BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH Nguyeãn Thò Thuøy Trang

PHUÏ LUÏC ÑAËC ÑIEÅM TRUYEÄN THÔ TRÖÕ TÌNH MÖÔØNG LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ VAÊN HOÏC Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thùy Trang ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

LÔØI CAÛM ÔN

Toâi xin chaân thaønh caûm ôn Coâ Nguyeãn Thò Ngoïc Ñieäp suoát thôøi

gian qua ñaõ nhieät tình, chu ñaùo chæ daãn, giuùp ñôõ toâi hoaøn thaønh luaän

vaên naøy.

Xin caûm ôn quyù Thaày, Coâ Tröôøng Ñaïi Hoïc Sö Phaïm TP.HCM

ñaõ taän taâm höôùng daãn, giaûng daïy chuùng toâi trong thôøi gian qua.

Xin caûm ôn vaên phoøng Khoa Vaên, Phoøng Khoa hoïc Coâng ngheä -

Sau Ñaïi hoïc Tröôøng Ñaïi Hoïc Sö Phaïm TP. HCM; Caùc caáp laõnh ñaïo,

Sôû Giaùo Duïc - Ñaøo taïo tænh An Giang, Tröôøng THPT Chu Vaên An -

An Giang cuøng gia ñình vaø baïn beø… ñaõ taïo moïi ñieàu kieän thuaän lôïi,

nhieät tình giuùp ñôõ toâi trong suoát quaù trình laøm luaän vaên.

Taùc giaû luaän vaên.

MUÏC LUÏC

Trang

1

Trang phuï bìa Lôøi caùm ôn Muïc luïc Danh muïc caùc chöõ vieát taét Danh muïc caùc baûng MÔÛ ÑAÀU Chöông 1. Toång quan veà toäc ngöôøi Möôøng vaø truyeän thô tröõ tình Möôøng

1.1. Vaøi neùt veà toäc ngöôøi Möôøng

1.1.1. Quaù trình hình thaønh daân toäc Möôøng 1.1.2. Neàn kinh teá - xaõ hoäi - vaên hoùa Möôøng 1.2. Giôùi thieäu chung veà truyeän thô trữ tình Mường 1.2.1. Về neàn vaên hoïc daân gian Möôøng 1.2.2. Về truyeän thô tröõ tình Möôøng 1.2.3. Caùc truyeän thô tröõ tình Möôøng ñöôïc khaûo saùt

9 9 9 12 21 21 24 29 39

hieän thöïc Möôøng

2.1.1. Ca ngôïi xöù sôû Möôøng giaøu ñeïp, truø phuù 2.1.2. Söï boùc loät, aùp böùc cuûa cheá ñoä lang ñaïo Möôøng 2.1.3. Cuoäc soáng xa hoa cuûa taàng lôùp lang ñaïo Möôøng 2.1.4. Tö töôûng troïng nam khinh nöõ 2.1.5. Quyeàn theá cha meï trong tình yeâu con treû 2.1.6. Moät soá phong tuïc, taäp quaùn Möôøng 39 39 42 46 50 56 62

nhaân vaên

2.1. Truyeän thô tröõ tình Möôøng phaûn aùnh böùc tranh 2.2. Truyeän thô tröõ tình Möôøng mang ñaäm giaù trò nhaân ñaïo, 2.2.1. Ca ngôïi nhöõng con ngöôøi nhaân aùi 2.2.2. Nhöõng moái tình cao ñeïp 65 65 71

Chöông 2. Ñaëc ñieåm noäi dung cuûa truyeän thô tröõ tình Möôøng

3.2.1. Nhaân vaät nöõ chính 3.2.2. Nhaân vaät nam chính

3.1. Coát truyeän truyeän thô tröõ tình Möôøng 3.1.1. Söï hình thaønh coát truyeän 3.1.2. Moâ hình coát truyeän 3.1.3. Moät soá moâtip thöôøng gaëp trong coát truyeän 3.2. Nhaân vaät truyeän thô tröõ tình Möôøng 3.3. Ngoân ngöõ truyeän thô tröõ tình Möôøng 3.3.1. Caùc bieän phaùp tu töø noåi baät 3.3.2. Caùc nhoùm doøng thô chöùc naêng 3.3.3. YÙ nghóa caùc con soá trong truyeän thô tröõ tình Möôøng

91 91 91 98 104 112 115 122 125 125 130 141 148 153

Chöông 3. Ñaëc ñieåm ngheä thuaät cuûa truyeän thô tröõ tình Möôøng KEÁT LUAÄN TAØI LIEÄU THAM KHAÛO

DANH MUÏC CAÙC CHÖÕ VIEÁT TAÉT

ÑHQG: Ñaïi hoïc Quoác gia

Nxb: Nhaø xuaát baûn

KHXH: Khoa hoïc xaõ hoäi

THCN: Trung hoïc chuyeân nghieäp

THPT: Trung hoïc phoå thoâng

TP HCM: Thaønh phoá Hoà Chí Minh

TTTT: Truyeän thô tröõ tình

VHDG: Vaên hoïc daân gian

DANH MUÏC CAÙC BAÛNG

Trang

Baûng 1.1. Söï phaân taàng xaõ hoäi trong theå cheá xaõ hoäi Möôøng 14

Baûng 1.2. So saùnh söï khaùc nhau giöõa vaên baûn cuûa Mai Trí -

Buøi Thieän söu taàm vaø vaên baûn cuûa Ñinh Vaên AÂn

söu taàm 31

Baûng 1.3. So saùnh söï khaùc nhau giöõa vaên baûn cuûa Buøi Thieän

vaø vaên baûn cuûa Minh Hieäu söu taàm 34

Baûng 1.4. So saùnh söï khaùc nhau giöõa vaên baûn cuûa Cao Sôn Haûi

söu taàm vaø vaên baûn cuûa Minh Hieäu söu taàm 35

Baûng 3.1. So saùnh söï gaàn guõi giöõa lôøi thô trong TTTT Möôøng

vaø lôøi daân ca Möôøng 93

Baûng 3.2. Thoáng keâ moâ hình coát truyeän truyeän thô caùc daân toäc 100

Baûng 3.3. Thoáng keâ taàn soá xuaát hieän caùc con soá trong TTTT Möôøng 141

MUÏC LUÏC

Trang

Phuï luïc 1. Baûng toång hôïp caùc moâtip xuaát hieän trong truyeän thô

tröõ tình Möôøng 1

Phuï luïc 2. Baûng thoáng keâ taàn soá xuaát hieän thuû phaùp so saùnh trong

truyeän thô tröõ tình Möôøng 3

Phuï luïc 3. Baûng thoáng keâ taàn soá xuaát hieän bieän phaùp ñieäp trong

truyeän thô tröõ tình Möôøng 10

Phuï luïc 4. Moät soá ñoaïn thô ñaëc saéc trong truyeän thô tröõ tình Möôøng 54

1. UÙ t Loùt - Hoà Lieâu 54

2. Vöôøn hoa nuùi Coái 59

3. Naøng ÔØm - Boàng Höông 67

4. Naøng Nga - Hai Moái 72

DANH MUÏC CAÙC BAÛNG

Trang

Baûng 1.1. Baûng toång hôïp caùc moâtip trong truyeän thô tröõ tình Möôøng 1

Baûng 1.2. Baûng toång hôïp caùc moâtip trong truyeän thô caùc daân toäc 2

Baûng 2.1. Baûng thoáng keâ thuû phaùp so saùnh trong truyeän thô tröõ

tình Möôøng 3

Baûng 3.1. Baûng thoáng keâ taàn soá bieän phaùp ñieäp xuaát hieän trong

truyeän thô tröõ tình Möôøng 10

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài.

Bảo tồn di sản văn hóa truyền thống là vấn đề chung của các dân tộc

thiểu số và cũng là vấn đề đặt ra đối với người Việt, trong bối cảnh mà các

châu lục, quốc gia, tộc người, tôn giáo đều phải đối mặt với quá trình toàn cầu

hóa và sự gia tốc của nó. Làm thế nào để hội nhập mà không hòa tan. Làm thế

nào để giữ gìn được những đặc trưng văn hóa của từng tộc người. Vấn đề bảo

tồn văn hóa dân tộc Mường có phần khác biệt hơn so với các dân tộc thiểu số

khác trên đất Việt Nam. Vì người Mường vốn chung huyết thống, ngôn ngữ,

văn hóa… với người Việt ở thời cận đại. Vì chung cội nguồn nên những cái

gọi là tiến bộ, hiện đại hóa… rất dễ làm mất đi bản sắc văn hóa, bản sắc dân

tộc độc đáo của tộc người Mường. Các giá trị văn hóa bản địa của người

Mường cần phải được bảo vệ, đồng thời phát huy những giá trị tinh hoa của

dân tộc Mường còn sót lại trong văn hóa tộc người, đặc biệt là trong lĩnh vực

văn học dân gian (VHDG). Văn học dân gian là một mảng rất rộng, nó bao

trùm tất cả các giá trị cổ xưa của tộc người Mường.

Truyện thơ là loại hình văn học truyền miệng rất phổ biến trong nền

VHDG các dân tộc ở Việt Nam và cả ở Đông Nam Á. Truyện thơ chứa đựng

những giá trị văn hóa lớn, những vấn đề đặc trưng của một dân tộc. Hiện nay

việc giữ gìn, phát huy những di sản văn hóa, văn học, đặc biệt là thể loại

truyện thơ các dân tộc thiểu số đang đặt ra nhiều vấn đề cho ngành folklore

học Việt Nam. Những biến đổi về kinh tế - văn hóa - xã hội thời kỳ đổi mới

đang gia tăng gấp bội nguy cơ thất tán, mai một những sáng tạo văn học quý

giá này. Đó là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm truyện thơ trữ tình

Mường” với mong muốn góp phần giữ gìn, phát huy di sản văn hóa truyện thơ

của dân tộc Mường, cũng chính là làm giàu thêm vốn văn hóa truyện thơ các

dân tộc thiểu số Việt Nam.

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.

Việc sưu tầm, nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số hiện nay đang

được khẩn trương thực hiện. Các đề tài về sự hình thành, phát triển nội dung,

thi pháp của loại hình nay được nhận thức theo chiều hướng đầy đủ, toàn diện

hơn. Xuất phát từ suy nghĩ: Có những áng truyện thơ trữ tình mượt mà, thấm

đượm nghĩa tình nhưng chưa được nghiên cứu chuyên sâu, chúng tôi tập trung

khám phá những truyện thơ trữ tình của một dân tộc bản địa sinh sống lâu đời

trên đất Việt: dân tộc Mường. Từ những kết quả khảo sát ở văn bản và nghiên

cứu, luận văn nhằm nhận diện những đặc điểm cơ bản nhất về nội dung được

phản ánh trong tác phẩm. Thông qua đó phát hiện những giá trị nghệ thuật

như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ của truyện thơ trữ tình Mường (TTTT

Mường). Với những nỗ lực và kết quả của việc nghiên cứu, chúng tôi mong

muốn góp phần tìm hiểu thể loại TTTT Mường, góp phần tìm hiểu văn học,

văn hóa tộc người Mường nói riêng, văn học, văn hóa các dân tộc ít người nói

chung. Góp phần gìn giữ, bảo vệ những di sản văn hóa dân tộc trước những

biến đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa hiện nay là ý nghĩa thực tiễn mà luận văn

mong muốn đạt được.

3. Lịch sử vấn đề.

Ngay từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, TTTT Mường đã được các

nhà nghiên cứu quan tâm.

Năm 1964, Báo Văn nghệ số 51, Đào Xuân Quý có bài “Đọc truyện thơ

Mường”, tác giả hoan nghênh nhiệt liệt trước sự kiện truyện thơ Mường được

xuất bản. Tác giả bắt gặp cái đậm đà thắm thiết, sâu sắc của những bản tình

ca. Tác giả ca ngơi cái đẹp của câu thơ, sự quyết liệt của những con người

chung thủy. Đặc biệt tác giả hết lời khen ngợi truyện thơ “Nàng Ờm - Bồng

Hương”, vì đó là bản cáo trạng sắc sảo. Tác giả bộc bạch những tâm tình rất

chân thành với độc giả: “Tôi trích truyện thơ Nàng Ờm - Bồng Hương đã

nhiều mà vẫn còn muốn trích nữa”. Lời tâm tình này đã mặc nhiên công nhận

đây là một tuyệt tác của người Mường.

Năm 1989, tác phẩm “Thơ một thời” của giáo sư Hoàng Như Mai được

Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành, trong đó có một tiêu đề gây xúc động độc

giả, “Một bản tình ca não nùng của dân tộc Mường”. Hoàng Như Mai đã phát

hiện những tinh túy, đặc sắc về tình cảm lứa đôi của dân tộc Mường, lời thơ

mộc mạc, giản dị, chân thành đã lôi cuốn người đọc. Hoàng Như Mai nhan

định truyện thơ “Nàng Ờm - Bồng Hương” là “Một công trình nghệ thuật

tuyệt mỹ, để nói lên một lời cầu xin cho con người được giải phóng, để không

ai phải chết vì mối tình tuyệt vọng, mặc dù cái chết ấy có khi cung cấp cho

văn chương những tác phẩm bất hủ”.

Năm 1995, trong Lời giới thiệu quyển Tuyển tập truyện thơ dân gian

Mường, tác giả Bùi Thiện nhận xét TTTT Mường:

Cùng với phương pháp tự sự, dù thần thoại hay hiện thực đều kết

hợp với chất trữ tình được miêu tả nhẹ nhàng, tươi mát, dí dỏm mà

sâu lắng gây được cảm xúc mạnh mẽ. Nghệ thuật cấu trúc thơ kết

hợp giữa vần chân với vần lưng, điệp ngữ và gián cách… hợp với

khi sử dụng, họ có thể cất giọng ngâm nga thành giai điệu, hoặc

ông mo hát theo điệu mo kể chuyện.

Năm 1999, trong quyển VHDG Việt Nam do Lê Chí Quế chủ biên, tác

giả Võ Quang Nhơn cho rằng:

Truyện thơ trữ tình chủ yếu nêu lên vấn đề hạnh phúc lứa đôi trong

phạm vi sinh hoạt gia đình. Nhưng vấn đề truyện thơ trữ tình nêu

lên có ý nghĩa phổ biến và có tính nhân đạo sâu sắc; đó là tiếng nói

đấu tranh cho tình yêu tự do, một đòi hỏi chính đáng và cấp thiết

của thế hệ trẻ trong xã hội cũ.

Năm 2003, trong một công trình nghiên cứu về “Truyện thơ” của Phan

Đăng Nhật, nhằm phục vụ cho việc phân loại truyện thơ về đề tài tình yêu đôi

lứa của các dân tộc thiểu số. Tác giả chọn truyện thơ “Út Lót - Hồ Liêu”, đây

là một trong những truyện thơ dân gian Mường được nhắc đến nhiều nhất:

Có thể nói từ khi ở trong nôi, mỗi người Mường được nghe, được hát

về Út Lót - Hồ Liêu. Đến tuổi bắt đầu nhận xét ít nhiều về cảnh vật

xung quanh, họ lại được bà mẹ kể cho nghe về sự tích đàn bướm lạc

tháng ba, năm năm lại tái sinh và bay qua bay lại dập dờn đông vô

kể ở các nẻo rừng, về con cày cun rũ rượi, buồn bã đáng thương như

người tiếc nuối điều gì đến trọn kiếp.

Năm 2004, trong Tự điển văn học (Bộ mới), tác giả Trần Gia Linh nhận

xét về truyện thơ Mường như sau:

Truyện thơ Mường rất gần gũi với ca dao dân ca. Tác giả dân gian

đã tiếp thu những giá trị tự sự và giá trị trữ tình của các loại hình

VHDG khác, kết hợp thành thể loại truyện thơ đặc sắc… Có thể nói

truyện thơ Mường là khâu chuyển tiếp từ VHDG sang văn học

thành văn. Cũng có thể nói truyện thơ Mường là bước phát triển

cao nhất của văn hoc dân tộc Mường trước 1945…

Mặc dù, TTTT Mường ít được sự chú ý của giới nghiên cứu khoa học

nhưng không phải không có. Các tác giả đều phát hiện được cái hay, cái tinh

túy ở TTTT Mường. Mỗi tác giả chỉ nghiên cứu một tác phẩm và với cái nhìn

khái quát nhất hoặc đưa ra lời nhận xét chung về truyện thơ Mường. Chính từ

những ý kiến, nhận xét của các nhà nghiên cứu giúp chúng tôi có cái nhìn

tổng thể về TTTT Mường, là cơ sở nghiên cứu kỹ hơn về bốn truyện thơ chọn

khảo sát cả về đặc điểm nội dung và thành tựu nghệ thuật.

Bên cạnh đó, công tác sưu tầm truyện thơ Mường được quan tâm hơn so

với truyện thơ các dân tộc ít người khác. Với sự ra đời của các công trình về

truyện thơ Mường như: Truyện thơ Mường năm 1963, Nxb Văn Học được

Minh Hiệu - Hoàng Anh Nhân giới thiệu; Tráng Đồng năm 1976, Nxb Văn

Hóa được Mai Trí - Bùi Thiện giới thiệu; Tuyển tập truyện thơ Mường (3 tập)

năm 1986, Nxb KHXH, Hà Nội; Tuyển tập truyện thơ dân gian Mường năm

1995, Nxb Văn hóa dân tộc; Tuyển tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu so

- Phần truyện thơ tập IV, 1999, Vien Văn học, Nxb Giáo dục… đã gợi mở

những vấn đề mới về một di sản truyện thơ còn ít được biết đến của dân tộc

Mường.

4. Phạm vi đề tài.

Do năng lực nghiên cứu còn hạn chế và thời gian nghiên cứu hạn hẹp nên

việc đi sâu khai thác tất cả các TTTT Mường là điều không thực hiện được.

Trong khả năng cho phép, người viết chỉ tập trung tìm hiểu đặc điểm TTTT

Mường được chọn lọc qua bốn tác phẩm tiêu biểu:

Út Lót - Hồ Liêu

Vườn hoa núi Cối

Nàng Ờm - Bồng Hương

Nàng Nga - Hai Mối.

Tất cả được tuyển chọn trong “Tổng tập Văn Học Dân Gian các dân tộc

thiểu số” (Tập IV - Truyện thơ) của Viện Văn học, Nxb Giáo dục, 1999.

5. Phương pháp thực hiện đề tài.

Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng những phương pháp

sau:

- Phương pháp thống kê: Tiến hành thao tác thống kê tần số xuất hiện:

các môtip thường gặp, các con số, những biện pháp nghệ thuật… trong từng

tác phẩm để thấy được giá trị của nó.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Đi sâu nghiên cứu từng khía cạnh

trong bức tranh xã hội hiện thực Mường, sau đó tổng hợp khái quát lại để có

cái nhìn toàn diện hơn về con người và xã hội Mường cũ.

- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp so sánh - đối chiếu

được vận dụng trong luận văn nhằm làm nổi bật bức tranh hiện thực xã hội

Mường có điểm gì giống và khác với bối cảnh xã hội của các dân tộc khác.

Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành so sánh về cốt truyện, các môtip và về

phương diện ngôn ngữ trong TTTT Mường với TTTT các dân tộc khác, để từ

đó tìm thấy đặc thù riêng của dân tộc Mường cũng như nét chung của các dân

tộc thiểu số qua thể loại truyện thơ. Việc làm này cũng giúp phát hiện những

giá trị nghệ thuật của TTTT Mường.

- Phương pháp văn hóa học: dựa trên nền tảng kiến thức về văn hóa để

nghiên cứu văn học, nghĩa là xuất phát từ những hiểu biết về những nét đặc

trưng nhất của dân tộc Mường để tìm hiểu về TTTT Mường.

6. Những đóng góp mới của luận văn:

Luận văn bước đầu nghiên cứu một cách sơ bộ về đặc điểm của nhóm

TTTT Mường, qua 4 tác phẩm được nhân dân Mường yêu thích. Trong luận

văn này, người viết cố gắng xác định những đặc điểm cơ bản nhất của TTTT

Mường cả về nội dung và nghệ thuật, góp phần nghiên cứu TTTT Mường

trong sự đối sánh với TTTT các dân tộc khác.

7. Cấu trúc luận văn:

Luận văn gồm có kết cấu như sau: phần mở đầu, kết luận và 3 chương

chính:

Chương 1. Tổng quan về tộc người Mường và truyện thơ trữ tình

Mường.

Chương 2. Đặc điểm nội dung của truyện thơ trữ tình Mường.

Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật của truyện thơ trữ tình Mường.

Ngoài ra còn có Thư mục tham khảo và 4 phần phụ lục sau:

Phụ lục 1. Bảng tổng hợp các môtip xuất hiện trong truyện thơ

trữ tình Mường.

Phụ lục 2. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biện pháp nghệ

thuật so sánh trong truyện thơ trữ tình Mường.

Phụ lục 3. Bảng thống kê tần số xuất hiện của biện pháp điệp ngữ

trong truyện thơ trữ tình Mường.

Phụ lục 4. Một số đoạn thơ tiêu biểu của truyện thơ trữ tình

Mường.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƯỜI MƯỜNG

VÀ TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG

Mục đích của chương này là phác qua một cái nhìn tổng quát về người

Mường ở Việt Nam và bộ phận TTTT Mường trong đó có bốn truyện thơ mà

luận văn chọn làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp.

1.1.Vài nét về tộc người Mường:

1.1.1. Quá trình hình thành dân tộc Mường.

Huyền thoại khởi nguyên luận của người Việt Nam là truyền thuyết “Con

Rồng - cháu Tiên”, “Con Lạc cháu Hồng” được ghi lại lần đầu tiên thành

truyện họ Hồng Bàng trong sách “Lĩnh Nam chích quái”.

Theo huyền thoại này: Mẹ Tiên Âu (Âu Cơ) là tiên trên núi xuống đã kết

duyên với Bố Rồng Lạc (Lạc Long Quân) từ dưới biển lên, sinh trăm trứng,

nở trăm con trai. Sau chia đôi, năm mươi con theo mẹ lên núi và tôn người

con trai trưởng len làm vua (Vua Hùng), lập ra nước Văn Lang - quốc gia cổ

đại sơ khai của Việt Nam. Còn năm mươi người con trai khác theo cha xuống

lap nghiệp ở vùng sông biển. NÚI - BIỂN; MẸ - BỐ tạo nên một quốc gia

Văn Lang thịnh vượng.

Huyền thoại của người Mường thì nói rằng nàng Hưu Cơ (Âu Cơ) kết

duyên với chàng Cá (Long Vương) sinh ra một trăm con, sau năm mươi con

theo mẹ lên núi sinh ra dòng vua áo Chàm (người Mường), năm mươi con

theo cha xuống biển sinh ra dòng vua áo vàng (người Kinh).

Giáo sư tiến sĩ Mỹ Keith Weller Taylor trong tác phẩm nổi tiếng “Sự sinh

thành của Việt Nam” đã bình luận về huyền thoại khởi nguyên này về phương

diện nhà nước pháp quyền như sau:

Cái ý tưởng về một vị thần linh từ NƯỚC (BIỂN) lên xây dựng

nguồn cội cho một quyền lực chính trị và pháp quyền, tham dự vào

việc hình thành cư dân Việt Nam từ thời tiền sử, là một ám thị sớm

nhất về một quan niệm rằng: Người Việt Nam là một nhân dân riêng

biệt và tự ý thức. Ý tưởng đó được tạo hình ở nghệ thuật Đông Sơn,

trên trống đồng với chim biển và các loài thủy tộc bao quanh các con thuyền chuyên chở chiến sĩ [103].

Dân tộc Mường cư trú trên một địa bàn rộng suốt từ phía Tây Hoàng Liên

Sơn, Vĩnh Phú, Sơn La, Hòa Bình, Hà Nam Ninh vào đến tận phía Tây Thanh

Hóa và Nghệ An. Căn cứ vào nhiều ngành khoa học, người Mường và người

Kinh vốn là anh em cùng một ông tổ trực tiếp, là người Lạc Việt thời Hùng

Vương. Đồng bào Mường có cuộc sống của một cư dân nông nghiệp vùng

bán sơn địa. Đó là cuộc sống ổn định, quy củ, không được thiên nhiên ưu đãi

như vùng đồng bào Thái nhưng cũng không quá gay go như vùng đồng bào

Kinh “đất chật người đông”. Đồng bào Mường có lối sống giản dị, thiết thực,

ưa thích những biểu hiện rõ ràng, chất phác. Những nét đặc trưng ấy được thể

hiện ngay trong phong cách âm nhạc Mường, được GS. Tô Ngọc Thanh nhận

xét: “Giản dị mà không đơn sơ, thiết thực nhưng không thực dụng, rõ ràng

khúc chiết nhưng không thô thiển, chất phác mà không nông cạn”[83].

Nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào các tài liệu khoa học khác nhau đã đi

đến nhận định: Người Việt và người Mường vốn có chung một nguồn gốc. Về

nhân chủng, hai nhóm Việt - Mường cùng chung những đặc điểm nhân chủng

trong nhóm Nam Á thuộc tiểu chủng Môngôlôit Phương Nam. Tuy vấn đề về

nguồn gốc người Việt - Mường hiện nay còn tiếp tục nghiên cứu, song hầu

hết các nhà khoa học đều cho rằng: Họ là những cư dân bản địa, tổ tiên người

Việt Mường là người Lạc Việt, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng. Do

đó có cơ sở để cho rằng vào thời các vua Hùng hoặc vào thời đại đồng thau,

và cả giai đoạn tiếp theo, Việt - Mường còn là một khối thống nhất.

Căn cứ theo các tài liệu ngôn ngữ, lịch sử thì từ thế kỷ VIII trở về trước

hai dân tộc Việt - Mường có một tiếng nói chung. Vào đầu thế kỷ X, khi kinh

đô chuyển từ trung tâm Mường là Hoa Lư về Thăng Long (năm 1010) thì lúc

ấy tiếng Việt mới tách khỏi tiếng Mường thành hai ngôn ngữ riêng. Trước đó,

người Việt và người Mường có ngôn ngữ chung với hai phương ngữ: phương

ngữ Kinh ở đồng bằng sông Hồng và phương ngữ Mường ở vùng gần chân

núi phía Tây - Tây Bắc sông Hồng.

Người Mường tự gọi tộc danh của mình là Mol, Mon, Moan, Mual (nghĩa

là người). Còn tên tộc danh Mường là về sau này, khi đồng bào canh tác

ruộng lúa nước, mỗi đơn vị cư trú làm hệ thống mương dẫn nước tưới tiêu. Từ

hệ thống mương dẫn nước dần dần thành đơn vị hành chính cư trú. Mường trở

thành tộc danh của một dân tộc ít người ở Việt Nam.

Người Việt - người Mường vốn cùng chung một goc, gọi chung là nhóm

Việt - Mường, chỉ mới tách ra thành hai tộc người khác nhau từ những thế kỷ

đầu công nguyên. Trong khi bộ phận người Việt xuống vùng đồng bằng và

ven biển thì bộ phận người Mường ở lại các vùng thung lũng và chân các dãy

núi Tây Nam Bắc bộ và Bắc Trung bộ vừa làm ruộng nước vừa làm ruộng

nương. Theo số liệu điều tra dân số công bố năm 2001 của Tổng cục Thống

kê thì dân tộc Mường có 1.137.515 người cư trú ở các tỉnh Hòa Bình, Phú

Thọ, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái, Thanh Hóa, Ninh Bình. Nhưng tập trung

đông nhất ở tỉnh Hòa Bình, nơi có bốn vựa thóc lớn, bốn vùng tiêu biểu về

lịch sử, văn hóa, xã hội của người Mường được ghi trong câu tục ngữ cổ: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động” (1)

1.1.2. Về kinh tế - xã hội - văn hóa.

1.1.2.1. Kinh tế

Người Mường làm ruộng từ lâu đời và sống định canh định cư. Nghề

nông chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và lúa là cây lương thực chủ

yếu.

Người Mường trồng lúa khá nhiều trên ruộng bậc thang.Trong công việc

đồng áng, có thể nói người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thủy lơi nhỏ.

Đồng bào làm mương, phai để lấy nước. Nhiều nơi thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Hà

Sơn Bình còn dùng xe cọn để đưa nước vào ruộng. Cọn có thể đưa nước lên

cao năm, sáu mét. Nhìn chung, hệ thống thủy lợi rất đơn giản nhưng có hiệu

quả cho trồng trọt. J. Cuisinier nhận xét: “Các phương pháp dẫn nước tưới

ruộng Mường nếu như không phải là những phương pháp cải tiến, thì cũng

đáp ứng đòi hỏi của ngành trồng trọt” [5, tr. 172].

bốn vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Hòa Bình.

----------------------(1) Đó là mường Bi, mường Vang, mường Thàng, mường Động:

Người Mường chăn nuôi trâu bò chủ yếu lấy sức kéo trong nông nghiệp,

trong nghề rừng và để lấy phân bón ruộng. Trâu được nuôi nhiều hơn bò và

được dùng trong các nghi lễ tôn giáo, trong cưới xin để trao đổi hay bán cho

miền xuôi. Săn bắn là một hoạt động trong đời sống của người Mường. Săn

bắn kết hợp với sản xuất để chống thú rừng, bảo vệ mùa màng. Săn bắn không

những là một nguồn lợi cung cấp thức ăn mà còn là một thú vui. Đánh cá là

một nghề phụ trong gia đình và tương đối phát triển ở những khu vực ven các

con sông và suối lớn. Các công cụ đánh cá khá đa dạng: chài, lưới, vó, đơm,

đó, đăng… J. Cuisinier nhận xét về nghề đánh cá và săn bắn: “Nghề đánh cá,

tuy không có giá trị to lớn đối với người Mường, song lại đem đến cho họ nguồn lợi thu hoạch ổn định hơn nghề đi săn” [5, tr. 176]

Người Mường hái lượm theo mùa. Mỗi mùa có những loại rau khác nhau.

Theo thống kê, về mùa xuân thường có trên 60 loại rau, mùa hè trên 40 loại,

mùa thu trên 20 loại và mùa đông khoảng 10 loại. Họ nắm vững chu kỳ sinh

trưởng và phát triển của từng loại cây trong rừng:

“Tháng sáu gặp nhau ở hố củ mài”

“Tháng chín dâu da đều chín”

Nghề thủ công trồng bông, kéo sợi, nhuộm sợi, dệt vải đặc biệt phát triển

ở người Mường. Các mặt hàng thổ cẩm, mặt gối, mặt chăn, cạp váy của người

Mường rất nổi tiếng.

Đặc trưng cơ bản trong nền kinh tế của người Mường: Trong lĩnh vực

nông nghiệp, cây lúa giữ vai trò chủ đạo, chăn nuôi là nghề phụ nhưng có mối

quan hệ khăng khít với trồng trọt, quy mô chăn nuôi tùy thuộc vào hoàn cảnh

của từng gia đình. Hoạt động thủ công nghiệp đóng khung trong phạm vi gia

đình. Hái lượm và đánh cá vẫn đóng vai trò đáng kể trong đời sống kinh tế,

trong khi đó vai trò săn bắt giảm đi nhiều. Toàn bộ đời sống kinh tế của người

Mường đến nay chủ yếu vẫn dựa vào thiên nhiên, mang tính tự cung tự cấp.

1.1.2.2. Về xã hội

a. Thiết chế xóm, mường:

Trước cách mạng tháng Tám 1945, xã hội người Mường nằm trong

khuôn khổ một xã hội có đẳng cấp. Quý tộc gọi là lang, bình dân gọi là dân.

Thiết chế xã hội trong xã hội cổ truyền của người Mường là xóm và mường.

Ở đó hình thành bộ máy quản lý, điều hành theo luật tục, mọi thành viên trong

cộng đồng xóm, mường phải tuân thủ tuyệt đối. Sự phân tầng xã hội Mường

cũ của Nguyễn Duy Thiệu được thể hiện ở bảng 1.1.

Bảng 1.1. Sự phân tầng xã hội trong thể chế xã hội Mường [88].

Quý tộc: Lang Bình dân: “Jân” Tầng lớp gia nô: Tầng lớp bán tự

cun, Lang đạo (những người “Mọi Bi” do: “Tứa rọong”

được nhận ruộng (chỉ canh tác

công) nương rẫy)

Nơi cư trú của người Mường được gọi bằng Quêl hoặc xóm, có nghĩa là

làng. Làng là cơ sở của xã hội Mường gồm nhiều tiểu gia đình phụ quyền mà

tế bào gia đình là cha mẹ và con cái, trong đó quyền thế tập thuộc về con

trưởng. Khu vực đất đai thiên nhiên được xác lập bền vững được các thành

viên của làng biết rõ và các thành viên của làng khác tôn trọng.

Trong chế độ lang đạo, tính chất đẳng cấp được bộc lộ rõ rệt. Ở Hòa

Bình, các dòng họ nắm quyền thống trị lâu đời là Đinh, Quách, Bạch, Hoàng,

Hà, Xa… Trong đó, Đinh và Quách là những họ có thế lực mạnh nhất. Lang

đạo theo chế độ thế tập. Lang cun là con trưởng của chi trưởng, trên danh

nghĩa đứng đầu mường, cai quản xóm chiềng là xóm lớn nhất, ruộng đất

nhiều. Còn con thứ hoặc con trưởng ngành thứ, cai quản các xóm nhỏ gọi là

lang xóm hoặc lang đạo. Để duy trì quyền lợi, “nhà lang” đề ra các quy định

và quản lý dân theo các quy định đó. Lang là người đứng đầu về mặt tôn giáo,

dân mường coi lang là người đại diện tiếp xúc với thần thánh. Vì thế, trong

nhiều nghi lễ của mường, làng nhất thiết phải có mặt nhà lang.

Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954), chế độ nhà lang không

còn nữa. Người nông dân có ruộng đất, tự do làm ăn, sinh sống và bình đẳng

về mọi mặt. Tổ chức xã hội theo cơ cấu làng, xã, huyện, tỉnh. Xã hội được

quản lý bởi hệ thống hành chính thống nhất trong cả nước.

b. Hôn nhân gia đình:

Gia đình người Mường là gia đình phụ quyền, tính chất gia trưởng được

thể hiện rõ: người đàn ông là chủ gia đình, có vai trò quan trọng trong nhiều

mặt của đời sống, có quyền hành, quyết định mọi việc: làm ăn, cưới xin, tang

ma… và thực hiện các nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng. Họ còn là người thay

mặt gia đình quan hệ với làng xóm, họ hàng, với các tổ chức xã hội, chính

quyền địa phương. Mọi tài sản trong nhà đều do người chủ gia đình nắm giữ.

Những tài sản đó chỉ có con trai mới được quyền thừa kế. Địa vị người phụ

nữ thấp kém, họ không được tham gia vào những cuộc họp của làng xóm,

không được hưởng quyền thừa kế. Người phụ nữ khi lấy chồng là bắt đầu

cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào chồng. Họ không có quyền bình đẳng với

nam giới trong các lĩnh vực. Quan niệm truyền thống của người Mường cũng

như của người Việt, xem trọng con trai “Một trai là có, mười gái là không”.

Hôn nhân của người Mường là hình thái hôn nhân một vợ một chồng và

cư trú bên nhà chồng. Do tính chất phụ quyền của gia đình kiểu gia trưởng

nên hôn nhân của con cái chủ yếu do cha mẹ quyết định. Người Mường còn

tồn tại chế độ đa thê nhưng chỉ có trong tầng lớp lang đạo và những người

giàu có.

Phần lớn người Mường kết hôn với người đồng tộc. Gần đây số lượng

phụ nữ Việt lấy chồng Mường, đàn ông Việt lấy vợ Mường khá đông. Trước

cách mạng tháng Tám 1945, theo khảo sát của Mạc Đường tại ba xã Khánh

Thượng, Minh Quang, Ba Trại huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây: 68 cặp chồng

Mường vợ Việt, 63 cặp chồng Việt vợ Mường.

1.1.2.3. Văn hóa

Franz Boas, nhà nhân chủng học người Mỹ đã từng khẳng định: “Mỗi

nền văn hóa là một tồn tại độc đáo, hơn thế là một của báu độc đáo; sự biến

mất của bất cứ nền văn hóa nào cũng làm cho chúng ta nghèo đi”

[107, tr. 12]. Di sản văn hóa dân tộc là cơ sở để dân tộc hòa nhập với tiến

trình giao lưu quốc tế về mọi mặt nhưng không tự tha hóa mình mà còn làm

phong phú, sâu sắc cho chính mình trong sự đối thoại với những nền văn hóa

khác, góp phần làm phong phú cho kho tàng di sản chung của nhân loại.

Thành tựu nghiên cứu khảo cổ học đã cung cấp những cơ sở khoa học,

giúp ta hiểu biết con đường phát triển của người tiền sử. Đó là văn hóa Hòa

Bình, giai đoạn sớm của thời đại mới cách chúng ta ngày nay chừng 30.000

năm - 5000 năm. Di tích văn hóa Hòa Bình phát hiện được nhiều ở vùng chân

núi rộng lớn Việt Nam, tập trung hai tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình. Thanh Hóa

có 32 địa điểm, Hòa Bình có 72 địa điểm và rải rác trên địa phận tỉnh Ninh

Bình, Hà Nội, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La.

Ý thức cộng đồng trong dân tộc Mường hình thành rất sớm, ý thức ấy là

linh hồn của chủ thể sáng tạo xây dựng xã hội. Nó định vị các mối quan hệ

giữa con người với thiên nhiên, con người với con người, con người với thần

linh.

a.Văn hóa ứng xử giữa con người với thiên nhiên:

Đó là việc bảo vệ chăm sóc kho nguyên liệu ăn uống mà thiên nhiên ban

tặng đã trở thành ý thức của cả cộng đồng. Người Mường muốn ăn măng nứa,

măng giang, măng luồng nhưng rừng chưa mở cửa thì dù măng có mọc ngang

sau nhà, họ cũng không bao giờ hái.

Sông và suối là nguồn nước sinh hoạt: nước tưới cho lúa, cho màu, nước

ăn uống, nước tắm giặt nên các dòng nước được mọi người tự nguyện giữ gìn.

Người Mường tâm niệm rằng: Nước là thứ nuôi sống con người, ai làm bẩn

nguồn nước là có tội. Người Mường rất có ý thức trong việc giữ gìn nguồn tài

nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho họ. Vì đó là nguồn sống của họ,

nền kinh tế của họ chủ yếu dựa vào thiên nhiên.

b. Văn hóa ứng xử giữa người với người, người với thần linh:

Sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Mường cho phép trai gái giao lưu

tình cảm, bày tỏ lời thương tiếng nhớ với nhau. Chợ là nơi trao đổi hàng hóa

vừa là nơi giao lưu tình cảm. Trai gái đi chơi chợ gặp nhau trò chuyện, mời

nhau về nhà ăn cơm, uống rượu, đến cuối ngày mới về nhà. Trai gái Mường

quan niệm:

“Thương nhau nằm gốc cà cũng ấm, nằm đống đá cũng êm.

Không thương thì chín lần đệm, mười hai lần chăn nửa đêm nằm vẫn

còn kêu lạnh”.

Nguyên tắc và nghệ thuật ứng xử của người Mường thể hiện rõ nhất khi

có khách đến nhà. Bất luận khách quen hay lạ, người Mường tiếp khách rất

chu đáo. Hễ thấy khách đến chân cầu thang nhà thì cả nhà đều đon đả ra chào.

Trước là uống nước, sau đó chủ nhà mang rượu ra mời khách. Trước tiên là

phải hỏi han sức khỏe của bố mẹ, con cái khách. Sau đó nhất thiết phải dùng

cơm, tục ngữ Mường có câu: “Trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm”.

Trước bữa ăn, uống rượu cần súc miệng, trong bữa ăn uống rượu mộng (loại

rượu ủ men từ nếp cái không qua chưng cất). Chủ khách nói chuyện vui vẻ

bên mâm cơm nhưng chủ nhà bao giờ cũng khiêm tốn nói: “Chỉ có tí cơm đãi

khách, chút rượu nhạt mời khách”.

Khi ăn cơm uống rượu, khách cũng phải có lời khen lại cơm rượu của

chủ nhà cho đẹp lòng chủ:

“Ăn cơm không khen cơm

Mất lòng người giã gạo

Uống rượu không khen rượu

Mất lòng người ủ men”

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình người Mường tương đối

bình đẳng, bằng chữ hiếu. Con cái phải yêu quý cha mẹ, chăm sóc phụng

dưỡng. Khi cha mẹ về già, con cái có trách nhiệm nuôi dưỡng. Anh em ruột

thịt sống có trách nhiệm với nhau:“Anh em như dòng nước dù chém cũng

không đứt, dù chặt cũng không lìa”.

Người Kinh cho rằng dâu là con, rể là khách. Trong xã hội Mường, vai

trò người rể cả rất được tôn trọng. Khi nhà có công việc, bố mẹ đều gọi anh rể

cả và chị gái cả để bàn tính công việc. Người Mường coi con dâu như con gái

nên việc đối xử với con dâu cũng bình đẳng như con gái. Người con gái về

làm dâu nhà chồng được bố mẹ, anh em nhà chồng quý mến. Xã hội Mường ít

xảy xa mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu như người Kinh.

Quan hệ huyết thống họ hàng chi phối sâu nặng trong các hộ gia đình

Mường. Mọi công việc to lớn của gia đình Mường đều có sự giúp đỡ của họ

hàng, nhất là cưới xin, tang ma, làm nhà. Mọi người coi đó là nghĩa vụ, trách

nhiệm cao cả của mình với dòng họ. Tập quán này ở mường Bi gọi là tục góp

họ.

Tang lễ là việc lớn cả xóm mường, ai cũng phải có trách nhiệm. Đặc

biệt, khi gia chủ phát tang thì bất kể người trong huyết thống hay hàng xóm

đều đội khăn tang. Họ quan niệm rằng: cùng chung một xóm mường với nhau

thì là người thân.

Người Mường rất tôn kính thần Tản Viên, gọi là Bua Thơ, Pua Pa Vi (vị

vua ở núi Ba Vì). Ông là nhân vật huyền thoại “đi mây về gió”, “ban phúc trừ

tà” cho nhân gian và được thờ phụng ở khắp các gia đình. Miếu thờ thần Tản

Viên được xây dựng ở trung tâm mường. Thần Tản Viên không chỉ là vị sơn

thần trong tín ngưỡng phong thủy, còn là vị anh hùng trong chiến tranh chống

Thủy Tinh (chống lụt lội); đánh Thục Phán giúp vua Hùng, là vị thủy tổ dòng

dõi Lạc Long Quân - Âu Cơ.

Một lễ hội của người Mường được nhiều người yêu thích: Lễ hội Pồn

pôông. Lễ hội Pồn pôông của người Mường cĩ 2 loại: Pồn pơơng ma vua, Pồn pơơng Eng chng. Trong lễ hội Pồn pôông ma vua, ông ậu hoặc bà máy(1) chủ

trì. Lễ hội này thờ ông Chương. Các ông ậu, bà máy lập bàn thờ riêng ở nhà

quanh năm hương khói. Chủ đề nổi bật của lễ hội này là lòng biết ơn, sự

ngưỡng mộ của “con mày, con nuôi” đối với “khang cha bố mẹ” và cũng là

dịp các “con mày con nuôi” các nơi được gặp nhau để vui chơi.

Lễ Pồn Pôông Eng Cháng (Pồn pôông Ma Cheng) khác với lễ Pồn pôông

ma vua những điểm sau: Tổ sư tôn thờ là các “anh chàng” trong truyện thơ

dân gian Mường: Hai Mối, Hồ Liêu, Bồng Hương. Trò diễn có tích và dịch

nên trò có nhân vật. Tích đó là các thiên diễm tình của các đôi trai gái trong

các truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối, Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Ờm - Bồng

Hương. Ba thiên diễm tình này đều là những mối bi tình. Những đôi trai gái

yêu nhau tha thiết, nhưng bị cản trở, cuối cùng họ đều mượn cái chết để bảo

toàn mối tình trong trắng, thủy chung. Từ những mối bi tình này dựng nên

kịch bản các trò như một vở kịch được diễn trong một nghi lễ với những đối

thoại bằng thơ giữa chính các nhân vật. Đây là một loại hình sân khấu sơ khai

---------------------(1) Những người làm nghề thuốc cứu người.

của người Mường.

Lễ Pồn Pôông ma chenh đề cập đến vấn đề rất nhân văn: khát vọng yêu

đương và hôn nhân tự do, một mối tình chung thủy mà xã hội Mường thời ấy

không có được. Trò Chá Chiêng dân tộc Thái, trò Xăng Bok của dân tộc

Kháng, Khơ Mú, Xinh Mun rất giống với lễ hội Pồn pôông của người Mường.

Lễ hội cồng chiêng ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng của nông

nghiệp lúa nước. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào mùa xuân với ý nghĩa

cầu phúc bản mường, cầu cho mưa gió thuận hòa, mùa màng tốt tươi...

Chiêng được xem là vật gia bảo truyền đời của người Mường, chiêng càng

được truyền qua nhiều đời thì càng quý. Cái quý là ý nghĩa của sự tiếp nối

dòng đời, một tinh thần huyết thống gia đình. Tết Nguyên Đán, Tết Cơm

Mới… họ đánh chiếc chiêng cha ông truyền lại để mời tổ tiên về. Chiêng là

phương tiện “thông quan” giữa thế giới người sống với thế giới người đã

khuất. Theo thống kê năm 2001 của cán bộ văn hóa huyện Lạc Sơn thì hiện

nay ở Mường Vang là vùng có mật độ cồng chiêng cao, khoảng 300 chiếc.

Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đời sống kinh tế xã hội nước ta

có những chuyển biến lớn tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa của người

Mường. Tính cộng đồng xóm mường được phát huy cùng với việc khơi dậy

vai trò của cá nhân người Mường, vai trò của từng hộ gia đình trong chủ động

sản xuất kinh doanh và tổ chức sinh hoạt văn hóa. Trình độ dân trí nâng cao

đánh vào những hủ tục lạc hậu, tạo cho người Mường sự lựa chọn khôn ngoan

hơn đối với các giá trị ứng xử truyền thống.

1.2. Giới thiệu chung về truyện thơ trữ tình Mường.

1.2.1. Về nền văn học dân gian Mường.

Dân tộc Mường chưa có chữ viết nhưng ngôn ngữ cơ bản là thống nhất

và có một nền văn học nghệ thuật dân gian rất phong phú. Tất cả kho tàng văn

học Mường còn lại đến ngày nay đều dựa vào truyền miệng. Hoàn cảnh đó đã

gây nên nhiều khó khăn cho việc truyền bá và gìn giữ văn học, nhưng đồng

thời cũng là một minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của nền văn học đó. Nó

không ngừng sàng lọc và loại bỏ đi những cái gì không hợp với tâm lý dân tộc

hay tâm lý của tập thể người cùng chung sống trên một vùng đất khá rộng.

Nền văn học nghệ thuật dân gian Mường không những đồ sộ về khối lượng

mà còn phong phú về thể loại.

Ngay từ năm 1960, tỉnh Hòa Bình đã tiến hành công việc sưu tầm vốn

văn nghệ cổ truyền của dân tộc Mường. Công việc được tiến hành khẩn

trương và đã đạt được những kết quả khả quan:

- 1.443 bài dân ca các loại, gồm 32.975 câu.

- Bốn hệ thống mo Mường Vang (7 đêm), Mường Bi (12 đêm), Mường

Thàng (7 đêm), Mường Động (5 đêm) trong đó có trường ca “Đẻ đất đẻ nước”

dài 4.672 câu và 10 truyện thơ dài.

- 80 truyện cổ tích.

- 12 bài nhạc cồng, 5 bài nhạc sáo ôi, 3 bài kèn, 4 bài nhị sáo, 1 bài độc

tấu đàn tam, 19 điệu nhạc dân ca…

Trường ca “Đẻ đất đẻ nước”, một áng văn học truyền miệng kể chuyện từ

khi trời đất chưa phân chia. “Đẻ đất đẻ nước” đã trở thành tang ca mỗi khi có

một người chết thì lại được ngâm đọc lại như nhắc nhở những người đang

sống biết mà ăn ở cho hợp lẽ. Cho nên những đêm mo chẳng phải là để cho

người chết mà để cho người sống lắng nghe nhận biết để xử thế làm người.

Người Mường có một hệ thống truyện cười không kém phần sắc sảo, dí

dỏm, đó là truyện Cuội. Chú Cuội đóng vai nhân vật thấp hèn (con ở) nhưng

luôn luôn tìm mọi cách đá ngược lên các quan lang làm cho các quan đau

điếng. Người Mường sáng tạo nên truyện “Bè bưởi nổi, bè đá chìm” để kết

liễu cuộc đời bọn thống trị ăn bám, tàn ác và ngu ngốc. Tác giả Lê Chí Quế đã

nhận xét truyện cười rất hình tượng: “Một khi nhân dân cười thì mặt đất rung

chuyển và cái ác bị đạp nhào xuống”[73, tr. 155].

Tục ngữ là sự đúc kết kinh nghiệm quý báu trong lao động sản xuất. Tục

ngữ phản ánh phong tục, tập quán và ứng xử trong giao tiếp:

“Đàn bà mài dao không sắc

Đàn ông hái rau không ngon”

“Rượu trong thì ngọt, rượu bọt thì chua”[56, tr.180 - 182]

Bác Hồ đánh giá cao vai trò của tục ngữ trong đời sống: “Những câu tục

ngữ, ca dao, vè… rất hay là sáng tác của quần chúng… Những sáng tác là

những viên ngọc quý”[44, tr. 38].

Ca dao - dân ca Mường nổi tiếng với những bài hát cầu chúc vào dịp đầu

xuân, đặc biệt là hát sắc bùa (có nơi gọi là xéc - bùa). Có lẽ loại dân ca này

xuất hiện từ lúc người Việt và người Mường chưa tách ra thành người Kẻ Chợ

với người ở rừng núi. Ông Phan Đăng Nhật khẳng định: “sắc bùa, một sinh

hoạt Tết phổ biến ở nhiều dân tộc nước ta”. Sắc bùa phổ biến rộng rãi ở các

vùng người Mường Thanh Hóa, Hòa Bình, Lạng Sơn. Sắc bùa của người Việt

lưu hành ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Nghĩa Bình,

Đồng Nai, Bến Tre[74, tr. 155].

Các truyện thơ nổi tiếng như: Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Nga - Hai Mối,

Nàng Ờm - Bồng Hương, Con Côi, Vườn hoa núi Cối… và còn nhiều thể loại

khác.

1.2.2. Về truyện thơ trữ tình Mường:

Xuất phát từ tên gọi của khái niệm, có thể định nghĩa như sau:

Truyện thơ là phương thức tự sự bằng văn vần giàu chất thơ. Cấu

trúc của nó là sự kết hợp giữa truyện dân gian và thơ dân gian. Đó

là truyện trong thơ và thơ trong truyện.

Tác giả Vũ Anh Tuấn cho rằng: “Truyện thơ là một thể loại văn học dân

gian, có nguồn gốc dân gian và là thể loại ở đỉnh cao, thâu hóa được tất cả

những tinh hoa của các thể loại tiền đề, từ đó hình thành một khuôn mẫu cấu

trúc và một phong cách biểu hiện đặc trưng”.

“Văn học dân gian các dân tộc thiểu số” (Bách khoa toàn thư mở

Wikipedia) lại định nghĩa:

Truyện thơ là những truyện kể bằng thơ, biểu hiện cảm nghĩ bằng

ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, chứa đựng vấn đề xã hội. Có sự

kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình, dung lượng lớn, mang tính chất cố

sự của truyện kể dân gian, biểu hiện dưới hình thức thơ ca với màu

sắc trữ tình đậm.

Nhận định trên chứng tỏ: truyện thơ là một thể loại VHDG mang đầy đủ

những đặc trưng của một tác phẩm tự sự đồng thời được bổ sung những yếu

tố tạo nên chất thơ: vần, nhịp điệu…

Khi nói đến truyện thơ có một thuật ngữ cũng rất quan tâm, đó là truyện

Nôm. Thuật ngữ “Truyện Nôm” được nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm sử

dụng lần đầu tiên xếp các truyện Kim Vân Kiều, Hoa Tiên, Phương Hoa, Lý

Công… vào thể loại tiểu thuyết bằng văn vần. Sau này, các nhà nghiên cứu

gọi với các tên: truyện diễn ca (Đông Hồ), truyện ngâm (Thiếu Sơn)(nhấn

mạnh phương thức diễn xướng), truyện Thơ Nôm (Cao Huy Đỉnh, Phan Đăng

Nhật)(nhấn mạnh hình thức thơ ca). Tuy vậy, tên gọi truyện Nôm vẫn được

nhiều nhà nghiên cứu dùng hơn cả.

Thuật ngữ “truyện Nôm” theo ý kiến của giáo sư Đặng Thanh Lê, là một

thể loại mang hai đặc điểm (xét ở góc độ lý luận văn học và văn học sử):

Truyện Nôm nằm trong hệ thống tác phẩm phản ánh cuộc sống

bằng phương thức tự sự có nghĩa là phản ánh cuộc sống xã hội

thông qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh

một nhân vật và trên cơ sở ấy, sự phát triển có tính chất hoàn chỉnh

của một tính cách nhân vật.

Thể loại tiểu thuyết này sử dụng ngôn ngữ dân tộc: chữ Nôm và

với tư cách tác phẩm tự sự bằng văn vần, đại bộ phận các tác phẩm

đều sử dụng một thể thơ dân tộc - thể lục bát [67, tr. 69].

Nhận định của Vũ Anh Tuấn có thể xem là kết luận chung cho mối quan

hệ giữa các khái niệm:

Truyện Nôm là truyện thơ Nôm, một dạng tồn tại của truyện thơ.

Và nếu sử dụng thuật ngữ truyện Nôm thì chỉ bao gồm những

truyện thơ của người Kinh - những tác phẩm hầu như được cố định

trong văn bản chữ Nôm từ cuối thế kỷ XIX và một phần truyện thơ

Tày [97, tr. 93].

Thực chất truyện Nôm chỉ là một bộ phận của thể loại truyện thơ vì

“trong cái giới hạn phát triển tự nhiên của truyện thơ thì truyện Nôm chỉ là

một lát cắt đồng đại”[97, tr. 31] nhưng lại là thành tựu đỉnh cao về mọi

phương diện của truyện thơ nói chung[97, tr. 31]. Tên gọi “truyện Nôm” và

“truyện thơ Nôm” chỉ là một và cách gọi “truyện thơ Nôm” nhằm nhấn mạnh

hình thức thơ ca.

Truyện thơ = truyện Nôm (Kinh) + truyện Nôm Tày + truyện thơ các

dân tộc thiểu số (kể cả bộ phận còn lại của truyện thơ Tày)

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn phân biệt:

Truyện Nôm hữu danh - truyện Nôm khuyết danh: căn cứ vào tiêu chí tác

giả. Ví dụ: Truyện thơ hữu danh: Truyện Kiều (Nguyễn Du), Sơ kính tân

trang (Phạm Thái), Tây sương (Lý Văn Phức)… Truyện thơ khuyết danh:

Phạm Tải Ngọc Hoa, Phương Hoa, Thạch Sanh…

Truyện Nôm bác học - truyện Nôm bình dân: căn cứ vào tầng lớp xuất

thân của tác giả và trình độ nghệ thuật của tác phẩm. Ví dụ: Truyện Nôm bác

học: Truyện Kiều (Nguyễn Du), Hoa tiên (Nguyễn Huy Tự), Sơ kính tân trang

(Phạm Thái)…; Truyện Nôm bình dân: Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Ngọc

Hoa, Phương Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn…

Trong “Văn học dân gian Việt Nam” [73, tr.170], ở phần truyện thơ, tác

giả Võ Quang Nhơn căn cứ vào phương thức diễn xướng, lưu truyền và nguồn

gốc kế thừa truyện thơ các dân tộc mà phân chia truyện thơ thành bốn nhóm

sau:

Nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian.

Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các

dân tộc.

Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các

dân tộc.

Nhóm truyện thơ thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức của truyện

Nôm Việt.

Bốn truyện thơ chọn khảo sát trong luận văn thuộc “Nhóm truyện thơ kế

thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc”, gọi ngắn gọn là

TTTT Mường. Nội dung chủ yếu của các câu chuyện: nêu cao khát vọng

mãnh liệt của những đôi trai gái trong quá trình đấu tranh chống lại những tục

lệ hà khắc, những quan niệm hẹp hòi trong hôn nhân nhằm vươn đến một

hạnh phúc đích thực.

Vấn đề trung tâm của truyện thơ nói về tình yêu là cuộc sống đau khổ của

những đôi trai gái bị thất bại trong yêu đương do xã hội cũ gây nên. Đại diện

cho xã hội bất công thường là bố mẹ, những người chịu trách nhiệm trực tiếp

gả bán. Thực ra bố mẹ chỉ là người thi hành những quy tắc khắc nghiệt của

những kẻ khác ở nơi cao xa khó thấy (Vua Ao Ước trong truyện Nàng Nga -

Hai Mối). Vua quan, lang đạo đã thực sự trở thành kẻ cướp cô gái đẹp và gây

nên bi kịch của tình yêu bất hạnh. Đôi trai gái trong truyện thơ một mực kiên

tâm chờ đợi, theo đuổi, bảo vệ và còn đấu tranh để giành lại hạnh phúc bị

cướp mất, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ: Út Lót, nàng Nga, nàng Ờm.

Kho tàng TTTT Mường rất phong phú, có khoảng trên mười truyện thơ:

Chàng Khong Kheng, Nàng Vật Nga, Chàng Thông Đế Thông Đền, Tráng

Đồng, Chàng Chiết Chiết, Vườn hoa núi Cối, Nàng Ờm - chàng Bồng Hương,

Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Nga - Hai Mối…

Mỗi truyện có sự khắc họa sâu sắc hơn như ca ngợi tình yêu trong trắng

đẹp đẽ giữa Thông Đế Thông Đền và nàng Mại Lọ, nàng Vật Nga với Vua

Thượng Đế; ca ngợi tình yêu chung thủy nồng nàn như Ưới Khào và chàng

Chiết Chiết. Cao độ nhất là đôi nàng Thờm, Tiên với hai chàng Va, Khói. Họ

đã cùng chết bên nhau để trọn lời nguyện ước, ca ngợi Út Lót đẹp người đẹp

nết, thông minh, chung thủy suốt đời với Hồ Liêu, mối tình đẹp đẽ trọn đời

giữa nàng Nga và Hai Mối, Ơm và Bồng Hương… Phê phán những tư tưởng

đạo đức xấu trong xã hội như lừa đảo, gian dối sẽ bị trừng trị như Khong

Kheng, Tráng Đồng, nàng Chướng Va. Truyện còn tố cáo việc ép gả hôn nhân

sẽ đi đến thiệt hại chết chóc như hai nhà bố mẹ Thờm, Tiên và bố mẹ chàng

Va, Khói. Đả phá chế độ đa thê trong hôn nhân, gia đình nào hai vợ thì không

sum họp vui vẻ như nhà Chiết Chiết.

Bên cạnh đó, TTTT Mường còn được hát - kể trong những sinh hoạt tập

thể chòm xóm quanh bếp lửa sàn, cũng có thể được trình diễn đôi đoạn trong

“pồn pôông” là một hình thức sinh hoạt văn nghệ - vui chơi tập thể vừa có

chức năng cầu chúc mùa màng bội thu, dân an vật thịnh. Truyện thơ Nàng

Nga - Hai Mối còn tồn tại gắn kết với tục kết chạ giữa hai mường, xưa là quê

hương của hai nhân vật chính, và cũng gắn kết cả với tục lệ thờ cúng nàng

Nga ở “miếu nàng Nga” được mở ra định kỳ hàng năm. Trong ngày hội có hát

- kể truyện thơ và làm sống lại cuộc đời nhân vật.

Các TTTT Mường có đề tài rất gần gũi với con người, cuộc sống và xã

hội Mường. Bố cục thường đơn giản, ít lắt léo, tâm lý nhân vật chưa có tính

đột phá. Các truyện đã kết hợp chất tự sự và chất trữ tình được miêu tả nhẹ

nhàng, tươi mát, dí dỏm mà sâu lắng gây được cảm xúc mạnh đối với người

đọc. Nhân vật được miêu tả cụ thể từ hình dáng lẫn tâm hồn, tình cảm, có thái

độ dứt khoát rõ ràng. Nhân vật truyện thơ gần với con người trong cuộc đời

thực. Họ trở thành đối tượng thương cảm của nhân dân:

Tiếng thơ trong truyện cũng là tiếng đồng cảm, tiếng khóc uất hận,

tiếng nói đòi giải phóng, đòi trừng trị cường hào ác bá, đấu tranh cho

chính nghĩa, công bằng cho ấm no hạnh phúc, thể hiện tinh thần lạc

quan, ham sống, yêu đời của nhân dân các dân tộc. [28, tr. 133]

1.2.3. Các truyện thơ trữ tình Mường được khảo sát.

Các tác phẩm được tuyển chọn trong “Tổng tập văn học dân gian các dân

tộc thiểu số” do GS. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên dựa trên các quyển:

Tuyển tập truyện thơ Mường (tập 2, 3), Nxb KHXH, Hà Nội, năm 1986.

Tráng đồng, Mai Trí - Bùi Thiện sưu tầm, biên dịch, NXB Văn hóa, Hà

Nội, năm 1976.

* Út Lót - Hồ Liêu.

a. Tình hình văn bản.

Tác phẩm được chọn từ Tuyển tập truyện thơ Mường (tập 3), do Minh

Hiệu sưu tầm và biên dịch, Nxb KHXH, Hà Nội, năm 1986. Tác phẩm dài

1323 câu. Đây là một bản dịch tương đối đầy đủ nhất, nội dung hợp logic và

nhất quán. Bản dịch của Minh Hiệu được nhân dân Mường yêu thích hơn các

bản dịch của các tác giả khác. Truyện thơ này còn có một bản dịch của Bùi

Thiện in trong Tuyển tập truyện thơ dân gian Mường chỉ có 767 câu. Bản dịch

của Bùi Thiện có một số chi tiết khác với bản dịch của Minh Hiệu:

Nàng Út Lót là con gái thứ ba của ông cun Đủ đạo Dà, em của nàng

Nga và nàng Thái.

Kim được cắm thành hàng ngăn giữa hai chiếu (thay vì bát nước).

Nàng Út Lót đến thăm chị và anh rể, nàng Nga tưởng đến làm dâu, đã

nặng lời khiến Hồ Liêu đau khổ mà chết.

b. Tóm tắt tác phẩm

Nàng Út Lót vừa đẹp người vừa thông minh, nàng là con gái thứ ba của

đạo Tu Liêng và bà Tu Ó. Thấy bố lo lắng buồn phiền vì không có con trai đi

chầu vua kẻ chợ, nàng xin được giả trai. Dọc đường, nàng gặp Hồ Liêu cũng

đi chầu vua. Hai người kết bạn “chung lưng, chung lộ, chung cỗ, chung

phòng”. Trong những ngày ở đất kinh kỳ, không những vua kẻ chợ mà cả Hồ

Liêu cũng có ý nghi ngờ Út Lót là gái giả trai. Nhờ thông minh bình tĩnh, Út

Lót đã vượt qua trở ngại. Hết han chầu, trên đường trở về, Út Lót trở lại một

cô gái dịu dàng, lộng lẫy. Hai người yêu nhau, thề nguyền vàng đá, tạm chia

tay nhau, hẹn ngày gia đình Hồ Liêu đến nhà dạm cưới nàng làm vợ.

Ở nhà cha mẹ đã cưới vợ cho chàng, Hồ Liêu vì quá nhớ thương nàng mà

chết. Nhiều người đến dạm cưới, nàng đều từ chối. Cuối cùng nàng nhận lời

đạo Cun Cun là người ở về hướng mồ chôn Hồ Liêu. Ngày rước dâu, khi đi

qua mộ người yêu, nàng xuống thăm mộ. Tới nơi, nàng cất tiếng gọi, Hồ Liêu

mở nắp săng đón nàng vào. Hai họ dâu rể ngẩn ngơ biến thành đàn bướm

trắng. Còn chú rể tiếc Út Lót biến thành con cày cun nằm rũ trên cây, không

thiết gì ăn uống.

* Vườn hoa núi Cối.

a. Tình hình văn bản.

Truyện thơ dài 2275 câu, được Mai Trí - Bùi Thiện sưu tầm và biên dịch,

in trong tập Tráng Đồng, Nxb Văn hóa, năm 1976. Bản dịch này lời thơ rất

trau chuốt, đậm chất trữ tình, từ ngữ chọn lọc tinh tế, chính xác.

Một văn bản cũng của Bùi Thiện sưu tầm và biên dịch, in trong Tuyển

tập Truyện thơ dân gian Mường giống với bản dịch trên nhưng lại có thêm

một đoạn cuối dài 9 câu.

Một văn bản của Đinh Văn Ân có tên là Đang vần va. Trong quyển này

có nhiều câu chuyện, trong đó câu chuyện về cuộc tình anh Khói, chàng Va

cùng đôi nàng Tiên dài 2660 câu. Cốt truyện cơ bản là giống nhau nhưng lời

thơ không được trùng khớp giữa hai văn bản. Tuy nhiên có một số chi tiết lại

khác nhau được thể hiện ở bảng 1.2.

Bảng 1.2. Sự khác nhau một số chi tiết giữa văn bản của Mai Trí - Bùi

Thiện sưu tầm và văn bản của Đinh Văn Ân sưu tầm.

Văn bản của Mai Trí - Bùi Văn bản của Đinh Văn Ân sưu

Thiện sưu tầm tầm

Mở đầu giới thiệu về cảnh đất nước ở Mở đầu tác phẩm giới thiệu về anh

vùng vườn hoa núi Cối. Khói chàng Va.

Hai người vợ của anh Khói chàng Va: Không có chi tiết này.

một người đã có con, một người đang

có chửa.

Hai người vợ bị chồng ruồng bỏ bèn ai nàng Thìn - Thè lại thắt cổ tự tử. H mẹ (Hai nhân vật này trở về nhà cha

không có tên).

i nữ nhân vật chính là Tên hai ngườ

Tên hai người nữ chính là Rồng - Thờm, Tiên.

Tiên. ẹ nàng Thờm, Tiên đánh hai Cha m

Cha mẹ hai nàng chặt áo yếm, áo gấm àng. n

không cho hai nàng ra ngoài.

b. Tóm tắt tác phẩm.

Chàng Khói và chàng Va là hai lang đạo nhỏ, nhân ngày hội lớn ở đất

ông cun Vì Thàng, hai chàng gặp hai nàng Thờm, Tiên rất xinh đẹp. Họ đem

lòng yêu nhau, mặc dù hai anh đã có vợ ở nhà. Hai anh hứa tr ở lại cưới hai

làm vợ. Trở về nhà, hai anh trả vợ, trả nàng về quê cũ để đi cưới hai nàng

nàng Thờm, Tiên nhưng không được sự đồng ý của cha mẹ.

Còn về phần hai nàng Thờm, Tiên chờ đợi đến mỏi mòn vẫn chưa thấy

hai chàng trở lại. Cha mẹ hai nàng đã nhận đạo Trần, đạo Trà vào ở rể trong

nhà. Không đồng ý cuộc hôn nhân với đạo Trần, đạo Trà, hai nàng Thờm,

Tiên bị cha mẹ đánh đập thê thảm. Đến khi hai anh tìm đến gặp Thờm, Tiên

thì mọi việc đã lỡ làng. Hai nàng Thờm, Tiên đi tìm lá ngón hoa vàng. Bốn

a núi Cối cùng uống rượu hòa với lá người hẹn gặp nhau dưới chân vườn ho

ngón nhà”. Đạo Trần, đạo Trà thương tiếc vợ, lấy để về “bên ma làm cửa làm

dây cổ tự vẫn. lềnh lềnh liều mình thắt

* Nàng Ờm - Bồng Hương

a. Tình hình văn bản.

Tác phẩm gồm 682 câu được tuyển chọn từ văn bản của Hoàng Anh

Nhâ n sưu tầm, biên dịch trong Tuyển tập truyện thơ Mường (tập 2), Nxb

KHXH, Hà Nội, năm 1986.

“Nàng Ờm - Bồng Hương” được xem là TTTT tiêu biểu của người

Mườ ng, chứa đựng tinh thần dân chủ và nhân đạo sâu sắc” [33, tr. 798]

b. Tóm tắt tác phẩm.

Nàng Ờm và Bồng Hương là đôi bạn chơi với nhau từ thuở ấu thơ, lớn

lên đôi trẻ yêu nhau. Nhưng cha mẹ Ờm không bằng lòng cho hai người lấy

nhau vì nhà Bồng Hương nghèo. Ờm chống lại ý của cha mẹ. Cha mẹ giam

nàng trong nhà đánh đập thảm thương. Em gái mở cửa cho nàng thoát ra

ngoài. Bồng Hương đứng đợi sẵn ở dưới sân, ôm người yêu chạy lên núi Làn

Ai, lấy khăn tay thấm máu cho nàng, vào bản xin một nắm gạo, một cái niêu

nấu cơm cho nàng ăn. Nhưng Ờm không ăn, chỉ muốn ăn lá ngón. Cả Ờm và

Bồng Hương cùng ăn lá ngón để được nên “đôi vợ đôi chồng”.

Cha mẹ Ờm vô cùng hối hận, bèn lên núi gọi hồn con gái về. Nhưng

Ờm không về mặc cho bố mẹ van xin. Kể từ đó, hồn Ờm và Bồng Hương ở

trên núi Làn Ai ngà y đêm gắn bó. Vào những đêm trăng sáng, Ờm kể lại câu

ện của mình cho các cố, chuy các mẹ để khuyên mọi người không nên chia rẽ

duyên đôi lứa. tình

* Nàng Nga - Hai Mối.

a. Tình hình văn bản.

Tác phẩm dài 1847 câu được tuyển chọn từ văn bản của Minh Hiệu

trong quyển Tuyển tập truyện thơ Mường (tập 2), Nxb KHXH, Hà Nội, 1986.

Văn bản này được đông đảo nhân dân Mường yêu thích. Với lời thơ trữ tình

t mà sâu lắng, văn bản đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật, nội dung hợp mượ

logic.

Tác phẩm còn có một văn bản của Bùi Thiện dài đến 1948 câu. Văn

b ản này có một số chi tiết khác với văn bản của Minh Hiệu được thể hiện ở

bảng 1.3.

Bảng 1. 3. Sự khác nhau giữa văn b ản của Bù i Thiện sưu tầm và văn bả n

của Minh Hi ệu sưu tầm.

Văn bản của Bùi Thiện Văn bản của Minh Hiệu

Nàng Nga là vợ trước của Hồ Liêu, ợ trước của Hồ Liêu là người khác. V

khi Hồ Liêu chết, nàng Nga trở về

nhà cha mẹ.

Hai Mối làm bùa nghệ mới làm quen ai Mối đi chơi chợ gặp được nàng H

Nga. được với nàng Nga.

i tiết này. Không có ch Nàng Uồn, vợ Hai Mối làm bùa yếm

cho Hai Mối quên nàng Nga.

Nàng Nga nói dối vua Ao Ước rằng Nàng Nga nói dối rằn g: Cha nàng bị

cha nàng đi đánh giặc đã lâu không b ệnh nặng.

về.

Vua Ao Ước giả dạng dân đến nơi Quân lính báo cho vua biết nàng Nga nàng Nga làm ma khóc Hai Mối. là m ma cho Hai Mối.

Cả quan tài nàng Nga và vua Ao Ước

được thả trôi sông.

hỉ có quan tài nàng Nga thả trôi C hôn hai Nàng Nga và Hai Mối được c sông. bên bờ sông Ngang. Sau đó, trên mỗi

nấm mộ của nàng Nga và Hai Mối

Nàng Nga được chôn cạnh Hai Mối. đều mọc lên một cây đa, cành lá vươn

qua sông quấn quýt lại nhau.

Quan tài vua Ao Ước không ai vớt

cũng trôi đến chỗ mộ của nàng Nga. Không có chi tiết này. Ở chốn suối vàng vua Ao Ước đi kiện

Hai Mối cướp vợ, Diêm Vương cho

Hai Mối thắng cuộc. Sau đó, trên mộ

vua Ao Ước cũng mọc lên một cây

đa. Nơi đấy, người ta gọi là cây đa

bến Đuộng.

Một văn bản của Cao Sơn Hải sưu tầm và biên dịch dài 1757 câu. Về nội

dung văn bản của Cao Sơn Hải có m ố chi tiết khác biệt so với văn bản ột s của

Minh Hiệu được biểu hiện ở bảng 1.4.

Bảng 1.4 a . Sự khác nhau giữa văn bản củ Cao Sơn Hải sưu tầm và văn

bản của Minh H iệu sưu tầm.

Văn bản do Cao Sơn Hải sưu tầm Văn bản do Minh Hiệu s ưu tầm

Mở đầu tác phẩm giới thiệu về chàng Giới thiệu về gia đình của nàng Nga.

Hai Mối.

Hai Mối đến chơi nhà nàng Nga có oa đến Hai Mối cùng chàng Trí H

một mình, lại tự nhận là người buôn thăm nhà và nói t hật về hoàn cảnh gia

bán. đình.

Hai Mối cùng nàng Nga thề nguyền Họ trao kỷ vật cho nhau.

nhưn g không trao kỷ vật.

Hai Mối bắn hạ con diều và bắt lấy tờ Con quạ thả tờ thư xuống cho Hai thư. Mối.

đến đất Thượng Lào giả làm Hai Mối Hai Mối chỉ trách nàng Nga. ngườ cách chọc i bán hàng và tìm

ghẹo để mắng nàng Nga:

“Con Nga

Con mắt mi là mắt lợn

Mũi mi không bằng mũi chó…”

Mộ Hai Mối và nàng Nga mọc lên hai

cây đa. Mộ Hai Mối và nàng Nga được chôn

cạnh nhau.

b. Tóm tắt văn bản.

Nàng Nga là con gái lớn của ông cun Đủ bà đạo Dà giàu có và quyền thế.

Một ngày nọ, nàng xin phép cha mẹ đi chơi chợ Cẩm Thủy, Quan Hoàng

mong tìm bạn đời. Nàng gặp Hai Mối, con trai của cun mường Trắng, rặng

Mường Trò. Đôi trai gái đã yêu nhau và thề ước “nên cửa nên nhà”. Hai Mối

trở về đưa binh mường đi đắp đập khai hoang đợi ngày đi hỏi nàng Nga. Cha

mẹ ép gả nàng cho vua Ao Ước nước Thượng Lào. Nàng Nga viết thư báo

cho Hai Mối biết để tìm cách cứu nàng và cứu lấy mối tình.

Hai Mối nhận được thư thì đã muộn nhưng chàng vẫn huy đong binh

mường giải cứu cho nàng Nga. Nhưng nàng đã đến đất Thượng Lào. Hai Mối

vẫn quyết vượt gian khổ để đi tìm và giành lại nàng Nga. Gặp lại nhau ở chợ

đất mường nhà vua Ao Ước, hai người tìm cách để được sống bên nhau.

Không có cách nào sống hạnh phúc bên nhau trên cõi đời này. Hai người hẹn

gặp nhau ở nương dâu. Hai Mối trở về chờ đợi. Buồn rầu, Hai Mối chết bên

rẫy dâu. Nàng Nga sau khi làm ma cho Hai Mối, trở về nhà chồng ngã thang

chết. Vua Ao Ước vì ghen tức, trong nhà chạy ra đánh nàng bị trượt chân, ngã

thang cũng chết. Quan tài nàng Nga không chịu chôn cùng vua Ao Ước nên

được thả trôi sông. Quan tài nàng trôi về đến quê nhà, Út Thái cùng Trí Hoa

ra đón, chôn cạnh mộ Hai Mối. Từ đấy họ mãi mãi ở bên nhau.

Người Mường là một tộc người bản địa cư trú lâu đời trên đất nước Việt

Nam. Với một nền văn hóa giàu bản sắc và độc đáo, một xã hội ổn định, nền

kinh tế phát triển theo hướng tự cung tự cấp. Một dân tộc đã có nhiều đóng

góp cho sự hình thành và tiến trình phát triển chung của đất nước và của nền

văn hóa dân tộc Việt nam. Người Mường đã đạt những thành tựu nhất định về

VHDG, đặc biệt là ở thể loại truyện thơ. Có thể nói, truyện thơ là giá trị tinh

thần, là thông điệp của ông cha nhằm gửi gấm đến những thế hệ sau. Với bốn

TTTT được khảo sát chính là đỉnh cao của truyện thơ dân tộc Mường. Bốn tác

phẩm đã khai thác được những vấn đề chung nhất của xã hội Mường thời bấy

giờ. Từ những vấn đề mang tính chất xã hội cho đến phạm vi gia đình. Tác

phẩm đạt được những giá trị hiện thực về xã hội cho đến những giá trị nhân

đạo cho con người. Đặc biệt là lên tiếng đòi quyền tự do yêu đương và hạnh

phúc cá nhân. Tiếng nói ấy được thể loại truyện thơ ủng hộ đắc lực nhất và có

tác dụng nhiều nhất.

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG

CỦA TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG

2.1. Truyện thơ trữ tình Mường phản ánh bức tranh hiện thực

Mường.

Văn học vốn dĩ miêu tả rất đúng với bản chất cuộc sống hiện thực. TTTT

Mường cũng không nằm ngoài quỹ đạo này. Bốn TTTT được chọn để khảo

sát ít nhiều cũng đã phản ánh được xã hội Mường cũ. Từ sự bóc lột, áp bức

của chế độ lang đạo cho đến việc miêu tả cuộc sống xa hoa, phung phí của họ.

Từ việc tố cáo tư tưởng trọng nam khinh nữ, quyền thế của cha mẹ đối với

tình yêu con trẻ cho đến khắc họa các phong tục, tập quán của người Mường.

Điều này đã giúp cho TTTT Mường dễ dàng đi sâu vào lòng người Mường.

2.1.1. Ca ngợi xứ sở Mường trù phú, giàu đẹp:

Đó là hình ảnh của một không gian xã hội Mường rộng lớn, đất đai trù

phú, phì nhiêu, dân cư đông đúc. Đó là cảnh đồi núi, sông Mã, sông Ngang,

núi Làn Ai, giếng nước Ao Trong, Ao Kha, núi Con Ca, vườn hoa chân núi

Cối… Trên những cụm đồi, bãi cỏ xanh đàn trâu bò gặm cỏ, cảnh đồng ruộng

thung lũng, những nương dâu xanh rờn, có những người con gái đi hái dâu

sớm. Xa xa đâu đó có những ngôi chùa nhỏ nép mình bên chân núi, thấp

thoáng đóa hoa bông trăng, có bầu trời trong xanh, có lèn đá trắng. Những

ngày tháng giêng, tháng hai có những con ó núi bay lượn trên từng mây xanh

tít tắp, tiếng kêu văng vẳng gợi nhớ gợi thương…

Đó là cảnh lao động nên thơ trên chốn nhà sàn. Con trai khi không cày

bừa vỡ ruộng khai hoang thì đan chài, vá lưới hay quăng chài thả lưới trên

sông. Những cô gái ban đêm vẫn chong đèn dệt phà, dệt gấm đến khuya. Một

vùng đất với những cảnh trí tuyệt đẹp. Vào vườn hoa, con người choáng ngợp

trước vẻ rực rỡ của các loài hoa:

“Nhìn thấy bông hoa quế

Nở lẫn với lá hoa thông

Thấy cây chu đồng

Ra hoa trong sáng

Hoa chu chiêng đang nở cái

Cây hoa lài ra hoa nở kép”[105, tr. 391]

Muôn loài đang khoe sắc rực rỡ, từng chùm, từng chùm đang phô bày vẻ

đẹp của mình. Nhìn đâu cảnh vật cũng hữu tình, cây cối xanh tươi, muôn hoa

kết trái, sức sống vươn lên mạnh mẽ: vườn cà, vườn thông với những quả trĩu

trịt “chín lươt mười tầng”, nào là rặng hoa lài ra hoa trắng bạc, nào là hoa chu

đồng, bông chu chiếng nở hoa rực rỡ.

Hình tượng cây chu đồng - biểu tượng khá đặc trưng cho văn hóa tâm

linh của người Mường. Trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước” miêu tả khá kỹ việc tìm

ra cây chu - chặt cây chu - kéo cây chu của vua Dịt Dàng. Cây chu là một cây

thần linh: thân bằng đồng, bông bằng thau, quả bằng thiếc, cây hay nói hay

cười và có nhiều phép thuật. Ở phần chú thích của quyển “Mo, sử thi và thần

thoại Mường” do Vương Anh chủ biên, ghi khá rõ về cây chu. “Chu là cây

dâu gia đất. Nhưng ở đây nghĩa là cội nguồn của cây rừng, tượng trưng cho sự

thinh vượng. Cây chu là cây thần, tượng trưng cho sự tôn kính, cây lâu năm

đã được coi như con người…”[9]. Ở phần Lời giới thiệu, Phan Đăng Nhật cho

rằng: “Hình tượng cây chu đồng đánh dấu sự ra đời của kim loại, sự xuất hiện

giai cấp và cùng với nó là những bi kịch xã hội như Anghen đã viết trong

“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” [9]. Lê Trường

Phát và Bùi Văn Thành cho rằng: “Cây chu đồng không phải cây mà đó là tên

một thị tộc. Việc chặt cây chu đồng là phản ánh cuộc chiến tranh thị tộc giữa

“vương triều” Dịt Dàng với thị tộc “Cây Chu Đồng” ở phía Tây - Bắc Thanh

Hóa. Đây là cuộc chiến tranh cướp bóc của Dịt Dàng nhằm vơ vét của cải đồ

đồng của thị tộc Cây Chu Đồng đem về kinh kỳ Kẻ Chợ để củng cố sức mạnh

vương triều của mình - vương triều đầu tiên ở vùng đồng bằng châu thổ sông

Hồng [68].

Mỗi tác giả có một kiến giải khác nhau về hình tượng cây chu đồng, đúng

hay sai không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Trong phạm vi của luận

văn, người viết cũng cho rằng hình tượng cây chu đồng được miêu tả trong

truyện thơ là biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng của bản mường.

Đất đai tươi tốt cho nhiều sản vật:

“Đất làm mùa, mùa được liền liền

Đất trồng kê, kê lên kín rẫy”[105, tr. 339]

Tôm cá vô cùng phong phú về chủng loại:

“Đánh được con cá trắm bằng mái chèo

Được con cá khộc bằng mo nang

Được con cá chép, cá mương ráng

Được cá bào, cá trôi”[105, tr. 368]

Những sinh hoạt văn hóa dân gian được phản ánh đậm nét vào

truyện thơ. Vui nhất là vào những ngày hội, ngày hội kéo dài từ tháng

giêng cho đến tháng hai tháng ba. Mọi người tham gia vui chơi thoải

mái.

“Vui lắm lại lành nhiều

Vui sân hội chùa cồng cây đa Tràng Đúng

Thi nhau bắn súng ném bia

Chọi trâu lấy giải

….

Ném thi còn vòng trong hội trong sân

Vui râm ran sáng đêm tối ngày

Từng đoàn những trai cùng gái

Đua nhau quay lưới nhảy dây

Leo dây, múa rối

Mở hội linh đình

Đắp bờ đầm Kinh tôn lên làm chợ

Đắp bờ đầm Kinh cao lên làm hàng”[105, tr. 374].

Chỉ là một trong những dịp hiếm hoi của người dân lao động để họ

quên đi những nỗi vất vả, cực nhọc hằng ngày của mình. Đây cũng là dịp cho

trai gái tìm hiểu nhau, bày tỏ tình cảm với nhau.

2.1.2. Sự bóc lột, áp bức của chế độ lang đạo:

Trong xã hội Mường cũ, để bảo tồn địa vị của mình, tầng lớp lang đạo

luôn đặt ra những luật lệ hà khắc nhất buộc người dân phải tuân theo và phục

dịch cho họ. Để tồn tại trong xã hội “cá lớn nuốt cá bé” thì tầng lớp lang đạo

đôi khi không từ bỏ một thủ đoạn nào để đạt được mục đích của mình, người

đấy có thể là một đấng chí tôn.

Đạo Tu Liêng xuất thân từ tầng lớp lang đạo nhưng vẫn lo lắng không

yên vì không có người đi hầu vua lang Kẻ Chợ. Quyền hành của ông có thể sẽ

rơi tay kẻ khác, tài sản của cải cũng bị tịch thu. Út Lót thưa với cha để con gái

thay cha gánh vác trọng trách. Hai người chị thẳng thừng từ chối. Gặp lúc gia

cảnh nguy khốn, hai chị chỉ nghĩ đến bản thân mình. Họ không hiểu sự quan

trọng của vấn đề. Út Lót rắn rỏi nói ra điều cốt lõi:

“Của bố mẹ để lại

Chín trăm vạn mười ngàn

Chỉ hòng mất, chị em ta cũng không hòng được!”

[105, tr. 314]

Út Lót thông minh, suy nghĩ cặn kẽ. Nàng nhanh chóng rút ra những điều

quý giá cần và đủ để tồn tại trong xã hội lang đạo. Để đối đầu với khó khăn,

nàng tìm mọi cách và chỉ có cách duy nhất là phải đi chầu vua lang Kẻ Chợ.

Út Lót chọn giải pháp giả trai lên đường thay mặt cha mẹ đi chầu Vua lang

Kẻ Chợ. Bất chấp hiểm nguy và khó khăn, Út Lót không chùn bước. Đến

ngày phải đi chầu vua, nàng đã lên đường mang tên là đạo Mường Đẹ.

Đạo Mường Đẹ nhiều lần tâu vua xin được trở về nhà thăm cha mẹ già

ngày đêm mòn mỏi đợi trông, nhưng “vua còn bắt đợi”. Một hình thức lưu giữ

con tin. Chỉ vì muốn bảo vệ ngai vàng thêm vững vàng. Số mệnh con tin nằm

trong tay vua, các lang đạo không dám làm phản hoặc không dám đứng lên

chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ phong kiến chuyên quyền.

Trong truyện thơ “Vườn hoa núi Cối” hiện thực xã hội Mường hiện lên

càng đậm nét. Chế độ nhà lang chi phối rất mạnh. Các lang đạo thường gay ra

những cuộc chiến tranh nhằm giành đất, tranh mường, chiếm của cải. Đó là

thước đo của sự hùng mạnh:

“Anh em Pù, xưa là tướng mạnh

Rủ nhau đi đánh giặc với Mường Vang

Thấy núi Tam Thàng bên kia rực rỡ

Kéo quân quyền không đi trở lại

Đóng quân đầy hết dẫy ruộng Ba Kho”[105, tr. 363]

Đất nước ông cun Vì Thàng là một đất nước hùng mạnh thường chinh

phạt những vùng lân cận, từ trẻ em cho đến người già, từ tầng lớp bị trị cho

đến tầng lớp lang đạo đều nghe khó nghe nhọc, chỉ muốn:

“Muốn trốn, muốn chạy khỏi đất nước Cun Thàng

Lúc nào cũng không khỏi”[105, tr. 363]

Điệp ngữ được lặp đi lặp lại bốn lần nhằm nhấn mạnh tính chất bóc lột vơ

vét của cun đạo. Nhân dân chán ghét sự phục dịch, chán ghét chiến tranh do

các lang đạo gây ra. Quyền lực của cun Vì Thàng rất lớn mạnh, “Kẻ khó”

không cho sang mà “con cun, con chàng” cũng không cho ai qua. Khi ông

cun Vì Thàng hay tin hai nàng Thờm, Tiên ăn lá ngón chết cùng hai chàng

Va, Khói, ông đã bắt lấy bố mẹ cô gái Thờm, Tiên đem ra “làm tội, làm vạ”,

đem “gông cùm” ra bắt trói bố mẹ nàng Thờm, Tiên. Vừa mất con vừa bị

gông cùm, bố mẹ nàng Thờm, Tiên vừa bực, vừa tức lại sầu thương trong

lòng. Để thoát khỏi cảnh tù tội, bố mẹ nàng bèn:

“Dậy gán hết khoang hiên sau nhà

Gán hết ruộng Tra, Pè hạo

Gán hết đất đạo trồng trong”[105, tr. 437]

Điều lý thú là, người đứng ra nhận đất đai nhà nàng Thờm, Tiên gán

lại chính là ông cun Vì Thàng. Bắt vạ là một hình thức bóc lột rất phổ biến

trong xã hội Mường, dân bị phạt vạ phải nộp phạt, của cải thuộc về quan lang,

không có tài sản phải đến làm công cho nhà lang. Cha mẹ nàng Thờm, Tiên

muốn thoát khỏi gông cùm nên gán hết đất đai tài sản cho ông cun Vì Thàng.

Người dân càng thấp cổ bé miệng thì càng chịu thiệt thòi, đau khổ. Đó là bi

kịch khốn khổ của những người dân lương thiện phải chịu những cảnh bất

công của xã hội cũ gây ra.

Ở truyện thơ “Nàng Nga - Hai Mối”, người đại diện cho kẻ có quyền lực

đó chính là vua Ao Ước. Vua Ao Ước ở chốn xa xăm, nghe tiếng nàng Nga

đẹp người, đẹp nết liền cậy người mai dong tới hỏi cưới:

“Đến nhà cun Đủ đạo Dà

Xin hỏi nàng Nga về làm ngôi vợ cả”[105, tr. 484]

Tình cảm của nàng Nga với Hai Mối đang nồng đượm. Nào ngờ, vua Ao

Ước đến hỏi, cha mẹ nàng Nga tham giàu phụ nghĩa. Quyết lòng gả nàng Nga

về chốn xa xăm làm “vợ cả nhà vua Ao Ước”. Hình ảnh vua Ao Ước khiến

gợi nhớ đến hình ảnh vua Trang Vương trong truyện Nôm “Phạm Tải - Ngọc

Hoa”. Trang Vương đã dùng uy quyền để tranh vợ người. Sự so sánh đôi khi

có phần khập khiễng, có lẽ đúng trong trường hợp này. Vua Ao Ước không

trực tiếp hành động như Trang Vương nhưng ông chính là nguyên nhân gián

tiếp gây ra sự chia lìa đôi tình nhân nàng Nga - Hai Mối. Mà người trực tiếp

chịu sự chi phối quyền lực của vua Ao Ước gây cảnh tang thương chính là

cha mẹ của nàng Nga.

Chỉ qua vài nét phác họa, TTTT Mường đã lột tả rõ bộ mặt của những

người chăn dân trị nước. Hình ảnh một vua Kẻ Chợ không tin tưởng vào bản

thân trị nước mà dùng quyền uy để giam giữ con tin, một vua Ao Ước dùng

của cải chiếm đoạt gái đẹp về làm vợ, một ông cun Vì Thàng cướp đoạt ruộng

đất của dân làm tài sản riêng…. Và còn biết bao hình ảnh vua chúa, lang đạo

khác khắp xứ sở Mường nữa đã dùng quyền uy và tiền của để ức hiếp cuộc

sống bình yên của người dân. Truyện thơ trữ tình Mường góp phần giúp ta

hiểu thêm về xã hội hiện thực của nhân dân Mường trong một thời kỳ đã xa.

2.1.3. Cuộc sống xa hoa, phung phí của tầng lớp lang đạo Mường

Để phục vụ cho cuộc sống sung túc, giàu có, bọn lang đạo không ngừng

dùng mọi thủ đoạn vơ vét, bóc lột nhân dân. Không đổ mồ hôi và công sức

mà vẫn được ăn sung mặc sướng. Đó là mục đích sống của những lang đạo

tham lam. Cuộc sống xa hoa, phung phí của cun Vì Thàng đã phơi bày ra tất

cả dưới con mắt tinh đời của nhân dân. Hầu như mọi ngõ ngách đều hiện ra

mồn một.

Nhà của cun Vì Thàng có rất nhiều thứ: “giàu rồng giàu vàng”, “giàu

trâu lắm bò”, “cơm kho lúa thiếng”, “nồi đồng, xanh, viếng”. Nhà to cửa

rộng, chiều dài mười lăm ngăn, có ngăn cho thợ đúc bạc, có chốn cho thợ đúc

đồng. Người vợ ông cun Vì Thàng cũng là “ con vua lang kẻ chợ”, là người

sang cả giàu có, thuộc tầng lớp hoàng tộc, có quyền hành lớn. Ông cun Vì

Thàng giàu sang quyền quý, có kẻ hầu người hạ, được thưởng thức tất cả các

món ngon vật lạ trên đời:

“Bày cỗ mâm bàn do nem, chả xáo

Có cả thịt cáo, thịt muông

Có chả sườn cong cong, ngon đẹp

Canh nấu thịt nướng không thiếu thứ chi”[105, tr. 374]

Trong khi đó, cuộc sống của người dân từ trẻ thơ cho đến người già, từ

người dân nghèo khổ cho đến các cun, lang đạo thì “nghe khó nghe nhọc” lúc

nào cũng muốn:

“Muốn trốn, muốn chạy khỏi đất cun Trưởng lý Vì Thàng”

Thật là hai cảnh trái ngược nhau. Không cần bình luận một lời nào nhưng

kết quả đã quá rõ ràng. Để tạo được sự giàu có, xa hoa nhung lụa do bọn lang

đạo, người dân lao động phải đánh đổi bằng mồ hôi và nước mắt. Vì sao họ

muốn trốn, muốn chạy khỏi đất nước này? Chỉ vì không chịu nổi những hà

khắc của cun Vì Thàng. Muốn trốn, muốn chạy nhưng cũng không thể nào

thoát được.

Lời thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình kể lại hình ảnh của một xứ sở giàu

đẹp, đông đúc nhưng ẩn đằng sau cuộc sống xa hoa giàu sang của tầng lớp

lang đạo đó là tất cả những nỗi cơ cực, vất vả của những người dân hiền

lương. Một hiện thực xã hội được phơi bày, một xã hội bất công “kẻ nào

mạnh, kẻ ấy thắng”. Vâng, người chịu thiệt thòi nhất cũng chính là những

người dân lương thiện.

Trong truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối, nàng Nga là con gái của ông cun

Đủ đạo Dà đi chơi chợ gặp Hai Mối, một lang đạo ở đất Tre Trắng Tre Trò.

Nàng Nga thử lời thử tiếng chàng bằng cách:

“Cơm em ăn, một ngày chín kén thứ gộ

Xống áo em mặc, một ngày chín thợ hàng may

Vòng tay em đeo, một ngày chín thợ hàng bạc

Chiếc khăn em thắt, chắc hết chín trâu mười bò

Ai giàu của giàu tiền đếm không xuể, kể không xong

Mới mong mua được”[105, tr. 473]

Nàng Nga thử thách đối phương có thật sự là người giàu có, có xứng với

nàng không? Nàng chỉ chọn những nơi nào có đủ: chín chục trâu, đủ chín

chục ngựa, chín chục con lợn vậm ngà, chín mươi con gà cong cựa cùng đuôi,

giàu bạc giàu vàng, giàu khôn ngoan để nàng chọn người trông coi nhà cửa.

Đó là kiểu cách của một cô gái quyền quý, cao sang nên điều kiện nàng đưa ra

quả là một thách thức lớn. Gia cảnh của Hai Mối chẳng hề thua kém:

“Cơm nhà anh ăn, một ngày hết chín thúng gạo

Áo anh mặc, một ngày chín mớ lụa vàng

Bố nhà anh ngồi trên chiếu vàng

Ở bên trên bảo ban lời xuống”[105, tr. 475]

Chẳng những giàu của giàu tiền mà còn có quyền cao chức trọng. Thật là

“một cặp đôi hoàn hảo”, “môn đăng hộ đối”, gia thế Hai Mối hoàn toàn xứng

đáng với sự mong mỏi của nàng Nga. Quan niệm chọn bạn tình của nàng Nga

(Mường) khác hẳn với những cô gái quyền quý, những nàng công chúa trong

truyện Nôm (Kinh). Nàng Ngọc Hoa (Phạm Tải - Ngọc Hoa) khăng khăng lấy

bằng được anh hàn sĩ đi ăn mày đến nỗi viên tri phủ, kẻ đại diện cho phụ

quyền tuyệt đối trong gia đình phong kiến cũng phải đầu hàng trước ý muốn

của con gái:

“Lòng con nhất quyết tơ hồng

Thời cha cũng phải chiều lòng biết sao?”[38, tr. 105]

Có lẽ nàng Nga là một cô gái đặc biệt nhất trong số các cô gái có mặt

trong truyện thơ ở nước ta trong việc chọn đấng lang quân. Vì nàng đã xem

trọng “môn đăng hộ đối”, nó là thứ gia vị không thể thiếu cho tình duyên của

mình.

Cuộc sống vua Ao Ước được tác giả dân gian miêu tả khá chân thực.

Ngôi nhà: chín lần cổng, mười hai lượt rào, đồn trong điếm ngoài, trong nhà,

có đến “chín vợ thiếp, mười hai bà nàng”. Khi nghe nàng Nga khóc than về

cái chết thảm thiết của cha già, vua Ao Ước đem lễ vật về cúng cha vợ trả

hiếu:

“Chọn trăm con bò sừng bằng lá nánh

Chọn trăm con trâu sừng bằng lá va vo”[105, tr. 523]

Để nàng Nga đem về đất Đủ Ó mường Dà làm chay to, làm mo trọng

trả ơn:

“Cho giết trâu to bò béo

Mỗi thứ là bảy mươi con

Làm chay đưa hồn

Làm ma gọi vía”[105, tr. 526]

Nhưng thật ra, đấy là đám tang mà nàng Nga lo cho Hồ Liêu - người

tình của nàng. Vua Ao Ước hay tin nàng Nga dối chồng về lo tang cho người

tình, ông vô cùng tức tối và ngã lăn ra chết. Đám tang của vua Ao Ước linh

đình bội phần:

“Quan lang mường bản kéo về

Mở đám làm ma cho ông vua chết trẻ”[105, tr. 529]

Lời thơ sinh động, giàu hình ảnh, giúp cho ta hình dung một đám tang rất

linh đình, thậm chí là phung phí. Đành rằng tang ma là một trong những nét

đặc sắc về văn hóa của con người, “nghĩa tử là nghĩa tận”. Nhưng đám tang

trong TTTT Mường miêu tả là đám tang của những người thuộc tầng lớp lang

đạo tốn kém rất nhiều tiền của. Nhân dân trong mường phải có nghĩa vụ đóng

góp để làm tang ma cho lang đạo của mình. Đám tang của các lang đạo càng

lớn bao nhiêu, càng linh đình bấy nhiêu thì nhân dân càng khốn khổ bấy

nhiêu. Đây là dịp để các lang đạo khoe khoang sự giàu có của gia tộc mình

khiến cho các lang đạo khác phải khiếp sợ và nể phục.

Hiện thực xã hội Mường dần dần hiện rõ trên từng trang thơ. Người

dân không một lời kêu ca hay than phiền về nỗi vất vả, cơ cực của mình.

Chính những hình ảnh nhà cao cửa rộng, cuộc sống “ăn sướng mặc trơn” của

những người ăn trên ngồi trước đã minh chứng cho một xã hội đen tối, ngột

ngạt, bế tắc không lối thoát của người dân lao động.

2.1.4. Tư tưởng trọng nam khinh nữ.

Đây là nỗi đau nhức nhối trong xã hội Á Đông, tư tưởng trọng nam khinh

nữ luôn đeo đẳng vào thân phận người phụ nữ khiến họ bế tắc, thậm chí có

người còn viện đến cái chết để giải thoát. Đối với người Mường, điều bất

hạnh đối với họ là không có con trai. Trong truyện thơ Út Lót - Hồ Liêu, đạo

Tu Liêng đã có hai con cô gái. Ông hy vọng vào lần sinh thứ ba này. Ông

nằm cạnh cửa sổ để chờ đợi tiếng trẻ khóc chào đời. Câu hỏi đầu tiên của đạo

Tu Liêng là:

“Con trai hay là con gái?

Trai ta nuôi nối dõi

Gái chẳng nuôi làm chi”[105, tr. 310]

Tư tưởng của đạo Tu Liêng gần với tư tưởng của người Kinh:

“Một trai là có, mười gái là không”. Sự mong mỏi có con trai nối dõi của

đạo Tu Liêng không phải không có nguyên do, vì con trai sẽ là người thừa kế

tài sản, là người thay cha sau này cai quản bản mường.

Nỗi lo lắng của đạo Tu Liêng còn cấp bách hơn, vua Kẻ Chợ buộc các lang

đạo mường phải đi chầu vua, lệ vua ban ra không ai được hoãn, lang đạo nào

không tuân lệnh sẽ bị phạt rất nặng “bốn mươi lợn cong ngà”, “ba mươi gà

cong cựa cùng đuôi”. Đạo Tu Liêng vốn đau khổ vì không có con trai nay lại

càng khốn khổ hơn vì lệnh vua buộc phải có con trai đi hầu. Nỗi lo lắng cứ

day dứt, khiến ông mất ăn mất ngủ, buồn bực trong lòng. Ông ngày đêm

“than thân trách vía”, “chửi vía mắng thân” cho sự khốn khổ của bản thân

không có con trai nối dòng và không có người đi chầu vua lang:

“Khốn thân ta dường này hỡi vía,

Hại thân ta dường này, hỡi trời!”[105, tr, 312]

Vào đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đặt chế độ lưu quan (hình thức lưu giữ

con tin) khiến cho các lang đạo rất lo lắng về số phận của mình. Đạo Tu Liêng

không có người đi chầu vua, sẽ mang trọng tội. Út Lót thấy cha khắc khoải,

âu lo nên nàng đã thử tìm cách:

“Nàng Út Lót mới giả làm con trai

Mặc áo dài, đầu chít khăn nhiễu”[105, tr. 315]

Út Lót làm khách lạ đến nhà, bố không nhận ra. Đến khi Út Lót nói thật,

ông vui mừng thốt lên:

“Ai biết chuyện thế này hỡi vía!

Ai hay phúc còn để cho ta, hỡi trời!”[105, tr. 316]

Út Lót lên đường đến kinh kỳ mang tên là đạo Mường Đẹ. Đạo Mường

Đẹ khôn khéo múc bat nước đặt giữa hai giường ngủ. Việc làm của đạo

Mường Đẹ đã khiến cho vua lang Kẻ Chợ nghi ngờ. Vua hỏi tội:

“Rằng: “Cun nào cun gái

Cun nào cun trai

Cho cứ lời ngay mà tâu cho thiệt”[105, tr. 325]

Người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị giam hãm trong bức tường của

lễ giáo phong kiến, cuộc đời của họ chỉ quẩn quanh dưới mái nhà, không

được tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Huống hồ trong triều đình làm sao chấp

nhận được người phụ nữ mang trọng trách của đấng nam nhi. Một điều mà xã

hội chưa chấp nhận. Những quan niệm bất công vô lý “Nam tôn nữ ti”, “Tam

tòng tứ đức” đã đưa người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong xã hội và

cả trong gia đình. Huống hồ chi, Út Lót giả trai vào kinh thành hầu vua thay

mặt cha. Nếu vua biết thì tai họa khủng khiếp biết dường nào. Nàng đã bình

tĩnh, can đảm, mạnh dạn đứng ra tâu với vua:

“Tôi cũng con trai, đi hầu vua bà cho thay mặt mẹ”

Đạo Mường Đẹ dứt khoát, cương quyết trong hành động và lời nói đến

nỗi vua phải tin. Vua không tin ngay được, một điều kiện mới được đưa ra:

“Đạo Mường Đẹ đi đánh cá cho được nhiều con

Đạo Hồ Liêu hái rau vay non cho được nhiều lá”[105, tr. 325]

Lời vua phán đã khiến cho đạo Hồ Liêu “đầu hôm siếc khốn, sớm ngày

siếc khó”. Vì người Mường có sự phân công lao động khá rõ rệt. Người đàn

ông phải biết đan lát, đeo dao quắm vào lưng ra đắp bờ ruộng, đoán biết ngày

giờ trăng lên để vào rừng săn thú, ra suối đánh cá. Còn người phụ nữ phải biết

cấy gặt, trồng rau trên nương rẫy, hái quả ở núi rừng, tối về kéo sợi, dệt vải,

làm cạp váy. Điều kiện của vua ban ra nhằm xem đạo Mường Đẹ có phải là

gái hay không. Đạo Mường Đẹ nhanh trí nghĩ ra cách đáp ứng được yêu cầu

trái khuấy của vua. Đạo Mường Đẹ bảo Hồ Liêu cứ việc ra sông bắt cá còn

hái rau cứ để cho mình lo. Nhờ thông minh, bình tĩnh, Út Lót vượt qua thử

thách của vua:

“Đạo Hồ Liêu vào tâu

Nộp đủ giỏ đầy rau đẹp lá

Đạo Mường Đẹ vào tạ

Nộp con cá bằng đuôi ván chéo”[105, tr. 325]

Bên cạnh đó, nạn thách cưới đã tiêu tốn một số lượng lớn tiền của trong

các cuộc hôn nhân đã biến người phụ nữ thành thứ hàng hóa, trao đổi. Điều

này càng khiến cho họ phụ thuộc vao người đàn ông. Chàng Va, Khói trong

truyện thơ “Vườn hoa núi Cối” được mọi người khen là “Người vừa khôn lại

vừa tử tế”, được cha mẹ cho dựng cửa xây nhà, một bà đã có con, một bà

đang có chửa.Thế nhưng sau khi đi chơi đất ông cun Vì Thàng, gặp hai cô

nàng Thờm, Tiên, hai anh Va, Khói có ý định muốn hai nàng về làm vợ :

“Em bán bao nhiêu là tiền

Anh mua về cầm quyền nuôi cha mẹ”[105, tr. 403]

Còn số phận người vợ mà cha mẹ đã cưới hỏi ở trong nhà thì sao? Hai

chàng đã thưa lại ý định của mình với cha mẹ:

“Con bỏ vợ bà cho về Trù Tráng

Mạng Ưới cho về Hang Lòn”[105, tr. 408]

Hai chàng quyết tâm cưới Thờm, Tiên về làm vợ. Hai người chồng ruồng

bỏ vợ nhà. Hai người phụ nữ: một có con nhỏ, một đang bụng mang dạ chửa

chẳng làm điều chi sai trái. Hai nàng “nước mắt hai hàng” nhưng cũng chẳng

làm cho hai người chồng bận tâm hay xót xa. Hai người vợ năn nỉ, van xin hết

lời được ở lại nhà, lời van xin thật thống thiết:

“Em đã có chửa cùng anh chín tháng

Em chẳng có, chị không hề

Dòng dõi đi về không có

Họ mạc thì ở xa”[105, tr. 412]

Bố mẹ Va, Khói ngăn cản không cho hai anh cưới Thờm, Tiên. Chỉ vì,

đám cưới đã tiêu tốn rất nhiều tiền của của họ:

“Mất ba trăm quan tiền

Không tính đến cơm ăn rượu uống

Rượu cần không khỏi rượu tăm

Tiền trăm không khỏi bạc vàng”[105, tr. 409]

Người Mường quan niệm, lấy vợ cho con trai là lấy sức lao động. Vì vậy

người phụ nữ khi đặt chân về nhà chồng là phải làm việc cật lực. Hai người

vợ của Va, Khói làm tròn bổn phận dâu con:

“Việc cửa việc nhà nó đã có công

Việc ngoài đồng dầm mưa dãi nắng

Việc nặng nhẹ nó đều lo”[105, tr. 409]

Trong khi đó, hai chàng Va, Khói mải lo đi chơi. Hai nàng vẫn phải ngậm

ngùi, buồn tủi trở về gia đình. Sự trở về lặng lẽ, thui thủi trên đường quê vắng

vẻ khiến cho ai cũng phải chạnh lòng.

Người vợ mà cha mẹ Hồ Liêu cưới có tình cảnh cũng đáng thương, tội

nghiệp. Chàng lạnh lùng, dửng dưng không thèm đoái hoài đến nàng:

“Ban sớm, lên chín dốc thử ngựa

Ban trưa, đem chín chục trai đứa đắp mương

Ban tối, đóng ba lần cửa chặt”[105, tr. 347]

Hồ Liêu vẫn một lòng một dạ sắt son cùng Út Lót, khi ăn cơm, uống

nước lúc nào cũng gọi vía nàng. Hồ Liêu lạnh lùng, thờ ơ nhưng vợ chàng vẫn

làm tròn bổn phận người vợ hiền, hầu hạ chồng sớm hôm, không một lời trách

cứ. Nàng nói cùng Hồ Liêu thật cảm động:

“Tan đôi ai cũng đành

Chẳng để tan em với anh mà khổ”[105, tr. 347]

Nàng tìm mọi cách để kéo chồng về với mình, khuyên lơn chàng. Niềm

hy vọng chất chứa trong nàng vẫn cao vời vợi, hy vọng một ngày nào đó Hồ

Liêu sẽ nghĩ lại, sẽ thương yêu người vợ hiền. Quả thật sức chịu đựng của

những người phụ nữ Mường thật đáng khâm phục. Trong cô đơn, lạnh lùng,

họ vẫn một lòng chờ đợi và hy vọng, dù sự hy vọng còn xa xăm, mờ mịt.

“Hoa chưa kịp nở sớm, thì hoa sẽ đẹp về chiều”[105, tr. 347]

Dư luận xã hội, định kiến xã hội, luật tục Mường không cho phép người

phụ nữ bỏ chồng, mặc dù người chồng cô hết lòng yêu thương, kính trọng vẫn

ôm ấp bóng hình người con gái khác. Nàng một mình vò võ, cô đơn chiếc

bóng, chỉ vì nàng sợ “đất bên cha mang điều tiếng rẻ, mường bên mẹ mang

điều tiếng khinh”. Cô gái về nhà chồng trên vai mang một trọng trách rất nặng

nề:

“Đem chuông đi đấm nước người

Chẳng kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”.

Dẫu cho người chồng không yêu, không thương vẫn phải ngậm ngùi chấp

nhận cảnh “phòng không bóng chiếc”, vẫn phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” vì sợ

mang tiếng xấu, tiếng khinh đến cha mẹ. Những người phụ nữ mang đầy

phẩm giá cao thượng: hết lòng chiều chuộng chồng, hầu hạ bố mẹ chồng,

gánh vác công việc nhà chồng mà lại phải một mình gánh chịu ngậm ngùi cay

đắng.

Truyện thơ Mường khắc họa các khía cạnh trong đời sống thường nhật

của thân phận người phụ nữ Mường. Đó là một bức tranh hiện thực nhất về

những con người chịu nhiều đau thương và oán hờn. Họ là những con người

thủy chung, nhân hậu, lại chịu thương chịu khó. Truyện thơ trữ tình Mường

còn là tiếng kêu thương của người phụ nữ, đồng thời cũng là tiếng nói đấu

tranh giành lại những gì tốt đẹp nhất đáng ra họ phải được hưởng.

2.1.5. Quyền thế cha mẹ trong tình yêu con trẻ.

Xã hội phong kiến đặt ra những khuôn phép khiến cho người con gái

hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “Áo mặc

sao qua khỏi đầu”. Những quan niệm đó đã trói buộc thân phận người con gái

vào bức tường lễ giáo gia phong. Những cô gái đang độ tuổi xuân, hừng hực

sức sống đành cam chịu lỡ nợ lỡ duyên. Họ đau đớn lắm nhưng không biết

phải làm sao, vì:

“Bố nhà em lắm quyền lắm thế

Mẹ nhà em lắm phép lắm khuôn”[105, tr. 439]

Nàng Ờm đã cùng Bồng Hương có chung nhau những kỷ niệm đẹp. Tình

yêu của ho đã đến độ chín muồi, đẹp:

“Như hoa vừa nở

Như lửa mới nhen

Hơi nhau đã quen

Tiếng nhau đã biết”[105, tr. 443]

Bố mẹ không thương, hết mắng lại chửi, và còn:

“Lấy hết vật nhớ vật thương

Bố bỏ vào lò không lo mất vía [105, tr. 446]

Và còn đánh đập con gái yêu rất tàn nhẫn:

“Chín chục roi lảy trảy bố bó làm bảy

Bảy mươi roi lèn en mẹ buộc làm ba

Giữ em trong nhà

Ra tay đánh đập”[105, tr. 448]

Cha mẹ thẳng tay đánh con mà không hề đau xót. Nàng Ờm không ngớt

lời van xin, năn nỉ. Đáp lại lời của Ờm là một thái độ im lặng:

“Em van bố, bố không thương

Em vái mẹ, mẹ không buông”[105, tr. 448]

Sự nguội lạnh trong lòng cha mẹ càng làm cho Ờm đau xót hơn. Bố mẹ

chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ, không cho Ờm đi lại với Bồng Hương, không

cho họ yêu nhau. Cha mẹ của nàng Ờm rất lạnh lùng, tàn nhẫn và khắc nghiệt,

đánh con đến nỗi như sấm trên trời, như hòn đá to rơi xuống suối, trông

không nên người, không nên con gái

“Đánh em tay không biết mỏi

Đánh em máu chảy khắp người”[105, tr. 448]

Người đọc rơi nước mat trước cảnh ngộ đau lòng. Cha mẹ Ờm không

hề xao lòng hay thương xót cho tấm thân bé bỏng của con gái yêu đang quằn

quại dưới làn roi. Tấm thân đầy máu, Ờm không ngớt lời van xin nhưng

chẳng ăn thua gì. Trước những trận mưa đòn roi của cha mẹ, em Yêu xót xa,

lén mở cửa cho Ờm chạy ra ngoài. Bồng Hương ôm nàng trốn chạy. Máu của

Ờm “rải ra đường dọc một chiều”, chiếc khăn trắng Bồng Hương lau cho Ờm

đã “loang lổ máu”. Không chỉ có Ờm mà Thờm, Tiên, vì phản đối đạo Trần,

đạo Trà ở trong nhà, không muốn nhận họ làm chồng nên bị cha mẹ đánh đòn:

“ Kẹp em bằng cùm cây tre

Đánh cho cặp kè hai bên hông

Nửa chết nửa sống ngang bằng”[105, tr. 429]

Những truyện thơ các dân tộc khác có tiếng nói tố cáo cũng khá quyết

liệt, sâu sắc. Cha mẹ cô gái trong truyện thơ Chăm “Aria Chăm - Bà ni” đối

xử với con gái còn độc ác hơn. Họ đã dùng những cực hình thật tàn ác với con

gái. Vì không muốn con gái yêu một chàng trai thuộc dòng đạo khác. Cha mẹ

em đã:

“Em ơi! Ngày hôm sau muốn chết đi trong giấc mê man thì nghe tin em

bị cạo đi mái tóc óng mượt nhuộm bằng lá mo phơi trước nắng mặt trời.

Lòng anh như có kiến cắn khi nghe tin em, em ơi, cha mẹ em đã lột hết

quần áo em rồi.

Thân thể em loã lồ, chỉ nổi lên những đường cong gầy guộc của xương

sườn. Anh cầm chiếc khăn lúk, anh lau nước mắt”[106, tr. 1103].

Tại sao các cô gái trong TTTT chỉ vì yêu lại chịu hình phạt thảm khốc do

chính bố mẹ mình gây ra? Điều này có lẽ do căn nguyên từ xã hội phong kiến

mà ra. Thân phận người phụ nữ không có vị thế gì trong gia đình và xã hội.

Tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi

người, cộng vào đấy người con gái được xem là một món hàng để trao đổi

trong hôn nhân. Cha mẹ buộc con gái phải tuân theo lời, không được trái. Họ

đi theo lối mòn đã truyền lại từ đời này sang đời khác. Họ buộc người phụ nữ

phải an phận, chấp nhận số kiếp đã an bày và chỉ biết ngậm ngùi sống mỏi

mòn cho đến hơi thở cuối cùng. Lý trí và con tim không cho phép người phụ

nữ Mường gục ngã trước những định kiến hẹp hòi bao đời đã vạch sẵn.

Truyện thơ trữ tình Mường đã thay lời những người phụ nữ Mường cất cao

tiếng hát đòi lại quyền tự do yêu đương.

Để phản kháng sự khắc nghiệt cha mẹ, Thờm, Tiên bỏ nhà đi tìm lá ngón:

“Ta uống chén rượu hoa cà

Trở về đêm khuya hòa với ngón”[105, tr. 433]

Anh Khói, Va cùng uống rượu hòa với lá ngón với hai nàng cho trọn

tình trọn nghĩa. Hai anh chết thành cành hoa trúc, hai nàng chết biến thành

hoa đào. Bố mẹ Thờm, Tiên hay tin đến nơi tìm xác con. Hoa đào - hiện thân

của nàng Thờm, Tiên đã không ngần ngại kết tội bố mẹ:

“Bố đánh con đôi đòn kép

Mẹ ép con đôi đòn vàng

Đánh vắt ngang xương sống

Bố còn định chặt cổ

Đặt đầu kê trên ngưỡng cửa vóng”[105, tr. 435].

Ờm không chấp nhận sự sắp đặt của bố mẹ. Nàng tìm đến cái chết - giải

pháp duy nhất để họ có thể sống gần nhau mãi mãi ở thế giới mường ma. Tại

sao các đôi tình nhân đều phải mượn lá ngón để cứu cánh cho mối tình của

họ? Phải chăng xã hội Mường chứa nhiều mâu thuẫn, con người không đủ sức

đương đầu với nó. Bồng Hương muốn cùng Ờm bỏ đi mường khác sinh sống,

nhưng Ờm không đồng ý. Không thể trốn tránh hiện thực, Ờm đành đối mặt:

“Ta còn sợ phép mẹ quyền cha

Còn sợ điều tiếng gièm pha, anh ạ”[105, tr. 451]

Một người con gái rất muốn sống trọn vẹn với tình yêu nhưng vấp phải

thế lực gia đình, luật tục xã hội. Nàng Ờm trong truyện thơ là một cô gái

ngoan ngoãn, siêng năng, hiếu thảo với cha mẹ, thà chịu hại thân chứ không

để tiếng xấu đến cha mẹ. Tiếng khóc nấc nghẹn của Ờm vẫn còn văng vẳng

mãi trên núi Làn Ai:

“Con biến nên núi Làn Ai

Cho chuyện của con kéo dài

Chín đời sau cho bố mẹ làng còn nghe,

Mười đời sau cho chuyện nên về

Cho bản làng nghe, cho đời sau biết”[105, tr. 459]

Tiếng khóc đó là lời kết án khắc ghi vào núi Làn Ai để muôn đời sau vẫn

còn ghi nhớ mãi câu chuyện tình bi thương của nàng Ờm cùng Bồng Hương.

Đến chết Ờm vẫn còn khẳng định, lời thơ nghe rất bi thương:

“Em và chàng Bồng Hương không có tội

Mà phải về bên ma”[105, tr. 459]

Chi tiết này khiến ta liên tưởng đến nhân vật “em” trong truyện thơ “Aria

Chăm - Bà ni”. Trước lúc nhắm mắt lìa đời, “em” cất lên tiếng nói ai oán,

trách cứ những người đã đặt ra những luật tục oái ăm khiến cho hai người của

hai dòng đạo yêu nhau phải chết một cách oan ức và tức tưởi:

“Hỡi những người ngày trước đã chết!

Sao lại nghĩ ra những điều bịa đặt khiến cho chúng tôi phải khổ đau

Hỡi những người ngày nay, ai là người có uy quyền làm mất đi những

luật lệ của người xưa còn để lại?

Để hai dòng đạo của chúng ta không ngăn cách”[106, tr. 1104]

Những cái chết rất đau đớn, bi thảm đã cảnh tỉnh các bậc cha mẹ. Truyện

thơ là tiếng kêu cứu thảm thiết đã giục những hồi trống dóng dả, báo hiệu một

xã hội mới xuất hiện. Những tàn dư của xã hội cũ, lỗi thời cần phải gột bỏ để

con người được sống với những ước muốn chính đáng của mình. Tác giả

truyện thơ rất yêu mến những nhân vật của mình. Nhân vật truyện thơ là

những con người rất “giàu tình, giàu nghĩa”, quyết liệt phản kháng lại những

cưỡng ép tàn nhẫn, nhưng cũng rất độ lượng với những người đã gây nên tội.

Trước sau họ vẫn một lòng thương cha kính mẹ, mặc dầu cha mẹ là những

người làm cho họ đau khổ đến phải tự sát.

Tính chất hiện thực rõ rệt nhất của những TTTT Mường là đã vạch ra

một cách sinh động, sâu sắc tất cả những tai họa, đau thương mà chế độ

phong kiến ngày xưa mang đến cho cuộc đời của người phụ nữ. Những nhân

vật chính trong các truyện thơ, những nạn nhân của chế độ đều được mọi

người ủng hộ, con chim cái kiến cũng hết lòng giúp đỡ, mong cho họ được

nên cửa nên nhà. Nhưng tất cả đều không sao cưỡng lại được cái mà họ

thường gọi là “số kiếp”. Vấn đề đó, hoàn cảnh đó không phải riêng gì của dân

tộc Mường; đó cũng là vấn đề, là hoàn cảnh của tất cả các dân tộc sống trên

đất nước ta.

2.1.6. Một số phong tục, tập quán Mường.

Trong truyện thơ “Nàng Nga - Hai Mối” phản ánh rõ nét phong tục tập

quán của người Mường. Đó là tinh thần hiếu khách. Nàng Nga mời Hai Mối

trước đến thăm nhà, sau là thăm cha kính mẹ. Đạo cun Đủ giục con pha trà

ngon, têm trầu đẹp tiếp khách:

“Lại giục nàng Út Thái

Con đun nước bố hãm chè tàu

Giục nàng Nga têm trầu

Bày ra khay vàng khay bạc” [105, tr. 481]

Tinh thần hiếu khách hầu như thường trực trong lòng mỗi người Mường.

Khi Út Lót giả trai làm khách, bố luôn mồm giục mọi người trong nhà:

“Không lấy chiếu hoa đi ra mà dát

Không vác chiếu cạp đi ra mà ngồi?”[105, tr. 316]

Những phong tục cưới xin và ma chay kiêng kị cũng được đề cập trong

tác phẩm. Đám ma Hai Mối được miêu tả khá tỉ mỉ:

“Bố làm ma để hồn chàng khỏi oán,

Mẹ cho làm chay để vía chàng khỏi sầu”[106, tr. 522]

Nghi lễ tang ma của người Mường rất nổi tiếng với bộ tang mo, thầy mo

đọc mo “để biết đường đi lối về”. Nghi lễ tang ma thường kéo dài đến mười

hai đêm liền để đưa tiễn hồn người chết về mường ma sinh sống. Đám ma Hồ

Liêu có nhắc đến việc đúc săng đồng, chứng tỏ trình độ đúc đồng, đúc sắt đạt

đến độ điêu luyện, chế tác ra những dụng cụ phục vụ cho nhu cầu đời sống

của con người:

“Nằm săng gỗ làm chi cho kiến cùng mồi

Cho chìm nổi những lúc mưa dông

Sao chẳng đúc săng đồng cho anh, anh hỡi?”[105, tr. 352]

Đám ma đạo Hai Mối miêu tả kỹ lưỡng từng chi tiết một từ việc lập dinh

dựng rạp, hương khói ngào ngạt, trống khua inh ỏi cho đến việc sai người

nướng lợn, mổ gà, đơm cỗ. Từ việc chặt cây nguyên khúc làm săng làm thành

chiếc hòm bốn vách ba ngăn cho đến việc tắm Hai Mối bằng nước thơm bông

bưởi, thay quần áo mới cho chàng. Đây là một nét văn hóa mang đậm tính cổ

xưa và độc đáo của người Mường. Nàng Nga chuẩn bị chu đáo mọi thứ cho

người tình và còn cho mình nữa rất nhiều đồ đạc: áo quần, gương, lược… chỉ

mong về sau “ nên tuồng nên kiếp”.

Tình cảm nàng Nga dành cho Hai Mối có những nét rất gần với tình cảm

của Anh yêu dành cho Em yêu trước lúc tiễn đưa trong truyện thơ Tiễn dặn

người yêu (Thái). Họ cảm nhận sự gần gũi còn quý giá hơn muôn lời tiễn dặn:

“Xin hãy cho anh kề vóc mảnh

Quấn quanh vai ủ lấy hương người

Cho mai sau lửa xác đượm hơi

Một lát bên em thay lời tiễn dặn”[106, tr. 1028]

Hình tượng “ủ lấy hương người” được nhiều nhà thơ sử dụng. Vua Tự

Đức thương nhớ Bằng Phi, ông sáng tác những vần thơ làm rung động lòng

người:

“Đập tấm gương soi, tìm hình bóng cũ

Xếp tàn y lại, giữ lấy mùi hương”

Những mối tình thiên cổ luôn được sử sach lưu danh. Nàng Bằng Phi -

vương phi yêu quý của vua Tự Đức đã ra đi về cõi vĩnh hằng. Nhưng niềm

thương nhớ về nàng vẫn không nguôi. Ông tìm lại hình bóng, hơi ấm của

người xưa qua tấm gương và y phục còn sót lại.

Một trong những nét văn hóa đặc sắc của người Mường đó là những

kiêng kị trong cuộc sống. Út Lót hay tin Hồ Liêu bệnh, bèn chuẩn bị mang

cơm, đùm bánh đến thăm nhưng đi đến giữa đồng gặp cơn dông:

“Gặp hoẵng kêu: “Trở lại đừng đi”

Đi đến rừng cây si

Nghe tiếng từ quy kêu nên xao xác”[105, tr. 349]

Út Lót quay gót trở về nhà. Theo phong tục Mường, khi đi đường rất

kiêng có tiếng mang, hoẵng, từ quy kêu. Mọi người không đi nữa và quay trở

về. Đồng thời cũng kiêng kị đàn ong, đàn khoái đậu vào khiêng gánh khi đưa

dâu. Nếu gặp phải điềm xấu đó thì người ta “phải cho em trở về quê quán”.

Trong dân gian thường sử dụng các loại “bùa ngãi” yêu hoặc ghét, có thể trù

yếm cho người khác chết hoặc bệnh tật, yêu hay không yêu. Đó là loại tà

thuật, sau này triều đình nhà Nguyễn cấm không cho lưu truyền. Đến nay loại

bùa ngãi này không còn phổ biến nữa. Truyện thơ “Nàng Nga - Hai Mối” có

nhắc đến chi tiết:

“Nơi buồng ta ăn, sợ có người bỏ thuốc

Nơi buồng ta nghỉ, sợ có kẻ đặt bùa”[105, tr. 524]

Nhiều phong tục tập quán khác cũng được nhắc đến trong TTTT

Mường. Chẳng hạn như tục kiêng khem khi ở cữ:

“Bố kiêng củ đã lắm

Để con khỏi ngứa vì đòi ăn theo

Mẹ kiêng cá đã nhiều

Để con khỏi đòi ăn theo lại hóc”[105, tr. 496]

Những món ăn mà người Mường ưa thích cũng được nhắc đến: cơm lam,

xôi ăn với cá nướng, cách mặc trang phục cũng được đề cập. Tín ngưỡng của

người Mường về đạo Phật không đậm nét, chùa chỉ là nơi thờ cúng, nơi thể

hiện lòng tin của con người về tín ngưỡng dân gian. Vào cúng chùa không cần

phải sắm sanh lễ vật chu đáo mà chỉ cần có tấm lòng thành. Tất cả phong tục,

tập quán, lối sống được truyện thơ miêu tả rất cụ thể, chi tiết. Các thể loại văn

học truyền miệng khác như ca dao, tục ngữ, truyện cổ… không có điều kiện

khai thác tất cả các mặt đời sống của người Mường sâu rộng đến như vậy.

2.2. Truyện thơ trữ tình Mường mang đậm giá trị nhân đạo, nhân

văn.

2.2.1. Ca ngợi những con người nhân ái của xứ sở Mường:

2.2.1.1. Cha mẹ nhân từ, con hiếu thảo:

Gia đình là chốn bình yên nhất. Ở đây, những khó khan trắc trở được giải

tỏa, đền bù. Tấm lòng thiêng liêng cao cả của các đấng sinh thành được tác

giả dân gian quan tâm. Đó là những bậc cha mẹ suốt đời hy sinh bản thân,

dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho đứa con yêu. Khi mới lọt lòng, cha mẹ

Hồ Liêu:

“Bố kiêng củ đã lắm

Để con khỏi ngứa vì đòi ăn theo

Mẹ kiêng cá đã nhiều

Để con khỏi đòi ăn theo lại hóc”[105, tr. 496]

Bố Út Lót cho người đi tìm những thức ăn ngon, hiếm để Út Lót “ăn mau

chóng lớn”, mau trở thành “cô gái cô nàng”:

“Bắn được con chim khướu

Lấy gan mớm cho con, quả nó chóng biết hót

Bắt được con chim cót

Lấy gan mớm cho con, quả nó chóng biết reo,

Bắt con chim chèo pheo,

Lấy gan mớm cho con, quả nó chóng biết nói tiếng Kinh

kẻ chợ”[105, tr. 311]

Đó là tấm lòng thương yu con vơ bờ bến của cha mẹ Út Lót, Hai Mối…

Chẳng lẽ cha mẹ của Ờm, Thờm, Tiên, nàng Nga lại không thương con. Thật

ra, chỉ vì món lợi trước mắt, vì muốn con được sống trong giàu sang, họ

không nghĩ đến tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của con, không nghĩ đến hậu quả

nên đã vô tình gây ra nỗi bi kịch cho chính cuộc đời của họ. Rõ ràng, quyền

lực của cha mẹ trong hôn nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với tấm lòng yêu

thương của cha mẹ đối với con. Vì quá yêu con, muốn con được sống giàu

sang sung sướng mà cha mẹ đã dồn con vào cửa tử.

Những đứa con ngoan ra đời đáp lại sự yêu thương của cha mẹ. Đó là tấm

lòng hiếu thảo của Út Lót. Trước khó khăn không có người đi chầu vua sang

Kẻ Chợ, nàng giả dạng nam nhi. Một việc làm rất mạo hiểm. Út Lót lên

đường đến kinh kỳ. Những khó khăn thử thách chờ đón phía trước nhưng

nàng không ngại. Không thở than mà còn lo lắng, an ủi bố mẹ đừng quá mong

ngóng con thơ mà có hại đến sức khỏe:

“Bố mẹ ở nhà,

Trời mưa đừng nhớ lặng

Trời nắng đừng nhớ thương

Đừng tưởng người đi xa đất xa phương”[105, tr. 319]

Hai Mối vốn là một người con rất hiếu thảo, tấm lòng hiếu thảo thể hiện

ở từng hành động, trong từng ngày:

“Đầu hôm, chàng vào lạy bố ở chốn ngăn ngoài

Sáng ngày, lạy mẹ ở chốn gian trong”[105, tr. 495]

Hai Mối đau khổ trước cảnh bạn tình bị cướp mất. Đau đớn không nguôi,

chàng quyết định tìm gặp người xưa nhưng trong lòng chàng vẫn không an

lòng vì bố mẹ già ở nhà, lòng chàng lại “nghe sầu nghe thương”. Không phải

là không thương cha mẹ nhưng Hai Mối vẫn quyết lòng ra đi tìm người yêu.

Vì trong chàng có một cuộc xung đột rất dữ dội đang diễn ra gay gắt, đòi hỏi

chàng phải giải quyết. Hoặc là bằng lòng ở nhà nghe lời cha mẹ tìm vợ kén

dâu hoặc là tìm gặp người yêu. Cuối cùng chàng chọn đi tìm người yêu, vì

nàng Nga là lẽ sống, là huyết mạch của đời chàng. Vậy Hai Mối có bất hiếu

không? Sự yêu thương con của cha mẹ Hai Mối chắc không thể trách chàng

mà còn cảm thông cho đứa con đau khổ và tội nghiệp .

Mối quan hệ gia đình khá bền chặt của người Mường đó là quan hệ cha

mẹ chồng với nàng dâu. Khác với gia đình người Việt, quan hệ mẹ chồng -

nàng dâu thường xảy ra mâu thuẫn:

“Thương chồng phải khóc mụ gia

Chớ tôi với mụ có bà con chi”.

Trong truyện thơ Vườn hoa núi Cối, chàng Va, Khói quyết định “bỏ bà

bỏ gái” cho về quê hương để cưới nàng Thờm, Tiên. Bố mẹ anh hết lời ngăn

cản và ca ngợi hai cô con dâu. Từ cửa nhà cho đến ngoài đồng, mọi việc nặng,

nhẹ hai cô dâu đều lo liệu:

“Không có dâu nào bằng cô dâu Mường Tráng

Không có thiếp nào bằng vợ Hang Lòn”[105, tr. 409]

Bố mẹ không cho hai anh đến thăm cô nàng Thờm, Tiên nên luôn tìm

cách trì hoãn, rằng không có ngay tốt để kén vợ chọn dâu, rằng còn rất nhiều

việc để làm, nào phải gặt bông cơm trái lúa, nào phải đi đánh chài sông cái,

nào đi thả lưới ngoài sông...

Thật ra, bố mẹ của Ờm, Thờm, Tiên, nàng Nga, không phải là họ không

thương con. Vì lễ vật trong hôn nhân, số của cải không nhỏ, họ đã tối mắt. Họ

nghĩ rằng đang giúp con cái, nhưng thật ra họ đã đẩy con cái của mình vào

con đường “tử” mà không hề hay biết. Khi sự việc vỡ lỡ, họ vô cùng hối hận.

Bố mẹ nàng Thờm, Tiên thương khóc rất đau đớn, xót xa:

“Lỡ chân không còn kịp tránh,

Lỡ tiếng lỡ miệng biết đến đã rồi.

Đứt lòng thương con ngậm ngùi”[105, tr. 436]

Bố mẹ Ờm hay tin con gái chết thảm cùng Bồng Hương trên núi Làn Ai

đã tìm đến khóc thương thảm thiết:

“Nước mắt bố tuôn như suối,

Nước mắt mẹ chảy như mưa”[105, tr. 459]

Những TTTT các dân tộc khác cũng khắc họa nỗi đau khổ tột cùng của

bậc làm cha mẹ trước cái chết đau đớn của con. Trong truyện thơ Khun Lú -

Nàng Ủa (Thái), Ủa bị bố mẹ ngăn cấm không được kết duyên cùng Khun Lú.

Nàng chạy đến cây tùng treo cổ tự tử. Mẹ nàng hối hận trước cái chết của con

gái yêu:

“Ta hối chẳng mặc buông con trẻ,

Hối ép con gả bán cho người

Chuyện ép duyên ngờ đâu đến nỗi !”[106, tr. 986].

Tiếng khóc than thảm thiết của người mẹ đã gây ấn tượng mạnh đến

người đọc. Hình ảnh người mẹ cô gái trong truyện thơ Chăm “Aria Chăm -

Bà ni” đã khóc thật nhiều, tiếng khóc muốn tung cả mái nhà trước cái chết của

con gái. Vì con gái là núm ruột, là máu mủ, là dòng giống của cả họ hàng, tổ

tiên:

“Trời ơi! Trời đã đặt ra hai dòng đạo làm gì,

Máu của tôi mất đi

Đứa con tôi mất thì dòng đạo cũng mất”[106, tr. 1104]

Chính sợi dây thâm tình máu mủ, quyến thuộc là chất keo kết dính mọi

người trong gia đình với nhau, tạo nên sức mạnh của cả cộng đồng. Để họ

chống chọi lại những khó khăn, vất vả của cuộc sống đời thường, vì phải vật

lộn với cuộc sống mưu sinh và chống chọi lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên.

2.2.1.2. Hai Mối - một lang đạo giàu lòng nhân ái:

Ở truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối thể hiện khát vọng của người cầm

quyền: thân dân, chăm lo đời sống, giảm nhẹ hình phạt với dân... Đạo Hai

Mối - một lang đạo giàu có, có trách nhiệm với dân mường. Tâm nguyện của

chàng làm cho “mường giàu dân có”. Nhưng nỗi đau mất người yêu luôn

dằng dặc, chàng đành ra đi tìm người yêu dấu. Ngày ra đi có rất nhiều người

muốn theo chàng, Hai Mối ngăn binh mường ở lại nhà, vì chàng muốn:

“Trước, chăm giúp tôi bố yếu mẹ già

Sau nữa, ai đã vợ con, lo dựng cửa nhà

Ai còn son, lo đi kiếm dâu tìm vợ”[105, tr. 502]

Hai Mối luôn nghĩ đến niềm vui, hạnh phúc của dân mường. Hình ảnh

Hai Mối được vẽ lên là một lang đạo giàu tình thương, có tấm lòng nhân ái:

gần gũi với dân, biết lo cho dân, quan tâm đời sống của binh mường. Là

người cầm quyền cai quản binh mường, chàng không dùng những hình phạt

khắc nghiệt, tàn bạo mà chủ yếu là thiên về răn dạy, bảo ban, đem nhân nghĩa

để thu phục lòng dân, lời dạy bảo ân cần trước lúc đi xa:

“Tội đáng chết, em tha

Tội đáng con lợn, em bắt con gà

Tội đáng con gà, em ăn miếng”[105, tr. 500]

Lời Hai Mối giàu tinh thần bác ái, vị tha. Tư tưởng đó xứng với tầm của

một người thủ lĩnh, thông minh sáng suốt, luôn đề cao nhân nghĩa để thu phục

lòng dân. Chàng đã nhận ra chân giá trị:

“Ai cũng đầu đen máu đỏ.

Dù sang dù khó, cũng kiếp con người”[105, tr. 504]

Bài học nhân nghĩa cao quý ấy đã nâng cao giá trị con người Hai Mối.

Đánh giá con người không nên nhìn ở vẻ bề ngoài. Hai Mối đã hội tụ tất cả

những yếu tố của một lang đạo tốt, giàu lòng nhân ái, vị tha. Tác phẩm Nàng

Nga - Hai Mối đã miêu tả một thời kỳ cực thịnh của chế độ lang đạo vùng

mường. Trong xã hội xưa, điều này khó có thể trở thành sự thật nhưng đó là

những khát vọng rất đáng trân trọng. Nó giúp con người hướng về phía trước,

luôn vươn tới nhưng khát vọng tương lai. Mặc dù, Hai Mối xuất thân từ tầng

lớp lang đạo, thuộc giai cấp thống trị nhưng chàng đã bộc lộ những đức tính

quý báu, cao thượng. Chàng yêu thương dân, luôn lo nghĩ đến quyền lợi và

hạnh phúc của dân.

So với những truyện thơ khác như Út Lót - Hồ Liêu, Vườn hoa núi Cối,

Nàng Ờm - Bồng Hương, thì Nàng Nga - Hai Mối phản ánh khía cạnh xã hội

mang tính nhân văn, nhân bản hơn. Tác phẩm Nàng Nga - Hai Mối đã vượt

lên trên thông lệ so với cac tác phẩm truyện thơ khác, khoảng cách giữa tầng

lớp lang đạo và nhân dân lao động đã rút ngắn, một điều không dễ dàng gì đối

với những ai thuộc giai cấp trên của xã hội Mường cũ. Như vậy, Hai mối là

nhân vật được xây dựng theo cảm hứng lãng mạn.

2.2.2. Những mối tình cao đẹp:

Chất trữ tình trong văn chương của các dân tộc ít người rất đậm, phản

ánh một đời sống tình cảm hết sức phong phú, phóng khoáng mãnh liệt. Thơ

ca về tình yêu đôi lứa các dân tộc ít người, so với thơ ca dân tộc Việt, có phần

táo bạo hơn nhiều. Cách diễn đạt bộc trực, mộc mạc, nhưng không phải không

giàu hình ảnh, càng làm nổi bật sức mạnh của tình cảm giống như trời quang

mây, càng cho thấy rõ cái xanh thẳm cao sâu của vòm trời.

2.2.2.1. Mối tình Út Lót - Hồ Liêu.

Mối tình của Út Lót - Hồ Liêu mang màu sắc của cuộc tình Lương Sơn

Bá - Chúc Anh Đài, chuyện tình người Trung Quốc. Trong những ngày đi

chầu vua, đạo Mường Đẹ (Út Lót) kết bạn với Hồ Liêu. Hồ Liêu không hề

hay biết người bạn của mình là gái. Tình bạn của họ luôn khắng khít:

“Như đôi con chim cu dung

Cất tiếng kêu chung một cành núi ngái,

Như đôi chim cu xại

Cất cánh bay lại một ruộng đồng xa”[105, tr. 329]

Tình cảm Út Lót dành cho Hồ Liêu “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”,

nàng viết thư về nhà dặn mẹ cha :

“Ngày chầu vua xong,

Con chọn chàng Hồ Liêu về thưa cùng bố mẹ”[105, tr. 329].

Chỉ tội cho Ho Liêu không hay biết, cũng viết thư bảo bố mẹ tìm vợ kén

dâu. Hết hạn mãn chầu, vua cho trở về quê. Trên đường về, thừa lúc Hồ Liêu

chẳng để ý, nàng đem “váy cùng khuyên” mặc vào nên “cô gái cô nàng”. Hồ

Liêu bất chợt nhìn thấy sắc đẹp Út Lót:

“Trời ơi, là vía!

Có ai ngờ gặp tiên giữa bái

Gặp người bạn gái vóc ngọc mình ngà,

Như cành cây hoa

Trời đưa ra cho con người ta ao ước”[105, tr. 335]

Quá bàng hoàng, Hồ Liêu “lơi tay hụt bước” rơi xuống đất bất tỉnh. Nước

mắt nàng chảy ướt cả má Hồ Liêu giúp chàng tỉnh lại. Nỗi niềm thầm kín bấy

lâu nay họ mới có dịp để thổ lộ, giãi bày: “nói một lời thương, nói trăm điều

mến”. Cũng là lúc họ phải chia tay nhau trở về mường bản. Giờ khắc chia

phôi sao mà thiêng liêng thế:

“Hai người bước ra vạch đá cùng thề

Dựng bia cùng nguyện”[105, tr. 337]

Lời hẹn thề được đánh đổi bằng cả tính mạng. Nếu ai sai lời hẹn ước thì

ma nhà đánh bổ võng giá kiệu đòn rồng, đánh bổ vó ngựa đực hồng. Niềm hy

vọng cưới Út Lót giúp Hồ Liêu quên hết mệt nhọc, nhanh chân về đến mường

bản. Sét đánh ngang tai, tất cả niềm mơ ước đã tan thành mây khói khi chàng

hay tin: Ở nhà đã cưới bà, cưới gái, cưới vợ cho ông.

Về đến nhà, Hồ Liêu chẳng muốn gặp người già con nít, chẳng muốn

chào hỏi khách cho phải lẽ. Vợ mới cưới vào chăm sóc, chàng cũng chẳng

đoái hoài. Từ đó, Hồ Liêu ốm vật ốm vã, ốm rã ốm rời.

“Đêm ra trông trời, thấy trời càng cao

Khuya ra trông sao, thấy sao càng lặn

Trông tình, tình vắng

Trông bạn, bạn xa

Gió hắt sương sa

Lạnh buốt sàn cùng chiếu”[105, tr. 343]

Sự cô đơn, trống trải luôn xâm chiếm tâm hồn tâm hồn chàng:

“Ban sớ m, lên chín dốc thử ngựa

Ban trưa, đem chín chục trai đứa đắp mương

Ban tối đi nằm đóng ba lần cửa chặt”[105, tr. 347]

Bệnh tương tư càng ngày càng nặng, bao nhiêu lời khuyên đều vô hiệu.

Nỗi lòng ngổn ngang, tâm sự rối bời được tác giả dân gian khai thác khá

chính xác:

“Uống nước, kêu vía bạn cho đỡ thương

Ăn cơm, gọi hồn nàng cho nó đỡ nhớ”[105, tr. 347]

Trong dân ca các dân tộc ít người thường lặp đi lặp lại cái cảnh ngộ đôi

bạn tình gặp nhau rồi xa nhau không biết bao giờ gặp lại. Vì thế, khi xa nhau

họ gọi vía cho nhau. Đó là một quan niệm có thực trong tình yêu trai gái của

các dân tộc thiểu số. Vì thế, ta thấy họ dặn nhau rất tha thiết và chân thành

trong nhiều bài dân ca rằng, hãy chăm sóc vía nhau cho tốt:

“Bữa cơm nhớ sắp đũa thêm đôi

Để vía anh (em) ăn hương cùng bữa”

(Dân ca Tày)

Chim chèo pheo thương cho cuộc tình của Út Lót và Hồ Liêu, sẵn lòng

làm nhịp cầu duyên cho họ. Vì không kìm được sự tham ăn, chim chèo pheo

chén hết cơm, bánh mà Út Lót gửi cho Hồ Liêu. Chim còn đổ oan rằng Út Lót

trách cứ chàng, khiến chàng đau đớn gấp bội:

“Ta thiếu bạn ngọc

Như cây vía lìa gốc héo cành,

Thiếu bạn tình, ta như cây lim héo cội,

Ta sống sao nổi, hỡi trời!”[105, tr. 350]

Vừa dứt lời than, hồn đã lìa khỏi xác. Hồ Liêu là con người rất chung

thủy trong tình yêu. Chàng chẳng mong gì hơn là suốt đời sống bên cạnh

người yêu. Nhưng tiếc thay, cái nguyện vọng rất chính đáng ấy lại không bao

giờ thực hiện được, và sau bao nhiêu năm đau khổ, quằn quại, chàng không

tìm ra được một con đường nào khác ngoài cái chết. Những câu thơ rất hay,

rất đẹp, đồng thời cũng thể hiện được cái quyết liệt trong mối tình của người

con trai chung thủy; mọi người quan niệm thời gian có thể xóa nhòa tất cả, ở

trường hợp này đã hoàn toàn bất lực. Không có sức mạnh nào lay chuyển nổi

tấm lòng khăng khít của anh với Út Lót, và hai người đã tìm cách gần nhau ở

“thế giới bên kia”. Trong cõi đời thật này không thể tìm ra hạnh phúc, họ đặt

lòng tin vào cuộc đời ở “thế giới bên kia”. Vì họ nghĩ rằng chết có nghĩa là

tiếp tục sống một cuộc sống khác tự do hơn.

Về phần Út Lót, có nhiều người đến hỏi cưới, nàng đều từ chối. Không

ngờ nàng lại nhận lời đạo Cun, nhà ở hướng mồ chôn Hồ Liêu. Và càng bất

ngờ hơn, đám cưới diễn ra linh đình, nhộn nhịp, nàng vào thăm mộ Hồ Liêu.

Nàng gọi tên người yêu thắm thiết:

“Đạp đạp, đất rã

Đạp đá, đá rời.

Đạo Hồ Liêu, anh ơi,

Chống nắp săng đồng cho em vào với”[105, tr. 356]

Hồ Liêu nghe tiếng gọi chống cửa mộ đón nàng vào, “bây giờ mới gần

nhau mãi mãi”. Cái chết của Út Lót mới bi tráng làm sao! Nàng đi vào cõi

vĩnh hằng với nụ cười mãn nguyện, được sống với người yêu dù có ở bên kia

thế giới. Ở đấy không có trở lực nào có thể chia cắt tình yêu họ dành cho

nhau, không được sống ở trần gian thì họ “dựng cửa dựng nhà” ở mường ma

sinh sống. Đó là chân lý đấu tranh của những trái tim bất diệt, những con tim

khao khát được sống với người yêu, trọn vẹn với tình yêu mãi mãi.

Kết thúc truyện thơ Út Lót - Hồ Liêu không có được cái khí vị hoành

tráng như truyện thơ Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, cũng là chi tiết đưa dâu,

đi ngang mộ người yêu, Chúc Anh Đài đến trước ngôi mộ của người yêu than

khóc, một tiếng nổ kinh thiên động địa, ngôi mộ của Lương Sơn Bá mở ra và

đón Chúc Anh Đài vào. Tình yêu của đôi trai gái Lương Sơn Bá - Chúc Anh

Đài đã làm động lòng trời, trời đã giúp cho đôi lứa gần nhau mãi mãi. Còn ở

truyện thơ Út Lót - Hồ Liêu, Út Lót chủ động gọi người yêu mở cửa mộ,

không có lực lượng siêu nhiên nào giúp họ, mà họ phải tự đấu tranh giành lấy

hạnh phúc tình yêu của chính mình, dù có muộn màng nhưng cuối cùng họ

vẫn đến được với nhau. Vì thế truyện thơ Mường mang đậm chất hiện thực

hơn.

Cách kết thúc hai truyện giống nhau. Có lẽ tình yêu của họ đã làm rung

động tác giả dân gian, đều dành cho họ những hạnh phúc dù muộn màng

nhưng vĩnh cửu. Đây cũng là mơ ước ngàn đời của những con người lao

động, luôn khao khát hướng đến tình yêu đẹp, đích thực.

2.2.2.2. Mối tình anh Va - nàng Thờm, anh Khói - nàng Tiên.

Truyện thơ Vườn hoa núi Cối lại mang một phong vị khác. Đây là câu

chuyện tình bi thương của hai anh Va, Khói cùng hai nàng Thờm, Tiên. Câu

chuyện được bắt đầu từ khi hai anh xin phép cha mẹ đi xem hội ở đất ông cun

Vì Thàng, gặp hai nàng Thờm, Tiên nổi tiếng xinh đẹp. Vóc dáng khỏe đẹp,

căng đầy sức sống của hai nàng đã làm say đắm hai chàng. Hai nàng Thờm,

Tiên cũng cảm phục tài năng thổi sáo ống ôi của hai chàng. Tiếng sáo nghe

bâng khuâng, xao xuyến lạ thường:

"Giọng say đắm Thường, Rang bóng mát,

Thổi ra tiếng hát gọi bạn nhân tình,

Tiếng phận mình gọi bạn thân thương”[105, tr. 397]

Hai nàng “chết ngây”như ngọn rau tốt, “chết ủ chết dột” như ngọn rau

chường, “chết héo chết úa” như ngọn rau chuối. Tác giả dân gian Mường

mượn những hình ảnh rất cụ thể, chân thực để diễn tả tâm trạng mê mẩn trước

tiếng sáo diệu kỳ, làm phong phú thêm sắc thái tình cảm của con người. Hai

nàng chủ động muốn theo về làm người nhà nuôi vịt, nuôi gà để mong được

nghe “giọng ngọt tiếng ôi ngà” của anh Va, Khói.

Trai tài hội ngộ cùng gái sắc, họ yêu nhau đắm đuối say mê. Tình yêu của

họ thật thơ mộng, giản dị và trong sáng:

“Trời xế bóng nắng chiều,

Yêu nhau chơi trong chân núi trắng

Trời nắng đi chơi bông hoa

Trong cây đa bóng râm

Ngày mưa lâm thâm chơi trong hang núi”[105, tr. 404]

Thời gian chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, họ ở bên nhau liên tiếp “sáu

đêm ngày, bảy đêm tròn”, tâm tình “thâu đêm đến sáng”. Họ chỉ gặp nhau bấy

nhiêu ngày mà tình cảm nồng nàn và có thể họ đánh đổi cả mạng sống của

mình để được bên nhau. Bố mẹ nàng cho đạo Trần, đạo Trà vào nhà làm rể,

hai nàng không đồng ý. Tình cảnh của hai nàng rất giống với tình cảnh của cô

gái trong câu ca dao Mường sau:

“Chốn bố gả mẹ cho

Co ro như con vịt ốm đói

Nơi em yêu thầm thương trộm

Sáng chói như ngôi sao mai”.

Làm sao để đạo Trần, đạo Trà từ bỏ cuộc hôn nhân này thì tình yêu của

chàng Khói, Va với hai nàng Thờm, Tiên mới trọn vẹn được. Hai anh bày

cách: xuống sân em chửi con gà, trèo nhà em chửi con chó, nhăn nhó với con

mèo:

“Để đạo Trần đạo Trà,

Nghe bực lại xót xa

Ba đêm ba ngày nó quay trở lại”[105, tr. 425]

Ít ra đó cũng là niềm hy vọng, dù niềm hy vọng đó có mỏng manh, mơ hồ

như sương khói, nhưng họ vẫn có quyền hy vọng. Hy vọng để mà chờ đợi, để

được sống với người mình yêu. Đó là hạnh phúc đích thực của con người.

Đây là điểm gặp gỡ ở hai truyện thơ: Vườn hoa núi Cối và Tiễn dặn người

yêu (Dân tộc Thái). Anh yêu dặn dò Em yêu trước lúc chia tay, làm những

việc trái ngược với lẽ tự nhiên để chồng ghét bỏ mà trả nàng về cha mẹ:

“Làm cho chồng em chê,

Cho chồng em giận ghét,

Chồng em ghét chồng em mới bỏ,

Chồng em bỏ, đôi ta mới lấy được nhau”[106, tr. 1035]

Em yêu phải giả vờ làm người ngớ ngẩn, vụng dại để chồng chê, chồng

chán, chồng trả Em yêu về nhà bố mẹ. Không làm được người vợ hiền dâu

thảo thì họ mới được gần nhau. Hai Mối cũng dặn dò nàng Nga:

“Buổi sớm em làm như trâu lộn ách

Buổi chiều em ở như chạch lộn bờ

Ăn ở hững hờ

Cho con người ta chẳng thiết”[105, tr. 516]

Đạo Trần, đạo Trà mách với bố mẹ, hai nàng bị một trận đòn thừa chết

thiếu sống. Hai nàng chỉ còn biết tìm đến lá ngón. Mượn lá ngón làm cứu

cánh cho cuộc tình. Đó chính là sự bế tắc không lối thoát của những con

người mang thân phận con ong, cái kiến, thân phận con bọ ngựa, con chẫu

chuộc. Họ không thể đối chọi với cả một hiện thực xã hội đen tối, xem hôn

nhân chỉ là một cuộc mua bán, tình yêu chỉ là một cuộc chơi thì thử hỏi những

con người hết lòng đấu tranh cho tình yêu, đem tính mạng để bảo vệ tình yêu

làm sao có thể chống chọi lại. Trong cuộc đấu tranh này, dù có thất bại, có hy

sinh nhưng niềm tin của những con người đấu tranh bảo vệ tình yêu lý tưởng

sẽ trường tồn. Cả bốn người, anh Khói, Va, hai nàng Thờm, Tiên đã đi vào

cõi thiên thu. Họ đã để lại cho hậu thế một bản tình ca về sức sống bất diệt

của tình yêu.

2.2.2.3. Mối tình nàng Ờm - chàng Bồng Hương.

Đó là một mối tình thơ mộng nhưng gặp nhiều ngang trái. Câu chuyện có

lời thơ rất đẹp và tha thiết. Đây là lúc tình yêu chớm nở. Gặp Ờm đi chơi với

bạn, Bồng Hương toan vỗ vào vai Ờm, Ờm phản đối. Tính chất trẻ thơ còn

đậm mà tính e thẹn của cô gái dậy thì đã lấp ló:

“Em chưa biết chơi trai chơi gái

Em chưa biết nói ngái nói ngân”[105, tr. 440]

Vẻ ngây thơ thật là hồn nhiên. Nhưng chàng trai đã mắc vào lưỡi câu của

thần tình ái nên:

“Ăn cơm nghe nhớ em, anh kêu đến vía

Uống nước nghe nhớ em, anh kêu đến tên

Anh đã mến đã thương, đã yêu cùng nhớ”[105, tr. 441]

Không một lời nào làm duyên làm dáng cả mà tình yêu được nói lên tha

thiết biết mấy, chân thành biết mấy. Tình yêu của con người nếu không bị dị

hóa theo những kiểu khác nhau thì chúng chắc sẽ giản dị, chân thành đến thế

thôi. Tất cả dâng hiến vì người yêu. Và khi tình yêu đã bén, bốc cao thành

ngọn lửa cuồng nhiệt thách thức cả sự cấm đoán, trừng phạt của bố mẹ:

“Em vượt suối sâu, qua lùm lá ngón

Đi chơi cùng chàng Bồng Hương”[105, tr. 442]

Còn phía Bồng Hương cũng quyết liệt không kém:

“Nên đành lòng đi đêm về tối

Bắt đom đóm làm đèn

Lấy áo em thay làm nón”[105, tr. 442]

Mối tình giản dị mà nồng nàn, đơn sơ nhưng quyết liệt. Chuyện đom

đóm, đội áo, đi trâu, đi bò, hái dâu không kém thơ mộng. Về phía Bồng

Hương, tình yêu không kém say đắm:

Tình anh ngày càng đắm đuối

Lấy tay anh bấu em nên dấu

Lấy răng anh cắn má em thành vết”[105, tr. 444]

Tình cảm thắm thiết trào dâng, thiên tình sử diễm lệ như Romeo và Juliet,

cũng không có một cảnh tình độc đáo như đoạn thơ dưới đây:

“Mỗi năm có mười hai tháng

Mỗi tháng ba mươi ngày đêm

Đêm nào anh cũng đến nhà em

Ăn chực nằm chờ”[105, tr. 444]

Đi đêm về tối. Bắt đom đóm làm đèn. Lấy áo đội đầu làm nón che sương.

Lật sàn nhà đưa trộm cơm cá xuống cho người yêu ăn. Tình yêu hết sức mãnh

liệt và nồng nàn, cũng rất đỗi giản dị, mộc mạc và chân thành. Cả người trong

cuộc lẫn người đọc cảm thấy hạnh phúc và ngưỡng mộ một mối tình trong

trắng, không hề vướng bận một chút nghĩ suy hay phân vân của người trong

cuộc. Tình yêu được miêu tả hết sức hiện thực và cũng hết sức lãng mạn. Đó

là thứ tình yêu nguyên chất, ban sơ của loài người, không bị pha trộn một chút

màu mè gì, không hề vướng bận hay vẩn đục. Nó thuần khiết như mùi hương

trinh bạch. Đến khi “hơi nhau đã quen, tiếng nhau đã biết”, đi tìm nhau “bước

lên đá nhọn không nghe đau chân, qua mấy suối sâu không cần cầu gỗ”, họ đã

tặng cho nhau những vật thương vật nhớ thì sự phản ứng của cha mẹ cũng

quyết liệt hơn. Bố mẹ giam Ờm trong nhà và đánh đập. Người đầy máu, Ờm

quăng mình xuống sàn nhà. Bồng Hương ôm người yêu chạy vào rừng, lấy

khăn tay thấm máu cho nàng. Những trang kể lại tâm trạng của hai người, sau

khi nàng Ờm bị cha mẹ đánh đập tàn nhẫn, máu chảy khắp người là những

trang thơ rất đậm đà thắm thiết. Nàng bảo với người yêu:

“Anh ơi! Chớ lau máu em

Càng lau lại càng đau buốt

Thương em, anh giữ trong ruột

Yêu em, anh giữ trong lòng”[105, tr. 450]

Ờm chỉ muốn ăn lá ngón. Ờm cũng đi theo con đường mà những người

bạn đau khổ của nàng: Thờm, Tiên, Út Lót, nàng Nga đã đi - cái chết. Chết vì

tình yêu, giữ trọn vẹn tình yêu được diễn tả bằng một thủ pháp nghệ thuật vô

cùng tài tình trong lời tâm sự của Ờm với lá ngón. Nàng đi đến cái chết trong

một trạng thái tâm hồn vừa khắc khoải đau xót vừa bình tĩnh ung dung:

“Đôi trai gái muốn chơi nên cửa

Bố nhà chị không cho nên cửa

Đôi trai gái muốn chơi nên nhà

Mẹ nhà chị không cho nên nhà

…Nên, đôi yêu, đôi mến, đôi vợ, đôi chồng

Quyết đi ăn ngón cho xong một đời”[105, tr. 452 - 453].

Cái chết được nâng lên đến độ tuyệt vời của nghệ thuật, Ờm đã xây cho

mình một cỗ quan tài pha lê - từ những ý nghĩ, tình cảm và ngôn ngữ trong

vắt như pha lê để chết một cái chết rất đẹp. Nàng đã tự đưa đám tang mình

bằng khúc nhạc du dương: Ờm ăn chín lá ngón, Bồng Hương ăn bảy lá ngón.

Khi Ờm và Bồng Hương thân đã “úa như môn, đã mềm như khoai” thì cha mẹ

mới hối hận, xót xa. Bây giờ “ma dại thân tàn”, không thể nào sống lại được.

Nỗi đau xót đã biến thành căm hờn. Sau khi chết rồi, Ờm muốn biến thành

ngọn núi Làn Ai để làm tấm gương cho đời sau còn soi thấy:

“Con biến nên núi Làn Ai

Cho chuyện của con kéo dài

Cho chín đời sau cho bố mẹ làng còn nghe,

Cho mười đời sau cho chuyện nên về,

Cho bản làng nghe, cho đời sau biết” [105, tr. 459]

Những lời nói của Ờm đã trở thành bản cáo trạng sắc sảo. Ờm xem cái

chết của mình là dịp để mọi người rút ra bài học đau xót nhưng rất cần thiết

để xử sự sau này. Trước khi từ giã cha mẹ để trở về núi Làn Ai, nàng lại vạch

ra cả một phương hướng rõ ràng:

“Khi các em gái có người mến,

Khi các em gái có người thương;

Em trai đã ưng, nên gả,

Em gái đã ưng, nên cho,

Đừng kén chọn kẻ có người giàu”[105, tr. 460]

Truyện thơ Nàng Ờm - Bồng Hương, một thiên tình ca bi thảm, một sáng

tác đặc sắc của đồng bào Mường. Đó là công trình nghệ thuật tuyệt mỹ, để nói

lên một lời cầu xin cho con người được giải phóng, cho tình yêu được giải

phóng, để không ai phải chết vì mối tình tuyệt vọng.

2.2.2.4. Mối tình nàng Nga - Hai Mối.

Bản tình ca của nàng Nga và Hai Mối được nhân dân Mường xem là một

mối tình diễm lệ. Nàng Nga, người con gái lớn của một cun lang giàu có và

quyền thế ở vùng mường Đủ - Ó. Với vẻ đẹp hiền hòa và rực rỡ:

“Nàng em Nga

Tóc xanh bốn vận ba vòng

Đôi mày xanh cong

Như trăng đầu tháng

Mặt rạng như chiếc gương đồng”[105, tr. 498]

Người con gái đầy sức xuân, chủ động đến với tình yêu, chủ động xin

cha mẹ “mang cành bông hoa ra chơi chợ” để tìm bạn tình. Nàng đã thể hiện

được vẻ con nhà quyền quý:

“Vòng cổ chạm hình hoa thông bông trúc

Vòng đúc chạm hình phượng múa rồng leo”[105, tr. 465-466]

Nàng không chỉ đẹp, sang trọng, lịch lãm mà còn chứng tỏ được là “khôn

mồm khéo miệng”. Sự ứng xử khôn khéo được thể hiện khi gặp Hai Mối:

người bạn tình và cả những tình huống trắc trở sau này. Sự khôn khéo này

chính là cách đấu tranh cho mối tình chung thủy, cho khát vọng tự do. Nàng

Nga choáng ngợp trước vẻ uy nghi của Hai Mối:

“Mà sao tốt tướng oai nghi

Như con chim khướng mấy thuở mấy thì

Bay qua lèn đá dựng”[105, tr. 471]

Mối tình của họ là một mối tình đẹp “môn đăng hộ đối”, vừa đôi phải lứa.

Hai Mối ngay khi mới gặp nàng Nga đã tỏ ra trân trọng kính nể và từ tốn

khiêm nhường. Nàng hiểu được tấm lòng của Hồ Liêu “chỉ ước cùng em nên

nghĩa trăm năm”, nàng chủ động giành lấy tình yêu:

“Đôi chúng ta gặp được nhau đây

Như buồng cau hoa duyên may gặp khách

Như xống áo rách gặp thợ hàng may”[105, tr. 477]

Là một cô gái con nhà đoan chính, nàng Nga không thể bày tỏ nỗi lòng

mình giữa đường giữa chợ. Nàng mời Hai Mối đến thăm nhà:

“Trước thăm đức cố, bố mẹ già

Sau nữa, một chuyện lợi cả hai ba

Cho hai ta tiện lời trao tiếng hẹn cùng nhau, anh hỡi”

[105, tr. 477]

Đã hiểu lòng nhau không cần rào đón sâu xa, đôi trai gái trao kỷ vật “cặp

áo mới đóng nậu khuy vàng, cặp áo hàng đóng nậu khuy bạc” cùng “chín nén

bạc, chín nén vàng”, thầm ước một ngày họ nên vợ thành chồng, hẹn có bến

Đuộng sông Ngang chứng chi cho mối tình của họ.

Nhưng nàng Nga bị ép gả cho vua Thượng Lào. Vừa hay tin, Hai Mối

quyết tâm đi tìm người yêu. Lần thứ nhất, chàng ra đi với quyết tâm giành lấy

người tình khi nàng đang trên đường về nhà chồng. Chàng đã huy động tất cả

binh mương để giải cứu người yêu, nhưng mọi việc quá trễ. Nàng đã đến nhà

chồng, nên chàng ngậm ngùi trở về nhà. Chàng vẫn không thôi từ bỏ ý định

tìm gặp nàng Nga. Lần thứ hai, chàng quyết ra đi dẫu hy vọng giành lại người

yêu chỉ là mong manh, nhưng cần phải gặp để tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn và

tìm câu giải đáp: Nàng Nga có còn nhớ lời thề ước và còn yêu chàng hay

không? Hay đã sống trong cảnh giàu sang mà quên nghĩa xưa tình cũ? Cuộc

ra đi tìm người yêu của Hai Mối còn là cuộc đi tìm một sự thật, một lẽ phải,

một niềm tin trên đời.

Không chỉ là một người tình chung thủy, Hai Mối còn là một người con

hiếu thảo với cha mẹ, một người anh đáng kính với Trí Hoa, một lang đạo có

trách nhiệm nghĩa vụ với dân, với mường… Trong chàng đang diễn ra một

cuộc đấu tranh gay gắt giữa hiếu và tình, giữa tiếng nói con tim đang khát

khao mãnh liệt với người yêu và bổn phận của một lang đạo phải bảo vệ và

làm cho mường bản càng thêm giàu có, hùng mạnh. Sự dằn vặt giữa nghĩa vụ,

đạo đức với tiếng gọi của tình yêu. Và cuối cùng tình yêu đã chiến thắng tất

cả, chàng đã từ bỏ tất cả để ra đi tìm người yêu lý tưởng. Dù mẹ cha ngăn cản,

khuyên lơn, nhiều cuộc hôn nhân đầy hứa hẹn, chàng vẫn khăng khăng:

“Không gặp nàng Nga, con không trở lại”.

“Có sống, tôi sống cùng nàng Nga trọn kiếp

Có chết, tôi chết cùng nàng Nga trọn đời”[105, tr. 499]

Hai Mối từ bỏ địa vị cao sang, dấn thân vào con đường gian nan, khổ ải

để đi tìm người yêu. Kim Trọng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du :

“Rắp mong treo ấn từ quan

Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua”

để đi tìm Kiều nhưng chỉ là mới “rắp tâm” chứ chưa “treo ấn từ quan”

mặc dù Kim Trọng cũng trải qua nhiều gian nan để đi tìm Kiều. Hai Mối qua

bao đồng nà, đồi bái mới đến được đất Thượng Lào. Khi gặp nàng Nga ở đất

nhà chồng, với hình dạng tiều tụy, nàng Nga không nhận ra:

“Chết giẫm cho con Nga

Người chưa già sao đã tối mặt!

… Ai biết người thương của em lặn lội đến đây, hỡi trời”

[105, tr. 511]

Hai Mối tìm đến chỉ hỏi một sự thật, một khúc mắc luôn vướng bận trong

lòng, nỗi lòng canh cánh không yên:

“Thương mơi, em hỡi,

Quả em còn thương tới anh chăng?”[105, tr. 513]

Gặp lại nhau, bất chấp là đang ở đâu, họ vẫn tính chuyện “làm sao trọn

đời lại chung ăn chung ở”, “chung cửa chung nhà”. Hai Mối toan tìm giết vua

Ao Ước. Suy nghĩ của Hai Mối giống với suy nghĩ nhân vật Anh trong truyện

thơ “Tiễn dặn người yêu” của dân tộc Thái:

“Ta chém đứa kia giành lại vợ

Không lấy được nàng, ta làm loạn giữa phủ,

Không lấy được em, anh làm loạn giữa mường”[106, tr. 1026]

Nhưng đó cũng chỉ là mơ ước, vì nhà của vua Ao Ước: chín lần cổng,

mười hai lượt rào, đồn trong điếm ngoài không thể nào ra tay được. Nàng

không đồng tình với hành động này, suy tính thiệt hơn không có giải pháp nào

hoàn mỹ cả, Hai Mối chấp nhận hy sinh tính mạng để người yêu được sống

sung sướng, giàu có và quyền uy:

“Thà anh đi biến một mình

Để em ăn lành ở lại.”

Nàng Nga nức nở cũng chẳng kém:

“Em chẳng cho anh đi biến một mình

Em chẳng để anh đi riêng một kiếp

…Cùng về bên ma

Làm cửa làm nhà”[105, tr. 515]

Cuộc hò hẹn chốn nương dâu không thành vì Hai Mối đã chết. Nàng làm

ma chay cho chàng rất chu đáo. Nàng nhắn với hồn ma Hai Mối:

Rồi em trở lại đất người

Hồn anh có thiêng nhớ theo sau đón lấy

Cho em theo cùng

… Mãi mãi đẹp vợ đẹp chồng, anh hỡi !”[105, tr. 527]

Về đến nhà chồng vừa bước chân đến bậc thang thứ ba, nàng đã ngã vật

xuống chân thang mà chết. Chiếc săng nàng không chịu chôn cùng vua. Bèn

đem thả trôi sông, chiếc săng trôi về quê cũ, Út Thái cùng Trí Hoa ra đón,

nàng đến mộ của Hai Mối:

“Cho xim gặp rớ

Cho vợ gặp chồng,

Đặt đôi nấm mộ song song,

Mãi mãi, nàng Nga ở cùng đạo chàng Hai Mối”[105, tr. 530]

Ước mong cuối cùng được thỏa nguyện, họ mãi mãi ở cạnh nhau. Ở

nhiều tác phẩm văn học, nhiều bản tình ca, không ít những chàng trai cô gái

yêu nhau thắm thiết, dám hy sinh cho tình yêu. Nhưng sự hy sinh hết mình

cho tình yêu như Hai Mối, nàng Nga thì chưa dễ có mấy? Hai Mối không

được cái may mắn của tác giả dân gian cho tái hợp như nhân vật Anh và Chị

trong “Tiễn dặn người Yêu”, dẫu người yêu (Chị) đã thân tàn ma dại, giá chỉ

còn bằng mớ lá dong ở một cái chợ miền núi. Còn Kiều và Kim Trọng, dẫu đã

“hoa tàn”, “trăng tà” nhưng vẫn có sự tái hợp ngay trên trần thế này… Còn

Hai Mối và nàng Nga gặp lại nhau nhưng không được tái hợp nhau trên trần

thế.

Cái chết của nàng Nga, Hai Mối khiến ta tiếc thương đôi trai gái, tiếc cho

mối tình đẹp của họ và càng căm ghét chế độ hôn nhân nghiệt ngã không đếm

xỉa đến tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tác giả dân gian ở tác phẩm này đã có cái

nhìn hiện thực về cuộc sống xã hội Mường xưa một cách sâu sắc đầy tính phê

phán, tố cáo và cảnh báo các bậc cha mẹ không quan tâm đến tình yêu lứa đôi

của con. Có thấy hết chế độ hôn nhân mang tính mua bán gia trưởng độc đoán

nghiệt ngã của xã hội Mường trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 mới

thấy hết ý nghĩa của tác phẩm.

Cả bốn truyện thơ đều nêu lên một vấn đề chung về thân phận của người

phụ nữ, nhưng mỗi tác phẩm đều có những nét riêng, số phận nhân vật cũng

khác nhau. Truyện thơ trữ tình Mường đã làm nên sự phong phú, nhiều màu

nhiều vẻ đó. Dân tộc Mường vốn là một dân tộc có nhiều bài xường, bài hát

về tình yêu. Họ rất sở trường trong việc khai thác tâm trạng nhân vật bằng

những lời thơ đậm đà, hình ảnh đa dạng. Tất cả những ưu thế đó đã được vận

dụng nhuần nhuyễn trong TTTT Mường một cách hoàn hảo.

Với bốn truyện thơ đã khảo sát, có thể nói mọi mặt trong đời sống xã hội,

văn hóa Mường được bộc lộ rõ nét. Tâm tư, tình cảm của con người phản ánh

đậm nét. Quả thật, chỉ có ở thể loại truyện thơ mới có sức bao quát sâu rộng

đến như vậy. Từ những câu chuyện tình yêu tưởng chừng rất bình thường

nhưng lại có thể khái quát được cả một vấn đề rộng lớn của xã hội. Nạn ép

duyên, ngăn cản tình duyên của cha mẹ đã tố cáo cả một hiện thực xã hội rộng

lớn. Đó là số phận người phụ nữ trong xã hội cũ, sự tham sang phụ khó của

các bậc cha mẹ, là sự cậy quyền chức của những kẻ có quyền thế sẵn sàng

cướp tài sản và cả cô gái đẹp, là cuộc sống khó khăn, vất vả của những người

lao động. Đồng thời, qua đó đã nổi lên những điểm sáng trong tâm hồn con

người. Đó là tình yêu thương giữa những người trong gia đình, tình người đối

xử với nhau, đặc biệt là tình yêu đôi lứa, không có trở lực nào ngăn cản được

tình yêu của họ, thậm chí họ đánh đổi bằng chính mạng sống của mình. Tình

yêu của các chàng trai cô gái Mường đã làm sống lại những tình cảm ban sơ

nhất mà thuở loài người mới xuất hiện vốn đã có. Một tình cảm chân thật

không vướng chút một suy tư hay đắn đo, cân nhắc. Đó chính là giá trị nhân

văn ngàn đời mà TTTT Mường đã đạt được.

CHƯƠNG 3 . ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CủA TRUYỆN THƠ

TRỮ TÌNH MƯỜNG.

Ở chương này, người viết trình bày những đặc điểm cơ bản về nghệ thuật

của TTTT Mường như: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, vì những đặc điểm

này chính là đỉnh cao nghệ thuật của TTTT Mường.

3.1. Cốt truyện truyện thơ trữ tình Mường

3.1.1. Sự hình thành cốt truyện:

Truyện thơ được hình thành trên cơ sở tiếp thu và kết hợp thành tựu của

dân ca và truyện cổ. Tùy từng trường hợp cụ thể, trong đó nổi lên hàng đầu là

vai trò của dân ca hay truyện cổ trong sự tạo thành tác phẩm mà chúng ta có

hai kiểu truyện thơ mang phong cách khác nhau.

Hoặc là những mảng dân ca mà nội dung là những mảng tâm tình khác

nhau, mang tính phổ biến, được sắp xếp, hệ thống hóa, “lắp ráp” lại theo một

đường dây sự kiện nào đó để trở thành truyện về một số phận, một đời người

ít nhiều mang tính cá biệt. Đây là quá trình chuyển hóa từ trữ tình đến tự sự,

hay nói khác đi là quá trình tự sự hóa trữ tình, để trở thành kiểu truyện trữ tình

- tự sự. Ví dụ: Nàng Ờm - Bồng Hương (Mường), Tiễn dặn người yêu

(Thái)…

Hoặc là những truyện cổ tích kể về những số phận khác nhau được tăng

cường yếu tố trữ tình do tiếp thu nguồn dân ca. Đây là quá trình chuyển hóa

từ tự sự đến trữ tình, hay nói khác đi là quá trình trữ tình hóa tự sự để trở

thành một kiểu truyện thơ tự sự - trữ tình. Ví dụ: Nàng con Côi (Mường), Kim

Quế (Tày)…

Qua khảo sát quyển Tục ngữ, dân ca Mường Thanh Hóa và quyển Hợp

Tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số, chúng tôi nhận thấy cấu trúc của các

TTTT Mường có kết cấu gần giống như một cuộc hát xường giao duyên của

người Mường. Hay nói khác đi cốt truyện của TTTT Mường chính là sự “lắp

ráp” nội dung của các bài hát xường giao duyên, bọ mẹng, ví, đúm trong dân

ca Mường.

Một cuộc hát xường của người Mường được quy định khá chặt chẽ. Đầu

tiên là hát chào rồi mới đến hát xường “chân đi”, “qua cầu”, “ngoái trông”.

Có hát “khen cơm ngó rạ”, “khen song ngó tre”, “bán xường”, “bắc cải”,

“giồng kè”… mới chuẩn bị cho các bậc hát tiếp theo. Qua được “phên quạt”,

“phát sá, thông đàng” đến mười hai bậc với những lời gài hoa bay bướm và

những tiếng chim tha thiết, nếu có thời gian thêm đêm, thêm tối, người ta còn

hát đến giai đoạn: khen mường, khen giếng, khen ruộng, khen cổng ngõ, trâu

bò, thang man, vào nhà, chạm nhà, làm nhà cho xường và cuối cùng là xường

thề [15, tr. 51- 55].

Có thể nói: Truyện thơ trữ tình Mường được kết hợp bởi những mảng

tâm tình trong câu hát dân ca. Chúng được thu hút và hệ thống hóa tạo thành

cốt truyện truyện thơ. Tùy theo từng nội dung của câu chuyện mà các mảng

tâm tình được “lắp ráp” rất cụ thể - điều này hoàn toàn phụ thuộc vào ý đồ

của tác giả dân gian. Hầu hết cấu trúc của cốt truyện TTTT Mường được diễn

ra từng bậc, từng bậc như một cuộc hát xường:

- Đôi trai gái gặp nhau khen ngợi về mường bản, mời đến thăm nhà.

- Họ yêu nhau, mong ước được xây cửa dựng nhà.

- Họ bị cha mẹ ngăn cấm, đánh đập không cho họ đến với nhau.

- Đôi tình nhân bất chấp tất cả để được sống gần nhau, cho dù phải

chết.

Bảng 3.1. So sánh sự gần gũi giữa lời thơ trong TTTT Mường và lời

dân ca Mường:

TRUYệN THƠ MƯờNG các bài dân ca mường CÁC

HảO SÁT K

- Cành hoa cúc chơi lẫn cành hoa lan - Mường có đất ẻ ác

hương, Làng có nước ẻ ương,

Anh biết mường em trồng tốt, lúa Đất mường nên cơm tốt lúa,

nhiều, anh đã đến thăm đồng xem rạ, Vó nước nào cũng lắm cá trê

Biết nhiều cá, anh đi thăm suối, sông Một khóm cây kê cắt về chín giỏ Một

khe bó lúa nếp được ba đấu gạo, Có

Anh biết nơi làng em nhiều trai xinh, cơm bỏ thừa, có áo bỏ rơi…

(Vườn hoa núi Cối) gái đẹp…

- Ruộng lớn nhà em không bằng cái - Ruộng em còn bông quèng, cỏ rọm;

cặp, Ruộng nếp cấy khóm lúa đỏ,

Phải cấy nấp nấp vào bờ Ruộng tẻ cấy bó lúa ốc,

Vừa chim ăn lại vừa chuột cắn, Năm tốt thì bó lộn ngược,

Rắn đi thấy trốc, ốc đi thấy đuôi Năm mất phủi tay làu làu…

(Vườn hoa núi Cối) Ruồi bay qua cũng biết được con

trống con mái,

Nơi cấy nhà em không hết buổi gặt,

Nơi gặt nhà em không đủ buổi gánh…

- Anh đã đến đây, chơi chợ thăm - Đất nhà em chẳng nên thân gì mà

anh phải khen, anh ạ, hàng,

Anh sẵn lòng khen cơm, anh phải đi Rắp lòng ăn, xin anh đi cho tới cửa

cho đến mạ. Rắp lòng dạm, xin anh đi cho tới nhà,

Anh sẵn lòng khen cá, anh phải đi Trước thăm đức cố bố mẹ già,

cho đến khe Sau nữa, một chuyện lợi cả hai ba,

Anh sẵn lòng khen trai xinh gái đẹp, Cho hai ta tiện lời trao tiếng hẹn

anh phải đi cho tới làng… cùng nhau, anh hỡi…

(Nàng Nga – Hai Mối)

- Nghe đồn đất mường nhà em - Đất làm mùa, mùa được liền liền,

Đất trồng kê, kê lên kín rẫy, Trên núi trồng kê, dưới ruộng trồng

Vào một bụi riềng được năm ba tổ lúa

ong khoái Đất giàu, mường có

Vào một rừng bái, được chín mươi tổ Một gốc lúa được chín mười khiêng

ong rừng, vào một gốc vông được Vào một bụi riềng có năm ba tổ ong

năm ba tổ ong mến mẹ… khoái

(Út Lót – Hồ Liêu) Vào một rừng gianh bái, được chín

mười tổ ong rừng

Vào một bụi cây vông, năm ba tổ ong

mèn mẹn

- Chọn tháng tốt ngày lành - Bắc thuyền đò ngang sông bến Rậm,

Ra rào, ra sông ta đi đánh cá Đánh được con cá trắm bằng mái

Đánh được con cá rầm bằng cái ván chèo,

nốc Được cá khộc bằng mo nang.

Đánh được con cá rốc bằng tấm ván Được con cá chép, cá mương ráng,

chèo… Được cá bào, cá trôi;

(Vườn hoa núi Cối)

-Thương mơi, em ơi,

Em bảo xấu, anh chẳng chê xấu. - Anh kén em vì cái duyên ngầm

Một chút em xấu hơn trăm kẻ bậu có Nghìn trăm năm em cũng chẳng xấu

duyên. Phải duyên ta không ngày nào phai

Con nhà người dù cậy đẹp như tiên, Chơi đêm ni đêm nay, rồi anh no lòng

Nhưng vô ý vô tình vô duyên cũng nhớ!

chẳng đáng cho người ao ước

(Nàng Nga – Hai Mối)

-Thương thảm, thương thiết, thương

- Ước gì ta thành điếu kín ba tràng nồng…

Miệng ta được hút thuốc chung Con tằm trên nong những mong làm

Đi ra đường dài ta cùng nhả khói lại kén,

Đôi con ve nén những mong bay lại

một cành,

Đôi con chim xanh những mong bay

về một tổ,

Con nước trên mỏ chảy về một

mường,

Con người ở đôi mường ngồi chung

một nơi máng giữa.

- Uống nước, kêu vía bạn cho đỡ

-Anh đi củi, kêu lấy vía em còn thêm thương

được một vác, Ăn cơm, gọi hồn nàng cho nó đỡ nhớ

(Út Lót – Hồ Liêu) Anh đi nước, gọi lấy vía em còn thêm

-Công em chờ từ năm xưa năm ngoái, được một triệng…

-No lòng để dạ chờ mong em ở cột Chờ cho tới năm nay

nhà ván, Đợi anh lòng chay dạ suông,

Ngồi cùng em ở chàn dãi gió dầm Mặt trời xế bóng ngày nào cũng

sương mong…

Hết năm chẳng được tiếng cười Lòng em những ngậm ngùi,

Cuối năm chẳng được tiếng nói… Như cây rau mùi héo ngọn,

Chờ anh đã trọn một năm,

Đến ngày rằm, mười lăm tháng sáu.

(Vườn hoa núi Cối)

- Người thiếu cơm cần người còn cơm

móc; - Anh sầu thương em, vóc mình anh

Ta thiếu bạn ngọc bổ đau

Anh sầu nhớ em, vóc mình em bổ yếu. Như cây vía lìa gốc héo cành,

Thiếu bạn tình, ta như cây lim héo

cội.

(Út Lót – Hồ Liêu)

-Chín chục roi lảy trảy bố bó làm

-Anh sầu thương cô mái bạn tình bảy,

Đường phương xa cho nên mới ốm Bảy mươi roi lèn en mẹ buộc làm ba,

Bố mẹ anh nghe vậy Giữ em trong nhà

Giận lấy roi vọt, roi von, roi mây non Bố mẹ ra tay đánh đập.

Đánh anh bầm sống Đánh em như sấm trên trời,

Đến thế ni ai còn muốn sống Như hòn đá to rơi xuống suối.

Nhưng anh quyết chơi vụng nhởi liều. Đánh em tay không biết mỏi,

… Ngày nào nước sông cái chảy lại Đánh em máu chảy khắp người.

lim dim Áo em rách tả tơi,

Như bè lim chìm đi xuôi, ta mới đành Chân tay em rã rời,

chịu em hỡi! Trông không nên người, không nên

con gái.

(Nàng Ờm –Bồng Hương)

- Thà con đi liều thân cho quạ

- Em đi gánh nước biển xanh Liều xác cho cá mương mương

Ngâm sung nảy lộc, ngâm hành nở Liều xương cho mối cùng kiến

hoa Thà con đi biến ở nơi cùng trời,

Ngâm đá, đá nảy mầm ra Lâu năm lâu đời,

Cho bụt lấy nước, cho ta lấy mình Không gặp Nàng Nga, con không trở

Cây trong rừng, lá trong rừng lại.

(Nàng Nga – Hai Mối) Em chỉ lấy mình, quyết chẳng lấy ai.

Khi tiếp thu lời dân ca, truyện thơ phải làm một công việc quan trọng:

chuyển hóa ít nhiều lời dân ca cho phù hợp với nội dung của truyện thơ. Cụ

thể là: nếu ở dân ca chỉ là những cảm nghĩ khái quát của nhân vật trữ tình thì

khi đi vào truyện thơ những cảm nghĩ đó phải được cụ thể hóa, chi tiết hóa

trong một hệ thống sự việc, hành động diễn ra và chuyển biến trong một

khoảng không gian - thời gian nhất định - nghĩa là từ tâm trạng chuyển hóa,

phải bộc lộ thành sự kiện, những tình tiết. Như thế có nghĩa là trữ tình đã tự

sự hóa và một cốt truyện với những chuỗi sự kiện, tình tiết nối đuôi nhau hình

thành [67, tr. 94].

Khảo sát những sự kiện tình tiết trong TTTT Mường với những câu hát

trong quyển “Tục ngữ, dân ca Mường Thanh Hóa” do Minh Hiệu sưu tầm,

chúng ta thấy rằng TTTT Mường đã sử dụng những môtip có sẵn từ trước

trong dân ca. Lời thơ có thể dài - ngắn khác nhau, ngôn từ có thể thay đổi ít

nhiều cho phù hợp với tâm tình của nhân vật. Truyện thơ trữ tình Mường

mang đậm dấu vết của dân ca. Bởi vậy tính trữ tình nổi bật hơn tính tự sự, cả

câu chuyện dường như là một chuỗi tâm trạng nảy sinh trong những hoàn

cảnh khác nhau. Thêm vào đó là những sự kiện, những chi tiết góp phần làm

cho TTTT Mường thêm hấp dẫn, thu hút sự yêu mến của người nghe, người

đọc. Vì thế TTTT Mường đã tổng hợp được cả hai yếu tố vừa trữ tình vừa tự

sự, vừa có lời thơ du dương vừa có cốt truyện hấp dẫn. Truyện thơ trữ tình

Mường đã đáp ứng được nhu cầu thưởng thức văn hóa, văn học của người dân

nơi vùng đất hoang sơ mà hùng vĩ.

3.1.2. Mô hình cốt truyện:

Các nhà nghiên cứu truyện Nôm Việt nhất trí cho rằng cấu trúc cốt truyện

được xây dựng theo mô hình “kết thúc có hậu” gồm 3 chặng: Gặp

gỡ - Tai biến - Đoàn tụ (1) [26].

Truyện thơ các dân tộc có mô hình cấu trúc giống truyện Nôm Việt như:

Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Châu - Quyển Vương, Đính Quân, Lý Thế Khanh,

Chiêu Đức (Tày); Tiễn dặn người yêu (Thái); Nhàng Dợ - Chà Tăng (H’

Mông).

“Tiễn dặn người yêu” là truyện thơ tiêu biểu cho mô hình này. Theo

nhận xét của Lê Trường Phát: “Đó là một cách kết thúc có hậu hay nhất cho

đề tài tình yêu đôi lứa”[97, tr. 444]. Sau đây là tóm tắt tác phẩm:

Truyện bắt đầu hai đứa trẻ biết nhau từ thuở ngây thơ, lớn lên yêu nhau.

Chàng trai nghèo, cha mẹ cô gái gả con cho người khác. Chàng trai phẫn chí

đi buôn và trao chiếc kèn môi làm tin, hẹn trở về giành lại người yêu. Cô gái

chờ đợi, hết thời gian ở rể, cô phải về nhà chồng. Người yêu trở về, anh tiễn

đưa chị và dặn dò: “Không lấy được thời trẻ” thì hẹn lấy nhau “khi góa bụa về

già”. Ở nhà chồng, cô đau khổ đến ngây dại, bị đuổi về. Sau đó, cha mẹ lại

bán chị cho nhà quan làm vợ hầu. Chị càng ngây dại hơn. Chị bị đem ra chợ

bán với giá “một cuộn dong”. Người mua chính là người yêu cũ. Với dáng vẻ

tiều tụy, anh không nhận ra. Đau đớn, chị lấy kèn môi ra thổi. Anh nhận ra

người yêu cũ, quyết định cưới chị. Anh tiễn đưa vợ cũ về kết duyên với người

yêu trước. Kết thúc cảnh hai gia đình vui vẻ, đoàn tụ.

Đa số TTTT Mường lưu truyền chủ yếu bằng con đường truyền miệng,

bốn truyện thơ được khảo sát lại không theo một mô hình cấu trúc trên, mà có

chung mô hình cấu trúc sau:

Gặp gỡ, yêu nhau - Bị ngăn cản, rẽ duyên - Một, cả hai đều chết (2)

Cùng mô hình cấu trúc này còn có các truyện thơ: Khun Lú - nàng Ủa,

Ú Thêm, Hiền Hom - Cầm Đôi (Thái); Nam Kim - Thị Đan, Bióoc La (Tày);

Hoàng tử Um Rúp và cô gái chăn dê, Aria Chăm - Bà ni (Chăm); A Thào - Nù

Câu, Tiếng hát làm dâu (H’Mông).

Mô hình kết cấu cốt truyện (1) với kiểu kết thúc có hậu gọi là “kết thúc

có hậu”. Mô hình kết cấu cốt truyện (2) với kiểu kết thúc bi kịch nên gọi là

“kết thúc bi kịch”. Theo thống kê của Lê Trường Phát, số truyện thơ theo cả

hai cách kết thúc có tỉ lệ như sau: [97, tr. 446]

Bảng 3.2. Thống kê mô hình cốt truyện truyện thơ các dân tộc.

Dân tộc T ổNG Số CÁC Tỉ Lệ KếT THÚC BI

TR UYệN THƠ KịCH/ K Ó HậU ếT THÚC C

4 tác phẩm Thái 3/1

7 tác phẩm Tày - Nùng 2/5

4 tác phẩm Mường 4/0

2 tác phẩm Chăm 2/0

3 tác phẩm H’Mông 2/1

Tổng cộng 20 tác phẩm 13/7

Mô hình kết cấu cốt truyện có kết thúc có hậu không tiêu biểu cho kiểu

kết cấu cốt truyện truyện thơ các dân tộc thiểu số. Mô hình “kết thúc bi kịch”

mới tiêu biểu và phổ biến. Ở tất cả các nhóm truyện thơ, kiểu “kết thúc bi

kịch” chiếm tỉ lệ cao hơn kiểu “kết thúc có hậu”. Truyện thơ Mường, Chăm

chiếm tỉ lệ 100%. Riêng nhóm truyện thơ Tày thì “kết thúc có hậu” chiếm tỉ lệ

cao hơn. Điều này có thể do vai trò tham gia sáng tạo tác phẩm của các nho sĩ,

thầy đo người Việt miền xuôi lên. Họ mang ảnh hưởng truyện Nôm Việt vào

truyện thơ Tày. Chính “ngoại lệ” này khẳng định qui luật nội tại của sự hình

thành truyện thơ các dân tộc thiểu số. Ở các dân tộc Mường, Chăm, Thái,

H’Mông vai trò sáng tạo truyện thơ chủ yếu thuộc về dân gian và trí thức của

chính các dân tộc đó.

Cả bốn TTTT Mường đều có mô hình cốt truyện kiểu “kết thúc bi kịch”.

Điều này chắc hẳn do đặc điểm của thi pháp thể loại: nó thể hiện một cách

nhìn nhận mới (khác với truyện cổ tích) về con người và cuộc sống, thể hiện

một nguyên tắc thẩm mỹ (khác với truyện cổ tích) về sáng tạo nghệ thuật.

Trong hiện thực đời sống, phần lớn tình yêu chân chính, đích thực đều tan vỡ

thì nghệ thuật cứ thế thể hiện. Nhân dân các dân tộc đến với truyện cổ tích thì

thích thú với “kết thúc có hậu” mang tính lý tưởng - lãng mạn, nhưng đến với

truyện thơ lại muốn một kết thúc gần hơn với thực tại trước mắt.

Sự lựa chọn kiểu kết thúc bi kịch tạo nên một đặc điểm thi pháp của thể

loại này. Chính những người thân hại nhau: chính bố mẹ Ờm đã khiến nàng

cùng Bồng Hương lên núi cao ăn lá ngón tự vẫn, cha mẹ Thờm, Tiên ép

duyên con khiến hai nàng ăn lá ngón tự vẫn, cha mẹ nàng Nga tham vàng gả

nàng cho vua Ao Ước cũng chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của đôi trai

gái… Nói như Aristote, thì :“Chỉ có giữa những người thân mà xảy ra việc bi

thảm… đấy mới là những điều mà nhà thơ cần tìm” [97, tr. 449]. Nói

khác đi, đặc điểm thi pháp này nếu đứng từ góc đô xã hội - lịch sử mà nhìn

nhận, mang ý nghĩa tố cáo hiện thực quyết liệt. Còn đứng từ góc độ mỹ học

để đánh giá: truyện thơ lựa chọn điểm dừng cho cốt truyện đúng vào lúc sự

việc vận động, phát triển đến đỉnh điểm bi kịch của nó nhằm tạo một kết thúc

có nghĩa tẩy rửa, làm trong sạch tâm hồn mọi người do chỗ nó thỏa mãn được

lòng yêu sự công bằng. Quả thật, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã chọn cho

thể loại truyện thơ một kiểu kết thúc mang ý nghĩa mỹ học sâu sắc.

Có thể có ảnh hương của ca dao - dân ca trong sự hình thành thể loại. Âm

hưởng chủ đạo của dân ca tình yêu là âm hưởng bi kịch. Ngoài ra, còn có cơ

sở đặc điểm thi pháp của thể loại biểu hiện ở phương diện diễn xướng. Vì dân

ca được hình thành trong môi trường hát đối đáp giao duyên, hình thức hát có

lề lối. Trình tự các bước của cuộc hát là sự khúc xạ nghệ thuật của trình tự

cho một mối tình bắt đầu từ lúc đôi bên gặp gỡ cho đến bước kết thúc. Mà

ngoài đời có sự phân biệt sang - hèn, giàu - nghèo, quí - tiện, thì một mối tình

thường gặp biết bao trắc trở, bởi thế lời dân ca ở chặng cuối thường vang lên

âm điệu tha thiết, lưu luyến nhưng đầy mặc cảm bi kịch. Ca dao - dân ca khó

chấp nhận một cảm hứng mang tính lý tưởng - lãng mạn như của truyện cổ

tích. Và nó mang theo cái đặc điểm thi pháp ấy tham dự vào sự hình thành thể

loại truyện thơ.

Có người coi việc nhân vật chết đi để đoàn tụ ở thế giới bên kia cũng là

“kết thúc có hậu”. Trong tư duy của người Mường xưa còn mang nặng tàn dư

của thời nguyên thủy, “thế giới bên kia” - mường ma, mường trời có màu sắc

hiện thực hơn trong tư duy của người Việt. Trong truyện thơ “Nàng Ờm -

Bồng Hương”, đôi trai gái ăn lá ngón chết. Nhưng qua lời tự sự của họ thì họ

vẫn “sống” và “đoàn tụ” ở thế giới bên kia. Còn bố mẹ Ờm thì cho rằng cuộc

sống thế giới trần gian vẫn tốt hơn.

“Bộp bộp ! Sống lại, Ờm à !

Sống lại, bố cho đi làm cửa

Sống lại, mẹ cho đi làm nhà

Chớ có về bên ma mà hại”[105, tr. 456]

Vậy là người Mường cho rằng sống ở trần thế vẫn tốt hơn, còn chết là

hại. Chính Ờm cũng cho rằng mình “ma dại thân tàn”, không thể nào bằng

cuộc sống chốn trần gian:

Không, không, bố ơi !

Không, không, mẹ à !

Bố có cho con đi làm nhà

Không cho khi con còn sống nên người…

… Đến bây giờ ma dại thân tàn

Còn đòi chi mà sống lại được”[105, tr. 456]

Cuộc sống của vợ chồng Ờm có chút gì gượng gạo, không hợp với lẽ tự

nhiên:

“Cửa không nên cửa

Nhà không nên nhà

Dưới sâu như ao như hồ

Trên nhà thấy sao thấy trăng”

“Em chưa có con gái coi cửa

Em chưa có con lứa coi nhà”[105, tr. 459]

Đoàn tụ trong quan hệ vợ chồng mà vĩnh viễn cứ “chưa có con gái, con

lứa” thì có thật sự hạnh phúc không ?

“Đạo vợ nghĩa chồng thiết tha

Tốt chưa nên tốt

Xấu không ra xấu

Anh xấu nhưng anh nhuộm răng đen

Em đẹp như dây bông trăng

Nhưng răng em còn trắng”[105, tr. 460]

Con gái Mường xưa từ mười tuổi trở lên đã nhuộm răng. Răng của Ờm

mãi mãi trắng, nghĩa là nàng không bao giờ lớn lên, không biến đổi. Mọi sự

dừng lại, mọi sự bất biến trong tình trạng trái ngược hoàn toàn với tập quán

bình thường mà phong tục Mường qui định. Như thế có thực là “sống”, là

“hạnh phúc” không? Tự bản thân nhân vật đã thấy trong cái “đạo vợ nghĩa

chồng” gọi là “thiết tha” nhưng “tốt chưa nên tốt, xấu không ra xấu” như nửa

vời, không trọn vẹn.

Rốt cục chết đi để đoàn tụ ở thế giới bên kia, ngay cả những người sống

cùng thời với nhân vật trong tác phẩm cũng chỉ có ý nghĩa của một sự vớt vát

bằng hình thức nghệ thuật. Nó không hiện hữu ngoài đời thực, có chăng chỉ

hiện hữu trong thế giới nghệ thuật với ý nghĩa của một mơ ước và ý nghĩa của

một lời lên án thực tại.

3.1.3. Một số môtip thường gặp trong cốt truyện:

Mỗi TTTT Mường là một bài ca đẹp ca ngợi về tình yêu đôi lứa. Nó là

một bức tranh sinh động với sắc màu rực rỡ của núi rừng Tây Bắc. Mỗi tác

phẩm có nét đặc sắc, độc đáo riêng. Truyện thơ trữ tình Mường được xây

dựng theo một kết cấu rất chặt chẽ và logic. Thành tố tạo nên sự kiện, biến cố

của tác phẩm là nhờ vào việc vận dụng các môtip vào truyện thơ, giúp cho tác

phẩm thêm sinh động, hấp dẫn.

3.1.3.1. Môtip “dùng lá ngón tự tử”.

Nhân vật dùng lá ngón tự tử nhằm phản ứng (tiêu cực) với sự ép duyên,

rẽ duyên, cưỡng duyên của cha mẹ. Đây là phản ứng phổ biến của nhân vật

trong văn học dân gian các dân tộc. Có thể môtip này có mặt trong TTTT

Mường là sự kế thừa từ dân ca và truyện cổ.

Ở truyện thơ Nàng Ờm - Bồng Hương, đôi trai gái quyết lên núi Làn Ai

ăn lá ngón để được:

“Chết đen như mực

Chết đỏ như vang

Chết vàng như nghệ” [105, tr. 453]

Truyện thơ Vườn hoa núi Cối có đến bốn người tự tử, Thờm, Tiên cùng

anh Va, Khói uống rượu hòa với lá ngón, mong được:

“Ta chết biến với nhau cho tốt,

Ta cùng chết với nhau cho lành”[105, tr. 434]

Môtip “ dùng lá ngón tự tử ” không chỉ có TTTT Mường mà ở dân ca và

truyện thơ các dân tộc khác cũng thường được sử dụng. Dân ca H’Mông nói

nhiều đến việc dùng lá ngón. Truyện thơ Tiếng hát làm dâu sử dụng môtip

này để Vừ Chúa Pua cùng người yêu:

“Chúng ta bỏ mạch đất này, lấy mạch đất kia

Chúng ta chết ở cõi trần này, sống ở cõi ma kia”.

Ở truyện thơ Bióoc Lả (Tày), Lương Quân không đến, Bióoc Lả dùng lá

ngón hoa vàng tự tử.

Truyện Nôm cũng sử dụng môtip “Sự tự tử của nhân vật”. Nhưng cách tự

tử lại khác: thường là trầm mình nơi sông nước (Kiều Nguyệt Nga trong

truyện Lục Vân Tiên, Chiêu Quân trong truyện Vương Tường, Hạnh Nguyên

trong Nhị độ Mai, Thúy Kiều trong Truyện Kiều). Ở truyện thơ các dân tộc

thiểu số lại là vai trò của lá ngón. Sự khác nhau này có liên quan đến đặc

điểm môi trường sống của nhân vật. Tuy khác nhau về cách tự vẫn của nhân

vật, nhưng giữa truyện Nôm và truyện thơ các dân tộc thiểu số vẫn có điểm

chung: sự tự vẫn diễn ra vào giai đoạn bản lề của cốt truyện. Kể từ lúc tự tử,

số phận nhân vật có một bước ngoặt quan trọng, ở truyện thơ các dân tộc

thiểu số là cái chết vĩnh viễn của nhân vật, ở truyện Nôm sẽ có yếu tố kỳ diệu

xuất hiện để giúp nhân vật bước vào giai đoạn mới của số phận.

Nhân vật trong TTTT Mường đã phản ứng lại sự ép duyên của cha mẹ

bằng cách tự tử. Họ mượn lá ngón để làm cứu cánh cho cuộc tình tươi thắm.

Vì họ nghĩ rằng, cuộc đời thực đã không cho họ thỏa nguyện ước vọng, chỉ có

ở cõi ma, tình yêu mới tồn tại vĩnh cửu. Có thể nói hành động phản kháng của

họ mang tính tiêu cực. Chính sự phản ứng của họ cho ta thấy một xã hội bất

công, vô nhân tính đang ngự trị lên tình yêu đích thực của con người.

3.1.3.2. Môtip “hóa kiếp” (người hóa kiếp thành vật).

Đây là môtip phổ biến trong kho tàng truyện cổ của các dân tộc. Phần lớn

xuất hiện ở phần kết cốt truyện như một thành phần không thể thiếu của cốt

truyện nhằm thể hiện triệt để chủ đề đấu tranh xã hội.

Ở truyện thơ “Út Lót - Hồ Liêu”, khi đưa dâu qua mộ Hồ Liêu, Út Lót

xin vào thăm mộ. Nàng gọi Hồ Liêu mở cửa mộ cho nàng vào. Hai họ dâu rể

ngơ ngác biến thành đàn bướm lạc tháng ba, đạo Cun - chồng Út Lót biến

thành con cun cầy tháng ba gầy xác. Môtip này có sự tương đồng với truyện

Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài (Trung Quốc). Tuy nhiên, ở truyện Trung

Quốc, hai nhân vật Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài “biến hóa” thành đôi

bướm trắng quấn quýt bên nhau. Còn truyện thơ Mường, hai nhân vật chính

không chịu ảnh hưởng của môtip “hóa kiếp” mà tiếp tục sống ở thế giới khác.

Cô gái Thờm, Tiên cùng anh Va, Khói trong truyện thơ “Vườn hoa núi

Cối”, rủ nhau uống rượu hòa lá ngón. Bốn người đều chết. Hai nàng Thờm,

Tiên “chết biến” thành hoa đào, anh Va, Khói “chết biến” thành hoa trúc.

Sau khi ăn lá ngón, Ờm cùng Bồng Hương chỉ muốn:

“Con biến nên núi Làn Ai

Cho chuyện của con kéo dài”[105, tr. 459]

So với truyện thơ, truyện cổ lại có điểm khác biệt, nơi Ờm và Bồng

Hương chết mọc lên hai cây, cành lá xum xuê quấn quýt nhau. Bà con gọi đó

là “cây tương tư”. Vì đó là biểu tượng cho mối tình chung thủy của đôi trai

gái ấy. Người ta cho cây tương tư là bùa yêu. Việc chọn môtip “biến hóa”

không đồng nhất nhau giữa truyện thơ và truyện cổ. Có thể là do ý đồ của tác

giả dân gian trong việc thể hiện các môtip, có thể môtip “biến hóa” nên núi

Làn Ai trong truyện thơ nhằm lên án mạnh mẽ sự re duyên, ép duyên. Còn

môtip “biến hóa” thành cây tương tư trong truyện cổ nhằm ca ngợi mối tình

đẹp của hai người.

Môtip “hóa kiếp” còn được sử dụng trong truyện thơ của các dân tộc

khác. Trong đoạn kết truyện thơ “Khun Lú - Nàng Ủa"(Thái), Khun Lú chết

cùng Ủa, hồn lên trời gặp Then. Một mảnh hồn của họ lại bị Then “hóa kiếp”

thành hai ngôi sao (sao Khun Lú và sao nàng Ủa) ở hai bên bờ sông Ngân,

không bao giờ được gặp nhau. Môtip này chắc hẳn có sự gặp gỡ về văn hóa

giữa hai dân tộc Thái và Kinh. Truyện “Ả Chức - chàng Ngưu” (Kinh) có

môtip biến hóa thành hai ngôi sao ở hai bên bờ sông Ngân.

Trong truyện thơ Bióoc Lả (Tày), Bióoc Lả bị cha mẹ ép gả cho người

mình không yêu, phải chia tay với người tình. Nàng ăn lá ngón để tự tử.

Nhưng sau khi chết, nàng lại “hóa kiếp” thành một loài hoa sắc vàng nở

muộn. Trong truyện này có sự kết hợp giữa hai môtip “ăn lá ngón tự tử” và

“hóa kiếp”. Bióoc Lả không tìm được hạnh phúc ở thế giới trần gian, nàng

chết đi. Nhưng “bù lại”, sự hóa kiếp của nàng là kéo dài sự sống ở một dạng

khác để tiếp tục lên án xã hội. Theo quan niệm “vạn vật hữu linh” của người

Tày: con người có thể sống qua nhiều kiếp, mỗi kiếp tồn tại ở một dạng khác

nhau.

Truyện thơ “Nhân Lăng” (Tày), đoạn kết thúc có nhiều tình tiết độc đáo.

Vì tiếc của, Thách Sùng chết hóa thành con “bám tường”. Vợ cả hắn chết hóa

thành chim bìm bịp chui lẩn trong bụi. Vợ lẽ chết hóa thành chim thước, ngày

đêm kêu “thắc mắc, thắc mắc” trong rừng. Truyện thơ Nhân Lăng sử dụng

type truyện về Thạch Sùng kết hơp với môtip “hóa kiếp” (cho hai mụ vợ) cốt

thể hiện mơ ước về một xã hội công bằng cho những người nghèo.

Môtip “hóa kiếp” nhằm giải thích một số hiện tượng tự nhiên trong đời

sống. Qua đó tác giả dân gian muốn xoa dịu những đau đớn, chua xót, phiền

muộn mà nhân vật từng nếm trải. Môtip “biến hóa” đền bù xứng đáng cho

nhân vật ở một dạng tồn tại khác, một thế giới vĩnh hằng và trường tồn, chỉ có

ở đó nhân vật có thể thực hiện được những nguyện vọng chính đáng của

mình.

3.1.3.3. Môtip “ giả trai”.

Trong truyện thơ “Út Lót - Hồ Liêu”, Út Lót “giả trai” lên kinh chầu vua.

Môtip “giả trai” ít được sử dụng trong truyện thơ các dân tộc. Môtip này chủ

yếu được truyện Nôm vận dụng khá nhiều. Ở truyện “Phương Hoa”, nàng

Phương Hoa “giả trai” lấy tên Cảnh Yên đi thi, đậu trạng nguyên, được gặp

vua và nàng đã tố cáo tội ác của tên Tào trung úy, giải oan cho gia đình

chồng. Ngoài ra còn có các truyện “Nữ tú tài”, “Lương Sơn Bá - Chúc Anh

Đài” cũng sử dụng môtip “giả trai”. Tuy vậy, truyện “Hoàng Trừu” lại sử

dụng môtip “giả gái”. Hoàng tử Trung Quốc tên là Hoàng Trừu vì muốn kén

chọn ý trung nhân nên đã “giả gái”.

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không được tôn trọng. Họ không

được sự ủng hộ của xã hội, đặc biệt là của giai cấp thống trị. Môtip “giả trai”

được vận dụng vào truyện thơ như là một minh chứng hùng hồn về tài năng,

phẩm chất và trí tuệ của những người phụ nữ. Trong truyện thơ người phụ nữ

không hề thua kém nam giới, thậm chí còn nổi trội hơn, như Út Lót, nàng

Nga, Phương Hoa… Những người dân lao động chính là những người phán

quyết công bằng nhất. Họ đã bênh vực thân phận người phụ nữ, tìm ra một vị

thế xứng đáng trong truyện thơ, có thể ở ngoài đời thực thì rất khó.

3.1.3.4. Môtip “Sự chênh lệch gia cảnh”.

Trong kho tàng truyện cổ tích Mường, các truyện “Piêng và Vuôn”, “Đố

bay ghét chúng tao”, “Sự tích ống sáo ôi” sử dụng môtip “sự chênh lệch gia

cảnh”. Thường là chàng trai nghèo yêu cô gái nhà giàu hoặc con lang. Tình

yêu của họ bị ngăn trở bởi thế lực của bố mẹ. Kết cục đôi trai gái được hạnh

phúc hoặc cả hai tìm đến cái chết.

Môtip “sự chênh lệch gia cảnh” trong truyện cổ Mường được truyện thơ

“Nàng Ờm - Bồng Hương” khai thác triệt để. Vì Bồng Hương nghèo nên

không được sự đồng tình của cha mẹ Ờm. Ở truyện thơ Tiễn dặn người yêu

(Thái) cũng sử dụng môtip này, cuối cùng đôi trai gái yêu nhau vẫn tái hợp.

3.1.3.5. Môtip “thi tài”.

Môtip này có trong nhiều truyện cổ các dân tộc: môtip thi tài chọn người

tài giỏi, môtip thi tài kén phò mã… Trong truyện thơ “Út Lót - Hồ Liêu”

(Mường), đạo Tu Liêng tổ chức “thi tài” cho ba cô con gái, xem ai là người

thông minh, sắc sảo hơn người. Ông cho các con ngậm giấy. Chị cả nhả ra

giấy ướt nhèm, cô hai ngậm giấy ướt còn một nửa, chỉ có giấy của Út Lót

không bị ướt.

Môtip “thi tài” cũng được truyện thơ các dân tộc khai thác. Chẳng hạn

như : Truyện thơ Kim Quế (Tày), Chúa Ba phải trải qua ba cuộc thi nấu cỗ,

may áo, vợ đẹp với hai hoàng tử anh. Cả ba lần Chúa Ba đều thắng nhờ có vợ

là Kim Quế - một nàng tiên đội lốt khỉ.

Trong truyện cổ tích của các dân tộc đều có môtip này: Nàng Út ống tre,

Lấy vợ cóc (Kinh)… Đây là luật bội tam của truyện cổ - trong đó số lần thi ít

nhất là ba, cuộc thi diễn ra ít nhất là ba người, người chiến thắng bao giờ cũng

là đứa thứ ba - em út.

Truyện thơ vận dụng môtip “thi tài” nhằm đề cao vai trò của những con

người thông minh, mưu trí. Họ ứng phó tốt, nhanh nhạy với hoàn cảnh thực

tế. Môtip “thi tài” có sự kết hợp với kiểu “người em út” trong truyện cổ tích.

Việc vận dụng kiểu truyện người em út vào truyện thơ nhằm giành lại quyền

lợi cho người em út.

3.1.3.6. Môtip “thử thách”.

Môtip “thử thách” được sử dụng nhiều trong truyện cổ Mường. Truyện

“Nàng sao Ả sáng” vua Lang mường trời thách cưới là thứ quí hiếm: tim gan

thú và cá. Truyện “Chàng Khọ” nhà Lang có hẳn bài ca thách cưới. Truyện

“Chàng Ẻ Tăng” người bố vợ thử thách Ẻ Tăng phải nhận ra đúng con đường

vợ làm và mâm cơm vợ dọn mới được chung sống. Trong truyện thơ “Út Lót

- Hồ Liêu”, vua nghi ngờ đạo Mường Đẹ là gái, nên đưa ra “thử thách”:

“Đạo Mường Đẹ đi đánh cá cho được nhiều con,

Đạo Hồ Liêu hái rau vay non cho được nhiều lá”[105, tr. 325]

Môtip “thử thách” được vận dụng vào truyện thơ và truyện cổ nhằm đề

cao trí thông minh, sự nhanh nhẹn ứng phó trước tình huống khó khăn, nan

giải nhất của những con người lao động chân chính.

3.1.3.7. Môtip “Gặp nhau trong tư thế khỏa thân”.

Trong truyện thơ “Vườn hoa núi Cối”, anh Va, Khói nghe đồn về sắc đẹp

của nàng Thờm, Tiên. Hai anh gặp hai nàng đang trong tư thế khỏa thân.

Môtip “gặp nhau trong tư thế khỏa thân” thường được truyện cổ các dân tộc

khai thác. Ở truyện Chử Đồng Tử (Kinh), công chúa Tiên Dung vây màn tắm

trên bãi cát. Không ngờ Chử Đồng Tử đang vùi mình dưới cát để trốn. Tiên

Dung cho đây là duyên trời xe kết nên nàng tình nguyện làm vợ Chử Đồng

Tử. Trong truyện Lấy vợ Tiên (Mường), chàng mồ côi tắm gặp tiên. Hai

người đã gá nghĩa vợ chồng.

Theo nhận xét của Đặng Thái Thuyên “Môtip “trai gái gặp nhau ơ tư thế

khỏa thân” là môtip mang bản sắc văn hóa cộng đồng Mường - Việt” [106, tr.

104]. Chúng ta có thể tìm thấy mối quan hệ Mường - Việt trên cơ sở đi sâu

vào những yếu tố văn hóa chung và yếu tố văn hóa không ngừng tương tác

diễn ra trong lịch sử, cụ thể là ở sử thi “Đẻ đất đẻ nước”.

Các môtip chính là các nút thắt tạo nên những bước ngoặt quan trọng

trong cuộc đời nhân vật truyện thơ. Là sự chuyển biến về tâm trạng, là những

giây phút đấu tranh về tâm lý của nhân vật, để từ đó tạo nên cá tính riêng cho

mỗi nhân vật. Việc vận dụng các môtip trong truyện thơ của các dân tộc chính

là điểm gặp gỡ nhau về khát vọng, về tâm tư tình cảm của con người đang

khát khao hạnh phúc, khao khát công bằng và tin tưởng vào một cuộc sống

mới tươi đẹp hơn.

3.2. Nhân vật của truyện thơ trữ tình Mường.

Tên các nhân vật chính của TTTT Mường đa phần được lấy làm tựa đề

truyện thơ như: Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Ờm - Bồng Hương, Nàng

Nga - Hai Mối. Tuy nhiên vẫn có tác phẩm không lấy tên nhân vật chính làm

tựa đề như truyện thơ Vườn hoa núi Cối. Các nhân vật chính này làm nhân vật

trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, các nhân vật phụ khác dẫn dắt, thêm

thắt làm câu chuyện thêm sinh động, hấp dẫn. Các nhân vật trong truyện dù

có tên hay không có tên đều là những cặp nhân vật trữ tình: anh - em, chàng -

nàng quen thuộc của dân ca.

Các nhân vật phụ trong truyện thơ được miêu tả mờ nhạt từ hình dáng,

tuổi tác, quê quán, tính cách cho đến tâm trạng. Ta không biết tên vợ Hồ Liêu,

hai người vợ anh Khói,Va. Huống hồ gì đến các nhân vật khác như bố mẹ

Khói, Va, đạo Cun Cun, đạo Trần, đạo Trà… Họ chỉ là những cái bóng mơ

hồ. Hình ảnh hai chị của Út Lót càng mờ nhạt. Tất cả những nhân vật chính

và phụ này vốn là nhân vật của dân ca, nên khi đặt họ vào một cốt truyện cụ

thể chỉ cần đặt cho họ một cái tên để dễ phân biệt truyện thơ này với truyện

thơ kia mà thôi.

Nhân vật TTTT Mường chủ yếu được khắc họa về phương diện tâm tư,

tình cảm. Về phương diện này, tâm tư của họ cũng lại chỉ được mô tả bằng

những tâm trạng đã có sẵn trong dân ca. Tâm trạng của các nhân vật được thể

hiện bằng những lời đối đáp giữa các nhân vật. Lời đối đáp thường mở đầu

bằng câu “Thương thảm, thương thiết, thương nồng…”, “Thương thiết,

thương thà…”, “Thương mơi, thương à…”. Đây cũng là câu mở đầu của

những lời hát xường của người Mường. Chính GS. TSKH Tô Ngọc Thanh đã

nhận xét về xường giao duyên của người Mường:

Trong một chừng mực nào đó, có thể xem hát ví là các làn điệu

mang sắc thái trữ tình. Còn thường - rang thì lại nặng về chất tự sự.

Tự sự từ những lời gọi mở đầu làn hát:“Thương thiết ơi lại thương

nồng”… thương nhau đã “thiết” lại “nồng” thì thật là hết mực yêu

thương… chất tự sự tràn cả vào giai điệu. Dòng nhạc được cấu tạo

xen kẽ bởi những đoạn ngân giọng kéo dài với những đoạn kể lời ca,

theo nhau tuôn chảy như suối, đã như vừa kể lể, bộc bạch tâm sự, lại

vừa như kêu gọi nơi ta sự đồng cảm sâu sắc [58, tr. 51 - 55]

Toàn bộ truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối chỉ gồm những đoạn lần lượt

miêu tả tâm trạng của từng nhân vật chính cùng những lời đối đáp của họ lúc

gặp nhau. Xen vào đó là những đoạn đối thoại giữa Hai Mối - bố mẹ nàng

Nga, nàng Nga - đôi chim cu, Hai Mối - bố mẹ, Trí Hoa, dân mường, nàng

Nga - Út Thái, nàng Nga - vua Ao Ước… Truyện thơ miêu tả một vài hành

động của nhân vật: nàng Nga viết thư gửi Hai Mối, Hai Mối cùng binh mường

chặn tất cả các ghe qua lại trên sông để cướp lại nàng Nga, Hai Mối đến đất

nước Thượng Lào của vua Ao Ước gặp cho được nàng Nga… Chừng ấy chỉ

có thể cụ thể hóa phần nào hình tượng, chưa đủ để hình thành rõ nét một nhân

vật tính cách theo yêu cầu của một tác phẩm tự sự. Những đoạn nhân vật bộc

bạch tâm trạng là những phiến đoạn tình cảm mượn từ dân ca rồi gắn lại cho

khớp với trình tự của một câu chuyện. Cộng vào đó, tác giả dân gian vận

dụng, thêm thắt vào lời thơ cho thật phù hợp với tâm trạng nhân vật và tình

tiết của mỗi câu chuyện. Giúp cho nhân vật vừa mang hình ảnh của một nhân

vật cụ thể, có thật, vừa mang bóng dáng quen thuộc của nhân vật trong dân

ca.

Chẳng hạn, nhà nghiên cứu Vi Hồng đã nhận xét về hành động tư vẫn

bằng cách ăn lá ngón, trong chuyên luận Sli - lượn dân ca trữ tình Tày - Nùng:

Sức mạnh tình yêu đang đốt cháy trong lòng, khiến họ nói lên được

những ý nghĩ táo bạo, kiên quyết nhưng họ lại bất lực trong thực tế.

Cho nên hành động phổ biến của họ trong lĩnh vực này thường là đi

đến tự tử. Những hành động tự vẫn như vậy trong truyện thơ, sli -

lượn, phong slư… và ngay cả trong thực tế, thường có ý nghĩa hai

mặt: tích cực và tiêu cực. Cái chết bi thảm của họ có tác dụng ít

nhiều cảnh tỉnh bố mẹ, họ hàng và cả xã hội nói chung, nhưng đồng

thời cũng tô đậm thêm sự bi quan trên con đường đấu tranh cho hạnh

phúc, tình yêu, hôn nhân tự do cho các thế hệ sau. Cách tự vẫn phổ

biến nhất là ăn lá ngón. Hình tượng cây lá ngón hoa vàng thường

xuất hiện trong văn học dân gian Tày. Hình tượng cây lá ngón hoa

vàng đã tạo nên những câu chuyện, những bài thơ, áng văn ướt đẫm

nước mắt của các nghệ sĩ dân gian. Hình tượng cây lá ngón hoa vàng

với vẻ lạnh lùng tàn nhẫn đã chôn vùi tất cả những mối tình trong

trắng của tuổi hoa niên…

“Trăm nỗi buồn ở mình em cả

Những toan ăn lá ngón hoa vàng Nhưng còn nhớ câu thương anh gửi” [97, tr. 167 - 168].

Nhận xét của nhà nghiên cứu Vi Hồng đã khẳng định rằng các nhân vật:

Ờm, Thờm, Tiên, Bjoóc Lả vẫn mang trên mình những yếu tố của hình tượng

dân ca.

3.2.1. Nhân vật nữ chính:

So với các nhân vật khác trong mảng TTTT các dân tộc, hai nhân vật nữ:

Út Lót và nàng Nga của TTTT Mường được miêu tả chu đáo hơn, hình dáng,

ngôn ngữ, hành động, tâm trạng và cả tính cách cũng nổi trội hơn. Nàng Nga

hiện ra trước mắt người đọc là một người phụ nữ rất đẹp, một vẻ đẹp rạng

ngời, cao sang, quyến rũ:

“Đôi mày xanh cong

Như trăng đầu tháng,

Mặt rạng như chiếc gương đồng”[105, tr. 498]

Út Lót cũng chẳng chịu thua chị em về dung mạo:

“Có ai ngờ gặp tiên giữa bái,

Gặp được bạn gái vóc ngọc mình ngà,

Như cành cây hoa

Trời đưa ra cho con người ta ao ước” [105, tr. 335]

Tác giả dân gian chú ý các chi tiết khi miêu tả vẻ đẹp của Thờm,

Tiên - một sức sống căng tràn, khỏe khoắn:

“Gót chân trắng bóng như ngà

Da chân như môn chuối

… Bắp tay trắng bạc như mầm măng bương

Thân mình trắng rạng như hoa trăm mùi”[105, tr. 392]

Điều đáng ngạc nhiên là ở tác phẩm VHDG khi miêu tả vẻ đẹp của người

con gái lại chú ý đến đôi gót. Ở nhiều tác phẩm văn học bác học vẫn thường

sử dụng hình ảnh này: đôi gót hồng, sen vàng lãng đãng, gót sen thoăn

thoắt… nhưng trong VHDG thì hơi hiếm.

Nhìn chung, các nhân vật nữ chính trong truyện thơ dù xuất thân ở địa vị

nào: quý tộc hay lao động thì họ cũng là những người có hình thức bề ngoài

bắt mắt, ưa nhìn.

Một điểm của nhân vật nữ chính cũng được tác giả dân gian thường

xuyên khai thác: tài năng. Nhân vật nữ chính được đặt vào những tình huống

gay cấn nhất để thử thách họ. Chính trong tình thế nan giải đó, người phụ nữ

đã bộc lộ rõ tài năng của mình. Thậm chí, họ lại làm tốt hơn cả nam giới.

Điều này rất đúng với trường hợp của Út Lót. Út Lót được đặt trong sự xung

đột giữa tài năng và hạnh phúc chân chính của cá nhân với luật lệ tập tục

phong kien. Trước tình thế bức bách, Út Lót quyết cải dạng làm thử công việc

mà mọi người chỉ dành riêng cho nam giới. Việc làm của nàng đã trả lời cho

những ai khinh thường tài năng người phụ nữ. Bố nàng đã ngạc nhiên:

“Trông đi nhìn lại

Chỉ con gái út nhà ta là khôn”[105, tr. 315]

Hình tượng Út Lót làm nổi bật tính bất công của chế độ phong kiến, luôn

tìm đủ mọi cách để kìm hãm miệt thị người phụ nữ. Giữa thế lực và luật lệ

phong kiến đang bao trùm, sự chống chọi của Út Lót và Hồ Liêu không thể

mang đến thắng lợi. Cái chết của hai người là một lời phản kháng quyết liệt

nhất. Đó không phải là một lối thoát thỏa đáng nhưng là biểu hiện của sự

không khuất phục, sự chống đối đến cùng chế độ hôn nhân cưỡng bức của chế

độ phong kiến lang đạo.

Nàng Nga hẹn Hai Mối gặp nhau ở quê nhà. Nhưng khi nàng về thì Hai

Mối đã chết ở rẫy dâu. Một tình huống gay cấn đặt ra: Làm sao thuyết phục

cho bố mẹ đồng ý tổ chức tang ma cho chàng? Lời lẽ nàng đưa ra thật thuyết

phục:

“Bố cho làm ma để hồn chàng khỏi oán.

Mẹ cho làm chay để vía chàng khỏi sầu.

Hết mấy trâu, đã có của nhà giàu

Hết mấy bò cũng chẳng để đau đến của bố mẹ”[41, tr. 522]

Sự khôn khéo ấy đã thuyết phục được ông bà cun Đủ. Đây là một việc

làm trái với tiền lệ, phong tục. Xưa nay chưa có ai khi bố mẹ còn sống lại tổ

chức đám mo, làm ma ngay trong nhà, mà đây lại làm ma cho người tình của

con gái đã đi lấy chồng! Tình yêu đã vượt lên trên cả phong tục lẽ thường.

Một trong những điểm khiến cho người đọc có tình cảm với nhân vật nữ,

chính là sự thông minh, khôn khéo trong các tình huống ứng xử. Bắt đầu từ

khi nàng Nga gặp Hai Mối ngay trên đất nước Thượng Lào. Khi gặp nàng

Nga, Hai Mối rất giận, rất bực và oán trách nàng. Bằng sự “khôn mồm khéo

miệng”, nàng đã thuyết phục Hai Mối bình tĩnh. Sự khôn khéo này không

phải là sự đãi bôi nơi cửa miệng mà là sự chân thành từ đáy lòng để giải tỏa

tâm lý ấm ức của người tình:

“Thương mơi, anh ơi,

Anh ăn trầu nhả bã,

Vuốt dạ làm lành,

Mà thương cho em

Xin anh đừng giận dữ”[105, tr. 511]

Nàng Nga tìm mọi cách ngăn chặn ý nghĩ manh động trả thù vua Ao

Ước. Nàng hẹn với người tình: “Nơi quê cha ta lại gặp nhau”. Nhưng làm

thế nào nàng Nga trở về gặp Hai Mối trong khi nàng là vợ vua Ao Ước?

Trước mặt vua, nàng Nga tính liệu thế nào? Nàng Nga giả vờ “ủ dột như tằm

ăn ba, như cà héo nắng”. Vua lo lắng hỏi lính tráng quân hầu, được biết cha

mẹ nàng Nga:“đau ốm đã nhiều lạnh nhiều nóng”. Vua muốn cùng nàng trở

về thăm bố mẹ. Lúc ấy, nàng thuyết phục vua đồng ý ở lại nhà, chấp nhan cho

nàng một mình về quê:

“Việc nước bỏ sao được một ngày

Việc binh mường bỏ sao được một tháng”[105, tr. 518]

Lo liệu xong đám của người tình, nàng Nga quay trở về nước Thượng

Lào báo tin cho vua Ao Ước hay rằng bố mẹ nàng đã “về trời”. Vua sắm sanh

lễ vật cùng trâu mộng bò to để về cúng ông mộng. Nàng đem lễ vật của chồng

về lo tang ma cho người tình. Nàng kiếm cớ để vua phải ở lại nhà:

“Nơi buồng ta ăn sợ có người bỏ thuốc.

Nơi buồng ta nghỉ, sợ có kẻ đặt bùa.

Về mai sau,

Duyên chẳng còn ưa, tình chẳng còn đẹp”[105, tr. 524]

Lý lẽ nàng đưa ra đánh trúng vào tâm lý của vua, buộc ông phải thuận

tình.

Út Lót cũng khôn khéo, sắc sảo chẳng kém gì. Nhà vua cố kéo dài thời

hạn ở chầu, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận lời tâu của nàng “có lý, có

lẽ, có nghĩa, có tình” để hai người được trở về quê cũ.

“Chúng tôi đi chầu vua,

Đã được chín tháng mười hai năm ròng,

Chín năm mười hai tháng đủ,

Ai có vợ, nhớ vợ,

Ai có con, nhớ con,

Chúng tôi còn son, thương cha nhớ mẹ”[105, tr. 331].

Người phụ nữ đó không chỉ san bằng mọi trở lực, làm tròn sự ủy thác của

cha mà còn tỏ rất giàu nghị lực trong đời sống tình cảm. Nàng thầm yêu Hồ

Liêu, viết thư báo tin cho cha mẹ biết là sẽ lấy Hồ Liêu, nhưng suốt mấy năm

trời ăn ở “chung lưng, chung cỗ, chung phòng” nàng vẫn không để cho Hồ

Liêu biết mình là gái.

Bên cạnh những điểm đáng quý đã nêu trên, đức tính chung thủy, trước

sau một lòng một dạ với người yêu của nhân vật nữ chính rất đáng khen ngợi.

Dù ở đâu, làm gì, họ cũng nghĩ đến người yêu, luôn tìm cách ở bên người yêu,

cho dù phải sống ở mường ma. Nàng Út Lót đến mồ Hồ Liêu, gọi chàng mở

cửa mộ cho nàng vào. Nàng Thờm, Tiên, Ờm đều mượn lá ngón làm cứu cánh

cho cuộc tình của họ. Nàng Nga trở lại nhà vua Ao Ước thực hiện lời hẹn ước

với người tình xưa:

“Bên muôn đời vạn kiếp

Dù trời làm chìm sao dậy sét

Cũng thà chết, quyết chẳng lại lìa

Để về đàng bên kia

Mãi mãi nên vợ nên chồng”[105, tr. 523]

Việc nàng làm ma chay cho người tình đã đến tai vua Ao Ước. Ông ghen

tức, cầm bông con cúi định đánh. Nhưng nàng Nga đã ngã vật xuống thang

chết, vua Ao Ước cũng ngã xuống chết theo. Quan tài nàng Nga không chịu

chôn cùng vua mà thả theo dòng sông trôi về nấm mộ Hai Mối.

Các cô gái trong TTTT Mường đều chủ động làm chủ cuộc đời mình.

Trong một xã hội, khi số phận của người phụ nữ gặp đầy những bất trắc, trở

ngại, mà họ dám đứng lên chống chọi lại, giành lại quyền làm chủ cuộc đời,

thì đáng khâm phục biết bao. Út Lót rất hiếu thảo với cha mẹ nhưng không

thể chiều ý cha mẹ trong hôn nhân. Nàng đã chống lại nạn cưới xin “cha mẹ

đặt đâu, con cái ngồi đấy”:

“Không, không đâu bố à

Việc xây dựng cửa nhà bố cho con chọn lấy”[105, tr. 318]

Nàng Nga là một cô gái có tính cách rất mạnh mẽ. Khi tình yêu trắc trở,

nàng không ngừng vượt lên hoàn cảnh. Nàng là một con người luôn chủ động.

Chủ động đến với tình yêu, chủ động tìm cách ứng xử với hoàn cảnh. Trước

nàng, từ Hai Mối, vua Ao Ước cho đến cha nàng. Họ chỉ là những người bị

động nghe theo và làm theo lời nàng. Tình yêu và hôn nhân tự do đã trở thành

khát vọng và luôn là nguồn động lực thôi thúc nàng vươn lên phía trước.

Hành động của nàng đã chống lại phong tục, thần quyền và cường quyền, đấu

tranh cho lẽ sống tự do và công bằng ở đời.

Với hai hình tượng nhân vật nữ: Út Lót, nàng Nga, TTTT Mường có một

bước tiến vượt bậc hơn so với TTTT các dân tộc khác trong việc xây dựng

hình tượng nhân vật. Nhân vật được chú ý về diện mạo, hành động, tính cách,

tâm trạng trong một loạt biến cố, sự kiện rất chặt chẽ. Các nhân vật nữ chính

cố thoát ra ngoài những quy định chặt chẽ của một cuộc hát đối đáp giao

duyên để bộc lộ cá tính nhân vật. Hình ảnh của nhân vật nữ chính có một diện

mạo sinh động và sức sống mãnh liệt trong công chúng. Tuy nhiên, nhân vật

nữ chính ít nhiều vẫn còn chịu ảnh hưởng từ hình tượng nàng, em trong

xường giao duyên thể hiện qua những đoạn đối đáp với nhân vật chàng trai

trữ tình. Điều này hẳn nhiên thôi, vì TTTT Mường được thoát thai từ những

câu hát giao duyên, mà nổi tiếng nhất là những điệu xường - rang tha thiết

lòng người.

3.2.2. Nhân vật nam chính:

Nhân vật nam chính trong các TTTT Mường đã được đề cập nhiều ở

chương 2. Tính cách, tâm trạng, hành động cũng được phân tích đan xen với

nhân vật nữ chính. Tránh lặp lại nhiều lần, trong phần này chúng tôi xin được

nói về đức tính chung thủy của các chàng trai trong tình yêu.

Những cuộc tình diễm lệ trong TTTT Mường đều có sự góp sức của các

chàng trai. Họ là những con người yêu hết mình, sống chết cũng vì người

mình yêu. Hồ Liêu, Hai Mối không thể chống chọi lại với quyền lực của tập

tục, cha mẹ đành ngậm ngùi ôm khối tương tư xuống mồ. Chàng Khói, Va,

Bồng Hương không thể bảo vệ được người yêu dấu chấp nhận về mường ma

xây cửa dựng nhà. Các nhân vật nam chính trong TTTT Mường, họ không

được sự ưu ái của tác giả dân gian như các chàng trai trong truyện Nôm Kinh:

có tài, có chí, dù gặp khó khăn trở ngại đến đâu nhưng cuối cùng cũng hưởng

được hạnh phúc ngay trên cõi trần thế. Đức tính nổi bật nhất của các chàng

trai Mường là tấm lòng sắt son chung thủy, không thay lòng đổi dạ với người

tình, một lòng sống chết vì người yêu.

Hồ Liêu nhất định từ chối người vợ mà cha mẹ đã cưới cho:

“Dù em đợi anh từ ngày cây lim mới lớn

Đến lúc cây lim đã đốn đóng cánh cửa đông

Chùa vua ông bảy lần lợp lại

Cũng chẳng thuận nên đường trai đường gái

Cũng chẳng nên đường ngãi đường tình”[105, tr. 348]

Và “Trống bưng da bò không đánh hai mặt,

Cá dưới nước không bắt hai tay”[105, tr. 344]

Khi nàng Nga bị ép gả cho vua Ao Ước, Hai Mối được cha mẹ cho tìm

người vừa đôi vừa ý. Chàng kiên quyết giữ vững lập trường của mình:

“Có sống, tôi sống cùng nàng Nga trọn kiếp,

Có chết, tôi chết cùng nàng Nga trọn đời,

Chẳng bỏ chẳng khuây những lời đã hẹn!” [105, tr. 499]

Bồng Hương - một chàng trai mồ côi nghèo, không được sự ưng thuận

của cha mẹ Ờm. Tình yêu Bồng Hương dành cho Ờm - một tình yêu trong

sáng không vướng một chút suy tư, đắn đo, cân nhắc:

“Anh chăm em như con nhà ngài chăm hoa trước vóng,

Anh quý em như con nhà ngài quý hoa trước sàn”[105, tr. 441].

Bồng Hương lúc nào cũng muốn ở cạnh người yêu để được chăm sóc, lo

lắng, yêu thương:

“Mỗi năm có mười hai tháng,

Mỗi tháng ba mươi ngày đêm,

Đêm nào anh cũng đến nhà em

Ăn chực nằm chờ”[105, tr. 444]

Chàng lội qua chín con mương, mười con suối, đi đêm về tối, bắt đom

đóm làm đèn, lấy áo làm nón, ngay cả khi chưa có gì bỏ bụng. Một cảnh

tượng gây xúc động người đọc, khi Ờm bị cha mẹ khóa chặt cửa nhốt trong

nhà đánh đập. Ờm đau một, Bồng Hương đau đến mười:

“Trên nhà em chạy vào,

Dưới sân chàng Bồng Hương cũng chạy vào

Trong nhà em chạy ra,

Dưới sân, chàng cũng chạy ra”[105, tr. 449]

Chỉ chờ nàng quăng mình xuống sân là chạy đến ôm nàng đem vào rừng

sâu vắng vẻ, đem nàng lên núi trốn. Nhưng Ờm không muốn trốn, nàng muốn

đối diện với hiện thực. Trước mắt nàng không còn con đường nào sáng lạn

hơn. Nàng lại đi theo con đường mà Thờm, Tiên đã đi. Mượn lá ngón làm

phương tiện cứu vớt cho cuộc tình mình. Bồng Hương vì người yêu mà:

“Anh Bồng Hương ăn bảy lá ngón ở phía mặt trời”

Chi tiết này gợi nhớ đến chàng trai trong truyện thơ Chăm “Aria Chăm -

Bà ni”. Chàng đã nhảy vào giàn hỏa thiêu chết cùng người yêu:

“Anh chạy đến, mắt em vẫn mở nhìn anh

Anh nhảy vào đống lửa thiêu đang ngùn ngụt cháy”

[106, tr. 1105]

Chàng Khun Lú(Thái) sẵn sàng đón lấy cái chết:

“Lưỡi dao kề cổ cứa ngang,

Máu đỏ phụt ra đầm áo,

Chàng giãy giụa chết theo vợ yêu”[106, tr. 993]

Nhìn chung, đặc điểm nổi bật nhất của các nhân vật nam chính trong

TTTT là lòng chung thủy. Lòng chung thủy cũng là đặc điểm nổi bật nhất ở

các chàng trai trong truyện Nôm Kinh. Có lẽ đây là điểm gặp gỡ chung của

loài người, con người luôn đề cao đức tính chung thủy. Tính cách, tâm trạng,

nhân vật nam được tác giả dân gian Mường khắc họa khá sinh động nhưng

cũng chỉ dừng lại ở nhân vật loại tính chứ chưa phát triển thành nhân vật cá

tính như trong văn học viết.

Các nhân vật phụ khác ít được khắc họa một cách cụ thể, chi tiết về diện

mạo, hành động, tính cách. Ngay cả thời gian - không gian mà các nhân vật

giao tiếp, nảy sinh tâm trạng cũng vẫn là không gian thời gian chung chung,

phi lịch sử của dân ca.

“ Chúng tôi đi chầu vua,

Đã được chín tháng mười hai năm ròng,

Chín năm mười hai tháng đủ”[105, tr. 331]

Đó chính là dấu vết của dân ca còn hằn rất đậm trên bề mặt của thể loại

TTTT Mường. Nhân vật trong TTTT hóa tự sự về căn bản vẫn là những kiểu

loại “nhân vật trữ tình” quen thuộc của thể loại dân ca được đem đặt vào

đường dây của một hệ thống tình tiết - chi tiết ít nhiều mang tính cốt truyện.

3.3. Ngôn ngữ truyện thơ trữ tình Mường.

3.3.1.Một số biện pháp tu từ nổi bật:

Truyện thơ trữ tình Mường hội tụ nhiều thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ,

hoán dụ, ngoa dụ, so sánh, điệp, đối, nhân hóa, những hình ảnh ước lệ…

Trước hết, thủ pháp ẩn dụ, bóng gió xa xôi được sử dụng khá nhiều trong tác

phẩm. Chẳng hạn, vợ Hồ Liêu khuyên nhủ chồng nên quên người tình cũ mà

hãy nghĩ đến vợ của mình, hãy chăm lo cho cuộc hôn nhân này cho tốt đẹp:

“Anh ơi!

Chùa chưa chơi, chưa biết chùa nào tốt gỗ,

Trống chưa vỗ, chưa biết mặt nào kêu,

Hoa chưa kịp nở sớm, rồi hoa sẽ đẹp về chiều”[105, tr. 347]

Hồ Liêu từ chối tấm lòng người vợ cũng được sử dụng những lời bóng

gió xa xôi:

“Mà để lá trầu xanh chịu sầu

Quả cau xanh chịu héo;

Quả cau héo, tiện khéo còn nên miếng cau khô,

Lá trầu khô, em ơi, chẳng bao giờ lại tốt” [105, tr. 348]

Tình yêu của Bồng Hương cùng Ờm đã đến độ đơm hoa kết trái, đủ để

tiến tới hôn nhân:

“Cây cau nhà anh đã lớn,

Lá trầu nhà em đã xanh”[105, tr. 441]

Thủ pháp ngoa dụ, phóng đại được vận dụng trong TTTT Mường như

một thủ pháp không thể thiếu ở mảng VHDG các dân tộc miền núi.

“Cơm em ăn, một ngày kén chín thứ gộ,

Xống áo em mặc, một ngày chín thợ hàng may

Vòng đeo tay, một ngày chín thợ hàng bạc,

Chiếc khăn em thắt hết chín trâu mười bò…” [105, tr. 473]

Hay “Ban sớm, chín chục trâu đen đi cày dọc,

Ban chiều, chín chục trâu trắng bạc đi ra cày ngang,

Trăm con bò vàng bừa trang đất mạ”[105, tr. 474]

Biện pháp nghệ thuật được sử dụng khá nhiều trong TTTT Mường là thủ

pháp so sánh. Khi miêu tả vẻ đẹp của các nhân vật, tác giả truyện thơ thường

so sánh vẻ đẹp của nhân vật với những hình ảnh đẹp trong thiên nhiên. Vẻ đẹp

của khuôn mặt nàng Nga sáng sủa, rạng ngời được ví:

“Đôi mày xanh cong,

Như trăng đầu tháng,

Mặt rạng như chiếc gương đồng”[105, tr. 498]

Vẻ đẹp chân chất, giản dị, mộc mạc của cô gái lao động hiền lành:

“Gót chân trắng bóng như ngà,

Da chân như môn chuối”

“Bắp tay trắng bạc như mầm măng bương”

“Thân mình trắng rạng như hoa trăm mùi”[105, tr. 392-393]

“Vóc trắng nõn trắng bạc như mầm măng tươi.

Tiếng nói tiếng cười như bông hoa nở”[105, tr. 408]

Vẻ đẹp của các nhân vật nữ được so sánh với những hình ảnh cụ thể, rõ

ràng, dễ liên tưởng. Những hình ảnh đó rất gần gũi thân thiết với người dân

Mường. Còn hình ảnh của nhân vật nam của được tác giả so sánh với một cái

nhìn tổng thể, bao quát, nói lên khí phách dũng mãnh của một trang nam nhi

lịch lãm và uy nghi:

“Mà sao tốt tướng oai nghi

Như con chim khướng mấy thuở mấy thì,

Bay qua lèn đá dựng”[105, tr. 470 - 471].

Thủ pháp so sánh còn được dùng để biểu hiện tâm tư, tình cảm, tâm trạng

của nhân vật. Trong một chừng mực nào, biện pháp so sánh góp phần đắc đạo

trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật mà ít có biện pháp nào có thể đạt

được. Đây là tâm trạng của Út Lót đến thăm đạo Hồ Liêu khi chàng đã có vợ:

“Em bước chân đi đến đất bạn tình sao nghe đã khác

Như con chim ác lạ cành,

Như con chim xanh lạ tổ

Lạ như chân con chim mái đỏ,

Lạ như mỏ con chim hoa đào

Bay lên núi cao mà không nơi đỗ”[105, tr. 349]

Tâm trạng của nàng quả thật giống với sự phân vân của chim bay lên núi

nhưng không có chốn để dừng chân. Còn đây là tâm trạng của nàng Thờm,

Tiên khi nghe tiếng sáo ống ôi của anh Khói, chàng Va:

“Nghe xót ruột nóng lòng,

Như cành cây cao họ đẵn gốc.

Giống như con dộc gọi trên cây

Nghe chết ngây như ngọn rau tốt,

Chết ủ chết dột như ngọn rau chường,

Mềm ngực, mềm lưng lại run gối,

Chết héo chết úa như ngọn rau chuối”[105, tr. 398]

Có thể nói biện pháp so sánh được sử dụng với tần xuất cao trong TTTT

Mường (68 lần)(Phần phụ lục). Biện pháp so sánh trong truyện thơ phù hợp

với thị hiếu thẩm mỹ của người bình dân. Những hình ảnh được so sánh là

những hình ảnh rất đời thường, cụ thể, gần gũi với đời sống người dân

Mường. Những người lao động miền núi rất thích những gì cụ thể, gần gũi và

gắn bó mật thiết với họ. Qua đó họ có thể thẩm thấu truyện thơ tinh thần này

một cách triệt để hoàn toàn.

Và một thủ pháp thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ các tác phẩm - biện

pháp điệp ngữ. Đặc biệt là trùng điệp liên hoàn bao trùm lên các câu, các đoạn

của TTTT Mường, tạo cho lời thơ sự êm ái, du dương, nhẹ nhàng, giúp cho

cấu trúc câu thơ nhịp nhàng, đối xứng, hài hòa. Biện pháp điệp ở cấp độ từ

được vận dụng thường xuyên trong từng lời đối thoại của nhân vật. Lối nói có

vần có điệu này chính là lối giao tiếp, ứng xử thường xuyên của những người

quen thuộc với chốn thôn trang, dân giã.

“Mời các mẹ lên thăm cửa thăm nhà

Để biết lối vào đường ra

Cho đỡ thương đỡ nhớ.

Núi Làn Ai nghèo tiền nghèo của

Nhưng Làn Ai giàu nghĩa giàu tình”[105, tr. 462]

Chính yếu tố trùng điệp liên hoàn khiến cho người kể, người nghe, người

đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi sâu vào hồn người.

Những sự vật trở thành biểu tượng trong văn chương là những loài chim,

loài hoa, loài cây rất gần gũi với đời sống của đồng bào giữa xanh thẳm đại

ngàn. Chúng phản ánh sự hòa điệu đến độ sâu lắng, thiết tha, đằm thắm giữa

con người và thiên nhiên bao đời gắn bó. Trong VHDG Tày, nếu thấy xuất

hiện biểu tượng chim Khảm khắc, chim Quyenh quý…, biểu tượng hoa: hoa

Lả, hoa Mẫu đơn, hoa Vặc viền… thì nhận ra đó là ký hiệu thẩm mỹ của

VHDG Tày. Còn trong VHDG Mường, nếu xuất hiện những biểu tượng hoa:

hoa đào, hoa bông trăng, hoa ngón…; biểu tượng vật: con từ quy, đàn bướm,

con cầy cun, núi Làn Ai…; biểu tượng cây: cây chu đồng, cây chu chiêng, cây

đa… thì đó là ký hiệu thẩm mỹ VHDG Mường. Tự nó đã có giá trị khuếch đại

hệ số cảm xúc thẩm mỹ, đem lại cho TTTT Mường phong cách gần gũi đời

thường.

Chính hiệu quả thẩm mỹ của lời văn nghệ thuật mới là sức hấp dẫn đặc

biệt, có ý nghĩa quyết định tạo nên sức sống lâu bền và giá trị cho TTTT

Mường trong đời sống dân gian. Xét trên cấu trúc thẩm mĩ, các nghệ sĩ dân

gian Mường đã tận dụng được những thành tựu nghệ thuật như sử dụng ngôn

ngữ tả cảnh, tả tình đạt đến độ tinh hoa của VHDG Mường trong xường để

sáng tạo lại thành chất liệu ngôn ngữ truyện thơ. Sự bảo lưu bền vững về

phong cách nghệ thuật dân ca Mường trong TTTT Mường đã khơi nguồn cảm

hứng vô tận trong tiềm năng sáng tạo của các nghệ sĩ dân gian Mường. Đọc

và nghe truyện thơ Mường, người ta cảm thụ cả một thế giới âm thanh hình

ảnh, biểu tượng Mường vốn đã gần gũi và quen thuộc. Đó là sự cộng hưởng

của những tiếng nói tâm hồn Mường, sự đồng vọng của những âm thanh từ

trong cuộc sống trải bao thế hệ.

3.3.2. Các nhóm dòng thơ chức năng:

Khác với cổ tích, truyện thơ là phương thức tự sự bằng văn vần giàu chất

thơ. Do đó các biến cố, sự kiện, chi tiết trong cổ tích được chọn lọc và cấu tạo

lại dưới hình thức văn vần sẽ không còn tạo được sự kinh ngạc thẩm mỹ.

Chuyển sang truyện thơ, nó được biểu hiện bằng những nhóm dòng thơ giữ

chức năng miêu tả. Ví dụ: trong cổ tích có chi tiết kể rằng “nàng là một người

con gái đẹp tuyệt trần” thì trong truyện thơ có một dòng thơ tả vẻ đẹp chân

dung người con gái đẹp. Đây là vẻ đẹp của Út Lót:

“Có ai ngờ gặp tiên giữa bái

Gặp được bạn gái vóc ngọc mình ngà,

Như cành cây hoa

Trời đưa ra cho con người ta ao ước”

Và đây là vẻ đẹp của nàng Nga:

“Tóc xanh vận ba vạn bốn vòng

Đôi mày xanh cong

Như trăng đầu tháng,

Mặt rạng như chiếc gương đồng”.

Ở truyện thơ Mường có sự gặp gỡ với truyện thơ Tày trong việc miêu tả

vẻ đẹp các nhân vật nữ. Cách miêu tả ở mỗi tác phẩm khác nhau nhưng lại

khá giống nhau: nàng Hán Xuân (Lưu Đài - Hán Xuân) có: Mình ngọc tuổi

trăng tròn đang đo, nàng Bích Nga (Tam Ngọ Mậu) có: Mặt nàng càng vằng

vặc khuôn trăng.

Bên cạnh đó còn có nhóm dòng thơ giữ chức năng tả cảnh vật thiên

nhiên. Trong đó thường có các cảnh: cảnh quê hương, cảnh trên đường đi, đặc

biệt là cảnh hẹn thề của nhân vật. Nếu là cảnh đi đường thì có: rừng cao xôn

xao chim hót, rừng bót thảng thốt chim kêu, sao phía rừng đã xế, trời phía bể

đã hửng, sông đầy nước lớn, đèo lớn dốc cao (Út Lót - Hồ Liêu), bước lên đá

nhọn, lội qua suối sâu (Nàng Ờm - Bồng Hương), lắm rú nhiều rừng, trải biết

mấy đồng nà, qua biết bao đồi bái (Nàng Nga - Hai Mối). Cảnh đi đường với

biết bao bất trắc hiểm nguy đang chờ đợi phía trước. Đặc biệt là hình ảnh của

thiên nhiên trong cảnh thề nguyền hẹn ước trăm năm tạc chữ đá vàng được

TTTT Mường miêu tả không hề tĩnh lặng, êm đềm. Cảnh hẹn thề của Hồ Liêu

và Út Lót:

“Ra chốn non cao dốc cấm,

Đèo thẳm mây vương”

Còn đây là cảnh hẹn thề của nàng Nga cùng Hai Mối:

“Lên chốn sông Ngang bến Đuộng,

Đến chốn dòng lan sóng lượn,

Nước gợn sóng đằm”

Trong truyện thơ Tày, nếu là cảnh hẹn thề của tình yêu, của hạnh phúc

lứa đôi bao giờ cũng có hoa, một vườn hoa hồng thắm, chói lọi đường hoa nụ

tháng ba, gió thổi hoa trong vườn thơm nức, có ong bướm cùng bạn tới tưng

bừng với đủ thứ hoa ngần, hoa thắm, hoa tươi, hoa thơm, hoa đang nở cùng

bướm đẹp… Chỉ với nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong cảnh thề nguyền đã

hiểu được phần nào kết cuộc của những cuộc tình trong TTTT Mường khác

với kết cuộc của cuộc tình trong truyện thơ Tày.

Ngoài ra, TTTT Mường còn có nhóm dòng thơ mượn thiên nhiên miêu

tả tâm trạng con người. Thiên nhiên luôn là người bạn tâm tình, là đối tượng

mà nhân vật muốn gửi gấm tâm sự. Trong TTTT Mường, nhân vật thường

hướng đến lá ngón. Lá ngón biểu tượng cho sự chua xót cùng cực, bế tắc

không lối thoát của nhân vật. Ta hãy lắng nghe những câu thơ miêu tả nỗi

niềm của Thờm, Tiên tâm sự với lá ngón:

“Thương nhiều thương ơi ngón hỡi,

Ta còn chờ đợi ngón dây,

Ngón còn đi chơi mường sống

Ngón còn đi nhởi mường bưa;

Buổi mưa ngón đi chơi trên rặng

Buổi nắng ngón đi chơi dưới gốc;

Ta kêu, ngón ở đâu thì lại.

Gọi chàng ngón đắng chàng leo sang,

Gọi anh ngón vàng anh leo lại;

Lại để ra hoa nở trái,

Lại mà ra hoa mọc cành,

Lấy cho anh Khói, anh Va,

Đều về làm cửa làm nhà bên ma,

Cho đôi chúng ta vắng vẻ”[105, tr. 432]

Khi tình yêu không có đất ngự trị thì những người đang yêu luôn tìm

cách chống chọi lại, phản kháng lại. Người phụ nữ Mường tìm đến người bạn

lá ngón để tâm sự, sẻ chia. Vì chỉ có lá ngón mới hiểu được nỗi niềm của họ,

lá ngón là con đường ngắn nhất để bảo vệ tình yêu.

Như vậy ngôn ngữ truyện thơ đã tiến xa hơn ngôn ngữ truyện cổ. Ngôn

ngữ truyện thơ đã bắt đầu chú ý miêu tả một cách chi tiết, cụ thể bằng những

chất liệu của đời sống làm cho bức tranh về cuộc sống trong truyện thơ so với

thực tại cổ tích trở nên hiện thực sống động, gần gũi và hấp dẫn, đậm đà tính

dân tộc.

Phối hợp với nhóm dòng thơ giữ chức năng miêu tả là nhóm dòng thơ

giữ chức năng trần thuật còn mang dáng dấp cổ tích, thực hiện nhiệm vụ kể

chuyện có vẻ khách quan. Ở dạng này, lời văn trần thuật đều bằng những câu

khuyết chủ thể, thường được tổ chức thành những nhóm dòng thơ dẫn chuyện

từ sự kiện này đến sự kiện khác. Ví dụ:

“Thuở ấy,

Vua lang kẻ chợ cấm đất bên đòng,

Các cun lang đạo mường phải đi bái mạng”[105, tr. 311]

“Nào ngờ khi ấy

Có ông vua Ao Ước

Nước kề Thượng Lào…”[105, tr. 484]

Kiểu lời trần thuật trong truyện thơ tiêu biểu là những câu chuyển đoạn.

Truyện thơ trữ tình Mường về kết cấu thường theo trật tự tuyến tính, các biến

cố, sự kiện lần lượt được kể theo trình tự thời gian, từ đoạn này đến đoạn

khác, giúp dễ nhớ, dễ kể và dễ tiếp nhận, phù hợp với trình độ tư duy thẩm

mỹ của người nghe, người đọc. Câu chuyển đoạn vẫn nằm trong mạch logic

của câu chuyện kể. Lời trần thuật của TTTT Mường không giống với lời trần

thuật chuyển đoạn của truyện thơ Tày. Ở truyện thơ Tày, lời chuyển đoạn,

chuyển chương thường được thay bằng câu “Lại nói đoạn”. Chẳng hạn,

truyện Trần Chu - Quyển Vương được chia thành 15 đoạn. Mỗi đoạn đều mở

đầu công thức:

(câu 31) Lại nói đoạn mẹ đẻ Thị Nhan

Lại nói đoạn quan hiền trưởng giả (câu 121)

Lại nói đoạn nhà vua hội thí (câu 230)

Lại nói đoạn Tần bang đòi cống (câu 299)[34, tr. 222].

Tác giả Lê Trường Phát nhận định về lối trần thuật trên như sau:

Dù chỉ qua phân tích mô hình lời kể chuyện hay lời mở đầu của mỗi

đoạn, chúng ta có thể thấy rằng ở truyện thơ hoàn toàn vắng bóng

các kiểu kết cấu phức tạp như phải có những đoạn hồi thuật, hồi

tưởng, những đoạn đồng hiện hai hoặc ba sự kiện song hành xảy

ra… Một lần nữa khẳng định truyện thơ được diễn xướng theo

phương thức kể là chính, chứ không phải theo phương thức xem

(hay đọc thầm) bằng mắt như văn học viết, cho dù truyện thơ có

được ghi thành văn bản [67, tr. 178 - 179].

Trong TTTT Mường có nhóm dòng thơ mang chức năng bình luận, đánh

giá nhận xét của tác giả dân gian. Lời nhận xét này đan xen chung với lời trần

thuật của câu chuyện. Đây là lời nhận xét của tác giả dân gian về tình cảm của

Út Lót và Hồ Liêu trong những ngày ở chốn kinh kỳ:

“Khi đi khi lại,

Thân thiết thật nồng,

Như đôi con chim cu dung,

Cất tiếng kêu chung một cành lá ngái,

Như đôi chim cu xại

Cất cánh bay lại một đồng ruộng xa”[105, tr. 329].

Hành động đem của cải nhà chồng về lo tang ma người tình của nàng

Nga được người sáng tạo bình luận như sau:

“Dối nhà chồng là một lần xim rớ,

Dối nhà bố từ một độ tình riêng…

Khác gì con ong

Chẳng thực lòng đem mật về tổ.

Khác gì nước trong mỏ,

Chẳng chịu đổ về mường”[105, tr. 528]

Phần lớn TTTT Mường không một lời thuyết giáo, người sáng tạo chỉ

muốn nêu lên ý kiến cá nhân của mình trước những hành động hoặc sự kiện,

biến cố xảy ra trong tác phẩm. So với truyện thơ Tày, những lời bình luận,

đánh giá nhận xét được sử dụng xen cài với lời nói của nhân vật. Và lời thuyết

giáo của truyện thơ Tày thường được đặt ở vị trí đầu hoặc cuối tác phẩm. Đây

cũng là điểm mà truyện thơ Tày có những nét giống với nhóm thuyết giáo

truyện Nôm Kinh.

Trong TTTT Mường có nhóm dòng thơ giữ vị trí “Công thức mở đầu”.

“Công thức mở đầu” có ý muốn xóa đi ám ảnh cổ tích, đem câu chuyện tưởng

chừng như đã qua đặt vào thực tại đang hiện hữu. Người kể chuyện chính là

mot nhân vật của truyện. Công thức mơ đầu được sử dụng lời trực tiếp của

người kể chuyện do tác giả “trao cho chức năng trần thuật”, xét về hiệu quả

thẩm mỹ, nó trở nên “có một sức thuyết phục riêng, có màu sắc cá tính và

cảm xúc đậm đà”[67, tr. 165]. Mở đầu truyện thơ Nàng Ờm - Bồng Hương,

hồn ma Ờm đã tự kể lại đời mình:

“Thương nhiều, thương lắm, các mẹ ơi !

Việc nhà đã nhàn,

Việc quan đã rỗi,

Nhân ngồi nghỉ ngơi em kể

Chuyện nhân tình khi xưa để các mẹ hay

Bày chuyện đau buồn ngày trước để các mẹ biết,

Để mà thương thân xót phận cùng em

Các cố các mẹ ơi !

Rằng thủơ trước khi em còn trong trắng

Lúc em còn sống nên người…”[105, tr. 438]

Lối mở đầu bằng lời trực tiếp của người kể chuyện ngay lập tức kéo

người nghe xích lại gần trong mối quan hệ thân tình, chan hòa và thông cảm.

Truyện thơ trở thành tiếng nói quyết liệt chống lại những điều vô nhân đạo

đang ngự trị trong xã hội. Đây là lời “tố khổ” của chính nạn nhân nên tính

chân thực là không thể nghi ngờ, mỗi lời đều thấm đầy máu và nước mắt.

Truyện thơ Tiễn dặn người yêu (Thái) cũng có kiểu mở đầu như vậy:

“Nay hãy kể từ trước đến sau

Kể chuyện qua bù chuyện tới

Kể từ thời ấy ngày xưa…

Kể từ thủơ đôi ta nằm lòng mẹ bên phải,

Ở lòng mẹ bên trái…”[106, tr. 1000]

Một số TTTT Mường thường mở đầu bằng những câu khuyết chủ thể.

Mở đầu truyện Nàng Nga - Hai Mối:

“Đồn đồn rằng

Mường nọ có hai chị em

Em là Út Thái

Chị là Nàng Nga…”[105, tr. 463]

Mở đầu truyện Út Lót - Hồ Liêu:

“Đồn rằng đồn rằng:

Đồn rằng nhà ông cun khấm

Được trứng treo ngang

Nhà ông cun lang Tào

Được con muông chết xác…” [105, tr. 309]

Những câu “Đồn rằng đồn rằng” hay “Du du là du, du du là diện” là

những câu mở đầu xuất hiện thường xuyên trong nhiều bài dân ca Mường, đã

trở thành môtip. Mở đầu là những câu có sẵn như thế thì cũng có nghĩa rằng:

chuyện sắp nói đây vốn lưu hành trên cửa miệng dân gian từ đời nảo đời nao

rồi. Kiểu câu khuyết chủ thể này đã mang theo đặc trưng của lối nói, lối hát

kể của dân tộc Mường. Nói khuyết chủ thể thực chất đã thừa nhận dân gian

cũng chính là người sáng tạo, người kể truyện. Người nghe có cảm giác cũng

là những người sáng tạo truyện, kể truyện. Người kể - người nghe nhập làm

một - đó là một đặc điểm thẩm mỹ của TTTT Mường.

Đây là lối mở đầu bằng cách đi thẳng luôn vào truyện. Nét đặc sắc của nó

là ngay từ đầu đã phổ biến hóa cốt truyện. Đi thẳng vào câu chuyện có tính

chất xã hội, đã phổ biến nhưng không quá đột ngột, phải có cái công thức mở

đầu. Cái công thức này chưa vượt xa được công thức “ngày xửa, ngày xưa”

của truyện cổ tích.

Dòng thơ với kiểu “công thức kết thúc” của truyện thơ Út Lót - Hồ Liêu:

“Thương cho đạo Cun

Hết vàng hết bạc

Chẳng được vợ hiền

Thương tiếc lo phiền

Biến nên con cầy cun tháng Ba gầy xác

Họ hàng chú bác

Biến nên đàn bướm lạc tháng Ba

Bay lại bay qua

Gốc khuên vàng đàng ra Kẻ Chợ” [105, tr. 357].

Kết thúc truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối, Hai Mối và nàng Nga được

sum hợp:

“Trai gái binh mường đất Đủ Ó - La Sơn

Đã vớt được Nàng Nga

Rước về đất dâu nhà rừng cũ

Cho xim gặp rớ

Cho vợ gặp chồng

Đặt đôi nấm mộ song song

Mãi mãi, Nàng Nga ở cùng chàng đạo Hai Mối”[105, tr. 530]

Đó là sự an ủi dù muộn màng nhưng rất quý cho hai người ở “thế giới

bên kia”. Với kiểu lời kết thúc này, khi cốt truyện dừng lại thì người kể

chuyện không có lời bình luận, triết lý nào. Chính lúc lời thơ kết thúc, không

còn chữ nào hiện trên mặt giấy, không còn âm thanh nào của người kể chuyện

cất lên nữa thì hình tượng nhân vật, tình đời, tình người dồn nén trong mỗi lời

thơ của tác phẩm lại bắt đầu âm vang không dứt trong lòng người nghe, người

đọc. Đó là lối kết mà như chưa kết vậy.

Cách kết thúc TTTT Mường đã vượt lên trên cách kết thúc của các truyện

cổ tích và không tuân theo cách kết thúc của truyện Nôm khuyết danh, nó có

cái nhìn cuộc sống hiện thực giống với những gì nó diễn ra. Bút pháp hiện

thực được thể hiện chặt chẽ và nhất quán. Đó cũng là một nhân tố làm nên giá

trị của truyện thơ Mường.

Lối kết thúc của TTTT Mường khác với cách kết thúc của truyện thơ

Tày. Cách kết thúc phổ biến của truyện thơ Tày là rút ra bài học luân lý. Đây

là lời kết thúc truyện thơ Tam Ngọ Mậu (Tày):

“Kể hết chuyện số phận mồ côi

Kể hết chuyện lứa đôi nam nữ

Ngày trước đã ăn ở chính minh

Ngày sau được rạng danh quyền trọng

Chồng khôn thi đỗ Trạng làm vua

Vợ cũng được thành là hoàng hậu“ [97, tr. 233]

Kết thúc truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân thể hiện rõ tính chất lý tưởng

hóa, ca ngợi nhà nước phong kiến, cảnh đoàn viên của nhân vật chính:

“Vợ chồng trẻ sánh đôi định các

Ngày đêm vui ca hát tương giao

Vạn vạn tuế phượng mai tế mĩ

Lưu Đài kết Hán Thị đẹp duyên

Chép thành truyện lưu truyền hậu thế” [97, tr. 230]

Về vấn đề tổ chức cấu trúc lời văn, ngôn ngữ TTTT Mường đã đáp ứng

được tính chất đa giọng điệu và đa chức năng để đem lại tính truyện trong thơ.

Bởi vì ngôn ngữ truyện là chất liệu tự sự để xây dựng cốt truyện và xây dựng

hình tượng nhân vật tính cách. Chất liệu tự sự trong lời văn nghệ thuật TTTT

Mường vẫn là sản phẩm nghệ thuật ngữ văn tự sự dân gian, phục tùng cấu

trúc cốt truyện đơn giản, thể hiện tính cách tâm lý nhân vật ở mức độ loại tính

hơn là cá tính. Việc tổ chức lời văn nghệ thuật trong TTTT Mường thành các

nhóm dòng thơ như là các công thức phôn - clo: công thức mở đầu, công thức

kết thúc, công thức chuyển đoạn, lời bình luận… đã đáp ứng được đặc trưng

truyện trong thơ.

3.3.3. Ý nghĩa các con số trong truyện thơ trữ tình Mường.

Qua khảo sát bốn TTTT Mường, các con số xuất hiện với tần số cao đã

thể hiện được tâm hồn con người Mường.

Bảng 3.3. Thống kê tần số xuất hiện các con số trong TTTT Mường

Tần số xuất hiện các con số

Số TT Tên các truyện thơ trữ tình Mường 1 2 9 12 90 100 1000

1 Út Lót - Hồ Liêu 30 10 4 5 2 3 3

2 Vườn hoa núi Cối 25 74 9 5 2 2 1

3 16 12 6 1 2 0 0

Nàng Ờm - chàng Bồng Hương 4 Nàng Nga - Hai Mối 56 37 24 4 10 3 0

Tổng cộng 127 133 43 15 16 8 4

Trong TTTT Mường con số xuất hiện khá nhiều, cụ thể là các số 1, 2, 9,

12 xuất hiện với tần số cao. Ý nghĩa của các con số trong tâm thức văn hóa

của ngườ i M ường có ý nghĩa gì? Trước tiên cần tìm hiểu ý n ghĩa văn hóa của

con số 1. Số 1 được dùng để chỉ nơi chốn:

“Vào một bụi riềng, được năm ba tổ ong khoái,

Vào một rừng bái, được chín mươi tổ ong rừng,

Vào một gốc vông được năm ba tổ ong mến mẹ”[105, tr. 339]

Số 1 còn dùng để chỉ số lượng sự vật, sự việc:

“Ăn xin trong làng được một nắm gạo

Ăn xin trong bản được một cái niêu”[105, tr. 450]

Số 1 còn dùng để chỉ thời gian:

“Rằng: Việc nước bỏ sao được một ngày

Việc binh mường bỏ sao được một tháng”[105, tr. 518]

Số 1 đư ợc dùng để thể hiện bày tỏ nỗi niềm mong ước gắn bó lứa đôi:

“Anh cùng em quyết chun g một đường

Em cùng anh sẽ đi một lối

Ăn cơm chung một gian

Uống nước chung một máng

Xỉa răng chung một ống

Chết hay sống cũng trọn một đời”[105, tr. 442]

Tùy từng văn cảnh cụ thể, số 1 được dùng với hàm ý riêng, cụ thể - do lối

tư duy quen thuộc của người nông dân. Sự gắn bó, bền lâu của mối quan hệ

tình cảm thường được miêu tả bằng cái cụ thể, ý trừu tượng thường được biểu

hiện bằng hình ảnh. Cái cụ thể để biểu hiện quan niệm về sự hòa hợp gắn bó

a tình được dùng tương đồng với số 1 - có ý nghĩa biểu thị về cái duy nghĩ

nhất. Hiệu quả thẩm mỹ của cách s ử dụng số 1 đã góp phần thể hiện được nỗi

của ng chàng trai, cô gái đang yêu. niềm nhữ

Số 2 ố xuất hiện nhiều nhất trong truyện thơ trữ tình là s Mường (133 lần).

dùng để chỉ 2 sự vật: Số 2

“Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên,

Nước mắt chảy hai bên hai hàng”[105, tr. 428]

Số 2 đ ược dùng đồng nghĩa với “đôi” như : đôi ta, đ ôi lứa, đôi đàng,

đôi c hún g ta , đôi đòn kép, đôi đòn vàng, đôi pang pó p, đôi con cá…

“Đôi con ve nén những mong bay lại một cành,

Đôi con chim xanh những mong bay về một tổ,

Con nước trên mỏ chảy về một mường

Con người ở đôi mường ngồi chung môt nơi máng giữa”

[105, tr. 339]

“Nên đôi yêu, đôi mến, đôi vợ, đôi chồng

Quyết đi ăn ngón cho xong một đời”[105, tr. 452]

Khi nói “đôi ta”, “đôi trai gái” là gộp ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai,

không còn sự phân biệt ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai nữa. Tất cả đã hòa lại

làm một. Sử dụng “đôi ta”, “đôi yêu”, “đôi mến”… để biểu đạt tình cảm đôi

lứa nồng nàn, quấn quýt, luôn gắn bó hòa quyện với nhau. Việc sử dụng số 2

là một dụng ý nghệ thuật góp phần biểu hiện các sắc thái cung bậc của tình

yêu.

Chín là số cuối cùng trong loạt con số, con số 9 cùng một lúc báo hiệu sự

kết thúc và sự bắt đầu lại, tức là chuyển vị sang một bình diện mới. Là con số

cùng trong các số của vũ trụ biểu hiện, nó mở đầu cho giai đoạn biến cuối

thái. Nó biểu đạt sự kết thúc một chu trình, hoàn thành một chu trình, hoàn

thành một hành trình, khép kín một vòng.

Chín là bội số của ba, số 9 là số đứng. Mặt trời thứ 9 còn lại sẽ đứng (Đẻ

đat đẻ nước - Mường). Số 9 trong quan niệm của người Việt - Mường là số

đáng tin cậy. Trong xường giao duyên, theo số liệu khảo sát của Mai Thị

Hồng Hải trong cuốn Tục ngữ dân ca M ường Thanh Hóa thì con số 9 xuất

hiện 17 lần [ 84, tr. 38]. Truyện thơ sử dụng số chín nhiều cũng là điều hợp lý.

Điều này có căn nguyên của nó, vì truyện thơ được phô i thai từ ca dao dân ca.

Dân hôn ca k g thiếu những câu:

“Tình đôi ta chung góp

Góp lấy chín chùm trái đa để ta nuôi gấu

Góp lấy chín chùm quả sú để ta nuôi rùa

Góp lấy chín chùm quả vo để ta nuôi khỉ, nuôi vượn

Góp lấy chín đụn thóc để ta nuôi binh cùng mường”[23]

Truy ện thơ cũng có những câu như thế:

“Cơm em ăn, một ngày kén chín thứ gộ

Xống áo em mặc một ngày chín thợ hàng may

Vòng đeo tay, một ngày chín thợ hàng bạc

Chiếc khăn em thắt chắc hết chín trâu mười bò”[105, tr. 473]

Số 9 được dùng hoàn toàn không mang nghĩa đen, nghĩa cụ thể về số

lượng mà là nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho số nhiều. Theo “Từ điển biểu

tượng văn hóa thế giới”, số 9 mang ý nghĩa “đơn vị đo lường cho những cuộc

thai nghén, những cuộc tìm kiếm có hiệu quả và tượng trưng cho việc hoàn

thành các nỗ lực, kết thúc một công cuộc sáng tạo”[17, tr. 3 8]. Khi bắt đầu

ộ cho cu c tình giữa nàng Nga và Hai Mối, số 9 được nhắc đi nhắc lại nhiều lần

tron g cuộc gặp gỡ đầu tiên:

“Cơm nhà anh ăn, một ngày hết chín thúng gạo

Áo anh mặc, một ngày chín mớ lụa vàng”[105, tr. 475]

Đôi khi số 9 còn được kết hợp với số 3, số 12. Số 9 là bội số của số 3, số

12 c ũng là b ội số của 3. Theo V. Ia. Prốp: “Số 3 tron g truyện cổ tích là nhiều,

là vữ ng v àng iệt cũng cho rằng 3 tượng trưng cho số nhiều, cho sự

nhiề u nh ất, d ”. Người V ài nhất, lâu nhất .

phủ ba huyện “Nhưng dù đi khắp chín

Chân trời

Tôi chưa ưng lòng một ai được vậy”[105,tr. 498]

“Chúng tôi đi chầu vua,

Đã được chín tháng mười hai năm ròng,

Chín năm mười hai tháng đủ”

Trong TTTT Mường, số 12 được sử dụng với ý nghĩa tượng trưng. Theo

sách Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: 12 là số dùng để chia thời gian và

không gian. Đây là tích của bốn phương nhân với ba bình diện của thế giới.

Số 12 chia bầu trời như một mái vòm thành 12 hình quạt cầu, 12 cung của

vòng hoàng đạo. Người Trung Quốc và các dân tộc Trung Á chia thời gian

thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 12 năm, kết hợp hai số 12 x 5 được chu kỳ 60

năm để tính chu kỳ của mặt trời và mặt trăng… Tóm lại, số 12 vẫn là con số

của sự hoàn thành một chu kỳ đã hoàn tất.

Số 12 rất có ý nghĩa trong văn hóa của người Mường. Họ có hội sắc bùa.

Phường bùa có một dàn chiêng gồm 12 cái, mười hai chiêng tượng trưng cho

mười hai tháng. Dàn chiêng gói cả năm tháng dùng để trình diễn các bài cồng

và bài hát về tháng năm. Mười hai bài hát ứng với mười hai bài cồng làm

thành dòng đối thoại giữa con người với thiên nhiên, đối thoại giữa con người

với những ước mong của họ về cuộc sống và mùa màng. Mười hai là số bậc

của cấu trúc một cuộc xường. Mười hai bậc xường biểu đạt một chu trình

“hoà n tất” các cung bậc sắc thái của tình cảm lứa đôi. Mười hai cũng là số

đêm người Mường làm một cuộc mo tiễn người chết về cõi mường ma sinh

sống.

Con số 90 được nhắc lại nhiều lần trong truyện thơ trữ tình Mường. Theo

tài liệu của cố PGS Từ Chi, người Mường quan niệm: Người sống dù nam

hay nữ có cả thảy 90 hồn (40 hồn bên phải, 50 hồn bên trái). Hồn còn được

gọi là vía. Chín mươi cái vía ấy được trú ngụ ở mười hai túi bóng vía. Vị trí

của mười hai túi bóng vía là: Đầu, tóc, mặt, mày, má, tai, chân, tay, bụng, dạ,

lưng, ngực. Mười hai bóng vía này đảm bảo cho sự tồn tại mạnh khỏe của mỗi

con người và mỗi người ngoài phần thể xác còn có vía luôn đi theo. Nếu

chẳng may có vía nào đó bị lạc, người sẽ bị ốm và phải làm vía, gọi vía về.

Ngư ời Mường cũng cho rằng những đôi lứa yêu nhau, vía của người này

thường quấn quýt bên người kia. Nên đi đâu làm gì họ thường gọi vía của

nhau .

Từ việc khảo sát bước đầu những con số thường gặp nhất trong TTTT

Mường, chúng tôi có một số nhận xét sau:

Con số là một vấn đề có ý nghĩa trong việc nghiên cứu trong xường giao

n số góp phần hieu duyên, truyện thơ, và cả VHDG. Việc sử dụng những co

đượ c phong cách giao tiếp, lời ăn tiếng nói của người Mường trong việc biểu

hiện những ý niệm trừu tượng. Đặc biệt, các con số cũng góp phần thể hiện

thế giới tâm hồn của các chàng trai, cô gái trong tình yêu.

Đặc điểm nổi bật của việc sử dụng các con số trong truyện thơ là thiên về

ững quan biểu tượng, tượng trưng. Đằng sau các con số là những ý tưởng, nh

iệm và sự chi phối của điểm nhìn nghệ thuật. Những con số trong truyện thơ n

nghĩa tâm linh, có giá trị văn hóa tinh thần của người Mường. Việc sử có ý

dụng những con số tạo nên những giá trị đặc sắc cho TTTT Mường.

Về đặc điểm nghệ thuật, TTTT Mường đã kết hợp các thành tố: cốt

truyện, nhân vật, ngôn ngữ … để tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Về

cốt truyện, lời thơ TTTT Mường còn mang đậm dấu vết của dân ca. Mô hình

phổ biến của cốt truyện TTTT Mường chủ yếu là kết thúc bi kịch. Với cách

i nhìn mới mẻ hơn, hiện thực kết thúc này, nhân dân Mường đã thể hiện cá

hơn so với kiểu kết thúc có hậu của truyện cổ tích. Bên cạnh đó, để làm nên

tính hấp dẫn của câu chuyện, TTTT Mưỡng đã vận dụng một số môtip trên cơ

sở truyện cổ Mường và truyện thơ các dân tộc.

Về nhân vật, TTTT Mường chú ý miêu tả đến: hình dáng, hành động,

ngôn ngữ, tính cách, tâm trạng. Nhân vật TTTT Mường đã có bước phát triển

hơn so với hình tượng dân ca nhưng chưa rõ nét trở thành nhân vật tính cách.

Có nhiều đoạn miêu tả tâm trạng nhân vật TTTT giống với những đoạn miêu

tả tâ m trạng nhân vật trong dân ca, khiến cho nhân vật TTTT Mường vừa

mang hình ảnh của một nhân vật cụ thể, vừa mang bóng dáng quen thuộc của

dân ca.

Truyện thơ trữ tình Mường đã vận dụng rất phù hợp và khéo léo tất cả

những thủ pháp nghệ thuật, giúp cho tác phẩm đạt giá trị nhất định về nghệ

thuật. Ngôn ngữ TTTT Mường đã đáp ứng đư ợc tính chất đa giọng điệu và đa

trong thơ. B chức năng để đem lại tính truyện ên cạnh đó, việc tìm hiểu ý

nghĩ a các con số trong TTTT Mường góp phần tìm hiểu ý niệm tâm linh, thế

giới quan, giá trị tinh thần của người Mường.

KẾT LUẬN

1. Với vốn tư liệu hiện có về dân tộc Mường, chúng tôi cố gắng trình bày

một cách khái quát nhất về quá trình hình thành, phát triển của tộc người này.

Đồng thời cũng giới thiệu về nền văn hóa, kinh tế và bối cảnh xã hội hiện

thực của tộc người Mường. Đây là một tộc người có nguồn gốc bản địa và có

ân đông, cư trú khắp trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó, người đọc có cái số d

nhìn tổng thể về con người và cuộc sống của họ.

Trước đây người Mường chưa có chữ viết riêng nhưng nền VHDG vừa

đặc sắc vừa phong phú, có thể loại phát triển đến đỉnh cao: sử thi “Đẻ đất đẻ

nước”, các điệu xường - rang và thật là thiếu sót nếu không kể đến truyện thơ.

Đặc biệt là mảng TTTT Mường. Trước khi giới thiệu về TTTT Mường, chúng

tôi cần nhận diện cũng như xây dựng một định nghĩa về truyện thơ. Một khái

niệm chưa tìm được tiếng nói chung giữa các nhà nghiên cứu. Điều này gây

không ít khó khăn cho việc nghiên cứu những giá trị đặc sắc của thể loại

truyện thơ. Bởi lẽ nền tảng khái niệm bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng

đối với từng thể loại văn chương nghệ thuật. Nó chứa đựng đầy đủ những giá

trị khu biệt giúp phân biệt với các khái niệm khác. Chính vì vậy, giới thiệu về

thể loại truyện thơ dân gian trữ tình của dân tộc thiểu số, chúng tôi cố gắng

làm rõ khái niệm “truyện thơ” cùng với một số khái niệm dễ tạo nên sự nhầm

lẫn như: Truyện thơ Nôm, truyện Nôm. Hiểu rõ điều này, chúng tôi tiến hành

thao tác phân biệt các khái niệm dựa vào những tài liệu sưu tầm được cũng

như sự hiểu biết có giới hạn của mình. Luận văn trình bày một cách chung

nhất về tình hình TTTT Mường. Từ nền ch ung đó, luận văn tìm hiểu đặc điểm

của bốn TTTT Mường đang khảo sát có điểm gì tương đồng hay khác biệt với

truyện thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Sau khi đưa ra những kiến thức cơ bản nhất về tộc người Mường và

truyện thơ trữ tình Mường, luận văn tiến hành giới thiệu các truyện thơ được

chọn khảo sát: tình hình văn bản, sự khác nhau ở từng dị bản, đồng thời tóm

ác phẩm để người đọc có thể nắm được nội dung cũng như tiện theo dõi tắt t

các phần tiếp theo.

2. Khi đã thiết lập được những tiền đề cần thiết, luận văn tiến hành trình

bày nội dung chính mà đề tài hướng đến. Ở mỗi tác phẩm, người viết cố gắng

khai thác từng khía cạnh xã hội hiện thực Mường cũ. Để thấy được sự bóc lột

của tầng lớp lang đạo, tư tưởng trọng nam khinh nữ ăn sâu vào tập quán người

Mường, quyền thế của cha mẹ trong tình duyên con trẻ. Từ đó mới cảm nhận

hết những u uất tăm tối mà những đôi trai gái Mường phải chịu đựng đau đớn

như thế nào. Họ đã bế tắc, không có lối thoát. Tất cả tìm đến “mường ma” để

thực hiện ước vọng chính đáng của mình mà ở cõi dương gian không có. Một

cuộc hành trình đi tìm chân lý tình yêu vĩnh cửu gặp nhiều gian nan thử thách.

Cuối cùng, những người yêu nhau được mãi mãi gần nhau. Đó chính là giá trị

nhân văn ngàn đời mà tác phẩm văn chương luôn tìm tòi để đạt được. Tình

yêu muôn đời vẫn thế, mãi mãi chiến thắng và trường tồn, chỉ có những thế

lực đen tối, quyền uy phải khiếp sợ ánh sáng vĩnh hằng của tình yêu.

Kết thúc TTTT Mường tuy mang màu sắc bi kịch, nhưng nó gần gũi

với hiện thực cuộc đời hơn và cũng phù hợp với tâm trạng thực của các nhân

vật hơn và do đó cũng phù hợp với tâm lý sáng tạo của nghệ nhân hơn. Trong

một xã hội bế tắc như vậy, chỉ có cái chết của các nạn nhân mới nâng cao

thực sự giá trị tố cáo của tác phẩm và do đó đề cao ý nghĩa nhân văn sâu sắc

của câu chuyện, buộc người đời phải suy nghĩ, day dứt mãi về một vấn đề

nghiêm trọng của xã hội và phải tìm cách giải quyết nghiêm chỉnh, đúng đắn

vấn đề: vấn đề tự do yêu đương và hạnh phúc lứa đôi. Chính vì lẽ đó, mà

TTTT Mường vừa tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, vừa hòa nhập vào

trào lưu chung và nền văn hóa chun g của cả dân tộc: trào lưu dân chủ và nhân

chủ nghĩa dấy lên mạnh mẽ và được phản ánh sâu sắc trong truyện Nôm đạo

người Việt, truyện thơ các dân tộc.

3. Trên cơ sở những đặc điểm về nội dung của TTTT Mường, ở chương

này, chúng tôi tiến hành khảo sát những đặc điểm về nghệ thuật của TTTT

Mường. Cốt truyện là vấn đề đầu tiên chúng tôi quan tâm, vì TTTT là những

câu chuyện được kể, được lưu truyền trong dân gian. Chúng có cốt truyện,

tình tiết, sự kiện, biến cố rất hấp dẫn lôi cuốn người đọc, người nghe. Việc

tìm hiểu về cốt truyện là một công việc cần thiết khi nghiên cứu đặc điểm

TTTT Mường. Truyện thơ trữ tình Mường được xây dựng từ nền tảng của

những câu dân ca, trong đó lời thơ TTTT Mường có những câu, những đoạn

được mượn hoặc thay đổi chút ít cho phù hợp với nội dung cốt truyện. Có thể

nói kết cấu TTTT Mường giống với cấu trúc của một cuộc hát xường giao

duyên của người Mường. Ở phần mô hình cốt truyện, người viết cố gắng trình

bày hai kiểu mô hình cốt truyện thường gặp trong truyện thơ: kết thúc có hậu

và kết thúc bi kịch. Cả bốn truyện thơ được chọn khảo sát đều có kiểu kết

thúc bi kịch. Đây là kiểu kết thúc phổ biến của truyện thơ Mường và đồng

thời cũng là của các dân tộc thiểu số. Kiểu kết thúc này đã thể hiện được cách

nhìn hiện thực hơn, thực tại hơn về cuộc sống, khác với kiểu kết thúc có hậu

của truyện cổ tích trước đây. Đồng thời, người viết cố gắng thống kê những

môtip thường gặp trong TTTT Mường và cả trong truyện thơ các dân tộc

khác . Tìm ra sự tương đồng về môtip giữa các dân tộc và lý giải về sự gặp gỡ

bất ngờ đó.

Nhân vật chính của TTTT đã phát triển vượt bậc hơn so với hình tượng

nhân vật trong dân ca. Nhân vật chính được miêu tả khá kỹ, từ quê quán, hình

dáng, hành động cho đến tính cách, tâm trạng. Nhưng chỉ ph át triển ở mức độ

hân vật loại tính đến nhân vật cá tính, chưa đạt đến độ điển hình. Còn các từ n

nhân vật phụ chỉ là những cái bóng mờ nhạt trong tác phẩm.

Ngôn ngữ TTTT Mường là ngôn ngữ giao hòa, đa giọng điệu. Người viết

thấy được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ thơ ca và ngôn ngữ giao

tiếp hằng ngày. Trong đó các biện pháp nghệ thuật được sử dụng với cường

độ cao: so sánh, ẩn dụ, ngoa dụ, biện pháp trùng điệp liên hoàn… giúp cho tác

phẩm TTTT Mường dễ gần với nhân dân lao động, những người ít có điều

kiện tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Các biểu tượng được vận dụng xuyên

suốt cả tác phẩm, giúp cho TTTT Mường đạt đến đỉnh cao về giá trị nghệ

t. Như vậy TTTT Mường đang từng bước tiến gần đến ngưỡng của dòng thuậ

ngôn ngữ bác học và đang hòa cùng với dòng thơ chung của cả dân tộc.

Bên cạnh đó, TTTT Mường hấp dẫn mọi người là có sự kết hợp của một

số nhóm dòng thơ quen thuộc thường gặp trong truyện thơ: nhóm dòng thơ

miêu tả, nhóm dòng thơ trần thuật, nhóm dòng thơ chuyển đoạn, nhóm dòng

thơ mở đầu, nhóm dòng thơ kết thúc, nhóm dòng thơ bình luận… Tất cả đã

ứng được yêu cầu tính “thơ trong truyện và truyện trong thơ” của thể loại đáp

truyện thơ.

Sau đó, người viết khai thác về phương diện ngôn ngữ. Trước tiên là việc

sử dụng các con số trong truyện thơ trữ tình Mường. Để tiện việc theo dõi,

người viết trình bày các con số thông qua bảng thống kê tần số xuất hiện các

con số trong truyện thơ trữ tình Mường. Con số góp phần giúp ta hiểu được

phong cách giao tiếp, lời ăn lối nói của người Mường trong việc biểu hiện

những ý niệm trừu tượng, đồng thời còn biểu hiện thế giới tâm hồn của các

chàn g trai, cô gái trong tình yêu. Các con số thể hiện ý nghĩa tâm linh, văn

hóa tinh thần của con người Mường.

Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một trong những tiêu điểm thể hiện rõ

mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa văn hóa - văn học của văn học Việt với

văn hóa - văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có văn hóa - văn học Mường.

hất, nên việc nghiên Vì nền văn hóa Việt Nam vốn vừa đa dạng vừa thống n

cứu TTTT Mường dưới góc độ về văn hóa - văn học chắc chắn sẽ hứa hẹn mở

ra những hướng đi mới cho ngành nghiên cứu văn học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thúy Anh (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.

2. Đinh văn Ân (1973), Đang Vần Va (Sưu tầm, dịch và giới thiệu), Nxb

Văn hóa, Hà Nội.

3. Hoa Bằng (1983), “Sự tiến triển của truyện thơ cổ điển Việt Nam và sự vay

mượn cốt truyện”, Tạp chí Văn học, (3), tr. 108.

4. Đặng Việt Bích (2001), “Bảo tồn văn hóa truyền thống người Mường”,

Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (2), tr. 53 - 56.

5. Trần Văn Bính chủ biên (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - Thực

trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quố c gia, Hà Nội.

6. Lê Ngọc Canh (1997), “Múa tín ngưỡng dân tộc Mường”, Nghiên cứu văn

hóa nghệ thuật, (8 + 11), tr. 76 - 77, tr. 75 - 77.

7. Nôn g Quốc Chấn chủ biên (1979), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập VI),

Văn học dân tộc ít người (quyen 1), Quách Giao sưu tầm, Nxb Văn

học, Hà Nội.

8. Nôn g Quốc Chấn chủ biên, Hoàng Thao, Hà Văn Thư, Mạc Phi, Trầ n Văn

Tấn (1979), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Tập IV - Văn học dân tộc ít

người), in lần thư 2 có sửa chữa bổ sung, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Phan Hữu Dật (2005), “C ây Chu đồng trong thần thoại Mường và Tôtem

cây trong tín ngưỡng của một số dân tộc ở nước ta”, Nghiên cứu tôn

giáo, (4), tr. 37 - 44.

10. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp

luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục.

11. Nguyễn Xuân Diện (1998), “Giao lưu và hội nhập văn hóa Việt - Mường

- Dao ở vùng núi Ba Vì (Hà Tây)”, Văn hóa dân gian, (3), tr.

87 - 90.

12. Trần Trí Dõi (1994), “Phải chăng có một cách gọi tên chỉ người theo kiểu

“Tôtem giáo”? trong nhóm Việt cổ (Qua nhận xét về danh từ chỉ người

trong các ngôn ngữ nhóm Việt - Mường)”, Văn hóa dân gian, (1), tr. 8

- 12.

13. Đặng Hoàng Hà (4/2005), “Khẩu vị phổ biến của người Mường ở Hòa

Bình”, Dân tộc & Thời đại, (77).

14. Nguyên Hà (1999), “Thế giới của truyện Nôm”, Văn hóa dân gian, (3), tr.

89 - 91

15. Mai Thị Hồng Hải (2001), “Tìm hiểu thể thơ Xường giao duyên của

người Mường”, Văn hóa dân gian, tr. 51 - 55,43.

16. Mai Thị Hồng Hải (2002), “Quanh việc sưu tầm, nghiên cứu văn bản dân

ca xường của người Mường Thanh Hóa”, Nghiên cứu văn hóa nghệ

thuật, (5), tr. 40.

17. Mai Thị Hồng Hải (2002), “Việc sử dụng con số trong xường giao duyên

của người Mường”, Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật,(10),tr. 38.

18. Cao Sơn Hải (2002), “Lễ Pồn Pôông của người Mường”, Nguồn sáng dân

gian, (2), tr. 21 - 24.

19. Cao Sơn Hải sưu tầm, biên dịch và giới thiệu (năm 2005), Truyện Nàng

Nga - Đạo Hai Mối, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (năm 2006),

Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

21. Vũ Tố Hảo (1980), “Mối quan hệ giữa truyện Nôm bình dân và văn học

dân gian”, Tạp chí Văn học, (4), tr. 108 - 112.

22. Minh Hiệu - Hoàng Anh Nhân (1963), Truyện thơ Mường (Sưu tầm và

giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.

23. Minh Hiệu sưu tầm (1999), Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa - In lần

thứ 2 có sửa chữa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

24. Lê Như Hoa (2002), Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa

thông tin.

25. Kiều Thu Hoạch (1997), “Sức sống trường tồn - truyện Nôm bình dân”,

Tạp chí Văn học, (2), tr. 53 - 59.

26. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện Nôm: Nguồn gốc và bản chất thể loại,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Tô Hoài (1965), “Tiếng hát làm dâu, tiếng đau thương căm hờn, tiếng

thiết tha hy vọng nghìn đời của người phụ nữ Mèo”, Tạp chí Văn học,

(2), tr. 51 - 60.

28. Lê Thị Hương, Trần Hoàng, Phạm Bá Thịnh, Trần Đại Vinh (2005), Một

số vấn đề về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy Ngữ văn, Tài

liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THPT - Trường Đại học Sư

Phạm Huế, Nxb Giáo dục.

29. Trần Quang Huy (2002), “Thể tài “Tài tử giai nhân” trong truyện Nôm

Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (12), tr. 42 - 47.

30. Hồ Chí Huỳnh (2006), “Ngôi nhà sàn truyền thống của người Mường”,

Thông tin Văn hóa nghệ thuật, (4), tr. 14 -15.

31. Đinh Thị Khang (1992), “Ngôn ngữ đối thoại trong truyện Nôm”, Văn

hóa dân gian, (4), tr. 49 - 53.

32. Đinh Thị Khang (2002), “Kết cấu truyện Nôm”, Tạp chí Văn học, (9), tr.

35 - 43.

33. Đinh Gia Khánh (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.

34. Bùi Văn Kín (1967), “Về văn nghệ dân gian của dân tộc Mường”, Tạp

chí Văn học, (1), tr. 62 - 69.

35. Đỗ Hồng Kỳ, “Tính hiện thực và tính lý tưởng trong truyện Nôm bình

dân”, Tuyển tập tạp chí Văn hóa dân gian, tr. 56 - 57.

36. Bùi Lạc sưu tầm (1964), “Tiếng hát làm dâu”, Tạp chí Văn học, (3), tr.

98 - 112.

37. Đặng Thanh Lê (1965), “Bàn về giá trị truyện Hoàng Trừu”, Tạp chí Văn

học, (2).

38. Đặng Thanh Lê (1968), “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm”, Tạp

chí Văn học, (2+3), tr. 102 - 114.

39. Nguyễn Lộc (1969), “Những vấn đề xã hội trong truyện Nôm bình dân”,

Tạp chí Văn học, (4), tr. 62 - 73.

40. Vũ Tuyết Loan , “Truyện thơ Đông Nam Á và truyện thơ Nôm Việt - Một

vài so sánh bước đầu”, Văn hóa dân gian, tr. 72 -78, tr. 76 - 83.

41. Lê Công Luận (2002), “Bản chúc thư khắc đồng của thổ lang dân tộc

Mường Phú Thọ”, Xưa và nay, (121), tr. 34 - 35.

42. Mộng Lục (1956), “Tìm trong vốn cũ “Súng chụ sôn sao” - Một thiên tình

sử”, Văn Nghệ, (136).

43. Đặng Văn Lung (1998), “Truyện Nôm”, Tạp chí Văn học, (3), tr. 36 -39.

44. Hồ Chí Minh (1971), Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb Sự thật.

45. Lê Trọng Minh (2000), “Truyện Nôm di sản văn hóa độc đáo và quý báu”,

Nhân dân cuối tuần, (17/9), tr 10.

46. Hoàng Thị Đậu (1966), “Dân ca Mường (Hòa Bình)”, Tạp chí Văn học,

(1), tr. 96 - 100.

47. Bế Viết Đẳng chủ biên (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển

kinh tế - xã hội ở miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia & Nxb Văn hóa

dân tộc.

48. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

49. Lâm Bá Nam (1990), “Hình tượng Tản Viên trong đời sống văn hóa của

người Mường”, Văn hóa dân gian, (4).

50. Hoàng Nam (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc.

51. Lê Hoài Nam (1960), “Phạm Tải - Ngọc Hoa”, Một truyện Nôm khuyết

danh có giá trị”, Nghiên cứu văn học, (8), tr. 30 - 41.

52. Phan Ngọc, Phan Đăng Nhật (1991), “Thử xây dựng lại hệ thống huyền

thoại Việt -Mường”, Văn hóa dân gian, (1 + 2), tr. 5 - 15, tr. 21 - 31.

53. Bùi Văn Nguyên (1960), “Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc

biệt của văn học Việt Nam”, Nghiên cứu văn học, (7), tr. 12 - 22.

54. Bùi Văn Nguyên, “Tìm hiểu cội nguồn Việt cổ qua một số môtip tiêu

biểu trong truyện cổ dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam”, Tuyển

tập 40 năm Tạp chí Văn học, tr. 409 - 415.

55. Nguyễn Thị Nhàn (2002), “Mô hình kết cấu truyện Nôm (Qua một số tác

phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian)”, Tạp chí Văn học, (3),

tr.71 - 76.

56. Hoàng Anh Nhân (2002), Ẩm thực văn hóa Mường, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

57. Hoàng Anh Nhân, “Yếu tố Mường trong tín ngưỡng Phủ Na”, Văn hóa

dân gian, tr. 26 -30.

58. Hoàng Anh Nhân, Vương Anh, Bùi Thiện sưu tầm, biên soạn (1978),

Truyện cổ Mường, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

59. Tăng Kim Nhân (1980), “Truyện cổ Dao và truyện cổ Mường”, Tạp chí

Văn học, (4), tr. 134 - 136.

60. Văn Nhân (1989), “Tục uống rượu cần của người Mường”, Nghiên cứu

văn hóa nghệ thuật, (5), tr. 48 - 49, 54.

61. Phan Đăng Nhật (1974), “So sánh một số truyền thuyết trong “Đẻ đất đẻ

nước” của người Mường với các truyền thuyết về thời kỳ dựng nước

của người Việt”, Tạp chí Văn học, (1), tr. 19 - 33.

62. Phan Đăng Nhật (1995), “Trong mo lễ tang có một pho thần thoại và sử

thi Mường - Việt lớn”, Văn hóa dân gian, (4), tr . 54 - 59.

63. Phan Đăng Nhật (2006), “Giải mã một số khuôn hình từ ngữ ở sử thi Đẻ

đất đẻ nước, thử tìm vài nét tư duy Việt - Mường cổ”, Nghiên cứu Văn

học, (1), tr. 50 - 58.

64. Phan Nhật (1972), “Tìm hiểu quá trình hình thành truyện thơ “Tiếng hát

làm dâu”, Tạp chí văn học, (3).

65. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt

Nam, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội.

66. Đức Ninh (1997), “Xem xét quá trình văn học Đông Nam Á trong những

đặc điểm văn hóa Đông Nam Á”, Tạp chí Văn học, (4), tr. 37 -

42.

67. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu

so, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội, Hà Nội.

68. Lê Trường Phát, Bùi Văn Thành (2003), “Con đường kéo chu - Con

đường huyền thoại và lịch sử trong Mo Mường”, Tạp chí Văn học, (5),

tr. 64 - 70.

69. Mạc Phi (1961), “Giá trị truyện thơ “Xống chụ Son sao” (Tiễn dặn người

yêu) của dân tộc Thái”, Nghiên cứu văn học, (5), tr. 36 - 50.

70. Nguyễn Phú Phong (2002), “Đại từ chỉ ngôi trong tiếng Việt và tiếng

Mường”, Xưa và nay, (123), tr. 30 - 31.

71. Nguyễn Thế Phương (1958), “Tiếng Mường và mối liên quan về nguồn

gốc giữa người Mường, người Kinh”, Nghiên cứu lịch sử, (42),

tr. 68 - 75.

72. Ngô Quang (2001), “Văn hóa cồng chiêng Mường”, Nghiên cứu văn hóa

nghệ thuật, (7), tr. 23 - 24.

73. Lê Chí Quế chủ biên, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), Văn

học dân gian Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội.

74. Lê Chí Quế (2001), Văn học dân gian, Nxb ĐHQG Hà Nội.

75. Đào Xuân Quý (1964), “Truyện thơ Mường”, Văn nghệ, (51).

76. Phùng Quỳnh (1997), “Nghi lễ cưới xin của người Mường”, Văn hóa dân

gian, (4), tr. 53 - 56.

77. Phùng Quỳnh (1996), “Vài nhận xét bước đầu về hình thức thi ca

Mường”, Ngôn ngữ và đời sống, (5), tr 18 -19.

78. Vũ Tiến Quỳnh (1997), Văn học cổ Việt Nam (Thần thoại, sử thi, truyện

thơ, chèo), Nxb Văn nghệ TP HCM.

79. Vũ Tiến Quỳnh biên soạn (1996), Truyện cổ tích - thần thoại - sử thi -

truyện thơ - chèo (Dân tộc ít người), Nxb Văn nghệ TP HCM.

80. Đặng Đức Siêu (2005), Sổ tay văn hóa Việt Nam, Nxb Lao động.

81. Trần Đình Sử tuyển chọn (2006), Giảng văn chọn lọc - Văn học Việt Nam

(văn học dân gian & văn học cổ cận đại), Nxb ĐHQG Hà Nội.

82. Nguyễn Ngọc Thanh, Hà Văn Linh (2002) “Vài ghi nhận về tín ngưỡng

dân gian của người Mường”, Văn hóa dân gian, (5), tr. 36 - 40, 14.

83. Tô Ngọc Thanh - Hồng Thao (1986), Tìm hiểu âm nhạc dân tộc cổ truyền

(Tập 1), Nxb Văn hóa, Hà Nội.

84. Tô Ngọc Thanh (1989), “Cảm xúc về dân ca Mường”, Nghiên cứu văn

hóa nghệ thuật, (5), tr.40 - 43.

85. Hà Đình Thành (2001), “Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình”,

Nguồn sáng dân gian, (1), tr. 84 - 87.

86. Bùi Thiện (2004), Tục ngữ, câu đố, đồng dao Mường, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

87. Bùi Thiện sưu tầm, biên soạn và dịch (1995), Tuyển tập truyện thơ dân

gian Mường, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

88. Nguyễn Duy Thiệu (2003), “Thể chế xã hội Mường truyền thống: Nghiên

cứu so sánh giữa mường của người Mường và mường của người Thái

ở Việt Nam”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (2), tr. 16 - 29.

89. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng văn hóa ở Việt Nam -

Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, NXB Trẻ.

90. Đặng Thái Thuyên (1983), “Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kỳ

Mường”, Tạp chí Văn học, (5), tr. 94 - 104.

91. Lương Thủy, “Lễ hội cồng chiêng, nét văn hóa đặc sắc của người

Mường”, Dân tộc & thời đại, (74), tr. 26 - 27.

92. Nguyễn Khánh Toàn (1970), “Về văn học các dân tộc thiểu số ở Việt

Nam”, Tạp chí Văn học, (8), tr. 103 - 112.

93. Trần Từ, “Xã hội cổ truyền Mường và hoa văn cạp váy”, Dân tộc & Thời

đại, (74), tr. 29 - 30, 28.

94. Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoàn tuyen chọn và giới thiệu (2001),

Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại (tái bản lần 2), Nxb Giáo

dục.

95. Nguyễn Đông Triều (2005), “Đặc điểm nhân vật truyện Nôm bình dân”,

Tạp chí Khoa học xã hội, (10), tr. 46 - 53.

96. Vương Trung (2005), “Sức sống của “Xống chụ xôn xao”, Văn hóa các

dân tộc - Hội văn học nghệ thuật, (8).

97. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển và

thi pháp thể loại, Nxb ĐHQG Hà Nội.

98. Minh Túy, “Thần tích về lễ hội Pồn Pôông”, Dân tộc & Thời đại, (66), tr.

15, 32.

99. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1980), Lịch sử văn học Việt Nam (tập

1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

100. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb

ĐHQG TP HCM.

101. Viện dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía

Bắc) - Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

102. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt nam, Nxb Văn

nghệ TP HCM.

103. Viện Đông Nam Á (1996), Biển với người Việt cổ (Trung tâm Khoa học

xã hội và nhân văn Quốc gia), Nxb Văn hóa thông tin.

105. Viện văn học (1999), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số (Tập IV -

Truyện thơ), Nxb Giáo dục.

106. Viện văn học (2001), Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam (Tập IV -

Truyện thơ & sử thi) - Trung tâm khoa học xã hoi và nhân văn Quốc

gia, Nxb Giáo dục.

107. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề bảo tồn và phát triển di sản văn hóa

dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

108. www.google.com.vn.

MUÏC LUÏC

Trang

Phuï luïc 1. Baûng toång hôïp caùc moâtip xuaát hieän trong truyeän thô

tröõ tình Möôøng 1

Phuï luïc 2. Baûng thoáng keâ taàn soá xuaát hieän thuû phaùp so saùnh trong

truyeän thô tröõ tình Möôøng 3

Phuï luïc 3. Baûng thoáng keâ taàn soá xuaát hieän bieän phaùp ñieäp trong

truyeän thô tröõ tình Möôøng 10

Phuï luïc 4. Moät soá ñoaïn thô ñaëc saéc trong truyeän thô tröõ tình Möôøng 54

1. UÙ t Loùt - Hoà Lieâu 54

2. Vöôøn hoa nuùi Coái 59

3. Naøng ÔØm - Boàng Höông 67

4. Naøng Nga - Hai Moái 72

DANH MUÏC CAÙC BAÛNG

Trang

Baûng 1.1. Baûng toång hôïp caùc moâtip trong truyeän thô tröõ tình Möôøng 1

Baûng 1.2. Baûng toång hôïp caùc moâtip trong truyeän thô caùc daân toäc 2

Baûng 2.1. Baûng thoáng keâ thuû phaùp so saùnh trong truyeän thô tröõ

tình Möôøng 3

Baûng 3.1. Baûng thoáng keâ taàn soá bieän phaùp ñieäp xuaát hieän trong

truyeän thô tröõ tình Möôøng 10

PHỤ LỤC 1: BẢNG TỔNG HỢP CÁC MÔTIP XUẤT HIỆN TRONG TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG

Tên các truyện thơ

Trong bảng phụ lục này, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê các môtip xuất hiện trong truyện thơ trữ tình Mường và cả những truyện thơ của các dân tộc khác. Từ đó để thấy được nét đặc trưng về văn hóa, cách cảm nhận rất riêng của dân tộc thiểu số nói chung, của dân tộc Mường nói riêng. Đồng thời thấy được sự giao thoa về cách vận dụng các môtip vào truyện thơ nói chung. Điều này góp phần làm toát lên những giá trị nghệ thuật của truyện thơ trữ tình Mường. Bảng 1.1. Bảng tổng hợp các môtip trong truyện thơ trữ tình Mường. Số TT 1 Các môtip Dùng lá ngón tự tử

2 Hóa kiếp

3 Giả trai

4 -Nàng Ờm - chàng Bồng Hương (Mường) - Vườn hoa núi Cối (Mường) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Vườn hoa núi Cối (Mường) - Nàng Ờm - chàng Bồng Hương (Mường) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Nàng Ờm - chàng Bồng Hương (Mường)

5 Sự chênh lệch gia cảnh Thi tài

6 Thử thách - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường)

7

Gặp nhau trong tư thế khỏa thân

- Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Vườn hoa núi Cối (Mường)

Bảng 1.2. Bảng tổng hợp các môtip trong truyện thơ các dân tộc

Các mô tip

Số TT

Tên các truyện thơ

1 Dùng lá ngón tự tử

2 Hóa kiếp

3 Giả trai

4

Sự chênh lệch gia cảnh

5 Thi tài

-Nàng Ờm - chàng Bồng Hương (Mường) - Vườn hoa núi Cối (Mường) - Bióoc Lả (Tày) - Tiếng hát làm dâu (H’Mông) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Vườn hoa núi Cối (Mường) - Nàng Ờm - chàng Bồng Hương (Mường) - Khun Lú - nàng Ủa (Thái) - Bióoc Lả (Tày) - Nhân Lăng (Tày) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Phương Hoa (Kinh) - Nữ Tú tài (Kinh) - Nàng Ờm - chàng Bồng Hương (Mường) - Tiễn dặn người yêu (Thái) - Tiếng hát làm dâu (H’Mông) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Kim Quế (Tày) - Út Lót - Hồ Liêu (Mường) 6 Thử thách

7

Gặp nhau trong tư thế khỏa thân

- Út Lót - Hồ Liêu (Mường) - Vườn hoa núi Cối (Mường)

PHỤ LỤC 2:

BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN THỦ PHÁP SO SÁNH TRONG TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG

Trong bảng phụ lục này, chúng tôi tiến hành thống kê và khảo sát tần số xuất hiện biện pháp nghệ thuật so sánh trong bốn truyện thơ trữ tình Mường. Đây là một biện pháp nghệ thuật khá đặc trưng trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số và đặc biệt trong truyện thơ trữ tình Mường, biện pháp so sánh được vận dụng với cường độ cao. Từ đó để thấy được lối suy

nghĩ và cách cảm nhận những hình ảnh cụ thể trong cuộc sống được dân gian vận dụng sắc sảo vào truyện thơ trữ tình Mường như thế nào? Dưới đây là bảng thống kê và liệt kê những câu thơ có vận dụng thủ pháp so sánh.

Bảng 2.1. Bảng thống kê thủ pháp so sánh trong truyện thơ trữ tình Mường.

Tên truyện thơ trữ tình mường

Số TT 1 2 3 4

Út Lót - Hồ Liêu Vườn hoa núi Cối Nàng Ờm - chàng Bồng Hương Nàng Nga - Hai Mối Tổng cộng

Tần số xuất hiện biện pháp so sánh 9 20 19 20 68

Giấu vào nách lấy ra còn nguyên Như cất trong rương Như tờ lụa chuối (157 – 159). Không ai cầm kiểu quạt như ông Lãi Nhạ (189). Có ai ngờ gặp tiên giữa bái, Gặp được bạn gái vóc ngọc mình ngà Như cành cây hoa Trời đưa ra cho người ta ao ước (714 – 716).

7. 8. 1. ÚT LÓT - HỒ LIÊU. 1. 2. 3. 4. Ma vía anh mến vía em, Như trâu mến ngõ Như nước đổ mến chum (752 – 755). Tạm chia tay về đôi đàng 5. Ta cất quân sang đôi ngả Như đôi pang póp tiếng kêu gióng gió Như đôi con cá bơi đôi đầu nguồn (811 – 814). Uổng công anh chờ chực 6. Uổng công anh trầm ngâm Như kiềng ba chân đứng đợi miếng bảy (958 – 960). Em ở làm chi nên vẩn nên vơ Như dứa đâm bông mà không bén quả (1055 – 1056). Em bước chân đi đến đất bạn tình sao nghe đã khác Như con chim ác lạ cành

Như con chim xanh lạ tổ Lạ như chân con chim mái đỏ, Như mỏ con chim hoa đào, Bay lên núi cao mà không núi đỗ (1110 – 1115). Ta thiếu bạn ngọc Như cây vía lìa gốc héo cành Thiếu bạn tình, ta như cây lim héo cội (1149 – 1151).

9. 2. VƯỜN HOA NÚI CỐI 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. Anh Khói anh Va Đã nghe choang choàng quay quay, Như kẻ đâm xay, giần sàng Đặt ngang mình ngang thân nằm đêm xuống chiếu (892 - 895). Vào vườn hoa chân núi Cối Có bông hoa lài Nở lẫn với trái chu chiêng Nó ở như chốn động tiên Trong vườn hoa thông, hoa bói (933 – 937). Gót chân trắng bóng như ngà Da chân như môn chuối (979 – 980). Bắp tay trắng bạc như mầm măng bương (1007). Thân mình trắng rạng như hoa trăm mùi, Càng chùi càng thấy trắng, Ngồi trong râm, khuất nắng, Sau lưng trong trắng như ngà (1010 – 1013). Rủ rỉ giọng êm êm Thổi vui mềm, vui mai đắm đắm, Thổi than với bạn thân giàu, Thổi than sầu than thương Như tiếng ve lặng tháng ba Như tiếng ve ra tháng tám (1139 – 1144). Cô gái nàng Thờm, Tiên Nghe xót ruột nóng lòng, Như cành cây cao họ đẵn gốc. Giống như con dộc gọi trên cây. Nghe chết ngây như ngọn rau tốt. Mềm ngực mềm lưng lại run gối Chết héo chết úa như ngọn rau chuối (1150 – 1157). Anh nghe như trời xế hôm bóng tối

9.

Như khúc săng đồng Hồ Liêu với nàng Út Lót (1180 – 1181). Lời ăn tiếng nói Hai chàng anh Khói, anh Va Như chùm hoa cà Tháng ba sắp bén trái (1240 – 1243).

Răng em bền chân như cột chu đồng vua lang kẻ chợ(1263 – 1264)

Như ruộng cấy thưa, nương trồng dày (1317 – 1318).

Tiếng nói tiếng cười như bông hoa nở (1440 – 1441).

Cũng thể cô gái cô nàng (1531 – 1532).

Đẹp gái lành mới là bao con nàng Thờm, Tiên (1618 -1619).

Thấy nàng còn đẹp duyên như khi mới nở (1809 – 1810).

Như cây rau mùi héo ngọn (1868 – 1869).

Như nàng Nga với chàng Hai Mối (2004 – 2005).

10. Ăn miếng trầu này, 11. Lời lẽ hai chàng nói ra 12. Cô nàng hậm hực bùi ngùi Như cây rau mùi ngắt ngọn (1390 – 1391). 13. Nghe chim khách gọi như lời tin tiếng nhắn Rủ nhau vào giếng nước Ao Trong Vòng vườn hoa chân núi Cối (1406 – 1409). 14. Vóc trắng nõn trắng bạc như mầm măng tươi 15. Không thành kiếp chi cũng là thân con gái, 16. Tốt là bao cái cô cạnh đồi Bái 17. Nhìn vào cổng cái nhà nàng Thờm. Tiên 18. Lòng em những ngậm ngùi 19. Em lấy đạo Trần, đạo Trà Như con gà diều hâu đánh Diều hâu đánh còn hay rơi Thân em như giáo thiên lôi đánh xuống (1882 – 1885). 20. Đừng nghe đầu chợ cuối hàng 3. NÀNG ỜM - CHÀNG BỒNG HƯƠNG. 1. 2. 3.

Anh chăm em như con nhà ngài chăm hoa trước vóng Anh quý em như con nhà ngài chăm hoa trước sàn (81 – 82). Sợ rồi lời nói gió đưa Như cây đu đến mùa rụng lá (97 -98). Anh không phải giọt sương trên mặt lá Anh không phải con cá dưới khe Ngón (103 – 104). Tình thương nghĩa nhớ, 4.

5.

6. 7. 8. 9.

Như hoa vừa nở Như lửa mới nhen Hơi nhau đã quen Tiếng nhau đã biết Như thề chẳng nên thề, nói không nên nói Xa nhau thì đợi, vắng nhau thì thương (147 – 153). Nhà năm gian bố em khóa chặt Cửa chín vóng mẹ bắt cài then Như con nhà ngài làm kén làm quái (277 – 279). Đánh em như sấm trên trời Như hòn đá to rơi xuống suối (284 – 285). Em gái yêu lẳng lặng Hình như nghe xót nghe thương (301 – 302). Lời em nói ra, Như dao cắt ruột (383 – 384). Vợ chồng nhà chị, Chết đen như mực Chết đỏ như vang Chết vàng như nghệ (413 – 416).

Như con nhà ngài say cơm đủ rượu (422 – 423).

10. Nhìn rừng sâu em chóng mặt 11. Em ăn ngón nghe nhức đầu chóng mặt

Như nhà ngài say cơm đủ rượu (435 – 436).

Nước mắt lả tả như mưa (496 – 497).

12. Lòng bố mẹ nhà em đã ngả, 13. Nhưng thân em đã úa như môn

Chàng Bồng Hương đã mềm như khoai (511 – 512).

Thấy thân em mềm như môn Thấy mình Bồng Hương mềm như khoai (527 – 528).

Nước mắt bố chảy như mưa (588 – 589).

Trên nhà thấy sao thấy trăng (599 – 600).

14. Thân con Ờ m như nắng xế chiều hôm (524). 15. Bố mẹ già nhà em 16. Nước mắt bố tuôn như suối 17. Dưới sâu như ao như hồ 18. Em đẹp như dây bông trăng

Nhưng răng em còn trắng (607 – 608).

Nghĩa vợ như đêm trăng sáng (651 – 652).

19. Tình chồng thắm thiết hơn,

4. NÀNG NGA - HAI MỐI. 1.

2.

Nay có nhiều lời đồn đại về qua Tai chúng con cũng đã thử tiếng Như miếng bắc đã lên hơi Lời dồn dập như mưa như gió (126 – 129). Khách phương nào tới, Mà sao tốt tướng oai nghi Như con chim khướng mấy thuở mấy thì Bay qua lèn đá dựng (204 – 207). Con nhà người dù cậy đẹp như tiên Nhưng vô ý vô tình vô duyên cũng chẳng đáng cho người ao ước

5. 6. 7.

8.

3. (346 - 347). Đôi chúng ta gặp được nhau đây 4. Như buồng cau hoa duyên may gặp khách Như xống áo rách gặp thợ hàng may Gặp anh hôm nay, Như trời mưa bay, em gặp thợ làm nón (366 – 370). Có con chim cắt liệng ở lưng trời Trên gốc mây xanh mây đỏ Nghiêng nghiêng ngó ngó Lao xuống như gió (678 – 681). Rồi chàng mở lá thư đọc vội Thấy như sét giội, ngực tức mắt hoa Như lèn sụp giữa nà, Nhà sụp giữa mái (744 – 747). Hai Mối nghe vậy, Chết sấp như cây đa cạnh bãi Chết dại như cây bương cạnh sông (784 – 786). Bố mẹ trông vào con Như ngôi sao Tinh sao Tông Mọc ở chân tranh cửa vóng (902 – 904). Nàng Út Chi môi trái trám, Búi tóc vạm vạm như sừng trâu khô (933 – 934).

Tay mập chân thon, Như bẹ nõn chuối non trắng lọc Làn da như lụa bóc trứng gà, Nhưng chưa bằng nàng Nga một chút (948 – 952).

9. 10. Nàng Út Thái 11. Đôi mày xanh cong

Như trăng đầu tháng, Mặt rạng như chiếc gương đồng (955 – 957).

Như mặt trời xế bóng, Tuổi mẹ như cây sào lau (984 – 986).

Như sương lam gặp ngày thét nắng, Tiếng đã trao, không thể dễ tan Như tơ nhện mỏng gặp gió quét ngang(1032 – 1035).

12. Tuổi bố nhà ta 13. Lời đã trao, không dễ mà tan 14. Anh đến nhà

Em cho dọn cơm ra Bữa không nên bữa, Đọi mẻ mâm nan, Mủng cơm bật cạp gãy chân, Bưng vần vần Như cơm nuôi chó (1259 – 1260).

15. Có lứa hầu gái như đàn bướm lượn,

Lớp quân trai như đàn quân cờ (1259 – 1260).

Chưa bề nào yên (1403 – 1404).

Buổi chiều, em ở như chạch lộn bờ (1446 -1447).

16. Rối như canh hẹ, 17. Buổi sớm, em làm như trâu lộn ách, 18. Ủ dột như tằm ăn ba,

Như cà héo nắng (1469 – 1470).

19. Lời ăn tiếng ở

Như hoa nở tháng giêng Như tiếng chim chuyền gọi thương bên tổ (1771 – 1773).

20. Lấy bông con cúi,

Giáng đòn ghen như bụi mưa bay (1797 – 1798).

PHỤ LỤC 3

BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN BIỆN PHÁP ĐIỆP TRONG TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG

Ngoài biện pháp so sánh, điệp ngữ cũng là một biện pháp nghệ thuật đặc trưng của truyện thơ Mường. Lối nói trùng điệp liên hoàn đã tạo cho truyện thơ một giá trị đặc biệt trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, giúp cho người kể, người nghe, người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, tạo cho truyện thơ trữ tình Mường có sức lôi cuốn mãnh liệt.

Bảng 3.1. Bảng thống kê tần số biện pháp điệp xuất hiện trong

truyện thơ trữ tình Mường.

Số TT

Tên truyện thơ trữ tình Mường

Biện pháp điệp

Điệp từ

Điệp ngữ - điệp đoạn văn

Út Lót - Hồ Liêu 1 35 96

Vườn hoa núi Cối 2 87 70

Nàng Ờm - chàng Bồng 3 48 59

Hương

4 Nàng Nga - Hai Mối 94 89

Tổng cộng 264 314

Dưới đây là liệt kê cụ thể những câu thơ được vận dụng biện pháp điệp ngữ, ở cấp độ điệp từ:

Biện pháp điệp ở cấp độ từ

Số TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 ÚT LÓT - HỒ LIÊU Được ngọc khú ngọc rồng (7) Được ngọc rồng ngọc thiêng (9) Bố phải phiên chực phiên chầu (95) Từ vũng sâu vũng nông Đến ruộng to ruộng rộc (139 -140) Lo trắc lo trơ (167) Bố già còn ngớ ngớ ngây ngây(183) Đã tiện thầy tiện tớ Lại tiện chợ tiện hàng (400 -401) Mà phải chung chiếu chung chăn Ta chẳng chung ăn chung ơ (415 – 416) Đạo Hồ Liêu đầu hôm siếc khốn Sớm ngày siếc khó (438 – 439) Rằng”Thưa ngài, mắt tôi lờ đờ Điều tỏ điều mơ, nhìn chẳng được xiết” (517 – 518) Nghĩ thương nghĩ thiết Nghĩ thiệt nghĩ tha (520 – 521) Tao chẳng chịu lành, chịu nhịn (534) Khi đi khi lại Thân thiệt thật nồng (549 – 550) Nhưng con người một tuổi một già Hoa một ngày một héo (577 – 578) Có lý có lẽ Có nghĩa có tình (612 – 613) Đứa khèo lo lường trông lên trông xuống (651) Dù xa tình xa phương, cũng không để cho quạnh vắng (677) Đã tới nơi năm xưa trồng khuên trồng trẩy (688) Ta được chung lương, chung lộ Chung cỗ, chung buồng (772 – 773) Gặp người đi xúc đi đơm đầu suối Gặp người buông chài thả lưới đầu khe (864 – 865) Lên chỗ lên chạn (890) Đạo Hồ Liêu ốm vật ốm vã Ốm rã ốm rời (945 – 946) Đạo Hồ Liêu lúc ốm liệt ốm mềm (979) May dở may dang (1007) Em ở làm chi nên vẩn nên vơ (1055)

25 26 27 28 29 30

31 32 33 34 35

Cũng chẳng thuận nên đường trai đường gái Cũng chẳng nên đường ngãi đường tình Mà để lá trầu xanh chịu sầu Quả cau xanh chịu héo Quả cau héo, tiện khéo còn nên miếng cau khô Lá trầu khô, em ơi, chẳng bao giờ lại tốt (1077- 1082) Sầu thương tình ốm thảm ốm thiết Sầu nhớ bạn ốm mệt ốm mà (1089 – 1090) Nói khó nói khăn cho nàng phải đến (1094) Đến cửa dựa rào, khóc thương khóc thảm (1176) Đứa nào khéo khóc vêu khóc vổng Cho đắm người Mường Vống Cho bống người Mường Khương Để sầu để thương cho chết oan chồng chị? (1178 -1181) Tạc săng sắt dát vàng Cho người chết oan đỡ thương đỡ nhớ (1210 -1211) Bà cô bà bác cũng khuyên, cũng nhủ, cũng dỗ, cũng dành (1244) Đạo Tu Liêng chê rằng nhiều tuổi Chưa chịu nhận lời mối lời mơ (1259 – 1260) Mẹ cũng chẳng nhận lời mơ lời mối (1266) Thương cho đạo Cun Hết vàng hết bạc (1315 -1316) Bay lại bay qua Gốc khuên vàng đường ra Kẻ Chợ (1322-1323). VƯỜN HOA NÚI CỐI Nhìn Khoang Tro, Khoang Đốc Nhìn vào trốc đầm Kinh đẹp bưa tốt bãi Nhìn bãi đầm Kinh đẹp bưa phẳng rộng Nhìn vào lưng Khoang Châu Nhìn bãi Pặt, cây đa Lưng hòn Nhìn nhiều đất đồng mùa, đồng chiêm Nhìn lại giếng nước đồng trong… (48 – 54). Đẹp lắm đẹp nhiều (236), (286) Nghe vang vang tiếng trống đồng trống tiên Đầu đội những hoa liên hoa khói (244- 245). Ăn ở trong cửa trong nhà Đã được ba năm tròn Đến mùa bông xổ tháng tám Mặt ma trời nắng rám nắng oi (257 – 260). 1 2 3 4

Giàu trăm bò, trăm bịch lúa thiếng (274). Giàu rồng, giàu vàng Giàu sang có thật (279 – 280). Anh Khói, anh Va Lấy nón kín nón to (312 – 313). Những buổi tháng giêng tháng tết Cho hết tháng hai, tháng ba? (398 – 399). Anh không lại không vào Xem hoa đào hoa thông đẹp nhất (404 – 405). Giàu rồng, giàu vàng Giàu sang lắm lắm Giàu trâu lắm bò (408 – 410) Trống hát trống chầu Thâu đêm còn người đến nghe (421 – 422). Trống tầm, trống ước thâu canh (449). Đi sắm cơm ăn cơm gói (520). Con trai đã biết đan chài đan lưới Con gái đã biết nuôi tằm Con thứ năm đang học cười học nói (621 – 624). Nhìn thấy giàu rồng giàu vàng Nhà ngang nhà ngói (643 -644) Thấy có thợ ở ngoài nhà ngang Đang đan chài, đan lưới Các cô gái cô nàng Đang làm duyên làm nết (677 – 680) Thương nồng thương mơi em hỡi Thương nồng thương mơi em à (706 -707), (916 -917). Cô gái cô nàng Đứng lại bên đàng Trên vai mang giỏ mang khiếng (713 – 715) Thẳng đường thẳng mắt anh vào Cạnh cổng ngoài rào Có cây hoa đào hoa mai chấp chói (719 -721). Nhìn đi nhìn lại trong sân Thấy kẻ đi, người về đông đặc Khác tiếng khác lời vui như tiếng sấm (726 – 728). Mặt trời lặn xuống ngọn núi Trang Trong xóm trong làng tiếng ca tiếng hát (744 – 745). Lâu ngày lâu năm nay đỡ nhớ (805). Hai anh đến chơi cửa chơi nhà (831). 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

Lấy gạo từ hòm, từ đai (841). Làm bữa cơm lót dạ cho qua cho quắt (853). Cho cháu xin một gáo Cháu uống vào dạ vào lòng Cháu nghe nhọc nghe nhằn (922 – 924). Giếng này họ gọi là giếng Ao Kha Mường ta không ăn không uống Đi rừng đi nương họ ra (928 – 930). Ai quăng hôm nay phải tội chém Ai ném phải làm tội xâu tội ra (1028 -1029). Thổi ra tiếng rủ rỉ rù rì Thổi ra tiếng trí tiếng trắm Thắm thiết tiếng Thường tiếng Rang Cô nàng Thờm , nàng Tiên quay mặt tìm Đứng yên nghiêng đầu nghiêng cổ lắng nghe (1033 -1037). Con cun, con chàng không cho ai qua Thấy anh lạ mặt lạ mày (1059 – 1060). Anh đi đường lành đường xa khát nước (1088) Thổi ra lắm tiếng Thường tiếng Rang Thổi cho nàng Thờm, Tiên nhớ lặng Thổi văng vẳng tiếng giọng trầm Ngân nga tiếng giọng nữ Rủ rỉ giọng êm êm Thổi vui mềm vui mai đắm đuối Thổi than bạn thân giàu Thổi than sầu than thương (1135 – 1142). Chết ủ chết dột như ngọn rau chường Mềm ngực, mềm lưng lại run gối Chết héo chết úa như ngọn rau chuối (1115 – 1117). Nghe tiếng sáo ôi ngà, Nghe xót lòng xót dạ (1163 – 1164). Giống anh sớm cửa sớm nhà Sớm hoa sớm nụ (1210 - 1211). Em lại đây mà ngồi, Nghỉ ngơi, nghỉ chơi, nghỉ nhọc Em cởi lấy trầu mà ăn Trầu anh trong túi, trong khăn Mặt trời hãy còn xế ngang Em ăn miếng trầu miếng nang (1215 – 1221). Về anh bỏ bà bỏ mái 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

Bỏ gái cho về quê hương (1354 – 1355). Người già người non đã ngủ cả Trong xã trong quê đã ngủ rồi (1375 – 1376). Xống áo đạo Trần đã đem lại nhà, Riêng đạo Trà còn ở đi ở lại Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên Ba bốn ngày liền không ăn không uống (1398 – 1401). Nước mắt chảy thấm chảy chìm (1045). Chồng chẳng chồng thì chớ Chẳng chồng chẳng vợ thì thôi (1412 – 1413). Ta tìm dây ngón đắng Cho vắng tiếng, vắng mặt một đời (1417 -1418). Vóc trắng nõn trắng bạc như mầm măng tươi Tiếng nói tiếng cười như bông hoa nở (1440 – 1441). Tiếng tốt tiếng lành, nói với con đã hết Tiếng chết lời sống, con nói nó đã hay (1445 – 1446). Lấy được vợ mất tiền, mất trâu (1470). Bà này vừa dại vừa lười Cơm lúa ngoài đồng Không biết nhon biết tiếc (1489 – 1491). Đồ cơm trộn rượu mong thối, mong chua Làm mùa mong thua chúng kém bạn Làm thang, làm chạn mong gãy mong ải Chửi trâu, chửi bò chết thấm chết hôi (1499 – 1502). Bố chẳng buồn nghe Mẹ chẳng thèm rằng Trong cửa trong nhà chẳng ai buồn nói (1508 – 1510). Anh đã đi tìm đi ngó (1524). Anh đã đến cửa đến nhà năm ba bảy chuyến (1529). Không thành kiếp chi cũng là thân con gái Cũng thể cô gái cô nàng Em về với anh đã có mang có chửa Anh không làm cửa làm nhà (1531 – 1535). Em làm tôi đâm tôi chày (1539). Chẳng lời chẳng tiếng dâu cả dâu ưới (1614). Con đi chọn cơm tốt cơm lành (1617). Bố mẹ chẳng ai cấm ai ngăn (1626). Tiếng chim khách chào bên sau bên trước (1641). Không ai cấy lúa tháng ba Dựng cửa dựng nhà tháng năm tháng sáu (1749 – 1650). 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57

Chẳng có ngày nào ngày không Mà con vào vườn thông chân núi Cối (1663 – 1664) Cô gái quê Trang, Chiềng Tỏng Dong nhau đi chơi chợ chơi hàng (1679 – 1780). Rong chân bước đi bước lại (1692). Ta đâu nghỉ ngơi nghỉ nhọc (1734). Anh em đạo Trần, đạo Trà Vào nhà làm rể làm chồng (1756 – 1757). Người non người già vui tươi Nàng Thờm, nàng Tiên chẳng cười chẳng nói (1762 – 1763) Mưa phùn mưa bụi cũng không náu (1780). Công em chờ từ năm xưa năm ngoái Chờ cho tới năm nay (1858 – 1859). Bố mẹ trong nhà Đem ra làm khuôn làm phép (1877 – 1878). Nửa chết nửa sống ngang bằng (1881). Em đang chết héo trong lòng Chết vàng chết úa trong dạ (1902 – 1903). Để em vắng tiếng vắng miệng một khi (1910) Em về trong cửa trong nha (1920). Để buồng dâu buồng rể buông suông Con nằm buồng không chiếu lạnh Chẳng tiếng chẳng miệng nói, cười (1953 – 1955). Con ở trong cửa trong nhà (1972) Con ăn vậy ở vậy trong nhà (1976) Trông vào con, lòng phiền lòng mỏi Năm xưa con còn thơ dại Năm nay nên nàng nên gái, con khôn (1993 – 1995). Nên con giỏi con khôn hơn người (1998). Chớ nghe tiếng xim tiếng rớ (2003). Vào nhà làm rể làm chồng Của nó đã nồng, công đã có (2008 – 2009). Xếp tay vào ngực vào lòng (2017) Người già người non ai cũng ghét (2042). Chẳng tiếc của chi mà nhon Chẳng chồng con chi mà muốn Chẳng còn đứa đạo trong nhà Chẳng lo bố mẹ già Chẳng tham cửa nhà giàu có Chẳng thương vó nước Ao Kha 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80

81 82 83 84 85 86 87

1 2 3 Chẳng thương Vườn hoa thông núi Cối Của ham của chơi chẳng tiếc (2070 – 2077). Nàng Thờm, Tiên bước vào nhà Bước vào bước ra chẳng lời nói (2081 – 2082). Muốn mang về làm rượu, làm men. Làm cho bố mẹ trên nhà! Bạn dệt gấm dệt phà, Đều thêu hoa suốt sáng Ta chia nhau khúc miếng trầu, miếng nang Cô gái trong lòng Cầm nửa miếng trầu, miếng nang ăn tử tế (2106 – 2113) Ngang mày ngang mặt nhìn thấy (2130). Thương nhiều thương ơi ngón hỡi Ta còn chờ đợi ngón dây, Ngón còn đi chơi mường sống Ngón còn đi nhởi mường bưa; Buổi mưa ngón đi chơi trên rặng Buổi nắng ngón đi chơi dưới gốc Ta kêu ngón ở đâu thì lại Gọi chàng ngón đắng chàng leo sang Gọi anh ngón vàng anh leo lại (2138 – 2146). Đều về làm cửa làm nhà bên ma Cho đôi chúng ta vắng vẻ (2150 – 2151). Chị em nàng Thờm, Tiên Chết biến nên cành hoa đào Hoa đào hay dậy cười dậy nói (2214 – 2216). Bố mẹ sa chân lỡ bước Lỡ chân không còn kịp tránh Lỡ tiếng lỡ miệng biết đến đã rồi (2244 – 2246). NÀNG ỜM - CHÀNG BỒNG HƯƠNG Các cố các mẹ ơi! Rằng thuở trước khi em còn trong còn trắng (8 – 9). Bố mẹ nhà em có con gái cầm rựa Không có con lứa coi cửa coi nhà (22 – 23). Bố nhà em lắm quyền lắm thế Mẹ nhà em lắm phép lắm khuôn Chẳng giống bố làng mẹ làng như ai Bố thì bới, mẹ thì mắng, Không nghe thương nghe xót đến con (28 – 32).

Dưới bóng cây bương, cây tre Lấy lá chuối tập đan, tập dệt (41 – 42). Anh chàng Bồng Hương giơ tay toan vỗ vào vai Hẹn một hẹn hai làm nhà làm cửa - Nàng hãy cùng anh làm cửa làm nhà Để bố mẹ già lấy đường đi lại Em chẳng ngần chẳng ngại, Hở miệng hở môi. Nặng tiếng nặng lời cùng anh Bồng Hương (47 – 53). Còn sàng đất vào lờ nang ne Còn tập dệt tập đan vào tàu lá chuối Em chưa biết chơi trai chơi gái Em chưa biết nói ngái nói ngân (58 – 61). Gặp em chỗ nào anh trao anh gửi (67). Anh đã mến đã thương, đã yêu cùng nhớ (72). Ăn cùng anh cho đỡ thương đỡ nhớ (77). Đã rộng đường bên trai bên gái (90). Lòng muốn cùng anh nên nhà nên cửa (94). Không nên cơm nên cá Chẳng thành rẫy thành nương (99 – 100). Nhưng nước suối khi đầy khi vơi (111). Khi xa nhau nghe nhớ Lúc vắng nhau nghe thương (124 – 125). Cho bố mẹ khỏi la khỏi mắng (140). Để bố mẹ già khỏi giận khỏi hờn mà thôi (145). Tiếng to tiếng nhỏ cùng bố cùng mẹ Em phải chịu điều nặng tiếng nhẹ (161-162). Nên miếng ăn miếng bỏ (187). Cơm này cơm nhớ cơm mong (191). Anh đi hỏi cha hỏi chú Anh đi hỏi bạn xa gần (214 – 215). Em gái yêu lại tiếng to tiếng nhỏ (221). Lấy hết vật nhớ vật thương (225). Những vật nhớ vật thương cháy ngấm cháy ngầm (228). Nên càng nghe xót nghe đau Giọt nước tủi nước sầu (239 – 240). Anh phải đi cho đến bản đến mường (249). Chém roi vọt roi thon cho bố đánh con Chặt roi lèn en cho mẹ đánh em (268 – 269) Khi về tới cửa tới nhà (273). 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48

Như con nhà ngài làm kén làm quái (279). Em gái yêu lẳng lặng Hình như nghe xót nghe thương (301 – 302). Nên em phải chịu đường roi vọt roi thon Em phải chịu điều giận tiếng hờn của cha của mẹ (325 – 326). Anh vào trong làng cùng anh cùng chị (351). Ta chơi trai chơi gái nên cửa nên nhà (380). Em giẫm chân xuống đất kêu trời kêu ma (388). Còn phòng roi thẳng roi thon Không rời đằng sau áo Chị chẳng biết làm sao Nên đôi yêu, đôi mến, đôi vợ, đôi chồng Quyết đi ăn lá ngón cho xong một đời (408 – 412). Để cùng theo người anh thương anh nhớ Cho nên đôi vợ đôi chồng (443 – 444). Để cùng em làm cửa làm nhà (447). Còn văng vẳng lời người mến, tiếng người yêu (451). Nghe xót nghĩ la lăng Cho đôi trai đôi gái (480 – 481). Mọi ngày mọi bữa sao không nghe chú nói? (488). Chú em chẳng đợi Hở tiếng hở lời (489 – 490). Bố mẹ ở lại cho vui, cho khỏe (523). Làm ma làm vía, Cho bố mẹ đỡ nhớ đỡ thương (540 – 541). Cho xa em xa anh Cho xa mường xa bản (555 – 556). Con biến nên kiến xanh kiến đỏ (569 – 570), (580 – 581). Về cùng bố cùng mẹ ăn cơm tháng chín tháng mười Còn em, buổi sáng chăm con lợn, con gà Buổi chiều em đi cấy, đi hái (644 – 645). Nên bố nên mẹ, trong bản trong làng (656). Em muốn ăn chơi ở chơi (670) Mời các mẹ lên thăm cửa thăm nhà Để biết lối vào đường ra Cho đỡ thương đỡ nhớ Núi Làn Ai nghèo tiền nghèo của Nhưng Làn Ai giàu nghĩa giàu tình (678 – 682). NÀNG NGA - HAI MỐI

Nhà ông cun Đủ đạo Dà Có trống khú trống rồng (11 – 12). Con gái đến đầy cửa đầy nhà (30). Mài rìu mài dao Lên đồi đỏ đồi đao (37 – 38). Đi ra dựng lều dựng chợ Mở hàng trầu hàng nước Hàng lược hàng gương (41 – 43). Chật đường chật sa (47). Rập rập chèo dọc chèo ngang (54). Có người quảy lẵng hoa vàng hoa bạc (65). Biết nói nào vừa tình vừa duyên cho lòng đẹp ý (71). Đi cho đến chốn đến nơi Xem đất xem người (144 – 145). Thấy rạp rình rạp rài (171). Ở nhà thấy mày khôn lạ khôn lùng (231). Ăn trầu ăn nang ở nhởi (241). Ai giàu của giàu tiền đếm không xuể, kể không xong (280) Giàu bạc giàu vàng Giàu khôn ngoan (286 – 287). Hay là người khôn thử dạ Người lạ thử tiếng thử lời (296 – 297). Chẳng vừa tình vừa đôi, rồi anh xin trả lại (303). Xấu bông lại xấu cả chà Xấu hoa, xấu cả người cầm gốc Xấu mắm xấu cả độc Xấu mộc xấu cả gáo cầm Đáng chi cho anh phải siếc phải ham, Cái con người ngơ ngơ ngác ngác. Đáng chi cho anh phải chác , Cái con người đã đen ngẳm đen ngăm lại còn khó nết, hỡi anh? (334 – 347). Con nhà người dù cậy đẹp như tiên, Nhưng vô ý vô tình vô duyên cũng chẳng đáng cho người ao ước (345 – 347). Sợ lời em còn chưa biết chọn, Muốn phô chuyện sợ chưa biết lối biết đàng (372 – 373) Và anh chưa quen đàng đất Mà chưa thuộc đàng mường Chưa biết tên lúng tên làng nhà em để hỏi (391 – 393). 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

Thương mơi, anh ơi, Anh đã có lòng thăm cửa thăm nhà (419 – 420). Hai Mối cùng với Trí Hoa Đã theo chị em nàng Nga Thong dong đến thăm nhà thăm cửa (430 – 432). Lăng tiếng chào đã xứng rồi ông mới bước ra Hỏi chuyện hỏi trò (437 - 438). Giục nàng Nga têm trầu Bày ra khay vàng khay bạc (441 – 442). Hai cháu trẩy về, Đàng xa quất xa quanh, kịp sớm ?(498 – 499). Nước gợn sóng đằm Chống nặng tình nặng tăm, Nặng nghĩa trăm năm (505 – 507). Lại trao cho cái gương cái lược Để nàng soi hôm chải sớm Hẹn này nên cửa nên nhà (515 – 517). Bởi bà đạo ông cun Tham vàng tham bạc Họ hàng chú bác Tham uống tham ăn (562 – 655). Em chẳng phải người, để chị cho xống cho áo (658). Có con chim cắt liệng ở lưng trời, Trên gốc mây xanh mây đỏ (678 – 679). Trong lòng nàng lo trắc lo trở (694). Ai có bạn nơi đất xa mường, Nghe sầu nghe thương (734 – 735). Rồi con chim cắt thả xuống tờ thư Bay lượn bay lờ (737 -738). Nốc này mụ đưa chân nàng Nga, Làm dâu làm bà nhà vua Ao Ước (780 – 781). Bỏ binh bỏ mường nhao nhác (787). Để cháu đi tìm đến nhà đến cửa, cháu à! (803). Thu quân trở về Đã đến cửa đến nhà (815 -816). Nước kề Thượng Lào, Nơi cao tít cao tăm quạnh vắng (842 – 843). Chẳng thiếu chi nơi, Vừa tình vừa đôi, vừa ý (862 – 863). Bố chàng hết chiều lại sớm 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

Cũng nhủ cũng khuyên (905 -906). Chốn này chẳng nên cửa nên nhà Rồi bố mẹ lo tìm cho con chốn khác (909 – 910). Sao đáng bà đáng dâu mường ta cho được (935). Lúc ấy, những gái son nạ dòng Trong đất trong mường (936 – 937). Bẩm ông, ông ơi. Bà nàng Nga, cả chị cả em Đẹp lắm đẹp nồng, ông hỡi? (939 - 941). Được nết được người (944). Chẳng bỏ chẳng khuây những lời đã hẹn (964). Lòng anh lại nghe sầu nghe thương (995). Trông coi cho yên đất yên mường (1002). Lúc ai có lầm có lỗi (1005). Anh là người vì tình vì duyên Mà mang lỗi bỏ bố bỏ mẹ (1014 – 1015). Xin bố mẹ ăn lành ở lại Trong cửa trong nhà (1024 – 1025). Xa đất xa mường (1029). Tôi đi lần ni Chẳng kể thì kể thuở Kể sớm kể chiều Đừng đi theo mà lỡ ngày lỡ tháng (1069 – 1071). Chẳng kể chi là làng là xóm Chẳng biết mấy đất mấy mường (1076 – 1077). Dù sang dù khó Cũng kiếp con người (1115 – 1116). Dù chẳng là tình là duyên (1134). Phải đâu trái mướp xác mướp già quá lứa qua năm(1152) Ăn với nhau miếng trầu miếng nang (1156). Cho em có phúc có lộc về sau (1162). Mà thương mà hại, Để anh còn qua lắm rú nhiều rừng, Nơi xa đất xa mường (1185 – 1187). Đã thăm hết chùa cũ chùa mới (1229). Nghe tiếng trống con trống cái, Chiêng con dóng lại, Tiếng trăm tiếng trỉ ngân nga (1244 – 1246). Binh mường chấu vá Đi ra dẹp sá dẹp đường (1248 -1249). 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63

Ngu chi, ngu hại ngu nồng! Kéo hắn đi cho khuất, cho xong (1273 – 1274) Và nàng hỏi đến việc cửa việc nhà (1315). Chưa mấy tháng mấy năm đã quên lời giao tiếng hẹn (1337). Buồng cau tình cau hoa lỡ làng héo trái (1344). Em vẫn chẳng khuây lời giao tiếng hẹn, Cùng anh nên cửa nên nhà (1354 – 1355). Cho em khỏi nên rồ nên dại (1377). Làm sao trọn đời lại chung ăn chung ở Chung cửa chung nhà (1386 – 1387). Để em đi mua cơm mua cá (1407). Làm bà làm mái Một kiếp giàu sang (1421 – 1422). Đêm trăng tròn trăng trong, nhớ đến anh chăng, Em nhìn lên nhành mây sương mây gió (1426 – 1427). Cùng về bên ma Làm cửa làm nhà (1434 – 1435). Lối dâu cội dâu già hãy còn tốt lộc (1440). Đau ốm đã nhiều lạnh nhiều nóng (1485). Chơi chợ kịp buổi, tiện bán tiện mua (1504). Lại tủi bước đi ra làm nhà làm cửa (1530). Áo vóc áo lụa đẹp như đường chỉ chị cắt chị may (1550). Trách con trống đốm trắng đốm vàng, Sao chưa lại gáy (1559 – 1560). Út Thái thương chị, bước dẫm bước dò (1566). Khiêng chi ma khô về cho hôi nhà hôi mũi (1605). Để về đàng bên kia Mãi mãi nên chồng nên vợ (1639 – 1640). Các quan lang ơn được lời được tiếng (1699). Lúc bước xuống đi quá cho quân hầu nghỉ vác nghỉ vai (1704). Khác sông khác bãi, Khác lái khác thuyền (1716 – 1717). Khóc thảm khóc thương, Nhắn đi nhắn lại (1741 – 1742). Mãi mãi đẹp vợ đẹp chồng, anh hỡi (1760). Vua Ao Ước một mình ghen tức, Vừa bực, vừa nhớ lại thương Nhớ mọi nết mọi đường (1768 – 1770). Xem chừng lập nghiêm phải răn phải đánh (1784). Vía đẹp hồn thiêng lắm thiêng nồng (1804). 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91

92 93 94 Các bà nàng, mất vua mất chồng, Kêu thảm kêu thiết Kêu thiệt kêu than (1810 – 1812) Cờ phướn cờ phan vật vờ sương khói (1832). Đã quay ngang bè nứa bè song (1840).

Biện pháp điệp ở các cấp độ: ngữ - đoạn văn - cấu trúc trong truyện thơ trữ tình Mường

1. ÚT LÓT - HỒ LIÊU 1. Đạo Tu Liêng với nàng Tu Ó

Đạo Tu giàu với nàng Tu có (10 -11)

2. Không có lúa nếp ta cấy lúa chăm

Không có cơm căm ta cấy cơm móc Không có con trai nối dọc Ta lấy con gái nối đời (26 – 29)

3. Biết tìm gì nuôi để con ta chóng biết lẫy

Biết lấy chi nuôi để con ta chóng biết khôn Lấy gan gì ngon mớm, cho con gái út? Lấy gan chim khướu mớm cho con để nó chóng biết hót Lấy gan chim cót mớm cho con để con chóng biết reo Lấy gan chèo pheo mớm cho con để nó chóng biết nói tiếng xuôi Kẻ Chợ (36 – 41)

4. Bắt được con chim khướu

Lấy gan mớm cho con, quả nó chóng biết hót Bắt được con chim cót Lấy gan mớm cho con, quả nó chóng biết reo Bắt được con chim chèo pheo Lấy gan mớm cho con, quả nó biết nói tiếng Kinh Kẻ Chợ (46 -51)

5. Lệ vua không hoãn Lệ triều ban ra Kẻ nào không đi, phạt bốn mươi lợn cong ngà Kẻ nào mến gái tham bà không đi Phạt ba mươi gà cong cựa cùng đuôi (57 – 61)

6. Bố lo thiếu việc vua Bố lo thua việc quan Hay lo thua việc quân (87 – 90)

7. Chẳng biết lấy ai đi hầu vua ông cho thay mặt cha

Chẳng biết lấy ai đi hầu vua bà cho thay mặt mẹ (96 -97)

8. Chị đáng đi chầu chợ

Chị đáng đi chầu hàng (106 – 107) 9. Chị sinh trước nhưng mà chị kém

Em sinh sau nhưng mà em khôn Em đến đây để chị nói một đàng thương mẹ Em ngồi lại để chị nói một lẽ thương cha (111 – 114)

10. Của bố ngày nuôi binh vỡ ruộng

Của bố ngày nuôi binh dựng mường (124- 125)

11. Trâu đực lớn nhà ta ăn đầy ngoài bãi giữa

Trâu cái chửa nhà ta ăn đầy ngoài bãi ngoài (127 – 128)

12. Bảo đứa lớn làm chi trong cửa Bảo đứa thứ làm chi trong nhà Không lấy chiếu hoa đi ra mà dát Không lấy chiếu cạp đi ra mà ngồi? (175 – 178)

13. Đồ những niếng ba họng

Dóng những cồng ba ngôn (187 – 188)

14. Con ta dáng đi chầu chợ

Con ta dáng đi chầu hàng (194 – 195)

15. Không có việc chi bối rối

Không có việc chi vội vàng (224 -225) 16. Gạo trắng bay đâm cho đầy một trăm ống cả

Gạo tống bay giã cho đầy một trăm sọt nan (228- 229)

17. Gặp người Thái, bay giữ kín mọi lẽ

Gặp người lạ, bay giữ kín mọi đường (233 – 234)

Đi ngựa đực làm chi cho thêm đau hông (263 – 264)

18. Đi ngựa cái làm chi cho thêm đau tức 19. Con gà trống đen đã gáy tan đêm vắng

Con gà trống trắng đã gáy cho mau rạng ngày (267 -268)

20. Đủ chín tháng mười hai năm

Đủ chín năm mười hai tháng (283 – 284).

21. Đừng ham chơi mà tối

Đừng ham nhởi mà trưa (297 – 298)

22. Đi hầu vua kẻ sang

Đi hầu vua lang kẻ chợ (318 – 319)

23. Hết rừng cao xôn xao chim hót

Hết rừng bót thảng thót chim kêu (334- 335).

24. Ta trồng cây khuên để khi về ta ăn trái

Trồng cây trẩy để khi lại ta làm cán choòng Trồng cây song ta làm cán giáo Trồng cây nứa ta làm cây sáo ống ôi (357 – 360)

25. Bảo bạn cun nhưng ta riêng làng

Bảo bạn lang nhưng ta riêng đất (412 – 413)

26. Nàng Út Lót múc bát nước trong

Đặt ở giữa hai giường cho êm lặng Múc bát nước trắng Đặt ở giữa hai chiếu cho nó yên lòng (418 – 421)

27. Rằng: “Cun nào cun gái

Cun nào cun trai (426 – 427)

28. Đạo Hồ Liêu ra trước tâu rằng:

“Tôi là con trai đi hầu vua ông cho thay mặt cha” Đạo Mường Đẹ bước ra “Tôi cũng con trai đi hầu vua bà cho thay mặt mẹ” (429 – 432)

29. Đạo Mường Đẹ đi đánh cá cho được nhiều con

Đạo Hồ Liêu hái rau vay non cho được nhiều lá (434 – 435)

30. Ai tắm bến dưới, mặc dưới

Ai tắm bến trên, mặc trên (467 – 468)

31. Ném xuống rồi bưởi quẩn lên

Ném ở trên, quả bưởi quẩn lại (482 – 483)

32. Gặp thầy tướng ta hỏi một đường lẽ ở

Gặp thầy số ta hỏi một đường lẽ ăn (498 – 499)

33. Bát nước trong không lặng

Bát nước trắng không yên (524 – 525)

Cũng mất cái cuốn lụa vàng Cun nào còn có tính gian Lang nào còn có tính xấu? Tao kêu đến cửa nhà vua cho thấu Tao tấu đến cửa nhà vua cho minh (528 -533)

34. Chẳng mất cái áo mới nhuộm 35. Anh chiêm bao chín lần

Anh mơ thầm chín bận (538 – 539) 36. Rằng vía anh bổ lẫn về với vía anh

Vía em nên ngãi Vía anh nên tình (538 – 542) 37. Bát nước trong từ đó lại lặng Bát nước trắng từ đó lại yên Ban sớm chẳng phiền Ban đêm chẳng ngại (545 – 548)

38. Con đã rắp trong ý

Con đã nghĩ trong lòng (561 – 562)

39. Ai cấm chàm cho người tiếc vỏ

Ai cấm nỏ cho người tiếc tên (590 – 591)

40. Săn muông giữa ruộng cùng rẫy

Đặt bẫy giữa nương cùng mùa (595 – 596) Đường chăm đi mới tới Lời chăm gửi mới nên Em lại tâu lên Xin triều đình xét lại Xin đức vua xét cùng (600 – 604)

41. Ai có vợ, nhớ vợ

Ai có con, nhớ con (608 – 609)

42. Từ dinh mà qua xem chợ Từ phủ mà qua xem hàng Đất kinh kỳ vóc đỏ lụa vàng Đất của tốt đồ sang chẳng thiếu (618 – 621)

Sắm quà chúc tuổi mẹ thêm lành (624 – 625)

43. Sắm lễ chúc vía cha thêm khỏe 44. Trông lên cho kẻ thương người chuộng

Trông xuống cho kẻ ước người ao (653 – 654)

45. Nơi việc vua, ta gọi nhau bằng quyền cùng chức

Nơi việc nước, ta gọi nhau bằng cun cùng lang Về giữa đàng, ta chỉ gọi nhau bằng chúng cùng bạn Thương chúng, ta chẳng giấu điều cạn Thương bạn, ta chẳng ngại điều sâu (660 – 664)

46. Chân càng xa đất chợ

Bụng càng xa đất mường (667 – 668)

47. Dù cách mấy hôm cùng sông nước trắng

Dù vắng mấy núi cùng đèo dốc quanh (678 – 679)

Vui bước quên dốc xuôi (686 – 687)

48. Vui chân quên dốc ngược 49. Cây trẩy đã nên cán choòng

Cây song đã nên cán giáo Cây nứa đã nên cây sáo ống ôi (690 – 693)

Người ra vớt cành trên (695 - 696)

Rối trăm vòng trăm ngả (730 -731)

Sống lại ta làm nhà (735 – 736)

50. Người leo ở cành dưới 51. Xót trăm mối trăm vòng 52. Sống lại ta làm cửa 53. Nói một điều thương Nói trăm điều mến (749 – 750)

Đem tiền không tươi đổ lẫn bạc nén (766 – 767)

54. Đem bạc không chảy đổ lẫn vàng mười 55. Hết rừng thưa chẳng đòi dựng trại Hết rừng bát chẳng ngại mỏi chân Đi từ giờ Dần Đi lâu giờ Ngọ Về mương xưa tốt đồng đẹp lúa Về đất cũ tốt lúa đẹp người (829 – 834) 56. Đất làm mùa, mùa được liền liền Đất trồng kê, kê lên kín rẫy Vào một bụi riềng, được năm ba tổ ong khoái Vào một rừng bái, được chín mươi tổ ong rừng Vào một gốc vông, được năm ba tổ ong mến mẹ (839 – 842)

57. Bay kêu dối, tao còn một nỗi yên lòng

Bay kêu thật, tao không còn nơi yên dạ? (851 – 852)

58. Ruột gà cắp theo đã đầy bờ ruộng

Ruột lợn tôi để đã đầy bờ khe (855 – 856) 59. Trình lang đi hầu vua ông cho thay mặt cha đã về

Trình lang đi hầu vua bà cho thay mặt mẹ đã lại (870 – 871)

60. Chín chum bạc trắng nhà ông còn đủ

Chín sành vàng đỏ nhà ông còn nguyên (879 – 880)

61. Quay chân trở lại Trái chân lại nhà

Chẳng muốn gặp người già con nít Chẳng muốn biết lời chào tiếng thăm Chân trái bước lên gốc thang nằm Chân chăm bước lên ngọn thang ván (884 – 889)

Chẳng đoái nhìn sành nước tốt Bước vô đạn áp Đạp vô đàn nhà Chẳng đi ra móng sáng Chẳng ngó áng móng trong (893 - 896)

Mời cho phải tiếng (915 – 916)

62. Không buồn nhìn ang nước lành 63. Chào cho phải lời 64. Đâu phải cơm ai mà nuốt cho xong Đâu phải thuốc ai mà uống cho vào Đâu phải lời ai mà chào cho nên bắt tiếng (920 – 922) 65. Lang chê em bộc xộc Lang chê em bệch xệch

Hay lang chê em xộc xệch búi tóc sừng trâu (925 – 927)

Uổng công anh trầm ngâm (958 – 959)

Chẳng việc chi chín lượt mọc ăn cơm nghẹn tan (964 – 965)

Mày muốn vàng bạc, ta cho vàng bạc mày đeo Mày muốn lấy đồng trên cơm dưới cá bao nhiêu cũng có (990 – 993)

May tấm vóc ở nơi nhà ngang Sớm may gối Tối may màn Nhuộm những nước vang thêu màu hoa đỏ Nhuộm những nước vỏ dệt màu hoa xanh Nhưng mong tình, bạn tình chẳng lại Trông tin ngãi, bạn ngãi không sang (999 – 1006)

66. Ăn cùng anh hết đọi Nói cùng anh hết lời Một rằng chơi cùng anh cho đến cửa Hai rằng nhởi cùng anh cho đến nhà (939 – 942) 67. Đêm ra trông trời, thấy trời càng cao Khuya ra trông sao, thấy sao càng lặn Trông tình, tình vắng Trông bạn, bạn xa (947 – 951) 68. Uổng công anh chờ chực 69. Chẳng việc chi chín lượt trồng ăn cơm nghẹn hóc 70. Ai chơi gian có tội cùng trời Ai nhởi dối có tội cùng đất Trống bưng da bò bịt không đánh hai mặt Cá dưới nước không bắt hai tay (967 – 970) 71. Mến người ta làm gì, ma vía chàng ơi! Mến người ta làm gì, ma vía chàng à! Mến người ta cũng chẳng ăn nên cửa Mến người ta cũng chẳng ở nên nhà Mến làm chi cho sinh ra héo hắt (972 – 976) 72. Cậy gió, gió chẳng biết lẽ rằng Cậy trăng, trăng chẳng biết lẽ nói Cậy chim cu ngói sợ chẳng nên điều Cậy chim chèo pheo đi giúp (982 – 985) 73. Mày muốn xống áo, ta cho xống áo mày mặc 74. Dệt cửi gấm ở nơi cửa dọc 75. Mở tấm thêu hình chim vàng ương khổ hẹp Mở tấm phá hình chim vàng anh khổ trường (1010 – 1011) 76. Ta có được may quần thêu áo chùng cho ai hay chăng, hỡi ma?

Ta có được sắm quần lụa áo hoa cho ai hay chăng, hỡi vía?

(1013 -1014)

Vắng bạn nghĩa, thấy dấu bạn đỡ tẻ một đường Uống nước, kêu vía bạn cho đỡ thương Ăn cơm, gọi hồn nàng cho nó đỡ nhớ Ban sớm, lên chín dốc thử ngựa Ban trưa, đem chín chục trai đứa đắp mương Ban tối đi nằm, đóng ba lần cửa chặt (1045 – 1051)

Bố cho em về ăn chung cá mường anh (1058 – 1059)

Cũng chẳng thuận nên đường ngãi đường tình (1077 – 1078)

Chết, chẳng dễ còn gặp mấy lần (1166 – 1167).

77. Vắng bạn tình, thấy của tình đỡ sầu một lẽ 78. Mẹ cho em đi ăn chung cơm mường lạ 79. Chùa chưa chơi, chưa biết chùa nào tốt gỗ Trống chưa vỗ, chưa biết mặt nào kêu Hoa chưa kịp nở sớm, rồi hoa đẹp về chiều Đừng để đất bên cha mang điều tiếng rẻ Mường bên mẹ mang điều tiếng khinh (1064 – 1068) 80. Cũng chẳng thuận nên đường trai đường gái 81. Sầu thương tình, ốm thảm ốm thiết Sầu nhớ bạn, ốm mệt ốm mà Cháo mẹ nuôi chẳng qua Thuốc cha tra chẳng khỏi (1089 – 1092) 82. Như con chim ác lạ cành Như con chim xanh lạ tổ Lạ như chân con chim mái đỏ Như mỏ con chim hoa đào (1111 – 1114). 83. Chẳng thương đạo Hồ Liêu cho trót Chẳng nhớ lời Út Lót cho xong Thấy thèm lòng đã mở cơm nếm lạ Thấy đói dạ đã mở gói nếm quen Đỡ cơn thèm còn chi của bậu Thỏa lòng xấu còn chi của người (1124 – 1129). 84. Mặt trời dâng lên sáng sáng Mặt trăng dâng lên đầy đầy Đêm đầy, ngày đủ, tháng thiếu Thiếu tháng còn tháng Thiếu năm còn năm (1143 – 1147). 85. Sống, chẳng gặp cũng đành một lẽ 86. Mặc sông đầy nước lớn

Mặc đèo lớn dốc cao (1174 – 1175).

Ai khéo bẻ tiếng khôn mọi đường Trách chi vía chàng chẳng thương Trách chi vía chàng chẳng mến, chàng ơi (1186 – 1189).

Cạn giếng ngọc, rồi lại đổi mưa Hết tháng tang đợi Hết tuổi tang chờ (1227 – 1230).

87. Ai khéo nói lời ngoan mọi lẽ 88. Lặn mặt trời, mặt trời lại mọc 89. Nhiều nhà lang lớn chức Lắm bậc lang lớn quyền Ở dưới con người nhắn lên Ở trên con người hẹn xuống Mấy trăm nén nghìn vàng cũng chuộng Mấy trăm trâu nghìn ruộng cũng tham (1233 – 1238).

90. Ông mối Mường Khầm bước lên cửa trước Bà mơ Mường Trác bước lên cửa sau Một vườn mận, năm ba kẻ xin rào Một vườn đào, năm ba người xin giữ (1240 – 1243).

Cháu muốn ăn canh, năm ba người xin đi đánh cá Chẳng thiếu nơi tốt danh lành giá Chẳng thiếu nơi tốt mạ lành cơm (1245 – 1248).

Lấy về ngược, em chẳng quen vác nước ống bương (1251 – 1252).

Tiếng đồn tới: Vàng trăm nén đúc ra còn nguyên (1276 – 1277).

Kẻ khen sang (1294 -1295).

Xin họ hàng đứng lại một mé (1298 -1299).

Ai đi thì đi (1312 – 1213)

91. Cháu muốn hái lá, năm ba kẻ vin cành 92. Gả về dưới, em chẳng quen ra bến gánh nước 93. Tiếng đồn đi: Chiếu cạp trải nghìn đôi còn mới 94. Người khen đẹp 95. Xin chú bác đứng lại một đàng 96. Ai lại thì lại 2. VƯỜN HOA NÚI CỐI 1. Trẻ con người già nghe khó nhọc Muốn trốn, chạy khỏi đất cun Thàng Mà lúc nào cũng không khỏi Trẻ con nghĩ đến đất nước cun trưởng lý Vì Thàng

Hết năm đến mùa Đánh trống nhởi chùa Quèl Ang Nghĩ đến mâm cơm, thịt lợn, thịt gà. Người già nghe khó nghe nhọc Muốn trốn, chạy khỏi đất cun Thàng Lúc nào cũng không khỏi Còn nghĩ đến đất nước cun trưởng lý Vì Thàng Hết năm đến mùa Đánh trống nhởi chùa Quèl Ang Nghĩ đến mâm cơm, chén rượu. Muốn trốn, muốn chạy khỏi đất cun Thàng Lúc nào cũng không khỏi Còn nghĩ khi hết năm đến mùa Đánh trống nhởi chùa Quèl Ang Những mâm cơm trắng, cơm vàng. Con cun, con chàng nghe khó nghe nhọc Muốn trốn, muốn chạy khỏi đất cun trưởng lý Vì Thàng Lúc nào cũng không khỏi Còn nghĩ khi hết năm đến mùa Đánh trống chơi chùa Quèl Ang (151 -175).

Miệng họ chúm chím cười cười Tay họ đưa đưa đẩy đẩy (183 – 185).

2. Chân họ giậm giậm nhấc nhấc 3. Có những hàng hoa thông

Có những bông hoa lài Mường Hông làm cùm không cho ra hoa Mường Hông làm nhà không cho hoa lan Chùm hoa nhàn ra hoa dưới nước Rạng rỡ hoa chu chềnh Rập rềnh hoa chu chiếng (195 – 201).

4. Vui hoa chu đồng Vui bông chu chiếng (217 – 218). 5. Ban sớm rủ nhau vào đánh đuống Ban chiều rủ nhau vào đánh trống đồng (242 – 243). Lấy bà ở đất Trù Tráng 6. Lấy vợ ở đất Hang Lòn Một bà đã có con Một vợ đang có chửa (253 – 256). 7. Cun Rậm giàu mười hai đực ngựa vàng

Cun Thàng giàu mười hai đực ngựa trắng

Cun Dắng giàu mười hai đực ngựa ô (270 – 272). Có đôi cô gái nàng Thờm, Tiên Đẹp lắm đẹp nhiều Bắp chân ống đồng Gò má hồng ngăm Bước chân đi mềm mại Mái tóc đen tươi chằm ngà (236 – 241), (285 – 290).

Một bó lúa nếp được ba đấu gạo (371 -372).

Những lời họ hay nói suông (376 – 377).

Có chốn cho thợ đúc đồng Đánh ầm ầm trống bồng Đánh vang vang trống bạt (417 – 420).

Đắp bờ đầm Kinh cao lên làm hàng (472 – 473).

8. 9. Một khóm cây kê cắt về chín giỏ 10. Người khôn họ hay nói dối 11. Đồng lúa mường họ đã cấy Cây lúa mường họ đã xanh Ruộng em còn bông quèng, cỏ rọm Ruộng nếp cấy lúa khóm đỏ Ruộng tẻ cấy bó lúa ốc (381 – 385). 12. Có ngăn cho thợ đúc bạc 13. Đắp bờ đầm Kinh tôn lên làm chợ 14. Nửa đêm nó vẫn dệt phà Gà gáy hãy còn dệt gấm

Dệt gấm có nói đến chàng anh Va Dệt phà có nói đến chàng anh Khói (478 – 481).

Tay trái nó chỉ vặt vặt (589 – 590), (716 – 717).

Góc đồng có ruộng rau chua rậm mí (640 – 641).

Người Kinh gái vào mua (735 – 736).

Trở nắng mưa ra (830 – 831).

Có đọi cơm sa (851 – 852).

15. Tay phải nó chỉ vày vày 16. Vào đồng có ruộng rau chua rậm chóc 17. Người Kinh trai nó lại 18. Trở trời mưa lặng 19. Có bát cơm muối 20. Cởi xống lụa vàng đằng Vắt lên trên dằn cây nứa Cởi áo lụa vàng đằng Vắt lên trên dằn cây ôi (995 -998).

Anh Khói nấp lại bóng râm (1017 – 1018).

Tiếng chim chi nghe lạ nhiều (1038 – 1039).

Anh Va liền đi lại (1049 – 1050).

Thấy nết anh Khói cười (1119 – 1120), (1245 – 1246).

Như tiếng ve ra tháng tám (1143 – 1144).

21. Anh Va nấp lại gốc hoa bói 22. Tiếng chim nghe lạ lắm 23. Anh Khói liền đi ra 24. Vợ anh ngồi vóng nhìn ra Vợ bà anh ngồi chiếu kép Vợ thiếp anh ngồi chiếu ngang (1101 – 1103). 25. Thấy duyên anh Va nói 26. Như tiếng ve lặng tháng ba 27. Thổi ra tiếng hát gọi bạn nhân tình

Thổi phận mình gọi bạn thân thương (1146 -1147).

28. Miếng trầu nó đã héo vàng

Miếng nang nó đã héo nắng (1231 – 1232).

29. Mở lấy miếng trầu trong khăn túi vàng

Mở lấy miếng nang trong khăn túi gấm (1248 – 1249).

Vợ anh đã khéo gói Em cảm ơn, miếng trầu anh Khói Vợ anh đã khéo têm (1255 – 1258).

Nang anh mua ba bạc trắng (1286 – 1287).

Anh Va bước chân đi khuất (1361 – 1362).

Nước không muốn uống (1381 – 1382).

30. Em cảm ơn, miếng trầu anh Va 31. Trầu anh mua ba lạng vàng 32. Anh chẳng bỏ sức anh không Anh chẳng bỏ công anh uổng Về rằm này sang rằm sau anh vào Về dạo này dạo sau anh lại (1350 – 1352). 33. Anh Khói quay lưng đi ra 34. Canh năm còn dệt phà Nửa đêm còn dệt gấm Dệt gấm nói đến anh Va Dệt phà nói đến anh Khói (1368 – 1371). 35. Cơm không muốn ăn 36. Ban sớm không còn dệt phà

Ban trưa không còn thêu hoa dệt gấm (1403 – 1404).

37. Cha cho con đi chác chợ

Mẹ cho con đi nhởi hàng (1427 – 1428).

Tiếng chết lời sống, con nói nó đã hay (1445 – 1446).

Không có thiếp nào bằng vợ Hang Lòn Một người đã có con Một người đang có chửa (1471 -1474).

Coi ông, bà bằng rác dưới chân Bà này không nhân đức Lúc nào cũng than bực kêu ca, Chăn lợn chửi: “Đến miệng con ma”, Nuôi gà chửi: “Đến miệng cầy cáo” (1493 – 1498).

Anh đi ngó đôi đàng (1525 – 1526).

38. Tiếng tốt tiếng lành nói với con đã hết 39. Không có dâu nào bằng dâu Mường Tráng 40. Coi trời bằng chiếc vung tra 41. Anh lên nhìn đôi lứa 42. Khổ hại thân em trở về Mường Tráng

Khổ thân cho chị trở về Hang Lòn (1555 – 1556).

43. Ban sớm e lòng đi bừa

Ban trưa e lòng đi hái đi cấy Bây giờ cây lúa đã xanh Anh Khói không cho là nhà Anh Va không cho là cửa (1560 – 1564).

Ai bỏ bà có chửa tội nhiều (1568 – 1569).

44. Ai bỏ bà có con tội nửa 45. Cổng cái nhà này không hòng luồn

Cổng con không còn hòng vào Hàng rào cạnh cửa không còn đi đến (1579 – 1580), (2090 – 2092).

Anh Va bỏ vợ Thương nhớ đến nàng Thờm, nàng Tiên Lấy tiền đem ra đi chác Lấy bạc đem ra đi mua (1568 – 1590).

Đẹp gái lành mới là bao con nàng Thờm, nàng Tiên (1618 – 1619).

Cun Ống đi ra chơi Mường Vàng (1631 – 1632).

Bốn năm anh nghe họ nói (1722 – 1723).

46. Anh Khói bỏ bà 47. Tốt là bao cái cô cạnh đồi Bái 48. Cun Ai đi ra chơi Mường Động 49. Ba năm anh nghe họ đồn 50. Mường em có đất ẻ ác Làng em có nước ẻ ương (1727 – 1728).

Rừng hoa thông nó đã bén trái (1744 – 1745).

Anh Va mặc áo cúc áo cóm (1771 – 1772).

51. Vườn hoa bói em đã bén bông 52. Anh Khói mặc áo lụa hoa cà 53. Chúng mình đôi ta quyết làm cửa Lời hứa đôi ta quyết làm nhà Anh đã bỏ bà cho về Mường Tráng

Đã bỏ vợ cho về hang Lòn

Vợ anh chẳng còn Con anh chẳng có (1827 – 1832).

Tiếc công anh công uổng Tiếc đường anh đi lối anh lại Lòng con trai lòng dại Bụng con gái bụng ngoan (1841 – 1845).

54. Tiếc sức anh sức không 55. Không nói với anh Va một lời

Không cười với anh Khói một tiếng (1853 – 1854).

Em mời anh Khói lại ngồi em thưa (1856 – 1857). Cho em tới gốc ngón vàng Tìm đàng em tới gốc ngón đắng (1908 – 1909).

Không phải quay lưng về mường ma (1917 – 1918).

Chê con dại thì đưa con ra (1970 – 1971).

Nước mắt rơi đầy hai bên gò má

Cổng con bước chân ra (2086 – 2087).

56. Em mời anh Va lại đây em nói 57. 58. Em không phải quay lưng về nhà đồng 59. Xuống sân em chửi con gà Trèo nhà em chửi con chó Em nhăn nhó với con mèo (1921 – 1923). 60. Em chê con lú thì đưa con lại 61. Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên (1850 – 1851), (1896 – 1897), (2012 – 2013). 62. Cổng cái bước ra luồn 63. Rậm mường ta ở đâu có ốc Rộc mường ta ở đâu có cá Thung lũng ta ở đâu có muông Trong rừng nơi đâu có dây ngón đắng Rặng đồi cao đâu có dây ngón vàng? (2100 – 2105). 64. Tay chiêu nó chỉ quẫy quẫy Tay phải nó chỉ vắt vắt (2115 – 2116).

Ở rặng bên trong có dây ngón vàng (2124 – 2125).

Cành ngón vàng nghiêng nghiêng ngả lại (2153 – 2154).

Chọn chín ngọn ở búi bên trên (2157 2158).

Ta cùng chết với nhau cho lành (2180 – 2181).

Giống người say cơm say rượu (2104 – 2105), (2108 – 2110).

Chết biến nên cành hoa trúc Hoa trúc dậy hay chào. Chị em nàng Thờm. Tiên Chết biến nên cành hoa đào Hoa đào hay dậy cười dậy nói (2211 – 2216).

65. Đồi cao bên trong có dây ngón đắng 66. Cành ngón đắng khẽ khẽ ngả sang 67. Chọn bảy ngọn ở bên dây dưới 68. Ta chết biến với nhau cho tốt 69. Anh uống trước nghe lâng lâng bải hoải 70. Anh Khói, anh Va 3. NÀNG ỜM - CHÀNG BỒNG HƯƠNG 1. 2. 3. 4. 5.

6.

7.

8.

Việc nhà đã nhàn Việc quan đã rỗi Nhân ngồi nghỉ ngơi em kể Chuyện nhân tình khi xưa để các mẹ hay Bày chuyện đau buồn ngày trước để các mẹ biết (2 – 6). Bố nhà em bố có Mẹ nhà em mẹ giàu (14 – 15). Thấy em đi chơi cùng trẻ trong làng Gặp em đi chơi cùng bạn trong xóm (45 – 46). Bàn chân em còn bằng lá phay pháy Bàn tay em còn bằng lá muồng muồng (36 – 37), (55 – 56). Em đi chơi bản trên Anh cũng lên bản trên Em xuống bản dưới Anh cũng xuôi bản dưới (62 – 65). Ăn cơm nghe nhớ em, anh kêu đến vía Uống nước nghe nhớ em, anh kêu đến tên (70 – 71). Anh trộm phép mẹ đùm cơm vào lá Anh trộm phép mẹ đùm cá vào bao (73 – 74). Về mùa mơ, anh hái mơ bỏ bao Về mùa đào, anh hái đào bỏ túi (78 – 79).

9.

Anh chăm em như con nhà ngài chăm hoa trước vóng Anh quý em như con nhà ngài quý hoa trước sàn Qua bốn mùa hoa mơ Trải bốn mùa hoa mận (81 – 84). 10. Anh không phải giọt sương trên mặt lá Anh không phải con cá dưới khe Ngón Anh cùng em quyết chung một đường Em cùng anh sẽ đi một lối Ăn cơm chung một gian Uống nước chung một máng Xỉa răng chung một ống Chết hay sống cũng trọn một đời (103 – 110).

Nên bố nhà em chẳng cho (113 – 114).

Em đi bò, ngồi gốc cây nhuối (126 – 127).

Như lửa mới nhen Hơi nhau đã quen Tiếng nhau đã biết. Như thề chẳng nên thề, nói không nên nói (148 – 152).

Lấy răng anh cắn má em thành vết (158 – 159).

Mẹ nhà em hết chửi (174 – 175).

Anh ăn cá vào lòng (189 – 190).

Cho mẹ nhà em biết đường (194 – 195).

Ăn phải miếng cá lắm xương (198 -199).

11. Nên mẹ nhà em chẳng gả 12. Em đi trâu, ngồi gốc cây nhỏ 13. Mách với bố mọi đường Nói với mẹ mọi nỗi Để bố nhà em giận Để mẹ nhà em giỗi (134 – 137). 14. Như hoa vừa nở 15. Lấy tay anh bấu em nên dấu 16. Bố nhà em hết mắng 17. Anh ăn cơm vào dạ 18. Cho bố nhà em biết lối 19. Em ăn phải nắm cơm nhiều thóc 20. Anh chàng Bồng Hương

May cho em đôi áo khóm xanh đóng khuy bạc May cho em đôi áo khóm trắng đóng khuy xanh Anh tìm cho em trái trống ống đào Anh tìm cho em dao cau bịt bạc

Lấy tiền anh đi chác Lấy bạc anh đi mua (207 – 213).

Mẹ quẳng vào bếp không lo hại thân (226 – 227).

21. Bố bỏ vào lò không lo mất vía 22. Em không nói ra các mẹ không hay

Em không nói ra các mẹ không biết (236 – 237).

23. Anh sẵn lòng khen cơm Anh đi cho tới mạ Anh sẵn lòng khen cá Anh đi cho tới khe Anh sẵn lòng khen trai tài gái đẹp Anh phải đi cho đến bản đến mường (244 – 249).

Lúc này, bố cất lời khuyên (252 – 253).

Nó không bày cho em được biết (270 – 271).

Em van mẹ, mẹ không buông (291 -292).

Vì anh đi bò cùng em bên nương (322 – 323).

Biết làm sao cho ta nên nhà, em Ờm à? (327 – 328).

Yêu em, anh giữ trong lòng. Khăn kia ném vào rừng xanh Khăn trắng của anh đã loang lổ máu Khăn nhớ khăn thương các mẹ không thấu Khăn nghĩa khăn tình các mẹ chưa hay Tấm khăn dính máu này, Biến thành dây bông trắng trên núi Trời mưa nó nở hoa trắng Trời nắng nó nở hoa vàng (337 – 346).

Ăn xin trong bản được một cái niêu (352 – 353).

24. Lúc này, bố nói lời khen 25. Nó không nói cho em được hay 26. Em van bố, bố không thương 27. Vì anh đi trâu cùng em bên ngõ 28. Biết làm sao cho ta nên cửa 29. Kiếp ta, kiếp khổ, Số ta, số khó, Trời gió, ta cũng phải qua. Sông sâu, ta cũng cứ lội. Dốc núi cao, ta cũng cứ lên (330 – 334). 30. Thương em, anh giữ trong ruột 31. Ăn xin trong làng được một nắm gạo 32. Em nghe nhọc trong mình

Em nghe đau trong xương (359 – 360).

33. Em muốn cùng anh nên cửa

Nhưng bố không cho nên cửa. Em muốn cùng anh nên nhà Nhưng mẹ chẳng cho nên nhà. Ta cùng về bên ma cho khỏi bận. Ta đi ăn lá ngón cho nó hại thân, Ta đi thắt cổ cho nó hại người (364 – 370).

34. Ăn lá ngón cho nó hại thân,

Thắt cổ cho nó hại người (385 -386).

Cành nào già đưa về phía mặt trời. Này ngón ơi! Em giơ tay hái lấy, Tay phải hái chín lá đẹp Tay trái hái chín lá xinh (392 – 396).

Bảy lá ngón thăng thẳng (398 – 399).

Sáng ra, mẹ chị còn mắng lắm lắm (406 – 407).

35. Cành nào đẹp ngả về phía sáng 36. Chín lá ngón thanh thanh 37. Đôi trai gái muốn chơi nên cửa Bố nhà chị không cho nên cửa. Đôi trai gái muốn chơi nên nhà Mẹ nhà chị không cho nên nhà. (400 – 403) 38. Giữa đêm, bố chị còn chửi nhiều nhiều, 39. Chết đen như mực Chết đỏ như vang Chết vàng như nghệ (414 – 416).

40. Thấy cơm không buồn nhá

Thấy cá không buồn ăn. Em đem thân về bên ma thôi, anh ạ. Ý đã chung sao chia đôi ngả, Dạ đã thương sao chia đôi nơi? (437 - 441).

Tay trái anh còn đưa qua sườn em (449 – 450).

Chú nói điều chi mà nghe thương thương (486 – 487).

Đem lên núi Làn Ai đan troi chém ống Thấy nggực con Ờm có tổ kiến pống, Rống chàng Bồng Hương có ổ trứng lằng.(461 – 464), (491 – 494)

41. Tay phải anh còn đưa lên trán 42. Chú nói điều chi nghe đến là lạ, 43. Hôm qua tôi bắn được con lòi 44. Bộp bộp! Sống lại, Ờm ơi!

Bộp bộp! Sống lại, Ờm à! Sống lại, bố cho đi làm cửa Sống lại, mẹ cho đi làm dâu. (505 – 509)

45. Bố có cho con đi làm nhà

Không cho khi còn sống nên người. Mẹ có cho con đi làm dâu Không cho khi còn con gái. (516 – 519)

Chàng Bồng Hương đã mềm như khoai (511 – 512), (527 – 528).

46. Nhưng thân em đã úa như môn 47. Vì muốn chơi cùng chàng Bồng Hương nên cửa,

Nhưng bố chẳng cho chơi nên cửa Con muốn chơi cho nên cửa, Nhưng mẹ không cho chơi nhà. Con phải ăn ngón cho nó hại thân Con phải thắt cổ cho nó hại người (543 – 548). 48. Đàng trước, xin bố đắp cho con một chà lá nánh

Đàng sau, xin mẹ đắp cho con một cành lá vo Bố có giết chín trâu, Mẹ có giết mười bò (557 -560).

49. Con chết chớ biến nên chim Cho con nhà lang bắn Con chết chớ biến nên rắn Cho người ta đập đầu. Con chớ biến nên con sâu (563 – 567), (574 – 578).

50. Nước mắt bố tuôn như suối

Nước mắt mẹ chảy như mưa (597 – 598).

51. Em chưa có con gái coi cửa

Em chưa có con lứa coi nhà (601 – 602).

52. Khi các em gái đã có người mến

Khi các em gái đã có người thương, Em trai đã ưng nên gả Em gái đã ưng nên cho. (614 -617)

53. Đừng chém những hàng roi dài,

Chớ chặt những hàng roi thon (623 – 624).

54. Em kể lại kiếp khốn cho các mẹ biết

Em kể lại kiếp khổ cho các mẹ hay (628 – 629).

Buổi sớm, đi đánh chài sông con (641 – 642).

55. Buổi sớm, đi đánh lưới sông cái 56. Giữa đêm, anh đan chài vóng cái Về sáng, anh đan lưới vóng ngoài (646 – 647).

57. Giờ nhà em lắm cá

Giờ nhà em nhiều cơm (649 – 650).

Các mẹ ở lại thêm trăm ngàn tuổi (654 – 655).

58. Các mẹ ở lại sống lâu trăm năm 59. Nói cái kiếp khốn cho các mẹ đỡ thương Nói cái kiếp khổ cho các mẹ đỡ tủi Nhưng em không về con gà nó đợi Nếu em không về con lợn nó mong (671 – 674).

4. NÀNG NGA - HAI MỐI 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7.

Đầu hôm cho đánh trống cái hồi ba Sáng ra cho đánh trống đồng hồi bảy (24 – 25). Cơm trong mồm chưa kịp nhá Cá trong miệng chưa kịp nhai, Trầu trong khăn chưa kịp lấy (31 – 33). Bốn chục làng dưới, Chín chục làng trên (34 – 35). Rửa bàn tay trắng ngần, Rửa bàn chân trắng ngà (58 – 59). Vòng cổ chạm hình hoa thông bông trúc, Vòng đúc chạm hình phượng múa rồng leo (62 – 63). Trời râm họp chợ bông gạo, Trời nắng ráo họp chợ cây hoa Trời dâm da kén xim tìm rớ Tìm rớ nào ai đáng rớ Tìm xim nào ai đáng xim (66 – 70). Chưa gặp được người khôn nết khéo lo, Chưa gặp được nơi vừa lòng đẹp ý (81 – 82). Bố nhà ta chẳng thiếu chi bạc Mẹ nhà ta chẳng thiếu chi vàng (102 – 103). Lạy bố ngồi trên sập bạc, Lạy mẹ ngồi trên chiếu vàng (113 – 114).

Nghe lời siếc, bố đã đẹp lòng (148 – 149).

8. 9. 10. Nghe lời thưa, bố đã đẹp ý, 11. Tuổi bố đã ngày một thêm, Vóc mẹ lại ngày một xuống Lên bậc thang lo bước đã cuống, Xuống bậc thang lo bước đã run (151 – 154). 12. Cho buồng cau bố mẹ lỡ già,

Thuyền qua sông, cho anh em tôi sang với (178 – 179).

Người bản đứng lại một bên (196 – 197).

Xống áo em mặc, một ngày chín thợ hàng may, Vòng đeo tay, một ngày chín thợ hàng bạc Chiếc khăn em thắt chắc hết chín trâu mười bò (276 – 279).

Đủ chín chục ngựa, cặp trăm dây cương (284 – 285).

Chín chục con gà cong cựa cùng đuôi (291 – 292).

Ban chiều, chín chục trâu trắng bạc đi ra cày ngang, Một trăm bò vàng bừa trang đất mạ. Cơm nhà anh ăn, một ngày hết chín thúng gạo, Áo anh mặc, một ngày chín mớ lụa vàng (311 -315).

Lời anh siếc ra, thử dạ con người (325 - 326).

Trời mưa sa, phải ngồi hang đá (354 – 355).

Chín tấm lụa vàng trải ngang làm chiếu (357 – 358).

Rắp lòng dạm, xin anh đi cho tới nhà (375 – 376).

Sợ mẹ trong cửa bảo anh là đứa dưới chợ buôn luồng (389 – 390).

Anh chưa tỏ rồi em rồi em xin rằng (396 – 397).

Chẳng bảo anh là kẻ buôn trâu bán bò dưới chợ; Bố trong cửa, Chẳng bảo anh là kẻ buôn nứa bán luồng (404 – 407).

Giàn trầu ra nhà ta lỡ hái (158 – 159). 13. Thuyền qua bến, cho anh em tôi sang cùng, 14. Người buôn đứng lại một đầy, 15. Đứng đã nên đứng, Ngồi đã nên ngồi (208 – 209). 16. Cơm em ăn, một ngày kén chín thứ gộ 17. Có chín chục trâu, cặp trăm dây dợ, 18. Chín chục con lợn vậm ngà, 19. Bố nhà anh khó nhiều, Mẹ nhà anh khó lắm (305 – 306). 20. Ban sớm, chín chục trâu đen đi cày dọc, 21. Lời anh nói ra, thử dạ con cá 22. Trời nắng, vào trú bóng đa. 23. Chín tấm lụa đỏ trải dọc làm chăn, 24. Rắp lòng ăn, xin anh đi cho tới cửa, 25. Sợ bố trên nhà lại bảo anh là đứa dưới chợ buôn nứa, 26. Anh chưa hay rồi em rồi em xin gửi, 27. Bố trong nhà, 28. Bố nhà cháu ngồi trên sập đỏ, Mẹ nhà cháu ngồi trên chiếu vàng (467 – 468).

Liền cặp áo hàng, đóng nậu khuy bạc (510 – 511).

Chín nén vàng hẹn có bến Đuộng (513 – 514).

Con chẳng đẹp dạ nhưng bố lại ưng (558 – 559).

Trời nắng viết tờ giấy vàng (576 – 577).

Ban trưa, lo mau đi hút bông mơ bông mận (608 – 609).

Hỡi chim cu mái, chị một lòng nhờ (619 – 620).

Chim hỡi, chị một lòng chờ (640 – 641).

Ngô trắng ngô đỏ đeo vào quanh mình (661 – 662).

Bay tắt qua đã lắm đồi bái (666 – 667).

Bay đường ngái, đôi cánh đã nhừ (471 – 472).

Ngủ dậy cho đánh ba hồi chiêng năm (703 – 704).

Tháng hai, tôi không bắt gà nhà người (727 – 728).

29. Liền cặp áo mới, đóng nậu khuy vàng, 30. Chín nén bạc hẹn có sông Ngang 31. Trong lòng sẵn đã có liệu, Trong ý cũng đã toan. Đợi đến nhà đến cửa, Rồi đầu hôm, tâu bố ở nơi vóng giữa, Sáng tỏ, xin mẹ ở chốn gian trong (520 – 524). 32. Ngày nắng đi coi nước phai nước dầm, Ngày mưa đi lo nước mương nước cọn, Quyết làm cho nên, Đất nhiều cơm, lớn kho to đụn, Đất lắm cá, giàu binh đẹp mường (538 - 542). 33. Con chẳng đẹp lòng nhưng bố cứ gả 34. Trời râm, nàng viết vội tờ giấy trắng, 35. Thật lòng thương em, Anh mau đưa mơ đến cửa. Thật dạ thương em, Anh mau đưa mối đến nhà.(585 – 588). 36. Ban sớm, tôi còn phải đi hút bông đào, 37. Hỡi chim cu trống, chị một lòng cậy, 38. Chim ơi, chị một lòng đợi, 39. Hạt ngô đen đen đeo vào quanh cổ, 40. Bay tắt ngang đã lắm đồng nà, 41. Bay đường dài, đôi dò đã mỏi, 42. Đầu hôm cho đánh ba hồi cồng bảy, 43. Tháng giêng, tôi chẳng trộm vịt nhà ai, 44. Đàn vịt ăn bên kia bờ nà, Đàn vịt ăn bên kia bờ hón (742 – 743).

Chết dại như cây bương cạnh sông (785 – 786).

Cá không buồn nhai (817 – 818).

Con chẳng thua việc quan (828 – 829).

Sáng ngày, lạy mẹ ở chốn gian trong Lạy bố ngồi trên sập bạc, Lạy mẹ ngồi trên chiếu vàng. Xin bố mẹ cho con, Bốn mươi nén bạc, con đi ăn đàng, Bốn mươi nén vàng, con đi ăn sá, Thà con đi liều thân cho quạ, Liều xác cho cá mương mương, Liều xương cho mối cùng kiến (871 – 880).

Mẹ chẳng để con đi ngái mà thương (888 – 889).

Nơi ngái chẳng thiếu chi người đáng bà (915 – 916).

Hỏi nàng Mường Sáng cho ông vừa ý, ông hỡi. (924 – 925).

Có chết, tôi chết cùng nàng Nga trọn đời (962 – 963).

45. Chết sấp như cây đa cạnh bãi, 46. Cơm không buồn nhá, 47. Con chẳng thiếu việc vua, 48. Rồi ban sớm bố cho con, Cưỡi ngựa đực đen đi xuống. Ban chiều, mẹ cho con, Cưỡi ngựa đực trắng đi lên (857 – 860). 49. Đầu hôm, chàng vào lạy bố ở chốn ngăn ngoài, 50. Bố chẳng cho con đi xa mà hại, 51. Thuở, dưới sân đốt hết một đống củi khô, Trên nhà ăn hết một bồ muối nướng. Bố kiêng củ đã lắm, Để con khỏi ngứa vì đòi ăn theo. Mẹ kiêng cá đã nhiều, Để con khỏi đòi ăn theo lại hóc. Đầu hôm, con nằm với bố ở chốn gian ngoài, Gà gáy, con đòi bú mẹ ở chốn gian trong (894 – 901). 52. Nơi gần chẳng thiếu chi người tốt gái, 53. Hỏi nàng Mường Vống cho ông vừa lòng, 54. Nàng Mường Sáng má trái trôi, Nàng Út Chi môi trái trám (932 – 933). 55. Có sống, tôi sống cùng nàng Nga trọn kiếp, 56. Con trai khuyên, chàng tuốt dao Con gái khuyên, chàng tuốt kiếm (977 – 978).

Tội đáng con lợn, em bắt con gà Tội đáng con gà, em ăn miếng, Em chịu khốn làm cho binh có, Chịu khó làm cho mường giàu (1006 – 1010).

Lời anh tạ, em chưa kịp vâng (1016 – 1017).

Trời nắng, xin mẹ đừng nhớ thương (1026 – 1027).

Rắp lòng uống, xin mời anh vào chỗ râm (1150 – 1151).

Mượn chiếc áo rách mặc vào lếch thếch (1252 – 1253).

Gươm đen có chém ra làm ba (1281 – 1282).

Chín nén vàng ai nhận ở nơi bến Đuộng (1297 – 1298).

Áo lành sao anh chẳng mang (1312 – 1313).

Được đọi bỏ mâm (1335 – 1336).

Sáng ra, ngó sao đầu mường. Thư gửi giấy trắng Tin nhắn đi từ mùa năm ngoái, Tin nhắn lại từ mùa năm xưa (1366 – 1370).

Nàng Nga tính sau, tính đã hết lẽ (1401 – 1402).

57. Tội đáng chết, em tha, 58. Lời anh dặn em chưa kịp dạ 59. Trời mưa sa, xin bố đừng nhớ lặng, 60. Bố nhà em đang chực, Mẹ nhà em đang chờ (1109 – 1110). 61. Rắp lòng ăn, mời anh vào bóng mát, 62. Mượn chiếc áo vá mặc vào lôi thôi, 63. Gươm vàng có chặt ra làm bốn, 64. Chín nén bạc ai trao ở ngọn sông Ngang, 65. Quần lành sao anh chẳng mặc, 66. Anh đành bỏ cha ngồi trên sập bạc, Bỏ mẹ ngồi trên chiếu vàng, Bỏ hết chú bác họ hàng, bỏ binh gia lính tráng? Mất công bố gói chín đùm cơm cho đi ăn sá, Mẹ gói chín đùm cá cho đi ăn đường (1328 – 1332). 67. Được cơm bỏ muối, 68. Đánh trâu, trâu chạy vào bái, Đánh con, con chạy vào lòng. Dù chín nghìn lần trăng mọc, Dù chục nghìn lần trăng tròn (1350 – 1353). 69. Đầu hôm, ngó sao đầu áng, 70. Hai Mối bàn trước, bàn đã hết đàng, 71. Em mua cơm anh cũng không nhá,

Em mua cá anh cũng không ăn (1411 – 1412).

Đừng thắt cổ làm chi hại mình (1416 – 1417).

Trời nắng, có nhớ đến anh chăng, nhìn dặng mây vàng; Đêm trăng tròn trăng trong, nhớ đến anh chăng, Em nhìn lên nhành mây sương mây gió (1424 – 1427)

Em chẳng để anh đi riêng một kiếp (1429 – 1430).

Buổi chiều, em ở như chạch lộn bờ (1446 – 1447).

Gặp người nơi đất mộng Mường Khương (1478 – 1479). Thua cờ đi lạc, Thua bạc đi rài (1478 – 1481).

Việc binh mường bỏ sao được một tháng (1493 – 1494).

Sao đau xót đường ni, hỡi trời! (1571 – 1572).

Mẹ lành mới sinh được con Nga lành (1610 – 1611).

Mẹ cho làm chay để vía chàng khỏi sầu (1614 – 1615).

Quần đẹp nàng từng mặc (1626 – 1627).

Chọn trăm con trâu, sừng bằng lá va vo (1654 – 1655).

Nơi buồng ta ngủ, sợ có kẻ đặt bùa. Về mai sau, Duyên chẳng còn ưa, Tình chẳng còn đẹp (1674 – 1678).

Giục quân nhanh chân (1684 – 1685).

Vịn thang ngọc, em lên bậc hai (1752 – 1753).

72. Anh đừng ăn lá ngón làm chi hại vóc, 73. Rồi trời mưa, có nhớ đến anh chăng, em nhìn lên gốc mây trắng; 74. Em chẳng cho anh đi biến một mình, 75. Buổi sớm, em làm như trâu lộn ách 76. Gặp người nơi đất cậu Mường Vống, 77. Rằng: “Việc nước bỏ sao được một ngày, 78. Sao đau hại đường ni, hỡi đất! 79. Bố tốt mới sinh được con Nga tốt, 80. Bố cho làm ma để hồn chàng khỏi oán 81. Áo đẹp nàng từng thay, 82. Bên sống ta đà chịu thiệt, Bên chết ta đà phải bù (1631 – 1632). 83. Chọn trăm con bò, sừng bằng lá nánh 84. Nơi buồng ta ăn, sợ có người bỏ thuốc, 85. Giục quân nhanh bước, 86. Vịn thang rồng, em lên bậc một, 87. Dối nhà chồng là một lần xim rớ, Dối nhà bố từ một độ tình riêng (1775 – 1776).

Đánh cạnh chổi sợ nàng xót xa (1789 – 1790).

88. Đánh bằng vọt sợ nàng khó chạy, 89. Cho xim gặp rớ,

Phụ lục 4:

Cho vợ gặp chồng (1845 – 1846).

MỘT SỐ ĐOẠN THƠ ĐẶC SẮC TRONG TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG.

Truyện thơ trữ tình Mường rất hấp dẫn về cốt truyện, lời thơ trữ tình đằm thắm nhưng ít được nhiều người tiếp cận. Vì lẽ đó, chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn trích tiêu biểu trong truyện thơ trữ tình Mường để người đọc được thưởng thức.

1. ÚT LÓT - HỒ LIÊU

Út Lót - Hồ Liêu là một trong những truyện thơ dân gian Mường được nhắc đến nhiều nhất. Nhận xét của Phan Đăng Nhật về truyện thơ này như

sau: “Có thể nói từ khi ở trong nôi, mỗi người Mường được nghe, nghe hát về Út Lót - Hồ Liêu. Đến tuổi bắt đầu nhận xét ít nhiều về cảnh vật xung quanh, họ lại được bà mẹ kể cho nghe về sự tích đàn bướm lạc tháng Ba, năm năm lại tái sinh và bay qua bay lại dập dờn đông vô kể ở các nẻo rừng, về con cày cun rũ rượi, buồn bã đáng thương như người nuối tiếc điều gì đến trọn kiếp”[97, tr. 406]. Đoạn trích sau được trích từ câu 1100 - 1323 (hết). Đoạn trích kể về việc Út Lót không đến thăm Hồ Liêu, bèn nhờ chim chèo pheo mang cơm, bánh đến cho chàng. Dọc đường, thèm ăn, chim ăn hết mà còn đổ lỗi cho Út Lót đã trách chàng, khiến Hồ Liêu đau đớn đến chết. Sau đó, nàng nhận lời mối mai của đạo Cun, nhà ở hướng mồ chôn Hồ Liêu. Trong ngày cưới, nàng đến thăm mộ và gọi Hồ Liêu. Chàng mở cửa mộ đón nàng vào. Hai họ đưa dâu biến nên đàn bướm trắng, đạo Cun biến thành con cun cầy.

Bấy giờ, Nàng Út Lót vội đùm cơm lá dong, Đùm bánh trong cái dón; Sắp áo cùng nón, Đã đi đến nửa đồng, Bỗng gặp cơn dông gió trái; Đi đến giữa bái Gặp hoẵng kêu: “Trở lại đừng đi”. Đi đến rừng cây si, Nghe tiếng từ quy kêu nên xao xác. Em bước chân đi đến đất bạn tình sao nghe đã khác Như con chim ác lạ cành, Như con chim xanh lạ tổ; Lạ như chân con chim mái đỏ, Như mỏ con chim hoa đào Bay lên núi cao mà không núi đỗ. Nàng mời gọi con chim chèo pheo tìm mũ Dặn rằng: -“Ơi chim chèo pheo! Chị ra đi, nước vang đậm chẳng để chị đành, Nước chàm xanh chẳng cho chị bỏ; Về ông mày ăn: sớm đỡ, chiều lành, Gắng cơm canh rồi có ngày lại gặp” Giận cho con chèo pheo Chẳng thương đạo Hồ Liêu cho trót, Chẳng nhớ lời Út Lót cho xong,

Thấy thèm lòng đã mở cơm nếm lạ, Thấy đói dạ đã mở gói nếm quen, Đã cơn thèm còn chi của bậu, Thỏa lòng xấu còn chi của người! Còn sót chút xôi gấc đỏ tươi, Lại dính vào dưới đuôi cho đẹp, Bay trở lại nói rằng: -“Nàng Út Lót bận may áo hẹp, Bận kéo áo chùng, Ai chẳng muốn làm cửa nhà chung, Gỡ chẳng xong thì chết!” Thương cho đạo Hồ Liêu, Nghe chèo pheo tưởng thật, Đau lăn cơn ngất, Đau vật cơn mê, Giận thương trái lời thề cùng bạn, Kêu rằng: -“Mặt trời dâng lên sáng sáng, Mặt trăng dâng lên đầy đầy, Đêm đầy, ngày đủ, tháng thiếu; Thiếu tháng còn tháng, Thiếu năm còn năm, Người thiếu cơm cần người còn cơm móc; Ta thiếu bạn ngọc Như cây vía lìa gốc héo cành, Thiếu bạn tình, ta như cây lim héo côi; Ta sống sao nổi, hỡi trời!” Kêu dứt lời Hồn đã về nơi kiếp khác… Nàng Út Lót từ đó trở về, Mẹ thường khuyên chẳng chuyển, Cha khiến chẳng nỡ rời: -“Thương mơi, con ơi! Lặn mặt trời, mặt trời lại mọc, Cạn giếng ngọc, rồi lại đổi mưa. Hết tháng tang đợi, hết tuổi tang chờ, Con ở lửng lơ một thân sao được!” Khi ấy, Nhiều nhà lang lớn chức, Lắm bậc lang lớn quyền;

Ở dưới con người nhắn lên, Ở trên con người hẹn xuống; Mấy trăm nén nghìn vàng cũng chuộng, Mấy trăm trâu nghìn ruộng cũng tham, Nô nức đến xin hỏi nàng Út Lót, Ông mối Mường Khầm bước lên cửa trước, Bà mơ Mường Trác bước lên cửa sau; Một vườn mận, năm ba kẻ xin rào, Một vườn đào, năm ba người xin giữ, Bà cô bà bác cũng khuyên, cũng nhủ, cũng nhủ, cũng dành: -“Cháu muốn hái lá, năm ba kẻ vin cành, Cháu muốn ăn canh, năm ba người xin đi đánh cá; Chẳng thiếu nơi tốt danh lành giá, Chẳng thiếu nơi tốt mạ lành cơm. Cháu còn đợi nơi nào hơn cho được?” Nàng Út Lót trước tìm lẽ chê rằng: -“Gả về dưới, em chẳng quen ra bến gánh nước, Lấy về ngược, em chẳng quen vác nước ống bương” Bây giờ, nói rằng: -“Em chẳng tham nơi tốt rẫy giàu nương, Chỉ lấy về nơi nào thuận đường, Qua gốc khuên vàng đi ra kẻ chợ” Ở về mạn gốc khuên vàng, Sắm lễ sang cậy người lại hỏi, Đạo Tu Liêng chê rằng nhiều tuổi, Chưa chịu nhận lời mối lời mơ, Nhưng chẳng ngờ Út Lót lại vui lòng đẹp ý, Nói rằng: -“Đò chèo qua sông, chẳng hoài công cắm lại, Đò trở lại chẳng nỡ chống đò lui, Bố cho nhà người được đem cơi trầu mâm cau đón đợi!” Mẹ cũng chẳng nhận lời mơ lời mối, Nàng lại bàn rằng: -“Chỉ chẳng bền, bảo đợi giặt nước xiết giữa dòng, Đợi giặt nước trong giữa hón; Một lần quai sẩy hai lần nón, Chẳng kén chọn chi lâu, mang điều, mẹ ạ!” Bấy giờ, Tháng Chín đã qua, Tháng ba đã tới:

Nhà đạo Cun sắm sanh lễ cưới; Tiếng đồn đi: chiếu cạp trải nghìn đôi còn mới, Tiếng đồn tới: vàng trăm nén đúc ra còn nguyên Xôi gánh đầy trăm chiêng, Rượu khiêng đầy trăm đòn trai khỏe, Nhà đạo Tu Liêng Cũng mượn đủ bốn mươi mụ mái già, Ba mươi mụ mái non, Một nghìn trăm con gái vừa mới lớn. Có sanh bốn mái nhà, Có sanh ba rửa gót, Sắm quần áo tốt cho người bạn dâu, Sắm rộng tiền khao cho người vác chiếu, Sắm sửa chẳng thiếu những chi cùng chi, Đám cưới bước đi, Mười mường xem tới chật đường, Người khen đẹp, Kẻ khen sang; Thẳng gốc khuên vàng, đàng ra Kẻ Chợ, Nàng Út Lót dừng lại nói rằng: -“Xin chú bác đứng lại một đàng, Xin họ hàng đứng lại một mé, Để cho tôi được ghé thăm Hồ Liêu một chút!” Nàng bước đến bên mồ giậm gót, Kêu rằng: -“Đạp đạp, đất rã! Đạp đá, đá rời! Đạo Hồ Liêu anh ơi, Chống nắp săng đồng cho em vào với!” Đạo Hồ Liêu, trong săng đồng đang ngồi đan lưới, Nghe tiếng gọi, chống cửa mộ cao, Đón bạn tình vào, Bây giờ mới gần nhau mãi mãi, Nàng Út Lót bảo họ trai, họ gái: -“Ai lại thì lại, Ai đi thì đi, Đừng lơ lửng làm chi mà nên đàn bướm lạc!” Thương cho đạo Cun Hết vàng hết bạc Chẳng được vợ hiền;

Thương tiếc lo phiền, Biến nên con cầy cun tháng Ba gầy xác Họ hàng chú bác, Biến nên đàn bướm lạc tháng Ba Bay lại bay qua Gốc khuên vàng đàng ra Kẻ Chợ.

2. VƯỜN HOA NÚI CỐI. Đây là một tác phẩm rất nổi tiếng ở các vùng Hòa Bình và Sơn la… Tác phẩm được nhân dân yêu mến và còn được dùng để ca hát trong sinh hoạt dân gian, đặc biệt là hát mỡi của người Mường. Đoạn trích sau được trích từ câu 1804 - 1153. Đoạn trích kể lại việc anh Va, Khói trở lại thăm nàng Thờm, Tiên thì mới hay cha mẹ hai nàng đã nhận đạo Trần, đạo Trà làm rể trong nhà. Bốn người rủ nhau uống rượu hòa với lá ngón để được gần nhau mãi mãi.

Mặt ma trời hửng sáng rạng ra, Hai chàng trông xa nhìn lại, Thấy chùm trái chu đồng, Nhìn chùm bông hoa quế, Cây chu đồng đã bén trái. Nhìn vào cổng cái nhà nàng Thờm, Tiên, Thấy nàng còn đẹp duyên như khi mới nở Hai nàng từ trong nhà, trong cửa đi ra, Hai chàng anh Khói, anh Va, Cùng đưa chân bước tới. Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên lại chào: -“Hai anh vào chơi anh à, Anh từ đâu mà sớm lắm? Mong anh từ rằm tháng ba, Cho qua rằm tháng chín. Sao anh nhân đức lòng kín, Chín đạo lòng thành, Lòng thương nhiều thế hỡi anh! Tiếc công em ăn đợi ở chờ Từ những buổi năm qua” Anh Khói, anh Va lại rằng: -“Thương nhiều thương lắm em hỡi, Thương ơi thương lắm em à,

Chúng mình đôi ta quyết làm cửa Lời hứa đôi ta quyết làm nhà, Anh đã bỏ bà cho về Mường Tráng, Đã bỏ vợ cho về Hang Lòn. Vợ anh chẳng còn, Con anh chẳng có, Thân anh khốn khó sầu thương. Bố anh đương tuổi về già, Mẹ anh cũng đã yếu, Anh còn phải lo liệu trong nhà. Từ rằm tháng ba, Qua hết rằm tháng bốn, Lộn đến ngày tháng năm, Hàng trăm công nghìn việc. Tiếc sức anh sức không, Tiếc công anh công uổng, Tiếc đường anh đi lối anh lại. Lòng con trai lòng dại, Bụng con gái bụng ngoan, Tham dòng vua quan em đi chọn lấy Sao em lại ăn tệ ở bạc cho anh, Càh hoa thông đã sắp bén trái, Anh xin quay chân trở lại”. Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên, Nước mắt chảy hai bên gò má, Bước chân đi ngăn đường đòn sá; Không nói với anh Va một lời, Không cười với anh Khói một tiếng, Bước chân lại cạnh giếng ngồi: -“Em mời anh Va lại đây em nói, Mời anh Khói lại ngồi e thưa. Công em chờ từ năm xưa năm ngoái, Chờ cho tới năm nay, Đợi anh lòng chay dạ suông, Mặt trời xế xuống ngày nào cũng mong, Ngóng trông từ rằm tháng ba, Qua hết rằm tháng bốn, Đến hết cả tháng năm, Công thêu khăn không gửi cho ai đến. Chờ anh tận ngày tết,

Đợi hết cả năm mùi; Lòng em những ngậm ngùi, Như cây rau mùi héo ngọn, Chờ anh đã trọn một năm, Đến ngày rằm, mười lăm tháng sáu, Bố mẹ em bắt chấu vào nhà, Anh em đạo Trần, đạo Trà, Về nhà làm đứa rể thằng chồng, Làm công để nuôi bố mẹ. Em chẳng lấy đạo Trần, đạo Trà, Bố mẹ trong nhà Đem ra làm khuôn làm phép, Kẹp em bằng cùm cây tre, Đánh cho cặp kè hai bông hông, Nửa chết nửa sống ngang bằng, Em lấy đạo Trần, đạo Trà, Như con gà diều hâu đánh. Diều hâu đánh còn hay rơi, Thân em như giáo thiên lôi xuống đánh. Tránh sao nó cũng về nhà, Đến nay em không qua lời tiếng nói, Bố, mẹ chửi mắng, gièm pha!” Anh Khói, anh Va rằng: -“Đẹp lòng bố mẹ kén được người danh giá, Đẹp dạ chọn được người có công, Em có đứa rể thằng chồng, Cành hoa thông sắp bén trái, Anh xin quay chân trở lại, Trái chân quay trở về liền!” Cô nàng Thờm, nàng Tiên, Nước mắt rơi đầy hai bên gò má; -“Hai anh quá chân ở lại, Em dại còn anh khôn; Đã có tiếng đồn, Anh khôn lại vừa khéo; Em đang chết héo trong lòng, Chết vàng chết úa trong dạ. Anh đi chia cửa xẻ nhà, Cho em với đạo Trần, đạo Trà, Cho ai ra đàng phía ấy;

Hay anh chỉ đàng hướng lối, Cho em tới gốc ngón vàng Tìm đàng em tới gốc ngón đắng, Để em vắng tiếng vắng miệng một khi, Không hòa thêm chi kiếp con gái Xin em ở lại hôm nay, Để em chia tay đi về đất đống, Quay lưng đi về mường bên ma!” Anh Khói, anh Va lại rằng: -“Không bực chi đâu em hỡi, Em không phải quay lưng về nhà đồng. Không phải quay lưng về mường ma. Em không muốn lấy đạo Trần, đạo Trà, Em về trong cửa trong nhà, Xuống sân em chửi con gà, Trèo nhà em chửi con chó, Em nhăn nhó với con mèo Làm điều rơi cuốp rơi viếng Tiếng ăn lời nói, Em xui giục bố mẹ trong nhà Cái gì của đạo Trần, đạo Trà Của gì còn trong nhà vào mà lấy, Không khiến ai nuôi bố mẹ cho ta. Để đạo Trần, đạo Trà, Nghe bực lại xót xa, Ba đêm ba ngày nó quay trở lại” Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên, Nghe thật lời tiếng ấy, Dậy nhủ nhắn, dặn dò, Với hai chàng anh Khói, anh Va. Hai nàng đưa nhau trở lại, Trái chân trở về nhà; Xuống sân nói chửi con gà, Về nhà mắng mèo, đập chó, Gọi đạo Trần, đạo Trà là mày là tao, Rằng: -“Của chi trong nhà vào mà lấy, Chẳng khiến ai nuôi bố, mẹ cho ta” Đạo Trần, đạo Trà Nghe khốn khổ xót xa,

Dậy nói với bố, mẹ lang già: -“Công ăn việc làm con không lười biếng. Tiếng ăn lời nói của cô nàng Thờm, Tiên. Nghe phiền cho con lắm lắm, Nghe hại thân con cũng nhiều, Để buồng dâu, buồng rể buồng suông Con nằm buồng không chiếu lạnh, Chẳng tiếng chẳng miệng nói, cười. Con ở nhà ngoài, Đang ăn mải ở, Em từ ngoài cửa ngoài đồng, Đi về trong sân, trong nhà, Sắm sửa áo lượt quần là, Từ trong nhà bước chân ra; Xuống sân chửi con gà, Về nhà mắng con chó; Chửi con cả họ cả tên, Chửi con là thằng quen thân mất nết. Chửi hết lời chẳng thiếu thứ chi, Đi về con lo áy náy, Bố, mẹ xây cửa dựng nhà, Người già hai bên đều rõ, Em chê con lú thì đưa con lại, Chê con dại thì đưa con ra Con ở trong cửa trong nhà, Sao cho qua thời hết thế!” Bố, mẹ lại dồn rằng: -“Con không lo chi những điều tiếng ấy, Con ăn vậy ở vậy trong nhà, Khuya sớm vào ra, con cứ ở, Bố mẹ sẽ than thở đừng lo; Có nghe lời nào con cứ lặng, Không buông lời nặng tiếng làm chi” Bố, mẹ lang già, Đi sắm bữa cơm ăn rượu uống. Ăn cơm ngồi vóng. Thôi cơm lên ngồi vóng cái, Gọi hai con gái ngồi lại vóng đông Rằng: -“Thương nồng thương ơi con hỡi,

Thương lắm thương ơi con à, Mẹ con tuổi đã già Cha con năm nay đã cao, Trông vào con, lòng phiền lòng mỏi, Năm xưa con còn thơ dại, Năm nay nên nàng nên gái, con khôn. Thiên hạ đồn xa, con đã có tiếng, Con iỉng bố, iỉng mẹ, biết lời, Nên con giỏi con khôn hơn người; Con nghe lời chú, bác, họ hàng, Nên gái đẹp, bà nàng; Nghe lời đàng, Nên cơm hàng cháo chợ. Chớ nghe tiếng thim tiếng rớ, Đừng nghe đầu chợ cuối hàng, Như nàng Nga với chàng Hai Mối, Nghe tiếng bạn nên người bất nhân Hai anh đạo Trần, đạo Trà, Vào nhà làm rể làm chồng, Của nó đã nồng, công đã có; Con chớ mắng chó,đập mèo, Nghe theo lời mẹ mới yêu” Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên, Nước mắt rơi đầy hai bên gò má. Lấy vạt lá áo lụa vàng, Lau ngang nước mắt chảy, Vắt tay vòng vòng thành nếp. Xếp tay vào ngực vào lòng: -“Thương nhiều thương ơi bố hỡi, Thương lắm thương ơi mẹ à, Con còn chàng anh Va, anh Khói; Tiếng nói hứa hẹn cùng nhau, Từ đầu rằm tháng ba, Qua năm mùi đến nay, Con những lòng chay dạ suông, Con quyết đường tình đường nghĩa nơi xa. Cửa nhà bố mẹ nó chẳng giàu, Cũng không lo câu đói khó; Họ mạc thì sang, Có người ngồi ngang trên chiếu.

Chẳng thiếu thốn chi lụa, phà, Mà phải dệt phà nóc vải; Dựng lụa nóc lụa mới phải, Dựng vải nóc vải mới bền; Nóc phà dệt lên khung vải lót. Điều lành tiếng tốt bố mẹ dặn dò, Không đời nào cho quên, Thiếu chi nơi làm mền chăn kép, Nơi giàu sao bố không ép, Người khôn người đẹp mẹ chẳng cho, Gò con lấy người chết xác, Bắt con lấy thằng đạo Trần, đạo Trà, Người già người non ai cũng ghét; Hay nói phét có tài, Dài mồm, cong môi nói chõ, Đan giỏ không hay Đâm xay không biết, Trộm vặt có tài, Hoài thân con lắm lắm, Ngẫm đi nghĩ lại mà thương. Chồng chẳng chồng thì chớ. Chẳng chồng chẳng vợ thì thôi, Chẳng kiếp đời nào, Làm công toi thằng cơm thừa muối ế”… Nàng Thờm, Tiên lại gò bên dưới, Thấy những dây ngón vàng, Nó leo ngang thành rặng; Gò bên trên thấy dây ngón đắng, Văng vẳng tiếng Thường, tiếng Rang, Nàng đến gần khẽ gọi, Đi đến cội gọi rằng: -“Thương nhiều thương ơi ngón hỡi, Ta còn chờ đợi ngón dây, Ngón còn đi chơi mường sống, Ngón còn đi nhởi mường bưa; Buổi mưa ngón đi chơi trên rặng, Trời nắng ngón đi chơi dưới gốc; Ta kêu, ngón ở đâu thì lại. Gọi chàng ngón đắng chàng leo sang, Gọi anh ngón vàng anh leo lại;

Lại để ra hoa nở trái, Lại mà ra hoa mọc cành, Lấy cho anh Khói, anh Va, Đều về làm cửa làm nhà bên ma, Cho đôi chúng ta vắng vẻ”. Cành ngón đắng khẽ khẽ ngả sang, Cành ngón vàng nghiêng nghiêng ngả lại….

3. NÀNG ỜM - BỒNG HƯƠNG.

Truyện thơ Nàng Ờm - chàng Bồng Hương, một thiên tình ca bi thảm, một sáng tác đặc sắc của đồng bào Mường. Nhận xét của GS. Hoàng Như Mai thì truyện thơ này là: “Một công trình nghệ thuật tuyệt mỹ, để nói lên một lời cầu xin cho con người được giải phóng, để không ai phải chết vì mối tình tuyệt vọng…”[79, tr.267] Đoạn trích trích những đoạn kể về tình cảm thắm thiết của đôi trai gái. Cha mẹ Ờm ngăn cản, không cho họ yêu nhau. Cha mẹ giữ Ờm trong nhà đánh đập, cô thoát ra được. Chàng Bồng Hương ở ngoài đem nàng lên núi trốn, họ cùng nhau ăn lá ngón để được mãi mãi ở bên nhau.

-“Ăn cơm nghe nhớ em, anh kêu đến vía, Uống nước nghe nhớ em, anh kêu đến tên; Anh đã mến đã thương, đã yêu cùng nhớ, Anh trộm phép mẹ đùm cơm vào lá Anh trộm phép mẹ đùm lá vào bao, Anh vượt mấy dốc cao, Anh lội bao suối thẳm, Ăn cùng anh cho đỡ thương đỡ nhớ!” Về mùa mơ, anh hái mơ bỏ bao, Về mùa đào, anh hái đào bỏ túi Anh nhường phần em, Anh chăm em như con nhà ngài chăm hoa trước vóng, Anh quý em như con nhà ngài quý hoa trước sàn Qua bốn mùa hoa mơ, Trải bốn mùa hoa mận, Còn phòng cho đến đôi mươi, Mái tóc đã xanh, Em đã nên người, May áo khách dài, Nói lời con gái.

Đã rộng đường bên trai bên gái: Em đi chơi trai cùng anh trên nương hôm sớm. Cây cau nhà anh đã lớn, Lá trầu nhà em đã xanh. Lòng muốn cùng anh nên nhà nên cửa Nhưng miệng chưa dám mở. Mà lời chẳng tiện thưa Sợ ròi lời nói gió đưa, Như cây đu đến muag rụng lá. Không nên cơm nên cá Chẳng thành rẫy thành nương, Nhưng anh Bồng Hương, Đã nói lời thương: -“Anh không phải giọt sương trên mặt lá, Anh không phải con cá dưới khe Ngón. Anh cùng em quyết chung một đường Em cùng anh sẽ đi một lối Ăn cơm chung một gian Uống nước chung một máng Xỉa răng chung một ống Chết hay sống cũng trọn một đời. Nhưng nước suối khi đầy khi vơi, Lòng mẹ cha có như lòng ta muốn. Nên mẹ nhà em chẳng gả, Nên bố nhà em chẳng cho Nên đành lòng đi đêm về tối Bắt đom đóm làm đèn, Lấy áo em thay làm nón; Em vượt suối sâu, qua lùm lá ngón Đi chơi cùng chàng Bồng Hương. Nhưng bố mẹ chẳng thương, Chửi em hết điều, Mắng em hết lời. Em đã thương anh rồi, Khi xa nhau nghe nhớ, Lúc vắng nhau nghe thương, Em đi trâu, ngồi gốc cây nhỏ, Em đi bò, ngồi gốc cây nhuối. Em cùng chàng Bồng Hương Hái chung một con vườn

Dâu non lắm lộc, Nắm to là tay em hái Nắm nhỏ của chàng Bồng Hương… Các cố các mẹ ơi! Tình thương nghĩa nhớ Như hoa vừa nở, Như lửa mới nhen, Hơi nhau đã quen, Tiếng nhau đã biết; Như thề chẳng nên thề, nói không nên nói, Xa nhau thì đợi, vắng nhau thì thương; Đi đêm anh chẳng sợ sương Qua chín con mương, Lội mười con suối; Tình anh ngày càng đắm đuối, Lấy tay anh bấu em nên dấu, Lấy răng anh cắn má em thành vết;… Mỗi năm có mười hai tháng, Mỗi tháng ba mươi ngày đêm, Đêm nào anh cũng đến nhà em, Ăn chực nằm chờ, Những hôm cơm chưa ăn vào dạ Cá chưa ăn vào lòng, Em ngồi ăn cơm nhà trong Nuốt không trôi qua cổ. Không ăn thì em sợ, Ăn vào miệng nghe chẳng ngon, Nên miếng ăn miếng bỏ, Lật dìn, đưa xuống cho chàng Bồng Hương: -“Anh ăn cơm vào dạ, Anh ăn cá vào lòng, Cơm này cơm nhớ cơm mong, Ăn đi mà yên lòng chờ đợi!”… Chàng Bồng Hương từ lâu đứng đợi, Anh bế em vào nách, Anh ôm em ngang lưng, Đem em vào rừng âm u vắng vẻ. Anh bước, bước đi nhà nhẹ, Bàn tay anh khẽ nâng niu. Máu em rải ra đường dọc một chiều…

Anh thương em nhiều, Anh thương em lắm, Lấy khăn tay thấm máu đào: -“Anh biết vì sao mà em phải khổ, Vì anh đi trâu cùng em bên ngõ, Vì anh đi bò cùng em trên nương, Cho bố mẹ chẳng thương Nên em phải chịu đường roi vọt roi thon, Em phải chịu điều giận tiếng hờn của cha của mẹ; Biết làm sao cho ta nên cửa, Biết làm sao cho ta nên nhà, em Ờm à? -“Anh ơi! Kiếp ta kiếp khổ, Số ta số khó, Trời gió, ta cũng phải qua, Sông sâu ta cũng cứ lội, Dốc núi cao ta cũng cứ lên. Anh ơi! Chớ lau máu em, Càng lau lại càng đau buốt. Thương em, anh giữ trong ruột, Yêu em, anh giữ trong lòng, Khăn kia ném vào rừng xanh”. Khăn trắng của anh đã loang lổ máu, Khăn nhớ khăn thương các mẹ không thấu, Khăn nghĩa khăn tình các mẹ không hay, Tấm khăn dính máu này Biến thành dây bông trắng trên núi. Trời mưa nó nở hoa trắng, Trời nắng nó nở hoa vàng… Các cố, các mẹ ơi! Em giẫm chân xuống đất kêu trời kêu ma; Tiếng em vọng xa vào trong hang đá. Ngón ơi! Em kêu tên lá, Ngón ơi! Trên núi Làn Ai, Cành nào đẹp ngả về phía sáng, Cành nào già đưa về phía mặt trời! Này ngón ơi! Em giơ tay hái lấy, Tay phải hái chín lá đẹp. Tay trái hái bảy lá xinh, Giữa buổi ban chiều, nắng đẹp trời xanh.

Chín lá ngón thanh thanh. Bảy lá ngón thăng thẳng: -“Đôi trai gái muốn chơi nên cửa, Bố nhà chị không cho nên cửa. Đôi trai gái muốn chơi nên nhà, Mẹ nhà chị không cho nên nhà. Không cho ta được vào ra Để mở đường đi lối lại, ngón à! Giữa đêm, bố chị còn chửi nhiều nhiều Sáng ra, mẹ chị còn mắng lắm lắm; Còn phòng roi thẳng roi thon Không rời đằng sau áo. Chị chẳng biết làm sao Nên đôi yêu, đôi mến, đôi vợ, đôi chồng, Quyết đi ăn ngón cho xong một đời. Vợ chồng nhà chị Chết đen như mực, Chết đỏ như vang, Chết vàng như nghệ, Giữ trọn lời thề cùng về bên ma, ngón ạ!...

4. NÀNG NGA - HAI MỐI Cao Sơn Hải rất ưu ái truyện thơ này, nên lời nhận xét của ông tràn đầy tình cảm đối với tác phẩm: “Bản tình ca Nàng Nga - đạo Hai Mối là một viên ngọc lấp lánh nhất trong kho tàng văn học dân gian Mường và nó xứng đáng là một bông hoa đẹp trong vườn hoa văn học dân gian trăm sắc ngàn hương của các dân tộc Việt Nam” [19, tr.50] Đoạn trích được trích từ câu (211 - 432) và (1290 - 1465). Đoạn trích kể từ khi nàng Nga đem cành hoa ra chợ gặp Hai Mối. Hai người ý hợp tâm đầu. Nàng Nga mời chàng đến nhà để cha mẹ nàng biết mặt. Và đoạn kể về cảnh Hai Mối lặn lội tìm đến đất Thượng Lào gặp cho được nàng Nga. Hai người hẹn gặp lại nhau chốn nương rẫy quê nhà.

Chàng Hai Mối hỏi thăm bà mế đi cặp nàng Nga Rằng: “Thương thiệt thương thà, bà hỡi. Bông này, bà bán mấy quà? Hoa này bà bán mấy nén? Bông hoa dục búp hoa ly dén Bà bán mấy nghìn trăm quan? Để cháu là khách xa đà

Được đem tiền đi ra xin chác Đem bạc đi ra xin mua, Cháu muốn xin mua Cả gốc lẫn cành Cặp liễu cây hoa chẳng rời chủ bán; Có được hay chăng, hỡi bà?” Bà mế già lắng lời, lại đợi Rồi mới cất tiếng giục nhủ nàng Nga, - Thương thiết, thương thà, Nga hỡi, Có miệng ở nhà Sao không có miệng đi ra đến ngõ! Dẻo tay bơi dưới nước Sao chẳng hay lìa cỏ giác trên nương, Ở nhà thấy mày khôn lạ khôn lùng, Ra đến đồng còn khôn một ít, Ra đến chợ Sâm chợ Sét Sao đổi nét ngơ ngơ ngẩn ngẩn thế này, hỡi Nga!” Khi ấy, Nàng Nga mới lựa được ý Mới nghĩ được lời, thưa lại: -“Thương mơi, anh chàng à, Xin mời anh vào quán ngồi hàng Ăn trầu ăn nang ở nhởi. Ăn miếng cau cùng em chẳng phải mất nén bạc, Uống bát nước, chẳng mất quan tiền chi đâu mà ngại Lo gì xa ngái Cành bông tốt hoa lành Anh ước mua nên, rồi em cũng bán”. Được lời ấy, Anh em Hai Mối đã bước vào hàng Ăn trầu ăn nang Mở đàng câu chuyện, Hai Mối nói rằng: -“Thương mơi, em nàng hỡi Thương mơi, em nàng à, Em bán thật cho anh mua thà Bông này em bán mấy qua. Hoa này em bán mấy nén, Bông ly dục búp hoa ly dén Em bán mấy nghìn trăm quan?

Cho anh xin mua Cả gốc lẫn cành Cả cành cây hoa không rời chủ bán. Chúa bán, anh mang về nhà Chăm sóc lấy bố mẹ già Còn cành hoa Anh đem lên chùa dâng hương lạy bụt”. Nàng đáp lại rằng: -“Bông này em bán chín quà, Hao này em bán chín nén, Bông ly dục, búp ly dén, một nghìn trăm quan Anh có tiền, lấy tiền đi ra mà chác, Đủ bạc, lấy bạc ra mua, Anh mua được bông hoa tốt hoa lành, Mua cành cây hoa, Nhưng anh chẳng mua được đâu cả người chúa bán! Bởi vì, Cơm em ăn, một ngày kén chín thứ gộ, Xống áo em mặc một ngày chín thợ hàng may Vòng đeo tay, một ngày chín thợ hàng bạc Chiếc khăn em thắt chắc hết chín trâu mười bò, Ai giàu của giàu tiền đếm không xuể, kể không xong Mới mong mua được!” Rồi nàng lại nói: -“Biết nơi nào, Có chín chục trâu, cặp trăm dây dợ, Đủ chín chục ngựa, cặp trăm dây cương Giàu bạc giàu vàng, Giàu khôn ngoan Để em mang về trông nhà coi cửa! Bởi họ hàng nhà em Còn đòi phải đủ những lệ cùng quà; Chín chục con lợn vậm ngà, Chín mươi con gà cong cựa cùng đuôi Mới cho chác được người Con gái nhà em khó nết!” Hai chàng đáp rằng: -“Chị em nàng nói thật thế chăng? Hay là người khôn thử dạ Người lạ thử tiếng thử lời?”

Rồi Hai Mối lại nói: -“Thương mơi, em nàng hỡi, Em nói đi rỉ rả Cho anh đáp lại rí rời Chẳng vừa tình, vừa đôi, rồi anh xin trả lại. Rằng: Bố nhà anh khó nhiều. Mẹ nhà anh khó lắm. Bố mẹ nhà anh Chỉ có một đất Tre Trắng Một rặng Tre Trò Mường Văn Nho, Phủ Lý, Ban sớm, chín chục trâu đen đi cày dọc, Ban chiều, chín chục trâu trắng bạc đi ra cày ngang, Trăm con bò vàng bừa trang đất mạ Cơm nhà anh ăn, một ngày hết chín thúng gạo, Áo anh mặc, một ngày chín mớ lụa vàng, Bố nhà anh ngồi trên chiếu vàng, Ở bên trên bảo ban lời xuống” Nàng Nga nghe vậy, Đáp rằng: -“Thương mơi, anh chàng hỡi, Thương mơi anh chàng à Chẳng thiếu chi nơi, đất no cơm giàu cá. Để anh lặn lội đến đây, đất khó mường xa. Mà kén chọn mua bông bán hoa, vất vả. Lời anh nói ra, thử bụng con cá, Lời anh siếc ra, thử dạ con người, Lo rằng, Anh chỉ cốt thử tiếng thử lời, Xem ý tứ lấy vui mà thôi, anh hỡi. Anh rắp mua bông Rồi em cũng bán bông, Có lòng mua hoa, em cũng bán hoa. Chỉ sợ điều, những bông cùng hoa ở đất này xấu lắm. Xấu bông lại xấu cả chà, Xấu hoa, xấu cả người cầm gốc. Xấu mắm xấu cả (bình) độc, Xấu mộc xấu cả gáo cầm Đáng chi cho anh phải siếc phải ham Cái con người ngơ ngơ ngác ngác

Đáng chi cho anh phải chác Cái con người đã đen ngẳm đen ngăm lại còn khó nết, hỡi anh?” Hai Mối nói rằng: -“Thương mơi em ơi, Em bảo xấu, anh chẳng chê xấu. Một chút em xấu hơn trăm kẻ bậu có duyên. Con nhà người dù cậy đẹp như tiên, Nhưng vô ý vô tình vô duyên cũng chẳng đáng cho người ao ước Anh chẳng tham, chỉ vì làn da em trắng ngọc Anh cũng chẳng chê vóc con nhà người đen ngăm. Chỉ ước cùng em nên nghĩa trăm năm Để anh quyết đi thăm cho đến cửa nhà Dù phải khó nghèo Trời nắng vào trú bóng đa, Trời mưa sa,vào trú hang đá. Hay đáng cun sang mường cả Chín tấm lụa đỏ trải dọc làm chăn, Chín tấm lụa vàng trải ngang làm chiếu, Anh cũng chẳng thay dạ đổi lòng, Chỉ sợ lòng em như mó nước đầu mường Có đoái một chút đến anh chăng, em hỡi!” Nàng Nga khi ấy, Lòng suy đã kỹ, Nghe ý đã tin, liền đáp: -“Thương mơi, anh à, Đôi chúng ta gặp được nhau đây Như buồng cau hoa duyên may gặp khách, Như xống áo rách gặp thợ hàng may, Gặp anh hôm nay, Như trời mưa bay, em gặp thợ làm nón, Muốn nói cùng anh, Sợ lời em còn chưa biết chọn, Muốn phô chuyện sợ chưa biết lối biết đàng, Anh đã đến đây, chơi chợ thăm hàng, Rắp lòng ăn, xin anh đi cho tới cửa, Rắp lòng dạm, xin anh đi cho tới nhà, Trước thăm đức cố, bố mẹ già Sau nữa một chuyện lợi cả hai ba,

Cho hai ta tiện lời trao tiếng hẹn cùng nhau, anh hỡi”. Hai Mối nói: -“Em ơi, Anh cũng muốn đi cho tới cửa cùng nhà Trước thăm đức cố, bố mẹ già Sau thưa chuyện đôi ta Chuyện lân la Làm đường đi sá lại Nhưng anh còn ngại Bới chưa có lời mối tiếng mơ, Sợ bố trên nhà lại bảo anh là đứa dưới chợ buôn nứa. Sợ mẹ trong cửa bảo anh là đứa dưới chợ buôn luồng. Và anh quen đất quen đàng Mà chưa thuộc đàng mường, Chưa biết tên lúng tên làng nhà em để hỏi” Nàng đáp rằng: -“Thương mơi, anh hỡi, Anh chưa hay rồi em xin gửi, Anh chưa tỏ rồi em xin rằng Đây là chợ Cẩm Thủy – Quan Hoàng Sông Ngang bến Đuộng Đến quê em thẳng xuống Là đất Đủ Ó Mường Dà Xin mời anh bước tới thăm nhà, Đường chẳng quản xa, đường đã đi gần một nửa. Bố trong nhà Chẳng bảo anh là kẻ buôn trâu bán bò dưới chợ. Mẹ trong cửa Chẳng bảo anh là kẻ buôn nứa bán luồng. Đừng nói chi điều thắt mở khốn thương, Mà hại cho út, cho em, anh ạ!” Hai Mối trong lòng còn chút chưa yên, Lại nói: -“Anh đến hôm nay, Còn phải đến suông, hai bàn tay trắng, Gắng đợi anh về đến cửa cùng nhà Sắm cặp bánh dày, Sắm giằng bánh dày, Ngày hai ba, rồi anh sẽ đến”. Nàng Nga đỡ tiếng lại thưa:

-“Thương mơi, anh ơi, Anh đã có lòng thăm cửa thăm nhà Chẳng ngại chi điều ấy, Có phải chuyện nhờ cậy ông mối bà mơ. Bảo phải sắm sanh bánh trái. Vả lại em út trong nhà đã vậy, Em gái trong nhà đã khôn, Tuổi thẳng bữa no cơm, Chẳng còn tuổi đòi quà thơm bánh thảo”. Nghe nàng nói, lời sao khéo miệng, Tiếng sao đẹp lòng, Hai Mối cùng với Trí Hoa Đã theo chị em nàng Nga Thong dong đến thăm nhà thăm cửa… Nàng Nga nghe có người ở đất quê nhà Vội truyền quân hầu: -“Để đó cho bà, bay không được hỗn”. Khi ấy Hai Mối mới khẽ nhắc rằng: -“Thương mơi, bà nàng hỡi, Thương mơi, em nàng à! Em đã quên thật quên thà Chín nén bạc ai trao ở ngọn sông Ngang, Chín nén vàng ai nhận ở nơi bến Đuộng. Bây giờ thân anh Vóc lơi mình luống Chẳng còn nhận ra dáng hình chi nữa, hỡi Nga?” Nàng Nga sửng sửng sốt sốt: -“Trời hỡi là trời! Ma hỡi là vía! Chết giẫm cho con Nga Người chưa già sao đã tối mắt! Ai hay lở núi cạn sông, Lở đồng cạn hói. Ai biết người thương của em lặn lội đến đây, hỡi trời!” Rồi nàng lại kêu: -“Thương quá anh ơi, Quần lành sao anh chẳng mặc, Áo lành sao anh chẳng mang Để em tưởng lầm là kẻ chặt giang chém nứa!” Và nàng hỏi đến việc cửa việc nhà,

Hỏi thăm đôi bên đức cố bố mẹ già. Chàng Trí Hoa cùng nàng Út Thái Có ăn lành ở lợi chăng anh? Hai Mối đương giận đáp rằng: -“Chúng nó không lành, sao ở trong cửa. Chẳng phát dở, bảo phải lìa nhà!” Nàng Nga liền năn nỉ thiết tha: -“Thương mơi, anh ơi, Anh ăn trầu nhả bã Vuốt dạ làm lành Mà thương cho em Xin anh đừng giữ giận”. Hai Mối lại nói: -“Vì ai, Anh đành bỏ cha ngồi sập bạc, Bỏ mẹ ngồi trên chiếu vàng Bỏ hết chú bác họ hàng, bỏ binh gia lính tráng? Mất công bố gói chín đùm cơm cho đi ăn sá. Mẹ gói chín đùm cá cho đi ăn đường Đâu phải đến đây để nghe lời dỗ! Bởi ai, Được cơm bỏ muối. Được đọi bỏ mâm. Chưa mấy tháng mấy năm đã quên lời giao tiếng hẹn “Một hai, nên cửa nên nhà” Để giờ đây, Cà đơm bông mà không bén trái. Mất công anh Mở trại khang trang San ruộng vỡ nà Buồng cau tình cau hoa lỡ làng héo trái. Có phải tại em chăng, hỡi Nga?” Nàng Nga trong lòng cay đắng xót xa Than than thở thở: -“Thương quá, anh ơi. Thảm quá, anh à, Đánh trâu, trâu chạy vào bái, Đánh con, con chạy vào lòng. Dù chín nghìn lần trăng mọc. Chục nghìn lần trăng tròn

Em vẫn chẳng khuây lời giao tiếng hẹn Cùng anh nên cửa nên nhà Như bông liền hoa Như cây liền cội. Ai ngờ, Bố nhà em đã vội Tham cái tiếng cun sang lang cả đường xa, Em nói ra lời tra roi đập. Mẹ em tham vàng tham bạc, Họ hàng chú bác tham uống tham ăn. Em chỉ còn trông còn đợi anh ssang Nhưng, chỉ một thân một chiếc. Đầu hôm, ngó sao đầu áng. Sáng ra, ngó sao đầu mường. Thư gửi giấy trắng. Tin nhắn đi từ mùa năm ngoái, Tin nhắn lại từ mùa năm xưa Ăn chực ngồi chờ Đã đau lưng mỏi gối Hết ngày lại tối Sao chẳng thấy anh sang Mà chặt cây sậy giữa đàng, Chặt cây xang giữa lối, Cho em khỏi nên rồ nên dại, Cho em được trở lại cùng anh, hỡi anh?” Bấy giờ, chàng Hai Mối nghe dạ đã đành Nghe tình đã hối Mới hỏi nàng Nga: -“Thương mơi, em hỡi, Quả em còn thương tới anh chăng?” Rồi hai người trò chuyện Những tính cùng toan Làm sao trọn đời lại chung ăn chung ở Chung cửa chung nhà. Hai Mối bàn rằng: -“Bấy giờ em trở về nhà Ao Ước, Anh lập chước theo sau. Nói với quân lính trai hầu Rằng anh là người quê cậu Mường Vống, Người đất mộng Mường Khương.

Để vào ra thông ngõ tỏ đường, Anh liệu cầm gươm chém nó”. Nàng rằng: -“Nhà nó chín lần cổng Mười hai lượt rầo. Đồn trong điếm ngoài, Anh khai đao sao được?” Hai Mối bàn trước, bàn đã hết đàng. Nàng Nga tính sau, tính đã hết lẽ Rối như canh hẹ Chưa bề nào yên, Nàng Nga mới khuyên: -“Anh ơi, ta hãy tạm dẹp lòng phiền Để em đi mua cơm mua cá Ta ăn chợ ngồi hàng, Rồi ta tính toán sau, anh hỡi’ Hai Mối lại bảo: -“Em mua cơm anh cũng không nhá, Em mua cá anh cũng không ăn, Hãy mua cho anh cái tấm lụa vàng Để ngày mai trở về, anh thắt cổ!” Nàng can rằng: -“Thương mơi, anh ơi Anh đừng ăn lá ngón làm chi hại vóc Đừng thắt cổ làm chi hại mình” Nhưng Hai Mối khăng khăng: -“Thà anh đi biến một mình Để em ăn lành ở lại Làm bà làm mái. Một kiếp giàu sang. Rồi trời mưa, có nhớ đến anh chăng, em nhìn lên gốc mây trắng Trời nắng, có nhớ đến anh chăng, nhìn dặng mây vàng. Đêm trăng tròn trăng trong, nhớ đến anh chăng, Em nhìn lên nhành mây sương mây gió”. Nàng Nga nức nở: -“Em chẳng cho anh đi biến một mình Em chẳng để anh đi riêng một kiếp. Ta sống trên đời Yêu thật yêu thiết

Lại lắm kẻ dèm pha. Cùng về bên ma Làm cửa làm nhà Chẳng còn lo chi ai rình mà hại, Bây giờ anh quay chân về lại, Trái chân lại nhà Đợi em nơi rừng dâu gốc quê cha. Lối dâu cội dâu già hãy còn tốt lộc, Rừng dâu gốc tốt cành, Anh để dấu chung quanh Cho em về sau để tìm, dễ nhận” Chàng Hai Mối lại dặn: -“Bây giờ em trở về nhà Ao Ước Buổi sớm, em làm như trâu lộn ách, Buổi chiều, em ở như chạch lộn bờ; Ăn ở hững hờ Cho con người ta chẳng thiết Ta hẹn với nhau Lời ăn đã hết, Tiếng chết đã giao. Anh quay về trước Em bước về sau Đò mong bến làm sao, bến mong đò làm vậy” Nàng Nga lúc ấy Liền mua hai tấm lụa đỏ lụa đào Trao cho chàng Hai Mối Nàng lại xin gửi Chín nén bạc, anh ăn đàng, Chín nén vàng, anh ăn sá -“Ở đây quê lạ Thiên hạ đất người Trở về đường xa xôi, Nơi quê cha ta lại gặp nhau, anh hỡi!

BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH Nguyeãn Thò Thuøy Trang

PHUÏ LUÏC

ÑAËC ÑIEÅM TRUYEÄN THÔ TRÖÕ TÌNH MÖÔØNG

Chuyeân ngaønh: Vaên hoïc Vieät Nam Maõ soá: 60 22 34

LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ VAÊN HOÏC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: TS. NGUYEÃN THÒ NGOÏC ÑIEÄP Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008