomon (góc khuất) hay mê cung1 để từ đó các nhà nghiên cứu thường lấy làm từ chìa khóa phân tích bút pháp của J. Joyce. Vì không được phát biểu như một thuật ngữ nên song đề hiếm khi trở thành vấn đề được nghiên cứu. Về định nghĩa thuật ngữ, chúng tôi sẽ giải quyết ở chương 1, nhưng có thể khái lược song đề như là tình trạng tiến thoái lưỡng nan, phân vân giữa hai hay nhiều lựa chọn. Từ cách hiểu này, chúng tôi nhận thấy tuy rất hiếm những bài viết dùng song đề làm từ khóa chủ đạo để nghiên cứu James Joyce nhưng hầu như mọi bài viết đều đề cập đến hiện tượng này ở nhiều mức độ khác nhau. Sau đây chúng tôi sẽ phân loại các bài nghiên cứu thành hai phần: công trình của các tác giả nước ngoài và công trình nghiên cứu từ Việt Nam; trong mỗi phần, các bài viết được sắp xếp theo mức độ tăng dần: từ gián tiếp đến trực tiếp, từ nhận định chung đến phân tích cụ thể về hiện tượng song đề, không chỉ trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ mà cả những tác phẩm khác của J. Joyce. 1 Epiphany, paralysis và gnomon cùng xuất hiện trong The Sisters – truyện đầu tiên trong tập truyện ngắn Dubliners của James Joyce. Mê cung là cách gọi của chính James Joyce về kĩ thuật ông đã sử dụng để viết chương thứ mười (The Wandering Rocks) trong tiểu thuyết Ulysses – kĩ thuật mê cung (labyrinthine technique)
  10. 4 2.1. Các công trình nước ngoài Hiện tượng song đề dễ nhìn thấy nhất từ phương diện tâm lí nhân vật. Vì vậy, hầu hết các bài nghiên cứu lấy việc phân tích nhân vật là chính đều ít nhiều đề cập đến hiện tượng này. Richard Brown trong công trình James Joyce – A Post-Culturalist Perspective (James Joyce – Một phối cảnh hậu văn hóa) đã dành trọn chương II để phân tích tiểu thuyết Chân dung một nghệ sĩ trẻ, trong đó có nhận định: ““Chân dung” thăm dò và vượt quá những ranh giới giữa đời sống cộng đồng và cá nhân, giữa trải nghiệm bên ngoài và bên trong nhân vật đã được xác nhận, và hơn thế nữa, trong nghệ thuật của Joyce” [76, 33]. Nhận định cho thấy tác giả đã chú ý và xem song đề là vấn đề cơ bản của tác phẩm cũng như phong cách của nhà văn, nhưng vì chỉ là một công trình nhằm mục đích giới thiệu căn bản các tác phẩm của J. Joyce dưới góc nhìn văn hóa học nên người viết không đi sâu luận giải bằng các chi tiết nghệ thuật. Những công trình sau đây phần nào đã chứng minh cụ thể cho ý kiến trên. Trong chuyên luận The Cambridge Introduction to James Joyce (Nhập môn James Joyce, do đại học Cambridge ấn hành), tác giả Eric Bulson đã phân tích khá công phu từng tác phẩm của James Joyce, và khi bàn đến nhân vật Stephen trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ, chủ yếu người viết đi vào khía cạnh tư tưởng nhân vật, những quyết định mang tính lựa chọn giữa chủ nghĩa dân tộc và tự do, rồi kết lại: “Anh [Stephen] 1 sẽ là người Ireland bằng việc rời khỏi Ireland đến Châu Âu và bằng cách viết về những kinh nghiệm anh thu nhận được từ tiếng Hy Lạp, Latin và những hình mẫu Châu Âu. Richard Rowan trong “Lưu đày” [tên vở kịch của J. Joyce] và Gabriel Conroy trong “Người chết” [truyện ngắn của J. Joyce] đều cùng đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan như vậy về tương lai của mình” [77, 63]. 1 Nội dung trong […] là chú thích của chúng tôi.
  11. 5 Tương tự nội dung này là bài viết của Ian Mackean: “A Portrait of the Artist as a Young Man: Rebellion and Release” (Chân dung một nghệ sĩ trẻ: cuộc nổi loạn và sự giải thoát) trên website nghiên cứu văn học http://www.literature-study-online.com/essays/james-joyce.html, cũng bàn về tâm trạng lưỡng phân giữa ở và đi của Stephen. Ngoài ra trong bài viết “James Joyce” cho tạp chí Atlantic Monthly, Harry Levin đã nói về điều này, sau đó ông phân tích thêm về tình trạng hai mặt, cuộc sống kép của Stephen, thể hiện rõ nhất trong giai đoạn thứ hai – giai đoạn bước vào thời kì trưởng thành – với một bên là những ham muốn thể xác dẫn đến tội lỗi và một bên là cảm giác bình an trong lòng kính Chúa. Nối tiếp loạt bài phân tích tâm lí Stephen về tôn giáo, bài viết “James Joyce & Aesthetic Gnosticism” (James Joyce và tính giác ngộ thẩm mỹ) của Thomas H. Landess trên tạp chí Modern Age nhấn mạnh đến song đề niềm tin; cụ thể, Stephen vừa tin vừa không tin vào lễ ban thánh thể và anh không sẵn sàng để giải quyết song đề này. Vì nếu tin bánh và rượu là mình và máu Chúa 1 thì người nghệ sĩ không thể “sáng tạo lại cuộc sống bên ngoài cuộc sống” và không thể từ chối phục vụ giáo hội; còn nếu không tin thì anh phải đối mặt với “lời nói dối tối thượng của nhân loại” không thể nào vượt qua [94, 151]. Vì thế, cho đến cuối truyện, Stephen luôn giữ thái độ nước đôi như cách phòng vệ cho riêng mình. Mở rộng ra các tác phẩm khác của James Joyce, song đề tiếp tục được nghiên cứu từ khía cạnh tâm lí nhân vật, tiêu biểu nhất là truyện ngắn Eveline trong tập Người Dublin. Bài viết của Felicity Yorke khi bàn về cách thức dạy truyện ngắn: “Interpretative Tasks Applied to Short Stories” (Những bài tập diễn giải áp dụng với truyện ngắn) đăng trên tạp chí English Language 1 Trong lễ ban thánh thể, vị tu sĩ dùng rượu và bánh tượng trưng cho máu và thân xác Chúa, sau đó ban cho các con chiên như một hình thức rước Chúa vào lòng.
  12. 6 Teaching của đại học Oxford, đã phân tích khá tỉ mỉ song đề của nhân vật Eveline: Eveline phải lựa chọn giữa đi hay ở: đi với Frank để tìm kiếm tương lai hạnh phúc, để thoát khỏi ngôi nhà mà cô có thể phát điên vì gánh nặng bổn phận; hay ở lại chăm sóc cha và các em đến trọn đời theo lời trăng trối của mẹ cô. Eveline quay cuồng giữa tình yêu và trách nhiệm, giữa thói quen chịu đựng nhọc nhằn và sự bung phá đầy can đảm. Điểm sáng của bài viết nằm ở sự kết hợp phân tích tâm lí nhân vật dựa vào khai thác ngôn ngữ, như cách lựa chọn từ vựng, dùng những ẩn dụ, so sánh các thì: ví dụ trong truyện có ba câu diễn tả ý định sẽ bỏ đi của Eveline (ý định hướng về tương lai) nhưng những câu này lại được xây dựng từ thì quá khứ và bị động, điều đó cho thấy Eveline không phải là chủ thể tác động mà chỉ là đối tượng bị tác động, nên không có gì lạ khi cô luôn bị đóng khung vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Bài viết “Analysis on James Joyce’s Eveline” (Phân tích truyện Eveline của James Joyce) của Zhu Zhijuan và Zhou Xinmin đăng trên tạp chí Trung Quốc 文化研究 cũng chỉ ra hiện tượng song đề từ tâm lí Eveline nhưng dưới góc độ nữ quyền, và còn đối sánh với nhiều dạng nhân vật song đề khác trong văn học thế giới, như song đề của Hamlet trong Hamlet của Shakespeare, Huck trong The Adventures of Huckleberry Finn của Mark Twain, Tess trong Tess of the D’Urbervilles của Thomas Hardy, hay nhà thơ Robert Frost và sự chọn đường trong The Road not Taken. Việc đối sánh tuy chỉ giản lược nhưng bài viết đã cho thấy rằng song đề là một đối tượng nghiên cứu quan trọng luôn được sử dụng trong văn học. Tác phẩm của J. Joyce cũng không là ngoại lệ. Bài nghiên cứu duy nhất chúng tôi tìm được lấy song đề làm nội dung chủ đạo để phân tích là “Reading Short Stories III: Maria’s Dilemma in James Joyce’s “Clay”” (Đọc truyện ngắn III: Song đề của Maria trong “Đất sét” của James Joyce) của Fumio Yoshioka đăng trên tạp chí Humanities and
  13. 7 Social Sciences, trường đại học Okayama. Người viết không luận giải thuật ngữ song đề (dilemma) nhưng qua quá trình phân tích, có thể hiểu song đề mà người viết đề cập đến là tính chất hai mặt. Trong quá trình phân tích nhân vật chính Maria trong truyện ngắn Đất sét – rút ra từ tập Người Dublin – tác giả đã chỉ ra dạng song đề này: “Sự thay đổi trang phục của nhân vật nữ chính bắt đầu đánh dấu những biến chuyển từ Maria ban ngày thành Maria ban đêm, từ Maria sợ sệt thành Maria hư hỏng. Tính cách thay đổi cùng với thời gian của năm. Halloween chính vào thời điểm của năm cũ và năm mới, mùa hè và mùa đông, cái chết và sự sống, gặp gỡ và hòa lẫn, thời điểm mà sự mê tín của người Celt và những lễ kỉ niệm của người Cơ Đốc cùng tan chảy vào trong sự gắn kết văn hóa” [107, 56]. Từ đó người viết cho rằng Maria mang trong mình hình ảnh đối lập của một vị thánh và một mụ phù thủy, hình ảnh của chính Đức Mẹ Maria và một kẻ phá rối. Hiện tượng song đề đến đây đã được định hình rõ ràng hơn, tính chất được mở rộng hơn: từ một hiện tượng thuần nội dung trong tâm lí lựa chọn của nhân vật đến mang tính nghệ thuật hơn trong cách xây dựng hình ảnh nước đôi của nhân vật. Nhưng không chỉ như thế, song đề trong các tác phẩm của James Joyce tiếp tục đuợc khai thác ở nhiều khía cạnh nghệ thuật khác nhau, đem đến những gợi ý hữu ích cho đề tài của chúng tôi. Trở lại với tiểu thuyết Chân dung một nghệ sĩ trẻ, những lí giải của Valeire P. Zimbaro trong bài phân tích có tựa đề cũng là tên tác phẩm “A Portrait of the Artist as a Young Man” trên trang http://www.cliffsnotes.com/study_guide/literature/id-146.html đã cho thấy cách nhìn đầy tinh tế, thú vị về phương cách J. Joyce sử dụng những cặp hình ảnh đối nghịch trong tác phẩm. Ở mục Joyce’s Use of Imagery (Cách sử dụng hình ảnh của Joyce), Zimbaro viết: “Hình ảnh ướt/ khô tượng trưng cho phản xạ tự nhiên và phản xạ có điều kiện của Stephen đối với thế giới […] Nóng
  14. 8 tượng trưng cho những xúc cảm mãnh liệt của cơ thể (trong nhiều trường hợp, nó còn tượng trưng cho tội lỗi); lạnh, ngược lại, tượng trưng cho sự đứng đắn, trật tự và thanh khiết […] Ánh sáng tượng trưng cho sự hiểu biết (sự tự tin), và bóng tối tượng trưng cho sự ngu dốt (lòng khiếp sợ))” [121]. Tuy nhiên, Zimbaro lại không nhìn nhận các cặp đối lập này dưới dạng thức lưỡng phân mà có sự tách bạch rõ ràng, với Zimbaro, đó là những đối lập nhị phân. Trong chương 2, chúng tôi sẽ kế thừa cách phân tích của tác giả bài nghiên cứu này, nhưng mục đích chúng tôi hướng đến là quan hệ song đề giữa các cặp đối lập, từ đó phân tích tâm trạng thời thơ ấu của Stephen. Hiện tượng song đề thể hiện khá phức tạp trong công trình nghiên cứu công phu của Cristina F. Moreno: “Romantic Irony: the Bridge between the Romantic and the Modernist Artist in Joyce’s A Portrait of the Artist as a Young Man” (Châm biếm lãng mạn: cầu nối giữa nhà nghệ sĩ lãng mạn và hiện thực trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce), trên tạp chí Estudios Ingleses de la Universidad Complutense của đại học De La Rioja, Tây Ban Nha. Người viết đã sử dụng cách thức phê bình huyền thoại và phê bình tự sự học để phân tích chất châm biếm - lãng mạn trong tác phẩm. Tính chất này, theo Moreno, được xây dựng dựa trên hai nghịch lí: nghịch lí huyền thoại; và nghịch lí tư tưởng Stephen-nhân vật và Stephen-người trần thuật. Nghịch lí, hay đúng hơn, là hiện tượng song đề, về huyền thoại, thể hiện ở nghi vấn Stephen Dedalus là Deadalus (người cha) hay Icarus (người con) theo huyền thoại Hy Lạp? Việc trùng tên gọi (chỉ khuyết chữ “a”) Dedalus và Deadalus cho thấy Stephen đóng vai người cha, nhưng những dòng nhật kí cuối Stephen đã cầu đến sự giúp đỡ của một người cha lại cho thấy Stephen đích thị là người con. Thành hay bại trong lựa chọn của Stephen dựa vào vai anh đang đóng: thành công trong lí tưởng trở thành một nghệ sĩ tự do như Deadalus thoát khỏi chốn giam cầm bằng đôi cánh tự tạo, hay chịu kết án lưu
  15. 9 đày, như Icarus bị mặt trời thiêu đốt đôi cánh rồi đành chết đuối trên đại dương mênh mông xa xứ? Theo Moreno, nghịch lí được tạo ra chính là để giễu huyền thoại bằng một phong cách lãng mạn. Cũng liên quan đến hiện tượng song đề về mặt nghệ thuật là bài viết “A Portrait of the Artist as a Young Man and the “Individuating Rhythm” of Modernity” (Chân dung một nghệ sĩ trẻ và “nhịp điệu cá thể hóa” của tính chất hiện đại) của Tobias Boes đăng trên tạp chí English Literary History từ đại học Johns Hopkins, Hoa Kỳ. Boes quan tâm đến song đề về cấu trúc tác phẩm. Người viết cho rằng có một mâu thuẫn xảy ra khi xét cấu trúc của toàn bộ tác phẩm, mâu thuẫn giữa cấu trúc epiphany và cấu trúc leitmotif. Nói Chân dung một nghệ sĩ trẻ được cấu trúc theo kiểu epiphany có nghĩa là phân cách (disjunctive) tác phẩm ra thành nhiều mẩu đoạn, cắt đứt các dòng chảy thực tại và dòng cảm xúc. Còn nói Chân dung một nghệ sĩ trẻ được cấu trúc theo kiểu leitmotif tức “đọc” tác phẩm từ những nét, điểm, chủ đề mang tính xuyên suốt toàn truyện mà từ những nét, điểm ấy, các giai đoạn phát triển của cốt truyện cũng như nhân vật được tiếp nối (conjunctive) với nhau. Người viết đã đi đến một sự hòa giải rằng hai dạng cấu trúc này tuy đối nghịch nhưng vẫn quyện chặt nhau làm thành cấu trúc độc đáo của tác phẩm, không thể chia tách riêng thành dạng này hay dạng kia. Để chứng minh, Boes cụ thể hóa hai dạng cấu trúc này thành kiểu cấu trúc tuyến tính (tức cấu trúc theo kiểu epiphany: những yếu tố đột hiện chia cắt dòng truyện đều đều để phát triển lên theo chiều tuyến tính) và cấu trúc tuần hoàn (tức cấu trúc theo kiểu leitmotif: sử dụng những chi tiết mang tính quán xuyến toàn truyện để tạo cho truyện một mạch liên kết theo vòng tròn từ những tình tiết đầu đến những tình tiết cuối). Bài viết đã chứng minh tính đối thoại (hay hiện tượng song đề) giữa tính chất tuyến tính và tính tuần hoàn qua một vài chi tiết trong truyện: Đó là tâm trạng của Stephen luôn dao động qua lại giữa những ảnh hưởng kêu gọi anh hướng
  16. 10 về cuộc sống phía trước (khi anh đứng trước biển và bắt gặp hình ảnh cô gái mang đôi cánh tượng trưng cho sự tìm kiếm tự do) và những hình ảnh khuyến khích anh nán lại và nhìn vào nhân dạng của mình vốn đã được xác định từ quá khứ (hình ảnh người mẹ, Emma, người phụ nữ nông dân…). Một minh chứng khác, khi Stephen đi cùng cha trên chuyến xe lửa, khung cửa xe chính là một màn ảnh cho thấy dòng chảy trôi của lịch sử (với những hàng cột vụt qua, những hình ảnh nông thôn trôi qua…), nhưng bên trong xe, anh lại nghe thấy nhịp thở nặng nề trong giấc ngủ của người cha; dòng chảy tuyến tính của thời gian lịch sử đã vấp phải chuyển động tuần hoàn của nhịp điệu sinh học. Stephen đã luôn cố gắng pha trộn và nắm bắt chúng để tạo thành phản ứng nhịp nhàng đối với môi trường quanh anh. Đó là minh chứng của người viết cho sự đối nghịch và hòa giải theo kiểu song đề của hai dạng cấu trúc tác phẩm. Bài viết của Tobias Boes đã góp phần bổ sung thêm cách khai thác hiện tượng song đề, từ phương diện cấu trúc, cung cấp thêm một hướng mở cho đề tài của chúng tôi. 2.2. Các công trình Việt Nam Tên tuổi James Joyce bắt đầu được biết đến ở Việt Nam qua một số gợi nhắc từ những giáo trình văn học phương Tây hiện đại, thường chỉ mang tính điểm qua thành công của tác giả như một người khai sinh ra kĩ thuật dòng ý thức. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, từ các trường đại học mới bắt đầu xuất hiện những nhà nghiên cứu trẻ quan tâm và thực hiện những công trình tâm huyết về James Joyce. Trong nguồn tư liệu tham khảo ít ỏi về J. Joyce ở Việt Nam, chúng tôi may mắn tìm thấy những bài viết có liên quan đến đề tài. Tuy song đề không có vai trò trong ý đồ phân tích và nội dung thể hiện, nhưng khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật kể chuyện trong “Người Dublin” của James Joyce của Lê Thị Như Vân là một minh chứng cho sự tồn tại của hiện tượng song đề trong tác phẩm James Joyce dù tác giả khóa luận có ý thức
  17. 11 về nó hay không. Dựa vào lí thuyết tự sự học, Lê Thị Như Vân tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện của Người Dublin thông qua phân tích nhân vật, xây dựng cốt truyện, tổ chức thời gian với sự vận dụng những kĩ thuật của chủ nghĩa hiện đại. Khi phân tích nhân vật, tác giả bài viết luôn đặt nhân vật trong trạng thái song đề, như Eveline (trong truyện ngắn cùng tên) giữa quá khứ và tương lai, Duffy (trong Một trường hợp đau lòng) giữa tình yêu và lí trí, giữa hạnh phúc và danh dự… Khi lí giải hiện tượng này, Lê Thị Như Vân khẳng định rằng đó là tính chất phân mảnh của nhân vật do sự tác động của môi trường xung quanh: “tính chất tan rã của các nhân vật không phải là một cái gì tồn tại bên trong, mà nằm ngay trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài” [52, 31]. Chắc chắn một nhận định như thế sẽ còn gây tranh cãi, song điều chúng tôi quan tâm là, cũng như đa số các bài viết nước ngoài, khi nghiên cứu về nhân vật trong các sáng tác của James Joyce, điều luôn hiện diện là hiện tượng song đề tâm lí hay sự phân vân chọn lựa của nhân vật. Vì đã đuợc nói đến rất nhiều nên khai thác theo hướng này dễ trở thành lối mòn, trên đó mọi người thường xuyên giẫm chân nhau. Cũng trung thành theo hướng đi này, nhưng với một cách diễn giải khá thú vị và mang tính phát hiện, luận văn thạc sĩ Góc khuất cái tôi James Joyce trong “Người Dublin” của Lê Minh Kha đã dùng lí thuyết hậu thực dân để làm sáng tỏ tính chất song đề thể hiện trong “cái tôi” của nhà văn qua các phương diện: cốt truyện (cốt truyện gia đình với tính chất lưỡng diện của người mẹ: bao dung và ích kỉ; cốt truyện phi kịch tính với sắc thái lưỡng phân về tình dục: sáng tạo/ hủy diệt, thúc đẩy/ kìm hãm), điểm nhìn và giọng điệu (“lối viết tạo góc khuất trong Người Dublin buộc ông phải lựa chọn một giọng trần thuật riêng, có tính nước đôi, thể hiện “sự chế nhạo đeo mặt nạ nghiêm trang” – đấy là giọng điệu mỉa mai” [29, 55]), hình tượng nhân vật nước đôi (yêu thích/ căm ghét, tin/ không tin, chấp nhận/ khước từ). Lí thuyết
  18. 12 hậu thực dân giúp Lê Minh Kha đi đến nhận định: “tính chất lưỡng phân là đặc tính của cái tôi James Joyce, trong đó có vấn đề dân tộc […] Một mặt, ông vẫn ngưỡng vọng quá khứ dân tộc (thể hiện rõ nhất trong sự tôn kính lãnh tụ Parnell), nhưng mặt khác, ông nhận thức được tính chất văn minh, hùng mạnh, tiến bộ của thực dân” [29, 68]. Khi đặt vấn đề và giải quyết như thế, dường như tác giả bài viết đã đánh đồng nhân vật với nhà văn và dùng chính sản phẩm của nhà văn để diễn giải quan điểm dân tộc, xã hội của nhà văn đó; rồi lại dùng chính quan điểm dân tộc của nhà văn để lí giải những vấn đề trong tác phẩm. Cách làm này dễ mang tính chủ quan và áp đặt. Tuy nhiên, diễn giải này đã đem đến gợi ý quý giá cho chúng tôi trong việc tìm hiểu nguyên nhân vì sao James Joyce lựa chọn song đề làm phương cách sáng tác. Sau luận văn trên, Lê Minh Kha cùng với Lê Từ Hiển đã viết một bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài, tuy quy mô nhỏ nhưng đã trực tiếp khai thác hiện tượng song đề về phương diện nghệ thuật: “Động và tĩnh trong cấu trúc truyện ngắn James Joyce”. Tương tự cách làm của Valerie P. Zimbaro trong bài viết đề cập ở trên, hai tác giả đã soi chiếu các truyện ngắn của J. Joyce trong tập Người Dublin dưới cặp đối lập động/ tĩnh. Nhưng khác Zimbaro, các tác giả không xem cặp đối lập mang quan hệ tách biệt, nhị phân, mà động và tĩnh được xác định như một cặp song đề lưỡng phân, trong đó thành phần tĩnh gắn với trạng thái “tê liệt”, thể hiện ở khoảng khắc tâm trạng nhân vật, đối thoại đơn điệu và kết thúc lưng chừng, thành phần động gắn với sự “bừng ngộ” – tức sự nhận thức tự thân của nhân vật. Theo các tác giả: “Tương liên giữa tĩnh và động, trạng thái tê liệt và sự bừng ngộ, không những góp phần kiến tạo mạch truyện, cấu trúc tác phẩm mà còn khắc họa bức chân dung tinh thần của nhân vật, của tác giả, của con người đầu thế kỷ XX nói chung. Đấy là kiểu nhân vật nước đôi giữa một thế giới vắng bóng hình Thượng đế, nơi "Chúa đã chết" và con người cô liêu giữa
  19. 13 những phân thân, chọn lựa” [23, 86]. Trạng thái “tê liệt” và “bừng ngộ” trong tác phẩm của James Joyce không phải là một khám phá mới trong bài viết này, đóng góp của bài viết nằm ở sự khu biệt những phương diện nội dung và hình thức tác phẩm vào cặp song đề động/ tĩnh, góp thêm vào những khía cạnh khai thác hiện tượng song đề. Tiếp nối với những nghiên cứu về Người Dublin, luận văn thạc sĩ của Lê Thị Tú Trinh: Hiện tượng epiphany trong tập truyện ngắn “Người Dublin” của James Joyce đã chọn một vấn đề khá thú vị với từ khóa epiphany để tìm hiểu phong cách viết của nhà văn và hướng đến sự tiếp nhận từ độc giả. Trong tiểu mục Điểm rơi epiphany của nhân vật, tác giả luận văn chú trọng đến khả năng nhận ra tình thế tiến thoái lưỡng nan của các nhân vật và xem khoảnh khắc epiphany là khoảnh khắc giúp nhân vật thoát khỏi song đề lưỡng nan này. Không dừng lại đấy, tác giả luận văn đã phân tích các yếu tố cấu thành nên điểm rơi epiphany, đó là sự kết hợp của âm thanh và ánh sáng: của Araby (trong truyện ngắn cùng tên) là tiếng loa thông báo tắt đèn của hội chợ; của Eveline là hồi chuông cùng ánh sáng con tàu; của Jimmy (Sau cuộc đua) là tia sáng bình minh được nhận ra từ thông báo của một người bạn… Cách phân tích của Lê Thị Tú Trinh đi theo hướng vận động, phát triển trong tâm hồn nhân vật: từ nhân vật bị giam cầm, nhận được điểm rơi epiphany để hình thành khát vọng vượt thoát. Nói cách khác, epiphany là một dạng mật mã mà nếu giải được, nhân vật sẽ bước qua ranh giới và thoát khỏi trạng thái song đề. Trong các nhà nghiên cứu James Joyce ở Việt Nam, Nguyễn Linh Chi có lẽ là người có nhiều công trình nhất, trong đó có luận án tiến sĩ Nhân vật Stephen Dedalus và môtíp mê cung là công trình khá dày dặn và quy mô. Từ gợi ý của chính James Joyce rằng ông đã sử dụng kĩ thuật mê cung để viết chương X tác phẩm Ulysses, Linh Chi đã mở rộng kĩ thuật này qua toàn bộ
  20. 14 các tiểu thuyết của J. Joyce với nhân vật Stephen làm trung tâm: từ Stephen Hero, Chân dung một nghệ sĩ trẻ đến Ulysses và Finnegan Wake. Chúng tôi nhận thấy giữa kĩ thuật mê cung mà Nguyễn Linh Chi phân tích với hiện tượng song đề có những điểm trùng khớp, bởi cùng thể hiện tình thế lưỡng phân, khó xác quyết. Không chỉ khai thác tình trạng mê cung trong thái độ của nhân vật (về tín ngưỡng tôn giáo: khát thèm/ sợ hãi, chối bỏ/ đau đớn; về tinh thần dân tộc: quốc gia hay đại đồng quốc tế, bạo lực hay tình thương; về công cụ ngôn ngữ: tiếng Anh hay tiếng Gaelic) như đa phần các bài nghiên cứu đã đề cập, tác giả luận án còn phân tích mê cung về mối liên hệ giữa nhân vật Stephen và tác giả James Joyce: Stephen và James Joyce là hai cá thể đồng nhất, tương ứng hay độc lập nhau? Bài viết không đi đến kết luận, vì ở mỗi cách hiểu đều có những kiến giải riêng và hợp lí, và cũng vì “mục đích chúng tôi hướng tới là tìm ra tính chất mê cung trong kỹ thuật viết của Joyce khi ông làm mọi thứ rối tung lên trước mắt bạn đọc”, chứ không phải là “đưa ra những kết luận cuối cùng về thân phận của nhân vật” [12, 45]. Rõ ràng đây chính là một dạng song đề với vấn đề đặt ra liên quan đến xác định thể loại tác phẩm James Joyce, ví dụ, đối với Chân dung một nghệ sĩ trẻ, tùy theo quan điểm của người nghiên cứu về mối quan hệ của nhân vật Stephen với tác giả James Joyce mà xác định tác phẩm là tự thuật, tiểu thuyết tự thuật hay hư cấu, nhưng điều đó chưa bao giờ là công việc dễ dàng). Trong chương III: Thoát khỏi mê cung, Nguyễn Linh Chi phân tích epiphany như là chìa khóa mở cánh cửa mê cung để nhân vật thoát khỏi trạng thái phân vân của mình, nhưng epiphany ở đây không chỉ là sự “bừng ngộ” mà còn mang tính chất “dằn vặt”, “băn khoăn” (như khi đi cùng cô bạn E.C, Stephen nhận thấy sự ham muốn nổi lên trong anh, cùng với đó đã kéo theo sự hồ nghi về con đường mà anh đang đi không phải do chính anh lựa chọn). Như vậy, epiphany vừa là hướng giải thoát song đề, cũng vừa là chính song đề, như thể vừa thoát khỏi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2