ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN –––––––––––––––––––– ĐỖ THỊ HIÊN

VẤN ĐỀ TÍNH DỤC TRONG THƠ NÔM CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ HÀ NỘI-2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN –––––––––––––––––––– ĐỖ THỊ HIÊN

VẤN ĐỀ TÍNH DỤC TRONG THƠ NÔM CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyênngành: VănhọcViệt Nam Mãsố: 60.22.01.21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN NHO THÌN HÀ NỘI-2016

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kết quả đƣợc nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi là ngƣời chịu trách nhiệm

chính đối với mọi vấn đề liên quan đến luận văn này này.

Tác giả luận văn

2

Đỗ Thị Hiên

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo khoa Văn

học- Trƣờng Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, đặc biệt là PGS. TS.

Trần Nho Thìn, ngƣời đã luôn kiên nhẫn, tận tình chỉ bảo để tôi có thể hoàn

thành luận văn. Tôi

Cảm ơn các anh chị đồng nghiệp tại phòng Văn Hoá Văn Nghệ-

Trung tâm truyền hình- Báo Nhân Dân, đặc biệt là anh Đỗ Ngọc Xiêm đã

luôn tạo điều kiện cũng nhƣ hỗ trợ tôi trong các công việc tại cơ quan để tôi

có thời gian tập trung cho việc thực hiện luận văn.

Cảm ơn các bạn của tôi, đặc biệt là bạnNguyễn Trƣờng Sinh đã nhiệt

tình đọc giúp bản thảo và động viên tôi trong suốt quá trình làm luận văn.

Cảm ơn mẹ Nguyễn Thị Hoa, mẹ Nguyễn Thị Loan, bố Trần Quốc

Tuấn cùng các em đã luôn ủng hộ con đƣờng học tập và công việc của tôi.

Cảm ơn anh Trần Quốc Hà – chồng tôi – ngƣời đã luôn ở bên chia sẻ

với tôi những khó khăn trong cuộc sống cũng nhƣ trong quá trình tôi tập

trung cho luận văn.

Tác giả luận văn

3

Đỗ Thị Hiên

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHQG : Đại học Quốc gia

ĐHSP : Đại học Sƣ phạm

ĐHKHXH&NV : Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

CTQG : Chính trị Quốc gia

GD : Giáo dục

H : Hà Nội

KHXH : Khoa học xã hội

Nxb : Nhà xuất bản

Sđd : Sách đã dẫn

SCN : Sau Công nguyên

TCN : Trƣớc Công nguyên

4

Tp. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói văn học trung đại Việt Nam là nền văn học của nam

giới. Cả chủ thể và đối tƣợng của di sản văn học mƣời thế kỷ này tuyệt đại

đa số là nam giới. Từ những tác giả văn học viết đầu tiên nhƣ Đỗ Pháp

Thuận, Trần Quang Khải tới những nhà nho cuối cùngnhƣ Trần Tế Xƣơng,

Tản Đà hầu hết đều là nam nhân. Nếu có những tác giả hoặc tác phẩm của

nữ giới cũng rất hiếm hoi, chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay nhƣ: bà huyện

Thanh Quan, Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm… Nếu văn học đã chỉ đặt

đứng trên một chân, và chỉ nhằm phục vụ cho một giới (nam), thì chắc chắn

vấn đề tính dục trong văn học- một vấn đề cấm kị ở thời đại lấy tƣ tƣởng

Nho gia làm chính thống lại càng không dành cho nữ giới. Tuy nhiên, bên

cạnh những tên tuổi của các nam nhân nổi tiếng về chữ nghĩa đó lại xuất

hiện một nữ thi sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo, làm tốn khá nhiều bút

mực của giới nghiên cứu văn học đó là Hồ Xuân Hƣơng. Tên tuổi của Hồ

Xuân Hƣơng hiện nay đƣợc đặt cạnh đại thi hào Nguyễn Du và Nguyễn

Trãi, qua đó cũng chứng minh rằng nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng có vị trí đặc biệt

trong làng văn học nói riêng và trong lòng mọi ngƣời dân Việt Nam nói

chung.

Liệu có thật một bà Hồ Xuân Hƣơng sống trong thời đại thanh

giáo truyền thống phƣơng Đông, chịu sự kiềm toả chặt chẽ của các tƣ

tƣởng “tam tòng tứ đức”, của các quy tắc ứng xử dành cho ngƣời con gái

đã đƣợc dạy rõ ràng và chi tiết trong các sách Huấn ca … mà dám mạnh

bạo, chủ động trong tình yêu hôn nhân, thậm chí còn có những phát ngôn

tính dục cả gan và phóng túng nhƣ vậy hay không? Hay đó là một hiện

5

tƣợng văn học độc đáo nhằm giải toả ẩn ức, đối phó với cấm kị bản năng?

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Từ những hoài nghi đó chúng tôi tìm hiểu, phân tích và đánh giá về vấn đề

tác quyền của các nhóm thơ thuộc mảng thơ Nôm truyền tụng.

Sự thú vị này càng thôi thúc chúng tôi đi sâu vào làm rõ thực hƣ

có một bà Hồ Xuân Hƣơng với những bài thơ truyền tụng đậm và dày màu

sắc tính dục, hay đó là một hiện tƣợng văn học độc đáo đối phó với cấm kị

bản năng trong bối cảnh văn hoá, văn học đƣơng thời?

Một lý do nữa khiến chúng tôi quyết định chọn đề tài Vấn đề tính

dục trong thơ Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá chính là việc thấy

đƣợc vai trò quan trọng của phƣơng pháp nghiên cứu văn hoá học trong

văn chƣơng. Khi các trƣờng phái nhƣ Phê bình mới (New Criticism) hay

Chủ nghĩa cấu trúc (Structuralism) xuất hiện, ngƣời ta cho rằng có thể giải

quyết những vấn đề của văn học chỉ thuần túy dựa trên những yếu tố nội tại

của văn bản mà không cần đến bất kỳ một sự tham chiếu nào khác từ

những nhân tố bên ngoài. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng: một hiện tƣợng

văn học xuất hiện không những bị chi phối bởi bối cảnh xã hội, tƣ tƣởng

thời đại mà còn bị chi phối bởi bối cảnh văn hoá, trong đó có sự chi phối

của cái nhìn giới tính của chính ngƣời viết. Để tránh những suy diễn gán

ghép cách nghĩ hiện đại, chúng tôi tiếp cận mảng thơ Nôm truyền tụng của

Hồ Xuân Hƣơng từ quan điểm dựng lại không gian văn hóa của thời trung

đại lồng ghép cùng lý thuyết về cái nhìn giới đã đƣợc sử dụng hiệu quả

trong ngành điện ảnh để thấy thực hƣ vấn đề tác quyền phức tạp này ra sao.

2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài

Thứ nhất, trên phần lý do chọn đề tài chúng tôi đã đề cập về những

hoài nghi trong vấn đề thực - hƣ có một bà Hồ Xuân Hƣơng hay có những

“Hồ Xuân Hƣơng đực”. Lữ Hồ, Hồng Tú Hồng, Trần Thanh Mại, Mai

Quốc Liên… đã nghi ngờ vấn đề tác giả, tác quyền trong hiện tƣợng Hồ

6

Xuân Hƣơng.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Có một thực tế: trong văn học cổ - trung đại của các nƣớc thuộc

khu vực đồng văn/ Đông Á, hiện tƣợng một tác giả văn học đến nay không

rõ tiểu sử hành trạng một cách chính xác không phải là chuyện hiếm. Cho

đến nay, ngƣời ta vẫn không biết chính xác tiểu sử của Mạnh Tử - một vị Á

Thánh của Nho giáo. Hay nhà văn Thi Nại Am- tác giả của bộ Thuỷ hử nổi

tiếng cũng không rõ ràng về tiểu sử. Ở Việt Nam chỉ trong giai đoạn nửa

cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, cũng rất nhiều tác giả không rõ về

tiểu sử, ví dụ tác giả của khúc ngâm nổi tiếng Chinh phụ ngâm - nhà Nho

Đặng Trần Côn không ai biết rõ năm sinh, năm mất mà chỉ ƣớc đoán. Hiện

tƣợng Hồ Xuân Hƣơng cũng nằm trong tình trạng trên. Nhƣng vấn đề tiểu

sử Hồ Xuân Hƣơng ẩn chứa một quy luật khác, nằm ngoài quỹ đạo của vấn

đề tiểu sử các tác giả trung đại Việt Nam. Trong sáng tác của một số nhà

Nho, ở những đề tài vƣợt ra ngoài tính quy phạm của văn chƣơng nhà Nho,

vi phạm những cấm kỵ của chế độ chuyên chế sẽ mang lại những rắc rối,

thậm chí thiếu an toàn cho danh dự, tính mạng của ngƣời sáng tác. Điều

này làm xuất hiện hiện tƣợng thác lời, kí ngụ tâm sự. Hoặc có thể cho đó là

cấm kị sẽ xuất hiện đối phó với cấm kị- đó là quy luật của văn học. Ở thơ

Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, mức độ vi phạm cấm kỵ đã vƣợt

giới hạn có thể chấp nhận mà tác giả vẫn không chịu hậu quả gì đáng kể,

các tác phẩm thơ này vẫn tồn tại theo thời gian. Đây là một điều rất lạ lùng.

Thứ hai, cũng nhƣ phần lý do chọn đề tài chúng tôi đã đề cập: Văn

học trung đại Việt Nam là nền văn học chịu tƣ tƣởng của thanh giáo truyền

thống, coi thƣờng vấn đề bản năng của con ngƣời- vậy nên vấn đề tính dục

nhạy cảm, phạm vào những cấm kị nghiêm trọng- liệu có ngƣời phụ nữ nào

đã dám phát ngôn bằng những sáng tác văn học hay không? Chắc chắn có

một Hồ Xuân Hƣơng bằng xƣơng, bằng thịt sáng tác thơ Nôm, nhƣng liệu

bà có dám phát ngôn những vấn đề tính dục cấm kị trong bối cảnh truyền

7

thống văn hoá- xã hội trọng nam khinh nữ, trọng chữ khinh Nôm hay

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

không? Chúng tôi mong muốn có thể phần nào làm sáng tỏ đƣợc hiện

tƣợng văn học thú vị này.

Chính vì vậy, với luận văn này, chúng tôi muốn từ những nghi

hoặc của những tiền bối đi trƣớc; từ bối cảnh văn hoá, hệ tƣ tƣởng; bối

cảnh văn học; đặc biệt là tiếp cận trên lý thuyết cái nhìn giới tính; tiếp tục

luận giải để phần nào thấy đƣợc những nghi ngờ đó hoàn toàn có căn cứ và

nêu ra quan điểm của mình về một quy luật văn học rất thú vị. Từ đó chúng

tôi muốn phân loại ra xem đâu là thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hƣơng và đâu

là những sáng tác của nam nhân mƣợn giọng Hồ Xuân Hƣơng. Tại sao có

hiện tƣợng đó? Và nó có ý nghĩa thế nào trong quy luật văn học?

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát

Trong luận văn này, chúng tôi kì vọng phần nào làm rõ vấn đề tác

quyền mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng. Về vấn đề văn bản,

do có nhiều ý kiến về văn bản thơ, số lƣợng các bài thơ Nôm truyền tụng,

hơn nữa mỗi bài thơ lại xuất hiện nhiều dị bản do quá trình lƣu truyền trong

dân gian nên chúng tôi không đi sâu vào vấn đề văn bản đúng - sai, bản gốc

hay dị bản mà chỉ dựa vào trên dƣới năm chục bài thơ Nôm truyền tụng của

Hồ Xuân Hƣơng để khảo sát.

Phạm vi khảo sát là 47 bài thơ Nôm truyền tụng đƣợc Lữ Huy

Nguyên tuyển chọn và giới thiệu trong cuốn Hồ Xuân Hương thơ và đời

(2008), (Nxb Văn học, Hà Nội).

Sau đây là những bài thơ mà chúng tôi dự định sẽ khảo sát:

Tranh tố nữ Xƣớng hoạ với Chiêu Hổ I

Giếng thơi Xƣớng hoạ với Chiêu Hổ II

Bánh trôi Xƣớng hoạ với Chiêu Hổ III

Quả mít Không chồng mà chửa

Ốc nhồi Dỗ ngƣời đàn bà khóc chồng

8

Đồng tiền hoẻn Bỡn bà lang khóc chồng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Cái quạt I Cái nợ chồng con

Cái quạt II Lấy chồng chung

Trống thủng Khóc Tổng Cóc

Miếng trầu Khóc ông Phủ Vĩnh Tƣờng

Tát nƣớc Tự tình I

Dệt cửi Tự tình II

Thiếu nữ ngủ ngày Tự tình III

Đánh đu Quan thị

Lũ ngẩn ngơ Sƣ bị ong châm

Phƣờng lòi tói Cái kiếp tu hành

Chùa Quán Sứ Sƣ hổ mang

Đề đền Sầm Nghi Đống Đá Ông Chồng Bà Chồng

Động Hƣơng Tích Đài khán xuân

Chợ trời chùa Thầy Hang Cắc Cớ

Hang Thánh Hoá Kẽm Trống

Cảnh thu Quán khánh

Trăng thu Đèo Ba Dội

Hỏi trăng Cảnh chùa ban đêm

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phƣơng pháp luận chung mà chúng tôi dự định sử dụng trong luận văn

là phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học. Do mỗi tác phẩm văn học đều đƣợc

sinh thành trong một môi trƣờng văn hóa nhất định, nên việc gắn tác phẩm

với thời đại văn hóa nó ra đời sẽ giúp ta tiệm cận gần hơn với chân lý nghệ

thuật. Trong nhiều chuyên luận của mình,phó giáo sƣ tiến sĩ Trần Nho Thìn

đã đi sâu nghiên cứu, vận dụng cách tiếp cận văn hoá học đối với tác phẩm

văn chƣơng và thấy đƣợc hiệu quả của phƣơng pháp này. Phƣơng pháp tiếp

9

cận văn hoá học giúp chúng ta có một cái nhìn cách đánh giá khoa học hơn,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

chân thực, chính xác hơn đối với giá trị văn học truyền thống, mở ra một

hƣớng nghiên cứu mới vừa hợp với xu thế phát triển, vừa giữ gìn đƣợc bản

sắc truyền thống văn hoá.

Các bƣớc tiếp cận theo phƣơng pháp văn hóa học:

+ Tái hiện không gian văn hóa, những nhân tố thời đại tác động.

+ Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hóa thời đại

+ Xác định cơ sở văn hóa xã hội đã hình thành nên tác phẩm: đề tài,

chủ đề, hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu thành tác

phẩm…

Đây là phƣơng pháp giúp ích cho việc giải quyết nhiệm vụ của

luận văn. Để tránh những suy diễn gán ghép cách nghĩ hiện đại, chúng tôi

tiếp cận thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng từ quan điểm dựng lại

không gian văn hóa của thời trung đại trong đó hiện tƣợng thơ Hồ Xuân

Hƣơng đã ra đời.

- Cụ thể hơn, trong phƣơng pháp tiếp cận văn hoá học, chúng tôi chủ

yếu dựa vào lý thuyết cái nhìn giới (male gaze) trong ngành điện ảnh của

Laura Mulvey để thấy đƣợc những thú vị trong các tác phẩm thơ Nôm

truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, thấy đƣợc những quy luật ngầm vẫn luôn

chảy trong văn học xƣa. Về cái nhìn giới chúng tôi cho rằng những công

trình sau đây có ý nghĩa then chốt:Khoái cảm thị giác và Điện ảnh tự sự

(Visual Pleasure and Narrative Cinema) của Laura Mulvey (1975) cung cấp

tiền đề lý thuyết về “cái nhìn đàn ông” và mở đầu cho sự ứng dụng lý

thuyết này vào nghiên cứu điện ảnh cũng nhƣ những nghệ thuật biểu hiện

khác.

- Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp bổ trợ: phân tích,

thống kê, phân loại, so sánh…Phƣơng pháp này sẽ cho chúng ta nhận biết

đƣợc số lƣợng những bài thơ tự tình, xướng hoạ và thơđề vịnh, tức sự;

10

đồng thời thông qua phƣơng pháp này chúng tôi sẽ tìm và phân loại ra đƣợc

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

các loại biểu tƣợng tính dục trong thơ Nôm truyền tụng để làm cứ liệu phân

tích và đánh giá.

-Phƣơng pháp phân tích sẽ đánh giá khảo sát toàn bộ những tƣ liệu

thống kê, phân tích các dẫn chứng, rút ra những kết luận.

-Luận văn cũng sử dụng thi pháp học.

5. Kết cấu luận văn và cách trình bày

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, thì

phần chính của luận văn chia làm ba chƣơng:

Chƣơng 1: Tổng quan

Chƣơng này chúng tôi tập trung vào sự phức tạp của hiện tƣợng

Hồ Xuân Hƣơng và lịch sử nghiên cứu mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ

Xuân hƣơng.

Chƣơng 2: Diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ trong văn hoá và

văn học Việt Nam

Trong chƣơng này chúng tôi đi vào giải thích khái niệm “diễn

ngôn”, “diễn ngôn tính dục” để lấy căn cứ khảo sát các diễn ngôn tính dục

trong văn hoá và văn học.

Chúng tôi dự định khảo sát các diễn ngôn tính dục trong văn hoá,

thể hiện ở nhiều phƣơng diện: tín ngƣỡng phồn thực, lễ hội, kiến trúc hội

hoạ, huyền thoại. Trong văn học, chúng tôi khảo sát cả trong văn học dân

gian và văn học viết để thấy các diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ đƣợc

thể hiện ra sao. Từ đó có cái nhìn về các diễn ngôn tính dục trong thơ Nôm

truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, lấy căn cứ đánh giá hiện tƣợng Hồ Xuân

Hƣơng.

Chƣơng 3: Phân loại thơ Nôm truyền tụng đƣợc coi là của Hồ

Xuân Hƣơng

Trong chƣơng này, chúng tôi đi vào khảo sát, phân loại các loại

11

biểu tƣợng tính dục xuất hiện trong mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Xuân Hƣơng để thấy tần suất và đặc điểm của các loại biểu tƣợng tính dục

này. Từ việc phân tích các lớp ngôn ngữ trong văn bản thơ, vận dụng

phƣơng pháp văn hoá học và lý thuyết cái nhìn giới (male gaze) để đánh

giá về điểm nhìn của các bài thơ trong từng chùm thơ: tự tình, xƣớng hoạ,

đề vịnh và tức sự. Từ đó chúng tôi đƣa ra phán đoán về tác giả của các bài

12

thơ. Kết luận lại và nêu ý nghĩa của hiện tƣợng văn học này.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. Hồ Xuân Hƣơng: Một hiện tƣợng phức tạp

Hồ Xuân Hƣơng xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam đến nay

đã khoảng 200 năm. Tuy nhiên, đến tận bây giờ, vấn đề tác gia và tác phẩm

của nữ sĩ vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Những khoảng trống về hiện tƣợng Hồ

Xuân Hƣơng chủ yếu tập trung vào ba điểm mấu chốt đó là: tiểu sử, văn

bản và dâm tục (vấn đề tính dục). Chƣa làm sáng tỏ đƣợc ba điểm mấu chốt

này thì hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng vẫn chƣa thể cũ đối với giới nghiên

cứu và phê bình văn học nƣớc ta. Mặc dù đã có hàng trăm công trình

nghiên cứu và phê bình, hàng chục khảo luận và chuyên luận, mƣời mấy

công trình luận án tiến sĩ, thạc sĩ… về cuộc đời và thơ văn của Hồ Xuân

Hƣơng nhƣng giới nghiên cứu và phê bình văn học nƣớc ta vẫn chƣa có

đƣợc tiếng nói chung xung quanh hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng. Vấn đề tiểu

sử của tác giả những bài thơ Nôm truyền tụng gắn với những giả thuyết,

đoán định, tồn nghi. Xuân Hƣơng sinh năm nào, mất năm nào, và ở đâu,

không đƣợc ghi lại trong sách vở chính thống. Chúng tôi tạm đƣa ra một

“lý lịch trích ngang” của nữ sĩ họ Hồ: Là con của Hồ Sĩ Danh (1706 -

1783) với ngƣời thiếp họ Hà thuộc tỉnh Bắc Ninh. Hồ Xuân Hƣơng nguyên

quán thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ An. Hồ Sĩ Danh

đỗ cử nhân năm 1732, tuy không ra làm quan nhƣng vì có con làm quan to

nên ông đƣợc phong tặng chức Hàn lâm thừa chỉ và hàm Thái bảo. Sau

này, hai mẹ con đƣa nhau ra đất Thăng Long sinh sống. Tƣơng truyền, họ

ngụ cƣ tại phƣờng Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây (Hà Nội bây

13

giờ), sau đó chuyển đến thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xƣơng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

(nay là phố Lí Quốc Sƣ, Hà Nội). Theo truyền thống gia đình, nàng đƣợc đi

học nhƣng không nhiều, song tài năng làm thơ chữ Hán lẫn chữ Nôm nổi

trội. Bởi có đƣợc thiên phú thơ văn, cô gái họ Hồ có điều kiện giao lƣu với

các tao nhân mặc khách tại ngôi nhà riêng bên Hồ Tây là Cổ Nguyệt đƣờng

(chữ Cổ ghép với chữ Nguyệt thành chữ Hồ, là họ của Xuân Hƣơng). Nữ sĩ

đã gặp những nhân vật nhƣ Mai Sơn Phủ, Tốn Phong Thị, Cƣ Đình, Thạch

Đình, Chí Hiên, Thanh Hiên, Hiệp trấn Sơn Nam thƣợng Trần Ngọc Quán,

Hiệp trấn Sơn Nam hạ Trần Quang Tĩnh, Hiệp trấn Trần hầu Trần Phúc

Hiển… Họ đều in dấu ấn trong các bài thơ đối đáp, xƣớng hoạ với chủ

nhân “Cổ Nguyệt Đƣờng”. Đặc biệt phải kể đến ông Cần chánh học sĩ

Nguyễn Hầu, ngƣời Tiên Điền, (có ngƣời đoán là nhà thơ Nguyễn Du) từng

là “ngƣời xƣa” của Hồ Xuân Hƣơng. Chƣa kể Chiêu Hổ (nhƣng khó có thể

là Phạm Đình Hổ, tác giả Vũ trung tuỳ bút và Đông Dã học ngôn thi tập) là

bạn trai tri ân cùng ngƣời Cổ Nguyệt đối đáp, để lại nhiều tứ thơ rất hài

hƣớc, dí dỏm. Con đƣờng chồng con của nữ sĩ đa tài thật trắc trở, truân

chuyên. Hai lần đều lỡ dở. Lần đầu lấy Trần Phúc Hiển đã phải cảnh vợ lẽ.

Tiếp đến, bà lại làm lẽ tổng Cóc, nhƣng lại sớm lâm vào cảnh goá bụa.

Hiện nay, chƣa tìm ra tƣ liệu khả dĩ nào ghi năm mất, phần mộ của nhà thơ

ở đâu. Nhƣng một điều có thể khẳng định, Hồ Xuân Hƣơng mất trƣớc năm

1842 tƣơng đối lâu. Vì tập thơ Thương Sơn của Nguyễn Phúc Miên Thẩm

(Tùng Thiện Vƣơng) sáng tác vào năm 1842 khi ông cùng vua Thiệu Trị ra

Bắc tiếp sứ nhà Thanh, đến Hồ Tây ngắm cảnh có Long Biên trúc chi từ với

14 bài trong đó 2 bài thơ nói về nữ sĩ. Nhƣ vậy, Xuân Hƣơng thuộc vào thế

hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

Không những tồn tại những nghi ngờ về tiểu sử của Hồ Xuân

Hƣơng, giới nghiên cứu còn nhiều đồn đoán về vấn đề tác quyền của mảng

thơ Nôm truyền tụng nổi tiếng vẫn đƣợc coi là của Hồ Xuân Hƣơng. Vấn

đề văn bản thơ của Hồ Xuân Hƣơng cực kì phức tạp- đây cũng là mảng thơ

14

mà luận văn của chúng tôi dự kiến tập trung khảo sát. Số bài thơ còn lại

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lƣu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có

nhiều dị bản. Số thơ Nôm lâu nay đƣợc coi là của nữ sĩ khoảng trên dƣới

năm mƣơi bài. Ngoài ra còn có tập thơ Lưu Hương ký mang bút danh của

nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ

Hán và 28 bài thơ Nôm. Hiện có nhiều văn bản chép thơ chữ Nôm của Hồ

Xuân Hƣơng, từ các bản chép tay, đến các bản khắc ván chữ Nôm và các

bản in chữ quốc ngữ. Trong đó, phải kể tới những văn bản sau: Âm ca tập,

Bách liêu thi tập, Bảo hán châu liên, Đào Nương thi hiếu ca, Đăng Khoa

lục sưu giảng, Kỳ quan thi, Liệt truyện thi ngâm, Tạp thảo tập, Lĩnh Nam

quần hiền văn thi diễn âm tập, Nam âm thảo, Quốc âm thi tuyển, Quốc văn

tùng ký, Song thất lục bát quốc âm ca, Thi ca đối liễn tạp lục, Thi ca quốc

âm tạp lục, Thi từ ca đối sách, Liên Hương thi sao, Việt Tuý tham khảo,

Quế Sơn Tam nguyên thi tập (văn bản chép tay); Quốc âm thi tuyển, Xuân

Hương thi tập – 1921, Xuân Hương thi tập – 1992 (văn bản khắc ván chữ

Nôm); Hồ Xuân Hương thi tập (văn bản in chữ Quốc ngữ). Văn bản chép

thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng truyền tụng lên tới con số hơn 100.

Ðọc kĩ các văn bản thơ, ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa

tập thơ Nôm của Xuân Hƣơng và Lƣu Hƣơng ký, chủ yếu là về phong cách

biểu hiện và đề tài. Trong Lƣu Hƣơng Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ

Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong Lƣu Hƣơng Ký nếu so sánh với thơ

lâu nay đƣợc coi là của Xuân Hƣơng thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ

chữ Nôm trong Lƣu Hƣơng Ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền

lành chứ không góc cạnh, gân guốc nhƣ ở Xuân Hƣơng thi tập. Từ đây, vấn

đề tiểu sử và vấn đề văn bản của thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng càng thêm phức

tạp, nhiều hoài nghi, đồn đoán thực hƣ vấn đề tác quyền trong các văn bản

thơ Nôm truyền tụng mang tên Hồ Xuân Hƣơng.

Có những giả thuyết nghi ngờ cả sự tồn tại của tác giả Hồ Xuân

Hƣơng và nghi ngờ những tác phẩm mang tên Hồ Xuân Hƣơng nhƣ giả

15

thuyết của Lữ Hồ, Đào Thái Tôn… Lữ Hồ viết: Có chăng một bà Hồ Xuân

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Hương? và cho rằng thơ Hồ Xuân Hƣơng là thứ thơ do các nho sĩ giấu tên

làm ra. Cùng quan điểm với Lữ Hồ, Hồng Tú Hồng đặt vấn đề trong bài

viết Có nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay không? Đăng trên báo Nhân loại số 2

năm 1953. Tác giả này cho rằng: "Thơ Hồ Xuân Hương không phải là của

một người làm, mà là của cả một thời đại, của cả một thế hệ. Nó là sản

phẩm chung của dân tộc. Nó là một trường phái thơ"; "Thơ Hồ Xuân

Hương có thể là của Lê Quý Đôn, là của Nguyễn Khản, là của Nguyễn Huy

Tự, là của Nguyễn Thiện, là của Nguyễn Du, là của Phạm Đình Hổ, là của

Nguyễn Hữu Chỉnh, là của Phan Huy Vịnh, có thể là của Đặng Trần Côn,

Đoàn Thị Điểm nữa. Nhưng vì lẽ họ không dám đương nhiên ký tên mình

dưới những bài thơ mà họ cho là chớt nhả là lẳng lơ, rồi của ai làm ra bất

kỳ, thơ đó đều quy vào một tên tác giả chung là Hồ Xuân Hương”.Cùng

quan điểm đó, Trần Thanh Mại cũng cho rằng thơ Nôm truyền tụng của Hồ

Xuân Hƣơng có thể của nhiều tác giả không cùng lập trƣờng chính trị, quan

điểm nghệ thuật sáng tác nên. Mai Quốc Liên lại cho rằng chắc chắn có sự

tồn tại của những “Hồ Xuân Hƣơng đực”.

Những nhà nghiên cứu trên đã đặt ra những nghi vấn rất có căn cứ,

khẳng định sự tồn tại của “nhiều Hồ Xuân Hƣơng” trong cùng một hiện

tƣợng Hồ Xuân Hƣơng. Liệu có bà Hồ Xuân Hƣơng thật hay không? Nếu

có thì có thể khẳng định tất cả những tác phẩm thơ đa phong cách kia là của

bà hay không?

Nhìn dọc chiều dài lịch sử văn học trung đại Việt Nam ta thấy các

tác phẩm văn học kể cả của nam hay nữ đều ít đề cập đến vấn đề tính dục,

mà nếu có thì các tác phẩm này có một điểm chung dễ nhận thấy đó đều

phải sử dụng các mặt nạ hoặc các cách thức khéo léo nhằm che đậy tác

quyền, lời nói của mình ví dụ: sử dụng mặt nạdân gian, sử dụng các yếu tố

kì ảo- đặt diễn ngôn tính dục vào miệng ma quỷ, yêu nữ, mƣợn cốt truyện

nƣớc ngoài, mƣợn giọng nữ giới để phát ngôn…Trong văn học viết, diễn

16

ngôn tính dục xuất hiện không nhiều do sự kiểm soát của tƣ tƣởng thanh

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

giáo truyền thống phƣơng Đông. Tƣ tƣởng Nho gia lấy quan niệm “văn dĩ

tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, văn thơ là để nói lên cái chí của nhà Nho. Văn học

phải gắn bó với vận mệnh của đất nƣớc và nhân dân; văn học là phƣơng

tiện thể hiện chí, tâm, đạo của kẻ sĩ quân tử; các vấn đề bản năng của con

ngƣời bị xem nhẹ, coi thƣờng. Đặc biệt vấn đề tính dục bị coi là cấm kị

trong văn học đƣơng thời với tƣ tƣởng “vạn ác thủ vi dâm”. Phải cho đến

các nhà Nho thời hậu kì Trung đại mới lẻ tẻ xuất hiện những tác phẩm đề

cập đến vấn đề tính dục nhƣng đều sử dụng các biện pháp đối phó với cấm

kị để phát ngôn về các vấn đề này. Đề cập về các hoạt động tính giao nam

nữ Nguyễn Dữ phải sử dụng các yếu tố kì ảo, yếu tố ma quái để thể hiện,

phải đặt lời vào miệng ma quỷ, yêu nữ chứ không dám trực tiếp phát ngôn.

Những yếu tố này giúp tác giả trốn tránh cái nhìn hà khắc của xã hội Nho

giáo để có thể đề cập đến vấn đề bản năng trong tình yêu nam nữ, khát

khao dục tính trong mỗi con ngƣời cá nhân. Nguyễn Du nói tới vẻ đẹp thân

thể của ngƣời con gái, khát vọng đƣợc sống và đƣợc yêu của ngƣời kĩ nữ,

sự chủ động và mạnh bạo trong tình yêu của ngƣời con gái…ông cũng phải

sử dụng cách mƣợn cốt truyện của nƣớc ngoài để chuyển tải những nội

dung nhƣ vậy. Hai tác phẩm cung oán nổi tiếng của Nguyễn Gia Thiều và

Đặng Trần Côn cũng xuất hiện những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ.

Chinh phụ ngâm là tiếng nói, là tâm sự của ngƣời vợ có chồng đi lính xa

nhà với những tình cảm nhớ nhung, những rạo rực khát khao bản năng,

thiếu vắng tình yêu thƣơng, sự gần gũi vợ chồng. Cung oán ngâm khúc là

tiếng lòng của ngƣời cung nữ khi bị đấng quân vƣơng “bỏ quên” trong

chốn cấm cung, tuổi thanh xuân bị chôn chặt sau cánh cửa, chỉ còn những

rạo rực, khát khao cháy bỏng thầm kín của ngƣời phụ nữ giằng xé hằng

đêm. Trong hai khúc ngâm này, những diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ

nữ xuất hiện khá mạnh bạo bằng những hình ảnh ƣớc lệ, ẩn dụ khéo léo,

tuy nhiên để phát ngôn đƣợc hai nhà Nho phải sử dụng cách thức mƣợn

17

giọng, dù đã mƣợn giọng tác giả vẫn phải sử dụng các biện pháp nghệ thuật

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

ƣớc lệ, tƣợng trƣng, ẩn dụ để nói đến vấn đề tính dục. Ở phƣơng Tây thời

cổ trung đại khi xã hội còn những cấm kỵ, sáng tác bác học cũng có hiện

tƣợng thác lời, vay mƣợn cốt truyện, diễu nhại. (Chuyện mười ngày của

Bôcatxiô, nhiều sáng tác Raxin, Corney, Sechxpia...). Nhƣng đến thời cận

hiện đại hiện tƣợng này dƣờng nhƣ vắng bóng. Ở phƣơng Đông còn kéo

dài, đến thời hiện đại hiện tƣợng này vẫn còn. Lỗ Tấn ở Trung Quốc từng

ký thác tƣ tƣởng chống lễ giáo phong kiến, một thứ lễ giáo ăn thịt

người trong Nhật ký người điên. Ở Việt Nam hai khúc ngâm trên cũng là

những biểu hiện cho hiện tƣợng văn học thú vị này. Trong một truyền

thống văn hoá có xu hƣớng áp chế con ngƣời bản năng, đè nén thân xác bản

năng đến mức hình dung đó là phần tội lỗi thì muốn vƣợt qua những cấm kị

đó, nhất thiết phải có những cách đối phó- gọi là đối phó với cấm kị. Điều

này càng có ý nghĩa lớn khi đặt Hồ Xuân Hƣơng trong bối cảnh văn học,

văn hoá trung đại phƣơng Đông. Chứng tỏ hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng có

ẩn chứa một quy luật nào đó trong tâm lý sáng tạo và thƣởng thức thông

thƣờng, quy luật này nằm ngoài quỹ đạo chính thƣờng của văn học nhà

Nho, của văn chƣơng chính thống.

1.2. Lịch sử nghiên cứu mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng

Từ trƣớc đến nay, thái độ và cách lí giải đối với vấn đề tục, dâm

trong thơ Hồ Xuân Hƣơng rất khác nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau. Các

nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận Hồ Xuân Hƣơng: tiểu sử học, xã hội

học, phân tâm học, thi pháp học, hình thức học, văn hóa học…

Nhà nghiên cứu đầu tiên về Xuân Hƣơng trên giấy trắng mực đen

có lẽ là Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến trên cuốn Giai nhân di mặc, tác giả

hoàn toàn bênh vực Hồ Xuân Hƣơng và cho rằng tiếng thơ đó không phải

là tiếng thơ đĩ thoã mà là tiếng thơ của một tài nữ.Ông nhận xét về Hồ

Xuân Hƣơng nhƣ sau: “Thơ từ của Xuân Hương truyền lại cũng nhiều, xem

18

ra nhời nhẽ tài tình, tưởng cũng là một giọng thơ xuất tính tự nhiên, mà

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

đáng là một bậc tài nữ trong đám thi xã. Nhưng có khi chỉ nghe đọc câu

thơ, mà không hiểu hết sự tích, thì thơ từ cũng nhảm nhí; có khi nghe nói

sự tích, mà không thuộc hết bài thơ thì sự tích cũng mập mờ nên văn thơ lại

càng lẫn lộn, lắm người lại cho là giọng thơ đĩ thoã, thế chẳng oan mất

tiếng người tài nữ lắm ru!” – (Giai nhân di mặc). Tản Đà có cái nhìn khác

về ngƣời tài nữ, đó là những vần thơ ma đƣa lối quỷ dẫn đƣờng và đầy yếu

tố tục: “Thơ của Xuân Hương thật là tinh quái, những câu thơ hay đọc lên

đến ghê người. Người ta từng có câu: Thi trung hữu hoạ. Nghĩa là trong

thơ có vẽ. Như thơ Xuân Hương thì lại là: Thi trung hữu quỷ. Nghĩa là

trong thơ có ma! Song mà nhận ra thời tục!”.

Tiếp cận xã hội học có các nhà nghiên cứu: Nguyễn Lộc, Lê Đình

Kỵ, Trần Thanh Mại…Trần Thanh Mại nhận thấy yếu tố tục trong thơ nữ sĩ

và ông phê phán kịch kiệt những bài thơ gọi là dâm tục vì nó có hại cho

ngƣời đọc: “Tóm lại trong bao loại thơ lâu nay cho là của Xuân Hương,

trừ loại thơ trữ tình, hoặc thơ có tính chất đả kích châm biếm nhưng tao

nhã, nghiêm túc, là có tính tư tưởng và nghệ thuật cao còn loại tục thì ít

hoặc nhiều đã hạn chế tác dụng của thơ và loại dâm không những không

tốt mà còn có thể gieo rắc độc hại”. Nguyễn Lộc thẩm định trong một số

bài thơ nữ sĩ quả có yếu tố tục. Ý kiến của Nguyễn Lộc trái ngƣợc với Vũ

Đức Phúc, Vũ Đức Phúc cho rằng cô gái họ Hồ học tập chỗ tồi nhất của

văn học dân gian còn Nguyễn Lộc cho rằng nhà thơ cũng học văn học dân

gian nhƣng dùng cái tục làm phƣơng tiện để đả kích giai cấp thống trị, thực

ra Xuân Hƣơng không thích cái tục, “nhiều lúc bà dùng cái tục tĩu một

cách trắng trợn làm mục đích dả kích kẻ thù. Đọc những bài thơ có yếu tố

tục này sẽ thấy rõ dụng ý đả kích của bà”. Lê Trí Viễn thấy Hồ Xuân

Hƣơng ngoài việc dùng cái tục nhằm mục đích đả kích phê phán, còndùng

cái tục để gây cƣời và ông cho rằng thực chất đó không phải là cái tục, bởi

vì: “Xuân Hương nhân danh sự sống theo lẽ phải của tự nhiên, Xuân

19

Hương xuất phát từ sự sống gốc nguồn, sự sống là phối hợp âm dương, là

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

sự sinh sôi nẩy nở nên Xuân Hương mới trở lại hình ảnh cụ thể của sự giao

hợp ấy. Cái đó, ngày nay gọi là tục, kỳ thực không phải là như vậy”. Cách

tiếp cận xã hội học thể hiện nhiều sở trƣờng và cũng nhiều sở đoản. Trƣớc

hết các nhà nghiên cứu cho thấy cái dâm và tục là vũ khí để nhà thơ đấu

tranh chống lại tầng lớp thống trị, đồng thời phản ánh đƣợc điều kiện xã hội

thời Hồ Xuân Hƣơng đang sống. Tuy nhiên cách tiếp cận này cũng nảy

sinh nhiều sự bất cập và khiên cƣỡng trong việc lý giải hiện tƣợng Hồ

Xuân Hƣơng.

Tiếp cận phân tâm học Freud: Trƣớc cách mạng tháng Tám, nhiều

nhà nghiên cứu cho đó là ẩn ức tình dục nhƣ Trƣơng Tửu với bài Cái ám

ảnh của Hồ Xuân Hương đăng trên số 1 tờ Tiến hóa- 1936. Cũng trong

năm 1936, Nguyễn Văn Hanh cho xuất bản cuốn sách Hồ Xuân Hương: tác

phẩm thân thế và văn tài ông cũng dùng thuyết phân tâm học để lí giải hiện

tƣợng thơ Hồ Xuân Hƣơng… Nguyễn Văn Hanh thấy trong con ngƣời nữ

sĩ chỉ mang yếu tố tục và dâm: “Đọc Freud thấy sự bất mãn về tình dục lâu

ngày sẽ kết cấu ra bệnh để thay cho sự vui thích không liễu kết. Xuân

Hương không bao giờ thoã thích dục vọng nàng bị dồn ép luôn luôn. Nàng

bị thần kinh. Dục tính chiếm cả đầu óc, ám ảnh nàng mãi. Nó nhuộm thấm

cả tư tưởng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều biểu lộ sự khát

khao, sự bất mãn. Dục tính được chuyển biến của mĩ thuật thơ”. Văn Tân

coi vấn đề dâm tục là mạch nguồn và sự độc đáo trong thơ Hồ Xuân

Hƣơng: “Dâm và tục đã ăn sâu vào ý thức, tư tưởng Xuân Hương, chi phối

hầu hết thi phẩm của Xuân Hương, giúp Xuân Hương viết nên vần thơ kiệt

tác, độc đáo, làm cho Xuân Hương nhìn ra đời thấy cái gì cũng dâm và tục.

Gặp bất cứ cái gì cũng can gán cho những ý dâm và tục”.Sau cách mạng

có những công trình của Nguyễn Đức Bính và Xuân Diệu tuy nhiên cách lí

giải chuyển từ ẩn ức tình dục sang lí do ẩn ức xã hội. Nhà thơ Xuân Diệu

nhìn nhận số lớn đề tài trong thơ Hồ Xuân Hƣơng mang hai nghĩa “nghĩa

20

phô ra và nghĩa ngầm”: “Thơ Xuân Hương tục hay thanh? Đố ai bắt được?

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Bảo rằng nó hoàn toàn là thanh thì cái nghĩa thứ hai của nó có giấu được

ai, mà Xuân Hương có muốn giấu đâu? Mà bảo rằng nó là nhảm nhí, là

tục, thì có gì là tục nào?”. Cũng cùng quan điểm bênh vữ bà chúa thơ Nôm

là Nguyễn Đức Bính, tác giả bài viết Người cổ nguyệtchuyện Xuân

Hươngnghĩ rằng thơ của Xuân Hƣơng không xuất hiện yếu tố dâm mà đấy

là tiếng thơ của thuở xƣa, đời còn chƣa mặc áo, khi ấy: “con người còn đi

lang thang chốn rừng sâu núi thẳm để kiếm ăn. Một hôm, có người con trai

ngồi ăn mấy quả sung chín dưới gốc cây sung, tình cờ bắt gặp người con

gái từ sau một gốc cây khác đi ra, vẻ đẹp trong sự trần truồng và đầy sức

sống đang sôi nổi dưới hai bầu vú. Hai người đã yêu nhau một cách không

mặc cả và không nghi thức. Giữa trời cao đất rộng, trong cái say sưa của

hai xác thịt, hai trái tim đã đồng nhịp rung cảm và ngân lên những tiếng

não nùng. Đó là thơ, Hồ Xuân Hương nói”.

Tiếp cận từ “nguyên lí hội hóa trang”- Canavalesque: Nhà phê

bình nƣớc ngoài N.I.Niculin lí giải hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng vốn bắt

nguồn từ văn hóa cổ của nhân dân Việt Nam với lối lý tƣởng hóa những

nhân tố có tính nhục thể. Ông phân tích đa số thơ tứ tuyệt và bát cú của thơ

nữ sĩ đúng là có hai ý rõ ràng mang “tích chất biểu tƣợng hai mặt” và nhân

vật trong thơ Xuân Hƣơng là con ngƣời, thân thể con ngƣời hoà lẫn với

thiên nhiên, khi ấy: “nữ sĩ đã sáng tạo ra những bài thơ biểu tượng hai mặt

trong đó hình ảnh kì dị của thân thể con người hoà lẫn với chỗ lồi chỗ lõm

trên mặt đất”. Tƣơng tự nhƣ vậy, Đỗ Đức Hiểu với tác phẩm Thế giới thơ

Nôm Hồ Xuân Hương- Tạp chí văn học năm 1990 vƣợt qua cái nhìn xã hội

học đơn thuần, phân tích các mô típ dân gian về tính dục để chứng minh

cho triết lí tự nhiên trong thơ Hồ Xuân Hƣơng…

Tiếp cận thi pháp, hình thức: Đỗ Đức Hiểu đánh giá, lâu nay mọi

ngƣời cứ hay bàn cãi “cái thanh, cái tục”, hay “đố thanh giảng tục”, hay

“đố tục giảng thanh”, hay nữa “chuyện buồng kín”… ông đều phủ nhận rồi

21

khẳng định: “Hồ Xuân Hương góp tiếng thơ đầy nhạc, biểu đạt sức sống và

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

cái đẹp của cơ thể, của tấm thân và trái tim rất trẻ của người phụ nữ, trong

định mệnh đầy cay đắng”.

Đỗ Lai Thuý tập trung lí giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân

Hƣơng dƣới góc độ tín ngƣỡng phồn thực. Nhà văn hoá học cho rằng khó

mà bóc tách nhân tố thanh và tục, bởi vì chúng gắn bó, vận động, chuyển

hoá và thống nhất với nhau: “Những biểu tượng phồn thực nói chung và

biểu tượng phồn thực của Hồ Xuân Hương nói riêng là có hai mặt, lấp

lửng, thiêng và tục, thanh và tục. Nhưng hai mặt này không chết cứng như

hai mặt của tờ giấy mà luôn luôn có sự vận động, chuyển hoá vào nhau để

tạo thành một trạng thái hoà quyện, hai mà một, tồn tại mà không tồn tại,

không tồn tại mà tồn tại, vừa tránh được lối tư duy nhị nguyên, vừa đảm

bảo hứng thú cho người đọc khi họ luôn được chuyển dịch từ thanh sang

tục, rồi từ tục sang thanh trong một biến dịch không ngừng”[72, tr. 24]

Tiếp cận theo phƣơng pháp văn hóa học: Năm 1958, Lữ Hồ đã đặt

ra một câu hỏi lớn “Có chăng một bà Hồ Xuân Hƣơng?”. Đỗ Lai Thuý lại

nghĩ đó là tín ngƣỡng phồn thực, không có dâm tục.Theo nhà nghiên cứu

Trần Nho Thìn thì thơ của Hồ Xuân Hƣơng đa số đều có hai nghĩa phô và

ngầm, với cách tiếp cận văn hóa học, ông đặt ra một nghi vấn: Đây có phải

diễn ngôn của ngƣời phụ nữ cách đây gần hai thế kỷ hay không? Gần với

những giả thuyết của Trần Nho Thìn, Đào Thái Tôn trong cuốn “Hồ Xuân

Hương từ cội nguồn vào thế tục” cũng hoài nghi về thân phận của tác giả

này. Đào Thái Tôn hệ thống hoá các văn bản chép thơ Hồ Xuân Hƣơng

bằng chữ quốc ngữ rồi chỉ ra một sự thực: từ chỗ những tập đầu chỉ có sáu

bảy chục bài thơ thì ở những tập sau lên tới 139 bài. Nhƣ vậy đã có hiện

tƣợng phần thơ chính của nhà thơ bị xâm thực bởi dòng thơ ca dân gian.

“Cả hai quá trình này - dân gian hoá văn bản và huyền thoại hoá tiểu sử -

cùng tồn tại song song với nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên một hiện tượng

22

độc đáo trong văn học Việt Nam” [71, tr. 71-72].

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Tóm lại, các ý kiến đều nhất trí tính chất độc đáo hai hàm nghĩa ở

thơ Hồ Xuân Hƣơng. Mảng thơNôm truyền tụng của Xuân Hƣơng hình

thành hẳn một hệ thống những hình ảnh tính dục. Nhƣng hầu nhƣ chƣa ai lí

giải vì sao thơ nữ sĩ họ Hồ lại có tính chất độc đáo hai nghĩa nhƣ vậy. Đây

chính là mảnh đất mầu mỡ cho nhiều nhà nghiên cứu khai thác. Tuy nhiên,

ý thức xã hội chính thống thời nhà thơ sống không đƣợc phép công khai

nhắc đến chuyện buồng the, chuyện gợi dục. Nếu nhƣ nói đến là vi phạm

cấm kỵ xã hội. Bao giờ cũng vậy, khi nổi loạn chống lại cấm kỵ lần đầu

tiên ngƣời ta không dám công khai một cách trực diện mà phải đối phó trá

dạng sang một hình thức khác. Đằng sau hiện tƣợng này lại đặt ra một câu

hỏi lớn về tác quyền của các bài thơ đề vịnh- tức sự đƣợc coi là của Hồ

23

Xuân Hƣơng và một hiện tƣợng văn học rất thú vị: giả giọng nữ giới.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

CHƢƠNG 2: DIỄN NGÔN TÍNH DỤC VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ

TRONG VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Theo từ điển New Webster`s Dictionary thì diễn ngôn đƣợc định

nghĩa gồm hai nghĩa. Một là sự giao tiếp bằng tiếng nói (trò chuyện, lời

nói, bài phát biểu); hai là sự nghiên cứu tƣờng minh, có hệ thống về một đề

tài nào đó (luận án, các sản phẩm của suy luận, nghiên cứu…)

Theo nhà lý luận- phê bình Trần Đình Sử trong bài nghiên cứu

Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu hôm nay cho rằng: “Đối với nhà

ngữ học diễn ngôn là khái niệm chỉ cấu trúc, liên kết của đơn vị ngôn ngữ

trên câu, cần phân tích mạch lạc, liên kết và ngữ cảnh để hiểu được ý

nghĩa, lí do của nó. Đối với nghiên cứu văn hóa là tìm hiểu các cơ chế tiềm

ẩn, những hạn chế lời nói trong thực tiễn giao tiếp, còn trong nghiên cứu

văn học, diễn ngôn là chỉ chiến lược phát ngôn nghệ thuật, thể hiện trong

các nguyên tắc cấu tứ, xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ để vượt thoát

khỏi các hạn chế nhằm phát ra được tiếng nói mới, thể hiện tư tưởng mới

trong chỉnh thể sáng tác” [61].

Diễn ngôn không những chỉ bao gồm cả những giao tiếp bằng

tiếng nói, những phát ngôn, văn bản…mà diễn ngôn còn là cả ý thức hệ và

quyền lực, cả giao tiếp phi ngôn từ, nhƣ cử chỉ thân thể, sự mô phỏng động

tác…Đồng thời diễn ngôn cũng là cả một lĩnh vực rộng lớn là nghệ thuật

nhƣ hội họa, điêu khắc, múa nhảy, âm nhạc, thi ca…

Mỗi thời đại, dƣới những áp lực của các quan hệ quyền lực và các

diễn ngôn mà hình thành nên một quan niệm về cái gọi là “bản chất ngƣời”

riêng. Một trong những đặc điểm nổi bật của hầu hết những trƣờng phái,

24

quan điểm triết học truyền thống là sự đối lập giữa tâm và thân. Đối lập này

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

nằm trong một đối lập mang tính chất tổng thể xuyên suốt lịch sử triết học:

đối lập giữa cái văn hóa và cái tự nhiên. Con ngƣời chủ yếu đƣợc xem là

một sinh vật mang tính văn hóa nên khía cạnh tự nhiên của nó đƣợc xem là

cái cần đƣợc khắc phục, chế ngự. Những diễn ngôn về tâm vì thế đƣợc đề

cao, đƣợc hợp thức hóa; ngƣợc lại, những diễn ngôn về thân bị xếp ở vị thế

thứ cấp. Tƣ tƣởng Nho giáo coi trọng tâm và xem thƣờng thân, đặc biệt là

những ham muốn bản năng của thân, trong đó ham muốn tình dục cũng

thuộc về những ham muốn của thân vì vậy bị xem thƣờng và tránh phát

ngôn về vấn đề này bằng mọi cách. Việc tìm hiểu về diễn ngôn tính dục

giúp ta nhận thấy những nguyên nhân chiều sâu trong việc kiến tạo và hình

thành nên những quan niệm về con ngƣời trong một thời đại cụ thể.

Tính dục là gì? Chúng ta phải hƣớng đến câu hỏi: tính dục đƣợc

tạo ra nhƣ thế nào từ những diễn ngôn, ai là chủ thể của diễn ngôn ấy, nó

diễn ra ở thời điểm nào và hƣớng đến mục đích gì? Một cách khái quát,

tính dục có nguồn gốc từ những thiết chế văn hóa hơn là từ những cơ chế

sinh học. Chính điều này khiến cho quan niệm về tính dục là rất đa dạng

trong trục không gian và khả biến trong trục thời gian.Theo đó, chúng tôi

muốn khảo sát diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ và diễn ngôn tính dục

của ngƣời phụ nữ không chỉ ở trong văn học mà còn muốn điểm xuyết

những diễn ngôn loại này trong văn hoá truyền thống. Điều này sẽ cho

chúng ta một cái nhìn bao quát hơn về hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng và

những diễn ngôn tính dục trong mảng thơ Nôm truyền tụng của bà.

2.1 . Diễn ngôn tính dục trong văn hoá truyền thống

2.1.1. Diễn ngôn tính dục biểu hiện qua tín ngưỡng phồn thực

Tín ngƣỡng phồn thực là một biểu hiện của khát vọng về cuộc

sống con ngƣời và thiên nhiên nảy nở, sinh sôi, viên mãn, trƣờng tồn đã

làm cho đời sống văn hóa ngay từ buổi hồng hoang đã chứa đựng sức sống

sung mãn. Việt Nam là nƣớc nông nghiệp, ngƣời dân lấy việc sản xuất

25

nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) làm kế sinh nhai. Vì vậy, để mùa

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

màng tƣơi tốt thì điều kiện quan trọng là thiên nhiên ƣu đãi, cây cối tốt

tƣơi, con ngƣời mạnh khoẻ và duy trì đƣợc nòi giống. Trong tác phẩm Tìm

về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng: „„Để duy trì cuộc

sống, cần cho mùa màng tƣơi tốt. Để cho phát triển cuộc sống cần cho con

ngƣời sinh sôi. Trí tuệ của ngƣời bình dân nhìn thấy thực tiễn đó ở một sức

mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó nhƣ thần thánh và kết quả là xuất

hiện tín ngƣỡng phồn thực – tín ngƣỡng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của tự

nhiên và con ngƣời (phồn = nhiều, thực = nảy nở). Tín ngƣỡng phồn thực ở

Việt Nam từng tồn tại theo suốt chiều dài lịch sử, và có tới hai dạng: thờ cơ

quan sinh dục và thờ bản thân hành vi giao phối” [69].

Tín ngƣỡng phồn thực tồn tại trong vô thức tập thể, trong ký ức

cộng đồng, trong huyền thoại, truyền thuyết, giấc mơ, tục thờ cúng, lễ hội,

lời ăn tiếng nói hàng ngày… bằng những siêu mẫu. Đó là những biểu tƣợng

hoặc “khuôn đúc” sản ra những biểu tƣợng. Tín ngƣỡng nếu bị chèn ép thì

dồn về lớp bề sâu của tâm thức, tức tiềm thức hoặc vô thức, trong đời sống

tâm linh của ngƣời Việt. Một trong những biểu hiện của tín ngƣỡng phồn

thực Việt là tục thờ sinh thực khí (công cụ sinh đẻ): linga và yoni. Diễn

ngôn tính dục thông qua tín ngƣỡng phồn thực của ngƣời Việt còn lƣu lại

bằng rất nhiều hình ảnh: tƣợng linga- yoni bằng đất nung tìm thấy ở di tích

Mả Đống- Hà Tây, tƣợng bằng đá có linga to quá cỡ ở Văn Điển- Hà Nội,

cậy cột đá ở Vũ Ninh- Vĩnh Phúc, tƣơng truyền là cột buộc ngựa của Thánh

Gióng nhƣng thực chất là một chiếc linga Chàm, các giếng nƣớc nhƣ giếng

Tiên ở Lạng Sơn, giếng Ngọc ở đền Hùng…đều là những hình tƣợng của

sinh thực khí nữ.

Một cách trực tiếp hơn, đó là các diễn ngôn tính dục bằng ngôn

ngữ thông qua tín ngƣỡng phồn thực đƣợc biểu hiện qua các thần thoại về

ông Đùng bà Đà, về Nữ Oa và ông Tứ Tƣợng, về bà Triệu Ẩu vú dài vắt

vai…Trong dân gian vẫn còn rất nhiều nơi đang thờ những nhân vật thần

26

thoại này.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Ngoài thờ các sinh thực khí, ngƣời Việt và một số cƣ dân Đông

Nam Á còn thờ hành động tính giao biểu hiện rõ nhất là tƣợng nam nữ giao

hợp trên nắp thạp đồng Đào Thịnh.

Nhƣ vậy trong tín ngƣỡng phồn thực của ngƣời Việt, những diễn

ngôn tính dục rất đa dạng, bao gồm những diễn ngôn về phụ nữ nhƣ việc

thờ bà Nữ Oa, bà Đà, bà Triệu Ấu, thờ sinh thực khí nữ…Tuy nhiên đó là

những tín ngƣỡng trong dân gian- là các diễn ngôn tính dục này đều đƣợc

che đậy bởi mặt nạ dân gian.

2.1.2. Diễn ngôn tính dục biểu hiện qua các lễ hội

Diễn ngôn tính dục thông qua các lễ hội cũng rất dày đặc. Trong

hội xuân, một số làng cho phép trai gái tự do sờ soạng nhau trong khoảng

thời gian tắt đuốc trong lúc chen lấn nhau nhƣ trong hội Chen ở Nga

Hoàng- Hà Bắc, hội chùa Thầy:

Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ,

Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

Thậm chí, trong hội làng La còn cho phép trai gái tự do giao hợp trong đêm

giã đám:

Hội thì vui nhất chùa Thầy

Vui thì vui thật chẳng tày rã La

Những đứa trẻ đƣợc sinh ra trong hội rã La, dù là con hoang thì vẫn đƣợc cả

làng vui mừng đón nhận vì họ tin rằng nó sẽ đem lại sự thịnh vƣợng cho cả

làng. Ngƣời mẹ không những không bị cả làng bắt vạ, dè bỉu, cạo đầu bôi

vôi thả trôi sông nhƣ lệ thƣờng mà còn đƣợc chu cấp tiền, gạo để nuôi đứa

trẻ đó.

Tục rƣớc nõ nƣờng ở làng Đức Bác- Vĩnh Phúc: dân làng lấy khúc

gỗ vông làm nõ (dƣơng vật), lấy mo cau làm nƣờng (âm vật) do trai tân gái

trinh cầm rƣớc. Sau mỗi câu hát “tinh, tinh, tinh, tinh, phoọc”, ngƣời con

27

trai cầm nõ sẽ đâm vào nƣờng do ngƣời con gái cầm. Làm nhƣ thế ba lần,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

tan rƣớc thì nõ và nƣờng sẽ đƣợc tung ra cho mọi ngƣời tranh cƣớp. Ai

tranh đƣợc sẽ may mắn cả năm.

Nhƣ vậy, trong các lễ hội xƣa, diễn ngôn tính dục cũng xuất hiện

dày đặc. Tuy nhiên cũng đều đƣợc che đậy bởi nhiều vẻ ngoài khác nhau ví

dụ nhƣ sử dụng nõ nƣờng...và các diễn ngôn này không đƣợc phát ngôn bởi

một cá nhân nào mà đƣợc che đậy bởi mặt nạ dân gian, bởi các tín ngƣỡng

đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của ngƣời dân.

2.1.3. Diễn ngôn tính dục biểu hiện qua kiến trúc, hội hoạ

Trong dân gian, những diễn ngôn tính dục bằng ngôn từ có thể khó

thấy, nhƣng những diễn ngôn tính dục thông qua hình ảnh thì dày đặc.

Nhƣng do cấm đoán của xã hội Nho giáo nên các diễn ngôn bằng hình ảnh

này cũng phải che phủ bằng một lớp hình dáng khác.

Trong nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ nổi lên hai bức tranh

phảng phất dáng hình dục tính. Đó là bức tranh Hứng dừa và Đánh ghen.

Nghệ thuật điêu khắc đình làng cũng diễn tả tính dục một cách đậm nét:

đình Đông Viên (Ba Vì - Hà Tây), đình Phùng (Đan Phƣợng - Hà Tây),

đình Phổ Tang (Phú Thọ), đình Đệ Tứ (Nam Định) khắc hình nam nữ đùa

giỡn nhau khi tắm ở hồ sen, hay đùa giỡn nhau với cơ thể trần đầy gợi cảm.

Thêm vào đó, còn có bia chùa Phúc Hải và đình Hải Trung (nửa đầu thế kỷ

XVII) khắc hình ngƣời đàn bà khoả thân ngồi xổm, hai chân dạng ra hai

bên… với bụng lớn, hạ bộ. Ở đình Phù Lão (1688) chạm một ngƣời đàn bà

khoả thân bụng rất lớn, hạ bộ thể hiện rõ…

Nhƣ vậy, dù thông qua hình thức nào đi nữa (tín ngƣỡng phồn

thực, lễ hội, kiến trúc, hội hoạ…); dù thông qua ngôn ngữ, thông qua

truyền miệng, hay thông qua hình ảnh thì các diễn ngôn tính dục đều cho

thấy một sự dày đặc, phong phú và độc đáo trong văn hoá truyền thống của

ngƣời Việt. Tuy nhiên, những diễn ngôn này đều là của dân gian, đều phải

28

mang mặt nạ dân gian, không hề đƣợc phát ngôn hoặc thể hiện bằng tên

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

tuổi của một cá nhân nào. Thậm chí các diễn ngôn của dân gian nhƣng vẫn

phải “hoá trang” bằng những vẻ ngoài khác- gọi là cách đối phó với cấm kị.

2.2. Diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ trong văn học dân gian

2.2.1. Trong ca dao, dân ca

Ca dao, dân ca Việt Nam là một loại văn chƣơng bình dân có một

sức mô tả rất sinh động tất cả nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quán xã

hội của đại đa số dân chúng, và đƣợc thể hiện qua lối nói giản dị, thẳng

thắng. Khảo sát về vấn đề tính dục trong ca dao, dân ca Việt Nam mới thấy

đƣợc những nhận xét uyên bác, tinh tế của ngƣời nông dân, mới thấy đƣợc

sự mô tả tâm tƣ, tình cảm, sự rung động về tình yêu, sự khao khát chuyện

thân xác là rất thật, rất đời thƣờng. Những diễn ngôn tính dục trong ca dao-

dân ca đƣợc thể hiện khi thẳng thắn, khi mềm mại bóng gió. Có những câu

ca dao khiến một số nhà đạo đức lên án là dâm ô, tục tĩu, những chuyện

không nên nói nơi chỗ đông ngƣời.

Diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ

Những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ đa dạng, phong phú.

Đôi khi là sự miêu tả các bộ phận gợi dục của ngƣời phụ nữ, ngƣời con gái

đƣơng tuổi dậy thì, là những lời bông đùa, chọc ghẹo:

Nước láng linh chảy ra Vàm Cú

Thấy em chèo cặp vú muốn hun

Chủ thể phát ngôn ở đây là chàng trai. Anh ta đang đối thoại, chọc

ghẹo ngƣời con gái- có lẽ đang tuổi dậy thì nên mới bộ ngực“nhu nhú núm

cau”.

Nhiều khi là cách trêu trọc thẳng thắn thể hiện tâm tƣ, tình cảm của ngƣời

nam đối với ngƣời nữ. Trong mỗi hoàn cảnh có thể coi đó là lời trêu trọc

suồng sã, quá đà:

Chị kia lớn mổng cao mu

29

Lại đây cho tôi gởi con cu trọc đầu

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Cu tôi vừa mới đâm lông

Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm

Ngực, vú hay còn gọi là nhũ hoa là bộ phận không kém phần nhạy cảm của

ngƣời con gái. Dân gian cảnh báo rằng:

Con gái chơi với con trai

Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa

Con gái đến tuổi dậy thì, không những cặp vú nhu nhú sau lớp áo mà nhiều

bộ phận khác trên cơ thể cũng thay đổi, ví dụ nhƣ lông bắt đầu mọc ở một

vài khu vực kín. Ca dao diễn tả hình ảnh này một cách cợt nhả:

Cô kia cắt cỏ bên sông

Cái váy thì cụt, cái lông thì dài

Thuyền chài nó trả quan hai

Thưa rằng chẳng bán để dài quét sân

Cũng có khi mƣợn cảnh ngộ để gợi đến một bộ phận ... nhạy cảm, hoặc

mƣợn vật, mƣợn cảnh để nói lên hoàn cảnh của mình, bộc bạch và than

thở- nhƣng cũng là cách bày tỏ sự thiếu thốn tình cảm và tình dục trong đời

sống ngƣời con gái kém may mắn:

Gió nam non thổi lòn hang cóc

Phận em nghèo nên mồng đốc khô rang

Trèo lên cây khế giữa ngày

Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra

Có lúc ca dao dùng trực tiếp yếu tố tục, gọi thẳng tên, nói thẳng đến “cái

ấy” của ngƣời phụ nữ:

Bà Đội cho chí bà Cai

Bà nào mà chẳng váy ngoài l.. trong

Có thể thấy những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ trong ca dao, dân ca

vô cùng phong phú và đa dạng. Không chỉ miêu tả về bộ phận sinh dục nữ,

30

những bộ phận gợi tình của ngƣời nữ nhƣ vú, lông, đùi…tác giả dân gian

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

còn miêu tả cả tâm- sinh lý của ngƣời con gái về chuyện yêu đƣơng,

chuyện quan hệ nam nữ…Tất cả bằng thứ ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu và hài

hƣớc. Tuy rằng xuất hiện nhiều nhƣng các diễn ngôn tính dục này vẫn chỉ

xuất hiện dƣới lớp mặt nạ dân gian, nó không phải sáng tác của cá nhân

nào, không phải của một bác nông dân, một nhà Nho hoặc bất cứ ai có danh

xƣng, mà là sản phẩm mang tên gọi dân gian.

Diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ

Các cách xƣng hô thƣờng thấy của ngƣời phụ nữ trong ca dao- dân

ca nhƣ: em, chị, tôi (với đối tượng giao tiếp là người nam), hoặc từ điểm

nhìn- quan điểm của ngƣời phụ nữ mà thƣờng thể hiện bằng các nội dung

về việc chọn chồng, chê bai đàn ông, than thở thân mình…

Ngƣời phụ nữ dân gian xƣa cũng có những cảnh ngộ bi đát khiến

họ phải than thở, thậm chí họ chửi, họ mỉa mai, nhƣng trong đó vẫn phảng

phất đâu đó sự hãnh diện về cái “tự có” của mình:

Sáng trăng trải chiếu em ngồi

Em ngồi em để cái sự đời em ra

Sự đời bằng cái lá đa

Đen như mõm chó chém cha sự đời

Dữ dội hơn, táo tợn hơn, những ngƣời phụ nữ mặn nồng với chuyện phòng

the, tuyên bố nhƣ thách thức và lúc cao hứng, họ cũng không ngần ngại tự

hào về điều đó:

Dậm chân xuống đất cái đùng

Vỗ l ... cái phạch chào anh hùng đến đây!

Những diễn ngôn của ngƣời phụ nữ rất nhiều, đƣợc thể hiện bằng motif

“thân em”, ví dụ:

Thân em như dải lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Nhƣng cũng từ motif “thân em” mà ngƣời phụ nữ có những diễn ngôn về

31

tính dục độc đáo thế này:

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Thân em như cá rô mề

Lao xao giữa chợ biết về tay ai

Vật dùng để so sánh rất dễ để ngƣời nghe liên tƣởng đến bộ phận kín đáo

của ngƣời con gái.

Có những diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ thể hiện sự tự hào, tự tin

của họ về “cái ấy”, về bản năng của họ:

Đánh tôi thì tôi chịu đau

Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu

Nhiều khi là sự khẳng định về quyền tự do bản năng, phản bác lại tƣ tƣởng

của nhà Nho về quan niệm thủ tiết hay chính chuyên của ngƣời phụ nữ:

Lẳng lơ chết cũng ra ma

Chính chuyên chết cũng chôn ra ngoài đồng

Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn

Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành

Hoặc những vấn đề đƣợc coi là cấm kị của ngƣời phụ nữ trong cuộc sống

cũng đƣợc ngƣời phụ nữ xem nhẹ, thể hiện thái độ phản kháng và bất cần:

Không chồng mà chửa mới ngoan

Có chồng mà chửa thế gian thường tình

Ngƣời phụ nữ cũng mạnh dạn đƣa ra các tiêu chuẩn chọn chồng, mà thú vị

rằng một trong những tiêu chuẩn để chọn đƣợc tấm chồng cho “bằng chị

bằng em” là dựa vào kích thƣớc và hình dáng của “cái kia”:

Chẳng giàu thì phải đẹp giai

Chẳng thông minh lịch sự phải dài cái kia

Nhiều khi ngƣời phụ nữ cũng trở nên dịu dàng và nữ tính bằng những tâm

tƣ tình cảm khi yêu, nhƣng sự nữ tính đó không còn trong khuôn phép

“nam nữ thụ thụ bất thân” mà mạnh dạn hơn rất nhiều:

Anh về để áo lại đây

Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng

32

Thậm chí còn thẳng thắn hơn:

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Anh về sương gió lạnh lùng

Ở đây chung gối chung mùng với em

Nhiều cách tạo hình và sự liên tƣởng trong cao dao- dân ca để chỉ chuyện

nam nữ mà phía chủ động lại là “phái yếu”:

Cây trời có cái chỉa ba

Thương em thì hãy đem tra nó vào

Thân phận ngƣời phụ nữ “làm lẽ” không khác gì “chén cơm nguội đỡ

lòng” cho các đấng râu mày. Họ bị khống chế bởi quy định lễ giáo ngặt

nghèo, bởi quan hệ chính – thứ, và họ cũng “thiệt thòi” ngay trong chuyện

ân ái. Họ thẳng thắn tỏ bày:

Đêm đông trời lạnh như đồng

Mượn chi thì cho mượn, mượn chồng thì không

Làm thân con gái phải lo

Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng

Những diễn ngôn tính dục trong ca dao, dân ca ẩn chứa khát vọng về tình

yêu, hạnh phúc, khát vọng thể hiện vẻ đẹp về hành động duy trì sự sinh tồn

của con ngƣời, nhƣng lại bị dƣ luận hà khắc, cấm đoán.Những diễn ngôn

đó có thể do ngƣời phụ nữ dân gian phát ngôn, cũng có thể là câu ca của

bất cứ một vị quân tử hoặc ngƣời đàn ông nào đó nhƣng điều quan trọng là

tất cả đều phải sử dụng mặt nạ dân gian. Sau khi sáng tác, tác giả của các

bài thơ này không thừa nhận nó là “con” của mình mà để tự đứa “con” đó

đƣợc lƣu truyền từ ngƣời nọ sang ngƣời kia và trở thành tác phẩm của dân

gian. Nhƣ vậy không ai biết ngƣời phát ngôn về vấn đề tính dục này là ai.

2.2.2. Câu đố

Câu đố đã tồn tại hàng nghìn năm trong dòng chảy văn học. Thể

loại văn học này lúc thâm trầm, rả rích, lúc cuồn cuộn, da diết, ngay cả

hình ảnh đồ vật cũng đƣợc các cụ tả mà nghĩa đen thì chắc chắn ai cũng

liên tƣởng đến “cái ấy” của phụ nữ:

33

Đi nhai, đứng ngậm ngồi cười.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Hay

Cái hoa tim tím, cái nhị đều đều,

Đàn ông đâm nhiều, đàn bà đâm ít.

(cái máy khâu)

Già thì đặc bí bì bì

Con gái đương thì rỗng toách toành toanh.

(cau lúc già và lúc là cau hoa)

Câu đố có nghĩa tục là bộ ngực đàn bà:

Cái gì vừa quả vừa hoa,

Con nít cũng thích ông già cũng mê

Ra đường dù thấy tràn trề

Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng

(hai "quả đào tiên").

Bì bà, bí bạch chân cò

Bí ba bí bách, nằm co giữa giường

Đoạn rồi sờ vú sờ sườn

Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôị

(Bánh dầy)

Có những câu đố khiến ngƣời ta liên tƣởng đến hoạt động tính giao nam nữ

nhƣ này:

Lồm xồm hai mép những lông

Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào

Chui vào rồi lại chui ra

Năm thì mười họa đàn bà mới chui.

(Cái áo tơi)

34

Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trôn,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Hai cái lông l. cái dài cái ngắn.

(xỏ kim)

Thể loại câu đố thƣờng sử dụng cách đố thanh giảng tục và đố tục

giảng thanh để đố vui với nhau nhƣng ám chỉ vấn đề tính dục, miêu tả cơ

thể, bộ phận kín của ngƣời phụ nữ và nói về hoạt động tính giao. Nhƣng

cũng nhƣ ca dao, dân ca, câu đố vẫn phải mang mặt nạ dân gian để đối phó

với vấn đề cấm kị bản năng trong bối cảnh xã hội phong kiến bị chi phối

bởi tƣ tƣởng thanh giáo truyền thống luôn có cái nhìn hà khắc với bản năng

con ngƣời.

2.2.3. Truyện tiếu lâm

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có một thể loại rất độc

đáo đó là truyện tiếu lâm- hay còn gọi là truyện cƣời.

Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (Nxb từ điển bách khoa HN –

2005) truyện tiếu lâm là một nhánh của truyện cƣời dân gian Việt Nam.

Trong Hán Việt từ điển (1957) của Đào Duy Anh có ghi Tiếu Lâm là tên

một bộ sách chép toàn truyện cƣời. Có ngƣời chiết tự chữ Hán ra mà dịch

nghĩa: Tiếu (cƣời), Lâm (rừng) là: Rừng cƣời.

Truyện cƣời dân gian Việt Nam gần đây đã đƣợc xuất bản khá

nhiều: Ngoài Bắc có: Tiếng cười dân gian Việt Nam, Truyện Tiếu Lâm,

Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai Tứ Xuất… Thanh Hoá có: Xiển

Bột…Quảng Nam – Đà Nẵng có: Thủ Thiệm. Trong Nam có: Truyện ông

Ó, Chú Ba Phi…Truyện Tiếu Lâm có thể là do ngƣời dân bịa. Bịa ra để

cƣời chơi. Đã là chuyện bịa thì không có giới hạn: Từ đúng đắn cho tới

dâm tục. Có khi rất tục.

Những sáng tác đó có cả những câu chuyện tính dục về ngƣời phụ

nữ. Một sáng tác rất nổi tiếng về vấn đề này là truyện Tượng bà Banh trong

chùm truyện Trạng Quỳnh. (Xin đƣợc dẫn lại văn bản đó dƣới đây)

“Quỳnh nghe nói cách nơi mình dạy học một vài dặm có một

35

tượng đá rất thiêng, bèn hỏi học trò:

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

– Pho tượng ấy mang tên vị thần nào mà dân chúng ai cũng sợ như thế?

Anh học trò thưa:

– Trình thầy, không thần phật nào cả. Đấy là pho tượng một người đàn

bà ở truồng, người ta gọi là tượng “Bà Banh”

– Tượng ấy hình thù như thế nào? Anh học trò có vẻ xấu hổ, nói:

– Pho tượng ấy trông kỳ cục lắm thầy ạ! Đầu nghiêng về một phía,

miệng cười tủm tỉm, Cổ quấn mấy vòng chuỗi hạt, chân đi giầy bắt chéo,

còn hai tay chỉ vào “chỗ ấy” bên cạnh tượng có đặt một chiếc chày đá.

Quỳnh bực mình hỏi:

– Sao không đập vỡ quách đi cho rồi? Để cái của nợ ấy đứng trêu

ngươi làm gì?

– Thưa, “Bà Banh” dữ vía lắm ạ! Ai đi qua đấy, muốn yên lành thì phải

lặng lẽ đến cầm chiếc chầy đá, đâm vào bộ phận kia một cái, mà phải làm

việc đó rất kính cẩn. Những ai không làm hoặc chọc ghẹo tượng thì khi về

đến nhà thế nào cũng bị méo miệng, trẹo tay, vẹo cổ…

Một hôm, Quỳnh đến tận nơi có tượng Bà Banh để xem thực hư. Quỳnh đến

bên tượng, lấy chầy đá quẳng đi, đoạn cầm bút đề tám câu thơ lên bụng

tượng:

Khéo đứng ru mà đứng mãi đây

Khen ai đẽo đá tạc nên mày

Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt

Dưới chân đứng chéo một đôi giầy

Cởi váy phất cờ trêu ghẹo tiểu

Để đồ bốc gạo thử thanh thầy

Có thiêng sao chẳng ngồi toà ngọc?

Khéo đứng ru mà đứng mãi đấy!

Bài thơ Quỳnh viết xong chưa ráo mực, mồ hôi tượng đá đã vã ra như tắm.

Từ đấy, không còn ai nghe nói rằng “Ba Banh” thiêng nữa.”

36

(Truyện trạng Quỳnh: Tượng Bà Banh)

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Diễn ngôn tính dục này cũng là về ngƣời phụ nữ nhƣng mang tính

chất châm biếm, chế giễu những ngƣời đàn bà dâm ô, truỵ lạc…làm ảnh

hƣởng đến cuộc sống bình yên của ngƣời khác.

“Chuyện Trạng Quỳnh có kể thuở trẻ Quỳnh đã dám chơi khăm viên quan

huyện khét tiếng gian tham và hống hách bằng một câu đối để đời.

Chuyện kể rằng: biết viên quan huyện trên đường hành hạt vừa ghé vào

một quán nước kiếm bát nước chè xanh và ăn khẩu trầu, Quỳnh ôm quyển

tập mon men đến ngồi trước cửa quán. Khi viên quan vất miếng bã trầu,

Quỳnh giả vờ khúm núm nhặt miếng bã trầu lên săm soi rồi bỏ vào túi. Viên

quan lấy làm lạ bèn cất tiếng hỏi:

– Thẳng học trò ranh kia, mày làm cái trò gì thế?

– Dạ bẩm, con thấy tục ngữ có câu “Miệng kẻ sang có gang có thép”

nên con muốn xem gang thép của quan nó như thế nào ạ!

– Mày là học trò mày phải đối ngay câu tục ngữ ấy cho ta, bằng không

phải chịu ăn đòn, nghe chưa?

Anh học trò lại giả vờ khúm núm thưa:

– Con đối chỉnh thì xin quan đừng bắt tội con, quan có chịu không ạ?

– Thì mày cứ đối đi.

– Dạ, con xin đối “Đồ nhà khó vừa nhọ, vừa thâm” ạ!

Quỳnh đã lấy tục ngữ đối với tục ngữ, viên quan không còn bắt bẻ vào đâu

được, bèn cùng bộ hạ chuồn thẳng!”

(Truyện trạng Quỳnh)

Diễn ngôn ở đây của Trạng Quỳnh đã coi bộ phận sinh dục nữ không phải

là thứ ô uế mà rất cao sang; hoặc chê bai miệng quan chẳng khác gì “cái ấy”

của ngƣời phụ nữ nghèo.

Trong dòng truyện tiếu lâm bình dân cũng có những sáng tác rất

hài hƣớc, dí dỏm, kết hợp với thơ…để thể hiện vấn đề tính dục của ngƣời

37

phụ nữ và ngƣời đàn ông:

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

“Có một anh nông dân mới cưới vợ đã có việc phải đi xa. Sau vài tháng, cô

vợ gửi thư cho chồng.

“Đám ruộng hai bờ ở đầu hông

Lâu ngày không cấy vẫn để không

…Nước non vẫn đủ, cỏ mọc tốt

Nhờ người cày hộ có được không?”

Ông chồng đọc xong trả lời:

“Đám ruộng hai bờ là của ông

Cho dù không cấy vẫn để không

Mùa này không cấy chờ mùa khác

Nhờ người cày hộ chết với ông”

Bà vợ chịu không nổi gửi tiếp:

“Ông à… cỏ dại lên quá mông

Dân cày quê mình cứ ở không

Thôi tui làm phước cho họ cấy

…Ông về thu hoạch… thế là xong”

Ông chồng càng tức giận hơn:

“Cỏ dại có mọc lên quá mông

Thì bà vẫn cứ phải để không

Ông mà biết được bà cho cấy

Ông về nhổ sạch thế là… xong”

Bà tiếp:

“Ruộng kia cỏ đã mọc đầy đồng

Ông về gấp gấp có nghe không?

Ruộng đang thiếu nước, lại khô cạn

…Ông về tưới hộ tôi trả công!”

Chồng nghe thế liền gửi lại:

“Ừ thì bà ráng mà kiềm lòng

38

Bà mà léng phéng chết với ông

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Ông về ông cấy cho tơi xốp

Cho thỏa bao ngày bà đợi mong”

Hôm sau, chồng nhận được thư vợ như sau:

“Luật mới ban hành ông biết không?

Ruộng mà không cấy sẽ sung công

Vậy ông thu xếp mà về sớm

Kẻo mất ruộng rồi, ông trách ông”

(Ruộng để không- Nguồn: Truyện cười dân gian Việt Nam).

Trong sáng tác trên, đôi vợ chồng nói về câu chuyện ruộng của nhà

đang để không, chƣa trồng đƣợc gì vì ngƣời chồng đi xa không thể cày xới

đƣợc…Câu chuyện đôi co hai bên bằng những lời thơ dí dỏm và tƣợng

hình. Nhƣng ai cũng hiểu rằng bà vợ đang ám chỉ vấn đề quan hệ thân xác

vợ chồng dƣới lớp ngôn ngữ bình dị và dí dỏm. Ngƣời phụ nữ trực tiếp bày

tỏ quan điểm của mình về vấn đề quan hệ vợ chồng: “Luật mới ban hành

ông biết không?Ruộng mà không cấy sẽ sung công”. Tất nhiên đó chỉ là lời

doạ dẫm của bà vợ để ông chồng mau chóng về nhà, tuy nhiên cũng thể

hiện đƣợc sự khát khao yêu đƣơng và sự tự tin của ngƣời phụ nữ trong

chuyện vợ chồng.

Sở dĩ xã hội phong kiến và những chế độ chuyên chế khác giới

hạn tiếu lâm, vì loại truyện này, tự nó, mang tính cách phản kháng. Không

nhất thiết chống lai chính quyền, nhƣng nó châm biếm mọi cái lố bịch

trong xã hội, và do đó mang tính cách bình đẳng, qua tiếng cƣời rộ, cƣời

ngặt nghẽo, cƣời ngất. Và dù không châm biếm ai cả, không đả kích cái gì

cả, dù chỉ chọc cƣời, khi đề cập đến tình dục, thì truyện tiếu lâm cũng công

phá vào những giáo điều,những cấm kỵ của xã hội. Những diễn ngôn tính

dục của ngƣời phụ nữ dễ dàng đƣợc thể hiện qua dòng truyện dân gian độc

đáo này. Để các diễn ngôn tính dục xuất hiện thẳng thắn và đa dạng, các tác

39

phẩm này vẫn phải sử dụng mặt nạ dân gian để phát ngôn. Vẫn không ai

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

xác định đƣợc tác giả hoặc nhóm tác giả nào đã sáng tác nên những tác

phẩm mang đậm màu sắc tính dục trên.

2.3. Diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ trong văn học viết

Văn học trung đại Việt Nam hình thành và phát triển suốt chiều

dài cùng chế độ phong kiến Việt Nam. Vì vậy giai đoạn văn học này chịu

ảnh hƣởng sâu sắc của tƣ tƣởng Nho giáo. Nho giáo quan niệm coi văn

chƣơng là phƣơng tiện để thể hiện “tâm, chí, đạo” của con ngƣời: Văn dĩ

tải đạo; Thi ngôn chí…Văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỷ XVIII đến

đầu thế kỷ XIX) cho ta thấy một bức tranh nhiều mặt của vấn đề nữ quyền.

Theo quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn thì giai đoạn này,

ngoài đa số các sáng tác với chủ nghĩa chống nữ quyền truyền thống thì

vẫn có những sáng tác theo chủ nghĩa nữ quyền. Vì có những tƣ tƣởng nữ

quyền hoặc tƣ tƣởng chống nữ quyền nên cũng lác đác xuất hiện các diễn

ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ trong các sáng tác của nhà Nho với nhiều

mục đích: Những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ với mục đích chống

nữ quyền khi coi ngƣời phụ nữ đẹp, sự mê hoặc về giới của ngƣời phụ nữ

là ma quỷ (Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ); hay cũng có những diễn ngôn

theo chủ nghĩa nữ quyền với tƣ tƣởng chính là bảo vệ, bênh vực quyền

sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ, phản ánh sự thiệt thòi, trắc trở trong

cuộc đời họ, thể hiện sự khát khao yêu đƣơng, khát khao thầm kín của

những ngƣời phụ nữ trong xã hội. Những diễn ngôn tính dục đó thể hiện

thế nào, bằng những cách thức nào? Nắm đƣợc những đặc điểm hoặc

nguồn gốc của những diễn ngôn đó, ta sẽ có cái nhìn khách quan về vấn đề

tính dục trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, vì chắc chắn

những diễn ngôn tính dục của nữ thi sĩ này không thể nằm ngoài quy luật

của văn học.

40

2.3.1. Sử dụng các yếu tố kì ảo

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo làm chất liệu nghệ thuật, các nhà

văn đã phản ánh cuộc sống sâu sắc hơn, những câu chuyện lạ về loài vật, về

ma quỉ thần thánh trở nên quen thuộc hơn, những điều hƣ ảo mà thấy rất

thực. Cũng nhờ những yếu tố kì ảo, ma quái, tác giả có thể nói lên những

vấn đề cấm kị trong xã hội, trong đó có những vấn đề tính dục, vấn đề mối

quan hệ nam nữ không chính thống, phóng túng hoặc những khát khao bản

năng của ngƣời phụ nữ… bằng việc đặt các diễn ngôn tính dục vào miệng

của ma nữ, yêu quái. Trong không gian văn hoá của Nho giáo và Phật giáo,

cái kì ảo ở đây đóng vai trò nhƣ là một biện pháp đối phó với sự cấm kị của

tƣ tƣởng diệt dục, quả dục đƣơng thời. Nó có ý nghĩa là bức bình phong che

chắn búa rìu dƣ luận. Coi ngƣời phụ nữ có nhan sắc là điều nguy hiểm, có

sức mạnh của ma quái; coi ngƣời con gái đẹp là hồ ly tinh, là yêu nghiệt, đó

là tâm thức tiếp nhận rất phổ biến thời trung đại ở cả Việt Nam và Trung

Quốc.

Một trong những trƣờng hợp tiêu biểu cho việc sử dụng các yếu tố

kì ảo, ma quái đó là tác phẩm Tuyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Dƣới màu

sắc hƣ ảo, thần quái trong những truyện kể xoay quanh đề tài ngƣời phụ nữ,

Nguyễn Dữ đã đóng góp tiếng nói của mình về ngƣời phụ nữ vào trào lƣu

nhân văn chủnghĩa trong văn học trung đại - tất nhiên quan niệm về ngƣời

phụ nữ của ông vẫn đƣợc cho là một quan niệm “nƣớc đôi”: có bênh vực,

bảo vệ nhƣng cũng có phê phán gay gắt. Đằng sau những nhân vật nữ ma

quái này chúng ta có thể tìm thấy những quan niệm về ngƣời phụ nữ của

thời đại thế kỉ XV – XVI. Những nhân vật nữ ma quái đều rất xinh đẹp

nhƣng đều mang lại nguy hiểm cho những ngƣời đàn ông muốn gần gũi cô

ta. Cách kể này cho thấy quan điểm về cái đẹp, về phụ nữ là điều nguy hiểm

và đáng sợ nhƣ yêu ma, quỷ quái. Đó là những quan niệm bất công đối với

ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ của Nguyễn Dữ cũng

41

thể hiện hai luồng suy nghĩ: bênh vực và lên án ngƣời phụ nữ. Ở tác phẩm

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Nghiệp oan của Đào thị: “Nƣơng náu nơi nhà chùa nhƣng Đào thị(tức Hàn

Than) vẫn lén lút tƣ thông, ân ái với Vô Kỷ. Hay trong truyện Yêu quái ở

Xƣơng Giang ta cũng bắt gặp sựphê phán lối sống phóng dục của nhà văn

qua chuyện tình giữa hồn ma ThịNghi và viên quan họHoàng.Nhƣ vậy,

những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ trong một vài tác phẩm của

Nguyễn Dữ là những diễn ngôn với mục đích phê phán, lên án và phơi bày

những mối quan hệ phóng túng, những khát khao bản năng của ngƣời phụ

nữ trong những trƣờng hợp cấm kị” [45].

Tuy nhiên, bên cạnh những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ có

tính chất lên án, Nguyễn Dữ cũng lên tiếng bênh vực cho những nhu cầu

tình cảm, những khát khao yêu đƣơng trần thế của con ngƣời, đặc biệt của

ngƣời phụ nữ, thông qua những cuộc tình duyên giữa ngƣời với ma, ngƣời

với tiên.“Dù trong lốt thần tiên hay ma quỉthì các cô gái trong Truyền kì

mạn lục vẫn hiện lên với những cảm xúc chân thật nhất trong tình yêu. Họ

cũng là những ngƣời phụnữ thuỷchung, cao thƣợng. Ví nhƣ Lệ Nƣơng,

Dƣơng Thị, Thuý Tiêu thuỷ chung với ngƣời yêu, với chồng; NgoạVân hiếu

thuận, cao thƣợng, NhịKhanh đảm đang. Khát vọng yêu đƣơng là lẽthƣờng

tình, là những mƣu cầu tất yếu của con ngƣời, nhƣng trong xã hội phong

kiến điều đó không dễdàng đƣợc chấp nhận. Nhất là trong chuyện tình yêu

nam nữ càng bị gò bó, không đƣợc phép tìm hiểu hoặc tự do đến với ngƣời

mình yêu thƣơng, hôn nhân cũng không đƣợc quyền chọn lựa mà phải theo

sự sắp đặt của cha mẹ” [45]. Đặc biệt là ngƣời con gái luôn bị thiệt thòi

trong chuyện tình yêu và hôn nhân, đã không đƣợc đến với ngƣời mình

thƣơng nhớ mà còn bị ép gả cho ngƣời mà mình không hề quen biết, để

những khát vọng yêu thƣơng, sợ nhớ mong vẫn ngày ngày dằn vặt cô gái

khi cô phải sống bên ngƣời đàn ông khác…Từ những diễn ngôn tính dục về

ngƣời phụ nữ, về khát khao bản nặng của con ngƣời hay ma quỷ cũng

khẳng định một triết lí nhân sinh: trần thế có sức hấp dẫn kì lạ, chỉ ở trần

42

thế mới có hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc lứa đôi là cuộc sống tự do, vƣợt

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

khỏi mọi chế định và ràng buộc. “Nếu nhƣ ở phần lời bình cuối mỗi truyện

ngƣời bình luận thể hiện rõ thái độ phê phán với loại nhân vật nữ ma quái

thì trong quá trình kể chuyện, Nguyễn Dữ nhiều khi lại giữ thái độ thƣơng

cảm và bênh vực cho loại nhân vật này. Trong cách miêu tả vẻ đẹp của

nhân vật nữ ma quái ta thấy niềm yêu mến, nâng niu thay vì sự ghê sợ.

Cũng nhƣ thế, loại hành động mà ngƣời kể chuyện chú trọng miêu tả là

những cuộc giao hoan ân ái chứ không phải những tác hại, những lộng hành

của yêu quái - điều hiển nhiên của loài yêu quái. Và một yếu tố nữa cũng

cho thấy sự nƣơng nhẹ, trìu mến của tác giả dành cho những yêu nữ này đó

là cách định danh. Dù là ma, là yêu quái hay yêu tinh thì Nguyễn Dữ vẫn

gọi là nàng, người con gái, hoặc gọi tên” [45].

Qua những cốt truyện có chứa các yếu tố ma quái, kì ảo tác giả còn

cho thấy nhu cầu giải phóng tình dục của con ngƣời Việt Nam thời trung

đại. “Nguyễn Dữ say sƣa miêu tả những cuộc hoan lạc giữa một bên là

ngƣời, một bên là nhân vật ma quái: giữa Trung Ngộ và hồn ma Nhị Khanh,

giữa Hà Nhân với hai hồn hoa Đào, Liễu. Ông dành một dung lƣợng khá

lớn để miêu tả chi tiết cuộc yêu từ lúc bắt đầu lả lơi cợt ghẹo cho đến khi

gối chăn êm ấm” [45]. Nhu cầu thoả mãn những tình cảm bản năng trần tục

của con ngƣời là một vấn đề đƣợc đặt ra của thời đại của Nguyễn Dữ. Lễ

giáo phong kiến trói buộc con ngƣời trung đại trong những tƣ tƣởng “quả

dục”, “tiết dục”, phải tiết chế bản thân trƣớc những ham muốn tình dục.

“Các câu chuyện về ái ân giữa ma quái và con ngƣời ở đây có ý nghĩa giải

thoát khát vọng bản năng của con ngƣời, thể hiện khao khát đƣợc sống với

tình cảm và cảm xúc thật của chính mình” [45]. Tuy nhiên, nó cũng chứng

tỏ một sự thật rằng: ngày xƣa không có tình yêu, phụ nữ không bao giờ có

quyền sống với tình cảm thật và khát khao bản năng của mình; giống nhƣ

câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hoang đƣờng, tình yêu giữa con

ngƣời và ma nữ, những cuộc giao hoan giữa ngƣời và ma là điều không bao

43

giờ có. Và nhƣ vậy, hạnh phúc từ việc đƣợc thoả mãn đam mê tình yêu,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

đƣợc ở bên cạnh ngƣời thƣơng nhớ, đƣợc thoả mãn xác thịt của ngƣời phụ

nữ cũng là điều không có thật.

Nhƣ vậy, tƣ tƣởng về vấn đề tính dục của Nguyễn Dữ ở thế kỉ XVI

là những khát khao bản năng của con ngƣời nói chung và của ngƣời phụ nữ

trong xã hội nói riêng. Những diễn ngôn tính dục này đƣợc thể hiện trong

suy nghĩ và lời nói và hành động của nhân vật ma nữ trong tác phẩm. Các

diễn ngôn tính dục này đều phải thông qua việc sử dụng các yếu tố ma quái,

kì ảo. Nói cách khác, Nguyễn Dữ thể hiện tƣ tƣởng của mình về vấn đề bản

năng tính dục, vấn đề yêu đƣơng nam nữ bằng việc đƣa lời vào miệng ma

nữ, yêu quái, để các nhân vật hƣ cấu này nói thay mình. Tác giả không dám

trực tiếp phát ngôn những vấn đề này vì đó là những vấn đề cấm kị đầu tiên

đối với nhà Nho trong tƣ tƣởng “vạn ác thủ vi dâm” của Nho gia trong bối

cảnh xã hội đƣơng thời.

2.3.2. Sử dụng phương pháp dân gian hoá tác phẩm

Vấn đề tính dục, yếu tố “dâm” trong văn học Việt Nam trung đại

chỉ rải rác xuất hiện ở truyện, thơ truyền khẩu dân gian. Thỉnh thoảng có

một số ít tác giả văn học trung đại đƣa những yếu tố nhạy cảm ấy vào thơ,

phú, …, song không nhiều; và nếu có họ cũng mềm mại biến chúng thành

những tác phẩm của công chúng - những tác phẩm không rõ tác giả là ai.

Một trong những thể loại dễ dân gian hoá nhất chính là thơ. Thơ

có thể dễ dàng trở thành ca dao - tục ngữ rồi đi vào đời sống một cách tự

nhiên nhất. Nhƣ chúng ta đều biết, ca dao - dân ca là sản phẩm của quần

chúng nhân dân, nhƣng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng có rất nhiều các

sáng tác cực kì hoàn hảo về cả nội dung và nghệ thuật. Những sáng tác đó

không thể nào là của những ngƣời nông dân một nắng hai sƣơng, không am

hiểu nhiều chữ nghĩa; mà chỉ có thể là sản phẩm của những bậc học thức,

những nhà Nho học…Trong đó có nhiều câu ca đầy ẩn ý về chuyện dục

44

tính. Và các diễn ngôn tính dục đó nghiễm nhiên đi vào dân gian rồi tồn tại

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

mà tác giả của nó không hề ảnh hƣởng- dù bản thân có là nhà Nho học đi

chăng nữa.

Dân gian truyền nhau rằng khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,

ở những nhà hát cô đầu trên đất Bắc đã loan truyền một bài ca trù nói về

“cái ấy” của phụ nữ nhƣ sau:

Tài tử giai nhân giai thích chí,

Chẳng gì hơn “cái ấy” nữa mà thôi.

Khách văn nhân tài tử ai ai,

Sinh cũng đấy mà vui chơi cũng đấy!

Dầu lá tre, lá vông thì cũng vậy,

Hở hang ra coi thấy dễ càng đau.

Khách tài tình rày ước mai ao

“Mao” cũng thú mà “vô mao” càng tuyệt thú!

Nền gấm lơ thơ tơ liễu rủ,

Cửa son thấp thoáng hạt hồng non.

Quyền thế gì một thú con con,

Dẫu trăm khéo, ngàn khôn thời cũng mắc!

Đố ai biết bên nào là chắc

Dầu có chăng bên “ấy” nữa mà thôi.

Của bà bà vỗ bà chơi!

Dân gian đồn đoán rằng tác giả bài ca này là Thám hoa Vũ Phạm

Hàm (1864-1906) ngƣời huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, thi đỗ đầu cả 3

kỳ thi Hƣơng, Hội và Đinh nên đƣợc tôn xƣng là Tam nguyên Vũ Phạm

Hàm. Và nếu tác giả bài ca này không phải Thám hoa Vũ Phạm Hàm thì

cũng là sáng tác của một nhà Nho nào đó, căn cứ vào cách sử dụng từ ngữ

linh hoạt, tinh tế, cách nói hài hƣớc, đa nghĩa …và cũng chỉ có những nhà

Nho mới có niềm đam mê với nghệ thuật hát cô đầu này. Những đồn đoán

về tác giả tuy không khẳng định đƣợc ai mới đích thị là “cha đẻ” của bài ca.

45

Nhƣng đã chứng minh đƣợc rằng các nhà Nho cũng tìm đƣợc niềm hứng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

thú với vấn đề tính dục, và có những diễn ngôn tính dục về “cái ấy” của

ngƣời phụ nữ nhƣ vậy. Cách mà họ thể hiện những diễn ngôn đó rất đơn

giản: dân gian hoá tác phẩm của mình - một công đôi việc: vừa đƣợc nhiều

ngƣời biết đến, vừa thoải mái phát ngôn mà không e sợ.

Những câu ca dao nhƣ thế này:

Áo xông hơi của chàng vắt mắc

Đêm em nằm em đắp lấy hơi

Trời mưa gió rét kìn kìn

Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông

Những mạng thích chí ngao du

Dạo chơi cho biết xuân thu thế nào

Nhất lê, nhì lựu, ba đào

Nhìn xem thấy cảnh muốn vào bẻ bông.

Thương cha nhớ mẹ có hồi

Thương anh lúc đứng lúc ngồi không an

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi

Ước gì dãi yếm em dài

Để em buộc lấy những hai anh chàng

Ngôn từ, lời lẽ uyển chuyển, ẩn ý vừa kín đáo nhẹ nhàng lại vừa

mạnh mẽ…thể hiện tình cảm vừa ý nhị nhƣng cũng sâu sắc của ngƣời con

gái dành cho ngƣời mình yêu thƣơng… chắc chắn không thể là tác phẩm

những ngƣời nông dân với bản tính bộc trực, ăn nói thẳng thắn, nhiều khi

có phần suồng sã, thô tục.

Nhƣ vậy, một trong những cách tốt nhất để thoải mái phát ngôn về

46

vấn đề tính dục đó là dân gian hoá tác phẩm sau khi sáng tác. Cách thức

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

này khiến các bài thơ mang đậm màu sắc dục tính đƣợc truyền bá rộng rãi

nhƣng tác giả của nó vẫn “vô can” không bị chế độ chỉ trích.

2.3.3. Sử dụng cách nói thanh giảng tục

Dù không thật sự đậm nét và tạo thành một bộ phận độc lập nhƣ ở

Trung Quốc và Nhật Bản nhƣng trong văn học viết Việt Nam giai đoạn

trung đại đã xuất hiện tác phẩm đề cập đến vấn đề tính dục với những miêu

tả cận cảnh và khá chi tiết- trong đó có các vấn đề bản năng của ngƣời phụ

nữ mà sử dụng phƣơng pháp đố thanh giảng tục khéo léo và thú vị. Một

trong những thể loại văn học tiêu biểu cho hiện tƣợng này là thể phú Nôm.

Phú Nôm quan tâm không phải chỉ có “đạo” và “chí”, mà còn là khát vọng

sống, hay nói cụ thể hơn, là khát vọng đƣợc sống thành thật với nhu cầu bản

năng của cá nhân mình, bất chấp quan niệm “tồn thiên lý, diệt nhân dục”

của Nho giáo. „„Với nguồn cảm hứng nhân sinh mới mẻ ấy, phú quốc âm

dần đi xa khỏi phạm vi của những nguyên tắc có tính quy phạm, tiến gần

hơn về phía văn học dân gian, kết hợp các yếu tố tiếp nhận đƣợc từ cội

nguồn truyền thống dân tộc với đặc trƣng thể loại để tạo nên góc nhìn riêng

về khát khao yêu và đƣợc yêu của con ngƣời‟‟ [62].

Có thể nói ngƣời đi tiên phong trong phong trào phú Nôm sử dụng

tiếng cƣời hóm hỉnh, nghịch ngợm, bao dung về những vấn đề đời sống trần

tục, khát khao bản năng là Nguyễn Bá Lân với tác phẩm Ngã ba Hạc phú.

Bài phú này vẫn giữ lại chức năng tụng ca của thể loại, nhƣng không còn

nội dung và chủ đề quen thuộc của thể phú là ca ngợi sức mạnh của vƣơng

triều và quyền uy của vua, mà đi vào những nội dung phi chính thống, ví

nhƣ cách miêu tả ẩn ý về hoạt động tính giao nam nữ thế này:

Bè khách thương bạ bến, tượng chân quỳ gối lắc cầy xuôi;

Thuyền ngư phủ trôi dòng, dang nách khom lưng chèo dếch ngược

„„Tác giả sử dụng từ ngữ gợi hình, khi đi liền nhau, hợp thành một trƣờng

liên tƣởng gợi ra cảnh ái ân: “vén quần”, “vỗ bụng”, “cắm néo”, “quỳ

47

gối”, “lắc cày xuôi”, “dang nách”, “khom lưng”, “chèo dếch ngược”. Lớp

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

nghĩa thứ hai ẩn giấu sau lớp nghĩa thứ nhất nhƣng không lớp nghĩa nào bị

ẩn đi mà cả hai đều “phô” ra, khăng khít với nhau‟‟ [62].

Tuy nhiên, Nguyễn Bá Lân là nhà Nho nên cách xây dựng hình

tƣợng cũng có nét khác dân gian : „„Hình ảnh cuộc sống ấm no của nhân

dân ngã ba Hạc bề ngoài đƣợc miêu tả theo bút pháp ƣớc lệ, tƣợng trƣng

quen thuộc trong văn học trung đại với một loạt điển tích: vua Bàn Cổ, họ

Hữu Ngu, vua Tống, trời Nghiêu, ông Lã (Lã Vọng), Chử Đồng Tử‟‟ [62]:

Những chốn Tiêu Tương;

Đồ tranh thủy mặc.

Trên lọ phải vén quần vua Tống, ra sức anh uy;

Dưới cũng vui vỗ bụng trời Nghiêu, xướng ca canh tạc.”

Với phong cách đó, Nguyễn Bá Lân dù khai mở cho thể phú phóng khoáng,

gần gũi với dân gian nhƣng vẫn mang đặc trƣng của nhà Nho. Phong cách

này mở đầu cho những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ một cách chân

thật và trực diện hơn của các nhà Nho sau đó.

Sau tác phẩm Ngã ba Hạc phú, trong phú Nôm xuất hiện „„một

loạt các nhân vật thích thú với “chuyện ấy”, “cái ấy” của phụ nữ‟‟ [62]. Ví

nhƣ việc ông thầy đồ tiếc nuối vì lỡ mất việc chứng kiến cảnh cô gái hớ

hênh “để ra cả” trong Xem cờ để mãnh phú của Nguyễn Hổ Trừu:

Ai ngờ cô ta;

Ngồi lê ngồi la.

Túng thè lưỡi chi ra;

Sính khát nước chi gà.

Người chẳng ra người;

Ma chẳng ra ma.

Mải mê việc nước;

Hớ hênh của nhà.

Cũng là trƣờng hợp diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ đƣợc các nhà Nho

48

chính thống thể hiện một cách hài hƣớc nhƣng khéo léo bằng phƣơng pháp

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

đố thanh giảng tục, Lê Quý Đôn cũng góp tiếng nói của mình bằng bài phú

Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng:

Chắc thanh tĩnh, tu đà nên Phật;

Dẫu chính chuyên, thác cũng ra ma.

Lê Quý Đôn lên tiếng đòi hỏi quyền đƣợc hƣởng hạnh phúc lứa đôi của

ngƣời phụ nữ bằng lớp nghĩa ẩn sâu. Trƣờng hợp Lê Quý Đôn khá đặc biệt:

vừa sử dụng thể phú truyền thống để phát ngôn về vấn đề tính dục, những

khát khao tình yêu và khát khao bản năng của ngƣời phụ nữ; vừa sử dụng

phƣơng pháp mƣợn giọng ngƣời mẹ và ngƣời con gái để bàn đến vấn đề

này. Chắc chắn không ai có thể phán xét hoặc lên án ông chỉ vì câu chuyện

của hai mẹ con nhà nọ đƣợc ông kể lại một cách rất khách quan nhƣ vậy.

Hiện tƣợng này liên quan rất thú vị đến hiện tƣợng thơ Nôm truyền tụng

của Hồ Xuân Hƣơng. Câu hỏi đặt ra là có điều gì thú vị tƣơng đồng trong

đó? Chúng tôi sẽ đƣa ra ý kiến của mình trong phần Hồ Xuân Hƣơng sau.

2.3.4. Mượn cốt truyện của nước ngoài

Văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hƣởng rất sâu sắc bởi văn

học Trung Quốc, trong đó có ảnh hƣởng của tiểu thuyết thị dân. Vào thời

Tống, dƣới sự phát triển mạnh mẽ của đô thị, tiểu thuyết thị dân phát triển

mạnh, để đáp ứng tâm lí của giới thị dân, những ngƣời kể chuyện ăn tiền

(thuyết thƣ nhân, thuyết thoại nhân) rất chú trọng đến yếu tố sắc dục, quan

hệ xác thịt và chi tiết nhƣ Si Bà Tử truyện, Nhục bồ đoàn, Cẩm tháp dã

sử…Trong khi đó Việt Nam đô thị kém phát triển, thành phần thị dân còn ít

nên tiểu thuyết thị dân cũng ít có điều kiện phát triển. Vì vậy các đề tài tiểu

thuyết không đa dạng, đó là lí do xuất hiện việc mƣợn cốt truyện của nƣớc

ngoài.

Việc mƣợn cốt truỵện nƣớc ngoài để nói lên vấn đề tính dục, phát

ngôn về ngƣời phụ nữ với phần bản năng mạnh mẽ trong văn học Nho học

không nhiều nhƣng không phải không có. Đây cũng có thể coi là một trong

49

những cách đối phó cấm kị của ngƣời xƣa.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Nhóm tác phẩm vay mƣợn cốt truyện Trung Quốc thuộc về một số

truyện của Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ví dụ nhƣ Mộc miên thụ

truyện (Truyện Ma cây gạo) đƣợc giới nghiên cứu cho rằng đã mƣợn cốt

truyện của truyện Mẫu đơn đăng ký trong Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu

(Trung Quốc).Trong truyện Kì ngộ ở trại Tây nói về cuộc gặp gỡ giữa

chàng Hà Nhân với hai hồn hoa là Đào và Liễu. Hà Nhân quen biết hai

nàng trong chuyến lên kinh theo học cụ Ức Trai (Nguyễn Trãi). Một ngày

nọ, Hà Nhân rủ hai nàng về chỗ mình ở, rồi cùng nhau giao hoan; xong, cả

ba cùng làm thơ ngâm vịnh. Lời thơ của ngƣời trong cuộc hết sức bạo dạn:

…Đua bay bướm giỡn so le trắng,

Liền cuống hoa phô rực rỡ hồng.

Một ổ thỏa thuê oanh ấm áp,

Đôi dòng san sẻ nước tây đông…

“Câu thơ nhƣ đang miêu tả phong cảnh mùa xuân với khoa tƣơi khoe sắc

bƣớm bay dập dờn; thực ra chính là diễn tả chuyện ân ái chung của ba

ngƣời. Lời thơ rất tao nhã nhƣng cũng không kém phần dung tục” [1].

Phong cách thơ có tính lập lờ hai mặt, khá gần với phong cách các bài thơ

Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng.

Kì ngộ ở trại Tây tuy có bạo dạn trong việc miêu tả sắc dục, tuy có

cảnh “nhất dạ nhị giao” song tác giả vẫn phải ngụy trang lên chúng chút ít

màu sắc ma quái. Sau Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ có tác phẩm Hoa

viên kì ngộ, cũng đã chịu ảnh hƣởng rất sâu sắc của tiểu thuyết Trung

Quốc, tiêu biểu là hai truyện Lưu sinh mịch Liên kí và Tầm Phương nhã

tập. "Hoa viên kì ngộ" theo đoán định là tác phẩm đƣợc sáng tác cuối thời

Lê, sau niên hiệu Cảnh Hƣng (1740). TrongHoa viên kì ngộ, việc miêu tả

sắc dục không chỉ dừng lại ở cảnh “nhất dạ nhị giao”, chàng công tử họ

Triệu liền một lúc có quan hệ với cả bốn cô gái, mà cảnh nào cảnh nấy đều

đƣợc miêu tả rất sinh động, không che đậy...Hơn nữa việc cả bốn cô gái

50

đều vƣợt qua cấm kị xã hội mà đến với Triệu Kiệu và xảy ra việc giao hoan

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

mãnh liệt đó đã là điều hết sức lạ lùng. Tác giả không lên tiếng phê phán

mà còn khá dụng công trong việc miêu tả cuộc giao hoan kì lạ…cho thấy tƣ

tƣởng khác xa với tƣ tƣởng đƣơng thời về ngƣời phụ nữ nói chung và về

vấn đề tính dục nói riêng.

Một trong những trƣờng hợp khác cũng khá bạo dạn trong việc

phát ngôn về ngƣời phụ nữ và về vấn đề bản năng của ngƣời phụ nữ đó là

Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều cũng không nằm ngoài quy luật:

mƣợn cốt truyện của tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm

Tài Nhân- một trong số 115 tác phẩm có yếu tố tình dục của tiểu thuyết

Trung Quốc. Nguyễn Du (1765-1820) xây dựng hình tƣợng nhân vật Thúy

Kiều – một ngƣời con gái lƣơng thiện, tuy hồng nhan bạc phận nhƣng nàng

có khát vọng mạnh mẽ về tình yêu tự do. Cách ứng xử không theo chuẩn

mực Nho giáo trong tình yêu của Thúy Kiều: Một là, sự việc Thúy Kiều

chủ động trong tình yêu với Kim Trọng. Nàng chủ động đến với Kim trong

đêm khuya thanh vắng: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Hai là,

Thúy Kiều dù bị cảnh ngộ cuộc sống đẩy vào thanh lâu, nhƣng nàng vẫn

sống trong thanh lâu mƣời lăm năm mà không chọn cái chết để bảo toàn

trinh tiết, không “tuẫn tiết” dẫu cho nàng đã hứa hôn với Kim Trọng. Đó là

cách mà Nguyễn Du phát ngôn bênh vực tự do tình yêu, tự do bản năng của

ngƣời phụ nữ, vƣợt mọi rào cản, phép tắc Nho gia. Hơn nữa Nguyễn Du

còn mạnh dạn khen ngợi vẻ đẹp hình thể của ngƣời con gái này:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

“Đó là câu thơ tụng ca thân thể ngƣời đẹp duy nhất trong văn học trung đại

Việt Nam, không có trong nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân” (Trần

Đình Sử) .

Diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ còn đƣợc thể hiện bằng suy nghĩ của

Kiều:

51

Biết thân đến bước lạc loài

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

Tức là nếu đã biết có ngày hôm nay- ngày mà “Tiếc thay một đóa trà my/ Con

ong đã tỏ đƣờng đi lối về”thì ngày trƣớc đã trao thân cho ngƣời mình yêu, để giờ

không phải nuối tiếc, ê chề. Đây là một trong những diễn ngôn của ngƣời phụ nữ

thể hiện tƣ tƣởng mới mẻ nhất, táo bạo nhất- chƣa có trƣớc đó trong văn học Việt

Nam, mà đặc biệt lại là trong một sáng tác của một nhà Nho. Tuy nhiên diễn ngôn

này vẫn cần một mặt nạ chắc chắn và vững chãi để che chắn búa rìu dƣ luận đó là

mƣợn cốt truyện nƣớc ngoài. Nguyễn Du dù có mạnh bạo đến đâu cũng không

dám tự mình đƣa ra các phát ngôn tính dục mà không cần đến một sự trợ giúp, che

chắn nào trƣớc sự hà khắc của tƣ tƣởng thanh giáo truyền thống.

2.3.5. Sử dụng biện pháp mượn giọng

Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng hiện tƣợng

mƣợn giọng rất phổ biến và xuất hiện ở hầu hết các nền văn học “lấy đàn

ông làm trung tâm” (phallocentrism) mà biến thể quen thuộc nhất với

chúng ta là dòng thơ khuê oán, cung oán có lịch sử hàng nghìn năm của

Trung Quốc (đƣợc phát ngôn cả từ ngôi thứ nhất - từ điểm nhìn bên trong

của ngƣời nữ lẫn ngôi thứ ba - từ điểm nhìn bên ngoài của tác giả nam

giới). Nhƣng trong văn học Việt Nam, mãi đến nửa cuối thế kỉ XVIII nó

mới thực sự trở thành một hiện tƣợng văn chƣơng nằm “ngoài lề” những

vấn đề quốc gia đại sự, mục đích giáo huấn hoặc phô diễn đạo đức, và đặc

biệt là đƣợc nói bằng giọng của ngƣời phụ nữ. Ở phƣơng pháp mƣợn giọng

để phát ngôn về các vấn đề tính dục của ngƣời phụ nữ dễ nhận thấy nhất ở

hai loại nhân vật: ngƣời chinh phụ và ngƣời cung nữ. Trong đó tiêu biểu là

tác phẩm Chinh phụ ngâm của nhà Nho Đặng Trần Côn (sinh và mất ở đầu

thế kỷ XVIII) nguyên tác bằng chữ Hán đã đƣợc nhiều ngƣời hào hứng

dịch sang thơ tiếng Việt (thơ Nôm), hiện còn giữ đƣợc 7 bản dịch (3 bản

bằng thơ lục bát và 4 bản bằng thơ song thất lục bát);

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà Nho lại lấy hình tƣợng nhân

52

vật chinh phụ làm đối tƣợng để mƣợn giọng sáng tác. Nhân vật chinh phụ-

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

ngƣời vợ lính đƣợc tác giả Đặng Trần Côn thể hiện đa dạng về tâm tƣ, tình

cảm và cả những khát vọng bản năng, những nhớ nhung thể xác đối với

ngƣời chồng ngoài trận mạc xa xôi. Bởi khi ngƣời chồng đi đánh trận xa,

nhiều năm không tin tức và cũng không rõ ngày về thì tác giả mới có cớ để

sử dụng các motip nhƣ giấc mộng gặp chồng, nỗi cô đơn trên chiếc giƣờng

trống vắng, hay nỗi lo về tuổi xuân đang qua đi uổng phí. Lời ngƣời chinh

phụ than thở về hoàn cảnh của mình, về sự thiếu thốn tình cảm của mình,

thực chất là lời của Đặng Trần Côn lên tiếng nói giúp ngƣời phụ nữ những

khát khao sâu kín nhƣng không kém phần sôi nổi của họ về tình yêu lứa đôi

đầy màu sắc nhục thể:

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm,

Hoa đãi nguyệt, nguyệt một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông...

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.

Nhân vật cung nữ cũng là một kiểu nhân vật khá truyền thống của văn học

phƣơng Đông, nhƣng trong văn học Việt Nam chỉ đến giai đoạn cuối thế kỷ

XVIIImới đƣợc các nhà Nho chú ý khai thác, rồi sau đó trở thành một

phong trào văn học. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là Cung oán ngâm

khúc của tác giả Nguyễn Gia Thiều (1741-1798). Cung nữ là ngƣời phụ nữ

có nhan sắc- một trong những vấn đề văn học Nho gia thƣờng né tránh vì

coi sắc đẹp của ngƣời phụ nữ là điều nguy hiểm. Hàng trăm hàng ngàn

ngƣời phụ nữ xinh đẹp phải phục vụ cho nhu cầu ăn chơi, giải trí của một

ông vua, có những ngƣời chờ đợi cả đời không đƣợc vua để mắt tới, có

những ngƣời “đƣợc chăng hay chớ” một vài lần đƣợc vua để mắt rồi chịu

cảnh mỏi mòn chờ đợi hàng ngày, hàng đêm…chính vì lẽ đó, ngƣời cung

nữ không những thiệt thòi vì tuổi xuân đi qua mà còn thiếu thốn về đời

53

sống tình dục. Còn với những ngƣời cung nữ thất sủng thì sống không bằng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

chết: âm thầm nhƣ một bóng ma, không thể về quê nhà mà cứ sống lầm lũi

nhƣ vậy cả đời trong cung cấm. Trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc vì

nội dung là những lời bộc bạch tâm sự một cách chân thành, không giấu

diếm của ngƣời cung nữ nên những vấn đề tính dục, việc ái ân nam nữ thể

hiện một cách rõ nét. Ngƣời cung nữ tự mình tâm sự về những cảm giác

khoái lạc của mình khi đƣợc sủng ái và sự đau buồn khi mất tình yêu của

quân vƣơng. Ngày trƣớc càng đƣợc sủng ái, càng có nhiều giây phút hoan

lạc say mê bao nhiêu thì giờ đây càng day dứt, khát khao, nhớ nhung bấy

nhiêu. Những lời tâm sự đó thể hiện khát vọng bản năng của ngƣời phụ nữ

trong xã hội nhiều cấm kị.

Những diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ trong những trƣờng

hợp này thực chất là diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ dƣới con mắt đàn

ông. Tác giả gần nhƣ giấu mình đi hoàn toàn để ngƣời cung nữ trực tiếp

giãi bày mọi tâm sự, nỗi lòng, tình cảm, cảm xúc của nàng. Không có sự

can thiệp thô bạo bằng những lời bình luận, giáo huấn đạo đức. Là lời của

ngƣời phụ nữ đấy nhƣng cũng không phải lời của ngƣời phụ nữ- nó chỉ là

vỏ bọc. Liệu có ngƣời phụ nữ nào dám “khoe”, “phơi bày” những chuyện

phòng the, những ẩn ức tình dục của mình ra nhƣ vậy? Phải chăng bởi đó

cũng chính là vấn đề mà các nhà thơ của chúng ta quan tâm, nhƣng vì

những rào cản của đạo đức đối với giới tính của họ mà họ không thể tự

mình phát ngôn một cách thành thực? Phải chăng, đòi hỏi cho quyền sống,

quyền hƣởng hạnh phúc của ngƣời phụ nữ cũng chính là đòi hỏi giải phóng

nhu cầu bản năng của chính họ khỏi những tín điều đạo đức khắc kỉ?

2.4. Đối với hiện tƣợng thơ nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng

Phải đến giai đoạn thế kỉ VII – VIII, cùng thời với Nguyễn Du ta

thấy xuất hiện hiện tƣợng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng- vấn

đề chính mà chúng tôi muốn bàn đến. Theo quan điểm của nhà nghiên cứu

Trần Nho Thìn thể hiện trong tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học

54

quốc tếtổ chức tại Viện Triết học, ngày 23-24/6/2009 với chủ đề: Nho giáo

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Việt Nam và văn hóa Đông Á thì“đến giai đoạn này, văn học Việt Nam xuất

hiện một dòng văn học nữ quyền ở chừng mực đáng kể. Hồ Xuân Hƣơng

(chƣa rõ năm tháng sinh- mất trƣớc năm 1842) là một nhà thơ nữ có một

thân phận lẽ mọn, với những đặc điểm khiến ta nghĩ đến thân phận ca nhi,

kĩ nữ, nhƣng lời lẽ trong các bài thơ của bà bộc bạch sự trái ngang và bất

công của xã hội đối với thân phận ngƣời phụ nữ làm lẽ, kĩ nữ”.

Trong bối cảnh xã hội nam quyền theo Tống Nho nơi ngƣời phụ

nữ vẫn đƣợc khuyến khích cam chịu thân phận, an phận thủ thƣờng thì

tiếng nói của một nhà thơ nữ nhƣ Hồ Xuân Hƣơng đề cập đến quyền sống

phụ nữ xét về đời sống bản năng là một hiện tƣợng độc đáo, hiếm hoi.

Diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ tên Hồ Xuân Hƣơng này rất

độc đáo so với những diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ mà chúng tôi đã

khảo sát ở những phần trên.

Thứ nhất, đây là diễn ngôn về vấn đề tính dục của một ngƣời tên là

Hồ Xuân Hƣơng- theo tƣơng truyền đây là một nữ thi sĩ. Nhƣ khảo sát trên

của chúng tôi, diễn ngôn của ngƣời phụ nữ về vấn đề tính dục chỉ có trong

ca dao- dân ca, tức là các diễn ngôn về vấn đề này đều đƣợc che đậy bởi

mặt nạ dân gian- không bao giờ có một cái tên cụ thể nào dám nhận là tác

giả. Những diễn ngôn của đối tƣợng nữ trong các tác phẩm dân gian đó thể

hiện ở cách xƣng hô trong bài “em, tôi, bà, chị…”, hoặc dựa vào đối tƣợng

mà ngƣời phát ngôn nhắm đến, ví dụ “chồng, người quân tử, chàng trai ...”

Thân em như cá rô mề

Lao xao giữa chợ biết về tay ai

Đây là cách sử dụng đại từ nhân xƣng “em”và nội dung thể hiện hoàn cảnh

éo le của ngƣời phụ nữ trong xã hội xƣa. Tuy nhiên diễn ngôn này lại mang

tính đa nghĩa, ẩn sau dƣới lớp ngôn ngữ là một tầng nghĩa khác mà nó có

liên quan đến vấn đề tính dục. Nhƣ vậy với kiểu phát ngôn trên, ngƣời phụ

nữ đã mƣợn hình ảnh “cá rô mề”để nói đến “cái ấy” của mình. Tại sao lại

55

vậy? Trong dân gian luôn có những hình ảnh tƣơng đồng đã trở thành

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

những ẩn ý bóng gió về “chuyện ấy”, “cái ấy” của ngƣời phụ nữ. “Cá rô

mề” là hình ảnh na ná với “cái ấy” của phụ nữ. Không những thế điều này

đã đƣợc chứng minh bằng văn hoá totem từ ngàn xƣa của ngƣời Việt nói

riêng và ngƣời Á Đông nói chung. Cá có hình ảnh gần giống sinh thực khí

nữ, giống nhƣ rắn có hình ảnh giống sinh thực khí nam. Hơn nữa xét từ bên

ngoài, hai con cá xếp cạnh nhau thì giống hình ảnh của âm vật. Xét từ bên

trong, bụng cá có nhiều trứng, sức sinh sản mạnh, mà tất nhiên chỉ có ngƣời

phụ nữ mới có khả năng sinh con, đẻ cái chứ không phải ngƣời đàn ông. Vì

vậy, câu ca dao trên cũng là một kiểu diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ

xƣa về “cái ấy” và cũng là về thân phận éo le, không có định hƣớng của

cuộc đời mình. Trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng cũng có

những bài thơ miêu tả về “cái ấy” của ngƣời phụ nữ nhƣ Đồng tiền hoẻn,

Miếng trầu, Cái quạt, Quả mít, Ốc nhồi, Trống thủng, Bánh trôi nước.

Trong ca dao- dân ca có những lời nói hài hƣớc thế này về chuyện đàn bà

không chồng mà chửa:

Không chồng mà chửa mới ngoan

Có chồng mà chửa thế gian thường tình

Cũng tƣơng tự thế, Hồ Xuân Hƣơng có Không chồng mà chửa, có những

câu thơ thế này:

Quản bao miệng thế lời chênh lệch

Không có, nhưng mà có, mới ngoan

Mặc dù cách sử dụng từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng có phần chau truốt,

cẩn thận, nhiều lớp nghĩa nhƣng cũng là nói về vấn đề không chồng mà

chửa- vấn đề mà ngƣời phụ nữ trong ca dao đã từng phát ngôn. Đó là một

trong những yếu tố cho thấy thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng rất

gần gũi và giống với văn học dân gian, cụ thể là ca dao- dân ca.

Hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng đặc biệt ở chỗ: Những diễn ngôn tính

dục đó đƣợc kí dƣới một cái tên duy nhất là của Hồ Xuân Hƣơng. Một

56

ngƣời phụ nữ dám nói lên những vấn đề cấm kị một cách chi tiết và đầy

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

hình ảnh trong bối cảnh xã hội mà tất cả các diễn ngôn tính dục đƣợc phát

ngôn ra đều có một kiểu mặt nạ che đậy: mặt nạ dân gian, mặt nạ qua quái,

mặt nạ bằng cốt truyện nƣớc ngoài, mặt nạ nữ giới … Câu hỏi đặt ra là liệu

có ngƣời phụ nữ nào mạnh bạo đƣợc đến vậy?

Hồ Xuân Hƣơng không mƣợn cốt truyện, không mƣợn tình tiết của

nƣớc ngoài- giống nhƣ Nguyễn Du, hoặc tác giả Hoa viên kì ngộ. Thử nghĩ

xem, với những ngƣời đàn ông nhƣ Nguyễn Du - một nhà Nho tiến bộ, luôn

bênh vực nữ quyền mà còn phải mƣợn cốt truyện của nƣớc ngoài để phát

ngôn bênh vực nữ giới, để miêu tả một cách qua loa và đầy ƣớc lệ chuyện

quan hệ nam nữ, vẻ đẹp thân thể phụ nữ: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Cũng là nói về thân thể ngƣời phụ nữ

nhƣng Hồ Xuân Hƣơng nói một cách mạnh bạo và quyết liệt bằng những

hình ảnh đầy hình tƣợng: Ốc nhồi, trống thủng, quả mít…Điều này cũng

cho thấy nét đặc biệt của Hồ Xuân Hƣơng. Cũng đặt ra nghi vấn về thực hƣ

Hồ Xuân Hƣơng có thể “vƣợt mặt” các đáng trƣợng phu đƣợc nhƣ vậy hay

sao?

Nhƣ trên đã khảo sát, diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ còn có

cách thể hiện bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo nhƣ Truyền kì mạn lục của

Nguyễn Dữ. Tuy nhiên Hồ Xuân Hƣơng không sử dụng bất kì yếu tố kì ảo,

ma quái nào mà vẫn phát ngôn đƣợc những diễn ngôn tính dục rất thật, rất

thanh và rất tục. Một điều kì lạ nữa mà chúng ta đối chiếu đƣợc.

Còn một phƣơng pháp thể hiện diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ

nữ mà chúng tôi vừa khảo sát phần trên đó là: diễn ngôn tính dục của ngƣời

phụ nữ nhƣng thông qua hiện tƣợng mƣợn giọng. Hiện tƣợng này tiêu biểu

là tác phẩm Cung oán ngâm và Chinh phụ ngâm đã phân tích bên trên.

Nhìn chung, cả hai kiểu ngƣời phụ nữ chinh phụ và cung nữ trong hai tác

phẩm kia đều cất tiếng nói về vấn đề dục tính, mà cụ thể là những khao

khát bản năng, những nhớ nhung cảm xúc hƣng phấn khi gần gũi chồng-

57

quân vƣơng, những lời than thở về phận mình…Tuy nhiên, đó chỉ là cái vỏ,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

chinh phụ hay cung nữ chỉ là mặt nạ của tác giả nam Đặng Trần Côn và

Nguyễn Gia Thiều. Không có ngƣời phụ nữ thực sự nào phát ngôn những

chuyện cấm kị đó, nó thực sự là suy nghĩ và câu chữ của hai ngƣời đàn

ông- hai nhà Nho. Trong hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng, ngƣời phụ nữ tự nói

về mình, tự nói về những khao khát bản năng, những tâm tƣ tình cảm sâu

kín về tình yêu và thể xác của mình. Điều này cũng cho thấy một sự lạ

lùng.

Tiểu kết

Tính dục không bao giờ chỉ là tính dục, nó dứt khoát phải xuất

hiện trong từ trƣờng của một diễn ngôn nào đó. Tất cả các phƣơng cách để

ngƣời xƣa phát ngôn về vấn đề dục tính đều phải thông qua những cách

thức khéo léo, bằng những kiểu mặt nạ: mặt nạ dân gian, mƣợn cốt truyện

nƣớc ngoài, sử dụng yếu tố kì ảo, mặt nạ ma quái, mƣợn giọng của nhân

vật…Và tuyệt đại đa số đều là tác giả nam giới nói về vấn đề dục tính, nói

về ngƣời phụ nữ nhƣng đều phải thông qua những phƣơng pháp khéo léo

trên để tránh những phê phán, nhòm ngó của dƣ luận, của tƣ tƣởng Nho

giáo đƣơng thời…Vậy, liệu rằng ngƣời phụ nữ có tên Hồ Xuân Hƣơng có

thật là hiện tƣợng độc đáo, hiện tƣợng phá lệ hay không? Nếu không có

một Hồ Xuân Hƣơng “bản lĩnh” một cách mạo hiểm nhƣ vậy thì các bài

thơ mang đậm màu sắc dục tính đó của ai? Chúng tôi sẽ làm sáng tỏ vấn đề

58

này trong chƣơng ba.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

CHƢƠNG 3: PHÂN LOẠI THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG ĐƢỢC COI LÀ

CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG

3. 1. Biểu tƣợng tính dục trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân

Hƣơng

3.1.1. Khái niệm

Biểu tƣợng (symbol): Thuật ngữ biểu tƣợng (symbol) bắt nguồn từ

Hy Lạp. Khởi nguyên của thuật ngữ này xuất phát từ việc trƣớc khi bị phân

tán, ngƣời Hy Lạp cổ đại đập một phiến đá và trao cho mỗi ngƣời một

mảnh. Mảnh đá này sẽ là vật làm tin, là thứ chứng minh nguồn gốc của mỗi

ngƣời khi gặp lại nhau. Nhƣ vậy, đối với ngƣời Hy Lạp bản chất của biểu

tƣợng chính là sự chia ra và hợp lại với nhau, sự gãy vỡ và sự kết nối…

Mọi biểu tƣợng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tƣợng

luôn biến ảo, nó bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện

lại vừa mất đi, khiến cho tƣ duy luôn phải truy tìm, liên tƣởng để tìm ra ý

nghĩa tiềm ẩn. Biểu tƣợng trong tiếng Hán có nghĩa là một hình tƣợng nào

đó đƣợc đƣa ra trở thành một dấu hiệu nhằm biểu đạt một ý nghĩa khác với

ý nghĩa thực của nó trên ngôn từ đó (biểu có nghĩa là: bày ra, trình bày, dấu

hiệu. Tƣợng có nghĩa là hình tƣợng). Biểu tƣợng là một hình tƣợng nào đó

đƣợc phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tƣợng trƣng, nhằm để diễn

đạt về một ý nghĩa mang tính trừu tƣợng. Theo Petit Larousse (1993) cho

rằng Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật hay đồ vật biểu thị một

điều trừu tượng; nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hoặc một điều gì đó.

Theo C.G.Jung thì Biểu tượng là một danh từ, một tên gọi hay một đồ vật

59

tuy đã quen thuộc với ta hằng ngày nhưng còn gợi thêm những ý nghĩa khác

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

bổ sung vào ý nghĩa ước định, hiển nhiên và trực tiếp của nó…Biểu tượng

không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải một dấu hiệu đơn giản, mà

đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta

mơ hồ nghi hoặc của tâm linh".Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cho

rằng: "Tự bản chất của biểu tƣợng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập

hợp các thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống nhƣ mũi tên bay mà

không bay đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà không nắm bắt đƣợc. Ta sẽ

cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều ý nghĩa của một biểu tƣợng"

[19, tr. 14]. Còn theo Georges Gurvitch: "Các biểu tƣợng tiết lộ mà che giấu

và che giấu mà tiết lộ" [19, tr. 14]. “Theo quan niệm của Freud:Biểu tƣợng

diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra niềm ham

muốn hay các xung đột. Biểu tƣợng là mối liên kết thống nhất nội dung rõ

rệt của một hành vi, một tƣ tƣởng, mọi lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của

chúng"[22, tr. 24].Theo Từ điển tiếng Việt(1994) do Hoàng Phê chủ biên

định nghĩa thì biểu tƣợng là “hình ảnh tƣợng trƣng, hình thức của nhận

thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc

sau khi tác động của sự vật và các giác quan ta đã chấm dứt”[49, tr.

64].Thực ra biểu tƣợng rất khó định nghĩa, vì nó chủ yếu dựa vào cảm giác

chứ không bằng lý trí. Biểu tƣợng tính dục trong trƣờng hợp này thuộc về

kiểu biểu tƣợng văn hoá. Biểu tƣợng không những bị chi phối bởi ngôn

ngữ, tâm lý, quan niệm của dân tộc và thời đại mà biểu tƣợng trong văn học

còn thể hiện dấu ấn cá nhân sáng tạo của tác giả, vì vậy muốn khám phá ý

nghĩa của những biểu tƣợng tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hƣơng ta

cũng phải khám phá đƣợc phong cách, vào khuynh hƣớng sáng tác và thế

giới nghệ thuật của tác giả.

Tính dục theo Từ điển tiếng Việt (1994) do Hoàng Phê chủ biên là

“đòi hỏi sinh lí về quan hệ tính giao”[49, tr. 964]. Theo Nguyễn Nhƣ Ý

trong Đại từ điển tiếng Việt thì cho rằng “tính dục là những đòi hỏi về quan

60

hệ tính giao”. Theo Uỷ ban giáo dục và thông tin tình dục ở Mỹ đƣa ra định

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

nghĩa về tính dục năm 1970 nhƣ sau: “Tính dục là tổng thể con người, bao

gồm mọi khía cạnh đặc trưng của con trai và con gái, đàn ông hoặc đàn bà

và biến động suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con người, không phải

chỉ là bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính

dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội và văn hoá tinh thần của

đời sống. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân cách và

mối quan hệ giữa người với người và do đó tác động trở lại xã hội”. Tính

dục là một khái niệm có nội hàm rộng hơn tình dục. Tình dục là khái niệm

phản ánh quan hệ tính giao giữa nam và nữ. Trong khi đó, tính dục vừa

phản ánh quan hệ tính giao giữa hai cá thể khác giới (trong đại đa số trƣờng

hợp) vừa chứa đựng những yếu tố tạo nên phần hữu hình và cả phần vô

hình của một con ngƣời.

Tính dục phản ánh tính cách con ngƣời, không phải chỉ là bản chất

sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan tới

yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần và văn hóa của đời sống. Tính dục

là toàn bộ con ngƣời đó và những yếu tố tạo nên dục tính cũng hình thành

nên nhân cách- tổng thể những phẩm chất tâm lý đặc trƣng của con ngƣời.

Vì nó biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan đến tiềm thức của

con ngƣời. Dục tính vừa thuộc về tinh thần lại thuộc về thể xác. Vì vậy con

ngƣời cũng có nhu cầu phơi bày để thấy chức năng của dục tính. Tuy nhiên,

xã hội Nho giáo xem nhẹ vấn đề dục tính, việc phát ngôn về vấn đề tính dục

bị coi là cấm kị. Đã có cấm kị ắt có những cách đối phó với cấm kị. Liệu

hiện tƣợng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng- mảng thơ đang bị

đặt nhiều nghi vấn có chắc chắn là phát ngôn của một ngƣời phụ nữ, hay nó

là một trong những cách để nam nhi đối phó với cấm kị, giải toả những bức

xúc về vấn đề bản năng, thân xác của con ngƣời?

3.1.2. Các loại biểu tượng tính dục

61

a. Biểu tượng sinh thực khí nữ

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Biểu tƣợng sinh thực khí nữ xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hƣơng

rất nhiều và khá liên tục. Chúng hầu hết đều đƣợc ẩn dƣới những sự vật,

hiện tƣợng có những đặc điểm tƣơng đối nhạy cảm và khiến ngƣời đọc dễ

liên tƣởng đến bộ phận sinh dục của phụ nữ nhƣ hang, động, đèo, cái quạt,

kẽ rêu, miệng túi…

Thơ Hồ Xuân Hƣơng nói nhiều đến hang (Hang Thánh Hoá, Chùa

Thầy, Hang Cắc Cớ), động (Động Hương Tích), kẽm (Kẽm Trống), đèo

(Đèo Ba Dội), khe (Hang Thánh Hoá), giếng (Vịnh cái giếng) … những

hình ảnh này gợi lên sự liên tƣởng đến bộ phận sinh dục nữ ở dạng sơ thuỷ.

Vì trong quan niệm âm - dƣơng của ngƣời Việt thì trời là cha, đất là mẹ và

con ngƣời đƣợc sinh ra từ lòng đất mẹ (Tục thờ mẹ Đất của ngƣời Việt là

một minh chứng cho quan niệm này).

Thật lý thú nếu có thể tìm hiểu xem ý niệm về "hang", "động"

trong ký ức cổ xƣa của ngƣời Việt (và của cƣ dân nhiều nơi khác) thƣờng

gợi lên những hàm ám chỉ "cái ấy" ở ngƣời đàn bà, thơ Hồ Xuân Hƣơng lại

thƣờng hay nói tới hang động. Một điểm nữa, đáng lƣu ý nữa trong lối "tức

cảnh" nữ sĩ không mấy khi sử dụng những từ ngữ với mục đích tả đẹp đối

tƣợng mà sử dụng những từ ngữ không mấy đẹp nhƣ: đỏ loét, tùm hum,

phòm, hỏm hòm hom, rậm rạp, lam nham… Không giống cách mà ngƣời ta

thi vị hoá đối tƣợng trong cách bài ngâm vịnh thƣờng thấy. Sự chuyển hóa

các bộ phận thân thể con ngƣời với các sự vật tự nhiên khiến cái tục trong

thơ hoá thanh, và cái thanh hoá tục. Tục và thanh trong thơ Hồ Xuân

Hƣơng “dính dán” vào nhau không rời.

Đèo cũng là một trong những biểu tƣợng cổ ám chỉ sinh thực khí

nữ- vì cũng là đất, là mẫu. Đây là một loại biểu tƣợng cổ, có liên quan đến

tín ngƣỡng thờ thần Đất nên có thể còn khó liên tƣởng đến những vấn đề

bản năng, tính dục. Nhƣng cái đèo mà Hồ Xuân Hƣơng có nhắc đến trong

bài Đèo Ba Dội thì rất tƣợng hình:

62

…Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Hòn đá xanh rì lún phún rêu.

Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,

Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.

Hiền nhân quân tử ai là chẳng

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

Lại là những tính từ, động từ mạnh: “đỏ hoét tùm hum nóc”, “xanh rì lún

phún rêu”, “đầm đìa”, “giọt sƣơng”, “mỏi gối chồn chân”, “muốn”, “trèo”.

Những tính từ đầy chất hình ảnh và âm thanh này khiến ngƣời ta liên tƣởng

đến bộ phận nhạy cảm của ngƣời phụ nữ. Chỉ có nó mới có thể khiến hiền

nhân quân tử dù mệt mỏi vẫn muốn “trèo”.

Túi càn khôn cũng là một biểu tƣợng liên quan đến sinh thực khí

nữ. Theo huyền thoại của nhiều tộc ngƣời trên thế giới: xƣa trời đất là một

khối hỗn mang, nguyên lý đực nguyên lý cái lẫn lộn chƣa phân biệt, sau đó

là sự phân biệt tính giao và sinh đẻ con cái: Trời đất tách nhau tạo thành

khoảng không. Bầu trời, túi vũ trụ, túi càn khôn trở thành biểu tƣợng của

sinh thực khí nữ, của cái rỗng không có khả năng sinh sản. Đây là một liên

tƣởng về chức năng có tính vũ trụ luận, từ liên tƣởng này mới có chuyện:

“Tối ba mƣơi khép cánh càn khôn…Sáng mồng một lỏng then tạo hóa”.

Hay khi ông Phủ Vĩnh Tƣờng chết nhân vật trữ tình mới khóc:

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,

Miệng túi càn khôn khép lại rồi.

(Khóc ông Phủ Vĩnh Tường)

Đó là những biểu tƣợng tiêu biểu cho sinh thực khí nữ thuộc về loại biểu

tƣợng gốc trong văn hoá. Những biểu tƣợng gốc này, hẳn là chƣa cần đọc

hết bài thơ, nếu ai có chú ý đến những biểu tƣợng văn hoá, biểu tƣợng trong

dân gian và lại am hiểu thơ Hồ Xuân Hƣơng sẽ liên tƣởng đến ngay đối

tƣợng mà nữ sĩ nhắc đến. Ngoài ra Hồ Xuân Hƣơng còn sáng tạo nhiều kiểu

biểu tƣợng phái sinh mà chỉ trong thơ bà ngƣời ta mới liên tƣởng ra thành

63

“cái ấy” của phụ nữ. Ví dụ nhƣ cái quạt (Vịnh cái quạt I, Vịnh cái quạt II),

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

con ốc nhồi, quả mít…Miếng trầu hôi cũng là một trong những sự vật đƣợc

Hồ Xuân Hƣơng vịnh và trở thành một biểu tƣợng phái sinh- mang phong

cách của Hồ Xuân Hƣơng.

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá bạc như vôi!

Nhƣ vậy, biểu tƣợng sinh thực khí nữ hay còn gọi là biểu tƣợng bộ phận

sinh dục của nữ giới đƣợc Hồ Xuân Hƣơng sử dụng một cách đa dạng.

Những biểu tƣợng gốc nhƣ hang, động, đèo, giếng, túi càn khôn… gợi lên

sự liên tƣởng đến bộ phận sinh dục nữ ở dạng sơ thuỷ. Theo trong quan

niệm âm - dƣơng của ngƣời Việt coi trời là cha, đất là mẹ và con ngƣời

đƣợc sinh ra từ lòng đất mẹ (Tục thờ mẹ Đất của ngƣời Việt là một minh

chứng cho quan niệm này). Biểu tƣợng gốc là những biểu tƣợng đã tồn tại

lâu dài trong kí ức cộng đồng, trong các lễ hội, tục thờ cúng, lời ăn tiếng nói

hàng ngày. Các biểu tƣợng gốc đã xuất hiện và tồn tại trƣớc khi các tác

phẩm thơ của Hồ Xuân Hiện ra đời. Đó là kết quả sáng tạo của cộng đồng

qua bao đời. Những biểu tƣợng phái sinh trong thơ Hồ Xuân Hƣơng thì

ngƣợc lại các biểu tƣợng gốc, nó là sáng tạo của nhà thơ nhƣ: con ốc nhồi,

quả mít, miếng trầu hôi, cái quạt giấy…Hồ Xuân Hƣơng cắt bỏ mọi ràng

buộc của ngôn từ sẵn có để sáng tạo nên những biểu tƣợng mang phong

cách mình.

b. Biểu tượng sinh thực khí nam

Sinh thực khí nam (tức bộ phận sinh dục nam) trong vốn từ dân

gian rất phong phú, có rất nhiều cách gọi, cùng với đó là sự tồn tại của

nhiều biểu tƣợng gốc tƣợng trƣng cho bộ phận sinh dục của nam giới. Biểu

tƣợng sinh thực khí nam trong thơ Hồ Xuân Hƣơng xuất hiện với tần xuất

không nhiều bằng biểu tƣợng sinh thực khí nữ nhƣng cũng hiện lên dƣới

64

những lớp vỏ đa dạng và thú vị. Thể hiện trong nhiều bài thơ và với nhiều

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

sự vật, hiện tƣợng khác nhau. Những sự vật đó hầu nhƣ đều có một điểm

chung là có hình dáng và đặc trƣng khiến ngƣời đọc dễ liên tƣởng đến bộ

phận sinh dục nam. Nếu trong dân gian mƣợn câu đố: "đầu trổ xuống,

cuống trổ lên'' để miêu tả sinh thực khí nam thì trong thơ Hồ Xuân Hƣơng

bộ phận sinh dục của nam giới cũng hiện lên vô cùng đa dạng và thú vị

thông qua những biểu tƣợng gốc và biểu tƣợng phái sinh.

Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng cũng xuất hiện những biểu tƣợng gốc

biểu trƣng cho sinh thực khi nam, ví dụ nhƣ trong bài thơ Quả mít, Hồ

Xuân Hƣơng có nhắc đến “cọc”:

Quân tử có thương thì đóng cọc

Xin đừng mân mó nhựa ra tay

Xuân Hƣơng cũng từng nhiều lần sử dụng chữ “cọc” nhƣ vậy:

Chơi xuân có biết xuân chăng tá.

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

(Đánh đu)

Từ “Cọc” (chữ Nôm) có nghĩa là cái cột cao nhất của ngôi nhà, nôm na ta

hiểu là cái cột. Mà cột với “cọc‟ cùng tính chất. Ngƣời xƣa chơi chữ rất

hay, “cọc” đọc lái đi để chỉ sinh thực khí nam giới.

Những sự vật dễ khiến ta liên tƣởng nhất là sừng, nọc- “ong non ngứa nọc”,

“dê cỏn buồn sừng” (Lũ ngẩn ngơ):

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?

Lại đây cho chị dạy làm thơ,

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa

Ong bƣớm là những biểu tƣợng đƣợc sử dụng khá nhiều trong văn học

tƣợng trƣng cho chuyện trai gái. Nguyễn Du đã từng dùng hình ảnh “con

ong” để nói về chuyện quan hệ nam nữ: “Tiếc thay một đoá trà mi/ Con ong

đã tỏ đƣờng đi lối về” (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Câu thơ này nói về việc

65

sự trong trắng của Thúy Kiều đã bị Mã Giám Sinh cƣớp đi. Thuý Kiều đã

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

mất đi cái quý giá nhất của đời ngƣời con gái. Nhƣ vậy “ong” là biểu tƣợng

của đàn ông, “nọc ong” chắc chắn là biểu tƣợng của sinh thực khí nam.

“Ong non ngứa ngọc” ám chỉ lũ học trò đang tuổi lớn nhƣng lại có thói

trăng hoa, trêu hoa ghẹo nguyệt. Tƣơng tự nhƣ thế, “sừng” trong văn hóa

Việt Nam là biểu tƣợng của dƣơng vật, mang dấu ấn của văn hóa chăn nuôi

đậm nét. “Sừng” không những có hình dạng tƣơng tự bộ phận sinh dục của

nam giới mà đằng sau sự liên tƣởng về hình dạng, sừng còn là biểu tƣợng

của chăn nuôi, của dƣơng khí. Sừng cũng là thứ báo hiệu thời gian phát

triển của vật nuôi đã đến lúc có thể giao phối để gây giống. Vì vậy “dê cỏn

buồn sừng” cũng ám chỉ bọn học trò tuổi dậy thì hăng máu muốn “húc giậu

thƣa”.

Ngoài các biểu tƣợng gốc nhƣ “ong”, “ngòi, “sừng”… Hồ Xuân

Hƣơng cũng có những sáng tạo những biểu tƣợng thú vị biểu trƣng cho sinh

thực khí nam, ví dụ nhƣ biểu tƣợng dùi trống- “trống thủng vì chƣng kẻ

nặng dùi”. Hình ảnh tả thực về việc kẻ cầm dùi đánh vào mặt trống quá

mạnh tay khiến cho trống bị thủng. Đó là nghĩa bề mặt, nghĩa ngầm ẩn sau

dƣới lại nhờ sự liên tƣởng của ngƣời đọc: Chắc chắn Hồ Xuân Hƣơng cũng

đang đề cập đến hành vi tính giao nam nữ. Dùi biểu trƣng cho sinh thực khí

nam, trống biểu trƣng cho sinh thực khí nữa, chính vì vậy khi dùi dùng lực

sẽ khiến trống bị thủng- bị thủng ở đây hay còn hiểu là bị “rách”. Cái tài

của Hồ Xuân Hƣơng là ở đó. Chuyện hiển nhiên của việc đánh trống mà

ngƣời ta có thể liên tƣởng ra chuyện quan hệ nam nữ.

Hồ Xuân Hƣơng thƣờng có sự chú ý đặc biệt đến giới tu hành, đặc

biệt nhà các nhà sƣ.

Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,

Đi đâu chẳng đội để ong châm?

Đầu sư há phải gì... bà cốt,

Bá ngọ con ong bé cái nhầm.

66

(Sư bị ong châm)

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Nói về nhà sƣ bị ong châm, câu chuyện chẳng có gì, thậm chí còn hơi mắc

cƣời về việc cỏn con, vớ vẩn ngay khi đọc tên bài thơ, thế nhƣng đọc xong

bài thơ lại thấy đỏ mặt. Tại sao lại đỏ mặt? Chắc chắn với phong cách Hồ

Xuân Hƣơng, bà không tự nhiên đi kể chuyện ông sự bị ong đốt mà không

ẩn ý điều gì. Sao nhà sƣ đi đâu vội vàng, áo mũ không đoàng hoàng mà lại

chui bờ rúc bụi hay sao mà để đến nỗi bị ong đốt? "Đầu sƣ" là thứ thiêng

liêng, sao con ong lại nhầm tƣởng là "gì bà cốt" phàm tục để mà châm nọc

đốt? (Đầu đối với đít.)

Trong câu chuyện Dệt cửi, Hồ Xuân Hƣơng có sử dụng hình ảnh

“con suốt” để ẩn ý đến bộ phân sinh dục nam giới.

Con cò mấp máy suốt đêm thâu.

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,

Một suốt đâm ngang thích thích mau

Con suốt vừa có hình dài, thon thả, lại có đặc trƣng hoạt động là phải “đâm”

vậy nên chẳng khó khăn gì để ngƣời ta liên tƣởng đến “cái đó” của đàn ông,

và đến chuyện quan hệ xác thịt của đàn ông đàn bà. Dệt cửi thì phải dùng

đến con suốt, chân phải đạp ở dƣới, tay cầm con suốt đâm liên tục, càng

nhanh tay dệt càng nhanh có tấm vải rộng. Nhƣng thời điểm dệt mà Xuân

Hƣơng nói tới là ban đêm, Xuân Hƣơng chú ý nhiều đến “hai chân đạp” lại

dùng từ gợi tả vô cùng “năng năng nhắc”, “thích thích mau”. Hình ảnh

trong thơ Hồ Xuân Hƣơng không chỉ là biểu hiện của âm- dƣơng vật mà

còn miêu tả khá táo bạo những hành động của tính giao nam nữ. Chính vì

vậy “con suốt” lại trở thành biểu tƣợng sinh thực khí nam một cách độc

đáo- biểu tƣợng này chắc chỉ có Xuân Hƣơng mới nghĩ ra đƣợc.

Nhƣ vậy, những biểu tƣợng liên quan đến sinh thực khí nữ trong

thơ Hồ Xuân Hƣơng thì rất nhiều, biểu tƣợng liên quan đến sinh thực khí

nam có vẻ thƣa thớt hơn, tuy nhiên vẫn không kém phần thú vị.

67

c. Những biểu tượng gợi dục

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Theo Từ điển tiếng Việt (1994)do Hoàng Phê chủ biên thì gợi dục

tức là khêu gợi những ham muốn tình dục. Nhƣ vậy biểu tƣợng gợi dục là

những biểu tƣợng khiến chúng ta liên tƣởng đến những bộ phận, những

trạng thái gợi tình, gợi cảm. Nhƣ trên chúng tôi đã phân tích, Hồ Xuân

Hƣơng cố tình giới thiệu cho ngƣời đọc hai sự vật hiện tƣợng trong một bài

thơ, ví dụ trong bài thơ Dệt cửi có hai hoạt động lồng ghép nhau dƣới lớp

vỏ ngôn ngữ đó là dệt cửi và hoạt động tính giao nam nữ. Nó vừa là hình

ảnh thực vừa là hình ảnh gợi nên một hình ảnh khác. Xuân Hƣơng không

che giấu, mà chính Xuân Hƣơng hé lộ cho chúng ta tiếp nhận cảnh tƣợng

của một không gian buồng khuê với nhiều sắc độ tối, đậm, và đầy sức lôi

cuốn. Trong không gian đó, hiện lên những biểu tƣợng sinh thực khí,

những biểu tƣợng của hoạt động tính giao nam nữ, và đôi khi chỉ là những

biểu tƣợng gợi dục. Trên cơ thể ngƣời phụ nữ, có lẽ gợi cảm và gợi tình

nhất là những đƣờng cong mềm mại, là ngực, là lƣng ong, đùi thon… Hồ

Xuân Hƣơng cũng dành nhiều quan tâm cho những bộ phận rất gợi dục này

của ngƣời phụ nữ. Trong bài Động Hương Tích, Xuân Hƣơng có nhắc đến

“bầu tiên”:

Người quen cõi Phật chen chân xọc,

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.

Trong dân gian có nhiều cách gọi về bộ ngực của ngƣời phụ nữ: cách gọi

thẳng tên thì có ngực, vú, ti…lại có cách gọi một cách uyển chuyển hơn

nhƣ hai quả đào tiên, đôi gò Bồng Đảo…Ở đây Hồ Xuân Hƣơng lại gọi là

“bầu tiên”- thứ dễ khiến ngƣời khác tò mò, ham muốn, “mỏi mắt dòm”.

Trong bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày những biểu tƣợng gợi dục xuất hiện khá

dày đặc: yếm đào, nương long, gò Bồng Đảo, lạch đào nguyên, suối chửa

thông…Vẻ đẹp ngƣời con gái mới lớn còn trinh nguyên, trong trắng nhƣ

vậy.

Lược trúc chải cài trên mái tóc

68

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm

Một lạch đào nguyên suối chửa thông

(Thiếu nữ ngủ ngày)

Trong bài thơ Đánh đu, những biểu tƣợng gợi dục xuất hiện khá nhiều:

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,

Trai đu gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

Chơi xuân có biết xuân chăng tá.

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

“Lƣng ong”, “chân ngọc”, là những bộ phận khá gợi cảm của ngƣời phụ nữ.

Ngoài ra “quần hồng” và “yếm” (Quân tử có thương xin bóc yếm) cũng là

một biểu tƣợng tƣợng trƣng cho sự khêu gợi của ngƣời phụ nữ.

Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ là: váy đen, yếm trắng, áo

tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lƣng hoa lý. Bộ lễ phục gồm ba chiếc

áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong

cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên

sƣờn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Bên trong là chiếc yếm

thắm. Yếm của ngƣời phụ nữ xƣa giống nhƣ chiếc áo lót, áo bra của phụ nữ

nay, tuy nhiên yếm khêu gợi và hờ hững hơn nhiều vì nó mỏng manh, đã

bằng lụa mỏng, màu hồng lại còn chỉ đƣợc thắt một cách hờ hững sau lƣng

bằng sợi dây vải cũng mỏng manh không kém. “Quần hồng phấp phới” và

“yếm”- những trang phục bên trong của ngƣời phụ nữ cũng gợi cảm, gợi tả

vô cùng.

Hình ảnh “hai chân ngọc” cũng xuất hiện vài lần trong thơ Nôm

truyền tụng trong bài Dệt cửi và Đánh đu đều thấy xuất hiện: Hai hàng

69

chân ngọc duỗi song song (Đánh đu), Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

(Dệt cửi). Thời phong kiến, trang phụ phụ nữ chủ yếu là váy đụp màu nâu,

váy dài ít nhất là đến bắp chân, và không đƣợc đến đầu gối. Ngƣời phụ nữ

Á Đông có phong cách ăn mặc kín đáo, ít khi hở hang, vì vậy đôi chân

không mấy khi bị “khoe” ra nhƣ ở hai câu thơ của Hồ Xuân Hƣơng. Đối với

ngƣời Trung Quốc, bàn chân của ngƣời phụ nữ là bộ phận gợi cảm nhất, họ

không bao giờ để cho ngƣời khác ngoài chồng mình đƣợc nhìn thấy, đó là

một trong những lý do có tục bó chân của phụ nữ Trung Quốc- ngoài lý do

là muốn có đôi chân nhỏ. Ngƣời Việt Nam không có tục bó chân, tuy nhiên,

phụ nữ Việt Nam với truyền thống kín đáo cũng thƣờng chọn những trang

phục không hở chân, hở đùi. Càng những thứ ít khi khoe ra thì càng khiến

ngƣời khác tò mò, thích thú. Vì vậy mà hình ảnh “hai hàng chân ngọc”, “hai

chân” đã gợi cảm rồi lại còn trở nên gợi dục hơn khi đặt trong những hành

động “duỗi song song” hay “đạp xuống năng năng nhắc”.

Nhắc đến ngƣời phụ nữ, ngƣời ta thƣờng nghĩ đến sự mỏng manh,

nhẹ nhàng, nữ tính, nét khêu gợi của những đƣờng cong cơ thể…Vì vậy Hồ

Xuân Hƣơng- ngƣời đƣợc mệnh danh là nhà thơ viết về phụ nữ cũng không

bỏ qua những vẻ đẹp gợi cảm, gợi tình, gợi dục đó của ngƣời phụ nữ.

d. Biểu tượng hoạt động tính giao

Trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, kể cả những bài

thơ vịnh vật, vịnh cảnh hoặc cả những bài thơ miêu tả các hoạt động sinh

hoạt thƣờng nhật thì Hồ Xuân Hƣơng vẫn có thể khiến ngƣời đọc liên tƣởng

đến hành vi tính giao nam nữ, những hoạt động xác thịt trong phòng kín của

đàn ông, đàn bà. Dù là nghĩa tả thực hay nghĩa ẩn dụ thì cả hai lớp nghĩa

đều rất hoàn chỉnh. Có thể tìm thấy chúng trong nhiều bài thơ của bà: Đánh

đu, Đá Ông Chồng Bà Chồng, Thân phận ngƣời đàn bà, Hang Thánh Hoá,

Dệt cửi….

Những biểu tƣợng hoạt động tính giao nam nữ xuất hiện trong thơ

Hồ Xuân Hƣơng không mấy khi làm ngƣời đọc hoảng hốt hoặc bị “sock” vì

70

chúng đều là những biểu tƣợng gần gũi của dân tộc và gần gũi với đời sống

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

nhân dân. Thơ Hồ Xuân Hƣơng hoàn toàn mô tả đúng bản chất sự vật,

không gợn bản chất của một tâm hồn dâm đãng. Xuân Diệu đã từng bênh

vực cho Hồ Xuân Hƣơng: “Không phải cái gì vướng lề thói tập tục thông

thường là chìm đi ngay, như vậy làm cho văn học nghèo đi, và như vậy sẽ

có những vùng rất lớn của tâm tư con người mà không ai dám bén mảng,

dò la đến nữa, những vùng sâu thẳm, rộng lớn đó là những mạch nước

ngầm rất quan trọng”.

Từ biểu tƣợng của sinh thực khí đến những hình ảnh giao hoan

nam nữ đều hiện lên sinh động trên nền ngôn ngữ độc đáo, vừa gần gũi,

vừa mộc mạc, lại vừa cao siêu. Những biểu tƣợng ám ảnh ấy không hề dậy

lên thú tính nhục dục, khơi gợi những ấn tƣợng, những cảm giác không

lành mạnh cho ngƣời đọc. Hồ Xuân Hƣơng nói đến chuyện tình dục nhƣ

một bản thể sinh dục tự nhiên. Theo bà, giao hòa nam nữ là một chuyện

hoàn toàn bình thƣờng.

Có thể thấy hệ thống các loại biểu tƣợng về vấn đề tính dục trong

thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng rất phong phú, đặc biệt là các

biểu tƣợng sinh thực khí nữ và biểu tƣợng hoạt động tính giao. Những biểu

tƣợng này dù là biểu tƣợng gốc hay biểu tƣợng phái sinh cũng đều thể hiện

đƣợc tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của Hồ Xuân Hƣơng, không

những thế ta còn thấy đƣợc một sự quan tâm đặc biệt của thi sĩ này đối với

cơ thể của ngƣời phụ nữ và các thú vui trong hoạt động tính giao nam nữ.

Chúng tôi lập bảng sau để thấy tần xuất xuất hiện của các loại biểu

tƣợng tính dục trong các nhóm bài thơ thuộc mảng thơ Nôm truyền tụng:

ST

Mảng

Tên bài

Câu thơ

Loại biểu

T

thơ

tƣợng

1 Vịnh vật Tranh tố

Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.

-Sinh thực

nữ

Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,

khí nữ

-Hoạt động

71

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

tính giao

2 Vịnh vật Giếng

Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng

-Sinh thực

thơi

Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,

khí nữ

Nƣớc trong leo lẻo một dòng thông.

-Hoạt động

tính giao

Cỏ gà lún phún leo quanh mép,

Cá diếc le te lách giữa dòng.

Giếng ấy thanh tân ai cũng biết

Đố ai dám thả nạ dòng dòng.

3 Vịnh vật Bánh trôi Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bộ

phận

Bảy nổi ba chìm với nước non.

gợi dục

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

4 Vịnh vật Quả mít Vỏ nó sù sì, múi nó dày.

-Sinh

thực

Quân tử có yêu thì đóng cọc,

khí nữ

Xin đừng mân mó nhựa ra tay.

-Sinh

thực

khí nam

-Hoạt động

tính giao

5 Vịnh vật Ốc nhồi Quân tử có thƣơng thì bóc yếm

-Hoạt động

Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi

tính giao

-Sinh

thực

khí nữ

6 Vịnh vật Đồng

Cũng lò cũng bể, cũng cùng than,

-Sinh

thực

tiền hoẻn

Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,

khí nữ

7 Vịnh vật

Cái quạt

-Sinh thực

Mười bảy hay là mười tám đây

(I)

Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.

khí nữ

Mỏng dày từng ấy, chành ba góc

-Hoạt động

Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay.

tính giao

Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.

Chúa dấu vua yêu một cái này.

72

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

8 Vịnh vật Cái quạt

-Sinh thực

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,

(II)

khí nữ

Duyên em dính dán tự bao giờ,

-Hoạt động

Chành ra ba góc da còn thiếu,

tính giao

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Nâng niu ƣớm hỏi ngƣời trong trƣớng,

Phì phạch trong lòng đã sƣớng chƣa?

9 Vịnh vật Trống

-Sinh

thực

Nó thủng vì chƣng kẻ nặng dùi,

thủng

Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,

khí nữ

Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi,

-Sinh

thực

Khi giang thẳng cánh bù khi cúi

khí nam

Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.

-Hoạt động

Thịt da ai cũng thế mà thôi.

tính giao

10 Vịnh vật Miếng

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

-Sinh thực

trầu

Này của Xuân Hƣơng mới quệt rồi

khí nữ

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh nhƣ lá bạc nhƣ vôi

11 Vịnh vật Trăng

Một trái trăng thu chín mõm mòm

-Sinh

thực

thu

Này vừng quế đỏ, đỏ lòm lom

khí nữ

-Hoạt động

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo

tính giao

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom

Hỡi ngƣời bẻ quế rằng ai đó

Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm

12 Vịnh vật Đá ông

Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,

-Sinh

thực

chồng bà

Thớt dƣới sƣơng pha đƣợm má hồng.

khí nữ

chồng

-Sinh

thực

Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,

Khối tình cọ mãi với non sông.

khí nam

Đá kia còn biết xuân già giặn,

13 Vịnh

Đề đền Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,

Không có

73

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Sầm

cảnh

Kìa đến thái thú đứng cheo leo.

biểu tƣợng

Nghi

Ví đây đổi phận làm trai đƣợc,

tính dục

Đống

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!

Động

14 Vịnh

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm

-Sinh

thực

cảnh

Hƣơng

Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.

khí nữ

Tích

Ngƣời quen cõi Phật chen chân xọc,

-Hoạt động

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.

tính giao

Giọt nƣớc hữu tình rơi thánh thót,

Con thuyền vô trạo cúi lom khom.

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,

15 Vịnh

Chợ trời

Hoá công xây đắp đã bao đời,

Không có

chùa

cảnh

Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.

biểu tƣợng

Thầy

Buổi sớm gió đƣa, trƣa nắng đứng,

tính dục

Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.

Bầy hàng hoa quả tƣ mùa sẵn,

Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.

Bán lợi mua danh nào những kẻ,

Chẳng lên mặc cả một đôi lời.

16 Vịnh

Hang

Khen thay con tạo khéo khôn phàm,

-Sinh

thực

cảnh

Thánh

Một đố giƣơng ra biết mấy ngoàm.

khí nam

Hoá

-Hoạt động

Lƣờn đá cỏ leo sở rậm rạp,

tính giao

Lách khe nƣớc rỉ mó lam nham.

Một sƣ đầu trọc ngồi khua mõ,

Hai tiểu lƣng tròn đứng giữa am.

Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

17 Vịnh

Hang

Trời đất sinh ra đá một chòm,

-Sinh

thực

cảnh

Cắc Cớ

khí nữ

Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.

-Hoạt động

Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,

tính giao

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.

Giọt nƣớc hữu tình rơi lõm bõm,

74

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Con đƣờng vô ngạn tối om om.

Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc

Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!

18 Vịnh

Kẽm

-Sinh

thực

Hai bên thì núi giữa thì sông.

cảnh

trống

ở trong hang núi còn hơi hẹp,

khí nữ

Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.

Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại,

Nào ai có biết nỗi bưng bồng

19 Vịnh

Đèo Ba

-Sinh

thực

Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,

cảnh

Dội

khí nữ

Hòn đá xanh rì lún phún rêu.

Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.

-Hoạt động

tính giao

Mỏi gối chồn chân vẫ muốn trèo.

20 Vịnh

Cảnh

Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây,

-Bộ

phận

cảnh

chùa ban

Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,

gợi dục

đêm

Thức Lĩnh đen trùm một thức mây,

Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,

21 Vịnh

Cảnh thu Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mƣa,

-Bộ

phận

cảnh

gợi dục

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.

Túi lƣng phong nguyệt nặng vì thơ

Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

22 Vịnh

Quán

Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo,

-Sinh

thực

cảnh

khánh

Đƣờng đi thiên thẹo quán cheo leo.

khí nữ

-Hoạt động

Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,

tính giao

Xo kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.

Ba chạc cây xanh hình uốn éo,

Một dòng nƣớc biếc cảnh leo teo.

Thú vui quên cả niềm lo cũ,

Kìa cái diều ai nó lộn lèo.

23 Vịnh

Đài khán Êm ái, chiều xuân tới khán đài,

-Biểu

75

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

cảnh

xuân

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.

tƣợng

Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,

không

Một vũng tang thƣơng nƣớc lộn trời.

ràng

Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,

Nguồn ân muôn trƣợng dễ khơi vơi.

Nào nào cực lạc là đâu tá?

Cực lạc là đây, chín rõ mƣời.

24 Vịnh

Chùa

Hỏi thăm sƣ cụ đáo nơi neo?

-Hoạt động

cảnh

quán sứ

Chày kình tiểu để suông không đấm,

tính giao

Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo.

Sáng banh không kẻ khua tang mít,

Trƣa trật nào ngƣời móc kẽ rêu.

25 Vịnh

Quan thị Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?

-Sinh

thực

ngƣời

Rúc rích thây cha con chuột lắt,

khí nữ

Vo ve mặc kệ cái ong bầu.

-Sinh

thực

Đố ai biết đƣợc vông hay chóc,

khí nam

Còn kẻ nào hay cuống với đầu.

-Bộ

phận

gợi dục

26 Vịnh

Lũ ngẩn

Ong non ngứa nọcchâm hoa rữa

-Sinh

thực

ngƣời

ngơ

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

khí nam

27 Vịnh

Phƣờng

-Không có

ngƣời

lòi tói

biểu tƣợng

tính dục

28 Vịnh

hổ

Đầu thì trọc lốc, áo không tà.

-Sinh

thực

ngƣời

mang

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,

khí nam

Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.

Tu lâu có lẽ lên Sƣ cụ,

Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.

29 Tức sự Đánh đu Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,

-Hoạt động

Ngƣời thì lên đánh kẻ ngồi trông,

tính giao

76

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

-Sinh

thực

Trai đu gối hạc khom khom cật

Gái uốn lƣng ong ngửa ngửa lòng.

khí nam

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

-Sinh

thực

Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

khí nữ

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

30 Tự tình Không

Cả nể cho nên hoá dở dang,

-Hoạt động

chồng

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,

tính giao

mà chửa

Không có, nhưng mà có, mới ngoan!

31 Tức sự Dỗ ngƣời

Ai về nhắn nhủ đàn em bé,

-Hoạt động

đàn

Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung

tính giao

khóc

chồng

32 Tức sự

Cái

nợ

-Hoạt động

Bố cu lổm ngổm bò trên bụng

chồng

Vội vàng nào những bống cùng bông

tính giao

con

33 Tự tình Làm lẽ Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.

-Hoạt động

tính giao

Năm thì mƣời họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

34 Tức sự Khóc

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,

-Sinh

thực

Tổng

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!

khí nam

-Sinh

thực

Cóc

khí nữ

35 Tức sự Khóc

Cán cân tạo hoá rơi đâu mất?

-Sinh

thực

ông phủ

Miệng túi tàn khôn khép lại rồi.

khí nữ

Vĩnh

Tƣờng

36 Tức sự

Tát nƣớc Đang cơn nắng cực chửa mƣa tè

- Sinh thực

Rủ chị em ra tát nƣớc khe

khí nữ

Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm

-Hoạt động

Lênh đênh một ruộng bốn bờ be

tính giao

77

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Xì xòm đáy nƣớc mình nghiêng ngửa

Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve

Dạng hang một lúc đã đầy phè

37 Tức sự Dệt cửi

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,

- Sinh thực

Con cò mấp máy suốt đêm thâu.

khí nữ

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,

-Hoạt động

Một suốt đâm ngang thích thích mau.

tính giao

Rộng hẹp nhỏ

to vừa vặn cả,

Ngắn dài khuôn khổ cũng nhƣ nhau.

Chờ đến ba thu mới dãi màu.

38 Tức sự

Thiếu nữ

-Bộ

phận

Yếm đào trễ xuống dƣới nƣơng long

ngủ ngày

gợi dục

Đôi gò Bồng Đảo sƣơng còn ngậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông

39 Tức sự

bị

Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,

-Sinh

thực

ong

Đi đâu chẳng đội để ong châm?

khí nữ

châm

Đầu sư há phải gì... bà cốt,

-Sinh

thực

Bá ngọ con ong bé cái nhầm.

khí nam

40 Tức sự

Cái kiếp

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,

-Hoạt động

tu hành

Vị gì một chút tẻo tèo teo.

tính giao

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc

Trát gió cho nên phải lộn lèo.

41 Tự tình Hỏi trăng Đêm tối cớ sao soi gác tía?

-Cảm giác

Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.

gợi tình

Năm canh lơ lửng chờ ai đó?

Hay có tình riêng mấy nƣớc non?

42 Tự tình Tự

tình

Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh,

Không có

(I)

Giữa dòng ngao ngán nỗi lêng đênh.

biểu tƣợng

Lƣng khoang tình nghĩa dƣờng lai láng,

tính dục

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,

78

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.

Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,

Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

43 Tự tình Tự

tình

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Không có

(II)

Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

biểu tƣợng

Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

tính dục

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.

Trƣớc nghe những tiếng thêm rầu rỉ,

Sau giận vì duyên để mõm mòm.

Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!

44 Tự tình Tự

tình

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

-Sinh

thực

(III)

Trơ cái hồng nhan với nƣớc non.

khí nữ

Chén rƣợu hƣơng đƣa say lại tỉnh,

-Sinh

thực

Vầng trăng bóng xế khuyết chƣa tròn,

khí nam

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

45 Xƣớng

Xƣớng

Sao anh ghẹonguyệt giữa ban ngày?

-Biểu

hoạ

hoạ với

Chốn ấyhang hùm chớ mó tay.

tƣợng gợi

Chiêu

Chiêu hổ hoạ lại

dục

Hổ (I)

Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!

-Biểu

Hang hùm ví bẵng không ai mó,

tƣợng hoạt

Sao có hùm con bỗng trốc tay?

động

tính

giao

46 Xƣớng

Xƣớng

Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,

-Hoạt động

hoạ

hoạ với

Chiêu hổ hoạ lại

tính giao

Chiêu

ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt

-Sinh

thực

Hổ (II)

Cho cả cành đa lẫn củ đa.

khí nam

79

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

47 Xƣớng

Xƣớng

Nhắn nhe toan những sự gùn ghè

-Hoạt động

hoạ

hoạ với

Chƣa dám cho nên phải rụt rè.

tính giao

Chiêu

Chiêu Hổ hoạ lại

Hổ (II)

Hão nhe không đƣợc, gậy ông ghè.

Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.

BẢNG 1

Từ BẢNG 1 ta thấy các biểu tƣợng tính dục trong mảng thơ Nôm

truyền tụng xuất hiện một cách dày đặc, hầu nhƣ bài thơ nào cũng xuất hiện

ít nhất một loại biểu tƣợng.

Dựa vào việc thống kê những loại biểu tƣợng tính dục xuất hiện trong các

bài thơ Nôm truyền tụng ở BẢNG 1, chúng tôi tổng hợp thành BẢNG 2 sau

đây:

Thể loại Biểu tƣợng Biểu tƣợng Biểu tƣợng Biểu Ghi chú

sinh thực sinh thực hoạt động tƣợng các

khí nam khí nữ tính giao bộ phận

gợi dục

Vịnh vật 3 11 8 1

Vịnh cảnh 2 5 7 2 Có 2 bài

không có

biểu tƣợng

tính dục

3 Vịnh 1 1 0

ngƣời

3 Tức sự 5 7 1

Tự tình 1 2 1 1

Thơ 1 3 1

xƣớng hoạ

Tổng 13 24 27 6

80

cộng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

BẢNG 2

Nhìn vào BẢNG 2 ta nhận thấy biểu tƣợng sinh thực khí nữ và

biểu tƣợng hoạt động tính giao xuất hiện nhiều hơn hẳn hai loại biểu tƣợng

sinh thực khí nam và biểu tƣợng các bộ phận gợi dục. Điều này cho thấy Hồ

Xuân Hƣơng có sự quan tâm và thích thú đặc biệt với hoạt động tính giao

nam nữ (thể hiện trong nhiều bài thơ vịnh vật, vịnh cảnh và tức sự đã liệt kê

ở BẢNG 1); những phần kín trên cơ thể phụ nữ (trong đó bao gồm bộ phận

sinh dục nữ thể hiện ở nhiều bài vịnh vật nhƣ Ốc nhồi, Quả mít, Vịnh cái

quạt I-II…và những bộ phận trên cơ thể của phụ nữ trong trạng thái loã thể

hoặc nửa kín nửa hở thể hiện trong Thiếu nữ ngủ ngày, Tranh tố nữ…). Đây

là một hiện tƣợng cực kì lạ lùng. Nếu giải thích theo cách tiếp cận phân tâm

học Freud thì hiện tƣợng này là kết quả của ẩn ức tình dục. Nhƣng giải

thích nhƣ vậy có phần chƣa thoả đáng, vì xét trên phƣơng diện tâm lý, sinh

lý và cái nhìn của một ngƣời phụ nữ thì ngƣời đó ngoài thích thú các hoạt

động hành vi tính giao nam nữ thì phải có sự quan tâm đến cơ thể đàn ông,

đến dƣơng vật chứ không phải không phải dành sự quan tâm cho “thứ mà

mình vẫn luôn sở hữu”. Ngƣời phụ nữ không thể có những ẩn ức tình dục

và sự quan tâm đến cơ thể của chính mình đƣợc. Điều này nảy sinh một vấn

đề: ẩn ức tình dục của ai? Của ngƣời nam hay ngƣời nữ?

Từ những khúc mắc trên, bằng cách tiếp cận mảng thơ Nôm truyền

tụng của Hồ Xuân Hƣơng dƣới lý thuyết cái nhìn về giới; và dựa vào bối

cảnh văn hoá, bối cảnh văn học, truyền thống diễn ngôn tính dục về ngƣời

phụ nữ đã phân tích ở chƣơng hai, để chúng tôi đoán định phần nào vấn đề

tác quyền trong mảng thơ đầy tranh cãi này.

3.2. Phân loại các bài thơ đƣợc coi là của Hồ Xuân Hƣơng dựa vào

cái nhìn giới

3.2.1. Cái nhìn đàn ông (male gaze)

Cái nhìn đàn ông là một lý thuyết điện ảnh xuất phát từ lý thuyết

81

về Cái nhìn (gaze) vốn là thuâ ̣t ngƣ̃ củ a phân tâm ho ̣c đƣ ợc phổ biến rộng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

rãi bởi Jacques Lacan. Lý thuyết này cho rằng khi ngƣời ta nhìn vào một đồ

vật thì ta không chỉ nhìn vào bản thân đồ vật đó mà còn phản ánh đƣợc mối

liện hệ giữa nó và chính ta. Theo sự diễn giải của Lƣu Nguyễn Đạt thì cái

nhìn “có tính cách thu hẹp đối tƣợng, đồng thời vật hoá đối tƣợng thành sự

ham muốn của ngƣời nhìn”

Trong bài viết theo khuynh hƣớng phê bình nữ quyền, “Khoái cảm

thị giác và Điện ảnh tự sự” (Visual Pleasure and Narrative Cinema) (1975),

dựa trên lý thuyết về “cái nhìn” của Lacan và Freud, Laura Mulvey đã đƣa

ra khái niệm “Cái nhìn của đàn ông” (male gaze) nhƣ là mô ̣t đă ̣c trƣng v ề sƣ̣ bất cân xƣ́ ng về quyền lƣ̣c . Theo Mulvey, khoái cảm thị giác giống nhƣ một cấu trúc hoạt động trên hai trục “chủ động” và “bị động”, mà cái gốc

nhị nguyên của nó chính là giới tính (gender). Cấu trúc tự sự của điện ảnh

truyền thống đã thiết lập nên hình tƣợng nhân vật nam giới trên phim với

sự mạnh mẽ, quyền lực, luôn làm chủ. Trong khi đó, các nhân vật nữ lại

đƣợc khắc họa với hình ảnh bị động, yếu đuối và bất lực, và họ luôn hiện

diện nhƣ một sự khao khát của đàn ông. Nhƣ vậy, cái nhìn nam giới trở

thành một sự thị dâm trong điện ảnh, và đó cũng chính là yếu tố then chốt

trong những phân tích của Mulvey. Cái nhìn đó vốn quy định thứ bậc giới

tính trong xã hội, nay lại tiếp tục đƣợc khắc họa sâu đậm trên màn ảnh. Cái

nhìn một chiều từ nam giới ấy đã đƣa phụ nữ trở thành một đối tƣợng để

kích thích ham muốn, tạo ra khoái cảm của sự tƣởng tƣợng xác thịt. Cái

nhìn ấy đẩy phụ nữ vào vị thế bị động, bị soi ngắm, bị đem ra làm một con

rối trong trò chơi dục tính của những con mắt đàn ông.

Mulvey cũng chỉ ra rằng, trong điê ̣n ảnh , “cái nhìn đàn ông” xuất hiê ̣n khi khán giả đƣơ ̣c đă ̣t vào góc nhìn củ a mô ̣t ngƣờ i đàn ông có khuynh hƣớ ng tình du ̣c d ị giớ i (heterosexual). Theo Mulvey, việc làm cho phụ nữ trở nên gợi tình trên màn ảnh đƣợc hình thành trên cơ sở của cái nhìn đàn

ông: ngƣời quay phim, cái nhìn khán giả nam, cái nhìn của máy quay

82

(thƣờng do đàn ông cầm máy). Theo đó, những bộ phim thƣờng có các diễn

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

viên nữ xinh đẹp và hấp dẫn, các góc máy, cỡ cảnh đều tập trung đặc tả cho

vẻ đẹp, đƣờng cong…của ngƣời phụ nữ. Khi chúng ta theo dõi xem một bộ

phim, chúng ta thƣ̀ a nhâ ̣n điểm nhìn củ a máy quay , nghĩa là chúng ta nhìn qua máy quay , thông qua điểm nhìn c ủa ngƣời nam để nhìn ngƣời nữ. “Nhƣ vậy, phim là mô ̣t sƣ̣ xoay chuyển nh ững cái nhìn bao gồm nhiều loại

cái nhìn và có một thành tố phân tâm ho ̣c là niềm vui trong nhìn ngắm

đƣợc xác định theo giới tính, ngƣời đàn ông có cái nhìn khác với ngƣời phụ

nữ. Những khán giả là nam giới sẽ nhìn qua máy quay đến nhân v ật nam,

và rồi từ cặp mắt của nhân vật nam nhìn về nhân vật nữ. Nghĩa là, họ đồng

nhất vớ i thi ết bị máy móc và nhân vật trong vai nam chính giữ vị trí chế ngự. Khán giả nam sẽ cảm thấy hoàn hảo, thống nhất, mạnh mẽ và tràn đầy

quyền lực trong lạc thú ngắm nhìn. Trong khi đó, nếu khán giả là phụ nữ

thì họ sẽ phân thành hai vị trí: một nửa là ngƣời phụ nữ đồng nhất mình với

nhân vật nữ trong phim (giống nhƣ là họ đã bị nhìn hàng ngày, là đối tƣợng

của cái nhìn) và ngƣời phụ nữ nhìn qua máy quay, thống nhất mình với

thiết bị máy móc trong hệ thống của điện ảnh (ngƣời phụ nữ nhìn, là chủ

thể của cái nhìn)” [39].

“Phƣơng pháp tiếp cận này dựa trên hai khái niệm cơ bản của học

thuyết Freud: thị dâm (voyeurism) và bái vật giáo (fetishism) đã đƣợc sử

dụng để giải thích cho cái mà đích xác ngƣời phụ nữ biểu trƣng cho và

những kĩ thuật liên quan tới việc điều khiển cách ngƣời xem nam giới nhìn

hình ảnh của ngƣời phụ nữ trên màn ảnh” [25]. Khái niệm đầu tiên, thị

dâm, có liên quan với bản năng thích ngắm nhìn đối tƣợng khác phô bày cơ

thể (scopophilic instinct – tức là khoái cảm của ngƣời đàn ông đạt đƣợc khi

nhìn những ngƣời khác quan hệ tình dục với nhau). Các nhà phê bình tranh

luận rằng điện ảnh, dựa vào bản năng này, biến ngƣời xem về bản chất trở

thành một kẻ thị dâm. Góc nhìn đầu tiên là của máy quay, điều khiển và

giới hạn những cái đƣợc nhìn thấy trong khuôn hình. Ngƣời xem rõ ràng sẽ

83

bị đặt vào vị trí của kẻ thị dâm khi những cảnh sex này đƣợc chiếu trên

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

màn ảnh khi những hình ảnh phụ nữ trên màn ảnh đều bị làm cho trở nên

gợi tình (sexualized) dù họ thực sự đang làm gì hoặc cốt truyện đề cập đến

vấn đề gì.

Lý thuyết về “cái nhìn đàn ông” của Laura Mulvey đã đƣợc rất

nhiều nhà nghiên cứu văn học áp dụng, đặc biệt là trong những công trình

nghiên cứu về biểu hiện giới trong văn học nhƣ công trình Giọng mượn: Lý

thuyết phê bình nữ quyền và các tác phẩm văn học Anh thời kì Phục hưng

của Lawrence Lipking. “Cách tiếp cận dựa trên lý thuyết về “cái nhìn đàn

ông” cũng tỏ ra hữu ích trong việc nghiên cứu những tác phẩm có xu

hƣớng không phân định đƣợc giới tính của tác giả hoặc có sử dụng hiện

tƣợng mƣợn giọng” [25].

3.2.2. Phân loại các bài thơ được coi là của Hồ Xuân Hương

Nhƣ phần Lý do chọn đề tài chúng tôi đã đề cập đến sự phức tạp và

mơ hồ của tiểu sử Hồ Xuân Hƣơng; vấn đề sự thực hƣ gây nhiều tranh cãi

về các văn bản thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng. Đến phần này

chúng tôi muốn tiếp cận mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng

dựa trên lý thuyết về cái nhìn đàn ông (male gaze) để làm rõ đƣợc phần nào

hiện tƣợng có một bà Hồ Xuân Hƣơng với những tác phẩm thơ Nôm “nổi

loạn”- trở thành một hiện tƣợng cực kì hiếm thấy trong dòng chảy văn học

trung đại Việt Nam hay đây chỉ là hiện tƣợng “Hồ Xuân Hƣơng đực” –

những ngƣời đàn ông mƣợn giọng Hồ Xuân Hƣơng, lấy Hồ Xuân Hƣơng

làm mặt nạ để nói lên suy nghĩ và cách nhìn của mình về ngƣời phụ nữ -

nhƣ lời nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên từng phán đoán.

a. Thơ tự tình

Thơ tự tình là nhóm bài thơ nhằm giãi bày tình cảm riêng tƣ, thầm

kín về thận phận cá nhân. Ngoài 3 bài thơ Tự tình I, II, II, mảng thơ Nôm

truyền tụng còn một số bài thơ khác mang đặc trƣng này nhƣ Lấy chồng

chung, Không chồng mà chửa, Hỏi trăng…Những bài thơ này thể hiện nỗi

84

buồn cá nhân vẫn lên tiếng than thân, trách phận nhƣng không hề bi lụy.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Cốt cách cứng cỏi, tâm hồn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vƣợt qua

bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa là

tiếng lòng chung của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy.

Theo BẢNG 2, chúng ta thấy các biểu tƣợng tính dục trong nhóm

thơ này xuất hiện khá thƣa:

Thể loại Biểu Biểu tƣợng Biểu tƣợng Biểu tƣợng Ghi chú

tƣợng sinh sinh thực hoạt động các bộ phận

thực khí khí nữ tính giao gợi dục

nam

Tự tình 1 2 1 1

Số lần xuất hiện của các biểu tƣợng sinh thực khí, biểu tƣợng tính giao đều

rất ít so với các nhóm thơ còn lại. Nhƣ vậy nhóm thơ này không nhiều phát

ngôn về tính dục.

Nhóm bài thơ tự tình không gây nên nhiều nghi ngờ cho giới

nghiên cứu vì chúng có vẻ tƣơng hợp với giọng điệu của ngƣời phụ nữ ý

thức đƣợc thân phận của mình trong xã hội nam quyền và dũng cảm cất lên

tiếng nói của mình. Tuy nhiên bài Không chồng mà chửa và Lấy chồng

chung lại có cái phản kháng quyết liệt.

Không chồng mà chửa mang nhiều hơi hƣớng ca dao: Cao dao có

câu: “Không chồng mà chửa mới ngoan/Có chồng mà chửa, thế gian sự

thƣờng”, và Hồ Xuân Hƣơng thì khẳng định: “Quản bao miệng thế lời

chênh lệch/ Không có nhƣng mà có mới ngoan”. Theo nhà nghiên cứu Trần

Nho Thìn thì bài thơ này thể hiện “tinh thần chống nam quyền không phải

là cổ vũ cho hành vi sinh lý cao hơn đạo lý, mà là vạch ra những bất công.

Tại sao người đàn ông có quyền đa thê? Tại sao cùng tình yêu mà người ta

chỉ trừng phạt, dè bỉu, đàm tiếu người phụ nữ còn người nam giới vô can,

85

xem như được đứng ngoài vòng phán xét của dự luận, của đạo lý?” [74, tr.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

467]. Không chồng mà chửa đúng là giọng của ngƣời phụ nữ nhìn về thân

phận mình trong bối cảnh xã hội khinh thƣờng, coi rẻ và miệt thị những

ngƣời phụ nữ “chửa hoang”. Ngƣời đàn ông thƣờng có thú vui tình dục

khác với phụ nữ- tình dục mang chức năng sinh dục nhiều hơn. Khi thú vui

dục tính đó để lại kết quả là những đứa con thì ngƣời phụ nữ là kẻ bị đặt

vào tình huống éo le nhất, vậy nhƣng ngƣời phụ nữ trong bài thơ vẫn mạnh

mẽ và quyết đoán “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình một

khối thiếp xin mang”. Một mình chịu đựng và đƣơng đầu với hoàn cảnh, dù

ngƣời đàn ông đó nhớ hay quên thì ngƣời phụ nữ vẫn “Quản bao miệng thế

lời chênh lệch” để thốt lên một cách đầy ngàng tang “Không có nhƣng mà

có mới ngoan”. Bài thơ này mang hơi hƣớng ca dao, dân ca rất đậm nét.

Bài Lấy chồng chung cũng là một tiếng nói than thân của ngƣời

phụ nữ phải chịu cảnh chồng chung, nhƣng tiếng nói than thân ở đây mạnh

mẽ và quyết liệt hơn, đặc biệt là nói về quyền sống của ngƣời phụ nữ,

quyền đƣợc yêu thƣơng của ngƣời phụ nữ. Chắc chắn, là phụ nữ ai cũng có

sự ích kỉ trong tình yêu, vì vậy không ai chấp nhận san sẻ tình cảm, san sẻ

ngƣời chồng đầu gối tay ấp với mình cho ai khác, vì vậy là Hồ Xuân

Hƣơng lên tiếng chửi: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Bài thơ là lời

than thân của ngƣời phụ nữ phải chịu cảnh chồng chung, nhƣng lời than

thân này mạnh mẽ và quyết liệt hơn những bài thơ than thân trong tập Lưu

hương kí. Lời than thân ở đây không né tránh cả chuyện sâu kín của ngƣời

phụ nữ trong các mối quan hệ tình cảm. Tuy nhiên với hai bài thơ Lấy

chồng chung và Không chồng mà chửa dù có xuất hiện diễn ngôn về tính

dục nhƣng đều là cách nói ẩn ý “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, “Năm thì

mƣời hoạ chăng hay chớ/ một tháng đôi lần có cũng không” chứ không hề

phát ngôn bằng những hình ảnh đƣợc miêu tả một cách sinh động và hiện

thực nhƣ “một suốt đâm ngang thích thích mau”, “yêu đêm chƣa đủ lại yêu

ngày”, hoặc tả vẻ đẹp thân thể ngƣời phụ nữ một cách táo bạo thế này:

86

“Đôi gò bổng ảo sƣơng còn ngậm/ một lạch đào nguyên suối chửa thông”.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Các bài thơ Tự tình trong nhóm thơ tự tình của mảng thơ Nôm

truyền tụng ngôn từ, giọng điệu có vẻ ôn hoà, hiền lành chứ không đến

mức phóng túng và bạo dạn nhƣ trong nhóm các bài thơ đề vịnh, tức sự.

So với các bài thơ trong Lưu hương kí, các bài thơ Tự tình thuộc nhóm thơ

tự tình lời lẽ có vẻ mạnh dạn hơn nhƣng vẫn chung một tƣ tƣởng là những

tâm sự, than thở của ngƣời phụ nữ về cuộc đời, về tình duyên trắc trở, về

thân phận mình:

Lẩn thẩn đi về mấy độ nay

Vì đâu đeo đẳng với nơi vầy

Ấm trà tiêu khát còn nghe giọng

Chén rượu mừng xuân dạ thấy say

Điểm lữ trông chừng mây đậm nhạt

Dòng thu xem cỡ nước vơi đầy.

Thương ai hẳn lại thương lòng lắc

Này nợ này duyên những thế này.

(Tự thán 2)

Các bài thơ trong Lưu hương kí không nhắc đến vấn đề tính dục, không đề

cập đến thân thể ngƣời phụ nữ hoặc các hoạt động tính giao, thơ tự tình

trong mảng thơ Nôm truyền tụng tuy có nhắc đến vấn đề bản năng của

ngƣời phụ nữ lấy chồng chung nhƣng lời lẽ rất gần với giọng điệu trong ca

dao, dân ca. Nhóm thơ tự tình trong mảng thơ Nôm truyền tụng có nhiều

khả năng của Hồ Xuân Hƣơng, sự khác nhau với Lưu hương kí có thể do sự

bồi đắp của dân gian trong quá trình lƣu truyền dẫn đến có hơi hƣớng ca

dao, hoặc cũng có thể do sự thay đổi phong cách tác giả theo thời gian.

b. Thơ xướng hoạ

Theo sự tuyển chọn của Lữ Huy Nguyên, thơ Nôm truyền tụng của

Hồ Xuân Hƣơng có ba bài thuộc nhóm thơ xƣớng hoạ, cả ba bài đều xƣớng

hoạ với Chiêu Hổ. Nhiều ngƣời cho rằng Chiêu Hổ trong Thơ Nôm truyền

87

tụng này là Phạm Đình Hổ (1768 - 1839). Cũng có ý kiến cho rằng có lẽ

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

không phải hoặc thật khó mà tin Chiêu Hổ lại là Phạm Đình Hổ. Tuy nhiên

dù không biết Chiêu Hổ thực sự là ai thì ta vẫn tƣởng tƣợng ra một chàng

Chiêu Hổ thích ghẹo nguyệt. Trong chùm ba bài thơ xƣớng hoạ với Chiêu

Hổ thì cả ba đều là Hồ Xuân Hƣơng lên tiếng trƣớc. Thể hiện tinh thần

phóng túng và chủ động của ngƣời phụ nữ trong tình yêu. Trong chùm ba

bài thơ này Hồ Xuân Hƣơng cũng sử dụng các hình ảnh và lối nói ẩn dụ, lấy

thanh giảng tục, lấy tục giảng thanh “hang hùm”, “hùm con”, “mó tay”,

“chơi nguyệt”, “củ đa”… Những hình ảnh và lối nói ẩn dụ trong bài sẽ tuỳ

kinh nghiệm thẩm mỹ và trực giác của mỗi ngƣời để tƣởng tƣợng “hang

hùm”, “hùm con”, “mó tay”, “chơi nguyệt”, “củ đa”…là những gì?

Trong nhóm thơ xƣớng hoạ, Hồ Xuân Hƣơng vẫn giữ phong cách

chủ động, phóng khoáng. Mặc dù thơ xƣớng hoạ trong mảng thơ Nôm

truyền tụng có phần mạnh bạo và tinh nghịch hơn thơ xƣớng hoạ trong Lưu

hương kí nhƣng cũng có thể tuỳ theo tâm trạng hoặc sự thay đổi trong

phong cách của Hồ Xuân Hƣơng ở mỗi thời điểm mà có sự khác nhau đó.

Vì vậy khả năng nhóm thơ xƣớng hoạ này vẫn do Hồ Xuân Hƣơng sáng tác.

c. Thơ đề vịnh, tức sự

(Thơ đề vịnh gồm: thơ vịnh vật, vịnh cảnh, vịnh con ngƣời)

Trong mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng có một

nhóm các bài thơ đề vịnh và tức sự rất thú vị. Thú vị ở chỗ kiểu thơ này

không xuất hiện trong Lưu hương kí mà cách thức đề vịnh cũng khác hẳn

kiểu thơ đề vịnh truyền thống. Trong văn học nhà Nho, thơ đề vịnh luôn là

mảng thơ đƣợc các nhà Nho yêu thích nhằm bày tỏ thái độ của mình đối với

đời sống nhân thế, từ đó xác lập chỗ đứng, vị trí của bản thân. Mảng thơ đề

vịnh còn là cách mà các nhà Nho khẳng định phẩm chất mà nhà Nho hƣớng

tới trong quá trình tu dƣỡng của mình. Đặc điểm này thể hiện hiện rất rõ

trong những vần thơ ngâm vịnh các loại cây quen thuộc nhƣ: tùng, cúc,

trúc, mai. Cây tùng giống nhƣ khả năng gánh vác việc lớn, làm rƣờng cột

88

cho quốc gia của nhà Nho. Trúc tƣợng trƣng cho khí tiết kiên cƣờng, cái hƣ

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

tâm không màng lợi lộc của ngƣời quân tử. Mai trở thành vật tỷ dụ cho tấm

lòng cao khiết, trong sạch của nhà Nho. Cúc tƣợng trƣng cho vẻ đẹp tinh

thần của những nhà Nho ẩn dật. Đó là tƣ tƣởng chung của mảng thơ đề vịnh

của nhà Nho.

Ngƣợc lại, nhóm thơ đề vịnh, tức sự thuộc mảng thơ Nôm truyền

tụng của Hồ Xuân Hƣơng lại khác. Không theo tƣ tƣởng “văn dĩ tải đạo”,

“thi dĩ ngôn chí”, các bài thơ này hầu hết đều sử dụng các đối tƣợng có thể

chuyển tải nội dung về vấn đề dục tính. Các bài thơ này thƣờng có ít nhất

hai lớp nghĩa. Nghĩa thứ hai sẽ hiện ra ngay khi ngƣời đọc vừa khám phá

nghĩa thứ nhất. Và chính nghĩa thứ hai này mới thực sự làm cho ngƣời đọc

ngạc nhiên thích thú. Cái bên trong ấy quả là một kho tàng khiến ngƣời

khai thác khám phá không dừng đƣợc công việc lôi ra ánh sáng cái điều hết

sức kỳ thú kia. Trần Đình Sử trong công trìnhThi pháp văn học Việt Nam

trung đại (2005) có chỉ ra không gian buồng khuê và cho rằng: “dù nói tới

chuyện gì, miêu tả cái gì, chỉ khi đặt vào buồng khuê thì chúng mới toát ra

ánh sáng và ý nghĩa đặc thù của nó nếu đặt chúng vào không gian khác thời

cái ý nghĩa thứ hai, hàm ẩn sẽ mất đi” và ông cho rằng “không kể những

bài nhƣ Tự tình 1, Dệt cửi gợi ra chốn buồng khuê mà những bài nhƣ Thiếu

nữ ngủ ngày, Tranh tố nữ, Giếng nƣớc, Đá ông chồng bà chồng và cả

những phong cảnh đèo, hang, động, kẽm, quán…đều gợi lên không gian

buồng khuê tự nhiên khổng lồ”[54tr. 222].

Nhóm các bài thơ đề vịnh, tức sự xuất hiện rất nhiều biểu tƣợng

tính dục nhƣ: ong, chuột, sừng, lá vông, lá chốc, hang hầm, đèo, khe, kẽm,

kẽ rêu, lỗ, cọc, lỗ trôn… Những từ này góp phần làm hiện lên nghĩa thứ hai

và không thể chối cãi một điều: nhóm thơ đề vịnh và tức sự thuộc mảng thơ

Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng bao giờ cũng ẩn chứa trong đó

không gian buồng khuê, những hoạt động ái ân nhục cảm hoặc những biểu

tƣợng của tính dục. Để thấy đƣợc sự xuất hiện dầy đặc các biểu tƣợng tính

89

dục trong nhóm thơ này, chúng tôi lập bảng tổng hợp sau:

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Thể loại Biểu Biểu tƣợng Biểu tƣợng Biểu Ghi chú

tƣợng sinh thực hoạt động tƣợng các

sinh thực khí nữ tính giao bộ phận

khí nam gợi dục

Vịnh vật 3 11 8 1

Vịnh cảnh 2 5 7 2

Vịnh 3 1 1 0

ngƣời

Tức sự 3 5 7 1

Tổng 11 21 23 4

Nhìn vào bảng trên ta thấy số lần xuất hiện của các loại biểu tƣợng

tính dục khá dày đặc, song tƣơng quan giữa chúng không đều. Cụ thể: Xuất

hiện nhiều nhất là các biểu tƣợng hoạt động tính giao; ít xuất hiện nhất là

biểu tƣợng các bộ phận gợi dục; tần suất xuất hiện của biểu tƣợng sinh thực

khí nữ gần nhƣ gấp đôi biểu tƣợng sinh thực khí nam;

Nhóm thơ tự tình và xƣớng hoạ trong thơ Nôm truyền tụng dù có

táo bạo, phóng túng mấy so với trong Lưu hương kí thì cũng không đề cập

trực diện đến cơ thể phụ nữ- cụ thể là “chỗ ấy” của phụ nữ và các hoạt động

tính giao nam nữ. Trong khi đó, nhìn vào bảng trên ta lại thấy nhóm thơ đề

vịnh, tức sự hầu nhƣ bài nào cũng ẩn dụ về các chỗ kín trên thân thể ngƣời

phụ nữ và miêu tả hoạt động tính giao bằng nhiều biện pháp nghệ thuật và

sử dụng nhiều hình tƣợng đa dạng. Nhƣ vậy, trong nhóm thơ đề vịnh và tức

sự thuộc mảng thơ Nôm truyền tụng có rất nhiều những diễn ngôn tính dục,

90

hơn nữa những diễn ngôn về vấn đề này còn rất táo bạo, mạnh mẽ.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Để xem xét vấn đề tác giả của mảng thơ Nôm truyền tụng đầy màu

sắc dục tính này, chúng tôi dự định tiếp cận dựa vào lý thuyết cái nhìn giới

và văn hoá giới truyền thống.

Xét về văn hoá giới truyền thống. Xã hội phong kiến coi Nho

giáo là hệ tƣ tƣởng chính thống với những lễ giáo, chuẩn mực để kiểm soát

tình dục. Con ngƣời lý tƣởng thánh nhân quân tử chính là mẫu hình của con

ngƣời văn hóa theo quan niệm của nhà nho, có khả năng vƣợt lên trên cám

dỗ dục vọng và mọi hấp dẫn vật dục nói chung. Nhà Nho lấy ý chí để diệt

dục. Nho giáo cho rằng “vạn ác dâm vi thủ”- tức là cái trong vạn cái ác thì

cái dâm là đứng đầu. Từ đó mà xuất hiện những cấm kỵ, trƣớc hết là sự né

tránh không đề cập đến đề tài tình dục; hình thành quan niệm coi tình dục

là thấp kém, xấu xa.

Trong suốt thời đại phong kiến, do nam giới chiếm lĩnh địa vị

thống trị trong gia đình và xã hội nên ở khắp mọi nơi, quyền lực diễn ngôn

đều thuộc về họ. Diễn ngôn chính thống thời kì này đều là mang tƣ tƣởng

răn dạy về “tam cƣơng, ngũ thƣờng”, còn với ngƣời phụ nữ phải “tam tòng,

tứ đức”. Tiếng nói trong suốt một nghìn năm văn học trung đại một phần

lớn hầu nhƣ đều là giọng nam: Lí Thƣờng Kiệt, Lê Thánh Tông, Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,

Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu… Do địa vị địa vị bé mọn trong xã

hội, lại bị tƣ tƣởng Nho gia có cái nhìn hà khắc với ngƣời phụ nữ nên phụ

nữ rất hiếm khi phát ngôn hay còn gọi là bị mất tiếng nói. Nếu có phát

ngôn, đa phần đều nằm trong khuôn khổ quan niệm Nho giáo. Những bài

thơ của bà Huyện Thanh Quan đều là những tâm tƣ hoài cổ hoặc tình cảm

với gia đình- đây là những tình cảm truyền thống mà các Nho gia cũng đều

thể hiện trong các tác phẩm của mình. Tiếng nói nữ giới trong văn chƣơng

trung đại đã ít ỏi, càng ít hơn nữa tiếng nói bộc lộ thế giới tâm tƣ sâu kín

91

của họ.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Chính vì những lý do trên mà diễn ngôn về vấn đề tính dục xuất

hiện lẻ tẻ và tuyệt đại đa số đều phải sử dụng các biện pháp đối phó với

cấm kị, sử dụng các mặt nạ để che đậy chứ không dám công khai. Muốn

nói đến chuyện tình cảm nam nữ, chuyện bản năng trong tình yêu nam nữ,

nhà Nho phải sử dụng mặt nạ tập thể, phải giấu tên, sinh ra những “đứa con

tinh thần” nhƣng không dám thừa nhận nhƣ trƣờng hợp “Hoa viên kì ngộ”,

trƣờng hợp các bài thơ, bài ca có vấn đề bản năng tính dục.

Muốn đề cập đến những khao khát tình yêu, nói lên những thiệt

thòi của nhiều hạng ngƣời phụ nữ trong xã hội cũng phải do nam nhân hƣ

cấu giọng nữ để nói hộ. Nói theo cách nói của nhà nghiên cứu Trần Nho

Thìn thì: “hàng vạn, hàng triệu ngƣời chinh phụ trong lịch sử nhƣng cũng

chỉ để lại tâm tình nhờ một Chinh phụ ngâm của một nam nhân. Hàng ngàn

cung nữ chỉ để lại tâm sự nhờ có Cung oán ngâm khúc của một nam nhân”

[68, tr. 479]. Hoặc Nhà nho phải giấu tên, để sáng tác những tác phẩm “đứa

con không đƣợc thừa nhận”

Cái nhìn của văn hoá bác học chính thống xƣa bao gồm các học

thuyết Nho- Phật- Đạo thƣờng thể hiện sự coi thƣờng phần thân xác bản

năng. Tính dục bị văn hoá chính thống coi là điều xấu xa- “vạn ác thủ vi

dâm”, nó phá huỷ sự nghiệp tu nhân, dƣỡng đức của nam nhân. Vì vậy, sắc

đẹp của phụ nữ là thứ có thể hấp dẫn đƣợc đàn ông thì bị coi là nguồn gốc

gây tội lỗi. Truyền kì mạn lục kể về những câu chuyện tình yêu phóng túng,

mãnh liệt đều xây dựng hình tƣợng những cô gái đẹp có đời sống bản năng

mạnh mẽ, chủ động trong tình yêu là ma quỷ. Muốn nói về chuyện tính

dục, muốn đề cập đến các cuộc truy hoan nam nữ, Nguyễn Dữ đều phải sử

dụng các yếu tố kì ảo và đổ lỗi cho sắc đẹp là ma quỷ, những nam nhân

trong truyện đều là nạn nhân và phải chịu hậu quả nhƣ mất đi sinh lực,

thậm chí chết. Muốn phát ngôn về tƣ tƣởng dục tính, vấn đề bản năng,

92

Nguyễn Dữ cũng phải đặt vào miệng của yêu nữ, ma quỷ.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Đến thời Nguyễn Du, (nhƣ chƣơng 2 chúng tôi đã đề cập) ông đề

cao Thuý Kiều- ngƣời con gái bị coi khinh vì đã vào lầu xanh, không giữ

tiết hạnh mà còn trụ đƣợc qua mƣời lăm năm. Nguyễn Du có muốn bênh

vực Thuý Kiều, bênh vực sự chủ động trong tình yêu của Kiều đối với

Kim, hoặc ông có muốn khen ngợi cơ thể tuyệt mỹ của nàng Kiều…cũng

phải mƣợn cốt truyện nƣớc ngoài là Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc.

Trong xã hội đƣơng thời, muốn nói về vấn đề cấm kị, nhà Nho còn

phải tìm mọi biện pháp để đối phó thì liệu rằng một phụ nữ nhƣ Hồ Xuân

Hƣơng có thể có nhiều diễn ngôn táo bạo và cả gan nhƣ vậy hay không? Cả

gan đến mức thƣờng xuyên đề cập những hoạt động giao hoan nam nữ (Dệt

cửi, Đánh đu, Trống thủng…), thƣờng xuyên miêu tả cơ thể phụ nữ (Tranh

tố nữ, Thiếu nữ ngủ ngày…) “phơi bày” “chỗ kín” (Quả mít, Ốc nhồi, Đồng

tiền hoẻn, Vịnh cái quạt…) trên từng bài thơ.

Trong nhóm thơ đề vịnh và tức sự thuộc mảng thơ Nôm truyền

tụng có rất nhiều bài thơ miêu tả “cái ấy” của phụ nữ, ví dụ trong bài thơ

sau:

Trời đất sinh ra một cái chòm,

Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom.

Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.

Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,

Con đường vô ngạn tối om om.

Khéo ai đẽo đá tài xuyên tạc,

Khéo hớ hanh ra lắm kẻ dòm!

(Hang Cắc Cớ)

Bài thơ tả cảnh hang Cắc Cớ. Cái hang này cũng đƣợc hình thành một cách

tự nhiên và thƣờng thấy nhƣ bao cái hang khác trong tự nhiên: giữa đất trời

có một cái chòm, do sự vận động, thay đổi của địa chất mà nứt ra ở giữa

93

khiến cái chòm đó có một cái khe - “kẽ”. Cái kẽ đó theo năm tháng bị bào

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

mòn bởi gió hoặc nƣớc mà ngày càng rộng và sâu, rồi cỏ hoặc rêu mốc mọc

lên: “Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn/ Luồng gió thông reo vỗ phập

phòm”.Vì là hang nên thƣờng rất tối tăm và ẩm ƣớt. Cái sự tối tăm đó lại

khiến cho ngƣời đời tò mò, thế nên mới “lắm kẻ dòm”. Đó là tầng nghĩa

nông bên trên- sự vật đƣợc chỉ một cách đích danh “hang Cắc Cớ”. Cái hay

và thú vị không phải nằm ở cái hang đó mà ngôn ngữ, cách sử dụng danh

từ, động từ, tính từ một cách độc đáo của tác giả khiến ngƣời đọc liên tƣởng

đến một cái hang khác, không ở trong tự nhiên nhƣng cũng là do bàn tay tạo

hoá sinh ra. Việc sử dụng một số từ có dụng ý nhƣ “nứt làm đôi mảnh”, “kẻ

hầm rêu mốc”, “trơ toen hoẻn”, “giọt nƣớc hữu tình”, “con đƣờng vô ngạn”,

“hớ hênh”, “đẽo đá”, “xuyên” cùng với cách sử dụng các từ vần “om”

(chòm, phòm, lõm bõm, om dòm) kề cận nhau trong một văn bản nên đã

dậy nên một nghĩa khác, nghĩa ngầm sinh thực khí nữ. Hai lớp nghĩa này

gắn chặt với nhau nhƣ hai mặt của một tờ giấy, không thể tách rời nhau và

cũng không có cách nào tách rời nhau đƣợc. Với những đặc điểm, màu sắc,

hình dáng, và tính chất nhƣ vậy, không ai có thể phủ nhận tác giả đang nói

đến cái hang nhƣng vừa là cái hang của tự nhiên lại vừa là một loại hang mà

tạo hoá tài tình sinh ra trên cơ thể ngƣời phụ nữ.

Một trong những bài tƣơng tự nhƣ bài Hang Cắc Cớ đó là bài miêu tả Động

Hương Tích:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm

Nứt ra một lỗ hỏm hòm hòm.

Người quen cõi Phật chen chân xọc,

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,

Con thuyền vô trạo cúi lom khom.

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,

94

Rõ khéo trời già đến dở dom.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Cách miêu tả động Hƣơng Tích có phần giống trong bài Hang Cắc

Cớ, cũng do núi, đất bị nứt mà thành cái hang, cũng có „„giọt nƣớc hữu tình

rơi thánh thót‟‟,cũng khiến những kẻ tò mò „„phải mỏi mắt dòm‟‟…Và

cũng vẫn là kiểu sử dụng vần “om” một cách tài tình và hài hƣớc: “phòm”,

“hỏm hòm hom”, “dòm”, “lom khom”, “dở dom”. Thực ra, động và hang

cũng không khác nhau mấy về hình dáng, đặc tính ẩm ƣớt, tối tăm, và cách

hình thành nên do kiến tạo địa chất, vì vậy mà có thể cách miêu tả cũng na

ná nhau. Hang và động cũng là những biểu tƣợng khiến ngƣời đọc liên

tƣởng đến bộ phận sinh dục của nữ giới. Ngoài ra tác giả còn sử dụng

những động từ mạnh: “nứt”, “xọc”, “dòm”, cùng với những từ ngữ rất gợi

hình “lỗ”, “bầu tiên”, “lâm tuyền”, “phồn hoa”, …Bài thơ với nghĩa bề mặt

dễ hiểu: nơi đây là động Hƣơng Tích- một nơi linh thiêng và có cảnh quan

kì thú khiến ngƣời đời muốn khám phá, dù ngƣời theo Phật hay kẻ vô thần,

vô thánh đều muốn đến chiêm ngƣỡng sự độc đáo đó của thiên nhiên. Tuy

nhiên, lớp nghĩa thứ hai mới thú vị: Nó là một cái lỗ “hỏm hòm hom”, một

nơi tối tăm, ẩm ƣớt- chỗ này có nƣớc chảy ra: “giọt nƣớc hữu tình rơi thánh

thót”, ngƣời theo Phật cũng “xọc”, ngƣời bình thƣờng cũng tò mò muốn

“dòm”… Một cách so sánh ngầm ẩn hoạt động tính giao nam nữ, bộ phận

sinh thực khí nữ ngang bằng với thiên nhiên kì thú, ngang với lâm tuyền,

phồn hoa…Bằng cách này tác giả thể hiện thái độ đề cao thú vui xác thịt, đề

cao bản năng của con ngƣời. Ta hoàn toàn thấy đƣợc thái độ đề của tác giả

trong các bài thơ này là đề cao bản năng con ngƣời, những hoạt động tính

giao nam nữ, vẻ đẹp thân thể ngƣời phụ nữ chứ không thấy thái độ đả kích

hay miệt thị. Miêu tả một cách thích thú và chi tiết các bộ phận kín trên cơ

thể ngƣời phụ nữ nhƣ vậy, chắc chắn một nữ nhân không bao giờ làm, chỉ

có thể xuất phát từ sự thích thú của nam giới đối với phần nhạy cảm trên cơ

thể ngƣời phụ nữ để cuối cùng cho ra đời những bài thơ hai lớp nghĩa nhƣ

95

trên.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Trong nhóm thơ đề vịnh tức sự này, Xuân Hƣơng đề cập đến tình

dục nhƣ một nhu cầu, một khát vọng chính đáng và công khai. Tác giả

những bài thơ này không chút ngần ngại mô tả những chỗ kín của thân thể

con ngƣời, hoạt động giao hoan, và cũng hình dung nó nhƣ một cái gì rất tự

nhiên, thiên nhiên. Thi sĩ nhìn vào khung cửi thì thấy tƣ thế:

Con cò mấp máy suốt đêm thâu…

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Một suốt đâm ngang thích thích mau

(Dệt cửi)

Hình tƣợng “hai chân đạp”, “đâm ngang” làm ngƣời đọc liên tƣởng đến

hoạt động tính giao nam nữ. Các tính từ, động từ “mấp máy”, “năng năng

nắc”, “thích thích mau”… càng khiến những liên tƣởng đó có cơ sở.

Tác giả nhìn lên mái lều thì thấy "xỏ kẽ kèo tre đốt ngẳng ngheo", bà nhìn

cảnh đèo núi thì thấy:

Lắt lẻo cành thông cơn gió lốc

Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo

Thi sĩ nhìn trò đánh đu ngày xuân thì thấy cảnh:

Trai đu gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

Sau những tƣ thế đó, hệ quả còn lại rất thô nhƣng thật:

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

Trong nhóm thơ đề vịnh, tức sự truyền tụng, hoạt động tính giao

còn đƣợc thể hiện qua những trò nói lái "đá đeo", "lộn lèo", "đếm lại đeo",

"đáo nơi neo", "suông không đấm", qua những cụm từ đầy ngụ ý "tra hom

ngƣợc", "rút nút xuôi"; thậm chí qua những câu thơ rất mực trữ tình "Mảnh

tình san sẻ tí con con", hay là "lƣng khoang tình nghĩa dƣờng lai láng / nửa

96

mạn phong ba luống bập bềnh".

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Nhƣ vậy, xét dƣới cái nhìn giới truyền thống, những bài thơ thuộc

nhóm đề vịnh, tức sự trong mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng

rất ít khả năng là Hồ Xuân Hƣơng sáng tác. Hầu nhƣ tuyệt đại đa số các bài

thơ nhóm này đều ẩn dụ về chỗ kín của phụ nữ, về hoạt động tính giao nam

nữ, mà xét trong bối cảnh văn hoá giới truyền thống thì đây là điều khó có

thể đƣợc thực hiện bởi một ngƣời phụ nữ . Trong truyền thống, nam thuộc

dƣơng, nữ thuộc âm, nam đóng vai trò chủ động, nữ bị động. Nhà Nho thế

kỉ XVII-XIX dạy con gái trong các sách Gia huấn nhƣ Huấn nữ tử ca, Khuê

huấn ca, Hành tham quan gia huấn,.. một cách rất tỉ mỉ, khắt khe và

nghiêm ngặt: từ trong cách ăn nói, đi đứng, trang phục…cho đến ứng xử

với nam nhân, giao du kết bạn,…đều rất khắt khe. “Trai nào chẳng phải họ

hàng/ Chớ hề chào hỏi lánh đƣờng hiềm nghi”, nếu gặp ngƣời đàn ông

không phải anh em họ hàng của mình thì phải đi đƣờng khác, không gặp gỡ,

chuyện trò để tránh những thị phi, nhòm ngó. Thậm chí là con gái nếu có

ngƣời nam nào đƣa đồ cho mình, không đƣợc phép nhận bằng tay mà phải

dùng đồ vật nào đó để ngƣời nam để lên đó rồi mới đƣợc lấy…Có thể thấy

những quy tắc nghiêm ngặt và khắt khe trong việc ứng xử giữa nam và nữ

đã đƣợc nhà Nho viết thành sách, thành các bài dạy tỉ mỉ và cụ thể cho từng

tình huống, từng hành động của ngƣời con gái, và cô gái nào cũng phải

thuộc lòng những nguyên tắc này. Nhƣ vật thật khó để có chuyện một nữ sĩ

nhƣ Hồ Xuân Hƣơng có thể quên đƣợc những bài học vỡ lòng dành cho

mình để dám phô bày chỗ kín của mình, dám nói đến việc giao hoan nam

nữ, động chạm xác thịt một cách thƣờng xuyên, tự nhiên và thoải mái đến

vậy.

Xét trên góc độ cái nhìn giới.

Thứ nhất, các biểu tƣợng sinh thực khí nữ xuất hiện rất nhiều

trong nhóm thơ đề vịnh, tức sự thuộc mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ

Xuân Hƣơng. Nó gần nhƣ gấp đôi các biểu tƣợng sinh thực khí nam. Vậy,

97

diễn ngôn của ngƣời phụ nữ trong trƣờng hợp này lại tự phô bày, miêu tả

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

chi tiết “cái ấy” của mình cho tất cả mọi ngƣời chiêm ngƣỡng? Nào là “vỏ

nó xù xì, múi nó dày” hoặc có trọn cả bài thơ đố thanh giảng tục để miêu tả

cái giếng, cái quạt thì ít mà miêu tả “cái ấy” thì nhiều. Dù không liên quan

gì đến “cái ấy” của phụ nữ nhƣng theo cách miêu tả và đặt trong văn cảnh

cụ thể với những động từ mạnh, tính từ gợi tả nhƣ “chành ba góc”, “cắm

một cay”, “yêu đêm chƣa đủ phỉ yêu ngày”, “một lỗ xâu xâu mấy cũng

vừa”, “phì phạch”, “sƣớng”…thì ngƣời đọc không thể không liên tƣởng

đến “cái ấy”:

Mười bảy hay là mười tám đây

Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.

Mỏng dày từng ấy, chành ba góc

Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay.

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,

Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.

Chúa dấu vua yêu một cái này.

(Vịnh cái quạt I)

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,

Duyên em dính dán tự bao giờ,

Chành ra ba góc da còn thiếu,

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Mát mặt anh hùng khi tắt gió,

Che đầu quân tử lúc sa mưa.

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

(Vịnh cái quạt II)

Hai bài thơ về cái quạt đều có sự tƣơng đồng trong cách miêu tả,

chỉ khác nhau đôi chút, nhƣng vẫn khiến ngƣời đọc không thể nghĩ đến cái

98

quạt thông thƣờng mà liên tƣởng đến bộ phận nhạy cảm của ngƣời con gái -

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

thứ mà hiếm ai nói ra một cách tự nhiên nhƣ Hồ Xuân Hƣơng. Nữ thi sĩ đi

thẳng vào mô tả những thứ kiến tạo nên cái quạt bình thƣờng từ những chất

liệu dân dã. “Một lỗ xâu, xâu mấy cũng vừa”. Cái lỗ để xâu từng cái nan

quạt lại tùy theo loại quạt mà số lƣợng “xâu” khác nhau song bao nhiêu

cũng vừa, rất chặt, khít song lại thoải mái về kích thƣớc đo “xâu” khiến cho

ta liên tƣởng tới sự vừa khớp của ngƣời đã làm ra và sử dụng nó. Cái “lỗ”

độc đáo này khiến ta liên tƣởng đến nhƣ bài Thiếu nữ ngủ ngày: “Một lạch

đào nguyên suối chửa thông” hay bài Dệt cửi: “Lớn bé nhỏ to vừa vặn cả/

Ngắn dài khuôn khổ cũng nhƣ nhau”. Chỉ một câu bảy chữ mà nói ra đƣợc

bao nhiêu điều, thật có, hóm hỉnh có và ẩn ý có. Vẫn bằng bút pháp tả thực

về các nan quạt và giấy với hồ dán tạo mặt phẳng co dãn đƣợc của quạt:

“Chành ra ba góc da còn thiếu/ khép lại đôi bên thịt vẫn thừa”, câu thơ nói

về việc khi mở quạt thì vẫn còn những chỗ trống giữa các nan quạt. Còn khi

gập quạt lại thì lại thừa ra những phần giấy đã dán. Nghĩa đen thì vậy mà

nghĩa bóng thì hình tƣợng vô cùng. Ngƣời đọc cảm nhận nhƣ “cái ấy” đang

hiển hiện ngay trƣớc mắt từng đặc điểm, từng cử động của nó, sinh động,

hiện thực…dễ khiến ngƣời ta đỏ mặt. Công dụng của cái quạt thì rõ ràng là

để làm mát những khi trời oi bức: “Mát mặt anh hùng khi tắt gió/ Che đầu

quân tử lúc sa mƣa”. Ấy vậy mà khi đọc lên ngƣời ta lại liên tƣởng đƣợc

nhiều hơn những gì ngôn ngữ đang diễn tả. Từ một cái quạt bình thƣờng lại

trở thành vật bất ly thân của nhiều bậc vƣơng giả cả ngày lẫn đêm trong

chốn phòng the: “Nâng niu ƣớm hỏi ngƣời trong trƣớng/ Phì phạch trong

lòng đã sƣớng chƣa”, những âm thanh và hình tƣợng của sự sung sƣớng dễ

khiến ngƣời ta lại phải đỏ mặt thêm lần nữa. Tuỳ theo mức độ cảm xúc của

từng ngƣời, từng thời điểm đi đến đỉnh điểm của sự sung sƣớng (mát

mẻ/thỏa mãn). Là cái quạt mà không phải quạt, là mát mẻ mà lại là thoả

mãn…

Bài thơ Ốc nhồi nhƣ sau:

99

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi,

Quân tử có thương thì bóc yếm

Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi

Ốc nhồi là loài động vật sống trong bùn lầy, dƣới đồng ruộng lấm

lem… ốc nhồi thì có gì lạ đâu. Ốc sống ở bùn, sống nấp dƣới những đám

cỏ ẩm ƣớt, hôi hám. Hai câu đầu vẫn bình thƣờng, chỉ bất thƣờng khi tới

hai câu cuối: “Quân tử có thƣơng thì bóc yếm/ Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn

tôi”. Bất thƣờng ở chỗ ngƣời quân tử có khi nào đi mò cua bắt ốc? Và chắc

ngƣời quân tử cũng không bao giờ động tay đến việc cỏn con là bắt ốc và

bóc yếm ốc. Cái bất thƣờng đó lại khiến ngƣời đọc tƣởng tƣợng. Tƣởng

tƣợng đến cái yếm của con ốc, hay yếm của ai? Các cô gái thời xƣa thƣờng

đeo yếm thắm xanh, đỏ trông rất đẹp mắt trong bộ áo tứ thân mà có ai đòi

"bóc yếm" một cách công khai nhƣ vậy. Lỗ trôn là một từ dân gian mà

ngƣời xƣa vẫn thƣờng chỉ đến “cái ấy” của phụ nữ. Vậy lỗ trôn ở đây là

trôn của con ốc hay trôn của ngƣời dùng yếm? Trong trƣờng hợp này, con

ốc đã trở thành biểu tƣợng phái sinh cho ngƣời con gái, mà cụ thể hơn là nó

biểu tƣợng cho “cái ấy” của ngƣời con gái. Cô gái không những miêu tả về

“cái ấy” của mình mà còn khơi gợi cho ngƣời quân tử “bóc yếm” mình chứ

đừng “ngó ngoáy lỗ trôn”. Biểu tƣợng này thật độc đáo, chắc hiếm ai nghĩ

ra đƣợc sự liên quan giữa con ốc nhồi và “cái ấy”.

Quả mít là một thứ hoa quả thân thuộc với mọi ngƣời, nếu không

xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hƣơng chắc không ai nghĩ nó có dính dáng gì

đến vấn đề tính dục, hoặc có liên quan đến cơ quan sinh dục nữ giới:

Thân em như quả mít trên cây,

Vỏ nó sù sì, múi nó dày.

Quân tử có yêu thì đóng cọc,

Xin đừng mân mó nhựa ra tay.

Tác giả sử dụng cách tả thực quả mít: da xù xì, múi dầy cơm vàng óng.

100

Ngày xƣa ở nhà quê ta, các cụ mỗi lần hái mít từ trên cây xuống thƣờng lấy

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

cọc tre đóng vào cuống rồi phơi nắng cho nhựa trắng chảy hết ra mới đem

bóc vỏ, lấy từng múi mít thơm phức mà ăn. Giống với bài Ốc nhồi, quả mít

và con ốc nhồi có liên quan gì tới bậc hiền nhân quân tử, tại sao con ốc thì

mong mỏi đƣợc quân tử bóc yếm, quả mít lại mong muốn quân tử đóng

cọc? Lại khiến ngƣời đọc phải liên tƣởng, tƣởng tƣợng từ cái cọc, từ việc

đóng cọc vào quả mít đến những việc tƣơng tự và tế nhị khác. Cọc là một

biểu tƣợng gốc về bộ phân sinh thực khí nam. Nếu bộ phận sinh thực khí

nam mà có “đóng” thì chắc chắn đối tƣợng không phải quả mít mà là “cái

ấy” của ngƣời phụ nữ. Ngƣời phụ nữ ngỏ ý nhắn nhủ với những bậc quân

tử: quân tử muốn “ăn mít” thì xin “đóng cọc” vào, không nên mân mó,

nhựa làm bẩn tay chàng…

Xét trên góc độ cái nhìn giới, ngƣời phụ nữ không thích thú ngắm

nhìn những bộ phận gợi cảm trên cơ thể mình mà chỉ có đàn ông, thế mà

trong mảng thơ này lại có rất nhiều bài thơ chỉ để miêu tả các bộ phận gợi

cảm, các đƣờng cong của ngƣời con gái:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

(Bánh trôi nước)

Bài thơ này bà đã tả thực chiếc bánh trôi. Nguyên liệu làm bánh là bột nếp

trắng mịn, xay nhuyễn, nặn tròn trịa đẹp mắt. Quá trình luộc bánh chìm nổi

trong nƣớc sôi lửa bỏng. Bánh tròn hay méo, rắn hay nát là do tay ngƣời

làm bánh. Dẫu thế nào bánh vẫn giữ nguyên màu đỏ của nhân bánh. Quá

trình làm bánh trôi theo lời tả của Hồ Xuân Hƣơng là thực tế. Thông qua

việc tả thực đƣa đến cho ngƣời đọc sự liên tƣởng bộ ngực của ngƣời phụ

nữ. Mà hành động “nặn” hay nắn, bóp…chắc chắn là hành động của nam

nhân đối với bộ ngực phụ nữ.

101

Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,

Nước trong leo lẻo một dòng thông.

Cỏ gà lún phún leo quanh mép,

Cá diếc le te lách giữa dòng…

Hoặc

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,

Duyên em dính dán tự bao giờ,

Chành ra ba góc da còn thiếu,

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Có chuyện ngƣời phụ nữ lại tự đem “cái mà mình giấu đi chẳng đƣợc” ra

khoe cho mọi ngƣời chiêm ngƣỡng hoặc đoán già đoán non nhƣ vậy hay

không? Công trình nghiên cứu Chuyện đàn ông đàn bà Trung Quốc

(2013)của Dịch Trung Thiên về vấn đề cấm kị trinh tiết và cấm kị tâm lý

của ngƣời phụ nữ cho rằng cấm kị tình dục ra đời đồng thời với sùng bái

tính dục. “Trong văn hoá nhân loại học, cấm kị tình dục đƣợc gọi là taboo,

thƣờng để chỉ những sự việc hoặc sự vật đƣợc coi là thiêng liêng nhƣng

nguy hiểm, vừa trong sạch lại vừa bẩn thỉu. Nó đƣợc xây dựng trên tâm lý

sợ hãi của con ngƣời. Tức là để chống lại sự thèm muốn và mê hoặc chỉ có

cách áp đặt sợ hãi và lừa dối” [73, tr. 114]. “Trinh tiết nguyên thuỷ là hành

vi tự giác của ngƣời nữ giới, thông qua chế tài bản thân để thực hiện hành

vi tự gìn giữ và tự hoàn thiện”[73, tr. 114]. Hành vi này bắt nguồn từ việc

ngƣời nam thì luôn muốn có nhiều bạn tình, nhƣng ngƣời nữ lại chỉ muốn

một đối tƣợng tình dục duy nhất- và cô ta muốn giữ gìn bộ sinh thực của

mình cho một mình anh ta. Trinh tiết nguyên thuỷ bắt nguồn từ tâm lý

chung tình của ngƣời phụ nữ, nhƣng về hình thức là sự biểu hiện của ngƣời

phụ nữ trong việc yêu quý và giữ gìn bộ sinh thực của mình. Cho đến sau

này, tâm lý này vẫn còn đƣợc duy trì. Thời phong kiến, dƣới tƣ tƣởng Nho

gia, vấn đề tính dục là một trong những điều cấm kị đầu tiên, liên quan đến

102

nó là phần kín trên cơ thể của phụ nữ nói riêng và toàn bộ cơ thể ngƣời phụ

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

nữ nói chung- thứ gây nguy hiểm đến sự nghiệp tu dƣỡng đạo đức của nhà

Nho- bị coi thƣờng và khinh miệt. Hơn nữa, học thuyết Nho gia răn dạy

phụ nữ phải “tam tòng, tứ đức”, con gái phải ý tứ, dịu dàng…Với bối cảnh

văn hoá, tâm lý truyền thống và cái nhìn giới đặc thù nhƣ vậy, liệu có thật

có một bà Hồ Xuân Hƣơng dám phô bày cơ thể của mình ra nhƣ vậy? dù là

dƣới vỏ bọc của những thứ gần gũi nhƣ quả mít và con ốc hay không?

Thứ hai, thực chất ngƣời phụ nữ sùng bái sinh sản. Thời nguyên

thuỷ, mục đích của phụ nữ sinh nhiều con để bảo tồn nòi giống, chống lại

chết chóc, chống lại thiên tai và nguy hiểm trong thiên nhiên. Sau đó, phụ

nữ vẫn giữ sự sùng bái đó do đặc thù về giới và cảm nhận đƣợc sự thiêng

liêng với vai trò làm mẹ nên họ coi trọng việc sinh con, nuôi nấng, dƣỡng

dục con cái…vì vậy đối với ngƣời phụ nữ, hoạt động tính giao có đƣợc coi

trọng cũng vì vai trò sinh dục chứ không phải lạc dục. Ngƣợc lại, đàn ông

không sùng bái sinh sản bằng sùng bái khoái cảm tình dục hay gọi là lạc

dục. Tính dục trong văn học truyền thống chủ yếu đƣợc nhìn nhận đánh giá

từ trƣờng của diễn ngôn đạo đức- trong khi thơ Hồ Xuân Hƣơng thì không

hề quan tâm đến trƣờng của diễn ngôn đạo đức mà hoàn toàn là những diễn

ngôn tính dục đơn thuần- tính dục lạc dục, khoái cảm tình dục. Diễn ngôn

tính dục trong Truyền kì mạn lục đều có cái nhìn và đánh giá của nhà Nho-

ngƣời tạo ra nó, Nguyễn Dữ dù đã có cái nhìn thoáng hơn với ngƣời phụ nữ

so với những nhà Nho cùng thời song cái nhìn của ông về vấn đề tính dục,

về ngƣời phụ nữ có nhu cầu bản năng cao vẫn hà khắc khi coi họ là ma quỷ

nguy hiểm. Trong khi đó, các diễn ngôn tính dục trong nhóm thơ đề vịnh,

tức sự thuộc mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng thì khác:

hoàn toàn không bị ảnh hƣởng bởi diễn ngôn đạo đức, hoàn toàn phô bày

những khoái cảm tình dục, những vẻ đẹp tự nhiên và trần tục của sinh thực

khí:

Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,

103

Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

Khi giang thẳng cánh bù khi cúi

Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.

Khoái cảm tình dục trong những bài thơ này đƣợc thể hiện thoải mái dù

vẫn ẩn dƣới vỏ bọc là việc dệt cửi. Dệt cửi mà Hồ Xuân Hƣơng vẫn khiến

ngƣời đọc liên tƣởng đƣợc sự hƣng phấn, sự không mệt mỏi trong việc giao

hoan nam nữ, hay thậm chí còn liệt kê, miêu tả các tƣ thế trong việc làm

tình: “Khi giang thẳng cánh bù khi cúi / Chiến đứng không thôi lại chiến

ngồi”. Một ngƣời phụ nữ chắc chắn không có những sự sùng bái lạc dục

một cách hoàn toàn và bỏ qua cả thiên chức sinh sản, thiên chức làm mẹ

của mình nhƣ vậy đƣợc. Dó chắc chắn là tâm lý và cách nhìn của ngƣời đàn

ông về vấn đề tính dục.

Tiếp cận theo lý thuyết giới, trong nhóm bài thơ đề vịnh và tức sự

thuộc mảng thơ Nôm truyền tụng, chúng ta sẽ nhận cái nhìn đàn ông nhƣ

trong lý thuyết của Laura Mulvey đã chỉ ra. Biểu hiện đầu tiên của cái nhìn

đàn ông của tác giả là cách đánh giá và miêu tả về ngoại hình gợi cảm của

ngƣời phụ nữ. Nhiều bài thơ có xu hƣớng miêu tả ngƣời phụ nữ theo xu

hƣớng gợi tình thông qua sự đặc tả về dáng điệu, dung mạo của ngƣời phụ

nữ. Dáng vóc mảnh mai gợi tình của ngƣời chinh phụ đƣợc thu vào “ống

kính” của tác giả và đƣợc phản chiếu trên trang giấy để đến với cái nhìn

của độc giả nam giới. Những “điểm nhấn” của ống kính tác giả ở cặp câu

sau cũng phản ánh một cái nhìn đàn ông rõ rệt:

Lược trúc chải cài trên mái tóc

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm

Một lạch đào nguyên suối chửa thông

(Thiếu nữ ngủ ngày)

Những chi tiết miêu tả này giống nhƣ những thƣớc phim quay cận

cảnh những đƣờng nét quyến rũ trên cơ thể của một ngƣời phụ nữ. Bắt đầu

104

lia máy quay từ trên mái tóc, xuống nơi bộ ngực “yếm đào trễ” rồi lia máy

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

xuống chút nữa đến “nƣơng long”, máy quay lúc này đi vào cận cảnh “đôi

gò Bồng Đảo” sau đó đỉnh điểm là cận đến “một lạch đào nguyên suối chửa

thông”…Tất cả những cái nhìn đó, những hình ảnh đó đều kích thích trí

tƣởng tƣợng và đem lại khoái cảm thị giác cho độc giả nam giới.

Nhƣ vậy, tiếp cận nhóm các bài thơ đề vịnh và tức sự thuộc mảng

thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng ta thấy nhiều vấn đề: cái nhìn

nam giới rõ nét thể hiện trong từng miêu tả về cơ thể ngƣời phụ nữ, bộ

phận kín của ngƣời phụ nữ, diễn ngôn về tính dục với xu hƣớng lạc dục

trong các hoạt động tính giao không bị chi phối bởi các diễn ngôn đạo đức

đƣơng thời. Những bài thơ đề vịnh, tức sự thanh và tục chuyển hoá cho

nhau rất tài tình đã tạo nên phong cách tiêu biểu cho hiện tƣợng Hồ Xuân

Hƣơng. Tuy nhiên, một phụ nữ Việt Nam sống dƣới thời phong kiến nếu có

phóng khoáng, mạnh bạo tới mức chủ động trong tình yêu bằng các bài thơ

thuộc nhóm tự tình và xƣớng hoạ thì cũng không không thể có những phát

ngôn cả gan về việc phòng the của nam nữ, việc phơi bày cơ thể của mình

ra nhƣ trong các bài thơ đề vịnh và tức sự truyền tụng đƣợc. Vì vậy chắc

chắn nhóm đề vịnh, tức sự truyền tụng phải là của nam nhân giả giọng Hồ

Xuân Hƣơng, hay nói cách khác là do nam nhân mƣợn mặt nạ ngƣời phụ

nữ nổi tiếng phóng túng – Hồ Xuân Hƣơng để nói lên tƣ tƣởng tính dục của

mình.

Tiểu kết

Đến đây, chúng ta có thể hình dung nguồn gốc của nhiều bài thơ

Nôm truyền tụng đáng ngờ đƣợc coi là của Hồ Xuân Hƣơng. Một nữ nhân

sống dƣới thời phong kiến, sống dƣới sự chi phối mạnh mẽ của tƣ tƣởng

thanh giáo truyền thống phƣơng Đông, dƣới chế độ nam quyền hà khắc với

ngƣời phụ nữ mà có những tiếng nói chủ động, táo bạo trong tình yêu đã là

điều hiếm hoi, chƣa từng thấy trong lịch sử văn học. Văn học Trung đại

Việt Nam có sự tham gia của các tác giả nữ rất thƣa tớt, thậm chí gần nhƣ là

105

hiếm hoi. Tác giả nữ nếu có xuất hiện cũng không có trƣờng hợp nào dám

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

bộc lộ tình cảm thầm kín, chủ động bày tỏ tình yêu của mình với ngƣời

khác nhƣ trƣờng hợp thơ tự tình và xƣớng hoạ của Hồ Xuân Hƣơng, nhƣng

trƣờng hợp này vẫn có thể xảy ra. Cũng có thể do trong quá trình lƣu

truyền, các tác phẩm này phần nào bị dân gian hoá, đƣợc dân gian bồi đắp

mà thành nhƣ vậy. Cũng có thể do quá trình sáng tác, phong cách sáng tác

của Hồ Xuân Hƣơng có sự thay đổi tạo nên sự táo bạo có điểm dừng đó.

Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội mà ngƣời phụ nữ chịu hai lần kìm toả, gấp

đôi sức nặng kìm kẹp bởi một lớp là sự ảnh hƣởng của Nho giáo hà khắc

với vấn đề bản năng con ngƣời và một lớp là sự chế ngự của chế độ nam

quyền, ngƣời phụ nữ nhƣ Hồ Xuân Hƣơng ít có khả năng dám phát ngôn

những vấn đề tính dục một cách bạo dạn và cả gan phơi bày các bộ phận

kín, các hoạt động tính giao nam nữ một cách dày đặc và đa dạng nhƣ vậy

trong hầu khắp các bài thơ đề vịnh và tức sự. Hơn nữa, từ lý thuyết cái nhìn

giới trong ngành điện ảnh, chúng tôi cũng nhận thấy có ánh mắt nam nhân

trong các bài thơ miêu tả vẻ đẹp cơ thể ngƣời phụ nữ, có cái nhìn của ngƣời

đàn ông khi miêu tả những đồ vật bình thƣờng trong cuộc sống mà liên

tƣởng đến “phần kín” của phụ nữ, và cũng có cái nhìn của nam giới trong

việc thể hiện sự hài hƣớc, hƣng phấn ở mỗi cuộc giao hoan nam nữ- ẩn

dƣới những con chữ khéo léo- đó là sự sùng bái lạc dục vốn có của ngƣời

đàn ông- không phải của ngƣời phụ nữ. Chỉ có nam nhân mới có thể sáng

tác những bài thơ bị nhà Nho coi là dâm tục nhƣ vậy. Nhƣng áp lực của đạo

đức thanh giáo không cho phép họ kí tên mình vào những sáng tác đó. Họ

đã chọn cách thức lấy tên của một ngƣời phụ nữ nổi tiếng phóng túng làm

tác giả cho bài thơ của mình. Và từ đó xuất hiện một hiện tƣợng thơ Hồ

Xuân Hƣơng độc đáo nhƣ vậy. Cấm kị sẽ xuất hiện cách đối phó với cấm

kị. Đó là quy luật của văn học, giống nhƣ việc xuất hiện các mặt nạ dân

gian, mặt nạ ma quỷ, yêu nữ, mƣợn giọng nữ giới, mƣợn cốt truyện…hiện

106

tƣợng thơ đề vịnh, tức sự truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng cũng là một cách

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

đối phó với cấm kị, có điều cách thức này kín đáo, thú vị hơn khiến bao đời

độc giả phải băn khoăn và khó hiểu.

Hiện tƣợng thơ Hồ Xuân Hƣơng- chủ yếu là nhóm thơ đề vịnh tức

sự truyền tụng có ý nghĩa quan trong trong quá trình vận động các quan

niệm về tính dục của văn học trung đại Việt Nam. Đây là một trong những

cách hƣ cấu giọng nữ, sử dụng mặt nạ nữ giới để nói lên tƣ tƣởng tính dục,

để tránh búa rìu dƣ luận, tránh cái nhìn hà khắc và sựtrừng phạt đối với

ngƣời phát ngôn vấn đề bị cấm kị. Nó cho thấy một cách khẩn cấp và mạnh

mẽ việc cần coi con ngƣời một cách đa diện về cả chữ “tâm” và chữ “thân”.

Đấy chính là đặc điểm nhân văn, nhân bản của hiện tƣợng thơ Hồ Xuân

107

Hƣơng.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

KẾT LUẬN

Nghiên cứu vấn đề tính dục trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ

Xuân Hƣơng không phải là một việc làm mới mẻ, thậm chí đã có quá nhiều

các công trình, bài viết, khảo luận về tác giả và những tác phẩm này. Mỗi

công trình nghiên cứu đều mang lại hiệu quả nhất định trong việc khám phá

thế giới tiểu sử mờ ảo, khám phá thế giới nghệ thuật độc đáo của mảng thơ

Nôm truyền tụng nổi tiếng của Hồ Xuân Hƣơng. Tuy nhiên chúng tôi cảm

thấy chƣa thoả đáng trong việc kết luận vấn đề tác quyền của mảng thơ

Nôm truyền tụng này, có nhiều công trình đã đề cập đến sự hƣ thực của cái

tên Hồ Xuân Hƣơng và những tác phẩm thơ Nôm truyền tụng đƣợc coi là

của Hồ Xuân Hƣơng, nhƣng chƣa làm đến tận gốc vấn đề.

Chúng tôi tiếp cận các văn bản thơ Nôm truyền tụng này dƣới góc

nhìn văn hoá, tiếp cận trên lý thuyết cái nhìn giới để đƣa ra những phán

đoán của mình trong việc thực hƣ tác quyền các tác phẩm thơ Nôm truyền

tụng của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hƣơng hay có cả sự trà trộn của các “Hồ Xuân

Hƣơng đực” trong mảng thơ Nôm truyền tụng?

Bằng việc khảo sát các diễn ngôn tính dục về ngƣời phụ nữ từ

trong văn hoá đến văn học, từ văn học dân gian đến văn học Viết và cho

đến hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng. Chúng tôi đƣa ra kết luận sau: Các diễn

ngôn tính dục trong văn hoá xuất hiện vô cùng dày đặc chủ yếu xuất phát từ

tín ngƣỡng phồn thực xuất hiện lâu đời trong đời sống của ngƣời Việt. Các

diễn ngôn đó thể hiện trong cách thờ các sinh thực khí (công cụ sinh sản),

thể hiện ở các hội hè, đình đám, các truyền thuyết, huyền thoại, các bức

tranh ảnh dân gian…Trong văn học, diễn ngôn tính dục trong văn học dân

gian xuất hiện nhiều trong các bài ca dao, dân ca, các câu đố thanh giảng

tục, đố tục giảng thanh, những truyện tiếu lâm…Tuy nhiên tất cả các sáng

tác có chứa các diễn ngôn tính dục kiểu đó đều là sản phẩm của quần

chúng, là những tác phẩm không rõ ngƣời sáng tác. Có cả những tác phẩm

108

thể hiện sự bác học trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các điển cố,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

điển tích cho thấy có sự tham gia sáng tác của các nhà Nho nhƣng không

đoán định đƣợc tác giả. Nhƣ vậy, các diễn ngôn tính dục vẫn tồn tại nhƣng

bị che đậy bởi mặt nạ dân gian. Trong văn học viết, nhiều diễn ngôn tính

dục xuất hiện. Nhƣng xuất hiện bằng nhiều cách thức đối phó với cấm kị:

sử dụng các yếu tố kì ảo để nói đến chuyện giao hoan nam nữ, ném vào

miệng ma nữ những tƣ tƣởng tính dục, dân gian hoá tác phẩm để nói đến

vấn đề bản năng của con ngƣời, mƣợn cốt truyện nƣớc ngoài để ca ngợi vẻ

đẹp tâm hồn và cơ thể của ngƣời phụ nữ, nói lên khát vọng sống với tình

yêu và bản năng của mình. Có diễn ngôn tính dục của ngƣời phụ nữ nói về

mình (trƣờng hợp Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm) thì do nam nhân

mƣợn giọng ngƣời nữ, không phải ngƣời phụ nữ phát ngôn. Nhƣ vậy, trong

truyền thống văn hoá và văn học Việt Nam chƣa từng thấy ngƣời phụ nữ

nào có diễn ngôn tính dục mà lại thƣờng xuyên và mạnh mẽ nhƣ trong

mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng. Liệu có ngƣời phụ nữ cả

gan, liều mình, phóng túng, bạo dạn đến mức đó hay đó là một hiện tƣợng

văn học thú vị: sử dụng mặt nạ tác giả để sáng tác những tác phẩm không

chính thống?

Xét ở phƣơng diện văn hoá giới truyền thống và tiếp nhận các văn

bản thơ này dựa trên lý thuyết về cái nhìn giới của ngành điện ảnh, luận văn

thống kê và tổng hợp đƣợc các con số và tần suất xuất hiện của các loại

biểu tƣợng tính dục trong các nhóm bài thơ Nôm truyền tụng. Đa số các bài

thơ trong nhóm thơ đề vịnh, tức sự tác giả đều miêu tả các hoạt động của

hành vi tính giao, các bộ phận sinh dục của nữ giới, các hình ảnh gợi dục

của ngƣời con gái, theo văn hoá truyền thống thì ngƣời phụ nữ- dù có mạnh

bạo cũng không ai phơi bày cơ thể của chính mình với một sự tỉ mỉ, chi tiết,

và gợi dục đến thế… Các bộ phận gợi dục, gợi tình trên cơ thể ngƣời phụ

nữ cũng đƣợc đề cập một cách mạnh dạn- dù đã có sự che giấu bằng việc đố

thanh giảng tục, tuy nhiên suy cho cùng đối với phụ nữ, các bộ phận này

109

không lạ lẫm để họ phải dụng công miêu tả cho ngƣời khác thấy. Cách miêu

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

tả các hành vi tính giao cũng mạnh bạo và thiên về sắc thái lạc dục, trong

khi ngƣời phụ nữ thì coi các hoạt động tính giao nghiêng về chức năng sinh

dục. Vì vậy có thể thấy một số bài thơ trong mảng đề vịnh, tức sự là từ cái

nhìn nam giới chứ không phải đƣợc phát ngôn từ một ngƣời phụ nữ.

Đến đây chúng ta có thể hình dung nguồn gốc của nhiều bài thơ

Nôm truyền tụng đáng ngờ từng đƣợc coi là của Hồ Xuân Hƣơng. Một nữ

nhân sống dƣới thời phong kiến, sống dƣới sự kìm nén và chế ƣớc chặt chẽ

của văn hoá thời đại chắc chắn không thể viết ra những bài thơ đề vịnh, tức

sự đầy màu sắc dục tính. Chỉ có nam nhân mới có thể sáng tác những bài

thơ bị nhà Nho coi là dâm tục nhƣ vậy. Nhƣng áp lực của đạo đức thanh

giáo không cho phép họ kí tên mình vào những sáng tác đó nên đã chọn

cách thức lấy tên của một ngƣời phụ nữ nổi tiếng phóng túng làm tác giả

cho bài thơ của mình. Và từ đó xuất hiện một hiện tƣợng thơ Hồ Xuân

Hƣơng độc đáo nhƣ vậy.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

1. Phạm Văn Ánh, Hoa viên kì ngộ : các cụ nhà ta có thực sự

„„ghê‟‟ ?, http://www.tienphong.vn/van-nghe/hoa-vien-ky-ngo-cac-cu-nha-

ta-co-thuc-la-ghe-159457.tpo, 2009.

2. Lại Nguyên Ân, Bùi Trọng Cƣờng (1995), Từ điển văn học Việt

Nam, Nxb GD, H.

3. Nhan Bảo (2000), Phát hiện mới về Hồ Xuân Hương, Nxb KHXH,

H.

4. Phan Kế Bính (2014), Việt Nam phong tục, Nxb Nhã Nam, H.

5. Mai Ngọc Chừ (2005), Thần nữ và liệt nữ Việt Nam, Nxb Văn Hoá

Thông Tin, H.

6. Phạm Tú Châu (1999), Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ

Hán của Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (tr 38-39).

7. Nguyễn Ngọc Côn (1963), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam,

Nxb GD, H.

8. Nguyễn Văn Dân (2011), Lý luận văn học so sánh, Nxb KHXH, H.

9. David James (2011), Sự phát triển của lý thuyết điện ảnh ở phương

Tây từ thập niên 1960 đến nay, Thuyết trình tại H.

https://watchingcafe.wordpress.com/2014/02/22/su-phat-trien-cua-ly-

thuyet-dien-anh-o-phuong-tay-tu-thap-nien-1960-den-nay-gs-david-james

10. Nguyễn Duy Diễn (1956), Luận về Hồ Xuân Hương, Nxb Thăng

Long, Sài Gòn.

11. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb VH, H.

12. Trƣơng Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình,

Nxb KHXH, H.

13. Nguyễn Đăng Điệp, Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong

111

văn học Việt Nam đương đại,

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

http://thuvien.hpu2.edu.vn:81/index.php?language=vi&nv=tapchi&op=Tap-

chi-khoa-hoc-so-1-Thang-9-2007/Van-de-phai-tinh-va-am-huong-nu-

quyen-trong-van-hoc-Viet-Nam-duong-dai-8304, 2008.

14. Lƣơng Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang - Nguyễn Lộc (biên khảo

– chú giải) (1994), Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Nxb GD, H.

15. Đặng Anh Đào (chủ biên) (2008), Văn học phương Tây, Nxb GD,

H.

16. Lƣu Nguyễn Đạt (2006), Nhãn quan, con người và xã

hội,http://www.vietbang.com, 2000

17. Cao Huy Ðỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt

Nam, Nxb KHXH. H.

18. Hà Minh Đức, Phạm Thành Hƣng, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang

Long, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phƣơng, Trần Khánh Thành, Lý Hoài

Thu (2012), Lý luận văn học, Nxb GD, H.

19. Alain Gheerbrant (Phạm Vĩnh Cƣ, Nguyễn Xuân Giao, Lƣu Huy

Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ - dịch) (2002), Từ

điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, H.

20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb GD, H.

21. Trần Đình Hƣợu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận

đại, Nxb GD, H.

22. Kiều Thu Hoạch (2008), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb VH, H.

23. Trần Thu Hƣơng (2007), Cấm kị và đối phó với cấm kị nhìn từ góc

độ văn hóa (Khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương), Luận

văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học KHXH và Nhân Văn, H.

24. Nguyễn Thị Hƣơng (2014), Văn hoá dục tính và việc tiếp nhận thơ

nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương ở miền Bắc 1954-1975, Luận văn thạc sĩ

112

Ngữ Văn, Đại học KHXH và Nhân Văn, H.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

25. Tạ Thị Thanh Huyền (2011), Người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm

và Cung oán ngâm nhìn từ quan điểm giới, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại

học KHXH và Nhân Văn, H.

26. Nguyễn Hòa, Lịch sử - văn hóa và sex trong văn chương,

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-hoc-ung-dung/vhh-nghe-

thuat/765-nguyen-hoa-lich-su-van-hoa-va-sex-trong-van-chuong.html, 2010

27. Trần Đình Hƣợu (1999), Nho Giáo và văn học Việt Nam trung cận

đại, Nxb GD, H.

28. Trần Thị Thu Hiền (2013), Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của

Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại

học KHXH và Nhân Văn, H.

29. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb

GD, H.

30. Bùi Văn Huyên, Hà Minh Đức (1968), Thơ ca Việt Nam: Hình

thức và thể loại, Nxb KHXH, H.

31. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt

Nam (Tập 1), Nxb KHXH, H.

32. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt

Nam (Tập 2), Nxb KHXH, H.

33. Cù Hựu, Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại – Truyền kì mạn

lục, Nxb GD, H.

34. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối

cảnh văn hoá Đông Nam Á, Nxb KHXH, H.

35. Trần Thiện Khanh, Bước đầu nhận diện diễn ngôn, diễn ngôn văn

học, diễn ngôn thơ,

http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&v

iew=article&id=4153%3Abc-u-nhn-din-din-ngon-din-ngon-vn-hc-din-

ngon-th&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=vi,

113

2013.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

36. Phƣơng Lựu (2002), Lý luận văn học, Nxb ĐH Sƣ phạm H, H.

37. Hoàng Ly, Tƣởng Linh Tử (1950), Văn nghệ bình dân Việt Nam,

Nxb Thanh Hoá.

38. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội

tín ngưỡng, Nxb Văn hoá- Thông tin, H.

39. Laura Mulvey, Phân tâm học và chủ nghĩa duy dương vật trong

điện ảnh, https://filmcriticvn.wordpress.com/tag/laura-mulvey/, 2009.

40. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Nxb Phong

trào văn hoá Sài Gòn, Sài Gòn.

41. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa

đầu thế kỉ XIX, Nxb GD, H.

42. Nguyễn Hữu Lê, Tình dục trong văn học Việt dưới cách nhìn của

đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết, http://www.chungta.com/nd/tu-

lieu-tra-cuu/tinh_duc_trong_van_hoc_viet.html, 2013

43. Lữ Huy Nguyên (2008.), Hồ Xuân Hương thơ và đời, Nxb VH, H.

44. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện

Kiều, Nxb Thanh niên, H.

45. Đặng Thị Thanh Ngân, Quan niệm của người Việt Nam thời trung

đại về ma quái và phụ nữ qua trường nghĩa về nhân vật nữ ma quái trong

tác phẩm „„Truyền kì mạn lục‟‟,

http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Ngonngu/tabid/100/newstab/463/Def

ault.aspx, 2015.

46. Vũ Dƣơng Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng

(1999), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb GD, H.

47. Nguyễn Phát, ShortFilm Project – Phim ngắn nữ quyền, Trích

trong Tìm hiểu thể loại phim ngắn – 2013,

http://cuasang.com/2014/03/29/shortfilm-project-phim-ngan-nu-quyen/,

114

2013

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

48. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb

KHXH, H.

49. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb KHXH, H.

50. Trần Phò (2007), Người xưa với văn hoá dục tính, Nxb Phụ nữ, H.

51. Trần Huyền Sâm, Siêu lý đàn bà nhìn từ góc độ nữ giới, Hồn Việt

Quốc học, www.honvietquochoc.com.vn, 2009.

52. Nguyễn Kim Sơn (1996), Những xu hướng của Nho học Việt Nam

nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX và sự tác động của nó tới văn

học, Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn, trƣờng ĐH Khoa học xã hội và

nhân văn, H.

53. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thi ca, Nxb GD,

H.

54. Trần Đình Sử, (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt

Nam, Nxb GD, H.

55. Trần Đình Sử, Khái niệm diễn ngôn,

https://trandinhsu.wordpress.com/2015/01/04/khai-niem-dien-ngon/, 2015.

56. Trần Đình Sử, Khái niệm diễn ngôn trong đời sống văn học hôm

nay, http://vietvan.vn/vi/bvct/id3482/Khai-niem-dien-ngon-trong-nghien-

cuu-van-hoc-hom-nay/, 2015.

57. S. Freud, Đỗ Lai Thuý biên soạn (2004), Phân tâm học và văn học

nghệ thuật, Nxb Văn hoá- Thông tin, H.

58. Phan Việt Thuỷ, Phái tính trong ngôn ngữ và văn học,

http://www.luanhoan.net/GioiThieuTacGia/html/14-6-

13%20gttg%2006.htm, 2006.

59. Văn Tân (1955), Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và

giáo dục, Nxb Sông Lô.

60. Thanh Thanh (2004), Truyện cười dân gian Việt Nam, trạng cười,

115

Nxb Thanh Niên.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

61. Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (2005), Phong tục làng xóm Việt Nam,

Nxb Phƣơng Đông, Tp. HCM

62. Đàm Anh Thƣ, Hành trình tìm kiếm „„ nhân sinh chi khoái lạc‟‟ và

sự trỗi dậy của khát sống trong phú Nôm thời trung đại,

http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&i

d=6765%3Ahanh-trinh-tim-kim-nhan-sinh-chi-khoai-lc-va-s-tri-dy-ca-khat-

vng-sng-trong-phu-nom-thi-trung-i&catid=119%3Avan-hoc-viet-

nam&Itemid=7243&lang=zh&site=30, 2011.

63. Vũ Anh Tuấn, Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Đặng

Xuân Hƣơng (2014), Giáo trình văn học dân gian, Nxb GD Việt Nam, Đà

Nẵng.

64. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD, H.

65. Nguyễn Văn Trung (1998), Ca tụng thân xác, Nxb Văn Nghệ, H.

66. Đào Thái Tôn (1996), Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế

tục, NXB GD, H.

67. Trần Nho Thìn (2009), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn

văn hóa, Nxb GD Việt Nam, Đà Nẵng.

68. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX, Nxb GD Việt Nam, Đà Nẵng.

69. Đỗ Lai Thúy (2010), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb

Văn học, H.

70. Lê Thị Hoài Thu (2014), Tìm hiểu sắc thái dục tính trong Truyền

Kì mạn lục, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học KHXH và Nhân Văn, H.

71. Trần Minh Thƣơng, Tản Mạn Về Những Yếu Tố Tình Dục Trong

Văn Học Việt Nam,

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&i

d=13489, 2008.

72. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb Đại

116

học Quốc gia Hà Nội, H.

Đỗ Thị HiênCao học K58

Vấn đề tính dục trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá

73. Dịch Trung Thiên (2014), Chuyện đàn ông đàn bà Trung Quốc,

Nxb Phụ Nữ, H.

74. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại,

Nxb KHXH và Nhân Văn, H.

75. Trần Văn Toàn, Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của M.Foucault và

nghiên cứu văn

học,http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamhiendai/tabid/10

3/newstab/475/Default.aspx, 2015.

76. Trần Văn Toàn, Về một diễn ngôn tính dục trong văn xuôi nghệ

thuật Việt Nam (Từ đầu thế kỉ 20 đến 1945), http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=4

184%3Av-mt-din-ngon-tinh-dc-trong-vn-xuoi-ngh-thut-vit-nam-t-u-th-k-

20-n-1945-&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-

hc&Itemid=135&lang=vi, 2013.

77. Trần Văn Toàn, Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân

vật,http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/LichSuVanHoc/Vie

w_Detail.aspx?ItemID=73, 2014.

78. Nghiêm Lƣơng Thành, Tính dục và tâm thức phản kháng,

https://nghiemluongthanh.wordpress.com/2015/07/01/tho-ho-xuan-huong-

tinh-duc-va-tam-thuc-phan-khang/, 2015.

79. Trần Ngọc Vƣơng (2010), Thực thể Việt nhìn từ các toạ độ chữ,

Nxb Tri Thức.

80. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Loại hình học tác giả văn học- Nhà Nho

tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc Gia H, H.

81. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Văn học Việt Nam- Dòng riêng giữa

nguồn chung, Nxb Đại học Quốc Gia H, H.

82. Trần Quốc Vƣợng (2003), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm,

117

Nxb Văn Học, H.

Đỗ Thị HiênCao học K58