MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 01
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 02
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 09 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................ 10 5. Bố cục luận văn : ........................................................................................................ 10
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 01
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 11
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
1.1.Nho giáo và tƣ tƣởng Xả thân thủ nghĩa ................................................................... 12
1.2. Phật giáo và cái nhìn liễu sinh tử. ............................................................................ 20
1.3. Đạo giáo và quan niệm tề sinh tử............................................................................. 25
VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG.. ............................................. 11
Tiểu kết ............................................................................................................ 31
CHƢƠNG 2: KHÁI LƢỢC VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
2.1. Thơ Thiền sƣ: Thái độ ung dung điềm tĩnh trƣớc cái chết ...................................... 34
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC THẾ KỶ XVIII .......................... 33
2.1.1. Thấm nhuần quan niệm thân xác là huyễn ảo,
cái chết là lẽ thƣờng .................................................................. 35
2.2.2. Cái nhìn vô úy trƣớc cái chết ..................................................... 38
2.2.1. Trung thần tiết nghĩa vì nƣớc quên thân ....................................................... 44
2.2. Thơ văn nhà nho: sẵn sàng chết để bảo toàn nghĩa lớn. ...................... 44
2.2.2. Ngợi ca những tấm gƣơng liệt nữ .............................................. 52
Tiểu kết ............................................................................................................ 55
CHƯƠNG 3: SỰ PHÂN HÓA QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - ĐẦU XIX ................ 56
3.2. Cái nhìn chủ tình về vấn đề cái chết. ...................................................................... 65
3.1. Tiếp tục cái nhìn duy lý về vấn đề cái chết. ......................................... 56
3.2.1. Tiếng khóc tình riêng ly biệt ...................................................... 66
3.2.2. Tiếng khóc đồng cảm thƣơng thân bạc mệnh ............................. 80
3.3. Cái nhìn trân trọng và bảo vệ quyền sống của thân xác ...................... 87
Tiểu kết ............................................................................................................ 97
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 101
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX là thời kỳ văn học đạt tới đỉnh
cao với những thành tựu rực rỡ nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam.
Những nghiên cứu về văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX cho tới nay
đã có thể khẳng định đƣợc một cách xác đáng và toàn diện vị trí của văn học
giai đoạn này với những giá trị to lớn của nó trong tiến trình lịch sử văn học
dân tộc. Điểm đặc sắc nhất của văn học giai đoạn này chính là sự khẳng định
cuộc sống trần thế và đề cao tình cảm của con ngƣời với tƣ cách là một cá
nhân đầy cảm xúc trong đời sống ấy. Thay thế cho mẫu hình lý tƣởng là thánh
nhân – quân tử chủ trƣơng khắc chế tình cảm, đề cao lý trí trong văn học
những thế kỷ trƣớc; những con ngƣời trần thế tài hoa, đầy cảm xúc, những
thân phận nhỏ bé trong xã hội bƣớc vào văn chƣơng thế kỷ XVIII – XIX với
những rung động tinh tế và tình cảm chân thực, sống động chƣa từng có trƣớc
đó.
Nhìn lại lịch sử văn học trung đại Việt Nam suốt một thời gian dài,
chúng tôi nhận thấy văn học giai đoạn XVIII – đầu XIX viết nhiều về vấn đề
cái chết. Cùng với đó, là sự thay đổi quan trọng trong thái độ ứng xử đối với
vấn đề cái chết thể hiện rõ nét trong các sáng tác văn học thời kỳ này. Nhìn
một cách tổng thể, sự thay đổi thái độ trƣớc cái chết phản ánh sự thay đổi
trong tƣ tƣởng và quan niệm của các tác giả - nằm trong mạch nguồn nhân
bản của văn học thế kỷ XVIII – XIX. Thái độ đối với vấn đề cái chết thể hiện
trong văn học thời kì này xuất hiện những cung bậc tình cảm hết sức đa dạng
1
và sâu sắc, nhƣ một sự khẳng định mạnh mẽ và đề cao quyền sống, quyền
đƣợc hạnh phúc của con ngƣời trong chính cuộc sống thực tại. Đó là điều mà
suốt từ thế kỷ X – XVII không hề có trong văn học, khi mà cái chết đƣợc nói
tới nhƣ một sự bảo toàn đạo lý theo chuẩn mực đạo đức đã đƣợc quy định,
đƣợc mô hình hóa.
Sự thay đổi quan niệm về vấn đề cái chết trong văn học thế kỷ XVIII –
đầu XIX có thể nói, là một vấn đề văn học sử quan trọng trong tiến trình văn
học Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chƣa có công trình nào đi sâu vào
tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề cái chết trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII
– đầu thế kỷ XIX một cách toàn diện.
Với những cách tiếp cận đa dạng, nhiều chiều, bức tranh văn học thế kỷ
XVIII – XIX đã đƣợc soi sáng dƣới rất nhiều góc độ khác nhau. Song với mỗi
góc nhìn mới, cách tiếp cận mới bức tranh văn học ấy lại hứa hẹn thêm những
gam màu mới còn ẩn dấu, những giá trị mới đƣợc khám phá.
Lựa chọn đề tài “Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX với vấn đề
cái chết”, chúng tôi mong muốn với một cách tiếp cận mới, góc nhìn mới sẽ
góp phần làm phong phú hơn những nhận định, tìm hiểu về văn học giai đoạn
này, cũng nhƣ góp phần hiểu thêm, hiểu sâu hơn những giá trị của một thời kỳ
văn học đỉnh cao của nƣớc nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Qua quá trình khảo sát và tìm hiểu của chúng tôi, Vấn đề cái chết trong
văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX hiện chƣa đƣợc coi là vấn đề trung
tâm của bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tuy nhiên, các công trình khảo cứu
về văn học giai đoạn này đều ít nhiều có đề cập tới thái độ, cảm xúc của con
ngƣời trƣớc cái chết nhƣ là một trong những biểu hiện của tình cảm cá nhân
2
con ngƣời. Do vậy có tính định hƣớng, có giá trị tham khảo cho đề tài của
chúng tôi.
2.1. Hầu hết các giáo trình, các công trình nghiên cứu mang tính khái
quát, tổng hợp về văn học Việt Nam trong thời kỳ trung đại giai đoạn từ thế
kỷ XVIII đến đầu XIX đều đi sâu vào trào lƣu nhân đạo chủ nghĩa trong văn
học nhƣ một bƣớc ngoặt lớn của văn học dân tộc. Từ những thành tựu nghiên
cứu về cảm hứng chủ đạo của văn học trong trào lƣu này, chúng tôi có thể tìm
thấy đƣợc nhiều lý giải và gợi ý quan trọng cho việc tiến hành nghiên cứu đề
tài của mình.
Dƣơng Quảng Hàm viết Việt Nam văn học sử yếu xuất bản năm 1943,
đây là công trình rất có giá trị, đã “bao quát quá trình văn học dân tộc từ khởi
nguyên đến đƣơng thời, thu góp đƣợc hầu hết những kết quả sƣu tầm, nghiên
cứu của giới học giả tính đến thời điểm ấy, từ đó phác thảo một lịch trình diễn
biến của văn học dân tộc”. Trong công trình này, Dƣơng Quảng Hàm đã dành
ra hai thiên nhận định khái quát, tổng hợp và tuyển chọn những tác giả, tác
phẩm tiêu biểu cho văn học thế kỷ XVIII và XIX. Những tác phẩm gắn với
những tác giả tiêu biểu đƣợc ông tóm tắt lại, kèm với những nhận định ngắn
gọn nhƣng rất cụ thể, rất có ích cho việc định hƣớng tham khảo tƣ liệu.
Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu XIX, Nxb ĐH&THCN: công trình đánh giá vị trí và thành tựu của văn
học Việt Nam giai đoạn nửa cuối XVIII – nửa đầu XIX. Trong đó, Nguyễn
Lộc đặc biệt đi sâu vào phân tích bình diện thứ hai của trào lƣu nhân đạo chủ
nghĩa là “Đề cao con ngƣời, cuộc sống trần tục” với vấn đề trung tâm: “Đấu
tranh đƣợc tự do yêu đƣơng” trong giai đoạn văn học này. Trong muôn vẻ
biểu hiện của tình yêu, nỗi buồn thƣơng trƣớc sự chia ly sống chết với ngƣời
vợ, ngƣời yêu mà các tác giả bộc lộ trong tác phẩm của mình đƣợc nhà nghiên
3
cứu nhìn nhận nhƣ là cung bậc cảm xúc cá nhân, chứ chƣa đƣợc đánh giá nhƣ
là một vấn đề mang tính bản thể luận quan trọng của con ngƣời. Dù vậy, tác
giả cũng đã khẳng định tầm giá trị và thời đại của những tác phẩm viết về cái
chết mà chúng tôi đang tìm hiểu, chẳng hạn nhƣ: “Phạm Nguyễn Du viết
Đoạn trường lục, Ngô Thì Sĩ viết Khuê ai lục là hai tập thơ khóc vợ, mà các
nhà nghiên cứu cho là không khác mấy Giọt lệ thu và Linh Phượng ký, cũng
là hai tác phẩm khóc chồng, khóc vợ của những tác giả ở những năm 20 của
thế kỷ này”. Nói một cách khác, điều này cũng tƣơng đồng với nhận định của
nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam:
“Tiếng khóc vợ của Phạm Nguyễn Du và Ngô Thì Sĩ đã đƣợm tính chất cận
đại”.
Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX (Huỳnh Lý
chủ biên, In lại lần 2 có sửa chữa bổ sung 1978, Nxb Văn học): công trình
đƣợc biên soạn với hai phần. Phần đầu đã khái quát văn học Việt Nam thế kỷ
XXVIII – XIX với hai đặc điểm: (1). Nội dung văn học mang tính chất hiện
thực và Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc; và (2). Văn học tiếng Việt phát triển đến
trình độ một nền văn học dân tộc phong phú. Phần thứ hai là hợp tuyển các
sáng tác văn học của các tác giả giai đoạn này đƣợc tuyển chọn theo từng thời
kỳ: (1). Thời vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn; (2). Thời cuối Lê, Tây Sơn,
đầu Nguyễn; (3). Thời nhà Nguyễn. Công trình này ngoài những lý luận mang
tính khái quát của văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX, còn cung cấp thêm nguồn
tƣ liệu văn bản là những sáng tác tiêu biểu đã đƣợc tuyển chọn và sắp xếp
theo trình tự giai đoạn lịch sử rất rõ ràng. Trong đó, có không ít những tác
phẩm thể hiện thái độ trực tiếp, hoặc gián tiếp trƣớc chuyện sinh – tử, vấn đề
sống chết.
4
2.2. Bên cạnh các công trình nghiên cứu mang tính tổng thể về văn học
Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX, các công trình mang tính chuyên khảo,
đặc biệt đi sâu vào tìm hiểu các tác giả cụ thể, tiêu biểu cũng nhƣ công việc
sƣu tầm, dịch thuật, giới thiệu các tác phẩm văn học có giá trị của văn học
giai đoạn này cũng đem lại những gợi ý quan trọng.
Thơ khóc vợ đã qua đời của Phạm Nguyễn Du với Đoạn trường lục,
Ngô Thì Sĩ với Khuê ai lục đƣợc khá nhiều nhà nghiên cứu (NCC) đề cập
đến. NNC Trần Thị Băng Thanh trong Ngô Thì Sĩ – những chặng đường thơ
văn coi đó là “tiếng nói lạ” trong văn học đƣơng thời và “hé mở ra những vấn
đề mang ý nghĩa rộng và chung, có tính chất thời đại”. NNC Phan Văn Các
tiến hành dịch chú và giới thiệu Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du với
mong muốn góp thêm phần “làm rõ nét mới ấy trong tiến trình văn học Việt
Nam ở một giai đoạn phát triển mạnh mẽ”, cũng đã đƣa ra một số nhận định
về giá trị của Đoạn trường lục thông qua phân tích một số bài thơ trong tác
phẩm này. Đó là những ý kiến đánh giá và nhận định rất có tính khơi mở.
2.3. Văn học viết về cái chết không thể bỏ qua thể loại văn học đặc
trƣng là Văn tế. Với Văn tế cổ và kim, Phong Châu – Nguyễn Văn Phú đã tiến
hành sƣu tầm, chú thích và giới thiệu các bài văn tế trong lịch sử văn học Việt
Nam. Các tác phẩm đƣợc sắp xếp theo từng giai đoạn lịch sử nên có giá trị
tham khảo.
Đặc biệt, trong một số bài viết gần đây, tác giả Nguyễn Đông Triều đã
dành nhiều quan tâm cho thể loại văn tế trung đại Việt Nam. Với “Một số
công trình nghiên cứu liên quan đến văn tế trung đại Việt Nam – Điểm lại và
định hƣớng nghiên cứu”, chúng tôi đã đƣợc hệ thống và tiếp cận với các tác
phẩm văn tế quan trọng thời trung đại, cũng nhƣ thuận lợi hơn trong việc tìm
đọc và tra cứu các công trình đã thực hiện nghiên cứu thể loại văn học đặc
5
trƣng này. Cùng với đó, bài viết “Cảm hứng vô thƣờng trong một số bài văn
tế trung đại Việt Nam” cũng đã tiến hành phân tích một số các tác phẩm văn
tế trung đại có ảnh hƣởng triết lý Phật giáo “nhằm tìm hiểu suy nghĩ của
ngƣời xƣa về sinh tử theo thế giới quan Phật giáo”. Đây cũng là một tài liệu
tham khảo thiết thực đối với luận văn này của chúng tôi.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu về các tác giả lớn thời trung đại,
hay văn học giai đoạn trong thế kỷ XVIII- đầu XIX, đều có sự phân tích
những tác phẩm văn tế có giá trị. Điều này cũng là một thuận lợi cho chúng
tôi khi tiếp cận với thể loại này.
2.4. Ngoài các cách tiếp cận văn học sử truyền thống, những công trình
nghiên cứu văn học trung đại trong đó có giai đoạn thế kỷ XVIII – đầu XIX
của nhiều tác giả đã có những cách tiếp cận mới, góp phần đa dạng thêm điểm
nhìn cũng nhƣ góp phần đánh giá một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn về tác
giả, tác phẩm, văn học giai đoạn.
NNC Trần Đình Sử tiếp cận dƣới góc độ thi pháp: Thi pháp văn học
trung đại Việt Nam. Công trình này đem lại một cái nhìn tổng thể và hệ thống
của văn học trung đại Việt Nam dƣới góc độ thi pháp. Trong đó có phân tích
sự phát triển của con ngƣời trong thơ, trong các thể loại văn học trung đại mà
chúng tôi có thể tham khảo, áp dụng cho vấn đề nghiên cứu cụ thể của mình
trong đề tài này.
NNC Trần Ngọc Vƣơng tiếp cận bằng phƣơng pháp loại hình học tác
giả. Trong công trình công phu và đầy tâm huyết Nhà nho tài tử và Văn học
Việt Nam, ông đã phân tích rất cụ thể về ba loại hình nhà nho: hai chính thống
(hành đạo và ẩn dật) và đặc biệt là loại hình nhà nho phi chính thống – nhà
nho tài tử - những con ngƣời điển hình của thời đại đã tạo nên chân dung mới
6
của văn học thế kỷ XVIII-XIX đầy thành tựu. NNC Trần Ngọc Vƣơng đã
khẳng định tính chất “thị tài” và “đa tình” của lớp nhà nho tài tử. Trƣớc
những thay đổi của thời đại, đó là những con ngƣời đã dám vƣợt thoát ra khỏi
vòng lễ giáo, lên tiếng đòi hỏi thẳng thắn về tình yêu và hạnh phúc, không
ngại ngần bộc lộ những khao khát cá nhân đa dạng, mãnh liệt. Chính từ sự
xuất hiện của những nhà nho tài tử này, chúng tôi nhận thấy việc bộc lộ thái
độ cá nhân đối với vấn đề cái chết có sự thay đổi, đó cũng là một trong những
tiếng nói cất lên đòi quyền sống, quyền đƣợc hƣởng hạnh phúc của cá nhân
con ngƣời trong chính đời sống hiện tại. Với những phân tích và nhận định
sắc sảo, xác đáng của tác giả, công trình này là một tài liệu tham khảo vô
cùng hữu ích đối với chúng tôi. Các tác giả nhà nho tài tử tiêu biểu đƣợc NNC
Trần Ngọc Vƣơng nghiên cứu theo hệ thống một cách kỹ lƣỡng, cụ thể; kèm
theo đó là phần phụ lục tuyển chọn các tác phẩm văn chƣơng tài tử tiêu biểu
đã tạo thuận lợi cho chúng tôi khi tìm hiểu, tiếp cận và thực hiện đề tài của
mình.
Với cách tiếp cận mới: tiếp cận văn hóa học, NNC Trần Nho Thìn đã
có nhiều công trình viết về văn học thế kỷ XVIII – XIX có tính định hƣớng và
giá trị tham khảo đặc biệt quan trọng đối với luận văn này của chúng tôi.
Công trình Văn học trung đại Việt nam dưới góc nhìn văn hóa với những bài
viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều nhƣ: Triết lý Truyện Kiều trong bối cảnh
văn hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX; Nhân vật Truyện
Kiều và vấn đề tiếp cận nhân học văn hóa; NNC Trần Nho Thìn đã đi sâu vào
phân tích giá trị to lớn của Truyện Kiều với một góc nhìn mới. Vấn đề cái
chết lần đầu tiên đƣợc định danh, nằm trong hệ thống các phạm trù giá trị văn
hóa khi ông tiến hành phân tích nhân vật trong Truyện Kiều với cách tiếp cận
nhân học văn hóa với hai khái niệm “Thân” và “Tâm”. Đây cũng là một cách
làm mà chúng tôi lựa chọn và kế thừa khi thực hiện luận văn này. Qua những
7
tranh cãi khen chê trái chiều về nhân vật Kiều của các nhà Nho thời trung đại,
đặc biệt là chuyện Kiều không tự tử chết để bảo toàn danh tiết theo quan điểm
truyền thống của Nho giáo, NNC Trần Nho Thìn đã chỉ ra sự phân hóa quan
điểm đạo đức trong văn học thời kỳ trung đại về vấn đề cái chết. Bài viết còn
cung cấp những đánh giá và phân tích cụ thể về tiến trình vận động của quan
niệm về cái chết trong lịch sử tƣ tƣởng và văn học trung đại.
Cũng trong sách này, bài viết Trào lưu chủ tình của Văn học Việt Nam
thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX và dấu vết ảnh hưởng của sách Thế thuyết tân
ngữ đã đem tới thêm một cách lý giải rất thuyết phục cho yếu tố ngoại sinh
ảnh hƣởng tới sự thay đổi đời sống và tƣ tƣởng văn học trung đại Việt Nam
giai đoạn này. Trong sự thay đổi mạnh mẽ của văn học Việt Nam thế kỷ
XVIII – đầu XIX với trào lƣu chủ tình – coi trọng tình cảm, tất yếu có sự thay
đổi thái độ ứng xử, thay đổi quan niệm về vấn đề cái chết.
Trong bài viết “Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói
phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ
quyền” (Tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt
Nam và văn hóa Đông Á, tổ chức tại Viện Triết học, ngày 23-24/6/2009);
NNC Trần Nho Thìn cũng chỉ ra quan điểm đạo đức Nho giáo truyền thống
chi phối và áp chế mạnh mẽ tới sự sống – chết của ngƣời phụ nữ thể hiện rõ
nét trong văn học trung đại Việt Nam.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu ở nhiều quy mô khác nhau về văn
học giai đoạn này đều ít nhiều đề cập tới vấn đề cái chết trong văn học. Tuy
nhiên, coi thái độ đối với cái chết trong văn học nhƣ một vấn đề văn học sử
làm đối tƣợng nghiên cứu và đánh giá nhƣ là một bƣớc chuyển biến hết sức
quan trọng trong cả một giai đoạn từ thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX thì chƣa có
công trình nào tiến hành một cách toàn diện.
8
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Với đề tài “Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX với vấn đề
cái chết”, chúng tôi tiến hành khảo sát, nghiên cứu nguồn tƣ liệu văn học
trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Với vấn đề trung tâm là
Vấn đề cái chết trong văn học, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu các tác phẩm,
các thể loại viết về cái chết hay thể hiện quan điểm, thái độ của tác giả đối với
vấn đề sống – chết. Đó là phạm vi nghiên cứu chính của luận văn.
Mặt khác, nhằm mục đích chỉ ra đƣợc sự thay đổi về quan niệm, thái độ
đối với vấn đề cái chết trong văn học, đòi hỏi chúng tôi cũng phải tiến hành
việc tìm hiểu lịch sử văn học viết về vấn đề cái chết ở những giai đoạn trƣớc
đó cũng nhƣ việc tìm hiểu nguồn gốc quan niệm về cái chết đã chi phối thái
độ ứng xử trong suốt một thời gian dài của lịch sử văn học Việt Nam. Việc
mở rộng phạm vi nghiên cứu vì vậy cũng là một đòi hỏi bắt buộc.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên
cứu xã hội học và văn hoá học để tìm hiểu, soi chiếu các vấn đề đã đƣợc đặt
ra. Tất nhiên, điều này không mang nghĩa loại trừ đối với các phƣơng pháp
nghiên cứu khác (phƣơng pháp thống kê phân loại, phƣơng pháp liên
ngành…).
Các thao tác bổ trợ đƣợc sử dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài
là thao tác phân tích, khảo sát, thống kê, so sánh…
5. Bố cục luận văn gồm:
Phần mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài.
Phần nội dung:
Ngoài Phần mở đầu, cấu trúc luận văn gồm có ba chƣơng chính:
Chƣơng 1. VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG VĂN HÓA PHƢƠNG ĐÔNG.
Chƣơng 2. KHÁI LƢỢC VẤN ĐỀ CÁI CHẾT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC THẾ KỶ XVIII.
Chƣơng 3. SỰ PHÂN HÓA QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – ĐẦU XIX.
Tổng kết phần chính văn còn có phần Kết luận.
Cuối luận văn là phần Danh mục tài liệu tham khảo.
PHẦN NỘI DUNG.
CHƢƠNG 1.
VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG
10
VĂN HÓA PHƢƠNG ĐÔNG.
Vấn đề cái chết trong lịch sử tƣ tƣởng văn hóa phƣơng Đông nhìn từ thế
ứng xử với thân xác.
Cái chết đối với con ngƣời luôn là một điều bí mật, không thể trải
nghiệm. Con ngƣời tìm kiếm câu trả lời cho sự tồn tại của mình, cho một thực
tế không thể thay đổi: phải chứng kiến hàng ngày những đứa trẻ đƣợc sinh ra,
và cũng có những ngƣời chấm dứt sự sống của mình. Cũng từ đó mà nảy sinh
ra những quan niệm về ý nghĩa của sự sống và sự chết. Những tôn giáo, học
thuyết, tƣ tƣởng lớn của nhân loại đều có cách luận giải của mình.
Con ngƣời là một thực thể sống có thể xác và tinh thần, tình cảm; mà
ngƣời xƣa gọi là Thân và Tâm. Con ngƣời hiện diện trong cuộc đời này, biểu
lộ Tâm của mình không cách gì khác chính là bằng thân xác. Thân xác là hữu
thể cho phép con ngƣời có mặt trên đời đích thực và hiển nhiên với tƣ cách là
“con ngƣời” theo đúng nghĩa. Bằng thân xác của mình, con ngƣời “dự định,
ước muốn, hành động, và bày tỏ, biểu lộ ý nghĩ, tình cảm, thực hiện những quan hệ với thế giới sinh vật và những quan hệ giao ngộ với người khác” 1.
Thân biểu hiện phần bản năng của con ngƣời, mà trong đó sống – chết là một
trong những bản năng mạnh mẽ nhất.
Những học thuyết, tƣ tƣởng lớn ở phƣơng Đông nhƣ Nho – Phật – Đạo
đều hƣớng tới xây dựng mẫu hình con ngƣời lý tƣởng. Hòng đạt tới những
mẫu hình lý tƣởng đó, thân xác với tƣ cách là phần biểu hiện bản năng của
con ngƣời, trong quan niệm của các tƣ tƣởng cổ trung đại, cần phải bị kiểm
1 Nguyễn Văn Trung, Ca tụng thân xác, Nxb. Văn nghệ, 2006, tr.177.
11
soát tối đa. Trí thức Việt Nam thời trung đại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của
những quan niệm khắc kỉ với thân xác trong những học thuyết này. Cùng với
sự đối xử khắc nghiệt với thân xác, Tâm đƣợc hết thảy các học thuyết đề cao,
đƣợc coi nhƣ là yếu tố quyết định cuộc sống của mỗi ngƣời, cũng quyết định
thái độ của con ngƣời trƣớc cái chết.
1.1. Nho giáo và tƣ tƣởng “sát thân thành nhân” – “xả thân thủ nghĩa”.
Nho giáo là một trong những tƣ tƣởng, học thuyết có ảnh hƣởng mạnh
mẽ và sâu sắc nhất trong lịch sử trung đại khu vực Đông Á, trong đó có Việt
Nam. Mẫu hình lý tƣởng của các nhà Nho là bậc “thánh nhân - quân tử”. Để
đạt tới mẫu hình đó, nhà nho cũng nhƣ tất cả mọi ngƣời trong xã hội “từ thiên
tử tới thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc” (Đại học). “Tu thân”, “tu kỉ
trị nhân” chính là rèn luyện bản thân, mà theo quan niệm của Nho gia thì phải
thực hiện với những hình thức rất nghiêm khắc, trƣớc nhất chính là đòi hỏi sự
khắc kỉ đối với thân xác: “tồn thiên lý, khử nhân dục” (bảo tồn thiên lí, diệt
dục vọng bản năng). Để làm đƣợc điều đó, nhà nho phải rèn cách “dĩ tâm
khống thân” (dùng ý chí khống chế dục vọng bản năng). Cho nên Khổng Tử
mới nói: quân tử ăn không cầu ngon, ở không cầu yên vui (Quân tử, thực vô
cầu bão, cƣ vô cầu an – Luận ngữ, Học nhi). Đƣợc nhƣ vậy rồi thì: “Phạn sơ
tự, ẩm thủy, khúc quãng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hĩ. Bất nghĩa như
phú thả quý, ư ngã như phù vân” (Ăn gạo xấu, uống nƣớc lã, co cánh tay mà
gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui. Làm điều bất nghĩa mà đƣợc giàu sang
thì ta coi nhƣ mây nổi – Luận ngữ, Thuật nhi). Sự khổ ải của thể xác ở đây
không có ý nghĩa gì so với việc bảo vệ đạo lý, thực hành điều nhân nghĩa.
Cũng xuất phát từ quan niệm đạo đức làm ngƣời của nho giáo, coi hiếu
đạo là nền tảng đạo đức của một ngƣời có “nhân”, Nho giáo dạy ngƣời ta phải
biết trọng thân, quý thân mình vì thân xác đó là do cha mẹ ban cho. Trong
12
sách Hiếu kinh có ghi: “ (…) thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn
thƣơng đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, dƣơng danh với hậu thế,
để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu. Xét về hiếu, khởi đầu là lo việc
song thân, kế đến là việc vua tôi, sau cùng mới đến việc lập thân” – cũng cho
thấy một sự thực rằng nho gia quan niệm việc gìn giữ thân thể, trân trọng thân
thể của mình cũng chính là để bảo toàn đạo hiếu, giữ gìn nền tảng đạo đức
của ngƣời quân tử, lập thân hành đạo chứ không xuất phát từ nguyên giá trị
của thân xác. Điều này cũng giúp chúng ta hiểu đƣợc một phần quan niệm về
cái chết toàn thây của nho gia. Chuyện Tăng Tử trƣớc khi chết bảo học trò
xem thân thể của mình, thấy nguyên vẹn thì thanh thản vì đã tránh đƣợc tội
bất hiếu, là một dẫn chứng cho thấy mối quan tâm của nhà nho trƣớc khi chết.
Đó không phải là nỗi băn khoăn chỗ chết rồi sẽ đi về đâu, cuộc sống sau khi
chết sẽ ra sao, mà là cuộc đời đã trải qua có tỳ vết gì không, có tội lỗi gì
không, có toàn vẹn để gặp cha mẹ tổ tiên hay không?. Lúc này ta không bắt
gặp đƣợc tâm thế của một con ngƣời thông thƣờng trƣớc cái chết, vốn là nỗi
sợ hãi và bi thƣơng sẽ không còn đƣợc sống trên cõi đời này nữa. Tâm thế của
nhà nho trƣớc cái chết là nỗi lo lắng về việc mình có giữ đƣợc đạo nghĩa, có
làm tròn đƣợc trách nhiệm của mình hay không. Chính vì thế, cái chết không
toàn thây là hình phạt đau đớn và khổ nhục nhất đối với nhà nho. Các hình
phạt thời trung đại đều nhằm vào thân thể kẻ có tội, đƣợc giới cầm quyền sử
dụng nhƣ cách thức chế ngự và củng cố lòng trung thành của kẻ dƣới. Tàn
khốc nhất là những hình thức tra tấn đến chết làm thể xác không còn nguyên
vẹn nhƣ tùng xẻo, ngũ mã phanh thây, chặt đầu… trở thành nỗi răn đe đầy ám
ảnh đối với nhà nho.
Quan niệm trọng tâm nhất trong học thuyết Nho giáo chính là chữ
Nhân. Đối với nhà nho, đạo Nhân phải đƣợc đặt lên trên chuyện giàu nghèo,
đặt lên trên những cám dỗ của tình ái, và đặc biệt, phải đƣợc đặt lên trên
13
chuyện sống chết của bản thân. Ý nghĩa căn bản nhất của chữ Nhân là hy sinh
cái tôi nhỏ để hoàn thiện cái tôi lớn hơn, để đạt tới hình mẫu con ngƣời mẫu
mực của Nho giáo: “là con ngƣời vô kỷ, vị tha, lúc cần thiết có thể chịu đựng
và phải chịu đựng đƣợc mọi sự ma chiết của hoàn cảnh, đến mức cao nhất, hoặc do tình huống đòi hỏi, phải sát thân thành nhân, xả thân thủ nghĩa”2.
Khổng Tử nhấn mạnh: “Chí sĩ nhân nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân, vô cầu
sinh dĩ hại thân” (Luận ngữ, Vệ linh công). Nghĩa là: bậc chí sĩ ngƣời có đạo
Nhân là những ngƣời không ham sống mà sợ chết, khi cần thiết, phải tự mình
chết để bảo toàn đạo Nhân. Kế thừa những học thuyết của Khổng Tử, Mạnh
Tử tiếp tục nói rõ thêm về “chết vì đạo đức nhân nghĩa”, đó là “xả thân thủ
nghĩa” (xả thân để bảo vệ nghĩa lớn). Mạnh Tử nói: “Sinh diệc ngã sở cầu dã,
nghĩa diệc ngã sở cầu dã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xả thân nhi cử nghĩa giả
dã”, nghĩa là: sinh mệnh là cái bản thân ta muốn gìn giữ; chính nghĩa cũng là
điều bản thân ta muốn gìn giữ, nhƣng trong trƣờng hợp sinh mệnh và chính
nghĩa không thể đồng thời đƣợc bảo toàn, phải hy sinh sinh mệnh của mình để
bảo toàn chính nghĩa. Quan niệm này của Nho gia có thể khái quát trong câu
“Sát thân thành nhân” – dù tính mệnh là quý nhất, nhƣng vì đại nghĩa mà hy
sinh nó thì mới là nhân vậy. Nho gia có tƣ tƣởng “trọng thân”, coi thân là gốc
(thân vi bản) nhƣng lại mang nghĩa là coi trọng tu thân, đề cao vai trò của tâm
- ý chí chứ không có ý đề cao thân xác bản năng của con ngƣời. Đúng nhƣ
NNC Trần Nho Thìn đã nhận định: “Khắc kỉ và sẵn sàng chết khi cần thiết để
bảo vệ đạo Nhân, đặt các giá trị luân lí đạo đức cao hơn giá trị của thân xác là mô hình lí tƣởng của nhà nho” 3.
3 Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.389.
2 Trần Ngọc Vƣơng, Nhà nho tài tử và Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1995, tr.42.
14
Cái chết vì nhân nghĩa đƣợc các nhà Nho đề cao, những tấm gƣơng xả
thân vì nghĩa lớn theo quan niệm của Nho giáo đƣợc lƣu truyền trong sử sách.
Chết vì đạo nghĩa đã trở thành những câu cách ngôn trong sự nghiệp lập thân
của các nhà nho, cũng nhƣ là lời cảnh tỉnh với ngƣời khác khi đối diện với cái
chết. Coi “sát thân thành nhân”, “xả thân thủ nghĩa” là điều tâm niệm, Nho
gia đánh giá nhân cách ngƣời quân tử nhận trọng trách trong lúc nguy nan
cũng giống nhân cách ngƣời quân tử tranh đấu cho đến lúc chết, liều chết mà
can gián. Nhân cách ngƣời quân tử có giá trị hơn giá trị của sinh mệnh nhiều
lần. Có vô số nhân sĩ chết vì điều nhân và xả thân vì đại nghĩa, đƣợc nhắc tới
nhƣ những tấm gƣơng sáng cho muôn đời. Nhƣ ba nhân sĩ thời Ân: Bỉ Cán bị
xử tội chết vì dám can gián, Vi Tử dở điên dở dại trôi giạt nơi nhân gian, Cơ
Tử bị giam cầm rồi trở thành nô lệ - đều đƣợc Khổng Tử khen là bậc nhân
(Xem Luận ngữ, Vi tử). Đối với nho gia, nỗi đau đớn của thể xác không có gì
đáng kể, cái chết của thân nhục thể không có gì đáng tiếc nếu đó là sự hy sinh
vì đạo nghĩa, khi đó thân danh tiết mới để lại tiếng thơm cho muôn đời sau.
Lập công danh, bảo tồn đạo lý chính nghĩa là mục đích của đời ngƣời. Cho
nên kẻ nho sĩ mới có câu “sĩ khả sát, bất khả nhục” – kẻ sĩ có thể chết chứ
không thể chịu nhục, cũng là ý nghĩa đó.
Chính bởi quan niệm đề cao nhân cách lý tƣởng, đề cao đạo lý, Nho
giáo đã xác lập nên mô hình của một cuộc sống ý nghĩa không nằm ở chỗ thỏa
mãn những nhu cầu dù là bản năng nhất của con ngƣời, thậm chí còn coi
những nhu cầu đó là dục vọng thấp kém, hạ nhân cách của kẻ sĩ quân tử. Lịch
sử của Nho giáo là lịch sử của những tấm gƣơng trung thần tiết liệt đƣợc ngợi
ca truyền tụng, cũng là lịch sử lƣu truyền tiếng xấu muôn đời của những kẻ
“ham sống sợ chết”. Cho nên: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử
tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử thần chết, thần không chết là bất trung;
cha xử con chết, con không chết là bất hiếu – Phù Tô) đã dần trở thành tâm
15
niệm ăn sâu của kẻ làm tôi, bậc làm con của con ngƣời trong thời đại Nho
học.
Những quan niệm, tƣ tƣởng của Nho giáo đối với bậc nam nhân quân
tử thì khắc kỉ với bản thân, theo đòi nghĩa lớn nhƣ vậy; đối với ngƣời phụ nữ
“Chồng có thể tái thú, vợ không tiếng hai chồng”, đàn ông có thể năm thê bảy
thì càng trở nên khắt khe hơn, đặc biệt là quan niệm nghiệt ngã về trinh tiết.
thiếp, nhƣng phụ nữ trung trinh chỉ thờ một chồng, ngƣời đó đƣợc gọi là tiết
phụ. Nho giáo đề cao những tấm gƣơng phụ nữ thờ chồng nuôi con, đƣợc
phong gƣơng “tiết liệt phu nhân”; đề cao những ngƣời phụ nữ thủ tiết, tuẫn
tiết theo chồng, coi đó là vì đạo nghĩa… còn lƣu truyền lại đời sau qua kiểu
truyện về liệt nữ. Đặc biệt là Tống Nho có cái nhìn cực kì khắc nghiệt bởi chủ
trƣơng “tồn thiên lý, diệt nhân dục” của Trình – Chu. Từ triều Tống trở về
sau, phụ nữ cải giá bị coi nhƣ "thất tiết", không đƣợc xã hội đƣơng thời dung
thứ. Những truyện nhƣ "Quả phụ đoạn tý" (gái góa chặt cánh tay sau khi tình
cờ bị một ngƣời đàn ông chạm phải), "Nhũ thƣơng bất y" (Ngực bị thƣơng bỏ
mặc không chữa, vì phụ nữ để phô ngực ra cho thầy thuốc nhìn còn tệ hơn là
chết) đƣợc dùng làm gƣơng mẫu và tuyên dƣơng rộng rãi. Câu nói của Trình
Di: "Nga tử sự tiểu, thất tiết sự đại" (Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết mới là
chuyện lớn) đã trở thành quan niệm đạo đức không chỉ ăn sâu vào tƣ tƣởng
của các bậc nam nhân, mà nặng nề hơn ở chính đầu óc của những ngƣời phụ
nữ. Thân xác ngƣời phụ nữ không đƣợc nhìn nhận và đánh giá nhƣ một giá
trị, đó chỉ là công cụ để đánh giá đạo đức, ý chí; khi cần có thể hy sinh để bảo
vệ trinh tiết – cái đƣợc coi là danh dự sống còn của ngƣời phụ nữ trong xã
hội. Quả phụ thờ chồng, thờ con hay chết theo chồng đƣợc phong bảng vàng,
là niềm tự hào của cả làng, cả trấn. Tấm thân không giữ đƣợc trinh tiết là tấm
thân nhục nhã, dơ bẩn - ngƣời phụ nữ không tìm đến cái chết nếu bị thất tiết
bị cả xã hội lên án. Những ngƣời phụ nữ ấy sống vì người khác, chứ không
16
sống vì mình với những khao khát bình thƣờng nhất của một ngƣời phụ nữ.
Những quan niệm khắc nghiệt, thậm chí có thể nói là “bất cận nhân tình” này
đã đƣợc thể hiện rõ nét trong các tác phẩm văn học thời trung đại không chỉ ở
Trung Quốc, mà hẳn nhiên là cả ở Việt Nam. Nặng nề hơn là tƣ tƣởng “chết
để bảo toàn danh tiết” vẫn còn ám ảnh và ăn sâu vào tâm trí của không ít
ngƣời phụ nữ ở tận thế kỷ XXI này.
Chính bởi sự đề cao tuyệt đối giá trị đạo lý, những ràng buộc của “tam
cƣơng ngũ thƣờng”, kẻ nam quân tử chết vì vua, vì nƣớc, vì danh tiết; phận
nữ nhi cũng sẵn sàng hy sinh tính mạng, thân mạng của mình để bảo toàn
trinh tiết. Đó đều là những cách ứng xử với thân xác đầy khắc nghiệt, thậm
chí phản nhân tình khi mà sự sống không còn là mục đích tối thƣợng của con
ngƣời.
Nho giáo chủ trƣơng kiểm soát thân xác bản năng, cũng chủ trƣơng
kiểm soát cả tình cảm của con ngƣời. NNC Trần Nho Thìn phân tích khái
niệm “tâm” trong quan điểm của nho gia gồm có hai trạng thái cần phân biệt là “tính” và “tình”4. Trong đó, nhà nho bàn về tâm ở trạng thái tính – là bản
tính, thiên tính của con ngƣời là cái cần đƣợc bảo vệ và khẳng định; tình là
những cung bậc cảm xúc, tình cảm của con ngƣời khi tiếp xúc với ngoại vật
mới chính là cái cần phải kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt. Các nhà nho thừa
nhận con ngƣời có tình, nhƣng chủ trƣơng tiết chế tình cảm theo đạo trung
hòa. Khổng Tử khen Quan thƣ, Kinh thi vì “lạc nhi bất dâm, ai nhi bất
thƣơng” (vui mà không dâm dật, buồn mà không bi thƣơng) cũng chính là bởi
tình ở trong đó đạt tới trung hòa, không thái quá, không bất cập. Chu Hi cũng
viết: “Tính chi sở cảm, ƣ vật nhi động, tắc vị chi tình. Thị tam giả, nhân giai
4 Xem bài Nhân vật Truyện Kiều và vấn đề tiếp cận nhân học văn hóa trong sách Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần Nho Thìn, Sdd.
17
hữu chi, bất dĩ thánh phàm vi hữu vô dã…Học giả tắc đƣơng tồn tâm dĩ
dƣỡng tính nhi tiết kì tình dã” (Cái mà tính cảm đƣợc, do tiếp xúc với vật mà
động thì gọi là tình. Ba điều này ngƣời ta ai cũng có, không phải là chuyện có
không của bậc thánh nhân hay kẻ phàm tục…Học giả nên bảo tồn tâm, nuôi dƣỡng bản tính mà tiết chế tình – Đáp Từ Cảnh Quang)5. Sự đòi hỏi tồn tâm
dƣỡng tính tiết tình này thực chất chính cũng là để phù hợp với đạo đức, nhân
nghĩa theo quan niệm của nho gia, không gì khác là dùng lý trí để chế ngự
cảm xúc. Vì thế trƣớc cái chết, vốn là “ác mộng to lớn của đời ngƣời” (Lễ
vận, Kinh lễ) nho giáo vẫn chủ trƣơng tiết chế tình cảm. Nhà nho vì đại nghĩa
có thể hy sinh thân mình, tâm thế vì vậy hoặc luôn ở trạng thái hiên ngang
lẫm liệt đối mặt với cái chết, hoặc thanh thản mãn nguyện khi đã thỏa đƣợc
chí làm trai, có công danh sự nghiệp. Còn đối với cái chết của ngƣời thân, nho
gia tuân thủ những quy tắc đã đƣợc điển chế hóa trong Kinh Lễ. Kinh Lễ quy
định cách tang ma, tang phục…, thậm chí cả cách bày tỏ tình cảm bi thƣơng
trƣớc cái chết, những cảm xúc tự nhiên nhất của con ngƣời cũng phải hợp lễ,
đúng thời điểm. Thế nên trƣớc sự mất mát, ngƣời ta phải làm rất nhiều điều
theo lễ chế chứ không đƣợc thuận theo cảm xúc tự nhiên: “khi cƣ tang thì sắc
diện phải buồn bã, phải khóc lóc bi ai”, phải để tang cha mẹ ba năm, phải mặc
áo xô gai, chống gậy, ăn đồ ăn nhạt… Lễ nghĩa nhƣ vậy, cũng có thể thấy,
ứng xử với thân xác, tình cảm của chính mình, nhà nho cũng phải tuân theo
quy định, phải hợp với lễ giáo. Có thể nói, từ lúc sống đến khi chết, còn sinh
hoạt đời sống hay đến lúc tang ma, thế ứng xử với thân xác của nhà nho đều
chú vào sự thanh đạm, khắc kỉ.
Nhìn ở mặt biện chứng, nói tới cái chết là nói tới sự sống. Sự sống
chính là hành trình con ngƣời đi tới cái chết. Chính bởi vì từ cái chết mà con
5 Dẫn theo Trần Nho Thìn, Sdd, tr. 446.
18
ngƣời nhận ra sự hữu hạn của đời sống và giá trị của sự hữu hạn đó. Đối với
nhà nho, họ coi thiên mệnh là tối thƣợng, sống chết là mệnh trời, vì thế con
ngƣời chỉ có thể theo đuổi giá trị vĩnh hằng của tinh thần: danh tiếng sau khi
chết vẫn còn lƣu truyền. Trong quan niệm của nho gia, điều quan trọng chính
là trong đời sống lập nên tam bất hủ: cao nhất là lập đức (xây dựng tấm gƣơng
đạo đức), thứ đến là lập công (xây dựng sự nghiệp) và cuối cùng là lập ngôn
(viết sách để lại). NNC Trần Đình Hƣợu đã tổng kết: “Con ngƣời, theo cách
hình dung của Nho giáo, kể cả trong xã hội lý tƣởng của họ, sống theo trật tự
đẳng cấp. Cái định giá con ngƣời là tƣớc vị.(…) Giá trị con ngƣời là ở đạo đức, hoàn thành tốt hay xấu chức năng của mình”6. Nho giáo hoàn toàn không
đề cập tới một đời sống khác sau cái chết của thân xác nhƣ Phật giáo, mà
hoàn toàn xây dựng nên ý niệm về giá trị của cuộc sống hiện tại của con
ngƣời: tu thân – tề gia- trị quốc – bình thiên hạ. Con ngƣời phải nỗ lực tu
dƣỡng đạo đức, tạo lập nhân cách tốt đẹp, thông qua tam lập để tạo nên những
giá trị tinh thần bền vững - vƣợt ra khỏi sự tiêu biến của thể xác khi cái chết
xảy đến. Khi đó, những thành quả sự nghiệp đã đƣợc tạo lập có ảnh hƣởng bất
diệt đối với lịch sử, xã hội, con ngƣời - sẽ còn mãi với thời gian, đƣợc đời đời
nhắc tên, đó mới là giá trị vĩnh hằng của đời sống. Nhƣ Khổng Tử đã từng trả
lời học trò: Không biết sống, sao biết chết! Nói cách khác, đó là quan niệm:
phải sống ra sao để cái chết có ý nghĩa.
1.2. Phật giáo và cái nhìn liễu sinh tử (rõ sống chết).
Trong khi vấn đề cốt lõi của Nho giáo là trách nhiệm, mục đích của con
ngƣời đối với xã hội, tìm cách trả lời cho câu hỏi: con ngƣời sống để làm gì?
Cần phải sống ra sao? Thì trái lại, Phật giáo quan tâm tới vấn để bản thể luận
của con ngƣời: con ngƣời là ai? Con ngƣời từ đâu tới, sẽ đi về đâu? trong mối 6 Trần Đình Hƣợu, “Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu nho giáo”, tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 2/1984.
19
tƣơng quan với vũ trụ, vạn vật. Cái chết là vấn đề trung tâm đƣợc Phật giáo
quan tâm và luận bàn sâu sắc nhất so với các học thuyết, tƣ tƣởng khác.
Trong quan niệm của Phật giáo, mọi thứ chỉ là hƣ huyễn, thân xác của con ngƣời cũng vậy: “xem thân nhƣ huyễn hóa”(Kinh Phật). Thân xác không
thuộc về chính con ngƣời, đó chỉ là một ngôi nhà tạm, là “cái thành xây bằng
xương cốt và tô quét bằng máu thịt, để cất chứa sự già và chết, ngã mạn và
dối gian" (Pháp Cú, câu 150). Trong các kinh kệ của Phật giáo đều phân tích
sự hƣ huyễn của thân xác. Thân (sắc) là một trong ngũ ấm tứ đại của mỗi
ngƣời, là cái không thật, không thƣờng hằng, có đó rồi mất đó. Trong kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Phật giáo gọi những cái có rồi mất đó là khách, vì nó đến
rồi đi, nên không phải là chủ. Nếu là chủ thì không mất, lúc nào cũng hằng
hữu. Bởi vậy con ngƣời nhận thân xác sinh rồi diệt đó là mình, tức là nhận
khách làm chủ. Đó là mê lầm. Vì mê lầm nhƣ thế nên mắc vào vòng trầm luân
sinh tử. Chỉ khi nhận thấy rõ cái thân xác của mình là tạm bợ, thì con ngƣời
mới đƣợc giác ngộ.
Điều này cũng có nghĩa là muốn vƣợt thoát ra khỏi sự chi phối của
sống – chết, Phật pháp hƣớng con ngƣời tới phƣơng pháp nhận thức đòi hỏi
ngƣời tu trì phải vƣợt thoát khỏi vòng hạn chế của nhận thức kinh nghiệm
bằng thân xác. Xét thực chất, Phật giáo chủ trƣơng kiểm soát thân xác bản
năng một cách nghiêm ngặt “thiểu dục tri túc” (giảm thiểu ham muốn, biết
đủ). Kinh Di giáo viết: “Ngƣời sống biết đủ, tuy nằm trên đất vẫn thấy an lạc;
ngƣời sống không biết đủ, dù ở thiên đƣờng cũng không vừa ý” là chỉ ý “tri
túc” nhƣ vậy. Trong Thiền luận của Suzuki, các Thiền sƣ Ấn Độ đƣợc miêu tả
trong lối sống thanh bần, đạm bạc: “một y, một bát, dƣới cội cây”. Thậm chí
với các nhà sƣ, quần áo chỉ là thứ che đậy sự trần truồng của cơ thể, ăn uống
chỉ là để bảo dƣỡng thân thể mà đảm bảo tu trì.... tất cả những vật dụng cho
đời sống cá nhân đều đƣợc tiết giảm cùng cực, chúng đƣợc sử dụng không
20
phải vì sự ham muốn đƣợc thỏa mãn bản năng, mà mục đích tối thƣợng là để
duy trì việc tu tập, gìn giữ đạo hạnh theo quan niệm của nhà Phật: “Này các
Tỳ kheo! Ở đây, Tỳ kheo nhƣ lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa
lạnh nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi, các loài bò sát, che đậy sự
trần truồng...; thọ dụng các vật thực không phải để vui đùa hay đam mê... mà
chỉ để bảo dƣỡng thân thể, tránh bịnh tật, giúp đỡ cho đời sống phạm hạnh...;
thọ dụng sàng tọa (là những vật dụng để ngủ nghỉ)... để giúp cho đời sống độc
cƣ...; thọ dụng dƣợc phẩm trị bịnh để ngăn ngừa bịnh hoạn ...” (Kinh Tất cả
lậu hoặc). Quan điểm này, đối với thân xác, thực chất cũng khắc kỉ giống nhƣ
Nho giáo và Đạo giáo.
Với cái chết, từ quan niệm đời là bể khổ, vạn sự vô thƣờng, Phật giáo
coi tử là một hành trình trong vòng luân hồi của kiếp ngƣời: sinh – lão –bệnh
–tử. Con ngƣời từ khi sinh ra là bắt đầu bƣớc vào vòng quay sinh trụ dị diệt,
cũng tức là bắt đầu bƣớc vào những nỗi khổ đau: “Tất cả các thế gian, vật
sống đều phải chết, thọ mạng tuy rất nhiều, rốt cuộc quyết phải hết. Lúc thịnh
dần đến suy, hội họp quyết biệt ly, hoa niên đƣợc bao lâu, thanh sắc bị bệnh
cƣớp. Các khổ chạy vòng tròn, trôi lăn không chút nghỉ, ba cõi đều vô
thƣờng, các cõi đâu có vui!” (Kinh Niết-bàn). Cái chết của con ngƣời cũng
nhƣ sự tiêu biến của vạn vật, là một tất yếu, không thể ngăn trở, nhƣ lời Đức
Phật dạy rằng: “Thực tế cuộc đời ngƣời ta ngắn ngủi, giới hạn, phù du, đầy
khổ não, dày vò. Nó giống nhƣ giọt sƣơng buổi sáng tan đi khi mặt trời vừa
mọc, nó giống nhƣ bọt nƣớc, nhƣ một đƣờng vạch trên nƣớc, nhƣ một dòng
thác cuốn đi tất cả những gì nó gặp và trôi chảy mãi không ngừng, nó giống nhƣ con vật tại lò sát sinh, lúc nào cũng đƣơng đầu với cái chết”7.
7 Dẫn theo Hòa thƣợng Thích Thiện Châu, Tìm đạo, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1996.
21
Theo quan niệm của nhà Phật, có Sinh mới có Tử, có Tử mới có Sinh,
đó là vòng luân hồi của vạn vật, của con ngƣời. Từ khi sinh ra là con ngƣời đã
khổ (Sinh khổ), hành trình của sự sống cũng là hành trình đi đến cái chết
trong bánh xe luân hồi, nên con ngƣời cũng khổ vì cái chết (Tử khổ). Trong
bát khổ của nhà Phật, còn có cả Ái biệt ly khổ (khổ vì yêu nhau mà không
đƣợc gần nhau), nói rộng ra cũng có nghĩa, con ngƣời có tình thƣơng yêu với
nhau còn đau khổ vì cảnh chia ly sống – chết.
Cốt lõi của tất thảy những đau khổ mà con ngƣời phải gánh chịu, theo
Phật giáo, là bởi con ngƣời còn Tham ái, trong lòng không thoát đƣợc tam
muội (Tham – Sân – Si), mà gốc rễ là bởi Vô minh – không hiểu biết. Với cái
chết cũng vậy, nhƣ lời của một hòa thƣợng luận giải: “Con ngƣời cố gắng
tránh thoát nanh vuốt của tử thần nhƣng không một ai có thể thoát khỏi. Ðến
lúc chết gần kề, đầu óc liên tƣởng đến của cải tích lũy, và lo sợ quá đáng về
những đứa con thân yêu thân cận, và cuối cùng, nhƣng không kém phần quan
trọng, con ngƣời lo lắng quá sức về xác thân của chính mình mặc dù chăm sóc
chu đáo và cẩn trọng nhƣng nay đã suy nhƣợc, kiệt quệ và tan rã. Thật đau
đớn khi phải xa lìa xác thân. Không thể chịu đựng đƣợc nhƣng không thể
tránh nổi. Ðó là tâm trạng của mọi ngƣời khi từ giã cõi đời này với than van
và rên rỉ. Sự đau đớn về cái chết thật khủng khiếp, đó là một thái độ phát xuất bởi vô minh”8. Con ngƣời còn vô minh, không hiểu rõ sự sống và cái chết là
tất yếu, là lẽ vô thƣờng, thì còn tham ái. Còn tham ái thì còn ham sống sợ
chết, không thể vƣợt thoát khỏi nỗi sợ hãi buồn đau. Bởi theo quan niệm của
đạo Phật, sở dĩ con ngƣời khổ là vì có quá nhiều lòng mong cầu, tham muốn.
Chỉ khi dứt trừ tham dục, dừng lại những tạo tác do mê lầm mới cắt đứt đƣợc
8 K. Sri Dhammananda, Những hạt ngọc trí tuệ Phật giáo (Gems of Buddhist Wisdom), Thích Tâm Quang dịch, Nxb. Tôn giáo, 2006.
22
những phiền não, hệ lụy trong cuộc đời, chấm dứt vòng luân hồi lẩn quẩn vì
nghiệp duyên ràng buộc, khi đó mới tìm thấy an lạc hạnh phúc thật sự trên cõi
đời này nhƣ kinh Bát Đại Nhân Giác đã dạy: “Tham muốn nhiều là khổ, bao
sinh tử nhọc nhằn đều từ tham muốn mà ra, nếu ít tham muốn, thực hành vô
vi thì thân tâm đƣợc tự tại”. Nắm bắt đƣợc huyền nghĩa của “cái chết”, các
bậc thiền sƣ, trí giả xả bỏ tấm thân xác giả tạm nhƣ là cởi bỏ một chiếc áo cũ.
Ở một khía cạnh khác, Phật giáo cũng gặp gỡ quan điểm “có cái chết
nặng tựa Thái sơn, có cái chết nhẹ tựa lông hồng” của Nho giáo. Phật giáo coi
tự tử là một tội rất lớn, là hành vi đáng trách và tội lỗi – khi đó là hành vi sát
thân do nóng giận và tuyệt vọng, vì đó là hành động do sự vô minh của con
ngƣời. Nhƣng với những cái chết để bảo toàn giới luật hay vì động cơ và mục
đích cao cả thì nhà Phật vẫn nêu cao công đức và tán dƣơng. Trong một bộ
kinh của Phật giáo có ghi lại câu chuyện về một vị Tỳ kheo trẻ bị một phụ nữ
ép buộc phải lấy bà ta. Vị này biết rõ rằng nếu mình chịu lấy thì sẽ phá bỏ
giới luật; mặt khác, nếu không chịu lấy, bà ta sẽ vu khống rằng mình đã có
những hành vi tồi bại. Vì thế, để giải quyết tình cảnh bế tắc này mà không
phạm giới, vị ấy quyết định tự kết liễu đời mình. Vị ấy vào phòng trong, đóng
cửa và tự đâm vào cổ họng mà chết. Trƣớc khi tắt thở, vị ấy kính lễ mƣời
phƣơng Tam Bảo và nói rằng: "Vì tôn kính Tam Bảo và gìn giữ giới hạnh mà con quyết định từ bỏ thân này"9. Trong lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận
những trƣờng hợp tự thiêu của các vị thiền sƣ, hòa thƣợng. Những cái chết đó
khiến ngƣời đời tôn kính lên hàng Thánh, Bồ Tát. Trong hoàn cảnh đó, có thể
thấy việc chế ngự bản năng thân xác đã đem lại sức mạnh tinh thần và chuyển
hóa thành sức mạnh vật chất to lớn, giúp con ngƣời vƣợt qua những giới hạn
9 Dẫn theo Thích Nguyên Tạng soạn dịch, Chết và tái sinh (Death & rebirth), Cà Mau. Nxb. Phƣơng Đông, 2007.
23
của thân xác trần thế, đạt đƣợc mục đích, lý tƣởng. Nhƣng ở một mức độ nào
đó, nó cũng cho thấy sự không coi trọng thân xác bản năng, sự sống chết luôn
đƣợc đặt sau quan niệm về giá trị đạo đức.
Nhƣ vậy, Phật giáo là học thuyết đề cao Tâm, lấy Tâm làm chủ. Trong
kinh Pháp cú, câu 1 có nói: “Tâm dẫn đầu mọi hành động. Tâm làm chủ. Tâm
tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm ác thì sự đau khổ sẽ theo nhƣ bánh
xe lăn theo dấu chân con bò kéo xe”. Tâm là cốt tủy để con ngƣời có thể vƣợt
thoát khỏi vòng luân hồi, ra khỏi lẽ sinh tử thông thƣờng. Với mục đích cuối
cùng là giác ngộ và giải thoát con ngƣời khỏi những đau khổ của cuộc đời,
Phật giáo hƣớng con ngƣời đến tu trì, tu tập để đạt đƣợc hạnh phúc, tới đƣợc
cõi Niết Bàn – một nơi không có sinh cũng không có diệt (vô sinh), chấm dứt
mọi sự khổ đau, kiến tính thành Phật. Con ngƣời khi hiểu rõ sinh tử (liễu sinh
tử) thì sẽ không còn sợ hãi, mà an nhiên tự tại đón nhận cái chết. Tác giả
Visuddhacara trong cuốn Chết trong hạnh phúc (Thích Tâm Quang dịch) dẫn
lại chuyện ngƣời mẹ kế của Đức Phật Maha Pajapati Gotami sắp chết ở tuổi
120 già lão, đã quở trách những ngƣời than khóc: “Các ngƣơi không trông
thấy thân ta đã trở nên già nua và hom hem sao? Nó giống nhƣ nơi rắn thƣờng
lui tới của bệnh tật, nơi nghỉ ngơi của tuổi già và cái chết, cái nhà của khổ
đau. Ta mệt mỏi đã phải lớn lên trong cái xác thân này. Nó chẳng là gì cả
nhƣng là một gánh nặng cho ta (…). Thật ra cái chết của ta là hạnh phúc. Đó
là lúc cho ta đánh trống mãn nguyện và sung sƣớng. Tại sao các ngƣơi lại khóc?” 10. Câu chuyện này cũng giống nhƣ câu chuyện Đức Phật trƣớc khi
nhập diệt bảo các Anan đừng than khóc, bởi mọi pháp hữu vi đều là vô
thƣờng, nên hãy gặp cái chết với sự tỉnh giác và trầm tĩnh. Việc than khóc
trƣớc cái chết của ngƣời khác, theo quan niệm của đạo Phật thì "chỉ dẫn đến
10 11 Visuddhacara, Chết trong hạnh phúc, Thích Tâm Quang dịch, Nxb. Tôn giáo, 2005, tr.175.
24
thêm khổ sở đớn đau. Khóc không làm ngƣời chết sống dậy. Ngƣời than khóc
trở nên xanh xao gầy yếu. Ngƣời đó chỉ hành hạ lấy mình và sự khóc than thƣơng tiếc là vô nghĩa."11.
Vậy là trong quan niệm của Phật giáo, khi đối mặt với cái chết, ngƣời
sắp chết không sợ hãi, mà ngƣời sống cũng không nên buồn đau, bởi ngƣời
hiểu biết nhận chân đƣợc lẽ sinh diệt theo duyên hợp của tâm và thân – những
1.3. Đạo giáo và quan niệm “tề sinh tử” (sinh tử là nhƣ nhau).
cái vốn dĩ chẳng bao giờ thực sự thuộc về con ngƣời.
Khác với Nho giáo đề cao những giá trị đạo đức làm nên sự bất tử của
tinh thần, Đạo giáo nhìn nhận sự sống và chết là nhƣ nhau. Trang Tử là ngƣời
dành nhiều quan tâm nhất tới sự sống và cái chết. Kế thừa tƣ tƣởng của Lão
Tử, đứng trên góc độ Đạo để nhìn nhận về vấn đề này, Trang Tử cho rằng
sống hay chết đều là sự biến hóa của Đạo, hay là sự biến hóa của khí. Quan
niệm về sự sống chết của Đạo gia là sinh đạo tƣơng hợp, dƣỡng sinh toàn
thân, thản nhiên đón nhận sự sống chết. Đạo giáo cho rằng con ngƣời sinh ra
từ sự hòa hợp giữa hai khí âm và dƣơng, do khí tụ lại mà sinh ra, khi khí tán
thì chết đi. Vì vậy, sự sống và cái chết chính là một thể thống nhất. Sự sống
và cái chết chỉ khác nhau về hình thái chứ không khác biệt về bản chất. Giá trị
của cái chết, theo Trang Tử, vì thế, cũng chỉ là một dạng nghỉ ngơi sau cuộc
du chơi trên cuộc đời. Thế nên, con ngƣời nên thuận theo lẽ sống chết.
Trong cách nhìn của Trang Tử, những nhân cách tinh thần lý tƣởng
chính là Chân nhân, Chí nhân và Thần nhân. Điểm chung của họ đều có thể
vượt lên trên sự sống chết – đạt tới siêu việt sinh tử. Chân nhân có cái nhìn rất
thờ ơ, lạnh nhạt đối với sự sống và cái chết, ông không hoan hỉ yêu thích sự
25
sống và cũng không bài xích chống lại cái chết, giống nhƣ nó đến một cách
nhẹ nhàng và ra đi cũng rất nhanh chóng vậy. Chí nhân rất trầm mặc và luôn
bình tĩnh, không tỏ ra ngạc nhiên trƣớc bất cứ sự thay đổi nào nên có đủ bản
lĩnh để vƣợt lên bốn biển, vƣợt lên cả sự sống chết. Thần nhân lại có thể đi
mây về gió, cƣỡi rồng ngao du khắp bốn biển. Mức độ tu dƣỡng tinh thần đạt
tới ranh giới mà ngay cả sự sống và cái chết cũng không thể làm cho dao
động hay tổn hại đƣợc. Dƣới sự miêu tả của Trang tử, cả Chân nhân, Chí nhân
và Thần nhân đều đã vƣợt lên trên cả sự sống chết, vƣợt lên trên cả cuộc sống
của con ngƣời để nhìn nhận về cuộc sống con ngƣời. Họ nhìn sự sống chết
với thái độ rất siêu nhiên nên cũng có sự trấn tĩnh và ổn định rất lớn về mặt
tinh thần, nên không phải chịu bất cứ một ràng buộc nào bởi sự sống và cái
chết. Những mẫu hình nhân cách lý tƣởng ấy đều vƣợt thoát lên khỏi những
ham muốn thế tục, vật dục thông thƣờng, “không ăn ngũ cốc, chỉ hớp gió
lành, uống nƣớc sƣơng móc” (Tiêu dao du, Nam hoa kinh), trở thành nhân
cách siêu việt với năng lƣợng siêu phàm có thể tác động vào vũ trụ.
Xét về cách ứng xử với thân xác theo quan điểm thánh nhân đó của Lão
Trang vẫn có tƣơng đồng với Nho gia. Lục Cửu Uyên đời Nam Tống đã nói:
“Sự phân biệt thiên lý nhân dục “không phải là lời của thánh nhân” (ý nói
Khổng Tử) mà gốc ở Lão thị”. Chƣơng 12 của Đạo đức kinh viết về những
mối nguy cơ mà thế giới vật dục thông qua thân thể mà chi phối con ngƣời
“ngũ sắc linh nhân mục manh; ngũ âm linh nhân nhĩ lung; ngũ vị linh nhân
khẩu sảng; trì sính điền liệp linh nhân tâm phát cuồng; nan đắc chi hóa linh
nhân hành phƣơng. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục, cố khử bỉ thủ thử”
(nghĩa là: ngũ sắc làm ngƣời ta mờ mắt, ngũ âm làm ngƣời ta ù tai, ngũ vị làm
ngƣời ta tê lƣỡi, ruổi ngựa săn bắn làm cho lòng ngƣời ta mê loạn, vàng bạc
châu báu làm cho hành vi ngƣời ta đồi bại. Cho nên thánh nhân cầu no bụng
mà không cầu vui mắt, bỏ cái này mà lựa cái kia (tức cầu chất phác, vô dục
26
mà bỏ sự xa xỉ, đa dục) – Nguyễn Hiến Lê dịch). Đó chính là cơ sở để hiểu
đƣợc triết lí nhân sinh của đạo gia hƣớng đến cuộc sống theo phƣơng châm
“khinh vật quý sinh”. Lão Tử nói: “Danh dữ thân thục thân? Thân dữ hóa thục
đa? Đắc gữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất đại phí, đa tàng tất hậu vong.
Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trƣờng cửu” (nghĩa là: danh lợi và thân,
cái nào cần hơn? Thân mệnh với của cải, cái nào quý hơn? Đƣợc danh lợi vật
chất, mất sinh thân mệnh thì có hại thế nào? Ham danh lợi của cải nhiều quá
sẽ mất nhiều, hao tổn nhiều thân mệnh. Biết đủ sẽ không nhục, biết ngừng sẽ
không nguy khốn mà sống lâu – chƣơng 44).
Nhƣ vậy, triết lý về thân của Lão Tử đề cao cái chân phác, tự nhiên,
thanh tâm quả dục, thanh tĩnh vô vi, khƣớc từ ham muốn vật chất. Đến Trang
Tử thì đã có dấu ấn của sƣ đề cao lí tƣởng tu thân thành tiên mà các bậc thánh
nhân vƣợt thoát hẳn thế tục trong cách ứng xử thân xác.
Từ Lão Tử, Trang Tử đến các nhà tƣ tƣởng Tống nho đều trình bày bản
năng cần khắc phục của con ngƣời thể hiện qua ngũ quan, tức thân thể. Tham
vọng thỏa mãn nhu cầu bản năng thân xác của con ngƣời là vô cùng, nhƣng
khả năng đạt đƣợc dục vọng lại hữu hạn khiến cho con ngƣời luôn đau khổ, lo
buồn. Trang Tử nhìn cái chết trên cơ sở lí luận về thế ứng xử với thân xác.
Trong thiên Chí lạc, ông phê phán sự mê lầm của phàm nhân chạy theo nhu
cầu thân xác bản năng: “Trong thế giới ngƣời ta đều quý giàu có, tôn quý,
trƣờng thọ, tên tuổi, ngƣời ta đều thích thân thể an nhàn, ăn uống no đủ, mặc
đẹp nhiều màu sắc, nghe âm thanh vui tai và ghét bỏ sự nghèo hèn, ti tiện,
chết non, tiếng xấu, cảm thấy đau khổ nếu thân thể không đƣợc an nhàn, ăn
đồ ăn dở, không đƣợc mặc đẹp, mắt không đƣợc thấy màu sắc đẹp, tai không
đƣợc nghe một tiếng hay, một khi không đƣợc thỏa ý thì lấy làm buồn lắm.
Nhƣ vậy sống mà chẳng ngu xuẩn lắm sao!” (Trang Tử, Nam hoa kinh, thiên
27
Tiêu dao du). Đối với Lão Tử, vô vi – không ham muốn - mới là điều thực sự
vui thích. Trang Tử tiến thêm một bƣớc, đƣa ra cách nhìn đầy triết lý về cái
chết vốn là điều mà con ngƣời phàm trần thƣờng rất lo sợ. Thiên Chí lạc kể
chuyện vợ Trang tử mất, Huệ Tử đến viếng, thấy Trang Tử ngồi vỗ bồn sành
mà hát nên trách ông quá đáng. Trang Tử giải thích bằng việc nhận thức quy
luật của sinh mệnh. Từ đó mà nói rằng nếu cứ than khóc thì tức là không hiểu
mệnh số. Bậc thánh nhân nắm đƣợc quy luật thì không rơi lệ trƣớc sự chia
sống chết nữa. Trang Tử nói: Sống đƣa tới chết, chết là đầu mối của sống. Ai
biết đƣợc thứ tự trƣớc sau của sống chết? Ngƣời ta sinh ra là do cái khí tụ lại.
Khí tụ thì sinh, khí tán thì chết. Tử sinh đã tuần hoàn thì còn có gì mà lo?
(Thiên Trí bắc du, Nam hoa kinh). Ông còn dẫn chuyện ngụ ngôn chiếc đầu
lâu kể về thế giới của ngƣời chết: “ Chết rồi thì không có vua ở trên, bề tôi ở
dƣới nữa, không có công việc trong bốn mùa nữa, thung dung cùng thọ với
trời đất, dù làm vua cũng không vui bằng.” (Thiên Chí lạc, Nam Hoa kinh).
Với một thế giới toàn hảo nhƣ vậy, cái chết không có gì đáng sợ nữa mà còn
hạnh phúc hơn cả sự sống nhân gian vốn dĩ đƣợc coi là khó nhọc, khốn khổ:
“Sống chỉ là gởi thôi; ta sinh ra là gởi tạm ở đời này. Đời sống chỉ là bụi rác.
Sống với chết, cũng nhƣ ngày và đêm, nối tiếp nhau”. Cái chết, trong tƣ tƣởng
Đạo giáo, là sự vận hành của Đạo, của vũ trụ, của tự nhiên. Con ngƣời, sinh ra
cũng từ nguyên lý của Đạo, cũng nhƣ vạn vật, sinh ra rồi chết đi, chỉ là một
sinh vật hữu hạn trong sự luân chuyển vĩ đại của Đạo. Cho nên Trang Tử nói:
“Con ngƣời ở trong khoảng trời đất cũng nhƣ con ngựa trắng, vụt qua cái khe
hở, một nháy mắt rồi biến mất. Vạn vật hốt nhiên xuất hiện rồi lại hốt nhiên
trở vô. Do sự biến hoá tự nhiên mà sinh, rồi do sự biến hoá tự nhiên mà chết.
Các sinh vật lấy vậy làm buồn, loài ngƣời cho vậy là thảm. Sự thực, cái chết
chỉ là trút cái túi (cung) tự nhiên, bỏ cái bao (kiếm) tự nhiên của trời, phân
vân tiêu tán, hồn phách rời đi, thể xác tan rã, cái đó gọi là “đại qui” (cuộc trở
28
về quan trọng). Từ vô hình mà thành hữu hình (sinh), lại từ hữu hình mà
thành vô hình (tử), điều đó ai cũng biết, không phải gắng sức mới hiểu đƣợc;
ai cũng bàn luận tới.” (Thiên Trí bắc du, Nam hoa kinh, Nguyễn Hiến Lê
dịch). Hiểu đƣợc Đạo rồi, hiểu đƣợc sống chết rồi thì “lấy lý hóa tình” nhƣ
chuyện Trang Tử gõ bồn sành hát trong tang ma của vợ vậy. Nhà đại chú giải
Quách Tƣợng đã luận giải: “Ngƣời không hiểu biết thì buồn rầu, nhƣng khi đã
hiểu biết thì không cảm thấy buồn rầu nữa. Cho nên có thể lấy lý mà hóa tình”12. Vì thế Tần Dật chỉ trích tang gia gào khóc trƣớc cái chết của Lão Tử
rằng: “Ấy là trốn tự nhiên, thêm tình ngƣời, quên đi những gì đã nhận đƣợc
[của tự nhiên]. Đến thích đáng là thời của phu tử. Đi thích đáng là thuận cho
phu tử. An thời xử thuận, thì buồn vui không thể đến. Ngƣời xƣa gọi là sự giải thoát của Trời”13.
12 Dẫn theo Phùng Hữu Lan, Đại cương triết học sử Trung quốc, Nguyễn Văn Dƣơng dịch, Nxb Thanh niên, TT nghiên cứu quốc học, 1998. Tr.120. 13 Dẫn theo Phùng Hữu Lan, Sdd, tr.120.
29
Tiểu kết:
Một đặc điểm dễ nhận thấy là sự gặp gỡ nhau giữa các tƣ tƣởng văn
hóa cổ trung đại Nho – Phật – Lão trƣớc vấn đề cái chết nói riêng và những
yếu tố bản năng khác của con ngƣời là thái độ khắc kỉ đối với thân xác. Mỗi
học thuyết, tƣ tƣởng đều có mẫu hình thánh nhân lý tƣởng nhƣ tấm gƣơng
trong cuộc sống của con ngƣời. Và ở mẫu hình đó, dù là thánh nhân quân tử
của Nho gia, hay Tiên - Phật của Phật giáo, Đạo Lão thì trƣớc cái chết, ta đều
không bắt gặp tâm thế sợ hãi, lo âu trƣớc cái chết. Thậm chí, khi đối mặt với
cái chết, con ngƣời còn đƣợc khuyến khích “sát thân” để bảo toàn đạo nghĩa,
giáo lý. Nhà vua thiền sƣ Trần Thái Tông đã thấu rõ: “Tuy ngôn thân mệnh
chi chí trọng, do vị túc trọng ƣ chí đạo giả dã. Cố Khổng Tử viết: triêu văn
đạo, tịch tử khả hỷ. Lão Tử viết: ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân.
Thế tôn cầu đạo xả thân cứu hổ. Khởi phi tam thánh nhân khinh thân nhi
trọng đạo giả tai!” (Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Khóa hư lục) nghĩa là: tuy
nhiên nói thân mệnh là đáng trọng nhƣ cũng còn chƣa trọng bằng cái đạo tối
cao. Cho nên Khổng Tử nói: sớm nghe đạo, chiều có thể chết đƣợc rồi. Lão
Tử nói: ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân. Đức thế tôn cầu đạo, quên
30
mình cứu hổ. há chẳng phải ba bậc thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo
đó sao?.
Đúng nhƣ NNC Trần Nho Thìn đã nhận định, trong một hoàn cảnh nhất
định, việc coi cái chết không phải là nỗi lo sợ lớn nhất của đời ngƣời sẽ đem
lại sức mạnh tinh thần to lớn, giúp con ngƣời vƣợt qua đƣợc giới hạn của thân
xác trần thế để đạt tới mục đích, lý tƣởng; nhƣng mặt khác, việc coi thƣờng
thân xác, phủ nhận những yếu tố thuộc về bản năng của thân xác, thậm chí đòi
hỏi tiêu diệt cái bản năng, vốn là điều bất khả, có thể trở thành một thái độ
phản nhân đạo. Sống là nguyện vọng mãnh liệt nhất của mọi sinh mệnh. Chỉ
có quý trọng thân thể sinh mệnh của mình thì mới có thể quý trọng sinh mệnh
và thân thể của ngƣời khác. Khắc kỉ đối với chính mình tất yếu cũng đòi hỏi
khắc kỉ với ngƣời khác, cũng có nghĩa nếu không sợ chết, anh cũng đã coi
thƣờng sự sống của chính mình, của mọi ngƣời. Thấy đƣợc mặt tích cực và
tiêu cực đó trong các học thuyết, tƣ tƣởng, chúng ta mới có thể trân trọng ý
nghĩa của mẫu hình lý tƣởng, cũng đồng thời nhận thấy ý nghĩa của việc từ bỏ
nhiều mặt lý tƣởng trong mẫu hình đó để trở về với bản thể con ngƣời đích
thực: con ngƣời là không hoàn thiện, con ngƣời phàm trần với những cảm xúc
bình thƣờng nhất đƣợc thể hiện và dần hoàn thiện trong văn học những giai
đoạn khác nhau.
31
CHƢƠNG 2. KHÁI LƢỢC VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC THẾ KỈ XVIII.
Văn học Việt Nam trƣớc thế kỷ XVIII thể hiện rõ nét những ảnh hƣởng
sâu sắc quan niệm về cái chết từ các tƣ tƣởng văn hóa lớn, đặc biệt là từ Nho
giáo và Phật giáo. Với lực lƣợng sáng tác văn học chủ lực từ các Thiền sƣ,
quý tộc rồi chuyển sang sự thắng thế của tầng lớp nho sĩ, tất thảy đều thấm
nhuần những giá trị đạo đức, những phẩm chất để vƣơn tới mục đích trở thành
con ngƣời lý tƣởng, mà điểm chung là không sợ hãi trƣớc cái chết. Các tác
phẩm văn học giai đoạn này vì thế cũng thể hiện thái độ của họ, trực tiếp hay
gián tiếp khi nhận thức và viết về cái chết.
Nói tới văn học Việt Nam trƣớc thế kỷ XVIII thì văn học Lý – Trần là
một dấu son trong lịch sử văn học thời trung đại. Dấu ấn để lại là dòng thơ
Thiền Lý – Trần với các sáng tác của các thiền sƣ, quý tộc theo Thiền học.
Sau đó là sự tiếp nối, thay thế của các nhà nho trong sự thắng thế của Nho học
32
ở các thế kỷ sau. Ở chƣơng này, chúng tôi chỉ nhằm khái lƣợc lại đƣợc những
nét chung nhất, rõ nét nhất của văn học giai đoạn trƣớc thế kỷ XVIII về vấn
đề cái chết, để từ đó có đƣợc sự so sánh đối chiếu với các sáng tác văn học
giai đoạn XVIII – đầu XIX.
2.1. Thơ Thiền sƣ: Thái độ ung dung điềm tĩnh trƣớc cái chết.
2.1.1. Thấm nhuần quan niệm thân xác là huyễn ảo, cái chết là lẽ
thƣờng.
Nhƣ đã trình bày ở mục 1.2 về quan niệm của Phật giáo về thân xác,
con ngƣời là do “tứ đại giả hợp”, do ngũ uẩn tạo thành, vì thế bản thân con
ngƣời không có tự ngã. Sắc thân, cái hình hài, thể xác cũng nhƣ cảm xúc của
con ngƣời đều thuộc về cái vô thƣờng, là ảo hóa hƣ huyễn trong quan niệm
của nhà Phật. Thân hƣ ảo thì cái chết vì thế hoàn toàn là lẽ tự nhiên. Quán
niệm này thể hiện rõ trong sáng tác của các thiền sƣ thời Lý Trần, đặc biệt là
trong các thơ, kệ của các thiền sƣ trƣớc khi chết.
Các thiền sƣ đời Lý – Trần xem thế giới hiện thực khách quan mà con
ngƣời đang sống chỉ là giả tƣớng. Vạn vật, kể cả con ngƣời vốn dĩ không có
gì thuộc về mình, cả thể xác lẫn tâm ý - tất cả từ không mà sinh ra, nhƣ thiền
sƣ Bản Tịnh ví thân hƣ ảo chỉ nhƣ bóng hình trong gƣơng mà thôi:
Huyễn thân bản tự không tịch sinh
Do như kính trung xuất hình tượng
(Tấm thân hƣ ảo vốn từ hƣ không tịch mịch mà sinh ra
33
Giống nhƣ cái bóng xuất hiện trong gƣơng)
(Kính trung xuất hình tượng)
Cũng trong cảm quan này, Tuệ Trung thƣợng sĩ Trần Tung trong bài
Vạn sự quy y có câu:
Thân như huyễn kính, nghiệp như ảnh
Tâm nhược thanh phong, tính nhược bồng
(Thân nhƣ gƣơng ảnh, nghiệp nhƣ bóng
Tâm nhƣ gió mát, tính nhƣ cỏ bồng).
Với nhà sƣ Minh Lý, sắc thân chẳng có bóng, cũng chẳng có hình, chỉ
là cái hƣ vô nhƣ gió trên cây tùng, trăng sáng dƣới nƣớc: thấy đấy mà không
thực đấy, không phải là chân nhƣ bản thể của sự vật. Con ngƣời mê lầm trong
thân xác của chính mình cũng chẳng khác nào muốn tìm kiếm và nắm giữ
“một tiếng vang trong khoảng không” (kệ Thị tịch). Con ngƣời sinh ra và
bƣớc vào vòng sinh lão bệnh tử, sự sinh diệt của thân xác cũng nhƣ sự thật
hiển nhiên thành trụ hoại diệt của vạn vật, nói cho cùng rất ngắn ngủi, chỉ nhƣ
ánh chớp vụt qua trong cái vô cùng của vũ trụ, trong vòng luân hồi bất tận:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
(Thân nhƣ ánh chớp có rồi không
Muôn cây xuân tốt thu não nùng)
(Vạn Hạnh, Thị đệ tử)
Với tinh thần khắc phục sự mê lầm về tính thực hữu của thân xác, nhận
thức đƣợc thân xác chỉ là một chặng trong chuỗi hóa sinh, chuyển tiếp giữa vô
và hữu, không và sắc, các bài kệ của các thiền sƣ Lý- Trần thƣờng xoay
quanh triết lý sắc không, coi cái chết nhƣ là sự trở về. Sinh – lão – bệnh – tử
34
đƣợc vẽ ra không nhằm để ca ngợi cuộc sống tƣơi đẹp với khát vọng tận
hƣởng cuộc sống ấy, mà nhằm nhắc nhở con ngƣời giác ngộ phƣơng tiện tạm
bợ, giả dối, hƣ huyễn của cuộc sống, nhìn ra khía cạnh vô nghĩa của tham – sân – si mà ngƣời đời vẫn chạy theo…14. Thiền sƣ Đạo Huệ đời Lý từng viết:
“Đất nƣớc lửa gió và ý thức (tức ngũ uẩn) – vốn dĩ đều là không – nhƣ đám
mây hợp rồi lại tan”; cũng giống nhƣ sau này Trần Anh Tông trong bài Ký
Phổ Tuệ tôn giả nói về sự bất khả của tham muốn thân xác đƣợc lâu bền:
Huyễn khu tuy kiên bất túc ưu,
Khách vân tụ tán, thủy phù bào.
(Đừng lo bền mãi thân hƣ ảo
Mây hợp rồi tan, bọt nƣớc trôi)
Thân hình con ngƣời và cái chết của nó khiến ngƣời đời lo lắng, buồn
bã. Đó là do con ngƣời chấp vào sự tồn tại có thật của thân xác. Các thiền sƣ
đời Lý nói về sự hƣ ảo của thân xác, cái mộng huyễn của cuộc đời nhƣ một
mệnh đề không cần phải giải thích, là một tất yếu hằng nhiên.
Sang đến đời Trần, sự thành hoại của sắc thân, lẽ tử sinh của đời ngƣời
đƣợc phân tích, luận giải giàu hình ảnh, lời lẽ mạnh mẽ, sống động. Trần Thái
Tông khi viết Khóa hư lục, trong Phổ huyết sắc thân cũng đã khẳng định quan
điểm của Phật giáo coi thân xác là huyễn ảo, là nguồn gốc khổ não. Ngay từ
đầu, vị vua thiền sƣ này đã viết: “Chƣ nhân đẳng, thân vi khổ bản, chất thị
nghiệp nhân, nhƣợc tự dĩ thử vi chân, dã thị nhận tặc tác tử” (mọi ngƣời phải
biết rằng, ngƣời ta sinh ra thì cái thân là gốc rễ của cảnh khổ não, cái chất là
nguyên nhân của nghiệp thiện ác. Nếu ta cho cái thân là thực của ta, thì chính
ta đã nhận giặc làm con.) Trong Phổ huyết sắc thân còn răn dạy những kẻ vô
minh chấp vào thân xác, đắm chìm trong cơn mê muội sùng bái chạy theo 14 Ý của NNC Trần Nho Thìn, Nhân vật Truyện Kiều và vấn đề tiếp cận nhân học văn hóa, sdd, tr.399.
35
những ham muốn của thân xác, với những lời lẽ vô cùng sinh động mạnh mẽ:
“lấy ảo làm chân, bỏ không theo sắc. Gáo sọ dừa cắm hoa cài ngọc; bao da
bẩn đeo xạ xông lan. Cắt lụa là bọc túi máu tanh; trộn phấn hoa giồi thùng
phân thối. Diện ngoài nhƣ thế mà thực gốc dơ. Không biết lấy làm hổ ngƣơi, lại cứ theo mà yêu dấu.”15. Việc sử dụng những hình ảnh nghịch dị gây ấn
tƣợng rất mạnh đó chắc chắn nhằm phục vụ cho mục đích thể hiện của tác giả,
song cũng cho thấy sự tái khẳng định lại quán niệm của nhà Phật, vốn cho
rằng thân xác chỉ là “cái thành xây bằng xƣơng cốt và tô quét bằng máu thịt,
để cất chứa sự già và chết, ngã mạn và dối gian" (Pháp Cú, câu 150). Chỉ rõ
sự mê lầm “bỏ không theo sắc” của phàm nhân, Trần Thái Tông vạch rõ sự tất
yếu của cái chết, rằng con ngƣời mãi mãi chỉ là kẻ lữ hành, sống một cuộc
sống lƣu đầy, phải vƣợt qua “bốn núi” sinh lão bệnh tử trong hành trình cuộc
đời:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
(Phong trần thất thểu làm thân khách,
Ngày một xa quê vạn dặm đƣờng)
(Tứ sơn kệ tính tự)
Trƣớc cái chết, con ngƣời bình đẳng, không ai thoát khỏi một sự thật
phũ phàng trƣớc sự hủy hoại, tiêu biến của thân xác mình, “dẫu có văn
chƣơng nức tiếng, dù cho tài sắc nghiêng thành, nào ai có khác chi ai, rốt cuộc
đều về một mối (tức cái chết)” (Phổ thuyết sắc thân). Vƣợt lên trên nỗi ám
ảnh lo sợ về cái chết của những con ngƣời phàm trần vô minh, các bậc thiền
sƣ minh trí giác ngộ cả sắc và không đều không có thật nên vƣợt đƣợc vòng
sợ hãi thông thƣờng. Trong con mắt của các thiền sƣ, cái chết đến hoàn toàn 15 Trần Thái Tông, Khóa hư lục, Đào Duy Anh dịch (1974), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.71.
36
là lẽ tự nhiên. Thuần Chân thiền sƣ nhìn thấy sự sinh diệt qua thân xác: “thân
thị sinh diệt pháp” (thân là sự thể hiện quy luật sinh diệt); Trì Bát thiền sƣ chỉ
rõ sự tất yếu của sinh – tử gắn liền với nhau trong vòng luân hồi: “hữu tử tất
hữu sinh, hữu sinh tất hữu tử” (có tử ắt có có sinh, có sinh ắt có tử); cho nên
Ni sƣ Diệu Nhân nói: “sinh lão bệnh tử, tự cổ thƣờng nhiên” (Sinh lão bệnh
tử, lẽ thƣờng tự nhiên)… Trong Thiền uyển tập anh, tập đại thành của văn học
Thiền tông thời Lý Trần còn lƣu truyền tới ngày nay, chúng ta còn có thể tìm
thấy rất nhiều các tiểu truyện về thiền sƣ kết thúc bằng những bài kệ về lẽ
sinh tử trƣớc khi một vị thiền sƣ nào đó nhập diệt. Trong đó, tất thảy đều cho
thấy một cảm hứng về một hình tƣợng con ngƣời mang tính chất siêu thoát,
liễu sinh tử (rõ sống chết) vƣợt thoát ra khỏi sự mê chấp thân xác của ngƣời
thƣờng. Chính bởi thế, điều ta bắt gặp ở các vị thiền sƣ luôn luôn là điềm tĩnh,
ung dung đón nhận cái chết – một thái độ “vô úy”.
2.1.2. Thái độ vô úy (không sợ hãi) trƣớc cái chết.
Đã không chấp vào sự hiện hữu của thân xác thì không bị ràng buộc bởi
những ham muốn vật dục bản năng, các thiền sƣ không màng danh lợi, địa vị,
tiền bạc…; cũng không lo lắng trƣớc cái chết bởi hiểu rõ lẽ sinh tử của kiếp
ngƣời.
Nhƣ Tuệ Trung thƣợng sĩ, nhìn thấy sống - chết vốn dĩ là một, cũng
chỉ nhƣ một đợt sóng:
Đoán tri không bất hữu tương sa
Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba.
(Đoán biết rằng “không” và “có” không cách nhau lắm
Sống và chết vốn từ một đợt sóng.)
(Đốn tỉnh)
37
Nhƣ Giác Hải thiền sƣ biết sống hay chết là quy luật tuần hoàn của tự
nhiên, nhƣ xuân đến hoa bƣớm xuất hiện, xuân qua thì bƣớm mất hoa tàn, tất
thảy chỉ là giả tƣớng, huyễn ảo nên đâu cần bận tâm:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu, cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
(Xuân sang hoa bƣớm khéo quen thì
Bƣớm lƣợn hoa cƣời vẫn đúng kỳ
Nên biết bƣớm hoa đều huyễn ảo
Thây hoa mặc bƣớm để lòng chi.)
(Thị tật – Ngô Tất Tố dịch)
Nói theo cách nói trong giáo lý Thiền tông, thì thân xác con ngƣời cũng
chỉ là pháp tƣớng, một dạng thức tồn tại của bản thể. Cái chết, sự tan rã của
thân xác ấy cũng chẳng qua cũng chỉ kết thúc một dạng thức tồn tại của con
ngƣời mà thôi, chứ bản thể không mất đi. Trong cái biến hóa vô thƣờng, luân
hồi bất tận của vạn thể, vạn vật, cái thể tính chân nhƣ hiện hữu trong tất thảy:
“chân thân thành vạn tƣợng; vạn tƣợng tức chân thân” (chân thân biến hóa
thành muôn vàn hiện tƣợng, muôn vàn hiện tƣợng cũng là chân thân- Hóa
vận, Tuệ Trung). Thế nên đừng thấy sự vật biến đổi mà hỏi thời gian, vì chân
thân vẫn hiện hữu: “trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác; trăng trong hoa trắng
rõ toàn chân” (Thiền Lão). Với các vị thiền sƣ, hôm nay và ngày mai, sống
hay chết chỉ là một hiện tiền sinh khởi. Những con ngƣời phàm trần đâu nhìn
thấy trong sự đến và đi của mùa xuân sự bất tử nhƣ các bậc giác ngộ:
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận,
Hoa lạc, hoa khai chỉ thị xuân.
38
(Xuân đến xuân đi ngỡ xuân tàn,
Hoa dù nở rụng tiết xuân vẫn là.).
(Thiền Sƣ Chân Không)
Mãn Giác Thiền Sƣ cũng biến cuộc đời thành mùa xuân vĩnh cửu, vẫn
thấy xuân đến trăm hoa đua nở, xuân đi thì muôn hoa đều rụng, nhƣng thể
tính của hoa vẫn không thay đổi. Hoa ở đây chỉ là cái tƣớng bên ngoài, dù hoa
vẫn nở rồi tàn thì thể tính chân nhƣ vẫn còn:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cƣời
Trƣớc mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trƣớc một cành mai.)
(Cáo tật thị chúng,Thích Thanh Từ dịch)
Xuân đến xuân đi, hoa nở hoa tàn ở đây cũng chính là biểu trƣng cho
việc sống chết của con ngƣời, đều là lẽ vô thƣờng! Hình ảnh cành mai trƣớc
sân vẫn nở hoa đêm qua trong lúc xuân tàn hoa rụng là tƣợng trƣng của bản
thể trƣờng tồn. Hiểu rõ chân lý về lẽ sống chết vô thƣờng, thiền sƣ đã vƣợt
khỏi vòng sinh tử luân hồi để đến chỗ chân nhƣ, tự tại: Chớ bảo xuân tàn hoa
rụng hết, đêm qua sân trước một nhành mai. Tâm thế ấy, ta có thể bắt gặp ở
39
nhiều vị thiền sƣ đắc đạo trƣớc khi qua đời. Trong Thiền uyển tập anh, mô típ
về cách thức chết là mô típ phổ biến, có mặt ở tất cả các tiểu truyện về thiền
sƣ. Đó là những cái chết đƣợc đón nhận một cách thanh thản, bình tĩnh nhƣ
thể đƣợc chờ đợi từ lâu. Cái chết đối với các thiền sƣ không hề mang âm
hƣởng bi kịch, mà chết – là một chặng trong luân hồi vĩnh viễn của kiếp
ngƣời, chết là chấm dứt cái ảo mộng, là một sự trở về với vũ trụ:
Vạn duyên tiệt đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập niên dư mộng ảo gian.
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Ná biên phong nguyệt cánh hoàn khoan.
(Cắt đứt vạn duyên, một thân nhàn hạ,
Hơn bốn mƣơi năm qua ở trong ảo mộng.
Trân trọng nhắn bảo mọi ngƣời đừng gạn hỏi,
Trăng gió ở bên kia thế giới lại càng mênh mông).
(Thị tịch – Pháp Loa).
Thiền sƣ Ngộ Ấn trƣớc khi viên tịch cũng ung dung mà rằng:
Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
(Hƣ vô diệu tính khó vin noi,
Riêng bụng hƣ vô hiểu đƣợc thôi.
Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn nhuận,
Trong lò sen nở, sắc thƣờng tƣơi).
(Thị tịch – Ngô Tất Tố dịch)
40
Hay Vạn Hạnh thiền sƣ trong khoảnh khắc ngộ đạo của mình đã dạy đệ
tử đừng sợ hãi trƣớc cái chết:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân ngƣời nhƣ chớp bóng, có rồi lại không
Nhƣ cây cối mùa xuân tƣơi tốt, mùa thu khô héo
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Thịnh suy cũng nhƣ giọt sƣơng treo đầu ngọn cỏ)
(Thị đệ tử)
Đời ngƣời nhƣ ánh chớp, nhƣ cảnh tƣơi rồi héo úa của cây cối, nhƣ
cuộc đời có lúc thịnh suy, cũng chỉ nhƣ giọt sƣơng mai trên đầu ngọn cỏ…
nhận thức đƣợc quy luật sinh hóa vô thƣờng ấy của vạn pháp thì an nhiên, vô
bố úy trƣớc biến thiên của cuộc đời, cái chết chẳng đáng sợ hãi nữa. NNC
Trần Đình Sử đã phân tích rất xác đáng bài thơ này: “Bài thơ này thể hiện
quan niệm lục nhƣ của Phật học. Theo kinh Kim Cƣơng thì mọi thứ ở đời đều
huyễn ảo nhƣ mộng, nhƣ huyễn, nhƣ bào (bọt), nhƣ ảnh (bóng), nhƣ lộ
(sƣơng), nhƣ điện (chớp), không có gì thật và lâu bền. Cả bài thơ là một chữ
vô tuyệt đối…Hình ảnh rất đẹp là “thịnh suy nhƣ lộ thảo đầu phô” là hình ảnh
của cái “không”. Mặc dù vậy nổi lên là con ngƣời kiên nghị, đứng trên biến
ảo. “Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi” là tƣ thế của con ngƣời trí tuệ, không tự dối mình.”16.
Và với Trần Thánh Tông, sống hay chết đều nhẹ tựa mây bay:
16 Trần Đình Sử, Thi pháp Văn học Trung đại Việt Nam, Nxb. ĐHQG, 2005. tr.70.
41
Hữu nhân vấn ngã hà tiêu tức,
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
(Độc Phật sự đại minh lục hữu cảm)
(Có ngƣời hỏi ta sinh diệt là thế nào?
Nhƣ mây trên trời xanh và nƣớc trong bình)
Hoàn toàn là tâm thế an nhiên tự tại vô cùng!
Vẫn còn đó bài thơ tuyệt bút của Ngƣời, ở đó Vô Nhị thƣợng nhân đã
chỉ rõ nẻo đƣờng duy nhất của kiếp ngƣời một cách vô cùng bình thản trong
cái nhìn so sánh độc đáo:
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Tự cổ cập kim,
Cánh vô dị lộ.
(Sống nhƣ mặc áo
Chết nhƣ cởi quần
Xƣa nay vô cùng
Không đƣờng nào khác.)
(Tử sinh, Nhật Chiêu dịch)
Sinh – tử trong con mắt của Thƣợng nhân thật đơn giản, nhẹ nhàng:
nhƣ mặc áo – nhƣ cởi quần! Sinh ra, mang hình hài, sống trong cõi đời này
chính là khoác lên mình chiếc áo giả tạm, đeo mang những nỗi khổ đau; cái
chết mới chính là sự trở về: cởi quần – trở lại với hình hài nguyên sơ sắp sửa
tan vào hƣ vô, trút bỏ những gánh nặng của cuộc đời. Con đƣờng ấy không ai
có thể thoát khỏi, nhƣng trƣớc cái chết “vốn là nỗi ám ảnh to lớn của đời
42
ngƣời”, ta lại thấy ở Vô nhị thƣợng nhân sự buông xả bình thản, ung dung tự
tại, nhƣ một nụ cƣời an nhiên trƣớc cái chết tới gần.
Đúng nhƣ NNC Trần Đình Sử đã nhận xét: “Con ngƣời trong văn học
Lý – Trần vừa có mặt yêu nƣớc, thƣợng võ, vừa có cảm nhận sâu sắc về tính
chất hƣ huyễn của cuộc đời, trƣớc hết là của cái thân con ngƣời.(…).
Thân như tương bích dĩ đồi thì,
Cử thế thông thông thục bất bi?
(Thân xác con ngƣời ta thƣờng nhƣ tƣờng vách lúc hƣ nát
Tất cả ngƣời đời đều vội vàng ai mà không buồn?)
(Viên Chiếu, Tâm không)
Thân cá biệt là huyễn ảo, hoa bƣớm là huyễn ảo (Giác Hải). Sống là
chết, chết là sống (Giới Không). Ngƣời ta tìm đến chân thân, diệu thể; chân
thân trong vạn tƣợng, vô thân mới là chân thân. Phủ nhận kinh nghiệm biến
ảo để đạt tới cái siêu nghiệm vững bền là quan niềm của con ngƣời Thiền học
lúc này. Hành vi tiêu biểu của họ thƣờng thấy là coi biến đổi nhƣ không,
không sợ hãi, không kinh ngạc, đặc biệt là điềm nhiên, bình thản trƣớc cái chết của chúng sinh và của chính mình”17. Các vị thiền sƣ đã để lại một dấu
ấn rõ nét trong văn học thời Lý Trần một tâm thế an nhiên tự tại trƣớc cái
chết, hoàn toàn không có tiếng khóc than cho sự hữu hạn của đời ngƣời.
2.2. Thơ văn nhà Nho: sẵn sàng chết để bảo toàn nghĩa lớn.
2.2.1. Trung thần tiết nghĩa vì nƣớc quên thân:
Triều Lý cho tới đầu triều Trần với ảnh hƣởng sâu đậm của Phật giáo
đã trở thành triều đại thuần từ bậc nhất trong lịch sử nƣớc nhà. Văn học thời
17 Trần Đình Sử (chủ biên), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1998, tr.134 - 135.
43
kì này cũng mang đậm dấu ấn Thiền với tâm thế an nhiên, tự tại, tiêu du của
các vị thiền sƣ, của các bậc quý tộc theo Phật học. Thơ Thiền Lý – Trần viết
nhiều về sự hƣ huyễn của thân xác con ngƣời, coi cuộc đời chỉ nhƣ mộng ảo,
lẽ tử sinh thƣờng nhiên… Tuy nhiên, về sau, nhất là từ giữa triều Trần trở đi,
tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo trong sự thắng thế của Nho giáo, nguồn
cảm hứng văn chƣơng cũng thay đổi vì mối quan tâm đã khác. Khác với các
bậc thiền sƣ mang nặng tƣ tƣởng Thiền học, thuấm nhuần giáo lý nhà Phật về
lẽ tử sinh, chí hƣớng lớn lao của nhà nho là lập mệnh nơi sinh dân, lập thân
nơi thiên hạ. Họ có thể tìm đƣợc sự thỏa mãn cho nhân sinh trong chính việc
hƣớng tới hoàn thiện cho nhân cách, lấy đạo lý làm thỏa mãn. Cái chết không
phải là đề tài của những bậc nho sĩ khi thi ca xƣớng họa, mà họ sáng tác để
nói chí, để “chở đạo”. Các nho sĩ không bàn về sinh tử, không nói tới cuộc
sống sau cái chết của bản thể nhƣ các bậc tu thiền mà bàn về đạo lý, nhân
nghĩa của những kẻ nhập thế hành đạo cứu đời, mang tinh thần tự nhiệm cao
độ. Với trách nhiệm cao nhất của một kẻ sĩ quân tử, nhà nho tự niệm phải bảo
toàn và nêu cao đạo lý theo tƣ tƣởng nho giáo. Kẻ sĩ quân tử không đặt vấn đề
sống chết của bản thân lên trên đạo lý. Nỗi ám ảnh của họ chính là sống nhƣ
thế nào để khi chết không cảm thấy ân hận. Tự thân cái chết nhƣ là sự chấm
dứt sự tồn tại đời sống của thân xác, đối với nho gia mà nói, không phải là nỗi
ám ảnh thƣờng trực có thể khiến họ suy tƣ, lo lắng.
Vấn đề cái chết nhìn từ thế ứng xử với thân xác thể hiện trong văn học
của các nhà nho từ thế kỷ XV trở đi mang đậm nét ảnh hƣởng của Nho giáo.
Đó là sự đề cao nhân cách của hình tƣợng nhà nho lý tƣởng: trung thần tiết
nghĩa. Trƣớc đó, từ thế kỷ XIII chúng ta đã có thể tìm thấy tƣ tƣởng “xả thân
thủ nghĩa” của Nho giáo thể hiện rõ nét trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc
Tuấn. Có thể nói, trong hoàn cảnh đất nƣớc lâm vào hiểm nguy thì tinh thần
quyết tâm giết giặc, không sợ chết của quân dân Đại Việt đã tạo nên sức mạnh
44
ý chí to lớn đem tới chiến thắng lẫy lừng. Ngay từ đầu bài Hịch, Trần Quốc
Tuấn đã nêu danh những nhà nho đƣợc coi là mẫu hình trung nghĩa, một lòng
thờ vua, xả thân vì nƣớc: “Ta thƣờng nghe chuyện: Kỷ Tín liều thân chịu chết
thay cho vua Cao-đế; Do Vu lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vƣợng;
Dự Nhƣợng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn
cho nƣớc; Kính Đức là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-
tông đƣợc thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng
thằng Lộc Sơn là quân nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xƣa, bỏ mình vì nước, đời nào không có?”18. Trần Quốc Tuấn đã nêu gƣơng những
bậc danh nho đƣợc gọi là trung thần tiết nghĩa, không sợ hãi trƣớc những nỗi
đau thể xác mà còn sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo toàn nghĩa lớn, bảo
toàn đạo lý của kẻ bề tôi trƣớc hoàn cảnh nguy khốn. Trƣớc cảnh đất nƣớc
nguy nan, quân vƣơng bị sỉ nhục, bản thân kẻ làm bề tôi tự cảm thấy đau đớn,
Trần Quốc Tuấn khảng khái tuyên bố: “Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì
quên ngủ, ruột đau nhƣ cắt, nƣớc mắt đầm đìa, chỉ căm-tức rằng chƣa đƣợc xả
thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng”19. Không sợ chết, không sợ cảnh “da ngựa bọc
thây” của chính bản thân mình, cũng tất yếu dẫn tới sự không coi trọng sinh
mạng, thân xác của kẻ khác, nhất là khi đó lại là kẻ thù. Điều này lý giải cho
chúng ta hiểu sự thật về “xả thịt lột da, ăn gan uống máu quân thù” không chỉ
là một cách nói hùng biện, mà còn có thật trong lịch sử các cuộc chiến thời cổ
trung đại.
Lịch sử có lẽ thịnh suy, lòng ngƣời cũng vui buồn theo sự hƣng phế,
nhƣng nhà nho, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn đề cao tiết tháo của kẻ sĩ
quân tử. Không chỉ tự bản thân nhà nho xác tín quan niệm sẵn sàng chết vì
18 18Theo bản dịch của Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược,Nxb. Thanh Hóa, 2006, tr.142 - 144.
45
nghĩa lớn, bảo vệ giềng mối của nho gia, mà họ còn đƣợc củng cố niềm tin ấy
một cách mạnh mẽ trong sự lƣu truyền, đánh giá, đề cao những tấm gƣơng tôi
trung tiết nghĩa trong sử sách. Đặc biệt trong những bài thơ vịnh sử, lấy các
nhân vật lịch sử làm trung tâm, các tác giả nhà nho đã thể hiện rất rõ quan
điểm, thái độ của mình khi ngợi ca những bậc thần tử dám xả thân, tuẫn tiết
để giữ đạo nghĩa của kẻ tôi trung. Chẳng hạn nhƣ việc Nguyễn Hữu Nghiêm
theo Đàm Thận Huy đốc suất hƣơng binh khởi nghĩa chống nhà Mạc, mƣu đồ
khôi phục nhà Lê không thành. Ông bị Mạc Đăng Dung phanh thây, dù chết
nhƣng đƣợc lƣu danh vẻ vang “Tiết nghĩa Đại vƣơng”. Hà Nhậm Đại, một
tiến sĩ nhà Mạc vịnh khen Nguyễn Hữu Nghiêm rằng:
Thế biến tình di hận dã thâm,
Túc tiêu đồ báo định thần tâm.
Lão phu bất thức tằng tri phủ,
Nhất phiến trung thành phó chuyển luân.
(Đời loạn, dân lìa, hận cũng ghê!
Đền ơn, những tỏ dạ trung nghì.
Biết chăng, chăng biết cho đầu bạc, Một tấm lòng son đƣợc chứng tri!) 20
Hình ảnh của những tấm gƣơng tuẫn tiết có thật trong lịch sử nho học
Việt Nam để lại trong sử sách, văn học là sự nối tiếp quan niệm về cái chết
đƣợc nhìn qua lăng kính đạo đức Nho giáo. Có thể thấy trƣớc cái chết, sự hy
sinh của nhục thể, đối với nhà nho mà nói, không có gì đáng sợ hãi, mà trái
lại, nó thể hiện cho tiết tháo to lớn của kẻ sĩ: trung với vua – chết vì nƣớc là
vinh. Trong các sách sử, đáng kể với quy mô lớn nhƣ Đại Việt sử kí toàn thư
đều chép lại rất nhiều chuyện những nhà nho đã bỏ thân mệnh, tuẫn tiết để 20 Trích theo Bùi Duy Tân (chủ biên), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 6, NXB Khoa học xã hội, 1997.
46
bảo toàn nghĩa lớn, là minh chứng cho niềm tin và sự khích lệ tinh thần “sát
thân thành nhân”, “xả thân thủ nghĩa” của Nho giáo.
Giữ vững tín niệm “bỏ sống để giữ nghĩa, còn hơn là sống. Cầu sống
mà chịu nhục, ngƣời quân tử ko làm” (Ngô Sĩ Liên), tâm thế khi đối mặt với
cái chết của những nhà nho luôn mang dáng vẻ hiên ngang khí khái, không hề
run sợ. Trần Bình Trọng kiêu hãnh “thà làm ma phƣơng nam chứ không thèm
làm vƣơng đất Bắc”, An phủ sứ Lê Giác bị giặc Chiêm bắt còn lớn tiếng
mắng chửi; Lƣu Biểu ung dung ăn cỗ đầu ngƣời, khắc lại dòng tử tiết nơi
chân cầu… vẫn đƣợc truyền tụng nhƣ những tấm gƣơng sáng chói. Lƣu
Thƣờng trƣớc khi bị hành hình do liên quan tới vụ mật tâu với Thƣợng hoàng
Nghệ Tông giết Quý Ly bại lộ đã để lại bài thơ đầy khí khái:
Tàn niên tứ thập hựu dư tam,
Trung ái phùng tru tử chính cam.
Bảo nghĩa sinh tiền ưng bất ngỗ,
Bộc thi nguyên thượng cánh hà tàm.
(Sống thừa tuổi đã bốn mƣơi ba
Bị chết vì trung cũng đáng mà
Lúc sống không làm điều trái nghĩa Phơi thây đồng nội xấu gì a?)21
Lê Cảnh Tuân, danh sĩ nhà Hậu Trần cũng vƣợt lên trên quy luật già
lão của thể xác mà đề cao ý chí vì đạo nghĩa, chết cũng không từ:
Thân tuy lão hĩ, tâm như trăng,
Nghĩa hữu đương nhiên tử bất từ.
21 Dẫn theo Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1, Nxb. Văn hóa thông tin, 2004, tr. 693.
47
(Thân ta dẫu già rồi, nhƣng lòng ta vẫn còn hăng hái
Việc nghĩa đáng làm thì chết cũng chẳng từ).
(Vô ý)
Làm thơ để nói lên chí khí của mình, lời trong thơ cũng là quan niệm
sống của nhà nho. Lê Cảnh Tuân cuối cùng cũng vì “việc nghĩa đáng làm thì
chết chẳng từ” trong ngục khi những cố gắng đòi phục tích nhà Trần của ông
thất bại.
Khổng Tử nói:“quân tử tật một thế nhi danh bất xƣng yên” (Vệ Linh
công, Luận ngữ) nghĩa là: ngƣời quân tử hận rằng tới chết mà không ai biết
tiếng mình. Chết đáng sợ với nhà nho khi đó là một cái chết vô nghĩa, khi mà
sống không tạo lập đƣợc gì. Cho nên ta có thể bắt gặp đƣợc những nỗi u hoài
của nhà nho khi bất lực trƣớc thời cuộc, không thể giúp nƣớc cứu đời, thỏa
chí khí làm trai:
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
(Cảm hoài – Đặng Dung)
Dịch thơ:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
48
Anh hùng lỡ bƣớc ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chƣa xong đầu đã bạc,
Gƣơm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Đặng Dung viết Cảm hoài, trong lòng ôm hận vì bất lực không thể trả
(Phan Kế Bính dịch)
thù nhà nợ nƣớc, sau cũng chọn cho mình cách tử tiết: nhảy xuống sông tự
vẫn theo vua Trùng Quang. Cha Đặng Dung là Đặng Tất, ngƣời cũng đã bỏ
thân oan vì Giản Định Đế nghe lời gièm pha mà giết đi, cũng đƣợc ngƣời đời
ngợi khen là bậc trung thần. Đặng Minh Khiêm làm thơ ca ngợi cha con họ
Đặng rằng:
Thủy chung tuẫn quốc tâm vô khiểm,
Tiết nghĩa oanh oanh tụy nhất môn.
(Trƣớc sau chết vì nƣớc, lòng không ân hận,
Một nhà hai cha con tiếng vang tiết nghĩa ở đời.)
Rõ ràng đối với cái chết, nhà nho hoàn toàn không có cảm thức bi đát
về sự tan rã của xác thân, của sự chấm dứt đời sống. Những nhà nho hành đạo
sẵn sàng chấp nhận cái chết để bảo vệ đại nghĩa, đề cao giá trị đạo đức của kẻ
bề tôi theo đạo lý của nho giáo với một tâm thế hết sức kiêu hãnh, hiên ngang,
không sợ hãi. Những nhà nho bỏ quan trƣờng về ẩn dật, náu mình nơi thâm
sơn cùng cốc vì chán nản mà buông bỏ thế sự cũng chính là để nêu tấm gƣơng
đạo đức khi tự mình thực thi nhân nghĩa. Với họ, thì chuyện sống chết cũng là
do ý trời, tất yếu không thể cƣỡng lại đƣợc:
49
Cổ vãng kim lai niên hựu niên
Tử sinh hữu mệnh khởi vi thiên.
(Tự thán – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
(Đời xƣa qua rồi, đời nay lại đến, năm này sang năm khác
Sự chết sự sống có số mệnh, không trái đƣợc ý trời đã định.)
Những nhà nho chọn con đƣờng về ở ẩn đều tìm về với những tƣ tƣởng
của Thiền học, Đạo lão để tìm tới sự vƣợt thoát ra khỏi những khổ lụy mà
“cái mũ nhà nho đã làm cho thân mình mắc nhiều lầm lỡ”. Các bậc ẩn sĩ đặt
thân mình thoát khỏi vòng tục lụy, hòa mình vào với thiên nhiên, thanh thản
tự tại, ít nhiều cũng mang dấu ấn ảnh hƣởng quan niệm “coi thân huyễn ảo”
của nhà Phật; tìm kiếm sự tiêu dao trong tƣ tƣởng Lão Trang, song cốt tủy họ
vẫn là những con ngƣời đạo lý của nho giáo. Nguyễn Trãi từng viết: “Mạc
ngoại hƣ danh thân thị huyễn” (Danh hão để ngoài lòng, thân là huyễn ảo).
Những tƣ tƣởng của Phật giáo, Đạo Lão về cái chết nhìn từ thân xác, chúng
tôi đã nói tới trong chƣơng 1 nên không dẫn lại ở đây, cốt chỉ nhằm khẳng
định thêm lần nữa thái độ của nhà nho trƣớc cái chết. Dù hành đạo hay về ở
ẩn, họ cũng đều thừa nhận và thực hành những nguyên lý đạo đức của Nho
giáo. Mang nhân cách của kẻ sĩ quân tử, nhà nho không cho phép mình đặt sự
ham muốn sống chết của bản thân lên trên đạo lý. Hành đạo thì sẵn sàng xả
thân vì nƣớc, dù về ở ẩn nhƣng vẫn giữ tiết tháo. Nhà nho có thể buồn trƣớc
sự đổi thay của thời cuộc, sự bất lực của bản thân, nhƣng không bao giờ sợ
hãi trƣớc cái chết. Những tấm gƣơng nhà nho Trung Quốc nhƣ Khuất Nguyên
tự trầm ở dòng Mịch La để tỏ lòng trung trinh, Bá Di – Thúc Tề nhịn đói đến
chết chứ không ăn thóc nhà Chu hay Văn Thiên Tƣờng chí khí oai liệt trƣớc
cái chết không chịu hàng giặc… vẫn đƣợc các nhà nho Việt Nam ca ngợi, đặc
biệt là trong hoàn cảnh thế sự điên đảo, nhƣ một sự khích lệ, củng cố niềm tin
50
vào sự bất tử của tinh thần bất khuất, vì nghĩa quên thân, dùng cái chết để
chứng tỏ nhân cách.
2.2.2. Ngợi ca những tấm gƣơng liệt nữ.
Đề cao nhân cách lý tƣởng của nho gia với hình tƣợng trung thần tiết
nghĩa, có thể liều mình xả thân thủ nghĩa xuất hiện nhiều trong thơ văn của
nhà nho. Vì thế nhân vật trong các sáng tác văn học cũng đầy ắp hình ảnh của
những ngƣời đàn ông đang thổ lộ ý chí, đạo lý và nhân cách. Hình ảnh những
ngƣời phụ nữ xuất hiện trong các tác phẩm của nhà nho trƣớc thế kỷ XVIII
vốn rất ít ỏi, mà khi xuất hiện cũng đều thể hiện rõ những bài học, giá trị đạo
lý của nho gia. Những cái chết vì chồng, vì nghĩa lớn của những ngƣời phụ nữ
đƣợc nhà nho ngợi khen, đƣa ra làm mẫu hình khuyến khích cho mọi ngƣời
học tập, noi gƣơng.
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong hai trƣờng hợp có
nhiều nhân vật nữ xuất hiện nhất của văn học trƣớc thế kỷ XVIII (trƣờng hợp
còn lại là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi). Bên cạnh nhân vật nữ phản diện
thƣờng đội lốt ma quỷ quấy phá, lôi kéo sĩ tử làm chuyện “đồi phong bại tục”,
nổi bật lên hình ảnh những ngƣời phụ nữ đức hạnh, thủ tiết mà Nguyễn Dữ
xây dựng nhằm “phê phán những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại những giáo điều về đức hạnh, tiết nghĩa”22. Chúng ta lại bắt gặp câu chuyện về dũng
khí xả thân thủ nghĩa, sát thân thành nhân của Nho gia trong Người con gái
Nam Xương. Khi bị chồng nghi ngờ lòng chung thủy, nàng đã gieo mình
xuống sông, tìm tới cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Lê Thánh
Tông đã đứng trên quan điểm nam quyền, tán thành và khẳng định hành động
xả thân thủ nghĩa của nàng, tức là dũng khí biết liều thân mạng để chứng 22 Đinh Gia Khánh – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chƣơng, Văn học Việt Nam thế kỷ X-nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, 1998, tr.519.
51
minh phẩm giá, trinh tiết với ngƣời chồng. Hay trong Chuyện nghĩa phụ ở
Khoái Châu, nàng Nhị Khanh dù gặp phải ngƣời chồng nhƣ “tuồng chó lợn”
đem nàng gá bạc vẫn một lòng một dạ, tự vẫn để bảo toàn danh tiết. Nguyễn
Dữ khen nàng: “Than ôi, ngƣời con gái có ba đạo theo, theo chồng là một.
Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng không? Thƣa rằng không. Đời
xƣa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục. Chết hợp với nghĩa,
có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là theo chồng đó”. Những lời ấy dù
ngợi ca và thƣơng cảm cho cái chết của nàng, nhƣng mục đích chính lại nằm
ở việc rao giảng, đề cao đạo lý nho giáo. Cho nên ở Chuyện Lệ Nương, nàng
đƣợc khen là “trinh thuần cƣơng liệt” khi tự sát quyết không theo giặc, thì
Nguyễn Dữ lại phê phán nhân vật Phật Sinh quá nặng tình, vì cái chết của
nàng liều chết trong trận mạc, ở vậy không lấy vợ - nhƣ thế là không biết rằng
“ngƣời quân tử phải biết tòng quyền chứ không nên chấp nhất”. Chữ tình giữa
Phật Sinh và Lệ Nƣơng thực có cảm động đấy, nhƣng không cao bằng đạo.
Thực chất, nhà nho nhìn cái chết của những ngƣời phụ nữ không phải từ sự
tôn trọng quyền sống, sự tôn trọng thân xác của họ; mà sự ngợi khen những
cái chết ấy chính là một hình thức khuếch trƣơng giá trị đạo lý của nho giáo
nhằm mục đích khuyến khích nêu gƣơng. Tập Hồng Đức quốc âm thi tập của
hội Tao Đàn có chép lại bài thơ của một tác giả khuyết danh khen nàng Mỵ Ê,
vợ vua Sạ Đẩu. Nàng bị vua Lý Thái Tông bắt đem về sau cuộc chiến, giữa
đƣờng đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Tiếp tục vẫn là thái độ ngợi ca, cảm
phục một ngƣời phụ nữ tiết liệt đã giữ đƣợc trọn đạo cƣơng thƣờng:
Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương
Một mình trọn đạo việc cương thường.
Non thiêng dễ hóa hồn Tinh vệ
Nước biếc khôn nhìn mặt Sở vương.
Dòng bạc thề cùng, thu có nguyệt
52
Sử xanh chép để, bút còn hương.23
Cái chết tuẫn tiết của những ngƣời phụ nữ nhƣ thế, cũng giống nhƣ
cảm thức chung của văn học thời kỳ này: chỉ đƣợc “nói về” mà “không tiếc” –
cũng chẳng khác gì “trong Hồng Đức quốc âm thi tập có 59 bài về thời tiết,
không một bài nói về tiếc xuân; trong 46 bài về nhân vật không một bài tiếc thƣơng ngƣời đẹp; trong 69 bài nói về hoa quả, không một bài tiếc hoa”24. Sử
gia Ngô Sỹ Liên khen những gƣơng liệt nữ cũng nói rõ rồi: “Công chúa Thiều
Dƣơng nghe tin Thái Tôn băng, kêu gào mãi rồi chết; Lê thị nghe tin chồng
chết không ăn mà chết; Mỵ Ê phu nhân tiết nghĩa không lấy hai chồng, trầm
mình chết; vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị không phụ nghĩa chồng, cũng trầm
mình chết theo chồng; mấy ngƣời ấy, nết thuần hiếu trinh khiết trên đời thực không có mấy, vua bấy giờ nêu khen là phải lắm, để khuyến khích đời sau”.25.
Không phải là thái độ xót thƣơng những ngƣời phụ nữ bỏ thân mạng của
mình; không phải là tiếng khóc thƣơng cho một kiếp nhân sinh, bởi trong
quan niệm của nho gia, chết vì nghĩa lớn: chết vì chồng là chết vì đạo nghĩa,
chết để bảo toàn danh tiết là mới là ý nghĩa, đáng ngợi khen và đƣợc khuyến
khích học tập.
Tiểu kết:
23 Trích theo Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2: thế kỷ X – XVII, Nxb Văn Hóa, 1962. 24 Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, sdd, tr.187. 25 Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1, sdd, tr. 540.
53
Ở chƣơng này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu quan niệm phổ biến nhất
về cái chết trong văn học trƣớc thế kỷ XVIII, từ hai lực lƣợng sáng tác văn
học chủ yếu là thiền sƣ và nho sĩ. Đặc điểm chung của văn học thời kỳ này
chính là những quan niệm “nặng mùi đạo mà nhẹ mùi đời” (Trần Đình Sử),
quan niệm về cái chết cũng không nằm ngoài điểm chung đó. Đối với các
thiền sƣ thấm đẫm giáo lý nhà Phật, coi thân xác là hƣ huyễn, cái chết là lẽ tất
yếu trong vòng luân hồi của tạo hóa, nên sự tan rã của xác thân đối với họ
đƣợc đón nhận một cách bình tĩnh, an nhiên, tự tại. Khác với các vị thiền sƣ,
nhà nho đối diện với cái chết với tâm thế hiên ngang, khí khái. Hy sinh thân
xác để giữ trọn đạo, phù vua giúp nƣớc còn là niềm tự hào, thể hiện chí khí
của ngƣời quân tử. Chính vì thế trong các sáng tác văn học của nhà nho giai
đoạn này, chúng ta không tìm thấy tâm trạng buồn đau bi thƣơng trƣớc cái
chết, mà trái lại, lại là những lời khen lƣu truyền sử sách vì những tấm gƣơng
“trung thần tiết liệt”, “nữ liệt trinh khiết” bỏ mình giữ nghĩa.
Thái độ không sợ hãi trƣớc cái chết, không khóc than trƣớc sinh ly tử
biệt của các vị thiền sƣ cũng nhƣ của nho gia cho thấy một sự thật về giá trị
của thân xác con ngƣời không đƣợc trân trọng trong giai đoạn này. Thiền sƣ
coi thân xác là hƣ huyễn, giả tạm. Nhà nho coi thân xác là phƣơng tiện thực
hành đạo. Bản thân thân xác với đủ đầy những ham muốn và cảm xúc của nó,
vẫn chƣa đƣợc nhìn nhận nhƣ một giá trị. Từ đây, chúng ta sẽ có một cái nhìn
đối chiếu sang văn học giai đoạn XVIII – đầu XIX, một giai đoạn văn học lên
tiếng cho quyền sống, cho giá trị chữ “thân” của con ngƣời, từ đó thấy đƣợc
giá trị nhân văn sâu sắc của văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX.
CHƢƠNG 3. SỰ PHÂN HÓA QUAN NIỆM
54
VỀ VẤN ĐỀ CÁI CHẾT TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XVIII – ĐẦU XIX.
3.1. Tiếp tục cái nhìn duy lý về vấn đề cái chết trong văn học thế kỷ
XVIII – đầu XIX: đề cao nhân cách tử tiết của nhà nho.
Đối với nhà nho, tinh thần trung liệt, tấm lòng trung trinh tiết nghĩa, ý
thức trung quân đã trở thành một khái niệm lớn lao: Đạo. Sẵn sàng hy sinh
thân mạng để bảo toàn Đạo - đó là mẫu hình cho nhân cách tốt đẹp mà mỗi
nhà nho theo đuổi, thậm chí trở thành đức tin của họ. Từ cuối thế kỷ XVII, và
đặc biệt là tới giai đoạn XVIII – đầu XIX các nhà nho đã chứng kiến sự suy
mục, khủng hoảng của các triều đại, chiến tranh, nội loạn liên miên; các giá trị
cƣơng thƣờng mà Nho gia gìn giữ, trọng thị bị đảo lộn chƣa từng có trƣớc đó.
Trong hoàn cảnh ấy, những tác giả nhà nho chính thống tiếp tục đề cao những
tấm gƣơng trung thần tiết nghĩa trong lịch sử nƣớc nhà, nhƣ một cách tự trấn
an về niềm tin của mình vào những giá trị đạo đức làm nên con người theo
quan niệm của Nho giáo. Đó cũng nhƣ một sự cố gắng níu kéo, nhắc nhở con
ngƣời trong thời động loạn, biết noi theo các bậc trung thần nghĩa sĩ mà gắng giữ lấy đạo26. Văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX vẫn có những tác phẩm ghi
chép, lƣu truyền những tấm gƣơng bỏ mình vì nƣớc, đặc biệt là những nhân
vật lịch sử sống vào thời Lê sơ và Hậu Lê, tức là các trung thần dƣới hai triều
vua Lê Chiêu Tông, sau mất vào tay nhà Mạc và Lê Chiêu Thống, sau bị thế 26 Sách Toàn Lê tiết nghĩa lục (đầu XIX) ghi chép lại những tấm gƣơng trung quân tiết nghĩa, chủ yếu là các nhân vật thời Lê sơ và Hậu Lê, trong lời tựa có viết: “Dĩ thị quan giả vi trung thần nghĩa sĩ chi khuyến kì ƣ thế đạo” (để những ngƣời quan tâm theo dõi sách này noi theo các bậc trung thần nghĩa sĩ mà gắng giữ lấy đạo).
55
bởi nhà Tây Sơn. Đó là hai triều đại rối ren vào bậc nhất trong sự trị vì của
nhà Lê, bắt đầu cho một giai đoạn đầy động loạn và sự sụp đổ của nhà nƣớc
phong kiến về sau này. Những nhà nho bỏ thân vì chống giặc, chết theo vua
hay thủ tiết không ra làm quan…dù hành xử theo cách nào, kết cục cuối cùng
vẫn là tìm đến cái chết để tỏ lòng trung trinh tiết nghĩa. Các tác phẩm văn học
thế kỷ XVIII – đầu XIX nhƣ Tang thương ngẫu lục, Truyền kỳ tân phả, Vũ
trung tùy bút, và đặc biệt là Hoàng Lê nhất thống chí đều ghi chép, miêu tả lại
những cái chết tuẫn tiết nhƣ thế của nhà nho. Từ những câu chuyện đƣợc lƣu
truyền ấy, không khó để nhận ra tƣ tƣởng “xả thân thủ nghĩa”, “sát thân thành
nhân” của Nho gia vẫn tiếp tục ảnh hƣởng, đã ăn sâu vào tín niệm của các nhà
nho giai đoạn này. Những câu chuyện về Lê Tuấn Mậu, Đàm Thuận Huy,
Nguyễn Hữu Nghiêm, Bùi Thế Vinh, Vũ Duệ… một lòng phù vua “tôi trung
không thờ hai chủ” mà hy sinh thân mạng tiếp tục đƣợc kể lại trong Tang
thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án. Trong Truyền kỳ tân phả
của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm có 6 truyện, thì hai trong số đó viết về gƣơng liệt
nữ, tuẫn tiết vì vua – vì chồng (Hải khẩu linh từ, An ấp liệt nữ), đều có thơ
vịnh ngợi khen. Đặc biệt là câu chuyện nàng Bích Châu gieo mình xuống
sông để giúp vua Duệ Tông hoàn thành cuộc binh nghiệp, ca khúc khải hoàn.
Sự lựa chọn cái chết không chút suy nghĩ, ngại ngần nào của nàng Bích Châu
chính là tiêu biểu cho lối suy nghĩ ứng xử theo mẫu hình “thánh nhân”, học
tập gƣơng liệt nữ cổ kim hy sinh vì nghĩa đƣợc Nho giáo truyền tụng. Trƣớc
khi chết, nàng khóc rằng: “có duyên may đƣợc hầu chăn gối, dám tiếc chết để
nghĩa phụ phàng, không phải Cai trƣớng ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt
giận, chỉ hiềm rằng ra quân chƣa thắng thân xuôi trƣớc, luống để anh hùng
nƣớc mắt tuôn. Điều đó là di hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ
sửa văn, nghỉ võ, sẻn dùng ngƣời hiền làm điều nhân nghĩa nhƣ đế vƣơng,
dựng chƣớc lâu dài cho nhà nƣớc, đƣợc nhƣ thế thì u hồn thiếp có thể ngậm
56
cƣời nơi chín suối vậy”27, những lời này từ miệng nữ nhi mà không khác
những bậc nam nhi nguyện vì nƣớc mà xả thân, hoàn toàn thấm đẫm đạo lý
nho gia. Cái chết của ngƣời liệt nữ ở An ấp (An ấp liệt nữ) tuy có những tình
ý mang tính cá nhân, khác so với quan niệm truyền thống (chúng tôi sẽ đề cập
ở phần sau của chƣơng này), song cũng cho thấy thái độ khen ngợi những
ngƣời phụ nữ chết theo chồng của dƣ luận, ngƣời đời mà nữ sĩ dẫn theo trong
truyện. Đề cao, truyền tụng những tấm gƣơng chết vì vua, vì nƣớc, vì chồng
tức là vẫn tán dƣơng sự hy sinh thân xác.
Những tấm gƣơng trung thần của nhà Lê trải qua nạn kiêu binh cho tới
khi Tây Sơn chiếm ngôi, chọn cái chết để tử tiết giữ đạo đã đƣợc miêu tả,
tổng kết, đánh giá hết sức dày dặn trong tác phẩm văn xuôi chữ Hán quy mô
lớn của văn học giai đoạn này: Hoàng Lê nhất thống chí. Giữa vô vàn diễn
biến lịch sử phức tạp, bề bộn của những năm tháng cuối thế kỷ XVIII, các tác
giả sẵn sàng dành cho sự kiện tự tử của một trung thần nhƣ Lý Trần Quán
những trang miêu tả sinh động, kèm với đó là lời bình phẩm ngắn gọn, và còn
dẫn cả ý kiến dƣ luận khen ngợi Quán. Quán đƣợc ngƣời đời khen là chí hiếu,
bậc nghĩa khí. Khi mẹ mất, “Quán ở nhà mồ luôn ba năm liền; miệng không
ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ còn da bọc xƣơng”. Khắc kỷ phục lễ nhƣ vậy
mà Quán vẫn tự bảo mình: “ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhƣng những việc đã
làm trong quãng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với
đạo làm ngƣời”. Trƣớc khi tự chôn mình chết theo chúa để tỏ lòng trung,
Quán giữ lễ cẩn trọng: “đội mũ, mặc áo chỉnh tề, hƣớng về phía Nam lạy hai
lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên đầu, lấy dải lƣng trắng thắt
ngang lƣng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại”. Quán tự
27 Đoàn Thị Điểm, Hải khẩu linh từ, Truyền kỳ tân phả, Ngô Lập Chi – Trần Văn Giáp dịch, Nxb Giáo dục, 1962, tr.30.
57
hận mình giữ đƣợc chữ hiếu theo đạo lễ nho gia nhƣng chữ trung chƣa tận
đƣợc mƣời phần: “Tam niên chí hiếu dĩ hoàn, thập phần chi trung vị tận”
(Hoàng Lê nhất thống chí). Từ cách tỏ lòng hiếu cho tới cái chết tỏ lòng trung
của Quán mới thấy cái nhìn của nho gia đối với thân xác vẫn bảo thủ và khắc
kỉ theo tƣ tƣởng truyền thống của Nho giáo: sẵn sàng hy sinh thân xác để bảo
toàn đạo (hiếu- trung). Trong Hoàng Lê nhất thống chí, đầy ắp những trang
viết miêu tả cái chết của không chỉ Lý Trần Quán mà còn của cả những
Hoàng Phùng Cơ, Trần Công Xán, Nguyễn Đình Giản, Trần Danh Án, Trần
Phƣơng Bính, Nguyễn Văn Quyên… Tất cả đều thể hiện rõ thái độ hiên
ngang, khí khái của nhân cách nhà nho trƣớc cái chết. Đồng thời, các tác giả
cũng thể hiện rõ quan điểm tán dƣơng của mình thông qua những nhận định
ngắn gọn hay dẫn theo ý kiến của dƣ luận đồng tình, cảm phục trƣớc những
hành động đƣợc coi là minh chứng của một nhân cách lớn.
Sự tiếp nối đề cao những tấm gƣơng trung thần tiết nghĩa, liệt nữ trinh
khiết này theo chúng tôi, chính là nhằm nêu cao tấm gƣơng đạo đức nho giáo,
nhất là trong thời loạn. Nói nhƣ ngƣời biên soạn sách sách Toàn Lê tiết nghĩa
lục khi tập hợp những tấm gƣơng trung thần (hầu hết đều là những nhân vật
chọn cái chết để tỏ lòng trung nghĩa) thì là: “Đƣơng quốc gia vô sự chi thời,
phục chính phụng công, lập công kiến nghiệp, vi dị năng dã. Duy quốc nghiệp
sanh thƣơng chi nhật, sinh tử lợi hại đắc thất tồn vong, thực khai hồ đại tiết.
Nhi năng thủ tiết bất khuất giả, vi nan năng yên”, nghĩa là: khi quốc gia bình
yên vô sự, thì theo đòi chính sự, chăm chỉ việc công; lập công dựng nghiệp.
Những việc ấy là việc dễ dàng. Chỉ khi thế nƣớc nhiễu nhƣơng, phải đứng
trƣớc những việc sống còn, lợi hại, đƣợc mất, tồn vong mới thể hiện rõ tiết
tháo lớn lao. Tiết tháo ấy, nhƣ Nguyễn Đình Giản ngự sử nhà Lê, vì con gái
mình bị bắt làm thiếp vua Quang Trung, nhà Tây Sơn lấy đó làm cớ mà thuyết
hàng ông, ông đã coi ngƣời con gái của mình nhƣ mối nhục: “Bất tiếu nữ bất
58
tử, nhục ngã môn đình, tội bất dung trù, an cảm dĩ nhi nữ chi tình loạn ngã
quân thần chi phận? thệ bất dữ thử tặc đồng nhật nguyệt. Thiên nhƣợc bất tộ
Lê, hữu tử nhi dĩ” (Đồ con gái hƣ hỏng ấy chƣa chết đi, là mối nhục lớn cho
nhà ta. Tội nó chẳng thể tha, sao còn dám đem tình nhi nữ ra để làm loạn phận
quân thần? Ta thề chẳng đội trời chung cùng giặc. Trời kia nếu nhƣ không
ban phúc cho nhà Lê, ta cũng chỉ còn có chết mà thôi). Nguyễn Đình Giản
tiêu biểu cho một lớp nhà nho luôn trọng đạo quân thần, đối với tính mạng
của chính mình và cả những ngƣời thân yêu ruột thịt, sẵn sàng có thể hy sinh
để giữ trọn đạo, sống mà không giữ đạo chỉ là mối nhục của cả dòng họ.
Chính ông đã tuyên bố:
Nhĩ lai vi quốc vi thân da,
Quốc phá thân vong thả nại hà,
Chỉ giác cương thường song đại đán,
[…] thử thân thiên dĩ thuộc hoàng gia.
(Cái gì là nƣớc là thân,
Nƣớc mất thân tan biết làm gì.
Chỉ biết hai chữ cƣơng thƣờng,
[…] thân này đã thuộc về nhà vua).
Cho dù cho dù Lê Chiêu Thống là một ông vua mà “nƣớc Nam từ khi
có vua đến giờ không thấy có ông vua nào hèn hạ đến thế” (Hoàng Lê nhất
thống chí), Trần Danh Án vẫn nhất quyết giữ lòng trung trinh. Ông lui về ở ẩn
khi nhà Lê mất, ngày đêm mong ngóng vua Lê Chiêu Thống đang lƣu lạc cầu
viện nhà Thanh trở về. Lời của nhà nho này thật khiến ngƣời ta ngậm ngùi,
bởi mong muốn cho tới lúc chết vẫn là bề tôi của nhà Lê đã mất:
Vô tri như loài ong, kiến còn có vua tôi.
Loài vật kia còn như thế, huống chi ta là người.
59
Họ Khấu, họ Đặng gặp vận khá, được phò ngôi vua Hán;
Họ Tạ, họ Văn vận suy hổ thẹn làm dân nhà Nguyên.
Trời nếu không có ý cho vua (chỉ Lê Chiêu Thống) sống trở về
Ta cũng cam tâm làm tử thần.
Mong được đời sau đề lên mộ chí, Đây là mộ tiến sĩ triều Lê họ Trần.28
(Theo Lê quý dật sử)
Trần Danh Án về sau nghe tin vua Lê Chiêu Thống chết ngậm hờn nơi
đất khách thì khóc thƣơng thảm thiết, không lâu sau thì mất. Lúc sống cho tới
khi chết, ông đều thể hiện tấm lòng tôi trung (dù là ngu trung) không hề thay
đổi “túng tử nan vi cẩu trệ tâm” (dẫu chết cũng không mang lòng khác).
Chuyện Nguyễn Đình Giản, Trần Danh Án đến chết vẫn giữ lòng trung cũng
đƣợc các tác giả Ngô gia văn phái ghi lại trong Hoàng Lê nhất thống chí cũng
nhƣ nhiều tác phẩm mang tính lịch sử khác.
Nhƣ vậy, cái chết đƣợc nhà nho sử dụng nhƣ một biểu tƣợng của lòng
trung thành, cho nhân cách kẻ sĩ theo quan điểm nho giáo. Ứng xử trƣớc cái
chết (hay là sự lựa chọn giữa sống và chết) của các nhà nho minh chứng rõ
ràng cho sự ăn sâu bám rễ của mẫu hình thánh nhân của nho giáo. Thân xác
của mỗi ngƣời là duy nhất, thuộc về cái riêng tƣ, cá nhân nhất, nhƣng ở đây
lại đƣợc lựa chọn “dâng” cho nhà vua, hy sinh cho đạo quân thần. Họ dùng
cái chết để chứng tỏ nhân cách chân chính của một nhà nho nhƣ học thuyết
Nho giáo đã xác lập và củng cố bằng truyền thống mang đậm dấu ấn tên tuổi
các nhà nho tử tiết trong lịch sử. Những tên tuổi nhƣ Bá Di, Thúc Tề, Khuất
Nguyên vẫn đƣợc các nhà nho viện dẫn cho lòng trung trinh, thà chết giữ đạo
cƣơng thƣờng. Kính Phủ Nguyễn Án ghi lại trong Tang thương ngẫu lục 28 Bùi Dƣơng Lịch, Lê quý dật sử, Phạm Văn Thắm dịch, Nxb Khoa học Xã hội, 1987.
60
chuyện một di thần của triều Nguyễn cũ (tức Chúa Nguyễn ở phƣơng Nam, tổ
tiên của Nguyễn Ánh) không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn, lấy nghề bán
than làm kế sinh nhai. Bán than nhƣng khẩu khí vẫn khảng khái:
Bố lệ hữu tình ngung thánh võ,
Cụ thần vô khẩu mạ quyền gian.
Bất năng tuyệt đính Di Tề quỷ,
Hà nhẫn tân giai Phô Chất quan.
Thượng hữu tiên công di trạch tưởng,
Cố ninh Ân nghĩa tác Chu ngoan.
(Những kẻ hèn hạ còn có lòng cảm đội ơn Chúa đáng thƣơng
Kẻ bề tôi bất tài này không có miệng để mắng đứa gian thần.
Đã không lên đƣợc đỉnh núi để chết làm con ma Di, Tề
Sao nỡ còn đứng ở thèm triều mới để lĩnh chức quan nhƣ Phổ, Chất.
Vì còn tƣởng nhớ đến những ơn xƣa của các đấng tiên công (Chúa cũ)
Cho nên thà làm con ngƣời có nghĩa của nhà Ân mà cam chịu mang
tiếng làm tên dân cứng cổ chống lại nhà Chu).
Khẩu khí này thật giống Nguyễn Du trong những tháng năm đầu chống
nhà Tây Sơn. Bị bắt vào ngục, Nguyễn Du tự ví mình nhƣ Bá Di, thà chết
cũng không làm trái điều nhân:
Hán mạt nhất thời vô nghĩa sĩ
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân.
(Cuối đời Hán có thể tạm thời ko có nghĩa sĩ
Nhƣng bao mƣơi năm đầu nhà Chu vẫn có những ngƣời dân ngoan
cƣờng).
61
Và:
Đản đắc kỳ Tây thánh nhân xuất,
Bá Di tuy tử bất vi nhân.
(Cho dù ở Kỳ Sơn phía tây xuất hiện thánh nhân
Thì Bá Di dù chết cũng ko làm trái điều nhân).
Coi trọng chữ nhân, đạo làm ngƣời của nho gia, Nguyễn Du cũng có
cái nhìn tôn trọng với những ngƣời phụ nữ tuẫn tiết, thà chết chứ không chịu
nhục. Câu chuyện Lƣu Thời Cửu (đời nhà Minh) bị cƣớp giết chết, vợ - thiếp
và con gái của ông nhảy xuống sông tự sát chứ không để mình rơi vào tay
giặc cƣớp đƣợc truyền tụng, Nguyễn Du làm thơ tỏ niềm khen ngợi:
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn.
(Tam liệt miếu)
(Bia kệ ngàn năm làm rạng danh ba ngƣời đàn bà tiết liệt,
Cƣơng thƣờng một thủa thuộc về một nhà.)
Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ta có thể tìm thấy rất nhiều những
bài thơ dạng vịnh sử nhƣ Tam liệt miếu, bày tỏ thái độ khen chê rất rõ ràng
của nhà thơ trƣớc cuộc đời, cách hành xử của các nhân vật lịch sử. Đó là niềm
xót xa cảm phục khi nhớ lại lời Dự Nhƣợng giải thích hành động sơn mình để
báo thù cho chủ: “Quý sát nhân thần hoài nhị tâm” (làm cho kẻ bề tôi hai
lòng, phải chết vì thẹn). Ông khóc trƣớc mộ Tỉ Can: “Mục trung sở xúc năng
vô lệ” (Điều mắt nhìn thấy không thể không làm rơi lệ). Với Khuất Nguyên,
ông nhìn thấu sự trinh bạch “Khuất Nguyên tâm, Tƣơng giang thủy; thiên thu
vạn thu thanh kiến để” (lòng Khuất Nguyên, nƣớc sông Tƣơng; ngàn năm vạn
năm soi thấy đáy). Với Văn Thiên Tƣờng, ông cảm khái “Thừa tƣớng cô
trung vạn cổ truyền” (tấm lòng cô trung của thừa tƣớng lƣu truyền mãi muôn
62
đời). Nguyễn Du ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn
năm nằm dƣới đất tóc vẫn dài, nhất định không chịu hàng phục nhà Thanh
(Quế Lâm Cù các bộ). Qua sông Hoài nhớ Hàn Tín, chuyện thắng thua, thành
bại của Hàn Tín, ông không luận bàn mà chỉ nhắc đến nghĩa cử cao đẹp: đền
ơn Phiếu Mẫu, đáp đền tình thâm nghĩa trọng đối với vua, cam lòng chịu chết
(Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu)….Những tấm gƣơng trung thần, liều thân
mình vì đạo nghĩa đƣợc Nguyễn Du ngợi ca, trân trọng, cảm thông hết mực.
Nguyễn Du khác với nhiều nhà nho ở chỗ, ông thể hiện phần tâm huyết, gan
ruột của mình trong các bài thơ vịnh sử ấy chứ không phải áp đạo lý để phán
xét. Khi đi sứ Trung Quốc, ông đã khóc trƣớc mộ của nhiều trung thần nghĩa
sĩ. Xét cho cùng, Nguyễn Du vẫn lại gặp gỡ các nhà nho trong cái nhìn rạch
ròi, dứt khoát về các nhân vật lịch sử, mà ở đây chúng tôi muốn nói tới là các
nhân vật trung thần tiết nghĩa. Sự lựa chọn đạo nghĩa cao hơn sự sống của
thân xác của các nhân vật lịch sử vẫn đƣợc nhà nho cảm phục, trân trọng. Bởi
đối với họ, đó là lẽ sống, là giá trị làm nên nhân cách nhà nho – những con
ngƣời luôn gánh trách nhiệm phù vua giúp nƣớc, những con ngƣời mang lý
tƣởng thời đại luôn đặt mình trong vị thế tƣơng quan với trời đất.
Sự tiếp nối quan niệm “xả thân thủ nghĩa” trong văn học thế kỷ XVIII –
đầu XIX cho chúng ta thấy đƣợc những quan niệm về những giá trị đạo đức
theo tƣ tƣởng nho giáo vẫn còn ảnh hƣởng mạnh mẽ đối với ngƣời đƣơng
thời. Điều này là một tất yếu, vì cho dù vào giai đoạn XVIII – đầu XIX Nho
giáo ở Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng thì nó vẫn đang là hệ tƣ
tƣởng thống trị. Những quan niệm về giá trị con ngƣời trong tƣ tƣởng, đạo
đức nho gia vốn đã tồn tại và ngấm sâu vào tâm thức nhà nho Việt hàng mấy
thế kỷ không thể biến mất hay bị phủ nhận một sớm một chiều.Thậm chí
những quan niệm về mẫu hình nhân cách đạo đức lý tƣởng ấy của Nho giáo
còn trở thành niềm an ủi, chỗ bám víu của nhà nho trong hoàn cảnh rệu rã của
63
thời cuộc. Bên cạnh tiếng nói xót thân, quý thân và vì thế mà khóc thƣơng
trƣớc cái chết trong sáng tác của những tác giả nhà nho đã tạo nên dòng văn
học nhân bản thế kỷ XVIII – XIX (mà chúng tôi sẽ phân tích ở những tiểu
mục sau), cũng cần nhận thấy rõ quan niệm “xả thân thủ nghĩa” hy sinh vì
nghĩa lớn vẫn tiếp tục còn tồn tại.
3.2. Cái nhìn chủ tình về vấn đề cái chết trong văn học thế kỷ XVIII –
đầu XIX.
Nền chung của tƣ tƣởng Nho gia là tự cƣờng tự lạc trong khuôn khổ
việc tồn tâm dƣỡng tính. Với một nhà nho chính thống, ôn nhu đôn hậu, tình
cảm thăng bình, lấy kiểm soát chế ƣớc điều tiết điều tiết tình cảm làm lẽ
thƣờng. Họ vui không thái quá, buồn không bi thƣơng quá. Chí hƣớng lớn lao
của họ là lập mệnh nơi sinh dân, lập thân nơi thiên hạ. Họ có thể tìm đƣợc sự
thỏa mãn cho nhân sinh trong chính việc hƣớng tới hoàn thiện cho nhân cách,
lấy đạo lý làm thỏa mãn. Đến thế kỷ XVIII, trong bối cảnh thời đại có nhiều
đổi thay, môi trƣờng văn hóa đô thị và tinh thần thị dân mạnh lên đã tác động
sâu sắc tới đời sống tinh thần của nhà nho. Kẻ sĩ thời này không còn khuôn
trong chuẩn mực của thời Quang Thuận, Hồng Đức thế kỷ XV nữa. Các nhà
nho không còn bám chặt vào những giáo lý đạo đức lý tƣởng của Nho giáo
nhƣ những thế kỷ trƣớc. Trong tƣ tƣởng của họ xuất hiện những “mối dị
đoan”, đan xen cái chính thống. Các tác giả nhà nho đã xuất hiện ngày càng
mạnh cái ý thức rằng mình là một cá thể đơn trị, có những hoài bão và dục
vọng cá nhân tồn tại ngoài sự ấn định của đạo đức truyền thống. Con ngƣời từ
tầm cao lý tƣởng, sẵn sàng hy sinh thân mình vì đạo nghĩa của văn học thế kỷ
trƣớc đã nhƣờng chỗ cho những con ngƣời phàm trần, thậm chí là những con
ngƣời vốn ở địa vị thấp kém nhất nhƣ kỹ nữ, ả đào. Con ngƣời trở nên thƣơng
Thân nhiều hơn gấp bội - tấm Thân bằng xƣơng bằng thịt, biết buồn vui, yêu
64
ghét, đầy những khát khao, ham muốn. Cũng chính vì thế mà cả đời thực lẫn
thơ ca, nhà nho nói nhiều hơn gấp bội tới sự cô đơn, chia lìa, mất mát - tức là
những điều khiến cho cá nhân bản thân mình đau khổ, bất hạnh. Đau buồn
nhất trên đời này, đối với một con ngƣời cá nhân mà nói, không có gì hơn tử
biệt sinh ly, yêu thƣơng nhau mà phải chia lìa kẻ sống ngƣời chết. Văn học
thế kỷ XVIII – đầu XIX có thể nói là thời kỳ văn chƣơng trung đại viết nhiều
nhất về cái chết, và không khó để nhận ra trong những tác phẩm văn học thời
kỳ này, tràn đầy những tiếng khóc thƣơng. Tiếng khóc thƣơng trƣớc cái chết,
là thái độ rõ ràng nhất cho sự bộc lộ tình cảm cá nhân nhất, riêng tƣ nhất –
cũng chính là nỗi luyến tiếc sự sống. Thân xác đã chết, thì mối giao cảm
thƣơng yêu cũng vĩnh viễn mất đi, không thể nào có lại đƣợc nữa. Thái độ
chủ tình, trọng tình đã xuất hiện mạnh mẽ, không giấu giếm bên cạnh quan
niệm duy lý truyền thống lạnh lùng của Nho gia trƣớc cái chết.
3.3.1. Khóc tình riêng ly biệt bởi cái chết: khóc cho niềm hạnh phúc trần
thế ngắn ngủi.
Những bài thơ khóc vợ, khóc ngƣời thƣơng của các nhà nho của thế kỷ
XVIII- đầu XIX đều hết sức cảm động, không còn hợp với đạo tồn dƣỡng tỉnh
sát, “ai nhi bất thƣơng” của nho gia.
Nguyễn Kiều khóc vợ là nữ sĩ Đoàn Thị Điểm:
Đào chưa tươi đã khô
Quế đang thơm đã rũ
Rừng sâu bể rộng nàng hỡi đi đâu
Ngọc nát châu chìm lòng tôi quặn nhớ.
Sau Nguyễn Kiều, là Ngô Thì Sĩ khóc thƣơng những ngƣời thƣơng yêu
ruột thịt của mình lần lƣợt qua đời. Đó là những bài thơ thƣơng em, khóc mẹ,
65
khóc vợ, khóc ngƣời hầu, khóc bạn… “đều xuất phát từ tình cảm chân thực,
thƣờng đƣợc ông viết bằng những lời lẽ mộc mạc, ít trau chuốt, ít điển cố, chỉ dùng ngôn ngữ hàng ngày, vậy mà rất xúc động lòng ngƣời”29. Vì nỗi nhớ
thƣơng ngƣời em đã mất, mà trong giấc mộng còn tƣởng nhớ ngậm ngùi nhƣ
đứt từng khúc ruột:
Trù trướng chích hồng kim khứ viễn,
Mộng hồn phảng phất cánh kham bi.
Tam canh thu chẩm phùng quân xứ,
Cửu khúc sầu đoan chức ngã thì.
Tuế tự dĩ tằng canh hựu cốc,
Âm dung thượng bất cải tiền kỳ.
Khả kham ngâm suất thôi nhân tỉnh,
Vị cập ân cần tự biệt ly.
(Mộng vong đệ tứ lang)
(Ngậm ngùi vì một cánh chim hồng nay đã bay xa
Mộng hồn phảng phất lại càng đau buồn
Trên chiếc gối canh ba đêm thu là nơi gặp em,
Chính là lúc mối sầu chín khúc quấn quýt lấy ta.
Ngày tháng đã lại qua một mùa lúa mới,
Mà nét mặt lời nói vẫn không khác xƣa.
Đáng giận con dế kêu làm ngƣời tỉnh giấc,
Không kịp bày tỏ tình ly biệt thiết tha.)
Là nho sĩ, nhƣng Ngô Thì Sĩ lại mang trong mình thói đa tình – đa sầu
đa cảm của kẻ văn chƣơng, nhất là khi cảnh đời gặp nhiều ngang trái. Thời
gian nhiều biến cố của cuộc đời, ông đã ngồi lại với riêng mình để suy ngẫm
29 Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Sĩ – những chặng đường thơ văn, Nxb. Khoa học Xã hội, 1992, tr.173.
66
và gặm nhấm nỗi đau riêng. Với ngƣời thị nữ Lý Hà, ngƣời theo hầu ông
những năm tháng gió bụi, mắc bệnh mà chết, Ngô Thì Sĩ thƣơng xót cho phận
nàng, cũng tự trách mình trong cảnh nghèo khó làm lụy tới tấm thân tôi đòi.
Thật hiếm khi ta thấy đƣợc những giọt nƣớc mắt của nho gia khóc thƣơng cho
những thân phận vốn bị coi là hèn mọn nhƣ thế này:
Tam niên bồi thị bão phong trần,
Cân quắc quỳnh nhiên bộc ngự thân.
Mệnh khởi hồng nhan thương nhĩ bạc,
Cảnh ư xích thổ xỉ ngô ban.
Dược thang lỗ mãng tình đa khiểm,
Liệm táng thông mang lễ thiểu tuần.
Cơ kiển cánh di cơ trửu lụy,
Bồi hồi tưởng vãng lệ triêm cân.
(Khốc thị nữ Lý Hà)
(Há phải hồng nhan để ta phải thƣơng cho nàng bạc mệnh,
Ở nơi đất đỏ vùng biên cảnh này ta lấy làm xấu hổ vì cái nghèo của
mình
Khi ốm đau thuốc thang đã sơ sài mà tình cảm cũng thiếu thốn,
Lúc mất rồi, việc chôn cất lại vội vã, không theo đủ đƣợc tuần cúng.
Cảnh nghèo của ta càng làm lụy đến tấm thân tôi đòi của nàng
Ta bồi hồi tƣởng nhớ lại mà nƣớc mắt thấm đầy khăn.)
Nhƣng tấm tình bi thiết và cảm động nhất của Ngô Thì Sĩ là ở những
bài thơ khóc vợ, đặc biệt là ở tập “Khuê ai lục”. Hai lần góa vợ là hai mối đau
lớn trong lòng thi sĩ. Cả hai lần mất vợ, Ngô Thì Sĩ đều bận việc công vắng
nhà. Đó là nỗi ân hận, xót xa suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời ông,
mà tác phẩm để lại đều chất chứa. .Đối với ngƣời vợ cả, đó là tình cảm thƣơng
67
xót ngƣời đã gắn bó với mình từ thuở hàn vi, đã khó nhọc vất vả vì chồng,
đến khi chồng thành đạt lại không đƣợc hƣởng. Còn đối với ngƣời thiếp,
ngƣời mà ông hết mực yêu thƣơng, tình cảm bộc lộ càng trở nên thảm thiết,
vô cùng xúc động. Hai mƣơi bài thơ ông viết về tình cảnh chia ly kẻ thác –
ngƣời còn của mối tình với ngƣời thiếp này chính là tập Khuê ai lục, thấm
đẫm nƣớc mắt. Nỗi nhớ vợ của Ngô Thì Sĩ gắn liền với những kỷ niệm khi
ngƣời còn sống, còn hiện diện, tức là còn yêu thƣơng nhau, từ ấy mà nghĩ tới
hiện thực đã chia lìa đôi ngả, vô cùng đau xót: “Xem lại rƣơng hòm quần áo
của vợ thứ tôi, thấy áo xiêm và sách nàng đọc ngày nào còn đó, thƣơng cảm nhòa lệ. Nghỉ ở nhà ra thăm mộ vợ thứ tôi, thấy cảnh nhớ ngƣời…”30. Cái
chết chấm dứt sự gặp gỡ, vĩnh viễn chia lìa mối ái ân mặn nồng gắn liền với
thân xác, ngƣời ở lại nhớ thƣơng quá đỗi, đêm đêm ông vẫn “mang chăn gối
ra nhà mộ ngủ” mong tìm lại hơi ấm ngƣời nhƣ thời còn sống. Chỉ tiếc có làm
vậy cũng vô ích: “Lòng sầu gối rợn càng thêm buồn bã. Ngƣời ngọc cách đất,
không trò chuyện gì cả, một mình với ngọn đèn leo lét, đêm dài tựa năm.”
(Kỳ nhất, Hưu tại gia, thời ư thứ thất biếm đường tỉnh thị, đố cảnh tư nhân,
thành tam tuyệt). Những nỗi nhớ thƣơng vợ của Ngô Thì Sĩ mang dấu ấn hiện
diện rõ nét của thân xác ngƣời thƣơng yêu. Ông “mở xem những rƣơng bọc
của thứ thất, thấy những sách vở quần áo, bất giác bùi ngùi thƣơng cảm”
(Duyệt thứ thất bao sương đắc sở di thư tịnh y thường, huyễn nhiên thương
cảm):
Mỗi tự ân cần bi thặng chẩm,
Nan tầm vũ mị khốc di y.
(Thƣờng tự mình băn khoăn thƣơng chiếc gối lẻ loi
Khó tìm đƣợc cái vẻ tƣơi đẹp, chỉ khóc nhìn manh áo còn để sót lại)
30 Dẫn theo Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Sĩ – những chặng đường thơ văn, Sdd, tr. 188.
68
Ngắm cây đàn ngƣời vợ yêu của mình, Ngô Thì Sĩ chỉ thêm thƣơng
tâm:
Tư quân vô kế phủ quân cầm,
Trụ xuế huyền giao lạc khước âm.
Án phổ dục xoang bất thành điệu,
Bồi hồi để ngoạn chỉ thương tâm.
(Thập tư)
(Nhớ nàng không có cách nào, đem cây đàn của nàng ra gảy
Phím gãy dây chùn sai lạc cả tiếng
Theo bài đàn, muốn lựa xoang mà không thành điệu,
Bồi hồi ngắm nghía kỹ chỉ thêm thƣơng tâm)
Trong Văn tự mình đứng tế trong ngày giỗ đầu, ông viết: “thƣờng tự
nhủ thầm rằng: ngƣời đời dù sang hèn đều có niềm vui đôi lứa, sự hòa hợp vợ
chồng, đến cả côn trùng cũng vậy. Thế mà riêng tôi gƣơng vỡ lẻ đôi, chăn đơn
gối chiếc, gƣợng vui đối đáp với ngƣời, vào phòng một mình than khóc. Mỗi
khi gió táp mƣa sa, trăng tà chiều muộn, nghĩ đến mâm cơm trên nhà thờ, cây
trúc nơi phần mộ, lại khép cửa vỗ án lệ đẫm áo đơn, thơ thẩn bàng hoàng,
không biết ngỏ cùng ai đƣợc”. Rõ ràng, trong Khuê ai lục, Ngô Thì Sĩ đã
mạnh dạn miêu tả những khúc yêu đƣơng rất tình, rất ngƣời. NNC Trần Thị
Băng Thanh đã nhận định rất xác đáng rằng: Không ngại ngùng khi tỏ ra mềm
yếu trong tình cảm mà còn gặm nhấm những nỗi đau thƣơng riêng của mình,
ông còn kể ra những điều riêng tƣ “đôi khi gần xa nhắc cả đến sự chung đụng
trong quan hệ vợ chồng, nhƣ cảm giác mơ hồ về một giấc mộng, ấn tƣợng về một đƣờng nét kiều diễm ngà ngọc”31. Thậm chí ta còn bắt gặp trong tập thơ
khóc vợ của ông sự chất vấn của tình cảm cá nhân trƣớc lựa chọn công danh
31 Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Sĩ – những chặng đường thơ văn, Sdd, tr. 190.
69
theo con đƣờng nho học: “Danh lợi là gì mà phụ nàng đến thế?”, và trong một
thời điểm đau thƣơng, ông còn coi nặng tình yêu hơn công danh sự nghiệp:
Nếu sớm biết vì làm quan xa mà phải ly biệt đau khổ thế
Thì tƣớc vạn hộ hầu có đáng kể gì!
(Khuê ai lục)
Nhà nho vốn vẫn coi sống chết là “thiên mệnh”, ý trời không thể
cƣỡng, vì thế mà “ai nhi bất thƣơng”, nhƣng ở Khuê ai lục, ta lại nhận thấy sự
dằn vặt rất bi thƣơng: “Thƣờng ngày ăn ở với nhau không dời nửa bƣớc. Thế
mà tôi vừa mới đi khỏi nhà hai tháng, nay trở về chỉ đƣợc vỗ chiếc quan tài.
Trời ƣ, ngƣời ƣ, thời ƣ, mệnh ƣ?” (Khuê ai tiểu truyện).
Có thể nói với thơ khóc vợ, Ngô Thì Sĩ đã rời xa nguyên tắc “thi ngôn
chí” cổ điển, chủ yếu ông chỉ nói đến tình, đến những thao thức nội tâm về
yêu cầu hạnh phúc cá nhân về “cái tôi”, vấn đề mà đạo lý phong kiến không
cần quan tâm và các nhà thơ trƣớc vẫn ngại đề cập đến. Không phải là những
câu chuyện ngụ ngôn để răn dạy đạo lý, Ngô Thì Sĩ viết về tình yêu của chính
mình – về tình cảm với ngƣời vợ của mình trong nỗi nhớ thƣơng không nguôi
vì cái chết đã vĩnh viễn chia lìa tình chồng vợ. Cái chết, trong thơ khóc vợ của
ông, đã đặt ra vấn đề về quyền đƣợc hạnh phúc của cá nhân mỗi con ngƣời.
Không chỉ có một Ngô Thì Sĩ nặng chữ tình, một nhà nho Phạm
Nguyễn Du từng viết “Luận ngữ ngu án” đề cao lối học cầu kỷ thành kỷ, theo
đuổi sự hoàn thiện của nhân cách rất chuẩn mực của đạo tu dƣỡng nho giáo,
lại cũng chính là ngƣời viết tập thơ Đoạn trường lục thảm đạm, tình bi tha
thiết. Vợ Phạm Nguyễn Du là chị ruột của Nguyễn Hữu Chỉnh, nổi tiếng là
một phụ nữ tài sắc, không may đoản mệnh. Chính Nguyễn Hữu Chỉnh, ngƣời
từng bị dƣ luận lên án là kẻ phản tặc “máu lạnh”, dày dặn chốn sa trƣờng lại
là tác giả bài văn tế chị bằng chữ Nôm xiết bao cảm động: “…Thƣơng thay
70
chị, mới hai mƣơi chín tuổi, cũng là kiếp hoá sinh. Gửi mình vào tài tử mƣời
ba năm, đã sống một lời nguyền cay đắng có nhau, mà vinh hiển bao giờ chƣa
đƣợc thấy. Rơi máu ở nhân gian năm bảy bận, chỉ còn hai chút gái, vả sữa
măng đƣờng ấy dù trƣởng thành ngày đƣợc cũng bằng không” (Văn tế chị).
Lời của Chỉnh lại nhắc đến một mối sầu muôn kiếp của kẻ giai nhân – tài tử
mà văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX nói không kể xiết. Phạm Nguyễn Du
cũng coi mối duyên tình với vợ nhƣ nhân duyên của tài tử giai nhân, vốn dĩ
không thể gắn bó hết đời:
Hình hài vị viễn, duy vân tử
Mộng mị tương phùng cộng thị tiên
Tự cổ giai nhân, tài tử sự
Thuỳ tương nhất nhất vấn thương thiên
(Dạ bán châm quan thuỵ bán ngẫu đắc)
(Hình hài chƣa hề xa, ai bảo là đã chết
Mơ mộng gặp nhau điều ấy cũng là tiên cả
Từ xƣa, nhân duyên của ngƣời giai nhân với ngƣời tài tử
Nào có ai hỏi trời xanh rõ ràng đƣợc).
Nhà thơ cay đắng nghĩ đến những ngày còn lại một thân một mình thui
thủi:
Ta ngã hoà nương thị nhất nhân
Như là tương hợp cự tương phân
Nương huề nhất bán thanh hương khứ
Lưu ngã si cuồng nhất bán thân.
(Đề minh tinh hậu diện nhất tuyệt)
(Ôi, tôi với nàng chỉ là một ngƣời
Sao đang sum họp cùng nhau lại chia lìa nhƣ thế?
71
Nàng đem một nửa là hƣơng thơm thanh sạch đi rồi,
Còn để một nửa là thân tôi nhƣ điên nhƣ dại này ở lại).
Ở đây, ta hoàn toàn bắt gặp một con ngƣời vị tình, khóc vì tình. Tình
cảm trƣớc sự chia ly bởi cái chết rõ ràng không còn dấu ấn của một kẻ sĩ quân
tử “không sụt sùi trƣớc những ngƣời đàn bà”, chỉ còn lại chân dung của một
con ngƣời si tình. Thậm chí, nỗi chia lìa đau đớn tới mức Phạm Nguyễn Du
than ƣớc “hạp dƣ vi phụ, nễ vi phu” (sao chẳng để ta làm vợ, nàng làm
chồng). Một nhà nho, “nhà thơ của hiện thực” thế kỷ XVIII đã để cho tâm của
mình trôi chảy, chìm đắm trong cảm xúc cá nhân, vốn bị nho gia coi là ủy mị,
yếu đuối nhƣ thế:
Tâm sự độc tri hoàn độc tiếu
Thăng thương bôi tửu phụ ô hô
(Nỗi lòng một mình mình biết rồi lại một mình mình cƣời
Ngoài ra, đành đem chén rƣợu để đỡ cho tiếng than)
(Kỳ tam, Sơ ngũ nhật trực Đoan Ngọ tiết,
tể sinh vi lễ, nhân thành tam luật).
Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du khóc vợ bi ai, đều là những cảm xúc
đậm tính cá nhân, không gƣợng ép, cũng không giấu giếm. Tiếng khóc trƣớc
cái chết, trƣớc tử biệt sinh ly của hai ông, dù chỉ khuôn tình cảm trong phạm
vi quan hệ vợ chồng, một loại tình yêu trong hôn nhân, nhƣng cái tình thể
hiện trong đó khiến chúng ta có thể thấy đƣợc xu hƣớng giải phóng tình cảm,
đề cao con ngƣời cá nhân, coi trọng hạnh phúc trần tục trong văn học thế kỷ
XVIII – đầu XIX.
Tiếng khóc vợ của Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du là tiếng lòng nhớ
thƣơng, ngậm ngùi, xót xa và đậm vẻ thâm trầm buồn bã. Dù sao, trƣớc cảnh
sinh ly tử biệt, dù đau buồn đến mấy ta vẫn thấy cuối cùng hai ngƣời đàn ông
72
này quay trở về với thực tại, chấp nhận “thiên mệnh”. Phải đến Phạm Thái
khóc ngƣời yêu Trƣơng Quỳnh Nhƣ ta mới thấy đỉnh điểm của cảm xúc bi
phẫn, chua xót gửi cả trong thơ văn lẫn trong cái bất cần ngang tàng ở đời
thực. Sơ kính tân trang thực tế cũng là những trang “tự bạch”, những “hàng
tình lệ” mà Phạm Thái đã khóc trong Văn tế Trương Quỳnh Như, Văn Triệu
linh Trương Quỳnh Như - nhƣ ông đã gọi về mối tình vừa lãng mạn vừa cay
đắng của bản thân.
Nỗi nhớ thƣơng của Phạm Thái, từ buổi gặp gỡ định mệnh cho tới khi
lửa yêu nồng đƣợm, cho tới lúc vĩnh viễn chia ly, chúng ta đều thấy sự hiện
diện những giá trị sự sống của thân xác. Khi gặp gỡ, đó là hình ảnh rất đẹp
của thân nhục thể: “môi hồng má thắm hây hây”; khi đắm chìm trong hạnh
phúc thì “Má phấn say xuân hây ửng đỏ”…những ngọt ngào của tình yêu
không thể tách rời sự hiện diện của thân thể ấy, làm nên con ngƣời xinh đẹp
đài trang ấy. Hình hài mất rồi thì không còn có thể tiếp tục cuộc sống, tiếp tục
yêu thƣơng đƣợc nữa. Cho nên khi Quỳnh Nhƣ mất, Phạm Thái mới khóc
rằng:
Thương hại thay! Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một
vầng, mây có một đóa.
Thân là thân hiếm hoi chừng ấy. Nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một
kiếp, mà ngơm ngớm chốn non bồng nước Nhược, đỉnh gì không đoái
đến cõi phù sinh!
(Văn tế Trương Quỳnh Như)
Phạm Thái đã nhận ra giá trị duy nhất không thể nào thay thế đƣợc của
thân xác ngƣời yêu. Mỗi ngƣời chỉ hiện diện, sống và yêu thƣơng đƣợc duy
nhất một lần trên đời này, bằng thân xác này – cũng giống nhƣ “hoa có một
cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đóa” mà thôi. Duy
73
nhất là thế, nên đáng quý cũng vì thế. Nhƣng cuộc sống của Quỳnh Nhƣ lại
ngắn ngủi quá chừng, chỉ “lấy đôi mƣơi năm làm một kiếp”, để còn lại một
ngƣời sống trong nỗi tiếc thƣơng và cả ân hận đã không sống trọn vẹn với
tình:
Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời nên nấn ná nhân duyên;
mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính
mệnh.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm; Chua xót cũng
vì đâu? Não nuột cũng vì đâu?.
(Văn tế Trương Quỳnh Như)
Mối tình của Phạm Thái – Quỳnh Thƣ trong Sơ kính tân trang cũng
chính là câu chuyện tình Phạm Thái – Quỳnh Nhƣ ngoài đời thực, đã thổ lộ
không chỉ nỗi xót thƣơng của Phạm Thái, mà ở một mức độ nào đó, có cả nỗi
ám ảnh hạnh phúc không thể nào tìm lại đƣợc trong đời thực. Cái kết đoàn
viên, Quỳnh Nhƣ “nhập hồn đổi cốt” vào một ngƣời con gái khác mà sống
hạnh phúc với ngƣời yêu thực chất lại phản ánh nỗi đau tột cùng của ngƣời tài
tử đa tình Phạm Thái. Đó vĩnh viễn chỉ là mong muốn, mơ ƣớc không bao giờ
thành hiện thực, chỉ có thể tìm lại trong tƣởng tƣợng, trong những dòng thơ
trên giấy mà thôi.
Với cuộc đời Phạm Thái, nỗi đau không chỉ gửi vào trang thơ, bài tế.
Con ngƣời này đã không “lấy lý hóa tình” nhƣ đạo đức Nho giáo đã giáo huấn
mà buông thả bản thân theo cảm xúc cá nhân, theo nỗi sầu đau đến tuyệt
vọng. Vì “một mối chung tình tan mấy mảnh”, đời sống của Phạm Thái cũng
trở nên tàn lụi rồi tuyệt mệnh ở tuổi hoa niên. Các sách đều chép sau khi
Quỳnh Nhƣ mất, Phạm Thái chán nản, sống mà nhƣ chết, lang thang vất
74
vƣởng nay đây mai đó, lao sâu vào rƣợu, hủy hoại mình trong nỗi nhớ ngƣời
yêu:
Trời xanh thăm thẳm mấy tầng khơi,
Nỡ để duyên ai luống ngậm ngùi.
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói,
Sầu châm chén ngọc, rượu chìm hơi,
Lầu Tây nguyệt gác, mây lồng bóng.
Ải Bắc hồng bay bổng tuyệt vời,
Một mối chung tình tan mấy mảnh,
Suối vàng ai nhắn hộ đôi lời!
Rõ ràng, cũng nhƣ các “nhà thơ tình” thời này, Phạm Thái đã nhận ra
một giá trị rất lớn của cuộc sống là tình yêu. Tình yêu là hạnh phúc trần thế
mà con ngƣời luôn khao khát có đƣợc. Ngƣời ta thể hiện tình yêu gắn liền với
sự sống của thân xác con ngƣời. Vì thế, không có gì khiến con ngƣời cảm
thấy đau đớn hơn cái chết. Cái chết chấm dứt vĩnh viễn mối giao cảm hữu
hình, xác thực giữa con ngƣời với nhau. Tiếng khóc của Phạm Thái, của
Phạm Nguyễn Du, của Ngô Thì Sĩ là tiếng khóc cất lên từ những cảm xúc cá
nhân riêng tƣ nhất, không còn chịu sự chi phối của đạo lý, của mẫu hình nhà
nho lý tƣởng biết “tri thiên mệnh” – không ủy mị yếu đuối khóc lóc nhƣ “nữ
nhi thƣờng tình” nữa. Tiếng khóc ấy cũng chính là thể hiện nỗi khát khao
hạnh phúc trong cuộc sống, giữa cuộc đời hiện tiền.
Trong văn học thế kỷ XVIII- đầu XIX đã xuất hiện rất nhiều những
ngƣời đàn ông khóc thƣơng nƣơng tử, và chúng ta bắt gặp một ngƣời phụ nữ
là công chúa Lê Ngọc Hân viết Ai tư vãn khóc vua Quang Trung đầy xót xa
nghẹn ngào. Nhìn bên ngoài, là một bà hoàng khóc một ông hoàng, nhƣng
nhìn bên trong thì đó là một ngƣời vợ khóc chồng đầy xúc cảm. Bài thơ khóc
75
chồng của Ngọc Hân công chúa cũng là một tiếng than về hạnh phúc quá đỗi
mong manh:
Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.
Trong những khoảnh khắc mộng mị bàng hoàng bởi nỗi biệt ly, ngƣời
vợ kiếm tìm hình bóng ngƣời chồng ở những nơi quen thuộc. Nhƣng cảnh đấy
mà không còn ngƣời nữa:
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng bảng còn đâu,
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.
Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Và đặc biệt, cái ớn lạnh đầy lo sợ trƣớc viễn cảnh mẹ góa con côi giữa
biển đời giông tố của ngƣời vợ chết chồng: "Nửa cung gẫy, phiếm cầm lành/
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ" quả thực là những yếu tố đã đƣa Ai tư vãn
lên đỉnh điểm của sự sầu cảm. 164 câu thơ của Lê Ngọc Hân khóc chồng là
76
tiếng khóc cho niềm hạnh phúc trần thế quá ngắn ngủi, sự gắn bó thể xác và
nghĩa tình vợ chồng sớm đứt đoạn chia lìa. Thái độ ấy cũng chính là sự thể
hiện sự coi trọng và khát vọng đƣợc hƣởng hạnh phúc trong đời sống hiện tại,
không còn là tƣ tƣởng mong chờ hạnh phúc xa xôi ở “kiếp sau” – một khái
niệm vốn dĩ chỉ là niềm an ủi và đầy ảo tƣởng, không thể đoan chắc, không
thể xác tín.
Khác với nỗi đau mất chồng, khóc cho tình cảnh mẹ góa con côi của Lê
Ngọc Hân, Hồ Xuân Hƣơng lại khóc hai ngƣời đàn ông của đời mình, một
nhƣ điệu cƣời:
Chàng cóc ơi, chàng cóc ơi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
(Khóc Tổng Cóc)
Một lại nhƣ tiếng thở dài:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất?
Miệng túi tàn khôn khép lại rồi.
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc.
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!
(Khóc ông Phủ Vĩnh Tƣờng)
77
Trong cái điệu khóc chia ly của nữ sĩ, ta không chỉ thấy giọng lộng
ngôn, bỡn cợt vốn đã làm nên đặc điểm thi ca lẫn tính cách của một ngƣời
đàn bà đa tài, đa tình; mà xen vào đó vẫn có nỗi chua chát, cả sự chán ngán
cho phận đàn bà của mình. Cái phận làm lẽ “chém cha cái kiếp lấy chồng
chung; kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”, dù có đƣợc yêu thƣơng vẫn cảm thấy
thƣơng thân tủi phận. Nhất là ngƣời đàn bà ấy lúc nào cũng khao khát, rạo rực
với tình yêu, với cuộc đời, ấy vậy mà càn khôn – tạo hóa chỉ đem tới hạnh
phúc quá ngắn ngủi cho nghĩa vợ chồng, tình ân ái: “thiếp bén duyên chàng
có thế thôi”, “hai bảy tháng trời đà mấy chốc”. Và nếu nhƣ nhìn theo quan
điểm của NNC Đỗ Lai Thúy, về biểu tƣợng phồn thực trong thơ Hồ Xuân
Hƣơng thì “cán cân tạo hóa” và “miệng túi càn khôn” mà nữ sĩ nói tới, rõ ràng
thể hiện mối liên hệ mang tính thể xác rõ rệt. Cái tôi cá nhân đầy bản năng mà
Hồ Xuân Hƣơng thể hiện trong thơ của mình đã khiến cho tiếng khóc chồng
của bà thật khác lạ so với giọng điệu buồn thƣơng chung của những tiếng
khóc chồng, khóc vợ của văn học thời kỳ này.
Khóc tình riêng ly biệt trong văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX không
chỉ là tiếng khóc thƣơng chia lìa sự gắn bó và giao cảm về mặt thân xác với
ngƣời đã mất, mà ẩn sâu bên trong đó chính là tiếng khóc thƣơng thân của
chính những ngƣời còn sống. Đó là sự tự soi lại chính mình, thấy cá nhân
mình trở nên cô độc và héo mòn trong đời sống thiếu vắng tình yêu, ngƣời
yêu: Ngô Thì Sĩ “khóc sƣớt mƣớt, kêu khô khan, chỉ riêng một mình buồn”
(Khốc thấp đề can độc tự sầu); Phạm Nguyễn Du độc thoại “chỉ còn lại một
nửa là thân tôi nhƣ điên dại này ở lại” (Lƣu ngã si cuồng nhất bán thân);
Phạm Thái khóc cho chính mình lênh đênh chìm nổi; Ngọc Hân công chúa
chua xót “Lênh đênh chút phận bèo mây; Duyên kia đã vậy, thân này nƣơng
đâu?”; với một ngƣời đàn bà đầy khao khát bản năng nhƣ Hồ Xuân Hƣơng,
sống một cuộc sống nhiều cay đắng trong tình cảm, nỗi thƣơng thân càng trở
78
nên mãnh liệt. Rõ ràng, hạnh phúc cá nhân của con ngƣời không thể tách rời
sự sống của thân xác. Có trân trọng đời sống, trân trọng hạnh phúc trong cuộc
sống hiện tiền, thì con ngƣời mới khóc than khi không còn giữ đƣợc nó, vĩnh
viễn mất nó. Con ngƣời đạo lý của Nho gia với hình mẫu quân tử, liệt nữ đã
cúi mình soi gƣơng nhìn vào nội tâm, cảm xúc của chính mình và khóc cƣời
với nó, trở về là những con ngƣời bình thƣờng nhất, trần tục nhất. Tình yêu
gắn với mối liên hệ thể xác không còn là nỗi lo sợ đe dọa nhân cách đạo đức
của nhà nho nhƣ những thế kỷ trƣớc, mà trở thành niềm khao khát, thậm chí
đƣợc cùng sống – chết với nó của thế hệ nhà nho mới, những kẻ sĩ đa tình của
thế kỷ XVIII – đầu XIX.
3.3.2. Tiếng khóc đồng cảm thƣơng thân bạc mệnh.
Văn học thế kỷ XVIII- đầu XIX không chỉ “đẫm nƣớc mắt” bởi những
mối tình riêng ly biệt nhƣ chồng khóc vợ, vợ khóc chồng, khóc ngƣời yêu.
Văn học giai đoạn này còn cất lên tiếng khóc thƣơng cho những số phận con
ngƣời bé nhỏ, hồng nhan bạc phận, sống đoạn trƣờng, chết cũng lạc loài. Đó
là tiếng thƣơng của những ngƣời tài tử khóc ngƣời tài sắc, cũng từ đó ngẫm
khóc cho thân của chính mình.
Hồng nhan bạc mệnh là mệnh đề cho số phận chung của tất cả những
kiếp hồng nhan: “Đau đớn thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung” (Nguyễn Du). Nhƣ chúng tôi từng nhắc đến ở tiểu mục trƣớc, có thể
thấy Ngô Thì Sĩ khóc vợ, Nguyễn Hữu Chỉnh khóc chị, Phạm Nguyễn Du
khóc vợ, Phạm Thái khóc ngƣời yêu, cũng đều “không hẹn mà gặp ở cái ý
tƣởng hồng nhan bạc mệnh ấy”. Những ngƣời phụ nữ ấy đều là những ngƣời
phụ nữ tài sắc nhƣng bất hạnh đoản mệnh, qua đời khi tuổi còn rất trẻ, không
đƣợc hƣởng hạnh phúc trọn vẹn. Tuy nhiên có thể nhận thấy cảm hứng hồng
nhan bạc mệnh có xuất hiện, nhƣng không đậm nét. Dù sao thì tiếng khóc vì
79
cái chết của họ vẫn khuôn trong tình cảm riêng tƣ, một dạng tình yêu gắn với
hôn nhân, trong khuôn khổ đạo lý. Những ngƣời phụ nữ ấy vẫn là hình ảnh
của những phu nhân, tiểu thƣ khuê các, tức là thuộc vào tầng lớp trên trong xã
hội, cũng giống nhƣ những cung nữ, chinh phụ trong các khúc ngâm, không
phải là mẫu phụ nữ hồng nhan bạc mệnh điển hình của thời đại bấy giờ. Nhà
nghiên cứu Trần Nho Thìn trong bài viết “Triết lý “Truyện Kiều” trong bối
cảnh văn hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX” đã nhận định:
Cảm hứng hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tƣơng đố lúc đầu thể hiện một cách
không thật đậm nét qua ngƣời chinh phụ, cung nữ cuối cùng đã chụm vào
nhân vật kĩ nữ, ả đào, vì chính hạng ngƣời này mới là hiện thân của nỗi bất hạnh32. Những ngƣời tài tử - những vị khách phong lƣu, khách tài tình, vốn dĩ
“đa tình”, nhiều tình cảm, dễ xúc động nên dễ bị lôi cuốn vì sắc đẹp và có
nhiều xúc động nhất đối với số phận ngƣời tài sắc, chính là những ngƣời khóc
thƣơng cho những nỗi đau khổ và cái chết đầy bi kịch của ngƣời kỹ nữ, ả đào.
Những ngƣời kỹ nữ, ả đào bạc mệnh không chỉ bởi những sóng gió đoạn
trƣờng, sống trong tủi nhục…, họ bạc mệnh còn bởi cái chết bi thƣơng, chấm
dứt một cuộc đời ngắn ngủi mà lắm nỗi khổ đau. Họ không đƣợc tôn trọng,
không thể tìm đƣợc một tình yêu chân thật, một sự gắn bó lâu dài, không có
một mái nhà yên ấm – vốn là những khao khát rất thƣờng của một ngƣời phụ
nữ, và rồi chết trong lặng lẽ, trong sự tàn phai của nhan sắc, sự quên lãng của
ngƣời đời. Tiếng khóc thƣơng trƣớc cái chết của những thân phận ngƣời phụ
nữ tài sắc mà bất hạnh ấy, đã trở thành tiếng kêu thƣơng đầy nhân bản cho giá
trị nhân sinh của kiếp ngƣời trong văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX, điều chƣa
từng có trong văn học giai đoạn trƣớc đó.
32 Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Sdd, tr.298.
80
Ngƣời đồng cảm với thân phận của những kĩ nữ - ả đào sâu sắc nhất,
khóc thƣơng cho cái chết của họ nhiều nhất, có lẽ không ai khác, là Nguyễn
Du. Tấm lòng thƣơng cảm ấy đƣợc thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác
của ông, bao gồm cả thơ chữ Hán và cả thơ Nôm. Chứng kiến những kiếp đời
phiêu bạt, lấy thanh sắc mua vui cho ngƣời rồi cuối cùng chỉ còn lại một nấm
mồ quạnh quẽ của những ngƣời ca nữ, Nguyễn Du không khỏi xót xa. Vũ
Ngọc Khánh trong Ba trăm năm lẻ đã kể lại giai thoại gắn với bài thơ Điếu La
Thành ca nữ giả của Nguyễn Du rằng: “Nguyễn Du đã ghé Cổ Đạm nhiều
lần, làm quen với nhiều đào nƣơng nổi tiếng, trong đó có nàng Nguyệt (…) cô
Nguyệt không họ hàng gì với ông. Ông chỉ biết nàng trong một tiệc đàn ở Cổ
Đạm. Cô gái ấy có giọng hát hay, sắc đẹp quyến rũ, một cuộc sống giang hồ
trôi nổi nhƣng vẫn giữ đƣợc phẩm chất. Con ngƣời ấy đã mất trong cảnh
nghèo nàn khốn khó, không ngƣời chăm sóc lúc ốm đau (…) Nguyễn Du sang thôn Triều Khẩu, hỏi thăm và viếng nàng một bài thơ33.
Bài thơ ấy - Điếu La Thành ca nữ giả là lời than khóc của Nguyễn Du
cho số kiếp bạc mệnh của đào Nguyệt:
Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh,
Xuân sắc yên nhiên động lục thành.
Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh,
Trủng trung ưng tự hối phù sinh.
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng,
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh.
Tưởng thị nhân gian vô thức thú,
Cửu tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Khanh.
Dịch thơ:
33 Vũ Ngọc Khánh, Ba trăm năm lẻ, tr.100,119.
81
Non bồng sa xuống một cành xinh
Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành
Cõi thế ai thƣơng ngƣời bạc mệnh
Dƣới mồ riêng hứa kiếp phù sinh
Phấn son lúc sống chƣa rồi nợ
Trăng gió đời sau luống để danh
Ý hẳn trần gian không kẻ biết
Suối vàng làm bạn với Kỳ Khanh.
(Nguyễn Vũ Mỹ dịch)
Nguyễn Du viết Văn tế thập loại chúng sinh, tế vong cho bao linh hồn
ngƣời đã chết, thƣơng cho bấy nhiêu cảnh ngộ, không khỏi rơi nƣớc mắt đau
đớn cho kiếp đàn bà của phận má hồng chốn lầu xanh:
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!
“Đau đớn thay phận đàn bà; Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!” – tiếng
kêu thƣơng này đã đặt ra một câu hỏi lớn cho thời đại mà những kẻ đàn ông
làm chủ: Câu hỏi về quyền sống, quyền hạnh phúc của những ngƣời phụ nữ.
Trong xã hội nam quyền, ngƣời phụ nữ chỉ đƣợc trọng về “đức”, còn “sắc”
không những bị coi nhẹ, mà còn bị gán vào những mối nguy cơ, điềm ác.
Ngƣời phụ nữ may mắn là ngƣời chỉ cần biết tới tam tòng tứ đức để “lợi phu
ích tử”; nếu tuẫn tiết vì chồng thì đƣợc ngợi ca là gƣơng tiết liệt. Đấy là giá trị
đạo đức mà nhà nho khắc nghiệt áp đặt vào ngƣời phụ nữ. Tất cả những tiêu
chí và chuẩn mực hành vi của phụ nữ, cách đánh giá phụ nữ đều do đàn ông
nêu ra. Ngƣời phụ nữ không có quyền lựa chọn cho mình cách sống riêng,
82
cách ứng xử hay làm chủ thân xác, tâm lý của mình. Ngƣời đàn ông cổ vũ cho
sự giữ gìn trinh tiết của ngƣời phụ nữ đến mức “chết đói là chuyện nhỏ, thất
tiết là chuyện lớn” mà “định giá” ngƣời phụ nữ. Huống hồ ngƣời phụ nữ có
nhan sắc, tài năng gặp phải cảnh lƣu lạc, rơi vào chốn lầu xanh, đem thân xác,
tài năng của mình mua vui cho đàn ông thì biết bị coi thƣờng rẻ rúng tới
chừng nào. Cái chết của họ có ai đoái hoài, nói gì đến xót thƣơng. Thế mới
thấy tiếng khóc thƣơng của Nguyễn Du đã đƣa họ về lại giá trị của một con
ngƣời. Nhà nho cay nghiệt, khinh miệt gọi “xƣớng ca vô loài”, là “con hát”,
Nguyễn Du khóc họ trong thập loại chúng sinh, đƣa kỹ nữ - ả đào về lại làm
ngƣời, ngang hàng cùng với những vị tƣớng, công hầu, cũng nhƣ những bà
phi, công chúa… Cái chết, là sự bình đẳng duy nhất của những kiếp ngƣời
hồng nhan bạc phận trong xã hội nam quyền.
Khóc cho những thân phận của những phụ nữ tài sắc, Nguyễn Du còn
khóc cho chính mình. Là một nhà nho tài tử, ông nhìn thấy trong số kiếp của
những kẻ hồng nhan thân phận bạc mệnh của chính mình: đều là hiện thân
của những bi kịch. Với cảm quan triết học mang đậm sắc thái Lão Trang và
Phật, Nguyễn Du nhìn mọi sự trong sự ý thức rõ rệt về tính chất mong manh
của nó, cuộc đời cũng vậy. Trong thơ của Nguyễn, hình ảnh đầu bạc, thân tàn
trong những tiếng thở dài, tiếng khóc thƣơng xuất hiện dày đặc nhƣ một nỗi
ám ảnh, nỗi bi quan đầy bế tắc. Nhƣ một định mệnh, “số phận nếu đã định
cho ngƣời hồng nhan là bạc mệnh thì cũng dành cho ngƣời tài tử cảnh đa cùng”34. Ông tìm thấy nơi họ một sự tƣơng đồng với thân phận của những
ngƣời nghệ sĩ. Nguyễn Du liên tƣởng đến thân thế của chính mình và những
ngƣời làm thơ văn nghệ thuật, nói một cách khác là những kẻ “hữu tình”, chủ
tình, sáng tác một thứ thơ văn không phải để lập thân, nói chí, giáo huấn mà
34 Trần Ngọc Vƣơng, Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Sdd, tr.137.
83
để bộc lộ cảm xúc. Viết Độc tiểu thanh kí Nguyễn Du đã nhìn thấy thân phận
mình trong thân phận nàng Tiểu Thanh – nhân vật mang dáng vẻ là một kĩ nữ.
Tiểu Thanh xinh đẹp, tài tình nhƣng bất hạnh chết yểu. Nguyễn Du khóc
trƣớc nấm mồ của nàng Tiểu Thanh và cũng lại nghĩ đến mình: “Không biết
ba trăm năm lẻ nữa/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như?” (Độc Tiểu Thanh kí).
Nguyễn Du khóc cho thân phận Kiều, cũng nhƣ Kiều khóc trƣớc mộ Đạm
Tiên về nỗi đau đồng ứng: “Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Nguyễn
Du từng than “Cổ kim hận sự thiên nan vấn, phong vận kỳ oan ngã tự cƣ”
(mối hận xƣa nay khó hỏi trời, ta tự coi mình nhƣ ngƣời cùng chịu nỗi oan lạ
lùng của ngƣời phong nhã). Tiên Phong Mộng Liên đƣờng chủ nhân khi đọc
Truyện Kiều cũng đã nhận thấy mối dây oan trái của những kẻ hữu tình ấy,
mà viết: Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Nhƣ khóc Kiều. Ngƣời đời nay khóc
ngƣời đời xƣa, ngƣời đời sau khóc ngƣời đời nay, hai chữ tài tình là mối
thông lụy của bọn tài tử khắp gầm trời và suốt cả xƣa nay vậy (Lời tựa Truyện
Kiều). Nguyễn Du dùng thơ văn để than khóc cho những khổ đau của con
ngƣời, cho cái tài cái tình bị vùi dập, cho cái đẹp bị chà đạp, bị lãng quên.
Ông đã gửi vào văn chƣơng toàn bộ tâm huyết, khát khao và ƣớc mơ của đời
mình... Cũng nhƣ những ngƣời ca kỹ hạnh phúc và bạc mệnh cùng tài hoa,
nhan sắc, Nguyễn Du hạnh phúc và bạc mệnh cùng với văn chƣơng. Ông tự ví
mình nhƣ con bƣớm chết khô giữa trang sách (Điệp tử thư trung).
Từ cảm xúc của Nguyễn Du trƣớc cái chết của những ngƣời kỹ nữ, suy
nghĩ tới số phận của chính mình – chúng ta nhận ra những quan điểm nhân
bản rộng lớn hơn của ông về con ngƣời trong cuộc sống. Nhà nghệ sĩ đã tách
khỏi ông quan, Nguyễn Du cảm nhận vấn đề thân phận của những ngƣời nghệ
sĩ thông qua sự chiêm nghiệm thân phận chính mình. Nguyễn Du coi kĩ nữ
cũng là một ngƣời nghệ sĩ nhƣ mình, là những ngƣời sáng tạo ra cái đẹp tinh
thần cho cuộc đời. “Thƣơng xót, than thở cho thân phận của họ và của chính
84
bản thân mình, Nguyễn Du đã mặc nhiên mở ra một phƣơng diện rất mới về quan niệm nhân bản”35. Con ngƣời cần những giá trị vật chất, nhƣng cũng cần
những giá trị văn hóa tinh thần. Và những con ngƣời sáng tạo nên những giá
trị đó cần đƣợc, và xứng đáng đƣợc trân trọng.
3.3. Cái nhìn trân trọng và bảo vệ quyền sống của thân xác trong sự phân
hóa quan điểm về lựa chọn sống - chết của ngƣời phụ nữ.
Trong lý luận của Nho giáo lẫn trong thực tế đời sống dƣới chế độ
chuyên chế, ngƣời phụ nữ luôn luôn phải chịu đựng những thiệt thòi, những
hạn chế to lớn, cho dù họ ở địa vị khác nhau nhƣ thế nào chăng nữa. Ngƣời
phụ nữ lý tƣởng trong quan niệm của Nho giáo là ngƣời phụ nữ “tòng nhất chi
trung”, vẹn công dung ngôn hạnh, có cái đức “nhu đạo thuận tòng và sinh
đƣợc cho các đấng tu mi nam tử kẻ nối dõi tông đƣờng”. Nho giáo đặt ngƣời
phụ nữ trong những mối quan hệ, mà luôn luôn ở vị trí ngƣời phục tùng (tam
tòng). Không ngạc nhiên khi nho giáo cổ vũ ngƣời phụ nữ khi cần phải biết
hy sinh thân thể xác cho thân danh tiết. Chính vì thế những ngƣời phụ nữ
chọn cái chết để giữ gìn thủy chung, trinh tiết của mình luôn đƣợc nhà nho lấy
đó làm gƣơng, khuyến khích những ngƣời phụ nữ khác theo đó mà học đòi
lấy hai chữ “liệt nữ”. Văn học trƣớc thế kỷ XVIII viết về cái chết của những
ngƣời phụ nữ, nhƣ chúng tôi đã trình bày, đều khẳng định những nét tính cách
không nằm ngoài trung hiếu tiết nghĩa, cũng nằm trong mục đích xây dựng
con ngƣời đạo lý. Khuynh hƣớng bảo thủ của nhà nho trƣớc vấn đề lựa chọn
sống – chết của ngƣời phụ nữ cho tới thế kỷ XVIII – đầu XIX, thậm chí tới
tận những năm đầu của thế kỷ XX vẫn còn tồn tại. Bên cạnh sự tồn tại dai
35 Trần Nho Thìn, Trƣờng hợp Nguyễn Du: Văn học trung đại từ chủ nghĩa dân bản đến chủ nghĩa nhân bản, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Sdd, tr. 270.
85
dẳng của những quan điểm bảo thủ, khắc kỷ, không coi trọng thân xác của
ngƣời phụ nữ nhƣ một cá thể sống đầy tình cảm của các nhà nho, những tƣ
tƣởng nhân bản, thấm đẫm tinh thần nhân văn, yêu thƣơng và coi trọng giá trị
sống của ngƣời phụ nữ của văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX đã xuất hiện và
lên tiếng. Đó là tiếng nói trân trọng thân xác ngƣời phụ nữ nhƣ một giá trị,
bảo vệ quyền sống, quyền đƣợc hạnh phúc của cá nhân mỗi con ngƣời, tạo
nên giá trị bất hủ vƣợt thời đại của thời kỳ văn học đỉnh cao này.
Những quan điểm bảo thủ của nhà nho vẫn còn tồn tại trong văn học
thế kỷ XVIII- đầu XIX thể hiện rõ trong thái độ đề cao những tấm gƣơng liệt
nữ - những nhân vật nữ giới có thật trong lịch sử đã tuẫn tiết theo chồng, tỏ
lòng thủy chung nhƣ nhất. Sách Tang thương ngẫu lục có ghi lại sự kiện Đoàn
phu nhân, vốn là ngƣời vợ thứ của Du lĩnh hầu Ngô Phúc Du, vì chồng tử nạn
mà gieo mình xuống sông tự vẫn. Trƣớc cái chết của bà, ngƣời đời làm thơ
khen rằng:
Khả liên nhị bách dư niên quốc,
Thiên lý dân di nhất phu nhân.
(thƣơng thay một đất nƣớc dựng nên đã hơn hai trăm năm
Mà đến lúc mất chỉ có một ngƣời đàn bà giữ đƣợc lẽ trời là đạo ngƣời)
Lời khen “giữ đƣợc lẽ trời và đạo ngƣời” dành cho ngƣời phụ nữ này
mang đậm tinh thần Tống Nho. Ca ngợi cái chết của bà là thiên lý, chẳng
khác nào coi việc tuẫn tiết là hợp đạo trời, thực chất mang đậm tƣ tƣởng tuyên
truyền đầy ích kỷ của đạo đức nam quyền bất công. Văn chƣơng nhà nho
không có một sự kiện nào về ngƣời đàn ông chết theo vợ. Có thể so với các
nhà nho Trung Quốc, các nhà nho Việt Nam khoan dung hơn (bên Trung
Quốc còn lƣu truyền cả kiểu truyện liệt nữ, chứng tỏ quan niệm rất khắc
nghiệt đối với thân xác nữ giới), nhƣng việc các nhà Nho ca ngợi ngƣời phụ
86
nữ tuẫn tiết theo chồng hay lấy cái chết để chứng minh tiết hạnh với ngƣời
chồng không phải là hiếm (chúng tôi đã đề cập tới trong chƣơng 2 của luận
văn). Ví nhƣ chuyện nàng Vũ Thị Thiết, ngƣời thiếu phụ Nam Xƣơng (nhân
vật có thực ở huyện Lý Nhân, Hà Nam) đã tự trầm để chứng minh lòng chung
thủy, trinh trắng của mình trƣớc ngƣời chồng cả ghen đã đi vào văn học thế
kỷ XV trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, đƣợc ngƣời đời truyền tụng.
Đến tận đầu thế kỷ XX, tƣ tƣởng đề cao cái chết của nàng vẫn còn rất rõ:
Bạch nhật thi đề phân tạo hóa
Hồng nhan tình tự phó cao thâm
Hoàng gian chính khí tồn thiên địa
Cố quận anh phong xuyến cổ kim.
(Ngự đề Vũ thị nƣơng từ – 1932)
(Bài thơ này viết giữa thanh thiên bạch nhật để làm rõ lẽ tạo hóa
Tấm lòng sâu kín của ngƣời hồng nhan đành phó mặc cho trời đất biết.
Chính khí của ngƣời phụ nữ trên dòng sông Hoàng giang trƣờng tồn
cùng trời đất,
Đạo đức tốt đẹp của bà sẽ mãi còn với thời gian).
Cái chết để tỏ lòng trinh bạch với chồng của Vũ thị đƣợc ca ngợi,
truyền tụng; nhƣng dƣới con mắt khắc nghiệt của nhà nho thì nàng vẫn đáng
bị chê trách. Trong bài hát nói Vịnh Nam xương liệt nữ, Nguyễn Công Trứ
đứng trên lập trƣờng đạo đức nho giáo mà bênh vực cho ngƣời chồng và chê
trách ngƣời vợ, cho dù ngƣời liệt nữ này đã lấy cái chết để chứng minh sự
trong sạch của mình:
Đọc đến truyện Nam xương liệt nữ,
Dẫu tình ngay song lý cũng là gian.
87
Thực cùng chồng chi nỡ dối cùng con,
Gương nữ tắc trông vào chưa phải lẽ.
Đã có ngọn đèn chơi với trẻ,
Thời chiếc bóng gọi là chồng,
Tiếng phũ phàng chi nỡ trách đàn ông.
Thế mới thấy cái nhìn khắt khe, thậm chí tới bất cận nhân tình đối với
sự sống chết của ngƣời phụ nữ. Riêng đối với Nguyễn Công Trứ, thông qua
một loạt những thái độ ông thể hiện trƣớc sự lựa chọn sát thân, chết hay
không chết của ngƣời phụ nữ, có thể thấy đúng nhƣ NNC Trần Nho Thìn đã nhận định, là mang tính hệ thống, có tính bảo thủ mang màu sắc Tống nho36,
vốn rất khắc nghiệt đối với phụ nữ.
Trong An ấp liệt nữ (Truyền kỳ tân phả - Đoàn Thị Điểm), hành động
tìm đến cái chết theo chồng của Đinh phu nhân mang đậm dấu ấn của tình
cảm cá nhân: “thà rằng chết gặp mặt, không nỡ sống biệt ly” bởi tình cảm ái
ân vợ chồng gắn bó không lúc nào nguôi. Hành động lấy chiếc áo ngƣời
chồng tặng khi còn sống mà tự ải của bà không chịu sự câu thúc của lễ giáo
hẹp hòi “liệt nữ bất canh nhị phu” (liệt nữ không lấy hai chồng). Dù là một
câu chuyện tình yêu cảm động, mang tình cảm cá nhân sâu sắc, nhƣng quyết
định đi đến cái chết của bà cũng đƣợc tuyên truyền dƣới cái nhìn mang đậm
tƣ tƣởng nho giáo. Đinh phu nhân đƣợc cho lập đền thờ, bảng treo khắc chữ:
“Trinh liệt phu nhân từ”, đƣợc truyền tụng là linh ứng cũng nhƣ miếu thờ
ngƣời con gái Nam Xƣơng, miếu thờ ngƣời liệt phụ họ Đoàn... Không chỉ
ngợi ca tấm gƣơng những ngƣời phụ nữ đem thân mạng của mình ra chứng
minh sự trong sạch, lòng thủ tiết bằng những bài thơ, vịnh; các nhà nho còn
36 Để hiểu rõ hơn, xin đọc bài Nguyễn Công Trứ và thời đại chúng ta của Trần Nho Thìn, Văn học trung đại VN dưới góc nhìn văn hóa, Sdd.
88
thần thánh hóa những tấm gƣơng liệt nữ này thông qua hệ thống miếu thờ,
bảng phong. Thực chất của những sự ngợi ca và thần thánh hóa ấy không nằm
ngoài sự định hƣớng khuyến khích những hành động phụ nữ tuẫn tiết tƣơng
tự.
Trong cái nhìn đầy tính chất duy lý trƣớc sự lựa chọn sống – chết của
ngƣời phụ nữ của không ít nhà nho bấy giờ, vẫn có những nhà nho tài tử cảm
thƣơng sâu sắc cho thân phận những ngƣời phụ nữ đã thủ tiết chờ chồng đến
chết. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ chờ chồng hóa đá đã trở thành niềm cảm hứng
ca ngợi của không biết bao nhiêu những nhà nho tôn sùng đạo lý. Bao nhiêu
trung trinh tiết liệt, bao nhiêu đạo lý cao đẹp nghìn đời… đều đƣợc ca tụng từ
cái tƣợng này: mƣa nắng vẫn kiên trinh, sƣơng tuyết vẫn không màng… tất cả
là ngọc trong đá, tƣợng đá chính là ngọc, ngọc sáng ngời với bao điều tiết
nghĩa kia. Hóa đá chính là sự bất tử hóa danh tiết những ngƣời thiếu phụ sau
cái chết thực sự về mặt thân xác của họ. Nhƣng Nguyễn Du lại thấy khác, ông
nặng lòng nêu lên câu hỏi: Đá chăng, ngƣời chăng, đấy là ngƣời nào? Đứng
một mình nơi đầu núi nghìn trăm năm. Muôn kiếp không hề có giấc mộng
mây mƣa. Một chữ trinh lƣu lại tấm thân cho thiên cổ (Vọng phu thạch).
Nguyễn Du cảm một cách thống thiết, đau đớn nỗi đau của chính bức tƣợng
đá kia, chứ không ngợi ca những đạo lý bao quanh nó. Ông hình dung mƣa ba
tháng thu dội xuống thân tƣợng bao nhiêu thì nƣớc mắt của ngƣời phụ nữ
cũng rơi bấy nhiêu. Vì một chút trinh cho đời soi mà ngƣời ấy, tấm thân ấy
mãi vùi trong khô héo, tủi hận trong mong chờ muôn nghìn kiếp. Nguyễn Du
đau cho kiếp ngƣời chịu nhiều khiếm khuyết, xót cho niềm vui trần thế phí
hoài, “muôn kiếp không có giấc mộng mây mƣa”. Từ nỗi đau ấy, Nguyễn Du
chua xót: “Nhìn bốn phía núi liền nhau mênh mông/ Riêng để cho ngƣời nhi
nữ giữ đạo luân thƣờng”. Núi liền núi, mênh mông là thế, giang sơn đấy, đất
trời đây, thế mà chỉ có riêng ngƣời phụ nữ bé nhỏ phải giữ đạo luân thƣờng,
89
không thấy bóng dáng bậc nam nhi quân tử. Nguyễn Du đã thực sự trân quý
sự sống của ngƣời phụ nữ với tất cả những khát khao bình thƣờng nhất, ngƣời
nhất.
Một sự kiện gây tranh cãi lâu dài và lớn tiếng trong giới nhà nho là
trong Truyện Kiều, nàng Kiều lựa chọn sống chứ không chết dù trong cảnh tủi
nhục dày vò. Chính lựa chọn không tìm đến cái chết đến cùng của Kiều đã
cho thấy quan niệm vô cùng nhân bản, đầy tình thƣơng yêu con ngƣời và trân
trọng sự sống của Nguyễn Du. Đồng thời qua những sự phê phán gay gắt của
các nhà nho khác về chuyện Kiều thất tiết mà không chết là nhục nhã cũng
cho thấy cái nhìn khắc nghiệt của họ về giá trị của thân mạng, giá trị của sự
sống. Trong cái nhìn của nhà nho về thân xác thì thấy thân con ngƣời không
thuộc quyền sở hữu của chính nó mà thuộc về các mối quan hệ khác nhau.
Thân xác phải hy sinh vì vai trò của nó trong các mối quan hệ xã hội đó nếu
tình thế bắt buộc đòi hỏi. Cho nên Kiều phải “bán mình chuộc cha” mà phụ
tình Kim Trọng, chữ hiếu vẫn nặng hơn tình riêng, dù không giữ đƣợc đạo lý
“tòng nhất chi chung” nhƣng vẫn có thể thông cảm đƣợc. Thế nhƣng sau khi
giữ đạo hiếu, nàng rơi vào chốn lầu xanh suốt mƣời lăm năm ô nhục mà
không tự tử, không tìm chết đến cùng. Kiều không “sát thân thành nhân, xả
thân thủ nghĩa” khi hoàn cảnh đòi hỏi nàng phải bảo vệ đƣợc trinh tiết của
mình – đó là điều không thể chấp nhận đƣợc. Đến ngay Nguyễn Công Trứ,
một nhà nho đƣợc đánh giá là “nhà Nho tài tử” với phẩm chất “thị tài, đa
tình”, lại phê phán gay gắt Kiều là tà dâm, kiếp đoạn trƣờng khổ ải nàng phải
gánh chịu là đáng đời:
Đã biết má hồng thì phận bạc
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng.
Chiếc quạt, soa đành phụ nghĩa với Kim lang,
90
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải.
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu.
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu,
Mà bướm chán ong chường cho đến thế.
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai!
Cái nhìn của Nguyễn Công Trứ rất khắc nghiệt. Sau này, vua Minh
Mệnh dù ca ngợi hiếu trung và trinh của Kiều khi cầm dao tự sát:
Gián thế pháp dĩ hoàng kim, xả thân thành hiếu; tả li sầu ư xích chử,
thính muội hoàng thân;
Bạch nhận cam tâm xử nữ, thủ thân chi tiết; cẩm y hiệu thuận trượng
phu, vị quốc chi tâm.
(Vì tiền vàng phá phép công bằng, phải bán mình giữ trọn hiếu
đạo;mƣợn giấy đỏ tả sầu ly biệt, đành cậy em chắp mối thân tình.
Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn; khuyên áo gấm
quy thuận, bậc trƣợng phu vì nƣớc phải lòng ngay.)
thì thực chất cũng chỉ là mƣợn cớ, xem đó là cơ hội tuyên truyền cho lý
tƣởng đầy chất nam quyền về ngƣời liệt nữ. Hai ngƣời, một ông vua, một
quan đại thần, khen và chê tƣởng nhƣ mâu thuẫn nhau nhƣng kỳ thực rất
thống nhất: chết đói sự nhỏ, thất tiết chuyện lớn. Điều đáng chú ý là quan
điểm khắc nghiệt có tính chất Tống Nho đối với trinh tiết phụ nữ tồn tại dai
dẳng ngay cả trong cách nghĩ của Tản Đà (1889-1939), một nhà Nho có nhiều
nét cách tân, từng đƣợc các nhà thơ lãng mạn Âu hóa thuộc phong trào thơ
91
Mới nửa đầu thế kỷ XX tôn vinh. Không thông cảm cho kiếp đoạn trƣờng của
ngƣời phụ nữ tài sắc, Tản Đà lớn tiếng mắng Kiều là dâm, là đĩ:
Đôi làn nước mắt đôi làn sóng,
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan,
Tổng đốc có thương người bạc mệnh,
Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan.
Trơ trơ nắm đất bờ sông nọ
Hồn có xa nghe thấy tiếng đàn.
(Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến)
Đó thật là một cái nhìn mỉa mai đến cay nghiệt của Tản Đà. Nhà nghiên
cứu Lê Đình Kỵ trƣớc thái độ này của ông đã nhận xét: “Phải đợi đến khi bị
gán cho ngƣời thổ quan, Kiều mới quyết định kết liễu đời mình. Ý Tản Đà là
muốn Kiều phải chết theo Từ Hải ngay, nhƣng giữa Tản Đà và Nguyễn Du, ai là kẻ bất cận nhân tình thì đã rõ”37.
Đứng trên quan điểm “sát thân thành nhân”, “xả thân thủ nghĩa” của
nho giáo, không ít các nhà nho (tiêu biểu nhƣ Nguyễn Công Trứ) đã lên án
Kiều vì nàng không tìm đến cái chết nhƣ một lựa chọn duy nhất để thoát khỏi
cuộc sống chốn nhà chứa để bảo toàn danh tiết của mình. Tà dâm là tội lớn
mà một số nhà nho gán cho Kiều, vì đối với họ, chết đói là sự nhỏ thất tiết
mới là sự lớn. Chính từ sự khắc kỷ nghiệt ngã đó đối với quyền sống của con
ngƣời, mà ở đây là ngƣời phụ nữ mà chúng ta mới nhận thấy nhân cách vƣợt
thời đại của Nguyễn Du. Ông đã lý giải, biện minh cho việc Kiều sống trong
cảnh tủi nhục chừng ấy năm đoạn trƣờng. Nguyễn Du trân trọng sự sống của
Kiều, cũng là trân trọng đời sống thân xác của nàng. Tác giả khéo léo để Tú
37 Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, tr.188.
92
Bà, một nhân vật phản diện nói lên tiếng nói của lý trí về giá trị thân xác và sự
sống hiện hữu:
Một người dễ có mấy thân,
Hoa xuân đương nhụy ngày xuân còn dài…
[…] còn người thì của hãy còn,
Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà.
Làm chi tội báo oan gia,
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì.
Dù thốt ra từ miệng một nhân vật phản diện, nhƣng lời nói của Tú Bà
thực sự là chân lý của đời sống. “Một người dễ có mấy thân”, con ngƣời hiện
diện chỉ một lần duy nhất, sống một lần duy nhất trên cuộc đời này bằng xác
thân này thôi, vậy thì cớ gì mà hủy hoại nó?. Hơn nữa, từ cái nhìn của Kim
Trọng về trinh tiết của Kiều đã cho thấy quan niệm đầy tính nhân bản tiến bộ
của Nguyễn Du: “Nhƣ nàng lấy hiếu làm trinh – Bụi nào cho đục đƣợc mình
ấy vay”. Câu nói của Kim Trọng, hay chính là cái nhìn đầy nhân bản của thi
hào đối với giá trị đích thực của đời sống ngƣời phụ nữ. Đó chính là giữ đƣợc
tấm lòng trong sạch; trinh tiết không phải là cái quyết định sự sống của ngƣời
phụ nữ. Thân xác có thể hy sinh khi cần thiết, nhƣng cũng đáng quý, sự sống
của thân là đáng trân trọng biết bao. Trải qua ngàn nỗi cay đắng đoạn trƣờng,
Kiều vẫn giữ đƣợc lòng trong sạch, thế thì vì sao phải chết? Ngƣợc lại, nàng
đáng đƣợc sống, đáng đƣợc trân trọng, và đáng đƣợc hƣởng hạnh phúc.
Nguyễn Du đã thể hiện rất sâu sắc quan niệm: sự trân trọng con ngƣời trƣớc
hết là trân trọng thân xác của nó. Không thể nhân danh đạo đức, luật pháp để
hành hạ, chà đạp, lăng nhục, hay sẵn sàng hy sinh thân xác của con ngƣời. Từ
quan điểm nhân bản đó của Nguyễn Du, NNC Trần Đình Sử cho rằng Truyện
Kiều là tác phẩm thƣơng thân, xót thân bậc nhất trong văn học VN thế kỷ
93
XVIII- đầu XIX. Ông viết: “Thân là hình nhi hạ, là cái phần vật chất duy nhất
của con ngƣời, là phần hữu hạn, bé nhỏ dễ hƣ nát và đau đớn nhất của bất cứ
ai. Thân cũng là phần riêng tƣ nhất mà ngƣời ta có thể liều, có thể giết, có thể
đem cho. Thân là phần quý giá nhất, có thân mới có ngƣời, có vui sƣớng, có
phúc phận. Cuộc đời lƣu lạc của Kiều là chuỗi ngày đầy đọa tấm thân. Ý thức
về thân mình chính là ý thức về cái phần cá nhân riêng tƣ nhất, thực tại nhất
của con ngƣời. Truyện Kiều là một truyện thƣơng thân, xót thân thấm thía
nhất:
Đau lòng tử biệt sinh ly
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên.
[…]Truyện Kiều đã đƣợc xây dựng sao cho nhân vật tự cảm thấy đƣợc
cái thân đau đớn ê chề nhục nhã của mình […]. Thƣơng thân chứ không phải thƣơng tài, tiếng thƣơng chứ không phải câu chuyện bất hủ”38. Truyện Kiều
không chỉ là tiếng nói xót thân, thƣơng thân, mà cao hơn, còn là tiếng hát ca
ngợi thân, tôn vinh thân. Nguyễn Du thƣơng xót cho thân phận bạc mệnh của
nàng Kiều, chuyện sống chết của nàng không phải đi theo con đƣờng “lƣu
danh”, để “bất hủ” nhƣ những ngƣời đàn bà đƣợc gọi là tiết liệt. Với tƣ cách
là một con ngƣời cá nhân với đầy đủ những cung bậc tình cảm, ham muốn
bản năng nhất là đƣợc sống, Kiều đã không chết. Nguyễn Du đã nhìn nàng và
đánh giá nàng nhƣ một cá nhân đầy cảm xúc. Và là ngƣời, thì ai cũng có
quyền đƣợc sống, thân xác tự bản thân nó đã là một giá trị không thể nào thay
thế. Đặt trong hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ, khi mà hình phạt nhằm vào thân
xác con ngƣời vẫn đƣợc mặc định trong luật pháp, trong cái nhìn khắc nghiệt
của không ít nhà nho về hành động tự sát mới thấy tiếng nói xót thƣơng thân
38 Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 112 -114.
94
xác, trân trọng quyền sống thân xác của Nguyễn Du độc đáo, tiến bộ, mang
tính nhân bản sâu sắc.
Tiểu kết:
Văn học thế kỷ XVIII – XIX cho thấy rõ nét sự phân hóa về mặt quan
niệm của nhà nho về vấn đề cái chết. Một bên, đó là sự nhìn nhận, đánh giá về
cái chết theo cái nhìn duy lý đạo đức truyền thống của các nhà nho khi ca ngợi
cái chết tuẫn tiết vì vua chúa, vì ngƣời chồng.Và một bên, là quan niệm nhân
bản, trân trọng đời sống thân xác con ngƣời, vì thế mà bảo vệ sự sống của
nhân vật và thƣơng khóc trƣớc cái chết. Chƣa bao giờ trong văn học trung đại
Việt Nam, nhà nho với tƣ cách là một con ngƣời cá nhân đã khóc thƣơng
không giấu giếm, không xấu hổ vì cái chết nhiều nhƣ ở thời đại này. Đó là
tiếng khóc thƣơng tình riêng ly biệt bởi cái chết, khóc thƣơng cho những thân
phận bất hạnh sống đoạn trƣờng, chết lẻ loi cô độc. Thay thế cho mẫu hình
thánh nhân quân tử, sẵn sàng xả thân thủ nghĩa, sát thân thành nhân, những
ngƣời phụ nữ bé nhỏ, những thân phận bất hạnh nhất trong xã hội đã trở thành
mối quan tâm của những nhà nho tài tử - đại diện mới của thời đại. Những
nhà nho tài tử ấy tự nhận mình là “giống hữu tình”, đã khóc thƣơng thân
những ngƣời tài sắc, những hồng nhan bạc mệnh và tìm thấy ở những nữ nhi
ấy thân phận đau khổ của mình. Khóc thƣơng trƣớc cái chết của họ, nhà nho
cũng khóc thƣơng cho đời sống nhân sinh ngắn ngủi mà lắm đau đớn của
mình. Tiếng khóc trƣớc cái chết, cũng là tiếng khóc đòi quyền sống, quyền
đƣợc hạnh phúc trong cuộc đời. Thân xác không còn là công cụ để hy sinh vì
đạo lý, nó còn đƣợc lên tiếng đòi quyền sống, đòi giá trị tự thân của nó. Trƣớc
95
sự lựa chọn sống – hay chết, lần đầu tiên một ngƣời con gái nhƣ Kiều đã chọn
cho mình sự sống. Đặt trong tƣơng quan với sự tồn tại của những cái nhìn
khắc kỷ đối với thân xác, quan niệm chết vì đạo lý, đó quả thực là tiếng nói
tôn vinh giá trị của thân xác, giá trị duy nhất của đời sống.
KẾT LUẬN
Nội dung đầu tiên của luận văn, chúng tôi tiến hành tìm hiểu quan niệm
về cái chết trong lịch sử tƣ tƣởng văn hóa phƣơng Đông. Đó chính là những
tƣ tƣởng nền tảng, ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất tới quan niệm về cái chết của các
tác gia văn học thời trung đại nói riêng.
Với Nho giáo đó là tinh thần sát thân thành nhân, xả sinh thủ nghĩa –
Chết là sự hy sinh thân mạng để bảo toàn nghĩa lớn. Với Phật giáo, đó là quan
niệm Sống ở thác về - Thân xác là tạm bợ, chết là một phần của cuộc hành
trình trong cõi vô thƣờng của kiếp ngƣời. Với Đạo giáo, các bậc đạo sĩ tu tiên
coi cái chết là sự tan biến của thân mạng là lẽ tự nhiên, sống là một cuộc du
chơi, chết là sự trở về, do vậy không cần phải than khóc, buồn thƣơng.
Điểm gặp gỡ lớn nhất ở ba tƣ tƣởng vĩ đại trong lịch sử tƣ tƣởng văn
hóa phƣơng Đông này chính là ở thái độ khắc kỉ với thân xác, coi cái chết là
tất yếu và nếu cần thiết, phải hy sinh vì những mục đích tinh thần tối thƣợng.
Thân xác và quyền sống luôn đứng sau những giá trị đạo đức đƣợc coi là
thiêng liêng nhất, đem lại sự bất tử về tinh thần của con ngƣời. Với cái chết,
vì thế các tƣ tƣởng văn hóa lớn cổ trung đại của phƣơng Đông đều chủ trƣơng
không đau xót, than khóc. Nói cách này hay cách khác, thì những tƣ tƣởng đó
96
đều có hạn chế, bất cận nhân tình đối với con ngƣời với tƣ cách là một thực
thể sống đầy cảm xúc.
Nội dung thứ hai của luận văn, chúng tôi tìm hiểu thái độ với cái chết
trong Văn học Việt Nam thế kỷ X –XVII, từ đó có sự so sánh, đối chiếu để
nhận ra sự thay đổi quan trọng trong quan niệm và thái độ về cái chết của văn
học giai đoạn sau.
Các tác giả văn học chủ đạo của thời kỳ này là các Thiền sƣ và các nhà
Nho. Thấm nhuần tƣ tƣởng và quan niệm trƣớc cái chết của giáo lý nhà Phật
và Nho giáo, các Thiền sƣ và nhà Nho đều thể hiện rõ trong các tác phẩm của
mình thái độ chấp nhận cái chết một cách không sợ hãi. Văn học thời kỳ này
viết về cái chết hoàn toàn mang dấu ấn của cái nhìn duy lý, trí tuệ.
Các Thiền sƣ nhận chân lẽ vô thƣờng của cuộc đời, của sự sống và cái
chết. Thái độ ung dung, bình thản, điềm tĩnh trƣớc cái chết đang tới và mỉm
cƣời trƣớc sự sống tái sinh là đặc điểm của thơ văn Thiền sƣ trong văn học
giai đoạn này.
Các nhà Nho đề cao khí tiết, lẽ sống cao cả của chính nhân quân tử, bậc
liệt nữ trinh khiết. Các nhà nho chân chính đều nêu cao đạo lý cũng nhƣ ứng
xử trong thực tế bằng hành động sẵn sàng hy sinh sự sống của bản thân, để
bảo vệ những tín điều của Nho giáo.
Phần thứ ba, luận văn đã tìm hiểu sự thay đổi thái độ với vấn đề cái
chết trong Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu XIX. Văn học giai đoạn này
cho thấy sự phân hóa rõ nét về mặt quan điểm đối với cái chết.
Giai đoạn này đánh dấu một bƣớc ngoặt lớn trong sự thay đổi thái độ
của các nhà Nho tài tử – tác giả chính của văn học giai đoạn này. Đây cũng là
97
giai đoạn văn học của con ngƣời phàm trần, con ngƣời tự nhiên chứ không
còn thống trị kiểu nhân vật thánh nhân, quân tử nữa. Văn học giai đoạn này
viết về cái chết nhiều chƣa từng có trong lịch sử văn học trung đại. Qua đó ta
cũng thấy sự khác biệt, có sự phân hóa trong quan điểm đạo đức về vấn đề cái
chết. Có quan niệm đạo đức bảo thủ của Nho giáo khi ngƣời ta ca ngợi cái
chết tuẫn tiết vì vua chúa, vì ngƣời chồng; mà cũng có quan niệm nhân bản,
bảo vệ sự sống, thông cảm với sự sống nhân vật. Chính vì coi trọng sự sống,
coi trọng thân xác nên văn học thời kì này có rất nhiều tiếng khóc thƣơng
trƣớc cái chết. Con ngƣời, với tƣ cách trần tục và thực nhất, chƣa bao giờ
đƣợc cảm thƣơng và trân trọng sự sống nhƣ khi bƣớc vào các sáng tác văn
học thời kì này. Đó chính là nội lực mạnh mẽ tạo nên sự phát triển của văn
học giai đoạn sau này với rất nhiều thành tựu. Văn học cận nhân tình, và thực
sự yêu thƣơng con ngƣời.
Nhìn một cách tổng thể, sự thay đổi thái độ trƣớc cái chết phản ánh sự
thay đổi trong tƣ tƣởng và quan niệm của các tác giả - nằm trong mạch nguồn
nhân bản của văn học thế kỷ XVIII – XIX. Thái độ đối với vấn đề cái chết thể
hiện trong văn học thời kì này xuất hiện những cung bậc tình cảm hết sức đa
dạng và sâu sắc, nhƣ một sự khẳng định mạnh mẽ và đề cao quyền sống,
quyền đƣợc hạnh phúc của con ngƣời trong chính cuộc sống thực tại. Sự thay
đổi quan niệm về vấn đề cái chết trong văn học thế kỷ XVIII – đầu XIX có
thể nói, là một vấn đề văn học sử quan trọng trong tiến trình văn học Việt
Nam.
Vấn đề cái chết trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII- đầu XIX là một
đề tài rộng lớn, phức tạp nhƣng cũng rất thú vị và hứa hẹn rất nhiều hƣớng
khai thác triển vọng. Phạm vi của một luận văn cao học của chúng tôi chƣa
98
thể nào bao quát hết các khía cạnh của vấn đề, chỉ hy vọng góp thêm một cách
nhìn, cách tìm hiểu và tiếp cận cho những công trình quy mô hơn sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, Ngô Văn Triện
dịch và chú thích (2001), Nxb Văn học.
2. Hòa thƣợng Thích Thiện Châu (1996), Tìm đạo, Viện nghiên cứu Phật
học Việt Nam.
3. Nguyễn Đổng Chi (1942), Việt Nam cổ văn học sử, Nxb Hàn Thuyên.
4. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên 1989), Thơ văn Lý Trần, tập 2: Quyển
thƣợng, Nxb Khoa học xã hội.
5. Phạm Nguyễn Du, Đoạn trường lục, Phan Văn Các dịch chú và giới
thiệu (2001), Nxb Khoa học xã hội.
6. Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ, Trần Văn Giáp dịch (2006), Nxb Văn
hóa thông tin.
7. Đoàn Thị Điểm, Truyền kỳ tân phả, Ngô Lập Chi – Trần Văn Giáp dịch
và chú thích (1962), Nxb Giáo dục.
8. Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới thiệu 2007), Nguyễn Du về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
9. Dƣơng Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, tái bản lần 2,
Nxb. Hội Nhà văn.
10. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo (tuyển chọn và giới thiệu 2006), Cao
Bá Quát về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
99
11. Nguyễn Duy Hinh (1998), Tuệ trung thượng sĩ -thi sĩ, NXB KHXH Hà
Nội.
12. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH
Hà Nội.
13. Nghiệp Lộ Hoan (2001), Trung Quốc Phật giáo đồ tông giảng thuyết,
Nxb Tp HCM.
14. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, Nguyễn Hữu Tiến, Vân Giang giới
thiệu (2001), Nxb Văn học.
15. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ Thiền Việt Nam: những vấn đề lịch sử
và tư tưởng nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
17. Trần Đình Hƣợu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nxb Giáo dục.
18. Trần Đình Hƣợu, Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu nho giáo, tạp chí
Nghiên cứu nghệ thuật, số 2/1984.
19. K. Sri Dhammananda, Những hạt ngọc trí tuệ Phật giáo (Gems of
Buddhist Wisdom), Thích Tâm Quang dịch (2006), Nxb Tôn giáo.
20. Đinh Gia Khánh (chủ biên, 2002), Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa
đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Vũ Ngọc Khánh (2005), Ba trăm năm lẻ, Nxb Lao động.
22. Trần Trọng Kim (2006), Việt Nam sử lược, Nxb Thanh Hóa.
23. Trần Khuê (2000), Tuệ Trung thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Nxb
Đà Nẵng.
24. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100
25. Phùng Hữu Lan, Đại cương triết học sử Trung Quốc, Nguyễn Văn
Dƣơng dịch (2006), Nxb Thanh niên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
26. Nguyễn Hiến Lê (dịch chú và giới thiệu,2003), Khổng Tử và Luận ngữ,
Nxb Văn học.
27. Nguyễn Hiến Lê (dịch chú và giới thiệu, 1998), Lão Tử - Đạo đức kinh,
Nxb Văn hóa.
28. Nguyễn Hiến Lê (dịch chú và giới thiệu, 1994), Trang Tử và Nam hoa
kinh, Nxb Văn hóa.
29. Bùi Dƣơng Lịch, Lê quý dật sử, Phạm Văn Thắm dịch (1987), Nxb
Khoa học Xã hội.
30. Mai Quốc Liên (chủ biên1996), Nguyễn Du toàn tập (2 tập), Nxb Văn
học.
31. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu thế kỷ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
32. Nguyễn Lộc tuyển chọn, giới thiệu (1986), Văn học Tây Sơn, Sở Văn
hoá thông tin Nghĩa Bình.
33. Nguyễn Lộc (chủ biên 2001), Hồ Xuân Hương- về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục.
34. Huỳnh Lý (chủ biên 1978), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII –
nửa đầu thế kỷ XIX, tập 3, Nxb. Văn học.
35. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã Văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục.
36. Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga (dịch và giới thiệu,1990), Thiền
uyển tập anh (Anh tú vườn thiền), Nxb Văn học.
37. Phan Ngọc (2010), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Nxb Văn học.
101
38. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nguyễn Đức Vân - Kiều
Thu Hoạch dịch (2006), Nxb Văn học.
39. Phong Châu, Nguyễn Văn Phú (1960), Văn tế cổ và kim, Nxb Văn hóa.
40. Phạm Đan Quế (2000), Truyện Kiều và các nhà Nho thế kỷ XIX, Nxb.
Văn học.
41. Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn 2000), Phạm Thái. Phạm Đình Hổ.
Nguyễn Án. Nguyễn Huy Hổ. Ngô Lê Cát. Phạm Đình Toái. Phan Huy
Vịnh. Phan Văn Ái. Phan Huy Thực : Tuyển chọn và trích dẫn những
bài phê bình bình luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu
Việt Nam, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
42. Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San (1962), Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2: Thế kỷ X – XVII, Nxb Văn hóa.
43. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb. Giáo dục.
44. Nguyễn Kim Sơn (1996), Những xu hƣớng của nho học Việt Nam nửa
thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX và sự tác động của nó tới văn học.
Luận án PTS KH Ngữ văn.
45. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
46. Bùi Duy Tân (chủ biên 1997), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 6, Nxb
Khoa học xã hội.
47. Phạm Thái, Sơ kính tân trang, Hoàng Hữu Yên (hiệu đính và chú giải
2002), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
48. Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ – những chặng đường thơ
văn, Nxb Khoa học xã hội.
49. Trần Thị Băng Thanh (1987), Ngô Thì Sĩ, Nxb Hà Nội.
102
50. Trần Nho Thìn (2009) Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hoá, Nxb Giáo dục Việt Nam.
51. Trần Nho Thìn, Từ thực tiễn Văn học Việt Nam góp thêm một tiếng nói
phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và
nữ quyền, Tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học quốc tế Nho giáo
Việt Nam và văn hóa Đông Á, tổ chức tại Viện Triết học, ngày 23-
24/6/2009;đã trích đăng tại tạp chí Triết học, số 2/2010.
52. Trần Thái Tông, Khóa hư lục, Đào Duy Anh dịch (1974), Nxb Khoa
học xã hội.
53. Nguyễn Đông Triều, Cảm hứng vô thường trong một số bài văn tế
trung đại Việt Nam, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
54. Nguyễn Đông Triều, Một số công trình nghiên cứu liên quan đến văn tế
trung đại Việt Nam – Điểm lại và định hướng nghiên cứu,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
55. Nguyễn Văn Trung (2006), Ca tụng thân xác, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
56. Trần Lê Văn (chủ biên 1980), Một số tác giả và tác phẩm trong Ngô
gia văn phái, Ty Văn hóa và Thông tin Hà Sơn Bình.
57. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vƣơng,
Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1998), Về con người cá nhân trong
văn học cổ Việt Nam (tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục.
58. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền
Việt Nam thế kỷ X – thế kỷ XIV, Nxb Văn học.
59. Viện sử học (2004), Đại Việt sử ký toàn thư (hai tập), Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
60. Visuddhacara, Chết trong hạnh phúc(Loving and Dying), Thích Tâm
Quang dịch (2005), Nxb Tôn giáo.
103
61. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
62. Trần Ngọc Vƣơng (1997) Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Giáo dục.
63. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên 2007) Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục.
104