ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------oOo--------- VŨ THÚY HẰNG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học PGS – TS Lê Dục Tú
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
Trang 1 PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 6
4. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Những đóng góp mới của luận văn 7
6. Cấu trúc luận văn 7
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT 9
1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học 9
2. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học sau 1975 11
3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê 14
3.1. Cảm hứng bi kịch 14
3.1.1. Bi kịch chiến tranh 15
3.1.2. Bi kịch đời thường 18
3.1.2.1. Bi kịch cuộc sống thời mở cửa 18
3.1.2.2. Bi kịch tình yêu 27
3.1.2.3. Bi kịch hôn nhân – gia đình 36
3.2. Cảm hứng triết luận 46
3.2.1. Triết lý về cuộc sống – nhân sinh 46
3.2.2. Triết lý về tình yêu – hôn nhân 48
CHƢƠNG II: THẾ GIỚI NHÂN VẬT 51
1. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê 51
1.1. Đặc điểm nhân vật của văn học giai đoạn trước và sau 1975 51
1.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê 55
2. Các kiểu nhân vật và phƣơng thức biểu hiện trong truyện ngắn Đoàn Lê 59
2.1. Nhân vật cô đơn 59
2.2. Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức 63
2.3. Nhân vật ảo 66
CHƢƠNG III: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ 73
1. Cốt truyện 73
1.1. Cốt truyện truyền thống 74
1.2. Cốt truyện tâm lý 78
1.3. Cốt truyện kỳ ảo 83
1.4. Vai trò của người kể truyện đối với sự phát triển của cốt truyện 85
2. Tình huống truyện 87
2.1. Tình huống bi kịch 88
2.2. Tình huống tự nhận thức 89
3. Không gian - Thời gian nghệ thuật 90
3.1. Không gian nghệ thuật 91
3.2. Thời gian nghệ thuật 95
4. Ngôn ngữ nghệ thuật 100
4.1. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường 101
4.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 103
5. Giọng điệu nghệ thuật 105
5.1. Giọng điệu trữ tình 106
5.2. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm 107
5.3. Giọng đồng cảm, xót xa 110
KẾT LUẬN 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Văn học Việt Nam sau chiến tranh có nhiều khởi sắc. Những tìm tòi,
đổi mới về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học giai đoạn này đã
khẳng định những bước chuyển mạnh mẽ của văn học nước nhà. Đặc biệt từ sau
đổi mới, văn học thực sự có những bước tiến quan trọng bắt nhịp kịp thời với
bước chuyển của thời đại. Sự xuất hiện của hàng loạt những cây bút nữ đã tạo
nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này như Đoàn Lê, Lê Minh Khuê, Y
Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, nhất là
với thể loại truyện ngắn. Họ nhìn nhận những vấn đề của cuộc sống bằng sự tinh
tế, nhạy cảm của trái tim phụ nữ. Họ đưa vào tác phẩm của mình “một sinh khí
mới rất cần thiết để thể hiện bề sâu, bề sau của cuộc sống con người hôm nay”
(Nguyễn Minh Châu). Mỗi người một phong cách, một hướng tiếp cận, khám
phá đời sống, các cây bút nữ giai đoạn này đều nỗ lực thể hiện sự phong phú
phức tạp muôn màu của cuộc sống thời mở cửa, góp phần làm nên diện mạo của
một nền văn học mới. Đóng góp của họ được thể hiện nhiều nhất ở thể loại
truyện ngắn. Có thể nói văn học từ sau đổi mới là sự lên ngôi của thể loại này.
Những tìm tòi, đổi mới về tư tưởng chủ đề, về hình thức nghệ thuật trong truyện
ngắn là những đóng góp quan trọng làm nên những bước phát triển vững chắc
cho thể loại truyện ngắn Việt Nam. Vì vậy tìm hiểu những khám phá nghệ thuật
của bất cứ một tác giả nào trong giai đoạn văn học này cũng là những đóng góp
có ý nghĩa để có cái nhìn khái quát hơn về diện mạo của cả một giai đọan văn
học.
1.2 Đoàn Lê là một trong những gương mặt nữ ít nhiều đã thể hiện phong
cách nghệ thuật của mình trên văn đàn sau 1975, nhất là thập niên cuối thế kỷ
XX và những năm gần đây. Là một nghệ sỹ đa tài, Đoàn Lê đã để lại dấu ấn của
mình trên nhiều lĩnh vực: từng là diễn viên điện ảnh, thiết kế mỹ thuật, biên
kịch, đạo diễn phim, họa sỹ, nhà văn, nhà thơ. Đến nay vốn liếng văn chương
của Đoàn Lê đã khá dày dặn. Ngoài những kịch bản phim truyện, bà có năm tập
truyện ngắn, bốn cuốn tiểu thuyết và rất nhiều tác phẩm hội họa được giới phê
bình đánh giá cao. Đặc biệt, trong tư cách nhà văn, Đoàn Lê được biết đến như
một cây bút nữ có phong cách đa dạng và sức sáng tao tươi mới cùng với một
ngôn ngữ dịu dàng nền nã. Bà từng có hai tập truyện ngắn được dịch ra tiếng 1
Anh để giới thiệu với bạn đọc Mỹ là Trinh tiết xóm chùa và Nghĩa địa xóm
chùa, một tiểu thuyết được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam Cuốn gia phả
để lại và gần đây nhất là cuốn tiểu thuyết Tiền định được lọt vào vòng chung
khảo của giải thưởng Bách Việt, cùng một số truyện ngắn được nhận giải thưởng
của các báo, các tạp chí (truyện Đêm ngâu vào - Giải A tạp chí Sông Hương,
truyện Hạt vừng- Giải thưởng Tạp chí tác phẩm Văn học, truyện Trinh tiết xóm
Chùa - Giải thưởng báo Văn nghệ). Ở mảng truyện ngắn, Đoàn Lê được đánh
giá là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Truyện ngắn của bà xuất hiện đều
đều trên các báo. Truyện ngắn Đoàn Lê lúc thì đằm thắm trữ tình, lúc lại hiện
thực sắc sảo, có khi táo bạo hiện đại đến bất ngờ, có lúc lại trẻ trung thổn thức
như một cô gái mới lớn. Đọc truyện ngắn của bà, người đọc dễ dàng nhận ra một
trái tim phụ nữ giầu yêu thương với tất cả những vấn đề của cuộc sống nhân
sinh, nhất là vấn đề người phụ nữ. Đoàn Lê cũng may mắn được sống và cảm
nhận những giá trị cuộc sống ở cả hai giai đoạn văn học: những năm kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ và mảng hiện thực cuộc sống sau chiến tranh nhất
là từ thời kỳ đổi mới. Bởi vậy, trong những sáng tác của bà, số phận của những
con người bước ra từ cuộc chiến tranh cùng bi kịch của những con người trong
cuộc sống muôn mặt đời thường đã hiện lên thật sâu sắc và cảm động. Dù không
phải là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, nhưng truyện ngắn
của Đoàn Lê vẫn có nhiều yếu tố cách tân về thi pháp, phần nhiều là nằm trong
ranh giới của truyện truyền thống- hiện đại. Trong truyện ngắn của Đoàn Lê,
một không gian nghệ thuật luôn trở đi trở lại gây ám ảnh lòng người là không
gian của một xóm Chùa cụ thể. Nhưng đó cũng là không gian bao trùm cả nông
thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới- không gian với sự giao tranh quyết liệt
của những yếu tố mới – cũ. Đây cũng là một trong những đề tài nổi trội của văn
học giai đoan này. Bởi vậy tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của
Đoàn Lê cũng chính là cách tiếp cận với cuộc sống và truyện ngắn đương đại.
Đồng thời phong cách truyện của bà cũng rất tiêu biểu cho những cây bút nữ
giai đoạn văn học sau đổi mới.
Với những lý do ấy, chúng tôi chọn đề tài tìm hiểu Thế giới nghệ thuật
truyện ngắn của Đoàn Lê với hy vọng giúp bạn đọc hôm nay nhận diện một
gương mặt văn học và từ đó nhìn nhận diện mạo của văn chương đương đại.
2
2. Lịch sử vấn đề
Văn học sau 1975 là sự nở rộ các truyện ngắn của nhiều cây bút nữ. Họ là
lớp nhà văn trẻ tài năng và giầu nhiệt huyết. Lối viết của họ có sự kế thừa tinh
hoa của giai đoạn văn học trước đồng thời cũng chứa đựng nhiều nét cách tân,
đột phá ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Tuy vậy, sáng tác
của họ còn khá mới mẻ đối với nhiều bạn đọc. Tình hình nghiên cứu tác phẩm,
phong cách tác giả còn rải rác chưa có hệ thống, chưa đáp ứng được nhu cầu đọc
ngày càng cao của xã hội. Đoàn Lê là một cây bút có những dấu ấn nhất định
trên văn đàn hôm nay, nhất là trong thời gian gần đây, sáng tác của Đoàn Lê đã
được khá nhiều bạn đọc quan tâm. Tuy nhiên để có một cái nhìn khái quát về
toàn bộ sáng tác của nhà văn này thì cho đến nay chỉ có rất ít công trình khoa
học đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Đoàn Lê một cách cụ thể. Hầu hết các bài
viết mới chỉ dừng ở dạng giới thiệu, nhận xét sơ bộ, trình bày cảm xúc về một
truyện ngắn, một tập truyện ngắn hay một tiểu thuyết nào đó của nhà văn.
Nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê, các nhà nghiên cứu, phê bình thường
ghi nhận những đóng góp của bà với văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới nhất
là giai đoạn sau 1986. Vương Trí Nhàn khi lý giải về sự xuất hiện đông đảo của
các cây bút nữ sau 1975 trong đó có sáng tác của Đoàn Lê đã cho rằng : “phụ nữ
bắt mạch nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh dở dang của
cuộc sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có- tốt, dịu dàng, rộng lượng thì
không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng, từng cây
bút đã tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [49]. Sự góp mặt
của những nhà văn nữ những năm gần đây trong đó có Đoàn Lê đã tạo ra một
luồng sinh khí mới cho văn học đương đại. Cách nhìn hiện thực và con người
bằng những ưu thế của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật và cách lựa chọn đề
tài, xử lý tình huống đã tạo nên những nét khác biệt có nhiều đóng góp của các
cây bút nữ cho nền văn xuôi đương đại. Nhận định của một nhà phê bình về các
nhà văn nữ của văn học đương đại thông qua các hình thức biểu hiện của nhân
vật nữ trong sáng tác của họ trong đó có Đoàn Lê như sau: “Đặc điểm trong
những truyện ngắn của các tác giả nữ là hiện thực xã hội đang thay đổi nhanh
chóng, quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ những giấc
mộng lớn, mộng con với thái độ chung là chấp nhận như một chuyển động tất
yếu của cuộc đời” [79, 103]. Bên cạnh những nhận định chung về sáng tác của 3
các tác giả nữ trong đó có Đoàn Lê thì những ý kiến, nhận xét riêng về truyện
ngắn của bà cũng góp phần khẳng định sự ảnh hưởng của cây bút này đối với
văn học nữ giai đoạn đổi mới. Tạp chí Nghiệp đoàn Xuất bản ở Mỹ năm 2005 đã
nhận xét rất tinh tế về phong cách sáng tác Đoàn Lê và giá trị tập truyện ngắn:
“Trinh tiết xóm Chùa”: “Đoàn Lê được ghi nhận ở phong cách đa dạng và sức
sáng tạo tươi mới. Với giới học giả, những truyện ngắn này cho một cái nhìn
vào bên trong văn hóa Việt Nam sau “đổi mới”. Với người đọc nói chung, đây là
những tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn
nhân, ly dị, tuổi già. Đó là những tác phẩm về quyền con người, khảo sát tất cả
những gì bí ẩn, tinh tế của trái tim con người”. Trong bài viết: Đoàn Lê “chị
tôi” [61], nhà văn Hồ Anh Thái đã có những ý kiến đánh giá rất tinh sắc về một
số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê: “Với ngôn ngữ dịu
dàng, nền nã, hóm hỉnh, hài hước một cách nhẹ nhàng, chị viết về những vấn đề
thời cuộc ở cái làng ven đô thị trong hàng loạt tác phẩm gắn với tên Xóm Chùa:
Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Giường đôi xóm
Chùa.” Tuy là chuyện xóm Chùa nhưng Đoàn lê đã “tìm tòi và sử dụng rất nhiều
kỹ thuật viết, chính thế mạnh này đã lôi cuốn người đọc”. Cũng trong bài viết
này, tác giả còn đề cập đến nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo trong hai truyện
Nghĩa địa xóm Chùa và Lên Ruồi của Đoàn Lê.. “Cả Nghĩa địa xóm Chùa và
Lên Ruồi đều nằm trong mạch truyện có yếu tố kỳ ảo của Đoàn Lê. Nhưng ngay
cả trong những truyện kỳ ảo nhất của bà thì “cái thực vẫn lấn cái ảo, cái ảo chỉ
làm lạ hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực, chứ không phải là yếu tố xoay
chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật”. Cũng nói về nghệ thuật viết truyện
có yếu tố kỳ ảo, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi cho in trên tạp chí Tác Phẩm
Mới truyện Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt của
mình như sau: “Hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong người? Chỉ có người ốm
mới dám viết những chuyện khủng khiếp như vậy”.
Kirkus Reviews, một tạp chí có uy tín trong ngành xuất bản của Mỹ,
nhận xét về văn phong của tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê: “Mười
truyện mang màu sắc Gogol trong một bản dịch tiếng Anh đầu tiên của Đoàn
Lê...Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng ẩn dụ kiểu Kafka như trong Lên ruồi, hay
một truyện ngắn đạt tới giọng điệu riêng tư thấm thía như Giường đôi xóm
Chùa. Đó là những truyện ngắn đặc sắc”, những truyện ngắn “như những viên 4
đá quý”, những truyện “phúng dụ, châm biếm, huyễn tưởng” với văn phong tinh
tế, linh hoạt. Trong bài viết “Đoàn Lê- nghệ sỹ đa tài” (Báo nhân dân http
/wv.nd. com.vn) nhận định về văn phong Đoàn Lê: “giản dị, hóm hỉnh, sâu sắc,
Đoàn Lê có biệt tài phát hiện và miêu tả những chi tiết đắt giá ngay trong những
cái tưởng chừng như vụn vặt đời thường. Văn phong Đoàn Lê cuốn hút người
đọc bằng những câu chữ tinh tế, mượt mà”.
Trong luận án tiến sỹ với đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại
Việt Nam”, Tiến sỹ Bùi Thanh Truyền đã khảo sát hàng loạt truyện ngắn có yếu
tố kỳ ảo trong đó có truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê. Ông đã phát
hiện được khả năng kỳ diệu của ngôn ngữ Đoàn Lê trong việc khu biệt thế giới
kỳ ảo: “Đặc trưng của thế giới huyền thoại đã chi phối rất rõ cách sử dụng ngôn
ngữ của nhà văn. Đến lượt mình, hệ thống ngôn ngữ này cũng có chức năng khu
biệt quan trọng thế giới kì ảo ấy. Khi miêu tả tình làng nghĩa xóm , Đoàn Lê
viết: "Từ ngày ra nhập tịch nghĩa địa xóm Chùa tôi được sống trong cảnh chan
hoà tình người, tối lửa tắt trăng có nhau cực kì vui vẻ." Hạ xuống một chữ
trăng, người viết đã tạo lập nét khu biệt đáng kể của không gian, thời gian và
đặc tính của những "cư dân nghĩa địa" với đêm, bóng tối cùng sự dị ứng bởi ánh
sáng mặt trời” [74, 170]. Còn khi viết truyện ngắn Chờ nhật thực, gửi cho Báo
tuổi trẻ cuối tuần chính Đoàn Lê nói về việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong truyện
của mình: “Yếu tố huyền ảo được sử dụng, nhằm tôn lên những nét hiện thực và
lịch sử.”
Trong bài viết “Ai cứu xóm Chùa” [13], tiến sỹ Nguyễn Lân Dũng nhận
xét về không gian xóm Chùa trong hàng loạt những sáng tác của Đoàn Lê như
sau: “Xóm Chùa là tên một làng quê được nhắc đến trong nhiều truyện ngắn của
nữ tác giả Đoàn Lê. Có thể đó không phải là một địa danh thật và không phải
mọi câu chuyện ở đây đều xảy ra tại một làng quê cụ thể nào. Nhưng với cái
nhìn sắc sảo và nhân ái của tác giả, tôi tin là những câu chuyện xảy ra liên quan
đến cái Xóm Chùa này đều là những chuyện có thật tại nông thôn nước ta từ
ngày Mở cửa. Tôi khâm phục văn tài của Đoàn Lê vì chị đã làm cho người đọc
không thể không khắc khoải suy nghĩ và lo âu cho tương lai của nông thôn nước
ta trước những diễn biến đi ngược lại với truyền thống nhân văn, nhân ái qua
hàng nghìn năm qua”.
5
Những nhận định, ý kiến của những nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã
góp phần giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về truyện ngắn cũng như sáng tác
chung của Đoàn Lê. Đồng thời cũng phần nào hiểu được những nét cách tân
trong nghệ thuật viết truyện của bà. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá, nhận xét
về truyện ngắn Đoàn Lê đa phần là những ý kiến trên mạng còn chung chung, sơ
lược, chưa cụ thể, chi tiết. Những ý kiến chính thống về Đoàn Lê chưa nhiều và
cũng chưa có hệ thống. Và để hiểu một cách trọn vẹn, sâu sắc, có hệ thống
những giá trị về nội dung, những đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê
thì cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đáp ứng được điều đó.
Luận văn này với mong muốn bước đầu đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật
truyện ngắn Đoàn Lê một cách có hệ thống nhằm giúp bạn đọc có nhiều cơ hội
tiếp cận, tìm hiểu và yêu mến cây bút này hơn, đồng thời cũng là cách tiếp cận
để hiểu những đặc trưng cơ bản của văn học đương đại. Bởi những đóng góp của
nhà văn này cho nền văn học đương đại Việt Nam là điều không thể phủ nhận.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chính là thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê như:
Cảm hứng nghệ thuật, Thế giới nhân vật, Một số phương diện nghệ thuật trong
truyện ngắn Đoàn Lê.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn của Đoàn Lê. Nhưng để có
cái nhìn tổng thể, trọn vẹn về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn
Lê, chúng tôi có liên hệ và so sánh với các tiểu thuyết của bà, cũng như những
sáng tác khác của một số nhà văn có nét nghệ thuật tương đồng (Nam Cao,
Thạch Lam, Nguyễn Huy Thiệp...) và những cây bút nữ cùng thời (Nguyễn Thị
Thu Huệ, Y Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo...)
Các tập truyện của Đoàn Lê được khảo sát trong luận văn:
- Thành hoàng làng xổ số- Nhà xuất bản Phụ Nữ Hà Nội 1990
- Nghĩa địa xóm chùa - Nhà xuất bản Hội nhà văn 1999
- Trinh tiết xóm chùa - Nhà xuất bản Hội nhà văn 2005
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp 6
phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh đối chiếu. Với
những phương pháp này, chúng tôi cố gắng tìm những đặc điểm cơ bản nhất của
thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê trong mối tương quan giữa tác phẩm
của bà với những nhà văn cùng giới, cùng thời kỳ và cả những cây bút ở giai
đoạn văn học trước.
4.1 Phương pháp thống kê phân loại:
Phương pháp thống kê, phân loại: giúp cho việc tìm hiểu, phân loại các
kiểu nhân vật, mô hình cốt truyện khi nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện
ngắn Đoàn Lê.
4.2 Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: giúp cho việc nghiên cứu, phân tích, cắt
nghĩa, lý giải các vấn đề, các chi tiết nghệ thuật...từ đó khái quát lên những đặc
điểm chung về hình thức nghệ thuật trong toàn bộ hệ thống truyện ngắn của nhà
văn.
4.3 Phương pháp lịch sử:
Phương pháp lịch sử: xem xét những đặc trưng nghệ thuật trong truyện
ngắn của Đoàn Lê trong sự kế thừa của văn học truyền thống nhưng cũng có
những cách tân độc đáo tạo nên dấu ấn riêng của Đoàn Lê trên văn đàn hôm nay.
4.4 Phương pháp đối chiếu so sánh:
Phương pháp đối chiếu so sánh nhằm làm nổi bật những đặc trưng riêng
trong thế giới nghệ thuật của Đoàn Lê trong sự so sánh với văn học Việt Nam
thời kỳ đổi mới, nhất là với những cây bút nữ cùng thời và với văn học giai đoạn
trước.
5. Những đóng góp mới của luận văn.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn của Đoàn Lê: cảm hứng nghệ
thuật, thế giới nhân vật, các phương diện nghệ thuật cơ bản…để khẳng định vai
trò, vị trí, tên tuổi, những đóng góp về sự cách tân nghệ thuật của Đoàn Lê đối
với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Từ đó có cái nhìn khái quát, đa diện về
truyện ngắn Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung luận văn
gồm ba chương:
7
Chƣơng I: Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm
cảm hứng bi kịch và cảm hứng triết luận.
Chƣơng II: Thế giới nhân vật gồm các phần: Đặc điểm nhân vật trong
truyện ngắn của Đoàn Lê, các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện.
Chƣơng III. Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn
Lê gồm: Cốt truyện, tình huống truyện, không gian- thời gian, ngôn ngữ nghệ
thuật, giọng điệu nghệ thuật...
8
PHẦN II : NỘI DUNG
CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học
Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau với khái niệm “Cảm hứng
nghệ thuật”, các cách hiểu đó đều thống nhất ở chỗ khẳng định vai trò quan
trọng của cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm. Cảm hứng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối các khối văn bản trong
tác phẩm. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm về cảm hứng
nghệ thuật (hay còn gọi là cảm hứng chủ đạo) là “trạng thái tình cảm
mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc
của những người tiếp nhận tác phẩm.” [21, 32]. Có thể nói cảm hứng nghệ
thuật chính là những cảm xúc, tình cảm chân thành của nhà văn gửi gắm trên
mỗi trang giấy. Cảm hứng nghệ thuật được xem như “một điều kiện không thể
thiếu trong việc tạo ra những tác phẩm đích thực”(Bêlinxki). Nhờ “sợi dây” cảm
hứng này mà toàn bộ các cấp độ, các yếu tố của nội dung tác phẩm được thống
nhất trong một không khí cảm xúc nhất định. Nhưng với ý nghĩa lớn lao hơn,
cảm hứng nghệ thuật còn trở thành “công cụ đắc lực” để thông qua đó nhà văn
thể hiện thế giới quan của bản thân và khẳng định phong cách cá nhân của mình
trên văn đàn.Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học với niềm say
mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối
sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô
khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí q uyển nóng
bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả
đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà
văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống
nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của
tác phẩm”.
Đối với truyện ngắn, cảm hứng nghệ thuật càng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Người ta thường nói về thể loại truyện ngắn như một “lát cắt của
mặt gỗ”, là “sự dồn nén và cô đặc lại”, một “khoảnh khắc ngắn ngủi” của đời
sống được lồng vào trong một thiên truyện chỉ dài mấy mươi trang giấy. Tuy 9
nhiên sức gợi cảm của thể loại này lại rất lớn và thường mang tính chất mở ở sự
ngắn gọn và cô đọng của nó. Truyện ngắn nên gọn nhưng phải tinh tế và bén
nhọn về tư tưởng nghệ thuật. Chính vì tính chất ngắn gọn ấy mà cảm hứng chủ
đạo của tác phẩm trở thành “chất keo” gắn kết ý tứ và các phần nội dung để trở
thành một thiên tác phẩm có giá trị. Bởi vậy có thể coi cảm hứng chủ đạo gần
như linh hồn của tác phẩm. Nếu thiếu đi linh hồn, tác phẩm chỉ còn là cái xác
khô cứng và đương nhiên sẽ không thể sống trong lòng độc giả. Nếu như đối với
truyện dài và tiểu thuyết, do dung lượng lớn nên việc miêu tả chi tiết sự vận
động của một tâm hồn, một tính cách với những diễn biến tâm lý phức tạp nhằm
đạt tới chiều dài của một cuộc đời và sự khái quát hóa về một số phận con người
nên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được thể hiện rất rõ thì truyện ngắn do
dung lượng tác phẩm có hạn, cảm xúc của tác giả càng phải dồn nén nhiều hơn.
Vì thế mà có nhiều nhận xét cho rằng: truyện ngắn gần với thơ hơn các thể loại
tự sự khác như truyện dài và tiểu thuyết. Ở một số truyện ngắn có xuất hiện các
“tứ”. “Tứ” trong truyện ngắn chính là “chủ đề nhưng đã gắn với hình ảnh, với
chất liệu” (Ma Văn Kháng). “Tứ” là yếu tố chủ yếu tạo nên “chất thơ” trong
truyện ngắn. Chất thơ hay tính chất trữ tình trong tác phẩm truyện ngắn toát lên
từ khung cảnh, chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm, hay từ sự hòa
hợp giữa yêú tố khách quan và chủ quan của toàn thiên truyện .Truyện ngắn
cũng có điểm tương đồng với thơ ở chỗ những xúc cảm tâm lý thường
bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật,
tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở
thể loại tiểu thuyết, như lời nhận xét của nhà văn Lỗ Tấn “qua một mảng
lông mà biết toàn bộ con báo, qua một con mắt mà truyền được cả tinh
thần”. Vì vậy, truyện ngắn luôn đòi hỏi cảm hứng nghệ thuật phải dồi
dào, có định hướng, từ đó thể hiện nội dung tư tưởng một cách s ắc bén
và tạo nên một cấu trúc nghệ thuật chặt chẽ, hài hòa giữa yếu tố lí trí và
tình cảm.
Cảm hứng nghệ thuật không phải là tình cảm được xướng lên thành
một phát ngôn trong tác phẩm, nó là tình cảm mà người đọc cảm nhận
được từ tình huống, từ khung cảnh, từ chất liệu, từ không khí chung của
toàn tác phẩm. Lí luận văn học coi cảm hứng nghệ thuật là một yếu tố
của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm của nhà 10
văn với thế giới được mô tả. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn
học luôn thống nhất với đề tài và tư tưởng tác phẩm, nó tạo nên cho tác
phẩm một sự thống nhất ở mọi cấp độ. Đồng thời, cảm hứng nghệ thuật
còn thể hiện được thế giới quan của nhà văn, bộc lộ được quan điểm của
nhà văn trước mọi vấn đề của cuộc sống. Cảm hứng nghệ thuật trong tác
phẩm có vai trò quan trọng, có vai trò không thể thiếu, như Bêlinxki đã
nói, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành
tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt
thành”.
2. Cảm hứng nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975
Cảm hứng chủ đạo trong văn chương Việt Nam trước năm 1975
gắn liền với những sự kiện lớn lao có liên quan tới vận mệnh dân tộc:
công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), đời sống con người đổi khác, tư
tưởng, tâm lí, nhu cầu vật chất và tinh thần của con người cũng không
còn như trước, vì vậy văn học cũng không thể chỉ mang mãi cảm hứng
cũ. Hiện thực cuộc sống đời thường sau chiến tranh mở ra những vùng
đất mới, khơi gợi những nguồn cảm hứng mới mẻ cho các nhà văn. Sau
1975, cảm hứng ngợi ca trong văn học không còn đóng vai trò chủ đạo như
trong văn học 30 năm trước. Đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học gần với đời
sống hiện thực hơn. Các nhà văn đã đụng đến một số hiện tượng ít được đề cập
trong văn học trước 1975 như phơi bày một vài mặt tiêu cực trong xã hội hoặc
nhìn thẳng vào những tổn thất nặng nề trong chiến tranh hay bước đầu đề cập
đến bi kịch cá nhân.
Đất nước cần được đổi mới toàn diện và sâu sắc, văn học cũng đòi hỏi
như vậy. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “đổi mới
đang là nhu cầu bức thiết”, “có ý nghĩa sống còn” và nói rõ: “Thái độ của Đảng
ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng sự thật,
nói rõ sự thật”. Đại hội Đảng lần thứ VI là một sự kiện lịch sử trọng đại đã cắm
một cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học nước nhà.
Thành tựu quan trọng nhất của văn học sau 1975 là sự đổi mới trong ý thức nghệ
thuật của giới cầm bút. Sau Đại hội Đảng lần VI, hầu hết người làm thơ, viết văn 11
thuộc các thế hệ khác nhau đều chung một ý nghĩ “không thể viết như cũ được
nữa” (Lê Lựu trả lời phỏng vấn báo Quân đội nhân dân, ngày 24/4/1988). Và từ
đó, một khuynh hướng văn học mới phát triển mạnh mẽ với cái nhìn hiện
thực thẳng thắn hơn, đa chiều hơn. Công cuộc đổi mới càng ngày càng
phát triển cả ở bề rộng lẫn chiều sâu, sự đổi mới diễn ra từ tư tưởng
thẩm mĩ đến hệ thống thể loại, thi pháp và phong cách nghệ thuật. Các
nhà văn không còn “nhìn đời và nhìn người một phía”, họ không chỉ
dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhận thức được rằng “hiện thực không
phải là một cái gì đơn giản, xuôi chiều; con người là một sinh thể phong
phú, phức tạp, còn nhiều bí ẩn phải khám phá; nhà văn phải là người có
tư tưởng, phải nhập cuộc bằng tư tưởng chứ không chỉ bằng nhiệt tình và
trong tìm tòi sáng tạo không chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng mà còn
phải dựa vào kinh nghiệm của cá nhâ n mình nữa; độc giả không phải là
những đối tượng để thuyết giáo mà là những người bạn để giao lưu, đối
thoại một cách bình đẳng…[42,16]. Với cái nhìn đa chiều ấy, văn học
đồng thời cũng xuất hiện những cảm hứng mà văn học thời chiến tranh
rất ít xuất hiện như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng trào lộng….
Cảm hứng bi kịch khai thác những bi kịch đổi đời; bi kịch hậu
chiến; bi kịch tình yêu, hôn nhân…phản ánh đúng những bộn bề của
cuộc sống của thời kinh tế thị trường đầy xáo động. Những tác phẩm
mang cảm hứng này đánh dấu sự khởi sắc của văn chương thời kỳ đổi
mới. Có thể nhắc tới những sáng tác ở giai đoạn đầu như Đất trắng
(Nguyễn Trọng Oánh), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn
Minh Châu), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng)…Và ở chặng đường sau là hàng loạt những tên tuổi như Bảo
Ninh, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ…
Cảm hứng phê phán, cảm hứng trào lộng cũng là một nguồn cảm
hứng lớn trong văn học giai đoạn này. Khi ý thức cá nhân phát triển, khi
con người không còn được nhìn ở góc nhìn lịch sử, công dân nữa mà
chủ yếu được nhìn nhận ở phương diện cá nhân trong quan hệ đời
thường, những bi, hài kịch bắt đầu xuất hiện. Cảm hứng trào lộng mở ra
những bức tranh cuộc sống với nhiều mảng màu tương phả n: niềm vui
chiến thắng xen với nỗi buồn mất mát, sự đủ đầy của vật chất thời mở 12
cửa lại là mầm mống của mất mát đạo đức, tình cảm trong cuộc sống
tinh thần, hạnh phúc tồn tại song song với những bất hạnh của đời
thường…Những hiện tượng dở khóc dở cười diễ n ra trong cuộc sống tạo
thành nguồn cảm hứng cho các tác giả sáng tác. Cái Tôi cá nhân càng
được đề cao, thì việc khai thác vào tận cùng của những nỗi niềm càng
được chú ý tới và vì thế mà văn chương ngày càng sâu sắc hơn. Chính vì
vậy sáng tác văn học trong giai đoạn này đã đạt được đến những thành
công nhất định khi Vấn đề quyền sống, nỗi đau khổ và hạnh phúc của
con người được khai thác trong văn chương với cảm hứng nhân đạo sâu
sắc [46,3].
Việc tìm hiểu những đặc điểm tiêu biểu của văn học Việt Nam sau
năm 1975 là một điều quan trọng, vì trong bài Khái quát về văn học Việt
Nam từ cách mạng tháng tám 1975 đến hết thế kỷ XX [42,17] có nhận xét
về văn học thời kỳ đổi mới như sau “cảm hứng thế sự tăng mạnh, trong
khi cảm hứng sử thi lãng mạn giảm dần; từ đó văn học quan tâm nhiều
hơn tới số phận cá nhân trong những quy luật phức tạp của đời thường;
nội tâm của nhân vật được khai thác sâu hơn, bút pháp hướng nội được
phát huy, không gian đời tư được chú ý, thời gian tâm lý ngày càng mở
rộng, phương thức trần thuật trở nên đa dạng, giọng điệu trần thuật trở
nên phong phú hơn; ngôn ngữ văn học cũng gần với hiện thực đời
thường hơn…”[42,18]. Từ đó có thể thấy sự tác động to lớn của cảm
hứng nghệ thuật với các thành tố khác trong văn chương. Tìm hiểu được
kỹ cảm hứng nghệ thuật người nghiên cứu sẽ hiểu rõ thế giới nghệ thuật,
quan niệm sáng tác, phong cách nhà văn, thậm chí của cả một giai đoạn
văn học.
Là một cây bút ít nhiều để lại dấu ấn của mình trên văn đàn hôm nay,
truyện ngắn của Đoàn Lê thường xuất phát từ những nguồn cảm hứng chủ đạo
như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán trào lộng, cảm hứng triết luận… Từ
những nguồn cảm hứng đó, nhà văn đã mạnh dạn đưa vào tác phẩm những bức
tranh chân thực, sống động về cuộc sống hiện thực đời thường “ như nó vốn có”.
Từ đó cung cấp cho người đọc những cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống
thời đổi mới.
13
3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê.
3.1 Cảm hứng bi kịch.
Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học từ rất sớm. Tuy nhiên phải đến
văn học hiện đại nguồn cảm hứng này mới được thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc
sống thời mở cửa có nhiều thay đổi do sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường.
Sự thay đổi ấy dẫn đến biết bao bi kịch của con người.
Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học Việt Nam từ xa xưa nhưng mới
chỉ nằm rải rác trong các giai đoạn văn học mà chưa có sự tập trung thành hệ
thống. Từ thời văn học dân gian đã xuất hiện những tấn bi kịch: bi kịch nước
mất nhà tan trong truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy, bi
kịch hôn nhân gả bán, ép buộc trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu của tộc
người Thái, bi kịch thân phận người phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng,
những “con sâu cái kiến” trong xã hội cũ ở Ca dao. Văn học trung đại thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện hàng loạt bi kịch của những “hồng
nhan bạc mệnh”, “hồng nhan đa truân” như bi kịch của những người cung nữ
xinh đẹp bị biến thành đồ chơi rồi bị bỏ quên nơi lãnh cung trong Cung oán
ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay bi kịch của người chinh phụ có chồng đi
chinh chiến trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn , bi kịch của người con
gái đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” nhưng cuộc đời là một chuỗi những bất
hạnh khổ đau trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, bi kịch về thân phận khổ đau
bất hạnh phải chịu cảnh chồng chung cùng muôn vàn những hủ tục giàng buộc
người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Bước sang giai đoạn văn học
hiện đại, phong trào Thơ mới là chuỗi bi kịch của cái “tôi” cá nhân, cá thể. Đó
là một cái “tôi” cô đơn bế tắc hoàn toàn đối lập với xã hội, một cái tôi được đào
sâu đến tận cùng và càng đi sâu càng thấy lạnh: Thế Lữ thoát lên tiên nhưng
động tiên đã khép, Lưu Trọng Lư phiêu diêu trong trường tình nhưng tình yêu
không bền, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng rồi lại tỉnh, Xuân Diệu say
đắm vẫn bơ vơ…Đến văn học 30 năm chiến tranh, cảm hứng bi kịch vẫn chưa
có một vị trí đáng kể do những điều kiện khách quan của lịch sử. Phải đến
những năm 80 của thế kỷ XX, cảm hứng bi kịch mới trở thành một trong những
nguồn cảm hứng xuyên suốt trong văn học. Lúc này do sự tác động của nền kinh
tế thị trường cùng xu thế toàn cầu hóa, văn học có sự biến đổi nhanh chóng để
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ tạo 14
nên những tình huống bi kịch, những xung đột điển hình cho văn học. “Cái nhất
thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm trong cái nhân hậu, cái cực đoan nằm
giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhảy cẫng lên lấc láo lên giữa cái dung dị,
thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ” [10] . Hiện
thực cuộc sống thời hậu chiến với bộn bề những vấn đề nhức nhối đã khơi
nguồn cảm hứng bi kịch cho những nhà văn giai đoạn văn học này.
Sau khi hòa bình lập lại, nỗi đau và sự mất mát mà chiến tranh để lại là
những căn nguyên sâu xa của những tấn bi kịch mà con người hậu chiến phải
gánh chịu. Thêm vào đó, cuộc sống thời mở cửa với tốc độ đô thị hóa chóng mặt
là căn nguyên dẫn tới những tấn bi kịch thương tâm cho biết bao gia đình. Là
nhà văn thuộc thế hệ “gạch nối giữa hai thời kỳ của đất nước”, hơn nữa bản thân
Đoàn Lê đã từng sống chứng kiến, thậm chí trải nghiệm nỗi đau tột cùng và
những mất mát lớn lao của con người do chiến tranh gây ra. Bởi vậy những
trang viết về chiến tranh của bà luôn sâu sắc và cảm động.
3.1.1 Bi kịch chiến tranh
Chiến tranh bao giờ cũng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với tất cả những
ai từng trải qua nó. Ở đó có nỗi đau, có sự hy sinh mất mát. Đoàn Lê thuộc thế
hệ nhà văn sinh ra và lớn lên trong thời chiến, được tận mắt chứng kiến cuộc
sống cùng cực của con người dưới bom đạn chiến tranh. Bản thân Đoàn Lê suốt
thời thơ ấu biết bao lần cùng những chị em của mình chạy tản cư: giặc càn rất dữ
dội, chúng lùng sục, bắt bớ, bắn giết người rất dã man, rồi cảnh nhà tan tác chia
ly, người còn người mất... Những ký ức đau thương ấy được nhà văn biến thành
những tư liệu quý giá cho những trang viết của mình. Cũng nhờ những trải
nghiệm thực tế ấy mà cách tiếp cận bi kịch của nhà văn dường như có phần sâu
sắc, xúc động hơn.
Khảo sát toàn bộ sáng tác của Đoàn Lê, chúng ta nhận thấy hầu như mọi
sáng tác của bà đều bắt nguồn từ cảm hứng bi kịch: bi kịch chiến tranh, bi kịch
tình yêu hôn nhân- gia đình, bi kịch từ cuộc sống thời mở cửa…Trong đó những
trang viết của Đoàn Lê về bi kịch chiến tranh không nhiều nhưng lại có sức ám
ảnh thật ghê gớm với lòng người.
Viết về đề tài chiến tranh, người đọc biết đến rất nhiều cây bút có tên
tuổi như: Chu Lai với “Ăn mày dĩ vãng”, “Vòng tròn bội bạc”; Nguyễn Minh
Châu với “Miền cháy”, Bảo Ninh với “Nỗi buồn chiến tranh”, Lê Lựu với 15
“Thời xa vắng”…Họ viết về chiến tranh bằng tất cả sự xúc động của người trong
cuộc- những người lính đã đi qua cuộc chiến tranh. Bởi thế, qua những trang
viết của mình, họ đã tái hiện được rất chân thực bộ mặt tàn khốc của chiến tranh.
Đoàn Lê cũng là nhà văn sống qua thời chiến, bà cũng từng chứng kiến và trải
nghiệm nỗi đau đớn, mất mát tột cùng do chiến tranh để lại. Bởi thế bộ mặt
chiến tranh hiện hình trong những trang viết của bà có sức sống, có sức gợi tả
nỗi đau thật ghê gớm. Dù bà không hề đi sâu vào việc miêu tả diễn biến của
cuộc chiến, cũng không chú tâm đến việc tái hiện sự gian khổ, thiếu thốn của
cuộc sống thời chiến mà người lính phải trải qua nhưng bộ mặt gớm ghiếc của
chiến tranh với tất cả sức hủy diệt của nó vẫn hiện lên mồn một trong những
trang văn của bà.
Viết về chiến tranh, Đoàn Lê thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm
của những người lính khi cuộc sống không còn tiếng súng. Họ bước ra khỏi
cuộc chiến với tâm hồn rách nát tả tơi. Chiến tranh tàn khốc đã cướp đi của họ
tất cả: tình yêu, cuộc sống, niềm tin, cướp đi mọi niềm vui sống ở họ. Đó là
mảng đời sống nội tâm đầy ắp những kỷ niệm đau đớn, nhức nhối của nhân vật
“tôi” khi sống lại “Một ngày ở xứ em”. Thời gian chỉ một ngày nhưng dồn chứa
nỗi đau của một thời, một đời. Nhân vật tôi đã sống với tất cả ký ức đau thương
của một thời máu lửa. Chỉ trong một khoảnh khắc, bom đạn khốc liệt của chiến
tranh đã vĩnh viễn cướp đi người con gái anh yêu cùng bao đồng đội của anh.
Chứng kiến cảnh người yêu bị chôn vùi dưới lớp đất đá chỉ còn hở một cánh tay
cầu cứu tuyệt vọng, trái tim anh như muốn vỡ ra trăm mảnh. Đặc biệt ấn tượng
về chiếc vòng bạc trên cổ tay người con gái anh yêu rạch một đường nhỏ rớm
máu luôn hiển hiện nhức nhối trong anh. Chiếc vòng bạc chính là kỷ vật tình yêu
mà anh tặng nàng. Nó được tạo nên từ những vòng thép sáng loáng của một trái
bom bi bị tháo gỡ. Nhờ chiếc vòng đặc biệt ấy mà tình yêu của họ đã nổi tiếng
khắp rừng trường Sơn những năm tháng ấy. Nhưng chiến tranh tàn khốc với bộ
mặt ghớm ghiếc đã chỉ trong phút chốc “tiếng súng, tiếng bom, tiếng rít căng
thẳng của máy bay cường kích ào đến…” trong khoảnh khắc ý thức bị tê liệt,
anh chạy bổ xuống cung đường nơi người yêu đang làm việc. Trái tim anh đau
thắt khi thấy “hình ảnh cánh tay em lọt giữa khe hở của hai cây xà cừ vươn lên
vẫy gọi, cầu cứu. Cánh tay giống như một búp cây trắng mọc lên từ mặt đất vừa
16
bị cày xới ám đen đang còn nghi ngút khói…” Chỉ trong phút chốc, người anh
yêu đã vĩnh viễn bị vùi sâu, chôn chặt dưới lớp đất đá loang lổ.
Anh bước ra khỏi cuộc chiến như người mất hồn, trái tim anh đã hoàn
toàn rệu rã “chỉ còn mang chức năng của một cái bơm máu”. Anh sợ hãi trốn
tránh quá khứ, mỗi khi nhớ đến nó là thần kinh anh lại không thể chịu nổi. Tất
cả ký ức đau thương gắn với cánh tay cầu cứu của người con gái anh yêu vươn
lên giữa những mảnh đất đá bị cày xới, vẫn sống, vẫn hiển hiện, vẫn cào xé nhức
nhối lòng anh. Nỗi đau đó đeo đẳng ngay cả trong đêm tân hôn, khi anh cận kề
bên người vợ mới thì “một luồng điện buốt giá xâm chiếm tâm hồn tôi. Trong
nháy mắt, tất cả như sụp đổ, vỡ toác ra.Tôi bỗng chìm nghỉm vào vòng bom đạn
Trường Sơn. Lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát. Cả người
tôi nôn nao sống dậy cảm giác kinh hoàng tuyệt vọng khi tay em từ mặt đất bừa
bộn vươn lên, níu lấy tay tôi, xoắn lại với nỗi đau đớn thầm lặng…”. Ngay trong
giây phút hạnh phúc nhất của đời người, những ám ảnh của chiến tranh vẫn
không buông tha người lính để anh phải trải qua một đêm tân hôn thật khốn
khó...Và hôm nay, sau mười hai năm trở về với cuộc sống đời thường, né tránh
những va đập của quá khứ, anh lại sống “Một ngày xứ em tràn đầy và nhức nhối
kỷ niệm”. Mọi thứ lại sống dậy hiển hiện đau đớn đến quay quắt. Chỉ một ngày
nhưng anh đã uống trọn nỗi đau của một thời, một đời…
Theo dõi câu chuyện được kể qua dòng hồi ức của nhân vật “tôi”, thần
kinh người đọc như căng lên, trái tim thổn thức, quặn đau theo nỗi đau của nhân
vật. Những trang văn này gợi chúng ta liên tưởng đến tâm trạng nhức nhối của
nhân vật Kiên trong chuyến đi ngược Trường Sơn thu nhận hài cốt đồng đội ở
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Ký ức đau thương ở chuông Gọi Hồn cứ
ẩn hiện cào xé nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với những
cái chết kinh hoàng của đồng đội hiển hiện trong Kiên như một thước phim
quay chậm ở mọi góc cảnh. Những lúc ấy Kiên lại đau đớn đến chết lịm. Nỗi
đau của Kiên có khác gì nỗi đau của nhân vật “tôi” trong “Một ngày xứ em”. Bi
kịch của họ cũng là bi kịch chung của những người lính bước ra từ cuộc chiến
tranh. Họ đều cống hiến hết mình cho Tổ Quốc, những người may mắn sống sót
bước ra khỏi cuộc chiến thì hoặc mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động
về tinh thần đến không thể hoà nhập được với cuộc sống mới.
17
Sau này, trong cuốn tiểu thuyết vừa xuất bản- “Tiền định”, một lần nữa
Đoàn Lê lại tái hiện không khí chiến tranh, bi kịch chiến tranh trong cái nhìn
của người trong cuộc. Đó là nỗi đau của bà ngoại khi cậu Định hy sinh trong
chiến tranh, rồi những ký ức tuổi thơ chạy loạn đến ngộp thở, thót tim trong
những ngày giặc càn quét lùng sục của chính tác giả… Dù nhìn ở góc độ nào thì
bộ mặt của chiến tranh hiện lên trong sáng tác của Đoàn Lê cũng thật gớm
ghiếc, ghê rợn.
Nhìn chung những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh trong sáng tác của
Đoàn Lê không nhiều nếu không muốn nói là còn hiếm hoi nhưng những gì bà
cảm nhận về chiến tranh đều hết sức chân thực gây ám ảnh lòng người. Đằng
sau những bi kịch về chiến tranh, nhà văn muốn gửi gắm thông điệp về tình
người, giống như một sự cứu rỗi cho chính tâm hồn con người khi nhìn về tương
lai bằng lăng kính của quá khứ.
3.1.2. Bi kịch đời thường.
Văn học sau 1975 chứng kiến một giai đoạn lịch sử mới của dân tộc. Đất
nước hoà bình nhưng cũng kéo theo những biến động khác thường trong đời
sống xã hội. Từ chiến tranh chuyển sang giai đoạn hoà bình, xã hội có những
chuyển động lớn. Đã kết thúc sự tàn phá, chết chóc, hy sinh trong chiến tranh để
trở về với cuộc sống thanh bình, xây dựng và lo toan hạnh phúc. Nhưng chính ở
cuộc sống mới này, nhiều bi kịch đã bất ngờ xuất hiện. Văn học là tấm gương
trung thành phản ánh đời sống xã hội nên không thể không ghi lại những bi kịch
ấy. Vì thế, cảm hứng bi kịch cũng bắt đầu trở lại trong sáng tác văn chương.
Cảm hứng về cái bi đã làm thay đổi diện mạo của văn xuôi thời kỳ đổi mới.
Là một nhà văn nữ khá nhạy cảm với những vấn đề của cuộc sống, Đoàn
Lê có nhiều tác phẩm quan tâm đến số phận con người, đến bi kịch của những
gia đình do tốc độ đô thị hoá đến mức chóng mặt ở nông thôn. Cùng với bi kịch
ấy, bi kịch về tình yêu- hôn nhân và hạnh phúc gia đình cũng là một loại bi kịch
được nhà văn quan tâm thể hiện trên những trang viết của mình. Đó là những
loại bi kịch rất phổ biến trong cuộc sống xã hội thời đổi mới.
3.1.2.1. Bi kịch cuộc sống thời mở cửa
Cuộc sống thời mở cửa với muôn vàn những phức tạp kéo theo đó là
hàng loạt những bi kịch: bi kịch cá nhân, bi kịch gia đình, bi kịch của cả nông
thôn...Những bi kịch đó đã được tái hiện vô cùng chân thực, sinh động trong 18
hàng loạt sáng tác của Đoàn Lê. Bộ mặt nông thôn sau chiến tranh bắt đầu thay
đổi từ sự hiện đại hóa đồ vật kéo theo sự thay đổi nếp cảm nếp nghĩ, thói quen,
lối sống của người dân ở một xóm nghèo ven đô có tên là xóm Chùa. Trước nay
dân xóm Chùa vẫn sống thật bình lặng, yên ổn. Sự xuất hiện chiếc cát-sét của
ông Sĩ Duệ nơi xóm Chùa ông là mốc son đánh dấu điểm khởi đầu của sự thay
đổi. (Xóm Chùa Ông nằm sát bờ một dòng sông đẹp, chỉ cách trung tâm thành
phố hơn mười cây). Chiếc cát-sét làm đủ mọi nhiệm vụ trong đám cưới, đám
tang. Vào ngày đám cưới, chiếc cát sét được bật oang oang với những băng nhạc
giậm giật, hát toàn tiếng Tây cắm cẳn không ai hiểu gì cả. Nhưng đám thanh
niên trong xóm thì nhấp nhổn, rộn rực, ngứa ngáy không yên. Rồi chiếc cát sét
còn tiến thêm một bước vào lĩnh vực phục vụ đám ma. Khi chiếc cát sét được
bật lên tức thì con cháu nhà đám im tịt, ngơ ngác xúm cả vào cái cát sét. Những
người đến chia buồn cũng quyên luôn bà già nằm đó, chỉ còn trầm trồ bàn tán
xôn xao. Không ngày nào không có người tìm đến chủ nhân với hàng đống các
loại băng khóc cha, khóc mẹ, loại dành riêng cho con dâu, con dể, con nuôi, có
cả loại kinh Phật dành cho đối tượng đang thập tử nhất sinh. Về mặt kinh tế, chỉ
tốn ít điện, không mất mâm cao cỗ đầy, không mất hàng chục nghìn đồng cung
phụng thợ kèn trống và nó gào khóc suốt ngày đêm cũng không biết mệt. Như
vậy vừa đỡ được bao nhiêu hơi sức cho con cháu, nhất là các nàng dâu, người có
trách nhiệm phải “gào to” hơn tất cả. Tuy nhiên sự tiện lợi ấy lại cũng phần nào
làm mai một đi những nét đẹp truyền thống nhân bản, những tình cảm chân
thành đáng quý của người Việt tự bao đời nay. Đó là những nét đẹp của thuần
phong mỹ tục trong đó có tình thân, có nghĩa cử cao đẹp của con cháu với người
thân quá cố.
Tiếp đó sự xuất hiện của cái ti-vi do doanh trại bộ đội đóng bên kia sông
mang về cũng làm xôn xao cả xóm Chùa. Cách xa đến ba cây số nhưng dân thôn
cả xóm không đêm nào không lũ lượt kéo nhau đi xem đến nỗi xóm làng vắng
ngắt vắng ngơ. Rồi đến bà Chiu bán rượu nếp bị chiếc xe của Tây móc vào đòn
gánh kéo lê một quãng gây xây xát nhẹ mà được đền tới 400 đô-la, khiến cho
nhiều người ao ước được vướng vào xe của Tây như bà. Nhiều người ra tỉnh,
thấy chiếc xe lịch sự đi qua bỗng đứng ngẩn ngơ, lưu luyến. Ngay cả ông Sỹ
Duệ, kinh tế gia đình vào dạng khá giả ở xóm Chùa Ông, vậy mà khi ông bố ra
tỉnh chơi với cháu cũng ước: “Ồ…giá nó đụng vào ông cụ xem…xem có ra vấn 19
đề không nào”. Rồi chuyện cô gái lai đen tên Mừng, chuyên hủ hóa với trai làng
và quy đổi ra thành gạo... Từ đó, xóm Chùa không còn là một vùng quê bình
lặng, thuần phác với những người dân cần mẫn trên đồng ruộng bên lũy tre xanh
nữa. Xóm Chùa đang chộn rộn lên vì sự thay đổi, tích cực cũng có mà tiêu cực
cũng nhiều. Xóm Chùa đang nhà nhà thay đổi, người người thay đổi. Nhưng
chưa có gì đáng xáo trộn bằng chuyện mở đường cao tốc qua làng làm bao gia
đình rơi vào bi kịch. Cả làng mắc dịch “sốt đất” dẫn đến cảnh xô xát, anh em
chém giết lẫn nhau: “con cả lão Tự Nghệch chém vỡ đầu thằng thứ hai, tranh
nửa thước đất bên cạnh đường cao tốc vô hình”. Rồi tình cảm hàng xóm láng
giềng sứt mẻ, chia rẽ thành thù hận “bốn nhà vẫn chung ngõ đi bỗng om sòm
đánh nhau chia bôi đường biên giới. Ai cũng cố ngoi ra mặt đường. Đất mặt
đường đắt như vàng…”, đến mức “bà Lăng kiện con rể, đòi lại cái chuồng trâu
đã cho con gái làm hồi môn từ hai chục năm trước”. Từ đó không ai còn thiết
tha làm ăn gì nữa, chỉ nháo nhác chuyện mua bán đất. Nhà nào cũng cố co lại
thật bé, để dư tí đất bán. Gặp vận may một phút lên ông, một phút có quyền coi
thằng hàng xóm bằng nghoé. Người đau đớn nhất trong thảm kịch đất cát là gia
đình lão Hớn- chuyên sản xuất tiền vàng, đô la âm phủ. Nhân vụ đất cát được
giá, lão dồn ba bà vợ và lũ con lên nhà trên để cắt nhà ngang và nửa khoảng sân
bán nghiến cho một gã buôn ngoài tỉnh được ba cây định mua một nơi xa hẳn
cho hai bà vợ khuất mặt đi, khỏi sinh sự với bà ba. Nhưng chỉ nửa tháng sau, giá
đất vọt lên cao chưa từng thấy, lão Hớn tiếc của đến hộc máu như chết nửa phần
hồn. Khi gã ngoài tỉnh bán trao tay khu nhà ngang của lão lấy mười ba cây thì
lão Hớn ngã bệnh, cấm khẩu rồi tự vẫn khi biết mất ba cây vàng. Không chỉ có
gia đình lão Hớn mà tốc độ đô thị hoá nhanh chóng ở nông thôn đã đẩy bao gia
đình vào thảm kịch mất nhà cửa nhưng cũng khiến bao gia đình nhờ đó mà phất
lên như diều gặp gió. Đặc biệt nền kinh tế mở đã làm tha hóa cả một tầng lớp
cán bộ thất học và tham lam. Chủ tich xã Quang sau bốn năm cầm quyền, bằng
cách “nhử mồi câu cá”, sợi dây bảo hiểm cho “gã hoạn lợn” đã dài tận huyện,
tận thành phố, gã cóc sợ ai nữa. Gã thường bật cười bảo dân xóm Chùa: “Các vị
đi xe đạp lên Tỉnh kiện tôi sao nhanh bằng tôi đi xe máy?”. Nếu không có
chuyện sốt đất do mở đường cao tốc thì chắc gia đình lão Hớn và bao gia đình
khác ở xóm Chùa vẫn sống bình yên vô sự. Sẽ không có chuyện tranh chấp, xô
xát giữa anh em, mẹ con, láng giềng đến sứt đầu, mẻ trán, cũng không có 20
chuyện tham ô, hối lộ, gây bè kết cánh. Họ đua nhau làm “cò mồi” dẫn khách
mua bán đất, rồi bị cuốn vào cơn lốc đất cát đến mức chẳng ai còn thiết làm ăn
gì nữa. Họ chỉ còn lo chạy đôn chạy đáo nghe ngóng chuyện mua bán đất cát mà
thôi.
Đáng sợ hơn về sự đổi thay ở xóm Chùa là việc người ta giao bán “trinh
tiết”- thứ quý giá nhất của đời người con gái (Trinh tiết xóm Chùa). Truyện bắt
đầu từ cô Khờ (có ông nội là mõ làng, bố đi đánh dậm nuôi cả nhà) lấy người
Đài Loan và trở nên giầu có, đổi tên là Lầy Lầy. Lầy Lầy mừng tết Trung Thu
cho mỗi người một đô-la, trẻ con mỗi đứa một gói bánh quy kèm mấy viên kẹo
Tàu. Cả làng được dịp rộ lên kéo nhau đi nhận quà như đi nhận phát chẩn. Từ đó
mọi người đều nhìn Khờ với ánh mắt thèm thuồng lẫn thán phục. Lầy Lầy về
làng là để tuyển con gái đi Đài Loan mà tiêu chuẩn phải xinh xắn, dễ coi, trẻ,
khỏe…lại còn phải “xịn”.Thế là khắp làng quê lại rộ lên cơn sốt “lấy chồng
ngoại”. Đó là một cuộc cách mạng cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ. Những
bà mẹ có con gái xinh thấp thỏm hy vọng đổi đời. Những nhà sinh toàn con trai
thì chồng mắng vợ vụng đẻ, vợ nhiếc chồng hãm tài. Nhất là sau vụ cái Huệ
xinh xắn mới mười tám tuổi chính thức trở thành vợ lão già ngoại quốc sáu
mươi ba tuổi nhưng đổi lại lão giầu có đã gửi tiền về cho bố mẹ xây nhà, sắm xe
cho em thì các gia đình có con gái lại càng háo hức chuyện cho con gái lấy
chồng ngoại. Bà Duệ có cô con gái xinh như nụ hồng mới hé thì đau đớn, xót xa
tiếc nuối như đứt từng khúc ruột. Nếu cái Hoa con bà không bị “làm thịt” bởi
thằng phó nháy đểu cáng thì giờ bà đã sắp được mở mày, mở mặt vì con. Giữa
lúc bà Duệ đang dầu gan héo ruột vì tiếc của thì Lầy Lầy dám bảo bà Duệ lo cho
khoản tiền kha khá để “vá màng trinh” cho con bà trước khi đưa đi xuất ngoại.
Thế là bà Duệ quyết định để con gái bà theo người ta đến cơ sở y khoa đặc biệt
để “vá trinh”, để tân trang nguyên lành như cũ. Tân trang xong, con gái đã hư
cũng trở lại thành “xịn‟, lại rách, lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết
y khoa” ấy. Dầu bà biết rằng bọn đàn ông ngoại quốc phát hiện bọn con gái
không còn nguyên vẹn, nó bán luôn vào nhà chứa, hoặc vùi dập hơn con ở nhà
nó. Vậy mà bà vẫn bằng mọi cách đưa con gái đi “tân trang” lại để xuất ngoại.
Vì tiền mà bà bất chấp cảm nhận của con gái bà. Bà đâu biết rằng cái giây phút
nằm tênh hênh trên bàn bệnh viện, cô Hoa ngây thơ phập phồng tình yêu của
xóm Chùa đã chết rồi. Giờ còn lại đây một cái xác lạnh khô, chán chường đến 21
mức không buồn…chết nữa. Bi kịch cuộc đời cô Hoa là bi kịch điển hình cho rất
nhiều cô gái ở xóm Chùa Ông. Họ đều là nạn nhân của thói hám lợi, tối mắt vì
tiền- một sản phẩm của nền kinh tế mở buổi đầu. Và bi thảm nhất là chuyện cả
làng há hốc mồm ra khi biết kết quả khám nghĩa vụ quân sự có tới một nửa
thanh niên xóm Chùa bị loại vì máu có khoản dương tính với con Hít. Lão Bản
ngậm ngùi: “Còn đâu Xóm Chùa ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác
xuất ngoại, con giai đu đưa ma túy, ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền”.
Ngay đến ông Sỹ Duệ vốn được tiếng là mẫu mực không bị vòng xoáy của nền
kinh tế mở cuốn vào, vậy mà vẫn bị lão kép cải lương “đưa vào đời”. Thi thoảng
lão vẫn đón ca-ve non thật xinh về ngôi nhà độc thân suốt đêm, để nó hầu hạ.
Chờ trời tối, chạy xe máy cái vèo lên đến đầu tỉnh đã đón được “của lạ” về tận
nhà...Vậy là sự tha hoá len lỏi vào mỗi gia đình, nó không từ một ai, bất kể già
trẻ, gái trai. Mỗi người tha hoá theo cách riêng của mình: con gái thì hoặc dại
dột để mất cái đáng quý nhất của đời mình rồi nhắm mắt để người ta đưa đi “tân
trang” lại đem giao bán xứ người và rơi vào bi kịch sống không bằng chết hoặc
để cứu gia đình thoát nghèo phải chấp nhận xa xứ lấy ông già đáng tuổi ông
mình làm chồng; con trai nghiện ngập, hút hít nhận lấy những cái chết trắng thật
khủng khiếp; ông già ham”của lạ”; các bà mẹ tối mắt vì tiền…Đó là đầu mối của
những tấn bi kịch hết sức thương tâm ở xóm Chùa Ông.
Không chỉ dừng lại ở đó, bi kịch đổi thay của xóm Chùa còn được đánh
dấu bằng sự kiện ông Hưởng- đại tá về hưu bị ca-ve khiêu khích chết ngay trên
giường do nhồi máu cơ tim. Ông này có thằng con trai “phá gia chi tử” đã dám
phá hang Dơi làm Khu Du lịch sinh thái rởm để kiếm lời. Để thoả mãn tham
vọng làm giầu, Cường đã bất chấp tất cả. Hắn có thể phá Hang Dơi, tạo hiện
trường giả về động xương người, công nhiên bao gái hoạt động mại dâm dưới
hình thức tiếp viên nhà hàng. Đấy là đầu mối của những căn bệnh thế kỷ mà hơn
một nửa trai làng mắc phải. Hơn thế nữa, Cường còn đưa cả ca-ve về nhà để hại
cha. Cái chết của cha hắn còn là cơ hội để Cường quảng bá khu du lịch rởm và
kinh doanh làm giầu…
Thế đấy mặt trái của nền kinh tế mở đã kéo theo nó biết bao bi kịch, bao
tệ nạn từ việc tranh chấp nhau từng mét đất mặt đường, đến cơn sốt lấy chồng
ngoại và khát vọng làm giầu bất chấp mọi thủ đoạn, từ sự hiện đại hóa vật chất
22
đến sự mai một những nét truyền thống nhân bản vốn quý của con người... Tất
cả đều được Đoàn Lê thể hiện một cách chân thực, sinh động trên mỗi trang
viết của mình. Giọng văn của bà ngỡ như bình thản, lạnh lùng nhưng bên trong
lại hàm chứa biết bao chua xót. Không còn cảnh xóm làng bình yên với những
nét nhân bản vốn quý của con người nữa. Sức mạnh của đồng tiền đã huỷ diệt tất
cả. Nó làm tha hoá bao nhân cách, làm dị dạng bao tâm hồn ở xóm Chùa Ông.
Đọc những truyện ngắn này của Đoàn Lê gợi ta nhớ đến tác phẩm Mùa lá rụng
trong vườn của Ma Văn Kh¸ng. Trong tác phẩm ấy, nhà văn ®i vµo ph¶n ¸nh
b íc chuyÓn biÕn cña x· héi miÒn B¾c vÒ nÕp sèng ®¹o ®øc, ®Æc biÖt lµ nh÷ng
®¹o lý truyÒn thèng vèn tèt ®Ñp cña con ng êi ®ang bÞ b¨ng ho¹i trong gia ®×nh
nhiÒu thÕ hÖ. Cô thÓ lµ gia ®×nh «ng B»ng vµ më ra ë bèi c¶nh réng lín g¾n liÒn
víi t¸c ®éng m¹nh mÏ cña thÕ lùc ®ång tiÒn. Mét hÖ quy chiÕu ® îc ®Æt ra tõ cöa
sæ vµ m¶nh v ên nhµ «ng B»ng ra cuéc sèng, soi räi vµo mçi gia ®×nh ®Ó thÊy
r»ng t©m lý con ng êi bÞ ph©n ho¸, bÞ ®ång tiÒn chi phèi. Víi ngßi bót s¾c s¶o,
Ma V¨n Kh¸ng ®· kh¾c ho¹ nªn tõng tÝnh c¸ch nh©n vËt: mét «ng B»ng nh©n
hËu sèng hÕt mùc th¬ng con ch¸u, mét «ng §«ng nhu nhîc… vµ ®Æc biÖt lµ
mét Lý nh©n vËt chÝnh xuyªn suèt t¸c phÈm víi c¸i “mÆt phinh phÝnh, bõng lªn
mét mµu men hång bãng läng cña c¸i n¾ng ph ¬ng Nam. M¾t Lý t« xanh, l¼ng
vµ t¸o tîn…” Mét ngêi ®µn bµ “tay hßm ch×a kho¸” n¾m quyÒn qu¶n lý gia
®×nh ®· “yªu ®êi nång nhiÖt vµ hoan l¹c thÇm kÝn còng béc ph¸t…” sèng trong
thêi ®¹i kinh tÕ thÞ tr êng, Lý ®· bÞ biÕn chÊt, tõ ng êi con d©u tr ëng rÊt mùc
®¶m ®ang ®Õn mét con ng êi vô lîi, bÊt chÊt khu«n phÐp, ®¹o ®øc ®Ó nh÷ng ham
muèn cña b¶n th©n ® îc ®¸p øng tho¶ m·n. Mïa l¸ rông, nh÷ng chiÕc l¸ rông
trong khu v ên hay chÝnh lµ nh÷ng truyÒn thèng tèt ®Ñp ®ang dÇn bÞ mai mét ®i
trong nh÷ng con ng êi nh Lý? Vµ ph¶i ch¨ng bi kịch gia ®×nh «ng B»ng lµ ®iÓn
h×nh cho rÊt nhiÒu nh÷ng gia ®×nh kh¸c ®ang bÞ ¶nh h ëng cña nÒn kinh tÕ thÞ
tr êng lµm rung chuyÓn tíi tËn c¨n nguyªn cña nã mà những tác phẩm của Đoàn
Lê đã lại một lần nữa minh chứng cho điều đó.
Sống trong thực tại cuộc sống nghèo cực, tăm tối con người luôn có khát
khao vươn lên bằng mọi giá, kể cả phải đặt niềm hy vọng ấy vào những tấm vé
xố vốn nhiều rủi ro. Đó là bi kịch của những con người mong đổi đời nhờ vận
may ở Thành hoàng làng sổ xố. Toàn tác phẩm là câu chuyện cuộc đời lão
23
Khiển- một viên chức nhà nước cần mẫn, đúng mực. Vì cần mẫn, đúng mực nên
lão nghèo khổ, nghèo sở, đến nỗi suốt đời lão không xây nổi mộ phần cho tứ
thân phụ mẫu và cũng không xây nổi một gian nhà gạch thay cho túp lều tranh
xiêu vẹo ở xóm ngoại ô. Với đồng lương ít ỏi nuôi bốn đứa con còn chật vật, vậy
mà lão còn nghiện món xổ số cầu may. Rồi một lần lão trúng cái giải sáu được
bảy trăm đồng. Sau chuyện đó, lão Khiển càng tin vào vận số, lão quyết định
mua tăng gấp đôi số vé với sự hỗ trợ của các món tính toán cả khoa học lẫn duy
tâm: nào theo sự mách bảo của giấc mơ, theo ngày sinh, tháng đẻ của những
người thân trong gia đình, theo người gặp đầu tiên ngoài ngõ…Biết kiểu nào lão
theo tất kiểu ấy. Thậm chí lão còn học luôn cả bài khấn của dân xổ số chuyên
nghiệp. Nhưng thật là chớ trêu đen đủi, trong suốt mấy tháng, lão không thu
được nửa xu. Các khoản chi tiêu bị cắt giảm ngày một tồi tệ, vợ chồng lão
thường xuyên lục đục cãi cọ: lão nhiếc mụ vợ hãm tài; mụ giễu lão bị ma ám,
có lần cả hai suýt nện nhau. Nhưng khát khao đổi đời nhờ vận may vẫn ngày
đêm thôi thúc khiến lão Khiển không cách gì thoát ra khỏi niềm hy vọng chết
người ấy. Thậm chí càng ngày lão càng đam mê hơn, đam mê đến mức bỏ bê gia
đình, trễ nải cả công việc cơ quan. Sau vụ trúng trượt giải nhất liên tỉnh thì lão
lao vào số đề như một con thiêu thân mê ánh lửa. Lão quyết tâm bằng bất cứ giá
nào cũng phải gỡ lại mười triệu hụt ấy. Từ hôm sau, lão mua xổ số như điên, cứ
có đồng nào trong túi lão mua tuốt. Lão như một con đề khát nước, bốn giờ
chiều chưa xoay nổi tiền mua hai vé số, lòng lão tựa có lửa đốt, ấm ức, thất thần.
Trong óc lão dày đặc một màu u ám xui lão nói dối ai để vay tiền bằng được.
Cho dẫu đang buồn phiền vì đủ thứ chuyện nhưng khi cầm hai tấm vé số trên
tay, lòng lão bỗng dịu đi, nhẹ như hồi sinh, vui vẻ, thư thái. Chỉ trong nháy mắt,
hai tấm vé làm cuộc đổi hồn quái đản cho lão Khiển. Sau giấc mơ gặp được ông
già râu tóc bạc phơ mách nước, lão Khiển như người mất hồn, lão sùng tín một
cách mù quáng đã đặt toàn bộ niềm tin vào canh bạc cuối cùng này. Đúng là
canh bạc cuộc đời, lão đã không thắng được số mệnh. Lão đã bị mất tất cả: chiếc
xe đạp- tài sản duy nhất có giá trị trong nhà, công việc và cả gia đình. Lão Khiển
bị dồn tới chân tường, gia đình tan nát, lão thành kẻ lang thang bơ vơ đầu đường
xó chợ. Càng ngày lão càng cay cú, tìm mọi cách gỡ lại canh bạc cuộc đời ,
thậm chí phải bán dẻ cả nhân phẩm và lương tâm. Lão chấp nhận “mặt dạn mày
dày” chiều bà góa già để mỗi ngày bớt của bà số tiền chợ vừa đủ hai tấm vé xố 24
chờ cơ hội đổi đời. Nhưng rồi niềm hy vọng mong manh ấy cũng chẳng kéo dài
được bao lâu, hai đứa con bà góa sợ phải chia tài sản, chúng phối hợp với nhau
tìm cách vừa đe dọa vừa cưỡng chế đuổi lão ra khỏi nhà. Một lần nữa lão lại vất
vưởng, bơ vơ lần hồi kiếm ăn. Dầu vậy lão vẫn không sao từ bỏ được niềm đam
mê chết người kia. Hàng ngày lão thà bớt khẩu phần ăn để dành tiền mua hai vé
số. Ngày nào chưa có nổi hai vé số, lòng lão nôn nao, bồn chồn như có lửa đốt.
Dần dần khi miếng ăn nuôi thân cũng không kiếm nổi, lão đành chơi xổ số bằng
tưởng tượng. Dù chơi bằng tượng nhưng tâm trạng lão vẫn phập phồng lo lắng,
vui buồn, hy vọng rồi thất vọng như khi lão cầm những tấm vé số chờ thông báo
kết quả. Chính vì thế mà thảm kịch cuộc đời đã đến với lão. Sau khi xem xong
kết quả tấm vé số tưởng tượng trúng giải độc đắc, lão đã hét toáng lên như người
bị dại trước hàng ngàn người. Và điều gì phải đến đã đến… Lão bị đám đông xô
đẩy chen lấn, người lão mềm oặt như một tấm dẻ rách, mụ bán vé số đã lôi lão
ra từ đám đông và đưa về nhà chăm sóc. Mụ cũng như bao kẻ khác mong có thể
kiếm chác từ giải độc đắc của lão. Bởi thế mụ chăm chút lão tận tình cả vật chất
lẫn tinh thần. Nhưng thật là bi kịch đấy chỉ là tấm vé số tưởng tượng. Khi đã
hiểu cơ sự mụ liền tống cổ lão ra đường như đuổi một con chó giữa đêm đông
giá rét. Lão đã được hóa kiếp. Bi kịch cuộc đời lão Khiển là bi kịch chung cho
bao kẻ ngộ độc sổ xố, bao kẻ khát khao nhanh chóng đổi đời bằng vận may. Họ
đều là nạn nhân của nền kinh tế mở với tham vọng làm giầu từ công việc không
chính đáng- chơi số đề. Kết cục của những bi kịch ấy là sự tan cửa nát nhà và cả
tính mạng bản thân: lão Khiển đã chết cô độc không gia đình không người thân
thích giữa đêm đông giá lạnh. Cái chết của hắn chính là hồi chuông cảnh tỉnh
với những kẻ đam mê số đề đến mụ mị.
Bên cạnh bi kịch của những người mong đổi đời nhanh chóng nhờ vận
may, trong sáng tác của Đoàn Lê còn một loại bi kịch nữa, bi kịch của những
người phụ nữ bị cuộc sống khốn khó dồn đẩy đến bước đường cùng phải bán
thân nuôi miệng. Đó là bi kịch cuộc đời của những người đàn bà nghèo ở xóm
liều trong truyện ngắn “Hạt vừng”. Họ sống lang thang, vật vờ bằng đủ thứ
nghề, sống dai dẳng kiểu tầm gửi, cỏ dại, chỉ cần bám hờ vào mảnh gỗ mục cũng
sống. Kết quả của cảnh sống ấy là sự ra đời của những đứa con không cha sống
vạ vật chui rúc nơi các xó xỉnh mà chỉ cần nhận được ổ bánh mỳ, khúc sắn luộc
25
hay mấy cái bánh rán cũng đủ khiến chúng sung sướng đến thắt lòng. Cũng vì
sống không ra sống ấy mà chị Đỗ, cái Tấm, cái Mằn, con Vừng, thằng Muối đã
lần lượt biến mất không ai biết vì sao. Có lẽ chúng bị đem bán, trao đổi như món
hàng, như lũ chó con chỉ vì mẹ chúng không đủ khả năng nuôi nấng chúng. Và
một ngày kia, mẹ chúng cũng chết ở khúc sông không biết là chết đuối hay tự tử.
Chị- con bé hạt Vừng là đứa cuối cùng trôi dạt sau hôm mẹ mất. Thân cô thế cô
bơ vơ, lang bạt trên cõi đời, chị thường xuyên bị đám trẻ nhặt rác xóm liều trêu
chọc, chúng dùng những chiếc móc sắt tua tủa vẫn thường bới rác tấn công vào
những lỗ thủng trên quần áo chị, có đứa nghịch ác ý còn cầm hai bên ống quần
rách của chị lôi tuột khiến chị đau đớn, tủi hổ co rúm lại. Ấy là những ký ức
khủng khiếp vẫn thường trở đi trở lại trong những cơn ác mộng của chị…
Hôm nay trong cương vị một luật sư bào chữa, chị đã thông cảm, sẻ chia
lẫn xót thương người nữ phạm nhân kia một cách thành thực. Chị thấu hiểu hơn
ai hết cảnh ngộ đáng thương của người đàn bà ấy. Đó là sự cảm thương của
người “cùng hội cùng thuyền”, của những người đồng cảnh ngộ. Bi kịch cuộc
đời người nữ phạm nhân kia cũng chính là bi kịch cuộc đời mẹ chị, bi kịch tuổi
thơ cay đắng, hãi hùng của chính chị. Số phận cuộc đời người nữ phạm nhân có
phần còn may mắn hơn mẹ chị bởi bà ta còn có chồng, có bốn đứa con. Người
nữ phạm nhân rơi vào bi kịch từ khi người chồng chết vì đói, một mình chị ta
không nuôi nổi bốn đứa con, lại thêm việc chúng ốm đau bệnh tật luôn. Không
thể chống chọi nổi với cuộc sống quá khốn khó, chị ta đã phải nhắm mắt sa chân
chốn bùn nhơ tanh tưởi. Chỉ vì một trăm bạc đưa con vào viện cắt Amiđan và lo
mâm cơm giỗ đầu chồng, người phụ nữ khốn khổ ấy đã chấp nhận bán dẻ nhân
phẩm. Nhưng thật là oan nghiệt, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng ấy, người đàn
bà đã bị khép vào tội giết người. Theo lời kể của người nữ phạm nhân, chị sống
lại toàn bộ hồi ức tủi nhục, ê chề của cuộc đời mẹ chị. Chính bà cũng phải làm
cái việc nhớp nhúa của người đàn bà kia để có tiền nuôi các con. Thủa ấy nhìn
những vết bầm tím rớm máu trên ngực, trên vai mẹ, chị thấy nhói nơi ngực tựa
hồ có một mũi tên mơ hồ chạm phải. Khi vô tình chứng kiến cảnh mẹ bị kẻ háo
sắc hành hạ thân xác, chính chị cũng đã hành động như bé Trang con người nữ
phạm nhân khốn khổ kia. Trong nỗi khiếp sợ kinh hoàng, con bé Vừng đã vùng
dậy, ôm chặt lấy bàn chân quái vật của kẻ đang xoắn chặt chân mẹ nó mà ngoạm
26
cắn bằng tất cả sức lực của sự căm thù…Thế là, bằng sự trải nghiệm của một
tuổi thơ cay đắng, tủi nhục, chị đã tin và xót thương người đàn bà bằng tất cả nỗi
đau của quá khứ dồn cộng lại. Chị nghĩ về bi kịch cuộc đời mẹ chị, nỗi thống
khổ của người nữ phạm nhân kia…Phải chăng họ đã bị hoàn cảnh phũ phàng xô
đẩy để phải ngụp lặn trong nỗi tủi nhục, ê chề nhất của kiếp sống con người.
Đoàn Lê đã viết về bi kịch cuộc đời những người đàn bà dưới đáy bằng tất cả sự
cảm thông, sót xa của người đồng giới. Bởi thế những trang văn kể về bi kịch
cuộc đời những người đàn bà ở xóm liều thật xúc động, thấm thía.
Cũng một giọng văn chứa chan niềm trắc ẩn ấy, Đoàn Lê viết về kiếp
sống của những cô gái giang hồ, những cô gái bị hoàn cảnh xô đẩy phải bán thân
ở Con bướm nhựa cánh xanh thật xót xa. Họ đều là những cô gái trẻ trung, xinh
tươi bị vòng xoáy cuộc đời cuốn trôi đến xóm biển này để làm món đồ chơi cho
đám khách ham “của lạ”. Bản thân họ có thể chưa đủ ý thức về sự hủy diệt ghê
gớm từ công việc mà họ đang dấn thân và đã vô tình đặt tính mạng vào tay tử
thần. Vì thế hầu hết các cô gái giang hồ đều có chung một kết cục bi thảm: hoặc
chết mất xác như Tiểu Anh- một cô bé con mới mười bốn tuổi, hoặc nhận lấy
căn bệnh thế kỷ như Thúy. Nhân vật “tôi” người chứng kiến cuộc đời của những
cô gái giang hồ thấy “lòng mình quặn thắt run rẩy, đôi chân như không thể cất
lên nổi”. Đó là sự cảm thương của những người đồng giới trước bi kịch bất hạnh
của những cô gái trẻ bị hoàn cảnh vùi dập đến phũ phàng. Cái chết của họ chính
là hồi chuông cảnh tỉnh với những cô gái trẻ vì lý do này hay lý do khác mà phải
dấn thân vào cuộc đời cát bụi.
Bi kịch của người phụ nữ giữa vòng xoáy của nền kinh tế thị trường được
Đoàn Lê cảm nhận bằng tất cả niềm trắc ẩn của một trái tim phụ nữ giầu yêu
thương. Vì thế những trang viết của bà về bi kịch cuộc đời họ không chỉ chân
thực làm xúc động lòng người mà còn có sức ám ảnh ghê gớm. Vẫn là những đề
tài muôn thủa, nhưng Đoàn Lê đã mạnh dạn lách bút vào bề sau, chiều sâu, mặt
trái của nền kinh tế mở để phơi bày chân thực, sống động hậu quả mà nó gây ra.
Tất nhiên viết về những mặt tiêu cực của xã hội, rất nhiều cây bút trước Đoàn Lê
đã từng đề cập đến nhưng Đoàn Lê không đi thẳng trực tiếp vào những vấn đề
ấy mà thông qua bi kịch của những số phận cụ thể. Dẫu vậy ý nghĩa hiện thực
của những tác phẩm ấy vẫn rất sâu sắc và thấm thía làm nhức nhối lòng người.
27
3.1.2.2. Bi kịch tình yêu.
Tình yêu là đề tài muôn thủa trong văn học. Thời kỳ đổi mới, nhất là đối
với các cây bút nữ, tình yêu với muôn vàn cung bậc đã được các nhà văn tái hiện
hết sức sinh động dưới cảm quan tinh tế, sâu sắc cũng như cách lý giải riêng của
mình.. Đề tài này cũng được trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Đoàn Lê.
Ái tình giống như một thứ gia vị mà không thể không có trong hạnh phúc
của mỗi đời người nhưng nó cũng là căn nguyên của những tấn bi kịch. Tình yêu
trong sáng tác của Đoàn Lê có nhiều cunng bậc, sắc thái khác nhau: Có tình yêu
đơn phương vô vọng (Dấu hỏi gửi thượng đế, Tình Guột); có tình yêu tan vỡ
chia lìa ( Na ơi); có tình yêu chung thủy thầm lặng (Oan hồn ngõ đá dốc, Chờ
nhật thực, Đêm ngâu vào.), Có tình yêu nông nàn say đắm đến si mê điên dại
nhưng chỉ thoáng chốc, thoảng qua (Trăng đường, Giao cảm cuối cùng)..
.Nhưng dù ở cung bậc sắc thái nào thì trong sáng tác của Đoàn Lê tất cả những
câu chuyện tình ấy đều có chung một sắc thái bi kịch.
Tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê mang rất nhiều cung bậc. Mỗi cung
bậc đều được nhà văn thể hiện đến tận cùng. Nếu đã yêu là yêu hết mình, suốt
đời chung thuỷ với mối tình ấy, chết rồi vẫn yêu, vẫn mong được chăm sóc bảo
vệ người mình yêu. Đó là một tình yêu thánh thiện, yêu bằng cả tấm lòng mà
không đòi hỏi phải đền đáp. Vì thế mà rơi vào bi kịch. Ấy là tình yêu của lão
Guột trong Tình Guột. Lão Guột không có may mắn được thượng đế ban phát
cho một hình hài đầy đủ, ưa nhìn như người ta. Lão chỉ có một con mắt sáng, đôi
chân vòng kiềng đi khuỳnh khuỳnh…Đổi lại, lão có một tâm hồn trong sáng, có
một tình yêu thánh thiện. Tình yêu ấy lão dành cả cho cô Thảo- con chủ nhà
kém lão mười tuổi mà lão được giao nhiệm vụ trông nom, chăm sóc để ông bà
chủ lo buôn bán. Lão đã yêu cô Thảo bằng tất cả mọi thứ tình yêu trên thế gian
cộng lại: tình anh em, tình cha con, tình bạn bè, tình đôi lứa… lão coi việc che
chở, bảo vệ cô là thiên chức thiêng liêng của mình. Thậm chí khi vô tình để cô
khóc, lão liền bị ông bà chủ đánh đòn, lão còn lấy làm hạnh phúc và mong được
thường xuyên bị đánh để được cô dỗ dành, an ủi, vỗ về. Vì thế cô Thảo chính là
niềm vui là mục đích sống của cuộc đời lão. Năm cô lấy con ông Phán ngoài
tỉnh, dù đau đớn đến tan nát cả cõi lòng, lão vẫn cầu chúc cho cô có được hạnh
phúc. Lão biết mình không xứng với cô và cũng chưa bao giờ dám mơ mình có
thể sánh duyên cùng cô Thảo mà chỉ mong được gần gũi che chở, bảo vệ cho cô. 28
Từ khi cô Thảo theo chồng ra tỉnh lão sống lầm lũi như cái bóng, lặng lẽ dõi
theo cô. Lão đau đớn thẫn thờ như đứt từng khúc ruột khi biết cô bị hành hạ, rồi
bị bỏ rơi khi cô ốm đau bệnh tật. Một hôm lão trốn nhà lên thành phố, tìm đến
nhà thương thăm cô Thảo, lão phải nói dối là ông bà chủ cử ra để cô an lòng.
Nhìn dáng hình tiều tụy của cô, lão xót xa nuốt thầm những giọt nước mắt, rồi
cô ra đi nhẹ nhàng thanh thản trên tay lão Guột. Từ đó lão nguyện gần gũi, che
chở, bảo vệ để cô yên lòng an nghỉ. Sau nghĩa cử cao đẹp của cô Thảo: nguyện
hiến mình cho y học, lão Guột đã tìm mọi cách trở thành người bảo vệ chăm
chút cho những mẫu tiêu bản của trường đại học Y khoa nơi cô Thảo hiến mình.
Lão chăm chút cho cô như người mẹ hiền chăm chút đứa con thơ, Lão hầu như
không cho ai động đến mẫu ấy.
Một ngày kia lão nhìn thấy con bé Mận - con vợ chồng người bán hàng
nước ở cổng trường, giống cô Thảo như đúc, Lão thấy mình như được tái sinh,
sống cuộc đời thứ hai. Lão chăm chút con bé, yêu thương nó bằng tất cả tình yêu
thương đã dành cho cô Thảo. Có bao nhiêu tiền lương giành dụm, lão đều gửi
tiết kiệm cho con bé Mận đến mức cha nó nghi ngờ tư cách của lão khiến lão
suýt mất mạng. Lão nhìn thấy ở nó tất cả những nét gần gũi yêu thương của cô
Thảo ngày nào. Cũng vì thế lão yêu nó bằng tất cả nỗi nhớ nhung khắc khoải về
cô Thảo trong suốt bao nhiêu năm qua. Cũng vì nó mà lão cố gắng sống và thấy
cuộc đời mình có ý nghĩa hơn. Sau trận ốm trở về, thấy mẫu xác của cô Thảo bị
mổ xẻ, lão cảm nhận như có hàng trăm mũi dao đang cắt xẻ thân thể mình, lão
ngã lăn ra đất ngất lịm đi và chẳng bao giờ còn dậy được nữa. Trước khi chết,
lão vẫn muốn nhắn gửi một ước nguyện được gần gũi bảo vệ cô Thảo. Lão đã
hiến thân cho y học để đời đời kiếp kiếp được ở bên cô Thảo.
Đa phần những câu chuyện viết về tình yêu của Đoàn Lê không phải là
những câu chuyện tình lãng mạn, lâm ly với những kết thúc có hậu. Truyện viết
về tình yêu của Đoàn Lê có triết lý sâu sắc để lại những dư vị sâu xa cho lòng
người. Tình yêu của lão Guột gần như tình yêu của một vị thánh: yêu hết mình,
yêu hết lòng, yêu hết kiếp này sang kiếp khác, một tình yêu cao thượng bao
dung đến hỷ sả. Nếu cuộc đời này ai cũng có được tình yêu như tình yêu của lão
Guột thì trái đất sẽ bớt đi nỗi khổ đau của kiếp người. Nhưng vì là tình yêu đơn
phương nên dai dẳng , mãnh liệt và có sắc thái bi kịch bùi ngùi day dứt. Trong
sâu thẳm lòng lão luôn khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu nhưng những 29
mặc cảm về hình hài thân phận khiến lão rơi vào bi kịch. Điều đáng quý ở lão
Guột cũng như nhiều nhân vật khác của Đoàn Lê là: dù rơi vào bi kịch họ vẫn
không hề buông xuôi, phá phách, tha hóa trái lại phẩm chất nhân cách họ vẫn
thật cao thượng xứng đáng là Con Ngƣời.
Cũng một loại bi kịch về sự thiếu hụt hình hài, cô Huệ trong Dấu hỏi gửi
thượng đế rơi vào bi kịch tình yêu đơn phương. Cô có hẳn hai mươi ba người
tình tưởng tượng để đêm đêm vẫn đi về nâng niu, ve vuốt tâm sự cùng cô. Dù là
những cuộc tình tưởng tượng nhưng nó vẫn có đủ sắc thái cung bậc của những
tình yêu lãng mạn. Cô Huệ không có may mắn được thượng đế ban phát cho một
hình hài, nhan sắc hoàn thiện như những cô gái khác, cô vừa nhỏ lại gù. Những
mặc cảm về hình hài khiến cô luôn sống trong âm thầm lặng lẽ: cố không làm
phiền đến ai và cũng không để ai nhìn ngó đến mình, một lối sống rất giản dị,
khiêm tốn. Đó là cái vỏ bọc bề ngoài để ẩn dấu con người thực bên trong. Thực
tế cô là một cô gái có tâm hồn phong phú, có khát vọng tình yêu mãnh liệt, trong
sáng, lành mạnh và vô cùng cao thượng. Cô thường gửi tình yêu ấy qua những
trang nhật ký và những giấc mơ đêm đêm vẫn ru vỗ tâm hồn, xoa dịu những
khát khao yêu đương cháy bỏng nơi sâu thẳm lòng cô. Bằng chứng của những
cuộc tình ấy là những cánh hồng khô nơi những trang nhật ký có những nét chữ
rất ngay ngắn và rất đẹp gửi gắm giấc mộng tình yêu của cô với một người đàn
ông nào đó. Những người đàn ông lướt qua cuộc đời cô Huệ đều là những người
đàn ông lý tưởng, tài hoa: một đạo diễn điện ảnh hết sức phong nhã, một nhà
thơ, một họa sỹ độc thân, một ông trung tướng về hưu, một diễn viên điện
ảnh…Dẫu chưa một lần được nghe lời thổ lộ tiếng nói thổn thức từ một trái tim
yêu nhưng cô Huệ vẫn tưởng tượng đầy đủ những cung bậc sắc độ của một tình
yêu mãnh liệt: có hy vọng phập phồng, có hờn ghen giận dỗi, có đau đớn tủi
hổ…Đó là mối tình tưởng tượng của cô với một diễn viên điện ảnh đóng vai Chí
Phèo trong phim Làng vũ đại ngày ấy khi anh dừng ở hàng cô mua mấy tấm
phong bì. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến lòng cô thổn thức, trái tim cô run rẩy
loạn nhịp. Cô muốn kéo dài mãi cái giây phút được sát gần bên anh, được cảm
nhận hơi ấm từ thân thể cường tráng của anh lan thấm sang cô. Khi anh đi rồi,
“cái giọng trầm êm với tiếng cười nhẹ nhàng cứ khiến lòng em đau thắt”. Và
đêm đó cũng như nhiều đêm khác cô mơ thấy anh trong những giấc mơ thật
nồng cháy, ngọt ngào: “Những người tình đã đến thủ thỉ bên gối nàng cả ngàn 30
những lời âu yếm, không ai gian dối, không ai thô lận vô tình, mọi người đều tìm
cách chiều lòng nàng, nhận sự dâng hiến từ nàng như nhận một ân phước. Đêm
đêm những vòng tay êm ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm đềm…” Rồi một
hôm nào đấy, cô Huệ vô tình bắt gặp một người tình trong mơ của mình sánh
bước với một cô gái xinh đẹp khác, trái tim cô đau thắt, ánh mắt nhìn ngây dại
tuyệt vọng, chưa bao giờ cô thấy mình bị tổn thương đến thế. Cô Huệ vĩnh biệt
mối tình đó trong đớn đau tuyệt vọng.
Bi kịch tình yêu của cô Huệ là bi kịch của một tâm hồn luôn khao khát
yêu đương mà không được thỏa. Đó là chuỗi những khao khát dày vò cô đến
khổ sở, đau đớn. Dĩ nhiên không thể thỏa mãn trong cuộc đời thực, cô tìm cách
giải tỏa trong những giấc mơ. Nhưng giấc mơ vẫn mãi chỉ là giấc mơ, cô Huệ
không sao thoát khỏi những khao khát yêu đương cháy bỏng đang ngày đêm dày
vò cô. Dù đã tự huyễn hoặc mình bằng những cuộc tình tưởng tượng để xoa dịu
sự khô cháy của những năm tháng tuổi xuân cô độc, nhưng thiên chức người phụ
nữ với khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn canh cánh trong lòng cô. Trong một đêm
mưa gió bão bùng, không thể cầm lòng, cô đã bước qua ranh giới của những
phép tắc, luật lệ và cả sự mặc cảm của thân phận để chủ động đến với người đàn
ông cũng có cảnh ngộ như mình mong có một đứa con để ôm ấp, bế bồng, xóa
đi khoảng trống vô tận trong lòng. Nhưng thật là bi thảm, người đàn ông ấy đã
bị những năm tháng quân ngũ cướp đi cái đáng quý nhất của đời người đàn ông,
ông ta đã chẳng thể cho cô Huệ một mụn con. Rút cục cô Huệ vẫn phải sống
trong bi kịch cô đơn đến hết cuộc đời. Nhìn từ mọi góc độ, khát vọng của cô
Huệ là rất chính đáng, rất nhân bản của người phụ nữ từ xưa đến nay. Chỉ tiếc
nó không thể trở thành sự thực trong hoàn cảnh của cô nên mới thành bi kịch.
Quả thực những trang viết của Đoàn Lê về bi kịch cuộc đời cô Huệ là
những trang viết cảm động nhất. Nó được tạo nên từ sự rung động sâu sắc của
một tâm hồn phụ nữ giầu yêu thương với nỗi cô đơn, khao khát của người đồng
giới. Cũng vì cảm thông, yêu mến, trân trọng nên Đoàn Lê mới phát hiện ngợi
ca vẻ đẹp tâm hồn phong phú ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài đầy thiếu hụt của
người phụ nữ kia. Đó là một trái tim chỉ biết yêu thương không đòi hỏi, không
thù hận: “hồn nhiên khao khát được dâng hiến, bao dung, hỷ xả đến mức thánh
thiện”. Nó không bao giờ bị mặc cảm dung tục làm vấy bẩn. Đó chính là ước ao
31
vươn tới một tình yêu cao đẹp đạt đến mức thánh thiện của nhà văn và của con
người ở mọi thời đại.
Là người phụ nữ đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều nỗi chuân chuyên
trong cuộc sống, Đoàn Lê rất nâng niu những giá trị đích thực của tình yêu. Bà
luôn trân trọng những khoảnh khắc yêu chân thành và cũng đau đớn, xót xa cho
những mối tình đẹp bị chia lìa tan vỡ. Qua những bi kịch tình yêu tan vỡ ấy, nhà
văn như muốn gửi đến mọi người nhất là thế hệ trẻ- những người đã yêu, đang
yêu và sẽ yêu bức thông điệp: hãy mạnh dạn đón nhận tình yêu khi nó đến, hãy
sống hết mình vì tình yêu, hãy bao dung độ lượng, đừng vì chút tự ái cá nhân mà
vuột mất tình yêu để suốt đời phải sống trong sự hối tiếc.
Tình yêu luôn là khát khao tuyệt đích: khát khao được khám phá, chiếm
lĩnh tâm hồn người mình yêu, cả khao khát được che chở bảo vệ cho người mình
yêu. Tình yêu cũng luôn đòi hỏi sự tuyệt đối, duy nhất, trọn vẹn, nó không chấp
nhận sự chia sẻ cho dẫu ở hình thức nào. Nếu phá vỡ nguyên tắc đó, tình yêu sẽ
rơi vào bi kịch của sự đổ vỡ chia ly. Tình yêu của một anh cán bộ khoa học và
một cô diễn viên nhà hát ở “Na ơi” là một tình yêu như thế. Họ đã yêu nhau
bằng tất cả sự rung động bỏng cháy của một tình yêu đầu đời khờ dại và sự bồng
bột nhiều tự ái của tuổi trẻ. Bất chấp giông bão từ phía hai gia đình, anh vẫn nói:
“Cho dù tôi phải lên giàn thiêu, tôi vẫn không thôi yêu em, Na ơi”. Tưởng rằng
tình yêu mãnh liệt ấy sẽ giúp họ vượt qua mọi sóng gió để cập bến bờ hạnh
phúc. Nhưng thật bất ngờ, chỉ vì một phút tự ái, họ đã vĩnh viễn mất nhau. Anh
không chấp nhận được việc người yêu của mình có tì vết, cho dẫu đó là “tai nạn
nghề nghiệp” ngoài ý muốn. Trong một phút giây không thể kiềm chế được
mình, anh đã buông lời trách cứ phũ phàng khiến cô bị tổn thương ghê gớm. Thế
là không một lời xin lỗi, giải thích, họ đã mãi mãi xa nhau để lại một nỗi đau,
một khoảng trống, một nỗi khắc khoải day dứt ân hận không gì khỏa lấp nổi.
Sau hai mươi năm, họ tình cờ gặp nhau khi cả hai đã có tổ ấm đủ đầy, chỉ
có điều cuộc sống riêng của cả hai người đều không được hạnh phúc lắm. Chị có
một con gái và gia đình bao phen đứng trước sóng gió của sự tan vỡ. Anh có hai
con trai và một bà vợ đau yếu, ghen tuông. Cuộc gặp gỡ ấy khiến những xúc
cảm dồn nén trong hai mươi năm cùng lúc xối xả tràn về, họ cùng hối tiếc đã để
mất nhau. Khi muốn khỏa lấp những trống trải của hai mươi năm thì một trong
hai người đã không còn trên cõi đời này nữa, để lại nỗi đau và sự luyến tiếc đến 32
ngẩn ngơ cho người còn sống… Bi kịch của họ là bi kịch của một tình yêu tan
vỡ, chia lìa do sự tự trọng quá cao, do đặt cái tôi lên trên mọi thứ. Dĩ nhiên tự
trọng là phẩm chất đáng quý của con người, song trong tình yêu, nhất là khi đã
yêu hết mình thì vẫn cần sự bao dung, độ lượng để dung nạp cả những khuyết
điểm của người kia. Có như thế tình yêu mới không rơi vào bi kịch và những
người yêu nhau mới không phải hối tiếc, không bị những day dứt dày vò đến hết
cuộc đời. Bao dung độ lượng, hết lòng vì người mình yêu phải chăng là những
thông điệp tình yêu mà Đoàn Lê muốn gửi gắm qua mỗi trang viết của mình.
Trong tình yêu, bên cạnh phẩm chất bao dung độ lượng vẫn rất cần một
sự mạnh bạo, dứt khoát, quyết đoán giành lấy tình yêu để suốt đời khỏi phải hối
tiếc vì sự rụt dè không quyết đoán mà để mất nhau. Đó là bi kịch của “tôi” và
“nàng” ở “Đêm ngâu vào”. Anh đã yêu nàng bằng tất cả sự đam mê, tôn thờ,
ngưỡng mộ. Nàng đáp lại tình yêu ấy bằng sự rụt rè, kín đáo. Cũng vì sự thiếu
quyết đoán của anh mà anh đã vĩnh viễn mất nàng. Dù trong thâm tâm cả ngàn
lời anh đã nói: “Anh sinh ra là để cho em. Ngược lại, em sinh ra là để cho anh,
Nếu không có em anh không thể sống được”. Vậy mà đến giây phút quyết định
anh lại không chứng minh được tình yêu mãnh liệt của mình. Chỉ trong một giây
phút do dự anh đã vuột mất nàng để suốt đời không hết ân hận, suốt đời chết
chìm trong sự hối tiếc. Lẽ ra trong giây phút quan trọng ấy, anh phải có hành
động quyết định, anh phải mạnh bạo hơn, quyết đoán hơn thì suốt đời đã chẳng
phải khổ sở đến thế... Giờ đây sau gần hai mươi năm đã trôi qua, những giây
phút gặp nàng vẫn khiến lòng anh thổn thức, bồi hồi. Anh yêu những đứa con
của nàng bằng tất cả tình yêu với mẹ của chúng để tìm thấy ở chúng sức mạnh
huyền diệu của nàng. Sau khi đã vĩnh viễn mất nàng, anh vẫn thầm cám ơn số
phận đã xếp đặt cho anh được sống trong căn nhà của mẹ nàng. Ở đó anh được
lặng lẽ hít thở những gì là nàng: đôi guốc cũ nàng bỏ lại một lần về thăm nhà, vỉ
thuốc nàng dùng dở, cái quạt giấy có chữ nàng ghi, chiếc khăn tay phơi trên
dây… Cả đời anh đã sống trong những ký ức về nàng, trong mỗi bức tranh anh
vẽ đều có hình bóng của nàng: nàng là chiếc cốc thủy tinh đầy nước trong suốt,
là cái cây non cô đơn trên con đường mòn hun hút, là một vệt nắng hoe giữa
vườn cây… Và lúc này đây khi căn bệnh ung thư quái ác đang dần cướp nàng
khỏi cõi đời này, anh thấy mình như đang chết dần chết mòn. Anh biết cái chết
của nàng cũng là cái chết của anh. Anh lặng lẽ phác họa nàng những ngày cuối 33
trong nỗi đau thầm lặng… Vậy đấy chỉ vì một giây phút lưỡng lự thiếu quyết
đoán mà cả anh và nàng đã phải sống trong nỗi hối tiếc dày vò đến hết cuộc đời.
Bi kịch của đời họ là bi kịch của một tình yêu lỡ dở nên suốt đời khắc khoải
không nguôi.
Những bi kịch tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê thật phong phú:
không chỉ có sự khắc khoải của tình yêu đơn phương, sự hối tiếc vì để lỡ một
tình yêu đẹp mà còn có cả sự day dứt ám ảnh bởi định mệnh mà không dám đón
nhận tình yêu…Đó là cảnh ngộ của đôi trẻ ở “Oan hồn ngõ đá dốc”. Có lẽ trên
đời này khó mà tìm được tình yêu nào tha thiết sâu nặng như tình yêu của Tú và
Thơ. Tình yêu của họ được xây đắp trên cơ sở một ký ức tuổi thơ đầy ăm ắp
những kỷ niệm. Cả hai đứa đều là trẻ mồ côi: tú mồ côi mẹ ở với cha, còn Thơ
mồ côi mẹ, bố đi lấy vợ lẽ, Thơ ở với bà ngoại. Thủa nhỏ hai đứa quấn quýt
nhau như chị em ruột (vì Thơ hơn Tú một tuổi). Rồi hai đứa cùng lớn lên bên
nhau, tình cảm của chúng ngày càng thân thiết. Khi Tú thành một chàng trai
lừng lững, Tú đã âm thầm yêu Thơ bằng tất cả sự mãnh liệt của một chàng trai
vùng biển. Nhưng thật là bi kịch, ngay cả khi Tú đã chấp nhận tất cả, yêu Thơ
bằng một tình yêu chân thành, bao dung độ lượng thì Thơ lại không dám chấp
nhận tình yêu ấy. Thực tế Thơ rất yêu Tú, rất cảm động trước tình cảm mà Tú đã
dành cho cô, nhưng cô luôn bị ám ảnh bởi định mệnh cuộc đời mẹ cô. Mẹ cô
cũng một thời vì hơn tuổi bố mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh cô. Và giờ đây nỗi
đau khổ của mẹ đã thành nỗi ám ảnh án ngữ tình yêu của cô. Hơn nữa giờ cô lại
trót dở dang, cô không muốn làm liên lụy đến người mình yêu nên quyết chống
chọi một mình. Cô chỉ mong Tú có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Nhưng
thật là chớ trêu, oan nghiệt, hình ảnh cô đã ngự trị cả tâm hồn và trái tim Tú, anh
không thể nghĩ đến ai ngoài cô. Sau lần sảy thai “thập tử nhất sinh”, Thơ đã thấu
hiểu được tấm lòng của Tú. Cả hai đều nhận ra rằng họ sẽ không thể sống được
nếu thiếu nhau. Tú quyết không để Thơ và mình sống riêng rẽ nữa. Tú định sau
chuyến ra biển lần này sẽ cưới Thơ. Nhưng giống như một định mệnh oan
nghiệt, có ai ngờ chuyến ra biển ấy Tú mãi mãi không trở về nữa. Nghe tin dữ,
Thơ lại đột quỵ lần thứ hai. Lần này nỗi đau quá lớn đã giết chết toàn bộ phần
tâm hồn, ý thức của cô. Cô trở thành một người đàn bà ngẩn ngơ, ngây dại với
dáng hình gầy gò, thất thểu, suốt ngày tha thẩn ngoài bãi đá, âm thầm lặng lẽ
ngóng ra biển như chờ đợi ai…Chính định mệnh cuộc đời, những bóng ma của 34
quá khứ, những ám ảnh của số phận đã giết chết hai con người. Tình yêu của họ
giống như một cuộc rượt đuổi, gần đấy mà như xa vời: yêu mà không dám đón
nhận, khi quyết định đón nhận, gắn bó thì người yêu lại không còn, để laị nỗi
đau đớn đến ngây dại cho người còn sống. Bi kịch tình yêu của họ chính là hồi
chuông cảnh tỉnh với những ai còn do dự trước hạnh phúc.
Trong chuỗi những bi kịch tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê còn có
loại bi kịch dành cho tình yêu sét đánh do sự sắp đặt của định mệnh. Đó là tình
yêu cuồng si đến mê dại của một nhà văn với một nữ họa sỹ ở “Đường trăng”.
Họ đã tình cờ gặp nhau trong một Hội nghị Văn hóa và như một sự sắp đặt của
định mệnh, của số phận, cả hai đều có nốt ruồi giống như đặt khuôn trên mu bàn
tay phải. Sau sự ngẫu nhiên tình cờ ấy, họ bị hút vào nhau như hai cực của một
nam châm. Rồi bất chấp hoàn cảnh, anh đã lặn lội cả ngàn cây số đi tìm cô trong
những ngày tháng sáu trời nắng đổ lửa. Và chỉ đủ thời gian trao cô nụ hôn cháy
bỏng, anh phải vội vã theo đoàn trở về. Thời gian xa cách với người đang yêu
thật khủng khiếp, sau bao ngày mong nhớ, họ đã có ba ngày dành trọn vẹn cho
nhau. Ba ngày nhưng họ đã yêu bằng tình yêu, nỗi nhớ thương của cả một đời.
Ba ngày ấy thời gian được tình bằng giây, bằng khắc. Vì thế ngay cả khi kề sát
bên nhau, tận hưởng hạnh phúc ngọt ngào, họ vẫn không bớt đi được nỗi khao
khát, mong nhớ cháy bỏng của những ngày tháng xa cách Thậm chí nỗi khao
khát nhớ thương như đầy thêm, chứa chất, không hề vơi đi sau những khoảnh
khắc chung sống. Sau khoảng thời gian chờ đợi đến cháy lòng, tình yêu của họ
được tính bằng đơn vị bỏng cháy của con tim. Nó mãnh liệt, đắm say nhưng
cũng hối hả, vội vã, họ đã sống cho nhau đến tận cùng để mãi mãi xa nhau.
Hoàn cảnh chớ trêu đã không cho phép họ kéo dài mối tình ấy, anh đã có gia
đình, có con trai. Vì thế, sau ba ngày sống trọn vẹn cho nhau, tận hưởng hạnh
phúc của một đời người, cô đã quyết định chấm dứt mối tình vô vọng ấy, cho
dẫu sẽ đau khổ đến tận cùng.
Nhìn chung những tác phẩm viết về tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê
đều có sắc thái bi kịch. Nạn nhân của những tấn bi kịch này hầu hết là phụ nữ,
họ thường bị tổn thương nhiều hơn, và trái tim cũng da diết, khắc khoải hơn.
Trong mỗi nhân vật nữ, dường như đều có dáng dấp tình yêu của chính tác giả.
Vì thế, nỗi đau tinh thần của họ thường chân thực gợi sự đồng cảm cho lòng
người. Dẫu biết yêu là sẽ thương nhớ, khổ đau nhưng họ vẫn nguyện được sống 35
và chết cho tình yêu của mình. Và tình yêu nhiều khi là cứu cánh, là động lực
thúc đẩy họ, nâng đỡ tâm hồn họ trong cuộc sống. Qua những câu chuyện tình
ấy nhà văn như muốn gửi gắm những thông điệp tình yêu: hãy cứ chân thành
mạnh dạn thổ lộ lời yêu, và hãy chân thành rất mực với lòng mình. Tình yêu
không dành riêng cho một người nào, đối tượng nào mà dành cho tất cả mọi
người. Bạn hãy thử tưởng tượng xem cuộc sống của mọi người trên trái đất này
sẽ buồn tẻ biết bao nếu thiếu đi tình yêu. Bởi vậy cho dẫu là tình yêu đơn
phương, tình yêu sét đánh hay tình yêu tan vỡ chia lìa thì những nhân vật của
Đoàn Lê vẫn khao khát được yêu và cả đời sống với tình yêu ấy. Điều đó làm
nên nét phong cách đặc biệt của Đoàn Lê góp phần làm phong phú một chủ đề
quan trọng của văn học đương đại.
Trong truyện ngắn Đoàn Lê, bên cạnh bi kịch tình yêu Đoàn Lê còn đề
cập đến một loại bi kịch nữa khá phổ biến trong các gia đình Việt Nam hiện đại
đó là bi kịch hôn nhân gia đình.
3.1.2.3 Bi kịch hôn nhân gia đình.
Xã hội càng hiện đại đời sống vật chất càng đủ đầy, thừa thãi, người ta
càng chú ý nhiều hơn đến cái tôi cá nhân, nhất là những nhu cầu giao lưu trao
đổi tâm tình. Điều đó khiến không gian gia đình trở nên quá tù túng chật chội,
không đủ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi thành viên.
Vì thế họ thường tìm đến một không gian khác rộng dãi thoáng đãng hơn, ấy là
không gian xã hội với những cuộc du hý, dã ngoại. Được giao lưu, mở rộng tâm
hồn, mở rộng tầm hiểu biết là mong muốn của tất cả mọi người, nhưng quá
phóng túng, mải mê theo đuổi những đam mê dục vọng ích kỷ của bản thân mà
lãng quên trách nhiệm với gia đình thì thật đáng sợ. Tổ ấm gia đình vốn là cái
nôi bảo tồn gìn giữ tất cả những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hiến một
dân tộc. Bởi thế đã là một gia đình được pháp luật thừa nhận thì các thành viên
trong gia đình đều phải nỗ lực bảo vệ và gìn giữ nó. Không nên đặt lợi ích cá
nhân mình lên quá cao mà bất chấp tất cả. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu của
con người ngày càng cao kéo theo ngày càng nhiều những mâu thuẫn bất đồng
trong gia đình. Sau một thời gian chung sống một trong hai người bỗng nhận ra
rất nhiều khuyết điểm ở nửa kia của mình- điều mà trước đây khi yêu, họ không
hề nhìn thấy. Lại thêm trong quá trình giao tiếp ngoài gia đình, họ lại phát hiện
rất nhiều điểm tốt, điểm đáng yêu của người khác-người giúp khỏa lấp những 36
trống trải tâm hồn họ- điều mà họ không thể tìm thấy ở người bạn đời của mình.
Đó chính là nguyên nhân gây nên sự đổ vỡ của những cuộc hôn nhân. Ngoài ra
mâu thuẫn giữa lối sống của các thế hệ sống chung khác nhau về quan điểm
cũng là một bi kịch. Vấn đề này được các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận
như một vấn đề bức xúc của xã hội. Họ đã dùng tác phẩm của mình như một
cách để chia sẻ với xã hội những vấn đề đó. Vì thế vấn đề gia đình hiện đại trở
thành một đề tài lớn trong văn học thời kỳ đổi mới.
Là một người phụ nữ đã từng trải qua rất nhiều giông bão trong cuộc sống
gia đình, Đoàn Lê thấu hiểu hơn ai hết những bi kịch gia đình hiện đại. Kết thúc
của những bi kịch gia đình, người luôn nhận lấy những đau khổ thiệt thòi chính
là người phụ nữ. Họ thường không có cách gì gượng dậy được sau sự mất mát
quá lớn ấy. Bởi với người phụ nữ ngay cả trong xã hội hiện đại thì gia đình là tất
cả. Họ đã dành trọn niềm tin, sự tận tụy cho gia đình, gia đình là điểm tựa nâng
đỡ cuộc đời họ. Bởi vậy với họ mất gia đình là mất tất cả. Đó là bi kịch cuộc đời
nhân vật “Hồn ma thiếu nữ” ở “Trái táo nham nhở”. “Hồn ma thiếu nữ” là nhân
vật duy nhất trong cuộc đời diễn viên mà chị thủ vai năm 17 tuổi, rồi chuyển
sang làm người nhắc vở cho đoàn. Cũng dạo đó chị đã quen và yêu anh – diễn
viên nam số một của đoàn - người tiếng tăm nổi như cồn. Vì thế chị chỉ vụng
trộm yêu anh bằng tất cả sự tôn thờ. Với chị anh quá cao vời kiểu như một thần
tượng nên chị chỉ dám nhìn lén và âm thầm tương tư anh. Nhưng khi anh đứng
sát màn nhung, chị không thể ngăn được mình khẽ áp nhẹ cánh tay vào thân thể
anh, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ biến chị thành miếng bọt biển thấm đầm hơi thở,
tiếng nói của con người mà chị khao khát. Chị cứ lẳng lặng yêu anh như thế và
không bao giờ dám mơ tưởng một ngày nào đó anh sẽ thuộc về chị. Thế mà một
điều tưởng không thể xảy ra ấy lại diễn ra. Sau khi cưới nhau, cả anh và chị đều
rời bỏ sân khấu: chị chọn một công việc thích hợp với mình, anh chuyển sang
nghề sáng tác kịch. Họ đã sống chung được hai mươi năm, suốt hai mươi năm
ấy, chị đã yêu anh bằng tất cả sự tận tụy, trung thành mà không một lời kêu ca
oán thán. Chị quan tâm chăm sóc anh bằng tất cả tình yêu với thần tượng, nhưng
lại luôn có cảm giác chưa lúc nào vươn tới anh, nắm giữ được anh. Với chị, anh
cao vời quá nên chị luôn sống trong sự phấp phỏng lo sợ, luôn thiếu tự tin vào
bản thân mình và luôn nhạy cảm với bất kỳ điều gì liên quan đến hạnh phúc. Chị
luôn kiềm chế mình, chiều chuộng anh hết mức, đông viên anh đi thực tế mỗi 37
khi thấy vẻ thẫn thờ âm thầm hiện rõ trên gương mặt anh. Sau những chuyến đi
thực tế trở về, anh đối xử với chị dịu dàng hơn, đằm thắm hơn đến mức chị thấy
xao xuyến, ngỡ ngàng. Vậy mà chị vẫn không mảy may nghi nghờ, vẫn cúc
cung tận tụy, vẫn bớt xén các khoản chi tiêu, thậm chí vay mượn tiền để anh đi
thực tế giải tỏa những ức chế trong lòng. Những lúc anh xa nhà chị mất ngủ từng
đêm, thao thức, nhớ mong chờ đợi ngày anh trở về, tôn thờ tất cả những gì thuộc
về anh. Cũng có lúc chị ao ước được sống cuộc sống của vợ chồng người thuyền
chài, quanh năm cùng nhau trên mặt nước với chiếc thuyền nhỏ, không biết đến
nhớ mong chờ đợi là gì. Một điều tưởng chừng đơn giản thế mà chị cũng không
thể có được.
Sau một lần đi thực tế Lai Châu anh mang về không phải là những tấm
ảnh chụp sông núi mà một tấm ảnh chụp bãi biển với những phiến đá kín đáo
hòa với cảnh hoàng hôn mờ nhạt trên những ngọn sóng cồn cào. Nhất là khi gặp
ánh mắt anh đăm đắm nhìn như lạc hút vào góc biển hoang vu, chị linh cảm thấy
một điều gì khác thường ở anh. Nhưng chị cũng không dám hỏi, chỉ lặng lẽ tìm
cách thủ tiêu tấm ảnh đó. Bao lần đi đường thấy anh mải ngắm một tấm lưng
thon thả trước mặt hoặc lẽo đẽo theo vết bánh xe của chiếc áo hồng duyên dáng,
chị không nổi trận lôi đình giận dỗi mà chỉ tìm cách tách anh ra khỏi họ. Không
phải là chị không biết ghen, thậm chí chị còn ghen dữ dội nhưng không muốn để
anh mất mặt.
Một lần khác khi vợ chồng chị đón một người bạn – nữ tác giả đang nổi
tiếng ở miền Trung, chị ta nói giọng Huế nhẹ nhàng thỏ thẻ. Trong bốn ngày chị
ở lại nhà “ánh mắt đắm say tôn thờ của anh ấy hướng về chị ta mỗi lúc càng rực
lên anh ngồi như bị thôn niên trước chị”. Bắt gặp chồng trong trạng thái ấy, tim
chị nhói đau, buốt sót. Nằm bên anh chị không dám trở mình, chỉ âm thầm lặng
lẽ khóc. Đó là những giọt nước mắt ghen tuông tủi hờn bởi ngay cả hồi chưa
cưới nhau chị cũng chẳng được anh nhìn ngắm nồng nàn đắm say đến vậy.
Nhưng chị vẫn âm thầm chịu đựng, chị đã quá yêu anh nên đã tìm mọi cách che
chắn cho cái tổ ấm quá lỏng lẻo của mình. Chị sợ một sự đổ vỡ, sợ mất anh như
sợ mất một báu vật. Dường như chị đã yêu anh một cách điên cuồng mù quáng,
luôn muốn giữ anh cho riêng mình mà không hề biết anh cần gì, nghĩ gì, trái tim
anh đang thổn thức vì ai? Chị yêu anh gần như tình yêu của một con chiên với
chúa. Nói đúng hơn đó là thứ nô lệ của tình yêu. Chị tránh cho anh mọi sự va 38
đập với cuộc sống, sẵn sàng vắt kiệt sức mình để tạo cho anh những niềm vui.
Nhưng dường như sự tận tụy, hy sinh của chị cũng chẳng khiến anh thỏa lòng.
Suốt ngày anh ngậm tăm tư lự, chán ngồi lỳ bên bàn viết viết lách lách anh lại
xách xe ra đi từ sáng sớm đến tối thật khuya mới về ngủ khi người đã say đứ
đừ… Đó là trạng thái tinh thần của anh khi lâu lâu không đi thực tế do cuộc
sống khó khăn. Nhìn những bứt dứt khổ sở của anh chị thấy khổ tâm vô cùng,
cảm giác mình đã có lỗi gì đó với anh. Hôm sau chị quyết định nhận tăng sáu
chục vải vụn, cắm cúi nhặt suốt đêm, chong đèn đến tận sáng, đến mức kiệt sức
chị ngã lăn ra đất để kiếm tiền cho anh đi thực tế. Để anh vui, chị chấp nhận hy
sinh tất cả, bỏ qua cả sức khỏe,cả tuổi xuân, tận tâm, tận lực vì anh. Nhưng
dường như chị chưa bao giờ thật sự hiểu anh, chị yêu anh, cần anh như cần
không khí để thở. Chính vì tôn thờ anh như tôn thờ một thần tượng, một vị thánh
mà chị sẵn sàng bỏ qua mọi khiếm khuyết, sai lầm ở anh, bỏ qua những ánh mắt
thẫn thờ của anh khi nhìn những người phụ nữ khác. Và vì vậy chị mất luôn sự
tinh tế nhạy cảm của người vợ trước sự đổi thay của chồng. Chị không bao giờ
chất vấn anh sau những chuyến đi thực tế xa nhà, tuyệt đối tin tưởng ở anh. Chị
đón nhận tình cảm của anh như đón nhận sự ban phước lành từ vị chúa của lòng
mình. Vì những lẽ đó bi kịch cuộc đời chị đã xảy ra.
Sau lần thức thâu đêm nhặt vải vụn đến ngã gục để kiếm tiền cho anh đi
thực tế, chị mới chết lịm đi khi đón nhận một sự thực phũ phàng. Nhận lá thư
thú tội của anh, chị thấy choáng váng như tiếng sét rơi xuống đầu. Trong suốt
mấy ngày liền chị khóc lóc, đau đớn, nghi hoặc. Chị đã đọc lá thư hàng trăm lần,
cố tìm những ý nghĩ bên ngoài chữ nghĩa đã thuộc làu. Suốt hai mươi năm, chị
đã tận tụy hi sinh đến điên cuồng cả tuổi xuân và sức trẻ cho anh ta để bị dối trá
lừa lọc. Chị đã bị đánh cắp tình yêu, đánh cắp tuổi xuân và đánh cắp cả đời
người. Những lời lẽ trong bức thư như hàng nghìn mũi kim đâm vào tim chị, chị
đau đớn ngây dại nhưng vẫn cố xoa dịu mình rằng anh ấy bị khủng hoảng tinh
thần, những lời lẽ trong bức thư kia là anh viết trong lúc hoang tưởng tâm thần.
Vài ngày sau khi đã bình tĩnh trở lại, chị ngẫm nghĩ suy xét và hiểu ra rằng anh
ta hoàn toàn lành mạnh, tỉnh táo. Thậm chí khi dám viết những dòng chữ ấy, anh
ta đang sống trong những giây phút thánh thiện, sòng phẳng, tử tế nhất. Sau bao
nhiêu năm sống trong sự lừa dối, sau bao nhiêu năm phải “đeo mặt nạ” tận
39
hưởng tình yêu và cả sự hi sinh điên cuồng của chị, giờ anh ta mới được sống
những giây phút là mình.
Về phía anh ta, chắc hẳn khi phải sống với một người phụ nữ không yêu
cũng khiến anh ta khổ tâm lắm. Cuộc sống ấy đúng là một địa ngục, một sự cầm
tù trói buộc anh và chị suốt hai mươi năm. Thực ra khi đón nhận tình yêu và cả
sự hy sinh tận tụy của chị, lòng anh cũng chẳng nhẹ nhàng sung sướng gì. Đã
bao lần anh tự khinh bỉ mình vì đã đánh cắp tình yêu của chị, anh đã trả thù cái
vòng tù ngục trói buộc của hôn nhân bằng những chuyến đi thực tế để tìm kiếm
bất cứ một người phụ nữ dịu hiền nào có thể sẻ chia những bức bối trong tâm
hồn anh. Sau những chuyến đi ấy, anh không khỏi hối hận, day dứt, thậm chí
ghê tởm mình và càng ý thức được món nợ phải trả cho chị. Anh đã cố sức, bù
đắp cho chị nhưng “cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể
cố gắng yêu”. Anh đã bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối trá, anh không thể tiếp
tục được nữa và tất nhiên điều gì phải đến đã đến như một quy luật tất yếu. Anh
đã mạnh dạn “tháo cũi sổ lồng” dứt khoát lìa xa chi, dẫu hiện thực có tàn nhẫn
với chị nhưng anh còn được xứng đáng là con người, chấm dứt quãng đời gian
dối, tội lỗi để lòng được thanh thản.
Còn chị, sau hai mươi năm chung sống, đây là lần đầu tiên chị bình tĩnh
xét lại mình, đánh gía nhìn nhận đúng về anh từ chân tơ kẽ tóc: “anh tưởng
mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá đắt
bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong muôn vàn những kẻ
tầm thường, một thứ giẻ rách”. Đây là lúc thần tượng sụp đổ, chị đau đớn, sót
xa cho mình, căm giận kẻ đã dối lừa, đã đánh cắp cả tình yêu, cả tuổi xuân của
chị trong ngần ấy năm. Chị quyết định trả thù kẻ bỡn cợt tình yêu của mình bằng
việc thử làm một người đàn bà dịu hiền. Từ trước đến giờ chị chưa dịu hiền
trong mắt anh ta vì chưa có nhu cầu ấy và cũng lầm tưởng rằng anh ta cũng chân
thành như chị. Chị quyết định tìm đến người đàn ông yêu mình từ thủa thiếu nữ,
con người này mới thực sự xứng đáng hưởng sự hy sinh tận tụy của chị. Đến tận
bây giờ mà anh ấy vẫn sống độc thân như muốn níu lấy một hy vọng mong
manh có ngày được chị đền đáp. Chị đã gục vào ngực anh khóc tức tưởi, kể lể
những uất ức của mình và nhận lấy những lời an ủi ở anh. Dẫu đôi mắt anh ngập
đầy sự thương cảm, dẫu thân thể của hai người đang kề tựa nhau chẳng chút giữ
ý thì họ vẫn chỉ như hai kẻ đồng hành bất hạnh nâng đỡ, dắt díu nhau giữa cơn 40
giông bão. Cuộc trả đũa của chị đã kết thúc thê thảm, chị thừa nhận một chân lý
“đúng thế cái gì cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể cố gắng yêu” Chị
đau đớn nhận ra rằng: suốt đời chị sẽ chỉ là một hồn ma thiếu nữ ám ảnh bá tước
Ki-ren-ski về mối hận tình thôi. Dù anh ta chỉ là kẻ tầm thường nhất trong vô
vàn kẻ tầm thường, một thứ giẻ rách, thì chị cũng chưa bao giờ chiếm nổi anh,
chinh phục anh. Sai lầm lớn nhất của cuộc đời chị là đã dùng sức lực, tuổi xuân
của hơn nửa đời người cúc cung phụng sự cho một kẻ không yêu chị, còn người
một lòng chân thành yêu chị thì chị lại không yêu. Đến khi chị nhận ra một sự
thật đau lòng thì hơn một nửa đời người đã trôi qua. Chị đã phải trả một cái giá
quá đắt cho tình yêu mù quáng của mình. Ở cái tuổi của chị không ai người ta
còn nghĩ tới việc sẽ làm lại từ đầu nữa. Chị đã mất tất cả: gia đình, tuổi xuân,
sức lực… Đau đớn hơn nữa là khi chị tự vấn lương tâm, suy xét cho công bằng:
không biết anh đánh cắp cuộc đời chị hay ngược lại chị đã đánh cắp cuộc đời
anh? Phải chăng nhân danh tình yêu, chị đã giam chặt anh, chiếm hữu anh thành
tài sản riêng, tước đoạt của anh tất cả niềm vui sống hồn nhiên nhất?
Ngần ấy căn nguyên đã đủ để phá vỡ một gia đình nhìn bề ngoài bình
lặng, yên ấm chưa? Thiết nghĩ là quá đủ! Đổ vỡ, chia ly bao giờ cũng buồn đau,
tiếc nuối, xót xa. Xã hội hiện đại, nền tảng gia đình bền vững càng cần thiết cho
mỗi người. Đó không chỉ là tổ ấm che mưa, che nắng cho mỗi cuộc đời mà quan
trọng hơn nó còn là điểm tựa để ru vỗ tâm hồn con người mỗi khi gặp sóng gió
trong công việc và cuộc sống. Nhưng xã hội càng văn minh, hiện đại thì con
người càng gặp những vấn đề rắc rối trong hôn nhân. Khi mà chủ nghĩa cá nhân
được đặt ở vị trí quá cao, khi mà những cám dỗ trong cuộc sống ngày càng
nhiều, khi mà tình thương trách nhiệm, sự bao dung, độ lượng, hy sinh vì nhau
ngày càng ít đi thì hôn nhân ngày càng bị đẩy tới bờ vực của sự tan vỡ. Hơn nữa
tình yêu hiện đaị với đầy những toan tính, cùng với sự gặp gỡ chóng vánh dựa
trên sự mua bán, đổi trác cũng là căn nguyên của những cuộc hôn nhân không
bền vững. Từ những căn nguyên đó, Đoàn Lê như muốn gửi đến mỗi chúng ta
những thông điệp về tình yêu, hôn nhân- gia đình. Nền tảng của hôn nhân bền
vững chính là tình yêu chân thành, là sự rung động thật sự từ hai tâm hồn, sẽ
không thể có hạnh phúc thực sự nếu phá vỡ nguyên tắc đó. Bởi vậy khi nào cả
hai đều thấy không thể sống thiếu nhau hãy nghĩ đến hôn nhân, lúc đó tình yêu
sẽ thực sự được chắp cánh, thăng hoa. Và khi đã quyết định cả đời gắn bó, hãy 41
biết sống vì nhau, biết chịu trách nhiệm, biết hy sinh, chấp nhận cả những điểm
mạnh, điểm yếu, những ưu nhược điểm của nhau để cùng nhau vun đắp cho tổ
ấm của mình ngày càng bền vững. Làm được như thế, xã hội ngày càng bớt đi
những nỗi đau, những bi kịch và cũng sẽ chẳng bao giờ phải hối tiếc, trả giá như
anh và chị. Họ đã giam giữ,cầm cố nhau đến hơn nửa cuộc đời, hơn nửa cuộc
đời sống trong dối lừa mới nhận ra họ đã “yêu nhầm” và chưa bao giờ họ thực
sự là của nhau. Thế là tất cả đều quá muộn, họ không thể bắt đầu lại ở cái tuổi
ấy. Họ đành chấp nhận hạnh phúc của mình là “Trái táo nham nhở”. Dư vị của
sự hối tiếc, sót xa qua những trang viết của Đoàn Lê về bi kịch hôn nhân gia
đình thật thấm thía sâu sắc.
Không chỉ trong vai trò một khách thể quan sát ghi chép lại, Đoàn Lê viết
về bi kịch gia đình bằng tất cả sự trải nghiệm lẫn nỗi đau của một người phụ nữ
đã từng gặp nhiều sóng gió trong cuộc đời riêng. Bởi thế những trang viết của bà
không chỉ có chất sống thực tế mà còn có khả năng gợi những rung động lan tỏa
cho lòng người. Có lẽ vì thế các nhân vật nữ trong những cuộc hôn nhân tan vỡ
của Đoàn Lê luôn là nhân vật “tôi”. Phải chăng họ đều ít nhiều mang bóng dáng
tác giả.
Cuộc sống hôn nhân gia đình vì bất cứ lý do gì mà tan vỡ, dù nguyên
nhân tại ai thì Đoàn Lê vẫn dứt khoát đứng về phía người phụ nữ, đồng cảm sẻ
chia, bênh vực họ. Bởi người chịu tổn thương nhiều hơn, đau đớn dai dẳng hơn
và cũng chịu thiệt thòi nhiều hơn chính là người phụ nữ. Cho dẫu trong xã hội
hiện đại người phụ nữ được giải phóng, họ được tự do tham gia các hoạt động
xã hội, được trong dụng, có vị trí không thua gì người đàn ông ở bất cứ nơi đâu
trong các cơ quan, các tổ chức Đảng phái thì họ vẫn thuộc phái yếu vẫn dễ bị tổn
thương, vẫn chịu thua thiệt mọi bề. Nếu sau mỗi cuộc đổ vỡ chia ly của gia đình
người đàn ông sẽ nhanh chóng tìm được sự khỏa lấp thay thế hoặc họ đã tìm
ngay từ khi còn đang sống chung với người vợ hợp pháp của mình thì người
phụ nữ hầu hết lại ở vậy, chịu sự dày vò của những ký ức buồn thương. Giả định
họ có muốn bắt đầu lại thì cũng khó có thể vượt qua được dư luận với những
định kiến khắt khe nặng nề của xã hội. Với họ những tổn thương nặng nề của
những cuộc hôn nhân trước luôn đeo bám, ám ảnh họ, gây tâm lý sợ sệt mất tự
tin vào bản thân, thiếu niềm tin vào hôn nhân. Nếu có ai đủ bản lĩnh để làm lại
từ đầu thì nửa đời sau của họ cũng chẳng có gì là hạnh phúc. Chị- nhân vật “tôi” 42
(Giường đôi xóm Chùa) đã rơi vào bi kịch như thể. Chị được anh dắt về nhà từ
một đêm huyền hoặc cổ tích. Họ đã nắm tay nhau đi bộ hơn hai mươi cây số từ
địa điểm sơ tán về, rồi anh trao chị cái hôn bỏng cháy bị kìm nén sau bao ngày
tháng… Họ đã có hai mươi tám năm chung sống, hai mươi tám năm tưởng đã
quá dài, quá đủ cho những thử thách vững bền của một cuộc hôn nhân. Giờ họ
đã có con cháu đủ đầy. Ở cái tuổi đã lên ông lên bà ấy, có ai nghĩ rằng họ sẽ chia
tay. Thế mà đùng một cái, sau chuyến đi công tác tình cờ gặp cô ấy, anh đã nói
lời chia tay với chị. “Em thể tất cho anh. Em thuộc con người của những hoạt
động xã hội. Anh lại cần một tình yêu tầm thường thôi, một người để làm vợ
theo nghĩa thông tục nhất”. Một lý do thật vớ vẩn nhưng cũng thật khó mà bào
chữa, bởi đó chính là yếu điểm của chị. Sau giây phút bàng hoàng ấy, chị bình
tĩnh lại, thấy thương anh, thương mình. Sau gần ba mươi năm rã rời vì cuộc
sống mưu sinh, tình cảm của họ đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền không thể
vá víu được nữa, chị chấp nhận giải phóng cho anh. Vì chị biết mọi thứ đều có
thể cố gắng nhưng người ta không thể cố gắng yêu và “một người đàn bà tự
trọng phải biết rút lui đúng lúc”. Biết đâu hai mươi tám năm chung sống với
anh chẳng là một sự lưu đày? Vậy thì chị không thể ích kỷ mà giữ mãi anh bên
mình khi tình yêu của anh không còn nữa. Dù biết rằng chị đã quen có anh như
quen có không khí để thở, có nước để uống, giờ vắng anh chị sẽ rất buồn khổ,
trống trải. Gần ba mươi năm sống bên nhau như hình với bóng, chị quen cả
những lúc hình bóng co kéo vật vã để giữ cho tổ ấm đứng vững trước sóng gió
muôn mặt của cuộc sống đời thường. Ba mươi năm dù vui ít buồn nhiều thì anh
chị cũng sắp đi trọn cuộc đời. Vậy mà trong tích tắc tất cả chấm dứt, tất cả sụp
đổ trong lặng lẽ. Chiếc giường kỷ niệm của hai người giờ đã phải chứa thêm
người thứ ba nên độ bức bối đã chuyển thành giông bão không thể chịu đựng
được. Sau nửa năm cân nhắc chị quyết định chia tay, dù căn bệnh quái ác khiến
chị không còn sống được bao lâu. Phải chăng chị đã quá mệt mỏi, rã rời vì cuộc
sống chung? Hay chị nghĩ mình đã không hoàn thành bổn phận, trách nhiệm của
một người vợ bình thường, không đủ sức “giữ lửa” cho tổ ấm để anh phải tìm
một người phụ nữ khác? Những lý do ấy với chị có lẽ đều đúng cả. Anh và chị
đã để phí quá nhiều thời gian, họ đã bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt sức lực.
Theo năm tháng chung sống, tình yêu của họ không được thường xuyên “làm
mới” nên nhạt phai dần và rơi vào sự nhàm chán. Gần cuối đời cả hai đều mệt 43
mỏi, rệu rã, anh gặp được người phụ nữ có thể xoa dịu những khoảng trống
trong lòng mình. Thế là họ chia tay. Anh đã đánh đổi tất cả, bất chấp tất cả, hủy
hoại tất cả để được sống với người phụ nữ ba con bị chồng bỏ kia. Biết đâu đây
chẳng là một quyết định vội vã, sai lầm nhất cuộc đời anh? Phải chăng anh đã
quá ích kỷ và nhẫn tâm? Từ bi kịch cuộc hôn nhân của anh chị, một cuộc hôn
nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà vẫn tan vỡ, Đoàn Lê muốn gửi đến
chúng ta một thông điệp về hôn nhân hạnh phúc. Hôn nhân hạnh phúc rất cần
được xây dựng trên cơ sở tình yêu. Tình yêu chính là chất keo gắn kết hôn nhân
gia đình. Nhưng tình yêu ấy luôn phải được hai người nuôi dưỡng, vun trồng
cho nảy nở, sinh sôi. Dù cuộc sống mưu sinh có khó khăn khắc nghiệt đến đâu,
mỗi người đều cần cố gắng nuôi dưỡng tình yêu, làm mới tình yêu, thêm gia vị
cho tình yêu để hạnh phúc được bền chặt. Đừng để cuộc sống gia đình thành
nhàm tẻ, buồn chán và thành gánh nặng, thành cái ách trói buộc nhau.
Tình yêu đi liền với tình thương và sự bao dung độ lượng. Yêu nhau là
chấp nhận cả những khiếm khuyết của nhau, cùng sẻ chia mọi niềm vui nỗi buồn
với nhau, giúp nhau hoàn thiện hơn về mọi mặt. Có như thế hạnh phúc gia đình
mới bền chặt. Đó chính là triết lý về tình yêu, hạnh phúc mà Đoàn Lê muốn gửi
đến mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn Ngôi nhà gỗ. Những ngày đầu sống với
nhau, anh và chị đã có một cuộc hôn nhân thật hạnh phúc trong ngôi nhà gỗ ở
quê anh. Họ đã có quãng đời bên nhau thật êm đềm , hạnh phúc. Thế rồi đùng
một cái, anh đi vắng một mạch gần hai tháng không về. Chị cũng chẳng biết anh
đang mải lang thang ở đình chùa nào, sơn cùng thủy tận ở đâu. Anh cũng như
công tác nghiên cứu Hán- Nôm của anh- cả hai với chị đều bí hiểm như những
con chữ tượng hình, vạch ngang vạch dọc, mê đồ, bát quái. Còn chị, chị chúi
đầu vào sơn màu, bút vẽ, làm tranh, vẽ bưu thiếp. Có lẽ chưa bao giờ họ thực sự
hiểu nhau, sẻ chia công việc với nhau. Chị nhận ra cuộc sống của hai người
giống như hai mảnh vỏ tầu ghép khập khiễng, người ta phát hiện điều đó giữa
lúc con tàu đang lênh đênh giữa biển. Và tất yếu chỉ cần một cơn bão nhỏ là con
tàu đã vỡ tan hoang mỗi mảnh mỗi nơi. Anh thường xuyên chia sẻ công việc với
cô bạn cơ quan, còn chị cũng hay vơ vẩn nghĩ đến anh họa sỹ độc thân, cận thị
luôn ân cần chăm sóc chị. Khi cả hai không còn là số một, là duy nhất của nhau,
cả hai không còn sức hấp dẫn với nhau thì sự đổ vỡ là điều không thể tránh khỏi.
44
Thế đấy chỉ vì một lý do tưởng đơn giản vu vơ, họ đã chia tay nhau mãi
mãi. Cả hai đều quá ích kỷ, đều quá đề cao chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng
hôn nhân thì sự đổ vỡ là điều không thể tránh. Giá mà họ chịu để thời gian tìm
hiểu nhau, sẻ chia với nhau mọi niềm vui, nỗi buồn trong công việc và cuộc
sống thì họ đã chẳng có một kết thúc đáng buồn như vậy. Kết thúc ấy sẽ đến với
bất cứ gia đình nào không biết quý trọng hôn nhân và coi hôn nhân là trò đùa.
Phải chăng đó chính là thông điệp mà Đoàn Lê muốn gửi gắm đến người đọc
qua mỗi trang viết của mình.
Ngoài bi kịch hôn nhân, trong truyện ngắn của Đoàn Lê còn một loại bi
kịch nữa, đó là bi kịch gia đình. Bi kịch của một bà mẹ có đứa con là kẻ sát nhân
và bi kịch của một bà mẹ có con bị kẻ sát nhân giết hại ở Hai bà mẹ và tôi. Cả
hai bà mẹ đều mang nặng đẻ đau, nuôi con bằng dòng sữa ngọt ngào cùng tất cả
tình yêu thương và sự cặm cụi khó nhọc. Thật là bất hạnh, bà mẹ áo tím đã sinh
ra giống ác quỷ phi nhân tính. Thấy bạn có tiền sau chuyến đi xuất khẩu lao
động ở Đức về, kẻ bất nhân đã rủ rê bạn đến nhà riêng để hạ thủ. Vì món đô la
ấy mà hắn đã ra tay vô cùng dã man, tàn bạo: giết bạn rồi chặt chân, mổ
bụng…Bà mẹ kẻ sát nhân đã đau đớn, khổ sở, vò xé tâm can, không hiểu sao bà
lại sinh ra giống dã man khủng khiếp như vậy. Giá như biết trước lớn lên nó bất
nhân đến vậy, bà đã để nó chết ngay từ khi còn trong trứng nước. Hiện tại lòng
bà đau đớn, xấu hổ hơn cả bà mẹ mất con kia. Tội ác của con bà còn đeo bám,
ám ảnh bà hết kiếp này sang kiếp khác.
Bà mẹ áo trắng có đứa con ngoan bị giết thì đau đớn, căm phẫn. Thằng cả
là đứa con hiếu thảo, có trách nhiệm và là niềm hy vọng của cả gia đình bà.
Trong bốn năm lao động bên Đức, nó không hề chơi bời tiêu phí một xu, cốt
dành dụm chút tiền đỡ bố mẹ chăm lo cho các em và cải thiện cuộc sống gia
đình. Ngờ đâu nó lại bị thằng bạn thân, tối mắt vì tiền, sát hại dã man đến vậy.
Cái chết của nó đã để lại nỗi đau tiếc vô hạn trong lòng những người thân, nhất
là người mẹ đã dứt ruột sinh ra nó.
Bi kịch của hai bà mẹ là bi kịch của hai người phụ nữ cùng chung nỗi đau
mất con. Một người có con là kẻ sát nhân bất lương phải chịu án tử hình cùng
bia miệng của người đời thì đau đớn xấu hổ như muốn chôn vùi cả hình hài. Còn
một người có đứa con ngoan bị giết thì điếng lặng như đứt từng khúc ruột. Hai
bà mẹ, hai cảnh ngộ đối lập nhưng một nỗi đau. Vì đâu có cảnh ngộ oan nghiệt 45
đó? Phải chăng là vì những đồng đô la đầy cám giỗ kia? Đúng, nó chính là thủ
phạm gây ra cái chết của hai mạng người kia, đến ai nữa đây? “Những xác chết
rồi sẽ rữa ra nhưng nó vẫn tồn tại, tồn tại cả nỗi đau đớn của những bà mẹ có
chung dòng sữa ngọt ngào giống nhau”. Những đồng đô la như những bóng ma
vô hình ám ảnh bao người, cướp đi biết bao nhân mạng. Nếu không có những
đồng đô la kia cho dẫu là từ mồ hôi nước mắt thì cậu đã không bị giết. Và ngược
lại nếu không bị những đồng đô la kia cám giỗ, hắn đã không bị tử hình. Bi kịch
của họ là bi kịch chung của rất nhiều gia đình trong xã hội hiện đại khi mà đồng
tiền có sức mạnh vạn năng, có sức công phá hủy hoại ghê gớm cả những nét
nhân bản đáng quý của con người. Kẻ nào không đủ bản lĩnh, không đủ sức
chống đỡ trước sự cám giỗ ghê gớm của đồng tiền, kẻ ấy sẽ bị nó hủy diệt thảm
khốc. Viết về hiện thực nghiệt ngã này, ngòi bút Đoàn Lê không dửng dưng,
lạnh lùng mà chan chứa lòng trắc ẩn. Dù có hai kẻ phải chết vì tiền nhưng kết
thúc tác phẩm, nhà văn vẫn đặt niềm tin, niềm hy vọng vào con người: “Mỗi đứa
trẻ ra đời đều mang theo tin báo chúa đã không tuyệt vọng về con người”.
Nói tóm lại cảm hứng bi kịch trong những sáng tác của Đoàn Lê không
chỉ khiến người đọc có cảm giác sót xa mà còn đặt ra được những vấn đề suy tư
trăn trở làm day dứt lòng người: vấn đề tình yêu, hôn nhân, gia đình trong xã hội
hiện đại.
3.2. Cảm hứng triết luận.
Văn xuôi thời kỳ đổi mới ngày càng xuất hiện nhiều tác phẩm có tính
chất triết luận sâu sắc. Khi các nhà văn ngày càng nghiêng về những đề tài đời
tư, thế sự thì cảm hứng triết luận ngày càng trở thành cảm hứng chủ đạo. Tác
phẩm của các cây bút nữ thời kỳ này cũng không nằm ngoài xu hướng văn học
đó. Truyện của họ ngoài những triết lý về nhân sinh còn xuất hiện xu hướng tự
nghiệm và những triết lý về tình yêu, hôn nhân, gia đình.
Sáng tác của Đoàn Lê cũng bắt nguồn từ cảm hứng đó, nhưng nét riêng
của bà là lồng vào những câu chuyện dung dị đời thường, những câu chuyện
tưởng như không có truyện những triết lý, ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Sự kết hợp
này góp phần tạo nên một xu hướng mới trong văn học- xu hướng tự nghiệm.
3.2.1. Triết lý về nhân sinh
Những triết lý về nhân sinh trong sáng tác của Đoàn Lê thường không
xuất hiện bằng những khái niệm khô khan, thần bí mà dung dị bàng bạc thể hiện 46
khá rõ quan niệm sống của nhà văn. Truyện của Đoàn Lê dù chỉ xoay quanh
những chủ đề quen thuộc như: tình yêu, hôn nhân, gia đình, cuộc sống của nông
thôn thời mở cửa...nhưng luôn chứa đựng những ý vị triết lý, chiêm nghiệm. Cốt
truyện của bà thường rất đơn giản, gần với đời sống nhưng chứa đựng những ý
vị sâu sắc.
Tình làng nghĩa xóm dù ở cõi sống hay khi đã sang thế giới bên kia với
mỗi người đều quan trọng như dân gian thường nói “Bán anh em xa mua láng
giềng gần”. Đoàn Lê đã thể hiện triết lý ấy thật gần gũi, mang ý vị sâu sắc: “Dù
sống dù chết xung quanh mình có được lân bang láng giềng tử tế là điều đại
phúc” ( Nghĩa địa xóm Chùa). Làng xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn có nhau”,
trong thực tế còn thân tình hơn cả họ mạc xa xôi cả năm cả đời không đi lại với
nhau. Tình làng nghĩa xóm cùng giúp nhau vượt qua mọi hoạn nạn khó khăn,
cùng nhau gìn giữ, xây đắp bản sắc một vùng quê. Triết lý ấy thật giản đơn mà
giầu ý nghĩa.
Những triết lý của Đoàn Lê không khô khan, trừu tượng mà bình dị như
lời nói thường nhưng đằng sau lại ẩn chứa những ý nghĩa lý thú, sâu xa. Nói về
những nỗi đau của nhân loại, Đoàn Lê đã khái quát: “ Mỗi nỗi đau như một giọt
nước hợp thành cả một đại dương mênh mông” (Viên sỏi). Trong đại dương
những nỗi đau của nhân loại có nỗi đau khi mất đi những người thân yêu ruột
thịt như mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, anh mất em. Có nỗi đau nào
hơn thế! Đứng trước biển, “sự hồn hậu của biển có thể xóa dịu những nỗi đau u
uẩn trong tận cùng tâm can con người, điều mà tự con người chẳng thể làm
được”. Có khi chất triết lý bàng bạc trong mỗi trang văn và kết lại trong một lời
than “Ôi cuộc sống tưởng chừng bình lặng…nó chứa đầy những cơn sóng ngầm
dữ dội” (Dấu hỏi gửi thượng đế). Ấy là vẻ bề ngoài của cuộc sống ở khu nhà lão
Đúa bán tạp hóa và cô Huệ gù bán báo dưới gốc sấu già. Họ sống với nhau thật
bình lặng, êm đềm dưới một khu sép ngăn đôi. Bề ngoài tưởng chẳng có gì đáng
nói. Có ai ngờ người đàn bà gù lặng lẽ cố gắng để không phiền ai, cố gắng để ít
ai nhìn ngó đến mình ấy lại có một đời sống tâm hồn phong phú đến vậy, lại yêu
mãnh liệt đến thế. Còn ông lão bán tạp hóa ngày ngày vẫn qua lại bình thản có ai
ngờ lại mang trong mình nỗi đau của cả nhân thế. Hóa ra bên trong cái vẻ ngoài
bình lặng là cả một nội tâm đầy sóng gió. Đoàn Lê muốn khám phá đến tận cùng
cái nội tâm sâu kín kia để hiểu được con người thực của người đàn bà ấy. Đó là 47
một người phụ nữ bình thường như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác,
cô Huệ cũng khát khao tình yêu, khao khát hạnh phúc với mong muốn được làm
vợ, làm mẹ nên cô đã chủ động đến với lão Đúa. Chẳng ngờ, cái con người vẫn
sống bình thản đến vô tư kia lại chẳng thể cho cô Huệ dù một mụn con bởi
những di chứng của chiến tranh. Từ hai kiếp sống ở bên lề cuộc đời ấy, Đoàn Lê
muốn gửi đến chúng ta một triết lý. Mỗi người đều là một thế giới bí ẩn, một
tiểu vũ trụ. Hãy cố mà tìm hiểu họ sẽ phát hiện được rất nhiều điểm thú vị đáng
quý ở họ. Bởi vậy mỗi người hãy sống sâu sắc đến tận cùng sự sống để khám
phá cho hết ý nghĩa đích thực của đời người. Đừng nên chỉ nhìn bề ngoài mà vội
đánh giá kết luận.
Với Đoàn Lê và nhiều nhà văn khác, trẻ em luôn là niềm vui, niềm hy
vọng làm vợi bớt những nỗi đau của nhân thế. Chúng thật ngây thơ trong sáng
như một thiên thần: “Mọi đứa trẻ đều tinh khiết, đều phảng phất giống tiên đồng
ngọc nữ” và “Trẻ thơ chính là những đóa hồng của chúa” Những đứa trẻ thậm
chí cứu vớt được cả những tâm hồn ma quỷ. Thông điệp mà nhà văn muốn gửi
gắm qua triết lý ấy là hãy thương yêu, trìu mến, nâng niu trẻ thơ. Chúng sẽ đem
lại niềm vui, niềm hy vọng cho bạn. Dẫu cuộc sống có tăm tối, nghiệt ngã đến
nhường nào thì nhà văn vẫn không thôi hy vọng vào tương lai. Tương lai được
tạo dựng từ sự ra đời của những đứa trẻ.“Mỗi đứa trẻ ra đời đều mang theo tin
báo Chúa không tuyệt vọng về con người” (Hai bà mẹ và tôi)
3.2.2. Triết lý về tình yêu, hôn nhân
Đối với các cây bút nữ thời kỳ đổi mới, tình yêu là đề tài được sử dụng
nhiều nhất trong các sáng tác của họ. Phải chăng với họ, tình yêu luôn là cứu
cánh tinh thần giúp họ vượt qua những sóng gió trong cuộc đời. Đồng thời các
nhà văn nữ cũng là người am hiểu hơn ai hết bản chất của tình yêu: có ngọt ngào
nhưng cũng lắm đắng cay “trong tình yêu có lúc phải giành lấy cái để gọi như
chơi bạc ấy, được thì phất, hỏng thì thôi nhưng cứ phải cướp cái” (Cát đợi-
Nguyễn Thị Thu Huệ); hay tình yêu giống như “một chiếc bình quý nhất mà
người ta chỉ có một lần trong đời” (Bàn tay lạnh- Võ Thị Hảo).
Trong những câu chuyện viết về tình yêu của Đoàn Lê, phần thanh cao
trong tình yêu bao giờ nhà văn cũng dành cho phái nữ. Bởi họ luôn là người chịu
nhiều đau khổ, thiệt thòi hơn khi những cuộc tình tan vỡ. Và có một điều đáng
trân trọng ở họ là cho dẫu họ bị phản bội thì cuối cùng họ vẫn nghĩ tốt về đối 48
phương, vẫn tìm cách tha thứ cho kẻ phản bội mình. “Đúng thế cái gì người ta
cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể cố gắng yêu” Ấy là một triết lý, một
sự thật đau lòng mà người phụ nữ trong Trái táo nham nhở phải thừa nhận sau
gần hai mươi năm bị đánh cắp tình yêu. Dù vẫn còn rất yêu người đàn ông ấy,
chị vẫn chấp nhận giải thoát cho anh ta, chấp nhận để hạnh phúc của mình như
“Trái táo nham nhở” để giữ được lòng tự trọng. Vì chị hiểu rằng “Một người
đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc” (Giường đôi xóm Chùa). Chị cũng
biết “Một cái giường xét về phương diện thực dụng cũng như đạo đức vốn được
đóng cho hai người nằm, nói rõ hơn cho một người nam cùng một người nữ của
Đấng – Tạo- Hóa. Khi phải chứa đến người thứ ba thì độ bức bối chuyển thành
giông bão không thể chịu đựng được” và “đôi lúc sự tồn tại của người ảo còn
đáng sợ hơn cả người thực”. Ấy là sự tồn tại chập chờn ẩn hiện của người thứ
ba chen vào hạnh phúc của hai người. Sau gần hai mươi tám năm chung sống,
chị biết tình cảm của anh và chi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không thể
vá víu được nữa. Giờ anh lại có người phụ nữ khác ở bên ngoài, người ấy vẫn
đêm đêm hiện hình trên chiếc giường đôi của anh chị, ám ảnh chị làm chị không
thể chịu đựng được. Chị quyết định chia tay, biết đâu “sự dở dang chẳng phải là
một may mắn”. Chị hiểu tình yêu cũng như cuộc đời, cái mất không bao giờ mất
hết, nó luôn đi liền với cái được như hai mặt của một vấn đề. Triết lý về tình
yêu, hôn nhân trong sáng tác của Đoàn Lê nhẹ nhàng nhưng có sức lan thấm sâu
rộng. Triết lý về sự không hòa hợp của hai tâm hồn, nhà văn viết: “ trong hình
hài mỗi con người ẩn chứa cả một tầng địa ngục sâu kín, không có lấy một lối
nhỏ đi vào” (Ngôi nhà gỗ). Vì không hiểu nhau nên không thể sẻ chia, và đó
cũng là đầu mối của những bi kịch tan vỡ không thể cứu vãn được của hôn nhân,
gia đình.
Khi triết lý về tình yêu, hôn nhân, Đoàn Lê tỏ ra là người am hiểu sâu sắc
những cung bậc trạng thái cảm xúc của người đang yêu: có sự nhớ mong đợi
chờ, cũng có lòng ghen tuông thù hận “ Máu ghen vốn tiềm ẩn trong mỗi con
người như một kẻ thù thâm hiểm, tàn bạo, chỉ rình cơ hội chơi khăm ta. Nó
giống loài bạch tuộc, bất ngờ phóng hàng chục cái vòi quấn thít lấy mẩu thịt tội
nghiệp gọi là trái tim, tiêm nọc độc cho lý trí ta tê liệt, duy nhất còn mỗi nỗi đau
đớn khủng khiếp, man rợ, súc vật. Rồi cả ngàn điều nghi ngờ mù lòa xúi giục,
thét gào đòi ta hành động” (Tình Guột). Lời triết lý thật đầy đủ, sâu sắc, khái 49
quát bằng những hình ảnh so sánh gợi nhiều liên tưởng cho lòng người. Ghen là
một dạng biểu hiện của tình yêu. Có yêu thì mới ghen, nhưng ghen một cách mù
quáng thì lại là liều thuốc độc giết chết tình yêu. Đôi khi triết lý lại được thể
hiện qua lời kể bình thản, nhẹ nhàng. Trong tác phẩm Thành hoàng làng xổ số
khi nói đến cuộc sống của những số phận bất hạnh của những cô gái phải dùng
những mánh khóe táo tợn để thu phục đàn ông, nhà văn đã viết: "Trong mỗi
người đàn ông đều có một đứa trẻ đòi bế ãm, nâng niu. Chỉ cần biết dang tay ra,
đứa trẻ sẽ xà ngay vào. Rồi nó sẽ trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn vâng lời". Ấy
là mánh khóe mà ả bán thuốc lá vẫn dùng để moi tiền của những người đàn ông
sa cơ lỡ bước hay những kẻ “ham của lạ”.
Cứ như thế những câu chuyện viết về tình yêu, hôn nhân, gia đình, cuộc
sống của Đoàn Lê thật nhẹ nhàng nhưng đầy triết lý sống. Ai đã từng yêu, từng
có gia đình chắc hẳn đều thấm thía những lời triết lý ấy. Những triết lý ấy chính
là lời nhắc nhở chúng ta cần luôn tỉnh táo trước mỗi hành động. Tình yêu, hôn
nhân, cuộc sống luôn cần sự chân thành, bao dung, thông cảm và sẻ chia lẫn
nhau. Nếu quá lạnh lùng, sòng phẳng, đề cao chủ nghĩa cá nhân tất yếu sẽ dẫn
đến bi kịch. Vậy hãy chân thực rất mực với lòng mình, sống vì mọi người để cho
cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Cảm hứng triết luận đã nâng cao chất tư tưởng
và tính nhân văn cho những truyện ngắn của Đoàn Lê.
50
CHƢƠNG II. THẾ GIỚI NHÂN VẬT
1. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê.
Đặc điểm nhân vật trong giai đoạn văn học trƣớc và sau 1975.
Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật là hình thức
thể hiện quan điểm của nhà văn về con người. “Nhân vật là nơi tập trung mọi giá
trị tư tưởng- nghệ thuật” (Từ điển văn học tập 1). Nhân vật là “công cụ khái quát
hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con
người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng”. Mỗi kiểu nhân vật có tính quy
luật và lô gích của nó. Nhưng nó cũng có những sáng tạo riêng của mỗi nhà văn.
Mỗi giai đoạn văn học đều có những nhân vật đặc trưng. Từ nhân vật mặt
nạ, nhân vật biểu tượng trong thần thoại, truyền thuyết, anh hùng ca…đến nhân
vật tâm lý, nhân vật tính cách, nhân vật tự ý thức trong văn học hiện đại…Tất cả
đều mang trong mình những yếu tố thời đại và ngày càng đa dạng hơn. Nghệ
thuật và các phương thức thể hiện nhân vật cũng năng động hơn. Hệ thống nhân
vật là bề sâu của những quan niệm khác nhau về cuộc sống, con người của từng
tác giả. Vì thế không thể lý giải những đặc trưng nghệ thuật của một tác giả mà
không khảo sát nhân vật và những quan điểm của nhà văn về nó. Nói cách khác,
tìm hiểu nhân vật cũng có nghĩa là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người
của nhà văn.
Trước thời kỳ đổi mới, nhân vật văn học vẫn còn ảnh hưởng của kiểu xây
dựng nhân vật trong văn học truyền thống. Nghĩa là con người luôn luôn gắn với
những vấn đề chính trị- xã hội lớn lao của đất nước, đó là con người chính trị, xã
hội. Văn học thời kỳ này lấy lịch sử làm điểm quy chiếu nên con người bao giờ
cũng được “khoác chiếc áo trùng khít với chính bản thân mình”, con người được
xem như chủ nhân của lịch sử, của ý thức cộng đồng. Trong văn học kháng
chiến, nhân vật văn học luôn có tâm thế của những con người mang trên vai
trọng trách của lịch sử. Họ được gọi tên bằng những danh từ chung như “Chúng
Ta”; “Nhân Dân”; “Đất Nước”…Sự quy chiếu này không có sự phân biệt giữa
thơ ca và văn xuôi, dù là nhân vật trữ tình hay hiện thực đều nằm trong “biên
độ” văn học được giới hạn bởi lịch sử. Vì thế mà nhân vật văn học giai đoạn này
bao giờ cũng là những hình tượng trọn vẹn mang tính tư tưởng.
Văn học từ 1975 đến nay là giai đoạn chuyển biến từ một nền văn học
chịu sự tác động của quy luật chiến tranh sang một nền văn học chịu sự chi phối 51
của quy luật đời thường. Đây chính là giai đoạn chuyển biến từ tư duy sử thi, từ
phạm trù cao cả anh hùng sang tư duy phi sử thi, lối tư duy nghiêng về cuộc
sống đời thường với sự mở rộng các phạm trù thẩm mỹ: cái xấu, cái kệch cỡm,
nghịch dị… Hơn lúc nào hết, truyện ngắn đã khẳng định vai trò chủ yếu của
mình trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực bề bộn của giai đoạn mới với
quan niệm mới về con người. Mười năm đầu sau chiến tranh, văn học tuy vẫn
gắn với truyền thống nhưng đã có sự quan tâm hơn đến con người. Lúc này, văn
học đã bắt đầu xuất hiện những tác phẩm mang cảm hứng nghiêng về con người,
lấy con người làm tâm điểm quy chiếu lịch sử. Nhà văn bắt đầu quan tâm đến sự
tồn tại của con người cá nhân với tư cách là một “nhân vị” độc lập. Con người
được nhìn nhận như một thực thể riêng tư. Có thể nói chưa bao giờ văn học đề
cập đến giá trị và sự sống của con người cá nhân như giai đoạn này. Trong văn
học bắt đầu xuất hiện kiểu nhân vật “không trùng khít với chính mình”, kiểu con
người lưỡng diện, phức tạp nhiều chiều mà Bức tranh – Nguyễn Minh Châu là
bước khởi nguồn cho sự xuất hiện của kiểu con người như vậy. Nhân vật văn
học được miêu tả với đầy đủ mọi khía cạnh của cuộc sống hiện thực, con người
không chỉ là “chủ nhân” của lịch sử mà còn là “nạn nhân” của hoàn cảnh sống.
Bắt đầu từ những năm 1986, văn học chuyển tiếp sang một giai đoạn hoàn
toàn mới. Các cây bút dường như trầm tĩnh hơn để len lỏi vào các ngõ ngách của
cuộc sống tinh thần con người. Văn học bắt đầu khám phá về con người trên cơ
sở hệ thống quan niệm mới mà chiều sâu của nó là “triết học nhân bản”, giống
như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng viết: “khơi nguồn cho dòng sông văn học
trở về với đời sống vốn có của nó, văn học đi sâu vào những giá trị nhân bản
nhưng bằng nhiều chiều của đời sống tâm lý con người, trong đó có mặt tốt, mặt
xấu, có cái tiêu cực, tích cực, cái thiện, cái ác…”. Càng về giai đoạn sau, văn
học càng thể hiện khuynh hướng cụ thể. Dưới cách nhìn nhận, đánh giá của một
tầng lớp đông đảo các cây bút trẻ, con người trở thành “đối tượng nghiên cứu”
của họ. Họ khám phá góc độ đời tư của con người nhằm lý giải đời sống tâm lý
phức tạp của mỗi cá nhân. Trong văn học bắt đầu xuất hiện những kiểu nhân vật
khác nhau: con người- hoàn cảnh, con người cô đơn , con người tự ý thức…mà
trước đây chưa xuất hiện cụ thể trong văn học truyền thống.
Văn học sau năm 1975 là giai đoạn văn học chịu ảnh hưởng của những
quy luật đời thường, do vậy quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà văn 52
trong giai đoạn này bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sự khác biệt so với văn
học giai đoạn trước đây. Họ quan tâm đến con người cá thể, đi sâu vào những
chi tiết của đời sống tâm hồn, nghĩa là khám phá đời sống tinh thần của con
người ở góc độ từng cá nhân riêng biệt. Có thể nói chưa bao giờ văn học lại đề
cập nhiều đến giá trị và sự sống của con người cá nhân như giai đoạn này. Ở bất
kỳ thời đại nào, con người cũng là trung tâm chú ý của văn học. Văn học trung
đại là nền văn học “phi ngã, vô ngã”, không có vị trí xứng đáng cho cá nhân.
Một thời gian dài văn học của ta chịu ảnh hưởng của triết thuyết Nho giáo chỉ
quan tâm đến con người xã hội (con người nhập thế), thủ tiêu cái cá thể, không
xem cái cá thể là sự tồn tại đầu tiên của con người. Cạnh đó, Phật giáo với triết
lý “vô ngã” phủ nhận sự tồn tại của một “cái ngã” cá nhân. Từ thế kỷ XVII, con
người cá nhân đã xuất hiện ở những mức độ đậm nhạt khác nhau (Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ). Nhưng con người cá nhân trong văn
học trung đại xuất hiện với tư cách là cái tôi trữ tình công dân chứ chưa mang
tính chất cái tôi trữ tình cá thể, ý thức cá nhân chưa xuất hiện mạnh mẽ. Vì thế,
văn học trung đai mới chỉ xuất hiện những yếu tố của con người cá nhân. Còn cá
nhân với giá trị tự thân, với ý nghĩa và sự sống đích thực của nó thì chưa có hay
quá mỏng manh.
Đầu thế kỷ XX, ý thức cá nhân mới hình thành rõ rệt. Trước hết trong đời
sống xã hội do sự hình thành các đô thị mới, sự ra đời các tầng lớp mới, ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây…trong xã hội con người cá nhân hình thành.
Lần đầu tiên con người nhận ra giá trị đích thực của cá nhân mình. Trong văn
học bắt đầu hình thành quan niệm con người cá nhân.- đặc biệt trong Thơ mới
và Tự lực văn đoàn. Nhưng con người cá nhân ở giai đoạn này càng về sau càng
cực đoan và đi đến bế tắc. Từ sau 1945, trước những đổi thay lớn lao của cộng
đồng dân tộc, con người cá nhân tự lu mờ nhỏ bé trước sức mạnh lớn lao của tập
thể. Do yêu cầu chính đáng của một giai đoạn văn học trong chiến tranh, con
người cá nhân không được đề cập đúng mức. Con người quần chúng, con người
tập thể, con người cộng đồng dân tộc trội lên thay thế những cá nhân vừa được
khẳng định nhưng sớm bế tắc của giai đoạn trước. Số phận cá nhân đôi lúc tách
khỏi số phận cộng đồng, con người xã hội và con người riêng tư có lúc không
trùng khít. Từ sau 1975 nhất là từ sau đổi mới, con người cá nhân, cá thể đã
được điều chỉnh một cách hợp lý và có chiều sâu. Trong sự chuyển đổi lớn lao 53
của đất nước, văn học cũng bắt đầu chuyển biến, đổi mới. Trong đó vấn đề cá
thể trở thành vấn đề được quan tâm nhiều nhất. Chưa bao giờ số phận cá nhân,
bi kịch cá nhân được đặt ra một cách bức xúc, mạnh mẽ như trong giai đoạn
hiện nay. Quan niệm con người cá thể ở đây không phải là cái tôi đòi hỏi tự do
duy nhất của cá thể, phủ nhận mọi cơ sở đạo đức đã được thiết lập, không hề
chịu sự tác động của xã hội mà số phận cá nhân được giải quyết thỏa đáng trong
mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng. Đấy chính là giá trị truyền thống và hiện đại
về sự song hành giữa hai khái niệm riêng chung. Quan niệm con người cá thể
không dẫn đến sự cô lập hóa cá nhân với cộng đồng xã hội mà đằng sau số phận
của từng cá nhân vẫn là những vấn đề có ý nghĩa khái quát của thời đại.
Có thể nói chưa bao giờ văn học lại đề cập nhiều đến giá trị cá nhân như
trong giai đoạn văn học sau đổi mới. Đặc biệt là truyện ngắn. Từng cá nhân,
từng mảng đời thầm lặng hay sôi động đều góp phần làm nên thế giới nhân vật
đa dạng, phức tạp. Bằng nhiều cách khám phá và thể hiện độc đáo, truyện ngắn
đã khắc họa chân dung con người cá nhân một cách sinh động, sâu sắc và đa
chiều. Mỗi nhà văn đều tìm cách đi vào chiều sâu không cùng của tâm hồn con
người thấy được ở mỗi cá nhân từng niềm vui, nỗi buồn, sự đau khổ, niềm khát
khao, đam mê và cả những khát vọng…Con người xuất hiện trong văn học thực
sự là một sinh linh, một thực thể trần tục với tất cả “chất người” của nó: Có tốt
lẫn xấu, phải và trái, cao cả lẫn thấp hèn, có lý lẫn vô lý, cái vô thức lẫn hữu
thức…Con người có dục vọng, có tha hóa, đồng thời cũng biết phản tỉnh, tự ý
thức. Qua hiện thực về con người, qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã lật
sới những vấn đề nhức nhối có ý nghĩa nhân sinh của thời đại. Mỗi thời đại có
một quan niệm nghệ thuật về con người. Mỗi nhà văn lại có một quan niệm
riêng châu tuần quanh quan niệm chung nhất: Con người tự ý thức của Nguyễn
Minh Châu, con người phi cá tính trong truyện ngắn Phạm Thị Hoài, con người
thực dụng trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, con người trần thế của Hòa Vang,
con người trần tục của Nguyễn Huy Thiệp, con người “ vừa trẻ con, vừa người
lớn” trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh…Tất cả đều là dạng thức của con
người cá nhân, cá thể.
Trong các nhà văn đương đại, Nguyễn Minh Châu đóng vai trò như một “
viên gạch nối” giữa hai giai đoạn văn học, trước và sau 1975. Hơn thế ông còn
là “người mở đường tinh anh” trong văn học Việt Nam hiện đại. Những tác 54
phẩm của ông thể hiện rõ nét những biến chuyển của văn học, đặc biệt là quan
niệm nghệ thuật về con người. Trước 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu
chủ yếu tập trung vào việc xây dựng kiểu nhân vật lý tưởng. Nhà văn “ đi tìm
những hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn con người” đó là những con người
mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, nhân cách cao thượng: Khám phá
vẻ đẹp con người nơi hậu phương ( Cửa sông); ca ngợi tình yêu thủy chung, sự
gắn bó với cách mạng ( Những vùng trời khác nhau, Mảnh trăng cuối
rừng)…Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu bắt đầu chuyển ngòi bút sang những
vấn đề thế sự, nhân vật là những con người bình thường với những số phận cụ
thể. Đó là những thân phận bé nhỏ, tội nghiệp: gia đình cụ Khang ( Dấu chân
người lính); mẹ Êm ( Miền cháy)…Họ giống như những nốt trầm lặng lẽ giữa “
bản hợp xướng anh hùng ca ở giai đoạn cao trào”. Lấy cuộc sống con người làm
đối tượng miêu tả, nhà văn không bỏ sót một chi tiết nào được xem là đặc trưng
nhất để xây dựng hình tượng nhân vật: một lão nông có tính khí hơi bất thường
nhưng trong lòng luôn ẩn chứa một tình yêu chung thủy với quê hương, làng
xóm hay ngay cả với con bò của mình ( Lão Khúng – Phiên chợ Giát) đã bao
quát đầy đủ và chi tiết đời sống, số phận của người nông dân trong giai đoạn đổi
mới. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh
Châu cũng là quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai đoạn tiếp
theo.
Sau năm 1986, quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học ngày
càng có nhiều nét đột phá. Con người được nhìn nhận hoàn toàn ở góc độ đời tư.
Con người trở thành đối tượng quan trọng của văn học, “là một tiểu vũ trụ đầy bí
ẩn không thể biết trước, không thể biết hết, họ đều có những đột biến tâm lý,
tính cách và những hành động bất ngờ”. Với quan niệm nghệ thuật về con người
như vậy, văn học thời kỳ đổi mới (đặc biệt là sau 1986) đã đánh dấu những mốc
quan trọng của quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam.
1.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê.
Những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai
đoạn sau 1975, đã tác động chi phối đến hầu hết cây bút trẻ. Là nhà văn thuộc
thế hệ trước, nhưng sáng tác của Đoàn Lê chỉ thực sự có tiếng vang từ những
năm chín mươi của thế kỷ XX nên cũng không nằm ngoài sự chi phối này. Là
một cây bút luôn nhạy cảm và tinh tế trong cách nắm bắt và lý giải tâm lý nhân 55
vật, Đoàn Lê đã khám phá và chắt lọc những tính cách tâm lý điển hình để xây
dựng một thế giới nhân vật phong phú, sinh động nhưng cũng rất phức tạp. Đó
là những kiếp đời có nhiều giông bão, những số phận éo le bất hạnh bởi những
ám ảnh của chiến tranh (Một ngày xứ em) hay đó là nỗi bất hạnh của những
người con gái tài sắc nhưng không thoát nổi “ nghiệp chướng” của cái đẹp bạc
mệnh (Người đẹp xóm Chùa, Con bướm nhựa cánh xanh…), thế giới nhân vật
của bà còn có những mảng đời đói khổ, rách rưới, bần cùng vì miếng cơm manh
áo ( Hạt Vừng, Thành hoàng làng sổ số)...
Cùng với Đoàn Lê có khá nhiều cây bút nữ khác xuất hiện với những tác
phẩm ít nhiều đã để lại những dấu ấn trong lòng bạn đọc hiện đại: Nguyễn Thị
Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Vũ Thị
Thường…Các chị thường viết về những đề tài gần giống nhau, có quan điểm
sáng tác và đi tìm những đối tượng sáng tác cũng gần giống nhau. Tuy nhiên
mỗi cây bút lại có một giọng điệu khác nhau tạo nên một vườn hoa đa hương
nhiều sắc: “ Một Vũ Thị Thường sắc sảo, cô đọng; một Nguyễn Thị Ngọc Tú
chân chất, mộc mạc; một Lê Minh Khuê giàu chiêm nghiệm; một Nguyễn Thị
Ấm với lối viết tài hoa, pha chút giễu cợt đầy thiện ý; Nguyễn Thị Thu Huệ chao
chát nhưng dịu dàng và từng trải; một Y Ban đằm thắm và khắc khoải; một
Vàng Anh lạnh lùng trí tuệ và hóm hỉnh; Lý Lan hồn hậu và sắc sảo…”. Tất cả
đếu xuất phát từ tình yêu cuộc sống, niềm tin với con người của các chị. Truyện
của Đoàn Lê cũng vậy: dung dị, đơn giản nhưng sâu sắc để người đọc có thể
cảm nhận được sự tinh tế trong cách nắm bắt và khám phá cuộc sống của nhà
văn.
Nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê là những con người đi ra từ cuộc
sống. Chính vì vậy, đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy nhất ở nhân vật trong truyện
ngắn của Đoàn Lê chính là sự gần gũi với con người thực, cuộc đời thực như
cuộc sống hàng ngày. Các nhân vật trong truyện từ ông Sỹ Duệ (tức Sỹ thái sư),
ông Hớn, Cường xóm Chùa, lão Bạch mù, bà Chiu, cô Lầy Lầy, lão Bản…như
là nguyên bản của người thật việc thật đều xuất phát từ một không gian sống, sự
quan sát thực tế của nhà văn nơi xóm Chùa cụ thể. Họ đều là những chân dung
rất sống, có địa chỉ lý lịch hẳn hoi: lão Bạch mù chuyên chơi đàn bầu, người
luôn hài lòng với sự bình yên của xóm làng. Tiếp đến là ông sỹ Duệ- một kép
hát cải lương trên tỉnh, nhân vật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Đoàn Lê, 56
cũng là người mang văn minh tân tiến đến cho dân xóm Chùa bằng việc dùng
cát sét thay cho kèn trống, loa đài trong các đám ma, đám cưới. Rồi cái Nhớn
con bà cả Thận được đoàn ca múa trung ương tuyển vào làm diễn viên, hôm nó
được về thăm nhà, hai mắt xanh lè, mí mắt rắc nhũ óng ánh, mặt mũi chỗ đỏ,
chỗ nâu, quần áo miếng xanh, miếng tím làm cả làng lác mắt. Lạ nhất là chuyện
về bà Chiu người quanh năm bán rượu nếp trên phố để nuôi lũ con ăn hại. Một
lần bà bị người tây Thụy Điển lạng tay lái ở khúc ngoặt móc vào gánh hàng, bà
được bồi thường đến 400 đô la khiến bao người ở xóm Chùa ước được như bà.
Rồi câu chuyện về cuộc đời cô gái lai tây tên Mừng chuyên hủ hóa với trai làng
rồi quy đổi ra gạo, chuyện về lão Hớn, người chuyên sản xuất tiền vàng, đô la
cho âm phủ… (Xóm Chùa Ông, Đất xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Toursim
xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa…). Những hành động, suy nghĩ, tâm lý của họ
là những hành động suy nghĩ của con người hiện đại giữa đời thường với những
tính toán nhỏ nhặt nhất để có miếng cơm manh áo. Vì vậy nhân vật của Đoàn Lê
rất gần với con người thực trong cuộc sống hiện đại.
Nhân vật trong sáng tác của Đoàn Lê gắn những mảng đời rất thực như
cuộc sống mà nhà văn từng chứng kiến. Họ cũng lăn lộn, đấu tranh với cuộc
sống sinh tồn hàng ngày, hàng giờ để kiếm miếng cơm, manh áo và đôi khi phải
bất chấp cả những mánh lới thủ đoạn (Thành hoàng làng sổ số, Hạt Vừng, Đất
xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa), cả chuyện “ma cũ bắt nạt ma mới” với những
thủ tục hành chính rườm rà khi nhập cư nơi ở mới dẫu là nghĩa địa (Nghĩa địa
xóm Chùa). Có khi lại là những mảnh đời bất hạnh vì sự thiếu hụt của hình hài:
Cô Huệ ( Dấu hỏi gửi Thượng đế), lão Guột (Tình Guột). Nhân vật của Đoàn Lê
có lúc là mảng đời lắm nỗi chuân chuyên của những cô gái hồng nhan nhưng
lâm vào cảnh đời trôi dạt phải bán thân nuôi miệng và nhận lấy cái chết đầy bí
ẩn (Tiểu Anh), hay cái chết âm thầm từ căn bệnh thế kỷ (Thúy) và rất nhiều cô
gái lưu lạc đến xóm biển (Con bướm nhựa cánh xanh). Nhân vật của Đoàn Lê
đôi khi là mảng đời sống nhiều chật vật, khó khăn của các văn nghệ sỹ do miếng
cơm manh áo, nơi ăn chốn ở (Tí teo hạnh phúc,), thậm chí phải biến thành Ruồi
(Lên Ruồi). Cuộc sống thời mở cửa với muôn vàn những phức tạp cũng để lại
khe hở cho những thói tham lam, lộng quyền của một số kẻ có chức có quyền
như lão Quang chủ tịch, anh em họ Đào ( Đất xóm Chùa).
57
Nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê dù có cảnh đời, có số phận khác
nhau nhưng họ giống nhau ở chỗ đều mang trong mình những bi kịch: bi kịch về
sự đổ vỡ gia đình (Giường đôi xóm Chùa, Ngôi nhà gỗ, Trái táo nham nhở, Viên
sỏi…), bi kịch vì tình yêu không thành ( Đêm ngâu vào, Tình Guột, Dấu hỏi gửi
Thượng đế, Na ơi…), bi kịch vì cuộc sống mưu sinh ( Đất xóm Chùa, Xóm Chùa
Ông, Trinh tiết xóm Chùa, Hạt Vừng…), bi kịch vì sự mất mát của những người
thân yêu (Hai bà mẹ và tôi, Viên sỏi). Mỗi tác phẩm của nhà văn là một thông
điệp quý về tình yêu giữa người với người: có tình yêu đôi lứa, có tình nghĩa vợ
chồng, có tình cảm ruột thịt thiêng liêng, có tình làng nghĩa xóm… tất cả đều là
những huyền thoại về tình yêu. Dù được thiên biến vạn hóa ở nhiều sắc thái
khác nhau nhưng những thông điệp tình yêu của nhà văn là sự trân trọng, yêu
mến, vị tha giữa người với người, giữa đồng loại với nhau. Những tình cảm
thiêng liêng ấy đều được nhà văn giữ gìn, nâng niu, ca ngợi còn sự dối trá, bội
bạc, phi thiện mỹ đều bị lên án quyết liệt. Thành công của nhà văn sau mỗi tác
phẩm là sự thanh lọc tâm hồn mà người đọc hiện đại hôm nay luôn tìm kiếm.
Một đặc điểm chung cho các tác phẩm của các cây bút nữ thời kỳ đổi mới
là thiên hướng nữ. Thiên hướng này tác động mạnh mẽ đến cảm hứng sáng tác
của các nhà văn bởi một lý do rất đơn giản họ là những người phụ nữ viết văn.
Cho nên phần lớn các nhân vật trong sáng tác của họ là nhân vật nữ, đồng thời
cũng là nhân vật chính trong các tác phẩm. Đặc điểm này tạo nên sự khác biệt rõ
nét nhất giữa văn học trước và sau thời kỳ đổi mới. Trong văn học trung đại, Hồ
Xuân Hương là nhà thơ duy nhất dám mạnh dạn lên tiếng bảo vệ quyền lợi và
hạnh phúc của người phụ nữ. “Hồ Xuân Hương đã làm được cái điều mà tưởng
như không thể làm được, cái không thể trở thành cái có thể, trước không ai đã
đành, sau bà cũng không có ai”. Đến thời kỳ văn học hiện đại, nhân vật nữ được
khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là thế giới nội tâm. Dưới ngòi bút
của các nhà văn nữ, thế giới tinh thần của các nhân vật nữ lại càng được thể hiện
sinh động, sâu sắc và chân thực nhất. Bởi lẽ, khi đặt ngòi bút dường như các tác
giả nữ đang viết về chính con người thực của mình. Đó chính là cảm hứng tự
nghiệm”. Đặc điểm này được thể hiện rõ nhất ở ngôi của người kể chuyện- ngôi
thứ nhất, các tác giả đã có ý thức để lại trong tác phẩm dấu ấn cá nhân riêng biệt
của mình. Dấu ấn cá nhân của nhân vật “tôi” đã thể hiện đầy đủ cảm nhận, suy
nghĩ riêng của mỗi nhà văn, bất chấp mọi sự khen chê. Giọng điệu của người kể 58
chuyện hay “lạc đề”, chuyện nọ xọ chuyện kia. “Dường như trong văn chương
của họ có một người đàn bà mê mải nói, mê mải kể, chê bai, khen ngợi, bất cần,
khinh bạc… Điều đó khiến độc giả nhận ra họ trước tiên: chất lý sự đàn bà, cái
ồn ào rất đời trong những giọng nói không cần ẩn mình vì lý do công, dung,
ngôn, hạnh truyền thống, đồng thời lại rất sách vở và tự chủ theo cách riêng của
mình” [22]. Nhân vật nữ trong truyện ngắn Đoàn Lê là những con người như
vậy. Dấu ấn cá nhân trở thành một đặc điểm nổi bật khi xây dựng nhân vật của
cây bút này. Các nhân vật của bà thường được đặt trong trạng thái “động”. Khi
đọc toàn bộ sáng tác của nhà văn, một hình ảnh nổi bật mà người đọc dễ dàng
bắt gặp nhất đó là hình ảnh một người đàn bà luôn trăn trở, day dứt, bất định
trong suy nghĩ. Họ thường có những bi kịch gần giống nhau- bi kịch tình yêu. Bi
kịch đó bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa Niềm Tin và Bản chất Nhẹ dạ của người
phụ nữ, hay giữa hạnh phúc và khổ đau, hoặc từ những hoàn cảnh sống tối tăm,
bần cùng. Những đặc điểm trên trở thành nguyên tắc xây dựng nhân vật của
Đoàn Lê.
2. Các kiểu nhân vật và phƣơng thức biểu hiện trong truyện ngắn Đoàn Lê.
2.1 Nhân vật cô đơn
Đây là kiểu nhân vật xuất hiện nhiều trong văn học thời kỳ đổi mới. Lý
do khiến các nhà văn tập trung vào việc xây dựng, khai thác kiểu nhân vật này
cũng rất dễ hiểu. Trong xã hội hiện đại vấn đề tồn tại và mưu sinh không còn là
vấn đề cơ bản, con người bắt đầu hướng về bản thân mình nhiều hơn. Họ có nhu
cầu khám phá,cắt nghĩa lý giải những trạng thái tâm hồn mình để giảm đi những
lo toan căng thẳng trong cuộc sống, để cân bằng lại đời sống tâm hồn. Nhu cầu
đó trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn. Đời sống tinh thần của
con người trở thành đối tượng quan trọng của văn học. Vì thế trong văn học xuất
hiện kiểu nhân vật cô đơn. Cô đơn là khát khao cái đẹp, cái thiên lương của con
người. Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, mỗi cá nhân nhưng cũng có ảnh hưởng
đến cộng đồng xã hội. Thế giới nội tâm của mỗi cá nhân chứa đầy những yếu tố
bất ngờ và bí ẩn. Không phải chỉ khi tồn tại đơn thân một mình một bóng con
người mới cảm thấy cô đơn mà con người mang tâm trạng cô đơn ngay chính
trong ngôi nhà, trong gia đình của mình khi không tìm thấy sự đồng cảm, không
tìm thấy tiếng nói chung.
59
Con người cô đơn đã từng được nói đến trong văn học trung đại nhưng
chưa thật rõ nét. Đến văn học 1930-1945, con người cô đơn (cái tôi cô đơn) trở
thành tâm trạng chung của các nhà Thơ mới. Thậm chí con người cô đơn được
đẩy đến mức cực đoan, đến tận cùng. Họ tìm nhiều cách khác nhau để thoát khỏi
trạng thái cô đơn: Thế Lữ thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư phiêu diêu trong trường
tình, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng trong hồn máu và tháp Chàm đổ
nát, Xuân Diệu đắm say…Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ, Huy Cận mang mối sầu vạn kỷ, sầu tới
đáy hồn nhân thế, Chế Lan Viên muốn trốn mình tận phía cuối trời xa, rốt cục
vẫn bế tắc tuyệt vọng không có lối thoát.
Trong văn học hiện đại giai đoạn 1945-1975, cô đơn vẫn bị xem là chủ đề
kiêng kỵ. Con người trong văn chương chủ yếu là con người tập thể. Chung
quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc, cộng đồng, nhân loại. Cá nhân con người
là nhỏ bé, không đáng kể. Con người không có điều kiện để nhìn ngắm tâm hồn
mình. Sau 1975 với quan niệm con người cá thể, cùng với sự thức tỉnh của cá
nhân với nhu cầu tự ý thức, con người nhiều lúc cảm thấy cô đơn và có nhu cầu
nói to lên trạng thái tâm lý này. Hơn nữa, trong xã hội bộn bề đen trắng, tốt xấu
lẫn lộn hôm nay, đâu người tri âm tri kỷ, đâu là tình người, đâu là sự đồng cảm,
đâu là niềm tin? Cô đơn vì thế trở thành điểm xoáy thu hút sự chú ý của nhiều
cây bút truyện ngắn. Nguyễn Huy Thiệp thường xây dựng những nhân vật cô
đơn: “nỗi cô đơn khủng khiếp rằng xé tim chàng” (Sạ), nỗi cô đơn mênh mang
của cõi đời (Chút thoáng Xuân Hương), nhân vật trong “ Con gái thủy thần”,
“Chảy đi sông ơi”, “Tâm hồn mẹ” đều là những cá nhân cô đơn đi tìm kiếm
niềm tin. Nguyễn Minh Châu lại day dứt với con người cô đơn bất hạnh sau
chiến tranh còn lại một khoảng trống vắng tâm hồn không gì bù lấp nổi (Cỏ lau).
Dương Thu Hương vật vã với kiểu con người cô đơn đi tìm lý tưởng, cứ phải
suốt đời loay hoay đi tìm kiếm những gì không thể với được trong tầm tay. Một
số cây bút nữ đã hướng ngòi bút vào số phận của những người đàn bà đi suốt
cuộc đời vẫn không tìm thấy một tổ ấm, một nơi trú ngụ tinh thần bởi sự thất
vọng về tình yêu , về người bạn đời, vì vậy họ luôn phải đối diện với sự trống
vắng của tâm hồn bởi sự hụt hẫng vô cớ thất thường của trạng thái cô đơn (Giai
nhân- Nguyễn Thị Thu Huệ, Người đàn bà có ma lực- Y Ban). Đặc biệt ở Phạm
Thị Hoài, cô đơn đã trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên của nhân vật. Nhân vật 60
cô đơn do không có sự đồng cảm, mỗi nhân vật là một thế giới riêng, họ cô đơn
ngay giữa đám đông. Nhân vật cô đơn của Phạm Thị Hoài thường đối thoại với
nhau một cách rời rạc, không lô gích vô nghĩa. Chị thường sử dụng mô týp im
lặng, ngôn ngữ bất đồng. Nhân vật của chị thường đắm chìm trong những suy
nghĩ riêng tư, còn lời nói chỉ là “chiếc vỏ trứng của sự im lặng”, có khi hai
người ngồi bên nhau nhưng ngôn ngữ bất lực, mỗi người là một thế giới cô đơn,
không thể đồng cảm… Như vậy nỗi cô đơn trở thành một đề tài hấp dẫn mà
nhiều cây bút nữ lựa chọn khai thác. Có lẽ vì họ vừa là nhà văn vừa là người phụ
nữ bước ra từ cuộc sống đời nhất và thực nhất.
Đoàn Lê cũng vậy, các nhân vật trong truyện ngắn của bà dù được khai
thác ở nhiều tình huống, cốt truyện khác nhau nhưng đều phảng phất nỗi cô đơn.
Khi xây dựng tác phẩm, nhà văn thường đứng ở góc độ người kể chuyện hoặc vị
trí các nhân vật nữ. Vì thế nỗi cô đơn trong những sáng tác của bà là nỗi cô đơn
tự nghiệm. Đó là nỗi cô đơn, trống trải cùng niềm khát khao tình yêu, hạnh
phúc đến cháy lòng của một người con gái luôn bị những mặc cảm về sự thiếu
hụt của hình hài dày vò. Đêm đêm nàng vẫn sống vẫn dạo chơi với những người
tình trong mộng để xoa dịu sự khô cháy của những năm tháng cô độc (Dấu hỏi
gửi thượng đế). Đó cũng là nỗi cô đơn, niềm mong mỏi thầm lặng được che chở,
bảo vệ cho người mình yêu đến trọn đời, trọn kiếp của lão Guột trong (Tình
Guột), đó là nỗi cô đơn đau khổ ngấm ngầm của người phụ nữ có chồng phụ bạc
(Giường đôi xóm Chùa). Trong sáng tác của mình có đôi khi Đoàn Lê đề cập
đến nỗi cô đơn, cô độc của những người đàn ông chung tình như nỗi trống trải
của nhân vật “tôi” (Một ngày xứ em, Đêm ngâu vào). Họ đều tha thiết yêu một
người phụ nữ, nhưng hoàn cảnh chớ trêu đã khiến họ không đến được với người
phụ nữ mà họ yêu thương, tôn thờ. Nhân vật “tôi” (Một ngày xứ em) rơi vào nỗi
cô đơn trống trải do chiến tranh cướp mất người con gái anh yêu thương hứa
hẹn. Còn “tôi” (Đêm ngâu vào) do một phút do dự thiếu quyết đoán, anh đã để
kẻ khác cướp mất người con gái anh yêu…Mỗi người có một hoàn cảnh khác
nhau nhưng họ đều có chung nỗi cô đơn khắc khoải và cả niềm luyến tiếc xót xa
vì không đến được với người mình yêu. Song nổi bật trong những truyện ngắn
của Đoàn Lê là nỗi cô đơn của những người phụ nữ trong gia đình mà hôn nhân
không được toại nguyện. Họ cũng đã từng có tình yêu hoặc lầm tưởng là được
yêu, sau một thời gian chung sống, họ nhận ra rất nhiều khiếm khuyết, rất nhiều 61
điểm yếu ở nửa kia của mình. Thế là họ rơi vào trạng thái hụt hẫng, chống
chếnh, nhất là khi không tìm được sự hoà hợp, không tìm được tiếng nói chung
họ rơi vào trạng thái cô đơn. Dẫu vậy họ vẫn cố chịu đựng để duy trì tổ ấm vốn
đã nguội lạnh từ lâu của mình. Đó chính là nét nhân văn đáng quý trong phẩm
chất của người phụ nữ: nhân vật Lê (Na ơi), nhân vật nữ ở (Đêm ngâu vào). Chỉ
đến khi nửa kia của mình phản bội khi dấu họ đi tìm niềm vui ở những người
phụ nữ khác ngoài gia đình thì họ lại độ lượng tha thứ rồi giải phóng cho người
chồng bội bạc để nhận lấy những thiệt thòi về mình. Có những người phụ nữ đi
hết cuộc đời mà vẫn chưa bao giờ có hạnh phúc được làm vợ làm mẹ (Trái táo
nham nhở). Người phụ nữ ấy đã phải sống bên cạnh người đàn ông không yêu
mình đến hai mươi năm. Hai mươi năm ấy chị không khỏi có những lúc thấy
lòng trống trải, hụt hẫng, cô đơn vì không nắm được anh ấy, không biết anh
đang nghĩ gì. Đến khi chị nhận ra được con người thật của anh thì tất cả quá
muộn. Qua những nỗi cô đơn âm thầm của người phụ nữ, Đoàn Lê không chỉ
gửi gắm sự đồng cảm sẻ chia như chính nỗi cô đơn của bản thân mà như muốn
gửi đến chúng ta những lời nhắn nhủ về tình yêu hôn nhân. Hãy biết sống vì
người khác và yêu thương thành thực. Hãy nắm lấy cơ hội tình yêu - hạnh phúc
khi nó đến để không phải sống trong trạng thái cô đơn đến hết cuộc đời.
Thể hiện trạng thái cô đơn của các nhân vật, Đoàn Lê đã sử dụng thủ phâp
độc thoại nội tâm với nhiều dạng thể hiện độc đáo như tự bạch, độc thoại với
người vắng mặt (Giường đôi xóm Chùa, Ngôi nhà gỗ, Trái táo nham nhở), dạng
viết nhật ký (Dấu hỏi gửi thượng đế), dạng đan xen giữa ý thức và tiềm thức
khơi sâu vào nỗi đau có tính dồn nén (Một ngày xứ em). Đôi khi bằng sự đối lập
giữa hai mảng quá khứ và hiện tại, hồi ức và tưởng tượng, có khi được thể hiện
bằng thời gian đồng hiện, bằng các mạch phát triển của thời gian tâm trạng
(Đêm ngâu vào, Tình Guột, Trái táo nham nhở). Bằng những thủ pháp này Đoàn
Lê có điều kiện đi sâu khai thác và khám phá đến cùng cõi cô đơn của con người
cũng như số phận tinh thần của con người trong những cảnh huống cụ thể. Mỗi
mảnh đời là một tâm trạng, là hoài vọng, là hạnh phúc, khổ đau, là ước mơ vỡ
mộng, là khắc khoải lo âu…tức là những mảnh ghép của số phận con người.
Ngoài những cách thể hiện trên, Đoàn Lê còn sử dụng nhiều khoảng không gian
đậm nhạt dồn nén, mở rộng khác nhau để tô đậm trạng thái cô đơn. Nhân vật
“tôi” (Trái táo nham nhở) đã tự mình đối diện với mình trong không gian cá 62
nhân với những dằn vặt cào xé để nhận ra tất cả tình trạng bi kịch của mình cũng
như con người thật của kẻ mà chị hết lòng yêu thương. Nhân vật “tôi” (Giường
đôi xóm Chùa) lại sử dụng không gian chiếc giường để độc thoại nội tâm trong
nỗi cô đơn vô tận.
Tóm lại bằng những thủ pháp riêng, Đoàn Lê đã thể hiện con người
cô đơn với những tâm trạng khác nhau, những bi kịch ngầm diễn ra trong tâm
hồn vốn muôn màu đa dạng của con người. Đi vào thể hiện nhân vật cô đơn,
Đoàn Lê giúp người đọc hiện đại hiểu mình hơn, hiểu rõ những tình cảm sâu kín
thuộc về con người, hiểu cả những ẩn ức kìm nén trong nội tâm con người, phần
mà trước nay con người vẫn dấu kín.
2.2. Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức.
Đây là kiểu nhân vật điển hình của văn học hiện thực. Nhân vật “thức
tỉnh” hay “tự ý thức” là kiểu nhân vật tự nhận thấy bản thân mình cần hướng tới
sự hoàn thiện về nhân cách, hướng tới cái thiện, cái đẹp để chế ngự cái ác, cái
xấu. Kiểu nhân vật này còn được gọi là nhân vật tư tưởng, bộc lộ sự quan tâm
của nhà văn về lối sống đạo đức của con người. Chỉ có tự nhận thức con người
mới phát hiện ra chính mình. Con người thức tỉnh, tự ý thức là con người được
nhìn từ bên trong, là con người trầm tư nghiền ngẫm, tự nhận diện chính mình.
Đây là kiểu nhân vật có năng lực phản tỉnh, tự ý thức về mình. Con người thức
tỉnh tự ý thức bộc lộ chiều sâu mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Nó
gắn liền với sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị cá nhân. Trong
văn học con người tự nhận thức chỉ xuất hiện một khi cái tôi cá thể được quan
tâm đúng mức. Sự vận động phát triển của văn học là từ chỗ miêu tả quá trình
nhận thức của nhân vật đến chỗ miêu tả quá trình tự nhận thức. Nhân vật từ chỗ
nhận thức thế giới xung quanh, đánh giá phán xét người khác đến chỗ tự khám
phá phân tích, tự quan sát nội tâm mình.
Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức ở mỗi giai đoạn văn học được hiểu theo
những cách khác nhau. Giai đoạn văn học trước 1975 do chịu nhiều chi phối của
văn học kháng chiến, thường hướng tới cái Ta cộng đồng cho nên kiểu nhân vật
này mặc dù thể hiện được những tính cách điển hình nhưng vẫn tiêu biểu cho
một lớp người trong xã hội. Sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo (trong Chí Phèo
của Nam Cao) là nhờ tình thương và bằng tình thương. Đó là sự trở về của tính
người sau bao năm làm quỷ dữ. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm điên say, Chí lại 63
được sống cảm giác con người, nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc
sống, nhớ lại ước mơ của một thời lương thiện. Cũng trong giây phút thức tỉnh,
tự ý thức, hắn nhận ra tất cả hoàn cảnh bi kịch của mình: hắn già rồi mà vẫn còn
cô độc, rồi hắn ước được làm hòa với mọi người, được mọi người nhận lại vào
xã hội bằng phẳng của những người lương thiện. Như vậy quá trình thức tỉnh
của Chí gắn với khát khao hướng thiện, gắn với khát vọng được làm người
lương thiện như bao người bình thường khác. Quá trình thức tỉnh đó chẳng đáng
trân trọng lắm sao? Cùng với Chí Phèo, Nam Cao xây dựng hàng loạt truyện
(Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn…) có chủ đề thức tỉnh, tự ý thức. Nhân vật
của Nam cao là con người luôn dằn vặt với chính mình về sự hèn hạ của nhân
cách, về phần “con” trong con người. Nhiều truyện của Nam Cao cho thấy ranh
giới giữa thiện và ác, giữa con và người chỉ là “Sợi tóc” mong manh.
Văn học hiện đại sau 1975, vấn đề thức tỉnh tự ý thức trở thành một cảm
hứng mới và vô cùng hấp dẫn với các nhà văn. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
hầu hết là những bi kịch tự ý thức với những con người luôn luôn tự làm khổ
chính mình. Người họa sỹ trong truyện ngắn “Bức tranh” luôn đeo đẳng sự ăn
năn , sám hối về lỗi lầm của mình với người lính ngày trước. Suốt cả câu chuyện
là tâm trạng day dứt, dằn vặt của nhân vật họa sỹ bất chợt nhận ra bộ mặt thật
của mình và tự phán xét mình. Quá trình đó diễn ra phức tạp, nhân vật cùng một
lúc được đặt vào nhiều vị trí: vừa là phạm nhân vừa là nhân chứng, quan tòa lẫn
luật sư, vừa kết tội lại có lúc lẩn trốn, tự bào chữa. Người họa sỹ luôn mang hai
bộ mặt: một bộ mặt hàng ngày của một họa sỹ nổi danh tài hoa, khuôn mặt được
người họa sỹ quen biết “nâng niu như sờ đụng một vật quý”. Ẩn kín bên trong
bộ mặt thường ngày đó là một bộ mặt khác, lồ lộ hiện ra khi anh họa sỹ ngồi
trước gương nhìn ngắm mình, một bộ mặt “vừa được lộ ra khỏi cái mặt nạ hàng
ngày đang phản chiếu trong tấm gương”. Cuối cùng anh họa sỹ tự nhận ra chính
mình “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt- kẻ xấu, rồng phượng lẫn
rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Quá trình thức tỉnh tự ý thức đó khiến nhân vật
sống Thiện hơn. Con người thức tỉnh tự ý thức cũng được thể hiện sâu sắc trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những vòng
quay cuộc đời có tình yêu, hạnh phúc, đau khổ, tội lỗi, có bi kịch của dục vọng
thấp hèn, có phẩm giá lương tâm. Với tất cả sự khách quan giá lạnh, Nguyễn
Huy Thiệp đẩy nhân vật xuống đáy sâu vực thẳm, dồn ép con người vào ranh 64
giới mong manh giữa thiện-ác, vươn trượt rồi lại vực con người dậy, trả lại cho
họ chất người vừa đẹp đẽ vừa phàm tục (Muối của rừng, Giọt máu)
Ngoài những đặc điểm trên, nhân vật thức tỉnh tự ý thức trong sáng tác
của Đoàn Lê còn có một đặc điểm nổi bật khác là quá trình thức tỉnh tâm hồn ý
thức của nhân vật thường gắn với cuộc truy vấn lương tâm của nhân vật. Trong
tác phẩm Lão già tâm thần, nhà văn đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của lão
Khảm - Tổng công trình sư cầu Bội. Đó là quá trình tự vấn lương tâm, quá trình
thức tỉnh lươnng tri của lão trước những sai lầm mà lão đã mắc phải. Chỉ vì lời
hứa hẹn được cất nhắc thăng tiến của ngài Bí thư Tỉnh ủy mà lão nỡ nhắm mắt
bỏ qua tuổi thọ của cây cầu cùng biết bao sinh mạng của những con người ngày
đêm qua lại cây cầu ấy, lão còn bỏ lỡ cả tình yêu hạnh phúc riêng, phụ bạc một
người con gái suốt đời yêu lão để theo đuổi chút công danh phù phiếm đó. Và
khi cây cầu hoàn thiện cũng là lúc lương tâm lão lên tiếng mắng nhiếc, chửi rủa
thúc giục lão ra đầu thú. Lão đã phải sống dật dờ như một cái bóng suốt 10 năm.
Mười năm tự vấn lương tâm, mười năm ám ảnh để đi đến một quyết định khó
khăn - quyết định đầu thú. Quyết định này cũng có nghĩa là lão chấm dứt cuộc
sống tự do về thân thể nhưng là một cuộc giải tỏa về tinh thần, trút bỏ "khối u
nhọt" đè nặng lên tâm hồn lão suốt bao năm qua. Nhưng thật là đau đớn, xót xa,
ngay cả quyết định muốn được làm người lương thiện, muốn được sống là mình
của lão cũng bị người ta tước đoạt nốt. Bởi thế đúng lúc cần phải hùng hồn nói
lên tất cả những điều đeo đẳng, bám diết lão về cây cầu, nói về những nung nấu
khổ sở của mình khi bị người ta sai khiến trong quá trình xây dựng cây cầu thì
lão lại yếu ớt run rẩy đến thảm hại rồi lão đổ vật trước sự hào nhoáng và uy
quyền của đám người đó. Vừa tỉnh lại lão lại nhận thêm một cú sốc còn choáng
váng hơn. Chính con người dùng quyền lực mua chuộc lương tâm của lão, sai
khiến lão làm bậy giờ lại dùng chính căn bệnh tâm thần vốn không thuộc về lão
để phản bác lại bản tường trình, tự thú mà lão đã nung nấu suốt hơn mười năm
qua. Rốt cục lão Khảm lại trở thành kẻ tâm thần, một người mắc bệnh hoang
tưởng để nhận sự cảm thông thương hại từ phía đoàn thanh tra. Một lần nữa lão
lại bị đánh gục, lão trở nên nhỏ nhoi vô nghĩa trước sức mạnh của uy quyền. Lão
đã bỏ cuộc đúng lúc cần phải kiên định. Lão đã xây một cây cầu trong tội lỗi, lão
đã sám hối rồi phản bội sự thật ngay trong sự sám hối đó. Chỉ đến khi cây cầu
65
thực sự sụp đổ, lão mới được minh oan. Quá trình thức tỉnh tự ý thức này khiến
tâm hồn lão trở lên thanh sạch, xứng đáng là CON NGƯỜI.
Cũng viết về kiểu nhân vật thức tỉnh, tự ý thức, Đoàn Lê còn đề cập trong
một truyện ngắn đầy ám ảnh khác- truyện Trái táo nham nhở. Cốt truyện Trái
táo nham nhở là quá trình nhân vật “tôi” tự vấn lương tâm trước những câu hỏi
về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc mà bản thân phải đánh đổi bằng cả cuộc đời.
Sai lầm lớn nhất cuộc đời chị là đã yêu bằng tất cả tấm lòng chân thành cùng sự
hy sinh âm thầm tận tụy một người đàn ông không dành cho chị. Cũng vì yêu
mù quáng nên chị không hề nhận ra con người thực của anh, và cũng không hề
nhận ra mình chưa bao giờ được yêu theo đúng nghĩa của nó. Bởi thế chị đã điên
cuồng hy sinh cho anh ta, chị sẵn sàng đánh đổi cả tháng trời không ngủ để kiếm
tiền cho anh đi thực tế mong khuây khỏa những bức bối trong nghề nghiệp của
anh ta mà không hề biết bản chất của những chuyến đi ấy. Chị đâu biết đó là
những lần anh ta phản bội chị đi tìm kiếm bất cứ người đàn bà “dịu hiền” nào.
Và rồi việc gì phải đến đã đến như một quy luật tất yếu, chị đã phải nhận một
thực tế phũ phàng - một cuộc chia tay vĩnh viễn sau hơn hai mươi năm tận tụy
phụng sự yêu thương, chăm sóc một người đàn ông không dành cho chị. Lúc ấy
chị mới tỉnh ngộ để bình tĩnh xét đoán mọi chuyện. Chị đã bao lần tự vấn lương
tâm để bào chữa cho những sai lầm của mình, chị đã đặt ra hàng loạt câu hỏi, rồi
lại tự tìm cách trả lời: “hay anh ta bị khủng hoảng tinh thần? bị hoang tưởng? bị
tâm thần? Lá thư kia chẳng qua anh ta tự bày đặt, hoang tưởng, nhưng nếu anh
ta không tâm thần, nếu đó là sự thật tàn nhẫn?…” Hàng loạt câu hỏi khiến đầu
chị như muốn nổ tung. Chị chán trách hận rồi lại quay sang bào chữa cho anh ta
và chấp nhận một sự thật rằng sẽ chẳng bao giờ anh ta và chị còn sum họp nữa.
Đó cũng là lần đầu tiên chị nghiêm khắc xét lại anh từ chân tơ kẽ tóc “Anh
tưởng mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá
đắt bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong vô vàn những kẻ
tầm thường, một thứ giẻ rách!”. Vậy mà chị đã yêu anh bằng tất cả những năm
tháng tuổi xuân, đã hy sinh cho anh bằng tất cả sự tận tụy của mình. Sau khi
trách anh chị lại quay lại tự trách mình “không biết anh đánh cắp cuộc đời tôi
hay tôi đánh cắp cuộc đời anh? Nhân danh tình yêu, tôi đã giam chặt anh chiếm
hữu anh thành tài sản riêng, tước đoạt của anh tất cả niềm vui sống hồn nhiên
nhất”. Quá trình tự vấn này khiến nhân vật của Đoàn Lê thật nhân ái thánh 66
thiện. Ngay cả khi bị phản bội tàn nhẫn đau đớn, chị vẫn đứng về phía anh để
bào chữa cho anh, truy vấn lương tâm mình, nhận lấy những mất mát thiệt thòi
về mình. Sau những cuộc truy vấn lương tâm, nhân vật của Đoàn Lê luôn đạt
đến sự thánh thiện trong tâm hồn, hoàn thiện về nhân cách tức là đạt đến chân
giá trị của cái ĐẸP và cái THIỆN.
2.3 Nhân vật ảo.
Văn học Việt Nam hiện đại từ sau đổi mới 1986 xuất hiện một xu hướng
mới- xu hướng “hiện thực huyền ảo”. Ở đó yếu tố kỳ ảo được đưa vào văn học
khá dày đặc trở thành một dòng riêng với những tên tuổi như: Nguyễn Huy
Thiệp, Lưu Minh Sơn, Phạm Hải Vân, Hòa Vang, Võ Thị Hảo…Trong đó Đoàn
Lê cũng được biết đến như một hiện tượng.
Triết gia Ấn Độ hiện đại Vivekanađa từng nói: “Thế giới này nhỏ bé lắm,
cho nên người ta phải thêm vào đó một chút tưởng tượng”. Quả thật phải thêm
vào đó một chút tưởng tượng bay bổng thì cái thế giới chật hẹp ấy mới mở rộng
ra đến khôn cùng, nếu không thì nó cứ mãi còn chật hẹp, thô sơ như một quan
niệm cũng rất chật hẹp thô sơ về chủ nghĩa hiện thực. Thủ pháp huyền ảo đã mở
ra khả năng mới mẻ trong việc khám phá và thể hiện con người. Hệ thống nhân
vật ảo có vẻ không thật, hoang đường nhưng không đối lập với hiện thực mà bổ
sung cho thế giới nhân vật trong cuộc đời thực, khắc họa đậm nét hơn cho con
người thời đại. Bởi thế trong những truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo của Đoàn Lê,
cái thực vẫn là trụ cột, vẫn là điểm tựa cho cái ảo. Hiện thực đôi lúc chỉ bị xóa
mờ chứ không bị chối bỏ. Yếu tố kỳ ảo trong những trường hợp ấy chỉ có tác
dụng làm lạ hóa hiện thực, thay đổi một góc nhìn hiện thực, chưa phải là yếu tố
làm xoay chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật (Nhân Bản, Chờ nhật thực,
Lên Ruồi, Nghĩa địa xóm Chùa). Trong những truyện ngắn này, Đoàn Lê xây
dựng nhiều kiểu nhân vật: nhân vật tưởng tượng, nhân vật dị hình, nhân vật hóa
thân…Dù được sáng tạo ở chất liệu nào thì kiểu nhân vật ảo cũng góp phần giúp
nhà văn mở rộng khả năng phản ánh cuộc sống, giúp bạn đọc chiếm lĩnh ý nghĩa
tác phẩm một cách trọn vẹn nhất.
Thông qua kiểu nhân vật này, nhà văn muốn mở rộng diện khám phá cả
trên bề mặt lẫn tầng chìm của cuộc sống hiện đại. Nhân vật ảo có lúc là cả một
thế giới hồn ma của cõi âm “Nghĩa địa xóm Chùa”. Câu chuyện được bắt nguồn
từ việc nhầm lẫn xác một vị tướng với một ông thợ điện bậc ba đã về hưu. Từ sự 67
nhầm lẫn đó, Đoàn Lê đã tái hiện cả một thế giới cõi âm sinh động như muôn
mặt của cuộc sống cõi người. Ở đó những người chết, những hồn ma vẫn sống
trong thế giới riêng song song với thế giới của người sống, họ vẫn nhìn nghe
ngóng và phê phán chuyện của người sống y hệt như khi còn sinh thời. Họ cũng
giỏi hóng chuyện, hiều kỳ trước những sự việc lạ. Cuộc sống của cõi ma nơi
nghĩa địa giống hệt cuộc sống của cõi người nơi trần thế, vẫn là chuyện “ma cũ
bắt nạt ma mới”, chuyện hối lộ, đút lót... Thông thường con ma mới đến sẽ bị
làm tình làm tội vài đêm đầu, họ bị lục tra lý lịch, ra mắt thổ thần, thổ địa, số của
nả mang theo phải biếu các chức sắc, khao đãi lân bang hàng xóm. Nghĩa là
ngay cả khi đã chết con người ta vẫn không thoát khỏi cảnh phân thứ bậc, đẳng
cấp. Ở khu lăng mộ ấy, đứng đầu gồm có ba ông: ông Quản trị hành chính, ông
Cán bộ tổ chức, ông Cán bộ hộ khẩu. Đi theo họ là cả đàn, cả đống ma lặng lẽ
bám sát thành một khối đông nghịt, óng ánh phát sáng. Họ đều lầm tưởng ma
mới là một thiếu tướng thật nên ngay cả ông Quản lý hành chính thường ngày
hống hách là thế mà nay cũng dở giọng uốn éo, khúm núm, hạ giọng tha thiết
mời ma mới lên gặp mặt. Sự thật ma mới là một tay thợ điện bậc ba mới về hưu
khi đi lĩnh tiền ở quỹ tiết kiệm đã bị chen ngã đến chết rồi bị đưa vào nhà xác
bệnh viện Việt Xô, cạnh xác ông thiếu tướng. Vì sự tắc trách vô tình của thân
nhân vị tướng khi phó thác việc nhập quan cho người coi nhà xác nên mới gây
ra sự nhầm lẫn đáng tiếc ấy. Đáng ra anh ta phải trực tiếp làm cái việc hiếu
nghĩa cho cha theo đúng phong tục cổ truyền, tự tay chăm sóc hình hài ruột thịt
thì anh lại giao phó cho một kẻ tối mắt vì tiền. Cũng vì anh quên đưa cái khoản
“lót tay tiêu cực phí” cho gã nhà xác nên gã đã cố tình gây ra vụ tráo đổi xác đầy
tính bi hài này. Và câu chuyện nhầm lẫn hết sức phi lí ấy chẳng biết sẽ đi đến
đâu nếu anh con trai người thợ điện không đi lùng sục khắp các đám tang quanh
vùng để tìm cha. Khi biết cha mình bị người ta nhầm là thiếu tướng và cử hành
tang lễ rất long trọng, anh đã kiên quyết đòi cha về và không cho kẻ nào đụng
đến linh cữu của cha để lấy lại quan tài kính và các thứ phụ trang của thiếu
tướng. Vì vậy ông “thiếu tướng rởm” mới được đưa đến chôn ở khu nghĩa địa
này và gây sự hiếu kỳ cho tất thảy đám ma trong khu nghĩa địa.
Câu chuyện cứ đan xen thực- ảo, cõi người- cõi ma lẫn lộn. Cõi người
chính là hiện thực nực cười chua chát của việc nhầm lẫn thân nhân vị tướng.
Một người quyền cao chức trọng là thế, một vị quan chức nhà nước tai to mặt 68
lớn được trọng vọng như vậy mà thực chất khi chết lại hết sức cô đơn, cô độc.
Ông ta đã bị lãng quên ngay từ giây phút nằm lại nơi nhà xác lạnh lẽo. Đến
nghĩa cử cuối cùng là được người thân chăm chút hình hài cho sạch sẽ, thơm tho
trước khi sang thế giới bên kia ông cũng không được hưởng. Về nghi thức, tang
lễ của ông được tổ chức cực kỳ long trọng, linh đình, có cả một ban bệ đến vài
chục người lo tổ chức đám tang, có cả một vị trung tướng lên đọc điếu văn bằng
giọng nghẹn ngào đến rơi nước mắt, có hàng đoàn người quân phục uy nghiêm
đến viếng, có lính uy nghi bồng súng, chung quanh đèn nến tựa sao sa, cờ quạt
buông rủ. Đăc biệt ông thiếu tướng có một gia quyến đuề huề: hai bà vợ và một
lũ con cháu vài chục người khăn xô mũ mấn trắng lóa sắp hàng một dãy bên
quan tài. Nghiã là đây là một đám tang cấp nhà nước cực kỳ to tát. Nhưng
dường như cả thân quyến lẫn bạn bè thân bằng cố hữu đều quá chú trọng đến
hình thức lễ nghi với nhau mà không một ai thực tâm để ý đến người quá cố.
Bởi vậy từ khâu măc quần áo cho ông thiếu tướng đến khâu chuyển linh cữu đến
hội trường, rồi viếng thăm không một ai nhìn đến dung nhan người quá cố lấy
một lần. Và vì vậy không một ai thắc mắc về sự thay đổi dung nhan người quá
cố, không một ai biết sự nhầm lẫn đã xảy ra. Ai cũng cố tỏ ra thương tiếc thành
thực, hai bà vợ và đám con cái “đang mải nhìn vào nỗi đau trong lòng, hay mải
giữ lễ với ông cả bà lớn đến viếng nên chưa một lần liếc mắt đến tôi? Hay tôi
không phải tôi nữa?”. Cứ lũ lượt những đoàn người sang trọng với những bộ
mặt buồn bã diễu hành, những cặp mắt âu sầu lơ đãng lướt qua linh cữu tưởng
chừng bất tận mà tịnh không một ai nhận ra sự nhầm lẫn nực cười ấy. Người
chết nằm trong quan tài chắc hẳn thấy tuyệt vọng, bất mãn, chua chát, đau đớn
và cô đơn lắm khi ở giữa đám đông, khi mình là chủ nhân của buổi lễ mà không
một ai thực tâm để ý đến mình. “Họ chỉ bận lo kê cho chắc, đặt hoa cho đẹp,
hương đốt cho đượm, tịnh không ai nghi ngờ chút gì”. Đến nỗi người bị nhầm
lẫn thấy ngán ngẩm, bất bình thay cho ông thiếu tướng: “Ông thiếu tướng kia ơi,
nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở đây
không ai cần ông, không ai thực sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh mất
vinh hạnh mà chính thực tôi gánh chịu nỗi bất hạnh cho ông đó”. Thái độ của
người đóng vai nhầm lẫn cũng chính là thái độ của nhà văn trước những vấn đề
của hiện thực xã hội đương thời. Hiện thực này phải chăng cũng là sản phẩm của
nền kinh tế mở khi mà tình người ngày một ít đi. Người ta thích quan tâm đến vẻ 69
bề ngoài, trọng hình thức hơn là nội dung bên trong. Người ta thích thể hiện cái
vẻ hào nhoáng để người khác nhìn vào hơn là phải sống thực với lòng mình.
Đấy cũng là hiện thực xô bồ của tiền tài danh vọng, chức tước đầy chua chát
trong xã hội hiện đại.
Còn thế giới ảo trong truyện chính là cõi ma. Nơi đó những hồn ma cũng
đi lại nói năng, kháo chuyện như khi họ còn sống. Cõi ma cũng có luật lệ, lề lối,
đẳng cấp, thứ bậc. Họ cũng sống và sinh hoạt theo họ hàng, làng xóm…Nghĩa là
mọi thứ của họ giống hệt như cõi người. Nói cách khác thế giới nhân vật ảo
trong cõi ma thực ra là để nói cõi người nhằm tô đậm thêm hiện thực cuộc sống,
hiện thực xã hội mà nhà văn hướng đến. Đó là hiện thực về tình thân, tình làng
nghĩa xóm, cả những vấn đề muôn thủa “ma cũ bắt nạt ma mới”, hiện thực về
thứ hạng, cấp bậc trong xã hội, cả hiện thực nóng bỏng về chuyện tham nhũng,
đút lót và đủ các khoản phí… Tất cả những vấn đề hiện thực mà Đoàn Lê phản
ánh trong tác phẩm đều là những vấn đề nóng hổi đang tồn tại trong xã hội hiện
đại gây nhức nhối lòng người. Những vấn đề ấy được nhà văn thể hiện dưới thủ
pháp lạ hóa-cõi âm khiến câu chuyện trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn. Nói như lời
nhận xét của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú thì “Đoàn Lê nghi có mầm bệnh ung
thư trong người, người ốm mới dám viết những chuyện ma quái khủng khiếp
như vậy”.
Khi xây dựng nhân vật, Đoàn Lê rất chú trọng đến yếu tố kỳ ảo, dù đó là
nhân vật hiện thực hay nhân vật ảo. Với nhân vật hiện thực, yếu tố kỳ ảo xuất
hiện dưới dạng những giấc mơ hoặc những niềm tin tâm linh. Nhân vật của
Đoàn Lê thường đeo đẳng những giấc mơ về hạnh phúc với niềm tin tâm linh sẽ
có điều kỳ diệu xuất hiện. “Chờ nhật thực” là truyện như thế. Bằng trí tưởng
tượng phong phú, nhà văn đã sâu chuỗi một câu chuyện tình qua nhiều kiếp ở
hai phương trời khác nhau. Câu chuyện được bắt đầu bằng một đêm nhân vật
“tôi” “Chờ nhật thực”. Anh thắp hương trên bàn thờ người trinh nữ đoản mệnh
của anh và tin tưởng chắc chắn rằng nàng sẽ về cùng anh đón nhật thực. Rồi
trong không gian đượm mùi hương mơ màng, anh tưởng tượng kiếp trước của
anh và nàng. Nàng chính là một nữ tướng con một vị võ quan đã quên mình cứu
công chúa.. Trước khi quên thân nàng không khỏi day dứt về tấm tình mà chàng
đã dành cho mình, nàng cầu xin trời đất kiếp sau cho mình được đền đáp chàng.
Cảm động về sự thủy chung đó, trời đất đã cho họ gặp lại nhau dưới hình hài 70
hôm nay. “Em cũng là Hoa như ngày xưa, em chỉ được hưởng dương đến năm
19 tuổi, xin chàng đừng thương tiếc một kiếp trinh nữ bạc phận…Duyên số của
em với chàng là thế. Chúng ta khao khát mãi trong vòng luân hồi nhân gian.”
Niềm tin tâm linh giống như một cứu cánh tinh thần giúp con người vượt qua
nỗi cô đơn và tiếp tục hy vọng vào cuộc sống, vào tình yêu. Yếu tố huyền ảo
được sử dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng
của con người đồng thời cũng tô đậm những yếu tố hiện thực và lịch sử của tác
phẩm.
Thế giới nhân vật ảo của Đoàn Lê còn một kiểu nhân vật đặc biệt gần như
là nhân vật dị hình. Khi xây dựng kiểu nhân vật này, Đoàn Lê đã có sự gặp gỡ
với truyện cổ dân gian (mô típ xấu xí dị dạng ở Sọ Dừa, Chàng Cóc, Trương
Chi). Đặc điểm của loại nhân vật này là ngoại hình xấu xí. Đó là những con
người bị biến dạng về hình hài do sức ép của hoàn cảnh. “Lên ruồi” là truyện
ngắn tiêu biểu cho kiểu nhân vật này. Truyện kể về một nghệ sỹ nhào lộn có tuổi
ly dị vợ, muốn xin cấp một căn hộ nhưng không được giải quyết và bị biến
thành ruồi. Từ đó anh ta sống kiếp ruồi, nhưng trong cả kiếp sống này anh vẫn
không thoát được mối lo về chỗ ở, phụ nữ và vấn đề sinh tồn. Bằng trí tưởng
tượng phong phú, Đoàn Lê đã tạo ra một thế giới những nhân vật tưởng tượng
sinh động. Ở đó toàn bộ thế giới người, dường như được nhà văn bê y nguyên
sang thế giới ruồi để phản ánh nhiều vấn đề nhức nhối của hiện thực xã hội: vấn
đề nhà đất và rộng hơn là vấn đề cư trú của con người hiện đại. Trong thời buổi
đất chật, người đông, kiếm được một chỗ chui ra chui vào không phải dễ. Thậm
chí đến hơn 40 năm trong nghề diễn viên xiếc, già nửa đời người đã phấn đấu và
cống hiến cho nhà nước, nay vì li thân vợ không có chỗ ở người nghệ sỹ muốn
xin cấp nhà ở mà dăm lần bảy lượt không xong, ông đề đơn lên tận Bộ trưởng
cũng không được giải quyết còn bị biến thành ruồi. Trong khi đó biết bao nhiêu
kẻ lợi dụng chức quyền được cấp đến ba lần nhà ở. Trong kiếp sống Ruồi, người
nghệ sỹ ấy tưởng sẽ thoát khỏi vòng thống khổ của đơn từ nhà đất, cùng hàng
loạt những mối dây giàng buộc phức tạp khác của kiếp nhân sinh nhọc nhằn. Ai
dè, trong kiếp ruồi ông vẫn phải tham gia các đại hội – Đại hội khối ruồi nhà đất
– nơi tụ họp những người trong giới văn nghệ sỹ nghèo kiết của ông, nơi ấy tất
cả mọi người đều không có nổi một chỗ chui ra chui vào, đâm đơn xin xỏ khắp
nơi và rồi đều bị biến thành ruồi tuốt. Trong kiếp ruồi tất thảy họ đều bất bình và 71
tìm cách trả thù theo cách của họ những kẻ “sâu mọt” chuyên lợi dụng chức
quyền để trục lợi trong khi biết bao người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho
nhà nước mà vẫn không có nổi một chỗ dung thân. “Ruồi nhào lộn” ban đầu
tưởng rằng không còn một nhu cầu vật chất nào đè nặng tâm tư, cũng không có
chuyện lừa lọc phụ bạc, ngoại tình ly hôn, oán trách, do vậy sẽ không có tòa án,
nhà tù ruồi, không có chiến tranh trận mạc, chỉ còn mỗi việc sống vui vẻ. Nhưng
rồi khi nghĩ đến quy luật sinh tồn trong tự nhiên con nọ ăn thịt con kia, với họ
nhà ruồi ban ngày tránh các loài chim chóc trên cao, cóc nhái, thằn lằn ở dưới
đất, bụi cỏ, ban đêm dơi nhện thạch sùng thì anh ta lại ớn lạnh cả xương sống.
Rốt cục ngay cả khi sống trong kiếp ruồi anh ta vẫn cần một nơi trú ẩn an toàn.
Và vẫn cần có đàn bà bên cạnh. Thật là một cái vòng lẩn quẩn. Trong kiếp ruồi
anh còn gặp Ruồi thứ trưởng, Ruồi trưởng phòng, Ruồi giám đốc, Ruồi Bộ
trưởng.. “không chóng thì chày ruồi ra chật đất. Chật đất ruồi, rồi chính anh lại
phải chuyển sang kiếp khác”.
Viết về thế giới ruồi, Đoàn Lê đã bê nguyên xi cõi người lên cõi ruồi. Bởi
vậy tất cả những rắc rối mà người nghệ sỹ nhào lộn gặp phải trong cõi người thì
khi lên cõi ruồi anh lại phải đối mặt với chính những vấn đề ấy: đó là vấn đề nhà
ở, vấn đề phụ nữ, vấn đề mưu sinh. Cõi người anh từng thấy rất nhiều những
chuyện tiêu cực, chuyện tham nhũng của những kẻ lạm dụng chức quyền thì lên
cõi ruồi anh lại gặp họ cũng tham lam vô lý như thế.
Thông qua hệ thống nhân vật dị hình Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết
được rất nhiều vấn đề hiện thực đời sống, hiện thực xã hội làm nhức nhối lòng
người. Rất nhiều nhân vật trong tác phẩm khiến nhiều kẻ giật mình, tái mặt khi
nhìn thấy bóng dáng của mình trong đó. Ở phương diện này tác phẩm của Đoàn
Lê có ý nghĩa như một hồi chuông cảnh tỉnh với những kẻ bàng quan vô trách
nhiệm trước lời kêu cứu của con dân, đặc biệt là những kẻ chuyên lợi dụng chức
quan để tham nhũng, thao túng đất đai trục lợi. Đồng thời cũng thể hiện sự đồng
cảm sẻ chia chân thành với cuộc sống còn bộn bề những khó khăn, thiếu thốn
của giới văn nghệ sỹ đương thời.
Xây dựng nhân vật ảo, nhà văn đã sử dụng các thủ pháp huyền ảo. Thủ
pháp này được nhà văn “mượn” từ hình thức nghệ thuật của văn học dân gian.
Những yếu tố flolklore được nhà văn sử dụng khá đậm đặc và hiệu quả, trong đó
môtíp biến hóa được nhà văn sử dụng thành công. Đó chính là sự chuyển kiếp 72
của nhân vật: từ kiếp người chuyển sang kiếp ruồi. Sự chuyển kiếp này giống
với những truyện cổ tích về các con vật (Sự tích con muỗi). Nhưng khác với
những truyện cổ, sự chuyển kiếp này là sự giải thoát khỏi những rắc rối, khổ sở
đời thường của nhân vật hay đậm thêm một hiện thực nào đó chứ không phải để
giải thích nguồn gốc một loài vật như trong truyện cổ tích.
Tóm lại khi khắc họa nhân vật ảo với thủ pháp ảo, nhà văn đã làm cho ý
nghĩa cuả tác phẩm nâng lên nhiều lần. Vì vậy cùng viết về một hiện thực như
thế nhưng truyện của Đoàn Lê bao giờ cũng có sức cuốn hút lay động lòng
người. Cái không khí hư hư thực thực vừa thể hiện sinh động hiện thực lại vừa
giúp nhà văn mở rộng, khắc sâu những tầng ý nghĩa của tác phẩm.
73
CHƢƠNG III.
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
1. Cốt truyện
Cốt truyện là cái lõi diễn biến của hành động truyện từ lúc xảy ra đến khi
kết thúc, là cái tóm tắt những điểm chủ yếu làm thành một câu chuyện ngắn hơn
nhiều lần so với toàn tác phẩm. Cốt truyện giúp nhà văn tổ chức, sắp xếp các sự
kiện biến cố theo một trình tự hợp lý để thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác
phẩm. Nhờ cốt truyện mà truyện có khả năng chứa đựng một nội dung khá lớn
mà không bị rơi vào tình trạng rối rắm. Cốt truyện còn là một hệ thống những
biến cố, sự kiện được hình thành từ các hành động nhân vật, từ sự vận động của
không gian thời gian của cái được nhà văn miêu tả. Cốt truyện được tạo nên là
do hành động của các nhân vật. Có hành động bên ngoài và cũng có hành động
bên trong nên cũng có cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Trong tác phẩm,
cốt truyện thực hiện một vai trò đặc biệt: liên kết các mối quan hệ giữa các nhân
vật, tổ chức sắp xếp các sự việc xảy ra trong truyện. Ở dạng này hay dạng khác
bao giờ cốt truyện cũng là cái “cốt lõi của văn tự sự”. Cốt truyện của truyện
ngắn có nhiều điểm khác biệt so với cốt truyện của tiểu thuyết. Truyện ngắn gần
với tiểu thuyết ở hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời nhưng điểm khác
biệt giữa hai thể loại này là ở “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại, tác giả
truyện ngắn thường hướng tới sự khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét
bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người”[59, 240].
Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa những điều thú vị, sâu sắc trong hình thức nhỏ
xinh, gọn ghẽ. Đây là thể loại văn học có nội khí “một lời mà thiên cổ, một gợi
mà trăm suy”. Đó là một “thể loại có đẳng cấp tinh vi và toàn bích” của văn học.
Cốt truyện của truyện ngắn cũng phụ thuộc khá nhiều vào hình thức thể loại. Vì
ngắn nên cốt truyện phải đảm bảo tính trọn vẹn của nội dung lẫn hình thức.
Muốn vậy, cốt truyện của truyện ngắn ngoài đặc điểm nổi bật là hấp dẫn, nó còn
có chức năng “nhận ra cái gì đó”[59, 240]. Từ những năm 1986, thực tiễn văn
học đã chứng minh cái gây nên sự hấp dẫn lôi cuốn ở truyện ngắn không phải là
tình huống ly kỳ, độ căng của những cảnh ngộ éo le mà ở chỗ truyện ngắn đã
hướng đến những tình huống đời thường, đi vào chiều sâu tâm hồn con người.
Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở
thành yếu tố thúc đẩy cốt truyện. Truyện ngắn từ sau đổi mới có khuynh hướng 74
tự nới rộng, tự vượt thoát khỏi khung thể loại. Nó phong phú hơn trong hình
thức diễn đạt, đa dạng hơn ở nội dung phản ánh, tự do hơn ở cách thức dựng
truyện. Có những cốt truyện đầy kịch tính. Cũng có những cốt truyện nghèo sự
kiện nhưng giầu tâm trạng. Có những cốt truyện rõ ràng, có mở đầu, có kết thúc.
Cũng có những cốt truyện có cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Có những
truyện phản ánh hiện thực cuộc sống hôm nay, cũng có những truyện có cốt
truyện huyền ảo, cổ tích…Tất cả những dạng thức ấy đều nhằm phân tích lý giải
những vấn đề phức tạp của con người và của cuộc sống hiện đại.
Cốt truyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê không nằm ngoài những đặc
điểm của cốt truyện trong truyện ngắn hiện đại. Truyện của bà đa số là những
truyện hiện đại nên bên cạnh những yếu tố truyền thống, cách xây dựng cốt
truyện của nhà văn còn có những yếu tố mới mẻ, cách tân. Càng về sau bà càng
xây dựng những truyện ngắn theo mạch suy ngẫm tình cảm của con người theo
kiểu cốt truyện tâm lý, cốt truyện triết lý nhân sinh. Khảo sát toàn bộ truyện
ngắn của Đoàn Lê thấy có hai kiểu cốt truyện cơ bản nhà văn thường sử dụng:
truyện có cốt truyện và cốt truyện dòng ý thức.
1.1. Truyện có cốt truyện (cốt truyện truyền thống)
Cốt truyện có vai trò vô cùng quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Cốt
truyện thể hiện tài năng, phong cách, quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Cốt truyện góp phần tạo nên sức mạnh thuyết phục của chủ đề và tư tưởng tác
phẩm. Nếu cốt truyện sơ lược nhàm chán , nhạt nhẽo thì sự hoạt động của tính
cách cũng trở nên buồn tẻ, chủ đề tưởng của tác phẩm sẽ trở thành một thứ lý
thuyết suông, hoàn toàn áp đặt với người đọc. Bởi thế sức hấp dẫn chủ yếu của
tác phẩm chính là ở cốt truyện: ở các sự kiện, biến cố, tình tiết của truyện. Trong
tác phẩm, hệ thống sự kiện được xây dựng theo yêu cầu của việc khẳng định rõ
nét các tính cách qua một quá trình diễn biến của cuộc sống. Những diễn biến đó
có thể yên ả, bình lặng, là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của cuộc sống: cái
xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới, sự sống và cái chết, tích cực và tiêu cực…Cuộc
đấu tranh đó diễn ra trong từng con người, từng sự vật, hiện tượng, có khi giữa
các nhóm người, giai cấp dân tộc. Đó chính là các xung đột xã hội. Miêu tả một
cách nghệ thuật sự vận động của những tính cách qua những xung đột xã hội ấy
để nêu bật chủ đề- tư tưởng của tác phẩm. Đối với những truyện có cốt truyện
thì việc chỉ ra được cốt truyện để làm nổi bật chủ đề tư tưởng, những điều mà 75
nhà văn gửi gắm qua mỗi trang viết của mình lại càng cần thiết hơn. Nói như
nhà văn Nga A. Tônxtôi thì “Cần tìm cho được cốt truyện. Đôi khi xảy ra trong
chốc lát vài giây thôi nhưng giống như một thứ thuốc thử đậm đặc, những cốt
truyện hay có khả năng khiến cho những tư tưởng, những quan sát và hiểu biết
chồng chất, hỗn loạn hiện ra thành lớp lang rành mạch” [67, 103]. Đa số truyện
ngắn của Đoàn Lê là truyện có cốt truyện. Đây là kiểu truyện truyền thống rất
phổ biến trong văn học của ta. Tuy nhiên kiểu cốt truyện này khi đi vào sáng tác
của Đoàn Lê không còn cứng nhắc, nghiêm ngặt kiểu có đầu cuối rõ ràng nữa
mà đã biến đổi hết sức sinh động, linh hoạt nhằm phát huy tối ta vai trò của nó
trong việc bộc lộ tính cách, tái hiện các xung đột xã hội, thể hiện tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn. Bởi thế trong những cốt truyện này, nhà văn thường tạo ra
được hệ thống các sự kiện, biến cố có kịch tính, diễn biến theo trình tự của sự
kiện để tâm lý tính cách nhân vật được bộc lộ. Truyện ngắn Đoàn Lê hấp dẫn
người đọc không phải ở những tình huống gay cấn, ly kỳ mà ở chính những vấn
đề nảy sinh trong cuộc sống con người thời đổi mới. Đó là sự thay đổi nếp cảm,
nếp nghĩ, thói quen, lối sống của con người do sự hiện đại hóa của đồ vật, vấn
đề sốt đất do mở đường cao tốc, phá hang làm khu du lịch, cơn sốt lấy chồng
ngoại, vấn đề tình yêu, hạnh phúc, vấn đề mưu sinh...( Xóm Chùa Ông, Đất xóm
Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa, Thành hoàng làng xố số, Tình
Guột, Dấu hỏi gửi thượng đế…)
Truyện ngắn Xóm Chùa Ông được xây dựng dựa trên một chuỗi những sự
kiện làm biến đổi nếp cảm, nếp nghĩ, tâm lý thói quen của người dân nơi một
xóm nhỏ ở ngoại ô thành phố cũng như ở tất cả những vùng quê nghèo dưới sự
tác động của nền kinh tế mở. Sự kiện đầu tiên gây trấn động tâm lý người dân
xóm Chùa là sự xuất hiện của chiếc cát-sét của ông Sĩ Duệ nơi xóm Chùa Ông.
Chiếc cát-sét tham dự vào nhiều hoạt động của đời sống, trước hết là trong đám
cưới, tiếp đến là đám ma với đủ các băng khóc cha khóc mẹ, băng dành cho con
rể, con dâu, con nuôi, cả những băng chuông mõ, tụng kinh niệm phật dành cho
đối tượng đang thập tử nhất sinh... Tiếp đến là sự xuất hiện chiếc ti vi đầu tiên
nơi doanh trại bộ đội bên kia sông mang về. Dù cách xa đến ba cây số nhưng
dân thôn cả xóm không đêm nào không lũ lượt kéo nhau đi xem khiến xóm
Chùa Ông vắng ngắt vắng ngơ. Sự kiện đặc biệt làm xôn xao cả làng trên xóm
dưới là sự kiện bà Chiu bán rượu nếp trên phố bị người tây móc vào và được đền 76
bù tới 400 đô la khiến nhiều người ao ước được như bà. Câu chuyện khép lại
bằng hình ảnh lão Bạch mù- người duy nhất của xóm Chùa không bị cuốn vào
cơn lốc của sự đổi thay mang cây đàn bầu ra gẩy khúc nhạc quê hương. Cốt
truyện là một chuỗi những sự kiện được kể bằng giọng văn ngỡ như bình thản,
lạnh lùng mà đằng sau chứa bao bùi ngùi tiếc nuối của nhà văn. Còn đâu xóm
Chùa ngày xưa nữa, Xóm Chùa giờ đã thay đổi từ cội rễ, không còn cảnh sống
bình yên thủa trước nữa. Kết thúc mở của tác phẩm gợi cho người đọc biết bao
suy tư, trăn trở.
Trong truyện Đất xóm Chùa, cốt truyện lại xoay quanh việc tái hiện cơn
“sốt đất” của xóm Chùa do việc mở đường cao tốc qua làng. Câu chuyện bắt đầu
bằng sự kiện cô gái lai tây tên Mừng chuyên hủ hóa với trai làng rồi quy đổi ra
gạo. Đó là kết quả của nền kinh tế thị trường với liên doanh thương mại, mọi thứ
phải được trả giá sòng phẳng, không có tiền thì quy đổi ra gạo. Rồi tác giả quay
ngược thời gian về trước ba năm để kể về cơn sốt đất của xóm Chùa. Nó được
bắt đầu bằng việc hai anh chàng trên tỉnh về đo đạc cắm cột mốc nói rằng đường
cao tốc sẽ đi qua làng, thế là cả làng rộ lên. Cả làng ngã ngửa người ra khi thằng
Hà bán đầm mực của làng với giá cắt cổ. Chỉ trong vòng nửa tháng cả làng mắc
dịch “sốt đất”: bố con, vợ chồng, anh em, hàng xóm láng giềng đánh cãi chửi
nhau tranh chấp vài tấc đất. Không ai thiết làm ăn gì nữa, chỉ nháo nhác chuyện
mua bán đất. Nhà nào cũng cố co lại cho thật bé, thật hẹp để dư tí đất bán. Trong
chuỗi những sự kiện đó nhà văn chọn một sự kiện tiêu biểu lấy làm điểm nhấn
để làm nổi bật chủ đề-tư tưởng của thiên truyện. Đó là câu chuyện cuộc đời lão
Hớn- người chuyên sản xuất tiền vàng đô la âm phủ. Lão nghèo nhưng có hẳn
bốn bà vợ và mười hai người con. Trong cơn sốt đất lão “gom cư dân” lên hết
nhà trên để cắt nhà ngang cùng nửa khoảnh sân bán cho gã buôn ngoài tỉnh với
giá ba cây, định dùng tiền để mua chỗ khác “giãn dân”. Nhưng trong cơn sốt đất,
lão chẳng tìm đâu được mảnh đất với giá tiền ấy. Lão buột miệng ao ước “Để có
rẻo mặt đường dưới âm, cần phải chết sớm tôi xin chết ngay”. Sau khi biết
chuyện mất ba cây vàng lão đã treo cổ tự vẫn, kết thúc cuộc đời khổ cực tăm tối
của mình. Kết thúc tác phẩm của Đoàn lê thật buồn thảm bi ai như chính hiện
thực cuộc sống mà nhà văn chứng kiến. Sau kết thúc này nhà văn như muốn
gieo vào lòng người đọc những ám ảnh về hiện thực cuộc sống ở những vùng
nông thôn trước tốc độ đô thị hóa của nền kinh tế thị trường. Không biết nông 77
thôn với những nét nhân bản đáng quý sẽ đi về đâu trước cơn lốc của sự đổi thay
đó?
Trinh tiết xóm Chùa cũng là một cốt truyện đặt ra được nhiều vấn đề của
hiện thực làm nhức nhối lòng người. Cốt truyện xoay quanh một chuỗi sự việc
làm nổi bật chủ đề “cơn sốt lấy chồng ngoại” đang rộ lên ở làng quê bấy giờ.
Mọi chuyện bắt đầu từ việc cô Khờ, cháu cụ mõ, con ông chủ tịch bị người dụ
dỗ bán vào lầu xanh tận Hồng Kông. Ở đó Khờ đã gặp được người giầu có gửi
tiền vàng về xây nhà lầu, cải táng mộ phần cho các cụ. Lần này về chơi mục
đích của Khờ là tuyển con gái đem xuất ngoại. Tiêu chuẩn phải xinh xắn, dễ coi
trẻ khỏe, đặc biệt các chị em phải “còn xịn”. Khờ định tuyển một giàn gái đẹp để
kinh doanh “trinh tiết” của họ kiếm lời nhưng núp dưới hình thức môi giới lấy
chồng ngoại. Câu chuyện của Khờ làm bà Duệ đau đớn đến tan nát cõi lòng vì
tiếc của. Con Hoa nhà bà xinh nức tiếng làng xã vừa tuổi mười tám, giá nó
không bị thằng phó nháy ngoài phố “làm thịt” thì giờ cái Hoa đã thành mỏ vàng
nhà bà. Nghe chuyện của Hoa, Khờ rỉ tai bà Duệ khiến bà sửng sốt “dì thu xếp
cho con một khoản kha khá con có đường dây bí mật đưa em Hoa đi sửa sang
lại… đến một cơ sở y khoa đặc biệt ở đó người ta nhận vá, người ta tân trang
nguyên làng như cũ. Tân trang song con gái đã hư cũng trở thành “xịn”, lại rác,
lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết y khoa” ấy”. Ôi chao, còn đâu
xóm Chùa ngày xưa nữa! Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu
đưa ma túy ,ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền. Vì tiền người ta có thể
đổi trắng thay đen, chà đạp cả thuần phong mỹ tục, hủy hoại cả nét nhân bản
vốn quý ngàn đời của dân tộc. Truyện khép lại trong cảnh ông Sĩ Duệ - bố Hoa
khi biết được câu chuyện của con gái đã “xây xẩm mặt mũi, ngã lăn vào lòng lão
Bản. Hai tay ông vẫn chới với muốn níu giữ cái gì vô hình đang vuột mất”. Cái
vô hình đang vuột mất kia phải chăng chính là những nét nhân bản truyền thống
vốn quý của làng quê khi chưa bị sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường, chưa
có sự chi phối của đồng tiền. Viết về hiện thực xóm Chùa cũng là hiện thực
nông thôn thời mở cửa, hầu hết những cốt truyện của Đoàn Lê đều đưa ra một
chuỗi những sự kiện, biến cố làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Những
sự kiện, biến cố ấy không xoay quanh một nhân vật chính duy nhất như nhiếu
cốt truiyện của truyện ngắn khác mà gắn nối với nhau bằng một sợi dây vô hình
78
là chủ đề tác phẩm. Kết thúc của những cốt truyện ấy thường là lối kết thúc mở
gợi ra được những dư vị thấm thía cho lòng người.
Cốt truyện Thành hoàng làng xổ số lại xoay quanh cuộc đời, số phận của
nhân vật lão Khiển –một kẻ đam mê số đề đến mức “ngộ độc” chết một cách
thảm thương. Nguyên nhân lão đến với số đề có phần hợp lý, chơi để cất lại căn
nhà xiêu vẹo hiện tại và đặc biệt cải táng những ngôi mộ sắp trôi sông của tứ
thân phụ mẫu. Vì thế mỗi tháng lão cố tằn tiện số lương văn thư ít ỏi vừa đủ mua
một tấm vé số để cầu may. Dịp đó dường như thần tài đã thấu hiểu cảnh ngộ của
lão mà cho lão trúng giải sáu được bảy trăm đồng. Từ đó lão Khiển càng quyết
tâm lao vào xổ số, lão Khiển mua xổ số như điên, cứ có đồng nào trong túi lão
mua tuốt như con bạc khát nước. Rồi lão mất xe, mất việc và mất luôn cả gia
đình, dù lang thang lão vẫn xoay mọi cách để có tiền mua xổ số như bơm xe,
giúp việc cho bà góa...Về sau kiếm ăn không nổi, lão chơi xổ số bằng tưởng
tượng rồi bị “ngộ độc” và chết đau đớn. Với hình hài chỉ còn xương bọc da, lão
Khiển đã chết đau, chết đói, chết rét, chết cô độc trên đường tìm về nhà. Khác
với những cốt truyện trước, ở cốt truyện này nhà văn xây dựng rất nhiều biến cố,
sự việc quanh cuộc đời lão Khiển để làm nổi bật ý nghĩa phê phán hiện thực xã
hội một thời ở nước ta. Hiện thực về sự phát triển ồ ạt của nền kinh tế thị trường
kéo theo nó hàng loạt những vấn nạn. Một trong những tệ nạn bùng phát mạnh
mẽ nhất ở khắp các vùng từ nông thôn đến thành thị khiến người dân không thiết
tha làm ăn gì là nạn cờ bạc, số đề. Tệ nạn ấy không những đẩy bao gia đình vào
cảnh nhà tan, cửa nát mà còn cướp đi mạng sống của bao người, làm đảo điên xã
hội, suy thoái nền kinh tế. Hiện thực ấy được nhà văn thể hiện sâu sắc qua cuộc
đời số phận của một con người.
Những truyện có cốt truyện của Đoàn Lê luôn ẩn chứa những vấn đề hiện
thực sâu sắc gây ám ảnh lòng người. Những cốt truyện ấy thường không đao to
búa lớn mà tự nhiên dung dị nhưng lại hàm chứa những ý nghĩa thật sâu sa.
Những vấn đề hiện thực mà nhà văn phản ánh qua mỗi cốt truyện ấy đều là
những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, những vấn đề làm nhức nhối lòng người:
vấn đề “sốt đất” do mở đường cao tốc (Đất xóm Chùa), cơn sốt lấy chồng ngoại
(Trinh tiết xóm Chùa), vấn đề mở khu du lịch sinh thái dởm (A Tourism xóm
Chùa), nạn cờ bạc số đề (Thành hoàng làng xổ số)…và rất nhiều vấn đề hiện
làm nhức nhối lòng người.
79
1.2. Cốt truyện tâm lý
Bên cạnh cốt truyện truyền thống, Đoàn Lê còn xây dựng một loại cốt
truyện nữa: cốt truyện tâm lý. Loại truyện này chủ yếu đi sâu vào thể hiện diễn
biến tâm lý nhân vật. Chất “chuyện” mờ nhạt, khó tóm tắt, khó kể lại. Truyện ít
có những chuyển động về hành động bên ngoài, nếu có cũng không tác động đến
cốt truyện bao nhiêu. Ở loại này, những nguyên tắc truyền thống dường như
biến hóa hơn. Các yếu tố sự kiện, tình tiết nhân vật được triển khai theo mạch
vận động, suy nghĩ là chủ yếu. Vì thế loại truyện này thường được cảm nhận
bằng suy nghĩ tâm trạng nhân vật hơn là những câu chuyện được tường thuật.
Dẫu vậy, cốt truyện tâm lý vẫn thể hiện đầy đủ “hệ thống tính cách” và “những
xung đột xã hội” mà một tác phẩm tự sự cần có. Hệ thống sự kiện của tác phẩm
được sắp xếp theo dòng tâm lý nhân vật xung đột chủ yếu là xung đột tâm lý.
Cốt truyện tâm lý đã được một số nhà văn Việt Nam khai thác thành công
từ những năm 1930-1945. Truyện thường không có cốt truyện gì đáng kể, sự
kiện, biến cố là yếu tố cầu nối để nhà văn khai thác tâm lý nhân vật với những
biến động tinh vi, chứa đựng những day dứy và ám ảnh. Tiêu biểu là những
truyện như Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Đứa con đầu
lòng, Tiếng chim kêu của Thạch Lam hay Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn…của
Nam Cao. Nhưng phải đến văn học giai đoạn sau đổi mới, kiểu cốt truyện này
mới thực sự nở rộ. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã lý giải về bản chất truyện
này như sau “Có những người viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến
bên ngoài, hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên trong, vào
cái mà nhân vật thu nhận được bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại,
bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện ngắn mà
ta thgường gọi là truyện ngắn không có truyện, chẳng qua chỉ là một thủ đoạn
văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp tiếp xúc với
người đọc” [11, 256]. Đây là loại truyện có “cốt truyện bên trong” tức cốt truyện
tâm lý diễn tả những tâm trạng điển hình của nhân vật.
Cốt truyện tâm lý của Đoàn Lê thường xuất hiện hai kiểu xung đột: xung
đột giữa hoàn cảnh và tính cách; xung đột giữa tính cách với nhau. Những xung
đột này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Xung đột còn giúp tác
phẩm trải qua các giai đoạn phát triển của cốt truyện, từ đó chủ đề tác phẩm 80
được sáng tỏ. Có những tác phẩm toàn bộ cốt truyện diễn ra bằng mạch phát
triển tâm lý của nhân vật như truyện Giường đôi xóm Chùa, Đêm ngâu
vào…Cốt truyện Giường đôi xóm Chùa được phát triển bằng mạch ngầm tâm lý
của nhân vật “Tôi”. Đó là một người phụ nữ đã từng có hai tám năm sống với
một người chồng không hoàn toàn hòa hợp. Vì không hòa hợp nên gia đình ấy
đã có bao phen sóng gió, tình cảm của họ đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền
không thể vá víu được nữa. Và họ quyết định chia tay nhau khi đã có con cháu
đủ đầy. Cốt truyện rất đơn giản, chỉ vài ba sự kiện tiêu biểu, chủ yếu là dòng ý
thức, dòng tâm trạng của nhân vật „tôi”. Thời gian cốt truyện chỉ trong một đêm,
trong một đêm nhân vật tôi nhớ lại câu chuyện của cả cuộc đời hai tám năm
chung sống với người chồng ấy. Câu chuyện bắt đầu từ tâm trạng của nhân vật
“tôi” trên chiếc giường đôi đầy kỷ niệm của hai người, giờ đã có sự xuất hiện
của người thứ ba xen vào làm tan nát mọi thứ. Từ đây mọi ý nghĩ của nhân vật
tỏa đi các ngả không theo một trật tự nào hết. Nó diễn ra theo mạch diễn biến lô
gích của suy tư. Đầu tiên là tâm trạng bàng hoàng của nhân vật “tôi” khi nhận
lời thú tội của người chồng bội bạc. Rồi từ trong tâm trạng bàng hoàng ấy, chị
nhớ lại những ngày đầu tiên khi anh ta thổ lộ tình yêu với chị, thật ngọt ngào và
lãng mạn. Chị nhớ lại quãng đời chung sống với anh ta: vui cũng lắm mà buồn
cũng nhiều, bao phen họ phải cố gắng giữ cho tổ ấm đứng vững trước sóng gió
muôn mặt của đời thường. Tiếp đó chị dự tính những việc phải làm sau khi chia
tay: chuyện con cái nhà cửa, chuyện căn phòng riêng của hai người…Trong
dòng suy nghĩ ấy, chị nhớ lại chuyện về con trai, ngày nó lấy vợ, chuyện về đứa
cháu nội- thiên thần bé bỏng của chị, chuyện niềm tin tâm linh vào những giấc
mơ của chị, chuyện về cuộc đời tủi cực, cay đắng của mẹ chị, chuyện về người
bạn trai tên Báu thủa nhỏ của chị…Dòng hồi ức đưa chị trở về với thời gian gần
nhất cách đây một tháng khi chị chờ chuyện ly hôn ngã ngũ, chị đã làm một
chuyến đến Quảng ninh làm một bộ phim tài liệu, cùng cuộc gặp gỡ với người
tình cũ của chồng và chuyến thăm đảo khỉ đầy ý nghĩa. Truyện khép lại ở cảnh
chị và chồng cùng trở mình khi gà đã gáy sáng. Có thể nói truyện không có cốt
truyện gì đặc biệt, toàn chuyện là dòng ý thức của nhân vật “tôi” nhưng nhà văn
vẫn đặt ra và giải quyết được rất nhiều vấn đề có ý nghĩa triết lý. Vấn đề về tình
yêu, hôn nhân. Hôn nhân chỉ thực sự hạnh phúc khi có sự đồng cảm sẻ chia, hòa
hợp của vợ chồng. Muốn làm được điều đó cả hai người cần phải luôn cố gắng 81
vun đắp cho tình yêu, làm mới tình yêu đề cuộc sống chung không rơi vào sự
nhàm tẻ.
Cốt truyện Đêm ngâu vào cũng xoay quanh dòng diễn biến tâm trạng của
nhân vật “tôi”- một họa sỹ. Câu chuyện bắt đầu bằng một chiều mưa ngâu người
họa sỹ ngồi lặng lẽ ngắm hình hài người thiếu phụ đang tiều tụy đi vì bệnh tật.
Từ hiện thực đó, dòng ý thức đưa anh trở về những tháng ngày qúa khứ. Đầu
tiên là mốc thời gian năm bốn mươi tuổi, anh mở một phòng tranh, tặng bức gạt
tàn cho một người đàn ông và nhận lại ba con khỉ gỗ. Những lúc anh phiền
muộn hay có tâm sự gì, ba con khỉ gỗ lại sẻ chia với anh. Rồi từ đó ký ức lại đưa
anh trở về những tháng ngày anh quen nàng đã hơn hai mươi năm về trước. Đó
là một ngày trời mưa định mệnh, sau ngày đó anh đã vĩnh viễn mất nàng . Sau
khi nàng bị con “cá mập” cướp đi, anh đã dọn về ở nhà nàng- anh vốn là con
nuôi của mẹ nàng. Anh đau đớn thấy mỗi lần nàng về thăm nhà lại thấy nàng
nhỏ bé đi. Căn bệnh quái ác đang dần cướp nàng khỏi cuộc đời, anh lặng lẽ ngồi
phác thảo nàng những ngày cuối mà nuốt thầm những giọt lệ vào trong. Sau khi
nàng qua đời , anh đặt bức vẽ dở dang vào góc bàn có những chú khỉ gỗ rồi
mừng rỡ đến nỗi “khóc nức lên, thật kỳ diệu!”. Toàn truyện dường như không
có chuyện, đó là dòng tâm trạng, hồi ức của nhân vật người họa sỹ. Truyện
không có nhiều tình tiết, biến cố ly kỳ nên rất khó tóm tắt hay kể lại. Cấu trúc
của truyện rất lỏng lẻo, đó là dòng ý thức nên nó nhảy cóc, biến hóa rất linh hoạt
rất phù hợp để thể hiện các sắc thái tâm lý, tình cảm của nhân vật người họa sỹ.
Tất cả là một nỗi hối tiếc, sót xa tràn ngập cõi lòng. Chỉ vì một phút giây do dự
mà anh đã để mất tình yêu và rồi mất luôn cả người yêu mãi mãi. Dư vị của sự
nuối tiếc thấm đẫm những trang văn của Đoàn Lê.
Những truyện loại này, sự sắp xếp các đoạn trong mỗi tác phẩm thường
không tuân theo thứ tự thời gian: có khi thuận theo chiều tuyến tính thời gian,
khi bị đảo ngược. Đây chính là lối lắp ghép liên văn bản trong nghệ thuật xây
dựng bố cục của nhà văn. Người đẹp xóm Chùa là một truyện ngắn rất tiêu biểu
cho lối lắp ghép liên văn bản này. Cốt truyện rất đơn giản nếu không muốn nói
là chẳng có gì đáng nói. Chuyện kể về một anh họa sỹ rất yêu quý, trân trọng cái
đẹp. Vì thế, anh đã dành hầu hết những tháng năm sôi nổi của thời trai trẻ để lưu
giữ cái đẹp bằng việc vẽ những bức tranh khỏa thân thiếu nữ và mở được một
triển lãm tranh với “hai mươi mùa xuân” để ca ngợi vẻ đẹp kỳ diệu của họ. Chỉ 82
tiếc những kẻ phàm tục không hiểu được những cái đẹp quý giá mà anh tôn thờ,
anh thấy sót xa cho cái đẹp. Rồi một hôm thằng bé anh vẫn nhờ trông cửa mỗi
khi anh làm việc đã tha thiết nài nỉ anh cho vay tiền và trả bằng việc cho em gái
nó làm mẫu vẽ cho anh. Người họa sỹ không muốn nhưng trước vẻ đẹp thiên
thần của cô bé anh đã vẽ như điên không chỉ cái vẻ bề ngoài mà cả phẩm chất
tâm hồn của cô bé ngoan hiếu thảo. Đó là bức vẽ anh dành định dành riêng cho
mình mà nếu chết anh sẽ tặng cho cô bé. Mạch truyện đang ở dòng cảm xúc của
người họa sỹ khi ngồi vẽ cô bé bỗng biến đổi linh hoạt nhảy cóc. Dường như
nhà văn xen vào kể một câu chuyện khác không liên quan gì đến mạch chuyện
chính. Chuyện về anh chàng bán tạp hóa có bức tranh khỏa thân do mua từ thiện
của một ông họa sỹ nghèo để lấy tiền chôn cất ông ta. Bức khỏa thân ấy lại là
mẹ cô gái bán bánh cuốn mà anh chàng bán tạp hóa yêu. Mẹ cô bé đang hấp hối,
rất mong được nhìn bức tranh của mình lần cuối. Khi nhìn bức tranh khỏa thân
cô như bị thôi miên, rồi cô đã đánh đổi cái quý giá nhất của đời người con gái để
lấy bức tranh khỏa thân thỏa ước nguyện của mẹ cô trước khi qua đời. Sau khi
mẹ mất, cô đã trả lại anh chàng tạp hóa bức tranh khỏa thân kèm một bức thư và
rời bỏ mảnh đất ấy. Anh chàng tạp hóa tìm đến nhà cô, anh hết sức ngạc nhiên
khi so sánh người đẹp trong tranh với bức ảnh người đàn bà già nua sầu muộn
“hai hốc mắt tối sẫm, cái sọ trơ xương”. Cuộc đời quá phũ phàng đã tàn phá xô
đẩy cái đẹp đến mức tiều tụy, xác xơ để bao người phải nghi ngờ “Hỡi ôi, cái
đẹp có thực hay không thực?”. Đấy cũng là tấm lòng xót xa cho cái đẹp của nhà
văn, cái đẹp vốn yểu mệnh. Nếu không được nâng niu, trân trọng, che chở, bảo
vệ cái đẹp sẽ nhanh chóng bị tàn phai trước sóng gió muôn mặt của cuộc sống
đời thường. Truyện khép lại trong cảnh nhân vật họa sỹ đối thoại với cô bé và
đánh dấu một nốt son lên bức tranh để chứng thực đã có một nhan sắc như thế đi
qua thế gian. Đây là cách kết thúc của kiểu truyện có bắt đầu mà không có kết
thúc. Kết thúc ngỏ mở ra nhiều khoảng trống để người đọc tự suy nghĩ, phán
đoán, tưởng tượng để lấp đầy. Bằng cách này truyện của Đoàn Lê đã phản ánh
hiện thực cuộc sống không chỉ đa dạng, bề bộn mà đang còn dở dang, một hiện
thực luôn trên dòng vận động không có dấu chấm cuối cùng.
Nhìn con người với diễn biến bên trong của dòng suy nghĩ, tâm trạng,
Đoàn Lê đã khám khá được chiều sâu của cuộc sống với nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Với cách khám phá con người tâm lý, con người tâm trạng, truyện ngắn của 83
Đoàn Lê hòa chung với dòng chảy của truyện ngắn hiện đại góp phần làm phong
phú thêm cho thể loại truyện ngắn này. Đồng thời cũng khẳng định được tên
tuổi của Đoàn Lê trong nền văn học đương đại.
1.3 Cốt truyện kỳ ảo.
Nhà văn Ngô Tự Lập đề xuất cách dùng thuật ngữ truyện kỳ ảo như sau:
“Truyện kỳ ảo đưa ra những sự kiện không thể giải thích nổi bằng những quy
luật thông thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và cái ảo, cái tự nhiên và siêu
nhiên xâm nhập lẫn nhau…” [75]. Ở thể loại truyện này, cái kỳ ảo là yếu tố cơ
bản tham gia vào dẫn dắt cốt truyện. Cái kỳ ảo là thủ pháp làm đậm thêm hiện
thực, soi chiếu những góc độ khác nhau của hiện thực. “Thế giới kỳ ảo không
phải ở ngoài, cũng không phải ở trên, cũng không phải ở dưới, nó ở trong đáy
lòng chúng ta, nó lay động đến tất cả, nó là linh hồn của tất cả sự thật, nó hiện
diện trong tất cả sự việc, mỗi nhân vật tự mình mang nó và biểu hiệh nó theo
cách của mình” [51, 117]. Cốt truyện ở thể loại này mang những yếu tố kỳ lạ, có
tính chất ảo, làm người đọc kinh ngạc, thích thú, thậm chí là sợ hãi. Cốt truyện
loại này, Đoàn Lê đề cập tới ở Nghĩa địa xóm Chùa, Lên Ruồi, Nhân Bản…
Cốt truyện Nghĩa địa xóm Chùa xoay quanh việc nhầm lẫn thân nhân của
một vị tướng với một tay thợ điện bậc ba đã về hưu. Từ tình huống vừa vui cười
vừa bi thảm ấy, Đoàn Lê đã tưởng tượng cả một cốt truyện phong phú , sinh
động về cõi âm. Cõi âm cũng tồn tại, sinh hoạt, đi lại, nói năng và tán chuyện
với nhau y như cõi người vậy. Tối tối khối cộng đồng đông đúc của cõi âm lại rủ
nhau đội mả chui lên mặt đất để sinh hoạt. Khối cộng đồng ấy đặc biệt sôi nổi
trong những đêm đón tiếp hồn ma mới. Họ cũng bầu thứ hạng, cấp bậc lo quản
lý khu nghĩa địa đâu ra đấy. Cả khu nghĩa địa đều nhao lên về chuyện hồn ma
nằm trong quan tài kính sắp được chôn ở khu nghĩa địa của họ. Rồi đám ma cũ
kéo nhau làm tình làm tội hồn ma mới, bắt anh ta tường trình toàn bộ chuyện
nhầm lẫn kia rồi họ mới chịu tản về các nơi sinh hoạt như thường ngày. Thông
qua câu chuyện cõi âm, nhà văn muốn làm đậm thêm một góc nhìn hiện thực:
hiện thực về các loại phí dịch vụ đang hoành hành trong xã hội hiện đại “tiền lót
tay tiêu cực phí”. Nếu không có khoản ấy “lót tay” cho bọn canh nhà xác, chúng
sẵn sàng làm cái việc mất hết nhân tính là tráo đổi xác người quá cố. Bên cạnh
đó còn hiện thực về tình thân, tình người đang bị xói mòn trước sức công phá
của đồng tiền với vẻ hào nhoáng bề ngoài, rồi chuyện đút lót, hối lộ, bợ đỡ, 84
chuyện “ma cũ bắt nạt ma mới”…Bằng cách tưưởng tượng một thế giới ảo,
Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết được rất nhiều vấn đề của hiện thực đời sống
thật chân thực và dí dỏm.
Cũng một cách giải quyết như vậy, ở truyện ngắn Lên Ruồi, Đoàn Lê đã
bê y nguyên hiện thực cõi người lên cõi ruồi. Nói cách khác, cõi ruồi cũng
thường tình như cõi người vậy. Cốt truyện xoay quanh cuộc đời, số phận của
một nghệ sỹ nhào lộn. Anh đã đóng góp gần trọn cuộc đời cho nghệ thuật, giờ
anh ly dị vợ không có chỗ ở, xin cấp một căn hộ theo tiêu chuẩn mà đi khắp các
cửa kêu xin đều không được giải quyết còn bị biến thành ruồi. Trong kiếp sống
ruồi, anh tưởng có thể giải quyết được tất cả những vấn đề bức súc trong cõi
người thì lại phải đối mặt với những vấn đề còn phức tạp hơn. Đó là vấn đề mưu
sinh, nhà ở, phụ nữ…Cõi ruồi cũng có thứ hạng, cấp bậc, có ruồi Bộ trưởng, thứ
trưởng, ruồi giámn đốc, trưởng phòng…Và không chóng thì chày lại chật đất
ruồi rồi đâu lại vào đấy. Đúng là cái vòng luẩn quẩn, ở đâu người nghệ sỹ nhào
lộn ấy cũng không thể thoát khỏi những vấn đề muôn thủa cho dẫu là chính
đáng. Vấn đề của người nghệ sỹ nhào lộn cũng là vấn đề chung của đa số người
dân trong thời buổi đất chật người đông, “mật ít ruồi nhiều” tìm đâu ra sự công
bằng. Thời buổi có những người được cấp đến ba bốn lần nhà mà vẫn xin cấp
nữa và vẫn được giải quyết, còn những người “thấp cổ bé họng” thì lời kêu của
họ vẫn mãi “trời không thấu đất không hay”. Hiện thực nhức nhối này nhờ nghệ
thuật ảo hóa của Đoàn Lê mà trở nên sinh động và có chiều sâu.
Ở Nhân bản, nhà văn lại tưởng tượng một cốt truyện viễn tưởng thật rùng
rợn. Chuyện về một phiên bản khác được tạo ra từ miếng da nách của một thi sỹ
khi ông ta bị tai nạn phải dừng sự nghiệp sáng tác. Trước khi cho nhân bản
mình, ông ta đã có vợ và một con trai. Khi cậu con trai lên ba thì họ chia tay, từ
đó cậu bé thành trẻ bụi đời lang thang, lưu lạc tận chân trời góc biển. Vì thế, ông
ta cho nhân bản mình nhằm lấy người kế tục thực hiện ước vọng lớn lao ông
chưa đạt được lúc sinh thời. Rồi theo mạch tưởng tượng đó, nhà văn kể về cuộc
sống mới của nhân bản. Điều khiến người đọc choáng váng, thót tim là nhân bản
cũng biết yêu mãnh liệt. Nhân bản của ông thi sỹ lại tìm gặp đúng nhân bản
người vợ kiếp trước của mình để yêu đến điên cuồng, mê muội đến mức họ lại
sắp cho ra đời một đứa trẻ của bốn mươi năm về trước. Cầm chắc họ sẽ nhân
bản truyền đời một cuộc chơi bi thảm kiếp trước, nước mắt, ly hôn…Rồi một 85
đứa trẻ vô thừa nhận lại lang thang bụi đời khắp chốn. Cốt truyện khép lại với
rất nhiều day dứt ám ảnh. Đến đây người đọc không còn để ý nhiều đến chuyện
nhân bản vô tính nữa mà quan tâm đến ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà nhà văn gửi
gắm đằng sau câu chuyện ấy. Đó là hiện thực bi thảm của những đứa trẻ bị bỏ
rơi từ những cuộc hôn nhân tan vỡ. Cha mẹ chúng quá vô trách nhiệm, quá ích
kỷ, mải mê theo đuổi những dục vọng riêng mà nỡ bỏ qua lời kêu cứu của con
trẻ. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng muốn gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh
với xã hội về tính hai mặt của một vấn đề. Nếu nhân bản vô tính xảy ra thật thì
xã hội sẽ điên đảo, rất nhiều kẻ xấu sẽ lợi dụng việc này để trục lợi. Chúng sẽ
cho nhân bản hàng loạt những tay chân chuyên làm việc xấu, rồi tội ác tràn
lan…Cuối cùng thì lợi ít, hại nhiều, xã hội loài người sẽ suy thoái, nạn ly hôn
không ngừng gia tăng, có không biết bao nhiêu đứa trẻ bị bỏ rơi… Dưới hình
thức một câu chuyện kỳ ảo, Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết được nhiều vấn đề
hiện thực lớn lao từng gây xôn xao cả dư luận thế giới. Với ý nghĩa to lớn ấy, tác
phẩm của Đoàn Lê còn mang chức năng dự báo tương lai.
1.4 Vai trò của người kể chuyện với sự phát triển của cốt truyện
Người kể chuyện có vai trò rất quan trọng với sự phát triển cốt truyện.Vì
thế có nhận xét cho rằng: Muốn đọc hiểu một truyện ngắn hiện đại cần lưu ý đến
người kể chuyện đã đành, không có người kể chuyện không có truyện ngắn,
nhưng người kể chuyện luôn luôn ẩn mình. Ngay những truyện ngắn với người
kể chuyện xưng “tôi” cũng là một thứ lảng tránh chủ thể phát ngôn. Nhà văn
muốn làm mất cái tôi cá nhân mình để có được cái tôi nghệ thuật. Ngƣời kể
chuyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê nhiều khi ẩn đi vai trò của mình.
Người kể chuyện thường không xuất hiện trực tiếp xưng “tôi”, nhưng trong mỗi
câu chuyện dường như bao giờ cũng có một con người luôn ẩn mình đằng sau
câu chữ, thấu hiểu mọi ngóc ngách của truyện. Câu chuyện cứ thế mở đầu, kết
thúc mà không cớ điểm dừng nào dành cho người kể chuyện. Người kể chuyện
không xuất hiện bằng ngôi thứ cụ thể nào, nhà văn hoàn toàn trao giọng điệu cho
nhân vật tự dẫn dắt câu chuyện ( Đất xóm Chùa, Xóm Chùa Ông, Trinh tiết Xóm
Chùa, A tourism xóm Chùa…). Có đôi khi giọng điệu, thái độ của nhà văn thể
hiện qua giọng điệu ngôn ngữ nhân vật. Trong tác phẩm Trinh tiết xóm Chùa
thái độ người kể chuyện thể hiện qua lời nhân vật lão Bản: Còn đâu xóm Chùa
ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu đưa ma túy, 86
ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền…Với lối kể chuyện ẩn đi vai trò của
của người kể chuyện, những câu chuyện được kể trở nên khách quan, chân thực
và có sức thuyết phục hơn. Những vấn đề của hiện thực mà nhà văn phản ánh
trong tác phẩm qua điểm nhìn của nhân vật cũng có tính chân thực cao hơn.
Bên cạnh những câu chuyện ẩn đi vai trò của người kể chuyện, sáng tác
của Đoàn Lê còn rất nhiều truyện mà vai trò của ngƣời kể chuyện xuất hiện
trực tiếp xƣng “tôi”. Sự xuất hiện của người kể chuyện thường “đem lại cho
tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp
hay lập trường xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con
người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú” [52,191]. Khi người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất thì chủ thể phát ngôn có dáng dấp của chính tác giả. Rất
nhiều truyện ngắn của Đoàn Lê, nhân vật “tôi” mang bóng dáng tác giả. Ở
những truyện ấy, dường như nhà văn đang kể lại câu chuyện của chính cuộc đời
mình. Đó chính là xu hướng “tự nghiệm” trong truyện ngắn Đoàn lê mà luận văn
đã đề cập đến ở phần trên. Nhân vật “tôi” ở Giường đôi xóm Chùa kể cuộc đời
gần ba mươi năm chung sống rồi ly hôn do người chồng bội bạc, hay nhân vật
“tôi” ở Trái táo nham nhở kể lại bi kịch cuộc đời với hai mươi năm bị lừa dối, bị
đánh cắp tình yêu là những nhân vật có hình bóng tác giả rõ nhất. Trong những
truyện này, nhà văn như hóa thân vào nhân vật để tường thuật lại chính câu
chuyện cuộc đời mình, những cảm xúc, những nỗi đau chồng chéo, đan xen,
những ẩn ức bị kìm nén…Tất cả đều hiện lên chân thực sống động như nó vốn
thế dưới điểm nhìn trần thuật của tác giả. Có những trường hợp nhân vật “tôi”
xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm nhưng đứng ở góc độ là người soi thấu mọi sự
việc hoàn cảnh. Đó là nhân vật người phụ nữ xưng “tôi” trong truyện Hai bà mẹ
và tôi. Nhân vật “tôi” đã chứng kiến toàn bộ câu chuyện bi thảm của hai bà mẹ,
một người có đứa con là sát nhân và một người có đứa con là nạn nhân. Sau câu
chuyện của hai bà mẹ, nhân vật “tôi” đã thay lời nhà văn thể hiện quan điểm,
thái độ của mình với hiện thực thảm khốc của đồng tiền cùng sức hủy diệt ghê
gớm mà nó đã gây ra: “Cầm tờ đô la tôi không khỏi ớn lạnh. Ít nhất đã có hai
nhân mạng chết vì nó. Một kẻ bị giết, một kẻ mới bị tử hình. Đến ai nữa đây?
Những xác chết có lẽ sẽ rữa ra, nhưng nó vẫn tồn tại. Tồn tai cả nỗi đau đớn
của những bà mẹ có cùng bầu sữa ngọt ngào giống nhau”. Nhân vật “tôi” ở Con
bướm ngựa cánh xanh lại trong vai một họa sỹ vẽ tranh được nghe kể và trực 87
tiếp chứng kiến cuộc sống, số phận của những cô gái bán hoa rồi bày tỏ sự
thương cảm, xót xa cho số phận của những cô gái “hồng nhan” bị hoàn cảnh xô
đẩy phải ngụp lặn trong chốn phong trần nhơ bẩn. Cũng một cảm xúc như vậy,
trong Người đẹp xóm Chùa, người nghệ sỹ suốt đời nâng niu, tôn thờ cái đẹp
trong vai nhân vật “tôi” đã luôn tìm cách để bất tử hóa những nhan sắc thanh
tân. Ông đã tận dụng mọi cơ hội để ghi lại và lưu giữ cái đẹp cho dẫu phải sống
trong nghèo khó. Nhưng tiếc thay cái đẹp vốn “bạc mệnh” trước sức băng cuốn,
xô đẩy của những quy luật sinh tồn. Người đẹp một thời nhân vật “tôi” hết lời
ngợi ca trân trọng giờ chỉ còn là một hình hài quắt queo của xương với da đến
nỗi ông ta phải thảng thốt: “Than ôi, cái đẹp có thật hay không có thật!”
Với điểm nhìn trần thuật như thế, nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”
trong những tác phẩm khác của Đoàn Lê đã đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn
bởi sự chân thật, khiến người đọc cảm thấy đó như là những câu chuyện vẫn
diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Đồng thời ta còn nhận thấy thái độ của nhân
vật “tôi” trong các tác phẩm ấy bao giờ cũng nhân ái bao dung và chan chứa yêu
thương với tất cả những nỗi đau của nhân thế. Đó chính là cơ sở để ta khẳng
định người kể chuyện xưng “tôi” trong hầu hết những sáng tác của Đoàn Lê
mang hình bóng tác giả. Và dù xuất hiện trực tiếp hay ẩn đi, vai trò của người kể
chuyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
khắc họa hình tượng nhân vật, thể hiện quan điểm sáng tác, bày tỏ tư tưởng,
quan điểm lập trường xã hội của nhà văn.
2. Tình huống truyện
Sáng tạo tình huống, ấy là vấn đề cơ bản của nghệ thuật viết truyện ngắn.
Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì “tình huống truyện giống như một tứ
thơ, nó lại giống như một thứ nước rửa ảnh sẽ làm nổi hình, nổi sắc người và vật
vừa làm nổi bật vấn đề tư tưởng của tác giả”. Tình huống truyện “giúp cho
những gì còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay bộc lộ và hoạt động tích
cực...có tính chất riêng biệt. Tình huống trở thành xung đột, là bước trung gian
giữa tình trạng im lìm và tình trạng hành động” [24, 111] Và thông thường “Mỗi
truyện ngắn chỉ chứa đựng một tình huống, vì thế tình huống tiêu biểu phải cùng
lúc thực hiện các nhiệm vụ nghệ thuật là gắn kết các nhân vật cùng tham gia một
sự kiện, biến cố có ý nghĩa nào đó, bộc lộ quan hệ và tính cách các nhân vật, thể
hiện chủ đề”[19,263]. Tình huống là yếu tố nghệ thuật quan trọng trong tác 88
phẩm tự sự. Dù là những cốt truyện giầu kịch tính hay những cốt truyện không
có biến cố thì truyện ngắn vẫn phải dựa vào một tình huống nhất định. Việc
phát hiện và xây dựng những tình huống hay sẽ làm bộc lộ những nét cơ bản của
những tính cách, số phận trong các tác phẩm, làm nổi bật một vấn đề, hiện tượng
xã hội nào đó. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng “Những nhà văn có tài đều
là những người có tài tạo ra những tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa
mang tính phổ biến hoặc tượng trưng...Tình thế truyện không cần đến những
mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó lại là cái cớ chắc chắn, hết sức cụ thể và
mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa vào nhau để thực hiện
đắc lực tất cả ý định của tác giả. Ví như một cây cọc vững chắc để cho một cây
bí leo lên mà ra hoa trái”. Cái tài của người cầm bút là “có thể chọn ra trong cái
dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất,
chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống với một vài sự việc
diễn biến sơ sài và cũng bình thường hoặc có thể dồn dập và không bình thường
nhưng bắt buộc con người ở vào cái tình thế phải bộc lộ cái phần tâm can nhất,
cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí đó là cái khoảnh khắc chứa cả một đời
người, một đời nhân loại.” [11,258-260]. Trong sáng tác của mình, Đoàn Lê xây
dựng được nhiều tình huồng truyện độc đáo.
2.1 Tình huống bi kịch
Tình huống truyện trong sáng tác của Đoàn Lê thường là những tình
huống bi kịch. Tạo ra những tình huống này, nhà văn có thể khai thác chiều sâu
tính cách, tâm hồn con người trước bất hạnh của số phận. Trong Dấu hỏi gửi
thượng đế, nhà văn đặt nhân vật cô Huệ vào một tình huống thật éo le, chớ trêu.
Ấy là vào một đêm mưa giông bão, cô đã mạnh dạn bước qua rào cản của những
phép tắc luật lệ để đến với một người đàn ông cũng có cảnh ngộ như mình,
mong có một đứa con để ôm ấp bế bồng thì người đàn ông ấy lại bị những năm
tháng quân ngũ cướp đi cái phần đàn ông quý giá. Thế là cô Huệ không những
cô đơn bởi sự bất hạnh của hình hài mà còn chịu thêm sự tủi hổ bẽ bàng của
hành động “vượt rào” mong thoát nỗi cô đơn mà không được. Tình huống kịch
đã dồn nhân vật tới tận cùng của nỗi khổ đau bất hạnh. Dầu vậy nhân vật vẫn
không mất đi vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp kín đáo tế nhị của một người phụ nữ.
Ở truyện ngắn Hạt vừng, nhà văn đã đẩy nhân vật của mình vào một tình
huống đầy bi kịch. Đó là tình huống túng quẫn cùng đường buộc chị Hoa phải 89
“đi khách” để kiếm tiền làm mâm cơm cúng giỗ đầu cho chồng và đưa thằng bé
con vào bệnh viện cắt A-bi đan. Chẳng ngờ đấy là lần đầu tiên cũng là lần duy
nhất trong đời chị bị khép vào tội giết người do kẻ kia ngã vào cái cuốc chết
trong nhà chị.Vì tội danh khủng khiếp ấy mà chị được một nữ luật sư giầu lòng
trắc ẩn bào chữa miễn phí. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, nhà văn dễ dàng đi
vào thể hiện từng khía cạnh của chủ đề tác phẩm. Từ đó làm nổi bật số phận bi
thương của những người đàn bà xóm liều trong cuộc sống mưu sinh khốn khó.
Truyện Nghĩa địa xóm Chùa lại tạo ra một tình huống vừa nực cười vừa
bi thảm. Chuyện nhầm lẫn xác một vị thiếu tướng với một một tay thợ điện bậc
ba đã về hưu do sự làm việc tắc trách của một bệnh viện. Cũng có thể là do con
trai vị thiếu tướng quên đưa khoản tiền “tót tay tiêu cực phí” cho gã canh nhà
xác nên gã cố tình gây ra sự nhầm lẫn ấy. Từ tình huống nhầm lẫn này, nhà văn
phản ánh được bao vấn đề của hiện thực đời sống, hiện thực tình người một cách
sâu sắc: chuyện cõi âm, cõi dương, chuyện thứ hạng, cấp bậc trong xã hội, đặc
biệt là câu chuyện về tình thân, tình người, chuyện về các khoản phí tiêu cực...
Trong tác phẩm, nhà văn đã tạo ra hai đám tang hoàn toàn trái ngược nhau: một
đám tang cực kỳ linh đình to tát và một đám tang sơ sài với vài người đưa đám,
vài tiếng khóc tỉ tê để phản ánh một đẹp nhân bản đang bị mai một đi trước tiền
tài, danh vọng. Đó chính là tình thân, tình người. Việc xây dựng những tình
huống bi kịch trong truyện ngắn Đoàn Lê bắt nguồn từ góc nhìn đa diện, đa
chiều, tinh tế nhạy cảm của nhà văn về con người, cuộc sống. Con người được
nhìn từ số phận cá nhân với hạnh phúc và bất hạnh khổ đau, giữa hy vọng và
thất vọng. Cuộc sống được nhìn nhận ở mọi góc cạnh cả trên bề mặt lẫn chiều
sâu. Tất cả đều chân thực và vô cùng sâu sắc.
2.2 Tình huống tự nhận thức
Bên cạnh tình huống bi kịch, truyện ngắn của Đoàn Lê còn xuất hiện loại
tình huống nữa là tình huống tự nhận thức thể hiện triết lý về cuộc sống, tình
yêu, hạnh phúc của nhà văn. Tình huống tự nhận thức phổ biến trong những cốt
truyện tâm lý. Tình huống tâm lý được tạo dựng từ những xung đột trong tâm lý,
ý thức buộc nhân vật phải suy ngẫm tự nhìn nhận lại quan niệm sống và hành
động của mình để vươn tới sự hoàn thiện. Ở Giường đôi xóm Chùa, sau gần ba
mươi năm sống chung rã rời vì cuộc sống mưu sinh, anh và chị đã chia tay nhau
khi cả hai đều nhận ra rằng: Cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không 90
ai cố gắng yêu. Tình huống dẫn đến sự đổ vỡ, chia ly ở Trái táo nham nhở chính
là hành động người vợ đưa toàn bộ số tiền mà chị thức thâu đêm nhặt vải vụn
đến ngất lịm phải vào bệnh viện cho chồng và giục anh đi thực tế. Lúc đó anh
chồng mới thực sự phản tỉnh, anh ta nhận thấy mình không thể lừa dối cô ấy một
giây phút nào nữa và quyết định viết một bức thư thú tội: “Trong chuyện này,
anh hoàn toàn có lỗi với em. Nhưng anh không muốn dối trá lừa lọc mãi, anh đã
ăn cắp tình yêu của em ...chẳng dùng vào việc gì ngoài việc để khinh bỉ
mình...Hãy tha tội cho anh. cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không ai
có thể cố gắng yêu.. Anh đã bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối trá, anh không
thể tiếp tục mãi. Nếu chưa thật bình tĩnh, em hãy cứ nguyền rủa anh. Anh đáng
tội lắm. Ôi, giá anh có cách gì để xin em tha thứ...” Giây phút thức tỉnh, xám
hối này là những giây phút anh đang sống trạng thái thánh thiện, sòng phẳng tử
tế nhất. Cho dẫu anh biết hậu quả của nó thật nặng nề, anh sẽ mất gia đình, mất
đi sự yêu chiều từ chị, thậm chí còn bị chị nguyền rủa, nhưng anh vẫn chấp nhận
tất cả. Sau quyết định tự thú, anh mới đựơc sống là mình, xứng đáng là con
ngƣời. Còn chị sau khi nhận bức thư tự thú của anh, chị mới bình tĩnh nhìn nhận
xét đoán anh từ chân tơ kẽ tóc và nhận ra một điều xưa nay vì quá yêu anh mà
chị đã lầm tưởng: “Anh tưởng mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao qúy ư?
Không tôi đã trả giá quá đắt bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất
trong vô vàn kẻ tầm thường, một thứ giẻ rách” Tình huống tự nhận thức khiến
nhân vật của Đoàn Lê có chiều sâu và luôn hướng đến sự hoàn thiện về tâm hồn
và nhân cách.
Những tình huống tự nhận thức chính là những khoảng lặng cần thiết
trong cuộc sống con người để nhìn lại chính mình, soi vào quá khứ để tiếp tục
tiến về phía trước trong quá trình vận động hướng tới sự hoàn thiện, hướng tới
cuộc sống tốt đẹp hơn.
3. Không gian - thời gian nghệ thuật
Trong thế giới khách quan, thời gian và không gian là hình thức tồn tại
của vật chất. Tác phẩm văn học cũng là một dạng vật chất, một thế giới nghệ
thuật được xây dựng bằng hệ thống các hình tượng. Vì vậy “không gian, thời
gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của hình tượng” [50, 27]. Thời gian và
không gian là hai yếu tố thống nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật. Từ việc xem
xét thời gian, không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê có thể thấy 91
được đặc điểm phong cách, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn cùng những vấn đề
của cuộc sống con người trong sự biến đổi của thời đại. Sự vận động của không
gian thời gian trong truyện ngắn Đoàn Lê được cảm nhận trong mạch vận động
vừa thuận chiều vừa trái chiều với thời gian, không gian cuộc sống. Thời gian và
không gian là những bình diện góp phần làm nên nét đặc sắc trong thế giới nghệ
thuật truyện ngắn Đoàn Lê.
3.1. Không gian nghệ thuật
Trong văn học, không gian nghệ thuật chính là “hình thức tồn tại của chủ
quan hình tượng” [59, 209]. Mọi nhân vật, hình tượng đều có không gian, nền
cảnh để hoạt động. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sỹ
nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.
Từ văn học dân gian đến văn học hiện đại là quá trình “hạ dần” của không gian.
“Từ vũ trụ cao siêu xuống không gian sinh hoạt hàng ngày, từ một không gian
mang ý nghĩa tượng trưng có sẵn xuống không gian đời sống với ý nghĩa tượng
trưng mới” [57, 209]. Không gian trong văn học dân gian gắn với không gian
quen thuộc của làng quê như cây đa, bến nước, sân đình, còn không gian của núi
cao, sông dài là không gian ngăn cách , là thử thách trở ngại với con người.
Trong khi đó sự vắng vẻ, trầm tư, nhàn dật lại gần như chiếm lĩnh không gian
nghệ thuật của văn học trung đại. Đó là không gian vũ trụ, núi rừng, am động
nơi con người đối diện hay ẩn dật. Đến thế kỷ XVIII- XIX, không gian nghệ
thuật được mở rộng thêm ở không gian đồng ruộng, làng cảnh, phố phường, cao
lâu, hiệu thuốc, bãi chợ...Càng về sau không gian nghệ thuật trong văn học càng
được mở rộng đến không gian hiện thực, không gian đời tư của con người. Đặc
biệt không gian còn được phát hiện ở chiều thứ tư- không gian tâm trạng. Bên
cạnh đó, yếu tố tâm linh xuất hiện còn đem lại màu sắc khác cho không gian
nghệ thuật của văn học Việt Nam hiện đại. Nghĩa là không gian nghệ thuật trong
tác phẩm văn học không chỉ bao gồm không gian vật lý ba chiều với trung tâm
là con người mà còn có không gian tâm tưởng, không gian tâm linh được đặt
trong mối quan hệ mật thiết với thời gian nghệ thuật. “Không gian nghệ thuật
chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ
tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác
giả hay một giai đoạn văn học”[4, 135]. Điều quan trọng nhất khi tìm hiểu
không gian nghệ thuật là xem xét mối quan hệ của nó với thế giới, con người 92
“như một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và
khái quát tư tưởng- thẩm mỹ của nhà văn”[57, 211]. Vì vậy không gian hiện
thực hay không gian đời thường trở thành một khái niệm được nhà văn nhắc đến
nhiều nhất trong văn học hiện thực. Ở đó bức tranh xã hội, cũng như quan điểm
thẩm mỹ, quan điểm sáng tác, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn
được soi sáng bởi yếu tố không gian nghệ thuật.
Văn học thời kỳ đổi mới nở rộ các tác phẩm truyện ngắn hiện thực. Chính
khuynh hướng văn học nghiêng về đời tư, đời thường của con người với tiếng
nói thực của cuộc sống hiện tại đã làm cho mỗi tác phẩm truyện ngắn là một bức
tranh muôn màu, muôn sắc về cuộc sống hiện đại, về những vấn đề thực tế mà
con người phải đối mặt. Không gian nghệ thuật của văn học giai đoạn này phổ
biến là không gian sinh hoạt, không gian đời tư. Đó là “khoảng không gian xác
định bắt buộc con người luôn phải bộc lộ hết bản chất của mình, không có cơ
hội lảng tránh trách nhiệm cá nhân”[6,]. Không gian nghệ thuật trong sáng tác
của Đoàn Lê cũng mang những đặc điểm chung này.
Không gian sinh hoạt trong truyện ngắn Đoàn Lê chủ yếu là không gian
làng xóm. Đó là không gian xóm Chùa ở ngoại ô thành phố xuất hiện trong
hàng loạt sáng tác của Đoàn Lê với cái tên: Đất xóm Chùa, Xóm Chùa Ông,
Trinh tiết xóm Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Atuorism xóm Chùa...Không gian đó
có phần chật chội, tù túng bức bối trước tốc độ xâm lấn của nền kinh tế thị
trường. Bởi thế hầu hết những con người nơi xóm Chùa Ông đều hay hướng về
ngả thành phố, nơi ánh điện hắt rừng rực một góc trời. Cả thanh niên và người
già đều ao ước cuộc sống của dân nội thành “ăn trắng mặc trơn, sung sướng tới
lúc chết”. Cũng chính vì thế mà khi cái mới tràn đến xóm Chùa, mọi người đều
nhanh chóng hưởng ứng sẵn sàng lãng quên quá khứ nghèo cực và cả những nét
nhân bản vốn quý từ xa xưa của mình như chuyện về chiếc cát-sét, chiếc ti vi
đầu tiên trong làng, chuyện “sốt đất” do mở đường cao tốc, “cơn sốt” lấy chồng
ngoại, chuyện bán trinh tiết dởm, phá hang làm khu du lịch sinh thái dởm để
kiếm tiền, trục lợi...Tất cả diễn ra ồ ạt trong không gian của xóm Chùa. Tuy là
một xóm Chùa cụ thể nhưng ý nghĩa khái quát hiện thực của tác phẩm lại vô
cùng rộng lớn. Đó là hiện thực ở tất cả những vùng ven đô nước ta từ thời đổi
mới trước tốc độ đô thị hóa đến mức chóng mặt của nền kinh tế thị trường.
Trong không gian cụ thể đó bao gia đình, bao số phận rơi vào hoàn cảnh bi kịch 93
do không kịp thích nghi với hoàn cảnh sống mới. Dưới không gian một xóm
Chùa cụ thể, Đoàn Lê đã phản ánh và khái quát được bao nhiêu vấn đề của hiện
thực cuộc sống- xã hội hiện đại làm nhức nhối lòng người. Với không gian cụ
thể này, những câu chuyện được kể của Đoàn Lê trở nên chân thực, sinh động và
có sức thuyết phục hơn.
Bên cạnh không gian xóm Chùa, sáng tác của Đoàn Lê còn có không
gian xóm biển. Nơi đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán, nơi có những
hiệu kim hoàn, có con đường từ phố ra bãi biển rồi từ bãi biển về một xóm núi
heo hút bên bờ biển. Nơi đó còn có bao cuộc đời, số phận bất hạnh trôi nổi,
phiêu dạt như cuộc sống âm thầm lặng lẽ của hai bà cháu (Viên sỏi). Không
gian của truyện hẹp, chỉ là không gian từ tiệm vàng ra bãi biển có hai bà cháu
lủi thủi bên nhau, sự kiện không nhiều nhưng dường như nhà văn đã khái quát
được cả nỗi đau nhân thế bằng tất cả sự đồng cảm, xót thương của mình. Hai bà
cháu, hai số phận côi cút đang nương tựa, dắt díu nhau vượt qua giông bão cuộc
đời. Người bà trước khi trôi dạt về đây đã uống trọn nỗi đau cuộc đời: chồng
phụ bạc, đứa con trai duy nhất chết vì nghiện sau khi đã bán tất cả những thứ có
giá trị trong nhà, bà chỉ còn đứa cháu gái bé bỏng là nguồn sống duy nhất. Đứa
bé bị cướp mất sự hồn hậu, tươi tắn của trẻ nhỏ, dường như không bao giờ thấy
nó cười. Họ là hai sự cô đơn cộng lại, người nọ nương tựa người kia để bớt thấy
bơ vơ. Cũng trong không gian của xóm núi này, người chủ hiệu vàng “cũng
không thoát việc nhận lấy cái giọt cay đắng phần mình”. Đứa em trai ruột của
anh cũng bị cái chết trắng khủng khiếp cướp mất khi nó chưa đầy mười chín
tuổi và chẳng kịp để lại gì dù là một viên sỏi vô giá trị. Trước nỗi đau của hai bà
cháu, lòng anh như dịu lại và dấy lên niềm thương cảm sót xa với nỗi đau của
người cùng cảnh. Vì vậy, anh quyết định ngay ngày hôm sau sẽ giúp bà cụ mài
viên sỏi làm mặt chiếc nhẫn- di vật của bố đứa trẻ để lại cho con trước khi chết.
Như vậy không gian không chỉ là tọa độ, môi trường sống của nhân vật mà còn
có chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu nghệ thuật góp phần làm nổi bật
tính cách, số phận nhân vật cùng chủ đề tác phẩm.
Không gian của xóm núi nghèo ven biển còn có ý nghĩa biểu tượng cho
những cuộc đời côi cút, lang thang, trôi dạt mang nỗi đau thầm lặng. .Đó là
không gian sống, tồn tại của những cô gái bị hoàn cảnh xô đẩy phải bán thân
nuôi miệng rồi âm thầm nhận lấy cái chết từ căn bệnh thể kỷ (Con bướm nhựa 94
cánh xanh). Phải chăng đến với xóm biển này thì sự hồn hậu của biển có thể
xóa dịu những nỗi đau u uẩn trong tận cùng tâm can con người, điều mà tự con
người chẳng thể làm được. Bởi thế nơi đây mới có nhiều cuộc đời, số phận bất
hạnh như thế nương náu mong được biển cả chở che.
Cùng với không gian làng xóm, không gian biển, không gian gia đình -
không gian căn phòng cũng là một loại không gian đầy ám ảnh trong sáng tác
của Đoàn Lê. Đó là không gian của những tác phẩm viết về bi kịch tình yêu, bi
kịch hôn nhân gia đình. Trong Giường đôi xóm chùa, khi tình yêu của hai vợ
chồng không còn tha thiết , mặn nồng vì xuất hiện người thứ ba thì không gian
căn phòng riêng với chiếc giường kỷ niệm tình yêu của họ đã trở thành không
gian ngột ngạt, chật chội, bức bối đến độ chuyển thành giông bão không thể chịu
đựng được. Nhìn đâu người vợ cũng thấy hình bóng của người thứ ba chập chờn
len lỏi vào cuộc sống sinh hoạt và cả trong giắc ngủ chập chờn của chị. Cũng
trong không gian của chiếc giường ấy đã rất nhiều đêm chị không ngủ, suy nghĩ
miên man về tình cảnh đầy bi kịch của mình. Rồi từ trong sâu thẳm ký ức chị, cả
quá khứ hiện về rõ nét: chuyện về mẹ, chuyện về người bạn trai tên Báu vẫn
thầm yêu chị, chuyện anh chị quen nhau hồi chiến tranh, chuyện thằng con trai,
đứa cháu nội...Đó là không gian tâm trạng ngập đầy những xúc cảm, tưởng rằng
chẳng gì có thể chia cắt được anh chị. Vậy mà họ lại sắp xa nhau. Chị quyết định
sẽ rời xa không gian vốn đầy ắp những kỷ niệm của mình, lặng lẽ ra đi để anh
được hạnh phúc. Từ không gian hiện thực trên chiếc giường, Đoàn Lê đã khái
quát cả không gian gia đình với biết bao vấn đề của nhân thế.
Không gian có ngôi nhà gỗ bình yên ở vùng ngoại ô cũng là một không
gian quen thuộc trong sáng tác của Đoàn Lê. Trong không gian ấy các nhân vật
của bà được mặc sức khám phá, tìm hiểu những bí ẩn của thiên nhiên cùng
những bí ẩn của lòng mình (Ngôi nhà gỗ). Trong ngôi nhà gỗ, chị và anh đã có
những tháng năm thực sự hạnh phúc với biết bao kỷ niệm gắn với thiên nhiên
quê anh. Và cũng từ không gian ấy họ mãi mãi xa nhau do không tìm được tiếng
nói chung. Những câu chuyện gắn với không gian ngôi nhà, căn phòng thường
là những truyện tâm tình, chất chuyện mờ nhạt, nhà văn thường đi sâu vào thể
hiện không gian tâm trạng của nhân vật với những ký ức đầy luyến nhớ. Cũng
một không gian này, Đoàn Lê còn thể hiện trong tác phẩm Đêm ngâu vào, Tí teo
hạnh phúc và một số truyện ngắn khác. Đó đều là những không gian xác định 95
cho sự hoạt động của những tính cách, tâm trạng, nhờ đó mà chủ đề tác phẩm
được sáng tỏ.
Truyện ngắn của Đoàn Lê còn một loại không gian nữa gọi là không gian
nghĩa địa (Nghĩa địa xóm chùa). Đây vừa là không gian thực vừa là không gian
ảo. Thực là vì có nghĩa địa thật, đó là nơi người ta vẫn dùng làm nơi an nghỉ
cuối cùng cho những người quá cố. Còn ảo là không gian nhà văn tưởng tượng
để các hồn ma đi lại, nói năng sinh hoạt như khi họ vẫn còn sống vậy. Và chỉ khi
mặt trời tắt hẳn những hồn ma mới chui lên khỏi mặt đất quần tụ lại để bàn tán,
kháo nhau chuyện của người sống. Họ di chuyển bằng những ánh lân tinh chập
chờn trông phát khiếp. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm cứ chập chờn ẩn
hiện giữa hư và thực. Đó chính là môi trường, nền cảnh để nhà văn chuyển tải
những ý tưởng nghệ thuật của mình. Cùng với những yếu tố khác, không gian
nghệ thuật có chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu nghệ thuật giúp nhà văn
khắc họa nhân vật, làm nên những giá trị triết lý nhân sinh của tác phẩm.
3.2. Thời gian nghệ thuật
Cũng như không gian nghệ thuật, trong tác phẩm văn học, thời gian là
một trong những yếu tố quan trọng, là “một trong những phương tiện hữu hiệu
để tổ chức nội dung nghệ thuật” [52, 63]. Thời gian nghệ thuật chính là “những
hình thức nghệ thuật quan trọng để thể hiện cuộc sống” [57, 243]. Nó không chỉ
đơn giản là quan điểm của tác giả về thời gian mà còn là một hình tượng sinh
động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian, ý thức về sự tồn tại của mình.
Thời gian còn là một trong những yếu tố quan trọng trong việc tổ chức kết cấu
tác phẩm. Thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển cốt truyện. Sự thể hiện
thời gian nghệ thuật thay đổi theo ý đồ sáng tác của nhà văn cùng với quá trình
phát triển của lịch sử dân tộc. Trong văn học cổ Việt Nam, thời gian gắn với
vòng trầm luân của vũ trụ nên được tính bằng vạn đời, vạn kiếp, nghìn thu, kim
cổ theo một chiều biên niên. Đến văn học hiện đại, khái niệm thời gian nghệ
thuật được mở rộng trên nhiều bình diện, thời gian được co ruỗi theo ý thức thời
gian của tác giả. Sự cảm thụ thời gian trong tác phẩm gắn liền với ý thức về ý
nghĩa cuộc đời, thể hiện quan niệm về thế giới, lịch sử và con người của nhà
văn.
Cách sắp xếp thời gian trong tác phẩm thể hiện sự sáng tạo và phong cách
riêng của mỗi nhà văn. Thời gian nghệ thuật có thể quay ngược về quá khứ hoặc 96
vượt qua hiện tại để đến tương lai, có thể dồn nén thời gian dài trong khoảnh
khắc hoặc biến thời gian chốc lát thành vô tận, vĩnh viễn. Nói như D.X
Likhachôp “Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả, là sự ý thức
và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng
của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học” [52, 63]. Truyện ngắn là một thể loại
chịu sự chi phối, gò bó của điều kiện thời gian bởi truyện ngắn chỉ đi vào một
thời điểm trong cuộc đời con người. Thời gian nghệ thuật chịu sự chi phối bởi
thế giới quan nghệ thuật và thể hiện quan niệm thẩm mỹ của nhà văn qua các thủ
pháp sử dụng linh hoạt các hình thức thời gian. Truyện ngắn sau 1975, thời gian
biên niên mang tính tuần tự không còn đóng vai trò chủ yếu mà bắt đầu xuất
hiện nhiều hình thức thời gian độc đáo: thời gian đồng hiện, thời gian ngược,
thời gian ảo, thời gian tâm lý...Truyện ngắn Đoàn Lê rất có sức ám ảnh về thời
gian. Nhà văn đã sử dụng yếu tố thời gian như một giải pháp bộc lộ quan điểm,
tư tưởng nghệ thuật của mình một cách hiệu quả.
Trong sáng tác của Đoàn Lê ta thấy xuất hiện chủ yếu là thời gian đồng
hiện với nhiều lớp cắt thời gian khác nhau: quá khứ - hiện tại - tương lai hòa
quyện với nhau để bộc lộ tối đa ý nghĩa tác phẩm. Thời gian đồng hiện khiến cốt
truyện vừa diễn biến liền mạch vừa giải quyết được một khối lượng thông tin
nhiều hơn giới hạn thời gian thực tế cho phép. Với thủ pháp đồng hiện , nhà văn
có thể vượt thoát khỏi sự trói buộc của thời gian biên niên lịch sử, để có thể xáo
chộn thời gian tùy theo ý muốn chủ quan, miễn là câu chuyện phát triển và bộc
lộ hết những ý đồ sáng tạo của tác giả. Thời gian đồng hiện khi nhà văn sử dụng
các thủ pháp độc thoại nội tâm, dòng ý thức, giấc mơ...Trong khung nhỏ hẹp của
truyện ngắn, nhân vật có thể vận động theo mọi hướng, mọi suy nghĩ của mình.
Ở những khoảnh khắc được chọn để thể hiện, nhân vật có thể hướng tới tương
lai, quay về quá khứ. Điều này làm cho thời gian cùng lúc xuất hiện nhiều thời,
nhiều chiều đặc biệt.
Yếu tố thời gian trong mỗi tác phẩm bao giờ cũng liên quan đến điểm
nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê có những
điểm tương đồng với điểm nhìn trần thuật của nhà văn Nam Cao. Nhà văn
thường không bắt đầu bằng điểm mở đầu thời gian cuộc đời nhân vật mà nhân
vật “đột nhiên” xuất hiện “đi ra từ giữa tác phẩm” sau đó thời gian cuộc đời mới
được hoàn thiện dần bằng lối kể chuyện quay ngược về quá khứ trước khi nói tới 97
tương lai và hiện tại. Những lớp cắt thời gian giúp người đọc ngày càng có hình
dung đầy đủ hơn về cuộc đời nhân vật và ý nghĩa tác phẩm. Những cách mở đầu
tác phẩm, Đoàn Lê đã kết hợp nhiều lớp thời gian khác nhau: khi bằng hình ảnh
hiện tại: Nghĩa địa xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa, Hạt Vừng...khi bắt đầu
bằng một mốc thời gian của quá khứ gần: Con bướm nhựa cánh xanh, Đêm
ngâu vào, Viên sỏi; có khi truyện lại bắt đầu bằng lời nhận định đánh giá của
người kể chuyện: Tình Guột, Dấu hỏi gửi thượng đế...
Ở truyện ngắn Hạt vừng, câu chuyện được bắt đầu bằng thời gian hiện tại,
hai người đàn bà ngồi đối diện ngăn cách bởi những ô cửa kiên cố, chấn song to
thẳng tắp khẳng định sức mạnh sắt thép. Trong hai người đó một người là luật
sư, người kia là phạm nhân. Mở đầu truyện chỉ có thế, rồi nhà văn quay ngược
thời gian kể về những dòng hồi ức của hai người đàn bà. Nhìn những nếp nhăn
trên mặt nữ phạm nhân, vị luật sư nghĩ đến mẹ mình vẫn những vạch nếp nhăn
tựa hồ như dấu ấn của quỷ đã tàn phá cuộc đời của mẹ. Rồi từ câu chuyện xuất
thân của người phạm nhân, vị luật sư hồi tưởng lại toàn bộ câu chuyện quá khứ
đau thương của mẹ, của chị em cô, biết đâu người đàn bà khốn khổ kia chẳng
phải là một trong số chị em đã thất lạc của cô. Câu chuyện cứ thế đan xen giữa
quá khứ và hiện tại, hồi ức tưởng tượng và thực tế... Những diễn biến tình tiết
trong vụ án của người phạm nhân đều gợi lại ký ức đau thương của cuộc đời mẹ
cô. Như vậy bằng hình thức đan xen giữa quá và hiện tại, hồi ức và thực tế,
Đoàn Lê đã dồn chứa được trong vài trang giấy rất nhiều vấn đề có ý nghĩa của
hiện thực. Nỗi đau cùng cảnh ngộ bi thương của người nữ phạm nhân như được
cộng hưởng nhân lên khi nó được đặt trong sự đối sánh với những ký ức đau
thương của vị nữ luật sư bào chữa. Câu chuyện cuộc đời người đàn bà khốn khổ
kia cũng chính là câu chuyện cuộc đời của mẹ vị nữ luật sư nên cô đã tin câu
chuyện ấy và đồng cảm, sẻ chia với chị bằng tất cả nỗi đau của người trong
cuộc. Thời gian cốt truyện chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc rất ngắn, trong
chốc lát khi người nữ luật sư tiếp xúc với phạm nhân để nghe chị ta kể về vụ án
của mình-chuyện kể thứ nhất nhưng giả thời gian, thời gian của những hồi ức
quá khứ mới chiếm lượng lớn trang văn bản. Chính lối quay ngược thời gian để
kể một câu chuyện thứ hai ấy mới là điểm nhấn làm đậm thêm chuyện kể thứ
nhất góp phần khắc sâu chủ đề tác phẩm.
98
Điểm nhìn trần thuật có thể khác nhau, song hầu hết những tác phẩm có
thời gian đồng hiện của Đoàn Lê, hồi tưởng đóng vai trò quan trọng. Hồi tưởng
hay quay ngược- ngoái lại có vai trò làm rõ thêm những sự kiện biến cố được kể
trong mạch truyện chính. Viên sỏi là một truyện ngắn Đoàn Lê sử dụng thời gian
khá linh hoạt. Câu chuyện mở ra là một thời điểm của hiện tại khi hai bà cháu đã
chạy trốn về xóm núi cạnh ven biển sống nương tựa vào nhau, bà đem một viên
sỏi đến hiệu kim hoàn xin đánh thành mặt nhẫn cho cháu. Không được chấp
nhận, ngày nào bà cũng đi các cửa hiệu đến khi không còn ai chấp nhận giúp, bà
mới buồn bã ra về. Người thợ kim hoàn ban đầu thấy áy náy rồi anh cũng quên
luôn bà cụ cùng viên sỏi vô giá trị của bà. Rồi tác giả sử dụng thủ pháp tỉnh lược
thời gian: năm tuần sau, người thợ kim hoàn ra biển chơi tình cờ gặp lại hai bà
cháu và được biết viên sỏi là kỷ vật bố đứa trẻ để lại cho nó trước khi qua đời
nên được hai bà cháu nâng niu như báu vật. Sau nhiều lần tiếp xúc, qua những
mẩu đối thoại rời rạc, anh mới biết hoàn cảnh bất hạnh của hai bà cháu. Đây
chính là quãng ngưng, nhà văn dừng lại mạch truyện chính để kể về hoàn cảnh
chồng chất những nỗi đau của hai bà cháu. Từ hoàn cảnh ấy, nhà văn lại quay
sang kể về nỗi đau trong quá khứ của người thợ kim hoàn và nguồn gốc của viên
sỏi. Đó là một câu chuyện thật cảm động, bi thương. Khi mạch truyện hồi tưởng,
hồi ức kết thúc, nhà văn khéo léo đưa mạch truyện chính trở về thực tại bằng
quyết định của người thợ kim hoàn sẽ nhận mài viên sỏi giúp bà cụ. Chính
những mẩu hồi ức của quá khứ mới là những điểm nhấn làm nổi bật ý nghĩa sâu
sắc của tác phẩm.
Cùng với việc sử dụng thời gian đồng hiện trong kết cấu tác phẩm, một số
tác phẩm của Đoàn Lê còn sử dụng thời gian tâm tƣởng gắn với ký ức của quá
khứ: Giường đôi xóm chùa, Đêm ngâu vào, Một ngày xứ em. Ở loại truyện này,
dòng ký ức, hồi tưởng của nhân vật là mạch quan trọng để khắc họa tính cách,
xây dựng cốt truyện. Qua dòng ý ức ấy, sự kiện dần dần xuất hiện. Đứng ở thời
điểm hiện tại, nhân vật có một độ lùi thời gian để có thể đánh giá, nhận định vấn
đề và có những cảm nhận sâu sắc hơn về những chuyện đã qua. Trong Giường
đôi xóm Chùa, câu chuyện mở ra là hình ảnh chiếc giường đôi của hai vợ chồng.
Rồi theo dòng hồi ức, nhân vật “tôi” nhớ lại toàn bộ cuộc sống chung gần ba
mươi năm của hai vợ chồng với bao buồn vui lẫn lộn. Ký ức của chị dừng lại rất
lâu để kể chuyện đứa con trai và đứa cháu nội với cảm xúc dạt dào. Dòng hồi 99
tưởng đưa chị về quá khứ xa xưa một đêm rằm trung thu thủa nhỏ, chị được một
người bạn trai yêu mến tặng một cây đèn kéo quân tuyệt đẹp. Dòng hồi tưởng
này nhằm thể hiện chút luyến tiếc của nhân vật trong việc lựa chọn người bạn
đời. Rồi dòng hồi ức đưa nhân vật trở về quá khứ gần, cách hiện tại một tháng,
chị có chuyến đến Quảng Ninh làm một bộ phim tài liệu. Chuyến đi đó chị tìm
đến thăm người đàn bà là người yêu thời trẻ của chồng chị để tìm lời giải cho
câu hỏi “Anh ấy muốn tìm điều gì ở những người đàn bà anh yêu? Những người
đàn bà, kể cả tôi, đã đặt tình yêu vào con người này vì sao?”. Thời gian cốt
truyện chỉ diễn ra trong một đêm, đêm cuối cùng chị nằm bên chồng nhưng thời
gian sự kiện lại là cả một đời người. Một đêm không ngủ, chị nhớ lại tất cả
những biến cố đời mình, chúng được lắp ghép ngẫu nhiên: từ gần đến xa rồi lại
từ xa đến gần; xen với những ký ức ấy là những cảm xúc của hiện tại. Mạch thời
gian lúc được tỉnh lược, lúc lại ngưng đọng phù hợp với vai trò của các biến cố
được kể. Bằng cách xử lý thời gian này, nhà văn đã làm nổi bật được những
trạng thái tâm lý rất đa dạng, phức tạp của nhân vật.
Ở một số truyện ngắn, Đoàn Lê còn đặc biệt chú ý đến nhịp thời gian
trong tác phẩm. Đó chính là tính chất co duỗi của thời gian để thể hiện tâm lý
nhân vật. Nhịp thời gian trong tác phẩm Một ngày xứ em là một ví dụ. Toàn tác
phẩm là nhịp thời gian dồn nén, thời gian của một đời người được ngưng lại
trong thời gian của một ngày. Một ngày nhân vật “tôi” qua “xứ em” và sống lại
tất cả cảm xúc đau thương của một thời máu lửa. Nhịp thời gian như ngưng lại
khi ký ức đưa anh trở về với nỗi đau thủa ấy. Thời gian hiện thực chỉ có một
ngày nhưng giả thời gian là cả một thời chiến tranh ác liệt của quá khứ. Ký ức
bắt đầu từ chiếc vòng bạc trên tay cô bé nhà khách trên quê hương người con gái
anh yêu. Chính chiếc vòng và đôi tay của nàng đã ám ảnh anh đến hết cuộc đời.
Mạch thời gian như đọng lại trong khoảnh khắc của quá khứ giữa vòng bom đạn
của Trường Sơn với lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát,
hình ảnh “cánh tay em từ mặt đất bị cày xới bừa bộn vươn lên, níu lấy tay tôi,
xoắn lại trong nỗi đau đớn thầm lặng”. Rồi từ câu chuyện về chiếc vòng bạc,
mạch chuyện cứ đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ là những ký ức đau
đớn khủng khiếp của chiến tranh vẫn sống dậy hiển hiện trong xúc cảm, trong
lời kể của người trong cuộc, người kể chuyện cũng chính là nhân vật chính trong
câu chuyện bi thảm của chiến tranh, còn hiện tại chính là khoảng thời gian anh 100
dừng lại ở “Xứ em”, một ngày nhức nhối kỷ niệm. Vì thế mạch thời gian biến
đổi linh hoạt, nhảy cóc: đang một mình dạo trên trên cầu Tràng Tiền nhìn dòng
nước sông Hương êm đềm lững lờ trôi, mạch xúc cảm đưa thẳng nhân vật trở về
với quá khứ ở Trường Sơn với câu chuyện tình thơ mộng nhưng đầy bi thảm của
mình với “em”. Cứ thế mỗi hình ảnh của quá khứ sống dậy, tim anh lại đau đớn,
quặn thắt. Trong suốt thời gian kể chuyện chừng vài giờ đồng hồ, dường như
anh chưa một lần dời mắt khỏi bao thuốc lá, cái bật lửa và đôi tay để giữ cho
mình được bình tĩnh. Ở đây thời gian của một ngày đã dồn chứa nỗi đau của một
thời, một đời. Vì vậy, thời gian nghệ thuật chính là hình thức nghệ thuật chủ yếu
để nhà văn miêu tả tâm lý nhân vật.
Thời gian và không gian nghệ thuật là những hình tượng sinh động, gợi
cảm của văn học. Ý thức về thời gian , không gian chính là ý thức về sự tồn tại
của con người. Tìm hiểu những vấn đề về không gian và thời gian nghệ thuật
chính là tìm hiểu những vấn đề thi pháp quan trọng của tác phẩm. Chúng là
những “hình thức mang tính nội dung” [61, 27]. Quan điểm sáng tác cũng như
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua những hình thức nghệ thuật
của không gian, thời gian. Đối với các nhà văn hiện đại, việc xây dựng một tác
phẩm nghệ thuật bao giờ cũng đề cao vai trò của thi pháp bên cạnh một nội dung
có giá trị đích thực. Bằng tài năng và sức sáng tạo dồi dào của mình, các nhà văn
đã đem đến cho văn xuôi những khám phá mới trên bình diện thi pháp tác phẩm
trong đó có hình thức thời gian và không gian nghệ thuật.
4. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là đơn vị cơ sở đầu tiên và cũng là đơn vị cuối cùng thể hiện
những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Với truyện ngắn, ngôn ngữ
phải phát huy tối đa chức năng của mình do yêu cầu ngắn gọn của thể loại. Ngôn
ngữ truyện ngắn cần cô đặc, cảm xúc, có sức nặng, sức chứa và khoảng trống
gợi mở. Truyện ngắn sau 1975 là truyện ngắn của đời tư, thế sự, vì vậy ngôn
ngữ trong các tác phẩm thời kỳ này cũng có nhiều đặc điểm khác so với ngôn
ngữ nghệ thuật của các giai đoạn văn học trước đây. “Ngôn ngữ đối thoại trong
truyện ngắn hôm nay đã được cá thể hóa sâu sắc. Dấu vết thời đại quy định cách
nói năng, ứng xử. Nhiều lớp từ mới được hình thành, quan niệm về lối sống
cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Thông qua ngôn ngữ đối thoại,
các trạng thái biểu hiện tâm lý của con người có chiều sâu và hiện thực cuộc 101
sống được cụ thể hóa, sống động hơn” [71]. Đó là thứ ngôn ngữ đời thường,
không trau chuốt, không mỹ miều, không nặng tính triết luận như văn học giai
đoạn trước 1975. Loại ngôn ngữ này tương xứng với mỹ cảm của con người
hôm nay.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn nữ giai đoạn đổi mới
thường sắc sảo, tinh tế nhưng chi tiết vụn vặt như bản tính vốn có của họ. Dịu
dàng, nền nã nhưng cũng dung dị đời thường là những đặc điểm dễ nhìn thấy
trong ngôn ngữ của Đoàn Lê. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
Đoàn Lê, chúng tôi khảo sát trên một số đặc trưng ngôn ngữ như: ngôn ngữ giầu
chất hiện thực đời thường thể hiện qua đối thoại, ngôn ngữ đậm chất trữ tình qua
độc thoại nội tâm.
4.1. Ngôn ngữ giầu chất hiện thực đời thƣờng:
Trong chiến tranh, với không khí sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ
thường được thi vị hóa hoặc mực thước trang trọng. Chuyển sang thời bình,
cùng với sự chuyển hướng của nền văn học từ cảm hứng sử thi sang đời sống thế
sự, truyện ngắn Đoàn Lê hướng tới những điều thường nhật trong đời sống con
người. Hướng về những số phận đời tư, khám phá những cá tính và phía còn ẩn
khuất trong mỗi con người, chất liệu đời thường đã ùa vào trong mỗi tác phẩm
của bà. Điều đó tạo nên diện mạo mới của ngôn ngữ văn xuôi: từ ngôn ngữ mực
thước, thi vị hóa trở về với ngôn ngữ giản dị, chính xác thường ngày
Ngôn ngữ đời thường trong truyện ngắn Đoàn Lê thể hiện qua lời
đối thoại giữa các nhân vật, hoặc qua lời nhận xét đánh giá của người kể chuyện.
Ví như một đoạn đối thoại trong truyện ngắn Đất xóm Chùa sau:
-Này, ông nghe nó sắp thiến làng chưa?
Sỹ Thái Sư ngớ ra:
- Ai?
- Thằng hoạn lợn chứ ai.
Lão Bản xưa nay chỉ gọi tay Quảng chủ tịch xã bằng cái nghề
nghiệp mới ngày nào anh ta còn hoạt động trong suốt mấy thôn. Gọi cách ấy lão
biểu lộ sự ghét cay ghét đắng anh chủ tịch xã.
- Nó thiến hộ càng may. Như tôi với ông còn tiếc thương gì không
vứt bố của nợ đi.
- Thật chứ?
102
- Tôi đã nghĩ mãi ông ạ, hoạn lợn nó chỉ được hột đách lợn, chứ
hoạn làng nó moi ra cây ra chỉ, mà làng lại không kêu được eng éc, êm thấm
lắm, ông hiểu không?
- Tôi hiểu rồi.
Lão ghé sát tai ông lào thào:
- Nó sắp bán đứt đây.
Ông Sỹ Duệ giật mình:
-Có quyết định bán chính thức rồi ư?
- Chứ gì, tẩu tán càng nhanh càng tốt. Ban quản lý hợp tác xã sắp
đến nước giải tán, còn tí đất dôi dư nào bán nốt, thủ vào túi mấy thằng chính
quyền với nhau. Giải tán, hòa cả làng.
Ông Bản đang nói tới khu vườn cây của các cụ phụ lão xóm Chùa, một
khu đất ngon mắt, nằm hơ hớ cạnh đường quốc lộ như gái ngủ ngày, gần năm
ngàn mét vuông...
- Ông nghe rõ chửa, bán cho dân thôn được bao nhiêu tiền đã sờ sờ
đấy, còn đút túi khoản nào? Thằng hoạn lợn kỳ này tuyên bố giải quyết cho Viện
cây giống nào đó lấy một tỉ hai...
- Chết chửa, tỉ hai...rẻ thối. Giá phải gấp hai ba lần.
- Dào ôi, nó bán mấy tỉ cho nhau, ai biết ma ăn cỗ ở đâu. Nó bảo
sao, dân bào hao làm vậy. Chỉ ức rõ rành nó bán đấy, Viện cây giống cũng mua
đấy, nhưng chúng mua bán dưới chiêu bài hợp pháp, dân trơ mắt ếch
- Phải. Thằng này cáo già, nó thoát bao nhiêu vụ bán đất cát của
xóm Chùa mới tài chứ.
Ngôn ngữ trong đoạn đối thoại này là ngôn ngữ thân mật đến suồng sã,
cách nói bỗ bã, trần trụi, kiểu xưng hô dân dã với các đại từ nhân xưng: Lão, nó,
thằng hoạn lợn, thằng cáo già... Chất khẩu ngữ đậm đà thể hiện trong cách đối
thoại và trong những cụm từ thường sử dụng trong cuộc sống thường ngày như:
“thiến làng”, “hoạn làng”, “ngon mắt, nằm hơ hớ”, “rõ chửa, sờ sờ đấy”, “chết
chửa, rẻ thối”, “ôi dào, ai biết ma ăn cỗ ở đâu..dân bào hao làm vậy...dân trơ mắt
ếch”, và cả những thành ngữ được sử dụng “trơ mắt ếch”, “hơ hớ như gái ngủ
ngày”, “ghét cay ghét đắng”...Lối sử dụng ngôn ngữ không kiểu cách, mực
thước mà gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày không chỉ khiến cho những vấn đề
mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm trở nên chân thực sinh động mà còn rất gần 103
gũi với đời sống hàng ngày của nhân dân. Những vấn đề mà nhà văn phê phán:
sự tha hóa của đội ngũ cán bộ xã, những chuyện tiêu cực về đất cát đặt trong
miệng lưỡi của nhân vật khiến nó khách quan mà cũng sắc nét hơn. Ngôn ngữ
đối thoại khá gay gắt thể hiện sự bức xúc của các nhân vật với vấn đề được đề
cập đến trong câu chuyện. Nhân vật nói với nhau thẳng thắn không cần giữ gìn,
trực diện bày tỏ những nhận xét, đánh giá bằng ngôn ngữ báng bổ, suồng sã.
Những tác phẩm trực diện phản ánh, phê phán hiện thực của Đoàn lê
thường sử dụng loại ngôn ngữ này: Đất xóm Chùa, xóm Chùa Ông, Trinh tiết
xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa...Việc sử dụng ngôn ngữ giầu tính hiện thực,
khẩu ngữ cho phù hợp với hướng khai thác cuộc sống ở góc nhìn đời tư, số phận
cá nhân trong các mối quan hệ phức tạp là một việc là có ý nghĩa của nhà văn.
Điều đó khẳng định được phong cách hóm nhẹ mà sâu cay của Đoàn Lê. Nói
như Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Chăm sóc câu văn: “Mỗi nhà văn có
một cách viết riêng nhưng cuối cùng và trước hết đó là những con người có một
thứ khả năng đem đến cho ngôn ngữ đời sống một thứ ma lực mà ta gọi là ngôn
ngữ văn học, có thể chuyển tải được mọi thứ tình cảm tư tưởng của mình đến
với mọi người”. Ngôn ngữ trong sáng tác của Đoàn Lê cũng là thứ ngôn ngữ có
ma lực như vậy.
4.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm được nhà văn sử dụng khi nhân vật có nhu
cầu bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình. Đó là cuộc đấu tranh tâm lý thường có ở
những nhân vật mang bi kịch. Độc thoại nội tâm giúp nhà văn bộc lộ những suy
nghĩ của mình qua giọng của nhân vật hay bằng lời thuyết minh tâm lý. Ở những
đoạn độc thoại nội tâm, nhà văn thường trao giọng điệu cho nhân vật để nhân
vật tự giãi bày, bộc lộ nỗi niềm. Ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật được
hòa làm một: Đêm ngâu vào, Giường đôi xóm chùa, Trái táo nham nhở, Dấu hỏi
gửi thượng đế, Ngôi nhà gỗ...Toàn truyện Đêm ngâu vào là dòng ký ức của nhân
vật “tôi” khi nhớ về cuộc đời gần hai mươi năm của anh và nàng. Trong dòng ký
ức ấy, nhà văn dành rất nhiều đoạn cho nhân vật độc thoại nội tâm, nhất là
những khi anh ngồi vào bàn viết một mình đối diện với những chú khỉ gỗ.
Dường như chúng luôn hiểu được mọi tâm tư, nỗi niềm của anh nên lúc thì
chúng diễu cợt khiêu khích anh, lúc lại đồng cảm sẻ chia: “Ông vui à? Ông ngỡ
có một cuộc thoát xác vừa xảy ra ở đây ư? Không, đó chẳng qua các người vừa 104
được thấm thía một chút mùi vị nô lệ của các người thôi”. Lời của những chú
khỉ thực ra là những lời độc thoại nội tâm của nhân vật “tôi”. Anh đã tự phân
thân ra để trải nghiệm hết mọi trạng thái cảm xúc của mình: nỗi nhớ nhung
mong chờ, niềm luyến tiếc, xót xa; cả sự ân hận day dứt vì để vuột mất tình yêu.
Hình thức độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của Đoàn Lê khá đa dạng:
khi là những dòng nhật ký (Dấu hỏi gửi thượng đế), lúc là những lời tự vấn
lương tâm (Trái táo nham nhở). Qua những dạng độc thoại này, tâm lý tính cách
của các nhân vật được bộc lộ. Từ hai cuốn nhật ký với những lời lẽ nồng nàn,
đắm say của cô Huệ (Dấu hỏi gửi thượng đế), ta biết được khát khao tình yêu,
hạnh phúc đến cháy bỏng của nhân vật. Trong cuốn nhật ký, người đàn bà gù tội
nghiệp bỗng biến thành một nàng tiên xinh đẹp óng ả với những bộ trang phục
thanh nhã nhất dạo chơi cùng người yêu: “Ta đi rất chậm. Gió từ lòng hồ làm
bay tung hai tà áo vàng nhạt tựa như chút nắng mùa thu vương vất quanh ta.
Những cặp mắt tò mò dõi theo. Ta muốn mỉm cười nhưng vờ thờ ơ. Ta đang hồi
hộp thắt lòng, chờ đợi người ấy đến...” Đó là những giấc mơ tuyệt vời mà nàng
đã tạo ra để thắng Thượng Đế khi cố tình dày vò tâm hồn nàng bằng sự khiếm
khuyết của hình hài. Những người đàn ông trong những trang nhật ký của nàng
đều là những trang nam nhi hào hoa lý tưởng. Đêm đêm họ vẫn đến bên gối
nàng thủ thỉ cả ngàn lời âu yếm. Không ai gian đối, thô lận hay vô tình, mọi
người đều tìm cách chiều lòng nàng, nhận sự dâng hiến của nàng như nhận một
ân phước. Đêm đêm những vòng tay ân ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm
đềm... Tất cả là mơ tưởng, là huyễn hoặc để xoa dịu những năm tháng khao khát
cháy bỏng tình yêu, hạnh phúc của nhân vật. Nhờ hình thức độc thoại qua nhật
ký mà tâm lý, tính cách nhân vật cô Huệ được khắc họa chân thực, sống động và
có chiều sâu.
Những lời tự vấn lương tâm của nhân vật “tôi” (Trái táo nham nhở) cũng
có tác dụng đẩy nhanh tấn bi kịch của nhân vật đến hồi kết thúc. Nhờ có đoạn
độc thoại- tự vấn lương tâm này mà nhân vật có điều kiện nhìn nhận lại mình,
đánh giá đúng đắn khách quan về người khác để có cách ứng xử hợp lý. Với anh
đó là quá trình tự thú để lòng được nhẹ nhõm, lương tâm được thanh thản sau
gần hai chục năm sống trong tâm trạng day dứt vì phải đeo bộ mặt giả dối.
“Trong chuyện này, anh hoàn toàn có lỗi với em. Nhưng anh không muốn dối
trá lừa lọc mãi...Hãy tha tội cho anh. Cái gì người ta cũng có thể cố gắng, 105
nhưng không ai có thể cố gắng yêu...anh bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối trá,
anh không thể tiếp tục mãi...”. Nhờ sự sám hối chân thành này mà nhân vật của
Đoàn Lê còn xứng đáng là con người với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Còn
chị, nhờ quá trình độc thoại tự- vấn lương tâm mà chị mới nhận ra được con
người thực của anh. Thì ra trong suốt thời gian qua, chị đã bị tình yêu mù quáng
làm mờ mắt, chị đã quá tâng bốc, lý tưởng hóa anh nên không nhận ra những
khiếm khuyết của anh. Hoặc giả thử có nhận ra thì chị cũng nhắm mắt cho qua,
vẫn yêu chiều anh hết mức. Đó chính là bi kịch dai dẳng của đời chị. Đến hôm
nay khi chị bình tĩnh, tỉnh táo để xem xét anh từ chân tơ kẽ tóc: “Anh tưởng
mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá đắt
bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong vô vàn kẻ tầm thường,
một thứ giẻ rách” thì tất cả đã quá muộn. Chị ngậm ngùi chấp nhận sự thật, chấp
nhận sự dang dở của đời mình như chấp nhận trái đất không tròn trịa mà nham
nhở như trái táo bị cắn dở.
Đứng ở những điểm nhìn trần thuật khác nhau, lời văn độc thoại cũng phụ
thuộc vào từng điểm nhìn trần thuật cụ thể. Khi người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất, tính chất độc thoại bao giờ cũng rõ nét hơn. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
trong truyện ngắn Đoàn lê đã biểu đạt được sâu sắc thế giới tâm hồn, tình cảm
của con người, góp phần làm phong phú thế giới ngôn ngữ của văn học thời kỳ
đổi mới.
5. Giọng điệu nghệ thuật
Với một tác phẩm văn chương, giọng điệu nghệ thuật đóng vai trò dẫn dắt
cảm xúc của người đọc khi tiếp nhận tác phẩm, đồng thời là yếu tố hàng đầu của
phong cách nhà văn, là “yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình
thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [63, 355]. Tác phẩm văn học không thể thiếu
giọng điệu, nó là phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Giọng điệu văn học
là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm,
khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Mỗi nhà có một giọng điệu
chủ đạo bao trùm toàn bộ sáng tác làm nên nét phong cách khác biệt của họ so
với những nhà văn khác. Cảm hứng nghệ thuật chủ đạo mà nhà văn sử dụng là
yếu tố cơ bản để tạo nên các giọng điệu khác nhau. Bên cạnh cảm hứng nghệ
thuật, giọng điệu trong tác phẩm văn học còn được thể hiện ở các “mô tuýp và
hình tượng” (M.Bakhtin). Chẳng hạn, các mô tuýp nước mắt, nỗi đau, mối sầu là 106
cơ sở của giọng điệu cảm thương của chủ nghĩa tình cảm. Tùy theo từng giai
đoạn văn học, từng môi trường văn hóa mà những tác phẩm có giá trị đích thực
thể hiện được giọng điệu riêng của nó. Giọng cảm thương trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, giọng đồng cảm, xót xa trong Chí Phèo của Nam Cao, Giọng châm
biếm, mỉa mai trong Vi hành của Nguyễn Ái Quốc...Có khi trong cùng một tác
phẩm, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau tạo nên sự phong phú trong
cách biểu hiện, thái độ, tình cảm của nhà văn. Với những giọng điệu khác nhau
xuất hiện trong cùng một tác phẩm thường phụ thuộc vào ngữ cảnh phong cách:
“Mối quan hệ giữa ngữ cảnh phong cách này với ngữ cảnh phong cách khác làm
nên cấu trúc chất giọng cho tác phẩm”( Nguyễn Thái Hòa, Chất giọng Nam Cao
trong Chí Phèo).
Với các nhà văn nữ giai đoạn văn học đổi mới, giọng điệu nghệ thuật là
một trong những yếu tố nghệ thuật rất được chú trọng. Khi các cây bút nữ đồng
loạt xuất hiện thì trên văn đàn cũng xuất hiện nhiều giọng điệu nghệ thuật gần
giống nhau. Nhỏ nhẹ, tinh tế nhưng cũng sắc sảo triết lý là những đặc điểm dễ
dàng nhận thấy trong giọng điệu nghệ thuật của các cây bút nữ. Vì vậy để tìm
cho mình một giọng điệu nghệ thuật riêng mà qua đó phong cách nghệ thuật của
nhà văn được khẳng định là điều không dễ với các nhà văn nữ giai đoạn này.
Dẫu vậy bằng niềm đam mê sáng tạo đến quên mình, Đoàn lê đã tìm tòi cho
mình một chất giọng riêng, khẳng định được tiếng nói của mình trên văn đàn
hôm nay. Đó là một cây bút đa giọng điệu. Người đọc có thể tìm thấy trong sáng
tác của bà những chất giọng khác nhau: Khi là giọng điệu trữ tình (Người đẹp
xóm chùa, Đêm ngâu vào, Ngôi nhà gỗ, Giường đôi xóm Chùa...),có lúc là giọng
điệu mỉa mai, châm biếm, phê phán (Nghĩa địa xóm chùa, Trinh tiết xóm chù,
Đất xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa...),có giọng đồng cảm xót xa (Hạt vừng,
Dấu hỏi gửi thượng đế, một ngày xứ em,Viên sỏi, Con bướm nhựa cánh xanh,
Tình Guột.)..Sự phong phú về giọng điệu tạo cho sáng tác của Đoàn Lê sự đa âm
trong cách thể hiện thái độ tình cảm cũng như lập trường tư tưởng của nhà văn.
5.1 Giọng điệu trữ tình.
Giọng điệu trữ tình là một trong những chất giọng cơ bản trong
sáng tác của Đoàn Lê. Giọng điệu trữ tình chủ yếu được thể hiện ở ngôn ngữ
nghệ thuật mà nhà văn sử dụng cũng như các yếu tố nghệ thuật khác như: mô
típ, hình tượng nghệ thuật, hình ảnh, ngữ điệu, cách miêu tả nhân vật...Ngôn ngữ 107
trong tác phẩm thể hiện tình cảm, tâm trạng của nhân vật. Những chuyện viết về
đề tài tình yêu, cuộc sống gia đình của Đoàn Lê thường sử dụng giọng điệu trữ
tình (Dấu hỏi gửi thượng đế, Ngôi nhà gỗ, Tình Guột, Đêm ngâu vào). Những
câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng, lãng mạn là phông nền cơ bản cho giọng điệu
trữ tình của tác phẩm. Có những truyện từ đầu đến cuối toàn là giọng tâm tình
của nhân vật khi kể lại câu chuyện tình của đời mình (Ngôi nhà gỗ). Họ đến với
nhau rất nhẹ nhàng và chia tay cũng thật lặng lẽ. Cốt truyện chẳng có gì đặc biệt,
với giọng văn nhẹ nhàng thủ thỉ, nhà văn cứ nhẩn nha kể câu chuyện của “chị”,
thói quen sợ dán, cả cuộc sống bình lặng nhưng khá thú vị của chị những ngày
sống ở quê anh trong ngôi nhà gỗ. Rồi cũng chẳng có lí do gì đặc biệt họ đã chia
tay nhau, chi tạm biệt ngôi nhà gỗ quê anh và chuyển về một xóm núi gần biển
Hải Phòng, nơi con trai chị đang học đại học để sinh sống. Từ đó dường như chị
quên hẳn anh và con vật đáng ghét ở quê anh. Truyện chỉ có thế, chẳng có biến
cố gì đặc biệt nhưng những dư vị mà nó đọng lại trong lòng ta thật thấm thía.
Chất trữ tình trong những tác phẩm của Đoàn Lê không chỉ hiện lên ở ngôn ngữ
kể chuyện mà còn ở nhiều yếu tố như cách tạo bối cảnh không gian, thời gian
cho câu chuyện được kể, cách diễn tả tâm lý, tâm trạng nhân vật... Truyện Đêm
ngâu vào được bắt đầu bằng không gian của một buổi chiều mưa ngâu anh và
nàng ngồi bên nhau ngắm mưa nhưng tâm trạng thì khác hẳn tâm trạng của hai
mươi năm về trước. Hai mươi năm trước cũng vào chiều mưa như chiều nay,
đáng ra anh phải nói với nàng tất cả những xúc cảm thổn thức của con tim thì
anh lại do dự, dụt dè. Vì thế anh đã vĩnh viễn mất nàng để suốt đời phải sống
trong sự hối tiếc. Và chiều nay khi anh được cận kề bên nàng thì tất cả đã quá
muộn, thời gian còn lại của đời nàng còn quá ít. Anh chỉ còn kịp họa lại bức
chân dung nàng trong khoảnh khắc của buổi chiều mưa ngâu. Toàn truyện thấm
đẫm một nỗi buồn thương da diết. Chính không gian, tâm trạng, xúc cảm của
nhân vật đã làm nên chất trữ tình sâu lắng cho truyện.
Bên cạnh những giọng điệu khác, giọng đồng cảm, xót xa cũng là một
giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Đoàn Lê. Đó cũng là một khía cạnh của
giọng điệu trữ tình. Giọng điệu này xuất phát từ niềm cảm thông sâu sắc của nhà
văn với mỗi cuộc đời, số phận từng chịu nhiều thiệt thòi, cay đắng trong cuộc
đời riêng. Đó có thể là những số phận bất hạnh do sự thiếu hụt của hình hài
(Dấu hỏi gửi thượng đế , Tình Guột), có khi là nỗi đau của những cô gái nhan 108
sắc phải bán thân nuôi miệng (Con bướm nhựa cánh xanh), cũng có lúc là nỗi
đau của người thân khi mất đi người những người ruột thịt của mình (Viên sỏi,
Hai bà mẹ và tôi)...Nhà văn đã thể hiện nỗi đau của nhân vật bằng tất cả tấm
lòng đồng cảm, xót xa của mình. Mỗi câu chữ viết ra đều rưng rưng nước mắt.
Nỗi niềm của nhà văn với nhân vật không chỉ ẩn sau mỗi cuộc đời, mỗi số phận
mà còn thể hiện trực tiếp qua giọng điệu ngôn ngữ của tác phẩm.
Giọng đồng cảm, xót xa là giọng điệu chủ yếu làm nên giá trị nhân văn
trong mỗi tác phẩm của Đoàn Lê.
5.2 Giọng mỉa mai, châm biếm, phê phán
Giọng điệu mỉa mai, châm biếm, phê phán xuất phát từ cảm hứng trào
lộng và là căn nguyên tạo nên cái hài, cái bi trong văn học nghệ thuật. Theo
Bakhtin, giọng điệu nói chung nhất là giọng điệu châm biếm, trào lộng bao giờ
cũng gắn với tiếng cười, là sự “mâu thuẫn”, “Sự không tương xứng mà người ta
có thể cảm nhận được về phương diện thẩm mỹ- xã hội” [50]. Giọng mỉa mai,
châm biếm có vai trò như một thứ vũ khí nhằm phê phán, đả kích cái ác, cái xấu
của nhân tình thế thái. Văn học từ sau 1975 dần dần mất đi tính chất “trang
nghiêm” của văn học giai đoạn trước và bắt đầu đưa yếu tố gây hài vào để cảm
hứng trào lộng thành một dòng chảy mạnh mẽ.
Trong truyện ngắn của Đoàn Lê, giọng điệu châm biếm, mỉa mai, phê
phán không thể hiện trực tiếp ồn ào, dồn dập, gấp gáp mà kín đáo, nhẹ nhàng
đằng sau câu chữ nhưng thật thấm thía và sâu cay. Đó là những câu chuyện viết
về hiện thực cuộc sống con người thời đổi mới. Cùng với sự thay đổi trong đời
sống xã hội, nhiều thang bậc giá trị trong đời sống con người cũng theo đó mà
thay đổi. Người ta thấy nhiều nét truyền thống nhân bản không còn phù hợp với
thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời gian là vàng, thời đại nền kinh tế thị
trường đặt lợi nhuận lên trên hết. Vì thế, trong xã hội xuất hiện loại người cơ
hội, trục lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên mọi tiêu chuẩn, nguyên tắc ở đời (A
Tourism xóm Chùa). Để làm giầu Cường đã bất chấp mọi thủ đoạn: hắn đặt bom
làm sập hang Dơi rồi tạo hiện trường giả tung tin về động xương người. Từ tin
tức ấy, Cường cấp tốc xin ủy ban cho mở mấy quán ăn phục vụ khách du lịch,
dần dà quán ăn phát triển thành những nhà hàng, bên ngoài có tiếng nhạc xập
xình suốt ngày đêm, bên trong có tiếp viên ăn mặc xúng xính mắt xanh mỏ đỏ
phục vụ các thượng đế. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, Cường bốc giầu 109
nhanh chóng. Giờ hắn có xe @ đi vè vè, mắt đeo kính đen vếch lên trời chẳng
thèm chào ai. Hơn thế hắn còn đưa ca-ve về nhà để chúng khiêu khích ông
Hưởng- bố Cường đến mức ông nhồi máu cơ tim chết ngay trên giường... Từng
sự việc, chi tiết trong tác phẩm đều mang ý nghĩa châm biếm, mỉa mai sâu sắc
loại người vì lợi mà bất chấp cả luân thường đạo lý, cả lương tâm. Cùng với
Cường, rất nhiều gia đình ở xóm Chùa Ông cũng mong muốn được đổi đời. Họ
bất chấp mọi mối quan hệ, bất chấp mọi nghĩa tình, sẵn sàng gây ra những cuộc
tranh chấp đất đai nhằm hưởng lợi (Đất xóm Chùa). “Con cả lão Tự Nghệch
chém vỡ đầu thằng thứ hai, tranh nửa thước đất bên cạnh con đường cao tốc vô
hình. Bốn nhà vẫn chung ngõ đi bỗng om sòm đánh nhau chia bôi đường biên
giới. Bà cụ Lăng kiện con rể, đòi lại cái chuồng trâu đã cho con gái làm hồi
môn từ hai chục năm trước...” Toàn những hiện thực cười ra nước mắt. Giọng
điệu trần thuật của nhà văn ngỡ như bình thản, lạnh lùng mà ẩn chứa bao chua
xót. Còn đâu xóm làng bình yên với nghĩa tình sâu nặng của cha con, anh em,
xóm giềng thủa trước. Tất cả đã bị cái lợi trước mắt cùng đồng tiền che khuất.
Để cứu gia đình thoát nghèo, người ta sẵn sàng làm những việc mất hết lương
tâm, vi phạm nghiêm trọng đạo đức con người là cho con xuất ngoại mà thực
chất là bán con để trục lợi. Ghê tởm hơn, họ còn cho con gái đến cơ sở y khoa
để “vá trinh” tân trang lại nhằm lòe bịp những lão già ngoại quốc lắm tiền, dù
biết rằng nếu họ phát hiện ra họ sẽ bán vào nhà thổ hoặc vùi dậo cho đến chết
(Trinh tiết xóm Chùa). Cũng vì “cơn sốt” lấy chồng ngoại, con trai đưa ca-ve,
con hít về tận làng hoạt động nên cả Xóm Chùa có đến hai phần ba thanh niên
khám nghiệm dương tính với con hít. Hiện thực đau xót này là hiện thực chung
của nhiều vùng ven đô nước ta trước tốc độ đô thị hóa đến mức chóng mặt của
nền kinh tế thị trường.
Giọng châm biếm, phê phán của Đoàn Lê không chỉ nhằm vào những tệ
nạn xã hội, những kẻ cơ hội trục lợi mà còn nhằm cả vào những hiện tượng tiêu
cực trong xã hội như nạn tham nhũng, lợi dụng chức quyền để thao túng đất đai,
trọng hình thức hơn nội dung, coi trọng vẻ bề ngoài hơn bản chất thực bên
trong... Đó là những vấn đề lớn được nhà văn thể hiện trong hai truyện có yếu tố
kỳ ảo: Lên Ruồi và Nghĩa địa xóm Chùa. Ở Lên Ruồi, nhà văn kể câu chuyện
của một nghệ sỹ nhào lộn đã cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật, nay vì ly dị
vợ không có chỗ ở phải đâm đơn xin xỏ khắp nơi nhưng không được chấp nhận 110
còn bị biến thành ruồi. Qua giọng kể hài hước, dí dỏm nhà văn khiến bao kẻ
quyền chức tham nhũng trong xã hội phải giật mình, bao người thấy xót xa cho
cảnh ngộ của mình trong cái thời buổi đất chật người đông, “mật ít ruồi nhiều”.
Dân gian vẫn nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xấu người đẹp nết còn hơn
đẹp người” để nhấn mạnh vai trò của sự thực chất. Nhưng dường như trong xã
hội hiện đại, quan niệm đó không còn thực sự được đề cao, vì thế mới nảy sinh
căn bệnh chạy theo hình thức, coi trọng hình thức với những biểu hiện bên ngoài
hơn là bản chất thực bên trong. Qua giọng kể đầy tính chất bi hài của Đoàn Lê ở
truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa, người đọc sẽ thấy rất rõ điều đó. Câu chuyện
xoay quanh tình huống nhầm lẫn xác của ông thiếu tướng với một tay thợ điện
về hưu- một tình huống hết sức khôi hài để phê phán hiện thực: hiện thực về tiền
tài danh vị, thứ bậc trong xã hội. Vì chút tiền lót tay tiêu cực phí, gã canh nhà
xác vô lương tâm sẵn sàng làm cuộc tráo đổi lộn sòng gây náo loạn cả đám tang
thiếu tướng. Vì chức tước danh vị ông thiếu tướng mà hầu hết những người đến
với đám tang chỉ diễu qua, diễn trò cho phải phép, không ai tận mắt ngắm nhìn
hình hài người quá cố. Ngay đến cả đến những người ruột thịt: hai bà vợ và một
lũ con khăn xô, mũ mấn luôn túc trực bên linh cữu mà cũng không hề nhận ra sự
nhầm lẫn nực cười ấy. “Họ mải nhìn vào nỗi đau trong lòng họ, hay mải giữ lễ
với ông cả bà lớn đến viếng nên chưa một lần liếc mắt tới tôi?”. Cứ như thế,
bằng giọng điệu lúc bình thản, lạnh lùng, khi bất bình chua sót, nhà văn đã nhập
thân vào nhân vật tay thợ điện để kể về nỗi oan ức của mình: “Ông thiếu tướng
kia ơi, nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở
đây không ai cần ông, không ai thực sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh
mất vinh hạnh mà chính thực tôi gánh chịu nỗi bất hạnh cho ông đó”. Điểm
nhìn trần thuật khi ở nhân vật này, lúc của nhân vật khác, nhà văn đã thể hiện
thái độ mỉa mai, châm biếm rất sâu sắc.
Trong nhiều tác phẩm khác, dù giọng điệu chính không phải là mỉa mai,
phê phán nhưng đằng sau những bức tranh hiện thực, nhà văn vẫn ngầm thể hiện
những ý nghĩa phê phán xã hội, con người rõ nét. Là nhà văn giàu lòng nhân ái,
Đoàn Lê luôn có mong muốn qua những trang viết của mình, con người sẽ sống
thiện hơn, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ được cải thiện, những nét
đẹp nhân bản của con người sẽ được khôi phục. Niềm mong mỏi ấy giúp nhà
văn liên tục cống hiến cho người đọc những trang viết giầu ý nghĩa nhân văn.
111
Giọng điệu trở thành một yếu tố nghệ thuật chi phối rất lớn đến các yếu tố
nghệ thuật khác trong tác phẩm. Nó đồng thời cũng là một hiện tượng nghệ thuật
được tạo thành từ các yếu tố gắn kết, hô ứng nhau. Trong mỗi sáng tác, Đoàn Lê
luôn cố gắng, tìm tòi để tạo ra những giọng điệu riêng không giống ai. Đó thực
sự là thách thức lớn với người nghệ sỹ, nhưng chúng ta tin rằng bằng sự khổ
công phấn đấu với niềm say mê nghề nghiệp cùng tài năng của bà với văn
chương, Đoàn Lê vẫn và sẽ tạo được phong cách nghệ thuật riêng bắt đầu từ
giọng điệu nghệ thuật.
112
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Văn học Việt Nam từ sau 1975 chứng kiến nhiều thay đổi từ thể loại
đến quan niệm sáng tác, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Trong đó truyện ngắn
là thể loại gặt hái được nhiều thành công nhất. Sự khởi sắc của thể loại này là
minh chứng cho sự phát triển của văn học hiện đại. Có được những thành tựu đó
không thể không nhắc đến sự góp mặt của các nhà văn nữ, khi tác phẩm của họ
gần như chiếm lĩnh văn đàn. Trong đó, Đoàn Lê được biết đến như một cây bút
có phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới rất tiêu biểu cho văn học đương
đại. Vì vậy tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn lê giúp ta có
cái nhìn khái quát hơn về sự phát triển chung của văn học thời kỳ đổi mới.
2. Cảm hứng nghệ thuật của Đoàn Lê bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực
bề bộn của cuộc sống hôm nay. Từ cảm hứng bi kịch đến cảm hứng triết luận,
tác phẩm của Đoàn Lê thường đề cập đến những vấn đề nhân sinh. Đó là nỗi đau
của những con người bước ra khỏi cuộc chiến với những ám ảnh ghê gớm của
chiến tranh. Chuyển sang giai đoạn đất nước hòa bình, nhà văn lại khám phá và
thể hiện những bi kịch của bao gia đình, bao số phận trước sức băng cuốn của
nền kinh tế thị trường. Cùng với những bi kịch ấy là bi kịch tình yêu, hôn nhân
trong những gia đình hiện đại. Đoàn lê đã viết văn bằng tất cả sự nhạy cảm tinh
tế của một người phụ nữ từng trải nên những bi kịch mà nhà văn thể hiện qua
mỗi trang viết đều chân thực và sâu sắc. Giọng điệu của nhà văn khi viết về
những cảm hứng đó khi thì đồng cảm, xót xa chia sẻ, lúc lại mỉa mai, phê phán
nhẹ nhàng mà tinh tế.
3. Con người xuất hiện trong văn học thời kỳ đổi mới là con người đời tư,
đời thường với những khuôn mặt khác nhau tạo nên sự phong phú, sinh động
trong thế giới nhân vật mà văn học đề cập đến. Số phận cá nhân được văn học
giai đoạn này quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là đời sống tinh thần của con người
hiện đại vốn phức tạp và khó nắm bắt. Nhân vật văn học được nhắc đến bằng
các đại từ xưng hô: “tôi”, “hắn”, “nó”, “lão”...nhiều hơn là danh từ chung mà
văn học giai đoạn trước lựa chọn để khắc họa những hình tượng nhân vật mang
sắc thái biểu tượng cho cả một thế hệ, một dân tộc ở một giai đoạn lịch sử cụ
thể. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Đoàn Lê dù là truyện ngắn hay tiểu
thuyết đều thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Con 113
người là một thế giới bí ẩn, một tiểu vũ trụ với đời sống tâm lý vô cùng phức tạp
mà các nhà văn cần khám phá và thể hiện.
Con người trong sáng tác của Đoàn Lê thường mang bi kịch và cảm xúc
chân thực của con người hiện đại. Bi kịch vì tình yêu không thành, bi kịch vì sự
đổ vỡ gia đình, bi kịch vì cuộc sống mưu sinh...Bi kịch ấy bắt nguồn từ mâu
thuẫn giữa hoàn cảnh và tính cách cũng như ước mơ, khát vọng của con người.
Những mâu thuẫn, xung đột trong thế giới nhân vật mà nhà văn đề cập đến chứa
đựng ý nghĩa điển hình và có tính xã hội sâu sắc. Thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Đoàn Lê khá phong phú: có kiểu nhân vật cô đơn, có nhân vật tự ý thức,
cũng có kiểu nhân vật ảo...Mỗi kiểu nhân vật được thể hiện bằng những phương
thức khác nhau nhưng đều góp phần thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về
con người của Đoàn Lê. Đặc biệt là việc khắc họa nhân vật ảo đã giúp nhà văn
mở rộng bình diện khám phá con người, khám phá hiện thực cuộc sống một
cách độc đáo nhưng vẫn chân thực và đầy đủ. Khám phá thế giới nhân vật của
Đoàn Lê người đọc có thể hình dung về dòng chảy của cuộc sống hiện đại cũng
như tâm lý, tính cách và số phận con người trong cuộc sống hôm nay.
4. Thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê cũng có những nét độc
đáo riêng, tạo nên một phong cách nghệ thuật có nhiều dấu ấn trên Văn đàn văn
học Việt Nam hiện đại. Từ nghệ thuật tổ chức cốt truyện, tạo tình huống, tổ chức
ngôn ngữ và cách lựa chọn sắp xếp không gian, thời gian hay các thủ pháp nghệ
thuật thường sử dụng trong sáng tác của nhà văn đều có những cách tân mới mẻ
bên cạnh những yếu tố kế thừa văn học truyền thống. Về nghệ thuật tổ chức cốt
truyện, Đoàn Lê là nhà văn ở giữa làn ranh giới giữa cốt truyện truyền thống và
cốt truyện hiện đại. Trong truyện ngắn của bà bên cạnh những truyện có cốt
truyện rõ ràng, nhà văn còn sáng tạo loại truyện tâm lý không có cốt truyện, chủ
yếu hướng vào thế giới tinh thần của nhân vật với những thông điệp mang ý
nghĩa triết luận sâu sắc. Những tình huống được nhà văn lựa chọn và tổ chức
gắn với tư tưởng nghệ thuật của bà trước những vấn đề của cuộc sống, là mấu
chốt để triển khai cốt truyện và xây dựng nhân vật. Ngôn ngữ Đoàn Lê là ngôn
ngữ gần với đời thường. Nhân vật của Đoàn Lê thường được đặt trong không
gian cụ thể, thời gian đa chiều: quá khứ, hiện tại, cái chung- cái riêng. Qua đó
cảm quan về cuộc sống, tư tưởng nghệ thuật cùng những nét riêng về phong
cách của nhà văn được bộc lộ.
114
5. Qua việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê, chúng tôi
hy vọng đã phác thảo những đặc trưng nghệ thuật của một cây bút nữ tiêu biểu
của văn học giai đoạn đổi mới. Qua việc tìm hiểu này, chúng tôi hy vọng sẽ giúp
bạn đọc có thể mở rộng bình diện khám phá tác phẩm văn học, đặc biệt là khám
phá những truyện ngắn hiện đại vốn được xem là khó hiểu, khó nắm bắt. Việc
tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê cũng chính là đã bước đầu tìm
hiểu những đặc điểm chung của truyện ngắn đương đại. Mặc dù chưa thực đầy
đủ, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng những khám phá về nội dung và nghệ thuật
trên đây sẽ giúp bạn đọc dễ dàng tiếp cận hơn với sáng tác của nhà văn này,
cũng như những sáng tác của các nhà văn nữ cùng thời. Tuy nhiên, những cách
hiểu chưa đầy đủ là điều không tránh khỏi khi thực hiện đề tài nghiên cứu này,
vì vậy những đóng góp ý kiến của bạn đọc là điều vô cùng quý báu để chúng tôi-
những người mới bước chân vào con đường nghiên cứu có thêm những khích lệ,
động viên để tiếp tục con đường đầy khó khăn trước mặt.
115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Ngọc Anh ( 2003)- Đã đến lúc những ngƣời đàn bà nổi loạn - Báo Nông thôn
2 ngày nay, ngày 10/07 Vũ Tuấn Anh (1995)- Đổi mới văn học vì sự phát triển – Tạp chí Văn hóa số4.
3 Vũ Anh Tuấn ( 1996)- Quá trình văn học đƣơng đại nhìn từ phƣơng diện thể loại - Tạp chí Văn hóa - Số 9.
4 Lại Nguyên Ân (2003)- 150 thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội
5 Nguyễn Thị Bình (2001)- Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975 - Tạp chí Văn học số 3
6 Nguyễn Thị Bình (1996)- Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Luận án PTS khoa học Ngữ văn – ĐHSPHN
7 M,Bakhtin (1992) -Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - NXBHà Nội 8 M,Bakhtin (1993) - Những vấn đề thi pháp Đônxtôievxky- NXB Giáo dục.
9
10 Phạm Quốc Ca (2002) - Ý thức cá nhân trong thơ trữ tình sau 1975 - Văn học số 12. Nguyễn Minh Châu (1987) - Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa - Văn nghệ, 12.
11 Nguyễn Minh Châu (1994)- Trang giấy trƣớc đèn - NXB Khoa học xã hội & Nhân văn.
12 Trần Ngọc Dung (1993)- Ba phong cách truyện ngắn: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao - Luận văn PTS Khoa học Ngữ văn – ĐHSPHN.
13 Nguyễn Lân Dũng (2006) – Ai cứu xóm Chùa- Báo văn nghệ số 4
14 Đặng Anh Đào (1991) - Một hiện tƣợng mới trong hình thức kể truyện hôm nay - Tạp chí văn học số 6.
15 Đặng Anh Đào (1993) - Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay - Tạp chí khoa học văn học số 3.
16 Trần Thanh Đạm (1989)- Nghĩ về một xu thế đổi mới trong đời sống văn trƣơng hiện nay - Báo văn nghệ số 1.
17 Hà Minh Đức (1992) - Loại thể văn học - NXB Giáo dục. 18 Hà Minh Đức (chủ biên) (1995)- Lý luận văn học - NXB Hà Nội. 19 Trần Thanh Địch (1998) - Tìm hiểu truyện ngắn- NXB tác phẩm mới.
20 Phùng Hữu Hải - Yếu tổ kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiẹn đại từ sau năm 1975 - www.evan.com,vn.
21 Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1997) - Từ điển thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội.
116
22 Hoàng Thị Hồng Hà (2003) - Truyện ngắn nữ và xu hƣớng tự nghiệm - Tạp chí Nghề báo - Văn nghệ Công an số 10.
23 Nguyễn Hà (2000)- Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80 - Tạp chí Văn học số 3.
24 Nguyễn Thái Hòa ( 2000)- Những vấn đề thi pháp của truyện - NXB Giáo dục.
25 Tô Hoài (1997) - Sổ tay viết văn - NXB tác phẩm mới Hà Nội. 26 Vũ Thị Hồng (1991) - Gặp gỡ một số nhà văn nữ - Tạp chí tác phẩm mới số 10.
27 Hoàng Ngọc Hiến (1991)- Thi pháp của truyện - Báo Văn nghệ số 31.
28 Đỗ Đức Hiểu (2000) - Thi pháp học hiện đại - NXB Hội nhà văn. 29 Nguyễn Thanh Hùng (2000) - Chiến tranh đi qua tình ngƣời ở lại - Tạp chí Văn học số 3.
30
Lê Thị Hường (1995) - Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn sau 1975 - Luận án TS khoa học Ngữ văn - ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội.
31 Lê Thị Hường (1994) - Quan niệm về con ngƣời cô đơn trong truyện ngắn hiện nay - Tạp chí Văn học số 2.
32 Lê Thị Hường (1995) - Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay - Tạp chí văn học số 4.
33 M.B.Khrapchenkô (1978) - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - NXB Tác phẩm mới.
34 M.B.Khrapchenkô (2002)- Những vấn đề lý luận và phƣơng pháp luận nghiên cứu văn học - NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
35 Phùng Ngoc Kiếm (1998) - Con ngƣời trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975 - NXB ĐHQG Hà Nội.
36 Lê Minh Khuê ( 2003) - Truyện ngắn chọn lọc - NXB Giáo dục. 37 Chu Lai (2007)- Ăn mày dĩ vãng - NXB Hà Nội. 38 Tôn Phương Lan ( 2001)- Một vài suy nghĩ về con ngƣời trong văn học thời kỳ đổi mới - Tạp chí Văn học số 9.
39 Nguyễn Văn Long ( 2003) - Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục.
40 Nguyễn Văn Lưu (1995) - Luận chiến văn chƣơng - NXB Văn học.
41 Nguyễn Đăng Mạnh ( 1994) - Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn NXB Giáo dục.
42 Nguyễn Đăng Mạnh ( 2003) - Khái quát Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục.
117
43 Nguyễn Đăng Mạnh ( 2003) - Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách - NXB Văn học.
44 Nguyên Ngọc (1991) - Văn suôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển Tạp chí Văn học số 4.
45 Nguyên Ngọc ( 1990) - Đôi nét về một tƣ duy văn học mới đang hình thành - Tạp chí Văn học số 4.
46 Hương Nguyên (2002) - Các nhà văn Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc - Tạp chí Văn học số 3.
47 Phạm Xuân Nguyên ( 1994) - Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay - Tạp chí Văn học số 2.
48 Vương Trí Nhàn (1998) - Sổ tay truyện ngắn - NXB Hội Nhà văn Hà Nội. 49 Vương Trí Nhàn (1996) - Phụ nữ và sáng tác văn chƣơng - Tạp chí Văn học số 6.
50 Nhiều tác giả (2000) - Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký - Tạ Duy Anh (chủ
51 biên) NXB Thanh Niên. Nhiều tác giả (1999) - Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học -Viện văn học Hà Nội.
52 Nhiều tác giả (1987)-(1997) - Tự sự học (Trần Đình Sử- chủ biên) - NXB ĐHQGHN-NXB - Giáo dục.
53 Bảo Ninh (2007) - Nỗi buồn chiến tranh - NXB Văn học .
54 Phóng viên (1994) - Nghĩ về truyện ngắn - Phỏng vấn các nhà văn - Văn nghệ Quân Đội.
55 Phóng viên (1994) - Phỏng vấn 4 cây bút nữ - Văn nghệ Quân đội 2. 56 Phạm Thị Phương (1998) - Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn - Tạp chí Văn học số 4.
57 Trần Đình Sử (2000) - Lý luận và phê bình văn học - NXB Giáo dục . 58 Trần Đình Sử (1992) - Thi pháp học hiện đại - NXB Giáo dục. 59 Trần Đình Sử (1992) - Dẫn luận Thi pháp học - NXB Giáo dục.
60 Trần Đình Sử - Phương Lựu- Nguyễn Xuân Nam (2002) - Lý luận văn học - NXB Giáo dục.
61 Hồ Anh Thái (2009)- Đoàn Lê “chị tôi” – Báo văn nghệ số 38.
62 Trần Thị Thắng, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Ngọc Tú, Trần Thị Trường – (2003) - Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam - NXN Giáo dục Hà Nội.
63 Bùi Việt Thắng (1999) - Bình luận truyện ngắn - NXB Văn học. 64 Bùi Việt Thắng (1997) - Khi ngƣời ta trẻ II –- Báo Văn nghệ 35.
118
65 Bùi Việt Thắng (2002) - Lời giới thiệu truyện ngắn 4 cây bút nữ - NXB Văn học.
66 Bùi Việt Thắng (2000) - Một bƣớc đi của truyện ngắn – NXB Hội nhà văn. 67 Bùi Việt Thắng (2000) - Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại - NXB ĐHQG Hà Nội.
68 Nguyễn Huy Thiệp (1999) - Nhƣ những ngọn gió - NXB văn họ Hà Nội 69 Bích Thu (1996) - Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 - Tạp chí văn học số 9.
70 Bích Thu (1995) - Những dấu hiệu đổi mới của văn học sau 1975 qua hệ thống mô tuýp chủ đề- Tạp chí Văn học số 4.
71 Bích Thu (2001) - Văn xuôi phái đẹp - Tạp chí Sông Hương số 145 tháng 3. 72 Lê Ngọc Trà (2002) - Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới - Tạp chí Văn học số 2.
73 Dương Quỳnh Trang (1994) - Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của
74
một cây bút nữ - Văn nghệ Quân đội 6. Bùi Thanh Truyền - (2006) – Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đƣơng đại Việt Nam - Luận án TS khoa học Ngữ văn – Đại học Huế 75 Truyện kỳ ảo thế giới (1992) - NxbVăn Học Hà Nội 76 Truyện ngắn của các nhà văn nữ (2001) - NXB Giáo dục. 77 Truyện ngắn hay Việt Nam -Tập 4 (2000 )- NXB Hội Nhà văn. 78 Truyện ngắn trẻ chọn lọc 1994 - 1998 (1998) - NXB Văn hóa Thông tin. 79 Tuyển các tác giả nữ (2001) - NXB Phụ nữ.