ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

LÃ THỊ THU HÀ

QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ

ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN

ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội, 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

LÃ THỊ THU HÀ

QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ

ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN

ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số: 60.22.03.08

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Thị Phƣợng

Hà Nội, 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, dưới sự hướng

dẫn của PGS.TS Ngô Thị Phượng. Các số liệu trong luận văn hoàn toàn trung

thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các luận điểm, luận cứ trong luận văn

chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2015

Học viên

Lã Thị Thu Hà

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn

chân thành đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học, bộ phận quản lý học viên sau

đại học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã tận tình giúp đỡ, chỉ

dạy, truyền dạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường thời

gian qua và hướng dẫn quy trình thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ

lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Ngô Thị Phượng – người đã trực tiếp hướng

dẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn trân thành đến Bộ môn lý luận chính trị& Khoa

học xã hội nhân văn - Học viện Cảnh sát nhân dân - đơn vị công tác đã tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập. Mặc dù đã hết

sức cố gắng song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong

quý thầy giáo, cô giáo góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.

Xin kính chúc quý thầy, cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp đào

tạo những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai. Một lần nữa tôi xin trân

thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2015

Học viên

Lã Thị Thu Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ƢỚC LÀNG

VĂN HÓA VÀ ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN ............................... 10

1.1. Làng văn hóa và quy ƣớc làng văn hóa ................................................ 10

1.1.1. Khái niệm làng văn hóa ........................................................................ 10

1.1.2. Quy ước làng văn hóa ........................................................................... 21

1.2. An ninh nông thôn và đảm bảo an ninh nông thôn ............................ 37

1.2.1. An ninh nông thôn ................................................................................. 37

1.2.2. Đảm bảo an ninh nông thôn .................................................................. 42

Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VỚI ĐẢM

BẢO AN NINH NÔNG THÔN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN

NAY: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP .................... 51

2.1. Đặc điểm nông thôn đồng bằng sông Hồng và tình hình an ninh nông

thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay ........................................................... 51

2.1.1. Đặc điểm nông thôn Đồng bằng sông Hồng ......................................... 51

2.1.2. Tình hình an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay .............. 61

2.2. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh

nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay và những vấn đề đặt ra .............. 70

2.2.1. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh

nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay ..................................................... 70

2.2.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến vai trò của quy ước làng văn hóa

đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng ............................ 78

2.3. Giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của quy ƣớc làng văn

hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đòng bằng sông Hồng ......... 82

2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng quy ước làng văn hóa góp phần đảm bảo

an ninh nông thông đồng bằng sông Hồng ..................................................... 82

2.3.2. Đào tạo cán bộ văn hóa và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa trong

nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng ........................................................... 85

2.3.3. Tổ chức triển khai quy ước làng văn hóa kết hợp với tuyên truyền, vận

động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, qua đó giữ vững an ninh trật tự nông thôn đồng bằng

sông Hồng. ...................................................................................................... 87

2.3.4. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong nông thôn vùng

đồng bằng sông Hồng ..................................................................................... 90

KẾT LUẬN .................................................................................................... 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đồng bằng sông Hồng của Việt Nam từ lâu đã được các nhà nghiên cứu

trong nước, quốc tế quan tâm và đánh giá cao, không chỉ trên phương diện

kinh tế, là vựa lúa của miền Bắc, mà còn bởi đời sống tinh thần phong phú,

nơi giao thoa, tích tụ nhiều tầng văn hóa của cư dân vùng lúa nước. Được

hình thành từ lịch sử lâu đời, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng ngay từ đầu

đã phải đối mặt với hai thế lực để trường tồn, đó là sự khắc nghiệt của thiên

nhiên và sự đe dọa thường xuyên của các thế lực xâm lăng từ phương Bắc.

Công cuộc chinh phục thiên nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm qua

ngàn đời đã đem lại cho họ những kinh nghiệm quý báu và họ biết nâng niu,

giữ gìn, trau dồi thành nghệ thuật, thành văn hóa, góp phần làm nên cả một

nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Đây cũng là đóng góp lớn nhất của cư dân

đồng bằng sông Hồng vào sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam.

Trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử cư dân đồng bằng sông

Hồng đã định hình cho mình truyền thống văn hóa độc đáo, riêng biệt, thể

hiện nổi bật là sự cố kết chặt chẽ các quan hệ họ hàng – dòng họ, quan hệ

cộng đồng nhà – xóm làng – đất nước... Tiêu chí cao nhất trong xử lý các

quan hệ đó là tình người, tính nhân văn, sự hài hòa, chia sẻ, nhường nhịn... Để

giữ gìn những giá trị cao đẹp đó trong cộng đồng và cũng để giáo dục ý thức

về cuộc sống cộng đồng cho các thế hệ, cư dân đồng bằng sông Hồng đã thể

chế hóa các quy định về ứng xử, nghi lễ, nghi thức.... của đời sống cộng đồng

thành những quy định có tính bắt buộc người trong làng, xóm, dòng họ phải

theo. Đó chính là hương ước, quy ước, quy định của làng hay của dòng họ.

Những hương ước, quy ước đó trong lịch sử được thực hiện nghiêm túc, tự

giác và trở thành thứ vũ khí, thành “lệ làng”, giữ cho làng xóm bình yên, các

1

quan hệ xã hội ổn định sau lũy tre làng.

Hiện nay, đồng bằng sông Hồng đang đứng trước sự biến đổi to lớn,

mạnh mẽ mang tính cách mạng sâu sắc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa hội

nhập quốc tế đã và đang đem lại sự đổi mới thực sự ở nông thôn. Diện mạo xã

hội nông thôn đang thay đổi theo hướng đô thị hóa, lối sống của một bộ phận

dân cư đặc biệt là lớp trẻ đang chuyển dịch nhanh hơn, mạnh hơn theo kiểu

công nghiệp.... Đồng tiền đã len lỏi và tác động đến suy nghĩ, cách giải quyết

các quan hệ trong xóm, ngoài làng, thậm chí trong gia đình dòng tộc. Sự tranh

chấp đất đai dẫn đến xung đột, bất hòa, sự đền bù, giải tỏa không đồng thuận,

dẫn đến khiếu kiện, làm xuất hiện “điểm nóng”, thậm chí xung đột gây mất ổn

định xã hội nông thôn. Thực tế tình hình trật tự xã hội vùng nông thôn các

tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định... đã

gióng lên hồi chuông báo động về an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông

Hồng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn. Sự nghiệp đảm bảo an ninh nông thôn không phải của riêng các lực

lượng vũ trang, công an, quân đội, mà đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn

dân. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải huy động mọi tiềm năng, tiềm lực, sức mạnh

của cả đất nước, dân tộc, trong đó có văn hóa.

Từ xa xưa, cha ông ta đã biết sử dụng văn hóa như thứ vũ khí hữu hiệu

chống lại âm mưu thâm độc của các thế lực ngoại xâm muốn “đồng hóa”. Kế

thừa bài học quý báu đó từ truyền thống lịch sử, Đảng, Nhà nước Việt Nam từ

ngày đầu thành lập đã chú ý chăm lo, vun trồng văn hóa, đặt văn hóa đúng với

vai trò, ý nghĩa của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ ngày đầu thành lập

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xác định chăm lo phát triển văn hóa là việc

làm cấp bách của chính quyền mới, và nhấn mạnh văn hóa là mặt trận, người cán

bộ văn hóa là chiến sĩ. Bác kêu gọi mọi người hãy chung tay xây dựng đời sống

2

mới, nếp sống văn hóa mới cho đúng với tư thế là người chủ của chế độ mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam qua nhiều kỳ đại hội đã khẳng định: Văn hóa là nền

tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội.

Trên thực tế, để đảm bảo an ninh, trật tự xóm làng ở một số địa phương

đã biết kế thừa truyền thống dân tộc và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ

trương xây dựng văn hóa của Đảng và Nhà nước để xây dựng những bản

hương ước mới, những quy định, quy ước xây dựng gia đình văn hóa, làng

thôn văn hóa. Đây là cách làm hay, là sự sáng tạo của quần chúng trong việc

sử dụng, phát huy vai trò của văn hóa vào công tác giữ gìn, đảm bảo an ninh

nông thôn. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Quy ước làng văn hóa và vai

trò của nó đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng” làm đề

tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Thứ nhất, về làng xã, quy ước làng văn hóa có một số công trình tiêu biểu:

PGS. TS Nguyễn Thừa Hỷ, “sự phát triển và cấu trúc đẳng cấp trong

các làng xã cổ truyền Việt Nam”, trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử,

tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H.1978. Trong công trình này, tác giả đã tái hiện

lại lịch sử nông thôn nước ta, phân tích rõ cơ cấu tổ chức ở một số làng truyền

thống ở Việt Nam.

GS. Phan Đại Doãn, “Mấy vấn đề về làng xã”, Tạp chí Dân tộc học, số

2/1991. Tác giả đã nêu bật được những nét đặc trưng cơ bản của làng Việt

Nam, trong đó tính cộng đồng và tính tự quản là hai đặc trưng, chi phối mọi

sinh hoạt của làng xã.

GS. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Các giá trị truyền thống và con

người Việt Nam hiện nay, đề tài KX 07-02,H.1996. Trong đề tài, các tác giả

đã khái quát những nếp sống, thói quen, giá trị đạo đức mang tính truyền

thống của con người Việt Nam hình thành từ lâu đời và mối quan hệ của nó

3

với xã hội hiện nay, sự duy trì, biến đổi và những giá trị mới đang hình thành.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Con đường làng xã Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001. Công trình đã khái quát hóa

tiến trình hình thành làng xã từ buổi đầu xuất hiện cho đến ngày nay. Trong

quá trình phát triển có những yếu tố được duy trì nhưng có những yếu tố được

biến đổi cho phù hợp với xã hội hiện đại.

Vấn đề khai thác, phát huy vai trò của văn hóa, của quy ước làng văn

hóa đối với đời sống xã hội đã được nhiều tác giả quan tâm, nhiều công trình,

bài viết đã được công bố với cách tiếp cận khác nhau. Người đặt viên gạch

đầu tiên là tác giả Phan Kế Bính, với tác phẩm: “Việt Nam phong tục”. Trong

công trình này, tác giả có dẫn một bản hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”.

GS.TS Nguyễn Duy Quý, PGS.TS Thành Duy và PGS.TS Vũ Ngọc

Khánh đồng tác giả cuốn sách “Văn hóa làng và làng văn hóa”; “Văn hóa

làng và sự phát triển” của GS.TS Nguyễn Duy Quý; “Làng xã Việt Nam- một

số vấn đề kinh tế- xã hội” của GS. Phan Đại Doãn; “Sự biến đổi của làng xã

Việt Nam hiện nay” của GS.TS Tô Duy Hợp; “Cộng đồng làng xã Việt Nam

hiện nay” của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Sự

biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng” của GS.TS

Tô Duy Hợp; “Hương ước hồn quê” của cố giáo sư học giả Toan Ánh; “Bản

sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng bắc bộ” của TS. Lê

Quý Đức... Ở những công trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần

và văn hóa vật chất ở làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập tới hội làng, nếp sống,

phong tục, văn hóa nghệ thuật dân gian...Một số chuyên luận không những có

ý kiến nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế- xã hội, văn hóa; mà

còn nêu lên những điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá

4

trình dựng nước và giữ nước.

PGS. TS Bùi Xuân Đính trong cuốn sách “Hương ước và quản lý làng

xã” và “Lệ làng phép nước” đã nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong nội dung

hương ước xưa và nay, vai trò của nó trong quản lý làng xã, đồng thời tác giả

cũng nêu rõ những vấn đề hương ước hiện nay cần giải quyết.

Tác giả Lê Đức Tiết tron cuốn sách “Về hương ước lệ làng” cho thấy

cái nhìn khá toàn diện về hương ước trong suốt quá trình từ khi hình thành,

mối quan hệ với pháp luật, cũng như vai trò của hương ước trong đời sống xã

hội nông thôn Việt Nam.

Nhiều bài viết có giá trị nghiên cứu về hương ước được giới thiệu trên

các báo, tạp chí:

PGS.TS Lê Minh Thông trong bài viết “Luật nước và hương ước lệ

làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam” đã viết:

“Luật nước và lệ làng (hương ước) dường như luôn là những hành trang pháp

lý cho sự tồn tại và phát triển của các thế hệ người Việt Nam trụ vững và phát

triển trong mọi thăng trầm của lịch sử”.

Tác giả Lê Thị Hiền trong bài viết “Văn hóa hương ước- từ truyền thống

đến hiện đại” đã đề cập đến nguồn gốc, vị trí, vai trò của văn hóa hương ước cổ.

Bàn về nội dung tư tưởng chính của hương ước mới và những chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về việc biên soạn và thực thi hương ước.

TS. Nguyễn Duy Mền trong bài viết “Nguồn gốc và điều kiện xuất hiện

hương ước trong làng xã vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ” đã đưa ra nhận

định: “Dù không phải là một bộ luật hoàn chỉnh, hương ước, với những điều

qui định về một số nét sinh hoạt riêng của làng xã vẫn đóng một vai trò

"cương lĩnh”, có thể còn khá chung chung, nhưng dù sao cũng đáng xem là

một nếp sống hàng ngày của làng xã mà mọi cá nhân, mọi tổ chức, trong

làng, trong xã phải tuân thủ”.

Thứ hai, về an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng, có một số tài

5

liệu công bố như:

Trong bài viết “Một số vấn đề rút ra qua việc giải quyết các điểm nóng

về an ninh trật tự” trên Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr. 10-11, của tác giả

Trịnh Thị Giới đã trình bày một số những vấn đề ảnh hưởng tới an ninh nông

thôn và rút ra một số kinh nghiệm trong giải quyết các điểm nóng ở nông thôn.

Tác giả Nguyễn Chí Dũng với tài liệu “Một số vấn đề về tội phạm và

cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay”, Nxb Công an

nhân dân, đã trình bày các loại tội phạm nói chung và một số tội phạm điển

hình trên địa bàn nông thôn nói riêng.

Tác giả Nguyễn Đức Minh trong cuốn sách “An ninh nông thôn trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” , Nxb Công an nhân

dân, đã làm rõ tình hình an ninh nông thôn hiện nay và sự tác động của kinh

tế- xã hội đến an ninh nông thôn trong thời kỳ đổi mới.

PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn sách “Tội phạm học hiện đại

và phòng ngừa tội phạm” , Nxb Công an nhân dân, đã trình bày các loại tội

phạm chủ yếu trên cả nước nói chung và một số loại tội phạm điển hình khu

vực nông thôn hiện nay.

TS. Đỗ Cảnh Thìn trong bài viết “Mấy vấn đề về phát huy vai trò của

thiết chế làng xã trong phòng ngừa tội phạm ở nông thôn” trên Tạp chí Cảnh

sát nhân dân số 5 (6/2015), trong bài viết đề cập tới vai trò của một số thiết

chế làng xã, trong đó có quy ước làng văn hóa, sự tác động của các thiết chế

ấy đối với công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn nông thôn.

Có thể nhận thấy mặc dù đã có rất nhiều tác giả, khá nhiều đầu sách,

luận án, bài viết nói về vai trò của văn hóa, quy ước làng văn hóa đối với các

lĩnh vực của đời sống xã hội; những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh nông thôn,

song chưa có một công trình độc lập nào nghiên cứu về vai trò của quy ước

làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn, đặc biệt là khu vực đồng bằng

6

sông Hồng.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ nội dung cơ bản của quy ước làng văn hóa và vai trò

của việc thực hiện quy ước đó đối với việc đảm bảo an ninh nông thôn đồng

bằng sông Hồng hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Làm rõ khái niệm làng văn hóa, sự ra đời, đặc trưng và nội dung cơ

bản của quy ước làng văn hóa.

- Làm rõ khái niệm an ninh nông thôn và những nội dung về đảm bảo

an ninh nông thôn.

- Trình bày đặc điểm nông thôn đồng bằng sông Hồng và tình hình an

ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay.

- Phân tích thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa với đảm bảo an

ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của quy ước

làng văn hóa đến việc đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn các

tỉnh đồng bằng sông Hồng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Vai trò của việc thực hiện quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh

nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

7

- Thời gian khảo sát từ năm 2005 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam,

chính sách pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về

văn hóa, về xây dựng nông thôn mới, về đảm bảo an ninh nông thôn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu đặc thù như: Quy

nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp kết hợp giữa lịch sử

và logic.....

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa quy ước làng văn hóa với vấn đề an

ninh nông thôn, chỉ rõ hiệu quả việc thực hiện tốt quy ước làng văn hóa đối

với tăng cường đảm bảo an ninh nông thôn.

Đề xuất ý kiến đóng góp cho việc xây dựng và thực hiện quy ước làng

văn hóa góp phần đảm bảo an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm sâu sắc về mặt lý luận vai trò của quy ước làng văn

hóa đối với đời sống xã hội nông thôn nói chung và góp phần đảm bảo an ninh

nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở lý luận và phương

pháp luận nhằm góp phần nâng cao vai trò của quy ước làng văn hóa trong

8

việc đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.

Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình

nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa, quy ước làng văn hóa.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận

9

văn gồm 2 chương, 5 tiết.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA

VÀ ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN

1.1. Làng văn hóa và quy ước làng văn hóa

1.1.1. Khái niệm làng văn hóa

Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, “làng xã có vị trí hết sức đặc

biệt, làng là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nước (quốc gia) chỉ là

tổng số, là kết quả của sự liên kết các làng, xã, là “liên làng”. Làng có vai trò gắn

kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Làng là nhân tố giữ vai trò quyết định

trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc “còn làng còn nước”.

Làng - là một từ Nôm, là đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng chặt chẽ và hoàn

chỉnh nhất, bởi nó có địa vực riêng, có cơ cấu tổ chức và tục lệ riêng, hoàn

chỉnh và ổn định qua quá trình phát triển của lịch sử. Cùng với việc xuất hiện

làng trong lịch sử Việt Nam, văn hóa làng cũng ra đời, trở thành nét đặc trưng

của văn hóa dân tộc.

Cho đến nay, khái niệm làng được bàn đến ở nhiều góc độ khác nhau.

Theo PGS. TS Nguyễn Đăng Dung, “… làng xã phải là nơi đồng quê nhiều

gia đình ở quy tụ thành khu được gọi là xóm, các xóm phân biệt nhau bằng

các lũy tre xanh. Trên đường đi vào thường có các cổng xây hoặc tre, đến

đêm tối có thể đóng lại được, để phòng ngừa trộm cướp. Hai, ba, bốn hoặc có

khi là năm, sáu xóm họp thành một thôn gọi là làng” [38; tr.151]. Khái niệm

này đã cho ta cái nhìn bao quát và tổng thể về làng. Tác giả đã đi từ đơn vị

nhỏ nhất là gia đình rồi đến xóm, tập hợp các xóm tạo thành làng. Thông qua

khái niệm, tác giả cũng chỉ ra tên gọi tương đồng với làng là thôn. Tùy theo

mỗi vùng miền, địa phương mà làng có những cách gọi khác nhau.

Giáo sư Từ Chi thì định nghĩa về làng mang tính tổng quát, làng xã là

10

một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng.

Giáo sư đã xem xét làng ở nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm này cho thấy

sự đa dạng của đơn vị làng. Làng không chỉ đơn thuần được xem xét dưới một

lĩnh vực mà ở tổng thể nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau.

Giáo sư Phan Đại Doãn cho rằng, “Làng là một điểm dân cư, một hình

thức công xã nông thôn, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức xã hội riêng, lệ

tục riêng… rất chặt chẽ và hoàn chỉnh” [38; tr.38]. Định nghĩa này có những

nét tương đồng với Giáo sư Bùi Xuân Đính khi cho rằng: làng là đơn vị tụ cư

truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ tầng cùng

cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng…nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất. Cả hai

định nghĩa này đều nói lên sự khác biệt, đặc trưng riêng của làng với những

đơn vị xã hội khác tạo nên tính khu biệt đặc thù.

Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: “ Làng là một đơn vị cộng cư có

một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội

nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là

cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình- tông tộc gia trưởng,

đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình

thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ.

Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là cấu

trúc động, không có bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của

đất nước qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng” [73; tr.130].

Khái niệm này bao trùm mọi yếu tố của làng và xét đến cả nguồn gốc hình

thành của nó.

Như vậy, làng là một sản phẩm của quá trình định cư và cộng cư của

người Việt. Làng từ một cộng đồng tụ cư trở thành một đơn vị kinh tế - xã hội

hoàn chỉnh, một đơn vị kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân. Làng là

một đơn vị hành chính cơ sở của tổ chức nhà nước, một không gian sinh hoạt

11

văn hóa độc lập của người Việt Nam. Đồng thời làng là một thiết chế xã hội,

trong đó các thành viên liên kết với nhau dựa trên quan hệ huyết thống hoặc

địa vực cư trú nhất định và có quan hệ lợi ích chung với nhau. Làng có cơ sở

kinh tế, có thiết chế tổ chức tương đối độc lập, có nền văn hóa riêng tạo thành

bản sắc riêng của làng. Làng là sự tổng hòa của các yếu tố kinh tế- chính trị-

văn hóa- xã hội, tạo thành sự thống nhất trong tổ chức làng.

Trong quá trình hình thành và phát triển, làng Việt được phân chia như sau:

Theo thời gian hình thành, có các làng đầu công nguyên, các làng thời

Lý - Trần, làng thời Lê sơ, Lê - Trịnh - Nguyễn; làng thời Nguyễn và cả

những làng mới hình thành gần đây do những chính sách phát triển kinh tế -

văn hoá của Nhà nước ta.

Theo vùng địa lý, có các loại làng miền Bắc; các làng miền Trung; làng

miền Nam; làng Trung du; làng đồng bằng; làng ven biển...

Theo nghề nghiệp, có các làng thủ công; các loại làng nông nghiệp;

làng chài; làng muối.

Theo phương thức thành lập, có các loại làng do nhóm cư dân khai

hoang tập thể hoặc nhà nước thực hiện chính sách khai hoang….

Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa

làng trong thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng

làng văn hóa một cách vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng

minh, trong quá khứ lịch sử cũng như hiện tại và tương lai, làng luôn giữ một

vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là nơi lưu

giữ trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc.

Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị vốn

có của văn hóa làng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được ước mơ,

nguyện vọng chính đáng của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế đẩy lùi

những yếu kém đang tồn tại trong môi trường xã hội nói chung và môi trường

12

văn hóa ở làng quê nói riêng.

Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong

phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ

bản của nông dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo

đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định trong nông thôn, giữ

gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh…cần phải đặc biệt

chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch đã đưa ra 5 tiêu chuẩn để công nhận làng văn hóa là:

“ Tiêu chuẩn 1, đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển:

a) Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, không còn hộ

đói, tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương (dưới đây gọi là bình quân chung);

b) Có phong trào xóa nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ có nhà bền vững cao

hơn mức bình quân chung.

c) Có nhiều hoạt động hiệu quả: Về tuyên truyền, phổ biến và ứng dụng

khoa học - kỹ thuật; phát triển nghề truyền thống; hợp tác và liên kết phát

triển kinh tế;

d) Tỷ lệ lao động có việc làm, thu nhập bình quân đầu người/ năm cao

hơn mức bình quân chung;

đ) Có 80% trở lên hộ gia đình tham gia cuộc vận động xây dựng nông

thôn mới; xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội ở cộng đồng.

Tiêu chuẩn 2, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú:

a) Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn (làng, ấp, bản và tương đương) từng

bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

b) Duy trì phong trào văn hóa, thể thao, thu hút 40% trở lên số người

dân tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ở cộng đồng;

c) Có 70% trở lên hộ gia đình thực hiện tốt các quy định về nếp sống

văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; không có hành vi truyền bá và

13

hành nghề mê tín dị đoan;

d) Không phát sinh người mắc tệ nạn xã hội ở cộng đồng; không có

người sử dụng và lưu hành văn hóa phẩm độc hại;

đ) Có 70% trở lên hộ gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”,

trong đó ít nhất 50% gia đình văn hóa được công nhận 3 năm trở lên;

e) 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, đạt chuẩn phổ

cập giáo dục trung học trở lên; có phong trào “khuyến học”, khuyến tài;

g) Không có hành vi gây lây truyền dịch bệnh; không để xảy ra ngộ độc

thực phẩm đông người; giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, trẻ em được tiêm

chủng đầy đủ và phụ nữ có thai được khám định kỳ;

h) Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình;

i) Có nhiều hoạt động đoàn kết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và các công trình

công cộng; bảo tồn các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể thao dân gian truyền

thống ở địa phương.

Tiêu chuẩn 3, môi trường cảnh quan sạch đẹp:

a) Có tổ vệ sinh thường xuyên quét dọn vệ sinh, thu gom rác thải về nơi

xử lý tập trung theo quy định;

b) Tỷ lệ hộ gia đình có 3 công trình hợp vệ sinh (nước sạch, nhà tắm,

hố xí) đạt chuẩn, cao hơn mức bình quân chung; các cơ sở sản xuất, kinh

doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường;

c) Nhà ở khu dân cư, các công trình công cộng, nghĩa trang được xây

dựng từng bước theo quy hoạch;

d) Thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở, nâng cao ý thức của người

dân về bảo vệ môi trường sinh thái; vận động nhân dân xây dựng cải tạo, nâng

cấp hệ thống thoát nước; cải tạo các ao, hồ sinh thái; trồng cây xanh.

Tiêu chuẩn 4, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính

14

sách, pháp luật của Nhà nước:

a) Có 90% trở lên hộ gia đình được phổ biến và nghiêm chỉnh thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các

quy định của địa phương;

b) Hoạt động hòa giải có hiệu quả; hầu hết những mâu thuẫn, bất hòa

được giải quyết tại cộng đồng;

c) Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt quy

chế dân chủ ở cơ sở; phản ánh kịp thời những đề xuất, kiến nghị của nhân dân

giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, cộng đồng dân cư; không có khiếu

kiện đông người trái pháp luật;

d) Tuyên truyền và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ở khu dân

cư tham gia giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ

công chức Nhà nước; tham gia xây dựng Chi bộ Đảng, chính quyền đạt danh

hiệu “Trong sạch, vững mạnh”; các tổ chức đoàn thể đạt danh hiệu tiên tiến

trở lên hàng năm; các tổ chức tự quản ở cộng đồng hoạt động có hiệu quả.

Tiêu chuẩn 5, có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng:

a) Thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước, phát triển phong trào

“Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, nhằm chăm sóc các gia đình

chính sách, người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn

mức bình quân chung;

b) Thực hiện tốt các hoạt động “Nhân đạo từ thiện”, giúp đỡ đồng bào

bị thiên tai, gia đình khó khăn, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật,

nạn nhân chất độc da cam - dioxin và những người bất hạnh”[15].

Trên cơ sở các tiêu chí nói trên của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,

thì một làng văn hóa được xây dựng trên cơ sở đảm bảo các nội dung chủ yếu

sau đây:

Một là, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất kinh doanh phát

15

triển, đời sống nông dân ngày càng được nâng cao.

Đây là nhân tố hàng đầu để huy động rộng rãi nhân dân tham gia cuộc

vận động xây dựng làng văn hóa. Căn cứ vào điều kiện cụ thể và thế mạnh

của từng nơi, các cấp ủy Đảng và chính quyền cần xác định cơ cấu kinh tế của

địa phương mình cho phù hợp.

Trong những năm qua, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa

bàn nông thôn, các cấp lãnh đạo đã và đang hỗ trợ người lao động đẩy mạnh

thâm canh tăng vụ, tích cực sử dụng các giống mới, nâng cao năng suất cây

trồng vật nuôi. Mặt khác chú ý sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích

và hỗ trợ khôi phục các làng nghề truyền thống, thúc đẩy mở rộng thương mại

và dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nhờ vậy, kinh tế ở nhiều làng đã có

những chuyến biến rõ rệt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu cấp thiết của

cuộc vận động xây dựng làng văn hóa.

Một cán bộ xã có sự kết hợp chặt chẽ của cả bốn yếu tố: người dân,

người cùng họ hàng, người đại diện của cộng đồng và người đại diện cho Nhà

nước ở đại phương. Bốn yếu tố này vừa thông nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột

nhau trong con người cán bộ xã , chi phối hoạt động của họ, nhất là trong việc

giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân

và cộng đồng. Một thực tế là cán bộ xã nói chung chưa được đào tạo cơ bản về

văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, trình độ kiên thức và năng lực công tác còn

yếu về nhiều mặt. Hiện nay xu hướng tăng thêm cán bộ xã được hưởng các

khoản phụ cấp ngày càng phổ biến ở các địa phương nhưng cuộc vận động xây

dựng làng văn hóa không vì thế mà được quan tâm tạo thêm nguồn cán bộ phục

vụ phong trào. Điều này đòi hỏi cuộc cải cách bộ máy nhà nước phải quan tâm

khắc phục để tạo ra sự vận hành đồng bộ trong chương trình chung.

16

Ba là, tổ chức xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức an ninh của dân.

Xây dựng làng văn hóa là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi

công dân. Vì vậy, mô hình làng văn hóa mới, những thiết chế, cách thức tổ

chức hoạt động và mức đóng góp của từng hộ gia đình... Phải được nghiên

cứu và thảo luận kỹ lưỡng để giành được sự đồng tình, thống nhất cao trong

cộng đồng làng.

Những thiết chế văn hóa cơ bản như: trường học, nhà văn hóa, thư viện,

câu lạc bộ… do nhu cầu ở làng xã cần thiết phải thành lập. Các thiết chế văn

hóa này rất cần thiết cho việc khôi phục và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống trong các cộng đồng làng.

Để duy trì phong tục và tín ngưỡng mỗi làng có một số tổ chức của dân

đã tồn tại lâu đời. Ngày nay nhân dân một số làng xã đang có yêu cầu khôi

phục lại một số tổ chức còn phù hợp và có tác dụng. Thực tế ở nhiều nơi đã

khôi phục lại một phần các tổ chức ấy để dân tự quản, tự do liệu lấy công việc

nội bộ như cúng bái đình chùa, tổ chức tang ma, cưới xin, giải quyết xích mích,

duy trì phong tục đạo đức, ổn định trật tự an ninh theo quy ước của làng.

Lực lượng bảo vệ an ninh làng xóm do dân tự quản lý, có sự chỉ đạo

của chính quyền cấp xã sẽ có nhiều thuận tiên trong công việc. Khả năng “tác

chiến” mau lẹ, kịp thời, hiệu quả hơn là chờ đợi sự chỉ huy từ cấp trên.

Bốn là, xây dựng quy ước văn hóa của làng văn hóa.

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp đoàn cán bộ tỉnh Thái Bình

tại Phủ Chủ tịch đã phê bình các cán bộ địa phương đã “quá tả”, xóa bỏ quỹ

nghĩa thương và hương ước. Người khẳng định: “Hương ước là những khoán

ước trong làng, người ta quy định với nhau không được để cho bò phá lúa, gà

qué ăn mạ…đó là những phong tục hay của nông thôn nước ta trước đây. Từ

sau cách mạng, các chú đem xóa bỏ cả, thế là không đúng. Cách mạng chỉ

17

xóa cái xấu,cái dở còn giữ lại cái tốt, cái hay” [31; tr.10-11].

Ngày nay, mặc dù bên cạnh xây dựng pháp luật thống nhất với khẩu

hiệu “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, Đảng và nhà nước ta vẫn

khuyến khích các làng xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa để phát huy

tinh thần tự quản của nhân dân ở cơ sở. Thực tiễn đặt ra cho thấy cần phải

nhìn nhận lại quy ước văn hóa từ góc độ văn hóa để nó phục vụ sự nghiệp xây

dựng nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung và xây dựng

đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn nói riêng.

Năm là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là sự quyết tâm chiến lược của

Đảng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nông thôn hiện nay. Chủ trương trên đã

đem lại cho người dân quyền bàn bạc, quyết định và giám sát tất cả những gì

liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ. Thực tế, thông qua thực hiện quy

chế dân chủ, nông dân được nhận thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mình

trong cộng đồng làng xã cũng như trong toàn xã hội. Ở nông thôn từng cộng

đồng làng xã đã tự bàn bạc và quyết định góp vốn, góp công sức xây dựng

mới ở nông thôn đường, trường, điện, nước, nhà ở, kênh mương, tạo ra đà

phát triển mới ở nông thôn.

Sáu là, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa.

Gia đình là tế bào của xã hội, từ gia đình sẽ cấu trúc lên làng nước, gia

đình có lành mạnh thì làng xóm mới lành mạnh, phát triển. Nhận thức rõ vai

trò to lớn của gia đình trong việc xây dựng làng nước, cấu trúc thành xã hội,

Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình văn hóa là vấn đề hết sức

hệ trọng của dân tộc và thời đại.

Mỗi làng cần thường xuyên thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình

văn hóa với bốn nội dung đã được xác định:

+ Gia đình thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.

18

+ Xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ.

+ Đoàn kết, tương trợ xóm làng.

+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân.

Thực hiện sáu vấn đề cơ bản nói trên có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài

đến xu thế vận động và phát triển của phong trào xây dựng làng văn hóa ở

nước ta. Xây dựng làng văn hóa là một công việc đa dạng và phức tạp, chúng

ta phải huy động được sức mạnh của đông đảo nông dân, cùng với những

định hướng và những kinh nghiệm đã và đang có ở một số địa phương. Làng

văn hóa sẽ trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát

triển ở nông thôn Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng làng văn hóa phải gắn liền với xây dựng

thiết chế văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng và thực hiện quy ước

văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở…Trên cơ sở kế thừa và phát huy

các giá trị tích cực của văn hóa làng truyền thống, nhằm thực sự phát huy vai

trò của văn hóa trong quá trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông

thôn Việt Nam.

Những tiêu chuẩn của làng văn hóa và nội dung cơ bản trong xây dựng

làng văn hóa cho thấy khái niệm làng văn hóa không đồng nhất với khái niệm

văn hóa làng.

Văn hóa làng, hàm chức nhiều nội dung rất phong phú và đa dạng, tạo

nên bức tranh đa sắc của văn hóa Dân tộc. “Văn hóa làng xã Việt Nam có vị

trí quan trọng trong tiến trình lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc. nó luôn

luôn bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nuôi dưỡng sức sống trường

tồn của văn hóa dân tộc” [57; tr 18-19]. Văn hóa làng Việt Nam qua hàng

ngàn năm phát triển với bản sắc có giá trị thực sự là một nền văn hóa của

nhân dân và trở thành bộ phận ổn định nhất của văn hóa dân tộc.

Xét tổng thể ở nước ta có sự khác biệt nhất định văn hóa giữa làng với

19

làng, giữa làng với nước. Tuy nhiên, giao lưu văn hóa đã làm cho văn hóa

làng có nét chung, đồng dạng về tư tưởng, tín ngưỡng, về kiến trúc, điêu khắc,

giáo dục và thẩm mỹ…Từng khu vực cư trú có những yếu tố, những sắc thái

văn hóa khác nhau, vùng Nam Bộ khác vùng Bắc Bộ, nhưng cấu trúc tổng thể

văn hóa làng tương đối giống nhau. Chúng ta có thể tán thành quan điểm của

nhà nghiên cứu Thu Linh cho rằng: “Văn hóa làng là một nền văn hóa thuộc

về cộng đồng và mang tính chất cộng đồng. Chủ thể làng, tập thể làng chính

là tác giả, là người tạo dựng, sáng lập nên nền văn hóa ấy. Ở Việt Nam, một

làng với tư cách là một làng, được xác định không chỉ qua địa bàn cư trú,

hoạt động nghề nghiệp, lịch sử hình thành, kết cấu kinh tế, quan hệ xã hội, mà

còn qua cả sinh hoạt văn hóa có bản sắc riêng của nó nữa” [42; tr.46-48].

Do vậy, văn hóa làng là một trong những tiêu chí hàng đầu để xác định

và phân biệt diện mạo của làng này với làng khác. Người sáng tạo ra những

giá trị của văn hóa làng chính là những thành viên của làng. Họ chính là

những người tham gia sáng tạo, vừa tổ chức thực hiện và cũng đồng thời là

những người chiêm ngưỡng, hưởng thụ những giá trị văn hóa do chính bản

thân mình gây dựng nên. Chính vì vậy tính nhân văn của văn hóa làng càng

được tô đậm ở tính chất cộng đồng, tính tập thể của nó. Làng là chủ thể tập

thể của văn hóa và thông qua văn hóa làng chúng ta có thể khám phá được

diện mạo văn hóa chung của cả làng. Đây cũng chính là điều khá lý thú để

phân biệt làng này với làng khác nhằm khẳng định “cái ta” của làng mình. Sự

khẳng định và phân biệt này chưa phải đã đạt tới một trình độ khác về chất.

Song thông qua những biểu hiện dù nhỏ vẫn có thể thấy rõ người nông dân đã

có ý thức trong sự khẳng định và phân biệt này.

Trong khung cảnh riêng của làng Việt Nam, văn hóa làng mang một số

nét đặc thù:

Ý thức đoàn kết cộng đồng rất cao và thể hiện ở nhiều mặt của cuộc

sống (trong lao động sản xuất cũng như trong các sinh hoạt tinh thần), từ ý

20

thức này đã thúc đẩy tính dân chủ làng xã.

Ý thức tự trị thông qua các lệ làng và hương ước.

Diện mạo văn hóa: tùy vào điều kiện môi trường tự nhiên, nề nếp sinh

hoạt và cách ứng xử riêng của từng làng mà mỗi làng sẽ có đặc điểm để tự

hào (đất lề, quê thói).

Đa thần giáo là đặc điểm nổi bật trong đời sống tín ngưỡng ở làng.

Trong bức tranh toàn cảnh của văn hóa làng, quy ước làng văn hóa là

một thành tố không thể thiếu. Mỗi làng Việt Nam có một bản sắc riêng làm

nên tính đa dạng, phong phú, nên quy ước làng văn hóa cho chúng ta một bức

tranh nhiều màu vẻ về sinh hoạt tại các làng xã Việt Nam. Một đặc trưng

hiếm thấy là, trong số lượng lớn quy ước làng văn hóa thì quy ước của mỗi

làng xã không bao giờ trùng lặp nhau về nội dung. Mỗi hương ước đều ẩn

chức tính đa dạng, tính linh hoạt, tính đặc trưng trong tâm tính người Việt ở

mỗi vùng đất khác nhau. GS Đinh Gia Khánh cho rằng, quy ước là “ bản ghi

chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống xã hội

trong làng, các điều lệ hình thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ

sung khi cần thiết”[39].

1.1.2. Quy ước làng văn hóa

Khái niệm quy ước làng văn hóa

Quy ước làng văn hóa hiện nay là văn bản quy phạm xã hội trong đó

quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra

để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ

gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa

trên địa bàn làng, buôn, thôn, ấp, cụm dân cư, góp phần hỗ trợ tích cực cho

việc quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Sự ra đời của quy ước làng văn hóa có nguồn gốc từ hương ước của

làng Việt Nam trong lịch sử. Hương ước là sản phẩm văn hóa của làng đồng

21

thời cũng là công cụ để quản lý làng xã, buộc mọi thành viên phải thực hiện.

Hương ước, luật làng đã tồn tại song song cùng với luật pháp và nắm giữ vai

trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, cắm rễ, ăn sâu trở thành nếp cảm,

nếp nghĩ của con người. Hương ước là bản ghi chép những quy ước, điều lệ

(những quy tắc xử sự chung) bắt buộc người dân trong làng phải tuân thủ

nhằm điều hòa các mối quan hệ và quản lý làng xã.

Có nhiều những định nghĩa khác nhau về hương ước. GS Đinh Gia

Khánh viết: “Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã

hội cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành dần dần

trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết” [39; tr.62]. Trong

lời giới thiệu cuốn “Hương ước cổ Hà Tây”: “Hương ước là những quy ước

điều lệ của một cộng đồng người chung sống trong cùng một khu vực, để điều

hòa quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể hoặc giữa tập

thể này với tập thể khác” [52; tr.7]. Khái niệm này nhấn mạnh vào mục đích

của việc xây dựng hương ước. Cũng giống như vậy, tác giả Cao Văn Biền cho

rằng, “Hương ước là văn bản pháp quy về các tục lệ của làng xã do quan viên

của làng xã tự xây dựng nên cho làng mình nhằm bảo vệ sự tồn tại của cộng

đồng dân cư ở làng xã trong tư thế ổn định của nó về lãnh thổ; xây dựng

phong tục, tập quán tốt đẹp; phát triển đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội” [6,

tr.42]. Tác giả Ninh Viết Giao quan niệm, “Hương ước là văn bản pháp lý của

mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về giữ gìn đạo lý, về phong tục tập

quán…có liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đời sống nhân dân trong

làng. Hương ước là tấm gương phản chiếu bộ mặt xã hội cũng như đời sống

văn hóa của mỗi làng” [38; tr.58]. Nhà nghiên cứu Vũ Duy Mền định nghĩa:

“Hương ước là những quy ước về hầu hết các mặt hoạt động của làng xã

người Việt, như cách thức tổ chức và hoạt động của các thiết chế và tổ chức

trong làng xã: Hội tư văn, tư võ, hội thiện, phe - giáp, xóm ngõ…các hoạt

22

động xã hội: Hội hè đình đám, lễ tế, tuần phòng, khao vọng…Một số hoạt

động kinh tế…Đó là những quy ước vừa mang nét chung và rất nhiều nét

riêng, rất riêng của mỗi làng Việt” [49; tr.83]. Khái niệm này đã cụ thể hóa

mặt nội dung của hương ước.

Như vậy, dù được diễn đạt bởi ngôn từ không giống nhau, dù được phát

triển ở góc độ khoa học nào, các ý kiến đều thống nhất coi hương ước là lệ

làng được văn bản hóa. Hương ước còn có tên gọi khác như hương khoán,

hương biên, hương lệ, khoán ước, khoán lệ, điều lệ, điều ước hay tục lệ…

Hương ước ra đời là kết quả của sự thỏa hiệp giữa tính tự quản làng xã

và tính áp chế của chính quyền nhà nước. Có thể nói nó thể hiện rất rõ tính tự

quản của làng đối với nhà nước. Làng thay đổi thì hương ước sẽ được sửa đổi,

bổ sung sao cho phù hợp với tình hình mới. Ngày nay, hương ước cũng có

nhiều những thay đổi về tên gọi, nội dung cũng như phạm vi điều chỉnh.

Từ sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nông nghiệp, thường gọi là

“khoán 10” từ năm 1989 đến nay, tình hình chính trị- kinh tế- văn hóa – xã

hội ở nông thôn có nhiều thay đổi quan trọng. Hộ gia đình được xác nhận trở

lại là đơn vị kinh tế tự chủ. Làng với tính cách là cộng đồng có thiết chế tổ

chức riêng, phong tục tập quán, tâm lý và tín ngưỡng riêng đã dần dần khẳng

định lại vị trí, vai trò, chức năng quan trọng của nó trong quản lý kinh tế- xã

hội từ việc xây dựng cơ sở chính trị (chi bộ Đảng, các đoàn thể quần chúng),

chính quyền (chức danh trưởng thôn) đến quản lý kinh tế (quy mô hợp tác xã

nông nghiệp) xây dựng đời sống văn hóa cơ sở… đều tổ chức theo đơn vị

làng. Trong tình hình trên đây, nhiều làng ở Đồng bằng sông Hồng đã soạn

thảo ra các quy ước làng làm “cơ sở pháp lý” để quản lý, điều chỉnh các mặt

sinh hoạt của cộng đồng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng và vai trò của hương ước truyền thống, từ

23

năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về

xây dựng và thực hiện Hương ước, quy ước của làng, thôn, bản, cụm dân cư.

Tiếp theo, ngày 21/3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin và Ban

thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam đã ra thông tư liên tịch số

03/2000/TTLT/BTP-BVH.TT.BTT.UBTƯMTTQVN hướng dẫn việc xây

dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, thôn, bản, ấp, cụm dân cư.

Thông tư đã khẳng định hương ước, quy ước là văn bản quy phạm xã hội

trong đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa

thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ làng xã mang tính tự quản của nhân

dân, nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp và truyền

thống văn hóa trên địa bàn làng, thôn, ấp, bản, cụm dân cư, góp phần hỗ trợ tích

cực cho việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật.

Tái lập hương ước là hiện tượng hợp quy luật phát triển của lịch sử làng xã

người Việt ở Bắc Bộ và hợp pháp luật. Hương ước là một sản phẩm tất yếu của

làng Việt. Cho đến nay, nhìn chung việc xây dựng và thực hiện hương ước đã

từng bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ở nhiều tỉnh, việc

xây dựng hương ước đã được triển khai đồng bộ như Bắc Ninh, Hải Dương,

Thái Bình, Hà Nội... Tại các tỉnh này đã có khoảng hơn 90% số làng, thôn,

cụm dân cư ban hành hương ước, 60% đến 80% trong số đó đã được Chủ tịch

Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, phê duyệt. Các quy ước của làng có vai trò

quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quy ước làng với pháp luật

cùng với các yếu tố khác trong hệ thống các quy tắc xã hội có mối liên hệ chặt

chẽ với nhau. Trong quá trình tác động và điều chỉnh các quan hệ xã hội. quy

ước làng đã bổ sung và hỗ trợ cho các yếu tố khác (đạo đức, pháp luật, tập quán,

quy tắc tôn giáo, điều lệ của các tổ chức chính trị- xã hội…) nhằm tạo ra một

trạng thái trật tự ổn định cho xã hội.

Xây dựng và thực hiện quy ước ở mỗi làng, ấp, bản, cụm dân cư là một

24

điều không thể thiếu trong các chế độ xã hội. Mặc dù thôn, ấp, làng, bản

không phải là một cấp chính quyền, nhưng là nơi sinh sống của cộng đồng

dân cư, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm giải

quyết các công việc nội bộ của cộng đồng dân cư. Có thể nói, quy ước làng

văn hóa hiện nay là sự thể hiện rõ nhất tính tự quản của làng, là sản phẩm của

“văn hóa làng”, là sản phẩm tự nhiên và là kết quả của quá trình phát triển nội

tại của làng xã trở thành công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong

làng, một tri thức dân gian về quản lý cộng đồng.

Cấu trúc của quy ước làng văn hóa:

+ Chương 1: Nguyên tắc chung

+ Chương 2: Các quy định về lễ nghi, tôn giáo (chủ yếu là quy định về lễ hội)

+ Chương 3: Quy định về nềp sống văn hóa nói chung (chủ yếu là xây

dựng gia đình văn hóa, việc cưới, việc tang)

+ Chương 4: Đạo lý gia đình và xã hội

+ Chương 5: An ninh trật tự, bảo vệ môi trường

Cuối cùng là điều khoản thi hành.

Một số bản Quy ước làng văn hóa chỉ chia thành 3 phần lớn: Nguyên

tắc chung, Những quy định cụ thể, Điều khoản thi hành, trong đó:

Nguyên tắc chung: Nêu khái quát tình hình lịch sử, quá trình hình thành,

truyền thống văn hoá, cách mạng của địa phương, tình hình hiện tại, những

thuân lợi, khó khăn trong xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời nêu

nguyên tắc chung khi soạn thảo, giá trị pháp lý và phạm vi hiệu lực của văn bản.

Những quy định cụ thể: Là quy định về xây dựng gia đình văn hoá, xây

dựng nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt hàng ngày, giữ gìn trật tự an ninh,

quy định về ngày lễ, ngày giỗ, ngày hội, việc cưới, việc tang, về bảo vệ và

phát triển sản xuất, bảo vệ các công trình công cộng, vệ sinh môi trường và

25

các quy định khác (về khuyến học, khuyến nông…).

Về điều khoản thi hành: Việc theo dõi thi hành quy ước của các thôn

làng thường giao cho trưởng thôn, trưởng làng chịu trách nhiệm cùng với sự

phối hợp với các đoàn thể của địa phương. Các hoạt động diễn ra đều có sự

chỉ đạo của cấp uỷ đảng địa phương, sự theo dõi, quản lí.

Sự ra đời của quy ước làng văn hóa

Quy ước làng văn hóa đã tồn tại khá lâu dài và có những bước phát

triển thăng trầm trong đời sống xã hội của nước ta từ xưa đến nay. Trong xã

hội phong kiến thì quy ước là bản ghi chép đầy đủ nhất hệ thống lệ làng và

được người dân trong làng chấp hành nghiêm túc, có nhiều nơi còn được coi

trọng hơn cả các quy định của triều đình.

Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, để xây dựng xã hội

mới, chúng ta chủ trương xóa bỏ những tàn dư của chế độ cũ và từ đó về sau

các làng không còn duy trì hương ước. Có lẽ cũng do quá mặc cảm với câu

“phép vua thua lệ làng” mà chúng ta chỉ nhìn nhận đánh giá hương ước thiên

về những yếu tố tiêu cực như những quy định về ngôi thứ, khát vọng, phạt vạ,

đình đám với những tục lệ lạc hậu, mà chưa biết gạn đục khơi trong cho phù

hợp với thời đại mới.

Ngay từ tháng 3/1947, Bác Hồ đã viết cuốn “Đời sống mới” dưới bút

danh Tân Sinh, ở thể hỏi đáp, nhằm xây dựng đời sống mới trong toàn dân.

Đối với làng xã việc thực hiện đời sống mới theo Người cần phải làm những

việc như sau: “Về văn hóa phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và

trách nhiệm của công dân. Về phong tục cần phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc,

hút sách, trộm cắp, đĩ điếm. Tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện

cáo nhaum làm cho làng mình trở thành một làng thuần phong mỹ tục” [44].

Trong tác phẩm “Đời sống mới” Người còn dành một phần nói về văn hóa gia

đình: “Trong gia đình thực hiện đời sống mới về quan hệ thì trên thuận dưới

26

hòa, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không thiên tư, thiên ái; Về vật chất từ ăn

mặc đến việc làm đều phải có kế hoạch, ngăn nắp; Cưới hỏi, giỗ tết nên đơn

giản tiết kiệm, quan tâm đến con cái, đến việc tu dưỡng, học hành, kỷ cương

nền nếp; giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng”[44].

Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khởi xướng đường lối

đổi mới. Đến nay, việc thực hiện đường lối đã đem lại nhiều chuyển biến tích

cực trong đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Đồng thời cũng phát sinh

những vấn đề tiêu cực trong xã hội, đặc biệt là vùng nông thôn mà pháp luật

chưa với tới. Vì vậy, đòi hỏi phải có quy ước làng để điều chỉnh các mối quan

hệ mang tính tự quản tại cộng đồng dân cư.

Từ năm 1991 đến nay, Bộ văn hóa thông tin đã chỉ đạo xây dựng đời

sống văn hóa ở cơ sở, mà nội dung quan trọng là: Xây dựng gia đình văn hóa,

thôn xóm, làng văn hóa.

Ngày 19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị

24/1998/CT TTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản,

thôn ấp, cụm cư dân.

Ngày 21/3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin và Ban thường

trực UBTUMTTQ Việt Nam đã ra thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP –

BVHTT BTTUBTUMTTQVN hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương

ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư.

Về thuật ngữ, gọi là Quy ước làng văn hóa. Vì quy ước mang tính quần

chúng rộng rãi và tính tự nguyện sâu sắc. Do quần chúng nhân dân xây dựng

nên – Vì cuộc sống và lợi ích của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng.

Thuật ngữ Quy ước phù hợp với nội dung và tính chất của cuộc vận động xây

dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa.

Do là nếp sống nên về bản chất nó thuộc phạm trù đạo đức hơn là phạm

trù pháp luật, nên phải dùng dư luận để điều chỉnh hành vi con người trong xã

27

hội, nên quy ước mang ý nghĩa bình đẳng, dân chủ. Mọi người được bàn bạc

thống nhất các điều khoản, thỏa thuận cùng nhau thực hiện, vì nhu cầu cuộc

sống chung của cộng đồng.

Đặc trưng của quy ước làng văn hóa

Quy ước làng văn hóa là kết ước của người dân, được thể hiện bằng một

loại văn bản với nhiều tên gọi khác nhau như: hương ước làng, quy ước làng...

Trong dân gian cũng còn nhiều loại hình kết ước của người dân được thể hiện

bằng các câu tục ngữ, lời nói có vần, phương ngôn, ngạn ngữ truyền miệng,

không được thực hiện bằng văn bản thì không phải là quy ước làng văn hóa;

Quy ước làng văn hóa do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra trên cơ

sở sự nhất trí của tập thể cộng đồng dân cư. Đây cũng là một trong những

nguyên tắc xây dựng quy ước, bất cứ một cá nhân hay một cơ quan, tổ chức nào

xây dựng văn bản và tự gọi đó là quy ước làng văn hóa đều là không đúng,

không phù hợp với tính chất, đặc trưng và nguyên tắc xây dựng quy ước;

Quy ước làng văn hóa cũng là một loại văn bản quy phạm, có nghĩa là

nó cũng chứa đựng những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép cá nhân, tổ

chức được làm hoặc không được làm một việc gì đó trong cuộc sống hàng

ngày tại địa phương, nhưng đấy là các quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư

thỏa thuận đặt ra và cùng nhau thực hiện. Nghĩa là cộng đồng dân cư tự xây

dựng các nguyên tắc ứng xử trên cơ sở pháp luật và truyền thống, tập quán địa

phương và tự nguyên thực hiện các nguyên tắc đó. Đặc điểm này của quy

phạm trong quy ước làng văn hóa khác hẳn với các quy phạm pháp luật trong

các văn bản do Nhà nước ban hành;

Các quy định trong quy ước làng văn hóa không được trái với quy định

của pháp luật, nếu trái thì phải loại bỏ những quy định đó.

Trên thực tế, quy ước làng văn hóa được xây dựng chủ yếu để điều

chỉnh các quan hệ tự quản tại cộng đồng dân cư, là những quan hệ xã hội

28

trong lĩnh vực xã hội – dân sự mà pháp luật không điều chỉnh hoặc chỉ điều

chỉnh ở mức độ quy định các nguyên tắc chung như: việc tổ chức ma chay,

cưới xin, bảo vệ trật tự trị an, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giữ

gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống, giải quyết các tranh chấp

hoặc những vi phạm nhỏ trong nhân dân, các phương thức cụ thể tại địa

phương để xóa đói, giảm nghèo...

Nội dung cơ bản của quy ước làng văn hóa:

Đề ra các biện pháp, phương thức thích hợp giúp dân cư trên địa bàn

tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đảm bảo và phát huy quyền tự do,

dân chủ của nhân dân; động viên và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt

các quyền và nghĩa vụ của công dân;

Các nội dung, biện pháp nhằm bảo đảm, giữ gìn và phát huy thuần

phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn ở, đi

lại, phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình

làng, nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong

cộng đồng dân cư; thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước;

Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản công

cộng và tài sản công dân, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ rừng, biển, sông,

hồ, danh lam thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập

nước, kênh mương, cầu cống, đường dây tải điện; xây dựng và phát triển

đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh… Chẳng hạn trong quy ước Cổ Nhuế

tại điều 1, khoản thứ 5 quy định: “Các nhà trong làng hè vách đều phải sạch

sẽ. Những ao rãnh trong vườn và các hồ ở ngoài ngõ vườn, chứa nước dơ dáy

là chỗ sanh loại độc côn trùng và độc khí thì hội hào mục mỗi kỳ hội đồng

cho hương kiểm, tộc biểu và hương dịch đi biểu các nhà người lấp liếm mấy

chỗ lũng ấy như ao hồ cho khỏi các vi trùng sanh đẻ, người nào ở gần đàng tư

ích, cấm không được ném đồ dơ dáy, hoặc xác xúc vật chết hai bên đàng cái

29

hay nơi ao hồ, phải chôn sâu cho khỏi truyền nhiễm” [59]. Quy ước làng văn

hóa còn quy định về những điều xử phạt rất nghiêm đối với những hành vi

gây ô uế không khí, làm nhiễm bẩn nguồn nước, làm lây lan dịch bệnh trong

xóm làng. Như điều 46 quy ước làng Thanh Liệt (nay thuộc Thanh Trì) ghi:

“Người ta ai có mạnh khỏe thì mới sống lâu, muốn dân làng được mạnh khỏe

thì ai cũng phải biết giữ gìn vệ sinh chung và vệ sinh riêng” [64].

Các biện pháp bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan trong

việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương; khuyến khích các

nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng phí, tốn kém;

Các nội dung góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa,

xây dựng làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư văn hóa, hình thành các quy tắc đạo

đức mới trong gia đình và cộng đồng; khuyến khích mọi người đùm bọc, giúp

đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, ốm đau; xây dựng các gia đình theo tiêu

chuẩn gia đình văn hóa; vận động thực hiện các chính sách dân số - kế hoạch

hóa gia đình. Đề ra các biện pháp khuyến khích xây dựng gia đình ít con,

khoẻ mạnh, ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; thực hiện kế hoạch hoá

gia đình; tự nguyện lựa chọn sử dụng các biện pháp tránh thai, không mang

thai trước hôn nhân, không kết hôn sớm, không đẻ sớm, đẻ nhiều, đẻ dày;

trong thời kỳ thai nghén thực hiện khám thai, tiêm chủng đầy đủ và sinh con

tại các cơ sở y tế. Như trong bản quy ước làng văn hóa xã Phụng Thượng,

huyện Phúc Thọ, Hà Tây (nay là Hà Nội) có quy định rõ ràng về thực hiện kế

hoạch hóa gia đình: “Để gia đình hạnh phúc, xã hội văn minh, mỗi cặp vợ

chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, mỗi con cách nhau 5 năm, không sinh con thứ 3;

phải coi con giá, con trai đều là con, đều được quý mến chăm sóc như nhau,

laoij trừ quan điểm trọng nam khinh nữ; cần tổ chức gia đình thành một đơn

vị thống nhất, có văn hóa, có kinh tế phát triển”[63].

Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận

30

động các thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xoá

đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, khuyến học, khuyến

nghề ở địa phương; vận động các thành viên trong cộng đồng tham gia tổ hợp

tác, hợp tác xã nhằm phát triển sản xuất. Khuyến khích phát triển các làng

nghề, đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công: điện,

đường, trường học, trạm xá, nghĩa trang, các công trình văn hoá, thể thao trên

địa bàn. Lập thu chi các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp khả

năng đóng góp của nhân dân;

Đề ra các biện pháp cụ thể bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn góp phần

phòng chống các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè bê tha, trộm cắp,

mại dâm và các hành vi vi phạm pháp luật khác nhằm xây dựng địa bàn trong

sạch. Phát động trong nhân dân ý thức phòng gian, bảo mật, chấp hành

nghiêm chỉnh pháp luật về tạm trú, tạm vắng; tham gia quản lý, giáo dục, giúp

đỡ những người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư. Đề ra các biện pháp cần thiết

hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật trên địa bàn;

bảo đảm triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức tự quản ở

cơ sở như tổ chức, hoạt động của tổ hòa giải, ban an ninh, tổ bảo vệ sản xuất,

ban kiến thiết và các tổ chức tự quản khác;

Đề ra các biện pháp thưởng, phạt phù hợp để đảm bảo thực hiện quy

ước làng văn hóa. Quy ước quy định các hình thức và biện pháp thưởng đối

với cá nhân, hộ gia đình có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện quy

ước như: lập sổ vàng truyền thống, nêu gương người tốt, việc tốt, ghi nhận

công lao, thành tích của tập thể, cá nhân; bình xét, công nhận gia đình văn hóa

và các hình thức khen thưởng khác do cộng đồng tự thỏa thuận hoặc đề nghị

các cấp chính quyền khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước.

Những người có hành vi vi phạm các quy định của hương ước, quy ước

chủ yếu áp dụng các hình thức giáo dục, phê bình của gia đình, tập thể cộng

31

đồng, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng ở cơ sở. Trường

hợp vi phạm nghiêm trọng các quy định của hương ước, quy ước thì trên cơ

sở thảo luận thống nhất trong tập thể cộng đồng, có thể thực hiện nghĩa vụ,

trách nhiệm trong phạm vi cộng đồng hoặc áp dụng các biện pháp phạt nhưng

không được đặt ra các biện pháp xử phạt nặng nề xâm phạm đến tính mạng,

sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác

của công dân.

Quy ước đưa ra các biện pháp nhằm góp phần giáo dục những người có

hành vi vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn; giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ người phạm tội sau khi ra tự trở thành những

người lương thiện, có ích cho xã hội. Những hành vi vi phạm pháp luật phải

do các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Việc áp

dụng các biện pháp xử lý vi phạm hương ước, quy ước không thay thế các

biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với cá nhân, hộ gia đình không thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy

đủ các quy định trong hương ước, quy ước thì có thể không đưa vào diện bình

xét công nhận gia đình văn hoá; Trưởng thôn, Trưởng Ban công tác Mặt trận

hoặc người có uy tín ở cộng đồng dân cư gặp gỡ, trao đổi, phân tích, chỉ rõ

thiếu sót, khuyên giải sửa chữa. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì có thể

buộc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong phạm vi cộng đồng nhưng không

được đặt ra các biện pháp xử phạt nặng nề, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,

tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.

Ở những địa bàn dân cư không thuần nhất, có nhiều dân tộc, cư dân

nhiều vùng miền, nghề nghiệp đan xen thì nội dung quy ước làng văn hóa cần

tập trung ưu tiên đưa ra những quy ước nhằm xây dựng khối đoàn kết tương

thân, tương ái, giúp nhau trong tổ chức cuộc sống chung trong cộng đồng,

phát triển sản xuất, bảo đảm trật tự trị an, xây dựng cuộc sống mới ở địa bàn.

32

Phong tục tập quán ở địa bàn này cần được cân nhắc kỹ, lựa chọn những nội

dung thiết thực, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chung của cả cộng đồng

dân cư đưa vào quy ước.

Cùng với pháp luật, quy ước làng văn hóa giúp duy trì an ninh trật tự, vệ

sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, khuyến

khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi phạm nhỏ trong nhân dân, xoá đói,

giảm nghèo, góp phần duy trì và phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn

mực đạo lý và đạo đức truyền thống dân tộc. Gần đây, nhiều nội dung của quy

ước làng văn hóa còn góp phần thực hiện chính sách dân số, bài trừ các hủ tục và

tệ nạn xã hội. Như vậy, quy ước làng văn hóa là thành tố quan trọng trong hệ

thống thể chế quản lý ở nông thôn, là một bộ phận hỗ trợ đắc lực pháp luật trong

việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tại cộng đồng dân cư đối với những vấn đề,

những nội dung mà pháp luật không điều chỉnh, mặt khác, hương ước, quy ước

còn thực hiện tối đa tinh thần mở rộng dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân trong tiến

trình tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.

1.1.3. Vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đời sống xã hội

Quy ước làng văn hóa có vai trò quan trọng trong việc duy trì, phát huy

thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá cộng đồng, củng cố các giá trị

đạo lý và nhân bản. Nuôi dưỡng, vun đắp ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn

kết, tinh thần tự lực, tự chủ cho mỗi thành viên trong cộng đồng làng xã.

Trong quy ước xưa cũng có nhiều điều “khuyến”,trong bài truyền

thống khuyến học của người Hà Nội xưa qua quy ước đã ghi lại nhiều điều

trong quy ước một số làng ở Hà Nội với nội dung chính là khuyến khích việc

học hành. Như điều 102 trong Hương ước làng Nhật Tân ghi lại rằng: “Dạy

trẻ con có học thức phổ thông là nghĩa vụ của người làm phụ huynh, không ai

được từ” [62]. Quy ước làng Phù Xá Đoài có điều khoản ghi: “Con trai con

gái 5,6 tuổi cho vào trường học. Bằng không cho đi học, chỉ nuông con để

33

nghịch giặc, chửi đánh nhau, thời bố mẹ phải phạt một cơi trầu (10 quả cau,

giá tiền một hào)” [65], Hương ước làng Cổ Nhuế, điều 98 ghi: “Làng trích

tiền công để mua giấy cho những con nhà nghèo mà hương hội xét không thể

mua được”[59]. Hầu như làng nào cũng có khoản học điền để dành quỹ trả

lương cho thầy giáo trưởng làng và phát phần thưởng cho học trò giỏi, nhằm

thúc đẩy tinh thần hiếu học, ham học hỏi của người dân. Ngoài ra, các quy

ước còn có những điều lệ quy định tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,

“lá lành đùm lá rách”, “uống nước nhớ nguồn”… trong cộng đồng làng xã

cũng có ảnh hưởng tích cực đến đời sống làng xã Việt Nam hiện nay. Phát

huy cái đẹp, cái tốt trong Hương ước xưa, ngày nay, nhiều địa phương xây

dựng và thực hiện quy chế thôn xã văn hóa, vừa khôi phục những truyền

thống tốt đẹp của mình, vừa nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật chung của đất

nước, cùng cả nước lo toan những nghĩa vụ chung của người dân bình đẳng.

Quy ước làng văn hóa góp phần tổ chức và quản lý các mặt của đời sống

làng xã, duy trì trật tự, kỷ cương, tạo ra môi trường ổn định và an toàn cho cả

cộng đồng làng xã.

Trong các bản quy ước từ trước đến nay đều có quy định rất cụ thể về

“tôn ti trật tự” trong các quan hệ có tính thứ bậc trong làng xã. Từ đó, quy ước

đã góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cụ thể trong làng xã. Việc phát

huy tinh thần tự chủ, tự giác, tự quản làng xã cùng dư luận xã hội và các biện

pháp thưởng, phạt khác đã giúp cho trật tự, kỷ cương làng xã được thực hiện

một cách rất nghiêm chỉnh, nhờ đó đã giúp rất nhiều cho sự phát triển của làng

xã hôm nay.

Quy ước làng văn hóa không chỉ là biểu hiện của pháp luật mà còn giúp

khắc phục các chỗ hổng của pháp luật hoặc pháp luật quy định chưa cụ thể;

Đưa pháp luật đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn. Pháp luật dù

cụ thể đến mấy cũng không thể bao quát được tất cả các đặc thù của quan hệ

làng xã. Đặc biệt là các làng xã cổ truyền Việt Nam bên cạnh các đặc điểm có

34

tính phổ quát, mỗi làng xã lại có các đặc điểm riêng của mình. Do vậy, mỗi

một cộng đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định gần gũi, dễ hiểu, dễ

thực hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và

phát triển vủa mỗi làng, xã cụ thể. Bên cạnh đó, khi có những chính sách của

Nhà nước đưa xuống các vùng nông thôn thì nhờ có quy ước của các làng nên

việc thực thi những chính sách đó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh

hơn, nâng cao ý thức pháp luật của người dân ta.

Xây dựng và thực hiện quy ước làng văn hóa gắn liền với thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện nhiệm vụ chính trị, cải cách hành chính...

gắn với thực hiện các phong trào thi đua yêu nước nhằm tăng cường sức mạnh

đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh –

quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Việc xây dựng và thực hiện quy ước làng văn không nên hình thức, dập

khuôn mà phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện đóng góp ý kiến của

người dân.. Quy ước là của dân, do dân thảo luận, bàn bạc chỉ đưa lên cấp xã

phê duyệt, phần nào chưa được thì ý kiến phản hồi lại cho dân biết, chứ chính

quyền không được thêm hoặc sửa vào đó. Hơn nữa, những gì luật đã có rồi thì

đương nhiên người dân phải thực hiện không được đưa vào hương ước sẽ gây

ra tình trạng áp đặt, dài dòng rối rắm… Phải có hương ước của chính lòng dân

thì mới thực hiện thành công. Để thực hiện tốt quy ước của làng, thôn, ấp,

bản, cụm dân cư cần phải phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, người

cao tuổi có uy tín trong việc vận động quần chúng nhân dân tham gia tích cực.

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định:

“Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại diện là

các cơ quan dân cử và các đoàn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức

nhân dân tự quản, bằng hương ước, quy ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp

35

nhà nước” [23].

Bên cạnh những tác động tích cực đối với đời sống xã hội, quy ước làng văn

hóa còn có một số ảnh hưởng tiêu cực trong sự phát triển của làng xã hiện nay:

Có nhiều các bản Hương ước mang theo những quan niệm lạc hậu,

chứa những yếu tố tiêc cực, gây ảnh hưởng cho sự phát triển của làng xã, cản

trở việc thực hiện các chính sách phát triển của nhà nước. Trong thực tiễn đời

sống pháp lý ở làng xã cổ truyền Việt Nam, quan niệm “phép vua thua lệ

làng” đã tạo điều kiện cho sự thể hiện các tác động tiêc cực của bản thân mỗi

quy ước. Vì bên cạnh các giá trị tích cực như đã nói ở trên, thì nhiều Hương

ước cũng chứa đựng không ít các quy tắc mang tính tiêu cực, thể hiện tinh

thần cục bộ địa phương, bè phái trên cơ sở “tâm lý làng” và bởi tư duy “ăn

cây nào rào cây ấy”, “ở đình nào chúc đình ấy”, “trống làng nào làng ấy đánh,

thánh làng nào làng ấy thờ”, ít quan tâm đến lợi ích của làng khác và lợi ích

của cả nước.

Vẫn còn hiện tượng trong làng có sự sắp xếp ngôi thứ, đẳng cấp, quyền

lợi khác nhau. Một bộ phận cán bộ địa phương trong làng thường lợi dụng

quy ước để tham nhũng. “Tâm lý làng” với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống

đẳng cấp, ngôi thứ trong làng đã được giới chức dịch trong làng bao đời lợi

dụng để trói buộc người nông dân vào hằng hà vô số các nghĩa vụ, trách

nhiệm, cấm đoán và hạn chế. Tuy nhiên, hiện tượng hách dịch nhân dân ở

làng xã như trên hiện nay đã giảm đáng kể, chỉ còn tồn tại rất ít với mức độ

cũng rất hạn chế, chính là do các chính sách cải cách và điều chỉnh, quản lý

của Đảng và Nhà nước ta.

Bên cạnh đó, quy ước làng quy định thủ tục cưới xin, ma chay, khao

vọng, tế lễ thần linh….Làm tăng thêm thủ tục nặng nề, tốn kém, làm xuất hiện

nhiều thủ tục hủ lậu vẫn được duy trì và tồn tại. Việc tế lễ các vị thần linh dẫn

36

đến đầu óc mu muội, mê tín dị đoan, bói toán lên đồng gây mất trị an làng xã.

Nội dung quy ước làng văn hóa còn sơ sài, lặp lại pháp luật và chủ

trương chính sách của Nhà nước một cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát

thực với điều kiện và đặc điểm của từng làng, câu chữ trong văn bản còn nặng

tính hô hào, khẩu hiệu. Có không ít bản quy ước có những điều khoản không

đúng với tinh thần của pháp luật, can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân, đi

ngược lại cả những phong tục truyền thống từ lâu đời, thậm chí quy định cả

những “hình phạt” vốn không thuộc thẩm quyền của cấp cơ sở. Nơi này, nơi

kia chúng biến tướng thành một thứ “lệ làng” – với nghĩa tiêu cực của từ này

– do các ông trưởng thôn, chủ tịch xã quan liêu, hách dịch, thiếu hiểu biết, tùy

tiện đặt ra bắt dân phải tuân theo.

Như vậy, quy ước với tính hai mặt, nó đã làm hình thành trong cộng

đồng người Việt nhiều truyền thống đức tính quý báu nhưng cũng còn tồn tại

những hạn chế gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội.

1.2. An ninh nông thôn và đảm bảo an ninh nông thôn

1.2.1. An ninh nông thôn

An ninh nông thôn là vấn đề trật tự xã hội, sự bình yên của thôn

xóm, mọi người tương thân, tương ái, tượng trợ lẫn nhau đảm bảo mọi gia

đình, mọi người không ai xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm và tính

mạng; tài sản của Nhà nước và của công dân được mọi người tôn trọng và

bảo vệ. Cũng có ý kiến cho rằng, an ninh nông thôn là sự an toàn xã hội, để

mọi nhà “đi ngủ không cần đóng cửa”, đi làm không cần khóa cửa, không

cần người trông nom nhà.

Quan niệm về an ninh nông thôn như trên, theo nghĩa hẹp chỉ thuần túy

về an ninh, trật tự; nếu hiểu theo nghĩa rộng thì bao gồm hai mặt: chính sách

của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân và những

37

vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự ở nông thôn.

Như vậy, an ninh nông thôn không phải là một cụm từ nghiệp vụ Công

an mà nó bao gồm sự an toàn và ổn định ở nông thôn. Mỗi giai đoạn cách

mạng và sự chuyển biến của xã hội, nhận thức về an ninh nông thôn có sự

khác nhau. Trong kháng chiến chống Mỹ, an ninh nông thôn đồng nghĩa với

chống gián điệp, biệt kích, phản động; trong thời kỳ hợp tác hóa thì an ninh

nông thôn gắn liền với việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện nghiêm Điều lệ

Hợp tác xã. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, an ninh nông thôn cần bao hàm

đầy đủ các yếu tố cho phù hợp với tình hình thức tế trước mắt và cả giai đoạn

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

An ninh nông thôn là sự ổn định, an toàn và phát triển vững chắc về

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo sự hoạt động bình thường có

hiệu quả của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, không để

xảy ra các vụ việc phức tạp gây mất ổn định ở nông thôn.

Với khái niệm về an ninh nông thôn này, thì thuật ngữ “ổn định” hàm

nghĩa tính xác định, giới hạn của một sự vật, hiện tượng, độ bền vững của một

cấu trúc trong các yếu tố hợp thành. Theo nghĩa thông thường, thì ổn định trái

nghĩa với trạng thái rối loạn, khủng hoảng, đổ vỡ. Với nghĩa đó thì “ổn định”

trong an ninh nông thôn có nghĩa là một trạng thái an toàn trong cấu trúc xã

hội, thiết chế chính trị….mà những cấu trúc, thiết chế này đã được xây dựng

theo mô hình nhất định, được vận hành, thử nghiệm trên thực tế, hoạt động

bình thường, có hiệu quả; kỷ cương xã hội được mọi người chấp nhận, tôn

trọng và nghiêm chỉnh thực hiện. Ổn định không phải là trạng thái bất biến,

mà theo phép biện chứng thì có thể có sự thay đổi một cái đang ổn định bằng

cái khác đạt ổn định cao hơn và nhất là phải trực tiếp phục vụ quá trình đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ổn định trong an ninh nông

38

thôn vừa là mục tiêu cần đạt được của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, vừa là điều kiện đảm bảo cho quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước thành công.

Từ những nghiên cứu về các quan điểm an ninh nông thôn qua các thời

kỳ, chúng ta có thể hiểu về an ninh nông thôn như sau, “ An ninh nông thôn là

sự ổn định và phát triển vững chắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở

nông thôn. Bảo vệ an ninh nông thôn là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,

của các ngành, các cấp; là một bộ phận quan trọng của công tác bảo vệ an

ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn. Bảo vệ an ninh

nông thôn bao gồm các mặt công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn

chặn các hoạt động xâm hại hoặc làm sai lệch đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước về nông thôn, nông nghiệp, nông dân và sự

vứng mạnh của hệ thống chính trị; bảo vệ tài sản nhà nước ; tính mạng, tài

sản và quyền lợi hợp pháp của nhân dân” [5].

Với khái niệm trên thì an ninh nông thôn có các đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, an ninh nông thôn là bộ phận của an ninh quốc gia.

Chỉ có thể đặt vị trí của an ninh nông thôn trong an ninh quốc gia thì

mới thấy hết được đặc điểm, vai trò của an ninh nông thôn. An ninh quốc gia

là cái bao trùm, là chìa khóa mở ra bảo đảm cho sự thịnh vượng của đất nước.

An ninh nông thôn là bộ phận của an ninh quốc gia, bao gồm nhiều lĩnh vực:

về chủ trương chính sách, bao gồm các chính sách về liên minh công nông,

chính sách phát triển kinh tế, xã hội, chính sách đối với tôn giáo, dân tộc…;

về lĩnh vực an ninh trật tự, an ninh nông thôn bao gồm an ninh chính trị và

trật tự an toàn xã hội ở khu vực nông thôn và vấn đề đặc biệt quan trọng là

lòng dân có yên ổn, có tin và theo Đảng, có ủng hộ chính quyền hay không…

Do vậy, đảm bảo an ninh nông thôn chính là đảm bảo an ninh quốc gia ở khu

39

vực nông thôn.

Thứ hai, an ninh nông thôn là sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ các tổ

chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội hoạt động ở nông thôn.

Sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ các tổ chức Đảng, chính quyền, các

đoàn thể xã hội hoạt động ở nông thôn, tổ chức được nông dân và những người

đang sinh sống trên địa bàn nông thôn thực hiện thắng lợi và có hiệu quả các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn. Đảm bảo đoàn kết,

nhất trí trong nội bộ Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội chính là đảm bảo

kết cấu bền vững của liên minh công – nông – trí; là một trong những yếu tố

quan trọng hàng đầu để đảm bảo ổn định về mọi mặt ở nông thôn, và chỉ trên

cơ sở ổn định về mọi mặt (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc

phòng…) thì mới có thể phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế, mở ra

sự thịnh vượng ở nông thôn, từng bước rút ngắn khoảng cách về đời sống giữa

nông thôn và thành thị như các nghị quyết của Đảng đã khẳng định.

Thứ ba, an ninh nông thôn là sự thực hiện đúng đắn, sáng tạo, có hiệu

quả các nghị quyết, chỉ thị, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp

phát triển nông thôn.

Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta là thể hiện ý chí và

nguyện vọng của toàn dân, mong muốn cả nước nói chung và nông thôn nói

riêng không ngừng nâng cao đời sống kinh tế, có một xã hội tự do, dân chủ,

công bằng và văn minh. Nhưng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước không cụ thể cho một địa phương nào, không thể thỏa mãn mọi đặc

điểm tình hình kinh tế, xã hội ở từng địa phương, từng khu vực vì vậy đòi hỏi

các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội đoàn kết, nhất trí trong

suốt chủ trương chính sách và tổ chức toàn dân thực hiện thắng lợi, có hiệu

quả chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến nông nghiệp,

nông thôn và nông dân trên địa phương mình nhằm không ngừng nâng cao

40

đời sống cho nông dân nông thôn.

Thứ tư, an ninh nông thôn là sự bình yên của thôn xóm, mọi người yêu

thương, giúp đỡ lẫn nhau, những nét đẹp văn hóa truyền thống được phát

huy, các giá trị bản sắc văn hóa mới, lành mạnh được mọi người tôn trọng.

Đó là hệ thống các biểu tượng, ngôn ngữ, chuẩn mực, giá trị có ý nghĩa

tạo thành một lối sống riêng được các thành viên trong cộng đồng tán thành

và thực hiện. Nông thôn có nhiều nét văn hóa truyền thống như tinh thần yêu

nước thương nòi, tinh thần lao động không mệt mỏi vì sự nghiệp dân giàu

nước mạnh; tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn

khó khăn.... nhất là những phong tục tập quán có ý nghãi duy trì lối sống đạo

đức vì cộng đồng, tôn trọng pháp luật, lệ làng…Ở đây nhiệm vụ của an ninh

nông thôn là giữ gìn phong tục tập quán tốt đẹp, phát huy nội lực giữ gìn trật

tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để mọi người dân yên tâm lao động sản xuất,

phát triển kinh tế, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh.

Thứ năm, an ninh nông thôn là phòng ngừa không để xảy ra các vụ việc

phức tạp về an ninh, trật tự.

Những dấu hiệu phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác được sớm phát

hiện và loại trừ; làm tốt công tác phòng ngừa và đấu tranh không để xảy ra

các vụ việc phức tạp mà kẻ địch và các loại đối tượng cơ hội, bất mãn khác có

thể lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta. Nhiệm vụ của an ninh nông

thôn là phải chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh để không xảy ra các vụ

việc phức tạp, tăng cường nắm tình hình, kịp thời phát hiện để có kế hoạch

giải quyết dứt điểm các vụ việc.

An ninh nông thôn có vai trò to lớn trong quá trình thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Ngay từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VIII đã khẳng định, đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

41

nghiệp, nông thôn, và “phát triển nông nghiệp, nông thôn đã, đang và sẽ là

mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với việc ổn định tình hình

kinh tế, xã hội, tạo cơ sở cho phát triển công nghiệp” [14]. Như vậy, phát triển

nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng, ổn định xã hội, ổn định

về an ninh trật tự trước hết phải đảm bảo cuộc sông đầy đủ cho người dân,

nếu nông dân ổn định, nhân dân phấn khởi làm ăn thì dù khó khăn gì đi nữa,

đất nước ta vẫn bảo đảm ổn định. Do đó, đảm bảo sự ổn định nông thôn là vấn

đề có ý nghĩa then chốt đối với An ninh quốc gia. Như vậy, an ninh nông thôn

có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng đối với công tác đảm bảo an ninh quốc

gia và đảm bảo cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi.

1.2.2. Đảm bảo an ninh nông thôn

Xuất phát từ nội dung, nhiệm vụ, tầm quan trọng và các dấu hiệu đặc

trưng của an ninh nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, luận văn đưa ra quan niệm về đảm bảo an ninh nông thôn như

sau: Đảm bảo an ninh nông thôn là hoạt động của các lực lượng trong hệ

thống chính trị, nhất là lực lượng công an nhân dân nhằm đảm bảo sự ổn

định, sự phát triển bình thường, vững chắc về mọi hoạt động của các tổ

chức Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị, không để xảy ra gây rối,

gây bạo loạn, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được

ổn định ở địa bàn nông thôn.

Vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đã được quy định trong chỉ thị số

21- CT/TW ngày 10/10/1997 của bộ chính trị về một số việc cấp bách trong

nông thôn hiện nay; Chỉ thị số 08/1998 – CT/BNV(A11) ngày 18/4/1998 của

Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ công an) về công tác công an góp phần bảo

đảm an ninh trật tự trong tình hình mới; Quyết định số 205/1998/BNV (A11)

ngày 18/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy định công tác công an

góp phần đảm bảo an ninh nông thôn.

42

Như vậy, đảm bảo an ninh nông thôn bao gồm các nội dung sau:

Thứ nhất, đảm bảo an ninh nông thôn là việc giữ vững sự ổn định,

vững mạnh về chính trị, là đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực

quản lý của chính quyền, sự hoạt động có hiệu quả của các cơ quan trong

hệ thống chính trị ở nông thôn.

Thứ hai, đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo cho sự hoạt động bình

thường, ổn định, bền vững về mọi mặt trong đời sống chính trị- xã hội ở nông

thôn, mọi người dân khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng có sự đồng

thuận cao về chính trị, tinh thần với các chủ trương xây dựng nông thôn mới ở

địa phương, mọi hoạt động của nông thôn diễn ra bình thường, cuộc sống của

nhân dân được đảm bảo bình yên.

Thứ ba, đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo mọi chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn

ở địa phương được thực hiện đúng đắn, có hiệu quả nhằm không ngừng nâng

cao đời sống cho nhân dân nông thôn, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu

nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các hộ dân trong địa bàn.

Thứ tư, đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo giữ vững và phát huy các

giá trị bản sắc về văn hóa truyền thống, đảm bảo sự đoàn kết, phát huy cao độ tinh

thần tương thân tương ái, duy trì và phát triển những phong tục, tập quán, lối sống,

đạo đức vì cộng đồng, tôn trọng pháp luật, bài trừ các hủ tục và tệ nạn xã hội.

Thứ năm, đảm bảo an ninh nông thôn là việc chủ động làm tốt công tác

phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả, ngăn chặn các hoạt động xâm hại an ninh

trật tự, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, bảo vệ tài sản

Nhà nướ, tính mạng, tài sản, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đẩy

mạnh các phong trào xã hội, trong đó có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh

Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc, củng cố xây dựng

43

chính quyền cơ sở vững mạnh ở nông thôn.

Thứ sáu, đảm bảo an ninh nông thôn là chủ động đấu tranh làm thất bại

mội âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch, phản động trong nước và

nước ngoài, đồng thời trấn áp mạnh mẽ bọn tội phạm, tích cực bài trừ các tệ

nạn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp góp phần ổn định tình

hình ở nông thôn.

Với những nội dung trên thì công tác đảm bảo an ninh nông thôn là

trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, các tổ chức

chính trị - xã hội và của toàn dân. Song mỗi một chủ thể có vai trò, trách

nhiệm khác nhau. Vì vậy, làm rõ vai trò, trách nhiệm trong công tác đảm

bảo an ninh nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng, bao gồm việc xác định

trách nhiệm chung về công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền,

trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể từ đó giúp các cơ quan thực

hiện đúng chức năng, quyền hạn của mình, tránh tính trạng đùn đẩy, né

tránh hoặc giải quyết sai thẩm quyền.

Vai trò trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền

Cấp ủy Đảng, chính quyền là người chịu trách nhiệm chính, cao nhất

trên mọi phương diện liên quan đến an ninh trật tự trong đó có an ninh nông

thôn… Bởi Đảng giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện; chính quyền là cơ

quan quản lý Nhà nước mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Vì

vậy, mọi vấn đề liên quan đến an ninh trật tự ở nông thôn đồng bằng sông

Hồng phải do cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo và tổ

chức thực hiện, vấn đề an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng tốt hay xấu là

trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền.

Trong đảm bảo an ninh nông thôn, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy

Đảng, chính quyền rất quan trọng, giữ vai trò quyết định trong mọi vấn đề về

44

đảm bảo an ninh nông thôn, được thể hiện trên một số nhiệm vụ chính như:

Cấp ủy Đảng đề ra chủ trương, đường lối, chính sách chỉ đạo chính

quyền các cấp thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về đảm bảo an ninh

trật tự như: “Thực thi quyền hạn về trách nhiệm của mình trong việc quản lý

địa phương theo hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước

cấp trên, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội

chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách

dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác”[68].

Chỉ đạo việc củng cố và xây dựng hệ thống chính quyền cơ sở, lực

lượng vũ trang đảm bảo trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, thực

hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về an ninh trật tự, không để xảy

ra gây rối, gây bạo loạn, biểu tình ở địa bàn nông thôn.

Chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể quần chúng phối hợp, tăng cường

công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia các

phong trào xã hội, chấp hành nghiêm pháp luật và tích cực cùng vào cuộc giải

quyết các vụ việc về an ninh trật tự, ổn định tình hình ở vùng nông thôn.

Vai trò, trách nhiệm của các Ban, Ngành và tổ chức chính trị - xã hội

Cùng với vai trò, trách nhiệm to lớn của các cấp ủy Đảng, chính

quyền, vai trò của các Ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội có chức năng

chung là hậu thuẫn đắc lực, là chỗ dựa cho các cấp ủy Đảng, chính quyền

triển khai các chủ trương, đương lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã

hội vào cuộc sống, vào từng người dân góp phần to lớn cho sự phát triển

chung của xã hội trong đó có vấn đề an ninh nông thôn trên địa bàn.

Một số tổ chức có vị trí, vai trò, trách nhiệm lớn với an ninh nông thôn:

Mặt trận tổ quốc cùng các tổ chức đoàn thể quần chúng có trách nhiệm

thực hiện chức năng tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên thực hiện

45

nghiêm túc các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nêu

cao tinh thần trách nhiệm cho đoàn viên, hội viên trong giải quyết các vụ việc

phức tạp ở nông thôn.

Hội nông dân có vai trò rất quan trọng trong công tác đảm bảo an ninh

nông thôn. Điều đó biểu hiện ở những nội dung sau:

Tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền những vấn đề về nông

nghiệp, nông thôn, nông dân có liên quan, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, góp

phần vào công tác bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn nông thôn.

Hướng dẫn nông dân thực hiện các nội dung của sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, qua đó góp phần bảo đảm an ninh

trật tự ở nông thôn. Chỉ có trên cơ sở thực hiện được nhiệm vụ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì mới có cơ sở đảm bảo an ninh trật

tự ở nông thôn và ngược lại an ninh trật tự ở nông thôn phải phục vụ đắc lực

cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Vận động

nông dân xây dựng gia đình văn hóa, tham gia xây dựng thôn, ấp, bản, làng văn

hóa, qua đó hạn chế các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo an ninh trật tự ở nông

thôn. Hội nông dân cần phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân vận động cán bộ, hội viên, nông dân tích cực tham gia phong trào “ Toàn

dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa” xây dựng gia đình văn hóa. Vận

động nông dân tham gia công tác bảo đảm an ninh trật tự ở địa phương.

Ngành văn hóa thông tin, các cơ quan thông tin đại chúng, báo, đài phát

thanh truyền hình có chức năng tuyên truyền, vận động quàn chúng nhân dân

trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

đấu tranh lên án các hành vi sai trái, các vụ việc vi phạm pháp luật ảnh hưởng

tới an ninh, trật tự ở nông thôn.

Viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân và sở tư pháp có trách

nhiệm thực hiện chức năng giảm sát pháp luật, thực hành quyền công tố và

46

xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các trường hợp vi phạm pháp

luật, gây mất an ninh trật tự ở nông thôn, đồng thời làm tốt công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi người dân hiểu, làm đúng và

tôn trọng pháp luật nhà nước.

Các ngành tài chính, ngân hàng, tài nguyên môi trường, nông nghiệp và

phát triển nông nghiệp, giao thông, điện lực xây dựng, giáo dục, y tế là các

ngành có nhiều vấn đề có thể liên quan đến sai phạm ở các khâu như: Tài

chính ngân sách, đất đai, giao thông, điện, đường, trường, trạm..thường là

những nguyên nhân gây ra tình hình phức tạp ảnh hưởng đến an ninh nông

thôn. Vì vậy, cần có sự chủ động rà soát, thanh tra, kiểm tra lại các vụ việc ở

cơ sở kịp thời phát hiện những vấn đề vi phạm, không được lòng dân, tìm ra

nguyên nhân sai sót của mình để sớm có biện pháp khắc phục. Đồng thời phải

thực hiện tốt chức năng của mình nhằm thực thi có hiệu quả chính sách phát

triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước.

Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật trong đảm bảo

an ninh nông thôn

Viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân và sở tư pháp có trách nhiệm

thực hiện chức năng giám sát pháp luật, thực hành quyền công tố và xử lý

nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các trường hợp vi phạm pháp luật, gây

mất an ninh trật tự ở nông thôn, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật cho mọi người dân hiểu, làm đúng và tôn trọng pháp

luật nhà nước.

Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, chủ công trong công tác đảm

bảo an ninh nông thôn. “Vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đã được quy định

trong chỉ thị số 21- CT/TW ngày 10/10/1997 của bộ chính trị về một số việc

cấp bách trong nông thôn hiện nay; Chỉ thị số 08/1998 – CT/BNV(A11) ngày

18/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ công an) về công tác công an

47

góp phần bảo đảm an ninh trật tự trong tình hình mới; Quyết định số

205/1998/BNV (A11) ngày 18/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy

định công tác công an góp phần đảm bảo an ninh nông thôn” [5]. “Công an

nhân dân có chức năng chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn

các hoạt động xâm hại an ninh trật tự, đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước và sự vững mạnh của Đảng, chính quyền, các đoàn thể

quần chúng, lực lượng vũ trang, bảo vệ tài sản Nhà nước, tính mạng, tài sản

và quyền lợi hợp pháp của nhân dân” [69].

Trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn, lực lượng công an có vai

trò rất quan trọng, vừa nắm tình hình làm tham mưu cho cấp ủy, vừa trực tiếp

trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật, kiềm chế các hoạt động các đối tượng

quá khích, đảm bảo an ninh trật tự ở nông thôn. Căn cứ các quy định của Luật

Công an nhân dân, trong đảm bảo an ninh nông thôn, lực lượng công an các

địa phương có nhiệm vụ cụ thể sau:

“ Chủ động làm tốt công tác nắm tình hình và điều tra cơ bản, thường

xuyên đánh giá, phân loại địa bàn, đối tượng, chủ động nghiên cứu làm rõ

nguyên nhân, điều kiện nảy sinh mâu thuẫn, các vụ việc phức tạp về an ninh

nông thôn đồng bằng sông Hồng.

Thực hiện chức năng phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn kịp thời các vụ

việc không để xảy ra phức tạp, lây lan thành diện rộng, với phương châm thu

nhỏ, đồng thời chủ động điều tra, khám phá, lập hồ sơ đề nghị xử lý nghiêm

minh các phần tử cầm đầu, cực đoan, quá khích, tập trung giải quyết ổn định

các phức tạp và “điểm nóng” về an ninh trật tự tại địa bàn nông thôn và phân

loại giải quyết đúng pháp luật các vụ việc khác ở cơ sở.

Làm tốt công tác tham mưu củng cố, xây dựng hệ thống chính quyền cơ

sở vững mạnh, tích cực đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

48

quốc kết hợp phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã

hội nhằm giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp về an ninh nông thôn ngay

tại địa bàn cơ sở”[69].

Quần chúng nhân dân là lực lượng quan trọng góp phần không nhỏ

trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn. Quần chúng nhân dân tham gia

vào các hoạt động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống các thế lực thù

địch, các loại tọi phạm và vi phạm pháp luật khác về an ninh trật tự, tham gia

quảm lý, giáo dục cải tạo người phạm tội tại địa phương.

Như vậy, để đạt hiệu quả cao trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn

49

cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Kết luận chƣơng 1

Quy ước làng văn hóa là văn bản quy phạm xã hội, do cộng đồng dân cư

cùng thỏa thuận đặt ra trên cơ sở nhất trí của tập thể cộng đồng dân cư. Quy ước

làng văn hóa gồm những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép các cá nhân, tổ

chức được làm hoặc không được làm tại địa phương.

Quy ước làng văn hóa có vai trò hết sức to lớn đối với đời sống xã hội,

quy ước đề ra các biện pháp nhằm bảo đảm, giữ gìn và phát huy thuần phong,

mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn ở, đi lại, phát

triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng nghĩa

xóm, đoàn kết tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư;

thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.

Đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn

định, bền vững về mọi mặt trong đời sống chính trị - xã hội ở nông thôn. Đó là

đảm bảo vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; đảm

bảo việc thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đảm bảo giữ vững và phát huy các

giá trị bản sắc văn hóa truyền thống và đảm bảo thực hiện công tác phòng ngừa,

đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động gây mất ổn định ở nông thôn. Để đảm

bảo an ninh nông thôn cần phát huy sức mạnh của các cấp ủy Đảng, chính

quyền, ban ngành và các tổ chức chính trị - xã hội.

50

Chƣơng 2

VAI TRÒ CỦA QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VỚI ĐẢM BẢO AN

NINH NÔNG THÔN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY:

THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Đặc điểm nông thôn đồng bằng sông Hồng và tình hình an ninh

nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay

2.1.1. Đặc điểm nông thôn Đồng bằng sông Hồng

Thứ nhất, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn có nhiều ưu

thế vượt trội về điều kiện tự nhiên so với các vùng khác để phát triển kinh tế -

Vùng đồng bằng sông Hồng có lợi thế có một lợi thế của một trung tâm

hàng đầu của cả nước; diện tích toàn vùng đồng bằng Bắc bộ là: 23.336 km2

chiếm gần 7,1% diện tích của cả nước. Các tỉnh đồng bằng sông Hồng có địa

hình đan dạng và phong phú, bao gồm đồng bằng, đồi núi, rừng và biển xen kẽ

nhau; là nơi hội tụ và giao thoa giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc, giữa vùng núi

phía Bắc với miền trung, có hệ thống sông ngòi đa dạng chảy từ Tây Bắc xuống

Đông Nam ra vịnh Bắc Bộ. Một đặc điểm độc đáo về tự nhiên của các tỉnh đồng

bằng sông Hồng là hầu hết các tỉnh (ngoại trừ hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên)

đều có đồi núi xen kẽ châu thổ, thung lũng và đầm lầy. Đặc điểm địa hình tự

nhiên này tạo điề kiện thuận lợi để con người khai phá và kiến tạo nên những giá

trị văn hóa- xã hội đặc sắc phục vụ nhân sinh.

Vùng đồng bằng sông Hồng có khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhiệt độ

không khí trung bình năm khoảng 22,5 – 23,5 C, lượng mưa trung bình năm

1400-2000 mm, phù hợp với việc canh tác lúa nước và các cây công nghiệp ngắn

ngày như lạc, đỗ, đậu, ngô… làm cho cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở vùng này khá

phong phú, đa dạng và chất lượng tốt. Bên cạnh đó, các tỉnh đồng bằng sông

Hồng có mạng lưới sông ngòi dày đặc, đến mức không có một quê nào là không

51

xã hội.

có một con sông chảy qua; sông ngòi nhiều, nhưng chế độ thủy văn tương đối ổn

định nên thuận lợi cho tưới tiêu và nuôi trồng thủy sản.

Đất sản xuất Nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Hồng nguồn tài

nguyên quý giá được bồi đắp bởi phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái

Bình. Đất đai của các tỉnh rất thuận lợi cho thâm canh lúa nước, trồng rau, màu

và cây công nghiệp ngắn ngày. Theo số liệu điều tra năm 2012, diện tích đất sản

xuất nông nghiệp của các tỉnh đồng bằng sông Hồng là 11.280,69 km2, chiếm

gần 69,5% diện tích đất của các tỉnh. Quá trình mở rộng diện tích đất nông

nghiệp gắn với quá trình chinh phục biển thông qua sự bồi tụ các hệ thống sông

và quai đê, lấn biển của nhân dân trong vùng.

Bên cạnh tài nguyên đất nông nghiệp và nước để trồng cây lương thực và

nuôi trồng thủy sản, trong lòng đất các tỉnh nơi đây cũng chứa đựng những tài

nguyên phong phú, thuận lợi cho phát triển kinh tế như đất sét đen, đất sét trắng

phục vụ công nghiệp sành, sứ, than nâu với trữ lượng lớn chưa được khai thác.

Trên mặt đất có trữ lượng đá vôi(ước tính chiếm gần 5% trữ lượng đá vôi của cả

nước) trải dài trên nhiều tỉnh: Quảng Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Ninh Bình rất

thuận lợi cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng.

Các tỉnh đồng bằng sông Hồng có bờ biển kéo dài từ Móng Cái, Quảng

Ninh đến Kim Sơn, Ninh Bình, với bờ biển thoải, rộng, giàu phù sa nên rất thuận

lợi cho nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy, hải sản. Bờ biển trong vùng còn có

tài nguyên vô giá khác là cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, tạo nên những danh

thắng nổi tiếng như Hạ Long, Cát Bà, Quan Lạn, Cô Tô, Đồ Sơn… rất thuận lợi

cho phát triển ngành du lịch. Không chỉ vậy, bờ biển trong vùng còn có các cảng

biển nước sâu và cảng sông an toàn, thuận lợi cho giao thông thủy như: Cái Lân,

Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định…

Các tỉnh đồng bằng sông Hồng là một vùng đất màu mỡ, do hệ thống sông

Hồng và sông Thái Bình chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam ra Vịnh Bắc Bộ

bồi đắp mà thành, nơi đây cây trái tốt tươi, sản vật dồi dào, cư dân đông đúc. Với

52

một vùng châu thổ phì nhiêu xen lẫn núi non hùng vĩ, nơi đây chẳng những thuận

lợi về kinh tế, mà còn dễ cho phòng thủ, thuận để tấn công, nên từ mấy ngàn năm

trước, cha ông ta đã chọn vùng đất này để định đô dựng nghiệp.

Thế mạnh về con người:

Vùng đồng bằng sông Hồng có nguồn nhân lực lớn, trình độ dân trí cao,

tập trung đội ngũ trí thức giỏi, nhân dân có truyền thống lao động cần cù và sáng

tạo. Vùng đã tập trung khoảng 26% số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học,

72% số cán bộ có trình độ trên đại học, 23,6% lực lượng lao động kỹ thuật của

cả nước. Có hơn 100 trường cao đẳng, đại học, hơn 70 trường trung học chuyên

nghiệp, 60 trường công nhân kỹ thuật và 40 trường dạy nghề; hàng trăm viện

nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có nhiều viện đầu ngành, hơn 20 bệnh viện

đầu ngành, là một trong ba trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước; 100% số tỉnh,

thành phố đã hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi quy

định (mục tiêu cả nước là đến năm 2010). Thực tế cho thấy, vùng đồng bằng

sông Hồng dẫn đầu các vùng trong cả nước về số lượng, chất lượng nguồn nhân

lực và khả năng nghiên cứu triển khai khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo,

chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Thế mạnh về du lịch:

Vùng đồng bằng sông Hồng còn có tiềm lực lớn để phát triển mạnh ngành

kinh tế du lịch. Phía đông vùng giáp vịnh Bắc Bộ, tổng chiều dài bờ biển 620

km, có tài nguyên du lịch biển đặc sắc với nhiều bãi biển đẹp, cảnh quan nổi

tiếng. Trong vùng có động Hương Tích, được mệnh danh "thiên nam đệ nhất

động", Ao Vua, Suối Hai, Tam Cốc, Bích Ðộng, Côn Sơn, Phố Hiến,... Có hơn

1.700 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng, chiếm 70% số di tích của cả nước.

Ðó là những cơ sở để phát triển kinh tế du lịch đa dạng, phong phú, tạo sức hấp

dẫn thu hút ngày càng nhiều du khách trong nước, ngoài nước đến tham quan.

Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, các tỉnh Đồng bằng sông Hồng tiếp tục

được hưởng những lợi thế lớn của vùng kinh tế động lực về mọi mặt. Hơn nữa

53

do bao quanh Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, những trung tâm chính

trị, kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước nên nơi đây rất có điều kiện để phát

triển,giữ gìn, bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hóa – xã hội giàu bản sắc dân

tộc Việt Nam ra công đồng quốc tế.

Tuy nhiên, những điều kiện thuận lợi của các tỉnh vùng đồng bằng sông

Hồng, địa lý tự nhiên nơi đây cũng tạo ra không ít những khó khăn cho sự phát

triển của vùng như: hệ thống sông ngòi chằng chịt, đồng bằng xen lẫn đồi núi,

vùng trũng và đầm lầy đã tạo ra sự chia cắt về đại hình, gây khó khăn cho sản

xuất hàng hóa nông nghiệp trên quy mô lớn. Do nằm trong vùng khí hậu nhiệt

đới gió mùa, nên các tỉnh đồng bằng sông Hồng thường xuyên chịu tác động lớn

của bão, lụt, hạn hán, dịch bệnh ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân địa

phương. Theo dự báo quốc tế, các tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng

Việt Nam là một trong những vùng chịu ảnh hưởng lớn của nước biển dâng do

biến đổi khí hậu toàn cầu gây nên. Hiện tại, về mùa khô, đất sản xuất của các

tỉnh ven biển vẫn bị tình trạng xâm nhập mặn đe dọa thường xuyên.

Vị trí địa lý và môi trường tự nhiên cũng có những tác động tiêu cực

không nhỏ đối với sự phát triển văn hóa- xã hội nơi đây. Bão lốc, lũ lụt, ẩm thấp

là những yếu tố phá hoại rất nghiêm trọng đối với các công trình văn hóa vật thể

trên địa bàn. Sự giao thoa văn hóa giữa các tỉnh đồng bằng sông Hồng (khu vực

được xem là cái nôi văn hóa dân tộc) với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước,

với Hà Nội, Hải Phòng và quốc tế rất mạnh nên việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc là việc hết sức khó khăn. Các tệ nạn xã hội và văn hóa độc vốn phát triển

mạnh ở thành phố lớn lan nhanh sang các tỉnh lân cận trong vùng.

Thứ hai, kinh tế nông thôn đồng bằng sông Hồng chủ yếu là kinh tế

nông nghiệp, kết hợp với phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống và

ngư nghiệp đối với các vùng ven biển.

Các tỉnh đồng bằng sông Hồng là một vùng kinh tế động lực quan trọng

54

của cả nước, có đủ các thế mạnh để phát triển cơ cấu ngành kinh tế hợp lý;

nông nghiêp, công nghiệp và xây dựng, du lịch và dịch vụ. Trong phát triển

kinh tế nông nghiệp, các tỉnh đồng bằng sông Hồng có diện tích và tổng sản

lượng lương thực chỉ đứng sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long, song là tỉnh

có trình độ thâm canh và năng suất lao động nông nghiệp thuộc loại cao so

với cả nước. Hầu hết các tỉnh ở vùng này, ngoài trồng lúa đều gieo trồng một

số cây ưa lạnh đem lại hiệu quả kinh tế cao như cây ngô, khoai tây, su hào,

bắp cải, cà chua…Hiện nay, vụ đông trở thành vụ chính của một số địa

phương trong vùng. Với những kinh nghiệm của nhân dân về trồng trọt, chăn

nuôi, nhất là trồng lúa và các chính sách khuyền nông của Đảng và Nhà nước

là nhân tố quyết định giải quyết thành công vấn đề lương thực, đáp ứng nhu

cầu của nhân dân trong vùng và phục vụ xuất khẩu. Trong cơ cấu kinh tế nông

nghiệp của vùng, diện tích trồng cây lương thực cho con người và cho các

nhu cầu kinh tế khác chưa thật sự vững chắc.

Trong phát triển công nghiệp và xây dựng, các tỉnh đồng bằng sông

Hồng đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp và xây

dựng tăng đều qua các năm, trọng điểm là công nghiệp chế biến lương thực,

thực phẩm, sản xuất tiêu dùng, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây

dựng, công nghiệp cơ khí.

Trong phát triển ngành du lịch với những to lớn về cảnh quan thiên

nhiên, về các di tích lịch sử, văn hóa của dân tộc. Các ngành kinh tế công

nghiệp và xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ trong vùng phát triển mạnh làm

cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn các tỉnh

đồng bằng sông Hồng diễn ra nhanh chóng hơn các tỉnh khác trong cả nước.

Hiện nay, từ sự phân chia theo phát triển vùng kinh tế tạo sức mạnh

tổng hợp cho toàn vùng đồng bằng sông Hồng, có thể xác định 3 loại khu vực

55

nông thôn sau:

+ Khu vực nông thôn thuộc các tiểu vùng Bắc đồng bằng sông Hồng

(vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ): Hình thành các trung tâm kinh tế lớn gồm

Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, xây dựng khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, và

các vùng sản xuất hàng hóa lớn khác là hạt nhân của vùng, hỗ trợ các tỉnh

nam sông Hồng và các vùng khác;

+ Khu vực nông thôn thuộc tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng:

khu vực chuyển mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất

hàng hóa; chuyển đổi diện tích vùng trũng trồng lúa năng suất thấp, sang

nuôi, trồng các loại thủy, hải sản…phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp nhất là các làng nghề có sản phẩm tinh xảo; hình thành các khu

công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với phát triển dịch vụ, du

lịch; khai thác các tiềm năng về khoáng sản, trước hết là vôi sản xuất xi

măng, đá xây dựng, sét làm gạch, ngói.

+ Khu vực nông thôn thuộc vùng kinh tế biển và ven biển: khu vực đang

tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực ven biển và hải đảo; cảng

biển, đê biển, đường giao thông, bưu chính – viễn thông, điện nước, cơ sở xử lý

chất thải bảo vệ môi trường; phát triển các ngành đóng tàu, dầu khí, các dịch vụ

vận tải biển. Đẩy mạnh nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy, hải sản, mở rộng và

quản lý chặt chẽ đánh bắt xa bờ. Hình thành các trung tâm thương mại, du lịch,

các khu vui chơi giải trí, an dưỡng…Tạo bước đột phá ra biển của các tỉnh

Nam đồng bằng sông Hồng, thu hút và phân bố dân cư hướng đến những nơi

có điều kiện tổ chức dân cư và lao động sống bằng nghề thủy sản.

Xét về cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm:

+ Khu vực thuần nông: phát triển trong trạng thái cũ, đặc trưng truyền

thống với nghề trồng lúa là chính, phụ trợ thêm bằng chăn nuôi gia súc, gia

cầm trong phạm vi từng hộ gia đình.

+ Khu vực làng nghề: phát triển trong sự xen kẽ giữa thuần nông với

56

thủ công nghiệp bằng cách phục hồi và mở rộng các làng nghề truyền thống,

cải biến nghề cũ, hình thành nghề mới, tạo nên sự khởi sắc trong đời sống

nông thôn, bắt nhịp với những biến đổi của thị trường và đô thị.

+ Khu vực ven đô: phát triển mạnh theo hướng dịch vụ, buôn bán kinh

doanh nông nghiệp, đưa hàng hóa nông sản ra thị trường, đời sống kinh tế- xã

hội, cơ sở hạ tầng có bước phát triển mới, tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng

chưa bền vững.

Thứ ba, các truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam được

thể hiện đầy đủ, tập trung rõ nét nhất ở địa bàn đồng bằng sông Hồng.

Nông thôn đồng bằng sông Hồng là vùng lịch sử văn hóa lâu đời của

người Việt, là cái nôi hình thành dân tộc Việt, là quê hương của các nền văn

hóa Việt; tinh thần cộng đồng làng xã, điều hành xã hội bằng tục lệ và dư

luận, lễ hội truyền thống, quan hệ gia tộc, dòng họ, ứng xử huyết thống.

Là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, các tỉnh đồng bằng sông Hồng

đã sớm có chủ trương bảo tồn và phát triển các thiết chế văn hóa cho phù hợp

với yêu cầu của thời kỳ mới. Các công trình văn hóa tiêu biểu ở khắp các lang

quê như đền, miếu, đình, chùa, nhà thờ họ, văn bia…Được chính quyền địa

phương tạo điều kiện để nhân dân khôi phục, tôn tạo, giữ gìn. Mặt khác, không

ít các làng quê khôi phục lại và bổ sung, phát triển các quy ước của làng cho

phù hợp với luật pháp và nếp sống hiện đại. Nhiều lễ hội có ý nghĩa văn hóa –

lịch sử được phục hồi, tạo điều kiện phát triển đúng hướng: lễ hội đền Kiếp

Bạc (Hải Dương), lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh), lễ hội đền Tây Thiên (Vĩnh

Phúc), Hội Lim (Bắc Ninh), lễ hội Phủ Dầy (Nam Định)... Những giá trị văn

hóa phi vật thể như: ca, múa, nhạc dân tộc được sưu tầm, phục dựng, khuyến

khích…. Cùng với việc phục dựng, bảo tồn vốn văn hóa cổ được bảo tồn và

những cơ sở văn hóa mới được xây dựng, chính quyền địa phương các cấp

cũng chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, nhân viên vận hành các thiết

57

chế văn hóa đó một cách hiệu quả. Có thể nói, quá trình bảo tồn và phát triển

các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng là

nhanh chóng mau lẹ, phù hợp với yêu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của

các tầng lớp nhân dân.

Khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng là một trong những địa

phương có nhiều lễ hội dân gian và truyền thống. Ngoài những ngày lễ mà

nhân dân cả nước tổ chức kỷ niệm trọng thể như: ngày Giỗ 10-3 âm lịch, ngày

Quốc khánh 2-9, ngày Quốc tế lao động 1-5, nhân dân khu vực đồng bằng sông

Hồng còn mang tầm cỡ khu vực và lễ hội của các làng. Những lễ hội lớn mang

tầm cỡ khu vực với sự tham gia của người dân nhiều tỉnh như: Lễ hội đền Kiếp

Bạc; lễ hội đền Tây Thiên; lễ hội chùa Bái Đính; lễ phát ấn đền Trần... Ngoài

những lễ hội lớn đó, hầu hết các làng quê trong vùng đều tổ chức lễ hội trong

ngày ngày tiệc làng.

Ngày tiệc làng thường là ngày giỗ các vị Phúc thần có công với nước

hoặc có công khai mở đất đai, nghề nghiệp cho dân, được dân làng tôn là

Thành hoàng, thờ tại miếu đình làng. Tiệc làng diễn ra hàng năm, có kèm theo

lễ và hội. Hội được tổ chức thường niên, hoặc sau một số năm, tùy tình hình

kinh tế- xã hội địa phương mà dân làng quyết định. Trong hội làng có lễ rước

Thành hoàng và tổ chức các trò vui dân gian liên quan đến sự tích về Thành

hoàng. Ngày nay, một số nơi còn tổ chức hoạt động văn nghệ, thể thao trong

ngày hội làng cho thêm phần sinh động. Tiệc làng có thể rơi vào bất kỳ ngày

nào trong năm, song thường được tổ chức nhiều vào mùa xuân và mùa thu.

Mùa xuân, từ sau Tết Nguyên Đán đến hết tháng ba âm lịch; mùa thu, từ đầu

tháng tám đến hết tháng chín âm lịch. Đây là khoảng thời gian người làm nghề

nông khá rảnh rỗi công việc ngoài đồng ruộng nên thuân lợi cho mở tiệc. Lễ

hội làng có vai trò gắn kết và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên trong

cộng đồng làng, xã; góp phần giáo dục lòng biết ơn của thế hệ hôm nay đối với

các thế hệ đã qua, tôn vinh và ghi nhớ công đức của những người có công với

58

nước, với làng để con cháu noi theo.

Thứ tư, cơ cấu dân cư thuần nhất (chủ yếu là người kinh), là địa bàn

tập trung dân cư, với mật độ dân số cao. Dân cư khu vực đồng bằng sông

Hồng có truyền thống lâu đời về tín ngưỡng, người dân theo nhiều đạo khác

nhau trong phong tục tín ngưỡng.

Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng kinh tế có tầm quan

trọng đặc biệt trong phân công lao động của cả nước. Đây là vùng có vị trí địa

lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa

dạng, dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào, mặt bằng dân trí cao.

Đồng bằng sông Hồng là vùng dân cư đông đúc nhất cả nước. Mật độ

dân số trung bình là 949 người/ km2. Mặc dù tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số

trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao, gấp 5 lần so với Đồng

bằng sông Cửu Long, gấp 9 lần so với miền núi và trung du Bắc Bộ và gấp 10

lần so với Tây Nguyên. Đây là một thuận lợi vì vùng có nguồn lao động dồi

dào với truyền thống kinh nghiệm sản xuất phong phú, chất lượng lao động

dẫn đầu cả nước. Thế nhưng, dân số đông cũng đem đến những khó khăn nhất

định, gây sức ép nặng nề lên sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

Những nơi dân cư đông nhất của vùng là Hà Nội (2.013 người/ km2),

Thái Bình (1.138 người/km2), Hải Phòng (1.233 người/km2), Hưng Yên

(1.242 người/km2), Bắc Ninh (1.289 người/km2). Ở các nơi khác, chủ yếu

thuộc khu vực phía Bắc và Đông Bắc của châu thổ, dân cư thưa hơn.

Ở đồng bằng sông Hồng, dân cư gia tăng nhanh. Vì vậy, tốc độ tăng

dân số chưa phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Điều này gây khó

khăn cho việc phát triển kinh tế- xã hội của đồng bằng.

Nông thôn đồng bằng sông Hồng là cội nguồn, trung tâm của nhiều tôn

giáo lớn ở nước ta, trong đó Phật giáo và Thiên chúa giáo là hai tôn giáo phát

triển nhất, và có ảnh hưởng lớn đến đời sống của quần chúng nhân dân.

Thứ năm, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay nằm trong

một vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về an ninh – quốc phòng,

59

chủ quyền biên giới quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Vùng Đông Bắc có vai trò xung yếu trong an ninh quốc phòng. Trong

lịch sử Việt Nam, nhiều lần các thế lực phương Bắc xâm lược đã thâm nhập

vào vùng này trước tiên. Nơi đây có các con đường được các nhà sử học Việt

Nam gọi là con đường xâm lược, đó là đường bộ qua Lạng Sơn, đường bộ ven

biển ở Quảng Ninh, và đường biển trên vịnh Bắc Bộ rồi cũng đổ bộ vào

Quảng Ninh. Đã có rất nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân Việt Nam với

giặc ngoại xâm ngay khi chúng thâm nhập vào vùng này trong đó nổi tiếng là

các trận tại ải Chi Lăng, trận Như Nguyệt, Bạch Đằng…Thời kỳ kháng chiến

chống Pháp cũng có các trận đánh lớn như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến

dịch biên giới thu đông(1949)….Cuối thập niên 1970 và trong thập niên 1980,

quân Trung Quốc tấn công dữ dội Việt Nam chủ yếu là trên dọc tuyến biên

giới ở vùng Đông Bắc. Vì vậy, vùng Đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến

lược trong an ninh- quốc phòng.

Thứ sáu, văn hóa, giáo dục phát triển hơn so với các vùng khác, trình

độ dân trí cao, người dân dễ nhạy cảm với cái mới và dễ tiếp thu cái mới.

Hiếu học là nét truyền thống văn hóa nổi bật của nhân dân các tỉnh đồng

bằng sông Hồng. Trọng người có học vấn, khuyến khích con cháu học tập, noi

theo những người có khoa bảng cao đã thành một truyền thống tốt đẹp ở mọi

làng quê nơi đây. Truyền thống hiếu học đó, ngày nay, đã và đang thúc đẩy

hàng triệu học sinh, sinh viên thi đua học tập đạt thành tích cao để lập thân, lập

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo số liệu của Tổng

cục thống kê năm 2012 cho thấy, nhân dân các tỉnh đồng bằng sông Hồng có

trình độ dân trí cao so với các tỉnh khác trong cả nước, nơi đây tập trung nhiều

trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở nghiên cứu khoa học. Lực

lượng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ở các tỉnh này chiếm tới 72,4%

so với cả nước; lao động đã qua đào tạo chiếm tới 29,5% lao động xã hội, chất

lượng nguồn nhân lực ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện thực hiện thắng

60

lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

2.1.2. Tình hình an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay

Trong những năm vừa qua, nông thôn đồng bằng sông Hồng nước ta

dưới sự tác động của sự nghiệp đổi mới nói chung, sự phát triển của kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn và hội nhập quốc tế nói riêng đã phát triển mạnh mẽ trên

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển đó có ảnh không nhỏ tới

công tác đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.

Trên lĩnh vực kinh tế, đồng bằng sông Hồng là một trong hai vựa lúa

lớn nhất cả nước ta kể từ khi có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán sản

phẩm, đặc biệt là những năm 1990 trở lại đây sản xuất lương thực đã có sự

phát triển vượt trội rất nhiều so với thời kỳ thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch

hóa tập trung bao cấp. Các ngành nghề và làng nghề truyền thống được khôi

phục nhân rộng, phát triển mạnh mẽ, có nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công

nghiệp và nhà máy công nghiệp mọc lên ở khu vực nông thôn đồng bằng sông

Hồng. Kinh tế nông thôn phát triển, thu nhập của người dân và đời sống của

họ ngày càng được nâng cao, hiện nay nhiều làng xã trong nông thôn vùng

đồng bằng sông Hồng đã được công nhân đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới.

Về văn hóa xã hội, kinh tế nông thôn phát triển, đời sống của các gia

đình ngày càng được cải thiện, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa và phong trào xây dựng gia đình văn hóa cũng được đẩy mạnh,

trình độ dân trí của dân cư nông thôn cũng được nâng cao.

Kinh tế, văn hóa phát triển là cở sở để ổn định và phát triển xã hội, đặc

biệt những làng xã ven đô thường bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội từ thành

phố, thị xã. Trong thời gian gần đây, các loại tệ nạn xấu đã được kiềm chế và

từng bước đẩy lùi. Với phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự ,

đấu tranh phòng chống các loại tội phạm đã góp phần to lớn bảo đảm an ninh

61

nông thôn đồng bằng sông Hồng. Lực lượng Công an vùng đồng bằng sông

Hồng đã trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn nhiều hành vi

gây rối hoặc chuẩn bị gây rối, vi phạm pháp luật. Trong 4 năm, từ 2006-

2010, khu vực nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đã xảy ra 7.241 vụ

phạm pháp hình sự các loại. Lực lượng công an đã điều tra, khám phá và khởi

tố điều tra 3.810 vụ và với 4.813 người có hành vi vi phạm về quản lý đất đai,

tham ô công quỹ và chống người công vụ…đã bắt 1120 đối tượng, hoàn thành

kết luận điều tra để truy tố 1440 đối tượng, cảnh cáo 1551 đối tượng và đưa

kiểm điểm trước dân 1002 người. Việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đã

giúp cho công tác đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng

được tốt hơn, giữ vững ổn định xã hội từ cơ sở [33; tr.10-11].

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, trong quá trình

phát triển nông thôn khu vực đồng bằng sông Hồng cũng phải đối mặt với

nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra, có rất nhiều vấn đề xuất hiện ảnh

hưởng trực tiếp đến an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.

Thứ nhất, tình hình khiếu kiện, tranh chấp đất đai trên địa bàn nông

thôn đồng bằng sông Hồng diễn biến phức tạp

Trong những năm gần đây cũng như nhiều vùng nông thôn khác trong

cả nước nông thôn trong khu vực đồng bằng sông Hồng cũng nảy sinh nhiều

mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền sở tại xoay quanh các vấn đề giải

phóng mặt bằng, giải quyết các mối quan hệ liên quan tới quyền và lợi ích

chính đáng của nhân dân. Do chưa được thỏa đáng đã dẫn tới việc người dân

khiếu kiện lên các cơ quan chức năng có thẩm quyền ở các cấp cao hơn. Có

nhiều nội dung người dân khiếu kiện thể hiện đúng những vấn đề sai phạm.

Tuy nhiên cũng có những nội dung không đúng sự thật sai thực tế và đã có

tình trạng những phần tử xấu lợi dụng kẻ hở của phap luật nhất là luật khiếu

nại tố cáo, lợi dụng thực tế về những sai sót của một số cán bộ đã lôi kéo, kích

động một bộ phận quần chúng gây lên những vụ gây rối, tẩy chay những

62

đoàn thanh tra của xã huyện, bắt giữ cán bộ của xã huyện…

Trong việc giải quyết các đơn thư khiếu kiện, nhiều vụ việc đã được

giải quyết đúng chính sách pháp luật, nhưng thi hành không nghiêm túc kéo

dài gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người dân, làm nẩy sinh những vấn

đề phức tạp mới.

Tình hình khiếu kiện vượt cấp kéo dài ở địa bàn nông thôn đồng bằng

sông Hồng gây ra nhiều hệ lụy và những hậu quả xấu trên mọi lĩnh vực của

đời sống kinh tế xã hội thể hiện qua các nội dung sau:

+ Đối với cả nước nói chung và nông thôn đồng bằng sông Hồng nói

riêng vấn đề ổn định để phát triển có ý nghĩa quan trọng. Khiếu kiện đặc biệt

là khiếu kiện đông người vượt cấp nếu không được giải quyết nhanh chóng,

kịp thời sẽ là cơ hội cho các phần tử phản động lợi dụng, xúc tiến âm mưu

diễn biến hòa bình, gây bạo loạn…

+ Kỷ cương xã hội bị rối loạn, đạo đức xã hội bị xuống cấp, phép nước

bị khinh nhờn, tình trạng manh động bạo lực tăng lên, tội phạm hình sự lợi

dụng gây án, các tệ nạn xã hội lợi dụng phát triển…

+ Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở ở nông thôn bị giảm sút,

lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà Nước cũng bị ảnh hưởng.

Vấn đề tranh chấp đất đai ở nông thôn ĐBSH luôn là vấn đề nhạy cảm,

diễn biến phức tạp, chủ yếu diễn ra dưới dạng mâu thuẫn, từ tranh chấp quyền

sử dụng đất đai đã chuyển hóa thành các mâu thuẫn xã hội khác. Qua theo dõi

thống kê các vụ việc phức tạp xảy ra ở nông thôn trong 10 năm ( từ năm 2000

đến ngày 31/5/2009) thì các vụ việc về quan hệ đất đai chiếm tỷ trọng lớn:

Hà Nội 4389 vụ, Nam Định 159 vụ ( Xem phụ lục 3).

Tranh chấp đất đai diến ra trên mấy dạng chủ yếu sau đây:

+ Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa thôn này với thôn khác, làng này

với làng khác. Đây là loại hình tranh chấp chủ yếu xảy ra ở các địa phương

63

trong thời gian qua.

+ Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nông dân các địa phương với các

nông, lâm trường quốc doanh, đơn vị quân đội… Về thực chất việc tranh chấp

này ngay từ đầu đã mang yếu tố tranh chấp giữa nông dân với Nhà nước. Đây

là việc đấu tranh đòi được đền bù với giá cao hơn so với quy định của Nhà

nước khi Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất để xây dựng các công trình

công cộng. Đây cũng là loại hình phổ biến, không chỉ xảy ra ở nông thôn mà

cả ở các đô thị. Nông dân không phải không chấp hành chủ trương chính sách

của Nhà nước trong việc thu hồi quyền sử dụng đất của họ để xây dựng các

công trình phúc lợi công cộng và cũng không phải nông dân đòi hỏi quá đáng

đến mức Nhà nước không thể không đáp ứng nguyện vọng của họ trong việc

thu hồi quyền sử dụng đất. Ruộng đất, tư liệu sản xuất chủ yếu của người

nông dân rừ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác nên người

nông dân kiên quyết giữ đất khi Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất mà

không đền bù thảo đáng. Chẳng hạn, như tại Hưng Yên, một phụ nữ đã lăn xả

vào gầu xúc của máy xúc thi công đường quốc lộ 5, cốt để giữ đất và được

đền bù thỏa đáng…

Như vậy, những tác động tiêu cực của tình trạng khiếu kiện kéo dài,

tranh chấp đất đai là những nhân tố tác động và ảnh hưởng xấu đến an ninh

nông thôn đồng bằng sông Hồng.

Thứ hai, nông dân vùng tập trung đồng bào các tôn giáo (nhất là vùng

Thiên chúa giáo) đang tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn.

Các tỉnh đồng bằng sông Hồng là nơi sớm du nhập và trở thành trung

tâm của hai tôn giáo lớn nhất Việt Nam là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Vùng

giáo và nhất là vùng tập trung đồng bào Thiên chúa giáo đang đứng trước

những thách thức mới đối với an ninh nông thôn. Với tư cách là một hiện tượng

xã hội, Thiên chúa giáo trực tiếp ảnh hưởng tới an ninh trật tự của xã hội trông

64

qua hệ thông giáo lý, giáo luật, lễ nghi và hoạt động của các tổ chức giáo hội

các tôn giáo- các thế lực thù địch, các lực lượng xấu trong các tôn giáo thường

thông qua các tổ chức giáo hội, giáo lý, giáo luật, nghi lễ tôn giáo, quan hệ

quốc tế để buộc quần chúng tín đồ tham gia vào các hoạt động chính trị phản

động, gây rối trật tự xã hội; thành lập các tổ chức phản động trong tôn giáo,

chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc,

ngăn cản các tín đồ làm nghĩa vụ công dân gây mất trật tự công cộng….

Vấn đề nổi lên hiện nay là hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo

hành nghề mê tín dị đoan trở nên phổ biến, hoạt động công khai. Hoạt động

lừa đảo, cường đoạt tài sản của quần chúng nhân dân trong các lễ hội tín

ngưỡng tôn giáo diễn ra dưới nhiều hình thức vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Lễ

hội, tín ngưỡng, tôn giáo là nơi tập trung đông người trong một thời gian địa

điểm nên cũng thường gây ra những mất ổn định về trật tự công cộng ở địa

bàn diễn ra lễ hội. Tình hình khiếu kiện về đất đai liên quan tới các tôn giáo

đang là vấn đề nhạy cảm và phức tạp, hầu hết các vụ việc đều có sự chỉ đạo

của các Linh mục, Giám mục, thậm chí Vatican cũng có chỉ thị cho hội đồng

Giám mục Việt Nam kiên quyết đòi lại các cơ sở tôn giáo mà hiện nay Nhà

nước đang sử dụng…. Qua thống kê cho thấy trong vòng 10 năm (từ 2000-

2009) số vụ liên quan đến tôn giáo diễn ra trên địa bàn nông thôn đồng bằng

sông Hồng diễn ra tương đối phức tạp, Hà Nội 155 vụ, Nam Định là 125 vụ,

Ninh Bình xảy ra 45 vụ… (Phụ lục 3).

Thứ ba, vấn đề về ô nhiễm môi trường ở nông thôn đồng bằng sông Hồng

Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong thúc đẩy việc phát triển kinh

tế, nâng cao đời sống vật chất của người dân. Đó là thực tế mà không ai có thể

phủ nhận. Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến

lớn. Tuy nhiên, dưới tác động của kinh tế thị trường, môi trường sinh thái ở

nước ta nói chung và ở khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng đang dần bị

65

“ô nhiễm hóa”. Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp,

khu chế xuất với hầng nghìn nhà máy, xí nghiệp. Vì thế ô nhiễm môi trường ở

khu vực này trở thành một vấn nạn cần phải giải quyết. Ở nhiều vùng nông

thôn gần các khu công nghiệp, nguồn nước, đất đai và không khí bị ô nhiễm

nặng nề. Những vấn đề về ô nhiễm môi trường nổi cộm bao gồm: ô nhiễm từ

sản xuất nông nghiệp, ô nhiễm làng nghề, ô nhiễm sông ngòi, hiện tượng phá

rừng, rác thải công nghiệp và sinh hoạt…Thực trạng đó đã và đang gây bất

bình, bức xúc trong nhân dân đãn đến phát sinh nhiều vụ khiếu kiện, xung đột

về môi trường ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị - xã hội trong vùng.

Hiện nay, hầu hết các làng nghề hiện nay đều gây suy thoái môi trường.

Ô nhiễm làng nghề ở mức độ cao làm nảy sinh xung đột giữa các nhóm dân cư

ở nông thôn, giữa nhóm dân cư các làng nghề với nhóm dân cư khu vực sản

xuất nông nghiệp. Những hình thức phổ biến thể hiện sự xung đột của các cộng

đồng làng nghề là tỏ thái độ bất bình, phát đơn khiếu kiện. Trên địa bàn tỉnh Hà

Nam đã có hàng ngàn lò gạch thường xuyên hoạt động. Tính riêng ở hai xã

Mộc Nam, Mộc Bắc thuộc huyện Duy Tiên đã có gần 130 lò gạch bám dọc bờ

sông Hồng. Tại các xã Hòa Hậu, Đạo Lý, Nhân Thịnh của huyện Lý Nhân

cũng có trên 100 lò gạch thủ công hoạt động làm cho mặt bằng đất canh tác bị

đào bới lồi lõm, chất lượng đất canh tác ngày càng suy giảm và khói bụi lò

gạch lan tỏa làm cho nhiều cây trồng của người nông dân bị hư hại.

Xung đột, khiếu nại về môi trường còn xảy ra giữa những người dân

với chính quyền địa phương trong việc xây dựng và quản lý các bãi rác thải.

Ví dụ điển hình khi xấy dựng bãi rác thải ở Kiêu Kỵ - Gia Lâm – Hà Nội, bãi

rác Nam Sơn- Sóc Sơn- Hà Nội, người dân không đồng tình với việc triển

khai dự án đã tổ chức khiếu kiện đến các cấp. Khi chưa được giải quyết họ đã

dựng lều bạt, chặn đường, đập vỡ kính xe rác không cho xa rác vào bãi… để

66

phản đối dẫn đến việc chính quyền địa phương phải cưỡng chế giải tỏa.

Việc các doanh nghiệp không có giải pháp xử lý chất thải, khí thải hoặc

cố tình trốn tránh việc đánh giá tác động môi trường, không lắp thiết bị chống

ô nhiễm làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sức khỏe và đời sống, đã

khiến cho nhân dân hết sức bức xúc dẫn đến khiếu kiện. Tại Hải Dương, quần

chúng nhân dân đã bao vây, dựng lều bạt, vật cản ngăn chặn không cho Nhà

máy thép Thái hưng huyện Kim Thành hoạt động trong sáu tháng gây thiệt

hại lớn cho doanh nghiệp. Cục cảnh sát môi trường Bộ Công an đã kiểm tra

phát hiện ô nhiễm môi trường tại Công ty TNHH TungKuang huện Cẩm

Giàng làm xôn xao và phản ứng gay gắt của dư luận xã hội.

Qua thực tế theo dõi các vụ việc diễn ra có thể thấy, xung đột, khiếu

kiện về ô nhiễm môi trường đã, đang và sẽ xảy ra với quy mô ngày càng rộng

và tính chất ngày càng phức tạp. Theo thống kê trên địa bàn nông thôn tỉnh

Thái Bình, từ năm 2009 – 2013, số vụ vi phạm về môi trường trên địa bàn

tăng từ 48 vụ lên 272 vụ, ở Vĩnh Phúc là từ 08 vụ lên 50 vụ ( Xem phụ lục

1,2). Việc vi phạm pháp luật về môi trường trên địa bàn nông thôn đồng bằng

sông Hồng không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đời sống của người

dân, đến sự phát triển bền vững về kinh tế- xã hội mà còn gây ra những phức

tạp về an ninh, trật tự.

Thứ tư, tình hình tệ nạn xã hội phát triển mạnh ở nông thôn đồng

bằng sông Hồng

Tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội tiêu cực có tính phổ biến, lan

truyền, biểu hiện bằng những hành vi lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo

đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng.

Trong những năm qua, tệ nạn xã hội (cờ bạc, ma túy, mại dâm) trên địa

bàn nông thôn đồng bằng sông Hồng diễn biến hết sức phức tạp, có chiều

67

hướng gia tăng.

Tệ nạn lô đề, cờ bạc

Tệ nạn xã hội ở vùng nông thôn ĐBSH trước hết phải nói tới đó là tệ

nạn cờ bạc. Ở các làng xã trong nông thôn trước đây cũng đã xảy ra và thường

hạn hữu trong các dịp lễ tết, những hiện nay đã diễn ra rất phổ biến. Theo báo

cáo hàng năm của Công an các tỉnh trên địa bàn cho thấy, tệ nạn cờ bạc chiếm

tỷ lệ cao trong tổng số vụ tệ nạn xã hội đã phát hiện. Chẳng hạn, năm 2009,

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện 147 vụ cờ bạc thì năm 2013 đã phát

hiện 184 vụ cờ bạc. Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, năm 2009 phát hiện 219 vụ

cờ bạc đến năm 2013 lên tới 548 vụ cờ bạc (Xem phụ lục 1,2).

Tệ nạn cờ bạc ở nông thôn cũng biểu hiện dưới rất nhiều các hình thức

khác nhau như: xóc đĩa, tổ tôm, lô đề… Mục đích của nó khác với các trò

chơi giải trí, vì nó nhằm đoạt lấy một lượng tiền từ tài sản của người khác mà

không cần lao động. Hành vi này đưa con người vào mục đích duy nhất là

đâm lao phải theo lao, “được ham chơi, thua ham gỡ”.

Như vậy, tệ nạn cờ bạc dẫn tới những hậu quả xấu đối với cả kẻ thua

người được. Cờ bạc làm cho đạo đứu con người bị tha hóa, ảnh hưởng đến

nếp sống văn hóa tốt đẹp trong các làng quê Việt Nam nói chung và nông

thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng. Làm hư hỏng một bộ phận dân cư, đặc

biệt là giới trẻ, nó cũng gây tư tưởng ỷ lại trong lao động, ảnh hưởng không

tốt đối với sự phát triển kinh tế trong các gia đình ở nông thôn.

Tệ nạn ma túy, mại dâm

Cùng cờ bạc, tệ nạn nghiện hút các chất ma túy và mại dâm ở khu vực

nông thôn đồng bằng sông Hồng diễn biến ngày càng phức tạp. Trong những

năm gần đây khi nền kinh tế nước ta chuyển mạnh sang kinh tế thị trường

cùng với chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thì nạn nghiện hút, tiêm

chích ma túy, mại dâm gia tăng và ngày càng lan tràn về các vùng nông thôn.

68

Nông thôn đồng bằng sông Hồng cũng chịu ảnh hưởng lớn của các tệ nạn này,

năm 2009, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện 146 vụ ma túy thì năm 2013

đã phát hiện 194 vụ ma túy. Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, năm 2009 phát hiện

162 vụ ma túy đến năm 2013 lên tới 295 vụ ma túy (Phụ lục 1,2); tình trạng

người mại dâm sử dụng ma túy có xu hướng gia tăng; đối tượng mua dâm

thuộc nhiều lứa tuổi, thành phần khác nhau.

Tệ nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy và mại dâm gây ra nhiều hậu

quản nghiêm trọng đối với đời sống xã hội. Những cá nhân và gia đình có

người nghiện ma túy bị sa sút nhiều về mặt kinh tế, nhiều gia đình lâm vào

cảnh đói nghèo, túng thiếu, bần cùng.

Tệ nạn ma túy và mại dâm cũng tác động tới vấn đề xây dựng đời sống

văn hóa trong các vùng nông thôn. Nó làm cho trật tự xã hội bị rối ren, an

ninh trật tự không được đảm bảo. Các loại tệ nạn xã hội cũng gây nên những

xung đột, những mâu thuẫn trong dân cư làm cho trật tự xã hội không ổn

định, tạo những điều kiện để các thế lực phản động có cơ hội gây ra và khoét

sâu những mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng nhân dân, phá hoại khối đại

đoàn kết trong dân cư, trên cơ sở đó chống phá cách mạng nước ta.

Nạn mê tín dị đoan

Những năm gần đây, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được

nâng cao nhưng tệ mê tín dị đoan có chiều hướng phát triển với nhiều hình

thức khác nhau. Nó đã lôi kéo một bộ phận nhân dân, không chỉ ở những

người lớn tuổi lạc hậu mà trong cả một phận cán bộ Đảng viên về kém nhận

thức và phần lớn là phụ nữ, những người có trình độ nhận thức thấp kém,

hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn trắc trở, cuộc sống éo le…Hiện tượng

không lành mạnh này đã và đang gây nhiều ảnh hưởng xấu trong xã hội, và

đặc biệt tình hình này xảy ra phổ biến trên địa bàn huyện, đã gây tác hại nhiều

69

gia đình, cá nhân, làm lãng phí thời gian, tiền của, công sức.

Trong xã hội hiện nay đang nảy sinh nhiều hiện tượng như đồng bóng,

bói toán, thờ cúng, xem ngày giờ….ở cả vùng nông thôn lẫn thành thị, không

chỉ làm hao phí tiền bạc, thời gian, sức lực mà còn mang lại hậu quả bi đát, bi

kịch cho nhiều người, nhiều gia đình… Tiêu biểu trong đó như Vụ việc ngày

28/6/2013 Đội an ninh- công an huyện phối hợp công an xã Quỳnh Sơn phát

hiện, bắt quả tang đối tượng Nguyễn Thị Thanh (SN 1960) ở thôn Voi thực

hiện hành vi tổ chức mê tín dị đoan, với hình thức xem bói; Vụ việc ngày

5/7/2013 công an huyện và công an xã Cảnh Thụy bắt quả tang đối tượng

Hoàng Văn Doanh (SN 1989) ở thôn Tân Mỹ- xã Cảnh Thụy thực hiện hành

vi mê tín di đoan, với hình thức lên đồng.

2.2. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an

ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay và những vấn đề đặt ra

2.2.1. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo

an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay

Thứ nhất, quy ước làng văn hóa định hướng xử lý các quan hệ trong

xóm ngoài làng theo những tiêu chí thống nhất góp phần nâng cao ý thức

thực hiện pháp luật của người dân

Quy ước làng văn hóa đề cập khá chi tiết mối quan hệ ứng xử giữa mọi

người trong làng. Đề cao yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa bà con làng xóm,

tình làng xóm ở đâu và lúc nào cũng cần thiết nhưng ở thôn quê thì lại càng

quan trọng “tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy cần hết sức coi trọng và giữ gìn

tình làng nghĩa xóm. Phải tôn trọng, đoàn kết tương trợ nhau. Không cố ý lợi

dụng, xâm phạm đến quyền lợi vật chất, tinh thần của nhau; không cậy mạnh

hiếp yếu, bắt chẹt nhau “bát đũa có khi xô” nên khi mâu thuẫn phát sinh các

bên cần rất bình tĩnh, không quá lời mà cần ôn tồn khéo léo, bàn bạc để tìm ra

cách giải quyết hợp lý, hợp tình, thảo đáng cho cả hai bên. Quy ước là công

70

cụ để điều chỉnh các mối quan hệ làng xã trong cộng đồng, là công cụ để quản

lý làng xã, các điều khoản của quy ước quy định trách nhiệm và chế độ

thưởng phạt chủ yếu đối với các cá nhân trong làng. Với các điều khoản, quy

ước đã kiểm soát, thái độ ứng xử của từng thành viên, không phân biệt già trẻ,

gái trai và ở tầng lớp xã hội nào. Các hành vi từ ăn mặc, đi đứng, nói năng,

thăm hỏi, học hành cho đến quan hệ ứng xử trong gia đình giữa cha con, vợ

chồng, anh em. Mọi người phải lấy luân lý đạo đức làm trọng, tại điều 4,

chương II quy định về nếp sống, gia đình, văn hóa- xã hội của “Quy ước làng

văn hóa xã Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, Hà Tây” có quy định: “ Gia đình

hòa thuận, tiến bộ:

Phải kính trọng và chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ khi ốm đau, lúc

già yếu. Nghĩa vụ này là của mọi người con trong gia đình, không phân biệt trai

gái, dâu, rể, con đẻ hay con nuôi đều có trách nhiệm đầy đủ, chu đáo, tự nguyện.

Anh em như thể chân tay. Sống phải kính trên nhường dưới. Tôn trọng

đoàn kết, tương trợ lẫn nhau với tinh thần “chị ngã em nâng”, “tay đứt ruột

xót” để cùng nhau xây dựng gia định khi còn ở chung hoặc lúc ra ở riêng

ngày càng phát triển.

Dưới chế độ ta vợ chồng đều bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng

trong gia đình. Vợ chồng là đôi bạn trăm năm của nhau cần tôn trọng, nhường

nhịn, thương yêu nhau dân chủ bàn bạc, chung lưng xây dựng mái nhà ấm êm,

no đủ, giàu có, hạnh phúc. Tình nghĩa vợ chồng đó phải có từ 2 phía mà phải

được thể hiện trong lời nói, trong cách cư xử, trong sự làm ăn, chung sống.

Lên án mọi lời nói, mọi hành vi thô bạo xâm phạm đến nhân cách, thân thể

của nhau, đặc biệt thường xảy ra với người chồng….”[63]. Quy ước làng văn

hóa cũng đề cao việc giúp đỡ nhau trong đời sống hàng ngày. Quy ước không

chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng mà còn định rõ trách

nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên

71

trong đời sống thường nhật; khuyên răn mọi người ăn ở hòa thuận theo đúng

đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn,

túng thiếu hay gặp công to việc lớn trong nhà. Những trường hợp đánh cãi

chửi nhau, triệt hạ lúa màu, gia súc, gia cầm của nhau đều bị phạt nặng. Mọi

người tìm thấy ở xóm làng không chỉ chỗ dựa về vật chất mà chủ yếu ở tinh

thần, một sự đùm bọc giúp đỡ vô tư giữa những người lao động. Quan tâm đến

việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng làng xã hoàn thành đầy đủ các nghĩa

vụ với làng, với nước. Trước hết từng làng phải đảm bảo đầy đủ các nghĩa vụ

với nhà nước về sưu thuế, binh dịch. Ngoài ra từng làng tự đảm nhiệm các

công việc liên quan như thủy lợi, giao thông, đê điều, xây dựng các công trình

bảo vệ xóm làng như: hàng rào, cổng làng, tổ chức thờ cúng. Quy ước quy định

trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân và các hàng dân trong làng. Vì vậy các

nghĩa vụ có liên quan đến trách nhiệm của công dân được thực hiện. Người

nông dân tham gia đầy đủ các công việc trong làng với ý thức trách nhiệm họ

cũng đòi hỏi những thành viên khác cũng phải thực hiện như thế.

Quy ước làng văn hóa còn đề ra các biện pháp nhằm góp phần giáo dục

những gia đình, cá nhân có hành vi trái với quy định của địa phương nói riêng

và pháp luật nói chung. Như trong Quy ước làng Hạ Mỗ quy định rõ: “Hộ gia

đình, cá nhân nào vi phạm các điều khoản trong Quy ước của làng tuỳ theo

mức độ mà xử lý bằng các hình thức sau: Vi phạm lần đầu và lỗi nhẹ được phê

bình, nhắc nhở trước cuộc họp toàn thể nhân dân của cụm; Vi phạm từ lần thứ

hai trở lên, trên cơ sở thảo luận thống nhất trong tập thể cộng đồng thì đưa ra

kiểm điểm tại tổ chức, đoàn thể mà người đó đang sinh hoạt, đưa ra kiểm điểm

trước hội nghị nhân dân; không được bình xét công nhận “gia đình văn hoá”

(nếu là hộ gia đình). Việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm trong Quy ước

này không thay thế các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật” [61].

Như vậy, với những nội dung trên của quy ước làng văn hóa đã giúp

nâng cao ý thức người dân trong xử lý các mối quan hệ trong xóm ngoài làng,

72

đảm bảo đúng với các chuẩn mực đạo đức và những quy định của pháp luật.

Thứ hai, quy ước làng văn hóa giáo dục ý thức bảo vệ, duy trì, phát

triển những giá trị văn hóa truyền thống các làng thôn, bài trừ các hủ tục và

tệ nạn xã hội, từ đó có tác động tích cực đối với việc đảm bảo an ninh nông

thôn đồng bằng sông Hồng

Dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, khi có

cộng đồng người Việt Nam là đã có những mối quan hệ giao tiếp giữa con

người với con người, những phong tục tập quán trong sinh hoạt bắt đầu được

hình thành. Trong quá trình phát triển văn hóa Việt Nam đã mang trong nó

tinh thần Việt Nam, phẩm chất và nhân cách Việt Nam, qua mỗi thế hệ nó lại

được phát triển và bổ sung. Những giá trị truyền thống tốt đẹp đó là tinh thần .

nhân văn, nhân đạo, nhân ái, lòng vị tha vì lợi ích tổ quốc, trở thành chủ nghĩa

anh hùng cách mạng Việt Nam, tinh thần “thương người như thể thương

thân”, “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy bí cùng” trở thành lẽ sống,

nghĩa cử cao đẹp trong cộng đồng Việt Nam. Dân tộc Việt Nam luôn hướng

tới lý tưởng “chân, thiện, mỹ”, lấy chữ “nhân” làm gốc, chữ “nghĩa” làm

trọng. Tuy nhiên, hiện nay nước ta đang hòa trong xu thế chung của quá trình

hội nhập và phát triển kinh tế thị trường, nên văn hóa Việt Nam cũng chịu

những tác động tiêu cực của quá trình này. Những giá trị văn hóa tốt đẹp

mang ý nghĩa tiến bộ bị pha tạp, đan xen với các yếu tố tiêu cực, lối sống thực

dụng cá nhân vị kỷ coi đồng tiền là hơn cả, bất chấp đạo lý làm sói mòn nhân

cách của không ít cá nhân làm mất đi những bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân

tộc… Trong hoàn cảnh như vậy, những nội dung trong quy ước làng văn hóa

có tác dụng to lớn trong việc định hướng các quan hệ xã hội, trong giao tiếp,

trong cách cư xử… Những nội dung đó đều lành mạnh hướng tới cái đẹp, cái

“chân, thiện, mỹ” , có tác dụng to lớn, thiết thực trong việc bảo tồn và giữ gìn

73

bản sắc văn hóa dân tộc.

Tệ nạn xã hội và những tập tục lạc hậu của xã hội cũ để lại phản ánh

những hành vi trái với pháp luật, không được dư luận xã hội thừa nhận, đó là

những hành vi sa đọa về sinh hoạt, sự đồi bại về tinh thần, tha hóa về đạo đức.

Đó là loại quan hệ xã hội của một số người thoái hóa biến chất, nó không phải

là loại quan hệ chân chính của những người lao động và trái ngược với sự tiến

bộ và nền văn minh của nhân loại.

Tệ nạn xã hội cùng với những tập tục lạc hậu của các chế độ xã hội cũ

để lại là hiện tượng xã hội rất phức tạp, sự xuất hiện và phát triển của nó phụ

thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, nó luôn luôn có mặt trái vì vậy việc đấu

tranh khắc phục nó là vấn đề thiết thực đặt ra đối với mọi quốc gia. Tệ nạn xã

hội sẽ gây nên những tác động tiêu cực đối với việc đảm bảo an ninh trật tự.

Trong những năm gần đây dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị

trường, tệ nạn xã hội khu vực đồng bằng sông Hồng có xu hướng gia tăng. Tệ

nạn xã hội hoạt động dưới nhiều hình thức khá phức tạp, mức độ ngày càng

tăng. Khi nó đã xâm nhập vào các làng xã trong nông thôn thì những tác động

xấu của nó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với việc xây dựng đời sống văn

hóa, đối với việc giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn. Hiện nay tệ nạn

xã hội và những tập tục lạc hậu của xã hội cũ là mặt trái của đời sống xã hội

nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng trên

mọi lĩnh vực, làm xói mòn đạo đức xã hội, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm tha

hóa một bộ phận đáng kể các tầng lớp nhân dân nhất là thanh thiếu niên…

Trong các nội dung quy ước làng văn hóa đều quy định việc giữ gìn,

bảo vệ và duy trì những giá trị tốt đẹp trong truyền thống các làng thôn. Bảo

đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh

trong ứng xử, giao tiếp, ăn ở, đi lại, xóa bỏ hủ tục, bài trừ tệ nạn xã hội và mê

tín dị đoan trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương;

74

phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh. Chẳng hạn, như trong Quy ước

làng văn hóa của xã Hạ Mỗ quy định rất cụ thể về phòng chống hủ tục lạc

hậu, mê tín dị đoan trong sinh hoạt văn hóa tâm linh: “ Các sinh hoạt văn hoá

tâm linh, tổ chức hiếu, hỷ, thờ cúng tổ chức phù hợp với phong tục tập quán,

đảm bảo phát huy truyền thống văn hoá. Trường hợp gia đình có người ốm

đau phải đưa đi chữa trị tại các cơ sở y tế. Không lợi dụng các sinh hoạt văn

hoá tâm linh để hoạt động mê tín dị đoan như xem số, xem bói, gọi hồn, yểm

bùa, trừ tà, phù phép chữa bệnh” [61].

Việc thực hiện tốt các quy ước làng văn hóa ở các địa phương đã góp

phần đáng kể vào phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa”, nhất là trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống. Đồng thời đẩy lùi những hủ tục, những luồng tư tưởng độc hại, từ đó

tạo ra cuộc sống văn hóa lành mạnh, mọi người dân đoàn kết, yêu thương

giúp đỡ lẫn nhau, tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, không để bị

các thế lực thù địch phản động và các phần tử xấu mua chuộc. Đây là những

nhân tố rất cơ bản để bảo đảm an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội

trong các làng quê Việt Nam.

Thứ ba, quy ước làng văn hóa góp phần to lớn trong việc hạn chế và

đẩy lùi các loại tội phạm trên địa bàn nông thôn, là cơ sở cho vấn đề đảm bảo

an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn đồng bằng sông Hồng

Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang tạo điều kiện cho đất nước ta

nói chung và các vùng nông thôn nói riêng có nhiều điều kiện phát triển. Đời

sống vật chất của người dân được nâng cao rõ rệt. Nhờ vậy mà đời sống tinh

thần của bà con nông dân cũng được cải biến theo chiều hướng tích cực. Tuy

nhiên, mặt trái của nó là ở vùng nông thôn tình hình tội cũng có những diễn

biến phức tạp, tội phạm cũ gia tăng và làm xuất hiện nhiều loại tội phạm mới.

Để ngăn chặn, hạn chế và đẩy lùi các loại tội phạm ra khỏi đời sống xã

75

hội trên địa bàn nông thôn có thể sử dụng nhiều phương pháp và có nhiều

nhân tố có thể để tác động đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trong đó những nội dung của quy ước làng văn hóa cũng góp phần hạn chế

các loại tội phạm trên địa bàn nông thôn. Nhiều nội dung của quy ước đề cập

tới vấn đề: Mọi người dân đều phải có ý thức đấu tranh chống lại những thói

hư tật xấu, đoàn kết đấu tranh chống tội phạm, có ý thức bảo vệ giữ gìn tài

sản của gia đình mình và của bà con làng xóm, giáo dục cho mọi người có

tinh thần đề cao cảnh giác đối với các loại tội phạm. Quy ước làng văn hóa đề

ra các biện pháp cụ thể bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn góp phần phòng,

chống các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè bê tha, trộm cắp, mại

dâm và các hành vi khác vi phạm pháp luật nhằm xây dựng địa bàn trong

sạch. Phát động trong nhân dân ý thức phòng gian, bảo mật, chấp hành

nghiêm chỉnh pháp luật về tạm trú, tạm vắng, “ khi có người chuyển đến cư

trú lâu dài, công dân của thôn đi làm ăn xa hoặc có việc cần đi xa dài ngày thì

thực hiện đúng luật cư trú. Hộ gia đình có người lạ lưu trú qua đêm nên báo

với cụm trưởng, nếu không báo, khi có vụ việc đáng tiếc xảy ra hộ có người

lưu trú phải chịu trách nhiệm trước thôn, cụm và trước pháp luật” [61].

Quy ước làng văn hóa tham gia quản lý, giáo dục, giúp đỡ những người

lầm lỗi tại cộng đồng dân cư. Đề ra các biện pháp cần thiết hỗ trợ cơ quan có

thẩm quyền phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật trên địa bàn; bảo đảm triển khai

thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức tự quản ở cơ sở như Tổ hòa

giải, Ban an ninh, Tổ bảo vệ sản xuất, Ban kiến thiết và các tổ chức tự quản

khác. Tại điều 17, quy ước làng Hạ Mỗ có quy định rõ: “Tất cả mọi người có

trách nhiệm xây dựng và giữ gìn an ninh trật tự trong thôn xóm. Không phát

ngôn trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà

nước, thuần phong mỹ tục, tập quán tốt đẹp của thôn, xã. Mọi cá nhân không

được có các hành vi làm hư hại công trình công cộng. Không được kích động

76

gây chiến tranh tâm lý, gây rối trật tự, làm mất đoàn kết, gây gổ hằn thù, đánh

chửi nhau. Không tàng trữ, mua bán, sử dụng vũ khí, hung khí, chất nổ. Không

dùng chất nổ, xung điện, kích điện để đánh cá. Không đánh bạc, chứa bạc dưới

mọi hình thức. Có ý thức đấu tranh phòng và chống các tệ nạn trộm cắp, rượu

chè bê tha, hút trích ma tuý, mại dâm, truyền bá, kích động văn hoá phẩm đồi

trụy. Khi phát hiện kẻ gian, kẻ gây rối, những người có hành vi vi phạm pháp

luật thì báo ngay cho cụm trưởng hoặc Công an viên và mọi công dân nên có

trách nhiệm cùng truy bắt kẻ gian. Những người vi phạm pháp luật dưới 16 tuổi

nếu gây thiệt hại, thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu người

trên 16 tuổi thì xử lý theo pháp luật. Mọi người, mọi nhà tự bảo vệ tài sản riêng

của mình. Ban đêm hoặc khi đi vắng nên đóng cổng, khoá cửa đề phòng kẻ

gian. Mọi hoạt động ban đêm sau 22 giờ không được gây ồn ào ảnh hưởng đến

người khác. Mọi tranh chấp về quyền lợi, mâu thuẫn cá nhân nên được hoà giải

ở thôn. Đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đúng cơ quan có thẩm

quyền giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại tố cáo, không được gửi vượt

cấp khi cấp cơ sở chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong; không lôi kéo để

khiếu kiện vượt cấp, đông người” [61].

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ dân tộc ta,

chúng vào tận các làng xóm, thôn bản để tuyên truyền chống phá. Chúng tìm

mọi cách khơi dậy những mâu thuẫn, tạo nên tình trạng mất ổn định từ đơn vị

nhỏ nhất là xóm làng, nhằm làm chính quyền bị lung lay, suy yếu. Vì vậy, ở

mỗi thôn xóm đều tổ chức các đội công an viên nhằm bảo vệ tình hình trật tự

an ninh và giải quyết những xung đột nhỏ trong làng. Trong mỗi làng còn có

các tổ hòa giải để tiến hành giải quyết những mâu thuẫn. Đặc biệt, trong quy

ước của một số làng cũng quy định rõ mức độ xử phạt đối với từng hành vi

gây rối trật tự trị an xóm làng. Nhờ các quy ước này mà không khí thanh bình

77

trong các làng quê được duy trì, hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực.

Như vậy, những quy ước làng văn hóa giúp cho mọi người dân đều có

tinh thần và ý thức cao trong đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, điều

này tác động tốt đối với việc bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn

đồng bằng sông Hồng.

2.2.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến vai trò của quy ước làng

văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng

Thứ nhất, quy ước làng văn hóa thực hiện trong bối cảnh hội nhập quốc tế

và phát triển kinh tế thị trường, những tác động tiêu cực của quá trình này gây

nên nhiều khó khăn đối với việc thực hiện các quy ước làng văn hóa.

Hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa là xu thế tất yếu khách quan đối với nước ta. Trong tình hình

hiện nay, quá trình này có rất nhiều ưu điểm, mặt tích cực, có tác dụng to lớn

thúc đẩy sự phát triển trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Tuy

nhiên, cùng với những tác động tích cực thì còn có những tác động tiêu cực,

những tác động tiêu cực này gây nên nhiều khó khăn trong quá trình phát

triển. Trong đó có tác động tiêu cực đối với lĩnh vực văn hóa. Những giá trị

tốt đẹp mang ý nghĩa tiến bộ bị pha tạp, đan xen với những yếu tố tiêu cực, lối

sống thực dụng cá nhân vị kỷ, làm xói mòn nhân cách của không ít cá nhân

trong xã hội đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Khi đồng tiền trở nên ngự trị lúc đó

sẽ xuất hiện hàng loạt hàng loạt những hành vi phi đạo đức, làm rạn nứt mối

quan hệ gia đình, làm trỗi dậy lòng tham, lòng ích kỷ. Với lối sống thực dụng,

coi trọng đồng tiền mà không ít người lao vào con đường làm ăn phi pháp,

làm giàu bằng con đường bất chính, bất chấp pháp luật và đạo lý. Tình trạng

này không chỉ diễn ra ở các thị xã, thành phố lớn mà còn bao hàm cả các vùng

nông thôn. Đây là nhân tố ảnh hưởng xấu, là lực cản đối với việc thực hiện

quy ước làng văn hóa trong các vùng nông nước ta nói chung và nông thôn

78

đồng bằng sông Hồng nói riêng.

Những tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế và mặt trái của kinh tế

thị trường còn biểu hiện ở chỗ, do quá trình mở cửa và phát triển kinh tế thị

trường các mối quan hệ kinh tế giao lưu ngày càng được mở rộng, chính điều

này làm cho tệ nạn xã hội cũng có điều kiện nảy sinh, phát triển. Các tệ nạn

xã hội chủ yếu như: cờ bạc, mại dâm, nghiện hút… Trước đây các loại tệ nạn

này chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị, nhưng trong những năm gần

đây đã len lỏi và thâm nhập sâu rộng vào các vùng nông thôn, đặc biệt là nông

thôn đồng bằng sông Hồng. Các hành vi tệ nạn xã hội là hoàn toàn trái với

đạo lý làm người, với sự tiến bộ xã hội và tác động xấu đến việc xây dựng nếp

sống văn hóa ở nông thôn.

Trong các nội dung của quy ước làng văn hóa đều khẳng định tiêu chí

làng văn hóa phải không có tệ nạn xã hội. Vì vậy, tệ nạn xã hội hiện nay ở

nông thôn đồng bằng sông Hồng là nhân tố hạn chế đối với việc thực hiện quy

ước làng văn hóa. Muốn cho quy ước làng văn hóa được thực hiện tốt yêu cầu

hàng đầu là phải đẩy mạnh đấu tranh để bài trừ các loại tệ nạn xã hội ra khỏi

các vùng quê nông thôn và toàn xã hội.

Thứ hai, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc thực hiện quy ước làng

văn hóa và các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn

đồng bằng sông Hồng

Hiện nay, thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, nhiều địa phương ở

đồng bằng sông Hồng đã và đang xây dựng và hoàn thiện quy ước làng văn

hóa trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của hương ước cũ, phù hợp với quy

định của pháp luật hiện hành. Tại nhiều địa phương, quy ước mới không

những góp phần phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý

và đạo đức truyền thống của dân tộc mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các

79

cuộc vận động duy trì an ninh trật tự, đề ra các biện pháp bài trừ các hủ tục, tệ

nạn xã hội và mê tín dị đoan trong cưới hỏi, tang lễ, hội, thờ phụng ở địa

phương, khuyến khích những nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống

lãng phí, tốn kém, điều này phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ở một số địa phương có những quy định

trong quy ước làng văn hóa mặc dù không trái với pháp luật nhưng chưa phản

ánh được xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội nông thôn. Chẳng hạn như

hiện nay ở nông thôn nước ta nói chung và khu vực nông thôn đồng bằng sông

Hồng nói riêng ngày càng nở rộ sự phát triển của lễ hội. Ở nhiều địa phương

những tập tục về tiệc tùng ăn uống trong ma chay, cưới hỏi chi phí tốn kém có

xu hướng ngày càng gia tăng trong khi kinh tế nông thôn chưa đạt tới trình độ

phát triển cao, những chi phí này sẽ là gắng nặng cho dân cư vùng nông thôn.

Đảng và Nhà nước không cấm những lễ hội mang tính truyền thống thể hiện

bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, không cấm những nghi thức tổ chức trong

các đám hiếu hỉ đã ăn sâu trong đời sống cộng đồng và trở thành những nét đẹp

văn hóa cần giữ gìn, nhưng cũng cần đấu tranh ngăn chặn những hiện tượng

không lành mạnh trong các lễ hội, trong việc tổ chức ma chay, cưới hỏi ở các

vùng nông thôn. Do vậy, trong quy ước làng văn hóa nên có những quy định cụ

thể rõ ràng về nghi lễ tổ chức tiệc tùng ăn uống, ma chay cưới hỏi để phù hợp

với trình độ phát triến kinh tế nông thôn, giữ gìn được những bản sắc văn hóa

tốt đẹp của dân tộc và đảm bảo thực hiện đúng những chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước.

Ở một số địa phương, trong nội dung quy ước làng văn hóa vẫn còn tồn

tại những nội dung không bám sát với nội dung chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,

những nội dung này thường không nhiều vì phần lớn các quy ước đã qua kiểm

duyệt của cả xã và huyện. Chẳng hạn như trong tiêu chuẩn xây dựng gia đình

văn hóa, theo quyết định của Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể thao và du lịch về

80

việc ban hành quy chế công nhận danh hiệu gia đình văn hóa có 4 tiêu chuẩn:

Gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, khoẻ mạnh và hạnh phúc; Thực hiện tốt

nghĩa vụ công dân; Thực hiện kế hoạch hoá gia đình; Đoàn kết tương trợ

trong cộng đồng dân cư [15]. Trên thực tế, quy ước của các làng không thống

nhất với các tiêu chuẩn trên, có làng đưa ra 6 tiêu chuẩn như trong quy ước

làng Hạ Mỗ, trong quy ước văn hóa thôn Đặng Xá đưa ra 5 tiêu chuẩn gia

đình văn hóa. Qua đó cho thấy chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện quy

ước làng văn hóa với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, việc triển khai, thực hiện quy ước làng văn hóa chưa đồng bộ.

Hiện nay, quy ước làng đã được xây dựng tại tất cả các tỉnh, thành

trong phạm vi cả nước và khoảng 70% đến 80% các quận, huyện, thành phố,

thị xã thuộc tỉnh. Nhìn chung việc xây dựng và thực hiện quy ước đã từng

bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ở khu vực nông thôn

đồng bằng sông Hồng, việc xây dựng quy ước đã được triển khai đồng bộ như

Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội,... Tại các tỉnh này đã có khoảng

hơn 90% số làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư ban hành quy ước, 60% đến 80%

trong số đó đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, phê duyệt.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc xây dựng và thực hiện quy ước ở

một số nơi chưa được tiến hành một cách thực sự dân chủ, mới chỉ là công

việc của một số người, chưa có sự phê duyệt của chính quyền. Nội dung của

quy ước văn hóa còn nhiều hạn chế, chưa phản ánh đúng tình hình, đặc điểm

kinh tế xã hội, truyền thống văn hóa của từng địa phương. Trong một số bản

quy ước còn có những quy định trái pháp luật hoặc phục hồi các hủ tục và tập

quán lạc hậu. Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy ước đã phát sinh

một số hạn chế, như: một số địa phương đang hành chính hóa việc xây dựng

quy ước. Xem việc xây dựng quy ước là của cán bộ thôn, xã mà chưa có sự

tham gia tích cực của người dân. Vì vậy, nội dung quy ước thường rập khuôn,

81

cứng nhắc, không thể hiện được nét đặc trưng của thôn, cũng như chưa thực

sự sát với đời sống của người dân, do đó hầu như nhân dân trong thôn không

quan tâm và hạn chế tính khả thi của quy ước. Có nhiều trường hợp xây dựng

quy ước chỉ nhằm đối phó khi có đoàn kiểm tra từ cấp trên hoặc để bình xét

các danh hiệu, sau đó được cất trong tủ. Nội dung quy ước dài dòng và lặp lại

hầu hết các quy định của pháp luật. Tồn tại hạn chế này cũng do cách hiểu của

một số địa phương cho rằng, quy ước là của cộng đồng dân cư nên đưa vào tất

cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của dân cư, miễn là không

trái với quy định của pháp luật. Do đó nhiều địa phương đưa các nội dung mà

pháp luật đã quy định vào quy ước dẫn đến quy ước thường dài và khó nhớ.

Việc xảy ra tình trạng này thường là do chủ quan của các cán bộ thực hiện

việc kiểm tra, thẩm định quy ước. Bên cạnh đó trong quá trình xây dựng quy

ước cũng gặp phải một số vướng mắc như: Thiếu kinh phí cho việc triển khai

xây dựng và thực hiện quy ước; các quy định pháp luật hiện hành chưa có quy

định cụ thể cơ quan nào chủ trì tham mưu giúp ủy ban nhân dân các cấp trong

việc quản lý hoạt động này, dẫn đến sự đùn đẩy trách nhiệm và bỏ rơi việc

theo dõi, chỉ đạo kiểm tra công tác này. Đây chính là vấn đề cần lưu ý trong

quá trình soạn thảo, xây dựng quy ước làng văn hóa trong thời gian tới.

2.3. Giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của quy ước làng

văn hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đòng bằng sông Hồng

2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng quy ước làng văn hóa góp phần

đảm bảo an ninh nông thông đồng bằng sông Hồng

Cách đây gần 60 năm, vào năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp

đoàn cán bộ tỉnh Thái Bình tại Phủ Chủ tịch đã phê bình các cán bộ địa

phương đã xóa bỏ quỹ nghĩa thương và hương ước. Người khẳng định:

“Hương ước là những khoán ước trong làng, người ta quy định với nhau

không được để trâu bò phá lúa, gà qué ăn mạ… đó là những phong tục hay

82

của nông thôn nước ta trước đây. Từ sau cách mạng, các chú đem xóa bỏ cả,

thế là không đúng. Cách mạng chỉ xóa cái xấu, cái dở còn giữ lại cái tốt, cái

hay” [31]. Lời nói ấy của Người vẫn còn nguyên giá trị đến tận hôm nay. Bên

cạnh việc xây dựng luật pháp thống nhất với khẩu hiệu :”Sống và làm việc

theo pháp luật”, Đảng và Nhà nước ta vẫn khuyến khích các làng xây dựng và

thực hiện quy ước làng văn hóa (hương ước mới) để phát huy tính tự quản của

nhân dân ở cơ sở.

Để phát huy yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của

hương ước, quy ước, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18 tháng

2 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường

công tác quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện quy ước trong

giai đoạn hiện nay. Tiếp sau đó, dưới góc độ toàn quốc, Nhà nước đã ban

hành một loạt văn bản chỉ đạo, hướng dẫn việc ban hành và thực hiện hương

ước, quy ước như: Nghị định số 29/NĐ- CP ngày 11- 5- 1998 của Chính phủ

ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Chỉ thị số 24/CT- TTg ngày 19- 6-

1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước,

quy ước của làng, thôn, ấp, cụm dân cư, Thông tư liên tịch số

03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31- 3- 2000 của

Liên bộ Tư pháp, Văn hóa- Thông tin, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương

ước, quy ước của làng, bản, thôn, cụm dân cư. Đây là các văn bản quy phạm

pháp luật hướng dẫn cụ thể về nội dung và hình thức thể hiện của quy ước,

thủ tục soạn thảo, thông qua, phê duyệt, tổ chức thực hiện, việc sửa đổi, bổ

sung hương ước, quy ước, tránh nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý

việc xây dựng và thực hiện quy ước, cách thức đưa nội dung dân số - kế

hoạch hóa gia đình vào trong quy ước.

Dự thảo quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận, được hội

83

nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, cụm dân cư thông qua và

được ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành nhằm bảo đảm

nội dung của quy ước không trái với các quy định của pháp luật hiện hành,

không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí và lệ phí có thể

gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc tuyên truyền về vai trò

và tác dụng của việc xây dựng và thực hiện quy ước làng văn hóa, các mô

hình mẫu về nếp sống văn hóa, gắn với việc tăng cường quản lý nhà nước

bằng pháp luật, phát huy dân chủ ở cơ sở; nêu gương những điển hình tiên

tiến, phát hiện và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, sai trái hoặc lợi

dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục, tập quán lạc hậu.

Việc soạn thảo, ban hành các hương ước hay quy ước làng văn hóa cần

phải được sự quan tâm, giám sát chặt chẽ hơn nữa của Nhà nước, các bộ,

ngành liên quan, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, của ủy ban Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở nhằm phát huy vai trò của

các văn bản hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay.

Như vậy, có thể thấy rằng xây dựng những quy ước mới về làng văn

hóa là một công việc đa dạng và không ít phức tạp. Xây dựng quy ước làng là

một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn nước

ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Đồng thời tăng cường ý thức tự quản của người nông dân trên chặng đường

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy,việc xây dựng quy ước làng

văn hóa cần có sự tiếp thu chọn lọc những yếu tố tốt đẹp của hương ước cũ

đồng thời phải có sự sáng tạo sao cho phù hợp với yêu cầu mới của nông thôn

hiện nay. Đây thực sự là những việc làm thiết thực để công cuộc xây dựng

84

nông thôn mới đạt được kết quả tốt và thành công.

2.3.2. Đào tạo cán bộ văn hóa và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa

trong nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng

Trong việc thực hiện quy ước làng văn hóa và xây dựng làng văn hóa

ở khu vực nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng ở nước ta hiện nay đòi

hỏi phải xây dựng, đào tạo một đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa

chuyên sâu. Đào tạo cán bộ văn hóa là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với việc

thực hiện quy ước làng văn hóa và xây dựng làng văn hóa trong nông thôn.

Xây dựng đội ngũ cán bộ trên lĩnh vực văn hóa ở cơ sở có trình độ năng

lực, có tinh thần trách nhiệm cao để làm tốt nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy

chính quyền địa phương là yêu cầu không thể thiếu trong phong trào xây

dựng làng văn hóa, xây dựng nông thôn mới, phải có cán bộ phong trào tốt

thì mới có phong trào tốt.

Để đào tạo cán bộ văn hóa cho nông thôn cần thực hiện những vấn đề sau:

Phải có sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương,

nhận thức đúng về đào tạo cán bộ văn hóa cho nông thôn là cơ sở điều kiện để

xây dựng làng văn hóa, hình thành phát triển các phong trào sinh hoạt văn hóa

nghệ thuật trong nông thôn hiện nay. Xây dựng đào tạo đội ngũ cán bộ văn

hóa sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao các hoạt động văn hóa trong nông

thôn, thực tế cho thấy ở địa phương nào có sự quan tâm của các ủy đảng, đối

với xây dựng cán bộ văn hóa, đối với việc thực hiện các phong trào văn hóa

thì đời sống văn hóa tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, ý thức

của người dân trong việc chấp hành các chính sách của Đảng, quy định pháp

luật của Nhà nước ngày một hoàn thiện.

Để có đội ngũ cán bộ làm văn hóa ở nông thôn hiện nay cần đặc biệt

quan tâm tới công tác tạo nguồn, phát hiện các cá nhân, các nhân tố mới,

những người có tổ chức, có năng lực chuyên môn để lựa chọn, đào tạo họ trở

85

thành những cán bộ văn hóa cơ sở. Ngoài nguồn cán bộ do địa phương cơ sở

do địa phương cơ sở tự đào tạo cũng cần có sự hỗ trợ giuos đỡ của các cấp

huyện, tỉnh, cử cán bộ văn hóa có trình độ chuyên môn được đào tạo cơ bản

trong các trường lớp chuyên sâu về tăng cho cơ sở, tham gia tổ chức, thực

hiện các hoạt động văn hóa ở làng xã.

Trong việc đào tạo cán bộ văn hóa cho các địa phương thuộc khu vực

nông thôn đồng bằng sông Hồng cần xuất phát từ yêu cầu thực tế, từ truyền

thống văn hóa của địa phương để có đội ngũ cán bộ phù hợp, cần chú ý tới

các hoạt động văn hóa, văn nghệ, duy trì, bảo tồn, phát triển những gía trị văn

hóa tốt đẹp của làng quê nông thôn Việt Nam.

Đi liền với công tác đào tạo cán bộ văn hóa cần đẩy mạnh các hoạt

động văn hóa, giúp người dân tự tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa, tạo

môi trường và điều kiện để người dân hưởng thụ các giá trị văn hóa, nâng cao

đời sống tinh thần.

Hiện nay các hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp trong nông thôn khu

vực đồng bằng sông Hồng chưa phát triển mạnh, một số địa phương có các

hoạt động nhưng chất lượng không cao, chưa gắn bó được với đời sống nhân

dân nên chưa được ưa thích và phát huy tác dụng. Trong tương lai, phải đẩy

mạnh các hoạt động này và phải gắn chặt chẽ với truyền thông đại chúng để

tạo cơ hội phát triển đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân nông thôn.

Có thể thấy, muốn tăng cường hoạt động văn hóa và mức độ hưởng thụ

các giá trị văn hóa của người dân thì phải kết hợp nhiều hình thức hoạt động

trong đó nổi bật là đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, tổ chức

giao lưu văn nghệ quần chúng ở địa phương….

Ở nông thôn nước ta nói chung và nông thôn đồng bằng sông Hồng nói

riêng, truyền thông có vai trò rất to lớn đối với việc nâng cao đời sống văn

hóa cho cư dân nông thôn. Người dân đánh giá cao hoạt động của truyền hình

86

và hệ thống đài phát thanh trong nông thôn, coi đây là những phương tiện rất

thiết thực cung cấp đa dạng thông tin về kinh tế, chính trị, văn hóa… cho

người dân. Do đó, cần phải biết phát huy vai trò to lớn của phương tiện truyền

thông và tạo môi trường để người dân được thường xuyên tiếp cận với những

phương tiện hữu ích này.

Như vậy, những hoạt động trên sẽ góp phần to lớn đối với việc thực

hiện quy ước làng văn hóa, cải thiện đời sống tinh thần, nâng cao ý thức, trách

nhiệm của người dân trong các hoạt động của đời sống xã hội. Đó là cơ sở

đảm bảo cuộc sống bình yên, đảm bảo an ninh nông thôn khu vực đồng bằng

sông Hồng nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.

2.3.3. Tổ chức triển khai quy ước làng văn hóa kết hợp với tuyên

truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, qua đó giữ vững an ninh trật tự nông

thôn đồng bằng sông Hồng.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phức tạp của tình hình an

ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời gian qua là do những sơ hở

trong việc thực hiện quy ước làng văn hóa, chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước ở từng địa phương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Vì vậy,

để đảm bảo an ninh nông thôn, hệ thống chính trị cấp xã cần phải kết hợp

thực hiện quy ước làng văn hóa với tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân

thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều này

tạo môi trường xã hội thanh bình, thôn xóm bình yên, nhân dân phấn khởi làm

ăn, sinh sống, tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, đời sống nhân

dân được cải thiện, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Đặc biệt, cần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa ở khu dân cư”. Xem đây là là giải pháp quan trọng để thực hiện

quy ước làng văn hóa ở khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng. Theo chủ

87

trương của Đảng và Nhà nước thì từ năm 2010, Chính phủ đã chính thức phê

duyệt đề án phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hường đến năm

2020 do Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xây dựng. Khu vực đồng bằng sông

Hồng cũng không nằm ngoài chủ trương chung, mục tiêu chung mà chính phủ

để ra. Mục tiêu của đề án là nhằm “nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp

luật và các quy định về văn hóa của người dân ở nông thôn; xây dựng, củng cố

và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, tạo điều kiện để người

dân ở nông thôn nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn

hóa; nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa,

thực hiện các tiêu chí phát triển văn hóa nông thôn mới cấp xã, tạo nền tảng

vững chắc để phát triển văn hóa nông thôn mới trên địa bàn xã; xây dựng con

người, gia đình, cộng đồng nông thôn và môi trường văn hóa nông thôn lành

mạnh, phong phú, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, tạo động lực thúc đẩy phát triển

nông nghiệp và xã hội nông thôn mới” [76]. Theo chủ trương của Đảng và

Chính phủ đến năm 2015 đối với vùng đồng bằng sẽ có: “50% người dân ở nông

thôn tham gia thường xuyên vào các hoạt động văn hóa, thể thao, trong đó 25%

dân số nông thôn luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên;

- 70% nhà văn hóa và khu thể thao xã và 70% nhà văn hóa, khu thể

thao thôn đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

- 70% gia đình giữ vững và phát huy danh hiệu “Gia đình văn hóa”,

trong đó có 15% gia đình văn hóa ở nông thôn làm giầu từ sản xuất nông

nghiệp hàng hóa;

- 60% làng (thôn, ấp, bản) giữ vững và phát huy danh hiệu (Làng văn

hóa”, trong đó 40% làng (thôn, ấp, bản) văn hóa đạt chuẩn cơ sở vật chất, hạ

tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới;

- 80% nông dân được phổ biến pháp luật vàên nhcác quy định về văn hóa;

- 90% cán bộ văn hóa, thể thao ở nông thôn được đào tạo, bồi dưỡng,

88

tập huấn về nghiệp vụ” [76].

Để đạt các mục tiêu nêu trên nhằm phục vụ cho các hoạt động văn hóa

diễn ra trên địa bàn nông thôn, thì các làng xã một mặt phải bằng năng lực nội

sinh phát huy các nguồn lực vốn có của địa phương và trong dân cư, nhưng

mặt khác ở đây không thể thiếu vai trò về phát triển kinh tế và nhiều điều kiện

cần thiết khác.

Trong việc thực hiện quy ước làng văn hóa, xây dựng làng văn hóa ở

nông thôn khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay cần quan tâm đến vấn đề

nâng cao nhận thức của người dân về ý nghĩa văn hóa làng, tiêu chuẩn công

nhận làng văn hóa, ý nghĩa vai trò tự quản của các cộng đồng dân cư trong

việc giữ vững và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, phổ biến và

nhân rộng mô hình làng văn hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành

nghề phụ… Coi đây là giải pháp không chỉ đơn thuần là thực hiện quy ước

làng văn hóa, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển nông thôn trên

các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Hiện nay, cùng với phong trào xây dựng làng văn hóa, chủ trương của

Đảng, Nhà nước ta về xây dựng nông thôn mới cũng đang được đẩy mạnh, vì

vậy việc thực hiện quy ước làng văn hóa cần gắn với nhiệm vụ xây dựng nông

thôn mới. Để thực hiện chủ trương trên, nhiệm vụ của ngành văn hóa thông

tin là phải đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền giáo dục góp phần nâng cao

nhận thức của các cấp, các ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở và người dân

nông thôn về văn hóa, phát triển văn hóa nông thôn, phát huy tinh thần chủ

động, tích cực, nỗ lực của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng nông

thôn. Trong quá trình phát triển văn hóa nông thôn, đặc biệt cần có sự quan

tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền sự phối hợp của các

ban ngành, đoàn thể trong triển khai thực hiện những giải pháp nâng cao hiệu

89

quả công tác văn hóa, thông tin tuyên truyền.

Vấn đề quan trọng hàng đầu là tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất

lượng của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phát

huy quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm dân biết, dân làm,

dân bàn, dân kiểm tra, vận động nhân dân thực hiện tốt các tiêu chuẩn của quy

ước làng văn hóa, xây dựng Đảng bộ, chính quyền đoàn thể thực sự trong

sạch, vững mạnh gắn bó mật thiết với nhân dân, từ đó tạo niềm tin và nâng

cao vai trò của nhân dân, tích cực hưởng ứng xây dựng phát triển đời sống

văn hóa cơ sở, tích cực tham gia các hoạt động văn hóa.

2.3.4. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong nông

thôn vùng đồng bằng sông Hồng

Gia đình là tế bào của xã hội, từ gia đình sẽ cấu trúc lên làng nước, gia

đình có lành mạnh thì làng xóm mới lành mạnh, phát triển. Nhận thức rõ vai trò

to lớn của gia đình trong việc xây dựng làng nước, cấu trúc thành xã hội, Đảng,

Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình văn hóa là vấn đề hết sức hệ

trọng của dân tộc và thời đại. Chính phủ hiện nay đang xây dựng chiến lược

phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2011-2020, thực hiện đề án phát triển

gia đình Việt Nam bền vững, ban hành các luật, chính sách đối với gia đình.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta đã được phát động từ

những năm 60 của thế kỷ 20, đến nay đã lan rộng khắp cả nước. Hiện nay, ỏ

khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng việc thực hiện quy ước làng văn hóa

cần biết phát huy và kế tục những thành tựu về xây dựng làng văn hóa đã đạt

được trong quá khứ. Từ thực tế của phong trào đã thực hiện trong những năm

trước đây cho thấy chỉ có phát huy tốt những giá trị của gia đình truyền thống,

thì phong trào mới đi vào chiều sâu và có chất lượng thực sự, lôi cuốn nhiều

gia đình tham gia. Việc xây dựng gia đình văn hóa trong nông thôn đồng bằng

sông Hồng hiện nay trước hết cần phải biết kế thừa, bảo vệ và phát triển

90

những giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống. Trong lịch sử dựng

nước và giữ nước từ đời này sang đời khác ông cha ta đã tạo dựng nên một

nền nếp gia phong như con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vợ chồng

chung thủy, anh em đoàn kết hòa thuận…những truyền thống quý báu đó có

thể xem là tinh hoa văn hóa dân tộc. Gia phong đã trở thành nội dung cốt lõi

của việc xây dựng gia đình văn hóa, từ đó gia đình mới trở thành một tế bào

xã hội khỏe khoắn, lành mạnh.

Tuy nhiên, việc xây dựng gia đình văn hóa nói chung và khu vực nông

thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức

của mặt trái cơ chế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế, với nhiều lối

sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền, những luồng tư tưởng độc hại, các sản

phẩm phi văn hóa… xâm nhập vào các vùng nông thôn cùng các loại tệ nạn

xã hội đang tấn công mạnh mẽ vào các gia đình. Từ đó làm sói mòn những

giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tình trạng ly thân,

ly hôn, sống thử, quan hệ tình dục bừa bãi...Các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ

bạc, rượu chè… đã len lỏi, xâm nhập vào các gia đình, gây ảnh hưởng tới an

ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.

Trước thực trạng nêu trên, để xây dựng gia đình văn hóa từ đó cấu trúc

lên làng văn hóa, trước hết cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để

mỗi người dân nhận thức sâu sắc vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng gia đình

văn hóa, mỗi thành viên trong gia đình phải phát huy tốt những giá trị đạo đức

của gia đình truyền thống, giữ vững gia phong, làm tốt việc giáo dục con cái,

trong đó người lớn luôn luôn gương mẫu để gia đình phát triển lành mạnh, trở

thành thành lũy ngăn chặn tiêu cực từ bên ngoài xâm nhập vào. Tuy nhiên,

lớp trẻ trong các gia đình nông thôn Việt Nam nói chung và khu vực nông

thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng, không chỉ sống trong gia đình mà còn

luôn luôn giao tiếp với môi trường bên ngoài xã hội, do đó cũng sẽ tất yếu

91

chịu sự tác động của môi trường xã hội. Vì vậy, cần thực hiện kết hợp tốt môi

trường giáo dục trong gia đình với nhà trường và ngoài xã hội đối với thế hệ

trẻ. Việc xây dựng gia đình văn hóa trước hết là công việc của gia đình song

cần nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ to lớn quan trọng có ý nghĩa xã hội rất

to lớn, do vậy cần phải có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng, trong đó

92

đặc biệt cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền, đoàn thể, bao quát

Kết luận chƣơng 2

Trong những năm gần đây, tình hình an ninh nông thôn đồng bằng

sông Hồng diễn biến phức tạp, đe dọa đến sự ổn định và phát triển về mọi

mặt ở nông thôn, mà nghiêm trọng hơn là đe dọa sự mất ổn định chính trị,

kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Quy ước làng văn hóa được

xem như một công cụ để duy trì, phát triển thuần phong mỹ tục, đề cao các

chuẩn mực đạo lý và đạo đức truyền thống trong sinh hoạt cộng đồng thôn,

làng, ấp, bản, cụm dân cư, góp phần to lớn vào công tác đảm bảo an ninh

nông thôn cả nước nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng. Trước

tình hình đó, cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm tiếp tục phát

huy vai trò của quy ước làng văn hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nông

93

thôn đồng bằng sông Hồng.

KẾT LUẬN

Trong giai đoạn hiện nay, thực trạng tình hình an ninh nông thôn các

tỉnh đồng bằng sông Hồng biến động phức tạp, nhiều loại tội phạm có xu

hướng gia tăng cả về tính chất nghiêm trọng, phức tạp và về số vụ xảy ra cùng

với sự thay đổi về cơ cấu tội phạm, thành phần đối tượng phạm tội. Để nhằm

giảm thiểu tình trạng vi phạm an ninh nông thôn như đã nêu trên thì một trong

những biện pháp là cần phải phát huy hơn nữa vai trò của quy ước làng văn

hóa. Những nội dung trong quy ước làng văn hóa góp phần trong việc hình

thành và phát triển nhân cách của con người, giáo dục định hướng cho con

người sống tốt hơn, sống có đạo lý, phẩm giá, sống và làm việc theo Hiến

pháp và Pháp luật, hướng tới những giá trị chân - thiện - mỹ tốt đẹp.

Những nghiên cứu trên đây của chúng tôi đã phần nào làm rõ vai trò

của quy ước làng văn hóa đến đảm bảo an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng

sông Hồng. Đã làm rõ thực trạng sự tác động của việc thực hiện quy ước làng

văn hóa đến an ninh nông thôn, đồng thời đã đưa ra một số giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả của những tác động ấy góp phần giữ gìn an ninh nông thôn

trong giai đoạn hiện nay.

Có thể nói, quy ước làng văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong

việc ổn định trật tự làng xã, sức mạnh của nó một phần dựa vào hình phạt,

một phần dựa vào phần thưởng. Tuy nhiên sức mạnh lớn nhất là ở dư luận

khen - chê của dân làng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây những những bản

quy ước phù hợp với nếp cảm, nếp nghĩ của từng địa phương, đồng thời vẫn

phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, phù hợp với thực trạng phát triển của mỗi

địa phương. Bên canh những yếu tố tích cực, quy ước cũng tồn tại những yếu

tố tiêu cực. Tiếp thu những yếu tố tích cực của hương ước cũ để xây dựng các

quy ước mới ở các làng hiện nay là vô cùng cần thiết, góp phần xây dựng và

nâng cao đời sống văn hóa ở các làng xóm, nhằm vươn tới một xã hội mà

94

trong đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS. TS. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh.

2. Bộ Công an (2005), Tài liệu hội nghị tổng kết chỉ thị 08 “Về công

tác CA góp phần đảm bảo an ninh nông thôn trong tình hình mới”, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (1997), Chỉ thị 21 – CT/TƯ, ngày 10/10/1997 “Về một

số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”.

4. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 21/ CT- TW ngày 10/10/1997, “Về một số công

việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”.

5. Bộ Công an (2005), Từ điển Công an nhân dân, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

6. Cao Văn Biền (1996), “Sự quản lý của nhà nước đối với hương ước

trong lịch sử”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3, tr.42.

7. Nguyễn Đình Bưu (1993), Xây dựng quy ước làng văn hóa ở Hà

Bắc, Sở văn hóa thông tin và thể thao Hà Bắc.

8. PGS.TS. NSND. Lê Ngọc Canh (1992), Đình làng Chai Vạn Vĩ, Tạp

chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.

9. Công an tỉnh Thái Bình (1999), Báo cáo tổng kết công tác công an

góp phần đảm bảo an ninh nông thôn từ năm 1997- 1999, số 709 (PV 11).

10. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Nghị

định số 64/CP ngày 27/10/1993, “Về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia

đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp”.

11. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (Khóa VIII), Chỉ thị số 21 – CT/

TW ngày 10/10/1997, “Về một số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”.

12. Bộ Chính trị (khóa VIII), Chỉ thị số 23 – CT/ TW ngày 29/11/1997,

95

“Về lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo”.

13. Bộ chính trị (khóa VIII), Chỉ thị số 30 – CT/ TW ngày 18/02/1998,

“Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”.

14. Ban tư tưởng văn hóa trung ương (1996), Tài liệu nghiên cứu văn

kiện Đại hội VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2011), Số 12/2011/TT- BVHTTDL,

“Thông tư quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận

Dang hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”; “Làng văn hóa”, “Ấp văn

hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và tương đương”.

16. Chỉ thị số 31 – CT/ TW ngày 12/ 02/ 1998, Tỉnh ủy Hà Tây.

17. GS.TS. Phan Đại Doãn (1984), “Làng Việt Nam – đa nguyên và

chặt”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.18-19.

18. GS.TS. Phan Đại Doãn (1985), “Sự tiến triển của cư dân nông dân”,

Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, số 9, tr. 10-12.

19. GS.TS. Phan Đại Doãn (1987), “Mấy vấn đề về làng xã Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1, tr.17.

20. GS.TS. Phan Đại Doãn (1995), Mấy suy nghĩ về hương ước trong

văn hóa quản lý nông thôn, Bài phát biểu tại Hội thảo khoa học chuyên đề

hương ước tổ chức tại tỉnh Hải Hưng.

21. GS. TS. Phan Đại Doãn (1995), Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông

thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội .

23. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1988), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban

chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành

96

Trung ương Đảng lần thứ năm, khóa VII, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết 06/NQ – TW ngày

10/11/1998 của Bộ chính trị, Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông

thôn hiện nay.

26. PGS. TS. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp luật

Hà Nội.

27. PGS. TS. Bùi Xuân Đính, Về một số hương ước làng Việt ở vùng

đồng bằng Bắc Bộ, Luận án PTS Khoa học lịch sử mã số 50310.

28. PGS.TS. Bùi Xuân Đính (1993), “Vài suy nghĩ về hiện tượng tái lập

hương ước ở nông thôn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 2, tr.18-20.

29. PGS.TS. Bùi Xuân Đính (1996), “Mấy suy nghĩ về các hình thức

xử phạt trong một số quy ước làng ở Hà Bắc”, Tạp chí Nhà nước và pháp

luật, số 8, tr. 10-11.

30. PGS.TS. Bùi Xuân Đính (1998), “Trước đây nửa thế kỷ Bác Hồ nói

về hương ước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 19, tr. 20-21.

31. PGS.TS Bùi Xuân Đính (2000), “Hương ước và pháp luật”, Tạp chí

văn hóa dân gian, số 1, tr. 10-11.

32. GS.TS. Vũ Minh Giang (1995), “Tập quán quản lý và phân phối

ruộng đất của làng xã và các chính sách ruộng đất quan trọng trong lịch sử

Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 1, tr 10-12.

33. Trịnh Thị Giới (2010), “Một số vấn đề rút ra qua việc giải quyết các

điểm nóng về an ninh trật tự”, Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr. 10-11.

34. PGS.TS. Diệp Đình Hoa (1994), “Lệ làng và ảnh hưởng của nó đối

với pháp luật hiện đại”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 1, tr.15-17.

35. Hương ước Tổng Đô Lỗ - Bản chép tay, Thư viện Quốc gia Hà Nội,

ký hiệu hương ước 502.

36. Hương ước Tổng Hương Canh - Bản chép tay, Thư viện Quốc gia

97

Hà Nội, Ký hiệu hương ước 3350.

37. Hương ước Đỗ Xá – Bản chép tay, Thư viện Quốc gia Hà Nội, ký

hiệu hương ước 313.

38. Khoa lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại

học quốc gia Hà Nội (2006), Làng Việt Nam - đa nguyên và chặt, Nxb. Đại

học quốc gia, Hà Nội.

39. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb. Chính

trị quốc Gia, Hà Nội.

40. Lê Thị Hiền, “Văn hóa hương ước – từ truyền thống đến hiện đại”,

Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 5, tr.20.

41. Tô Duy Hợp (2003), Định hướng phát triển làng – xã Đồng bằng

sông Hồng ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Thu Linh (1994), “Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay”,

Tạp chí Cộng sản, số 6, tr.46-47.

43. Hồ Chí Minh (2011), toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Hồ Chí Minh (2012), Đời sống mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. PGS. TS Phạm Xuân Mai (1994), “Mấy nét về tình hình làng xã tỉnh

Bắc Ninh thời kỳ 1921 -1945 qua hương ước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số

1, tr 21-22.

46. Nguyền Thị Thanh Mai (2001), Tâm lý nông dân miền Bắc Việt

Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường – đặc trưng và xu hướng biến đổi,

Luận án Tiến sỹ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

47. Lưu Hồng Minh (2001), Thực trạng phân tầng xã hội theo mức

sống ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, dự báo và những kiến nghị, Luận án

Tiến sỹ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

48. PGS.TS Vũ Duy Mền (1982), “Hương ước, khoán ước”, Tạp chí

98

Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr 7-8.

49. PGS. TS Vũ Duy Mền (1986), “Góp phần xác định thuật ngữ

hương ước, khoán ước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3, tr.83.

50. PGS. TS Vũ Duy Mền (1993), “Nguồn gốc và điều kiện xuất hiện

hương ước trong làng xã ở vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ”, Tạp chí

Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr 23-24.

51. Đăng Ngoạn (1995), “Một số kiến nghị cụ thể về quản lý Nhà nước

đối với việc lập, ban hành và nội dung của quy ước làng văn hóa ở Hà Bắc”,

Bài phát biểu tại Hội thảo chuyên đề về hương ước tổ chức tại Hải Hưng.

52. Nguyễn Tá Nhí (dịch) (1993), Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng

tổng hợp Sở văn hóa thông tin thể thao Hà Tây.

53. PGS.TS Vũ Thị Phụng (1990), Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt

Nam từ nguồn gốc đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

54. GS. TS Đỗ Nguyên Phương (chủ biên) và các tác giả khác (2003),

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55. PGS. TS Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn Việt

Nam thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Bùi Mậu Quân (2003), “Công tác Công an góp phần đảm bảo

ANNT trên địa bàn tỉnh Hải Dương”, Tạp chí CAND, số 10/200, tr. 24.

57. Lê Đức Quý (2001), “Bản sắc văn hóa làng trong xây dựng nông

thôn đồng bằng sông Bắc Bộ”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6, tr.18-19.

58. Quy ước làng văn hóa thôn Đặng xá, xã Văn Xá, huyện Kim Bảng,

tỉnh Hà Nam.

59. Quy ước văn hóa làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội

60. Quy ước làng văn hóa thôn Trúng Đích, xã Hạ Mỗ, huyện Đan

Phượng, Hà Nội.

99

61. Quy ước văn hóa làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, Huyện Đan Phượng, Hà Nội.

62. Quy ước văn hóa làng Nhật Tân, Hà Nội.

63. Quy ước làng văn hóa xã Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, Hà Tây.

64. Quy ước làng văn hóa xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

65. Quy ước làng văn hóa Phú Xá Đoài, Đông Anh, Hà Nội.

66. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội.

67. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Bộ

luật Hình sự năm 1999, Nxb Công an nhân dân.

68. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1983), Luật

tổ chức hội đồng nông dân và ủy ban nhanan dân, số 11 – LCT/ HDDNN7.

69. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật

Công an nhân dân, Số hiệu 54/2005/QH11.

70. G.S Hồ Văn Thông và TS Nguyễn Văn Sáu (2003), Thực hiện quy

chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

71. G.S Hồ Văn Thông và TS Nguyễn Văn Sáu (2001), Cộng đồng

làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. PGS. TS Văn Tạo (1993), Chúng ta thừa kế di sản, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

73. Hà Văn Tấn (1989), Làng, liên làng và siêu làng – Mấy suy nghĩ về

phương pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

74. TS. Nguyễn Danh Tiên (2012), Đảng lãnh đạo xây dựng và phát

triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội.

75. Trần Nho Thìn (2000), Đổi mới tổ chức hoạt động của Ủy ban nhân

dân xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định phê duyệt đề án “Phát

100

triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”.

77. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, năm 2000.

78. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2008.

79. PGS. TS Đào Trí Úc (1997), “Hương ước và mối quan hệ giữa

hương ước với pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, tr. 22-23.

80. PGS. TS Đào Trí Úc (1996), Nhà nước và pháp luật trong sự

nghiệp của chúng ta, Nxb Chính trị Quốc gia.

81. Lê Hữu Xanh (2001), Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây

dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng nước ta hiện

nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa

101

tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI

TRÊN ĐỊA BÀN NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH ( 2009-2013)

1. Số vụ vi phạm pháp luật trên địa bàn

Năm Hình sự Ma túy Kinh tế Môi trƣờng

Năm 2009 708 162 87 48

Năm 2010 744 176 45 57

Năm 2011 705 236 93 41

Năm 2012 747 273 124 65

Năm 2013 788 295 11 61

Tổng 3.692 1.142 360 272

2. Số vụ tệ nạn xã hội trên địa bàn

Năm Cờ bạc Mại dâm Ma túy

Năm 2009 219 14 162

Năm 2010 194 7 176

Năm 2011 254 6 236

Năm 2012 340 7 273

Năm 2013 548 18 295

Tổng 1.555 52 1.142

102

Nguồn:PV11, công an tỉnh Thái Bình

Phụ lục 2: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI

TRÊN ĐỊA BÀN NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC ( 2009-2013)

1. Số vụ vi phạm pháp luật trên địa bàn

Năm Hình sự Ma túy Kinh tế Môi trƣờng

Năm 2009 678 146 37 08

Năm 2010 791 155 44 20

Năm 2011 730 184 21 52

Năm 2012 810 201 40 53

Năm 2013 785 194 61 50

2. Số vụ tệ nạn xã hội trên địa bàn

Năm Cờ bạc Mại dâm Ma túy

Năm 2009 147 15 146

Năm 2010 175 16 155

Năm 2011 182 19 184

Năm 2012 243 38 201

Năm 2013 184 15 194

103

Nguồn: PV 11, Công an tỉnh Vĩnh Phúc

Phụ lục 03: SỐ LIỆU AN NINH NÔNG THÔN MỘT SỐ TÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

TỪ NĂM 2000 ĐẾN NGÀY 31/05/2009

Số vụ Tính chất Giải quyết

Địa Tham Tạm Còn TT Tổng Điểm Tôn Dân Loại ổn phƣơng Đất đai nhũng và ổn phức số nóng giáo tộc khác định chính sách định tạp

Hà Nội 5177 1 3885 91 213 988 3944 624 609

2 Hà Tây 731 504 64 103 60 304 144 283

3 Nam Định 624 159 125 233 107 116 187 321

4 Ninh Bình 150 48 45 31 26 38 46 66

5 Thái Bình 195 26 12 107 50 18 67 105

6 Hưng Yên 142 35 0 61 46 42 47 45

104

Nguồn A14 – Bộ công an