ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
LÃ THỊ THU HÀ
QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Hà Nội, 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
LÃ THỊ THU HÀ
QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Thị Phƣợng
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Ngô Thị Phượng. Các số liệu trong luận văn hoàn toàn trung
thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các luận điểm, luận cứ trong luận văn
chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2015
Học viên
Lã Thị Thu Hà
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học, bộ phận quản lý học viên sau
đại học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã tận tình giúp đỡ, chỉ
dạy, truyền dạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường thời
gian qua và hướng dẫn quy trình thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Ngô Thị Phượng – người đã trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân thành đến Bộ môn lý luận chính trị& Khoa
học xã hội nhân văn - Học viện Cảnh sát nhân dân - đơn vị công tác đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập. Mặc dù đã hết
sức cố gắng song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
quý thầy giáo, cô giáo góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin kính chúc quý thầy, cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp đào
tạo những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai. Một lần nữa tôi xin trân
thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2015
Học viên
Lã Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ƢỚC LÀNG
VĂN HÓA VÀ ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN ............................... 10
1.1. Làng văn hóa và quy ƣớc làng văn hóa ................................................ 10
1.1.1. Khái niệm làng văn hóa ........................................................................ 10
1.1.2. Quy ước làng văn hóa ........................................................................... 21
1.2. An ninh nông thôn và đảm bảo an ninh nông thôn ............................ 37
1.2.1. An ninh nông thôn ................................................................................. 37
1.2.2. Đảm bảo an ninh nông thôn .................................................................. 42
Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VỚI ĐẢM
BẢO AN NINH NÔNG THÔN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN
NAY: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP .................... 51
2.1. Đặc điểm nông thôn đồng bằng sông Hồng và tình hình an ninh nông
thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay ........................................................... 51
2.1.1. Đặc điểm nông thôn Đồng bằng sông Hồng ......................................... 51
2.1.2. Tình hình an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay .............. 61
2.2. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh
nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay và những vấn đề đặt ra .............. 70
2.2.1. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh
nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay ..................................................... 70
2.2.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến vai trò của quy ước làng văn hóa
đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng ............................ 78
2.3. Giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của quy ƣớc làng văn
hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đòng bằng sông Hồng ......... 82
2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng quy ước làng văn hóa góp phần đảm bảo
an ninh nông thông đồng bằng sông Hồng ..................................................... 82
2.3.2. Đào tạo cán bộ văn hóa và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa trong
nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng ........................................................... 85
2.3.3. Tổ chức triển khai quy ước làng văn hóa kết hợp với tuyên truyền, vận
động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, qua đó giữ vững an ninh trật tự nông thôn đồng bằng
sông Hồng. ...................................................................................................... 87
2.3.4. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng ..................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng bằng sông Hồng của Việt Nam từ lâu đã được các nhà nghiên cứu
trong nước, quốc tế quan tâm và đánh giá cao, không chỉ trên phương diện
kinh tế, là vựa lúa của miền Bắc, mà còn bởi đời sống tinh thần phong phú,
nơi giao thoa, tích tụ nhiều tầng văn hóa của cư dân vùng lúa nước. Được
hình thành từ lịch sử lâu đời, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng ngay từ đầu
đã phải đối mặt với hai thế lực để trường tồn, đó là sự khắc nghiệt của thiên
nhiên và sự đe dọa thường xuyên của các thế lực xâm lăng từ phương Bắc.
Công cuộc chinh phục thiên nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm qua
ngàn đời đã đem lại cho họ những kinh nghiệm quý báu và họ biết nâng niu,
giữ gìn, trau dồi thành nghệ thuật, thành văn hóa, góp phần làm nên cả một
nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Đây cũng là đóng góp lớn nhất của cư dân
đồng bằng sông Hồng vào sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử cư dân đồng bằng sông
Hồng đã định hình cho mình truyền thống văn hóa độc đáo, riêng biệt, thể
hiện nổi bật là sự cố kết chặt chẽ các quan hệ họ hàng – dòng họ, quan hệ
cộng đồng nhà – xóm làng – đất nước... Tiêu chí cao nhất trong xử lý các
quan hệ đó là tình người, tính nhân văn, sự hài hòa, chia sẻ, nhường nhịn... Để
giữ gìn những giá trị cao đẹp đó trong cộng đồng và cũng để giáo dục ý thức
về cuộc sống cộng đồng cho các thế hệ, cư dân đồng bằng sông Hồng đã thể
chế hóa các quy định về ứng xử, nghi lễ, nghi thức.... của đời sống cộng đồng
thành những quy định có tính bắt buộc người trong làng, xóm, dòng họ phải
theo. Đó chính là hương ước, quy ước, quy định của làng hay của dòng họ.
Những hương ước, quy ước đó trong lịch sử được thực hiện nghiêm túc, tự
giác và trở thành thứ vũ khí, thành “lệ làng”, giữ cho làng xóm bình yên, các
1
quan hệ xã hội ổn định sau lũy tre làng.
Hiện nay, đồng bằng sông Hồng đang đứng trước sự biến đổi to lớn,
mạnh mẽ mang tính cách mạng sâu sắc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa hội
nhập quốc tế đã và đang đem lại sự đổi mới thực sự ở nông thôn. Diện mạo xã
hội nông thôn đang thay đổi theo hướng đô thị hóa, lối sống của một bộ phận
dân cư đặc biệt là lớp trẻ đang chuyển dịch nhanh hơn, mạnh hơn theo kiểu
công nghiệp.... Đồng tiền đã len lỏi và tác động đến suy nghĩ, cách giải quyết
các quan hệ trong xóm, ngoài làng, thậm chí trong gia đình dòng tộc. Sự tranh
chấp đất đai dẫn đến xung đột, bất hòa, sự đền bù, giải tỏa không đồng thuận,
dẫn đến khiếu kiện, làm xuất hiện “điểm nóng”, thậm chí xung đột gây mất ổn
định xã hội nông thôn. Thực tế tình hình trật tự xã hội vùng nông thôn các
tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định... đã
gióng lên hồi chuông báo động về an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông
Hồng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Sự nghiệp đảm bảo an ninh nông thôn không phải của riêng các lực
lượng vũ trang, công an, quân đội, mà đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải huy động mọi tiềm năng, tiềm lực, sức mạnh
của cả đất nước, dân tộc, trong đó có văn hóa.
Từ xa xưa, cha ông ta đã biết sử dụng văn hóa như thứ vũ khí hữu hiệu
chống lại âm mưu thâm độc của các thế lực ngoại xâm muốn “đồng hóa”. Kế
thừa bài học quý báu đó từ truyền thống lịch sử, Đảng, Nhà nước Việt Nam từ
ngày đầu thành lập đã chú ý chăm lo, vun trồng văn hóa, đặt văn hóa đúng với
vai trò, ý nghĩa của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ ngày đầu thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xác định chăm lo phát triển văn hóa là việc
làm cấp bách của chính quyền mới, và nhấn mạnh văn hóa là mặt trận, người cán
bộ văn hóa là chiến sĩ. Bác kêu gọi mọi người hãy chung tay xây dựng đời sống
2
mới, nếp sống văn hóa mới cho đúng với tư thế là người chủ của chế độ mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam qua nhiều kỳ đại hội đã khẳng định: Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Trên thực tế, để đảm bảo an ninh, trật tự xóm làng ở một số địa phương
đã biết kế thừa truyền thống dân tộc và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ
trương xây dựng văn hóa của Đảng và Nhà nước để xây dựng những bản
hương ước mới, những quy định, quy ước xây dựng gia đình văn hóa, làng
thôn văn hóa. Đây là cách làm hay, là sự sáng tạo của quần chúng trong việc
sử dụng, phát huy vai trò của văn hóa vào công tác giữ gìn, đảm bảo an ninh
nông thôn. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Quy ước làng văn hóa và vai
trò của nó đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng” làm đề
tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thứ nhất, về làng xã, quy ước làng văn hóa có một số công trình tiêu biểu:
PGS. TS Nguyễn Thừa Hỷ, “sự phát triển và cấu trúc đẳng cấp trong
các làng xã cổ truyền Việt Nam”, trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử,
tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H.1978. Trong công trình này, tác giả đã tái hiện
lại lịch sử nông thôn nước ta, phân tích rõ cơ cấu tổ chức ở một số làng truyền
thống ở Việt Nam.
GS. Phan Đại Doãn, “Mấy vấn đề về làng xã”, Tạp chí Dân tộc học, số
2/1991. Tác giả đã nêu bật được những nét đặc trưng cơ bản của làng Việt
Nam, trong đó tính cộng đồng và tính tự quản là hai đặc trưng, chi phối mọi
sinh hoạt của làng xã.
GS. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, đề tài KX 07-02,H.1996. Trong đề tài, các tác giả
đã khái quát những nếp sống, thói quen, giá trị đạo đức mang tính truyền
thống của con người Việt Nam hình thành từ lâu đời và mối quan hệ của nó
3
với xã hội hiện nay, sự duy trì, biến đổi và những giá trị mới đang hình thành.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Con đường làng xã Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001. Công trình đã khái quát hóa
tiến trình hình thành làng xã từ buổi đầu xuất hiện cho đến ngày nay. Trong
quá trình phát triển có những yếu tố được duy trì nhưng có những yếu tố được
biến đổi cho phù hợp với xã hội hiện đại.
Vấn đề khai thác, phát huy vai trò của văn hóa, của quy ước làng văn
hóa đối với đời sống xã hội đã được nhiều tác giả quan tâm, nhiều công trình,
bài viết đã được công bố với cách tiếp cận khác nhau. Người đặt viên gạch
đầu tiên là tác giả Phan Kế Bính, với tác phẩm: “Việt Nam phong tục”. Trong
công trình này, tác giả có dẫn một bản hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”.
GS.TS Nguyễn Duy Quý, PGS.TS Thành Duy và PGS.TS Vũ Ngọc
Khánh đồng tác giả cuốn sách “Văn hóa làng và làng văn hóa”; “Văn hóa
làng và sự phát triển” của GS.TS Nguyễn Duy Quý; “Làng xã Việt Nam- một
số vấn đề kinh tế- xã hội” của GS. Phan Đại Doãn; “Sự biến đổi của làng xã
Việt Nam hiện nay” của GS.TS Tô Duy Hợp; “Cộng đồng làng xã Việt Nam
hiện nay” của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Sự
biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng” của GS.TS
Tô Duy Hợp; “Hương ước hồn quê” của cố giáo sư học giả Toan Ánh; “Bản
sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng bắc bộ” của TS. Lê
Quý Đức... Ở những công trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần
và văn hóa vật chất ở làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập tới hội làng, nếp sống,
phong tục, văn hóa nghệ thuật dân gian...Một số chuyên luận không những có
ý kiến nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế- xã hội, văn hóa; mà
còn nêu lên những điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá
4
trình dựng nước và giữ nước.
PGS. TS Bùi Xuân Đính trong cuốn sách “Hương ước và quản lý làng
xã” và “Lệ làng phép nước” đã nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong nội dung
hương ước xưa và nay, vai trò của nó trong quản lý làng xã, đồng thời tác giả
cũng nêu rõ những vấn đề hương ước hiện nay cần giải quyết.
Tác giả Lê Đức Tiết tron cuốn sách “Về hương ước lệ làng” cho thấy
cái nhìn khá toàn diện về hương ước trong suốt quá trình từ khi hình thành,
mối quan hệ với pháp luật, cũng như vai trò của hương ước trong đời sống xã
hội nông thôn Việt Nam.
Nhiều bài viết có giá trị nghiên cứu về hương ước được giới thiệu trên
các báo, tạp chí:
PGS.TS Lê Minh Thông trong bài viết “Luật nước và hương ước lệ
làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam” đã viết:
“Luật nước và lệ làng (hương ước) dường như luôn là những hành trang pháp
lý cho sự tồn tại và phát triển của các thế hệ người Việt Nam trụ vững và phát
triển trong mọi thăng trầm của lịch sử”.
Tác giả Lê Thị Hiền trong bài viết “Văn hóa hương ước- từ truyền thống
đến hiện đại” đã đề cập đến nguồn gốc, vị trí, vai trò của văn hóa hương ước cổ.
Bàn về nội dung tư tưởng chính của hương ước mới và những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về việc biên soạn và thực thi hương ước.
TS. Nguyễn Duy Mền trong bài viết “Nguồn gốc và điều kiện xuất hiện
hương ước trong làng xã vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ” đã đưa ra nhận
định: “Dù không phải là một bộ luật hoàn chỉnh, hương ước, với những điều
qui định về một số nét sinh hoạt riêng của làng xã vẫn đóng một vai trò
"cương lĩnh”, có thể còn khá chung chung, nhưng dù sao cũng đáng xem là
một nếp sống hàng ngày của làng xã mà mọi cá nhân, mọi tổ chức, trong
làng, trong xã phải tuân thủ”.
Thứ hai, về an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng, có một số tài
5
liệu công bố như:
Trong bài viết “Một số vấn đề rút ra qua việc giải quyết các điểm nóng
về an ninh trật tự” trên Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr. 10-11, của tác giả
Trịnh Thị Giới đã trình bày một số những vấn đề ảnh hưởng tới an ninh nông
thôn và rút ra một số kinh nghiệm trong giải quyết các điểm nóng ở nông thôn.
Tác giả Nguyễn Chí Dũng với tài liệu “Một số vấn đề về tội phạm và
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay”, Nxb Công an
nhân dân, đã trình bày các loại tội phạm nói chung và một số tội phạm điển
hình trên địa bàn nông thôn nói riêng.
Tác giả Nguyễn Đức Minh trong cuốn sách “An ninh nông thôn trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” , Nxb Công an nhân
dân, đã làm rõ tình hình an ninh nông thôn hiện nay và sự tác động của kinh
tế- xã hội đến an ninh nông thôn trong thời kỳ đổi mới.
PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn sách “Tội phạm học hiện đại
và phòng ngừa tội phạm” , Nxb Công an nhân dân, đã trình bày các loại tội
phạm chủ yếu trên cả nước nói chung và một số loại tội phạm điển hình khu
vực nông thôn hiện nay.
TS. Đỗ Cảnh Thìn trong bài viết “Mấy vấn đề về phát huy vai trò của
thiết chế làng xã trong phòng ngừa tội phạm ở nông thôn” trên Tạp chí Cảnh
sát nhân dân số 5 (6/2015), trong bài viết đề cập tới vai trò của một số thiết
chế làng xã, trong đó có quy ước làng văn hóa, sự tác động của các thiết chế
ấy đối với công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn nông thôn.
Có thể nhận thấy mặc dù đã có rất nhiều tác giả, khá nhiều đầu sách,
luận án, bài viết nói về vai trò của văn hóa, quy ước làng văn hóa đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội; những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh nông thôn,
song chưa có một công trình độc lập nào nghiên cứu về vai trò của quy ước
làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn, đặc biệt là khu vực đồng bằng
6
sông Hồng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ nội dung cơ bản của quy ước làng văn hóa và vai trò
của việc thực hiện quy ước đó đối với việc đảm bảo an ninh nông thôn đồng
bằng sông Hồng hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm làng văn hóa, sự ra đời, đặc trưng và nội dung cơ
bản của quy ước làng văn hóa.
- Làm rõ khái niệm an ninh nông thôn và những nội dung về đảm bảo
an ninh nông thôn.
- Trình bày đặc điểm nông thôn đồng bằng sông Hồng và tình hình an
ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay.
- Phân tích thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa với đảm bảo an
ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của quy ước
làng văn hóa đến việc đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn các
tỉnh đồng bằng sông Hồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Vai trò của việc thực hiện quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh
nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
7
- Thời gian khảo sát từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam,
chính sách pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
văn hóa, về xây dựng nông thôn mới, về đảm bảo an ninh nông thôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu đặc thù như: Quy
nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp kết hợp giữa lịch sử
và logic.....
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa quy ước làng văn hóa với vấn đề an
ninh nông thôn, chỉ rõ hiệu quả việc thực hiện tốt quy ước làng văn hóa đối
với tăng cường đảm bảo an ninh nông thôn.
Đề xuất ý kiến đóng góp cho việc xây dựng và thực hiện quy ước làng
văn hóa góp phần đảm bảo an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sâu sắc về mặt lý luận vai trò của quy ước làng văn
hóa đối với đời sống xã hội nông thôn nói chung và góp phần đảm bảo an ninh
nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở lý luận và phương
pháp luận nhằm góp phần nâng cao vai trò của quy ước làng văn hóa trong
8
việc đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa, quy ước làng văn hóa.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận
9
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA
VÀ ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN
1.1. Làng văn hóa và quy ước làng văn hóa
1.1.1. Khái niệm làng văn hóa
Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, “làng xã có vị trí hết sức đặc
biệt, làng là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nước (quốc gia) chỉ là
tổng số, là kết quả của sự liên kết các làng, xã, là “liên làng”. Làng có vai trò gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Làng là nhân tố giữ vai trò quyết định
trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc “còn làng còn nước”.
Làng - là một từ Nôm, là đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng chặt chẽ và hoàn
chỉnh nhất, bởi nó có địa vực riêng, có cơ cấu tổ chức và tục lệ riêng, hoàn
chỉnh và ổn định qua quá trình phát triển của lịch sử. Cùng với việc xuất hiện
làng trong lịch sử Việt Nam, văn hóa làng cũng ra đời, trở thành nét đặc trưng
của văn hóa dân tộc.
Cho đến nay, khái niệm làng được bàn đến ở nhiều góc độ khác nhau.
Theo PGS. TS Nguyễn Đăng Dung, “… làng xã phải là nơi đồng quê nhiều
gia đình ở quy tụ thành khu được gọi là xóm, các xóm phân biệt nhau bằng
các lũy tre xanh. Trên đường đi vào thường có các cổng xây hoặc tre, đến
đêm tối có thể đóng lại được, để phòng ngừa trộm cướp. Hai, ba, bốn hoặc có
khi là năm, sáu xóm họp thành một thôn gọi là làng” [38; tr.151]. Khái niệm
này đã cho ta cái nhìn bao quát và tổng thể về làng. Tác giả đã đi từ đơn vị
nhỏ nhất là gia đình rồi đến xóm, tập hợp các xóm tạo thành làng. Thông qua
khái niệm, tác giả cũng chỉ ra tên gọi tương đồng với làng là thôn. Tùy theo
mỗi vùng miền, địa phương mà làng có những cách gọi khác nhau.
Giáo sư Từ Chi thì định nghĩa về làng mang tính tổng quát, làng xã là
10
một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng.
Giáo sư đã xem xét làng ở nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm này cho thấy
sự đa dạng của đơn vị làng. Làng không chỉ đơn thuần được xem xét dưới một
lĩnh vực mà ở tổng thể nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau.
Giáo sư Phan Đại Doãn cho rằng, “Làng là một điểm dân cư, một hình
thức công xã nông thôn, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức xã hội riêng, lệ
tục riêng… rất chặt chẽ và hoàn chỉnh” [38; tr.38]. Định nghĩa này có những
nét tương đồng với Giáo sư Bùi Xuân Đính khi cho rằng: làng là đơn vị tụ cư
truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ tầng cùng
cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng…nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất. Cả hai
định nghĩa này đều nói lên sự khác biệt, đặc trưng riêng của làng với những
đơn vị xã hội khác tạo nên tính khu biệt đặc thù.
Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: “ Làng là một đơn vị cộng cư có
một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội
nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là
cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình- tông tộc gia trưởng,
đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình
thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ.
Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là cấu
trúc động, không có bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của
đất nước qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng” [73; tr.130].
Khái niệm này bao trùm mọi yếu tố của làng và xét đến cả nguồn gốc hình
thành của nó.
Như vậy, làng là một sản phẩm của quá trình định cư và cộng cư của
người Việt. Làng từ một cộng đồng tụ cư trở thành một đơn vị kinh tế - xã hội
hoàn chỉnh, một đơn vị kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân. Làng là
một đơn vị hành chính cơ sở của tổ chức nhà nước, một không gian sinh hoạt
11
văn hóa độc lập của người Việt Nam. Đồng thời làng là một thiết chế xã hội,
trong đó các thành viên liên kết với nhau dựa trên quan hệ huyết thống hoặc
địa vực cư trú nhất định và có quan hệ lợi ích chung với nhau. Làng có cơ sở
kinh tế, có thiết chế tổ chức tương đối độc lập, có nền văn hóa riêng tạo thành
bản sắc riêng của làng. Làng là sự tổng hòa của các yếu tố kinh tế- chính trị-
văn hóa- xã hội, tạo thành sự thống nhất trong tổ chức làng.
Trong quá trình hình thành và phát triển, làng Việt được phân chia như sau:
Theo thời gian hình thành, có các làng đầu công nguyên, các làng thời
Lý - Trần, làng thời Lê sơ, Lê - Trịnh - Nguyễn; làng thời Nguyễn và cả
những làng mới hình thành gần đây do những chính sách phát triển kinh tế -
văn hoá của Nhà nước ta.
Theo vùng địa lý, có các loại làng miền Bắc; các làng miền Trung; làng
miền Nam; làng Trung du; làng đồng bằng; làng ven biển...
Theo nghề nghiệp, có các làng thủ công; các loại làng nông nghiệp;
làng chài; làng muối.
Theo phương thức thành lập, có các loại làng do nhóm cư dân khai
hoang tập thể hoặc nhà nước thực hiện chính sách khai hoang….
Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa
làng trong thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng
làng văn hóa một cách vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng
minh, trong quá khứ lịch sử cũng như hiện tại và tương lai, làng luôn giữ một
vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là nơi lưu
giữ trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị vốn
có của văn hóa làng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được ước mơ,
nguyện vọng chính đáng của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế đẩy lùi
những yếu kém đang tồn tại trong môi trường xã hội nói chung và môi trường
12
văn hóa ở làng quê nói riêng.
Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong
phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ
bản của nông dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo
đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định trong nông thôn, giữ
gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh…cần phải đặc biệt
chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã đưa ra 5 tiêu chuẩn để công nhận làng văn hóa là:
“ Tiêu chuẩn 1, đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển:
a) Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, không còn hộ
đói, tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (dưới đây gọi là bình quân chung);
b) Có phong trào xóa nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ có nhà bền vững cao
hơn mức bình quân chung.
c) Có nhiều hoạt động hiệu quả: Về tuyên truyền, phổ biến và ứng dụng
khoa học - kỹ thuật; phát triển nghề truyền thống; hợp tác và liên kết phát
triển kinh tế;
d) Tỷ lệ lao động có việc làm, thu nhập bình quân đầu người/ năm cao
hơn mức bình quân chung;
đ) Có 80% trở lên hộ gia đình tham gia cuộc vận động xây dựng nông
thôn mới; xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội ở cộng đồng.
Tiêu chuẩn 2, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú:
a) Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn (làng, ấp, bản và tương đương) từng
bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
b) Duy trì phong trào văn hóa, thể thao, thu hút 40% trở lên số người
dân tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ở cộng đồng;
c) Có 70% trở lên hộ gia đình thực hiện tốt các quy định về nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; không có hành vi truyền bá và
13
hành nghề mê tín dị đoan;
d) Không phát sinh người mắc tệ nạn xã hội ở cộng đồng; không có
người sử dụng và lưu hành văn hóa phẩm độc hại;
đ) Có 70% trở lên hộ gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”,
trong đó ít nhất 50% gia đình văn hóa được công nhận 3 năm trở lên;
e) 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, đạt chuẩn phổ
cập giáo dục trung học trở lên; có phong trào “khuyến học”, khuyến tài;
g) Không có hành vi gây lây truyền dịch bệnh; không để xảy ra ngộ độc
thực phẩm đông người; giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, trẻ em được tiêm
chủng đầy đủ và phụ nữ có thai được khám định kỳ;
h) Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình;
i) Có nhiều hoạt động đoàn kết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và các công trình
công cộng; bảo tồn các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể thao dân gian truyền
thống ở địa phương.
Tiêu chuẩn 3, môi trường cảnh quan sạch đẹp:
a) Có tổ vệ sinh thường xuyên quét dọn vệ sinh, thu gom rác thải về nơi
xử lý tập trung theo quy định;
b) Tỷ lệ hộ gia đình có 3 công trình hợp vệ sinh (nước sạch, nhà tắm,
hố xí) đạt chuẩn, cao hơn mức bình quân chung; các cơ sở sản xuất, kinh
doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường;
c) Nhà ở khu dân cư, các công trình công cộng, nghĩa trang được xây
dựng từng bước theo quy hoạch;
d) Thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở, nâng cao ý thức của người
dân về bảo vệ môi trường sinh thái; vận động nhân dân xây dựng cải tạo, nâng
cấp hệ thống thoát nước; cải tạo các ao, hồ sinh thái; trồng cây xanh.
Tiêu chuẩn 4, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
14
sách, pháp luật của Nhà nước:
a) Có 90% trở lên hộ gia đình được phổ biến và nghiêm chỉnh thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
quy định của địa phương;
b) Hoạt động hòa giải có hiệu quả; hầu hết những mâu thuẫn, bất hòa
được giải quyết tại cộng đồng;
c) Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở; phản ánh kịp thời những đề xuất, kiến nghị của nhân dân
giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, cộng đồng dân cư; không có khiếu
kiện đông người trái pháp luật;
d) Tuyên truyền và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ở khu dân
cư tham gia giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ
công chức Nhà nước; tham gia xây dựng Chi bộ Đảng, chính quyền đạt danh
hiệu “Trong sạch, vững mạnh”; các tổ chức đoàn thể đạt danh hiệu tiên tiến
trở lên hàng năm; các tổ chức tự quản ở cộng đồng hoạt động có hiệu quả.
Tiêu chuẩn 5, có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng:
a) Thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước, phát triển phong trào
“Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, nhằm chăm sóc các gia đình
chính sách, người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn
mức bình quân chung;
b) Thực hiện tốt các hoạt động “Nhân đạo từ thiện”, giúp đỡ đồng bào
bị thiên tai, gia đình khó khăn, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật,
nạn nhân chất độc da cam - dioxin và những người bất hạnh”[15].
Trên cơ sở các tiêu chí nói trên của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
thì một làng văn hóa được xây dựng trên cơ sở đảm bảo các nội dung chủ yếu
sau đây:
Một là, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất kinh doanh phát
15
triển, đời sống nông dân ngày càng được nâng cao.
Đây là nhân tố hàng đầu để huy động rộng rãi nhân dân tham gia cuộc
vận động xây dựng làng văn hóa. Căn cứ vào điều kiện cụ thể và thế mạnh
của từng nơi, các cấp ủy Đảng và chính quyền cần xác định cơ cấu kinh tế của
địa phương mình cho phù hợp.
Trong những năm qua, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn nông thôn, các cấp lãnh đạo đã và đang hỗ trợ người lao động đẩy mạnh
thâm canh tăng vụ, tích cực sử dụng các giống mới, nâng cao năng suất cây
trồng vật nuôi. Mặt khác chú ý sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích
và hỗ trợ khôi phục các làng nghề truyền thống, thúc đẩy mở rộng thương mại
và dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nhờ vậy, kinh tế ở nhiều làng đã có
những chuyến biến rõ rệt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu cấp thiết của
cuộc vận động xây dựng làng văn hóa.
Một cán bộ xã có sự kết hợp chặt chẽ của cả bốn yếu tố: người dân,
người cùng họ hàng, người đại diện của cộng đồng và người đại diện cho Nhà
nước ở đại phương. Bốn yếu tố này vừa thông nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột
nhau trong con người cán bộ xã , chi phối hoạt động của họ, nhất là trong việc
giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân
và cộng đồng. Một thực tế là cán bộ xã nói chung chưa được đào tạo cơ bản về
văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, trình độ kiên thức và năng lực công tác còn
yếu về nhiều mặt. Hiện nay xu hướng tăng thêm cán bộ xã được hưởng các
khoản phụ cấp ngày càng phổ biến ở các địa phương nhưng cuộc vận động xây
dựng làng văn hóa không vì thế mà được quan tâm tạo thêm nguồn cán bộ phục
vụ phong trào. Điều này đòi hỏi cuộc cải cách bộ máy nhà nước phải quan tâm
khắc phục để tạo ra sự vận hành đồng bộ trong chương trình chung.
16
Ba là, tổ chức xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức an ninh của dân.
Xây dựng làng văn hóa là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi
công dân. Vì vậy, mô hình làng văn hóa mới, những thiết chế, cách thức tổ
chức hoạt động và mức đóng góp của từng hộ gia đình... Phải được nghiên
cứu và thảo luận kỹ lưỡng để giành được sự đồng tình, thống nhất cao trong
cộng đồng làng.
Những thiết chế văn hóa cơ bản như: trường học, nhà văn hóa, thư viện,
câu lạc bộ… do nhu cầu ở làng xã cần thiết phải thành lập. Các thiết chế văn
hóa này rất cần thiết cho việc khôi phục và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống trong các cộng đồng làng.
Để duy trì phong tục và tín ngưỡng mỗi làng có một số tổ chức của dân
đã tồn tại lâu đời. Ngày nay nhân dân một số làng xã đang có yêu cầu khôi
phục lại một số tổ chức còn phù hợp và có tác dụng. Thực tế ở nhiều nơi đã
khôi phục lại một phần các tổ chức ấy để dân tự quản, tự do liệu lấy công việc
nội bộ như cúng bái đình chùa, tổ chức tang ma, cưới xin, giải quyết xích mích,
duy trì phong tục đạo đức, ổn định trật tự an ninh theo quy ước của làng.
Lực lượng bảo vệ an ninh làng xóm do dân tự quản lý, có sự chỉ đạo
của chính quyền cấp xã sẽ có nhiều thuận tiên trong công việc. Khả năng “tác
chiến” mau lẹ, kịp thời, hiệu quả hơn là chờ đợi sự chỉ huy từ cấp trên.
Bốn là, xây dựng quy ước văn hóa của làng văn hóa.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp đoàn cán bộ tỉnh Thái Bình
tại Phủ Chủ tịch đã phê bình các cán bộ địa phương đã “quá tả”, xóa bỏ quỹ
nghĩa thương và hương ước. Người khẳng định: “Hương ước là những khoán
ước trong làng, người ta quy định với nhau không được để cho bò phá lúa, gà
qué ăn mạ…đó là những phong tục hay của nông thôn nước ta trước đây. Từ
sau cách mạng, các chú đem xóa bỏ cả, thế là không đúng. Cách mạng chỉ
17
xóa cái xấu,cái dở còn giữ lại cái tốt, cái hay” [31; tr.10-11].
Ngày nay, mặc dù bên cạnh xây dựng pháp luật thống nhất với khẩu
hiệu “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, Đảng và nhà nước ta vẫn
khuyến khích các làng xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa để phát huy
tinh thần tự quản của nhân dân ở cơ sở. Thực tiễn đặt ra cho thấy cần phải
nhìn nhận lại quy ước văn hóa từ góc độ văn hóa để nó phục vụ sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung và xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn nói riêng.
Năm là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là sự quyết tâm chiến lược của
Đảng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nông thôn hiện nay. Chủ trương trên đã
đem lại cho người dân quyền bàn bạc, quyết định và giám sát tất cả những gì
liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ. Thực tế, thông qua thực hiện quy
chế dân chủ, nông dân được nhận thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mình
trong cộng đồng làng xã cũng như trong toàn xã hội. Ở nông thôn từng cộng
đồng làng xã đã tự bàn bạc và quyết định góp vốn, góp công sức xây dựng
mới ở nông thôn đường, trường, điện, nước, nhà ở, kênh mương, tạo ra đà
phát triển mới ở nông thôn.
Sáu là, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa.
Gia đình là tế bào của xã hội, từ gia đình sẽ cấu trúc lên làng nước, gia
đình có lành mạnh thì làng xóm mới lành mạnh, phát triển. Nhận thức rõ vai
trò to lớn của gia đình trong việc xây dựng làng nước, cấu trúc thành xã hội,
Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình văn hóa là vấn đề hết sức
hệ trọng của dân tộc và thời đại.
Mỗi làng cần thường xuyên thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình
văn hóa với bốn nội dung đã được xác định:
+ Gia đình thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
18
+ Xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ.
+ Đoàn kết, tương trợ xóm làng.
+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân.
Thực hiện sáu vấn đề cơ bản nói trên có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài
đến xu thế vận động và phát triển của phong trào xây dựng làng văn hóa ở
nước ta. Xây dựng làng văn hóa là một công việc đa dạng và phức tạp, chúng
ta phải huy động được sức mạnh của đông đảo nông dân, cùng với những
định hướng và những kinh nghiệm đã và đang có ở một số địa phương. Làng
văn hóa sẽ trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển ở nông thôn Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng làng văn hóa phải gắn liền với xây dựng
thiết chế văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng và thực hiện quy ước
văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở…Trên cơ sở kế thừa và phát huy
các giá trị tích cực của văn hóa làng truyền thống, nhằm thực sự phát huy vai
trò của văn hóa trong quá trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn Việt Nam.
Những tiêu chuẩn của làng văn hóa và nội dung cơ bản trong xây dựng
làng văn hóa cho thấy khái niệm làng văn hóa không đồng nhất với khái niệm
văn hóa làng.
Văn hóa làng, hàm chức nhiều nội dung rất phong phú và đa dạng, tạo
nên bức tranh đa sắc của văn hóa Dân tộc. “Văn hóa làng xã Việt Nam có vị
trí quan trọng trong tiến trình lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc. nó luôn
luôn bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nuôi dưỡng sức sống trường
tồn của văn hóa dân tộc” [57; tr 18-19]. Văn hóa làng Việt Nam qua hàng
ngàn năm phát triển với bản sắc có giá trị thực sự là một nền văn hóa của
nhân dân và trở thành bộ phận ổn định nhất của văn hóa dân tộc.
Xét tổng thể ở nước ta có sự khác biệt nhất định văn hóa giữa làng với
19
làng, giữa làng với nước. Tuy nhiên, giao lưu văn hóa đã làm cho văn hóa
làng có nét chung, đồng dạng về tư tưởng, tín ngưỡng, về kiến trúc, điêu khắc,
giáo dục và thẩm mỹ…Từng khu vực cư trú có những yếu tố, những sắc thái
văn hóa khác nhau, vùng Nam Bộ khác vùng Bắc Bộ, nhưng cấu trúc tổng thể
văn hóa làng tương đối giống nhau. Chúng ta có thể tán thành quan điểm của
nhà nghiên cứu Thu Linh cho rằng: “Văn hóa làng là một nền văn hóa thuộc
về cộng đồng và mang tính chất cộng đồng. Chủ thể làng, tập thể làng chính
là tác giả, là người tạo dựng, sáng lập nên nền văn hóa ấy. Ở Việt Nam, một
làng với tư cách là một làng, được xác định không chỉ qua địa bàn cư trú,
hoạt động nghề nghiệp, lịch sử hình thành, kết cấu kinh tế, quan hệ xã hội, mà
còn qua cả sinh hoạt văn hóa có bản sắc riêng của nó nữa” [42; tr.46-48].
Do vậy, văn hóa làng là một trong những tiêu chí hàng đầu để xác định
và phân biệt diện mạo của làng này với làng khác. Người sáng tạo ra những
giá trị của văn hóa làng chính là những thành viên của làng. Họ chính là
những người tham gia sáng tạo, vừa tổ chức thực hiện và cũng đồng thời là
những người chiêm ngưỡng, hưởng thụ những giá trị văn hóa do chính bản
thân mình gây dựng nên. Chính vì vậy tính nhân văn của văn hóa làng càng
được tô đậm ở tính chất cộng đồng, tính tập thể của nó. Làng là chủ thể tập
thể của văn hóa và thông qua văn hóa làng chúng ta có thể khám phá được
diện mạo văn hóa chung của cả làng. Đây cũng chính là điều khá lý thú để
phân biệt làng này với làng khác nhằm khẳng định “cái ta” của làng mình. Sự
khẳng định và phân biệt này chưa phải đã đạt tới một trình độ khác về chất.
Song thông qua những biểu hiện dù nhỏ vẫn có thể thấy rõ người nông dân đã
có ý thức trong sự khẳng định và phân biệt này.
Trong khung cảnh riêng của làng Việt Nam, văn hóa làng mang một số
nét đặc thù:
Ý thức đoàn kết cộng đồng rất cao và thể hiện ở nhiều mặt của cuộc
sống (trong lao động sản xuất cũng như trong các sinh hoạt tinh thần), từ ý
20
thức này đã thúc đẩy tính dân chủ làng xã.
Ý thức tự trị thông qua các lệ làng và hương ước.
Diện mạo văn hóa: tùy vào điều kiện môi trường tự nhiên, nề nếp sinh
hoạt và cách ứng xử riêng của từng làng mà mỗi làng sẽ có đặc điểm để tự
hào (đất lề, quê thói).
Đa thần giáo là đặc điểm nổi bật trong đời sống tín ngưỡng ở làng.
Trong bức tranh toàn cảnh của văn hóa làng, quy ước làng văn hóa là
một thành tố không thể thiếu. Mỗi làng Việt Nam có một bản sắc riêng làm
nên tính đa dạng, phong phú, nên quy ước làng văn hóa cho chúng ta một bức
tranh nhiều màu vẻ về sinh hoạt tại các làng xã Việt Nam. Một đặc trưng
hiếm thấy là, trong số lượng lớn quy ước làng văn hóa thì quy ước của mỗi
làng xã không bao giờ trùng lặp nhau về nội dung. Mỗi hương ước đều ẩn
chức tính đa dạng, tính linh hoạt, tính đặc trưng trong tâm tính người Việt ở
mỗi vùng đất khác nhau. GS Đinh Gia Khánh cho rằng, quy ước là “ bản ghi
chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống xã hội
trong làng, các điều lệ hình thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ
sung khi cần thiết”[39].
1.1.2. Quy ước làng văn hóa
Khái niệm quy ước làng văn hóa
Quy ước làng văn hóa hiện nay là văn bản quy phạm xã hội trong đó
quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra
để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ
gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa
trên địa bàn làng, buôn, thôn, ấp, cụm dân cư, góp phần hỗ trợ tích cực cho
việc quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Sự ra đời của quy ước làng văn hóa có nguồn gốc từ hương ước của
làng Việt Nam trong lịch sử. Hương ước là sản phẩm văn hóa của làng đồng
21
thời cũng là công cụ để quản lý làng xã, buộc mọi thành viên phải thực hiện.
Hương ước, luật làng đã tồn tại song song cùng với luật pháp và nắm giữ vai
trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, cắm rễ, ăn sâu trở thành nếp cảm,
nếp nghĩ của con người. Hương ước là bản ghi chép những quy ước, điều lệ
(những quy tắc xử sự chung) bắt buộc người dân trong làng phải tuân thủ
nhằm điều hòa các mối quan hệ và quản lý làng xã.
Có nhiều những định nghĩa khác nhau về hương ước. GS Đinh Gia
Khánh viết: “Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến tổ chức xã
hội cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành dần dần
trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết” [39; tr.62]. Trong
lời giới thiệu cuốn “Hương ước cổ Hà Tây”: “Hương ước là những quy ước
điều lệ của một cộng đồng người chung sống trong cùng một khu vực, để điều
hòa quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể hoặc giữa tập
thể này với tập thể khác” [52; tr.7]. Khái niệm này nhấn mạnh vào mục đích
của việc xây dựng hương ước. Cũng giống như vậy, tác giả Cao Văn Biền cho
rằng, “Hương ước là văn bản pháp quy về các tục lệ của làng xã do quan viên
của làng xã tự xây dựng nên cho làng mình nhằm bảo vệ sự tồn tại của cộng
đồng dân cư ở làng xã trong tư thế ổn định của nó về lãnh thổ; xây dựng
phong tục, tập quán tốt đẹp; phát triển đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội” [6,
tr.42]. Tác giả Ninh Viết Giao quan niệm, “Hương ước là văn bản pháp lý của
mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về giữ gìn đạo lý, về phong tục tập
quán…có liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đời sống nhân dân trong
làng. Hương ước là tấm gương phản chiếu bộ mặt xã hội cũng như đời sống
văn hóa của mỗi làng” [38; tr.58]. Nhà nghiên cứu Vũ Duy Mền định nghĩa:
“Hương ước là những quy ước về hầu hết các mặt hoạt động của làng xã
người Việt, như cách thức tổ chức và hoạt động của các thiết chế và tổ chức
trong làng xã: Hội tư văn, tư võ, hội thiện, phe - giáp, xóm ngõ…các hoạt
22
động xã hội: Hội hè đình đám, lễ tế, tuần phòng, khao vọng…Một số hoạt
động kinh tế…Đó là những quy ước vừa mang nét chung và rất nhiều nét
riêng, rất riêng của mỗi làng Việt” [49; tr.83]. Khái niệm này đã cụ thể hóa
mặt nội dung của hương ước.
Như vậy, dù được diễn đạt bởi ngôn từ không giống nhau, dù được phát
triển ở góc độ khoa học nào, các ý kiến đều thống nhất coi hương ước là lệ
làng được văn bản hóa. Hương ước còn có tên gọi khác như hương khoán,
hương biên, hương lệ, khoán ước, khoán lệ, điều lệ, điều ước hay tục lệ…
Hương ước ra đời là kết quả của sự thỏa hiệp giữa tính tự quản làng xã
và tính áp chế của chính quyền nhà nước. Có thể nói nó thể hiện rất rõ tính tự
quản của làng đối với nhà nước. Làng thay đổi thì hương ước sẽ được sửa đổi,
bổ sung sao cho phù hợp với tình hình mới. Ngày nay, hương ước cũng có
nhiều những thay đổi về tên gọi, nội dung cũng như phạm vi điều chỉnh.
Từ sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nông nghiệp, thường gọi là
“khoán 10” từ năm 1989 đến nay, tình hình chính trị- kinh tế- văn hóa – xã
hội ở nông thôn có nhiều thay đổi quan trọng. Hộ gia đình được xác nhận trở
lại là đơn vị kinh tế tự chủ. Làng với tính cách là cộng đồng có thiết chế tổ
chức riêng, phong tục tập quán, tâm lý và tín ngưỡng riêng đã dần dần khẳng
định lại vị trí, vai trò, chức năng quan trọng của nó trong quản lý kinh tế- xã
hội từ việc xây dựng cơ sở chính trị (chi bộ Đảng, các đoàn thể quần chúng),
chính quyền (chức danh trưởng thôn) đến quản lý kinh tế (quy mô hợp tác xã
nông nghiệp) xây dựng đời sống văn hóa cơ sở… đều tổ chức theo đơn vị
làng. Trong tình hình trên đây, nhiều làng ở Đồng bằng sông Hồng đã soạn
thảo ra các quy ước làng làm “cơ sở pháp lý” để quản lý, điều chỉnh các mặt
sinh hoạt của cộng đồng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng và vai trò của hương ước truyền thống, từ
23
năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về
xây dựng và thực hiện Hương ước, quy ước của làng, thôn, bản, cụm dân cư.
Tiếp theo, ngày 21/3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin và Ban
thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam đã ra thông tư liên tịch số
03/2000/TTLT/BTP-BVH.TT.BTT.UBTƯMTTQVN hướng dẫn việc xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, thôn, bản, ấp, cụm dân cư.
Thông tư đã khẳng định hương ước, quy ước là văn bản quy phạm xã hội
trong đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa
thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ làng xã mang tính tự quản của nhân
dân, nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp và truyền
thống văn hóa trên địa bàn làng, thôn, ấp, bản, cụm dân cư, góp phần hỗ trợ tích
cực cho việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật.
Tái lập hương ước là hiện tượng hợp quy luật phát triển của lịch sử làng xã
người Việt ở Bắc Bộ và hợp pháp luật. Hương ước là một sản phẩm tất yếu của
làng Việt. Cho đến nay, nhìn chung việc xây dựng và thực hiện hương ước đã
từng bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ở nhiều tỉnh, việc
xây dựng hương ước đã được triển khai đồng bộ như Bắc Ninh, Hải Dương,
Thái Bình, Hà Nội... Tại các tỉnh này đã có khoảng hơn 90% số làng, thôn,
cụm dân cư ban hành hương ước, 60% đến 80% trong số đó đã được Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, phê duyệt. Các quy ước của làng có vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quy ước làng với pháp luật
cùng với các yếu tố khác trong hệ thống các quy tắc xã hội có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau. Trong quá trình tác động và điều chỉnh các quan hệ xã hội. quy
ước làng đã bổ sung và hỗ trợ cho các yếu tố khác (đạo đức, pháp luật, tập quán,
quy tắc tôn giáo, điều lệ của các tổ chức chính trị- xã hội…) nhằm tạo ra một
trạng thái trật tự ổn định cho xã hội.
Xây dựng và thực hiện quy ước ở mỗi làng, ấp, bản, cụm dân cư là một
24
điều không thể thiếu trong các chế độ xã hội. Mặc dù thôn, ấp, làng, bản
không phải là một cấp chính quyền, nhưng là nơi sinh sống của cộng đồng
dân cư, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm giải
quyết các công việc nội bộ của cộng đồng dân cư. Có thể nói, quy ước làng
văn hóa hiện nay là sự thể hiện rõ nhất tính tự quản của làng, là sản phẩm của
“văn hóa làng”, là sản phẩm tự nhiên và là kết quả của quá trình phát triển nội
tại của làng xã trở thành công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong
làng, một tri thức dân gian về quản lý cộng đồng.
Cấu trúc của quy ước làng văn hóa:
+ Chương 1: Nguyên tắc chung
+ Chương 2: Các quy định về lễ nghi, tôn giáo (chủ yếu là quy định về lễ hội)
+ Chương 3: Quy định về nềp sống văn hóa nói chung (chủ yếu là xây
dựng gia đình văn hóa, việc cưới, việc tang)
+ Chương 4: Đạo lý gia đình và xã hội
+ Chương 5: An ninh trật tự, bảo vệ môi trường
Cuối cùng là điều khoản thi hành.
Một số bản Quy ước làng văn hóa chỉ chia thành 3 phần lớn: Nguyên
tắc chung, Những quy định cụ thể, Điều khoản thi hành, trong đó:
Nguyên tắc chung: Nêu khái quát tình hình lịch sử, quá trình hình thành,
truyền thống văn hoá, cách mạng của địa phương, tình hình hiện tại, những
thuân lợi, khó khăn trong xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời nêu
nguyên tắc chung khi soạn thảo, giá trị pháp lý và phạm vi hiệu lực của văn bản.
Những quy định cụ thể: Là quy định về xây dựng gia đình văn hoá, xây
dựng nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt hàng ngày, giữ gìn trật tự an ninh,
quy định về ngày lễ, ngày giỗ, ngày hội, việc cưới, việc tang, về bảo vệ và
phát triển sản xuất, bảo vệ các công trình công cộng, vệ sinh môi trường và
25
các quy định khác (về khuyến học, khuyến nông…).
Về điều khoản thi hành: Việc theo dõi thi hành quy ước của các thôn
làng thường giao cho trưởng thôn, trưởng làng chịu trách nhiệm cùng với sự
phối hợp với các đoàn thể của địa phương. Các hoạt động diễn ra đều có sự
chỉ đạo của cấp uỷ đảng địa phương, sự theo dõi, quản lí.
Sự ra đời của quy ước làng văn hóa
Quy ước làng văn hóa đã tồn tại khá lâu dài và có những bước phát
triển thăng trầm trong đời sống xã hội của nước ta từ xưa đến nay. Trong xã
hội phong kiến thì quy ước là bản ghi chép đầy đủ nhất hệ thống lệ làng và
được người dân trong làng chấp hành nghiêm túc, có nhiều nơi còn được coi
trọng hơn cả các quy định của triều đình.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, để xây dựng xã hội
mới, chúng ta chủ trương xóa bỏ những tàn dư của chế độ cũ và từ đó về sau
các làng không còn duy trì hương ước. Có lẽ cũng do quá mặc cảm với câu
“phép vua thua lệ làng” mà chúng ta chỉ nhìn nhận đánh giá hương ước thiên
về những yếu tố tiêu cực như những quy định về ngôi thứ, khát vọng, phạt vạ,
đình đám với những tục lệ lạc hậu, mà chưa biết gạn đục khơi trong cho phù
hợp với thời đại mới.
Ngay từ tháng 3/1947, Bác Hồ đã viết cuốn “Đời sống mới” dưới bút
danh Tân Sinh, ở thể hỏi đáp, nhằm xây dựng đời sống mới trong toàn dân.
Đối với làng xã việc thực hiện đời sống mới theo Người cần phải làm những
việc như sau: “Về văn hóa phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và
trách nhiệm của công dân. Về phong tục cần phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc,
hút sách, trộm cắp, đĩ điếm. Tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện
cáo nhaum làm cho làng mình trở thành một làng thuần phong mỹ tục” [44].
Trong tác phẩm “Đời sống mới” Người còn dành một phần nói về văn hóa gia
đình: “Trong gia đình thực hiện đời sống mới về quan hệ thì trên thuận dưới
26
hòa, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không thiên tư, thiên ái; Về vật chất từ ăn
mặc đến việc làm đều phải có kế hoạch, ngăn nắp; Cưới hỏi, giỗ tết nên đơn
giản tiết kiệm, quan tâm đến con cái, đến việc tu dưỡng, học hành, kỷ cương
nền nếp; giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng”[44].
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khởi xướng đường lối
đổi mới. Đến nay, việc thực hiện đường lối đã đem lại nhiều chuyển biến tích
cực trong đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Đồng thời cũng phát sinh
những vấn đề tiêu cực trong xã hội, đặc biệt là vùng nông thôn mà pháp luật
chưa với tới. Vì vậy, đòi hỏi phải có quy ước làng để điều chỉnh các mối quan
hệ mang tính tự quản tại cộng đồng dân cư.
Từ năm 1991 đến nay, Bộ văn hóa thông tin đã chỉ đạo xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, mà nội dung quan trọng là: Xây dựng gia đình văn hóa,
thôn xóm, làng văn hóa.
Ngày 19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị
24/1998/CT TTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản,
thôn ấp, cụm cư dân.
Ngày 21/3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin và Ban thường
trực UBTUMTTQ Việt Nam đã ra thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP –
BVHTT BTTUBTUMTTQVN hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương
ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư.
Về thuật ngữ, gọi là Quy ước làng văn hóa. Vì quy ước mang tính quần
chúng rộng rãi và tính tự nguyện sâu sắc. Do quần chúng nhân dân xây dựng
nên – Vì cuộc sống và lợi ích của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng.
Thuật ngữ Quy ước phù hợp với nội dung và tính chất của cuộc vận động xây
dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa.
Do là nếp sống nên về bản chất nó thuộc phạm trù đạo đức hơn là phạm
trù pháp luật, nên phải dùng dư luận để điều chỉnh hành vi con người trong xã
27
hội, nên quy ước mang ý nghĩa bình đẳng, dân chủ. Mọi người được bàn bạc
thống nhất các điều khoản, thỏa thuận cùng nhau thực hiện, vì nhu cầu cuộc
sống chung của cộng đồng.
Đặc trưng của quy ước làng văn hóa
Quy ước làng văn hóa là kết ước của người dân, được thể hiện bằng một
loại văn bản với nhiều tên gọi khác nhau như: hương ước làng, quy ước làng...
Trong dân gian cũng còn nhiều loại hình kết ước của người dân được thể hiện
bằng các câu tục ngữ, lời nói có vần, phương ngôn, ngạn ngữ truyền miệng,
không được thực hiện bằng văn bản thì không phải là quy ước làng văn hóa;
Quy ước làng văn hóa do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra trên cơ
sở sự nhất trí của tập thể cộng đồng dân cư. Đây cũng là một trong những
nguyên tắc xây dựng quy ước, bất cứ một cá nhân hay một cơ quan, tổ chức nào
xây dựng văn bản và tự gọi đó là quy ước làng văn hóa đều là không đúng,
không phù hợp với tính chất, đặc trưng và nguyên tắc xây dựng quy ước;
Quy ước làng văn hóa cũng là một loại văn bản quy phạm, có nghĩa là
nó cũng chứa đựng những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép cá nhân, tổ
chức được làm hoặc không được làm một việc gì đó trong cuộc sống hàng
ngày tại địa phương, nhưng đấy là các quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư
thỏa thuận đặt ra và cùng nhau thực hiện. Nghĩa là cộng đồng dân cư tự xây
dựng các nguyên tắc ứng xử trên cơ sở pháp luật và truyền thống, tập quán địa
phương và tự nguyên thực hiện các nguyên tắc đó. Đặc điểm này của quy
phạm trong quy ước làng văn hóa khác hẳn với các quy phạm pháp luật trong
các văn bản do Nhà nước ban hành;
Các quy định trong quy ước làng văn hóa không được trái với quy định
của pháp luật, nếu trái thì phải loại bỏ những quy định đó.
Trên thực tế, quy ước làng văn hóa được xây dựng chủ yếu để điều
chỉnh các quan hệ tự quản tại cộng đồng dân cư, là những quan hệ xã hội
28
trong lĩnh vực xã hội – dân sự mà pháp luật không điều chỉnh hoặc chỉ điều
chỉnh ở mức độ quy định các nguyên tắc chung như: việc tổ chức ma chay,
cưới xin, bảo vệ trật tự trị an, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giữ
gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống, giải quyết các tranh chấp
hoặc những vi phạm nhỏ trong nhân dân, các phương thức cụ thể tại địa
phương để xóa đói, giảm nghèo...
Nội dung cơ bản của quy ước làng văn hóa:
Đề ra các biện pháp, phương thức thích hợp giúp dân cư trên địa bàn
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đảm bảo và phát huy quyền tự do,
dân chủ của nhân dân; động viên và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt
các quyền và nghĩa vụ của công dân;
Các nội dung, biện pháp nhằm bảo đảm, giữ gìn và phát huy thuần
phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn ở, đi
lại, phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình
làng, nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong
cộng đồng dân cư; thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước;
Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản công
cộng và tài sản công dân, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ rừng, biển, sông,
hồ, danh lam thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập
nước, kênh mương, cầu cống, đường dây tải điện; xây dựng và phát triển
đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh… Chẳng hạn trong quy ước Cổ Nhuế
tại điều 1, khoản thứ 5 quy định: “Các nhà trong làng hè vách đều phải sạch
sẽ. Những ao rãnh trong vườn và các hồ ở ngoài ngõ vườn, chứa nước dơ dáy
là chỗ sanh loại độc côn trùng và độc khí thì hội hào mục mỗi kỳ hội đồng
cho hương kiểm, tộc biểu và hương dịch đi biểu các nhà người lấp liếm mấy
chỗ lũng ấy như ao hồ cho khỏi các vi trùng sanh đẻ, người nào ở gần đàng tư
ích, cấm không được ném đồ dơ dáy, hoặc xác xúc vật chết hai bên đàng cái
29
hay nơi ao hồ, phải chôn sâu cho khỏi truyền nhiễm” [59]. Quy ước làng văn
hóa còn quy định về những điều xử phạt rất nghiêm đối với những hành vi
gây ô uế không khí, làm nhiễm bẩn nguồn nước, làm lây lan dịch bệnh trong
xóm làng. Như điều 46 quy ước làng Thanh Liệt (nay thuộc Thanh Trì) ghi:
“Người ta ai có mạnh khỏe thì mới sống lâu, muốn dân làng được mạnh khỏe
thì ai cũng phải biết giữ gìn vệ sinh chung và vệ sinh riêng” [64].
Các biện pháp bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan trong
việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương; khuyến khích các
nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng phí, tốn kém;
Các nội dung góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa,
xây dựng làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư văn hóa, hình thành các quy tắc đạo
đức mới trong gia đình và cộng đồng; khuyến khích mọi người đùm bọc, giúp
đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, ốm đau; xây dựng các gia đình theo tiêu
chuẩn gia đình văn hóa; vận động thực hiện các chính sách dân số - kế hoạch
hóa gia đình. Đề ra các biện pháp khuyến khích xây dựng gia đình ít con,
khoẻ mạnh, ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; thực hiện kế hoạch hoá
gia đình; tự nguyện lựa chọn sử dụng các biện pháp tránh thai, không mang
thai trước hôn nhân, không kết hôn sớm, không đẻ sớm, đẻ nhiều, đẻ dày;
trong thời kỳ thai nghén thực hiện khám thai, tiêm chủng đầy đủ và sinh con
tại các cơ sở y tế. Như trong bản quy ước làng văn hóa xã Phụng Thượng,
huyện Phúc Thọ, Hà Tây (nay là Hà Nội) có quy định rõ ràng về thực hiện kế
hoạch hóa gia đình: “Để gia đình hạnh phúc, xã hội văn minh, mỗi cặp vợ
chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, mỗi con cách nhau 5 năm, không sinh con thứ 3;
phải coi con giá, con trai đều là con, đều được quý mến chăm sóc như nhau,
laoij trừ quan điểm trọng nam khinh nữ; cần tổ chức gia đình thành một đơn
vị thống nhất, có văn hóa, có kinh tế phát triển”[63].
Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận
30
động các thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xoá
đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, khuyến học, khuyến
nghề ở địa phương; vận động các thành viên trong cộng đồng tham gia tổ hợp
tác, hợp tác xã nhằm phát triển sản xuất. Khuyến khích phát triển các làng
nghề, đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công: điện,
đường, trường học, trạm xá, nghĩa trang, các công trình văn hoá, thể thao trên
địa bàn. Lập thu chi các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp khả
năng đóng góp của nhân dân;
Đề ra các biện pháp cụ thể bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn góp phần
phòng chống các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè bê tha, trộm cắp,
mại dâm và các hành vi vi phạm pháp luật khác nhằm xây dựng địa bàn trong
sạch. Phát động trong nhân dân ý thức phòng gian, bảo mật, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật về tạm trú, tạm vắng; tham gia quản lý, giáo dục, giúp
đỡ những người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư. Đề ra các biện pháp cần thiết
hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật trên địa bàn;
bảo đảm triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức tự quản ở
cơ sở như tổ chức, hoạt động của tổ hòa giải, ban an ninh, tổ bảo vệ sản xuất,
ban kiến thiết và các tổ chức tự quản khác;
Đề ra các biện pháp thưởng, phạt phù hợp để đảm bảo thực hiện quy
ước làng văn hóa. Quy ước quy định các hình thức và biện pháp thưởng đối
với cá nhân, hộ gia đình có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện quy
ước như: lập sổ vàng truyền thống, nêu gương người tốt, việc tốt, ghi nhận
công lao, thành tích của tập thể, cá nhân; bình xét, công nhận gia đình văn hóa
và các hình thức khen thưởng khác do cộng đồng tự thỏa thuận hoặc đề nghị
các cấp chính quyền khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước.
Những người có hành vi vi phạm các quy định của hương ước, quy ước
chủ yếu áp dụng các hình thức giáo dục, phê bình của gia đình, tập thể cộng
31
đồng, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng ở cơ sở. Trường
hợp vi phạm nghiêm trọng các quy định của hương ước, quy ước thì trên cơ
sở thảo luận thống nhất trong tập thể cộng đồng, có thể thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm trong phạm vi cộng đồng hoặc áp dụng các biện pháp phạt nhưng
không được đặt ra các biện pháp xử phạt nặng nề xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân.
Quy ước đưa ra các biện pháp nhằm góp phần giáo dục những người có
hành vi vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ người phạm tội sau khi ra tự trở thành những
người lương thiện, có ích cho xã hội. Những hành vi vi phạm pháp luật phải
do các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Việc áp
dụng các biện pháp xử lý vi phạm hương ước, quy ước không thay thế các
biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với cá nhân, hộ gia đình không thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy
đủ các quy định trong hương ước, quy ước thì có thể không đưa vào diện bình
xét công nhận gia đình văn hoá; Trưởng thôn, Trưởng Ban công tác Mặt trận
hoặc người có uy tín ở cộng đồng dân cư gặp gỡ, trao đổi, phân tích, chỉ rõ
thiếu sót, khuyên giải sửa chữa. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì có thể
buộc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong phạm vi cộng đồng nhưng không
được đặt ra các biện pháp xử phạt nặng nề, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Ở những địa bàn dân cư không thuần nhất, có nhiều dân tộc, cư dân
nhiều vùng miền, nghề nghiệp đan xen thì nội dung quy ước làng văn hóa cần
tập trung ưu tiên đưa ra những quy ước nhằm xây dựng khối đoàn kết tương
thân, tương ái, giúp nhau trong tổ chức cuộc sống chung trong cộng đồng,
phát triển sản xuất, bảo đảm trật tự trị an, xây dựng cuộc sống mới ở địa bàn.
32
Phong tục tập quán ở địa bàn này cần được cân nhắc kỹ, lựa chọn những nội
dung thiết thực, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chung của cả cộng đồng
dân cư đưa vào quy ước.
Cùng với pháp luật, quy ước làng văn hóa giúp duy trì an ninh trật tự, vệ
sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, khuyến
khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi phạm nhỏ trong nhân dân, xoá đói,
giảm nghèo, góp phần duy trì và phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn
mực đạo lý và đạo đức truyền thống dân tộc. Gần đây, nhiều nội dung của quy
ước làng văn hóa còn góp phần thực hiện chính sách dân số, bài trừ các hủ tục và
tệ nạn xã hội. Như vậy, quy ước làng văn hóa là thành tố quan trọng trong hệ
thống thể chế quản lý ở nông thôn, là một bộ phận hỗ trợ đắc lực pháp luật trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tại cộng đồng dân cư đối với những vấn đề,
những nội dung mà pháp luật không điều chỉnh, mặt khác, hương ước, quy ước
còn thực hiện tối đa tinh thần mở rộng dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân trong tiến
trình tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.
1.1.3. Vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đời sống xã hội
Quy ước làng văn hóa có vai trò quan trọng trong việc duy trì, phát huy
thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá cộng đồng, củng cố các giá trị
đạo lý và nhân bản. Nuôi dưỡng, vun đắp ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn
kết, tinh thần tự lực, tự chủ cho mỗi thành viên trong cộng đồng làng xã.
Trong quy ước xưa cũng có nhiều điều “khuyến”,trong bài truyền
thống khuyến học của người Hà Nội xưa qua quy ước đã ghi lại nhiều điều
trong quy ước một số làng ở Hà Nội với nội dung chính là khuyến khích việc
học hành. Như điều 102 trong Hương ước làng Nhật Tân ghi lại rằng: “Dạy
trẻ con có học thức phổ thông là nghĩa vụ của người làm phụ huynh, không ai
được từ” [62]. Quy ước làng Phù Xá Đoài có điều khoản ghi: “Con trai con
gái 5,6 tuổi cho vào trường học. Bằng không cho đi học, chỉ nuông con để
33
nghịch giặc, chửi đánh nhau, thời bố mẹ phải phạt một cơi trầu (10 quả cau,
giá tiền một hào)” [65], Hương ước làng Cổ Nhuế, điều 98 ghi: “Làng trích
tiền công để mua giấy cho những con nhà nghèo mà hương hội xét không thể
mua được”[59]. Hầu như làng nào cũng có khoản học điền để dành quỹ trả
lương cho thầy giáo trưởng làng và phát phần thưởng cho học trò giỏi, nhằm
thúc đẩy tinh thần hiếu học, ham học hỏi của người dân. Ngoài ra, các quy
ước còn có những điều lệ quy định tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,
“lá lành đùm lá rách”, “uống nước nhớ nguồn”… trong cộng đồng làng xã
cũng có ảnh hưởng tích cực đến đời sống làng xã Việt Nam hiện nay. Phát
huy cái đẹp, cái tốt trong Hương ước xưa, ngày nay, nhiều địa phương xây
dựng và thực hiện quy chế thôn xã văn hóa, vừa khôi phục những truyền
thống tốt đẹp của mình, vừa nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật chung của đất
nước, cùng cả nước lo toan những nghĩa vụ chung của người dân bình đẳng.
Quy ước làng văn hóa góp phần tổ chức và quản lý các mặt của đời sống
làng xã, duy trì trật tự, kỷ cương, tạo ra môi trường ổn định và an toàn cho cả
cộng đồng làng xã.
Trong các bản quy ước từ trước đến nay đều có quy định rất cụ thể về
“tôn ti trật tự” trong các quan hệ có tính thứ bậc trong làng xã. Từ đó, quy ước
đã góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cụ thể trong làng xã. Việc phát
huy tinh thần tự chủ, tự giác, tự quản làng xã cùng dư luận xã hội và các biện
pháp thưởng, phạt khác đã giúp cho trật tự, kỷ cương làng xã được thực hiện
một cách rất nghiêm chỉnh, nhờ đó đã giúp rất nhiều cho sự phát triển của làng
xã hôm nay.
Quy ước làng văn hóa không chỉ là biểu hiện của pháp luật mà còn giúp
khắc phục các chỗ hổng của pháp luật hoặc pháp luật quy định chưa cụ thể;
Đưa pháp luật đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn. Pháp luật dù
cụ thể đến mấy cũng không thể bao quát được tất cả các đặc thù của quan hệ
làng xã. Đặc biệt là các làng xã cổ truyền Việt Nam bên cạnh các đặc điểm có
34
tính phổ quát, mỗi làng xã lại có các đặc điểm riêng của mình. Do vậy, mỗi
một cộng đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định gần gũi, dễ hiểu, dễ
thực hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và
phát triển vủa mỗi làng, xã cụ thể. Bên cạnh đó, khi có những chính sách của
Nhà nước đưa xuống các vùng nông thôn thì nhờ có quy ước của các làng nên
việc thực thi những chính sách đó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh
hơn, nâng cao ý thức pháp luật của người dân ta.
Xây dựng và thực hiện quy ước làng văn hóa gắn liền với thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện nhiệm vụ chính trị, cải cách hành chính...
gắn với thực hiện các phong trào thi đua yêu nước nhằm tăng cường sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh –
quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Việc xây dựng và thực hiện quy ước làng văn không nên hình thức, dập
khuôn mà phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện đóng góp ý kiến của
người dân.. Quy ước là của dân, do dân thảo luận, bàn bạc chỉ đưa lên cấp xã
phê duyệt, phần nào chưa được thì ý kiến phản hồi lại cho dân biết, chứ chính
quyền không được thêm hoặc sửa vào đó. Hơn nữa, những gì luật đã có rồi thì
đương nhiên người dân phải thực hiện không được đưa vào hương ước sẽ gây
ra tình trạng áp đặt, dài dòng rối rắm… Phải có hương ước của chính lòng dân
thì mới thực hiện thành công. Để thực hiện tốt quy ước của làng, thôn, ấp,
bản, cụm dân cư cần phải phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, người
cao tuổi có uy tín trong việc vận động quần chúng nhân dân tham gia tích cực.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định:
“Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại diện là
các cơ quan dân cử và các đoàn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức
nhân dân tự quản, bằng hương ước, quy ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp
35
nhà nước” [23].
Bên cạnh những tác động tích cực đối với đời sống xã hội, quy ước làng văn
hóa còn có một số ảnh hưởng tiêu cực trong sự phát triển của làng xã hiện nay:
Có nhiều các bản Hương ước mang theo những quan niệm lạc hậu,
chứa những yếu tố tiêc cực, gây ảnh hưởng cho sự phát triển của làng xã, cản
trở việc thực hiện các chính sách phát triển của nhà nước. Trong thực tiễn đời
sống pháp lý ở làng xã cổ truyền Việt Nam, quan niệm “phép vua thua lệ
làng” đã tạo điều kiện cho sự thể hiện các tác động tiêc cực của bản thân mỗi
quy ước. Vì bên cạnh các giá trị tích cực như đã nói ở trên, thì nhiều Hương
ước cũng chứa đựng không ít các quy tắc mang tính tiêu cực, thể hiện tinh
thần cục bộ địa phương, bè phái trên cơ sở “tâm lý làng” và bởi tư duy “ăn
cây nào rào cây ấy”, “ở đình nào chúc đình ấy”, “trống làng nào làng ấy đánh,
thánh làng nào làng ấy thờ”, ít quan tâm đến lợi ích của làng khác và lợi ích
của cả nước.
Vẫn còn hiện tượng trong làng có sự sắp xếp ngôi thứ, đẳng cấp, quyền
lợi khác nhau. Một bộ phận cán bộ địa phương trong làng thường lợi dụng
quy ước để tham nhũng. “Tâm lý làng” với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống
đẳng cấp, ngôi thứ trong làng đã được giới chức dịch trong làng bao đời lợi
dụng để trói buộc người nông dân vào hằng hà vô số các nghĩa vụ, trách
nhiệm, cấm đoán và hạn chế. Tuy nhiên, hiện tượng hách dịch nhân dân ở
làng xã như trên hiện nay đã giảm đáng kể, chỉ còn tồn tại rất ít với mức độ
cũng rất hạn chế, chính là do các chính sách cải cách và điều chỉnh, quản lý
của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh đó, quy ước làng quy định thủ tục cưới xin, ma chay, khao
vọng, tế lễ thần linh….Làm tăng thêm thủ tục nặng nề, tốn kém, làm xuất hiện
nhiều thủ tục hủ lậu vẫn được duy trì và tồn tại. Việc tế lễ các vị thần linh dẫn
36
đến đầu óc mu muội, mê tín dị đoan, bói toán lên đồng gây mất trị an làng xã.
Nội dung quy ước làng văn hóa còn sơ sài, lặp lại pháp luật và chủ
trương chính sách của Nhà nước một cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát
thực với điều kiện và đặc điểm của từng làng, câu chữ trong văn bản còn nặng
tính hô hào, khẩu hiệu. Có không ít bản quy ước có những điều khoản không
đúng với tinh thần của pháp luật, can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân, đi
ngược lại cả những phong tục truyền thống từ lâu đời, thậm chí quy định cả
những “hình phạt” vốn không thuộc thẩm quyền của cấp cơ sở. Nơi này, nơi
kia chúng biến tướng thành một thứ “lệ làng” – với nghĩa tiêu cực của từ này
– do các ông trưởng thôn, chủ tịch xã quan liêu, hách dịch, thiếu hiểu biết, tùy
tiện đặt ra bắt dân phải tuân theo.
Như vậy, quy ước với tính hai mặt, nó đã làm hình thành trong cộng
đồng người Việt nhiều truyền thống đức tính quý báu nhưng cũng còn tồn tại
những hạn chế gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội.
1.2. An ninh nông thôn và đảm bảo an ninh nông thôn
1.2.1. An ninh nông thôn
An ninh nông thôn là vấn đề trật tự xã hội, sự bình yên của thôn
xóm, mọi người tương thân, tương ái, tượng trợ lẫn nhau đảm bảo mọi gia
đình, mọi người không ai xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm và tính
mạng; tài sản của Nhà nước và của công dân được mọi người tôn trọng và
bảo vệ. Cũng có ý kiến cho rằng, an ninh nông thôn là sự an toàn xã hội, để
mọi nhà “đi ngủ không cần đóng cửa”, đi làm không cần khóa cửa, không
cần người trông nom nhà.
Quan niệm về an ninh nông thôn như trên, theo nghĩa hẹp chỉ thuần túy
về an ninh, trật tự; nếu hiểu theo nghĩa rộng thì bao gồm hai mặt: chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân và những
37
vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự ở nông thôn.
Như vậy, an ninh nông thôn không phải là một cụm từ nghiệp vụ Công
an mà nó bao gồm sự an toàn và ổn định ở nông thôn. Mỗi giai đoạn cách
mạng và sự chuyển biến của xã hội, nhận thức về an ninh nông thôn có sự
khác nhau. Trong kháng chiến chống Mỹ, an ninh nông thôn đồng nghĩa với
chống gián điệp, biệt kích, phản động; trong thời kỳ hợp tác hóa thì an ninh
nông thôn gắn liền với việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện nghiêm Điều lệ
Hợp tác xã. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, an ninh nông thôn cần bao hàm
đầy đủ các yếu tố cho phù hợp với tình hình thức tế trước mắt và cả giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
An ninh nông thôn là sự ổn định, an toàn và phát triển vững chắc về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo sự hoạt động bình thường có
hiệu quả của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, không để
xảy ra các vụ việc phức tạp gây mất ổn định ở nông thôn.
Với khái niệm về an ninh nông thôn này, thì thuật ngữ “ổn định” hàm
nghĩa tính xác định, giới hạn của một sự vật, hiện tượng, độ bền vững của một
cấu trúc trong các yếu tố hợp thành. Theo nghĩa thông thường, thì ổn định trái
nghĩa với trạng thái rối loạn, khủng hoảng, đổ vỡ. Với nghĩa đó thì “ổn định”
trong an ninh nông thôn có nghĩa là một trạng thái an toàn trong cấu trúc xã
hội, thiết chế chính trị….mà những cấu trúc, thiết chế này đã được xây dựng
theo mô hình nhất định, được vận hành, thử nghiệm trên thực tế, hoạt động
bình thường, có hiệu quả; kỷ cương xã hội được mọi người chấp nhận, tôn
trọng và nghiêm chỉnh thực hiện. Ổn định không phải là trạng thái bất biến,
mà theo phép biện chứng thì có thể có sự thay đổi một cái đang ổn định bằng
cái khác đạt ổn định cao hơn và nhất là phải trực tiếp phục vụ quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ổn định trong an ninh nông
38
thôn vừa là mục tiêu cần đạt được của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, vừa là điều kiện đảm bảo cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thành công.
Từ những nghiên cứu về các quan điểm an ninh nông thôn qua các thời
kỳ, chúng ta có thể hiểu về an ninh nông thôn như sau, “ An ninh nông thôn là
sự ổn định và phát triển vững chắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở
nông thôn. Bảo vệ an ninh nông thôn là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
của các ngành, các cấp; là một bộ phận quan trọng của công tác bảo vệ an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn. Bảo vệ an ninh
nông thôn bao gồm các mặt công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn
chặn các hoạt động xâm hại hoặc làm sai lệch đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về nông thôn, nông nghiệp, nông dân và sự
vứng mạnh của hệ thống chính trị; bảo vệ tài sản nhà nước ; tính mạng, tài
sản và quyền lợi hợp pháp của nhân dân” [5].
Với khái niệm trên thì an ninh nông thôn có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, an ninh nông thôn là bộ phận của an ninh quốc gia.
Chỉ có thể đặt vị trí của an ninh nông thôn trong an ninh quốc gia thì
mới thấy hết được đặc điểm, vai trò của an ninh nông thôn. An ninh quốc gia
là cái bao trùm, là chìa khóa mở ra bảo đảm cho sự thịnh vượng của đất nước.
An ninh nông thôn là bộ phận của an ninh quốc gia, bao gồm nhiều lĩnh vực:
về chủ trương chính sách, bao gồm các chính sách về liên minh công nông,
chính sách phát triển kinh tế, xã hội, chính sách đối với tôn giáo, dân tộc…;
về lĩnh vực an ninh trật tự, an ninh nông thôn bao gồm an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội ở khu vực nông thôn và vấn đề đặc biệt quan trọng là
lòng dân có yên ổn, có tin và theo Đảng, có ủng hộ chính quyền hay không…
Do vậy, đảm bảo an ninh nông thôn chính là đảm bảo an ninh quốc gia ở khu
39
vực nông thôn.
Thứ hai, an ninh nông thôn là sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ các tổ
chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội hoạt động ở nông thôn.
Sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ các tổ chức Đảng, chính quyền, các
đoàn thể xã hội hoạt động ở nông thôn, tổ chức được nông dân và những người
đang sinh sống trên địa bàn nông thôn thực hiện thắng lợi và có hiệu quả các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn. Đảm bảo đoàn kết,
nhất trí trong nội bộ Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội chính là đảm bảo
kết cấu bền vững của liên minh công – nông – trí; là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu để đảm bảo ổn định về mọi mặt ở nông thôn, và chỉ trên
cơ sở ổn định về mọi mặt (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng…) thì mới có thể phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế, mở ra
sự thịnh vượng ở nông thôn, từng bước rút ngắn khoảng cách về đời sống giữa
nông thôn và thành thị như các nghị quyết của Đảng đã khẳng định.
Thứ ba, an ninh nông thôn là sự thực hiện đúng đắn, sáng tạo, có hiệu
quả các nghị quyết, chỉ thị, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp
phát triển nông thôn.
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta là thể hiện ý chí và
nguyện vọng của toàn dân, mong muốn cả nước nói chung và nông thôn nói
riêng không ngừng nâng cao đời sống kinh tế, có một xã hội tự do, dân chủ,
công bằng và văn minh. Nhưng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước không cụ thể cho một địa phương nào, không thể thỏa mãn mọi đặc
điểm tình hình kinh tế, xã hội ở từng địa phương, từng khu vực vì vậy đòi hỏi
các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội đoàn kết, nhất trí trong
suốt chủ trương chính sách và tổ chức toàn dân thực hiện thắng lợi, có hiệu
quả chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến nông nghiệp,
nông thôn và nông dân trên địa phương mình nhằm không ngừng nâng cao
40
đời sống cho nông dân nông thôn.
Thứ tư, an ninh nông thôn là sự bình yên của thôn xóm, mọi người yêu
thương, giúp đỡ lẫn nhau, những nét đẹp văn hóa truyền thống được phát
huy, các giá trị bản sắc văn hóa mới, lành mạnh được mọi người tôn trọng.
Đó là hệ thống các biểu tượng, ngôn ngữ, chuẩn mực, giá trị có ý nghĩa
tạo thành một lối sống riêng được các thành viên trong cộng đồng tán thành
và thực hiện. Nông thôn có nhiều nét văn hóa truyền thống như tinh thần yêu
nước thương nòi, tinh thần lao động không mệt mỏi vì sự nghiệp dân giàu
nước mạnh; tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn
khó khăn.... nhất là những phong tục tập quán có ý nghãi duy trì lối sống đạo
đức vì cộng đồng, tôn trọng pháp luật, lệ làng…Ở đây nhiệm vụ của an ninh
nông thôn là giữ gìn phong tục tập quán tốt đẹp, phát huy nội lực giữ gìn trật
tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để mọi người dân yên tâm lao động sản xuất,
phát triển kinh tế, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Thứ năm, an ninh nông thôn là phòng ngừa không để xảy ra các vụ việc
phức tạp về an ninh, trật tự.
Những dấu hiệu phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác được sớm phát
hiện và loại trừ; làm tốt công tác phòng ngừa và đấu tranh không để xảy ra
các vụ việc phức tạp mà kẻ địch và các loại đối tượng cơ hội, bất mãn khác có
thể lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta. Nhiệm vụ của an ninh nông
thôn là phải chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh để không xảy ra các vụ
việc phức tạp, tăng cường nắm tình hình, kịp thời phát hiện để có kế hoạch
giải quyết dứt điểm các vụ việc.
An ninh nông thôn có vai trò to lớn trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Ngay từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII đã khẳng định, đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
41
nghiệp, nông thôn, và “phát triển nông nghiệp, nông thôn đã, đang và sẽ là
mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với việc ổn định tình hình
kinh tế, xã hội, tạo cơ sở cho phát triển công nghiệp” [14]. Như vậy, phát triển
nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng, ổn định xã hội, ổn định
về an ninh trật tự trước hết phải đảm bảo cuộc sông đầy đủ cho người dân,
nếu nông dân ổn định, nhân dân phấn khởi làm ăn thì dù khó khăn gì đi nữa,
đất nước ta vẫn bảo đảm ổn định. Do đó, đảm bảo sự ổn định nông thôn là vấn
đề có ý nghĩa then chốt đối với An ninh quốc gia. Như vậy, an ninh nông thôn
có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng đối với công tác đảm bảo an ninh quốc
gia và đảm bảo cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi.
1.2.2. Đảm bảo an ninh nông thôn
Xuất phát từ nội dung, nhiệm vụ, tầm quan trọng và các dấu hiệu đặc
trưng của an ninh nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, luận văn đưa ra quan niệm về đảm bảo an ninh nông thôn như
sau: Đảm bảo an ninh nông thôn là hoạt động của các lực lượng trong hệ
thống chính trị, nhất là lực lượng công an nhân dân nhằm đảm bảo sự ổn
định, sự phát triển bình thường, vững chắc về mọi hoạt động của các tổ
chức Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị, không để xảy ra gây rối,
gây bạo loạn, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được
ổn định ở địa bàn nông thôn.
Vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đã được quy định trong chỉ thị số
21- CT/TW ngày 10/10/1997 của bộ chính trị về một số việc cấp bách trong
nông thôn hiện nay; Chỉ thị số 08/1998 – CT/BNV(A11) ngày 18/4/1998 của
Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ công an) về công tác công an góp phần bảo
đảm an ninh trật tự trong tình hình mới; Quyết định số 205/1998/BNV (A11)
ngày 18/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy định công tác công an
góp phần đảm bảo an ninh nông thôn.
42
Như vậy, đảm bảo an ninh nông thôn bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, đảm bảo an ninh nông thôn là việc giữ vững sự ổn định,
vững mạnh về chính trị, là đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của chính quyền, sự hoạt động có hiệu quả của các cơ quan trong
hệ thống chính trị ở nông thôn.
Thứ hai, đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo cho sự hoạt động bình
thường, ổn định, bền vững về mọi mặt trong đời sống chính trị- xã hội ở nông
thôn, mọi người dân khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng có sự đồng
thuận cao về chính trị, tinh thần với các chủ trương xây dựng nông thôn mới ở
địa phương, mọi hoạt động của nông thôn diễn ra bình thường, cuộc sống của
nhân dân được đảm bảo bình yên.
Thứ ba, đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo mọi chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn
ở địa phương được thực hiện đúng đắn, có hiệu quả nhằm không ngừng nâng
cao đời sống cho nhân dân nông thôn, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu
nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các hộ dân trong địa bàn.
Thứ tư, đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo giữ vững và phát huy các
giá trị bản sắc về văn hóa truyền thống, đảm bảo sự đoàn kết, phát huy cao độ tinh
thần tương thân tương ái, duy trì và phát triển những phong tục, tập quán, lối sống,
đạo đức vì cộng đồng, tôn trọng pháp luật, bài trừ các hủ tục và tệ nạn xã hội.
Thứ năm, đảm bảo an ninh nông thôn là việc chủ động làm tốt công tác
phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả, ngăn chặn các hoạt động xâm hại an ninh
trật tự, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, bảo vệ tài sản
Nhà nướ, tính mạng, tài sản, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đẩy
mạnh các phong trào xã hội, trong đó có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc, củng cố xây dựng
43
chính quyền cơ sở vững mạnh ở nông thôn.
Thứ sáu, đảm bảo an ninh nông thôn là chủ động đấu tranh làm thất bại
mội âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch, phản động trong nước và
nước ngoài, đồng thời trấn áp mạnh mẽ bọn tội phạm, tích cực bài trừ các tệ
nạn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp góp phần ổn định tình
hình ở nông thôn.
Với những nội dung trên thì công tác đảm bảo an ninh nông thôn là
trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, các tổ chức
chính trị - xã hội và của toàn dân. Song mỗi một chủ thể có vai trò, trách
nhiệm khác nhau. Vì vậy, làm rõ vai trò, trách nhiệm trong công tác đảm
bảo an ninh nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng, bao gồm việc xác định
trách nhiệm chung về công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền,
trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể từ đó giúp các cơ quan thực
hiện đúng chức năng, quyền hạn của mình, tránh tính trạng đùn đẩy, né
tránh hoặc giải quyết sai thẩm quyền.
Vai trò trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền
Cấp ủy Đảng, chính quyền là người chịu trách nhiệm chính, cao nhất
trên mọi phương diện liên quan đến an ninh trật tự trong đó có an ninh nông
thôn… Bởi Đảng giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện; chính quyền là cơ
quan quản lý Nhà nước mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Vì
vậy, mọi vấn đề liên quan đến an ninh trật tự ở nông thôn đồng bằng sông
Hồng phải do cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện, vấn đề an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng tốt hay xấu là
trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền.
Trong đảm bảo an ninh nông thôn, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy
Đảng, chính quyền rất quan trọng, giữ vai trò quyết định trong mọi vấn đề về
44
đảm bảo an ninh nông thôn, được thể hiện trên một số nhiệm vụ chính như:
Cấp ủy Đảng đề ra chủ trương, đường lối, chính sách chỉ đạo chính
quyền các cấp thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về đảm bảo an ninh
trật tự như: “Thực thi quyền hạn về trách nhiệm của mình trong việc quản lý
địa phương theo hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách
dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác”[68].
Chỉ đạo việc củng cố và xây dựng hệ thống chính quyền cơ sở, lực
lượng vũ trang đảm bảo trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, thực
hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về an ninh trật tự, không để xảy
ra gây rối, gây bạo loạn, biểu tình ở địa bàn nông thôn.
Chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể quần chúng phối hợp, tăng cường
công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng nhân dân tham gia các
phong trào xã hội, chấp hành nghiêm pháp luật và tích cực cùng vào cuộc giải
quyết các vụ việc về an ninh trật tự, ổn định tình hình ở vùng nông thôn.
Vai trò, trách nhiệm của các Ban, Ngành và tổ chức chính trị - xã hội
Cùng với vai trò, trách nhiệm to lớn của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, vai trò của các Ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội có chức năng
chung là hậu thuẫn đắc lực, là chỗ dựa cho các cấp ủy Đảng, chính quyền
triển khai các chủ trương, đương lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội vào cuộc sống, vào từng người dân góp phần to lớn cho sự phát triển
chung của xã hội trong đó có vấn đề an ninh nông thôn trên địa bàn.
Một số tổ chức có vị trí, vai trò, trách nhiệm lớn với an ninh nông thôn:
Mặt trận tổ quốc cùng các tổ chức đoàn thể quần chúng có trách nhiệm
thực hiện chức năng tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên thực hiện
45
nghiêm túc các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nêu
cao tinh thần trách nhiệm cho đoàn viên, hội viên trong giải quyết các vụ việc
phức tạp ở nông thôn.
Hội nông dân có vai trò rất quan trọng trong công tác đảm bảo an ninh
nông thôn. Điều đó biểu hiện ở những nội dung sau:
Tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền những vấn đề về nông
nghiệp, nông thôn, nông dân có liên quan, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, góp
phần vào công tác bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn nông thôn.
Hướng dẫn nông dân thực hiện các nội dung của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, qua đó góp phần bảo đảm an ninh
trật tự ở nông thôn. Chỉ có trên cơ sở thực hiện được nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì mới có cơ sở đảm bảo an ninh trật
tự ở nông thôn và ngược lại an ninh trật tự ở nông thôn phải phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Vận động
nông dân xây dựng gia đình văn hóa, tham gia xây dựng thôn, ấp, bản, làng văn
hóa, qua đó hạn chế các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo an ninh trật tự ở nông
thôn. Hội nông dân cần phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân vận động cán bộ, hội viên, nông dân tích cực tham gia phong trào “ Toàn
dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa” xây dựng gia đình văn hóa. Vận
động nông dân tham gia công tác bảo đảm an ninh trật tự ở địa phương.
Ngành văn hóa thông tin, các cơ quan thông tin đại chúng, báo, đài phát
thanh truyền hình có chức năng tuyên truyền, vận động quàn chúng nhân dân
trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
đấu tranh lên án các hành vi sai trái, các vụ việc vi phạm pháp luật ảnh hưởng
tới an ninh, trật tự ở nông thôn.
Viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân và sở tư pháp có trách
nhiệm thực hiện chức năng giảm sát pháp luật, thực hành quyền công tố và
46
xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các trường hợp vi phạm pháp
luật, gây mất an ninh trật tự ở nông thôn, đồng thời làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi người dân hiểu, làm đúng và
tôn trọng pháp luật nhà nước.
Các ngành tài chính, ngân hàng, tài nguyên môi trường, nông nghiệp và
phát triển nông nghiệp, giao thông, điện lực xây dựng, giáo dục, y tế là các
ngành có nhiều vấn đề có thể liên quan đến sai phạm ở các khâu như: Tài
chính ngân sách, đất đai, giao thông, điện, đường, trường, trạm..thường là
những nguyên nhân gây ra tình hình phức tạp ảnh hưởng đến an ninh nông
thôn. Vì vậy, cần có sự chủ động rà soát, thanh tra, kiểm tra lại các vụ việc ở
cơ sở kịp thời phát hiện những vấn đề vi phạm, không được lòng dân, tìm ra
nguyên nhân sai sót của mình để sớm có biện pháp khắc phục. Đồng thời phải
thực hiện tốt chức năng của mình nhằm thực thi có hiệu quả chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước.
Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật trong đảm bảo
an ninh nông thôn
Viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân và sở tư pháp có trách nhiệm
thực hiện chức năng giám sát pháp luật, thực hành quyền công tố và xử lý
nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các trường hợp vi phạm pháp luật, gây
mất an ninh trật tự ở nông thôn, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho mọi người dân hiểu, làm đúng và tôn trọng pháp
luật nhà nước.
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, chủ công trong công tác đảm
bảo an ninh nông thôn. “Vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đã được quy định
trong chỉ thị số 21- CT/TW ngày 10/10/1997 của bộ chính trị về một số việc
cấp bách trong nông thôn hiện nay; Chỉ thị số 08/1998 – CT/BNV(A11) ngày
18/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ công an) về công tác công an
47
góp phần bảo đảm an ninh trật tự trong tình hình mới; Quyết định số
205/1998/BNV (A11) ngày 18/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy
định công tác công an góp phần đảm bảo an ninh nông thôn” [5]. “Công an
nhân dân có chức năng chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn
các hoạt động xâm hại an ninh trật tự, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và sự vững mạnh của Đảng, chính quyền, các đoàn thể
quần chúng, lực lượng vũ trang, bảo vệ tài sản Nhà nước, tính mạng, tài sản
và quyền lợi hợp pháp của nhân dân” [69].
Trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn, lực lượng công an có vai
trò rất quan trọng, vừa nắm tình hình làm tham mưu cho cấp ủy, vừa trực tiếp
trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật, kiềm chế các hoạt động các đối tượng
quá khích, đảm bảo an ninh trật tự ở nông thôn. Căn cứ các quy định của Luật
Công an nhân dân, trong đảm bảo an ninh nông thôn, lực lượng công an các
địa phương có nhiệm vụ cụ thể sau:
“ Chủ động làm tốt công tác nắm tình hình và điều tra cơ bản, thường
xuyên đánh giá, phân loại địa bàn, đối tượng, chủ động nghiên cứu làm rõ
nguyên nhân, điều kiện nảy sinh mâu thuẫn, các vụ việc phức tạp về an ninh
nông thôn đồng bằng sông Hồng.
Thực hiện chức năng phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn kịp thời các vụ
việc không để xảy ra phức tạp, lây lan thành diện rộng, với phương châm thu
nhỏ, đồng thời chủ động điều tra, khám phá, lập hồ sơ đề nghị xử lý nghiêm
minh các phần tử cầm đầu, cực đoan, quá khích, tập trung giải quyết ổn định
các phức tạp và “điểm nóng” về an ninh trật tự tại địa bàn nông thôn và phân
loại giải quyết đúng pháp luật các vụ việc khác ở cơ sở.
Làm tốt công tác tham mưu củng cố, xây dựng hệ thống chính quyền cơ
sở vững mạnh, tích cực đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
48
quốc kết hợp phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội nhằm giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp về an ninh nông thôn ngay
tại địa bàn cơ sở”[69].
Quần chúng nhân dân là lực lượng quan trọng góp phần không nhỏ
trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn. Quần chúng nhân dân tham gia
vào các hoạt động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống các thế lực thù
địch, các loại tọi phạm và vi phạm pháp luật khác về an ninh trật tự, tham gia
quảm lý, giáo dục cải tạo người phạm tội tại địa phương.
Như vậy, để đạt hiệu quả cao trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn
49
cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Kết luận chƣơng 1
Quy ước làng văn hóa là văn bản quy phạm xã hội, do cộng đồng dân cư
cùng thỏa thuận đặt ra trên cơ sở nhất trí của tập thể cộng đồng dân cư. Quy ước
làng văn hóa gồm những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép các cá nhân, tổ
chức được làm hoặc không được làm tại địa phương.
Quy ước làng văn hóa có vai trò hết sức to lớn đối với đời sống xã hội,
quy ước đề ra các biện pháp nhằm bảo đảm, giữ gìn và phát huy thuần phong,
mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn ở, đi lại, phát
triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng nghĩa
xóm, đoàn kết tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư;
thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.
Đảm bảo an ninh nông thôn là đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn
định, bền vững về mọi mặt trong đời sống chính trị - xã hội ở nông thôn. Đó là
đảm bảo vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; đảm
bảo việc thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đảm bảo giữ vững và phát huy các
giá trị bản sắc văn hóa truyền thống và đảm bảo thực hiện công tác phòng ngừa,
đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động gây mất ổn định ở nông thôn. Để đảm
bảo an ninh nông thôn cần phát huy sức mạnh của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, ban ngành và các tổ chức chính trị - xã hội.
50
Chƣơng 2
VAI TRÒ CỦA QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VỚI ĐẢM BẢO AN
NINH NÔNG THÔN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Đặc điểm nông thôn đồng bằng sông Hồng và tình hình an ninh
nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay
2.1.1. Đặc điểm nông thôn Đồng bằng sông Hồng
Thứ nhất, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn có nhiều ưu
thế vượt trội về điều kiện tự nhiên so với các vùng khác để phát triển kinh tế -
Vùng đồng bằng sông Hồng có lợi thế có một lợi thế của một trung tâm
hàng đầu của cả nước; diện tích toàn vùng đồng bằng Bắc bộ là: 23.336 km2
chiếm gần 7,1% diện tích của cả nước. Các tỉnh đồng bằng sông Hồng có địa
hình đan dạng và phong phú, bao gồm đồng bằng, đồi núi, rừng và biển xen kẽ
nhau; là nơi hội tụ và giao thoa giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc, giữa vùng núi
phía Bắc với miền trung, có hệ thống sông ngòi đa dạng chảy từ Tây Bắc xuống
Đông Nam ra vịnh Bắc Bộ. Một đặc điểm độc đáo về tự nhiên của các tỉnh đồng
bằng sông Hồng là hầu hết các tỉnh (ngoại trừ hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên)
đều có đồi núi xen kẽ châu thổ, thung lũng và đầm lầy. Đặc điểm địa hình tự
nhiên này tạo điề kiện thuận lợi để con người khai phá và kiến tạo nên những giá
trị văn hóa- xã hội đặc sắc phục vụ nhân sinh.
Vùng đồng bằng sông Hồng có khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhiệt độ
không khí trung bình năm khoảng 22,5 – 23,5 C, lượng mưa trung bình năm
1400-2000 mm, phù hợp với việc canh tác lúa nước và các cây công nghiệp ngắn
ngày như lạc, đỗ, đậu, ngô… làm cho cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở vùng này khá
phong phú, đa dạng và chất lượng tốt. Bên cạnh đó, các tỉnh đồng bằng sông
Hồng có mạng lưới sông ngòi dày đặc, đến mức không có một quê nào là không
51
xã hội.
có một con sông chảy qua; sông ngòi nhiều, nhưng chế độ thủy văn tương đối ổn
định nên thuận lợi cho tưới tiêu và nuôi trồng thủy sản.
Đất sản xuất Nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Hồng nguồn tài
nguyên quý giá được bồi đắp bởi phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái
Bình. Đất đai của các tỉnh rất thuận lợi cho thâm canh lúa nước, trồng rau, màu
và cây công nghiệp ngắn ngày. Theo số liệu điều tra năm 2012, diện tích đất sản
xuất nông nghiệp của các tỉnh đồng bằng sông Hồng là 11.280,69 km2, chiếm
gần 69,5% diện tích đất của các tỉnh. Quá trình mở rộng diện tích đất nông
nghiệp gắn với quá trình chinh phục biển thông qua sự bồi tụ các hệ thống sông
và quai đê, lấn biển của nhân dân trong vùng.
Bên cạnh tài nguyên đất nông nghiệp và nước để trồng cây lương thực và
nuôi trồng thủy sản, trong lòng đất các tỉnh nơi đây cũng chứa đựng những tài
nguyên phong phú, thuận lợi cho phát triển kinh tế như đất sét đen, đất sét trắng
phục vụ công nghiệp sành, sứ, than nâu với trữ lượng lớn chưa được khai thác.
Trên mặt đất có trữ lượng đá vôi(ước tính chiếm gần 5% trữ lượng đá vôi của cả
nước) trải dài trên nhiều tỉnh: Quảng Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Ninh Bình rất
thuận lợi cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng.
Các tỉnh đồng bằng sông Hồng có bờ biển kéo dài từ Móng Cái, Quảng
Ninh đến Kim Sơn, Ninh Bình, với bờ biển thoải, rộng, giàu phù sa nên rất thuận
lợi cho nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy, hải sản. Bờ biển trong vùng còn có
tài nguyên vô giá khác là cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, tạo nên những danh
thắng nổi tiếng như Hạ Long, Cát Bà, Quan Lạn, Cô Tô, Đồ Sơn… rất thuận lợi
cho phát triển ngành du lịch. Không chỉ vậy, bờ biển trong vùng còn có các cảng
biển nước sâu và cảng sông an toàn, thuận lợi cho giao thông thủy như: Cái Lân,
Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định…
Các tỉnh đồng bằng sông Hồng là một vùng đất màu mỡ, do hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam ra Vịnh Bắc Bộ
bồi đắp mà thành, nơi đây cây trái tốt tươi, sản vật dồi dào, cư dân đông đúc. Với
52
một vùng châu thổ phì nhiêu xen lẫn núi non hùng vĩ, nơi đây chẳng những thuận
lợi về kinh tế, mà còn dễ cho phòng thủ, thuận để tấn công, nên từ mấy ngàn năm
trước, cha ông ta đã chọn vùng đất này để định đô dựng nghiệp.
Thế mạnh về con người:
Vùng đồng bằng sông Hồng có nguồn nhân lực lớn, trình độ dân trí cao,
tập trung đội ngũ trí thức giỏi, nhân dân có truyền thống lao động cần cù và sáng
tạo. Vùng đã tập trung khoảng 26% số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học,
72% số cán bộ có trình độ trên đại học, 23,6% lực lượng lao động kỹ thuật của
cả nước. Có hơn 100 trường cao đẳng, đại học, hơn 70 trường trung học chuyên
nghiệp, 60 trường công nhân kỹ thuật và 40 trường dạy nghề; hàng trăm viện
nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có nhiều viện đầu ngành, hơn 20 bệnh viện
đầu ngành, là một trong ba trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước; 100% số tỉnh,
thành phố đã hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi quy
định (mục tiêu cả nước là đến năm 2010). Thực tế cho thấy, vùng đồng bằng
sông Hồng dẫn đầu các vùng trong cả nước về số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực và khả năng nghiên cứu triển khai khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo,
chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Thế mạnh về du lịch:
Vùng đồng bằng sông Hồng còn có tiềm lực lớn để phát triển mạnh ngành
kinh tế du lịch. Phía đông vùng giáp vịnh Bắc Bộ, tổng chiều dài bờ biển 620
km, có tài nguyên du lịch biển đặc sắc với nhiều bãi biển đẹp, cảnh quan nổi
tiếng. Trong vùng có động Hương Tích, được mệnh danh "thiên nam đệ nhất
động", Ao Vua, Suối Hai, Tam Cốc, Bích Ðộng, Côn Sơn, Phố Hiến,... Có hơn
1.700 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng, chiếm 70% số di tích của cả nước.
Ðó là những cơ sở để phát triển kinh tế du lịch đa dạng, phong phú, tạo sức hấp
dẫn thu hút ngày càng nhiều du khách trong nước, ngoài nước đến tham quan.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, các tỉnh Đồng bằng sông Hồng tiếp tục
được hưởng những lợi thế lớn của vùng kinh tế động lực về mọi mặt. Hơn nữa
53
do bao quanh Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, những trung tâm chính
trị, kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước nên nơi đây rất có điều kiện để phát
triển,giữ gìn, bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hóa – xã hội giàu bản sắc dân
tộc Việt Nam ra công đồng quốc tế.
Tuy nhiên, những điều kiện thuận lợi của các tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng, địa lý tự nhiên nơi đây cũng tạo ra không ít những khó khăn cho sự phát
triển của vùng như: hệ thống sông ngòi chằng chịt, đồng bằng xen lẫn đồi núi,
vùng trũng và đầm lầy đã tạo ra sự chia cắt về đại hình, gây khó khăn cho sản
xuất hàng hóa nông nghiệp trên quy mô lớn. Do nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa, nên các tỉnh đồng bằng sông Hồng thường xuyên chịu tác động lớn
của bão, lụt, hạn hán, dịch bệnh ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân địa
phương. Theo dự báo quốc tế, các tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng
Việt Nam là một trong những vùng chịu ảnh hưởng lớn của nước biển dâng do
biến đổi khí hậu toàn cầu gây nên. Hiện tại, về mùa khô, đất sản xuất của các
tỉnh ven biển vẫn bị tình trạng xâm nhập mặn đe dọa thường xuyên.
Vị trí địa lý và môi trường tự nhiên cũng có những tác động tiêu cực
không nhỏ đối với sự phát triển văn hóa- xã hội nơi đây. Bão lốc, lũ lụt, ẩm thấp
là những yếu tố phá hoại rất nghiêm trọng đối với các công trình văn hóa vật thể
trên địa bàn. Sự giao thoa văn hóa giữa các tỉnh đồng bằng sông Hồng (khu vực
được xem là cái nôi văn hóa dân tộc) với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước,
với Hà Nội, Hải Phòng và quốc tế rất mạnh nên việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc là việc hết sức khó khăn. Các tệ nạn xã hội và văn hóa độc vốn phát triển
mạnh ở thành phố lớn lan nhanh sang các tỉnh lân cận trong vùng.
Thứ hai, kinh tế nông thôn đồng bằng sông Hồng chủ yếu là kinh tế
nông nghiệp, kết hợp với phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống và
ngư nghiệp đối với các vùng ven biển.
Các tỉnh đồng bằng sông Hồng là một vùng kinh tế động lực quan trọng
54
của cả nước, có đủ các thế mạnh để phát triển cơ cấu ngành kinh tế hợp lý;
nông nghiêp, công nghiệp và xây dựng, du lịch và dịch vụ. Trong phát triển
kinh tế nông nghiệp, các tỉnh đồng bằng sông Hồng có diện tích và tổng sản
lượng lương thực chỉ đứng sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long, song là tỉnh
có trình độ thâm canh và năng suất lao động nông nghiệp thuộc loại cao so
với cả nước. Hầu hết các tỉnh ở vùng này, ngoài trồng lúa đều gieo trồng một
số cây ưa lạnh đem lại hiệu quả kinh tế cao như cây ngô, khoai tây, su hào,
bắp cải, cà chua…Hiện nay, vụ đông trở thành vụ chính của một số địa
phương trong vùng. Với những kinh nghiệm của nhân dân về trồng trọt, chăn
nuôi, nhất là trồng lúa và các chính sách khuyền nông của Đảng và Nhà nước
là nhân tố quyết định giải quyết thành công vấn đề lương thực, đáp ứng nhu
cầu của nhân dân trong vùng và phục vụ xuất khẩu. Trong cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của vùng, diện tích trồng cây lương thực cho con người và cho các
nhu cầu kinh tế khác chưa thật sự vững chắc.
Trong phát triển công nghiệp và xây dựng, các tỉnh đồng bằng sông
Hồng đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp và xây
dựng tăng đều qua các năm, trọng điểm là công nghiệp chế biến lương thực,
thực phẩm, sản xuất tiêu dùng, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây
dựng, công nghiệp cơ khí.
Trong phát triển ngành du lịch với những to lớn về cảnh quan thiên
nhiên, về các di tích lịch sử, văn hóa của dân tộc. Các ngành kinh tế công
nghiệp và xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ trong vùng phát triển mạnh làm
cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn các tỉnh
đồng bằng sông Hồng diễn ra nhanh chóng hơn các tỉnh khác trong cả nước.
Hiện nay, từ sự phân chia theo phát triển vùng kinh tế tạo sức mạnh
tổng hợp cho toàn vùng đồng bằng sông Hồng, có thể xác định 3 loại khu vực
55
nông thôn sau:
+ Khu vực nông thôn thuộc các tiểu vùng Bắc đồng bằng sông Hồng
(vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ): Hình thành các trung tâm kinh tế lớn gồm
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, xây dựng khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, và
các vùng sản xuất hàng hóa lớn khác là hạt nhân của vùng, hỗ trợ các tỉnh
nam sông Hồng và các vùng khác;
+ Khu vực nông thôn thuộc tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng:
khu vực chuyển mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa; chuyển đổi diện tích vùng trũng trồng lúa năng suất thấp, sang
nuôi, trồng các loại thủy, hải sản…phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp nhất là các làng nghề có sản phẩm tinh xảo; hình thành các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với phát triển dịch vụ, du
lịch; khai thác các tiềm năng về khoáng sản, trước hết là vôi sản xuất xi
măng, đá xây dựng, sét làm gạch, ngói.
+ Khu vực nông thôn thuộc vùng kinh tế biển và ven biển: khu vực đang
tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực ven biển và hải đảo; cảng
biển, đê biển, đường giao thông, bưu chính – viễn thông, điện nước, cơ sở xử lý
chất thải bảo vệ môi trường; phát triển các ngành đóng tàu, dầu khí, các dịch vụ
vận tải biển. Đẩy mạnh nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy, hải sản, mở rộng và
quản lý chặt chẽ đánh bắt xa bờ. Hình thành các trung tâm thương mại, du lịch,
các khu vui chơi giải trí, an dưỡng…Tạo bước đột phá ra biển của các tỉnh
Nam đồng bằng sông Hồng, thu hút và phân bố dân cư hướng đến những nơi
có điều kiện tổ chức dân cư và lao động sống bằng nghề thủy sản.
Xét về cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm:
+ Khu vực thuần nông: phát triển trong trạng thái cũ, đặc trưng truyền
thống với nghề trồng lúa là chính, phụ trợ thêm bằng chăn nuôi gia súc, gia
cầm trong phạm vi từng hộ gia đình.
+ Khu vực làng nghề: phát triển trong sự xen kẽ giữa thuần nông với
56
thủ công nghiệp bằng cách phục hồi và mở rộng các làng nghề truyền thống,
cải biến nghề cũ, hình thành nghề mới, tạo nên sự khởi sắc trong đời sống
nông thôn, bắt nhịp với những biến đổi của thị trường và đô thị.
+ Khu vực ven đô: phát triển mạnh theo hướng dịch vụ, buôn bán kinh
doanh nông nghiệp, đưa hàng hóa nông sản ra thị trường, đời sống kinh tế- xã
hội, cơ sở hạ tầng có bước phát triển mới, tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng
chưa bền vững.
Thứ ba, các truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam được
thể hiện đầy đủ, tập trung rõ nét nhất ở địa bàn đồng bằng sông Hồng.
Nông thôn đồng bằng sông Hồng là vùng lịch sử văn hóa lâu đời của
người Việt, là cái nôi hình thành dân tộc Việt, là quê hương của các nền văn
hóa Việt; tinh thần cộng đồng làng xã, điều hành xã hội bằng tục lệ và dư
luận, lễ hội truyền thống, quan hệ gia tộc, dòng họ, ứng xử huyết thống.
Là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, các tỉnh đồng bằng sông Hồng
đã sớm có chủ trương bảo tồn và phát triển các thiết chế văn hóa cho phù hợp
với yêu cầu của thời kỳ mới. Các công trình văn hóa tiêu biểu ở khắp các lang
quê như đền, miếu, đình, chùa, nhà thờ họ, văn bia…Được chính quyền địa
phương tạo điều kiện để nhân dân khôi phục, tôn tạo, giữ gìn. Mặt khác, không
ít các làng quê khôi phục lại và bổ sung, phát triển các quy ước của làng cho
phù hợp với luật pháp và nếp sống hiện đại. Nhiều lễ hội có ý nghĩa văn hóa –
lịch sử được phục hồi, tạo điều kiện phát triển đúng hướng: lễ hội đền Kiếp
Bạc (Hải Dương), lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh), lễ hội đền Tây Thiên (Vĩnh
Phúc), Hội Lim (Bắc Ninh), lễ hội Phủ Dầy (Nam Định)... Những giá trị văn
hóa phi vật thể như: ca, múa, nhạc dân tộc được sưu tầm, phục dựng, khuyến
khích…. Cùng với việc phục dựng, bảo tồn vốn văn hóa cổ được bảo tồn và
những cơ sở văn hóa mới được xây dựng, chính quyền địa phương các cấp
cũng chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, nhân viên vận hành các thiết
57
chế văn hóa đó một cách hiệu quả. Có thể nói, quá trình bảo tồn và phát triển
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng là
nhanh chóng mau lẹ, phù hợp với yêu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của
các tầng lớp nhân dân.
Khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng là một trong những địa
phương có nhiều lễ hội dân gian và truyền thống. Ngoài những ngày lễ mà
nhân dân cả nước tổ chức kỷ niệm trọng thể như: ngày Giỗ 10-3 âm lịch, ngày
Quốc khánh 2-9, ngày Quốc tế lao động 1-5, nhân dân khu vực đồng bằng sông
Hồng còn mang tầm cỡ khu vực và lễ hội của các làng. Những lễ hội lớn mang
tầm cỡ khu vực với sự tham gia của người dân nhiều tỉnh như: Lễ hội đền Kiếp
Bạc; lễ hội đền Tây Thiên; lễ hội chùa Bái Đính; lễ phát ấn đền Trần... Ngoài
những lễ hội lớn đó, hầu hết các làng quê trong vùng đều tổ chức lễ hội trong
ngày ngày tiệc làng.
Ngày tiệc làng thường là ngày giỗ các vị Phúc thần có công với nước
hoặc có công khai mở đất đai, nghề nghiệp cho dân, được dân làng tôn là
Thành hoàng, thờ tại miếu đình làng. Tiệc làng diễn ra hàng năm, có kèm theo
lễ và hội. Hội được tổ chức thường niên, hoặc sau một số năm, tùy tình hình
kinh tế- xã hội địa phương mà dân làng quyết định. Trong hội làng có lễ rước
Thành hoàng và tổ chức các trò vui dân gian liên quan đến sự tích về Thành
hoàng. Ngày nay, một số nơi còn tổ chức hoạt động văn nghệ, thể thao trong
ngày hội làng cho thêm phần sinh động. Tiệc làng có thể rơi vào bất kỳ ngày
nào trong năm, song thường được tổ chức nhiều vào mùa xuân và mùa thu.
Mùa xuân, từ sau Tết Nguyên Đán đến hết tháng ba âm lịch; mùa thu, từ đầu
tháng tám đến hết tháng chín âm lịch. Đây là khoảng thời gian người làm nghề
nông khá rảnh rỗi công việc ngoài đồng ruộng nên thuân lợi cho mở tiệc. Lễ
hội làng có vai trò gắn kết và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên trong
cộng đồng làng, xã; góp phần giáo dục lòng biết ơn của thế hệ hôm nay đối với
các thế hệ đã qua, tôn vinh và ghi nhớ công đức của những người có công với
58
nước, với làng để con cháu noi theo.
Thứ tư, cơ cấu dân cư thuần nhất (chủ yếu là người kinh), là địa bàn
tập trung dân cư, với mật độ dân số cao. Dân cư khu vực đồng bằng sông
Hồng có truyền thống lâu đời về tín ngưỡng, người dân theo nhiều đạo khác
nhau trong phong tục tín ngưỡng.
Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng kinh tế có tầm quan
trọng đặc biệt trong phân công lao động của cả nước. Đây là vùng có vị trí địa
lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa
dạng, dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào, mặt bằng dân trí cao.
Đồng bằng sông Hồng là vùng dân cư đông đúc nhất cả nước. Mật độ
dân số trung bình là 949 người/ km2. Mặc dù tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số
trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao, gấp 5 lần so với Đồng
bằng sông Cửu Long, gấp 9 lần so với miền núi và trung du Bắc Bộ và gấp 10
lần so với Tây Nguyên. Đây là một thuận lợi vì vùng có nguồn lao động dồi
dào với truyền thống kinh nghiệm sản xuất phong phú, chất lượng lao động
dẫn đầu cả nước. Thế nhưng, dân số đông cũng đem đến những khó khăn nhất
định, gây sức ép nặng nề lên sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Những nơi dân cư đông nhất của vùng là Hà Nội (2.013 người/ km2),
Thái Bình (1.138 người/km2), Hải Phòng (1.233 người/km2), Hưng Yên
(1.242 người/km2), Bắc Ninh (1.289 người/km2). Ở các nơi khác, chủ yếu
thuộc khu vực phía Bắc và Đông Bắc của châu thổ, dân cư thưa hơn.
Ở đồng bằng sông Hồng, dân cư gia tăng nhanh. Vì vậy, tốc độ tăng
dân số chưa phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Điều này gây khó
khăn cho việc phát triển kinh tế- xã hội của đồng bằng.
Nông thôn đồng bằng sông Hồng là cội nguồn, trung tâm của nhiều tôn
giáo lớn ở nước ta, trong đó Phật giáo và Thiên chúa giáo là hai tôn giáo phát
triển nhất, và có ảnh hưởng lớn đến đời sống của quần chúng nhân dân.
Thứ năm, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay nằm trong
một vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về an ninh – quốc phòng,
59
chủ quyền biên giới quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Vùng Đông Bắc có vai trò xung yếu trong an ninh quốc phòng. Trong
lịch sử Việt Nam, nhiều lần các thế lực phương Bắc xâm lược đã thâm nhập
vào vùng này trước tiên. Nơi đây có các con đường được các nhà sử học Việt
Nam gọi là con đường xâm lược, đó là đường bộ qua Lạng Sơn, đường bộ ven
biển ở Quảng Ninh, và đường biển trên vịnh Bắc Bộ rồi cũng đổ bộ vào
Quảng Ninh. Đã có rất nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân Việt Nam với
giặc ngoại xâm ngay khi chúng thâm nhập vào vùng này trong đó nổi tiếng là
các trận tại ải Chi Lăng, trận Như Nguyệt, Bạch Đằng…Thời kỳ kháng chiến
chống Pháp cũng có các trận đánh lớn như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến
dịch biên giới thu đông(1949)….Cuối thập niên 1970 và trong thập niên 1980,
quân Trung Quốc tấn công dữ dội Việt Nam chủ yếu là trên dọc tuyến biên
giới ở vùng Đông Bắc. Vì vậy, vùng Đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến
lược trong an ninh- quốc phòng.
Thứ sáu, văn hóa, giáo dục phát triển hơn so với các vùng khác, trình
độ dân trí cao, người dân dễ nhạy cảm với cái mới và dễ tiếp thu cái mới.
Hiếu học là nét truyền thống văn hóa nổi bật của nhân dân các tỉnh đồng
bằng sông Hồng. Trọng người có học vấn, khuyến khích con cháu học tập, noi
theo những người có khoa bảng cao đã thành một truyền thống tốt đẹp ở mọi
làng quê nơi đây. Truyền thống hiếu học đó, ngày nay, đã và đang thúc đẩy
hàng triệu học sinh, sinh viên thi đua học tập đạt thành tích cao để lập thân, lập
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo số liệu của Tổng
cục thống kê năm 2012 cho thấy, nhân dân các tỉnh đồng bằng sông Hồng có
trình độ dân trí cao so với các tỉnh khác trong cả nước, nơi đây tập trung nhiều
trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở nghiên cứu khoa học. Lực
lượng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ở các tỉnh này chiếm tới 72,4%
so với cả nước; lao động đã qua đào tạo chiếm tới 29,5% lao động xã hội, chất
lượng nguồn nhân lực ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện thực hiện thắng
60
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
2.1.2. Tình hình an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay
Trong những năm vừa qua, nông thôn đồng bằng sông Hồng nước ta
dưới sự tác động của sự nghiệp đổi mới nói chung, sự phát triển của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và hội nhập quốc tế nói riêng đã phát triển mạnh mẽ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển đó có ảnh không nhỏ tới
công tác đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.
Trên lĩnh vực kinh tế, đồng bằng sông Hồng là một trong hai vựa lúa
lớn nhất cả nước ta kể từ khi có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán sản
phẩm, đặc biệt là những năm 1990 trở lại đây sản xuất lương thực đã có sự
phát triển vượt trội rất nhiều so với thời kỳ thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp. Các ngành nghề và làng nghề truyền thống được khôi
phục nhân rộng, phát triển mạnh mẽ, có nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công
nghiệp và nhà máy công nghiệp mọc lên ở khu vực nông thôn đồng bằng sông
Hồng. Kinh tế nông thôn phát triển, thu nhập của người dân và đời sống của
họ ngày càng được nâng cao, hiện nay nhiều làng xã trong nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng đã được công nhân đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới.
Về văn hóa xã hội, kinh tế nông thôn phát triển, đời sống của các gia
đình ngày càng được cải thiện, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa và phong trào xây dựng gia đình văn hóa cũng được đẩy mạnh,
trình độ dân trí của dân cư nông thôn cũng được nâng cao.
Kinh tế, văn hóa phát triển là cở sở để ổn định và phát triển xã hội, đặc
biệt những làng xã ven đô thường bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội từ thành
phố, thị xã. Trong thời gian gần đây, các loại tệ nạn xấu đã được kiềm chế và
từng bước đẩy lùi. Với phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự ,
đấu tranh phòng chống các loại tội phạm đã góp phần to lớn bảo đảm an ninh
61
nông thôn đồng bằng sông Hồng. Lực lượng Công an vùng đồng bằng sông
Hồng đã trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn nhiều hành vi
gây rối hoặc chuẩn bị gây rối, vi phạm pháp luật. Trong 4 năm, từ 2006-
2010, khu vực nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đã xảy ra 7.241 vụ
phạm pháp hình sự các loại. Lực lượng công an đã điều tra, khám phá và khởi
tố điều tra 3.810 vụ và với 4.813 người có hành vi vi phạm về quản lý đất đai,
tham ô công quỹ và chống người công vụ…đã bắt 1120 đối tượng, hoàn thành
kết luận điều tra để truy tố 1440 đối tượng, cảnh cáo 1551 đối tượng và đưa
kiểm điểm trước dân 1002 người. Việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đã
giúp cho công tác đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng
được tốt hơn, giữ vững ổn định xã hội từ cơ sở [33; tr.10-11].
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, trong quá trình
phát triển nông thôn khu vực đồng bằng sông Hồng cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra, có rất nhiều vấn đề xuất hiện ảnh
hưởng trực tiếp đến an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.
Thứ nhất, tình hình khiếu kiện, tranh chấp đất đai trên địa bàn nông
thôn đồng bằng sông Hồng diễn biến phức tạp
Trong những năm gần đây cũng như nhiều vùng nông thôn khác trong
cả nước nông thôn trong khu vực đồng bằng sông Hồng cũng nảy sinh nhiều
mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền sở tại xoay quanh các vấn đề giải
phóng mặt bằng, giải quyết các mối quan hệ liên quan tới quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Do chưa được thỏa đáng đã dẫn tới việc người dân
khiếu kiện lên các cơ quan chức năng có thẩm quyền ở các cấp cao hơn. Có
nhiều nội dung người dân khiếu kiện thể hiện đúng những vấn đề sai phạm.
Tuy nhiên cũng có những nội dung không đúng sự thật sai thực tế và đã có
tình trạng những phần tử xấu lợi dụng kẻ hở của phap luật nhất là luật khiếu
nại tố cáo, lợi dụng thực tế về những sai sót của một số cán bộ đã lôi kéo, kích
động một bộ phận quần chúng gây lên những vụ gây rối, tẩy chay những
62
đoàn thanh tra của xã huyện, bắt giữ cán bộ của xã huyện…
Trong việc giải quyết các đơn thư khiếu kiện, nhiều vụ việc đã được
giải quyết đúng chính sách pháp luật, nhưng thi hành không nghiêm túc kéo
dài gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người dân, làm nẩy sinh những vấn
đề phức tạp mới.
Tình hình khiếu kiện vượt cấp kéo dài ở địa bàn nông thôn đồng bằng
sông Hồng gây ra nhiều hệ lụy và những hậu quả xấu trên mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội thể hiện qua các nội dung sau:
+ Đối với cả nước nói chung và nông thôn đồng bằng sông Hồng nói
riêng vấn đề ổn định để phát triển có ý nghĩa quan trọng. Khiếu kiện đặc biệt
là khiếu kiện đông người vượt cấp nếu không được giải quyết nhanh chóng,
kịp thời sẽ là cơ hội cho các phần tử phản động lợi dụng, xúc tiến âm mưu
diễn biến hòa bình, gây bạo loạn…
+ Kỷ cương xã hội bị rối loạn, đạo đức xã hội bị xuống cấp, phép nước
bị khinh nhờn, tình trạng manh động bạo lực tăng lên, tội phạm hình sự lợi
dụng gây án, các tệ nạn xã hội lợi dụng phát triển…
+ Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở ở nông thôn bị giảm sút,
lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà Nước cũng bị ảnh hưởng.
Vấn đề tranh chấp đất đai ở nông thôn ĐBSH luôn là vấn đề nhạy cảm,
diễn biến phức tạp, chủ yếu diễn ra dưới dạng mâu thuẫn, từ tranh chấp quyền
sử dụng đất đai đã chuyển hóa thành các mâu thuẫn xã hội khác. Qua theo dõi
thống kê các vụ việc phức tạp xảy ra ở nông thôn trong 10 năm ( từ năm 2000
đến ngày 31/5/2009) thì các vụ việc về quan hệ đất đai chiếm tỷ trọng lớn:
Hà Nội 4389 vụ, Nam Định 159 vụ ( Xem phụ lục 3).
Tranh chấp đất đai diến ra trên mấy dạng chủ yếu sau đây:
+ Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa thôn này với thôn khác, làng này
với làng khác. Đây là loại hình tranh chấp chủ yếu xảy ra ở các địa phương
63
trong thời gian qua.
+ Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nông dân các địa phương với các
nông, lâm trường quốc doanh, đơn vị quân đội… Về thực chất việc tranh chấp
này ngay từ đầu đã mang yếu tố tranh chấp giữa nông dân với Nhà nước. Đây
là việc đấu tranh đòi được đền bù với giá cao hơn so với quy định của Nhà
nước khi Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất để xây dựng các công trình
công cộng. Đây cũng là loại hình phổ biến, không chỉ xảy ra ở nông thôn mà
cả ở các đô thị. Nông dân không phải không chấp hành chủ trương chính sách
của Nhà nước trong việc thu hồi quyền sử dụng đất của họ để xây dựng các
công trình phúc lợi công cộng và cũng không phải nông dân đòi hỏi quá đáng
đến mức Nhà nước không thể không đáp ứng nguyện vọng của họ trong việc
thu hồi quyền sử dụng đất. Ruộng đất, tư liệu sản xuất chủ yếu của người
nông dân rừ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác nên người
nông dân kiên quyết giữ đất khi Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất mà
không đền bù thảo đáng. Chẳng hạn, như tại Hưng Yên, một phụ nữ đã lăn xả
vào gầu xúc của máy xúc thi công đường quốc lộ 5, cốt để giữ đất và được
đền bù thỏa đáng…
Như vậy, những tác động tiêu cực của tình trạng khiếu kiện kéo dài,
tranh chấp đất đai là những nhân tố tác động và ảnh hưởng xấu đến an ninh
nông thôn đồng bằng sông Hồng.
Thứ hai, nông dân vùng tập trung đồng bào các tôn giáo (nhất là vùng
Thiên chúa giáo) đang tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn.
Các tỉnh đồng bằng sông Hồng là nơi sớm du nhập và trở thành trung
tâm của hai tôn giáo lớn nhất Việt Nam là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Vùng
giáo và nhất là vùng tập trung đồng bào Thiên chúa giáo đang đứng trước
những thách thức mới đối với an ninh nông thôn. Với tư cách là một hiện tượng
xã hội, Thiên chúa giáo trực tiếp ảnh hưởng tới an ninh trật tự của xã hội trông
64
qua hệ thông giáo lý, giáo luật, lễ nghi và hoạt động của các tổ chức giáo hội
các tôn giáo- các thế lực thù địch, các lực lượng xấu trong các tôn giáo thường
thông qua các tổ chức giáo hội, giáo lý, giáo luật, nghi lễ tôn giáo, quan hệ
quốc tế để buộc quần chúng tín đồ tham gia vào các hoạt động chính trị phản
động, gây rối trật tự xã hội; thành lập các tổ chức phản động trong tôn giáo,
chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc,
ngăn cản các tín đồ làm nghĩa vụ công dân gây mất trật tự công cộng….
Vấn đề nổi lên hiện nay là hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
hành nghề mê tín dị đoan trở nên phổ biến, hoạt động công khai. Hoạt động
lừa đảo, cường đoạt tài sản của quần chúng nhân dân trong các lễ hội tín
ngưỡng tôn giáo diễn ra dưới nhiều hình thức vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Lễ
hội, tín ngưỡng, tôn giáo là nơi tập trung đông người trong một thời gian địa
điểm nên cũng thường gây ra những mất ổn định về trật tự công cộng ở địa
bàn diễn ra lễ hội. Tình hình khiếu kiện về đất đai liên quan tới các tôn giáo
đang là vấn đề nhạy cảm và phức tạp, hầu hết các vụ việc đều có sự chỉ đạo
của các Linh mục, Giám mục, thậm chí Vatican cũng có chỉ thị cho hội đồng
Giám mục Việt Nam kiên quyết đòi lại các cơ sở tôn giáo mà hiện nay Nhà
nước đang sử dụng…. Qua thống kê cho thấy trong vòng 10 năm (từ 2000-
2009) số vụ liên quan đến tôn giáo diễn ra trên địa bàn nông thôn đồng bằng
sông Hồng diễn ra tương đối phức tạp, Hà Nội 155 vụ, Nam Định là 125 vụ,
Ninh Bình xảy ra 45 vụ… (Phụ lục 3).
Thứ ba, vấn đề về ô nhiễm môi trường ở nông thôn đồng bằng sông Hồng
Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong thúc đẩy việc phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống vật chất của người dân. Đó là thực tế mà không ai có thể
phủ nhận. Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến
lớn. Tuy nhiên, dưới tác động của kinh tế thị trường, môi trường sinh thái ở
nước ta nói chung và ở khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng đang dần bị
65
“ô nhiễm hóa”. Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất với hầng nghìn nhà máy, xí nghiệp. Vì thế ô nhiễm môi trường ở
khu vực này trở thành một vấn nạn cần phải giải quyết. Ở nhiều vùng nông
thôn gần các khu công nghiệp, nguồn nước, đất đai và không khí bị ô nhiễm
nặng nề. Những vấn đề về ô nhiễm môi trường nổi cộm bao gồm: ô nhiễm từ
sản xuất nông nghiệp, ô nhiễm làng nghề, ô nhiễm sông ngòi, hiện tượng phá
rừng, rác thải công nghiệp và sinh hoạt…Thực trạng đó đã và đang gây bất
bình, bức xúc trong nhân dân đãn đến phát sinh nhiều vụ khiếu kiện, xung đột
về môi trường ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị - xã hội trong vùng.
Hiện nay, hầu hết các làng nghề hiện nay đều gây suy thoái môi trường.
Ô nhiễm làng nghề ở mức độ cao làm nảy sinh xung đột giữa các nhóm dân cư
ở nông thôn, giữa nhóm dân cư các làng nghề với nhóm dân cư khu vực sản
xuất nông nghiệp. Những hình thức phổ biến thể hiện sự xung đột của các cộng
đồng làng nghề là tỏ thái độ bất bình, phát đơn khiếu kiện. Trên địa bàn tỉnh Hà
Nam đã có hàng ngàn lò gạch thường xuyên hoạt động. Tính riêng ở hai xã
Mộc Nam, Mộc Bắc thuộc huyện Duy Tiên đã có gần 130 lò gạch bám dọc bờ
sông Hồng. Tại các xã Hòa Hậu, Đạo Lý, Nhân Thịnh của huyện Lý Nhân
cũng có trên 100 lò gạch thủ công hoạt động làm cho mặt bằng đất canh tác bị
đào bới lồi lõm, chất lượng đất canh tác ngày càng suy giảm và khói bụi lò
gạch lan tỏa làm cho nhiều cây trồng của người nông dân bị hư hại.
Xung đột, khiếu nại về môi trường còn xảy ra giữa những người dân
với chính quyền địa phương trong việc xây dựng và quản lý các bãi rác thải.
Ví dụ điển hình khi xấy dựng bãi rác thải ở Kiêu Kỵ - Gia Lâm – Hà Nội, bãi
rác Nam Sơn- Sóc Sơn- Hà Nội, người dân không đồng tình với việc triển
khai dự án đã tổ chức khiếu kiện đến các cấp. Khi chưa được giải quyết họ đã
dựng lều bạt, chặn đường, đập vỡ kính xe rác không cho xa rác vào bãi… để
66
phản đối dẫn đến việc chính quyền địa phương phải cưỡng chế giải tỏa.
Việc các doanh nghiệp không có giải pháp xử lý chất thải, khí thải hoặc
cố tình trốn tránh việc đánh giá tác động môi trường, không lắp thiết bị chống
ô nhiễm làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sức khỏe và đời sống, đã
khiến cho nhân dân hết sức bức xúc dẫn đến khiếu kiện. Tại Hải Dương, quần
chúng nhân dân đã bao vây, dựng lều bạt, vật cản ngăn chặn không cho Nhà
máy thép Thái hưng huyện Kim Thành hoạt động trong sáu tháng gây thiệt
hại lớn cho doanh nghiệp. Cục cảnh sát môi trường Bộ Công an đã kiểm tra
phát hiện ô nhiễm môi trường tại Công ty TNHH TungKuang huện Cẩm
Giàng làm xôn xao và phản ứng gay gắt của dư luận xã hội.
Qua thực tế theo dõi các vụ việc diễn ra có thể thấy, xung đột, khiếu
kiện về ô nhiễm môi trường đã, đang và sẽ xảy ra với quy mô ngày càng rộng
và tính chất ngày càng phức tạp. Theo thống kê trên địa bàn nông thôn tỉnh
Thái Bình, từ năm 2009 – 2013, số vụ vi phạm về môi trường trên địa bàn
tăng từ 48 vụ lên 272 vụ, ở Vĩnh Phúc là từ 08 vụ lên 50 vụ ( Xem phụ lục
1,2). Việc vi phạm pháp luật về môi trường trên địa bàn nông thôn đồng bằng
sông Hồng không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đời sống của người
dân, đến sự phát triển bền vững về kinh tế- xã hội mà còn gây ra những phức
tạp về an ninh, trật tự.
Thứ tư, tình hình tệ nạn xã hội phát triển mạnh ở nông thôn đồng
bằng sông Hồng
Tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội tiêu cực có tính phổ biến, lan
truyền, biểu hiện bằng những hành vi lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo
đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng.
Trong những năm qua, tệ nạn xã hội (cờ bạc, ma túy, mại dâm) trên địa
bàn nông thôn đồng bằng sông Hồng diễn biến hết sức phức tạp, có chiều
67
hướng gia tăng.
Tệ nạn lô đề, cờ bạc
Tệ nạn xã hội ở vùng nông thôn ĐBSH trước hết phải nói tới đó là tệ
nạn cờ bạc. Ở các làng xã trong nông thôn trước đây cũng đã xảy ra và thường
hạn hữu trong các dịp lễ tết, những hiện nay đã diễn ra rất phổ biến. Theo báo
cáo hàng năm của Công an các tỉnh trên địa bàn cho thấy, tệ nạn cờ bạc chiếm
tỷ lệ cao trong tổng số vụ tệ nạn xã hội đã phát hiện. Chẳng hạn, năm 2009,
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện 147 vụ cờ bạc thì năm 2013 đã phát
hiện 184 vụ cờ bạc. Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, năm 2009 phát hiện 219 vụ
cờ bạc đến năm 2013 lên tới 548 vụ cờ bạc (Xem phụ lục 1,2).
Tệ nạn cờ bạc ở nông thôn cũng biểu hiện dưới rất nhiều các hình thức
khác nhau như: xóc đĩa, tổ tôm, lô đề… Mục đích của nó khác với các trò
chơi giải trí, vì nó nhằm đoạt lấy một lượng tiền từ tài sản của người khác mà
không cần lao động. Hành vi này đưa con người vào mục đích duy nhất là
đâm lao phải theo lao, “được ham chơi, thua ham gỡ”.
Như vậy, tệ nạn cờ bạc dẫn tới những hậu quả xấu đối với cả kẻ thua
người được. Cờ bạc làm cho đạo đứu con người bị tha hóa, ảnh hưởng đến
nếp sống văn hóa tốt đẹp trong các làng quê Việt Nam nói chung và nông
thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng. Làm hư hỏng một bộ phận dân cư, đặc
biệt là giới trẻ, nó cũng gây tư tưởng ỷ lại trong lao động, ảnh hưởng không
tốt đối với sự phát triển kinh tế trong các gia đình ở nông thôn.
Tệ nạn ma túy, mại dâm
Cùng cờ bạc, tệ nạn nghiện hút các chất ma túy và mại dâm ở khu vực
nông thôn đồng bằng sông Hồng diễn biến ngày càng phức tạp. Trong những
năm gần đây khi nền kinh tế nước ta chuyển mạnh sang kinh tế thị trường
cùng với chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thì nạn nghiện hút, tiêm
chích ma túy, mại dâm gia tăng và ngày càng lan tràn về các vùng nông thôn.
68
Nông thôn đồng bằng sông Hồng cũng chịu ảnh hưởng lớn của các tệ nạn này,
năm 2009, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện 146 vụ ma túy thì năm 2013
đã phát hiện 194 vụ ma túy. Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, năm 2009 phát hiện
162 vụ ma túy đến năm 2013 lên tới 295 vụ ma túy (Phụ lục 1,2); tình trạng
người mại dâm sử dụng ma túy có xu hướng gia tăng; đối tượng mua dâm
thuộc nhiều lứa tuổi, thành phần khác nhau.
Tệ nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy và mại dâm gây ra nhiều hậu
quản nghiêm trọng đối với đời sống xã hội. Những cá nhân và gia đình có
người nghiện ma túy bị sa sút nhiều về mặt kinh tế, nhiều gia đình lâm vào
cảnh đói nghèo, túng thiếu, bần cùng.
Tệ nạn ma túy và mại dâm cũng tác động tới vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa trong các vùng nông thôn. Nó làm cho trật tự xã hội bị rối ren, an
ninh trật tự không được đảm bảo. Các loại tệ nạn xã hội cũng gây nên những
xung đột, những mâu thuẫn trong dân cư làm cho trật tự xã hội không ổn
định, tạo những điều kiện để các thế lực phản động có cơ hội gây ra và khoét
sâu những mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng nhân dân, phá hoại khối đại
đoàn kết trong dân cư, trên cơ sở đó chống phá cách mạng nước ta.
Nạn mê tín dị đoan
Những năm gần đây, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
nâng cao nhưng tệ mê tín dị đoan có chiều hướng phát triển với nhiều hình
thức khác nhau. Nó đã lôi kéo một bộ phận nhân dân, không chỉ ở những
người lớn tuổi lạc hậu mà trong cả một phận cán bộ Đảng viên về kém nhận
thức và phần lớn là phụ nữ, những người có trình độ nhận thức thấp kém,
hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn trắc trở, cuộc sống éo le…Hiện tượng
không lành mạnh này đã và đang gây nhiều ảnh hưởng xấu trong xã hội, và
đặc biệt tình hình này xảy ra phổ biến trên địa bàn huyện, đã gây tác hại nhiều
69
gia đình, cá nhân, làm lãng phí thời gian, tiền của, công sức.
Trong xã hội hiện nay đang nảy sinh nhiều hiện tượng như đồng bóng,
bói toán, thờ cúng, xem ngày giờ….ở cả vùng nông thôn lẫn thành thị, không
chỉ làm hao phí tiền bạc, thời gian, sức lực mà còn mang lại hậu quả bi đát, bi
kịch cho nhiều người, nhiều gia đình… Tiêu biểu trong đó như Vụ việc ngày
28/6/2013 Đội an ninh- công an huyện phối hợp công an xã Quỳnh Sơn phát
hiện, bắt quả tang đối tượng Nguyễn Thị Thanh (SN 1960) ở thôn Voi thực
hiện hành vi tổ chức mê tín dị đoan, với hình thức xem bói; Vụ việc ngày
5/7/2013 công an huyện và công an xã Cảnh Thụy bắt quả tang đối tượng
Hoàng Văn Doanh (SN 1989) ở thôn Tân Mỹ- xã Cảnh Thụy thực hiện hành
vi mê tín di đoan, với hình thức lên đồng.
2.2. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an
ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay và những vấn đề đặt ra
2.2.1. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo
an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay
Thứ nhất, quy ước làng văn hóa định hướng xử lý các quan hệ trong
xóm ngoài làng theo những tiêu chí thống nhất góp phần nâng cao ý thức
thực hiện pháp luật của người dân
Quy ước làng văn hóa đề cập khá chi tiết mối quan hệ ứng xử giữa mọi
người trong làng. Đề cao yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa bà con làng xóm,
tình làng xóm ở đâu và lúc nào cũng cần thiết nhưng ở thôn quê thì lại càng
quan trọng “tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy cần hết sức coi trọng và giữ gìn
tình làng nghĩa xóm. Phải tôn trọng, đoàn kết tương trợ nhau. Không cố ý lợi
dụng, xâm phạm đến quyền lợi vật chất, tinh thần của nhau; không cậy mạnh
hiếp yếu, bắt chẹt nhau “bát đũa có khi xô” nên khi mâu thuẫn phát sinh các
bên cần rất bình tĩnh, không quá lời mà cần ôn tồn khéo léo, bàn bạc để tìm ra
cách giải quyết hợp lý, hợp tình, thảo đáng cho cả hai bên. Quy ước là công
70
cụ để điều chỉnh các mối quan hệ làng xã trong cộng đồng, là công cụ để quản
lý làng xã, các điều khoản của quy ước quy định trách nhiệm và chế độ
thưởng phạt chủ yếu đối với các cá nhân trong làng. Với các điều khoản, quy
ước đã kiểm soát, thái độ ứng xử của từng thành viên, không phân biệt già trẻ,
gái trai và ở tầng lớp xã hội nào. Các hành vi từ ăn mặc, đi đứng, nói năng,
thăm hỏi, học hành cho đến quan hệ ứng xử trong gia đình giữa cha con, vợ
chồng, anh em. Mọi người phải lấy luân lý đạo đức làm trọng, tại điều 4,
chương II quy định về nếp sống, gia đình, văn hóa- xã hội của “Quy ước làng
văn hóa xã Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, Hà Tây” có quy định: “ Gia đình
hòa thuận, tiến bộ:
Phải kính trọng và chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ khi ốm đau, lúc
già yếu. Nghĩa vụ này là của mọi người con trong gia đình, không phân biệt trai
gái, dâu, rể, con đẻ hay con nuôi đều có trách nhiệm đầy đủ, chu đáo, tự nguyện.
Anh em như thể chân tay. Sống phải kính trên nhường dưới. Tôn trọng
đoàn kết, tương trợ lẫn nhau với tinh thần “chị ngã em nâng”, “tay đứt ruột
xót” để cùng nhau xây dựng gia định khi còn ở chung hoặc lúc ra ở riêng
ngày càng phát triển.
Dưới chế độ ta vợ chồng đều bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng
trong gia đình. Vợ chồng là đôi bạn trăm năm của nhau cần tôn trọng, nhường
nhịn, thương yêu nhau dân chủ bàn bạc, chung lưng xây dựng mái nhà ấm êm,
no đủ, giàu có, hạnh phúc. Tình nghĩa vợ chồng đó phải có từ 2 phía mà phải
được thể hiện trong lời nói, trong cách cư xử, trong sự làm ăn, chung sống.
Lên án mọi lời nói, mọi hành vi thô bạo xâm phạm đến nhân cách, thân thể
của nhau, đặc biệt thường xảy ra với người chồng….”[63]. Quy ước làng văn
hóa cũng đề cao việc giúp đỡ nhau trong đời sống hàng ngày. Quy ước không
chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng mà còn định rõ trách
nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên
71
trong đời sống thường nhật; khuyên răn mọi người ăn ở hòa thuận theo đúng
đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn,
túng thiếu hay gặp công to việc lớn trong nhà. Những trường hợp đánh cãi
chửi nhau, triệt hạ lúa màu, gia súc, gia cầm của nhau đều bị phạt nặng. Mọi
người tìm thấy ở xóm làng không chỉ chỗ dựa về vật chất mà chủ yếu ở tinh
thần, một sự đùm bọc giúp đỡ vô tư giữa những người lao động. Quan tâm đến
việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng làng xã hoàn thành đầy đủ các nghĩa
vụ với làng, với nước. Trước hết từng làng phải đảm bảo đầy đủ các nghĩa vụ
với nhà nước về sưu thuế, binh dịch. Ngoài ra từng làng tự đảm nhiệm các
công việc liên quan như thủy lợi, giao thông, đê điều, xây dựng các công trình
bảo vệ xóm làng như: hàng rào, cổng làng, tổ chức thờ cúng. Quy ước quy định
trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân và các hàng dân trong làng. Vì vậy các
nghĩa vụ có liên quan đến trách nhiệm của công dân được thực hiện. Người
nông dân tham gia đầy đủ các công việc trong làng với ý thức trách nhiệm họ
cũng đòi hỏi những thành viên khác cũng phải thực hiện như thế.
Quy ước làng văn hóa còn đề ra các biện pháp nhằm góp phần giáo dục
những gia đình, cá nhân có hành vi trái với quy định của địa phương nói riêng
và pháp luật nói chung. Như trong Quy ước làng Hạ Mỗ quy định rõ: “Hộ gia
đình, cá nhân nào vi phạm các điều khoản trong Quy ước của làng tuỳ theo
mức độ mà xử lý bằng các hình thức sau: Vi phạm lần đầu và lỗi nhẹ được phê
bình, nhắc nhở trước cuộc họp toàn thể nhân dân của cụm; Vi phạm từ lần thứ
hai trở lên, trên cơ sở thảo luận thống nhất trong tập thể cộng đồng thì đưa ra
kiểm điểm tại tổ chức, đoàn thể mà người đó đang sinh hoạt, đưa ra kiểm điểm
trước hội nghị nhân dân; không được bình xét công nhận “gia đình văn hoá”
(nếu là hộ gia đình). Việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm trong Quy ước
này không thay thế các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật” [61].
Như vậy, với những nội dung trên của quy ước làng văn hóa đã giúp
nâng cao ý thức người dân trong xử lý các mối quan hệ trong xóm ngoài làng,
72
đảm bảo đúng với các chuẩn mực đạo đức và những quy định của pháp luật.
Thứ hai, quy ước làng văn hóa giáo dục ý thức bảo vệ, duy trì, phát
triển những giá trị văn hóa truyền thống các làng thôn, bài trừ các hủ tục và
tệ nạn xã hội, từ đó có tác động tích cực đối với việc đảm bảo an ninh nông
thôn đồng bằng sông Hồng
Dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, khi có
cộng đồng người Việt Nam là đã có những mối quan hệ giao tiếp giữa con
người với con người, những phong tục tập quán trong sinh hoạt bắt đầu được
hình thành. Trong quá trình phát triển văn hóa Việt Nam đã mang trong nó
tinh thần Việt Nam, phẩm chất và nhân cách Việt Nam, qua mỗi thế hệ nó lại
được phát triển và bổ sung. Những giá trị truyền thống tốt đẹp đó là tinh thần .
nhân văn, nhân đạo, nhân ái, lòng vị tha vì lợi ích tổ quốc, trở thành chủ nghĩa
anh hùng cách mạng Việt Nam, tinh thần “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy bí cùng” trở thành lẽ sống,
nghĩa cử cao đẹp trong cộng đồng Việt Nam. Dân tộc Việt Nam luôn hướng
tới lý tưởng “chân, thiện, mỹ”, lấy chữ “nhân” làm gốc, chữ “nghĩa” làm
trọng. Tuy nhiên, hiện nay nước ta đang hòa trong xu thế chung của quá trình
hội nhập và phát triển kinh tế thị trường, nên văn hóa Việt Nam cũng chịu
những tác động tiêu cực của quá trình này. Những giá trị văn hóa tốt đẹp
mang ý nghĩa tiến bộ bị pha tạp, đan xen với các yếu tố tiêu cực, lối sống thực
dụng cá nhân vị kỷ coi đồng tiền là hơn cả, bất chấp đạo lý làm sói mòn nhân
cách của không ít cá nhân làm mất đi những bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân
tộc… Trong hoàn cảnh như vậy, những nội dung trong quy ước làng văn hóa
có tác dụng to lớn trong việc định hướng các quan hệ xã hội, trong giao tiếp,
trong cách cư xử… Những nội dung đó đều lành mạnh hướng tới cái đẹp, cái
“chân, thiện, mỹ” , có tác dụng to lớn, thiết thực trong việc bảo tồn và giữ gìn
73
bản sắc văn hóa dân tộc.
Tệ nạn xã hội và những tập tục lạc hậu của xã hội cũ để lại phản ánh
những hành vi trái với pháp luật, không được dư luận xã hội thừa nhận, đó là
những hành vi sa đọa về sinh hoạt, sự đồi bại về tinh thần, tha hóa về đạo đức.
Đó là loại quan hệ xã hội của một số người thoái hóa biến chất, nó không phải
là loại quan hệ chân chính của những người lao động và trái ngược với sự tiến
bộ và nền văn minh của nhân loại.
Tệ nạn xã hội cùng với những tập tục lạc hậu của các chế độ xã hội cũ
để lại là hiện tượng xã hội rất phức tạp, sự xuất hiện và phát triển của nó phụ
thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, nó luôn luôn có mặt trái vì vậy việc đấu
tranh khắc phục nó là vấn đề thiết thực đặt ra đối với mọi quốc gia. Tệ nạn xã
hội sẽ gây nên những tác động tiêu cực đối với việc đảm bảo an ninh trật tự.
Trong những năm gần đây dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị
trường, tệ nạn xã hội khu vực đồng bằng sông Hồng có xu hướng gia tăng. Tệ
nạn xã hội hoạt động dưới nhiều hình thức khá phức tạp, mức độ ngày càng
tăng. Khi nó đã xâm nhập vào các làng xã trong nông thôn thì những tác động
xấu của nó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với việc xây dựng đời sống văn
hóa, đối với việc giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn. Hiện nay tệ nạn
xã hội và những tập tục lạc hậu của xã hội cũ là mặt trái của đời sống xã hội
nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng trên
mọi lĩnh vực, làm xói mòn đạo đức xã hội, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm tha
hóa một bộ phận đáng kể các tầng lớp nhân dân nhất là thanh thiếu niên…
Trong các nội dung quy ước làng văn hóa đều quy định việc giữ gìn,
bảo vệ và duy trì những giá trị tốt đẹp trong truyền thống các làng thôn. Bảo
đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh
trong ứng xử, giao tiếp, ăn ở, đi lại, xóa bỏ hủ tục, bài trừ tệ nạn xã hội và mê
tín dị đoan trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương;
74
phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh. Chẳng hạn, như trong Quy ước
làng văn hóa của xã Hạ Mỗ quy định rất cụ thể về phòng chống hủ tục lạc
hậu, mê tín dị đoan trong sinh hoạt văn hóa tâm linh: “ Các sinh hoạt văn hoá
tâm linh, tổ chức hiếu, hỷ, thờ cúng tổ chức phù hợp với phong tục tập quán,
đảm bảo phát huy truyền thống văn hoá. Trường hợp gia đình có người ốm
đau phải đưa đi chữa trị tại các cơ sở y tế. Không lợi dụng các sinh hoạt văn
hoá tâm linh để hoạt động mê tín dị đoan như xem số, xem bói, gọi hồn, yểm
bùa, trừ tà, phù phép chữa bệnh” [61].
Việc thực hiện tốt các quy ước làng văn hóa ở các địa phương đã góp
phần đáng kể vào phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, nhất là trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống. Đồng thời đẩy lùi những hủ tục, những luồng tư tưởng độc hại, từ đó
tạo ra cuộc sống văn hóa lành mạnh, mọi người dân đoàn kết, yêu thương
giúp đỡ lẫn nhau, tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, không để bị
các thế lực thù địch phản động và các phần tử xấu mua chuộc. Đây là những
nhân tố rất cơ bản để bảo đảm an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trong các làng quê Việt Nam.
Thứ ba, quy ước làng văn hóa góp phần to lớn trong việc hạn chế và
đẩy lùi các loại tội phạm trên địa bàn nông thôn, là cơ sở cho vấn đề đảm bảo
an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn đồng bằng sông Hồng
Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang tạo điều kiện cho đất nước ta
nói chung và các vùng nông thôn nói riêng có nhiều điều kiện phát triển. Đời
sống vật chất của người dân được nâng cao rõ rệt. Nhờ vậy mà đời sống tinh
thần của bà con nông dân cũng được cải biến theo chiều hướng tích cực. Tuy
nhiên, mặt trái của nó là ở vùng nông thôn tình hình tội cũng có những diễn
biến phức tạp, tội phạm cũ gia tăng và làm xuất hiện nhiều loại tội phạm mới.
Để ngăn chặn, hạn chế và đẩy lùi các loại tội phạm ra khỏi đời sống xã
75
hội trên địa bàn nông thôn có thể sử dụng nhiều phương pháp và có nhiều
nhân tố có thể để tác động đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trong đó những nội dung của quy ước làng văn hóa cũng góp phần hạn chế
các loại tội phạm trên địa bàn nông thôn. Nhiều nội dung của quy ước đề cập
tới vấn đề: Mọi người dân đều phải có ý thức đấu tranh chống lại những thói
hư tật xấu, đoàn kết đấu tranh chống tội phạm, có ý thức bảo vệ giữ gìn tài
sản của gia đình mình và của bà con làng xóm, giáo dục cho mọi người có
tinh thần đề cao cảnh giác đối với các loại tội phạm. Quy ước làng văn hóa đề
ra các biện pháp cụ thể bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn góp phần phòng,
chống các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè bê tha, trộm cắp, mại
dâm và các hành vi khác vi phạm pháp luật nhằm xây dựng địa bàn trong
sạch. Phát động trong nhân dân ý thức phòng gian, bảo mật, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật về tạm trú, tạm vắng, “ khi có người chuyển đến cư
trú lâu dài, công dân của thôn đi làm ăn xa hoặc có việc cần đi xa dài ngày thì
thực hiện đúng luật cư trú. Hộ gia đình có người lạ lưu trú qua đêm nên báo
với cụm trưởng, nếu không báo, khi có vụ việc đáng tiếc xảy ra hộ có người
lưu trú phải chịu trách nhiệm trước thôn, cụm và trước pháp luật” [61].
Quy ước làng văn hóa tham gia quản lý, giáo dục, giúp đỡ những người
lầm lỗi tại cộng đồng dân cư. Đề ra các biện pháp cần thiết hỗ trợ cơ quan có
thẩm quyền phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật trên địa bàn; bảo đảm triển khai
thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức tự quản ở cơ sở như Tổ hòa
giải, Ban an ninh, Tổ bảo vệ sản xuất, Ban kiến thiết và các tổ chức tự quản
khác. Tại điều 17, quy ước làng Hạ Mỗ có quy định rõ: “Tất cả mọi người có
trách nhiệm xây dựng và giữ gìn an ninh trật tự trong thôn xóm. Không phát
ngôn trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước, thuần phong mỹ tục, tập quán tốt đẹp của thôn, xã. Mọi cá nhân không
được có các hành vi làm hư hại công trình công cộng. Không được kích động
76
gây chiến tranh tâm lý, gây rối trật tự, làm mất đoàn kết, gây gổ hằn thù, đánh
chửi nhau. Không tàng trữ, mua bán, sử dụng vũ khí, hung khí, chất nổ. Không
dùng chất nổ, xung điện, kích điện để đánh cá. Không đánh bạc, chứa bạc dưới
mọi hình thức. Có ý thức đấu tranh phòng và chống các tệ nạn trộm cắp, rượu
chè bê tha, hút trích ma tuý, mại dâm, truyền bá, kích động văn hoá phẩm đồi
trụy. Khi phát hiện kẻ gian, kẻ gây rối, những người có hành vi vi phạm pháp
luật thì báo ngay cho cụm trưởng hoặc Công an viên và mọi công dân nên có
trách nhiệm cùng truy bắt kẻ gian. Những người vi phạm pháp luật dưới 16 tuổi
nếu gây thiệt hại, thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu người
trên 16 tuổi thì xử lý theo pháp luật. Mọi người, mọi nhà tự bảo vệ tài sản riêng
của mình. Ban đêm hoặc khi đi vắng nên đóng cổng, khoá cửa đề phòng kẻ
gian. Mọi hoạt động ban đêm sau 22 giờ không được gây ồn ào ảnh hưởng đến
người khác. Mọi tranh chấp về quyền lợi, mâu thuẫn cá nhân nên được hoà giải
ở thôn. Đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đúng cơ quan có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại tố cáo, không được gửi vượt
cấp khi cấp cơ sở chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong; không lôi kéo để
khiếu kiện vượt cấp, đông người” [61].
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ dân tộc ta,
chúng vào tận các làng xóm, thôn bản để tuyên truyền chống phá. Chúng tìm
mọi cách khơi dậy những mâu thuẫn, tạo nên tình trạng mất ổn định từ đơn vị
nhỏ nhất là xóm làng, nhằm làm chính quyền bị lung lay, suy yếu. Vì vậy, ở
mỗi thôn xóm đều tổ chức các đội công an viên nhằm bảo vệ tình hình trật tự
an ninh và giải quyết những xung đột nhỏ trong làng. Trong mỗi làng còn có
các tổ hòa giải để tiến hành giải quyết những mâu thuẫn. Đặc biệt, trong quy
ước của một số làng cũng quy định rõ mức độ xử phạt đối với từng hành vi
gây rối trật tự trị an xóm làng. Nhờ các quy ước này mà không khí thanh bình
77
trong các làng quê được duy trì, hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực.
Như vậy, những quy ước làng văn hóa giúp cho mọi người dân đều có
tinh thần và ý thức cao trong đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, điều
này tác động tốt đối với việc bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn
đồng bằng sông Hồng.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến vai trò của quy ước làng
văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng
Thứ nhất, quy ước làng văn hóa thực hiện trong bối cảnh hội nhập quốc tế
và phát triển kinh tế thị trường, những tác động tiêu cực của quá trình này gây
nên nhiều khó khăn đối với việc thực hiện các quy ước làng văn hóa.
Hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là xu thế tất yếu khách quan đối với nước ta. Trong tình hình
hiện nay, quá trình này có rất nhiều ưu điểm, mặt tích cực, có tác dụng to lớn
thúc đẩy sự phát triển trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, cùng với những tác động tích cực thì còn có những tác động tiêu cực,
những tác động tiêu cực này gây nên nhiều khó khăn trong quá trình phát
triển. Trong đó có tác động tiêu cực đối với lĩnh vực văn hóa. Những giá trị
tốt đẹp mang ý nghĩa tiến bộ bị pha tạp, đan xen với những yếu tố tiêu cực, lối
sống thực dụng cá nhân vị kỷ, làm xói mòn nhân cách của không ít cá nhân
trong xã hội đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Khi đồng tiền trở nên ngự trị lúc đó
sẽ xuất hiện hàng loạt hàng loạt những hành vi phi đạo đức, làm rạn nứt mối
quan hệ gia đình, làm trỗi dậy lòng tham, lòng ích kỷ. Với lối sống thực dụng,
coi trọng đồng tiền mà không ít người lao vào con đường làm ăn phi pháp,
làm giàu bằng con đường bất chính, bất chấp pháp luật và đạo lý. Tình trạng
này không chỉ diễn ra ở các thị xã, thành phố lớn mà còn bao hàm cả các vùng
nông thôn. Đây là nhân tố ảnh hưởng xấu, là lực cản đối với việc thực hiện
quy ước làng văn hóa trong các vùng nông nước ta nói chung và nông thôn
78
đồng bằng sông Hồng nói riêng.
Những tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế và mặt trái của kinh tế
thị trường còn biểu hiện ở chỗ, do quá trình mở cửa và phát triển kinh tế thị
trường các mối quan hệ kinh tế giao lưu ngày càng được mở rộng, chính điều
này làm cho tệ nạn xã hội cũng có điều kiện nảy sinh, phát triển. Các tệ nạn
xã hội chủ yếu như: cờ bạc, mại dâm, nghiện hút… Trước đây các loại tệ nạn
này chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị, nhưng trong những năm gần
đây đã len lỏi và thâm nhập sâu rộng vào các vùng nông thôn, đặc biệt là nông
thôn đồng bằng sông Hồng. Các hành vi tệ nạn xã hội là hoàn toàn trái với
đạo lý làm người, với sự tiến bộ xã hội và tác động xấu đến việc xây dựng nếp
sống văn hóa ở nông thôn.
Trong các nội dung của quy ước làng văn hóa đều khẳng định tiêu chí
làng văn hóa phải không có tệ nạn xã hội. Vì vậy, tệ nạn xã hội hiện nay ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng là nhân tố hạn chế đối với việc thực hiện quy
ước làng văn hóa. Muốn cho quy ước làng văn hóa được thực hiện tốt yêu cầu
hàng đầu là phải đẩy mạnh đấu tranh để bài trừ các loại tệ nạn xã hội ra khỏi
các vùng quê nông thôn và toàn xã hội.
Thứ hai, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc thực hiện quy ước làng
văn hóa và các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng
Hiện nay, thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, nhiều địa phương ở
đồng bằng sông Hồng đã và đang xây dựng và hoàn thiện quy ước làng văn
hóa trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của hương ước cũ, phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành. Tại nhiều địa phương, quy ước mới không
những góp phần phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý
và đạo đức truyền thống của dân tộc mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các
79
cuộc vận động duy trì an ninh trật tự, đề ra các biện pháp bài trừ các hủ tục, tệ
nạn xã hội và mê tín dị đoan trong cưới hỏi, tang lễ, hội, thờ phụng ở địa
phương, khuyến khích những nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống
lãng phí, tốn kém, điều này phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ở một số địa phương có những quy định
trong quy ước làng văn hóa mặc dù không trái với pháp luật nhưng chưa phản
ánh được xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội nông thôn. Chẳng hạn như
hiện nay ở nông thôn nước ta nói chung và khu vực nông thôn đồng bằng sông
Hồng nói riêng ngày càng nở rộ sự phát triển của lễ hội. Ở nhiều địa phương
những tập tục về tiệc tùng ăn uống trong ma chay, cưới hỏi chi phí tốn kém có
xu hướng ngày càng gia tăng trong khi kinh tế nông thôn chưa đạt tới trình độ
phát triển cao, những chi phí này sẽ là gắng nặng cho dân cư vùng nông thôn.
Đảng và Nhà nước không cấm những lễ hội mang tính truyền thống thể hiện
bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, không cấm những nghi thức tổ chức trong
các đám hiếu hỉ đã ăn sâu trong đời sống cộng đồng và trở thành những nét đẹp
văn hóa cần giữ gìn, nhưng cũng cần đấu tranh ngăn chặn những hiện tượng
không lành mạnh trong các lễ hội, trong việc tổ chức ma chay, cưới hỏi ở các
vùng nông thôn. Do vậy, trong quy ước làng văn hóa nên có những quy định cụ
thể rõ ràng về nghi lễ tổ chức tiệc tùng ăn uống, ma chay cưới hỏi để phù hợp
với trình độ phát triến kinh tế nông thôn, giữ gìn được những bản sắc văn hóa
tốt đẹp của dân tộc và đảm bảo thực hiện đúng những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Ở một số địa phương, trong nội dung quy ước làng văn hóa vẫn còn tồn
tại những nội dung không bám sát với nội dung chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,
những nội dung này thường không nhiều vì phần lớn các quy ước đã qua kiểm
duyệt của cả xã và huyện. Chẳng hạn như trong tiêu chuẩn xây dựng gia đình
văn hóa, theo quyết định của Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể thao và du lịch về
80
việc ban hành quy chế công nhận danh hiệu gia đình văn hóa có 4 tiêu chuẩn:
Gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, khoẻ mạnh và hạnh phúc; Thực hiện tốt
nghĩa vụ công dân; Thực hiện kế hoạch hoá gia đình; Đoàn kết tương trợ
trong cộng đồng dân cư [15]. Trên thực tế, quy ước của các làng không thống
nhất với các tiêu chuẩn trên, có làng đưa ra 6 tiêu chuẩn như trong quy ước
làng Hạ Mỗ, trong quy ước văn hóa thôn Đặng Xá đưa ra 5 tiêu chuẩn gia
đình văn hóa. Qua đó cho thấy chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện quy
ước làng văn hóa với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Thứ ba, việc triển khai, thực hiện quy ước làng văn hóa chưa đồng bộ.
Hiện nay, quy ước làng đã được xây dựng tại tất cả các tỉnh, thành
trong phạm vi cả nước và khoảng 70% đến 80% các quận, huyện, thành phố,
thị xã thuộc tỉnh. Nhìn chung việc xây dựng và thực hiện quy ước đã từng
bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ở khu vực nông thôn
đồng bằng sông Hồng, việc xây dựng quy ước đã được triển khai đồng bộ như
Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội,... Tại các tỉnh này đã có khoảng
hơn 90% số làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư ban hành quy ước, 60% đến 80%
trong số đó đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, phê duyệt.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc xây dựng và thực hiện quy ước ở
một số nơi chưa được tiến hành một cách thực sự dân chủ, mới chỉ là công
việc của một số người, chưa có sự phê duyệt của chính quyền. Nội dung của
quy ước văn hóa còn nhiều hạn chế, chưa phản ánh đúng tình hình, đặc điểm
kinh tế xã hội, truyền thống văn hóa của từng địa phương. Trong một số bản
quy ước còn có những quy định trái pháp luật hoặc phục hồi các hủ tục và tập
quán lạc hậu. Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy ước đã phát sinh
một số hạn chế, như: một số địa phương đang hành chính hóa việc xây dựng
quy ước. Xem việc xây dựng quy ước là của cán bộ thôn, xã mà chưa có sự
tham gia tích cực của người dân. Vì vậy, nội dung quy ước thường rập khuôn,
81
cứng nhắc, không thể hiện được nét đặc trưng của thôn, cũng như chưa thực
sự sát với đời sống của người dân, do đó hầu như nhân dân trong thôn không
quan tâm và hạn chế tính khả thi của quy ước. Có nhiều trường hợp xây dựng
quy ước chỉ nhằm đối phó khi có đoàn kiểm tra từ cấp trên hoặc để bình xét
các danh hiệu, sau đó được cất trong tủ. Nội dung quy ước dài dòng và lặp lại
hầu hết các quy định của pháp luật. Tồn tại hạn chế này cũng do cách hiểu của
một số địa phương cho rằng, quy ước là của cộng đồng dân cư nên đưa vào tất
cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của dân cư, miễn là không
trái với quy định của pháp luật. Do đó nhiều địa phương đưa các nội dung mà
pháp luật đã quy định vào quy ước dẫn đến quy ước thường dài và khó nhớ.
Việc xảy ra tình trạng này thường là do chủ quan của các cán bộ thực hiện
việc kiểm tra, thẩm định quy ước. Bên cạnh đó trong quá trình xây dựng quy
ước cũng gặp phải một số vướng mắc như: Thiếu kinh phí cho việc triển khai
xây dựng và thực hiện quy ước; các quy định pháp luật hiện hành chưa có quy
định cụ thể cơ quan nào chủ trì tham mưu giúp ủy ban nhân dân các cấp trong
việc quản lý hoạt động này, dẫn đến sự đùn đẩy trách nhiệm và bỏ rơi việc
theo dõi, chỉ đạo kiểm tra công tác này. Đây chính là vấn đề cần lưu ý trong
quá trình soạn thảo, xây dựng quy ước làng văn hóa trong thời gian tới.
2.3. Giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của quy ước làng
văn hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn đòng bằng sông Hồng
2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng quy ước làng văn hóa góp phần
đảm bảo an ninh nông thông đồng bằng sông Hồng
Cách đây gần 60 năm, vào năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp
đoàn cán bộ tỉnh Thái Bình tại Phủ Chủ tịch đã phê bình các cán bộ địa
phương đã xóa bỏ quỹ nghĩa thương và hương ước. Người khẳng định:
“Hương ước là những khoán ước trong làng, người ta quy định với nhau
không được để trâu bò phá lúa, gà qué ăn mạ… đó là những phong tục hay
82
của nông thôn nước ta trước đây. Từ sau cách mạng, các chú đem xóa bỏ cả,
thế là không đúng. Cách mạng chỉ xóa cái xấu, cái dở còn giữ lại cái tốt, cái
hay” [31]. Lời nói ấy của Người vẫn còn nguyên giá trị đến tận hôm nay. Bên
cạnh việc xây dựng luật pháp thống nhất với khẩu hiệu :”Sống và làm việc
theo pháp luật”, Đảng và Nhà nước ta vẫn khuyến khích các làng xây dựng và
thực hiện quy ước làng văn hóa (hương ước mới) để phát huy tính tự quản của
nhân dân ở cơ sở.
Để phát huy yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của
hương ước, quy ước, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18 tháng
2 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường
công tác quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện quy ước trong
giai đoạn hiện nay. Tiếp sau đó, dưới góc độ toàn quốc, Nhà nước đã ban
hành một loạt văn bản chỉ đạo, hướng dẫn việc ban hành và thực hiện hương
ước, quy ước như: Nghị định số 29/NĐ- CP ngày 11- 5- 1998 của Chính phủ
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Chỉ thị số 24/CT- TTg ngày 19- 6-
1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước của làng, thôn, ấp, cụm dân cư, Thông tư liên tịch số
03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31- 3- 2000 của
Liên bộ Tư pháp, Văn hóa- Thông tin, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước của làng, bản, thôn, cụm dân cư. Đây là các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn cụ thể về nội dung và hình thức thể hiện của quy ước,
thủ tục soạn thảo, thông qua, phê duyệt, tổ chức thực hiện, việc sửa đổi, bổ
sung hương ước, quy ước, tránh nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý
việc xây dựng và thực hiện quy ước, cách thức đưa nội dung dân số - kế
hoạch hóa gia đình vào trong quy ước.
Dự thảo quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận, được hội
83
nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, cụm dân cư thông qua và
được ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành nhằm bảo đảm
nội dung của quy ước không trái với các quy định của pháp luật hiện hành,
không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí và lệ phí có thể
gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc tuyên truyền về vai trò
và tác dụng của việc xây dựng và thực hiện quy ước làng văn hóa, các mô
hình mẫu về nếp sống văn hóa, gắn với việc tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật, phát huy dân chủ ở cơ sở; nêu gương những điển hình tiên
tiến, phát hiện và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, sai trái hoặc lợi
dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục, tập quán lạc hậu.
Việc soạn thảo, ban hành các hương ước hay quy ước làng văn hóa cần
phải được sự quan tâm, giám sát chặt chẽ hơn nữa của Nhà nước, các bộ,
ngành liên quan, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, của ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở nhằm phát huy vai trò của
các văn bản hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, có thể thấy rằng xây dựng những quy ước mới về làng văn
hóa là một công việc đa dạng và không ít phức tạp. Xây dựng quy ước làng là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn nước
ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đồng thời tăng cường ý thức tự quản của người nông dân trên chặng đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy,việc xây dựng quy ước làng
văn hóa cần có sự tiếp thu chọn lọc những yếu tố tốt đẹp của hương ước cũ
đồng thời phải có sự sáng tạo sao cho phù hợp với yêu cầu mới của nông thôn
hiện nay. Đây thực sự là những việc làm thiết thực để công cuộc xây dựng
84
nông thôn mới đạt được kết quả tốt và thành công.
2.3.2. Đào tạo cán bộ văn hóa và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa
trong nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng
Trong việc thực hiện quy ước làng văn hóa và xây dựng làng văn hóa
ở khu vực nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng ở nước ta hiện nay đòi
hỏi phải xây dựng, đào tạo một đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
chuyên sâu. Đào tạo cán bộ văn hóa là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với việc
thực hiện quy ước làng văn hóa và xây dựng làng văn hóa trong nông thôn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ trên lĩnh vực văn hóa ở cơ sở có trình độ năng
lực, có tinh thần trách nhiệm cao để làm tốt nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy
chính quyền địa phương là yêu cầu không thể thiếu trong phong trào xây
dựng làng văn hóa, xây dựng nông thôn mới, phải có cán bộ phong trào tốt
thì mới có phong trào tốt.
Để đào tạo cán bộ văn hóa cho nông thôn cần thực hiện những vấn đề sau:
Phải có sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương,
nhận thức đúng về đào tạo cán bộ văn hóa cho nông thôn là cơ sở điều kiện để
xây dựng làng văn hóa, hình thành phát triển các phong trào sinh hoạt văn hóa
nghệ thuật trong nông thôn hiện nay. Xây dựng đào tạo đội ngũ cán bộ văn
hóa sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao các hoạt động văn hóa trong nông
thôn, thực tế cho thấy ở địa phương nào có sự quan tâm của các ủy đảng, đối
với xây dựng cán bộ văn hóa, đối với việc thực hiện các phong trào văn hóa
thì đời sống văn hóa tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, ý thức
của người dân trong việc chấp hành các chính sách của Đảng, quy định pháp
luật của Nhà nước ngày một hoàn thiện.
Để có đội ngũ cán bộ làm văn hóa ở nông thôn hiện nay cần đặc biệt
quan tâm tới công tác tạo nguồn, phát hiện các cá nhân, các nhân tố mới,
những người có tổ chức, có năng lực chuyên môn để lựa chọn, đào tạo họ trở
85
thành những cán bộ văn hóa cơ sở. Ngoài nguồn cán bộ do địa phương cơ sở
do địa phương cơ sở tự đào tạo cũng cần có sự hỗ trợ giuos đỡ của các cấp
huyện, tỉnh, cử cán bộ văn hóa có trình độ chuyên môn được đào tạo cơ bản
trong các trường lớp chuyên sâu về tăng cho cơ sở, tham gia tổ chức, thực
hiện các hoạt động văn hóa ở làng xã.
Trong việc đào tạo cán bộ văn hóa cho các địa phương thuộc khu vực
nông thôn đồng bằng sông Hồng cần xuất phát từ yêu cầu thực tế, từ truyền
thống văn hóa của địa phương để có đội ngũ cán bộ phù hợp, cần chú ý tới
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, duy trì, bảo tồn, phát triển những gía trị văn
hóa tốt đẹp của làng quê nông thôn Việt Nam.
Đi liền với công tác đào tạo cán bộ văn hóa cần đẩy mạnh các hoạt
động văn hóa, giúp người dân tự tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa, tạo
môi trường và điều kiện để người dân hưởng thụ các giá trị văn hóa, nâng cao
đời sống tinh thần.
Hiện nay các hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp trong nông thôn khu
vực đồng bằng sông Hồng chưa phát triển mạnh, một số địa phương có các
hoạt động nhưng chất lượng không cao, chưa gắn bó được với đời sống nhân
dân nên chưa được ưa thích và phát huy tác dụng. Trong tương lai, phải đẩy
mạnh các hoạt động này và phải gắn chặt chẽ với truyền thông đại chúng để
tạo cơ hội phát triển đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân nông thôn.
Có thể thấy, muốn tăng cường hoạt động văn hóa và mức độ hưởng thụ
các giá trị văn hóa của người dân thì phải kết hợp nhiều hình thức hoạt động
trong đó nổi bật là đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, tổ chức
giao lưu văn nghệ quần chúng ở địa phương….
Ở nông thôn nước ta nói chung và nông thôn đồng bằng sông Hồng nói
riêng, truyền thông có vai trò rất to lớn đối với việc nâng cao đời sống văn
hóa cho cư dân nông thôn. Người dân đánh giá cao hoạt động của truyền hình
86
và hệ thống đài phát thanh trong nông thôn, coi đây là những phương tiện rất
thiết thực cung cấp đa dạng thông tin về kinh tế, chính trị, văn hóa… cho
người dân. Do đó, cần phải biết phát huy vai trò to lớn của phương tiện truyền
thông và tạo môi trường để người dân được thường xuyên tiếp cận với những
phương tiện hữu ích này.
Như vậy, những hoạt động trên sẽ góp phần to lớn đối với việc thực
hiện quy ước làng văn hóa, cải thiện đời sống tinh thần, nâng cao ý thức, trách
nhiệm của người dân trong các hoạt động của đời sống xã hội. Đó là cơ sở
đảm bảo cuộc sống bình yên, đảm bảo an ninh nông thôn khu vực đồng bằng
sông Hồng nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
2.3.3. Tổ chức triển khai quy ước làng văn hóa kết hợp với tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, qua đó giữ vững an ninh trật tự nông
thôn đồng bằng sông Hồng.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phức tạp của tình hình an
ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời gian qua là do những sơ hở
trong việc thực hiện quy ước làng văn hóa, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước ở từng địa phương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Vì vậy,
để đảm bảo an ninh nông thôn, hệ thống chính trị cấp xã cần phải kết hợp
thực hiện quy ước làng văn hóa với tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều này
tạo môi trường xã hội thanh bình, thôn xóm bình yên, nhân dân phấn khởi làm
ăn, sinh sống, tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, đời sống nhân
dân được cải thiện, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Xem đây là là giải pháp quan trọng để thực hiện
quy ước làng văn hóa ở khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng. Theo chủ
87
trương của Đảng và Nhà nước thì từ năm 2010, Chính phủ đã chính thức phê
duyệt đề án phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hường đến năm
2020 do Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xây dựng. Khu vực đồng bằng sông
Hồng cũng không nằm ngoài chủ trương chung, mục tiêu chung mà chính phủ
để ra. Mục tiêu của đề án là nhằm “nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp
luật và các quy định về văn hóa của người dân ở nông thôn; xây dựng, củng cố
và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, tạo điều kiện để người
dân ở nông thôn nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn
hóa; nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa,
thực hiện các tiêu chí phát triển văn hóa nông thôn mới cấp xã, tạo nền tảng
vững chắc để phát triển văn hóa nông thôn mới trên địa bàn xã; xây dựng con
người, gia đình, cộng đồng nông thôn và môi trường văn hóa nông thôn lành
mạnh, phong phú, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, tạo động lực thúc đẩy phát triển
nông nghiệp và xã hội nông thôn mới” [76]. Theo chủ trương của Đảng và
Chính phủ đến năm 2015 đối với vùng đồng bằng sẽ có: “50% người dân ở nông
thôn tham gia thường xuyên vào các hoạt động văn hóa, thể thao, trong đó 25%
dân số nông thôn luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên;
- 70% nhà văn hóa và khu thể thao xã và 70% nhà văn hóa, khu thể
thao thôn đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
- 70% gia đình giữ vững và phát huy danh hiệu “Gia đình văn hóa”,
trong đó có 15% gia đình văn hóa ở nông thôn làm giầu từ sản xuất nông
nghiệp hàng hóa;
- 60% làng (thôn, ấp, bản) giữ vững và phát huy danh hiệu (Làng văn
hóa”, trong đó 40% làng (thôn, ấp, bản) văn hóa đạt chuẩn cơ sở vật chất, hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới;
- 80% nông dân được phổ biến pháp luật vàên nhcác quy định về văn hóa;
- 90% cán bộ văn hóa, thể thao ở nông thôn được đào tạo, bồi dưỡng,
88
tập huấn về nghiệp vụ” [76].
Để đạt các mục tiêu nêu trên nhằm phục vụ cho các hoạt động văn hóa
diễn ra trên địa bàn nông thôn, thì các làng xã một mặt phải bằng năng lực nội
sinh phát huy các nguồn lực vốn có của địa phương và trong dân cư, nhưng
mặt khác ở đây không thể thiếu vai trò về phát triển kinh tế và nhiều điều kiện
cần thiết khác.
Trong việc thực hiện quy ước làng văn hóa, xây dựng làng văn hóa ở
nông thôn khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay cần quan tâm đến vấn đề
nâng cao nhận thức của người dân về ý nghĩa văn hóa làng, tiêu chuẩn công
nhận làng văn hóa, ý nghĩa vai trò tự quản của các cộng đồng dân cư trong
việc giữ vững và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, phổ biến và
nhân rộng mô hình làng văn hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành
nghề phụ… Coi đây là giải pháp không chỉ đơn thuần là thực hiện quy ước
làng văn hóa, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển nông thôn trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cùng với phong trào xây dựng làng văn hóa, chủ trương của
Đảng, Nhà nước ta về xây dựng nông thôn mới cũng đang được đẩy mạnh, vì
vậy việc thực hiện quy ước làng văn hóa cần gắn với nhiệm vụ xây dựng nông
thôn mới. Để thực hiện chủ trương trên, nhiệm vụ của ngành văn hóa thông
tin là phải đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền giáo dục góp phần nâng cao
nhận thức của các cấp, các ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở và người dân
nông thôn về văn hóa, phát triển văn hóa nông thôn, phát huy tinh thần chủ
động, tích cực, nỗ lực của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng nông
thôn. Trong quá trình phát triển văn hóa nông thôn, đặc biệt cần có sự quan
tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền sự phối hợp của các
ban ngành, đoàn thể trong triển khai thực hiện những giải pháp nâng cao hiệu
89
quả công tác văn hóa, thông tin tuyên truyền.
Vấn đề quan trọng hàng đầu là tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phát
huy quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm dân biết, dân làm,
dân bàn, dân kiểm tra, vận động nhân dân thực hiện tốt các tiêu chuẩn của quy
ước làng văn hóa, xây dựng Đảng bộ, chính quyền đoàn thể thực sự trong
sạch, vững mạnh gắn bó mật thiết với nhân dân, từ đó tạo niềm tin và nâng
cao vai trò của nhân dân, tích cực hưởng ứng xây dựng phát triển đời sống
văn hóa cơ sở, tích cực tham gia các hoạt động văn hóa.
2.3.4. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng
Gia đình là tế bào của xã hội, từ gia đình sẽ cấu trúc lên làng nước, gia
đình có lành mạnh thì làng xóm mới lành mạnh, phát triển. Nhận thức rõ vai trò
to lớn của gia đình trong việc xây dựng làng nước, cấu trúc thành xã hội, Đảng,
Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình văn hóa là vấn đề hết sức hệ
trọng của dân tộc và thời đại. Chính phủ hiện nay đang xây dựng chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2011-2020, thực hiện đề án phát triển
gia đình Việt Nam bền vững, ban hành các luật, chính sách đối với gia đình.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta đã được phát động từ
những năm 60 của thế kỷ 20, đến nay đã lan rộng khắp cả nước. Hiện nay, ỏ
khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng việc thực hiện quy ước làng văn hóa
cần biết phát huy và kế tục những thành tựu về xây dựng làng văn hóa đã đạt
được trong quá khứ. Từ thực tế của phong trào đã thực hiện trong những năm
trước đây cho thấy chỉ có phát huy tốt những giá trị của gia đình truyền thống,
thì phong trào mới đi vào chiều sâu và có chất lượng thực sự, lôi cuốn nhiều
gia đình tham gia. Việc xây dựng gia đình văn hóa trong nông thôn đồng bằng
sông Hồng hiện nay trước hết cần phải biết kế thừa, bảo vệ và phát triển
90
những giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống. Trong lịch sử dựng
nước và giữ nước từ đời này sang đời khác ông cha ta đã tạo dựng nên một
nền nếp gia phong như con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vợ chồng
chung thủy, anh em đoàn kết hòa thuận…những truyền thống quý báu đó có
thể xem là tinh hoa văn hóa dân tộc. Gia phong đã trở thành nội dung cốt lõi
của việc xây dựng gia đình văn hóa, từ đó gia đình mới trở thành một tế bào
xã hội khỏe khoắn, lành mạnh.
Tuy nhiên, việc xây dựng gia đình văn hóa nói chung và khu vực nông
thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức
của mặt trái cơ chế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế, với nhiều lối
sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền, những luồng tư tưởng độc hại, các sản
phẩm phi văn hóa… xâm nhập vào các vùng nông thôn cùng các loại tệ nạn
xã hội đang tấn công mạnh mẽ vào các gia đình. Từ đó làm sói mòn những
giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tình trạng ly thân,
ly hôn, sống thử, quan hệ tình dục bừa bãi...Các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ
bạc, rượu chè… đã len lỏi, xâm nhập vào các gia đình, gây ảnh hưởng tới an
ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Trước thực trạng nêu trên, để xây dựng gia đình văn hóa từ đó cấu trúc
lên làng văn hóa, trước hết cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để
mỗi người dân nhận thức sâu sắc vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng gia đình
văn hóa, mỗi thành viên trong gia đình phải phát huy tốt những giá trị đạo đức
của gia đình truyền thống, giữ vững gia phong, làm tốt việc giáo dục con cái,
trong đó người lớn luôn luôn gương mẫu để gia đình phát triển lành mạnh, trở
thành thành lũy ngăn chặn tiêu cực từ bên ngoài xâm nhập vào. Tuy nhiên,
lớp trẻ trong các gia đình nông thôn Việt Nam nói chung và khu vực nông
thôn đồng bằng sông Hồng nói riêng, không chỉ sống trong gia đình mà còn
luôn luôn giao tiếp với môi trường bên ngoài xã hội, do đó cũng sẽ tất yếu
91
chịu sự tác động của môi trường xã hội. Vì vậy, cần thực hiện kết hợp tốt môi
trường giáo dục trong gia đình với nhà trường và ngoài xã hội đối với thế hệ
trẻ. Việc xây dựng gia đình văn hóa trước hết là công việc của gia đình song
cần nhận thức sâu sắc đây là nhiệm vụ to lớn quan trọng có ý nghĩa xã hội rất
to lớn, do vậy cần phải có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng, trong đó
92
đặc biệt cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền, đoàn thể, bao quát
Kết luận chƣơng 2
Trong những năm gần đây, tình hình an ninh nông thôn đồng bằng
sông Hồng diễn biến phức tạp, đe dọa đến sự ổn định và phát triển về mọi
mặt ở nông thôn, mà nghiêm trọng hơn là đe dọa sự mất ổn định chính trị,
kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Quy ước làng văn hóa được
xem như một công cụ để duy trì, phát triển thuần phong mỹ tục, đề cao các
chuẩn mực đạo lý và đạo đức truyền thống trong sinh hoạt cộng đồng thôn,
làng, ấp, bản, cụm dân cư, góp phần to lớn vào công tác đảm bảo an ninh
nông thôn cả nước nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng. Trước
tình hình đó, cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm tiếp tục phát
huy vai trò của quy ước làng văn hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nông
93
thôn đồng bằng sông Hồng.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, thực trạng tình hình an ninh nông thôn các
tỉnh đồng bằng sông Hồng biến động phức tạp, nhiều loại tội phạm có xu
hướng gia tăng cả về tính chất nghiêm trọng, phức tạp và về số vụ xảy ra cùng
với sự thay đổi về cơ cấu tội phạm, thành phần đối tượng phạm tội. Để nhằm
giảm thiểu tình trạng vi phạm an ninh nông thôn như đã nêu trên thì một trong
những biện pháp là cần phải phát huy hơn nữa vai trò của quy ước làng văn
hóa. Những nội dung trong quy ước làng văn hóa góp phần trong việc hình
thành và phát triển nhân cách của con người, giáo dục định hướng cho con
người sống tốt hơn, sống có đạo lý, phẩm giá, sống và làm việc theo Hiến
pháp và Pháp luật, hướng tới những giá trị chân - thiện - mỹ tốt đẹp.
Những nghiên cứu trên đây của chúng tôi đã phần nào làm rõ vai trò
của quy ước làng văn hóa đến đảm bảo an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng
sông Hồng. Đã làm rõ thực trạng sự tác động của việc thực hiện quy ước làng
văn hóa đến an ninh nông thôn, đồng thời đã đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của những tác động ấy góp phần giữ gìn an ninh nông thôn
trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, quy ước làng văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc ổn định trật tự làng xã, sức mạnh của nó một phần dựa vào hình phạt,
một phần dựa vào phần thưởng. Tuy nhiên sức mạnh lớn nhất là ở dư luận
khen - chê của dân làng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây những những bản
quy ước phù hợp với nếp cảm, nếp nghĩ của từng địa phương, đồng thời vẫn
phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, phù hợp với thực trạng phát triển của mỗi
địa phương. Bên canh những yếu tố tích cực, quy ước cũng tồn tại những yếu
tố tiêu cực. Tiếp thu những yếu tố tích cực của hương ước cũ để xây dựng các
quy ước mới ở các làng hiện nay là vô cùng cần thiết, góp phần xây dựng và
nâng cao đời sống văn hóa ở các làng xóm, nhằm vươn tới một xã hội mà
94
trong đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. TS. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Bộ Công an (2005), Tài liệu hội nghị tổng kết chỉ thị 08 “Về công
tác CA góp phần đảm bảo an ninh nông thôn trong tình hình mới”, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (1997), Chỉ thị 21 – CT/TƯ, ngày 10/10/1997 “Về một
số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”.
4. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 21/ CT- TW ngày 10/10/1997, “Về một số công
việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”.
5. Bộ Công an (2005), Từ điển Công an nhân dân, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
6. Cao Văn Biền (1996), “Sự quản lý của nhà nước đối với hương ước
trong lịch sử”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3, tr.42.
7. Nguyễn Đình Bưu (1993), Xây dựng quy ước làng văn hóa ở Hà
Bắc, Sở văn hóa thông tin và thể thao Hà Bắc.
8. PGS.TS. NSND. Lê Ngọc Canh (1992), Đình làng Chai Vạn Vĩ, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
9. Công an tỉnh Thái Bình (1999), Báo cáo tổng kết công tác công an
góp phần đảm bảo an ninh nông thôn từ năm 1997- 1999, số 709 (PV 11).
10. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Nghị
định số 64/CP ngày 27/10/1993, “Về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp”.
11. Bộ Chính trị Trung ương Đảng (Khóa VIII), Chỉ thị số 21 – CT/
TW ngày 10/10/1997, “Về một số công việc cấp bách ở nông thôn hiện nay”.
12. Bộ Chính trị (khóa VIII), Chỉ thị số 23 – CT/ TW ngày 29/11/1997,
95
“Về lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo”.
13. Bộ chính trị (khóa VIII), Chỉ thị số 30 – CT/ TW ngày 18/02/1998,
“Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”.
14. Ban tư tưởng văn hóa trung ương (1996), Tài liệu nghiên cứu văn
kiện Đại hội VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2011), Số 12/2011/TT- BVHTTDL,
“Thông tư quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận
Dang hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”; “Làng văn hóa”, “Ấp văn
hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và tương đương”.
16. Chỉ thị số 31 – CT/ TW ngày 12/ 02/ 1998, Tỉnh ủy Hà Tây.
17. GS.TS. Phan Đại Doãn (1984), “Làng Việt Nam – đa nguyên và
chặt”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.18-19.
18. GS.TS. Phan Đại Doãn (1985), “Sự tiến triển của cư dân nông dân”,
Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, số 9, tr. 10-12.
19. GS.TS. Phan Đại Doãn (1987), “Mấy vấn đề về làng xã Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1, tr.17.
20. GS.TS. Phan Đại Doãn (1995), Mấy suy nghĩ về hương ước trong
văn hóa quản lý nông thôn, Bài phát biểu tại Hội thảo khoa học chuyên đề
hương ước tổ chức tại tỉnh Hải Hưng.
21. GS. TS. Phan Đại Doãn (1995), Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông
thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội .
23. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1988), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành
96
Trung ương Đảng lần thứ năm, khóa VII, Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết 06/NQ – TW ngày
10/11/1998 của Bộ chính trị, Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông
thôn hiện nay.
26. PGS. TS. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp luật
Hà Nội.
27. PGS. TS. Bùi Xuân Đính, Về một số hương ước làng Việt ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ, Luận án PTS Khoa học lịch sử mã số 50310.
28. PGS.TS. Bùi Xuân Đính (1993), “Vài suy nghĩ về hiện tượng tái lập
hương ước ở nông thôn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 2, tr.18-20.
29. PGS.TS. Bùi Xuân Đính (1996), “Mấy suy nghĩ về các hình thức
xử phạt trong một số quy ước làng ở Hà Bắc”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 8, tr. 10-11.
30. PGS.TS. Bùi Xuân Đính (1998), “Trước đây nửa thế kỷ Bác Hồ nói
về hương ước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 19, tr. 20-21.
31. PGS.TS Bùi Xuân Đính (2000), “Hương ước và pháp luật”, Tạp chí
văn hóa dân gian, số 1, tr. 10-11.
32. GS.TS. Vũ Minh Giang (1995), “Tập quán quản lý và phân phối
ruộng đất của làng xã và các chính sách ruộng đất quan trọng trong lịch sử
Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 1, tr 10-12.
33. Trịnh Thị Giới (2010), “Một số vấn đề rút ra qua việc giải quyết các
điểm nóng về an ninh trật tự”, Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr. 10-11.
34. PGS.TS. Diệp Đình Hoa (1994), “Lệ làng và ảnh hưởng của nó đối
với pháp luật hiện đại”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 1, tr.15-17.
35. Hương ước Tổng Đô Lỗ - Bản chép tay, Thư viện Quốc gia Hà Nội,
ký hiệu hương ước 502.
36. Hương ước Tổng Hương Canh - Bản chép tay, Thư viện Quốc gia
97
Hà Nội, Ký hiệu hương ước 3350.
37. Hương ước Đỗ Xá – Bản chép tay, Thư viện Quốc gia Hà Nội, ký
hiệu hương ước 313.
38. Khoa lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại
học quốc gia Hà Nội (2006), Làng Việt Nam - đa nguyên và chặt, Nxb. Đại
học quốc gia, Hà Nội.
39. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc Gia, Hà Nội.
40. Lê Thị Hiền, “Văn hóa hương ước – từ truyền thống đến hiện đại”,
Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 5, tr.20.
41. Tô Duy Hợp (2003), Định hướng phát triển làng – xã Đồng bằng
sông Hồng ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Thu Linh (1994), “Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, số 6, tr.46-47.
43. Hồ Chí Minh (2011), toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2012), Đời sống mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. PGS. TS Phạm Xuân Mai (1994), “Mấy nét về tình hình làng xã tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ 1921 -1945 qua hương ước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số
1, tr 21-22.
46. Nguyền Thị Thanh Mai (2001), Tâm lý nông dân miền Bắc Việt
Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường – đặc trưng và xu hướng biến đổi,
Luận án Tiến sỹ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
47. Lưu Hồng Minh (2001), Thực trạng phân tầng xã hội theo mức
sống ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, dự báo và những kiến nghị, Luận án
Tiến sỹ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
48. PGS.TS Vũ Duy Mền (1982), “Hương ước, khoán ước”, Tạp chí
98
Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr 7-8.
49. PGS. TS Vũ Duy Mền (1986), “Góp phần xác định thuật ngữ
hương ước, khoán ước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3, tr.83.
50. PGS. TS Vũ Duy Mền (1993), “Nguồn gốc và điều kiện xuất hiện
hương ước trong làng xã ở vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr 23-24.
51. Đăng Ngoạn (1995), “Một số kiến nghị cụ thể về quản lý Nhà nước
đối với việc lập, ban hành và nội dung của quy ước làng văn hóa ở Hà Bắc”,
Bài phát biểu tại Hội thảo chuyên đề về hương ước tổ chức tại Hải Hưng.
52. Nguyễn Tá Nhí (dịch) (1993), Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng
tổng hợp Sở văn hóa thông tin thể thao Hà Tây.
53. PGS.TS Vũ Thị Phụng (1990), Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt
Nam từ nguồn gốc đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
54. GS. TS Đỗ Nguyên Phương (chủ biên) và các tác giả khác (2003),
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. PGS. TS Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn Việt
Nam thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Bùi Mậu Quân (2003), “Công tác Công an góp phần đảm bảo
ANNT trên địa bàn tỉnh Hải Dương”, Tạp chí CAND, số 10/200, tr. 24.
57. Lê Đức Quý (2001), “Bản sắc văn hóa làng trong xây dựng nông
thôn đồng bằng sông Bắc Bộ”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6, tr.18-19.
58. Quy ước làng văn hóa thôn Đặng xá, xã Văn Xá, huyện Kim Bảng,
tỉnh Hà Nam.
59. Quy ước văn hóa làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội
60. Quy ước làng văn hóa thôn Trúng Đích, xã Hạ Mỗ, huyện Đan
Phượng, Hà Nội.
99
61. Quy ước văn hóa làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, Huyện Đan Phượng, Hà Nội.
62. Quy ước văn hóa làng Nhật Tân, Hà Nội.
63. Quy ước làng văn hóa xã Phụng Thượng, huyện Phúc Thọ, Hà Tây.
64. Quy ước làng văn hóa xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.
65. Quy ước làng văn hóa Phú Xá Đoài, Đông Anh, Hà Nội.
66. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội.
67. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Bộ
luật Hình sự năm 1999, Nxb Công an nhân dân.
68. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1983), Luật
tổ chức hội đồng nông dân và ủy ban nhanan dân, số 11 – LCT/ HDDNN7.
69. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật
Công an nhân dân, Số hiệu 54/2005/QH11.
70. G.S Hồ Văn Thông và TS Nguyễn Văn Sáu (2003), Thực hiện quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
71. G.S Hồ Văn Thông và TS Nguyễn Văn Sáu (2001), Cộng đồng
làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. PGS. TS Văn Tạo (1993), Chúng ta thừa kế di sản, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
73. Hà Văn Tấn (1989), Làng, liên làng và siêu làng – Mấy suy nghĩ về
phương pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. TS. Nguyễn Danh Tiên (2012), Đảng lãnh đạo xây dựng và phát
triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội.
75. Trần Nho Thìn (2000), Đổi mới tổ chức hoạt động của Ủy ban nhân
dân xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định phê duyệt đề án “Phát
100
triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”.
77. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, năm 2000.
78. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2008.
79. PGS. TS Đào Trí Úc (1997), “Hương ước và mối quan hệ giữa
hương ước với pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, tr. 22-23.
80. PGS. TS Đào Trí Úc (1996), Nhà nước và pháp luật trong sự
nghiệp của chúng ta, Nxb Chính trị Quốc gia.
81. Lê Hữu Xanh (2001), Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây
dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa
101
tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH ( 2009-2013)
1. Số vụ vi phạm pháp luật trên địa bàn
Năm Hình sự Ma túy Kinh tế Môi trƣờng
Năm 2009 708 162 87 48
Năm 2010 744 176 45 57
Năm 2011 705 236 93 41
Năm 2012 747 273 124 65
Năm 2013 788 295 11 61
Tổng 3.692 1.142 360 272
2. Số vụ tệ nạn xã hội trên địa bàn
Năm Cờ bạc Mại dâm Ma túy
Năm 2009 219 14 162
Năm 2010 194 7 176
Năm 2011 254 6 236
Năm 2012 340 7 273
Năm 2013 548 18 295
Tổng 1.555 52 1.142
102
Nguồn:PV11, công an tỉnh Thái Bình
Phụ lục 2: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN NÔNG THÔN TỈNH VĨNH PHÚC ( 2009-2013)
1. Số vụ vi phạm pháp luật trên địa bàn
Năm Hình sự Ma túy Kinh tế Môi trƣờng
Năm 2009 678 146 37 08
Năm 2010 791 155 44 20
Năm 2011 730 184 21 52
Năm 2012 810 201 40 53
Năm 2013 785 194 61 50
2. Số vụ tệ nạn xã hội trên địa bàn
Năm Cờ bạc Mại dâm Ma túy
Năm 2009 147 15 146
Năm 2010 175 16 155
Năm 2011 182 19 184
Năm 2012 243 38 201
Năm 2013 184 15 194
103
Nguồn: PV 11, Công an tỉnh Vĩnh Phúc
Phụ lục 03: SỐ LIỆU AN NINH NÔNG THÔN MỘT SỐ TÌNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NGÀY 31/05/2009
Số vụ Tính chất Giải quyết
Địa Tham Tạm Còn TT Tổng Điểm Tôn Dân Loại ổn phƣơng Đất đai nhũng và ổn phức số nóng giáo tộc khác định chính sách định tạp
Hà Nội 5177 1 3885 91 213 988 3944 624 609
2 Hà Tây 731 504 64 103 60 304 144 283
3 Nam Định 624 159 125 233 107 116 187 321
4 Ninh Bình 150 48 45 31 26 38 46 66
5 Thái Bình 195 26 12 107 50 18 67 105
6 Hưng Yên 142 35 0 61 46 42 47 45
104
Nguồn A14 – Bộ công an