ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------oOo--------- VŨ THÚY HẰNG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học PGS – TS Lê Dục Tú

Hà Nội - 2010

MỤC LỤC

Trang 1 PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 3

3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 6

4. Phương pháp nghiên cứu 6

5. Những đóng góp mới của luận văn 7

6. Cấu trúc luận văn 7

PHẦN II: NỘI DUNG

CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT 9

1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học 9

2. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học sau 1975 11

3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê 14

3.1. Cảm hứng bi kịch 14

3.1.1. Bi kịch chiến tranh 15

3.1.2. Bi kịch đời thường 18

3.1.2.1. Bi kịch cuộc sống thời mở cửa 18

3.1.2.2. Bi kịch tình yêu 27

3.1.2.3. Bi kịch hôn nhân – gia đình 36

3.2. Cảm hứng triết luận 46

3.2.1. Triết lý về cuộc sống – nhân sinh 46

3.2.2. Triết lý về tình yêu – hôn nhân 48

CHƢƠNG II: THẾ GIỚI NHÂN VẬT 51

1. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê 51

1.1. Đặc điểm nhân vật của văn học giai đoạn trước và sau 1975 51

1.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê 55

2. Các kiểu nhân vật và phƣơng thức biểu hiện trong truyện ngắn Đoàn Lê 59

2.1. Nhân vật cô đơn 59

2.2. Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức 63

2.3. Nhân vật ảo 66

CHƢƠNG III: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ 73

1. Cốt truyện 73

1.1. Cốt truyện truyền thống 74

1.2. Cốt truyện tâm lý 78

1.3. Cốt truyện kỳ ảo 83

1.4. Vai trò của người kể truyện đối với sự phát triển của cốt truyện 85

2. Tình huống truyện 87

2.1. Tình huống bi kịch 88

2.2. Tình huống tự nhận thức 89

3. Không gian - Thời gian nghệ thuật 90

3.1. Không gian nghệ thuật 91

3.2. Thời gian nghệ thuật 95

4. Ngôn ngữ nghệ thuật 100

4.1. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường 101

4.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 103

5. Giọng điệu nghệ thuật 105

5.1. Giọng điệu trữ tình 106

5.2. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm 107

5.3. Giọng đồng cảm, xót xa 110

KẾT LUẬN 113

TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Văn học Việt Nam sau chiến tranh có nhiều khởi sắc. Những tìm tòi,

đổi mới về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học giai đoạn này đã

khẳng định những bước chuyển mạnh mẽ của văn học nước nhà. Đặc biệt từ sau

đổi mới, văn học thực sự có những bước tiến quan trọng bắt nhịp kịp thời với

bước chuyển của thời đại. Sự xuất hiện của hàng loạt những cây bút nữ đã tạo

nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này như Đoàn Lê, Lê Minh Khuê, Y

Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, nhất là

với thể loại truyện ngắn. Họ nhìn nhận những vấn đề của cuộc sống bằng sự tinh

tế, nhạy cảm của trái tim phụ nữ. Họ đưa vào tác phẩm của mình “một sinh khí

mới rất cần thiết để thể hiện bề sâu, bề sau của cuộc sống con người hôm nay”

(Nguyễn Minh Châu). Mỗi người một phong cách, một hướng tiếp cận, khám

phá đời sống, các cây bút nữ giai đoạn này đều nỗ lực thể hiện sự phong phú

phức tạp muôn màu của cuộc sống thời mở cửa, góp phần làm nên diện mạo của

một nền văn học mới. Đóng góp của họ được thể hiện nhiều nhất ở thể loại

truyện ngắn. Có thể nói văn học từ sau đổi mới là sự lên ngôi của thể loại này.

Những tìm tòi, đổi mới về tư tưởng chủ đề, về hình thức nghệ thuật trong truyện

ngắn là những đóng góp quan trọng làm nên những bước phát triển vững chắc

cho thể loại truyện ngắn Việt Nam. Vì vậy tìm hiểu những khám phá nghệ thuật

của bất cứ một tác giả nào trong giai đoạn văn học này cũng là những đóng góp

có ý nghĩa để có cái nhìn khái quát hơn về diện mạo của cả một giai đọan văn

học.

1.2 Đoàn Lê là một trong những gương mặt nữ ít nhiều đã thể hiện phong

cách nghệ thuật của mình trên văn đàn sau 1975, nhất là thập niên cuối thế kỷ

XX và những năm gần đây. Là một nghệ sỹ đa tài, Đoàn Lê đã để lại dấu ấn của

mình trên nhiều lĩnh vực: từng là diễn viên điện ảnh, thiết kế mỹ thuật, biên

kịch, đạo diễn phim, họa sỹ, nhà văn, nhà thơ. Đến nay vốn liếng văn chương

của Đoàn Lê đã khá dày dặn. Ngoài những kịch bản phim truyện, bà có năm tập

truyện ngắn, bốn cuốn tiểu thuyết và rất nhiều tác phẩm hội họa được giới phê

bình đánh giá cao. Đặc biệt, trong tư cách nhà văn, Đoàn Lê được biết đến như

một cây bút nữ có phong cách đa dạng và sức sáng tao tươi mới cùng với một

ngôn ngữ dịu dàng nền nã. Bà từng có hai tập truyện ngắn được dịch ra tiếng 1

Anh để giới thiệu với bạn đọc Mỹ là Trinh tiết xóm chùa và Nghĩa địa xóm

chùa, một tiểu thuyết được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam Cuốn gia phả

để lại và gần đây nhất là cuốn tiểu thuyết Tiền định được lọt vào vòng chung

khảo của giải thưởng Bách Việt, cùng một số truyện ngắn được nhận giải thưởng

của các báo, các tạp chí (truyện Đêm ngâu vào - Giải A tạp chí Sông Hương,

truyện Hạt vừng- Giải thưởng Tạp chí tác phẩm Văn học, truyện Trinh tiết xóm

Chùa - Giải thưởng báo Văn nghệ). Ở mảng truyện ngắn, Đoàn Lê được đánh

giá là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Truyện ngắn của bà xuất hiện đều

đều trên các báo. Truyện ngắn Đoàn Lê lúc thì đằm thắm trữ tình, lúc lại hiện

thực sắc sảo, có khi táo bạo hiện đại đến bất ngờ, có lúc lại trẻ trung thổn thức

như một cô gái mới lớn. Đọc truyện ngắn của bà, người đọc dễ dàng nhận ra một

trái tim phụ nữ giầu yêu thương với tất cả những vấn đề của cuộc sống nhân

sinh, nhất là vấn đề người phụ nữ. Đoàn Lê cũng may mắn được sống và cảm

nhận những giá trị cuộc sống ở cả hai giai đoạn văn học: những năm kháng

chiến chống Pháp, chống Mỹ và mảng hiện thực cuộc sống sau chiến tranh nhất

là từ thời kỳ đổi mới. Bởi vậy, trong những sáng tác của bà, số phận của những

con người bước ra từ cuộc chiến tranh cùng bi kịch của những con người trong

cuộc sống muôn mặt đời thường đã hiện lên thật sâu sắc và cảm động. Dù không

phải là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, nhưng truyện ngắn

của Đoàn Lê vẫn có nhiều yếu tố cách tân về thi pháp, phần nhiều là nằm trong

ranh giới của truyện truyền thống- hiện đại. Trong truyện ngắn của Đoàn Lê,

một không gian nghệ thuật luôn trở đi trở lại gây ám ảnh lòng người là không

gian của một xóm Chùa cụ thể. Nhưng đó cũng là không gian bao trùm cả nông

thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới- không gian với sự giao tranh quyết liệt

của những yếu tố mới – cũ. Đây cũng là một trong những đề tài nổi trội của văn

học giai đoan này. Bởi vậy tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của

Đoàn Lê cũng chính là cách tiếp cận với cuộc sống và truyện ngắn đương đại.

Đồng thời phong cách truyện của bà cũng rất tiêu biểu cho những cây bút nữ

giai đoạn văn học sau đổi mới.

Với những lý do ấy, chúng tôi chọn đề tài tìm hiểu Thế giới nghệ thuật

truyện ngắn của Đoàn Lê với hy vọng giúp bạn đọc hôm nay nhận diện một

gương mặt văn học và từ đó nhìn nhận diện mạo của văn chương đương đại.

2

2. Lịch sử vấn đề

Văn học sau 1975 là sự nở rộ các truyện ngắn của nhiều cây bút nữ. Họ là

lớp nhà văn trẻ tài năng và giầu nhiệt huyết. Lối viết của họ có sự kế thừa tinh

hoa của giai đoạn văn học trước đồng thời cũng chứa đựng nhiều nét cách tân,

đột phá ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Tuy vậy, sáng tác

của họ còn khá mới mẻ đối với nhiều bạn đọc. Tình hình nghiên cứu tác phẩm,

phong cách tác giả còn rải rác chưa có hệ thống, chưa đáp ứng được nhu cầu đọc

ngày càng cao của xã hội. Đoàn Lê là một cây bút có những dấu ấn nhất định

trên văn đàn hôm nay, nhất là trong thời gian gần đây, sáng tác của Đoàn Lê đã

được khá nhiều bạn đọc quan tâm. Tuy nhiên để có một cái nhìn khái quát về

toàn bộ sáng tác của nhà văn này thì cho đến nay chỉ có rất ít công trình khoa

học đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Đoàn Lê một cách cụ thể. Hầu hết các bài

viết mới chỉ dừng ở dạng giới thiệu, nhận xét sơ bộ, trình bày cảm xúc về một

truyện ngắn, một tập truyện ngắn hay một tiểu thuyết nào đó của nhà văn.

Nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê, các nhà nghiên cứu, phê bình thường

ghi nhận những đóng góp của bà với văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới nhất

là giai đoạn sau 1986. Vương Trí Nhàn khi lý giải về sự xuất hiện đông đảo của

các cây bút nữ sau 1975 trong đó có sáng tác của Đoàn Lê đã cho rằng : “phụ nữ

bắt mạch nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh dở dang của

cuộc sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có- tốt, dịu dàng, rộng lượng thì

không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng, từng cây

bút đã tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [49]. Sự góp mặt

của những nhà văn nữ những năm gần đây trong đó có Đoàn Lê đã tạo ra một

luồng sinh khí mới cho văn học đương đại. Cách nhìn hiện thực và con người

bằng những ưu thế của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật và cách lựa chọn đề

tài, xử lý tình huống đã tạo nên những nét khác biệt có nhiều đóng góp của các

cây bút nữ cho nền văn xuôi đương đại. Nhận định của một nhà phê bình về các

nhà văn nữ của văn học đương đại thông qua các hình thức biểu hiện của nhân

vật nữ trong sáng tác của họ trong đó có Đoàn Lê như sau: “Đặc điểm trong

những truyện ngắn của các tác giả nữ là hiện thực xã hội đang thay đổi nhanh

chóng, quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ những giấc

mộng lớn, mộng con với thái độ chung là chấp nhận như một chuyển động tất

yếu của cuộc đời” [79, 103]. Bên cạnh những nhận định chung về sáng tác của 3

các tác giả nữ trong đó có Đoàn Lê thì những ý kiến, nhận xét riêng về truyện

ngắn của bà cũng góp phần khẳng định sự ảnh hưởng của cây bút này đối với

văn học nữ giai đoạn đổi mới. Tạp chí Nghiệp đoàn Xuất bản ở Mỹ năm 2005 đã

nhận xét rất tinh tế về phong cách sáng tác Đoàn Lê và giá trị tập truyện ngắn:

“Trinh tiết xóm Chùa”: “Đoàn Lê được ghi nhận ở phong cách đa dạng và sức

sáng tạo tươi mới. Với giới học giả, những truyện ngắn này cho một cái nhìn

vào bên trong văn hóa Việt Nam sau “đổi mới”. Với người đọc nói chung, đây là

những tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn

nhân, ly dị, tuổi già. Đó là những tác phẩm về quyền con người, khảo sát tất cả

những gì bí ẩn, tinh tế của trái tim con người”. Trong bài viết: Đoàn Lê “chị

tôi” [61], nhà văn Hồ Anh Thái đã có những ý kiến đánh giá rất tinh sắc về một

số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê: “Với ngôn ngữ dịu

dàng, nền nã, hóm hỉnh, hài hước một cách nhẹ nhàng, chị viết về những vấn đề

thời cuộc ở cái làng ven đô thị trong hàng loạt tác phẩm gắn với tên Xóm Chùa:

Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Giường đôi xóm

Chùa.” Tuy là chuyện xóm Chùa nhưng Đoàn lê đã “tìm tòi và sử dụng rất nhiều

kỹ thuật viết, chính thế mạnh này đã lôi cuốn người đọc”. Cũng trong bài viết

này, tác giả còn đề cập đến nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo trong hai truyện

Nghĩa địa xóm Chùa và Lên Ruồi của Đoàn Lê.. “Cả Nghĩa địa xóm Chùa và

Lên Ruồi đều nằm trong mạch truyện có yếu tố kỳ ảo của Đoàn Lê. Nhưng ngay

cả trong những truyện kỳ ảo nhất của bà thì “cái thực vẫn lấn cái ảo, cái ảo chỉ

làm lạ hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực, chứ không phải là yếu tố xoay

chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật”. Cũng nói về nghệ thuật viết truyện

có yếu tố kỳ ảo, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi cho in trên tạp chí Tác Phẩm

Mới truyện Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt của

mình như sau: “Hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong người? Chỉ có người ốm

mới dám viết những chuyện khủng khiếp như vậy”.

Kirkus Reviews, một tạp chí có uy tín trong ngành xuất bản của Mỹ,

nhận xét về văn phong của tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê: “Mười

truyện mang màu sắc Gogol trong một bản dịch tiếng Anh đầu tiên của Đoàn

Lê...Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng ẩn dụ kiểu Kafka như trong Lên ruồi, hay

một truyện ngắn đạt tới giọng điệu riêng tư thấm thía như Giường đôi xóm

Chùa. Đó là những truyện ngắn đặc sắc”, những truyện ngắn “như những viên 4

đá quý”, những truyện “phúng dụ, châm biếm, huyễn tưởng” với văn phong tinh

tế, linh hoạt. Trong bài viết “Đoàn Lê- nghệ sỹ đa tài” (Báo nhân dân http

/wv.nd. com.vn) nhận định về văn phong Đoàn Lê: “giản dị, hóm hỉnh, sâu sắc,

Đoàn Lê có biệt tài phát hiện và miêu tả những chi tiết đắt giá ngay trong những

cái tưởng chừng như vụn vặt đời thường. Văn phong Đoàn Lê cuốn hút người

đọc bằng những câu chữ tinh tế, mượt mà”.

Trong luận án tiến sỹ với đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại

Việt Nam”, Tiến sỹ Bùi Thanh Truyền đã khảo sát hàng loạt truyện ngắn có yếu

tố kỳ ảo trong đó có truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê. Ông đã phát

hiện được khả năng kỳ diệu của ngôn ngữ Đoàn Lê trong việc khu biệt thế giới

kỳ ảo: “Đặc trưng của thế giới huyền thoại đã chi phối rất rõ cách sử dụng ngôn

ngữ của nhà văn. Đến lượt mình, hệ thống ngôn ngữ này cũng có chức năng khu

biệt quan trọng thế giới kì ảo ấy. Khi miêu tả tình làng nghĩa xóm , Đoàn Lê

viết: "Từ ngày ra nhập tịch nghĩa địa xóm Chùa tôi được sống trong cảnh chan

hoà tình người, tối lửa tắt trăng có nhau cực kì vui vẻ." Hạ xuống một chữ

trăng, người viết đã tạo lập nét khu biệt đáng kể của không gian, thời gian và

đặc tính của những "cư dân nghĩa địa" với đêm, bóng tối cùng sự dị ứng bởi ánh

sáng mặt trời” [74, 170]. Còn khi viết truyện ngắn Chờ nhật thực, gửi cho Báo

tuổi trẻ cuối tuần chính Đoàn Lê nói về việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong truyện

của mình: “Yếu tố huyền ảo được sử dụng, nhằm tôn lên những nét hiện thực và

lịch sử.”

Trong bài viết “Ai cứu xóm Chùa” [13], tiến sỹ Nguyễn Lân Dũng nhận

xét về không gian xóm Chùa trong hàng loạt những sáng tác của Đoàn Lê như

sau: “Xóm Chùa là tên một làng quê được nhắc đến trong nhiều truyện ngắn của

nữ tác giả Đoàn Lê. Có thể đó không phải là một địa danh thật và không phải

mọi câu chuyện ở đây đều xảy ra tại một làng quê cụ thể nào. Nhưng với cái

nhìn sắc sảo và nhân ái của tác giả, tôi tin là những câu chuyện xảy ra liên quan

đến cái Xóm Chùa này đều là những chuyện có thật tại nông thôn nước ta từ

ngày Mở cửa. Tôi khâm phục văn tài của Đoàn Lê vì chị đã làm cho người đọc

không thể không khắc khoải suy nghĩ và lo âu cho tương lai của nông thôn nước

ta trước những diễn biến đi ngược lại với truyền thống nhân văn, nhân ái qua

hàng nghìn năm qua”.

5

Những nhận định, ý kiến của những nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã

góp phần giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về truyện ngắn cũng như sáng tác

chung của Đoàn Lê. Đồng thời cũng phần nào hiểu được những nét cách tân

trong nghệ thuật viết truyện của bà. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá, nhận xét

về truyện ngắn Đoàn Lê đa phần là những ý kiến trên mạng còn chung chung, sơ

lược, chưa cụ thể, chi tiết. Những ý kiến chính thống về Đoàn Lê chưa nhiều và

cũng chưa có hệ thống. Và để hiểu một cách trọn vẹn, sâu sắc, có hệ thống

những giá trị về nội dung, những đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê

thì cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đáp ứng được điều đó.

Luận văn này với mong muốn bước đầu đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật

truyện ngắn Đoàn Lê một cách có hệ thống nhằm giúp bạn đọc có nhiều cơ hội

tiếp cận, tìm hiểu và yêu mến cây bút này hơn, đồng thời cũng là cách tiếp cận

để hiểu những đặc trưng cơ bản của văn học đương đại. Bởi những đóng góp của

nhà văn này cho nền văn học đương đại Việt Nam là điều không thể phủ nhận.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng khảo sát chính là thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê như:

Cảm hứng nghệ thuật, Thế giới nhân vật, Một số phương diện nghệ thuật trong

truyện ngắn Đoàn Lê.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn của Đoàn Lê. Nhưng để có

cái nhìn tổng thể, trọn vẹn về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn

Lê, chúng tôi có liên hệ và so sánh với các tiểu thuyết của bà, cũng như những

sáng tác khác của một số nhà văn có nét nghệ thuật tương đồng (Nam Cao,

Thạch Lam, Nguyễn Huy Thiệp...) và những cây bút nữ cùng thời (Nguyễn Thị

Thu Huệ, Y Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo...)

Các tập truyện của Đoàn Lê được khảo sát trong luận văn:

- Thành hoàng làng xổ số- Nhà xuất bản Phụ Nữ Hà Nội 1990

- Nghĩa địa xóm chùa - Nhà xuất bản Hội nhà văn 1999

- Trinh tiết xóm chùa - Nhà xuất bản Hội nhà văn 2005

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương

pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp 6

phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh đối chiếu. Với

những phương pháp này, chúng tôi cố gắng tìm những đặc điểm cơ bản nhất của

thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê trong mối tương quan giữa tác phẩm

của bà với những nhà văn cùng giới, cùng thời kỳ và cả những cây bút ở giai

đoạn văn học trước.

4.1 Phương pháp thống kê phân loại:

Phương pháp thống kê, phân loại: giúp cho việc tìm hiểu, phân loại các

kiểu nhân vật, mô hình cốt truyện khi nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện

ngắn Đoàn Lê.

4.2 Phương pháp phân tích, tổng hợp:

Phương pháp phân tích, tổng hợp: giúp cho việc nghiên cứu, phân tích, cắt

nghĩa, lý giải các vấn đề, các chi tiết nghệ thuật...từ đó khái quát lên những đặc

điểm chung về hình thức nghệ thuật trong toàn bộ hệ thống truyện ngắn của nhà

văn.

4.3 Phương pháp lịch sử:

Phương pháp lịch sử: xem xét những đặc trưng nghệ thuật trong truyện

ngắn của Đoàn Lê trong sự kế thừa của văn học truyền thống nhưng cũng có

những cách tân độc đáo tạo nên dấu ấn riêng của Đoàn Lê trên văn đàn hôm nay.

4.4 Phương pháp đối chiếu so sánh:

Phương pháp đối chiếu so sánh nhằm làm nổi bật những đặc trưng riêng

trong thế giới nghệ thuật của Đoàn Lê trong sự so sánh với văn học Việt Nam

thời kỳ đổi mới, nhất là với những cây bút nữ cùng thời và với văn học giai đoạn

trước.

5. Những đóng góp mới của luận văn.

Tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn của Đoàn Lê: cảm hứng nghệ

thuật, thế giới nhân vật, các phương diện nghệ thuật cơ bản…để khẳng định vai

trò, vị trí, tên tuổi, những đóng góp về sự cách tân nghệ thuật của Đoàn Lê đối

với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Từ đó có cái nhìn khái quát, đa diện về

truyện ngắn Việt Nam đương đại.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung luận văn

gồm ba chương:

7

Chƣơng I: Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm

cảm hứng bi kịch và cảm hứng triết luận.

Chƣơng II: Thế giới nhân vật gồm các phần: Đặc điểm nhân vật trong

truyện ngắn của Đoàn Lê, các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện.

Chƣơng III. Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn

Lê gồm: Cốt truyện, tình huống truyện, không gian- thời gian, ngôn ngữ nghệ

thuật, giọng điệu nghệ thuật...

8

PHẦN II : NỘI DUNG

CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT

1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học

Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau với khái niệm “Cảm hứng

nghệ thuật”, các cách hiểu đó đều thống nhất ở chỗ khẳng định vai trò quan

trọng của cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm. Cảm hứng nghệ thuật trong tác

phẩm văn học giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối các khối văn bản trong

tác phẩm. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm về cảm hứng

nghệ thuật (hay còn gọi là cảm hứng chủ đạo) là “trạng thái tình cảm

mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư

tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc

của những người tiếp nhận tác phẩm.” [21, 32]. Có thể nói cảm hứng nghệ

thuật chính là những cảm xúc, tình cảm chân thành của nhà văn gửi gắm trên

mỗi trang giấy. Cảm hứng nghệ thuật được xem như “một điều kiện không thể

thiếu trong việc tạo ra những tác phẩm đích thực”(Bêlinxki). Nhờ “sợi dây” cảm

hứng này mà toàn bộ các cấp độ, các yếu tố của nội dung tác phẩm được thống

nhất trong một không khí cảm xúc nhất định. Nhưng với ý nghĩa lớn lao hơn,

cảm hứng nghệ thuật còn trở thành “công cụ đắc lực” để thông qua đó nhà văn

thể hiện thế giới quan của bản thân và khẳng định phong cách cá nhân của mình

trên văn đàn.Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học với niềm say

mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối

sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô

khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí q uyển nóng

bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả

đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà

văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống

nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của

tác phẩm”.

Đối với truyện ngắn, cảm hứng nghệ thuật càng đóng một vai trò vô cùng

quan trọng. Người ta thường nói về thể loại truyện ngắn như một “lát cắt của

mặt gỗ”, là “sự dồn nén và cô đặc lại”, một “khoảnh khắc ngắn ngủi” của đời

sống được lồng vào trong một thiên truyện chỉ dài mấy mươi trang giấy. Tuy 9

nhiên sức gợi cảm của thể loại này lại rất lớn và thường mang tính chất mở ở sự

ngắn gọn và cô đọng của nó. Truyện ngắn nên gọn nhưng phải tinh tế và bén

nhọn về tư tưởng nghệ thuật. Chính vì tính chất ngắn gọn ấy mà cảm hứng chủ

đạo của tác phẩm trở thành “chất keo” gắn kết ý tứ và các phần nội dung để trở

thành một thiên tác phẩm có giá trị. Bởi vậy có thể coi cảm hứng chủ đạo gần

như linh hồn của tác phẩm. Nếu thiếu đi linh hồn, tác phẩm chỉ còn là cái xác

khô cứng và đương nhiên sẽ không thể sống trong lòng độc giả. Nếu như đối với

truyện dài và tiểu thuyết, do dung lượng lớn nên việc miêu tả chi tiết sự vận

động của một tâm hồn, một tính cách với những diễn biến tâm lý phức tạp nhằm

đạt tới chiều dài của một cuộc đời và sự khái quát hóa về một số phận con người

nên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được thể hiện rất rõ thì truyện ngắn do

dung lượng tác phẩm có hạn, cảm xúc của tác giả càng phải dồn nén nhiều hơn.

Vì thế mà có nhiều nhận xét cho rằng: truyện ngắn gần với thơ hơn các thể loại

tự sự khác như truyện dài và tiểu thuyết. Ở một số truyện ngắn có xuất hiện các

“tứ”. “Tứ” trong truyện ngắn chính là “chủ đề nhưng đã gắn với hình ảnh, với

chất liệu” (Ma Văn Kháng). “Tứ” là yếu tố chủ yếu tạo nên “chất thơ” trong

truyện ngắn. Chất thơ hay tính chất trữ tình trong tác phẩm truyện ngắn toát lên

từ khung cảnh, chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm, hay từ sự hòa

hợp giữa yêú tố khách quan và chủ quan của toàn thiên truyện .Truyện ngắn

cũng có điểm tương đồng với thơ ở chỗ những xúc cảm tâm lý thường

bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật,

tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở

thể loại tiểu thuyết, như lời nhận xét của nhà văn Lỗ Tấn “qua một mảng

lông mà biết toàn bộ con báo, qua một con mắt mà truyền được cả tinh

thần”. Vì vậy, truyện ngắn luôn đòi hỏi cảm hứng nghệ thuật phải dồi

dào, có định hướng, từ đó thể hiện nội dung tư tưởng một cách s ắc bén

và tạo nên một cấu trúc nghệ thuật chặt chẽ, hài hòa giữa yếu tố lí trí và

tình cảm.

Cảm hứng nghệ thuật không phải là tình cảm được xướng lên thành

một phát ngôn trong tác phẩm, nó là tình cảm mà người đọc cảm nhận

được từ tình huống, từ khung cảnh, từ chất liệu, từ không khí chung của

toàn tác phẩm. Lí luận văn học coi cảm hứng nghệ thuật là một yếu tố

của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm của nhà 10

văn với thế giới được mô tả. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn

học luôn thống nhất với đề tài và tư tưởng tác phẩm, nó tạo nên cho tác

phẩm một sự thống nhất ở mọi cấp độ. Đồng thời, cảm hứng nghệ thuật

còn thể hiện được thế giới quan của nhà văn, bộc lộ được quan điểm của

nhà văn trước mọi vấn đề của cuộc sống. Cảm hứng nghệ thuật trong tác

phẩm có vai trò quan trọng, có vai trò không thể thiếu, như Bêlinxki đã

nói, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành

tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt

thành”.

2. Cảm hứng nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975

Cảm hứng chủ đạo trong văn chương Việt Nam trước năm 1975

gắn liền với những sự kiện lớn lao có liên quan tới vận mệnh dân tộc:

công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.

Sau ngày đất nước thống nhất (1975), đời sống con người đổi khác, tư

tưởng, tâm lí, nhu cầu vật chất và tinh thần của con người cũng không

còn như trước, vì vậy văn học cũng không thể chỉ mang mãi cảm hứng

cũ. Hiện thực cuộc sống đời thường sau chiến tranh mở ra những vùng

đất mới, khơi gợi những nguồn cảm hứng mới mẻ cho các nhà văn. Sau

1975, cảm hứng ngợi ca trong văn học không còn đóng vai trò chủ đạo như

trong văn học 30 năm trước. Đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học gần với đời

sống hiện thực hơn. Các nhà văn đã đụng đến một số hiện tượng ít được đề cập

trong văn học trước 1975 như phơi bày một vài mặt tiêu cực trong xã hội hoặc

nhìn thẳng vào những tổn thất nặng nề trong chiến tranh hay bước đầu đề cập

đến bi kịch cá nhân.

Đất nước cần được đổi mới toàn diện và sâu sắc, văn học cũng đòi hỏi

như vậy. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “đổi mới

đang là nhu cầu bức thiết”, “có ý nghĩa sống còn” và nói rõ: “Thái độ của Đảng

ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng sự thật,

nói rõ sự thật”. Đại hội Đảng lần thứ VI là một sự kiện lịch sử trọng đại đã cắm

một cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học nước nhà.

Thành tựu quan trọng nhất của văn học sau 1975 là sự đổi mới trong ý thức nghệ

thuật của giới cầm bút. Sau Đại hội Đảng lần VI, hầu hết người làm thơ, viết văn 11

thuộc các thế hệ khác nhau đều chung một ý nghĩ “không thể viết như cũ được

nữa” (Lê Lựu trả lời phỏng vấn báo Quân đội nhân dân, ngày 24/4/1988). Và từ

đó, một khuynh hướng văn học mới phát triển mạnh mẽ với cái nhìn hiện

thực thẳng thắn hơn, đa chiều hơn. Công cuộc đổi mới càng ngày càng

phát triển cả ở bề rộng lẫn chiều sâu, sự đổi mới diễn ra từ tư tưởng

thẩm mĩ đến hệ thống thể loại, thi pháp và phong cách nghệ thuật. Các

nhà văn không còn “nhìn đời và nhìn người một phía”, họ không chỉ

dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhận thức được rằng “hiện thực không

phải là một cái gì đơn giản, xuôi chiều; con người là một sinh thể phong

phú, phức tạp, còn nhiều bí ẩn phải khám phá; nhà văn phải là người có

tư tưởng, phải nhập cuộc bằng tư tưởng chứ không chỉ bằng nhiệt tình và

trong tìm tòi sáng tạo không chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng mà còn

phải dựa vào kinh nghiệm của cá nhâ n mình nữa; độc giả không phải là

những đối tượng để thuyết giáo mà là những người bạn để giao lưu, đối

thoại một cách bình đẳng…[42,16]. Với cái nhìn đa chiều ấy, văn học

đồng thời cũng xuất hiện những cảm hứng mà văn học thời chiến tranh

rất ít xuất hiện như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng trào lộng….

Cảm hứng bi kịch khai thác những bi kịch đổi đời; bi kịch hậu

chiến; bi kịch tình yêu, hôn nhân…phản ánh đúng những bộn bề của

cuộc sống của thời kinh tế thị trường đầy xáo động. Những tác phẩm

mang cảm hứng này đánh dấu sự khởi sắc của văn chương thời kỳ đổi

mới. Có thể nhắc tới những sáng tác ở giai đoạn đầu như Đất trắng

(Nguyễn Trọng Oánh), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn

Minh Châu), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn

Kháng)…Và ở chặng đường sau là hàng loạt những tên tuổi như Bảo

Ninh, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ…

Cảm hứng phê phán, cảm hứng trào lộng cũng là một nguồn cảm

hứng lớn trong văn học giai đoạn này. Khi ý thức cá nhân phát triển, khi

con người không còn được nhìn ở góc nhìn lịch sử, công dân nữa mà

chủ yếu được nhìn nhận ở phương diện cá nhân trong quan hệ đời

thường, những bi, hài kịch bắt đầu xuất hiện. Cảm hứng trào lộng mở ra

những bức tranh cuộc sống với nhiều mảng màu tương phả n: niềm vui

chiến thắng xen với nỗi buồn mất mát, sự đủ đầy của vật chất thời mở 12

cửa lại là mầm mống của mất mát đạo đức, tình cảm trong cuộc sống

tinh thần, hạnh phúc tồn tại song song với những bất hạnh của đời

thường…Những hiện tượng dở khóc dở cười diễ n ra trong cuộc sống tạo

thành nguồn cảm hứng cho các tác giả sáng tác. Cái Tôi cá nhân càng

được đề cao, thì việc khai thác vào tận cùng của những nỗi niềm càng

được chú ý tới và vì thế mà văn chương ngày càng sâu sắc hơn. Chính vì

vậy sáng tác văn học trong giai đoạn này đã đạt được đến những thành

công nhất định khi Vấn đề quyền sống, nỗi đau khổ và hạnh phúc của

con người được khai thác trong văn chương với cảm hứng nhân đạo sâu

sắc [46,3].

Việc tìm hiểu những đặc điểm tiêu biểu của văn học Việt Nam sau

năm 1975 là một điều quan trọng, vì trong bài Khái quát về văn học Việt

Nam từ cách mạng tháng tám 1975 đến hết thế kỷ XX [42,17] có nhận xét

về văn học thời kỳ đổi mới như sau “cảm hứng thế sự tăng mạnh, trong

khi cảm hứng sử thi lãng mạn giảm dần; từ đó văn học quan tâm nhiều

hơn tới số phận cá nhân trong những quy luật phức tạp của đời thường;

nội tâm của nhân vật được khai thác sâu hơn, bút pháp hướng nội được

phát huy, không gian đời tư được chú ý, thời gian tâm lý ngày càng mở

rộng, phương thức trần thuật trở nên đa dạng, giọng điệu trần thuật trở

nên phong phú hơn; ngôn ngữ văn học cũng gần với hiện thực đời

thường hơn…”[42,18]. Từ đó có thể thấy sự tác động to lớn của cảm

hứng nghệ thuật với các thành tố khác trong văn chương. Tìm hiểu được

kỹ cảm hứng nghệ thuật người nghiên cứu sẽ hiểu rõ thế giới nghệ thuật,

quan niệm sáng tác, phong cách nhà văn, thậm chí của cả một giai đoạn

văn học.

Là một cây bút ít nhiều để lại dấu ấn của mình trên văn đàn hôm nay,

truyện ngắn của Đoàn Lê thường xuất phát từ những nguồn cảm hứng chủ đạo

như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán trào lộng, cảm hứng triết luận… Từ

những nguồn cảm hứng đó, nhà văn đã mạnh dạn đưa vào tác phẩm những bức

tranh chân thực, sống động về cuộc sống hiện thực đời thường “ như nó vốn có”.

Từ đó cung cấp cho người đọc những cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống

thời đổi mới.

13

3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê.

3.1 Cảm hứng bi kịch.

Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học từ rất sớm. Tuy nhiên phải đến

văn học hiện đại nguồn cảm hứng này mới được thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc

sống thời mở cửa có nhiều thay đổi do sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường.

Sự thay đổi ấy dẫn đến biết bao bi kịch của con người.

Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học Việt Nam từ xa xưa nhưng mới

chỉ nằm rải rác trong các giai đoạn văn học mà chưa có sự tập trung thành hệ

thống. Từ thời văn học dân gian đã xuất hiện những tấn bi kịch: bi kịch nước

mất nhà tan trong truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy, bi

kịch hôn nhân gả bán, ép buộc trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu của tộc

người Thái, bi kịch thân phận người phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng,

những “con sâu cái kiến” trong xã hội cũ ở Ca dao. Văn học trung đại thế kỷ

XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện hàng loạt bi kịch của những “hồng

nhan bạc mệnh”, “hồng nhan đa truân” như bi kịch của những người cung nữ

xinh đẹp bị biến thành đồ chơi rồi bị bỏ quên nơi lãnh cung trong Cung oán

ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay bi kịch của người chinh phụ có chồng đi

chinh chiến trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn , bi kịch của người con

gái đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” nhưng cuộc đời là một chuỗi những bất

hạnh khổ đau trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, bi kịch về thân phận khổ đau

bất hạnh phải chịu cảnh chồng chung cùng muôn vàn những hủ tục giàng buộc

người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Bước sang giai đoạn văn học

hiện đại, phong trào Thơ mới là chuỗi bi kịch của cái “tôi” cá nhân, cá thể. Đó

là một cái “tôi” cô đơn bế tắc hoàn toàn đối lập với xã hội, một cái tôi được đào

sâu đến tận cùng và càng đi sâu càng thấy lạnh: Thế Lữ thoát lên tiên nhưng

động tiên đã khép, Lưu Trọng Lư phiêu diêu trong trường tình nhưng tình yêu

không bền, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng rồi lại tỉnh, Xuân Diệu say

đắm vẫn bơ vơ…Đến văn học 30 năm chiến tranh, cảm hứng bi kịch vẫn chưa

có một vị trí đáng kể do những điều kiện khách quan của lịch sử. Phải đến

những năm 80 của thế kỷ XX, cảm hứng bi kịch mới trở thành một trong những

nguồn cảm hứng xuyên suốt trong văn học. Lúc này do sự tác động của nền kinh

tế thị trường cùng xu thế toàn cầu hóa, văn học có sự biến đổi nhanh chóng để

phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ tạo 14

nên những tình huống bi kịch, những xung đột điển hình cho văn học. “Cái nhất

thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm trong cái nhân hậu, cái cực đoan nằm

giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhảy cẫng lên lấc láo lên giữa cái dung dị,

thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ” [10] . Hiện

thực cuộc sống thời hậu chiến với bộn bề những vấn đề nhức nhối đã khơi

nguồn cảm hứng bi kịch cho những nhà văn giai đoạn văn học này.

Sau khi hòa bình lập lại, nỗi đau và sự mất mát mà chiến tranh để lại là

những căn nguyên sâu xa của những tấn bi kịch mà con người hậu chiến phải

gánh chịu. Thêm vào đó, cuộc sống thời mở cửa với tốc độ đô thị hóa chóng mặt

là căn nguyên dẫn tới những tấn bi kịch thương tâm cho biết bao gia đình. Là

nhà văn thuộc thế hệ “gạch nối giữa hai thời kỳ của đất nước”, hơn nữa bản thân

Đoàn Lê đã từng sống chứng kiến, thậm chí trải nghiệm nỗi đau tột cùng và

những mất mát lớn lao của con người do chiến tranh gây ra. Bởi vậy những

trang viết về chiến tranh của bà luôn sâu sắc và cảm động.

3.1.1 Bi kịch chiến tranh

Chiến tranh bao giờ cũng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với tất cả những

ai từng trải qua nó. Ở đó có nỗi đau, có sự hy sinh mất mát. Đoàn Lê thuộc thế

hệ nhà văn sinh ra và lớn lên trong thời chiến, được tận mắt chứng kiến cuộc

sống cùng cực của con người dưới bom đạn chiến tranh. Bản thân Đoàn Lê suốt

thời thơ ấu biết bao lần cùng những chị em của mình chạy tản cư: giặc càn rất dữ

dội, chúng lùng sục, bắt bớ, bắn giết người rất dã man, rồi cảnh nhà tan tác chia

ly, người còn người mất... Những ký ức đau thương ấy được nhà văn biến thành

những tư liệu quý giá cho những trang viết của mình. Cũng nhờ những trải

nghiệm thực tế ấy mà cách tiếp cận bi kịch của nhà văn dường như có phần sâu

sắc, xúc động hơn.

Khảo sát toàn bộ sáng tác của Đoàn Lê, chúng ta nhận thấy hầu như mọi

sáng tác của bà đều bắt nguồn từ cảm hứng bi kịch: bi kịch chiến tranh, bi kịch

tình yêu hôn nhân- gia đình, bi kịch từ cuộc sống thời mở cửa…Trong đó những

trang viết của Đoàn Lê về bi kịch chiến tranh không nhiều nhưng lại có sức ám

ảnh thật ghê gớm với lòng người.

Viết về đề tài chiến tranh, người đọc biết đến rất nhiều cây bút có tên

tuổi như: Chu Lai với “Ăn mày dĩ vãng”, “Vòng tròn bội bạc”; Nguyễn Minh

Châu với “Miền cháy”, Bảo Ninh với “Nỗi buồn chiến tranh”, Lê Lựu với 15

“Thời xa vắng”…Họ viết về chiến tranh bằng tất cả sự xúc động của người trong

cuộc- những người lính đã đi qua cuộc chiến tranh. Bởi thế, qua những trang

viết của mình, họ đã tái hiện được rất chân thực bộ mặt tàn khốc của chiến tranh.

Đoàn Lê cũng là nhà văn sống qua thời chiến, bà cũng từng chứng kiến và trải

nghiệm nỗi đau đớn, mất mát tột cùng do chiến tranh để lại. Bởi thế bộ mặt

chiến tranh hiện hình trong những trang viết của bà có sức sống, có sức gợi tả

nỗi đau thật ghê gớm. Dù bà không hề đi sâu vào việc miêu tả diễn biến của

cuộc chiến, cũng không chú tâm đến việc tái hiện sự gian khổ, thiếu thốn của

cuộc sống thời chiến mà người lính phải trải qua nhưng bộ mặt gớm ghiếc của

chiến tranh với tất cả sức hủy diệt của nó vẫn hiện lên mồn một trong những

trang văn của bà.

Viết về chiến tranh, Đoàn Lê thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm

của những người lính khi cuộc sống không còn tiếng súng. Họ bước ra khỏi

cuộc chiến với tâm hồn rách nát tả tơi. Chiến tranh tàn khốc đã cướp đi của họ

tất cả: tình yêu, cuộc sống, niềm tin, cướp đi mọi niềm vui sống ở họ. Đó là

mảng đời sống nội tâm đầy ắp những kỷ niệm đau đớn, nhức nhối của nhân vật

“tôi” khi sống lại “Một ngày ở xứ em”. Thời gian chỉ một ngày nhưng dồn chứa

nỗi đau của một thời, một đời. Nhân vật tôi đã sống với tất cả ký ức đau thương

của một thời máu lửa. Chỉ trong một khoảnh khắc, bom đạn khốc liệt của chiến

tranh đã vĩnh viễn cướp đi người con gái anh yêu cùng bao đồng đội của anh.

Chứng kiến cảnh người yêu bị chôn vùi dưới lớp đất đá chỉ còn hở một cánh tay

cầu cứu tuyệt vọng, trái tim anh như muốn vỡ ra trăm mảnh. Đặc biệt ấn tượng

về chiếc vòng bạc trên cổ tay người con gái anh yêu rạch một đường nhỏ rớm

máu luôn hiển hiện nhức nhối trong anh. Chiếc vòng bạc chính là kỷ vật tình yêu

mà anh tặng nàng. Nó được tạo nên từ những vòng thép sáng loáng của một trái

bom bi bị tháo gỡ. Nhờ chiếc vòng đặc biệt ấy mà tình yêu của họ đã nổi tiếng

khắp rừng trường Sơn những năm tháng ấy. Nhưng chiến tranh tàn khốc với bộ

mặt ghớm ghiếc đã chỉ trong phút chốc “tiếng súng, tiếng bom, tiếng rít căng

thẳng của máy bay cường kích ào đến…” trong khoảnh khắc ý thức bị tê liệt,

anh chạy bổ xuống cung đường nơi người yêu đang làm việc. Trái tim anh đau

thắt khi thấy “hình ảnh cánh tay em lọt giữa khe hở của hai cây xà cừ vươn lên

vẫy gọi, cầu cứu. Cánh tay giống như một búp cây trắng mọc lên từ mặt đất vừa

16

bị cày xới ám đen đang còn nghi ngút khói…” Chỉ trong phút chốc, người anh

yêu đã vĩnh viễn bị vùi sâu, chôn chặt dưới lớp đất đá loang lổ.

Anh bước ra khỏi cuộc chiến như người mất hồn, trái tim anh đã hoàn

toàn rệu rã “chỉ còn mang chức năng của một cái bơm máu”. Anh sợ hãi trốn

tránh quá khứ, mỗi khi nhớ đến nó là thần kinh anh lại không thể chịu nổi. Tất

cả ký ức đau thương gắn với cánh tay cầu cứu của người con gái anh yêu vươn

lên giữa những mảnh đất đá bị cày xới, vẫn sống, vẫn hiển hiện, vẫn cào xé nhức

nhối lòng anh. Nỗi đau đó đeo đẳng ngay cả trong đêm tân hôn, khi anh cận kề

bên người vợ mới thì “một luồng điện buốt giá xâm chiếm tâm hồn tôi. Trong

nháy mắt, tất cả như sụp đổ, vỡ toác ra.Tôi bỗng chìm nghỉm vào vòng bom đạn

Trường Sơn. Lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát. Cả người

tôi nôn nao sống dậy cảm giác kinh hoàng tuyệt vọng khi tay em từ mặt đất bừa

bộn vươn lên, níu lấy tay tôi, xoắn lại với nỗi đau đớn thầm lặng…”. Ngay trong

giây phút hạnh phúc nhất của đời người, những ám ảnh của chiến tranh vẫn

không buông tha người lính để anh phải trải qua một đêm tân hôn thật khốn

khó...Và hôm nay, sau mười hai năm trở về với cuộc sống đời thường, né tránh

những va đập của quá khứ, anh lại sống “Một ngày xứ em tràn đầy và nhức nhối

kỷ niệm”. Mọi thứ lại sống dậy hiển hiện đau đớn đến quay quắt. Chỉ một ngày

nhưng anh đã uống trọn nỗi đau của một thời, một đời…

Theo dõi câu chuyện được kể qua dòng hồi ức của nhân vật “tôi”, thần

kinh người đọc như căng lên, trái tim thổn thức, quặn đau theo nỗi đau của nhân

vật. Những trang văn này gợi chúng ta liên tưởng đến tâm trạng nhức nhối của

nhân vật Kiên trong chuyến đi ngược Trường Sơn thu nhận hài cốt đồng đội ở

“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Ký ức đau thương ở chuông Gọi Hồn cứ

ẩn hiện cào xé nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với những

cái chết kinh hoàng của đồng đội hiển hiện trong Kiên như một thước phim

quay chậm ở mọi góc cảnh. Những lúc ấy Kiên lại đau đớn đến chết lịm. Nỗi

đau của Kiên có khác gì nỗi đau của nhân vật “tôi” trong “Một ngày xứ em”. Bi

kịch của họ cũng là bi kịch chung của những người lính bước ra từ cuộc chiến

tranh. Họ đều cống hiến hết mình cho Tổ Quốc, những người may mắn sống sót

bước ra khỏi cuộc chiến thì hoặc mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động

về tinh thần đến không thể hoà nhập được với cuộc sống mới.

17

Sau này, trong cuốn tiểu thuyết vừa xuất bản- “Tiền định”, một lần nữa

Đoàn Lê lại tái hiện không khí chiến tranh, bi kịch chiến tranh trong cái nhìn

của người trong cuộc. Đó là nỗi đau của bà ngoại khi cậu Định hy sinh trong

chiến tranh, rồi những ký ức tuổi thơ chạy loạn đến ngộp thở, thót tim trong

những ngày giặc càn quét lùng sục của chính tác giả… Dù nhìn ở góc độ nào thì

bộ mặt của chiến tranh hiện lên trong sáng tác của Đoàn Lê cũng thật gớm

ghiếc, ghê rợn.

Nhìn chung những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh trong sáng tác của

Đoàn Lê không nhiều nếu không muốn nói là còn hiếm hoi nhưng những gì bà

cảm nhận về chiến tranh đều hết sức chân thực gây ám ảnh lòng người. Đằng

sau những bi kịch về chiến tranh, nhà văn muốn gửi gắm thông điệp về tình

người, giống như một sự cứu rỗi cho chính tâm hồn con người khi nhìn về tương

lai bằng lăng kính của quá khứ.

3.1.2. Bi kịch đời thường.

Văn học sau 1975 chứng kiến một giai đoạn lịch sử mới của dân tộc. Đất

nước hoà bình nhưng cũng kéo theo những biến động khác thường trong đời

sống xã hội. Từ chiến tranh chuyển sang giai đoạn hoà bình, xã hội có những

chuyển động lớn. Đã kết thúc sự tàn phá, chết chóc, hy sinh trong chiến tranh để

trở về với cuộc sống thanh bình, xây dựng và lo toan hạnh phúc. Nhưng chính ở

cuộc sống mới này, nhiều bi kịch đã bất ngờ xuất hiện. Văn học là tấm gương

trung thành phản ánh đời sống xã hội nên không thể không ghi lại những bi kịch

ấy. Vì thế, cảm hứng bi kịch cũng bắt đầu trở lại trong sáng tác văn chương.

Cảm hứng về cái bi đã làm thay đổi diện mạo của văn xuôi thời kỳ đổi mới.

Là một nhà văn nữ khá nhạy cảm với những vấn đề của cuộc sống, Đoàn

Lê có nhiều tác phẩm quan tâm đến số phận con người, đến bi kịch của những

gia đình do tốc độ đô thị hoá đến mức chóng mặt ở nông thôn. Cùng với bi kịch

ấy, bi kịch về tình yêu- hôn nhân và hạnh phúc gia đình cũng là một loại bi kịch

được nhà văn quan tâm thể hiện trên những trang viết của mình. Đó là những

loại bi kịch rất phổ biến trong cuộc sống xã hội thời đổi mới.

3.1.2.1. Bi kịch cuộc sống thời mở cửa

Cuộc sống thời mở cửa với muôn vàn những phức tạp kéo theo đó là

hàng loạt những bi kịch: bi kịch cá nhân, bi kịch gia đình, bi kịch của cả nông

thôn...Những bi kịch đó đã được tái hiện vô cùng chân thực, sinh động trong 18

hàng loạt sáng tác của Đoàn Lê. Bộ mặt nông thôn sau chiến tranh bắt đầu thay

đổi từ sự hiện đại hóa đồ vật kéo theo sự thay đổi nếp cảm nếp nghĩ, thói quen,

lối sống của người dân ở một xóm nghèo ven đô có tên là xóm Chùa. Trước nay

dân xóm Chùa vẫn sống thật bình lặng, yên ổn. Sự xuất hiện chiếc cát-sét của

ông Sĩ Duệ nơi xóm Chùa ông là mốc son đánh dấu điểm khởi đầu của sự thay

đổi. (Xóm Chùa Ông nằm sát bờ một dòng sông đẹp, chỉ cách trung tâm thành

phố hơn mười cây). Chiếc cát-sét làm đủ mọi nhiệm vụ trong đám cưới, đám

tang. Vào ngày đám cưới, chiếc cát sét được bật oang oang với những băng nhạc

giậm giật, hát toàn tiếng Tây cắm cẳn không ai hiểu gì cả. Nhưng đám thanh

niên trong xóm thì nhấp nhổn, rộn rực, ngứa ngáy không yên. Rồi chiếc cát sét

còn tiến thêm một bước vào lĩnh vực phục vụ đám ma. Khi chiếc cát sét được

bật lên tức thì con cháu nhà đám im tịt, ngơ ngác xúm cả vào cái cát sét. Những

người đến chia buồn cũng quyên luôn bà già nằm đó, chỉ còn trầm trồ bàn tán

xôn xao. Không ngày nào không có người tìm đến chủ nhân với hàng đống các

loại băng khóc cha, khóc mẹ, loại dành riêng cho con dâu, con dể, con nuôi, có

cả loại kinh Phật dành cho đối tượng đang thập tử nhất sinh. Về mặt kinh tế, chỉ

tốn ít điện, không mất mâm cao cỗ đầy, không mất hàng chục nghìn đồng cung

phụng thợ kèn trống và nó gào khóc suốt ngày đêm cũng không biết mệt. Như

vậy vừa đỡ được bao nhiêu hơi sức cho con cháu, nhất là các nàng dâu, người có

trách nhiệm phải “gào to” hơn tất cả. Tuy nhiên sự tiện lợi ấy lại cũng phần nào

làm mai một đi những nét đẹp truyền thống nhân bản, những tình cảm chân

thành đáng quý của người Việt tự bao đời nay. Đó là những nét đẹp của thuần

phong mỹ tục trong đó có tình thân, có nghĩa cử cao đẹp của con cháu với người

thân quá cố.

Tiếp đó sự xuất hiện của cái ti-vi do doanh trại bộ đội đóng bên kia sông

mang về cũng làm xôn xao cả xóm Chùa. Cách xa đến ba cây số nhưng dân thôn

cả xóm không đêm nào không lũ lượt kéo nhau đi xem đến nỗi xóm làng vắng

ngắt vắng ngơ. Rồi đến bà Chiu bán rượu nếp bị chiếc xe của Tây móc vào đòn

gánh kéo lê một quãng gây xây xát nhẹ mà được đền tới 400 đô-la, khiến cho

nhiều người ao ước được vướng vào xe của Tây như bà. Nhiều người ra tỉnh,

thấy chiếc xe lịch sự đi qua bỗng đứng ngẩn ngơ, lưu luyến. Ngay cả ông Sỹ

Duệ, kinh tế gia đình vào dạng khá giả ở xóm Chùa Ông, vậy mà khi ông bố ra

tỉnh chơi với cháu cũng ước: “Ồ…giá nó đụng vào ông cụ xem…xem có ra vấn 19

đề không nào”. Rồi chuyện cô gái lai đen tên Mừng, chuyên hủ hóa với trai làng

và quy đổi ra thành gạo... Từ đó, xóm Chùa không còn là một vùng quê bình

lặng, thuần phác với những người dân cần mẫn trên đồng ruộng bên lũy tre xanh

nữa. Xóm Chùa đang chộn rộn lên vì sự thay đổi, tích cực cũng có mà tiêu cực

cũng nhiều. Xóm Chùa đang nhà nhà thay đổi, người người thay đổi. Nhưng

chưa có gì đáng xáo trộn bằng chuyện mở đường cao tốc qua làng làm bao gia

đình rơi vào bi kịch. Cả làng mắc dịch “sốt đất” dẫn đến cảnh xô xát, anh em

chém giết lẫn nhau: “con cả lão Tự Nghệch chém vỡ đầu thằng thứ hai, tranh

nửa thước đất bên cạnh đường cao tốc vô hình”. Rồi tình cảm hàng xóm láng

giềng sứt mẻ, chia rẽ thành thù hận “bốn nhà vẫn chung ngõ đi bỗng om sòm

đánh nhau chia bôi đường biên giới. Ai cũng cố ngoi ra mặt đường. Đất mặt

đường đắt như vàng…”, đến mức “bà Lăng kiện con rể, đòi lại cái chuồng trâu

đã cho con gái làm hồi môn từ hai chục năm trước”. Từ đó không ai còn thiết

tha làm ăn gì nữa, chỉ nháo nhác chuyện mua bán đất. Nhà nào cũng cố co lại

thật bé, để dư tí đất bán. Gặp vận may một phút lên ông, một phút có quyền coi

thằng hàng xóm bằng nghoé. Người đau đớn nhất trong thảm kịch đất cát là gia

đình lão Hớn- chuyên sản xuất tiền vàng, đô la âm phủ. Nhân vụ đất cát được

giá, lão dồn ba bà vợ và lũ con lên nhà trên để cắt nhà ngang và nửa khoảng sân

bán nghiến cho một gã buôn ngoài tỉnh được ba cây định mua một nơi xa hẳn

cho hai bà vợ khuất mặt đi, khỏi sinh sự với bà ba. Nhưng chỉ nửa tháng sau, giá

đất vọt lên cao chưa từng thấy, lão Hớn tiếc của đến hộc máu như chết nửa phần

hồn. Khi gã ngoài tỉnh bán trao tay khu nhà ngang của lão lấy mười ba cây thì

lão Hớn ngã bệnh, cấm khẩu rồi tự vẫn khi biết mất ba cây vàng. Không chỉ có

gia đình lão Hớn mà tốc độ đô thị hoá nhanh chóng ở nông thôn đã đẩy bao gia

đình vào thảm kịch mất nhà cửa nhưng cũng khiến bao gia đình nhờ đó mà phất

lên như diều gặp gió. Đặc biệt nền kinh tế mở đã làm tha hóa cả một tầng lớp

cán bộ thất học và tham lam. Chủ tich xã Quang sau bốn năm cầm quyền, bằng

cách “nhử mồi câu cá”, sợi dây bảo hiểm cho “gã hoạn lợn” đã dài tận huyện,

tận thành phố, gã cóc sợ ai nữa. Gã thường bật cười bảo dân xóm Chùa: “Các vị

đi xe đạp lên Tỉnh kiện tôi sao nhanh bằng tôi đi xe máy?”. Nếu không có

chuyện sốt đất do mở đường cao tốc thì chắc gia đình lão Hớn và bao gia đình

khác ở xóm Chùa vẫn sống bình yên vô sự. Sẽ không có chuyện tranh chấp, xô

xát giữa anh em, mẹ con, láng giềng đến sứt đầu, mẻ trán, cũng không có 20

chuyện tham ô, hối lộ, gây bè kết cánh. Họ đua nhau làm “cò mồi” dẫn khách

mua bán đất, rồi bị cuốn vào cơn lốc đất cát đến mức chẳng ai còn thiết làm ăn

gì nữa. Họ chỉ còn lo chạy đôn chạy đáo nghe ngóng chuyện mua bán đất cát mà

thôi.

Đáng sợ hơn về sự đổi thay ở xóm Chùa là việc người ta giao bán “trinh

tiết”- thứ quý giá nhất của đời người con gái (Trinh tiết xóm Chùa). Truyện bắt

đầu từ cô Khờ (có ông nội là mõ làng, bố đi đánh dậm nuôi cả nhà) lấy người

Đài Loan và trở nên giầu có, đổi tên là Lầy Lầy. Lầy Lầy mừng tết Trung Thu

cho mỗi người một đô-la, trẻ con mỗi đứa một gói bánh quy kèm mấy viên kẹo

Tàu. Cả làng được dịp rộ lên kéo nhau đi nhận quà như đi nhận phát chẩn. Từ đó

mọi người đều nhìn Khờ với ánh mắt thèm thuồng lẫn thán phục. Lầy Lầy về

làng là để tuyển con gái đi Đài Loan mà tiêu chuẩn phải xinh xắn, dễ coi, trẻ,

khỏe…lại còn phải “xịn”.Thế là khắp làng quê lại rộ lên cơn sốt “lấy chồng

ngoại”. Đó là một cuộc cách mạng cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ. Những

bà mẹ có con gái xinh thấp thỏm hy vọng đổi đời. Những nhà sinh toàn con trai

thì chồng mắng vợ vụng đẻ, vợ nhiếc chồng hãm tài. Nhất là sau vụ cái Huệ

xinh xắn mới mười tám tuổi chính thức trở thành vợ lão già ngoại quốc sáu

mươi ba tuổi nhưng đổi lại lão giầu có đã gửi tiền về cho bố mẹ xây nhà, sắm xe

cho em thì các gia đình có con gái lại càng háo hức chuyện cho con gái lấy

chồng ngoại. Bà Duệ có cô con gái xinh như nụ hồng mới hé thì đau đớn, xót xa

tiếc nuối như đứt từng khúc ruột. Nếu cái Hoa con bà không bị “làm thịt” bởi

thằng phó nháy đểu cáng thì giờ bà đã sắp được mở mày, mở mặt vì con. Giữa

lúc bà Duệ đang dầu gan héo ruột vì tiếc của thì Lầy Lầy dám bảo bà Duệ lo cho

khoản tiền kha khá để “vá màng trinh” cho con bà trước khi đưa đi xuất ngoại.

Thế là bà Duệ quyết định để con gái bà theo người ta đến cơ sở y khoa đặc biệt

để “vá trinh”, để tân trang nguyên lành như cũ. Tân trang xong, con gái đã hư

cũng trở lại thành “xịn‟, lại rách, lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết

y khoa” ấy. Dầu bà biết rằng bọn đàn ông ngoại quốc phát hiện bọn con gái

không còn nguyên vẹn, nó bán luôn vào nhà chứa, hoặc vùi dập hơn con ở nhà

nó. Vậy mà bà vẫn bằng mọi cách đưa con gái đi “tân trang” lại để xuất ngoại.

Vì tiền mà bà bất chấp cảm nhận của con gái bà. Bà đâu biết rằng cái giây phút

nằm tênh hênh trên bàn bệnh viện, cô Hoa ngây thơ phập phồng tình yêu của

xóm Chùa đã chết rồi. Giờ còn lại đây một cái xác lạnh khô, chán chường đến 21

mức không buồn…chết nữa. Bi kịch cuộc đời cô Hoa là bi kịch điển hình cho rất

nhiều cô gái ở xóm Chùa Ông. Họ đều là nạn nhân của thói hám lợi, tối mắt vì

tiền- một sản phẩm của nền kinh tế mở buổi đầu. Và bi thảm nhất là chuyện cả

làng há hốc mồm ra khi biết kết quả khám nghĩa vụ quân sự có tới một nửa

thanh niên xóm Chùa bị loại vì máu có khoản dương tính với con Hít. Lão Bản

ngậm ngùi: “Còn đâu Xóm Chùa ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác

xuất ngoại, con giai đu đưa ma túy, ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền”.

Ngay đến ông Sỹ Duệ vốn được tiếng là mẫu mực không bị vòng xoáy của nền

kinh tế mở cuốn vào, vậy mà vẫn bị lão kép cải lương “đưa vào đời”. Thi thoảng

lão vẫn đón ca-ve non thật xinh về ngôi nhà độc thân suốt đêm, để nó hầu hạ.

Chờ trời tối, chạy xe máy cái vèo lên đến đầu tỉnh đã đón được “của lạ” về tận

nhà...Vậy là sự tha hoá len lỏi vào mỗi gia đình, nó không từ một ai, bất kể già

trẻ, gái trai. Mỗi người tha hoá theo cách riêng của mình: con gái thì hoặc dại

dột để mất cái đáng quý nhất của đời mình rồi nhắm mắt để người ta đưa đi “tân

trang” lại đem giao bán xứ người và rơi vào bi kịch sống không bằng chết hoặc

để cứu gia đình thoát nghèo phải chấp nhận xa xứ lấy ông già đáng tuổi ông

mình làm chồng; con trai nghiện ngập, hút hít nhận lấy những cái chết trắng thật

khủng khiếp; ông già ham”của lạ”; các bà mẹ tối mắt vì tiền…Đó là đầu mối của

những tấn bi kịch hết sức thương tâm ở xóm Chùa Ông.

Không chỉ dừng lại ở đó, bi kịch đổi thay của xóm Chùa còn được đánh

dấu bằng sự kiện ông Hưởng- đại tá về hưu bị ca-ve khiêu khích chết ngay trên

giường do nhồi máu cơ tim. Ông này có thằng con trai “phá gia chi tử” đã dám

phá hang Dơi làm Khu Du lịch sinh thái rởm để kiếm lời. Để thoả mãn tham

vọng làm giầu, Cường đã bất chấp tất cả. Hắn có thể phá Hang Dơi, tạo hiện

trường giả về động xương người, công nhiên bao gái hoạt động mại dâm dưới

hình thức tiếp viên nhà hàng. Đấy là đầu mối của những căn bệnh thế kỷ mà hơn

một nửa trai làng mắc phải. Hơn thế nữa, Cường còn đưa cả ca-ve về nhà để hại

cha. Cái chết của cha hắn còn là cơ hội để Cường quảng bá khu du lịch rởm và

kinh doanh làm giầu…

Thế đấy mặt trái của nền kinh tế mở đã kéo theo nó biết bao bi kịch, bao

tệ nạn từ việc tranh chấp nhau từng mét đất mặt đường, đến cơn sốt lấy chồng

ngoại và khát vọng làm giầu bất chấp mọi thủ đoạn, từ sự hiện đại hóa vật chất

22

đến sự mai một những nét truyền thống nhân bản vốn quý của con người... Tất

cả đều được Đoàn Lê thể hiện một cách chân thực, sinh động trên mỗi trang

viết của mình. Giọng văn của bà ngỡ như bình thản, lạnh lùng nhưng bên trong

lại hàm chứa biết bao chua xót. Không còn cảnh xóm làng bình yên với những

nét nhân bản vốn quý của con người nữa. Sức mạnh của đồng tiền đã huỷ diệt tất

cả. Nó làm tha hoá bao nhân cách, làm dị dạng bao tâm hồn ở xóm Chùa Ông.

Đọc những truyện ngắn này của Đoàn Lê gợi ta nhớ đến tác phẩm Mùa lá rụng

trong vườn của Ma Văn Kh¸ng. Trong tác phẩm ấy, nhà văn ®i vµo ph¶n ¸nh

b íc chuyÓn biÕn cña x· héi miÒn B¾c vÒ nÕp sèng ®¹o ®øc, ®Æc biÖt lµ nh÷ng

®¹o lý truyÒn thèng vèn tèt ®Ñp cña con ng êi ®ang bÞ b¨ng ho¹i trong gia ®×nh

nhiÒu thÕ hÖ. Cô thÓ lµ gia ®×nh «ng B»ng vµ më ra ë bèi c¶nh réng lín g¾n liÒn

víi t¸c ®éng m¹nh mÏ cña thÕ lùc ®ång tiÒn. Mét hÖ quy chiÕu ® îc ®Æt ra tõ cöa

sæ vµ m¶nh v ên nhµ «ng B»ng ra cuéc sèng, soi räi vµo mçi gia ®×nh ®Ó thÊy

r»ng t©m lý con ng êi bÞ ph©n ho¸, bÞ ®ång tiÒn chi phèi. Víi ngßi bót s¾c s¶o,

Ma V¨n Kh¸ng ®· kh¾c ho¹ nªn tõng tÝnh c¸ch nh©n vËt: mét «ng B»ng nh©n

hËu sèng hÕt mùc th­¬ng con ch¸u, mét «ng §«ng nhu nh­îc… vµ ®Æc biÖt lµ

mét Lý nh©n vËt chÝnh xuyªn suèt t¸c phÈm víi c¸i “mÆt phinh phÝnh, bõng lªn

mét mµu men hång bãng läng cña c¸i n¾ng ph ¬ng Nam. M¾t Lý t« xanh, l¼ng

vµ t¸o tîn…” Mét ng­êi ®µn bµ “tay hßm ch×a kho¸” n¾m quyÒn qu¶n lý gia

®×nh ®· “yªu ®êi nång nhiÖt vµ hoan l¹c thÇm kÝn còng béc ph¸t…” sèng trong

thêi ®¹i kinh tÕ thÞ tr êng, Lý ®· bÞ biÕn chÊt, tõ ng êi con d©u tr ëng rÊt mùc

®¶m ®ang ®Õn mét con ng êi vô lîi, bÊt chÊt khu«n phÐp, ®¹o ®øc ®Ó nh÷ng ham

muèn cña b¶n th©n ® îc ®¸p øng tho¶ m·n. Mïa l¸ rông, nh÷ng chiÕc l¸ rông

trong khu v ên hay chÝnh lµ nh÷ng truyÒn thèng tèt ®Ñp ®ang dÇn bÞ mai mét ®i

trong nh÷ng con ng êi nh Lý? Vµ ph¶i ch¨ng bi kịch gia ®×nh «ng B»ng lµ ®iÓn

h×nh cho rÊt nhiÒu nh÷ng gia ®×nh kh¸c ®ang bÞ ¶nh h ëng cña nÒn kinh tÕ thÞ

tr êng lµm rung chuyÓn tíi tËn c¨n nguyªn cña nã mà những tác phẩm của Đoàn

Lê đã lại một lần nữa minh chứng cho điều đó.

Sống trong thực tại cuộc sống nghèo cực, tăm tối con người luôn có khát

khao vươn lên bằng mọi giá, kể cả phải đặt niềm hy vọng ấy vào những tấm vé

xố vốn nhiều rủi ro. Đó là bi kịch của những con người mong đổi đời nhờ vận

may ở Thành hoàng làng sổ xố. Toàn tác phẩm là câu chuyện cuộc đời lão

23

Khiển- một viên chức nhà nước cần mẫn, đúng mực. Vì cần mẫn, đúng mực nên

lão nghèo khổ, nghèo sở, đến nỗi suốt đời lão không xây nổi mộ phần cho tứ

thân phụ mẫu và cũng không xây nổi một gian nhà gạch thay cho túp lều tranh

xiêu vẹo ở xóm ngoại ô. Với đồng lương ít ỏi nuôi bốn đứa con còn chật vật, vậy

mà lão còn nghiện món xổ số cầu may. Rồi một lần lão trúng cái giải sáu được

bảy trăm đồng. Sau chuyện đó, lão Khiển càng tin vào vận số, lão quyết định

mua tăng gấp đôi số vé với sự hỗ trợ của các món tính toán cả khoa học lẫn duy

tâm: nào theo sự mách bảo của giấc mơ, theo ngày sinh, tháng đẻ của những

người thân trong gia đình, theo người gặp đầu tiên ngoài ngõ…Biết kiểu nào lão

theo tất kiểu ấy. Thậm chí lão còn học luôn cả bài khấn của dân xổ số chuyên

nghiệp. Nhưng thật là chớ trêu đen đủi, trong suốt mấy tháng, lão không thu

được nửa xu. Các khoản chi tiêu bị cắt giảm ngày một tồi tệ, vợ chồng lão

thường xuyên lục đục cãi cọ: lão nhiếc mụ vợ hãm tài; mụ giễu lão bị ma ám,

có lần cả hai suýt nện nhau. Nhưng khát khao đổi đời nhờ vận may vẫn ngày

đêm thôi thúc khiến lão Khiển không cách gì thoát ra khỏi niềm hy vọng chết

người ấy. Thậm chí càng ngày lão càng đam mê hơn, đam mê đến mức bỏ bê gia

đình, trễ nải cả công việc cơ quan. Sau vụ trúng trượt giải nhất liên tỉnh thì lão

lao vào số đề như một con thiêu thân mê ánh lửa. Lão quyết tâm bằng bất cứ giá

nào cũng phải gỡ lại mười triệu hụt ấy. Từ hôm sau, lão mua xổ số như điên, cứ

có đồng nào trong túi lão mua tuốt. Lão như một con đề khát nước, bốn giờ

chiều chưa xoay nổi tiền mua hai vé số, lòng lão tựa có lửa đốt, ấm ức, thất thần.

Trong óc lão dày đặc một màu u ám xui lão nói dối ai để vay tiền bằng được.

Cho dẫu đang buồn phiền vì đủ thứ chuyện nhưng khi cầm hai tấm vé số trên

tay, lòng lão bỗng dịu đi, nhẹ như hồi sinh, vui vẻ, thư thái. Chỉ trong nháy mắt,

hai tấm vé làm cuộc đổi hồn quái đản cho lão Khiển. Sau giấc mơ gặp được ông

già râu tóc bạc phơ mách nước, lão Khiển như người mất hồn, lão sùng tín một

cách mù quáng đã đặt toàn bộ niềm tin vào canh bạc cuối cùng này. Đúng là

canh bạc cuộc đời, lão đã không thắng được số mệnh. Lão đã bị mất tất cả: chiếc

xe đạp- tài sản duy nhất có giá trị trong nhà, công việc và cả gia đình. Lão Khiển

bị dồn tới chân tường, gia đình tan nát, lão thành kẻ lang thang bơ vơ đầu đường

xó chợ. Càng ngày lão càng cay cú, tìm mọi cách gỡ lại canh bạc cuộc đời ,

thậm chí phải bán dẻ cả nhân phẩm và lương tâm. Lão chấp nhận “mặt dạn mày

dày” chiều bà góa già để mỗi ngày bớt của bà số tiền chợ vừa đủ hai tấm vé xố 24

chờ cơ hội đổi đời. Nhưng rồi niềm hy vọng mong manh ấy cũng chẳng kéo dài

được bao lâu, hai đứa con bà góa sợ phải chia tài sản, chúng phối hợp với nhau

tìm cách vừa đe dọa vừa cưỡng chế đuổi lão ra khỏi nhà. Một lần nữa lão lại vất

vưởng, bơ vơ lần hồi kiếm ăn. Dầu vậy lão vẫn không sao từ bỏ được niềm đam

mê chết người kia. Hàng ngày lão thà bớt khẩu phần ăn để dành tiền mua hai vé

số. Ngày nào chưa có nổi hai vé số, lòng lão nôn nao, bồn chồn như có lửa đốt.

Dần dần khi miếng ăn nuôi thân cũng không kiếm nổi, lão đành chơi xổ số bằng

tưởng tượng. Dù chơi bằng tượng nhưng tâm trạng lão vẫn phập phồng lo lắng,

vui buồn, hy vọng rồi thất vọng như khi lão cầm những tấm vé số chờ thông báo

kết quả. Chính vì thế mà thảm kịch cuộc đời đã đến với lão. Sau khi xem xong

kết quả tấm vé số tưởng tượng trúng giải độc đắc, lão đã hét toáng lên như người

bị dại trước hàng ngàn người. Và điều gì phải đến đã đến… Lão bị đám đông xô

đẩy chen lấn, người lão mềm oặt như một tấm dẻ rách, mụ bán vé số đã lôi lão

ra từ đám đông và đưa về nhà chăm sóc. Mụ cũng như bao kẻ khác mong có thể

kiếm chác từ giải độc đắc của lão. Bởi thế mụ chăm chút lão tận tình cả vật chất

lẫn tinh thần. Nhưng thật là bi kịch đấy chỉ là tấm vé số tưởng tượng. Khi đã

hiểu cơ sự mụ liền tống cổ lão ra đường như đuổi một con chó giữa đêm đông

giá rét. Lão đã được hóa kiếp. Bi kịch cuộc đời lão Khiển là bi kịch chung cho

bao kẻ ngộ độc sổ xố, bao kẻ khát khao nhanh chóng đổi đời bằng vận may. Họ

đều là nạn nhân của nền kinh tế mở với tham vọng làm giầu từ công việc không

chính đáng- chơi số đề. Kết cục của những bi kịch ấy là sự tan cửa nát nhà và cả

tính mạng bản thân: lão Khiển đã chết cô độc không gia đình không người thân

thích giữa đêm đông giá lạnh. Cái chết của hắn chính là hồi chuông cảnh tỉnh

với những kẻ đam mê số đề đến mụ mị.

Bên cạnh bi kịch của những người mong đổi đời nhanh chóng nhờ vận

may, trong sáng tác của Đoàn Lê còn một loại bi kịch nữa, bi kịch của những

người phụ nữ bị cuộc sống khốn khó dồn đẩy đến bước đường cùng phải bán

thân nuôi miệng. Đó là bi kịch cuộc đời của những người đàn bà nghèo ở xóm

liều trong truyện ngắn “Hạt vừng”. Họ sống lang thang, vật vờ bằng đủ thứ

nghề, sống dai dẳng kiểu tầm gửi, cỏ dại, chỉ cần bám hờ vào mảnh gỗ mục cũng

sống. Kết quả của cảnh sống ấy là sự ra đời của những đứa con không cha sống

vạ vật chui rúc nơi các xó xỉnh mà chỉ cần nhận được ổ bánh mỳ, khúc sắn luộc

25

hay mấy cái bánh rán cũng đủ khiến chúng sung sướng đến thắt lòng. Cũng vì

sống không ra sống ấy mà chị Đỗ, cái Tấm, cái Mằn, con Vừng, thằng Muối đã

lần lượt biến mất không ai biết vì sao. Có lẽ chúng bị đem bán, trao đổi như món

hàng, như lũ chó con chỉ vì mẹ chúng không đủ khả năng nuôi nấng chúng. Và

một ngày kia, mẹ chúng cũng chết ở khúc sông không biết là chết đuối hay tự tử.

Chị- con bé hạt Vừng là đứa cuối cùng trôi dạt sau hôm mẹ mất. Thân cô thế cô

bơ vơ, lang bạt trên cõi đời, chị thường xuyên bị đám trẻ nhặt rác xóm liều trêu

chọc, chúng dùng những chiếc móc sắt tua tủa vẫn thường bới rác tấn công vào

những lỗ thủng trên quần áo chị, có đứa nghịch ác ý còn cầm hai bên ống quần

rách của chị lôi tuột khiến chị đau đớn, tủi hổ co rúm lại. Ấy là những ký ức

khủng khiếp vẫn thường trở đi trở lại trong những cơn ác mộng của chị…

Hôm nay trong cương vị một luật sư bào chữa, chị đã thông cảm, sẻ chia

lẫn xót thương người nữ phạm nhân kia một cách thành thực. Chị thấu hiểu hơn

ai hết cảnh ngộ đáng thương của người đàn bà ấy. Đó là sự cảm thương của

người “cùng hội cùng thuyền”, của những người đồng cảnh ngộ. Bi kịch cuộc

đời người nữ phạm nhân kia cũng chính là bi kịch cuộc đời mẹ chị, bi kịch tuổi

thơ cay đắng, hãi hùng của chính chị. Số phận cuộc đời người nữ phạm nhân có

phần còn may mắn hơn mẹ chị bởi bà ta còn có chồng, có bốn đứa con. Người

nữ phạm nhân rơi vào bi kịch từ khi người chồng chết vì đói, một mình chị ta

không nuôi nổi bốn đứa con, lại thêm việc chúng ốm đau bệnh tật luôn. Không

thể chống chọi nổi với cuộc sống quá khốn khó, chị ta đã phải nhắm mắt sa chân

chốn bùn nhơ tanh tưởi. Chỉ vì một trăm bạc đưa con vào viện cắt Amiđan và lo

mâm cơm giỗ đầu chồng, người phụ nữ khốn khổ ấy đã chấp nhận bán dẻ nhân

phẩm. Nhưng thật là oan nghiệt, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng ấy, người đàn

bà đã bị khép vào tội giết người. Theo lời kể của người nữ phạm nhân, chị sống

lại toàn bộ hồi ức tủi nhục, ê chề của cuộc đời mẹ chị. Chính bà cũng phải làm

cái việc nhớp nhúa của người đàn bà kia để có tiền nuôi các con. Thủa ấy nhìn

những vết bầm tím rớm máu trên ngực, trên vai mẹ, chị thấy nhói nơi ngực tựa

hồ có một mũi tên mơ hồ chạm phải. Khi vô tình chứng kiến cảnh mẹ bị kẻ háo

sắc hành hạ thân xác, chính chị cũng đã hành động như bé Trang con người nữ

phạm nhân khốn khổ kia. Trong nỗi khiếp sợ kinh hoàng, con bé Vừng đã vùng

dậy, ôm chặt lấy bàn chân quái vật của kẻ đang xoắn chặt chân mẹ nó mà ngoạm

26

cắn bằng tất cả sức lực của sự căm thù…Thế là, bằng sự trải nghiệm của một

tuổi thơ cay đắng, tủi nhục, chị đã tin và xót thương người đàn bà bằng tất cả nỗi

đau của quá khứ dồn cộng lại. Chị nghĩ về bi kịch cuộc đời mẹ chị, nỗi thống

khổ của người nữ phạm nhân kia…Phải chăng họ đã bị hoàn cảnh phũ phàng xô

đẩy để phải ngụp lặn trong nỗi tủi nhục, ê chề nhất của kiếp sống con người.

Đoàn Lê đã viết về bi kịch cuộc đời những người đàn bà dưới đáy bằng tất cả sự

cảm thông, sót xa của người đồng giới. Bởi thế những trang văn kể về bi kịch

cuộc đời những người đàn bà ở xóm liều thật xúc động, thấm thía.

Cũng một giọng văn chứa chan niềm trắc ẩn ấy, Đoàn Lê viết về kiếp

sống của những cô gái giang hồ, những cô gái bị hoàn cảnh xô đẩy phải bán thân

ở Con bướm nhựa cánh xanh thật xót xa. Họ đều là những cô gái trẻ trung, xinh

tươi bị vòng xoáy cuộc đời cuốn trôi đến xóm biển này để làm món đồ chơi cho

đám khách ham “của lạ”. Bản thân họ có thể chưa đủ ý thức về sự hủy diệt ghê

gớm từ công việc mà họ đang dấn thân và đã vô tình đặt tính mạng vào tay tử

thần. Vì thế hầu hết các cô gái giang hồ đều có chung một kết cục bi thảm: hoặc

chết mất xác như Tiểu Anh- một cô bé con mới mười bốn tuổi, hoặc nhận lấy

căn bệnh thế kỷ như Thúy. Nhân vật “tôi” người chứng kiến cuộc đời của những

cô gái giang hồ thấy “lòng mình quặn thắt run rẩy, đôi chân như không thể cất

lên nổi”. Đó là sự cảm thương của những người đồng giới trước bi kịch bất hạnh

của những cô gái trẻ bị hoàn cảnh vùi dập đến phũ phàng. Cái chết của họ chính

là hồi chuông cảnh tỉnh với những cô gái trẻ vì lý do này hay lý do khác mà phải

dấn thân vào cuộc đời cát bụi.

Bi kịch của người phụ nữ giữa vòng xoáy của nền kinh tế thị trường được

Đoàn Lê cảm nhận bằng tất cả niềm trắc ẩn của một trái tim phụ nữ giầu yêu

thương. Vì thế những trang viết của bà về bi kịch cuộc đời họ không chỉ chân

thực làm xúc động lòng người mà còn có sức ám ảnh ghê gớm. Vẫn là những đề

tài muôn thủa, nhưng Đoàn Lê đã mạnh dạn lách bút vào bề sau, chiều sâu, mặt

trái của nền kinh tế mở để phơi bày chân thực, sống động hậu quả mà nó gây ra.

Tất nhiên viết về những mặt tiêu cực của xã hội, rất nhiều cây bút trước Đoàn Lê

đã từng đề cập đến nhưng Đoàn Lê không đi thẳng trực tiếp vào những vấn đề

ấy mà thông qua bi kịch của những số phận cụ thể. Dẫu vậy ý nghĩa hiện thực

của những tác phẩm ấy vẫn rất sâu sắc và thấm thía làm nhức nhối lòng người.

27

3.1.2.2. Bi kịch tình yêu.

Tình yêu là đề tài muôn thủa trong văn học. Thời kỳ đổi mới, nhất là đối

với các cây bút nữ, tình yêu với muôn vàn cung bậc đã được các nhà văn tái hiện

hết sức sinh động dưới cảm quan tinh tế, sâu sắc cũng như cách lý giải riêng của

mình.. Đề tài này cũng được trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Đoàn Lê.

Ái tình giống như một thứ gia vị mà không thể không có trong hạnh phúc

của mỗi đời người nhưng nó cũng là căn nguyên của những tấn bi kịch. Tình yêu

trong sáng tác của Đoàn Lê có nhiều cunng bậc, sắc thái khác nhau: Có tình yêu

đơn phương vô vọng (Dấu hỏi gửi thượng đế, Tình Guột); có tình yêu tan vỡ

chia lìa ( Na ơi); có tình yêu chung thủy thầm lặng (Oan hồn ngõ đá dốc, Chờ

nhật thực, Đêm ngâu vào.), Có tình yêu nông nàn say đắm đến si mê điên dại

nhưng chỉ thoáng chốc, thoảng qua (Trăng đường, Giao cảm cuối cùng)..

.Nhưng dù ở cung bậc sắc thái nào thì trong sáng tác của Đoàn Lê tất cả những

câu chuyện tình ấy đều có chung một sắc thái bi kịch.

Tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê mang rất nhiều cung bậc. Mỗi cung

bậc đều được nhà văn thể hiện đến tận cùng. Nếu đã yêu là yêu hết mình, suốt

đời chung thuỷ với mối tình ấy, chết rồi vẫn yêu, vẫn mong được chăm sóc bảo

vệ người mình yêu. Đó là một tình yêu thánh thiện, yêu bằng cả tấm lòng mà

không đòi hỏi phải đền đáp. Vì thế mà rơi vào bi kịch. Ấy là tình yêu của lão

Guột trong Tình Guột. Lão Guột không có may mắn được thượng đế ban phát

cho một hình hài đầy đủ, ưa nhìn như người ta. Lão chỉ có một con mắt sáng, đôi

chân vòng kiềng đi khuỳnh khuỳnh…Đổi lại, lão có một tâm hồn trong sáng, có

một tình yêu thánh thiện. Tình yêu ấy lão dành cả cho cô Thảo- con chủ nhà

kém lão mười tuổi mà lão được giao nhiệm vụ trông nom, chăm sóc để ông bà

chủ lo buôn bán. Lão đã yêu cô Thảo bằng tất cả mọi thứ tình yêu trên thế gian

cộng lại: tình anh em, tình cha con, tình bạn bè, tình đôi lứa… lão coi việc che

chở, bảo vệ cô là thiên chức thiêng liêng của mình. Thậm chí khi vô tình để cô

khóc, lão liền bị ông bà chủ đánh đòn, lão còn lấy làm hạnh phúc và mong được

thường xuyên bị đánh để được cô dỗ dành, an ủi, vỗ về. Vì thế cô Thảo chính là

niềm vui là mục đích sống của cuộc đời lão. Năm cô lấy con ông Phán ngoài

tỉnh, dù đau đớn đến tan nát cả cõi lòng, lão vẫn cầu chúc cho cô có được hạnh

phúc. Lão biết mình không xứng với cô và cũng chưa bao giờ dám mơ mình có

thể sánh duyên cùng cô Thảo mà chỉ mong được gần gũi che chở, bảo vệ cho cô. 28

Từ khi cô Thảo theo chồng ra tỉnh lão sống lầm lũi như cái bóng, lặng lẽ dõi

theo cô. Lão đau đớn thẫn thờ như đứt từng khúc ruột khi biết cô bị hành hạ, rồi

bị bỏ rơi khi cô ốm đau bệnh tật. Một hôm lão trốn nhà lên thành phố, tìm đến

nhà thương thăm cô Thảo, lão phải nói dối là ông bà chủ cử ra để cô an lòng.

Nhìn dáng hình tiều tụy của cô, lão xót xa nuốt thầm những giọt nước mắt, rồi

cô ra đi nhẹ nhàng thanh thản trên tay lão Guột. Từ đó lão nguyện gần gũi, che

chở, bảo vệ để cô yên lòng an nghỉ. Sau nghĩa cử cao đẹp của cô Thảo: nguyện

hiến mình cho y học, lão Guột đã tìm mọi cách trở thành người bảo vệ chăm

chút cho những mẫu tiêu bản của trường đại học Y khoa nơi cô Thảo hiến mình.

Lão chăm chút cho cô như người mẹ hiền chăm chút đứa con thơ, Lão hầu như

không cho ai động đến mẫu ấy.

Một ngày kia lão nhìn thấy con bé Mận - con vợ chồng người bán hàng

nước ở cổng trường, giống cô Thảo như đúc, Lão thấy mình như được tái sinh,

sống cuộc đời thứ hai. Lão chăm chút con bé, yêu thương nó bằng tất cả tình yêu

thương đã dành cho cô Thảo. Có bao nhiêu tiền lương giành dụm, lão đều gửi

tiết kiệm cho con bé Mận đến mức cha nó nghi ngờ tư cách của lão khiến lão

suýt mất mạng. Lão nhìn thấy ở nó tất cả những nét gần gũi yêu thương của cô

Thảo ngày nào. Cũng vì thế lão yêu nó bằng tất cả nỗi nhớ nhung khắc khoải về

cô Thảo trong suốt bao nhiêu năm qua. Cũng vì nó mà lão cố gắng sống và thấy

cuộc đời mình có ý nghĩa hơn. Sau trận ốm trở về, thấy mẫu xác của cô Thảo bị

mổ xẻ, lão cảm nhận như có hàng trăm mũi dao đang cắt xẻ thân thể mình, lão

ngã lăn ra đất ngất lịm đi và chẳng bao giờ còn dậy được nữa. Trước khi chết,

lão vẫn muốn nhắn gửi một ước nguyện được gần gũi bảo vệ cô Thảo. Lão đã

hiến thân cho y học để đời đời kiếp kiếp được ở bên cô Thảo.

Đa phần những câu chuyện viết về tình yêu của Đoàn Lê không phải là

những câu chuyện tình lãng mạn, lâm ly với những kết thúc có hậu. Truyện viết

về tình yêu của Đoàn Lê có triết lý sâu sắc để lại những dư vị sâu xa cho lòng

người. Tình yêu của lão Guột gần như tình yêu của một vị thánh: yêu hết mình,

yêu hết lòng, yêu hết kiếp này sang kiếp khác, một tình yêu cao thượng bao

dung đến hỷ sả. Nếu cuộc đời này ai cũng có được tình yêu như tình yêu của lão

Guột thì trái đất sẽ bớt đi nỗi khổ đau của kiếp người. Nhưng vì là tình yêu đơn

phương nên dai dẳng , mãnh liệt và có sắc thái bi kịch bùi ngùi day dứt. Trong

sâu thẳm lòng lão luôn khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu nhưng những 29

mặc cảm về hình hài thân phận khiến lão rơi vào bi kịch. Điều đáng quý ở lão

Guột cũng như nhiều nhân vật khác của Đoàn Lê là: dù rơi vào bi kịch họ vẫn

không hề buông xuôi, phá phách, tha hóa trái lại phẩm chất nhân cách họ vẫn

thật cao thượng xứng đáng là Con Ngƣời.

Cũng một loại bi kịch về sự thiếu hụt hình hài, cô Huệ trong Dấu hỏi gửi

thượng đế rơi vào bi kịch tình yêu đơn phương. Cô có hẳn hai mươi ba người

tình tưởng tượng để đêm đêm vẫn đi về nâng niu, ve vuốt tâm sự cùng cô. Dù là

những cuộc tình tưởng tượng nhưng nó vẫn có đủ sắc thái cung bậc của những

tình yêu lãng mạn. Cô Huệ không có may mắn được thượng đế ban phát cho một

hình hài, nhan sắc hoàn thiện như những cô gái khác, cô vừa nhỏ lại gù. Những

mặc cảm về hình hài khiến cô luôn sống trong âm thầm lặng lẽ: cố không làm

phiền đến ai và cũng không để ai nhìn ngó đến mình, một lối sống rất giản dị,

khiêm tốn. Đó là cái vỏ bọc bề ngoài để ẩn dấu con người thực bên trong. Thực

tế cô là một cô gái có tâm hồn phong phú, có khát vọng tình yêu mãnh liệt, trong

sáng, lành mạnh và vô cùng cao thượng. Cô thường gửi tình yêu ấy qua những

trang nhật ký và những giấc mơ đêm đêm vẫn ru vỗ tâm hồn, xoa dịu những

khát khao yêu đương cháy bỏng nơi sâu thẳm lòng cô. Bằng chứng của những

cuộc tình ấy là những cánh hồng khô nơi những trang nhật ký có những nét chữ

rất ngay ngắn và rất đẹp gửi gắm giấc mộng tình yêu của cô với một người đàn

ông nào đó. Những người đàn ông lướt qua cuộc đời cô Huệ đều là những người

đàn ông lý tưởng, tài hoa: một đạo diễn điện ảnh hết sức phong nhã, một nhà

thơ, một họa sỹ độc thân, một ông trung tướng về hưu, một diễn viên điện

ảnh…Dẫu chưa một lần được nghe lời thổ lộ tiếng nói thổn thức từ một trái tim

yêu nhưng cô Huệ vẫn tưởng tượng đầy đủ những cung bậc sắc độ của một tình

yêu mãnh liệt: có hy vọng phập phồng, có hờn ghen giận dỗi, có đau đớn tủi

hổ…Đó là mối tình tưởng tượng của cô với một diễn viên điện ảnh đóng vai Chí

Phèo trong phim Làng vũ đại ngày ấy khi anh dừng ở hàng cô mua mấy tấm

phong bì. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến lòng cô thổn thức, trái tim cô run rẩy

loạn nhịp. Cô muốn kéo dài mãi cái giây phút được sát gần bên anh, được cảm

nhận hơi ấm từ thân thể cường tráng của anh lan thấm sang cô. Khi anh đi rồi,

“cái giọng trầm êm với tiếng cười nhẹ nhàng cứ khiến lòng em đau thắt”. Và

đêm đó cũng như nhiều đêm khác cô mơ thấy anh trong những giấc mơ thật

nồng cháy, ngọt ngào: “Những người tình đã đến thủ thỉ bên gối nàng cả ngàn 30

những lời âu yếm, không ai gian dối, không ai thô lận vô tình, mọi người đều tìm

cách chiều lòng nàng, nhận sự dâng hiến từ nàng như nhận một ân phước. Đêm

đêm những vòng tay êm ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm đềm…” Rồi một

hôm nào đấy, cô Huệ vô tình bắt gặp một người tình trong mơ của mình sánh

bước với một cô gái xinh đẹp khác, trái tim cô đau thắt, ánh mắt nhìn ngây dại

tuyệt vọng, chưa bao giờ cô thấy mình bị tổn thương đến thế. Cô Huệ vĩnh biệt

mối tình đó trong đớn đau tuyệt vọng.

Bi kịch tình yêu của cô Huệ là bi kịch của một tâm hồn luôn khao khát

yêu đương mà không được thỏa. Đó là chuỗi những khao khát dày vò cô đến

khổ sở, đau đớn. Dĩ nhiên không thể thỏa mãn trong cuộc đời thực, cô tìm cách

giải tỏa trong những giấc mơ. Nhưng giấc mơ vẫn mãi chỉ là giấc mơ, cô Huệ

không sao thoát khỏi những khao khát yêu đương cháy bỏng đang ngày đêm dày

vò cô. Dù đã tự huyễn hoặc mình bằng những cuộc tình tưởng tượng để xoa dịu

sự khô cháy của những năm tháng tuổi xuân cô độc, nhưng thiên chức người phụ

nữ với khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn canh cánh trong lòng cô. Trong một đêm

mưa gió bão bùng, không thể cầm lòng, cô đã bước qua ranh giới của những

phép tắc, luật lệ và cả sự mặc cảm của thân phận để chủ động đến với người đàn

ông cũng có cảnh ngộ như mình mong có một đứa con để ôm ấp, bế bồng, xóa

đi khoảng trống vô tận trong lòng. Nhưng thật là bi thảm, người đàn ông ấy đã

bị những năm tháng quân ngũ cướp đi cái đáng quý nhất của đời người đàn ông,

ông ta đã chẳng thể cho cô Huệ một mụn con. Rút cục cô Huệ vẫn phải sống

trong bi kịch cô đơn đến hết cuộc đời. Nhìn từ mọi góc độ, khát vọng của cô

Huệ là rất chính đáng, rất nhân bản của người phụ nữ từ xưa đến nay. Chỉ tiếc

nó không thể trở thành sự thực trong hoàn cảnh của cô nên mới thành bi kịch.

Quả thực những trang viết của Đoàn Lê về bi kịch cuộc đời cô Huệ là

những trang viết cảm động nhất. Nó được tạo nên từ sự rung động sâu sắc của

một tâm hồn phụ nữ giầu yêu thương với nỗi cô đơn, khao khát của người đồng

giới. Cũng vì cảm thông, yêu mến, trân trọng nên Đoàn Lê mới phát hiện ngợi

ca vẻ đẹp tâm hồn phong phú ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài đầy thiếu hụt của

người phụ nữ kia. Đó là một trái tim chỉ biết yêu thương không đòi hỏi, không

thù hận: “hồn nhiên khao khát được dâng hiến, bao dung, hỷ xả đến mức thánh

thiện”. Nó không bao giờ bị mặc cảm dung tục làm vấy bẩn. Đó chính là ước ao

31

vươn tới một tình yêu cao đẹp đạt đến mức thánh thiện của nhà văn và của con

người ở mọi thời đại.

Là người phụ nữ đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều nỗi chuân chuyên

trong cuộc sống, Đoàn Lê rất nâng niu những giá trị đích thực của tình yêu. Bà

luôn trân trọng những khoảnh khắc yêu chân thành và cũng đau đớn, xót xa cho

những mối tình đẹp bị chia lìa tan vỡ. Qua những bi kịch tình yêu tan vỡ ấy, nhà

văn như muốn gửi đến mọi người nhất là thế hệ trẻ- những người đã yêu, đang

yêu và sẽ yêu bức thông điệp: hãy mạnh dạn đón nhận tình yêu khi nó đến, hãy

sống hết mình vì tình yêu, hãy bao dung độ lượng, đừng vì chút tự ái cá nhân mà

vuột mất tình yêu để suốt đời phải sống trong sự hối tiếc.

Tình yêu luôn là khát khao tuyệt đích: khát khao được khám phá, chiếm

lĩnh tâm hồn người mình yêu, cả khao khát được che chở bảo vệ cho người mình

yêu. Tình yêu cũng luôn đòi hỏi sự tuyệt đối, duy nhất, trọn vẹn, nó không chấp

nhận sự chia sẻ cho dẫu ở hình thức nào. Nếu phá vỡ nguyên tắc đó, tình yêu sẽ

rơi vào bi kịch của sự đổ vỡ chia ly. Tình yêu của một anh cán bộ khoa học và

một cô diễn viên nhà hát ở “Na ơi” là một tình yêu như thế. Họ đã yêu nhau

bằng tất cả sự rung động bỏng cháy của một tình yêu đầu đời khờ dại và sự bồng

bột nhiều tự ái của tuổi trẻ. Bất chấp giông bão từ phía hai gia đình, anh vẫn nói:

“Cho dù tôi phải lên giàn thiêu, tôi vẫn không thôi yêu em, Na ơi”. Tưởng rằng

tình yêu mãnh liệt ấy sẽ giúp họ vượt qua mọi sóng gió để cập bến bờ hạnh

phúc. Nhưng thật bất ngờ, chỉ vì một phút tự ái, họ đã vĩnh viễn mất nhau. Anh

không chấp nhận được việc người yêu của mình có tì vết, cho dẫu đó là “tai nạn

nghề nghiệp” ngoài ý muốn. Trong một phút giây không thể kiềm chế được

mình, anh đã buông lời trách cứ phũ phàng khiến cô bị tổn thương ghê gớm. Thế

là không một lời xin lỗi, giải thích, họ đã mãi mãi xa nhau để lại một nỗi đau,

một khoảng trống, một nỗi khắc khoải day dứt ân hận không gì khỏa lấp nổi.

Sau hai mươi năm, họ tình cờ gặp nhau khi cả hai đã có tổ ấm đủ đầy, chỉ

có điều cuộc sống riêng của cả hai người đều không được hạnh phúc lắm. Chị có

một con gái và gia đình bao phen đứng trước sóng gió của sự tan vỡ. Anh có hai

con trai và một bà vợ đau yếu, ghen tuông. Cuộc gặp gỡ ấy khiến những xúc

cảm dồn nén trong hai mươi năm cùng lúc xối xả tràn về, họ cùng hối tiếc đã để

mất nhau. Khi muốn khỏa lấp những trống trải của hai mươi năm thì một trong

hai người đã không còn trên cõi đời này nữa, để lại nỗi đau và sự luyến tiếc đến 32

ngẩn ngơ cho người còn sống… Bi kịch của họ là bi kịch của một tình yêu tan

vỡ, chia lìa do sự tự trọng quá cao, do đặt cái tôi lên trên mọi thứ. Dĩ nhiên tự

trọng là phẩm chất đáng quý của con người, song trong tình yêu, nhất là khi đã

yêu hết mình thì vẫn cần sự bao dung, độ lượng để dung nạp cả những khuyết

điểm của người kia. Có như thế tình yêu mới không rơi vào bi kịch và những

người yêu nhau mới không phải hối tiếc, không bị những day dứt dày vò đến hết

cuộc đời. Bao dung độ lượng, hết lòng vì người mình yêu phải chăng là những

thông điệp tình yêu mà Đoàn Lê muốn gửi gắm qua mỗi trang viết của mình.

Trong tình yêu, bên cạnh phẩm chất bao dung độ lượng vẫn rất cần một

sự mạnh bạo, dứt khoát, quyết đoán giành lấy tình yêu để suốt đời khỏi phải hối

tiếc vì sự rụt dè không quyết đoán mà để mất nhau. Đó là bi kịch của “tôi” và

“nàng” ở “Đêm ngâu vào”. Anh đã yêu nàng bằng tất cả sự đam mê, tôn thờ,

ngưỡng mộ. Nàng đáp lại tình yêu ấy bằng sự rụt rè, kín đáo. Cũng vì sự thiếu

quyết đoán của anh mà anh đã vĩnh viễn mất nàng. Dù trong thâm tâm cả ngàn

lời anh đã nói: “Anh sinh ra là để cho em. Ngược lại, em sinh ra là để cho anh,

Nếu không có em anh không thể sống được”. Vậy mà đến giây phút quyết định

anh lại không chứng minh được tình yêu mãnh liệt của mình. Chỉ trong một giây

phút do dự anh đã vuột mất nàng để suốt đời không hết ân hận, suốt đời chết

chìm trong sự hối tiếc. Lẽ ra trong giây phút quan trọng ấy, anh phải có hành

động quyết định, anh phải mạnh bạo hơn, quyết đoán hơn thì suốt đời đã chẳng

phải khổ sở đến thế... Giờ đây sau gần hai mươi năm đã trôi qua, những giây

phút gặp nàng vẫn khiến lòng anh thổn thức, bồi hồi. Anh yêu những đứa con

của nàng bằng tất cả tình yêu với mẹ của chúng để tìm thấy ở chúng sức mạnh

huyền diệu của nàng. Sau khi đã vĩnh viễn mất nàng, anh vẫn thầm cám ơn số

phận đã xếp đặt cho anh được sống trong căn nhà của mẹ nàng. Ở đó anh được

lặng lẽ hít thở những gì là nàng: đôi guốc cũ nàng bỏ lại một lần về thăm nhà, vỉ

thuốc nàng dùng dở, cái quạt giấy có chữ nàng ghi, chiếc khăn tay phơi trên

dây… Cả đời anh đã sống trong những ký ức về nàng, trong mỗi bức tranh anh

vẽ đều có hình bóng của nàng: nàng là chiếc cốc thủy tinh đầy nước trong suốt,

là cái cây non cô đơn trên con đường mòn hun hút, là một vệt nắng hoe giữa

vườn cây… Và lúc này đây khi căn bệnh ung thư quái ác đang dần cướp nàng

khỏi cõi đời này, anh thấy mình như đang chết dần chết mòn. Anh biết cái chết

của nàng cũng là cái chết của anh. Anh lặng lẽ phác họa nàng những ngày cuối 33

trong nỗi đau thầm lặng… Vậy đấy chỉ vì một giây phút lưỡng lự thiếu quyết

đoán mà cả anh và nàng đã phải sống trong nỗi hối tiếc dày vò đến hết cuộc đời.

Bi kịch của đời họ là bi kịch của một tình yêu lỡ dở nên suốt đời khắc khoải

không nguôi.

Những bi kịch tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê thật phong phú:

không chỉ có sự khắc khoải của tình yêu đơn phương, sự hối tiếc vì để lỡ một

tình yêu đẹp mà còn có cả sự day dứt ám ảnh bởi định mệnh mà không dám đón

nhận tình yêu…Đó là cảnh ngộ của đôi trẻ ở “Oan hồn ngõ đá dốc”. Có lẽ trên

đời này khó mà tìm được tình yêu nào tha thiết sâu nặng như tình yêu của Tú và

Thơ. Tình yêu của họ được xây đắp trên cơ sở một ký ức tuổi thơ đầy ăm ắp

những kỷ niệm. Cả hai đứa đều là trẻ mồ côi: tú mồ côi mẹ ở với cha, còn Thơ

mồ côi mẹ, bố đi lấy vợ lẽ, Thơ ở với bà ngoại. Thủa nhỏ hai đứa quấn quýt

nhau như chị em ruột (vì Thơ hơn Tú một tuổi). Rồi hai đứa cùng lớn lên bên

nhau, tình cảm của chúng ngày càng thân thiết. Khi Tú thành một chàng trai

lừng lững, Tú đã âm thầm yêu Thơ bằng tất cả sự mãnh liệt của một chàng trai

vùng biển. Nhưng thật là bi kịch, ngay cả khi Tú đã chấp nhận tất cả, yêu Thơ

bằng một tình yêu chân thành, bao dung độ lượng thì Thơ lại không dám chấp

nhận tình yêu ấy. Thực tế Thơ rất yêu Tú, rất cảm động trước tình cảm mà Tú đã

dành cho cô, nhưng cô luôn bị ám ảnh bởi định mệnh cuộc đời mẹ cô. Mẹ cô

cũng một thời vì hơn tuổi bố mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh cô. Và giờ đây nỗi

đau khổ của mẹ đã thành nỗi ám ảnh án ngữ tình yêu của cô. Hơn nữa giờ cô lại

trót dở dang, cô không muốn làm liên lụy đến người mình yêu nên quyết chống

chọi một mình. Cô chỉ mong Tú có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Nhưng

thật là chớ trêu, oan nghiệt, hình ảnh cô đã ngự trị cả tâm hồn và trái tim Tú, anh

không thể nghĩ đến ai ngoài cô. Sau lần sảy thai “thập tử nhất sinh”, Thơ đã thấu

hiểu được tấm lòng của Tú. Cả hai đều nhận ra rằng họ sẽ không thể sống được

nếu thiếu nhau. Tú quyết không để Thơ và mình sống riêng rẽ nữa. Tú định sau

chuyến ra biển lần này sẽ cưới Thơ. Nhưng giống như một định mệnh oan

nghiệt, có ai ngờ chuyến ra biển ấy Tú mãi mãi không trở về nữa. Nghe tin dữ,

Thơ lại đột quỵ lần thứ hai. Lần này nỗi đau quá lớn đã giết chết toàn bộ phần

tâm hồn, ý thức của cô. Cô trở thành một người đàn bà ngẩn ngơ, ngây dại với

dáng hình gầy gò, thất thểu, suốt ngày tha thẩn ngoài bãi đá, âm thầm lặng lẽ

ngóng ra biển như chờ đợi ai…Chính định mệnh cuộc đời, những bóng ma của 34

quá khứ, những ám ảnh của số phận đã giết chết hai con người. Tình yêu của họ

giống như một cuộc rượt đuổi, gần đấy mà như xa vời: yêu mà không dám đón

nhận, khi quyết định đón nhận, gắn bó thì người yêu lại không còn, để laị nỗi

đau đớn đến ngây dại cho người còn sống. Bi kịch tình yêu của họ chính là hồi

chuông cảnh tỉnh với những ai còn do dự trước hạnh phúc.

Trong chuỗi những bi kịch tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê còn có

loại bi kịch dành cho tình yêu sét đánh do sự sắp đặt của định mệnh. Đó là tình

yêu cuồng si đến mê dại của một nhà văn với một nữ họa sỹ ở “Đường trăng”.

Họ đã tình cờ gặp nhau trong một Hội nghị Văn hóa và như một sự sắp đặt của

định mệnh, của số phận, cả hai đều có nốt ruồi giống như đặt khuôn trên mu bàn

tay phải. Sau sự ngẫu nhiên tình cờ ấy, họ bị hút vào nhau như hai cực của một

nam châm. Rồi bất chấp hoàn cảnh, anh đã lặn lội cả ngàn cây số đi tìm cô trong

những ngày tháng sáu trời nắng đổ lửa. Và chỉ đủ thời gian trao cô nụ hôn cháy

bỏng, anh phải vội vã theo đoàn trở về. Thời gian xa cách với người đang yêu

thật khủng khiếp, sau bao ngày mong nhớ, họ đã có ba ngày dành trọn vẹn cho

nhau. Ba ngày nhưng họ đã yêu bằng tình yêu, nỗi nhớ thương của cả một đời.

Ba ngày ấy thời gian được tình bằng giây, bằng khắc. Vì thế ngay cả khi kề sát

bên nhau, tận hưởng hạnh phúc ngọt ngào, họ vẫn không bớt đi được nỗi khao

khát, mong nhớ cháy bỏng của những ngày tháng xa cách Thậm chí nỗi khao

khát nhớ thương như đầy thêm, chứa chất, không hề vơi đi sau những khoảnh

khắc chung sống. Sau khoảng thời gian chờ đợi đến cháy lòng, tình yêu của họ

được tính bằng đơn vị bỏng cháy của con tim. Nó mãnh liệt, đắm say nhưng

cũng hối hả, vội vã, họ đã sống cho nhau đến tận cùng để mãi mãi xa nhau.

Hoàn cảnh chớ trêu đã không cho phép họ kéo dài mối tình ấy, anh đã có gia

đình, có con trai. Vì thế, sau ba ngày sống trọn vẹn cho nhau, tận hưởng hạnh

phúc của một đời người, cô đã quyết định chấm dứt mối tình vô vọng ấy, cho

dẫu sẽ đau khổ đến tận cùng.

Nhìn chung những tác phẩm viết về tình yêu trong sáng tác của Đoàn Lê

đều có sắc thái bi kịch. Nạn nhân của những tấn bi kịch này hầu hết là phụ nữ,

họ thường bị tổn thương nhiều hơn, và trái tim cũng da diết, khắc khoải hơn.

Trong mỗi nhân vật nữ, dường như đều có dáng dấp tình yêu của chính tác giả.

Vì thế, nỗi đau tinh thần của họ thường chân thực gợi sự đồng cảm cho lòng

người. Dẫu biết yêu là sẽ thương nhớ, khổ đau nhưng họ vẫn nguyện được sống 35

và chết cho tình yêu của mình. Và tình yêu nhiều khi là cứu cánh, là động lực

thúc đẩy họ, nâng đỡ tâm hồn họ trong cuộc sống. Qua những câu chuyện tình

ấy nhà văn như muốn gửi gắm những thông điệp tình yêu: hãy cứ chân thành

mạnh dạn thổ lộ lời yêu, và hãy chân thành rất mực với lòng mình. Tình yêu

không dành riêng cho một người nào, đối tượng nào mà dành cho tất cả mọi

người. Bạn hãy thử tưởng tượng xem cuộc sống của mọi người trên trái đất này

sẽ buồn tẻ biết bao nếu thiếu đi tình yêu. Bởi vậy cho dẫu là tình yêu đơn

phương, tình yêu sét đánh hay tình yêu tan vỡ chia lìa thì những nhân vật của

Đoàn Lê vẫn khao khát được yêu và cả đời sống với tình yêu ấy. Điều đó làm

nên nét phong cách đặc biệt của Đoàn Lê góp phần làm phong phú một chủ đề

quan trọng của văn học đương đại.

Trong truyện ngắn Đoàn Lê, bên cạnh bi kịch tình yêu Đoàn Lê còn đề

cập đến một loại bi kịch nữa khá phổ biến trong các gia đình Việt Nam hiện đại

đó là bi kịch hôn nhân gia đình.

3.1.2.3 Bi kịch hôn nhân gia đình.

Xã hội càng hiện đại đời sống vật chất càng đủ đầy, thừa thãi, người ta

càng chú ý nhiều hơn đến cái tôi cá nhân, nhất là những nhu cầu giao lưu trao

đổi tâm tình. Điều đó khiến không gian gia đình trở nên quá tù túng chật chội,

không đủ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi thành viên.

Vì thế họ thường tìm đến một không gian khác rộng dãi thoáng đãng hơn, ấy là

không gian xã hội với những cuộc du hý, dã ngoại. Được giao lưu, mở rộng tâm

hồn, mở rộng tầm hiểu biết là mong muốn của tất cả mọi người, nhưng quá

phóng túng, mải mê theo đuổi những đam mê dục vọng ích kỷ của bản thân mà

lãng quên trách nhiệm với gia đình thì thật đáng sợ. Tổ ấm gia đình vốn là cái

nôi bảo tồn gìn giữ tất cả những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hiến một

dân tộc. Bởi thế đã là một gia đình được pháp luật thừa nhận thì các thành viên

trong gia đình đều phải nỗ lực bảo vệ và gìn giữ nó. Không nên đặt lợi ích cá

nhân mình lên quá cao mà bất chấp tất cả. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu của

con người ngày càng cao kéo theo ngày càng nhiều những mâu thuẫn bất đồng

trong gia đình. Sau một thời gian chung sống một trong hai người bỗng nhận ra

rất nhiều khuyết điểm ở nửa kia của mình- điều mà trước đây khi yêu, họ không

hề nhìn thấy. Lại thêm trong quá trình giao tiếp ngoài gia đình, họ lại phát hiện

rất nhiều điểm tốt, điểm đáng yêu của người khác-người giúp khỏa lấp những 36

trống trải tâm hồn họ- điều mà họ không thể tìm thấy ở người bạn đời của mình.

Đó chính là nguyên nhân gây nên sự đổ vỡ của những cuộc hôn nhân. Ngoài ra

mâu thuẫn giữa lối sống của các thế hệ sống chung khác nhau về quan điểm

cũng là một bi kịch. Vấn đề này được các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận

như một vấn đề bức xúc của xã hội. Họ đã dùng tác phẩm của mình như một

cách để chia sẻ với xã hội những vấn đề đó. Vì thế vấn đề gia đình hiện đại trở

thành một đề tài lớn trong văn học thời kỳ đổi mới.

Là một người phụ nữ đã từng trải qua rất nhiều giông bão trong cuộc sống

gia đình, Đoàn Lê thấu hiểu hơn ai hết những bi kịch gia đình hiện đại. Kết thúc

của những bi kịch gia đình, người luôn nhận lấy những đau khổ thiệt thòi chính

là người phụ nữ. Họ thường không có cách gì gượng dậy được sau sự mất mát

quá lớn ấy. Bởi với người phụ nữ ngay cả trong xã hội hiện đại thì gia đình là tất

cả. Họ đã dành trọn niềm tin, sự tận tụy cho gia đình, gia đình là điểm tựa nâng

đỡ cuộc đời họ. Bởi vậy với họ mất gia đình là mất tất cả. Đó là bi kịch cuộc đời

nhân vật “Hồn ma thiếu nữ” ở “Trái táo nham nhở”. “Hồn ma thiếu nữ” là nhân

vật duy nhất trong cuộc đời diễn viên mà chị thủ vai năm 17 tuổi, rồi chuyển

sang làm người nhắc vở cho đoàn. Cũng dạo đó chị đã quen và yêu anh – diễn

viên nam số một của đoàn - người tiếng tăm nổi như cồn. Vì thế chị chỉ vụng

trộm yêu anh bằng tất cả sự tôn thờ. Với chị anh quá cao vời kiểu như một thần

tượng nên chị chỉ dám nhìn lén và âm thầm tương tư anh. Nhưng khi anh đứng

sát màn nhung, chị không thể ngăn được mình khẽ áp nhẹ cánh tay vào thân thể

anh, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ biến chị thành miếng bọt biển thấm đầm hơi thở,

tiếng nói của con người mà chị khao khát. Chị cứ lẳng lặng yêu anh như thế và

không bao giờ dám mơ tưởng một ngày nào đó anh sẽ thuộc về chị. Thế mà một

điều tưởng không thể xảy ra ấy lại diễn ra. Sau khi cưới nhau, cả anh và chị đều

rời bỏ sân khấu: chị chọn một công việc thích hợp với mình, anh chuyển sang

nghề sáng tác kịch. Họ đã sống chung được hai mươi năm, suốt hai mươi năm

ấy, chị đã yêu anh bằng tất cả sự tận tụy, trung thành mà không một lời kêu ca

oán thán. Chị quan tâm chăm sóc anh bằng tất cả tình yêu với thần tượng, nhưng

lại luôn có cảm giác chưa lúc nào vươn tới anh, nắm giữ được anh. Với chị, anh

cao vời quá nên chị luôn sống trong sự phấp phỏng lo sợ, luôn thiếu tự tin vào

bản thân mình và luôn nhạy cảm với bất kỳ điều gì liên quan đến hạnh phúc. Chị

luôn kiềm chế mình, chiều chuộng anh hết mức, đông viên anh đi thực tế mỗi 37

khi thấy vẻ thẫn thờ âm thầm hiện rõ trên gương mặt anh. Sau những chuyến đi

thực tế trở về, anh đối xử với chị dịu dàng hơn, đằm thắm hơn đến mức chị thấy

xao xuyến, ngỡ ngàng. Vậy mà chị vẫn không mảy may nghi nghờ, vẫn cúc

cung tận tụy, vẫn bớt xén các khoản chi tiêu, thậm chí vay mượn tiền để anh đi

thực tế giải tỏa những ức chế trong lòng. Những lúc anh xa nhà chị mất ngủ từng

đêm, thao thức, nhớ mong chờ đợi ngày anh trở về, tôn thờ tất cả những gì thuộc

về anh. Cũng có lúc chị ao ước được sống cuộc sống của vợ chồng người thuyền

chài, quanh năm cùng nhau trên mặt nước với chiếc thuyền nhỏ, không biết đến

nhớ mong chờ đợi là gì. Một điều tưởng chừng đơn giản thế mà chị cũng không

thể có được.

Sau một lần đi thực tế Lai Châu anh mang về không phải là những tấm

ảnh chụp sông núi mà một tấm ảnh chụp bãi biển với những phiến đá kín đáo

hòa với cảnh hoàng hôn mờ nhạt trên những ngọn sóng cồn cào. Nhất là khi gặp

ánh mắt anh đăm đắm nhìn như lạc hút vào góc biển hoang vu, chị linh cảm thấy

một điều gì khác thường ở anh. Nhưng chị cũng không dám hỏi, chỉ lặng lẽ tìm

cách thủ tiêu tấm ảnh đó. Bao lần đi đường thấy anh mải ngắm một tấm lưng

thon thả trước mặt hoặc lẽo đẽo theo vết bánh xe của chiếc áo hồng duyên dáng,

chị không nổi trận lôi đình giận dỗi mà chỉ tìm cách tách anh ra khỏi họ. Không

phải là chị không biết ghen, thậm chí chị còn ghen dữ dội nhưng không muốn để

anh mất mặt.

Một lần khác khi vợ chồng chị đón một người bạn – nữ tác giả đang nổi

tiếng ở miền Trung, chị ta nói giọng Huế nhẹ nhàng thỏ thẻ. Trong bốn ngày chị

ở lại nhà “ánh mắt đắm say tôn thờ của anh ấy hướng về chị ta mỗi lúc càng rực

lên anh ngồi như bị thôn niên trước chị”. Bắt gặp chồng trong trạng thái ấy, tim

chị nhói đau, buốt sót. Nằm bên anh chị không dám trở mình, chỉ âm thầm lặng

lẽ khóc. Đó là những giọt nước mắt ghen tuông tủi hờn bởi ngay cả hồi chưa

cưới nhau chị cũng chẳng được anh nhìn ngắm nồng nàn đắm say đến vậy.

Nhưng chị vẫn âm thầm chịu đựng, chị đã quá yêu anh nên đã tìm mọi cách che

chắn cho cái tổ ấm quá lỏng lẻo của mình. Chị sợ một sự đổ vỡ, sợ mất anh như

sợ mất một báu vật. Dường như chị đã yêu anh một cách điên cuồng mù quáng,

luôn muốn giữ anh cho riêng mình mà không hề biết anh cần gì, nghĩ gì, trái tim

anh đang thổn thức vì ai? Chị yêu anh gần như tình yêu của một con chiên với

chúa. Nói đúng hơn đó là thứ nô lệ của tình yêu. Chị tránh cho anh mọi sự va 38

đập với cuộc sống, sẵn sàng vắt kiệt sức mình để tạo cho anh những niềm vui.

Nhưng dường như sự tận tụy, hy sinh của chị cũng chẳng khiến anh thỏa lòng.

Suốt ngày anh ngậm tăm tư lự, chán ngồi lỳ bên bàn viết viết lách lách anh lại

xách xe ra đi từ sáng sớm đến tối thật khuya mới về ngủ khi người đã say đứ

đừ… Đó là trạng thái tinh thần của anh khi lâu lâu không đi thực tế do cuộc

sống khó khăn. Nhìn những bứt dứt khổ sở của anh chị thấy khổ tâm vô cùng,

cảm giác mình đã có lỗi gì đó với anh. Hôm sau chị quyết định nhận tăng sáu

chục vải vụn, cắm cúi nhặt suốt đêm, chong đèn đến tận sáng, đến mức kiệt sức

chị ngã lăn ra đất để kiếm tiền cho anh đi thực tế. Để anh vui, chị chấp nhận hy

sinh tất cả, bỏ qua cả sức khỏe,cả tuổi xuân, tận tâm, tận lực vì anh. Nhưng

dường như chị chưa bao giờ thật sự hiểu anh, chị yêu anh, cần anh như cần

không khí để thở. Chính vì tôn thờ anh như tôn thờ một thần tượng, một vị thánh

mà chị sẵn sàng bỏ qua mọi khiếm khuyết, sai lầm ở anh, bỏ qua những ánh mắt

thẫn thờ của anh khi nhìn những người phụ nữ khác. Và vì vậy chị mất luôn sự

tinh tế nhạy cảm của người vợ trước sự đổi thay của chồng. Chị không bao giờ

chất vấn anh sau những chuyến đi thực tế xa nhà, tuyệt đối tin tưởng ở anh. Chị

đón nhận tình cảm của anh như đón nhận sự ban phước lành từ vị chúa của lòng

mình. Vì những lẽ đó bi kịch cuộc đời chị đã xảy ra.

Sau lần thức thâu đêm nhặt vải vụn đến ngã gục để kiếm tiền cho anh đi

thực tế, chị mới chết lịm đi khi đón nhận một sự thực phũ phàng. Nhận lá thư

thú tội của anh, chị thấy choáng váng như tiếng sét rơi xuống đầu. Trong suốt

mấy ngày liền chị khóc lóc, đau đớn, nghi hoặc. Chị đã đọc lá thư hàng trăm lần,

cố tìm những ý nghĩ bên ngoài chữ nghĩa đã thuộc làu. Suốt hai mươi năm, chị

đã tận tụy hi sinh đến điên cuồng cả tuổi xuân và sức trẻ cho anh ta để bị dối trá

lừa lọc. Chị đã bị đánh cắp tình yêu, đánh cắp tuổi xuân và đánh cắp cả đời

người. Những lời lẽ trong bức thư như hàng nghìn mũi kim đâm vào tim chị, chị

đau đớn ngây dại nhưng vẫn cố xoa dịu mình rằng anh ấy bị khủng hoảng tinh

thần, những lời lẽ trong bức thư kia là anh viết trong lúc hoang tưởng tâm thần.

Vài ngày sau khi đã bình tĩnh trở lại, chị ngẫm nghĩ suy xét và hiểu ra rằng anh

ta hoàn toàn lành mạnh, tỉnh táo. Thậm chí khi dám viết những dòng chữ ấy, anh

ta đang sống trong những giây phút thánh thiện, sòng phẳng, tử tế nhất. Sau bao

nhiêu năm sống trong sự lừa dối, sau bao nhiêu năm phải “đeo mặt nạ” tận

39

hưởng tình yêu và cả sự hi sinh điên cuồng của chị, giờ anh ta mới được sống

những giây phút là mình.

Về phía anh ta, chắc hẳn khi phải sống với một người phụ nữ không yêu

cũng khiến anh ta khổ tâm lắm. Cuộc sống ấy đúng là một địa ngục, một sự cầm

tù trói buộc anh và chị suốt hai mươi năm. Thực ra khi đón nhận tình yêu và cả

sự hy sinh tận tụy của chị, lòng anh cũng chẳng nhẹ nhàng sung sướng gì. Đã

bao lần anh tự khinh bỉ mình vì đã đánh cắp tình yêu của chị, anh đã trả thù cái

vòng tù ngục trói buộc của hôn nhân bằng những chuyến đi thực tế để tìm kiếm

bất cứ một người phụ nữ dịu hiền nào có thể sẻ chia những bức bối trong tâm

hồn anh. Sau những chuyến đi ấy, anh không khỏi hối hận, day dứt, thậm chí

ghê tởm mình và càng ý thức được món nợ phải trả cho chị. Anh đã cố sức, bù

đắp cho chị nhưng “cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể

cố gắng yêu”. Anh đã bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối trá, anh không thể tiếp

tục được nữa và tất nhiên điều gì phải đến đã đến như một quy luật tất yếu. Anh

đã mạnh dạn “tháo cũi sổ lồng” dứt khoát lìa xa chi, dẫu hiện thực có tàn nhẫn

với chị nhưng anh còn được xứng đáng là con người, chấm dứt quãng đời gian

dối, tội lỗi để lòng được thanh thản.

Còn chị, sau hai mươi năm chung sống, đây là lần đầu tiên chị bình tĩnh

xét lại mình, đánh gía nhìn nhận đúng về anh từ chân tơ kẽ tóc: “anh tưởng

mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá đắt

bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong muôn vàn những kẻ

tầm thường, một thứ giẻ rách”. Đây là lúc thần tượng sụp đổ, chị đau đớn, sót

xa cho mình, căm giận kẻ đã dối lừa, đã đánh cắp cả tình yêu, cả tuổi xuân của

chị trong ngần ấy năm. Chị quyết định trả thù kẻ bỡn cợt tình yêu của mình bằng

việc thử làm một người đàn bà dịu hiền. Từ trước đến giờ chị chưa dịu hiền

trong mắt anh ta vì chưa có nhu cầu ấy và cũng lầm tưởng rằng anh ta cũng chân

thành như chị. Chị quyết định tìm đến người đàn ông yêu mình từ thủa thiếu nữ,

con người này mới thực sự xứng đáng hưởng sự hy sinh tận tụy của chị. Đến tận

bây giờ mà anh ấy vẫn sống độc thân như muốn níu lấy một hy vọng mong

manh có ngày được chị đền đáp. Chị đã gục vào ngực anh khóc tức tưởi, kể lể

những uất ức của mình và nhận lấy những lời an ủi ở anh. Dẫu đôi mắt anh ngập

đầy sự thương cảm, dẫu thân thể của hai người đang kề tựa nhau chẳng chút giữ

ý thì họ vẫn chỉ như hai kẻ đồng hành bất hạnh nâng đỡ, dắt díu nhau giữa cơn 40

giông bão. Cuộc trả đũa của chị đã kết thúc thê thảm, chị thừa nhận một chân lý

“đúng thế cái gì cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể cố gắng yêu” Chị

đau đớn nhận ra rằng: suốt đời chị sẽ chỉ là một hồn ma thiếu nữ ám ảnh bá tước

Ki-ren-ski về mối hận tình thôi. Dù anh ta chỉ là kẻ tầm thường nhất trong vô

vàn kẻ tầm thường, một thứ giẻ rách, thì chị cũng chưa bao giờ chiếm nổi anh,

chinh phục anh. Sai lầm lớn nhất của cuộc đời chị là đã dùng sức lực, tuổi xuân

của hơn nửa đời người cúc cung phụng sự cho một kẻ không yêu chị, còn người

một lòng chân thành yêu chị thì chị lại không yêu. Đến khi chị nhận ra một sự

thật đau lòng thì hơn một nửa đời người đã trôi qua. Chị đã phải trả một cái giá

quá đắt cho tình yêu mù quáng của mình. Ở cái tuổi của chị không ai người ta

còn nghĩ tới việc sẽ làm lại từ đầu nữa. Chị đã mất tất cả: gia đình, tuổi xuân,

sức lực… Đau đớn hơn nữa là khi chị tự vấn lương tâm, suy xét cho công bằng:

không biết anh đánh cắp cuộc đời chị hay ngược lại chị đã đánh cắp cuộc đời

anh? Phải chăng nhân danh tình yêu, chị đã giam chặt anh, chiếm hữu anh thành

tài sản riêng, tước đoạt của anh tất cả niềm vui sống hồn nhiên nhất?

Ngần ấy căn nguyên đã đủ để phá vỡ một gia đình nhìn bề ngoài bình

lặng, yên ấm chưa? Thiết nghĩ là quá đủ! Đổ vỡ, chia ly bao giờ cũng buồn đau,

tiếc nuối, xót xa. Xã hội hiện đại, nền tảng gia đình bền vững càng cần thiết cho

mỗi người. Đó không chỉ là tổ ấm che mưa, che nắng cho mỗi cuộc đời mà quan

trọng hơn nó còn là điểm tựa để ru vỗ tâm hồn con người mỗi khi gặp sóng gió

trong công việc và cuộc sống. Nhưng xã hội càng văn minh, hiện đại thì con

người càng gặp những vấn đề rắc rối trong hôn nhân. Khi mà chủ nghĩa cá nhân

được đặt ở vị trí quá cao, khi mà những cám dỗ trong cuộc sống ngày càng

nhiều, khi mà tình thương trách nhiệm, sự bao dung, độ lượng, hy sinh vì nhau

ngày càng ít đi thì hôn nhân ngày càng bị đẩy tới bờ vực của sự tan vỡ. Hơn nữa

tình yêu hiện đaị với đầy những toan tính, cùng với sự gặp gỡ chóng vánh dựa

trên sự mua bán, đổi trác cũng là căn nguyên của những cuộc hôn nhân không

bền vững. Từ những căn nguyên đó, Đoàn Lê như muốn gửi đến mỗi chúng ta

những thông điệp về tình yêu, hôn nhân- gia đình. Nền tảng của hôn nhân bền

vững chính là tình yêu chân thành, là sự rung động thật sự từ hai tâm hồn, sẽ

không thể có hạnh phúc thực sự nếu phá vỡ nguyên tắc đó. Bởi vậy khi nào cả

hai đều thấy không thể sống thiếu nhau hãy nghĩ đến hôn nhân, lúc đó tình yêu

sẽ thực sự được chắp cánh, thăng hoa. Và khi đã quyết định cả đời gắn bó, hãy 41

biết sống vì nhau, biết chịu trách nhiệm, biết hy sinh, chấp nhận cả những điểm

mạnh, điểm yếu, những ưu nhược điểm của nhau để cùng nhau vun đắp cho tổ

ấm của mình ngày càng bền vững. Làm được như thế, xã hội ngày càng bớt đi

những nỗi đau, những bi kịch và cũng sẽ chẳng bao giờ phải hối tiếc, trả giá như

anh và chị. Họ đã giam giữ,cầm cố nhau đến hơn nửa cuộc đời, hơn nửa cuộc

đời sống trong dối lừa mới nhận ra họ đã “yêu nhầm” và chưa bao giờ họ thực

sự là của nhau. Thế là tất cả đều quá muộn, họ không thể bắt đầu lại ở cái tuổi

ấy. Họ đành chấp nhận hạnh phúc của mình là “Trái táo nham nhở”. Dư vị của

sự hối tiếc, sót xa qua những trang viết của Đoàn Lê về bi kịch hôn nhân gia

đình thật thấm thía sâu sắc.

Không chỉ trong vai trò một khách thể quan sát ghi chép lại, Đoàn Lê viết

về bi kịch gia đình bằng tất cả sự trải nghiệm lẫn nỗi đau của một người phụ nữ

đã từng gặp nhiều sóng gió trong cuộc đời riêng. Bởi thế những trang viết của bà

không chỉ có chất sống thực tế mà còn có khả năng gợi những rung động lan tỏa

cho lòng người. Có lẽ vì thế các nhân vật nữ trong những cuộc hôn nhân tan vỡ

của Đoàn Lê luôn là nhân vật “tôi”. Phải chăng họ đều ít nhiều mang bóng dáng

tác giả.

Cuộc sống hôn nhân gia đình vì bất cứ lý do gì mà tan vỡ, dù nguyên

nhân tại ai thì Đoàn Lê vẫn dứt khoát đứng về phía người phụ nữ, đồng cảm sẻ

chia, bênh vực họ. Bởi người chịu tổn thương nhiều hơn, đau đớn dai dẳng hơn

và cũng chịu thiệt thòi nhiều hơn chính là người phụ nữ. Cho dẫu trong xã hội

hiện đại người phụ nữ được giải phóng, họ được tự do tham gia các hoạt động

xã hội, được trong dụng, có vị trí không thua gì người đàn ông ở bất cứ nơi đâu

trong các cơ quan, các tổ chức Đảng phái thì họ vẫn thuộc phái yếu vẫn dễ bị tổn

thương, vẫn chịu thua thiệt mọi bề. Nếu sau mỗi cuộc đổ vỡ chia ly của gia đình

người đàn ông sẽ nhanh chóng tìm được sự khỏa lấp thay thế hoặc họ đã tìm

ngay từ khi còn đang sống chung với người vợ hợp pháp của mình thì người

phụ nữ hầu hết lại ở vậy, chịu sự dày vò của những ký ức buồn thương. Giả định

họ có muốn bắt đầu lại thì cũng khó có thể vượt qua được dư luận với những

định kiến khắt khe nặng nề của xã hội. Với họ những tổn thương nặng nề của

những cuộc hôn nhân trước luôn đeo bám, ám ảnh họ, gây tâm lý sợ sệt mất tự

tin vào bản thân, thiếu niềm tin vào hôn nhân. Nếu có ai đủ bản lĩnh để làm lại

từ đầu thì nửa đời sau của họ cũng chẳng có gì là hạnh phúc. Chị- nhân vật “tôi” 42

(Giường đôi xóm Chùa) đã rơi vào bi kịch như thể. Chị được anh dắt về nhà từ

một đêm huyền hoặc cổ tích. Họ đã nắm tay nhau đi bộ hơn hai mươi cây số từ

địa điểm sơ tán về, rồi anh trao chị cái hôn bỏng cháy bị kìm nén sau bao ngày

tháng… Họ đã có hai mươi tám năm chung sống, hai mươi tám năm tưởng đã

quá dài, quá đủ cho những thử thách vững bền của một cuộc hôn nhân. Giờ họ

đã có con cháu đủ đầy. Ở cái tuổi đã lên ông lên bà ấy, có ai nghĩ rằng họ sẽ chia

tay. Thế mà đùng một cái, sau chuyến đi công tác tình cờ gặp cô ấy, anh đã nói

lời chia tay với chị. “Em thể tất cho anh. Em thuộc con người của những hoạt

động xã hội. Anh lại cần một tình yêu tầm thường thôi, một người để làm vợ

theo nghĩa thông tục nhất”. Một lý do thật vớ vẩn nhưng cũng thật khó mà bào

chữa, bởi đó chính là yếu điểm của chị. Sau giây phút bàng hoàng ấy, chị bình

tĩnh lại, thấy thương anh, thương mình. Sau gần ba mươi năm rã rời vì cuộc

sống mưu sinh, tình cảm của họ đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền không thể

vá víu được nữa, chị chấp nhận giải phóng cho anh. Vì chị biết mọi thứ đều có

thể cố gắng nhưng người ta không thể cố gắng yêu và “một người đàn bà tự

trọng phải biết rút lui đúng lúc”. Biết đâu hai mươi tám năm chung sống với

anh chẳng là một sự lưu đày? Vậy thì chị không thể ích kỷ mà giữ mãi anh bên

mình khi tình yêu của anh không còn nữa. Dù biết rằng chị đã quen có anh như

quen có không khí để thở, có nước để uống, giờ vắng anh chị sẽ rất buồn khổ,

trống trải. Gần ba mươi năm sống bên nhau như hình với bóng, chị quen cả

những lúc hình bóng co kéo vật vã để giữ cho tổ ấm đứng vững trước sóng gió

muôn mặt của cuộc sống đời thường. Ba mươi năm dù vui ít buồn nhiều thì anh

chị cũng sắp đi trọn cuộc đời. Vậy mà trong tích tắc tất cả chấm dứt, tất cả sụp

đổ trong lặng lẽ. Chiếc giường kỷ niệm của hai người giờ đã phải chứa thêm

người thứ ba nên độ bức bối đã chuyển thành giông bão không thể chịu đựng

được. Sau nửa năm cân nhắc chị quyết định chia tay, dù căn bệnh quái ác khiến

chị không còn sống được bao lâu. Phải chăng chị đã quá mệt mỏi, rã rời vì cuộc

sống chung? Hay chị nghĩ mình đã không hoàn thành bổn phận, trách nhiệm của

một người vợ bình thường, không đủ sức “giữ lửa” cho tổ ấm để anh phải tìm

một người phụ nữ khác? Những lý do ấy với chị có lẽ đều đúng cả. Anh và chị

đã để phí quá nhiều thời gian, họ đã bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt sức lực.

Theo năm tháng chung sống, tình yêu của họ không được thường xuyên “làm

mới” nên nhạt phai dần và rơi vào sự nhàm chán. Gần cuối đời cả hai đều mệt 43

mỏi, rệu rã, anh gặp được người phụ nữ có thể xoa dịu những khoảng trống

trong lòng mình. Thế là họ chia tay. Anh đã đánh đổi tất cả, bất chấp tất cả, hủy

hoại tất cả để được sống với người phụ nữ ba con bị chồng bỏ kia. Biết đâu đây

chẳng là một quyết định vội vã, sai lầm nhất cuộc đời anh? Phải chăng anh đã

quá ích kỷ và nhẫn tâm? Từ bi kịch cuộc hôn nhân của anh chị, một cuộc hôn

nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà vẫn tan vỡ, Đoàn Lê muốn gửi đến

chúng ta một thông điệp về hôn nhân hạnh phúc. Hôn nhân hạnh phúc rất cần

được xây dựng trên cơ sở tình yêu. Tình yêu chính là chất keo gắn kết hôn nhân

gia đình. Nhưng tình yêu ấy luôn phải được hai người nuôi dưỡng, vun trồng

cho nảy nở, sinh sôi. Dù cuộc sống mưu sinh có khó khăn khắc nghiệt đến đâu,

mỗi người đều cần cố gắng nuôi dưỡng tình yêu, làm mới tình yêu, thêm gia vị

cho tình yêu để hạnh phúc được bền chặt. Đừng để cuộc sống gia đình thành

nhàm tẻ, buồn chán và thành gánh nặng, thành cái ách trói buộc nhau.

Tình yêu đi liền với tình thương và sự bao dung độ lượng. Yêu nhau là

chấp nhận cả những khiếm khuyết của nhau, cùng sẻ chia mọi niềm vui nỗi buồn

với nhau, giúp nhau hoàn thiện hơn về mọi mặt. Có như thế hạnh phúc gia đình

mới bền chặt. Đó chính là triết lý về tình yêu, hạnh phúc mà Đoàn Lê muốn gửi

đến mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn Ngôi nhà gỗ. Những ngày đầu sống với

nhau, anh và chị đã có một cuộc hôn nhân thật hạnh phúc trong ngôi nhà gỗ ở

quê anh. Họ đã có quãng đời bên nhau thật êm đềm , hạnh phúc. Thế rồi đùng

một cái, anh đi vắng một mạch gần hai tháng không về. Chị cũng chẳng biết anh

đang mải lang thang ở đình chùa nào, sơn cùng thủy tận ở đâu. Anh cũng như

công tác nghiên cứu Hán- Nôm của anh- cả hai với chị đều bí hiểm như những

con chữ tượng hình, vạch ngang vạch dọc, mê đồ, bát quái. Còn chị, chị chúi

đầu vào sơn màu, bút vẽ, làm tranh, vẽ bưu thiếp. Có lẽ chưa bao giờ họ thực sự

hiểu nhau, sẻ chia công việc với nhau. Chị nhận ra cuộc sống của hai người

giống như hai mảnh vỏ tầu ghép khập khiễng, người ta phát hiện điều đó giữa

lúc con tàu đang lênh đênh giữa biển. Và tất yếu chỉ cần một cơn bão nhỏ là con

tàu đã vỡ tan hoang mỗi mảnh mỗi nơi. Anh thường xuyên chia sẻ công việc với

cô bạn cơ quan, còn chị cũng hay vơ vẩn nghĩ đến anh họa sỹ độc thân, cận thị

luôn ân cần chăm sóc chị. Khi cả hai không còn là số một, là duy nhất của nhau,

cả hai không còn sức hấp dẫn với nhau thì sự đổ vỡ là điều không thể tránh khỏi.

44

Thế đấy chỉ vì một lý do tưởng đơn giản vu vơ, họ đã chia tay nhau mãi

mãi. Cả hai đều quá ích kỷ, đều quá đề cao chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng

hôn nhân thì sự đổ vỡ là điều không thể tránh. Giá mà họ chịu để thời gian tìm

hiểu nhau, sẻ chia với nhau mọi niềm vui, nỗi buồn trong công việc và cuộc

sống thì họ đã chẳng có một kết thúc đáng buồn như vậy. Kết thúc ấy sẽ đến với

bất cứ gia đình nào không biết quý trọng hôn nhân và coi hôn nhân là trò đùa.

Phải chăng đó chính là thông điệp mà Đoàn Lê muốn gửi gắm đến người đọc

qua mỗi trang viết của mình.

Ngoài bi kịch hôn nhân, trong truyện ngắn của Đoàn Lê còn một loại bi

kịch nữa, đó là bi kịch gia đình. Bi kịch của một bà mẹ có đứa con là kẻ sát nhân

và bi kịch của một bà mẹ có con bị kẻ sát nhân giết hại ở Hai bà mẹ và tôi. Cả

hai bà mẹ đều mang nặng đẻ đau, nuôi con bằng dòng sữa ngọt ngào cùng tất cả

tình yêu thương và sự cặm cụi khó nhọc. Thật là bất hạnh, bà mẹ áo tím đã sinh

ra giống ác quỷ phi nhân tính. Thấy bạn có tiền sau chuyến đi xuất khẩu lao

động ở Đức về, kẻ bất nhân đã rủ rê bạn đến nhà riêng để hạ thủ. Vì món đô la

ấy mà hắn đã ra tay vô cùng dã man, tàn bạo: giết bạn rồi chặt chân, mổ

bụng…Bà mẹ kẻ sát nhân đã đau đớn, khổ sở, vò xé tâm can, không hiểu sao bà

lại sinh ra giống dã man khủng khiếp như vậy. Giá như biết trước lớn lên nó bất

nhân đến vậy, bà đã để nó chết ngay từ khi còn trong trứng nước. Hiện tại lòng

bà đau đớn, xấu hổ hơn cả bà mẹ mất con kia. Tội ác của con bà còn đeo bám,

ám ảnh bà hết kiếp này sang kiếp khác.

Bà mẹ áo trắng có đứa con ngoan bị giết thì đau đớn, căm phẫn. Thằng cả

là đứa con hiếu thảo, có trách nhiệm và là niềm hy vọng của cả gia đình bà.

Trong bốn năm lao động bên Đức, nó không hề chơi bời tiêu phí một xu, cốt

dành dụm chút tiền đỡ bố mẹ chăm lo cho các em và cải thiện cuộc sống gia

đình. Ngờ đâu nó lại bị thằng bạn thân, tối mắt vì tiền, sát hại dã man đến vậy.

Cái chết của nó đã để lại nỗi đau tiếc vô hạn trong lòng những người thân, nhất

là người mẹ đã dứt ruột sinh ra nó.

Bi kịch của hai bà mẹ là bi kịch của hai người phụ nữ cùng chung nỗi đau

mất con. Một người có con là kẻ sát nhân bất lương phải chịu án tử hình cùng

bia miệng của người đời thì đau đớn xấu hổ như muốn chôn vùi cả hình hài. Còn

một người có đứa con ngoan bị giết thì điếng lặng như đứt từng khúc ruột. Hai

bà mẹ, hai cảnh ngộ đối lập nhưng một nỗi đau. Vì đâu có cảnh ngộ oan nghiệt 45

đó? Phải chăng là vì những đồng đô la đầy cám giỗ kia? Đúng, nó chính là thủ

phạm gây ra cái chết của hai mạng người kia, đến ai nữa đây? “Những xác chết

rồi sẽ rữa ra nhưng nó vẫn tồn tại, tồn tại cả nỗi đau đớn của những bà mẹ có

chung dòng sữa ngọt ngào giống nhau”. Những đồng đô la như những bóng ma

vô hình ám ảnh bao người, cướp đi biết bao nhân mạng. Nếu không có những

đồng đô la kia cho dẫu là từ mồ hôi nước mắt thì cậu đã không bị giết. Và ngược

lại nếu không bị những đồng đô la kia cám giỗ, hắn đã không bị tử hình. Bi kịch

của họ là bi kịch chung của rất nhiều gia đình trong xã hội hiện đại khi mà đồng

tiền có sức mạnh vạn năng, có sức công phá hủy hoại ghê gớm cả những nét

nhân bản đáng quý của con người. Kẻ nào không đủ bản lĩnh, không đủ sức

chống đỡ trước sự cám giỗ ghê gớm của đồng tiền, kẻ ấy sẽ bị nó hủy diệt thảm

khốc. Viết về hiện thực nghiệt ngã này, ngòi bút Đoàn Lê không dửng dưng,

lạnh lùng mà chan chứa lòng trắc ẩn. Dù có hai kẻ phải chết vì tiền nhưng kết

thúc tác phẩm, nhà văn vẫn đặt niềm tin, niềm hy vọng vào con người: “Mỗi đứa

trẻ ra đời đều mang theo tin báo chúa đã không tuyệt vọng về con người”.

Nói tóm lại cảm hứng bi kịch trong những sáng tác của Đoàn Lê không

chỉ khiến người đọc có cảm giác sót xa mà còn đặt ra được những vấn đề suy tư

trăn trở làm day dứt lòng người: vấn đề tình yêu, hôn nhân, gia đình trong xã hội

hiện đại.

3.2. Cảm hứng triết luận.

Văn xuôi thời kỳ đổi mới ngày càng xuất hiện nhiều tác phẩm có tính

chất triết luận sâu sắc. Khi các nhà văn ngày càng nghiêng về những đề tài đời

tư, thế sự thì cảm hứng triết luận ngày càng trở thành cảm hứng chủ đạo. Tác

phẩm của các cây bút nữ thời kỳ này cũng không nằm ngoài xu hướng văn học

đó. Truyện của họ ngoài những triết lý về nhân sinh còn xuất hiện xu hướng tự

nghiệm và những triết lý về tình yêu, hôn nhân, gia đình.

Sáng tác của Đoàn Lê cũng bắt nguồn từ cảm hứng đó, nhưng nét riêng

của bà là lồng vào những câu chuyện dung dị đời thường, những câu chuyện

tưởng như không có truyện những triết lý, ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Sự kết hợp

này góp phần tạo nên một xu hướng mới trong văn học- xu hướng tự nghiệm.

3.2.1. Triết lý về nhân sinh

Những triết lý về nhân sinh trong sáng tác của Đoàn Lê thường không

xuất hiện bằng những khái niệm khô khan, thần bí mà dung dị bàng bạc thể hiện 46

khá rõ quan niệm sống của nhà văn. Truyện của Đoàn Lê dù chỉ xoay quanh

những chủ đề quen thuộc như: tình yêu, hôn nhân, gia đình, cuộc sống của nông

thôn thời mở cửa...nhưng luôn chứa đựng những ý vị triết lý, chiêm nghiệm. Cốt

truyện của bà thường rất đơn giản, gần với đời sống nhưng chứa đựng những ý

vị sâu sắc.

Tình làng nghĩa xóm dù ở cõi sống hay khi đã sang thế giới bên kia với

mỗi người đều quan trọng như dân gian thường nói “Bán anh em xa mua láng

giềng gần”. Đoàn Lê đã thể hiện triết lý ấy thật gần gũi, mang ý vị sâu sắc: “Dù

sống dù chết xung quanh mình có được lân bang láng giềng tử tế là điều đại

phúc” ( Nghĩa địa xóm Chùa). Làng xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn có nhau”,

trong thực tế còn thân tình hơn cả họ mạc xa xôi cả năm cả đời không đi lại với

nhau. Tình làng nghĩa xóm cùng giúp nhau vượt qua mọi hoạn nạn khó khăn,

cùng nhau gìn giữ, xây đắp bản sắc một vùng quê. Triết lý ấy thật giản đơn mà

giầu ý nghĩa.

Những triết lý của Đoàn Lê không khô khan, trừu tượng mà bình dị như

lời nói thường nhưng đằng sau lại ẩn chứa những ý nghĩa lý thú, sâu xa. Nói về

những nỗi đau của nhân loại, Đoàn Lê đã khái quát: “ Mỗi nỗi đau như một giọt

nước hợp thành cả một đại dương mênh mông” (Viên sỏi). Trong đại dương

những nỗi đau của nhân loại có nỗi đau khi mất đi những người thân yêu ruột

thịt như mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, anh mất em. Có nỗi đau nào

hơn thế! Đứng trước biển, “sự hồn hậu của biển có thể xóa dịu những nỗi đau u

uẩn trong tận cùng tâm can con người, điều mà tự con người chẳng thể làm

được”. Có khi chất triết lý bàng bạc trong mỗi trang văn và kết lại trong một lời

than “Ôi cuộc sống tưởng chừng bình lặng…nó chứa đầy những cơn sóng ngầm

dữ dội” (Dấu hỏi gửi thượng đế). Ấy là vẻ bề ngoài của cuộc sống ở khu nhà lão

Đúa bán tạp hóa và cô Huệ gù bán báo dưới gốc sấu già. Họ sống với nhau thật

bình lặng, êm đềm dưới một khu sép ngăn đôi. Bề ngoài tưởng chẳng có gì đáng

nói. Có ai ngờ người đàn bà gù lặng lẽ cố gắng để không phiền ai, cố gắng để ít

ai nhìn ngó đến mình ấy lại có một đời sống tâm hồn phong phú đến vậy, lại yêu

mãnh liệt đến thế. Còn ông lão bán tạp hóa ngày ngày vẫn qua lại bình thản có ai

ngờ lại mang trong mình nỗi đau của cả nhân thế. Hóa ra bên trong cái vẻ ngoài

bình lặng là cả một nội tâm đầy sóng gió. Đoàn Lê muốn khám phá đến tận cùng

cái nội tâm sâu kín kia để hiểu được con người thực của người đàn bà ấy. Đó là 47

một người phụ nữ bình thường như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác,

cô Huệ cũng khát khao tình yêu, khao khát hạnh phúc với mong muốn được làm

vợ, làm mẹ nên cô đã chủ động đến với lão Đúa. Chẳng ngờ, cái con người vẫn

sống bình thản đến vô tư kia lại chẳng thể cho cô Huệ dù một mụn con bởi

những di chứng của chiến tranh. Từ hai kiếp sống ở bên lề cuộc đời ấy, Đoàn Lê

muốn gửi đến chúng ta một triết lý. Mỗi người đều là một thế giới bí ẩn, một

tiểu vũ trụ. Hãy cố mà tìm hiểu họ sẽ phát hiện được rất nhiều điểm thú vị đáng

quý ở họ. Bởi vậy mỗi người hãy sống sâu sắc đến tận cùng sự sống để khám

phá cho hết ý nghĩa đích thực của đời người. Đừng nên chỉ nhìn bề ngoài mà vội

đánh giá kết luận.

Với Đoàn Lê và nhiều nhà văn khác, trẻ em luôn là niềm vui, niềm hy

vọng làm vợi bớt những nỗi đau của nhân thế. Chúng thật ngây thơ trong sáng

như một thiên thần: “Mọi đứa trẻ đều tinh khiết, đều phảng phất giống tiên đồng

ngọc nữ” và “Trẻ thơ chính là những đóa hồng của chúa” Những đứa trẻ thậm

chí cứu vớt được cả những tâm hồn ma quỷ. Thông điệp mà nhà văn muốn gửi

gắm qua triết lý ấy là hãy thương yêu, trìu mến, nâng niu trẻ thơ. Chúng sẽ đem

lại niềm vui, niềm hy vọng cho bạn. Dẫu cuộc sống có tăm tối, nghiệt ngã đến

nhường nào thì nhà văn vẫn không thôi hy vọng vào tương lai. Tương lai được

tạo dựng từ sự ra đời của những đứa trẻ.“Mỗi đứa trẻ ra đời đều mang theo tin

báo Chúa không tuyệt vọng về con người” (Hai bà mẹ và tôi)

3.2.2. Triết lý về tình yêu, hôn nhân

Đối với các cây bút nữ thời kỳ đổi mới, tình yêu là đề tài được sử dụng

nhiều nhất trong các sáng tác của họ. Phải chăng với họ, tình yêu luôn là cứu

cánh tinh thần giúp họ vượt qua những sóng gió trong cuộc đời. Đồng thời các

nhà văn nữ cũng là người am hiểu hơn ai hết bản chất của tình yêu: có ngọt ngào

nhưng cũng lắm đắng cay “trong tình yêu có lúc phải giành lấy cái để gọi như

chơi bạc ấy, được thì phất, hỏng thì thôi nhưng cứ phải cướp cái” (Cát đợi-

Nguyễn Thị Thu Huệ); hay tình yêu giống như “một chiếc bình quý nhất mà

người ta chỉ có một lần trong đời” (Bàn tay lạnh- Võ Thị Hảo).

Trong những câu chuyện viết về tình yêu của Đoàn Lê, phần thanh cao

trong tình yêu bao giờ nhà văn cũng dành cho phái nữ. Bởi họ luôn là người chịu

nhiều đau khổ, thiệt thòi hơn khi những cuộc tình tan vỡ. Và có một điều đáng

trân trọng ở họ là cho dẫu họ bị phản bội thì cuối cùng họ vẫn nghĩ tốt về đối 48

phương, vẫn tìm cách tha thứ cho kẻ phản bội mình. “Đúng thế cái gì người ta

cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể cố gắng yêu” Ấy là một triết lý, một

sự thật đau lòng mà người phụ nữ trong Trái táo nham nhở phải thừa nhận sau

gần hai mươi năm bị đánh cắp tình yêu. Dù vẫn còn rất yêu người đàn ông ấy,

chị vẫn chấp nhận giải thoát cho anh ta, chấp nhận để hạnh phúc của mình như

“Trái táo nham nhở” để giữ được lòng tự trọng. Vì chị hiểu rằng “Một người

đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc” (Giường đôi xóm Chùa). Chị cũng

biết “Một cái giường xét về phương diện thực dụng cũng như đạo đức vốn được

đóng cho hai người nằm, nói rõ hơn cho một người nam cùng một người nữ của

Đấng – Tạo- Hóa. Khi phải chứa đến người thứ ba thì độ bức bối chuyển thành

giông bão không thể chịu đựng được” và “đôi lúc sự tồn tại của người ảo còn

đáng sợ hơn cả người thực”. Ấy là sự tồn tại chập chờn ẩn hiện của người thứ

ba chen vào hạnh phúc của hai người. Sau gần hai mươi tám năm chung sống,

chị biết tình cảm của anh và chi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không thể

vá víu được nữa. Giờ anh lại có người phụ nữ khác ở bên ngoài, người ấy vẫn

đêm đêm hiện hình trên chiếc giường đôi của anh chị, ám ảnh chị làm chị không

thể chịu đựng được. Chị quyết định chia tay, biết đâu “sự dở dang chẳng phải là

một may mắn”. Chị hiểu tình yêu cũng như cuộc đời, cái mất không bao giờ mất

hết, nó luôn đi liền với cái được như hai mặt của một vấn đề. Triết lý về tình

yêu, hôn nhân trong sáng tác của Đoàn Lê nhẹ nhàng nhưng có sức lan thấm sâu

rộng. Triết lý về sự không hòa hợp của hai tâm hồn, nhà văn viết: “ trong hình

hài mỗi con người ẩn chứa cả một tầng địa ngục sâu kín, không có lấy một lối

nhỏ đi vào” (Ngôi nhà gỗ). Vì không hiểu nhau nên không thể sẻ chia, và đó

cũng là đầu mối của những bi kịch tan vỡ không thể cứu vãn được của hôn nhân,

gia đình.

Khi triết lý về tình yêu, hôn nhân, Đoàn Lê tỏ ra là người am hiểu sâu sắc

những cung bậc trạng thái cảm xúc của người đang yêu: có sự nhớ mong đợi

chờ, cũng có lòng ghen tuông thù hận “ Máu ghen vốn tiềm ẩn trong mỗi con

người như một kẻ thù thâm hiểm, tàn bạo, chỉ rình cơ hội chơi khăm ta. Nó

giống loài bạch tuộc, bất ngờ phóng hàng chục cái vòi quấn thít lấy mẩu thịt tội

nghiệp gọi là trái tim, tiêm nọc độc cho lý trí ta tê liệt, duy nhất còn mỗi nỗi đau

đớn khủng khiếp, man rợ, súc vật. Rồi cả ngàn điều nghi ngờ mù lòa xúi giục,

thét gào đòi ta hành động” (Tình Guột). Lời triết lý thật đầy đủ, sâu sắc, khái 49

quát bằng những hình ảnh so sánh gợi nhiều liên tưởng cho lòng người. Ghen là

một dạng biểu hiện của tình yêu. Có yêu thì mới ghen, nhưng ghen một cách mù

quáng thì lại là liều thuốc độc giết chết tình yêu. Đôi khi triết lý lại được thể

hiện qua lời kể bình thản, nhẹ nhàng. Trong tác phẩm Thành hoàng làng xổ số

khi nói đến cuộc sống của những số phận bất hạnh của những cô gái phải dùng

những mánh khóe táo tợn để thu phục đàn ông, nhà văn đã viết: "Trong mỗi

người đàn ông đều có một đứa trẻ đòi bế ãm, nâng niu. Chỉ cần biết dang tay ra,

đứa trẻ sẽ xà ngay vào. Rồi nó sẽ trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn vâng lời". Ấy

là mánh khóe mà ả bán thuốc lá vẫn dùng để moi tiền của những người đàn ông

sa cơ lỡ bước hay những kẻ “ham của lạ”.

Cứ như thế những câu chuyện viết về tình yêu, hôn nhân, gia đình, cuộc

sống của Đoàn Lê thật nhẹ nhàng nhưng đầy triết lý sống. Ai đã từng yêu, từng

có gia đình chắc hẳn đều thấm thía những lời triết lý ấy. Những triết lý ấy chính

là lời nhắc nhở chúng ta cần luôn tỉnh táo trước mỗi hành động. Tình yêu, hôn

nhân, cuộc sống luôn cần sự chân thành, bao dung, thông cảm và sẻ chia lẫn

nhau. Nếu quá lạnh lùng, sòng phẳng, đề cao chủ nghĩa cá nhân tất yếu sẽ dẫn

đến bi kịch. Vậy hãy chân thực rất mực với lòng mình, sống vì mọi người để cho

cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Cảm hứng triết luận đã nâng cao chất tư tưởng

và tính nhân văn cho những truyện ngắn của Đoàn Lê.

50

CHƢƠNG II. THẾ GIỚI NHÂN VẬT

1. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê.

Đặc điểm nhân vật trong giai đoạn văn học trƣớc và sau 1975.

Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật là hình thức

thể hiện quan điểm của nhà văn về con người. “Nhân vật là nơi tập trung mọi giá

trị tư tưởng- nghệ thuật” (Từ điển văn học tập 1). Nhân vật là “công cụ khái quát

hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con

người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng”. Mỗi kiểu nhân vật có tính quy

luật và lô gích của nó. Nhưng nó cũng có những sáng tạo riêng của mỗi nhà văn.

Mỗi giai đoạn văn học đều có những nhân vật đặc trưng. Từ nhân vật mặt

nạ, nhân vật biểu tượng trong thần thoại, truyền thuyết, anh hùng ca…đến nhân

vật tâm lý, nhân vật tính cách, nhân vật tự ý thức trong văn học hiện đại…Tất cả

đều mang trong mình những yếu tố thời đại và ngày càng đa dạng hơn. Nghệ

thuật và các phương thức thể hiện nhân vật cũng năng động hơn. Hệ thống nhân

vật là bề sâu của những quan niệm khác nhau về cuộc sống, con người của từng

tác giả. Vì thế không thể lý giải những đặc trưng nghệ thuật của một tác giả mà

không khảo sát nhân vật và những quan điểm của nhà văn về nó. Nói cách khác,

tìm hiểu nhân vật cũng có nghĩa là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người

của nhà văn.

Trước thời kỳ đổi mới, nhân vật văn học vẫn còn ảnh hưởng của kiểu xây

dựng nhân vật trong văn học truyền thống. Nghĩa là con người luôn luôn gắn với

những vấn đề chính trị- xã hội lớn lao của đất nước, đó là con người chính trị, xã

hội. Văn học thời kỳ này lấy lịch sử làm điểm quy chiếu nên con người bao giờ

cũng được “khoác chiếc áo trùng khít với chính bản thân mình”, con người được

xem như chủ nhân của lịch sử, của ý thức cộng đồng. Trong văn học kháng

chiến, nhân vật văn học luôn có tâm thế của những con người mang trên vai

trọng trách của lịch sử. Họ được gọi tên bằng những danh từ chung như “Chúng

Ta”; “Nhân Dân”; “Đất Nước”…Sự quy chiếu này không có sự phân biệt giữa

thơ ca và văn xuôi, dù là nhân vật trữ tình hay hiện thực đều nằm trong “biên

độ” văn học được giới hạn bởi lịch sử. Vì thế mà nhân vật văn học giai đoạn này

bao giờ cũng là những hình tượng trọn vẹn mang tính tư tưởng.

Văn học từ 1975 đến nay là giai đoạn chuyển biến từ một nền văn học

chịu sự tác động của quy luật chiến tranh sang một nền văn học chịu sự chi phối 51

của quy luật đời thường. Đây chính là giai đoạn chuyển biến từ tư duy sử thi, từ

phạm trù cao cả anh hùng sang tư duy phi sử thi, lối tư duy nghiêng về cuộc

sống đời thường với sự mở rộng các phạm trù thẩm mỹ: cái xấu, cái kệch cỡm,

nghịch dị… Hơn lúc nào hết, truyện ngắn đã khẳng định vai trò chủ yếu của

mình trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực bề bộn của giai đoạn mới với

quan niệm mới về con người. Mười năm đầu sau chiến tranh, văn học tuy vẫn

gắn với truyền thống nhưng đã có sự quan tâm hơn đến con người. Lúc này, văn

học đã bắt đầu xuất hiện những tác phẩm mang cảm hứng nghiêng về con người,

lấy con người làm tâm điểm quy chiếu lịch sử. Nhà văn bắt đầu quan tâm đến sự

tồn tại của con người cá nhân với tư cách là một “nhân vị” độc lập. Con người

được nhìn nhận như một thực thể riêng tư. Có thể nói chưa bao giờ văn học đề

cập đến giá trị và sự sống của con người cá nhân như giai đoạn này. Trong văn

học bắt đầu xuất hiện kiểu nhân vật “không trùng khít với chính mình”, kiểu con

người lưỡng diện, phức tạp nhiều chiều mà Bức tranh – Nguyễn Minh Châu là

bước khởi nguồn cho sự xuất hiện của kiểu con người như vậy. Nhân vật văn

học được miêu tả với đầy đủ mọi khía cạnh của cuộc sống hiện thực, con người

không chỉ là “chủ nhân” của lịch sử mà còn là “nạn nhân” của hoàn cảnh sống.

Bắt đầu từ những năm 1986, văn học chuyển tiếp sang một giai đoạn hoàn

toàn mới. Các cây bút dường như trầm tĩnh hơn để len lỏi vào các ngõ ngách của

cuộc sống tinh thần con người. Văn học bắt đầu khám phá về con người trên cơ

sở hệ thống quan niệm mới mà chiều sâu của nó là “triết học nhân bản”, giống

như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng viết: “khơi nguồn cho dòng sông văn học

trở về với đời sống vốn có của nó, văn học đi sâu vào những giá trị nhân bản

nhưng bằng nhiều chiều của đời sống tâm lý con người, trong đó có mặt tốt, mặt

xấu, có cái tiêu cực, tích cực, cái thiện, cái ác…”. Càng về giai đoạn sau, văn

học càng thể hiện khuynh hướng cụ thể. Dưới cách nhìn nhận, đánh giá của một

tầng lớp đông đảo các cây bút trẻ, con người trở thành “đối tượng nghiên cứu”

của họ. Họ khám phá góc độ đời tư của con người nhằm lý giải đời sống tâm lý

phức tạp của mỗi cá nhân. Trong văn học bắt đầu xuất hiện những kiểu nhân vật

khác nhau: con người- hoàn cảnh, con người cô đơn , con người tự ý thức…mà

trước đây chưa xuất hiện cụ thể trong văn học truyền thống.

Văn học sau năm 1975 là giai đoạn văn học chịu ảnh hưởng của những

quy luật đời thường, do vậy quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà văn 52

trong giai đoạn này bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sự khác biệt so với văn

học giai đoạn trước đây. Họ quan tâm đến con người cá thể, đi sâu vào những

chi tiết của đời sống tâm hồn, nghĩa là khám phá đời sống tinh thần của con

người ở góc độ từng cá nhân riêng biệt. Có thể nói chưa bao giờ văn học lại đề

cập nhiều đến giá trị và sự sống của con người cá nhân như giai đoạn này. Ở bất

kỳ thời đại nào, con người cũng là trung tâm chú ý của văn học. Văn học trung

đại là nền văn học “phi ngã, vô ngã”, không có vị trí xứng đáng cho cá nhân.

Một thời gian dài văn học của ta chịu ảnh hưởng của triết thuyết Nho giáo chỉ

quan tâm đến con người xã hội (con người nhập thế), thủ tiêu cái cá thể, không

xem cái cá thể là sự tồn tại đầu tiên của con người. Cạnh đó, Phật giáo với triết

lý “vô ngã” phủ nhận sự tồn tại của một “cái ngã” cá nhân. Từ thế kỷ XVII, con

người cá nhân đã xuất hiện ở những mức độ đậm nhạt khác nhau (Hồ Xuân

Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ). Nhưng con người cá nhân trong văn

học trung đại xuất hiện với tư cách là cái tôi trữ tình công dân chứ chưa mang

tính chất cái tôi trữ tình cá thể, ý thức cá nhân chưa xuất hiện mạnh mẽ. Vì thế,

văn học trung đai mới chỉ xuất hiện những yếu tố của con người cá nhân. Còn cá

nhân với giá trị tự thân, với ý nghĩa và sự sống đích thực của nó thì chưa có hay

quá mỏng manh.

Đầu thế kỷ XX, ý thức cá nhân mới hình thành rõ rệt. Trước hết trong đời

sống xã hội do sự hình thành các đô thị mới, sự ra đời các tầng lớp mới, ảnh

hưởng của văn hóa phương Tây…trong xã hội con người cá nhân hình thành.

Lần đầu tiên con người nhận ra giá trị đích thực của cá nhân mình. Trong văn

học bắt đầu hình thành quan niệm con người cá nhân.- đặc biệt trong Thơ mới

và Tự lực văn đoàn. Nhưng con người cá nhân ở giai đoạn này càng về sau càng

cực đoan và đi đến bế tắc. Từ sau 1945, trước những đổi thay lớn lao của cộng

đồng dân tộc, con người cá nhân tự lu mờ nhỏ bé trước sức mạnh lớn lao của tập

thể. Do yêu cầu chính đáng của một giai đoạn văn học trong chiến tranh, con

người cá nhân không được đề cập đúng mức. Con người quần chúng, con người

tập thể, con người cộng đồng dân tộc trội lên thay thế những cá nhân vừa được

khẳng định nhưng sớm bế tắc của giai đoạn trước. Số phận cá nhân đôi lúc tách

khỏi số phận cộng đồng, con người xã hội và con người riêng tư có lúc không

trùng khít. Từ sau 1975 nhất là từ sau đổi mới, con người cá nhân, cá thể đã

được điều chỉnh một cách hợp lý và có chiều sâu. Trong sự chuyển đổi lớn lao 53

của đất nước, văn học cũng bắt đầu chuyển biến, đổi mới. Trong đó vấn đề cá

thể trở thành vấn đề được quan tâm nhiều nhất. Chưa bao giờ số phận cá nhân,

bi kịch cá nhân được đặt ra một cách bức xúc, mạnh mẽ như trong giai đoạn

hiện nay. Quan niệm con người cá thể ở đây không phải là cái tôi đòi hỏi tự do

duy nhất của cá thể, phủ nhận mọi cơ sở đạo đức đã được thiết lập, không hề

chịu sự tác động của xã hội mà số phận cá nhân được giải quyết thỏa đáng trong

mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng. Đấy chính là giá trị truyền thống và hiện đại

về sự song hành giữa hai khái niệm riêng chung. Quan niệm con người cá thể

không dẫn đến sự cô lập hóa cá nhân với cộng đồng xã hội mà đằng sau số phận

của từng cá nhân vẫn là những vấn đề có ý nghĩa khái quát của thời đại.

Có thể nói chưa bao giờ văn học lại đề cập nhiều đến giá trị cá nhân như

trong giai đoạn văn học sau đổi mới. Đặc biệt là truyện ngắn. Từng cá nhân,

từng mảng đời thầm lặng hay sôi động đều góp phần làm nên thế giới nhân vật

đa dạng, phức tạp. Bằng nhiều cách khám phá và thể hiện độc đáo, truyện ngắn

đã khắc họa chân dung con người cá nhân một cách sinh động, sâu sắc và đa

chiều. Mỗi nhà văn đều tìm cách đi vào chiều sâu không cùng của tâm hồn con

người thấy được ở mỗi cá nhân từng niềm vui, nỗi buồn, sự đau khổ, niềm khát

khao, đam mê và cả những khát vọng…Con người xuất hiện trong văn học thực

sự là một sinh linh, một thực thể trần tục với tất cả “chất người” của nó: Có tốt

lẫn xấu, phải và trái, cao cả lẫn thấp hèn, có lý lẫn vô lý, cái vô thức lẫn hữu

thức…Con người có dục vọng, có tha hóa, đồng thời cũng biết phản tỉnh, tự ý

thức. Qua hiện thực về con người, qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã lật

sới những vấn đề nhức nhối có ý nghĩa nhân sinh của thời đại. Mỗi thời đại có

một quan niệm nghệ thuật về con người. Mỗi nhà văn lại có một quan niệm

riêng châu tuần quanh quan niệm chung nhất: Con người tự ý thức của Nguyễn

Minh Châu, con người phi cá tính trong truyện ngắn Phạm Thị Hoài, con người

thực dụng trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, con người trần thế của Hòa Vang,

con người trần tục của Nguyễn Huy Thiệp, con người “ vừa trẻ con, vừa người

lớn” trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh…Tất cả đều là dạng thức của con

người cá nhân, cá thể.

Trong các nhà văn đương đại, Nguyễn Minh Châu đóng vai trò như một “

viên gạch nối” giữa hai giai đoạn văn học, trước và sau 1975. Hơn thế ông còn

là “người mở đường tinh anh” trong văn học Việt Nam hiện đại. Những tác 54

phẩm của ông thể hiện rõ nét những biến chuyển của văn học, đặc biệt là quan

niệm nghệ thuật về con người. Trước 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu

chủ yếu tập trung vào việc xây dựng kiểu nhân vật lý tưởng. Nhà văn “ đi tìm

những hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn con người” đó là những con người

mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, nhân cách cao thượng: Khám phá

vẻ đẹp con người nơi hậu phương ( Cửa sông); ca ngợi tình yêu thủy chung, sự

gắn bó với cách mạng ( Những vùng trời khác nhau, Mảnh trăng cuối

rừng)…Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu bắt đầu chuyển ngòi bút sang những

vấn đề thế sự, nhân vật là những con người bình thường với những số phận cụ

thể. Đó là những thân phận bé nhỏ, tội nghiệp: gia đình cụ Khang ( Dấu chân

người lính); mẹ Êm ( Miền cháy)…Họ giống như những nốt trầm lặng lẽ giữa “

bản hợp xướng anh hùng ca ở giai đoạn cao trào”. Lấy cuộc sống con người làm

đối tượng miêu tả, nhà văn không bỏ sót một chi tiết nào được xem là đặc trưng

nhất để xây dựng hình tượng nhân vật: một lão nông có tính khí hơi bất thường

nhưng trong lòng luôn ẩn chứa một tình yêu chung thủy với quê hương, làng

xóm hay ngay cả với con bò của mình ( Lão Khúng – Phiên chợ Giát) đã bao

quát đầy đủ và chi tiết đời sống, số phận của người nông dân trong giai đoạn đổi

mới. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh

Châu cũng là quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai đoạn tiếp

theo.

Sau năm 1986, quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học ngày

càng có nhiều nét đột phá. Con người được nhìn nhận hoàn toàn ở góc độ đời tư.

Con người trở thành đối tượng quan trọng của văn học, “là một tiểu vũ trụ đầy bí

ẩn không thể biết trước, không thể biết hết, họ đều có những đột biến tâm lý,

tính cách và những hành động bất ngờ”. Với quan niệm nghệ thuật về con người

như vậy, văn học thời kỳ đổi mới (đặc biệt là sau 1986) đã đánh dấu những mốc

quan trọng của quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam.

1.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê.

Những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai

đoạn sau 1975, đã tác động chi phối đến hầu hết cây bút trẻ. Là nhà văn thuộc

thế hệ trước, nhưng sáng tác của Đoàn Lê chỉ thực sự có tiếng vang từ những

năm chín mươi của thế kỷ XX nên cũng không nằm ngoài sự chi phối này. Là

một cây bút luôn nhạy cảm và tinh tế trong cách nắm bắt và lý giải tâm lý nhân 55

vật, Đoàn Lê đã khám phá và chắt lọc những tính cách tâm lý điển hình để xây

dựng một thế giới nhân vật phong phú, sinh động nhưng cũng rất phức tạp. Đó

là những kiếp đời có nhiều giông bão, những số phận éo le bất hạnh bởi những

ám ảnh của chiến tranh (Một ngày xứ em) hay đó là nỗi bất hạnh của những

người con gái tài sắc nhưng không thoát nổi “ nghiệp chướng” của cái đẹp bạc

mệnh (Người đẹp xóm Chùa, Con bướm nhựa cánh xanh…), thế giới nhân vật

của bà còn có những mảng đời đói khổ, rách rưới, bần cùng vì miếng cơm manh

áo ( Hạt Vừng, Thành hoàng làng sổ số)...

Cùng với Đoàn Lê có khá nhiều cây bút nữ khác xuất hiện với những tác

phẩm ít nhiều đã để lại những dấu ấn trong lòng bạn đọc hiện đại: Nguyễn Thị

Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Vũ Thị

Thường…Các chị thường viết về những đề tài gần giống nhau, có quan điểm

sáng tác và đi tìm những đối tượng sáng tác cũng gần giống nhau. Tuy nhiên

mỗi cây bút lại có một giọng điệu khác nhau tạo nên một vườn hoa đa hương

nhiều sắc: “ Một Vũ Thị Thường sắc sảo, cô đọng; một Nguyễn Thị Ngọc Tú

chân chất, mộc mạc; một Lê Minh Khuê giàu chiêm nghiệm; một Nguyễn Thị

Ấm với lối viết tài hoa, pha chút giễu cợt đầy thiện ý; Nguyễn Thị Thu Huệ chao

chát nhưng dịu dàng và từng trải; một Y Ban đằm thắm và khắc khoải; một

Vàng Anh lạnh lùng trí tuệ và hóm hỉnh; Lý Lan hồn hậu và sắc sảo…”. Tất cả

đếu xuất phát từ tình yêu cuộc sống, niềm tin với con người của các chị. Truyện

của Đoàn Lê cũng vậy: dung dị, đơn giản nhưng sâu sắc để người đọc có thể

cảm nhận được sự tinh tế trong cách nắm bắt và khám phá cuộc sống của nhà

văn.

Nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê là những con người đi ra từ cuộc

sống. Chính vì vậy, đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy nhất ở nhân vật trong truyện

ngắn của Đoàn Lê chính là sự gần gũi với con người thực, cuộc đời thực như

cuộc sống hàng ngày. Các nhân vật trong truyện từ ông Sỹ Duệ (tức Sỹ thái sư),

ông Hớn, Cường xóm Chùa, lão Bạch mù, bà Chiu, cô Lầy Lầy, lão Bản…như

là nguyên bản của người thật việc thật đều xuất phát từ một không gian sống, sự

quan sát thực tế của nhà văn nơi xóm Chùa cụ thể. Họ đều là những chân dung

rất sống, có địa chỉ lý lịch hẳn hoi: lão Bạch mù chuyên chơi đàn bầu, người

luôn hài lòng với sự bình yên của xóm làng. Tiếp đến là ông sỹ Duệ- một kép

hát cải lương trên tỉnh, nhân vật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Đoàn Lê, 56

cũng là người mang văn minh tân tiến đến cho dân xóm Chùa bằng việc dùng

cát sét thay cho kèn trống, loa đài trong các đám ma, đám cưới. Rồi cái Nhớn

con bà cả Thận được đoàn ca múa trung ương tuyển vào làm diễn viên, hôm nó

được về thăm nhà, hai mắt xanh lè, mí mắt rắc nhũ óng ánh, mặt mũi chỗ đỏ,

chỗ nâu, quần áo miếng xanh, miếng tím làm cả làng lác mắt. Lạ nhất là chuyện

về bà Chiu người quanh năm bán rượu nếp trên phố để nuôi lũ con ăn hại. Một

lần bà bị người tây Thụy Điển lạng tay lái ở khúc ngoặt móc vào gánh hàng, bà

được bồi thường đến 400 đô la khiến bao người ở xóm Chùa ước được như bà.

Rồi câu chuyện về cuộc đời cô gái lai tây tên Mừng chuyên hủ hóa với trai làng

rồi quy đổi ra gạo, chuyện về lão Hớn, người chuyên sản xuất tiền vàng, đô la

cho âm phủ… (Xóm Chùa Ông, Đất xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Toursim

xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa…). Những hành động, suy nghĩ, tâm lý của họ

là những hành động suy nghĩ của con người hiện đại giữa đời thường với những

tính toán nhỏ nhặt nhất để có miếng cơm manh áo. Vì vậy nhân vật của Đoàn Lê

rất gần với con người thực trong cuộc sống hiện đại.

Nhân vật trong sáng tác của Đoàn Lê gắn những mảng đời rất thực như

cuộc sống mà nhà văn từng chứng kiến. Họ cũng lăn lộn, đấu tranh với cuộc

sống sinh tồn hàng ngày, hàng giờ để kiếm miếng cơm, manh áo và đôi khi phải

bất chấp cả những mánh lới thủ đoạn (Thành hoàng làng sổ số, Hạt Vừng, Đất

xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa), cả chuyện “ma cũ bắt nạt ma mới” với những

thủ tục hành chính rườm rà khi nhập cư nơi ở mới dẫu là nghĩa địa (Nghĩa địa

xóm Chùa). Có khi lại là những mảnh đời bất hạnh vì sự thiếu hụt của hình hài:

Cô Huệ ( Dấu hỏi gửi Thượng đế), lão Guột (Tình Guột). Nhân vật của Đoàn Lê

có lúc là mảng đời lắm nỗi chuân chuyên của những cô gái hồng nhan nhưng

lâm vào cảnh đời trôi dạt phải bán thân nuôi miệng và nhận lấy cái chết đầy bí

ẩn (Tiểu Anh), hay cái chết âm thầm từ căn bệnh thế kỷ (Thúy) và rất nhiều cô

gái lưu lạc đến xóm biển (Con bướm nhựa cánh xanh). Nhân vật của Đoàn Lê

đôi khi là mảng đời sống nhiều chật vật, khó khăn của các văn nghệ sỹ do miếng

cơm manh áo, nơi ăn chốn ở (Tí teo hạnh phúc,), thậm chí phải biến thành Ruồi

(Lên Ruồi). Cuộc sống thời mở cửa với muôn vàn những phức tạp cũng để lại

khe hở cho những thói tham lam, lộng quyền của một số kẻ có chức có quyền

như lão Quang chủ tịch, anh em họ Đào ( Đất xóm Chùa).

57

Nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê dù có cảnh đời, có số phận khác

nhau nhưng họ giống nhau ở chỗ đều mang trong mình những bi kịch: bi kịch về

sự đổ vỡ gia đình (Giường đôi xóm Chùa, Ngôi nhà gỗ, Trái táo nham nhở, Viên

sỏi…), bi kịch vì tình yêu không thành ( Đêm ngâu vào, Tình Guột, Dấu hỏi gửi

Thượng đế, Na ơi…), bi kịch vì cuộc sống mưu sinh ( Đất xóm Chùa, Xóm Chùa

Ông, Trinh tiết xóm Chùa, Hạt Vừng…), bi kịch vì sự mất mát của những người

thân yêu (Hai bà mẹ và tôi, Viên sỏi). Mỗi tác phẩm của nhà văn là một thông

điệp quý về tình yêu giữa người với người: có tình yêu đôi lứa, có tình nghĩa vợ

chồng, có tình cảm ruột thịt thiêng liêng, có tình làng nghĩa xóm… tất cả đều là

những huyền thoại về tình yêu. Dù được thiên biến vạn hóa ở nhiều sắc thái

khác nhau nhưng những thông điệp tình yêu của nhà văn là sự trân trọng, yêu

mến, vị tha giữa người với người, giữa đồng loại với nhau. Những tình cảm

thiêng liêng ấy đều được nhà văn giữ gìn, nâng niu, ca ngợi còn sự dối trá, bội

bạc, phi thiện mỹ đều bị lên án quyết liệt. Thành công của nhà văn sau mỗi tác

phẩm là sự thanh lọc tâm hồn mà người đọc hiện đại hôm nay luôn tìm kiếm.

Một đặc điểm chung cho các tác phẩm của các cây bút nữ thời kỳ đổi mới

là thiên hướng nữ. Thiên hướng này tác động mạnh mẽ đến cảm hứng sáng tác

của các nhà văn bởi một lý do rất đơn giản họ là những người phụ nữ viết văn.

Cho nên phần lớn các nhân vật trong sáng tác của họ là nhân vật nữ, đồng thời

cũng là nhân vật chính trong các tác phẩm. Đặc điểm này tạo nên sự khác biệt rõ

nét nhất giữa văn học trước và sau thời kỳ đổi mới. Trong văn học trung đại, Hồ

Xuân Hương là nhà thơ duy nhất dám mạnh dạn lên tiếng bảo vệ quyền lợi và

hạnh phúc của người phụ nữ. “Hồ Xuân Hương đã làm được cái điều mà tưởng

như không thể làm được, cái không thể trở thành cái có thể, trước không ai đã

đành, sau bà cũng không có ai”. Đến thời kỳ văn học hiện đại, nhân vật nữ được

khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là thế giới nội tâm. Dưới ngòi bút

của các nhà văn nữ, thế giới tinh thần của các nhân vật nữ lại càng được thể hiện

sinh động, sâu sắc và chân thực nhất. Bởi lẽ, khi đặt ngòi bút dường như các tác

giả nữ đang viết về chính con người thực của mình. Đó chính là cảm hứng tự

nghiệm”. Đặc điểm này được thể hiện rõ nhất ở ngôi của người kể chuyện- ngôi

thứ nhất, các tác giả đã có ý thức để lại trong tác phẩm dấu ấn cá nhân riêng biệt

của mình. Dấu ấn cá nhân của nhân vật “tôi” đã thể hiện đầy đủ cảm nhận, suy

nghĩ riêng của mỗi nhà văn, bất chấp mọi sự khen chê. Giọng điệu của người kể 58

chuyện hay “lạc đề”, chuyện nọ xọ chuyện kia. “Dường như trong văn chương

của họ có một người đàn bà mê mải nói, mê mải kể, chê bai, khen ngợi, bất cần,

khinh bạc… Điều đó khiến độc giả nhận ra họ trước tiên: chất lý sự đàn bà, cái

ồn ào rất đời trong những giọng nói không cần ẩn mình vì lý do công, dung,

ngôn, hạnh truyền thống, đồng thời lại rất sách vở và tự chủ theo cách riêng của

mình” [22]. Nhân vật nữ trong truyện ngắn Đoàn Lê là những con người như

vậy. Dấu ấn cá nhân trở thành một đặc điểm nổi bật khi xây dựng nhân vật của

cây bút này. Các nhân vật của bà thường được đặt trong trạng thái “động”. Khi

đọc toàn bộ sáng tác của nhà văn, một hình ảnh nổi bật mà người đọc dễ dàng

bắt gặp nhất đó là hình ảnh một người đàn bà luôn trăn trở, day dứt, bất định

trong suy nghĩ. Họ thường có những bi kịch gần giống nhau- bi kịch tình yêu. Bi

kịch đó bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa Niềm Tin và Bản chất Nhẹ dạ của người

phụ nữ, hay giữa hạnh phúc và khổ đau, hoặc từ những hoàn cảnh sống tối tăm,

bần cùng. Những đặc điểm trên trở thành nguyên tắc xây dựng nhân vật của

Đoàn Lê.

2. Các kiểu nhân vật và phƣơng thức biểu hiện trong truyện ngắn Đoàn Lê.

2.1 Nhân vật cô đơn

Đây là kiểu nhân vật xuất hiện nhiều trong văn học thời kỳ đổi mới. Lý

do khiến các nhà văn tập trung vào việc xây dựng, khai thác kiểu nhân vật này

cũng rất dễ hiểu. Trong xã hội hiện đại vấn đề tồn tại và mưu sinh không còn là

vấn đề cơ bản, con người bắt đầu hướng về bản thân mình nhiều hơn. Họ có nhu

cầu khám phá,cắt nghĩa lý giải những trạng thái tâm hồn mình để giảm đi những

lo toan căng thẳng trong cuộc sống, để cân bằng lại đời sống tâm hồn. Nhu cầu

đó trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn. Đời sống tinh thần của

con người trở thành đối tượng quan trọng của văn học. Vì thế trong văn học xuất

hiện kiểu nhân vật cô đơn. Cô đơn là khát khao cái đẹp, cái thiên lương của con

người. Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, mỗi cá nhân nhưng cũng có ảnh hưởng

đến cộng đồng xã hội. Thế giới nội tâm của mỗi cá nhân chứa đầy những yếu tố

bất ngờ và bí ẩn. Không phải chỉ khi tồn tại đơn thân một mình một bóng con

người mới cảm thấy cô đơn mà con người mang tâm trạng cô đơn ngay chính

trong ngôi nhà, trong gia đình của mình khi không tìm thấy sự đồng cảm, không

tìm thấy tiếng nói chung.

59

Con người cô đơn đã từng được nói đến trong văn học trung đại nhưng

chưa thật rõ nét. Đến văn học 1930-1945, con người cô đơn (cái tôi cô đơn) trở

thành tâm trạng chung của các nhà Thơ mới. Thậm chí con người cô đơn được

đẩy đến mức cực đoan, đến tận cùng. Họ tìm nhiều cách khác nhau để thoát khỏi

trạng thái cô đơn: Thế Lữ thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư phiêu diêu trong trường

tình, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng trong hồn máu và tháp Chàm đổ

nát, Xuân Diệu đắm say…Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên

cuồng rồi lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ, Huy Cận mang mối sầu vạn kỷ, sầu tới

đáy hồn nhân thế, Chế Lan Viên muốn trốn mình tận phía cuối trời xa, rốt cục

vẫn bế tắc tuyệt vọng không có lối thoát.

Trong văn học hiện đại giai đoạn 1945-1975, cô đơn vẫn bị xem là chủ đề

kiêng kỵ. Con người trong văn chương chủ yếu là con người tập thể. Chung

quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc, cộng đồng, nhân loại. Cá nhân con người

là nhỏ bé, không đáng kể. Con người không có điều kiện để nhìn ngắm tâm hồn

mình. Sau 1975 với quan niệm con người cá thể, cùng với sự thức tỉnh của cá

nhân với nhu cầu tự ý thức, con người nhiều lúc cảm thấy cô đơn và có nhu cầu

nói to lên trạng thái tâm lý này. Hơn nữa, trong xã hội bộn bề đen trắng, tốt xấu

lẫn lộn hôm nay, đâu người tri âm tri kỷ, đâu là tình người, đâu là sự đồng cảm,

đâu là niềm tin? Cô đơn vì thế trở thành điểm xoáy thu hút sự chú ý của nhiều

cây bút truyện ngắn. Nguyễn Huy Thiệp thường xây dựng những nhân vật cô

đơn: “nỗi cô đơn khủng khiếp rằng xé tim chàng” (Sạ), nỗi cô đơn mênh mang

của cõi đời (Chút thoáng Xuân Hương), nhân vật trong “ Con gái thủy thần”,

“Chảy đi sông ơi”, “Tâm hồn mẹ” đều là những cá nhân cô đơn đi tìm kiếm

niềm tin. Nguyễn Minh Châu lại day dứt với con người cô đơn bất hạnh sau

chiến tranh còn lại một khoảng trống vắng tâm hồn không gì bù lấp nổi (Cỏ lau).

Dương Thu Hương vật vã với kiểu con người cô đơn đi tìm lý tưởng, cứ phải

suốt đời loay hoay đi tìm kiếm những gì không thể với được trong tầm tay. Một

số cây bút nữ đã hướng ngòi bút vào số phận của những người đàn bà đi suốt

cuộc đời vẫn không tìm thấy một tổ ấm, một nơi trú ngụ tinh thần bởi sự thất

vọng về tình yêu , về người bạn đời, vì vậy họ luôn phải đối diện với sự trống

vắng của tâm hồn bởi sự hụt hẫng vô cớ thất thường của trạng thái cô đơn (Giai

nhân- Nguyễn Thị Thu Huệ, Người đàn bà có ma lực- Y Ban). Đặc biệt ở Phạm

Thị Hoài, cô đơn đã trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên của nhân vật. Nhân vật 60

cô đơn do không có sự đồng cảm, mỗi nhân vật là một thế giới riêng, họ cô đơn

ngay giữa đám đông. Nhân vật cô đơn của Phạm Thị Hoài thường đối thoại với

nhau một cách rời rạc, không lô gích vô nghĩa. Chị thường sử dụng mô týp im

lặng, ngôn ngữ bất đồng. Nhân vật của chị thường đắm chìm trong những suy

nghĩ riêng tư, còn lời nói chỉ là “chiếc vỏ trứng của sự im lặng”, có khi hai

người ngồi bên nhau nhưng ngôn ngữ bất lực, mỗi người là một thế giới cô đơn,

không thể đồng cảm… Như vậy nỗi cô đơn trở thành một đề tài hấp dẫn mà

nhiều cây bút nữ lựa chọn khai thác. Có lẽ vì họ vừa là nhà văn vừa là người phụ

nữ bước ra từ cuộc sống đời nhất và thực nhất.

Đoàn Lê cũng vậy, các nhân vật trong truyện ngắn của bà dù được khai

thác ở nhiều tình huống, cốt truyện khác nhau nhưng đều phảng phất nỗi cô đơn.

Khi xây dựng tác phẩm, nhà văn thường đứng ở góc độ người kể chuyện hoặc vị

trí các nhân vật nữ. Vì thế nỗi cô đơn trong những sáng tác của bà là nỗi cô đơn

tự nghiệm. Đó là nỗi cô đơn, trống trải cùng niềm khát khao tình yêu, hạnh

phúc đến cháy lòng của một người con gái luôn bị những mặc cảm về sự thiếu

hụt của hình hài dày vò. Đêm đêm nàng vẫn sống vẫn dạo chơi với những người

tình trong mộng để xoa dịu sự khô cháy của những năm tháng cô độc (Dấu hỏi

gửi thượng đế). Đó cũng là nỗi cô đơn, niềm mong mỏi thầm lặng được che chở,

bảo vệ cho người mình yêu đến trọn đời, trọn kiếp của lão Guột trong (Tình

Guột), đó là nỗi cô đơn đau khổ ngấm ngầm của người phụ nữ có chồng phụ bạc

(Giường đôi xóm Chùa). Trong sáng tác của mình có đôi khi Đoàn Lê đề cập

đến nỗi cô đơn, cô độc của những người đàn ông chung tình như nỗi trống trải

của nhân vật “tôi” (Một ngày xứ em, Đêm ngâu vào). Họ đều tha thiết yêu một

người phụ nữ, nhưng hoàn cảnh chớ trêu đã khiến họ không đến được với người

phụ nữ mà họ yêu thương, tôn thờ. Nhân vật “tôi” (Một ngày xứ em) rơi vào nỗi

cô đơn trống trải do chiến tranh cướp mất người con gái anh yêu thương hứa

hẹn. Còn “tôi” (Đêm ngâu vào) do một phút do dự thiếu quyết đoán, anh đã để

kẻ khác cướp mất người con gái anh yêu…Mỗi người có một hoàn cảnh khác

nhau nhưng họ đều có chung nỗi cô đơn khắc khoải và cả niềm luyến tiếc xót xa

vì không đến được với người mình yêu. Song nổi bật trong những truyện ngắn

của Đoàn Lê là nỗi cô đơn của những người phụ nữ trong gia đình mà hôn nhân

không được toại nguyện. Họ cũng đã từng có tình yêu hoặc lầm tưởng là được

yêu, sau một thời gian chung sống, họ nhận ra rất nhiều khiếm khuyết, rất nhiều 61

điểm yếu ở nửa kia của mình. Thế là họ rơi vào trạng thái hụt hẫng, chống

chếnh, nhất là khi không tìm được sự hoà hợp, không tìm được tiếng nói chung

họ rơi vào trạng thái cô đơn. Dẫu vậy họ vẫn cố chịu đựng để duy trì tổ ấm vốn

đã nguội lạnh từ lâu của mình. Đó chính là nét nhân văn đáng quý trong phẩm

chất của người phụ nữ: nhân vật Lê (Na ơi), nhân vật nữ ở (Đêm ngâu vào). Chỉ

đến khi nửa kia của mình phản bội khi dấu họ đi tìm niềm vui ở những người

phụ nữ khác ngoài gia đình thì họ lại độ lượng tha thứ rồi giải phóng cho người

chồng bội bạc để nhận lấy những thiệt thòi về mình. Có những người phụ nữ đi

hết cuộc đời mà vẫn chưa bao giờ có hạnh phúc được làm vợ làm mẹ (Trái táo

nham nhở). Người phụ nữ ấy đã phải sống bên cạnh người đàn ông không yêu

mình đến hai mươi năm. Hai mươi năm ấy chị không khỏi có những lúc thấy

lòng trống trải, hụt hẫng, cô đơn vì không nắm được anh ấy, không biết anh

đang nghĩ gì. Đến khi chị nhận ra được con người thật của anh thì tất cả quá

muộn. Qua những nỗi cô đơn âm thầm của người phụ nữ, Đoàn Lê không chỉ

gửi gắm sự đồng cảm sẻ chia như chính nỗi cô đơn của bản thân mà như muốn

gửi đến chúng ta những lời nhắn nhủ về tình yêu hôn nhân. Hãy biết sống vì

người khác và yêu thương thành thực. Hãy nắm lấy cơ hội tình yêu - hạnh phúc

khi nó đến để không phải sống trong trạng thái cô đơn đến hết cuộc đời.

Thể hiện trạng thái cô đơn của các nhân vật, Đoàn Lê đã sử dụng thủ phâp

độc thoại nội tâm với nhiều dạng thể hiện độc đáo như tự bạch, độc thoại với

người vắng mặt (Giường đôi xóm Chùa, Ngôi nhà gỗ, Trái táo nham nhở), dạng

viết nhật ký (Dấu hỏi gửi thượng đế), dạng đan xen giữa ý thức và tiềm thức

khơi sâu vào nỗi đau có tính dồn nén (Một ngày xứ em). Đôi khi bằng sự đối lập

giữa hai mảng quá khứ và hiện tại, hồi ức và tưởng tượng, có khi được thể hiện

bằng thời gian đồng hiện, bằng các mạch phát triển của thời gian tâm trạng

(Đêm ngâu vào, Tình Guột, Trái táo nham nhở). Bằng những thủ pháp này Đoàn

Lê có điều kiện đi sâu khai thác và khám phá đến cùng cõi cô đơn của con người

cũng như số phận tinh thần của con người trong những cảnh huống cụ thể. Mỗi

mảnh đời là một tâm trạng, là hoài vọng, là hạnh phúc, khổ đau, là ước mơ vỡ

mộng, là khắc khoải lo âu…tức là những mảnh ghép của số phận con người.

Ngoài những cách thể hiện trên, Đoàn Lê còn sử dụng nhiều khoảng không gian

đậm nhạt dồn nén, mở rộng khác nhau để tô đậm trạng thái cô đơn. Nhân vật

“tôi” (Trái táo nham nhở) đã tự mình đối diện với mình trong không gian cá 62

nhân với những dằn vặt cào xé để nhận ra tất cả tình trạng bi kịch của mình cũng

như con người thật của kẻ mà chị hết lòng yêu thương. Nhân vật “tôi” (Giường

đôi xóm Chùa) lại sử dụng không gian chiếc giường để độc thoại nội tâm trong

nỗi cô đơn vô tận.

Tóm lại bằng những thủ pháp riêng, Đoàn Lê đã thể hiện con người

cô đơn với những tâm trạng khác nhau, những bi kịch ngầm diễn ra trong tâm

hồn vốn muôn màu đa dạng của con người. Đi vào thể hiện nhân vật cô đơn,

Đoàn Lê giúp người đọc hiện đại hiểu mình hơn, hiểu rõ những tình cảm sâu kín

thuộc về con người, hiểu cả những ẩn ức kìm nén trong nội tâm con người, phần

mà trước nay con người vẫn dấu kín.

2.2. Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức.

Đây là kiểu nhân vật điển hình của văn học hiện thực. Nhân vật “thức

tỉnh” hay “tự ý thức” là kiểu nhân vật tự nhận thấy bản thân mình cần hướng tới

sự hoàn thiện về nhân cách, hướng tới cái thiện, cái đẹp để chế ngự cái ác, cái

xấu. Kiểu nhân vật này còn được gọi là nhân vật tư tưởng, bộc lộ sự quan tâm

của nhà văn về lối sống đạo đức của con người. Chỉ có tự nhận thức con người

mới phát hiện ra chính mình. Con người thức tỉnh, tự ý thức là con người được

nhìn từ bên trong, là con người trầm tư nghiền ngẫm, tự nhận diện chính mình.

Đây là kiểu nhân vật có năng lực phản tỉnh, tự ý thức về mình. Con người thức

tỉnh tự ý thức bộc lộ chiều sâu mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Nó

gắn liền với sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị cá nhân. Trong

văn học con người tự nhận thức chỉ xuất hiện một khi cái tôi cá thể được quan

tâm đúng mức. Sự vận động phát triển của văn học là từ chỗ miêu tả quá trình

nhận thức của nhân vật đến chỗ miêu tả quá trình tự nhận thức. Nhân vật từ chỗ

nhận thức thế giới xung quanh, đánh giá phán xét người khác đến chỗ tự khám

phá phân tích, tự quan sát nội tâm mình.

Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức ở mỗi giai đoạn văn học được hiểu theo

những cách khác nhau. Giai đoạn văn học trước 1975 do chịu nhiều chi phối của

văn học kháng chiến, thường hướng tới cái Ta cộng đồng cho nên kiểu nhân vật

này mặc dù thể hiện được những tính cách điển hình nhưng vẫn tiêu biểu cho

một lớp người trong xã hội. Sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo (trong Chí Phèo

của Nam Cao) là nhờ tình thương và bằng tình thương. Đó là sự trở về của tính

người sau bao năm làm quỷ dữ. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm điên say, Chí lại 63

được sống cảm giác con người, nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc

sống, nhớ lại ước mơ của một thời lương thiện. Cũng trong giây phút thức tỉnh,

tự ý thức, hắn nhận ra tất cả hoàn cảnh bi kịch của mình: hắn già rồi mà vẫn còn

cô độc, rồi hắn ước được làm hòa với mọi người, được mọi người nhận lại vào

xã hội bằng phẳng của những người lương thiện. Như vậy quá trình thức tỉnh

của Chí gắn với khát khao hướng thiện, gắn với khát vọng được làm người

lương thiện như bao người bình thường khác. Quá trình thức tỉnh đó chẳng đáng

trân trọng lắm sao? Cùng với Chí Phèo, Nam Cao xây dựng hàng loạt truyện

(Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn…) có chủ đề thức tỉnh, tự ý thức. Nhân vật

của Nam cao là con người luôn dằn vặt với chính mình về sự hèn hạ của nhân

cách, về phần “con” trong con người. Nhiều truyện của Nam Cao cho thấy ranh

giới giữa thiện và ác, giữa con và người chỉ là “Sợi tóc” mong manh.

Văn học hiện đại sau 1975, vấn đề thức tỉnh tự ý thức trở thành một cảm

hứng mới và vô cùng hấp dẫn với các nhà văn. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

hầu hết là những bi kịch tự ý thức với những con người luôn luôn tự làm khổ

chính mình. Người họa sỹ trong truyện ngắn “Bức tranh” luôn đeo đẳng sự ăn

năn , sám hối về lỗi lầm của mình với người lính ngày trước. Suốt cả câu chuyện

là tâm trạng day dứt, dằn vặt của nhân vật họa sỹ bất chợt nhận ra bộ mặt thật

của mình và tự phán xét mình. Quá trình đó diễn ra phức tạp, nhân vật cùng một

lúc được đặt vào nhiều vị trí: vừa là phạm nhân vừa là nhân chứng, quan tòa lẫn

luật sư, vừa kết tội lại có lúc lẩn trốn, tự bào chữa. Người họa sỹ luôn mang hai

bộ mặt: một bộ mặt hàng ngày của một họa sỹ nổi danh tài hoa, khuôn mặt được

người họa sỹ quen biết “nâng niu như sờ đụng một vật quý”. Ẩn kín bên trong

bộ mặt thường ngày đó là một bộ mặt khác, lồ lộ hiện ra khi anh họa sỹ ngồi

trước gương nhìn ngắm mình, một bộ mặt “vừa được lộ ra khỏi cái mặt nạ hàng

ngày đang phản chiếu trong tấm gương”. Cuối cùng anh họa sỹ tự nhận ra chính

mình “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt- kẻ xấu, rồng phượng lẫn

rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Quá trình thức tỉnh tự ý thức đó khiến nhân vật

sống Thiện hơn. Con người thức tỉnh tự ý thức cũng được thể hiện sâu sắc trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những vòng

quay cuộc đời có tình yêu, hạnh phúc, đau khổ, tội lỗi, có bi kịch của dục vọng

thấp hèn, có phẩm giá lương tâm. Với tất cả sự khách quan giá lạnh, Nguyễn

Huy Thiệp đẩy nhân vật xuống đáy sâu vực thẳm, dồn ép con người vào ranh 64

giới mong manh giữa thiện-ác, vươn trượt rồi lại vực con người dậy, trả lại cho

họ chất người vừa đẹp đẽ vừa phàm tục (Muối của rừng, Giọt máu)

Ngoài những đặc điểm trên, nhân vật thức tỉnh tự ý thức trong sáng tác

của Đoàn Lê còn có một đặc điểm nổi bật khác là quá trình thức tỉnh tâm hồn ý

thức của nhân vật thường gắn với cuộc truy vấn lương tâm của nhân vật. Trong

tác phẩm Lão già tâm thần, nhà văn đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của lão

Khảm - Tổng công trình sư cầu Bội. Đó là quá trình tự vấn lương tâm, quá trình

thức tỉnh lươnng tri của lão trước những sai lầm mà lão đã mắc phải. Chỉ vì lời

hứa hẹn được cất nhắc thăng tiến của ngài Bí thư Tỉnh ủy mà lão nỡ nhắm mắt

bỏ qua tuổi thọ của cây cầu cùng biết bao sinh mạng của những con người ngày

đêm qua lại cây cầu ấy, lão còn bỏ lỡ cả tình yêu hạnh phúc riêng, phụ bạc một

người con gái suốt đời yêu lão để theo đuổi chút công danh phù phiếm đó. Và

khi cây cầu hoàn thiện cũng là lúc lương tâm lão lên tiếng mắng nhiếc, chửi rủa

thúc giục lão ra đầu thú. Lão đã phải sống dật dờ như một cái bóng suốt 10 năm.

Mười năm tự vấn lương tâm, mười năm ám ảnh để đi đến một quyết định khó

khăn - quyết định đầu thú. Quyết định này cũng có nghĩa là lão chấm dứt cuộc

sống tự do về thân thể nhưng là một cuộc giải tỏa về tinh thần, trút bỏ "khối u

nhọt" đè nặng lên tâm hồn lão suốt bao năm qua. Nhưng thật là đau đớn, xót xa,

ngay cả quyết định muốn được làm người lương thiện, muốn được sống là mình

của lão cũng bị người ta tước đoạt nốt. Bởi thế đúng lúc cần phải hùng hồn nói

lên tất cả những điều đeo đẳng, bám diết lão về cây cầu, nói về những nung nấu

khổ sở của mình khi bị người ta sai khiến trong quá trình xây dựng cây cầu thì

lão lại yếu ớt run rẩy đến thảm hại rồi lão đổ vật trước sự hào nhoáng và uy

quyền của đám người đó. Vừa tỉnh lại lão lại nhận thêm một cú sốc còn choáng

váng hơn. Chính con người dùng quyền lực mua chuộc lương tâm của lão, sai

khiến lão làm bậy giờ lại dùng chính căn bệnh tâm thần vốn không thuộc về lão

để phản bác lại bản tường trình, tự thú mà lão đã nung nấu suốt hơn mười năm

qua. Rốt cục lão Khảm lại trở thành kẻ tâm thần, một người mắc bệnh hoang

tưởng để nhận sự cảm thông thương hại từ phía đoàn thanh tra. Một lần nữa lão

lại bị đánh gục, lão trở nên nhỏ nhoi vô nghĩa trước sức mạnh của uy quyền. Lão

đã bỏ cuộc đúng lúc cần phải kiên định. Lão đã xây một cây cầu trong tội lỗi, lão

đã sám hối rồi phản bội sự thật ngay trong sự sám hối đó. Chỉ đến khi cây cầu

65

thực sự sụp đổ, lão mới được minh oan. Quá trình thức tỉnh tự ý thức này khiến

tâm hồn lão trở lên thanh sạch, xứng đáng là CON NGƯỜI.

Cũng viết về kiểu nhân vật thức tỉnh, tự ý thức, Đoàn Lê còn đề cập trong

một truyện ngắn đầy ám ảnh khác- truyện Trái táo nham nhở. Cốt truyện Trái

táo nham nhở là quá trình nhân vật “tôi” tự vấn lương tâm trước những câu hỏi

về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc mà bản thân phải đánh đổi bằng cả cuộc đời.

Sai lầm lớn nhất cuộc đời chị là đã yêu bằng tất cả tấm lòng chân thành cùng sự

hy sinh âm thầm tận tụy một người đàn ông không dành cho chị. Cũng vì yêu

mù quáng nên chị không hề nhận ra con người thực của anh, và cũng không hề

nhận ra mình chưa bao giờ được yêu theo đúng nghĩa của nó. Bởi thế chị đã điên

cuồng hy sinh cho anh ta, chị sẵn sàng đánh đổi cả tháng trời không ngủ để kiếm

tiền cho anh đi thực tế mong khuây khỏa những bức bối trong nghề nghiệp của

anh ta mà không hề biết bản chất của những chuyến đi ấy. Chị đâu biết đó là

những lần anh ta phản bội chị đi tìm kiếm bất cứ người đàn bà “dịu hiền” nào.

Và rồi việc gì phải đến đã đến như một quy luật tất yếu, chị đã phải nhận một

thực tế phũ phàng - một cuộc chia tay vĩnh viễn sau hơn hai mươi năm tận tụy

phụng sự yêu thương, chăm sóc một người đàn ông không dành cho chị. Lúc ấy

chị mới tỉnh ngộ để bình tĩnh xét đoán mọi chuyện. Chị đã bao lần tự vấn lương

tâm để bào chữa cho những sai lầm của mình, chị đã đặt ra hàng loạt câu hỏi, rồi

lại tự tìm cách trả lời: “hay anh ta bị khủng hoảng tinh thần? bị hoang tưởng? bị

tâm thần? Lá thư kia chẳng qua anh ta tự bày đặt, hoang tưởng, nhưng nếu anh

ta không tâm thần, nếu đó là sự thật tàn nhẫn?…” Hàng loạt câu hỏi khiến đầu

chị như muốn nổ tung. Chị chán trách hận rồi lại quay sang bào chữa cho anh ta

và chấp nhận một sự thật rằng sẽ chẳng bao giờ anh ta và chị còn sum họp nữa.

Đó cũng là lần đầu tiên chị nghiêm khắc xét lại anh từ chân tơ kẽ tóc “Anh

tưởng mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá

đắt bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong vô vàn những kẻ

tầm thường, một thứ giẻ rách!”. Vậy mà chị đã yêu anh bằng tất cả những năm

tháng tuổi xuân, đã hy sinh cho anh bằng tất cả sự tận tụy của mình. Sau khi

trách anh chị lại quay lại tự trách mình “không biết anh đánh cắp cuộc đời tôi

hay tôi đánh cắp cuộc đời anh? Nhân danh tình yêu, tôi đã giam chặt anh chiếm

hữu anh thành tài sản riêng, tước đoạt của anh tất cả niềm vui sống hồn nhiên

nhất”. Quá trình tự vấn này khiến nhân vật của Đoàn Lê thật nhân ái thánh 66

thiện. Ngay cả khi bị phản bội tàn nhẫn đau đớn, chị vẫn đứng về phía anh để

bào chữa cho anh, truy vấn lương tâm mình, nhận lấy những mất mát thiệt thòi

về mình. Sau những cuộc truy vấn lương tâm, nhân vật của Đoàn Lê luôn đạt

đến sự thánh thiện trong tâm hồn, hoàn thiện về nhân cách tức là đạt đến chân

giá trị của cái ĐẸP và cái THIỆN.

2.3 Nhân vật ảo.

Văn học Việt Nam hiện đại từ sau đổi mới 1986 xuất hiện một xu hướng

mới- xu hướng “hiện thực huyền ảo”. Ở đó yếu tố kỳ ảo được đưa vào văn học

khá dày đặc trở thành một dòng riêng với những tên tuổi như: Nguyễn Huy

Thiệp, Lưu Minh Sơn, Phạm Hải Vân, Hòa Vang, Võ Thị Hảo…Trong đó Đoàn

Lê cũng được biết đến như một hiện tượng.

Triết gia Ấn Độ hiện đại Vivekanađa từng nói: “Thế giới này nhỏ bé lắm,

cho nên người ta phải thêm vào đó một chút tưởng tượng”. Quả thật phải thêm

vào đó một chút tưởng tượng bay bổng thì cái thế giới chật hẹp ấy mới mở rộng

ra đến khôn cùng, nếu không thì nó cứ mãi còn chật hẹp, thô sơ như một quan

niệm cũng rất chật hẹp thô sơ về chủ nghĩa hiện thực. Thủ pháp huyền ảo đã mở

ra khả năng mới mẻ trong việc khám phá và thể hiện con người. Hệ thống nhân

vật ảo có vẻ không thật, hoang đường nhưng không đối lập với hiện thực mà bổ

sung cho thế giới nhân vật trong cuộc đời thực, khắc họa đậm nét hơn cho con

người thời đại. Bởi thế trong những truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo của Đoàn Lê,

cái thực vẫn là trụ cột, vẫn là điểm tựa cho cái ảo. Hiện thực đôi lúc chỉ bị xóa

mờ chứ không bị chối bỏ. Yếu tố kỳ ảo trong những trường hợp ấy chỉ có tác

dụng làm lạ hóa hiện thực, thay đổi một góc nhìn hiện thực, chưa phải là yếu tố

làm xoay chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật (Nhân Bản, Chờ nhật thực,

Lên Ruồi, Nghĩa địa xóm Chùa). Trong những truyện ngắn này, Đoàn Lê xây

dựng nhiều kiểu nhân vật: nhân vật tưởng tượng, nhân vật dị hình, nhân vật hóa

thân…Dù được sáng tạo ở chất liệu nào thì kiểu nhân vật ảo cũng góp phần giúp

nhà văn mở rộng khả năng phản ánh cuộc sống, giúp bạn đọc chiếm lĩnh ý nghĩa

tác phẩm một cách trọn vẹn nhất.

Thông qua kiểu nhân vật này, nhà văn muốn mở rộng diện khám phá cả

trên bề mặt lẫn tầng chìm của cuộc sống hiện đại. Nhân vật ảo có lúc là cả một

thế giới hồn ma của cõi âm “Nghĩa địa xóm Chùa”. Câu chuyện được bắt nguồn

từ việc nhầm lẫn xác một vị tướng với một ông thợ điện bậc ba đã về hưu. Từ sự 67

nhầm lẫn đó, Đoàn Lê đã tái hiện cả một thế giới cõi âm sinh động như muôn

mặt của cuộc sống cõi người. Ở đó những người chết, những hồn ma vẫn sống

trong thế giới riêng song song với thế giới của người sống, họ vẫn nhìn nghe

ngóng và phê phán chuyện của người sống y hệt như khi còn sinh thời. Họ cũng

giỏi hóng chuyện, hiều kỳ trước những sự việc lạ. Cuộc sống của cõi ma nơi

nghĩa địa giống hệt cuộc sống của cõi người nơi trần thế, vẫn là chuyện “ma cũ

bắt nạt ma mới”, chuyện hối lộ, đút lót... Thông thường con ma mới đến sẽ bị

làm tình làm tội vài đêm đầu, họ bị lục tra lý lịch, ra mắt thổ thần, thổ địa, số của

nả mang theo phải biếu các chức sắc, khao đãi lân bang hàng xóm. Nghĩa là

ngay cả khi đã chết con người ta vẫn không thoát khỏi cảnh phân thứ bậc, đẳng

cấp. Ở khu lăng mộ ấy, đứng đầu gồm có ba ông: ông Quản trị hành chính, ông

Cán bộ tổ chức, ông Cán bộ hộ khẩu. Đi theo họ là cả đàn, cả đống ma lặng lẽ

bám sát thành một khối đông nghịt, óng ánh phát sáng. Họ đều lầm tưởng ma

mới là một thiếu tướng thật nên ngay cả ông Quản lý hành chính thường ngày

hống hách là thế mà nay cũng dở giọng uốn éo, khúm núm, hạ giọng tha thiết

mời ma mới lên gặp mặt. Sự thật ma mới là một tay thợ điện bậc ba mới về hưu

khi đi lĩnh tiền ở quỹ tiết kiệm đã bị chen ngã đến chết rồi bị đưa vào nhà xác

bệnh viện Việt Xô, cạnh xác ông thiếu tướng. Vì sự tắc trách vô tình của thân

nhân vị tướng khi phó thác việc nhập quan cho người coi nhà xác nên mới gây

ra sự nhầm lẫn đáng tiếc ấy. Đáng ra anh ta phải trực tiếp làm cái việc hiếu

nghĩa cho cha theo đúng phong tục cổ truyền, tự tay chăm sóc hình hài ruột thịt

thì anh lại giao phó cho một kẻ tối mắt vì tiền. Cũng vì anh quên đưa cái khoản

“lót tay tiêu cực phí” cho gã nhà xác nên gã đã cố tình gây ra vụ tráo đổi xác đầy

tính bi hài này. Và câu chuyện nhầm lẫn hết sức phi lí ấy chẳng biết sẽ đi đến

đâu nếu anh con trai người thợ điện không đi lùng sục khắp các đám tang quanh

vùng để tìm cha. Khi biết cha mình bị người ta nhầm là thiếu tướng và cử hành

tang lễ rất long trọng, anh đã kiên quyết đòi cha về và không cho kẻ nào đụng

đến linh cữu của cha để lấy lại quan tài kính và các thứ phụ trang của thiếu

tướng. Vì vậy ông “thiếu tướng rởm” mới được đưa đến chôn ở khu nghĩa địa

này và gây sự hiếu kỳ cho tất thảy đám ma trong khu nghĩa địa.

Câu chuyện cứ đan xen thực- ảo, cõi người- cõi ma lẫn lộn. Cõi người

chính là hiện thực nực cười chua chát của việc nhầm lẫn thân nhân vị tướng.

Một người quyền cao chức trọng là thế, một vị quan chức nhà nước tai to mặt 68

lớn được trọng vọng như vậy mà thực chất khi chết lại hết sức cô đơn, cô độc.

Ông ta đã bị lãng quên ngay từ giây phút nằm lại nơi nhà xác lạnh lẽo. Đến

nghĩa cử cuối cùng là được người thân chăm chút hình hài cho sạch sẽ, thơm tho

trước khi sang thế giới bên kia ông cũng không được hưởng. Về nghi thức, tang

lễ của ông được tổ chức cực kỳ long trọng, linh đình, có cả một ban bệ đến vài

chục người lo tổ chức đám tang, có cả một vị trung tướng lên đọc điếu văn bằng

giọng nghẹn ngào đến rơi nước mắt, có hàng đoàn người quân phục uy nghiêm

đến viếng, có lính uy nghi bồng súng, chung quanh đèn nến tựa sao sa, cờ quạt

buông rủ. Đăc biệt ông thiếu tướng có một gia quyến đuề huề: hai bà vợ và một

lũ con cháu vài chục người khăn xô mũ mấn trắng lóa sắp hàng một dãy bên

quan tài. Nghiã là đây là một đám tang cấp nhà nước cực kỳ to tát. Nhưng

dường như cả thân quyến lẫn bạn bè thân bằng cố hữu đều quá chú trọng đến

hình thức lễ nghi với nhau mà không một ai thực tâm để ý đến người quá cố.

Bởi vậy từ khâu măc quần áo cho ông thiếu tướng đến khâu chuyển linh cữu đến

hội trường, rồi viếng thăm không một ai nhìn đến dung nhan người quá cố lấy

một lần. Và vì vậy không một ai thắc mắc về sự thay đổi dung nhan người quá

cố, không một ai biết sự nhầm lẫn đã xảy ra. Ai cũng cố tỏ ra thương tiếc thành

thực, hai bà vợ và đám con cái “đang mải nhìn vào nỗi đau trong lòng, hay mải

giữ lễ với ông cả bà lớn đến viếng nên chưa một lần liếc mắt đến tôi? Hay tôi

không phải tôi nữa?”. Cứ lũ lượt những đoàn người sang trọng với những bộ

mặt buồn bã diễu hành, những cặp mắt âu sầu lơ đãng lướt qua linh cữu tưởng

chừng bất tận mà tịnh không một ai nhận ra sự nhầm lẫn nực cười ấy. Người

chết nằm trong quan tài chắc hẳn thấy tuyệt vọng, bất mãn, chua chát, đau đớn

và cô đơn lắm khi ở giữa đám đông, khi mình là chủ nhân của buổi lễ mà không

một ai thực tâm để ý đến mình. “Họ chỉ bận lo kê cho chắc, đặt hoa cho đẹp,

hương đốt cho đượm, tịnh không ai nghi ngờ chút gì”. Đến nỗi người bị nhầm

lẫn thấy ngán ngẩm, bất bình thay cho ông thiếu tướng: “Ông thiếu tướng kia ơi,

nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở đây

không ai cần ông, không ai thực sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh mất

vinh hạnh mà chính thực tôi gánh chịu nỗi bất hạnh cho ông đó”. Thái độ của

người đóng vai nhầm lẫn cũng chính là thái độ của nhà văn trước những vấn đề

của hiện thực xã hội đương thời. Hiện thực này phải chăng cũng là sản phẩm của

nền kinh tế mở khi mà tình người ngày một ít đi. Người ta thích quan tâm đến vẻ 69

bề ngoài, trọng hình thức hơn là nội dung bên trong. Người ta thích thể hiện cái

vẻ hào nhoáng để người khác nhìn vào hơn là phải sống thực với lòng mình.

Đấy cũng là hiện thực xô bồ của tiền tài danh vọng, chức tước đầy chua chát

trong xã hội hiện đại.

Còn thế giới ảo trong truyện chính là cõi ma. Nơi đó những hồn ma cũng

đi lại nói năng, kháo chuyện như khi họ còn sống. Cõi ma cũng có luật lệ, lề lối,

đẳng cấp, thứ bậc. Họ cũng sống và sinh hoạt theo họ hàng, làng xóm…Nghĩa là

mọi thứ của họ giống hệt như cõi người. Nói cách khác thế giới nhân vật ảo

trong cõi ma thực ra là để nói cõi người nhằm tô đậm thêm hiện thực cuộc sống,

hiện thực xã hội mà nhà văn hướng đến. Đó là hiện thực về tình thân, tình làng

nghĩa xóm, cả những vấn đề muôn thủa “ma cũ bắt nạt ma mới”, hiện thực về

thứ hạng, cấp bậc trong xã hội, cả hiện thực nóng bỏng về chuyện tham nhũng,

đút lót và đủ các khoản phí… Tất cả những vấn đề hiện thực mà Đoàn Lê phản

ánh trong tác phẩm đều là những vấn đề nóng hổi đang tồn tại trong xã hội hiện

đại gây nhức nhối lòng người. Những vấn đề ấy được nhà văn thể hiện dưới thủ

pháp lạ hóa-cõi âm khiến câu chuyện trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn. Nói như lời

nhận xét của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú thì “Đoàn Lê nghi có mầm bệnh ung

thư trong người, người ốm mới dám viết những chuyện ma quái khủng khiếp

như vậy”.

Khi xây dựng nhân vật, Đoàn Lê rất chú trọng đến yếu tố kỳ ảo, dù đó là

nhân vật hiện thực hay nhân vật ảo. Với nhân vật hiện thực, yếu tố kỳ ảo xuất

hiện dưới dạng những giấc mơ hoặc những niềm tin tâm linh. Nhân vật của

Đoàn Lê thường đeo đẳng những giấc mơ về hạnh phúc với niềm tin tâm linh sẽ

có điều kỳ diệu xuất hiện. “Chờ nhật thực” là truyện như thế. Bằng trí tưởng

tượng phong phú, nhà văn đã sâu chuỗi một câu chuyện tình qua nhiều kiếp ở

hai phương trời khác nhau. Câu chuyện được bắt đầu bằng một đêm nhân vật

“tôi” “Chờ nhật thực”. Anh thắp hương trên bàn thờ người trinh nữ đoản mệnh

của anh và tin tưởng chắc chắn rằng nàng sẽ về cùng anh đón nhật thực. Rồi

trong không gian đượm mùi hương mơ màng, anh tưởng tượng kiếp trước của

anh và nàng. Nàng chính là một nữ tướng con một vị võ quan đã quên mình cứu

công chúa.. Trước khi quên thân nàng không khỏi day dứt về tấm tình mà chàng

đã dành cho mình, nàng cầu xin trời đất kiếp sau cho mình được đền đáp chàng.

Cảm động về sự thủy chung đó, trời đất đã cho họ gặp lại nhau dưới hình hài 70

hôm nay. “Em cũng là Hoa như ngày xưa, em chỉ được hưởng dương đến năm

19 tuổi, xin chàng đừng thương tiếc một kiếp trinh nữ bạc phận…Duyên số của

em với chàng là thế. Chúng ta khao khát mãi trong vòng luân hồi nhân gian.”

Niềm tin tâm linh giống như một cứu cánh tinh thần giúp con người vượt qua

nỗi cô đơn và tiếp tục hy vọng vào cuộc sống, vào tình yêu. Yếu tố huyền ảo

được sử dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng

của con người đồng thời cũng tô đậm những yếu tố hiện thực và lịch sử của tác

phẩm.

Thế giới nhân vật ảo của Đoàn Lê còn một kiểu nhân vật đặc biệt gần như

là nhân vật dị hình. Khi xây dựng kiểu nhân vật này, Đoàn Lê đã có sự gặp gỡ

với truyện cổ dân gian (mô típ xấu xí dị dạng ở Sọ Dừa, Chàng Cóc, Trương

Chi). Đặc điểm của loại nhân vật này là ngoại hình xấu xí. Đó là những con

người bị biến dạng về hình hài do sức ép của hoàn cảnh. “Lên ruồi” là truyện

ngắn tiêu biểu cho kiểu nhân vật này. Truyện kể về một nghệ sỹ nhào lộn có tuổi

ly dị vợ, muốn xin cấp một căn hộ nhưng không được giải quyết và bị biến

thành ruồi. Từ đó anh ta sống kiếp ruồi, nhưng trong cả kiếp sống này anh vẫn

không thoát được mối lo về chỗ ở, phụ nữ và vấn đề sinh tồn. Bằng trí tưởng

tượng phong phú, Đoàn Lê đã tạo ra một thế giới những nhân vật tưởng tượng

sinh động. Ở đó toàn bộ thế giới người, dường như được nhà văn bê y nguyên

sang thế giới ruồi để phản ánh nhiều vấn đề nhức nhối của hiện thực xã hội: vấn

đề nhà đất và rộng hơn là vấn đề cư trú của con người hiện đại. Trong thời buổi

đất chật, người đông, kiếm được một chỗ chui ra chui vào không phải dễ. Thậm

chí đến hơn 40 năm trong nghề diễn viên xiếc, già nửa đời người đã phấn đấu và

cống hiến cho nhà nước, nay vì li thân vợ không có chỗ ở người nghệ sỹ muốn

xin cấp nhà ở mà dăm lần bảy lượt không xong, ông đề đơn lên tận Bộ trưởng

cũng không được giải quyết còn bị biến thành ruồi. Trong khi đó biết bao nhiêu

kẻ lợi dụng chức quyền được cấp đến ba lần nhà ở. Trong kiếp sống Ruồi, người

nghệ sỹ ấy tưởng sẽ thoát khỏi vòng thống khổ của đơn từ nhà đất, cùng hàng

loạt những mối dây giàng buộc phức tạp khác của kiếp nhân sinh nhọc nhằn. Ai

dè, trong kiếp ruồi ông vẫn phải tham gia các đại hội – Đại hội khối ruồi nhà đất

– nơi tụ họp những người trong giới văn nghệ sỹ nghèo kiết của ông, nơi ấy tất

cả mọi người đều không có nổi một chỗ chui ra chui vào, đâm đơn xin xỏ khắp

nơi và rồi đều bị biến thành ruồi tuốt. Trong kiếp ruồi tất thảy họ đều bất bình và 71

tìm cách trả thù theo cách của họ những kẻ “sâu mọt” chuyên lợi dụng chức

quyền để trục lợi trong khi biết bao người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho

nhà nước mà vẫn không có nổi một chỗ dung thân. “Ruồi nhào lộn” ban đầu

tưởng rằng không còn một nhu cầu vật chất nào đè nặng tâm tư, cũng không có

chuyện lừa lọc phụ bạc, ngoại tình ly hôn, oán trách, do vậy sẽ không có tòa án,

nhà tù ruồi, không có chiến tranh trận mạc, chỉ còn mỗi việc sống vui vẻ. Nhưng

rồi khi nghĩ đến quy luật sinh tồn trong tự nhiên con nọ ăn thịt con kia, với họ

nhà ruồi ban ngày tránh các loài chim chóc trên cao, cóc nhái, thằn lằn ở dưới

đất, bụi cỏ, ban đêm dơi nhện thạch sùng thì anh ta lại ớn lạnh cả xương sống.

Rốt cục ngay cả khi sống trong kiếp ruồi anh ta vẫn cần một nơi trú ẩn an toàn.

Và vẫn cần có đàn bà bên cạnh. Thật là một cái vòng lẩn quẩn. Trong kiếp ruồi

anh còn gặp Ruồi thứ trưởng, Ruồi trưởng phòng, Ruồi giám đốc, Ruồi Bộ

trưởng.. “không chóng thì chày ruồi ra chật đất. Chật đất ruồi, rồi chính anh lại

phải chuyển sang kiếp khác”.

Viết về thế giới ruồi, Đoàn Lê đã bê nguyên xi cõi người lên cõi ruồi. Bởi

vậy tất cả những rắc rối mà người nghệ sỹ nhào lộn gặp phải trong cõi người thì

khi lên cõi ruồi anh lại phải đối mặt với chính những vấn đề ấy: đó là vấn đề nhà

ở, vấn đề phụ nữ, vấn đề mưu sinh. Cõi người anh từng thấy rất nhiều những

chuyện tiêu cực, chuyện tham nhũng của những kẻ lạm dụng chức quyền thì lên

cõi ruồi anh lại gặp họ cũng tham lam vô lý như thế.

Thông qua hệ thống nhân vật dị hình Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết

được rất nhiều vấn đề hiện thực đời sống, hiện thực xã hội làm nhức nhối lòng

người. Rất nhiều nhân vật trong tác phẩm khiến nhiều kẻ giật mình, tái mặt khi

nhìn thấy bóng dáng của mình trong đó. Ở phương diện này tác phẩm của Đoàn

Lê có ý nghĩa như một hồi chuông cảnh tỉnh với những kẻ bàng quan vô trách

nhiệm trước lời kêu cứu của con dân, đặc biệt là những kẻ chuyên lợi dụng chức

quan để tham nhũng, thao túng đất đai trục lợi. Đồng thời cũng thể hiện sự đồng

cảm sẻ chia chân thành với cuộc sống còn bộn bề những khó khăn, thiếu thốn

của giới văn nghệ sỹ đương thời.

Xây dựng nhân vật ảo, nhà văn đã sử dụng các thủ pháp huyền ảo. Thủ

pháp này được nhà văn “mượn” từ hình thức nghệ thuật của văn học dân gian.

Những yếu tố flolklore được nhà văn sử dụng khá đậm đặc và hiệu quả, trong đó

môtíp biến hóa được nhà văn sử dụng thành công. Đó chính là sự chuyển kiếp 72

của nhân vật: từ kiếp người chuyển sang kiếp ruồi. Sự chuyển kiếp này giống

với những truyện cổ tích về các con vật (Sự tích con muỗi). Nhưng khác với

những truyện cổ, sự chuyển kiếp này là sự giải thoát khỏi những rắc rối, khổ sở

đời thường của nhân vật hay đậm thêm một hiện thực nào đó chứ không phải để

giải thích nguồn gốc một loài vật như trong truyện cổ tích.

Tóm lại khi khắc họa nhân vật ảo với thủ pháp ảo, nhà văn đã làm cho ý

nghĩa cuả tác phẩm nâng lên nhiều lần. Vì vậy cùng viết về một hiện thực như

thế nhưng truyện của Đoàn Lê bao giờ cũng có sức cuốn hút lay động lòng

người. Cái không khí hư hư thực thực vừa thể hiện sinh động hiện thực lại vừa

giúp nhà văn mở rộng, khắc sâu những tầng ý nghĩa của tác phẩm.

73

CHƢƠNG III.

MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ

1. Cốt truyện

Cốt truyện là cái lõi diễn biến của hành động truyện từ lúc xảy ra đến khi

kết thúc, là cái tóm tắt những điểm chủ yếu làm thành một câu chuyện ngắn hơn

nhiều lần so với toàn tác phẩm. Cốt truyện giúp nhà văn tổ chức, sắp xếp các sự

kiện biến cố theo một trình tự hợp lý để thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác

phẩm. Nhờ cốt truyện mà truyện có khả năng chứa đựng một nội dung khá lớn

mà không bị rơi vào tình trạng rối rắm. Cốt truyện còn là một hệ thống những

biến cố, sự kiện được hình thành từ các hành động nhân vật, từ sự vận động của

không gian thời gian của cái được nhà văn miêu tả. Cốt truyện được tạo nên là

do hành động của các nhân vật. Có hành động bên ngoài và cũng có hành động

bên trong nên cũng có cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Trong tác phẩm,

cốt truyện thực hiện một vai trò đặc biệt: liên kết các mối quan hệ giữa các nhân

vật, tổ chức sắp xếp các sự việc xảy ra trong truyện. Ở dạng này hay dạng khác

bao giờ cốt truyện cũng là cái “cốt lõi của văn tự sự”. Cốt truyện của truyện

ngắn có nhiều điểm khác biệt so với cốt truyện của tiểu thuyết. Truyện ngắn gần

với tiểu thuyết ở hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời nhưng điểm khác

biệt giữa hai thể loại này là ở “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại, tác giả

truyện ngắn thường hướng tới sự khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét

bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người”[59, 240].

Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa những điều thú vị, sâu sắc trong hình thức nhỏ

xinh, gọn ghẽ. Đây là thể loại văn học có nội khí “một lời mà thiên cổ, một gợi

mà trăm suy”. Đó là một “thể loại có đẳng cấp tinh vi và toàn bích” của văn học.

Cốt truyện của truyện ngắn cũng phụ thuộc khá nhiều vào hình thức thể loại. Vì

ngắn nên cốt truyện phải đảm bảo tính trọn vẹn của nội dung lẫn hình thức.

Muốn vậy, cốt truyện của truyện ngắn ngoài đặc điểm nổi bật là hấp dẫn, nó còn

có chức năng “nhận ra cái gì đó”[59, 240]. Từ những năm 1986, thực tiễn văn

học đã chứng minh cái gây nên sự hấp dẫn lôi cuốn ở truyện ngắn không phải là

tình huống ly kỳ, độ căng của những cảnh ngộ éo le mà ở chỗ truyện ngắn đã

hướng đến những tình huống đời thường, đi vào chiều sâu tâm hồn con người.

Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở

thành yếu tố thúc đẩy cốt truyện. Truyện ngắn từ sau đổi mới có khuynh hướng 74

tự nới rộng, tự vượt thoát khỏi khung thể loại. Nó phong phú hơn trong hình

thức diễn đạt, đa dạng hơn ở nội dung phản ánh, tự do hơn ở cách thức dựng

truyện. Có những cốt truyện đầy kịch tính. Cũng có những cốt truyện nghèo sự

kiện nhưng giầu tâm trạng. Có những cốt truyện rõ ràng, có mở đầu, có kết thúc.

Cũng có những cốt truyện có cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Có những

truyện phản ánh hiện thực cuộc sống hôm nay, cũng có những truyện có cốt

truyện huyền ảo, cổ tích…Tất cả những dạng thức ấy đều nhằm phân tích lý giải

những vấn đề phức tạp của con người và của cuộc sống hiện đại.

Cốt truyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê không nằm ngoài những đặc

điểm của cốt truyện trong truyện ngắn hiện đại. Truyện của bà đa số là những

truyện hiện đại nên bên cạnh những yếu tố truyền thống, cách xây dựng cốt

truyện của nhà văn còn có những yếu tố mới mẻ, cách tân. Càng về sau bà càng

xây dựng những truyện ngắn theo mạch suy ngẫm tình cảm của con người theo

kiểu cốt truyện tâm lý, cốt truyện triết lý nhân sinh. Khảo sát toàn bộ truyện

ngắn của Đoàn Lê thấy có hai kiểu cốt truyện cơ bản nhà văn thường sử dụng:

truyện có cốt truyện và cốt truyện dòng ý thức.

1.1. Truyện có cốt truyện (cốt truyện truyền thống)

Cốt truyện có vai trò vô cùng quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Cốt

truyện thể hiện tài năng, phong cách, quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn.

Cốt truyện góp phần tạo nên sức mạnh thuyết phục của chủ đề và tư tưởng tác

phẩm. Nếu cốt truyện sơ lược nhàm chán , nhạt nhẽo thì sự hoạt động của tính

cách cũng trở nên buồn tẻ, chủ đề tưởng của tác phẩm sẽ trở thành một thứ lý

thuyết suông, hoàn toàn áp đặt với người đọc. Bởi thế sức hấp dẫn chủ yếu của

tác phẩm chính là ở cốt truyện: ở các sự kiện, biến cố, tình tiết của truyện. Trong

tác phẩm, hệ thống sự kiện được xây dựng theo yêu cầu của việc khẳng định rõ

nét các tính cách qua một quá trình diễn biến của cuộc sống. Những diễn biến đó

có thể yên ả, bình lặng, là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của cuộc sống: cái

xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới, sự sống và cái chết, tích cực và tiêu cực…Cuộc

đấu tranh đó diễn ra trong từng con người, từng sự vật, hiện tượng, có khi giữa

các nhóm người, giai cấp dân tộc. Đó chính là các xung đột xã hội. Miêu tả một

cách nghệ thuật sự vận động của những tính cách qua những xung đột xã hội ấy

để nêu bật chủ đề- tư tưởng của tác phẩm. Đối với những truyện có cốt truyện

thì việc chỉ ra được cốt truyện để làm nổi bật chủ đề tư tưởng, những điều mà 75

nhà văn gửi gắm qua mỗi trang viết của mình lại càng cần thiết hơn. Nói như

nhà văn Nga A. Tônxtôi thì “Cần tìm cho được cốt truyện. Đôi khi xảy ra trong

chốc lát vài giây thôi nhưng giống như một thứ thuốc thử đậm đặc, những cốt

truyện hay có khả năng khiến cho những tư tưởng, những quan sát và hiểu biết

chồng chất, hỗn loạn hiện ra thành lớp lang rành mạch” [67, 103]. Đa số truyện

ngắn của Đoàn Lê là truyện có cốt truyện. Đây là kiểu truyện truyền thống rất

phổ biến trong văn học của ta. Tuy nhiên kiểu cốt truyện này khi đi vào sáng tác

của Đoàn Lê không còn cứng nhắc, nghiêm ngặt kiểu có đầu cuối rõ ràng nữa

mà đã biến đổi hết sức sinh động, linh hoạt nhằm phát huy tối ta vai trò của nó

trong việc bộc lộ tính cách, tái hiện các xung đột xã hội, thể hiện tư tưởng nghệ

thuật của nhà văn. Bởi thế trong những cốt truyện này, nhà văn thường tạo ra

được hệ thống các sự kiện, biến cố có kịch tính, diễn biến theo trình tự của sự

kiện để tâm lý tính cách nhân vật được bộc lộ. Truyện ngắn Đoàn Lê hấp dẫn

người đọc không phải ở những tình huống gay cấn, ly kỳ mà ở chính những vấn

đề nảy sinh trong cuộc sống con người thời đổi mới. Đó là sự thay đổi nếp cảm,

nếp nghĩ, thói quen, lối sống của con người do sự hiện đại hóa của đồ vật, vấn

đề sốt đất do mở đường cao tốc, phá hang làm khu du lịch, cơn sốt lấy chồng

ngoại, vấn đề tình yêu, hạnh phúc, vấn đề mưu sinh...( Xóm Chùa Ông, Đất xóm

Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa, Thành hoàng làng xố số, Tình

Guột, Dấu hỏi gửi thượng đế…)

Truyện ngắn Xóm Chùa Ông được xây dựng dựa trên một chuỗi những sự

kiện làm biến đổi nếp cảm, nếp nghĩ, tâm lý thói quen của người dân nơi một

xóm nhỏ ở ngoại ô thành phố cũng như ở tất cả những vùng quê nghèo dưới sự

tác động của nền kinh tế mở. Sự kiện đầu tiên gây trấn động tâm lý người dân

xóm Chùa là sự xuất hiện của chiếc cát-sét của ông Sĩ Duệ nơi xóm Chùa Ông.

Chiếc cát-sét tham dự vào nhiều hoạt động của đời sống, trước hết là trong đám

cưới, tiếp đến là đám ma với đủ các băng khóc cha khóc mẹ, băng dành cho con

rể, con dâu, con nuôi, cả những băng chuông mõ, tụng kinh niệm phật dành cho

đối tượng đang thập tử nhất sinh... Tiếp đến là sự xuất hiện chiếc ti vi đầu tiên

nơi doanh trại bộ đội bên kia sông mang về. Dù cách xa đến ba cây số nhưng

dân thôn cả xóm không đêm nào không lũ lượt kéo nhau đi xem khiến xóm

Chùa Ông vắng ngắt vắng ngơ. Sự kiện đặc biệt làm xôn xao cả làng trên xóm

dưới là sự kiện bà Chiu bán rượu nếp trên phố bị người tây móc vào và được đền 76

bù tới 400 đô la khiến nhiều người ao ước được như bà. Câu chuyện khép lại

bằng hình ảnh lão Bạch mù- người duy nhất của xóm Chùa không bị cuốn vào

cơn lốc của sự đổi thay mang cây đàn bầu ra gẩy khúc nhạc quê hương. Cốt

truyện là một chuỗi những sự kiện được kể bằng giọng văn ngỡ như bình thản,

lạnh lùng mà đằng sau chứa bao bùi ngùi tiếc nuối của nhà văn. Còn đâu xóm

Chùa ngày xưa nữa, Xóm Chùa giờ đã thay đổi từ cội rễ, không còn cảnh sống

bình yên thủa trước nữa. Kết thúc mở của tác phẩm gợi cho người đọc biết bao

suy tư, trăn trở.

Trong truyện Đất xóm Chùa, cốt truyện lại xoay quanh việc tái hiện cơn

“sốt đất” của xóm Chùa do việc mở đường cao tốc qua làng. Câu chuyện bắt đầu

bằng sự kiện cô gái lai tây tên Mừng chuyên hủ hóa với trai làng rồi quy đổi ra

gạo. Đó là kết quả của nền kinh tế thị trường với liên doanh thương mại, mọi thứ

phải được trả giá sòng phẳng, không có tiền thì quy đổi ra gạo. Rồi tác giả quay

ngược thời gian về trước ba năm để kể về cơn sốt đất của xóm Chùa. Nó được

bắt đầu bằng việc hai anh chàng trên tỉnh về đo đạc cắm cột mốc nói rằng đường

cao tốc sẽ đi qua làng, thế là cả làng rộ lên. Cả làng ngã ngửa người ra khi thằng

Hà bán đầm mực của làng với giá cắt cổ. Chỉ trong vòng nửa tháng cả làng mắc

dịch “sốt đất”: bố con, vợ chồng, anh em, hàng xóm láng giềng đánh cãi chửi

nhau tranh chấp vài tấc đất. Không ai thiết làm ăn gì nữa, chỉ nháo nhác chuyện

mua bán đất. Nhà nào cũng cố co lại cho thật bé, thật hẹp để dư tí đất bán. Trong

chuỗi những sự kiện đó nhà văn chọn một sự kiện tiêu biểu lấy làm điểm nhấn

để làm nổi bật chủ đề-tư tưởng của thiên truyện. Đó là câu chuyện cuộc đời lão

Hớn- người chuyên sản xuất tiền vàng đô la âm phủ. Lão nghèo nhưng có hẳn

bốn bà vợ và mười hai người con. Trong cơn sốt đất lão “gom cư dân” lên hết

nhà trên để cắt nhà ngang cùng nửa khoảnh sân bán cho gã buôn ngoài tỉnh với

giá ba cây, định dùng tiền để mua chỗ khác “giãn dân”. Nhưng trong cơn sốt đất,

lão chẳng tìm đâu được mảnh đất với giá tiền ấy. Lão buột miệng ao ước “Để có

rẻo mặt đường dưới âm, cần phải chết sớm tôi xin chết ngay”. Sau khi biết

chuyện mất ba cây vàng lão đã treo cổ tự vẫn, kết thúc cuộc đời khổ cực tăm tối

của mình. Kết thúc tác phẩm của Đoàn lê thật buồn thảm bi ai như chính hiện

thực cuộc sống mà nhà văn chứng kiến. Sau kết thúc này nhà văn như muốn

gieo vào lòng người đọc những ám ảnh về hiện thực cuộc sống ở những vùng

nông thôn trước tốc độ đô thị hóa của nền kinh tế thị trường. Không biết nông 77

thôn với những nét nhân bản đáng quý sẽ đi về đâu trước cơn lốc của sự đổi thay

đó?

Trinh tiết xóm Chùa cũng là một cốt truyện đặt ra được nhiều vấn đề của

hiện thực làm nhức nhối lòng người. Cốt truyện xoay quanh một chuỗi sự việc

làm nổi bật chủ đề “cơn sốt lấy chồng ngoại” đang rộ lên ở làng quê bấy giờ.

Mọi chuyện bắt đầu từ việc cô Khờ, cháu cụ mõ, con ông chủ tịch bị người dụ

dỗ bán vào lầu xanh tận Hồng Kông. Ở đó Khờ đã gặp được người giầu có gửi

tiền vàng về xây nhà lầu, cải táng mộ phần cho các cụ. Lần này về chơi mục

đích của Khờ là tuyển con gái đem xuất ngoại. Tiêu chuẩn phải xinh xắn, dễ coi

trẻ khỏe, đặc biệt các chị em phải “còn xịn”. Khờ định tuyển một giàn gái đẹp để

kinh doanh “trinh tiết” của họ kiếm lời nhưng núp dưới hình thức môi giới lấy

chồng ngoại. Câu chuyện của Khờ làm bà Duệ đau đớn đến tan nát cõi lòng vì

tiếc của. Con Hoa nhà bà xinh nức tiếng làng xã vừa tuổi mười tám, giá nó

không bị thằng phó nháy ngoài phố “làm thịt” thì giờ cái Hoa đã thành mỏ vàng

nhà bà. Nghe chuyện của Hoa, Khờ rỉ tai bà Duệ khiến bà sửng sốt “dì thu xếp

cho con một khoản kha khá con có đường dây bí mật đưa em Hoa đi sửa sang

lại… đến một cơ sở y khoa đặc biệt ở đó người ta nhận vá, người ta tân trang

nguyên làng như cũ. Tân trang song con gái đã hư cũng trở thành “xịn”, lại rác,

lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết y khoa” ấy”. Ôi chao, còn đâu

xóm Chùa ngày xưa nữa! Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu

đưa ma túy ,ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền. Vì tiền người ta có thể

đổi trắng thay đen, chà đạp cả thuần phong mỹ tục, hủy hoại cả nét nhân bản

vốn quý ngàn đời của dân tộc. Truyện khép lại trong cảnh ông Sĩ Duệ - bố Hoa

khi biết được câu chuyện của con gái đã “xây xẩm mặt mũi, ngã lăn vào lòng lão

Bản. Hai tay ông vẫn chới với muốn níu giữ cái gì vô hình đang vuột mất”. Cái

vô hình đang vuột mất kia phải chăng chính là những nét nhân bản truyền thống

vốn quý của làng quê khi chưa bị sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường, chưa

có sự chi phối của đồng tiền. Viết về hiện thực xóm Chùa cũng là hiện thực

nông thôn thời mở cửa, hầu hết những cốt truyện của Đoàn Lê đều đưa ra một

chuỗi những sự kiện, biến cố làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Những

sự kiện, biến cố ấy không xoay quanh một nhân vật chính duy nhất như nhiếu

cốt truiyện của truyện ngắn khác mà gắn nối với nhau bằng một sợi dây vô hình

78

là chủ đề tác phẩm. Kết thúc của những cốt truyện ấy thường là lối kết thúc mở

gợi ra được những dư vị thấm thía cho lòng người.

Cốt truyện Thành hoàng làng xổ số lại xoay quanh cuộc đời, số phận của

nhân vật lão Khiển –một kẻ đam mê số đề đến mức “ngộ độc” chết một cách

thảm thương. Nguyên nhân lão đến với số đề có phần hợp lý, chơi để cất lại căn

nhà xiêu vẹo hiện tại và đặc biệt cải táng những ngôi mộ sắp trôi sông của tứ

thân phụ mẫu. Vì thế mỗi tháng lão cố tằn tiện số lương văn thư ít ỏi vừa đủ mua

một tấm vé số để cầu may. Dịp đó dường như thần tài đã thấu hiểu cảnh ngộ của

lão mà cho lão trúng giải sáu được bảy trăm đồng. Từ đó lão Khiển càng quyết

tâm lao vào xổ số, lão Khiển mua xổ số như điên, cứ có đồng nào trong túi lão

mua tuốt như con bạc khát nước. Rồi lão mất xe, mất việc và mất luôn cả gia

đình, dù lang thang lão vẫn xoay mọi cách để có tiền mua xổ số như bơm xe,

giúp việc cho bà góa...Về sau kiếm ăn không nổi, lão chơi xổ số bằng tưởng

tượng rồi bị “ngộ độc” và chết đau đớn. Với hình hài chỉ còn xương bọc da, lão

Khiển đã chết đau, chết đói, chết rét, chết cô độc trên đường tìm về nhà. Khác

với những cốt truyện trước, ở cốt truyện này nhà văn xây dựng rất nhiều biến cố,

sự việc quanh cuộc đời lão Khiển để làm nổi bật ý nghĩa phê phán hiện thực xã

hội một thời ở nước ta. Hiện thực về sự phát triển ồ ạt của nền kinh tế thị trường

kéo theo nó hàng loạt những vấn nạn. Một trong những tệ nạn bùng phát mạnh

mẽ nhất ở khắp các vùng từ nông thôn đến thành thị khiến người dân không thiết

tha làm ăn gì là nạn cờ bạc, số đề. Tệ nạn ấy không những đẩy bao gia đình vào

cảnh nhà tan, cửa nát mà còn cướp đi mạng sống của bao người, làm đảo điên xã

hội, suy thoái nền kinh tế. Hiện thực ấy được nhà văn thể hiện sâu sắc qua cuộc

đời số phận của một con người.

Những truyện có cốt truyện của Đoàn Lê luôn ẩn chứa những vấn đề hiện

thực sâu sắc gây ám ảnh lòng người. Những cốt truyện ấy thường không đao to

búa lớn mà tự nhiên dung dị nhưng lại hàm chứa những ý nghĩa thật sâu sa.

Những vấn đề hiện thực mà nhà văn phản ánh qua mỗi cốt truyện ấy đều là

những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, những vấn đề làm nhức nhối lòng người:

vấn đề “sốt đất” do mở đường cao tốc (Đất xóm Chùa), cơn sốt lấy chồng ngoại

(Trinh tiết xóm Chùa), vấn đề mở khu du lịch sinh thái dởm (A Tourism xóm

Chùa), nạn cờ bạc số đề (Thành hoàng làng xổ số)…và rất nhiều vấn đề hiện

làm nhức nhối lòng người.

79

1.2. Cốt truyện tâm lý

Bên cạnh cốt truyện truyền thống, Đoàn Lê còn xây dựng một loại cốt

truyện nữa: cốt truyện tâm lý. Loại truyện này chủ yếu đi sâu vào thể hiện diễn

biến tâm lý nhân vật. Chất “chuyện” mờ nhạt, khó tóm tắt, khó kể lại. Truyện ít

có những chuyển động về hành động bên ngoài, nếu có cũng không tác động đến

cốt truyện bao nhiêu. Ở loại này, những nguyên tắc truyền thống dường như

biến hóa hơn. Các yếu tố sự kiện, tình tiết nhân vật được triển khai theo mạch

vận động, suy nghĩ là chủ yếu. Vì thế loại truyện này thường được cảm nhận

bằng suy nghĩ tâm trạng nhân vật hơn là những câu chuyện được tường thuật.

Dẫu vậy, cốt truyện tâm lý vẫn thể hiện đầy đủ “hệ thống tính cách” và “những

xung đột xã hội” mà một tác phẩm tự sự cần có. Hệ thống sự kiện của tác phẩm

được sắp xếp theo dòng tâm lý nhân vật xung đột chủ yếu là xung đột tâm lý.

Cốt truyện tâm lý đã được một số nhà văn Việt Nam khai thác thành công

từ những năm 1930-1945. Truyện thường không có cốt truyện gì đáng kể, sự

kiện, biến cố là yếu tố cầu nối để nhà văn khai thác tâm lý nhân vật với những

biến động tinh vi, chứa đựng những day dứy và ám ảnh. Tiêu biểu là những

truyện như Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Đứa con đầu

lòng, Tiếng chim kêu của Thạch Lam hay Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn…của

Nam Cao. Nhưng phải đến văn học giai đoạn sau đổi mới, kiểu cốt truyện này

mới thực sự nở rộ. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã lý giải về bản chất truyện

này như sau “Có những người viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến

bên ngoài, hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên trong, vào

cái mà nhân vật thu nhận được bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại,

bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện ngắn mà

ta thgường gọi là truyện ngắn không có truyện, chẳng qua chỉ là một thủ đoạn

văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp tiếp xúc với

người đọc” [11, 256]. Đây là loại truyện có “cốt truyện bên trong” tức cốt truyện

tâm lý diễn tả những tâm trạng điển hình của nhân vật.

Cốt truyện tâm lý của Đoàn Lê thường xuất hiện hai kiểu xung đột: xung

đột giữa hoàn cảnh và tính cách; xung đột giữa tính cách với nhau. Những xung

đột này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Xung đột còn giúp tác

phẩm trải qua các giai đoạn phát triển của cốt truyện, từ đó chủ đề tác phẩm 80

được sáng tỏ. Có những tác phẩm toàn bộ cốt truyện diễn ra bằng mạch phát

triển tâm lý của nhân vật như truyện Giường đôi xóm Chùa, Đêm ngâu

vào…Cốt truyện Giường đôi xóm Chùa được phát triển bằng mạch ngầm tâm lý

của nhân vật “Tôi”. Đó là một người phụ nữ đã từng có hai tám năm sống với

một người chồng không hoàn toàn hòa hợp. Vì không hòa hợp nên gia đình ấy

đã có bao phen sóng gió, tình cảm của họ đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền

không thể vá víu được nữa. Và họ quyết định chia tay nhau khi đã có con cháu

đủ đầy. Cốt truyện rất đơn giản, chỉ vài ba sự kiện tiêu biểu, chủ yếu là dòng ý

thức, dòng tâm trạng của nhân vật „tôi”. Thời gian cốt truyện chỉ trong một đêm,

trong một đêm nhân vật tôi nhớ lại câu chuyện của cả cuộc đời hai tám năm

chung sống với người chồng ấy. Câu chuyện bắt đầu từ tâm trạng của nhân vật

“tôi” trên chiếc giường đôi đầy kỷ niệm của hai người, giờ đã có sự xuất hiện

của người thứ ba xen vào làm tan nát mọi thứ. Từ đây mọi ý nghĩ của nhân vật

tỏa đi các ngả không theo một trật tự nào hết. Nó diễn ra theo mạch diễn biến lô

gích của suy tư. Đầu tiên là tâm trạng bàng hoàng của nhân vật “tôi” khi nhận

lời thú tội của người chồng bội bạc. Rồi từ trong tâm trạng bàng hoàng ấy, chị

nhớ lại những ngày đầu tiên khi anh ta thổ lộ tình yêu với chị, thật ngọt ngào và

lãng mạn. Chị nhớ lại quãng đời chung sống với anh ta: vui cũng lắm mà buồn

cũng nhiều, bao phen họ phải cố gắng giữ cho tổ ấm đứng vững trước sóng gió

muôn mặt của đời thường. Tiếp đó chị dự tính những việc phải làm sau khi chia

tay: chuyện con cái nhà cửa, chuyện căn phòng riêng của hai người…Trong

dòng suy nghĩ ấy, chị nhớ lại chuyện về con trai, ngày nó lấy vợ, chuyện về đứa

cháu nội- thiên thần bé bỏng của chị, chuyện niềm tin tâm linh vào những giấc

mơ của chị, chuyện về cuộc đời tủi cực, cay đắng của mẹ chị, chuyện về người

bạn trai tên Báu thủa nhỏ của chị…Dòng hồi ức đưa chị trở về với thời gian gần

nhất cách đây một tháng khi chị chờ chuyện ly hôn ngã ngũ, chị đã làm một

chuyến đến Quảng ninh làm một bộ phim tài liệu, cùng cuộc gặp gỡ với người

tình cũ của chồng và chuyến thăm đảo khỉ đầy ý nghĩa. Truyện khép lại ở cảnh

chị và chồng cùng trở mình khi gà đã gáy sáng. Có thể nói truyện không có cốt

truyện gì đặc biệt, toàn chuyện là dòng ý thức của nhân vật “tôi” nhưng nhà văn

vẫn đặt ra và giải quyết được rất nhiều vấn đề có ý nghĩa triết lý. Vấn đề về tình

yêu, hôn nhân. Hôn nhân chỉ thực sự hạnh phúc khi có sự đồng cảm sẻ chia, hòa

hợp của vợ chồng. Muốn làm được điều đó cả hai người cần phải luôn cố gắng 81

vun đắp cho tình yêu, làm mới tình yêu đề cuộc sống chung không rơi vào sự

nhàm tẻ.

Cốt truyện Đêm ngâu vào cũng xoay quanh dòng diễn biến tâm trạng của

nhân vật “tôi”- một họa sỹ. Câu chuyện bắt đầu bằng một chiều mưa ngâu người

họa sỹ ngồi lặng lẽ ngắm hình hài người thiếu phụ đang tiều tụy đi vì bệnh tật.

Từ hiện thực đó, dòng ý thức đưa anh trở về những tháng ngày qúa khứ. Đầu

tiên là mốc thời gian năm bốn mươi tuổi, anh mở một phòng tranh, tặng bức gạt

tàn cho một người đàn ông và nhận lại ba con khỉ gỗ. Những lúc anh phiền

muộn hay có tâm sự gì, ba con khỉ gỗ lại sẻ chia với anh. Rồi từ đó ký ức lại đưa

anh trở về những tháng ngày anh quen nàng đã hơn hai mươi năm về trước. Đó

là một ngày trời mưa định mệnh, sau ngày đó anh đã vĩnh viễn mất nàng . Sau

khi nàng bị con “cá mập” cướp đi, anh đã dọn về ở nhà nàng- anh vốn là con

nuôi của mẹ nàng. Anh đau đớn thấy mỗi lần nàng về thăm nhà lại thấy nàng

nhỏ bé đi. Căn bệnh quái ác đang dần cướp nàng khỏi cuộc đời, anh lặng lẽ ngồi

phác thảo nàng những ngày cuối mà nuốt thầm những giọt lệ vào trong. Sau khi

nàng qua đời , anh đặt bức vẽ dở dang vào góc bàn có những chú khỉ gỗ rồi

mừng rỡ đến nỗi “khóc nức lên, thật kỳ diệu!”. Toàn truyện dường như không

có chuyện, đó là dòng tâm trạng, hồi ức của nhân vật người họa sỹ. Truyện

không có nhiều tình tiết, biến cố ly kỳ nên rất khó tóm tắt hay kể lại. Cấu trúc

của truyện rất lỏng lẻo, đó là dòng ý thức nên nó nhảy cóc, biến hóa rất linh hoạt

rất phù hợp để thể hiện các sắc thái tâm lý, tình cảm của nhân vật người họa sỹ.

Tất cả là một nỗi hối tiếc, sót xa tràn ngập cõi lòng. Chỉ vì một phút giây do dự

mà anh đã để mất tình yêu và rồi mất luôn cả người yêu mãi mãi. Dư vị của sự

nuối tiếc thấm đẫm những trang văn của Đoàn Lê.

Những truyện loại này, sự sắp xếp các đoạn trong mỗi tác phẩm thường

không tuân theo thứ tự thời gian: có khi thuận theo chiều tuyến tính thời gian,

khi bị đảo ngược. Đây chính là lối lắp ghép liên văn bản trong nghệ thuật xây

dựng bố cục của nhà văn. Người đẹp xóm Chùa là một truyện ngắn rất tiêu biểu

cho lối lắp ghép liên văn bản này. Cốt truyện rất đơn giản nếu không muốn nói

là chẳng có gì đáng nói. Chuyện kể về một anh họa sỹ rất yêu quý, trân trọng cái

đẹp. Vì thế, anh đã dành hầu hết những tháng năm sôi nổi của thời trai trẻ để lưu

giữ cái đẹp bằng việc vẽ những bức tranh khỏa thân thiếu nữ và mở được một

triển lãm tranh với “hai mươi mùa xuân” để ca ngợi vẻ đẹp kỳ diệu của họ. Chỉ 82

tiếc những kẻ phàm tục không hiểu được những cái đẹp quý giá mà anh tôn thờ,

anh thấy sót xa cho cái đẹp. Rồi một hôm thằng bé anh vẫn nhờ trông cửa mỗi

khi anh làm việc đã tha thiết nài nỉ anh cho vay tiền và trả bằng việc cho em gái

nó làm mẫu vẽ cho anh. Người họa sỹ không muốn nhưng trước vẻ đẹp thiên

thần của cô bé anh đã vẽ như điên không chỉ cái vẻ bề ngoài mà cả phẩm chất

tâm hồn của cô bé ngoan hiếu thảo. Đó là bức vẽ anh dành định dành riêng cho

mình mà nếu chết anh sẽ tặng cho cô bé. Mạch truyện đang ở dòng cảm xúc của

người họa sỹ khi ngồi vẽ cô bé bỗng biến đổi linh hoạt nhảy cóc. Dường như

nhà văn xen vào kể một câu chuyện khác không liên quan gì đến mạch chuyện

chính. Chuyện về anh chàng bán tạp hóa có bức tranh khỏa thân do mua từ thiện

của một ông họa sỹ nghèo để lấy tiền chôn cất ông ta. Bức khỏa thân ấy lại là

mẹ cô gái bán bánh cuốn mà anh chàng bán tạp hóa yêu. Mẹ cô bé đang hấp hối,

rất mong được nhìn bức tranh của mình lần cuối. Khi nhìn bức tranh khỏa thân

cô như bị thôi miên, rồi cô đã đánh đổi cái quý giá nhất của đời người con gái để

lấy bức tranh khỏa thân thỏa ước nguyện của mẹ cô trước khi qua đời. Sau khi

mẹ mất, cô đã trả lại anh chàng tạp hóa bức tranh khỏa thân kèm một bức thư và

rời bỏ mảnh đất ấy. Anh chàng tạp hóa tìm đến nhà cô, anh hết sức ngạc nhiên

khi so sánh người đẹp trong tranh với bức ảnh người đàn bà già nua sầu muộn

“hai hốc mắt tối sẫm, cái sọ trơ xương”. Cuộc đời quá phũ phàng đã tàn phá xô

đẩy cái đẹp đến mức tiều tụy, xác xơ để bao người phải nghi ngờ “Hỡi ôi, cái

đẹp có thực hay không thực?”. Đấy cũng là tấm lòng xót xa cho cái đẹp của nhà

văn, cái đẹp vốn yểu mệnh. Nếu không được nâng niu, trân trọng, che chở, bảo

vệ cái đẹp sẽ nhanh chóng bị tàn phai trước sóng gió muôn mặt của cuộc sống

đời thường. Truyện khép lại trong cảnh nhân vật họa sỹ đối thoại với cô bé và

đánh dấu một nốt son lên bức tranh để chứng thực đã có một nhan sắc như thế đi

qua thế gian. Đây là cách kết thúc của kiểu truyện có bắt đầu mà không có kết

thúc. Kết thúc ngỏ mở ra nhiều khoảng trống để người đọc tự suy nghĩ, phán

đoán, tưởng tượng để lấp đầy. Bằng cách này truyện của Đoàn Lê đã phản ánh

hiện thực cuộc sống không chỉ đa dạng, bề bộn mà đang còn dở dang, một hiện

thực luôn trên dòng vận động không có dấu chấm cuối cùng.

Nhìn con người với diễn biến bên trong của dòng suy nghĩ, tâm trạng,

Đoàn Lê đã khám khá được chiều sâu của cuộc sống với nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Với cách khám phá con người tâm lý, con người tâm trạng, truyện ngắn của 83

Đoàn Lê hòa chung với dòng chảy của truyện ngắn hiện đại góp phần làm phong

phú thêm cho thể loại truyện ngắn này. Đồng thời cũng khẳng định được tên

tuổi của Đoàn Lê trong nền văn học đương đại.

1.3 Cốt truyện kỳ ảo.

Nhà văn Ngô Tự Lập đề xuất cách dùng thuật ngữ truyện kỳ ảo như sau:

“Truyện kỳ ảo đưa ra những sự kiện không thể giải thích nổi bằng những quy

luật thông thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và cái ảo, cái tự nhiên và siêu

nhiên xâm nhập lẫn nhau…” [75]. Ở thể loại truyện này, cái kỳ ảo là yếu tố cơ

bản tham gia vào dẫn dắt cốt truyện. Cái kỳ ảo là thủ pháp làm đậm thêm hiện

thực, soi chiếu những góc độ khác nhau của hiện thực. “Thế giới kỳ ảo không

phải ở ngoài, cũng không phải ở trên, cũng không phải ở dưới, nó ở trong đáy

lòng chúng ta, nó lay động đến tất cả, nó là linh hồn của tất cả sự thật, nó hiện

diện trong tất cả sự việc, mỗi nhân vật tự mình mang nó và biểu hiệh nó theo

cách của mình” [51, 117]. Cốt truyện ở thể loại này mang những yếu tố kỳ lạ, có

tính chất ảo, làm người đọc kinh ngạc, thích thú, thậm chí là sợ hãi. Cốt truyện

loại này, Đoàn Lê đề cập tới ở Nghĩa địa xóm Chùa, Lên Ruồi, Nhân Bản…

Cốt truyện Nghĩa địa xóm Chùa xoay quanh việc nhầm lẫn thân nhân của

một vị tướng với một tay thợ điện bậc ba đã về hưu. Từ tình huống vừa vui cười

vừa bi thảm ấy, Đoàn Lê đã tưởng tượng cả một cốt truyện phong phú , sinh

động về cõi âm. Cõi âm cũng tồn tại, sinh hoạt, đi lại, nói năng và tán chuyện

với nhau y như cõi người vậy. Tối tối khối cộng đồng đông đúc của cõi âm lại rủ

nhau đội mả chui lên mặt đất để sinh hoạt. Khối cộng đồng ấy đặc biệt sôi nổi

trong những đêm đón tiếp hồn ma mới. Họ cũng bầu thứ hạng, cấp bậc lo quản

lý khu nghĩa địa đâu ra đấy. Cả khu nghĩa địa đều nhao lên về chuyện hồn ma

nằm trong quan tài kính sắp được chôn ở khu nghĩa địa của họ. Rồi đám ma cũ

kéo nhau làm tình làm tội hồn ma mới, bắt anh ta tường trình toàn bộ chuyện

nhầm lẫn kia rồi họ mới chịu tản về các nơi sinh hoạt như thường ngày. Thông

qua câu chuyện cõi âm, nhà văn muốn làm đậm thêm một góc nhìn hiện thực:

hiện thực về các loại phí dịch vụ đang hoành hành trong xã hội hiện đại “tiền lót

tay tiêu cực phí”. Nếu không có khoản ấy “lót tay” cho bọn canh nhà xác, chúng

sẵn sàng làm cái việc mất hết nhân tính là tráo đổi xác người quá cố. Bên cạnh

đó còn hiện thực về tình thân, tình người đang bị xói mòn trước sức công phá

của đồng tiền với vẻ hào nhoáng bề ngoài, rồi chuyện đút lót, hối lộ, bợ đỡ, 84

chuyện “ma cũ bắt nạt ma mới”…Bằng cách tưưởng tượng một thế giới ảo,

Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết được rất nhiều vấn đề của hiện thực đời sống

thật chân thực và dí dỏm.

Cũng một cách giải quyết như vậy, ở truyện ngắn Lên Ruồi, Đoàn Lê đã

bê y nguyên hiện thực cõi người lên cõi ruồi. Nói cách khác, cõi ruồi cũng

thường tình như cõi người vậy. Cốt truyện xoay quanh cuộc đời, số phận của

một nghệ sỹ nhào lộn. Anh đã đóng góp gần trọn cuộc đời cho nghệ thuật, giờ

anh ly dị vợ không có chỗ ở, xin cấp một căn hộ theo tiêu chuẩn mà đi khắp các

cửa kêu xin đều không được giải quyết còn bị biến thành ruồi. Trong kiếp sống

ruồi, anh tưởng có thể giải quyết được tất cả những vấn đề bức súc trong cõi

người thì lại phải đối mặt với những vấn đề còn phức tạp hơn. Đó là vấn đề mưu

sinh, nhà ở, phụ nữ…Cõi ruồi cũng có thứ hạng, cấp bậc, có ruồi Bộ trưởng, thứ

trưởng, ruồi giámn đốc, trưởng phòng…Và không chóng thì chày lại chật đất

ruồi rồi đâu lại vào đấy. Đúng là cái vòng luẩn quẩn, ở đâu người nghệ sỹ nhào

lộn ấy cũng không thể thoát khỏi những vấn đề muôn thủa cho dẫu là chính

đáng. Vấn đề của người nghệ sỹ nhào lộn cũng là vấn đề chung của đa số người

dân trong thời buổi đất chật người đông, “mật ít ruồi nhiều” tìm đâu ra sự công

bằng. Thời buổi có những người được cấp đến ba bốn lần nhà mà vẫn xin cấp

nữa và vẫn được giải quyết, còn những người “thấp cổ bé họng” thì lời kêu của

họ vẫn mãi “trời không thấu đất không hay”. Hiện thực nhức nhối này nhờ nghệ

thuật ảo hóa của Đoàn Lê mà trở nên sinh động và có chiều sâu.

Ở Nhân bản, nhà văn lại tưởng tượng một cốt truyện viễn tưởng thật rùng

rợn. Chuyện về một phiên bản khác được tạo ra từ miếng da nách của một thi sỹ

khi ông ta bị tai nạn phải dừng sự nghiệp sáng tác. Trước khi cho nhân bản

mình, ông ta đã có vợ và một con trai. Khi cậu con trai lên ba thì họ chia tay, từ

đó cậu bé thành trẻ bụi đời lang thang, lưu lạc tận chân trời góc biển. Vì thế, ông

ta cho nhân bản mình nhằm lấy người kế tục thực hiện ước vọng lớn lao ông

chưa đạt được lúc sinh thời. Rồi theo mạch tưởng tượng đó, nhà văn kể về cuộc

sống mới của nhân bản. Điều khiến người đọc choáng váng, thót tim là nhân bản

cũng biết yêu mãnh liệt. Nhân bản của ông thi sỹ lại tìm gặp đúng nhân bản

người vợ kiếp trước của mình để yêu đến điên cuồng, mê muội đến mức họ lại

sắp cho ra đời một đứa trẻ của bốn mươi năm về trước. Cầm chắc họ sẽ nhân

bản truyền đời một cuộc chơi bi thảm kiếp trước, nước mắt, ly hôn…Rồi một 85

đứa trẻ vô thừa nhận lại lang thang bụi đời khắp chốn. Cốt truyện khép lại với

rất nhiều day dứt ám ảnh. Đến đây người đọc không còn để ý nhiều đến chuyện

nhân bản vô tính nữa mà quan tâm đến ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà nhà văn gửi

gắm đằng sau câu chuyện ấy. Đó là hiện thực bi thảm của những đứa trẻ bị bỏ

rơi từ những cuộc hôn nhân tan vỡ. Cha mẹ chúng quá vô trách nhiệm, quá ích

kỷ, mải mê theo đuổi những dục vọng riêng mà nỡ bỏ qua lời kêu cứu của con

trẻ. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng muốn gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh

với xã hội về tính hai mặt của một vấn đề. Nếu nhân bản vô tính xảy ra thật thì

xã hội sẽ điên đảo, rất nhiều kẻ xấu sẽ lợi dụng việc này để trục lợi. Chúng sẽ

cho nhân bản hàng loạt những tay chân chuyên làm việc xấu, rồi tội ác tràn

lan…Cuối cùng thì lợi ít, hại nhiều, xã hội loài người sẽ suy thoái, nạn ly hôn

không ngừng gia tăng, có không biết bao nhiêu đứa trẻ bị bỏ rơi… Dưới hình

thức một câu chuyện kỳ ảo, Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết được nhiều vấn đề

hiện thực lớn lao từng gây xôn xao cả dư luận thế giới. Với ý nghĩa to lớn ấy, tác

phẩm của Đoàn Lê còn mang chức năng dự báo tương lai.

1.4 Vai trò của người kể chuyện với sự phát triển của cốt truyện

Người kể chuyện có vai trò rất quan trọng với sự phát triển cốt truyện.Vì

thế có nhận xét cho rằng: Muốn đọc hiểu một truyện ngắn hiện đại cần lưu ý đến

người kể chuyện đã đành, không có người kể chuyện không có truyện ngắn,

nhưng người kể chuyện luôn luôn ẩn mình. Ngay những truyện ngắn với người

kể chuyện xưng “tôi” cũng là một thứ lảng tránh chủ thể phát ngôn. Nhà văn

muốn làm mất cái tôi cá nhân mình để có được cái tôi nghệ thuật. Ngƣời kể

chuyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê nhiều khi ẩn đi vai trò của mình.

Người kể chuyện thường không xuất hiện trực tiếp xưng “tôi”, nhưng trong mỗi

câu chuyện dường như bao giờ cũng có một con người luôn ẩn mình đằng sau

câu chữ, thấu hiểu mọi ngóc ngách của truyện. Câu chuyện cứ thế mở đầu, kết

thúc mà không cớ điểm dừng nào dành cho người kể chuyện. Người kể chuyện

không xuất hiện bằng ngôi thứ cụ thể nào, nhà văn hoàn toàn trao giọng điệu cho

nhân vật tự dẫn dắt câu chuyện ( Đất xóm Chùa, Xóm Chùa Ông, Trinh tiết Xóm

Chùa, A tourism xóm Chùa…). Có đôi khi giọng điệu, thái độ của nhà văn thể

hiện qua giọng điệu ngôn ngữ nhân vật. Trong tác phẩm Trinh tiết xóm Chùa

thái độ người kể chuyện thể hiện qua lời nhân vật lão Bản: Còn đâu xóm Chùa

ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu đưa ma túy, 86

ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền…Với lối kể chuyện ẩn đi vai trò của

của người kể chuyện, những câu chuyện được kể trở nên khách quan, chân thực

và có sức thuyết phục hơn. Những vấn đề của hiện thực mà nhà văn phản ánh

trong tác phẩm qua điểm nhìn của nhân vật cũng có tính chân thực cao hơn.

Bên cạnh những câu chuyện ẩn đi vai trò của người kể chuyện, sáng tác

của Đoàn Lê còn rất nhiều truyện mà vai trò của ngƣời kể chuyện xuất hiện

trực tiếp xƣng “tôi”. Sự xuất hiện của người kể chuyện thường “đem lại cho

tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp

hay lập trường xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con

người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú” [52,191]. Khi người kể

chuyện ở ngôi thứ nhất thì chủ thể phát ngôn có dáng dấp của chính tác giả. Rất

nhiều truyện ngắn của Đoàn Lê, nhân vật “tôi” mang bóng dáng tác giả. Ở

những truyện ấy, dường như nhà văn đang kể lại câu chuyện của chính cuộc đời

mình. Đó chính là xu hướng “tự nghiệm” trong truyện ngắn Đoàn lê mà luận văn

đã đề cập đến ở phần trên. Nhân vật “tôi” ở Giường đôi xóm Chùa kể cuộc đời

gần ba mươi năm chung sống rồi ly hôn do người chồng bội bạc, hay nhân vật

“tôi” ở Trái táo nham nhở kể lại bi kịch cuộc đời với hai mươi năm bị lừa dối, bị

đánh cắp tình yêu là những nhân vật có hình bóng tác giả rõ nhất. Trong những

truyện này, nhà văn như hóa thân vào nhân vật để tường thuật lại chính câu

chuyện cuộc đời mình, những cảm xúc, những nỗi đau chồng chéo, đan xen,

những ẩn ức bị kìm nén…Tất cả đều hiện lên chân thực sống động như nó vốn

thế dưới điểm nhìn trần thuật của tác giả. Có những trường hợp nhân vật “tôi”

xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm nhưng đứng ở góc độ là người soi thấu mọi sự

việc hoàn cảnh. Đó là nhân vật người phụ nữ xưng “tôi” trong truyện Hai bà mẹ

và tôi. Nhân vật “tôi” đã chứng kiến toàn bộ câu chuyện bi thảm của hai bà mẹ,

một người có đứa con là sát nhân và một người có đứa con là nạn nhân. Sau câu

chuyện của hai bà mẹ, nhân vật “tôi” đã thay lời nhà văn thể hiện quan điểm,

thái độ của mình với hiện thực thảm khốc của đồng tiền cùng sức hủy diệt ghê

gớm mà nó đã gây ra: “Cầm tờ đô la tôi không khỏi ớn lạnh. Ít nhất đã có hai

nhân mạng chết vì nó. Một kẻ bị giết, một kẻ mới bị tử hình. Đến ai nữa đây?

Những xác chết có lẽ sẽ rữa ra, nhưng nó vẫn tồn tại. Tồn tai cả nỗi đau đớn

của những bà mẹ có cùng bầu sữa ngọt ngào giống nhau”. Nhân vật “tôi” ở Con

bướm ngựa cánh xanh lại trong vai một họa sỹ vẽ tranh được nghe kể và trực 87

tiếp chứng kiến cuộc sống, số phận của những cô gái bán hoa rồi bày tỏ sự

thương cảm, xót xa cho số phận của những cô gái “hồng nhan” bị hoàn cảnh xô

đẩy phải ngụp lặn trong chốn phong trần nhơ bẩn. Cũng một cảm xúc như vậy,

trong Người đẹp xóm Chùa, người nghệ sỹ suốt đời nâng niu, tôn thờ cái đẹp

trong vai nhân vật “tôi” đã luôn tìm cách để bất tử hóa những nhan sắc thanh

tân. Ông đã tận dụng mọi cơ hội để ghi lại và lưu giữ cái đẹp cho dẫu phải sống

trong nghèo khó. Nhưng tiếc thay cái đẹp vốn “bạc mệnh” trước sức băng cuốn,

xô đẩy của những quy luật sinh tồn. Người đẹp một thời nhân vật “tôi” hết lời

ngợi ca trân trọng giờ chỉ còn là một hình hài quắt queo của xương với da đến

nỗi ông ta phải thảng thốt: “Than ôi, cái đẹp có thật hay không có thật!”

Với điểm nhìn trần thuật như thế, nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”

trong những tác phẩm khác của Đoàn Lê đã đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn

bởi sự chân thật, khiến người đọc cảm thấy đó như là những câu chuyện vẫn

diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Đồng thời ta còn nhận thấy thái độ của nhân

vật “tôi” trong các tác phẩm ấy bao giờ cũng nhân ái bao dung và chan chứa yêu

thương với tất cả những nỗi đau của nhân thế. Đó chính là cơ sở để ta khẳng

định người kể chuyện xưng “tôi” trong hầu hết những sáng tác của Đoàn Lê

mang hình bóng tác giả. Và dù xuất hiện trực tiếp hay ẩn đi, vai trò của người kể

chuyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê cũng đóng vai trò quan trọng trong việc

khắc họa hình tượng nhân vật, thể hiện quan điểm sáng tác, bày tỏ tư tưởng,

quan điểm lập trường xã hội của nhà văn.

2. Tình huống truyện

Sáng tạo tình huống, ấy là vấn đề cơ bản của nghệ thuật viết truyện ngắn.

Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì “tình huống truyện giống như một tứ

thơ, nó lại giống như một thứ nước rửa ảnh sẽ làm nổi hình, nổi sắc người và vật

vừa làm nổi bật vấn đề tư tưởng của tác giả”. Tình huống truyện “giúp cho

những gì còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay bộc lộ và hoạt động tích

cực...có tính chất riêng biệt. Tình huống trở thành xung đột, là bước trung gian

giữa tình trạng im lìm và tình trạng hành động” [24, 111] Và thông thường “Mỗi

truyện ngắn chỉ chứa đựng một tình huống, vì thế tình huống tiêu biểu phải cùng

lúc thực hiện các nhiệm vụ nghệ thuật là gắn kết các nhân vật cùng tham gia một

sự kiện, biến cố có ý nghĩa nào đó, bộc lộ quan hệ và tính cách các nhân vật, thể

hiện chủ đề”[19,263]. Tình huống là yếu tố nghệ thuật quan trọng trong tác 88

phẩm tự sự. Dù là những cốt truyện giầu kịch tính hay những cốt truyện không

có biến cố thì truyện ngắn vẫn phải dựa vào một tình huống nhất định. Việc

phát hiện và xây dựng những tình huống hay sẽ làm bộc lộ những nét cơ bản của

những tính cách, số phận trong các tác phẩm, làm nổi bật một vấn đề, hiện tượng

xã hội nào đó. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng “Những nhà văn có tài đều

là những người có tài tạo ra những tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa

mang tính phổ biến hoặc tượng trưng...Tình thế truyện không cần đến những

mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó lại là cái cớ chắc chắn, hết sức cụ thể và

mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa vào nhau để thực hiện

đắc lực tất cả ý định của tác giả. Ví như một cây cọc vững chắc để cho một cây

bí leo lên mà ra hoa trái”. Cái tài của người cầm bút là “có thể chọn ra trong cái

dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất,

chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống với một vài sự việc

diễn biến sơ sài và cũng bình thường hoặc có thể dồn dập và không bình thường

nhưng bắt buộc con người ở vào cái tình thế phải bộc lộ cái phần tâm can nhất,

cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí đó là cái khoảnh khắc chứa cả một đời

người, một đời nhân loại.” [11,258-260]. Trong sáng tác của mình, Đoàn Lê xây

dựng được nhiều tình huồng truyện độc đáo.

2.1 Tình huống bi kịch

Tình huống truyện trong sáng tác của Đoàn Lê thường là những tình

huống bi kịch. Tạo ra những tình huống này, nhà văn có thể khai thác chiều sâu

tính cách, tâm hồn con người trước bất hạnh của số phận. Trong Dấu hỏi gửi

thượng đế, nhà văn đặt nhân vật cô Huệ vào một tình huống thật éo le, chớ trêu.

Ấy là vào một đêm mưa giông bão, cô đã mạnh dạn bước qua rào cản của những

phép tắc luật lệ để đến với một người đàn ông cũng có cảnh ngộ như mình,

mong có một đứa con để ôm ấp bế bồng thì người đàn ông ấy lại bị những năm

tháng quân ngũ cướp đi cái phần đàn ông quý giá. Thế là cô Huệ không những

cô đơn bởi sự bất hạnh của hình hài mà còn chịu thêm sự tủi hổ bẽ bàng của

hành động “vượt rào” mong thoát nỗi cô đơn mà không được. Tình huống kịch

đã dồn nhân vật tới tận cùng của nỗi khổ đau bất hạnh. Dầu vậy nhân vật vẫn

không mất đi vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp kín đáo tế nhị của một người phụ nữ.

Ở truyện ngắn Hạt vừng, nhà văn đã đẩy nhân vật của mình vào một tình

huống đầy bi kịch. Đó là tình huống túng quẫn cùng đường buộc chị Hoa phải 89

“đi khách” để kiếm tiền làm mâm cơm cúng giỗ đầu cho chồng và đưa thằng bé

con vào bệnh viện cắt A-bi đan. Chẳng ngờ đấy là lần đầu tiên cũng là lần duy

nhất trong đời chị bị khép vào tội giết người do kẻ kia ngã vào cái cuốc chết

trong nhà chị.Vì tội danh khủng khiếp ấy mà chị được một nữ luật sư giầu lòng

trắc ẩn bào chữa miễn phí. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, nhà văn dễ dàng đi

vào thể hiện từng khía cạnh của chủ đề tác phẩm. Từ đó làm nổi bật số phận bi

thương của những người đàn bà xóm liều trong cuộc sống mưu sinh khốn khó.

Truyện Nghĩa địa xóm Chùa lại tạo ra một tình huống vừa nực cười vừa

bi thảm. Chuyện nhầm lẫn xác một vị thiếu tướng với một một tay thợ điện bậc

ba đã về hưu do sự làm việc tắc trách của một bệnh viện. Cũng có thể là do con

trai vị thiếu tướng quên đưa khoản tiền “tót tay tiêu cực phí” cho gã canh nhà

xác nên gã cố tình gây ra sự nhầm lẫn ấy. Từ tình huống nhầm lẫn này, nhà văn

phản ánh được bao vấn đề của hiện thực đời sống, hiện thực tình người một cách

sâu sắc: chuyện cõi âm, cõi dương, chuyện thứ hạng, cấp bậc trong xã hội, đặc

biệt là câu chuyện về tình thân, tình người, chuyện về các khoản phí tiêu cực...

Trong tác phẩm, nhà văn đã tạo ra hai đám tang hoàn toàn trái ngược nhau: một

đám tang cực kỳ linh đình to tát và một đám tang sơ sài với vài người đưa đám,

vài tiếng khóc tỉ tê để phản ánh một đẹp nhân bản đang bị mai một đi trước tiền

tài, danh vọng. Đó chính là tình thân, tình người. Việc xây dựng những tình

huống bi kịch trong truyện ngắn Đoàn Lê bắt nguồn từ góc nhìn đa diện, đa

chiều, tinh tế nhạy cảm của nhà văn về con người, cuộc sống. Con người được

nhìn từ số phận cá nhân với hạnh phúc và bất hạnh khổ đau, giữa hy vọng và

thất vọng. Cuộc sống được nhìn nhận ở mọi góc cạnh cả trên bề mặt lẫn chiều

sâu. Tất cả đều chân thực và vô cùng sâu sắc.

2.2 Tình huống tự nhận thức

Bên cạnh tình huống bi kịch, truyện ngắn của Đoàn Lê còn xuất hiện loại

tình huống nữa là tình huống tự nhận thức thể hiện triết lý về cuộc sống, tình

yêu, hạnh phúc của nhà văn. Tình huống tự nhận thức phổ biến trong những cốt

truyện tâm lý. Tình huống tâm lý được tạo dựng từ những xung đột trong tâm lý,

ý thức buộc nhân vật phải suy ngẫm tự nhìn nhận lại quan niệm sống và hành

động của mình để vươn tới sự hoàn thiện. Ở Giường đôi xóm Chùa, sau gần ba

mươi năm sống chung rã rời vì cuộc sống mưu sinh, anh và chị đã chia tay nhau

khi cả hai đều nhận ra rằng: Cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không 90

ai cố gắng yêu. Tình huống dẫn đến sự đổ vỡ, chia ly ở Trái táo nham nhở chính

là hành động người vợ đưa toàn bộ số tiền mà chị thức thâu đêm nhặt vải vụn

đến ngất lịm phải vào bệnh viện cho chồng và giục anh đi thực tế. Lúc đó anh

chồng mới thực sự phản tỉnh, anh ta nhận thấy mình không thể lừa dối cô ấy một

giây phút nào nữa và quyết định viết một bức thư thú tội: “Trong chuyện này,

anh hoàn toàn có lỗi với em. Nhưng anh không muốn dối trá lừa lọc mãi, anh đã

ăn cắp tình yêu của em ...chẳng dùng vào việc gì ngoài việc để khinh bỉ

mình...Hãy tha tội cho anh. cái gì người ta cũng có thể cố gắng, nhưng không ai

có thể cố gắng yêu.. Anh đã bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối trá, anh không

thể tiếp tục mãi. Nếu chưa thật bình tĩnh, em hãy cứ nguyền rủa anh. Anh đáng

tội lắm. Ôi, giá anh có cách gì để xin em tha thứ...” Giây phút thức tỉnh, xám

hối này là những giây phút anh đang sống trạng thái thánh thiện, sòng phẳng tử

tế nhất. Cho dẫu anh biết hậu quả của nó thật nặng nề, anh sẽ mất gia đình, mất

đi sự yêu chiều từ chị, thậm chí còn bị chị nguyền rủa, nhưng anh vẫn chấp nhận

tất cả. Sau quyết định tự thú, anh mới đựơc sống là mình, xứng đáng là con

ngƣời. Còn chị sau khi nhận bức thư tự thú của anh, chị mới bình tĩnh nhìn nhận

xét đoán anh từ chân tơ kẽ tóc và nhận ra một điều xưa nay vì quá yêu anh mà

chị đã lầm tưởng: “Anh tưởng mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao qúy ư?

Không tôi đã trả giá quá đắt bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất

trong vô vàn kẻ tầm thường, một thứ giẻ rách” Tình huống tự nhận thức khiến

nhân vật của Đoàn Lê có chiều sâu và luôn hướng đến sự hoàn thiện về tâm hồn

và nhân cách.

Những tình huống tự nhận thức chính là những khoảng lặng cần thiết

trong cuộc sống con người để nhìn lại chính mình, soi vào quá khứ để tiếp tục

tiến về phía trước trong quá trình vận động hướng tới sự hoàn thiện, hướng tới

cuộc sống tốt đẹp hơn.

3. Không gian - thời gian nghệ thuật

Trong thế giới khách quan, thời gian và không gian là hình thức tồn tại

của vật chất. Tác phẩm văn học cũng là một dạng vật chất, một thế giới nghệ

thuật được xây dựng bằng hệ thống các hình tượng. Vì vậy “không gian, thời

gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của hình tượng” [50, 27]. Thời gian và

không gian là hai yếu tố thống nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật. Từ việc xem

xét thời gian, không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê có thể thấy 91

được đặc điểm phong cách, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn cùng những vấn đề

của cuộc sống con người trong sự biến đổi của thời đại. Sự vận động của không

gian thời gian trong truyện ngắn Đoàn Lê được cảm nhận trong mạch vận động

vừa thuận chiều vừa trái chiều với thời gian, không gian cuộc sống. Thời gian và

không gian là những bình diện góp phần làm nên nét đặc sắc trong thế giới nghệ

thuật truyện ngắn Đoàn Lê.

3.1. Không gian nghệ thuật

Trong văn học, không gian nghệ thuật chính là “hình thức tồn tại của chủ

quan hình tượng” [59, 209]. Mọi nhân vật, hình tượng đều có không gian, nền

cảnh để hoạt động. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sỹ

nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.

Từ văn học dân gian đến văn học hiện đại là quá trình “hạ dần” của không gian.

“Từ vũ trụ cao siêu xuống không gian sinh hoạt hàng ngày, từ một không gian

mang ý nghĩa tượng trưng có sẵn xuống không gian đời sống với ý nghĩa tượng

trưng mới” [57, 209]. Không gian trong văn học dân gian gắn với không gian

quen thuộc của làng quê như cây đa, bến nước, sân đình, còn không gian của núi

cao, sông dài là không gian ngăn cách , là thử thách trở ngại với con người.

Trong khi đó sự vắng vẻ, trầm tư, nhàn dật lại gần như chiếm lĩnh không gian

nghệ thuật của văn học trung đại. Đó là không gian vũ trụ, núi rừng, am động

nơi con người đối diện hay ẩn dật. Đến thế kỷ XVIII- XIX, không gian nghệ

thuật được mở rộng thêm ở không gian đồng ruộng, làng cảnh, phố phường, cao

lâu, hiệu thuốc, bãi chợ...Càng về sau không gian nghệ thuật trong văn học càng

được mở rộng đến không gian hiện thực, không gian đời tư của con người. Đặc

biệt không gian còn được phát hiện ở chiều thứ tư- không gian tâm trạng. Bên

cạnh đó, yếu tố tâm linh xuất hiện còn đem lại màu sắc khác cho không gian

nghệ thuật của văn học Việt Nam hiện đại. Nghĩa là không gian nghệ thuật trong

tác phẩm văn học không chỉ bao gồm không gian vật lý ba chiều với trung tâm

là con người mà còn có không gian tâm tưởng, không gian tâm linh được đặt

trong mối quan hệ mật thiết với thời gian nghệ thuật. “Không gian nghệ thuật

chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ

tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác

giả hay một giai đoạn văn học”[4, 135]. Điều quan trọng nhất khi tìm hiểu

không gian nghệ thuật là xem xét mối quan hệ của nó với thế giới, con người 92

“như một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và

khái quát tư tưởng- thẩm mỹ của nhà văn”[57, 211]. Vì vậy không gian hiện

thực hay không gian đời thường trở thành một khái niệm được nhà văn nhắc đến

nhiều nhất trong văn học hiện thực. Ở đó bức tranh xã hội, cũng như quan điểm

thẩm mỹ, quan điểm sáng tác, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn

được soi sáng bởi yếu tố không gian nghệ thuật.

Văn học thời kỳ đổi mới nở rộ các tác phẩm truyện ngắn hiện thực. Chính

khuynh hướng văn học nghiêng về đời tư, đời thường của con người với tiếng

nói thực của cuộc sống hiện tại đã làm cho mỗi tác phẩm truyện ngắn là một bức

tranh muôn màu, muôn sắc về cuộc sống hiện đại, về những vấn đề thực tế mà

con người phải đối mặt. Không gian nghệ thuật của văn học giai đoạn này phổ

biến là không gian sinh hoạt, không gian đời tư. Đó là “khoảng không gian xác

định bắt buộc con người luôn phải bộc lộ hết bản chất của mình, không có cơ

hội lảng tránh trách nhiệm cá nhân”[6,]. Không gian nghệ thuật trong sáng tác

của Đoàn Lê cũng mang những đặc điểm chung này.

Không gian sinh hoạt trong truyện ngắn Đoàn Lê chủ yếu là không gian

làng xóm. Đó là không gian xóm Chùa ở ngoại ô thành phố xuất hiện trong

hàng loạt sáng tác của Đoàn Lê với cái tên: Đất xóm Chùa, Xóm Chùa Ông,

Trinh tiết xóm Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Atuorism xóm Chùa...Không gian đó

có phần chật chội, tù túng bức bối trước tốc độ xâm lấn của nền kinh tế thị

trường. Bởi thế hầu hết những con người nơi xóm Chùa Ông đều hay hướng về

ngả thành phố, nơi ánh điện hắt rừng rực một góc trời. Cả thanh niên và người

già đều ao ước cuộc sống của dân nội thành “ăn trắng mặc trơn, sung sướng tới

lúc chết”. Cũng chính vì thế mà khi cái mới tràn đến xóm Chùa, mọi người đều

nhanh chóng hưởng ứng sẵn sàng lãng quên quá khứ nghèo cực và cả những nét

nhân bản vốn quý từ xa xưa của mình như chuyện về chiếc cát-sét, chiếc ti vi

đầu tiên trong làng, chuyện “sốt đất” do mở đường cao tốc, “cơn sốt” lấy chồng

ngoại, chuyện bán trinh tiết dởm, phá hang làm khu du lịch sinh thái dởm để

kiếm tiền, trục lợi...Tất cả diễn ra ồ ạt trong không gian của xóm Chùa. Tuy là

một xóm Chùa cụ thể nhưng ý nghĩa khái quát hiện thực của tác phẩm lại vô

cùng rộng lớn. Đó là hiện thực ở tất cả những vùng ven đô nước ta từ thời đổi

mới trước tốc độ đô thị hóa đến mức chóng mặt của nền kinh tế thị trường.

Trong không gian cụ thể đó bao gia đình, bao số phận rơi vào hoàn cảnh bi kịch 93

do không kịp thích nghi với hoàn cảnh sống mới. Dưới không gian một xóm

Chùa cụ thể, Đoàn Lê đã phản ánh và khái quát được bao nhiêu vấn đề của hiện

thực cuộc sống- xã hội hiện đại làm nhức nhối lòng người. Với không gian cụ

thể này, những câu chuyện được kể của Đoàn Lê trở nên chân thực, sinh động và

có sức thuyết phục hơn.

Bên cạnh không gian xóm Chùa, sáng tác của Đoàn Lê còn có không

gian xóm biển. Nơi đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán, nơi có những

hiệu kim hoàn, có con đường từ phố ra bãi biển rồi từ bãi biển về một xóm núi

heo hút bên bờ biển. Nơi đó còn có bao cuộc đời, số phận bất hạnh trôi nổi,

phiêu dạt như cuộc sống âm thầm lặng lẽ của hai bà cháu (Viên sỏi). Không

gian của truyện hẹp, chỉ là không gian từ tiệm vàng ra bãi biển có hai bà cháu

lủi thủi bên nhau, sự kiện không nhiều nhưng dường như nhà văn đã khái quát

được cả nỗi đau nhân thế bằng tất cả sự đồng cảm, xót thương của mình. Hai bà

cháu, hai số phận côi cút đang nương tựa, dắt díu nhau vượt qua giông bão cuộc

đời. Người bà trước khi trôi dạt về đây đã uống trọn nỗi đau cuộc đời: chồng

phụ bạc, đứa con trai duy nhất chết vì nghiện sau khi đã bán tất cả những thứ có

giá trị trong nhà, bà chỉ còn đứa cháu gái bé bỏng là nguồn sống duy nhất. Đứa

bé bị cướp mất sự hồn hậu, tươi tắn của trẻ nhỏ, dường như không bao giờ thấy

nó cười. Họ là hai sự cô đơn cộng lại, người nọ nương tựa người kia để bớt thấy

bơ vơ. Cũng trong không gian của xóm núi này, người chủ hiệu vàng “cũng

không thoát việc nhận lấy cái giọt cay đắng phần mình”. Đứa em trai ruột của

anh cũng bị cái chết trắng khủng khiếp cướp mất khi nó chưa đầy mười chín

tuổi và chẳng kịp để lại gì dù là một viên sỏi vô giá trị. Trước nỗi đau của hai bà

cháu, lòng anh như dịu lại và dấy lên niềm thương cảm sót xa với nỗi đau của

người cùng cảnh. Vì vậy, anh quyết định ngay ngày hôm sau sẽ giúp bà cụ mài

viên sỏi làm mặt chiếc nhẫn- di vật của bố đứa trẻ để lại cho con trước khi chết.

Như vậy không gian không chỉ là tọa độ, môi trường sống của nhân vật mà còn

có chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu nghệ thuật góp phần làm nổi bật

tính cách, số phận nhân vật cùng chủ đề tác phẩm.

Không gian của xóm núi nghèo ven biển còn có ý nghĩa biểu tượng cho

những cuộc đời côi cút, lang thang, trôi dạt mang nỗi đau thầm lặng. .Đó là

không gian sống, tồn tại của những cô gái bị hoàn cảnh xô đẩy phải bán thân

nuôi miệng rồi âm thầm nhận lấy cái chết từ căn bệnh thể kỷ (Con bướm nhựa 94

cánh xanh). Phải chăng đến với xóm biển này thì sự hồn hậu của biển có thể

xóa dịu những nỗi đau u uẩn trong tận cùng tâm can con người, điều mà tự con

người chẳng thể làm được. Bởi thế nơi đây mới có nhiều cuộc đời, số phận bất

hạnh như thế nương náu mong được biển cả chở che.

Cùng với không gian làng xóm, không gian biển, không gian gia đình -

không gian căn phòng cũng là một loại không gian đầy ám ảnh trong sáng tác

của Đoàn Lê. Đó là không gian của những tác phẩm viết về bi kịch tình yêu, bi

kịch hôn nhân gia đình. Trong Giường đôi xóm chùa, khi tình yêu của hai vợ

chồng không còn tha thiết , mặn nồng vì xuất hiện người thứ ba thì không gian

căn phòng riêng với chiếc giường kỷ niệm tình yêu của họ đã trở thành không

gian ngột ngạt, chật chội, bức bối đến độ chuyển thành giông bão không thể chịu

đựng được. Nhìn đâu người vợ cũng thấy hình bóng của người thứ ba chập chờn

len lỏi vào cuộc sống sinh hoạt và cả trong giắc ngủ chập chờn của chị. Cũng

trong không gian của chiếc giường ấy đã rất nhiều đêm chị không ngủ, suy nghĩ

miên man về tình cảnh đầy bi kịch của mình. Rồi từ trong sâu thẳm ký ức chị, cả

quá khứ hiện về rõ nét: chuyện về mẹ, chuyện về người bạn trai tên Báu vẫn

thầm yêu chị, chuyện anh chị quen nhau hồi chiến tranh, chuyện thằng con trai,

đứa cháu nội...Đó là không gian tâm trạng ngập đầy những xúc cảm, tưởng rằng

chẳng gì có thể chia cắt được anh chị. Vậy mà họ lại sắp xa nhau. Chị quyết định

sẽ rời xa không gian vốn đầy ắp những kỷ niệm của mình, lặng lẽ ra đi để anh

được hạnh phúc. Từ không gian hiện thực trên chiếc giường, Đoàn Lê đã khái

quát cả không gian gia đình với biết bao vấn đề của nhân thế.

Không gian có ngôi nhà gỗ bình yên ở vùng ngoại ô cũng là một không

gian quen thuộc trong sáng tác của Đoàn Lê. Trong không gian ấy các nhân vật

của bà được mặc sức khám phá, tìm hiểu những bí ẩn của thiên nhiên cùng

những bí ẩn của lòng mình (Ngôi nhà gỗ). Trong ngôi nhà gỗ, chị và anh đã có

những tháng năm thực sự hạnh phúc với biết bao kỷ niệm gắn với thiên nhiên

quê anh. Và cũng từ không gian ấy họ mãi mãi xa nhau do không tìm được tiếng

nói chung. Những câu chuyện gắn với không gian ngôi nhà, căn phòng thường

là những truyện tâm tình, chất chuyện mờ nhạt, nhà văn thường đi sâu vào thể

hiện không gian tâm trạng của nhân vật với những ký ức đầy luyến nhớ. Cũng

một không gian này, Đoàn Lê còn thể hiện trong tác phẩm Đêm ngâu vào, Tí teo

hạnh phúc và một số truyện ngắn khác. Đó đều là những không gian xác định 95

cho sự hoạt động của những tính cách, tâm trạng, nhờ đó mà chủ đề tác phẩm

được sáng tỏ.

Truyện ngắn của Đoàn Lê còn một loại không gian nữa gọi là không gian

nghĩa địa (Nghĩa địa xóm chùa). Đây vừa là không gian thực vừa là không gian

ảo. Thực là vì có nghĩa địa thật, đó là nơi người ta vẫn dùng làm nơi an nghỉ

cuối cùng cho những người quá cố. Còn ảo là không gian nhà văn tưởng tượng

để các hồn ma đi lại, nói năng sinh hoạt như khi họ vẫn còn sống vậy. Và chỉ khi

mặt trời tắt hẳn những hồn ma mới chui lên khỏi mặt đất quần tụ lại để bàn tán,

kháo nhau chuyện của người sống. Họ di chuyển bằng những ánh lân tinh chập

chờn trông phát khiếp. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm cứ chập chờn ẩn

hiện giữa hư và thực. Đó chính là môi trường, nền cảnh để nhà văn chuyển tải

những ý tưởng nghệ thuật của mình. Cùng với những yếu tố khác, không gian

nghệ thuật có chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu nghệ thuật giúp nhà văn

khắc họa nhân vật, làm nên những giá trị triết lý nhân sinh của tác phẩm.

3.2. Thời gian nghệ thuật

Cũng như không gian nghệ thuật, trong tác phẩm văn học, thời gian là

một trong những yếu tố quan trọng, là “một trong những phương tiện hữu hiệu

để tổ chức nội dung nghệ thuật” [52, 63]. Thời gian nghệ thuật chính là “những

hình thức nghệ thuật quan trọng để thể hiện cuộc sống” [57, 243]. Nó không chỉ

đơn giản là quan điểm của tác giả về thời gian mà còn là một hình tượng sinh

động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian, ý thức về sự tồn tại của mình.

Thời gian còn là một trong những yếu tố quan trọng trong việc tổ chức kết cấu

tác phẩm. Thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển cốt truyện. Sự thể hiện

thời gian nghệ thuật thay đổi theo ý đồ sáng tác của nhà văn cùng với quá trình

phát triển của lịch sử dân tộc. Trong văn học cổ Việt Nam, thời gian gắn với

vòng trầm luân của vũ trụ nên được tính bằng vạn đời, vạn kiếp, nghìn thu, kim

cổ theo một chiều biên niên. Đến văn học hiện đại, khái niệm thời gian nghệ

thuật được mở rộng trên nhiều bình diện, thời gian được co ruỗi theo ý thức thời

gian của tác giả. Sự cảm thụ thời gian trong tác phẩm gắn liền với ý thức về ý

nghĩa cuộc đời, thể hiện quan niệm về thế giới, lịch sử và con người của nhà

văn.

Cách sắp xếp thời gian trong tác phẩm thể hiện sự sáng tạo và phong cách

riêng của mỗi nhà văn. Thời gian nghệ thuật có thể quay ngược về quá khứ hoặc 96

vượt qua hiện tại để đến tương lai, có thể dồn nén thời gian dài trong khoảnh

khắc hoặc biến thời gian chốc lát thành vô tận, vĩnh viễn. Nói như D.X

Likhachôp “Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả, là sự ý thức

và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng

của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học” [52, 63]. Truyện ngắn là một thể loại

chịu sự chi phối, gò bó của điều kiện thời gian bởi truyện ngắn chỉ đi vào một

thời điểm trong cuộc đời con người. Thời gian nghệ thuật chịu sự chi phối bởi

thế giới quan nghệ thuật và thể hiện quan niệm thẩm mỹ của nhà văn qua các thủ

pháp sử dụng linh hoạt các hình thức thời gian. Truyện ngắn sau 1975, thời gian

biên niên mang tính tuần tự không còn đóng vai trò chủ yếu mà bắt đầu xuất

hiện nhiều hình thức thời gian độc đáo: thời gian đồng hiện, thời gian ngược,

thời gian ảo, thời gian tâm lý...Truyện ngắn Đoàn Lê rất có sức ám ảnh về thời

gian. Nhà văn đã sử dụng yếu tố thời gian như một giải pháp bộc lộ quan điểm,

tư tưởng nghệ thuật của mình một cách hiệu quả.

Trong sáng tác của Đoàn Lê ta thấy xuất hiện chủ yếu là thời gian đồng

hiện với nhiều lớp cắt thời gian khác nhau: quá khứ - hiện tại - tương lai hòa

quyện với nhau để bộc lộ tối đa ý nghĩa tác phẩm. Thời gian đồng hiện khiến cốt

truyện vừa diễn biến liền mạch vừa giải quyết được một khối lượng thông tin

nhiều hơn giới hạn thời gian thực tế cho phép. Với thủ pháp đồng hiện , nhà văn

có thể vượt thoát khỏi sự trói buộc của thời gian biên niên lịch sử, để có thể xáo

chộn thời gian tùy theo ý muốn chủ quan, miễn là câu chuyện phát triển và bộc

lộ hết những ý đồ sáng tạo của tác giả. Thời gian đồng hiện khi nhà văn sử dụng

các thủ pháp độc thoại nội tâm, dòng ý thức, giấc mơ...Trong khung nhỏ hẹp của

truyện ngắn, nhân vật có thể vận động theo mọi hướng, mọi suy nghĩ của mình.

Ở những khoảnh khắc được chọn để thể hiện, nhân vật có thể hướng tới tương

lai, quay về quá khứ. Điều này làm cho thời gian cùng lúc xuất hiện nhiều thời,

nhiều chiều đặc biệt.

Yếu tố thời gian trong mỗi tác phẩm bao giờ cũng liên quan đến điểm

nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê có những

điểm tương đồng với điểm nhìn trần thuật của nhà văn Nam Cao. Nhà văn

thường không bắt đầu bằng điểm mở đầu thời gian cuộc đời nhân vật mà nhân

vật “đột nhiên” xuất hiện “đi ra từ giữa tác phẩm” sau đó thời gian cuộc đời mới

được hoàn thiện dần bằng lối kể chuyện quay ngược về quá khứ trước khi nói tới 97

tương lai và hiện tại. Những lớp cắt thời gian giúp người đọc ngày càng có hình

dung đầy đủ hơn về cuộc đời nhân vật và ý nghĩa tác phẩm. Những cách mở đầu

tác phẩm, Đoàn Lê đã kết hợp nhiều lớp thời gian khác nhau: khi bằng hình ảnh

hiện tại: Nghĩa địa xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa, Hạt Vừng...khi bắt đầu

bằng một mốc thời gian của quá khứ gần: Con bướm nhựa cánh xanh, Đêm

ngâu vào, Viên sỏi; có khi truyện lại bắt đầu bằng lời nhận định đánh giá của

người kể chuyện: Tình Guột, Dấu hỏi gửi thượng đế...

Ở truyện ngắn Hạt vừng, câu chuyện được bắt đầu bằng thời gian hiện tại,

hai người đàn bà ngồi đối diện ngăn cách bởi những ô cửa kiên cố, chấn song to

thẳng tắp khẳng định sức mạnh sắt thép. Trong hai người đó một người là luật

sư, người kia là phạm nhân. Mở đầu truyện chỉ có thế, rồi nhà văn quay ngược

thời gian kể về những dòng hồi ức của hai người đàn bà. Nhìn những nếp nhăn

trên mặt nữ phạm nhân, vị luật sư nghĩ đến mẹ mình vẫn những vạch nếp nhăn

tựa hồ như dấu ấn của quỷ đã tàn phá cuộc đời của mẹ. Rồi từ câu chuyện xuất

thân của người phạm nhân, vị luật sư hồi tưởng lại toàn bộ câu chuyện quá khứ

đau thương của mẹ, của chị em cô, biết đâu người đàn bà khốn khổ kia chẳng

phải là một trong số chị em đã thất lạc của cô. Câu chuyện cứ thế đan xen giữa

quá khứ và hiện tại, hồi ức tưởng tượng và thực tế... Những diễn biến tình tiết

trong vụ án của người phạm nhân đều gợi lại ký ức đau thương của cuộc đời mẹ

cô. Như vậy bằng hình thức đan xen giữa quá và hiện tại, hồi ức và thực tế,

Đoàn Lê đã dồn chứa được trong vài trang giấy rất nhiều vấn đề có ý nghĩa của

hiện thực. Nỗi đau cùng cảnh ngộ bi thương của người nữ phạm nhân như được

cộng hưởng nhân lên khi nó được đặt trong sự đối sánh với những ký ức đau

thương của vị nữ luật sư bào chữa. Câu chuyện cuộc đời người đàn bà khốn khổ

kia cũng chính là câu chuyện cuộc đời của mẹ vị nữ luật sư nên cô đã tin câu

chuyện ấy và đồng cảm, sẻ chia với chị bằng tất cả nỗi đau của người trong

cuộc. Thời gian cốt truyện chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc rất ngắn, trong

chốc lát khi người nữ luật sư tiếp xúc với phạm nhân để nghe chị ta kể về vụ án

của mình-chuyện kể thứ nhất nhưng giả thời gian, thời gian của những hồi ức

quá khứ mới chiếm lượng lớn trang văn bản. Chính lối quay ngược thời gian để

kể một câu chuyện thứ hai ấy mới là điểm nhấn làm đậm thêm chuyện kể thứ

nhất góp phần khắc sâu chủ đề tác phẩm.

98

Điểm nhìn trần thuật có thể khác nhau, song hầu hết những tác phẩm có

thời gian đồng hiện của Đoàn Lê, hồi tưởng đóng vai trò quan trọng. Hồi tưởng

hay quay ngược- ngoái lại có vai trò làm rõ thêm những sự kiện biến cố được kể

trong mạch truyện chính. Viên sỏi là một truyện ngắn Đoàn Lê sử dụng thời gian

khá linh hoạt. Câu chuyện mở ra là một thời điểm của hiện tại khi hai bà cháu đã

chạy trốn về xóm núi cạnh ven biển sống nương tựa vào nhau, bà đem một viên

sỏi đến hiệu kim hoàn xin đánh thành mặt nhẫn cho cháu. Không được chấp

nhận, ngày nào bà cũng đi các cửa hiệu đến khi không còn ai chấp nhận giúp, bà

mới buồn bã ra về. Người thợ kim hoàn ban đầu thấy áy náy rồi anh cũng quên

luôn bà cụ cùng viên sỏi vô giá trị của bà. Rồi tác giả sử dụng thủ pháp tỉnh lược

thời gian: năm tuần sau, người thợ kim hoàn ra biển chơi tình cờ gặp lại hai bà

cháu và được biết viên sỏi là kỷ vật bố đứa trẻ để lại cho nó trước khi qua đời

nên được hai bà cháu nâng niu như báu vật. Sau nhiều lần tiếp xúc, qua những

mẩu đối thoại rời rạc, anh mới biết hoàn cảnh bất hạnh của hai bà cháu. Đây

chính là quãng ngưng, nhà văn dừng lại mạch truyện chính để kể về hoàn cảnh

chồng chất những nỗi đau của hai bà cháu. Từ hoàn cảnh ấy, nhà văn lại quay

sang kể về nỗi đau trong quá khứ của người thợ kim hoàn và nguồn gốc của viên

sỏi. Đó là một câu chuyện thật cảm động, bi thương. Khi mạch truyện hồi tưởng,

hồi ức kết thúc, nhà văn khéo léo đưa mạch truyện chính trở về thực tại bằng

quyết định của người thợ kim hoàn sẽ nhận mài viên sỏi giúp bà cụ. Chính

những mẩu hồi ức của quá khứ mới là những điểm nhấn làm nổi bật ý nghĩa sâu

sắc của tác phẩm.

Cùng với việc sử dụng thời gian đồng hiện trong kết cấu tác phẩm, một số

tác phẩm của Đoàn Lê còn sử dụng thời gian tâm tƣởng gắn với ký ức của quá

khứ: Giường đôi xóm chùa, Đêm ngâu vào, Một ngày xứ em. Ở loại truyện này,

dòng ký ức, hồi tưởng của nhân vật là mạch quan trọng để khắc họa tính cách,

xây dựng cốt truyện. Qua dòng ý ức ấy, sự kiện dần dần xuất hiện. Đứng ở thời

điểm hiện tại, nhân vật có một độ lùi thời gian để có thể đánh giá, nhận định vấn

đề và có những cảm nhận sâu sắc hơn về những chuyện đã qua. Trong Giường

đôi xóm Chùa, câu chuyện mở ra là hình ảnh chiếc giường đôi của hai vợ chồng.

Rồi theo dòng hồi ức, nhân vật “tôi” nhớ lại toàn bộ cuộc sống chung gần ba

mươi năm của hai vợ chồng với bao buồn vui lẫn lộn. Ký ức của chị dừng lại rất

lâu để kể chuyện đứa con trai và đứa cháu nội với cảm xúc dạt dào. Dòng hồi 99

tưởng đưa chị về quá khứ xa xưa một đêm rằm trung thu thủa nhỏ, chị được một

người bạn trai yêu mến tặng một cây đèn kéo quân tuyệt đẹp. Dòng hồi tưởng

này nhằm thể hiện chút luyến tiếc của nhân vật trong việc lựa chọn người bạn

đời. Rồi dòng hồi ức đưa nhân vật trở về quá khứ gần, cách hiện tại một tháng,

chị có chuyến đến Quảng Ninh làm một bộ phim tài liệu. Chuyến đi đó chị tìm

đến thăm người đàn bà là người yêu thời trẻ của chồng chị để tìm lời giải cho

câu hỏi “Anh ấy muốn tìm điều gì ở những người đàn bà anh yêu? Những người

đàn bà, kể cả tôi, đã đặt tình yêu vào con người này vì sao?”. Thời gian cốt

truyện chỉ diễn ra trong một đêm, đêm cuối cùng chị nằm bên chồng nhưng thời

gian sự kiện lại là cả một đời người. Một đêm không ngủ, chị nhớ lại tất cả

những biến cố đời mình, chúng được lắp ghép ngẫu nhiên: từ gần đến xa rồi lại

từ xa đến gần; xen với những ký ức ấy là những cảm xúc của hiện tại. Mạch thời

gian lúc được tỉnh lược, lúc lại ngưng đọng phù hợp với vai trò của các biến cố

được kể. Bằng cách xử lý thời gian này, nhà văn đã làm nổi bật được những

trạng thái tâm lý rất đa dạng, phức tạp của nhân vật.

Ở một số truyện ngắn, Đoàn Lê còn đặc biệt chú ý đến nhịp thời gian

trong tác phẩm. Đó chính là tính chất co duỗi của thời gian để thể hiện tâm lý

nhân vật. Nhịp thời gian trong tác phẩm Một ngày xứ em là một ví dụ. Toàn tác

phẩm là nhịp thời gian dồn nén, thời gian của một đời người được ngưng lại

trong thời gian của một ngày. Một ngày nhân vật “tôi” qua “xứ em” và sống lại

tất cả cảm xúc đau thương của một thời máu lửa. Nhịp thời gian như ngưng lại

khi ký ức đưa anh trở về với nỗi đau thủa ấy. Thời gian hiện thực chỉ có một

ngày nhưng giả thời gian là cả một thời chiến tranh ác liệt của quá khứ. Ký ức

bắt đầu từ chiếc vòng bạc trên tay cô bé nhà khách trên quê hương người con gái

anh yêu. Chính chiếc vòng và đôi tay của nàng đã ám ảnh anh đến hết cuộc đời.

Mạch thời gian như đọng lại trong khoảnh khắc của quá khứ giữa vòng bom đạn

của Trường Sơn với lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát,

hình ảnh “cánh tay em từ mặt đất bị cày xới bừa bộn vươn lên, níu lấy tay tôi,

xoắn lại trong nỗi đau đớn thầm lặng”. Rồi từ câu chuyện về chiếc vòng bạc,

mạch chuyện cứ đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ là những ký ức đau

đớn khủng khiếp của chiến tranh vẫn sống dậy hiển hiện trong xúc cảm, trong

lời kể của người trong cuộc, người kể chuyện cũng chính là nhân vật chính trong

câu chuyện bi thảm của chiến tranh, còn hiện tại chính là khoảng thời gian anh 100

dừng lại ở “Xứ em”, một ngày nhức nhối kỷ niệm. Vì thế mạch thời gian biến

đổi linh hoạt, nhảy cóc: đang một mình dạo trên trên cầu Tràng Tiền nhìn dòng

nước sông Hương êm đềm lững lờ trôi, mạch xúc cảm đưa thẳng nhân vật trở về

với quá khứ ở Trường Sơn với câu chuyện tình thơ mộng nhưng đầy bi thảm của

mình với “em”. Cứ thế mỗi hình ảnh của quá khứ sống dậy, tim anh lại đau đớn,

quặn thắt. Trong suốt thời gian kể chuyện chừng vài giờ đồng hồ, dường như

anh chưa một lần dời mắt khỏi bao thuốc lá, cái bật lửa và đôi tay để giữ cho

mình được bình tĩnh. Ở đây thời gian của một ngày đã dồn chứa nỗi đau của một

thời, một đời. Vì vậy, thời gian nghệ thuật chính là hình thức nghệ thuật chủ yếu

để nhà văn miêu tả tâm lý nhân vật.

Thời gian và không gian nghệ thuật là những hình tượng sinh động, gợi

cảm của văn học. Ý thức về thời gian , không gian chính là ý thức về sự tồn tại

của con người. Tìm hiểu những vấn đề về không gian và thời gian nghệ thuật

chính là tìm hiểu những vấn đề thi pháp quan trọng của tác phẩm. Chúng là

những “hình thức mang tính nội dung” [61, 27]. Quan điểm sáng tác cũng như

tư tưởng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua những hình thức nghệ thuật

của không gian, thời gian. Đối với các nhà văn hiện đại, việc xây dựng một tác

phẩm nghệ thuật bao giờ cũng đề cao vai trò của thi pháp bên cạnh một nội dung

có giá trị đích thực. Bằng tài năng và sức sáng tạo dồi dào của mình, các nhà văn

đã đem đến cho văn xuôi những khám phá mới trên bình diện thi pháp tác phẩm

trong đó có hình thức thời gian và không gian nghệ thuật.

4. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ là đơn vị cơ sở đầu tiên và cũng là đơn vị cuối cùng thể hiện

những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Với truyện ngắn, ngôn ngữ

phải phát huy tối đa chức năng của mình do yêu cầu ngắn gọn của thể loại. Ngôn

ngữ truyện ngắn cần cô đặc, cảm xúc, có sức nặng, sức chứa và khoảng trống

gợi mở. Truyện ngắn sau 1975 là truyện ngắn của đời tư, thế sự, vì vậy ngôn

ngữ trong các tác phẩm thời kỳ này cũng có nhiều đặc điểm khác so với ngôn

ngữ nghệ thuật của các giai đoạn văn học trước đây. “Ngôn ngữ đối thoại trong

truyện ngắn hôm nay đã được cá thể hóa sâu sắc. Dấu vết thời đại quy định cách

nói năng, ứng xử. Nhiều lớp từ mới được hình thành, quan niệm về lối sống

cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Thông qua ngôn ngữ đối thoại,

các trạng thái biểu hiện tâm lý của con người có chiều sâu và hiện thực cuộc 101

sống được cụ thể hóa, sống động hơn” [71]. Đó là thứ ngôn ngữ đời thường,

không trau chuốt, không mỹ miều, không nặng tính triết luận như văn học giai

đoạn trước 1975. Loại ngôn ngữ này tương xứng với mỹ cảm của con người

hôm nay.

Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn nữ giai đoạn đổi mới

thường sắc sảo, tinh tế nhưng chi tiết vụn vặt như bản tính vốn có của họ. Dịu

dàng, nền nã nhưng cũng dung dị đời thường là những đặc điểm dễ nhìn thấy

trong ngôn ngữ của Đoàn Lê. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

Đoàn Lê, chúng tôi khảo sát trên một số đặc trưng ngôn ngữ như: ngôn ngữ giầu

chất hiện thực đời thường thể hiện qua đối thoại, ngôn ngữ đậm chất trữ tình qua

độc thoại nội tâm.

4.1. Ngôn ngữ giầu chất hiện thực đời thƣờng:

Trong chiến tranh, với không khí sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ

thường được thi vị hóa hoặc mực thước trang trọng. Chuyển sang thời bình,

cùng với sự chuyển hướng của nền văn học từ cảm hứng sử thi sang đời sống thế

sự, truyện ngắn Đoàn Lê hướng tới những điều thường nhật trong đời sống con

người. Hướng về những số phận đời tư, khám phá những cá tính và phía còn ẩn

khuất trong mỗi con người, chất liệu đời thường đã ùa vào trong mỗi tác phẩm

của bà. Điều đó tạo nên diện mạo mới của ngôn ngữ văn xuôi: từ ngôn ngữ mực

thước, thi vị hóa trở về với ngôn ngữ giản dị, chính xác thường ngày

Ngôn ngữ đời thường trong truyện ngắn Đoàn Lê thể hiện qua lời

đối thoại giữa các nhân vật, hoặc qua lời nhận xét đánh giá của người kể chuyện.

Ví như một đoạn đối thoại trong truyện ngắn Đất xóm Chùa sau:

-Này, ông nghe nó sắp thiến làng chưa?

Sỹ Thái Sư ngớ ra:

- Ai?

- Thằng hoạn lợn chứ ai.

Lão Bản xưa nay chỉ gọi tay Quảng chủ tịch xã bằng cái nghề

nghiệp mới ngày nào anh ta còn hoạt động trong suốt mấy thôn. Gọi cách ấy lão

biểu lộ sự ghét cay ghét đắng anh chủ tịch xã.

- Nó thiến hộ càng may. Như tôi với ông còn tiếc thương gì không

vứt bố của nợ đi.

- Thật chứ?

102

- Tôi đã nghĩ mãi ông ạ, hoạn lợn nó chỉ được hột đách lợn, chứ

hoạn làng nó moi ra cây ra chỉ, mà làng lại không kêu được eng éc, êm thấm

lắm, ông hiểu không?

- Tôi hiểu rồi.

Lão ghé sát tai ông lào thào:

- Nó sắp bán đứt đây.

Ông Sỹ Duệ giật mình:

-Có quyết định bán chính thức rồi ư?

- Chứ gì, tẩu tán càng nhanh càng tốt. Ban quản lý hợp tác xã sắp

đến nước giải tán, còn tí đất dôi dư nào bán nốt, thủ vào túi mấy thằng chính

quyền với nhau. Giải tán, hòa cả làng.

Ông Bản đang nói tới khu vườn cây của các cụ phụ lão xóm Chùa, một

khu đất ngon mắt, nằm hơ hớ cạnh đường quốc lộ như gái ngủ ngày, gần năm

ngàn mét vuông...

- Ông nghe rõ chửa, bán cho dân thôn được bao nhiêu tiền đã sờ sờ

đấy, còn đút túi khoản nào? Thằng hoạn lợn kỳ này tuyên bố giải quyết cho Viện

cây giống nào đó lấy một tỉ hai...

- Chết chửa, tỉ hai...rẻ thối. Giá phải gấp hai ba lần.

- Dào ôi, nó bán mấy tỉ cho nhau, ai biết ma ăn cỗ ở đâu. Nó bảo

sao, dân bào hao làm vậy. Chỉ ức rõ rành nó bán đấy, Viện cây giống cũng mua

đấy, nhưng chúng mua bán dưới chiêu bài hợp pháp, dân trơ mắt ếch

- Phải. Thằng này cáo già, nó thoát bao nhiêu vụ bán đất cát của

xóm Chùa mới tài chứ.

Ngôn ngữ trong đoạn đối thoại này là ngôn ngữ thân mật đến suồng sã,

cách nói bỗ bã, trần trụi, kiểu xưng hô dân dã với các đại từ nhân xưng: Lão, nó,

thằng hoạn lợn, thằng cáo già... Chất khẩu ngữ đậm đà thể hiện trong cách đối

thoại và trong những cụm từ thường sử dụng trong cuộc sống thường ngày như:

“thiến làng”, “hoạn làng”, “ngon mắt, nằm hơ hớ”, “rõ chửa, sờ sờ đấy”, “chết

chửa, rẻ thối”, “ôi dào, ai biết ma ăn cỗ ở đâu..dân bào hao làm vậy...dân trơ mắt

ếch”, và cả những thành ngữ được sử dụng “trơ mắt ếch”, “hơ hớ như gái ngủ

ngày”, “ghét cay ghét đắng”...Lối sử dụng ngôn ngữ không kiểu cách, mực

thước mà gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày không chỉ khiến cho những vấn đề

mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm trở nên chân thực sinh động mà còn rất gần 103

gũi với đời sống hàng ngày của nhân dân. Những vấn đề mà nhà văn phê phán:

sự tha hóa của đội ngũ cán bộ xã, những chuyện tiêu cực về đất cát đặt trong

miệng lưỡi của nhân vật khiến nó khách quan mà cũng sắc nét hơn. Ngôn ngữ

đối thoại khá gay gắt thể hiện sự bức xúc của các nhân vật với vấn đề được đề

cập đến trong câu chuyện. Nhân vật nói với nhau thẳng thắn không cần giữ gìn,

trực diện bày tỏ những nhận xét, đánh giá bằng ngôn ngữ báng bổ, suồng sã.

Những tác phẩm trực diện phản ánh, phê phán hiện thực của Đoàn lê

thường sử dụng loại ngôn ngữ này: Đất xóm Chùa, xóm Chùa Ông, Trinh tiết

xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa...Việc sử dụng ngôn ngữ giầu tính hiện thực,

khẩu ngữ cho phù hợp với hướng khai thác cuộc sống ở góc nhìn đời tư, số phận

cá nhân trong các mối quan hệ phức tạp là một việc là có ý nghĩa của nhà văn.

Điều đó khẳng định được phong cách hóm nhẹ mà sâu cay của Đoàn Lê. Nói

như Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Chăm sóc câu văn: “Mỗi nhà văn có

một cách viết riêng nhưng cuối cùng và trước hết đó là những con người có một

thứ khả năng đem đến cho ngôn ngữ đời sống một thứ ma lực mà ta gọi là ngôn

ngữ văn học, có thể chuyển tải được mọi thứ tình cảm tư tưởng của mình đến

với mọi người”. Ngôn ngữ trong sáng tác của Đoàn Lê cũng là thứ ngôn ngữ có

ma lực như vậy.

4.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm.

Ngôn ngữ độc thoại nội tâm được nhà văn sử dụng khi nhân vật có nhu

cầu bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình. Đó là cuộc đấu tranh tâm lý thường có ở

những nhân vật mang bi kịch. Độc thoại nội tâm giúp nhà văn bộc lộ những suy

nghĩ của mình qua giọng của nhân vật hay bằng lời thuyết minh tâm lý. Ở những

đoạn độc thoại nội tâm, nhà văn thường trao giọng điệu cho nhân vật để nhân

vật tự giãi bày, bộc lộ nỗi niềm. Ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật được

hòa làm một: Đêm ngâu vào, Giường đôi xóm chùa, Trái táo nham nhở, Dấu hỏi

gửi thượng đế, Ngôi nhà gỗ...Toàn truyện Đêm ngâu vào là dòng ký ức của nhân

vật “tôi” khi nhớ về cuộc đời gần hai mươi năm của anh và nàng. Trong dòng ký

ức ấy, nhà văn dành rất nhiều đoạn cho nhân vật độc thoại nội tâm, nhất là

những khi anh ngồi vào bàn viết một mình đối diện với những chú khỉ gỗ.

Dường như chúng luôn hiểu được mọi tâm tư, nỗi niềm của anh nên lúc thì

chúng diễu cợt khiêu khích anh, lúc lại đồng cảm sẻ chia: “Ông vui à? Ông ngỡ

có một cuộc thoát xác vừa xảy ra ở đây ư? Không, đó chẳng qua các người vừa 104

được thấm thía một chút mùi vị nô lệ của các người thôi”. Lời của những chú

khỉ thực ra là những lời độc thoại nội tâm của nhân vật “tôi”. Anh đã tự phân

thân ra để trải nghiệm hết mọi trạng thái cảm xúc của mình: nỗi nhớ nhung

mong chờ, niềm luyến tiếc, xót xa; cả sự ân hận day dứt vì để vuột mất tình yêu.

Hình thức độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của Đoàn Lê khá đa dạng:

khi là những dòng nhật ký (Dấu hỏi gửi thượng đế), lúc là những lời tự vấn

lương tâm (Trái táo nham nhở). Qua những dạng độc thoại này, tâm lý tính cách

của các nhân vật được bộc lộ. Từ hai cuốn nhật ký với những lời lẽ nồng nàn,

đắm say của cô Huệ (Dấu hỏi gửi thượng đế), ta biết được khát khao tình yêu,

hạnh phúc đến cháy bỏng của nhân vật. Trong cuốn nhật ký, người đàn bà gù tội

nghiệp bỗng biến thành một nàng tiên xinh đẹp óng ả với những bộ trang phục

thanh nhã nhất dạo chơi cùng người yêu: “Ta đi rất chậm. Gió từ lòng hồ làm

bay tung hai tà áo vàng nhạt tựa như chút nắng mùa thu vương vất quanh ta.

Những cặp mắt tò mò dõi theo. Ta muốn mỉm cười nhưng vờ thờ ơ. Ta đang hồi

hộp thắt lòng, chờ đợi người ấy đến...” Đó là những giấc mơ tuyệt vời mà nàng

đã tạo ra để thắng Thượng Đế khi cố tình dày vò tâm hồn nàng bằng sự khiếm

khuyết của hình hài. Những người đàn ông trong những trang nhật ký của nàng

đều là những trang nam nhi hào hoa lý tưởng. Đêm đêm họ vẫn đến bên gối

nàng thủ thỉ cả ngàn lời âu yếm. Không ai gian đối, thô lận hay vô tình, mọi

người đều tìm cách chiều lòng nàng, nhận sự dâng hiến của nàng như nhận một

ân phước. Đêm đêm những vòng tay ân ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm

đềm... Tất cả là mơ tưởng, là huyễn hoặc để xoa dịu những năm tháng khao khát

cháy bỏng tình yêu, hạnh phúc của nhân vật. Nhờ hình thức độc thoại qua nhật

ký mà tâm lý, tính cách nhân vật cô Huệ được khắc họa chân thực, sống động và

có chiều sâu.

Những lời tự vấn lương tâm của nhân vật “tôi” (Trái táo nham nhở) cũng

có tác dụng đẩy nhanh tấn bi kịch của nhân vật đến hồi kết thúc. Nhờ có đoạn

độc thoại- tự vấn lương tâm này mà nhân vật có điều kiện nhìn nhận lại mình,

đánh giá đúng đắn khách quan về người khác để có cách ứng xử hợp lý. Với anh

đó là quá trình tự thú để lòng được nhẹ nhõm, lương tâm được thanh thản sau

gần hai chục năm sống trong tâm trạng day dứt vì phải đeo bộ mặt giả dối.

“Trong chuyện này, anh hoàn toàn có lỗi với em. Nhưng anh không muốn dối

trá lừa lọc mãi...Hãy tha tội cho anh. Cái gì người ta cũng có thể cố gắng, 105

nhưng không ai có thể cố gắng yêu...anh bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối trá,

anh không thể tiếp tục mãi...”. Nhờ sự sám hối chân thành này mà nhân vật của

Đoàn Lê còn xứng đáng là con người với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Còn

chị, nhờ quá trình độc thoại tự- vấn lương tâm mà chị mới nhận ra được con

người thực của anh. Thì ra trong suốt thời gian qua, chị đã bị tình yêu mù quáng

làm mờ mắt, chị đã quá tâng bốc, lý tưởng hóa anh nên không nhận ra những

khiếm khuyết của anh. Hoặc giả thử có nhận ra thì chị cũng nhắm mắt cho qua,

vẫn yêu chiều anh hết mức. Đó chính là bi kịch dai dẳng của đời chị. Đến hôm

nay khi chị bình tĩnh, tỉnh táo để xem xét anh từ chân tơ kẽ tóc: “Anh tưởng

mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá đắt

bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong vô vàn kẻ tầm thường,

một thứ giẻ rách” thì tất cả đã quá muộn. Chị ngậm ngùi chấp nhận sự thật, chấp

nhận sự dang dở của đời mình như chấp nhận trái đất không tròn trịa mà nham

nhở như trái táo bị cắn dở.

Đứng ở những điểm nhìn trần thuật khác nhau, lời văn độc thoại cũng phụ

thuộc vào từng điểm nhìn trần thuật cụ thể. Khi người kể chuyện ở ngôi thứ

nhất, tính chất độc thoại bao giờ cũng rõ nét hơn. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm

trong truyện ngắn Đoàn lê đã biểu đạt được sâu sắc thế giới tâm hồn, tình cảm

của con người, góp phần làm phong phú thế giới ngôn ngữ của văn học thời kỳ

đổi mới.

5. Giọng điệu nghệ thuật

Với một tác phẩm văn chương, giọng điệu nghệ thuật đóng vai trò dẫn dắt

cảm xúc của người đọc khi tiếp nhận tác phẩm, đồng thời là yếu tố hàng đầu của

phong cách nhà văn, là “yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình

thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [63, 355]. Tác phẩm văn học không thể thiếu

giọng điệu, nó là phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Giọng điệu văn học

là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm,

khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Mỗi nhà có một giọng điệu

chủ đạo bao trùm toàn bộ sáng tác làm nên nét phong cách khác biệt của họ so

với những nhà văn khác. Cảm hứng nghệ thuật chủ đạo mà nhà văn sử dụng là

yếu tố cơ bản để tạo nên các giọng điệu khác nhau. Bên cạnh cảm hứng nghệ

thuật, giọng điệu trong tác phẩm văn học còn được thể hiện ở các “mô tuýp và

hình tượng” (M.Bakhtin). Chẳng hạn, các mô tuýp nước mắt, nỗi đau, mối sầu là 106

cơ sở của giọng điệu cảm thương của chủ nghĩa tình cảm. Tùy theo từng giai

đoạn văn học, từng môi trường văn hóa mà những tác phẩm có giá trị đích thực

thể hiện được giọng điệu riêng của nó. Giọng cảm thương trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du, giọng đồng cảm, xót xa trong Chí Phèo của Nam Cao, Giọng châm

biếm, mỉa mai trong Vi hành của Nguyễn Ái Quốc...Có khi trong cùng một tác

phẩm, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau tạo nên sự phong phú trong

cách biểu hiện, thái độ, tình cảm của nhà văn. Với những giọng điệu khác nhau

xuất hiện trong cùng một tác phẩm thường phụ thuộc vào ngữ cảnh phong cách:

“Mối quan hệ giữa ngữ cảnh phong cách này với ngữ cảnh phong cách khác làm

nên cấu trúc chất giọng cho tác phẩm”( Nguyễn Thái Hòa, Chất giọng Nam Cao

trong Chí Phèo).

Với các nhà văn nữ giai đoạn văn học đổi mới, giọng điệu nghệ thuật là

một trong những yếu tố nghệ thuật rất được chú trọng. Khi các cây bút nữ đồng

loạt xuất hiện thì trên văn đàn cũng xuất hiện nhiều giọng điệu nghệ thuật gần

giống nhau. Nhỏ nhẹ, tinh tế nhưng cũng sắc sảo triết lý là những đặc điểm dễ

dàng nhận thấy trong giọng điệu nghệ thuật của các cây bút nữ. Vì vậy để tìm

cho mình một giọng điệu nghệ thuật riêng mà qua đó phong cách nghệ thuật của

nhà văn được khẳng định là điều không dễ với các nhà văn nữ giai đoạn này.

Dẫu vậy bằng niềm đam mê sáng tạo đến quên mình, Đoàn lê đã tìm tòi cho

mình một chất giọng riêng, khẳng định được tiếng nói của mình trên văn đàn

hôm nay. Đó là một cây bút đa giọng điệu. Người đọc có thể tìm thấy trong sáng

tác của bà những chất giọng khác nhau: Khi là giọng điệu trữ tình (Người đẹp

xóm chùa, Đêm ngâu vào, Ngôi nhà gỗ, Giường đôi xóm Chùa...),có lúc là giọng

điệu mỉa mai, châm biếm, phê phán (Nghĩa địa xóm chùa, Trinh tiết xóm chù,

Đất xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa...),có giọng đồng cảm xót xa (Hạt vừng,

Dấu hỏi gửi thượng đế, một ngày xứ em,Viên sỏi, Con bướm nhựa cánh xanh,

Tình Guột.)..Sự phong phú về giọng điệu tạo cho sáng tác của Đoàn Lê sự đa âm

trong cách thể hiện thái độ tình cảm cũng như lập trường tư tưởng của nhà văn.

5.1 Giọng điệu trữ tình.

Giọng điệu trữ tình là một trong những chất giọng cơ bản trong

sáng tác của Đoàn Lê. Giọng điệu trữ tình chủ yếu được thể hiện ở ngôn ngữ

nghệ thuật mà nhà văn sử dụng cũng như các yếu tố nghệ thuật khác như: mô

típ, hình tượng nghệ thuật, hình ảnh, ngữ điệu, cách miêu tả nhân vật...Ngôn ngữ 107

trong tác phẩm thể hiện tình cảm, tâm trạng của nhân vật. Những chuyện viết về

đề tài tình yêu, cuộc sống gia đình của Đoàn Lê thường sử dụng giọng điệu trữ

tình (Dấu hỏi gửi thượng đế, Ngôi nhà gỗ, Tình Guột, Đêm ngâu vào). Những

câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng, lãng mạn là phông nền cơ bản cho giọng điệu

trữ tình của tác phẩm. Có những truyện từ đầu đến cuối toàn là giọng tâm tình

của nhân vật khi kể lại câu chuyện tình của đời mình (Ngôi nhà gỗ). Họ đến với

nhau rất nhẹ nhàng và chia tay cũng thật lặng lẽ. Cốt truyện chẳng có gì đặc biệt,

với giọng văn nhẹ nhàng thủ thỉ, nhà văn cứ nhẩn nha kể câu chuyện của “chị”,

thói quen sợ dán, cả cuộc sống bình lặng nhưng khá thú vị của chị những ngày

sống ở quê anh trong ngôi nhà gỗ. Rồi cũng chẳng có lí do gì đặc biệt họ đã chia

tay nhau, chi tạm biệt ngôi nhà gỗ quê anh và chuyển về một xóm núi gần biển

Hải Phòng, nơi con trai chị đang học đại học để sinh sống. Từ đó dường như chị

quên hẳn anh và con vật đáng ghét ở quê anh. Truyện chỉ có thế, chẳng có biến

cố gì đặc biệt nhưng những dư vị mà nó đọng lại trong lòng ta thật thấm thía.

Chất trữ tình trong những tác phẩm của Đoàn Lê không chỉ hiện lên ở ngôn ngữ

kể chuyện mà còn ở nhiều yếu tố như cách tạo bối cảnh không gian, thời gian

cho câu chuyện được kể, cách diễn tả tâm lý, tâm trạng nhân vật... Truyện Đêm

ngâu vào được bắt đầu bằng không gian của một buổi chiều mưa ngâu anh và

nàng ngồi bên nhau ngắm mưa nhưng tâm trạng thì khác hẳn tâm trạng của hai

mươi năm về trước. Hai mươi năm trước cũng vào chiều mưa như chiều nay,

đáng ra anh phải nói với nàng tất cả những xúc cảm thổn thức của con tim thì

anh lại do dự, dụt dè. Vì thế anh đã vĩnh viễn mất nàng để suốt đời phải sống

trong sự hối tiếc. Và chiều nay khi anh được cận kề bên nàng thì tất cả đã quá

muộn, thời gian còn lại của đời nàng còn quá ít. Anh chỉ còn kịp họa lại bức

chân dung nàng trong khoảnh khắc của buổi chiều mưa ngâu. Toàn truyện thấm

đẫm một nỗi buồn thương da diết. Chính không gian, tâm trạng, xúc cảm của

nhân vật đã làm nên chất trữ tình sâu lắng cho truyện.

Bên cạnh những giọng điệu khác, giọng đồng cảm, xót xa cũng là một

giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Đoàn Lê. Đó cũng là một khía cạnh của

giọng điệu trữ tình. Giọng điệu này xuất phát từ niềm cảm thông sâu sắc của nhà

văn với mỗi cuộc đời, số phận từng chịu nhiều thiệt thòi, cay đắng trong cuộc

đời riêng. Đó có thể là những số phận bất hạnh do sự thiếu hụt của hình hài

(Dấu hỏi gửi thượng đế , Tình Guột), có khi là nỗi đau của những cô gái nhan 108

sắc phải bán thân nuôi miệng (Con bướm nhựa cánh xanh), cũng có lúc là nỗi

đau của người thân khi mất đi người những người ruột thịt của mình (Viên sỏi,

Hai bà mẹ và tôi)...Nhà văn đã thể hiện nỗi đau của nhân vật bằng tất cả tấm

lòng đồng cảm, xót xa của mình. Mỗi câu chữ viết ra đều rưng rưng nước mắt.

Nỗi niềm của nhà văn với nhân vật không chỉ ẩn sau mỗi cuộc đời, mỗi số phận

mà còn thể hiện trực tiếp qua giọng điệu ngôn ngữ của tác phẩm.

Giọng đồng cảm, xót xa là giọng điệu chủ yếu làm nên giá trị nhân văn

trong mỗi tác phẩm của Đoàn Lê.

5.2 Giọng mỉa mai, châm biếm, phê phán

Giọng điệu mỉa mai, châm biếm, phê phán xuất phát từ cảm hứng trào

lộng và là căn nguyên tạo nên cái hài, cái bi trong văn học nghệ thuật. Theo

Bakhtin, giọng điệu nói chung nhất là giọng điệu châm biếm, trào lộng bao giờ

cũng gắn với tiếng cười, là sự “mâu thuẫn”, “Sự không tương xứng mà người ta

có thể cảm nhận được về phương diện thẩm mỹ- xã hội” [50]. Giọng mỉa mai,

châm biếm có vai trò như một thứ vũ khí nhằm phê phán, đả kích cái ác, cái xấu

của nhân tình thế thái. Văn học từ sau 1975 dần dần mất đi tính chất “trang

nghiêm” của văn học giai đoạn trước và bắt đầu đưa yếu tố gây hài vào để cảm

hứng trào lộng thành một dòng chảy mạnh mẽ.

Trong truyện ngắn của Đoàn Lê, giọng điệu châm biếm, mỉa mai, phê

phán không thể hiện trực tiếp ồn ào, dồn dập, gấp gáp mà kín đáo, nhẹ nhàng

đằng sau câu chữ nhưng thật thấm thía và sâu cay. Đó là những câu chuyện viết

về hiện thực cuộc sống con người thời đổi mới. Cùng với sự thay đổi trong đời

sống xã hội, nhiều thang bậc giá trị trong đời sống con người cũng theo đó mà

thay đổi. Người ta thấy nhiều nét truyền thống nhân bản không còn phù hợp với

thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời gian là vàng, thời đại nền kinh tế thị

trường đặt lợi nhuận lên trên hết. Vì thế, trong xã hội xuất hiện loại người cơ

hội, trục lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên mọi tiêu chuẩn, nguyên tắc ở đời (A

Tourism xóm Chùa). Để làm giầu Cường đã bất chấp mọi thủ đoạn: hắn đặt bom

làm sập hang Dơi rồi tạo hiện trường giả tung tin về động xương người. Từ tin

tức ấy, Cường cấp tốc xin ủy ban cho mở mấy quán ăn phục vụ khách du lịch,

dần dà quán ăn phát triển thành những nhà hàng, bên ngoài có tiếng nhạc xập

xình suốt ngày đêm, bên trong có tiếp viên ăn mặc xúng xính mắt xanh mỏ đỏ

phục vụ các thượng đế. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, Cường bốc giầu 109

nhanh chóng. Giờ hắn có xe @ đi vè vè, mắt đeo kính đen vếch lên trời chẳng

thèm chào ai. Hơn thế hắn còn đưa ca-ve về nhà để chúng khiêu khích ông

Hưởng- bố Cường đến mức ông nhồi máu cơ tim chết ngay trên giường... Từng

sự việc, chi tiết trong tác phẩm đều mang ý nghĩa châm biếm, mỉa mai sâu sắc

loại người vì lợi mà bất chấp cả luân thường đạo lý, cả lương tâm. Cùng với

Cường, rất nhiều gia đình ở xóm Chùa Ông cũng mong muốn được đổi đời. Họ

bất chấp mọi mối quan hệ, bất chấp mọi nghĩa tình, sẵn sàng gây ra những cuộc

tranh chấp đất đai nhằm hưởng lợi (Đất xóm Chùa). “Con cả lão Tự Nghệch

chém vỡ đầu thằng thứ hai, tranh nửa thước đất bên cạnh con đường cao tốc vô

hình. Bốn nhà vẫn chung ngõ đi bỗng om sòm đánh nhau chia bôi đường biên

giới. Bà cụ Lăng kiện con rể, đòi lại cái chuồng trâu đã cho con gái làm hồi

môn từ hai chục năm trước...” Toàn những hiện thực cười ra nước mắt. Giọng

điệu trần thuật của nhà văn ngỡ như bình thản, lạnh lùng mà ẩn chứa bao chua

xót. Còn đâu xóm làng bình yên với nghĩa tình sâu nặng của cha con, anh em,

xóm giềng thủa trước. Tất cả đã bị cái lợi trước mắt cùng đồng tiền che khuất.

Để cứu gia đình thoát nghèo, người ta sẵn sàng làm những việc mất hết lương

tâm, vi phạm nghiêm trọng đạo đức con người là cho con xuất ngoại mà thực

chất là bán con để trục lợi. Ghê tởm hơn, họ còn cho con gái đến cơ sở y khoa

để “vá trinh” tân trang lại nhằm lòe bịp những lão già ngoại quốc lắm tiền, dù

biết rằng nếu họ phát hiện ra họ sẽ bán vào nhà thổ hoặc vùi dậo cho đến chết

(Trinh tiết xóm Chùa). Cũng vì “cơn sốt” lấy chồng ngoại, con trai đưa ca-ve,

con hít về tận làng hoạt động nên cả Xóm Chùa có đến hai phần ba thanh niên

khám nghiệm dương tính với con hít. Hiện thực đau xót này là hiện thực chung

của nhiều vùng ven đô nước ta trước tốc độ đô thị hóa đến mức chóng mặt của

nền kinh tế thị trường.

Giọng châm biếm, phê phán của Đoàn Lê không chỉ nhằm vào những tệ

nạn xã hội, những kẻ cơ hội trục lợi mà còn nhằm cả vào những hiện tượng tiêu

cực trong xã hội như nạn tham nhũng, lợi dụng chức quyền để thao túng đất đai,

trọng hình thức hơn nội dung, coi trọng vẻ bề ngoài hơn bản chất thực bên

trong... Đó là những vấn đề lớn được nhà văn thể hiện trong hai truyện có yếu tố

kỳ ảo: Lên Ruồi và Nghĩa địa xóm Chùa. Ở Lên Ruồi, nhà văn kể câu chuyện

của một nghệ sỹ nhào lộn đã cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật, nay vì ly dị

vợ không có chỗ ở phải đâm đơn xin xỏ khắp nơi nhưng không được chấp nhận 110

còn bị biến thành ruồi. Qua giọng kể hài hước, dí dỏm nhà văn khiến bao kẻ

quyền chức tham nhũng trong xã hội phải giật mình, bao người thấy xót xa cho

cảnh ngộ của mình trong cái thời buổi đất chật người đông, “mật ít ruồi nhiều”.

Dân gian vẫn nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xấu người đẹp nết còn hơn

đẹp người” để nhấn mạnh vai trò của sự thực chất. Nhưng dường như trong xã

hội hiện đại, quan niệm đó không còn thực sự được đề cao, vì thế mới nảy sinh

căn bệnh chạy theo hình thức, coi trọng hình thức với những biểu hiện bên ngoài

hơn là bản chất thực bên trong. Qua giọng kể đầy tính chất bi hài của Đoàn Lê ở

truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa, người đọc sẽ thấy rất rõ điều đó. Câu chuyện

xoay quanh tình huống nhầm lẫn xác của ông thiếu tướng với một tay thợ điện

về hưu- một tình huống hết sức khôi hài để phê phán hiện thực: hiện thực về tiền

tài danh vị, thứ bậc trong xã hội. Vì chút tiền lót tay tiêu cực phí, gã canh nhà

xác vô lương tâm sẵn sàng làm cuộc tráo đổi lộn sòng gây náo loạn cả đám tang

thiếu tướng. Vì chức tước danh vị ông thiếu tướng mà hầu hết những người đến

với đám tang chỉ diễu qua, diễn trò cho phải phép, không ai tận mắt ngắm nhìn

hình hài người quá cố. Ngay đến cả đến những người ruột thịt: hai bà vợ và một

lũ con khăn xô, mũ mấn luôn túc trực bên linh cữu mà cũng không hề nhận ra sự

nhầm lẫn nực cười ấy. “Họ mải nhìn vào nỗi đau trong lòng họ, hay mải giữ lễ

với ông cả bà lớn đến viếng nên chưa một lần liếc mắt tới tôi?”. Cứ như thế,

bằng giọng điệu lúc bình thản, lạnh lùng, khi bất bình chua sót, nhà văn đã nhập

thân vào nhân vật tay thợ điện để kể về nỗi oan ức của mình: “Ông thiếu tướng

kia ơi, nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở

đây không ai cần ông, không ai thực sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh

mất vinh hạnh mà chính thực tôi gánh chịu nỗi bất hạnh cho ông đó”. Điểm

nhìn trần thuật khi ở nhân vật này, lúc của nhân vật khác, nhà văn đã thể hiện

thái độ mỉa mai, châm biếm rất sâu sắc.

Trong nhiều tác phẩm khác, dù giọng điệu chính không phải là mỉa mai,

phê phán nhưng đằng sau những bức tranh hiện thực, nhà văn vẫn ngầm thể hiện

những ý nghĩa phê phán xã hội, con người rõ nét. Là nhà văn giàu lòng nhân ái,

Đoàn Lê luôn có mong muốn qua những trang viết của mình, con người sẽ sống

thiện hơn, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ được cải thiện, những nét

đẹp nhân bản của con người sẽ được khôi phục. Niềm mong mỏi ấy giúp nhà

văn liên tục cống hiến cho người đọc những trang viết giầu ý nghĩa nhân văn.

111

Giọng điệu trở thành một yếu tố nghệ thuật chi phối rất lớn đến các yếu tố

nghệ thuật khác trong tác phẩm. Nó đồng thời cũng là một hiện tượng nghệ thuật

được tạo thành từ các yếu tố gắn kết, hô ứng nhau. Trong mỗi sáng tác, Đoàn Lê

luôn cố gắng, tìm tòi để tạo ra những giọng điệu riêng không giống ai. Đó thực

sự là thách thức lớn với người nghệ sỹ, nhưng chúng ta tin rằng bằng sự khổ

công phấn đấu với niềm say mê nghề nghiệp cùng tài năng của bà với văn

chương, Đoàn Lê vẫn và sẽ tạo được phong cách nghệ thuật riêng bắt đầu từ

giọng điệu nghệ thuật.

112

PHẦN III. KẾT LUẬN

1. Văn học Việt Nam từ sau 1975 chứng kiến nhiều thay đổi từ thể loại

đến quan niệm sáng tác, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Trong đó truyện ngắn

là thể loại gặt hái được nhiều thành công nhất. Sự khởi sắc của thể loại này là

minh chứng cho sự phát triển của văn học hiện đại. Có được những thành tựu đó

không thể không nhắc đến sự góp mặt của các nhà văn nữ, khi tác phẩm của họ

gần như chiếm lĩnh văn đàn. Trong đó, Đoàn Lê được biết đến như một cây bút

có phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới rất tiêu biểu cho văn học đương

đại. Vì vậy tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn lê giúp ta có

cái nhìn khái quát hơn về sự phát triển chung của văn học thời kỳ đổi mới.

2. Cảm hứng nghệ thuật của Đoàn Lê bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực

bề bộn của cuộc sống hôm nay. Từ cảm hứng bi kịch đến cảm hứng triết luận,

tác phẩm của Đoàn Lê thường đề cập đến những vấn đề nhân sinh. Đó là nỗi đau

của những con người bước ra khỏi cuộc chiến với những ám ảnh ghê gớm của

chiến tranh. Chuyển sang giai đoạn đất nước hòa bình, nhà văn lại khám phá và

thể hiện những bi kịch của bao gia đình, bao số phận trước sức băng cuốn của

nền kinh tế thị trường. Cùng với những bi kịch ấy là bi kịch tình yêu, hôn nhân

trong những gia đình hiện đại. Đoàn lê đã viết văn bằng tất cả sự nhạy cảm tinh

tế của một người phụ nữ từng trải nên những bi kịch mà nhà văn thể hiện qua

mỗi trang viết đều chân thực và sâu sắc. Giọng điệu của nhà văn khi viết về

những cảm hứng đó khi thì đồng cảm, xót xa chia sẻ, lúc lại mỉa mai, phê phán

nhẹ nhàng mà tinh tế.

3. Con người xuất hiện trong văn học thời kỳ đổi mới là con người đời tư,

đời thường với những khuôn mặt khác nhau tạo nên sự phong phú, sinh động

trong thế giới nhân vật mà văn học đề cập đến. Số phận cá nhân được văn học

giai đoạn này quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là đời sống tinh thần của con người

hiện đại vốn phức tạp và khó nắm bắt. Nhân vật văn học được nhắc đến bằng

các đại từ xưng hô: “tôi”, “hắn”, “nó”, “lão”...nhiều hơn là danh từ chung mà

văn học giai đoạn trước lựa chọn để khắc họa những hình tượng nhân vật mang

sắc thái biểu tượng cho cả một thế hệ, một dân tộc ở một giai đoạn lịch sử cụ

thể. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Đoàn Lê dù là truyện ngắn hay tiểu

thuyết đều thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Con 113

người là một thế giới bí ẩn, một tiểu vũ trụ với đời sống tâm lý vô cùng phức tạp

mà các nhà văn cần khám phá và thể hiện.

Con người trong sáng tác của Đoàn Lê thường mang bi kịch và cảm xúc

chân thực của con người hiện đại. Bi kịch vì tình yêu không thành, bi kịch vì sự

đổ vỡ gia đình, bi kịch vì cuộc sống mưu sinh...Bi kịch ấy bắt nguồn từ mâu

thuẫn giữa hoàn cảnh và tính cách cũng như ước mơ, khát vọng của con người.

Những mâu thuẫn, xung đột trong thế giới nhân vật mà nhà văn đề cập đến chứa

đựng ý nghĩa điển hình và có tính xã hội sâu sắc. Thế giới nhân vật trong truyện

ngắn Đoàn Lê khá phong phú: có kiểu nhân vật cô đơn, có nhân vật tự ý thức,

cũng có kiểu nhân vật ảo...Mỗi kiểu nhân vật được thể hiện bằng những phương

thức khác nhau nhưng đều góp phần thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về

con người của Đoàn Lê. Đặc biệt là việc khắc họa nhân vật ảo đã giúp nhà văn

mở rộng bình diện khám phá con người, khám phá hiện thực cuộc sống một

cách độc đáo nhưng vẫn chân thực và đầy đủ. Khám phá thế giới nhân vật của

Đoàn Lê người đọc có thể hình dung về dòng chảy của cuộc sống hiện đại cũng

như tâm lý, tính cách và số phận con người trong cuộc sống hôm nay.

4. Thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê cũng có những nét độc

đáo riêng, tạo nên một phong cách nghệ thuật có nhiều dấu ấn trên Văn đàn văn

học Việt Nam hiện đại. Từ nghệ thuật tổ chức cốt truyện, tạo tình huống, tổ chức

ngôn ngữ và cách lựa chọn sắp xếp không gian, thời gian hay các thủ pháp nghệ

thuật thường sử dụng trong sáng tác của nhà văn đều có những cách tân mới mẻ

bên cạnh những yếu tố kế thừa văn học truyền thống. Về nghệ thuật tổ chức cốt

truyện, Đoàn Lê là nhà văn ở giữa làn ranh giới giữa cốt truyện truyền thống và

cốt truyện hiện đại. Trong truyện ngắn của bà bên cạnh những truyện có cốt

truyện rõ ràng, nhà văn còn sáng tạo loại truyện tâm lý không có cốt truyện, chủ

yếu hướng vào thế giới tinh thần của nhân vật với những thông điệp mang ý

nghĩa triết luận sâu sắc. Những tình huống được nhà văn lựa chọn và tổ chức

gắn với tư tưởng nghệ thuật của bà trước những vấn đề của cuộc sống, là mấu

chốt để triển khai cốt truyện và xây dựng nhân vật. Ngôn ngữ Đoàn Lê là ngôn

ngữ gần với đời thường. Nhân vật của Đoàn Lê thường được đặt trong không

gian cụ thể, thời gian đa chiều: quá khứ, hiện tại, cái chung- cái riêng. Qua đó

cảm quan về cuộc sống, tư tưởng nghệ thuật cùng những nét riêng về phong

cách của nhà văn được bộc lộ.

114

5. Qua việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê, chúng tôi

hy vọng đã phác thảo những đặc trưng nghệ thuật của một cây bút nữ tiêu biểu

của văn học giai đoạn đổi mới. Qua việc tìm hiểu này, chúng tôi hy vọng sẽ giúp

bạn đọc có thể mở rộng bình diện khám phá tác phẩm văn học, đặc biệt là khám

phá những truyện ngắn hiện đại vốn được xem là khó hiểu, khó nắm bắt. Việc

tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê cũng chính là đã bước đầu tìm

hiểu những đặc điểm chung của truyện ngắn đương đại. Mặc dù chưa thực đầy

đủ, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng những khám phá về nội dung và nghệ thuật

trên đây sẽ giúp bạn đọc dễ dàng tiếp cận hơn với sáng tác của nhà văn này,

cũng như những sáng tác của các nhà văn nữ cùng thời. Tuy nhiên, những cách

hiểu chưa đầy đủ là điều không tránh khỏi khi thực hiện đề tài nghiên cứu này,

vì vậy những đóng góp ý kiến của bạn đọc là điều vô cùng quý báu để chúng tôi-

những người mới bước chân vào con đường nghiên cứu có thêm những khích lệ,

động viên để tiếp tục con đường đầy khó khăn trước mặt.

115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Ngọc Anh ( 2003)- Đã đến lúc những ngƣời đàn bà nổi loạn - Báo Nông thôn

2 ngày nay, ngày 10/07 Vũ Tuấn Anh (1995)- Đổi mới văn học vì sự phát triển – Tạp chí Văn hóa số4.

3 Vũ Anh Tuấn ( 1996)- Quá trình văn học đƣơng đại nhìn từ phƣơng diện thể loại - Tạp chí Văn hóa - Số 9.

4 Lại Nguyên Ân (2003)- 150 thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội

5 Nguyễn Thị Bình (2001)- Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975 - Tạp chí Văn học số 3

6 Nguyễn Thị Bình (1996)- Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Luận án PTS khoa học Ngữ văn – ĐHSPHN

7 M,Bakhtin (1992) -Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - NXBHà Nội 8 M,Bakhtin (1993) - Những vấn đề thi pháp Đônxtôievxky- NXB Giáo dục.

9

10 Phạm Quốc Ca (2002) - Ý thức cá nhân trong thơ trữ tình sau 1975 - Văn học số 12. Nguyễn Minh Châu (1987) - Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa - Văn nghệ, 12.

11 Nguyễn Minh Châu (1994)- Trang giấy trƣớc đèn - NXB Khoa học xã hội & Nhân văn.

12 Trần Ngọc Dung (1993)- Ba phong cách truyện ngắn: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao - Luận văn PTS Khoa học Ngữ văn – ĐHSPHN.

13 Nguyễn Lân Dũng (2006) – Ai cứu xóm Chùa- Báo văn nghệ số 4

14 Đặng Anh Đào (1991) - Một hiện tƣợng mới trong hình thức kể truyện hôm nay - Tạp chí văn học số 6.

15 Đặng Anh Đào (1993) - Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay - Tạp chí khoa học văn học số 3.

16 Trần Thanh Đạm (1989)- Nghĩ về một xu thế đổi mới trong đời sống văn trƣơng hiện nay - Báo văn nghệ số 1.

17 Hà Minh Đức (1992) - Loại thể văn học - NXB Giáo dục. 18 Hà Minh Đức (chủ biên) (1995)- Lý luận văn học - NXB Hà Nội. 19 Trần Thanh Địch (1998) - Tìm hiểu truyện ngắn- NXB tác phẩm mới.

20 Phùng Hữu Hải - Yếu tổ kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiẹn đại từ sau năm 1975 - www.evan.com,vn.

21 Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1997) - Từ điển thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội.

116

22 Hoàng Thị Hồng Hà (2003) - Truyện ngắn nữ và xu hƣớng tự nghiệm - Tạp chí Nghề báo - Văn nghệ Công an số 10.

23 Nguyễn Hà (2000)- Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80 - Tạp chí Văn học số 3.

24 Nguyễn Thái Hòa ( 2000)- Những vấn đề thi pháp của truyện - NXB Giáo dục.

25 Tô Hoài (1997) - Sổ tay viết văn - NXB tác phẩm mới Hà Nội. 26 Vũ Thị Hồng (1991) - Gặp gỡ một số nhà văn nữ - Tạp chí tác phẩm mới số 10.

27 Hoàng Ngọc Hiến (1991)- Thi pháp của truyện - Báo Văn nghệ số 31.

28 Đỗ Đức Hiểu (2000) - Thi pháp học hiện đại - NXB Hội nhà văn. 29 Nguyễn Thanh Hùng (2000) - Chiến tranh đi qua tình ngƣời ở lại - Tạp chí Văn học số 3.

30

Lê Thị Hường (1995) - Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn sau 1975 - Luận án TS khoa học Ngữ văn - ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội.

31 Lê Thị Hường (1994) - Quan niệm về con ngƣời cô đơn trong truyện ngắn hiện nay - Tạp chí Văn học số 2.

32 Lê Thị Hường (1995) - Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay - Tạp chí văn học số 4.

33 M.B.Khrapchenkô (1978) - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - NXB Tác phẩm mới.

34 M.B.Khrapchenkô (2002)- Những vấn đề lý luận và phƣơng pháp luận nghiên cứu văn học - NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.

35 Phùng Ngoc Kiếm (1998) - Con ngƣời trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975 - NXB ĐHQG Hà Nội.

36 Lê Minh Khuê ( 2003) - Truyện ngắn chọn lọc - NXB Giáo dục. 37 Chu Lai (2007)- Ăn mày dĩ vãng - NXB Hà Nội. 38 Tôn Phương Lan ( 2001)- Một vài suy nghĩ về con ngƣời trong văn học thời kỳ đổi mới - Tạp chí Văn học số 9.

39 Nguyễn Văn Long ( 2003) - Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục.

40 Nguyễn Văn Lưu (1995) - Luận chiến văn chƣơng - NXB Văn học.

41 Nguyễn Đăng Mạnh ( 1994) - Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn NXB Giáo dục.

42 Nguyễn Đăng Mạnh ( 2003) - Khái quát Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục.

117

43 Nguyễn Đăng Mạnh ( 2003) - Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách - NXB Văn học.

44 Nguyên Ngọc (1991) - Văn suôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển Tạp chí Văn học số 4.

45 Nguyên Ngọc ( 1990) - Đôi nét về một tƣ duy văn học mới đang hình thành - Tạp chí Văn học số 4.

46 Hương Nguyên (2002) - Các nhà văn Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc - Tạp chí Văn học số 3.

47 Phạm Xuân Nguyên ( 1994) - Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay - Tạp chí Văn học số 2.

48 Vương Trí Nhàn (1998) - Sổ tay truyện ngắn - NXB Hội Nhà văn Hà Nội. 49 Vương Trí Nhàn (1996) - Phụ nữ và sáng tác văn chƣơng - Tạp chí Văn học số 6.

50 Nhiều tác giả (2000) - Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký - Tạ Duy Anh (chủ

51 biên) NXB Thanh Niên. Nhiều tác giả (1999) - Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học -Viện văn học Hà Nội.

52 Nhiều tác giả (1987)-(1997) - Tự sự học (Trần Đình Sử- chủ biên) - NXB ĐHQGHN-NXB - Giáo dục.

53 Bảo Ninh (2007) - Nỗi buồn chiến tranh - NXB Văn học .

54 Phóng viên (1994) - Nghĩ về truyện ngắn - Phỏng vấn các nhà văn - Văn nghệ Quân Đội.

55 Phóng viên (1994) - Phỏng vấn 4 cây bút nữ - Văn nghệ Quân đội 2. 56 Phạm Thị Phương (1998) - Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn - Tạp chí Văn học số 4.

57 Trần Đình Sử (2000) - Lý luận và phê bình văn học - NXB Giáo dục . 58 Trần Đình Sử (1992) - Thi pháp học hiện đại - NXB Giáo dục. 59 Trần Đình Sử (1992) - Dẫn luận Thi pháp học - NXB Giáo dục.

60 Trần Đình Sử - Phương Lựu- Nguyễn Xuân Nam (2002) - Lý luận văn học - NXB Giáo dục.

61 Hồ Anh Thái (2009)- Đoàn Lê “chị tôi” – Báo văn nghệ số 38.

62 Trần Thị Thắng, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Ngọc Tú, Trần Thị Trường – (2003) - Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam - NXN Giáo dục Hà Nội.

63 Bùi Việt Thắng (1999) - Bình luận truyện ngắn - NXB Văn học. 64 Bùi Việt Thắng (1997) - Khi ngƣời ta trẻ II –- Báo Văn nghệ 35.

118

65 Bùi Việt Thắng (2002) - Lời giới thiệu truyện ngắn 4 cây bút nữ - NXB Văn học.

66 Bùi Việt Thắng (2000) - Một bƣớc đi của truyện ngắn – NXB Hội nhà văn. 67 Bùi Việt Thắng (2000) - Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại - NXB ĐHQG Hà Nội.

68 Nguyễn Huy Thiệp (1999) - Nhƣ những ngọn gió - NXB văn họ Hà Nội 69 Bích Thu (1996) - Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 - Tạp chí văn học số 9.

70 Bích Thu (1995) - Những dấu hiệu đổi mới của văn học sau 1975 qua hệ thống mô tuýp chủ đề- Tạp chí Văn học số 4.

71 Bích Thu (2001) - Văn xuôi phái đẹp - Tạp chí Sông Hương số 145 tháng 3. 72 Lê Ngọc Trà (2002) - Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới - Tạp chí Văn học số 2.

73 Dương Quỳnh Trang (1994) - Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của

74

một cây bút nữ - Văn nghệ Quân đội 6. Bùi Thanh Truyền - (2006) – Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đƣơng đại Việt Nam - Luận án TS khoa học Ngữ văn – Đại học Huế 75 Truyện kỳ ảo thế giới (1992) - NxbVăn Học Hà Nội 76 Truyện ngắn của các nhà văn nữ (2001) - NXB Giáo dục. 77 Truyện ngắn hay Việt Nam -Tập 4 (2000 )- NXB Hội Nhà văn. 78 Truyện ngắn trẻ chọn lọc 1994 - 1998 (1998) - NXB Văn hóa Thông tin. 79 Tuyển các tác giả nữ (2001) - NXB Phụ nữ.

119